óc oà lên.
Ninh Bất Không dỏng tai nghe ngóng, ban đầu còn nhẫn nại, rồi y nổi cơn giận dữ như điên như cuồng, đanh giọng hỏi: "Ngưng Nhi, con đã quên mối thù giết mẹ rồi sao?"
Ninh Ngưng rúng động tâm can, nhẹ nhàng tuột ra khỏi vòng tay Thương Thanh Ảnh, gạt nước nmắt, nhìn cha, đáp: "Gia gia, con không ra tay được, ngày xưa còn nhỏ, bị đói khổ, con toàn được chủ mẫu chăm sóc chu đáo, bà ấy thực lòng yêu quý con, con không thể nào làm khổ ải bà ấy được!"
Ninh Bất Không giận dữ, thét lên: "Ngươi, ngươi nói năng gì vậy? Chủ mẫu ... hừ, cái mụ bà nương này làm ra vẻ yêu quý ngươi, thực ra bà ta giở thủ đoạn thi ân, hòng làm cho ngươi hết lòng bán mạng cho lão Trầm Què. Được lắm, ngươi không ra tay, để đấy cho ta, tự ta động thủ!"
Ninh Ngưng thần sắc thay đổi mạnh, cô nghiến răng, mặt hiện vẻ quật cường, đầu ngẩng cao, đáp: "Con không để cho cha động thủ đâu". Da mặt Ninh Bất Không tối sầm lại, y cười gằn một tiếng, phất tay áo, một loạt tên bắn ra phía bọn năm người kiếp nô. Y định bày trò dương đông kích tây, lưà gạt Ninh Ngưng sơ ý, rồi sẽ bất ngờ quay sang giết Thương Thanh Ảnh, nhưng không dè Ninh Ngưng mục quang lay chuyển mạnh, phóng "Đồng Trung kiếm" ra, kêu ầm một tiếng, mũi tên "Mộc Phích Lịch" bị đánh nổ tung trong không trung.
Trong chớp mắt, Ninh Bất Không khẽ quát một tiếng, năm ngón tay vung thành trảo, lướt ngang người Ninh Ngưng, định chụp vào mặt ThươngThanh Ảnh. Ninh Ngưng xuất thủ cực nhanh, quài tay lại, hai cha con tay chạm tay, đụng nhau tại giữa chừng, tả chưởng Ninh Bất Không vỗ ra, bị hữu chưởng của Ninh Ngưng ngăn lại. Ninh Bất Không vận kình lên cự, không dè nội lực Ninh Ngưng không ngớt liên miên trút ra như tầm nhả tơ dệt kén, từng sợi, từng sợi, tay cô níu vào tay ông mỗi lúc một thít chặt lại. Ông vô phương gỡ ra, bất giác giận dữ rống lên: "Ngưng Nhi, sao mi lại đi bênh cừu nhân, chống lại ta?"
Ninh Ngưng nước mắt chan hoà, la lớn: "Bà ấy không phải cừu nhân, chỉ mình Trầm Chu Hư thôi"
"Thì cũng một giuộc!". Ninh Bất Không thét lên, ông giận quá, mất lý trí, vụt giơ cao tay lên, ống tay áo Ninh Ngưng lập tức bén lửa, ngọn lửa phừng phừng táp vào mặt cô. Ninh Ngưng mà không buông tay ông ra, thể nào cũng bị lửa táp vào thiêu huỷ mặt mày.
Ninh Bất Không vừa xuất thủ xong, lập tức hối hận, hoả kình đó phát thì dễ mà thu về rất khó, thấy Ninh Ngưng không nhượng bộ, ông bất giác hoảng hốt. Đúng lúc đó, ThươngThanh Ảnh vụt nhào mình vào, ôm cánh tay của Ninh Ngưng, hai tay ra sức giập ngọn lửa mãnh liệt, thoắt cái, nghe mùi da thịt cháy khét bốc lên. Ninh Ngưng vội vàng buông tay lùi ra, xoay mình nâng đỡ ThươngThanh Ảnh, nhìn kỹ lại, đôi tay ngà ngọc của ThươngThanh Ảnh đã cháy đen xạm.
Dù trong lòng y bất chợt nảy sinh cảm kích, nước mắt ứa ra, nhưng không ngờ tim y vẫn sắt đá, vừa rụt tay ra được, Ninh Bất Không đã vận sức tung một ngọn chưởng nhắm vào đầu ThươngThanh Ảnh vỗ tới.
"Ninh Bất Không!." Hốt nhiên có tiếng ai đó thét to lên, như tiếng sấm nổ giữa lưng trời, Bất Không vội vung tay lên chặn lại, nhưng đụng vào một luồng lực đạo cực kỳ mãnh liệt, y hoang mang rụt tay về, phải cái người vừa tới đó, quyền kình hung mãnh thật khó đương cự, đưa y lọt vào thế hạ phong, Ninh Bất Không lập tức bị đẩy lui về đàng sau, vừa té ngửa xuống, y đã giận dữ hỏi: "Xú tiểu tử, lại là ngươi nữa!"
Chẳng cần nhìn, Ninh Ngưng cũng biết người mới tới là ai, tim cô giật thót lên. Cô chầm chậm ngước nhìn, thấy Lục Tiệm đứng cách đấy không xa, lưng cõng Cốc Bình Nhi, tả thủ nắm tay Lục Đại Hải , cái đầu đang ngọ nguậy nhìn ra tứ phía, thần sắc mê hoặc .
Nguyên lai Lục Tiệm ở lại trông nom Cốc Bình Nhi tại Bá lâm tịnh xá. Y rảnh rỗi, trong lòng nhớ đến Diêu Tình, ruột gan héo hắt khổ sở muôn phần. Nhưng Cốc Bình Nhi tâm trí thất thường, tầm hiểu biết bằng một đứa nhỏ lên sáu, tâm tính ngây thơ ngờ nghệch như trẻ nít, cô thấy Lục Tiệm ngồi rầu rĩ trước cửa nhà, bèn níu y đòi cùng cô nặn đồ chơi bằng bùn đất.
Tính Lục Tiệm bình hòa, y không nỡ chối từ cô, vả lại tiếng cười ròn rã của Cốc Bình Nhi khiến y cũng vui lây, phiền muộn trong lòng giảm đi không ít. Hai người nghịch đất bùn một chặp, Cốc Bình Nhi chợt sanh chứng ngược ngạo, cô hốt một nắm bùn trét vào mặt Lục Tiệm, lập tức biến y mang mặt nạ bùn đất. Cốc Bình Nhi vỗ tay cười khoái chí, nhưng Lục Tiệm cũng không lấy thế làm giận, nhìn cô cười đùa hớn hở như nắc nẻ, y còn nhăn mặt nhíu mày làm mặt quỷ, Cốc Bình Nhi thấy vị thúc thúc này nhất cử nhất động, mỗi mỗi đều hết sức hoạt kê tức cười, cô khoái trá, cười đến không khép miệng lại được.
Đang lúc vui đùa, chợt có người gõ cửa. Là người lớn duy nhất trong tịnh xá, Lục Tiệm bèn đứng lên ra mở cửa, nhưng chẳng có ai ở đấy cả. trước cửa có một cái túi khá lớn, bên trong túi có sinh vật gì đang cựa quậy. Đang lúc y thấy kỳ quái, Cốc Bình Nhi đã bước ra, tiện tay cô vớ lấy một cành cây, đập vào vật đang ở trong túi. Vừa đụng vào, đã nghe có tiếng người ở bên trong chửi rủa: "Tên chó chết họ Ninh kia, ngươi dám hành hạ lão tử, lão tử chửi bới cả tổ tông ngươi lên"
Lục Tiệm nghe tiếng chửi ruả, thấy giọng quen quen, chợt giật mình tỉnh ngộ, vội vội vàng vàng đưa tay xé toạc vải túi, từ trong túi lập tức lọt ra một người. Lục Tiệm vui mừng quá, la lên: "Gia gia." Cốc Bình Nhi lấy làm lạ, hỏi: "Ủa, sao cái túi vải gai lại biến thành một lão công công bạch hồ ly rồi?" Lục Đại Hải thấy cô cầm cành cây trong tay, giận dữ, hỏi: "Oắt con kia, vừa rồi có phải mi đã chọc chọc cành cây vào người ta không?". Cốc Bình Nhi đáp : "Ừa! tui cứ tưởng có con chó trong túi vải gai, lão công công này làm gì ở trong túi vậy? Đang chơi trò trốn kiếm, phải không?"
Lục Đại Hải nghe thế, nổi hung, mắng liền: "Tao đi kiếm mả ... ", chữ mẹ chưa kịp thoát ra, đã thấy Lục Tiệm đưa tay bịt miệng ông, nói nhỏ: "Gia gia, cô bé này đầu óc lung tung, gia gia đừng tranh hơi với nó!"
Lục Đại Hải liếc xéo Cốc Bình Nhi một cái, lòng ngờ vực, gật gật cái đầu. Lục Tiệm đỡ ông đứng lên đi vào nhà, rồi hỏi Lục Đại Hải cớ sao lạc bước đến đây? Lục Đại Hải đáp: "Bữa đó, lúc mi đến nha môn lý luận, ta giữ gánh cá tại chợ, không ngờ Ninh trưởng phòng chợt đi ngang đấy, lên tiếng gọi ta. Đã lâu ta không gặp y, lòng thấy cũng có chút kỳ kỳ, nhưng thấy y mù mắt, ta đem lòng thương hại, bèn bảo y: "Ninh trưởng phòng, ông chờ một chút, ta bán được chỗ cá này rồi, sẽ đãi ông bữa nhắm. Gã họ Ninh đó cười rộ, hỏi ta: Đâu chờ đến ông mời ta, để ta chi tiền đãi ông, được không? Nói xong, y nắm lấy tay ta, nói ra thật kỳ lạ, ta bị y nắm vào người, toàn thân èo uột, chẳng chút khí lực, tha hồ để cho y kéo ta đi, muốn mở miệng nói, cổ họng nghẹn cứng ngắc, chẳng thốt ra được tiếng nào. Ninh trưởng phòng cứ thế mà kéo ta đi lung tung, cuối cùng đến một căn phòng tối hù, chẳng hiểu y sử dụng yêu pháp gì không biết, y gõ vào đầu ta một cái, mắt ta tối sầm lại, rồi ta chẳng còn biết ất giáp gì nữa!"
Lục Tiệm nói: "Cái đó không phải yêu pháp, là điểm huyệt đấy!"
"Điểm huyết?", Lục Đại Hải lộ vẻ nghi hoặc, "Đâu có chảy tí máu nào đâu, chỉ bị hôn mê trầm trầm, lúc tỉnh lại thì thấy đang bị bỏ trong xe ngựa lọc cọc chở đi". Lục Tiệm đột nhiên hiểu ra: "Thì ra Ninh Bất Không đã dùng xe chở gia gia đi, ta thật ngốc nghếch, cứ lo đi tìm trong đám người đi bộ, chẳng để ý gì tới các xe ngựa qua lại!" Rồi hỏi tiếp: "Sau đó ra sao?"
Lục Đại Hải đáp: "Sau đó, gã Ninh trưởng phòng thiệt là phách lối, đối xử ta thật tệ. Ta đoán là gã định bắt cóc lão tử đây, chắc có quỷ kế gì đó, có một lần ta bỏ trốn, đi chưa quá trăm bộ, đã bị gã tóm về. Gã họ NInh đó đã chẳng đánh đập ta gì hết, gã chỉ đưa tay vỗ nhẹ vào lưng ta, ta liền thấy khắp người như có luồng hoả khí thiêu đốt, đau đớn quá xá chừng,làm ta phải mở miệng rên rỉ xin tha. Y hỏi, ta có còn ý định bỏ trốn nưã hay không. Hảo hớn là phải biết nhẫn nhịn tránh đau khổ, ta bèn hứa không trốn đi nữa, rồi ta hỏi y vì cớ gì bắt giữ lão tử ta, y không trả lời, chỉ cười nhạt luôn miệng. không hé miệng tiếng nào. Ta đành ngồi ỳ trên xe ngày nọ qua ngày kia, cuối hành trình, xuống xe tại Nam Kinh. Gã họ Ninh đó giam ta hơn nửa ngày trong một căn phòng tường xây bằng đá, rốt cục cũng ghé lại kiếm ta, đi bên cạnh có đứa con gái coi cũng khá đẹp, gọi gã họ Ninh bằng gia gia! Hừm, thì ra là con gái gã họ Ninh. Nhưng được cái nữ tử đó đỗi đãi ta tử tế, cô không tra hỏi tên họ ta, lại còn đem cho ta rượu ngon nhắm tốt! Cũng có hơi kỳ lạ, ta ăn uống một bên, một bên cô ấy ngồi khóc. Ta hỏi duyên cớ, cô chẳng đáp! Đúng là cha kỳ khôi đẻ con gái kỳ cục, cả nhà họ Ninh đó thần thần bí bí, ta thiệt là gặp vận rủi. Nha đầu đó khăng khăng không nói., lão tử cũng chẳng thèm hỏi han gì nhiều, chỉ cứ ăn cho sướng con bà nó, uống cho đã con bà nó, ăn uống xong thì nằm thẳng cẳng đánh một giấc ngay trên sàn nhà, đâu dè lúc tỉnh dậy, đã thấy bị nhốt vào trong cái túi này! Con bà nó ... mấy ngày đó, thiệt như chuyện nằm mơ nằm mộng!"
Lục Tiệm nghe thuật chuyện xong, gật đầu, nói: "Cháu hiểu rồi, Ninh Bất Không bắt cóc ông, rồi Ninh cô nương cứu ông, cho đưa ông lại đây đoàn tụ với cháu". Lục Đại Hải gãi đầu, hỏi: "Ninh Bất Không? Ninh cô nương? Là ai vậy kìa?" Lục Tiệm trả lời: "Chính là Ninh trưởng phòng và con gái ông ta."
Lục Đại Hải rú lên, hỏi: "Mi quen biết họ hả?". Lục Tiệm gật đầu, Lục Đại Hải hỏi: "Ninh trưởng phòng bắt cóc ta, có dính dáng đến mi?" Lục Tiệm đáp: "Ninh Bất Không là kẻ đối địch của cháu, Ninh cô nương lại là bằng hữu." Lục Đại Hải lập tức rạng rỡ khuôn mặt, hé mắt liếc Lục Tiệm, bảo: "Là bằng hữu? Ui cha! Cái cô nương đó, đẹp tốt khỏi chê, đối xử với tao hết sức tôn kính, không giống thằng lão tử bố của nó chút nào!". Lục Tiệm gục gặc đầu, đáp: "Với ai, Ninh cô nương đối xử cũng đều tốt cả". Lục Đại Hải vỗ đùi, thở ra: "Đáng tiếc nhỉ! Ta mà có được nó làm cháu dâu, hay biết mấy!" Lục Tiệm nghe nói, hai má lập tức đỏ bừng đến tận mang tai, chẳng thốt nên lời.
Lục Đại Hải ngẩn ngơ mơ mòng một chặp, lại hỏi tiếp: "Vậy thì, Ninh trưởng phòng có dây dưa với mi, sao hắn lại muốn bắt cóc ta?". Lục Tiệm lắc đầu, đáp: "Cháu cũng không rõ!". Lục Đại Hải suy nghĩ một hồi, rồi chau mày: "Ta đang lúc mơ hồ có nghe họ nói chuyện, bàn mưu tính kế đối phó một gã họ Trầm nào đó, định giết chết vợ con của y. Tiểu nha đầu coi bộ không mấy tán thành, rồi sau đó, hai cha con bỏ đi.. Mà sao mi nhìn tao chăm chăm vậy?"
Lục Tiệm thốt nhiên tỉnh ngộ, đập bàn, la lên: "Chết rồi!" Lục Đại Hải hỏi: "Cái gì mà chết rồi ?" Lục Tiệm đáp: "Ninh Bất Không bày kế dụ cháu đến đây, là muốn lợi dụng, dùng cháu đối phó Trầm Chu Hư. Khi cháu thấy A Tình thành hôn cùng Trầm Tú, dĩ nhiên sẽ không chịu nổi, sẽ đưa đến xung đột to với Thiên Bộ. Hai bên đánh nhau, Thiên Bộ tất bị thương tổn nguyên khí, Ninh Bất Không lúc đó thừa cơ đánh hôi! Y kết thâm thù cùng Trầm Chu Hư, trận đánh này, coi chừng sẽ có vô số người thương vong."
Nói xong, Lục Tiệm đưa mắt nhìn ông, đúng lúc Lục Đại Hải cũng đang trố mắt nhìn mình, bốn mắt ngó nhau, rõ ràng họ chưa từng hiểu biết nhau, chưa từng có cùng một cách nhận định sự việc. Lục Tiệm không nén được, nở một nụ cười gượng gạo, nhất thời khó giải thích, rồi hỏi: "Gia gia, ông nghe họ nói chuyện, có bảo khi nào sẽ ra tay với gã họ Trầm đó không?". Lục Đại Hải gãi gãi đầu, chau mày, đáp: "Hình như là hôm nay!"
"Trời đất!" Lục Tiệm sắc mặt hoảng hốt, "Cháu phải mau mau đến Đắc Nhất sơn trang, chế ngự cả hai bên, nếu để chậm trễ, chỉ e rằng sẽ có khối người chết hoặc bị thương nặng". Nói xong, nhổm dậy định chạy ra ngoài. Lục Đại Hải vội bảo: "Cháu ngoan à, lần này, cho ta đi theo với. Mỗi lần mi bỏ ta một mình, lần nào ta cũng gặp rắc rối, ta từ giờ không rời xa mi nữa!", Ông nói xong, khoé mắt ửng đỏ, hầu như sắp khóc đến nơi.
Lục Tiệm không khỏi than thầm, nhớ đến hai lần trước xa ông, lần nào cũng đều xảy ra sự cố trầm trọng, nếu lại bỏ ông ở đây một mình, gã chẳng thấy yên tâm, bèn gật đầu đáp: "Được rồi, hai ông cháu cùng đi là xong". Rồi liếc nhìn Cốc Bình Nhi, gã tự nhủ: "Mình đã cam đoan cùng Cốc Chẩn hết sức chăm lo cho cô, vậy mình không thể bỏ mặc cô lại ở đây được" Bèn lập tức chạy đi tìm ngựa, một con để Lục Đại Hải cưỡi, gã cùng Cốc Bình Nhi cưỡi một con, cùng nhanh chóng chạy đến Đắc Nhất sơn trang. Gần đến nơi, nghe tiếng nổ to, Lục Tiệm nhận ra "Mộc Phích lịch ", gã biết ngay hai bên đã mở màn trận chiến rồi, gã rất nóng nảy, bèn cõng Cốc Bình Nhi trên lưng, tay cắp tổ phụ, thi triển khinh công chạy vù đi. Lục Đại Hải chỉ nghe gió vùn vụt bên tai, cảnh vật thụt lùi ra đàng sau nhanh như điện chớp. Trong lòng ông vừa hãi, vừa mừng, thấy thằng cháu mình mới từng ấy tuổi mà đã luyện thành một thân công phu trác tuyệt, chẳng khác gì các vị kiếm tiên, hiệp khách của truyền thuyết, có khi các vị ấy e rằng không thành tài vào lúc còn ít tuổi như hắn.
Lục Tiệm đến gần chỗ tiếng nổ, đúng ngay vào lúc Ninh Bất Không đang ra tay tàn độc định giết ThươngThanh Ảnh. Gã lập tức thét to lên, dùng thanh âm tạm cản trở đối thủ, rồi phóng người lên, tay xuất quyền, tung một đòn vào Ninh Bất Không. Chạm chân trở lại xuống đất bằng xong, gã đảo mắt nhìn quanh, nhìn cảnh tượng mà bất giác sững sờ.
"Gia gia!", Cốc Bình Nhi tụit nhanh xuống, chạy ào về thi thể Cốc Thần Thông. Lục Tiệm nhìn xác Cốc Thần Thông máu me đầm đìa, màu máu đen như mực, biết là trong máu có độc, bèn níu giữ Cốc Bình Nhi lại, quay sang thét hỏi: "Ninh Bất Không, chuyện này là thế nào vậy?". Ninh Bất Không lạnh lùng đáp: "Chẳng phải do ta làm, toàn là tuyệt tác của Trầm Chu Hư."
Lục Tiệm chau mày, nhìn sang Cốc Chẩn. Cốc Chẩn mắt đỏ au đẫm lệ, oán hận nói: "Đúng thế! Lão Trầm Què sắp đặt âm mưu quỷ kế, đã hại chết người cha của ta rồi."
Lục Tiệm đột nhiên đại nộ, chằm chằm nhìn xác Cốc Thần Thông, rồi nhìn sang Trầm Chu Hư, trong lòng oán hận tên văn sĩ không biết để đâu cho hết, gã chợt cất tiếng hét thật lớn, rồi lơn tiếng bảo: "Cốc Chẩn, ta thay ngươi báo thù đây." Lắc mình một cái, gã vụt bước đến trước thân mình Trầm Chu Hư, huy động chưởng phong, nhắm vỗ vào chính diện của hắn.
"Dừng tay lại!" Chưởng kình chưa nhả ra, chợt có tiếng la lớn từ bên cạnh. Lục Tiệm nhận ra thanh âm Ninh Ngưng, gã luyện được đến mức nội lực tuỳ tâm thu phát, nghe tiếng thét đó, gã lập tức triệt hồi chưởng kình, đưa mắt nhìn sang, hỏi: "Ninh cô nương, có phải cô vừa kêu ta dừng tay đấy không?"
Ninh Ngưng tay hãy còn bưng miệng, sắc mặt đậm nét hoảng hốt, run run nói: "Lục Tiệm, thiên hạ ai giết y cũng được, chỉ trừ mình ngươi là không thể giết ông ta!"
"Tại sao vậy?" Lục Tiệm cực kỳ bối rối. Ninh Ngưng ảm đạm nở một nụ cười buồn: "Ngươi đã chẳng từng nghe con cái không được phép sát hại cha đẻ ra mình sao?"
Câu nói đó hệt như sấm nổ giữa trời quang, mọi người đương trường, không ai là không thất kinh, tất cả chợt im lặng như tờ, chỉ còn nghe mỗi tiếng hô hấp. Lục Tiệm ngẩn ngơ, lắc đầu, hỏi: "Ninh cô nương, cô nói gì vậy, ta thực tình không hiểu?"
"Thằng ngốc nhà ngươi kia, có gì mà không hiểu?". Nhãn châu Ninh Ngưng hãy còn đỏ au, cô rền rĩ nói, "Trầm Chu Hư đích xác là cha đẻ ra ngươi, ngươi làm con, nếu xuống tay giết bố, là phạm tội đại ác bất hiếu nhất trong đời!"
Nếu đem mấy lời nói đó mà so, chỉ sợ thế gian này không tìm ra được ngôn từ nào có thể làm cho Lục Tiệm hoảng kinh hồn vía bằng vậy được! Gã chỉ thấy trong đầu sấm sét nổ ầm ầm, một nghìn câu hỏi nảy sinh thêm một vạn thắc mắc, chẳng lý lẽ nào là minh bạch! Đưa mắt nhìn quanh, thấy mặt mày ai nấy ngơ ngác, y nghi nghi hoặc hoặc, tròng mắt không ngớt xoay chuyển, chợt dòm đến mặt Trầm Chu Hư, thấy ông ta cũng đang chăm chú nhìn mình, vẻ thất thần, gã càng thấy lúng túng hơn. Khi nhìn đến Cốc Chẩn, thấy hắn cũng đang nhăn tít cặp chân mày, lộ vẻ vừa oán giận, vừa buồn bã, trong một cái chớp mắt, một cỗ nộ khí bốc lên trên đầu, khiến y đỏ mày đỏ mặt, bèn to tiếng la: "Ninh cô nương, cô đang gạt ta! Ta dẫu có trăm điều bất hảo, nhưng không tệ đến nỗi lại bị đi quan hệ với một tên ác đồ chỉ chăm chăm âm mưu hại người!"
"Nếu ta mà nói gạt ngươi, có khi lại tốt hơn nhiều!". Ninh Ngưng thần sắc khổ sở, "Cho dù ta nói láo gạt người, nhưng bốn cái luật đó lại chưa khi nào sai lầm lừa gạt người ta hết! Luật số bốn hữu lai hữu vãng , nói rằng kẻ nào đã là kiếp chủ đời cha, đời mẹ, đến đời con, trai gái gì thì vẫn tiếp tục làm kiếp chủ, nếu chẳng may cha mẹ là kiếp nô, mình là con trai, con gái của họ cũng sẽ nối tiếp theo mà làm kiếp nô, đời đời nối nhau như thế, truyền qua hết ba lần, mới kết liễu!"
Lục Tiệm nhất thời sững người, im một lúc thật lâu, rồi hỏi: "Vậy thì sao?". Ninh Ngưng buồn bã, cười nụ, đáp: "Tức là chủ, nô phân chia rõ ràng, truyền đời truyền kiếp, gia phụ của ta là kiếp chủ của ngươi, đến ta là con gái, cũng sẽ là kiếp chủ của ngươi. theo lý thuyết mà nói,khi Hắc Thiên Kiếp phát tác, chỉ có ta làm chủ mới có thể cứu được ngươi là nô, chứ ngươi là nô, ngươi chẳng thể náo cứu ngược lại được chủ là ta đây, đúng không?"
Lục Tiệm nghĩ kỹ, hoảng hốt bảo: "Hèn chi, vào cái ngày ta bị Hắc Thiên Kiếp phát tác, sao tự nhiên ta lại được thoát nạn, hoá ra toàn do Ninh cô nương đã cứu ta."
Ninh Ngưng than rằng:"Lúc đó, ta nghe ngươi không ngớt xưng tên, trong lúc hoảng loạn, ta đã tự dùng kiếp lực bản thân đổi thành chân khí đem chuyển qua cho ngươi, đánh lui được cơn phát tác của Hắc Thiên Kiếp, may mà cứu sống được ngươi."
Lục Tiệm nghe cô giải thích như vậy, lòng hết sức cảm động, buột miệng nói: "Ninh cô nương, ta ... ta ", từ đáy họng, bao nhiêu ngôn từ dường như bị nghẹn lại đây, vô số những câu nói cám ơn ... đều bị tắc nghẽn ở cuống họng, không phát ra thành lời nói cửa miệng được!
Ninh Ngưng biết y trrong lòng chứa chất nhiều tâm tư cố kỵ mình, trong lòng rộ nỗi chua xót, khoé mắt đỏ au, cô thở than: "Ngươi chẳng cần cám ơn ta, bố mắc nợ, phận làm con phải đứng ra trả thay, gia phụ đem luyện ngươi thành kiếp nô, điều đó sai trái, ta cứu ngươi, toàn là để trả món nợ đó, giúp giảm bớt tội nghiệt cho ông". Nghe đến đấy, Ninh Bất Không tức giận quơ cây gậy trúc khua ầm lên, the thé giọng mắng: "Đồ con xuẩn ngốc, ai khiến ngươi đứng xen vào giưã làm chuyện hoà giải đôi bên? Cái gì là ta làm sai trái, là ta mắc nợ?, Thằng cẩu nô đó chuyện tốt chuyện xấu đều ngu ngơ không thông, đâu đáng cho ngươi xả thân cứu hắn?"
Lục Tiệm giận quá, hét lên: "Ninh Bất Không , hôm nay ta mà không nể mặt Ninh cô nương, tuyệt chẳng khách khí với ngươi đâu!". Ninh Bất Không cười nhạt, lạnh lùng nói: "Được lắm, vậy thử thử coi"
Lục Tiệm nổi đoá, nhưng nhìn lại Ninh Ngưng, bèn cố dằn xuống, hỏi: "Ninh cô nương, ở trên tháp Thiên Sinh đó, lúc cô đang bị Hắc Thiên Kiếp phát tác , ta đã vận dụng Đại Kim Cương thần lực, định phong toả chế ngự tam viên đế mạch của cô, tuy về sau thành công , nhưng cũng hoàn toàn nhờ vào vận may, đâu có ăn nhằm gì tới điiều luật thứ tư đâu?"
Ninh Ngưng khẽ lắc đầu, đáp: "Luyện Đại Kim Cương thần lực đến mức tuyệt đỉnh, có thể dùng phong toả mấy ẩn mạch, nhưng chỉ có thể làm tạm thời, kjhông trừ tuyệt được căn nguyên. Hôm đó ngươi cứu được ta, chẳng nhờ cậy chút xíu nào vào Đại Kim Cương thần lực hết. Theo luật số bốn, ngươi làm chủ của kiếp nô ta, ta cũng lại là chủ của kiếp nô ngươi (chú: Lục Tiệm là kiếp nô của Ninh Bất Không, do vậy, hắn cũng là kiếp nô của con gái y là Ninh Ngưng!). Ta là chủ, nên đã có thể cứu được ngươi là nô. Ngươi cũng là chủ (Chú: ý cô nói Lục Tiệm là con trai của Trầm Chu Hư, chủ của Ninh Ngưng), nên chân khí của ngươi mới giải toả được Hắc Thiên kiếp cho ta!"
Lục Tiệm nghe giải thích, như vén màn sương, mắt trở nên thẫn thờ, còn đang xoay chuyển ý nghĩ trong đầu, lại nghe Ninh Ngưng khẽ than: "Lại vẫn còn chưa minh bạch ư? Hữu lai do vãng , kiếp chủ kiếp nô đời đời tương truyền, gia gia ta là kiếp chủ của ngươi, vậy ta cũng là kiếp chủ của ngươi luôn, gia gia ngươi là kiếp chủ của ta, thì ngươi cũng là kiếp chủ của ta! Ôi, con tạo trêu ngươi, ta và ngươi vừa là chủ, vừa là nô của nhau, khiến chân khí kiếp lực đôi bên cùng sinh cùng dưỡng, thành ra mới có thể đả thông được mọi ẩn mạch cho nhau, phá tan đi luật số bốn, vĩnh viễn giải trừ cái khổ của Hắc Thiên Kiếp, không bị lâm vào vòng tác quái của nó nữa!"
Miệng cô thì giải thích cái hỷ sự đó, thần trí của Ninh Ngưng lại cực kỳ đau khổ, đã thấy từng giọt, từng giọt lệ ứa ra nơi khoé mắ !
Lục Tiệm nghe qua cũng muốn phát điên, hết nhìn Ninh Bất Không xong, lại quay qua nhìn Ninh Ngưng, nhìn tới nhìn lui, chợt ánh mắt chạm vào mặt Trầm Chu Hư, thấy sắc diện ông tối sầm, tròng mắt ông cơ hồ ưá lệ, hốt nhiên, trong lòng Lục Tiệm chợt trống rỗng, gã lùi vài bước, ngoảnh nhìn Cốc Chẩn, ánh mắt hiện vẻ cầu khẩn y giúp ý.
Cốc Chẩn thần sắc cũng chuyển biến thật nhanh, thở dài một hơi, chầm chậm nói: "Lục Tiệm, Ninh cô nương nói đúng đấy, theo luật số bốn, ngươi đích thực là con đẻ của Trầm Chu Hư."
Tiếng nói còn chưa dứt, Cốc Chẩn hoa mắt lên, hai vai chợt đau nhói, hoá ra đang bị đôi bàn tay của Lục Tiệm bấu chặt vào, Cốc Chẩn cúi xuống nhìn, chỉ thấy sắc diện Lục Tiệm nhợt nhạt, tròng mắt điên loạn, mím miệng rống lên: "Ngươi gạt ta, chính ngươi cũng đang gạt ta!". Lòng Cốc Chẩn chợt dấy lên một nỗi xót xa khôn tả, từ từ bảo: "Lục Tiệm, ta đang hận chẳng thể xé xác Trầm Chu Hư thành ngàn vạn mảnh! Ngươi... ngươi đích thực là con trai y, ta có thể lừa dối ngươi, nhưng điều luật số bốn nhất định chẳng lừa gạt ai hết!"
Lục Tiệm ngẩn ngơ cả buổi, từ từ buông vai Cốc Chẩn ra, đứng dậy, rầu rĩ nói: "Các ngươi đều nói cùng một giọng, toàn là muốn hè nhau vào lừa gạt ta!"...Hốt nhiên, Lục Tiệm đưa hai tay lên bứt tóc, lắc đầu quầy quậy, chừng như đang cố hết sức vùng vẫy thoát ra khỏi cơn ác mộng này!
Chương 50 Vãng sự
Chợt nghe bà Thương Thanh Ảnh cất giọng nghèn nghẹn, hỏi: "Lục công tử, công tử có thể làm ơn cho ta nhìn qua trước ngực công tử được không?", Lục Tiệm run bắn người, ngoái trông sang, thấy Thương Thanh Ảnh nhãn châu còn loang nước mắt đang ngó gã, tay bà thì bíu vào một thân đại thụ, người run bần bật như cầy sấy.
Nhìn vẻ mặt bà, Lục Tiệm bất chợt cảm giác một luồng nhiệt khí hực lên trong lòng, không tự chủ được, gã đưa tay cởi nút áo nơi ngực, phanh vạt áo ra, mọi người thấy trước ngực có xâm một chữ "TIỆM" lớn, nét xâm cũ lâu năm lắm rồi, màu vết chữ đã phai, chữ viết theo tuồng lạo thảo, dường như được xâm viết trong lúc gấp rút.
Thương Thanh Ảnh khi nhìn thấy chữ xâm đó, thân hình bà càng lúc càng run rẩy hơn, chợt bà nhắm nghiền mắt lại, lệ nóng tuôn ra như suối trên gò má trắng nhợt nhạt, chầm chậm chảy thành dòng xuống bên dưới.
Lục Tiệm ruột gan chùng xuống, gã đang nghệt ra đấy, chưa biết phải làm gì, đã thấy Thương Thanh Ảnh mở mắt ra, chập choạng lê bước nặng nhọc về tiểu đình, mỗi bước đi cho cảm tưởng bà đang phải dồn sức lực hầu cạn kiệt hòng lết tới trước. Ninh Bất Không cùng đồng bọn sợ oai Lục Tiệm, thấy bà di chuyển đến gần, chẳng dám cản trở, trong cùng lúc, hơn mười cặp mắt chong ra nhìn vào thân hình mỹ phụ diễm lệ đó.
Còn cách thi thể Cốc Thần Thông độ một bước, Thương Thanh Ảnh dừng lại, ánh mắt đặt lên xác nam tử nằm đấy, nước mắt bà không ngừng ứa chảy xuống ròng ròng. Bà thò mấy ngón tay run rẩy ra, chầm chậm đưa tới, ý muốn chạm vào mặt xác chết. Cốc Chẩn vụt biến sắc, thét to: "Dừng tay!"
Thương Thanh Ảnh khẽ rúng động thân hình, ngoảnh đầu trông sang, run run giọng hỏi: "Chẩn nhi, ta ...", Cốc Chẩn mắt lộ hung quang, giận dữ thốt: "Bà không xứng đáng đụng đến ông ấy!"
Ánh mắt Thương Thanh Ảnh thoáng đau đớn, hai lúm đồng tiền trên má bừng đỏ, ngượng ngập một lúc lâu, rồi bà thở hắt ra một hơi thật dài, cười buồn bã: "Ừ ... ta không xứng đáng chạm vào ông ấy, cũng như không xứng đáng làm mẹ con!". Bà ngẩng đầu, nhìn trời cao thăm thẳm, ánh mắt vô thần như xưa nay vẫn thế, sau vài phút, bà thầm thì: "Năm đó, mùa xuân đến sớm, ngoài trang, hoa đào đã nở rộ rực rỡ, Cũng vào dạo đó, ta hoài thai đứa con đầu lòng. Ta ngồi dưới gốc cây anh đào, đang được một bà mụ trong làng chỉ bảo cách đan các áo quần, tất vớ cho hài nhi, cùng là cái mũ thêu đầu cọp và tấm yếm dãi, vừa đan , ta vừa nghĩ không biết khi nào thì cái thai bên trong máy động, khi nào thì chân nó sẽ đạp vào bụng ta. Ta suy tư hoài, lòng vừa lo lắng, vưà mừng vui ..."
"Phải đấy ...", Trầm Chu Hư thở hắt ra, mặt mơ màng, "dạo đó thật yên tĩnh hiếm có biết mấy ..."
Thương Thanh Ảnh không để ý đến ông, tiếp tục lầm thầm một mình: "Sang đến mùa thu, vùng lân cận bị bọn oa khấu đến náo loạn, chúng đốt phá không biết bao nhiêu nhà cửa, giết hại rất nhiều người. Hồi đó, đôi chân ông ấy còn lành lặn nguyên vẹn, nghe tin giặc cướp quậy phá, ông bèn bảo rằng phải vi nước liều thân, ông lập tức tụ tập bọn trang khách, bọn trai làng, cùng nhau tay đao tay mác ra đi chống giặc. Ông đi rồi, biền biệt bốn ngày, không chút tin tức nhắn về. Lòng lo lắng, mỗi ngày ta đều lên lầu cao ngóng trông, trông hoài trông huỷ, đến tối mịt ngày thứ tư, tháy hai trang khách trở về, một bị chặt đứt tay, một bị vết thương đao chém vào nơi bụng, hơi thở họ mong manh, xem chừng sắp chết đến nơi. Người cụt tay kể lại, trai tráng trong làng đụng độ bọn hải khấu, do đánh không lại chúng, đã bị chết trận gần hết. Lúc đó, trong làng chẳng còn đàn ông nào, chỉ toàn đàn bà trẻ con, nghe tin dữ, đều khóc lóc thảm thiết, rồi lo tom góp tư trang tế nhuyễn, kéo nhau bỏ đi sạch. Cả cái làng lớn vậy phút chốc trống trơn, vườn không, nhà trống, chẳng đèn đóm, chẳng còn chút sinh vật nào! Ta cũng hãi sợ khủng khiếp, chỉ biết khóc lóc, may mà trong làng còn sót lại bà mụ, bà bàn với ta rủ nhau chạy tản cư sang làng bên tị nạn. Thảm thay, vừa ra khỏi cổng làng, cái thai không sớm hơn. cúng chẳng trễ hơn, nhè lúc đó mà chuyển bụng, ta đau đẻ gần chết, chẳng cách nào khác, phải trở về nhà, vưà kinh vừa sợ, người mềm nhũn không chút hơi sức. Đến tối hôm đó, ta cuối cùng cũng sanh hài nhi. Vì chưa đến ngày, cái thai đẻ non, đứa nhỏ sơ sinh yếu rệu, mà vì ta lo buồn nhiều, sữa lại không xuống. Ta và bà mụ cùng nhìn đứa bé sơ sinh, cả hai đều rầu rĩ, bà mụ khuyên ta chắc không nuôi nổi, thời thế loạn lạc, chi bằng chấm dứt mạng sống nó đi! Ta nhận thấy bà nói không phải không đúng, nhưng nhìn đứa bé sơ sinh đỏ hỏn, vừa nhỏ xíu, vừa yếu ớt, mắt chưa mở, luôn miệng oe oe, ta nghĩ bụng, đây cũng là một con người, lại là giọt máu còn sót lại của ông ấy, ta chỉ biết ôm con khóc suốt, không nói năng gì khác cả. Bà mụ thúc giục, bảo không đi ngay e không còn kịp nữa. Ta vô phương, quỳ xuống van xin bà: Tôi yếu rớt như thế này, làm sao đi nổi! Đây là giọt máu duy nhất của Trầm công, bà từng chịu nhiều ân huệ từ ông ấy, sao đành ra tay dứt đi hương hoả của ông ta? Tôi xin giao nó lại cho bà nuôi dưỡng, mong bà gết lòng chăm sóc cho nó lớn khôn! Bà mụ nghe ta van xin, im lặng hồi lâu, cuối cùng bảo ta: Bà hãy ghi lên mình nó một ký hiệu gì đó, nếu như nó sống sót, ngày sau có thể nhờ vào đó mà nhận ra được nó? Ta nghĩ đến bố nó từ đi giết giặc, chưa có tin tức báo về, ứng vào câu Phu phục bất chinh (chồng đi giết giặc chưa về), ta tuy sanh được nó ra, nhưng sức khoẻ cơ thể ta quá rệu rạo như vậy, làm sao nuôi nó sống nổi, đúng là vế Phụ dựng bất dục (Vợ sinh con nhưng không nuôi dưỡng được), hai câu của hào TIỆM , hào thứ chín, quẻ thứ ba trong Kinh Dịch , ta bèn dùng trâm cài đầu xâm tại ngực đứa bé một chữ TIỆM .
"Đúng phóc!", Ninh Bất Không khoái chí, kêu lên, rồi cười cười, bảo: "Lục Tiệm, bữa đó, trên thuyền, ta đã nói không sai mà! Cái chữ TIỆM đó nó ẩn chứa một huyền cơ trọng đại!". Nhưng Lục Tiệm như si như mê, mắt nhìn chằm chằm vào Thương Thanh Ảnh, bà giống như y, cũng đã không để ý khi câu nói đó lọt vào tai!
Thương Thanh Ảnh hít vào một hơi thở, tiếp tục: "Vừa xâm xong, từ phía đầu làng đã có tiếng huyên náo vọng lại. Bọn ta sợ quá, vội vàng bỏ chạy về phía cuối làng. Ta vừa sinh nở xong, người cực kỳ yếu ớt, chạy đến ngang nhà bếp, người mỏi nhừ, không lê bước nổi, ta bèn đưa đứa bé cho bà mụ, bảo bà bế nó chạy trước đi, bà nói: Đứa nhỏ này sắp chết đến nơi, vất bỏ đi quách!". Ta nghe bà bảo thế, vội vàng năn nỉ: Bà mụ ơi, bà làm ơn nhận nó và nuôi nó giúp ta đi mà!". Bà nghe ta van xin, chợt nổi cơn giận dữ, nói Cái đứa bé gần chết đến nơi này, ai mà nuôi nó cho lớn lên được! Ta đã liều mạng ở lại đỡ đẻ cho bà, coi như đã trả ơn đầy đủ cho chủ nhân rồi, chuyện này, ta không quản được!". Nói xong, bà giúi đứa bé trở lại cho ta, chạy vù ra đàng sau nhà. Ta không có cách gì khác, đành ôm con đi vào nhà bếp, cài then cửa lại. Tai ta nghe tiếng người ồn ào vọng từ xa đến, lòng ta bấn loạn, váy ướt đãm máu me, mắt ta loa loá không trông rõ mọi vật, cơ hồ ta sắp ngất xỉu đến nơi. Kế đó, nghe tiếng bước chân rầm rập từ ngoài sân trước đang tiến vào mỗi lúc một gần, tiếng người nói một thứ tiếng khó hiểu. Lòng ta hoảng hốt, trong bụng thầm nghĩ, ta từng nghe nói lũ oa khấu này giết bất cứ ai chúng gặp, con trẻ cũng không tha, hai mẹ con ta ở chỗ này nhát định là chết, chi bằng ta chạy trốn ra ngoài, bọn chúng có bắt được ta, cũng chưa chắc sẽ tìm ra đứa bé. Nghĩ như thế, thấy củi lửa trong bếp lò hầu tàn, vừa lạnh lẽo vừa bơ vơ, ta bèn tìm chỗ giấu đứa bé trong nhà bếp, rồi mở cửa đi ra ngoài."
Từ đầu đến giờ, Lục Đại Hải vẫn lặng im, nhíu đôi hàng lông mày, ngồi nghe bà kể, đến ngang đấy, ông liền lên tiếng hỏi: "Trầm phu nhân, quý trang có phải là ở về hương tây nam của huyện Gia Định?"
"Dạ phải! Sao lão nhân gia biết?", bà Thương Thanh Ảnh giật mình, hỏi lại.
"Đúng rồi, cuối cùng thì ra là vậy!", Lục Đại Hải vỗ hai tay vào nhau, "Nói cho mọi người hay, Lục Tiệm chính là đứa nhỏ mà ta đã nhặt được. Cái nơi ta đã nhặt được nó, chính là trong lỗ cời bên bếp lò tại trù phòng của Trầm trang viện ở huyện Gia Định".
Lục Tiệm như bị sét đánh, thất thanh la lên: "Gia gia!". Lục Đại Hải vãy tay, gọi: "Cháu lại đây!". "Lục Tiệm mơ mơ hồ hồ, thẫn thờ bước đến trước mặt ông. Lục Đại Hải nắm vai y, chỉ vào bà Thương Thanh Ảnh, bảo: "Cháu hãy đến quỳ truớc bà ấy đi!". Lục Tiệm không dám trái lời, quỳ ngay xuống. Lục Đại Hải hạ thấp giọng, nói: "Tiệm nhi, đây chính là mẹ đẻ ra cháu, không nhầm lẫn vào đâu được!".
Lục Tiệm hoảng hốt nói: "Chẳng phải ông đã bảo cháu, cái chữ đó là vết chàm tự nhiên trên thân thể cháu, có từ lúc cháu sinh ra sao?".
Lục Đại Hải lắc đầu nhè nhẹ, bảo: "Cháu nghe ta nói đây, hồi đó, ta làm thuỷ thủ đi biển, đúng không?" Lục Tiệm gật gật đầu. Lục Đại Hải tiếp: "Năm đó, ta ở ngoài biển, tàu ta bị hải khấu cướp, hàng hoá mất sạch, ta bị chúng bức bách nhập đảng, bắt ta bán mạng chèo thuyền cho bọn chúng. Muốn bảo toàn tính mạng, ta đã phải bấm bụng đi theo chúng, rồi thừa cơ hội chúng lên bờ, ta đào tẩu vào rừng núi trên đất liền quanh đấy. Ta lẩn trốn được ba ngày, bụng đói, đầu váng mắt hoa, đến ngày thứ tư, không còn chịu đựng được nữa, ta lần mò ra khỏi chỗ trốn, tìm kiếm vật thực. Đâu dè, đi đâu, chỗ nào ta cũng thấy xác người ngổn ngang, nhà cửa thiêu rụi, chẳng còn gì nhét được vào bụng. Ta cứ thế lang thang một hồi khá lâu, cuối cùng đến một trang viện, rõ ràng nơi đó vừa bị bọn thảo khấu xâm nhập cướp bóc, bọn chúng đã đi đâu mất tiêu. Trước khi bỏ đi, chúng đã phóng hoả, thế lửa rất dữ dội. Ta đang đói mờ mắt, bèn chẳng quản nguy hiểm, xông vào trong vùng khói lửa, tìm đến nhà bếp, hy vọng kiếm được chút cơm nguội bỏ sót lại. Tìm kiếm thiệt lâu, chảng được gì hết, mắt thấy lửa gặp gió cháy mỗi lúc một to, ta đang lúc nguy cấp, chợt nghe tiếng gì ọ ọ oẹ oẹ, ta lúc đầu đâu có dè tiếng trẻ khóc, cho là chuột nhắt nào đấy, có nó bỏ bụng cũng đỡ đói, ta bèn nín thở, lần mò vào chỗ lỗ cời lò, mở mắt nhìn, thì thấy một trẻ sơ sinh đỏ hỏn, rõ ràng vừa chào đời không lâu. Ta lúc đó giật mình hết sức, bèn thôi nín thở, mò thấy đứa nhỏ hãy còn sống thoi thóp. Ta thấy đứa bé bơ vơ yếu ớt, bất giác động lòng thương hại, bèn bế nó vào người, xông pha lửa khói chạy thoát ra ngoài. Rồi ta trốn tránh bọn oa khấu, cứ nhằm hướng bắc mà chạy. Hài tử khát sữa, ta đành muối mặt đi xin sữa nhiều nhũ mẫu nuôi nó, tính ra nó đã bú cả hàng mấy trăm bầu sữa khác nhau mà lớn lên! Ta lưu lạc mãi đến tận Diêu gia trang, hồi đó, oai danh Diêu gia trang chấn động giang hồ vùng đông nam, bọn oa khấu không dám héo lánh tìm đến, ta bèn bế hài tử đến vùng phụ cận sinh sống, thấm thoắt đã hai mươi năm rồi!"
Nói đến đấy, Lục Đại Hải bảo Lục Tiệm: "Ta lúc đầu cứ tưởng cha mẹ cháu đều bị nạn giặc cướp mà chết cả rồi, lại sợ cháu nghe được sẽ buồn rầu, nên đã không khi nào hé môi thuật lại cho cháu hay. Thành ra, cái chữ xâm trên ngực, ta phải nói trớ ra là vết chàm bẩm sinh, nếu nói sự thật, ta chỉ lo sau này cháu thắc mắc mà truy vấn ta hoài, rồi đâm ra buồn rầu thương thân, đâm ra đau lòng."
Lục Tiệm sững sờ, lời nói không ra được đến cửa miệng, cứ lặng câm. Bà Thương Thanh Ảnh trái lại, mặt mày tái mét, bà cúi người xuống, hành lễ, nói: "Ơn đức to lớn đó của lão tiên sinh, thiếp thân không biết làm sao báo đáp cho được!". Lục Đại Hải khoát tay, đáp: "Cái đó mà ân với đức gì! Một đứa bé sơ sinh mà không cứu vớt, thì sao Lục Đại Hải ta còn sống làm người trên đời này cho được!" Ông càng không nhận công lao, Thương Thanh Ảnh càng thấy quý trọng ông hơn, rồi bà lại nghe Lục Đại Hải hỏi bà: "Trầm phu nhân, lạc loài giữa đám oa khấu đó, làm sao bà đã thoát thân được vậy?"
Thương Thanh Ảnh gượng cười, đáp: "Bọn ác nhân đó bắt được ta, thấy ta có chút nhan sắc, truớc hết, chúng trói ta lại, bắt ta đi theo chúng, nhưng khi ấy ta vì vừa sinh nở xong, đi đứng không được, chúng ra tay đánh đập ta, vưà đánh vừa cười cợt với nhau. Ta đau đớn không sao kể xiết, chỉ hận không được chết ngay đi cho rồi. Giữa lúc đó, một người tiến đến, lưng đeo oa đao, khoác mặt nạ quỷ mà tụi oa khấu thường đeo, dùng tiếng Hán gằn giọng bảo: "Bà ấy đã mang thương tích nặng, đừng đánh đập bà ta nữa". Mấy đứa ác nhân đó đã không nghe lời, còn quay ra chửi rủa, chẳng dè người đó quơ bao đựng đao đánh mấy đứa đó nhào lăn, xong rồi bảo: Đứa nào còn không nghe lời ta, hãy đứng ra đây coi!". Mấy đứa oa khấu kia đứa nào cũng sợ ra mặt, có đứa hỏi: Ông là ai, sao trước giờ ta chưa hề gặp? . Người đó đáp: Ta mới vừa nhập đảng đây thôi! . Kẻ kia hỏi lại Làm sao biết được ngươi có phải là gian tế hay không? . Y chưa dứt câu hỏi, đã tấy đao quang loé lên, gã đó đã bị chém vào đầu, máu bắn ra xối xả. Mấy đứa oa khấu kia thảy đều sợ xanh mắt, chúng bảo nhau Y sử đao pháp của bọn mình, vậy y không phải là gian tế đâu! Người đó không nói năng gì nưã, y bảo ta đứng lên, rồi rảo bước đi, dọc đường gặp oa khấu khác nào muốn ra tay giành giựt ta, đều bị y đánh cho ngã lăn ra. Ta thấy người đeo mặt nạ quỷ hung dữ như vậy, trong lòng vô cùng khiếp sợ, nhưng không còn sức lực đâu mà né tránh y được. Người mặt nạ quỷ đỡ đần ta bước đi được một quãng xa, đột nhiên dừng bước, ta quày đầu trông lại, lúc đó mới hay là trang viện giờ đang chìm trong biển lửa, lập tức nghĩ đến đứa con, mắt ta vụt tối sầm lại, ta ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự."|
"Lúc ta tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên giường mắc màn, người đeo mặt nạ quỷ đang trầm ngâm ngồi cạnh đấy, mắt nhìn vào ta. tròng mắt đen nhánh sáng, lộ vẻ đau khổ khôn tả, y thấy ta tỉnh lại, bèn đứng lên, gọi :"Mang vào đây". Y dứt lời, thấy có hai lão phụ bưng một thứ thuốc nước nóng tiến vào, người đó cũng rụt đầu ra khỏi màn. Ta lúc ấy trong tâm nguội lạnh, mơ mơ màng màng, cứ để mặc cho hai lão phụ đó làm gì thì làm, hoá ra y bảo họ thăm thú thương thế của ta, họ tuyệt chẳng có chút ý muốn làm hại ta. Ta thấy kỳ quái, bèn hỏi lai lịch gốc gác, được họ cho biết họ cũng là người dân thường bị bọn oa khấu bắt đi theo phục dịch, ta bèn đoán người mặt nạ quỷ tất là tên đầu đảng oa khấu. ta càng lúc càng thấy sợ, thừa lúc họ ơ hờ, ta vụt chụp cây kéo đâm vào cổ định tự tận. Hai bà lão la hét ầm lên, người mặt nạ quỷ nghe tiếng nhào vào, y xuất nhanh một chiêu thức, chẳng biết thế nào, cây kéo đã bị y đoạt đi mất, nhưng trên cổ ta cũng đã bị đâm thủng một lỗ nhỏ, chảy máu ròng ròng". Nói đến đấy, bà đưa tay vuốt lên cổ, thần sắc bi ai, mọi người chăm chú nhìn, nơi làn da cổ trắng muốt, quả nhiên có dấu sẹo mờ mờ, nếu không để ý nhìn kỹ, sẽ không nhận ra.
"Ta tự sát không xong, lại sa vào cơn hôn mê bất tỉnh". Thương Thanh Ảnh cất tiếng kể tiếp, "chừng tỉnh lại, cổ đã bị quấn băng, hai bà lão hãy còn quanh quẩn bên cạnh, họ đều mừng rỡ khi họ thấy ta tỉnh lại. Ta cứ tưởng họ không cho ta chết, chắc sẽ hành hạ, làm tình làm tội ta nữa, ta muốn nhỏm người lên bỏ chạy, nhưng toàn thân vô lực, chẳng cựa quậy gì được. Vào đúng lúc ấy, hai tên oa khấu sồng sộc chạy vào, chẳng nói năng gì, chúng giết chết hai lão phụ, rồi ôm thốc ta chạy ra ngoài. Ta chẳng tự chủ được, cất tiếng la hét ầm ĩ, Vừa ra đến bên ngoài, chợt thấy người mặt nạ quỷ tiến đến, trong tay y xách một giỏ thức ăn, y cất tiếng hỏi : Hai đứa bay làm gì thế? . Hai tên oa khấu quát lại: "Tránh ra! Đại vương muốn mụ ta!". Người mặt nạ quỷ gật gật đầu, bảo: "Ta tưởng còn dung tha bọn bay thêm được ít lâu nữa, Tự tụi bay đến đây tìm cái chết, ta chẳng còn cách nào khác!". Nói xong, y đặt giỏ thức ăn xuống, bạt trường đao, một làn đao quang chớp lên, hai tên oa khấu đã đầu lìa khỏi cổ. Bọn oa khấu khác thấy thế, cùng la hét ầm ĩ. Người mặt nạ quỷ bèn xốc ta lên lưng, từ bốn phía, bọn oa khấu ồ ạt xông vào, rồi trước mắt ta toàn thấy đầu rơi máu chảy, bên tai toàn nghe tiếng người kêu la thảm thiết, mùi tanh máu người bốc lên nồng nặc. Ta muôn vàn kinh hãi, liền ngất đi. Lúc tỉnh lại, ta chợt thấy mình đang nằm trong một huyệt động, người mặt nạ quỷ ngồi xa xa, toàn thân y nhuộm máu người, lẳng lặng canh chừng ta, ánh mắt có chiều lo lắng. Ta không nén nhịn được, cất tiếng hỏi y: Mấy tên oa khấu đó sao rồi? . Y đáp: Chết ráo cả rồi! . Ta thất kinh, hỏi Làm sao họ chết? , y bảo : Là ta giết họ . Ta nảy sinh hiếu kỳ, lại hỏi y: Thế ông chẳng phải cũng là oa khấu sao? . Y không đáp, chỉ hừ nhẹ một tiếng."
"Sau đó, mỗi chiều tối, y đều rời huyệt động, trước khi đi khỏi, lần nào y cũng vần một tảng đó to che lấp cửa huyệt động, khi trở về, y lại vần tảng đá ra, mang về cho ta thức ăn, thuốc uống, có khi đem về cả quần áo đẹp nưã. Ta thấy y giam giữ ta, đồ rằng y có ý đồ xấu xa, hồi đầu ta sợ y vô cùng, nhưng mỗi tối, y đều nằm ngoài xa ta mà ngủ, ngoài ra, những lúc khác, y đều ngồi một xó thật xa xa, nếu không cần thiết, y không hề lên tiếng lấy một câu, cứ ngồi yên đấy, ngơ ngẩn, xuất thần. Ta nhìn bộ dạng y như vậy, càng lúc càng thấy kỳ quái, ta chẳng dằn lòng được, lên tiếng hỏi tông tích của y, y không đáp một câu, nét buồn bã trong ánh mắt ngày càng đậm thêm lên, y cứ nhìn ta, nom thật tội quá. Như vậy được độ tám chín ngày, sức khoẻ ta dần dà bình phục lại. Một ngày nọ, y đi khỏi không bao lâu, đã nghe tiếng đẩy tảng đá, ta trông ra, qua kẽ hở vừa mở, thấy y loạng choạng bước vào, vưà định bảo ta gì đấy, chưa kịp nói, y đã hộc ra một bụm máu, rồi ngã lăn ra đất. Ta thấy vậy, quá đỗi thất kinh, không nín nhịn được, ta đưa tay gỡ mặt nạ của y ra, lại càng thấy giật mình hơn nữa. Trước đó, ta thấy y thâm trầm sầu khổ, cứ tưởng niên kỷ y cao lắm, klhông dè lúc tháo cái mặt nạ ra rồi, ta thấy y còn trẻ măng, mặt mày anh tuấn, làn da mặt trắng bệch. Máu mồm y không ngớt ứa ra, ta thực không biết phải làm gì, bèn khóc oà lên. Có lẽ nghe tiếng khóc cuả ta, y tỉnh lại, bèn nắm vào tay ta, nói: Đừng sợ! Đừng sợ! , nói xong hai tiếng đó, y lại ngất đi.
"Thật hết sức kỳ lạ, người này bị thương nặng như vậy, sao y không nói gì khác, mà chỉ bảo ta đừng sợ . Thấy y thương thế trầm trọng, ta không biết phải làm sao, đành chỉ biết cầm lấy tay y. Thân nhiệt y khi nóng khi lạnh, mặt lúc đỏ ửng, lúc xanh lè, thần trí hôn mê, miệng không ngớt nói lảm nhảm, lúc gọi gia gia, lúc kêu má má, rồi đại ca, nhị ca ... tiếng kêu thập phần thảm thiết, miệng thì gọi, mắt nhoà lệ. Ta thấy tình cảnh y sầu thảm vậy, trong tim mủi lòng thương vô cùng. Mỗi lần tỉnh cơn mê, y đều thổ huyết nặng, ta không biết phải làm sao cho y ngừng khạc máu nơi miệng, ta chỉ đành bó tay nhìn mà khóc tức tửi, y vẫn một mực bảo ta: Đừng sợ, đừng sợ! . Sau đó, lúc ánh nắng chiếu vào qua khe hở tảng đá chặn cửa, ta quyết định ra ngoài tìm kiếm chút quả dại. Y không nói gì, tay nắm chặt tay ta, mắt ứa lệ, rõ ràng không muốn ta rời xa y. Ta an ủi y, nói rằng ta phải ra ngoài kiếm ít trái cây rừng, rồi sẽ về ngay. Y bèn buông tay ta ra, chỉ vào cây trường đao, ý muốn ta đem theo. Vùng rừng núi đó nhiều hoa quả dại, ta chẳng biết tên, sợ ăn phải cây trái có độc, ta đều nếm thử trước, thấy ngon ngọt vô cùng, có thể đem về cho y dùng được. Ta lại sợ hái nhằm quả đã bị dã thú gặm nhắm, mỗi mỗi đều xem xét thật kỹ, Trên đường về, gặp cáo, cầy nhỏ, ta tuốt đao ra doạ, bọn chúng chắc được đức Phật từ bi phù trợ, đều giữ được tính mạng, đều chạy thoát!"
Bà kể chuyện, giọng nhẹ nhàng, chẳng chứa chút lo sợ, mọi người nghe, cảm thấy lời dịu dàng, tiếng êm đềm, đâu có hợp với tình trạng sức khoẻ vừa sinh đẻ xong của bà vào thời điểm đó, chỉ vì lẽ sống còn, mà bà đã phải một thân một mình xông pha nơi rừng núi hoang dã, bấm bụng làm ngơ trước không ít nguy hiểm rình rập đó đây. Thương Thanh Ảnh thuật đến đấy, vẻ mặt chợt mơ màng, bà tựa như đang sống trở lại khung cảnh ngày đó! Chẳng tự kiềm chế được lòng mình, bi thương trong mắt bà dần dần tan biến, thay vào đó thấp thoáng nét tươi vui nho nhỏ!
"Sau đó chừng hơn mười ngày, vào một buổi chiều, ta đi hái trái về, y đang đứng chờ ta nơi trước cửa động, khi nhìn thấy ta, miệng nhoẻn một nụ cười trẻ thơ. Lúc đó, mặt trời còn chưa khuất núi, khắp nơi bừng sáng nắng chiều, giữa khung cảnh đó, nụ cười tươi tắn của y, nom thật bắt mắt!|"
Trầm Chu Hư nghe kể đến đấy, chợt thở dài! Thương Thanh Ảnh tuồng như không nhận thấy, trên mặt vẫn in nét bình hoà ôn nhu, tiếp tục kể: "Y thấy ta ôm một bọc gì đó trở về, bèn chạy ra đón, bất ngờ khuỵu chân, hình như vừa bị vấp vào một tảng đá, y té lăn ra, đập đầu nền đá, miệng bị sứt ngay tức thì! Ta rầy y, y chỉ cười! Trước kia, mặt y lạnh như băng giá, chưa khi nào ta thấy y vui vẻ đến thế. Ta liền lên tiếng hỏi tại sao vui, y đáp vì y trông thấy ta. Nghe giọng nói khinh bạc đó của y, ta làm mặt giận, không thèm nhìn đến y nữa. Y bẽn lẽn, im lặng một lúc thật lâu không nói năng gì, rồi lên tiếng bảo y còn chưa biết tên ta! Ta không thèm trả lời, y tự khai, y họ Cốc, tên Thần Thông, đứng thứ ba trong nhà, cô nếu không thích gọi cái tên dài dòng đó, cứ kêu ta bằng Cốc Tam là được!"
Cốc Chẩn tuy đã đoán già đón non chàng trai là phụ thân gã, nhưng khi nghe từ miệng Thương Thanh Ảnh thốt ra danh tự đó, vụt động nộ, chẳng kìm được, gã cất tiếng quát: "Cốc Thần Thông, tên đó bà đâu được phép kêu, được phép gọi như thế!"
Thương Thanh Ảnh rúng động thân mình, chăm chăm ngó đứa con trai, nước mắt như những hạt châu ngọc, đã chầm chậm tuôn ra. Lục Tiệm cảm thấy bất nhẫn quá, bèn khuyên: "Cốc Chẩn, ngươi cứ để yên cho bà ấy thuật hết câu chuyện đi, bằng không, bà ấy chẳng thể nào chịu đựng nhiều hơn nữa được đâu!"
"Cái gì mà chẳng chịu được lâu!" Cốc Chẩn la lớn. "Nếu không có chữ ký của bà ấy ở cuối thư, gia gia nhất định sẽ không đến nơi hẹn, nếu ông không đến, ông đã không bị hại chết!B à ấy làm gia gia ta chết, còn làm bộ kể chuyện xưa tích cũ, năm điều mười chuyện, không biết ngượng mặt!". Cốc Chẩn vừa nói, vừa sụt sịt nơi mũi, rồi khóc oà, nước mắt lai láng.
Thương Thanh Ảnh ngoảnh lại nhìn Trầm Chu Hư, bà đang tức giận, đầy vẻ khinh miệt. Trầm Chu Hư vẫn giả lơ, mặt không chút biểu tượng mừng hay giận. Thương Thanh Ảnh chợt thở dốc ra một hơi dài, đưa mắt nhìn một đoá hoa loa kèn màu tím nơi đầu tường, ngẩn ngẩn ngơ ngơ một chặp, rồi tiếp: "Y tự xưng tên họ, ta không nhịn được, bèn hỏi vậy ông là người Hán, cớ sao không chịu học, chịu làm gì cho hay, lại đi nhập đảng với bọn oa khấu! Y giải thích, y không phải đồng đảng cuả oa khấu, có một bữa, chẳng thể làm gì khác hơn được, y đã giết một tên chỉ huy oa khấu, rồi lấy y phục của hắn mặc vào, để trà trộn vào bọn chúng, cũng còn hên vận, ông trời đãi ta không tệ, đã cho ta may mắn được gặp cô, y vừa nói vừa chiếu mắt vào ta, đôi đồng tử đen den, xanh xanh, loe loé sáng, như muốn chiếu xuyên qua người người ta vậy! Ta bị y nhìn với ánh mắt đầy ý tưởng bất hảo đó, bối rối quá sức, ta bèn đổi đề tài, hỏi sao đã bảo không thể làm gì khác hơn, vậy lại đi nấp nánh cùng lũ oa khấu đó? Y thở dài, vẻ thất thần, nhìn ra bên ngoài động thật lâu, thật lâu, rồi nói: Tôi có một đại cừu nhân, lợi hại vô cùng, cả nhà tôi đều bị y giết sạch, lúc đó, tôi thật khó khăn lắm mới thoát khỏi tay y. Những thuộc hạ được y cử theo dõi truy lùng, đều hoặc bị tôi giết, hoặc bị tôi đánh thua chạy xiểng liểng. Tên đại cừu nhân đó cuối cùng nhất quyết tự tay y đi lùng giết tôi. Hai lần liên tiếp, tôi suýt chết trong tay hắn. Ngày hôm đó, bị hắn truy đuổi dữ quá, tôi chỉ còn cách lẩn trốn trong đám oa khấu, đứa cừu nhân biết tôi ghét ác như ghét thù, không nghĩ ra được tôi lại có thể chung đụng cùng bọn oa khấu, tôi cũng vì muốn giữ mạng, buộc lòng phải nhắm mắt đưa chân, cũng còn may nhờ thế đã thoát khỏi tay y. Cuối cùng, bọn oa khấu làm bậy làm ác quá, tôi không nhịn được nữa, đã ra tay giết hết cả lũ. Chuyện đó đã làm hắn đánh hơi ra tôi, hắn rình mò, bữa đó, tôi đi mua thuốc cho cô, đã bị hắn phục kích. Hai lần trước tôi may mắn thoát thân, toàn nhờ chỗ hắn ỷ y khinh thường, đã không đem hết bản lãnh ra thi thố ... lần này, y quyết lòng giết tôi, đã xuống tay cực mạnh, còn may lúc sinh tử quan đầu, lừa hắn giữa lúc biến chiêu, tôi đã phản kích, bỏ trốn đi được. Nhưng tôi cũng đã thụ thương cực nặng, lần này, may còn có cô, tôi mấy lần gần tắt hơi, đều trụ lại được, vì tôi nghĩ đến cô, nếu tôi chết đi, cô sẽ cơ khổ lênh đênh một thân một mình, chẳng còn ai khác chiếu cố, săn sóc cô, ý nghĩ đó đã giúp tôi cầm cự với tử thần! Nói đến đấy, y khích động quá, đưa tay ra nắm vào tay ta. Ta thừa cơ hội, bảo cho y biết ta đã có chồng có con, ta cũng chưa biết chồng con sống chết ra sao nữa! Y nghe ta nói mà sững sờ, đến khi nghe ta bảo đã giấu đứa con sơ sinh ở gần bếp lò. Y đứng vụt dậy, hỏi ta cớ sao đã không nói cho y biết ngày hôm ấy. Ta dáp, hồi đó trông ông dữ dằn, ông là oa khấu, làm sao ta dám mở miệng khai ra! Y nghe thế, thở dài sườn sượt, y thấy ta khóc, y quay ra tự trách mình nhiều hơn nữa! Y hứa khi nào y lành mạnh hoàn toàn, y sẽ đưa ta về Trầm gia trang tìm kiếm, chỉ đáng tiếc, gia trang đã bị chìm trong biển lưả, sợ rằng giờ đây thành bình địa rồi. Ta nghe vậy, khóc càng dữ hơn nữa, y cũng oà khóc theo. Sau đó, nghe ta nói chồng ta ra đi giết giặc, y bảo, có thể tất cả dân quân chưa chắc đã chết hết, hoặc giả chồng ta may mắn còn sống sót chăng. Rủi đã bị chết trận, thì cũng phải tìm cho ra thi hài mà lo chôn cất chu đáo, nếu xác không tìm được, có thể là người hãy còn sống!"
"Mấy ngày sau đó, y ra sức trốn tránh cừu nhân! Ta không nhà không cửa, không nơi nương tựa, hai người ban ngày trốn tránh, ban đêm lần mò đi kiếm ăn, cực khổ khôn xiết. Dần dà, ta hiểu y có lòng thương người, ghét cường quyền, cứu giúp người yếu kém, dẫu đang trong cơn hoạn noạn bị cừu nhân truy lùng, y vẫn thường cướp nhà giàu lấy tiền trợ cấp nhà nghèo. Trong lòng y cực kỳ thương yêu ta, nhưng , trước sau, y đối xử với ta vẫn giữ lễ nghĩa. Thấy ta ưu sầu nỗi chồng con, y đau lòng lắm. nhưng không khi nào để cho ta hay, còn hứa, hễ y nghe được tin tức về tung tích chồng ta, y sẽ đưa ta đến tận nơi để dọ hỏi. Rồi dần dần, ta gắn bó với y càng lúc càng đậm, ta vui khi thấy y vui, ta buồn trước nỗi buồn cuả y. Y bảo đại cừu nhân của y liệu đã chết rồi, đến lúc có lẽ y nên lên đường về nhà. Nói đến đó, y chợt lộ vẻ đau lòng, y hỏi ta có muốn cùng y trở về quê hương? Hồi đó, ta không thể rời xa y được nữa, ta suy nghĩ thật lâu, cuối cùng đồng ý cùng y trở về Đông Đảo. Ta cứ tưởng, như vậy cuộc đời còn lại của ta sẽ được chút bình yên nào chăng, đâu ngờ, thế gian này cuối cùng như một giấc mộng dài mà thôi!"
Trầm Chu Hư hứ giọng, lạnh lùng nói: "Chắc là bà oán trách tôi sao đã chết rồi, còn sống lại làm gì, đã phá tan đi hảo sự của hai người!"
Thương Thanh Ảnh cười buồn bã, "Ta đâu có oán trách ông chết đi, rồi sống lại đâu! Ông bắt ta rời xa cha con Thần Thông, lại còn bầy trò giả mạo Trầm Tú là con ta, lừa gạt ta! Ông dựa vào ta. dùng ta làm con tin, bức bách Thần Thông lập lời thề vĩnh viễn không rời đảo trả thù! Những cái đó, ta đều biết, nhưng ta có khi nào buông lời oán trách! Rồi ông lại lợi dụng tên ta, dụ gạt ông ấy đến đây để hại ông ấy chết! Thần Thông là người rất cơ cảnh, nhưng ông ấy không thể vong tình cùng ta, một khi thấy chữ ký từ chính tay ta, ông ấy bỏ mặc tất cả đến gặp ta ngay. Hôm nay, ông lừa ta ký tên vào thiệp mời, bảo vì hôn sự cuả Tú nhi, thật ra nằm trong âm mưu ông dàn dựng, chỉ nhắm hại Thần Thông. Trầm Chu Hư, ông, ông đúng là con người tối độc dưới gầm trời này!"
Trầm Chu Hư nhắm mắt, không trả lời, lồng ngực thoi thóp, sắc mặt ông mỗi lúc một xạm đen lại, dường như độc khí đang ngấm dần vào xương tuỷ. Một lúc lâu sau, ông thở hắt ra, chậm rãi nói: "Ngày hôm đó, ta thống lĩnh trang khách cùng trai làng xuất quân, thắng liên tiếp vài trận, rồi chuyển dần sang thế giằng co với oa khấu ven biển. Không dè oa nhân tàn độc, chúng xua người dân thường ra trước làm tiên phong cho chúng. Ta không thể xung trận làm hại họ, do đó đã bị oa khấu đánh ép vào từ hai bên. khiến quân ta đại bại. Ta cho lui binh, tự mình đi đoạn hậu, bọn oa khấu điên cuồng truy đuổi, người bên ta phần bị giết hại, phần bỏ trốn. Ta chạy mãi, cuối cùng lâm tuyệt lộ, trước mặt là vực sâu thăm thẳm, sau lưng là giặc đuổi, không đường tiến thoái. Trong số người cùng trang, có mấy đứa lén lút bàn nhau làm phản, định bắt ta nộp cho oa khấu để mưu cầu sinh lộ cho chúng. Ta đâu biết âm mưu đó, tưởng có thể huy động toàn quân mở đường máu chạy trốn, đâu ngờ vào lúc ta ơ hờ, bị chúng ra tay chế ngự. Ta không muốn thành toàn cho âm mưu bọn chúng, bèn đâm đầu nhảy xuống vực thẳm, số ta còn may, nhờ vướng vào cây mọc lưng chừng vực, đã thoát chết, chỉ bị gẫy mất hai chân."
Càng nghe, tim Lục Tiệm đập càng mạnh, nhìn vào chỗ tà áo trống không bên dưới của Trầm Chu Hư đang bị gió lay động, gã nhủ thầm: "Ông ta bị gẫy chân vào dịp ấy! Sao hồi thiếu thời, ông ấy nhiều nhiệt huyết, cứng cỏi, bây giờ lại thay đổi tính tình, thành người thủ đoạn, lãnh huyết vô tình!"
Lại nghe Trầm Chu Hư thở dài sườn sượt, nói tiếp: "Ta bị lạc trong khu đồi đá loạn thạch đó hai đêm một ngày chẳng cựa quậy thân mình được, trời giông bão mù mịt, mây đen xuống thấp, không một ánh sao đêm. Tứ bề là mưa ướt ẩm thấp, có khi nghe tiếng rắn bò sột soạt đi săn mồi. Lũ chim cú kêu đêm quàng quạc phiá trên bờ vực. Ta nghe nói, chim cú kêu như vậy là đang đếm số lông mi của ta, khi nào chúng đếm xong thì mệnh ta sẽ tuyệt. Ta nghĩ mình sắp chết, trong lòng cực kỳ đau thương, thầm trách ông trời sao nỡ vùi dập ta số phận hẩm hiu. Trời ở trên cao quá, không biết đến mà phù hộ người thiện nhân mắc nạn! Ta lên bốn đã học chữ, năm tuổi biết làm thơ, sáu tuổi bình văn, nổi tiếng thần đồng trong vùng, lúc lớn lên. các ngón nghề cầm kỳ thi hoạ, bói toán, y thuật không món nào là ta không rành, khi lập gia đình, lấy được người vợ nổi danh nữ tài tử! Vậy mà ta đi thi mấy lần đều trượt, đến tuổi hai mươi mới đậu được cái cử nhân vớ vẩn! Chuyện thi cử đó, nói cho ngay, thật là đơn giản, người khác đi thi cử nhân, tiến sĩ, đều lân la với chủ khảo, chạy chọt quà cáp, tìm người quen cùng quê cùng quán với giám khảo nhờ lo lót. Ta cậy mình học giỏi, cho rằng mình chứa đầy một bụng văn chương chữ nghĩa, tên sẽ đề bảng vàng, sẽ đậu vào hàng tam giáp, (Ba mức độ cao nhất của thi cử ngày xưa, Tiến Sĩ đứng đầu mức 1, Hoàng Giáp đứng đầu mức 2, ở mức 3, ba người đầu là Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa - người dịch chú), ta văn tài vũ giỏi, thể nào cũng đạt thành tựu kinh thiên động địa, thành thử, dẫu biết rõ những hủ bại nơi trường thi đó, và triệt để ghét chúng, ta cứ nhất quyết trong vào thực tài của mình, kết cục đi thi đi cử toàn đập đầu vào tường mà huyết lưu mãn địa! Đến lúc đi đánh oa khấu, ta vì thương dân đen mà để mất tiên cơ, từ cục diện đang thắng chuyển thành bại trận thê thảm, do đó không những tính mạng mình bị đe doạ, mà cũng đã không bảo đảm được an toàn cho vợ con nơi quê nhà đang bị oa khấu đe doạ làm nhục, Ta lại đặt hết lòng tin tưởng vào bọn trang khách, đến lúc thua trận, bị bọn chúng mưu phản, bắt ta đem bán đứng cho oa khấu. Càng nghĩ, ta càng giận, không nín nhịn được nữa, ta bèn lớn tiếng chửi rủa từ lão trời già, bọn thần thánh, tụi hoàng đế, đám gian thần, bầy giặc lùn ... đem cả lũ, cả đám chúng nó ra mà chửi bới thậm tệ, chẳng chừa chuyện gì, chẳng chừa đứa nào ra cả. Ta chửi như thằng say rượu, chửi đến nỗi dần dà tắt tiếng, lại trong bụng, trong ruột đang trống rỗng, vết thương chỗ chân gãy bắt đầu thối rữa. Ta biết ta sắp chết đến nơi!"
"Sau đó, ta chợt nghe tiếng người cười ha hả. Ta đưa mắt nhìn, thấy giữa đám loạn thạch, có một người đang đứng sừng sựng trên ấy, tại trời âm u tối , ta đã không nhìn rõ mặt mày y, chỉ thấy vạt áo y bị gió thổi lay động, phiêu hốt như hình dạng một tiên ông vừa hạ trần. Ta lên tiếng hỏi y là ai, y lại bảo phải để cho y hỏi ta trước, rồi ta mới được phép nói. Y hỏi tại sao lần này đánh trận lại thảm bại vậy? Ta nghe y hỏi, rất lấy làm kỳ quái, nghĩ bụng làm sao mà y biết được chuyện ta thua trận, nếu ta thú thực sự tình, sợ sẽ gặp bất lợi trong tay y. Trước tình huống đó, ta tốt nhất là đừng nói năng gì cả. Y cười cười, bảo ta thua trận tại vì ta chưa hiểu rõ Thiên Đạo ! Ta hỏi ngược lại, Thiên Đạo là nghĩa làm sao? Y giải thích, Thiên Đạo có nghĩa là Vô Thân , Vô Tư và Vô Tình , nột khi ta luyện được đến chỗ Vô Thân , Vô tư và Vô tình , ta sẽ trở thành Vô Cụ (Không còn sợ hãi gì nữa), sẽ trở thành Vô vãng bất thắng (luôn luôn thắng). Ta nghe y thuyết, đầu óc lùng bùng, nhất thời không hiểu ý tứ ra sao! Y thấy ta lúng túng, bèn nói, lấy thí dụ, giả dụ nếu để thủ thắng, liệu ta có dám xuống tay giết chính vợ con ta không? Ta giật mình, đáp ngay là ta không thể làm vậy! Y lắc đầu bảo, xưa Ngô Khởi đã sát thê cầu tướng (tự tay giết vợ đề mưu cầu chức đại tướng), rồi đã trở thành một danh tướng lưu danh thiên cổ trong lịch sử! Y lại hỏi ta, nếu để thủ thắng, ta có dám ra tay tàn sát huynh đệ không? Ta đáp, ta chẳng thể giết anh em ruột được, y lại cười, bảo Đường Thái Tôn đã từng giết anh ruột, hại chết em ruột, đã chính là một minh quân trong các triều đại cũ. Y lại hỏi, nếu để thủ thắng, ta có dám tự tay giết cha mẹ đẻ ra mình hay không? Ta nghe y hỏi mà kinh hồn lạc phách, liền luôn miệng trả lời rằng không thể! Y lộ vẻ thất vọng to, lắc đầu, than: "Thời Hán Sở tranh hùng, Hạng Vũ có lúc vì muốn bức bách Hán Cao tổ đầu hàng, đã doạ sẽ đem nấu thịt cha ruột của Hán Cao tổ, Hán Cao tổ đã trả lời: Cha ta cũng như cha ruột ngươi, ngươi có nấu thì nhớ gửi cho ta một bát! . Thử hỏi, lúc đó nếu Hán Cao Tổ khuất phục, liệu có kiến tạo được một triều đại nhà Hán bền vững đến hơn bốn trăm năm không?"
Người đó thấy ta trầm ngâm không đáp, y bèn bảo, cái đạo lý đó, ta hãy cứ xem xét cho kỹ, suy nghĩ cho thật sâu, rồi hãy trả lời y. Ta nghĩ tới nghĩ lui, thấy lời y nói đó không sai, ta có gia tài to lớn, nhiều tiền của, nếu như ta đã chịu lo lót các quan giám khảo, thì sớm đã đậu cao, bảng vàng ghi danh, sớm đã như rồng gặp mây, như hổ mọc cánh, sớm đã tha hồ tham gia chính sự, lúc đó nếu phải cầm quân ra trận, ta đã chẳng cần phải thương xót chi lũ dân đen, cứ tận dụng mọi thủ đoạn để thắng trận, chẳng cho bọn oa khấu cơ hội xáp vào gần, đã sớm phát lệnh phát tên ào ào, bắn cho chúng nó tan tành ra rồi! Nếu ta thay vì hết lòng vào sinh ra tử cùng lũ trang khách, sớm dùng tụi nó làm vật hy sinh để ngăn cản oa khấu, ta đã chẳng phải trốn chạy, để đến nỗi sa vào tình cảnh tiếp cận cái chết, rồi có khi còn cơ hội phản công diệt oa khấu, chuyển bại thành thắng?
Nghĩ lại, mọi chuyện trên đời xem ra cũng cùng một kiểu cách như vậy! Người đó dường như đọc được tâm tư, ý nghĩ ta, bèn vỗ tay, cười ầm, nói rằng, ta đã mấy năm nay truy đuổi một kẻ đối địch, đã rượt hắn chạy ngàn dặm, cuối cùng để vuột mất, cho hắn chạy thoát. Đang lúc ta bực tức, may sao gặp được một nhân tài như ngươi ở đây. Ngươi là một người thừa cơ trí, chỉ phải cái tâm không đủ kiên định, chưa hiểu thấu cái vi diệu của Thiên Đạo . Ngươi chỉ cần nghe theo lời ta, từ giờ trở đi, ta bảo đảm ngươi đánh đâu thắng đấy, sẽ chẳng thua bất cứ ai! Y nói xong, nhảy xuống giúp ta, đem ta về chăm sóc trị thương, giúp ta thoát hiểm cảnh. Chẳng cần ta nói ra, ai nấy đều biết người đó chính là Vạn Quy Tàng, thành chủ Vạn Thành. Ta thoát chết, còn trông vào vận may đó, đã xin Vạn thành chủ đưa ta trở về Trầm gia trang, đâu ngờ toàn bộ nhà cửa vườn tược đã trở thành hoang liêu, tường vách sụp đổ Ta cho rằng hai mẹ con bà đã gặp bất hạnh, lòng ta tan nát, rồi biết rằng nếu cô thân, sẽ không trụ lại được trên đời, ta bèn thống định tư tưởng, quyết lòng quyết ý làm theo lời thuyết của Vạn Thành chủ, thề rằng từ nay trở đi, sẽ đối xử với người ngoài như một kẻ Vô thân, Vô tư và Vô tình . Rồi bằng vào khí oán đó, ta đã khổ công, gắng sức luyện tập võ công, làm đến chức vụ cầm đầu Thiên Bộ, Ta đầu nhập Tây Thành, nhận trọng trách cuảTây Thành, đã luyện kiếp nô, diệt Hoả Bộ, rồi đi Đông Đảo, đoạt lại được bà về, nhờ lợi dụng bản tính giầu tình cảm của bà mà bức bách Cốc Thần Thông lập thệ, trong vòng mười năm, không được đặt chân lên Trung thổ. Lần đó, nếu không có thằng con quý tử của bà, chắc đã không buộc được bà rời khỏi hắn nửa bước! Tiếc một điều là, hắn võ công cực kỳ cao cường, rồi Tây Thành của ta lại gặp nạn lớn! Hắn còn sống ngày nào, là một ngày ta còn đại địch, một đời ta còn mang mầm hoạ, ta đâu có thể để hắn sống được?" Thương Thanh Ảnh không rời ánh mắt khỏi ông, nét đau khổ cay đắng hằn trên mặt, than: "Ông thực tình đã thay đổi quá nhiều rồi!". Trầm Chu Hư cười nửa miệng, đáp: "Ta dù đã thay đổi, nhưng tuyệt chẳng hối hận chút nào!". Thương Thanh Ảnh nhỏ nhẹ nói: "Bảo cho ông biết, thời gian sáu năm ta chung sống với Thần Thông là quãng đời vô cùng sung sướng hoan lạc nhất của ta!". Trầm Chu Hư khẽ cau mày, nhỏ giọng rầu rĩ đáp: "Cái đó, ta biết từ lâu!"
Thương Thanh Ảnh cười thảm, "Suốt mười ba năm đó, ông đã đóng kịch, hý lộng ta quá chừng!". Nói xong, mắt bà nhắm nghiền lại, dòng lệ tuôn trào xuống như mưa. Xót tình mẹ con,
Lục Tiệm nhìn tình cảnh bà tang thương như vậy, trong lòng gã cũng đau đớn khôn cùng, rồi gã chợt nghe Trầm Chu Hư hắng giọng, gọi: "Lục Tiệm, ngươi lại đây" . Lục Tiệm ngoảnh đầu nhìn quanh, khi thấy ông ta đang vẫy vẫy mình, gã chợt do dự. Lục Đại Hải cất tiếng than: "Tiệm nhi, dù gì chăng nữa, ông ta cũng vẫn là cha đẻ ra cháu!"
Lục Tiệm bước đến gần, quỳ xuống cạnh ông. Trầm Chu Hư đưa tay gỡ từ búi tóc trên đầu, lấy ra một cái trâm bạch ngọc, bàn tay run lẩy bẩy, ông đưa cho Lục Tiệm. Lục Tiệm bỡ ngỡ, hỏi: "Cái này để làm gì vậy?"
Trầm Chu Hư đáp: "Cái trâm cài đầu này, là tín vật của Thiên Bộ ta. Từ giờ trở đi, con làm chủ Thiên Bộ!". Lời đó vừa dứt, Ninh Bất Không cất tiếng cười ầm, nói: "Thằng Trầm què kia, ngươi điên rồi hả? Thiên bộ là thuộc về tổ tông của Tây Thành ta, ngươi đâu có quyền đem giao phó cho một thằng trời sanh ngu dốt, bất tài!". Lục Tiệm nghe Trầm Chu Hư bảo thế mà hoảng kinh, từ chối: "Cái trâm này, tôi không tiếp thu được!"
Trầm Chu Hư nói: "Con mà không nhận lấy nó, tương lai mấy kiếp nô đó biết trông cậy vào ai?". Lục Tiệm rùng mình, đưa mắt nhìn quanh, thấy các kiếp nô đều ngước ánh mắt đau đáu nhìn gã, nét khẩn cầu hiện rõ trên mặt. Duy Trầm Tú, nhãn châu ửng đỏ, oán hận nhìn Lục Tiệm, mặt đầy biểu hiện độc ác.
Đang lúc gã còn chần chừ, nghe tiếng Trầm Chu Hư cười thật lớn, giọng hoan hỉ: "Thật không ngờ, thật không ngờ, Trầm mỗ trước giờ phút lâm tử, còn được gặp đứa con trai ruột thịt của mình, xem ra thượng thiên đã đối xử ta không tệ! Hài tử, con mang họ Trầm, tên con là Trầm Tiêu . . ."
Lục Tiệm khẽ chau mày, lắc đầu, đáp: "Không! Tôi ở họ Lục, tên tôi là Lục Tiệm ..." Trầm Chu Hư thoáng ngẩn người, ánh mắt lộ chút giận dữ, nhưng rồi ông nhanh chóng đổi qua thành vui mừng, cười gượng, than: "Cũng được ! Cũng được!". Nói xong, ông thở hắt, hai đồng tử giãn ra, rồi ngừng thở. Nguyên ông lãnh một chưởng của Cốc Thần Thông, đã hết sinh cơ, chỉ nhờ dùng chân khí còn sót lại bảo trợ tâm mạch mà cầm cự được đến lúc ấy, bây giờ chân khí cạn kiệt, ông đứt hơi mà chết!
Lục Tiệm vưà mới rõ biết thân thế thì người cha đẻ đã vĩnh viễn ra đi, trong một sát na, lòng gã choáng ngợp một nỗi thê lương, cổ họng gã quặn thắt lại, tiếng không ra được đến đầu lưỡi. Ninh Bất Không nghe biết Trầm Chu Hư đã tuyệt khí, y nóng nảy, giậm mạnh cây gậy trúc, hét lên: "Thằng Trầm Què kia, ngươi chưa trả lời ta xong, sao đã vội chết đi vậy? Thế hoạ tượng của Thiên Bộ giấu ở đâu? Ai đang cất giữ nó?". Nếu không vì uý kị có mặt Lục Tiệm ở đấy, hắn đã nhào vào lục soát thi thể của Trầm Chu Hư rồi.
Ninh Ngưng chỉ đành thở dài, bảo: "Gia gia, ông ấy đã chết rồi kia mà!". Ninh Bất Không gân cổ lên, rít giọng nói: "Đừng nói bậy! Cái thằng què này âm mưu trí trá, thể nào cũng giả chết để lường gạt Ninh mỗ."
"Ông ấy đã chết thật rồi mà!". Ninh Ngưng nhăn nhó, nói: "Người chết là hết, ông ta nay qua đời rồi, thù hận của cha còn chưa nguôi sao?". Cô nói xong, đưa mắt liếc sang Lục Tiệm. Ninh Ngưng chua xót trong lòng, cô biết, nếu còn nấn ná lại đây, cô sẽ không sao nhịn được khóc òa, bèn bặm môi, quày mình buớc đi.
Ninh Bất Không dù chẳng muốn dời bước, hắn đối với cô con gái đã chẳng có biện pháp đối phó, rồi lại còn uý kị Lục Tiệm quá chừng! Hắn tự biết, có ở lại đây lâu hơn một lúc nữa, cũng chẳng làm ăn được gì, bèn nghĩ thầm, ngày còn dài, rồi đây sẽ bày mưu tính kế chiếm đoạt bức hoạ tượng. Tính toán xong, hắn cáu kỉnh giậm chân, đang định nối bước theo sau Ninh Ngưng, chợt nghe Trầm Tú lớn tiếng hỏi: "Ninh tiên sinh có thể chấp thuận cho tôi đi theo tiên sinh chăng?"
Thương Thanh Ảnh nghe y hỏi, bà giật mình, thất thanh la lên: "Tú nhi, ngươi ...? ". Trầm Tú chẳng thèm lý đến bà, quỳ xuống, hướng về Ninh Bất Không, nói: "Cầu mong được tiên sinh thu làm môn đệ."
Ninh Bất Không hứ một tiếng, nói: "Ta thu nhận ngươi làm gì?" Trầm Tú rít giọng: "Lão Trầm què bất nhân với tôi, thì tôi bất nghĩa với lão. Lão đã hết muốn dùng tôi làm con, tôi việc gì phải cứ tiếp tục coi lão là cha! Từ giờ trở đi, tôi với Thiên bộ không còn qua lại gì nữa, tôi toàn trông cậy Ninh tiên sinh dìu dắt, tiên sinh bảo tôi làm gì, tôi sẽ đem hết sức ra làm."
"Vậy a? " Ninh Bất Không cười thâm trầm: "Nếu thực sự như vậy, ngươi có thể đầu nhập vào làm đệ tử ký danh của Hoả Bộ". Trầm Tú mừng rơn, nói: "Đa tạ Ninh tiên sinh." Ninh Bất Không gằn giọng: "Khoan hãy đa tạ! Ngươi muốn làm đệ tử của Bộ chúng ta, sẽ phải tuân thủ mọi quy điều của Hoả bộ, nếu ngươi làm sai trái mệnh lệnh của ta, ta cho ngươi một mồi lửa thành tro bụi tức thì, đến lúc đấy, hừ hừ .... có hối cũng không kịp đâu!"
Trầm Tú đáp: "Quyết không hối hận!" Y nói xong, đứng lên, chắp tay cung kính lại đứng bên Ninh Bất Không . Thương Thanh Ảnh thấy thế, tim gan trong lòng bà dường như tan nát thành trăm mảnh, bà thê thảm hỏi: "Tú nhi, ngươi bỏ ta đấy ư?". Trầm Tú cười gằn, đáp: "Chẳng phải bà đã có được một đứa con trai rồi sao? Vậy bà còn muốn gì ở tôi nữa? Từ nay trở đi, bà đường bà, tôi đường tôi, giữa bà và tôi, không còn mắc míu, không còn dây mơ rễ má gì với nhau nữa!"
Thương Thanh Ảnh đâu ngờ, từ lúc y hay biết được thân thế, y đã thay đổi thái độ, quyết lòng cắt đứt, ánh mắt chỉ âm u những tia hằn học oán hận, không còn cái dáng vẻ nhu thuận xưa kia. Thoáng một sát na, bà hoa mắt, cổ họng nghẹn cứng lại, thân mình chao đảo, sắp ngã lăn ngay ra đất. Nhìn tình trạng bà như vậy, Lục Tiệm hốt hoảng chạy đến, đưa tay dìu đỡ bà, miệng giận dữ thét lên: "Trầm Tú, bà ấy đối đãi với ngươi tình sâu nghĩa nặng, sao ngươi đang tâm tuyệt tình thế?"
Trầm Tú quay nhìn Thương Thanh Ảnh, thoáng hiện chút do dự, nhưng rất nhanh, từ đáy lòng y, oán hận trào dâng, y nghiến răng, miệng không ngớt hầm hừ, phất tay áo, ngoe ngoảy rảo bước chạy theo sau đuôi Ninh Bất Không, phút chốc đã mất dạng.
Cùng lúc đó, Cốc Chẩn vụt kêu to, đứng bật dậy. Nguyên lúc đó, hiệu lực của "Vô Năng thắng hương" đã tiêu tan, vừa cử động được, Cốc Chẩn lập tức chạy đến bên Cốc Thần Thông, cởi áo khoác ngoài của, cúi xuống trùm lên thi hài, rồi ôm xác chết đứng dậy. Thương Thanh Ảnh định đến gần, không ngờ bị Cốc Chẩn quát: "Cút đi." Gã ẩy vai vào người bà, rồi, mặt tái xanh, gã đến bên Cốc Bình Nhi, bảo cô: "Mình đi thôi!"
Cốc Bình Nhi liếc nhìn thi hài, hết sức hãi sợ, không tự chủ được, cô thụt lui ra sau mấy bước, run giọng hỏi: "Gia gia... Gia gia sao rồi?" Cốc Chẩn gắng gượng trấn tĩnh, hắng giọng bảo cô: "Em đừng sợ, gia gia chỉ đang ngủ thôi mà!". Cốc Bình Nhi nhíu mày nhíu mặt, hỏi: "Má má đã ngủ rồi, sao bây giờ gia gia cũng ngủ nữa vậy?"
Cốc Chẩn chua xót trong lòng, than thầm: "Em ta bây giờ, trên đời chỉ còn duy nhất mình ta là người thân thôi!". Gã cố hít vào một hơi dài, gượng cười, bảo cô: "Gia gia, má má, dĩ nhiên là cùng ngủ với nhau thôi!". Cốc Bình Nhi bán tín bán nghi, nhưng nhìn trên mặt Cốc Chẩn, nụ cười có vẻ chân thật, cô đã thấy bớt sợ trong đầu, nỗi lo đã tiêu tan quá nửa, cô gật gật đầu, quay sang nhìn Lục Tiệm, chắp tay, chào: "Thúc thúc, cháu về trước nhen, rồi mình sẽ lại chơi đùa với nhau nữa!". Cô nói xong, theo Cốc Chẩn đi ra cửa, vừa đi cô vừa ngẩng cổ lên nhìn vào mặt xác chết.
Lục Tiệm ôm mẹ trong lòng, không biết phải làm gì, bèn ngoái trông Lục Đại Hải, biểu hiện ý khẩn cầu được giúp đỡ. Lục Đại Hải kinh nghiệm sống đời thật phong phú, vào lúc quan trọng này, lão cố giữ bình tĩnh, bảo: "Cháu trước hết đưa mẹ cháu về phòng nghỉ ngơi đi đã, chuyện hậu sự của cha cháu, để đó ta lo". Lục Tiệm vâng dạ, nhìn thấy năm kiếp nô đứng ở đấy, bèn nhờ họ giúp Lục Đại Hải lo liệu tang ma, lại bảo Yến Vị Quy vào làng tìm thuê nữ tì để đến chăm sóc cho Thương Thanh Ảnh .
Vào quãng nửa đêm Thượng Thanh Ảnh tỉnh dậy, bà không chịu ăn uống gì, cũng không nói năng gì, ánh mắt đăm đăm vào Lục Tiệm, tay bà nắm chặt tay gã, ý khẩn thiết muốn gã đừng bỏ bà một mình. Không biết phải làm gì khác, Lục Tiệm đành ngồi dựa vào một bên giường. Hai mẹ con âm thầm nhìn nhau, không một lời trao đổi, cho đến khi ngọn nến tàn lụi, Thương Thanh Ảnh vừa kiệt quệ tinh thần, vừa mỏi mòn sức lực, bà dần dần chìm vào giấc ngủ!
Lục Tiệm bèn rụt tay khỏi tay bà, rồi mở then cửa, đi ra ngoài. Khi đến đàng trước, thấy nơi hỉ đường, các thứ trang hoàng hỉ sự màu đỏ đã được tháo dỡ đi hết, thay thế bằng đồ tang ma màu trắng toát của linh đường. Nhìn cỗ quan tài, lòng Lục Tiệm cảm giác thê lương. Hai cha con vừa mới nhận ra nhau, đã ngàn thu vĩnh biệt, dù giữa họ chẳng tình cảm gì nhiều, vả lại Lục Tiệm không mấy tán thành hành sự tác phong của Trầm Chu Hư, hầu như phần lớn là tàn độc, nhưng trước mặt, nghĩ đến người cha đẻ ra mình đang gửi thân trong quan tài, giọt máu đào hơn ao nước lã , gã có muốn chối bỏ cũng khó lòng! Lục Tiệm đứng nhìn thi hài cả buổi, rồi bất giác trước mắt chợt nhoà đi.
Năm kiếp nô trông thấy Lục Tiệm, cùng tiến lên hành lễ. Lục Tiệm đưa tay gạt lệ, hỏi: "Có thấy gia gia ta ở đâu không?". Mạc Ất đáp: "Lão nhân gia quá mệt mỏi, thuộc hạ đã cho đưa ông vào phòng trong nghỉ ngơi rồi". Lục Tiệm gật đầu. Chợt nghe Mạc Ất lên tiếng: "Còn một việc này nữa, kính trình chủ nhân định đoạt", Lục Tiệm khoát tay, nói: "Hai chữ chủ nhân đó, đừng nên dùng nữa, từ giờ trở đi, các người cứ kêu ta bằng Lục Tiệm là được rồi". Đám kiếp nô đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai dám lên tiếng. Lục Tiệm tiếp: "Ta không phải là kiếp chủ, vậy các người sẽ không là kiếp nô. Mạc Ất , Tiết Nhĩ, cả hai lại đã từng cùng ta chia sẻ hoạn nạn, vậy thì mình đều là bằng hữu. Giữa bằng hữu với nhau, nên gọi thẳng nhau bằng tên!"
Bọn kiếp nô vẫn im lặng một lúc lâu, rồi Yến Vị Quy cuối cùng nói: "Bắt thuộc hạ gọi thẳng tên cuả chủ nhân, thật không sao làm được!". Tần Tri Vị cũng nói: "Chủ, chủ nhân là chủ nhân, nô , nô tài thì là nô tài, là tiểu nô ti tiện, làm sao thuộc hạ dám cộc lốc gọi thẳng đại danh chủ nhân ra được! Nhưng được rồi, tiểu nhân cùng Cẩu Thối tử (thằng chân chó - ám chỉ Yếu Vị Quy có cặp giò chạy lẹ) và Ưng Câu tử (lỗ mũi ưng - Tô Văn Hương có lỗ mũi thính) đều sẽ dùng từ Chủ Nhân , chỉ Thư Ngốc tử (Thằng đọc sách ngu muội - Mạc Ất) và Trư Nhĩ (Thằng tai heo - chỉ Tiết Nhĩ) được gọi thảng tên chủ nhân thôi". Tiết Nhĩ nổi giận, hét lên: "Thằng Trù Tử mày gian manh quá! Bọn ngươi đều gọi Chủ Nhân , sao không cho hai đứa ta cùng gọi theo với?"
Tần Tri Vị đáp: "Ngươi là ngươi, ta là ta, không chủ thì không có nô, Tần mỗ không thể bỏ qua quy củ được!". Nói xong, y quỳ phốc ngay xuống trước mặt Lục Tiệm, cất giọng van lơn: "Chủ, chủ nhân từ bi, cầu xin, xin cho tiểu nhân cứ được gọi bằng Chủ Nhân !" Yến Vị Quy, Tô Văn Hương xưa nay ít mồm mép, thấy thế, cũng không nói năng gì, cả hai đồng lúc quỳ xuống, cùng dập đầu.
Tiết Nhĩ vừa bực vừa rối trí, ong óng la lên: "Ba đưá bay làm trò gì vậy, tụi bay xúm nhau giành, chỉ cho bọn bay được gọi Chủ Nhân , khiến hai đứa ta thành đại nghịch bất đạo à?". Y nói xong, cũng quỳ thụp ngay xuống, dập đầu bình bình hai cái thật to. Mạc Ất thần sắc hoang mang, đang định quỳ xuống theo, đã bị Lục Tiệm đưa tay ra cản lại, bảo y: "Mạc Ất, ngươi nhiều kiến thức, hãy tìm cách nào thật tốt cho tất cả, đừng dùng Chủ Nhân là được!"
Nguyên Trầm Chu Hư tính khí cực thâm trầm, khi muốn gọi mưa hô gió, khi vui buồn hay lúc giận dữ đều không để lộ ra mặt, nhiều khi nghĩ bụng một đằng, miệng lại nói trớ đi, mọi người xung quanh chẳng ai hiểu được tromg tâm tư, thực sự lão muốn gì! Đám kiếp nô, đứa nào mà thiếu kính trọng một chút là bị lão cho nếm mùi Hắc Thiên Kiếp liền. Bây giờ chủ cũ đã chết, đổi sang chủ mới, Lục Tiệm tuổi trẻ, tính tình chất phác, khiêm hòa khoan dung , so với tác phong của Trầm Chu Hư khác nhau như ngày với đêm. Nhưng sống dưới thị uy của Trầm Chu Hư bấy lâu, đám kiếp nô vô cùng nể sợ kiếp chủ, chỉ thấy sao vị chủ nhân mới này có cách ăn nói kỳ lạ, bọn họ cứ sợ Lục Tiệm nói trái khoáy, nói xiên xỏ, nếu làm theo lời tân chủ yêu cầu, trái với ý muốn thực sự, có khi sẽ bị đem ra hành tội thị uy trước cả đám! Nhưng khi thấy Lục Tiệm càng lúc càng tha thiết, thành khẩn, đám kiếp nô cũng dần dà bớt nghi ngờ, chỉ có mỗi Mạc Ất , Tiết Nhĩ đã từng quen biết trước với Lục Tiệm, vốn biết tính tình gã ra sao, bây giờ trước thái độ của các kiếp nô kia, hai người đó cũng đâm ra hoang mang, cả hai đều cùng không dám làm khác đi lề thói thông thường xưa nay với chủ nhân.
Đấy đúng là ý nghĩ của Mạc Ất khi nghe Lục Tiệm nói, y còn đang lần chần, đã thấy Lục Tiệm nghiêm nét mặt, bảo: "Mạc Ất ngươi phải biết, trước đây, ta cũng đã từng làm kiếp nô, cũng đã từng nếm qua đau khổ của Hắc Thiên Kiếp rồi!". Mạc Ất bèn yên tâm, gật đầu nói: "Lão chủ nhân trước lúc lâm chung đã truyền chức Bộ chủ sang cho ngài rồi,vậy thì chúng tiểu nhân không gọi chủ nhân nữa, mà xin gọi bằng Bộ chủ , chắc được!"
Lục Tiệm lắc đầu, bảo: "Ta mới chỉ tiếp nhận có cây trâm ngọc thôi, chưa có ưng chịu làm chủ Thiên Bộ." Mạc Ất đáp: "Nếu ngài không chịu làm Bộ chủ, vậy chúng tiểu nhân cứ gọi ngài bằng chủ nhân cho xong!". Trông thấy cả bốn người kia đều lộ thần sắc kinh sợ, Lục Tiệm nghĩ bụng, nếu không y theo lời của Mạc Ất đề nghị, rồi ra sẽ không được yên thân với bọn họ, đành thở dài: "Thôi được rồi, Bộ chủ thì Bộ chủ!"
Mạc Ất mừng rỡ, nhìn đồng bọn, nói: "Vậy chúng mình hãy làm lễ ra mắt chào Bộ chủ đi". Bốn người kia nghe y nói, do dự giây lát, rồi vui có, ngại ngùng có, đều cùng cất tiếng thưa "Bộ chủ!", rồi lục tục đứng lên. Lục Tiệm lại hỏi: "Mạc Ất , vừa rồi ngươi có nói, ngươi muốn ta giải quyết chuyện gì vậy?"
Mạc Ất đáp: "Lão chủ nhân vốn làm trong phủ Tổng Đốc, giờ đây người đã mất, sẽ gây kinh động tới quan phủ. Nếu bây giờ không nghĩ cách trước, đến lúc Hồ đại nhân đến tra hỏi, sợ khó ăn khó nói!" . Lục Tiệm đau đầu, hỏi y: "Chủ ý ngươi ra sao?" Mạc Ất đáp: "Tiểu nhân nghĩ rằng, cứ báo hung tín xảy ra đêm hôm qua, nói rằng trước ngày làm lễ cưới cho Trầm Tú, đại nhân đã nổi cơn giận cực lớn, bị cố tật phát ra, làm ngài trúng gió mà chết. Nhưng những cái đó phải do chính chủ mẫu đích thân đứng ra thông báo."
Lục Tiệm vốn chẳng nghĩ được cách gì khác, bèn gật đầu bảo: "Vậy cứ thế mà làm". Mạc Ất lại thưa: "Còn một chuyện nữa, mời Bộ chủ đi theo tiểu nhân". Y nói xong, đưa tay lấy một cây nến, đi trước. Lục Tiệm theo sau Mạc Ất, đi quanh co một lúc đến thư phòng, gian phòng rộng lớn, các giá sách đầy ắp, con số sách vở chứa ở đấy cũng đến vài ngàn, vài vạn quyển như chơi. Mạc Ất đến mặt phía đông giá sách, lấy xuống dăm quyển, thấy lộ ra một tấm bát quái nho nhỏ, hắn đưa tay xoay vòng khoá, khoảnh tường trước mặt mở ra một gian mật thất.
Lục Tiệm cực kỳ bỡ ngỡ, đã thấy Mạc Ất dang tay mời mình bước vào mật thất. Trên tường phía nam mật thất cũng có một bát quái nhỏ khác nữa, Mạc Ất lại xoay vòng khoá, mở ra một lỗ vuông vức độ ba xích mỗi bề, chứa ăm ắp những quyển sổ. Mạc Ất lấy từng quyển một, đưa cho Lục Tiệm .
Lục Tiệm thắc mắc: "Là gì thế này?"
Mạc Ất đáp: "Đây là văn thư tài liệu mật của bộ, quyển này ghi chép danh sách đệ tử Thiên Bộ, dùng triệu tập môn hạ, còn đây là quyển sổ tay Thiên Đình sách , là tổng mục của mấy quyển khác, mỗi quyển trong đó có ghi chép các sự việc, đến lúc vô cùng khẩn yếu, người có tên ghi chú ở đấy là những người mình có thể sai khiến, sử dụng họ mà họ không thể không ngoan ngoãn cúi đầu nghe lệnh."
Lục Tiệm nghe nói, sinh hiếu kỳ. Dưới ánh lửa nến, thấy quyển sổ tay có dăm ba trang, trên đó ghi chú phân chia các loại khác nhau: sĩ , nông , công , thương , hoàng tộc , vũ lâm , tất cả sáu quyển. Mỗi quyển lại ghi chép tên tuổi nhiều người, cùng các sự việc liên quan đến họ, ghi chú đại khái những tội hung ác, dâm độc mà họ đã phạm.
Lục Tiệm lật sơ qua vài trang, toàn ghi chép những hành vi ghê rợn, đến quyển nói về võ lâm, trước hết kể rõ môn phái, người này thế nào, họ giữ nhiệm vụ gì, đã từng phạm tội ác ra sao ... trong số có nhiều nhân vật bề ngoài đạo mạo mà hành vi cực ác, thấy liệt kê một đời tội lỗi của họ. Lục Tiệm không chủ định, lật ngay đến trang nói về Tây Thành, trước tiên là viết về Vạn Quy Tàng, với những xưng tụng hoa mỹ không tiếc lời. Kế đến phần ghi chú về các bộ của Tây Thành, nhiệm vụ mỗi bộ ra sao, Lục Tiệm chỉ đọc lướt qua, thấy ghi chép về ưu, khuyết điểm của mỗi người chủ bộ, không thấy ghi chép về việc làm của họ, Lục Tiệm đọc đến trang nói về Đông Đảo, ghi chép chi tiết về Cốc Thần Thông, những sự tích, đại khái phù hợp với những gì Lục Tiệm biết về ông, cuối cùng có lời bình: "Hiệu xưng bất tử, kỳ thật bất nhiên, vi tình sở khốn, thủ chi bất nan." (tạm dịch: Người xưng danh hiệu Bất Tử, thực ra không phải vậy, hay luỵ vì tình, thu thập được y không khó).
Lục Tiệm đọc lời bình, bất giác sinh cảm khái. Kế tiếp đó, ghi chép về Cốc Chẩn. Sổ ghi sơ lược đôi dòng về việc gã làm chủ nhân của nhẫn Tài Thần , hai chữ "Tài Thần" viết bằng mực đỏ, bình phẩm rằng đó là vật bất tường. Kế đó là việc ám muội với em gái cùng cha khác mẹ, rồi bị sa chân giam hãm nơi ngục tối.
Lục Tiệm vưà đọc vừa thấy rờn rợn trong lòng, đọc xuống dưới nữa, thấy viết về Địch Hy, lập tức gã giật mình, khi thấy nói rằng hắn tinh thông "độn" thuật, danh hiệu "Cửu Biến long vương", tính âm trầm, dâm tà quỷ mị, nghi vấn đã có thông gian với vợ kế mang họ Bạch của Cốc Thần Thông, hắn tiếp tay với oa khấu, hoành hành ác bá vùng đông nam. Mục đích là gì thì không rõ, nhưng có vẻ bị tiền tài mua chuộc.
Cuối cùng có ghi chép các việc Địch Hy giết người cướp của, hiếp bóc con gái nạn nhân, đầy tám trang, rồi đề cập đến ẩn tình Cốc Chẩn bị vu oan, chữ mực đỏ bảo là nghi vấn toàn bộ do tay Địch Hy xếp đặt .
Lục Tiệm càng đọc, lòng càng hỗn loạn, xuất hạn mồ hôi lạnh ngắt, nghĩ đi nghĩ lại, Lục Tiệm bèn đưa tay xé bỏ trang đó ra khỏi sổ, nhét vào trong bọc, quay sang bảo Mạc Ất: "Mấy ghi chú này nói về đời tư của người ta, nếu chẳng may để lọt vào ác nhân, họ dùng vào việc đi uy hiếp tống tiền, thật là không nên không phải chút nào!"
Mạc Ất đáp: "Những ghi chép đó, thuộc hạ đều đã có nhớ trong đầu, bộ chủ nếu thấy nó không ổn, cứ huỷ bỏ đi, sau này nếu cần truy cứu trở lại, đến hỏi nô tài thuật lại". Lục Tiệm than thở: "Thế cũng được! À này, Mạc Ất, Trầm tiên sinh nắm biết rõ các việc làm ác độc của Địch Hy, sao ông ấy không loan truyền ra ngoài?". Mạc Ất đáp: "Tiểu nhân suy rằng, Địch Hy làm ác đã nhiều, lão chủ nhân xưa không đụng đến, tất có lý do thầm kín". Lục Tiệm ngạc nhiên hỏi lại: "Sao vậy?", Mạc Ất đáp: "Địch Hy cực kỳ ác độc, để hắn tồn tại ở Đông Đảo, mối hoạ còn lớn hơn nữa. Lão chủ nhân kế thừa chí hướng Vạn Thành chủ, thề diệt Đông Đảo, khi Đông Đảo ẩn chứa mầm hoạ đó, lão chủ nhân cầu còn không được, nên đã không tiết lộ các việc tác ác của Địch Hy!"
Lục Tiệm nghe thấy, rùng mình, tự nhủ: "Cái tâm kế đó quả thực là âm độc vô cùng!". Gã lấy quyết định, đưa quyển sổ ghi chép châm vào lưả nến, đốt nó cháy thành than.
Xem đến sổ sách trương mục, thấy chênh lệch đến gần mười vạn lạng bạc, Lục Tiệm hết sức kinh ngạc, bèn hỏi lý do nơi Mạc Ất. Mạc Ất giải thích: "Số sai biệt đó phần lớn là do ngân lượng đang lưu thông trên thị trường, để chuyển về cung ứng cho các bậc quan liêu. Trong tình hình đấu đá kịch liệt hiện nay tại triều đình, nếu không dùng thương bằng bạc, ngựa đúc bằng vàng mà tiến cống, làm sao mở được một con đường máu để tiến thân, để giữ mình? Hồ tổng đốc trấn thủ toàn cõi Giang nam, mỗi năm ít nhất phải đưa về hơn mười vạn lượng bạc, thời mới còn được cầm Thượng Phương bảo kiếm mà đâm chọc vào Hoàng đế, Thái giám, phi tần, các quan trong Điện Nghiêm Các, bọn cẩm y vệ, hai xưởng Đông và Tây, thượng thư các bộ, các ngự sử, ít nhiều gì , đâu đâu cũng phải lo chu toàn, nếu không, sớ đàn hặc sẽ đưa lên ầm ầm, đưa đến mưa hờn gió hận, là sẽ bất lợi vô cùng, chức quan không vững, thân mệnh sắp tàn đến nơi.Mỗi bận giữa năm, cuối năm, đến thần sinh nhật của hoàng đế, lão chủ nhâu đều vì lo chạy cho đủ ngân lượng cung phụng mà bị đau đầu khôn tả. Cái khoản chênh lệch ở sổ sách này, thoạt nhìn thì tưởng nhiều,nhưng tiền vào thì ít mà tiền ra thì lắm, tháng vừa rồi đã phải xuất tiền đi kiếm mua thú lông trắng, chim điêu, bạch vũ, tiên hương ... cộng có đến bốn vạn lượng bạch ngân, do đó mới có sự chênh lệch ngày hôm nay!"
Lục Tiệm cất tiếng than: "Triều đình này hủ bại đến vậy, làm cho người ta phát rầu!". Mạc Ất bảo: "Lão chủ nhân cũng đã từng bảo như thế, nhưng người còn nói thêm, Đại Minh chưa phải hoàn toàn là thối rữa, mục nát đến xương tuỷ đâu! Đương kim hoàng thượng dù có hoang dâm, dù bản thân cũng bị uy hiếp, vẫn còn đơn độc nắm giữ quyền bính trong tay, các hoạn quan, các quyền thần có hoành hành cũng chỉ là tạm thời, không gây được sóng to gió lớn gì lắm, khi hoàng thượng băng rồi,nếu có minh quân khác lên thay, có hiền thần mới phù trợ, nhà Đại Minh rồi sẽ lại có cơ hội trùng hưng"
Lục Tiệm lẳng lặng gật đầu, nhìn cái hốc bí mật đó, hỏi: "Tại sao không thấy bức hoạ tượng của Thiên bộ trong ấy?". Mạc Ất lắc đầu, thưa: "Về vụ hoạ tượng, tiểu nhân chưa từng nghe lão chủ nhân đả động tới". Lục Tiệm nghĩ thầm, "Hoặc có khi hoạ tượng của Thiên Bộ đã thất lạc đâu đó rồi?". Gã chỉ thuận miệng hỏi chơi, có họa tượng hay không cũng chẳng nhằm nhò gì, bèn đưa tất cả các sổ sách văn kiện trả lại cho Mạc Ất, bảo: "Mấy cái vụ này, ta không rành lắm, nay ta giao lại tất cả cho ngươi toàn quyền chấp chưởng."
Mạc Ất cười mà rằng: "Tiểu nô sinh ra là đã thành thạo nghề này rồi, nội dung các văn kiện, các sổ sách đó đều đã ghi nhớ trong đầu, bộ chủ chẳng cần vào đây mở ra xem chi cho mất công, cứ hỏi thẳng nơi tiểu nhân là được"
Lục Tiệm gật gù, bảo: "Mạc Ất, sau này, ta và ngươi còn trông cậy vào nhau, vậy ngươi đừng tự xưng tiểu nô nữa, ta nghe thấy thật chẳng vui chút nào!". Khoé mắt Mạc Ất chợt ửng đỏ, gã vội quay đi, đưa tay áo lên chùi vào mắt. Lục Tiệm lấy làm lạ, hỏi: "Ngươi sao thế?". Mạc Ất đáp: "Dạ không, không có gì, chỉ là bị hạt cát lọt vào mắt thôi"
Hai người rời thư phòng, trở về ngồi tại bên linh cữu đến sáng. Lục Tiệm đi về hậu viện, đã thấy Thương Thanh Ảnh thức dậy từ lâu, bèn đem đề nghị cuả Mạc Ất ra bàn cùng bà. Thương Thanh Ảnh trầm tư một lúc, rồi bảo: "Tên Mạc Ất này suy nghĩ chu đáo, xem ra y cũng khá tốt."
Lục Tiệm lắc đầu nhè nhẹ, nói: "Hắn tính toán cũng được, chỉ có điều đam mê cờ bạc, nhiều lúc quá đáng, hại bọn con có lần bị đói meo"
Thương Thanh Ảnh bảo: "Người ta ai cũng có khuyết điểm, đường hoàng làm chuyện hư xấu, cái đó không sao. Chỉ sợ kẻ ngấm ngầm làm bậy. Như nếu không có vụ cưới xin hôm qua, ta làm sao biết được Trầm Tú rốt cuộc là đứa đạo đức giả tệ hại như vậy! Tội ta quá, ta cứ một lòng tin tưởng hắn là một thằng con ngoan có tâm địa bồ tát!" TrầmTú do chính tay bà nuôi dưỡng cho đến lớn khôn, dù chẳng phải do bà rứt ruột đẻ ra, nhưng bà thương yêu hắn cùng cực. Đến khi qua hai người Lục , Cốc bọn họ, bà mới hiểu và nhìn ra chân tướng thật của hắn, trong lòng bà đau đớn tột độ, bà vừa nói, vừa đổ nước mắt chan hoà như mưa.
Lục Tiệm bực tức, nói: "Trầm Tú biến thành như vậy, toàn do Trầm Chu Hư dung túng. Con thiếu giáo dục, tội ở người cha, ông ấy biết rành rành Trầm Tú tác ác, đã không dạy dỗ sửa chữa, mà còn tìm cách giấu mẹ, còn đi sắp đặt, che chở cho hắn!"
Thương Thanh Ảnh gạt lệ, cười buồn bã, bảo: "Cái đó là vì trong mắt ông ấy, hắn không phải đứa con ruột, nói cho cùng, Trầm Tú cũng chỉ là một con bài trong tay ông ấy thôi! Nếu Tú nhi là người đàng hoàng, thì ông ấy làm sao mà bầy vẽ cho hắn tác quái được?" Nói đến đấy, bà đưa tay níu vào tay Lục Tiệm, năn nỉ: "Ta biết con không ưa Tú nhi từ lâu, nhưng y thay tâm đổi tính như vậy, lỗi toàn do nơi phụ thân con cả! Nếu sau này nó có làm bậy với con, con hãy rộng lượng, tha thứ cho nó, tha cho nó khỏi chết!".
Lục Tiệm ngây người ra một lúc, nhưng nhìn ánh mắt tha thiết của Thương Thanh Ảnh, nước mắt bà hãy còn đoanh tròng, hắn chợt mềm lòng, gượng cười , đáp: "Mẹ cứ yên tâm, con không giết hắn là được rồi!"
Thương Thanh Ảnh cặp lông mày giãn ra, sắc diện thoáng vẻ mừng vui, bèn hỏi chuyện hồi nhỏ, Lục Tiệm sinh sống ra sao, bà hỏi thật cặn kẽ, không sót một chi tiết nào, khi nghe Lục Tiệm kể chuyện Diêu Tình, Thương Thanh Ảnh chợt trầm tư một hồi, rồi sau đó bảo: "Cô nương đó thật khác thường, lúc Tú nhi đòi lấy cô, lúc đầu ta thực tình chẳng tán thành chút nào, Sau, vì hắn theo van xin dữ quá, ta đành chiều ý hắn. Ta đâu có ngờ giữa con và cô ta lại uyên nguyên sâu xa đến thế, rồi con đã phải đến tận cửa quấy phá hôn lễ." Bà nói xong, đưa tay dịu dàng vuốt ve trên gò má Lục Tiệm, âu yếm hỏi: "Hôm qua, trong lúc bối rối, ta đã vả con mấy cái tát, giờ con có còn thấy đau không?"
Lục Tiệm từ bé lênh đênh cô khổ, chưa từng được hưởng mùi vị từ ái của một người mẹ, mỗi lần gã nhìn thấy trẻ con người ta đựợc mẹ chiều chuộng, sủng ái, trong lòng gã thèm thuồng biết bao, lúc bấy giờ, đột nhiên lại có được một bà mẹ, đối xử với gã cực kỳ hiền dịu, êm ái, tư vị hiếm có trên đời! Được đôi tay mềm mại của bà bà ve vuốt vào gò má, trong lòng gã ấm áp lạ thường, nhưng lại có phần mắc cỡ, chần chừ hồi lâu, rồi mới nói: "Đánh vào gò má, không đau đớn gì, nhưng thấy trong lòng thật tan nát!"
Thương Thanh Ảnh nghe thế, nấc lên, rồi nước mắt bà lại đổ ra, ròng ròng chảy xuống giàn giụa gò má, bà choàng cánh tay ôm chầm vào Lục Tiệm, khóc nức nở. Lục Tiệm không ngờ vô ý đã làm buồn lòng mẹ, bị bà ôm chầm lấy, gã nhất thời nhớ lại thân thế, cũng đổ nước mắt như mưa.
Giữa lúc ấy, chợt nghe một tràng cười rộ, chính là Lục Đại Hải đang đến, hai mẹ con bèn buông nhau ra. Lục Đại Hải bước vào phòng, nhìn tình cảnh hai người, cũng hiểu phần nào, bèn nói: "Trầm phu nhân, bà vừa trải qua một cơn phong ba bão táp to lớn, bà cứ thong thả, từ từ lấy lại sức khoẻ, từ từ bình tĩnh trở lại!" Thương Thanh Ảnh gật đầu, thưa: "Hai mẹ con tôi còn được tái hợp, hoàn toàn nhờ vào công đức của lão nhân gia đã ban, xin lão nhân gia nhận cho một lạy này của thiếp thân.". Nói xong, bà quỳ xuống, Lục Đại Hải vội vàng đưa tay ra ngăn bà, đáp: "Không dám! Không dám!", rồi lão tiếp: "Bây giờ, Tiệm nhi đã trở về nhận tổ tông, lão đầu tử ta như thế đã xong phần việc của mình rồi, từ giờ trở đi, Tiệm nhi hãy đổi qua họ Trầm nhé!"
Thương Thanh Ảnh lắc đầu, đáp: "Không được! Tiệm nhi vẫn cứ theo họ Lục, ngày sau lấy vợ đẻ con, nếu sinh được hai con trai, sẽ cho một đứa theo họ Trầm kế thừa hương hoả Trầm gia, một đứa cho theo họ Lục, nối dòng nối dõi cho Lục gia, Và còn hơn thế nữa, thiếp thân cũng xin bái lão nhân gia làm dưỡng phụ, xin được gọi một tiếng gia gia, nguyện suốt đời phụng thị!"
Bà nói xong, quỳ lạy một lạy, Lục Tiệm cũng quỳ xuống theo bên cạnh. Lục Đại Hải tay chân bối rối, luôn miệng từ chối, nhưng hai mẹ con Thương Thanh Ảnh nhất quyết không đổi ý, Lục Đại Hải nói không lại hai người, cuối cùng đành đứng chắp tay, nhận của bà Thương Thanh Ảnh ba lạy. Lão tuy ngoài miệng hãy còn chối từ, nhưng trong lòng cực kỳ hoan hỉ, từ lâu lão đã tự cho mình là một người già quạnh hiu, sẽ mang cuộc sống cơ cực, khổ sở cô độc cho đến chết, giờ đây đổi đời, rõ ràng trời xanh kia cuối cùng cũng có mắt, càng nghĩ, trong tim lão càng rộn ràng một niềm hoan lạc, miệng lão nở nụ cười rộng đến tận mang tai!
Được tin Trầm Chu Hư qua đời, từ Hồ Tôn Hiến trở xuống, ai nấy đều bất ngờ, cùng rủ nhau đến phúng điếu. Thương Thanh Ảnh cố chịu đựng các nghi lễ tang ma, ngoài mặt giữ vẻ dịu dàng, nhưng nội tâm kiên cường, không giống đa số quả phụ thường tình, bà vận áo sô, vấn khăn tang, luôn luôn đoan trang, nhã nhặn đón tiếp khách phúng điếu, không chút thất thố. Khách có hỏi đến Trầm Tú, bà thoái thác rằng gã từ khi bị Trầm Chu Hư trách phạt, đã bỏ nhà ra đi, các quan khách dự hôn lễ ngày hôm qua thảy đều mục kích sự việc. Nghe bà giải thích như vậy, chẳng một ai dám đặt điều nghi ngờ!
Thưở ông còn sống, Trầm Chu Hư có rất nhiều kẻ thù, Lục Tiệm sắp đặt bọn kiếp nô âm thầm canh gác, cảnh giới, bảo đảm an toàn từ giấc trưa đến tối khuya, không xảy ra sự cố gì. Số đông chúng đệ tử Thiên Bộ lục tục kéo đến, đều được Yến Vị Quy tiếp đón, hướng dẫn vào bái kiến Lục Tiệm. Chúng đệ tử đều hiểu bốn luật về thiên kiếp, biết rõ điều luật số bốn "Hữu vô ", chúng thấy Lục Tiệm đã thu phục được đủ sáu đại kiếp nô, gã rõ ràng là con đẻ của Trầm Chu Hư chẳng sai, rồi lại biết gã là truyền nhân của Kim Cương môn, mình mang tuyệt nghệ thần thông, gã làm Bộ chủ, không ai dám dị nghị gì.
Dẫu trong lòng Lục Tiệm không muốn làm Bộ chủ, nhưng theo lời bàn của Mạc Ất, trước mắt, Trầm Chu Hư vừa qua đời, môn hạ Thiên Bộ số lượng đông đảo, không có người làm chủ tất sẽ không xong. Nếu Lục Tiệm không khứng nhận làm Bộ chủ, thể nào đám môn hạ cũng sẽ giở trò đấu đá lẫn nhau để đoạt chức đó, sẽ gây tử thương không ít. Bất đắc dĩ mà Lục Tiệm phải đứng ra đảm nhiệm chức vụ đó, gã cố chường mặt mo ra cho đám đệ tử Thiên Bộ đến bái kiến, thâm tâm chỉ răm rắp trông cho mau qua cơn sóng gió này, gã sẽ sớm tìm cách lập Bộ chủ khác.
Mạc Ất thay Lục Tiệm trù liệu, chỉ cho những đệ tử mang đai kim ngân hàng nhị phẩm được ở lại trang cư tang, còn các đệ tử kia thì điều động đi truyền báo tin tức về cái chết cũng như người kế thừa của Trầm Chu Hư.
Vào lúc hạ huyệt, chợt có một tên đệ tử đến báo tin thư phòng bị trộm đột nhập. Lục Tiệm đến thư phòng, thấy mật thất đã bị phá mở toang hoang, cái hốc bí mật cũng bị mở bung ra, sổ sách vất bừa bãi trên khắp sàn nhà. Mạc Tiếu kiểm soát kỹ lưỡng, thấy không mất quyển nào, danh sách môn đệ cũng không bị động chạm tới, gã bèn bảo, thật nguy hiểm, còn may mà hôm qua Bộ chủ đã đốt đi các ghi chép của lão chủ nhân. Gã liền lập tức triệu tập chúng đệ tử, mở cuộc điều tra truy tầm kẻ trộm. Một tên đệ tử đeo đai bạc thưa: "Tiểu nhân đang tuần phòng mé nam, nghe tiếng động trên đầu, ngửng trông thì thấy một thân ảnh vượt tường chạy trốn, tiểu nhân đuổi một quãng, nhưng không theo kịp, nhìn hình dạng thì dường như là một nữ tử". "Nữ tử?", Mạc Ất bất giác chau mày, Lục Tiệm cũng dựa theo lời khai, đoán được đôi ba phần, nghĩ đến thân hình yểu điệu của nữ nhân, chợt tâm tư gã bị khuấy động một chút, gã suy nghĩ một chặp, rồi nói: "Chuyện xảy ra như vậy rồi, thôi đừng truy cứu nữa làm gì. Cái quyển sổ danh sách, bây giờ ta tạm giữ lấy", ròi gã quay sang hỏi Mạc Ất: "Trầm tiên sinh cũng là một thủ lĩnh Tây Thành, sao lúc ông ấy mất, chẳng thấy người các bộ của Tây Thành đến phúng điếu?"
Mạc Ất đáp: "Lão chủ nhân là tâm phúc của Vạn Thành chủ, ngoài Thiên Bộ, các bộ kia đều thù và sợ Vạn Thành chủ, tất cũng chẳng ưa gì lão chủ nhân. Chuyện họ không đến phúng điếu, cũng đã có đoán trước được rồi". Nói đến đấy, có một đệ tử vào chắp tay thi lễ, rồi thưa: "Có một người xưng tên Ngư Truyện, nói là có việc quan trọng cần thông báo Bộ chủ". Đang lúc gã lo lắng cho Cốc Chẩn, Lục Tiệm nghe thế, vui mừng khôn xiết, chạy ào ra đàng nhà trước. Gã nhìn thấy một người mặc áo xám đứng đấy, chính là Ngư Truyện. Hai người chắp tay chào nhau xong, Lục Tiệm liền hỏi: "Ngư huynh, huynh có tin tức gì của Cốc Chẩn không?" Ngư Truyền đáp: "Tiểu nạp đến đây chính là do Cốc gia nhờ cậy, mời ông đi cùng ta vào thành gặp y." Lục Tiệm gật đầu đồng ý, phân phối mọi việc trong trang cho Mạc Ất xử lý, rồi gã theo Ngư Truyền nhập thành. Vào đến thành Nam Kinh, trời đã khuya, đường phố vắng tanh, không mấy bộ hành qua lại. Ngư Truyện dẫn Lục Tiệm đi quanh co qua bảy tám ngã tư, vào đến một đường hẻm con con, thấy một tửu quán nhỏ còn mở cửa, dưới ánh đèn thấp thoáng có bóng người đang ngồi uống rượu say sưa bên trong.
Chỉ thấy Cốc Chẩn khăn đội đầu nghiêng lệch, vắt xuống ngang trường bào, trước mặt là bảy tám nậm rượu, mình xiêu xiêu vẹo vẹo như mèo ướt, đang nốc rượu hết bát nọ đến bát kia.
Từ xa, nhác thấy y như vậy, Lục Tiệm vốn câu nệ lễ tiết, gã hơi nực trong lòng, đứng ngẩn người một lúc, nhìn lại thì Ngư Truyện đã sớm biến mất tự hồi nào. Lục Tiệm buông một tiếng thở dài, tiến đến ngồi nơi trước mặt Cốc Chẩn. Nhìn thấy gã, Cốc Chẩn trợn mắt, hé miệng cười nhăn nhó, rót ra một bát rượu, đưa cho Lục Tiệm, cười cười: "Ngươi đã đến rồi đấy ư? Ngồi xuống đây tiếp ta vài chén rượu!"
Lục Tiệm nâng bát lên uống, rượu vưà vào đến miệng, hơi rượu đã xông nức lên, trong lòng Lục Tiệm chợt quặn lên, bảo: "Cốc Chẩn, đừng uống nữa, ngươi say quá rồi"
Cốc Chẩn cười ha hả, đáp: "Đủ rồi! Tối nay, lão tử phải uống cho tan tành cái kinh thành Nam Kinh này!" Rồi y lườm Lục Tiệm một cái, giọng lè nhè: "Ngươi đừng có mà khuyên bảo ta, đừng có mà ngăn cản ta, ta đi tè cho một phát, là cuốn sạch tiêu tan đi mấy cái lời khuyên can của ngươi luôn á!"
Lục Tiệm bất giác trầm ngâm. Cốc Chẩn uống cạn bát rượu xong, ngẩng đầu nhìn vầng trăng vừa mọc đàng đông, dáng cong cong như móc câu, đang vén mây mù hiện ra lửng lơ giữa trời, man mác một nét thê lương lạnh lẽo.
"Còn sống nhăn thật ra cũng sướng!". Cốc Chẩn chép miệng, say sưa nói: "Ngươi trông kia, vầng trăng cong cong ở đấy, mây trôi bềnh bồng trên ấy, gió nhẹ lành lạnh đấy, rượu nồng nàn đây, nếu chết đi, làm sao mà cảm được những cái đó, thành ra, còn sống sót đuợc là tốt lắm đa. ngươi nhăn mặt nhíu mày làm gì
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan
(TươngTiến Tửu - thơ Lý Bạch)
Nhưng có khi gia gia ta đã không hiểu lẽ đó! Ông suốt đời cực nhọc, cứ mải miết đi kiếm chuyện, mua dây buộc mình, mua tội nợ, rước vào mình toàn mệt với mỏi, ông biết rõ lão Trầm què bầy mưu tính kế hại ông, vậy mà còn đem dâng sinh mạng cho nó! Ngươi nói thử xem ông ấy khờ hay không khờ? Ui chao ... nhìn cái bản mặt ngươi kìa, ta đây còn chưa khóc, sao ngươi lại khóc? Rồi lại còn cô ả cầm cá khờ khạo kia nữa kia, cô ả cứ suốt đời đeo con bà nó cái nhọc mệt (Ta đang nói về Diệu Diệu cuả ta đấy!). Nhìn xem tất thảy những chuyện đã qua kia, người bị đánh đập là ta, người bị chửi rủa là ta thì đã sao, ta đây đều chẳng thèm kể số, việc gì đến ả ta mà lại đi băn khoăn hộ? Nhìn lại mấy chuyện đời đã qua đó, cũng giống như ních rượu vô cho đầy một bụng, rồi tè một phát là xong hết cả, ngươi thấy đúng hay không đúng nào? Nếu nếu chỉ uống rồi mà không tè nó ra, chết ngắc sao? Còn nhỏ Bình nhi nữa! Nó đúng là thật ngốc, nó say mê ta, ta cũng biết , nó làm gì mà cứ như phát điên phát cuồng lên ấy, còn nhỏ xí, mà đã cuồng cuồng điên điên vậy, mai mốt ai thèm ghé mắt tới nó? Nó cứ muốn lằng nhằng theo ta cả đời, lần này xem chừng nhỏ đó đã được như nguyện uớc rồi! Bất kể nói gì, cứ còn sống là tốt thôi, còn được nhìn ánh trăng trên trời, còn được nốc rượu ngon, còn có gió này, thổi mát mẻ làm sao đâu, cứ còn sống là được rồi. Đại ca, đại ca thấy có phải thế không?"
Gã nói đến đấy, đặt chén rượu xuống bàn, đưa tay nhẹ giụi mắt, khi gã bỏ tay ra, đôi tròng mắt mang màu đỏ ửng. Lòng Lục Tiệm xót xa, không biết phát tiết vào đâu, bèn đưa tay áo chùi giọt lệ nơi đuôi kẽ mắt, nâng chén rượu lên, buồn bã nhắp xuống từng ngụm lớn.
Rồi hai người lặng yên, chú một chén, anh một chén, uống mãi cho đến canh tư, tiếng mõ cầm canh khua lốc cốc, Cốc Chẩn nâng chén lên định uống, chợt chén rượu nghiêng sang một bên, rồi rơi thốc xuống mặt bàn. Gã đã say quá lắm rồi!
Lục Tiệm thở dài, gọi tính tiền, xốc Cốc Chẩn lên lưng, lẩm nhẩm: "Thương Ba hạng!" (Ngõ hẻm Thương Ba), rồi giống như người men theo mấy bậc thang đẽo vào đá để xuống núi, gã lần mò đi hết con hẻm ra đến đường phố lớn.
Con phố dài trước mặt vắng lạnh, ánh trăng âm thầm, một toán tuần canh in bóng hình mờ mờ đen đen, tiếng mõ cầm canh từ nơi đầu vọng gác tường thành xa xa theo làn gió vọng đến, vọng đến. Vài gã bợm rượu say khướt bá vai bá cổ nhau, giậm chân vừa đi vừa ca hát, tiếng ca đứt đoạn, nghe chẳng rõ tiếng nào vào tiếng nào. Tiếng mõ cầm canh từ xa vọng lại, rồi dần dà loang đi, trên con phố dài, lại cảm giác hoang vắng, dù đây là nơi kinh thành nhiều nhà nhiều cửa, Lục Tiệm dường như đang dấn bước nơi vùng hoang dã ngoài xa xa kia, gã cảm thấy cô độc tịch liêu, có phần thê lương.
"Gia gia... " từ trên lưng, Cốc Chẩn chợt lè nhè: "Gia gia chẳng chịu ta, má má cũng chẳng chịu ta, Diệu Diệu cũng chẳng chịu ta, sư phụ ... sư phụ lại là đại cừu nhân, đại ca, ta chẳng còn có ai hết, ta chỉ còn có mình đại ca thôi!". Nghe y nói dứt câu đó, đầu vai Lục Tiệm chợt thấy ươn ướt, thấm dần vào thân cái lành lạnh của những giọt nước mắt, vụt một cái, Lục Tiệm cảm giác khoé mắt cay xè, lúc đi đến cuối đường, nước mắt y đã không ngừng chảy xuống ròng ròng.
Về đến ngõ "Thương Ba", Lục Tiệm đập mạnh thanh gõ cửa, Ngư Truyện bước ra, đưa hai người vào phòng trong. Lục Tiệm xin một bát thang nóng cho Cốc Chẩn, rửa mày mặt, thay quần áo sạch sẽ, rồi đặt gã nằm xuống giường, lại sợ gã ban đêm thức giấc ói mửa, bèn xin Ngư Truyện cho kê thêm một cái chõng nhỏ bên cạnh giường, LụcTiệm cũngnhắm mắt tìm giấc ngủ.
Ngủ được một giấc, chợt có ai lay động vào thân mình, Lục Tiệm nhỏm ngồi lên, thấy Cốc Chẩn đang tỉnh táo ngồi cạnh giường, đôi mắt sáng như sao, thấp thoáng nét cười.
Lục Tiệm hỏi: "Sao ngươi thức dậy làm gì?". Cốc Chẩn cười cười, "Cũng đã đánh được một giấc rồi!", gã đứng dậy đi ra mở hai cánh cửa sổ, bên ngoài tiếng chim ríu rít, lá trúc xanh mướt, đâm tua tủa như những ngọn tên hằn lên nền trời mây trắng, cảnh sắc nom ngoạn mục, gây thoải mái trong lòng.
Lục Tiệm cũng bước đến kề vai đứng tại song cửa. Ánh mắt chuyển từ mấy ngọn trúc lên khoảng không trên cao, Lục Tiệm chợt nói: "Cốc Chẩn, ta xin lỗi ... " Cốc Chẩn ngạc nhiên hỏi lại: "Xin lỗi cái gì?". Lục Tiệm nói, bất kể ra sao, Trầm Chu Hư cũng là cha ruột sinh ra ta, ông ấy hại chết Cốc đảo vương, ta . . .
Cốc Chẩn khoát tay, cười rằng: "Ta uống một trận thật say, chuyện cũ đều quên ráo cả rồi. Lúc ban sơ có đau lòng thật đấy, nhưng nghĩ cho kỹ, người còn sống ở lại không nên để người đã chết theo đuổi làm mình mỏi mệt, đừng để cho chuyện ngày qua đến làm hư hỏng đi ngày hôm nay. Đời người, trăm năm, rồi trăm năm nữa, người sống ngày hôm nay có còn sống đến lúc ấy không?"
Thấy y thông thoáng như vậy, Lục Tiệm có hơi bị bất ngờ, im lặng hồi lâu, rồi hỏi: "Ngươi thật sự không tính đến chuyện trả thù cho cha ngươi ư?". Cốc Chẩn đáp: "Trầm Chu Hư đã chết rồi, ta báo thù vào đâu bây giờ? Trừ phi, đời bố đi vay, đời con trả nợ!"
Chương 51 Đoạt trâm
Lục Tiệm nghe vậy, máu nóng hừng hực bốc lên đầu, gã hét lớn: "Thì đây! Ngươi cứ thẳng tay mà trả thù đi, cho hả giận!" Cốc Chẩn liếc gã, chợt vung tay đập một phát không nặng không nhẹ vào đầu vai Lục Tiệm, cười cười: "Đó, nợ của ông bố, thằng con đã trả xong rồi đó, hai ta bây giờ xí xoá!".
Lục Tiệm ngơ ngác: "Chỉ đánh một cái như vậy là xong hả? " Cốc Chẩn cười hô hố, cười một chặp đã đời, rồi đưa tay nắm chặt bàn tay Lục Tiệm, thu nét cười lại, thong thả nói: "Lục Tiệm, nói thiệt tình, ta cũng chẳng biết mình muốn gì nữa, chỉ mong được suốt đời này làm một đôi huynh đệ gắn bó cùng ngươi!"
Ánh mắt Lục Tiệm chạm vào ánh mắt y, trong lòng gã chợt vừa ngọt ngào, vừa râm ran, không tự chủ được, đầu gã gật gù, miệng ôn tồn bảo: "Ta với ngươi xưa nay vốn đã là huynh đệ rồi, cả cuộc đời này, quyết không thay đổi!"
Cốc Chẩn mỉm cười, bảo: "Tính ta vốn rất tham lam, không những đời này, mà đời sau, đầu thai trở lại, ta cũng sẽ đi kiếm ngươi kết làm huynh đệ nữa kia!" Hoả khí bốc bừng bừng lên đầu, Lục Tiệm la lớn: "Đúng lắm, kiếp sau mình lại kết huynh đệ nữa!" Gã la xong, hai người, bốn mắt nhìn nhau, cùng cười ầm!
Xong trận cười thoả thuê, Lục Tiệm vụt nhớ ra, bèn thò tay lôi từ trong bọc ra tờ giấy mà gã đã xé khỏi quyển sổ tay ghi chú, đưa cho Cốc Chẩn. Cốc Chẩn xem xong, bảo gã: "Cái này lôi ở đâu ra vậy?". Lục Tiệm bèn thuật lại đầu đuôi. Cốc Chẩn bèn hỏi: "Ý ngươi ra sao?". Lục Tiệm đáp: "Ta nghi, từ đầu đến cuối, toàn là âm mưu sắp đặt của Địch Hy cấu kết với Bạch Tương Dao"
Cốc Chẩn nhẹ lắc đầu, bảo: "Còn nghi cái gì nữa, sự thật đúng là vậy! Sau cái chết của Bạch Tương Dao, ở ThiênTrụ Sơn, cha ta triệu tập đảo chúng, chỉ vắng mặt có hai người. một là Diệu Diệu, người kia là Địch Hy. Diệu Diệu gửi ta một mẩu nhắn tin nhỏ, bảo là cô ấy không còn mặt mũi nào nhìn ta nữa, Địch Hy lại bỏ đi không một lời từ biệt.Ta đoán y hay tin Bạch Tương Dao chết, y sợ Bạch Tương Dao đã khai ra toàn bộ việc ác của họ, bỏ trốn là thượng sách. Giờ đây nghĩ lại, cái người bịt mặt xuất hiện trên lầu thành Nam Kinh nhất định là y, người hạ chiến thư tại căn nhà nông dân cũng chính là y, Nhưng hồi đó, y không giết phứt ta đi, ngày nay chắc y hối hận dữ lắm!"
Lục Tiệm bực tức bảo: "Người đó gian ác quá chừng, hắn lại còn định phi lễ với Thi cô nương nữa kia". Rồi gã đem đầu đuôi sự việc trên Thiên Trụ sơn, Địch Hy đã thi triển thủ đoạn nơi Thi Diệu Diệu ra sao, nhất nhất thuật lại.
Cốc Chẩn cười nhạt mà rằng: "Cái thằng Cửu Biến long vương đó, ra bộ thanh cao, nhưng bộ mặt thực của y là sự tự phụ, tự kiêu. Y tự cho mình vô địch, y tham lam cùng cực, không những chỉ muốn hơn ta về võ công, mà còn muốn hơn ta về mưu trí, thắng ta trên tình trường, thắng ta khắp mọi mặt, y mới cam lòng. Nhưng nếu y mà đã không mắc phải cái khuyết điểm tham lam, ham muốn đó, sợ rằng ta đã chẳng còn được toàn mạng sống đến ngày hôm nay!"
Lục Tiệm bảo: "Giờ y đã để lòi bộ mặt nội gián, thể nào cũng phải truy nã y, bắt về xử theo luật." Cốc Chẩn đáp: "Cha ta có bận đã phái Hiệp Lão Phạm cùng Minh Di cùng hợp sức truy nã hắn, nhưng vì ngón thân pháp Độn của hắn độc bộ thiên hạ, khi đánh không lại thì bỏ chạy, hắn đã luyện đến mức siêu đẳng, Các môn Kình Tức, Sa Thứ dẫu cao cường, cũng đã chưa làm gì được hắn". Nói đến ngang đấy, Cốc Chẩn chợt khoa tay, hỏi: "Thôi không nói chuyện đó nữa! Lục Tiệm này, lão Trầm Què có đưa cho ngươi một cây trâm bạch ngọc, phải không?"
Lục Tiệm đáp: "Ừ, có đây", vừa nói, vừa đưa cây trâm ra. Cốc Chẩn bảo: "Cho ta xem chút", được Lục Tiệm giúi vào tay, Cốc Chẩn bèn giơ lên săm soi xem thật kỹ qua ánh nắng, rồi y chợt quay mình chìa lưng vào Lục Tiệm, rồi quày trở lại đối diện với gã, đưa cây trâm ngọc trả lại Lục Tiệm. Lục Tiệm thắc mắc: "Ngươi làm trò gì thế?"
Cốc Chẩn cười cười: "Để tránh bất trắc!". Lục Tiệm hãy còn hoang mang, nhận lại cây trâm, cất kỹ vào trong bọc, rồi hỏi: "Bình Nhi cô nương lúc này ra sao?" Cốc Chẩn đáp: "Nó vẫn đang ở tại chỗ tịch viện đó, ta có thuê một bà nhũ mẫu đến chăm sóc, trông coi nó" Ánh mắt hơi rầu rĩ, Cốc Chẩn trầm ngâm một lúc, rồi chợt bảo: "Lục Tiệm, còn một chuyện rát quan trọng này nữa, rắc rối ghê gớm!"
Lục Tiệm hỏi: "Chuyện gì vậy?" Cốc Chẩn buồn rầu: "Ta đã đụng phải địch thủ cao cường rồi." Lục Tiệm thắc mắc: "Về võ công hả?" Cốc Chẩn thoáng cười, đáp: "Cái võ công ba món mèo quào của ta, khắp thiên hạ, đụng ai cũng đều là địch thủ ráo trọi! Kẻ đối đầu này, là địch thủ trong thương trường!". Lục Tiệm "Ủa" một tiếng, vô cùng ngạc nhiên.
Cốc Chẩn nói: "Có khi ngươi đã gặp hắn ta vào hồi cứu đói ở Giang Nam rồi không chừng?". Lục Tiệm vụt rúng động trong đầu, la lên: "Chính là cái việc mà ta đang định đem ra hỏi ý ngươi, ngươi lắm mưu nhiều kế, có khi nghĩ giúp được cho ta cách giải quyết?"
"Đấy chính là cái đối thủ đang nhắm vào ta đó!", Cốc Chẩn nói, "Cách đây không lâu, ta nảy ý định thu mua lương thực ở các tỉnh vùng xa, cho chuyển vận qua ngả đông nam, nhưng ta đã đụng ngay phải hai cái khó khăn". Lục Tiệm hỏi :"Khó khăn gì vậy?" Cốc Chẩn thở dài, đáp: "Cái khó thứ nhất là không mua được lương thực! Cái khó thứ nhì là dù có mua được đi nữa, cũng không cách nào chuyển vận!"
Lục Tiệm giật mình hỏi ngay: "Sao lại không mua được, chẳng lẽ các tỉnh vùng xa đó cũng bị thiên tai hay sao?"
"Không phải vậy!", Cốc Chẩn lắc đầu đáp, "Năm ngoái mưa thuận gió hoà, Sơn Đông, Hồ Quảng, An Huy, Tứ Xuyên trúng mùa lúa, tất cả mùa màng đều thu hoạch tốt. Đem lúa gạo từ các chỗ ấy về cứu đói ở đây, lẽ ra không khó, thế nhưng chẳng hiểu tại sao, từ mùa thu năm rồi, đã bí mật nảy sinh một đại thế lực giàu tiền lắm bạc, đã ngầm thu mua hết các lúa gạo thặng dư ở các nơi đó, không những làm giá gạo tăng vọt, mà bây giờ có tiền cũng không có gạo để mua. Hồi đó, ta đương bị giam dưới Cửu U tuyệt ngục, đâu có hay biết chút nào, khi thoát tù ngục rồi, lúc ta kiểm tra tình hình buôn bán ở các địa phương, ta thấy có hơi lạ, nhưng vì cho rằng đấy là mánh lới bọn gian thương đầu cơ tích trữ, nên ta đã không để ý theo dõi nhiều. Nhưng đến nay, lúc ta muốn mua lương thực cứu đói, vừa rồi đã phát hiện là tại các chỗ thặng dư lúa gạo ấy, kho đụn giờ đều trống rỗng, chẳng còn gì để bán nữa!"
Lục Tiệm suy nghĩ một lúc, rồi bảo :"Thóc giống nhà nông thường hay dự trữ cho vụ sau, sao ngươi không trả giá cao, giá hời thì chắc mua được cả thôi!"
Cốc Chẩn than thở: "Lúc đầu ta cũng nghĩ vậy, nhưng khi xem xét kỹ vấn đề, chợt nhận ra một cái bất ổn lớn kinh khủng! Giả thử ta nâng cao giá thu mua, chính là lọt ngay vào gian kế đối phương! Lúc đó, không những làm cho tình hình vùng đông nam trở nên nguy cấp, gây rối loạn thị trường, mà còn có thể đưa đến thiên hạ đại loạn."
Nhìn vẻ hoang mang của Lục Tiệm, Cốc Chẩn bèn hỏi: "Ngươi thử nghĩ xem, khi bọn họ tích trữ lương thực như vậy, họ nhắm vào cái gì?". Lục Tiệm đáp: "Đầu cơ tích trữ, tăng giá thóc gạo, thu lợi nhuận cao!"
"Chẳng phải vậy đâu!", Cốc Chẩn lắc đầu, chậm rãi giải thích: "Mục tiêu của bọn họ, chính là gây rối loạn thiên hạ nhà Đại Minh, hòng lật đổ triều Đại Minh!"
Thấy Lục Tiệm thần sắc kinh nghi, Cốc Chẩn bèn lấy trải lên bàn một tấm bản đồ, đưa ngón tay chỉ và giải thích: "Hồ Quảng được mùa, thiên hạ sẽ no ấm. Các tỉnh miệt đông nam, đây là vựa thóc của thiên hạ, từng lừng danh từ xa xưa. Xem đến các vùng Tô, Chiết, Mân, Cống, hai miền Mân Việt và U Việt, đều đang bị hoạ oa khấu sách nhiễu, liên tiếp mấy năm mất mùa, người dân thiếu đói, lương thực cạn kiệt. Trước tình cảnh đó, tốt nhất là đem thóc gạo từ Hồ Quảng đến cứu đói! Nhưng sau khi đã thu mua sạch thóc gạo ở Hồ Quảng rồi, đối phương còn chưa vừa lòng, còn cho nâng giá lúa, đi vơ vét thóc giống nhà nông. Ta mà muốn mua thóc gạo đó, phải chịu trả giá cao hơn giá của bọn chúng. Ta vừa thoát nạn tù ngục, trước mắt các cơ sở làm ăn buôn bán chỉ còn có buôn bán muối ở Dương Châu. buôn trà ở Huy Châu, buôn hàng tơ lụa cùng là đồ lậu của thương nhân đường biển. Chưa nói đến chuyện các cơ sở đó có chịu hết lòng xuất lực hay không, cho dù họ chịu xuất lực, chỉ cần đối phương cứ tiếp tục nâng cao giá thu mua lương thực, cho dù ta trong tay có bao nhiêu ngân lượng, về đường dài ta tất sẽ bị khánh tận".
Lục Tiệm bảo: "Cho dù bị khánh tận , mình cũng không có cách nào khác! Mạng người vẫn quan trọng hơn tiền bạc!"
"Cho dù ta chịu tán gia bại sản đi chăng nữa,. cũng chưa chắc xoay được cục diện". Cốc Chẩn nhăn nhó, gượng cười: "Chưa kể đối phương còn thông đồng với lũ đạo tặc Giang Tây, phong toả các bến bãi đường thuỷ, dù ta có mua được lương thực ở Hồ Quảng, cũng không có cách nào vận chuyển vào vùng đông nam. Mà đối phương thấy ta cạnh tranh giá thóc, thể nào cũng sẽ ra lệnh cho đàn em ở Hồ Quảng đẩy giá mua lên cao hơn nữa, nhà nông hám lợi sẽ tối mắt đem hết thóc giống ra đổi lấy bạc trắng về chất đầy trong nhà! Họ đâu biết rằng, khi hết thóc gạo, chẳng thể đem ngân lượng ra mà gậm mà ăn cho khỏi chết đói. Đến khi bao nhiêu thóc giống đã đem bán hết sạch cả rồi, nhất định là nạn thiếu đói sẽ xảy ra sau đó không lâu! Chẳng riêng Hồ Quảng, các tỉnh như Huy Châu, Sơn Đông, Tứ Xuyên ... một loạt các tỉnh đó đều sẽ cùng chung số phận, Nói trước mà xem, đối phương sẽ đưa tất cả các tỉnh ấy đến một nạn thiếu đói khủng khiếp, lương thực toàn thiên hạ cạn kiệt, bá tánh sẽ không còn gì để nhét vào bụng nữa!"
Lục Tiệm kinh nghi cả buổi, rồi nói: "Nói như vậy, không bỏ tiền ra mua thóc gạo, dân đông nam sẽ bị đói khổ, mà đi mua thóc gạo, toàn thiên hạ sẽ bị nạn chết đói. Nghĩ cho cùng, thật không có gì ác độc, lợi hại hơn cái âm mưu này!"
Cốc Chẩn sắc mặt trầm trầm, lạnh lùng nói: "Cái âm mưu này, đem hư lộng thành thật, đem từ chỗ KHÔNG chuyển thành CÓ, tâm cơ sâu sắc, kín đáo liền lạc không một chỗ hở, ta nghĩ tới nghĩ lui, khắp thiên hạ thời nay, chỉ duy nhất một người có thể nghĩ ra được!"
Lục Tiệm đầu óc xoay chuyển, tức thì mặt mày trắng bệch, lạc giọng la lên: "Vạn Quy Tàng!"
Trong một lúc lâu, hai người trầm lặng, suy tư. Rồi Lục Tiệm hỏi, đầy ngờ vực: "Ngươi chẳng phải là truyền nhân của hắn ta à? Sao chưa bao giờ thấy hắn đem bàn bạc cùng ngươi?"
Cốc Chẩn than dài: "Vạn Quy Tàng là thế nào, ta lại do chính tay hắn dạy dỗ, chẳng lẽ hắn còn không rành biết con người ta sao? Hắn biết rõ mười mươi, ta tuy giỏi buôn bán làm ăn trên thương trường, nhưng chẳng phải hạng người bất chấp đạo nghĩa. Cho nên hắn đã không thèm dùng đến ta, đã qua mặt ta, cho triệu hồi Tây Tài Thần trở về lại Trung nguyên."
"Tây Tài Thần?" Lục Tiệm sửng sốt hỏi.
Cốc Chẩn đáp: "Còn một việc này, ta chưa nói cho ngươi rõ. Làm thủ hạ Tài Thần cho thằng già dịch không phải chỉ có một mình ta đâu. Từ núi Côn Lôn về phía đông do ta cai quản, vùng phía tây Côn Lôn có người khác lo. Nếu ta đoán không lầm, tổ chức thu mua lương thực khắp nơi nhất định không ai ngoài mụ bà nương Tây Tài Thần đó!"
"Lạ nhỉ!". Lục Tiệm chau mày, hỏi: "Vạn Quy Tàng quấy nhộn khắp thiên hạ, để làm gì kia?"
Cốc Chẩn cười nụ, giải thích: "Hồi đầu, ta cũng rất mù mờ, nhưng bây giờ ta đã đoán ra được gần trúng rồi. Ngươi cứ nghĩ kỹ mà xem, hắn võ công đệ nhất thiên hạ, giàu có vào hàng địch quốc, vây cái hắn vẫn chưa nắm trong tay là cái gì?"
Lục Tiệm suy nghĩ hồì lâu, lắc đầu, nói: "Ta nghĩ không ra!"
Cốc Chẩn tủm tỉm cười, nói dằn từng tiếng một: "Cái mà hắn chưa có, chỉ độc nhất một thứ thôi, ấy là quyền thế vô song thiên hạ!"
"Quyền thế?" Lục Tiệm rúng động trong lòng, "Vậy hắn ta muốn làm Hoàng đế à?"
Cốc Chẩn thở ra: "Thằng già dịch vốn là kẻ cường mãnh không khứng chịu sống kiếp sống thầm lặng, do độc nhất chỉ bị cấm chế bởi cái thiên kiếp mà hắn đã bất đắc dĩ phải sống ẩn dật, nay đã thoát khỏi ức chế đó, bắt hắn ngồi yên bất động, thà giết hắn đi còn hơn! Đã chẳng còn bị bó buộc ngồi yên nữa, tội gì hắn chẳng đi quậy thiên hạ? Sẵn hoàng đế đương thời là hôn quân, sẵn triều đình bị gian thần lũng đoạn quyền hành, nếu gây ra nạn thiếu đói trong dân gian, thể nào dân đen cũng vùng lên, gây loạn lạc khắp nơi. Chờ đến lúc thiên hạ đại loạn đó, người người nháo nhương, lại có câu , dân dĩ thực vi thiên (cái ăn là nỗi lo hàng đầu của nhân dân), Vạn Quy Tàng trong tay tích trữ lượng lương thực khổng lồ, nếu hắn chẳng đích thân ra mặt, thì cũng sẽ có đứa đứng ra thay hắn làm con rối đóng trò cho hắn. Xem như vậy, nếu hắn có thể đứng lên cầm đầu cả thiên hạ, thì hắn còn đi làm chủ mấy cái Đông Đảo, Tây Thành bé tí ti đó làm quái gì cho mất công! Võ công cao cường mấy đi nữa, nhân số vài trăm mống, địch sao lại trăm ngàn, trăm vạn đại quân? Lúc đó, kẻ thù nào muốn đến tính sổ với hắn, sợ chẳng còn làm ăn gì được, chưa kể một khi hắn đã thành công trong việc tự giải thoát khỏi cấm chế của thiên kiếp, e rằng không có ai có thể đơn đả độc đấu được với hắn!"
Lục Tiệm nghĩ tới chuyện chính gã đã tự tay giúp rập Vạn Quy Tàng, mặt gã chợt bị nộ khí bốc lên làm đỏ ửng đến tận mang tai, gã tức giận lồng lộn một hồi lâu, rồi đưa tay đập mạnh vào thành cửa sổ, cất tiếng la lớn: "Hắn nói cái gì mà Vô thân, vô tư, vô tình , ăn nói lớn lối, rốt cục cái Vô tư đó sự thực chỉ là tự đánh trống, tự thổi kèn, tự cổ xuý cho mình!"
"Đâu cần gì phải thế!", Cốc Chẩn nhếch mép cười nụ, bảo: "Lão già dịch văn thao vũ lược, lắm mưu nhiều kế, tài giỏi gấp trăm lần cái thằng già Gia Tĩnh, để hắn lên làm hoàng đế, chưa chắc đã không phải điềm lành cho bá tánh, coi như vậy, thì hắn nói Vô Tư vì dân , xem ra cũng có phần đúng! Mặc dầu cái thủ đoạn tranh thiên hạ có phần ti tiện đáng khinh đáng ghét, nhưng giở lại lịch sử mà coi, mỗi lần thay đổi triều đại, ngoại trừ Tống Thái Tổ được khoác hoàng bào đưa lên ngôi, còn thì toàn là đánh nhau đến máu chảy thành sông, đến xương trắng phơi đầy đồng, toàn là dùng loạn lạc để trị dân, hết chiến lại hoà, tất cả đều được khoác cái vỏ Thiên Đạo! Người dân vốn chỉ ham muốn được sống thái bình, sống an cư, cứ đem chiến loạn đưa bá tánh đến chỗ cực kỳ tuyệt vọng, thì ai mà chẳng ủng hộ một sự thay đổi triều đại!"
Lục Tiệm nghe gã thuyết trái tai, nhíu mày, trợn mắt bảo: "Ngươi lại còn đi tán giúp thêm cho cái thuyết đó của Vạn Quy Tàng!"
Cốc Chẩn nhăn nhó cười , đáp: "Mấy cái ta nói đó, đúng là như vậy! Ta là do thằng già dịch đào tạo nên, tâm tư hắn thế nào, ta cũng ít nhiều nắm được, về võ công mà nói, ta thua xa một trời một vực, nhưng về mánh lới buôn bán làm ăn, kinh doanh tứ xứ, ta với lão coi như ngang ngửa! Ngươi đừng quên, ta chẳng phải là đệ tử duy nhất của hắn, còn có Trầm Chu Hư là một, rồi mụ bà nương Tây Tài Thần kia nữa, ba ta đúng là một mớ bòng bong cho hắn, vì tính tình ba chúng ta hoàn toàn chẳng giống nhau, thằng già dịch coi vậy mà cũng có tài trong nghề dạy dỗ, với đứa đệ tử nào, hắn cũng đều có cách đào tạo thích ứng, thật chẳng hổ danh hai chữ Quy Tàng tên hắn!"
Lục Tiệm nghe Cốc Chẩn thuyết mà choáng váng, hắn suy tính: "Bất kể nói gì thì nói, nếu để cho Vạn Quy Tàng đạt được mục đích, không biết con số dân lành tử nạn sẽ nhiều tới đâu cho cùng!"
Thấy y ngẩn người suy tư, Cốc Chẩn chợt cười rinh rích: "Ta quảng cáo lão già dịch lợi hại quá xá chừng, sao thấy ngươi chẳng sợ sệt chút nào vậy?"
"Sợ quái gì hắn!" Lục Tiệm lắc đầu, giọng cả quyết; "m mưu của hắn, ta phải chống đến cùng!"
Cốc Chẩn suy nghĩ một lúc, chợt hai tay vỗ nhẹ vào nhau, thở ra: "Thôi được, ta dù biết trước khó thắng, nhưng cũng sẽ theo ngươi chơi tới cùng!"
Lục Tiệm mừng rỡ, hỏi: "Ngươi đã nghĩ ra được mưu chước gì vậy?"
"Mưu chước thì hiện chưa có", Cốc Chẩn nhăn nhở, "chỉ là tới đâu hay đấy, cứ đi từng bước, bước nào xong thì học tập rút kinh nghiệm tiến thân cho bước sau, nhưng nói cho cùng, không phải là mình tuyệt không có cơ hội thủ thắng!"
Lục Tiệm hỏi: "Cơ hội như thế nào?" Cốc Chẩn đưa chiếc nhẫn Tài Thần ra, cười cười, rồi nói: "Tài Thần chia làm nhiều thứ, nhưng độc nhất chỉ có một cái nhẫn này mà thôi! Kẻ nào nắm giữ nhẫn trong tay, kẻ đó là truyền nhân của thằng già dịch! Năm năm trước đây, Tây Tài Thần từng bại trong tay ta, thể nào trong bụng mụ ta, cũng vẫn còn ghi nhớ trận thua đó, lần này mụ ta về đây, chuyện cũ sẽ lại tái diễn, dù mụ ta muốn hay không, tuỳ theo tình hình, thể nào ta cũng có biện pháp đối chọi lại các chiêu thức của mụ, còn về phần thằng già dịch, chẳng phải là ngươi đã có nói thần công của hắn chưa viên mãn, hắn vẫn hãy còn phải bế quan sao? Vậy trước khi hắn xuất quan, mình hãy chế ngự mụ Tây Tài Thần, có thể nhờ đó hoá giải được một trường đại kiếp, vả lại thời gian hắn bế quan chưa biết dài ngắn thế nào, mình cứ cố sức mình, rồi sau đó coi ý ông trời ra sao!"
Chuyện trò đến ngang đấy, thấy Ngư Truyền vào phòng mời họ đi dùng cơm trưa. Cốc Chẩn lập tức dừng nói, chờ đến khi Ngư Truyền đã đi khỏi, mới nhỏ giọng bảo: "Ngư Truyền và Hồng Thư, đều là gia nhân lâu đời của thằng già dịch, mình có ý đương đầu hắn, ngàn vạn lần không thể để lộ cho hai người đó biết!"
Cơm nước xong, Lục Tiệm hít một hơi thở sâu, khuyên: "Cốc Chẩn, ngươi cũng nên về gặp lại mẹ đi! Ôi ... Bà ấy ...bà ấy lúc nào cũng vẫn luôn thương yêu ngươi, năm đó, bà bó buộc phải xa ngươi, thật tình bà bị hãm vào tình thế bất đắc dĩ, Ngươi là người độ lượng, đừng găng với bà ấy mãi nữa! Ngày nào mà ngươi còn chưa ngỏ lời tha thứ, ngày ấy, bà còn đeo nỗi khắc khoải trong lòng!"
Cốc Chẩn thoáng mỉm cười, ánh mắt nhìn bâng quơ ra ngoài song cửa, đôi mày thưa thớt khẽ cau lại, một lúc thật lâu sau, mới ôn tồn đáp :"Ta không làm thế được!". Lục Tiệm bảo: "Chẳng phải ngươi đã nói, người còn sống chớ nên để kẻ đã quá cố đeo đuổi gây khổ sở cho bản thân, đừng để chuyện ngày hôm qua dằn vặt sang ngày hôm nay! Ngươi từng rộng lượng xí xoá cho kẻ đại cừu nhân là ta đây, sao ngươi lại không thể bỏ qua cho chính mẹ đẻ ra mình cơ chứ?"
Cốc Chẩn không dằn được, cười rộ lên, rồi phán: "Thằng lỏi này hay nhỉ, cứ đeo theo làm thuyết khách cho Thương Thanh Ảnh suốt!"
Lục Tiệm đáp: "Ta tuy ngu ngốc, nhưng cũng còn có con mắt nhận xét, ngươi đối với người ngoài đều rất hết sức khoan dung, duy đối với chính mẹ đẻ của mình thì lại cố chấp, khắt khe ... toàn là tại ngươi đã yêu thương khắng khít với bà ấy quá, tới lúc bị bà ấy bỏ rơi, ngươi đã không thể nào chấp nhận mà tha thứ nổi!"
Cốc Chẩn nhíu mày, đáp: "Ngươi nói sai rồi!"
Lục Tiệm hỏi: "Nếu điều ta nói không đúng, tại sao hồi ấy ngươi bất chấp tất cả, lặn lội về Trung thổ để tìm gặp lại bà?"
Cốc Chẩn bất giác cứng miệng, từng câu, từng chữ Lục Tiệm nêu lên, đã điểm trúng ngay vào nỗi khổ tâm của hắn. Hắn nghĩ lại, mấy năm sau này, tâm tình của hắn đối với bà Thương Thanh Ảnh là cả một trường yêu hận đan chặt vào nhau, rối rắm đến mức không biết đâu là hận, đâu là yêu, yêu tha thiết, hận cùng cực!, Mỗi bận hắn lên tiếng dằn vặt được bà ấy thì ban đầu thấy khoái trá, để rồi sau đó trong lòng lại nhức nhối, đau đớn! Đầu óc hắn lúc nào cũng cố tự bảo mình rằng cái người đã bỏ rơi hai cha con hắn chỉ là một người đàn bà thiếu chính chuyên, vậy mà hắn đã không sao tự thuyết phục được cái lý lẽ đó! Hắn đau lòng ghê gớm, rồi từ đau lòng, đâm ra thống hận. Cái tâm trạng mâu thuẫn đó, cứ dầy vò ám ảnh hắn, chập chờn trong mộng cứ thấy lặp lại hình ảnh đã lâu lắm rồi của mẫu thân, mặt mày rạng rỡ, hớn hở cười vui với hắn như như ngày nào hai mẹ con đã từng cùng nhau chơi đùa trên bãi biển ở Đông Đảo.
Cốc Chẩn trong đầu lùng bùng, chợt vô tâm vô thức đứng lên, bước cả chục bước, đi tới đi lui trong phòng, rồi hắn dừng chân, ngó Lục Tiệm, vẻ bất lực: "Lục Tiệm, mồm miệng ngươi ăn nói càng ngày càng khéo, càng giỏi ... Được rồi, ta nghe lời ngươi, ta sẽ theo ngươi đi gặp bà ấy một phen!"
Vừa nghe câu đó xong, Lục Tiệm biết ngay hắn cuối cùng đã vứt bỏ được mối hận sầu chất chứa bấy lâu trong tim, Lục Tiệm cảm giác cực kỳ vui sướng, ngoác miệng ra khà khà cười mãi. Cốc Chẩn rũ bỏ được cái khối nặng nề u uất trong tâm, hắn dường như vừa thoát ra khỏi một cơn mộng dài, thấy tâm trí nhẹ nhàng, đầu óc thảnh thơi.
Chuyện trò dăm câu nữa, rồi hai người ra đi, xuyên qua vài đường phố ngõ ngách, tai vừa nghe tiếng cười khúc khích của một nữ tử, chân vừa bước qua khung cửa vòm tròn, đã nhìn thấy Cốc Bình Nhi trong tay phe phẩy một cái quạt lụa hình trăng rầm, cô chạy lăng quăng giữa mấy khóm hoa, đang tìm cách dùng cây quạt vụt vào một con bướm lớn cánh mang màu sắc sặc sỡ. Mặt người kiều diễm, muôn hoa tươi thắm, cánh bướm tung tăng, ba thứ đó hài hoà kết hợp tuyệt mỹ, lại càng tăng thêm nét kiều mị rúng động lòng người của nữ tử.
Vừa trông thấy Cốc Chẩn, Cốc Bình Nhi lập tức bỏ rơi con bướm, nhảy phốc vào lòng gã, nũng nịu: "Đêm qua, muội nằm mơ phải một cơn ác mộng!". Cốc Chẩn hỏi: "Mộng mị như thế nào?". Cốc Bình Nhi đáp: "Trong mơ, muội thấy má ma và gia gia, hai người đứng cạnh chỗ cửa tò vò đón gió vào nhà. Muội cất tiếng gọi, gia ga và má má cùng cười với muội, vậy mà khi muội chạy đến, cả hai đều đột ngột biến mất dạng, Muội hoảng quá, khóc ầm lên rồi sực tỉnh giấc!"
Cốc Chẩn trầm ngâm một hồi, rồi dịu giọng nói: "Bình Nhi, để hôm nay ta đưa muội đi gặp một bà a di, vừa đẹp đẽ vừa dịu dàng, thể nào muội cũng sẽ rất ưa thích được bà ấy kể chuyện cho nghe!"
Cốc Bình Nhi trả lời: "Bình Nhi ngoan mà, thích nghe bà mà cũng thích nghe ca ca nữa." Cốc Chẩn tròng mắt chợt ửng hồng, đưa tay nhẹ vuốt tóc cô, khen: "Bình Nhi, muội giỏi lắm. Đời này mà ca ca có làm lỗi gì với muội, nếu ca ca còn được có kiếp sau, bao nhiêu nợ nần vói muội, ca ca đều sẽ hoàn trả lại đầy đủ cho muội!". Cốc Bình Nhi chăm chú nhìn gã, vẻ hoang mang. Cốc Chẩn thấy cô bỡ ngỡ, bèn nắm lấy tay cô, quay sang hỏi Lục Tiệm: "Mình đi chưa nào?"
Cốc Bình Nhi lúc đó mới để ý thấy Lục Tiệm đang đến gần, toét miệng ra cười: "Thúc thúc, thúc đi với mình luôn không?". Tay cô vung cây quạt ra đập vào gò má Lục Tiệm. Lục Tiệm không tránh né, chỉ nhỏ nhẻ mỉm cười với cô. Cốc Bình Nhi quay sang bảo Cốc Chẩn: "Cái vị thúc thúc này trông thì thấy cù lần, vậy mà chơi được lắm, có bị muội chọc phá gì cũng không khi nào nổi nóng với muội hết!"
Cốc Chẩn chẳng ngăn được nụ cười, nghĩ bụng: "Lục Tiệm này, thân làm truyền nhân Kim Cương môn, lại làm chủ bộ Thiên Bộ, vậy mà khí độ gã chẳng có chút oai hùng, đến cả đàn bà, trẻ con cũng bắt nạt được y!". Rồi đưa tay dắt Cốc Bình Nhi, tiến ra ngoài cửa phủ đệ, gọi một cỗ xe ngựa. Ngựa phi như gió, chẳng mấy chốc đã đến "Đắc Nhất sơn trang ".
Ngựa dừng lại, ba người xuống xe, Yến Vị Quy lúc đó đang đứng trước cửa, khi thấy cả ba, thần sắc có chiều hết sức kinh ngạc, há hốc miệng ra nhìn. Lục Tiệm hỏi y: "Phu nhân đang ở đâu vậy?". Yến Vị Quy thưa: "Dạ đang ở trong linh đường". Lục Tiệm suy nghĩ một chút, rồi bảo: "Cốc Chẩn, anh em ngươi vào nhà trong đi, để ta đến báo tin và mời bà ấy vô gặp ngươi".
Cốc Chẩn nhạt giọng đáp: "Lão Trầm Què đã mất, lúc ông còn sống, ta còn chẳng sợ, huống hồ bây giờ ông ta đã chết rồi! Gia cát Lượng còn dám đi phúng điếu Chu Du, ta dẫu không có khí độ của Khổng Minh, cũng thử học theo một phen!" Gã nói xong, bước thẳng qua cửa, tiến về phía linh đường.
Thương Thanh Ảnh đang ngồi, chợt trông thấy Cốc Chẩn, vẻ giật mình hiện ngay lên nét mặt, bà bèn đứng nhỏm dậy. Cốc Chẩn cũng dừng bước tại bậc thềm, hai mẹ con ở hai đầu linh đường, cùng đưa mắt dán vào nhau. Một làn gió nhẹ bỗng thổi qua, cuốn các cánh hoa rơi lả tả trên đất xoáy tụ vào một vài chỗ, rồi lại thổi chúng tản mạn đi xa, mường tượng như kiếp nhân sinh phiêu giạt, làm người mang thân xác vô thường.
Cốc Chẩn chợt nhoẻn miệng nở một nụ cười, đưa tay vén vạt áo trường bào, nhẹ gót tiến vào. Thương Thanh Ảnh cũng khẽ khàng bước tới, chẳng tự chủ được, thân mình bà phát run rẩy. Cốc Chẩn đến cạnh bà, đưa tay nắm vào cánh tay mềm mại của bà, nhưng chợt có cảm giác đang chạm vào băng giá, cánh tay bà đang đầm đìa mồ hôi lạnh ngắt.
Thương Thanh Ảnh hốt nhiên hiểu ra, cổ họng bà chợt tắc tị, ruột gan bà mềm oặt đi, bao nhiêu nỗi oan khiên uỷ khuất bấy năm trường vụt tan biến thành dòng lệ nóng, chảy giàn giụa, đầm đìa gò má, bà lả người vào trong tay Cốc Chẩn, miệng nghẹn ngào khóc không thành tiếng!
Mười ba năm rồi, Cốc Chẩn mới lại được ôm mẹ, trong lòng gã ngổn ngang trăm mối, gã tuy bình thường mồm mép dẻo quẹo, lúc ấy cũng không tìm được ngôn từ! Qua một lúc thật lâu, mắt thấy bà vẫn giọt ngắn giọt dài, hắn nhoẻn miệng cười, bảo: "Mẹ à, mẹ mấy mươi tuổi rồi mà sao coi mẹ giống hệt con nít con nôi quá chừng!"
Thương Thanh Ảnh nghe gã nói, đỏ ửng mặt, ngượng nghịu, bà ngừng khóc, tách ra khỏi vòng tay ôm của đứa con trai, ngập ngừng hỏi: "Chẩn Nhi, con không oán trách ta đấy chứ!"
Cốc Chẩn chưa kịp trả lời, Lục Tiệm đã nói chen vào: "Hắn trong bụng thì hết oán trách rồi, chỉ phải tội cái miệng không khi nào chịu xuống nước!". Cốc Chẩn quày đầu lườm gã, mắng "Ai khiến ngươi lắm mồm!" Mắng xong, rộng miệng cười toe.
Thương Thanh Ảnh dù chồng vừa qua đời, nhưng liền sau đó, đã gặp trở lại thằng con yêu quý bà hằng thương nhớ, mất một, được một, đều là chuyện cực kỳ đột ngột. Bà thậm hoan hỉ, từ sâu thẩm đáy lòng, man mác niềm thế sự vô thường, trước một đôi nam tử hình hài tuấn tú, thấy họ đối xử nhau cực kỳ thân thiết nhu hoà, bà thầm cảm ơn ông xanh đã đãi bà không tệ, bất giác bà chắp hai bàn tay, đôi mắt nhắm nghiền, miệng thầm thì khấn vái, cảm ơn trời phật.
Cốc Chẩn thầm hiểu tâm ý của mẹ, hắn bèn ngừng cười, chăm chú nhìn cho đến khi bà khấn khứa xong, mới lên tiếng nói: "Mẹ à, con có một chuyện này muốn nhờ mẹ". Gã kéo Cốc Bình Nhi đến gần, bảo: "Đây là Bình Nhi, con gái của dì Bạch, tức là em gái của con. Mẹ hồi xưa đã từng gặp nó! Bữa trước tại Thiên Trụ Sơn. nó gặp phải một biến cố lớn, đã thành mất trí, từ ấy, con phải đứng ra chăm sóc cho nó. Nhưng mấy ngày sắp tới đây, con phải đi làm một công chuyện hệ trọng, không biết có còn được toàn mạng trở về hay không nữa! Con muốn đem gửi mẹ, nhờ mẹ thay con trông nom nó chu đáo!"
Lục Tiệm nghe đến đấy, ruột gan chùng xuống, Cốc Chẩn đến đây, một hồi nhận lại mẹ, một hồi sau đã đem hậu sự ra phó thác lại cho mẹ, gã nghĩ đến cuộc đấu đá sắp tới này không phải chuyện đùa, sự sống chết còn chưa rõ,nên trước tiên phải lo sắp đặt cho ổn thoả cuộc đời Cốc Bình Nhi. Nghĩ đến đấy, Lục Tiệm tâm tình cũng chợt bị ngưng trọng.
Thương Thanh Ảnh hơi kinh ngạc, bà nghĩ đến nỗi niềm hai mẹ con vừa đã không dễ dàng gì mà trở lại với nhau, cứ tưởng rồi sẽ được cùng nhau vui vầy. Giờ nghe ý tứ Cốc Chẩn, chừng như sắp va vào một chuyện lớn có tầm cỡ sinh tử quan đầu, rồi nhìn thần sắc Lục Tiệm, cũng thấy lo ngại gã cũng sẽ bị dính vào chuyện đó. Bao nhiêu năm qua, Thương Thanh Ảnh từng trải không biết bao nhiêu cuộc ly biệt sinh tử, vào lúc này, dẫu trong lòng bà sầu khổ vô cùng, bà chẳng muốn lên tiếng bàn ra ý nguyện đứa con trai. Bà trầm ngâm hồi lâu, rồi thở dài, đưa tay ôm Cốc Bình Nhi, dịu dàng hỏi han nó. Khi nghe giọng lưỡi ấu trĩ của Cốc Bình Nhi, hệt như Cốc Chẩn đã bảo, trong lòng bà không khỏi thấy tiếc thầm. Giống như cô luôn luôn khả ái hoà nhập cùng mọi người, Cốc Bình Nhi tựa hồ rất trìu mến bà, rúc sát vào lòng bà, thần thái mềm mỏng êm ái, khoé mắt thắm đượm nét lưu luyến, thỏ thẻ: "A di, bà giống y hệt mẹ con!"
Thương Thanh Ảnh hỏi: "Mẹ của con ... ?", bà chợt trông thấy Cốc Chẩn khoát tay lia lịa, bà đoán bên trong tất có duyên cớ gì đó, bèn mỉm cười, không hỏi tiếp nữa!
Đang lúc mọi người truyện trò, bỗng nghe phía trước trang vọng lại tiếng ồn ào huyên náo. Lục Tiệm khẽ chau mày, đứng lên, lại nghe tiếng Tiết Nhĩ quát tháo ầm ĩ:" Cô lại đây làm gì! Đi ra đi, đi mau đi". Tiếng quát tháo còn chưa dứt, đã nghe y thảm thiết gào lên. LụcTiệm chạy ào ra, thoáng mắt nhìn, chợt giật mình, thấy Diêu Tình đứng chộn rộn trên bực cửa, đông đảo đệ tử Thiên Bộ vây quanh cô. Còn Tiết Nhĩ đang bị một rễ cây nghiệt duyến quấn chặt vào đôi chân, ghì riệt hắn xuống đất, làm hắn mặt mày tái mét, vừa trông thấy Lục Tiệm, gã đã hốt hoảng kêu lên: "Bộ chủ, cứu thuộc hạ với!"
Lục Tiệm bảo: "A Tình, cô tha cho gã đi được không?" Diêu Tình lườm sơ y một phát, hắng giọng hứ một tiếng, rồi cô quay sang bảo Tiết Nhĩ: "Ngươi còn dám vô lễ với ta nữa thôi?". Tiết nhĩ sợ đến cụp đôi tai to xuống, vội vàng nói: "Hết dám rồi! Hết dám rồi!". Diêu Tình bèn thu hồi thần thông, quay sang bảo Lục Tiệm: "Ta có việc đến tìm ngươi, ngươi hãy theo ta ra ngoài một chút xíu!"
Lục Tiệm còn đang lưỡng lự, gã quày đầu trông lại, đã thấy Thương Thanh Ảnh và Cốc Chẩn vì nghe ồn ào, cũng vừa ra đến nơi. Cốc Chẩn cười hì hì: "Đại mỹ nhân, có chuyện gì mà lại không tiện nói ra trước mặt mọi người vậy? Nếu như cô muốn vào làm chị dâu ta, bọn ta sẽ cho thổi kèn gióng trống nghênh đón cô vào cửa, chứ thậm thà thậm thụt như vậy, nam nữ lén lén lút lút, thật chẳng đúng với lễ nghi tí nào!"
Diêu Tình mặt mày đỏ ửng, chửi rủa: "Cái thứ xú hồ ly nhà ngươi đâu có xứng đáng nói chuyện lễ nghi! Chẳng may mà ngươi đi va vào cái ả Diệu Diệu cô nương của ngươi, có khi ngươi còn rồ dại hơn mấy con chó điên nữa!"
Cốc Chẩn thoáng biến sắc, hỏi lại: "Cô có gặp Diệu Diệu rồi à?". Diêu Tình cười nhạt mà rằng: "Gặp ở đâu mà gặp! Ngươi lên tiếng nhạo báng ta, ta sẽ đem kể cho nha đầu ngu ngốc đó nghe, chuyện ngươi vừa sổ lồng ra đã mau mau đi tầm hoa vấn liễu, làm trò hạ tiện vô sỉ! Cho cô ta hết còn muốn gặp lại ngươi luôn!"
Cốc Chẩn không tìm ra lời đối đáp, gượng cười mà rằng: "Tối độc phụ nhân tâm, quả nhiên không sai!" Diêu Tình cười nhạo hắn, rồi quay sang hỏi Lục Tiệm: "Vậy bây giờ ngươi có chịu đi theo ta hay không?"
Lục Tiệm đáp: "Đi!", Diêu Tình uốn nhẹ lưng ong, xoay người đi ra, Lục Tiệm cũng nối gót, đi không gần mà cũng không xa lắm, lẽo đẽo theo sau.
Hai người đi được độ mười dặm, đến chỗ vắng vẻ không có ai khác, Diêu Tình dừng bước, đưa mắt nhìn vào Lục Tiệm, thần sắc khó biết là đang vui hay đang giận. Lục Tiệm vừa thấy biểu tình cô như vậy, lập tức thất kinh hồn vía, lắp bắp hỏi: "A Tình, cô ... cô mạnh khoẻ không vậy?"
“Mạnh khoẻ nỗi gì?", Diêu Tình lạnh lùng đáp, "Đã bị ngươi chọc cho giận gần chết!" Lục Tiệm cho là cô giận chuyện y đã đến quậy phá hôn lễ của cô, mặt y chợt nóng bừng, y gắng gượng nói: "Cho dù ta đã làm cô nổi giận, nhưng thâm tâm, ta không hối hận chuyện đó chút nào!"
Diêu Tình trầm ngâm một lúc, chợt bảo: "Ta thiệt nghĩ không ra, sao Trầm Chu Hư lại có thể là cha đẻ ra ngươi được! Ông ta rõ ràng một người cực kỳ thông minh, sao lại có một thằng con đần độn! Đúng là hổ phụ khuyển tử!."
Nghe cái giọng khắc bạc đó, Lục Tiệm chỉ biết ngượng ngập, gượng cười, hỏi: "Cô cũng đã biết hết tất cả rồi à?"
Diêu Tình lạnh nhạt đáp: "Bữa đó, chuyện ta không thành, ta vừa đi ra khỏi trang viện không xa, đã nhìn thấy ngươi cùng Lục Đại Hải đang trên đường vào trang, ta bèn lẳng lặng theo sau, tất nhiên mọi chuyện xảy ra ở đấy ta đều chứng kiến đầy đủ. Hừ! Ngươi cứ xun xun xoe xoe cùng ả Ninh Ngưng, rõ ràng chẳng e chẳng sợ chuyện cô ả đang giận, đang ghét ngươi, chẳng phải ngươi đang tìm cách lân la thân cận với cô ta sao?"
Trong lồng ngực Lục Tiệm, con tim gã đang đập loạn xạ, một hồi lâu sau nó mới trở về nhịp bình thường, gã hít vào một khẩu chân khí, rồi giải thích: "Ninh cô nương từng có lúc chịu chung số phận kiếp nô với ta, hai ta đồng bệnh tương liên, mỗi hành vi. nhất cử nhất động của cô đều gây cho người ta một mối thương tâm đoái hoài, ", Diêu Tình nghe đến đấy, hứ một tiếng, cắn môi, sắc mặt hơi chuyển sang trắng bệch.
Rồi Lục Tiệm tiếp tục: "Ninh cô nương không thông minh như cô, cũng không mỹ lệ bằng cô, nhưng ở bên cạnh cô ấy, ta trong lòng có cảm giác thập phần bình hoà, an nhiên. Rồi sau đó, tất nhiên khi cô ấy gặp chuyện khó khăn, đi cứu giúp cô, Lục Tiệm ta mà có phải vào vạc dầu, lên núi đao, quyết không từ nan, dẫu có chết cho cô ấy, cũng tuyệt không hối hận"
"Đủ rồi!", Diêu Tình hai tay bưng tai, mắt lệ dàn giụa, hét lớn: "Mấy lời đó, ta đều chẳng muốn nghe chút nào!"
Lục Tiệm cười nhăn nhó, tiếp tục: "Ninh cô nương tuy cực tốt vậy, nhưng khi xa cô nương ấy, ta chỉ lo lắng cho cô ta thôi, chẳng hề thấy ưu sầu. Vậy mà những lúc ta không ở gần bên cô, lòng ta lúc nào cũng đau đáu, nhưng cứ mỗi khi muốn tìm gặp cô, ta thiệt sợ quá xá chừng..."
Diêu Tình tuy hai tay vẫn còn bưng tai, nhưng cô đã lén he hé hở ra một chút, để ý theo dõi từng tiếng một, nghe hắn nói đến đấy, cô vừa giận vừa rối, buông tay, hét to: "Ta đã làm gì để cho ngươi sợ? Bộ ta là quỷ sứ, là ma quái hay sao?" Hét xong, cô xông lên hai bước, Lục Tiệm nhìn cô hung hăng, cũng lùi lại hai bước, nhăn nhó cười: "Chỉ là cứ mỗi bận gặp cô, trong bụng ta cứ sợ sẽ làm điều thất thố, mà cứ hễ thất thố, lại phạm sai lầm hơn, khiến cô đâm ra chán ghét ta!"
Diêu Tình nghe gã nói thế, thần sắc đã bớt căng, cô lạnh lùng bảo: "Ai bảo ngươi tối dạ, chậm hiểu, chẳng chịu cố gắng cầu tiến!"
Lục Tiệm đáp: "Ta tuy đần, cũng còn biết vui buồn, còn biết yêu, ghét. Mỗi bận có dịp được riêng tư cùng cô, ta đều quýnh quáng trong lòng, ruôt gan cơ hồ muốn rạn nứt ráo trọi, Mỗi lần ta gặp nguy hiểm kề cận cái chết, cứ nghĩ đến cô, là ta lại chỗi dậy, tận lực cầu sinh, để lại còn được nhìn thấy cô! Ta đã có lúc muốn chết cho Ninh cô nương, thực ra, thực ra cũng vì cô mà ta còn ham muốn cầu sinh!"
Diêu Tình thảng thốt, vụt quay ngoắt người đi. Day lưng về phía Lục Tiệm, đôi vai cô khẽ run run, một lúc lâu, rồi cô xoay lại, khoé mắt còn gờn gợn đỏ ửng, cô chìa tay ra, bảo: "Đưa đây!"
Câu nói đến thực đột ngột, Lục Tiệm sẽ cau mày, hỏi lại: "Đưa cái gì?". Diêu Tình đáp: "Bức hoạ tượng của Thiên Bộ."
Lục Tiệm cười nhăn nhó, than: "Hoá ra cô đòi gặp ta, cũng chỉ vì muốn cái đó thôi sao?". Diêu Tình hứ nhẹ một tiếng, bặm môi, rít giọng: "Nếu không vì cái đó, nãy giờ ta há chịu đứng nghe ngươi nói nhăng nói cuội cả buổi ư!"
Lục Tiệm cảm giác một nỗi chua cay dâng lên tràn ngập, nước mắt muốn ứa ra, hắn cố gắng gượng một chặp để trấn tĩnh, rồi nói: "Ta cũng không biết bức hoạ tượng đó hiện đang ở đâu!"
Diêu Tình bảo: "Mấy ngày qua, ta lùng sục khắp "Đắc Nhất sơn trang", tuyệt không thấy chút dấu vết gì của bức hoạ tượng cả.Tám bức hoạ tượng của tám bộ, lưu truyền đời nọ sang đời kia, ta nghĩ lão Trầm Chu Hư tinh minh biết chừng nào, đã dám truyền chức Bộ chủ cho ngươi, thì cớ gì không truyền bức họa tượng cho ngươi!"
Lục Tiệm đáp: "Ta thực tình không biết mà!". Diêu Tình hỏi: "Vậy nếu ta đòi ngươi một vật mà ngươi đang giữ trên mình, liệu ngươi có chịu đưa ta không?". Lục Tiệm hỏi: "Đưa món gì vậy?".
Diêu Tình nói dằn từng tiếng: "Cây trâm ngọc của Trầm Chu Hư."
Lục Tiệm lặng yên một lúc, đưa mắt nhìn sang, bắt gặp đôi nhãn châu của Diêu Tình thấp thoáng loé sáng, hắn bất giác hít một hơi thở sâu, thò tay vào bọc lấy ra cây ngọc trâm, mân mê trong lòng bàn tay hồi lâu, đến khi hơi nóng thân nhiệt từ bàn tay truyền sang làm chất ngọc trở thành âm ấm, hắn bèn mở bàn tay, đưa đến trước mặt Diêu Tình.
Diêu Tình nhón tay đón cây trâm, nơi cổ họng cô chợt thấy nghèn nghẹn, ngón tay hơi run run, cô vụt xoay mình, co giò bỏ chạy thật lẹ.
Cô càng chạy càng tăng tốc, cô chỉ sợ hễ cô dừng bước, sẽ quay đầu lại nhìn, mà hễ quay đầu lại nhìn, sẽ bắt gặp ánh mắt tuyệt vọng Lục Tiệm đang nhắm, dõi theo sau lưng cô, ánh mắt cơ hồ như ngàn vạn mũi cương châm đang đồng loạt cắm vào cô, ánh mắt sẽ bám gốc mọc rễ trong trái tim cô, tim của một thiếu nữ đương xuân!
Hai bên đường, các cây cối vùn vụt chạy thụt lùi ra sau, liền liền, triền miên, nối nhau chạy tựa hồ vô tận. Dần dà Diêu Tình nghe hơi thở mỗi lúc một dồn dập, đôi gót chân hầu như rã rời, bất chợt bàn chân cảm giác nước lạnh đang thấm vào, cô đưa mắt trông, thấy một hồ nước sáng bạc như gương, mặt hồ phẳng lặng, vài gợn sóng lăn tăn nơi xa xa, ẩn hiện bóng mây bềnh bồng trôi nổi trên cao, màu trời liền với màu nước hồ, loáng thoáng khói sóng đó đây, theo gió vật vờ, bập bềnh cùng hình ảnh phản chiếu của mấy rặng núi. Ven hồ, cỏ xanh mươn mướt, sắc xanh thẳm liền với sắc trời, một vài đoá hoa dại màu đỏ điểm xuyết đó đây, trong từa tựa những ánh sao đêm lấp lánh, phong cảnh có đôi phần thê lương, đôi phần tịch mịch.
Đôi chân Diêu Tình rã rời, cô té quỵ xuống bên bờ hồ, hai tay bíu vào một tảng đá ven bờ nước, cô cất tiếng khóc rống. Từ khi mẹ cô qua đời đến giờ, chưa khi nào cô khóc lóc sướt mướt đến thế, khóc đến độ tim gan như muốn thoát khỏi lồng ngực, nhảy ra ngoài.
"Sao ta lại làm thế, lại đối xử cùng chàng như vậy?" Cô không ngớt tự vấn, cô không có câu trả lời. Cây trâm ngọc hãy còn trong lòng bàn tay, tựa hồ còn nhuốm hơi nóng của Lục Tiệm, vẫn ngun ngút toả hơi ấm, cô cảm giác cây thoa mỗi lúc một nóng lên, tưởng chừng sẽ có lúc nó trở thành quá nóng và sẽ làm bỏng mấy ngón tay cô. Tay Diêu Tình cầm cây trâm, tâm ý mơ mơ hồ hồ, nước lành lạnh dường như đang truyền qua tảng đá thấm dần vào cơ thể, hơi lạnh như giá như băng, tưởng chừng có một cỗ hàn khí đang đột nhập vào tâm mạch trong cô.
Vào lúc ấy, chợt nghe có tiếng người thở dài, như gần như xa, Diêu Tình rùng mình, ngẩng đầu trông, cô bất giác mặt mày biến sắc, vụt đứng thẳng người lên.
Màu trời không biết đã chuyển sang tối ám tự lúc nào, nơi chân trời, thấy đỏ ửng tại chỗ vầng dương đang lặn xuống, vắt ngang nền trời nơi ấy một dải mây tím, màu một vật đã bị nung đốt thật lâu. Mặt nước hồ bừng bừng ráng chiều, các đợt sóng lấp lánh sáng, từ nơi trung tâm hồ, vụt chói lên một vật, tựa một vầng lửa đang từ đáy hồ bốc lên, vật đó dần dần dâng cao giữa không trung, rồi hiện ra mái tóc hoàng kim cuả một mỹ phụ, thân hình thập phần diễm lệ.
Mỹ phụ tóc hoàng kim tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ trung gì, nhưng phong tư bà không mấy sút giảm, làn da mịn màng như lụa tơ tằm, đôi nhãn châu xanh như nước hồ, ẩn chứa tinh quang, hằn những nét hằn do từng trải qua nhiều tang thương.
"Sư phụ!", Diêu Tình vụt lui mạnh vài bước, nước hồ dâng ngập ngang đầu gối cô.
Mỹ phụ tóc vàng đứng thẳng người lên, tà áo trắng phất phơ, lượn lờ trong gió, mấy món tóc vàng toả nguợc lên trên, mường tượng như có ánh dương quang trộn lẫn vào tóc.
Trong một sát na, dăm hạt Nghiệt Nhân từ mấy ngón tay Diêu Tình phóng ra, vô thanh vô tức, đã chui ngầm dưới nền đất đáy hồ, chân khí cũng ồ ạt tuôn ra từ dưới gan bàn chân cô. Mặt đất chợt chấn động, chừng hơn mười rễ cây bung từ dưới lòng đất phụt lên cao, mỗi rễ cây đầy gai nhọn, lúc đầu dài chừng một đốt ngón tay, nháy mắt đã dài ra gần một tấc, chớp mắt một cái nữa, đã thấy dài đến gần một xích, trên thân tua tủa đâm ra những nhánh phụ hoặc mọc thẳng, hoặc ngoằn ngoèo, khi gặp gió, không ngừng tăng trưởng, đẻ ra những nhánh con khác, cứ thế mà không ngừng phát triển, hơn mười nhánh ban đầu bây giờ đã sinh sôi nảy nở ra cơ man nào là nhánh, rễ, đan ken vào nhau, thành một cái võng khổng lồ, như điên như cuồng công ào ạt về phía mỹ phụ tóc vàng.
Mỹ phụ tóc vàng nhìn sơ qua tấm võng, vẫn đứng lặng yên, rồi bà chợt thở ra một làn hơi nhẹ, không thấy bà thao tác ra sao, từ trên các nhánh rễ màu xanh chợt thấy nơi kẽ hàng trăm hàng ngàn các gai nhọn, như diễn trò ảo thuật, xuất hiện vô số đoá hoa, cánh hoa trắng nuột nà như bạch ngọc, lung linh toả sáng, hoa càng lúc càng nở lớn ra, đến cỡ ngang tầm một cái liễn ngọc, thi nhau trực diện nghênh chiến đám cành cây, rễ cây của A Tình. Cái khí thế ồ ạt vừa rồi của cây, rễ chợt ỉu xuống, chúng giờ đang ẻo lả phất phơ quanh người mỹ phụ, trong khi hoa trắng vẫn không ngừng sinh sôi, đan ken dầy đặc chung quanh bà, nhuỵ hoa nở rộ ra, mầu nhuỵ trắng tinh như tuyết, lung linh, lập loè ánh bạch quang.
Diêu Tình vốn biết sư phụ cực kỳ lợi hại, lần này, tung ra ngón "Ác Quỷ thích", cô không hy vọng đả thương được bà, chỉ mong kềm chân bà một lúc để cô còn kịp thì giờ đào tẩu, giờ đây, mắt nhìn trận thế biến chuyển kỳ ảo của các bạch hoa, lòng cô cực kỳ kinh hãi, rồi khi thấy các cánh hoa, đài hoa đó rục rịch lay động, vụt lớn cao lên như những toà tháp, cô biết mình đã thua, bèn uốn mình, nhảy tòm xuống hồ.
Mỹ phụ khẽ nhướng khoé hạnh, phất phơ tay áo trong gió, một thân cành mọc ra, uyển chuyển cất mình, rồi giàn rộng ra khắp mặt nước hồ, các đài hoa bắt được tín hiệu từ những sóng chấn động của nó, bèn rủ nhau ồ ạt ly khai các cành, bay mịt mù trắng xoá như tuyết rơi, đồng loạt rụng xuống mặt hồ, nhưng không giống các cánh hoa bình thường vẫn nổi trôi trên mặt nước, các cánh hoa này dường như được một cỗ đại lực thúc đẩy, chúng chen nhau lặn sâu vào trong đáy nước.
Diêu Tình sinh trưởng ven biển, cô rất thạo nghề bơi lội, đã sớm hít vào một khẩu chân khí lớn, lặn sâu xuống được dăm trượng phía dưới mặt nước hồ. Lúc cô mở mắt nhìn, chợt thấy cạnh mình, nước trong hồ như có một khối lớn màu trắng lay động, như có hàng trăm ngàn con cá đuối mình mẩy trong veo, đang vật vờ bơi lượn, từ tứ phía đang tụ tập về góc của cô, mỗi con cá máy động chầm chậm, tốc độ di chuyển lại cực nhanh, phút chốc đã áp sát vào gần cô.
Diêu Tình thầm kêu khổ trong lòng, cái món cực độc "Thái Tuế kình" này, còn có tên "Thiên Nữ hoa" rất lợi hại, mỗi cánh hoa đều chứa "Địa Mẫu" tinh khí của bà Ôn Đại, là khắc tinh "Chu Lưu thổ kính" của cô, ngoài Ôn Đại, võ khí đó khi đụng vào các cao thủ Địa Bộ đã luyện được "Chu Lưu Thổ kình", các "Thiên Nữ hoa" mang tính cách đồng khí tương cầu, sẽ tác động hệt như vụn sắt trước cực nam châm, bị cuốn hút mạnh vào cao thủ đó. Các cánh hoa trông có vẻ ẻo lả, yếu ớt, nhưng chúng tàng chứa thần thông "Địa Mẫu", dẻo dai và rất khó chấn gãy, khó làm rách, dai như da thuộc, chưa kể số lượng lại cực nhiều, đối thủ nếu để chúng tiếp xúc vào cơ thể, sẽ lập tức bị chúng phong toả thất khiếu, tứ chi, làm kinh mạch đình trệ, tắc nghẽn, trở thành mắt mù, tai điếc, miệng câm, tay chân tê liệt. Riêng những người nào luyện "Thổ Kình", sự tác hại còn nặng gấp mấy lần, vì "Thiên Nữ Hoa" khi bị hấp dẫn bởi Thổ Kình, uy lực của chúng gia tăng gấp bội, Thổ Kình của cao thủ càng lớn, sức tác hại càng nhiều, trừ khi biết sử dụng rành rọt thuật "Khôn Nguyên", các phép địa độn đều bất lực, vô phương đào thoát. Nếu độn thổ vào đất, va vào vái cái thần thông lợi hại cuả Địa Mẫu, sẽ không còn đường tiến thoái.
Diêu Tình biết chỗ lợi hại đó, cô đã không trổ thuật địa độn, quay qua dùng thuỷ độn, chỉ mong các "Thiên Nữ hoa" bị nước hồ ngăn cản, hy vọng chúng không xuyên được vào nước hồ . Đâu có ngờ khéo quá hoá vụng, các cánh hoa, đài hoa đó không bị chút trở ngại nào trước nước hồ, chúng đã dễ dàng lặn sâu vào nước.
Diêu Tình không đành lòng đầu hàng, cô cố gắng lặn thật sâu xuống dưới đáy hồ, thế nhưng cô đang ở giữa hồ, người cô giống như một khối từ thạch lớn, càng vận chuyển huyền công trong người càng nhiều, càng mạnh, từ lực sẽ càng tăng lên hơn, các lực đó sẽ tăng cao sức hấp dẫn các cánh hoa Thiên Nữ, càng hút chúng vào nhiều hơn. Tới nước đó, chỉ còn cách Diêu Tình tự phế võ công, tự hoá giải chân khí, hòng tránh thu hút các cánh hoa, nhưng xem ra làm vậy, cũng chẳng khác gì bó tay đầu hàng!
Thoắt một cái nháy mắt, Diêu Tình đã thấy các cánh hoa áp sát vào người, những cánh đầu tiên còn chưa khai triển, nhiều cánh khác đã trùng trùng điệp điệp ùa tới, dính vào người cô, chúng phong toả miệng mũi, trói chặt tay chân. Diêu Tình không còn hô hấp gì được, không cục cựa gì được, tai thoạt đầu chỉ nghe tiếng nước chảy xao động, rồi chợt thính giác im bặt, hai mắt Diêu Tình nổ đom đóm, rồi toàn thân vô lực, thân mình cô từ từ chìm xuống đáy hồ.
Vào lúc đó, hai cổ tay và hai mắt cá chân cô đột nhiên bị bốn cỗ đại lực thít chặt vào, đồng loạt nâng cô lên ngang mặt nước, các "Thiên Nữ hoa" dần dần co rút lại, rồi trong chớp mắt, đã biến mất sạch khỏi nước hồ.
Diêu Tình nôn ộc ra hai bãi nước, đưa mắt nhìn, đã thấy Ôn Đại ngồi trên một tảng đá lớn ven bờ hồ, thần thái vẫn phong nhã vẫn xưa. Hai tay hai chân Diêu Tình đang bị bốn rễ cây "Nghiệt Duyên đằng" to bằng bắp tay người trói chặt lại, các rễ cây không ngớt ngo ngoe, ngọ nguậy. Sau một trận chật vật với "Thiên Nữ hoa", giờ đây, ngày đã hầu tàn, màu trời xám xậm, khối nước hồ chuyển dần sang mầu đen, khí trời se se lạnh, sương khói đang cuồn cuộn bốc lên, bao phủ dần khắp rừng núi, tứ phía quanh hồ, đã thấy đùng đục một màn sương.
"Hoạ tượng đâu?", tiếng Ôn Đại tra hỏi cực kỳ lạnh lẽo, Diêu Tình răng cắn chặt vào môi, đáp :"Đã thiêu huỷ cả rồi!". Ôn Đại chau mày, hỏi: "Đã đến nước này rồi, mà vẫn còn nói nhăng à?"
Diêu Tình trả lời: "Con không có nói nhăng đâu! Các bí mật của hoạ tượng, con đã hiểu rõ hết, và đã ghi nhớ nằm lòng, vậy con còn giữ chúng lại làm gì!". Ôn Đại hứ nhẹ một tiếng, bảo: "Thiệt đúng giọng lưỡi, tác phong của mi!"
Diêu Tình ngầm vận huyền công, tìm cách vuột khỏi chế ngự của bốn rễ cây, nhưng khi cảm giác tiềm lực tàng chứa bên trong chúng khá mạnh, chưa chắc giằng co với chúng đã ăn thua gì, cô bèn gạt bỏ ý định đào tẩu ra khỏi đầu, cười, đáp: "Sư phụ. sư phụ thả con ra đi, rồi con sẽ đem hết mấy bí mật trong hoạ tượng đó trình lên sư phụ"
Ôn Đại lườm cô, bảo: "Nha đầu nhà ngươi, quỷ kế đa đoan, định bịp ta đấy phỏng? Hừ ... ta vừa mới nếm xong cái trò chơi ngươi bày ra đấy thôi. Ngươi là đứa lớn mật, được lắm, ta trước hết hãy ngâm ngươi ba ngày vào trong nước hồ cái đã!"
Diêu Tình giật thót mình, nghĩ bụng, ngâm ba ngày trong nước hồ, dù không chết, da dẻ trong người cũng sẽ bệt ra hết sao! Cô vốn rành tính nết Ôn Đại, bề ngoài coi bộ hoà hoãn, nhưng bên trong thì rất nóng nảy, sắc diện thấy khơi khơi vậy chớ đầu óc bà cực kỳ tinh minh, lắm mưu nhiều kế, giờ mình muốn đấu trí đấu lực chống bà, e rằng không phải đối thủ của bà, mình chỉ có thể tìm cách dùng con bài tình cảm, khuấy động lên lòng từ bi nơi bà, may ra còn có được một chút sinh cơ. Nghĩ vậy, cô bắt đầu tấm tức, rồi oà lên khóc.
Ôn Đại nhất thời bực tức, lời nói chua cay, khi nghe cô khóc lóc, bà chợt mềm lòng, bèn trách móc: "Nếu đã sớm biết có ngày nay như vầy, thì đừng có làm mấy chuyện lỗi lầm đó! Nha đầu nhà ngươi, chỉ là đầu óc tính toán quá sức, lại sính cường, hiếu thắng, lòng dạ nhỏ nhen, chăm chăm chất chứa thù hận, Như giờ đây, ngươi dám thiêu huỷ họa tượng của tổ sư truyền lại, luận tội, cái đó đáng phải giết chết, ta không giết ngươi ngay, chỉ đem ngâm nước ngươi ba ngày, nếu sau ba ngày đó, ngươi sống sót, ta sẽ tha tội cho!"
Diêu Tình sụt sịt đáp: "Con tuy đã đắc tội cùng đồng môn, trộm hoạ tượng, vong ân phụ nghĩa, trong trăm điều chẳng được điều nào hay, nhưng đối với sư phụ, trước sau con luôn luôn mang ơn. Sư phụ đã giải độc cho con, đã cứu tính mạng con, lúc sư tỷ ức hiếp con, sư phụ đã chủ trì công đạo, Mẹ đẻ ra Tình Nhi đã bị kẻ gian hại chết, con từ nhỏ đói khổ, không một ai thương xót, sâu tận đáy lòng, con đã sớm coi sư phụ như mẹ đẻ ra con vậy"
Ôn Đại hỏi "Đã tự biết vậy, sao còn dám đi ăn trộm mất bức họa tượng cuả ta?" Diêu Tình thưa: "Con chỉ không nén nổi cơn giận sư tỷ Tiên Bích, con cứ bị sư tỷ ghét bỏ, khinh khi con, chưa kể năm đó, nếu không vì lỗi lầm của sư tỷ, cha con đâu đã bị chết thiêu. Con cho là, nếu con hội đủ tám bức hoạ tượng, từ đó luyện thần công để trở thành vô địch trong thiên hạ, con sẽ ra tay mở mắt sư tỷ một phen!"
Ôn Đại thở dài, giải thích: "Tổ sư Tư Cầm đã từng dạy, bát đồ hợp nhất, thiên hạ vô địch. Nhưng từ hồi đó đến giờ, chẳng có cách nào hợp nhất cả tám hoạ tượng lại làm một, ngươi hãy nhớ lấy, nhớ cho kỹ lấy! Cho dù hợp nhất được cả tám bức, dù luyện được kỳ công, nhưng cũng sẽ phải gánh chịu cái hậu quả tàn độc của nó, có lợi lớn , tất có hại to đi kèm theo sau. Mối hoạ "Hắc thiên thư" đã gây ra suốt trăm năm nay, chưa đủ làm lời giáo huấn để cảnh tỉnh ngươi sao?"
Diêu Tình nhất thời không tìm ra phản biện, chu cái miệng lại, đầu óc ngờ vực. Ôn Đại hiểu rõ tâm tư cô, bà bảo: "Ngươi đừng có ra điều bất phục vậy. Ngươi bảo ngươi coi ta như mẹ đẻ, tại sao vừa gặp mặt ta, chưa nói năng một câu, ngươi đã giở ngay cái môn Ác Quỷ Thích ra đối phó ta? Hóa sanh lục biến, ác quỷ tối độc , thảng hoặc ta không cự lại được, có phải là đã chết trong tay ngươi rồi không?"
Diêu Tình da mặt nóng bừng bừng, ấm ớ cãi lại: "Sư phụ thần thông tuyệt đính, thể nào chẳng có cách hoá giải nó, con chỉ có ý định dùng nó để cản trở sư phụ một lúc, để con có thì giờ độn thuỷ bỏ trốn!"
Ôn Đại liếc nhìn cô ả một hồi, rồi khe khẽ lắc đầu, bảo: "Nha đầu nhà ngươi, nói trí nói trá nãy giờ, nửa thực nửa hư, không ai dám tin lời ngươi cả!"
Diêu Tình thật sự cảm thấy bị nghi oan, mới rồi vừa khóc vừa van vỉ, bây giờ cô nghe bà nói vậy, trong lòng vụt hiện ra một ý, cô tự nhủ: "Từ bấy nhiêu lâu, bà cứ đã không tin lời ta suốt, vậy muốn làm gì ta thì cứ làm, luôn cả chuyện dìm ta ba ngày trong nước hồ. Ta đây đã kề cận với cái chết không biết bao nhiêu phen rồi, tới đâu thì tới, ta không van lơn, cầu khẩn nữa!". Nghĩ vậy, cô bèn ngừng khóc, bặm môi, ánh mắt cứng cỏi, ra chiều quyết liệt.
Ôn Đại nhìn tình cảnh cô như vậy, trong lòng sầu muộn, đang định lên tiếng dạy bảo, bà chợt nghe từ đàng sau lưng có tiếng người nói: "Đại nương, con nhỏ này tính tình sắt đá, thà chết, không khuất phục! Nó đã có lúc đổ lệ cầu khẩn bà, xem chừng hãy còn có chút tình cảm dành cho bà, ta sợ bà có khi còn chưa hiểu nó đấy!"
Diêu Tình ngoái trông. thấy đàng sau lưng Ôn Đại, từ trong rừng đang tiến ra một lão già mặc áo đen, râu rậm, mũi cao, mắt sâu, mặt xương xẩu, cước bộ thênh thênh phiêu dật. Diêu Tình thoáng giật mình, tự hỏi: "Sư công hiếm khi nào rời xa Đế Chi Hạ Đô , cớ sao ông cũng có mặt ở đây?"
Ôn Đại buồn bã nói: "Thái Nô, ông đâu có biết, vừa rồi lúc nó xuất thủ, trong chân khí của nó chứa đầy ăm ắp những kình khí oán độc, dựa theo tính nết của nó, đúng là nó đã luyện Hoá Sinh , cái môn công phu vốn rất khó đạt được mức tuyệt đỉnh!"
Thái Nô vuốt râu, hỏi: "Sao thế được?"
"Chuyện này không đơn giản!", Ôn Đại hừ nhẹ một tiếng, giảng giải: "Nó kiêu ngạo tự phụ, chỉ toàn nghĩ chuyện ích kỷ, chẳng thèm để ý xem người khác tâm tư ra sao, mà cũng không biết cách tiếp thụ hảo ý của người ta dành cho mình nữa!"
Thái Nô cười hì hì, choảng ngay: "Như lời bà nói, xem ra bà hồi còn trẻ cũng chẳng khác nó bây giờ là bao!"
Ôn Đại bất giác nguýt ông ta một cái, nói: "Cái lão già đầu nhà ông, càng lớn tuổi lại càng thiếu đứng đắn!". Thái Nô cười cười, đáp: "Khoan hãy mắng ta đã, bà nhìn ánh mắt nó mà xem, đầy vẻ quật cường, coi thiệt y chang, hệt như nó được đúc cùng khuôn với cái khuôn cuả bà thưở đó".
Ôn Đại sựng sờ, ngó vào Diêu Tình một hồi, rồi nói: "Nhưng mà! Nhưng ...!" Thái Nô tiếp lời: "Chưa kể bà may còn có được Tiên Thái Nô ta, nó thì nó chẳng có ai yêu thương nó hết, đúng vậy không?"
Ôn Đại trợn mắt nhìn lão ta một cái, không nói gì, chỉ khẽ gật đầu. Tiên Thái Nô bảo: "Trong lòng nó, hãy còn có chút quyến luyến đến bà, ví dụ bà mà đem trấn nước nó ba ngày, cho dù nó có còn chút đỉnh thiện niệm nào đi nữa, e rằng quyến luyến đó cũng sẽ tiêu tan ráo trọi!"
Ôn Đại trầm ngâm hồi lâu, rồi làu bàu: "Cái lão già đầu nhà ông, lúc nào cũng chỉ thấy mặt tích cực của người khác, đố có bao giờ để ý tới chuyện tệ hại của họ!".
Tiên Thái Nô cười cợt: "Con người ở đời kỳ cục vậy đó! Lão đây cứ nhìn vào mặt tốt của họ, nhất định họ sẽ cố gắng phát huy ưu điểm, thế nhưng nếu cứ săm soi vào chuyện sai trái của họ, tất sẽ làm cho họ càng tệ đi! Chưa kể theo Thiên Đạo mà xét, thiện ác vô thường, nhiều khi không biết phân biệt trắng đen ra sao!"
Ôn Đại lườm ông ta, nửa đùa nửa giận, nói: "Lại còn dám đem đạo lý đến thuyết cho ta nghe nữa kia!" Tiên Thái Nô thản nhiên bảo: "Ta biết rồi, bà sợ nó tập hợp được tám bức đó, sẽ thành mầm hoạ tương lai! Cái đó dễ lắm, ta cứ dùng thuật Tuyệt trí , xoá đi cái phần ký ức về chuyện đó là xong ngay thôi!"
Diêu Tình nghe đến đấy, cô vừa thất kinh, vừa sợ hãi, vội khép kín hàng mi lại, tránh ánh mắt Tiên Thái Nô, ngoác miệng la lớn: "Sư phụ, trong tám bộ bí ngữ, con mới chỉ thu thập được có bẩy thôi, nếu không, con làm sao dám mạo phạm tổ sư Tư Cầm!"
Ôn Đại "Uả" một tiếng, hỏi lại: "Ngươi được bảy bộ, cũng đã khá lắm rồi! Vậy thì trong tám bộ ... còn bộ nào chưa kiếm ra?" Diêu Tình dằn lòng, cố giữ kín chuyện cây ngọc trâm, chỉ trả lời: "Chỉ còn sót mỗi Thiên bộ, Trầm Chu Hư rất gian hoạt, con đã phí không biết bao nhiêu tâm trí, sức lực, mà kiếm không ra!". Ôn Đại cau mày, bảo: "Hèn chi, bữa trước, ta nghe đồn mi làm lễ cưới với thằng con của Trầm sư đệ, hoá ra là do vụ họa tượng này!"
Diêu Tình trong lòng thừa hiểu chẳng nên dối trá sư tôn, cô không trả lời bà, mặc nhiên thừa nhận. Ôn Đại nổi giận: "Hết chỗ chơi rồi á! Chuyện chung thân đại sự, đâu có thể đem làm trò hý lộng lừa gạt người ta được!". Diêu Tình tức tối đáp: "Đàn ông trong thiên hạ, chẳng có tên nào ra hồn cả, có lấy đứa nào, lấy làm gì, cũng chẳng khác gì nhau!"
Ôn Đại vừa giận vừa tức cười, mắng liền: "Cái lý lẽ của ngươi đó! Mới chút xí tuổi đầu, mà làm như rành biết hết tất cả đàn ông trong thiên hạ! Thôi được, nể mặt sư công của ngươi đây, ta tha cho ngươi một phen. Còn mấy cái bí mật trong họa tượng, ngươi nói chẳng sai, Tư Cầm tổ sư khi truyền lại tám bức đồ hoạ đó, tất Tổ sư có thâm ý, chẳng thể nào để chúng huỷ diệt vào tay mình được!"
Nói xong, bà phất tay, bốn sợi rễ "Nghiệt duyên đằng" bung ra, vất Diêu Tình lên bờ hồ. Diêu Tình chợt cảm giác êm dịu, cô cười qua làn nước mắt, nói: "Sư phụ, con vốn đã biết, bụng sư phụ chẳng giận con lâu!" Ôn Đại trong lòng vừa bực vừa thương, lườm cô một cái, đưa tay vén mớ tóc rối trên trán cô, bảo: "Ta thiệt tình chẳng thể không sủng ái ngươi được, ta tuổi cũng đã cao rồi, thuật Hoá Sinh ta chưa truyền thụ cho ai. Ngươi không thầy mà tự mình thông suốt được, rõ ràng có ý trời trong đó, ta chẳng qua vì tiếc tài ngươi thôi". Rồi bà đưa tay chẩn mạch cô, trầm ngâm, nói: "Quái lạ! Chu Lưu thổ kình của ngươi đã đạt đến mức Tiên Thiên, đến quẻ Khôn quái", mà cái này là khí Thuần m, sao trong kinh mạch của ngươi lại thấy có một cỗ khí kình Dương Lưu , hèn chi, ngươi mới có chút tuổi vậy mà đã luyện được đến mức Chí m Phản Dương . Mà còn kỳ hơn nữa, cái kình khí Dương Lưu đó lại không hoàn toàn Dương Hoà, có vẻ mang tính chất Lục Hào Thừa Cương , nếu không thế, ngươi đã chẳng từ công phu sáu năm mà đạt đột phá qua được cảnh giới Trường Sinh đằng cùng là Xà Nha kình , giúp ngươi đồng lúc luyện thành Ác Quỷ Thứ "
Vừa nghe đến đấy, Diêu Tình trong lòng chợt minh bạch, cô hiểu cái kình khí Dương Lưu đó đúng là hôm trước đã do nơi Lục Tiệm dùng Đại Kim Cương thần lực, y không chủ ý, đã vô tình giúp cô tiêu trừ Thiên Kiếp, giúp cô tự mình đạt đến cảnh giới "Chí m phản Dương", rồi nhờ vậy, đã bất ngờ liên tiếp đột phá các thành trì đàng sau. Nghĩ đến Lục Tiệm, cô không dằn được, lại hỏi: "Không hiểu tại sao, sau khi con luyện thành Ác Quỷ thứ rồi, con đã không tiến thêm được bước nào khác nữa? Đàng sau, những là Bồ Đề căn , Thiên Nữ hoa , Tam Sinh quả , con thật đã không luyện được, cũng không nắm được yếu lĩnh?"
Ôn Đại nghiêm nét mặt, hỏi: "Ngươi đọc lại ta nghe, tôn chỉ của Địa Bộ ta là gì?"
Diêu Tình thưa: "Nhất trí, Nhất sinh, Nhị thủ, Tứ công. Tôn chỉ của Địa Bộ là Sinh "
Ôn Đại chỉ đưa mắt nhìn các bãi cỏ hoang quanh hồ, rồi bảo: "Ngươi có thể làm cho mấy cái cỏ dại này cùng nở hoa một loạt không?"
Diêu Tình giật mình, cô khẽ lắc đầu. Ôn Đại dang tay áo ra phất một cái, Diêu Tình cảm giác một luồng khí âm ấm tràn ra tứ phía, một thoáng sau, các cỏ dại đã mọc cành lá mới, nảy mầm nụ, rồi nở hoa, khai nhuỵ, thoắt cái, bãi cỏ đã hiện ra vô vàn đoá hoa nho nhỏ, sắc đỏ thẫm hồng . sắc tím biêng biếc, đua nhau khoe thắm.
Diêu Tình nhìn mà ngẩn ngơ, hiện tại đang vào tiết tháng tư, tháng năm, từng có câu nói :"Nhân giản tứ nguyệt phương phỉ tận" (Tháng tư hoa cỏ đều tàn rụi hết cả), bách hoa đều đã uá tàn từ lâu, bây giờ làm chúng nở rộ trở lại, đúng là cái cảnh tượng kỳ lạ, đoạt quyền cuả tạo hoá!
Ôn Đại chậm rãi nói: "Hóa sinh có sáu biến, mang tên Trường Sinh Đằng , ý giễu người đời mơ mộng, Xà Nha kinh , ấy là độc của nanh rắn, Ác Quỷ Thứ , lôi lời nguyền của quỷ từ địa ngục lên. Ba cái môn đó là Si Khí, Nộ khí và Oán Khí gộp lại, tu luyện chúng sẽ làm cho con người ta cứ mang oán mang hận, mà ba pháp môn đó uy lực biến hoá cực kỳ cương mãnh, có thể trong vòng vài tháng đạt đến mức độ cao, phần đầu giúp nội công tinh tiến, phần thứ hai làm cho tâm tính người luyện chất chứa đầy oán hận, tâm ý hợp nhất lại, chính là cái cốt tuỷ của ba biến đó. Mà tiếc thay, ba biến đó mới chỉ là phần hạ thừa của Hoá Sinh, ngươi tuy có khả năng thiên phú, mới chỉ hiểu được có Hoá Sinh chi Thuật , chưa lĩnh ngộ được Hoá Sinh chi Đạo , chưa thể luyện thành công ba cái biến sau của pháp Hoá Sinh , là lẽ đương nhiên"
Diêu Tình sững sờ, hỏi: "Cái gì là Hóa Sinh chi đạo ?"
Ôn Đại cười cười, bảo: "Vừa rồi, ngươi đã chẳng nêu lên tôn chỉ của Địa Bộ đó sao?" Diêu Tình hốt nhiên la lớn: "Có phải ý sư phụ muốn nói, Hóa Sinh chi đạo , cũng chỉ khoanh trong cái chữ SINH đó không?"
Ôn Đại gật đầu đáp: "Dù không hoàn toàn đúng, nhưng cũng không xa lắm ! Bồ Tát căn , tức là tâm từ bi, cần phải có lòng từ bi rộng khắp, Thiên Nữ hoa , chính là cái hình tượng cuả ÁI, phải đem cái tình người ra vận dụng, Tam Sinh quả , ấy là tước bỏ phần hồn, cái đó cần khí lượng vô uý (Không quản ngại, uý kị), là cái biến cao hàng chót cùng, rất chi gian nan, hễ làm cao thủ luyện Hoá Sinh, trọn cuộc đời của mình, chỉ có thể dùng đến có duy nhất một lần!"
Diêu Tình ngạc nhiên hỏi: "Sao lại thế?"
Ôn Đại đưa mắt nhìn lên khoảng không, giọng man mác:
Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong mạc yếu luận,
Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng,
Thử thân tuy di tính trường tồn.
Cái biến đó là tập hợp tinh hồn suốt một đời, một khi sử ra, giống như ken ngàn thân cây lại làm thành quách, không có gì xâm nhập vào được, uy lực tuy lớn, nhưng luyện nó xong, là đã đem tất cả tinh hồn và tinh huyết đưa hết vào đấy, một lần sử ra, không trông mong còn được sống lâu sau đó!"
Diêu Tình nghe thấy mà sững sờ, lại nghe Ôn Đại hỏi: "Thái Nô, giết nó thì không được, xoá ký ức của nó đi cũng không xong, làm cách gì với nó bây giờ?" Tiên Thái Nô đáp: "Cứ xách nó kè kè theo bên hông là yên chí!"
Ôn Đại khẽ gật đầu, nói: "Ừ, vậy cũng được! Cũng là để ngăn chặn nó kiếm ra bức hoạ tượng thứ tám. Vừa qua, trên đường đi đến đây, ta có nghe tin Trầm sư đệ đã qua đời, bọn mình tuy không hợp với ông ta, nhưng cũng có chút tình hương hoả, người chết là hết, mình cũng nên đến phúng điếu" Tiên Thái Nô đáp: "Hôm nay đã muộn rồi, ngày mai mình đi sớm!"
Diêu Tình trong lòng kêu khổ, nghĩ đến vừa rồi, cô làm Lục Tiệm đau lòng, bây giờ lại còn vác mặt đến gặp y, không biết tẽn tò đến đâu cho hết, càng nghĩ càng phát rầu.
Lòng cô dẫu ray rứt, nhưng cô không để lộ ra nét mặt, vẫn cứ nói nói cười cười, vẫn cứ tiếp tục thảo luận cùng Ôn Đạo về "Hoá Sinh". Ôn Đại giảng: "Muốn luyện ba biến sau đó, không phải là trông vào nội lực mạnh hay yếu, thần thông cao hay thấp, mà là nhờ vào sự tu dưỡng tâm tính. Nếu ngươi mà chịu buông bỏ thù hận, mở rộng tấm lòng nhân, ba cái biến đó sẽ không luyện mà thành. Nếu ngươi cứ khăng khăng nuôi lòng thù ghét người khác, cứ mải mê bám víu vào oán cừu, ngươi có đi luyện một trăm năm nữa cũng là vô ích!"
Diêu Tình nghe thế bực tức, hứ một tiếng, đáp: "Làm người sống trên đời, nếu không được báo thù báo oán, thì cuộc sống đó còn gì là thú vị?". Ôn Đại lườm cô một cái, trong lòng chẳng vui, thở dài.
Vào giấc khuya, ba người đến trọ tại một lữ quán, Ôn Đại cùng Diêu Tình chung một phòng, Tiên Thái Nô độc chiếm gian bên ngoài. Diêu Tình khi phải đi theo hai người, cô tự biết với bản lĩnh của cô, muốn bỏ trốn, nhất định không xong. Cô bèn tự nhủ, chờ dịp tốt, hoặc thừa cơ ra tay chế trụ, xuất kỳ thủ thắng. Trong lòng đã định, cô hốt nhiên nghĩ đến tám cái bí ngữ, chợt rộ lên trong lòng một nỗi vui mừng khôn tả, "Ta mà hợp nhất được tám bức hoạ tượng, luyện thành thiên hạ vô địch, sư phụ và sư công dẫu lợi hại mấy đi nữa, cũng không thể ngăn cản ta được! Nhưng, sư phụ là người đối ta không tệ, sư công cũng là người tốt, ta khi luyện xong thần thông, sẽ không đụng chạm gì đến họ, cứ kiếm đường né tránh họ là được!"
Nghĩ như thế, cô tạm ẩn nhẫn, đến nửa đêm, cô trở mình thức giấc, đi sau, lúc trở về phòng, cô thắp nến, lấy cây trâm ra, soi vào ánh nến tìm tòi. Chất ngọc của cây trâm vào hạng tối hảo, dưới ánh nến, nó lấp lánh sáng, chỉ có điều ở khoảng giữa thấy có một vết khiếm khuyết Diêu Tình ngưng thần suy nghĩ, mắt chợt loé sáng, mấy ngón tay nắm chặt vào hai đầu cây trâm, khẽ dùng lực xoay xoay, chợt thấy sự lạ, cô mừng rơn, bèn tăng sức lên chút nữa, đã tách rời cây trâm ra thành hai mảnh.
Nguyên lai, vật trông giống cây trâm đó thực ra là một quản bút rỗng, hai đầu có chạm khắc hoa văn cực kỳ tinh xảo. Diêu Tình tách nó ra làm hai rồi, cô chăm chú nhìn vào, chợt cảm giác con tim giá băng, cô thấy bên trong trống trơn, không chứa gì cả.
Diêu Tình vẫn chưa tuyệt vọng, tiếp tục quan sát tỉ mỉ cây trâm, nhưng không phát hiện ra được gì khác lạ, cô trầm ngâm một hồi, sợ làm kinh động đến Ôn Đại, cô bèn ráp cây trâm lại như cũ, cất đi, rồi leo trở lên giường, trong lòng thắc mắc trăm mối, chẳng ngủ lại được. Cô nghĩ thầm: "Cây trâm này rõ ràng có dụng ý, bên trong chứa vật gì đó. Lúc Trầm Chu Hư hấp hối, đã giao cho Lục Tiệm, cái vật gì bên trong đó tất có liên quan đến hạ lạc bức hoạ tượng, chỉ chỗ nó đuợc cất giấu ở đâu. Số người biết đến cây trâm này không ít, có Ninh Bất Không, Cốc Chẩn, Thiên bộ kiếp nô. Thiên bộ kiếp nô có thể cho qua. Cốc, Ninh hai người rõ ràng đều có ý gian, mình biết tìm đến cây ngọc trâm, dĩ nhiên họ cũng nghĩ đến nó. Xú hồ li chẳng có hứng thú gì với bức hoạ tượng, Ninh Bất Không thì đã chảy nước giãi thèm thuồng từ lâu rồi, nhưng y muốn ra tay cướp giật, sợ không phải là đối thủ của Lục Tiệm. Cô con gái của y cũng là một nan đề! Y không dùng được lực để chiếm đoạt, ắt sẽ nhờ cô con gái lân la thân cận Lục Tiệm, tìm cách thừa cơ đánh cắp cái món đồ giấu bên trong cây trâm. Đúng rồi, mọi chuyện nhất định sẽ diễn ra như vậy!"
Diêu Tình càng nghĩ, càng giận, đầu óc nóng bừng bừng như thiêu như đốt! Cô cứ suy nghĩ hoài về cái tình tự đang bị thất vọng! Cô xoay trở trên giường, không sao dỗ được giấc ngủ. Trước đây cô còn ngại phải gặp lại cái bản mặt Lục Tiệm, giờ thì cô hận mình không mọc được cánh bay thẳng đến Đắc Nhất Sơn trang, thộp cổ cái gã ba lòng bốn dạ xú tiểu tử đó, quần nó một mách cho nó biết tay cô!
Chương 52 Bát đồ hợp nhất
Sáng sớm hôm sau, ba người lên đường. Ôn Đại thấy mắt Diêu Tình đỏ quạch,tựa như đã khóc suốt đêm qua, bà động lòng, khẽ khàng bảo cô: "Tình Nhi, con đừng sợ, chỉ cần con đừng làm bậy nưã, đừng cãi bướng nữa, ta không bắt tội con, bắt chịu đau khổ nưã đâu!"
Diêu Tình mang trong lòng nỗi khắc khoải riêng tư, khi nghe bà nói thế, cô cũng thấy cảm động đôi chút, nhưng cô vẫn lặng im, chỉ đưa tay vén mớ tóc mai ra sau, chân cứ bước, mắt nhìn đăm đăm xuống mặt đất phía dưới, sắc mặt rầu rầu. Ôn Đại thấy hơi kỳ kỳ, bà bèn lảng xa khỏi Diêu Tình, nhỏ giọng hỏi: "Thái Nô, ông hãy dùng phép Thái Hư Nhãn soi xem xem con bé này đang mang tâm sự gì vậy?" Tiên Thái Nô cười, đáp: "Bà làm sư phụ nó, coi bộ không đáng giữ cái chức đó chút nào! Sư phụ gì mà không hiểu tâm tư đệ tử, phải đi nhờ sư công của nó soi hộ cho!"
Ôn Đại dòm lại thần sắc cô, chợt hiểu: "Hoá ra ... Hoá ra nó đang đau lòng tưởng nhớ người yêu?".Tiên Thái Nô nhè nhẹ gật đầu, Ôn Đại vừa mừng, vừa ngài ngại. Bà chăm chú quan sát, thấy cô mày ngài rủ xuống, mắt đượm nét u uẩn. Bà bất giác cười thầm trong bụng: "Cái con nha đầu này điêu ngoa làm vậy, cuối cùng cũng khốn đốn vì tình! Nó cực kỳ kiêu ngạo, chẳng hiểu ở đâu mọc ra một tên hậu sinh anh tuấn, tài ba đến mức có thể làm cho nó rầu rầu, rĩ rĩ như thế? Hay có khi là công tử con Trầm Chu Hư không chừng?"
Hai thầy trò mỗi người một tâm sự, chẳng mấy chốc đã đên trước "Đắc Nhất sơnn trang". Mạc Ất, Tiết Nhĩ đang thống lĩnh đệ tử Thiên Bộ canh gác bên ngoài trang, khi nhìn thấy đoàn ba người, họ sững sờ một hút, rồi nhanh chóng rảo bước đến chắp tay thi lễ, thưa: "Tiểu nô xin kính chào Địa Mẫu nương nương." Ôn Đại cười lớn: "Hay lắm! Đã nhiều năm không gặp. bọn ngươi đều khoẻ cả chứ?" Tiên Thái Nô cũng cười cười, hỏi: "Hai anh bạn nhỏ này, sao chỉ chào hỏi bà Địa Chủ, mà không nhớ gì đến ta?"
Mạc Ất và Tiết Nhĩ đồng loạt quỳ xuống ngay tại chỗ, nói: "Lão tiên sinh lâu nay được mạnh giỏi?" Tiên Thái Nô đưa tay nâng họ dậy, bảo: "Miễn lễ, miễn lễ. Chủ nhân mất đi, người chủ mới đối xử các ngươi có tử tế không?" Tiết Nhĩ hé miệng cười nụ, đáp: "Chủ nhân mới của chúng nô là người tốt số một dưới gầm trời này, đối xử rất tử tế"
Tiên Thái Nô lấy làm lạ: "Trầm Chu Hư rất nghiệt ngã với người ngoài, chẳng dè con trai ông không giống ông điểm đó!". Tiết Nhĩ vội nói: "Người con trai sau này không giống đứa trước, người sau này không phải là đứa con trai xưa nay, đứa con trai cũ là một tên vô lại, người con trai hiện thời là một người cực tốt!"
Hắn nói lung tung, không rõ ràng gì cả, hai phu phụ nhìn nhau, thật bỡ ngỡ. Ôn Đại hỏi: "Cái gì mà xưa với nay, bộ Trầm sư đệ có tới hai đứa con trai à?" Tiết Nhĩ khoa tay lia lịa, nói: "Không phải thế! Chuyện dài dòng như thế này ....". Y đưa tay gãi tai, không biết phải bắt đầu câu chuyện từ đâu! Mạc Ất mỉm cười, nói: "Để cho gã giải thích, mười bữa, nửa tháng nữa cũng chưa rõ đầu đuôi! Địa Mẫu nương nương, Thái Nô tiên sinh, kính thỉnh hai vị vào trong trò chuyện"
Tiên Thái Nô liếc y một cái, vui vẻ hỏi: "Ta nhớ ngươi ngày xưa bí xí bị xị, đâu có dám nói lớn giọng, giờ ta thấy ngươi thay đổi dữ a!". Mạc Ất đáp: "Tân chủ giao cho tiểu nô việc quản gia, nếu tiểu nô không thay đổi, chỉ sợ phụ lòng chủ nhân tin cậy!". Tiên Thái Nô thấy rõ, hai gã Mạc, Tiết đều lộ vẻ mến mộ khi nói đến người chủ mới này, ông chợt hiếu kỳ,chỉ mong sớm được gặp người đó, bèn tươi cười, dấn bước đi vào trong trang. Diêu Tình cũng nối gót theo sau, bị Tiết Nhĩ hằn học lườm cô, nói: "Con giặc cái kia, ngươi còn lần mò đến đây làm gì vậy?"
"Thằng giặc tai to", Diêu Tình nổi đoá, đưa một tay ra nắm tai Tiết Nhĩ, xách hắn lên, hầm hừ: "Ngươi mắng ta thế nào?". Tiết Nhĩ gần đứt lỗ tai, quờ quạng chân đạp tứ tung, luôn miệng rên la. Ôn Đại rất không bằng lòng, bảo cô: "Tình Nhi, sao con lại đi ăn hiếp người ta vậy?" Diêu Tình hằn học trả lời: "Sư phụ, người không nghe nó thoá mạ con à?" Rồi cô quay sang chất vấn Tiết Nhĩ: "Mi có thoá mạ người ta, đúng không?" Tiết Nhĩ cãi: "Ta không có thoá mạ người, ta chỉ chửi giặc cái thôi!". Mặt Diêu Tình đanh lại, sát cơ hiện rõ trong mắt! Ôn Đại cảm thấy kỳ lạ, bà không hiểu tại sao hai người lại sinh thù hận, mắt thấy Diêu Tình sắp hạ sát thủ, bà vội vươn tay ra, phất nhẹ vào cổ tay Diêu Tình, lập tức cánh tay cô bị tê liệt, không chạm vào người Tiết Nhĩ được! Cô bực tức, la lớn: "Sao sư phụ lại đi bênh người ngoài vậy?"
Ôn Đại bảo: "Hắn thoá mạ người khác là sai, con nắm kéo lỗ tai hắn cũng không phải phép." Tiết Nhĩ nói: "Đúng thế! tiểu nhân động thủ, quân tử động khẩu , thoá mạ người khác là chuyện của quân tử làm, động tay động chân đúng là trò tiểu nhân". Y còn chưa dứt lời, đã thấy nhoáng một cái trước mặt, lãnh trọn một bạt tai của Diêu Tình, mắt nổ đom đóm thấy ba mươi sáu ông sao! Diêu Tình gằn giọng: "Ừa, quân tử huynh, tiểu nhân vừa mới tặng quân tử huynh một bạt tai đích đáng!", câu nói vừa dứt, bạt tai đã đánh xong. Ôn Đại khóc cũng dở, mà cười cũng dở, chỉ biết nắm tay, kéo cô đi theo bà vào bên trong. Tiết Nhĩ mặt mày ủ rũ, y không ngớt khạc nhổ vào phía sau lưng Diêu Tình.
Vào đến linh đường, Thương Thanh Ảnh đang ngồi trực cạnh đấy, Mạc Ất bèn đứng ra giới thiệu hai bên. Thương Thanh Ảnh nghe đại danh Địa Mẫu đã lâu, Ôn Đại cũng đã từng có biết qua thân thế Thương Thanh Ảnh, giờ được gặp gỡ, cả hai đều cảm giác đối phương dễ thân cận, cùng đem lòng kính nể nhau. Hai phu phụ Ôn Đại tế điệu linh vị Trầm Chu Hư xong, trao đổi hàn huyên đôi ba câu, rồi Ôn Đại hỏi: "Trầm phu nhân, sao không thấy lịnh lang trực tại linh đường vậy?"
Thương Thanh Ảnh đáp: "Hai hôm rồi, nó khó ở, hiện đang nghỉ tại phòng trong". Bà nói xong, chiếu ánh mắt sang Diêu Tình. Diêu Tình chợt bối rối, cô bỗng dưng thấy tim đập loạn xạ, bèn quay đầu, tránh cái nhìn đó.
Ôn Đại hỏi: "Lịnh lang bị bệnh sao vậy? Ôn Đại tôi cũng có biết chút đỉnh y đạo, để tôi vào xem bệnh thử xem sao?". Thương Thanh Ảnh vẻ mặt khó xử, đang định nói gì đấy rồi bà lại thôi, cuối cùng bà thở ra, đưa ba người vào hậu viện. Ôn Đại đưa mắt nhìn, thấy hai bên lối đi các cây hoè cây quế cổ thụ mọc đầy, tán lá rợp bóng, lược bóng xanh mướt lên thân người đi bên dưới. Trong sân sau, có hai nam tử đang đổ xí ngầu chơi trò song lục, người bên trái phong tư tuấn dật, khí độ hơn hẳn bậc vương tôn, người kia mình vận áo vải, cục mịch giống một gã thôn phu, dòm không thấy bắt mắt.
Ánh mắt Ôn Đại tập trung lên gã nam tử tuấn tú, trong đầu bà gật gù: "Quả nhiên là một tên đẹp trai. Chỉ có cái thứ nam tử như vầy mới có thể khiến cho Tình Nhi điêu đứng đến rơi lệ!" Ôn Đại vốn có tư dung mỹ lệ, bà thường xem mặt bắt hình dung, bà ưa chuộng dáng vẻ phong lưu tuấn nhã, nên hiện thời bà rất có cảm tình cùng gã nam tử ngồi mé trái.
Khi cả đoàn vào đến trước sân, hai nam tử thấy có khách, cùng song song bước ra nghênh tiếp. Thương Thanh Ảnh chưa kịp lên tiếng giới thiệu, Ôn Đại đã nở một nụ cười tươi tắn, hỏi:" Đây có phải là lịnh lang không ạ?", ánh mắt bà không rời khỏi thân mình nam tử tuấn nhã. Chẳng dè, gã ta chắp tay, thưa: "Vãn bối Cốc Chẩn, kính chào ra mắt Địa Mẫu nương nương". Ôn Đại ngạc nhiên: "Cậu không phải mang họ Trầm ư? Ồ ... sao cậu nhận ra được ta ?"
Cốc Chẩn cười, đáp: "Vãn bối không phải họ Trầm, và chưa hề gặp tiền bối, chẳng qua, thật hiếm người có mái tóc hoàng kim, Hơn nữa, có thể buộc Diêu đại tỷ đây co cổ rụt đầu, hiện trên đời này, ngoài Địa Mẫu, còn ai khác làm nổi?"
Diêu Tình nổi sùng, nạt: "Xú hồ li, ngươi ngậm cái miệng đó lại giùm đi, kẻo chết uổng mạng!". Ôn Đại thấy đôi bên dấm dẳn, rõ ra kiểu một đôi tình lữ hục hặc nhau, trong lòng bà chợt thấy vui hẳn lên, hốt nhiên nghe nam tử vẻ người chất phác tiến ra, thưa: "Vãn bối Lục Tiệm, xin kính ra mắt Địa Mẫu tiền bối" . Mắt bà Ôn Đại chỉ nhìn thấy có Cốc Chẩn, bà nghe lời chào, cũng miễn cưỡng đáp lễ. Chẳng dè, lúc Tiên Thái Nô vừa nhìn thấy Lục Tiệm, song nhãn ông phình to lên, một tia sáng kỳ dị phóng ra từ đấy. Lục Tiệm có cảm giác tia mắt đó đập mạnh như một quả đại truỳ, uy hiếp thẳng vào tim gã, gã không tự chủ được, lập tức ngưng tụ tinh thần, lắc mình một cái, xuất ra một biến tướng "Cửu Uyên Cửu Thẩm".
Tia mắt hai người giao tranh, thần sắc cả hai đều biến động mạnh, mọi người còn chưa hiểu xảy ra chuyện gì, đã thấy Tiên, Lục hai người chuyển bước, tung ra hai cỗ kình khí xoáy mạnh như con trốt, kình khí ngưng tụ lại như có thể chất, hai con lốc càng xoay càng nhanh, gió thổi tung bay tà áo, đầu tóc mọi người đương trường, gây nên cảm giác lạnh lẽo. Ôn Đại không dè Lục Tiệm dung mạo tầm thường, lại có bản lĩnh kinh người, thần thông cao cường đến mức đó, bà thoáng biến sắc, đưa tay bắt ấn, chuẩn bị khởi động các biến "Hoá Sinh".
Không ai tiên liệu trước được, tia sáng từ mắt Tiên Thái Nô chợt mờ dần đi, rồi biến mất. Ánh mắt đó giảm tới đâu, khí thế trên mình Lục Tiệm giảm theo đến đấy, đến khi tia sáng từ mắt Tiên Thái Nô tắt hẳn, Lục Tiệm cũng đã phục hồi lại cái thần khí chất phác thường ngày.
Ôn Đại giật mình kinh hãi: " Gặp địch cương mãnh, mình cũng cương mãnh theo , cái đó đã là cảnh giới cao thủ ở cấp quá cao rồi, vậy mà thiếu niên này Địch yếu thì mình cũng yếu theo , xem ra chính là lẽ bất dịch ! Nhìn y còn ít tuổi, mà đã làm được bất câu thắng phụ (Không màng hơn thua), đích thực đã tìm về được chỗ phản phác quy chân (về tận nguồn của đơn sơ, giản dị). Bà còn đang suy tư, đã nghe Tiên Thái Nô chậm rãi bảo: "Bổ Thiên kiếp thủ, Kim Cương truyền nhân, thiệt chẳng sai, cái gã thiếu niên mà hai vị Sơn Trạch nhị chủ nói đến, chính là y, không nhầm vào đâu được!"
Ruột gan Ôn Đại chùng xuống, bà biết môn "Thái Hư nhãn" của ông chồng có thể soi thấu tiêm tế, nhận định rất rõ người khác, lời ông vừa nói đó, ắt chẳng sai. Bà lập tức trố mắt quan sát Lục Tiệm, thấy gã thần thái an nhiên, bà bất giác buột miệng hỏi: "Gần đây, túc hạ chắc đã có gặp ba người. Một người cao lớn hùng vĩ, một người già nua gầy còm, lại có một người cao cao gầy gầy, bên trên hàng lông mày phía trái có một nốt ruồi son?"
Lục Tiệm khoé miệng hơi nhăn nhúm, gật đầu: "Tôi đã gặp đủ cả ba". Vẻ mặt Ôn Đại vụt hoảng hốt, bà thất thanh kêu lên: "Nói vậy thì, lời hai vị Sơn Trạch nhị chủ kể lại là chính xác, Thì ra ngươi đã không chết, Vạn Quy Tàng dĩ nhiên cũng vẫn còn sống". Lục Tiệm mặt mày ửng đỏ đến tận mang tai, lên tiếng nhận lỗi: "Hắn ... hắn chẳng những đã không chết, mà tôi lại còn đem cái đầu óc ngu xuẩn đi giúp cho hắn thoát khỏi Thiên kiếp!"
Ôn Đại sắc mặt trắng bệch, ngó Tiên Thái Nô, đôi mắt kinh hoàng. Tiên Thái Nô chau mày, nhăn mặt, lắc đầu bảo: "Hồi Thôi Nhạc và Sa Thiên Hà khoe khoang tự tay chúng giết chết Vạn Quy Tàng, ta đã không tin rồi. Sự tình như vầy, đại thể xem chừng đã ..."
Trong lòng Lục Tiệm hối hận, gã chẳng tự chủ được, cất tiếng la lớn: "Xin hai vị cứ yên tâm, tại tôi thả hắn ra, tôi sẽ không tụ thủ bàng quan được!". Tiên Thái Nô chăm chú nhìn gã một lúc, rồi lắc đầu, nói: "Xin lỗi, ta đây lắm lời, võ công các hạ dẫu cao cường, so với tên ác ma đó, xem chừng còn chưa bằng được hắn!". Lục Tiệm chưa kịp đáp, chợt nghe Cốc Chẩn cười cười, nói: "Thiệt kì quái, các vị là người Tây Thành, cớ sao ai cũng sợ Vạn Quy Tàng hết trơn vậy?". Ôn Đại liếc y một cái, trong lòng bà chợt rúng động, bèn hỏi: "Cậu họ Cốc tên Chẩn, vậy chắc cậu là ...?". Nói ngang đấy, bà dừng lại, ngập ngừng. Cốc Chẩn hiểu bà nghĩ gì, bèn mỉm cười, tiếp lời: "Địa Mẫu nương nương nói không sai, tiên phụ chính là Cốc Thần Thông."
"Tiên phụ!". Sắc mặt Ôn Đại vụt tái hẳn đi, "Cốc Đảo vương chết rồi à?"
Cốc Chẩn thu nụ cười lại, rầu rĩ, se sẽ nói: "Gia phụ cùng Trầm Chu Hư đồng quy vu tận, tôi đã hoả táng thi hài, cốt hôi hiện còn đang để tại thành Nam Kinh.". Hai vợ chồng Ôn Đại đưa mắt nhìn nhau, trầm lặng. Sau một lúc lâu, Tiên Thái Nô lắc đầu bảo: "Họa vô đơn chí, ta cứ nghĩ Cốc Thần Thông tại thế, hợp cùng truyền nhân của Kim Cương môn, may ra có thể chế ngự được ác ma đó, bây giờ thì ... Ôi (ho sù sụ) ...". Cốc Chẩn hỏi: "Hai vị đều uý kị Vạn Quy Tàng, chắc đã có thù oán gì với hắn?"
Ôn Đại thở dài, nói: "Mời mọi người kiếm chỗ ngồi, rồi tiền nhân hậu quả, để hai vợ chồng ta kể rõ cho nghe"
Tất cả vào sảnh đường chia nhau ngôi thứ, ngồi xuống. Diêu Tình đứng sau lưng Ôn Đại, thấy Lục Tiệm đang nhìn mình, cô bất giác mắng thầm trong lòng: "Cái đồ ba lòng bốn dạ xú tặc nhà ngươi, nếu không có sư phụ ta ở đây, để coi bổn cô nương có giần xác ngươi ra không cho biết!". Vừa mắng thầm, đầu quyền vừa nắm chặt lại, cô làm vẻ mặt lạnh lùng, mắt không thèm ngó tới y. Lục Tiệm thấy cô vẻ mặt lạnh lùng, trong tâm gã chợt thấy cực kỳ đau đớn, "Cô đối xử với mình sao lạnh hơn băng giá!"
Ôn Đại trầm ngâm một lúc lâu, trấn tĩnh tâm thần, rồi kể: "Trước khi Tư Cầm tổ sư tọa hóa, đã buộc cả tám bộ lập lời thề: Chủ nhân Tây Thành phải do đệ tử cả tám bộ bầu lên, nhiệm kỳ mười năm, ai dám sai lời, cả tám bộ phải hợp nhau lại triệt hạ đi Nên biết rằng, truyền qua các đời khác nhau, các vị chủ Tây Thành đều phẩm hạnh cao khiết, rất được lòng người, chí công vô tư, mặt võ công chưa hẳn giỏi vào hàng số một ở Tây Thành. Đến đời Vạn Quy Tàng, đột nhiên xảy ra một biến cố, hắn cậy võ công cao cường, phản lại huấn thị của tổ sư, giết chết người chủ Tây Thành đã do tám bộ đề cử, dùng bạo lực khuất phục cả tám bộ. Trong tám bộ, chỉ trừ Thiên Bộ, bảy bộ kia ngoài mặt giả vờ thần phục y, nhưng trong lòng phẫn hận, do không chống nổi thần thông cao siêu của y, đành nuốt hận cúi đầu. Vì đây là lần đầu xảy ra chuyện dùng võ lực cướp quyền, bọn đệ tử gian tà trong các bộ lợi dụng cơ hội, hùa nhau làm chuyện thương thiên bại lý, rủ nhau tập luyện các pháp môn tà đạo cấm kỵ. Nhất là vài đứa của Thuỷ Bộ, bất chấp lẽ trời, cùng nhau lén lút diễn tập trận Thuỷ Hồn dùng toàn các thần thông hiểm độc, rồi chuyện đó bị người phát giác, đem tố cáo cho Vạn Quy Tàng hay,"
"Nếu chiếu theo quy củ lâu đời, chỉ cần trừng phạt số đệ tử Thuỷ Bộ đó, cảnh cáo làm gương cho chúng đệ tử là đủ, nhưng đâu ngờ Vạn Quy Tàng mượn cớ ra oai, bất chấp phải trái, trắng đen, đã đem tàn sát hầu hết các môn đồ của Thuỷ Bộ. Trước tình cảnh đó, sáu bộ kia đều cảm thấy nguy cơ, chỉ vì còn uý kỵ Chu Lưu Lục Hư công , còn ngầm sợ hãi y trong lòng, không ai dám có phản ứng. Dù mọi người không nói ra miệng, ai nấy đều hiểu rõ, Chu Lưu Lục Hư công lợi hại như vậy, chỉ trừ trường hợp tóí cần thiết cho an nguy Tây Thành, tuyệt không thể đem ra sử dụng bừa bãi. Đó là lý do tại sao năm xưa, Tư Cầm tổ sư đã chia pháp đó ra làm tám phần, không truyền thụ toàn bộ cho bất kỳ đệ tử nào. Tổ sư không muốn đệ tử đời sau có cơ hội gồm thâu, tu luyện được toàn bộ pháp đó. Vì võ công đó thập phần quái dị, tám luồng kình khí Chu Lưu, dù bản chất tương sinh, nhưng có lúc lại tương khắc, sử dụng đúng cách, tám luồng hoà hợp với nhau, không gì chống lại được, nếu phạm sơ suất trong lúc sử dụng, tám luồng đó sẽ đối chọi nhau, người sử dụng tự rước hoạ vào thân, lập tức chết không có đất chôn. Hai trăm năm qua, phần lớn các đệ tử tu tập pháp môn đó, khi luyện đến chỗ nội kình phân thành hai chủng loại khác nhau, thể nào cũng bị hai luồng đó xung kích lẫn nhau, khi thì Thuỷ Hoả giao tranh, khi thì Phong Lôi đối chọi, có khi lại là Thiên Địa đảo nghịch, rốt cục đều bị chết thê thảm. Trước Vạn Quy Tàng, chỉ có một vị luyện được bốn luồng kình khí Sơn, Trạch, Thủy, Phong, đến khi chuyển qua luyện Chu Lưu Điện Kình , y đã vô ý thu hút Sấm Sét nhà trời, bị thiên lôi đả đến cháy tiêu toàn thân thành tro bụi!"
Cốc Chẩn nói: "Chẳng trách Tư Cầm tổ sư đã không truyền lại tâm pháp Bát Kình đó!"
Ôn Đại lưỡng lự một chút, rồi bảo: "Truyền thì có truyền thực đấy!" Cốc Chẩn hỏi: "Nếu có tâm pháp lưu truyền, tại sao không một ai luyện thành công vậy?". Ôn Đại rầu rĩ đáp: "Cái tâm pháp tuy được lưu truyền lại thật, nhưng có cũng như không, tại vì cả tâm pháp chỉ gói trọn trong một chữ độc nhất!" Cốc Chẩn lấy làm lạ, hỏi: "Chỉ có một chữ thôi à? Chữ gì vậy?". Ôn Đại trả lời: "Một chữ HÀI (như trong HÀI HOÀ)." Cốc Chẩn đôi mày lập tức chau lại, dáng suy tư.
Ôn Đại bảo: "Từ xưa xưa đến giờ, không biết bao nhiêu đời đệ tử Tây Thành đã suy nghĩ đến vỡ đầu nhức óc về cái chữ HÀI đó, tuyệt chẳng kẻ nào khám phá, lĩnh ngộ được cái ẩn ý bên trong. Vậy mà không hiểu Vạn Quy Tàng dùng cách quái quỷ gì, y đã thông hiểu ý nghĩa, y từ đó khám phá các ảo diệu bên trong, luyện thành công trọn bộ cả tám luồng kình khí. Khởi đầu lên làm Thành chủ, tuy thủ đoạn hiểm ác, nhưng thần thái y còn thung dung, chỉ bằng vào khí thế vô địch bức nhân, khiến thuộc hạ tuy thống hận y, nhưng rồi cũng phải đem lòng kính nể. Dần dà, y càng giết người nhiều, tính tình càng trở nên kỳ quái, có khi đang hoà nhã, bất chợt đổi qua tàn bạo bất nhân, hệt như khí trời thay đổi từ tiết xuân ấm áp dễ chịu vụt chuyển qua trời thu ảm đạm lạnh lẽo, y đã biến thành một con người khác hẳn, với cá tính đối nghịch hoàn toàn con người cũ của y. Y bộc lộ một dã tâm cực kỳ kinh khiếp, đã bắt đầu bằng triệu tập đệ tử các bộ, giương cao ngọn cờ Đập tan Đông Đảo , đi đông chinh, đánh cho Đông Đảo đại bại. Rồi còn chưa đủ thoả mãn sau chiến thắng đó, y hạ lệnh Hỏa bộ phải cố gắng chế tạo hỏa khí, y thảo binh pháp ước thúc các bộ, với duyên cớ Nhà Đại Minh sở dĩ đoạt được thiên hạ toàn do hai bàn tay của Tư Cầm tổ sư dâng lên, theo cái lý Thiên Đạo vô thường , họ Chu ngồi ngai vàng đã nhiều năm rồi, đã đến lúc phải nhường ngai vàng đó cho họ khác lên thay thế cho thuận lẽ trời! Y còn bảo : Đông Đảo là thù nhà, còn oán thù giữa Hồng Vũ Đế và Tư Cầm tổ sư là nợ nước, tổ sư đành ôm hận mà chết, bọn đệ tử đời sau sao có thể dửng dưng thõng tay làm ngơ được!"
"Nghe y đưa ý kiến đó, mọi người không ai không thấy hãi hùng! Nhưng trước cái gương Thuỷ Bộ, ai cũng sợ, lên tiếng phản đối y, là cầm chắc lãnh cái hoạ diệt vong! Trong lúc mọi người vô kế khả thi, hốt nhiên đã xảy đến một cơ hội. Vào năm ấy, Vạn Quy Tàng đánh bại hoà thượng xong, lúc trở về núi, hậu quả cuả trận giao tranh đó là y bị Thiên Kiếp phát tác. Vào giưã một buổi họp, y chợt hiện thần sắc thống khổ kịch liệt, trừ Trầm Chu Hư của Thiên Bộ và Thuỷ Bộ, các Bộ chủ của sáu bộ kia đều nhìn thấy rõ ràng, cùng lặng yên ngó nhau, ta vốn thẳng tính, bèn lên tiếng hỏi duyên cớ, chẳng dè y nổi cơn thịnh nộ, ném cái gối vào người ta, đuổi ta ra ngoài! Tất cả các bộ chủ không ai hiểu ý tứ ra sao! Qua hôm sau, y triệu tập cuộc họp bàn về chuyến Đông Chinh sắp tới nhằm thanh toán dư đảng Đông Đảo, đang nửa chừng câu nói, y gục rũ người xuống, hai tay ôm vào đầu, toàn thân mình run cầm cập. Cao thủ sáu bộ thấy thế, chẳng hẹn, đồng loạt xuất tuyệt chiêu, Vạn Quy Tàng không kịp thì giờ chống đỡ, bị trúng đòn hội đồng, thịt nát xương tan. Lục Tiệm giật mình, hỏi: "Nếu xảy ra như vậy, làm sao hắn sống lại được?". "Bây giờ nghĩ lại, thấy từ đầu đến cuối, rặt là một âm mưu đã có tính toán sắp đặt trước.", Ôn Đại rầu rĩ nói," nếu ta đoán không lầm, Vạn Quy Tàng đã sớm tiên đoán vụ Thiên Kiếp, và y cũng biết các Bộ chủ Tây Thành chỉ giả vờ thần phục ngoài mặt, trong lòng đều rất đỗi thù hận y, vào cái ngày y bị Thiên Kiếp thực thụ phát tác, y có thăng thiên độn thổ cũng đừng hòng chạy đâu cho thoát. Y suy nghĩ thật lâu, đã tìm ra một kế sách cực hiểm. Trước cái ngày y dự đoán Thiên kiếp bộc phát, y đã cho tạo sẵn một thân xác giả giống y như hệt, cho mặc y phục, hoá trang đầu cổ tóc tai như thật, giấu nó bên dưới bàn, rồi giữa cuộc họp, y giả vờ lên cơn, dẫn dụ cho các cao thủ vây công, lúc đó y chưa mất thần thông, bao nhiêu phi sa tẩu thạch, các đòn tấn công, y đều trổ thần thông đưa lên cái xác giả, rồi trong cơn hỗn loạn, y dùng thuật độn thổ, trốn đi ẩn náu ở một nơi thâm sơn cùng cốc từ bấy đến giờ, yên lòng đối phó, chịu đựng nạn Thiên Kiếp. Các bộ khi tra xét thấy cái xác thịt nát xương tan, áo quần tơi tả, đều vui mừng rằng đã trừ được kẻ thù chung, đâu có ngờ đến cái huyền cơ bên trong! Và trước buổi họp đó, mượn cớ khu trừ dư đảng Đông Đảo, Vạn Quy Tàng đã không cho Trầm Chu Hư tham gia cuộc họp. Trầm sư đệ vốn trung thành tuyệt đối cùng y, lại là người cực kỳ thông minh, ngộ nhỡ để họ Trầm phát giác các trẫm triệu Thiên Kiếp, nhất định sẽ tìm cách đề phòng sáu bộ kia hợp công, sẽ làm hỏng đi kế hoạch trá tử của họ Vạn. Cũng vì cái ngõ ngách đó, đưa đến chỗ hai vị chủ bộ Sơn Trạch đâm sinh nghi, Thôi Sa hai người đều cực kỳ căm hận Vạn Quy Tàng phản bội quy củ công tuyển của tổ sư truyền lại. Hai người một khi đã nghi ngờ, bèn lục tung thiên hạ, truy tầm họ Vạn. ...". Bà nói đến đấy, nhất thời nghĩ đến công trình cuả cả hai đã bị tiêu tan vào cái lúc tưởng chừng sắp thành công đến nơi ... bất giác bà ngưng nói, thở dài sườn sượt!
Lục Tiệm ngượng ngập nói: "Chỉ tại tôi vô ý, đã gây ra đại hoạ!" . Ôn Đại lắc đầu, bảo: "Cái đó cũng không hoàn toàn trách cứ cậu được! Vạn Quy Tàng cư xử rất khéo, hắn không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào, có thể cực kỳ nham hiểm, thiên hạ khó có ai bằng! Cậu đã chỉ nhìn thấy cái dáng vẻ ôn hoà của hắn, tất nhiên nghĩ hắn là người tốt, hành vi đàng hoàng đứng đắn!"
"Sư phụ.", Diêu Tình hỏi, "Trầm Chu Hư nếu đúng là tâm phúc của Vạn Quy Tàng, sao ông ta lại đã không phát hiện ra âm mưu trá tử của Vạn Quy Tàng?"
Ôn Đại chưa kịp đáp, Cốc Chẩn đã cười cười, nói: "Muốn kiềm chế người ta, đừng cho người ta nắm được thóp của mình! Vạn Quy Tàng biết sắp tới ngày Thiên Kiếp rồi, mạng sống khó giữ, y đâu có khờ khạo đem cái mạng nhỏ của mình đưa vào tay người khác lo liệu giùm!". Ôn Đại gật đầu, khen: "Nói rất chí lý!". Diêu Tình đỏ mặt, giấm giẳn gã: "Thông minh gì ngươi, đồ mèo mù đi lụm chuột toi!". Ôn Đại nghĩ đến bao nhiêu khó khăn trước mắt, tiền đồ vô định, lộ thần sắc ảm đạm. Tiên Thái Nô choàng tay sang vai bà, nhăn nhó bảo: "Đại nương, đừng buồn nữa! Tìm cách tránh hoạ đó, ta cũng có phần lo lắng vậy. Mình sống đến từng này tuổi rồi, coi như cũng tạm đủ. Nếu Vạn Quy Tàng tìm đến tính sổ, bọn mình xả thân bồi tiếp là cùng!"
Câu nói đầy khí thế hào hùng, Diêu Tình nghe qua, chợt rầu rĩ! Cô ra sức thu thập tám bức hoạ tượng, dự định luyện thành công thần thông, rồi trước uy chấn Tây Thành, sau tính chuyện báo cừu tuyết hận, bây giờ nhìn diễn biến tình hình, nhìn mối huyết hải thâm cừu giữa Vạn Quy Tàng với quần hùng bẩy bộ Tây Thành, khi y ra tay phục hận, sẽ lại tóm thâu về trong tay cái oai phong ngày xưa của y. Chưa kể khi y tái xuất, cái hy vọng gồm thâu đủ tám bức hoạ tượng để "Bát đồ hợp nhất" sẽ bế tắc, trở thành tuyệt vọng, chuyện "Thiên hạ vô địch", rõ ràng sẽ là cả một dấu hỏi to tướng!
Càng nghĩ, cô càng thấy giận Lục Tiệm, thầm oán: "Sao y lại hồ đồ đến vậy, chẳng biết ất giáp gì, đi giải thoát con quái vật đó ra khỏi cấm chế Thiên Kiếp, cho hắn tái xuất giang hồ! Ôi ... số kiếp mình đến khổ, sao cuộc đời lại đưa đẩy mình đụng vào quái vật đó! Cái thằng xú tử ngu ngốc đần độn này, đúng là ngôi sao quả tạ đen đủi bám theo ám ảnh đời mình!"
Lục Tiệm lỡ tay giải thoát cấm chế cho Vạn Quy Tàng, đã mang biết bao phiền muộn trong lòng, giờ lại mục kích Diêu Tình bĩu môi nhăn nhó mặt mày với gã, ánh mắt lạnh lùng băng giá trộn lẫn một thoáng khinh miệt chĩa vào gã, trong lòng Lục Tiệm đau xót như có cương châm đâm vào, ruột gan gã tan nát tơi bời!
Đúng lúc đó, chợt nghe tiếng cười của Cốc Chẩn, rồi y nói: "Mọi người khoan hãy phiền muộn đã, dẫu Vạn Quy Tàng lợi hại, nhưng không phải không có đối sách chống lại hắn!". Mọi người nghe thế, đêu đồng loạt mừng rỡ, cùng cất tiếng hỏi: "Đối sách ra sao?"
Cốc Chẩn tiếp tục cười, giải thích: "Có phải Vạn Quy Tàng đúng là thiên hạ vô địch không?" Ôn Đại đáp: "Còn phải hỏi!". Cốc Chẩn bảo: "Vạn Quy Tàng dĩ nhiên là thiên hạ vô địch, nhưng còn có một thứ này nữa, cũng là Thiên hạ vô địch ."
Ôn Đại thoạt ngạc nhiên, rồi ý niệm xoay chuyển, bà cau mày hỏi: "Cậu muốn nói ... Bát Đồ hợp nhất ?". Cốc Chẩn vẫn cười, đáp: "Đúng thế!". Gã chuyển ánh mắt sang chăm chú nhìn Diêu Tình! Diêu Tình chợt thấy bực mình, cô cau có: "Xú hồ li, sao mi nhìn ta chằm chằm như vậy?". Cốc Chẩn đứng lên, chắp tay: "Chúc mừng đại mỹ nhân, hoan hỉ mừng đại mỹ nhân."
Nếu nghe kiểu cách ăn nói châm chọc chất chưởng thường ngày của gã, Diêu Tình lại thấy yên tâm hơn! Hiện thời, trước vẻ cung cung kính kính của gã, trong lòng Diêu Tình phát hoảng, nghĩ bụng gã này tiếu lý tàng đao , nhất định chẳng có ý đồ gì tốt với mình, cô bất giác lui lại một chút, tròng mắt xoay chuyển, gắt: "Ta có chuyện vui gì để ngươi chúc mừng vậy? Xú hồ li, ngươi có rắm cần phóng ra, thì phóng mau đi! Cái điệu bộ giả nhân giả nghĩa đó, thiệt làm người ta thấy chán ngắt!"
Cốc Chẩn mắt nhìn chòng chọc vào cô, miệng cười giả lả, nói: "Có đúng thế không, Bát đồ hợp nhất, thiên hạ vô địch ? Chúc mừng đại mỹ nhân đã thu tóm được cả tám bức hoạ đồ, tương lai không xa, sẽ là thiên hạ vô địch thôi!"
Diêu Tình giật bắn người, hét lớn: "Ngươi đừng có nói xàm nè! Ta đâu đã có đủ tám bức họa đồ đâu!"
"Còn không chịu thừa nhận há?", Cốc Chẩn đáp, " Để ta kể ra, nếu chỗ nào ta nói sai, cô cứ lắc đầu, chỗ nào ta nói đúng, cô gật đầu nhen". Diêu Tình hừ lạnh một tiếng, đáp: "Được rồi, cứ thế mà làm!". Cốc Chẩn nhoẻn miệng cười, nói: "Cô trốn khỏi Tây Thành, đã trộm theo hoạ tượng của Địa Bộ, đúng hay sai?" Diêu Tình gật đầu vài cái, Cốc Chẩn lại tiếp: "Ở Thúy Vân cổ tự, cô được Tiên Bích giúp sức, đã bức bách lấy được hai hoạ tượng của Phong, Lôi nhị chủ, đúng hay sai?" Ôn Đại nghe được, trừng mắt nhìn Diêu Tình. Diêu Tình cảm thấy mặt mày nóng hừng hực, nhưng vì đó là sự thật, cô đành phải tiếp tục gật đầu.
Cốc Chẩn vẫn cười, tiếp: "Thủy, Hỏa, Sơn, Trạch tứ bộ, các họa tượng lọt vào tay Ninh Bất Không, lão này đem đọc bí ngữ trên đó cho Lục Tiệm nghe. Rồi Lục Tiệm đã học lại tất cả cho cô, đúng hay không đúng? " Diêu Tình lại lạnh lùng hứ một tiếng nữa, đáp: "Như vậy, tính tới tính lui, mới chỉ có bẩy thôi hà!"
"Đừng vội!", Cốc Chẩn khoát tay, nói, "Trầm Chu Hư đã đem hoạ tượng của Thiên Bộ truyền lại cho Lục Tiệm, hoạ tượng của Thiên Bộ truyền từ đời nọ sang đời kia, tối hôm qua, cô đến kiếm Lục Tiệm làm gì vậy?". Diêu Tình lại giật mình lần nữa, cô thầm oán Lục Tiệm sao đem chuyện đó tiết lộ ra ngoài, bèn giận dữ lườm y, bặm môi bặm miệng, nhưng không nói tiếng nào! Cốc Chẩn cười ruồi, hỏi: "Đại mỹ nhân, sao không thấy nói năng gì hết vậy? Cô kiếm Lục Tiệm, rốt cục để làm gì vậy?"
Diêu Tình đỏ mặt tía tai, thét lên: "Ta đi kiếm nó, việc gì đến ngươi mà ngươi xen vào?". Cốc Chẩn vẫn cứ cười cười, Ôn Đại ánh mắt trở thành nghiêm khắc, hỏi: "Tình nha đầu, rõ ràng ngươi đã nói dối ta! Hoạ tượng của Thiên Bộ, thì ra ngươi đã lấy được từ lâu rồi!"
Diêu Tình vội vàng nói: "Con không có nói dối!". Ôn Đại nổi giận, hứ một tiếng, phất ngọc thủ, Diêu Tình bất ngờ, không đề phòng, đã bị điểm trúng vào chỗ tâm khẩu, ngay huyệt "Đản trung" . Ôn Đại mò tay vào trong bọc cô, tìm lục và moi ra cây ngọc trâm, bà sa sầm mặt xuống, hỏi: "Cái này là tín vật của chủ bộ Thiên Bộ, làm sao nó lọt được vào trong tay ngươi?". Diêu Tình mang mặc cảm tội lỗi, cô cúi đầu , lặng thinh.
Ôn Đại hừ nhẹ, đưa mắt quan sát kỹ cây trâm, Tiên Thái Nô chợt kêu lên: "Cây trâm đó rỗng ruột!". Mắt Ôn Đại đanh lại, bà quay sang nhìn Lục Tiệm, hỏi: "Có đúng là Trầm sư huynh đã đem chức Bộ chủ Thiên Bộ truyền lại cho cậu không?" Lục Tiệm rầu rĩ đáp: "Đúng vậy". Ôn Đại hỏi : "Nếu quả thực là thế, đây là tín vật của người Bộ chủ, tại sao cậu lại khinh xuất đem đưa cho người khác?" Lục Tiệm vẻ ngượng ngùng, đỏ mặt lên, lí nhí: "Cái đó ... là tôi ... tôi ... cô ấy ... cô ấy ...?", rõ ràng giọng điệu của một kẻ đã bị nữ nhân bắt nạt, trước đông đủ mọi người đương trường, làm sao nói ra được!
Ôn Đại quan sát dáng vẻ của gã, đã hiểu phần nào, trong lòng bà chợt thất vọng não nề, "Thì ra đây là bồ bịch của Tình Nhi? Tình Nhi ngon lành, sắc sảo, lẽ ra người yêu phải là một chàng trai tuấn tú lanh lẹn, sao đi vớ nhầm một gã ấm ớ, đần độn! Còn kỳ quặc hơn nữa, Trầm sư đệ thâm mưu viễn lự, sao lúc lâm tử hồ đồ quá, đem cái chức chủ bộ tổ tông lưu truyền giao cho một cái thằng trí lực tầm thường như vậy kia!" Trong lòng bà rối rắm bao nhiêu câu hỏi không có đáp án, bèn đưa vây trâm giao lại Lục Tiệm, bảo: "Cậu nhìn thử xem, cái vật gì ở bên trong đã bị ai lấy đi mất rồi!"
Lục Tiệm định đưa tay nhận cây trâm, mắt nhìn thấy Diêu Tình đang nổi giận, gã bất giác lưỡng lự, bất ngờ Cốc Chẩn đã vươn tay ra chộp lấy cây trâm, mở banh ra, cười hì hì, nói: " Đúng là trống rỗng thật!". Rồi hắn quay một vòng, đưa ra cho mọi người cùng xem.
Ôn Đại càng lúc càng bực, chằm chằm nhìn Diêu Tình, hỏi: "Trong đó đã chứa cái gì vậy? ". Diêu Tình vừa rối, vừa tức, la lớn: "Quả tình bên trong không có gì hết!". Ôn Đại quắc mắt, hét lên: "Con nha đầu này, vẫn còn muốn trí trá hả? Ngươi mà không nói ra sự thực, chớ trách ta đây ...!". Diêu Tình khoé mắt đỏ quạch, cô la lớn: "Sư phụ, nếu lão nhân gia không tin lời con, cứ giết chết con đi!". Ôn Đại giận quá, quát lên:,"Ngươi vẫn còn cãi bướng hử?". Bà cực kỳ giận dữ, bèn vung tay lên, tát cho cô vài cái bạt tai. Diêu Tình ăn đòn, mặt mày tím đỏ, trong lòng cảm thấy bị oan ức, mắt cô đã đổ lệ ròng ròng.
Lục Tiệm nhìn cảnh tượng, kinh hãi, đang định tiến đến, đầu vai gã đã bị Cốc Chẩn giữ chặt, rồi y cười cười, nói: "Cô nương việc gì phải khổ sở làm vậy, là ta chỉ muốn cười đùa cô một chút xíu thôi!". Ôn Đại không hiểu, hỏi lại: "Có gì đáng cười đâu kia chứ!". Cốc Chẩn moi từ trong bọc ra một cuộn giấy dài, hì hì, nói: "Cái món đồ bên trong cây trâm, là cái này đây!". Diêu Tình thoáng nhìn qua, quá sức giận dữ, cô hét lên: "Đồ hồ ly chết giẫm, thì ra ngươi cố tình vu oan cho ta". Ôn Đại cũng thấy bực, bèn hỏi: "Túc hạ thật ra muốn gì?"
Cốc Chẩn đáp: "Tôi chẳng muốn gì hết, chỉ định cho đại mỹ nhân đây bị một trận khổ đau, xem mùi vị đó ra sao! Nói cho cô hay, cô làm khổ người ta nhiều quá rồi, ta phải tìm cách cho cô cũng nếm mùi, cho cô biết!". Diêu Tình nghe y nói thế, cô biết Cốc Chẩn muốn ra tay rửa hận cho Lục Tiệm, cô lập tức nổi đoá, cặp mắt trừng trừng ngó Lục Tiệm, một cái quắc mắt chẳng cho người bị nhìn thấy được yên tâm chút nào! "Cũng còn may hắn chưa đem dâng nó cho cô nương họ Ninh, mình đã nghi oan hắn mất rồi!". Nghĩ như vậy, cô bớt giận dữ, có đôi chút hối hận, nhưng đã chẳng được lâu, cô lại cho là chính Lục Tiệm đã đem vật trong cây trâm đưa cho Cốc Chẩn, lại đùng đùng nổi đoá trở lại!
Cốc Chẩn mở rộng tờ giấy ra, vừa cười vừa nói: "Tổ sư truyền lại tám tấm hoạ đồ, đại mỹ nhân đã ẵm được bẩy bức rồi, trên này là phần bí ngữ của Thiên Bộ, hôm nay, đúng là dịp tám bức hợp nhất.". Hắn ngẩng đầu ngó Ôn Đại, vẫn cười, hỏi: "Địa Mẫu nương nương, bà nghĩ sao?". Ôn Đại khẽ chau mày, đáp: "Có thể là ta sai, nhưng, bát đồ hợp nhất, chưa hẳn đã có chút thần thông gì!". Cốc Chẩn nói: "Khoan nói chuyện có thần thông hay không đã, cứ trông vào hai chữ Vô Địch , nhìn cho kỹ lại, chắc cũng có cách đối phó Vạn Quy Tàng!"
Ôn Đại và Tiên Thái Nô bốn mắt nhìn nhau thật lâu, rồi cùng giữ yên lặng. Cốc Chẩn cười cợt: "Diêu đại mỹ nhân, ta đang trông chờ cô kìa!". Diêu Tình hận gã thấu xương, chu chu cái mỏ, thần sắc ra chiều lạnh nhạt. Cốc Chẩn vẫn cười: "Cô hoá ra chẳng muốn thấy bát đồ hợp nhất? Được thôi, vậy để ta huỷ cái tờ giấy này quách đi cho rồi!". Y đưa tay làm điệu bộ xé giấy.
Diêu Tình trải biết bao khó khăn gian khổ mới có được mật ngữ của bảy bức hoạ tượng, chỉ thiếu có mỗi phần bí ngữ của Thiên Bộ! Cô lập tức không kiên trì được nữa, vội vội vàng vàng kêu lên: "Chậm đã". Cốc Chẩn bèn dừng tay lại, hì hì cười, bảo: "Đại mỹ nhân quả nhiên cũng phải nhận thua!"
Lần nào đấu tri cùng gã, Diêu Tình cũng đều bị lạc hạ phong, cô hổn hển, cất giọng lành lạnh hỏi: "Bộ ngươi thật tình muốn ta viết đủ cả bẩy bí ngữ kia lên giấy cho ngươi à?" Cốc Chẩn trả lời: "Đúng thế! Đúng là thế!". Diêu Tình hỏi: "Ngươi muốn mậu dịch, lấy một đổi bẩy, thật bất công quá lắm!". Cốc Chẩn vẫn cười: "Vụ này không tính toán kiểu đó được! Cô chính là đem đổi bẩy lấy tám, lời được một, mà chẳng hề mất vốn!"
Diêu Tình hận y đến toàn thân phát run, thầm nghĩ, bẩy bộ bí ngữ đó, mình đã phải vào sinh ra tử, tốn không biết bao nhiêu tâm cơ, bây giờ đến nước này, lại bị Cốc Chẩn không khó khăn gì mà đọat được, chiếm hết tất cả mọi tiện nghi. Nhưng, bát đồ hợp nhất, thiếu một là không xong! Diêu Tình dẫu hận gã đến đâu đi nữa, cô đang lép vế, chỉ có một đường duy nhất như Cốc Chẩn đã nói, cô đem bẩy đổi lấy tám, đúng là một nước cờ cao!
Suy đi nghĩ lại xong, Diêu Tình bặm môi, giọng quả quyết: "Thôi được, chịu cho xú hồ li nhà ngươi đắc thế phen này." Cô nói dứt lời, ngước mắt nhìn Ôn Đại, chỉ thấy bà sắc mặt thâm trầm, đôi mày thưa thớt màu hoàng kim khẽ nhướng lên, vầng trán bà nhíu lại, hiện ra vài nếp nhăn nho nhỏ, trong lòng Diêu Tình chợt thấy nặng trĩu, hơi thở ách lại, cổ họng cô nghẽn tiếng.
Ánh mắt Cốc Chẩn vụt loé sáng, gã cười cười, hỏi: "Địa Mẫu nương nương có điều gì khiến bà lo lắng quá thế? " Ôn Đại nhạt giọng, bảo: "Cậu người Đông Đảo, chúng ta Tây Thành, tám bức hoạ tượng vốn là bí mật trọng đại của Tây Thành, để lọt vào mắt cậu, ta thấy không ổn!". Cốc Chẩn hỏi lại: "Vậy cái lão Vạn Quy Tàng đó, bà rốt cuộc có thấy hắn là kẻ thù của tôi hay không?". Ôn Đại gật đầu, nói: "Ta có thấy vậy". Cốc Chẩn đạo: "Lão ta có mang cừu hận gì với Địa Mẫu nương nương không?". Ôn Đại trầm ngâm, rồi nói: "Bữa đó, ta cũng có góp phần vào cuộc vây công, đúng là có oán cừu!"
"Vậy đúng quá rồi!" Cốc Chẩn nói: "Tất cả chúng ta cùng chung một kẻ thù, lẽ ra phải đồng tâm hiệp lực, sao lại còn đi phân biệt những gì là đông tây, là nam bắc?". Ôn Đại bảo: "Cái lý đó tuy không sai, thế nhưng ..", nói đến đấy, trong lòng bà rối loạn, bà bèn đưa mắt nhìn vào Tiên Thái Nô. Ông Tiên Thái Nô hiểu bà nghĩ gì, ngán ngẩm: "Điều vị Cốc thiếu chủ đây nói hoàn toàn có lý, đối đầu cái tình hình phi thường hiện nay, mà cứ đi câu nệ vào điều lệ cũ rích, chính là tự trói tay trói chân chờ chết!"
Ôn Đại thở dài sườn sượt, đưa tay giải khai huyệt đạo cho Diêu Tình. Cốc Chẩn sớm đã dự liệu giấy bút, Diêu Tình tay chân được cử động thoải mái xong, bèn ngồi xuống chép các bí ngữ ra giấy, vừa viết cô vừa nghĩ: "Mình cứ viết chệch đi một vài chữ, xú hồ li có gom được cả tám, cũng không thể giải mã những bí mật trong đó, rồi lúc mình lấy được bí ngữ của Thiên bộ, tương lai ...", cô đang nghĩ đến đấy, chợt nghe Cốc Chẩn cười cười, bảo cô: "Đại mỹ nhân, đừng có viết sai đi đấy! Nếu dựa theo những cái cô viết, ta không giải được bí mật cuả cả tám bộ hợp nhất, cô cũng đừng hòng ghé mắt vào phần bí ngữ của Thiên bộ đâu đấy!" Diêu Tình vụt xốn xang trong lòng, cô nổi giận: "Xú hồ li, ngươi tính nuốt lời à?"
Cốc Chẩn đáp: "Cô viết đúng nguyên văn, ta sẽ giữ y lời hứa ... Cô mà không thành thực, hà hà ..." Diêu Tình hiểu hắn muốn nói gì, trong lòng bất đắc dĩ phải vứt bỏ gian ý vừa rồi, chép ra đích xác toàn bộ các bí ngữ!
Cốc Chẩn đón tờ giấy chép các bí ngữ, bước tránh qua người Diêu Tình, đến một góc sảnh đường, gọi: "Địa Mẫu nương nương, kính thỉnh bà lại đây cùng xem." Ôn Đại không có cách gì khác, phải bước đến xem bí ngữ, chỉ thấy trên tờ giấy mà hai tay Cốc Chẩn đang căng ra, giữa nền giấy vàng, một giòng viết bằng mực: "Hữu bất hài giả ngô kích chi." Bên dưới giòng đó, có một dấu ấn vuông vức khắc hình chữ "HÀI".
Ôn Đại từng trông thấy hoạ tượng của tổ sư, vừa nhìn qua, đã thấy đó là phần giấy bị cắt rời ra khỏi hoạ tượng, bên cạnh giòng chữ, mờ mờ nét chữ nhàn nhạt như vệt nước, đọc từng chữ, ghép lại thành một câu tám chữ: "Tang chi xỉ nan, Thiên táng từ tại". Ôn Đại giật mình, thốt: "Hoá ra người của Thiên Bộ đã sớm phát hiện câu bí ngữ tổ sư ghi vào hoạ tượng, đã cố ý cắt bỏ hai đầu trục quyển, đem giấu mảnh giấy vào bên trong cây trâm cài tóc!"
Nhìn hai người từ xa, Diêu Tình không thấy được giòng chữ trên tờ giấy, nhưng khi nghe câu nói của Ôn Đại, cô chợt hiểu rõ ngọn ngành. "Hèn chi, mình đã thi thố đủ mọi cách, mà vẫn không tìm ra bức hoạ tượng của Thiên Bộ, tại mình cứ đinh ninh rằng nó cũng giống như mấy bức kia, toàn là được cuộn vào giữa hai đầu trục. Đâu có ngờ, Thiên Bộ sớm đã phát hiện cách làm nổi bí ngữ, rồi cắt rời giấy ra khỏi quyển trục, cuộn cho nhỏ lại, đem giấu vào bên trong cây ngọc trâm!"
Cốc Chẩn đọc những bí ngữ Diêu Tình chép trên tờ giấy, nghiên cứu cẩn thận một lúc, rồi hỏi: "Địa Mẫu nương nương, tám câu bí ngữ này, nhất định phải được viết theo một thứ tự nào đó?". Ôn Đại đáp: "Chắc là sắp theo thứ tự của tám bộ Tây Thành". Cốc Chẩn lại hỏi: "Tám bộ Tây Thành, có phải dựa vào Tiên Thiên bát quái?". Ôn Đại gật đầu: "Đúng thế."
Cốc Chẩn lập tức đọc: "Tiên Thiên bát quái, Thiên nhất, Trạch nhị, Hỏa tam, Lôi tứ, Phong ngũ, Thủy lục, Sơn thất, Địa bát."
Cốc Chẩn dựa theo thứ tự Tiên Thiên bát quái, đem các câu bí ngữ vừa được sao chép lên giấy ghép lại, thì được:
"Tang chi xỉ nan, thiên táng từ tại,
Đại hạ bạch nhi, chỉ lịch châu sở,
Chi thượng trường bạc, đông quý ác huyệt,
Hoàn điên hữu phỉ, bính nhật tự chu,
Chu bạch hưởng chất, ngâm tích chi căn,
Noãn hữu như sơn, cách xuân san kỳ,
Dĩ tinh dã tuyết, thụ giai qua ốc,
Trì cộng hòa nhược, ủng hạ vu bạch."
Cốc Chẩn, Ôn Đại đọc đi đọc lại, rồi trầm ngâm thật lâu, vẫn chẳng tìm thấy cái ảo diệu bên trong. Từ xa nhìn lại, bụng Diêu Tình thắc thỏm, cô cố ngỏng cổ cho dài ra, tìm cách xem cho rõ! Chợt thấy Cốc Chẩn ngoảnh lại cười với cô: "Đại mỹ nhân, sao tự dưng lúc này cô có vẻ thật thà, hiền ngoan quá nhỉ? Ta không gọi cô đến đọc, cô cũng thực tình không tìm đủ mọi cách để xem cho bằng được!"
Diêu Tình mừng rỡ, miệng vẫn giấm giẳn: "Đều tại vì có mặt sư phụ ta ở đây, nếu không, ta muốn xem thì cứ xem, chẳng cần ngươi cho phép hay không!". Cô rảo bước đến gần, đọc qua đầu đuôi xong, cô cũng chẳng tìm thấy mấu chốt!
Thấy ba người nhíu mày nhăn mặt, Tiên Thái Nô, Thương Thanh Ảnh cũng bước đến nhìn vào. Bọn họ đều có sức học uyên bác, trí lực tài giỏi hơn người, mà suy nghĩ cả buổi, cũng đều chẳng có được chút chủ ý. Độc nhất Lục Tiệm không chút thích thú với bí ngữ, gã vẫn cứ ngồi tại chỗ, rầu rầu rĩ rĩ uống trà. Diêu Tình cho rằng gã đang giận cô, cố ý không thèm xem hoạ tượng, cô nổi đoá trong đầu, nghiến răng mắng thầm: "Ngươi dám giận ta à! Hừ ... chờ đấy ... Sẽ cho ngươi biết tay!"
Cốc Chẩn trầm ngâm thật lâu, chợt nhãn châu loé sáng, cười mà rằng: "Tư Cầm tiên sinh đã đem sáu mươi bốn chữ đó chia ra làm tám nhóm, mỗi nhóm tám chữ, nhất định có thâm ý! Nếu mình thử đem chúng sắp theo hàng dọc, có khi thấy được chút huyền cơ gì chăng?". Nói xong, Cốc Chẩn đem viết tất cả theo thứ tự hàng dọc, thì được:
"Trì dĩ noãn chu hoàn chi đại tang
Cộng tinh hữu bạch điên thượng hạ chi
Hòa dã như hưởng hữu trường xỉ
Nhược tuyết san chất phỉ bác nhi nan
Ủng thụ cách ngâm bính đông chỉ thiên
Hạ giai xuân tích nhật quý lịch táng
Vu qua san chi tự ác châu từ
Bạch ốc kỳ căn chu huyệt sở tại "
Sáu mươi bốn chữ đem xếp theo hàng dọc, tạo thành một khung chữ vuông vức. Diêu Tình xem qua, bèn hỏi: "Có thấy huyền cơ gì trong đó đâu?". Cốc Chẩn lắc đầu, đáp: "Người xưa từng để lại một bức Toàn Cơ đồ (Hoạ đồ vị trí các tinh tú quan sát trên bầu trời qua ống kính viễn vọng), trong đó câu chữ viết đọc theo chiều ngang hoặc dọc đều mang những ý nghiã nhất định, Vậy nếu bức Toàn Cơ đồ có thể đọc ngang dọc, thì sáu mươi bốn chữ này sao mình không thử cách đó? Đọc theo chiều ngang không thông, sao mình không thử đọc theo chiều dọc?"
Mọi người nghe gã bàn như vậy, lập tức thấy phấn chấn, bèn lẩm nhẩm đọc từ trên xuống, từ trái sang phải, rồi từ phải sang trái, nhưng đều thấy, sao nó cứ trúc trắc trục trặc, không thông tỏ ý nghĩa. Diêu Tình chẳng tự chủ được, bảo: "Xú hồ li, ngươi thường tự phụ thông minh, nhưng cái cách đọc này không đúng, không ăn thua, có đọc cả trăm lần cũng chẳng mò ra!"
Cốc Chẩn chẳng thèm lý tới cô, gã tiếp tục chăm chú vào cái văn bản gã đã sắp xếp lại, thì thấy rằng đọc từ trái sang phải, câu cú đã mang một ý nghĩa, nhưng vẫn không thành một tổng thể câu, cú rõ ràng. Gã suy nghĩ một lúc, rồi chợt hỏi: "Đại mỹ nhân, cô đã có cố tình viết sai đi một vài chữ không vậy?". Diêu Tình nổi sùng, đáp: "Dĩ nhiên là không!". Cốc Chẩn hỏi gặng: "Thế cô dám thề không?". Diêu Tình cười nhạt, nói: "Sao lại không dám! Ta mà đã cố ý viết sai đi một chữ trong đó, trời đất sẽ khiến ta khi thi triển thần thông, đụng đâu hỏng đấy, đụng đâu bị phản đấy, phép tắc sử ra, đã không được ĐẤT hỗ trợ, lại sẽ còn bị tắc nghẽn trong ĐẤT "
Cô tu luyện "Chu Lưu Thổ kình ", lời thề đó là một lời thề độc, rất trọng đại. Cốc Chẩn nhất thời không biết đối đáp ra sao, y nghĩ tới nghĩ lui, rồi day sang hỏi Lục Tiệm: "Đại ca, đại ca có thể cho đệ mượn tạm một thuộc hạ của đại ca không?". Lục Tiệm hỏi trở lại: "Mượn ai?" Cốc Chẩn đáp : " Là Bất Vong sinh , MẠC ĐẠI TIÊN SINH (chú: vị tiên sinh, người số một trên đời này, người không bao giờ quên bất cứ chuyện gì đã ghi vào ký ức)."
Lục Tiệm hơi khựng, bèn đáp: "Được, để ta đi gọi hắn đến!". Nói xong, Lục Tiệm quay mình đi ra khỏi sảnh đường, một vài phút sau, đã thấy Mạc Ất rảo bước tiến ào ào vào phòng. Không thấy Lục Tiệm đâu, Cốc Chẩn hỏi gã: "Bộ chủ của ngươi đâu rồi?". Mạc Ất thưa: "Ông ấy bảo tôi tự đến đây một mình, còn chính ông ấy thì đã đi vào hậu viện rồi". Ôn Đại sắc mặt tối sầm, hỏi: "Hắn thân làm chủ một Bộ, lúc này, Bát Đồ hợp nhất là chuyện đại sự của Tây Thành, sao hắn lại thái độ bất cần, lại chẳng thèm quan tâm?"
Cốc Chẩn thở dài một hơi, đáp: "Cái này, phải đi hỏi nơi Diêu đại mỹ nhân thì ...". Diêu Tình trong lòng chợt rối beng, cô vốn hiểu bà Ôn Đại chỉ ưa chuộng nét tuấn tú, phong nhã, và lại rất ghét hạng đần độn! Lục Tiệm tuy không đần độn, nhưng hắn dáng vẻ quê mùa cục mịch, nếu cô để sư phụ biết tự cô đã dám có tình ý với Lục Tiệm, trước mắt sư phụ, cô sẽ bị mất thớ to, cô bèn chẳng chờ Cốc Chẩn nói xong, đã cắt ngang lời gã: "Chuyện đó thì ăn nhằm gì đến ta. Tự hắn khờ khờ điên điên, tự hắn chẳng ham tìm cơ hội học hỏi cầu tiến. Đến cái chuyện làm Bộ chủ, trong con mắt đánh giá của ta, con chó của hắn còn xứng đáng làm chủ bộ hơn hắn!"
Tiếng cô còn chưa dứt, Thương Thanh Ảnh đã đứng bật dậy, lạnh lùng nói: "Các vị cứ ngồi lại đây một lúc nữa đi, thiếp thân xin phép rời gót!". Đưa mắt liếc xéo Diêu Tình một cái xong, bà nhẹ bước đi vào hậu viện.
Sảnh đường chợt im ắng một lúc lâu, rồi Cốc Chẩn buông một tiếng cười nhẹ, phá tan bầu không khí tịch mịch đó: "Mạc Đại tiên sinh, nhờ ông xem qua bản viết này, ông thử đọc ngang , đọc dọc, xem ông có hiểu chút ý tứ nào trong đó hay không?". Mạc Ất khom mình xuống, đọc thoáng qua một lượt, bất giác khép kín mi mắt, trầm ngâm nói: "Quái lạ, thực quái lạ."
Cốc Chẩn hỏi: "Quái lạ là sao?." Mạc Ất đáp: "Cái bản văn này, đọc từ trên xuống, chẳng thông chút nào, nhưng nếu đọc theo hàng ngang, thấy có đôi chút ý nghiã, nhưng hình như câu cú còn thiếu đôi ba chữ, thành ra thấy kỳ quái!". Mọi người nghe y nói vậy, quá bất ngờ, tất cả đều mừng rơn.
"Văn bản này, đọc theo hàng ngang, mới đầu tưởng không thông, nhưng thực ra, phải biết ngắt câu cho đúng chỗ!" . Mạc Ất chỉ vào văn bản, ngón tay lướt từ trái sang phải, chậm rãi nói: "Câu thứ nhất, ngắt tại sau chữ CHI , đọc thành Dĩ noãn chu hoàn chi , nhưng câu đó đã bị thiếu mất một chữ, câu nguyên văn phải là Trì dĩ noãn chu hoàn chi , là câu trích từ sách liệt truyện Sử kí !"
"Câu thứ hai, Đại tang cộng tinh , đã bị khiếm mất chữ MINH , nguyên văn đúng là Đại tang cộng minh tinh , lấy từ sách "Chu kí Xuân Cung Ti thường" .
"Còn câu thứ ba, Hữu bạch điên , đã thiếu mất chữ MÃ , là câu Hữu mã bạch điên , ở trong quyển "Thi Kinh Xa lân" .
"Câu thứ tư, Thượng hạ chi hòa dã như hưởng , là xuất xứ từ "Tuân Tử nghị binh", câu nguyên văn là Thượng hạ chi hòa dã như ảnh hưởng , đã thiếu mất chữ ẢNH !"
"Câu thứ năm. đọc là Hữu trường bạch nhược tuyết sơn , chỉ thiếu mỗi chữ KÌNH , nguyên tác là Hữu trường kình bạch nhược tuyết sơn , đó là câu thơ của Lý Bạch đã viết trong bài "Công Vô độ hà".
"Câu thứ sáu đây, đọc Chất phỉ bác nhi nan , vốn bị thiếu mất chữ TUNG , thành thử câu nguyên văn là Chất phỉ bác nhi nan tung, tâm điềm du nhi khứ hoặc , lấy ra từ sách Tiêu Hoàng hậu truyện " .
"Còn câu thứ bẩy, Cách thụ cách ngâm , đã bỏ sót mất chữ VIÊN , là câu thơ của đại thi hào Đỗ Mục, trích từ đoạn thơ sau đây:
Độ giang tùy điểu ảnh,
Ủng thụ cách viên ngâm,
Mạc ẩn cao đường khứ,
Khổ miêu đãi tác lâm !"
"Câu số tám, Bính đông chỉ thiên hạ giai xuân , bắt nguồn từ bài Quan tử hoàn lưu , đã thiếu mất ĐẨU , nguyên câu đó là Đẩu bính đông chỉ thiên hạ giai xuân !"
"Câu số chín, Tích nhật quý lịch táng vu qua sơn chi , trích trong Lã Thị Xuân Thu khai xuân , thiếu chữ Vĩ cuối cùng của nhóm chữ Qua sơn chi vĩ !"
"Câu thứ mười, Tự ác châu từ bạch ốc , đã thiếu mất chữ XÀ , lấy từ thơ của Lưu Vũ Tích, nguyên văn Tự ác xà châu từ bạch ốc !"
"Đến câu cuối cùng, Kỳ căn chu huyệt sở tại , chép trong sách Hán Thư Triệu Quảng Hán truyện , đã bỏ sót mất chữ QUẬT , nguyên bản phải đọc là Kỳ căn chu quật huyệt sở tại? "
Mọi người nghe y thao thao giải thích, không ai là không bội phục, mười một câu văn đó đều trích dẫn từ những nguồn hoàn toàn khác nhau, lấy ý từ đủ thứ thể loại Kinh, Sử, Tử, Tập, bao trùm rộng khắp, mỗi câu đều bị khiếm khuyết, không câu nào hoàn chỉnh cả! Mạc Ất lên tiếng giải thích lưu loát, chẳng vấp váp chỗ nào, làm như y đang đọc từ ngay văn bản chính gốc không bị cắt xén, chép với đầy đủ các trích dẫn ghi chú cặn kẽ bên lề mỗi câu, đúng là một tay có đầu óc nhớ dai, dám chắc khắp thiên hạ không có người thứ hai trí nhớ siêu việt như y! Nhưng Mạc Ất giải thích xong, còn nói thêm: "Thật hết sức kỳ lạ, mười một câu đó, câu nào cũng đều bị cắt đi mất một chữ, đúng là kỳ quái tột độ!". Cốc Chẩn cười cười, đáp: "Nó không có gì là kỳ quái cả đâu! Mỗi chữ bị thiếu sót mà ông đã tìm ra, gom góp lại, thể nào cũng có ẩn ý gì trong đó!"
Diêu Tình vốn đã ghi lại các chữ bị thiếu sót, cô đọc lại mười một chữ đó, rồi mọi người nghe cô nói: "Mười một chữ đó gom lại, đọc lên thấy có năm loại cầm thú và sâu bọ: là Trì, Mã, Kình, Viên và Xà (Rùa, Ngựa, Cá voi, Vượn và Rắn). Nếu dựa theo cách sắp loại như vậy, mười một chữ bị thiếu đó, đem đọc ngắt đúng câu cú, sẽ trở thành như vầy: Trì minh, Mã ảnh, Kình tung, Viên đẩu vĩ, Xà quật ." (Người dịch tạm hiểu từng nhóm chữ: Ghi chú trên mai rùa, Bóng ngựa, Vết cá voi quẫy, Vượn loay hoay chộp cái đuôi cuả nó, Hang rắn).
Cốc Chẩn vừa gục gặc đầu, vưà cười. Diêu Tình khám phá được huyền cơ, thoạt tiên, cô rất mừng rỡ, nhưng rồi cô lại cúi đầu, chau mày, giọng suy tư, hỏi: "Năm cái nhóm chữ đó, ý nghiã của chúng, rốt cục là gì?" Cốc Chẩn khẽ lắc đầu, đáp: "Đây là ta tạm hiểu, chẳng biết có đúng hay không, nhưng cái vị Tư Cầm tổ sư này, chính ra cũng không phải là khó chơi lắm!"
Tiên Thái Nô buông tiếng thở dài, rồi nói: "Mật ngữ của bát đồ đã bị giấu kỹ như vậy, giờ được cậu giải đáp, cậu quả là giỏi vô cùng. Nhưng theo ý nghĩ của ta, lúc Tư Cầm tổ sư tạo ra các bí ngữ đó, thâm tâm tổ sư nhất định đã trải qua nhiều mâu thuẫn cực kỳ ác liệt."
Cốc Chẩn cười, hỏi lại: "Cớ sao tổ sư bị mâu thuẫn?" Tiên Thái Nô chau mày, thanh âm cao hẳn lên: "Bí mật của bát đồ, thật là kinh thiên động địa, mang một mối đại hại, nhưng cũng có một cái lợi cực to. Có lẽ vì vậy, Tư Cầm tổ sư đã chẳng muốn cái bí mật đó bị vĩnh viễn chôn sâu, nhưng tổ sư cũng không muốn hậu thế giải đáp cái bí mật đó quá dễ dàng!"
Cốc Chẩn lấy làm lạ, bèn hỏi: "Nói như thế, chắc tiền bối đã đoán ra được nguồn cội của bí mật?"
Thần thái Tiên Thái Nô chợt lộ chút ưu sầu, ông khẽ than: "Nếu ta đoán không lầm, năm câu giải ngữ đó, đúng là năm lời chỉ dẫn, giúp phát hiện tung tích Tiềm Long !"
"Tiềm Long.", Cốc Chẩn sắc mặt có hơi bất ngờ, hỏi, "Không dè lại là cái đó thật sao?"
Diêu Tình hốt hoảng la lớn: " Tiềm Long là gì vậy?"
Cốc Chẩn giấu nét hoan hỉ, đưa tay chống mặt bàn để đứng lên, mắt nhìn ra khoảnh sân rộng bên ngoài sảnh đường, nói dằn từng tiếng một: "Đó là DIỆT THẾ THẦN KHÍ của Tây Côn Luân"
" Diệt thế thần khí ?", Diêu Tình lẩm bẩm: "Hoá ra không phải võ công sao?"
"Lẽ tất nhiên!", Ôn Đại đáp: "Cái đạo lý đó thật hết sức rõ ràng! Tư Cầm tổ sư canh cánh nỗi thương xót dân đen, tổ sư đã có nói, võ công, rặt là thứ tiểu kỹ của loài giun dế, đâu có gì đáng để mình bận tâm! Cái mà tổ sư bảo Vô Địch , nhất định có liên quan tới cái Thần Khí chi phối vận số thiên hạ!"
Diêu Tình vừa nghe dứt lời nói đó, trong đầu cô chợt quay mòng mòng! Cô đã bất chấp tất cả, đã trải không biết bao nhiêu gian khổ, mới gom góp, hợp nhất được cả tám bức hoạ, tính đạt cho được mục đích tối hậu là luyện võ công vô địch, chỉ một câu nói, trong một tích tắc, bao nhiêu phấn khởi lửa nóng hừng hực trong tim cô chợt biến thành muôn trùng giá băng lạnh ngắt, lục phủ ngũ tạng như bị đập nát, toàn thân vô lực, hai dòng lệ nóng đã ròng ròng tuôn ra từ đôi mắt. Nhìn dáng vẻ thất vọng của cô, bà Ôn Đại ngầm thở dài, đưa tay nắm vào tay cô, bà dìu cô, cùng chầm chậm bước ra ngoài!
Hai thầy trò đi lan man trong khu vườn, gặp những hòn giả sơn to cao, cỏ xanh mơn mởn, hồ nước xanh trong, man mác đó đây một ít sương khói. Nhìn sắc mặt tái xanh của Diêu Tình, bà Ôn Đại nảy lòng thương xót, khuyên cô: "Tình Nhi, ở đời, những là giàu sang, quyền thế, những là võ công cao cường tuyệt hảo, đều tốt cả đấy, nhưng mình đâu có cưỡng cầu được! Nhìn mà xem, suốt hai trăm năm nay, pháp môn Chu Lưu lục hư công , ai nấy cũng đều nắm nội dung, nhưng luyện thành công, chỉ có mỗi mình Vạn Quy Tàng thôi. Rồi lại còn nạn nam nhân khuấy động giang sơn, quần hùng đột khởi nổi loạn, khiến cho toàn thể đất nước biến thành một cái ..."
Diêu Tình cặp mắt đỏ au, cất tiếng la lớn: "Con hoàn toàn không chịu đâu! Tại sao đạt mức võ công tối cao cũng là nam nhân, đoạt được giang sơn, thiên hạ cũng lại là nam nhân, nữ nhân mình, chẳng có cái gì là mình không bị thua thiệt nam nhân bọn họ!"
Ôn Đại nhăn mặt: "Tình Nhi!". Diêu Tình chợt nhận ra mình thất thố, cô bậm môi, nhưng thần thái vẫn lộ vẻ quật cường. Ôn Đại đưa tay vuốt mái tóc mềm mại của cô, rầu rầu bảo: "Hài tử ngốc này, võ công giỏi thì có gì là khoái lạc đâu? Võ công của phái Tây Côn Luân, cuả Tư Cầm tổ sư có cao hay không? Nhưng cả cuộc đời thăng trầm của các vị, hiếm khi nao có được trọn một ngày tiêu diêu, tự tại? Chiếm được giang sơn có phải là đã chiếm được khoái lạc chưa? Không ít hoàng đế trước giờ lâm tử đã nói : Kiếp sau thề không sinh vào trong vương phủ nữa! Trên đời này, mấy cái đại danh đại lợi đó, rốt cục toàn là đeo theo sau những là đại bi thương, đại tịch mịch, giống hệt cái cây kia kìa, càng mọc lên cao, cành và lá càng ít đi, người ta cũng vậy, càng bước lên đỉnh cao, càng cảm thấy bị cô độc thê lương."
Diêu Tình lẳng lặng nghe bà nói, trong lòng cô vẫn còn bán tín bán nghi, cô chẳng tự chủ được, bèn hỏi: "Sư phụ, vậy cái khoái lạc ở đời của sư phụ là gì vậy?" Ôn Đại nhoẻn miệng cười, ánh mắt trở lại êm đềm, "Lúc này đây, cái khoái lạc nhất đời của ta, là đã có được một người thực lòng yêu thương ta, ông ấy yêu thương ta, ta cũng yêu thương ông ấy, cùng yêu và cùng được yêu, cái đó là cái khoái lạc hạng nhất trên đời!"
Diêu Tình hứ nhẹ một tiếng, chu mỏ. bảo: "Cái đó thì có khó khăn gì đâu?". Ôn Đại lắc đầu, bảo: "Nói thì dễ, làm được thiệt không dễ chút nào! Giả thử con rồi sẽ oai chấn vũ lâm, thâu tóm được giang sơn, con cũng chỉ khiến người người sợ con, chắc gì đã bắt được người ta thực tâm yêu thương con! Tình yêu là tự nguyện từ trong lòng, nó không chấp nhận một chút gì cuả sự trá nguỵ, của giả tạo cả!"
Diêu Tình cười qua làn nước mắt, nói: "Vậy thì, giữa sư phụ và sư công, có yêu hay không có yêu?". Ôn Đại mỉm miệng cười, không trả lời, nhưng nét nhu tình hiện rõ trong ánh mắt, thoáng gợn trên gương mặt. Diêu Tình trông thấy thần sắc sư phụ như thế, tự đáy lòng cô chợt cảm thấy miên man, ý niệm cứ theo nhau chuyển biến, chúng chợt đến chợt đi, không có nguồn gốc rõ rệt, cô bất giác cúi thấp đầu, nhất thời im lặng.
Sau một lúc lâu, Ôn Đại như ra khỏi trạng thái mơ màng, bà chợt mỉm cười, vui vẻ hỏi: "Tình Nhi, người được con yêu thương sẽ phải như thế nào?" Diêu Tình suy nghĩ, đắn đo, rồi cười, đáp: "Cái người mà muốn con thương yêu ấy à, phải nhanh nhanh như điện, ào ào như gió, hừng hực nóng như lửa thiêu, dịu dàng êm ái như nước mát, phải vưà như ánh mặt trởi đỏ rực, toả sáng khắp nơi, phải vừa bao la như đại dương, ôm trùm khắp cả, mà phải nhất quyết một lòng một dạ, hết tâm hết ý chỉ yêu mỗi một mình con thôi!"
Ôn Đại trợn mắt nhìn cô, kêu lên: "Trời ạ, một người hoàn mỹ như thế, tìm đâu cho ra dưới vòm trời này?" Diêu Tình cười, đáp: "Có đấy, rồi sẽ đưa đến một người như thế đấy!". Cô nói xong, cười rả rích! Ôn Đại chợt hiểu, vung tay phát cô một cái, bực tức bảo: "Đồ quỷ đâu nà... chỉ giỏi bỡn cợt sư phụ". Diêu Tình hỏi: "Theo như lời sư phụ nói, người mà sư phụ hết lòng thương yêu sẽ phải như thế nào?" Ôn Đại đáp: "Tính tình ôn hòa, biết làm sao chuyển từ lạnh thành ấm, luôn mang hình bóng ta trong tim, có thể vì ta mà từ bỏ tất cả những gì đang sở hữu. Người như vậy, là người tuyệt diệu"
Diêu Tình trầm ngâm hồi lâu, rồi thưa: "Sư phụ, con muốn đi dạo một mình một chốc lát, sư phụ cho phép con nhé. " Ôn Đại bảo: "Bát đồ đã được hợp nhất xong, ta có cầm giữ con cũng vô dụng!". Diêu Tình le lưỡi, nhăn mặt, cười cười: "Con chỉ quanh quẩn trong trang thôi, không đi đâu xa đâu!". Ôn Đại cười nụ, đưa đầu ngón ta ra miết vào trên má cô, làn da mặt trắng nuột chỗ ấy, sau khi ngón tay miết vào, thoáng hồng hồng. Ôn Đại mỉm cười, bảo: "Nha đầu ngươi, da mặt mỏng tang!" Câu nói có ẩn ý, Diêu Tình cả thẹn, gò má ửng hồng, cô giậm chân phản đối, rồi xoay mình đi vào hậu viện.
Sơn trang quá rộng, Diêu Tình loanh quanh luẩn quẩn một vòng, chẳng gặp bóng người, cô bèn ngồi xuống cạnh hồ nước, ngắm trông mặt nước xanh xanh, có vài con thuỷ điểu cô không biết tên đang bơi lội nhởn nhơ, khuấy động từng gợn sóng tròn, lan dần ra khắp mặt hồ. Nhìn mấy con chim bơi lội thảnh thơi, chẳng hiểu sao, tự nhiên cô ao uớc cũng được tự do như bọn chúng.
Đang lúc cô thả hồn, chợt có tiếng kêu sắc nhọn: "Tiểu thư, tiểu thư!". Diêu Tình khẽ rúng động trong lòng, tiếng kêu nghe khá quen thuộc, cô ngẩng trông, thấy nơi xa xa,
chỗ một thân cây rỗng ruột đang thả nổi trên mặt nước, có một con hạc to lớn đang đậu trên ấy, gần bên chân con hạc, có một con anh vũ trắng, mỏ đen, bộ lông như tuyết.
Con Bạch anh vũ khi thấy Diêu Tình ngẩng đầu nhìn, nó lại kêu lên một tiếng nữa: "Tiểu thư". Diêu Tình hốt nhiên hiểu ra, cô mừng rỡ, lớn tiếng gọi: "Bạch trân châu. Bạch trân châu!", vừa gọi, vừa khoa tay vẫy vẫy, nhưng không dè con chim vẫn phớt lờ. Diêu Tình phải một cơn ngạc nhiên, bèn định thần, cười, mắng: "Cái đồ bại hoại gì đâu!". Cô lập tức đưa ngón tay trỏ bên trái lên mồm, chúm môi huýt một tiếng sáo miệng, mấy ngón tay bên phải giơ lên, chụm lại khom khom như hình hoa lan. Con Bạch trân châu trông thấy, bèn lượn cánh bay từ chỗ thân cây về đậu trên lòng bàn tay của Diêu Tình, mấy cái móng chân nhọn nho nhỏ mầu hồng hồng đậu vắt vẻo vào ngón tay giữa của cô, mỏ nó không ngớt kêu "Tiểu thư, tiểu thư!".
Bạch trân châu do Diêu Tình nuôi từ trứng nước, đã nhận ra cô chủ cũ. Hồi cô còn bé, Diêu Tình vì muốn giấu bí mật thân phận, đã dạy con chim thật nghiêm, gọi bảo chim đều có khẩu hiệu, tín hiệu riêng, vừa rồi cô chúm môi huýt sáo, khum khum ngón tay, các tín hiệu đó đã được con chim ghi nhớ, nếu tín hiệu xuất ra không đúng, con chim sẽ không khi nào chịu bay lại gần.
Diêu Tình thấy con chim đã nhận ra mình, cô mừng vui lẫn lộn, rồi lại nghe con chim hót líu lo, gọi tên, lòng cô nhũn lại, những hình ảnh thưở thiếu niên vụt kéo nhau hiện về trong ký ức, giống như chuyện vừa xảy ngày hôm qua, cô bất giác ửng đỏ khoé mắt, dòng lệ ứa ra, rơi từng giọt, từng giọt xuống ướt lông con chim anh vũ.
Hốt nhiên một cơn gió mạnh ào tới, con cự hạc đang vỗ cánh từ trên cao lao xuống, nhìn con Bạch trân châu kêu quang quác vài tiếng, con Bạch trân châu nép mình vào Diêu Tình, lộ vẻ sợ hãi. Nguyên hồi Lục Tiệm đi về miền nam, gã nghĩ đến con chim anh vũ, e sợ con chim xa chủ dễ làm miếng nồi ngon cho các cầm thú lớn hơn nó, gã đã đảo qua làng cũ, đem con anh vũ theo bên mình. Chỉ hiềm có một nỗi, người và chim sinh hoạt khác nhau , người đi dưới đất, chim bay trên không, gã khó lòng chiếu cố cho nó tận tình được. Trong hoàn cảnh đó, con cự hạc, dẫu không mấy ưa cái con chim bé tí ti, nhưng nó thấy chủ nhân nó lo lắng cho con chim, nên nó cũng ra sức chiếu cố cho con anh vũ, ngày đêm để ý canh chừng. Hai con chim đó, một con to lớn hùng vĩ, một con nhỏ bé xảo trá, phải đi cùng một lộ trình với nhau, giữa chúng, cũng đã để xảy ra nhiều thiên cố sự thú vị.
Lúv này, con cự hạc thấy con anh vũ đậu trên lòng bàn tay Diêu Tình, nó vì mang trách nhiệm bảo vệ con anh vũ, bèn bay tới, lên tiếng cảnh cáo. Diêu Tình thấy nó ra thần thái kiêu ngạo, cô coi không hợp nhãn, bèn dang tay ra, cười gằn bảo nó: "Mi chỉ cậy thân hình to lớn đần độn, định ăn hiếp con Bạch Trân châu nhỏ bé cuả ta đấy hẳn? Mi có gan, cứ lại gần đây coi!"
Con cự hạc từng nếm khổ đau nơi tay cô, nó cũng hơi ngán, nhưng khi nó trông thấy con Bạch Trân châu gần gụi cùng cô, trong đầu nó sinh ngờ vực, cứ ngỏng cổ dòm Diêu Tình cùng con anh vũ một hồi! Cuối cùng vì là chim, nó không hiểu cái tình cảm gắn bó giữa anh vũ cùng cô chủ nhân, nhưng khi thấy con anh vũ không có vẻ đang gặp nguy hiểm, nó bèn nhẩn nha lui ra vài bước, giương cánh định bay đi. Diêu Tình thấy vậy, lòng cô phát sinh ý nghĩ: "Cái con chim to lớn đần độn này nó đi theo phục vụ thằng xú tiểu tử ngu ngốc, nếu mình bám theo sau nó, chắc sẽ tìm thấy thằng tiểu tử chủ ngu ngốc của nó, nhưng mà, nhưng mà, hồi trước, mình có lúc đối xử với tiểu tử đó khá cay độc, lần này, nếu tìm gặp lại gã rồi, không biết mình ăn nói làm sao đây!"
Lòng còn do dự, đôi chân đã bất giác tiến lên đi theo con cự hạc, bám sau nó xa xa chừng hơn trăm bước. Chợt cô nghe phía bên kia bức tường có tiếng người nói chuyện, nhận ra giọng của một trong hai người đó là giọng của Lục Tiệm. Diêu Tình chỉ cảm thấy nhịp tim đập khác hẳn đi, lòng bủn rủn, chân mềm nhũn, cô bèn đứng dựa vào tường, không dám tiến lên, cũng không dám lùi bước, đành chỉ cố giỏng đôi tai lên, cô nín thở nghe trộm.
Bỗng cô nghe Lục Tiệm thở dài, nói: "Mẹ, con thực tình không có gì cả, giờ cũng chẳng còn sớm sủa chi nữa, mẹ nên đi nghỉ đi!"
Bên kia tường yên lặng hồi lâu, rồi chợt nghe tiếng Thương Thanh Ảnh bảo: "Tiệm nhi, nếu con không bị gì, cớ sao mặt con rầu rĩ quá vậy?" Lục Tiệm thưa: "Con đang lo buồn cho bá tánh bên ngoài. Mình ở trong trang viện này, không phải lo toan về chuyện ăn, mặc. Dân chúng Giang Nam, không có lấy được một hạt gạo mà ăn, họ đều đang khốn khổ cùng cực!"
Thương Thanh Ảnh bảo: "Cái tình cảm con lo nghĩ về bá tánh, mẹ cũng ... cũng ..." Lục Tiệm hỏi: "Mẹ cũng làm sao?" Thương Thanh Ảnh đáp: "Ta cũng lo như con, nhưng ta cũng đang sợ con buồn rầu vì Diêu cô nương đó. Chẳng qua, con có lòng nghĩ tới bá tánh, cái đó tốt quá rồi. Cha con chết đi, có để lại một ít của cải, con cứ đem bán lấy tiền, rồi dùng tiền đó đi cứu chẩn dân nghèo. Nếu vẫn chưa đủ, mình còn cái "Đắc Nhất sơn trang đây, cũng đáng tiền, có thể bán đi."
Lục Tiệm lớn giọng nói: "Bán cái đó sao được. Bán nó đi, mẹ sẽ ở đâu? Bất kể sự tình ra sao, con nhất định không để mẹ phải chịu khổ đâu!". Thương Thanh Ảnh thở ra một hơi dài, bảo: "Năm đó, lúc bị kẻ thù truy đuổi kịch liệt, phải long đong lưu lạc giang hồ, ta và Thần Thông cũng đã có lúc chạy gạo hụt hơi. Những tháng ngày sống trong giàu sang, danh vọng, tựa như bóng câu qua thềm, như nước chảy bèo trôi, xem ra cũng vậy thôi. Những ngày nghèo khổ, vất vả, chỉ cần có người mình thương yêu nhất đời sống kề cận mình, đủ làm cho người ta thấy an lạc trong lòng rồi. Ta chỉ cần luôn được có con và Chẩm Nhi ở bên mình, là sống ngày nào, mẹ yên vui ngày đó!"
Lục Tiệm đáp: "Mẹ ... con ... con ...", lời nói đứt đoạn, hiển nhiên vì cổ họng gã nghẹn ngào. Thương Thanh Ảnh mỉm cười: "Hài tử ngốc kia, sao khóc lóc nữa rồi vậy? Ôi ... tánh con không giống tánh cha con chút nào, có phần giống ta là khác!". Trong giọng nói có thoáng nét vui mừng, bà dừng một tí, rồi tiếp: "Tiệm nhi, mẹ thực chẳng muốn gì khác, chỉ muốn thấy con vui vẻ, không thích nhìn con ưu sầu. Tâm sự cuả con, mẹ cũng đã hiểu. Khắp vòm trời này, đi đâu cũng đều thấy hoa thơm cỏ đẹp, đâu đâu cũng đều có con gái hiền ngoan, để thong thả, mẹ sẽ tìm cho con một cô thiệt là ..."
Diêu Tình nghe đến ngang đó, chợt một luồng nhiệt khí bốc lên tận đầu, hai gò má nóng hừng hực, cô bất giác đưa một tay vịn vào tường, thân mình run rẩy, tay chặn vào ngang cổ họng, hơi thở dường như đang bị nghẽn ngang đấy, cô phải cố sức lắm mới hô hấp được.
Lại thấy yên lặng một lúc lâu, rồi Lục Tiệm đáp: "Không cần mẹ phải tốn công sức, con đã suy nghĩ kỹ rồi, con sẽ sống cô độc suốt cuộc đời này, không lấy vợ nữa!". Diêu Tình nghe thấy hoảng hồn, rồi nghe bà Thương Thanh Ảnh lạc giọng kêu "A" một tiếng, bảo con: "Tiệm nhi, hôn nhân là việc hệ trọng!". Lục Tiệm thở ra một hơi dài, đáp: "Mẹ, ý con đã quyết, suốt cuộc đời này, không bàn đến chuyện hôn nhân nữa!". Thương Thanh Ảnh hỏi: "Vậy nếu mà Diêu tiểu thư ..." Lục Tiệm nói: "Cô ấy cũng không thay đổi ý con được! Ngày hôm nay, trong sảnh đường, con và cô ấy ngồi cách nhau chưa tới một thước, mà lòng thì cách xa vạn dặm. Mẹ à, cả đời. con sao đầu óc cứ mơ mơ hồ hồ, con hoàn toàn chẳng thể hiểu nổi tâm tư nữ nhân! Sau khi con làm xong cái việc to lớn trước mắt đây, con sẽ tìm một chỗ tĩnh mịch nào đó, hết lòng phụng dưỡng mẹ và ông, mấy chuyện khác kia, đối với con, coi như chấm dứt!"
Diêu Tình nghe gã nói đến đấy, mắt cô hoa lên, hơi thở hầu tắc nghẽn không còn giữ được điều hoà, cô nhịn không nổi, bất giác hộc ra một hơi khá mạnh nơi miệng. Lục Tiệm thần thông cao cường làm vậy, lập tức nghe được, bèn quát hỏi: "Ai đó?" Diêu Tình vừa định bỏ chạy, bất ngờ con Bạch Trân châu vụt kêu lên ầm ĩ: "Tiểu thư, tiểu thư."
Tiếng chim kêu chưa dứt, vụt một thân ảnh hiện ra chặn đường cô! Lục Tiệm trông thấy Diêu Tình, không khỏi ngạc nhiên, Diêu Tình lửa giận bừng bừng, bực tức đưa tay gạt hắn ra, miệng la lớn: "Được rồi! Ngươi đã muốn sống cô độc một đời, ta sẵn lòng chiều ý ngươi thôi! Ta, Diêu Tình, trước thiên địa, thề quyết rằng, suốt cuộc đời này, nếu ta mà còn tìm gặp lại ngươi, ta không còn mang họ DIÊU nữa!". Nói đến đấy, đôi tròng mắt đỏ au, nước mắt đã sắp tuôn chảy, cô sợ bị Lục TIệm nhìn thấy, đã cất bước chạy như bay ra bên ngoài trang.
Chạy được một quãng, cô thấy thấp thoáng từ xa, Tiên Thái Nô và Ôn Đại đang đứng bên bờ ao xem cá bơi lội. Hai người nhìn thần sắc buồn rầu và đau khổ của Diêu Tình , cũng rảo bước đến gặp cô. Ôn Đại không khỏi ngạc nhiên, cất tiếng hỏi: "Tình Nhi, chuyện gì thế?" Diêu Tình như gặp lại người thân, cô nhảy ào vào lòng Ôn Đại, nức nở bảo: "sư phụ, sư phụ mau đưa con ra khỏi đây đi, con còn ở lại đây, còn bị người ta vô cớ khinh thị, không chịu nổi!"
Ôn Đại thấy mí mắt cô sưng mọng, thương xót quá đến thành phẫn nộ, bà ngẩng lên, chợt thấy Lục Tiệm đang lểnh mểnh từ đàng xa ngó lại, chân không ngừng đi tới đi lui, Ôn Đại quen tính bênh học trò, bà động nộ, lớn giọng hỏi: "Lục bộ chủ, là ngươi đã đi bắt nạt tiểu đồ đây ư?" Lục Tiệm mặt mày đỏ như gấc, ấp úng: "Tôi .. Tôi ..." Ôn Đại còn chưa kịp hỏi tiếp, đã nghe Diêu Tình nghẹn ngào nói: "Sư phụ, đừng thèm lý tới gã, con suốt đời này sẽ không nhìn mặt gã nữa"
Bà Ôn Đại không rõ chuyện gì đã xảy ra giữa đôi bên, nhưng bà hiểu rõ tâm tính Diêu Tình, thấy cái gã thiếu niên kia có vẻ thành thực và thật thà, chín phần mười bà đoan chắc lỗi ở nơi cô đệ tử này thôi. Bà đành thở dài, an ủi cô: "Được rồi, mình đi là xong!" Rồi bà đỡ Diêu Tình, cùng ông chồng nhắm phía cổng trang rảo bước.
Khi họ ra đến cổng, chợt trông thấy từ phía quan lộ, có một người đang ruổi ngựa chạy đến, con ngựa mệt đến sùi bọt mép, kỵ sĩ cũng mỏi mệt không kém, y mặc áo vải thô, đi hài dệt vải gai, vẫn không giấu được vẻ oai nghi lẫm lẫm. Tiên Thái Nô rành xem tướng người, khi nhìn thấy người vừa đến, ông không khỏi khen thầm trong bụng : "Đúng là khí thế của một tay tướng suý có tài!"
Kị sĩ đến trước cửa trang viện, xuống ngưạ, gã đưa mắt nhìn đôi liễn treo trước cửa trang, dáng vẻ có chút xuất thần. Vừa hay có tiếng một người vui vẻ kêu lên: "Đại ca." Diêu Tình nghe tiếng gọi, cô quày đầu trông lại, thấy Lục Tiệm lật đật chạy ra cổng, vẻ mặt hớn hở, ôm chầm lấy gã hán tử áo vải thô.
Diêu Tình thấy thế, càng bực tức hơn nữa, "Hảo tiểu tử, coi cái bộ ngươi mừng mừng rỡ rỡ kia!". Cô bíu vào tay Ôn Đại, cất bước đi nhanh hơn lên.
Nguyên Lục Tiệm trước giờ vẫn lẽo đẽo theo sau ba người, trong lòng rầu rĩ, muốn nói nhưng không cất thành tiếng, ra đến cửa trang, hắn chợt trông thấy kị sỹ, lập tức hớn hở, bao nhiêu phiền muộn tiêu tan, hắn co giò chạy vù ra đón người khách.
Người khách chẳng phải ai lạ, chính là Thích Kế Quang, gã vừa thấy Lục Tiệm, cũng kinh ngạc, vui mừng, vươn tay ra nắm vào cánh tay Lục Tiệm, vui vẻ hỏi: "Nhị đệ, sao nhị đệ ở đây?" Lục Tiệm đáp: "Chuyện rất dài, một vài câu chẳng thể thuật rõ sự tình, đại ca, đại ca đến đây làm gì thế?"
Thích Kế Quang đáp: "Ta có chuyện phải về kinh đô, ta nghe nói Trầm tiên sinh qua đời. Trầm tiên sinh đối với ta có ơn lớn, ta đến đây phúng điếu". Lục Tiệm trầm lặng gật đầu, mắt nhìn thấy đoàn Ôn Đại ba người đã đi xa tắp, chỉ còn ba cái bóng mờ, gã thở dài, bảo Thích Kế Quang: "Mời đại ca vào trang."
Thích Kế Quang vào đến linh đường, thắp hương quỳ lạy, Thương Thanh Ảnh lúc ấy cũng đã ra trở lại linh đường, bà bèn đáp lễ. Lễ bái xong xuôi, Lục Tiệm đưa Thích Kế Quang vào bên trong, hai người từng trải nhiều hoạn nạn bên nhau, Lục Tiệm coi Thích Kế Quang như người anh ruột, đem tất cả câu chuyện, thân thế tường thuật lại cho gã nghe. Thích Kế Quang nghe xong, lấy làm kinh ngạc, luôn miệng thở than, bảo Lục Tiệm: "Huynh đệ, không ngờ thân thế ngươi lại khúc nhôi vậy, mà cũng không ngờ Trầm tiên sinh lại là cha đẻ ra đệ, đúng là ý trời! Chí hướng của Trầm tiên sinh, nói cho cùng, đã gắn vào đệ rồi đấy!"
Lục Tiệm hỏi: "Chí hướng nào? " Thích Kế Quang đáp: "Đệ không đọc đôi câu liễn trước cổng trang à?" Lục Tiệm bất giác ngẩn người, hắn ít để ý đọc các đối, liễn, vào lúc đó, thật đã không nhớ nổi nội dung của chúng, đang còn lúng túng, đã nghe một người cười cười, đọc lớn:
"Thiên đắc nhất tắc thanh,
Địa đắc nhất tắc trữ"
và có chú dọc một bên hàng chữ:
"Tứ Hải đạm nhiên"
Hai người ngoảnh trông, thấy Cốc Chẩn mũ áo tiêu sái,dáng thung dung. Thích Kế Quang tiến ra,. chắp tay nói: "Lại được bái kiến túc hạ." Cốc Chẩn cũng cười, đáp: "Thích đại tướng quân vẫn được khoẻ chứ?" Thích Kế Quang mỉm cười, nói: "Không dám nhận hai chữ tướng quân đó đâu, ngày nọ, nơi vọng gác ở đầu thành Nam Kinh, nếu không được túc hạ giúp cho đôi lời nói khéo léo, Thích mỗ giờ đây đà xương tan thịt nát dưới đáy ngục tù ở phủ Tổng đốc mất rồi!"
Cốc Chẩn thoáng kinh ngạc, cười, hỏi: "Tướng quân đã nghe nói ở đâu thế?". Thích Kế Quang đáp: "Dĩ nhiên là từ nơi miệng của Trầm tiên sinh rồi." Cốc Chẩn có hơi sững sờ, tự hỏi: "Trầm Chu Hư sao lại không giấu kín chuyện này vậy kia? Có vẻ hơi kỳ quái". Gã vốn liệu địch như thần, vào thời khắc đó, gã chợt thấy kẻ đại cừu địch xưa cũng có đôi phần kín đáo khó hiểu.
Lục Tiệm chẳng kìm được thắc mắc, hỏi: "Đại ca, đôi liễn đó với chí hướng, liên quan tại chỗ nào?" Thích Kế Quang giải thích: "Lý Thái Bạch từng có câu thơ:
Thiên địa giai đắc nhất,
Đạm nhiên tứ hải thanh ,
Trầm tiên sinh chí hướng rộng xa, đã đem dán trước cổng trang, Đắc Nhất , ý nghĩa chính là quét sạch bụi nhơ, rác bẩn, tạo bình yên cho vùng biên thuỳ, vùng biển của nhà Đại Minh. .Hảo huynh đệ, lệnh tôn hùng tâm tráng chí chưa thành, đã bất hạnh ra người thiên cổ, cái chí hướng còn lưu lại đó, làm sao thoát khỏi không rơi vào tay ngươi kế tục?"
Lục Tiệm nhất thời không biết nói gì, trong lòng cực kỳ cảm khái : "Suốt đời phụ thân vừa chính vừa tà, thật khó thấy đâu là đâu cả!" Suy nghĩ đến đấy, hắn bèn hỏi: "Đại ca, sau trận chiến thành Nam Kinh, cả bốn tên đại khấu đều bỏ mạng, vậy sao hãy còn oa khấu hoành hành?"
Thích Kế Quang than vãn: "Uông Trực chết đi, đám oa khấu lại thấy mọc ra một tên đầu nậu mới, tên cái gì như là Thương tiên sinh , tuổi chưa cao lắm, thủ đoạn cực kỳ lợi hại, trương cờ hiệu phục thù cho tứ đại khấu, thanh thế so với thời tứ đại khấu xem chừng còn to hơn nhiều! Cái đáng lo nhất, là quân tinh nhuệ của mình, phần lớn đóng tại hai tỉnh Tô Chiết, bọn oa khấu đã tránh đụng độ với chỗ mạnh, chuyên tìm chỗ yếu mà phá phách. Bọn nó thường quậy ở hai tỉnh Mân Việt, không từ bất cứ chuyện ác nào, khi quân ta kéo đến tiếp viện, thì bọn chúng giong thuyền đi lên thẳng Chiết giang, kiểu như giương đông kích tây, quấy phá các tỉnh duyên hải đến thành hoang tàn, khiến dân tình bất ổn"
Lục Tiệm và Cốc Chẩn đưa mắt nhìn nhau, đều đoán ra lai lịch của vị "Thương tiên sinh" đó, hai gã cùng hối hận ngày ấy đã không cẩn thận, phóng thích Ninh Bát Không, cả hai cùng lập tức cất tiếng hỏi: "Đại ca đã có dịp giao phong bọn oa khấu đó chưa?"
Chương 53 Luyện binh
Thích Kế Quang đáp: "Gần đây, ta phải lo tập luyện quân sĩ bên ngoài doanh trại, việc đó chưa xong, ta chưa ra quân được". Ngừng một chặp, gã hỏi: "Nhị đệ, đệ còn nhớ câu chuyện mình trao đổi vào cái ngày ta bị thua trận không?". Lục Tiệm đáp: "Còn nhớ chứ. Đại ca bảo, binh lính ở các tỉnh bên ngoài điều động đến phần lớn mang nhiều tệ đoan, muốn trừ tuyệt oa khấu, không tổ chức dân quân tuyển từ trai làng, ắt không xong!"
"Đúng vậy, " Thích Kế Quang mỉm cười, "sau khi ta được Hồ tổng đốc và Trầm tiên sinh đồng ý chấp thuận sách lược đó, đã cấp cho ta quân phí, ta đã đến Nghĩa Ô tụ tập hương dõng, huấn luyện được một đội dân quân"
Lục Tiệm tinh thần phấn chấn, hỏi: "Quân số được bao nhiêu?". Thích Kế Quang đáp: "Hơn ba ngàn người!". Lục Tiệm thoáng chau mày, nói: "Đáng tiếc, quân số quá ít!"
"Không quá ít đâu!", Thích Kế Quang cười ha hả, bảo: "Quân không vụ vào số đông, mà trông vào sự luyện tập. Xưa, có một ông tướng, dưới tay chỉ có vỏn vẹn ba ngàn người ngựa, trong vòng có mười bốn tuần đã ra tay bình định được ba mươi hai thành trì, đánh bốn mươi bảy trận, không thua trận nào, đánh cho cả trăm ngàn quân địch tơi bời, đến nỗi chúng hò nhau bỏ chạy khi nhác thấy ông tướng giáp bạc!"
Cốc Chẩn cao giọng ngâm nga: "
Danh quân đại tướng mạc tự lao ,
Thiên quân vạn mã tị bạch bào !",
rồi mỉm cười, hỏi: "Thích tướng quân có phải muốn nói đến ông tướng mặc giáp bạc Trần Khánh Chi?"
"Đúng đấy!", Thích Kế Quang cao hứng, hỏi: "Cốc lão đệ cũng đã có đọc qua sách sử hả?" Lục Tiệm thắc mắc: "Ông tướng giáp bạc Trần Khánh Chi là ai vậy?". Cốc Chẩn đáp: "Đó là một danh tướng thời Nam Bắc triều, giỏi nghề cầm quân, ưa mặc giáp bạc, ông tung hoành khắp cõi Hà Nam, quân địch thoáng thấy giáp bạc là kéo nhau bỏ chạy"
"Ta dẫu bất tài, cũng muốn học đòi theo người xưa", Thích Kế Quang khảng khái cất tiếng nói, "Ba ngàn hương dõng tuy ít, nhưng nếu huấn luyện đúng bài bản, đem trừ oa khấu, dư sức!"
Cốc Chẩn xoay chuyển ánh mắt, chợt hỏi: "Nếu sự tình là vậy, Thích tướng quân sao không ở lại Nghĩa Ô luyện binh, đi Nam Kinh làm gì thế?" Thích Kế Quang thoáng nét nhăn nhó, : "Ta đi Nam Kinh, để làm khiếu hoá xin tiền!". Lục Tiệm lấy làm lạ, hỏi: "Nghĩa là sao?"
Thích Kế Quang đáp: "Quân phí mà Hồ tổng đốc đã cấp, chỉ có hai ngàn lượng, đã không đủ cho lương thảo, lấy đâu ra tiền mua võ khí, khôi giáp. Thiếu thốn như vậy, quân sĩ có tập luyện mấy, cũng chỉ để làm cảnh! Ta đi Nam Kinh, chính để xoay xở vụ lương tiền này đấy! Vừa qua, ta có được diện kiến Hồ tổng đốc, ông ta cũng rầu, bảo, do vụ thiếu đói năm nay, tiền bạc trở thành eo hẹp, bọn tướng sĩ thảy đều muốn được lĩnh lương tiền sớm sủa, nếu cấp cho ta nhiều quá, dễ gây xào xáo trong quân sĩ, vả lại chuyện thành lập và huấn luyện dân quân, nếu muốn làm cho đạt được kết quả tốt, sẽ phải chi vào đấy rất nhiều tiền bạc, dĩ nhiên sẽ có rất nhiều người phản đối dự định đó. Nói tới nói lui, rốt cục cũng chẳng cho ta đồng nào, ta đành tay không ra về!"
Cốc Chẩn nghe đến đấy, cất tiếng cười hô hố. Thích Kế Quang cau mày, hỏi: "Sao túc hạ lại cười?". Cốc Chẩn vui vẻ đáp: "Ta cười quan lại nhà Đại Minh, có nhiều nhân vật thú vị quá! Quan Tổng đốc thì bủn xỉn, quan Tham Tướng đi làm khiếu hoá, các quan ở giữa thì no béo, chỉ có hai quan ở hai đầu là chịu khổ sở!"
Thích Kế Quang hỏi: "Vậy nghĩa là sao?" Cốc Chẩn đáp: "Hồ Tôn Hiến với Trầm Chu Hư toàn là những người tinh minh. Huấn luyện dân quân là kế sách lâu dài, có quan hệ đến vận mệnh an nguy của đất nước, làm sao họ không hiểu! Bó buộc phải cấp quân phí cho ông, đã chi cho ông hai ngàn lượng, chẳng qua từ Tổng Đốc trở xuống, qua các quan Đô Tì, Thiêm sự, Trấn phủ, Tri phủ, Tổng binh, có nhiều chấm mút ở giữa quá, vậy lo chạy tiền bạc lót tay như thế nào đây? Đó là trường hợp thông thường, còn đến trường hợp bất thường, sư gia trong phủ là trưởng phòng văn thư, lúc vào sổ sách, huơ ngọn bút một phát, mười vạn lạng bạc chiết khấu đi phần lọt vào túi cuả hắn, của các quan trung gian, cỡ bảy tàm phần, khi về đến tay Tham tướng, còn hai ngàn lượng là đúng quá rồi!".
Thích Kế Quang xưa nay chưa từng đơn thân đảm nhiệm trọng trách lớn lao, dĩ nhiên không rành chuyện quân nhu tài vụ, lúc này nghe Cốc Chẩn nói sơ lược, gã bất giác hiểu rõ, đưa tay đập bàn lia lịa, la hét ầm lên: "Bọn nó tham ô như vậy, bộ Hồ tổng đốc không hay biết gì cả à?"
Cốc Chẩn lắc đầu, đáp: "Hồ Tôn Hiến bộ không tinh minh sao? Ông ta không những biết, mà còn biết rành mạch là khác. Nhưng càng biết nhiều, càng né tránh dữ hơn nữa! Bọn thuộc hạ dưới quyền ông, chẳng đứa nào là chẳng có chống lưng. Lấy một chức quan nhỏ coi, đâu có dè hắn là bạn học đồng khoá với một quan thượng thư, là môn sinh của các vị lão quan nội các, là đầy tớ của bậc vương giả, là anh em bà con bên vợ với quan ngự sử ... đồng tiền bò vào túi, phần tiến cống cho các quan ở kinh đã đến bảy, tám phần. Hồ Tôn Hiến mà đi truy cứu, chả phải là đi kiếm thù địch đầy triều đình à! Chuyện đến nuớc này, dù muốn dù không, ông chỉ có cách làm bộ hồ đồ, trước mặt tướng quân, ra bộ vờ vịt giả nai!"
Lục Tiệm nhíu mày, thắc mắc: "Ngài Hồ tổng đốc đã ngại chuyện đó, sao lại không trực tiếp đưa tất cả các khoản lương hướng tận tay đại ca?"
"Huynh không biết đấy thôi", Cốc Chẩn đáp, "Cái triều đình đó tuy loạn, chuyện quân lương phát ra đã có quy củ rõ rệt. Từ trên đưa xuống, qua bao nhiêu tầng chuyển khoản, bao nhiêu tầng tra xét, để đề phòng có kẻ dựa vào đấy mà dấy quân đội mưu phản. Huynh nghĩ xem, từ xưa, xuất quân đánh nhau, quan trọng hàng đầu là gì? Binh pháp? Mưu kế ? Không phải vậy đâu, chẳng phải thế đâu, toàn là quân lương. Hoàng đế này mà muốn xuất quân đánh nhau, chẳng thân chinh đâu, chỉ cần kiểm soát vụ quân lương, là tha hồ lên kế hoạch vận trù cung cấp lương thảo, ngồi trong trướng ở nhà mà quyết định trận đánh ở xa ngàn dặm. Trên chính trường, Hồ Tôn Hiến có không ít địch thủ, nếu ông không tuân thủ quy củ đó, đưa thẳng lương tiền cho Thích tướng quân, hôm nay đưa tiền, ngày mai sẽ có kể đến cắt ngay khẩu phần của quan ngài liền tù tì! Càng nắm binh quyền càng cao, càng phải sắm cái mũ đội đầu cho rộng lớn (ý nói càng phải ô dù cho mạnh, càng phải phe đảng cho nhiều!)
Lục Tiệm hít vào một hơi thở thật sâu, nói: "Nếu quả tình là vậy, thì đánh đấm ngoài trận ra sao?" Cốc Chẩn đứng lên, rầu rĩ bảo: "Cái tài văn chương chốn quan trường không đem đi đánh nhau được, nhưng sau chiến trận, nhờ văn tài các quan, công lao chiến trận vẫn được ghi chép đầy đủ, cho dù mình đã chẳng cần giốc lòng chinh chiến. Ôi, ta thiệt chẳng muốn nói mấy cái chuyện đó làm gì, nhưng giá Trầm Chu Hư còn sống, ông ấy, với thân phận mưu sĩ hạ thuộc của Tổng đốc, công chuyện có khi đỡ rắc rối được quá nửa! Bây giờ ông ấy đã quá cố, Hồ Tôn Hiến mất đi một cánh tay, cái tương lai quan trường cua ông ta, sẽ bị gặp khá nhiều hiểm nguy!" Hắn nói đến đấy, thấy vẻ ưu sầu trong mắt Thích Kế Quang, bèn dừng lại, cười cười, rồi tiếp: "Quan lại nhà Đại Minh vơ vét đục khoét, chúng cấu kết nhau tầng tầng lớp lớp, giống như một cái võng lưới đang chăng ra thật to, động nhẹ vào một góc, cả cái lưới sẽ rung lên. Ngày nay, Thích tướng quân làm đến chức quan đó, toàn là nhờ vào chiến công lớn lao, nhưng chỉ với những cái đó, có khi tướng quân còn chưa hiểu nhiều! À mà này, trên mình tướng quân hiện còn giữ được bao nhiêu ngân lượng vậy?"
Thích Kế Quang trả lời: "Hơn hai trăm lượng". Cốc Chẩn bảo: "Số hai trăm lượng đó, Thích tướng quân hãy đưa cho tại hạ, tại hạ sẽ dùng nó làm vốn sinh nhai trên thương trường, quay vài vòng vốn, có thể đẻ ra đủ lợi tức lo cho vụ quân lương!"
"Hay quá!", Thích Kế Quang mừng rỡ kêu lên, "nhưng không biết cần bao nhiêu thời gian?". Cốc Chẩn cười, đáp: "Không lâu đâu, không lâu đâu! Nhưng tướng quân phải chấp thuận hai điều kiện, nếu không, sinh ý sẽ không xong!" Thích Kế Quang hỏi: "Xin được nghe qua." Cốc Chẩn đáp: "Điều thứ nhất, ta buôn bán làm ăn thế nào, tướng quân không được dọ hỏi". Thích Kế Quang suy nghĩ, rồi đáp: "Cái đó dễ, chỉ cần không phạm pháp thôi!".Cốc Chẩn nói: "Luật lệ nhà Đại Minh, có nhiều lỗ hổng, cho dù ta muốn qua mặt, cũng không phải dễ!"
Thích Kế Quang vừa nghe xong, Cốc Chẩn chẳng chờ ông ta hiểu rõ hay không, cười cười, tiếp tục: "Vậy tướng quân có đồng ý điều kiện thứ nhất đó không?" Thích Kế Quang đành chỉ gật đầu, Cốc Chẩn tiếp: "Điều kiện thứ hai, phải để cho ta làm quân tiếp vụ, tất cả binh khí, lương thảo của dân quân đó, là do tự tay ta mua về, tốt xấu ra sao, tướng quân đều phải thu dụng hết!".
Thích Kế Quang cười ầm, la lớn: "Thích mỗ đang như người đắm thuyền, đụng đâu chụp đấy, chỉ cần là lương thảo, binh khí ... đưa gì, ta cũng vui vẻ nhận hết!"
"Vậy là xong!", Cốc Chẩn vỗ tay một cái, rồi cười, hỏi: "Khi nào thì Thích Tham tướng trở về Nghĩa Ô?". Thích Kế Quang đáp: "Việc quân khá bận rộn, hôm nay ta bó buộc phải ra đi". Cốc Chẩn đứng lên, nói: "Thế thì tốt quá. Lục Tiệm, hai đứa mình cũng đi hôm nay luôn, cùng đến xem lính mới của Thích tướng quân."
Lục , Thích hai người có vẻ ngạc nhiên, Lục Tiệm hỏi: "Sao gấp dữ vậy?". Cốc Chẩn thần sắc nghiêm trang, vung tay nói: "Gấp lắm, gấp gáp như lửa cháy!". Nhìn đôi nhãn châu long lanh của gã, thần thái gã lại ung dung, thoáng một giây, Lục Tiệm chợt hiểu ý gã, bèn gật đầu, đáp: "Ừ ... thì đi!". Nghe hai người đối đáp có chiều khác lạ, Thích Kế Quang hơi ngờ vực, nhưng khi nghĩ đến sẽ được cả hai đồng hành đi Nghĩa Ô, nỗi vui mừng bèn lấn át các nghi ngờ, ông cũng vỗ tay reo lên: "Tốt quá, có được nhị vị theo giúp, còn lo gì sự việc không thành!". Nói xong, cùng hoà tiếng cười vang.
Lục Tiệm hơi nhíu mày, bảo: "Cốc Chẩn , trước khi đi, mình cũng phải vào bẩm báo với mẹ một câu". Cốc Chẩn đáp: "Huynh chỉ nên nói là mình phải đi xa, Rồi huynh sắp đặt cao thủ canh gác sơn trang, quanh đây trong vòng trăm dặm, ta đã có bố trí khá đông người, trước mắt không có gì đáng ngại." Lục Tiệm thầm hiểu Cốc Chẩn đã phải thu xếp như vậy, chính vì lo ngại đại địch, lo có nguy cấp xảy đến với mẹ và em gái, nhưng xem chừng, nếu vòng đai đó chẳng may bị phá vỡ, thật chưa lường trước được hậu quả sẽ ra sao!
Cả hai cùng đi chào từ biệt Thương Thanh Ảnh, Cốc Chẩn vẫn nói cười như không, còn Lục Tiệm nỗi lo trong lòng hằn trên nét mặt, Thương Thanh Ảnh đoán đại sự sắp xảy đến nơi, miệng bà đắng ngắt, bà chỉ đành cố gượng khuyên cả hai đi đường phải giữ gìn sức khoẻ cẩn thận, tránh gió máy!
Lục Tiệm cắt đặt người canh gác sơn trang, nhưng vì nạn Hắc Thiên kiếp, kiếp chủ, kiếp nô không thể tách rời, bó buộc gã đã phải đem cả năm đại kiếp nô cùng đi theo. Dẫu lòng y chẳng muốn chút nào, Lục Tiệm không thể làm ngược với bốn điều luật Thiên Kiếp, gã phải đành lòng đưa lưng gánh vác bọn kiếp nô đó!
Lúc ra đi, bà Thương Thanh Ảnh theo tiễn ra ngoài trang đến hơn dặm đường, cả hai người Lục, Cốc phải khó khăn lắm mới khuyên bà dừng bước được. Rồi họ mới ra roi giục ngựa đi vài dặm đường nữa, lúc Lục Tiệm ngoái trông lại, vẫn còn thấy hình dáng bà vận áo trắng đứng nơi đầu đường, người tựa vào thân một cây liễu, tay còn không ngớt vẫy vẫy. Nghĩ đến chuyến đi đầy hiểm nguy trước mắt, lần chia tay này không chừng sẽ là vĩnh biệt, trong lòng Lục Tiệm đau đớn, nước mắt gã tuôn rơi lai láng. Cốc Chẩn hiểu tâm tư gã, đã cất đi nét cười cợt cố hữu, khe khẽ thở dài. Từ đuôi mắt, Thích Kế Quang nhìn thấu sự tình, nhưng vốn là người thâm trầm, ít ưa nói năng dông dài, cả hai người kia không lên tiếng, ông cũng giữ im lặng.
Trên đường xuôi nam, bầu trời trong vắt, màu xanh cỏ cây ngút ngàn, đang tiết mùa hạ, cỏ hoa trải rộng đến tận chân trời. Ba người một nhóm rong ruổi, tay đưa ngọn roi chỉ vào đó đây, miệng không ngừng trao đổi về thắng cảnh ven đường, cười nói không dứt tiếng. Thích Kế Quang văn vũ song toàn, ung dung biện luận, Cốc Chẩn học rộng nghe nhiều, mồm miệng nhanh nhảu, hai người trao đổi dí dỏm, đôi lúc có ý nhị, Lục Tiệm tuy ít nói, nhưng nếu bàn về những chuyện cơ bản, những nguyên tắc cốt lõi, gã luôn đề ra những lý luận xác đáng, người nghe bó buộc phải mỉm cười đồng ý.
Rong ruổi khá lâu, bốn bề sương chiều đang xuống, các rặng núi xa xa đã ngả sang màu tím, một góc chân trời đã nhuốm màu đỏ thắm, phản chiếu ánh hồng trên sông nước, cùng hiện lấp loáng ánh nắng vàng buổi chiều hôm, hai bên bờ sông, gió chiều nổi lên từng chặp, lay động ngàn hoa ngàn lá, khiến chúng như đang cười, đang giận. Thích Kế Quang vưà gặp tri kỷ, vừa được thêm cường viện, trong lòng hết sức khoan khoái, nhìn cảnh sông nước về chiều, ông nổi đại hứng, bất giác cất giọng ngâm nga:
"Nam bắc khu trì báo chủ tình,
Giang hoa biên thảo tiếu bình sanh.
Nhất niên tam bách lục thập nhật,
Đô thị hoành qua mã thượng hành . "
(Dịch nôm: Rong ruổi bắc nam để báo đáp ơn vua, Nhìn hoa cỏ ven sông đang tươi cười cùng ta, một năm ba trăm sáu mươi ngày, đều hoành thương cưỡi ngựa xông pha khắp nẻo - Tựa đề: Mã thượng tác - Tác giả: Thích Kế Quang, đời Minh, vốn là một nhân vật có thật, một viên tướng lừng danh trong công cuộc tiễu phạt oa khấu., )
"Hay cho cái câu :
Nhất niên tam bách lục thập nhật ,
Đô thị hoành qua mã thượng hành. !"
Cốc Chẩn cát tiếng khen, "Hai câu đó, ý tứ sâu sắc, thâm trầm, đúng là có ghi đậm hơi hướm của Đỗ Công bộ (Đỗ Phủ) từ xưa truyền lại!"
Thích Kế Quang đã cùng gã trao đổi, thừa hiểu tâm tư gã, bên cười xoà mà rằng: " Sao chỉ bình có hai câu dưới thôi, hai câu trên chắc không đáng lọt vào mắt xanh?". Cốc Chẩn lắc đầu, bảo: "Hai câu trước không hay, có khẩu khí của hạng nô tài!".Thích Kế Quang hỏi: "Bắt tôi chết, tôi phải chết vì chữ trung, vì chữ hiếu, bắt con chết, con tất phải chết! Hễ nói đến trung hiếu, bộ là khẩu khí nô tài sao?".
Cốc Chẩn đáp: "Ta hằng tin tưởng vào Thiên Đạo chí công, trời sinh muôn người, vốn bình đẳng, đem đặt ra tôn ti trật tự trên và dưới, đó là dụng ý của đời sau. Sao lại đem cái đó cưỡng bức vào người khác vậy? Hoàng đế cũng chỉ một miệng hai tai, ta cũng hai tai một miệng, chẳng thấy lão hơn ta chỗ nào hết!"
Thích Kế Quang cau mày, nói: "Điều Cốc lão đệ nói đó, tuy có mới mẻ, nhưng xem chừng có phần đại nghịch bất đạo!". Cốc Chẩn cười, trả lời: "Ta đúng là đại nghịch bất đạo, cái lão Gia Tĩnh đó, thân làm thiên tử, mà đi bái tượng gỗ, đi cầu đồng bóng, đi luyện kim đan, đi đoạt gái trinh, đi tin cậy bọn tỉểu nhân, làm chuyện kiêu xa dâm dật, để cho quan lại cường quyền hoành hành, dân tình không dược an cư. Trên thì dối cái nhân cái đức của trời, dưới thì làm ngược lại cơ nghiệp tổ tông, thế mới là đại nghịch bất đạo đó!"
Cốc Chẩn tuy ăn nói ngược ngạo, nhưng cũng có phần đúng bên trong. Thích Kế Quang nhất thời không phản bác được, đành im lặng hồi lâu, rồi đáp: "Thánh thượng dẫu không tốt, bá tánh hoàn toàn vô duyên cớ mà phải chịu, đã sinh ra làm thần tử, chỉ biết cúc cung tận tuỵ, đến chết mới thôi!"
Cốc Chẩn gật đầu, nói: "Trên đời này. nếu tất cả các quan quân đều cùng một tư tưởng với tướng quân đây, lão hoàng đế sẽ ung dung vô sự, tha hồ dửng dưng mọi chuyện". Thích Kế Quang khoát tay, đáp: "Cái đó đáng xấu hổ ư? Ta tuổi mười bẩy đã cầm quân, đi chinh chiến sa trường hơn mười năm, giờ đây phương bắc quân Thát đát ngỗ nghịch, nơi phía nam bọn oa khấu xâm lăng, nếu không có ý chí báo quốc, không đem tài ra báo quốc, cái đó mới đáng xấu hổ!"
Cốc Chẩn cười cười: "Giữa chốn tam quân dễ đoạt được chức tướng suý, nhưng trong cuộc đời, rất khó mà đọat đi được cái chí khí của kẻ thất phu, Chí đã có đấy, tài cũng có đấy, ba quân dễ kiếm. một tướng khó tìm, tướng quân đây đã có ý chí báo quốc, sao còn lo lắng không có tài đi giúp nước? Đi đánh dẹp oa khấu, gặp phải đứa đần độn ngăn chặn lương hướng, chỉ cần búng ngón tay một cái, mọi chuyện là giải quyết xong, chuyện đâu đáng để ý làm chi!"
Thích Kế Quang loé sáng tròng mắt, vui vẻ nói: "Cốc lão đệ, phong cách khác người, nếu đi thi đi cử, thể nào cũng sẽ là quan lương đống cho đất nước!"
"Xin tha cho!", Cốc Chẩn hì hì trả lời, "Muốn đi làm quan với nhà Đại Minh, trước hết phải thi qua món bát cổ, rồi hạch khảo tiến sĩ , ba cái chi hồ giả dã đó, nghĩ đến đã thấy nhức nhối trong đầu, bắt ta đi làm cái trò huơ bút viết văn bát cổ trên giấy, thà ta đi đập đầu vào tường còn sướng hơn. Còn đi thi võ, ta không rành nghề cưỡi ngựa bắn cung, một thân trên ngựa, bắn ra ba phát tên lạc mất cả ba! Ta rốt cuộc chỉ muốn làm như Đào Chu Công (chú: Phạm Lãi sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn chiến thắng vua Ngô, đã đổi tên, kinh doanh thành công, trở thành phú gia địch quốc) mua đàng đông, đem bán đàng tây, cần thì lên bắc xuống nam, nhưng kinh doanh cũng không phải là chuyện tối quan trọng!"
Thích Kế Quang đạo: "Ừ! Vậy chuyện tối quan trọng là gì?" Cốc Chẩn đáp: "Tối quan trọng là, ta đường đường một tay hảo nam tử, tự ta muốn tung hoành dọc ngang, chẳng ai gò, chẳng ai ép, cớ gì lại đem đầu, cúc cung đi làm nô lệ cho cái lão hoàng đế đó?". Thích Kế Quang chẳng nhẫn nhịn được, nhăn nhó mà rằng: "Cái câu đó của lão đệ, xem ra đã nhục mạ ta không ít!". Cốc Chẩn đáp: "Thích huynh là Thích huynh, hoàng đế là hoàng đế , ta đây đứng ra làm quân tiếp vụ cho Thích huynh, không làm cho bọn bồi bếp của cái lão hoàng đế đó." Thích Kế Quang gượng cười, bảo: "Lão đệ đúng là đầy khí phách cuả tuổi thiếu niên."
Đang lúc hăng say thảo luận, đã thấy mặt trời lặn hẳn, màn đêm buông xuống, cả đoàn liền kéo nhau đi tìm quán trọ nghỉ ngơi. Cơm nước xomg, Cốc Chẩn đang ngồi uống rượu một mình, chợt thấy năm kiếp nô đứng lấp ló nơi bực cửa nhìn vào. Cốc Chẩn bèn vui vẻ hỏi: "Các ngươi đang làm gì thế?"
Năm người sượng sùng tiến vào, rồi quỳ cả xuống, chỉ mình Yến Vị Quy hãy còn đang ngần ngại nửa quỳ nửa đứng, đã bị Tần Tri Vị nắm áo kéo xuống. Nguyên năm người họ đã có thương nghị với nhau, ngày xưa, cùng vì chủ cũ Trầm Chu Hư mà xuất lực, đã có dính dáng vào mối thù giết cha Cốc Chẩn, bây giờ, đổi qua chủ mới, Lục Cốc hai người giao tình thân thiết, Cốc Chẩn đối với năm người họ lúc nào cũng hết sức lạnh nhạt. Nếu gã ra tay báo phụ cừu, thi hành thủ đoạn, cả năm người tuy không chết ngay, cũng khó thoát cái hoạ của Hắc Thiên kiếp. Lúc còn ở sơn trang, cả năm người có thể kiếm chỗ tránh mặt Cốc Chẩn, nhưng bây giờ, cùng nhau vầy đoàn đồng hành, không tránh né được nữa, bọn họ thảy đều kinh hoàng, đã bàn nhau, quyết ý đến gặp Cốc Chẩn xưng tội.
Cốc Chẩn nhìn điệu bộ năm người, đã đoán ra ý bọn họ, bèn hỏi: "Các người đã hại chết cha ta, có phải bây giờ đang sợ bị ta trả thù chăng?". Cả năm người gật đầu lia lịa, Cốc Chẩn bèn bảo: "Phạm tội có chủ mưu, có a tòng. Chủ mưu giờ đã chết, tòng phạm có thể được khoan thứ, huống hồ các ngươi đều mang thân kiếp nô, không tự làm chủ lấy mình được. Được rồi, tội chết có thể tha, tội sống chẳng thể dung tha được!"
Cả năm người nghe y tuyên bố như thế, thảy đều xanh mặt. Cốc Chẩn liếc nhìn từng người, khoát tay, cười, nói: "Không có gì cả đâu! Ta bảo hành tội sống, là phải bồi tiếp ta bữa rượu!" Nói xong, truyền tiểu nhị đem ra năm vò rượu, cười cười: "Mỗi người một vò, uống xong, là xí xoá tất!"
Năm kiếp nô đều không quen uống rượu, lúc đó vô phương chối từ, mỗi người lãnh một vò, ráng nhăn mặt nhíu mày uống cho hết, lại được Cốc Chẩn ân cần cổ vũ, chẳng mấy chốc, cả năm đều say khướt, hành động thành đảo điên, điên đảo. Yến Vị Quy lịch kịch leo tường, thượng lên xà nhà, bay qua bay lại trên trần, Mạc Ất lớn tiếng tụng bộ kinh "Đại tạng", Tiết Nhĩ thì đem cái Ốc lý oa lạp ra tấu một khúc mê ly, Tô Văn Hương hỉnh mũi bò lồm cồm đi dò khắp nền nhà, vừa bò vừa đánh hơi, Tần Tri Vị thì thè cái lưỡi dài ra liếm vét sạch nhẵn tất cả chén đĩa trên bàn. Cốc Chẩn ngồi bên vỗ tay, luôn miệng reo hò cổ vũ, trợ thêm khí thế, đến nỗi Lục Tiệm nghe ầm ĩ quá, phải chạy ra can thiệp, đình chỉ trò huyên náo, cho đưa cả năm người đi nằm.
Sáng ngày hôm sau, cả năm đều còn váng vất hậu quả cơn say, đầu nhức như búa bổ, mặt nhăn mày nhó, lểnh mểnh theo sau ba người đăng trình. Cốc Chẩn giữ đúng lời hứa, sau bữa rượu đó, đã dẹp bỏ hết mọi hiềm khích cùng cả năm. Tần Tri Vị vốn là chỗ quen biết cũ của Cốc Chẩn, bèn mở đầu câu chuyện bằng các tích cũ, hết chuyện nọ xọ sang chuyện kia, liên tu bất tận, cả bốn người thấy thế, dần dà cũng thấy nhẹ nhõm, rồi ngày ngày lại bị Cốc Chẩn phục rượu, diễn trò hý lộng lúc say sưa, trước khi đến Nghĩa Ô, cả năm đều đã làm quen được với rượu, sau chừng hai chén, đều đã trở nên thân thiết với Cốc Chẩn tựa huynh đệ lâu năm.
Họ đến Nghĩa Ô vào đêm khuya, sớm bữa sau, Thích Kế Quang cho triệu tập quân sĩ, điểm binh bên bờ đông của sông Dương Giang. Trời cao trong xanh, dòng sông như dải lụa, xa xa mấy rặng núi phủ mây trắng đứng sừng sựng như thành trì. Ven bờ sông là một bãi cát rộng, thấy đứng đen kịt ba ngàn tướng sĩ, tiếng trống thì thụp như sấm động, cờ xí tung bay phất phới. Thích Kế Quang cho phất lá cờ lệnh, tiếng quân sĩ hô vang rung chuyển trời đất, lay động toàn cảnh vật.
Lục Tiệm chăm chú quan sát, bên trong hàng quân, trừ các tiểu tướng mình vận giáp trụ, quân lính toàn gốc gác nông dân, da đen nhẻm, quần áo tơi tả, chân đi hài bện bằng cỏ, trong tay là gậy gỗ, thương mâu bằng tre trúc. Tuy trang bị thật giản dị, hàng ngũ lại rất chỉnh tề, một hô, trăm đáp, không hề có chút rối loạn. Lục Tiệm , Cốc Chẩn đưa mắt nhìn nhau, thầm nhè nhẹ gật đầu tán thưởng.
Thích Kế Quang điểm danh sĩ tốt xong, nhìn Lục Tiệm hỏi: "Các quân sĩ này đều tuyển từ các vùng khai thác quặng mỏ lân cận, tuy chất phác, nhưng rất có kỷ luật. Mấy ngày gần đây, ta đã chiếu theo địa hình đông nam, tập luyện họ các chiến pháp đối địch bọn oa nhân, ta có lập ra một thế trận gọi tên m Dương trận , hai đệ có muốn xem qua không?"
Lục Tiệm cười,đáp: "Cầu còn không được!". Thích Kế Quang buông tiếng cười, cao giọng gọi, "Vương Như Long". Từ giữa hàng quân, có tiếng đáp ứng, rồi một người bước ra, thân hình cao vừa tầm, nhưng thể lực rắn rỏi, đôi mắt sáng có thần, tựa như mắt hổ dữ chiếu vào sơn dương, toàn thân y tràn ngập khí thế.
Thích Kế Quang dõi nhìn y, cười nụ, rồi bảo: "Vương Như Long , ngươi thường ngày hay khoe có sức lực mạnh mẽ, võ nghệ tinh thông, có ý xem thường người khác, phải vậy không?"
"Ai bảo thế?", Vương Như Long ngoác miệng ra cười, "Tiểu nhân, đời này có một người mà tiểu nhân rất bội phục, chính là Thích đại nhân ngài đó." Y mở miệng nói to, tiếng y sang sảng như tiếng chuông, Cốc Chẩn bất giác thấy vui vui, nghĩ bụng: "Cái tên này giọng oang oang như cóc gầm, khẩu khí cũng không tồi."
Lại nghe Thích Kế Quang bảo: "Ngươi hãy khoan lớn lối đã, hôm nay, ta có triệu đến đây một người giỏi, ngươi có dám thử sức với ông ta không?" Vương Như Long đáp: "Được lắm, Vương Như Long bổn sự không nhiều, nhưng thừa đảm lượng!" Thích Kế Quang quay qua Lục Tiệm hỏi: "Đệ thấy y lớn lối. có thể thay ta giáo huấn y một phen cho đẹp không?"
Vương Như Long đưa mắt đánh gía Lục Tiệm, miệng không nói gì, nhưng trong lòng nghĩ thầm, nét mặt lộ ra vẻ coi thường: "Cái tên thiếu niên này, mặt mày chẳng có gì là kinh người cả, ốm nhom ốm nhách, không hiểu có bao nhiêu bản sự?" Y lập tức cởi áo, cung tay vào thế. Thích Kế Quang hỏi: "Ngươi làm gì vậy?" Vương Như Long ngạc nhiên hỏi lại: "Chẳng phải là so tài với nhau sao?". Thích Kế Quang đáp: "Đúng là có so tài, nhưng không phải một chọi một! Ngươi hãy thống lĩnh mười huynh đệ khác, lập m Dương trận để so tài"
Vương Như Long sững người, la lớn: "Sao thế được? Mười một chọi một, mà lại còn dùng trận pháp nữa?" Thích Kế Quang bảo: "Đúng thế!". Vương Như Long nhảy lui ra ba bước, ôm ồm lớn tiếng: "Không dược! Không được! Như thế là không công bình!" Thích Kế Quang chau mày, hỏi: "Tên tiểu tử nhà ngươi chẳng biết lợi hại là gì, chỉ nói nhăng, dám trái lệnh ta à?"
Trong hàng quân có tiếng ồn ào nghị luận, nghe rì rầm Vương Như Long liếc nhìn Lục Tiệm, đôi gò má y đỏ bừng, khí nóng dồn lên đầu, gã lớn tiếng nói: "Thích đại nhân, tiểu tốt có một thỉnh nguyện!". Thích Kế Quang mặt như chàm đổ, "Quân lệnh như sơn, ngươi dám kháng mệnh ư?" Vương Như Long ngẩng cao đầu, đáp: "Ngài không khứng lời, xin cứ cho lôi ra chém đầu tiểu tốt là xong !" Thích Kế Quang vừa giận, vừa tức cười, bảo "Được rồi, ngươi đã có điều kiện, ta cho nói ra, nếu không hợp lý, xem xem ta có cho chặt phăng cái đầu đó xuống không thì biết!"
Vương Như Long dòm vào Lục Tiệm, đáp: "Tôi muốn cùng y tỷ thí khí lực, nếu y thắng được tôi, tôi sẽ cùng các huynh đệ chọi với y sau."
"Tỷ thí khí lực?" Thích Kế Quang hỏi, "Tỷ thí như thế nào?". Vương Như Long nhếch mép, đáp: "Xây tháp .... Tháp ai cao, người đó thắng!" Y vừa dứt lời, lập tức có tiếng phụ hoạ của cả ba ngàn con người, tiếng vỗ tay, reo hò: "Đúng ... Đúng .... Chơi xây tháp, chơi xây tháp!" Ngàn người cùng một giọng, tiếng ầm ầm như núi đổ!
Thích Kế Quang bị bất ngờ, đôi mày hơi cau lại, quay sang ngó Lục Tiệm. Lục Tiệm chưa kjp trả lời y, Cốc Chẩn đã hớt vào: "Đấu thì đấu, Núi chưa so tài, chưa biết núi nào cao, sông chưa đọ sức, chưa biết sông nào sâu!". Lục Tiệm vốn chẳng muốn khoe khoang, nghe Cốc Chẩn bảo vậy, không tiện nói ngược lại, gã chỉ đành gật đầu.
Vương Như Long cởi trần trùng trục, cơ bắp cuồn cuộn, y rảo bước đến bên bờ sông. Vách đá ven sông bị xói mòn nhiều đời, đã sụp đổ nhiều tảng lớn có, nhỏ có, nằm rải rác ven bờ nước, tảng lớn nặng trên ngàn cân, tảng nhỏ cũng vài trăm cân có dư.
Vương Như Long đến bên một tảng cao ngang đầu người, khom mình xuống, quát lên một tiếng, khối cự thạch đã bị y nâng lên, chợt nghe rộ lên tiếng quân sĩ reo hò từ trong hàng quân. Lục Tiệm cũng biến sắc, gã nghĩ thầm: "Khối đá đó sợ nặng trên dưới ngàn cân, người này khí lực thật mạnh mẽ khác thường!"
Vương Như Long nâng tảng đá đi bẩy tám bước, quẳng khối cự thạch ven bờ sông, rôi chuyển thân, đi đến khuân một khối đá khác nhỏ hơn, đem đến đặt trên tảng đá to. Một chặp sau, đi đi về về, hắn ta đã bưng được ba tảng đá, xếp chồng lên nhau, cao như một toà tháp, vượt trên cái đầu Vương Như Long chừng hai xích. Rồi sau đó, lại thấy Vương Như Long ôm về một tảng đá khác cỡ chừng bốn năm trăm cân, đi đến trước tòa tháp, y xuống tấn Mã bộ, quát một tiếng trầm trầm, hai tay vụt cử khối đá lên cao, nghe rầm một tiếng, đã ném, đặt nó nằm chễm chệ trên đỉnh tháp.
Cốc Chẩn lè lưỡi, kêu lên: "Chu choa! Cái đó không thể nào làm được bằng sức mạnh tự nhiên trời cho đâu!" Lục Tiệm khẽ gật đầu, tự nhủ: "Cái ông Vương tiểu tướng này kiêm đủ hai môn nội ngoại công phu, rõ ràng là một cao thủ võ học."
Tiếng kêu chưa dứt, đã thấy Vương Như Long lại ôm một tảng đá nữa, nhấc bổng, tung nó lên cao, nghe ầm một tiếng, tảng đá đã yên vị trên đỉnh tháp. Phải biết rằng, nâng tảng đá lên, chính là dùng sức bản thân, nhưng ném nó tung lên, cần một nửa là sức mình, nửa kia phải nhờ vào xảo kình của nội lực vận lên từ lồng ngực, bằng không, chẳng thể nào chỉ trông sức bản thân mà có thể tung lên, tảng đá đạt vừa tầm, không cao, không thấp, không nghiêng không lệch, không chao đảo, đặt đúng bằng bặn ngay vào đỉnh tháp, phải tính toán khéo léo phương vị, lực dùng ...Nếu không, tảng đá ở cao trên không sẽ chao đảo, lúc rơi xuống, sẽ va chạm mạnh với góc độ lệch lạc vào tảng đá đầu tháp, dễ đưa đến làm lung lay, đổ xiên đổ vẹo cả toà tháp. Vương Như Long cử chỉ ôm, ném xem ra nhẹ nhàng dễ dàng, nhưng với con mắt đại hành gia, Cốc Chẩn và Lục Tiệm đều đã nhìn thấy các ảo diệu bên trong, trong lòng cả hai đều không khỏi kinh ngạc.
Sau một lúc, chỉ thấy Vương Như Long liên tục nâng và tung đá, toà tháp mỗi lúc một cao dần, sau một khắc, đã lên đến độ cao chừng bốn trượng, thẳng tắp như tháp bút. Mà tháp càng lên cao, sự sắp xếp đặt đá lên đỉnh càng khó hơn, chỉ cần nghiêng ngửa một chút, toà tháp sẽ đổ ập xuống, cho nên khối lượng các tảng đá giảm dần, đi từ bốn trăm cân lúc đầu xuống còn chừng trăm cân, gã dùng tận lực, đã thấy mồ hôi chảy xuống ròng ròng như mưa, mặt đỏ bừng, gân xanh trên cổ nổi rõ, hơi thở dồn dập.
Khối đá thứ chín vừa đặt xong, Vương Như Long gót chân lảo đảo, lui lại vài bước, ngồi bệt xuống, nói: "Xem chừng, tôi đã không đủ sức làm cho tốt như đã có ý định!". Mọi người hết sức kính phục, không ngớt vỗ tay hò reo khích lệ. Vương Như Long dõi nhìn sắc mặt Lục Tiệm, không nói ra miệng, nhưng vẻ mặt đầy nét khiêu khích, thách thức. Thích Kế Quang cũng ngó Lục Tiệm, miệng không nói gì, nhưng ánh mắt lộ vẻ thập phần lo âu.
Lục Tiệm chẳng thay đổi thanh sắc, bước đến gần toà tháp, cười, nói: "Cho ta mượn huynh vài tảng đá nhé!" Chẳng chờ Vương Như Long trả lời, gã đã ngầm vận Đại Kim Cương thần lực, song chưởng kéo, đẩy, luồng kình lực chợt điểm vào chân toà tháp, một trong những tảng đá làm đế bỗng bị đẩy dịch ra ngoài, đỉnh tháp vụt thấp xuống, nhưng toà tháp chẳng thấy lay động, chẳng khua vang một tiếng nào cả.
Nhìn chuyện kinh thế hãi tục đó, Vương Như Long trợn tròn đôi mắt, vẻ mặt kinh hãi, còn toàn thể quân lính đều sững sờ, trong khắp cả đội quân binh, không nghe lấy một tiếng động!
"Cạch" , một tiếng, song chưởng của Lục Tiệm lại kéo, đẩy, một phiến đá làm nền đã lại bị đẩy ra, các tảng bên trên tuyệt chẳng máy động. Sau một lúc, chỉ thấy dường như Lục Tiệm đang dàn các quân bài đô-mi-nô bằng sừng, từng tảng đá một được đẩy ra khỏi tháp, độ cao toà tháp cứ giảm dần, cuối cùng, đã thấy sắp la liệt chín tảng đá ra chung quanh đấy!
"Mấy tảng đá đã mượn xong", Lục Tiệm nói, "Tiểu tử ta vụng về, cũng xin xây chơi một toà tháp bằng đá!". Lập tức chọn tảng đá bé nhất làm nền, tuần tự đặt các tảng lớn dần lên trên, như vậy, sau tảng cuối cùng. một tòa tháp sẽ làm xong, ngược chiều với toà tháp của Vương Như Long, giống như là đã lấy toà tháp của Vương Như Long mà xoay lại, đặt đỉnh xuống dưới, đáy tháp hướng lên trên.
Lục Tiệm sử "Đại Kim Cương thần lực" dung hoà với "Thiên Kiếp Ngự Bình pháp", xảo kình thi triển đến mức đăng phong tạo cực, đá cứ sắp bằng bặn hòn nọ tiếp hòn kia, vừa rất nhanh, vừa rất ổn định, mỗi lúc một cao, chẳng mấy chốc, đôi cánh tay Lục Tiệm chập lại, nâng khối đá to nhất nặng độ ngàn cân tung lên cao, khối đá kêu ầm một tiếng, đã rơi nằm chễm chệ lên trên cùng, chôn sâu tảng đá nhỏ nhất bên dưới vào lòng đất. Lúc đó, toàn thể tướng sĩ đều chăm chú vào đấy, vỗ tay rầm rầm như sấm động. Thích Kế Quang rảo bước đến cạnh Lục Tiệm, nắm tay gã, mắt chăm chú nhìn vào Lục Tiệm một lúc lâu, rồi cười, bảo: "Nhị đệ, cái bổn sự đó, ngoài đệ, chắc chỉ thấy nơi người nhà trời!"
Lục Tiệm gò má chợt đỏ bừng, vội đáp: "Rồi đó, theo như thoả thuận xây tháp, tháp ai cao thì người đó thắng, bây giờ dùng tất cả chín tảng, ta thấy hình như ta thua, Như huynh đây đã thắng!" Lời gã chưa dứt, Vương Như Long đang ngồi bệt, vụt chồm dậy, mồm năm miệng mười, la lớn: "Nói bậy ! Nói bậy! Tôi nói ai cao thì thắng, đó là nói xây tháp từ lớn dưới, đến nhỏ trên, công tử nhà ta đây, xây tháp từ nhỏ đến lớn, cái nghề xây tháp như vậy, Vương Như Long tôi ngàn vạn lần chẳng thể làm nổi!". Nói xong, y quỳ ngay xuống, dập đầu bái phục. Lục Tiệm vội tiến đến đỡ y đứng lên, nói: "Như huynh đâu cần vái lạy ta như thế!"
Vương Như Long đáp: "Công tử gia đây không rõ, hồi tôi còn bé, có gặp một đạo sĩ núi Hoa Sơn, ngài đã truyền nghề cho tôi được hai tháng, rồi có việc phải ra đi. Lúc chia tay, ngài nói công phu vừa truyền cho tôi tên là Cự Linh huyền công , vốn xuất phát từ huyền môn, nếu tôi chịu khó luyện tập,chỉ cần mười năm thôi, sức lực sẽ tăng tiến vô cùng, không có địch thủ. Chỉ là trong tương lai, lúc gặp truyền nhân của Kim Cương Môn, tuyệt đối, tuyệt chớ đem lòng tranh đua, phải hết lòng cung kính người đó. Công tử gia đây đã thi triển thần công kinh người như vậy, nhất định phải là truyền nhân của Kim Cương Môn rồi!"
Lục Tiệm ngạc nhiên khi nghe y nói, gật đầu, bảo: "Đúng thế!" Vương Như Long quá sức mừng rỡ, lại muốn quỳ xuống, nhưng đã bị Lục Tiệm ngăn lại, cười cười, bảo y: "Như huynh, chuyện đó rồi sẽ bàn sau, bây giờ, quân lệnh như sơn, hãy cho ta được thử qua m Dương trận pháp cuả huynh đi!"
Vương Như Long chấn động tinh thần, cho người đem từ trong hàng quân ra một cây tre lớn, hãy còn cành lá xum xuê bên trên. Lại cho đòi hai tên quân sĩ, trong tay mỗi người cũng có cây tre, cùng Vương Như Long tạo thành hình thế như cái sừng trâu, đàng trước ba cây tre, có sắp đặt quân lính trang bị mộc thuẫn, mộc đao, đàng sau đó, có hai quân lính tay cầm trường thương, có hai người sử đinh ba. Trận thế lấy ba cây tre làm chủ, triển khai hai bên tả hữu, ra dáng một con chim đại bàng tung cánh.
Cốc Chẩn thoáng nhìn qua, gã chẳng nhịn được, cười rộ lên. Thích Kế Quang nghe tiếng cười, quay lại hỏi: "Sao Cốc huynh đệ lại cười?" Cốc Chẩn đáp: "Cái trận pháp này, chưa biết uy lực sẽ ra sao, nhưng dòm sơ qua, thấy coi bộ không đẹp mắt lắm!". Thích Kế Quang cười, đáp: "Cốc huynh đệ có điều còn chưa rõ, phàm các công chuyện đem dùng đều không cần xem cho đẹp mắt, nếu đẹp mắt thì lại chẳng có công dụng gì, trận pháp này, xem qua thấy có vẻ vụng về, nhưng thật rất hữu hiệu!". Cốc Chẩn giơ hai ngón cái lên, bảo: "Hai câu của Thích huynh đó, đúng là chân ngôn truyền lại từ ngàn xưa!"
Lục Tiệm quan sát trận thế một lúc, thắc mắc: "Đại ca, mấy cây tre đó ..." Thích Kế Quang đáp: "Cây tre đầu, chính là cây tre chủ động của hai cây kia, xa thì thủ, gần thì công, rất công hiệu, đó là cửa ngõ chính của cái trận m Dương này, tại không tìm ra tên nào hay hơn, ta đành gọi nó là Lang Tiển , Lang sói là con vật cực hung, TIỂN hàm ý làm cây chổi càn quét!"
"Tên hay đấy!", Cốc Chẩn vỗ tay khen, "Vưà giống như lang sói tấn công, vừa như cây chổi chà quét sạnh, đem càn quét bọn oa khấu một phát là sạch trơn!"
Thích Kế Quang tủm tỉm cười, gật đầu, Vương Như Long ra vẻ sốt ruột, lớn tiếng hỏi: "Công tử gia, hãy mau chọn cho mình một món binh khí, rồi chúng mình nhập trận!". Lục Tiệm lắc đầu, bảo: "Ta hãy khoan dùng binh khí đã, để xem trận pháp biến hoá uy lực lớn nhỏ ra sao?"
Nếu là người khác nói câu đó, Vương Như Long tất nhiên sẽ thấy khoa trương lớn lối, nhưng nghe Lục Tiệm nói thế, gã trong lòng càng chắc mẩm hơn nữa, tự nhủ: "Đúng thế, cách dùng binh khí, quả nhiên là phong phạm truyền nhân Kim Cương môn!" Gã bèn hỏi: "Thích đại nhân, vậy thì định đọat hơn thua ra sao đây?" Thích Kế Quang vui vẻ bảo: "Hễ ngươi chạm được vào mình Lục huynh đệ, là kể như thắng!", Vương Như Long cười ầm. quát lên một tiếng lớn, điều động cái Lang Tiển, tấn công thẳng vào Lục Tiệm .
Lục Tiệm khi thấy hai cây Lang Tiển xáp lại, khoa tay một vòng, rùn mình, chợt nghe tiếng gió phía dưới, đó là hai đao thủ và bài thủ đã lăn vào, huơ đao chém vào hai chân gã. Lục Tiệm vừa đóan được lang tiển tuy hung mãnh, nhưng thật sự chỉ là hư chiêu, dùng làm hoa mắt đối thủ, để cho hai đao thủ lẻn nhập nội tấn công, gã bèn lập tức tung mình, đá song cước ra nhằm vào chính diện hai tấm thuẫn bài, song thủ cùng lúc vươn ra, xuất ra hai quyền đánh vào hai lang tiển.
Lập tức gió ào ạt tới, hai luồng hồng quang đỏ như máu, hai cây trường thương ngù đỏ đã vụt mạnh vào, hai đầu thương chia ra làm hai đường trên dưới kích tới. Lục Tiệm né mình tránh trường thương, mắt nhìn thấy hai cây lang tiển quá đà, chưa thu về kịp, bèn xông xáo vào sát hai cây lang tiển, chẳng dè hai cây địa đường đao đã dùng thuẫn bài đưa ra chặn trước, đao thủ nhắm vào hướng tấn công của Lục Tiệm mà chém hai cây đao ra, vung ngược đao lên như một đường kiếm, nhắm vào ngực của Lục Tiệm. Lục Tiệm búng ngón tay ra, nghe soạt soạt hai tiếng, đúng vào đường đi của đao, nơi hổ khẩu tay hai đao thủ bỗng dưng đau buốt lên, nếu LụcTiệm mà không nhẹ đòn, đao đã bị đánh bay vuột mất khỏi tay rồi.
Lúc khẩn cấp, Lục Tiệm phải sử Đại Kim Cương thần lực, trong lòng gã có hơi ngường ngượng, trước mắt bỗng chớp loé lên hai luồng hắc quang từ hai cây đinh ba đang chia ra làm hai đường trên dưới tấn công vào. Lục Tiệm lui lại một chút, đôi chân rùn xuống, một đầu quyền vung ra giữa không trung, gã chợt nổi hiếu thắng, bèn quát nhẹ lên một tiếng, song quyền hai bên tả hữu vung ra, hai luồng kình phong sầm sập như núi đổ ào tới, quét vào đỉnh đầu cả toán quân lập trận.
Gã cứ tưởng khi quyền kình phát ra rồi, mọi người bên địch sẽ bị đánh ngã, gã chỉ dùng có nửa lực đạo, không dè kình phong vưà xuất ra, đã nghe Vương Như Long hô lên một tiếng "Phân" (Tẽ ra). Trận thế chợt biến chuyển, hai cây lang tiển tách ra, chia toàn trận ra làm hai bên tả hữu. Quyền kình của Lục Tiệm đánh hụt, chạm vào đất đá, tung bụi bay lên mù mịt. Trận đội né một chút, tiến ngang qua hai bên mình Lục Tiệm, đồng lúc, lang tiển, thuẫn bài xuất ra, khoá kín đường lui của Lục Tiệm, bốn phía các mũi nhọn của đao thương dưạ theo mấy cây tre, cùng lúc đâm vào, hai bên tả hữu cùng tập kích.
Cái chuyển biến này thật là lăng lệ, Lục Tiệm không kịp tránh né, trong lúc cấp bách, gã bèn sử "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", hai cánh tay chập lại, trước cản mấy mũi trường thương, rồi định trằn mình né xuống, chợt thấy đao thủ đã sáp vào nhanh như điện, hươi đao chém vào trước mặt. Tâm niệm Lục Tiệm chuyển biến thật nhanh, gã nghĩ thầm: "Nếu ta mà không đoạt mấy cây thương để thủ thắng, khó lòng ra khỏi cái trận này, nhưng mà đã bó buộc được ta phải sử đến Thiên Kiếp Ngự Binh pháp , cái trận này quả thực có lợi hại!" Lập tức tách hai cây trưòng thương ra, né mình tránh hai cây đao, chẳng dè, lang tiển, đinh ba đã vòng ra phía sau lưng, rồi hai cây trước, hai cây sau, hai mũi nhọn đâm vào, lang tiển vung lên, cành lá mù mịt, như nhiều đám mây mù sa xuống, ào ạt tấn công. Đang lúc tay chân Lục Tiệm bối rối, hai cây đinh ba đã lén lút quật tới.
Lúc ấy, người quan chiến chỉ thấy Lục Tiệm thân hình di chuyển phiêu hốt, như quỷ như ma, gã có ý định xuất thủ cực nhanh, khiến đối thủ giữ trận không phản ứng kịp, trận m Dương vì lẽ đó sẽ bị phá tan, không ngờ, chưa kịp thi hành, trận đã phân ra rồi hợp lại, quay qua, biến thành hai đội, quay lại, đã thấy hoá ra làm ba, vụt một cái, mặt chính diện tấn công theo chiều ngang, vụt một cái nữa, người đang tẽ ra bỗng dưng họp lại, lang tiển trông vào hỗ trợ của thuẫn bài, song thương phối hợp trợ cho lang tiển, đoản đao che chắn cho trường thương, đinh ba lén lút đánh ngược, mỗi lúc mỗi thứ binh khí đóng vai trò sát thương, năm thứ binh khí lần lượt thay nhau công thủ, hỗ trợ cho nhau, mỗi lúc mỗi sinh ra một thế biến hoá bất ngờ, không những đã tránh né được các đòn phản công sát thủ của Lục Tiệm, mà còn phản công lại bằng những đòn phối hợp lăng lệ.
Bọn tướng sĩ nhìn diễn tiến trận đánh mà bị hoa mắt, trong lòng vừa mong trận đừng bị phá, vừa nể phục thần thông của Lục Tiệm, chỉ e gã sơ ý bị quệt phải, mất đi cái oai phong tuyệt thế. Nhìn song phương giao tranh, trong lòng sinh ra bất định, cuối cùng, không biết nên ủng hộ bên nào!
Thích Kế Quang vốn biết Lục Tiệm công phu đã đến mức tuyệt diệu, lúc ban sơ, y chỉ e sợ cái trận pháp mà y đã khổ công nghiên cứu và sáng chế dễ dàng bị đối phương phá tan, giờ đây xem tình hình, thấy có cơ thủ thắng, bèn từ trên suý đài giải thích, đàm luận cùng Cốc Chẩn về biến hoá của trận pháp, Ông bảo: "Cái trận này dùng năm thứ binh khí, dài ngắn tượng như âm dương, số năm ẩn về ngũ hành, thương là kim. tiển là thuỷ, thuẫn là thổ, đao là mộc và đinh ba là hoả. Nễu triển khai đúng cách thức, thì sẽ như ngũ hành tương sinh, không thể phá được, nếu sai đường lối, sẽ như ngũ hành tương khắc, chẳng chờ đối thủ tấn công mà đã tự mình hại mình rồi. Những biến hoá tương sinh, tương khắc bên trong đó, khó có thể chỉ một vài câu mà giải thích cho hết được. Mà các binh khí lại đi cặp đôi, nếu đụng cường địch, sẽ có thế phân ra làm hai mặt âm dương lưỡng nghi, một cương một nhu, tả hữu hai nhánh, rồi thì ứng biến thành Tam tài, hợp lại bao vây, như vậy sẽ làm cho đối thủ tay chân luống cuống, đến lúc bị mỏi mệt, tam tài sẽ hợp nhất, chuyển qua tấn công."
Cốc Chẩn gật gù, bảo: "m Dương, Tam tài, Ngũ hành biến hoá , ai nấy đều rành, nhưng từ xưa đến giờ, học cho thông rồi ứng dụng cho giỏi, đến nay, đếm chẳng được bao nhiêu người!" Nói đến đấy, gã cười xoà, bảo: "Thích tướng quân, xin lỗi tiểu tử ta đây lắm mồm, cái trận pháp rất tuyệt, nhưng cái tên thì lại không hay!"
Thích Kế Quang hơi sựng, hỏi: "Sao lại không hay?" Cốc Chẩn đáp: "m Dương là hai từ đã bị lạm dụng nhiều, chẳng hiểu đã do ai bầy đầu ra, trừ phi Thích huynh làm lốc cốc tử, hay làm đạo sĩ vẽ bùa, đã không nhầm lẫn dữ lắm khi đặt cái tên đó!" Thích Kế Quang không nhịn dược cười, bèn hỏi: "Vậy thì nên đổi tên trận như thế nào?"
Cốc Chẩn đáp: "Ta thấy trận đó chia làm hai cánh, mở, đóng bất định, giống như cánh chim lượn, lướt, theo gió mà đổi hướng, đổi cao thấp. Vậy chi bằng tìm tên chim mà đặt cho trận, cứ tìm thứ chim nào có đủ cặp âm dương, thư hùng ... tỉ như hoặc Phượng Hoàng, hoặc Uyên Ương. Tướng quân vừa mới bảo đó, nếu đẹp đẽ quá thì sẽ vô dụng, nếu thực dụng thời không cần đẹp mã. Phượng hoàng là vua các loài chim, lông cánh thật hoa lệ, dùng đặt trên cho trận không hợp cái thực dụng, chỉ còn đôi Uyên Ương, loài chim tầm thường, nhưng tình ý với nhau thật là sâu đậm, bền chặt."
"Tên thật hay!", Thích Kế Quang vỗ tay khen, "từ giờ trở đi trận pháp đó sẽ mang tên Uyên Ương trận !"
Trong lúc họ đang đàm luận, Lục Tiệm đã nhìn ra cái ưu cũng như khuyết điểm của trận, cái hư và cái thực của nó, bèn chuyển sang phản công , thi triển Đại Kim Cương thần lực, quyền cước tung ra, có kèm theo kình lực ồ ạt, quân sĩ thủ trận bị quét trúng, đều bước chân loạng choạng, cử động mất trầm ổn, chợt nghe gã quát lên một tiếng, một cây trường thương đã bị Lục Tiệm quét mạnh trúng, bay tuốt ra ngoài, Thích Kế Quang trợn ngược hàng lông mày, lớn tiếng hô: "Lý Đồng Tiên, đội của ngươi hãy tiến vào tiếp viện từ mé đông đi!"
Một hán tử cao lớn cất tiếng nhận lệnh, thống lĩnh tiểu đội của hắn kết Uyên Ương trận, tiến sát vào Lục Tiệm. Hai tiểu trận Uyên Ương tả hữu qua lại, kết hợp thành một Uyên Ương đại trận, biến hoá vô hình, quay vòng, hư thực bất định, làm uy lực trận pháp gia tăng gấp bội.
Trận pháp trở thành cương mãnh, Lục Tiệm cũng cường mãnh theo, thần lực như sấm sét không ngớt tung ra, ẩn hiện Kim Cương pháp, quyền chưởng đều lồng theo "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", đấu không bao lâu, tả thủ giáng ngang ra một quyền, đánh gục hai cây Lang Xiển xuống, dính chặt theo đôi thương tùm hụm một mớ vào nhau. Thích Kế Quang thấy tình hình như vậy, tự y đái lĩnh một đội khác tham chiến, sau một lúc, thành ra tình thế ba đội Uyên Ương hai trước một sau, kết thành Tam tài, rồi chuyển qua một hợp, một phân, lại quay về Lưỡng Nghi.
Lục Tiệm càng đấu cành kinh hãi, chung quanh hắn binh khí vù vù qua lại, phiêu hốt, bất định, số binh khí dài ngắn kết theo ngũ hành, tương sinh tương ứng, xem ra so với môn "Thiên Kiếp Ngự Binh pháp" của gã cũng có điểm tuyệt diệu tương đồng, Chỗ khác nhau, là "Thiên Kiếp Ngự Binh pháp" do gốc gác từ "Bổ Thiên Kiếp thủ", thích hợp để đối phó cùng lúc mười loại vũ khí khác nhau, chống món vũ khí nào cũng có bài bản thích hợp, nhưng khi nhìn cách vận dụng kết hợp của năm thứ binh khí trong trận Uyên Ương, cái biến hoá kỳ diệu của chúng dựa vào hỗ trợ tương ứng giữa dài và ngắn, sự tương sinh của ngũ hành, đã tổng hợp vào thành một thể duy nhất, cho thấy uy lực không lường trước được của chúng.
Lục Tiệm không dè cái diệu dụng của trận pháp, nhất thời bị giam giữ trong trận, bó tay bó chân, xuất thủ khó khăn, hắn bực tức, buông một tràng cười dài, cùng lúc vận "Đại Kim Cương thần lực" và "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", đồng thời chuyển, xoay mình, đoạt một cây Lang Tiển, quét nó ra, đánh lui mấy quân sĩ kề cận, quơ cây tre lên, đã hút dính hai cây Lang Tiển khác nữa, rộng đường múa may, các đao thủ, bài thủ rạp cả người xuống định lăn vào phía dưới hạ bàn, chờ cho họ vào sát, gã bỗng như một mũi tên lìà dây cung, nhảy vọt lên hai trượng, hai đội đao thủ thấy tình thế bất lợi, chưa kịp lui ra, đã nghe tiếng đập vào gỗ vang lên liên miên, bao nhiêu mộc thuẫn, mộc đao đều đã bị tan vụn ra.
Lục Tiệm thân mình còn đằng không, sáu cây lang tiển cùng trường thương đã thi nhau hoặc đâm. hoặc quét tấn công tới, cây lang tiển trong tay Lục Tiệm vụt quơ xuống, các trường thương đồng loạt như vụn sắt bị hút vào đá nam châm, dính tất cả vào cây lang tiển của gã, chỉ có mình gã Vương Như Long nhờ sức khoẻ hơn người, đã rút được cây Lang Tiển của hắn về, quơ lên ào ào như một cơn lốc xoáy, nhưng không đủ để bức bách Lục Tiệm chạm đất
Thích Kế Quang thấy thế, đang định gọi thêm tiếp viện, Lục Tiệm đã đánh đầu ngọn Lang Tiển trong tay mình vào đầu cây tiển của Vương Như Long, mượn sức phản chấn, tung mình nhảy vọt ra bên ngoài trận, giơ tay lên, la lớn: "Đại ca, đủ rồi!". Thích Kế Quang nghe y kêu, bèn cho ngừng trận, giải tán chư quân, rồi kêu lên: "Cái trận này thiệt đã không thể cầm chân được đệ!"
Lục Tiệm lắc đầu, đáp: "Trận đó dĩ nhiên vô cùng lợi hại, chỉ có hai nhược điểm, nếu sửa chữa được, đến đệ đây cũng chưa chắc tháo chạy thoát ra khỏi trận được". Thích Kế Quang hỏi: "Nhược điiểm ở đâu?" Lục Tiệm bảo: "Thứ nhất, quân sĩ sử lang tiển chưa đủ khoẻ, ngoài Như huynh ra, mấy người sử tiển vì tiến thoái không linh hoạt, đã không phát huy được hết uy lực của Lang tiển. Thứ hai là thiếu cung tên, súng điểu. Nếu trong trận đó mà có thêm cung nỏ, súng điểu, đệ chẳng thể nào đằng không thật lâu mà tránh khỏi bị làm mục tiêu cho tên, cho đạn.Chỉ cần bổ sung thêm tên đạn, các tiển và trường thương sẽ khó đối phó hơn nhiều"
Thích Kế Quang trầm ngâm, rồi nói: "Chuyện khí lực là do trời sanh, chẳng thể miễn cưỡng dược!" Lục Tiệm vui vẻ bảo ông:"Đại ca , việc tập luyện khí lực đó cứ giao cho đệ lo đi". Thích Kế Quang nhìn gã, tủm tỉm cười, rồi day qua ba quân, ông cất tiếng sang sảng hỏi: "Từ hôm nay trở đi, cái vị Lục huynh này sẽ đảm nhiệm chức giáo đầu, bọn ngươi có chịu phục hay không?" Bọn quân lính thảy đều khâm phục võ nghệ của Lục Tiệm, nghe ông hỏi, đều mừng rỡ, nhất loạt trả lời: "Phục rồi! Phục rồi"
Ngay hôm đó, Lục Tiệm và Cốc Chẩn đứng ra nhậm chức. Lục Tiệm thấy ba mươi hai biến tướng không phải ai cũng có thể tập luyện được, mà còn dễ bị hiểm hoạ rước kiếp lực vào thân, huống hồ phần lớn sĩ tốt tầm thường đều rất dễ bị sai lạc khi luyện tập. Gã suy nghĩ thật lâu, cuối cùng, đem ba mươi hai biến đó gộp lại thành sáu thức,là: kị thức, câu khai thức, giá thượng thức, áp hạ thức, trung bình thức, nhiêu bộ thối thức. Sáu bộ thức đó tư thế giản dị, tâm pháp dễ hiểu, nhắm vào tập luyện tăng thể lực, lại có chiêu thức tiến thoái, Gã tối ưu hoá các chiêu thức, rồi tuyển chọn những quân sĩ sẵn có thể lực, đem truyền dạy họ. Lang tiển vốn dĩ là môn hộ của trận pháp Uyên Ương, các quân sĩ đó, sau khi tăng thể lực rồi, đem đi cho sử dụng Lang tiển, từ chỗ hai người một cụm trở thành tự mỗi người một cụm, chuyện tiến thoái của toàn trận đã tăng uy lực gấp bội. Gã còn đem "Thiên Kiếp Ngự binh pháp" ra chế biến thành chiêu thức cho ma đao thuẫn, đinh ba, trường thương ... làm cho giản dị đi, những vẫn giữ că bản, phối hợp cùng các chiêu thức của Lang tiển, nâng cao tính tương sinh ngũ hành, lưỡng nghi tương ứng, làm cho trận thế không còn nhược điểm nữa. Lục Tiệm xuất thân nghèo khó, dễ thân cận cùng quân sĩ, hợp tính hợp tình. Gã vào ở luôn trong doanh trại, cùng ẩm cùng thực với ba quân, cùng chung giường chiếu. Bọn quân lính thấy vị giáo đầu này cùng chia bùi sẻ ngọt với họ, trong lòng càng quý mến, thán phục y hơn, đều ra sức nỗ lực chuyên cần tập luyện. Do gã giốc lòng tập luyện quân sĩ, gã càng lúc càng xa cách Cốc Chẩn. Cho tới một hôm, Lục Tiệm ngẫu nhiên nhớ tới Cốc Chẩn, đi tìm y, thấy phòng ốc vắng lặng, hỏi thăm thì được vệ binh thông báo là Cốc Chẩn mấy lúc sau này ít về qua nhà. Lục Tiệm trong lòng thắc mắc, nhưng việc quân bận rộn, gã cũng đành gác lo âu sang một bên.
Chiều tối hôm đó, Lục Tiệm đang cùng Thích Kế Quang thao luyện trận pháp, chợt nghe có tiếng trâu rống, ngựa hí, đưa mắt nhìn, thì thấy trước doanh trại nguyên một đại đội trâu và ngựa đang rầm rập tiến đến. Còn đang thắc mắc, đã thấy một kị sĩ bạch bào từ trong đám đó tiến ra, miệng cười hì hì, đich thị Cốc Chẩn. Gã đưa tay vẫy chào hai người, rồi hươ roi ra lệnh mã phu tháo dỡ hàng hoá xuống. Thích Kế Quang lại gần xem xét, thấy đó là khôi giáp, binh khí, vô số lương thảo, đều được đóng gói cẩn thận, chất đầy doanh trại, có nhiều thùng gỗ to, mở ra xem thì thấy bên trong toàn là súng điểu cùng đạn dược mới tinh.
Thích Kế Quang , Lục Tiệm nhìn đến hoa mắt, cứ ngỡ đang nằm mơ, đang định đi tìm Cốc Chẩn tra hỏi, lại đã nghe tiếng ngựa hí vang, tiếng trâu bò nghé ngọ, nhìn ra thì thấy vô số trâu bò đang kéo xe đến, trong đó có nhiều cỗ súng thần cơ to lớn, nòng súng sơn đen dễ khiến người ta trông thấy mà rùng mình. Đàng sau đó là mấy trăm cỗ chiến mã, vóc mình cao lớn, yên cương đều được thắng đầy đủ!
Cốc Chẩn kiểm nhận xong hàng hoá, rời mình ngựa, miệng tủm tỉm cười, bước đến bảo: "Còn năm mươi khoái hạm đang thả neo nơi bờ biển, đã không thể đem đến đây được!". Thích Kế Quang nhăn mặt, hỏi: "Cốc lão đệ , mấy cái này .... toàn do đệ đã mua cả, phải không?" Cốc Chẩn đáp: "Đúng thế! Coi được không?" Thích Kế Quang bảo: "Được thì được đấy, nhưng giá tiền toàn thể cao đến mức kinh khiếp, ta chỉ đã đưa đệ có hai trăm lượng, nếu buôn bán sanh ý thiệt cao, tính ra cũng phải quay vòng vốn cả trăm năm mới kiếm đủ tiền mua chúng!". Cốc Chẩn vui vẻ, hỏi lại: "Thích tướng quân, ông còn nhớ cái điều kiện thứ nhất không?" Thích Kế Quang đáp: "Nhớ chứ! Đệ buộc ta không được tra hỏi lai lịch tiền bạc từ đâu ra! Nhưng đây lại thiệt nhiều đồ quân giới, lương hảo, nhiều khủng khiếp, nếu ta không rõ lai lịch, thiệt Thích mỗ ta không dám ...". Cốc Chẩn lại cười, nói: "Điều kiện thỏa thuận thứ hai, những gì ta mua về, ông đều phải nhận lãnh hết. Thích tướng quân đã đồng ý cả hai điều kiện, tướng quân lấy thành tín trị quân, sao lại muốn nuốt lời đã hứa chịu cùng ta?"
Thích Kế Quang sớm đã dự liệu sẽ đến cái ngày này, sẽ bị dưới tay Cốc Chẩn, đã chuẩn bị tinh thần để bước vô tròng của gã, nhất thời ông đành bất đắc dĩ, bấm bụng chịu thua. Vả lại, các món quân giới lương thảo đó, đưa đến đúng lúc ông đang cần gấp, dư để trang bị cho nguyên cả một quân đoàn vô địch, trong lòng Thích Kế Quang vui mừng hớn hở, ông quẳng ráo mấy cái mối lo âu nghi ngờ đó lên chín tầng mây!
Ngày hôm sau, Cốc Chẩn cho cất một gian lều tranh bên ngoài doanh trại, rồi gã thường xuyên có mặt ở đấy. Từ ngày dựng lên gian lều, khách khứa không ngừng lai vãng, phần lớn là phú thương, quần áo diêm dúa se sua nhất đời, đỗ trước lều nườm nượp toàn là xe cộ hoa lệ, buộc kề cận trên đường tinh là ngựa quý, đang không ngừng tranh nhau tiếng hí, các thứ xa hoa hào nhoáng, lụa là gấm vóc quý giá, liên tục vào ra gian lều, đôi lúc, khách khứa có chạm mặt nhìn nhau, đều lộ vẻ thập phần thần bí.
Từ Thích Kế Quang trở xuống, quan quân trong trại không ai không hiếu kỳ, có kẻ thừa lúc khách của y chưa ra về, đã đến trước lều nhòm ngó, chỉ thấy khách ngồi một bên, dáng điệu hết sức cung kính, Cốc Chẩn ngồi một bên, tay tả gõ bàn toán, tay hữu ghi ghi chép chép vào sổ sách, nói cười liền miệng, thấy khách vừa vào cửa là ngẩng đầu mở miệng chào hỏi, là tay nâng chén rượu mời khách, chiêu đãi thực lòng, chủ khách cùng vui vẻ thoải mái.
Lục Tiệm cũng lấy làm lạ, có dọ hỏi y, Cốc Chẩn đều tìm cách nói lảng sang chuyện khác, cười nói chuyện đâu đâu. Lục Tiệm biết gã quen hành sự như vậy, nếu gã chẳng chiụ thố lộ, gã tất có nguyên do, nên Lục Tiệm cũng không gặng hỏi lắm, chỉ hết lòng giúp Thích Kế Quang huấn luyện binh sĩ. Và từ ngày Cốc Chẩn trở về, bất cứ quân giới, vật tư gì Thích Kế Quang cần, gã đều lo cung ứng đầy đủ, từ đó, quân binh của họ Thích được trang bị khí giới, tàu xe vào hàng cực phẩm, đứng đầu toàn Giang Hạ, nếu không muốn nói đứng nhất thiên hạ!
Ngày tháng trôi qua, thấm thoắt đã đến tháng tám, quân lính đều được nghỉ phép về quê, doanh trại trống vắng. Ba người rảnh rỗi, Cốc Chẩn bèn mời Thích, Lục hai người ngồi thuyền dạo chơi trên sông, uống rượu, nói chuyện. Lúc ấy, trăng lên cao vằng vặc, tiếng sóng bủa vào bờ rì rầm, rừng cây thưa thớt lá, Ba người uống đến đỏ mặt đỏ mày, nói chuyện lan man từ nghiệp vụ của mình, lan sang chuyện binh pháp! Cốc Chẩn thuyết rằng: "Động binh động mã, trước hết phải lo cho chu toàn chuyện lương thảo, chẳng phải bàn thêm gì nữa, cái cốt yếu của dụng binh, chủ yếu chính là quân lương. Thời Hán Sở giao tranh, Hán Cao Tổ đánh trăm trận thua cả trăm, nhưng rốt cục chẳng khi nao bị tuyệt lương, toàn nhờ ngài đã có hậu cứ Quan Trung vững chắc, Tiêu Hà (làm thừa tướng cho Hán Cao Tổ) lo việc chuyển vận lương thảo, nguồn lương hướng không bao giờ bị cắt đứt, hôm nay dẫu có thua trận, nhưng lương thực vẫn còn, ngày mai vẫn có thể ra quân trở lại. Việc chuyển vận lương thảo của Hạng Vũ vốn do Bành Việt , Anh Bố (hai đại tướng của bên Sở, sau về đầu về hàng nhà Hán), đảm nhiệm, khi Hạng Vũ mất Bành Việt, Anh Vũ rồi, đường vận lương không còn bảo đảm, tuy Hạng Vũ đã từng chiến thắng trăm trận trước đó, đến khi thua một trận chót duy nhất, y đã không vực trở lại được nữa!"
Thích Kế Quang xua tay lia lịa, cãi: "Cốc lão đệ câu đó nói sai rồi! Việc binh dựa vào NGHĨA, cái cốt yếu của hành quân, là ở hai chữ ĐẠO NGHĨA.Thánh nhân đã từng nói: Người quân tử nhằm vào nghĩa, kẻ tiểu nhân hám vào lợi. Lương tiền tuy quan trọng, nhưng thứ đó nhắm vào mặt lợi! Trong mắt tướng sĩ chỉ thấy lợi, nên còn lợi thì còn đánh nhau hăng, hết lợi thì tan rã hàng ngũ. Hạng Vũ dụng binh như thần, nhưng tính tình bạo ngược, sai giết sạch hàng binh, đem chôn sống hai mươi vạn quân Tần, đánh mất nhân tâm, đến lúc thua không vực lên được, đã phải đâm cổ tự vẫn! Cao Tổ định ra ba chương ước pháp, được lòng người, dẫu thua trận liên tiếp, nhưng cuối cùng đã đoạt được thiên hạ. Chỉ có lấy nhân nghĩa làm gốc, mới có thể chuyển từ yếu sang mạnh, trước thua, sau thắng. Các danh tướng đời xưa, Thích mỗ phục nhất Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi), Quân sĩ của Nhạc gia:
Ngạ tử bất lỗ lược,
Đống tử bất sách ốc
(Nghĩa: Đói khát không đi cướp bóc lương thực của dân, Rét mướt không đi chiếm dụng nhà cửa của dân)
cái đó, mới thật đạo nghĩa kinh hồn!"
Cốc Chẩn hỏi: "Nói như Thích tướng quân đây, nếu tuyệt lương, chắc để quân lính bụng rỗng, cầm đao gỗ, thương trúc đi đánh trận?"
Thích Kế Quang đáp: "Cổ nhân lúc đầu đi đánh trận, dùng gậy tầm vông còn được, huống hồ đao gỗ, trúc thương?"
Cốc Chẩn cười ầm, day sang hỏi Lục Tiệm: "Ý ngươi ra sao?". Lục Tiệm đáp: "Ta thấy Thích đại ca nói đúng, chỉ khi nào ra trận vì bá tánh, mới có được hùng tâm tráng chí, không chút bận tâm!". Thích Kế Quang vỗ tay, khen :"Nói rất hay, chỉ cần không chút vướng mắc trong lòng!"
Đang lúc truyện trò, chợt từ phía đầu nguồn, trên bờ sông có thấp thoáng ánh đèn, ẩn ẩn hiện hiện tiến đến, lúc đến thật gần, có một giọng nam tử ngàn ngạt hỏi: "Có Cốc thiếu gia ở trên thuyền đấy không?"
Cốc Chẩn lớn tiếng hỏi lại: "Ai tìm ta đấy?". Lửa đèn nơi đó vụt bừng lên, đồng loạt hơn mười cây đuốc cháy sáng, cảnh tượng bên bờ sông hiện rõ như ban ngày. Ba người dõi mắt trông về chỗ bờ sông nơi ấy, thấy hai hàng người Hồ đang quỳ mọp, họ mình trần, mắt xanh, tóc vàng, tay chân đeo đầy những vòng vàng lớn, trên dây lưng có đính một viên hồng ngọc bảo thạch, dưới áng sáng đuốc, thấy nó lập loè, lóng lánh.
Trên vai tám người là một cái cáng gỗ lớn, có cái ngai, trên ngai ngồi vắt vẻo một nàng Hồ nữ, tóc đen nhánh như mực, thịt da đầy đặn, mặt che một tấm sa mỏng, cho thấy đôi nhãn châu màu xanh, đầy nét kiều mị câu hồn đoạt phách. Đứng tản ra quanh đấy còn có hơn mười tuỳ tùng, nam có, nữ có , toàn là người Hồ.
Thích Kế Quang và Lục Tiệm chưa từng thấy người Hồ, đều cảm thấy kỳ lạ. Cốc Chẩn hình như từng dự liệu trước, cười cười, hỏi: "Các vị tìm ta, chẳng hay có chuyện gì gấp gáp?". Nàng Hồ nữ trên cáng ngó gã, mắt nhìn không chớp, một lúc lâu. Cốc Chẩn hì hì, hỏi "Mỹ nhân nhân, sao nàng lại nhìn ta chăm chú đến thế? Nàng đang định ve vãn tình nhân là ta đây sao? Rồi đem ta về lấy làm chồng?"
Nàng Hồ nữ cười khanh khách, đưa tay che miệng một hồi lâu, rồi ỏn ẻn: "Đông Tài thần quả thật như lời đồn đại, một gã thiếu niên ngông cuồng, nhưng cũng là một gã mặt mày anh tuấn, làm người ta mê đến chết luôn đây này!"
Cốc Chẩn ngoác miệng ra cười, "Nàng mà mê chết rồi, ta cũng không buông tha!" Hồ nữ cười hi hi, bước xuống khỏi cái ngai, trên hai tay nàng bưng một cái hộp cẩn bảo thạch, thênh thênh bước đến ven bờ sông, nói: "Ta vâng mệnh chủ nhân, mời túc hạ ngày mười lăm tháng này ghé qua gặp ngài ở lũng Linh Thuý, tỉnh GiangTây"
Cốc Chẩn đứng lên, chống sào cho thuyền cập vào, lên đến bờ, hắn nhận cái hộp, liếc sơ qua, rồi bất ngờ, cúi thụp người xuống ngang tầm đầu gối Hồ nữ, nghe soạt một tiếng, ném cái hộp bay vù ra giữa sông. Hồ nữ ánh mắt hoảng hốt, lui lại một bước, cùng lúc đó, nghe tiếng suỳ suỳ từ giữa dòng sông, có mấy tia nho nhỏ bắn ra, phút chốc, dưới ánh sáng mấy ngọn đuốc, nước sông chỗ đó đổi màu đen kịt như mực.
Thích Kế Quang cùng Lục Tiệm vụt xanh xám mày mặt, Lục Tiệm quát: "Quân gian tặc giỏi nhỉ, cái hộp đó có ngầm gài ám khí". Lục Tiệm đứng vụt người lên, Cốc Chẩn kịp thời đưa tay cản gã lại, cười cười, bảo: "Tiểu kỹ điêu trùng ấy là thứ hạng bét, vậy mà bà nương này cũng đòi giở giói ra!"
Nàng Hồ nữ gượng cười, nói: "Chủ nhân ta nghe đồn ngươi giỏi tài mở khoá, nên muốn nhân dịp này thử tài, xem ngươi sẽ mở hộp đó ra sao, nếu ngươi mở hộp khéo léo, sẽ không làm phát động cơ quan bắn nước độc, đâu có ngờ ngươi lại làm vậy. Đáng tiếc, cái thiệp mời bên trong cũng bị mất luôn theo cái hộp!"
"Đừng lo!", Cốc Chẩn bảo, "Thiệp mời nếu bị huỷ hoại, sẽ chẳng phải là bổn sự của chủ nhân của nàng". Cái hộp đó, sau khi độc bên trong tan hết vào dòng sông, đã hiện hình dưới đáy nước. Cốc Chẩn vừa định tìm cách vớt nó lên, Lục Tiệm đã đi trước gã một bước, tay y vừa dang ra, đã thấy cái hộp nằm gọn trong lòng bàn tay rồi, hộp toàn bằng vàng, trên mặt hộp có chạm khắc hình thú, hình chim, hình người, nét chạm trổ cực kỳ tinh xảo.
Vận dụng kiếp lực, Lục Tiệm đã thấy được bên trong hộp, gã day qua Cốc Chẩn bảo: "Cơ quan trong hộp đã hết hiệu quả rồi, sẽ chẳng còn gì khác lạ nưã đâu". Cốc Chẩn cười hì hì, nói: "Cái đó đương nhiên, bà nương thực tình rất muốn giết ta, đâu ngờ bị mất cả vốn, cho ta dịp phát tài. Gã bèn lập tức mở hộp, thấy bên trong có một lá bạch kim giát mỏng tựa cánh ve sầu, trên có mấy dòng chữ màu đỏ như máu. Lục Tiệm chăm chú quan sát, gã vụt hít vào một khẩu chân khí thật to, mấy dòng chữ đỏ tựa máu đó đều đã toàn dùng hồng ngọc khảm nên, nhìn chu vi bên trong hộp, mỗi bề có khảm một viên ngọc phỉ thuý lớn, trên viên ngọc chạm trổ hoa văn tỉ mỉ tinh diệu, viên ngọc trong suốt, nét chạm nhìn xuyên thấu qua, thật không biết đã làm cách nào mà chạm khắc tinh xảo được như vậy!
Cái hộp hoàng kim đó, giá trị cỡ ngọc liên thành, Cốc Chẩn liếc sơ qua, cười bảo: "Ngoài kim ngân, còn thì tinh là đá quý, đã lâu ta chưa có dịp xem qua, bà nương này bị nhiễm tục khí nặng đến thế cơ à?" Nói xong, gã đậy nắp hộp lại, day sang bảo Hồ nữ: "Nàng thưa với chủ nhân là Cốc mỗ sẽ đến đấy đúng kỳ hạn, còn chưa gặp mặt, quyết không dời bước ra đi!"
Nàng Hồ nữ vui vẻ đáp: "Vậy thiếp thân xin cáo từ". Cốc Chẩn bảo: "Xin cứ tự nhiên!" Hồ nữ lại lên ngồi trên cái ngai, tám người Hồ khiêng cáng đồng loạt đứng lên, rồi cả đoàn đi xa dần, lửa đuốc tắt ngúm, vầng sáng đèn mỗi lúc một thu nhỏ lại, rồi lẩn khuất vào màn đêm.
Cốc Chẩn tuy không nói gì, nhưng Lục Tiệm cũng đã đoán được phần nào, nhìn đoàn người Hồ đi xa dần, gã không nhịn được nữa, cất tiếng hỏi: "Cốc Chẩn, đó có phải là sứ giả của Tây Tài thần không?". Cốc Chẩn tủm tỉm bảo: "Bà nương bị ta quấy rối ngay trong hang ổ, đã bắt đầu thấy bực bội rồi đó!"
Lục Tiệm thắc mắc: "Ngươi quấy phá cách nào vậy?" Cốc Chẩn đáp: "Cái đó cũng đã không phải đơn giản! Bà nương đó vô quậy nơi Trung thổ của mình, thì ta cũng quậy phá lại vùng Tây Vực cuả mụ. Hai tháng trước đây, quá nửa gia súc ở đất Ba Tư của mụ đã lăn đùng ra chết, hơn mười thuyền buôn bán hương liệu của mụ đã bị chìm ở Tây Trúc. Bà nương mình bị thất thoát khá bộn, nên đã phải tìm cách gặp ta , để thương lượng"
Lục Tiệm vừa hoảng, vừa mừng, buột miệng kêu lên: " Hèn chi! Mấy lúc sau này, ta thấy ngươi toàn tiếp đón phú thương, thì ra chuyện đó!" Cốc Chẩn khẽ gật đầu. Lục Tiệm lại hỏi: "Ngươi đã thừa sức đối phó mụ trên thương trường, sao còn phải đi gặp mụ làm gì?"
Cốc Chẩn lắc đầu, bảo: "Mụ ta tuy mất mát khá bộn tiền của, nhưng mụ còn nắm trong tay nhiều lương thực, vừa rồi, cái thiệp mời đó, nếu ta không khứng gặp mụ, mụ ta sẽ đem lương thực đốt trọn đi, cái ả nữ nhân đó, nói là làm, không giỡn chơi đâu!" Gã nói đến đấy, liếc mắt sang Thích Kế Quang, đùa đùa, bảo: "Thích tướng quân, chừng nào thì ông cất quân đi Giang Tây vậy?"
"Lão đệ nói vậy là ý tứ ra sao?" Thích Kế Quang chau mày hỏi lại, "Không có thánh chỉ từ triều đình ra lệnh, quân đội của ta chẳng thể nào tự ý rời bỏ căn cứ, hành quân sang khu vực khác bên ngoài" Cốc Chẩn vui vẻ bảo: "Cái đó dễ! Ta đã xin được từ kinh đô về một đạo thánh chỉ, chắc chỉ nay mai là đến đây thôi!". Thích Kế Quang ngẩn người ra một lúc, rồi hỏi lại: "Cốc lão đệ nói giỡn chơi ta đấy ư?". Cốc Chẩn chỉ cười cười, không đáp.
Giữa trưa ngày hôm sau, đang lúc Thích Kế Quang huấn luyện binh sĩ, nghe báo Hồ Tôn Hiến đã cử người đem thánh chỉ đến từ Hàng Châu. Thích Kế Quang về đại trướng tiếp chỉ, đại ý thánh chỉ bảo: "Vì oa khấu từ vùng Mân phía bắc đã tràn xuống Giang Tây, quậy phá kịch liệt, làm gián đoạn giao thông thuỷ, bộ, nay ra lệnh cho Thích Kế Quang nội nhật phải thống lĩnh dân quân Nghĩa Ô đi cứu viện Giang Tây, dẹp loạn, trừ khấu. Đồng thời lệnh cho Hồ Tôn Hiến phải hoả tốc xuất quân đi gíup sức quân đội của họ Thích, không được chậm trễ!"
Thích Kế Quang kinh hãi trong dạ, lập tức cho kiểm tra sứ giả, kiểm tra thánh chỉ, thấy đúng thực là ngự ấn, không có gì là trá nguỵ cả.
Ông suy nghĩ hồi lâu, rồi cho triệu Lục Tiệm , Cốc Chẩn đến gặp. Hai người vào trướng xong, Thích Kế Quang đưa thánh chỉ cho hai người xem qua. Lục Tiệm cũng bị kinh hãi, chỉ có Cốc Chẩn cứ tủm tỉm cười. Thích Kế Quang đi tới đi lui chục bước trong trướng, vụt "soạt" một tiếng, rút kiếm, trỏ vào Cốc Chẩn, hỏi: "Rút cục, ngươi là yêu nhân phương nào?"
Cốc Chẩn cười, đáp: "Ta họ Cốc, tên Chẩn, Thích tướng quân không nhận ra ta sao?". Lời chưa dứt, trước mắt đã hoa lên một đạo kiếm quang, mũi kiểm trỏ ngay vào yết hầu, toát hơi lạnh ngắt, rồi nghe Thích Kế Quang trầm giọng bảo: "Ta chỉ đem lòng thành thực chơi với bạn bè, không cho kẻ gian trà trộn vào hàng ngũ!"
Cốc Chẩn nhìn lưỡi kiếm, vẫn giữ nét cười cợt, tròng mắt chẳng hề lay động. Thích Kế Quang thấy gã hết sức bình ổn như thế, có chút nghi ngại, lại thấy Lục Tiệm đưa tay ra đè lưỡi gươm xuống, bảo: "Đại ca, đệ đem tính mạng mình ra đảm bảo, Cốc Chẩn tuyệt chẳng phải là hạng gian manh xảo trá!"
Thích Kế Quang lạnh lùng đáp: "Hắn không phải hạng gian tà, làm sao mà từ một kẻ chân trắng bạch đinh, đã có thể làm cho triều đình hạ chiếu chỉ điều động binh mã?"
Lục Tiệm cũng không sao giải thích được, đưa mắt hỏi Cốc Chẩn. Cốc Chẩn cầm tấm thánh chỉ lên, than rằng: "Thích tướng quân quả là người chân chỉ hạt bột, chẳng ưa trò trào lộng, cái thánh chỉ này, đích thực ta đã phải mất bao nhiêu là công sức, tốn mất ba vạn lượng bạc trắng, đút lót cho thái giám kề cận hoàng đế"
"Thật vậy sao?",Thích Kế Quang sa sầm nét mặt, "ngươi đang mưu toan phản loạn gì, nếu không thành thật khai báo ra, hôm nay, trong trướng này, máu sẽ loang đầy ba thước!"
Bỗng dưng huynh đệ xào xáo, Lục Tiệm mặt mày nhăn nhó, khuyên: "Cốc Chẩn, ngươi toan tính gì, hãy đem trình bày tất cả cho Thích đại ca nghe đi". Cốc Chẩn lườm hắn, rồi nói: "Ta sở dĩ đút lót để mua cái thánh chỉ này, chỉ vì đang định làm một chuyện thật trọng đại. Ta cần cái thánh chỉ này, vì nó là một phần của ba cái mấu chốt, không có đủ cả ba, không thể nào hoàn thành được đại sự đó"
Lục Tiệm hỏi: "Ngươi nói ba mấu chốt là sao?" Cốc Chẩn trỏ tay vào đạo thánh chỉ, giải thích: "Cái thứ nhất, là phải giầu có vào hàng địch quốc, cái thứ nhì, ta cần tuyệt thế thần thông, cái thứ ba, là cần quân đội đã được huấn luyện cho thật kỹ. Giàu có là ta, thần thông đã có Lục Tiệm, chỉ còn tinh binh, nếu thiếu tân binh và thuộc hạ của Thích đại tướng quân, là không xong!"
Thích Kế Quang nửa tin nửa ngờ, hỏi: "Ba cái mấu chốt hết sức khó khăn đó, cuối cùng dùng vào việc đại sự gì?" Cốc Chẩn đáp: "Lục Tiệm, cái này phải để ngươi giải thích, ta mà nói, Thích tướng quân chưa chắc đã chịu tin lời ta"
Lục Tiệm gật đầu, đem đầu đuôi chuyện cứu tế Giang Nam kể lại. Thích Kế Quang nghe như nghe kể chuyện hoang đường, ông quá sức ngạc nhiên! Nếu ông không hết lòng tin cậy Lục Tiệm, không nhìn cái trịnh trọng trong cung cách Lục Tiệm thuật chuyện, thì chưa chắc đã tin! Ông lập tức hiểu ngay những cái đó là sự thật, bèn đút trường kiếm vào vỏ, khoanh tay, trầm tư. Cốc Chẩn lại bảo: "Cái địch quốc chi phú nhằm đối phó Tây Tài thần;, cái tuyệt thế thần thông để đối phó cao thủ của đối phương, còn tinh binh, chính để chống bọn oa khấu các tỉnh An Huy, Giang Châu, Quảng Đông và Mân Việt. Ba cái đó, thiếu một, là không xong!"
Thích Kế Quang bảo: "Nếu sự thực là thế, đúng là chuyện khó thể tưởng được, nhưng vì nó có liên quan đến an nguy đất nước, ta đây nguyện vì nghĩa liều thân!". Ánh mắt ông vụt sáng, ông day sang nhìn Cốc Chẩn, bảo: "Ngươi vì cái an nguy đất nước mà đã bất chấp chuyện gian trá, có điều cách làm vậy, thiệt chẳng phải đạo chút nào!"
Cốc Chẩn cười mà rằng: "Ta bình sanh hành sự, chỉ cần được việc, bất cần để ý đến nguyên tắc kẻ khác. Người ta nói Nuôi lang sói là có dã tâm, nuôi hổ báo là gây nạn về sau , ta thì bảo Ta theo lòng trời mà nuôi hổ nuôi sài lang, dùng lợi mà nhử, chúng hết lòng hết sức làm việc cho ta , mấy cái đứa cận thần, thái giám của hoàng đế đó, có chuyện ác nào mà chúng không làm! Nhưng bọn chúng may mắn còn có ta, dù chúng có ra tay vì tham bạc tiền, cũng đã góp phần vào hảo sự, cũng có tích được đôi chút âm đức, một công mà ba chuyện, lợi cho họ, mà cũng lợi cho ta. Ha ha, nói về chuyện hám lợi, Thích huynh là chính nhân, hành sự luôn luôn đặt đạo nghĩa lên hàng đầu, còn bọn thương nhân ta, làm gì cũng đặt chữ lợi lên trên, cái tánh đó, ta không sửa đổi được!"
Thích Kế Quang tưởng được dịp giáo huấn gã, đem đạo đức ra thuyết, ai dè Cốc Chẩn giỏi tài nguỵ biện, nói qua nói lại ba điều bốn chuyện, đã làm ông khó đối đáp, nhất thời không có cách gì khác, đành dẹp bỏ ý định lên lớp gã, mặt mày bí xị!
Cốc Chẩn lại bảo: "Cái bí mật đó, để tránh cho đối phương đánh hơi được kế sách của ta, ba người mình nên đi tẽ ra. Để ta với Lục Tiệm đi trước, Thích tướng quân thống suất quân đội đi sau, ta sẽ đưa cho Thích tướng quân một bản địa đồ hành quân, trước ngày mười lăm, phải có mặt tại chỗ, ngày nghỉ đêm đi, không được đánh động!".
Gã nói xong, lấy từ trong tay áo ra một tấm địa đồ, đưa cho Thích Kế Quang. Thích Kế Quang mở ra, thoáng nhìn đã nhận ra bản đố tỉnh Giang Tây, trên đó các tuyến hành quân đã được tô màu đỏ. Ông sẽ chau mày, suy nghĩ một vài giây, rồi bảo: "Hai vị cứ yên tâm. ta sẽ chỉnh đốn binh mã, rồi sẽ theo sau hai vị đúng kỳ hạn"
Cốc Chẩn cười ha hả, đưa cả hai bàn tay ra. Thích Kế Quang cũng cất tiếng cười, đưa hai bàn tay vỗ vào hai lòng bàn tay gã!
Chương 54 Đấu Bảo
Cốc Chẩn quyết đoán nhanh nhẹn, thu xếp đâu đấy xong , lập tức trong ngày hôm đó, từ biệt Thích Kế Quang, cùng Lục Tiệm cưỡi ngựa đi về hướng tây, cả năm đại kiếp nô cũng đi theo. Rong ruổi gió sương vài ngày, họ vào đến Giang Tây, hôm sau nữa, đến bên bờ Trường Giang, đã có một chiếc hoa thuyền lớn thả neo chờ sẵn. Cả hai giong ngựa lên thuyền, rồi nhổ neo, ngược dòng. Trên hoa thuyền, có phòng khách, phòng đọc sách, phòng ngủ, tất cả trang bị đầy đủ tiện nghi. Cốc Chẩn ngày đọc sách, tối chơi cờ, uống rượu, đôi khi cùng Lục Tiệm đứng tựa lan can bình phẩm, thưởng ngoạn phong cảnh hai bên bờ sông, thần thái ung dung, nhàn hạ.
Lục Tiệm hiểu cá tính đặc biệt của Cốc Chẩn, càng gần lúc đương đầu đại địch chừng nào, gã càng lộ vẻ ung dung, trấn tĩnh, và ngược lại! Thành thử, cái dáng gã ung dung đó, càng khiến đối thủ khó đoán biết gã hơn! Lục Tiệm không nén nổi lo lắng trong lòng, hỏi: "Cốc Chẩn, cái mụ Tây Tài thần đó rốt cuộc đã đưa ra đề mục tỷ thí như thế nào rồi?"
"Đề mục cũ xì mà!", Cốc Chẩn cười, đáp: "Mụ ước định ta tại lũng Linh Thúy để thi đấu bảo vật, tỷ thí xem ai được quyền làm chủ cái nhẫn Tài Thần. Năm đó, ở trận thi đấu bảo vật ở Nam Hải, mụ thua mất cái nhẫn vào tay ta, trong lòng vẫn không phục, lần này, thù cũ hận mới, mụ tìm ta tính sổ một lần!"
LụcTiệm hỏi: "Thi đấu bảo vật là thi như thế nào?" Cốc Chẩn vui vẻ giải thích: "Tức là thi đấu giầu có ấy mà! Ai càng có nhiều bảo vật, càng trân quý chừng nào, càng hay!" Lục Tiệm hỏi: "Ngươi đã có chuẩn bị kỹ chưa?". Cốc Chẩn cười cười: "Cũng có chuẩn bị đôi chút, nhưng không nhiều hy vọng lắm!" Thấy Lục Tiệm lo lắng hiện trên mặt, gã bất chợt vỗ vai Lục Tiệm, bảo: "Đại ca , trên đời này, cái sự toàn thắng, tất thắng vốn chẳng nhiều, nhưng như Thích tương quân đã nói thật đúng đấy, ra quân trông vào NGHĨA, lấy NGHĨA làm đầu, huynh và ta đều giốc lòng vì bá tánh, thể nào cũng được ông trời phù trợ". Lục Tiệm phấn khởi hẳn lên, gật đầu đáp: "Ngươi nói đúng lắm, tại vì ta đã quá lo lắng đấy thôi!"
Thuyền tiếp tục đi được hai hôm, rồi họ rời Trường gIang, rẽ vào một nhánh sông con. Nước sông trong xanh, lượn quanh núi biếc, mặt sông hẹp lại dần, chỉ đủ rộng cho ba chiếc thuyền cùng đi song song. Đi thêm một ngày đường nữa, chợt thấy hai bên bờ là đồi cỏ xanh mướt, quây quanh một thung lũng núi.
Sau vài vòng quay bánh lái, thuyền cập vào, bọn Cốc Chẩn , Lục Tiệm rời thuyền lên bờ. Trong cốc cỏ cây rợp bóng, giữa rừng có dựng một toà miếu, vách gỗ hư mục, mái ngói đổ nát, chừng bị hoang phế đã lâu. Trước miếu, một khoảnh đất trống, hiện có chừng hơn trăm người tụ tập trên ấy, toàn phục sức hoa lệ, kiểu cách phú thương. Lục Tiệm cũng có nhận mặt đôi ba người trong đám, như Hồng lão gia ở Nam Kinh, Đinh Hoài Sở của Dương Châu. Cốc Chẩn vui vẻ nói: "Đây toàn là những phú thương nổi tiếng khắp nơi, để ta dẫn ngươi đến giới thiệu, làm quen". Bèn sánh vai Lục Tiệm tiến vào đám đông, chuyện trò chào hỏi rôm rả cùng họ. Đến giữa đám thương gia, Cốc Chẩn như cá gặp nước, níu áo người này, bắt tay người kia, trao đổi đôi ba câu cùng mỗi người, nói cười vui vẻ, chuyện trò râm ran, như thể một quân vương hoà mình vào giữa đám cận thần.
Lục Tiệm không quen lối xã giao đó, gã chỉ chào hỏi sơ sài, rồi kéo lũ kiếp nô ra đứng nơi đàng sau đám đông. Một lúc sau, chợt thấy từ trên xa trên sông một tiểu thuyền, thân sơn đen, trương buồm trắng, vượt nhanh lại, sóng nước rẽ ra thành từng đợt lan ra mặt sông, phút chốc thuyền cập bến, có ba vị trưởng lão lên bờ, hai nam, một nữ, đều mang dáng vẻ tiên phong đạo cốt, hạc phát đồng nhan, như hình ảnh người tiên vẽ trong tranh cổ.
Cốc Chẩn khi trông thấy ba người đó, bèn rẽ đám đông, bước tới chắp tay chào: "Ba vị tiền bối vẫn được mạnh khoẻ?" Ba người liếc sơ qua, khẽ gật đầu, rồi họ rảo bước đến trước miếu, cùng khoanh chân, xếp bằng, ngồi xuống. Cốc Chẩn tươi cười, hỏi: "Vì sao Đào Chu Công vẫn chưa thấy đến ạ?"
Bà già thở dài, buồn rầu nói: "Lão đã qua đời mấy hôm trước đây!". Cốc Chẩn sững sờ! Vẻ mặt đầy nét thương tiếc, hắn hỏi: "Nói như vậy, hôm nay sẽ chỉ có ba vị trọng tài thôi hay sao?" Một vị trưởng lão trong bọn nói: "Dĩ nhiên là không! Nghe nói, trước giờ hấp hối, lão đã có sắp đặt người thay thế, chắc người ấy sẽ sớm đến đây thôi!". Cùng lúc đó, lại thấy một tiểu thuyền khác đang chầm chậm cập bến, từ trên thuyền tiến ra một lão già chừng năm mươi tuổi, sắc mặt vàng vọt, như người mang bệnh, đôi hàng lông mày giao nhau như hình chữ nhất trên gương mặt.
Người đó tiến về phía ba vị trưởng lão, lấy từ trong bọc một phong thư, đưa ra. Một vị trưởng lão đón lấy, xem xong, hỏi: "Vậy ông là người kế truyền của Đào Chu Công?" . Người đó không nói gì, chỉ lẳng lặng gật đầu. Vị trưởng lão bảo: "Mời ngồi!". Người mới tới vẫn không lên tiếng, chỉ đi đến, khoanh chân, xếp bằng, ngồi xuống.
Lục Tiệm hỏi Cốc Chẩn: "Bốn vị lão nhân đó là ai vậy?". Cốc Chẩn đáp: "Họ là trọng tài cho cuộc thi. Từ bên trái sang, là Lã Bất Vi, rồi đến Trác Vương Tôn, người thứ ba là quả phụ Thanh, người chót đáng lẽ phải là Đào Chu Công, nhưng lão đã tạ thế rồi, có người kế truyền đến thay"
Lục Tiệm trầm ngâm, nói: "Lã Bất Vi , Đào Chu Công, hai cái tên đó nghe sao thấy quen quen quá!" " Mạc Ất nói: "Đào Chu Công là người thương gia giầu có lớn hồi thời Xuân Thu, Lã Bất Vi là nhà buôn nổi tiếng thời Chiến Quốc, cả hai đều đã chết từ hơn hai ngàn năm nay rồi!" Lục Tiệm kinh ngạc: "Thế sao hai vị trưởng lão này lại có cùng danh tự vậy?"
Cốc Chẩn thấy gã có vẻ sững sờ, bèn mỉm cười, nói: "Cả bốn vị đó đều là những phú thương nổi tiếng, từ khi họ quy ẩn, đều không muốn người đương thời biết đến họ bằng những cái tên thật của họ nữa, nên họ đã mượn tên những phú thương nổi danh sử sách, chứ không phải các vị nổi danh đó đã giáng thế xuống trần trở lại đâu! Đến vị mang tên Trác Vương Tôn , quả phụ Thanh, rồi người kế truyền của Đào Chu Công, cùng đều là dòng dõi của những bậc tiên hiền đó, có mượn danh hiệu, cũng chỉ là để giấu giếm thân phận thôi!"
Lại nghe quả phụ Thanh mở miệng hỏi: "Đông Tài Thần, tại sao còn chưa thấy Tây Tài thần đâu cả vậy? Bắt lão bà tử ta đây phải chờ đợi nó, vô lý quá!". Cốc Chẩn hì hì trả lời: "Thanh bà bà, cái tính nết của mụ ấy còn ai mà không biết, nếu mụ ta còn chưa bầy ra những trò khoa trương đình đám, mụ là còn chưa chịu xuất hiện đâu!"
Quả phụ Thanh hứ nhẹ một tiếng, dòm Cốc Chẩn, tia mắt thoáng đượm vẻ ân cần tha thiết, hỏi: "Hài tử, liệu ngươi thắng được nó phen này không? Cốc Chẩn cười cười, đáp: "Tiểu tử sẽ chỉ cố hết sức mình thôi!". Trác Vương Tôn bảo: "Ta và ngươi đều là thương nhân người Hoa, lần tỷ thí này, có liên quan đến vận mệnh hưng suy của thương mại người Hoa chúng ta. Mặc dù vậy, kỳ tỷ thí này, cả bốn chúng ta đều sẽ hết sức công bằng, sẽ không thiên vị một bên nào cả!"
Cốc Chẩn vui vẻ đáp: "Cái đó tất nhiên!" Đang lúc ấy, chợt nghe đám đông đồng loạt kêu lên, sững sờ! Cốc Chẩn đưa mắt nhìn ra, thấy trên mặt sông, một gã hắc y nhân, không ghe, không thuyền, đang đạp sóng lướt đến, cước bộ thật nhanh nhẹn, phóng mình đến nhanh như tên bay!
Lục Tiệm nhìn tình thế, cũng thoáng biến sắc, gã tuy thần thông đến mức tránh được nước, lửa, nhưng dẫu cao cường đến vậy, vẫn không thể lướt sóng như đi trên đất bằng được, và còn cái kỳ lạ khác nữa, gã hắc y nhân đó từ dưới chân lên đến đỉnh đầu, thân hình tuyệt bất động!
Khi gã hắc y nhân đến gần, mọi người đều vỡ lẽ, dưới đôi chân gã là một thân tre dài rộng bản. Lục Tiệm chợt hiểu, người đó chỉ mượn chỗ dựa trên thân tre, theo dòng nước mà lướt đi, nhưng làm được như thế, nếu không có bản lĩnh khinh công cực cao, không nắm vững thuỷ lưu của dòng sông, chẳng thể nào đi trên mặt nước được như vậy. Lại chưa kể đến nước sông chảy không siết, mà gã đó lại đến thật nhanh, cũng có chỗ không bình thường.
Chính vào lúc còn chưa rỗ, hắc y nhân đã rời khỏi thân tre, vung tay ném đi một cây gậy trúc nho nhỏ, khi rơi xuống sông, vừa chìm xuống đã nổi lên ngay trên mặt nước, hắc y nhân tả cước điểm nhẹ vào đấy, tung mình lên, nhanh như chim bay, đã đáp vào bờ sông. Thấy gã đó mặt mày anh tuấn, nhẵn nhụi không râu, trên mình khoác một bộ áo kết bằng lông quạ ô, sắc đen loang loáng.
Gã hắc y mục quang như điện, quét một vòng nhìn mọi người, rồi lấy tự trong tay áo ra một cây pháo hoa, gã ném vụt lên không, cây pháo hoa giữa lưng trời nổ tung thành vô số điểm hoả quang nhỏ, như ánh sao sa, diễm ảo dị thường.
Ném xong cây hoả tiễn, gã áo đen đứng khoanh tay, tư thế ngạo mạn, dáng gầy cao, y đứng đấy hệt như một con hạc đen hết sức kiêu ngạo.
Chẳng bao lâu, có tiếng trống hoà tiếng nhạc, nghe êm ái, nhưng không phải âm vận Trung thổ. Một lúc sau, theo tiếng nhạc dần tới, từ cửa sông xuất hiện một chiếc giang thuyền lớn, che gần kín hết mặt sông, sức chứa không biết tính đến đâu cho cùng. Vỏ thuyền giát vàng, phản chiếu ánh nắng, sáng chói rực rỡ, hệt như một vầng dương thứ hai đang rớt xuống dòng sông, chìm sâu xuống, biến toàn thể nuớc sông thành những giọt hoàng kim. Đầu thuyền có điêu khắc một đầu quái thú, theo truyền thuyết Trung thổ, gần chủng loại với giống Ứng Long, mặt mày hung ác, cổ dài, thân mình lớn, đuôi đính đầy những vẩy, hai cánh nhỏ hầu như sắp giương rộng ra, tạo cho chiếc giang thuyền một thanh thế khá lớn.
Trên đầu quái thú, thấp thoáng một hình người đang đứng, hình dung yểu điệu, mấy lọn tóc hoàng kim chập chờn bay vờn theo gió sông, cho biết đấy là một nữ tử.
Ánh mắt toàn thể người trong cốc đều bị chiếc thuyền thu hút, có phần sững sờ. Cốc Chẩn chợt cười nho nhỏ, hỏi: "Lục Tiệm, ngươi có biết con quái thú nơi đầu thuyền là giống thú gì không?" Lục Tiệm lắc đầu, đáp: " Ta không biết, nhưng xem vẻ thật hung ác" Cốc Chẩn bảo: "Đó là con Ma Long, theo truyền thuyết Tây phương, là một con đại ác ma, rất tham tàn, độc ác, gặp gì cũng ăn, cả nhật nguyệt, tinh tú trên trời cũng xơi gọn"
Lục Tiệm rùng mình, day lại nhìn, thấy Cốc Chẩn mắt ngó đăm đăm vào chiếc giang thuyền, có vẻ trầm tư. Lục Tiệm quay đầu trở lại chiếc thuyền, nữ tử đứngtrên đầu quái thú không còn ở đấy nữa, chiếc thuyền đang theo dòng nước xuôi xuống, rồi dừng lại nơi giữa sông, nghe rò rò một loạt tiếng động, rồi từ giữa thân thuyền mở ra một vòm cửa tròn, từ trong cửa nhả ra một cây cầu dài dát hoàng kim, giống như một dải cầu vồng, nối chiếc thuyền vào với bờ sông.
Trong tiếng nhạc vang lừng, một đoàn nam nữ từ trong cửa chậm chậm bước ra, dẫn đầu là bốn nữ lang, phục sức hoa lệ, mặt che mạng lụa mỏng, y phục cùng mạng che mặt tiệp màu với mái tóc dài, mang bốn màu đen, đỏ, vàng, nâu, thân hình yểu điệu khôn tả, như tiên trong mộng. Sau bốn nữ lang là mười sáu hồ nhân đang khiêng một cỗ kiệu dát vàng lớn, thân kiệu điêu khắc chạm trổ nhiều hoa văn tinh xảo, cửa kiệu che một tấm rèm sang sáng trắng, trên đó kết nhiều hạt trân châu to như hạt nhãn, cùng kích thước như nhau, lấp lánh ánh sáng trắng nhạt. Đàng sau cỗ kiệu là độ chục nam nữ tuấn mỹ, gẩy đàn, thổi sáo.
Người trên bờ chứng kiến quang cảnh khoa trương đó, thảy đều thán phục. Cốc Chẩn cười bảo: "Tiếc là Hiệp Lão Phạm đã không có mặt ở đây, nhìn cái cảnh đó, lão ta uất lên mà chết mất!". Lục Tiệm trong lòng chán ghét thậm tệ, chau mày, lặng thinh.
Cỗ kiệu vàng lên đến trên bờ, bốn nữ lang dẫn đường bèn phân tán ra đứng quanh cỗ kiệu, gió thổi lồng lộng tà áo, vạt váy, trông thấp tha thấp thoáng.
Cốc Chẩn tiến ra một bước, vui vẻ chào: "Ngải Y Ti , đã lâu không gặp!" Từ trong kiệu, một giọng nói êm dịu truyền ra: "Ta chẳng muốn chuyện vãn gì cùng ngươi hết! Tỉ thí cho sớm đi, rồi đưa trả lại cho ta cái nhẫn Tài Thần, để ta còn chóng vánh ra về!"
Cốc Chẩn cười, đáp: "Trước khi tỉ thí, ta có một điều kiện." Ngải Y Ti hỏi: "Điều kiện gì?" Cốc Chẩn đáp : "Nếu ngươi thua, bao nhiêu lương thực, thóc gạo phải đưa hết cho ta, rồi cho giải toả các trục giao thông thuỷ bộ, để ta có thể vận chuyển chúng đi Giang Nam"
Ngải Y Ti hứ một tiếng, trả lời: "Thu mua lương thực là ý của sư phụ, ngươi ra tay cản trở ta, đó là đã chống đối sư phụ! Ta còn chưa tính sổ với ngươi, đó là đã để ngươi chiếm nhiều tiện nghi quá rồi, ngươi còn định bày trò chọc cho ta bực mình hả? Được rồi, ngươi đã muốn thế, ta và ngươi hãy đánh cuộc một phen!"
Cốc Chẩn hỏi: "Đánh cuộc ra sao?" Ngải Y Ti đáp: "Ngoài cái nhẫn Tài Thần, hôm nay mà ngươi thắng, tất cả sẽ thuộc về ngươi, ta mà thắng, mọi thứ của ngươi sẽ thuộc về ta, ngươi nghĩ sao?" Cốc Chẩn vẫn cười, hỏi: "Kể cả lương thực?" Ngải Y Ti đáp: "Tất nhiên." Cốc Chẩn vui vẻ bảo "Hay tuyệt, hay tuyệt!"
Ngải Y Ti hứ một tiếng, gắt: "Tuyệt tuyệt cái gì! Ngươi phải hiểu cho rõ, nếu ngươi thua, bao nhiêu người bên phe ngươi đều thuộc tay ta sử trí". Cốc Chẩn hỏi lại: "Còn ngươi thua thì sao? Đáng tiếc là ta chẳng thấy hứng thú gì với ngươi hết!". Ngải Y Ti nổi đoá: "Xú Cốc Chẩn, ngươi nói bậy bạ gì thế?" Cốc Chẩn cười hì hì, trả lời: "Ta bảo là, nếu ngươi thua, trừ bản thân ngươi ra, hết thảy đều thuộc về ta!"
Bên trong cỗ kiệu vàng, thấy im ắng một lúc, rèm khua động nhè nhẹ, văng vẳng có tiếng hô hấp nặng nhọc. Rồi Ngải Y Ti chậm rãi bảo: "Cốc Chẩn , ngươi hãy nhớ cho kỹ, ngươi mà lọt vào tay ta, thể nào ta cũng đem hoạn ngươi đi, cho ngươi hết còn là nam nhân nữa!" Giọng nói vẫm êm ái như trước, nhưng nội dung thì thật cứng cỏi khôn tả, đám phú thương Trung thổ không ai là không nhăn mặt, nhíu mày!
Lục Tiệm nổi sùng trong lòng, đang định xông ra, Cốc Chẩn đã giơ tay cản y lại, cười hì hì, nói: "Thôi đừng cãi vã nữa! Bây giờ thi cái gì trước đây?"
Ngải Y Ti đáp: "Thi mỹ nhân trước!"
Tiếng còn chưa dứt, bốn nữ lang che mặt đồng bước ra phía trước, đưa mấy ngón thay thon thả, gỡ bỏ tấm mạng mỏng tang như sương khói ra.
Lập tức, trong lũng Linh Thúy, hơn trăm cặp mắt đều bị bốn khuôn mặt đó thu hút, mắt họ trố ra, mi mắt không chớp đến cả mấy giây. Bốn nữ lang đó đích thực mày ngài vóc ngọc, vạn phần yểu điệu, khuôn cổ thon thả trên đôi vai thanh mảnh, eo thắt mông đầy, phong tư kiều mị, rung động lòng người, cái điều diệu kì hơn nữa, trừ mái tóc và mầu mắt khác nhau, bốn người, dung mạo, thân mình đều giống nhau như đúc, tựa như chị em sanh tư. Họ hiện diện nơi ấy, dường như đã gom thâu hết tất cả các nét đẹp thiên hạ về cùng một chỗ! Bọn phú thương hiện diện đều phần lớn là quỷ đói khát nữ sắc, bốn nàng đến từ xứ lạ đã là một cái khác thường rồi,dung mạo lại giống nhau đã khác lạ rồi, quả là khác thường của những cái khác thường, tuyệt diệu của những tuyệt diệu. Chỉ hận ông xanh sao đã bất công, đã điểm xuyết nên một kỳ tích như thế!
Cốc Chẩn vỗ tay reo cười: "Thật tuyệt diệu! Bốn vị muội tử thật xinh đẹp! Xin mạo muội được hỏi thăm tên họ!"
Bốn nữ lang nghe gã nhã nhặn chân thành hỏi thăm tên họ, đều thoáng chút bối rối, nữ tử tóc đen đã vui vẻ hỏi: "Đông Tài thần muốn nghe tên họ theo tiếng Trung quốc, hay muốn nghe tên Tây dương?" Cốc Chẩn nhận ra nàng Hồ nữ đưa thiệp mời tối bữa đó trên bờ đông sông Dương giang, gã bất giác cười, đáp: "Tiểu tử ta vốn thô kệch, chỉ xin được nghe tên theo tiếng Trung quốc!" Mỹ nữ tóc đen hơi bĩu đôi môi hồng, lộ hàm răng ngà, tủm tỉm cười, đáp: "Tiểu nữ Lan U". Cốc Chẩn khen: "Đẹp thay một đoá U Lan nở trong thâm cốc!", Mỹ nhân tóc đỏ khe khẽ nói: "Tiểu nữ Thanh nga." Giọng cô mềm mại, nghe mê người! Cốc Chẩn buột miệng kêu lên: "
Tần thanh âu ca ,
Hàn nga nhiễu lương (m vận bài âu ca đất Tần, qua tiếng hát thanh tao của nàng kỳ nữ nước Hàn)
đều không sao bằng được tiếng nói dịu êm thánh thót của cô nương!". Người đẹp tóc đỏ e lệ ngó gã, đôi gò má ửng hồng.
Mỹ nhân tóc hoàng kim cười cười, nói: "Tiểu nữ tên Quyên."
Cốc Chẩn cười tủm tỉm, nói: "
Tú nữ quyên quyên , quả nhiên mỹ hảo.
(Nàng mỹ nữ hậu cung xinh xinh, rõ là tuyệt đẹp)"
Mỹ nhân tóc nâu nói: "Tiểu nữ tên Tố."
Cốc Chẩn cười, khen: "Tố nữ đa tình, diệu cực diệu cực."
Lan U đứng ra làm thủ lĩnh bốn nữ lang, cười hích hích, nói: "Đông Tài thần, sắp có một màn trình diễn, mong được nghe lời bình phẩm!". Cốc Chẩn vui vẻ đáp: "Các nàng chưa trình diễn, đã làm mê người chết thôi, giờ lại còn trình diễn, sợ không khiến người ta mê mà chết được!". Lan U hơi ngạc nhiên, cười và hỏi: "Hai cái đó có gì khác nhau?". Cốc Chẩn hì hì đáp: "Chẳng khác gì nhau cả!" Lan U nhoẻn miệng cười, bảo: "Đông Tài thần nói chuyện thiệt vui ghê!"
Ngải Y Ti hừ lạnh một tiếng, nói: "Lan U, ngươi thật thà quá! Ngươi đâu có biết cái gã tiểu cẩu này bụng dạ cong quẹo! Hắn nói là các ngươi chưa trình diễn, đã chỉ làm mê mẩn người chết mà thôi, trình diễn xong, sợ chẳng làm mê nổi đến cả người ta còn đang sống nhăn!" Bốn nàng nghe giải thích, đều lộ vẻ tức bực. Cốc Chẩn cười ồ, bảo: "Ngải Y Ti, bụng ta đâu có cong quẹo như cái miệng ngươi đã uốn lời nói của ta. Cái lưỡi của ngươi không những đã bẻ cong bẻ quẹo câu nói, mà còn có thể tách ra làm hai nưã kia!" Ngải Y Ti hỏi: "Ngươi biểu lưỡi ta là lưỡi rắn hay sao (lưỡi rắn chẻ ra làm hai!)?" Cốc Chẩn cười cười: "Giỡn chơi mà! Có rắn nào độc cho bằng ngươi!"
Ngải Y Ti nhất thời lặng yên, có tiếng rèm kiệu khua động leng keng nhè nhẹ, rồi nghe mụ gắt lên: "Thôi được!"
Lan U nghe tiếng, yểu điệu di chuyển thân mình, một mùi hương kỳ lạ chợt bao trùm toàn thể cốc núi. Nhóm nam nữ người Hồ bèn gảy đàn, thổi sáo, tiếng nhạc du dương cất lên, từ đôi môi xinh của nàng Thanh Nga xuất phát tiếng hát hoà theo đàn sáo, dù không hiểu ý nghiã lời ca, nhưng nghe thật thánh thót, tiếng hát vang vọng, dường như không phải của cõi trần gian, đã vọng đến từ tiên cảnh.
Giữa tiếng hát, từ dưới chân bốn mỹ nữ, một vầng khói nhạt dần dần dâng lên, như một đoá mây mù, nửa che nửa trùm, quyện vào thân hình, bốn nữ tử ẩn ẩn hiện hiện như tiên nữ, không phải người phàm tục nữa. Mọi người còn đang kinh ngạc, tiếng nhạc chợt cao vút lên, nhu mị, đa tình, làn điệu đang chuyển, giữa đám sương khói chợt phát ra một vầng ánh sáng, bay vút lên không trung, nở ra thành pháo hoa rực rỡ, ánh màu bạc vào tầng mây trên cao, rồi những đốm sao sa vụt toả xuống bao trùm lên toàn thể bốn mỹ nữ.
Đám đông, lo sợ những tàn lửa đó làm hại đến các nữ tử, đồng thanh thét lên. Không dè, đám sương khói vụt tan biến đi thật nhanh, một làn hương kỳ diệu tràn vào trong cốc, các pháo hoa trên trời mở rộng ra , rọi sáng hình dáng bốn Hồ nữ. Các mỹ nhân đang hiện ra trong y phục cũ, thoắt một cái, đã rũ bỏ áo ngoài, y trang bây giờ bó sát vào thân mình, để lộ đôi vai trần, đôi chân thuôn dài, làn da trắng như mỡ đông, thấp thoáng ẩn thoáng hiện theo ánh sáng pháo hoa trên trời, cắt hình trên nền sương khói vây quanh.
Mọi người mê mẩn nhìn, tưởng chừng đang trong cảnh mộng, chợt sương khói lại dâng lên, ánh sáng trắng bạc của pháo hoa trên nền trời hiện ra như hình ảnh "Bách điểu triều phượng", bốn mỹ nữ hoán chuyển thân mình, thay đổi dáng đứng, phục trang lại đổi mới, thật không biết đã thay đổi vào lúc nào giữa đám mù sương mông lung, nhưng bây giờ là váy dài trong suốt, tựa như làm bằng thuỷ tinh, phản chiếu lóng lánh sáng ánh ngân nhũ, ẩn hiện đường nét bên trong cuả các nàng.
Tiếng nhạc du dương, ánh sáng huyền ảo, mỗi lần thay đổi ánh sáng, phục trang các mỹ nữ cũng thay đổi theo, khi thì váy áo lồng lộng, khi thì đai lưng to bản, khi thì lóng lánh ánh sáng, mỗi mỗi đều thướt tha lộng lẫy, thiên kiều bách mị, hoà vào mùi hương, hoà vào cường độ biến chuyển của pháo hoa, làn điệu nhạc chưa xong một khúc, các nàng đã chuẩn bị sang tiết điệu kế tiếp bằng những động thái uyển chuyển, đưa tiếng đàn tiếng sáo sang tiết điệu mới khác, trong một tổng thể hài hoà tự nhiên.
Tiếng nhạc cao dần lên, sương khói, ánh sáng mờ dần đi, đến lúc tiếng nhạc cao vút, chợt dừng bặt lại. Trong cốc lặng yên như tờ, người người trong cốc còn đang ngất ngây trước tư thái các mỹ nữ, họ dường như đang từ từ hồi tỉnh, định thần với không ít khó khăn. Chợt nghe ba tiếng vỗ tay, dư âm đàn sáo còn chưa dứt, pháo bông cũng tắt ngấm. Bốn nàng Hồ nữ đã đứng trở lại đấy, mạng che mặt như cũ, phục trang như hồi mới vào màn trình diễn, phất phơ theo gió lồng lộng phiêu lãng bất định. Trong trí mọi người, dường như màn trình diễn vưà qua là một giấc mộng đẹp, chưa từng thực thụ xảy ra trong thực tế. (chú: Mấy đoạn trên đây khó quá, đành dịch lướt qua, mọi người đọc tạm!)
Giữa lúc toàn cốc lặng như tờ, mọi người còn đang chìm đắm vào những điệu múa vừa qua cuả bốn nàng mỹ nữ, chợt vang lên ba tiếng vỗ tay thật to, mọi người ngoảnh trông, thấy đó là vị trọng tài kế nhiệm Đào Chu Công.
Mọi người chợt tỉnh, cùng vỗ tay theo. Lã Bất Vi gật gù bảo: "Hay lắm, tuyệt lắm! Ngải Y Ti, kiếm được một nàng như vậy đã là khó rồi, ở đâu mà ngươi đã tìm ra được tới bốn nàng, cái đó mới thật đúng là thần kỳ, cho đến các màn múa theo ánh sáng pháo hoa, đẹp mắt, tân kỳ vô cùng!"
Trác Vương Tôn hỏi: "Bốn nàng này tướng mạo giống nhau y hệt, có phải là sanh tư không?". Quả phụ Thanh khẽ lắc đầu, bảo: "Nếu là sanh tư, tóc và mắt đều phải cùng một mầu. Ngải Y Ti, bốn nàng đó ngươi đã làm sao tạo ra được như thế vậy?"
Ngải Y Ti cười khúc khích, nói: "Ta đã tạo như thế nào, bà không cần biết, chỉ cần biết là bốn nàng đó đã có hạp nhãn bà hay không?" . Giọng điệu có vẻ kẻ cả đó đã khiến quả phụ Thanh khẽ chau mày. Ngải Y Ti đắc ý, cười hắc hắc hai tiếng nữa, rồi hỏi: "Cốc Chẩn, ngươi thấy sao?"
Cốc Chẩn vui vẻ đáp: "Coi cũng không mấy hay lắm!". Ngải Y Ti hỏi: "Tại sao?". Cốc Chẩn đáp: "Bốn vị cô nương này thay đổi y phục quá nhanh, cái đó đã làm cho mất hay!". Lời vừa thốt ra, bọn phú thương, đa số là kẻ phàm tục, bèn rùng rùng ứng tiếng: "Đúng ... Đúng thế ! Thay nhanh quá thật!"
"Hạ lưu.", Ngải Y Ti nổi giận gắt lên, "Tên họ Cốc kia, mỹ nhân cuả ngươi đâu?"
Cốc Chẩn đáp: "Nàng mỹ nhân của ta bữa nay không đến được!" Ngải Y Ti hỏi: "Cái đạo lý gì ở đâu vậy? Tỉ thí sắc đẹp, sao mỹ nhân của ngươi lại nửa chừng không đến đây?" Cốc Chẩn đáp: "Đúng thế! Vừa rồi, ta với nàng ấy có gây lộn chút đỉnh, rồi ta cũng không biết nàng đã bỏ đi đâu mất nữa!"
Ngải Y Ti bực tức bảo: "Ta biết ngươi lắm mà! Ngươi đấu không lại ta, chỉ tìm cách đổ thừa người khác!" Cốc Chẩn cười cười, đáp: "Có trời đất làm chứng, ta đâu có đổ thừa cho ai đâu! Nàng cuả ta đúng là sắc đẹp tuyệt thế vô song, đừng nói bốn nàng đó của ngươi, đến bốn chục nàng, bốn trăm nàng của ngươi cũng không đứng tới gót chân mỹ nhân cuả ta!"
"Nói lớn lối quá!" Ngải Y Ti hứ lạnh một tiếng, "Tên của nàng là gì?". Cốc Chẩn đáp: "Phương danh nàng là Thi Diệu Diệu , tước hiệu Nàng Cá khờ , biệt hiệu Sư Tử cái , là bà vợ ta chưa rước về nhà đó. Người ta nói: Trong mắt mình, tình nhân sánh ngang Tây Thi . Trong mắt ta, nàng đúng là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, chẳng ai đẹp bằng!"
- Chỉ nói lăng nhăng!, - Ngải Y Ti nổi giận, - Có gan thì kêu cô ta đến đây tỉ thí đi!.
Cốc Chẩn cười, đáp:
- Chẳng phải ta đã nói là bọn ta vừa gây lộn xong hay sao? Cô không đến, ta chịu, không có cách gì! Vậy nhé, có câu Người từ xa đến là khách , ngươi đã không quản ngại đường xa vạn dặm đến đây, ta nhường ngươi thắng trận đó, coi như tặng ngươi một món quà hậu hĩnh.
Ngải Y Ti chẳng biết nên khóc hay nên cười, một lúc lâu, không biết phải trả lời ra sao. Bọn phú thương Trung thổ khi thấy Cốc Chẩn vẫn cứ tỉnh bơ, cho rằng gã thể nào cũng có cao chiêu, rằng gã đang âm thầm sửa soạn cho cuộc đấu, họ đều thắc thỏm chờ xem màn trả lời, đâu dè, chỉ sau một vài phút, lại đưa đến kết quả như thế, tất cả lập tức đều thất vọng. Bốn vị trọng tài cũng ngạc nhiên không kém, quả phụ Thanh nói:
- Đông Tài thần, ngươi phải hiểu cho rõ, thi đấu năm trận, chớ nên để thua trận như vậy!
Cốc Chẩn cười nhẹ, đáp:
- Thanh bà bà, ta cũng hiểu rõ lắm chứ, bà vợ chưa cưới của ta không chịu đến, trận đó coi như không đấu cho rồi!
Bốn vị trọng tài nhìn nhau, đều lộ vẻ ngơ ngác. Trác Vương Tôn hạ giọng nói:
- Đông Tài thần, lời nói cửa miệng không đủ làm chứng, ngươi nói Thi cô nương xinh đẹp khôn lường, bọn ta chưa từng trông thấy cô ấy, làm sao mà chấm? Vậy trận đó, ta tuyên bố Tây Tài thần thủ thắng."
Nói xong, đưa cánh tay trái lên. Lã Bất Vi, vị tiên sinh uỷ nhiệm cũng đưa tay trái lên, nhưng quả phụ Thanh lại giơ cao tay mặt. Lã Bất Vi lấy làm lạ, hỏi:
- Thanh bà bà, sao bà lại làm thế?
Quả phụ Thanh thở dài, âm trầm nói:
- Đàn ông thiên hạ quá nửa là đồ bạc bẽo, đam mê mỹ sắc, gặp cô nào là yêu cô nấy, làm cho bọn con gái đau lòng. Cốc Chẩn một lòng một dạ, hắn chỉ thấy người tình của mình là thiên hạ tối mỹ, thành ra, hắn chịu từ bỏ tất cả, nhận thua trận đấu sinh tử ấy, cái tình ý đó, há chẳng đủ làm tất cả nam tử trên đời này phải đỏ mặt, mắc cỡ hay sao! Đánh giá cao tình ý của hắn, bất kể hắn thắng hay bại, ta cũng đều giơ cao tay mặt lên tán thưởng hắn!
Cốc Chẩn hoan hỉ nói:
- Đa tạ.
Ngải Y Ti nhìn gã hớn hở, thiếu điều thất khiếu toé khói, chửi thầm:
- Tên tiểu cẩu họ Cốc, thậm tệ là gian manh, hết sức là vô sỉ!
Nguyên đòn phép của Cốc Chẩn, mới xem qua thì thấy hoang đường, nhưng ảnh hưởng của nó sẽ thật sâu xa. Thi đấu lần này, trừ khi trong tay có bảo vật cực quý, nếu không, còn phải trông vào tâm ý của các trọng tài. Quả phụ Thanh thuở xưa cũng đã từng nếm đau khổ trên tình trường, bà cực kỳ oán ghét những đồ bạc bẽo, và kính trọng những người chính chuyên chung tình. Cốc Chẩn khi thấy không thắng nổi trận đầu, đã thốt lời nói khiến bà xúc động, bà sinh lòng quý trọng gã, bốn trận kế tiếp, thể nào cái mụ già đó cũng thiên vị gã. Ngải Y Ti đã tốn biết bao tâm tư, tìm ra được bốn nàng tuyệt thế giai nhân đó, diễn xuất màn "Hỏa Vân Lệ Ảnh" cực kỳ ngoạn mục đó, đừng nói là Thi Diệu Diệu không hiện diện, mà dẫu cô ta có ở đây, so sánh với dung mạo cùng tài nghệ tuyệt vời của bốn nàng, nhất định Thi cô nương chẳng thể nào bằng! Trận đấu ấy, Ngải Y Ti phần thắng nắm chắc trong tay, đâu dè, gã Cốc Chẩn dù lên tiếng nhận thua, chỉ với mấy câu nói môi mép, trong cơn thảm bại, đã kiếm được một lá phiếu ủng hộ vô giá, khả dĩ giúp gã có nhiều cơ hội thắng trong các trận tới.
Cái mối quan hệ vi diệu đó, dẫu số người hiện diện không ít, chắc chỉ có đôi ba người nhận ra được! Sau một lúc im ắng, Lã Bất Vi tuyên bố:
- Trận đấu mỹ nhân, ba phiếu chống một, kết quả, Tây Tài thần thắng."
Lời tuyên bố còn chưa dứt, tiếng hoan hô bùng lên từ toàn thể đám Hồ nhân, đàn sáo trổi lên khúc nhạc thắng trận, âm điệu sảng khoái du dương, bầy tỏ sự mừng rỡ thái thậm trong lòng họ.
Trác Vương Tôn giơ tay, ra ý yêu cầu mọi người im lặng, rồi nhìn về Cốc Chẩn và Ngải Y Ti, hỏi:
- Trận tới đây thi đấu ra sao?".
Ngải Y Ti chưa kịp đáp, Cốc Chẩn đã vui vẻ nói:
- Trung Hoa mình là một nước tơ lụa cẩm tú, thi đấu bảo vật tại nước ta, đấu mỹ nhân xong, giờ tỉ đấu về tơ lụa thì đúng quá rồi!.
Trác Vương Tôn gật đầu đồng ý, hỏi:
- Nói đúng đấy, Tây Tài thần nghĩ sao?.
Ngải Y Ti lãnh hứ lạnh một tiếng, nhủ thầm: "Không biết thằng tiểu cẩu chết giẫm này đang tính vãn hồi tình thế ra sao? Hừm ... Coi bộ tiểu cẩu ngươi đang quýnh lên đây, thử xem xem ngươi có làm được trò trống gì không đã?" Ngải Y Ti bèn lớn tiếng đáp:
- Được, sẽ thi đấu lụa là gấm vóc.
Cốc Chẩn giơ tay lên, gọi:
- Triệu Thủ Chân.
Từ phía sau, một phú thương ứng tiếng, bưng ra một cái hộp cẩn ngọc, người đó chính là người bạn ở thủ phủ Đồng Thành tên "Triệu Thủ Chân". Cốc Chẩn mở cái hộp, lấy ra một xấp lụa. Cốc, Triệu hai người, mỗi người cầm một đầu, nhẹ nhàng chăng tấm lụa ra, vóc lụa dài cỡ vài trượng, chiều rộng độ vài xích, chất lụa mảnh như tơ nhện, mỏng tựa cánh ve sầu, thêu bên trên một dải mây điểm xuyết những đoá hoa mầu hồng, đài hoa từng cánh từng cánh linh động, óng ánh phản chiếu ánh nắng mặt trời, những giọt sương đọng trên cánh hoa long lanh như thuỷ tinh, dường như khẽ khàng lăn qua lăn lại trên ấy, sắc hoa rực rỡ đỏ như ánh lửa hồng đang thiêu đang cháy, phảng phất một màu tím nhàn nhạt, hoà hợp lại hệt như màu mấy lúm đồng tiền trên gò má mỹ nhân thoảng say men rượu, khiến người ta nhìn mà mê mẩn.
Chất liệu của tấm lụa này, hoa văn dệt trên đó, toàn thuộc hàng thế gian độc nhất vô nhị, mọi người thảy đều nín thở, chỉ e hắt hơi, chỉ sợ lỡ thở mạnh một chút sẽ khiến tâm luạ quý báu đó rách nát. Cốc Chẩn giơ năm ngón tay, nhẹ vuốt vào mặt tấm lụa, hân hoan giải thích:
- Tấm lụa này mang tên Thiên Tôn cẩm , truyền từ thời tàn Đường, Ngũ Đại đến giờ, do một nhà dệt lụa nổi danh đã dùng tơ tằm trộn cùng tơ một loại nhện đặc biệt vùng Nam Hải, mất trọn ba mươi năm mới tạo xong, dài năm trượng, rộng bốn xích, mềm mại, gấp xếp được, nhưng không rách, nặng chưa tới nửa lạng. Để tạo ra tấm lụa, người nghệ sĩ đã bỏ trọn tất cả tâm huyết vào đấy, vào ngày hoàn thành tác phẩm, tác giả đã bất chợt thổ huyết mà chết. Quý vị nhìn xem, các đoá hoa trên này đều có màu sắc chói lọi, độc nhất có một đoá Hắc Mẫu Đơn ở chỗ này ....
Mọi người chăm chú nhìn theo ngón tay, quả nhiên nhận ra một nụ Hắc Mẫu Đơn, mầu đen ẩn hiện giữa nền tím, chiếm vị trí trung ương giữa các hoa hồng đỏ và tím, trông thật nổi bật. Cốc Chẩn hít vào một khẩu chân khí lớn, tiếp:
- Truyền thuyết kể rằng, đoá mẫu đơn đó là tâm huyết một đời của tác giả, đã làm cho cái bức Thên Tôn cẩm này còn mang thêm cái tên Ẩu Huyết cẩm (ẩu huyết = thổ ra máu), từ xưa đến giờ, nghệ thuật đó chưa từng được nghe, thấy trong nghề dệt lụa.
Nói xong, Cốc Chẩn khẽ di chuyển tấm lụa dưới ánh nắng mặt trời, theo tay gã, các hoa trên tấm lụa thay đổi màu sắc theo từng góc độ của ánh nắng, chợt có một người la lớn:
- Trông kìa, nụ mẫu đơn đang nở ra hoa kia kìa!
Mọi người nghe tiếng la, chăm chú nhìn, quả nhiên thấy từ cái nụ đơn độc của mẫu đơn, càng hấp thu nhiều ánh nắng, nó càng nở lớn ra, ở giữa là nhuỵ hoa màu xanh lục nhàn nhạt. Cốc Chẩn lại di chuyển tấm lụa, lượng ánh sáng giảm bớt đi, các đài hoa dần dần khép lại, cho đến khi trở về nguyên trạng, là một nụ Hắc Mẫu đơin.
Trong một quãng thời gian dài, tiếng trầm trồ khen thưởng nổi lên không dứt, cả những người Hồ cũng không giấu vẻ kinh nghi, chụm đầu vào nhau bàn tán. Bốn trọng tài cũng lộ vẻ trầm mặc một lúc lâu, rồi Lã Bất Vi ngợi khen:
- Ta nghe danh Thiên Tôn cẩm đã lâu, cứ nghĩ là sau mấy trăm năm, tấm lụa đã bị mục nát, không dè ông trời còn đoái hoài, còn giữ nó lại trên thế gian này. Hôm nay ta được chiêm ngưỡng, ta thấy nó đúng là vật chí bảo của Trung hoa, một tuyệt đại kỳ trân. Đông tài thần, cổ vật dễ bị huỷ, khó kiếm, ngươi hãy mau cất nó đi!".
Các thương nhân Trung thổ nghe bảo vậy, không ai là không lộ nét mừng vui trên mặt Cốc Chẩn nhoẻn miệng cười, xếp tấm lụa lại, cất "Thiên tôn cẩm" trở lại vào trong cái hộp ngọc, rồi đảo mắt nhìn quanh, thấy mấy người Hồ tuy có vẻ hiếu kỳ, song đều không mang một chút nghi ngại nào. Cốc Chẩn bất chợt thấy quặn thắt trong tim, tự hỏi: "Bọn họ sau khi nhìn thấy cái thần diệu của tấm Thiên Tôn cẩm rồi , tại sao ai nấy vẫn cứ ổn định tâm thần, hay là mụ bà nương đó còn có món gì lợi hại sắp đem trổ ra đây?"
Đúng lúc đó, gã nghe Ngải Y Ti cười nhạt một tiếng, bảo:
- Cái đó hả? Ta thấy nó là một bảo vật. Nhưng ta đây có một bảo bối hay hơn nhiều!.
Mọi người nghe nói, thảy đều biến sắc. Cốc Chẩn hỏi:
- Tức là ngươi có món bảo bối còn hay hơn nữa sao?
Ngải Y Ti hứ lạnh một tiếng, nói:
- Cái đó lẽ tất nhiên, để ta cho đem ra!
Vừa nói xong, thấy hai người Hồ từ trong đám họ bước ra, trong tay mỗi người ôm một bó than củi, họ chất thành một đống ở đấy, rồi đốt lên, khói lửa bốc ngùn ngụt, toả ra một mùi thơm là lạ, khiến người ngửi cảm giác tinh thần sảng khoái, phiêu phiêu. Nguyên củi đó có pha trầm hương, khi chụm lên sẽ toát ra mùi trầm, nhưng ai nấy đều thấy kỳ lạ, đang tỉ thí lụa là, gấm vóc, tại sao lại cho đốt lửa? Đang thắc mắc, đã thấy mỹ nhân tóc hoàng kim, Quyên cô nương, từ trong đám của cô tiến ra, trên tay là một cái hộp bằng vàng, sắc kim loại hoà với màu hoàng kim của tóc, phản chiếu ánh sáng chói lọi trên người, trên hộp.
Cô mở nắp hộp, lấy ra một súc lụa trắng như tuyết, rồi cùng Tô cô nương, mỗi người giữ một đầu, từ từ mở rộng ra, thấy nó dài khoảng mười trượng, rộng cỡ năm xích, cả tấm lụa ánh ngần mầu tuyết trắng, không nhuốm chút bụi, áng sáng loang loáng trải dài trên tấm lụa, ngoài ra, không thấy có gì đặc biệt.
Mọi người ông ổng bàn luận, ai nấy đều không dè Ngải Y Ti lớn tiếng khoe khoang, sao lại thấy đưa ra một tấm lụa trắng tầm thường, nhất thời không hiểu, chỉ có mình Cốc Chẩn chăm chú quan sát tấm lụa bạch, đôi hàng lông mày đen nhánh sẽ cau lại.
Lan U cầm trong tay một cái chén thuỷ tinh tiến tới một bước, hắt một chất lỏng màu vàng vàng vào súc lụa, lập tức ngửi thấy mùi bơ. Súc lụa trắng đã là kỳ quái, bây giờ lại đem tẩm bơ, mọi người đồng loạt kêu "ồ" lên, một vài người trong đám thương nhân Trung thổ bắt đầu cất tiếng chê cười nho nhỏ.
Vào lúc đó, hai ả Quyên, Tố khẽ khom mình, đưa tấm lụa trắng vào giữa đống than củi, từng chút từng chút dấn nó vào giữa ngọn lửa, bơ gặp lửa, bốc cháy xèo xèo, không dè súc lụa bị dìm trong lửa như vậy, đã không hề bị một chút hư hao, vẫn giữ sắc trắng y nguyên, mầu sắc không suy xuyển.
Bọn thương nhân cũng thấy choáng, xúm nhau bàn tán, rồi có kẻ bảo:
- Đó là Hoả Hoán bố (vải giặt bằng lửa)!.
Lại có người khác lắc đầu, cãi:
- Ta đã từng được thấy Hoả Hoán bố , tấm lụa trắng đó là tơ tằm dệt thành, đường dệt thấy thật rõ ràng, không phải là vải!
Lục Tiệm dòm thấy lụa trắng vào lửa không cháy, cũng lấy làm lạ, nghe mọi người bàn tán, gã không nén nổi thắc mắc, hỏi:
- Cốc Chẩn, họ nói về Hoả hoán bố , nó là cái gì vậy?.
Cốc Chẩn mắt dán vào súc lụa trắng, vẻ lơ đãng, thuận miệng trả lời:
- Cái thứ vải đó, gốc gác từ một loại đá nham thạch, đá có chất sợi, lấy sợi đó dệt thành vải, đem đốt vào lửa không cháy, đá đó tên gọi là thạch miên . Ngày xưa, có kẻ đem vải đó may thành áo choàng, giữa buổi yến tiệc, đã bầy trò hý lộng, đem áo đó dìm vào lửa, bao nhiêu thứ đồ dơ bẩn dính trên áo đều cháy ráo trọi, cái áo rút ra, lại trắng sạch như lúc còn mới, giống như đã được giặt bằng lửa. Vì vải áo không giặt bằng nước, mà lại bằng lửa, nên đã được mệnh danh Hoả Hoán bố !
Lục Tiệm nghe giải thích, lại thắc mắc:
- Vậy tấm lụa trắng đó có phải cũng là Hoả Hoán bố không?
Cốc Chẩn khẽ lắc đầu, đáp:
- Không phải!".
Lục Tiệm hỏi:
- Sao vậy?
Cốc Chẩn cười nhạt, nói:
-Cái trò ấy, nguồn gốc ta đã có đoán được trước, chỉ không ngờ cái mụ bà nương đó cũng khá thần thông quảng đại, cũng đã nghĩ ra được nó!
Nói đến đấy, bao nhiêu bơ đã cháy trọn, súc lụa được lôi ra khỏi lửa, trắng ngần như cũ, vì đã được nung nóng, quầng sáng trắng long lanh trên lụa càng uyển chuyển hơn, nom thật bắt mắt. Hai cô gái giữ lụa, đem nó xuống sông, dìm vào trong nước, súc lụa vốn bị thiêu đốt trong lửa, dù không bị thiệt hại, nhưng còn rất nóng, vừa vào nước, đã xèo xèo bốc một vầng hơi nước mờ mịt.
Đến lúc hơi nước đã tản đi hết, hai Hồ nữ vẫn chưa kéo tấm lụa lên, ngâm nó dưới nước một lúc khá lâu. Rồi tấm lụa được lấy ra khỏi nước, đem đến trình ban trọng tài kiểm soát. Bốn trọng tài thần sắc nghiêm trọng, sờ tay vào tấm lụa, khi vừa chạm vào, đã đều lộ vẻ ngạc nhiên, nguyên tấm lụa đem ngâm dưới nước khá lâu như thế mà lúc sờ ngón tay vào, không thấy ẩm ướt, cảm giác mát lạnh, không chút dính tay, dường như chưa hề bị dìm xuống nước. Bốn vị phát giác điều đó, tất cả đều không khỏi kinh tâm, quả phụ Thanh hỏi:
- Tấm lụa trắng này vào lửa không cháy, xuống nước không ướt, thực sự không hiểu dệt bằng cái thứ gì vậy?"
Lã Bất Vi cũng chau mày, nói
- Cái thứ tơ mà truyền thuyết đã nói đến nhiều năm nay, không lẽ lại có thật trên đời?
Tiên sinh kế nhiệm nhạt giọng, bảo:
- Chính là nó rồi! Cái tấm lụa trắng này không cháy, không ướt, mang vằn lụa Hàn Băng , đúng là theo truyền thuyết, lụa được dệt lên từ tơ của con Băng Tàm, tên gọi tấm lụa là Huyền Băng hoàn .
Trác Vương Tôn thất kinh, kêu lên:
- Băng Tàm sinh sống ẩn nấp trong vùng núi tuyết không vết chân người, thân mình tiệp màu sắc với băng giá, chuyên ăn sen Tuyết Liên, mười năm mới trưởng thành nhả tơ, kiếm được một con khó bằng lên trời! Ngay cả khi nuôi thuần giống được nó, tơ của một con nhả ra nặng không bằng trọng lượng một đồng tiền, mà tấm lụa này lại nặng như thế, không biết đã phải dùng bao nhiêu con Băng Tàm để dệt nên?
Kế nhiên tiên sanh nhạt giọng nói:
- Nếu bảo không thể làm được như vậy, lấy ở đâu ra cái tấm Huyền Băng hoàn quý báu này?
Ba người kia cùng gật đầu, quả phụ Thanh trầm trồ:
- Chưa kể tấm lụa này một màu trắng tinh, tơ Băng Tàm lại kỵ hoả, kỵ thuỷ, dưới trời này chẳng có cái gì thấm dính vào được nó, ta không thể nhuộm nó, chỉ có thể giữ nguyên sắc trắng của tơ mà thôi. Ôi, trên đời sao mà lại có cái màu trắng tuyệt diệu đến thế, tơ Huyền Băng đem dệt ra vẫn giữ nguyên màu sắc, màu trắng của băng thanh ngọc khiết, ấy mới đúng là nguyên lý!
Lã Bất Vi cũng gật gù mà rằng:
- Không những vậy, đem lụa này may thành áo, mặc lên người, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, bất kể mùa đông rét tới đâu, mùa hè oi bức đến đâu, chỉ cần một tấm áo đơn dệt bằng lụa đó, coi như đã mặc đủ quần áo thích nghi rồi!
Nói đến đấy, ông ta day sang bên Trác Vương Tôn, bảo ông này ghé sát tai, chụm đầu vào gần, thì thầm trao đổi, rồi đến lúc ban giám khảo lấy quyết định, ông tuyên bố:
- Thiên Tôn đoạn , tất nhiên là một kỳ trân rồi, nhưng rốt cục chỉ là phàm vật bình thường chốn thế gian! Tấm lụa Huyền Băng hoàn này, dệt thành từ tơ của trăm ngàn con Băng Tàm, quả là thần vật trời sinh. Ta đã cùng Trác huynh bàn bạc xong xuôi rồi!
Hai người Trác , Lã đồng lúc giơ tay trái lên, tiên sinh kế nhiệm cũng giơ tay trái của y lên, quả phụ Thanh vẻ mặt lưỡng lự, liếc nhìn Cốc Chẩn, rồi bà thở dài, cũng giơ cao cánh tay trái lên. Lã Bất Vi nói:
- Bốn phiếu thuận, trận đấu tơ lụa, bên Tây Tài thần đã thắng.
Lời tuyên bố vừa dứt, đám thương nhân Trung thổ đồng loạt rộ lên tiếng tán thưởng . Ngải Y Ti cười hớn hở, cất giọng kiều mị nói:
- Bất Vi tiền bối , tiền bối đã chỉ ra được khá nhiều cái tuyệt diệu của tấm lụa Huyền Băng hoàn này!
Lã Bất Vi hỏi:
- Tuyệt diệu chỗ nào thế?
Ngải Y Ti đáp:
- Tấm lụa này, vừa ngăn nhiệt, lại vừa chống lạnh, đem dùng cho người lớn tuổi công hiệu thật là lớn lao, tiền bối xưa nay bị chứng lạnh chân, đi đứng gặp khó khăn, ta đem biếu tiền bối tấm lụa này để tiền bối dùng, thì hay biết mấy!
Lã Bất Vi giật mình, đang định từ chối, Ngải Y Ti đã nhanh chóng nói tiếp:
- Ta đưa tặng tiền bối, không phải để mua chuộc, chỉ vì nghĩ đến ngài thân thể khiếm an, tiền bối nếu không nhận, tiểu nữ cũng chỉ xin giúp ngài, lấy nó làm chăn đáp hai tháng, các chứng bệnh vì hàn khí nhờ đó sẽ được thuyên giảm. Còn mấy trận tỉ thí kế tiếp, tiền bối cứ phân xử công bằng, không vì chuyện này mà thiên lệch, như thế, tiểu nữ sẽ đường đường chính chính thắng cái tên tiểu cẩu họ Cốc này!
Hồi trước, Lã Bất Vi từng là một đại cự phú thương gia, thời vận có lúc lên, có lúc xuống, phú quý vinh hoa đối với lão giờ thập phần tẻ nhạt, chỉ có một hàn tật kinh niên đã làm lão khổ không ít, ngay cả lúc lão ngưng kinh doanh rồi, cứ đến mùa đông, toàn thân đau nhức, là mối họa hoạn lão đeo dai dẳng trong tâm! Nếu cái tấm lụa Huyền Băng hoàn đó có công dụng như lời Ngải Y Ti nói, chỉ cần dùng nó vài tháng thôi, lão sẽ khoẻ biết mấy! Nghĩ như thế, dẫu không có ý thiên lệch, lão cũng thấy hảo cảm với Ngải Y Ti tăng lên nhiều.
Các thương gia Trung thổ nghe kết quả trận thi đấu, đều thấy buồn bực. Là nước của tơ lụa, Trung Hoa bị thảm bại về mặt lụa là gấm vóc, thật ra ngoài trí tưởng tượng của mọi người, mất mặt để đâu cho hết. Trong cuộc thi đấu bảo vật này, giờ đã thua mất hai trận, ba trận sau, Tây Tài thần chỉ cần thắng một, coi như toàn thắng. Cốc Chẩn mà thua thêm một trận nữa, không những bị mất nhẫn Tài Thần, vô số nguồn lợi thương mại của Trung thổ sẽ theo cái nhẫn đó mà lọt vào tay ngoại di! Trong một lúc lâu, bọn phú thương im bặt, cả trăm cặp mắt dõi lên trên mặt Cốc Chẩn.
Cốc Chẩn không những chẳng cau mày chút nào, vẫn tươi cười nét mặt như thường, chắp tay nói:
- Chúc mừng, chúc mừng Ngải Y Ti, vậy trận thứ ba này mình sẽ thi đấu gì đây?
Ngải Y Ti cười nhạt, âm trầm bảo:
- Còn phải hỏi? Dĩ nhiên là thi đấu danh hương rồi!
Mọi người nghe thế đều chẳng khỏi biến sắc, nghề hương liệu của Tây Vực, từ thời cổ xưa, đã vượt qua Trung thổ, cái lần thi đấu ở Nam Hải đó, Cốc Chẩn ba thắng một thua, trận thua chính thua về "Diệu Hương" này. Ngải Y Ti vào lúc này, đưa đề nghị thi đấu "Danh hương", rõ ràng muốn đuổi tận giết tuyệt, một trận đánh bại Cốc Chẩn, còn cơ hội nào tốt hơn cho bằng? Một lúc lâu sau, bọn thương gia ồ lên, nhao nhao phản đối:
- Không được, không được! Sao ngươi lại nói thế được? Sao lại thi đấu như vậy được?
- Phiên bà tử (Mụ ngoại di), ngươi không rành quy tắc cuả Trung thổ sao? Khách phải theo chủ sắp đặt, chủ nhân bảo thi đấu thế nào, thì thi đấu làm vậy!
- Ăn nói bậy bạ! Buông lời ô uế ra khỏi miệng, tính té nước theo mưa, tốt hơn hết là cút ngay về nhà đi!
Ngải Y Ti cười cợt, lạnh lùng hỏi:
- Cốc Chẩn, bảo vật trong tay ngươi chỉ có toàn kiểu đó thôi à?
Cốc Chẩn vẫn cười cười, hắn khoa tay một cái, toàn trường chợt lặng im, nín thở. Cốc Chẩn nói:
- Đấu danh hương? Cốc mỗ xin phụng bồi.
Mọi người thấy thần thái gã như vậy, trong lòng cũng được yên tâm một chút. Ngải Y Ti cúi đầu, nghĩ thầm: "Cái thằng tiểu cẩu này không chừng còn có trò trống gì đây? Hừm, nghề hương liệu, là sở trường của ta, xem chừng hắn làm quái gì được! Coi bộ mấy năm không gặp, Cốc tiểu cẩu chẳng tiến bộ hơn chút nào, bữa nay phải đánh cho hắn thua tơi bời, chỉ còn nước quỳ gối xuống mà lạy lục, năn nỉ ta!" Nghĩ như thế, bèn cao giọng gọi:
- Lan U, hiến hương.
Lan U thong thả bước ra, cùng lúc có hai gã Hồ nô khiêng từ trên thuyền đến một cái giá gỗ đàn hương chạm trổ tinh xảo, trên giá bầy cơ man là những lọ, những bình thuỷ tinh lớn, nhỏ, trong đó lọ nhỏ cao độ một tấc, còn bình to cao đến cả xích, có nút đậy nơi miệng, bên trong chứa những chất lỏng sền sệt, với những mầu sắc đỏ, vàng, lam, tím, độ đậm đặc khác nhau.
Cái giá gỗ được đặt trước mặt Lan U, cô thò mấy ngón tay thanh mảnh ra đếm, đưa mắt kiểm tra sơ qua, rồi thưa với bốn vị trọng tài:
- Những thi đấu danh hương vừa qua, toàn dùng danh hương đã được chế tạo sẵn trước đó, đều giông giống nhau. Lần này, Lan U muốn đổi cách thi đấu, sẽ pha chế chúng ngay trước mặt quý vị đây, để các vị lập tức chấm điểm, phẩm bình.
Bốn trọng tài thấy hơi là lạ, Trác Vương Tôn hỏi:
- Cách pha chế đó có phần nguy hiểm, lúc pha trộn vào nhau, chỉ cần sơ suất chút đỉnh, sẽ có thể gây hậu quả thật lớn, nếu một chút lơ đễnh, e rằng sẽ tạo ra loại hương độc?
Ngải Y Ti cười, thưa:
- Vương Tôn công quá lo xa, không có vậy đâu, chỉ xin chờ xem tài cuả thuộc hạ các vị là tiểu nữ đây.
Lã Bất Vi gật gù, nói:
- Cái cô nương này coi bộ niên kỉ còn thấp, sao lại nói là cao thủ về danh hương được? Nếu cô không có kỹ xảo hơn người, chớ có tiện tay pha chế chúng ở đây!
Lan U vẫn cười, thưa:
- Bất Vi Công nói không sai, nghề danh hương rất thâm sâu, Lan U chỉ rành sơ sơ, nhưng nếu không được chủ nhân tin cậy giao phó, đã không dám ra đây làm trò đần độn trước mặt các vị. - Giọng cô khiêm tốn, thần thái cô kiều mị, khiến người nào gặp cô, đều đem lòng ưa mến. Tuy thần thái cô kiều mị, mỗi cất tay cất chân, đều rất ổn định, cho thấy cô rất tự tin. Thương nhân Trung thổ, trước tình cảnh đó, bất giác đều không khỏi áy náy, lo ngại!
Lan U cầm trong tay một cái chén sâm sấp nước, lấy từ trên giá gỗ nhiều lọ, chai khác nhau, rót dung dịnh từ mỗi lọ, mỗi chai vào chén nước, số lượng nhiều ít thay đổi, nhiều thì cỡ nửa thăng, ít thì vài ba giọt, vừa rót, vừa lắc lắc cái chén để hoà tan các thứ nước lại với nhau, cử chỉ thật thuần thục, không cần dùng mũi để ngửi thử mùi hương toả ra từ cái chén, cứ tiếp tục pha chế. Trong số thương nhân hiện diện, có không ít người chuyên về buôn bán điều chế danh hương, song chẳng ai có thể phân biệt được cô đã dùng các thứ vật liệu nào.
Chẳng bao lâu, Lan U đã pha xong được ba chén, dung lượng sàn sàn như nhau, một chén có màu vàng nhạt, một có màu đỏ tươi như ráng chiều, một xanh biêng biếc như nước hồ thu. Lan U ngửi sơ qua, vẻ vừa ý lộ trên nét mặt, cô đem cả ba chén đặt lên giữa mặt bàn, chờ các vị trọng tài thẩm định.
Bốn trọng tài, mỗi người cầm trong tay một khăn tay nho nhỏ bằng lụa màu trắng, nhìn kỹ vào mỗi cái chén, rồi nhẹ nhàng phe phẩy cái khăn tay trên mỗi miệng chén, làm bốc thoang thoảng mùi hương từ trong chén. Quả phụ Thanh là người thử đầu tiên, ngửi xong, bà khẽ nheo mắt lại, ngẩng đầu ngó Cốc Chẩn, ánh mắt có nét lo âu, vì bà biết phe Trung thổ không thể để thua bất cứ trận nào nữa, mà các vị trọng tài ở đây cũng toàn là cao thủ trong nghề danh hương, từng thẩm định qua không biết bao nhiêu hương quý! Bà nhìn ba mẫu danh hương đưa ứng thí, ngầm hiểu Hồ nữ đó có tài pha chế danh hương tuyệt diệu, Cốc Chẩn muốn thắng trận này, thật không phải dễ!
Trong lòng lo âu, các trọng tài ngửi xong ba thứ danh hương dự thí, còn chưa an toạ, vị tiên sinh kế nhiệm vẫn giữ thần thái lãnh đạm, Trác Vương Tôn , Lã Bất Vi đồng có nét dễ chịu, họ lặng yên một lúc lâu, rồi thấy Lã Bất Vi cất tiếng hỏi:
- Ba danh hương này đã được đặt tên chưa?
Lan U vui vẻ trả lời:
- Thứ có màu vàng tên là "Dạ Nguyệt lưu kim".
Trác Vương Tôn khen:
- Cái tên khá đúng, mùi hương này thật thanh cao, mường tượng bóng nguyệt treo trên trời, lại lồng bên trong một chút nét phú quý, tạo cho mình cảm tưởng, dưới ánh trăng, có tiếng đàn ca yến tiệc, có nhiều mỹ nhân mặt hoa da phấn, khiến người ta cảm giác say sưa tuý luý. - Rồi lại hỏi - Cái có màu phấn thoa mặt này, tên nó là gì?
Lan U đáp:
- Tên nó là "Ngu Mỹ nhân".
Lã Bất Vi vỗ tay khen:
- Tên thật hay! Mùi hương đó nồng mà không hắc, ngửi sơ qua có cảm giác như ngồi thuyền qua chỗ nước chảy xiết, thấy như muốn buông bỏ tất cả, ngửi xong rồi, mà dư vị còn man mác, làm người ta nảy sinh mong nhớ, không thua ý tứ của Lý Hậu Chủ trong bài từ "Ngu Mỹ nhân"
Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu,
Vãng sự tri đa thiểu?
Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,
Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.
Điêu lan ngọc thế ứng do tại,
Chỉ thị chu nhan cải,
Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu,
Kháp tự nhất giang xuân thủy hướng đông lưu?"
Ngu mỹ nhân - Kỳ Nhất
Ngu mỹ nhân - Bài thứ nhất (Người dịch: Nguyễn Chí Viễn)
Xuân thu hoa nguyệt bao giờ hết
Dĩ vãng bao nhiêu việc
Đêm qua gác nhỏ lại đông phong
Nước cũ chẳng kham ngoảnh lại dưới trăng trong
Hiên son bệ ngọc chừng nguyên tại
Chỉ có dung nhan đổi
Hỏi ai hay đặng bấy nhiêu sầu
Đầy ngập một dòng xuân thuỷ chảy về đông.
Mùi hương đó, làm cho mình tưởng chừng đã từng sống nơi lầu son gác tía, trải bao xuân hoa thu nguyệt, cuộc đời sung sướng là bao, rồi hệt một giòng sông nước mùa xuân, đến cuốn chảy xiết đưa tất cả về đàng đông, khiến bao phồn hoa, dẫu hay dẫu đẹp, thoắt trông lại, chỉ còn toàn hư không, chỉ còn lưu lại nỗi sầu khôn nguôi. Tiểu cô nương, cô niên kỷ chẳng là mấy, sao cô đã có thể tạo ra được một danh hương ẩn chứa biết bao nhiêu là ý vị như thế?
Lan U hai gò má ửng hồng, giải thích:
- Vãn bối tính tình chỉ thích tụ, chẳng thích tán, lúc tụ thì hay thì đẹp, lúc tán thời tâm tình bỗng dưng sầu não. Vãn bối chỉ đưa chút đỉnh tâm tình đó vào mùi hương thôi!
Lã Bất Vi không ngớt gật gù, nói:
- Tuyệt ! Tuyệt ... đem tâm tình gửi gấm vào trong hương, cái đó mới là tuyệt đỉnh của Hương Đạo!
Lan U nhoẻn miệng cười nụ, rồi tiếp:
- Cái thứ mãu xanh lục đó, chẳng hay tiền bối có muốn được biết tên của nó?
Lã Bất Vi vội vàng nói:
- Xin cho nghe đi!
Lan U đáp:
- Cái hương hạng nhất phẩm ấy mang tên "Bồ Đề Thụ hạ" (Dưới cội Bồ Đề)
- Thiện tai , thiện tai!
Lã, Trác hai người còn chưa kịp nói, quả phụ Thanh đã nhanh chóng tiếp lời:
- Cái mùi hương nhất phẩm đó "Không Linh xuất kì", ngửi thấy thật lạ, không mang tục khí, làm cho tâm hồn thanh thoát, đưa người ta đến tỉnh ngộ mà tìm về cội nguồn, giống như lúc ngài Thích Ca Mâu Ni đắc đạo dưới cội Bồ Đề bảo thụ, ngài tự giác ngộ, ngài tự mở ra một con đường trí tuệ. Cái hương đó mang tên này, phải chăng vì đã có một duyên cớ nào đó?
Lan U cười lớn, đáp:
- Tiền bối nói đúng quá!.
Quả phụ Thanh lẳng lặng gật đầu, đưa mắt liếc nhanh sang Cốc Chẩn, trên mặt bà nặng trĩu nét lo lắng.
Cốc Chẩn chỉ cười nụ, chợt có một giọng nói vang lên:
- "Không Linh xuất kì", cái đó chưa chắc!
Mọi người đưa mắt tìm, thấy một thân hình gầy gò, thấp bé, cái mũi thật lớn, từ đàng sau lưng Lục Tiệm chầm chậm tiến ra phía trước, cái mũi to khoằm xuống, trông từa tựa mũi chó nhà săn, gương mặt chất chứa nhiều nét sầu khổ, chẳng phải ai khác, chính là tên quỷ "Tô Văn Hương".
Tô Văn Hương không ưa lộ diện, ngày xưa, gã hay ẩn đàng sau lưng Trầm Chu Hư, tuy có chút tiếng tăm., nhưng số người nhận biết mặt gã cực ít, mọi người thấy một tiểu quái nhân, hình dạng cực kỳ cổ quái, vẻ như người mất hồn, và họ cũng chẳng biết lai lịch của gã, chỉ thấy gã chập chững tiến đến đứng trước mặt Lan U, tất cả đều nảy sinh cảm giác chán ghét bực tức, nhìn đôi nam nữ đó, người thì cực kỳ xấu xí, người thì đẹp đẽ vô ngần, cùng đứng ở một nơi, xấu thì xấu đến phát sợ, đẹp thì đẹp muốn mất vía người trông.
Tô Văn Hương đi đến bên cái chén đựng "Bồ Đề Thụ hạ", ngửi khịt khịt, rồi từ từ thuyết:
- Ít hương "Hàng Chân" quá, mùi "An Tức" lại bỏ hơi nhiều, mùi hoa chanh, hoa đinh hương trộn lại là hỏng, hương tủn mủn lại dùng quá tay,màu xanh này quá đậm, Tịch Hương mà lại đem phối vào với hoa nhài, ôi chao, đúng là bát nháo! Hừm ... lại còn lấy rượu làm nền, lạm dụng quá nhiều, làm cho cái mùi Cánh Kiến này cứ nồng nặc không thôi, làm cho mùi hương An Tức nó cứ dai dẳng chết thôi, làm cho cái mùi hoa nhài sực nức cả lên, dùng rượu làm nền mà dùng nhiều như vậy, là không có được! Đó là pha chế rượu thơm để uống, chẳng phải pha chế danh hương!
Gã cứ bô bô thuyết, Lan U sắc mặt mỗi lúc một tỏ vẻ kính nể, đôi tròng mắt cô cứ dán chặt vào quái nhân, trong lòng càng lúc càng thấy ngạc nhiên, chỉ vì những hương liệu mà Tô Văn Hương đang thuyết, chằng sai chệch vào đâu cả, chính là những thứ hương liệu mà cô đã dùng để pha chế ra "Bồ Đề Thụ hạ". Cô đã tốn không biết bao nhiêu công sức, trải qua biết bao nhiêu cực khổ mới tạo nên được phương thức pha chế đó, bỗng gã này khơi khơi đến ngửi qua một cái, đem nói ông ổng ra hết mọi thứ! Trên đời này, chuyện kỳ lạ như thế, cô lần đầu tiên chứng kiến. Cô vốn người trẻ tuổi, rất đắc chí vì tay nghề pha chế danh hương cuả mình, cô đã rất tự phụ về cái danh hương "Bồ Đề Thụ hạ" đó, bây giờ bị Tô Văn Hương ba điều bốn chuyện chê bai hết chỗ nói, cơn kinh ngạc thoắt qua, cô nổi giận quá sức, giẩu cái miệng lên, ban cho gã một nụ cười lạnh!
Chẳng dè Tô Văn Hương ngon trớn trên đường Hương Đạo, gã hăm hở tiến tới, chẳng thèm tự kiềm chế, chẳng thèm để ý đến tâm tình người đẹp trước mặt, mũi gã không ngừng khịt khịt, ngửi xong cái "Bồ Đề Thụ hạ" này rồi, gã bèn ngửi tiếp đến cái "Ngu Mỹ nhân", gã tiếp tục lắc đầu lia lịa, phát thanh:
- Cái thứ hương nhất phẩm này hỏng to, không dùng một chút dược liệu nào, rõ là đồ bỏ, nhiều nhũ hương quá, mùi nó chọc thẳng vào tim, dư vị lại không đủ, đó là cái đại kỵ của nghề pha chế danh hương! Tiểu cô nương kia, xem thấy có vẻ thông minh, sao cô lại không thông hiểu cái đạo lý đó? Rồi lại còn cái mùi cánh kiến này nữa, thật tệ quá, nếu cô đừng cho nó vào, cái Hương Cẩu này không chừng lại ...
Lan U nghe tới đó, nổi đoá cùng cực, chẳng thèm để ý gì đến giữ gìn phong thái nữa, cô mắng liền:
- Ngươi mới là Cẩu đó!
Nhưng Tô Văn Hương đang cơn cao hứng bình phẩm danh hương, tất cả tinh thần gã đều đặt cả lên ba chén danh hương, gã chẳng nhìn thấy gì hết, chẳng nghe gì hết, giai nhân mắng mỏ bên tai, tuồng như tiếng vo ve gì đó, không khác tiếng muỗi đập cánh là bao, mặc kệ cô chửi mắng, mũi ngửi cứ ngửi, miệng nói, cứ nói:
- Ồ ... tiểu cô nương có cái nghề dùng hoa hương khá giỏi, chỉ tội cái, thuỷ tiên thì dùng quá ít, hoa hồng lại quá đậm, hoa nhài quá nồng, phong tín tử quá gắt, ừm ... cái món tùng hương đó thật là tối diệu, không có nó, giống như ăn cơm mà đồ ăn nấu không nêm muối!
Tô Văn Hương cứ theo việc luận việc, chê trước khen sau, Lan U thoạt giận, thoạt vui, mừng lên rồi giận dữ , cho đến lúc trở thành hồ đồ, mắt chăm chăm nhìn quái nhân, thần thái cô càng lúc càng mê hoặc, cái mùi hương của "Ngu Mỹ nhân", thật là tế nhị, thật là đa dạng, Tô Văn Hương đem dẫn giải ra, rõ vanh vách, thiếu hương liệu nào, luôn cả chuyện nhiều ít, nặng nhẹ ra sao, Lan U dù không hiểu hết, nhưng cô nghe Tô Văn Hương lập luận quả quyết, trong lòng cô bất giác nảy sinh một thoáng dao động, cô tự hỏi: "Gã này biện luận như vậy, là đúng hay sai?"
Trong lúc lòng cô đang bâng khuâng, Tô Văn Hương ngửi xong "Ngu Mỹ nhân" rồi, bèn quay qua ngửi "Dạ Nguyệt lưu kim", gã bảo:
- Dạ Nguyệt Lưu Kim, mùi hương dẫu tục khí, nhưng cái danh thự nghe thật hay ho! Nói đến "Tam phẩm hương trung", cái này là số một! Số một nhờ ở đâu? Nhờ ở cái hương chủ tể của nó, lấy Xạ hương làm chính, thống lĩnh các thứ hương phụ kia. Tiểu cô nương, pha chế hương, cũng y hệt như cắt thuốc, cũng có quân thần tá sứ, hương liệu cũng có cá tính linh hoạt của chúng, phải tìm đủ mọi cách tránh cho chúng trở thành vật chết, nghĩa là phải biết phân biệt giữa cái chủ và cái phụ của mỗi thứ, tận dụng sở trường của chúng, Chén danh hương này, Xạ hương dẫu có nhẹ, nhưng ngưng mà không tán. Cũng hệt như vậy, Hoắc hương, Trầm hương, Mào gà, Thanh Mộc, Hồng hoa ... mùi quá đậm, phải đem dùng vào vai chủ tướng, còn Tử hoa lặc, Bạch đàn hương, Úc kim hương ... mùi thoang thoảng, nhè nhẹ, do đó có thể phụ vào hương chính mà không làm nó tản mạn đi, vừa như ánh trăng sáng vằng vặc, vừa như yến tiệc xa hoa thịnh soạn, duy có điều ...
Gã giảng giải đến đấy, chợt khịt khịt mũi, gương mặt thoáng lo âu. Lan U trông thấy thế, đang lo gã sẽ chỉ trích nữa, bỗng dưng nhịp tim cô đập mạnh, hơi thở cô dồn dập, đôi gò má cô chợt đỏ bừng lên. Tô Văn Hương chăm chú ngửi hương liệu, không chút bận tâm đến sắc mặt giai nhân, mũi cứ không ngừng hít mùi, rồi gã chậm rãi hỏi:
- Trong số hương liệu dùng ở đây, có phải cô đã pha thêm một vị dư thừa, không cần thiết?,
Lan U rúng động mạnh trong lòng, mặt hoa biến sắc, cô hốt hoảng, nhỏ giọng nói:
- Tiên sinh ???...
Tô Văn Hương ngẩng đầu lên, thấy thần thái quẫn bách của Lan U, ánh mắt lộ vẻ cầu khẩn, gã nhất thời không hiểu ý cô, hỏi:
- Ta hỏi cô, tại sao trong số hương liệu dùng ở đây, cô lại cho thêm vào đấy "Trợ Tình Hoa", mặc dù nó không khó ngửi lắm, nhưng bản chất nó là thứ hương khêu gợi tình dục, bà quả phụ Thanh đây, cùng ba vị trọng tài kia, khi ngửi phải nó, sẽ động tình, dâm tính nổi lên, sẽ thật là kỳ cục ...
Câu đó vừa thốt ra, mọi người đều "ồ" lên một tiếng, Lan U mắc cỡ đến nỗi không còn đất để mà chui, Ngải Y Ti không dằn được, thét lớn:
- Ngươi, cái đồ nô tài ăn nói bất kể, ngươi có đưa được bằng chứng là trong nước hoa đó có pha "Trợ Tình Hoa" không?
Tô Văn Hương tính tình ngay thẳng, khi nghe có người dám lên tiếng nghi ngờ tài nhận định mùi hương cuả gã, gã nổi đoá, đưa ngón tay ra chỉ vào lỗ mũi của mình, nói:
- Bằng chứng của ta ở đây, mi có thể lường gạt người khác, nhưng cái mũi của ta tuyệt chẳng khi nào lừa dối ta, nếu trong chén nước hoa đó mà không có "Trợ TìnhHoa", ta sẽ cắt cái mũi này đưa cho mi liền!
Ngải Y Ti nhất thời cứng họng, bốn vị trọng tài thảo luận với nhau, tiên sinh kế nhiệm, quả phụ Thanh thảo luận xong, Lã Bất Vi , Trác Vương Tôn thảy đều vừa kinh hãi, vừa nổi giận, nghĩ thầm, sau khi ngửi cái món "Dạ Nguyệt Lưu Kim" đó rồi, họ đều đâm ra say đắm, có cảm giác lâng lâng, mơ màng với ả thiếu nữ đó, chừng như có phần luyến ái ... như thế, hoá ra đã bị nàng động thủ động cước trong nước hoa, lén trộn mê hương vào đấy, nếu không có quái nhân đứng ra vạch trần âm mưu, đến lúc chấm điểm. thể nào cũng thiên vị cô ả, chấm cho ả thắng. Bọn họ càng nghĩ càng tức, trừng mắt nhìn cỗ kiệu dát vàng, sắc mặt người nào cũng đều nặng vẻ âm trầm.
Ngải Y Ti thấy tình hình như thế, vội hỏi:
- Các vị phẩm bình chấm điểm ra sao, xin cho biết kết quả?
Lã Bất Vi hừ lạnh một tiếng, cất cao giọng:
- Biết nói gì nữa đây!
Rồi ông đứng vụt lên, vung tay quá đầu, ném tấm "Huyền Băng hoàn" về chỗ cỗ kiệu, thét to:
- Trả lại cho ngươi đó, lão phu đâu có rẻ mạt vậy, lão không ham cái món bảo bối này!
Bọn thương nhân Trung thổ chẳng ngăn nổi, thảy đều cười thầm, Ngải Y Ti trầm mặc một lúc, hứ nhẹ, rồi hỏi:
- Ngay khi có cả "Trợ Tình Hoa" đi nữa, thì đã sao? Dám hỏi chư vị, hương "Trợ Tình Hoa" có phải là một mùi hay không?
Quả phụ Thanh đáp: "Đúng nó là một hương thật, chỉ là ...
Ngải Y Ti nói:
- Nếu là thi đấu danh hương, có thể pha chế nhiều hương liệu, vậy có chỗ nào quy định rằng, không được phép dùng ""Trợ Tình Hoa"?
Quỷ kế của mụ bị lật tẩy, mụ đặt câu hỏi cực kỳ vô lại, các trọng tài trước câu quỷ biện đó, không có cách phản bác, chỉ đành nhìn nhau, cười khổ. Trác Vương Tôn bảo:
- Dẫu không có quy định nào về cái đó, nhưng ta chỉ yêu cầu Tây Tài thần, lần tới, khi nào muốn sử dụng cái mùi hương khêu gợi dục tình đó, làm ơn báo trước một tiếng, lão hủ ta đây tuổi già sức yếu, sợ chẳng kham nổi, rồi cứ lăn qua lăn lại trên giường thôi!
Bọn thương nhân Trung thổ hè nhau cười ầm, Ngải Y Ti không trả lời được, trong lòng vừa ngượng, vừa giận.
Tô Văn Hương đưa mũi đánh hơi, tiến đến bên cái giá gỗ, đưa tay lấy một cái lọ thuỷ tịnh, ngửi sơ qua, mặt mày chợt mừng rỡ, kêu lên:
- Đây là nước hoa mơ (Hạnh hoa) nguyên chất!
Rồi chẳng chờ sự ưng thuận của Lan U, gã đậy nắp cái lọ đó lại, cứ tuần tự mở nắp các lọ khác, vừa ngửi , vừa nói:
- Đây là Mộc Tê, đây là Nhục Quế, đây là Hàm Tiếu, đây là Đồ Mi, đây là Mộc Cận ...
Ngửi xong mỗi thứ, hai mắt gã chớp sáng, thần thái đam mê, tựa hồ gã, một tay giữ kho đang lạc bước vào một kho tàng vô tận, trước mỗi bình hương liệu, đều thèm rỏ dãi, cầm lên tay rồi, chẳng muốn đặt xuống nữa. Ngải Y Ti bực mình quá thể, không chịu nổi nữa, bảo gã:
- Ngươi đang đến đấy làm cái gì vậy? Nếu không phải để thi đấu danh hương, mau cút đi cho ta, đừng đứng đấy làm gai mắt ta!
Tô Văn Hương nghe mắng, cười mà rằng:
- Bà mà không nhắc, là ta đã quên mất rồi!
Gã quay sang Lan U nói:
- Các chén danh hương của cô, ngửi thích thật đấy, nhưng chỉ có thể ngửi thôi, chẳng thể qua đó mà cho người ta thấy!
Ngải Y Ti giật mình, hỏi:
- Hương vốn để ngửi, đôi mắt thì có dính dáng gì đến nó đâu?
Tô Văn Hương đáp:
- Ta nói thấy, không phải thấy bằng mắt, mà là thấy ở trong lòng. Danh hương tuyệt đỉnh nhất, là thứ có thể làm cho người ta cảm được, thấy được một bức hoạ hiện lên trong đầu.
Lan U ngẫm nghĩ hồi lâu về cái chuyện có vẻ không tưởng đó, rồi cô sẽ nhíu mày, hỏi:
- Ngửi hương mà nhìn thấy bức hoạ trong đầu? Ý muốn nói là sao vậy?
Tô Văn Hương gật đầu, nói:
- Cho ta mượn cô vài hương liệu, để pha chế ba món danh hương, được không?
Lan U dù đã đoán đúng được Tô Văn Hương có cái khứu giác cực kỳ đặc biệt, nhưng nhiều năm nay, cô miệt mài theo đuổi Hương Đạo đến mức độ si mê, cô biết đang đối đầu một đại cao thủ trong nghề, nhưng khi nghe gã thuyết những tân kỳ hấp dẫn của danh hương, cô chẳng dằn lòng được, gật đầu lia lịa đồng ý.
Tô Văn Hương lấy từ trong tay áo ra một cái bình sứ trắng, bắt đầu đem hương liệu từ những chai, lọ trên giá gỗ rót vào bình sứ, hết sức chăm chú trong công việc, ánh mắt tập trung vào pha chế, không hề chớp mi lấy một lần, dường như gã đang lâm trận đối đầu đại địch.
Sau một chặp, pha chế xong, Tô Văn Hương nâng cao lên, rồi lắc nhẹ cái bình sứ vài lần, một mùi hương kỳ lạ bất chợt loang ra khắp không gian sơn cốc, thoang thoảng như có như không, lan dần vào mũi từng người. Một thoáng sau, mọi người chợt thấy trong lòng có cảm giác kỳ lạ, trước mắt phảng phất đột biến, thần hồn bay bổng, cỏ cây chunh quanh dường như tươi thắm hơn lên, dường như mình đang dự yến tiệc nhã nhạc dưới ánh trăng, có người đẹp múa theo nhạc, có thi nhân ngâm vịnh thi từ, trên bàn tiệc đầy ăm ắp những thức sơn hào hải vị, từng đàn giai nhân mặt hoa giồi phấn, làn tóc xanh, mày ngài tô mực đen xậm, đang thướt tha kề cận tầm tay, từng nhóm văn nhân, phương cân trên đầu nghiêng lệch, phong thái nghênh ngang hết sức ngông cuồng.
Cái huyễn ảnh đó chớp thoáng qua nhanh như điện, nhưng đã in dấu thật sâu đậm trong đầu mỗi người, tuỳ theo từng người mà cảm giác thay đổi, những hình ảnh vũ nữ, văn nhân của dạ yến, mỗi người thấy khác nhau chút ít, nhưng nhìn tổng thể thì sống trong cùng một quang cảnh, không gì khác ngoài ánh trăng thanh, cỏ cây tươi thắm, cuồng sĩ, giai nhân, tóc xanh lả lướt, tưởng chừng với tay ra là chạm vào được, trong một khắc, ai nấy đều hiện rõ nét mê mẩn trên khuôn mặt.
Tô Văn Hương nhẹ nhàng lấy tay che miệng bình sứ, chậm rãi hỏi:
- Tiểu cô nương, cái món nhất phẩm "Dạ Nguyệt Lưu Kim" này, xem được chứ?
Lan U sắc mặt như tro tàn, sững sờ, giọng thê thảm:
- Quả tình có giỏi!
Tô Văn Hương chuyển mình bước ra bờ sông, rửa sạch bình sứ, rồi trở về chỗ giá gỗ, lại pha pha chế chế, chẳng mấy chốc, món danhh hương đã xong, gã đến bên đống lửa, than củi rất đượm, vẫn còn ngun ngút cháy, Tô Văn Hương đặt bình sứ lên trên vầng lửa thấp, một mùi thơm ngát toả ra, thoắt một cái, mọi người thấy xuất hiện trước mắt một toà tiểu lâu, hàng lan can chạm trổ tinh vi, mấy bậc thang cẩn đá, lồng đèn quý giá toả sáng rực rỡ, bên trong tiểu lâu trang hoàng xa hoa tráng lệ, bên ngoài toà tiểu lâu, rừng cây mùa thu thưa thớt lá. Trên cao vầng nguyệt toả ánh sáng lành lạnh, tại gác hai, ba bốn tì nữ đang đàn sáo trong tay, phụ hoạ theo nhịp phách gõ của một nam tử, giọng ngâm thơ, tiếng ca hát, dư vận thoang thoảng, vang vọng liên miên bất tuyệt.
Cái huyễn cảnh đó cũng đến và đi trong chớp mắt, nhưng ngắm cảnh sinh tình, cái tình ý đó vương vấn mãi trong tâm tư, phảng phất một cảm giác như mình đang sống thực trong khung cảnh đó.
Lúc mùi hương tan biến hết, Tô Văn Hương lại đem rửa bình sứ, pha chế món danh hương thứ ba. Lan U chẳng ngăn được thắc mắc, hỏi:
- Vừa rồi có phải là danh hương "Ngu Mỹ nhân" của tiên sinh không?
Tô Văn Hương khẽ gật đầu, Lan U lại hỏi tiếp:
- Cớ sao "Dạ Nguyệt Lưu Kim" đã không cần đến lửa, mà cái "Ngu Mỹ nhân" này lại phải đem hơ nóng mới cho thấy được?
Tô Văn Hương đáp:
- "Dạ Nguyệt Lưu Kim", tính hương vốn nhẹ nhàng, chỉ cần tỏa lên một chút, là đều có thể cảm nhận được. Cái "Ngu Mỹ nhân", bản chất thâm trầm, không dùng hơi nóng của lửa, không thể khuếch tán được!
Nói đến đấy, danh hương thứ ba đã xong, Tô Văn Hương đưa hai tay bịt thật chặt miệng bình sứ, mọi người đương trường, chờ thật lâu, vẫn không thấy có mùi hương nào mới, đều lấy làm lạ, chợt cùng thấy rộ lên trong đầu, một tấm tranh vẽ vùng rừng núi hoang dã, cỏ thơm ngát xanh rì, đỉnh đồi có một đại thụ cao ngất trời, tán cây mở rộng như hình bảo bình, cành lá sum suê, sừng sựng giữa nền trời xanh biếc, dưới gốc đại thụ là một tăng nhân, áo quần lam lũ, mày ngài rủ thấp, ngồi xếp bằng, khuôn mặt thấp thoáng nụ cười hàm tiếu.
Cái cảnh tượng đó đến thật đột ngột, và lưu lại trong mắt lâu hơn hai huyễn cảnh lần trước nhiều. Sau một lúc, cảnh mờ nhạt dần, mọi người mới thoáng ngửi thấy một thoảng hương nhẹ nhàng, như có như không.
Tô Văn Hương bảo:
- Hương nhà Phật, chú trọng về thanh thoát, lấy hai chữ "Không Không" làm chủ, mùi thoang thoảng xa xăm, người nào chưa cảm hoá được phép Phật, sẽ thấy tự mình cảm hoá được lấy mình, cái danh hương đó, mới đích thực đáng được gọi là "Bồ Đề thụ hạ".
Mọi người nghe thế, không ai là không gật đầu đồng ý. Tô Văn Hương quày đầu sang, đang định tiếp tục câu nói, chợt trông thấy Lan U thẫn thờ, đôi mắt đang nhìn gã, từ trong đôi nhãn châu, lấp lánh đôi hạt lệ nho nhỏ đang dần dần ứa ra, rồi vụt tuôn trào xuống như hai dòng suối trong vắt!
Tô Văn Hương ngạc nhiên, hỏi:
- Tiểu cô nương , sao thế?
Lan U gắng gượng một nụ cười sầu thảm, đôi bàn tay khẽ chắp lại, nói:
- Hương Đạo của tiên sinh trội hơn tiểu nữ nhiều, Lan U này xin tâm phục khẩu phục.
Cô trước sau cũng thua, nhưng cô đã chẳng chờ các giám khảo biểu quyết, đã lập tức chịu thua, cái khí phách đó, ai nấy đều bội phục. Rồi cô xoay mình, đến trước cỗ kiệu vàng, quỳ thụp xuống, thê thảm nói:
- Chủ nhân, thiếp thân đã thua, đã không làm tròn sứ mạng, xin nhận lãnh trách phạt!
Ngải Y Ti trầm mặc một chốc, lạnh lùng nói:
- Người đó tài cao hơn ngươi nhiều, ngươi thua hắn cũng là chuyện đương nhiên, vậy tội chết có thể tha, ngươi hãy tự chặt tay đi.
Mọi người nghe thế, không ai là không biến sắc. Lan U mặt trắng bệch, cười thảm một tiếng, nhẹ nhàng xoay mình, đón lấy một ngọn lợi đao (Đao có một lưỡi bén thôi) dát vàng từ tay một tên Hồ nô đứng bên, đôi mắt xinh đẹp nhắm lại, cô giơ đao lên nhắm chặt xuống chỗ khuỷu tay trái. Thấy thế, Tô Văn Hương hết sức hoảng kinh, là người đang đứng gần cô nhất, gã bèn nhảy ào đến, đưa tay ra nắm vào hữu thủ của Lan U, chặn thế chém xuống. Lan U giật mình, la lên:
- Ngươi làm gì vậy?
Tô Văn Hương chỉ chuyên về Hương Đạo, rất kém hiểu biết về nhân tình thế sự, nghe tiếng nghẹn ngào đó của cô gái, gã hỏi:
- Cô đang làm trò gì thế? Sao lại lấy đao tự chặt tay vậy?
Lan U gượng cười, đáp:
- Tiên sinh, ta bị thua ngài rồi, bây giờ phải chịu hình phạt!
Tô Văn Hương vẻ mặt ngơ ngác, lắc đầu, bảo:
- Ta đã làm cô bị thua, người đáng bị phạt là ta đây, cứ phạt ta là được! Vậy, cô hãy chặt tay ta là xong thôi!
Cái đạo lý lung tung của gã, Lan U nghe mà không biết nên khóc hay nên cười, bèn nói: "Được!", rồi lập tức đưa đao sang tay trái, nhắm vào tay Tô Văn Hương chặt xuống. Tô Văn Hương đang lúc ngăn cản cô, thấy đao chém xuống, gã hết sức hoảng sợ, gào lên một tiếng to, lùi thật nhanh ra đàng sau, mắt trợn tròn, hỏi:
- Sao ... sao cô định chém ta thực à?
Lan U cười thảm một tiếng nữa, lại hươi đao, chém ra một nhát cực nhanh vào khuỷu tay gã. Nhát chém quá mạnh, Tô Văn Hương không kịp tránh né, gã há miệng kêu thét ầm ĩ, chợt nghe "Choang" một tiếng, cây kim đao bị một viên đá kích trúng, lực đạo cuả viên đá thật dũng mãnh, tay cầm đao của U Lan nắm nó không vững, lưỡi đao tuột nhanh khỏi tay, bắn ra ngoài mấy trượng, nghe "tủm" một tiếng, đã chìm xuống duới đáy sông.
Tô Văn Hương vừa hãi kinh, vừa mừng rỡ, ngước mắt trông, vừa vặn thấy Lục Tiệm đang rụt cước bên trái về. Nguyên Lục Tiệm đang nghe cô gái kêu than, gã mủi lòng, rồi thấy cô cử đao định tự huỷ hoại một tay, sợ một cô gái kiều diễm như vậy mà bị cụt tay cả đời, Lục Tiện sinh lòng bất nhẫn, đã lập ý bắn viên đá ra cản lưỡi đao.
Lan U trong lòng hoảng loạn. Cô ngoảnh nhìn xung quanh, không hiểu viên đá đó đã từ đâu đến. Ngải Y Ti nhìn thấy rõ ràng sự cố, cười gằn, hỏi:
- Cốc Chẩn, ta đang trừng phạt thuộc hạ của ta, sao người bên phe mi lại ra tay can thiệp vào?
Chuyện bắn đá cứu người, thật ra không phải chủ ý của Cốc Chẩn, Ngải Y Ti trông thấy Lục Tiệm đứng nơi phía sau Cốc Chẩn, bèn nói đại gã người của phe Cốc Chẩn, nhằm mục đích bỡn cợt Cốc Chẩn.
Cốc Chẩn vốn chẳng muốn dính dáng vào gia pháp cuả Ngải Y Ti, nhưng Lục Tiệm có lòng tốt cứu người, cũng không phải là một chuyện xấu, gã lập tức cười rộ, bảo:
- Ngươi đã cùng ta đánh cuộc, nếu ngươi thua, trừ ngươi ra, tất cả những gì sở hữu của ngươi đều lọt hết vào tay ta, cái cô nương Lan U này cũng không là ngoại lệ. Cô rồi ra cũng sẽ là đồ trong túi ta, nếu bị ngươi chặt đi mất một tay, một mỹ nhân cụt tay, giá tiền bán cô ta giảm sút đi quá nửa, nói tỷ dụ, bàn đặt cược là mười lượng bạc, đổ một con xúc xắc, mắt ngươi thấy thua điểm, định thò tay lấy về năm lượng, cái đó không phải là ngươi muốn mè nheo, thì là cái gì?
Ngải Y Ti nghe gã nói vậy, hết sức giận dữ, la lớn:
- Ngươi chẳng qua mới thắng nhỏ có một bàn, sao đã dám lớn tiếng huênh hoang là thắng trọn? Cốc tiểu cẩu, ngươi đang định trở mặt đấy à?
Cốc Chẩn cười, đáp:
- Nếu mình đã không có đánh cuộc, ngươi muốn giết, muốn chặt, mặc ngươi! Nhưng giờ đã có đánh cuộc, người ngợm, đồ đạc của ngươi coi như ta cũng có một nửa phần sở hữu, đã rõ ràng vậy, ta sao có thể giương mắt nhìn ngươi ra tay huỷ hoại đi mất một nửa tài sản của bổn thiếu gia ta đây?
Ngải Y Ti giận quá, nhưng chỉ cười, hứ lạnh nột tiếng, day sang bảo Lan U:
- Thôi được, hãy gởi cái cánh tay ngươi lại đấy, chờ khi ta thắng cuộc thi đấu, sẽ chặt đi, cũng không muộn!
Lan U tạm thời thoát nạn, trên vầng trán trắng mịn của cô thấy đượm mấy hạt mồ hôi, cô chắp tay đáp ứng lời phán đó, rồi đưa mắt nhìn, khi thấy mặt mày Tô Văn Hương lộ nét vui mừng hớn hở, thấy khoé miệng gã đang hé nở một nụ cười, chẳng hiểu tại sao, Lan U chợt cảm thấy con tim rộ lên một nhịp mạnh, hai gò má bỗng dưng đỏ hồng, cô sợ bị người ngoài trông thấy, cô vội vội vàng vàng giấu ắnh mắt đi, bước lùi lại một bước sang bên cạnh, một lúc thật lâu, trong đầu cô diễn lại khúc phim thi đấu danh hương vừa qua, tâm tình chợt hoan hỉ, nỗi mừng vui choáng ngợp con tim!
Lại nghe Trác Vương Tôn tuyên bố:
- Trận Danh Hương, Tây Tài thần đơn phương chịu thua, vậy là Đông Tài thần thủ thắng. Tình hình hiện thời, sau ba trận, Tây Phương hai thắng, Đông Phương một thắng, trận thứ tư sẽ tỉ thí châu báu.
Ngải Y Ti chợt hứ một cái, lớn tiếng gọi:
- Thằng mũi to kia, tên ngươi là gì?
Tô Văn Hương đang bước về phía sau, nghe thế, quày đầu lại hỏi:
- Ngươi đang kêu ta hả?
Ngải Y Ti nhạt giọng bảo:
- Thì ngươi chứ ai! Ngươi mang họ Tô, phải không?
Tô Văn Hương ngạc nhiên:
- Đúng vậy! Sao ngươi biết?
Ngải Y Ti đáp:
- Dĩ nhiên là ta biết! Ngươi tên Tô Văn Hương, là kiếp nô của Bộ chủ Thiên Bộ Trầm Chu Hư.
Tô Văn Hương nói: "Đúng thế!"
Ngải Y Ti cười gằn, bảo:
- Ta nghe nói có Thường Vi, Bất Vong sinh, Huyền Đồng, Quỷ Vô Lượng túc, hôm nay, có mặt tất cả ở đây không?
Tô Văn Hương thật thà, đáp:
- Ngoài Huyền Đồng, năm người kia đều hiện diện hôm nay.
Ngải Y Ti giận dữ hỏi:
- Tụi bay là kiếp nô của Thiên Bộ, tại sao lại đi bán mạng cho tiểu cẩu Cốc Chẩn?
Tô Văn Hương cười nhăn nhở, đáp: "Bọn ta thiếu hắn một món nợ tình cảm, nên chẳng thể nào vắng mặt ở đây hôm nay được!
Ngải Y Ti bỗng trầm mặc, suy nghĩ: "Nấu nướng là sở trường cuả phe Trung Quốc, thể nào Cốc Chẩn cũng chiếm ưu thế, Thường Vi Tần Tri Vị lại là đầu bếp lừng danh, tiếng đồn ra tận Vực ngoại, ta dẫu có trong tay cả ngàn đầu bếp lợi hại, đụng phải gã, thể nào cũng đại bại! Biết chắc là thua, quyết chẳng chơi!" Nghĩ xong, mụ cất cao giọng nói:
- Các vị trọng tài, ta có một đề nghị, xin cho phép được nêu lên.
Trác Vương Tôn hỏi:
- Đề nghị gì?
Ngải Y Ti đáp:
- Lần trước, thi đấu ở Nam Hải, có năm bộ môn là Mỹ nhân , Tơ lụa, Danh hương, Giai vị (Món ăn ngon) và Châu báu. Lần này, lập lại y hệt, có hơi nhàm chán chăng? Sao mình không đổi đi một chút, đem thi đấu Giai vị đổi thành thi đấu m nhạc, được không?
Các trọng tài đưa mắt nhìn nhau. Quả phụ Thanh lớn tiếng phản đối:-
- Sao được! Nếu thi đấu m nhạc, Đông Tài thần chưa chuẩn bị, làm sao hắn thi?
Ngải Y Ti cười nhạt, bảo:
- Nếu chưa chuẩn bị, hắn đã chẳng phải là Đông Tài thần rồi. Thanh bà bà, bà cứ yên tâm, thuộc hạ của hắn cũng có đứa tinh thông âm luật, hắn sẽ không khó khăn đâu!
Quả phụ Thanh khẽ nhăn mặt, đưa mắt hỏi ý Cốc Chẩn. Cốc Chẩn vui vẻ hỏi:
- Ngải Y Ti, ngươi muốn nói đến Thính Kỷ - Tiết Nhĩ?
Ngải Y Ti đáp:
- Thính kỷ - Tiết Nhĩ, có thính lực kinh người, thông thạo âm luật, đúng là một đại hành gia về âm nhạc.
Cốc Chẩn chợt cười nụ, nghĩ bụng: "m nhạc vốn là sở trường của Tây Phương, là sở đoản của Đông Phương, từ sau thời nhà Đường, âm nhạc Tây vực lúc nào cũng xưng hùng ở Trung thổ. Mụ bà nương này biết chắc chẳng thể qua được ta ở thi đấu Giai vị, mụ đòi đổi đề mục, là muốn đem trường đấu với đoản đây. Nếu ta không khứng chịu, chứng tỏ ta kém, chỉ tổ cho mụ ta lấy đó bỡn cợt ta. Nếu ta đồng ý thì sao? Mụ bà nương đó phải đem thành tín ra thi đấu, sẽ không mấy vui vẻ gì lắm, thể nào cũng có trò mờ ám chi đây, dụ ta vào tròng!"
Gã đang còn trầm ngâm, đã nghe Tiết Nhĩ nhỏ giọng năn nỉ:
- Cốc gia, xin cứ để cho tiểu nô ra thi đấu đi.
Cốc Chẩn tủm tỉm cười, bảo:
- Trận này quan hệ vô cùng, ngươi không sợ à?
Tiết Nhĩ đáp:
- Tiểu nô không sợ bọn chúng!
Cốc Chẩn thư giãn hàng lông mày, cười hì hì:
- Nếu vậy, ngươi ra đi!
Lục Tiệm mặt mày đượm vẻ lo lắng, hỏi;
- Cốc Chẩn, trận này quan trọng vô cùng, ngươi sai hắn ra, nếu vạn nhất hắn thua thì sao?
Cốc Chẩn lắc đầu, bảo:
- Đã dùng người ta thì phải hết lòng tin người ta, nếu nghi ngại, thì đừng dùng! Không những ta tin Tiết Nhĩ huynh sẽ thắng, mà huynh ấy sẽ còn thắng to nữa là khác!
Tiết Nhĩ nghe nói vậy, thoạt đầu sững sờ, rồi mắt gã bốc lửa, trong lòng cực kỳ cảm kích, gã nghiến răng, bặm môi, ngẩng cao đầu, tay xách cái "Ô lý oa lạp", rẽ đám đông bước ra. Đán người Hồ thấy gã tai to như cái quạt, quần áo lam lũ, ban đầu thì họ hơi lạ mắt, rồi rủ nhau cười ầm. Tiết Nhĩ vốn biết ngoại hình mình xấu xí, đã quen bị người đời chê cười, lúc này lại là lúc gã quyết lòng ăn thua, những cái cười cợt đó, gã chẳng thèm để tâm, tay ôm chặt món nhạc cụ kỳ lạ, chói chói sáng sáng đó, giống như một kiếm thủ, bảo kiếm siết trong tay, đang oai hùng ra trận. Từ chân đến đầu, gã toát ra một khí thế hừng hực bức nhân!
Đám người Hồ chừng như cảm được cái khí thế kiêu hùng đó, tiếng cười dần tắt, những kẻ có chút kiến thức, trong lòng đã thấy càng lúc càng giảm dần khinh khi, đã thấy nảy sinh ý nghĩ: "Cái người đó, coi hình dạng thật xấu xí, làm sao lại có thể toát ra một khí thế như vậy được?"
Ngải Y Ti chợt nói:
- Cốc Chẩn, trận này, sẽ do bên ta đi trước.
Rồi chẳng chờ câu trả lời của Cốc Chẩn, mụ vỗ tay một cái, nữ tử tóc đỏ tên Thanh Nga, thần sắc trầm trọng, trong tay một ống ngọc đich dài, nhẹ bước thủng thẳng đi dọc theo bờ sông, đón làn gió từ sông thổi vào, tiếng tiêu cất lên miên man, ai oán dường như đang khêu gợi, thúc giục mây sầu gió thảm kéo đến, trong đám mây mù vân vụ thấp thoáng hình dạng quỷ thần vật vờ, dòng nước rì rầm dường như hết muốn chảy tiếp về cuối sông.
Nghe tiếng tiêu du dương, Cốc Chẩn chẳng giấu được thán phục,
- Thổi tiêu giỏi quá, trên không thua Lục Châu, dưới chẳng nhượng Độc Cô. Nhưng này Ngải Y Ti, tài nghề của ngươi, chỉ có ống tiêu đó thôi sao?
- Tất nhiên là giỏi! Lục Châu, Độc Cô toàn là những nhà thổi tiêu trứ danh từ xa xưa, - Ngải Y Ti nhạt giọng trả lời.
Lời còn chưa dứt, tiếng tiêu đang mỗi lúc một lên cao, chợt hạ thấp xuống, rồi dâng cao vút, mọi người bỗng dưng nghe trong tiếng gió thổi từ mấy đám mây trên cao xuống, tiếng tiêu kiêu ngạo đơn độc, có nét man mác chốn phàm trần. Mọi người chú tâm nghe nữ tử thổi tiêu, tiếng tiêu thanh thoát, đều khâm phục ngưỡng mộ, chợt đang lúc tiếng tiêu cao vút tầng mây bỗng chuyển sang âm điệu mềm mại, lãng đãng bâng khuâng lưng trời, tựa cánh chim bằng đang chao mình, bay lượn nhởn nhơ trong làn gió nhẹ giữa chừng không.
Tiếng hoà nhạc chợt vang lừng, nhiều nam tử, nhiều giai nhân tuấn mỹ, đang đồng tấu các nhạc khí trong tay, tiếng cao thấp trầm bổng, âm thanh mượt mà làm say đắm người nghe, những Hồ cầm , Tỳ bà, Thụ cầm, Phong địch cùng một số lớn những nhạc khí kỳ môn khác, không rõ tên, những nhạc khí không thấy dùng ở Trung thổ, cùng lúc hoà âm, động tác biểu diễn khi thì như giương cung xạ tiễn, khi thì như phe phẩy lá quạt nan, khi thì đưa ngón tay thoăn thoắt đóng mở lỗ ống sáo, tạo nên những âm thanh kỳ lạ, nhưng chan chưá diễm tình. Dù hợp tấu nhiều nhạc khí, dù tiếng nhạc trầm bổng, thanh âm tất cả đều không át nổi tiếng tiêu phát ra từ cây trường địch hồng ngọc, rồi đàn nam thanh nữ tú đó múa may quay vòng chung quanh đống lửa trại, chân xoay nhanh những bước đa dạng, xoắn sát vào bên vòng lửa, đôi khi mang khí thế của một đoàn kỵ binh đang theo lệnh thống soái công thành, đoạt luỹ.
Kết hợp tất cả các yếu tố đó, mọi người nghe nhạc, xem múa, âm thanh hoà tấu không những tuyệt mỹ, lại tân kỳ, dù là phe Đông hay phe Tây, tất cả đều như si như ngốc, chỉ ước mong sao tiếng nhạc cứ kéo dài bất tận. Qua một lúc lâu, tiếng tiêu chợt cao vút, toát cái khí dương cương, chọc thẳng lên chín tầng mây, đưa cảm giác như đang đón chào một thớt bảo mã đang vén màn mây từ từ hạ xuống, đồng lúc, tiếng tiêu trổi rộ lên, âm thanh các nhạc khí khác nhỏ dần xuống, đến lúc chúng ngừng hẳn, tiếng tiêu kia lại mỗi lúc một lên bổng, vút vào tận trời cao, làm mây mù tản ra, rồi tiếng tiêu bỗng đột ngột chấm dứt. Đó là kết thúc của hoà nhạc, nhưng nhạc tắt rồi, mọi người còn bồi hồi trong tâm tư những cung điệu của đàn, của địch, bấy giờ họ mới tin vào câu nói người xưa truyền lại: "Dư âm nhiêu lương, tam nhật bất tuyệt", dư âm còn vương vấn, ba ngày sau chưa dứt!
Cốc Chẩn lúc ấy mới minh bạch cái tính toán kỹ lưỡng của Ngải Y Ti, gã lo thầm: "Mụ bà nương này nhất định lấy số đông để thủ thắng, mụ coi thường gã Tiết Nhĩ đơn thân độc mã! Gã dẫu tinh thông âm luật, nhưng với chỉ vỏn vẹn một nhạc cụ, làm sao đua tranh được với hợp tấu của tiếng tơ, tiếng trúc, âm thanh khác biệt của cả bấy nhiêu nhạc cụ hợp diễn." Đang lúc gã ngẫm nghĩ, Tiết Nhĩ đã khởi tấu cái "Ô lý oa lạp", nghe thật khớp theo dư âm tiếng tiêu, gã chơi ra âm thanh hệt như tiếng ngọc địch vừa rồi, nhưng âm thanh lại không sâu lắng như tiếng tiêu đó, dường như được phụ hoạ bằng những âm nho nhỏ, khe khẽ, đến từ một nơi xa xăm nào đó, rồi những tiếng ấy mỗi lúc một rõ nét ra, nghe như âm thanh của hơn mười nhạc khí đồng tấu, có tiếng sáo, tiếng tiêu, tiếng hồ cầm, tiếng vi vu của trường địch, tiếng thánh thót của tỳ bà, các thanh âm hoà hợp dâng tràn như sóng, ùa đến từ bốn phương, lạ ở chỗ cho nghe rõ ràng từng nhạc cụ một.
Mọi người đều bất ngờ khi thấyquái nhân tai to chỉ dùng duy nhất một nhạc cụ, đã có thể tấu lên âm thanh của hơn mười nhạc khí khác nhau, họ bất giác ngẩn ngơ, lòng luống nét kinh dị. Hơn nữa, nhạc của mấy người Hồ trình diễn, âm thanh tuy hay, nhưng là tổng hợp của mười loại khí cụ trình tấu, không có được cái hồn nhiên đơn sơ, chưa kể đôi lúc thiếu hài hoà. m nhạc của Tiết Nhĩ tấu, hơn mười thanh âm khác nhau phát ra từ một nguồn, chúng hài hoà khôn tả, hồn nhiên như nhất. Nghe tiếng nhạc trầm bổng, khi lớn, khi nhỏ, làn điệu biến chuyển, thoáng pha đôi chút nét nhạc Trung thổ, thập phần ưu mỹ, khiến các nhạc công người Hồ tham dự trình diễn vừa rồi đã không tự chủ được, đều đứng lên, ngỏng cổ ra nhìn, chăm chú xem làm cách nào mà Tiết Nhĩ lại có thể tấu nhạc như vậy. Nhưng cái nhạc cụ chí bảo "Ô lý oa lạp" đó cấu tạo cực kỳ phức tạp, ẩn chứa càn khôn bên trong, nếu nhìn từ bên ngoài xa, chẳng thể nhận ra được áo diệu của nó.
Khúc nhạc càng tấu càng lạ, vừa mênh mông bát ngát, vừa tinh tế tỉ mỉ, các cảm giác đó đan chen vào nhau, không phải Trung thổ mà cũng không phải Tây vực, tự nó biệt lập thành một thể loại. Mọi người thoạt đầu còn làm chủ được cảm xúc, sau một hồi, họ đều bị lôi cuốn theo làn điệu, các trạng thái mừng, giận, buồn, vui, bị âm thanh chi phối dẫn giắt, khúc vút cao khiến người ta tâm thần sảng khoái, máu nóng bừng bừng dâng trên đầu, chỉ hận chẳng thể buông một tràng cười dài cho thật thoải mái, lúc âm vận xuống thấp như than như khóc, khiến người ta ưu sầu oán than, các xúc cảm đó đột biến không thôi. Chúng vừa mới kích động người ta oán giận phừng phừng đó, đã chuyển điệu sang dịu dàng uyển chuyển, làm mềm dịu lòng người xuống. Người trong cốc có không ít kẻ bị tiếng nhạc ảnh hưởng, đã không tự chủ được mình, cứ theo âm vận, lúc thì khóc hu hu, khi thì cười khanh khách, vừa giận dữ đấy, đã thấy hớn hở đấy.
Bất ngờ, âm nhạc từ cái "Ô lý oa lạp" phát sinh biến hoá, âm thanh tấu lên mang thật nhiều nét lạ, chẳng phải đàn, cũng chẳng phải sáo, chẳng phải tiếng sênh. cũng chẳng phải tiếng trống, lẫn trong tiếng nhạc là tiếng mời gọi tha thiết. Trong du dương của khúc nhạc, trên mặt sông rộng, thấy xuất hiện lăn tăn nhiều vòng sóng nhỏ nối tiếp nhau, từ giữa các vòng sóng nhô lên một điểm nho nhỏ, rồi nghe "Xoạt" một tiếng, một con Ngư Lân vảy bạc thân mình cực lớn, từ dưới đáy nước sâu, vụt xé nước, toàn thân bay bổng lên trên không trung, nó quẫy mình vài vòng, rồi phóng trở lại vào dòng sông, một phút sau, lại nghe có tiếng nước khua động không ngừng. Trong nước sông xuất hiện hai ba đợt, vô số những cá lớn cá nhỏ, lớn thì dài hơn trượng, nhỏ chừng độ tấc tay, một số có thể nhận biết chủng loại, một số mang hình thù cổ quái, không rõ tên, cá ngư lân mình sặc sỡ đủ mầu sắc, trong đó màu đỏ thắm đua chen với sắc trắng ngần, ngàn vạn con đang đua nhau khoe màu sắc, đang múa nhảy trên mặt sông, tạo nên một kỳ quan tuyệt vời.
Kỳ quan đó, đời người chưa từng chứng kiến, người ở đấy, ai cũng càng nhìn càng thấy mê mẩn, càng bị hồi hộp trong lòng. Lúc mọi người còn đang choáng ngợp, chợt trên không có tiếng hót thánh thót, có tiếng chim kêu vang, khi ngẩng đầu trông, thấy từ bốn phương tám hướng, đang tụ tập bay đến cơ man nào là các loài chim, có chim ưng săn mồi, có chim oanh hút nhuỵ, không thiếu giống nào, về đến phía trên chỗ Tiết Nhĩ, chúng tung cánh bay lượn hót ca, giương bộ lông cánh mang mầu sắc rực rỡ, tổng thể kết thành một đoá tường vân khổng lồ, đang tụ tập lại, đang không tan trên bầu trời.
- "Ngư khởi vũ,
Bách điểu lai triều,
m nhạc chi diệu,
Cánh chí vu tư."
Tiên sinh kế nhiệm ngâm vang lên, rồi, hít vào một chân khẩu khí thật dài, lão nói tiếp:
- Cảnh đó vốn được tả lại trong thần thoại lưu truyền từ cổ xưa, không ngờ hôm nay lão phu đã được tận mắt chứng kiến! Cái tài âm nhạc đó sánh ngang với thần thông hàng ngư phục điểu! Bài nhạc của Tây Tài thần, rốt cuộc cũng chỉ là thứ nhạc phẩm chất bình phàm mà thôi! - Lão nói đến đấy, cất cao giọng tán dương - "Thính kỷ tiên sinh, nếu tiên sinh mà tấu lại khúc đó một lần nữa, ta sợ thể nào cũng có quỷ thần tìm đến ganh ghét thôi!
Tiết Nhĩ nghe lão nói, gã bèn chuyển làn điệu, tấu tiếng nhạc nhỏ dần đi, rồi tắt hẳn. Đàn chim bèn tản ra, bầy cá lặn xuống đáy sâu, sông nước trở lại êm đềm, không gian tĩnh lặng, chỉ còn thấy lông chim rải rác khắp mặt đất, nổi lềnh bềnh trên mặt nước, gợi trong trí óc cảnh quan kỳ ngộ vừa xảy ra.
Tiết Nhĩ tay ôm nhạc cụ, trở về đứng cạnh Cốc Chẩn, thần quang trong mắt đã tan biến, khí thế toàn thân cũng bình hoà trở lại, khiến người ta không cách nào liên tưởng gã đến cái vị quái nhân vừa tấu lên khúc nhạc thần tiên vừa qua.
Tiên sinh kế nhiệm đưa mắt nhìn ba vị trọng tài kia, hỏi:
- Tại hạ đã phẩm bình xong, các vị nghĩ sao?
Quả phụ Thanh đáp:
- Túc hạ bình rất chính xác, tiên nhạc và phàm nhạc, chẳng thể nào đem so sánh với nhau được! Trận này, ta chấm Đông Tài thần thắng.
Nói xong, bà giơ cao tay phải lên. Các vị trọng tài kia không có ý kiến khác, cũng đưa tay phải lên. Trận đấu đó, bên Trung thổ toàn thắng.
Đám người phe Tây Phương chăm chú nhìn cỗ kiệu vàng, người nào mặt mày cũng hầu như chẳng chút huyết sắc. Ngải Y Ti trầm lặng một lúc lâu, rồi buông tiếng cười lạnh, chậm rãi nói:
- Hai hoà hai! Một trận quyết định thắng bại, xem chừng lại thống khoái!
Dứt lời, có tiếng khua lách cách, rồi rèm kiệu được vén lên, một nàng kiều nữ từ bên trong kiệu uốn éo thân mình chui ra, dung mạo nàng tuyệt mỹ, đường nét khuôn mặt sắc sảo, đẹp như tạc, làn tóc buông dài chấm đất, mượt mà lơi lả, mường tượng như được dệt bằng những sợi tơ hoàng kim mỏng mảnh, thần thái nàng yên nhiên đĩnh đạc, toát ra một anh khí hào hùng.
Lục Tiệm nhác trông nữ tử Tây Dương đó, gã chợt quặn thắt trong lòng, gã phảng phất thấy Diêu Tình xuất hiện trước mắt. Nhưng nếu ta nhìn kỹ, ả di nữ đó dung mạo, thần sắc hoàn toàn không giống Diêu Tình, chỉ vì phong thái hai người có chỗ tương đồng, khiến người ta vừa gặp mặt, đã nảy sinh huyễn tưởng ấy.
Ngải Y Ti đến đứng trước Cốc Chẩn, đôi nam nữ cự phú thế gian này mang khí chất hoàn toàn trái ngược, một người thì vẻ mặt lành lạnh, ánh mắt như băng giá, một người thì ung dung, vẻ mặt tươi cười như hoa nở mùa xuân, nhưng họ đứng đấy, trước đám đông, dẫu không cùng thần thái, cả hai đều phong tư khác người, tựa đôi chim hạc đứng giữa bầy gà.
- Ngải Y Ti, - Cốc Chẩn chợt cười hì hì, - xem chừng ngươi có đẹp ra đấy, ta nhớ lại lần đầu gặp gỡ, ngươi vừa gầy vừa bé, hệt như một con khỉ Thiên Trúc!
Ngải Y Ti mặt hoa biến sắc, hét lên:
- Bớt phóng thí một chút đi! Nhớ cái kiểu gì lạ vậy! Nếu vậy, ngươi thực ra hệt như một con cóc Trung Quốc, ghẻ lở đầy mình!
Cốc Chẩn cười hì hì, đáp:
- Quá khen, quá khen!
Ngải Y Ti khựng lại một chút, hỏi:
- Ta mắng ngươi là cóc, sao lại bảo Quá khen gì thế?
Cốc Chẩn vẫn cười, đáp:
- Ở Trung quốc, cóc còn được gọi là thiềm thừ, chính tượng trưng cho cái sự mỹ lệ xinh xắn! Trên cung trăng, có bóng một con Ngọc thiềm , do đó đã được gọi là Thiềm cung . Ngươi bảo ta là Thiềm thừ , chẳng phải đã khen ta đây mỹ mạo sáng như trăng rằm, vừa thanh thoát, vừa rực rỡ, chiếu rọi trên khắp nhân thế ư?
Ngải Y Ti chu chu cái mỏ, cười nhạt:
- Chỉ giỏi nói nhăng! Đào ở đâu ra được cái lý sự đó vậy?
Cốc Chẩn nhơn nhơn đáp:
- Ngươi vốn là con khỉ Thiên Trúc, làm sao rành được những tinh hoa sâu sắc trong ngôn ngữ Hoa hạ này cuả chúng ta!
Ngải Y Ti sắc mặt biến đổi, từ đỏ bừng sang trắng bệch, rồi đỏ bừng trở lại, nghiến răng nghiến lợi, bảo:
- Xú tiểu tử, đến trận thi đấu châu báu tuyệt trần này, ngươi hãy mở thật to cái cặp mắt chó của ngươi ra mà xem cho thích nhé!
Cốc Chẩn tủm tỉm, đáp:
- Ta đã xem thấy ngươi rồi đây, quả là thập phần cao minh.
Ngải Y Ti nghe gã đối đáp, lặng thinh một lúc lâu, không chửi bới trở lại nữa, trong lòng ả vốn cũng tự phụ mình cao minh, nghe gã nói thế, ả ngạc nhiên, cũng thấy khoái khoái, chợt xoay chuyển ý nghĩ, bất giác ả nổi đoá, hét lên:
- Người ta có câu nói Mắt chó là mắt kẻ tầm thường , ta mắng ngươi có mắt chó, ngươi lại bảo ta cao minh, thế có phải ngươi muốn ngầm mắng ta chẳng phải là loài người sao?
Ả vừa giận, vừa rối trí, ả tự biết nghề miệng lưỡi mắng thiên hạ của ả tuyệt chẳng phải đối thủ của Cốc Chẩn, ả chỉ còn cách, trước thắng cuộc thi đấu, sau đó, sẽ tha hồ lớn giọng huênh hoang giễu cợt gã, trong một thoáng, đầu óc ả đã suy nghĩ đến hơn chục cách thật độc ác mà ả sẽ dùng để hành hạ cái tên ác nhân Cốc Chẩn này! Trong lòng cực kỳ sung sướng, ả nghiến răng, dang rộng đôi tay ngọc ngà ra, vỗ nhẹ ba tiếng, tám gã Hồ nô bèn tháo cái tù và đeo ngang hông, cùng thổi lên u u , tiếng tù và cực to, làm chấn động cả vùng sơn cốc, âm vang không ngớt dội về từ phía đầu nguồn dòng sông.
Sau ba hồi tù và, nơi sườn núi đối diện dòng sông của vùng thung lũng xanh rì, phát ra một tiếng nổ thật to, lập tức làm rung chuyển toàn thể sơn cốc, vách đá chỗ sườn núi chợt nứt ra một hang động khổng lồ, từ trong động, một dòng thác đổ nước ào ào xuống, tuôn chảy ra bên ngoài, dòng thác như một dải lụa treo ngược, có phần giống dải Ngân Hà, từ trên hơn mười trượng trên cao của núi, nước thác chảy siết từ đầu vách đá xuống bên dưới.
Sau một lúc, bùn đất lẫn đá đổ xuống, dòng thác bỗng giảm cường độ, từ vách đá bỗng xuất hiện một kỳ tích, như người thoát y, từng chập, từng chập lộ từng phần thân thể, đàng sau dòng bùn đất, thấy lấp lánh có ánh tinh quang. Người bên trong cốc, nhờ góc nhìn thẳng, đã thấy được rõ nhất những biến chuyển kỳ ảo, họ chẳng thể không đồng loạt cất tiếng trầm trồ, bên trong vách đá vốn dùng làm vật nguỵ trang, có ẩn tàng một tòa bảo lâu bẩy tầng.
Dòng thác tiếp tục đổ nước, bùn đất giảm dần, lâu đài thực sự hiện ra với tất cả các nét hoa lệ, mái vàng, cột ngọc, các bậc thềm cẩn đá quý, trước lâu đài đó là một con đường nho nhỏ, sáng loang loáng, vì đã được toàn lát bằng bạch ngọc, hàng lan can chạm trổ tinh vi, cẩn ngọc phỉ thuý lóng lánh, dưới hàng mái hiên treo rủ một số phong linh hàng thượng đẳng, các cánh phong linh làm bằng vàng cẩn mã não, lấp lánh sáng như ngọc quý, rung tiếng lanh canh thánh thót mỗi khi có làn gió nhẹ thổi qua, nghe êm tai khôn tả.
Lúc này, rèm nguỵ trang đã biến mắt hẳn, toà lầu xây cất bằng châu ngọc đó hiện ra sáng choang rực rỡ,từ đầu tường, từ mái ngói, một làn nước chảy qua không làm chúng thấm ướt, nước chảy xuống đến bên dưới, chầm chậm chuyển vào một con kênh nhỏ chạm bạch ngọc, cẩn xà cừ, rồi một dòng nước kênh chảy cuồn cuộn trên đáy xà cừ, dẫn vào một cái ao rộng dài mỗi bề ba trượng, đáy lát bạch ngọc. Bùn lầy khi vào đến ao đã biến mất tăm, rồi thác nước ngừng chảy, từ trong ao bạch ngọc vọng ra tiến lanh canh của những hòn châu ngọc chạm vào nhau. Một vầng sáng mầu xanh biếc nhẹ dâng lên, qua đó từ từ xuất hiện một hòn giả sơn, cao khoảng năm xích, những hang động của giả sơn toả sáng lung linh một màu phỉ thuý xanh biêng biếc, những đường nét gãy gợn trên giả sơn cũng do ngọc phỉ thuý tạc chen lẫn vào với bạch ngọc, giả làm rong rêu thẫm màu xanh lục. Giữa hồ, một vòi nước chợt phun lên, mỗi lúc một cao hơn, đến độ vài trượng, những giọt nước như châu như ngọc bắn ra tứ phía, vòi bước chắc đã do cơ quân ngầm bên dưới ao lọc sạch nước bùn, rồi bơm cho phun lên.
- Ngươi nghĩ sao? - Ngải Y Ti nheo mắt hỏi Cốc Chẩn, vẻ đắc ý hiện rạng rỡ trên gương mặt, - Thấy chưa? Đó là lâu đài vạn bảo cuả ta!
Bọn thương nhân Trung thổ mặt xám như chì, Ngải Y Ti đã dùng châu báu ngọc ngà kiến tạo nên toà bảo tháp bẩy tầng, một công trình vĩ đại chấn động kiến trúc cổ kim. Cho đến gần đây, ả đã xây dựng lâu đài đó trong cốc, đã ra công dùng vách đá cùng nhiều thủ thuât che giấu nó đi, người ra vào cốc chẳng hề hay biết. Ả đã cho chôn giả sơn bằng phỉ thuý trong dòng nước ngầm dưới đất, trên đỉnh núi đã cho đào hồ, khai thông thuỷ đạo để đem nước suối lên tích trữ trên các hồ ấy, đến khi nhận được hiệu lệnh bằng ba hồi tù và, thủ hạ đã đồng lúc cho nước hồ tuôn xuống thành thác, đồng thời dùng sức nước vận chuyển cơ quan, cho lộ diện toà bảo lâu, cho hòn giả sơn từ dưới đáy ao hiện ra, cho vòi nước ngầm phun lên, đồng một lúc, tất cả xuất hiện, mới toanh. Những thiết kế tân kỳ đó, đầy nét tương phản, đã làm choá mắt người xem một cách khó giải thích được.
Ngải Y Ti đon đả cất tiếng mời:
- Chư vị trọng tài, xin mời quý vị theo ta vào xem lâu đài!
Bốn người đưa mắt nhìn nha, chậm chạp lục tục đứng lên. Ngải Y Ti liếc xéo Cốc Chẩn, vui vẻ hỏi:
- Nếu ngươi không quá yếu tim, cũng nên đi xem cho rộng đường kiến thức!
Cốc Chẩn cười, đáp:
- Cốc mỗ đang bị một cơn khiếp sợ lớn đây!
Ngải Y Ti thấy gã bình tĩnh như không, trong lòng ả chợt thấy khó chịu, nhưng ả vốn tự phụ sẽ nhất định thắng trận này, không tin là Cốc Chẩn có cao chiêu nào hay hơn thế, ả chỉ cười nhạt một tiếng, đi trước dẫn đường. Khá nhều thương nhân Trung thổ hiếu kỳ, cũng lẽo đẽo nối gót theo sau.
Mọi người đến gần lâu đài "Vạn bảo", thấy các cỏ cây rậm rạp trước đó đã bị nước thác tuôn xuống làm rối loạn không ít, giờ đây cành lá đụng nhau phát tiếng lanh canh như tiếng châu ngọc chạm nhau, họ mới phát hiện ra các cành, lá đó toàn bằng ngọc phỉ thuý tạc nên, đã được sắp sẵn ở đấy từ lâu, trông giống hệt như cành lá thảo mộc thực thụ.
Toà bảo lâu, từ cột đến kèo, từ cổng ngõ đến cửa cái, đâu đâu cũng chạm trổ hoa văn, từng phiến bạch ngọc khắc hình nhân vật thần tiên, tả chuyện xưa tích cũ, nét chạm uyển chuyển mềm mại, trị giá như ngọc liên thành. Từ ngoài nhìn vào, thấy bên trong tôi tối, nhưng lúc bước qua cửa, cơ quan phát động, những viên ngọc hoả châu đính trên đỉnh lâu đài tụ hội ánh sáng mặt trời, phản chiếu qua hệ thống kính thuỷ tinh, chuyển ánh sáng đến những tấm kính gắn trên tường, chiếu sáng xà vàng, cột ngọc, ánh sáng đó rọi vào thành chùm lên một cây san hô to lớn dựng giữa lâu đài, cành lá rậm rạp của cây san hô chợt phát tán ra ánh sáng màu hồng nhạt trên khắp cả thân cây, quả là một bảo vật vô giá hiếm thấy.
Sau cây san hô là một tấm bình phong khảm xà cừ hình minh nguyệt ngự giữa đám mây, những ngôi sao chung quanh biểu thị bằng những viên kim cương. Giữa sảnh đường, có xếp những đôn bằng đá cẩm thạch mặt ngoài màu đỏ, bên trong mầu lục, vây quanh một tràng kỷ bằng ngọc phỉ thuý, mầu sắc hài hoà tựa như thiên nhiên tạo thành.
Một cầu thang uốn vòng, bậc thang bằng hồng ngọc, lượn quanh cây san hô đưa lên tầng trên. Qua mỗi tầng đều thấy ngà voi trắng bạch, cẩn bảo thạch, mầu sắc các viên ngọc quý đó làm choá mắt người xem, Lại có cả một bàn trang điểm, tạo thành bằng nguyên thân hình một con đồi mồi. dùng bốn tảng tử ngọc làm chân bàn, mặt kính là một khối thuỷ tinh mỗi bề một trượng, phản chiếu ánh sáng long lanh khắp tầng lầu. Tất cả những trần thiết trang hoàng lớn nhỏ bên trong, toàn là kỳ trân hi hữu, một viên gạch, một tấm ngói, thảy đều là cùng cực xa hoa, cái tên "Vạn bảo", không sai chạy vào đâu được.
Rời khỏi bảo lâu , thương nhân Trung thổ đều bi quan, tự ti, trong lòng cứ bị ám ảnh bởi cảnh quan xa hoa của châu, của ngọc, một thời gian dài, tâm tư cứ bị ám ảnh :"Chuyến này thua chắc!". Bốn vị trọng tài trở về chỗ ngồi, Trác Vương Tôn trầm ngâm một lúc, rồi hỏi:
- Tây Tài thần , cái toà "Vạn bảo lâu đài" đó, ngươi cất mất bao lâu, tốn hết bao nhiêu tiền?
Ngải Y Ti đáp:
- Tiền tốn hàng tỷ, mất ba năm ròng!
Lã Bất Vi thắc mắc
- Nói như vậy, nghĩa là ngay sau cuộc thi đấu Nam Hải, ngươi đã lập tức cho xây dựng lâu đài đó?
Ngải Y Ti cười cười:
- Chỉ đủ để hôm nay làm xấu mặt!
Rồi ả ngó qua Cốc Chẩn, vẻ giễu cợt. Cốc Chẩn chỉ mủm mỉm cười. Quả phụ Thanh thấydáng vẻ gã, trong lòng bà chợt thoáng tia hy vọng, bèn hỏi:
- Đông Tài thần, châu bảo của ngươi đâu?
Chương 55 Chu Lưu lục hư
Cốc Chẩn vui vẻ đáp: -
- Tiểu tử ta nghèo rớt, không có châu ngọc để xây lâu đài khí thế nhường ấy, chỉ có mỗi một khối ngọc vuông vuông này, kính trình quý vị xem để phẩm bình.
Mọi người nghe thế, đều hết sức hiếu kỳ, tự hỏi không hiểu dưới trời này tìm đâu ra được một khối ngọc có thể đọ với cái lâu đài tàng chứa vô số châu báu bảo vật kia?
Trong lúc mọi người còn đang thắc mắc nghĩ ngợi, Cốc Chẩn thò tay vào bọc, lấy ra một cái ấn ngọc hình khối vuông vức, chất ngọc bàng bạc trắng, hình dung cũ kỹ, xem qua thấy chẳng có gì đặc biệt, vả lại cái ấn đó còn bị sứt mất một góc, chỗ góc khiếm khuyết đã phải bịt vàng.
Bọn thương nhân dòm cái ấn ngọc, chẳng giấu nổi thất vọng tràn trề. Ngải Y Ti khoé môi lạnh lùng cười, chỉ có bốn vị trọng tài đều trố mắt, tia nhìn ngạc nhiên kỳ quái, chú thần quan sát cái ấn ngọc một lúc thật lâu. Trác Vương Tôn chậm rãi hỏi:
- Đông Tài thần, cái ấn ấy thật hay giả?
Cốc Chẩn cười, đáp:
- Muốn biết thật hay giả, xin mời xem cho rõ!
Nói xong, hai tay nâng cái ấn đưa lên. Trác Vương Tôn đón lấy, xem xét thật kỹ một lúc. Thần sắc nghiêm trọng, lão đưa qua cho Lã Bất Vi, bảo:
- Huynh rất tinh thông khảo nghiệm đồ cổ, cái món này xem chừng là đồ thật rồi!
Lã Bất Vi xem một hồi, rồi vẻ trịnh trọng, lão suýt soa:
- Từ khi vua Kiến Văn mất tích, cái bảo vật này cũng theo ngài mà thất tung, không ngờ hôm nay hiện ra trở lại chốn trần gian này ...
Mặt lão đầy nét cảm khái, toát ra trong cung cách cùng lời nói. Lão chăm chú xem, trầm ngâm một lúc nữa, rồi đưa trả lại cho Cốc Chẩn xong, lão quay qua quả phụ Thanh vả tiên sinh kế nhiệm, hỏi:
- Hai vị có cao kiến gì không?
Hai người nhè nhẹ lắc đầu. Lã Bất Vi bèn gật đầu biểu đồng tình, rồi lão trang trọng đứng dậy, nói lớn:
- Bỉ nhân tuyên bố, trận đấu châu bảo hôm nay, Đông Tài thần đã thắng!
Câu nói vừa thốt ra, mọi người đồng thanh "ồ" lên. Những thương nhân Trung thổ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ. Nhưng Ngải Y Ti đã đỏ ửng mặt mày, tức tối hỏi:
- Tại sao hắn lại thắng? Bộ cái Vạn Bảo lâu đài của ta không giá trị bằng mẩu ấn sứt sở đó à?
Lã Bất Vi đáp:
- Ngươi có biết lai lịch cái ấn ngọc đó không?
Ngải Y Ti đáp:
- Ngọc ấn trên đời này nhiều vô số kể, ta sao biết được lai lịch của nó!
Lã Bất Vi nghiêm giọng, hỏi:
- Người đã có nghe qua sự tích Ngọc Bích họ Hoà chưa?
Ngải Y Ti thoáng biến sắc, ả đưa mắt nhìn cặn kẽ cái ngọc tỷ trong tay Cốc Chẩn, rồi đôi mày ngài sẽ nhíu lại.
- Thụ Mệnh Vu Thiên, Ký Thọ Vĩnh Xương. Lã Bất Vi nói - Truyền từ đời Tần Thủy hoàng đến giờ, ngọc tỷ này là vật báu truyền quốc của Trung Hoa chúng ta, lâu đài Vạn Bảo chẳng qua tốn kém mấy tỷ bạc, tốn mất ba năm xây dựng, cái ngọc tỷ truyền quốc thất tung này, nó đã từng chứng kiến thịnh suy của mấy ngàn năm lịch sử dân ta, vì nó, mà máu đào đã chảy thành sông, mà xương trắng đã phơi đầy đồng. Ngươi muốn đem hai thứ ra so sánh, ba năm của ngươi có bằng được mấy ngàn năm trường cửu của nó không? Tiền ức bạc tỷ, có thể so với tính mạng của hàng ức hàng tỷ người không?
Ngải Y Ti lặng yên nghe giải thích, mặt không một chút biểu tình, mấy ngón tay ngọc siết chặt vào nhau, đến trở thành trắng bệch. Im lặng hồi lâu, đôi hàng lông mày của ả giãn ra, thần tình ả hết căng thẳng, sắc mặt thản nhiên như cũ, ả lãnh đạm nói:
- Thua thì thua, chả là cái quái gì hết!
Cốc Chẩn hì hì, hỏi lại:
- Ngươi đã nhận thua rồi, vậy hãy thanh toán vụ cá cược luôn đi.
Ngải Y Ti đứng vụt dậy, hả miệng cười rũ rượi đến nghẹt thở! Cốc Chẩn cũng không ngừng hì hì cười theo. Cười được chừng một tuần trà, Ngải Y Ti day sang bảo Cốc Chẩn:
- Ngươi giỡn ta đấy hả? Ai mà đã thèm đi cá cược với ngươi!
Mọi người đều biến sắc, Cốc Chẩn cau mày, bảo:
- Như vậy, ngươi chẳng đếm xỉa gì đến lời ngươi đã nói à?
Ngải Y Ti cười nhạt, trả lời:
- Nếu ta thắng ngươi, dĩ nhiên là đếm xỉa! Ta thua, tất cả coi như dẹp bỏ, tên tiểu cẩu họ Cốc kia, ngươi bộ không nhớ cái câu mà sư phụ thường hay nói à?
Cốc Chẩn vẫn cười:
- Là Vô thương bất gian ?
Ngải Y Ti cười hề hề, nói:
- Vậy là ngươi hãy còn nhớ, sao lại còn đòi ta chung vụ cá cược?
Lục Tiệm hết sức giận dữ, la lớn:-
- Thì ra ngươi nói lời, không giữ lời!
Ngải Y Ti cười nhạt một tiếng,
- Ta nói lời, không giữ lời, ngươi làm gì được ta?
Lục Tiệm nắm chặt đầu quyền, định xông tới, chợt nghe Ngải Y Ti búng ngón tay, mấy tên Hồ nô bèn thổi lên một hiệu tù và, lập tức, từ trong chiếc giang thuyền dát vàng, cả trăm người xông ra, giáp sắt che toàn thân, trên tay là trường mâu, loan đao, cực kỳ hung hãn. Trên mấy đỉnh núi quanh đấy của sơn cốc, hệt như nấm mối mọc lên sau cơn mưa, thấy rùng rùng xuất hiện vô số đầu người, ai nấy đều cung cứng tên nhọn trong tay, cùng chĩa về phía mặt đất bên dưới cốc.
Trác Vương Tôn tái mặt, hỏi:
- Ngải Y Ti, lần thi đấu này, ngươi đã giấu giếm lâu đài vạn bảo, đã ẩn tàng võ bị, ý là gì vậy?
Ngải Y Ti lạnh lùng đáp:
- Bốn cái lão vờ vịt này, rốt cục đúng là vừa xuẩn vưà có sạn trong đầu! Các người đều làm thương nhân cả một đời, sao không hiểu cái đạo lý đó!
Quả phụ Thanh giận quá, la lên:
- Bọn ta không hiểu, vậy ngươi hiểu à? Có cái đạo lý vô lại nào như vậy trong làm ăn buôn bán?
Ngải Y Ti cười nhạt, đáp:
- Chuyên môn vô lại, đó là bản sự của ta. Bọn ta buôn bán vì mục đích gì? Vì muốn cho nước giàu, muốn tạo quân đội hùng mạnh. Khi có binh lực hùng mạnh rồi, hàng hoá ta muốn bán cho nước nào, là đem đến bán ở nước đó, không muốn cung cấp chỗ nào, thì không đem bán chỗ đó. Nước nào không chịu mua, ta diệt nước ấy, đứa nào chê không mua, ta giết hết cả nhà nó. Kinh doanh thương mại không có vũ lực hỗ trợ, không sao giầu lên được. Có quân lực mạnh mà không có buôn bán hỗ trợ, quân lực sẽ yếu đi. Mụ già kia, trong tình thế hôm nay, ngươi có muốn chơi trò vô lại đối địch ta, cũng không còn cơ hội nào nữa! Cả bọn bốn người nhà mụ, đều thiên vị cả tâm lẫn ý, nhất quyết trợ giúp cho tiểu cẩu Cốc Chẩn thắng ta, tới chừng sa cơ lạc vào tay ta, hãy giương mắt ra xem ta xử đẹp bọn ngươi ra sao nhé!
Ba người Lã, Trác, Thanh nghe vậy, lửa giận phừng phừng bốc lên đến toàn thân run rẩy, chỉ có mỗi tiên sinh kế nhiệm là vẫn giữ khí sắc lãnh đạm, chẳng lộ mừng, giận gì. Cốc Chẩn hít vào một hơi thở sâu, bảo ả:
- Ngải Y Ti, kẻ đối địch ngươi là ta, ngươi chớ khá trút giận lên đầu người khác!
Ngải Y Ti lườm gã, cười nhạt, bảo:
- So với mấy lão già đó, với mụ già đó, ngươi cũng còn nói được vài câu kha khá! Ngoài miệng, ngươi nói thật hay một đằng, bụng ngươi lại tính một nẻo khác hẳn! Ngươi đến đây trước, rồi sắp đặt cho Thích Kế Quang dẫn quân theo sau, định nếu lỡ hôm nay thua trong tay ta, sẽ dùng vũ lực, ép ta hàng phục!
Cốc Chẩn cười cười:
- Cuối cùng, cũng đã chẳng qua mặt được ngươi!
Ngải Y Ti cười lạnh:
- Tiếc thay, ta một khi biết âm mưu đó, đâu có để cho ngươi được trên chân! Cái thằng họ Thích đó, nhân mã không quá ba ngàn, ta đã cho bố trí sẵn quanh đây mười ngàn tinh binh, giương sẵn một cái bẫy, chờ cả lũ chúng nó chui đầu vào rọ. Tình hình bây giờ là, hừm, sợ rằng mi cùng gã Thích tham tướng, toàn quân bị đập tan, chết không có đất chôn.
Lục Tiệm vừa giận vừa hãi, gã hét lên một tiếng, tung mình nhảy đến, nghĩ thầm: "Quân địch đông, người mình ít, phải Cầm tặc tiên cầm vương , hãy bắt giữ ả ta trước, rồi tính gì thì tính". Tâm niệm nhanh như điện, thân mình vọt ra nhanh như tên bắn, đến trước Ngải Y Ti, gã chưa kịp xuất thủ, hốt nhiên trong người thấy cảm giác lạ, một cỗ kình khí âm hàn đã công ào ào tới, khí kình cổ quái dị thường, Lục Tiệm không dám ngạnh tiếp, nhanh nhẹn né sang bên, luồng hàn khí trắng như bạc đó bắn suýt soát ngang bên cạnh thân mình gã, làm lay động quần áo, làm gã rét run.
Lục Tiệm vừa định phản kích, không dè gã cảm thấy một kình lực âm hàn kích vào đến tận tim phổi, kinh mạch toàn thân gã chợt rũ ra, cái chiêu thức dự định trong đầu không sao phát ra được. Lục Tiệm thất kinh, lùi nhanh ra đàng sau, "Đại Kim Cương thần lực" vận chuyển một vòng, mới có thể trục cái cỗ hàn khí cổ quái ấy ra hết được. Rồi nghe "suỳ" một tiếng, Lục Tiệm đưa mắt nhìn, thấy có một gã hắc y đứng cách đấy chừng mươi trượng, đôi tròng mắt y hiện vẻ kinh ngạc. Lục Tiệm giật thót, "Người đã ám toán mình, chính là nó!"
Gã áo đen thấy Lục Tiệm chẳng hề bị đánh ngã, còn có thể nhảy lui ra vài bước, trong lòng gã cũng thấy sợ, rồi khi thấy Lục Tiệm vẫn an nhiên, gã đâm ra hoảng. Chợt nghe tiếng Ngải Y Ti bảo:
- Cừu tiên sinh, ông cứ đánh tận lực, đừng nương tay nhé!
Gã thuộc hạ áo đen chỉ khoanh tay, gật đầu nhè nhẹ. Cốc Chẩn nghe ba chữ "Cừu tiên sinh", trong lòng chợt nhớ ra một người, bèn hỏi:
- Các hạ họ Cừu, có phải là "Giang lưu thạch bất chuyển" ?
Gã áo đen cặp mắt toát ra một tia sát cơ, lạnh lùng đáp:
- Kẻ bất tài ta đây chính là Cừu Thạch.
Cốc Chẩn buột miệng kêu:
- Không ngờ Bộ chủ của Thuỷ bộ hãy còn sống sót trên trần gian!
Lục Tiệm nghe y nói, lòng phẫn nộ, trong một sát na, hình ảnh những thây ma ngày nào tại Diêu gia trang sống lại trong đầu gã, thần thông Thủy Bộ quá sức tàn ác, đã in đậm nét trong óc gã. Cừu Thạch khóe mắt thoáng một tia thê lương, trả lời Cốc Chẩn:
- Cừu Thạch của Thủy Bộ đã chết từ lâu rồi, Cừu mỗ ta giờ chỉ là một phế nhân đi lại trên giang hồ thôi!
Nói xong, hắn phất tay áo, bắn ra một cỗ kình khí thanh mảnh nhắm vào Lục Tiệm. Lục Tiệm từng nhiều phen giao đấu các cao thủ của tám bộ Tây Thành, gã hiểu rõ Chu Du bát kình toàn là thủ pháp mượn vật truyền công, hiếm khi nào thể hiện uy lực mạnh mẽ, cái tia kình khí đó xem rõ, thấy nó là một mũt thủy tiễn, tàng chứa "Chu Du Thủy kình". Lục Tiệm lập tức quát nhỏ một tiếng, huy động song chưởng, hiển lộ biến tướng "Duy Ngã Độc Tôn", kình khí đầy trời, đập nát mũi thủy tiễn thành muôn ngàn giọt nước li ti, chứa đầy kình khí của "Đại Kim Cương thần lực", phản kích Cừu Thạch.
Cừu Thạch hừ nhỏ một tiếng, thân pháp cực kỳ lanh lẹn, như một luồng thiểm điện màu den, chui tọt xuống nước sông, lập tức, hệt như một khối sắt nung đỏ nhúng vào nước, nghe phát ra tiếng sèo sèo, tạo nên một màn mưa bụi hạt nhỏ li ti.
Cừu Thạch huy động song chưởng, màn mưa bụi đó mở bung ra, bao trùm lên Lục Tiệm.
Lục Tiệm ngày xưa đã được xem tận mắt trận đấu giữa Thuỷ bộ và Ninh Bất Không, những vũ khí mượn từ nước, không những được Cừu Thạch biến thành màn sương mù, mà còn thúc đẩy cho mờ mịt giăng đầy trời, ẩn chứa thuỷ kình quái dị, dần dần thấm vào từng lỗ chân lông.
Lục Tiệm thi triển tướng "Minh Nguyệt lưu phong", xoay chuyển chưởng kình, chầm chậm như làn gió mát, lấy nhu chống nhu, màn sương vừa sà vào gần, đều bị phe phẩy bạt ra, rồi lấy công làm thủ, đẩy mù sương ra khỏi rồi, dần dà tìm cách phản kích. Cừu Thạch vừa nghe kình phong thốc vào mặt, đến sầm sập như núi đổ, lui ào ào như cường triều giựt ngược ra ngoài khơi,
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro