Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Thuốc gây tê tại chỗ

Đặt văn bản tại đây...Thuốc gây tê tại chỗ

(Yduocvn.com) - Lịch sử: trong nhiều thế kỷ, người Peru đã biết được tác dụng dược lý của lá cây erythroxylon coca, một loại cây bụi phát triển nhiều ở vùng núi Andes. Nhai hoặc ngậm loại lá này tăng cường cảm giác chịu đựng.

Thân cây tần bì tiết ra một loại alkaloid hấp thu qua màng nhầy. Ngày nay loại alkaloid này được nhiều người biết đến vì nó là cocain. Alkaloid cocain tinh khiết được phân lập năm 1880, và các đặc tính dược lực học đã được nghiên cứu thêm. Năm 1884, cocain được sử dụng trên lâm sàng là thuốc gây tê tại chỗ trong nhãn khoa, nha khoa, và phẫu thuật. Năm 1905, thuốc gây tê tổng hợp đầu tiên có tên là procain bắt đầu được sử dụng và trở thành thuốc đầu tiên của nhóm thuốc này. Có trên 16 hóa chất được dùng làm thuốc gây tê tại chỗ; lidocain, buvivacain, và tetracain là các thuốc phổ biến nhất dùng trên lâm sàng.

Thuốc gây tê tại chỗ dùng để giảm đau, hạ nhiệt, giảm xúc giác và trương lực cơ xương. Mức độ tác dụng tùy theo liều và nồng độ thuốc, mức độ sợ nước và tính toàn vẹn tại nơi tiêm. Thuốc gây tê tại chỗ được dùng trong những bệnh cảnh lâm sàng khác nhau, từ việc dùng tại chỗ ở da hoặc màng nhầy tới ức chế thần kinh tủy sống, thần kinh trung ương, thần kinh ngoại biên. Một số thuốc được dùng trong những trường hợp đặc biệt - các chế phẩm gây tê hậu môn trực tràng hoặc nhãn khoa.

Cơ chế tác dụng: toàn bộ thuốc gây tê tại chỗ ức chế ngược dẫn truyền thần kinh bằng cách làm giảm tính thấm Na ở màng thần kinh. Từ đó làm giảm tốc độ khử cực màng, vì thế làm tăng ngưỡng kích thích điện. Toàn bộ các sợi thần kinh bị ảnh hưởng theo một trình tự có thể đoán được: trung tâm tự động, cảm giác, vận động. Các tác dụng này giảm theo trình tự đảo ngược.

Vì các thuốc cũng có thể ức chế kênh Na trong các mô cơ tim, nên chúng có tác dụng chống loạn nhịp. Lidocaine và procainamide được dùng chống loạn nhịp. Mexiletin và tocainid, thuốc đường uống cùng nhóm với lidocain, có cơ chế tác dụng tương tự lidocain và cũng được dùng chống loạn nhịp. Hiện nay, mexiletin và tocainid không có chế phẩm dùng tại chỗ hoặc tiêm với mục đích gây tê tại chỗ. Cuối cùng, lidocain cũng được dùng là thuốc thay thế trong điều trị tình trạng động kinh. Cơ chế của các tác dụng này vẫn chưa rõ, có lẽ chúng ức chế kênh Na của tế bào thần kinh.

Đặc điểm phân biệt: vì cơ chế tác dụng tương tự nhau, nên thuốc gây tê tại chỗ được lựa chọn dựa trên các đặc điểm dược động học và dược lực học của chúng. Lý tưởng là thuốc có độc tính toàn thân thấp, bắt đầu tác dụng nhanh, thời gian tác dụng đủ dài để hoàn thành thủ thuật theo dự định và không gây kích thích mô.

Thuốc gây tê tại chỗ được xếp loại theo nhóm hóa chất cơ bản của chúng. Điển hình, thuốc tê tại chỗ được phân thành hai nhóm: amit hoặc este. Nhóm este bao gồm procain, benzocain, butamben picrat, chloroprocain, cocain, proparacain và tetracain. Các thuốc này là dẫn xuất của acid paraaminobenzoic và bị thủy phân bởi esteraza huyết tương. Nhóm amit bao gồm lidocain, bupivacain, dibucain, etidocain, mepivacain, prilocain và ropivacain. Các amit là dẫn xuất của anilin bị chuyển hóa chủ yếu ở gan và các sản phẩm chuyển hóa sau đó thải trừ qua thận. Lidocain, mepivacaine và tetracain còn bị thải trừ qua mật. Pyclonine và pramoxin không phù hợp với hai phân nhóm hóa học và có thể dùng cho bệnh nhân dị ứng với amit hoặc este. Bupivacain hay dùng gây tê ngoài màng cứng trong sản khoa vì chúng có đặc điểm ít gây co cơ và tác dụng kéo dài, mặc dù độc tính của nó lớn hơn các thuốc hiệu lực như lidocain hoặc mepivacain.

Việc lựa chọn thuốc tê tại chỗ chủ yếu dựa trên dược động học của thuốc. Vị trí và đường dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến đặc tính của thuốc. Phần lớn thuốc gây tê tại chỗ thâm nhập có tác dụng nhanh khi dùng ngoài đường tiêu hóa, thuốc có tác dụng nhanh nhất là lidocain (0,5 - 1'), sau là prilocain (1-2'). Thời gian bắt đầu tác dụng trung bình đối với các thuốc còn lại là từ 3 - 5'. Ngoại trừ tetracain, thuốc bắt đầu tác dụng sau dùng 15'. Thời gian bắt đầu tác dụng lâu hơn khi dùng ngoài màng cứng, trung bình khoảng 5-15' đối với phần lớn thuốc tê tại chỗ. Các thuốc procain (15-25'), tetracain (20-30'), và bupivacain (10-20') có thời gian bắt đầu tác dụng chậm hơn chút ít khi gây tê ngoài màng cứng so với các thuốc khác.

Thời gian tác dụng của các thuốc gây tê dùng đường tiêm là quan trọng trong việc lựa chọn thuốc cho các thủ thuật khác nhau. Procain và chloroprocain là các thuốc tác dụng ngắn nhất (0,25-0,5h), sau đến lidocain, mepivacain, và prilocain có thời gian tác dụng kéo dài hơn chút ít (0,5-1,5h). Các thuốc tác dụng dài hơn bao gồm tetracain (2-3h), bupivacain (2-4h), etidocain (2-3h), và ropivacain. Ropivacain có thời gian tác dụng 8 - 13h khi dùng ức chế dây thần kinh ngoại biên nhưng tác dụng gây tê ngoài màng cứng chỉ kéo dài 2,5 - 6h. Epinephrin kéo dài tác dụng phần lớn các thuốc gây tê tại chỗ, tuy nhiên không phải luôn có kết quả như vậy. Thuốc tê tại chỗ dùng theo đường tủy sống có xu hướng tác dụng ngắn hơn chút ít so với các đường dùng khác.

Sử dụng tại chỗ, các thuốc gây tê tại chỗ có tác dụng tối đa tại các thời điểm khác nhau khi đưa qua màng nhầy. Benzocain có tác dụng nhanh nhất (1'), tiếp đến là lidocain = cocain

Thuốc gây tê tại chỗ được dùng gây tê ngoài da và màng nhầy. Phần lớn các thuốc được dùng cho cả hai chỉ định, ngoại trừ dibucain, butamben picrat, và pramoxin không được dùng cho màng nhầy. Người ta thấy rằng pramoxin gây kích thích mắt và mũi. Dyclonin và cocain không được dùng trong các bệnh da, có lẽ vì chúng bị hấp thu nhiều qua da.

Tetracain và proparacain là các chế phẩm dùng trong nhãn khoa. Benzocain và pramoxin có nhiều chế phẩm dùng trong các bệnh hậu môn trực tràng. Kẹo hoặc kẹo nhai benzocain được dùng phối hợp với chế độ ăn. Chúng tác động bằng cách làm giảm khả năng cảm nhận độ ngọt do thay đổi vị giác.

Phản ứng có hại: sự hấp thu toàn thân của các thuốc gây tê tại chỗ có thể làm tăng nồng độ thuốc trong huyết thanh, dẫn tới gây độc cho hệ tim mạch hoặc thần kinh trung ương (CNS). Thuốc càng tác dụng kéo dài thì khả năng gây độc càng cao, bao gồm hủy thần kinh với biểu hiện tróc da, hoại tử mô xung quanh. Thuốc tê tại chỗ ngoài đường tiêu hóa thường được dùng phối hợp với epinephrin hoặc thuốc co mạch tại chỗ để làm chậm sự hấp thu toàn thân, kéo dài thời gian tác dụng và tăng cầm máu tại chỗ.

Phản ứng quá mẫn tại chỗ dễ xảy ra hơn với thuốc tê tại chỗ dạng ester. Dạng thuốc tê tại chỗ amit không bị phản ứng chéo với este. Một số chế phẩm có chứa tartrazin và sulfit nên dùng thận trọng ở bệnh nhân quá mẫn với các hợp chất này

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: