thuong hai 2
lên, than nói: “Đáng tiếc, Chu Lưu Hoả Kình của túc hạ xuất thần nhập hoá, nhưng lại không dùng vào chính đạo”. Ninh Bất Không cười lạnh nói: “Ngư hoà thượng, đại sư muốn cái gì?”. Ngư hoà thượng nói: “Năm xưa, sau khi hoà thượng thua trận ở Thiên Trụ Sơn, bị buộc phải lập lời thề. Chỉ cần Vạn Quy Tàng tại thế, thì chung thân không dẫm bước trung thổ. Như hôm nay Vạn Quy Tàng đã quy tiên, lời thề đã không còn hiệu lực, hoà thượng cần đem hài tử này đi đến Côn Lôn Sơn, tìm kiếm cách giải thoát Hắc Thiên Kiếp”. Ninh Bất Không thần sắc âm trầm, một lúc mới nói: “Nói như vậy, đại sư muốn làm khó Ninh mỗ rồi”. Ngư hoà thượng nói: “Thí chủ tội gì ngoan cố, hoà thượng đem hài tử này đi, thí chủ chẳng qua chỉ bớt đi một tên kiếp nô, đối với bản thân thí chủ không có tổn hại. Đệ nhất luật của Hữu Vô Tứ Luật là Vô Chủ Vô Nô, lại không phải là Vô Nô Vô Chủ”. Ninh Bất Không tĩnh mặc chốc lát, chợt cười mà nói: “Lời của hoà thượng phải vô cùng, Ninh mỗ nể mặt đại sư, phóng thích tên kiếp nô này”. Ngư hoà thượng trong lòng vui mừng, chắp tay nói: “Khó được thí chủ có lòng thương xót như vậy, tuy chỉ là nhất niệm chỉ thiện, cũng là sự giác ngộ vô thượng”. Ninh Bất Không cười cười, chuyển thân chực đi. Lúc y phất tay áo, bạch quang trong tay áo loé ra, phóng nhanh vào diện môn của Ngư hoà thượng. Ngư hoà thượng chau mày, tay trái giơ lên, ngũ chỉ như nhặt cành hoa, tóm lấy bạch quang kia. Lục Tiệm đưa mắt nhìn xem, lại là một mũi tên ngắn bằng gỗ trắng, khảm mũi sắt, lập tức cả kinh kêu lên: “Đại sư cẩn thận”. “Không phải lo lắng”. Ngư hoà thượng cười nhẹ: “Mộc Phích Lịch này còn chưa thể làm gì được hoà thượng”. Lục Tiệm thấy mộc tiễn đó không phát nổ, trong lòng rất bồn chồn. Ninh Bất Không cười gượng hai tiếng, nói: “Chỉ cái nhấc tay của đại sư, liền đem Chu Lưu Hoả Kình hoá thành vô hình, thật là làm cho người ta bội phục”. Nói xong, từ trong tay áo, y rút ra một cái Gia Cát Liên Nỏ, cười nói: “Nhưng nếu nhất phát bát tiễn, đại sư đỡ được sao?”. Lời nói chưa dứt, tám mũi mộc tiễn phá không đến, mỗi một mũi đều chứa đựng Chu Lưu Hoả Kình, mà còn khảm mũi sắt. Một khi phát nổ, vụn gỗ và mũi sắt đều bay, càng có uy lực. Ngư hoà thượng thở dài một tiếng, hai tay đều xuất, trên không trung rạch một nửa hình cung. Tám mũi mộc tiễn trắng kia như con chim yến non về tổ, tự bay vào giữa các kẽ tay của Ngư hoà thượng. Đồng thời, Đại Kim Cang Thần Lực đã như nước lạch liên miên, làm hoả kình trong mộc tiễn nhẹ nhàng tắt đi, mộc tiễn không cách gì phát nổ, thì không khác gì so với nỏ tiễn tầm thường. Soạt soạt soạt, lượt mộc tiễn thứ hai lại phóng đến, Ngư hoà thượng không đợi các mũi mộc tiễn bắn đến, giành lên trước một bước, lại tiếp lấy tám mũi mộc tiễn. Ai ngờ mộc tiễn vào tay, lại hoàn toàn không có hoả kình, trong mũi ngầm ngửi thấy mùi tiêu hoàng. Một tiếng vang dội, tám mũi mộc tiễn nhất tề phát nổ, khói mù mạt vụn nhất thời bao trùm lấy Ngư hoà thượng. Ninh Bất Không cười dài nói: “Đại sư chớ trách, lần này không phải là Chu Lưu Hoả Kình, mà là hoả dược, hàng thật giá thật”. Thì ra, Ninh Bất Không biết Ngư hoà thượng tất có thể hoá giải Chu Lưu Hoả Kình, do đó chín mũi mộc tiễn trước, cố ý dùng Mộc Phích Lịch. Ngư hoà thượng liên tục tiếp hai lần, đã tồn tại định kiến: “Mỗi một mũi tên đều là như vậy”. Không ngờ tám mũi mộc tiễn sau lại là hoả tiễn đặc chế, trong thân tên tàng chứa hoả dược. Chín mũi tên trước chẳng qua chỉ là hoặc địch chi kế, tám mũi mộc tiễn sau mới là sát chiêu trí mạng. Lục Tiệm bi phẫn vô cùng, chực nhào lên liều mạng với Ninh Bất Không, chợt thấy khói bụi đột nhiên tản ra bốn phía, giọng nói của Ngư hoà thượng thong dong: “Ninh thí chủ không cần khách khí, còn có loại mánh khoé nào, có thể sử ra luôn thể đi!”. Lục Tiệm vừa kinh vừa mừng, đưa mắt nhìn, chỉ thấy y sam của Ngư hoà thượng tuy rách nát, da thịt lại không thương tổn chút nào. Ninh Bất Không khen ngợi nói: “Như như bất động, vạn ma hàng phục, đại sư hảo thần thông”. Trong lúc nói cười, nỏ tiễn nhất tề bắn ra, dày đặc như châu chấu, trong đó hoặc là có Mộc Phích Lịch, hoặc là hoả tiễn đặc chế, giao tương hỗn tạp, khó mà phân biệt được. Ngư hoà thượng thì lại không tiếp tiễn nữa, hai chân phân khai, chắn trước người Lục Tiệm, song quyền vung lên, cùng mưa tên va đụng vào nhau, trong nhất thời, rơi xuống trước mắt Lục Tiệm hơn trượng, như đắp lên một bức tường chắn vô hình, hoả quang như mưa ngoài bức tường, rực rỡ còn hơn khói lửa. Bỗng nhiên mưa lửa đột nhiên ngưng lại, Ninh Bất Không ném nỏ tiễn đi, lùi sau hai bước, chống tay vào một gốc cây lớn, thở dốc. Lục Tiệm trong lòng vui mừng: “Tên của y dùng hết sạch rồi”. Ngư hoà thượng lắc đầu than, nói: “Ninh thí chủ, hoà thượng mang đi tên kiếp nô này, tuy rằng đối với thí chủ không có lợi, nhưng cũng không có tổn hại. Thí chủ tội gì cố chấp đến như vậy?”. “Đại sư cho rằng chắc thắng rồi sao?”. Ninh Bất Không tay đè đại thụ, cười nhẹ nói: “Nên biết mộc trung tàng hoả, tiến vào rừng này, là đã tiến vào luyện ngục vô biên”. Lông mày trắng bạc của Ngư hoà thượng giương lên, chợt hiểu ra, nói: “Thì ra là như vậy, Ninh thí chủ bố cục có thể nói là thâm viễn”. Lục Tiệm đang cảm thấy không hiểu, chợt nghe Ninh Bất Không cười dài một tiếng, cây đại thụ lớn bằng một vòng tay ôm bên cạnh đột nhiên nổ trung ra, mạt gỗ bắn tung toé. Ngư hoà thượng khoa nhanh tay áo, ngăn cản mạt gỗ, thân thể lại bị sóng khí xung kích, lắc lư một cái. Trong chốc lát, gỗ cây xung quanh bốn phía lần lượt nổ tung, song quyền của Ngư hoà thượng càng vung càng nhanh, Lục Tiệm chỉ cảm thấy hai luồng khí lưu mạnh mẽ, một hướng ra ngoài, một hướng vào trong, xé lẫn nhau, bản thân mình thì lại ở giữa, chịu đựng đau khổ. Lục Tiệm dần dần hiểu “bố cục thâm viễn” trong lời nói của Ngư hoà thượng, thì ra Ninh Bất Không dẫn mình vào rừng rậm, đã bố trí cạm bẫy, chỉ bởi vì Ninh Bất Không có kỹ năng Mộc Phích Lịch, cành lá của cây cối trong rừng rậm rịt giao nhau, rễ cây um tùm, Chu Lưu Hoả Kình lại không cần biết ở đâu đều có thể vận dụng được, chỉ cần mượn một gốc cây truyền công, liền có thể qua cành lá gốc rễ, dẫn nổ cả khu rừng rậm. Ánh lửa rực trời, tiếng nổ lần lượt vang lên. Ngư hoà thượng tuy nhờ vào Đại Kim Cang Thần Lực ngăn cách ánh lửa và mạt gỗ ngoài một trượng, nhưng thuận theo thế lan của nội kình Ninh Bất Không, cành nhỏ lá vụn đều thành hoả khí, du tẩu bên ngoài quyền kình của Ngư hoà thượng, luôn tìm khe hở mà vào, lại giống như một quả cầu lửa to lớn, bọc quanh Ngư hoà thượng và Lục Tiệm, lửa cháy rừng rực. Chưa được một lúc, đông nam nổi gió, lửa mượn hướng gió, thế lửa càng mạnh, khí nóng đốt người cuồn cuộn tuôn đến, vòng tròn uy lực của Đại Kim Cang Thần Lực ngày càng thu hẹp, chỉ chốc lát, đã thu hẹp lại sáu thước. Chợt nghe trong tiếng nổ, tiếng cười của Ninh Bất Không truyền đến: “Đại sư chắc cũng biết Chu Lưu Lục Hư Công cả thảy có ngũ yếu: Thời, Thế, Pháp, Thuật, Khí. Như hôm nay nổi gió đông nam là Thiên Thời, nơi này rừng rậm là Địa Thế, Mộc Phích Lịch là Công Pháp, mưu kế của Ninh mỗ là Tâm Thuật, tuy không có hoả khílợi hại, nhưng đã được tứ yếu trong Chu Hư Ngũ Yếu. Chu Hư Ngũ Yếu, đắc tứ yếu giả vô địch, đại sư còn không nhận thua, còn đợi đến lúc nào?”. Khi Ninh Bất Không nói, vòng tròn uy lực của Đại Kim Cang Thần Lực đã bị áp bức đến trong năm thước, Lục Tiệm như ở luyện ngục vô biên, miệng lưỡi khô khan, lông tóc khô cháy, quả thực nóng khủng khiếp muốn chết. Chợt nghe Ngư hoà thượng thở dài một tiếng, nói: “Vạn thành chủ …”. Ninh Bất Không cười lạnh nói: “Đại sư nóng đến nỗi mụ mẫm rồi sao? Thành chủ quy tiên đã lâu, đại sư gọi Thành chủ làm gì?”. Ngư hoà thượng nghe mà như không thấy, vẫn thờ ơ nói: “Vạn thành chủ, nếu Thành chủ ra tay, chỉ cần tam yếu, hoà thượng liền chấp tay nhận thua, lại hà tất cần tứ yếu? Ninh thí chủ Hoả bộ tuy được tứ yếu, hoà thượng vẫn có cơ hội có thể lợi dụng”. Ninh Bất Không nghe vậy, đột nhiên nóng lòng, quát nói: “Lão hoà thượng điên, có cái gì có thể thừa cơ chứ, có gan cho Ninh mỗ xem xem”. Khoé miệng Ngư hoà thượng có nét cười, quát một tiếng “Hữu”, đột nhiên hữu quyền vòng quanh người, quét sạch thế lửa, ngón tay cái bàn tay trái rạch lên không một nét, ngọn lửa bên ngoài như bị xé nát trên cao, lộ ra một chữ Hữu. Ninh Bất Không như nhận ra, thất thanh nói: “Ngươi …”. Không đợi Ninh Bất Không nói hết, Ngư hoà thượng lại quát một tiếng: “Bất”. Lại viết một chữ “Bất” trên tấm màn lửa. Ngư hoà thượng quát một tiếng, viết một chữ, ngón tay trỏ như rồng như rắn, từ chữ “Hữu” trở đi, từ trên xuống dưới, trong bức màn lửa liên tục viết ra bảy chữ lớn. Đại Kim Cang Thần Lực hồi lâu không dứt, một hơi viết xong, mấy chữ vẫn là xuyên qua lửa mà ra, hình dáng quái dị, nét bút hùng mạnh kỳ lạ, thật như khoái kiếm trảm trận, cường nỏ phá quân, núi cao sóng cả, sấm sét tương tranh. Lục Tiệm đưa mắt nhìn, chợt nhận ra cả câu: “Hữu bất hài giả ngô kích chi”. “A …”. Bảy chữ này viết trên lửa, nhưng lại giống như viết trong lòng Ninh Bất Không, mắt của y tuy không nhìn thấy, nhưng lại tựa như sinh ra một đôi tâm nhãn, nhìn rõ ràng vô cùng, không kềm được kêu lên một tiếng thảm thương: “Thành chủ, không phải ta ….”. Kêu xong đã kinh hoàng vô cùng, hai tay khua loạn, kêu thảm: “Thành chủ, không phải ta … không phải ta, đều là bọn họ …. Không phải ta, đều là bọn họ ….”. Y kêu lớn hét lớn, như điên như cuồng, loạng choạng liều mạng chạy về phía trước, cho dù lửa cháy lan vào áo quần đầu tóc, cũng không dừng chân. Trong khoảnh khắc, y biến mất trong nơi sâu thẳm khu rừng rậm. Ngọn lửa không có người thao túng, thế lửa giảm yếu. Những nơi quyền kình của Ngư hoà thượng đi đến, ngọn lửa đều bị dập tắt. Chỉ thấy Ngư hoà thượng quyền trái dập lựa, tay phải nhấc Lục Tiệm lên, bước nhanh về phía không có lửa, khoanh chân ngồi xuống, sắc mặt trắng xám toát ra hắc khí nồng đậm. Lục Tiệm hít một hơi, chợt thấy sắc diện Ngư hoà thượng khác lạ, buột miệng nói: “Đại sư, ngài không sao chứ?”. Ngư hoà thượng mở mắt cười nói: “Hoà thượng không sao. Hài tử, ngươi thật muốn cùng hoà thượng đi sao?”. Lục Tiệm gật gật đầu. Ngư hoà thượng than nói: “Nói thực, giải trừ Hắc Thiên Kiếp, hoà thượng hoàn toàn không nắm chắc mười phần”. Lục Tiệm lớn giọng nói: “Tại hạ thà chết, cũng không làm kiếp nô cho Ninh Bất Không nữa”. Y vốn thống hận thân phận kiếp nô này, chỉ là trước đây một người lại không có kế sách, vô lực đối kháng Ninh Bất Không. Lúc này được Ngư hoà thượng xuất thủ tương trợ, làm cho tuyệt vọng trong lòng y lại bắt đầu dấy lên hy vọng, chỉ cảm thấy từ nay về sau, bản thân không còn phải một mình đối mặt với Hắc Thiên Kiếp nữa, do đó sợ hãi giảm đi, dũng khí tăng lên bội phần. Ngư hoà thượng gật đầu cười nói: “Rất tốt, ngươi là một hài tử có cốt khí, từ lúc nghe ngươi và Chức Điền Tín Trưởng đối thoại, hoà thượng liền biết, với bản tính của ngươi, cho dù trở thành kiếp nô, cũng sẽ không chịu khuất phục quyền uy của Ninh Bất Không. Hắc Thiên Kiếp gọi là thiên kiếp, thực ra là tâm kiếp. Nếu không có tâm chí kiên cường mạnh mẽ, khó thoát khỏi nạn kiếp; nếu ngươi không có tâm chí như vậy, hoà thượng dù có lòng cứu ngươi, cũng là uổng công”. Lục Tiệm lúc này mới hiểu ra, Ngư hoà thượng sớm không chịu lộ diện trước, cũng là thăm dò ý tứ bản thân. Chợt nghe tiếng guốc gỗ vang lên, đưa mắt nhìn, chỉ thấy một đám thị vệ thị nữ vây quanh A Thị đang đi đến, có lẽ bị tiếng nổ lúc nãy dẫn dụ đến.
Lục Tiệm vừa thấy A Thị, liền cảm thấy hổ thẹn áy náy, muốn nói, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Hai người im lặng nhìn nhau hồi lâu. Lục Tiệm cuối cùng nói: “A Thị công chúa, ta cần phải quay về Đại Minh rồi, nàng bảo trọng nhiều”. A Thị đờ đẫn nghe, nhãn thần dần dần trở nên sầu đau. Một lúc lâu, nàng nhè nhẹ đặt Bắc Lạp Sư Môn xuống. Con mèo Ba Tư đó đi lên trước hai bước, lại quay đầu lại nhìn A Thị một cái, cuồi cùng đi đến trước người Lục Tiệm. Lục Tiệm cúi người bế nó lên, chợt nhiên nhìn thấy, hai giọt nước mắt trong suốt long lanh, rơi xuống trước chân của A Thị. Lúc ngửng đầu lên, người con gái áo trắng đó đã quay người lại, hai bờ vai gầy nhỏ nhè nhẹ run lên, như lá rụng trong gió. Lục Tiệm cắn chặt răng, đứng thẳng người lên, thì thấy Ngư hoà thượng đã ở đằng xa chờ đợi. Y hít dài một hơi, bước lên phía trước, đi được ước khoảng mười bước, chợt nghe thấy từ phía sau truyền lại một tiếng gọi sầu thương “Lục Tiệm!”. Thân hình Lục Tiệm chấn động, nhưng lại không có dũng khí quay đầu lại, ngước mắt nhìn ra, rừng cây rậm rạp xa thẳm đằng trước, vẫn còn tro tàn sau ngọn lửa, khi ẩn khi hiện, soi sáng con đường phía trước trong đêm tối, còn tiếng kêu gọi phía sau, cuối cùng lại hoá thành tiếng khóc nức nở. Lục Tiệm không biết trong cái quốc gia liên tiếp chiến loạn này, người con gái dịu dàng yếu đuối này sẽ gặp phải vận mệnh khôn lường thế nào, y chỉ biết, từ nay về sau, bất luận là kiếp nạn gì, bản thân cũng không còn cách gì cùng nàng kề vai đối mắt với nhau nữa. Nghĩ đến đây, Lục Tiệm chỉ cảm thấy trong lòng trống trải, một loại thương cảm không thể miêu tả tuôn lên, nước mắt nhạt nhoà đôi mắt của y. Ngân hà lấp lánh, cái lạnh mờ sáng hơi rét, bóng đêm chiếu xuống mặt đất hơi chút xuề xoà, liên miên vô tận. Con đường trước khi trời sáng dài đằng đẵng, Ngư hoà thượng bước đi phía trước, cũng không biết đi được bao lâu, khi phía đông hơi hừng sáng, hai người nghỉ chân ở một con đèo. Ngư hoà thượng nhắm mắt nhập định, Lục Tiệm thì cảm xúc đau thương khi ly biệt, không có lòng nói chuyện, lại thêm khổ chiến liên tiếp hai đêm, trong khoảnh khắc đã thiếp đi. Trong lúc nằm mơ, chợt cảm thấy toàn thân giật nảy, Lục Tiệm đột nhiên vùng bật dậy, thấy trong sắc trời bình minh, ba đạo nhân ảnh, một tĩnh hai động, quấn lấy nhau ở phía đằng xa. Hai tên cử động nhanh đến kỳ lạ, lượn vòng quanh người đứng yên rất nhanh. Lục Tiệm nhận ra người đứng yên chính là Ngư hoà thượng. Thấy đại sư bị người vây công, trong lúc cả kinh, y cầm một cành cây bên cạnh lên, chực nhào lên tương trợ, chợt thấy hai tên địch nhân thân pháp đình trệ, chệnh choạng nhè nhẹ, thân hình chợt thấp xuống, biến mất không thấy đâu nữa.
Lục Tiệm vội vàng phóng lên phía trước, nhưng thấy Ngư hoà thượng cúi đầu đứng nhìn, cạnh chân có nhiều dấu chân vết đao, chỉ không thấy hai tên địch nhân đó đâu nữa. Y bất giác quay đầu nhìn tứ phía, lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Không cần phải tìm nữa, đó là nhẫn giả của Hạ Y, một kích không trúng, sớm đã trốn xa rồi”. Lục Tiệm nghe đến kinh ngạc, chợt nghe Ngư hoà thượng nói: “Lục Tiệm, ngươi đỡ ta đến tảng đá đằng kia”. Lục Tiệm nghe giọng nói của hoà thượng run lẩy bẩy, càng cảm thấy kinh dị, quay người đỡ lấy Ngư hoà thượng, ngồi lên một tảng đá ngầm. Ngư hoà thượng che miệng ho, Lục Tiệm nhìn thấy rõ máu tươi đỏ thẫm từ kẽ ngón tay của đại sư tuôn ra, bất giác kinh hãi nói: “Đại sư thụ thương rồi sao? Là nhẫn giả lúc nãy sao?”. Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Hạ Y nhẫn giả chẳng là cái gì, không thể đả thương hoà thượng được?”. Lục Tiệm nói: “Vậy thì là Thiên Thần Tông, hoặc là Ninh Bất Không?”. Ngư hoà thượng nói: “Thiên Thần Tông chỉ là loại ăn sương, không đáng để nói. Ninh Bất Không thần thông tuy mạnh, nhưng cũng không có cách gì đả thương hoà thượng đến mức độ này. Vết thương của hoà thượng, đã có từ rất lâu rồi”. Lục Tiệm thấy thần sắc Ngư hoà thượng u ám, không tiện hỏi nhiều, chỉ biết nói: “Đại sư, Lục Tiệm tôi từ đầu đến cuối vẫn không nghĩ ra, Ninh Bất Không vì sao vừa thấy bảy chữ đó trong lửa, liền sợ đến như vậy?”. Ngư hoà thượng nói: “Bảy chữ đó, là ta mô phỏng bút tích của Tây Thành Chi Chủ Vạn Quy Tàng mà viết, sau đó lại dụng thần thông của Tha Tâm Thuật, đưa bút ý thấm vào trong lòng của Ninh Bất Không. Hoà thượng vốn chỉ muốn mượn thần uy của Vạn Quy Tàng, nhiếp chấn Ninh Bất Không, làm cho tuyệt học Hoả bộ của y lộ ra sơ hở. Không ngờ y vừa thấy bảy chữ đó, liền sợ đến bỏ chạy vào rừng, quả thực là kỳ lạ. Hoà thượng đến hôm nay cũng chưa hiểu được”. Lục Tiệm nói: “Vậy ‘Hữu bất hài giả ngô kích chi’ có ý nghĩa gì? Lục Tiệm trên hoạ tượng tổ sư của Ninh Bất Không cũng từng thấy qua”. Ngư hoà thượng cả kinh nói: “Ngươi từng thấy qua hoạ tượng tổ sư của Tây Thành?”. Lục Tiệm nói: “Họa tượng của Hỏa bộ, Thuỷ bộ, Sơn bộ, Trạch bộ, Lục Tiệm đều thấy qua”. Nói xong bèn đem lại quá trình hôm ấy nghe lệnh của Ninh Bất Không, quan sát hoạ tượng nói lại cho Ngư hoà thượng. “Thì ra là vậy”. Ngư hoà thượng than nói: “Chẳng trách Ninh Bất Không nhất quyết sinh tử với hoà thượng, cũng không chịu bỏ qua cho ngươi, nếu y không thể hàng phục được ngươi, cũng chỉ còn một cách là giết ngươi”. Lục Tiệm cả kinh nói: “Tại sao?”. Ngư hoà thượng nói: “Chỉ bởi vì trong những bức hoạ tượng tổ sư kia ẩn chứa một bí mật kinh người. Ninh Bất Không bất luận thế nào, cũng không muốn ngươi tiết lộ ra ngoài. Đây cũng là thiên ý. Nếu không phải thuỷ hoả ngâm đốt, thì không có cách gì hiển lộ ẩn ngữ trong bức hoạ. Nếu không phải hai mắt của Ninh Bất Không bị huỷ, ngươi cũng không cách gì nhìn thây bốn bức hoạ tượng đó”. Ngư hoà thượng nói xong nhắm mắt lại, như đang suy nghĩ. Được một lúc, Ngư hoà thượng chợt mở mắt cười nói: “Hài tử, ngươi có thích nghe một câu chuyện không?”. “Tại sao không thích cơ chứ?”. Lục Tiệm cũng cười lên: “Trước đây gia gia thường kể cho Lục Tiệm nghe một số câu chuyện xuất hải, kỳ kỳ lạ lạ, nhưng lại thú vị”. Ngư hoà thượng nói: “Rất tốt, lần đi hải cảng này, lộ trình ước khoảng bốn ngày, hoà thượng sẽ kể cho ngươi nghe bốn câu chuyện. Bốn câu chuyện này kéo dài hơn ba trăm năm, tác động đến vạn vạn thương sinh, trong đó ân oán tình tình, quả thực là khả bi khả thán
Chương 7 Cố sự
Ngư hoà thượng nói xong, ngẩng đầu nhìn đi, phía đông bắt đầu rạng sáng, mây nhẹ vẫn còn u ám, một đàn cò trắng chầm chậm bay về phía đông. “Đây là câu chuyện thứ nhất, nói về một loại vũ khí”. Ngư hoà thượng thong thả nói: “Ba trăm năm về trước, trung thổ có một nơi rất phi thường, gọi là Thiên Cơ Cung, trong cung cất chứa ngàn vạn quyển sách, những người tài trong cung, đa phần được gọi là toán gia. Bọn họ học cửu thi6n nhân, trí tuệ cao siêu. Tiếc thay, trí tuệ này không làm cho bọn họ vô ưu cả đời, rốt cuộc có một ngày đã dẫn đến tai hoạ to lớn. Khi ấy vừa hay chính là lúc Tống diệt Nguyên hưng binh mã khắp nơi, loạn lạc khắp chốn. Thiên Cơ Cung dựa vào kỳ kỹ dị năng, giàu có nhất nước, trở thành niềm hy vọng duy nhất phục hưng Hán thất. Trong đám đệ tử của Thiên Cơ Cung có rất nhiều người kiệt xuất, luôn luôn dấy lên nghĩa quân ở phía nam, đối kháng triều đình. Nhưng bởi vì trong cung có gian tế, cuối cùng triều đình Nguyên biết nơi toạ lạc của Thiên Cơ Cung, phái thuỷ lục đại quân công đánh. Trận đánh đó hết sức kịch liệt thảm khốc, năm vạn tinh giáp của quân Nguyên tử thương quá nửa, thậm chí con trai của hoàng đế Nguyên triều cũng chết trong cung. Nhưng chung quy đơn quyền khó chống lại tứ chưởng, trăm vạn quyển sách của Thiên Cơ Cung rốt cuộc bị thiêu dưới kiếp lửa rừng rực, hoá thành tro bụi ….”
Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Vậy người trong cung thì sao?” Ngư hoà thượng nói: “May mà tiền bối của Thiên Cơ Cung sớm đã có phòng bị, lưu lại một đường mật đạo, do đó phần lớn trong cung đều chạy thoát được ra ngoài”. Lục Tiệm thở phào một hơi, gật đầu liên tiếp. “Lúc đó rợ Hồ tung hoành Trung thổ, đám toán gia may mắn sống sót kia không còn chỗ dung thân, chỉ còn biết ngồi thuyền chạy đến một hòn đảo ở biển Đông. Đám toán gia này trí tuệ xuất chúng, lúc này lại ôm trong lòng nổi thù huỷ cung, nhất trí quyết ý báo phục người Nguyên. Mà trong đám toán gia này, lại có một vị đại toán gia tài giỏi nhất, tài trí và võ công của người này, đều thông thiên đạo. Tiếc là, y thụ trọng thương khi Thiên Cơ Cung bị huỷ, đợi vết thương lành khỏi thì việc phục thù đã được quyết định rồi. Vị đại toán gia này biết rõ oan oan tương báo, không bao giờ kết thúc, vốn không muốn tham gia vào việc này, nhưng bởi vì y là người rất trọng tình nghĩa, trải qua nhiều lần trắc trở, rốt cuộc không kháng lại được sự khẩn cầu của người thân và bạn bè, tham gia vào hàng ngũ phục thù. Lúc này thế lực của người Nguyên như mặt trời giữa trưa, còn Thiên Cơ Cung mới gặp phải tổn thương nặng nề, nếu như dựa sức người để đối kháng, thì chẳng khác nào lấy trứng chọi đá. Do đó vị đại toán gia này sau khi suy nghĩ kỹ càng sâu xa, bèn đề nghị kiến tạo một loại thần binh lợi khí có uy lực to lớn. Mà lần chế tạo ấy, tốn mất mười lăm năm thời gian.” Lục Tiệm cả kinh nói: “Mười lăm năm? Lâu như vậy sao?” “Đấy cũng không coi là lâu lắm”. Ngư hoà thượng nói: “Thời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn phục thù, còn dùng mười năm sinh tồn tụ tập, mười năm răn dạy, trước sau dùng mất hai mươi năm thời gian. Thiên Cơ Cung so với nước Việt ngày ấy, còn nhỏ yếu hơn rất nhiều. Hơn nữa vũ khí đó quy mô to lớn, cấu tạo tinh xảo, tuy rằng trí giả và danh tượng như mây tụ, nhưng trong nhất thời cũng khó mà tạo thành.” Lục Tiệm tò mò hỏi: “Vũ khí đó thật ra là như thế nào?” Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Hoà thượng cũng chưa từng nhìn thấy, chỉ là nghe tổ sư đời trước thoảng nhắc đến, nghe nói nó có thể làm cho mạch suối dưới lòng đất nổ tung, sông hồ trên mặt đất chảy ngược, hình thành hồng thuỷ ngất trời, nhấn chìm đô thị, còn có thể kích phát gió lốc, từ mặt biển thổi vào lục địa, còn có thể tụ mây thành mưa, hàng tháng không ngừng”. Lục Tiệm nghe đến trợn mắt líu lưỡi, những lời này nếu không phải từ miệng Ngư hoà thượng nói ra, y nhất định cho đó là những câu chuyện kỳ lạ ngoài biển mà Lục Đại Hải vẫn nói, tuy rằng thú vị, nhưng lại không chân thực. Nhưng lúc này Ngư hoà thượng phong độ nghiêm nghị, có thể thấy tuyệt không phải là lời dối trá, mà đích thực là có việc đó. Ngư hoà thượng nói tiếp: “Ngày hôm đó, vũ khí chung quy hoàn thành, bọn họ thử nghiệm trên mặt biển, một hơi đã phá huỷ ba hòn đảo hoang không người. Công sức mười lăm năm cuối cùng cũng đại thành, chúng nhân ai cũng nhảy nhót hoan hô. Duy chỉ có vị đại toán gia đó là buồn bã không vui, y từ lúc bắt đầu thiết kế vũ khí, liền thấy do dự, bởi vì vũ khí này uy lực quá lớn, một khi vận dụng, tử thương nhất định kinh người. Nhưng cho dù y là tuyệt thế trí giả, chìm đắm trong tham cứu trí tuệ, tuy biết rõ như vậy, vẫn nhịn không được muốn tạo ra vũ khí, nghiên cứu đến cùng, lúc này thấy vậy, bất giác trong lòng sinh ra sợ hãi. Vũ khí đã thành, chúng nhân lập tức quyết ý lấy máu trả máu, trước tiên phá huỷ kinh thành Đại Đô của người Nguyên, nếu như Đại Đô bị dẹp bằng, thiên hạ tất loạn, đến lúc đó có thể tranh thủ thời cơ phục hưng Hán thất. Phải biết quân dân Đại Đô trăm vạn hộ, một khi vận dụng vũ khí đó, trong thành hầu như không có ai có thể may mắn thoát nạn. Chỉ tiếc là, khi ấy chúng nhân cố chấp ý nghĩa phục thù, sớm đã không quan tâm đến những điều này”. Nói đến đây, Ngư hoà thượng không kềm được than dài một tiếng. Lục Tiệm không kềm được hỏi: “Vũ khí đó thật là đã dùng rồi sao?”. Ngư hoà thượng nói: “Nếu là ngươi, ngươi sẽ dùng sao?”. Lục Tiệm lắc đầu nói: “Lục Tiệm không dùng”. Ngư hoà thượng nói: “Dẫu cho ngươi không dùng, người khác chung quy cũng sẽ dùng, nếu như là vậy, ngươi lại ứng phó như thế nào?”. Lục Tiệm nghĩ ngợi, nói: “Lục Tiệm hoặc là đem vũ khí huỷ đi, hoặc là đem nó cất giấu đi”. Ngư hoà thượng im lặng một hồi lâu, than: “Không ngờ ngươi lại có phần hiểu biết này, cùng với vị đại toán gia đó không bàn mà khớp hợp. Y vừa thấy uy lực của vũ khí, liền động ý niệm huỷ bỏ, nhưng mười lăm năm tâm huyết, chung quy không nhẫn tâm trong một sớm huỷ bỏ. Y mâu thuẫn nhiều lần, sau khi cùng thê tử thương nghị, bày ra một trò bịp, lừa chúng nhân rời khỏi vũ khí. Sau đó, phu phụ hai người bọn họ điều khiển vũ khí, rời đảo đi xa. Khi ấy chúng nhân phát hiện bị lừa, tới tấp ngồi thuyền đuổi theo, nhưng vũ khí đó một khi vận chuyển rồi, mặc cho bất kỳ là loại thuyền lớn nào cũng đừng mong tiếp cận được, chúng nhân chỉ còn biết trừng mắt nhìn phu phụ bọn họ đi về phía xa, từ đó về sau, cũng không quay trở lại”. Lục Tiệm nghe xong, bất giác thở phào một tiếng, nhưng trong lòng lại buồn rầu, mường tượng đôi phu phụ đó, bội bỏ người thân bạn bè, rời xa quê hương, cũng không biết ôm ấp tâm tình như thế nào nữa. Nghĩ một lúc, lại hỏi: “Đôi phu phụ đó mang vũ khí đi khỏi, những người còn lại không tạo thêm một cái sao?”. “Tạo thì tạo rồi”, Ngư hoà thượng nói, “Nhưng vị đại toán gia đó trước khi rời khỏi, mang theo tất cả hoạ đồ. Hơn nữa, không có tính toán thần diệu của vị đó, vũ khí mà chúng nhân tạo, hoàn toàn không có uy lực. Lại qua mười mấy năm, chúng nhân trên đảo không làm được tích sự gì, cuối cùng nản lòng nhụt chí, vứt bỏ đi ý niệm phục thù. Chỉ là, vị đại toán gia đó mang trên người vô số tội danh, suốt cả cuộc đời, đều bị thế nhân oán hận”. Ngư hoà thượng nói đến đây, không nói thêm nữa, đứng dậy đi về phía tây. Hai người đi được một đoạn, mặt trời đã giữa trưa. Lục Tiệm thấy bên đường đằng xa có một toà lữ xá, tường trúc mái thấp, trước cửa vắng lặng, lập tức đề nghị nghỉ ngơi ở đây. Ngư hoà thượng đồng ý, hai người đến trước cửa, Lục Tiệm thấy trong nhà lờ mờ tối, bèn cao giọng nói: “Có người không?”. Gọi liền hai tiếng, từ trong cửa mới đi ra một bà lão lưng còng, mặt đầy nếp nhăn, hai mắt vẩn đục vô cùng, tựa hồ có chút e sợ, nhìn hai người một cái, bèn lùi lại nửa bước, thụt lại dưới mái tranh, rít giọng nói: “Thì ra là hoà thượng xin cơm”. Nên biết Oa quốc sùng tín Phật pháp, tăng nhân hành tẩu ở trong nước, không bao giờ phải lo đói khát, do đó lão bà đó vừa thấy cách ăn mặc của Ngư hoà thượng, liền biết mục đích đến, hừ nhẹ một tiếng, nói: “Vào đi”. Ngư hoà thượng thi lễ nói: “Nữ thí chủ, làm phiền rồi”. Lão bà im lặng lùi lại. Hai người vào trong, mũi ngửi thấy một mùi cũ kỹ, vấn vít không bay đi, đoán là lâu rồi không có người đến, tro bụi rải rác trên góc tường bệ cửa sổ. Chợt thấy lão bà đó từ phòng trong đi ra, bưng ra một mâm tre, trên mâm đặt mấy nắm cơm trắng. Lục Tiệm thấy lão bà này cùng khổ như vậy, lại còn ân cần đãi khách, trong lòng cảm kích, mò ra trên người mấy đồng tiền, nhét vào tay của lão bà, nói: “Lão bà bà nhận lấy”. Lão bà đó cầm lấy tiền, mắt cũng không nhìn lên, thì thầm nói nhỏ: “Trước giờ chỉ có hoà thượng xin tiền, lại có hoà thượng cho tiền sao?”. Lục Tiệm nói: “Ta không phải là hoà thượng, tự nhiên cần cho tiền.” Lão bà chỉ Ngư hoà thượng, nói: “Ngươi không phải hoà thượng, nhưng y thì phải, ngươi đi theo hoà thượng, thì là hoà thượng”. Lục Tiệm thấy lão bà tuổi cao lẩm cẩm, không có cách gì biện giải, thấy lão bà đó lùi lại, bèn vươn tay lấy một nắm cơm, nắm cơm vừa vào tay, Lục Tiệm trong lòng đột nhiên kinh hãi, mắt thấy Ngư hoà thượng cũng đang chực lấy nắm cơm, vội nói: “Đại sư, cơm này không ăn được”. Ngư hoà thượng nghe thấy vậy kinh ngạc, chợt thấy Lục Tiệm quẳng nắm cơm lên bàn, hạt cơm văng tung toé, từ bên trong bò ra một con rết dài ba tấc, trong sắc tím toát ra ánh vàng, lộ rõ là vật kịch độc. Ngư hoà thượng sắc diện sa sầm, đưa mắt nhìn lão bà đó, lại thấy trên khuôn mặt lão bà lộ ra nét cười quỷ dị. Lục Tiệm quát lớn một tiếng, nắm lấy một nắm cơm, ném về phía lão bà. Nắm cơm đập trúng lão bà, chỉ nghe xoạt một tiếng, thân hình của lão bà đó lại theo thế đến của nắm cơm, đổ ập xuống, biến thành một tấm mỏng. Lục Tiệm chưa từng nhìn thấy việc nào quỷ dị như vậy, kinh ngạc vô cùng, bước nhanh lên trước, nhưng chỉ thấy trên mặt đất chỉ lưu lại một bộ áo quần, một tấm mặt nạ da người. Lục Tiệm nhấc tấm mặt nạ lên, tấm mặt nạ vào tay ướt đẫm, đưa mắt nhìn qua, gần như muốn nôn, thì ra phía sau mặt nạ đó máu thịt bầy nhầy, có lẽ vừa mới lột từ trên thân người ra. “Cẩn thận”, Ngư hoà thượng chợt quát một tiếng, sau cổ Lục Tiệm chợt hẫng, đã bị Ngư hoà thượng nhấc lên, khoé mắt thấy ánh đao loé lên khắp nơi, một đạo đao quang trắng sáng phá đất mà ra, nếu bản thân còn ở tại đó, tất bị đao này chém đứt hai chân. Tiếp đó thân thể trầm xuống, đã lên đến xà nhà, đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy Ngư hoà thượng đang nhìn xuống dưới, sắc diện nghiêm trang. Lục Tiệm tay ấn vào xà nhà, chợt thấy có biến động, hô lớn: “Xà nhà là rỗng”. Tiếng kêu mới dứt, mấy đạo ánh sáng từ trong xà nhà vọt ra, Ngư hoà thượng nghe tiếng, sớm đã có chuẩn bị, phất tay áo quét bay ba mũi cương đao, hữu quyền sấm sét kích trúng xà ngang. Xà gỗ vỡ vụn, một đạo hắc ảnh vọt ra ngoài, đâm mạnh vào tường, xoạt một tiếng, tường tre bị đâm thủng thành một lỗ to, đạo hắc ảnh đó chỉ chớp lên một cái, thì không thấy nữa. Xà ngang bị huỷ, Ngư hoà thượng và Lục Tiệm cùng rơi xuống đất, vẫn còn chưa đứng vững, từ trong lòng đất chợt nhiên loé lên ánh sáng trắng, trường đao đã chờ chực ở đó. Ngư hoà thượng quát lớn một tiếng, không né không tránh, chân trái đạp trúng mũi đao, một loạt tiếng leng keng vang lên, trường đao đoạn đoạn vỡ vụn. Hai chân của Ngư hoà thượng lún vào đất nửa thước, toà lữ xá rộng lớn bị chấn động một cái, từ trong đất truyền ra một tiếng kêu thảm, một đạo hắc ảnh đột nhiên từ ngoài hai trượng phá đất nhảy ra, nhanh như chớp giật, vùn vụt lao đi. Lục Tiệm nhấc chân, muốn đuổi theo, Ngư hoà thượng kéo lấy y, lắc đầu nói: “Không cần phải đuổi, đi vào phòng trong xem sao”. Lục Tiệm chỉ biết đi theo Ngư hoà thượng vào trong phòng, vừa mới vào cửa, liền cảm thấy mùi máu xộc vào mũi. Lúc đưa mắt nhìn, chỉ thấy một thi thể đàn ông máu thịt bầy nhầy phủ phục gần cửa, bên cạnh thi thể đàn ông, chính là thi thể của một lão bà, toàn thân trần truồng, da mặt từ trán đến cổ đã bị lột mất. Lục Tiệm vừa nhìn thấy, liền nhịn không được, dựa vào thành cửa, nôn thốc nôn tháo. Ngư hoà thượng cũng liền miệng niệm: “tội lỗi”. Lục Tiệm vừa hết kinh hãi, phẫn nộ nói: “Đám người này độc ác vô cùng, đại sư nhận ra bọn họ sao?”. “Hoà thượng biết”. Ngư hoà thượng lộ ra vẻ rầu rĩ, “Đám người này truy sát hoà thượng đã gần mười năm, không ngờ hôm nay lại tàn nhẫn đến vậy, đến cả người già cũng không tha.” Lục Tiệm nhìn Ngư hoà thượng, trong lòng đầy nghi hoặc, đang định hỏi ngọn nguồn, Ngư hoà thượng đã nói: “Trước tiên để hai người này nhập thổ vi an đã”. Lục Tiệm đồng ý, cúi người ôm lấy thi thể người đàn ông, vừa mới chạm đến y sam của người đàn ông, chợt sinh dị cảm. Trong sát na, thi thể đó cũng cử động, một vầng đao quang, từ dưới háng thi thể lướt ngược ra, đâm thẳng vào bụng dưới của Lục Tiệm. Lục Tiệm vừa sinh dị cảm, đã thi triển thuật Khiêu Ma, nhảy phốc lên vài thước. Đao quang lướt không, thi thể đó lại lộn nhào ngược lại, đó là một người đàn ông bịt mặt, chực chuyển đao kích thẳng vào Ngư hoà thượng, không ngờ Lục Tiệm lăng không một cước, đá mạnh vào cổ tay hắn. Tên đàn ông giả chết bị đau, trường đao rời khỏi tay. Hắn thấy tình thế bất diệu, rùn người một cái, nửa người đã chui vào đất, chợt nghe bên tai một tiếng quát mạnh mẽ, eo lưng hơi lạnh, tiếp đó đau đớn không nhịn được, nửa thân trên dán đất lăn ra, keng một tiếng, đâm mạnh lên chum gạo ở góc tường. Người đó vẫn chưa chết, trợn mắt nhìn Ngư hoà thượng, khàn khàn nói: “Hoà thượng, ngươi giết ta … Ngươi lại giết ta …”. Trong lúc y kêu hét, máu tươi như suối từ trong miệng ồng ộc tuôn ra. Ngư hoà thượng lắc đầu than: “Nhẫn Tam lang, đao đó không phải là hoà thượng chém”. Tên đàn ông đó nhịn đau đưa mắt nhìn, chỉ thấy Lục Tiệm tay cầm trường đao, máu tươi thuận theo mũi đao nhỏ xuống từng giọt, bất giác hiểu ra, cười thảm nói: “Ngươi là ai mà có thể giết được Nhẫn Tam Lang ta?”. Lục Tiệm nói: “Ta tên là Lục Tiệm”. Nhẫn Tam Lang nói: “Hảo hán tử, mong ngươi giúp ta giới thác”. Giới thác chính là giúp võ sĩ Oa quốc mổ bụng mà chết, chặt đi đầu lâu, giúp cho người ấy siêu thoát. Lục Tiệm chưa từng giúp người giới thác, có chút do dự, chợt thấy hai mắt của Nhẫn Tam Lang trợn ngược, sắc mặt tái dần, ngoẹo đầu một cái, đã tắt thở. Ngư hoà thượng và Lục Tiệm quan sát bốn phía, thấy không còn địch nhân nữa, mới đem thi thể trong phòng chôn đi, lại tìm được một chút bột gạo, tạm thời ăn no bụng. Dùng cơm xong, hai người khởi hành đi về phía đông, trên đường đi sắc mặt của Ngư hoà thượng lãnh đạm, một lời cũng không nói, Lục Tiệm đoán hoà thượng rất đang bực tức mình giết Nhẫn Tam Lang, nhưng nghĩ đến tình cảnh lúc đó, bản thân lòng đầy căm phẫn, nếu như không xuất đao, trái lại sinh mệnh khó bảo toàn. Ngư hoà thượng nếu như có oán trách, vậy thì cũng đành chịu. Lúc vào đêm, hai người tìm một huyệt động dung thân. Ngư hoà thượng toạ thiền một lúc lâu, mở miệng than dài nói: “Lục Tiệm, ngươi có biết rằng, ngươi dùng một lần kiếp lực, thì giống như thiếu một khoản nợ, chiếu theo đệ nhị luật của Hắc Thiên Thư, về sau nhất định phải hoàn trả, kiếp lực càng mượn dùng nhiều, thì khi Hắc Thiên Kiếp phát tác càng đau khổ”. Lục Tiệm nói: “Cái này thì Lục Tiệm biết, Ninh Bất Không có nói qua”. Ngư hoà thượng nói: “Ngươi đã biết vậy, tại sao còn xuất thủ giết Nhẫn Tam Lang chứ? Một đao nhanh như thế, phải mượn không ít kiếp lực”. Lục Tiệm không cần nghĩ ngợi, liền buột miệng nói: “Đám người này tàn nhẫn như thế, đến lão bà bà cũng không buông tha, nếu không giết chết, há không phải càng hại chết nhiều người sao? Cho dù Hắc Thiên Kiếp có đáng sợ gấp mười lần, gặp phải việc như thế này, Lục Tiệm cũng không thể khoanh tay đứng nhìn”. Ngư hoà thượng lắc đầu, cười khổ nói: “Lục Tiệm à, ngươi rốt cuộc là người trong trần thế, quá cố chấp ý nghĩa thiện ác. Cũng được, hoà thượng truyền cho ngươi một môn công phu, tương lai nếu như gặp phải kình địch, có lẽ có thể giúp ngươi bảo toàn tính mạng”. Ngư hoà thượng đứng dậy, hai tay đan chéo, tay trái xoay ngược lại, đến tận dưới nách phải, tay phải thì thẳng tắp hướng xuống dưới, nắm lấy đầu gối phải. Lục Tiệm thấy thân thể của Ngư hoà thượng cong queo như vậy, chỉ biết nhìn đến ngây người. Chỉ nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: “Ngươi ghi nhớ cho kỹ, đây là ‘Ngã Tướng””. Nói xong lại bày một tư thế quái dị, chân phải đá ngược ra sau, tay phải hướng xuống dưới, tóm lấy cổ chân trái, nói: “Đây gọi là Nhân Tướng”. Sau đó lại xoay chuyển tứ chi, tiếp tục biến hoá ra mười sáu các loại tướng thái như “Thọ Giả Tướng”, “Mã Vương Tướng”, “Hầu Vương Tướng”, “Tước Mẫu Tướng”, “Hùng Trư Tướng”, “Thần Ngư Tướng”, “Bán Sư Nhân Tướng”, “Bạch Hào Tướng”, “Chư Thiên Tướng”, biểu diễn đã xong, lệnh cho Lục Tiệm theo đó luyện tập. Lục Tiệm lúc đầu tu luyện, cảm thấy khó khăn vô cùng, nhưng kiếp lực đến nơi, dần dần liền cảm thấy trở nên dễ dàng, đến nửa đêm, đã học được mười hai tướng. Ngư hoà thượng chợt nói: “Hôm nay đến đây là được, đi ngủ đi”. Lục Tiệm đang lúc phấn khởi, liền nói: “Luyện thêm hai tướng nữa, rồi ngủ cũng không muộn”. Ngư hoà thượng thờ ơ nói: “Hắc Thiên Thư một khi luyện thành, bất luận luyện công, động võ, vào tay đều cực nhanh. Như mười hai tướng này, cho dù thiên tư trác tuyệt, luyện được cũng mất nhiều năm, mà ngươi luyện ba canh giờ đã có tiểu thành, là bởi vì mượn kiếp lực của Hắc Thiên Thư. Chiếu theo đệ nhị luật của Hữu Vô Tứ Luật, kiếp lực trong người ngươi đã trống rỗng, cần phải hoàn trả gấp. Tuy nói ‘Tam Viên Đế Mạch’ đã bị phong bế, Hắc Thiên Kiếp chẳng đến nỗi phát tác, nhưng nếu luyện tiếp, thân thể của ngươi rốt cuộc cũng bị tổn hại”. Lục Tiệm chỉ biết dừng lại, điều tức một lát, ngả lưng ngủ luôn. Trong lúc ngủ say, Lục Tiệm chợt cảm thấy thân thể nhẹ hẫng, phiêu phiêu diêu diêu, rời mặt đất bay lên, được một lúc mới dần dần tỉnh táo, thì ra lại đến nơi nửa sáng rực, nửa đen tối, các vì sao trong vùng tối vẫn như cũ, duy chỉ có tam viên “Tử Vi”, “Thái Vi”, “Thiên Thị”, bị một đám mây mù trắng xám bao phủ, mơ hồ không rõ. “Lục Tiệm …”. Chợt có một giọng nói vang lên bên tai. Lục Tiệm nghe thấy quen tai, ngờ nghệch nhìn đi bốn phía, lại không thấy ai, chỉ nghe giọng nói đó kêu nói: “Lục Tiệm ….”. Lục Tiệm nhịn không được, theo giọng nói hướng về phía trước, chỉ nghe giọng nói đó không dứt, thoắt trên thoắt dưới, thoắt đông thoắt tây. Lục Tiệm theo giọng nói mơ hồ mà đi, cũng không biết đi được bao xa, chợt nghe một tiếng mèo kêu, Lục Tiệm cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy một con mèo Ba Tư ngồi trước chân, lặng lẽ nhìn y. “Bắc Lạp Sư Môn?” Lục Tiệm lấy làm lạ nói: “Tại sao ngươi lại ở đây?”. “Lục Tiệm ….” Tiếng gọi kia lại vang lên, gần như cùng lúc, Bắc Lạp Sư Môn kêu dài một tiếng, tiếng mèo kêu sắc nhọn như đao, cắt vụn tiếng kêu kia thành vô số mảnh vỡ, trong sát na, bốn phương tám hướng đều là thanh âm đứt đoạn “Lục … Lục … Lục … Tiệm …. Tiệm … Tiệm ….”, dần dần nhẹ đi nhỏ đi, cuối cùng như bông liễu theo gió, nhẹ nhàng bay mất. Tinh thần và tâm trí của Lục Tiệm hơi ngưng đọng, ngẩng đầu nhìn đi, chợt thấy Bắc Lạp Sư Môn không biết từ lúc nào lại lớn lên hàng trăm lần, cao như núi Nhạc, hai mắt xanh óng ánh, giống như nhật nguyệt chiếu vào mình. Gan ruột của Lục Tiệm như muốn rách toạc, thất thanh kêu thảm, bỗng nhiên cảm thấy trời đất xoay chuyển, ánh sáng và bóng tối, các vì sao và Bắc Lạp Sư Môn khổng lồ đều biến mất, hai chân lại một lần nữa chạm vào mặt đất, y mở mắt nhìn ra, chỉ thấy bốn bề tối đen, bóng cây chằng chịt, như yêu ma quỷ quái đi lại, trên người đều ướt đẫm mồ hôi lạnh, bỗng nhiên một trận gió thổi qua, bất giác lạnh rùng mình. Y véo mạnh một cái vào đùi, cảm thấy rất đau, mới tin lúc này không phải trong mơ. Y hồi tưởng lại, bản thân đang ngủ ngon trong sơn động, nhưng không biết vì sao lại đến đây. Đang cảm thấy khó hiểu, chợt nghe thấy một tiếng mèo kêu, đưa mắt nhìn, thì thấy Bắc Lạp Sư Môn ngồi chổm phía đằng xa, đang liếm móng vuốt của mình. Lục Tiệm nghi hoặc không dứt, tự hỏi: “Tại sao ta lại đến đây?”. Bỗng nhiên nghe giọng nói của Ngư hoà thượng văng vẳng vọng đến: “Ngươi chạy được hơn hai mươi dặm, chẳng lẻ tự mình không biết sao?”. Lục Tiệm quay đầu lại, chỉ thấy Ngư hoà thượng đứng thẳng ngoài trượng, sắc mặt lo buồn, bất giác ngơ ngác nói: “Đại sư, ta đang nằm mơ, trong mơ có người gọi ta, ta bèn đi theo giọng nói đó”. Lập tức đem sự tình trong mơ kể lại rõ ràng. Ngư hoà thượng nói: “Ngươi có nhớ giọng nói gọi ngươi không?”. Lục Tiệm trầm ngâm nói: “Nghe rất quen tai, giống như, giống như …”. Chợt nhiên sắc mặt trắng bệch, trợn mắt cứng lưỡi.
Ngư hoà thượng thấy thần sắc của y, hỏi: “Giống của ai?”. Lục Tiệm khó nhọc nói: “Giống … giống Ninh Bất Không”. Ngư hoà thượng thì không kinh ngạc, gật đầu nói: “Quả nhiên là ‘Triệu Nô’ chi thuật, chiếu theo đệ nhất luật của Hắc Thiên Thư, kiếp chủ sống thì kiếp nô sống, kiếp chủ chết thì kiếp nô chết, do đó kiếp chủ ngộ hiểm, có thể dùng thần thức kêu gọi kiếp nô đến cứu. Phương pháp này tuy rằng ta có nghe qua, nhưng chưa từng đích thân nhìn thấy. Lúc này, chắc hẳn là Ninh Bất Không dùng phương pháp này, gọi ngươi quay về”. Lục Tiệm nghe vậy toát mồ hôi lạnh, cả kinh nói: “Vậy há không phải Ninh Bất Không bất kỳ lúc nào đều có thể gọi ta quay về”. Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Cũng không hoàn toàn là vậy, ta tự có cách phá giải”. Lục Tiệm lấy lại tinh thần, được một lúc hỏi: “Nhưng … nhưng tại sao trong mơ Lục Tiệm lại thấy Bắc Lạp Sư Môn?”. Ngư hoà thượng trầm ngâm nói: “Việc này Ngư hoà thượng cũng không hiểu. Con mèo này quá nhiều cổ quái, ví như y vốn chỉ nhận con gái là chủ nhân, tại sao lại đi theo ngươi? Như hôm nay lại vào trong mộng của ngươi, phá giải Triệu Nô chi thuật của Ninh Bất Không, thực là làm cho người ta không có cách gì hiểu được”. Lục Tiệm trong lòng bất giác sinh kính sợ, ôm Bắc Lạp Sư Môn, than: “Bắc Lạp Sư Môn, cám ơn ngươi nhiều”. Bắc Lạp Sư Môn vẫn uể oải, chỉ lo thè lưỡi liếm lông trắng mềm nhỏ. Lại nghe Ngư hoà thượng nói: “Ngươi nói trong mơ nhìn thấy Tam Viên đế tinh sao?”. Lục Tiệm gật đầu nói: “Đúng vậy, chỉ là bị sương mù bao phủ, nhìn không được rõ”. Ngư hoà thượng cúi đầu nghĩ ngợi một lúc, than: “Rất tốt, quay về thôi”. Hai người quay về huyệt động, Lục Tiệm lại nằm xuống. Y trong mơ chạy hai mươi dặm, mệt mỏi không chịu được, chốc lát đã ngủ thiếp đi, lần này không có dị mộng, mờ mờ ảo ảo cảm thấy một luồng ấm áp to lớn dần dần lưu chuyển trong cơ thể, thập phần dễ chịu. Lần này ngủ đến khi mặt trời lên ngọn cây, y mới tỉnh lại. Đưa mắt nhìn, chỉ thấy Ngư hoà thượng quay lưng lại phía mình, nghiêm túc ngồi phía xa, trông ở phía sau lưng, càng thấy gầy nhỏ khô đét. “Ngươi tỉnh rồi sao?”. Sau đầu Ngư hoà thượng giống như mọc mắt: “Hôm nay chúng ta nói đến câu chuyện thứ hai, nói về một môn võ công”. Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Võ công?” Ngư hoà thượng nói: “Nếu nói về môn võ công này, cần phải bắt đầu nói về một đôi nam nữ. Người con trai trong họ, biệt hiệu ‘Kính Thiên’, thiên sinh thông tuệ, tập hợp sở trường của nhiều nhà, lúc y ba mươi tuổi, thiên hạ đã không có địch thủ; còn người con gái đó, lại là đệ tử duy nhất của vị đại toán gia nói đến hôm qua, mọi người gọi là ‘Phong Hậu’. Kính Thiên, Phong Hậu vang danh nhân thế, nếu luận võ công, Kính Thiên hơn một bậc, nhưng không may là Kính Thiên lại một mực yêu thương người con gái có biệt hiệu Phong Hậu kia”. “Tương Vương hữu mộng, thần nữ vô tâm. Kính Thiên mến mộ Phong Hậu, trong lòng Phong Hậu thì lại có người khác. Nhưng cũng rất không may, người mà nàng mến mộ lại là sư phụ đã có hôn phối, do đó đoạn tình duyên này như hoa trong gương, như trăng đáy nước, không bao giờ nắm bắt được. Sau đó, cũng không biết do nguyên cớ gì, người thân bằng hữu của Kính Thiên và Phong Hậu phát sinh xung đột to lớn, lúc đầu sư phụ của nàng vẫn còn ở trung thổ, còn có thể áp chế được tâm ma của nàng. Không ngờ vị đại toán gia đó vì tiêu trừ tai kiếp thần binh, rốt cuộc cáo biệt cố thổ, cùng thể tử viễn tẩu hải ngoại. Phong Hậu lúc đó ở xa Tây Vực, sau đó biết được, bi thống vô cùng, tiếp đó từ bi thương chuyển thành oán hận, một mực cho rằng thân bằng của Kính Thiên bức sư phụ rời đi. Lời nói hai bên không hợp, xuất thủ giao chiến, thân bằng của Kính Thiên không có ai địch được Phong Hậu, nhiều người thân thụ trọng thương, Kính Thiên bất đắc dĩ đích thân ra tay. Hai người giao đấu kịch liệt một trận, Phong Hậu chung quy bại trận, nhưng Kính Thiên lại không cách gì ra tay giết nàng, thậm chi không lo đắc tội với người thân, phóng thích nàng đi”. Lục Tiệm nghe đến đây, trong lòng nghĩ: “Phong Hậu này, nghe ra cũng là một người con gái thông tuệ, nhưng vì sao cố chấp như vậy; còn như vị Kính Thiên kia, lại là một người si tình”. Nghĩ đến đây, bất giác nhớ đến Diêu Tình, tưởng tượng bản thân nếu như là Kính Thiên, Diêu Tình lại là Phong Hậu, đối mặt với tình trạng bế tắc như vậy, lại như thế nào? Tâm trí của y thoăn thoắt, chìm đắm trong tưởng tượng, chợt nghe Ngư hoà thượng nói: “Hài tử, ngươi đang nghĩ gì vậy?”. Lục Tiệm cả kinh, lại thấy Ngư hoà thượng đã quay người lại, nhìn chăm chăm vào mình, sắc mặt bất giác hồng lên, lúng búng nói: “Không, không nghĩ gì cả”. Ngư hoà thượng nói: “Câu chuyện này liên quan rất lớn đến ngươi, ngươi cần phải dụng tâm nghe cho kỹ”. Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Có liên quan gì với Lục Tiệm?”. Ngư hoà thượng vẫn không trả lời, cười cười, tiếp tục nói: “Hãy nói sau khi Phong Hậu thua trận, trong lòng căm phẫn, khổ luyện võ công, sau đó lại khiêu chiến với Kính Thiên vài lần, nhưng đều thua. Phong Hậu dưới sự hổ thẹn và tức hận, quyết ý mở một lối đi khác, sáng tạo ra một môn võ công mới, xuất kỳ chế thắng. Dưới sự suy tưởng của nàng, liền nghĩ đến ‘Ẩn Mạch’”. Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Cái gì gọi là Ẩn Mạch?”. Ngư hoà thượng nói: “Tự cổ, người học võ trong trung thổ tu luyện nội công, luyện đều là Thiếu m, Thiếu Dương, Thái m, Thái Dương, Quyết m, Dương Minh mười hai kinh mạch các loại và kỳ kinh bát mạch. Võ học của Thiên Trúc và Thổ Phồn luyện thì là ‘Tam Mạch Thất Luân’, tên gọi tuy không giống nhau, nhưng đại để giống nhau, không có nhiều khác biệt, là dùng những kinh, mạch, luân, đều gọi chung là ‘Hiển Mạch’. Chỉ là, vạn sự vạn vạn vật, có chính tất có phản, có hiển tất có ẩn. Nếu như nói Hiển Mạch là giang hà hồ hải trên mặt đất, vậy thì Ẩn Mạch chính là ám lưu âm hà trong lòng đất sâu, khác hẳn bất kỳ một kinh, một mạch, một luân nào trong Hiển Mạch, tự thành thể hệ, ẩn giấu ở nơi sâu nhất thần bí nhất trong cơ thể người, tự cổ đến nay, chưa từng có người phát hiện, cũng chưa từng ký tải ở bất kỳ điển tích của y gia nào”. Lục Tiệm nghe đến nhập thần, hỏi: “Đã không có người phát hiện, Phong Hậu làm sao lại phát hiện được?”. Ngư hoà thượng nói: “Đó không phải Phong Hậu phát hiện ra, mà là do sư nương của nàng phát hiện. Sư nương của nàng một vị đại thần y, tinh thông kinh mạch. Nàng ta trong lúc ngẫu nhiên, phát hiện ở nơi kinh mạch bình thường, còn có mạch lưu ẩn giấu khác, lập tức tham cứu, trước sau phát hiện ba mươi mốt mạch lưu ẩn, bởi vì mạch tính đó khác nhau rõ ràng với kinh mạch bình thường, do đó gọi là Ẩn Mạch. Trượng phu của nàng ta chính là vị đại toán gia đó sau khi nghe nói, cho rằng ba mươi mốt Ẩn Mạch này ám hợp thiên số, bèn dùng ‘Tam Viên nhị thập bát tú’ đặt tên”. Lục Tiệm nghe nói đến đây, tim bất giác đập mạnh, hô hấp cũng trở nên dồn dập, những lời này của Ngư hoà thượng nói không phải là cái khác, chính là nói về lai lịch của Hắc Thiên Thư. Lại nghe Ngư hoà thượng tiếp tục nói: “Y đạo của nữ thần y đó thần thông, đương thế vô song. Nàng ta biết rõ Ẩn Mạch và Hiển Mạch khắc chế lẫn nhau, nếu như tuỳ tiện mở Ẩn Mạch ra, chỉ có hại không có lợi, do đó tuy rằng phát hiện, nhưng bí mất không nói ra ngoài, chỉ ghi lại trên chổ trống của một bộ y thư, để cho mai sau tra cứu. Không ngờ bộ y thư này, thần xui quỷ khiến, lại rơi vào tay Phong Hậu. Phong Hậu thất bại nhiều lần, bèn tìm cách mở Ẩn Mạch ra, muốn luyện ra một môn kỳ công trước nay chưa từng có, mà người có tư chất duy nhất trong thiên hạ, ngoại trừ sư phụ của nàng, chính là Kính Thiên, người có thể thắng nàng. Phong Hậu biết rõ Kính Thiên đối với mình tình ý thâm sâu, liền hẹn Kính Thiên cùng xem xét nghiên cứu, tìm phương pháp mở Ẩn Mạch, Kính Thiên bị tình kềm hãm, không nghi ngờ gì, người này cũng là kỳ tài cái thế, hai người đồng tâm hiệp lực, chung quy tìm được biện pháp mở Ẩn Mạch ra, ghi chép lại, cũng chính là Hắc Thiên Thư sau này. Ngư hoà thượng nói đến đây, ngừng lời không nói, Lục Tiệm không nhịn được hỏi: “Sau đó thì sao?”. Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Sự việc sau đó, hoà thượng cũng không biết. Hoà thượng chỉ biết, từ đó về sau, Kính Thiên và Phong Hậu tuyệt tung tuyệt tích, cũng không còn bất kỳ tin tức gì”. Lục Tiệm thất vọng vô cùng, vốn cho rằng có thể từ trong câu chuyện tìm được cách giải thoát Hắc Thiên Kiếp, không ngờ kết cục lại như vậy. Nhưng xoay chuyển ý nghĩ, lại cảm thấy vui mừng thanh thản, nói: “Có lẽ Kính Thiên, Phong Hậu sau khi trải qua việc đó, chung quy kết thành phu phụ, không cần phải xuất đầu lộ diện nữa”. Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Sợ là sợ hai người bọn họ không phải là phu phụ, mà là chủ nô”. Lục Tiệm trong lòng trầm xuống, chợt nhớ đến đệ nhất luật của Hắc Thiên Thư. Hắc Thiên Thư một khi do hai người hợp sáng, vậy thì hai người chưa chắc có thể thoát khỏi luật thép này, nếu như là vậy, thật là bi kịch vô cùng. Ngư hoà thượng nói xong câu chuyện, liền lập tức khởi hành, khi Ngư hoà thượng hành tẩu, bước đi trầm trệ, không còn nhanh nhẹn như trước, Lục Tiệm thì thần khí sung túc, hai ba bước đã giành lên trước mặt Ngư hoà thượng, quay đầu cười nói: “Đại sư, đêm qua ngủ không đủ sao? Tinh thần của đại sư hôm nay không được tốt lắm”. Ngư hoà thượng cười cười: “Hoà thượng cao tuổi rồi, không như ngươi trẻ tuổi lực cường”. Lục Tiệm hích hích cười mãi, chợt nghe Bắc Lạp Sư Môn trong lòng kêu một tiếng, bèn nói: “Bắc Lạp Sư Môn, ngươi đói rồi sao? Đợi chút mà có khe suối nhỏ, ta bắt cá cho ngươi ăn”. Giọng nói còn chưa dứt, Bắc Lạp Sư Môn lại kêu hai tiếng, không biết tai sao, Lục Tiệm bèn cảm thấy rùng mình sởn tóc gáy, loại dị cảm này, hôm ấy khi nghĩ cách cứu viện A Thị cũng từng xuất hiện. Lục Tiệm nghĩ ngợi, bỗng nhiên hiểu ra, buột miệng nói: “Đại sư cẩn thận”. Kêu xong nhảy nhanh về phía sau, đẩy Ngư hoà thượng ngã trên mặt đất, tiếng nổ vang lên bên tai, nơi hai người đứng lúc trước, khói bụi bắn lên mù mịt. “Súng Điểu”. Tâm niệm của Lục Tiệm loé lên, đỡ Ngư hoà thượng, nhấc chân chạy nhanh. Tiếng súng Điểu phía sau vang lên hết đợt này đến đợt khác, bỗng nhiên thân thể của Ngư hoà thượng chấn động, biến thành thập phần nặng nề, nhưng Lục Tiệm không kịp nghĩ nhiều, chỉ lo chạy nhanh. Tai nghe tiếng súng Điểu kia dần dần thưa lại, đằng trước bỗng truyền lại tiếng nước róc rách, đi vòng qua một khoảnh rừng trúc xanh biếc, chỉ thấy sông lớn phía trước cuộn chảy, nước trong như dải lụa trắng, ánh mặt trời dọi sáng mặt nước, toé ra vạn điểm vụn màu vàng. Lục Tiệm thở dốc một hơi, quay đầu nhìn lại, bất giác thất sắc kinh ngạc, chỉ thấy chân phải của Ngư hoà thượng bị máu tươi nhuộm đỏ, lỗ đạn từ trong vết máu lộ rõ ràng. Nên biết Ngư hoà thượng thân mang Đại Kim Cang Thần Lực, kim cang bất hoại, hôm đó từng dựa vào tấm thân máu thịt đó, chặn đứng loạt súng Điểu của Kim Xuyên, không ngờ hôm nay lại không cản được một viên đạn chì. Lục Tiệm vừa kinh hãi vừa bi thương, bất giác buột miệng nói: “Đại sư, người làm sao …”. Ngư hoà thượng không đợi y nói hết, chặn miệng cười nói: “Không sao cả, hoà thượng sơ ý một chút”. Chợt nghe Bắc Lạp Sư Môn lại kêu lên một tiếng, dị cảm trong lòng Lục Tiệm lại xuất hiện, hai tay vội vàng tiếp xúc mặt đất, bỗng nhiên cảm nhận được: bốn người tám chân, đang dùng cước bộ nhỏ nhẹ rời rạc chạy lại gần, gần đến nơi, đột nhiên phân thành hai đội, trái phải lướt ra. Lục Tiệm nhắm mắt lặng lẽ đếm: “Hai người lên cây trúc, một người trong đất, còn một người …” . Ý nghĩa chưa dứt, một tiếng nước vang lên, một đạo hắc ảnh từ trong sông nhảy vọt lên, Oa đao trong tay nhằm đầu bổ thẳng xuống, thì ra trong chớp nhoáng, địch nhân đã vòng đến sau lưng hai người. Nhưng hắn nhanh, Lục Tiệm lại càng nhanh, không phải là hướng về trước, mà là nghênh theo mũi đao đâm ra phía sau, nhẫn giả đó không ngờ đao chưa bổ xuống, địch nhân trước mắt đã biến mất, tiếp đó lồng ngực bị đụng mạnh, cổ họng hơi ngọt, chuôi đao trong tay nện mạnh lên vai của Lục Tiệm. Lục Tiệm rên thảm một tiếng, hai tay giơ lên, nắm lấy hai tay của nhẫn giả. Rắc một tiếng, nhẫn giả đó thất thanh kêu thảm, hai ngón tay út bị Lục Tiệm vặn gẫy, trường đao rời tay, Lục Tiệm một tay đón lấy, nghĩ cũng không nghĩ, ra sức ném, ném vào ba thước bên phải của Ngư hoà thượng, ngập vào đất đến tận chuôi. Trong sát na, một dòng suối máu thuận theo chuôi đao trào ra, chỗ đất đó lay động, bất thình lình toạc ra, một tên đàn ông bịt mặt nhảy lên, hậu tâm lộ ra một đoạn chuôi đao, hắn xiêu xiêu vẹo vẹo đi được hai bước, đổ rầm xuống đất, không động đậy nữa. Lục Tiệm lúc này đã rơi vào trong nước. Lục Tiệm lớn lên ở ven biển, thường ngày mò tôm bắt cá, công phu bơi lặn một tuần trà cũng là bình thường, một khi vào nước, liền quấn chặt lấy nhẫn giả kia mà đánh. Nhẫn giả đó thuỷ tính không phải là cực giỏi, cảm thấy vướng chân vướng tay, sốt ruột muốn giải quyết đối thủ, bèn vội xuất thủ, muốn lấy binh khí. Lục Tiệm nhờ vào hai tay, tình cảnh dưới nước hiểu rõ như lòng bàn tay, vừa cảm thấy được ý đồ của người đó, bèn giành trước mò ra từ hông của y hai mũi cương tiêu. Người đó vừa mò nhưng bị hẫng, chợt cảm thấy bên hông đau nhói, hai mũi cương tiêu đã xộc vào người, lập tức nhịn đau, mò truỷ thủ sau lưng, không ngờ một lần nữa lại bị hẫng, sau lưng lại nhói đau. Nhất thời, Lục Tiệm nhờ vào nhanh tay, đoán trước tiên cơ, mò loạn trên toàn thân người đó, phàm mò được truỷ thủ, cương lăng đều đâm lên người tên nhẫn giả đó. Đợi đến khi đâm lần thứ bảy, tên nhẫn giả đó không còn động đậy nữa, trợn trừng mắt chìm xuống đáy sông. Hắn đến chết vẫn không hiểu vì sao binh khí của mình đang yên đang lành, đều lọt vào tay đối phương. Lục Tiệm chui ra khỏi mặt nước, chỉ cảm thấy kiệt sức, thấy Ngư hoà thượng ngồi bên bờ phía đằng xa, đang nhìn vào trong nước, thấy Lục Tiệm chui lên, mới thở phào một hơi. Lục Tiệm bò lên bờ, lải nhải nói: “Đại .. .đại sư, còn hai tên trong rừng trúc”. Ngư hoà thượng than: “Nhẫn giả đều là thích khách, một kích không trúng, thế tất trốn xa. Ngươi giết chết Nhẫn Nhị và Nhẫn Thập Nhất, những người khác đã chạy xa rồi”.
Lục Tiệm định thần nhìn lại, chỉ thấy góc áo của thi thể trên mặt đất kia thêu một chữ “nhị” màu bạc, tưởng rằng là Nhẫn nhị; còn như nhẫn giả trong nước kia, chắc hẳn là Nhẫn thập nhất. Lục Tiệm nhớ lại ác chiến sinh tử khi nãy, hai tay bất giác run rẩy, sống mũi bỗng nhiên cay cay, nằm phục xuống đất khóc lóc. Ngư hoà thượng biết y liên tiếp giết ba người, lòng hổ thẹn day dứt, bèn vuốt đầu y, than: “Hảo hài tử, đừng khóc, đám nhẫn giả này, ngươi không giết y thì y giết ngươi, trong lúc sống chết, vốn dĩ không chú ý được nhiều”. Lục Tiệm khóc một trận, mới bình tĩnh, lau nước mắt hỏi: “Đại sư, đám nhẫn giả này tại sao lại truy sát người?”. Ngư hoà thượng than: “Đó là câu chuyện thứ tư”. Vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra con sông lớn kia, nói: “Hôm nay tạm thời không đi nữa, ngươi đỡ ta đi rừng trúc, chúng ta nói câu chuyện thứ ba”. Lục Tiệm rút trường đao trên lưng của nhẫn giả kia ra, đỡ Ngư hoà thượng vào trong rừng trúc, chặt trúc, đốt lên một đống lửa. Ngư hoà thượng cũng lấy một mũi cương tiêu không độc, moi đan chì trên đùi ra, dùng vải băng bó lấy, chợt thấy Lục Tiệm vừa từ ngoài rừng trúc quay về, tay cầm cần trúc vót nhọn, phía trên xâu mấy con cá lớn, bất giác cười nói: “Bản lãnh bắt cá của ngươi cũng không tệ”. Lục Tiệm nói: “Không biết vì sao, Hắc Thiên Thư luyện thành, Lục Tiệm không cần dùng mắt, dùng tay liền có thể cảm nhận được tình hình dưới nước, có cá đi qua, một đâm liền trúng”. Ngư hoà thượng gật đầu nói: “Nếu không có Hắc Thiên Kiếp, bộ võ kinh Hắc Thiên Thư này có thể nói là thiên hạ đệ nhất lưu”. Hai người nướng cá ăn, Lục Tiệm thấy sắc khí của Ngư hoà thượng suy bại vô cùng, bèn nói: “Đại sư người ngủ một lúc đi, Lục Tiệm giúp người trông chừng”. Ngư hoà thượng cười nói: “Không cần, hoà thượng sợ một khi ngủ, thì không tỉnh lại được”. Chợt thấy sắc diện của Lục Tiệm lộ ra vẻ kinh hãi, hai mắt ửng đỏ, vội nói: “Hài tử, đừng lo lắng, hoà thượng nói đùa thôi, chẳng lẽ ngươi không muốn nghe câu chuyện thứ ba này sao?”. Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng cười nói vui vẻ, lúc này mới yên tâm lại, nói: “Tự nhiên là muốn nghe rồi”. Ngư hoà thượng nói: “Câu chuyện thứ ba chính là nói về một toà thành”. Ngư hoà thượng nói đến đây, nhè nhẹ thở dài, “Hai trăm năm trước, người Nguyên vô đạo, chung quy dẫn tới trăm vạn hồng quân khởi nghĩa. Khi đó, nghĩa quân nổi dậy khắp nơi, cả trung thổ to lớn chìm trong hỗn loạn vô cùng. Quân đội người Nguyên cố nhiên hung tàn ác độc, trong nghĩa quân cũng là xấu tốt lẫn lộn. Ngươi từng gặp Thiên Thần Tông, chắc hẳn cũng biết y tự thị võ công, không gì không làm; thủ lĩnh nghĩa quân lúc đó phần lớn cũng như vậy, lòng không có chí lớn, chỉ ham hố dục vọng riêng, trước sau không ước thúc chặt chẽ binh sĩ. Có câu ‘Sư hành như hoả’, quân đội nếu không có kỷ luật ước thúc, so với ngọn lửa cháy cả cánh đồng còn đáng sợ gấp mười lần. Thường thường là quân Nguyên vừa mới tàn sát thiêu đốt, đám ô hợp nghĩa quân lại xúm xít đến, tự ý cướp bóc. Lão bá tánh khi đó trải qua những ngày tháng rất khổ, rất khổ”. Lục Tiệm nhịn không được nói: “Chẳng lẽ không có nghĩa quân tốt sao?” Ngư hoà thượng nói: “Nghĩa quân tốt không phải không có. Nhưng trong loạn thế, thuật pháp gian lận lừa dối còn có tác dụng hơn nhân nghĩa đạo đức. Nếu không có thực lực hơn người, chỉ dựa vào đức hạnh, thì không thể sinh tồn được. Đám thủ lĩnh nghĩa quân có nhân có đức, không chết trong tay quân Nguyên, thì cũng chết trong tay đồng bào, bộ tướng, thực làm cho người ta đau lòng. Cứ như vậy, qua mấy lần chinh chiến, đồ thán ngàn vạn sinh linh, chung quy đổi được chút biến chuyển”. Ngư hoà thượng dừng lại, hỏi: “Lục Tiệm, còn nhớ hòn đảo ở biển đông trong câu chuyện thứ nhất không?”. Lục Tiệm nói: “Nhớ”. Ngư hoà thượng nói: “Dân đại Tống sống sót sau khi Tống bị vong trên đảo đó, không lúc nào không mưu toan khôi phục Hán thất. Mạt Nguyên đại loạn, đệ tử trên đảo bèn khởi binh ở đông nam, công phá châu huyện, cát cứ một phương, nổi danh thì có Trương Sĩ Thành và Phương Quốc Trân. Nhưng trải qua nhiều đời, hậu duệ của đám dân sống sót này, sớm đã quên đi ý niệm ban đầu của tiền nhân, một mực tham đồ quyền thế, tự cho là đúng, không những không nghĩ đến cơ đồ xã tắc, giải thoát dân khỏi vòng nguy khốn, ngược lại chạy theo dục vọng riệng, tự đánh lẫn nhau, cứ thế bị quân Nguyên đập tan từng cái một. Cuối cùng, đại thừa tướng Nguyên triều Thoát Thoát đích thân suất lĩnh trăm vạn đại quân, vây chặt Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu Thành, chuẩn bị một trận bình định tây nam, triệt để quét sạch nghĩa quân phía nam”. “Lúc đó sinh tử tuyệt cảnh, cao sĩ trí giả trên biển đông bị bức gạt bỏ hiềm khích, kết thành một khối. Tất cả đệ tử Đông Đảo, bất luận thân sơ quý tiện, tới tấp kéo về Cao Bưu. Trận chiến đó, có thể nói là kinh thiên động địa, nhật nguyệt vô quang. Quân Nguyên người đông thế mạnh, ngoài thành Cao Bưu gần như bị dẹp yên, trong thành cũng hết sức nguy ngập. Ai ngờ đệ tử Đông Đảo không chỉ xem nhẹ cái chết, mà còn chế tạo ra nhiều vũ khí đáng sợ, nhiều lần gây thiệt hại nặng cho quân Nguyên. Song phương giằng co khổ chiến, được mấy tháng, đại quân Nguyên triều chung quy bị đánh tan. Thoát Thoát cũng bị miễn chức. Từ đó về sau, triều đình nhà Nguyên không còn sức tụ tập trọng binh, bị bức phải vứt bỏ đông nam, lùi lại thủ phía bắc”. “Giả sử lúc đó, đệ tử Đông Đảo vẫn có thể đồng tâm hiệp lực, có thể thừa thắng bắc phạt. Nào ngờ, cường địch mới rút, trong đảo lại bởi vì công thưởng bất nhất, sinh ra bất đồng. Trong chớp mắt, phương nam lại một lần nữa chìm vào hỗn chiến, bá tánh lại rơi vào trong nước sôi lửa bỏng. Cũng tại lúc này, một thanh niên trẻ tuổi, một mình một thuyền, từ hải ngoại quay về, đặt chân lên vùng đất Giang Nam …”. Lục Tiệm buột miệng nói: “Là vị đại toán gia kia sao?”. Ngư hoà thượng cười nói: “Nếu tính niên kỷ, vị đại toán gia kia đã hơn trăm tuổi, làm sao có thể gọi là thanh niên?”. Lục Tiệm hơi cảm thấy thẹn thùng, ngượng ngùng nói: “Vậy là hậu nhân của vị đại toán gia kia?”. Ngư hoà thượng nói: “Rất nhiều người đều cho rằng như vậy. Nhưng bởi vì nhiều nguyên nhân, thân thế của người này từ đầu đến cuối vẫn là một câu đố, cho dù nhiều năm sau đó, y đối với sự việc cũ trước khi đến trung thổ cũng không mở miệng nhắc đến, thậm chí danh tánh của y, cũng không có mấy người biết đến. Năm đó hoà thượng trẻ tuổi hiếu sự, nghe sư phụ nói đến người này, lấy làm ngưỡng mộ, đi khắp nơi sưu tầm thân thế của y, thậm chí lén vào hoàng cung đại nội, lật xem tư liệu”. “Lén vào hoàng cung đại nội?”, Lục Tiệm thất thanh nói: “Đại sư thật can đảm a!”. Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Hoàng cung đại nội cũng không phải là long đàm hổ huyệt gì. Nói đến gan dạ, hoà thượng so sánh với người thanh niên kia thì còn kém xa. Vì điều tra rõ thân thế của y, hoà thượng trước sau ra vào đại nội bảy lần, chung quy cũng có phát hiện, trong một tấu chương cũ rách, khi nhắc đến y, gọi là ‘Lương nghịch’, đủ thấy y và vị đại toán gia kia cùng họ; ngoài ra, lại có một tờ tấu gọi y là ‘Tặc Tư Cầm’, đủ thấy y họ Lương tên Tư Cầm”. Lục Tiệm lầm rầm nói: “Lương Tư Cầm sao?”. Ngư hoà thượng gật đầu nói: “Lại nói vị Tư Cầm tiên sinh quay về trung thổ, mắt thấy chiến loạn thê thảm, trong lòng như dao cắt, liền động ý định cứu vớt thiên hạ. Nhưng tính tình của y lạnh nhạt, hoàn toàn không có dã tâm vương bá, nhìn chung quần hùng phương nam, phần lớn tham lam bạo ngược, duy chỉ có Thái Tổ bản triều, Hồng Võ đế Chu Nguyên Chương ôm ấp chí lớn, đối đãi lương thiện với bá tánh, chỉ khổ là địa thế bất lợi, bị quần hùng Đông Đảo bao vây, đầu đuôi không chăm lo được cho nhau, tình thế thập phần bất lợi. “Tư Cầm tiên sinh thấy tình hình như vậy, bèn đầu nhập dưới trướng Hồng Võ đế, giúp Hồng Võ đế trị quân chỉnh võ, kiến tạo lợi khí công thủ, liên tiếp đả bại đệ tử Đông Đảo. Quần hùng Đông Đảo cảm thấy bất diệu, lại một lần nữa liên hợp với nhau, vây giết Hồng Võ đế. Trong nhất thời, hai bên đều kiến tạo vũ khí đáng sợ đồ sộ, huy động hàng chục vạn đại quân, đánh đến khó phân thắng bại, nhưng rốt cuộc Tư Cầm tiên sinh trí cao hơn một bậc, vô luận Đông Đảo vận dụng bất kỳ mưu kế cơ quan nào, đều bị phá giải, lại thêm Hồng Võ đế hùng tài vĩ lược, trải qua vài trận đại chiến, cuối cùng bức được quần hùng Đông Đảo vào tuyệt cảnh. Lúc này người trong Đông Đảo mới biết là Tư Cầm tiên sinh ngấm ngầm gây khó khăn, liền đoán ra lai lịch của y, song phương trăm năm thù cũ, lại thêm hận mới, lập tức theo quy cũ võ lâm, ký đao lưu giản, hẹn mười năm tháng tám, trên đảo Linh Ngao, tỉ võ luận đạo, nhất chiến sinh tử”. Ngư hoà thượng nói đến đây, bất giác thở dài một tiếng, nói: “Nói đến Đông Đảo nhất mạch, vốn là trí tuệ uyên thâm, võ công thông huyền, nếu như dùng vào chính đạo, chính là phúc của cõi đời. Nhưng bọn họ nhập thế quá sâu, một khi có liên quan đến quyền lực tài phú, liền không thể khắc chế được dục vọng riêng, dần dần hủ hoá mà tự mình không biết, tất cả tài trí võ công, ngược lại thành lợi khí gây hoạ cho thiên hạ. Thậm chí đến tình cảnh ấy, còn muốn nhờ vào võ lực, gắn chặt lấy quyền thế của Đông Đảo, có thể gọi là tẩu hoả nhập ma, đến chết vẫn không tỉnh ngộ”. Lục Tiệm cũng cho là đúng, liên tiếp kêu phải. “Trận chiến Linh Ngao đảo, không chỉ quan hệ đến hưng suy của thiên hạ, mà còn có liên quan đến vận thế của võ lâm. Tổ sư Đại Khổ phái ta cũng từng có vinh hạnh quan chiến. Nghe nói lúc đó, tuyệt đỉnh cao thủ của Đông Đảo dốc toàn lực mà ra, tiến hành bày bố thế trận trước, chuẩn bị để Tư Cầm tiên sinh có đến mà không có về. Cho đến khi đêm khuya sắp tàn, trăng tròn lặn phía tây, Tư Cầm tiên sinh cũng chưa lộ diện, các đại cao thủ của Đông Đảo đều cho rằng Tư Cầm tiên sinh không dám đến, đang xôn xao nghị luận, chợt nghe trên biển truyền lại tiếng tiêu, Tư Cầm tiên sinh một người một tiêu, chân đạp một chiếc thuyền lá mảnh mai, ung dung lướt đến”. Lục Tiệm cả kinh nói: “Một mình Tư Cầm tiên sinh sao?”. Ngư hoà thượng nói: “Tư Cầm tiên sinh ở trung thổ không có bằng hữu thân thích, dẫu cho có bà con họ hàng xa thì cũng ở Đông Đảo. Chỉ là, Đông Đảo tuy rằng người đông thế mạnh, nhưng cũng không ngờ đến một việc”. Lục Tiệm vội nói: “Việc gì?”. “Đó chính là ‘Chu Lưu Lục Hư Công’!”. Ngư hoà thượng nói: “Môn võ học này, trên Linh Ngao đảo, lần đầu tiên hoành không xuất thế, làm cho người của Đông Đảo trở tay không kịp. Võ công tầm thường bất qaú nhờ vào lưỡi đao quyền cước, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công này lại có thể chế ngự các loại năng lượng lớn trong thiên hạ, thiên địa sơn trạch, phong lôi thuỷ hoả, không gì không thành lợi khí, có thể nói đã không phải là võ công của nhân gian. Trận chiến này, Đông Đảo đối với Chu Lưu Lục Hư Công không có cách nào có thể thi triển, bị Tư Cầm tiên sinh liên tiếp đả bại chín đại cao thủ, cuối cùng tất cả đều lên công kích, vẫn thất bại thảm hại, Tư Cầm tiên sinh trên thạch nhai bên bờ đảo rạch đá viết: ‘Hữu bất hài giả ngô kích chi’. Từ đó về sau, bảy chữ này uy chấn võ lâm, còn Đông Đảo thì lại ngã gục không gượng dậy được, không còn sức tranh đoạt thiên hạ nữa. Sau đó Hồng Võ đế không còn địch thủ nữa, lần lượt bình định phía nam, đồng thời dựa vào thế như chẻ tre, xuất quân bắc phạt, diệt vong Nguyên triều, khôi phục Đại Hán. Nhưng đến lúc này, giữa Hồng Võ đế và Tư Cầm tiên sinh lại có sự chia rẽ vô cùng lớn, cuối cùng trở mặt thành thù”.
Lục Tiệm kinh ngạc nói: “Tư Cầm tiên sinh giúp Hồng Võ đế nhiều như vậy, giao tình nhất định rất tốt, tại sao lại sinh ra sự chia rẽ chứ?”. Ngư hoà thượng than: “Đối với đế vương mà nói, giao tình có sâu đậm thêm nữa, cũng không quan trọng bằng quyền thế. Khi đó, Tư Cầm tiên sinh có nói hai câu, phạm đến đại kỵ của Hồng Võ đế”. Lục Tiệm hỏi: “Hai câu gì?”. Ngư hoà thượng nói: “Câu thứ nhất gọi là ‘Ức Nho thuật’, câu thứ hai chính là ‘Hạn hoàng quyền’”. Lục Tiệm nghe vậy, cũng không thấy có gì đặc biệt, ngờ nghệch không biết vì sao hai câu nói cỏn con này, có thể làm cho bằng hữu trước kia trở mặt thành thù. Ngư hoà thượng nhìn ra tâm tư của y, nói: “Hai câu này tuy chỉ vỏn vẹn sáu chữ, lại liên can đến hai hủ tục lớn của Hoa Hạ ta tự cổ đến nay. Từ ‘Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật’ triều Hán đến nay, kiểm tra đánh giá nhân tài, đều dựa vào Nho học làm tiêu chuẩn. Mà Tư Cầm tiên sinh lại cho rằng, Nho học bảo cổ biếm kim (ca ngợi người xưa, chê bai hiện nay), ngu dân tâm trí, lẽ nên phải tiến hành ức chế, thừa dịp tân triều vừa mới thành lập, khi chế độ còn chưa thành, đề xuất khoa cử tuyển sĩ không thể chỉ dựa vào Nho học làm khuôn mẫu, cần phải lập cửu khoa, toán khoa, cách vật khoa, thiên văn khoa, y khoa, nhạc khoa, hoạ khoa, thương khoa, tề dân khoa, bách công khoa các loại, phân biệt môn loại, kén chọn nhân tài”. Lục Tiệm hớn hở nói: “Như thế rất tốt a, tỉ như ra biển đánh cá, thì có rất nhiều cách, theo lý mà nói, còn phải lập một ‘Xuất hải đả ngư khoa’”. Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Nếu phân chia như vậy, thì cũng quá tường tận. Chỉ cửu khoa đó thôi, thì đã gây chấn động trong triều ngoài nội. Không chỉ Hồng Võ đế tức giận, nho sinh trong triều càng nhao nhao nổi lên công kích, cho đến khai quốc danh thần như Từ Đạt, Lý Thiện Trường, Lưu Bá Ôn cũng gia nhập vào hàng ngũ phản đối. Hai bên trước triều biện luận nhiều lần, đều không có kết quả. Tư Cầm tiên sinh tính tình cô ngạo, trong lúc phẫn khích, rốt cuộc tự ý một mình mở quán thu đồ đệ, đồng thời thiết lập chín khoa trong quán. Cứ như thế, càng rước lấy oán hận của nho sinh. Như vậy cũng không nói, thật sự chọc tức Hồng Võ đế chính là câu sau ‘Hạn hoàng quyền’”. “Nên biết, tự cổ đến nay, quân quyền là trời cho, thiên hạ này chính là đồ vật của một nhà một họ. Cha làm hoàng đế, tất nhiên con cũng là hoàng đế. Làm hoàng đế, tự nhiên cũng là muốn gì làm nấy. Khai quốc chi chủ, gọi là anh minh có lẽ hợp lý, còn con cháu đời sau thường thường người thông minh đảm đang lại ít, người bạo ngược vô đạo lại nhiều. Tỉ như Tần Nhị Thế, Tuỳ Dượng Đế đều là thiên cổ bạo quân, tự ý làm xằng làm bậy, không thương xót sức dân. Tư Cầm tiên sinh xét thấy như vậy, cho rằng nếu như không hạn chế quyền lực của hoàng đế, tất yếu là tai hoạ của quốc gia, do đó đề ra ‘Pháp tự dân xuất, quân quyền pháp thụ’, cũng tức là nói, từ trong tứ dân ‘Sĩ, nông, công, thương’ chọn ra người đức cao vọng trọng, ký kết luật pháp, luật pháp một khi định thành, cho quyền quý như đế vương, cũng phải tuân theo, nếu không tuân theo, có thể theo pháp chế truất phế”. Lục Tiệm nghe vậy trợn mắt líu lưỡi, lầm rầm nói: “Vậy thì không hay rồi”. Ngư hoà thượng lấy làm lạ hỏi: “Vậy ngươi nói xem, không hay ra sao?”. Lục Tiệm nói: “Nếu là như vậy, Hồng Võ đế không cẩn thận phạm phải luật pháp, há không phải cũng bị phế truất!”. Ngư hoà thượng than: “Lời này vừa khéo cắt trúng chỗ cốt lõi. Lục Tiệm, là ngươi tự nghĩ ra sao?”. Lục Tiệm lắc đầu nói: “Đấy là Ninh Bất Không nói, y thường nói với Tín Trường, làm Hoàng đế không thể buông lơi nhất chính là quyền lực, một khi mất quyền lực, tất nhiên cũng mất mạng”. Ngư hoà thượng than: “Ninh Bất Không nói hoàn toàn không phải không có lý. Hơn nữa vị Hồng Võ đại đế này, tuy nói hùng tài đại lược, nhưng lại là vị hoàng đế đầu tiên từ xưa đến nay coi quyền lực như tính mạng, vừa thấy tấu chương của Tư Cầm tiên sinh, long nhan chấn nộ, bác bỏ ngay tại chỗ. Nếu đổi lại là người khác, tự nhiên biết khó mà lùi, ai ngờ vị Tư Cầm tiên sinh này lại có chút khí ngốc khác với phàm tục, lại viết tấu chương một lần nữa, còn thỉnh cầu quần thần định nghị. Như vậy, Hồng Võ đế đem lòng nghi ngờ, hoài nghi Tư Cầm tiên sinh muốn mượn vào luật pháp này, đoạt đi quyền lực của y. Nhưng Hồng Võ đế lo sợ bản lĩnh cao cường của Tư Cầm tiên sinh, bề ngoài không lộ thanh sắc, ngược lại còn bày tửu yến trong cung, mời tiên sinh dự tiệc. Tư Cầm tiên sinh không nghi ngờ gì, vui vẻ phó yến, không ngờ Hồng Võ đế đã cho mai phục ba ngàn giáp binh trong cung, đồng thời trong rượu tiên sinh uống, hạ tuyệt độc kiến huyết phong hầu”. Lục Tiệm thất thanh nói: “Có lý nào lại như vậy?”. Ngư hoà thượng cười khổ nói: “Đây cũng chưa là gì, lòng nghi ngờ của Hồng Võ đế lúc cuối đời càng nặng, gần như đem công thần ngày trước tàn sát hết, chỉ hai vụ nghịch án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, đã liên quan giết hại hơn bốn vạn người. Ừ, chuyện phiếm không bàn nữa, lại nói Tư Cầm tiên sinh nhận lời vào cung, Tư Cầm tiên sinh vốn dĩ uống rượu giỏi, rượu rót vào chén, hoàn toàn không từ chối, nửa buổi liên tiếp uống cạn ba bình …” “Không đúng”. Lục Tiệm vội nói, “Đại sư không phải nói là trong rượu có độc sao? Tư Cầm tiên sinh sao có thể uống hết ba bình rượu?”. Ngư hoà thượng mỉm cười: “Câu hỏi này của ngươi, vừa vặn cũng là nghi hoặc của Chu Nguyên Chương lúc đó. Y chỉ sợ thái giám của mình hồ đồ lỡ việc, lấy nhầm rượu, bèn lệnh mang thêm rượu độc. Cứ thế, chúng nhân từ giờ Mùi uống đến giờ Hợi, rượu độc cất giấu bí mật trong cung đều đã dùng hết, bình rượu rỗng trên bàn của Tư Cầm tiên sinh cũng hơn mười mấy cái, nhưng Tư Cầm tiên sinh từ đầu đến cuối vẫn nói cười như không, chỉ là ngoại trừ tiên sinh, những người khác không ai không biến sắc, Hồng Võ đế càng giống như ngồi trên lửa”. “Tư Cầm tiên sinh vẫn thong dong không vội, uống xong bình rượu cuối cùng, chợt nhiên cười hỏi: ‘Chu Quốc Thuỵ, còn rượu không? Nếu như còn rượu, có thể uống thêm’. Quốc Thuỵ là tên của Hồng Võ đế, Tư Cầm tiên sinh gọi thẳng họ tên của Hồng Võ đế, đủ thấy không còn lòng kính trọng. Hồng Võ đế thông minh ra sao, vừa nghe liền biết âm mưu bị vạch trần, lập tức im lặng không nói. Lúc này, Tư Cầm tiên sinh mới chầm chậm đứng dậy, nói: “Chu Quốc Thuỵ, ta muốn giết ngươi dễ như trở bàn tay. Ngươi tuy rằng ích kỷ độc ác, nhưng vẫn có thể được coi là cái thế kiêu hùng. Như hiện giờ thiên hạ mới định, một khi ngươi chết, thiên hạ này chỉ sợ lại rơi vào chiến loạn, nhưng nếu ngươi còn sống một ngày, bá tánh thiên hạ có thể hưởng thêm một ngày thái bình. Ngươi đã không chịu trao quyền cho dân, vậy mong học theo thánh vương ngày trước, tự xét tự kiểm, tự mình làm cho đúng’. Nói xong quăng chén, ung dung bước đi”. “Hồng Võ đế bị những lời đó của Tư Cầm tiên sinh nói đến nỗi vừa thẹn vừa giận, thấy tiên sinh đi xa, quăng chén làm hiệu, ba ngàn giáp binh nhất thời cùng xông ra, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công của Tư Cầm tiên sinh xuất thần nhập hoá, lên trời xuống đất, gặp nước hoá rồng, giáp binh tuy đông, nhưng cũng không chạm được bóng của Tư Cầm tiên sinh”. “Tư Cầm tiên sinh chạy ra khỏi cung, triệu tập người trong chín khoa tình nguyện theo mình, đánh phá ra ngoài Nam Kinh. Hồng Võ đế phái binh truy đuổi, Tư Cầm tiên sinh vừa đánh vừa chạy một mạch về hướng tây, tuy có thiên quân vạn mã vây đuổi chặn đường, vẫn bị Tư Cầm tiên sinh chạy thoát. Hồng Võ đế nghe tin đại nộ, y đối với toán học và cơ quan học của Tư Cầm tiên sinh hết sức lo sợ, biết rõ tài trí của tiên sinh đến từ chín khoa, nếu người người trong thiên hạ đều như tiên sinh, giang sơn họ Chu của y há có thể vững vàng? Lập tức hạ chiếu, bắt giết những người của chín khoa chưa kịp rời khỏi, những người đã tháo chạy thì giết hết cả nhà, đồng thời cấm tuyệt chín khoa, đến toán khoa đã có từ đời Tuỷ Đường cũng đồng thời bị phế, dùng bát cổ để tuyển chọn nhân sĩ. Từ đó về sau, người đọc sách trong thiên hạ đều chìm đắm trong tứ thư ngũ kinh, không còn đột phá kiến thức mới, phần lớn trở thành hủ nho không biết quyền biến”. Nói xong, Ngư hoà thượng thong thả than dài, lộ ra vẻ đáng tiếc. “Sau đó thì sao?”. Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Tư Cầm tiên sinh thế nào rồi?”. Ngư hoà thượng nói: “Tư Cầm tiên sinh trải qua mấy trận huyết chiến liên tục, khi chạy đến Tây Vực, ngoại trừ bảy người đệ tử, chỉ còn lại một nàng tiểu tì kè kè bên người. Tư Cầm tiên sinh thấy tình cảnh như vậy, thương tâm đau khổ, bất giác chảy nước mắt, thế là đem Chu Lưu Lục Hư Công, một phân thành tám, biến hoá thành ‘Thiên, Địa, Phong, Lôi, Sơn, Trạch, Thủy, Hoả’ tám loại thần thông, phân biệt ban cho tám người, đồng người sáng lập bát bộ, lệnh cho tám người mỗi người thống lĩnh một bộ, dùng thần thông của bát bộ, xây dựng một toà thành rộng lớn khoáng đạt trên núi Côn Lôn. Ngày thành trì hoàn thành, tiên sinh lấy tên là ‘Để Chi Hạ Đô’, ý tức là đô thành ở hạ giới của thiên đế, còn người trong võ lâm, lại so sánh nó với Đông Đảo, gọi là Tây Thành”. “Từ đó về sau, Tư Cầm tiên sinh ẩn cư trong thành, không dẫm chân vào thế tục nữa, cả ngày nghiên cứu toán đạo, truy cứu vật tính, thanh nhàn trải qua thời gian ba mươi năm. Ngày hôm đó, tiên sinh gọi người trong bát bộ vào trong đường nói: ‘Ta lúc đầu tuổi trẻ bốc đồng, từ hải ngoại quay về trung thổ, muốn dùng tài học của mình tạo phúc cho bá tánh, đúng lúc mạt Nguyên tang tóc loạn lạc, thương sinh đau khổ, do đó phản lại tổ huấn, lạm dụng trí tuệ, tạo thành giết chóc vô biên. Tuy rằng về sau thống nhất thiên hạ, nhưng cũng chỉ lấp đầy lòng tham của kẻ thống trị tàn bạo, đại đạo của ‘Ức Nho thuật’ và ‘Hạn hoàng quyền’ rốt cuộc không thể thi hành”. “Tư Cầm tiên sinh nói xong, lấy ra bản thảo ghi chép nghiên cứu toán học, vật tính mà mình soạn, nói: ‘Hiện nay dùng bát cổ lựa chọn nhân sĩ, ngu lộng vạn dân. Song dân trí một khi bị phong bế, muốn khai mở lại khó biết chừng nào. Tiên tổ nói rất đúng, trí tuệ chỉ có thể dùng đúng lúc thích hợp, đúng chỗ thích hợp. Nhược bằng không, thì giống như xuân khai thu cúc, đông phòng đào lý, trở thành yêu hồng không đúng thời tiết. Hiện nay dân trí không khai mở, còn chưa đủ để vận dụng trí tuệ của ta, nếu như rơi vào tay kẻ bất lương, chỉ thêm hậu hoạ vô cùng. Kẻ nghịch lại trời bất tường, hiện giờ ta đã biết, thiên cơ nhất mạch, cắt đứt tại hôm nay”. Nói xong đem bản thảo tâm huyết cả đời đốt hết. Nhìn theo ánh lửa rừng rực, Tư Cầm tiên sinh chợ vỗ tay cười lớn, liên tục nói: ‘Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình, Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình ….”. “Đốt xong bản thảo ghi chép, Tư Cầm tiên sinh lại lấy ra tám bức hoạ tượng, phân ra ban cho tám tên đệ tử, nói: ‘Tám bức hoạ tượng tổ sư này, các bộ phải giữ gìn cẩn thận, không được để mất. Nếu không phải bất đắc dĩ, quyết không được để bát đồ hợp nhất, bởi vì bát đồ hợp nhất, thiên hạ vô địch. Hãy nhớ, hãy nhớ!’. Nói đến đây, Tư Cầm tiên sinh chợt vỗ giường thở dài: “Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã; tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã …’. Kêu liên tiếp ba tiếng như vậy, bỗng nhiên tóm lấy gối mềm bên cạnh người, ném mạnh xuống đất, lại có ánh lửa toé ra, tiếng vang như sấm. Sau ánh lửa tiếng sấm, vị nhất đại kỳ nhân này bàn toạ quy tiên”. Ngư hoà thượng nói đến đây, im lặng không nói rất lâu. Lục Tiệm cũng đắm chìm trong câu chuyện, quên cả lời nói. Qua nửa buổi, Ngư hoà thượng mới nói: “Lục Tiệm, ngươi nghe câu chuyện này, có cảm tưởng gì?”. Lục Tiệm nghĩ ngợi rồi nói: “Cách làm của vị Tư Cầm tiên sinh này rất kỳ lạ, làm cho người ta không thể hiểu được, nói ví dụ, y tại sao lại đem tâm huyết cả đời mình đốt đi, còn vỗ tay cười lớn?”. Ngư hoà thượng nói: “Cái vỗ tay cười lớn này, lại so với gào thét khóc nức nở kia còn tuyệt vọng gấp mười lần. Khi Tư Cầm tiên sinh phát giác, đại đạo ‘Ức nho thuật, hạn hoàng quyền’ tôn sùng cả đời của mình trên cái thế gian này rốt cuộc không có biện pháp gì thi hành, mà đại đạo không thể thi hành, trí tuệ đi cùng với đại đạo đó không những khó mà thực hiện rộng rãi, ngược lại có thể thành công cụ của đế vương tham lam tàn bạo. Thà huỷ nó dưới ngọn lửa còn hơn di hại cho thế nhân. Y ngoài mặt tuy cười, nhưng trong lòng đau khổ có ai hay, do đó trước khi lâm chung kêu lớn ‘Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã’. Câu nói này, mới là lời tận đáy tim y”. Lục Tiệm nghe vậy, vẫn không hiểu hết, chực hỏi nữa, chợt sinh lòng cảnh giác, vươn tay vịn vào một cây tre xanh, trúc xanh trong rỗng, rễ cây gắn liền mặt đất, đem động tĩnh trong hai dặm xung quanh truyền lại không sót, chỉ thấy có vài người ẩn nấp trên thân tre, thoắt xa thoắt gần, di động qua lại bất định. Lục Tiệm trầm tư một chút, vung đao chặt vài cành tre, vót thành trúc tiễn, hướng về phía một người ẩn thân, ra sức ném, nhưng chỉ ném được hai chục bước chân, thì rơi xuống đất. Ngư hoà thượng đoán ra tâm tư của y, nói: “Ngươi dùng ‘Ngã Tướng’ thử xem”. Lục Tiệm lại lấy một mũi trúc tiễn, chiếu theo ‘Ngã Tướng’ xoay chuyển thân hình, dồn lực đã xong, bất thình lình ném đi. Tiếng vang sắc nhọn phá không, trúc tiễn đó phóng đi như chớp giật, loé lên trong rừng trúc, liền nghe một tiếng kêu thảm, trên cây tre xanh rơi xuống một người áo đen bịt mặt, tứ chi cong queo, trên trán còn thấy đuôi của trúc tiễn. Lục Tiệm vốn chỉ muốn người đến kinh chạy, nào ngờ lại bắn chết một người, lập tức ngây người ra. Ta nghe thấy rừng tre xào xạc, đám nhẫn giả còn lại bị trúc tiễn làm khiếp sợ, chớp mắt đã chạy xa. Ngư hoà thượng cũng rất kinh ngạc, than: “Việc này ngoài ý muốn, hoà thượng cũng không ngờ đến”. Lục Tiệm trong một ngày giết ba người liên tiếp, trong lòng rất đau buồn, ngây người ra một lúc, mới chọn một cây tre thô to và chắc chắn, giơ đao chém vót. Ngư hoà thượng lấy làm lạ nói: “Ngươi làm cái gì?”. Lục Tiệm nói: “Gia gia từng nói, sông lớn hồ lớn, tất thông ra biển, Lục Tiệm làm một cái bè trúc trước, đợi đến tối khuya, chúng ta lặng lẽ xuôi dòng mà đi, đến bờ biễn. Đám nhẫn giả đó nhất định không ngờ được”. Ngư hoà thượng im lặng gật đầu, ngẫm nghĩ trên đất liền tiến đến đâu nguy cơ đến đấy, nơi nơi đều là cạm bẫy của nhẫn giả, nếu như đổi đi đường sông, có thể thu được hiệu quả bất ngờ. Mắt thấy cây tre thô to vững chắc dẻo dai, Lục Tiệm tốn sức chặt phá, cơ hồ bị cần tre bật trở lại, làm trường đao xiêu vẹo, bèn nói: “Ngươi dùng ‘Thọ Giả Tướng’ xuất thủ, đao đến thân tre lại dùng ‘Hầu Vương Tướng’”. Lục Tiệm theo cách đó thi triển, nơi lưỡi đao đi đến, tre gãy tựa như cắt cỏ, biến thành thập phần dễ dàng, chỉ là thân hình vặn đi vặn lại, rất là kỳ cục. Ngư hoà thượng nói: “Mới tập ‘Tam thập nhị tướng’, cần phải mượn các loại tướng thái, kích phát kình lực. Về sau luyện lâu rồi, tướng thái đều bị hoá đi, chỉ còn thần ý, thần ý nhất động, kình lực tự sinh, cho dù ngồi ngay ngắn cũng có thể đả thương người, đến lúc đó, sẽ không kỳ quặc như vậy”. Lục Tiệm chặt được mười mấy cây tre lớn, vót đi cành lá, đồng thời chẻ một cây trong đó, tước dứt thành sợi, bện thành chão tre. Ngư hoà thượng bèn dạy y “Chư Thiên Tướng” kết chão, dùng “Đa Đầu Xà Tướng” để buộc bè tre, quả nhiên làm ít lợi nhiều. Lục Tiệm chốc chốc cảm biết tình hình xung quanh, đoán là đám nhẫn giả kia tổn binh hại tướng, nhất thời không có người đến nữa. Đêm đã vào khuya, Lục Tiệm kéo bè trúc xuống nước, đỡ Ngư hoà thượng ngồi ở đầu bè, chống sào xuôi dòng mà đi. Khi ấy không ánh trăng sao, tiếng nước như tiếng người nỉ non, thấp nhỏ thê lương, mõm đá sườn dốc hai bên bờ sông, phác hoạ ra hình bóng mơ hồ rất nhỏ ở chân trời, hoặc như ngựa khát, hoặc như lân chạy, hoặc như sư tử, hoặc như hổ đói, thiên hình vạn trạng, khó mà miêu tả được. Lục Tiệm trước sau thấp thỏm, chỉ sợ bõm một tiếng, lại có người từ trong nước ra. May mà hơn nửa đêm trải qua không có động tĩnh, mắt thấy sắc trời sắp sáng, mới tin chắc mưu kế thành công, bèn ngồi xuống bè, chực đánh một giấc, đột nhiên nghe Ngư hoà thượng ho một tiếng, dùng Oa ngữ cao giọng nói: “Lục Tiệm, ngươi có biết nhẫn giả giết người rất có kiến thức, nếu như không nắm chắc nhất định giết được, quyết không khinh cử vọng động, hiện giờ nguy hiểm mới bắt đầu, ngươi ngàn vạn lần không được sơ ý”. Lục Tiệm đứng bật đậy, buộc miệng hỏi: “Có địch nhân sao?” Ngư hoà thượng cao giọng: “Yếu chỉ của nhẫn thuật chỉ ở tám chữ ‘Xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị’. Y động thủ lúc nào, xuất thủ khi nào, mà bị ngươi đoán được, thì không được tính là cao minh. Còn như thời cơ, tất ở lúc ngươi không đề phòng nhất. Mà lúc người bình thường lơ là nhất, chính là khi trời sáng”. m thanh chưa dứt, chợt nghe bờ trái truyền lại một tiếng tiêu thấp, mấy đạo hắc ảnh thong thả vọt lên, như khói nhẹ mờ nhạt, chập chờn biến mất. Lục Tiệm bất giác toát mồ hôi lạnh. Y tự cho rằng đắc kế, nào ngờ đám nhẫn giả này sớm đã theo đuôi, đoán là định động thủ lúc trời sáng, nhưng bị một lời của Ngư hoà thượng phá giải, chỉ còn biết tạm thời từ bỏ. Lục Tiệm ngay tức khắc phấn chấn tinh thần, gắng sức chống sào mấy cái, đẩy bè tre lướt nhanh đi, lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Ngươi tạm thời ngồi xuống, ta có lời muốn nói”. Lục Tiệm chỉ còn cách vứt sào trúc ra, ngồi xuống. Ngư hoà thượng nói: “Hiện giờ tạm thời không có nguy hiểm, chúng ta nói đến câu chuyện thứ tư. Câu chuyện này, chính là nói về bản thân hoà thượng”. Lục Tiệm chấn động trong lòng, ngưng thần lắng nghe. Lại nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: “Hoà thượng ta thuộc về Thiền Tông. Người trong phái ta vân du tứ hải, trước nay không đại khai sơn môn, cũng không thuộc Thiền Môn Ngũ Tông là Lâm Tế, Vân Môn, Vị Ngưỡng, Tào Động, Pháp Nhãn, tự thành một phái, tiêu diêu tự tại”. “Từ lúc Cửu Như tổ sư mở ra tông môn, Hoa Sinh đại sĩ phát dương quang đại đến nay, trong ba trăm năm, đã truyền sáu đời. Mỗi đời đều là một sư một đồ, đơn mạch độc truyền. Tại sao như vậy? Chỉ bởi vì sau khi luyện thành ‘Đại Kim Cương Thần Lực’, được như đại lực của Bồ Tát, siêu việt tam giới, nếu như truyền phải kẻ bất lương, tất nhiên tạo thành tội nghiệt vô biên. Đến đời này của hoà thượng, đại thể võ lâm biến đổi mạnh mẽ, Đông Đảo Tây Thành đối đầu giằng co, thế như nước với lửa”. “Nhớ năm xưa, sau khi Tư Cầm tiên sinh toạ hoá, bởi vì cả đời tiên sinh không vợ, tuyệt không có con. Cho nên chiếu theo di pháp của tiên sinh, thành chủ Tây Thành do Bát Bộ công khai tuyển chọn, mười năm đổi một lần, luân lưu thống lĩnh Tây Thành …”. Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Tư Cầm tiên sinh tại sao lại không có con?” Ngư hoà thượng nói: “Việc này cũng khá kỳ lạ, có lẽ bởi vì y ghét thói xấu phụ tử tương truyền, cố ý cả đời không lấy vợ, cũng chưa biết được. Nhưng Đông Đảo sau khi thất bại, trước sau vẫn ôm hận, khi Tư Cầm tiên sinh còn tại thế, bọn họ không có biện pháp gì, tiên sinh vừa quy tiên, liền dấy lên tiến công Tây Thành. Tuy nói Tư Cầm tiên sinh đem Chu Lưu Lục Hư Công một phân thành tám, nhưng vẫn không phải vừa, mấy lần giao chiến, Đông Đảo đều không chiếm được thượng phong. Nhưng mối tranh chấp này một khi khai mở, Đông Đảo Tây Thành giao chiến là kéo dài hai trăm nay, bởi vì giành thắng, không từ một thủ đoạn nào. Một trăm năm trước, Tây Thành không biết từ đâu có được Hắc Thiên Thư, vì đối kháng với Đông Đảo, bắt đầu đi ngược lại thiên lý, bắt đầu tích trữ và nuôi dưỡng kiếp nô …”. Lục Tiệm buộc miệng hỏi: “Từ một trăm năm trước đã bắt đầu nuôi dưỡng, kiếp nô há không phải là rất nhiều?”. Ngư hoà thượng rầu rĩ gật đầu, tiếp tục nói: “Trải qua nhiều năm tranh đấu, Đông Đảo cũng vậy, Tây Thành cũng vậy, đều thương vong cực nặng, cừu hận đời đời tự nhiên cũng càng kết càng sâu. Không ngờ bốn mươi năm trước, trong Tây Thành xuất hiện một đệ tử của Thiên Bộ gọi là Vạn Quy Tàng, chỉ bởi vì người này thiên tư trác tuyệt, cơ duyên xảo hợp, y lại từ trong tuyệt học của bát bộ, phát hiện ra bí mật của Chu Lưu Lục Hư Công, từ đó quán thông tuyệt học của bát bộ, Chu Lưu Lục Hư, pháp dụng vạn vật, đạt đến cảnh giới của Tư Cầm tiên sinh. Nhưng y không chỉ ngộ tính siêu phàm, mà dã tâm cũng bất phàm, trước tiên dựa vào võ lực phế đi Thành chủ công khai tuyển chọn là Tả Mộng Trần, đăng lên ngôi Thành chủ, sau đó lại toàn lực công đả Đông Đảo. Đệ tử Đông Đảo gần như bị tuyệt diệt, những người may mắn sống sót đều lần lượt chạy ra hải ngoại tránh nạn. Hoà thượng tuy là người thế ngoại, cũng thấy không thể khoanh tay đứng nhìn, suy cho cùng Đông Đảo Tây Thành ba trăm năm trước vốn là một nhà, đuổi tận giết tuyệt như vậy là trái với tình lý, do đó hẹn Vạn Quy Tàng, tương hợp trên Thiên Trụ Sơn, khuyên y dừng tay”. Lục Tiệm lo lắng nói: “Người này tàn nhẫn độc ác như vậy, đại sư gặp y há không phải là rất nguy hiểm sao?”. Ngư hoà thượng than: “Trước khi gặp Vạn thành chủ, hoà thượng cũng cho rằng y hẳn là kẻ kiêu ngạo tự đại, hung hãn tàn ác, nhưng thực sự gặp rồi thì hoàn toàn không phải vậy. Vạn Quy Tàng không chỉ tiêu sái như thần, phong độ siêu dật, mà tài trí tuyệt cao, lời nói dễ gần, so đi sánh lại thì giống như Thuần Nhưỡng ngàn năm, không uống cũng say. Hoà thượng tuy là đệ tử Không môn, nhưng mới gặp cũng đã thập phần ngưỡng mộ, trò chuyện vui vẻ hợp ý. Cũng có thể nói, hoà thượng chưa giao chiến mà trên khí độ đã thua cho y rồi”. “Đã vui vẻ trò chuyện, hoà thượng bèn khuyên y bỏ qua cho bộ hạ còn sót lại của Đông Đảo, không ngờ lại bị một mực cự tuyệt. Khuyên bảo đã lâu, cuối cùng không tránh khỏi đại động can qua; nhưng Chu Lưu Lục Hư Công đã phá thiên đạo, hoà thượng dùng hết toàn lực, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Từ đó về sau, không những công lực chỉ còn lại một nửa, mà thương thế trước sau cũng không cách gì hồi phục”. Lục Tiệm trong lòng đại chấn: “Vết thương cũ của đại sư lại là do Vạn Quy Tàng gây nên? Hiện giờ công lực của đại sư giảm đi một nửa, vẫn lợi hại như vậy, năm xưa khi toàn thịnh thì không biết còn lợi hại ra sao? Cho dù như vậy, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Vạn Quy Tàng kia thật không biết là nhân vật như thế nào?”. Trong khi nghĩ thầm, lại nghe Ngư hoà thượng than: “Hoà thượng đã bại, tự nhiên là thúc thủ chờ chết. Nhưng không ngờ Vạn Quy Tàng nói: ‘Huynh ta hai phái, uyên nguyên thâmm sâu. Kim Cương nhất môn lại là nhất mạch đơn truyền, tên tiểu đồ đệ này của huynh thần công chưa thành, đạo huynh mà chết, hương khói của Hoa Sinh đại sĩ đoạn tuyệt, tiểu đệ ở dưới cửu tuyền không có mặt mũi nào gặp tổ sư bản phái. Đông Đảo thì khác, tranh đấu với phái của đệ hai trăm năm, thù sâu như biển, nếu không phải một phái diệt tuyệt, không bao giờ dừng lại, do đó chỉ có thể dùng giết để ngăn giết. Đạo huynh nếu như nhìn không quen, có thể rời xa trung thổ, hoặc là thần công tinh tiến, có thể thắng được tiểu đệ, bằng không ngày nào còn tiểu đệ, xin đừng quay về”. “Y nói rất khách khí, thực ra đã đày hoà thượng. Nhưng theo thủ đoạn nhổ cỏ tận gốc của y, có thể tha hoà thượng một con đường sống, quả thực là nhìn vào giao tình của Hoa Sinh đại sĩ và sư tổ của y. Đủ thấy người này tuy là nhất đại kiêu hùng, nhưng cũng không phải hoàn toàn là kẻ vô tình”. Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng bị Vạn Quy Tàng đả thường, đày đi, mà nơi nơi trong lời nói vẫn gỡ tội cho y, trong lòng lấy làm khó hiểu vô cùng. Lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Hoà thượng nghe những lời này, không còn lời nào để nói, chỉ còn biết dắt tiểu đồ Bất Năng đi đến Đông Đảo. Khi đến nơi, thì phát hiện ra tiểu quốc này khói lửa liên miên, đang lúc loạn thế. Vậy cũng bỏ qua. Chưa bao giờ nghĩ Phật pháp của Đông Đảo trong lúc loạn thế lại cũng hủa hoá sa đoạ hết chỗ nói. Tăng nhân xuất gia không chịu tu hành, ngược lại ỷ trượng tín đồ đông, xa hoa dâm loạn, lấy vợ sinh con, tích trữ nuôi dưỡng loan đồng; thậm chí cưỡng đoạt ruộng của dân, bóp nặn tàn tệ. Phật pháp vốn là tế thế chi pháp, lại thành mánh khoé lừa đảo để bọn gian đồ lừa phỉnh thế nhân, mưu cầu tư lợi”. “Hoà thượng mắt thấy các loại tội ác, nhịn không thể nhịn, cùng tiểu đồ đi lên Bỉ Duệ Sơn, lý luận với tăng nhân của Đông Đảo. Bỉ Duệ Sơn hiệu xưng là vương thành Phật pháp của Đông Đảo, cư trú rất nhiều kẻ gọi là cao tăng. Hoà thượng bèn trên Bỉ Duệ Sơn cùng chúng tăng biện luận Phật pháp, tranh luận đúng ba ngày ba đêm. Đám tăng nhân đó chìm đắm trong hưởng lạc, Phật pháp thô thiển, sao có thể đương nổi hoà thượng, trong lúc đuối lý không nói vào đâu được, hổ thẹn quá thành tức giận, lại tuyên bố hoà thượng là ‘Phật Địch’, phái xuất tăng quân truy sát”. “Việc đã như vậy, tuy hoà thượng không để tâm, nhưng trong lòng tiểu đồ Bất Năng lại có biến hoá vô cùng lớn. Tâm địa y vốn thuần tịnh, căn tính mạnh mẽ sắc bén, nhưng không tốt là ở chỗ tôn sùng võ học, thấy hoà thượng bại cho Vạn Quy Tàng, liền đối với Phật pháp sinh ra dao động to lớn. Đến Đông Đảo, y mắt thấy chiến loạn, tính xấu tàn nhẫn háo sát của Oa nhân lại hợp với lòng sùng võ của y, lại thấy chúng tăng của Đông Đảo say sưa hưởng lạc, y không những không lấy làm nhục, ngược lại còn thầm ngưỡng mộ”. “Năm đó, sư đồ ta bị tăng binh của Nhất Hướng Tông truy sát, khi chạy đến Bắc Y Thế, vết thương cũ của hoà thượng phát tác, không còn sức tháo chạy, bị tăng binh chặn ở bên bờ Mộc Tằng. Thủ lĩnh của đám tăng binh là một tên lực sĩ, dùng một thanh trường đao chín thước được gọi là ‘Nhật Bản đệ nhất đại đao’, diễu võ dương uy, nhìn sư đồ ta như cá nằm trên thớt. Bất Năng bị y sỉ nhục, chung quy không thể nhịn được, khi đó thần thông của y đã thành, chỉ một chiêu liền đánh chết tên thủ lĩnh đó, đoạt lấy trường đao, sau đó không nghe hoà thượng quát dừng, xông vào trong trận. Trận chiến đó ma tính của y đại phát, đem hơn nghìn tăng binh giết không sót một người, đến cả nước sông Mộc Tằng cũng bị nhuộm đỏ. Sau đó y giắt đao mà đi, tự xưng Thiên Thần Tông, hoành hành Nhật Bản, không việc ác nào không làm”. “Hoà thượng đợi cho thương thế hơi lành, liền đi tìm y. Tên nghiệt chướng đó tự biết không địch được hoà thượng, ẩn náu khắp nơi, thậm chí trong mười năm, cũng không dám công nhiên tác ác. Đáng hận là khi đó hoà thượng cũng gặp nhiều rắc rối, sau trận Bắc Y Thế, Bỉ Duệ Sơn tuy không phái xuất tăng binh, nhưng lại mua nhẫn giả Y Hạ, treo giải thưởng lớn, thích sát hoà thượng. Đám nhẫn giả này thủ pháp nguỵ dị, lại vô cùng kiên nhẫn, mười năm nay cũng không chịu từ bỏ, hoà thượng mấy độ ngộ hiểm, cũng nhiều lần chế ngự được bọn chúng, nhưng rốt cuộc không nhẫn tâm giết hại. Nào ngờ bọn chúng biết hoà thượng không giết, càng không lo sợ, hoà thượng bị quấy rối không chịu nổi, do đó không cách gì rảnh tay để tìm nghiệt đồ kia, để cho y tạo thành càng nhiều tột nghiệt …”. Nói đến đây, khí huyết của Ngư hoà thượng tuôn lên, ho vài tiếng, thở dốc nói: “Lục Tiệm, ngươi cần phải hiểu, võ lực không phải là con đường nhờ cậy lâu dài, kẻ lạm dụng võ lực tất chết vì võ. Vạn Quy Tàng như vậy, Bất Không như vậy. Đám nhẫn giả này tuy rằng độc ác, nhưng đều là cha mẹ sinh ra, trời đất nuôi dưỡng, ngươi và bọn chúng giao thủ, cần phải có lòng từ bi, vạn lần không nên giống như Bất Không, chỉ vì nhất thời tức giận, rơi vào ma đạo bất phục”. Trong tiếng nói của Ngư hoà thượng, Lục Tiệm chợt thấy một tay của Ngư hoà thượng ấn trên đỉnh đầu, trong sát na, một luồng nhiệt mạnh mẽ chạy mau xuống, Lục Tiệm không kịp kêu hét, trong đầu vang lừng một tiếng lớn, liền mất tri giác.
Chương 8 Cửu Biến Long Vương
Khi tỉnh lại, mặt trời đã lên cao như ngọn lửa, dòng sông lấp lánh ánh vàng. Lục Tiệm đưa mắt nhìn, thấy Ngư hoà thượng ngồi xếp bằng trên đầu bè, hai gò má trở thành khô héo, long lanh bóng mịn, hơi hơi trong suốt, bất giác sửng sốt nói: “Đại sư, lúc nãy người làm cái gì vậy?”. Ngư hoà thượng cười nhẹ: “Lục Tiệm, hoà thượng phải đi rồi”. Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Đi đâu?”. Ngư hoà thượng nói: “Đi thế giới Tây Phương cực lạc, tham kiến ngã Phật”. Lục Tiệm sững người một lúc, chợt kinh hãi nói: “Vậy không phải là chết sao?”. Ngư hoà thượng lắc đầu cười nói: “Đó không phải là chết, kẻ chết tất phải vào lục đạo luân hồi. Còn hoà thượng, lại là nhảy ra khỏi vòng sinh tử, không ở trong ngũ hành nữa”. Lục Tiệm trong lòng đau xót vô cùng, nước mắt bất giác chảy ra, bi thương nói: “Đại sư, người không phải đã nói, sẽ đưa Lục Tiệm đi Côn Lôn sơn, giải trừ Hắc Thiên Kiếp sao?”. Ngư hoà thượng thở dài nói: “Mấy ngày nay, kiếp lực trong người ngươi cắn trả lại càng lúc càng mạnh, còn cấm chế mà hoà thượng lập thì càng lúc càng yếu, một cái yếu đi, một cái mạnh lên, do đó Ninh Bất Không mới có thể dùng thuật Triệu Nô để gọi ngươi. Nếu như hoà thượng không bị thương, vậy thì không sao, nhưng sau khi giao thủ với Bất Năng, nội thương của hoà thượng lại tái phát, bản lĩnh ngày một giảm, đã không còn sức phong bế ‘Tam Viên Đế Mạch’. Nếu cứ như vậy, không cần đợi rời khỏi Nhật Bản, Hắc Thiên Kiếp sẽ phát tác, lấy đi tính mạng của ngươi. Hoà thượng nghĩ đi nghĩ lại, duy chỉ có dùng Hồng Liên Hoá Thân Đoạn Diệt Đại Pháp, tại Tam Viên Đế Mạch của ngươi, cưỡng chế lập ba tầng cấm chế. Ba tầng cấm chế này, đủ để ngươi chống chọi, quy hồi trung thổ, tìm kiếm cách giải thoát Hắc Thiên Kiếp …. Đang nói, Ngư hoà thượng cố hết sức nhấc tay lên, vuốt nhẹ đỉnh đầu của Lục Tiệm, mỉm cười nói: “Hài tử, hoà thượng không thể đi cùng ngươi, ngươi cần phải bảo trọng. Còn cần phải nhớ kỹ bốn câu chuyện kia, có lẽ những người, những vật trong câu chuyện, ngươi đều có thể gặp phải”. Ngư hoà thượng nói đến đây, Lục Tiệm đã khóc không thành tiếng, bất cam nói: “Đại sư, chúng ta lên bờ tìm đại phu, xin y trị khỏi cho đại sư”. “Hài tử ngốc”, Ngư hoà thượng than, ‘Một khi thi triển Hồng Liên Hoá Thân Đoạn Diệt Đại Pháp’, tinh huyết toàn thân đều hoá thành thần thông. Khi trước ở thần xã, ta đã từng muốn dùng phương pháp này để đồng quy ư tận với Bất Năng, chỉ bởi vì Bắc Lạp Sư Môn, mới tạm thời bảo toàn sinh mạng. Hôm nay thì lại khác, tấm thân này của hoà thượng đã như chiếc vỏ rỗng, chỉ sợ đụng nhẹ một cái, liền vỡ tan. Đó chính là ‘Đoạn sinh nhập diệt, vạn tượng câu không’, khi đại pháp này thi triển xong, cũng chính là lúc hoà thượng nhập diệt”. Lục Tiệm chung quy hiểu rõ, vì sao thân thể của Ngư hoà thượng càng lúc càng yếu, không những không cách gì chặn đỡ được súng Điểu, đến cả đi đường cũng thua y, tất cả là bởi vì hai ngày nay áp chế Hắc Thiên Kiếp, tự hao tổn Phật thể, đến nỗi thần thông mất hết. Lục Tiệm càng nghĩ càng đau buồn, khóc nói: “Đại sư, tại sao người không sớm nói cho Lục Tiệm?”. Ngư hoà thượng cười nói: “Ngươi là một đứa bé ngoan, nếu như hoà thượng nói ra, chỉ sở ngươi thà chết cũng không chịu tiếp nhận tâm ý của Ngư hoà thượng”. Nói đến đây, Ngư hoà thượng đưa mắt nhìn về tây, thong thả nói: “Thời gian đến rồi. Hảo hài tử, nếu như ngươi có lòng, thì đem hoà thượng thiêu đốt, mang xá lợi còn lại của hoà thượng đặt ở Tam Tổ Tự trên Thiên Trụ Sơn”. Nói xong, miệng tụng một lời kệ: “Kiếp nhân dục sinh, khổ nhân lạc khổ, sương phi mỵ thùy, kiếm do tâm xuất; thế gian sang di, chúng sinh đa khổ, quỳnh quỳnh bồ đề, tịch tịch chân như”. Trong lời kệ tràn đầy vẻ từ bi thương xót, ngâm tụng đã xong, bỗng nhiên viên tịch. Lục Tiệm không kìm được khóc rống lên, chỉ cảm thấy cả cuộc đời này, cũng chưa bao giờ đau buồn như vậy. Tuy y không thông hiểu Phật pháp, nhưng trong lòng đã xem vị cao tăng trong Phật môn này như tổ phụ, nếu như không có vị trưởng lão này, đời này kiếp này, y cũng không có dũng khí để đối kháng Ninh Bất Không, càng không có cách gì kháng cự với thiết luật của Hắc Thiên Thư, tất nhiên cam tâm làm nô, chấm dứt những ngày tàn ở Oa di tiểu quốc này. Tuy chỉ là vài ngày ngắn ngủi, nhưng Ngư hoà thượng lại dạy y biết thế nào là dũng, thế nào là tín, thế nào là thương sinh, thế nào là từ bi. Cho đến cuối cùng, lại vì người thanh niên vô thân vô cố này hy sinh cả sinh mạng. Lục Tiệm sau khi thương tâm, lại cảm thấy mù tịt, khi Ngư hoà thượng còn, mọi việc đều có đại sư làm chủ. Còn bây giờ một mình đơn độc, tương lai mù mịt, không biết đi đâu về đâu, Côn Lôn sơn ở nơi nào? Tây Thành lại ở đâu? Ai có thể giải trừ được Hắc Thiên Kiếp? Tất cả mọi thứ phía trước, đều cần y một mình đối mặt, sự sợ hãi không tên trào dâng trong lòng y, càng làm cho y trở nên đau buồn hơn. Hốt nhiên, hai tay lại sinh điềm dị cảm, Lục Tiệm cả kinh ngưng nước mắt. Vào lúc im lặng không một tiếng động, một cây trường thương từ trong nước ló ra, lao thẳng vào hạ thân của Lục Tiệm. Một thương này xoay chuyển giảo hoạt âm độc, Lục Tiệm đại nộ, trở bàn tay nắm lấy thân thương, dùng một thế Thần Ngư Tướng, uốn lưng cong eo, tiếng nước “rào” một tiếng, một tên hắc y nhẫn giả bị kéo ra khỏi mặt nước. Không đợi hắn buông thân thương, Lục Tiệm lại biến thể Nhân Tướng, đá ngược ra sau, vừa vặn trúng vào ngực tên nhẫn giả đó. Tên nhẫn giả miệng phun mưa máu, bay ra năm trượng, nặng nề ngã lên bờ. Vừa mới động thủ, liền nghe tiếng súng Điểu vang lên liên tiếp, Lục Tiệm giậm chân một cái, bè trúc một đầu trầm xuống, một đầu dựng lên, giống như một tấm thuẫn lớn, ngăn đạn chì lại. Bè trúc dựng lên, Lục Tiệm cũng không đứng chân được nữa, lưng cõng pháp thể của Ngư hoà thượng, tung người nhảy xuống nước. Pháp thể mới vào tay, lại thấy nhè nhẹ mà không nặng là bao nhiêu, Lục Tiệm trong lòng biết tất là do tinh huyết cạn kiệt mà nên, bất giác lại thấy bi thương. Giữa lúc thương cảm, người đã rơi vào trong nước, chỉ cảm thấy trong nước sông tối tăm, nhiều tấm lưới cá, từ bốn hướng chụp lại, trên lưới chi chít lưỡi câu, hơi hơi phát sáng ở đáy nước. Lục Tiệm chợt hiểu ra, nhẫn giả khai sung, là muốn bức mình vào trong nước, rồi dùng lưới cá bắt sống. Lập tức trầm người một cái, ra sức giẫm đạp, đất cát bốc lên, nước sông biến thành vẩn đục vô cùng. Thị lực của đám nhẫn giả bị trở ngại, Lục Tiệm lại nhờ vào hai tay, biết rõ từng li từng tí, lập tức kéo lưới cá phía tây, chằng quấn lấy lưới cá phía nam, lại kéo lấy lưới cá phía đông, quấn lấy nhẫn giả phía bắc. Chúng nhẫn giả không nhìn được rõ ràng, đều cho là tóm được Lục Tiệm, ra sức kéo. Tên nhẫn giả bị lưới cá quấn chặt rất là đau khổ, lưỡi cây vào người, xuyên tâm thích cốt, muốn kêu lên, nước sông sớm đã tràn miệng, bọt nước ùng ục nổi lên loạn xạ.
Nhân lúc hỗn loạn, Lục Tiệm người như cá bơi, từ khe hở của lưới cá chui ra, dọc đường đá tung cát sông lên, che chở thân hình, đang định lên bờ, chợt lại nghĩ đến trên bờ nhất định có mai phục. Y trầm tư một chút, nghĩ thầm nói: “Đại sư, đắc tội rồi”. Ngay tức thì buông tay, nâng pháp thể của Ngư hoà thượng lên mặt nước. Nhẫn giả trên bờ nhìn thấy thây nổi trên mặt nước, thấp giọng huýt lên, lập tức có người quăng ra sợi dây dài, móc lấy pháp thể, kéo vào ven bờ, nhưng không ngờ rằng Lục Tiệm ẩn thân dưới pháp thể, nắm mắt theo đuôi, bám theo tiến lên. Khoảnh khắc pháp thể gần bờ, đám nhẫn giả đang định kéo lên, chợt nghe rào một tiếng, một tấm màn nước chính diện ập đến. Đám nhẫn giả đại kinh, dồn dập bắn súng, không ngờ tấm màn nước rơi xuống, lại không có bóng người. Giữa lúc kinh nghi, lại nghe một tiếng nước vang lên, Lục Tiệm phá sóng mà ra. Điểu súng chỉ bắn được một lần, nếu muốn lắp đạn lần nữa, đã không còn kịp. Lục Tiệm một khi lên bờ, dùng Thần Ngư Tướng, sát đất lăn ra, kéo lấy chân phải của một tên nhẫn giả, dùng Chư Thiên Tướng, ném y vào trong sông, lại dùng Mã Vương Tướng, lật người tung cước, đá một tên nhẫn giả ngã xuống đất. Tên nhẫn giả còn lại rung tay phóng tiêu, không ngờ tiêu còn chưa rời tay, Lục Tiệm đã thi triển khoái thủ, giành trước đón lấy, lật tay đâm vào eo hắn. Tên nhẫn giả đó rất nhanh nhẹn dũng mãnh, lại không kêu thảm, lùi lại sau nửa bước, trở tay rút đao. Lục Tiệm quát lớn một tiếng, phi thân thi triển Đại Tu Di Tướng, một vai xô vào ngực hắn. Tên nhẫn giả đó bị mãnh lực xô vào, không kịp kêu hô, tắc thở ngất xỉu. Lục Tiệm xô ngã tên nhẫn giả đó, chuyển mắt nhìn, lại thấy tên nhẫn giả trong sông ướt lướt thướt trèo lên bờ, ôm pháp thể của Ngư hoà thượng vụt chạy như bay, chớp mắt đã ngoài năm mươi bước. Lục Tiệm nóng lòng, từ trên lưng tên nhẫn giả ngất xỉu kia rút đao ra, dùng thế Ngã Tướng, giống như bắn tên trúc, ra sức ném đi. Đao đó giống như lưu tinh, xuyên qua bắp chân của tên nhẫn giả đó cái vù, đóng hắn trên mặt đất. Lục Tiệm lại một lần nữa cõng pháp thể lên, chợt nghe thấy tiếng mèo kêu, nhìn ra phía xa, chỉ thấy bè trúc đã lật ngược lại, Bắc Lạp Sư Môn ướt lướt thướt ngồi trên đầu bè, thuận theo dòng nước trôi đi. Lục Tiệm thầm kêu xấu hổ, trong lòng nói làm sao lại quên mất nó trên bè trúc được, luống cuống quay người chạy về, nhấc sợi dây dài của nhẫn giả hay dùng, chạy ven bờ khoảng gần dặm, ném vào bè trúc. Trảo sắt đầu dây móc lấy đuôi bè, bè trúc trôi về phía trước, làm cho sợi dây căng ra thẳng tắp, Bắc Lạp Sư Môn cũng rất tinh khôn, thuận theo sợi dây phóng mình, nhảy vào trong lòng Lục Tiệm. Lục Tiệm đang thở phào một hơi, lại chợt sinh điềm cảnh báo, lật tay đưa vỏ đao ra sau, kích rơi một mũi cương tiêu. Y lại đưa mắt nhìn, thấy nhiều đạo hắc ảnh đang lướt đến, vội vàng nhấc chân tháo chạy. Lại thấy xung quanh chốc chốc nổi lên hắc y nhẫn giả, không che giấu thân hình, bốn phía ngăn chặn ép lại. Thì ra, người mà đám nhẫn giả lo sợ chỉ có Ngư hoà thượng, vừa thấy Ngư hoà thượng tạo hoá, chúng không còn lo sợ nữa, ngược lại với thái độ bình thường, công nhiên nhảy ra. Đám nhẫn giả nhiều người, lồng chạy nhanh chóng. Chỉ một lát, Lục Tiệm liền bị vây ở một bãi sông, hung quang trong mắt đám nhẫn giả hoàn toàn lộ ra, từng bước từng bước áp sát. Chợt nghe một tên nhẫn giả trầm giọng nói: “Không cần phải tranh công”. Đám nhẫn giả nghe vậy dừng bước. Lục Tiệm đưa mắt nhìn, chỉ thấy cách ăn mặc của tên đó giống như đám nhẫn giả, duy chỉ có ở góc áo thêu một chữ “Thái” màu bạc, bất giác trong lòng nghĩ: “Đám nhẫn giả này đều dùng số làm tên, đã có Nhẫn Nhị, Nhẫn Tam, tên này có lẽ là Nhẫn Thái rồi”. Chợt nghe tên Nhẫn Thái đó nói: “Người thanh niên, đặt thi thể xuống, ta tha chết cho ngươi”. Lục Tiệm lắc đầu không nói. Nhẫn Thái dương giọng nói: “Chúng ta đều rất kính trọng con người của đại hoà thượng, y bắt được ta hai lần, đều tha chết cho ta, cái ân tha mạng, suốt đời không quên. Y đối với ngươi cũng không tệ, chúng ta cũng không muốn làm khó ngươi”. Lục Tiệm dương giọng nói: “Nếu đã là như vậy, bọn ngươi vì sao còn khổ công truy sát đại sư?”. Nhẫn Thái thở dài nói: “Làm người có tín, chúng ta trước đó đã nhận lời Bỉ Duệ Sơn, không thể nuốt lời”. Lục Tiệm cười lạnh một tiếng, nói: “Cái gì là làm người có tín, sợ là vì tiền thưởng kia. Bỉ Duệ Sơn có tiền có thế, còn đại sư chỉ là một hoà thượng nghèo không có một xu”. Nhẫn Thái bị một lời của Lục Tiệm phá vỡ tâm cơ, đồng tử đột ngột thu hẹp. Y vốn muốn lừa Lục Tiệm không chiến mà hàng, ai ngờ mưu kế không thành, lập tức hừ lạnh một tiếng, nghiêm giọng nói: “Bất luận thế nào, ta đều phải mang thi thể của hoà thượng về Bỉ Duệ Sơn”. Trong mắt Lục Tiệm lộ ra vẻ khinh miệt, đặt pháp thể của Ngư hoà thượng xuống, nắm chặt vỏ đao, cao giọng nói: “Vậy thì thử xem”. Đột nhiên đạp lên trước một bước, quát lớn một tiếng, vặn người khoa vỏ đao, bổ vào Nhẫn Thái, khi xuất thủ, dùng Thọ Giả Tướng, vỏ đao đi được nửa đường, lại đã biến thành Hầu Vương Tướng, chính là cách chặt trúc mà Ngư hoà thượng truyền dạy. Nhẫn Thái thấy y đại khai đại hợp, tư thế thần thái quái dị, hơi cảm thấy kinh ngạc, lại thấy y chỉ cầm vỏ đao, lập tức khoa đao đón lấy, ỷ vào lưỡi đao sắc bén, định tâm chặt gãy vỏ đao trước, rồi chém Lục Tiệm. Đao và vỏ đao kích vào nhau, tiếng kêu trống rỗng chấn tai, Nhẫn Thái chỉ cảm thấy một luồng mãnh lực ập đến, lồng ngực ngột ngạt, bước lùi lại hai bước, tai nghe thấy ken két nho nhỏ, chỉ thấy vết nứt trên lưỡi đao như tơ, lan rộng ra. Thanh Oa đao này vốn là bảo đao tổ truyền, thiết kim đoạn ngọc, giống như cắt tre mục, lúc này lại bị một vỏ đao gỗ chấn nứt. Nhẫn Thái sau khi cả kinh, lại thấy đau lòng, nhưng không kịp nghĩ nhiều, Lục Tiệm đã lại vặn người vung vỏ đao, lần thứ hai bổ đến, Nhẫn Thái chực né tránh, nhưng không biết tại sao, chỉ cảm thấy trong cái khoa vỏ đao gỗ đó, bao gồm bát phương, thế đến lại không thể tránh được, trong lúc kinh nộ, chỉ biết một lần nữa vung đao đón lấy. Lại là một tiếng kêu trống rỗng, kèm theo tiếng leng keng, Nhẫn Thái đao gẫy, phún máu, thế đến của vỏ đao gỗ không ngừng, kích trúng đùi trái của hắn, rắc một tiếng, xương chân của Nhẫn Thái gẫy gập, ngã ngửa ra phía sau. Đám nhẫn giả thấy thủ lĩnh bại lạc, u u hét gọi, vung đao xông vào. Lục Tiệm thì không cần biết người đến có bao nhiêu, đều coi là cây trúc trong rừng trúc, trước tiên dùng một thế Thọ Giả Tướng, rồi lại một thế Hầu Vương Tướng, vỏ đao gỗ xoay chuyển, giống như tảo thiên quân, không cách gì né tránh, không cách gì ngăn chặn được. Đám nhẫn giả dùng tập kích làm chủ, chính diện giao tranh vốn không phải là sở trường, Lục Tiệm mỗi một lần vung vỏ đao, liền có nhẫn giả bị đao gãy chấn đoạn, hơn hai mươi tên nhẫn giả trong trường, khoảnh khắc ngã xuống hơn nửa. Nhẫn Thái vừa kinh vừa nộ, vội nói: “Mau ẩn náu, phóng tiêu …”. Lời nói còn chưa dứt, không đề phòng Lục Tiệm quay người vung vỏ đao, đánh trúng vào thái dương huyệt, lập tức hôn mê. Chúng nhẫn giả như quần long vô thủ, bị Lục Tiệm một người một vỏ đao, đánh gãy tay gãy chân, tuy rằng không mất mạng, nhưng cũng mất đi khả năng hành động. Trong nhất thời, ngoại trừ hai ba tên nhẫn giả xem tình thế nhanh nhạy, chuồn là thượng sách, đám nhẫn giả còn lại không một ai may mắn thoát nạn, lần lượt nằm trên bãi sông kêu gào thảm thiết. Lục Tiệm nhìn quanh bốn phía, cũng cảm thấy kỳ lạ. Y vốn cho rằng tất có một trường sinh tử ác đấu. Ai ngờ lại chiến thắng dễ dàng như vậy. Y không biết là Tam thập nhị tướng uy lực lớn lạo, mà chỉ cho rằng đám nhẫn giả này quá vô tích sự, bất giác nói thầm trong lòng: “Như vậy cũng tốt, đại sư kêu ta phải có lòng từ bi, hôm nay một người cũng không chết, cũng coi như là không ngược lại với lời phân phó của hoà thượng”. Y thở dài một hơi, cũng không nhìn qua đám nhẫn giả lấy một cái, cõng pháp thể của đại sư, thuận theo bờ sông mà đi. Lúc chập tối, Lục Tiệm tìm được một vùng đất trống sạch sẽ, thu dọn củi rơm, đem pháp thể của Ngư hoà thượng thiêu đốt, nhìn theo ánh lửa cháy rừng rực, Lục Tiệm lại không tránh khỏi khóc lớn một trận. Đợi đến khi lửa tắt, lên phía trước thu liệm hài cốt, thì thấy trong tro tàn có nhiều hạt châu, bé thì như hạt gạo, to thì như ngón tay út, hoặc là màu đỏ như máu, hoặc là trắng như băng tuyết, sáng óng ánh trong vắt, màu sắc huy hoàng. Lục Tiệm nghĩ thầm: “Đây chắc là xá lợi mà Ngư hoà thượng nói tới”. Lục Tiệm đếm kỹ càng, tất cả có hai mươi mốt viên. Liền cẩn thận dùng vải bọc lấy, cất giữ trong người. Y ngủ một đêm trong rừng, đợi đến khi trời sáng, mới thả bước tiến về phía tây. Đi đến giữa trưa, thì nhìn thấy biển cả mênh mông. Lục Tiệm lâu ngày ở nhà to cửa lớn, lúc này đắm mình trong gió biển, trong lòng vô cùng cảm khái. Y men theo bãi biển đi được nửa ngày, lúc gần tối, đèn chài rải rác, cảng biển phía trước mắt. Sau khi dò hỏi, Lục Tiệm được biết trong cảng có không ít thuyền đi về trung thổ. Đang tìm cách trà trộn lên thuyền như thế nào, y chợt nghe một giọng dùng Hoa ngữ quở trách: “La Tiểu Tam, kêu ngươi tìm thông ngôn, tại sao ngươi lại tìm toàn thứ nửa biết nửa không biết, chỉ biết có tiền, làm hỏng việc lớn của lão gia, coi chừng cái da của ngươi”. Lục Tiệm bỗng nhiên nghe thấy giọng quê hương, cảm thấy bội phần gần gũi, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy vài người đang đứng phía xa, đều là ăn mặc theo kiểu người Đường. Một người trong đó thân hình cao lớn, áo tím thắt lưng ngọc, đi một đôi ủng da hươu, y phục có thể gọi là đẹp đẽ trau chuốt, nhưng lại vì ham thoải mái, đội một chiếc mũ lưới đạo sĩ hay dùng, do đó lộ rõ vẻ nửa dơi nửa chuột, lúc này đang dựng râu trừng mắt, mắng một tên người làm thuê trẻ tuổi. Lục Tiệm nghe hán tử áo tím nói, hình như là không tìm thấy thông ngôn thích hợp, tâm niệm phát động, liền tiến lên trước thi lễ nói: “Các vị đại thúc an hảo?”. Người áo tím liếc y một cái, chau mày nói: “Ngươi là người Đường?” Lục Tiệm nói: “Đúng vậy, đại thúc cần thuê thông ngôn phải không?” Hán tử áo tím lộ ra vẻ cảnh giác: “Ngươi nghe trộm lão gia nói chuyện?”. Lục Tiệm cười nói: “Chỉ là thuận tai nghe thôi. Ta biết nói Oa ngữ, đại thúc thuê ta được không?” Hán tử áo tím chau mày, sự nghi hoặc trong mắt không xua tan được, nói: “Chỉ biết Oa ngữ không thôi thì không được, chúng ta đến Oa quốc buôn bán. Ngươi không những cần phải biết Hoa ngữ, Oa ngữ, mà còn cần phải biết kinh tế buôn bán”. Lục Tiệm chán nản thất vọng nói: “Buôn bán kinh tế, ta không biết”. Vừa chuyển thân bước đi, chợt nghe hán tử áo tím kêu: “Quay lại”. Lục Tiệm quay đầu lại nói: “Gì vậy?”. Hán tử áo tím cười nói: “Tên nhóc ngươi cũng thật thành thực. Làm buôn bán, khó được nhất là hai chữ thành tín. Ngươi và ta xưa nay không quen biết, nếu như ngươi nói mình thông hiểu kinh tế buôn bán, ta cũng không thể biết được. Không ngờ ngươi lại không nói dối. Vậy là rất tốt. Những người như bọn ta đến ngoại quốc mua bán, sợ nhất chính là đến nơi rồi, lại gặp phải người môi giới không thành thực, câu kết với thông ngôn, chỉ một lúc là lừa hết vốn của ngươi. Hắc hắc, nếu như làm thông ngôn, ngươi cần bao nhiêu tiền?”. Lục Tiệm vừa kinh vừa mừng, vội nói: “Ta không cần tiền, khi nào đại thúc quay về trung thổ, tiện thể chở ta về là được rồi”. Hán tử áo tím không ngờ lại có việc tốt như vậy, lại sinh ra nghi hoặc, chau mày nói: “Ta mang ngươi về trung thổ không phải là chuyện khó, nhưng tiền công cũng không thể thiếu cho ngươi được, ba lượng bạc được không?”. Lục Tiệm vốn không quan tâm chuyện tiền nong, bèn lập tức nói: “Cũng được”.
Ba lượng bạc, không bằng một phần mười tiền công của thông ngôn bình thường. Hán tử áo tím vui mừng hết sức, vỗ đầu vai của Lục Tiệm, ha hả cười lớn. Sau khi trò chuyện, Lục Tiệm mới biết hán tử áo tím này họ Chu tên Tổ Mô, người Mân Bắc, trước kia đi biển đều là đi Nam Dương, lần này đến Oa quốc là lần đầu tiên, đang ưu lo vì không tìm được thông ngôn thích hợp. Đã tìm mấy người rồi, hoặc là đòi tiền công quá cao, hoặc là Hoa ngữ sơ sài, lời không thể đạt ý, ai ngờ lại được Lục Tiệm tự động tìm đến, giải quyết được nỗi lo lắng trong lòng. Chu Tổ Mô chắc là chiếm được phần lời, trong lòng vui mừng, khi nói năng, đông một lời, tây một lời, không đâu vào đâu. Lục Tiệm cười cười, hỏi rõ Chu Tổ Mô hàng hoá mang đến bán lần này, thì lại là tơ lụa, lá chè, đồ gốm dược liệu, còn có một số ngọc thạch. Lục Tiệm từng theo Ninh Bất Không làm qua thủ quỹ, tài vật của Vĩ Trương ra vào, phần lớn đều đi qua tay y, do đó hàng hoá của thuyền kỳ này, kỹ càng mà nói, cũng chẳng đáng là gì. Y dùng Oa ngữ hỏi rõ tình hình, sau đó theo sự thật nói lại cho Chu Tổ Mô, dưới sự cân nhắc của Chu Tổ Mô, rồi chọn lựa giao dịch. Trong thời gian đó, Lục Tiệm lại thay y tính toán được mất, hai ngày giao dịch, gặt hái tương đối phong phú. Chu Tổ Mô không ngờ ngoài việc tìm được thông ngôn giá rẻ, còn kiếm được một thủ quỷ tinh tế tỉ mỉ, lấy làm vui mừng vô cùng. Chập tối ngày hôm sau, hỏi rõ xuất thân của Lục Tiệm, biết y bị người khác ép buộc đến Oa quốc, bất giác vỗ đùi một cái, chửi nói: “Con bà nó, nhất định là do bọn chó Oa khấu làm”. Lục Tiệm nói: “Không phải là Oa khấu, mà là người Đường ép buộc tại hạ đến đây”. Chu Tổ Mô nói: “Vậy thì là giả Oa rồi, con bà nó, hừ, tổ tông của đám chó Hán gian này cũng không có mặt mũi nào gặp lão tử”. Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Chu đại thúc đã căm giận người Oa như vậy, cớ gì còn đến Oa quốc buôn bán?” Chu Tổ Mô chau mày, thần sắc tương đối không tự tại, nhìn ngang nhìn ngửa nói: “Đám tiểu tử thối kia đâu rồi? Chẳng lẽ lại đi dạo diêu tử rồi?”. Lục Tiệm nhìn một cái, quả nhiên không thấy vài tên làm công trên thuyền, bèn hỏi: “Dạo diêu tử là gì?”. Chu Tổ Mô liếc y một cái, lộ ra vẻ cổ quái, hăng hắc cười nói: “Dạo diêu tử chính là đi nơi mà con gái chất thành đống, bỏ tiền ra chọn lấy một người, cùng ả thực hành Chu Công chi lễ”. Chu Tổ Mô thấy Lục Tiệm ngờ nghệch, vỗ vai y một cái, cười nói: “Ngươi có ba lượng bạc tiền thù lao, hay là lão nhân gia dẫn ngươi đi dạo, chọn một ả dễ nhìn để nếm của lạ, con gái thiên nam hải bắc, ta đều nhìn thấy nhiều rồi, duy chỉ có Oa quốc này là còn chưa hiểu biết”. Chu Tổ Mô là một người thô lỗ, hứng chí nổi lên, liền nói diễm ngộ bình sinh, trò chuyện hứng khởi, lòng háo sắc cũng trỗi dậy, thấy Lục Tiệm không đi, bèn gọi hai tên làm thuê khác, lên bờ vui vẻ.
Chốc lát người đi thuyền trống, chỉ lưu lại hai ba tên hộ vệ trông nom hàng hoá, buồn chán cùng cực, tập trung trong khoang đánh bạc. Lục Tiệm nghèo như tắm, tự nhiên không có ai gọi y cả. Lục Tiệm không có việc gì làm, nhớ đến Thập lục tướng học được, còn bốn tướng vẫn chưa luyện thành, bèn tự đến đuôi thuyền khổ luyện, nửa đêm mới thành công, trong lòng nói: “Tam thập nhị tướng mà đại sư nói, ta chỉ học được một nửa, không biết nửa còn lại phải đi đâu học?”. Nghĩ đến Ngư hoà thượng, trong lúc nghĩ ngợi, lại cảm thấy rầu rĩ. Ngày hôm sau, Lục Tiệm lại cùng Chu Tổ Mô lên bờ giao dịch, đem hàng hoá tích trữ bán đi gần hết, lại xem xét tình hình, mua vào các loại thổ sản của Đông Doanh như lưu hoàn,g gỗ tô, dao quạt, đồ dùng ngoài có sơn với giá rẻ, dự định vận chuyển về trung thổ. Có lẽ là buôn bán thuận lợi, Chu Tổ Mô thoải mái vô cùng, mỗi tối đều cùng đám hải khách đi kỹ lâu tìm vui, hoàng hôn lên bờ, rạng sáng mới về. Còn Lục Tiệm thì khổ luyện thập lục tướng, dần dần quán thông, chỉ là còn lâu mới đạt đến mức độ “hoá tẫn tướng thái, cận tồn thần ý” mà Ngư hoà thượng nói đến. Chập tối ngày hôm ấy, Chu Tổ Mô chợt nói: “Tiểu Lục, tối nay ngươi đi cùng chúng ta”. Lục Tiệm cả kinh nói: “Ta không đi”. Chu Tổ Mô cười nói: “Kêu ngươi đi, không phải là dạo diêu tử, mà là làm thông ngôn”. Lục Tiệm nói: “Thông ngôn cái gì, có buôn bán sao?”. “Tại sao không có buôn bán?” La Tiểu Tam cười nói, “Chu lão gia gần đây cặp với một oa kỹ, muốn chuộc thân cho thị, mang về làm vợ bé. Ngươi nói, tính hay không tính là buôn bán?”. Chu Tổ Mô cười chửi: “Con khỉ chết tiệt, chỉ biết ăn không nói có, châm chọc lão tử của ngươi. Nhưng nói ra, đám Oa kỹ đó oang oang bô bô, cũng không biết là có thu thêm tiền qua đêm của lão tử không nữa. Lục Tiệm ngươi tối nay đi nhất định phải làm rõ cho ta, đỡ cho ta khỏi tiêu tiền hồ đồ.” Đám hải khách ngươi một câu ta một câu, đều lấy việc trong kỹ lâu ra nói. Lục Tiệm nghe nói đến đỏ mặt tía tai, lên tiếng không được. Chu Tổ Mô thì không để y nghĩ nhiều, vừa doạ vừa dỗ, kéo y lên bờ. Một hàng người gào thét cười đùa, đi được một đoạn, thì rẽ vào một cảng nhỏ, bên trong cảng u ám tĩnh mịch, đèn bão góc hiên lay lắt, mành châu phất phơ, soi rọi khuôn mặt của mọi người lúc sáng lúc tối, khí vị trong cảng tương đối bẩn, mùi phấn son nồng nặc không hoá đi được, hoà thành một mùi hủ bại kỳ đặc. Những cánh cửa nhỏ hai bên đường mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở, đôi lúc có thể từ khe cửa nhìn thấy một gương mặt trắng nõn như lụa. Đi đến trước một cánh cửa phết sơn cuối cảng, Chu Tổ Mô dừng bước nói: “Các ngươi ở phụ cận chờ đợi, ta và Tiểu Lục đi vào”. Mọi người thay đổi hẳn thần thái cười đùa, nghiêm túc chuyển đến dưới mái hiên.
Lục Tiệm chỉ cảm thấy kỳ quái, nhưng thấy Chu Tổ Mô đi đến trước cửa, gõ mấy cái, cánh cửa mở ra, lộ ra một khuôn mặt tròn xoa đầy phấn trắng của một người đàn bà, một nốt ruồi nhỏ màu đỏ dưới mắt trái, đặc biệt đập vào mắt. Chỉ nghe người đàn bà đó nói: “Các ngươi tìm ai?”. Lục Tiệm sững sờ, nhưng nghe Chu Tổ Mô nói: “Tiểu Lục, ngươi nói cho thị, chúng ta đến đây tìm Long Kỳ tiên sinh”. Lục Tiệm nói ra, người đàn bà đó lộ ra vẻ nghi hoặc. Chu Tổ Mô chợt moi ra một thỏi bạc, nhét vào tay thị, người đàn bà đó ngẩn người ra, lùi lại đóng cửa. Hai người Chu, Lục đứng được một lúc, cánh cửa lại chợt mở toang, người đàn bà đó bước ra khỏi cửa, cúi gập người nói: “Xin lỗi, Long Kỳ đại nhân hỏi có việc gì?”. Chu Tổ Mô nghe phiên dịch rồi, giơ tay lên, miệng phát ra thanh âm bằng bằng bằng bằng. Người đàn bà đó đờ ra, lại đóng cửa lại, một lúc mới ra, nói: “Long Kỳ đại nhân có mời”. Chu Tổ Mô toét miệng cười một cái, dẫn đầu vào trong, khi vào cổng còn lóng nga lóng ngóng, sờ một cái trên người người đàn bà kia, làm thị cả kinh lùi lại hai bước, thấp giọng chửi rủa. Chu Tổ Mô trước sau nghe không hiểu Oa ngữ, giả câm giả điếc, khệnh khạng bước đi. Lục Tiệm đi sau y, thì lại chịu liên tiếp mấy cái lườm của ả. Cánh cửa tuy nhỏ, nhưng trong cửa thì lại có một cảnh sắc riêng, vừa mới vào cửa, liền nhìn thấy hành lang vòng quanh khúc trụ, vây quanh một đám hồ đá dựng đứng cao gần hai trượng, bốn góc hành lang vòng quanh, đèn đỏ lưu chuyển soi rọi ra kỳ hoa dị thảo, hương hoa u u, tràn đầy trong đình. Hành lang đó mười bước ba lần rẽ, di chuyển trong đó, khó phân đông tây, thường thấy đá núi lởm chởm, ao chằm mênh mông, thụy hạc kinh động, vịt trời bay lượn. Chu Tổ Mô không kìm được chửi: “Cẩu Oa khấu này cũng thật là biết hưởng thụ, không ngờ lại đem vườn cảnh của Tô Hàng dọn đến đây”. Trong lúc chửi mắng, hai người được dắt đến một tiểu sảnh, người đàn bà mặt tròn vỗ tay một cái, hai ả thiếu nữ tiến vào, thân mặc áo ngắn, mặt mày thanh tú. Người đàn bà đó nói: “Mời hai vị thay áo”. Lục Tiệm kinh ngạc, Chu Tổ Mô nghe thông ngôn rồi, cười nói: “Đám người Oa này cũng thật cẩn trọng. Tiểu Lục ngươi nói cho ả hay, thay áo thì không cần, nếu như muốn khám người, thì có thể khám”. Lục Tiệm nói ra, người đàn bà mặt tròn gật gật đầu, thị ý cho hai thiếu nữ lên trước. Chu Tổ Mô vốn là phong nguyệt lão thủ, dang rộng tứ chi, mặc kệ khám xét, trên mặt lộ ra vẻ say đắm. Lục Tiệm thì lại thấy thiếu nữ đó dán sát vào mình, tấm thân mềm bốc lửa, hô hấp có thể nghe thấy, những nơi mười ngón tay đi qua, như có kiến bò, bất giác không kìm được da đầu tê tê, toàn thân oi bức. Khi thiếu nữ đó sờ đến đùi, y không còn nhịn được nữa, bất thình lình nhảy lùi lại. Thiếu nữ đó lúc đầu sững sờ, tiếp đó che miệng cười nhẹ, chuyển thân nghị luận với người đàn bà mặt tròn kia. Người đàn bà kia chốc chốc nhìn lướt qua Lục Tiệm, khoé mắt chứa đầy tiếu ý, Lục Tiệm càng thêm thẹn thùng, gần như không ngẩng đầu lên được nữa. Khám người đã xong, người đàn bà đó đi trước dẫn đường, lại chuyển qua hai đạo hành lang vòng quanh, chợt thấy một căn phòng khách ánh đèn sáng rực phía xa, tiếng cười nói vọng lại. Người đàn bà kia đi đến trước sảnh, cúi người nói: “Long Kỳ đại nhân, người dẫn đến rồi”. Trong sảnh bỗng lặng im, có người dùng Oa ngữ cao giọng hỏi: “Ai cần mua súng Điểu?”. Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, người nói là một tên Oa nhân béo lùn, đầu trọc không râu, bụng lớn ưỡn ra, mới đầu nhìn, tuyệt giống như một bức tượng phật Di Lặc, vài oa nữ mĩ mạo ngồi quanh y, đôi mắt xinh đẹp nhìn ngó, hướng về hai người quan sát. Lại nghe Chu Tổ Mô cười nói: “Tiểu Lục, đừng chỉ lo nhìn các cô nương, người đó nói cái gì vậy?” Lục Tiệm có vẻ thẹn thùng nói lại. Chu Tổ Mô cười nói: “Ngươi nói cho y, ta mua súng Điểu”. Lục Tiệm cả kinh, trừng mắt nhìn y. Chu Tổ Mô vỗ vỗ vai y, thở dài nói: “Tiểu Lục, đừng hỏi gì cả, chỉ cần thông ngôn là được”. Lục Tiệm trong lòng đầy nghi hoặc, đem lời của Chu Tổ Mô phiên dịch lại. Long Kỳ nói: “Ngươi là người Đường, an theo luật pháp bổn quốc, không thể bán súng Điểu cho ngươi, nếu như bán, thì nguy hiểm vô cùng”. Chu Tổ Mô cười nói: “Một phần làm ăn ba phần hiểm, ba phần hiểm thì mười phần lợi. Không có nguy hiểm, không thành buôn bán, nguy hiểm càng lớn, lợi càng nhiều. Long Kỳ tiên sinh chắc rằng cũng biết cái đạo lý này?”. Long Kỳ nói: “Tuy nói là như vậy, nhưng nếu như mất mạng, lợi có nhiều thêm nữa, cũng không có tác dụng gì.” Chu Tổ Mô nói: “Việc này tôi biết ngài biết, chỉ cần không truyền ra ngoài, ai lại có thể lấy mạng của ngài chứ?”. Long Kỳ trầm mặc một lúc, hỏi: “Ngươi cần bao nhiêu khẩu?” Chu Tổ Mô nói: “Một nghìn năm trăm khẩu”. Lục Tiệm kinh hãi. Long Kỳ nghe thông ngôn xong, cũng kinh hãi biến sắc: “Cái gì? Nhiều vậy sao?”. Chu Tổ Mô cười nói: “Mấy ngày nay ta vào kỹ lâu gần đây dò hỏi kỹ càng, con số này, người khác lấy không ra được, nhưng đối với Long Kỳ tiên sinh mà nói, thì lại chẳng là cái gì”. Long Kỳ lắc đầu nói: “Ta chỉ là một thương nhân bán súng, hoàn toàn không phải là cường hào tạo súng. Một nghìn năm trăm khẩu, quả thực quá nhiều, cần phải có thời gian để gom góp đủ, ừ, ngươi ra giá bao nhiêu?”. Chu Tổ Mô giơ ra bốn ngón tay, nói: “Tại hạ đưa hiện kiem, bốn lượng bạc một khẩu. Theo như tại hạ biết, cái giá này toàn Nhật Bản cũng chưa từng có”. Long Kỳ trầm ngâm nói: “Không được, ngươi là người Đường, số lượng lại nhiều. Một giá, năm lượng một khẩu, còn phải trả trước ba thành định kim”. Chu Tổ Mô trong lòng chửi mắng Oa khấu, thằng béo chết tiệt, nhưng trên mặt thì lại cười hi hí nói: “Nói rất hay, nhất ngôn vi định. Đợi chút tại hạ cho người đưa định kim đến”. Long Kỳ mặt mày hớn hở, vội xua tay nói: “Không vội không vội, đến, đến, mọi người uống vài chén, chuyện trò chuyện trò”. Chu Tổ Mô cười nói: “Tại hạ có việc bên người, vậy không làm phiền nữa. Khi nào Long Kỳ tiên sinh có thể gom góp đủ súng Điểu?” Long Kỳ trầm ngâm nói: “Khoảng năm ngày”. Chu Tổ Mô gật đầu nói: “Được, năm ngày sau tại hạ lại đến. Chuyện xấu khó nghe nói trước, súng Điểu khẩu khẩu phải hoàn hảo tinh tế. Nếu như có một khẩu là thứ phẩm, đừng trách Chu mỗ vô lễ”. Long Kỳ cười nói: “Ngươi yên tâm, súng Điểu ở nơi này, đều là do danh thợ rèn, bất luận lực bắn, độ chuẩn, đều là tốt nhất”. Chu Tổ Mô cười cười, chắp tay cáo từ. Y ra khỏi cửa, nộ khí trong lòng mới phát tác ra, chửi mắng Long Kỳ. Đám hải khách vừa nghe năm lượng một khẩu súng Điểu cũng đều phẫn nộ, chửi mắng chó lợn, súc sinh loạn xạ, chửi cho đến tận khi về thuyền mới đỡ tức. Lục Tiệm trong lòng nghi hoặc, hỏi: “Chu đại thúc, đại thúc mua súng Điểu nhiều như vậy để làm gì? Mà bảy nghìn năm trăm lượng bạc, trên sổ sách làm gì có nhiều như vậy?”. Chu Tổ Mô xua tay nói: “Tiểu Lục, việc này ngươi đừng có hỏi. Chỉ cần biết, ta mua lô súng Điểu này, hoàn toàn không phải để làm sằng làm bậy là được rồi”. Dứt lời, lệnh cho người khiêng ra hai hòm sắt, mở nắp thùng ra nhìn, đều là quan ngân trắng xoá. Chu Tổ Mô cân đủ hai nghìn ba trăm lượng, nói với La Tiểu Tam: “Ngươi và Tiểu Lục dắt người mang bạc đến chỗ Long Kỳ, đưa thêm năm mươi lượng, nói là Chu mỗ tặng tiền phấn son cho các cô nương bên người hắn, hy vọng hắn vui lòng nhận lấy”. “Tặng tiền quan tài cho mẹ hắn!” La Tiểu Tam tức giận nói: “Tên gian thương đó chiếm được phần lợi lớn như thế, tại sao còn tặng thêm tiền cho hắn?”. Chu Tổ Mô chấn chỉnh sắc mặt nói: “Chửi hắn ra chửi hắn, làm ăn ra làm ăn. Ta nhận trọng thác của tiên sinh, lần làm ăn này chỉ được thành, không được bại. Ta thấy nhãn thần của Long Kỳ di động qua lại, tính tình gian trá, nếu như không trả thêm chút ngân lượng, sợ rằng không chốt được hắn”. La Tiểu Tam bán tín bán nghi, gọi hai tên làm thuê, cùng với Lục Tiệm khiêng bạc đưa đến phủ của Long Kỳ. Trên đường đi, Lục Tiệm không nhịn được hỏi: “La đại ca, các ngươi không giống như đến để làm ăn, mà giống như chuyên môn đến để mua súng Điểu vậy?”. La Tiểu Tam cười khổ nói: “Đúng vậy, những vụ làm ăn trước chỉ là thuận tay mua bán, làm ra vẻ mà thôi. Lô súngĐiểu này mới thật sự quan trọng nhất, tiếc là mua quá nhiều, thương nhân bình thường không cung cấp được. Chúng ta trà trộn trong kỹ lâu vài ngày, mới biết được còn đường Long Kỳ này …”. Nói đến đây, y tự thấy lỡ miệng, vội nói: “Tiểu Lục, ngươi đừng quá tò mò, ngoan ngoãn làm việc thông ngôn của ngươi. Nếu như dính dáng quá sâu vào việc này, tương lai muốn thoát thân cũng khó”. Lục Tiệm bất giác im lặng, hai người đem ngân lượng đưa đến phủ của Long Kỳ, nhận lấy giấy biên nhận, rồi mới quay về thuyền. Những ngày sau đó, Chu Tổ Mô hình như quên việc mua súng Điểu, vẫn lệnh cho Lục Tiệm bán ra hàng hoá tích trữ, mua vào thổ sản. Lúc đầu Chu Tổ Mô còn tự mình giải quyết, về sau thấy Lục Tiệm thành thực đáng tin, liền vui mừng nhàn nhã, phóng tay để y giao dịch. Lục Tiệm thì lại biết Chu Tổ Mô này bề ngoài thô lỗ không học, nhưng nội tâm lại tinh tế tỉ mỉ, tị nạnh từng xu. Lập tức không dám thiếu sót, mỗi một cuộc buôn bán đều làm cẩn thận tỉ mỉ, so sánh hàng hoá của ba nhà, mới dám hạ thủ. Nhưng trong lòng y trước sau vẫn ghi nhớ lô súng Điểu kia, trong lòng nói số lượng lớn như vậy, cho dù là cả một nước Vĩ Trương, cũng chưa từng có, nhưng Chu Tổ Mô ném ngàn vàng, mua vào nhiều như thế, nếu như để hành hung tác ác, vậy thì thật là không hay. Trong lúc băn khoăn, năm ngày đã trôi qua. Lúc chập tối hôm nay, một tên Oa nhân tìm lên thuyền, nói: “Hàng hoá Long Kỳ tiên sinh đã chuẩn bị xong rồi, kêu các ngươi mang ngân lượng, theo ta đi lấy”. Chu Tổ Mô nghe nói, gật đầu nói: “Ngươi đợi một lúc, chúng ta điểm đủ ngân lượng liền đến”. Lập tức đi vào trong khoang, Chu Tổ Mô lấy ra bốn hòm sắt, đựng đầy ngân lượng, lại thêm hai hòm rỗng, lệnh cho đám hải khách từ trong phòng của mình lấy ra các loại vũ khí đao kiếm cung nỏ, đoản thương thuẫn bài, cất giấu trong thùng. Lục Tiệm nhìn đến ngẩn người ra, lại thấy Chu Tổ Mô thần sắc trịnh trọng, trầm giọng nói: “Chúng ta chỉ phòng tiểu nhân, không phòng quân tử. Oa cẩu nếu như thủ tín, vậy thì thôi. Nếu như không thủ tín, mọi người cũng không cần phải khách sáo với y”. Lại nói với La Tiểu Tam, “Nếu như động thủ, ngươi trông nom Tiểu Lục cho tốt, đừng để người khác đả thương y”. La Tiểu Tam cười nói: “Cứ yên tâm”. Đám hải khách khiêng hòm ra khỏi khoang, theo tên Oa nhân kia đi được ba dặm đường, đến một dãy nhà gỗ bên bờ biển. Còn chưa đi lại gần, liền thấy Long Kỳ đầu trọc ưỡn bụng, bước ra khỏi cửa, cười nói: “Cuối cùng đến rồi”. Hàn huyên hai ba câu, hỏi: “Ngân lượng mang đến chứ?”. Chu Tổ Mô mở một thùng bạc ra, Long Kỳ nhìn thấy nén bạc chỉnh tề, trong mắt lộ ra thần khí tham lam, sai thủ hạ kiểm tra hàm lượng, mới cười nói: “Túc hạ quả nhiên thủ tín”. Dứt lời dẫn vào trong kho, chỉ thấy trong kho hơn trăm hòm gỗ đặt chồng lên nhau. Long Kỳ nậy nắp hai thùng, trong hòm đều là súng Điểu mới tinh. Chu Tổ Mô lấy một khẩu ra tỉ mỉ quan sát, quả nhiên được rèn hoàn hảo tinh tế, lại tuỳ ý kiếm tra hai hòm, chất liệu và số mục không có sai sót. Long Kỳ nói: “Mỗi hòm mười khẩu, tổng cộng một trăm năm mươi hòm, nhanh chóng kiểm tra số lượng, chúng ta kết thúc”. Chu Tổ Mô lệnh cho đám hải khách, mỗi người một nơi kiểm kê, điểm hết số lượng, tổng hợp báo cáo ở chổ Lục Tiệm. Chu Tổ Mô nghe báo không sai, giơ ngón tay cái, cười khen ngợi nói: “Long Kỳ tiên sinh hảo bản lĩnh, hảo tín dụng”. Long Kỳ cười hăng hắc một cái, lệnh cho người khiêng bốn thùng bạc, khệnh khạng bỏ đi. Chu Tổ Mô nói với ba tên thủ hạ: “Nơi này cách thuyền rất xa, không dễ vận chuyển, mấy người các ngươi quay về khai thuyền qua đây, chúng ta ở đây đóng hàng”. Ba người vâng lệnh, quay về thuyền. La Tiểu Tam chau mày nói: “Chu lão đại, cuộc buôn bán này phải nói là có chút thuận lợi, ta luôn cảm thấy kỳ lạ”. Chu Tổ Mô cười nói: “Có tiền sai thần sử quỷ, chúng ta đưa đủ ngân lượng, tự nhiên việc thành cũng dễ dàng”. Đám hải khách nghe vậy, xôn xao gật đầu. Không bao lâu, ánh đèn trên mặt biển phất phơ lại gần, chính là chiếc thuyền kia đến rồi. Đám hải khách tuy miệng nói thoải mái, nhưng hàng hoá vẫn chưa lên thuyền, quả tim xét cho cùng vẫn thấp thỏm. Lúc này, thấy tình hình như vậy, không hẹn mà cùng hoan hô. Tiếng hoan hô vừa mới cất lên, chợt thấy ánh đèn trên thuyền toàn bộ tắt hết, cả chiếc thuyền tối trầm trầm, chỉ còn lại một đường nét lờ mờ, nhè nhẹ lắc lư trong sóng lớn cuồn cuộn của biển cả. Chu Tổ Mô không kìm được, chửi: “Bọn tặc này làm cái việc gì? Tối om om như vậy, làm sao cất hàng lên thuyền được?”. Tiếng nói chưa dứt, ánh đèn cuối thuyền, lại được thắp lên. Chu Tổ Mô thấy vậy không bình tĩnh được, lần lượt gọi tên của từng tên thợ thuyền, nhưng không nghe thấy trả lời, trong lòng lập tức chìm xuống, chợt nghe La Tiểu Tam run rẩy nói: “Chu lão gia, người nhìn chiếc đèn kia, hình như có vẻ không đúng”. Chu Tổ Mô chau mày nhìn, ngọn cô đăng kia như bị gió đưa đẩy, nhè nhẹ vượt qua mạn thuyền, bay đến đầu thuyền, bất thình lình nhảy vọt lên trời cao, vẽ ra một ánh lửa lộng lẫy trên không, rời xuống bờ biển, rồi phất phơ bay về hướng này. Đám hải khách thấy ánh lửa áp sát, thần vi chi đoạt. Chu Tổ Mô bất thình lình quát lớn một tiếng: “Cầm lấy vũ khí”. Đám hải khách tới tấp lấy binh khí ra, bày thành thế trận. Chu Tổ Mô thấy ánh đèn kia càng phất phơ càng gần, trái tim căng ra, nghiêm giọng gọi: “Người nào?”. Ánh đèn nhè nhẹ loé sáng, soi rọi ra hình ảnh của một người đàn ông, y phục màu thuần kim, hai gò mắt trắng như tuyết, mũi ưng mắt phụng, mi kiếm, tuy rằng tuấn mĩ, nhưng không biết tại sao, trước sau hiện ra một luồng tà khí vô danh. Tay áo của y rất dài, tay áo phải kéo lê trên đất, tay trái thì xuyên qua tay áo, năm ngón tay dài đẹp, nhẹ nhàng cầm một ngọn đèn dầu vàng đồng. Chu Tổ Mô rít giọng nói: “Ngươi là ai? Tại sao trên thuyền của ta?” Người đàn ông đó cười nhè nhẹ, nói: “Ta họ Địch, ngươi chắc là có nghe qua”. Chu Tổ Mô lẩm bẩm nói: “Họ Địch?”. Bất thình lình y toàn thân chấn động, thất thanh kêu lên: “Cửu Biến Long Vương, Đông Đảo Địch Hy?”. Người đàn ông đó cười nói: “Hảo kiến thức”. Trong sát na, Chu Tổ Mô chỉ thấy tim đập như sấm, cổ họng khô sít, mở miệng nhưng không nói ra tiếng được. Địch Hy cười cười, nói: “Là tên què họ Trầm phái ngươi đến sao? Thiên bộ hình như không có cao thủ họ Chu”. Chu Tổ Mô bị y nói ra lai lịch, trong lòng chấn động, cố gắng định thần, cười lạnh nói: “Chu mỗ chỉ là tiểu tốt của Thiên bộ, chẳng coi là cao thủ”. Địch Hy lắc đầu nói: “Vạn Quy Tàng vừa mới chết, bát bộ càng trở nên tốt xấu lẫn lộn. Đến cả gian thương dâm dục, cũng trở thành người trong Thiên bộ”. Chu Tổ Mô phẫn nộ nói: “Lão tử tuy giảo hoạt háo sắc, cũng còn tốt hơn so với Đông Đảo các ngươi, câu kết với Oa khấu?”. “Ai nói Đông Đảo ta câu kết với Oa khấu?” Địch Hy thần sắc lạnh lẽo, “Tên què họ Trầm chỉ biết tìm cách làm nhục danh tiếng của Đông Đảo ta”. Chu Tổ Mô gan dạ tăng lên một chút, cao giọng nói: “Nếu như ngươi không câu kết với Oa khấu, tại sao lại đến đây? Có phải là Long Kỳ kêu ngươi đến? Y muốn nuốt cả hàng lẫn tiền?”. Địch Hy cười nói: “Ngươi cũng không ngốc. Chỉ là cũng không tính là câu kết. Long Kỳ vốn là một con cờ ta bày ở dongda, tiền vốn y làm buôn bán là do ta đưa cho y, tiền kiếm được một nửa cũng là của ta. Những năm gần đây, súng Điểu làm khổ tên què họ Trầm, đều là do ta kêu Long Kỳ mua lấy. Tên què họ Trầm không thẹn là Thiên bộ chi chủ, quỷ kế đa đoan, lại để tên gian thương lưu manh nhà ngươi giả mạo thành hải tặc, lén lúc đến Đông Doanh mua súng Điểu. Chỉ tiếc là, tâm tính của y quá cao, muốn một lần mua đủ nghìn súng Điểu, do đó tìm đi tìm lại, lại tìm đến chỗ của Long Kỳ. Ha ha, cũng được, khó mà được tên què họ Trầm không tiếc tiền, giúp ta thu mua súng Điểu, Địch Hy nếu như không vui lòng thu nhận, há không cô phụ ý tốt của y”. Chúng nhân không ai không biến sắc. Chu Tổ Mô nghiêm giọng quát: “Mọi người sát cánh lên”. Đám hải khách cầm lấy binh khí, chực động thủ, chợt thấy thân hình của Địch Hy ly tán, biến hoá kỳ ảo thành mười mấy đạo thân ảnh, trùng trùng điệp điệp, hình dáng giống như kim long vẫy đuôi, lướt qua chỗ đó, chỉ nghe tiếng leng keng không dứt, đao kiếm của ba tên hải khách rớt xuống đất, hai mắt trợn ngược, trên trán hiện ra một lổ thủng nhỏ, máu tươi chảy như trút. Một tiếng cười nhẹ, huyễn ảnh đó tan ra rồi tụ lại, hợp thành một người, Địch Hy tay cầm đèn lồng, đứng nguyên tại chỗ cũ, khí độ an nhàn thoải mái. Chu Tổ Mô thất thanh kêu: “Long độn?”. Địch Hy cười nói: “Không thẹn là tiểu tốt của Thiên bộ, khá có kiến thức”. Y cười nói vui vẻ, ánh sáng rực rỡ của đôi mắt phụng lưu chuyển, dừng lại trên người đám hải khách, khiến ai cũng giá lạnh thấu xương, lông tóc dựng đứng. Chu Tổ Mô sắc mặt xanh xám, chớp mắt, chợt cao giọng kêu: “Cửu Biến Thần Long, ngươi là một trong Ngũ Tôn của Đông Đảo, Long Độn uy chấn thiên hạ. Còn ta chỉ là một tên tiểu tốt của Thiên bộ, võ công thấp kém. Nhưng lão tử võ công tuy không ra gì, hôm nay cũng muốn cược một trận với ngươi”. Địch Hy cười nói: “Cược cái gì? Nếu như cược dạo diêu tử, vậy thì khỏi”. Da mặt của Chu Tổ Mô nóng lên, tức giận nói: “Lão tử cùng ngươi đánh cược võ công. Nghe nói Long Độn là thân pháp tuyệt thế vô song, lão tử lại không phục, vậy cược ngươi trong vòng mười chiêu, không bắt được ta”. Khuôn mặt hớn hở của Địch Hy dần dần nghiêm lại, lành lạnh nói: “Mạng của ngươi trong tay của ta, dựa vào cái gì mà đòi cược với ta?”. Chu Tổ Mô nói: “Dựa vào uy danh Cửu Biến Thần Long của ngươi. Nếu ngươi không dám cược, tương lai truyền ra ngoài, người trong giang hồ tất nhiên sẽ nói, đường đường là Đông Đảo Ngũ Tôn, lại sợ một tên tiểu tốt của Thiên bộ như ta; cho dù ngươi không sợ mất mặt, thanh uy ba trăm năm của Đông Đảo, chỉ sợ cũng bị huỷ”. Địch Hy bật cười nói: “Ngươi không hổ là đứa gian thương lưu manh, thật biết cường từ đoạt lý. Nhưng ngươi yên tâm, việc tối nay, một chút cũng không truyền ra ngoài”. Chúng nhân đều trong lòng trầm xuống, biết rõ Địch Hy nói ra lời này, là đã tồn tâm giết hết mọi người. Chu Tổ Mô mưu kế không thành, mồ hôi lạnh trên trán toát ra. Chợt thấy diky mỉm cười một cái, nhàn nhã nói: “Chỉ là Địch mỗ lại có chút tò mò, muốn xem xem, ngươi làm sao thoát qua được mười chiêu này?”. Chu Tổ Mô vui mừng vượt qua mong đợi: “Ngươi đáp ứng cược rồi sao?”. “Không sai”. Địch Hy nói, “Nếu ta thắng, vậy thì chớ nhắc đến. Nếu như ngươi thắng, ta tha chết cho ngươi”. Chu Tổ Mô lắc đầu nói: “Không được, nếu như ta thắng, những người ở đây đều phải sống mà rời khỏi, lô súng Điểu này, ta cũng cần phải mang đi”. Nhãn thần của Địch Hy biến đổi nhiều lần, rồi chợt cười nói: “Cũng được, nếu ngươi thật sự có thể tiếp được mười chiêu của ta, người và hàng đều thu, cũng là điều tất nhiên”.
Chu Tổ Mô cười khô khan hai tiếng, nhét tay vào hông, Địch Hy tiếu ý không đổi, ánh đèn trong tay hơi tối lại, thân hình bỗng nhiên tan ra, một trùng huyền ảnh màu vàng như có như không quét lại. Chu Tổ Mô bất thình lình rút tay ra, lòng bàn tay bắn ra một khóm ánh sáng trắng, đạo ánh sáng đó bắn lên trên không, hoá thành trăm nghìn sợi dây, đan chéo trên không, tạo thành một tấm lưới lớn không gì sánh được, chụp lấy huyễn ảnh trùng trùng kia. “Thì ra tên què họ Trầm đem Thiên La truyền cho ngươi?” Địch Hy cười nhẹ một tiếng, “Được, đây tính như chiêu thứ nhất”. Huyễn ảnh thình lình đều biến mất, rồi lại quay lại thành một người. Đám ánh sáng trắng kia cũng đột ngột thu hẹp lại, hoá thành một nắm to nhỏ như tằm kén, di chuyển trong lòng bàn tay phải của Chu Tổ Mô. Mồ hôi lạnh trên lưng Chu Tổ Mô nhễ nhại. Thiên La này là tuyệt học của Thiên bộ, dùng Chu Lưu Thiên Kình, trút vào tàm ti, kết thành lưới lớn, một khi chụp được đối thủ, Chu Lưu Thiên Kình một sinh hai, hai sinh ba, Thiên La Ti bao trùm càng rộng, tính dai càng mạnh, dai như gân bò, cứng như thép luyện, người bị chụp bên trong nếu không hiểu cách phá giải, khó mà thoát thân. Chu Lưu Thiên Kình của Chu Tổ Mô tu luyện chưa lâu, giữ vững tuyệt học như vậy, vô cùng vất vả cực nhọc. Nhưng y biết thân pháp Long Độn không chỉ bao gồm khinh công, còn có số thuật, huyễn thuật vô cùng tinh diệu, bao năm nay làm cho cao thủ Tây Thành nếm đủ mọi khổ cực. Huyễn ảnh của Địch Hy lúc này, cũng là một loại huyễn thuật, tuy không biết y thi triển như thế nào, nhưng nếu ngươi cho nó là một huyễn ảnh, huyễn ảnh lập tức hoá thành người thật, nhưng nếu ngươi chó nó là người thật, người thật lập tức hoá thành huyễn ảnh, hư hư thật thật trong đó, làm cho người ta không cách gì nắm bắt được. Do đó cách duy nhất, là không cần biết nó là người thật hay huyễn ảnh, đều dùng tấm Thiên La nhất võng đả tận. Chợt nghe Địch Hy cười nói: “Chiêu thứ hai!”. Chu Tổ Mô tâm thần ngưng đọng, chỉ thấy trong ánh đèn lắc lư, huyễn ảnh của Địch Hy lại sinh ra, lập tức giương tay, Thiên La đầy trời chụp xuống, thoắt cái, nhân ảnh của Địch Hy đều bị chụp lấy. Chu Tổ Mô chỉ cảm thấy trong lưới trầm xuống, trong lòng vui mừng vô cùng, Thiên La trong chớp mắt thu lại. Chỉ nghe một tiếng kêu thảm, đưa mắt nhìn lại, người trong lưới lại là một tên hải khách tuỳ tùng. Trong lúc kinh nghi, chợt nghe Địch Hy cười nhẹ một tiếng: “Chiêu thứ hai”. Tiếng gió sắc nhọn nổi lên sau đầu, phá không ập đến. Thì ra Địch Hy trước khi Thiên La thu lại, dựa vào thân pháp tuyệt đỉnh, thay rường đổi cột, tóm lấy một tên làm thuê ném vào trong lưới, lừa cho Chu Tổ Mô thu lưới. Còn mình thì chuyển đến sau người y. Chu Tổ Mô biến chiêu không kịp, Thiên La như vậy bị phá. Địch Hy mưu kế thành công, một ngón tay chọc vào sau đầu Chu Tổ Mô, không ngờ bên cạnh vụt nổi lên tiếng gió, một nắm đấm chợt hoành không kích đến. Địch Hy chỉ cảm thấy quyền phong dường như thực chất, hùng hồn vô cùng, trong lòng thầm cả kinh, y chuyển tay, ngón tay cái điểm trúng quyền đến, mượn thế bay lùi lại hai trượng, đưa mắt nhìn, thì ra là một tên nam nhân trẻ tuổi, y phục sơ sài, song quyền nắm chặt, thần sắc lộ vẻ khẩn trương. Chu Tổ Mô nhìn thấy người đó, bất giác sững người, cả kinh nói: “Tiểu Lục? Là ngươi?” Lục Tiệm gật đầu nói: “Chu đại thúc, ngươi không việc gì chứ?”. Chu Tổ Mô thần sắc xám xịt, nhìn Địch Hy buồn rầu nói: “Ta thua rồi”. Đám hải khách bất thình lình xao động, chợt có hai người, một hướng đông, một hướng tây, nhấc chân phóng chạy. Địch Hy cười dài một tiếng, thân hình trái phải phân tán, hoá thành hai trùng huyễn ảnh, một trùng hướng đông, một trùng hướng tây, giống như kim bằng giương cánh, đồng thời quét trúng hai người, sau đầu hai người đó máu chảy như suối, ngã phủ phục trên đất. Hai trùng huyễn ảnh đó hướng vào trong thu lại, hai hợp thành một, lại hướng vào chúng nhân trong trường quét đến. Lục Tiệm thấy tình thế nguy cấp, không kịp nghĩ nhiều, đón lấy huyễn ảnh, biến một tướng Bán Sư Nhân Tướng, uốn gối cong thân, tả quyền móc ra sau, hữu quyền tống ra trước. Huyễn ảnh đó bị quyền phong kích động, lộn nhào về bên phải, Lục Tiệm đang định chuyển thân bám theo, chợt sinh điềm cảnh báo, vội biến một tướng “Tước Mẫu Tướng”, thân hình thấp bé, xoay chuyển nhanh chóng, chỉ cảm thấy một giáo gió sắc nhọn từ phía trái đánh úp đến, lướt qua vành tai, bỏng rát đau đớn. Địch Hy nhất chỉ rơi vào không, ý lên một tiếng, chợt thấy Lục Tiệm tung người lên cao, dùng vai xô đến, bất giác cả kinh, trong lòng nghĩ người này có thể trong lúc huyễn ảnh ly hợp, phân biệt ra chân thân của mình, thật là kỳ quái. Chỉ cảm thấy một xô này nặng như núi Nhạc, cương mãnh dị thường, lập tức không dám lơ là sơ sót, tay phải đỡ lấy cánh vai của Lục Tiệm, chân phía dưới đột ngột xoay chuyển. Long Độn chi pháp, không những có thể dùng thân pháp tránh né bất kỳ chiêu thức nào trong thiên hạ, mà còn có thể dùng thân pháp hoá giải bất kỳ kình lực nào trong thiên hạ. Lục Tiệm chỉ cảm thấy một tướng Đại Tu Di Tướng này phảng phất như đánh vào hư không. Địch Hy trong lúc gió giật di chuyển, lại như kéo tơ lột tằm, đem tất cả kình lực trong tướng này rút đi hết. Lục Tiệm trong lòng biết khi kình lực bị rút cạn, chính là cơ hội phản kích của Địch Hy, vội sử Chu Thiên Tướng, hai tay cùng xuất, quấn lấy tay phải của Địch Hy. Không ngờ Địch Hy thuận theo thế đến của hai tay Lục Tiệm, thân pháp ngoặt chuyển, vẫn không để y quấn lấy. Nói thì chậm, nhưng kỳ thực lại rất nhanh. Hai người biến hoá tuy phức tạp, nhưng rơi vào trong mắt chúng nhân thì lại nhanh như thiểm điện. Vừa thấy thực hình hư ảnh của Địch Hy, tán tụ vô phương, chỉ trong chớp mắt, lại thấy Lục Tiệm bị một tay của Địch Hy tóm lấy, bay lượn lơ lửng giữa trời. Chúng nhân nhìn đến rối mắt, duy nhất có Chu Tổ Mô nhẫn lực cao nhất, nhìn ra một số biến hoá, trong lòng kinh ngạc vạn phần, vạn lần không ngờ người thanh niên thật thà chất phác, trên người lại mang thần thông như vậy, lại thấy Lục Tiệm ra sức tóm lấy tay phải của diky, vẫn không được, bất giác nóng lòng. Đột nhiên, chợt thấy song thủ của Lục Tiệm lại vươn ra, Địch Hy cũng bám theo ngoặt chuyển, nhưng không ngờ chân phải của Lục Tiệm bất ngờ đá ngược lại, một đá này thẳng đến đầu vai, Địch Hy nếu như không buông tay, tất bị đá trúng mu bàn tay, bất đắc dĩ, chỉ còn biết buông tay nhảy ra. Một đá này của Lục Tiệm, chính là xuất từ Nhân Tướng. Nhân Tướng đá ngược có thể đến sau đầu, đá trúng đầu vai chỉ là tầm thường. Y trong lúc nóng lòng nghĩ đến biến tướng này, trước dùng Chu Thiên Tướng lăn lộn biến hoá, để phòng Địch Hy thừa cơ tập kích. Nhưng một biến tướng này, gần như làm y tiêu hao hết khí lực, nếu không phải là kiếp lực cuồn cuộn bổ sung, sớm đã mệt bò trên đất. Lăn lộn vài vòng, khi Lục Tiệm đứng lên nhìn, chỉ thấy huyễn ảnh đều biến mất, Địch Hy lại hợp thành một, cầm đèn mỉm cười, thân hình như tụ lại như tản ra, không biết nơi nào. Lục Tiệm thấy tình hình như vậy, tâm niệm nhất động, hai tay bất thình lình chống xuống đất, trồng cây chuối, dựng ngược lên. Chúng nhân đều cảm thấy kỳ quái: “Tên tiểu tử này điên rồi sao? Lúc này còn tâm tư trồng cây chuối sao?”. Địch Hy cũng lộ ra vẻ kinh ngạc. Lục Tiệm nhắm mắt ngưng thần, kiếp lực truyền qua hai tay, phân bổ dày đặc vài trượng xung quanh, những nơi Địch Hy đặt chân đến, lập tức có thể biết. Như vậy, các loại huyễn ảnh đều bị phá giải, trong lòng của Lục Tiệm chỉ còn lại thực tướng. Do đó Địch Hy vừa động, Lục Tiệm cũng động, huyễn ảnh của Địch Hy mới sinh, Lục Tiệm bèn dùng Đại Tự Tại Tướng lật chuyển lại, tả quyền vung ra, dùng Thọ Giả Tướng xuất chiêu, Hầu Vương Tướng thu thế, “soạt” một quyền, ánh đèn trên tay trái của Địch Hy chợt tắt, huyễn ảnh trùng trùng nhất thời đều biến mất. Huyễn ảnh của Địch Hy bị phá, chỉ cảm thấy quyền phong bổ vào mặt, y hừ lạnh một tiếng, vung tay tóm lấy. Lục Tiệm chịu qua khổ cực, trong lòng biết một khi bị y chạm vào người, kình lực trên người thế tất bị y mượn lực đả lực, toàn bộ tiêu tan, lập tức hoả tốc biến tướng, thu tay lùi lại. Chu Tổ Mô bất giác lên tiếng tán thưởng: “Hảo”. Lại thấy ánh đèn tắt, huyễn ảnh ảo ảnh đều không thấy, bất giác thở dài nói: “Thì ra nguyên căn của huyễn thuật lại ở chiếc đèn dầu này, thật làm người ta khó mà ngờ đến”. Chúng nhân nghe được lời này, chợt nhiên bừng tỉnh.
Nên biết mắt người thích ánh sáng, sợ bóng tối, do đó một ngọn cô đăng trong đêm tối, thường có thể hấp dẫn tâm thần của chúng nhân. Địch Hy chính là mượn quang ảnh của chiếc cô đang này, dùng thân pháp phối hợp với nó, huyễn hoá ra trùng trùng điệp điệp hư ảnh, làm rối loạn chúng nhân, rồi thi triển sát thủ. Địch Hy đứng lặng yên một lúc, chợt lành lạnh nói: “Tiểu tử, ngươi có thể nhìn ra chân thân của ta, quả nhiên bất phàm. Nhưng mà Cửu Biến Long Vương vốn có cửu biến, ngươi phá được Quang Minh Biến của ta, nhưng không biết ta còn có Vô Sắc Biến”. Lục Tiệm chau mày nói: “Vô Sắc Biến?”. Địch Hy cười nói: “Không sai. Ngươi xem cho rõ”. Lời nói mới dứt, nhân ảnh đột nhiên biến mất, Lục Tiệm chỉ cảm thấy gió nổi xung quanh người, luống cuống biến tướng. Trong sát na, liên tiếp biến liền ba tướng, mới tránh khỏi một kích này. Trong nhất thời, chúng nhân mượn ánh sáng của trăng sao, nhìn không thấy bóng hình của Địch Hy, nhưng chỉ thấy Lục Tiệm một mình một người, tay chân múa máy, tứ chi nhanh chóng xoay chuyển, phảng phất đang kịch chiến cùng với đối thủ không nhìn thấy, bất giác trừng mắt cứng miệng, liên tục kêu cổ quái. Lục Tiệm chỉ cảm thấy phong kình quanh người lướt qua lướt lại, nhanh hơn tử điện, thân hình bị quét trúng, tuy mượn biến tướng hoá giải, nhưng vẫn đau đớn khó chịu đựng được, chợt nghe Địch Hy cười nhẹ một tiếng, ánh đèn loé lên, ngọn đèn dầu kia lại được thắp lên, đem tình cảnh trong trường soi rọi rõ ràng. Lục Tiệm sững người, chợt cảm thấy gió lạnh thổi đến, sau lưng phát lạnh, cúi đầu nhìn, bất giác kinh hãi, thì ra áo y trăm ngàn lỗ rách, gió biển thổi nhẹ một cái, từng mảnh từng mảnh toả ra. Trong lúc kinh hãi, hạ thể lại mát lạnh, bối rối cúi đầu, chỉ thấy quần bị chia năm rách bảy, nơi nơi thấy thịt, Lục Tiệm vội vàng túm chặt lấy thắt lưng, chỉ sợ một trận gió thổi đến, đem chiếc quần này cũng thổi mất đi. “Thế nào?” Địch Hy cười lanh lảnh mà nói: “Nếu cứ tiếp tục đánh, ngươi thật là phải trần mông đánh với ta”. Lục Tiệm đỏ mặt tía tai, tức giận nói: “Ngươi, ngươi không biết ngượng”. Địch Hy cười nói: “Xấu hổ cái gì? Nếu ngươi trần mông đánh với ta, ta cũng sẽ không chế nhạo ngươi”. Y nói không chế nhạo, nhưng miệng thì lại ha ha cười lớn. Lục Tiệm vừa thẹn vừa giận, lại không dám di chuyển người, Địch Hy nhìn thần sắc hổ thẹn và tức giận của y, trong lòng khoan khoái, đang muốn mèo vờn chuột, trước khi giết, lại chọc ghẹo thiếu niên này một lần nữa. Chợt nghe Chu Tổ Mô lành lạnh nói: “Địch Hy, ngươi có còn nhớ, lúc nãy ngươi và vị huynh đệ Tiểu Lục này giao thủ, dùng mấy chiêu rồi?”. Địch Hy nói: “Ba bốn chục chiêu, làm sao?”. Chu Tổ Mô cười lạnh nói: “Ba bốn mươi chiêu? Hắc hắc, nhưng ngươi hẹn với ta là mười chiêu!”. Nét cười của Địch Hy nghiêm lại, thong thả nói: “Ta có hẹn với ngươi, nhưng không hẹn với hắn”. Chu Tổ Mô nói: “Ta là một tên tiểu tốt của Thiên bộ, còn hắn lại là tiểu tốt của ta. Lợi hại a lợi hại, đường đường là một trong Đông Doanh Ngũ Tôn, đối phó với tiểu tốt của tiểu tốt Thiên bộ, cũng cần phải dùng tới ba bốn chục chiêu, lợi hại, thật là lợi hại”. Nói xong giơ ngón tay cái lên, ha ha cười lớn. Địch Hy cười lạnh nói: “Họ Chu kia, ngươi bớt dát vàng lên mặt mình đi, bản lĩnh của tên tiểu tử này còn cao hơn ngươi nhiều, há lại có thể là tiểu tốt dưới tay ngươi?” Y đối với Chu Tổ Mô rõ như lòng bàn tay, đối với đám hải khách dưới tay y cũng biết sơ qua, duy chỉ có Lục Tiệm là thông ngôn mới vào, trước nay lại không theo chúng nhân lang thang chơi gái, do đó Địch Hy không biết một chút gì về hắn. Chu Tổ Mô cười nói: “Nếu như ngươi không tin, có thể hỏi hắn”. Địch Hy nhìn nhìn Lục Tiệm, chau mày nói: “Tiểu tử, ngươi nói xem”. Lục Tiệm gật đầu nói: “Ta quả thật là thông ngôn dưới tay của Chu đại thúc, giúp Chu đại thúc giao dịch hàng hoá”. Thần sắc của Địch Hy u ám, mãi một lúc mới nói: “Với bản lãnh của ngươi, hà tất làm tiểu tốt dưới tay của tên gian thương này? Không bằng gia nhập Đông Đảo của ta, không quá mười năm, Địch mỗ bảo đảm ngươi lên như diều gặp gió, đứng vào hàng ngũ Ngũ Tôn”. Chu Tổ Mô nghe thấy vậy sắc mặt đại biến. Lục Tiệm lúc này chỉ cần gật đầu, liền là người của Đông Đảo. Địch Hy cũng không còn cần phải giữ gìn thân phận nữa, liền có thể đại khai sát giới. Đám hải khách cũng biết rõ đạo lý này, tới tấp dán mắt vào môi của Lục Tiệm, thở cũng không dám thở, chợt thấy y lắc đầu nói: “Ta đã nhận lời của Chu đại thúc, làm thông ngôn cho Chu đại thúc. Đã nhận lời thì không thể nuốt lời”. Lời này vừa mới xuất, từ Chu Tổ Mô trở xuống, chúng nhân chung quanh ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Nộ ý trong mắt của Địch Hy loé lên rồi lập tức biến mất, cười lạnh nói: “Nói như vậy, ngươi thật là tự cam chịu hèn hạ, làm tiểu tốt của tên gian thương háo sắc này?”. Lục Tiệm gật đầu nói: “Cứ coi là như vậy”. “Hay cho câu ‘Cứ coi là như vậy’”, Địch Hy cười lạnh một tiếng, “Chu Tổ Mô, coi như ngươi lợi hại, cất giấu một nước cờ hay. Y đã là tiểu tốt dưới tay ngươi, Địch mỗ mười chiêu không thể đánh bại y, cũng coi như là thua rồi ….”. Nói đến đây, y liếc Lục Tiệm, rũ tay áo một cái, ung dung bước đi. Đám hải khách ngạc nhiên xen lẫn vui mừng. Chu Tổ Mô thấy Địch Hy đi xa, mới thở dài nói: “Sớm đã nghe trong Ngũ Tôn, Cửu Biến Long Vương thanh cao tự phụ nhất, xem ra quả là như vậy. Nếu đổi lại là người khác, kế khích tướng này tất không có tác dụng”. Lại nhìn Lục Tiệm một cái, thở dài nói: “Tiểu Lục, ngươi chân nhân bất lộ tướng, đến cả Chu mỗ cũng bị ngươi qua mặt”.
Lục Tiệm lúng túng vô cùng, một tay cầm dây lưng, một tay liên tiếp xua, nói: “Ta không có ý lừa dối đại thúc”. Chu Tổ Mô gật đầu nói: “Cái này thì ta biết, Tiểu Lục ngươi làm người thành thực chất phác, tuy có bản lĩnh, thần thông lợi hại, cũng không huênh hoang”. Nói xong, ra lệnh cho chúng nhân thu dọn thi thể của đám hải khách tuẫn nạn, đồng thời lên thuyền quan sát, sáu tên hải khách trên thuyền không có ai may mắn thoát nạn, lập tức thiêu đốt ngay tại chỗ, chỉ lấy hài cốt mang về nước, sau đó chỉ huy chúng nhân, đem súng Điểu vận chuyển lên thuyền. Bận bịu đã xong, La Tiểu Tam la hét đòi kiếm Long Kỳ báo thù, Chu Tổ Mô quát: “La hét cái gì? Tên đó sợ rằng đã ẩn náu rồi, hơn nữa có họ Địch chống lưng, chút võ chó mèo của ngươi, chỉ hợp nhét vào kẽ răng của y”. Chu Tổ Mô rất sợ có biến, hạ lệnh khai thuyền ngay trong đêm, rời khỏi Đông Doanh. Kéo buồm khởi hành, chúng nhân chuyển thân vào khoang. Vừa mới vào cửa khoang, chợt thấy ánh nến sáng rực cả khoang, bên cạnh nến là một chiếc lồng chim bằng dây vàng, trong lồng đậu một con chim hải âu lớn, lông trắng giữa màu đen, giống như than đen trong tuyết. Bên cạnh lồng chim, một người tay cầm thư quyển, đang xem đến nhập thần. Chúng nhân thấy người đó, ai cũng ngây người ra. Chu Tổ Mô thất thanh kêu lên: “Địch Hy, ngươi làm cái gì?”. Địch Hy nghe thấy lời này, ngước mắt cười nói: “Xem sách, ngươi không thấy sao?”. Chu Tổ Mô tức giận nói: “Ai hỏi ngươi đọc sách hả? Gọi là có chơi phải chịu. Ngươi đã nhận thua, thì phải thủ tín”. Địch Hy cười nói: “Ngươi và ta ước định là, nếu như ta thua, thì tha tính mạng cả thuyền của ngươi, để ngươi mang súng Điểu đi, đúng hay không?” Chu Tổ Mô đáp: “Không sai”. “Vậy là được rồi”, Địch Hy nói, “Trong ước định từng nói, Địch mỗ không thể đáp thuyền của ngươi sao?”. Trong đầu của Chu Tổ Mô ù một tiếng, lập tức hỗn loạn không chịu được, lắp bắp nói: “Ngươi, ngươi muốn đáp, đáp thuyền?”. “Đúng vậy”, Địch Hy cười nói, “Gian khoang trong này thuộc về ta, người nào muốn ngủ, thì đi nơi khác”. Nói xong coi như bên cạnh không có ai, vẫn cúi đầu xem sách. Chúng nhân sắc mặt xám lại, lùi ra khỏi cửa, đến đuôi thuyền, mới cắn răng nghiến lợi, thấp giọng chửi rủa. Chu Tổ Mô sắc mặt khổ sở, dậm chân nói: “Chỉ trách ta chưa nghĩ chu đáo, hiện giờ tai tinh này lên thuyền, mọi người sớm muộn gì cũng bị y hại chết”. Chúng nhân nhất thời yên tĩnh, im lặng gật đầu. Những ngày sau đó, quả thực khó qua vô cùng. Địch Hy nghiễm nhiên tự coi mình là chủ thuyền, vênh mặt hất hàm sai khiến đám hải khách, kêu đến gọi đi. Nội tình trên thuyền y hình như đều biết rõ. Trà nếu không phải là Minh Tiền Long Tỉnh thì không uống, rượu không phải Thiệu Hưng Hoa Điêu thì không dùng. Trên thuyền nóng bức, liền sai khiến Chu Tổ Mô quạt, đêm đi đồng, thì kêu La Tiểu Tam bưng bình. Đám hải khách kêu khổ luôn mồn, sau lưng ai cũng chửi mắng hắn. Sau khi thương nghị, cũng từng nghĩ qua vài cách, ví dụ như hạ độc trong trà, không ngờ vừa bưng lên bàn, Địch Hy lại ngược với mọi khi, đem trà ban cho bị lão huynh bưng trà, không xem y uống hết thì không thôi, sau khi uống hết, y chầm chậm gạn hỏi xuất thân lai lịch của y, mắt thấy sắc mặt của vị lão huynh kia từ trắng biến thành xanh, từ xanh lại biến thành đen, mới cười tha y ra khỏi cửa, vị lão huynh kia sau đó tuy rằng dùng giải dược, bảo toàn được tính mạng, nhưng từ đó méo mồm xếch mắt, nằm liệt không dậy được. Cũng từng có hải khách thừa lúc Địch Hy không có ở trong khoang, mai phục cơ quan trên giường y, cắm ngược nhiều ngọn truỷ thủ, không ngờ khi quay về giường ngủ, từ đùi đến hông, đều bị chủy thủ đâm xuyên, trở thành què quặt. Sau đó kiểm tra, chính là truỷ thủ hắn vùi đêm đó, chỉ là truỷ thủ mọc thêm chân, từ chỗ của Địch Hy, chạy lên giường của hắn. Tóm lại, phàm là chúng nhân bày kế ám toán, Địch Hy luôn luôn có thể dùng gậy ông đập lưng ông. Đám hải khách vừa hận vừa sợ, nhưng lại không thể làm gì được. Cứ như vậy đi được hơn mười ngày. Ngày hôm ấy, Lục Tiệm đi đến đuôi thuyền câu cá, lại thấy Địch Hy dừng tại mạn thuyền, nhìn về phía xa đến xuất thần, trên cổ tay đậu con chim hải âu kia, cánh tay bỗng nhiên chấn động, con hải âu kia nhảy tót vào trời xanh, bay lượn vài vòng, nhằm hướng tây bay đi. Lục Tiệm lấy làm lạ, nói: “Ngươi làm cái gì vậy?”. Địch Hy cười cười, rồi nói: “Con hải âu này bị nhốt đã lâu, cũng nên thả ra rồi”. Chợt thấy Bắc Lạp Sư Môn ngồi chổm trên vai của Lục Tiệm, bất giác cười nói: “Con mèo này của ngươi cũng thú vị”. Vươn tay ra sờ, không ngờ thân hình của Bắc Lạp Sư Môn rụt lại sau, mắt lộ hung quang, gầm ghè không dứt. Địch Hy chau mày nói: “Con súc sinh này tính tình nóng nảy a”. Lục Tiệm không muốn nói nhiều với hắn, một mình ngồi xuống câu cá. Nhưng Địch Hy không rời khỏi, mỉm cười một cái, nói: “Tiểu Lục, ngươi thật sự không muốn gia nhập Đông Đảo của ta sao?” Lục Tiệm lắc đầu nói: “Ta thích tự do tự tại”. Địch Hy thở dài một tiếng, liền miệng than đáng tiếc, lại hỏi: “Võ công của ngươi học của ai?”. Lục Tiệm trong bụng nghĩ thầm Hắc Thiên Thư không tính là võ công, duy chỉ có Ngư hoà thượng truyền dạy thì miễn cưỡng có thể nói được, bèn nói: “Là một vị đại sư”. Địch Hy nói: “Võ công của ngươi vốn không kém, tiếc là không đủ hoả hầu, hôm đó nếu không phải là ta chưa dốc toàn lực, đừng nói ba bốn chục chiêu, ngươi có thể tiếp được ba bốn chiêu, cũng là không tồi rồi”. “Đúng vậy”, Lục Tiệm gật đầu nói, “Ngươi chỉ dùng có một cánh tay. Ta cũng đánh không lại ngươi”.
“Không phải là nguyên nhân đó”. Khoé miệng của Địch Hy lộ ra một nét cười cười, “Ta có sở trường về thân pháp. Một cánh tay, hai cánh tay đối với ta mà nói thì không có khác biệt gì. Ta nói chưa dốc toàn lực, là bởi vì ta chưa dùng tay áo”. Lục Tiệm nghe nói vậy, tỉ mỉ nhìn hai tay áo của y, chỉ thấy ống tay áo vòng vèo trên cổ tay, nếp uốn trùng trùng, hiển nhiên vô cùng lớn và dài, chỉ không biết y nói dùng tay áo, là dùng như thế nào? Trong lòng y mê hoặc, Địch Hy thì lại không nói thêm nữa, gác chân ngồi trên mạn thuyền, nhìn ra phía trời xa. Ước chừng qua được hai canh giờ, chợt thấy phía xa xuất hiện một chấm đen nhỏ, chốc lát biến lớn, chính là con hải âu kia. Địch Hy vươn tay tiếp lấy, từ trên chân của hải âu lấy xuống một đoạn ống trúc, từ trong rút ra xem một cuộn giấy, bật cười nói: “Lão già này thật là như đỉa thấy máu, đến thật là nhanh”. Nói xong quay đầu lại nói, “Tiểu Lục, ta không muốn gặp lão già này, cho nên phải đi đây”. Lục Tiệm nói: “Ngươi quay về khoang sao?”. “Ta không về khoang nữa”, hàng lông mày đen thẫm của Địch Hy nhướng lên một cái, lộ ra nét cười nguỵ dị, “Ta quay về nhà”. Lục Tiệm sững người. Địch Hy chợt mở miệng, phát ra tiếng kêu sắc nhọn, tựa như dùi thép đâm vào tai. Màng nhĩ của Lục Tiệm như muốn rách ra, bất giác kêu lên một tiếng ai a, bịt kín hai tai lại. Đám hải khách nghe thấy tiếng kêu, tới tấp chạy lại, Địch Hy dừng tiếng rồi cười dài, sang sảng nói: “Chư vị bảo trọng, hoàng tuyền không xa, Địch mỗ không tiễn nữa rồi”. Nói xong tung người bật lên, hướng vào lòng biển nhảy xuống, đám hải khách vừa kinh vừa mừng, kinh là người này chẳng lẽ điên rồi, mà lại nhảy xuống biển tự vẫn, mừng là lão thiên có mắt, để cho hoạ hại lớn này tự tìm đường chết. Ai ngờ hai chân của Địch Hy vừa chạm mặt biển, hoàn toàn không trầm xuống, ngược lại đạp sóng nhấp nhô. Chúng nhân đều kinh hãi: “Người này chắc là hoạt thần tiên vào nước mà không chìm?”. Trong lúc ngạc nhiên và ngờ vực, chợt thấy dưới chân Địch Hy nổi lên mấy con cá lớn, lưng xám mõm nhọn, thể hình thon thon, trong nước vừa chìm vừa nổi. Địch Hy luân phiên đạp lên sống lưng của những con cá lớn, tay áo phất phơ trong gió, phóng băng băng như mũi tên, trong chớp mắt đã biến mất nơi chân trời. Chúng nhân nhìn đến trợn mắt líu lưỡi. Lục Tiệm cả kinh nói: “Đó là cá gì?”. “Loại cá này ta từng nhìn thấy qua”, một lão hải khách thở dài nói, “Thổ dân bên nam hải gọi nói là Hải Trư, nhã nhặn hơn thì kêu là Hải Đồn, nhanh nhẹn dũng mãnh giỏi bơi lội, có thể chọi với Sa ngư. Tên Địch Hy này thật lợi hại, lại có thể thuần hoá nó đến như vậy”. Chợt thấy một tên thuyền công phóng đến, cao giọng kêu: “Chu lão gia, có thuyền lại gần”. Địch Hy vừa mới đi, liền có thuyền đến, Chu Tổ Mô trong lòng sinh ra cảm giác bất tường, bước nhanh lên chỗ cao nhìn ra xa, chỉ thấy hai chiếc hoàng diêu khoái hạm phóng đến như bay, khi tiến đến khoảng gần năm dặm, phía đầu một thuyền, giương lên một lá cờ, vải trắng chữ đen, trên cờ viết một chữ “Ngục” thật lớn. Chu Tổ Mô thần sắc đại biến, vội quát lớn: “Nhanh, tăng tốc, mạn trái”. Đám thuyền công nghe lệnh, căng buồm kéo lên, lắc bánh lái về phía trái. Nhưng hai chiếc khoái hạm kia nhẹ nhàng nhanh nhẹn, chốc lát đã tiến sát, phía đầu khoái hạm có ba người đứng, người nào cũng dùng vải đen quấn đầu, một người trong đó vung tay, mộc pháp phích lịch phía đầu khoái hạm vang lên, ném ra một quả cầu tròn to bằng một chiếc đầu lâu, vừa vặn trúng boong thuyền, bỗng nhiên nổ ra, hoá thành một đám khói mù, những thuyền công gần đó một khi dính phải, liền ngã ập xuống đất. Chu Tổ Mô nghiêm giọng nói: “Mọi người ngừng hô hấp”. Nhưng hai chiếc khoái hạm kia luân phiên bắn pháo, không ngừng ném quả cầu tròn đến, cả con thuyền đều bị khói mù bao trùm. Lục Tiệm chỉ cảm thấy bốn phía xung quanh bịch bịch không ngừng truyền lại tiếng người ngã xuống sàn thuyền, trong lòng hoảng hốt, không cẩn thận, hít vào một chút khói, chỉ cảm thấy mắt hoa chóng mặt, tai nghe thấy Chu Tổ Mô vẫn cứ kêu lớn hét lớn, nhưng tiếng kêu hét đó càng lúc càng xa, càng lúc càng nhẹ, bỗng nhiên hai mắt của Lục Tiệm tối sầm, mất đi tri giác.
Chương 9 Tù đồ
Lục Tiệm tỉnh lại, thấy đầu nhức vô cùng, mắt mũi lờ đờ vô lực. Bỗng thấy miệng bị người mở ra đổ vào một thứ nước lạnh ngắt, có vị cay nồng, tựa như là rượu. Vừa uống thứ chất lỏng đó xong, Lục Tiệm lập tức bất tỉnh, nhanh chóng ngủ lại như trước. Cứ vậy mỗi khi tỉnh, lại bị uống loại rượu đó, Lục Tiệm cảm thấy tứ chi bải hoải, bên tai nghe như có tiếng người nói, mà như tiếng vo ve, không hiểu sao, không thể nghe rõ được. Giữa lúc đang nửa mơ nửa tỉnh, bỗng nhiên Lục Tiệm giật nảy người vì đau, như là bị người dẫm đè lên lưng, xương sống đau như bị đè nát, nhờ vậy mà hắn tỉnh hẳn, gắng gượng mở mắt ra nhìn, trước mắt một mầu tối đen, không biết mình đang ở nơi đâu. Lục Tiệm hít một hơi thật dài, gắng đè nỗi đau đầu, nhắm mắt nhớ lại, tình cảnh trước lúc bị hôn mê dần dần hiện ra, rồi lại bất giác nhận ra một điều, đó là tứ chi không bị thương, mà sao không thể cử động được. Giây lát sau, Lục Tiệm lại thấy như sắp chìm vào hôn mê, bèn nghiến răng cắn chặt vào lưỡi một cái, đau buốt lên tận đỉnh đầu, nhờ vậy mà lại tỉnh lại. Đúng lúc đang như vậy, khoé mắt bỗng nhìn thấy 1 tia sáng loé qua, sau đó nghe thấy cửa mở kẹt kẹt. Rồi cửa mở ra, một quầng sáng ùa vào chiếu thẳng trên người Lục Tiệm. Lục Tiệm ở trong bóng tối đã lâu, bỗng gặp luồng sáng mạnh, tự nhiên không thể mở mắt ra được, lại nghe thấy một người nói: "Người này mới bị bắt, Sa sư phụ xem sao, tư chất hắn thế nào?" Tiếng âm thanh của 1 lão già đáp lại: "Không cần phải xem, Tất Ky, người này giao cho ngươi. Trước tiên luyện thương long thất mạch , sau khi hoàn tất, ta sẽ xem sau." Người kia đáp lời: "nhưng người này đã uống rất nhiều thất sát phá công tửu , hôn mê mãi mà không tỉnh lại, chỉ sợ không có cách nào để luyện công được nữa." "Đồ ngốc". Lão già hừ lên một tiếng, "Nói với ngươi bao nhiêu lần rồi, “Hắc thiên thư” luyện ở ẩn mạch, thất sát phá công tửu chỉ cấm chế hiển mạch thôi, với ẩn mạch thì ảnh hưởng gì hả?" Tất Ky vâng dạ liên hồi, sau đó nghe thấy tiếng bước chân của người đi khỏi. Rồi Lục Tiệm bỗng thấy tả giác huyệt thuộc thương long thất mạch nhói đau, tiếng Tất Ky cười hỏi bên tai: "ngươi vẫn còn chưa tỉnh hả?" Lục Tiệm mở mắt lên nhìn, nhờ có ánh sáng, mà thấy một khuôn mặt vẫn chưa hết nét trẻ con, miệng nhỏ, trán rộng, cũng trạc tuổi thiếu niên với mình, không kìm được bèn hỏi: "Nơi đây là...?", vừa nói đến đấy, hắn bỗng thấy giật mình, không hiểu tại sao, giọng nói của hắn bỗng như tắc dần lại, không thể nghe thấy gì. Tất Ky cười cười nói: "Nơi này là luyện nô thất của đông hải ngục đảo, kể từ hômnay, ngươi sẽ là kiếp nô của ta." Lục Tiệm đúng là không biết nên cười hay nên khóc, bèn hỏi: "Các hạ là người của Tây thành?". Nét mặt Tất Ky ngạc nhiên trả lời: "Ai là người của Tây thành hả? ta chính thị là người của Đông đảo." Lục Tiệm lại hỏi: "Mới chỉ nghe thấy chuyện Tây thành luyện nô, từ khi nào Đông đảo cũng luyện nô vậy?" Tất Ky nhíu mày đáp: "Để thắng Tây thành, Đông đảo của ta cũng phải có kiếp nô của mình; bằng không vậy, sau này tranh đấu với nhau, sao lại không bị lâmnguy ?", nói đến đây, trên mặt lộ ra vẻ cảnh giác, hừ lạnh 1 tiếng hỏi: "Tiểu tử, nhà ngươi cũng biết chuyện luyện nô sao?" Lục Tiệm thở dài một tiếng, nhắm mắt chán nản thốt: "Ta biết chứ." Tất Ky lại nói: "Ngươi biết rồi cũng tốt, không cũng chẳng sao. Đã vào trong ngục đảo đây rồi, chỉ có hai con đường để đi ra: hoặc chết, thi thể sẽ bị đưa ra ngoài ném xuống đầm cá mập để nuôi cá, hoặc trở thành đệ nhất kiếp nô, tương lai cùng với ta rời đảo, tạo lập uy phong trên giang hồ."
Lục Tiệm chẳng nói lời nào. Tất Ky cười nói: "Chết sao có thể so được với sống, ta trước đây đã luyện qua ba kiếp nô, những kẻ đó cũng đều không muốn bị ném cho cá mập ăn. Ngươi chắc cũng như vậy." nói rồi giảng giải về mạch lí của “hắc thiên thư”, để Lục Tiệm tu luyện "giác mạch" trước. Lục Tiệm đã luyện qua “hắc thiên thư”, giờ lại luyện lại, chẳng có gì khó. Nhưng rồi hắn nghĩ ai cũng vì tư lợi bản thân, đều muốn hắn làm nô dịch, hắn không thể kìm nỗi được chán nản trong lòng, thành ra chẳng có ý tu luyện gì cả.Tất Ky giảng giải xong về mạch lí, rồi cứ y theo đó, không ngừng truyền chân khí vào giác mạch cho Lục Tiệm. Lục Tiệm thấy chân khí đi vào cơ thể, chẳng có một chút cảm giác sung sướng thoải mái nào, tự thấy chuyện quái lạ, suy nghĩ một lúc, tức thì hiểu ra. Nguyên lai, luật thứ nhất của "hữu vô tứ luật" là vô chủ vô nô . Ninh bất không một ngày là chủ, mãi mãi sẽ là chủ, khắp trong thiên hạ, chỉ có mỗi chân khí của lão là có cảm ứng với ẩn mạch của Lục Tiệm, chân khí của bất kỳ người nào khác cũng không dùng được, vì thế một kiếp chủ có thể luyện chế vô số kiếp nô, nhưng kiếp nô cả đời chỉ gắn với một kiếp chủ, đã có Ninh bất không ngày trước, Tất ky lần này có cố gắng mấy, cũng chỉ phí sức mà thôi. Lục Tiệm mới đầu định bảo với Tất Ky, nhưng sau khi nghĩ lại, lập tức thu lại lời nói định thốt. Tất Ky có vẻ là người thích nói, lại thấy Lục Tiệm tuổi trạc với mình, vì vậy bèn hỏi han lai lịch của hắn. Nhưng Lục Tiệm trong lòng đang nghĩ ngợi, chẳng muốn nói chuyện gì, thường thường Tất Ky hỏi 8,9 câu, hắn mới đáp trả một câu. Tất Ky không vui bảo: "ngươi đúng là loại ngu ngu ngốc ngốc, cứ như một cục đá vậy, từ giờ trở đi ta gọi ngươi là đầu đá nhé.", sau đó lại nói: "đầu đá, ngươi bây giờ có lẽ hận ta, nhưng sau này ngươi luyện “hắc thiên thư” tới một mức rồi, ngươi sẽ thích ta chẳng hết, không có lúc nào là không ốn gặp mặt ta." nói rồi ngoác miệng cười lớn, cười xong một trận, lại nói: "Ta dậy ngươi tâm pháp này, ngươi phải ngoan ngoãn khổ luyện, có tài thì trở thành kiếp nô hạng nhất. còn nếu không phải là kiếp nô hạng nhất, thì không thể rời khỏi ngục đảo, hoặc ngươi chết tại luyện nô thất tối tăm này, hoặc cứ mãi là kiếp nô, tới khi ngục đảo chật, sẽ ném ngươi xuống cho cá mập ăn."Lục Tiệm nghe vậy tức giận, nghiến răng nhắm mắt, không thèm nói lời nào. Tất Ky xem xét một hồi, chỉ điểm xong cách luyện "giác mạch", rồi đi ra ngoài. Lục Tiệm dần bình tĩnh lại, kiểm tra trên người, phát giác xá lợi của ngư hoà thượng vẫn ở đó, trong lòng thoải mái hơn, bèn nghĩ cách thoát thân, bỗng nhiên nhớ lại lời nói của kẻ được gọi là "Sa sư phụ", không thể không tự hỏi: "lão đó nói rằng thất sát phá công tửu chỉ áp chế hiển mạch mà thôi, với ẩn mạch thì không có can hệ gì. Nếu nói như vậy, kiếp lực trong cơ thể mình vẫn có thể sử dụng được." Nghĩ vậy tự nhiên thấy tinh thần sảng khoái, lặng im xem xét, bỗng nhiên cảm thấy ở trong ẩn mạch, kiếp lực quả nhiên như có như không, lưu chuyển không ngừng.
Chiếu theo đệ tam luật "vô hưu vô chỉ" của "hữu vô tứ luật", khi đã luyện thành “hắc thiên thư”, chỉ cần kiếp nô không chết, kiếp lực vận chuyển không ngừng nghỉ, ngay cả khi hiển mạch bị thương, ẩn mạch bị kiềm chế, cũng không thể tiêu diệt được kiếp lực. Kiếp lực tính chất kì lạ, không phải âm, không phải dương, không phải nội không phải ngoại, vậy mà có khả năng chuyển hoá thành sức lực cơ thể. Bởi vậy khi Lục Tiệm cảm thấy kiếp lực ở người, vui sướng muôn phần, không kìm được nghiến chặtrăng lại, nỗ lực thi triển "thập lục thân tướng", đưa kiếp lực chuyển hoá thành nội lực ngoại lực, cũng bởi "tam viên đế mạch" của hắn đang bị cấm chế, dù có mượn kiếp lực nhiều, cũng không phải lo bị "hắc thiên kiếp" về sau. Lúc này toàn thân hắn đang mỏi mệt, dù có kiếp lực hỗ trợ, cũng không dễ gì để biến tướng, phải mất một canh giờ, mới biến xong "ngã tướng", lại mất hai canh giờ nữa, mới biến xong "nhân tướng". Người hắn mỗi khi biến xong 1 tướng, lại thấy kiếp lựcở trong ẩn mạnh chuyển động nhanh dần và phân chia, hoá thành nội ngoại tinh khí, nhập vào trong hiển mạnh. Đúng lúc khí lực Lục Tiệm khôi phục lại, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, Lục Tiệm trong lòng suy nghĩ, bèn gắng phát ra tiếng rên rỉ khe khẽ. "kẹt" ột tiếng, cửa mở ra, Tất Ky cười lớn hỏi: "Thế nào, đầu đá, không chịu nổi hả?" nói rồi ngồi xuống, hướng "giác mạch" truyền chân khí vào. Lục Tiệm đã uyện qua “hắc thiên thư”, tình cảnh khi tu luyện đều đã trải qua, ngay khi chân khi Tất Ky nhập thể, nét mặt vờ lộ ra nét sung sướng hoan hỉ. Tất Ky không hề nghi ngờ, tập trung truyền nốt chân khí, rồi nói: "Giờ đã biết sự lợi hại chưa? nỗi đau vừa rồi, khắp cả thiên hạ, duy mỗi ta có thể iải được. cảm giác vui sướng bây giờ, cũng chỉ mỗi ta có thể ban cho. Ngươi nếu ngoan ngoãn nghe theo lời ta, ta sẽ thường cấp chân khí cho ơi, ngược lại thì ha ha ...", hắn nói xong với vẻ đắc ý, rồi đặt xuống một cái giỏ: "ngươi cũng nên ăn cái gì đi. Đầu đá, khi nào ngươi luyện xong 8 mạch, ta sẽ cấp giải dược "thất sát phá công tửu" cho ngươi, cho đến lúc đó, ngươi sẽ không phải ở bộ dạng yếu ớt thế này nữa." Tất Ky ở cạnh nói cười, ở cạnh cho Lục Tiệm ăn, trong nhãn thần cử chỉ, coi Lục Tiệm như 1 con mèo, con chó nhỏ, tự ý vui đùa. Lục Tiệm trong lòng biết rằng, khi đã luyện thành 28 mạch, có muốn dừng lại cũng không thể, lúc đó dù không phải chịu"thất sát phá công tửu", tên oắt này muốn làm gì thì làm, mặc sức khống chế kiếp nô, nghĩ như vậy, trong lòng nổi giận, chỉ hận không thể một quyền đập vỡ mặt Tất Ky ra. Tất Ky giúp Lục Tiệm ăn xong, rồi lệnh Lục Tiệm tu luyện "giác mạch" lại, Lục Tiệm bất đắc dĩ giả dạng tu luyện một lúc. Tất Ky ra vẻ hài lòng, thu thập giỏ cơm, đóng cửa bỏ đi. Lục Tiệm ăn vào, tinh lực dồi dào, lục tục thi triển biến tướng, chuyển hoá kiếp lực. Cứ 3 canh giờ, Tất Ky lại quay lại 1 lần, truyền thụ “hắc thiên thư”, không hề biết rằng trong thân thể Lục Tiệm đã có biến hoá vô cùng, nội ngoại tinh lực, dần khôi phục lại, khi Tất Ky dậy xong "thương long thất mạch", Lục Tiệm đã luyện xong "thập lục thân tướng" hai lần, tinh lực cuộn chảy như sông lớn, tẩy sạch dược lực của "thất sát phá công tửu". Lục Tiệm khôi phục khí lực, mới đầu định chế ngự Tất Ky, nhưng rồi lại nghĩ lại: "trước tiên hãy đợi hỏi xem Chu đại thúc và Bắc lạc sư môn đang ở đâu, khi đã biết rồi, tiện thể sẽ cứu luôn." Nhẫn nại đợi nửa ngày trời, Tất Ky lại đến, Lục Tiệm bèn hỏi về bọn người Chu Tổ Mô. Tất Ky vốn là người nói nhiều, đang hận không có người nói chuyện cùng, giờ nghe thấy gã "đầu đá" này hỏi, tinh thần phấn chấn, cười hi hi nói: "Cái này ta cũng không thể biết, trên đảo có hàng mấy trăm người, có đệ tử của đông đảo, rồi bọn người tây thành bị bắt, lại có ngư dân bị bắt. Để biết được rõ ai đang ở đâu, chắc chỉ có mỗi đảo chủ là biết được thôi." Lục Tiệm nghe xong im lặng lo lắng, lại nghe thấy Tất Ky hỏi: "Người bạn đó của ngươi tuổi cao rồi phải không?" Lục Tiệm hỏi lại: "Chuyện này thì liên can gì đến tuổi tác?" "Liên can nhiều chứ". Tất Ky nói: "nếu như cũng trạc tuổi với người, thì quá nửa là cũng ở trong luyện nô thất, còn nếu quá 30 tuổi, tiên thiên chi khí suy yếu, không thể luyện nô, thường sẽ nhốt trong lao ngục tầm thường. Sợ nhất là, đồng bọn của ngươi, không thể luyện nô, cũng chẳng có giá trị tra khảo gì, Sa sư phụ một khi không nhẫn nại được, kéo luôn ra cho cá mập ăn mất." Lục Tiệm nghe vậy vừa lo vừa giận, lại nghe thấy Tất Ky bảo: "Đầu đá, đợi chút nữa Sa sư phụ tới tuần thị, ngươi ứng đối cho tốt, bằng không, ta cũng không thể cứu ngươi đâu." giọng nói lộ vẻ quan tâm. Lục Tiệm nghe vậy lại mềm lòng, không giận được nữa, vì vậy không thể hạ thủ. Một lúc sau, bỗng nghe thấy đằng xa âm thanh hò hét, lẫn với 1 tiếng kêu sầu thảm. Lục Tiệm nghe thấy cũng phải rùng mình, Tất Ky khẽ nói: "Sa sư phụ đến, ngươi cẩn thận đó." Tiếng kêu thảm thiết vừa hết, lại thấy tiếng bước chân, tựa như có người tới gần. Tất Ky bước ra cửa đón chào: "Sa sư phụ, kiếp nô này đã luyện xong thương long thất mạch rồiChỉ thấy người đang đến đó hừm lên một cái, tựa hồ như đang bực mình. Ngay sau đó một lão già gầy gò hiện ra, mắt sâu, gò má cao, má hóp môi mỏng, thái độ khinh khỉnh. Lão lướt mắt nhìn Lục Tiệm một cái, lãnh đạm hỏi: "Ngươi luyện xong thương long thất mạch có cảm thấy điều gì không?" Lục Tiệm trong lòng nghĩ ngợi thuận miệng đáp: "Song thủ tại hạ cảm thấy rất kì quái, để trên mặt đất, có thể cảm thấy người đang đi lại ở đằng xa" Lão già gầy gò đó mục quang bỗng ngưng lại, lộ ra vẻ quan tâm hỏi: "ngoài chuyện đó ra, còn gì nữa không?" Lục Tiệm lắc đầu đáp: "Không còn gì khác" Lão già trầm ngâm hồi lâu rồi gật đầu bảo: "Xem ra như vậy ngươi có thể luyện thành tứ thể thông chính là Bổ thiên kiếp thủ "
Tất Ky vội hỏi gấp: "Sa sư phụ, cái Bổ thiên kiếp thủ đó lợi hại lắm sao?" Lão già cười lạnh đáp: "Đã có tên là bổ thiên, lại không lợi hại sao? 80 năm trước, Thiên bộ trong tây thành luyện xuất được một Bổ thiên kiếp thủ , từ khi kiếp nô đó chết đi, tới giờ chưa từng có người thứ hai. Cụ thể lợi hại thế nào, ta cũng không nắm được rõ, chỉ biết rằng, để giết được tên kiếp nô đó, đông đảo ngũ tôn đã bị chết tới 2 người" Tất Ky nghe vậy vừa sợ, vừa không phục, không kìm được hỏi: "Nhưng đông đảo của ta cuối cùng vẫn giết được kiếp nô đó, phải không?" "Nói là giết thì cũng không hẳn, nhưng ..." Lão già cười hehe, "kiếp nô đó đúng thật là chết vì đông đảo, ngươi có biết tại sao không?" Tất Ky trầm ngâm đáp: "Không hẳn là chúng ta giết, nhưng sao lại chết ở trong tay đông đảo chúng ta?" hai mắt gã bỗng sáng lên, buột miệng đáp "Chúng ta giết chết kiếp chủ của hắn" Lão già lộ ra vẻ tán thưởng, gật đầu nói: "Ngươi phải biết, vô luận kiếp nô lợi hại thế nào, kiếp chủ mà chết, kiếp nô cũng phải chết theo.Ngươi thân đang làm kiếp chủ, phải chú ý tới sự an nguy của chính mình" nói xong giọng lão bỗng hạ nhỏ: "Tất Ky, ngươi từ hôm nay trở đi, chuyên tâm tu luyện người này, 3 kiếp nô đang ở ngoài, không cần phải bận tâm nữa" Tất Ky giật mình hỏi: "Sao lại vậy?" Lão già đáp: "3 kẻ đó không có bản lĩnh gì cả, chỉ làm phí tổn chân khí của ngươi mà thôi" Tất Ky thất thanh thốt: "Thế nếu hắc thiên kiếp của bọn chúng đột nhiên phát tác ..." Lão già lạnh lùng ngắt lời: "phát tác thì sao, chết sớm càng tốt, thêm mồi bón cho cá mập" Nguyên 3 tên kiếp nô này, Tất Ky đã hao tổn khá nhiều tâm huyết, giờ nghe lão nói vậy, trong lòng không khỏi băn khoăn. Bỗng nghe Lục Tiệm lạnh lùng hỏi: "Kiếp nô không phải là người sao?" Lão già liếc nhìn Lục Tiệm một cái, cười đáp: "Ngươi nói đúng rồi, đã là kiếp nô, thì không tính là người nữa...", lời nói vừa dứt, bỗng thấy kình phong ùa vào mặt, lão trong lòng hoảng hốt, nhậy vội ra sau, nào ngờ Lục Tiệm đang từ đại tự tại tướng biến thành chư thiên tướng , bám dính theo người lão, tay phải nắm chặt tay phải lão, tay trái đã vươn ra bóp chặt yết hầu lão rồi. Lão già mặt đỏ bừng lên vì tức giận, cất tiếng chửi: "Thằng Tất Ky ngu xuẩn kia, ngươi cấp giải dược thất sát phá công tửu cho nó rồi hả?" Tất Ky lần đầu tiên chứng kiến biến cố thế này, hai mắt mở lớn, miệng há hốc, lắp ba lắp bắp : "sao? sao? lại? giải dược ở trong tay ngài cơ mà" Lão già nghe nói có lí, nhưng thế lại không hiểu vì sao Lục Tiệm có thể khôi phục được khí lực. Lục Tiệm thấp giọng: "Lão họ Sa kia, đưa ta đến chỗ Chu đại thúc." Lão già bực bội đáp: "Ta tên là Sa Thiên Hoàn, thà chết cũng không chịu để người uy hiếp." Lục Tiệm nổi giận: "Ngươi nghĩ ta không dám giết ngươi hả, cùng lắm thì cả hai cùng chết thôi" Nói rồi bàn tay trái xiết chặt lại, xương cổ Sa Thiên Hoàn vang lên mấy tiếng lách cách. Tất Ky hoang mang thốt: "Sa sư phụ, hảo hán không sợ thiệt chuyện trước mặt, chúng ta tạm thời nghe theo hắn, sau này tính sổ với hắn sau" Sa Thiên Hoàn lúc này đã không nói được rồi, chỉ nghe mấy tiếng òng ọc, Tất Ky xem vậy, đáp vội: "Sa sư phụ đáp ứng rồi" Lục Tiệm thả lỏng tay ra, lạnh lùng hỏi: "Có thật không?" Sa Thiên Hoàn thở hắt ra một cái, cất miệng chửi: "tiểu súc sanh hạ thủ độc ác thật." Lục Tiệm cười lạnh đáp: "Độc ác thế nào cũng không bằng bọn ngươi mang người ra luyện nô" Sa Thiên Hoàn hừm một tiếng: "ngươi vừa nói cần tìm đến ai hả?" Lục Tiệm đáp: "Chẳng phải vài ngày trước bọn ngươi cướp được 1 hải thuyền sao? thuỷ thuỷ trên thuyền đó, hiện thời ở đâu?" Sa Thiên Hoàn nghĩ ngợi một hồi, giật mình hỏi: "Có phải là cái thuyền Địch hi nói đến không?" Lục Tiệm nghe đến tên Địch hi, tự nhiên bực tức, đáp lời: "Đúng vậy, chính là tên tiểu nhân vô tín đó đấy" Sa Thiên Hoàn giận đùng đùng đáp: "Ta cũng đang muốn tính sổ với hắn, hắn phi thư cho ta báo trên thuyền có 20 người, dùng để luyện nô rất tuyệt. Hại ta phải hoả tốc phái 2 hoàng diêu khoái hạm đến, lãng phí hàng chục mê dược huyễn thận yên , đâu có biết rằng cuối cùng toàn thu được phế vật, trừ ngươi ra, không dùng thêm được một ai" Lục Tiệm sợ hãi hỏi: "Lão giết họ rồi à?" Sa Thiên Hoàn đáp lời: "Vẫn chưa. Ban đầu ta tức giận định mang lũ phế vật đó đi làm mồi cho cá mập, bỗng sau đó không ngờ Định hi gửi thư tới nói là bọn đó cứ tạm giam lại, sau này sẽ có lúc sử dụng. Hừm, thiện hạ làm gì có chuyện nói dễ thế, ta bảo với hắn rằng hắn phải tìm cho ta 20 kẻ tố chất tốt để ta luyện nô, cứ lấy một đổi một." Lục Tiệm nghe xong vừa mừng vừa giận, mừng vì bọn Chu Tổ Mô vẫn còn sống, giận vì lão Sa Thiên Hoàn điên rồ này không bao giờ quên chuyện luyện nô, bèn hét lớn thét: "Mang ta tới gặp họ mau" Tính mệnh Sa Thiên Hoàn trong tay hắn, không cách nào khác phải đi lên trước dẫn đường. Lục Tiệm thấy Tất Ky định đi theo, bèn bảo: "ngươi lưu lại luyện nô thất, không được ra ngoài." Tất Ky chứng kiến cảnh Sa Thiên Hoàn bị chế ngự, không dám manh động, vội đứng lại ở phía sau. Trong Luyện nô thất tối đen như mực, trên đường hầm cứ 10 bộ lại có một ngọn đuốc, ánh sáng u u, cảnh vật lúc mờ lúc ẩn. Hai bên đường hầm là các phòng giam bằng đá, thi thoảng lại truyền ra nhiều tiếng kêu rên đau đớn. Lục Tiệm trong lòng biết rằng đó là do "hắc thiên kiếp" của kiếp nô phát tác, bỗng thấy đồng cảm, trong lòng đau như dao cắt, trầm giọng quát: "Sa Thiên Hoàn, ngươi tha hết những người này đi." Sa Thiên Hoàn cười hehe đáp: "Phóng tha cũng chẳng khó gì, chỉ sợ ta mở cửa ra bọn chúng cũng không chịu bỏ đi. Trừ phi ngươi mang kiếp chủ trên đảo đi cùng, hehe, kiếp chủ còn ở trên đảo, ngươi có giỏi đến mấy, cũng chẳng cách nào bảo kiếp nô trên đảo đi trốn theo đâu" Lục Tiệm nghe vậy, chỉ biết im lặng, trong lòng biết rằng chỉ với sức mình làm sao có thể giúp ngần đó kiếp nô chạy trốn, kể cả có chạy thoát, cũng chỉ hại chết họ thôi, bất giác trong lòng căm phẫn, hận không thể bóp một cái nát cổ họng của Sa Thiên Hoàn ra làm hai. Đang trong lúc kìm chế sát ý trong lòng, bỗng thấy trước mặt vài tên ngục tốt bước tới gần, thấy bọn Lục Tiệm bèn ngây hết cả người. Lục Tiệm hơi hoảng, tay không kìm được lại bóp chặt lấy cổ họng Sa Thiên Hoàn, bỗng thấy địa thế đi lên cao rồi trước mặt hiện ra một cầu thang đá, không kìm được quát: "Sao lại đến đây hả?" Sa Thiên Hoàn đáp: "địa lao này ở ngầm dưới đảo, luyện nô thất ở tầng 2, đồng bọn của ngươi bị giam ở trên mặt đảo, không đi lên trên, gặp làm sao hả?" Lục Tiệm bán tín bán nghi, vừa bước vừa im lặng đếm số bậc đá, chỉ thấy cầu thang đó lúc thẳng lúc rẽ, lúc cao lúc bằng, ước chừng đi được 300 bộ, bỗng thấy ánh sáng ở trước mặt oà đến, đã thấy ra đến bên ngoài. Lục Tiệm ra khỏi địa lao, hít thở không khí trong lành, bầu trời bao la, ngước mắt nhìn xa, chỉ thấy trên đảo cằn cỗi vô cùng, chẳng những không có cây cối, cũng chẳng có nhà cửa, giống hệt như một hoang đảo không người, kinh ngạc hỏi: "Trên đảo này không có ai ở hay sao?" Sa Thiên Hoàn cười khẩy đáp: "đấy là cách thức che dấu ở đây, tiểu tử như ngươi sao mà biết được. Ngục đảo này là tuyệt bí của đông đảo ta, vì vậy điều cần nhất là phải ẩn giấu được, nếu nhà cửa san sát, hải thuyền đi qua vừa nhìn đã biết, còn gì gọi là bí mật nữa. Nếu để thế này, có thấy cũng chỉ thấy hoang đảo không người, chẳng ai muốn lên xem xét gì cả" Lục Tiệm im lặng gật đầu, bốn bề là biển cả không bờ, một toà hoang đảo ở đây, không ai có thể nghĩ rằng trong hoang đảo này lại có 1 địa lao cả. Nghĩ vậy bỗng thấy nghi ngờ, bèn hỏi: "Nếu cứ như vậy, bọn Chu đại thúc ở trên đảo chỗ nào?" Sa Thiên Hoàn chống chế: "Trên đảo cũng có vài thổ lao, giam giữ mấy phạm nhân không phải trọng yếu" Lão chỉ về một khối đá to ở đằng xa bảo: "Ở cạnh chỗ đó đó". Nói rồi bước đi, Lục Tiệm thấy vậy cũng phải bước theo. Đi cả nửa ngày hẵn còn cách chỗ vách đá đó vài trăm bộ, Sa Thiên Hoàn bỗng nhiên rẽ ngoặt, đến chỗ bãi cát gần biển, mới bước được khoảng 10 bước, bỗng nghe lão khẽ giọng quát: "Ngừng lại!" Lục Tiệm vừa dừng bước, dưới chân bỗng thấy mềm nhũn, thân không kìm được tụt luôn xuống. Lục Tiệm không ngờ chỗ này có cạm bẫy, trong lòng hoảng sợ vội vã quẫy đạp, chỉ thấy bên dưới đặc quánh, lại có một lực hút vô cùng mạnh, hút tụt xuống dưới. Nhoáy một cái, Lục, Sa hai người song song thụt xuống, bốn bề dầy đặc bùn đất. Lục Tiệm hơi thở khó khăn, bỗng thấy cơ thể Sa Thiên Hoàn trơn như trạch, quậy một cái đã thoát khỏi tay Lục Tiệm. Lục Tiệm vội quơ tay ra nắm chặt lấy tay Sa Thiên Hoàn, chỉ thấy trơn nhẵn rất khó nắm được, đang hoảng loạn bỗng thấy toàn thân Sa Thiên Hoàn rùng mạnh một cái, bị một lực vô hình kéo vọt lên trên, còn một lực hút mạnh vô cùng khác lại hướng vào Lục Tiệm hút xuống. Lục Tiệm chỉ thấy bàn tay trơn nhẵn, vuột mất tay của Sa Thiên Hoàn, bị lực đó hút xuống, nhanh chóng thụt sâu. Lực hút đó hung mãnh dị thường, Lục Tiệm rơi xuống rất nhanh, quanh người bùn đen đặc quánh, phảng phất không bao giờ thấy đáy, Bùn cát ào vào tai, mắt miệng, máu huyết trong người Lục Tiệm chạy toán loạn, tim phổi tưởng như nổ tung ra, tay chân hắn không kìm được khua khoắng loạn xạ, bỗng nhiên thấy bùn cát đang dòn ép từ bốn phía bị bắn ra tung toé, thấy cơ thể dễ chịu đựơc 1 chút. Lục Tiệm rỗi được một hơi, kiếp lực trên hai tay khoách tán ra bốn phương, nhận thấy bùn đất ở phía đông bắc có vẻ ít hơn, bèn giẫy đạp hướng về phía đó, nhưng vừa giẫy xong bùn cát từ 4 phía lại ùa đến ép chặt vào thất khiếu. Lục Tiệm trong lòng biết rằng nếu cứ như vậy chắc chắn sẽ chết, bỗng nhiên nhớ lại vừa rồi, tay chân vùng vẫy loạn xạ, làm bắn vọt bùn đất ra chính là vì ngẫu nhiên đã dùng đến "thần ngư tướng" Hắn không có cách nào để thở, khí lực ở hiển mạnh yếu dần, chỉ có kiếp lực ở ẩn mạch vẫn khi ẩn khi hiện, bèn mượn kiếp lực, biến xuất một "thần ngư tướng" lần nữa, bùn cát theo đó lại bị ép dạt ra 4 phía. Lục Tiệm ngay thi thấy 4 phía hơi lỏng 1 chút, bèn sử "thần ngư tướng" hai lần, quẫy vọt về hướng đông bắc, bỗng thấy ở đó trồi ra một khối đá lớn. Lục Tiệm đang cầu sinh trong cõi chết, hai tay bèn vận lực nắm mạnh lấy, thấy khối đá đó động đậy, bèn sử một "đại du di tướng" đánh mạnh vào khối đá, khối đá đó bị đánh thoát luôn ra ngoài, để lộ ra một cái động to, bùn cát ứ bỗng nhiên có chỗ thoát, theo cửa động phun thẳng ra ngoài, kéo Lục Tiệm ra theo. Áp lực quanh Lục Tiệm vừa giảm xuống, một dòng nước mặt chát ùa vào miệng, không ngờ là đã thoát ra giữa biển, quay đầu lại nhìn, thấy bùn cát ở chỗ cửa động vẫn phun ra ngoài. Bốn phía nước lạnh mờ tối, chẳng thể nhìn rõ được cái gì. Lục Tiệm tinh lực khô cạn, hoàn toàn dựa vào kiếp lực để phong toả mũi miệng ngăn không cho nước biển tràn vào. Đang lúc định mượn kiếp lực để nổi lên mặt biển, bỗng thấy nước bên phải cuộn lên. Hai mắt Lục Tiệm tuy không nhìn thấy, nhưng hai tay lại cảm thấy rõ, một con cá rất lớn ở bên cạnh đang phi tới, thân dài hơn một trượng, miệng đầy răng sắc, bộ dạng thập phần hung ác. Lục Tiệm vội biến một "thần ngư tướng", bay lật người lên, thấy hàm răng nhọn của con cá đó nhoáng qua bên mình, đang lúc phi nổi người lên, bống thấy góc phải trên đầu cũng có một con cá to khác đang nhe răng lao đến, hắn lại phải biến tướng lần nữa. Con cá đó lướt vụt qua thân hắn, đuôi cá quẫy ép mạnh vào người Lục Tiệm, hắn đang lúc khó thở, không kìm được uống luôn vài ngụm nước mặn "Cá mập!" Lục Tiệm bỗng nhiên tỉnh ngộ, chỉ thấy trước sau, phải trái, lũ lượt kéo đến hàng đàn cá mập. Hắn kinh hãi vô cùng, vội liên tiếp biến hoá "thần ngư tướng". Tướng này ở trong lòng biển có hiệu quả kì lạ, mỗi lần biến tướng, nước xung quanh lại loãng ra, vì vậy Lục Tiệm vận động rất nhanh, liên tục tránh thoát những hàm răng nhọn hoắt của lũ cá. Có điều bọn chúng hũng dữ vô cùng, lại kéo đến càng ngày càng nhiều. Lục Tiệm lặn ngụp trong nước một hồi, cảm thấy xung quanh nước liên tục quẫy đạp, chẳng biết có bao nhiêu cá mập đang truy cản hắn nữa. Trực giác của hắn chỉ biết rằng bọn chúng càng lúc càng gần. Đang lúc tuyệt vọng, hai tay hắn bỗng cảm thấy 1 điều, vách đá ở chỗ phụ cận có một cái động huyệt, có thể dung thân được. Lúc này hắn cần nhất là thoát khỏi mồm lũ cá mập, nên không cần biết trong động đó có nguy hiểm gì không, cứ hăm hở lặn tới đó. Cửa động nghiêng hẹp, chỉ vừa lọt thân người. Hắn vừa chui vào trong, đã thấy đằng sau nước xung kích ép đến, truyền lại âm thanh bầy cá mập đang lao vào cửa động ầm ầm. Lục Tiệm nghe thấy cũng phải rụng rời chân tay, bỗng thấy cái động này không phải động kín mà lại có thông đạo đằng sau, bèn phấn chấn tinh thần, biến hoá "thần ngư tướng" lặn theo thông đạo đó. Thông đạo lúc rộng lúc hẹp, ngoằn nghèo hướng lên trên, Lục Tiệm không biết đã lặn được bao lâu, đúng lúc kiếp lực hắn đã gần cạn, không thể biến tướng được nữa, thì thấy áp suất nước giảm mạnh, một luồng nước mạnh phóng lên cao, đẩy hắn vọt lên khỏi mặt nước. Lục Tiệm há miệng hớp hớp không khí liên hồi, chưa kịp minh bạch chỗ mình đến là chỗ nào, trước mắt bỗng thấy tối sầm, ngã ngất luôn xuống. Trong lúc hôn mê, phảng phất hồn hắn rời khỏi thể xác, bay đến một nơi sáng tối giao hoà, hình thể không có, xuyên qua những chỗ sáng tối, ngẩng đầu lên nhìn, thấy ở vùng hắc ám, nhị thập bát tú chiếu hiện rõ ràng. Riêng ở nơi "tam viên đế tinh" có 3 đạo sáng tròn mầu máu như những cái nhẫn "huyết hoàn", từng lớp bao bọc ngang dọc ở đó, sáng rực rỡ, át hết ánh sáng của "tam viên đế tinh". Rồi bỗng nhiên, một đạo nhẫn máu "huyết hoàn" này cứ từ từ mờ dần. Lục Tiệm đang kinh sợ, bỗng thấy "huyết hoàn" đó cứ bị rạn dần, cuối cùng chỉ loé vụt lên một cái, rồi tiêu tán mất. "Huyết hoàn" vừa bị phá vỡ, Lục Tiệm cũng giật mình tỉnh lại, tim đập ầm ầm, trong lòng hắn biết rằng giấc mộng vừa rồi tuyệt không phải là giấc mộng tầm thường, mỗi lần xuất hiện, đều có quan hệ rất lớn với ẩn mạch trong nội thể của hắn. Như vừa rồi 3 đạo "huyết hoàn" phân minh biểu thị cho 3 đạo cấm chế của Ngư Hoà Thượng, hôm nay một nhẫn bị phá vỡ, chính là nói rằng, 3 đạo cấm chế đã mất đi một, chỉ còn lại 2. Lục Tiệm nghĩ đến đây, bất giác buồn rầu, trong lòng biết rằng đạo cấm chế đó bị phá, quá nửa là do bản thân liên ngộ hiểm cảnh, mấy lần cận kề với cái chết, toàn nhờ đến kiếp lực thoát ra, vì mượn kiếp lực quá nhiều, kiếp lực phản lại, cuối cùng cũng phá mất một đạo cấm chế của Ngư Hoà Thượng. Lục Tiệm hối hận vô cùng, tự chửi bản thân ngu xuẩn, nếu không phải vì quá tin vào Sa Thiên Hoàn, làm sao phải rơi vào hiểm cảnh như thế. Tuy nhiên nghĩ đến đây lại an ủi rằng nếu đổi lại là người khác, gặp ngần đó hiểm cảnh, chắc chết mấy lần rồi, vậy mà bản thân vẫn thoát được, di trạch của Ngư Hoà Thượng vẫn ở bên mình, nếu mang được trở về trung thổ, dù có mất một đạo cấm chế, cũng không hẳn đã phụ tâm ý của vị cao tăng ấy. Tuy nghĩ như vậy nhưng Lục Tiệm vẫn còn buồn bực trong lòng, hướng về anh linh của Ngư Hoà Thượng khẩn cầu hồi lâu, cảm thấy ở ẩn mạch, kiếp lực đã yếu đi rất nhiều, đúng là do bị sử dụng nhiều quá, ngay lập tức không thể hồi lại ngay được. Suy tưởng đã xong, hắn mở mắt nhìn về 4 phía, chỉ thấy 4 bề tối đen không nhìn nổi 5 ngón tay, bèn thò tay ra sờ, chạm vào một phiến nham thạch, lạnh băng ẩm ướt. Lục Tiệm hoảng sợ hiểu ra, chỗ này chính thị là một cái động huyệt ở bên dưới của ngục đảo. Động huyệt này, hoặc là do trời sinh, hoặc là do sóng biển lâu ngày xâm thực tạo nên. Lục Tiệm thử hét to lên một cái, nghe thấy âm thanh của mình chuyển hướng bảy tám lần, từng trận từng trận vọng lại, mãi mà không hết, chứng tỏ động huyệt này rất to, không thể do sóng biển xâm thực mà thành, vậy chắc đây là cái động huyệt trời sinh từ ngày xửa ngày xưa. Trong động tuyệt không có ánh sáng, nhưng vẫn có không khí thâm nhập nên không bị thốn khí. Lục Tiệm mắt tuy không nhìn thấy, nhưng có hai bàn tay kì diệu, sờ soạng bốn phía, cảm giác mọi chỗ, thấy ở một chỗ cao tầm 2 thân người, có một cái thạch quật vài chục trượng, bên dưới thạch quật, là một đường thuỷ đạo, nối ra tới biển, lại còn có một cái đầm nước rất sâu. Đầm sâu một mặt nối với biển, mặt kia là bức tường đá gập ghềnh, Ở trên tường đá đó, có một cái cửa động cao hơn nửa thân người, nhưng không biết nối đến đâu. Gần cái đầm đó cũng có vài chỗ đất mềm, có thể ngồi được. Lục Tiệm ngồi đó điều tức một hồi, cơn đói theo đó ập đến. May là trong cái đầm sâu đó, có rất nhiều cá biển, chắc cũng giống như Lục Tiệm, trốn tránh lũ cá mập nên mới bơi đến đây, chỉ là do vận khí bọn chúng không may lắm, thoát khỏi hàm cá mập, thì lại chui vào bụng Lục Tiệm. Lục Tiệm ăn hết vài con cá sống, rồi tìm chỗ làm giường ngủ một giấc, hồi phục sức lực. Trong động không có mặt trời, mặt trăng, không biết đã trải qua bao nhiêu giấc ngủ như vậy. Có lần hắn tỉnh dậy, bống nghe thấy một âm thanh rất nhỏ, rất khẽ, rất mỏng, nhưng trong lòng huyệt động, rõ ràng là một tiếng âm thanh. Lục Tiệm giật nẩy mình, ngưng thần lắng nghe, âm thanh đó vừa hay cũng biến mất, theo hướng mà nói, tựa hồ như từ chỗ cửa động truyền tới. Lục Tiệm chợt nghĩ đến ma quỷ bất giác sợ run, lông tóc dựng đứng cả lên, nhưng rồi lại nghĩ hiện giờ tinh lực sung túc, ở trong động khẩu dù có quái vật thì cũng còn dễ thở hơn lũ cá mập trong biển cả kia, ở đây ko biết ngày đêm, ở mãi cũng chết, thà rằng chịu khó mạo hiểm, tìm kiếm cứu cánh, nếu có thể tìm được lối ra, chẳng phải quá tuyệt hay sao. Dũng khí theo đó nổi lên, Lục Tiệm bèn chui luôn vào trong động. Trong động thập phần tối đen, địa thế thuỷ chung hướng xuống dưới, càng đi càng thấp dần, thông đạo cao thấp khác hẳn nhau, cao thì cao tới mười người, thấp thì nhỏ tịt lại, chỉ còn cách bò qua. Không biết là đi đã bao lâu, ước chừng xuống hơn cả mực nước biển, dần nghe thấy trong động có tiếng nước nhỏ, từ trên rớt xuống, không khí dần trở nên khó thở, hơi nước đậm đặc, nhỏ xuống đầu Lục Tiệm tong tỏng, tụ thành từng hốc nước bên dưới chân. Lục Tiệm lấy hai tay đón nước nhỏ xuống, thử nếm xem sao, thấy vị chỉ hơi lợ lợ, khác xa với nước biển, trong lòng vô cùng vui sướng, bèn uống no một hồi. Rồi hắn lại đi tiếp, nước dưới chân cũng sâu dần, mới đầu chỉ đến chân, rồi đến đầu gối. Lục Tiệm do dự một hồi, nhưng lại nghe thấy âm thanh kia lúc có lúc không, thuỷ chung không dứt, làm cho tính tò mò của hắn khó mà kìm được. Khi nước sâu đến đầu gối, Lục Tiệm cuối cùng cũng nghe rõ thấy âm thanh đó, âm thanh này không phải là tiếng sột soạt, mà giống như tiếng âm thanh người nào đó dùng vật cứng nạo vào trong vách đá. Nhờ động huyệt này có kết cấu kì lạ, khuếch đại được âm thanh, nên tiếng động đó truyền đi rất xa. Lục Tiệm không ngờ chốn này cũng có người, vui đến ngạt thở, chạy vội đến chỗ phát ra âm thanh, mới bước được tầm 10 bước, bỗng ngón chân nhói đau, hoá ra bị vấp phải một bức tường đá, cái âm thanh cọ sát đó chính là từ trong tường đá đó phát ra. Lục Tiệm xem xét cái tường đá đó một hồi, hy vọng tìm được lối đi vào, chỉ thấy tường đá đó vừa cao vừa rộng, không có 1 lỗ hở nào, chẳng cách nào chui qua được. Lục Tiệm thất vọng muôn phần, không kìm nổi lớn tiếng hỏi: "Có ai ở đó không? có ai không?" một hồi lâu không có ai đáp lời, âm thanh cũng tự nhiên mất, Lục Tiệm đúng lúc định kêu tiếp, bỗng nghe thấy một tiếng nói yếu ớt truyền lại: "Đi về bên phải, đi đến đây" Lục Tiệm vui sướng vô cùng, bước thấp bước cao về phía phải, chỉ thấy âm thanh đó nhắc đi nhắc lại: "ở đây, ở đây". Lục Tiệm cứ đi tìm âm thanh đó, bỗng phát hiện ra một kẽ nứt rất nhỏ ở vách đá, thanh âm từ trong kẽ đó truyền ra. Lục Tiệm mừng phát khóc, cười lớn hỏi: "Ai, ai ở đó thế?" Người kia đáp: "Còn ngươi? ngươi là gì vậy? là người? hay là quỷ?" Lục Tiệm hoang mang đáp: "Là người, tôi là người" Người kia im lặng một hồi, rồi bỗng cười sằng sặc, cười đến nửa ngày mới nói:
"Ngươi đúng là một tên trời đánh, tự nhiên hét lên, làm cho ta sợ chết. Cứ tưởng là trong lòng ta bị sinh ra ảo giác, ha ha, tưởng ta có triệu chứng sắp bị điên, hoặc là gặp phải ma quỷ. Ha ha, cứ theo như vậy thì bên phía ngươi không phải là biển hả?" Lục Tiệm nói ra được vài câu, tâm tình mới dần hết bị kích động, hít vào một hơi dài, rồi đáp: "Không phải biển, mà là một cái động rất lớn" "Một cái động?" người kia trầm ngâm hồi lâu, rồi bỗng nhiên hoan hỉ đáp: "Ta biết ngay mà, cái ngục đảo này vốn rất là kỳ quái. Dưới đảo bị rỗng, không có đá, cũng chẳng có nước. Vì vậy mà có rất nhiều huyệt động sâu rộng. Mấy cái động bị lộ ra ở bên trên, đều bị bọn chúng biến thành địa lao, còn những cái động khác, ở dưới sâu trong lòng đảo, sao mà phát hiện ra nổi?" nói rồi lại cười sằng sặc, tựa hồ đặc biệt thú vị. Lục Tiệm đáp: "Các hạ nói rất đúng, vậy tại hạ qua đó nhé". Người kia cười đáp:"Ngươi muốn qua đây à? ha ha, ta lại muốn qua đó." Lục Tiệm kỳ quái hỏi: "Các hạ qua đây làm gì?" Người kia cười đáp: "Sang bên đó rồi đi thoát ra ngoài". Lục Tiệm đáp: "Bên này không thể thoát ra ngoài được". Người kia đáp: "Không thể như vậy được, vì nếu ngươi bảo không có lối thoát ra ngoài được, sao ngươi lại có tiến vào đến đây" Lục Tiệm bèn kể những việc mình rơi vào tay Sa thiên thoàn thế nào, thoát hiểm khó nhọc ra sao, rồi bị lũ cá mập vây đuổi, phải trốn vào trong huyệt đá, đến chỗ tình hình cái động thế nào, nhất nhất kể hết. Người kia bình tĩnh lắng nghe, rồi hỏi: "Ngươi nhắc đến Sa Thiên Hoàn, có phải dáng người gầy gò, khẳng kheo, mặt mũi khinh khỉnh đúng không?" Lục Tiệm vỗ tay nói: "Đúng là hình dáng như vậy" "Ra là kẻ đó", người kia đáp, "có điều ngươi bị kẻ đó hãm hại không oan uổng tẹo nào. Bởi vì ngươi không biết lai lịch của hắn, nếu mà ngươi biết để đề phòng thì đã không bị hãm hại như vậy" Lục Tiệm kỳ lạ hỏi: "Lai lịch hắn thế nào?" Người kia đáp: "Sa Thiên Hoàn chính thực là cao thủ của tây thành trạch bộ, ngày trước tranh đoạt trạch bộ chi chủ, bị thua vào tay người khác, tức giận mà chuyển sang đầu nhập vào Đông Đảo. Cái cách mà hắn dùng để đưa ngươi vào bùn chính là pháp "hãm" của trạch bộ. Ở trong ao bùn động thủ thì đó là tuyệt học của trạch bộ, thiên hạ vô địch. Hắn luyện tập chu lưu trạch kính , ngoài việc giúp hắn trong ao bùn hành động dễ dàng, còn có thể dùng để hút địch nhân vào sâu trong bùn, vào đó để bó tay chịu chết." Lục Tiệm băn khoăn hỏi: "Nhưng chỗ đó toàn cát không hề có chút bùn nào mà?" Người kia cười ha hả đáp: "Sa Thiên Hoàn là cao thủ của trạch bộ, nếu không có ao bùn để luyện tập thì thần thông trạch bộ của hắn sẽ mất dần. Cái ao bùn đó là do lão sai bảo kiếp nô, tự thiết lập nên một chỗ để luyện công. Có điều lão là kẻ tiểu nhân hẹp hòi, sợ người khác biết chỗ ao bùn sẽ đến học lỏm công phu của lão nên những lúc nào không tu luyện thì lão lại nguỵ trang cái ao bùn đó thành bãi cát bình thường. Nếu Lão gặp phải cường địch, thì sẽ tìm cách dụ dỗ họ đến đó, phá vỡ lớp cát bên trên để rơi xuống ao bùn. Khi đã xuống ao bùn thì chính là thiên hạ của lão rồi, không kể ngươi lợi hại đến đâu, quá nửa cũng sẽ chết" Lục Tiệm nghe người kia nói như được vén màn mây mù, không kìm được hỏi: "Khi Sa Thiên Hoàn tạo ra cái ao bùn đó, các hạ cũng ở đó sao?" Người kia đáp: "Không có chuyện đó." Lục Tiệm quái lạ hỏi: "Sao các hạ tả lại những chuyện đó, như là tận mắt chứng kiến vậy?" Người kia cười nhẹ, trả lời: "Ta tuy không tận mắt chứng kiến cũng có thể biết mọi chuyện. Vậy người xưa mới có câu chỉ ngồi ở trong chướng rủ, vẫn biết mọi việc trong thiên hạ , là vì học 1 biết mười, nghe 1 hiểu trăm, chỉ cần từ một điểm nhỏ tin tức có thể suy đoán ra được đại thế của thiên hạ. Huống chi Sa Thiên Hoàn là loại đầu óc bã đậu, làm sao nghĩ được thủ đoạn cao cường, ta chỉ động chân động tay một cái là đoán ra được ngay thôi." Lục Tiệm nghe vậy bội phục nói: "Nói Sa Thiên Hoàn không cao minh, thì tại hạ cũng nghĩ vậy" Người kia hỏi: "Ngươi có thể thoát khỏi ao bùn, trốn khỏi lũ cá mập, chứng tỏ bản lĩnh cũng cao cường. Nói xem, ngươi đến cái đảo này làm gì?" Lục Tiệm lại mang những việc làm thông dịch, giúp bọn Chu Tổ Mô mua súng điểu, rồi gặp "cửu biến long vương", vì cứu bọn chúng phải gian khổ đấu võ ra sao, chuyện Địch Hi không giữ lời hứa, làm toàn bộ hải thuyền bị giam trên ngục đảo thế nào; đến chuyện phải mượn kiếp lực của mình để thoát thân, chế ngự Sa Thiên Hoàn, việc sắp thành thì lại bị hỏng, gặp phải ám toán nhất nhất kể hết. Người kia nghe xong cười nói: "Nguyên lai ngươi là một kiếp nô, thảo nào mới thế. Còn việc ngươi nói Địch Hi không giữ lời hứa, thật ra cũng không đúng lắm. Bằng không nếu lão không giữ lời, đã một phát giết hết sạch bọn ngươi bịt miệng, thế thì trừ lão thiên gia ra, còn ai biết nữa? Chỉ là do tình thế bắt buộc, lão tuy không muốn làm trái lời ước, nhưng lại không muốn số súng điểu kia rơi vào tay thiên bộ, nên xuất sử độc kế mượn đao giết người , dùng bàn tay của Sa Thiên hoàn thu thập bọn ngươi. Bọn ngươi lập đổ ước chỉ hạn chế Địch Hi mà thôi, Lão không tự động thủ, thì không thể nói là bội ước được. Cái tên Chu Tổ Mô kia tự cho mình là thông minh vậy mà định đổ ước thì sơ hở hàng trăm chỗ. Hắn bảo cả đời làm nghề buôn bán, không hiểu thế thì buôn bán kiểu gì?" Lục Tiệm không hề biết gì về việc đánh cược mà lại có vô số chỗ lắt léo như vậy, bất giác cảm thán thở dài nói: "Đúng vậy, nếu có các hạ ở đó, bọn tại hạ chắc không bị dưới cơ Địch Hi" Người kia cười nói: "Kể cả có ta, cũng chưa chắc đã không bị dưới cơ. Trong Đông đảo ngũ tôn, Cửu biến long vương đúng là võ công không phải nhất, nhưng lại là người thâm trầm tính toán nhất. Cái chuyện đánh cược đó, sau này có biến hoá thế nào cũng khó mà qua được mắt lão, vì vậy bọn ngươi có làm gì thì cũng khó mà thoát thỏi tay lão được. Nói vậy là vì bọn ngươi thực lực không lớn, đối thủ lại quá ư là lợi hại, đường thoát của bọn ngươi hầu như không có." Lục Tiệm buồn rầu hỏi: "Nếu nói như vậy thì dù có thế nào, bọn tại hạ cũng không có cách nào thoát thân hay sao?" Người kia cười đáp: "Cái đó cũng không hẳn." Người đó ăn nói khó hiểu, lúc bảo được, lúc bảo không. Lục tiêm nghe ù hết cả đầu, lắp bắp hỏi: "Như vậy là lại vẫn còn có cách gì à?" Người kia cười: "Bọn ngươi rơi vào tình trạng hiện nay, là do ngay từ đầu đã phạm phải điều đại kỵ. Buôn bán cũng như đánh cờ, chỉ 1 chút sơ hở cũng dẫn đến thất bại. Nếu đổi lại là ta, thân ở nơi nước lạ, không hiểu ngôn ngữ, phong tục khác biệt, càng phải cẩn thận vô cùng. Mua hàng ngàn súng điểu 1 lúc rõ là chuyện hiếm thấy, rất dễ làm người khác nghi ngờ, trong đám thương gia đó, kiểu gì chẳng có địch nhân đối đầu trà trộn, vô ý mà bị ám toán, chẳng những mất sạch tất cả, mà còn rước vào hoạ sát thân. Vì vậy những thương nhân giỏi, bất cứ việc lớn nào cũng tìm cách chia thành nhiều việc nhỏ hơn, nhỏ thành nhỏ nữa, Việc lớn mỗi khi được chia thành việc nhỏ hơn, việc nhỏ hơn thành việc nhỏ nữa thì rủi ro cũng theo đó mà giảm đi rất nhiều." "Cứ theo đạo lý đó, Chu Tổ Mô tham lam muốn chóng xong, lúc mua súng điểu của Long khi, đã phạm phải sai lầm lớn. Nếu đổi là ta, nếu có vụ buôn bán thế, sẽ tìm cách biến nó thành nhỏ đi, mỗi lần sai 1 người khác nhau, mua ở những chỗ khác nhau, mỗi lần chỉ mua không quá 100 súng điểu, chia nhỏ ra mà mua. Kể cả có mua phải súng điểu của Long khi cũng không làm lão ấy nghi ngờ đánh động đến Địch Hi. Địch Hi mà không biết có chuyện đó, thì những chuyện sau này cũng không xẩy ra." Lục Tiệm bỗng nhiên đại ngộ, vỗ tay nói: "Nếu mà làm vậy thì chẳng bao giờ thua" "Cũng không hẳn." Người kia cười lạnh nói: "Trên đời này chẳng có việc gì không bao giờ thua. Kể cả việc dùng người chia nhỏ ra đi mua súng điểu ở nhiều chỗ khác nhau, vẫn còn rất nhiều rủi ro. Thương nhân bán súng điểu đúng là nhiều, nhưng ở nước Nhật, nơi chế tạo được súng điểu lại không có nhiều, Cứ như ta biết, chỉ có 3 chỗ làm được thôi, một ở tử đảo, một ở tạp hạ, một ở ??? thành. Ngày xưa ta đến, còn nghe đồn ở Quốc hữu thôn thuộc Trương Quốc cũng là một chỗ chế tạo súng điểu lớn, nhưng cũng không biết có thật không? Vì nguồn cung có hạn, số lượng súng sản xuất hàng năm tính được dễ dàng. Long Khi là thủ lãnh của bọn buôn bán súng điểu, một khi phát hiện ra một số lượng lớn súng điểu biến mất, tất sẽ truy tìm khắp nơi, với bản lĩnh của bọn chúng chẳng khó gì mà không tìm ra sự thật, khi đó thì mới thật sự là phiền." Lục Tiệm nghĩ một hồi, mới hiểu được những lời của người kia, gật đầu nói: "Các hạ nói chí phải."
Người kia thở dài nói: "Vậy mới nói, thu mua súng điểu chỉ là hạ sách. Thượng của thượng sách là chiêu mộ tìm người biết chế tạo súng, rồi tự mình chế ra súng điểu" Lục Tiệm đáp: "Người Nhật tính vốn rất hẹp hòi, có chút bản lĩnh đó nên giấu kĩ lắm không bao giờ truyền ra ngoài. Các hạ có chiêu mộ cũng chẳng ai đến đâu." người kia cười ha ha rồi mắng: "Thằng bé ngốc, bọn thợ đó không chịu đi cùng ngươi, ngươi không thể bắt cóc lấy vài người, ép chúng về nước mình được hả?" Lục Tiệm nghe lấy làm sợ, hoang mang đáp: "Nếu làm như vậy chẳng phải là mình không tốt sao." Người kia cười: "Có gì mà không tốt, làm việc lớn không câu nệ tiểu tiết, hà huống ta không giết chúng, chỉ ép chúng tiết lộ cách chế tạo súng, sau đó lại thả chúng về nước.", nói đến đây, người kia ngừng lại hồi lâu rồi lẩm bẩm: "kì quái, kì quái." Lục Tiệm bèn hỏi: "Cái gì kì quái?" Người kia đáp: "Ngươi nói Chu Tổ Mô là người của Thiên bộ, sao lại đến nhật bản tìm mua súng điểu làm gì?" Lục Tiệm đáp: "Đấy là theo những gì Địch Hi và Chu Đại Thúc nói chuyện." người kia đáp: "Điều này rất lạ, chuyện mua súng điểu này sơ hở trăm chỗ, ông nội bọn chúng - lão Trầm qua tử vốn là ngươi thế nào? mà sao lại có tay thủ hạ ngu thế?" Lục Tiệm không nhịn được hỏi: "Các hạ thường nói đến Trầm qua tử, người đó lợi hại lắm sao?" người kia cười lạnh 1 tiếng: "Lão đó có biệt hiệu là thiên toán (trời tính), có câu người tính không bằng trời tính , ngươi xem thế thì biết lão ấy lợi hại hay không lợi hại?" Lục Tiệm gật đầu 1 cái lầm rầm nói: "Thế thì quả thật lợi hại." Người kia đáp: "Vì lão ấy như vậy, nên việc kia rất kì quái. Ở trong tây thành, Lão họ Trầm là người có đầu óc nhất. Lão vốn tính giỏi thế, sao lại bỏ thượng sách mà dùng đến hạ sách, phải đi tìm mua súng điểu? nếu thật sự phải mua, cũng phải phái người giỏi giang đi chứ sao lại phái tên Chu tổ mộ ngu xuẩn kia? Mà nếu thật phải đưa tên ngu đó đi, cũng phải học theo Gia Cát khổng minh, đưa cho hắn cẩm nang diệu kế nào chứ không để hắn tự tung tự tác thế được. Mua súng điểu vốn là chuyện kinh thiên động địa, ai cũng đều biết cả." Thấy người kia luôn miệng nói kì quái. Lục Tiệm thở dài nói: "Người thông minh đến đâu cũng có lúc hồ đồ, tại hạ biết một người cực kì thông minh, chỉ bởi vì vô ý nhất thời mà hai mắt bị người ta huỷ mất thành ra mù loà." Người kia ồ lên đáp: "Điều này cũng hợp với đạo lý, bởi vì suy tính ngàn điều, cũng sẽ lọt 1 điều không tính hết , có thể lão họ Trầm này quá giầu rồi, với vụ mua bán này không thèm bận tâm, thành thì tốt, mà bại cũng chẳng sao." Lục Tiệm cùng người kia cách tường nói chuyện, nhận thấy người đó tâm tư cẩn mật, lời nói thâm sâu, mọi chuyện đều rõ như lòng bàn tay, đồ rằng đây là một nhân vật tiền bối am hiểu sự đời, không kìm được bèn hỏi: "Xin hỏi tiền bối, phía bên ngài là chỗ nào vậy?" "Phía bên ta hả?" người kia cười đáp: "ngươi nói ngươi từng ở trong luyện nô thất, địa lao đó là ở tầng mấy?" Lục Tiệm đáp: "ở tầng 2." Người kia bèn đáp: "Chỗ ta ở là tầng 9, là địa lao sâu nhất trên ngục đảo." Lục Tiệm la lên thất thanh: "Gì cơ?" người kia lại hỏi: "Người từ luyện nô thất đi lên mặt đảo hết bao lâu". Lục Tiệm nhớ lại đáp: "Tầm 3 khắc." Người kia cười: "Ta từ ở trên đảo bị đưa xuống đây, quanh quo vòng vèo, tổng cộng đi hết 3 ngày. Vì vậy một ngày ta chỉ ăn một bữa, do người đưa cơm cả đi cả về phải mất 6 ngày. Vì đi lại lâu vậy nên mấy tên tiểu yêu đó bực tức, vẫn thường đưa đến những suất cơm đã nấu được vài ngày, he he, chắc là bọn chúng trốn việc ngủ thêm trên đường đưa cơm." Lục Tiệm kinh hãi hỏi: "Thế thì cơm chẳng phải sẽ bị thiu sao, làm sao ăn được nữa?" Người kia cười khẩy: "Cơm thiu thì đã làm sao? để giữ mạng, nếu cần giun dế cũng vẫn phải ăn. Chậc, tầng 2 không có ánh sáng hả." Lục Tiệm đáp: "Cũng có." Người kia trầm mặc hồi lâu: thở dài nói: "Tầng 7 đã không có đèn đuốc gì rồi, ta rất muốn được nhìn thấy ánh sáng, nhìn hé chút cũng được." Lục Tiệm nghe đến đây, không hiểu sao trong lòng đau xót trầm giọng hỏi: "Tiền bối, ngài ở đây đã bao lâu rồi?" người kia đáp: "Cứ tính theo số lần đưa cơm thì tổng cộng là 413 lần, tức là 413 ngày, nhưng nếu tính cả những ngày bọn chúng lười không thèm đưa, cộng thêm vào thì phải tầm 800 ngày rồi." Lục Tiệm kinh hãi hỏi: "Tiền bối ở đây đã 2 năm rưỡi rồi sao?" Người kia đáp: "Có gì mà ngạc nhiên?" Lục Tiệm nao nao hồi lâu, thở dài đáp: "Vì đã rơi vào tay bọn chúng, sao chúng không đem ngài luyện thành kiếp nô?" Người kia đáp: "Nếu bị luyện thành kiếp nô, ta đã phải cảm ơn trời đất rồi." Lục Tiệm ngạc nhiên vô cùng: "Biến thành kiếp nô là điều bất hạnh nhất trên thiên hạ, sao ngài lại còn muốn cảm tạ trời đất?" "Ngươi cứ bình tĩnh, ta sẽ giải thích." người kia đáp: "Bị luyện thành kiếp nô, có 3 điều tốt. Thứ nhất, nếu là kiếp nô, phải có kiếp chủ, có người nói chuyện giải buồn với ngươi, chứ không tịch mịch như ở đây. Thứ hai, chỉ cần có người chịu nói chuyện với ta, ta có thể thuyết phục được hắn. Nếu có thể thuyết phục được, thì có thể chạy trốn. Thứ ba, có kiếp lực trong người, không kể tự nhiên có khả năng kì lạ mới, chỉ tính việc chuyển hoá thành nội lực, ngoại lực, khi đã thoát ra khỏi đây, sẽ tính toán với bọn chúng sau." Lục Tiệm nghe vậy ngây người, hồi lâu hỏi: "Trong 2 năm rưỡi ở đây, vậy là không ai nói chuyện với tiền bối." "Đến quỷ cũng không có ai." người kia hừ lạnh, "bọn người kia không phải không muốn nói chuyện với ta, mà là không dám vì sợ ta dụ dỗ mê hoặc đào thoát đi mất, vì vậy bọn chúng có nghiêm lệnh, ai nói với ta sẽ bị cắt lưỡi chọc thủng tai. Đưa cơm bao giờ cũng là 2 người, giám sát lẫn nhau, lại còn dùng bông nhét kín vào tai." "Bởi vậy hồi ta mới bị giam ở đây, một chút âm thanh cũng không có, gần như phát điên. Sau đó không hiểu sao, tự nhiên bình tĩnh lại. Ta chỉ sợ lâu ngày không nói chuyện quên tiếng nên đành phải nói chuyện với chính mình." Lục Tiệm thấy kì hỏi: "Sao mà tự mình nói với mình được?" "Sao lại không thể?" người kia cười: "Ta hàng ngày thức dậy, tự gọi tên mình, hoặc dùng cố sự gì đó, tự giảng cho mình nghe, hay nghĩ đến một vấn đề hóc búa nào đó, tự hỏi tự trả lời. Ha ha, ngày tháng kéo dài, giờ thành thói quen rồi." Lục Tiệm không nhịn được: "Nhưng tiền bối không biết, đã là kiếp nô thì không còn tự do nữa, suốt đời chịu sự khống chế của kiếp chủ." người kia cười khẽ đáp: "Điều đó chưa hẳn đúng, nếu như kiếp nô thông minh hiểu đời, làm sao không có cách chế ngự kiếp chủ. Ngươi nói xem, từ xưa tới nay nhiều vị hoàng đế quyền lực đã không lớn, lại còn thường bị bầy tôi thông minh điều khiển. Vì vậy mọi việc đều là tự bản thân mình, cái gọi là vô chủ vô nô chỉ là câu rắm lớn, ta nếu có là kiếp nô, cũng có khả năng bắt kiếp chủ phục tùng, vì ta mà xuất lực." Người kia thấy hồi lâu Lục Tiệm không nói gì, bèn hỏi: "Ngươi sao vậy?" Lục Tiệm hít vào một hơi thật dài mới có thể trả lời: "không, không có gì, chỉ do mệt quá thôi." Người kia quan tâm bảo: "Nếu mệt thì nghỉ ngơi đi, chuyện này cũng không cần phải gấp." Lục Tiệm lúc này toàn thân mệt mỏi, muốn biến tướng cũng không thể, bèn quay trở lại bờ đầm, trầm ngâm suy nghĩ: "Chắc vừa rồi vận toàn lực phá tường mượn kiếp lực nhiều quá, nên động đến đệ nhị đạo cấm chế, muốn yên thân, chắc phải để mặc họ thôi...," nhưng vừa nghĩ đến đây, trong lòng tự thấy xấu hổ vô cùng: "Lục Tiệm ta sống được đến bây giờ, hoàn toàn nhờ vào Ngư Hoà Thượng đại sư ban cho. Đại sư không quản tính mệnh xả thân vì ta. Thế mà sao ta tham sống sợ chết, thấy người lâm vào vòng tuyệt cảnh mà không cứu như vậy." Nghĩ đến đây, hào khí nổi lên, nghỉ ngơi một hồi, lại đi phá tường ngục. Đến một ngày vừa mới đánh được hai lần, bỗng nghe tiếng bụp một cái, tay đánh vào trong không khí, bức tường ngục đó cuối cùng cũng bị xuyên thủng, một luồng khí hôi hám theo đó ùa ra lòng động, ập thẳng vào mặt. Lục Tiệm hơi sợ vội vã bước tránh sang một bên. Chỉ nghe thấy ngươi kia cười lên ha hả: "Tuyệt, thật tuyệt, giờ hẵn còn hơi nhỏ, đợi lúc đục to ra một chút, ta có thể thoát ra được rồi." Tường đá đã bị xuyên thủng một lỗ, xung quanh đá đã bị nứt ra, tiếp tục đào khoan, dễ hơn rất nhiều. Người kia ở phía đối diện cũng dùng một phiến đá khoan cùng. Cũng không biết đã được nhiêu ngày, đến một hôm, Lục Tiệm đang lúc mệt mỏi, bỗng nhiên nghe thấy người kia reo lên: "Xong rồi, ngươi lùi lại đi." Lục Tiệm lùi lại hai bước, rồi cảm thấy từ trong lỗ một bàn tay gầy gò thò ra, tiếp đến là bả vai, người đó bảo: "kéo giúp ta nào." Lục Tiệm nắm tay kéo mạnh một cái. Người đó mượn lực chui tọt ra, rơi cả xuống nước. Lục Tiệm giúp lão đứng dậy, cảm thấy lão gầy gò vô cùng, tự thấy thương cảm, thở dài nói: "Tiền bối gầy quá." Người kia cười hihi: "Đó là do ta cố tình đó, nếu mà không gầy, làm sao chui qua chỗ này được?" Lục Tiệm cũng lấy làm kỳ, bỗng thấy người kia hỏi: "Ngươi tên là gì?" Lục Tiệm trả lời: "Tại hạ tên là Lục Tiệm, Lục trong lục địa, tiệm trong thuỷ trảm tiệm, tiền bối tên gì?" "Ngươi hỏi ta à?" người kia hỏi: "nếu ta bịa ra một cái tên giả lừa ngươi, ngươi có tức giận không?" Lục Tiệm thấy kì quái hỏi: "Sao tiền bối phải lừa tại hạ chứ?" người kia hừ lạnh nói: "người tốt như ngươi, thế gian ngày càng hiếm dần, thật là đáng ghét." Lục Tiệm nghe càng thấy kì bèn bảo: "tiền bối không thích nói tên ra thì thôi, cần gì phải bực tức." Người kia im lặng rồi đáp: "Cái gì mà không thích? Lão tử đi không đổi tên, ngồi không đổi họ. Họ Cốc tên Chẩn, Cốc trong vũ thanh minh chi cốc, chẩn trong ngọc chẩn" Lục Tiệm nghe không rõ bèn hỏi: "Ngư châm gì cơ?(người dịch chú: chắc là Lục Tiệm nghe nhầm ngọc chẩn thành ngư châm) chỉ nghe có ngư câu (lưỡi câu), ngư thứ (xương cá), sao còn có ngư châm gì nữa?" Cốc Chẩn phì một cái: "Ngọc ở đây là ngọc trắng không tì vết, chứ không phải là ngư não cá khô của ngươi. Chẩn ý là ôn nhuận tinh tế. Cái tên này do mẹ ta đặt, nói là lấy từ “văn tế khuất nguyên”, trong văn tế đó có câu: ‘lan huân nhi tồi, ngọc chẩn tắc chiết’, ý nói là hoa lan quá thơm, thì vẻ ngoài tàn tạ, mà phiến ngọc quá mỏng, thì sẽ dễ bị gẫy" Lục Tiệm hâm mộ nói: “Cốc tiền bối, mẹ ngài thật là giỏi, không ngờ lại hiểu biết nhiều như vậy, chẳng như tại hạ, trên người có vết bớt thế nào, thì lấy luôn đó làm tên.” “Hiểu biết nhiều cái rắm thối à?” Cốc Chẩn lạnh lùng đáp: “Mụ già hôi thối ấy luôn ra vẻ đáng thương, những điều mụ nói, ta không thèm quan tâm.” Lục Tiệm hoảng sợ đáp: “Sao ngài lại chửi, chửi …” Cốc Chẩn cười lạnh đáp: “chửi mẹ ta hả? mụ ấy đúng thật là một mụ già hôi thối, không thể nói khác” rồi không đợi Lục Tiệm phản bác, cười hỏi: “ngươi nói có vết bớt trên người, rồi hình văn tự gì, thành tên ngươi là thế nào vậy?” Trên thân Lục Tiệm có vết bớt hình chữ “tiệm”, ông nội hắn bèn lấy luôn chữ đó đặt thành tên cho hắn. Cốc Chẩn nghe xong cười sằng sặc, vỗ tay bảo: “ông nội ngươi thật là thú vị, cách đặt tên người như vậy, quả là hết sức vòng vèo. Rất tốt, tên của ngươi vốn gốc là do trời sinh ra trên người, so với lai lịch tên của ta thì hơn nhiều lắm.” Lục Tiệm từ nhỏ đã ghen tị với kẻ khác có mẹ còn hắn thì không, giờ thấy Cốc Chẩn có mẹ mà không biết quý trọng, trong lòng thấy rất không vừa lòng, đang định khuyên bảo vài câu, bỗng nghe Cốc Chẩn cười nói: “Chỗ này quả nhiên hay hơn trong địa lao, có cả nước để tắm nữa.” tai nghe luôn thấy tiếng nước bì bõm. Cốc Chẩn đã nhẩy vào mấy vũng nước tắm rửa mặt mũi, chứng tỏ ngày xưa chưa bị vào địa lao, chắc vốn là người rất sạch sẽ. Tắm rửa xong xuôi, hai người đi đến bờ đầm, Cốc Chẩn hỏi: “Ta đói quá, có gì ăn không?” Lục Tiệm bèn thò tay bắt cá đưa lão, Cốc Chẩn chẳng nề hà gì đưa lên miệng ăn sống luôn, vừa ăn vừa cười nói: “Lâu lắm rồi mới được ăn thịt.” Ăn xong nằm lăn ra ngủ rất thoải mái. Ngủ một hồi lâu, Cốc Chẩn cũng đến lúc thức dậy, mở miệng hỏi liền: “Lục Tiệm, ngươi nói rằng dưới đầm này có thuỷ đạo thông ra tận biển, đúng không hả?” Lục Tiệm đáp: “Không sai, cái thuỷ đạo này vừa dài vừa quanh co, nếu không giỏi bơi lặn, rất khó chui xuống, kể cả đủ sức chui xuống, thì còn có bầy cá mập đông nghịt ở ngay cửa hang.” Cốc Chẩn than: “Nhưng chỉ có duy nhất một đường thoát này thôi.” Lục Tiệm đáp: “Cửa địa lao bên ngài thế nào? tại hạ có thể dùng biến tướng, biết đâu lại có thể đánh vỡ thoát ra ngoài.” Cốc Chẩn cười một tiếng, lạnh lùng đáp: “Là cửa sắt, dầy 3 thước, mà không chỉ có một cửa, trước sau có 3 cửa tất cả, toàn là cửa sắt ngàn cân nặng, lại còn sử dụng cơ quan để khống chế. Cơ quan này mới thật sự là tàn độc, cơ quan mở cửa thứ nhất đặt ở phía sau cánh cửa thứ hai, cơ quan mở cửa thứ hai đặt ở phía sau cánh cửa thứ 3, giả sử có phá được một cửa thì cũng không còn sức để phá được cửa kia, hehe, kể cả ngươi có bản lãnh thông thiên, phá được cả 3 cánh cửa đó thì còn phải gặp vô số kiếp chủ kiếp nô đợi sẵn, hỏi sao tránh khỏi cái chết?” Lục Tiệm bi phẫn vô cùng, đấm tay xuống đất lớn tiếng hỏi: “Cốc tiền bối, tại sao người trong Đông đảo lại quá ác độc như vậy?” “Không cần nói điều đó.” Cốc Chẩn điềm nhiên đáp: “Cái thuỷ đạo kia vì vậy là đường thoát duy nhất của ta và ngươi, ngươi hồi xưa đi trong đó thế nào, kể lại thật chi tiết cho ta nghe, biết đâu ta lại tìm ra được cách nào.” Lục Tiệm bèn kể lại chi tiết. Cốc Chẩn trầm ngâm đáp: “Như vậy mà nói, ngươi thoát được đến chỗ này, hoàn toàn là nhờ vào kiếp lực. Nhưng ta nghe nói nếu mượn kiếp lực nhiều quá, sẽ bị phản lại, sao ngươi lại không làm sao cả?” Lục Tiệm thở dài, mang chuyện Ngư Hoà Thượng không tiếc mạng sống thiết lập 3 đạo cấm chế cho hắn ra kể lại đầu đuôi. Cốc Chẩn nghe xong, lạnh lùng bảo: “Ngư Hoà Thượng đó cùng với ngươi, toàn là những kẻ ngây thơ tin người quá đáng, nên luôn phải chịu thiệt thòi.” Lục Tiệm nghe đến đây, tự nhiên nỗi tức giận trào lên, lớn tiếng nói: “Cốc tiền bối, ngài nói điều này rất hồ đồ, nếu như không có đại sư Ngư Hoà Thượng, chẳng những ta đã phơi xương lạnh từ lâu mà ngài cũng không thể đến ngồi ở đây được, ngài nói đi.”
Nói rồi vô cùng giận dữ, đi về phía hướng địa lao, phá rộng lỗ hổng trên tường ngục rồi chui vào bên trong. Tìm hiểu một hồi, quả nhiên như lời Cốc Chẩn nói. Lục Tiệm cứ cầm một khối đá phá cửa, chỉ thấy đá vỡ tan tành, mà hổ khẩu tay thì đầy máu
Chương 10 Đào vong
Lục Tiệm im lặng, cắm cúi xem xét hang đá, bỗng nghe thanh âm Cốc Chẩn truyền lại: “Địa lao này có tên là cửu u tuyệt ngục, do các bậc tiền bối của Đông hải hao tổn hàng chục năm khổ tâm tạo nên. Trải qua 200 năm, trừ ta ra, chỉ giam thêm 2 người khác, 2 người này đều là những nhân vật kinh thiên động địa, võ công hơn ta hàng trăm lần, cuối cùng cũng vẫn phải chịu thảm tử trong ngục này. Nhưng không ngờ, cả các tiền bối tạo ra ngục này, cũng như các tiền bối đã bị giam ở đây đều không biết rằng sau bức tường ngục, lại có một cái hang khác, nếu không nhờ ngươi, ta cũng không thể biết”. Nói đến đây, giọng lão bỗng trở nên bùi ngùi: “Lục Tiệm, những lời ta nói lúc nãy, ngươi đừng để tâm làm gì. Ta đang nghĩ đến một chuyện, có thể giúp chúng ta trốn thoát.” Lục Tiệm thấy lão nói vậy, cũng không quan tâm lắm chỉ tiện miệng hỏi :”Việc gì vậy?” Cốc Chẩn cười đáp: “Ta trước tiên hỏi ngươi, nếu như không có lũ cá mập, bọn ta đơn độc thoát thân, có mấy phần thành công?”. Lục Tiệm nghĩ một lúc rồi đáp: “5 phần”. Cốc Chẩn vỗ tay cười nói: “Tuyệt, tuyệt.” Lục Tiệm trong lòng kì quái, bèn hỏi: “Bọn ta dụ lũ cá mập đó bỏ đi thế nào được?” Cốc Chẩn cười đáp: “Nếu chỉ hai bọn ta, dùng huyết nhục của bản thân, cũng chỉ có thể làm mồi cho lũ cá đó thôi, chẳng có cách gì dụ bọn cá đó bỏ đi. Tuy nhiên, có người lại làm được điều đó đấy.” Lục Tiệm lạ lùng hỏi: “Ai lại có lòng tốt vậy?” “Bọn chúng cũng không có lòng tốt gì đâu, cũng vì bất đắc dĩ mà thôi” Cốc Chẩn trả lời, “Hình thế ngục đảo này, ngày trước ta đến, cũng biết vài điều. Ngục đảo chia ra thành đảo nội và đảo ngoại. Đảo nội là chỗ mà ta và ngươi đang ngồi đây, trên đảo nội không có nhà cửa, không có thuyền bè, tuyệt đối giống như hoang đảo.” Lục Tiệm nhớ lại ngày trước cũng nhìn thấy vậy, gật gật đầu, lại nghe Cốc Chẩn nói: “Đảo nội không có thuyền bè, một là không có chỗ ẩn náu, hai là đề phòng phạm nhân đoạt thuyền đào tẩu, vì vậy tất cả thuyền bè đều đỗ tại phần đảo ngoại ngoài trăm dặm, nếu có việc gì, người lãnh đạo đảo nội sẽ dùng chim để liên lạc với đảo ngoại, điều thuyền từ đảo ngoại về. Sở dĩ phải làm như vậy là để đề phòng. Phải biết rằng, ngục đảo giam giữ tù nhân, chẳng những võ nghệ tuyệt luân, lại thường thuộc loại bất khuất, để phòng những người như vậy chạy trốn, các tiền bối của Đông đảo lại dùng thêm lưới sắt chăng kín 4 bề đảo nội, bắt cá mập thả thật nhiều vào đó, lại bắt thêm cá thường thả vào, tạo nên một cái đầm đầy cá mập, nếu có ai dám nhẩy xuống, bất kể võ công lợi hại đến đâu, cũng sẽ bị lũ cá mập nuốt sạch.” “Các bậc tiền bối đó làm vậy tuy rằng rất diệu, nhưng lại không tính đến 1 việc, đó là lũ cá mập bản tính hung tàn, phàm ăn kinh khủng, cá thường trong ao không đủ no bụng, thành ra chúng liều mạng phá lưới ra ngoài, hoặc cùng với đồng loại tương tàn. Nhìn thấy lũ cá mập như vậy. Không có cách nào khác, đảo ngoại hàng ngày đều phải dùng vài thuyền chở cá thường, đến giờ thì bỏ xuống đầm cho cá mập ăn. Vì vậy khi những thuyền này đến, lũ cá mập sẽ tập trung xung quanh thuyền, tranh nhau thức ăn, bọn ta có thể lợi dụng lúc đó để thoát thân” Lục Tiệm nghe vậy, trong lòng le lói một phần hy vọng, bèn hỏi: “Cốc tiền bối, tiền bối có biết khi nào thì lũ cá mập được cho ăn không?” Cốc Chẩn cười nói: “Điều đó ta cũng không biết, nhưng mà không phải là không có cách” “Cách nào bây giờ?” Lục Tiệm chán nản hỏi: “Nơi này chẳng có ánh sáng mặt trời, chẳng biết thời gian thế nào” Bỗng nghe Cốc Chẩn cười hi hi một cái, vươn tay ra nắm lấy mạch môn của hắn, Lục Tiệm ngạc nhiên hỏi: “Cốc tiền bối, tiền bối làm gì vậy?” Cốc Chẩn đáp: “Xem mạch của ngươi”. Lục Tiệm lại hỏi: “Tại hạ không bị bệnh, bắt mạch làm gì?” Cốc Chẩn đáp: “Ta không phải khám bệnh cho ngươi, mà là đang xem giờ” Lục Tiệm lạ lùng hỏi: “Xem mạch sao lại biết thời gian được?” Cốc Chẩn cười đáp: “Trong sách y có một đoạn y quyết cực kỳ nổi tiếng, có tên là ‘tử ngọ lưu chú’. Có nói rằng vào ngày khác nhau, giờ khác nhau, khí huyết con người sẽ tập hợp vào các huyệt vị khác nhau, Như ngày giáp canh thìn, khí huyết tập trung ở huyệt ‘dương khê’, mà ngày ất canh kỷ, khí huyết tập trung ở huỵêt ‘thái xung’. Thầy thuốc giỏi vẫn thường căn cứ vào pháp ‘tử ngọ lưu chú’, dựa vào ngày tháng, chọn các huyệt khác nhau để trị bệnh. Ngược lại thì sao? chỉ cần mình tinh thông mạch lý, xem xem khí huyết cơ thể đang tập trung ở huyệt vị nào, là có thể tìm ra ngày giờ hiện tại. Phải biết cơ thể con người cũng như một cái đồng hồ vô cùng tinh xảo, chẳng những có thể nói được giờ, mà còn có thể nói đựơc cả ngày. Về điểm này,đồng hồ tây phương không sao bì được.” Lục Tiệm không kìm được cười hỏi: “Tiền bối đang bắt mạch, có biết giờ là mấy giờ rồi không?”
“Ta vốn là thần y, sao lại không biết?” Cốc Chẩn cười nói: “Như khí huyết hiện nay của ngươi đang ở huyệt thiểu thương , cứ theo y quyết ‘tử ngọ lưu chú’, ‘tân nhật mão thì thiểu thương bổn’, vậy lúc này là ngày tân, giờ mão.” Hai người tựa hồ trời sinh đã có duyên với nhau, trong chốc lát xoá sạch mọi hiềm khích, cười cười nói nói, đi lại gần bờ đầm. Cốc Chẩn đem pháp “tử ngọ lưu chú” ra dậy cho Lục Tiệm, Lục Tiệm hai tay có sẵn kiếp lực, ngay khi minh bạch mạch lí, cảm nhận được kinh mạch vận chuyển vô cùng dễ dàng, chỉ qua ba bốn canh giờ, đã học xong. Cốc Chẩn cười nói: “Giờ tính thời gian thì không có vấn đề gì, nhưng còn một vấn đề nan giải nữa. Ta và ngươi phải thay phiên nhau lặn xuống thuỷ đạo, ra đến chỗ cửa hang để thám xét động tĩnh của lũ cá mập.” Lục Tiệm than thở: “Việc này cũng không phải dễ gì, tại hạ dựa vào kiếp lực, có thể lặn đến đó rồi quay lại, nhưng tiền bối lại không có kiếp lực, chỉ sợ không đủ sức” “Lục Tiệm, ngươi có xem thường người khác không?” Cốc Chấn hừ lạnh một tiếng: “Ta tuy rằng không có kiếp lực, lại không giỏi thuỷ tính bằng ngươi, đúng là lặn đến cửa hang không hề có vấn đề nhưng lúc quay sợ không còn đủ sức. Nhưng ngươi cứ yên tâm, bản nhân tự đã có diệu kế” Lục Tiệm hoan hỉ hỏi: “Diệu kế thế nào?” Cốc Chẩn nói: “Bọn ta tận dụng quần áo, xé thành từng sợi nhỏ, kết thành 1 sợi dây dài, một đầu buộc vào bụng người kia, người còn lại giữ 1 đầu, đứng ở trên bờ, người ở dưới nước nếu mà thấy không đủ sức quay lại, sẽ giật giật sợi dây 3 lần, người đứng ở trên bờ, dùng lực kéo dây, giúp người kia 1 tay” Lục Tiệm do dự đáp: “Thế thì phải cởi bỏ hết quần áo à” Cốc Chẩn cười vang: “Hai người bọn ta đều là nam nhân, ở đây lại tối om thế này, sợ gì hả? ha ha, nếu ngươi là một cô gái, thì cách này mới có phiền phức.” Lục Tiệm bực mình: “Lão mới là con gái thì có” Hai người nhanh chóng cởi bỏ quần áo, xé thành từng sợi nhỏ, kết thành một sợi dây dài hàng chục trượng. Lục Tiệm đem xá lợi của Ngư hoà thượng ra, lấy vải bọc lại rồi đeo lên trên cổ, rồi dùng kiếp lực hộ thân, không chậm chễ nhẩy ngay xuống nước, theo đó lặn xuống thuỷ đạo, thuận theo dòng nước dễ dàng rất nhiều. Nhưng khi đến chỗ cách cửa hang vài chục trượng, thì dây đã hết. Lục Tiệm căng mắt nhìn về phía cửa hang đằng xa, chỉ thấy sắc đen lay động, chẳng có cách nào để biết được động tĩnh của lũ cá mập, đành phải chuyển mình, giật dây 3 lần, Cốc Chẩn thấy vậy, kéo hắn trở lại. Nghe Lục Tiệm thuật lại xong, Cốc Chẩn trầm mặc một hồi, bất ngờ vươn tay tìm một viên đá sắc cạch, đưa lên cắt đứt mớ tóc dài trên đầu, miệng cười nói: “Tóc ơi là tóc ơi, ngươi mọc dài đã hai năm nay, ta vốn vẫn ghét ngươi càng ngày càng dài, không ngờ hôm nay cơ duyên xảo hợp, lại có thể sử dụng đến ngươi” lão cứ ngân nga trầm bổng, nghe như đang hát. Lục Tiệm nghe thấy, không nhịn được cười, rồi cũng bắt chước lão, cắt tóc của mình. Tóc của cả hai người gộp lại, cũng kết được một sợi dây dài tầm 40 trượng. Lục Tiệm lại xuống nước lần nữa, khi vừa men đến gần chỗ cửa hang, đã nhìn thấy trong làn nước xanh đen, từng bóng thẫm mầu dài dài ngang dọc bơi lội, tới lui rất nhanh, chính là một bầy cá mập đang lùng xục. Quan sát một hồi, hắn dần đuối hơi, bèn giật giật sợi dây, quay lại bờ ao. Đến lượt Cốc Chẩn buộc dây vào người, thay hắn nhẩy xuống nước. Lục Tiệm quan tâm dặn: “Cốc tiền bối, tiền bối đừng có cố quá, nếu thấy đuối sức, kéo dây ngay lập tức nhé” Cốc Chẩn im lặng 1 chút, rồi tự nhiên cười nói: “Ngươi đừng lo, đây là chuyện đại sự của ta, ta tuyệt không để chết đâu.” Nói rồi lặn xuống nước, ước chừng qua một khắc, lão cũng theo dây kéo quay về. Trong một lúc lâu, hai người luân phiên lặn xuống nước, thám thính động tĩnh của bầy cá mập, ước chừng đến giờ thân, Lục Tiệm lặn xuống, thấy ở cửa hang thẫm đen lúc này cảnh vật rất yên tĩnh, ngoại trừ các bụi tảo biển lay động theo dòng nước, tuyệt không thấy thân ảnh của con cá mập nào cả. Hắn thấy vậy mừng rỡ vô cùng, kéo dây trở về. Cốc Chẩn nghe xong, cũng lặn xuống xem sao, rồi trở lên nói: “Quả nhiên giờ thân là giờ cho ăn, nhưng thời gian cho ăn rất ngắn, ta vừa xuống xem, đã thấy lũ cá quay trở lại. Trước sau không quá 2 khắc, nếu cứ theo đó chạy trốn, chỉ sợ không đủ thời gian.” Cả hai trầm mặc hồi lâu, Cốc Chẩn lại nói: “Đợi rồi sẽ xem tiếp xem sao”. Hôm sau hai người lại thay nhau thám sát, nhưng ngày đầu thì cho ăn vào giờ dậu, làm cả hai chịu không hiểu tại sao, đến ngày tiếp theo thì quay lại giờ thân, ngày thứ 4 lại chuyển về giờ dậu, ngày thứ 5 lại là ngày thân. “Cứ vậy ta đoán rằng” Cốc Chẩn trầm ngâm nói: “Cho cá mập ăn có hai toán nhân mã, toán này ra biển bắt cá, thì toán kia cho cá ăn, cứ vậy mà làm. Nhưng hai toán này đi ra ngư trường không cùng lúc, quay trở lại cũng không cùng lúc, vì vậy toán đầu cho ăn vào giờ thân, toán thứ hai lại đợi đến giờ dậu, mới quay trở lại đầm. Hai toán nhân mã này chắc thuyền bè không giống nhau, cũng có thể là trình độ đánh bắt khác nhau, toán thứ hai bắt được cá hơn rất nhiều, cá mập mỗi lần ăn phải mất hai khắc, lúc này mà chạy trốn, sẽ thêm khả năng thành công. Vì vậy bọn ta ngày mai giờ thân 3 khắc sẽ động thân, Cứ để 1 người lặn xuống xem xét như cũ, người kia lưu lại trên bờ, người dưới nước nếu thấy cá bỏ đi ăn, thì kéo mạnh dây 4 lần, để người kia biết mà nhẩy xuống nước theo.” Đêm đó, hai người nghĩ đến chuyện ngày mai là ngày phải mạo hiểm, nên đều trằn trọc khó ngủ, tay luôn đưa ra bắt mạch để xem giờ. Ngày hôm sau vừa qua giờ thân được 3 khắc, Lục Tiệm nhẩy xuống nước trước, đến nơi cốc khẩu, dùng hai mắt quan sát, hai tay cũng phát xuất cảm ứng thấy lũ cá mập đang theo đuôi nhau hướng về phía mặt biển. Biết chắc là giờ ăn đã bắt đầu, Lục Tiệm dụng lực kéo mạnh sợi dây 4 lần, rồi bơi nhanh vượt qua cửa động, hướng về mặt biển. Nước biển mờ tối, lạnh buốt vào tận xương. Mầu nước cùng với đà nổi lên của Lục Tiệm cũng sáng dần lên. Lục Tiệm không kìm được cảm giác được tái sinh nổi lên trong lòng, càng đến gần mặt biển, càng lớn dần. Không biết đã nổi lên được bao trượng, bỗng nhiên Lục Tiệm cảm thấy nước quẫy đằng xa, sóng ngầm tản đến. Hắn biết chắc rằng đó là do lũ cá mập gây ra, hoạt động của lũ cá hắn không lạ gì, lúc này chắc là giờ ăn đã hết, bọn cá mập đang toả ra bốn phía truy đuổi lũ cá tôm vừa được đổ xuống. Nghĩ vậy trong lòng hắn khẩn trương vận lực bơi nhanh hơn, bỗng thấy mắt sáng loà lên, những âm thanh lùng bùng dưới nước trong tai đột nhiên biến mất. Hoá ra đã lên đến mặt nước, Lục Tiệm hít một hơi thật dài, phấn chấn tinh thần, bơi nhanh về phía đảo nội. Chẳng mấy chốc đã đến gần bãi cát. Mọi người trên đảo nội phần lớn đều ở ngầm dưới đất, chỉ một số rất ít là ở trên mặt đảo. Huống chi lúc này là lúc chiều tà, mặt trời đã lặn sát mặt biển, ráng chiều ảm đạm. Thành ra trên bãi cát tịnh không có tiếng người nào, một mầu im ắng. Lục Tiệm bò lên trên bãi cát, đưa tay nắm lấy sợi dây buộc ở thắt lưng, kiếp lực theo đó truyền qua dây xuống nước, nhanh chóng nhận ra Cốc Chẩn ở đầu kia, dây buộc ngang bụng, đang hấp tấp bơi về chỗ này. Lục Tiệm trong lòng thầm phục Cốc Chẩn giỏi tính, nhờ có sợi dây nối lại, hai người không thể dễ dàng thất tán lẫn nhau, vạn nhất kiệt lực, Lục Tiệm vẫn có thể mượn kiếp lực để dùng, Cốc Chẩn cũng theo đó có thể mượn lực của Lục Tiệm. Khi Cốc Chẩn cách bờ khoảng mười trượng, trong đầu Lục Tiệm chợt động, cảm thấy trong lòng biển có điều quái dị, bèn ngưng thần phát xuất kiếp lực, thấy rõ hai con cá mập rất lớn đang từ xa lao nhanh về phía Cốc Chẩn. Cốc Chẩn làm sao có cảm giác đó, nên vẫn cứ bơi đều. Lục Tiệm thất kinh cấp tốc kéo dây. Chẳng ngờ sợi dây đó là do quần áo xé nhỏ kết thành, ngâm nước lâu đã bị lỏng ra nhiều, giờ tự nhiên bị kéo mạnh đột ngột, mới kéo được hơn trượng thì bị đứt phựt. Lục Tiệm vội cấp tốc nhẩy xuống nước, biến hoá “thần ngư tướng” rẽ nước phi về phía Cốc Chẩn. Thoáng chốc sau, sóng nước dạt ra vọt sang hai bên, Lục Tiệm và một con cá mập gần như đồng thời đến nơi cùng lúc. Lục Tiệm vội vươn tay tóm lấy Cốc Chẩn, vụt kéo nhanh lão quay nửa vòng trong nước. Cốc Chẩn chân phải lúc đó mới chạm phải con cá mập đang lướt vụt qua, vừa lạnh vừa trơn, sợ hãi quá, không kìm được há miệng thổi ra một cái bong bóng. Lục Tiệm vừa cứu Cốc Chẩn xong, bên thân bỗng nghe thấy tiếng nước, lại một con cá mập lớn khác lao tới. Hắn không kịp nghĩ ngợi gì, thúc cùi trỏ xuống chính giữa đầu con cá mập đó. Con cá tuy bị đánh mạnh vào đầu, nhưng hàm răng sắc cũng kịp lướt qua cùi trỏ Lục Tiệm, máu tươi theo đó túa ra. Hai con cá mập lớn đang lúc đói mồi, giờ ngửi thấy mùi máu tanh, thảy đều phát cuồng, chuyển thân lao mạnh về phía Lục Tiệm. Lục Tiệm một tay đang bận ôm người, vô pháp biến tướng, chỉ thấy xung quanh sóng nước sô tới ào ạt, mặt nước như sôi lên. Đang lúc không biết làm gì, bỗng thấy tay hẫng đi 1 cái, Cốc Chẩn cựa mình thoát ra, tạo ra vô số sóng nước lao về một bên. Hai con cá mập kia thấy sóng nước truyền tới, bèn chuyển đầu phi về phía Cốc Chẩn. Lục Tiệm hít vội một hơi, biến tướng cản lại, hai tay vội xuất ra tóm lấy đầu vây đuôi của một con cá mập, da cá tuy rằng rất trơn, nhưng hai tay Lục Tiệm có sẵn kiếp lực, ngay lập tức tìm ra chỗ yếu hại trên vây, chính là đoạn xương nối vây vào thân cá. Lục Tiệm lập tức vận kình, “toạc” một cái, trọn cả cái vây đuôi bị xả rơi ra. Con cá mập đó tuy không cảm thấy đau đớn, nhưng vây đuôi tự nhiên bị giật đứt, không thể hành động như ý được nữa, chỉ thấy đuôi cá mềm oặt vô lực. Cả người lắc lư loạng choạng, tựa như thuyền bị mất lái, không có cách nào khống chế phương hướng, muốn đi hướng tây, vừa động, lại thành đi sang hướng đông. Lục Tiệm làm trọng thương một con cá mập hung dữ, chưa kịp mừng vui, bỗng cảm thấy con cá mập kia đang quay đầu lại nhanh như điện, há miệng đớp mạnh. Hắn vội tránh nhưng không kịp, bỗng thấy con cá đó như đang bị đè xuống, đến lúc lao tới chỗ hắn lại thành ra há miệng đớp vào khoảng không. Kiếp lực hắn xuất ra, biết ngay đó là do Cốc Chẩn. Mắt lại thấy con cá đó quay đầu đớp Cốc Chẩn, hắn vội biến một “đại tu di tướng”, dùng cả người đánh thẳng vào phần trên lưng cá. Con cá mập đó bị đánh chìm xuống hơn trượng. Lục Tiệm vội sấn tới kéo vội Cốc Chẩn, vận lực bơi về hướng đảo nội. Con cá mập không chịu buông tha, đuổi gấp phía sau. Thấy vậy, hai người bèn bơi tách ra làm hai hướng, con cá mập bèn đuổi cắn Lục Tiệm, thì bị Cốc Chẩn bên cạnh giơ chân, đạp luôn một cước vào bụng. Con cá liền chuyển đầu cắn Cốc Chẩn thì bị cùi trỏ Lục Tiệm thúc vào đầu bắt quay lại, nếu lại có ý định cắn Lục Tiệm thì đã có chân Cốc Chẩn đá tới. Cứ như vậy một lúc, con cá mập to lớn đó biến thành quả cầu da của hai gã, đá qua đá lại, bên này bên kia, làm nó chẳng biết cắn vào ai nữa. Hai người một cá dần tiến gần vào bờ cát. Con cá mập cuối cùng cũng thành ra mệt mỏi vô lực, chẳng cách nào tiếp tục săn đuổi được nữa, đành quay lại biển khơi. Hai người bò lên đến bờ cát, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một vây lưng cá mập nhọn hoắt đang từ từ khuất dần vào trong nước, bất giác không nhịn được nhìn nhau cười lớn. Lúc này sắc trời vẫn chưa hoàn toàn tối hẳn, lần đầu nhìn thấy mặt nhau, Lục Tiệm không kìm được há hốc miệng, cứng cả lưỡi. Cốc Chẩn dường như đã quên cảnh hung hiểm vừa qua, đắc ý phi thường, tay quơ đá nhỏ, liên tục ném xuống nước, miệng chửi lớn: “Lũ cá xấu xa, muốn chén gia gia hả? Ha ha, còn lâu mới có cửa”. Lục Tiệm mặt đần ra, lập bập hỏi: “Cốc ... Cốc Chẩn, ngươi, ngươi không phải là một ông lão ...” Cốc Chẩn quay đầu lại, mặt lấp lánh ánh sáng phản chiếu từ sóng nước, chỉ thấy hắn mi dầy mắt sáng, trán rộng mũi cao, vành môi to lớn sắc nét như dùng dao gọt, nụ cười lộ rõ hàm răng trắng bóng, cứ xem tướng mạo đó, thật đúng là một thiếu niên anh tuấn cùng trạc tuổi Lục Tiệm. “Ta nói với ngươi ta già cả lúc nào?” Cốc Chẩn cười nói, “Ngươi cứ tự mình gọi ta như vậy, thì ta biết làm sao?” Lục Tiệm tức giận tràn hông, dậm chân quát: “Ngươi, ngươi ...” Cốc Chẩn đưa tay vẫy vẫy, cười hihi bảo: “Trẻ ngoan tốt, trẻ ngoan tốt, chào tiền bối, mau chào tiền bối đi.” Lục Tiệm hừ một tiếng giận dữ, quay người bỏ đi. Cốc Chẩn cười nói: “Tiểu hoà thượng, cả người như nhộng, đi đâu về đâu?” Lục Tiệm nghe nói giật mình, nhận ra cả người hắn đang trần truồng, đầu không có tóc, quả là rất giống một tiểu hoà thượng khoả thân. Bất giác mặt ngượng đỏ lên, đưa tay che vội hạ thể. Cốc Chẩn há miệng cười lớn: “Việc khẩn phải làm bây giờ là kiếm quần áo mặc cái đã.” Lục Tiệm hỏi: “Đi đâu để tìm quần áo chứ?” Cốc Chẩn đáp: “Không nhập hổ huyệt sao bắt được hổ con? Tự nhiên là đến địa lao mà kiếm rồi.” Lục Tiệm cau mày đáp: “Vừa mới thoát ra, sao lại còn muốn quay lại?” Cốc Chẩn đáp: “Mới thoát khỏi địa lao, nhưng chưa thoát khỏi ngục đảo, chưa tính là thắng.” nói đến chữ “thắng”, trong mắt hắn ánh sáng loé lên, biểu hiện thần tình rất hưng phấn. Đợi cho sắc trời đen hẳn, hai người bí mật lại gần vùng phụ cận cửa vào địa lao. Cốc Chẩn nắm tay Lục Tiệm, thầm thì hỏi: “Ngươi có cảm thấy kỳ quái không? địa lao này vô cùng quan trọng, sao trước cửa đến một bóng người cũng không có?” Lục Tiệm đáp: “Đúng là có vẻ cổ quái.” Cốc Chẩn đáp: “Xung quanh tất có mai phục”. Lục Tiệm kì quái: “Mai phục?” Cốc Chẩn nói: “Hơn nữa tiềm phục trong bóng tối tất phải là cao thủ.” Lục Tiệm nghĩ chút rồi đặt hai tay xuống đất, kiếp lực khoách tán khắp nơi, nhẹ giọng nói: “Phía tây bắc, 10 trượng có 4 người, phía đông mười trượng có 3 người, phía đông nam 10 trượng có 2 người.” Cốc Chẩn cười đáp: “Cái này ngươi thân là kiếp nô có dị năng gì vậy? Ngươi sao lại biết rõ thế.” Lục Tiệm giải thích xong. Cốc Chẩn cười đáp: “Thật tuyệt, cách thức bây giờ là tránh cường đánh nhược, trước tiên bắt sống hai tên ở phía đông nam đã.” Hai người nhẹ chân đi vòng một vòng rộng, đến gần nơi có hai kẻ phục kích đó, nấp vào sau một tảng đá to, nghỉ lấy lại hơi. Cốc Chẩn dùng ngón tay viết vào lòng tay Lục Tiệm: “Ta là mồi câu, ngươi là người câu.” Vừa thấy hai câu đó, Lục Tiệm đột nhiên phát run. Cốc Chẩn đã đạp đất xông ra, khom người bước nhẹ, đến chỗ hai kẻ kia đang ẩn thân thì làm ra vẻ bước vội, dưới chân cố ý phát ra tiếng động nhỏ. Hai kẻ kia nghe thấy, lao vội ra, một trái một phải lao vào Cốc Chẩn, mắt thấy sắp đắc thủ, không đề phòng đằng sau đầu bị đánh mạnh một cú, đầu váng mắt tối sầm, song song ngất xuống. Cốc Chẩn chuyển thân, cùng Lục Tiệm mỗi người một kẻ, kéo hai tên đó ra tới gần bờ cát, cười nói: “Đúng là có ngươi thật”. Lục Tiệm oán thán đáp: “Ngươi thật là mạo hiểm, chẳng may ta không đuổi kịp, có phải hỏng việc không.” Cốc Chẩn cười đáp: “Ngươi mà không đuổi kịp, ta sẽ thật là không có mắt nhìn, vì nếu ngươi không có can đảm và nhẫn nại, làm sao bọn ta có thể thoát khỏi ngục đảo được, và ngươi cũng chẳng phối hợp hết lòng với ta thế.” Lục Tiệm kì lạ hỏi: “Cái gì mà phối hợp hết lòng?” Cốc Chẩn cười hehe, không trả lời mà nói: “Trước tiên mặc xong quần áo đã.” Nói rồi lột một bộ quần áo đen ra, khoác vào người. Lục Tiệm cũng theo vậy mà làm. Cốc Chẩn dặn: “Lục Tiệm, ta phải tra khảo phạm nhân, ngươi phải hứa với ta. Bất luận ta nói điều gì, làm chuyện gì, ngươi cũng không được mở miệng, cũng không được xen vào.” Lục Tiệm trong lòng kì quái nhưng cũng đáp ứng. Cốc Chẩn hỏi thêm: “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy”. Lục Tiệm gật: “Cái đó đã hẳn.” Cốc Chẩn cười hehe đáp: “Đúng là quân tử.” rồi điểm huyệt hai kẻ mai phục kia, trước tiên để một tên nằm đó, lại dùng nước biển cứu tỉnh tên còn lại. Tên đó vừa bị ngất tỉnh lại, đã thấy mặt Cốc Chẩn gần sát mặt mình, vội kêu khóc thảm thiết, liền bị Cốc Chẩn bịt miệng lại, lạnh lùng nói: “Ta hỏi ngươi điều gì, ngươi chỉ được trả lời điều đó, đợi chút nữa ta hỏi lại đồng bọn của ngươi, nếu như không khớp nhau, hừm, một lần không khớp ta cắt mũi ngươi, hai lần không khớp ta móc đôi mắt ngươi, ba lần không khớp ta cắt ngươi thành từng miếng nhỏ, ném cho cá mập ăn.” Lục Tiệm nghe vậy lạnh toát người, nhưng đã trót nói lúc trước, nên chỉ còn cách im lặng quan sát. Lại nghe Cốc Chẩn nói: “Nếu ngươi chịu thì nháy nháy mắt cho ta xem.” Kẻ kia bị khí thế của hắn trấn nhiếp, vội chớp mắt liên hồi, Cốc Chẩn bỏ tay khỏi miệng hắn, truy hỏi: “Thuyền tiếp tế của đảo ngoại cho đảo nội, khi nào thì tới?”, kẻ kia đáp: “Thông thường thì vào giờ ngọ.” Cốc Chẩn hỏi: “Thuyền to thế nào? Có bao nhiêu cái?” Người kia đáp: “Hoàng diêu khoái hạm có 4 người, 3 thuyền tất cả.” Cốc Chẩn hừ lạnh một tiếng hỏi tiếp: “Ngục đảo đảo chủ đang ở đảo nội hay đảo ngoại?” người kia đáp: “Đảo chủ thường ở đảo ngoại, ít khi ở tại đảo nội.” Cốc Chẩn cười đáp: “Đảo nội làm sao vui bằng đảo ngoại được. Diệp Phạm quả nhiên vẫn thích chơi ghét làm, bản tính khó cải.” Kẻ kia kì quái hỏi: “Ngài biết Diệp đảo chủ sao?” Cốc Chẩn cười đáp: “Sao chỉ mỗi biết, ta còn gọi hắn là Diệp thúc thúc đó.” Người kia kinh sợ hỏi: “Ngài, ngài là?” Cốc Chẩn cười: “Ta là Cốc Chẩn.” Kẻ kia ngây người, thất thanh hỏi: “Ngài, ngài chẳng phải đang giam tại ...” Cốc Chẩn cười ngắt lời: “Tại cửu u tuyệt ngục phải không? Đúng vậy, cha của ngươi thần thông quảng đại, tất nhiên là thoát khỏi đấy rồi.” Người kia kinh sợ định kêu, Cốc Chẩn đã xuẩt chưởng, đánh ngất hắn luôn. Cốc Chẩn lại cứu tỉnh người còn lại, liên tục chửi bới doạ nạt, như cũ truy hỏi một hồi, xác định không có gì trái nhau, chứng tỏ hai kẻ này đặt mạng sống lên trên, tuyệt không phải loại người không sợ chết. Cốc Chẩn bèn đánh hắn bất tỉnh, rồi kiểm tra đồ đạc tuỳ thân của bọn chúng, tìm thấy hai thanh đoản kiếm, hai miếng yêu bài, ám khí, một ít lương khô, nước ngọt, còn có một sợi dây gân bò, hiển nhiên là dùng để trói người. Cốc Chẩn bất giác cười nói: “Hay thật, toàn những thứ cần thiết.”, rồi dùng dây gân bò trói chân tay hai kẻ đó lại, nhét giẻ vào mồm, miệng thì nói: “Lục Tiệm, ngươi mang hai tên này giấu ở sau phiến đá, canh giữ cẩn thận. Ta có việc phải làm, sẽ đến đó sau.” Nói rồi cầm lấy một thanh đoản kiếm, cứ thế bỏ đi. Lục Tiệm canh giữ hai kẻ kia, đói thì ăn lương khô, khát thì uống nước ngọt, đưa mắt nhìn trời đang sáng dần, bất giác trong lòng lo lắng, không hiểu Cốc Chẩn nói có việc phải làm là việc gì? nếu mà đơn thân thâm nhập vào địa lao, chẳng phải quá hung hiểm hay sao. Lại nhớ lại lúc Cốc Chẩn hỏi cung hai tên kia, không nhịn được lại nghĩ: “Cứ như lời hỏi cung của hắn, chắc là tìm cách đoạt mấy cái khoái hạm tiếp tế, để dùng nó chạy trốn khỏi hải đảo.” Đúng lúc hắn đang suy nghĩ mông lông, bỗng thấy Cốc Chẩn cầm kiếm quay lại, sắc mặt mệt mỏi, không nói năng gì, ăn một chút lương khô, uống ít nước ngọt rồi nằm lăn ra ngủ. Bỗng nhiên nghe thấy đằng xa truyền lại tiếng kêu la ầm ĩ: “Lí giáp, Tôn Cung.” Lục Tiệm giật mình, Cốc Chẩn cũng bị tỉnh dậy, cười nói: “Bọn chúng phát hiện mấy tên mai phục bị mất tích rồi.” Lục Tiệm thấy hắn lúc này mà vẫn cứ như không, trong lòng tự thấy rất khó chịu. Bọn người kia kêu gọi vài tiếng, rồi có tiếng người chửi mắng: “Hai tên thỏ đế đó, chắc lại lén lút quay về, tìm mấy phòng giam còn trống để ngủ vùi rồi.” Lại có tiếng người nói to: “Đúng vậy, gió đêm thổi mát thế này mà cứ nằm phục tại đây thật chẳng phải là người, đêm đẹp như vậy, lão tử phải ngủ liền 3 đêm.” Lục Tiệm quay đầu nhìn lại, thấy Lí Giáp, Tôn Cung dĩ nhiên đã tỉnh lại, bốn mắt nhãn tình láo liên, nghe tiếng đồng bọn đi xa dần, lộ ra thần sắc tuyệt vọng hoàn toàn. Cốc Chẩn vỗ vỗ vào má hai tên, cười hi hi nói: “Đừng lo, đại gia đây tốt xấu gì cũng còn ít tình hương hoả, đợi bọn ta đào tẩu rồi, tự nhiên sẽ phóng hạ hai ngươi.” hắn cười tươi như hoa nhưng trong mắt hai kẻ kia nhãn tình hoảng sợ không hề giảm đi chút nào, phảng phất như đang phải đối diện với một quái vật kinh khủng” Sau đó luôn có lính gác đi tuần tiễu, bốn người cũng tuỳ mà thế di chuyển, vì vậy không hề gặp nguy hiểm. Mắt thấy mặt trời đã lên cao, Cốc Chẩn bỗng nhiên reo khẽ, tay chỉ về đằng xa, Lục Tiệm dõi mắt trông theo, chỉ thấy trên biển xuất hiện ba chiếc hoàng diêu khoái hạm, đang lao nhanh về hướng đảo nội. Cốc Chẩn nhìn Lí Giáp, Tôn Cung, cười lạnh một tiếng. Hai kẻ kia dựng hết cả lỗ chân lông, sau đầu đột nhiên bị động mạnh, lần lượt nhận một chưởng của Cốc Chẩn, ngất luôn ra đó. Cốc Chẩn đánh ngất hai người, hướng về Lục Tiệm kêu khẽ: “Đi mau.” Lục Tiệm hỏi: “Đi cướp thuyền hả?” “Cướp làm quái gì.” Cốc Chẩn kéo tay Lục Tiệm, lao đến đằng sau một tảng đá, bới cát ở đó ra, hiện lên một vùng tròn hơn thước, có cỏ che phủ bên trên, lộ ra một cửa động đen ngòm, Cốc Chẩn giục: “Xuống nhanh đi”. Lục Tiệm nghi ngờ hỏi: “Để làm gì?” Cốc Chẩn nói vội: “Xuống đó nói sau.” Lục Tiệm bèn nhảy xuống, nhưng thấy bên trong đất cát hẵn còn ướt, hoá ra là một cái hầm cát mới đào, đột nhiên hiểu ra, đêm đó Cốc Chẩn bỏ đi mãi đến bình minh mới quay lại, chính là để đào cái hầm này. Rồi thấy Cốc Chẩn cũng đã nhẩy xuống hang, sau khi nhẩy xuống, hai tay cầm hai nắm cát, rắc lên bên trên nắp cửa hang, rồi cẩn thận đóng nắp lại, cười nói: “Hang đào hơi nhỏ, chịu khó chút chút.” Lục Tiệm không nhịn được hỏi: “Sao lại phải chui vào đây?” Cốc Chẩn cười nói: “Ngươi thấy những lời ta hỏi hai tên kia, nên cho rằng ta sẽ đoạt khoái hạm tiếp tế để chạy khỏi đảo nội hả?” Lục Tiệm hỏi lại: “Không phải vậy sao?” Cốc Chẩn đáp: “Kể cả đoạt được khoái hạm, chỉ là loại thuyền nhỏ chở được vài người, chẳng nhẽ có thể vượt qua biển cả mênh mông, trở về đất liền được sao?” Lục Tiệm hiểu ra, lắc đầu đáp: “Chỉ sợ không thể.” Cốc Chẩn nói tiếp: “Không kể đến chuyện thuyền nhỏ không thể vượt biển. Cứ cho là bọn ta đoạt được khoái hạm, lấy được một chiếc. Sau này đảo ngoại mang hàng chục cái khoái hạm khác truy đuổi, ngươi tính có chạy thoát được không?” Lục Tiệm cười khổ đáp: “Không thể chạy thoát được.” “Cái đó đã hẳn.” Cốc Chẩn nói, “Chính vì vậy, bọn ta không đoạt mấy cái khoái hạm tiếp tế đó làm gì. Để trốn thoát, phải đoạt được một cái chiến hạm. Chiến hạm đó không những phải lớn, còn phải được bọc thép để chống lại pháo bắn, phải có nhiều khẩu pháo hai bên sườn đủ để tấn công và bắn chìm các thuyền truy đuổi.” Lục Tiệm kinh hãi hỏi: “Có loại thuyền như vậy sao?” Cốc Chẩn đáp: “Có chứ, hơn nữa ta cũng đã từng ngồi trên đó rồi” Lục Tiệm vẫn nghi hoặc hỏi: “Nhưng ngươi làm sao kéo cái thuyền đó tới đảo nội này chứ.” Cốc Chẩn cười nói: “Tuy chưa chắc được 9 phần, nhưng mà cũng được tầm 7 phần, 8 phần gì đó rồi.” hắn ngừng lại một chút rồi hỏi: “Ngươi còn nhớ lúc ta và mấy tên mai phục kia nói chuyện chứ? Ta đã nói tên tuổi ra với bọn chúng, đúng không?” Lục Tiệm đáp: “Không sai, bọn chúng tựa hồ kinh sợ vô cùng.” Cốc Chẩn cười hehe đáp: “Không sợ mới là lạ, sao mà tin nổi có người trốn thoát từ cửu u tuyệt ngục, hơn nữa người đó lại là đệ nhất yếu phạm của ngục đảo, ngươi nói xem, chuyện đó có kinh động tới ngục đảo đảo chủ không?” Hắn nói xong, thấy Lục Tiệm hồi lâu không đáp, ngạc nhiên hỏi: “Sao tự nhiên ngươi không nói gì?” rồi nghe thấy Lục Tiệm thở ra một hơi dài, gằn giọng hỏi: “Ngươi là đệ nhất yếu phạm của Đông Đảo thật sao? Vậy ngươi đã phạm phải đại tội nào?” Cốc Chẩn cười lạnh: “Đã muốn ép tội, thì thiếu gì cách chứ. Nếu có người muốn hãm hại ngươi, ghép tội danh chẳng có khó gì.” Lục Tiệm nghe vậy hỏi: “Nói như vậy, ngươi bị người ta hãm hại sao?” Cốc Chẩn đáp: “Chuyện này ta nói thật cũng không rõ ràng, lần này trốn thoát, rốt cục sẽ minh bạch thôi”. Lời hắn đáp có nhiều ý, Lục Tiệm lúc trước cho là đã hiểu, mnghe nói vậy, lại thành mơ hồ, bỗng nghe Cốc Chẩn nói: “Ta và bọn kia đối đáp, kì thật là đã tính kỹ. Ta cố ý buông tha bọn chúng, để thông qua miệng chúng mà báo cho mọi người biết rằng: Ta, Cốc Chẩn đã thoát khỏi cửu u tuyệt ngục, hơn nữa còn có khả năng đoạt lấy hoàng diêu khoái hạm tiếp tế, trốn đến đảo ngoại, tìm cách đoạt thuyền ở đó để đào tẩu.” Lục Tiệm bỗng nhiên đại ngộ, gật đầu nói: “Không sai, tưởng rằng mọi người đều cũng sẽ nghĩ như vậy.” Cốc Chẩn cười nói: “Vì vậy trước tiên, đảo ngoại không tránh khỏi phải làm hai việc: thứ nhất là phong toả hải lộ, thứ hai là truy lùng trên khắp đảo ngoại, đề phòng ta đoạt thuyền chạy trốn. Nhưng ta căn bản là không chạy trốn, bọn chúng tìm mãi mà không thấy người, sẽ phản ứng thế nào?” Lục Tiệm trầm ngâm đáp: “Nếu đổi là ta, thì sẽ xuống cửu ư tuyệt ngục xem xem ngươi còn ở đó hay không?” “Ngươi cũng không phải là loại não cá đâu.” Cốc Chẩn cười nhẹ: “Nhưng để mở được cửu u tuyệt ngục, chỉ có duy nhất một người, chính là ngục đảo đảo chủ - Đông đảo ngũ tôn chi nhất - ‘Bất lậu hải nhãn’ Diệp Phạm.” Lục Tiệm hoảng sợ hỏi: “Có Đông đảo ngũ tôn tới sao?” Cốc Chẩn cười nói: “Không sai, Diệp phạm kia chẳng những là chi nhất của Đông đảo ngũ tôn, mà trong số 5 vị ngũ tôn, hắn còn có võ công cao nhất. Và bọn ta sẽ đoạt lấy chiến thuyền của hắn.” Lục Tiệm nghe đến đây, không kìm được kêu lên kinh hãi. Cốc Chẩn cười sằng sặc nói: “Cháu ngoan, cháu bị Cửu biến long vương doạ cho sợ chết khiếp rồi.” Lục Tiệm nhớ lại việc mình gọi hắn là tiền bối, tức giận tràn hông, liền sử “chư thiên tướng”, vặn chặt lấy tay Cốc Chẩn, giận dữ nói: “Ngươi thật có gan, dám gọi ta là cháu lần nữa, hừm …” Trong hầm chật hẹp, Cốc Chẩn không tránh được, kêu ầm ĩ: “Quân tử động khẩu, bất động thủ.” Lục Tiệm hừ lạnh một tiếng, bỏ hai tay ra, bỗng nhiên Cốc Chẩn phản khuỷu tay thúc lại hắn, trúng vào đỉnh đầu đau buốt. Hắn đang lúc tức giận, bèn dùng luôn một “hùng trư tướng” đánh thẳng vào mồm Cốc Chẩn. Cốc Chẩn bị đánh toé máu miệng, kêu thảm một tiếng, lấy chân giậm mạnh vào ngón chân Lục Tiệm. Lục Tiệm đau quá há mồm hít mạnh một hơi. Hắn tuy rằng có kiếp lực trong người, nhưng Cốc Chẩn dùng chiêu số cực kì âm độc, chẳng những dậm ngón chân, mà còn chọc mắt, móc mũi, kéo tai, bóp hạ thể. Đang ở nơi chỗ hẹp, rất khó xoay xở, Lục Tiệm võ công tuy rằng cao hơn, nhưng cũng không chế ngự được những đòn đánh âm hiểm của Cốc Chẩn. Đang lúc loạn đả, bỗng thấy đằng xa truyền lại âm thanh chân bước trên cát, hai người đột ngột dừng lại, đợi tiếng bước chân đi xa dần, Lục Tiệm tức giận quát khẽ: “Quân tử động khẩu bất động thủ, là ai nói thế nhỉ?” Cốc Chẩn cười lạnh: “Ngươi là quân tử, ta là tiểu nhân, tiểu nhân thì động cả khẩu lẫn thủ.” Lục Tiệm bực quá, đang định đánh tiếp, bỗng nghe từ xa tiếng người nói: “Cát lão đệ, ta nghe thấy hình như có tiếng người.” Trong hầm hai người tức thì im lặng một hồi, không ai dám động đậy, lại thấy tiếng người khác cười ha hả nói: “Tiếng người ở đâu? Trên đảo này đến chim cũng không thèm đến ỉa, rùa không thèm đẻ trứng, chỉ sợ sư huynh ở đây lâu quá, sinh bệnh rồi, ha ha, chắc lại mong nhớ đại tẩu, đợi hai ngày nữa đổi gác, trở về đảo ngoại, huynh sẽ lại hoan hỉ thôi.” Người kia cười đáp: “Đệ cũng gớm thật, cả người có mỗi 1 cây gậy, mà cũng biết chuyện hạnh phúc vợ chồng sao?” Hai người cười lớn một hồi, rồi bỏ đi. Cốc Chẩn hứ một tiếng, hạ giọng nói: “Trước tiên mọi người cùng trốn thoát cái đã, không được đánh nhau, ta cũng sẽ không kêu ngươi là cháu ngoan nữa.”, ngừng một chút rồi lại hỏi: “Mà này, ngươi bao tuổi vậy?” Lục Tiệm đáp: “Ta hai mươi tuổi.” Cốc Chẩn úi một tiếng đáp: “Huynh hơn ta hai tuổi đấy, ta mới có 18 thôi.” Lục Tiệm kinh ngạc hỏi: “Nói như vậy, ngươi bị giam cầm từ năm 15 tuổi ư? tầm tuổi đó, thì có thể phạm phải tội gì chứ?” Cốc Chẩn cười hehe không nói gì. Lục Tiệm biết hắn không muốn kể, bèn quay đầu qua nói: “Mưu kế của ngươi chưa chắc đã thành. Bởi vì ngục đảo đảo chủ so với Cửu biến long vương còn lợi hại hơn, làm sao bọn ta có thể đoạt được thuyền của hắn?” Cốc Chẩn đáp: “Hắn mà ở trên thuyền, thêm vào mười kẻ như chúng ta, cũng chỉ có đi mà không có về. Chỉ là, nếu đã đến đảo nội, hắn cứ ngồi mãi trên thuyền chắc?” Lục Tiệm giật mình nói: “Đúng vậy, hắn nhất định sẽ đến cửu u tuyệt ngục.” Cốc Chẩn cười đáp: “Nào chỉ có đến đó không thôi. Chuyện lớn thế này, trên đảo có 3 tổng quản thì đa phần cũng sẽ đến đó cả. Chỉ cần tên họ Diệp đó không ở trên thuyền, thì sự tình sẽ dễ đi rất nhiều. Cái thuyền đó là của Diệp phạm đoạt được của lũ hồng mao hải tặc, thuyền đã nhanh lại có nhiều pháo, di chuyển nhanh như gió.” Lục Tiệm do dự hỏi: “Nhỡ hắn lại không dùng thuyền đó đến thì sao?” “Không thể như vậy.” Cốc Chẩn trả lời: “Đông đảo ngũ tôn, lớn hay bé gì cũng đều có tật cả. Ví như Cửu biến long vương luôn tự ra vẻ thanh cao, ‘Bất lậu hải nhãn’ thì.luôn bày vẽ nghi lễ, mỗi lần xuất hành mà không có đàn sáo là không vui, đi trên đất liền không có xe thơm bốn ngựa kéo là không ngồi, tuần tra trên sông biển, tất nhiên là phải ngồi trên hồng mao chiến thuyền, một là để thể hiện uy phong, hai là có thể dựa vào chiến thuyền đó, nếu như ở ngục đảo có biến cố gì xẩy ra, cũng có thể ứng phó được.” Nói đến đây hai người cũng không biết làm gì nữa, cứ chịu khổ ngồi đợi trong hầm cát. Ứơc khoảng giờ thìn một chút, bỗng nghe gần đó có tiếng người kêu khóc: “Không xong rồi, có người chạy trốn, không xong rồi, có người chạy trốn.” Lục Tiệm nghe nhận ra đó là thanh âm Lí Giáp, chẳng lấy làm ngạc nhiên, lại nghe Cốc Chẩn cười khùng khục bảo: “Cái thằng ngu xuẩn, đệ đã cố ý trói lỏng sợi dây gân bò, lại đặt gần đó thanh đoản kiếm, đủ để gã chạy trốn, vậy mà đến tận bây giờ gã mới biết hay sao?” Không lâu sau, thanh âm liền này biến thành tiếng hai người kêu, chắc là Lí Giáp thoát khỏi dây buộc liền cởi trói cho Tôn Cung. Hai người vừa kêu vừa chạy, chốc lát đã đi xa. Sau đó từ xa truyền lại tiếng người hưởng ứng, vô số tiếng kêu gào ầm ĩ, trên mặt đảo âm thanh náo động một hồi. Bọn Cốc, Lục hai người bỗng nghe thấy tiếng chân người chạy rầm rập, tựa như có vô số người đang đi đi lại lại bên trên. Cả hai căng người nằm bò dưới hầm, có thể nghe rõ thấy tiếng tim người kia đang đập nhanh dần, vì đều biết rằng lúc này không thể để ngục tốt trên đảo phát giác ra, nếu bị phát giác, hai người trong hoàn cảnh này ngoài cách thúc thủ chịu trói, chẳng còn cách nào khác. May sao tiếng chân bước loạn xạ đó chỉ có một hồi, rồi im ắng trở lại. Bỗng nhiên nghe thấy tiếng chim kêu lớn, Cốc Chẩn bèn rón rén bò ra khẽ đẩy nắp hầm lên để hở ra một khe nhỏ rồi nhìn ra ngoài, thấy vài chú chim hải âu lớn đang bay qua, hướng về phía đảo ngoại bay rất nhanh. Cốc Chẩn đóng nắp xuống, quay trở lại hầm, cười nói: “Việc thành được một nửa rồi.” Lục Tiệm nghe xong, phấn chấn vô cùng.
Cứ vậy ngày trôi qua, trời dần dần tối. Cốc Chẩn thi thoảng lại mở nắp hầm nhìn ra, tuyển chọn địa thế, rồi đối diện nhìn đảo ngoại, để nếu có thuyền đến thì có thể quan sát được dễ dàng. Lục Tiệm nằm co dưới hầm đã lâu, toàn thân đau nhức, đúng lúc không thể chịu được nữa, bỗng nghe tiếng Cốc Chẩn cười khẽ: “Đến rồi.”, bèn hoang mang hỏi: “Cái gì đến?” Cốc Chẩn đáp: “Chiến thuyền của Diệp phạm.” Lục Tiệm vui mừng quá, bất giác thấy bội phục Cốc Chẩn vô cùng, bèn nói: “Cốc Chẩn, ngươi thật đúng là người thần cơ, diệu toán.” Cốc Chẩn cười hihi đáp: “Nếu mà khôi phục được tính mệnh, nghĩ cho kỹ ra, lần này đệ có thể thoát khốn, chỗ khó khăn nhất chính là chỗ tường đá ở dưới sâu ngục đảo ấy, nếu không có huynh, đệ có mất 100 năm cũng không thoát được.” Lục Tiệm đáp: “Điều này phải cảm tạ Ngư hoà thượng đại sư, nếu không có người …” Cốc Chẩn lạnh lùng cắt lời: “Ngư hoà thượng đã chết rồi, kể cả nếu còn sống mà đến đó, chưa chắc đã cứu đệ, còn huynh chính thật đã cứu đệ một mạng, Ngư hoà thượng là Ngư hoà thượng, huynh là huynh, Cốc Chẩn này đời này kiếp này, chỉ cảm kích một mình huynh thôi, Ngư hoà thượng chẳng có liên quan gì đến đệ cả.” Lục Tiệm nghe vậy buồn bực, đang lúc không biết làm sao để phản bác lại hắn. Bỗng nghe tiếng đàn sáo vọng lại, âm thanh rất êm tai. Đột nhiên Cốc Chẩn nói khẽ: “Cái thuyền này đi nhanh thật, a ha, dừng lại rồi … Diệp phạm xuống thuyền rồi, khục khục, hắn được gọi là ‘bất lậu hải nhãn’, nắm nước mà không bị lọt một giọt nào ra ngoài, hôm nay cũng phải lộ ra vẻ lo lắng, xem ra lão tử đây bản mặt không nhỏ … Con bà nó, cái lão tiểu tử Sa thiên hoàn, mặt xanh mày xám, có chuyện gì sao vừa đi vừa nói không được à?” Hắn từ xa vừa quan sát, vừa chửi mắng, bỗng nhiên khẽ reo lên: “Hay quá, đi vào địa lao rồi.” Lục Tiệm vội định xông ra, Cốc Chẩn thấy vậy, ngạc nhiên hỏi: “Huynh làm gì thế?” Lục Tiệm nghệt mặt ra đáp: “Không phải đi đoạt thuyền à?” Cốc Chẩn đáp: “Cần gì phải vội vã, cứ đợi khoảng 2 ngày, Diệp phạm kia lúc đó đã xuống đến tầng 7, tầng 8 địa lao, có nghe tin để quay lại, cũng không kịp. Hơn nữa, cái thuyền đó là loại hải thuyền cực lớn, chỉ có mỗi huynh và đệ mà điều khiển nổi chắc?” Lục Tiệm chưa bao giờ nghĩ đến điều nay, bất giác hoảng hốt, vội vã hỏi: “Giờ làm sao hả?” Cốc Chẩn cười đáp: “Đệ tự đã có cách.” Lục Tiệm biết hắn quỷ kế vô cùng, nên cũng không cần hỏi nhiều, chỉ biết những việc phải lao tâm dụng trí, cứ giao hết cho hắn là xong. Cốc Chẩn nhẩm tính thời gian một hồi, đắn đo suy tính hồi lâu, rồi bỗng nói: “Đi ra được rồi.” Hai người ra khỏi hầm cát, chỉ thấy bầu trời u tối, sao mọc rải rác. Lục Tiệm không kìm được hỏi: “Giờ làm gì nữa?” Cốc Chẩn cười nói: “Đến địa lao thôi.” Lục Tiệm thất thanh: “Hả? Sao mà vào đó được?” Cốc Chẩn cười: “Thì cứ tự nhiên mà đi vào thôi, quần áo trang sức bọn ta đang mặc, chẳng phải là đệ tử của ngục đảo à?” nói rồi vỗ rơi cát bám trên quần áo, treo yêu bài lên trên, sải bước lên trước. Lục Tiệm tặc lưỡi liếc hắn, đúng là người tài cao, mật lớn, người này võ công thì rất bình thường, chỉ là can đảm trùm cả trời, việc trong thiên hạ hiện nay, chỉ sợ chẳng có gì có thể cản hắn lại được. Đi được tầm 20 bước, Lục Tiệm bỗng thấy cảm giác, trầm giọng nói: “Có người đang đến.” Cốc Chẩn cười đáp: “Đệ biết rồi.” vừa nói thì đằng trước đã có thân ảnh người hiện ra. Hắn liền lớn tiếng hô: “Khẩu lệnh.” người đang đến hơi giật mình, thuận miệng đáp: “Phúc lộc thọ hỉ.” Cốc Chẩn cười hihi một tiếng hỏi: “Lão ca cũng đang đi tuần trên đảo đó à?” tên đảo tốt kia đáp: “Đúng vậy, trên đảo này hàng mấy chục năm nay mới xẩy ra một chuyện động trời như thế, nên giờ mới phải canh phòng thật nghiêm thế này.” Cốc Chẩn đáp: “Đảo ngục thâm nghiêm thế này, đệ không tin rằng kẻ đó có thể đào thoát được.” Đảo tốt kia thở dài đáp: “Cũng khó nói, tên tiểu súc sanh đó không dễ đối phó, nếu không hắn đã không bị giam ở tận cửu u tuyệt ngục đúng không? Hai vị huynh đệ, bọn ngươi đi tuần xong rồi, đang trở về địa lao hả?” Cốc Chẩn cười nói: “Đúng rồi, vừa đi tuần 1 vòng, giờ quay về báo cáo. À phải rồi, lão ca, lão ca có biết hình dạng kẻ đó không?” Lục Tiệm nghe nói đến đây, bất giác tim đập chân run, liếc nhìn Cốc Chẩn, chỉ thấy hắn khoé miệng cười tươi, không có vẻ gì là súc sanh giống người kia tả. Chỉ nghe tên đảo tốt cười nói: “Hồi hắn nhập ngục thì ta cũng có thấy một lần, đáng tiếc mặt hắn lúc đó đầy máu, nên không nhìn rõ được.” Cốc Chẩn thở dài: “Thật đáng tiếc đệ lại đến muộn, nên không có duyên thấy hắn.” Đảo tốt kia hừ lạnh nói: “Không thấy càng tốt, con người không bằng cầm thú đó, nhìn thấy chưa chắc đã tốt.” Cốc Chẩn cười hehe đáp: “Lão ca nói chí phải.” Ba người đi vượt qua nhau, Cốc Chẩn quay sang Lục Tiệm nhẹ giọng bảo: “Bọn ta chỉ có 2 canh giờ thôi, ra tay phải thật nhanh đó.” Chân hắn bước nhanh hẳn lên, hướng về phía cửa vào địa lao, vừa bước lại gần, bỗng nghe có người quát khẽ: “Khẩulệnh.” Cốc Chẩn cười đáp: “Phúc lộc thọ hỉ.” Người kia lại nói: “Yêu bài.” Cốc Chẩn tháo yêu bài xuống, cố ý để ở chỗ mờ tối, lắc qua lắc lại. Tên lính gác kia nhìn qua không rõ thật giả, ừ hứ một tiếng, rồi mặc nhiên không nói gì. Cốc Chẩn cười nói: “Lão ca vất vả quá.”, cùng với Lục Tiệm nghênh ngang bước qua cửa. Đây là tầng đầu của địa lao, phần lớn chức sắc trên đảo cư trú ở đây, vì vậy dọc đường cắm rất nhiều đuốc, sáng rõ như ban ngày, bỗng nghe thấy tiếng huyên náo, đi tới vòng qua một cửa, thì thấy một nhóm lớn ngục tốt đang ầm ĩ nhốn nháo ăn cơm, nhìn thấy hai người tới gần, cũng chẳng để ý gì. Cốc Chẩn vái chào một người, nhẹ giọng hỏi: “Lão huynh, trên thuyền của đảo chủ có một huynh đệ vô ý làm vỡ một quả ‘huyễn thận yên”, làm mấy người bị bất tỉnh, cần phải tìm giải dược ngay, kêu đệ đi lấy, đệ đến đây chưa lâu, không biết ai giữ cái đó.” Tên ngục tốt đó trơ mắt nhìn hắn 1 cái, rồi nói: “Giải dược đó chỉ các tổng quản có thôi, nhưng tất cả tổng quản đều đi xuống tầng 9 hết rồi.” Cốc Chẩn cười một cái, lông mày cong lại, hàm răng trắng hé mở, quả là có mị lực câu hồn người khác, chỉ thấy hắn cung kính hỏi: “Vừa rồi có một huynh đệ khác bảo rằng có Sa tổng quản vẫn ở đây, không hiểu ông ấy ngụ ở chỗ nào?” Tên ngục tốt đó thấy hắn cười rất dễ gần, tự nhiên có nhiều hảo cảm, nên cũng không nghi ngờ gì, cười nói: “Vậy à, chắc có chuyện gì nên ông ấy phải quay lại sớm. Đệ từ đây cứ đi, đi vòng qua, đến gian thứ hai có cửa sắt là đến.” Cốc Chẩn cảm tạ, cùng Lục Tiệm bước nhanh ra chỗ có cửa sắt, chỉ thấy trên cửa có một then sắt to đùng chốt ngang, trên đó treo ba cái khoá lớn. Cốc Chẩn nhìn quanh không có người, lắc tay một cái, trong tay thò ra một sợi tơ đen cực nhỏ và dai. Lục Tiệm kì quái hỏi: “Đây là gì vậy?” Cốc Chẩn đáp: “Đây là ô kim ti, vừa cứng vừa mềm, ngày xưa bị bắt đệ luôn giấu kín vào tóc trên đầu, phòng khi phải dùng đến. Chẳng ngờ sau khi bị giam vào ngục, toàn bộ là cửa sắt nghìn cân, chẳng hề có khoá, nên căn bản không có cơ hội dùng tới.” Nói xong, hắn đưa ô kim ti vào trong khóa, vừa lắc nhè nhẹ khoá đã mở ra, rồi trầm giọng dặn: “Huynh canh bên ngoài huýt gió, đệ sẽ biết ý để chạy ra” Lục Tiệm gật đầu, rồi cứ loanh quanh ở gần đó, nhìn quanh 4 phía. Cứ như vậy cho đến qua trưa, bỗng nghe thấy tiếng Cốc Chẩn từ trong hỏi xem có ai ở ngoài không, bèn trả lời “Không có ai hết.” Cốc Chẩn bèn lách mình đi ra, trên tay bê một hòm gỗ nhỏ. Lục Tiệm ngạc nhiên hỏi: “Ngươi thật sự đi lấy giải dược hả?” Cốc Chẩn cười quỷ bí, chưa kịp trả lời, bỗng thấy tiếng bước chân, có vẻ có vài người đang đến gần. Cốc Chẩn vội khóa cửa lại, rồi chạy ra đứng sát cạnh với Lục Tiệm. Chỉ nghe thấy tiếng người quát: “Các ngươi là thủ hạ của ai, đến đây làm loạn?” Cốc Chẩn chu miệng ra đáp: “Bọn tại hạ là thủ hạ của Sa tổng quản. Tổng quản trước khi đi xuống cửu u tuyệt ngục, phân phối bọn tại hạ mang đến cho lũ hải khách một ít nhân dược, nào ngờ địa lao này rộng quá, bọn tại hạ vừa mới đi, đã bị lạc đường rồi.” Bỗng nhiên nghe thấy một người ngạc nhiên hỏi: “Hai ngươi có thật là thủ hạ của Sa sư phụ không?” Lục Tiệm nghe thấy thanh âm đó trong lòng chìm xuống, chân đứng cũng như muốn khuỵu, nhận ra người đó chính là Tất Ki.
Cốc Chẩn bước nhanh lên chào, cười hi hi đáp: “Thật may gặp được tiền bối, vãn bối xin kính chào tiền bối.” nói rồi cúi người lậy chào. Lục Tiệm trong lòng rối bời, thấy vậy không còn cách nào khác, cũng theo đó cúi người lậy. Tất ki thấy hai người lễ độ, trong tâm hài lòng, cười nói: “Miễn lễ, miễn lễ. Sao ta chưa bao giờ thấy bọn ngươi?” Cốc Chẩn đáp: “Bọn vãn bối ngày trước ở đảo ngoại, vừa mới về.” Tất ki bán tín bán nghi, nhìn xoáy vào Lục Tiệm một cái. Lục Tiệm cúi đầu, bất giác tim đập thình thịch. Tất ki nào hay giờ Lục Tiệm đầu đã trọc lốc, phục sức cũng khác, nhìn cũng chẳng thể nhận ra, cười cười nói: “Sao hai người bộ dạng giống hoà thượng thế?” Cốc Chẩn cười đáp: “Bọn vãn bối mới làm hoà thượng được hai ngày, không ngờ lại được Diệp đảo chủ thu dụng.” Tất ki nghe vậy ngừng cười, nghiêm mặt lại đáp: “Không ngờ là người của Diệp đảo chủ phái đến.” rồi chuyển đầu hỏi người đi cùng: “Bọn họ nói đến lũ hải khách. Chắc là cái lũ bắt được đem giam mà không giết, ngươi có biết bọn chúng hiện giờ bị giam ở đâu không?” Tên đồng bọn kia đáp: “Ta cũng đã từng đưa thức ăn cho chúng, cứ đi về phía trước, tới ngã tư thì rẽ phải, cứ vậy hai lần, tìm đến phòng giam thứ 9 bên tay phải. Mà này, ngươi nói đưa thuốc, không hiểu bọn chúng bị bệnh gì vậy?” Cốc Chẩn cười nói: “Dạ đúng, nghe nói có vài người mắc bệnh.” Tất ki cười nói: “Thuốc ở hết trong hộp này hả.” Cốc Chẩn vội đáp: “Dạ xin mời tiền bối kiểm nghiệm.” Tất ki phẩy tay cười đáp: “Nói vui thôi, có phải là người lạ với nhau đâu đúng không? Ta tên là Tất ki, sau này tất sẽ có dịp họp mặt với nhau.” Nói rồi cung tay thi lễ, cùng tên đồng bọn vừa nói chuyện vừa đi. Cốc, Lục hai người không dám mở miệng, bước nhanh trên đường. Đến chỗ không có ai, Lục Tiệm giờ mới dám run rẩy nói: “Cốc Chẩn, vừa rồi rất là nguy hiểm.” Cốc Chẩn hỏi: “Nguy hiểm gì?” Lục Tiệm nhẹ giọng nói: “Cái tên Tất ki đó biết ta, chắc là đầu ta trọc lốc, nên không nhận ra.” Cốc Chẩn cười đáp: “Huynh thế mà cũng bảo là nguy hiểm sao? Bọn chúng mà mở hộp ra kiểm tra, thì mới thật sự gọi là nguy hiểm.” Lục Tiệm ngạc nhiên hỏi: “Gì cơ? Trong hộp có gì vậy, không phải là thuốc à.” Cốc Chẩn cười hihi đáp: “Thuốc thì đúng là thuốc, nhưng mà không phải là thuốc giải.” Lục Tiệm nghe lấy làm kì. Hai người bước đi như chạy, chỉ chút sau đã đến phụ cận phòng giam. Cốc Chẩn trầm giọng nói: “Từ giờ trở đi, nhìn thấy người nào, phải toàn lực xuất thủ, không được lưu tình.” Lục Tiệm gật đầu, vừa mới qua ngã rẽ đã nhìn thấy hai tên ngục tốt, bèn hô khẽ một tiếng, lao mình phi tới, biến hoá “bán sư nhân tướng”, đánh vào một tên, tên kia chưa kịp kêu lên, Lục Tiệm đã lại biến “hùng trư tướng” đánh tới, trúng vào giữa ngực. Hắn kêu thảm một tiếng nhưng rồi lại bị tắc nghẹn ở cổ. Cả hai mặt trắng bệch, ngất ngay lập tức. Lục Tiệm đánh ngất hai người xong, Cốc Chẩn cẩn thận đặt hộp gỗ xuống, tay xuất ô kim ti, mở cánh cửa nặng nề đầu tiên của địa lao ra, bỗng nghe bên trong có người hét mắng: “Tên khốn kiếp nào đến thế?” Lục Tiệm nghe thanh âm đó, vui mừng gọi: “La tam ca.” Người đó, chính thực là La Tiểu Tam, kêu lên ah ha, run run gọi: “Ngươi, ngươi là tiểu lục.” trong lúc đó, Cốc Chẩn lục tục mở hết các cửa địa lao, thò tay đưa ra một cái bình sứ, rồi nói: “Lục Tiệm, đây là giải dược của ‘thất sát phá công tửu’, mỗi người một viên, huynh giúp họ dùng đi.” Lục Tiệm đón lấy bình sứ, ngờ vực hỏi: “Sao mà đệ lấy được?” Cốc Chẩn cười đáp: “Không phải đệ ở trong phòng của Sa Thiên Hoàn ra hay sao?” Lục Tiệm vô cùng vui mừng, nhưng sau đó lại lo lắng hỏi: “Thuốc này có sợ bị nhầm không? Trong phòng của Sa Thiên Hoàn vẫn có cái gì tốt đẹp à?” Cốc Chẩn cười đáp: “Huynh yên tâm, giải dược của ‘thất sát phá công tửu’, đệ từ năm 6 tuổi đã nhận biết rồi.” Lục Tiệm nghe thấy lấy làm lạ, nhưng cũng không kịp hỏi, chuyển thân giúp mọi người uống thuốc. Bọn hải khách thuốc vừa qua miệng, cảm giác mệt mỏi vô lực liền biến mất, tranh nhau đứng dậy, hỏi han Lục Tiệm mọi chuyện. Cốc Chẩn cướp lời cười nói: “Đợi chút hàn huyên sau cũng không muộn, bọn ta trước tiên thoát khỏi đây đã.” Tay hắn lại đưa ra một bình sứ khác nói: “Thuốc này, mỗi người một viên, ngậm sẵn ở trong miệng, đợi chút nữa khi ta hô ‘ngừng thở’, tất cả mọi người phải nhớ ngừng thở ngay.” Bọn hải khách nghe thấy lấy làm kì quái, lục tục cầm thuốc chia nhau, theo Lục Tiệm dẫn đầu thoát ra ngoài. Trên đường gặp một vài ngục tốt, đều bị Lục Tiệm biến tướng đánh ngất. Không lâu sau, tới chỗ cửa vào, không ngờ cùng lúc bị vài tên ngục tốt nhìn thấy, kêu lên ầm ĩ, ngay lập tức, từ hai phía kéo đến 20, 30 người. Lục Tiệm nhìn thấy lính gác đông như vậy, có đánh cũng không thắng, đang lúc phiền não, bỗng nghe Cốc Chẩn hét lớn một tiếng: “ngừng thở.” rồi rất nhanh lấy ra hai trái hình cầu, vận lực ném ra, quả cầu vừa chạm đất, khói mờ liền bốc cao lên rồi tuôn khắp địa đạo. Lục Tiệm nhìn làn khói quen quen, nghĩ một chút, đột nhiên hiểu ra: “Ngày đó bị hôn mê chính là bởi khói độc này.” Nguyên do quả cầu Cốc Chẩn ném ra, chính thị là huyễn thận yên” lấy trong phòng của Sa Thiên Hoàn. Tình trạng hôm nay phảng phất giống hệt như trên thuyền ngày nào, chỉ là địch ta đổi chỗ cho nhau. Bọn ngục tốt cả lũ hai mắt đều trở lên trắng bệch, ngã gục xuống đất, còn đám hải khách trước đó do đã ngậm giải dược, quả nhiên không sao. Cốc Chẩn ném “huyễn thận yên” xuống, khói toả mù mịt trong đường hầm, bốc cả ra phía ngoài cửa địa lao. Đoạn đường ngầm vào cửa địa lao vì vậy cũng bị ảnh hưởng.
Đám hải khách chạy ra khỏi đường ngầm, thành ra cũng không có ai ngăn trở cả. Cốc Chẩn chỉ tay về một cái đại thuyền ở đằng xa, thét lớn: “Tất cả mọi người nhanh lên, cướp lấy thuyền kia.” Lũ hải khách tuyệt xử sống lại, dũng khí tăng lên gấp bội, tranh nhau chạy đến thuyền. Các đệ tử trên đảo đi tuần đằng xa nhìn thấy, chạy đến ngăn cản, đều bị Lục Tiệm mỗi đòn một tên, đánh ngã tất cả. Trên thuyền có người nghe thấy động tĩnh bên dưới, tranh nhau chạy ra boong tầu. Đám này đều là tuỳ tòng của đảo chủ, võ công bất phàm, chính lúc đang chạy ra ngăn trở, bất ngờ Cốc Chẩn lấy mấy quả “huyễn thận yên” còn dư ném hết ra ngoài. Trong đêm tối, khói mờ bốc lên không dễ nhìn thấy. Đám tuỳ tòng hít phải khói độc, tranh nhau ngất xuống, uổng cả một thân công phu, có việc mà không nâng nổi thân mình nửa phân. Lũ hải khách theo sau Lục Tiệm xúm xít lên thuyền, có hai tên tuỳ tòng trên đó vẫn có thể đứng được, có ý kháng cự, liền bị Lục Tiệm sử một “ngã tướng” thúc đầu đánh tới, húc ngã một tên; lại dùng “mã vương tướng” tung chânđá, đánh ngất nốt tên kia. Lũ hải khách lúc bị giam chịu nhiều cực khổ đã lâu, giờ tranh nhau trả thù, muốn giết hết đám tuỳ tòng để hả giận. Lục Tiệm tới gần bảo: “Không được vọng sát, ném bọn chúng khỏi thuyền để khởi hành.” Hắn liên tục thể hiện võ công, đám hải khách trong lòng thảy đều uý kị. Chu Tổ Mô vội bảo: “Tất cả mọi người nghe theo lời tiểu lục, ném bọn chúng khỏi thuyền để khởi hành.” Đám hải khách tuy không muốn, nhưng vẫn phải vứt bọn chúng khỏi thuyền. Cốc Chẩn cười nói: “Tất cả mọi người không được chậm trễ, nhanh chóng khởi hành, quay về đất liền.” Mọi người vui sướng chạy tán loạn, hò hét hưởng ứng. Bọn chúng vốn rất quen với thuyền bè, nói kéo buồm là kéo buồm, rút neo là rút neo, mở lái là mở lái. Thuyền này là thuyền của hồng mao hải tặc, trái phải có 8 khẩu pháo lớn, cột buồm cao lớn không nói, thân thuyền lại lướt nước êm như ru, chốc lát đã rời xa đảo nội. Cốc Chẩn cuối cùng cũng thoát khốn, trong lòng vui sướng vô cùng, cất cao thân mình, há miệng cười dài. “Đệ đừng có mừng vội đuợc không?” Lục Tiệm chui ra khỏi khoang tầu cười nói: “Chu đại thúc hỏi đệ, hiện giờ phải đi đến đâu?” Cốc Chẩn tay vỗ chân múa, cười ha ha bảo: “Ngày nay pháo hạm trong tay, lão tử tiến thối theo ý. Cứ như vậy, chuyển thủ thành công, triệt để đoạn tuyệt truy binh.” Nói rồi hét lên ra lệnh, lái thuyền hướng về đảo ngoại. Chỉ đi nửa ngày đã đến đảo ngoại. Trong đêm đen đảo ngoại hình dáng cao lớn, như đầu một mãnh thú thủa hồng hoang, hùng cứ trên mặt sóng. So với đảo nội, quả nhiên lớn hơn rất nhiều. Lúc này đêm đã xuống sâu, trên cảng đảo, đèn toả sáng trơ trọi, mặt nước sương mờ bốc cao, bao bọc lấy thuyền trong cảng nội đang ẩn hiện. Chúng nhân trên đảo ngoại không biết đã có biến, nhìn thấy chiến thuyền của đảo chủ trở về, rối rít chạy ra nghênh tiếp. Cốc Chẩn hạ lệnh nhồi thuốc súng vào cả 10 khẩu đại pháo trên thuyền, sau đó ngồi trên lầu cao quan sát xa gần, ra lệnh một lời, 4 khẩu pháo trên mạn thuyền bên phải đồng thời nhả đạn, lửa đạn chói loà, hải thuyền bên trong cảng bị đắm ngay vài chiếc. Mọi người trên đảo hoảng sợ, tranh nhau la hét kêu khóc, tỏa đi chạy trốn. Một vài kẻ can đảm còn lại, vội vã nhảy lên mấy chiếc hoàng diêu khoái hạm tìm cách chạy đến. Cốc Chẩn lớn tiếng ra lệnh, chuyển chiến hạm sang mạn thuyền bên trái, rồi một tràng hoả pháo lại bắn ra, đánh trúng và làm đắm mấy thuyền kia. Mọi người trên thuyền bị đắm kêu khóc nhẩy vội xuống nước. Lục Tiệm thấy vậy bất nhẫn, cao giọng nói: “Cốc Chẩn, được việc rồi thì tha người đi, bọn ta cứ thế mà đi thôi, cần gì phải làm thế này.” “Đúng là lòng dạ của phụ nữ!” Cốc Chẩn cười lạnh, “Huynh tha bọn chúng, bọn chúng có tha cho huynh không?” lời nói vừa dứt, đã có hai hoàng diêu khoái hạm tới gần phát pháo, bắn trúng vào thiết giáp trên thân thuyền. Thuyền dù rất lớn, cũng bị rung lên. Cốc Chẩn cười lạnh: “Huynh thấy rồi chứ?” sau đó lại lệnh: “Đầu thuyền, phát pháo.” Liền thì hai tiếng pháo vang lên, biến hai chiếc hoàng diêu khoái hạm đó thành bột vụn. Lục Tiệm nhìn khoái hạm bị bắn tan chìm dần xuống biển, không kìm được thở dài: “Không lạ khi Ngư hoà thượng trước lúc lâm tử lại nói: ‘thế gian sang di, chúng nhân đa khổ’. Chỉ là những chuyện khổ nạn đó, đa phần là do tự bản thân mà ra.” Nghĩ vậy Lục Tiệm thành ra chán nản, không nỡ nhìn tiếp cảnh thuyền bị pháo kích, buồn bã bỏ vào trong khoang. Cốc Chẩn liên tiếp hạ lệnh, mười khẩu đại pháo gầm lên phát lửa, giống như một con hoả long hung dữ, bắn chìm tất cả thuyền bè trong cảng, sau đó lại đi vòng quanh đảo, phát hiện có thuyền nào, bèn tuỳ tiện phát pháo oanh kích. Đến khi vòng quanh đảo một vòng, không thấy một chiếc thuyền nào của đảo ngoại còn nguyên vẹn, Cốc Chẩn cuối cùng mới phát lệch khởi hành. Lũ hải khách tụ tập đứng trên boong thuyền, nhìn về đảo ngoại, thần tình ngây ngất mê li, như đang trong mộng. Chỉ đến khi đèn đuốc trên đảo ngoại khuất dần trong sương mờ đằng xa, mới thật sự vữngtin trong lòng là mình đã thoát thật, nhẩy lên la hét, vui sướng vô cùng. Chu Tổ Mô đến chỗ Cốc Chẩn giơ ngón tay cái lên, cười nói: “Vị huynh đệ này, tuổi tác không lớn, nhưng chỉ huy hạm thuyền, so với chúng ta có hàng chục năm kinh nghiệm trên biển, cũng vẫn phải tôn làm lão đại.” Cốc Chẩn từ đài cao hạ xuống, tủm tỉm cười đáp: “Quá khen rồi.” Chu Tổ Mô thấy hắn nụ cười sáng rỡ, cử chỉ tiêu sái, bất giác kính phục, vòng tay cười nói: “Ta gọi là Chu Tổ Mô, túc hạ tên gọi là gì?” Cốc Chẩn mi mày nhướn lên, cười đáp: “Họ vốn là Cốc, tên Chẩn.” Bọn Chu Tổ Mô vốn nụ cười đang nở trên mặt, tự nhiên hai mắt mở lớn nhìn hắn, như gặp phải ác quỷ, hốt nhiên một người run sợ, buột miệng kêu hoảng: “Ngươi, ngươi chính là đông đảo thiếu chủ”. Bọn hải khách thảy đều hoảng sợ, hô lớn một tiếng, kéo nhau chạy đến. Lúc đó Lục Tiệm cũng vừa đi ra khỏi khoang tầu, thấy vậy mới hỏi: “Chu đại thúc, bọn họ nói gì vậy?” Chu đại thúc trong lòng đã kịp tính toán, bèn vội nói: “Tiểu lục cẩn thận, người này chính thật là người của Đông đảo.” Thân phận của Cốc Chẩn, Lục Tiệm đã đoán ra được vài phần, chỉ là chưa có cách nào xác thực, nghe lời lão nói cũng không hề thấy ngác nhiên lắm, gật đầu đáp: “Là người Đông đảo, nhưng hoàn toàn không hề giống Địch hi, Cốc Chẩn chính thực là bằng hữu của ta, các người đừng làm khó hắn.” Chu Tổ Mô dậm chân kêu khổ: “Tiểu lục ngươi không biết, chẳng những là người của Đông đảo không thôi, tiểu tử này còn là thiếu chủ của Đông đảo, cha của hắn chính là vua của Đông đảo – Linh ngao đảo chủ Cốc thần thông.” Lục Tiệm đối với chuyện ân oán giữa Đông đảo và Tây thành cũng biết một chút, nhưng thâm sâu thế này, thì hắn không ngờ tới. Chuyển mắt nhìn, chỉ thấy Cốc Chẩn tay bắt lên nhau, tuấn tú sáng rỡ, khoé miệng như cười mà không phải cười, đầy vẻ trào phúng, không kìm được thở dài thốt: “Chu đại thúc, nếu như không có Cốc Chẩn, chúng ta không có cách nào thoát khỏi ngục đảo. Oan gia chỉ nên giải chứ không nên kết, hiện giờ cùng hội cùng thuyền, chuyện ân oán ngày xưa để sau hãy tính.” Chu Tổ Mô hừm một tiếng đáp: “Vẫn nghe nói đông đảo thiểu chủ vô cùng giảo quyệt, khó đối phó nhất, ai biết được có phải hắn đang giả vờ thi ân, nhưng sau lưng thì tàng trữ âm mưu thâm độc gì không. Tiểu lục, ta là người của Thiên bộ, cùng với dư nghiệt Đông đảo ở thế lưỡng bất cập. Ngươi quyết định đi, giúp hắn hay giúp bọn ta?” nói xong hai mắt ghim vào Lục Tiệm, tràn đầy mầu sắc hy vọng. Lục Tiệm nhíu mày, lắc đầu đáp: “Chu đại thúc đối xử với ta không bạc, còn Cốc Chẩn với ta là đồng sanh đồng tử, cộng hưởng hoạn nạn, là bạn bè sinh tử chi giao.” Chu Tổ Mô biến sắc hỏi: “Ngươi giúp hắn hả?” Lục Tiệm lại lắc đầu. “Vậy thì tốt.” Chu Tổ Mô vui mừng nói, “Ngươi chỉ cần không giúp bên nào là được.” Hắn tự nghĩ bên mình người đông thế mạnh, đối phó với một mình Cốc Chẩn sao mà thua được. Không ngờ Lục Tiệm lông mày lại giãn ra, cao giọng nói: “Ta tuy không giúp ai cả, nhưng ai chủ động gây sự, đừng trách ta động thủ vô tình.” Hắn nói xong, trên thuyền im lặng một hồi, sắc mặt Lục Tiệm tuy rất hoà hoãn, nhưng mọi người đều cảm thấy trên thân hắn có khí thế của cả trăm người. Chu Tổ Mô chẳng thể làm gì, căm hận giậm chân, rồi quay người vào trong phòng. Bọn hải khách bực tức tản đi. Lục Tiệm mặc dù chế ngự được mọi người, nhưng biết rằng thế là đã gây chuyện rắc rối với bằng hữu cũ, chẳng thể giữ lại tình nghĩa ngày xưa, bất giác trong lòng chán nản, chậm chậm bước đến đầu thuyền, đưa mắt nhìn biển cả mênh mông, ngơ ngẩn xuất thần. Bỗng nghe thấy tiếng Cốc Chẩn sau lưng cười nói:
“Huynh nói chúng ta là tình nghĩa sinh tử chi giao, chỉ sợ đó là suy nghĩ của riêng huynh thôi.” Lục Tiệm đáp: “Ta đối xử với ngươi chính là như vậy, còn phần ngươi đáp trả thế nào là chuyện của ngươi.” Cốc Chẩn im lặng hồi lâu, rồi bỗng nhiên cười đáp: “Huynh là người vô cùng cố chấp, chỉ là, đối với đệ lại rất hợp nhãn. Hừm, Huynh đừng nghĩ bọn Chu Tổ Mô nhiều người, nếu thật sự phải tranh đấu, bọn chúng đến chín phần mười sẽ bị thua thiệt. Huynh hôm nay tưởng là giúp đệ, chứ thực ra là giúp bọn ngu ngốc kia.” Hắn thấy Lục Tiệm cứ nhìn về phía xa, chẳng nói điều gì, bèn cười rồi nói: “Huynh nghĩ gì vậy, hehe, nhớ đến cô nào hả?” Lục Tiệm lắc đầu đáp: “Ta đang nghĩ đến Bắc lạc sư môn.” Cốc Chẩn ngạc nhiên hỏi: “Đó chẳng phải là một ngôi sao trên trời sao?” Lục Tiệm đáp: “Không phải là sao trên trời mà là một con mèo rất thông minh, ta từ hồi bị Sa Thiên Hoàn bắt giữ chưa từng thấy lại, không hiểu giờ nó đang lưu lạc ở phương nào. Đáng tiếc là ngục đảo quá rộng nên ta không thể tìm được nó.” Nói đến đây, những thương cảm trong lòng hắn thế nào, đều hiện hết cả ra bên ngoài. Cốc Chẩn chứng kiến tình cảm hắn giành cho một con vật như vậy, rất lấy làm buồn cười, nhưng thấy thần sắc hắn đau khổ, bất nhẫn quá đành phải an ủi: “Con mèo đó chắc vẫn còn sống, sau này có duyên, tất sẽ gặp lại, huynh không cần phải phiền não quá làm gì.” Lục Tiệm gật đầu đáp: “Bắc lạc sư môn thông minh, tinh tế cẩn thận, chắc chắn tự có cách cứu mình.” Tuy rằng nói vậy, trong lòng vẫn thấy băn khoăn. Bỗng nhiên lại hỏi: “Cốc Chẩn, ngươi chính thật là thiếu chủ của Đông đảo hả?” Cốc Chẩn cười đáp: “Trước đây thì đúng, giờ thì thật ra không phải nữa rồi. Ngày nay đệ đã trở thành đệ nhất đào phạm của Đông đảo, người người đều muốn tìm đệ để bắt lại, huynh không sợ bị đệ liên luỵ sao?” Lục Tiệm cười thảm: “Ta đã bị liên luỵ rồi thôi, huống hồ ta thấy người trong Đông đảo ai cũng vô cùng tà ác ngoan độc, ngươi là đào phạm của họ, có khi lại là người tốt cũng không biết chừng.” Cốc Chẩn bấtgiác vỗ tay cười lớn. Lục Tiệm liếc hắn một cái rồi thở dài: “Ta thật sự khâm phục ngươi, bất luận bị giam khổ cực thế nào, chạy trốn vất vả ra sao, lúc nào cũng luôn vui vẻ như vậy.” Cốc Chẩn gãi gãi đầu đáp: “Cái đó là trời sinh ra đã thế rồi, đệ từ nhỏ đã hay cười, từ nhỏ đã bị gọi là tiếu nhân. Nhưng những kẻ sợ đệ, thì lại gọi đệ là một con hổ đang giả vờ cười.” nói đến đây, cả hai cùng cười phá lên. Lục Tiệm lúc này đứng cùng một chỗ với vị bằng hữu sinh tử của mình, trong lòng thoải mái vô cùng, cảm giác nếu như phải gặp việc khó cỡ nào, cũng đều có thể hoá giải được. Chiến hạm bọn họ giáp cứng pháo nhiều, trên đường đi không gặp trở ngại gì, lướt sóng băng băng, một ngày đi được hai trăm lí, chỉ vài ngày đã gần đến trung thổ. Ngày hôm đó, Lục Tiệm đang ngủ ngon giấc, bỗng thấy có người lay dậy, mở mắt nhìn lên, hoá ra là Cốc Chẩn. Lại thấy hắn đưa ngón trỏ lên làm hiệu, tỏ ý phải giữ im lặng, rồi bò ra, sau đó đưa tay vẫy vẫy Lục Tiệm, đi ra ngoài. Lục Tiệm đang lúc ngủ ngon, cũng đành phải đi theo sau hắn. Hai người rón rén bước đi, đến một bức tường trước mặt, Cốc Chẩn bèn áp tai vào tường, Lục Tiệm cũng theo đó làm theo, liền nghe thấy tiếng người ẩn ước truyền lại, chính thị Chu Tổ Mô, chỉ thấy lão nói: “Ngày nay súng điểu bị mất, Trầm tiên sanh mà truy cứu đến, bọn chúng ta đều sẽ chẳng gặp điều gì tốt lành cả. Chỉ có một cách, đó là đoạt lấy cái chiến hạm này, thuyền này vô cùng lợi hại, nếu đưa cho tiên sanh, hoặc có thể lấy công đó mà bù lấy tội.” Lại nghe La Tiểu Tam tiếp lời: “Chỉ sợ kẻ họ Cốc kia không đáp ứng, hai ngày qua trước mặt bọn ta hắn tay chỉ, chân bước, đầy vẻ âm dương quái khí, nhìn thấy chỉ làm cho người ta thêm bực mình.” Chu Tổ Mô đáp: “Kẻ họ Cốc đó võ công bình thường, không có gì đáng sợ. Sợ nhất chính là tiểu lục, nếu mà chế trụ được hắn, tên họ Cốc chỉ còn cách giơ tay chịu trói thôi. Nếu như có thể bắt được tên thiếu chủ của Đông đảo đó, thì chẳng những đủ công chuộc tội, mà còn là công trạng đệ nhất, Trầm tiên sanh sẽ rất cao hứng, địa vị của ta tại thiên bộ sau này tất nhiên sẽ khác trước xa.” Lục Tiệm trong lòng phát kinh, lại thấy trong phòng im lặng hồi lâu, rồi tiếng La Tiểu Tam hỏi: “Nhưng tiểu lục thật sự rất lợi hại, làm sao chế ngự được hắn?” “Cái tên tiểu tử không biết thời thế đó.” Chu Tổ Mô nghiến răng đáp, “ta đã tính rồi, trên thuyền còn vài chục bình rượu ngon, chỉ hai ngày nữa là về đến được trung thổ. Đến lúc đó, bọn ta mượn cớ ăn mừng việc trở lại cố thổ, mời tiểu tử có tên tiểu lục đó đến uống rượu, ép hắn uống thật nhiều. Tốt nhất là có thể bắt sống lấy hắn, nhược bằng nếu hắn chống cự, tất cả mọi người đều cùng nhảy vào, bằm nát hắn ra.” Lục Tiệm nghe mấy lời này, tựa như bị sét đánh trúng, hồi lâu cũng chưa hoàn hồn, lại nghe La Tiểu Tam băn khoăn bảo: “Chu lão gia, Hắn hai lần cứu tính mệnh bọn ta, nếu mà đem oán báo ân như vậy, tựa hồ không đúng.” Chu Tổ Mô đáp: “Hắn tuy có cứu bọn ta, nhưng lại đi lại hợp tác với dư nghiệt của Đông đảo. Bằng hữu của Đông đảo chính thị là địch nhân của thiên bộ ta đây. Đối xử với địch nhân, sao được mềm tay. Nếu nể tình cái ân cứu mệnh, không giết chết hắn, thì cũng phải chặt bỏ tay chân, phế bỏ một thân võ công của hắn. ” La Tiểu Tam vui vẻ đáp: “Cách đó là tốt nhất.” Chu Tổ Mô dặn: “Hai ngày tới, nếu mọi người gặp tiểu lục, chẳng những không được thay đổi thái độ, mà còn ra vẻ cười nói. Cái gọi ‘binh bất yếm trá’ chính là như vậy.” Bọn hải khách tranh nhau nịnh hót: “Toàn nhờ vào cao kiến của Chu lão gia cả.” Chu Tổ Mô vô cùng đắc ý, cười lên ha hả. Cốc Chẩn chuyển thân nắm tay Lục Tiệm, thấy bàn tay hắn lạnh ngắt, cứng ngắc, không kìm được thở dài một tiếng, kéo hắn trở về tới phòng mới nói: “Lục Tiệm, con người ta ở đời, đa số chỉ màng danh lợi, coi nhẹ tình nghĩa. Chu Tổ Mô chẳng qua chỉ là một tên gian thương bất thành khí, tự nhiên cư xử chỉ vì tư lợi bản thân, lần này tìm cách thoát khỏi tội làm mất hết súng điểu, đem oán trả ân cũng không có gì lạ. Đệ trước đó đã sớm nghĩ đến rồi, huynh không việc gì phải sợ mấy cái mẹo vặt của hắn.” Nói xong vẫn thấy Lục Tiệm ngây ngốc, không kìm được thở dài: “Cái bệnh lớn nhất của huynh, là trong lòng quá tốt, rất dễ bị người khác lừa.” Hắn nghĩ sao lại thở dài thêm một tiếng nữa. Suốt hai ngày sau đó, Lục Tiệm hầu như không có 1 chút hứng thú nào. Mỗi lần thấy đám hải khách giả vờ cười nói, trong tim lại như bị kim châm một cái. Trưa ngày hôm đó, đã có thể nhìn thấy đất liền đằng xa, La Tiểu Tam cùng hai tên hải khách quả nhiên lại mời. La Tiểu Tam cười nói: “Tiểu lục, hôm nay đã có thể nhìn thấytrung thổ rồi, Chu lão gia bảo, từ tối đó trên bờ biển cho đến giờ có thể trở lại đất cũ, đa phần đều nhờ tiểu lục nhiều lần tương trợ, vì vậy chắc chắn phải uống với ngươi hai chén, để cảm ơn ngươi.” Lục Tiệm ngắm hắn cười nói, nhớ tới những gì đã nghe được, trong lòng khổ sở vô cùng, đang muốn cự tuyệt, bỗng thấy Cốc Chẩn cười đáp: “Rượu này phải uống, bất quá phải chia cho ta một phần.” La Tiểu Tam ngây người, chứng kiến một người đang bước ra khỏi cửa. Cốc Chẩn vận một chiếc áo dài trắng, phất phơ đứng đó. Hắn ở tầng 9 tuyệt ngục, không có ánh sáng, làn da vì vậy trắng toát như ngọc, lại thêm dạo này chỉ ăn uống hưởng thụ, da thịt dần dần hồi lại, càng toát ra vẻ ngọc thụ lâm phong, tuấn tú bất phàm. Không đợi La Tiểu Tam đáp lời, Cốc Chẩn đã cười nói: “La huynh, bọn huynh thoát khỏi đông hải ngục đảo. Ta công lao mỏn mọn dù không có, cũng có công khổ lao cùng. Bọn huynh chỉ cảm tạ Lục Tiệm, mà không tạ ta, như thế là vong ân phụ nghĩa, chẳng phải trở thành lũ sói mắt trắng dã hết hay sao?” Hắn một câu đánh trúng vào tim đen của La Tiểu Tam, làm La Tiểu Tam mặt nóng bừng lên, há hốc miệng, không biết phải trả lời sao.
Cốc Chẩn kéo tay Lục Tiệm, cười nói: “Đi nào, đi uống rượu.” rồi không để ý gì đến lũ La Tiểu Tam, đi tới trước phòng của Chu Tổ Mô. Chu Tổ Mô đang đợi khai tiệc, thấy cả hai người cùng tới, bất giác giật mình. Cốc Chẩn cười nói: “Chu huynh vẫn khoẻ chứ, Cốc mỗ vô tình thấy tiệc, nên cũng tham đến uống hai chén.” Nói rồi trịnh trọng ngồi xuống, phản khách thành chủ, rót rượu ra chén, phàm mỗi chén trên bàn đều nhất nhất rót đầy, cười nói: “Lại, lại, lại nào, trước tiên phải uống 3 chén, sau đó mới được nói chuyện, ai không dám uống thì phải nhận là cháu nội của ta.” Nói xong uống trước một chén. Lời hắn nói ra cực kỳ thâm độc, đám hải khách tất nhiên chẳng ai chịu nhận là cháu nội của hắn, không có cách nào khác phải uống liền 3 chén, trên mặt liền lộ sắc hồng. Cốc Chẩn nét mặt như không, lại rót rượu đầy vào chén mọi người, cuời nói: “Tất cả mọi người vừa rồi đều đồng cam cộng khổ, vô cùng khổ sở, Lại có Chu lão đại, lao khổ công cao, giống như trong câu thơ gì ấy nhỉ, đúng rồi, ‘bá trọng chi gian kiến y lữ, chỉ huy nhược định thất tiêu tào’[1], nếu mọi người không uống cạn chén này, thì thật là không nể mặt chu lão đại.” Đám hải khách ai dám không nể thanh danh của Chu lão đại, nên không còn cách nào khác phải cạn chén tiếp. Chu Tổ Mô trong lòng lo lắng, đang tìm cách ép Lục Tiệm uống rượu, chẳng ngờ Cốc Chẩn uống vài chén rượu vào, nét mặt liền lộ ra vẻ say xỉn, hét lớn: “Uống, uống, ai không uống thì là cháu nội của ta...” nói rồi cầm ghế đứng dậy, đi ra chỗ để rượu, loạng choạng gạt ghế vào đó, tức thì choang choang choang, phần lớn bình rượu trên đó liền bị vỡ. Chu Tổ Mô vừa kinh vừa giận, quát lớn: “Ngươi làm gì vậy?”Chẳng ngờ Cốc Chẩn say rượu hai mắt mở to, kêu lớn đáp lời: “Ngươi hỏi lão tử hả? Lão tử là địa tàng bồ tát, thác tháp thiên vương, phụng thánh chỉ của ngọc hoàng thượng đế, đến đây để diệt bọn ngươi.” Nói rồi lại giơ ghế lên, ra vẻ ném về phía Chu Tổ Mô. Lão hoảng sợ quá, vội tránh sang bên, không ngờ Cốc Chẩn chuyển hướng đập thẳng xuống nát hết bàn rượu. Rượu mạnh chẩy ra khắp nơi. Trong phòng nồng nặc tửu khí. Bàn rượu đã bị phá nát. Độc kế của Chu Tổ Mô không thành. Trong lòng lão không sao chịu được, dậm chân hét lớn: “Kẻ này bị điên rồi, bọn ngươi sao không chặn hắn lại.” Lục Tiệm biết rõ lý do, không kìmđược mỉm cười, đứng lên nói: “Không cần thiết, hắn chỉ bị say chút thôi, để ta dìu hắn về.” nói rồi nắm lấy bắp tay Cốc Chẩn, không ngờ Cốc Chẩn né khỏi tay hắn, hai mắt trợn trừng, lớn tiếng hét:“Ta là Gia Cát Khổng Minh, hãy xem ta đăng đàn làm phép, mượn gió đông thổi cờ, thiêu cháy trăm vạn quân Tào đây.” vừa nói vừa múa may nhảy nhót, không hiểu sao, tự nhiên trong ống tay áo hắn lại xuất ra một mồi lửa, đúng lúc vẫy cho nó tắt thì nó lại rơi xuống sàn phòng. Rượu đang chẩy lênh láng trên sàn gặp lửa tức thì cháy rực, chẳng mấy chốc lửa bén khắp nơi.
Bọn hải khách vô cùng kinh sợ, hò hét cứu hoả, không ngờ thế lửa không tắt. Cốc Chẩn lại ném thêm mồi lửa xuống, thế lửa càng phát mãnh liệt, đã đến mức không thể cứu được nữa. Cốc Chẩn ném mồi lửa ra, rồi nhân lúc hỗn loạn, kéo tay Lục Tiệm chuyển thân chạy ra ngoài, đến bên chỗ khẩu pháo thấy mấy thùng thuốc súng bên cạnh, tiện thể ném luôn một mồi lửa vào đó rồi tức tốc chạy thật nhanh, chỉ nghe sau lưng một tiếng nổ lớn, chiến thuyền bị thủng một một lỗ to, lửa cháy bừng bừng. Lũ hải khách dập lửa đằng đông thì Cốc Chẩn đốt lửa đằng tây. Toàn bộ chiến thuyền chỉ chốc lát đã ngập chìm trong khói lửa. Cốc Chẩn cười phá lên, cùng Lục Tiệm chạy lên trên tầng cao, lấy một cái thuyền cứu sinh nhỏ, ném xuống nước, rồi hai người song song nhẩy lên trên. Lục Tiệm ngoái nhìn con tầu ngập trong khói lửa, thở dài bảo: “Cốc Chẩn, đệ phóng hoả thật là quá tay.” Cốc Chẩn như vẫn có vẻ đang say, cười hi hi bảo: “Đúng vậy, ba chén thông đường lớn, một đấu hợp tự nhiên [2], người đã say rồi, vô luận có chuyện gì xẩy ra, cũng đều là tự nhiên cả, đệ lúc say hát vậy, thì đốt cháy bọn chúng cũng là lẽ thường.” Lục Tiệm phì một tiếng đáp: “Ở đâu ra cái lý sự đó hả?” Hai người đưa thuyền nhỏ đi xa được vài lí, bỗng thấy đám hải khách từng lũ tranh nhau nhẩy lên tầng cao, rối rít chạy ra boong tầu, tranh cướp thuyền cứu sinh, một số lấy vội mấy tấm ván gỗ, ôm vào lòng rồi nhẩy xuống biển. Chẳng bao lâu sau, bỗng nghe từ bên trong chiến hạm phát xuất một tiếng nổ cực lớn, sức ép của vụ nổ phá thuyền thoát ra. Chiến hạm lớn đó chẳng mấy chốc bị phá thành 4, 5 phần, biến thành một đống sắt gỗ vụn. Như vậy là lửa đã lan đến phòng chứa thuốc súng, làm toàn bộ thuốc súng đồng loạt phát nổ, phá chiến hạm đó thành từng mảnh nhỏ. Đám hải khách tuy rằng thoát chết cả, nhưng mặt mũi cháy xém, vô cùng khổ sở. Cốc Chẩn cười sằng sặc nói: “Lục Tiệm, đệ nhìn mặt huynh, biết là huynh không thích giết người. Chứ không phải vậy, tối hôm qua, đệ đã đốt cháy cả thuyền rồi, khi đó thì bọn khốn khiếp này, nếu không phải làm mồi cho cá, thì cũng trở thành gà quay hết cả.” Chèo thuyền nửa ngày, hai người bỏ thuyền lên bờ. Lục Tiệm quay đầu nhìn đám hải khách vẫn đang vật lộn trên biển, thở dài bảo: “Ta không muốn gặp lại bọn chúng, đi thôi.” Cốc Chẩn cười đáp: “Huynh có kế hoạch gì cho tương lai không?” Lục Tiệm đáp: “Ta trước tiên muốn về làng cũ, thăm lại ông nội, sau đó mang xá lợi của Ngư hoà thượng, an phóng trên thiên trụ sơn.” Cốc Chẩn đáp: “Thiên trụ sơn danh tiếng rất lớn, là tổ đình của phái thiện tông, đệ cũng muốn đến đó từ lâu, tiếc rằng thuỷ chung không có cơ hội. Ngày nay trên mình đệ còn có vài việc, phải đến Nam kinh giải quyết, Huynh nếu đi cùng với đệ, khi xong việc, đệ sẽ cùng huynh về thăm người thân, sau đó đến thiên trụ sơn có được không?” Lục Tiệm trong lòng thầm tính chỗ này là Chiết giang, làng cũ thì ở tại biên giới của Tô lỗ, nếu đến Nam kinh, thì cũng tiện đường về, liền vui vẻ đồng ý ngay. Bàn bạc xong xuôi, Lục Tiệm vội vã bước đi. Cốc Chẩn ngăn tay lại cười nói: “Đừng vội huynh, thành Hải trứ cũng không xa đây, bọn ta trước hết hãy đến đó kiếm ít tiền, gạt vài tên nhãi nhép đã.”
Chương 11 Kim Quy
Hai người vừa đi vừa ngắm hoa thưởng cảnh, rồi cũng đến bên ngoài thành Hải trữ, Cốc Chẩn nói: “Trong thành tỏa ra nhiều chướng khí quá, không nên vào. Đệ biết một chỗ hay lắm.” Lúc này hai người đang ở bờ sông Tiền Đường, bèn đi ngay vào trong bến thuyền, tìm đến một toà tửu lâu. Tửu lâu có tên “Quan hải”, mái hiên hoành vĩ, cao lớn, trước cửa treo một đôi câu đối được viết rất khéo: “Lâu quan thương hải nhật, Môn thính chiết giang triều” - “Lầu nằm ngắm thương hải, Cửa nghe sóng chiết giang”. Câu đối này, ứng với toà tửu lâu, không hề sai trật. Cốc Chẩn chỉ đôi câu đối đó cười nói: “Thấy hai câu này, dường như là thơ của Lạc Tân Vương thời Đường [1], lão ấy cũng giống hệt bọn ta, phải làm hoà thượng trọc đầu ngang nhiên đào thoát khỏi đại ngục.” Lục Tiệm cười đáp: “Ngươi là hoà thượng, chứ không phải ta. Nhưng mà ý hai câu này rất có khí phách. Lạc nhân vương đó, chắc chẳng phải kẻ kém cỏi đâu.” Cốc Chẩn vỗ tay cười: “Đúng đúng, Lạc nhân vương đó, đúng là không phải kém cỏi.” Lục Tiệm biết hắn đang trêu mình, mỉm cười, cũng không thèm để tâm đến. Hai người đi lên đến tầng ba, chọn chỗ đối diện với biển ngồi xuống. Cốc Chẩn giơ tay chỉ núi sông xung quanh nói: “Thành hải trứ này phía nam giáp biển, phía tây nam giáp núi, có sông Tiền đường chẩy xuyên qua, phía đông lại giáp biển rộng, vì vậy còn có tên là cửa biển.” Lục Tiệm không tin hỏi: “Sao đệ lại biết những điều đó?” Cốc Chẩn đáp: “Đệ từng làm ăn buôn bán ở khu vực này. Làm người kinh doanh mà không tường địa lý, không biết phong tục nhân tình, tất nhiên sẽ gặp thất bại hao tiền tốn của.” Lục Tiệm lại càng ngạc nhiên hỏi: “Đệ bị giam trong ngục mất 2 năm, cứ như vậy thì ngày đó không quá 14, 15 tuổi, tuổi nhỏ vậy thì làm ăn buôn bán gì?” Cốc Chẩn cười chúm chím: “Có chí đâu cần ở tuổi cao, hà huống đạo làm ăn buôn bán rất thú vị, so với việc học văn tập võ thì hơn rất nhiều.” Lúc này ở bàn bên cạnh có một vài văn sĩ ăn vận theo lối học trò, đang uống rượu làm thơ, nghe thấy mấy lời đó, vô cùng khó chịu. Rồi có một người quát hỏi: “Ngươi là người tuổi nhỏ óc tối, không phải tăng cũng chẳng phải tục, sao lại nói những lời trái với kinh sách thế hả? Nhớ ngày xưa, trong đám đệ tử của Khổng thánh nhân, Nhan hồi theo nghiệp văn, Tử cống theo nghiệp kinh thương, sao không thấy ai bảo Tử cống bỉ Nhan hồi chút nào. Tử cống còn nói mình không bằng Nhan hồi, Nhan hồi vốn nghe một hiểu muời, mình nghe một chỉ hiểu hai. Tiểu tử nhà ngươi, bản thân tự không thể theo nghiệp văn thì thôi, lại còn dám ăn nói lung tung, vũ nhục thánh hiền.” Cốc Chẩn cười lên ha hả. Văn sĩ kia bực quá hỏi: “Ngươi cười gì hả?” Cốc Chẩn bỗng nhiên nhẹ giọng ngâm: “Sư dữ thương thục hiền Tứ dữ hồi thục phú Đa thiểu cùng ô sa Giai bị tử viết ngộ.” Bọn văn sĩ nghe xong mặt đần ra, bốn câu thơ đó đã nói rất rõ ràng: Làm thầy hay làm ăn buôn bán cái nào hơn, trước tiên hãy nhìn xem Tử cống và Nhan hồi ai giầu hơn, Tử cống giầu ngang vương hầu, Nhan hồi thì chết trong nghèo đói. Từ xưa tới nay người đọc sách rất nhiều, tất cả đều bị lời bình của Khổng tử với hai người đó lừa dối, kết cục rơi vào cảnh cùng khốn cả. Đám văn sĩ vừa rồi mới chỉ không vui, giờ thì thảy đều bực tức, rối rít đáp: “Hữu nhục thánh hiền, hữu nhục thánh hiền.” Cốc Chẩn cười đáp: “Các người nói ta hữu nhục thánh hiền. Vậy nói thử cho ta cả cuộc đời Nhan hồi làm được gì? Ngoài việc đọc sách, rồi thì luận đạo, với gia đình thì là người vô dụng, với quốc gia thì là người vô ích, kiếm được cái danh ‘á thánh’ vô tích sự, khi chết đến cái quan tài cũng không có. Còn Tử cống đi sứ bốn nước, trước giúp giữ được Lỗ, sau làm loạn Tề, phá Ngô, giúp Tấn lên ngôi bá. Dụng trí trong vòng 10 năm, thay đổi hoàn toàn đại thế năm nước. Ông ấy là người làm ăn buôn bán loại gì hả? Lúc Khổng tử chết, ai khác không phải là ông ấy đứng ra lo liệu việc hậu sự hả? Lão hoàng đế tất nhiên là muốn bọn ngươi đều theo Nhan hồi, cam chịu sống cuộc đời nghèo khổ hiền lành, chỉ để một mình lão tiêu diêu khoái hoạt; Chứ nếu ai ai cũng học theo Tử cống, hehe, giang sơn đang yên ấm của lão nhân gia ấy có còn dễ ngồi nữa hay không.” Hắn đưa tay chỉ lũ văn sĩ, cười nói: “Bọn ngươi vốn là người đọc sách, chẳng vẫn thường hay nói ‘Ẩn trong sách có cả phòng đầy vàng, trong sách sáng như ngọc’ đúng không hả? Đúng là chỉ nhân nghĩa đạo đức miệng, rốt cục cũng không ngăn được việc cuối cùng đều muốn có tiền bạc, có nữ nhân. Trong bọn ngươi đây có ai dám học cái sự nghèo giống như Nhan hồi, chết không có quan tài mà chôn thì ta mới thực sự phục. Tiền bạc kiếm được của người làm ăn buôn bán tuy rằng không thật sự sạch sẽ, nhưng so với tiền những tên xú quan tham nhũng ép luật mà có, thì còn sạch sẽ gấp vạn lần.” Đám văn sĩ bị ép đến líu lưỡi không nói được gì, chỉ biết nói lại mỗi câu: “Hoang đường, hoang đường.” Cốc Chẩn không thèm để ý, cười gọi: “Tiểu nhị lại đây.” Tên tiểu nhị vốn trải đời, nhãn thần rất tinh, nhìn thấy khí phái của Cốc Chẩn biết rõ không phải người thường, ở bên cạnh thích thú nghe hắn biện bác với bọn văn sĩ, cứ phải cố nén cười, giờ nghe thấy hắn gọi, vội đáp: “Tiểu gia có việc gì cần sai bảo sao?” Cốc Chẩn đáp: “Có nghiên bút ở đây không?” Tên tiểu nhị đó đáp: “Có, có.” rồi mang lại ngay. Đám văn sĩ trước bị Cốc Chẩn áp đảo, vẫn căm phẫn trong lòng. Thấy vậy một người bèn cười lạnh: “Kẻ này mà cũng dám viết thơ hả? nếu có viết ra thơ, thì chắc cũng là loại thối không thể ngửi được.” Cốc Chẩn cười đáp: “Cha ngươi thơ vẫn chưa viết, mà đã nghe thấy hai tiếng bủm rồi, mặc dù thối không chịu được, nhưng ông ngoại ngươi đây khí độ rộng rãi, nên vẫn không thèm chấp.” rồi cũng không thèm để tâm đến lũ văn nhân đang giương mắt tức giận kia, chấm đậm mực đen, phóng tay viết: “Đi đường khốn đốn, Hết sạch tiền bạc”, xong đề tên lên trên, đưa cho tiểu nhị, cười dặn: “Ngươi mang cái này vào thành Hải trứ tìm đến phủ của Ngô Lãng Nguyệt trạng nguyên, giao cho lính canhcửa, rồi bảo hắn đưa cho ngươi mười lượng gọi là tiền phí đi lại.” Tiểu nhị nghe xong mặt đần ra, lắp bắp hỏi: “Ngài, ngài nói Ngô Lãng Nguyệt có phải là Ngô đại quan nhân không?” Cốc Chẩn cười đáp: “Hoá ra hắn đã được gọi là đại quan nhân rồi à, đúng vậy, chính là kẻ đó.” Tiểu nhị sợ run, lại hỏi: “Thế mà, thế mà lại còn bảo ông ấy đưa cho tôi mười lượng?” Cốc Chẩn vẫn cười: “Ngươi chê là ít hả, thế thì vậy đi, một trăm lượng vậy, cũng không có vấn đề gì.” Tiểu nhị đó nghe xong đầu mê mắt quáng, thoát hơi nói: “Chỉ cần hai mươi lượng trong tay thôi, cũng đủ, đủ cho tôi mở được tiểu điếm của riêng mình rồi.” Đám văn sĩ nghe vậy, một người cười lạnh bảo: “Cái tên tiểu nhị không biết giữ bổn phận kia, nghe theo lời tên giang hồ lừa đảo này, rồi thì sau này bị chửi, cũng đừng có hối hận.” Tiểu nhị nghe vậy bất giác do dự. Cốc Chẩn cười bảo: “Đưa có một bức thư thôi, dù có tội gì cũng không đến mức phải ra pháp trường. Tiểu nhị, ngươi chẳng dám đánh bạc một phen sao, nếu mà thắng thì có phải có vài chục lượng trong tay, nhược bằng thua, cũng chỉ bị vài cái trợn mắt của lính gác nhà họ Ngô kia là cùng, có thể có chuyện gì nguy hiểm hả?” Tiểu nhị đó cười đáp: “Tiểu gia nói chí phải.” hai tay bèn đưa ra cầm tờ giấy, khẽ thổi cho mực khô đi, rồi cất chân chạy vội, nhoáy cái đã biến mất. Cốc Chẩn liếc đám văn sĩ một cái, cười nói: “Bọn ngươi vừa rồi mà giúp ta chuyển thư đi, trong sĩ nông công thương, thì sĩ tử đứng đầu, các ngươi là người đã từng đọc sách, do vậy công lao chạy đưa thư tự nhiên phải cao hơn nhiều.” Bọn người kia đại nộ, một người quát lên: “Ngươi phong thái phóng túng, trước tiên nhục mạ thánh hiền, rồi sau đó lại khinh rẻ bọn ta. Ta sẽ báo cáo quan phủ, tố ngươi tội báng bổ đạo văn.” Cốc Chẩn làm như chưa nghe rõ, tiếp lời hỏi: “Ngươi có dám nói lại không? Ta phạm phải tội gì?” Người kia huyết khí lại càng lớn lên, lớn tiếng thét: “Có gì mà không dám nói lại, tố ngươi tội báng bổ đạo văn” Cốc Chẩn cười đáp: “Nói hay lắm, tất cả mọi người đều nghe thấy cả rồi.” Người kia cười nhạt: “Nghe thấy cả rồi thì sao?” “Ngươi nói cái tội danh này rất là kì quái.” Cốc Chẩn cười cười rồi nghiêm mặt nói: “’Đại minh luật’có 30 quyển, 460 điều, ta đều có thể nói là thuộc cả, duy nhất là chưa bao giờ nghe thấy cái tội ‘báng bổ đạo văn’. Trong ‘Đại minh luật’, quyển thứ 11 ‘hình luật’ có 8 tội nói về báng bổ, chỉ có con không được chửi cha mẹ, vợ không được chửi chồng, quan không được cãi vua, không hề có luật dân không được cãi lại thánh hiền, hay cãi lại sách vở. ‘Đại minh luật’ này vốn là do thái tổ hoàng đế định ra, phải chăng các vị có ý nói thái tổ hoàng đế không cao minh, nên các vị phải đưa thêm một tội gọi là ‘báng bổ đạo văn’ vào.” Văn sĩ kia vừa nghe đến đây, sắc mặt tím như chàm đổ. Cái tội tự ý sửa đổi ‘Đại minh luật” kia nặng như núi thái sơn, không có người nào lại dám đeo vào người. Bọn họ vốn dĩ nghĩ rằng kẻ thanh niên đầu trọc kia là người dân bình thường, chỉ cần mang quan phủ ra doạ, tuỳ ý gán ghép một tội danh, là có thể làm hắn nể sợ chịu phục. Chẳng ngờ hôm nay số mệnh trùng sao thái bạch, gặp phải một nhân vật hiểu luật hạng nhất, chẳng những miệng lưỡi lợi hại, mà còn thành thục luật pháp, lật ngược gán lại cho bọn họ cái tội đáng bị diệt tộc, tịch thu gia sản như vậy. Cốc Chẩn thấy bọn họ thần sắc hoảng sợ, hai mắt láo liên miệng dài ra, trong lòng cười thầm, cất giọng thét lớn: “Tất cả mọi người trên lầu đều nghe rõ rồi đấy, những kẻ này dám tự tiện sửa lại ‘Đại minh luật’, tội không thể tha. Chưởng quỹ đâu, ngươi có biết hết đám người này không? Viết tên tuổi của bọn họ lại cho ta, nhược bằng có gì dối trá, ta sẽ tố lên quan phủ, báo ngươi tội bao che đồng loã.” Lúc nãy chưởng quỹ của “Quan hải lâu” thấy chuyện ầm ĩ, đã đến từ lâu, nghe vậy trong lòng thầm kêu khổ, không biết phải làm gì. Đám văn sĩ kia thì toàn thân phát run, trong đám có một người thể trạng vốn yếu đuối, sợ hãi quá ngã ngất luôn ra đấy. Cốc Chẩn đang định nói tiếp. Lục Tiệm thấy vậy bất nhẫn bèn bảo: “Cốc Chẩn, bỏ qua đi, sao lại dùng mấy lời nói bông đùa đó mà hại người làm gì.” Cốc Chẩn trừng mắt nhìn hắn một cái, hậm hực nói: “Huynh chỉ được cái mềm lòng.” rồi chuyển hướng sang đám văn sĩ quát: “Coi như bọn ngươi còn vận khí, ta vì nể mặt vị Lục gia đây, mà tha tội cho bọn ngươi một lần, sao không mau lại tạ ơn Lục gia đi.” Đám văn sĩ kia chuyển buồn làm vui, cũng không còn nghĩ gì đến việc giữ thể diện, rối rít quay người, hướng về phía Lục Tiệm cúi mình vái lậy, miệng hô Lục gia. Lục Tiệm đỏ mặt, vội vã đứng lên đáp lễ. Cốc Chẩn cười khàch khạch, vẫy vẫy tay, quát lớn: “Tất cả cút đi cho ta.” Bọn họ không đợi nói lần thứ hai, vội vàng trả tiền rồi chạy vội đi. Cốc Chẩn cười: “Cái bọn hôi hám này vừa đi khỏi, trên lầu bớt hẳn đi 3 phần hôi thối, thêm được 7 phần thanh tịnh.” Lục Tiệm thở dài nói: “Không lạ khi người trong Đông đảo ai cũng sợ đệ, đệ lúc nào cũng tranh thắng với người ta, ai mà không sợ?” Cốc Chẩn nghiêm sắc mặt đáp: “Đệ với tất cả mọi người luôn tranh đấu thắng thua, duy có mỗi huynh là đệ sẽ không tranh mà thôi.” Lục Tiệm lắc đầu cười khổ. Cốc Chẩn nhẹ giọng nói: “Huynh không tin cũng không sao, đệ đã nói là sẽ giữ lời.” Ngồi được một lúc, bỗng nghe thấy tiếng chân chạy bịch, bịch, bịch lên lầu, hoá ra là gã tiểu nhị đưa thư lúc nãy quay lại. Chỉ thấy gã sắc mặt đỏ rực, hai mắt lấp lánh, trong tay cầm một bọc bằng vải, vừa thở hổn hển vừa chạy đến trước mặt bọn họ nói: “Tiểu gia, tiểu gia quả là có mắt nhìn thấu trời xanh.” Cốc Chẩn cười đáp: “Lấy được bao nhiêu tiền thế?” Tiểu nhị đó mở bọc vải, chỉ thấy hàng hàng lũ lũ từng khối bạc hiện ra, thất thanh đáp: “Hai trăm lượng. Tiểu nhân, tiểu nhân nguyên bổn chỉ nói có 20 lượng, ai ngờ lão gác cửa mang tờ giấy vào xong, lúc ra bèn bảo: ‘Chủ nhân nói rằng, ngươi giúp Cốc gia việc này, nếu chỉ đưa ngươi có 20 lượng thì quá ít, ít nhất cũng phải phải đưa cho ngươi hai trăm lượng, thế mới phải phép’. Nói rồi lại bảo, đồ vật Cốc gia cần dùng, Ngô đại quan nhân đang chuẩn bị, rồi tự mình sẽ mang đến sau.” gã đang hưng phấn quá, nói xong mấy câu này, thì người mệt như mềm nhũn xuống. Cốc Chẩn cười đáp: “Ngươi gói lại bọc tiền đi, để ý tiền bạc hay toả sáng lắm đó, lọt vào mắt người khác bây giờ.” Tiểu nhị quay người nhìn, quả nhiên thấy mọi người trên lầu ai cũng trừng trừng nhìn mình, mắt ai cũng như sắp lồi cả ra ngoài. Hắn thấy vậy sợ quá, vội gói gém lại bọc tiền, nhưng cũng không bỏ đi ngay. Cốc Chẩn cười: “Sao? Vẫn chê ít hả?”
Tiểu nhị đó bỗng nhiên đặt bọc tiền xuống, khuỵu chân quỳ lạy, lớn tiếng đáp: “Tiểu nhân không cần số tiền này, tiểu nhân tình nguyện đi theo Cốc gia, dù vào lửa hay xuống nước, cũng không từ nan.” Thấy gã trạc tầm 30 tuổi, lại quỳ xuống xưng lạy với Cốc Chẩn trẻ tuổi như vậy, trên lầu mọi người đều lộ ra vẻ khinh thường. Cốc Chẩn cười đáp lời: “Tên tiểu nhị này, tính toán giỏi quá nhỉ. Hôm nay nếu rời bỏ ta mà đi, bất quá chỉ thu được có 200 lượng mà thôi. Nhưng nếu có thể đi theo ta chăm chỉ làm ăn, sang Nhật buôn bán, sau này há chỉ có bấy nhiêu thôi.” Tiểu nhị đó bị hắn chỉ ra tâm cơ, ngượng ngập đáp: “Cốc gia thần toán, tiểu nhân quả có tâm tư như vậy, không dám giấu ngài.” Cốc Chẩn gật đầu nói: “Đạo làm ăn, thứ nhất là mắt phải biết nhìn người. Ngươi không sợ mọi người chê cười, nghe theo lời ta mà làm, chứng tỏ là biết nhìn người. Thứ hai là phải trung thực. Ngươi nói ra mấy câu vừa rồi, chứng tỏ ngươi không có gì dấu giếm. Thứ ba là phải biết bỏ nhỏ cầu lớn. Ngươi không bị hai trăm lượng kia làm cho hoa mắt, chứng tỏ có mắt nhìn xa. Chỉ ba điểm đó mà để ngươi phải làm tiểu nhị là không được rồi. Được, mang văn phòng tứ bảo lại đây.” Tiểu nhị đó vui mừng vội mang bút mực tới. Cốc Chẩn hỏi: “Tên ngươi gọi là gì?” Tiểu nhị đó đáp: “Tiểu nhân họ Trần, tên Song Đắc.” Cốc Chẩn nói vào: “Cái tên Song Đắc rất hay.” Hắn viết nhanh như chạy, xoèn xoẹt cả một tờ giấy, rồi bảo: “Ta đang có việc bên người, trước tiên tiến cử ngươi đến chỗ Ngô Lãng Nguyệt, vẫn bắt đầu từ chân Tiểu nhị, ngươi có làm không.” Trần Song Đắc cười đáp: “Kể cả Cốc gia bảo tiểu nhân phải làm ăn mày, tiểu nhân cũng làm.” Cốc Chẩn mỉm cười, đặt thư tiến cử lên trên tay gã. Trần Song Đắc như nhận được của chí bảo, hai tay không kìm được khẽ run lên. Cốc Chẩn bảo: “Cái tiền 200 lượng này, ngươi mang cùng với thư tiến cử, nhất nhất giao lại cho Ngô Lãng Nguyệt.” Trần Song Đắc cũng là người thông minh, trong lòng hiểu ngay hoàn lại tiền để lấy lòng tin, bèn gật đầu liên tục. Cốc Chẩn nheo mắt nhìn lên trời, cười bảo: “Bây giờ vẫn sớm, Lục Tiệm, bọn ta chơi trò ‘song lục’[2] đi.” Lục Tiệm lắc đầu bảo: “Ta không biết chơi.” Cốc Chẩn cười: “Cái này không giống như cờ tướng gì đâu mà sợ phải vận lực suy nghĩ, cái này toàn phụ thuộc vào vận khí thôi, đặt xuống là xong.” Trần Song Đắc không cần hắn phải gọi, đã mang bộ cờ lại. Cốc Chẩn bảo cách chơi: “Quân đen này là của đệ, quân trắng là của huynh. Tổng cộng có 15 quân. Bọn ta trước tiên đổ xúc xắc, nếu đổ được một, thì đi một nước, đổ được hai thì đi hai nước. Ai mà có tất cả 15 con cờ của mình vượt sang được bên kia của đối phương, thì tính là thắng.” Lục Tiệm nhìn qua, quả nhiên dễ chơi. Hai người bèn mải miết chơi, quên cả thời gian. Mãi đến khi khách khứa ở trên lâu đi cả, đèn đóm được bật lên, thì bỗng nghe bên dưới lâu tiếng ngựa hí vang như sấm, tựa như có rất nhiều binh mã đi đến. Lục Tiệm trong lòng kì quái, nhíu mày lại. Cốc Chẩn thì vẫn chăm chú vào bàn cờ, đến mí mắt cũng không hề động đậy. Rồi lại nghe thấy tiếng chân chạy, cờ phướn tập hợp. Ngay sau đó, cửa lâu đèn đuốc sáng rực, rồi 12 cô gái muôn phần xinh đẹp tiến vào, y phục rực rỡ, ánh mắt lấp lánh như nước hồ thu, trang sức hoa lệ, bước đi uyển chuyển như múa, đôi tay trắng nõn nâng hộp thức ăn sơn mầu đỏ bóng loáng. Giây phút sau một bàn tiệc yến tuyệt phẩm đã hiện ra, chỉ thấy nào là vi cá mập loại thượng hạng, óc khỉ loại cực phẩm,cá tầm quý hiếm, tôm hùm cực to, cá tươi thịt mới, nghêu sò tươi rói, lại có một đôi đũa vàng, long đỉnh đốt xạ hương, vô số hoa quả ngon lành, hương toả khắp lầu, mâm ngọc tròn chặn như trăng rằm, đế mâm điêu khắc tỉ mỉ. Bầy yến xong xuôi, một nữ tử tuyệt sắc chầm chậm tiến lên, vén tay áo nghiêng người chào, miệng hoa thánh thót ngân: “Đại quan nhân đang ở bên dưới lâu, không có lời của Cốc gia nên không dám tự tiện đi lên. Ngài nhờ nô tì báo với Cốc gia, xa mã đã chuẩn bị xong, ngựa kéo 4 con, đều là danh câu, xe ngựa một cỗ, dùng gỗ trầm hương phương nam tạo thành. Trong xe có ngàn lượng hoàng kim, minh châu mười hộc, mười bộ quần áo để thay, đều bằng gấm lụa dệt ở tận Tô châu, do Lưu Hương Sơn đại sư của ‘thiên y phường’ đích thân may, mười tám bình rượu ngon trăm năm, sáu chén uống rượu hoa điêu Thiệu Hưng. Còn như bọn tiểu tì, xin Cốc gia tuỳ ý lựa lấy 6 người để tiện bề hầu hạ.” Lục Tiệm nghe mà lạnh người, bỗng thấy Cốc Chẩn cười bảo: “Lục Tiệm, huynh thua rồi.” Lục Tiệm định thần nhìn xuống, quả nhiên quân cờ của Cốc Chẩn đều đã vượt sang bên mình. Cốc Chẩn hoan hỉ bảo: “Hay quá, chơi tiếp nào.” Hắn miệng nói tay làm, mắt không hề ngó qua nữ tử kia. Nữ tử đó vẫn thuỷ chung nhún chào miệng tươi như hoa, không hề có vẻ gì bất kính. Lục Tiệm trong lòng ngạc nhiên, nhưng vẫn nhẫn nhịn chơi một ván cờ nữa. Ván cờ này kéo dài tầm ba cây nhang, cuối cùng Lục Tiệm là người thắng. Cốc Chẩn đẩy bàn cười lớn, quay đầu nhìn nữ tử kia, ôn hoà nói: “Mĩ nhân ơi, nàng nhún chào mãi thế không mỏi hay sao?” Nữ tử đó cười đáp: “Được xem Cốc gia đánh cờ, dù có phải đứng cả một ngày, tiểu tì cũng không thấy mỏi.” Cốc Chẩn cười cười, gật đầu nói: “Nói với Ngô Lãng Nguyệt, ngựa xe để lại, quần áo mĩ tửu cũng để lại, hoàng kim minh châu bỏ đi, đưa cho ta 30 lượng, những thứ linh tinh cũng như đồ ăn và nàng hầu, tất cả đều không cần. Trần Song Đắc đâu!”
Trần Song Đắc đã sớm mắt mở to miệng há hốc, nghe tiếng gọi vội vàng thưa. Cốc Chẩn dặn: “Ngươi bảo đầu bếp làm cho bọn ta hai cái bánh rán, nấu hai bát mì nước trong, năm cân thịt bò, rồi xuống xe ngựa bên dưới mang hai cái chén rượu hoa điêu lên đây.” Nữ tử tuyệt sắc kia không hề lộ vẻ kinh ngạc, nghe thấy mấy lời đó, chỉ mỉm cười rồi bảo các nữ tì dọn dẹp bàn tiệc, theo hết ra bên ngoài. Hồi lâu sau, nữ tử đó lại đi lên lầu, thi lễ nói: “Ngô đại quan nhân rất mong mỏi được diện kiến Cốc gia, nhưng không biết ý Cốc gia thế nào.” Cốc Chẩn vẫn cúi đầu ăn mì xì xụp, khoát tay bảo: “Hôm nay không gặp, sau này rồi tính.” Nét mặt nữ tử đó bỗng tỏ vẻ tần ngần, lưỡng lự hồi lâu rồi lại đi xuống lầu. Chẳng mấy chốc, nghe thấy dưới lầu tiếng ngựa hí người kêu bỏ đi nhanh như gió. Lục Tiệm thở dài bảo: “Cốc Chẩn, đệ quả thật chẳng có nhân tình gì cả. Người ta đối với đệ cung kính như thế, lại đưa đến bao nhiêu đồ đạc tiền của, mà đệ đến nhìn mặt họ cũng không thèm.” Cốc Chẩn uống cạn một chén rượu, rồi cười nói: “Lục Tiệm, Huynh xem việc xẩy ra, có vẻ thấy rất lạ hả.” Lục Tiệm gật đầu: “Ta thấy thế không lạ mới là lạ.” Cốc Chẩn nói: “Hay cho câu không lạ mới là lạ.” rồi lại uống một chén, đưa tay lau vệt rượu trên môi, cười nói: “Huynh không biết đâu, bốn năm trước, Ngô Lãng Nguyệt này là một thủ hạ của đệ, ngày nay hắn dậm chân một cái thì chấn động đến cả 3 châu 8 phủ 16 huyện. Người này tài cao mật lớn, khôn ngoan quỷ quyệt. Đệ hai năm phải ở trong tù ngục, bọn chúng không có người quản thúc, tựa như mãnh hổ xổng chuồng, giao long thoát xích, không biết đã làm bao nhiêu điều gian dối rồi. Huynh nghĩ đồ của hắn ngon lành lắm hả? Hắn đưa huynh một vạn lượng hoàng kim, hắn nuốt không biết bao nhiêu hoàng kim khác, ít nhất cũng là 3 vạn lượng. Hắn đưa huynh mười hộc minh châu, hắn làm vấy bẩn bao nhiêu minh châu khác, ít nhất cũng phải tám đấu. Còn đến mĩ nhân, hương xa, y phục tốt quý, chỉ cốt để làm người ta điên đảo, làm người ta hồ mê đùa giỡn hưởng thụ, Huynh một khi bị chìm đắm vào đó, sao còn có thời gian để tính sổ với hắn nữa?” Hắn lại cúi người cười cười nói: “Ngô Lãng Nguyệt bày trăm phương ngàn kế để yết kiến đệ, có phải vì đệ này ưa nhìn hay không? Ha ha, chỉ là vì nếu đệ chịu gặp hắn, tức là có ý không truy cứu những chuyện ngày xưa nữa. Đệ không gặp hắn, hắn sẽ gặp nhiều phiền nhiễu đây. Có điều, đệ nhận ngựa xe mĩ tửu của hắn, cũng có ý nói chuyện ngày trước dù không bỏ qua nhưng cũng sẽ nhẹ tay xử lý hơn. Nhưng kể cả như vậy, thì tối nay Ngô đại quan nhân cũng khó mà ngủ ngon được.” Trần Song Đắc không chịu được thở dài nói: “Cốc gia tuổi hẵn còn trẻ, không ngờ đã nhìn thấu hết thế sự ở đời rồi.”
Cốc Chẩn cười nói: “Đó là bởi vì, bọn người như Ngô Lãng Nguyệt, không kể giàu có đến đâu, khi trong tay có tiền, thì trong tim cũng chỉ nghĩ đến tiền. Chỉ có mỗi ta dù trong tay có tiền, nhưng trong lòng vẫn không nghĩ đến tiền. Lòng nghĩ đến tiền, sẽ dễ dàng bị tiền điều khiển, phải làm nô lệ của đồng tiền. Lòng không nghĩ đến tiền, mới có thể bắt tiền phục tùng, dùng đồng tiền điều khiển cả thiên hạ.” Trần Song Đắc nghe đến đây xuất thần, miệm lẩm bẩm: “Trong tay cầm tiền, nhưng trong lòng lại không nghĩ đến tiền.” Cốc Chẩn gật đầu nói: “Song Đắc, ngươi nghe câu này, tất nhiên không thể hiểu ngay được. Ta năm 9 tuổi đã nghe câu này, mãi đến cách đây nửa năm mới hiểu được đạo lý đó.” Lục Tiệm nghĩ thầm: “Nửa năm trước, chẳng phải vẫn ở trong cửu ư tuyệt ngục hay sao?” lại nghe Trần Song Đắc cười hì hì hỏi: “Còn vị Lục Gia này, không biết là người nghĩ đến tiền hay không nghĩ đến tiền?” Cốc Chẩn nhìn Lục Tiệm một cái cười nói: “Mũi của ta rất thính. Phàm ở trên người mà có mùi tiền dù nhỏ đến đâu, bất kể là ở trong tay hay trong tim, ta đều ngửi ra được. Duy độc ở trên người vị Lục Gia này, ta ngửi một chút xíu cũng không thấy. Chứng tỏ tay cũng không cần tiền mà lòng cũng không nghĩ đến tiền.” Lục Tiệm cười ngất: “Cứ vậy mà nói, thì ta là một kẻ không tiền, nghèo xác xơ rồi.” Cốc Chẩn gật đầu nói: “Nghèo xác xơ như huynh, không phải là dễ dàng đâu. Giầu có địch quốc thì dễ, nghèo địch quốc lại rất khó. Đệ tuy rằng chê cười Nhan hồi,Khổng tử đấy, nhưng thật ra đó là những vị thánh hiền, bần tiện không thay đổi, phú quý không tham lam, uy vũ không khuất phục, tuy nói rằng nghèo khổ cùng cực, nhưng lại là thầy của hàng trăm thế hệ đế vương. Được một người như được cả một nước. Cái gọi là nghèo địch quốc nghĩa là vậy.” Hai người vừa đi vừa ngắm cảnh, đến bên ngoài thành Hải Ninh, Cốc Chẩn nói: "Trong thành rối loạn, không vào cũng tốt. Ta biết một nơi rất tuyệt vời". Hai người lập tức tìm đến một tòa tửu lâu bên bờ sông Tiền Đường nơi cửa biển. Tửu lâu có tên là "Quan Hải Lâu", cao rộng hùng vĩ, trước cửa tửu lâu là một đôi liễn mĩ lệ:"Lâu quan thương hải nhật, môn thính Chiết Giang triều 1". Đôi liễn này càng tô điểm nổi bật cho quang cảnh của tòa tửu lâu. Cốc Chẩn chỉ vào đôi liễn, cười nói: "Nghe nói hai câu này là do Lạc Tân Vương người Đường viết, khi đó y cũng giống như chúng ta, đều là hòa thượng trọc đầu mới vượt ngục." Lục Tiệm cười nói: "Ngươi mới là hòa thượng, ta thì không phải. Nhưng mà, câu thơ này rất có khí phách, Lạc cái gì vương đó cũng rất là phi thường". Cốc Chẩn vỗ tay cười nói: "Đúng, đúng, Lạc cái gì vương đó thật là phi thường " Lục Tiệm biết y cười nhạo mình, chỉ cười cười, không thèm tranh luận. Hai người bước lên lầu ba, ngồi xuống nơi nhìn ra biển. Cốc Chẩn chỉ chỉ núi sông, nói: "Thành Hải Ninh phía nam giáp biển lớn, tây nam có Giả sơn, sông Tiền Đường xuyên qua ở giữa, tây giáp biển lớn mênh mông, do đó còn gọi là Hải Môn". Lục Tiệm ngạc nhiên hỏi: "Những điều này ngươi cũng biết?". Cốc Chẩn nói: "Ta từng kinh doanh buôn bán ở nơi này. Người buôn bán, nếu không biết thiên thời địa lý, không rõ phong tục nhân tình, nhất định sẽ lỗ vốn". Lục Tiệm càng cảm thấy kinh ngạc, hỏi: "Ngươi bị giam trong lao hơn hai năm, xét theo lý thì khi đó mới mười bốn mười năm tuổi, ngươi mới chút tuổi như vậy, đã làm ăn buôn bán rồi sao?". Cốc Chẩn mỉm cườii: "Có chí không phải do tuổi tác, hơn nữa cái đạo làm ăn buôn bán vốn thú vị, so với học văn học võ còn vui hơn nhiều". Lúc này bàn bên cạnh có vài văn sĩ mặc áo nhà nho, đang uống rượu ngâm thơ, nghe thấy Cốc Chẩn nói vậy, tức giận vô cùng, một tên trong bọn quát: "Tên thiếu niên nhà người, đầu thì trọc lốc, không ra tăng ra tục, nói lời cũng xa rời đạo lý? Nhớ năm xưa, trong các đệ tử của Khổng thánh nhân, Nhan Hồi thì theo văn, Tử Cống thì làm ăn buôn bán, tại sao lại không có người nói Tử Cống tốt hơn Nhan Hồi. Tử Cống cũng nói bản thân không bằng Nhan Hồi, Nhan Hồi nghe một biết mười, còn bản thân chẳng qua chỉ là nghe một biết hai; tiểu tử nhà ngươi, bản thân không có bản lĩnh học văn, thì đừng có nói xằng nói bậy, làm nhục thánh hiền " Cốc Chẩn ha hả cười lớn. Văn sĩ đó tức giận nói: "Ngươi cười cái gì ?". Cốc Chẩn chợt sang sảng ngâm: "Sư dữ thương thục hiền? Tứ dữ hồi thục phú? Đa thiều cùng ô sa, giai bị tử viết ngộ". Đám văn sĩ nghe vậy lặng người ra, bốn câu thơ này nói rõ ràng: Làm thầy và kinh doanh buôn bán thì ai tốt hơn, trước tiên là xem ở Tử Cống và Nhan Hồi ai giầu có hơn, Tử Cống giầu hơn cả vương hầu, còn Nhan hồi thì chết vì nghèo, nhưng biết bao nhiêu người đọc sách xưa nay, đều bị sự bình luận của Khổng Tử về hai người ấy lừa gạt, rơi vào cảnh ngèo túng chán nản. Đám văn sĩ lúc đầu ngẩn cả người, tiếp đó liền tức giận, tới tấp mắng: "Sỉ nhục thánh hiền, sỉ nhục thánh hiền". Cốc Chẩn cười nói: "Các người nói ta sỉ nhục thánh hiền, vậy thử hỏi cả đời của Nhan Hồi từng làm được cái gì? Ngoại trừ đọc sách thì là luận đạo, với gia đình chẳng không có tác dụng gì, với quốc gia thì không có ích chi, kiếm được cái danh tiếng Á Thánh cũng chẳng có tích sự gì, khi chết đến quan tài cũng không có. Còn Tử Cống đi sứ bốn nước, trước sau giữ Lỗ, loạn Tề, phá Ngô, cường Tấn rồi bá Việt, đến nỗi trong vòng mười năm, đại thế của năm nước này có sự thay đổi rõ rệt. Y là thương nhân thì sao chứ? Sau khi Khổng Tử chết, chẳng phải là y bỏ tiền ra lo liệu hậu sự sao? Hoàng đế lão nhi tất nhiên hi vong các ngươi đều làm Nhan Hồi, mọi người đều an bần lạc đạo, còn ngài thì tiêu diêu khoái lạc; nhưng nếu như ai ai cũng giống như Tử Cống, hắc hắc, giang sơn của ngài khó ngồi rồi". Y chỉ tất cả đám văn sĩ, cười nói: "Các ngươi đám người đọc sách này, không phải thường nói thư trung tự hữu hoàng kim ốc, thư trung tự hữu nhan như ngọc 2 sao ? Đủ thấy miệng thì đầy nhân nghĩa đạo đức, nhưng trong lòng chẳng phải nghĩ đến tiền, đến mĩ nhân sao. Nếu các ngươi ai thật sự có thể học nghèo như Nhan Hồi, khi chết đến quan tài cũng không có thì ta bội phục. Tiền mà thương nhân kiếm tuy không sạch sẽ cho lắm, nhưng so với đám quan lại thối tha tham ô thì còn sạch sẽ hơn ngàn vạn lần". Đám văn sĩ bị phản bác đến nỗi cứng lưỡi, chỉ biết liên hồi mắng: "Hoang đường, hoang đường". Nhưng Cốc Chẩn không đoái hoài, kêu: "Tiểu nhị, qua đây". Tên tiểu nhị đó thông minh cơ linh, hắn thấy khí thế của Cốc Chẩn liền biết là bất phàm, nghe Cốc Chẩn biện luận với đám văn sĩ một cách thú vị, ở bên cạnh không kìm được cười trộm, vừa nghe thấy Cốc Chẩn gọi, vội đáp: "Tiểu gia phân phó điều gì?". Cốc Chẩn nói: "Có giấy mực không?" Tên tiểu nhị đó cười nói: "Có, có", lập tức bưng lại. Đám văn sĩ trước đó bị Cốc Chẩn phản bác, trong lòng cáu giận, một tên cười lạnh nói: "Tên này lẽ nào lại muốn làm vài bài thơ ? Nếu như làm ra, nhất định là thối không thể ngửi được". Cốc Chẩn cười nói: "Thơ của lão tử chưa làm ra thì đã nghe thấy hai tiếng rắm thối rồi, tuy rằng thối không thể ngửi nổi, nhưng gia gia độ lượng, có thối hơn đi nữa cũng vui vẻ tiếp nhận". Rồi không thèm để ý ánh mắt phẫn nộ của đám văn sĩ, chấm đầy mực đen, viết trên giấy: "Trên đường khốn đốn, ngân lượng thiếu thốn . Viết xong ký tên lên trên, giao cho tên tiểu nhị kia, cười nói: "Ngươi cầm cái này đến phủ của Ngô Lãng Nhuyệt đường Trạng Nguyên thành Hải Ninh, đưa cho lão Chung coi cửa, rồi tìm y lấy hai mươi lạng bạc, làm phí đưa thư". Tên tiểu nhị đó nghe Cốc Chẩn nói vậy, trợn mắt há miệng, lắp bắp nói: "Ngài... ngài nói Ngô Lãng Nguyệt... há không phải Ngô đại quan nhân sao ?". Cốc Chẩn cười nói: "Thì ra y bây giờ gọi là quan nhân. Không sai, chính là hắn". Tên tiểu nhị đó sững người, rồi lại hỏi: "Nhưng... nhưng y làm sao lại có thể đưa ngân lượng cho tiểu nhân?". Cốc Chẩn cười nói: "Nếu như ngươi chê ít, lấy thêm là được, trong khoảng một trăm lạng đều không có vấn đề gì cả". Tên tiểu nhị nghe đến nỗi choáng váng, buột miệng nói: "Hai mươi lạng vào tay thì không tồi rồi. Đủ... đủ để tiểu nhân mở một tiểu điếm rồi". Mấy tên văn sĩ kia nghe Cốc Chẩn nói vậy, một tên cười lạnh nói: "Tên tiểu nhị ngươi không chịu yên bổn phận, lại nghe lời xui của tên giang hồ lừa đảo này, đến khi bị lừa ăn mắng, đừng có hối hận". Tên tiểu nhị đó bất giác trở lên do dự. Cốc Chẩn cười nói: "Chỉ đưa một tờ giấy, chứ có phải đi cướp pháp trường đâu. Tiểu nhị, ngươi không ngại cược một ván, nếu như cược đúng thì được mấy chục lạng bạc trắng, nếu như cược sai, chẳng qua cũng chỉ bị người nhà họ Ngô lườm vài cái, cũng chẳng thiệt t hòi gì cả". Tên tiểu nhị đó cười nói: "Tiểu gia nói đúng". Lập tức hai tay bưng tờ giấy đó lên, nhè nhẹ thổi khô mực, sau đó chân như cưỡi gió, nhanh chóng chạy đi. Cốc Chẩn liếc đám văn sĩ một cái, cười nói: "Các ngươi muốn giúp ta đi đưa giấy không ? Sĩ nông công thương thì sĩ tử đứng đầu, các vị là người đọc sách thì phí đưa thư này cũng gấp bội". Mấy tên văn sĩ đó tức giận vô cùng, một tên quát: "Ngươi ăn nói thật là bữa bãi, trước thì nhục mạ thánh hiền, sau lại nhạo báng bọn ta, cẩn thận ta cáo đến quan phủ, trị ngươi tội khinh nhờn văn nhân". Cốc Chẩn làm ra vẻ ngãng tai, hỏi: "Ngươi dám nói lại một lần nữa, trị ta tội gì?". Người ấy huyết khí dâng trào, lớn tiếng nói: "Sao không dám nói. Trị ngươi tội khinh nhờn văn nhân". Cốc Chẩn cười nói: "Nói rất hay, mọi người đều nghe thấy rồi". Tên ấy cười lạnh hỏi: "Nghe thấy rồi thì sao?". "Cái tội này của ngươi có thể nói là kiếm lạ kỳ quặc". Cốc Chẩn cười cười, thong thả nói: "Ba mươi quyển, bốn trăm sáu mươi điều của Đại Minh Luật, điều nào ta cũng có thể đọc ra được, chỉ là chưa từng nghe nói tội khinh nhờn văn nhân. Quyển mười một Hình Luật của Đại Minh Luật, trong đó có mạ lị bát điều, cũng chỉ có con không mắng chửi cha mẹ, vợ không mắng chửi chồng, thần không mắng chửi quân, nhưng không có nói lão bách tính không được mắng chủi thánh hiền, mắng chử thư sinh, Đại Minh Luật là do thái tổ hoàng để định ra, chẳng lẽ các vị còn cao minh hơn hơn thái tổ hoàng đế, định ra cái tội khinh nhờn văn nhân". Mây tên văn sĩ đó vừa mới nghe thấy lời này, sắc mặt đều tái xám, cái tội xuyên tạc Đại Minh Luật này nặng như thái sơn áp đỉnh, bất luận là ai cũng không thể gánh vác nổi. Bọn chúng vốn cho rằng, tên thanh niên trọc đầu này chẳng qua là một bách tính bình thường, chỉ cần khiêng quan phủ ra, tùy ý bịa đặt một tội danh, thì có thể dễ dàng áp chế. Không ngờ hôm này mệnh phùng thái tuế, gặp phải một tụng sư (thầy kiện) hàng đầu, không những có tài ăn nói sắc nhọn mà còn tinh thông luật pháp, ngược lại đội cho bọn chúng một cái tội đủ để tịch thu gia tai, chu di cửu tộc. Cốc Chẩn thấy đám văn sĩ thần sắc kinh hoàng, hai mắt nhìn chòng chọc vào cửa cầu thang. Trong lòng cười thầm nhưng miệng thì quát lớn: "Người trên lầu đều nghe rồi nhé, mấy người này xuyên tạc Đại Minh Luật, tội không thể tha. Chưởng quầy, những người này ngươi đều quen biết sao ? Ghi hết tên họ của bọn chúng lại, nếu như lừa dối, ta sẽ cáo lên quan phủ, trị ngươi tội thông đồng bao che". Lúc này chưởng quầy của Quan Hải Lâu nghe thấy huyên náo, sớm đã chạy lên, nghe Cốc Chẩn nói thế vậy, trong lòng kêu khổ, không biết làm gì. Mấy tên văn sĩ toàn thân run rẩy, một tên trong đó nhát gan yếu ớt, trong lúc kinh hoàng đã ngất đi. Cốc Chẩn còn định làm ầm ỹ, nhưng Lục Tiệm không đành lòng, nói: "Cốc Chẩn, thôi đi, tội gì chỉ vì vài lời đàm tiếu mà hại người". Cốc Chẩn trừng mắt nhìn y, cười lạnh nói: "Ngươi chỉ biết mềm lòng thôi". Nói rồi quay về hướng mấy tên văn sĩ quát lớn: "Coi như các ngươi gặp may, ta nể mặt vị Lục gia này, tha cho các ngươi một lần, còn không mau đến cám ơn Lục gia". Mấy tên văn sĩ chuyển buồn thành vui, cũng không buồn quan tâm đến thể diện gì, xôn xao đứng dậy, khom người vái chào Lục Tiệm, miệng thì gọi Lục gia. Luc Tiệm đỏ mặt tía tai, vội vàng đứng dậy hoàn lễ. Cốc Chẩn ha hả cười lớn, vung tay một cái, hét lớn: "Cút hết đi cho ta". Đám văn sĩ nào dám nhiều lời, vội vàng thanh toán tiền rồi xuống lầu. Cốc Chẩn cười nói: "Đám hủ nho này vừa đi, trong lầu quả thật ít đi ba phần chua thối, nhiều thêm bảy phần thanh tịnh". Lục Tiệm thở dài nói: "Chẳng trách nào người của Đông Đảo đều sợ người, ngươi chốn chốn đều muốn tranh cái được thua, ai mà chẳng sợ?". Cốc Chẩn nghiêm sắc mặt: "Ta với người khác đều phải tranh được thua, duy chỉ có ngươi thì ta không tranh". Lục Tiệm lắc đầu cười khổ. Cốc Chẩn đạm nhiên nói: "Ngươi không tin thì thôi, ta nói lời là giữ lời". Ngồi được một lúc, chợt nghe thấy tiếng chân thình thịch bước lên lầu, là tên tiểu nhị đi đưa mảnh giấy kia quay về, chỉ thấy y khuôn mặt đỏ bừng, hai mắt phát sáng, tay bưng một bọc, thở hồng hộc chạy đến trước bàn, nói: "Tiểu gia, thủ đoạn của tiểugia thật là lợi hại". Cốc Chẩn cười nói: "Kiếm được bao nhiêu ngân lượng?". Tên tiểu nhị mở bọc ra, đều là từng thỏi từng thỏi ngân lượng chỉnh tề, thở dốc nói: "Hai trăm lượng, tiểu nhân vốn chỉ muốn hai mươi lượng, ai ngờ Chung lão coi cửa đưa mảnh giấy vào, quay lại liền nói: Lão gia nói, ngươi làm việc cho Cốc gia, chỉ đưa hai mươi lượng, thì quá hổ thẹn, ít nhất cũng phải đưa hai trăm lượng mới đủ bày tỏ tấm lòng . Còn nói, mọi thứ Cốc gia cần, Ngô đại quan nhân sau khi chuẩn bị xọng, tự mình mang đến". Y không kìm được hưng phấn, nói xong mấy câu này, cả người gần như mềm nhũn đi. Cốc Chẩn cười cười, nói: "Thu bọc vải lạ đi, cẩn thận bạc quá sáng, chọc vào mặt người khác". Tiểu nhị đưa mắt nhìn đi, quả nhiên thấy mọi người trên lầu trợn mắt nhìn mình, con ngươi giống như muốn rớt ra ngoài, trong lòng kinh hãi, vội vàng gói bọc bạc lại, nhưng không rời đi. Cốc Chẩn cười nói: "Thế nào ? Còn chê ít sao?".
Tên tiểu nhị đó bỗng nhiên đặt túi bạc xuống, quỳ đánh bịch một cái, lớn tiếng nói: "Tiểu nhận thà không cần chỗ bạc này, cũng nguyện đi theo Cốc gia, nước sôi lửa bỏng cũng không từ chối". Hắn gần ba mươi tuổi, nhưng lại quỳ xuống kêu Cốc gia với người thiếu niên trẻ tuổi Cốc Chẩn, mọi người trong lầu đều lộ ra vẻ khinh bỉ. Cốc Chẩn mỉm cười nói: "Tên tiểu nhị ngươi, tính toán cũng rất tinh tế, nếu như hôm nay bỏ qua ta, chẳng qua chỉ có thể kiếm được hai trăm lượng bạc; nhưng nếu như lôi kéo một chút xíu quan hệ với ta, sau này kiếm được không chỉ là chút này". Tên tiểu nhị đó bị Cốc Chẩn vạch rõ tâm cơ, ngượng ngùng đáp: "Cốc gia thần toán, chút tư tâm này của tiểu nhân không thể qua mặt được ngài". Cốc Chẩn gật đầu nói: "Đạo kinh doanh, một là huệ nhãn biết người, ngươi không sợ người khác chế nhạo, vì ta mà ra sức, đó là ngươi có nhãn quang; hai là ở tự thân thẳng thắn ngay thật, lời nói lúc nãy của ngươi, đủ thấy ngươi không phải là loại người lấp liếm giả dối; ba là ở bỏ nhỏ cầu to, quyết đoán kịp thời, ngươi có thể không bị hai trăm lạng bạc che mờ con mắt, đủ thấy nhãn quang sâu rộng. Nội ba điểm này, để người làm tiểu nhị của tửu lâu, cũng thật là oan uổng. Được, lấy văn phòng tứ bảo lại đây. Tên tiểu nhị đó vui mùng, vội bưng bút mực lại, Cốc Chẩn nói: "Ngươi tên là gì ?". Tên tiểu nhị đó nói: "Tiểu nhân họ Trần tên Song Đắc". Cốc Chẩn khen: "Hay cho cái tên nhất cử song đắc". Y múa bút như bay, xoàn xoạt viết đầy một trang giấy, nói: "Ta có việc bên người, trước tiên tiến cử ngươi đến chỗ của Ngô Lãng Nguyệt, vẫn bắt đầu từ người hầu làm đi, ngươi có làm hay không ?" Trần Song Đắc cười nói: "Cho dù Cốc gia kêu tiểu nhân làm ăn mày, tiểu nhân cũng làm". Cốc Chẩn cười nhẹ, đưa thư tiến cử vào tay hắn, Trần Song Đắc như nhặt được bảo vật, hai tay bất giác nhè nhẹ run rẩy. Cốc Chẩn nói: "Hai trăm lạng bạc kia, ngươi cả thư lẫn bạc đưa cho Ngô Lãng Nguyệt". Trần Song Đắc cũng là người cơ linh, biết rõ hành động giả lại bạc là để lấy lòng tin, lập tức gật đầu liên tiếp. Cốc Chẩn nheo mắt nhìn lên bầu trời, cười nói: "Thời gian cũng không sớm, Lục Tiệm, chúng ta đánh một ván Song Lục3". Lục Tiệm lắc đầu đáp: "Ta không biết chơi". Cốc Chẩn cười nói: "Cái này không lao tâm khổ tứ và tốn thời gian như cờ vây cờ tướng, mà toàn là ở vận may, chơi một ván là biết". Trần Song Đắc không đợi y nói, sớm đã bưng bàn cờ lại, Cốc Chẩn biểu diễn, nói: "Quân đen là của ta, quân trắng là của ngươi, đều là mười năm quân. Chúng ta ném xí ngầu trước, nếu như ném được một điểm, quân cờ đi một bước, nếu như ném được hai điểm, thì đi hai bước, mười năm quân cờ của ai qua được đường biên của đối phương thì coi như thắng". Lục Tiệm nhìn một cái, quả nhiên dễ chơi, hai người lập tức đánh cờ, quên cả thời gian, cho đến khi khách trên lầu đều đi hết, hoa đăng vừa thắp, chợt nghe tiếng vó ngựa như sấm dưới lầu, giống như có vô số binh mã đến, Lục Tiệm trong lòng kinh ngạc, chau mày lại, Cốc Chẩn vẫn chuyên chú vào bàn cờ, mí mắt cũng không động đậy. Lại nghe thấy bước chân nhỏ nhẹ rời rạc, nhịp nhàng đều đặn. Trong khoảnh khắc, cửa cầu thang thắp đế bạc nến hồng. Ánh nến soi rọi mười hai nữ tử tuyệt sắc, áo hoa rực rỡ, ánh mắt như nước mùa thu, bước chân như phụng múa, tay trắng thon thon bưng hộp thức ăn đỏ hồng, trong chớp mắt bày ra một bàn thịnh yến tuyệt phẩm; chỉ thấy vòi voi vây cá mập, óc khỉ bướu lạc đà, cá Chim cá Tầm, tôm to như rồng, chân giò hun khói đỏ như son, ngao sò ngâm trong rượu như sắc đào mùa xuân; đũa làm bằng ngà voi có khảm vàng, đỉnh rồng đốt xạ hương, trăm quả tươi ngon, mùi thơm tràn ngập tửu lâu, mâm ngọc tròn như trăng, chuông ngọc kỳ xảo như ngọn núi nhỏ. Bày tiệc xong, một nữ tử tuyệt sắc chầm chậm lên trước, vái chào một lượt, cười nói: "Ngô đại quan nhân ở dưới lầu, chưa được Cốc gia gọi cho nên không dám tự ý lên. Đại quan nhân nhờ tiểu nữ chuyên lời cho Cốc gia, xe ngựa đã chuẩn bị đầy đủ. Ngựa bốn con, đều là danh câu Đại Lương; xe một cỗ, được chạm khắc bằng trầm hương An Nam, trong xe có vạn lượng hoàng kim, mười hộc minh châu; mười bộ y sam, đều làm bằng tơ lụa của Tô Châu, do đại sư Lưu Hương Sơn của Thiên Y Phường ở kinh thành tự tay may; mười tám vò rượu ngon trăm năm gồm sáu vò Hoa Điêu của Thiệu Hưng, sáu vò Mao Đài của Quý Châu, sáu vò Trúc Diệp Thanh của Xuyên Trung. Còn như những nữ tử ở đây, Cốc gia có thể chọn bất kỳ sáu người để làm thị tỳ. Lục Tiệm nghe thấy kinh hãi trong lòng. Chợt nghe Cốc Chẩn cười: "Lục Tiệm, ngươi thua rồi . Lục Tiệm định thần nhìn lại, các quân cờ của Cốc Chẩn đều đã qua đường biên. Cốc Chẩn hoan hỉ nói: "Tốt, chơi thêm ván nữa". Y miệng thì nói, tay cầm xí ngầu, nhìn cũng không nhìn nữ tử kia, nữ tử đó vẫn mỉm cười, không một chút gấp rút. Lục Tiệm trong lòng nghi hoặc, kiên nhẫn chơi thêm một ván, ván cờ này chơi hết ba tuần hương thời gian, là Lục Tiệm thắng. Cốc Chẩn đẩy bàn cờ sang một bên cười lớn, chuyển mắt nhìn nữ tử kia, ôn hòa nói: "Mỹ nhân, nàng đứng vậy không thấy mệt sao?". Nữ tử kia cười nói: "Có thể hầu cờ cho Cốc gia, cho dù đứng thêm một ngày tì nữ cũng không cảm thấy mệt". Cốc Chẩn cười cười, gật đầu nói: "Nói cho Ngô Lãng Nguyệt, xe ngựa lưu lại, áo quần và mỹ tử lưu lại, hoàng kim minh châu thì mang về, để lại cho ta ba mươi lạng bạc, tạm thời làm lộ phí, còn như mỹ nữ và thức ăn, tất cả đều không cần. Trần Song Đắc!".
Trần Song Đắc sớm đã ngẩn cả người, nghe Cốc Chẩn gọi, vội vàng trả lời. Cốc Chẩn nói: "Ngươi kêu nhà bếp nướng cho bon ta hai chiếc bánh tráng, nấu hai bát mì sợi, năm cân thịt bò, rồi ra xe ngựa lấy hai vò Hoa Điêu lên". Nàng nữ tử tuyệt sắc kia cũng không kinh ngạc, nghe thấy câu này, chỉ cười cười, gọi đám nữ tử còn lại thu dọn bàn tiệc, rồi đi xuống lầu. Qua một lúc, nàng nữ tử kia lại lả lướt lên lầu, thi lễ nói: "Ngô Đại Quan nhân vô cùng muốn gặp mặt Cốc gia, không biết ý của Cốc gia như thế nào ?". Cốc Chẩn húp mì xoàn xoạt, vung tay nói: "Hôm nay không được, để hôm khác rồi nói". Sắc diện của nàng nữ tử kia bất giác khó coi, ngần ngừ một lúc rồi mới xuống lầu. Tiếp đó liền nghe thấy tiếng vó ngựa dưới lầu nhanh như gió đi khói. Lục Tiệm than: "Cốc Chẩn, ngươi làm như vậy cũng thật bất cận nhân tình. Người ta đối với ngươi cung kính, lại tặng cho ngươi nhiều đồ như vậy, còn ngươi đến gặp mặt cũng không gặp". Cốc Chẩn uống cạn một bát rượu, cười nói: "Lục Tiệm, ngươi nhìn những việc này tựa hồ có vẻ không kinh ngạc?". Lục Tiệm lắc đầu nói: "Ta thấy nhiều việc lạ cho nên cũng chẳng lạ". Cốc Chẩn nói: "Hay cho thấy nhiều việc lạ nên không lạ", lại uống thêm một bát rượu nữa rồi lau đi vết rượu trên khóe miệng, cười nói: "Ngươi không biết đây thôi. Bốn năm trước, Ngô Lãng Nguyệt là người hầu của ta, còn bây giờ là một nhân vật lợi hại, chỉ cần y giậm chân một cái, ba châu tám phủ mười sáu huyện đều chấn động. Loại cậy của khinh người này, giảo hoạt vô cùng. Hai năm nay ta bị giam trong ngục sâu, bọn chúng không có người quản thúc, giống như mãnh hổ thoát khỏi lồng, như giao long thoát khỏi xích, không biết làm ra bao nhiêu việc vô liêm sỉ. Ngươi tưởng rằng đồ của bọn chúng dễ ăn, dễ dùng sao? Hắn đưa cho ngươi vạn lượng hoàng kim, số hoàng kim mà hắn nuốt ít nhất cũng có ba vạn; y cho ngươi mười hộc minh châu, sô minh châu mà y giữ ít nhất cũng có tám hộc. Còn như mỹ nữ giai nhân, danh câu hương xa, y sam rực rỡ, sơn hào hải vị, đều là những thứ làm cho người ta điên đảo thần hồn, mụ mẫm đầu óc, một khi ngươi lún vào trong, há còn công phu thanh toán với y sao ?". Y dừng lại, cười cười rồi nói tiếp: "Ngô Lãng Nguyệt đối xử tốt với ta, muốn gặp mặt ta, chẳng lẽ bởi vì lão tử dễ nhìn sao ? Hắc hắc, chỉ bởi vì nếu như ta gặp hắn, thì có nghĩa là không trách cứ sai lầm đã qua; ta không gặp hắn, vậy thì hắn rắc rồi lớn rồi. Nhưng, ta thu xe ngựa, mỹ tửu của y, cũng có nghĩa là, việc trước kia tuy rằng không phải là bỏ qua hết, nhưng có thể nhẹ nhàng phát lạc. Cho dù như vậy, đêm nay Ngô đại quan nhân cũng khó ngủ rồi". Trần Song Đắc không nén được thở dài, nói: "Cốc gia tuy ít tuổi, nhưng lại nhìn việc đời thông sốt như vậy". Cốc Chẩn cười nói: "Đó chỉ là bởi vì loại người như Ngô Lãng Nguyệt, dẫu rằng giầu có, nhưng trong tay có tiền, trong lòng cũng có tiền; chỉ có ta là trong tay có tiền, còn trong lòng thì không có tiền. Trong lòng có tiền, dễ bị đồng tiền sai khiến, làm nô lệ cho đồng tiền; trong lòng không có tiền, thì tiền là nô lệ của mình, có thể chế ngự tiền trong thiên hạ". Trần Song Đắc nghe đến xuất thần, lẩm bẩm nói: "Trong tay có tiền, trong lòng không có tiền". Cốc Chẩn lắc đầu nói: "Song Đắc, cho dù ngươi nghe được câu này nhưng cũng không thể làm được. Năm ta chín tuổi đã nghe người khác nói rồi, nhưng mãi đến nửa năm trước mới thông ngộ đạo lý này". Lục Tiệm nghĩ thầm: "Nửa năm trước, không phải y còn trong Cửu U Tuyệt Ngục sao ?". Lại nghe Trần Song Đắc hinh hích cười nói: "Vậy vị Lục gia này, có tiền hay không có tiền?". Cốc Chẩn nhìn Lục Tiệm một cái, cười nói: "Mũi của ta rất thính, chỉ cần trên thân người có mùi tiền, bất luận là trên tay hay là trong lòng, ta đều có thể ngửi ra, duy chỉ trên người vị Lục gia này, một chút mùi tiền cũng không ngửi thấy. Đủ thấy y trong tay không có tiền, trong lòng cũng không có tiền". Lục Tiệm bật cười nói: "Câu này có lý, ta vốn không có lấy một đồng, là một kẻ khố rách áo ôm". Cốc Chẩn lắc đầu nói: "Kẻ khố rách áo ôm như ngươi cũng không phải dễ làm. Phú khả địch quốc dễ dàng, nhưng cùng khả địch quốc thì khó. Tuy ta chế giễu Khổng Tử Nhan Hồi, nhưng những bậc thánh hiền này, nghèo hèn không thay đổi, giầu có không phóng đãng, uy vũ không thể khuất phục được, cũng là bậc thầy của trăm đời hoàng đế, được một người còn hơn được một nước, đó gọi là cùng khả địch quốc". Lục Tiệm còn chưa kịp đáp lời, chợt nghe một giọng nói già nua từ dưới lầu vang lên: "Hay cho cùng khả địch quốc, cháu ngoan vào ngục mấy năm, quả nhiên hiểu biết nhiều hơn". Ánh mắt của Cốc Chẩn hơi biến đổi, rồi bỗng nhiên cười: "Doanh gia gia, thâm canh bán dạ, người không ở nhà đếm tiền, đến đây để làm gì ?". "Đừng nhắc đến chữ tiền". Lão nhân kia hềnh hệch cười nói, "Chút của nả của gia gia ngươi không phải không biết, còn không đủ nhét kẽ răng cho ngươi kìa". Lão nhân vừa nói vừa bước lên lầu, tựa hồ già yếu vô lực, cứ đi ba bước lại nghỉ. Cốc Chẩn mỉm cười nói: "Doanh gia gia đến thật là nhanh, ta còn cho rằng người đến đầu tiên là Cửu Biến Long Vương , không ngờ rùa đen bò còn nhanh hơn rồng". "Cháu ngoan". Lão nhân kia ha hả cười, "Tuy ngươi đoạt hồng mao chiến thuyền của Diệp Phạn, nhưng cho dù thuyền có nhanh đến mấy cũng không thể nhanh bằng chim bay trên trời. Ngươi thoát khỏi ngục đảo ngày thứ nhất, thì ngày thứ hai gia gia đã nhận được truyền thư. Mọi người canh giữ ở bờ biển, thử vận may. Chỉ là gia gia may mắn hơn, ở gần đây. Ngươi tìm Ngô Lãng Nguyệt, lại gây ra động tĩnh lớn như vậy, cho dù ta có thật sự là một con rùa đen, cũng nghe thấy được". Trong tiếng trò truyện, từ cửa cầu thang xuất hiện một lão nhân tám chín mươi tuổi, áo hoa tóc vàng, lông mi dài rủ xuống, lưng cong như một chiếc cung, tay chống một cây trượng bằng trúc mầu xanh, nhởn nhơ tiến lại. Cốc Chẩn cười nói: "Song Đắc, còn không dọn chỗ cho Doanh gia gia". Trần Song Đắc vô cùng tinh nhanh, không đợi y lên tiếng đã bưng một chiếc ghế dựa lại, đặt trước bàn. Cốc Chẩn lại nói: "Song Đắc, nơi này không có việc của ngươi, ngươi lui xuống đi". Trần Song Đắc dạ một tiếng, vừa đinh xuống lầu thì lão nhân tóc vàng kia ha hả cười nói: "Hắn là người hầu mà cháu ngoan mới thu nhận sao? Quả nhiên tinh khôn, lại đây, gia gia thưởng người một đồng tiền". Nói xong chậm rì rì thò tay vào trong lòng, moi ra một đồng tiền đồng có sắc xanh. Trần Song Đắc đang định vươn tay nhận, bỗng Cốc Chẩn nhíu ngược mày, nghiêm giọng quát: "Doanh Vạn Thành, ngươi còn muốn tiền không?". Lão nhân tóc vàng ngẩn người một lát, thu lại đồng tiền đồng, cười nói: "Muốn, sao mà không muốn chứ?". Trần Song Đắc không hề biết rằng bản thân vừa mới đi một vòng trước Quỷ Môn Quan, vươn tay ra một nửa, lấy làm miễm cưỡng vô cùng, chợt nghe Cốc Chẩn cười nói: "Song Đắc, vị tiền bối này chọc ngươi chơi thôi, còn không mau lui xuống". Doanh Vạn Thành nghe Cốc Chẩn nói, đôi mắt vẩn đục già nua chợt lóe lên một tia sắc nhọn, đưa mắt nhìn đi, bỗng thấy Lục Tiệm thở ra một hơi dài, toàn thân thả lỏng, bất giác thầm kinh ngạc: "Tên tiểu tử này có lai lịch như thế nào, lại có thể nhìn ra sát khí của lão phu". Trầm ngâm một lúc, lão ngồi xuống cười nói: "Cháu ngoan, bản lĩnh của ngươi thật là lợi hại, Cửu u Tuyệt Ngục cũng không giam được ngươi, giống như một câu nói, gọi là cái gì nhỉ, đúng rồi, cá muối sống lại. Ha ha, nếu như không phải gia gia ta, thiên hạ lại có chuyện náo nhiệt để xem rồi". Cốc Chẩn cười nói: "Câu này của Doanh gia gia, có ý là xơi chắc ta rồi?". "Không có quạt Ba Tiêu, dám qua Hỏa Diệm Sơn sao?". Doanh Vạn Thành hềnh hệch cười nói: "Nếu như ngươi có hận, thì hận bản thân ngươi không chuyên tâm luyện võ. Nếu ngươi có một nửa bản lãnh của Cốc Thần Thông, thì bộ xương già này của gia gia, há dám tự đưa đến cổng để bị bẻ gẫy sao ?" Cốc Chẩn nói: "Thần thông Quy Kính của Doanh gia gia, ta trước nay vẫn bội phục, nhớ năm xưa khi ta thử tuổi 4...". Còn chưa nói hết câu, Doanh Vạn Thành đã hừ lạnh một tiếng, chặn lời: "Chuyện đã qua nhiều năm, còn có gì để mà nói chứ ?". Cốc Chẩn cười nói: "Việc thú vị như vậy, bằng hữu của ta còn chưa nghe qua kìa. Lục Tiệm, ngươi có muốn nghe không". Lục Tiệm cười đáp: "Chuyện hồi nhỏ của ngươi sao? Kể ra nghe xem". Doanh Vạn Thành hừ một tiếng, khuôn mặt già nua u ám. Cốc Chẩn uống một bát rượu, thong thả cười nói: "Khi đó ta mới sinh ra chưa được bao lâu, cha ta vứt nhiều đồ vật cho ta chộp, nói là chộp được cái gì, sau này nhất định có duyên với đồ vật đó, ví như cầm bút thì học văn, cầm đao thì học võ. Nhưng vị Doanh gia gia này lại biết một bản lĩnh lợi hại, có tên là Quy Kính , không những có thể đoán được tâm tư của đối thủ, mà đến tâm tư cua trẻ con, y cũng có thể đoán được. Khi ấy y đánh cuộc với cha ta, nói ta nhất định chộp bàn tính, vật cược là một trăm lượng hoàng kim, có đúng vậy không, Doanh gia gia?" Doanh Vạn Thành bực tức, nói: "Vậy thì sao, chẳng lẽ ngươi không chộp bàn tính sao?" Cốc Chẩn cười nói: "Ta có chộp bàn tính, cho nên nói thần thông Quy Kính của Doanh gia gia, không phải là khoác lác. Nhưng mà, một trăm lượng hoàng kim là ai thắng?". Cơ mặt của Doanh Vạn Thành co rút một lúc, lộ ra vẻ đau lòng, cáu giận nói: "Là cha ngươi thắng". Cốc Chẩn cười nói: "Lục Tiệm, ngươi đoán xem, tại sao rõ ràng là Doanh gia gia đoán trúng bàn tính, nhưng lại thua cuộc?". Lục Tiệm nghĩ một hồi, lắc đầu cười nói: "Ta không đoán ra được". "Cái này rất là đơn giản", Cốc Chẩn nói: "Bởi vì y chỉ đoán trúng có một nửa". Lục Tiệm kinh ngạc hỏi: "Tại sao lại nói như vậy ?". Cốc Chẩn nói: "Đứa trẻ bình thường, đều là một tay thử tuổi, nhưng ta thì hai tay cùng chộp, tay phải chộp bàn tính, tay trái thì chộp một chiếc thuyền gỗ đồ chơi; mà hai tay còn không phân biệt trước sau chộp đồ, theo cái lý bình thường thì Doanh gia gia chỉ đoán trúng một nửa, thua mất một trăm lượng vàng". Doanh Vạn Thành nghe đến bực bội, dậm trúc trượng một cái, quát: "Việc nhỏ con ngày trước, cũng đem ra tự khoe". "Doanh gia gia hiểu sai rồi!". Cốc Chẩn lành lạnh cười một cái, mục quang sáng rực: "Ta nói cái chuyện này, không phải là kể lại kỷ niệm xưa. Mà là muốn gia gia biết, bắt từ ngày hôm đó, ta chính là khắc tinh của Kim Quy Doanh Vạn Thành gia gia. Trừ khi vừa gặp mặt gia gia liền giết ta, bằng không nhất định sẽ gặp rủi ro". Đôi mắt già nua của Doanh Vạn Thành híp lại, quan sát Cốc Chẩn một hồi, hì hì cười nói: "Gia gia già rồi, không uống được rượu, không ăn được thịt, cho dù nhìn nữ nhân xinh đẹp, cũng hoàn toàn không có hứng thú, chỉ riêng thích một số vật trắng vàng, những thứ này ngươi có rất nhiều, gia gia thích ngươi còn không kịp, sao lại nỡ lòng giết ngươi chứ?". Cốc Chẩn lành lạnh nói: "Ngươi cần bao nhiêu?".
"Gia gia là người không tham lam". Doanh Vạn Thành thở dài nói: "Vạn lượng hoàng kim, mười hộc minh châu gì đó, gia gia đều không cần. Gia gia chỉ cần một chiếc nhẫn phỉ thúy, ngươi đưa cho gia gia, gia gia sẽ phạm cái tội bất nghĩa lớn trong thiên hạ, tha cho ngươi đi". "Ta tưởng là cái gì chứ?". Cốc Chẩn bật cười khanh khách: "Nhẫn phỉ thúy? Cái đó thì dễ dàng, ta viết một lá thư cho Ngô Lãng Minh, gia gia đến chu bảo trai của hắn chọn, muốn mấy chiếc có mấy chiếc". Doanh Vạn Thành híp hai mắt lại, khanh khách cười, lộ ra một cái miệng tối đen: "Cháu ngoan, ngươi thừa biết gia gia không cần những thứ đó. Nhẫn mà gia gia cần, cả thiên hả này chỉ có một chiếc: Phỉ thúy chi hoàn, huyết văn tam tháp, tài thần thông bảo, hiệu lệnh thiên hạ 5". "Có thứ bảo bối như vậy sao?" Cốc Chẩn kinh ngạc nói: "Sao ta chưa từng nghe nói qua?". "Bậy bạ". Doanh Vạn Thành dậm mạnh trúc trượng một cái, bụp một tiếng, trục trượng xuyên thủng sàn gỗ dày năm tấc: "Nếu như không có chiếc nhẫn Tài Thần đó, dựa vào chút tuổi của ngươi, làm sao có thể hiệu lệnh các thương nhân trong thiên hạ, điều động tiền bạc và hàng hóa trên thế gian ?". Trong lúc la hét, mây mù trong đôi mắt của Doanh Vạn Thành đều tan biến, trong như băng tuyết, hai tia sắc lạnh, bức thẳng đến. Hai mắt của Cốc Chẩn cũng sáng đến kinh người, bốn mắt nhìn nhau, giống như sấm sét giao kích, Lục Tiệm chợt thấy toàn thân lạnh toát, thân thể giống như dây cung, không tự chủ được căng lên. Bỗng nhiên, Cốc Chẩn lại cười một tiếng, bầu không khí nặng nề như gặp gió ấm ngày hạ, chớp nhoáng tan chảy. Chỉ nghe y đạm nhiên nói: "Việc này là do Ngô Lãng Nguyệt nói sao?". Doanh Vạn Thành cười khô nói: "Việc nhỏ này, gia gia tự có cách biết, hà tất phải cần hắn nói?". Cốc Chẩn nói: "Hắn thâm nợ không nhỏ, ta lại không tha cho hắn, do đó chó gấp nhẩy tường, biên tạo câu chuyện hoang đường, hãm hại ta. Doanh gia gia, gia gia đã có thần thông Quy Kính , sao không soi soi trong lòng ta, có hay không có nhẫn Tài Thần, không phải soi một cái thì rõ sao ?". Doanh Vạn Thành lắc đầu nói: "Cháu ngoan, ngươi thừa biết Quy Kinh chỉ có thể soi được hiện tại, không thể giám định được qua khứ, chỉ có thể đoán được ý niệm lúc này của ngươi, nhưng không thể biết được ký ức của ngươi. Hơn nữa, trong thiên hạ, người có thể khắc chế được ký ức của bản thân, không muốn nhớ lại tuy lác đác vài người, nhưng cháu ngoan vừa hay chính là một người trong đó. Gia gia bị ngươi lừa, cũng không phải là một hai lần. May mà, ta bị lừa một lần, học khôn một lần, lần này ngươi muốn lừa bịp ta, hắc hắc, đừng có nghĩ đến".
Cốc Chẩn cười cười, rót rượu vào bát, một hơi uống cạn, lúc này y đã uống mười bát rượu, nhưng càng uống ánh mắt càng sáng, hoàn toàn không có vẻ say. "Doanh gia gia". Cốc Chẩn chợt nói: "Chúng ta cược một ván, gia gia thắng thì ta đưa nhẫn cho gia gia, ta thắng thì gia gia để cho ta đi". Doanh Vạn Thành hai mắt trợn ngược, nói: "Cược cái gì?". Cốc Chẩn nói từng chữ một: "Cược Kim Quy Tam Quan ". Doanh Vạn Thành díp hai mắt lại, cười nói: "Được, nếu như ngươi có thể phá được tam quan của ta, gia gia cũng không còn mặt mũi làm khó ngươi". Cốc Chẩn nói: "Vậy thì cược đệ nhất quan trước: Xạ Phúc. Ta là mồi cá, ngươi là lưỡi câu". Doanh Vạn Thành ngẩn người, nói: "Mồi cá? Lưỡi câu? Câu này có ý gì?". Cốc Chẩn cười cười không nói, Doanh Vạn Thành cảm thấy kỳ quặc, dùng "Quy Kính" tra xét, nhưng mạch suy nghĩ của Cốc Chẩn đã chuyển sang hướng khác, bất giác cười lạnh một tiếng, nói: "Ngươi trước hay là ta trước ?". Cốc Chẩn nói: "Ta trước". Doanh Vạn Thành quay người lại, vận chuyển "Quy Kính" âm thầm quan sát, chỉ cảm thấy Cốc Chẩn đặt một quân cờ Song Lục dưới bát, tiếp đó lại cảm thấy y quay đầu lại, cười nói:" Được rồi, Doanh gia gia, gia gia đoán xem dưới bát là cái gì ?". Doanh Vạn Thành quay người nhìn chừng chừng chiếc bát đó, díp mắt nói: "Là quân cờ Song Lục". Cốc Chẩn mỉm cười, mở bát ra, Doanh Vạn Thành bất giác đờ người, thì ra dưới bát không phải là quân cờ mà là một hạt xí ngầu. Y xoay chuyển ý nghĩ, nghiêm giọng quát lớn: "Tiểu tử thối, ngươi ăn gian". Cốc Chẩn cười đáp: "Ta ăn gian làm sao?". Doanh Vạn Thành tức giận nói: "Ta xạ phúc với ngươi, chứ không phải xạ phúc với y". Nói xong chỉ vào Lục Tiệm, cười lạnh nói: "Cháu ngoan, ngươi thừa biết Quy Kính của gia gia chỉ có thể đoán được tâm ý của một người, không thể đồng thời quan sát hai người, do đó trước tiên đặt quân cờ vào trong bát, sau đó quay đầu không nhìn, để mặc cho tên tiểu tử này đổi quân cờ trong bát thành hạt xí ngầu, Quy Kính chỉ có thể soi ra tâm tư của ngươi, ngươi còn không biết y đổi thành cái gì, tự nhiên Quy Kính cũng không cách gì soi được". Cốc Chẩn và Lục Tiệm nhìn nhau một cái, lắc đầu nói: "Doanh gia gia nói rất có lý. Nhưng khẩu thuyết vô bằng, gia gia có chứng cứ gì, chứng minh là y đổi xí ngầu? Chẳng lẽ không phải là do thần thông Quy Kính sai sót sao?". Doanh Vạn Thành bất giác im lặng, chỉ trách nhất thời sơ ý, biết rõ là hai người giở trò, nhưng không nắm được chứng cứ, đã không có chứng cứ thì cũng bằng thừa. Chỉ còn biết nói: "Được, đến lượt ta. Nếu như các ngươi không đoán được, đệ nhất quan này cũng chỉ coi là hòa. Hừ, hai người các ngươi, quay đầu hết ra đằng sau cho ta.". Hai người Cốc, Lục nghe lời quay đầu, chớp mắt liền nghe Doanh Vạn Thành nói: "Quay đầu lại đi". Hai ngơời quay người lại, chỉ thấy trước người Doanh Vạn Thành, úp ngược một bát rượu. Cốc Chẩn hơi trau mày, rồi nhìn Lục Tiệm, chỉ thấy y nhắm chặt hai mắt, hai tay ấn xuống bàn, sau đó nhấc tay trái lên, lắc nhẹ, Cốc Chẩn tâm niệm nhất động, buột miệng kêu: "Dưới bát không có gì". Doanh Vạn Thành thần sắc đại biến, Cốc Chẩn thấy thần sắc của lão, cười ha hả: "Thế nào, ta đoán trúng phải không ?". Doanh Vạn Thành bực bội trợn mắt nhìn y, cũng không mở bát, sau đó lại cười một tiếng âm hiểm, không để ý nói: "Đệ nhất quan này, coi như ngươi phá được. Bây giờ là đệ nhị quan: giấu vật". Nói rồi lấy ra một đồng tiền đồng, do dự một chút, bẻ thành hai nửa, đưa một nửa cho Cốc Chẩn, nói: "Giấu nửa đồng tiền này trên người ngươi, nếu như rời khỏi người, thì coi như ngươi thua". Cốc Chẩn đặt nửa đồng tiền đó lên bàn, lắc đầu nói: "Không cần, bất luận là ta giấu ở chỗ nào, đều không thể thoát được Quy Kính của gia gia. Đệ nhị quan này ta chỉ mong hòa, đoán được Doanh gia gia giấu ở đầu là được". Doanh Vạn Thành không ngờ y có chiêu này, hơi cảm thấy kinh ngạc, lại thấy y vô cùng tự tin, bất giác thầm bồn chồn, chỉ biết nắm nửa đồng tiền còn lại trong tay, khi xòe tay ra, đồng tiền kia đã biến mất. Lục Tiệm thấy vậy, hai tay ấn xuống bàn, kiếp lực thuận theo chân bàn truyền xuống, lại đi qua sàn lầu, truyền đến dưới chân của Doanh Vạn Thành, trong khoảnh khắc, liền cảm thấy nửa đồng tiền kia bám sát vào da thịt của Doanh Vạn Thành đang nhanh chóng rơi xuống, chớp mắt chui xuống lòng bàn chân trái của lão. Đang định tìm cách ám thị cho Cốc Chẩn, bỗng thấy đôi lông mày dài của Doanh Vạn Thành nhướng cao, mục quang lạnh lẽo bức đến. Cốc Chẩn nhìn thấy, liền biết Doanh Vạn Thành đã hoài nghi, lần này dùng "Quy Kính" lên người của Lục Tiệm, vội cười nói: "Doanh gia gia, gia gia nhìn bằng hữu của ta làm gì? Đánh cược tam quan với gia gia là Cốc Chẩn ta mà" Doanh Vạn Thành hừ lạnh một tiếng, nói: "Ta coi như đã biết thế nào là mồi cá, thế nào là lưỡi câu. Thì ra mồi cá cháu ngoan ngươi chỉ là làm ra vẻ, còn người thật sự đấu pháp với ta chính là tiểu tử này. Nhưng ta có chút kỳ quái, y làm sao có thể biết tâm y của lão phu, chẳng lẽ y cũng luyện Quy Kính không bằng?", vừa mới dứt lời, bỗng nhấc trúc trượng lên, điểm vào Lục Tiệm, Lục Tiệm vội muốn tránh né, nhưng bị Doanh Vạn Thành soi ra tâm ý, nửa đường biến chiêu, vù cái điểm trúng "Kỳ Môn Huyệt" của y. Hiển mạch của Lục Tiệm bị chế ngự, kiếp lực trong ẩn mạch tuôn lên, chuyển hóa thành nội lực, lại đả thông hiển mạch. Doanh Vạn Thành vừa định thu trượng lại, chợt thấy Lục Tiệm hơi trì trệ một lúc, liền có thể cử động được, tay trái móc vào trong, quyền phải tống thẳng ra, kình lực nặng như núi, ập thẳng đến. Doanh Vạn Thành trở tay không kịp, hoành trượng ngăn cản, liền cảm thấy hổ khẩu phát nóng, trúc trượng tựa hồ bật ra khỏi lòng bàn tay, không kìm được tung người nhảy lùi lại, mới hóa giải được quyền kình của "Bán Sư Nhân Tướng", trong lòng kinh dị, bỗng nghĩ lại, quát lớn: "Hảo tiểu tử, ngươi là kiếp nô ?". Lục Tiệm bị y nói ra ẩn mật của bản thân, cũng lấy làm kinh hãi. Chợt nghe cốc Chẩn vỗ tay cười nói: "Doanh gia gia cao kiến". Doanh Vạn Thành cười lạnh nói: "Cháu ngoan, kiếp chủ là ngươi sao ?". Cốc Chẩn cười nói: "Nếu như ta nói là không phải, gia gia có tin hay không ?". Câu này của y lập lờ nước đôi, Doanh Vạn Thành càng trở lên hồ nghi bất định, bỗng lão nhấc tay, đâm thẳng trúc trượng vào mi tâm của Lục Tiệm. Lão đoán trước tiên cơ của địch thủ, Lục Tiệm né tránh không kịp, bèn dứt khoát dùng "Bạch Hào Tướng", không lùi mà tiến, dùng đầu đón lấy. Kinh Phật có nói: "Giữa hai hàng lông mày của Như Lai phóng ra tia sáng trắng, soi rọi khắp vạn tám nghìn đất Phật tây phương", do đó tướng thái này, có thể đem thần lực toàn thân tụ lại ở giữa hai hàng lông mày, Doanh Vạn Thành điểm trúng, giống như điểm phải thép, mà lại không cách gì đâm vào được. Doanh Vạn Thành tuy có khả năng liệu địch, nhưng không liệu được Lục Tiệm lại có thể dùng thân thể huyết nhục, ngăn chặn được binh đao của bản thân, không kịp thu trượng lại, Lục Tiệm đã nhịn cơn đau buốt ở mi tâm, biến hóa "Chu Thiên Tướng", hai tay đồng loạt xuất chiêu, nắm chặt lấy trúc trúc trượng. Doanh Vạn Thành quát lớn một tiếng, truyền kình lực lên trúc trượng, trúc trượng đó u u rung lên, hai tay Lục Tiệm như gặp phải điện, lập tức buông ra, nhưng tay phải của y nhanh đến kỳ dị, vừa mới bị chấn thoát, lại nắm lấy trúc trượng, mắt thấy eo lưng của Doanh Vạn Thành hơi lộ sở hở, vội biến "Mã Vương Tướng" đá ra. Nhưng vừa mới nhấc chân lên, thì kiếp lực ở tay phải đi qua trúc trượng, liền cảm nhận được các tình cảnh trong cơ thể của Doanh Vạn Thành, lúc này tinh khí của Doanh Vạn Thành lưu chuyển trong "Đái Mạch", chân khí ngưng tụ gia tăng trong "Thủ Thái m Phế Kinh", dựa theo mạch lý, chính là dấu hiệu của thân hình lách sang phải, ngũ chỉ cắm xuống dưới, một cước này của Lục Tiệm nếu như thật sự đá ra, nhất định bị ngũ chỉ sắc như đao kiếm của lão xuyên thủng bắp chân. Ý niệm này mới chỉ lóe lên, Lục Tiệm bèn từ "Mã Vương Tướng" biến thành "Đại Tự Tại Tướng", vội thu chân lại, quát lớn một tiếng, chưởng trái thành đao, trước tiên biến tướng "Thọ Giả Tướng", rồi lại biến "Hầu Vương Tướng", thế như chặt tre, hết sức bổ ra. Cú bổ ra này khí thế kinh người, kình phong khắp lầu. Doanh Vạn Thành tuy rằng liệu được, nhưng cũng không cách gì né tránh, chỉ biết vung tay đỡ lấy. Hai chưởng giao nhau, kình phong ào ạt, khuôn mặt nhăn nheo của Doanh Vạn Thành thoáng qua một vệt ửng hồng, Lục Tiệm thì cảm thấy tức ngực tim đập mạch, chợt lại cảm thấy chân khí trong "Thủ Thái Dương Tiểu Tràng Kinh" của Doanh Vạn Thành biến đổi, chiêu sau đó sẽ là khí thông ngón tay trái, điểm vào "Khúc Trì Huyệt" của mình, lập tức tiên hạ thủ vi cường, tay trái biến "Đa Đầu Xà Tướng", một chuyển một chiết, quấn lấy ngũ chỉ của Doanh vạn Thành, Doanh vạn Thành nhận biết được tâm ý của Lục Tiệm, vừa kinh vừa nộ, bất đắc dĩ triệt tiêu kình lực biến chiêu, nhưng lão vừa biến chiêu, Lục Tiệm cũng biến. Trong nhất thời, hai ngươi mỗi người nắm một đầu trúc trượng, Doanh Vạn Thành dùng thần thông "Quy Kính", dự đoán tâm tư của Lục Tiệm, nhưng chỉ cần y xuất chiêu, Lục Tiệm liền dựa vào kiếp lực, từ trúc trượng cảm nhận được hướng đi kình lực của y, biến tướng ứng đối. Doanh Vạn Thành cảm thấy tâm tư của Lục Tiệm có biến, vội vàng biến chiêu, nhưng nội tức của y vừa mới động, Lục Tiệm lại đã biết, tình thế như vậy lặp đi lại lại. Cốc Chẩn từ bên cạnh nhìn, thấy hai người đó khoa tay múa chân, nhưng không một chiêu nào thực sự xuất ra, vừa thấy kỳ quái lại vừa thấy buồn cười. Nhưng Lục Tiệm chỉ biết mười sáu tướng, phản phúc thi triển, không tránh khỏi dùng hết, còn chiêu thức của Doanh Vạn Thành thì huyền kỳ, biến hóa vô phương, dần dần chiếm được thượng phong. Lục Tiệm trong lúc sốt ruột, cảm nhận được hướng đi nội kình của Doanh Vạn Thành, y vội mô phỏng theo, trong nhất thời, Doanh Vạn Thành nhấc chân, y cũng nhấc chân, Doanh Vạn Thành giơ tay, y cũng giơ tay, Doanh Vạn Thành ngưng thần xuất quyền, y cũng xuất quyền, giống như một người đứng trước gương, hình bóng trong gương ngoại trừ diện mạo khác nhau, cử chỉ đều giống hệt nhau. Cốc Chẩn thấy vậy cũng thu lại nụ cười, kinh ngạc nói: "Lục Tiệm, ngươi sao lại biết công phu của Đông Đảo ta? Chiêu này là Bộ Thủ Kình , chiêu kia là Vô Định Cước , ái a, quái sự, quái sự". Doanh Vạn Thành vừa kinh vừa nộ, bất luận lão biến chiêu như thế nào, Lục Tiệm đều có thể rập khuôn y hệt, xuất chiêu không sai, cứ như thế, không bao giờ kết thúc. Dẫu rằng lão nổi nóng, cũng nghĩ không ra nguyên do trong đó. Nên biết thần thông "Quy Kính" tuy lợi hại, nhưng có một sơ hở vô cùng lớn, đó chính là chỉ có thể soi ra công phu của hiển mạch, nhưng không có cách gì cảm nhận được sự vận chuyển của ẩn mạch. Doanh Vạn Thành trong lúc sốt ruột, không nhịn được quát lớn: "Tiểu tử thối, ta thấy ngươi mặt mũi đoan chính, tại sao lại phải nối giáo cho giặc, giúp tên nghiệt chướng cưỡng dâm tiểu muội, giết mẫu thân, câu kết với Oa khấu này?" Lục Tiệm nghe vậy cả kinh, thất thanh nói: "Lão nói cái gì ?". Doanh Vạn Thành vốn chỉ là nóng lòng trút căm giận, nhưng thấy Lục Tiệm kinh ngạc như vậy, bèn dùng "Quy Kính" soi, liền biết ngọn nguồn, hăng hắc cười nói: "Ngươi há không biết? Tên tiểu súc sinh họ Cốc này, bức gian muội muội, gian tình bị mẫu thân phát hiện, rồi từ thẹn chuyển thành phẫn nộ, đâm trọng thương mẫu thân. Thậm chí, y câu kết với Uông, Từ, Ma, Trần tứ đại khấu, giết người cướp của, không việc gì không làm, làm cho một vùng Giang Nam rộng lớn, biến thành lò mổ Tu La...". Nói đến đây, Lục Tiệm bất giác buông lỏng trúc trượng, bịch bịch bịch lùi lại sau ba bước, hai mắt mở to, lắp ba lắp bắp nói: "Y... tại sao y... y không nói cho ta?". Doanh Vạn Thành cười lạnh nói: "Việc xấu xa như vậy, y làm sao có thể nói ra được? Nếu như phạm tội bình thường, y bị nhốt vào trong Cửu U Tuyệt Ngục sao? Người thiếu niên, ngươi cũng không phải ngốc, thử nghĩ kỹ xem, thì có thể minh bạch". Lục Tiệm thừ người ra, quay đầu nhìn đi, chỉ thấy mục quang của Cốc Chẩn rủ xuống, tựa hồ không dám nhìn thẳng vào mắt mình. Trong sát na, các tình cảnh trước đó đều lần lượt hiện qua, trong lòng y bỗng nhiên thông suốt: Tại sao Cốc Chẩn mới chút tuổi thị bị nhốt vào ngục sâu vô đáy, tại sao y lại nhục mạ mẫu thân sinh ra mình, tại sao trước sau không chịu nói bản thân phạm phải tội gì. Chỉ bởi vì tội ác này to lớn, quả thực là thiên lý bất dung. Lục Tiệm nghĩ đến đây, vẫn chưa hết hy vọng, nghẹn ngào hỏi: "Cốc Chẩn, lão ta nói đều là thật sao?". Cốc Chẩn buông tiếng thở dài, nhè nhẹ cười khổ. Lục Tiệm nhìn y, chỉ cảm thấy lồng ngực đau buốt, nên biết, trải qua bao nhiêu kiếp nạn, y đã coi người này là bằng hữu thân thiết nhất của đời mình. Nhưng không ngờ đến bây giờ, lại là kết cục như vậy. Lục Tiệm không đè nén được bi phẫn, bất giác quát lớn: "Cốc Chẩn, ta hận ngươi. Sớm biết như vậy, ta thà chết trong hang động, cũng không cứu ra ngoài". Nói đến đây, bỗng nhiên nhấc quyền, kích vào Cốc Chẩn, nhưng quyền đi được nửa đường, rốt cuộc lại thu về, đấm mạnh lên chiếc bàn gỗ bên cạch, bùng lấy một tiếng, chiếc bàn gỗ bị chấn nát vụn. Lục Tiệm trong lòng rối bời như lửa thiêu, đánh xong một quyền, bước nhanh xuống lầu. Trần Song Đắc đang trông coi trước lầu, thấy vậy hỏi: "Lục gia, ngài đi đâu? Tiểu nhân sắp xếp xe ngựa cho ngài". Lục Tiệm không nói một lời, chỉ biết chạy điên cuồng như bay, cũng không biết chạy được bao xa, chợt cảm thấy hai chân vừa lạnh vừa ướt, mới cả kinh phát giác: bản thân không biết từ lúc nào đã chạy đến bờ biển, từng trận thủy triều ập đến, chìm ngập đến đầu gối. Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, sóng biển đen thẳm cuồn cuộn không ngừng. Trong sát na, trong lòng y lại hiện lên khuôn mặt của Cốc Chẩn, nụ cười kia trong sáng tươi tắn, mang một chút hơi vị trẻ con, hai mắt nhìn mình, luôn có sự chân thành không thể nói ra thành lời. "Ta làm mồi cá, ngươi làm lưỡi câu... Ta từ nhỏ đã thích cười, tên hồi nhỏ là Tiếu Nhi... Ta với người khác đều phải tranh cái được thua, duy chỉ có ngươi là ta không tranh...". Từng câu từng chữ, còn như ở bên tai, Lục Tiệm uất ức khó giải, không kìm được vùi đầu vào trong biển, mặc cho nước biển lạnh lẽo mặn đắng tràn vào mũi miệng, cho đến khi hết hơi, mới nhấc đầu lên, suy nghĩ: "Xem dáng vẻ của Cốc Chẩn, nghe y nói chuyện, làm sao lại có thể là kẻ ác như vậy, nếu như đều là Doanh Vạn Thanh vu cáo, tại sao y lại không biện giải? Y thông minh tuyệt luân, tại sao đến lúc đó, lại thành một kẻ ngốc?". Lục Tiệm trong lòng không yên, chỉ cảm thấy nếu không làm rõ chân tướng, cả đời này chớ mong kê gối ngủ ngon, bỗng nhiên chuyển thân, lại chạy vội về hướng "Quan Hải Lâu". Còn chưa đến gần, thì thấy trong lầu tối om, trong lòng bất giác nặng trĩu, chạy đến trước lầu, cửa tửu lầu đã đóng chặt, trong lòng không cầm được nóng như lửa đốt, giơ tay gõ cửa. Gõ được hai hồi, liền nghe thấy Trần Song Đắc nói vọng ra: "Là Lục gia sao?". Nói rồi dỡ ván cửa, bước ra ngoài. Lục Tiệm buột miệng hỏi: "Trần đại ca, Cốc Chẩn đâu?". Trần Song Đắc cười khổ nói: "Lục gia ngài giết tiểu nhân rồi, hai chữ đại ca vạn lần không dám nhận, ngài giống như Cốc gia gọi tiểu nhân Song Đắc là được. Còn như Cốc gia ? Người cùng với vị lão gia kia ngồi xe ngựa đi được hai canh giờ rồi, trước khi đi có nói với tiểu nhân, Lục gia ngài nhất định còn quay lại, kêu tiểu nhân ở đây đợi ngài". Lục Tiệm nghe vậy vậy lặng người đi, lại thấy Trần Song Đắc quay người lấy ra một bọc vải, nói: "Cốc gia nói, ngài muốn hồi hương, không thể không có lộ phí. Cốc gia kêu tiểu nhân đưa một trăm lượng bạc cho ngài, còn nói chỗ bạc này là năm xưa người làm ăn buôn bán kiếm được, sạch sạch sẽ sẽ. Lục Tiệm đón lấy bọc vải, chỉ cảm thấy nặng trình trịch, trong lòng bất giác chua xót, không nén được hỏi: "Song Đắc, ngươi nói xem, Cốc Chẩn có giống một đại ác nhân không?". Trần Song Đắc nghe vậy sững người, lắc đầu nói: "Hai con mắt này của Song Đắc, người nam kẻ bắc cũng thấy nhiều rồi, tuy không dám nói bách phát bách trúng, nhưng cũng có thể nhìn ra một chút manh mối. Vẻ ngoài của Cốc gia có chút tà khí, nhưng trong lòng thật thà rộng lượng, tuyệt không phải là kẻ gian ác gì. Bằng không, Cốc gia sao lại làm bằng hữu với Lục gia ngài? Nghe Cốc gia nói, liền biết là Cốc gia rất tán thưởng phẩm cách của Lục gia, Trần Song Đắc tôi nếu như có thể được Cốc gia tán thưởng như vậy, cho dù lập tức chết ngay cũng cam chịu". Lục Tiệm mặc nhiên một hồi lâu, chợt nói: "Cốc Chẩn và lão nhân kia đi về hướng nào?". Trần Song Đắc nói: "Đi về phía tây bắc". Lục Tiệm chắp tay nói: "Đa tạ". Nói xong quay người nhấc chân, chạy vội về hướng tây bắc. Lục Tiệm trong đêm tối điên cuồng chạy mấy chục dặm, vẫn chưa nhìn thấy hình bóng xe ngựa. Nên biết những con ngựa kéo xe đó, đều là danh câu Đại Lương, thần tuấn vô cùng, sức người há có thể bì kịp. Lục Tiệm chạy cho đến khi sức cùng lực tận mới chịu dừng chân, nhìn đồng rộng mênh mông, chán nản thất vọng vô cùng.
Nghỉ ngơi một lúc, y không có cách nào, chỉ biết dạo bước về phía trước, dọc đường hỏi han người đi đường, nhưng không có chút tin tức, đi được hơn một trăm dặm, Lục Tiệm chợt hiểu ra, hoặc là bản thân đuổi nhầm phương hướng, hoặc là Doanh Vạn Thành ngụy kế đa đoan, dọc đường tiêu hủy tung tích. Tóm lại, dựa vào bản lĩnh của y, muốn đuổi kịp hai người, tuyệt đối đã không còn khả năng. Lục Tiệm nản lòng nhụt chí, đành chuyển hướng đi về phía bắc, chỉ thấy thôn làng bỏ hoang khắp nơi dọc đường, nhà cửa thưa thớt, nhiều mảnh ruộng tốt bị cỏ cây mọc um tùm. Hỏi han nông phu may mắn còn sống, mới biết nơi này nhiều lần gặp phải Oa loạn binh họa, thoạt đầu là Oa khấu xâm phạm cướp sạch, sau đó quan binh lại đến, đám quan binh này vừa nghe thấy danh của Oa khấu, trông thấy từ xa mười tên thì chín tên đã tháo chạy, nhưng đối đãi với bách tính thì lại độc địa tàn nhẫn, không việc ác nào không làm, lại còn có tên chuyên giết bách tính vô tội, cắt lấy thủ cấp, mạo xưng Oa khấu để tranh công. Lục Tiệm càng nghe càng phẫn nộ, kêu: "Chẳng lẽ không còn vương pháp sao?". Người nông phu kia tức giận nói: "Vương pháp cái gì? Có đao thương thì có vương pháp". Lục Tiệm nói: "Đám quan binh này, không có tướng lĩnh ước thúc sao?". Người nông phu đó nói: "Tướng lĩnh thì nhiều, nhưng không có mấy người ước thúc binh sĩ. Ngoại trừ Du lão tướng quân Du Đại Du, binh sĩ của Du tướng quân rất tốt, trước nay không xâm phạm bách tính, nhưng chỉ có một mình y là tướng quân tốt, thì làm được cái việc gì? Lấy ví dụ cho người, Oa khấu đến, thì giống như lược thưa chải tóc, dù sao đi nữa còn lưu lại một chút gầu; còn quan binh đi qua, hừ, thì giống như lược bí, lớn đến nhà cửa, nhỏ đến kim chỉ, không lưu lại cái gì cho ngươi...". Trong lúc nói chuyện, bỗng nghe có người kêu lớn: "Quan binh đến rồi". Người nông phu kia sắc mặt đại biến, nhấc chân chạy vội theo đồng bọn, chui vào núi rùng, khoảnh khắc liền không thấy. Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy một đội quan binh khí thế hung hăng, quất ngựa phi đến, một tên quân quan trong đó tức giận nói: "Đám chân đất này càng lúc càng gian hoạt. Giống như con chuột thành tinh, vừa thấy lão tử thì chuồn mất tăm, hôm nay nếu không lấy được mấy cái thủ cấp, làm sao ăn nói với đại soái được ?". Hăn liếc Lục Tiệm một cái, "phì" một tiếng, nói: "Còn có một tên không sợ chết, tiếc là chỉ có một cái đầu, gom lại cũng không đủ số". Nộ khí trong ngực của Lục Tiệm trào dâng, nhưng nghe giọng điệu của người này, không giống như người Chiết Giang, vừa mới cảm thấy nghi hoặc, bỗng thấy tên quân quan đó kẹp ngựa phi đến, vung đao chặt xuống. Lục Tiệm kẹp tay đoạt lấy cương đao, lôi hắn xuống ngựa, lại biến thế "Đa Đầu Xà Tướng , tay phải biến hóa như bóng rắn, trái phải khai cung, vả cho hắn mười mấy cái tát liên tiếp, đánh đến nỗi sao vàng bay loạn trước mắt tên quân quan đó, nhưng lại không sờ được cái nào.
Lục Tiệm đánh xong, ném mạnh một cái, quẳng tên đó ngã ngất đi. Đám quan binh nhìn thấy, không tên nào không cả kinh, sợ hãi kêu lên: "Oa khấu, má ơi, là Oa khấu". Lục Tiệm nghe vậy vừa bực vừa buồn cười, thấy đám quan binh đó quay ngựa, ôm đầu chạy như chuột, lập tức buông tiếng kêu dài, thi triển thuật khiêu ma, lướt qua bên cạnh đám người, hai tay biến hóa "Chu Thiên Tướng", lúc lên lúc xuống, lôi đám quan binh đó xuống ngựa, ném mạnh ra xa, bọn quan binh bị quẳng đến sứt đàu mẻ trán, tay chân gãy đoạn, nằm dài trong ruộng, oai oái kêu thảm. Lục Tiệm ném bay tên cuối cùng, nhân thế ngồi lên yên ngựa, quát lớn: "Các ngươi thân là quan quân Đại Minh, nhưng không dám chống trả Oa khấu, chỉ biết hiếp đáp bách tính, vô cùng đáng ghét, hôm nay tạm thời trừng trị các ngươi một chút, nếu sau này còn hành hung, đảm bảm các ngươi đầu rơi xuống đất". Quát xong một tiếng liền quất ngựa đi. Trên đường đi, nơi nơi đều có khói lửa tro tàn, thật giống như lời nguời nông phu kia nói: "Giặc qua như lược thưa, binh qua như lược bí", vùng đất Giang Nam phồn hoa, trải qua nhiều lần Oa loạn binh hỏa, trở thành vùng đất của ma quỷ, thành lớn đóng chặt, thành nhỏ coi nghiêm ngặt, bên ngoài thành hoang vu vắng lặng, cỏ mọc lan trên mặt đất, vạn phần thê lương. Cốc Chẩn nhìn thấy thảm trạng dọc đường, nước mắt không kìm được như mưa chảy xuống, chợt nhớ lại lời kệ trước khi lâm chung của Ngư hòa thượng, nghĩ thầm: "Kiếp nhân dục sinh, khổ nhân lạc khổ, sương phi mi thượng, kiếm do tâm xuất; thế gian sang di, chúng sinh đa khổ, quỳnh quỳnh bồ đề, tịch tịch chân như. Chẳng trách nào đại sư trước khi tọa hóa sầu bi bất nhẫn như vậy, bách tính trong thiên hạ thật là khổ". Y nghĩ đến đây, nhìn thế giới bi thảm này, bỗng nhiên có chút giận đời ghét tục, lập tức buông lỏng cương ngựa, mặc cho ngựa đi về phía bắc. Chập tối hôm ấy, thì đến một thôn làng bỏ hoang không người, Lục Tiệm xuống ngựa nghỉ ngơi. Lúc đêm khuya, Lục Tiệm còn chưa ngủ say, bỗng bị tiếng động đánh thức, mở mắt bật dậy, nhấc cửa sổ rách nát ra một khe hở, chỉ thấy hắc ảnh lay động bên ngoài cửa sổ, cũng không biết có bao nhiêu người ẩn náu trong thôn, người nào người nấy khom người rón rén, hành tung quỷ dị. Lục Tiệm thấy vậy cả kinh, bỗng nghe có một người dùng Oa ngữ nói: "Sao trong thôn này lại buộc ngựa?". Một người khác thì nói: "Trong thôn có người không?". Lục Tiệm đánh thót một cái: "Bọn chúng là Oa khấu?" Chỉ nghe người nói lúc đầu chuyển qua dùng Hoa ngữ, thấp giọng quát: "Các ngươi vào phòng lục soát, nếu như có người, lập tức giết ngay". Vài tên khác dùng Hoa ngữ trả lời, lục soát bốn phía. Lục Tiệm nghĩ bụng: "Đám ngườii này một lúc thì dùng Oa ngữ, một lúc lại dùng Hoa ngữ, rốt cục là chân Oa hay là giả Oa?". Trong lúc nghi hoặc, bỗng nghe thấy tiếng cửa ken két vang khẽ, một đạo hắc ảnh mở cửa, lặng yên tiến vào. Lục Tiệm không đợi y lục soát, vội lạng người nhào lên, chặt một chưởng lên cổ hắn, tên kia kêu cũng không kịp kêu, liền lập tức ngã nhào. Lục Tiệm kéo hắn vào góc tường, chợt nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài cửa, có tên dùng Oa ngữ nói gấp: "Bẩm Mao quân, đạo quan binh kia đuổi đến nơi rồi". "Kỳ quái". Tên Mao quân cười nói: "Cũng không biết ai dẫn đạo quan binh này, lại không sợ chết như vậy. Mọi người đi mai phục cho tốt, đợi quan binh vào thôn, nghe ta phát hiệu lệnh bằng súng Điểu, thì nhất tề xông ra chém giết". Có tên nói: "Nhưng con ngựa này rất kỳ quái, người đi lục soát vẫn chưa quay về". Mao quân quả đoán nói: "Binh quý thần tốc, cũng chẳng quan tâm nhiều được nữa". Nói xong, bốn phía trở lên trầm lặng, chắc là đám Oa khấu đều ẩn náu mai phục trong chỗ tối. Lục Tiệm nhấc cửa sổ ra, ngưng thần nhìn đi, chỉ thấy ánh lửa chập chờn phía đằng xa, tiếng bước chân lộn nhộn, tựa như có rất nhiều người tiến lại. Lục Tiệm đang do dự có nên nhắc nhở người đến không, bỗng nghe thấy tiếng một súng Điểu vang lên, một tiếng kêu thảm phía đằng xa, một ngọn đuốc tắt ngúm. Tiếp đó liền nghe thấy tiếng súng Điểu dầy đặc như tiếng rang đậu, bùng bùng vang loạn, chốc chốc có người trúng đạn, thảm thương kêu lên. Trong tiếng súng Điểu, đám Oa khấu ô ô oa oa kêu lên, từ góc tường chui ra, từ mái nhà nhảy xuống, Oa đao trường mâu, múa lên vù vù như gió, bỗng nghe thấy một giọng nói phía bên quan quân sang sảng quát lớn: "Không được lùi lại, kết thành Lưỡng Dực Nhạn hành trận". Tiếng hét còn chưa dứt, liền nghe thấy tiếng sắt thép giao nhau vang lên, hai bên đã giáp lá cà. Lục Tiệm cư trụ lâu trong giao giới Tô Lỗ, nghe ra giọng nói kia là khẩu âm Sơn Đông, bất giác đẩy cửa đi ra, nhìn ra phía đằng xa, chỉ thấy đám Oa khấu như hổ vào bầy dê, làm cho đạo quan binh kia tán loạn, trong đó có vài tên Oa khấu đao pháp cao cường, tay phải cần trường đao năm thước, tay trái cầm thái đao hai thước, ngắn dài cùng xuất, xông vào trận thế của đám quan binh, trái đâm phải chém, giống như cắt bí thái rau. Đạo quan binh kia không chống đỡ được, lùi ra khỏi thôn, bỗng nghe thấy một tiếng hét, hơn trăm tên Oa khấu từ rừng trúc bên cạnh thôn xông ra, chặn mất đường rút của quan binh, tên nào tên nấy nhảy lên xuất đao, thế không thể chặn được. Trong trận của đám quan quân, giọng nói sang sảng kia vẫn trầm ổn, liên tiếp quát: "Lá chắn, phía phải, cung tên, trường thương phía phải, xếp thành Tứ Phương trận...". Nhưng đám sĩ binh vốn tham sống sợ chết, lúc này binh bại như núi, làm gì còn chú ý đến lá chắn cung tên, tên nào tên nấy đều như mất hồn phách, hoặc là nằm sấp đợi chết, hoặc là kéo ngược trường thương chạy tháo mạng, nhưng sớm đã có Oa khấu tung người đuổi theo, một đao một tên, chém ngã tất cả, trước sau không đầy ba nén hương thời gian, đám quan quân tử thương gần hết.
Lục Tiệm trông thấy vậy trợn mắt há miệng, y đều không có hảo cảm với đám Oa khấu và quan binh, vốn không định giúp đỡ bên nào, nhưng đám quan quân này vô tich sự như vậy, thì thật là ngoài dự liệu của y. Đám Oa khấu rõ ràng ít người, chúng quan quân rõ ràng nhiều người, ai ngờ dùng nhiều đánh ít, trong khoảnh khắc lại bị đám Oa khấu giết hết, không có một người nào chạy thoát. Trong lúc kinh nghi, bỗng nghe thấy trong trận thế của đám Oa khấu, đồng loạt kêu hay. Lục Tiệm trong lòng kỳ quái, tung người lên nóc nhà, chạy nhanh hơn hai chục trượng, nhảy lên không cúi xuống nhìn, chỉ thấy đám Oa khấu vây thành một vòng tròn, đang xem hai người đánh nhau kịch liệt. Một người ăn mặc theo kiểu người Oa, tay trái cầm thái đao, tay phải cầm trường đao, đao quang như gió mạnh thổi tuyết, phiêu hốt tuyệt luân; người kia là tướng lĩnh Đại Minh mặc mãng bào lân giáp, thể hình cao lớn, râu dài phây phất, trên má tóe vài giọt máu tươi, y dùng một thanh trường kiếm, kiếm chiêu đơn giản không hoa mỹ, nhưng mỗi một kiếm đều cay độc xảo quyệt, thường có thể tìm ra kẽ hở trong làn đao quang, làm cho địch thủ phải tự cứu, song đao của Oa nhân kia tuy nhanh, nhưng nhất thời cũng không làm gì được y. Đám người Oa chắc là lâu rồi mới gặp được đối thủ như vậy, đều xem đến hưng phấn, chỉ chỉ điểm điểm, một tên Oa khấu ăn mặc theo lối người Hán trong bọn cười nói: "Tân Ngũ lang, thế nào rồi, đánh hồi lâu rồi mà vẫn chưa thắng, hay là để ta đấu với y?". Tên người Oa kia tức giận hừ một tiếng, tăng nhanh đao pháp, nhưng đao pháp vừa nhanh lên, liền sinh ra sơ hở, người tướng Đại Minh nhìn thấy rõ ràng, tránh qua trường đao, rung tay xuất kiếm, đâm trúng vào đùi của Tân Ngũ Lang, nhưng không đề phòng thái đao bên tay trái của của Tân Ngũ Lang ném ra như điện, cắm ngập vào đầu vai của y. Hai người áp sát rồi lập tức phân khai, Tân Ngũ Lang tập tễnh lùi sau vài bước, trường đao chống đất, quỳ một chân xuống. Hắn ở trong đám Oa khấu, đao pháp xưng hùng, song đao xông vào trận, trước nay chưa từng bị thương, không ngờ hôm nay lại trúng một kiếm, trong lòng vừa kinh nộ, vừa cảm thấy bội phục, dùng tiếng Hoa cứng ngắc nói: "Kẻ đến báo tên!". Người tướng Đại Minh lật tay rút Thái đao ở vai ra, nghe hỏi liền cười đáp: "Ta là tham tướng Đại Minh Thích Kế Quang". Tân Ngũ Lang thấy y mặc cho máu chảy như trút trên vai, mày không trau, sắc diện không biến đổi, trong lòng bất giác lấy làm lạ, đứng thẳng người lên, trau mày nói: "Thích Kế Quang, cái tên này ta chưa từng nghe qua. Thì ra ngươi không phải là Du Đại Du? Nghe nói kiếm pháp của Du Đại Du cao cường, là Trung Hoa đệ nhất kiếm khách, ta sớm đã muốn gặp, không ngờ ngoài y ra, còn có anh hùng. Tên Oa khấu ăn mặc theo lối người hán cười nói: "Y có anh hùng hơn đi nữa, binh sĩ dưới tay đều là kẻ vô dụng, không chịu nổi một kích. Này, Thích tham tướng, ngươi to gan vô cùng, tướng lĩnh khác đều không dám truy đuổi ta, ngươi ngược lại thì lợi hại, dẫn một bọn vô dụng như vậy, cũng dám đuổi theo, chẳng lẽ ngươi không biết lão tử là ai?". Thích Kế Quang cười cười, đạm nhiên nói: "Ta tất nhiên biết người là ai, nghĩa phụ của ngươi là Uông Trực đứng đầu tứ đại khấu, ngươi tên là Mao Hải Phong, biệt hiêu là Thốn Thảo Bất Sinh , gặp trại giết trại, gặp thành giết thành, ngươi lần này liên tiếp xâm phạm Lạc Thanh, Thụy An, Lâm Hải, giết gần vạn người, nếu như ta không truy đuổi ngươi, thiên lý ở đâu?". "Nói rất hay". Mao Hải Phong vỗ tay cười lớn: "Xem ra uy danh của Mao mỗ lan xa. Nhưng mà, Thích tham tướng, ngươi biết là đuổi đến thì thua, ngươi không sợ chết sao?". Thích Kế Quang nhướng mày, thong thả nói: "Quốc gia gặp nạn, tấm thân này có đáng gì". "Thì ra Thích tham tướng còn là một trung thần". Mao Hải Phong cười ha hả: "Đối phó trung thần, Mao mỗ thích nhất là móc tim của bọn họ ra, xem xem có phải là màu đỏ không". Đám người Oa bất luận là có thể nghe hiểu hay không hiểu, đều cùng Mao Hải Phong cười lớn. Thích Kế Quang cười lạnh một tiếng, lớn tiếng quát: "Bớt nói những lời thừa đi, đến lượt ai lên?". Tân Ngũ Lang sắc mặt trầm lại, vừa định vùng lên, Mao Hải Phong vỗ vỗ vai hắn, hinh hích cười nói: "Tân Ngũ Lang, chân của người không tiện, hay là thôi đi, trận này giao cho ta". Tân Ngũ Lang lộ ra vẻ xấu hổ, nhưng tình hình trớc mắt, không cho phép y tái chiến, chỉ còn cách khập khập khiễng khiễng, lùi sang một bên. Mao Hải Phong tay trái thái đao, tay phải trường đao, bước ra khỏi đám người, cười dài nói: "Thích tham tướng, kiếp sau nếu có làm tướng quân, nhất định phải nhớ kỹ, dẫn quân thì dẫn bọn tốt hơn, chứ đừng dẫn một đám vô dụng". Thích Kế Quang kẹp kiếm quyết, mỉm cười nói: "Túc hạ yên tâm, binh sĩ như của túc hạ, Thich mỗ tuyệt đối không bao giờ dẫn". Lãnh điện lóe qua trong mắt Mao Hải Phong, hắn tức giận hừ một tiếng, hai gối hơi cong xuống, chực lao lên xuất đao, không ngờ một tiếng quát lớn vang lên, như sấm nổ trên trời giáng xuống, đám Oa khấu còn chưa kịp hiểu là việc gì, một một cây trúc xanh biếc to dài phá không quét đến, ba tên Oa khấu bị quét bay ra vài trượng, gẫy xương đứt gân, trong chớp mắt thì mất mạng. Lục Tiệm một quét đắc thủ, lòng tin tăng lên, múa trúc xanh nhanh đến nỗi gió mưa không lọt qua được, vừa quét vừa tiến lại, vẫn là xuất thủ bằng "Thọ Giả Tướng", thu thế bằng "Hầu Vương Tướng". Cây trúc đó là do y nhổ cả rễ ra từ trong rừng trúc ngòai thôn, dài đến bốn trượng, cành lá um tùm, một khi múa lên, nội trong mười trượng, không một ai có thể đứng vững. Lục Tiệm thấy qua bản lĩnh của đám Oa khấu, tên nào tên nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn hẳn đám nhẫn giả chỉ biết tập kích, lập tức toàn lực xuất thủ, không dám thể tình, nơi trường trúc đi qua, đám Oa khấu trúng phải thì chết, chạm phải thì thương, những tên bị thương trong đó đa phần là bị cành trúc quét trúng, da thịt rách toạc, thảm thương vô cùng. Đám Oa khấu dẫu rằng dũng mãnh ngoan cường, nhưng gặp phải binh khí kỳ quặc như vậy, cũng cảm thấy thúc thủ vô sách, bất luận là trường mâu hay trường đao, vừa chạm vào cây trúc đó, đều bị chấn bay. Mao Hải Phong nhìn thấy bộ hạ tử thương cực thảm, không kìm được hét lớn một tiếng, thoắt cái tung người lên, nhẹ nhàng như phi yến, đáp xuống trên thanh trường trúc kia, rồi đạp lên cành trúc thân trúc, đi về phía Lục Tiệm. Lục Tiệm hoảng hồn, đột nhiên rung trường trúc, ra sức giũ một cái, chiêu này vốn là y học trộm từ chỗ của Doanh Vạn Thành, hôm đó Doanh Vạn Thành vài lần dùng cách này rung trúc trượng, muốn chấn thoát tay phải của Lục Tiệm. Lục Tiệm bởi vì có kiếp lực, cảm biết được được biến hóa nội kình của lão, vài lần như vậy, không ngờ lại ghi nhớ. Lúc này theo cách đó một rung một giũ, nội kình thuận theo cành trúc cây trúc truyền ra, Mao Hải Phong chỉ cảm thấy một cỗ tê dại từ hai chân truyền lên đỉnh đầu, ba hồn sáu phách đều giống như bị cái giũ này làm cho rời khỏi thân, bất giác kêu thảm một tiếng, ngã nhào xuống đất. Lục Tiệm thấy vậy, ghìm cây trúc xuống, đè xuống Mao Hải Phong, không ngờ một người tung người nhảy lên, trường đao từ dưới gạt trúng trường trúc. Lực đạo của đao này vô cùng lớn, hổ khẩu của Lục Tiệm phát nóng, định thần nhìn kỹ, kẻ đến chính là Tân Ngũ Lang, bất giác quát lớn một tiếng, lại rung cây trúc trong tay, trường đao của Tân Ngũ Lang lập tức bị chấn bay, nhưng chỉ ngừng một lát này, Tân Ngũ Lang đã đỡ Mao Hải Phong dậy, hai người nâng đỡ lẫn nhau, đồng loạy nhảy lùi lại, tránh khỏi một quét của Lục Tiệm. Lục Tiệm than thầm đáng tiếc, thấy Thích Kế Quang kia đứng cạnh bên trái, liền nói: "Thích tướng quân, đi thôi". Thích Kế Quang nhìn thi thể của quan quân rơi vãi khắp mặt đất, thở dài một tiếng, múa trường kiếm đi vội về phía Lục Tiệm, vài tên Oa khấu muốn ngăn cản, nhưng bị trường trúc của Lục Tiệm đông rung một cái, tây giũ một cái, chấn bay bọn trúng như diều gió, bay bắn lên cao, ngã xuống phía đằng xa, khi rơi xuống đất, không chết thì thương. Hai người Lục Thích hợp lại một chỗ, vừa đánh vừa rút. Đám Oa khấu không dám lại gần, tới tấp kéo cung tên, nhét hỏa dược vào súng Điểu, nhưng cây trúc kia cành lá rậm rạm, được Lục Tiệm rung kình thi triển, trong sát na, giống như một tấm lá chắn lớn dầy đặc không lọt gió, cho dù tên hay đạn chì cũng bị đánh bật ra.
Lục Tiệm lùi vào trong rừng trúc, thấy ngựa buộc trên cây, liền nói: "Thích tướng quân, ngài cưỡi ngựa đi trước, ta ở lại đoạn hậu". Thích Kế Quang cười nói: "Tiểu huynh đệ, ngươi coi thường ta rồi. Thích mỗ tuy là tướng bại trận, nhưng cũng không phải là kẻ hèn nhát chạy trốn một mình. Mọi người đi thì cùng đi, chết thì cùng chết". Lục Tiệm nghe vậy hào khí lập tức dâng trào, kêu: "Được, tướng quân đi dắt ngựa, ta ở phía sau, xem bọn chúng có cách gì". Thích Kế Quang cười cười, dắt ngựa ở phía trước, Lục Tiệm kéo ngược trường trúc, bước nhanh theo sau. Đám Oa khấu muốn tiến không được, muốn lùi thì lại cảm thấy bất cam, chỉ biết đứng đằng xa chửi bới, Hai người Lục, Thích thấy vậy khoan khoái, nhìn nhau cười lớn. Thích Kế Quang cao giọng nói: "Mao Hải Phong, tạm thời nhớ lấy trận hôm nay, sau này gặp lại, Thích mỗ nhất định báo đáp". Mao Hải Phong toàn thân còn chưa hết tê dại, được thuộc hạ dìu đỡ, nghe thấy lời này, hổ thẹn căm phẫn không kìm được, lại bị một cây trúc của Lục Tiệm làm khó, nộ khí đầy bụng, nhưng lại không có cách gì. Hai người đi được hai ba chục dặm, đến gần thành trì, đám Oa khấu mới không dám đuổi theo, tức giận thu binh rời đi. Thích Kế Quang thấy kẻ địch rút khỏi, thân hình nhè nhẹ lắc lư, chầm chậm dịch bước, ngồi lên một tảng đá lớn, thần sắc mệt mỏi vô cùng. Lục Tiệm thấy vết thương trên vai y sâu vô cùng, một nửa áo bào đều bị máu tươi nhuộm ướt, lập tức vứt cây trúc xuống, bắt mạch cho y, truyền kiếp lực ra, cảm thấykinh mach của Thích Kế Quang hư nhược tắc nghẽn, rồi đem kiếp lực chuyển hóa thành nội lực, truyền vào trong kinh mạch, chỗ nào rỗng thì bù vào, chỗ nào đầy thì tiết ra. Chân khí di chuyển vài vòng như vậy, vết thương của Thích Kế Quang ngừng chảy máy, tinh lực mạnh dần, chỉ là mất máu quá nhiều, sắc diện lộ ra vẻ tái trắng, mỉm cười nói: "Tại hạ Thích Kế Quang, tự Nguyên Kính, hôm nay bại trận, may được các hạ cứu giúp, xin được hỏi tôn danh?". Lục Tiệm buồn bã nói: "Ta tên là Lục Tiệm, tự cái gì thì không có. Việc hôm nay, đều trách ta. Ta chỉ cho rằng Oa khấu xấu xa, quan binh còn xấu xa hơn, biết rõ là Oa khấu mai phục, cũng không muốn quan tâm. Nếu như sớm biết ngươi là một tướng quân tốt như vậy, ta đã ra tay trước, các ngươi cũng không đến nỗi toàn quân chết hết. Thích Kế Quang nhìn y, ngạc nhiên hỏi: Tại sao các hạ nói Oa khấu xấu xa, quan binh còn xấu xa hơn?". Lục Tiệm đem những điều nghe thấy dọc đường kể ra, rồi nói: "Đó gọi là Giặc qua như lược thưa, binh qua như lược bí , lão bách tính sợ Oa khấu, nhưng còn sợ quan binh hơn, thậm chí không ít người đầu nhập tứ đại khấu, quay lại đối đầu với quan binh". Thích Kế Quang đứng dậy đi hai bước, than: "Việc mà ngươi nói, tuy rằng ta đến đây chưa bao lâu, cũng có nghe qua, nhưng không ngờ lại đến mức như vậy. Xem ra, quân ta không chỉ đối đầu với Oa khấu, mà còn kẻ địch của bách tính đông nam, há có cái lý không bại chứ? Đáng hận là, đám Oa khấu này còn được lòng dân hơn quan quân Đại Minh ta, chẳng trách nào có thể bị tiêu diệt rồi lại nổi dậy, rốt cuộc không cách gì dẹp yên. Hai người im lặng một hồi, Lục Tiệm hỏi: "Nghe khẩu âm, Thích tướng quân là người Sơn Đông?". Thích Kế Quang đáp: "Thích mỗ là người Bồng Lai ở Sơn Đông, xin đừng nhắc đến hai chữ tướng quân, Thích mỗ lớn hơn vài tuổi, nếu ngươi không chê bỏ, gọi ta một tiếng đại ca là được". Lục Tiệm cười nói: "Quê của đệ rất gần Sơn Đông, Thích đại ca, huynh người SơnĐông, tại sao lại làm quan đánh trận ở Chiết Giang?". Thích Kế Quang nói: "Oa loạn ở Phúc Kiến, Chiết Giang hung hãn nhất, quan quân địa phương không có sức chống giặc, vì vậy triều đình điều động tinh binh thiên hạ đến tăng cường ở Phúc Kiến, Chiết Giang. Nghe nói quan binh trong vùng Chiết Giang, gần thì đến từ Sơn Đông, Giang Tây, xa thì đến từ Lưỡng Việt, Quý Châu, ta vốn ở Sơn Đông phòng Oa, hai năm trước mới đến đây, còn như cầm binh đánh trận, cũng là chuyện trước đây chưa lâu...". Nói đến đây, y dường như hiểu ra điều gì đó, trau mày, bỗng nhiên chìm vào suy nghĩ. Lục Tiệm thấy y bỗng nhiên im lặng không nói, ngạc nhiên hỏi: "Thích đại ca, huynh nghĩ gì vậy?". Thích Kế Quang thở dài một tiếng, than: "Ta bỗng nhiên nghĩ tới một việc quan trọng. Lục huynh đệ, ngươi võ công cao cường, lực địch nghìn người. Nếu như có hai đạo Oa khấu, một đạo xâm phạm xóm làng của ngươi, một đạo xâm phạm xóm làng bên cạnh, ngươi cứu xóm làng mình trước, hay là cứu xóm làng bên cạnh trước?". Lục Tiệm buột miệng nói: "Tự nhiên là cứu xóm làng của mình trước". Thích Kế Quang hỏi: "Vì sao?". Lục Tiệm đáp: "Bởi vì ở xóm làng có gia gia đệ, còn có nhiều bà con quen biết, nếu như thấy chết mà không cứu, há không phải không có thiên lý sao?". Thích Kế Quang gật đầu nói: Nói rất đúng, đó chính là người không vì mình, trờ tru đất diệt , tuy rằng có chút khó nghe, nhưng cũng là cái lý thường tình. Người có thể xem xét kỹ càng đại thế của thiên hạ, suy cho cùng cũng không nhiều; bách tính quê hương đối diện với cái họa diệt vong, tự cứu còn không có thời gian rảnh, há có thể quan tâm đến người khác? Quan binh vùng Chiết Giang quân kỷ bại hoại, sai là ở chỗ quan binh đa phần là đến từ nơi khác, cha mẹ con cái, bạn bèn thân thiết của những người này đều ở quê hương, tự nhiên là cảm thấy bách tính Phúc Kiến, Chiết Giang không liên can gì dến mình, khi đánh trận, đều tham sống sợ chết. Thêm nữa là tướng lĩnh ước thức bất lực, còn có kẻ vô liêm sỉ, ỷ ở nơi đất khách xa xôi, không có người đốc thúc, làm những việc còn ác độc hơn Oa khấu gấp mười lần".
Lục Tiệm bỗng nhiên hiểu rõ, buột miệng nói: "Đúng vậy, đệ trên đường đi, thấy quan binh tác ác, nói chuyện đều không phải là tiếng địa phương Ngô Việt, giọng nam điệu bắc, vùng nào cũng có". Thích Kế Quang gật đầu nói: "Cho nên nói, nếu như dùng binh, không bằng dùng bà con địa phương, bọn họ tuy không hiểu quốc gia đại nghĩa gì, nhưng nếu như canh giữ quê hương, an nguy của cha me vợ con gần ngay trước mắt, Lục huynh đệ, đổi lại là ngươi, ngươi sẽ làm gì?". Lục Tiệm khảng khái nói: "Đệ tất nhiên thề chết khổ chiến, tuyệt đối không lùi lại nửa bước". "Nói rất hay", Thích Kế Quang vỗ tay nói: "Đó gọi là đánh hổ phải cần huynh đệ ruột thịt, ra trận phải cần cha con . Muốn dẹp yên Oa khấu, việc đầu tiên là giải tán binh mã bốn phương, luyện một đội quân con em vùng Chiết Giang, nếu như có một đội tinh binh như vậy trong tay, đám Oa khấu không đáng để nói. Lục Tiệm nghe vậy sóng lòng trào dâng, nhất thời cũng không biết nói gì mới tốt. Chợt thấy Thích Kế Quang vì quá kích động, động đến vến thương, lộ ra vẻ đau đớn. Lục Tiệm cuống quít bước lên, truyền nội lực vào. Thích Kế Quang đau đớn giảm đi, mỉm cười nói: "Lục huynh đệ, lại phiền ngươi rồi".
Chương 12 - Lục triều kim phấn - Thiên 1
Thích Kế Quang cao giọng nói:
- Chính là Thích mỗ, trước mặt có phải là Lô du kích không ?
Đội quan binh tiến lại gần, một viên quan râu chữ bát nhìn hai người, ngạc nhiên nói:
- Tham tướng đại nhân sao lại chán nản như vậy? Những người khác đâu ?
Thích Kế Quang buồn rầu thuật lại việc toàn quân bị tiêu diệt.
Lô du kích thở dài nói:
- Thích tham tướng, là ngài không phải rồi. Đã biết Hải phong tứ đại khấu là bọn đạo tặc vô cùng hung hãn thì không nên truy kích bọn chúng. Nếu đại nhân ở lại thành, mọi việc đã không xấu như vậy rồi.
Thích Kế Quang nói:
- Nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một giờ. Phá tặc diệt khấu chính là chức trách của quan sở tại. Nếu ta chỉ cố thủ ở thành không làm gì thì chúng cũng sẽ đến cướp phá nơi khác thôi. Huống chi nếu chúng ta để bọn tặc khấu này tự tung tự tác thì không biết sẽ có bao nhiêu bách tính phải gia phá nhân vong, thê tử ly tán.
Lô du kích cười lạnh một tiếng nói:
- Tốt lắm, ta chỉ biết là chức trách của tham tướng đại nhân là phòng thủ đô thị. Hiện giờ toàn quân tan rã, nếu Hồ đại nhân hỏi tới, để xem ngài trả lời thế nào.
Thích Kế Quang mặc nhiên im lặng. Lô du kích tỏ vẻ hạnh tai lạc họa (cười trên sự đau khổ của người khác), đem đại đội nhân mã bỏ đi. Lục Tiệm không kìm được tức giận nói:
- Hắn xuất thành làm gì vậy ? Oa khấu đang tàn hại bách tính, nếu hắn gặp phải sẽ bị chúng cắt đầu lập công.
- Không phải đâu – Thích Kế Quang nói – Kẻ này đảm lược cực nhỏ, tuy không nhũng nhiễu lương dân nhưng lúc giao chiến luôn lùi lại phía sau, vì vậy có ngoại hiệu là “toản địa lão thử” (con chuột chũi). Nếu hắn gặp Oa khấu tất sẽ lên ngựa chạy ngay.
- Hắn nói thật chứ ? – Lục Tiệm nghe vậy không nhịn được cười, nhưng rồi lại lo lắng nói – Nghe hắn nói đại ca lần này bại trận, tình hình có vẻ bất diệu.
Thích Kế Quang cười cười không nói, đi vào trong quân doanh thông báo tình hình với giám quân, đồng thời để quân trung đại phu chữa trị vết thương.
Hai người ăn xong liền ngồi uống trà trong trướng. Thích Kế Quang trầm mặc cầm chén, lòng đầy tâm sự. Chưa được bao lâu, ngoài trướng vang lên tiếng bước chân vội vã, Lục Tiệm có dự cảm bất thường, lập tức đứng bật dậy, đột nhiên thấy cửa trướng mở ra, một đám quan sai dài bước tiến vào, kẻ đi đầu cao giọng nói:
- Thái Châu tham tướng Thích Kế Quang có ở đây không ?
Thích Kế Quang đã chuẩn bị sẵn, liền uống nốt chén trà rồi từ từ đứng dậy nói:
- Chính là ta.
Viên quan sai cao giọng nói:
- Ta đến bắt ngươi.
Hai bên hắn vang lên tiếng khóa tay, thủ hạ bước lên trước để bắt người.
Lục Tiệm đại nộ, tiến lên một bước, song thủ phân ra chụp trúng hai cái khóa tay, hai tên quan sai cầm khóa gặp một luồng đại lực, chân đứng không vững, không tự chủ được lùi lại hai bước.
Tên quan sai đứng đầu kêu lên rầm rĩ, không ngờ Lục Tiệm thân hình nhất động, hữu thủ chụp vào cổ hắn quát lớn:
- Tại sao ngươi đến bắt người ?
Thích Kế Quang không chờ viên quan sai trả lời, vội nói:
- Lục Tiệm, ngươi không cần phải làm vậy. Ta bại trận nhục quốc, lý đương nhiên phải tiếp thụ quân pháp.
Lục Tiệm run lên một cái, buông tên quan sai đó ra nói:
- Nếu làm như đại ca mà bị phạt thì sau này ai còn dám cầm binh xuất trận nữa.
- Huynh đệ, ngươi có điều còn không biết – Thích Kế Quang thở dài nói – tướng quân dụng binh tất phải cầu thắng. Một khi thất bại, lại làm mất đi tính mệnh của bao người, nếu như không chịu hình phạt thì làm sao đối diện với những binh sĩ đã tử trận.
Lục Tiệm không biết nói thế nào, hữu thủ từ từ buông ra.
Tên quan sai đó mặt mày thất sắc, vừa sợ vừa giận gào lên:
- Tốt lắm, Thích Kế Quang ngươi dám công nhiên chống lại à ?
- Quan gia quá lời – Thích Kế Quang lắc đầu nói – nghĩa đệ của ta không biết quy củ quan trường, mong ngài rộng lượng.
Tên quan sai đó cười lạnh nói:
- Muốn bỏ qua cũng được
Nói xong đưa tay ra quát:
- Đưa đây.
Thích Kế Quang run lên một cái nói:
- Cái gì ?
Tên quan sai liếc y một cái, lạnh nhạt nói:
- Óc ngươi là bã đậu chắc, ta nói thế chưa đủ hay sao ?
Thích Kế Quang hoảng hốt nói:
- Ngươi muốn bao nhiêu ?
Tên quan sai cười nói:
- Ngươi là tham tướng, chức vị không nhỏ, ngoài lương bổng còn ăn chặn của lão bách tính, trong túi không có một ngàn lượng thì cũng tám trăm. Ta không lấy nhiều, chỉ cần hai trăm lượng.
Thích Kế Quang nhín mày, chuyển mình vào trong lấy ra một cái hòm gỗ, mở hòm lấy ra một ít bạc vụn, không kìm được cười khổ nói:
- Thích mỗ trong tay chỉ có hai lượng bạc, nếu quan gia cần xin thu lấy toàn bộ.
Tên quan sai biến sắc, lật tung hòm khiến bạc lẻ tung tóe khắp mặt đất, lạc giọng nói:
- Thích Kế Quang, ngươi quả là to gan, tang sư nhục quốc, công nhiên chống đối không khai, lại còn hối lộ quan sai, tội tăng gấp hai lần. Đợi đến Nam Kinh xem Hồ đại nhân xử lý ngươi thế nào …
Thích Kế Quang mày rậm nhíu lại, trong mắt hiện sắc giận. Lục Tiệm tiến lên một bước, cầm lấy cái túi trên bàn cười lạnh nói:
- Ngươi muốn ngân lượng sao? Có đây.
Tên quan sai đó nhận túi, cảm thấy thập phần trầm trọng, mở ra chỉ thấy trắng xóa quả là quan ngân, không kìm được cười sung sướng, liền ra lệnh cho thuộc hạ, bản thân cũng cúi xuống nhặt hết bạc rơi trên mặt đất cho vào tay áo, cười ha hả nói:
- Nói hay lắm, hay lắm, có ngân lượng nói gì cũng hay.
Rồi chuyển thân gọi gia nhân nói:
- Khóa tay tham tướng đại nhân lại, nhưng đừng khóa chặt quá. Lỏng một chút là được.
Chúng gia nhân ứng tiếng khóa tay Thích Kế Quang đưa ra ngoài trướng, chỉ thẩy trước trướng tụ tập toàn tướng sĩ đứng hai bên xem nhiệt náo, thấy Thích Kế Quang đi ra thì chỉ chỉ trỏ trỏ, hi hi ha ha.
Lục Tiệm thấy quan binh như vậy, trong lòng nổi lên một nỗi bi phẫn không tên, nghiến chặt răng đi theo sau đám quan sai.
Sau khi rời khỏi quân doanh, tên quan sai thấy Lục Tiệm vẫn đi theo phía sau liền nổi giận nói:
- Ngươi muốn đi đâu ?
Lục Tiệm nói:
- Ta đi Nam Kinh.
Tên đầu mục nghi hoặc nói:
- Nói càn. Bọn ta đi Nam Kinh, sao ngươi cũng lại đi Nam Kinh.
Lục Tiệm cười lạnh nói:
- Đường lớn mỗi người một bên, ta đi có việc của ta, ngươi ngăn cản được sao ?
Tên đầu mục phùng râu nói:
- Ngươi mà muốn cứu y, thật đúng là tự đi vào tử lộ.
Lục Tiệm nói:
- Nếu ta muốn cứu người, bằng vào đám phế vật các ngươi liệu có ngăn cản được không ?
Tên đầu mục đại nộ, định cất lời thóa mạ, lại nghĩ đến thân thủ của Lục Tiệm, lời nói chưa ra đến miệng đánh nuột vào, nhìn Lục Tiệm tỏ vẻ khiếp sợ. Đột nhiên nghe Thích Kế Quang thở dài nói:
- Huynh đệ, ngươi nói muốn hồi hương mà, cần gì phải đi theo ta chứ.
Lục Tiệm lắc đầu nói:
- Ta không hồi hương nữa. Số tiền 120 lượng vừa rồi chính là tiền để hồi hương. Hiện giờ đã không thể quay về, ta cũng đi cùng đến Nam Kinh, dọc đường có thể nhờ quan gia kiếm cơm ăn.
Tên quan sai đó miệng méo xệch, chỉ hận không thể chửi Lục Tiệm mấy tiếng, thực ra cũng không có khả năng làm chuyện đó, duy trong tâm bực bội không thoát được.
Thích Kế Quang biết Lục Tiệm nói một hồi như vậy, thực ra là vì lo lắng thương thế của mình chưa lành, sợ trên đường quan sai ám hại nên cố ý đi cùng để bảo vệ, bất giá trong lòng cảm đổng, thở dài một tiếng.
Chúng nhân trong khi thượng lộ, cứ có cá thịt gà vịt là Lục Tiệm đoạt lấy cho Thích Kế Quang ăn trước, uống nước cũng uống thử trước rồi mới đưa cho Thích Kế Quang uống, lúc ngủ cũng ở bên phòng bị, thấy gì tốt đều bằng vào võ công để cường đoạt quá lai cho Thích Kế Quang dùng.
Chúng quan sai tức giận thóa mạ, Lục Tiệm cười nói:
- Ta đã đưa cho sai gia 120 lượng bạc đó thôi. Quan sai tiền nhiều khí lớn, không ngại tiếp tục mua rau ngon thuê phòng tốt, đi cùng với tù phạm khiến ta mở rộng tầm mắt.
Y không phải là tù phạm, võ công lại cao, huống hồ chúng quan sai thực đã lấy tiền của y trước đó, bọn chúng ít người nên dù phẫn nộ cũng không dám làm gì bất lợi.
Thích Kế Quang nhíu mày nói:
- Huynh đệ, ngươi có đến Nam Kinh cũng vô bổ, hà tất vì ca ca mà phải chịu tội.
Lục Tiệm nói:
- Đại ca và ta lúc kết bái chẳng phải đã nói đồng cam khổ, cộng hoạn nạn, chút gian khổ trên đường này có đáng gì. Khi đến Nam Kinh không biết đại nhân đối với đại ca công bằng hay bất công. Nếu là bất công ta sẽ nhập lao cướp đại ca ra, chúng ta ra giang hồ tiêu diêu khoái hoạt.
Chương 12 - Lục triều kim phấn - Thiên 2
Thích Kế Quang nghiêm mặt nói:
- Vạn lần không thể, Thích gia của ta từ khi khai quốc đến nay là một trong sáu đại tướng môn, nhiều đời chịu quốc ân, sống là minh thần chết là minh quỷ, hơn nữa đích thực đã ra quân bại trận, có bị Hồ đại nhân chém đầu cũng xứng đáng. Việc vượt ngục đào tẩu không được nhắc đến nữa, nếu không hai người chúng ta sẽ ân đoạn nghĩa tuyệt, vi huynh nhất định sẽ không nhận nghĩa đệ nhà ngươi nữa.
Lục Tiệm nghe y quyết liệt như vậy bất giác ách khẩu, trong lòng biết rõ kiếp nhân kiếp ngục là như thế nào, nhưng lại không thể nói gì, trong lúc khẩn cấp lại nghĩ nếu Cốc Chẩn có ở đây tất nhiên sẽ nghĩ ra được biện pháp nhất cử lưỡng đắc, chỉ là không biết giờ này hắn đã ở đâu rồi, nhớ tới ngày hôm đó chỉ vì lời nói của Doanh Vạn Thành, chưa minh bạch sự tình đã bỏ Cốc Chẩn mà đi, giờ đây ngoài hối hận còn thực sự rất đau lòng.
Đoàn người cứ thế đi, không biết đã qua bao ngày nhưng cũng gần tới được Nam Kinh. Ngày hôm đó đột nhiên thấy phía trước xuất hiện một tòa lương đình, bên cạnh đình là một quán trà đón khách đường xa. Chúng nhân đúng lúc đang khát nước thì lại gặp quán trà, tức thì nhốn nháo reo lên, tiến vội về phía đình, gọi lấy trà uống.
Thích Kế Quang tay chân bị trói, hành động không được tự nhiên, Lục Tiệm liền cầm hai ấm trà tới, một ấm đưa cho y, một ấm tự mình uống. Trong lúc uống trà đột nhiên nghe có tiếng xe ngựa, nhìn ra thì thấy một cỗ xe song mã đang tiến tới, trên xe là một văn sĩ áo xanh, mặt vuông dài, thiên đình nở rộng, môi đỏ râu đen, có vẻ như người chuyên nghề vẽ.
Lục Tiệm trong tâm chợt động, cảm giác như đã gặp người này ở đâu đó, nghĩ lại quả nhiên nhớ ra được, chính là nam nhân đứng bên phải chiếc ghế trong họa tượng tổ sư, bất quá người trong họa tượng trên mặt có vết sẹo, thần thái phi thường, anh hùng hơn văn sĩ này nhiều. Dong xe là một nam tử vấn khăn, áo tơi giày cỏ, ngoài ra còn có một lão già đi bộ theo. Lão già này đầu to cổ nhỏ, trán đầy nếp nhăn, mình mặc nho sam nhưng phía trên vắt chéo, phía dưới cắt ngắn như đoản y, trông chẳng ra chủ hay tớ, khó mà hiểu được.
Lục Tiệm nhìn thấy hai người này bỗng có cảm giác bất an, hận không thể chạy ngay khỏi nơi này, trong lúc đang cố gắng đè nén cảm giác quái dị đó thì ba người kia đã tiến đến gần. Thanh y văn sĩ tuy tuấn tú nhưng niên kỷ không nhỏ, khóe mắt đã có nhiều nếp nhăn, ngồi trên xe, chỗ đáng lẽ là hai chân y thì chỉ thấy trường sam bay bay theo nhịp xe. Lục Tiệm thấy vậy, trong lúc đang cảm khái “người này là một thư sinh tốt, không ngờ lại là một phế nhân” chợt nghe tiếng động, nhìn ra thì thấy lão già đầu to đó hai môi máy động, đang nói gì đó, chỉ có người mặc áo tơi là thủy chung giấu mặt sau mũ tre, không nhìn được diện mục.
Thanh y văn sĩ đến giữa đình, thở phào nhẹ nhõm nói:
- Vị Quy, lấy cho ta một chén trà.
Người áo tơi liền từ sau xe lấy ra một chiếc chén nhỏ, bên ngoài vừa mỏng vừa trắng, sáng như ngọc, bên trong chén màu xanh phỉ thúy như nước chè, màu trắng thì yên tịnh, màu xanh thì thanh tân, vừa nhìn đã khiến cảm giác nóng bức tan biến mất. Văn sĩ tiếp lấy trà, vui vẻ cười một tiếng nói:
- Nếu có Bích Loa xuân mới hái thì tốt quá. Hiện giờ qua mùa lạnh đã lâu, dư hương mất đi, tư vị không được như cũ.
Lão già đầu to đột nhiên nói:
- Bích Loa xuân được xưng là Động Đình sơn trà. Trong Trà kinh của Lục Vũ đời Đường nói về tám loại trà đã viết: “Tô châu Trường châu sinh Động Đình sơn”. Cư Cận nhân Tùy Kiến Lục cũng viết “Động Đình sơn có trà, nhìn giống như giới trà nhưng nhỏ hơn, vị đậm, có hương thơm, tục gọi là “hách sát nhân”, trồng trên núi Bích Loa nên gọi là Bích Loa xuân …
Thanh y văn sĩ không chờ y nói xong đã quát lên:
- Nói lăng nhăng. Ta bất quá tùy khẩu nói về trà vị chứ đâu có hỏi về lai lịch trà.
Lão già đầu to nói:
- Đại quan trà luận của Tống Huy Tông có nói “Trà thì vị là quan trọng nhất. Mùi thơm có thể không đậm, chỉ cần có vị là đủ toàn diện. Chỉ có sản phẩm của Bắc Uyển là … "
Văn sĩ đó mặt hiện thần sắc khó chịu, lạnh nhạt nói:
- Ta nói về trà vị không phải nói về vị (uống) mà là về hương vị.
Lão già đầu to nói:
- Cũng theo Đại quan trà luận: "Trà có mùi hương riêng, không phải long xạ thì không so bì được. Phải chưng cất nghìn lần, đồng thời phải có dụng cụ uống đẹp đi cùng.” Chu Quyền của bản triều cũng có quyển Trà phổ, viết về “Huân hương trà pháp”: "trăm hoa có hương đều có thể dùng. Đang lúc hoa nở rộ thì dùng giấy bao bọc, trên đặt trà dưới đặt hoa, để vào chỗ kín gió, hoa héo thì thay hoa khác. Như vậy khi uống trà tự nhiên có hương khí khả ái …"
Văn sĩ biết rằng bất kể y phát hạ thế nào cũng không ra khỏi được đống trà kinh ngàn năm của Trung Hoa, bất giác cười khổ nói:
- Mạc Ất, ngươi im đi. Nếu ta không hỏi thì cấm không được nói một tiếng.
Lão già đầu to tức giận im tiếng, nam nhân áo tơi đột nhiên đặt bình trà xuống, quay người bỏ đi, chỉ một bước đã ra ngoài hai trượng, một bước nữa lại vượt thêm bốn trượng, lúc đầu còn có dáng đi bộ, nháy mắt đã chuyển sang tư thế chạy, nhân ảnh hóa thành một điểm lưu quang chớp mắt đã biến mất.
Người trong quán trà thấy thế sợ hãi, tưởng như đang nằm mộng. Lục Tiệm thất kinh, trong lòng tự nghĩ dù trước đây có Bắc Lạp Sư Môn hỗ trợ cũng không thể nào có được cước lực như y. Người này mới động thân đã như vậy, đến khi viễn phi bôn bào thì thật khó có thể hình dung, chắc chắn nhanh không kém gì chim bay trên trời. Thanh y văn sĩ bất giác lắc đầu thở dài, liếc Thích Kế Quang một cái, đột nhiên cười nói:
- Tướng quân trông rất uy vũ, không hiểu sao lại bị khóa lại như vậy, là phạm quân pháp hay tham ô …
Mạc Ất không nhịn được, chen vào nói:
- Về quân pháp, trong “Chu lễ" của Tảo Kiến Vu, quyển thứ tư "Ti mã" , phần “Ti mã pháp” viết …
Thanh y văn sĩ nhíu mày nói:
- Ai hỏi đến ngươi ?
Mạc Ất lúng túng, hổ thẹn cúi đầu. Thích Kế Quang cười cười nói:
- Ta đâu dám tham ô. Thích mỗ truy khấu bất thành, bại trong tay Oa khấu, coi như phạm quân pháp.
Thanh y văn sĩ cười nói:
- Binh pháp có nói, cùng khấu vật bách (giặc cùng đường chớ đuổi) …
Mạc Ất vội nói tiếp:
- Câu này là từ Tôn Tử binh pháp, phần Quân tranh thiên. Tôn Tử viết: phàm là phép dụng binh …
Nói đang say sưa, đột nhiên nghe thanh y văn sĩ ho khan to một tiếng, thất kinh vội khép miệng lại.
Thích Kế Quang xua tay nói:
- Thích mỗ không phải gặp cùng khấu mà là bọn tặc khấu tinh nhuệ. Trong số tướng lĩnh không có ai chịu xuất binh nghênh chiến, chỉ cố gắng cố thủ kiên thành, ngồi xem giặc hoành hành. Thích mỗ tuổi ít khí thịnh, xuất sư truy kích, không ngờ bị trúng mai phục, thủ hạ binh tốt yếu nhược, bị Oa tặc phá tan, thật là xấu hổ.
Thanh y văn sĩ hơi trầm mặc, thở dài nói:
- Có câu “duệ tốt vật công, nhị binh vật thực” (gặp quân tinh nhuệ thì đừng tấn công, gặp quân đánh nhử thì đừng đuổi theo), ông phạm phải hai điều đại kị của binh gia, bảo sao không bại.
Thích Kế Quang bình sinh thích võ, ít nói đến binh pháp, lần này ra ngoài lại gặp một thư sinh lắm chuyện, buông lời nghị luận binh pháp, bất giác cười dài nói:
- Tiên sinh không lời nào không nói tới Tôn Tử binh pháp, e rằng không biết Tôn Tử binh pháp tuy có mười ba chương, từ ngữ tuy nhiều nhưng chân chính đắc dụng bất quá chỉ có một câu.
Văn sĩ nén không được, cười phá lên nói:
- Như tướng quân nói thì trừ một câu đó, còn lại binh pháp cái thế của Tôn Vũ toàn là lời thừa à ?
- Thích mỗ sao dám nhục mạ tiên hiền – Thích Kế Quang thở dài nói – bất quá Tôn Tử binh pháp viết ra không phải cho chính mình mà dành cho đám vương hầu tướng quân tầm thường. Thực ra ông ta thiên phận dụng binh cực cao, chỉ là con ông ta sợ rằng người khác đọc không hiểu, nên lúc viết lại ngôn từ đã cố gắng viết chi tiết tinh tường. Lúc hành quân bố trận phải dựa vào từng cá nhân mà tính toán mới có thể không gặp thất bại, nếu như câu nệ từng chữ thì đâu phải thường thắng bất bại chi pháp. Tự cổ thường thắng bất bại chi tướng đều là những người nghĩ những điều người khác không nghĩ tới, làm những điều người khác không làm, có như vậy mới đánh là thắng, thắng không nhờ may mắn. Kẻ câu nệ binh pháp sẽ chết vì ngôn từ mà thôi.
Văn sĩ cười nói:
- Nói hay lắm, nhưng chưa biết câu duy nhất trong binh pháp của ngài là gì ?
Thích Kế Quang cười nhẹ, cao giọng nói:
- “Năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vi chi thần” (dựa vào biến hóa của quân địch để thủ thắng mới là thần).
Văn sĩ chưa kịp đáp lại, Mạc Ất đã tiếp lời:
- Đó là câu thứ hai trong đệ lục thiên “Hư thật thiên” của Tôn Tử binh pháp.
- Trí nhớ các hạ tốt thật – Thích Kế Quang thở dài nói – khi lâm trận quyết chiến, sinh tử chỉ cách nhau một đường, thống lĩnh quân sĩ không có nhiều thời gian để nghĩ về binh pháp, chỉ có cách dựa vào hư thực để tùy nghi ứng biến. Thích mỗ đọc binh thư không biết bao nhiêu, nhưng chân chính nhớ kỹ chỉ có câu đó mà thôi.
- “Năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vi chi thần”, câu này hay lắm – văn sĩ cười to nói – nếu ngài không phải là bại quân chi tướng thì lời này thật động lòng người.
Thích Kế Quang không kìm được cười khổ. Văn sĩ đó cười xong hỏi:
- Thế nào, ngài không hài lòng sao ? Nghe ngài nói rõ ràng am hiểu binh pháp, vì sao không liệu được mai phục ? đã biết không địch lại được kẻ địch sao còn truy đuổi để tự chuốc nhục vào người ? Thiên 3
Hiệu đính: shrek_coi
Thích Kế Quang lắc đầu nói:
- Sở luận của túc hạ ta cũng biết, bất quá đạo của binh gia, truy hay không truy còn vì quốc gia đại nghĩa. Oa khấu hoành hành vô địch ở phía đông nam, quan binh Đại Minh chúng ta tham sinh úy tử, nghe phong thanh tặc phỉ đã bỏ chạy. Hiện giờ chư tướng thúc thủ, vạn dân oán khổ, nếu Thích mỗ chỉ tham giữ tính mệnh, thủ thành túng địch, thả cho tặc khấu hoành hành thì sao bằng loài chó lợn. Thích mỗ tuy không phải là thư sinh nhưng cũng biết đạo thánh hiền đã nói: “tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân ngô vãng hĩ” (tự xét lại thấy mình làm đúng thì dù phải đối đầu với nghìn vạn người cũng coi như không). Nghìn vạn người còn không sợ, hà cớ gì phải sợ bọn Oa khấu con con.
Văn sĩ nghe xong, nhíu mày trầm ngâm không nói một lúc lâu. Lúc này chúng quan sai nghỉ ngơi đã xong liền gọi nhau lên đường. Văn sĩ đó đột nhiên lấy trong tay áo ra một nén bạc, cười nói:
- Chư vị quan gia, xin cứ nghỉ ngơi tiếp, tệ phó thủ đã mang trà chạy đi, khi y trở về tại hạ muốn được cùng các vị tướng quân đối ẩm một chung.
Chúng quan sai nhìn thấy ngân lượng không thể chối từ. Thích Kế Quang lại nói:
- Không dám khiến túc hạ phải phí tổn. Đường đến Nam Kinh không còn xa, Thích mỗ cũng muốn đến nhanh một chút, dù sống dù chết cũng một lần cho xong.
Văn sĩ cười cười, chỉ tay về phía đằng xa nói:
- Nhìn kìa, chẳng phải hắn đã về đấy thôi.
Chúng nhân nhìn ra, thấy phía cuối đường một điểm ảnh như gió tiến lại, trong khoảng khắc đã nhìn rõ hình trạng, đúng là nam tử mặc áo tơi lúc nãy, trong tay cầm một cái bình bôn đáo đến trước lương đình đột nhiên dừng chân lại. Y đang bôn tẩu như cuồng nhưng nói dừng là dừng được, thực khiến Lục Tiệm cảm thấy hãi dị. Văn sĩ cười nói:
- Châm hai chén trà.
Nam tử áo tơi cẩn thận đặt bình trà xuống, trong tay xuất hiện hai cái chén thận trọng rót trà.
Thích Kế Quang nhận chén trà, thấy nước trà một màu bích lục, nước vẫn sôi chưa dừng, phía trên bọt nước đang nổi lên, bất giác ngờ vực nói:
- Trà này lấy tại vùng phụ cận phải không ?
Nam tử áo tơi không nói một lời, chỉ có văn sĩ cười nói:
- Trà này lấy từ trong thành ra.
- Nực cười – một tên quan sai cười nói – từ Nam Kinh đến đây ít nhất mười dặm, đi về phải mất hai mươi dặm, dù có công phu từ thành lấy được trà quay về đây thì trà sao có thể còn đang sôi được.
Thích Kế Quang lại cười nói:
- Thế gian thiếu gì kỳ nhân, dù có làm được như vậy cũng đâu có gì kỳ quái.
Nói xong nhẹ nhàng hớp một ngụm trà, từ từ thưởng thức rồi tán thưởng:
- Trà ngon, có điều Thích mỗ thô lỗ, không hiểu trà đạo, không biết xuất xứ của nó.
Văn sĩ cười nói:
- Trà này lá nhỏ như lưỡi chim sẻ, chính là đặc sản Bích Loa phong của Động Đình, nước trà có hương vị, ngoài nước từ suối Thạch Thanh của Vô Tích Huệ sơn không đâu có được. Ta không thích rượu, chỉ thích trà, xin lấy chén trà này để khích lệ tướng quân, chúc tướng quân sớm có ngày thoát xuất tù lung, lời nói hôm nay xin vạn lần đừng quên.
Thích Kế Quang cung tay cười nói:
- Đa tạ lời chúc, xin hỏi đại danh các hạ ?
Văn sĩ lắc đầu cười nói:
- Ta chỉ là một phế nhân, ngài cứ gọi là thư sinh, tiện danh không tiện nói ra.
Thích Kế Quang khí vũ hiên ngang, văn sĩ không muốn thông danh y cũng không miễn cưỡng, cười một tiếng thoải mái rồi chuyển mình quay đi. Lục Tiệm đi theo phía sau, được hai bước đột nhiên sau lưng ớn lạnh, vội quay lại nhìn, thấy hai mắt nam tử áo tơi từ dưới chiếc mũ tre phát ra một đạo lệ mang như có đao phong rạch tới.
Mắt Lục Tiệm cảm thấy đau nhói, vội vàng chuyển nhãn, lại thấy Mạc Ất miệng đang lẩm nhẩm, hai mắt xuất hiện thần thái tự kỷ. Lục Tiệm trong tâm chấn động, không kìm được lùi nhanh về phía sau hai bước, vội vàng đứng chắn phía sau Thích Kế Quang. Không ngờ hàn khí đó thủy chung bất tán, đến khi họ đi được vài dặm, không còn nhìn thấy nam tử áo tơi và Mạc Ất nữa mới dần tiêu tán.
Thích Kế Quang thấy vậy ngạc nhiên nói:
- Huynh đệ, sắc diện sao lại khó coi như vậy ?
Lục Tiệm nói:
- Đệ cũng không hiểu, chỉ thấy trong lòng bất an.
Thích Kế Quang trong lòng cũng có tâm sự, tiện miệng nói:
- Đã tới Nam Kinh, mọi việc đều do trời quyết định.
Lục Tiệm mặc nhiên không đáp, trước mắt thủy chung vẫn như thấy ánh mắt lạnh lẽo dưới nón tre của nam tử áo tơi, nhăn mặt nghĩ “ hai người đó là ai ? tại sao khi ta thấy họ liền cảm thấy bất an, hận không thể chạy ra ngoài ngàn dặm”
Lục Tiệm đang lúc trong lòng trăm mối thì đã đến gần thành trì. Đoàn người sau khi vào thành liền thấy nhà cửa ngang dọc kín cả mười dặm, chu môn vạn hộ, toàn thành sáng rực. Gió thổi lạnh lẽo, ngày vừa tàn, trăng đang lên, bồi hồi nhìn bóng người qua lại, phảng phất có sự phồn hoa của Giang Nam. Đến tổng
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro