thơ tràng giang
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song"
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:
"Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng"
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả".
Trước thiên nhiên rộng lớn, tác giả muốn tìm đến nơi có người tụ tập như làng chợ, bến, nhưng ở đâu cũng vắng lặng.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ:
"Củi một cành khô lạc mấy dòng".
Đó là cảnh đời thực, tầm thường nhất, như thân phận con người. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng. Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bắt đầu từ chữ đời thường nhất, nôm na nhất : củi khô. Làm sao củi còn khô được giữa mấy dòng nước chảy. Làm sao củi thành lửa trong tình trạng ấy! Cái nhánh củi tìm đường về với lửa cứ bâng khuâng trôi theo dòng thơ, dòng đời. Sầu đìu hiu như chợ chiều; sầu lênh đênh như bèo giạt; sầu cách trở không đò, không cầu.
MỚI
Tràng giang có nghĩa sông dài, cụ thể ở đây là sông Hồng, nhưng tác giả không đặt tên bài thơ là sông dài, mà là “Tràng giang” vì sức biểu đạt của “Tràng giang” sâu sắc hơn, không chỉ về âm hưởng trang trọng cổ kính mà còn tái hiện một không gian khoáng đạt vô cùng vô tận của thiên nhiên vũ trụ.
Tràng giang trước hết là một bài thơ thiên nhiên, nhưng cái đích của nó là mượn thiên nhiên, thông qua thiên nhiên để bày tỏ niềm hoài nhớ quê hương và tâm trạng của người trí thức trước thời cuộc.
Thiên nhiên vừa là tác nhân khơi nguồn cảm xúc vừa là phương tiện biểu đạt. Thiên nhiên trải dài, xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đối lập. Một bên là những hình ảnh cao lớn, rộng dài, bao la kỳ vĩ mang chiều kích vũ trụ: “sông dài”, “trời rộng”, “mây cao”, “núi bạc”, “bờ xanh”, “bãi vàng”. Một bên là những hình ảnh, sự vật nhỏ bé, đơn sơ, trơ trọi, trôi nổi, vật vờ: “con thuyền”, “củi một cành khô”, “cồn nhỏ gió đìu hiu”, “bèo dạt”, “chim nghiêng cánh nhỏ”…Hệ thống hình ảnh đối lập này tạo nên sự liên tưởng về thân phận con người nhỏ bé,bơ vơ, bất lực, buông xuôi, không định hướng, như bèo dạt hàng nối hàng không biết về đâu, như củi một cành khô lạc mấy dòng. Đây là tâm trạng chung của nhiều thanh niên trí thức thời bấy giờ, khi dân tộc chìm trong bóng đêm nô lệ, mà họ chưa tìm thấy con đường đi. Tâm trạng này in đậm trong thơ giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Lưu Trọng Lư cảm nhận thân phận như “con nai vàng ngơ ngác”. Xuân Diệu cũng rơi vào trạng thái của “con cò trên ruộng cánh phân vân”. Còn Tố Hữu thì thốt lên:
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”.
Và đó là lý do của nỗi buồn, cô đơn mà người ta gọi là tâm bệnh của thời đại. Nỗi buồn ấy thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật trở thành lý tưởng thẩm mỹ, chi phối hoạt động sáng tạo của các nhà thơ lãng mạn. Trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận nỗi buồn là âm hưởng chủ đạo, bao trùm. Nỗi buồn dường như nằm trong bản thân tạo vật:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
…..Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
…Sông dài trời rộng bến cô liêu
Nỗi buồn ấy choán hết cả không gian, thời gian biến không gian thành một vũ trụ hoang vắng và tĩnh lặng và thời gian ngưng đọng.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”
Bầu trời như thể bị đẩy lên cao, sâu thẳm không thể nhìn thấy đáy. Bầu trời hoang vu như hồn người, còn mặt đất thì
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Giữa sông nước mênh mông không có con đò, không có chiếc cầu để gợi lên chút hy vọng về một bến bờ khác, vượt thoát khỏi thực tại. Không gian tuyệt đối tĩnh lặng. Không có một âm thanh nào phát ra thành tiếng. Sóng gợn nhẹ, gió đìu hiu, bờ bãi lặng lẽ, chỉ có thứ âm thanh từ ký ức xa xăm dội về tâm tưởng thành niềm khát khao, thành câu hỏi: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
Hiếm có bài thơ nào cùng một lúc sử dụng hàng loạt từ láy như Tràng giang: “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu” “chót vót”, “lớp lớp”, “dợn dợn” là những từ có ưu thế diễn tả “cá tính” của sự vật, tạo nên nhịp điệu, âm hưởng của lời thơ và do đó bộc lộ sắc thái tình cảm của nhà thơ. Và cũng hiếm có bài thơ nào đưa cả một hệ thống thiên nhiên với nhiều hình ảnh, sự vật như “Tràng giang”. Lạ ở chỗ các yếu tố thiên nhiên sự vật hầu như không liên kết với nhau. Nó tồn tại, vận động một cách độc lập, cô lẻ, rời rạc như cũng tự mình ẩn vào nỗi niềm riêng , do đó càng làm gia tăng ở con người cảm giác cô đơn, bơ vơ, không được nương tựa, che đỡ. Trong hoàn cảnh ấy con người thường tìm nơi bám víu, tìm chỗ dựa tinh thần, một nguồn an ủi. Nơi ấy là quê hương
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bóng chiều, hoàng hôn đã trở thành thời gian tâm lý trong thơ kim cổ. Đó là khoảng thời gian cuối ngày đang dần chuyển sang đêm; những tâm tư lắng đọng cho nỗi nhớ trào lên, nhất là nỗi nhớ quê hương luôn thường trực đau đáu trong tâm hồn thi nhân.
Nhà thơ Thôi Hiệu từng viết:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
Trước con sông dài mênh mông, nhà thơ Huy Cận như đồng cảm với nỗi lòng nhớ quê của Thôi Hiệu ông “thú nhận” với mình: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Vậy là nỗi buồn của nhà thơ được cắt nghĩa đầy đủ hơn. Đó không phải nỗi buồn vu vơ, vô cớ, mà là nỗi buồn trong sạch thanh cao. Nỗi buồn ấy không làm cho con người trở nên yếu đuối, bi lụy, mà nuôi dưỡng trong ta những tình cảm đẹp, những khát vọng lớn lao và tình yêu quê hương đất nước./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro