Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Sự Chứng: Họa dâm án

   * Lý Đăng đỗ Giải Nguyên8 2 F83 lúc mười tám tuổi. Về sau, đến tuổi năm mươi,
vẫn chẳng đỗ Tiến Sĩ. Đến chỗ Diệp pháp sư để nhờ Sư hỏi nguyên nhân. Sư thưa
hỏi Văn Xương Đế Quân. Đế Quân sai thư lại cầm sổ đến, chỉ rõ: "Khi Lý Đăng
sanh ra, được Thượng Đế ban ấn ngọc, [định rằng] mười tám tuổi đậu Giải
Nguyên, mười chín tuổi sẽ đỗ Trạng Nguyên. Hai mươi tuổi sẽ làm Hữu Thừa
Tướng. Chỉ vì sau khi thi đỗ [Giải Nguyên], ngấm ngầm dòm ngó [chòng ghẹo]
gái hàng xóm. Tuy [chuyện tà hạnh] không thành công, lại ngược ngạo [kiếm cớ
cáo giác], khiến cho cha cô ta bị tù. Do chuyện này, công danh bị chậm trễ mười
năm, thứ hạng [từ Trạng Nguyên] bị giáng xuống hàng Nhị Giáp. Kế đó, lại lấn
chiếm nền nhà của anh mình, dẫn tới chuyện kiện cáo. [Công danh] lại bị chậm
trễ mười năm, thứ bậc đỗ đạt giáng xuống Tam Giáp. Sau đó, trong khách điếm
tại Trường An, lại làm chuyện dâm bôn với một người đàn bà nhà lành, [công
danh] lại bị chậm trễ mười năm. Nay lại lén lút tằng tịu với con gái nhà hàng xóm,
làm ác chẳng hối cải, tài lộc hoàn toàn bị tước sạch, sắp tới hạn kỳ chết rồi!" Sư
trở về thuật lại, ông Đăng xấu hổ, hối hận mà chết.
Nhận định: Lý Đăng đáng gọi là "kẻ tự chế tạo gông cùm lặp đi lặp lại" vậy.
Nếu sớm sanh lòng hối hận, tu đức để chuộc oan khiên, ắt sẽ đậu Trạng Nguyên,
làm Tể Tướng, có thể trả lại ngọc bích cho nước Triệu 8 3 F84. Nếu chẳng vậy, lỡ làm
quấy một lần, về sau chẳng tái phạm nữa, ắt đối với chuyện đỗ đạt hiển vinh, hãy
còn được hưởng một nửa. [Trạng Nguyên, Tể Tướng] là do trời đất vun bồi, do tổ
tông tích lũy [âm đức], nay vì một mình ông ta [làm quấy mà bị] tước sạch! Phụ
bạc [ân đức của trời đất, tổ tiên] quá đỗi!
Lại nữa, thú vui dâm tà so với khoa bảng chẳng bằng một phần vạn; thế mà
đem đổi sự phú quý suốt cả một đời bằng niềm vui sướng trong chốc lát, há cũng
chẳng phải là quá sức ngu muội ư! Ôi! Người đỗ Trạng Nguyên sẽ làm Tể Tướng,
trong mấy trăm năm chỉ thấy một, hai người! Do tạo chuyện oan nghiệt ấy, mất
sạch chẳng còn sót gì! Huống hồ vận mạng của người khác chẳng bằng một phần
vạn Lý Đăng mà cùng tạo nghiệp giống như ông ta, tôi sợ rằng vị thần chưởng
quản tài lộc chưa chắc đã chỉ phạt thứ bậc đỗ đạt thấp hơn, lại còn kéo dài thời
hạn để mong ông ta sửa đổi! Nguy hiểm lắm thay! Những kẻ tài cao học rộng
trong hiện thời, đến tận tuổi già vẫn nghèo túng, khốn đốn, hãy nên tự xét những
chuyện đã làm để xem có phải là đã phạm vào loại tội nghiệt này hay chăng?

( Chú thích:

   83 Giải Nguyên (解元): Người đỗ đầu khoa thi Hương.
84 Thời Chiến Quốc, nước Triệu sở hữu viên ngọc Biện Hòa, vua Tần đem mười thành đòi
đổi, nhưng vua Triệu từ khước. Về sau, Triệu bị Tần áp bức quá mức phải hiến ngọc. Thành
ngữ "hoàn bích quy Triệu" được sử dụng với ý nghĩa "sẽ trở lại tốt đẹp như ban đầu".)

   * Từ sinh là con cháu nhà quan, tuổi trẻ đã nổi tiếng có tài, do lén lút ngấp
nghé sắc đẹp của gái hàng xóm, bèn dụ vợ mua chuộc để chèo kéo cô ta đến nhà
thêu thùa, khiến cho cô ta thường qua lại. Một hôm, sau khi Từ sinh đã nấp dưới
gầm giường, vợ giả vờ ra ngoài trông coi bếp núc. Từ sinh cưỡng gian cô ta.
Chuyện lộ ra. Cha mẹ cô gái ấy ép cô ta tự tử. Sau đấy, mỗi lần Từ sinh vào trường
thi, đều thấy cô gái ấy mặc quần áo dính máu đi đến, chẳng hề thi đậu. Về sau, bị
loạn quân giết chết!
* Trương Minh Tam theo cha đến chỗ trấn nhậm ở vùng Quỳnh Nhai8 4 F85, thông
gian với hai cô con gái viên quan Chỉ Huy Sứ gần đó, lén mang hai cô gái vượt
biển. Cha họ gấp rút đuổi theo, Minh Tam hết cách, đẩy hai cô xuống nước cho
chết đuối. Mười năm sau, Minh Tam bị đau thắt lưng, đón thầy thuốc họ Tôn đến
chữa trị. Bệnh hơi bớt, tối hôm ấy, ông Tôn mộng thấy hai cô gái lôi ông ta xuống
nước, bảo: "Thiếp vốn là người Quỳnh Nhai, đến đòi mạng họ Trương, cớ sao ông
ngăn trở chúng tôi báo thù?" Ông Tôn kinh hãi, tỉnh giấc, kể lại với Minh Tam.
Minh Tam đấm ngực than thở: "Oan nghiệt đã tới rồi! Ta nguy mất rồi!" Một
tháng sau bèn chết!
* Lưu Nghiêu Cử ở huyện Long Thư thuê một chiếc thuyền chở mình đi thi.
Chủ thuyền có một cô con gái, họ Lưu mấy lượt ve vãn, nhưng không có dịp nào
ra tay. Tới vòng thi thứ hai, họ Lưu ra khỏi trường thi rất sớm, nhằm đúng lúc chủ
thuyền vào chợ mua bán, bèn thông dâm với cô gái ấy. Đêm hôm ấy, cha mẹ của
ông Lưu mộng thấy thần bảo: "Cậu nhà lẽ ra đỗ đầu, nhưng vì làm chuyện bất
nghĩa, bảng trời đã xóa tên rồi!" Đến khi yết bảng, mới biết quan chủ khảo vốn
đã tính lấy họ Lưu đỗ đầu, nhưng do thấy [bài văn có chỗ] phạm trường quy bèn
loại bỏ. Họ Lưu hết sức hối hận; sau đấy, suốt đời chẳng đỗ đạt gì!
* Ở huyện Thường Thục có một tay viên ngoại lang họ Tiền, cậy vào tiền
tài, thế lực, ức hiếp kẻ khác. Trong làng, có một phụ nữ xinh đẹp, nhà nghèo, họ
Tiền bèn cho chồng cô ta mượn tiền để buôn vải ở Lâm Thanh hòng nhờ dịp đó,
tư thông với người vợ. Một hôm, chồng cô ta ra khỏi cửa, do thủy triều cạn, không
thể đi được, lại quay về, thấy họ Tiền đang ôm vợ mình, chè chén khoái trá. Chồng
vừa thẹn vừa giận, quay về thuyền. Họ Tiền ngầm mưu tính với vợ anh ta, đến
đêm sai người giả làm cướp giết chết. Họ hàng biết chuyện, thưa lên quan. Đã
nhận tội rồi, họ Tiền lại rải tiền bạc để chạy chọt, thoát khỏi xử phạt. Vừa ra tới
cửa thành, bỗng dưng giông tố ùa tới, hai kẻ đó đều bị sét đánh chết tươi!
Nhận định: Đã dâm vợ lại còn giết chồng, thiên lý khó dung, oan hồn chẳng
nguôi cừu hận được! Vì thế, tuy con người mưu mô xảo quyệt, trời lẫn thần đều báo ứng. Thử xem hạng người như vậy mà được bình yên không bị báo ứng, trăm

kẻ chẳng được một, cũng chẳng khác gì vung đao tự giết mình vậy!
* Đời Minh, Lục Trọng Tích sanh ra đã có tài lạ. Khi mười bảy tuổi, theo
thầy là ông Khâu lên sống ở kinh đô. Nhà đối diện có một cô gái rất đẹp. Hai
người lén ngấp nghé nhau, đều động tâm. Thầy xui: "Thành Hoàng ở kinh đô
thiêng nhất, ngươi hãy thử cầu khẩn, may ra được thỏa nguyện", bèn đến cầu khấn.
Đêm ấy, chàng Lục mộng thấy mình và thầy đều bị Thành Hoàng truy bắt, quở
trách nặng nề. [Thành Hoàng] sai thuộc hạ tra xét tài lộc, địa vị. Kiểm sổ sách,
thấy dưới tên họ Lục có ghi chú: "Đỗ Trạng Nguyên năm Giáp Tuất", còn dưới
tên họ Khâu chẳng có gì hết. Thần bảo: "Ta sẽ tấu sớ lên Thượng Đế, gạt bỏ tên
ngươi khỏi sổ, rút ruột họ Khâu". Vừa mới tỉnh mộng, thằng hầu trong quán trọ
gõ cửa, báo tin: "Khâu tiên sinh bị nghẽn ruột, sa đì chết mất rồi". Sau này, Trọng
Tích nghèo hèn suốt đời!
* Đời Thanh, huyện lệnh huyện Túc Tùng là Châu Duy Cao, làm giám khảo
trường thi khoa Kỷ Dậu ở Giang Nam, chấm đậu một quyển bài thi. Đến đêm,
nằm mộng, thấy có người nói: "Người này ẩn giấu điều ác, chẳng thể cho đậu
được!" Dùng tay viết một chữ Dâm cho ông Châu thấy. Hỏi tường tận nguyên cớ,
người ấy không đáp. Hôm sau, ông Châu quên bẵng giấc mộng trên đây, đem
quyển văn ấy trình lên. Quan chủ khảo hết sức tán thưởng ý tứ mới lạ. [Quan chủ
khảo] bỗng lấy bút xóa đi hai chữ "hiểm trở"trong bài văn. Ông Châu bẩm:
"Trong quyển bài thi, những chữ giống như vậy không ít, có lẽ chẳng nên xóa đi".
Quan chủ khảo cũng hối tiếc, bảo ông Châu tẩy nét đã gạch xóa. Đến khi xóa vết
gạch bỏ, dấu mực đã thấm xuống mấy tầng giấy. Ông bỗng nhớ lại giấc mộng
trước đó, bèn loại bỏ bài văn đó. Nhưng rốt cuộc ông Châu vẫn yêu mến bài văn
ấy, đặc biệt giữ lại bài viết ấy, nhưng không biết tên họ [người viết bài ấy]. Viên
giám khảo thuộc phòng ông Châu8 5 F86 là Ngô Lý Thanh đã kể chuyện này.
* Trương Bảo làm tri phủ ở Thành Đô, thấy vợ của Lý Úy ở Hoa Dương xinh
đẹp, muốn tư thông. Khéo sao, Lý Úy do tham ô bị bại lộ; ông Bảo thừa cơ đàn
hặc, khiến cho ông Lý bị đày xuống Lãnh Nam. Ông ta chết trên đường đi. Ông
Bảo mua chuộc mẹ Lý Úy để xin cưới, hết sức vui thú. Bỗng dưng vợ bị bệnh,
thấy Lý Úy đứng bên cạnh, bèn chết. Ông Bảo cũng nhiễm bệnh, mộng thấy vợ
nói: "Lý Úy đã thưa lên Thượng Đế, sẽ bắt ông trong sớm tối, hãy nên ẩn nấp cho kín". Trương Bảo tỉnh giấc, ghi nhớ trong lòng. Một tối đang ngồi, thấy trước dinh

có người mặc áo, có tay áo màu hồng vẫy gọi. Ông ta nghĩ là vợ của Lý Úy bèn
vội vàng chạy tới, thì ra Lý Úy. Lý Úy ôm chặt Trương Bảo đấm đá, [Trương
Bảo] miệng mũi đều xuất huyết mà chết.

( Chú thích:

   85 Quỳnh Nhai là một vịnh biển tại đảo Hải Nam.

   86 Nguyên văn "Châu công bổn phòng". Theo lệ thi cử xưa, nhất là trong các kỳ thi Hương
và thi Hội, do số thí sinh đông đảo, các giám khảo (thường gọi là "khảo quan") phải chia
thành nhiều phòng để chấm các quyển văn (bài thi thường gọi là đối sách hoặc văn sách
được viết vào một quyển giấy trắng). Phòng chấm thi của một vị quan sẽ gọi là "bổn
phòng". Mỗi vị khảo quan lại có những viên quan chức vụ nhỏ hơn phụ tá. Do ông Ngô Lý
Thanh phụ tá ông Châu Duy Cao, nên gọi là "Châu công bổn phòng").


* Đời Thanh, tường sanh họ Uông ở Phượng Dương, trong nhà có một cái ao
nhỏ trồng sen, còn chưa trổ hoa. Năm Kỷ Dậu (1669) thời Khang Hy, khi sắp đi
thi, bỗng thấy trong ao nở một cặp hoa sen chung cuống. Cha mẹ hết sức vui
mừng. Ban đêm, chàng Uông dùng rượu quyến rũ, nài ép đứa tớ gái, vợ chẳng
ngăn cản, bèn tư thông với nó. Sáng dậy, nhìn hoa đã thấy gãy nát. Cha mẹ hết
sức tiếc hận. Uông sinh mộng thấy yết kiến Văn Xương [Đế Quân], thấy tên mình
được ghi trên bảng trời, bỗng bị Đế Quân gạch bỏ. Ứa nước mắt lạy lục, van nài,
ba lượt bị gạt xuống. Trong tâm biết là chuyện chẳng lành, [nhưng kỳ thi đã tới
bèn] gấp rút lên đường. Khi ấy, quan giám khảo Giản Văn Tông chấm bài rất công
bằng. Theo hạn ngạch từ trước, phủ Phượng Dương được chọn đậu ba người, tham
dự kỳ thi lần này chỉ có ba người, riêng mình chàng Uông thi rớt! Thi cả ba lần
đều trượt, ứa nước mắt trở về.
* Đời Minh, tường sanh họ Vương ở ấp Ngọc Sơn lấy vợ ngay trong lúc còn
làm đám tang cho mẹ. Ước định hết kỳ cúng thất sẽ làm lễ động phòng. Chàng
Vương ngủ bên linh cữu, còn vợ ngủ trong phòng. Ban đêm, nghe tiếng gõ cửa,
đứa tớ gái thưa "chàng rể đã tới", vợ rước vào, cùng ngủ với nhau. Nghe trống
điểm canh năm, [người ấy] bèn rời đi, bảo: "Sợ người ngoài biết, trách tội ta bất
hiếu". Được mấy hôm, [người ấy] lại hỏi đến của hồi môn. Vợ đáp: "Ngoài quần
áo sắp sẵn mang theo, còn có tám mươi lạng bạc, cùng với trâm vàng, bông tai
đều đặt trong chiếc rương nhỏ". Trống canh năm vừa điểm, người ấy bèn ôm đi,
không giao trả lại. Đợi đến lúc hết thất, chàng Vương bày tiệc rượu làm lễ thành
hôn, nói chuyện với nhau, vợ mới biết đã bị kẻ giặc lừa gạt, giậm chân, đau đớn
khóc rống, thề chẳng muốn sống nữa. Trở về thưa chuyện cùng cha mẹ rồi treo cổ
chết. Tới khi an táng, chàng Vương đưa quan tài tới mộ, bỗng sấm chớp giao nhau
giáng xuống, chụp lấy một người đưa tới quỳ trước quan tài, thì ra là anh họ của
chàng Vương, hai tay ôm vòng vàng và bạc trắng, vẫn quỳ tuy đã bị sét đánh chết,
thi thể tả tơi. Cả ấp kinh hãi. Đấy là chuyện xảy ra vào năm Chánh Đức thứ chín
(1514)8 6 F87.
* Trong niên hiệu Thuận Trị đời Thanh, có người họ Tiền ở huyện Gia Hưng,
khi chưa đi thi, ngồi dạy học tại nhà của một người nọ là dân trong làng. [Người
ấy] có cô con gái mười bảy tuổi. Nhằm lễ Thanh Minh, cả nhà đều đi tảo mộ, cúng bái, chỉ để cô ta ở lại trông nhà. Họ Tiền bèn lén lút tằng tịu với cô ta. Về

sau, bụng cô to dần. Cha mẹ cật vấn, cô ta bèn thú thật. Cha mẹ cô thấy họ Tiền
còn chưa cưới, muốn gả tống gả tháo cô gái ấy đi để bưng bít chuyện xấu ấy; do
vậy, tìm đến họ Tiền để bàn bạc cặn kẽ. Họ Tiền cố ý ra vẻ giận dữ, bảo: "Con
gái mấy người không ra gì, muốn làm nhục kẻ khác hả?" Cha mẹ cô ta căm phẫn,
quay lại chửi bới cô. Cô gái ấy bèn treo cổ tự tử. Về sau, họ Tiền thường mộng
thấy cô ta ôm con đứng trước mặt. Sau khi thi đậu, làm quan coi án ở Giang Ninh.
Khi đó, do vùng Trấn Giang biến loạn, [quan trên] giao những kẻ theo giặc làm
loạn cho họ Tiền thẩm tra. [Về sau], triều đình do xét thấy họ Tiền ăn hối lộ [tha
bổng cho những kẻ phản loạn đó], phán họ Tiền chịu án treo cổ. Ngay trong ngày
[triều đình] xuống lệnh thi hành án, họ Tiền lại mộng thấy cô gái ấy dùng mảnh
khăn hồng buộc cổ anh ta. Ngày hôm sau, họ Tiền liền bị tử hình.

   * Thư sinh nọ ở Sơn Đông, đêm trước ngày vào trường thi, đứa đầy tớ bỗng
chết, bèn tạm để xác nó trong một căn phòng. Đến khi anh ta ra khỏi trường thi,
đứa đầy tớ đã tỉnh lại, kể: "Hôm qua, tôi theo chủ nhân vào trường thi, nghe nói
gia chủ đã được ghi tên đỗ hạng mấy. Lại thấy [trước lều thi của] những người thi
đỗ đều có cờ hồng, gia chủ cũng có". Thư sinh hết sức mừng rỡ. Đứa đầy tớ xin
gia chủ sau khi thi đỗ, sẽ cưới vợ cho nó. Thư sinh nói: "Tao sẽ cưới cho mày đứa
con gái ở nhà đối diện, có được hay không?" Đứa đầy tớ khiêm nhượng, thưa:
"Không dám". Thư sinh nói: "Sau khi tao đã đậu, còn sợ gì họ chẳng dâng lên
chứ?" Trong vòng thi thứ nhất, đứa đầy tớ lại chết, khi sống lại, sắc mặt lộ vẻ
giận, nói: "Chủ nhân không đậu nổi đâu!" Thư sinh kinh hãi, hỏi nguyên cớ. Đầy
tớ thưa: "Tôi thấy quan phủ điểm danh tới tên chủ nhân, bỗng nói: 'Gã ấy chưa
đậu mà đã ngấp nghé tạo ác!' Sai người sửa lại, thay tên họ Triệu vào! Trước tên
của chủ nhân đã không thấy có cờ hồng nữa". Thư sinh nửa tin, nửa ngờ. Khi yết
bảng, quả nhiên họ Triệu đỗ hạng thứ mấy [đúng như lời đứa đầy tớ đã nói]. [Về
sau, hỏi ra mới biết] khi các vị giám khảo thâu nhận quyển văn trình lên chủ khảo,
bảy bài văn sách của chàng thư sinh ấy đều trọn vẹn. Nào ngờ khi chấm bài, các
quyển văn của chàng ta trong vòng thi thứ ba đều bị tàn lửa đèn đốt mất nửa trang,
không thể trình lên chánh chủ khảo được. Do vậy, bèn lấy những quyển lạc đề
của chàng bù vào. Chàng thư sinh ấy buồn rầu, hối hận chẳng thôi! Chuyện này
do chính tiên sinh Tống Lệ Thường ở Lai Dương kể lại, do ông ta cùng làng với
chàng thư sinh ấy, nên không nói rõ tên.
* Đời Minh, có tiệm nhuộm ở huyện Nghi Hưng, [chủ nhân là] một góa phụ
xinh đẹp tột bậc. Gã lái buôn gỗ trông thấy bèn yêu mến, dụ dỗ đủ kiểu, rốt cuộc
vẫn không thể chinh phục được. Vì thế, lập mưu ban đêm quăng mấy cây gỗ vào
nhà bà ta. Hôm sau, thưa bà ta can tội trộm cắp. Lại hối lộ quan lại trên dưới,
khiến cho bà ta hết sức khốn quẫn, nhục nhã, mong bà ta sẽ phải theo mình. Trong

   nhà, bà ta thành kính thờ Triệu Huyền Đàn8 7 F88, bèn khóc lóc bẩm cáo. Đến đêm,
mộng thấy thần dạy: "Đã sai hắc hổ rồi!" Không đầy mấy ngày, gã thương gia
vào núi mua gỗ, từ trong rừng cây, một con cọp đen xông ra, cắn đứt đầu đem đi!
* Đời Thanh, tường sanh họ Chi ở Gia Thiện, đi thi Hương vào mùa Thu
năm Kỷ Dậu (1669) triều Khang Hy trở về, nói với người bạn họ Cố: "Tôi thần
hồn hoảng hốt, dường như bị quỷ quấy nhiễu, muốn cậy vị Tăng nọ để sám hối
oan nghiệt xưa kia". Ông Cố nói "rất nên", mời vị Tăng cùng đến thăm ông Chi.
Ông Chi chợt phát cuồng, nói: "Ta ngậm oan ba đời, nay mới hại được ngươi!"
Vị tăng hỏi: "Có thù hận gì?" Trả lời: "Đời trước ta là thuộc tướng của nó, nó là
chủ tướng. Nó thuộc họ Diêu là họ có công lao hiển hách trong triều. Nó thấy vợ
ta trẻ tuổi, xinh đẹp, sai ta đem quân xuất chinh, bị vây hãm trong tử địa để mưu
chiếm đoạt vợ ta. Vợ tự vẫn. Một nhà cốt nhục chia lìa. Sau đó, nó chết vì chuyện
trung nghĩa, ta chưa thể báo thù được. Đời sau đó, nó là bậc cao tăng, lại chẳng
báo thù được. Đời thứ ba nó làm Tể Tướng, tận hết trách nhiệm, thần phước lộc
bảo vệ nó, ta vẫn không trả thù được! Đời này, lẽ ra nó đỗ đạt. [Đời này] ta đã đợi
suốt ba mươi năm, do gần đây nó phạm dâm nghiệp, bị xóa tên trong sổ Văn
Xương, nên ta mới ra tay được". Khi nói, căm hận, giận dữ không thôi. Ông Cố
bảo: "Oán hãy nên cởi, chớ nên buộc". Oan hồn đáp: "Nỗi hận của ta khó thể giải
trừ được! Chẳng thể dung tha nó". Rốt cuộc, ông Chi điên cuồng mà chết.
* Thư sinh nọ ở Quý Châu đi thi nhiều lần chẳng đậu, cầu khẩn Trương chân
nhân dâng sớ xin xem thiên bảng. Thần phê rằng: "Mạng người này đáng lẽ đỗ
đạt, do lén lút với người thím nên bị gạt bỏ". [Trương chân nhân] xuất định nói
với thư sinh ấy. Thư sinh bảo không có chuyện đó, bèn dâng điệp biện bạch. Thần
lại phê rằng: "Tuy chẳng có chuyện ấy, nhưng thật sự có cái tâm ấy". Thư sinh
hối hận chẳng kịp, ấy là vì thuở trẻ, thấy bà thím xinh đẹp, ngẫu nhiên dấy động
một niệm mà ra!

( Chú thích:

   87 Chánh Đức là niên hiệu của Minh Vũ Tông (Châu Hậu Chiếu), vua thứ mười một nhà
Minh

88 Triệu Huyền Đàn (趙玄壇) là một vị thần của Đạo giáo. Theo truyền thuyết, ông ta tên là

Triệu Lương, tự là Công Minh, là một trong bốn vị đại hộ pháp nguyên soái của Đạo giáo,
nên còn gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái (Huyền Đàn có nghĩa là trai đàn, mang ý nghĩa hộ
pháp). Ông còn được coi là Vũ Tài Thần vì thống lãnh các thuộc hạ là Chiêu Bảo Thiên Tôn,
Nạp Trân Thiên Tôn, Chiêu Tài Sứ Giả, và Lợi Thị Thiên Quan, được gọi chung là Ngũ Lộ
Tài Thần. Theo truyền thuyết, ông là người sống trong núi Chung Nam, đã ở ẩn trong núi
từ đời Tần. Khi Trương Đạo Lăng (sáng tổ Thiên Sư Giáo) tu hành tại Hạc Minh Sơn, đã
được Triệu Huyền Đàn thâu làm đồ đệ, truyền thuật luyện đan, và các loại bùa phép khác.
Về sau, Trương Đạo Lăng truyền đạo, lập ra Đạo giáo (thường gọi là Chánh Nhất Đạo, hoặc
Thiên Sư Giáo, là một trong những phái Đạo giáo đầu tiên). Triệu Huyền Đàn thường được
mô tả dưới diện mạo mặt đen, râu dài, tay cầm roi sắt, cưỡi hắc hổ.)

   * Nghiêm Vũ thuở trẻ có hàng xóm là một vị tướng lãnh trong quân đội. Họ
Nghiêm lén thấy con gái ông ta xinh đẹp, bèn dùng trăm kế dụ dỗ theo mình bỏ
trốn. Vị tướng quân vào cung tâu lên vua. Vua hạ chiếu truy bắt họ. Nghiêm Vũ

   sợ tội, thắt cổ cho nàng ta chết để hủy diệt tung tích. Đến khi mắc bệnh ở đất Thục
(Tứ Xuyên), thấy cô ta đến đòi mạng, bảo: "Thiếp tuy mất nết, chẳng hề phụ
chàng. Thế mà bị chàng giết chết, đúng là kẻ tàn nhẫn. Thiếp đã tố cáo lên Thượng
Đế, kỳ hạn là ngày mai!" Quả nhiên, rạng đông hôm sau, họ Nghiêm chết ngắc!
* Ở đất Giang Ninh có một sai dịch họ Lưu. Có một phạm nhân mắc tội ngồi
tù, cần phải dùng hơn mười lạng bạc để chuộc tội thì mới được thả về. Phạm nhân
cậy họ Lưu đến nhà mình bảo vợ bán con gái để chuộc tội. Họ Lưu liền đến bàn
bạc với vợ người ấy. Do bà vợ khá xinh đẹp, họ Lưu muốn gian dâm. Bà vợ vì
thấy tánh mạng của chồng cần phải nhờ cậy gã này che chở, nên miễn cưỡng thuận
theo. Sau đó, bán con gái được hai mươi lạng bạc, giao hết cho họ Lưu làm chi
phí chuộc tội. Họ Lưu cầm tiền tự xài, chẳng giao nạp. Người vợ cứ nghĩ bạc đã
nộp cho quan, chắc không lâu chồng sẽ trở về. Đợi mấy hôm, chẳng có tin tức gì,
bèn cậy một người trong họ dò hỏi, nhân đó, [người ấy] kể rõ nguyên do với phạm
nhân. Phạm nhân biết chuyện, gào khóc rồi chết. Mười ngày sau, sai dịch họ Lưu
hết rét lại sốt, tự nói: "Người đó đã kiện ta lên thần Đông Nhạc, tức khắc phải bị
thẩm tra". Sau đấy, nằm gục xuống chiếu, rên siết ai oán, tự nói: "Đáng chết!"
Rồi lại nói: "Do ta quen nói dối, phải dùng móc sắt kéo lưỡi". Trong khoảnh khắc,
lưỡi thè ra mấy tấc, tự cắn cho tan nát, huyết nhục đầm đìa mà chết.
* Họ Dương ở Túc Tùng là người có tiếng tăm trong trường, thờ phụng Quan
Đế hết sức thành kính. Ban đêm, mộng thấy Quan Đế ban cho cái ấn vuông, bèn
nghĩ ắt sẽ thi đỗ. Sau đó, ở dưới lầu, gian dâm con gái nhà lành. Vào trường thi
xong, trở về nhà, lại mộng thấy Quan Đế đòi lại ấn. Họ Dương nói: "Ấn đã cho
tôi rồi, sao lại đòi lấy?" Quan Đế nói: "Không chỉ là đòi ấn, mà còn đòi mạng
mày nữa! Chuyện dưới lầu đó, vào tháng đó, mày an lòng chưa?" Chưa đầy một
tháng, cha con bọn họ đều chết ráo!
* Trong niên hiệu Chánh Đức đời Minh, Phù tú tài ở Tứ Minh sau khi đã
chết, báo mộng cho con: "Khi còn sống, ta đã phạm luật cấm về gian dâm. Ngày
mai sẽ đầu thai làm con chó trong nhà Tạ ngũ lang ở phía Nam thành, hãy mau
gấp làm chuyện lành, sám hối cho ta". Nói xong, một con quỷ buộc cổ lôi đi. Một
quỷ tốt khác lấy tấm da trắng phủ lên đầu ông ta. Ông ta khóc lóc bi thương, tập
tễnh ra đi. Đứa con kinh hãi tỉnh mộng. Ngày hôm sau, nhà họ Tạ quả nhiên có
một con chó được sanh ra, toàn thân trắng muốt. Đứa con xin đổi lấy đem về nhà,
vì cha rộng làm các việc lành. Năm sáu năm sau, chó bỏ ăn mà chết. Hơn tháng
sau, đứa a hoàn bé trong nhà, bỗng ngồi giữa nhà, nói to, giống như dáng vẻ của
Phù tú tài, gọi người nhà đến bảo: "Ta thật sự chưa từng phạm dâm. Do lúc mười
tám tuổi, đi qua phòng chị dâu. Chị dâu vừa mới rửa sạch trang điểm, làm rớt cái
nhẫn xuống đất, sai ta nhặt lên. Do vậy, ta hứng tình. Về sau, [chị dâu] lại thường

   cùng ta cười nói, suýt nữa phá sạch lễ nghĩa! Rốt cuộc chị dâu bị bệnh chết, ta
cảm thấy tinh thần rối loạn. Năm sau cũng chết. Sau khi chết, có quỷ trói dẫn đến
dưới sân một tòa quan phủ, hai tay chống xuống đất, đã thành hình dạng chó. Nay
nhờ ngươi làm việc thiện có công, đã sám trừ sạch nỗi oan nghiệt trước kia, sẽ
sanh làm con thứ năm trong nhà thầy lang họ Triệu ở Sơn Đông. Ta trở về nhà từ
biệt". Nói xong, đứa tiểu a hoàn ngã lăn ra đất, tỉnh lại.
* Họ Lữ ở Vân Gian là con nhà thế gia, mặc sức dâm dục. Tớ gái, gia nhân
đều bị ông ta thường ô nhục đến nỗi ngã bệnh. Về sau, con cái trai gái đều chết
sạch. Vì chuyện trong giới quan trường mà bị tan nhà nát cửa, nhiều lần bị hạ
ngục, tra tấn. Tuổi trung niên chịu đủ mọi nỗi khốn khổ tột bậc, lạnh không có
áo, đói chẳng có ăn, nhà không có được cái nóc rách, bệnh tật không có người
chăm sóc. Đến lúc chết, quan tài lẫn vải liệm đều không có, giòi bọ khắp thân,
người trông thấy không ai chẳng kinh sợ!
* Đời Thanh, trong khoa thi năm Quý Dậu (1693) triều Khang Hy, một lẫm
sanh ở Tùng Giang vào trường thi thứ nhất, vừa nhận quyển thi8 F89, bỗng thấy một
con quỷ theo vào trường thi, khóc lóc ầm ĩ suốt đêm, cả trường thi đều bất an.
Đến chiều hôm sau, [lẫm sanh ấy] vừa viết xong bản nháp bài văn sách cho vòng
thi thứ ba, quỷ xông vào nắm cổ [anh ta]. Vì thế, kêu gào những các thí sinh ở các
lều gần đó cứu mạng. [Anh ta] khóc lóc, nói: "Năm nọ tôi đến đất Sở (Hồ Nam),
do ưa thích một người con gái, vờ hứa hẹn sẽ lấy cô ta làm vợ. Cô ta vui thích bèn
tư thông, lại còn tặng tiền bạc cho tôi. Dẫn về nhà, vợ tôi chẳng dung, bị chết.
Nay cô ta đã tới, tôi không thể sống nổi nữa". Các thí sinh ở lều bên cạnh mềm
mỏng an ủi. Một lúc sau, nghe lẫm sanh ở trong lều van lơn xin tha mạng. Lâu
sau, tiếng kêu im bặt. Họ bèn gọi người trông nom lều thi đốt đuốc, thấy lẫm sanh
ấy dùng sợi tơ đỏ [buộc ở đuôi bút] để treo bút8 9 F90, tự buộc vào cổ mình, đã nghẹt
thở mà chết.

Nhận định: Sách Nam Lăng Đơn Quế Tịch ghi: "Do tư thông với một người
nữ, ắt sẽ đến nỗi vào trường thi mà chết. Lại còn ắt khiến gã ấy tự nói nguyên cớ gây ra cái chết. Lại còn ắt khiến cho sĩ tử cả trường đều biết nguyên do bị chết.

Trời cao hiển thị sự báo ứng do dâm, răn nhắc tột bậc sâu xa, sát sao vậy".

 *  Vào đời Minh, tại Kinh Khê có hai người chơi với nhau khá thân. Một
người giàu có, người kia nghèo túng. Do vợ người nghèo xinh đẹp, gã giàu liền
lập mưu, bảo bạn: "Có một nhà giàu nọ, anh có thể đến đó làm thuê". [Anh nghèo
nghe lời, cùng bạn] chuẩn bị thuyền để chở theo vợ cùng đi. Đến Chỉ sơn9 0 F91, [gã
giàu] bảo: "Để vợ anh ở lại trông thuyền, tôi với anh đi trước hỏi thăm". Dẫn bạn
vào rừng, rút rìu giắt sẵn sau lưng chém chết. Hắn giả vờ khóc lóc, xuống núi, bảo
vợ bạn: "Chồng chị bị cọp vồ chết rồi". Người vợ khóc ầm lên, theo hắn lên núi
tìm xác chồng. Hắn dẫn vào chỗ núi sâu, ôm chặt lấy cô ta, đòi thỏa dâm. Người
vợ không chịu. Chợt có cọp xông ra, cắn gã giàu lôi đi. Người vợ kinh hãi bỏ
chạy, cho là chồng đã gởi thây trong miệng cọp rồi, buồn, hận khôn khuây! Bỗng
thấy một người từ xa khóc lóc đi tới, [hóa ra] người vừa tới ấy chính là chồng
mình! Đôi bên kể lể sự tình, chuyển buồn thành vui, quay về.
* Ở Dư Hàng có người họ Trương sang Kim Lăng buôn bán, ở trong quán
trọ. Có người đàn bà nói mình sống gần đó, tằng tịu với họ Trương. Lâu sau, họ
Trương nhận thấy láng giềng sống quanh đó không có người đàn bà ấy. Do nghi
ngờ bèn cật vấn, người đàn bà đáp: "Thật ra tôi có chuyện cần nhờ vả, tôi chẳng
phải là người. Có một người tên là Dương Xu chẳng phải là người cùng làng với
ông hay sao?" "Đúng vậy!" Người đàn bà giậm chân, nghiến răng nói: "Thằng đó
bội bạc lắm! Thiếp chính là kỹ nữ, thuở trẻ dan díu với thằng Dương. Nó hết sức
chiều chuộng thiếp, không gì chẳng chăm sóc hết mực, ước hẹn, thề nguyền sẽ
đón thiếp về nhà, sống chết cùng nhau. Thiếp trút hết của cải dành dụm đưa cho
nó, bền lòng giữ mình theo lời hẹn. Đã lâu mà chẳng có tăm hơi gì, nghe nói nó
đã lấy người khác rồi! Vì thế, nuốt hận mà chết. Quán trọ này chính là chỗ ở cũ
của thiếp. Muốn đi theo thuyền của ông để xem vợ mới của thằng Dương như thế
nào?' Ông Trương đồng ý. Đã đến nơi, bà ta từ biệt ông Trương, tìm tới nhà họ
Dương. Do mừng sinh nhật, họ Dương tấu nhạc, mở tiệc đãi đằng khách khứa,
bỗng chết đột ngột. Bà vợ do hắn cưới cũng mắc bệnh nguy kịch gần chết. Ông
Trương nghe chuyện, hết sức kinh hãi!
* Trương An Quốc có tài văn chương, nhưng hạnh kiểm tệ hại. Gian dâm
một cô gái hàng xóm, khiến cho cô ấy chết ngang trái. Về sau, hắn đi thi. Quan
chủ khảo thích thú văn tài, toan chọn hắn đỗ đầu. Chợt nghe trên không trung có
tiếng quát: "Há có kẻ dâm đãng hại người lại được đỗ đầu bảng à?" Quan chánh
chủ khảo bỗng té nhào xuống đất, đến khi tỉnh lại, đứng lên thì thấy quyển bài thi

   ấy đã bị xé rách tan nát. Sau khi yết bảng, quan chánh chủ khảo bèn gọi An Quốc
kể chuyện này, An Quốc hổ thẹn mà chết.
* Chàng họ La ở Kiến Xương do nhà nghèo, chẳng thể cưới vợ. Mẹ anh ta
bèn cải giá với ông Giang để có tiền cưới Chương thị. Chàng La thấy mẹ [hy sinh
như vậy], chẳng nỡ lòng ngủ chung với vợ. Chương thị dò biết bèn tháo trâm cài,
bông tai, quần áo đưa cho chồng chuộc mẹ về. Chồng vui mừng, chạy đến nói với
mẹ. Do trời đã tối, bèn ngủ lại. Nào ngờ con trai vợ trước của ông Giang là Giang
Thật đã lén nghe được, trong đêm giả vờ là chàng La gõ cửa, xông vào nhà, vơ
vét mọi vật, lại còn đòi ân ái. Chương thị không biết kẻ đó là giả, [Giang Thật]
bèn ôm hết [của cải] bỏ đi. Cho đến bình minh, chồng quay về, Chương thị mới
biết đã mắc lừa, xấu hổ, ân hận, bèn treo cổ chết. Chồng sắm sửa quan tài, đồ
liệm, đưa linh cữu vợ ra ngoại thành. Chợt sấm sét cùng nhau giáng xuống, sét
đánh chết một người, tay còn ôm trâm, bông tai, quần áo, quỳ trước quan tài. Lưng
viết bốn chữ: "Gian tặc Giang Thật". Quan tài gỗ vỡ vụn, Chương thị đứng bên
đường, thấy chồng bèn hỏi: "Chuyện này là sao?" Thuật rõ mọi chuyện xong, vợ
chồng dìu nhau trở về. Cha ghẻ là Giang Triều cũng cảm động khóc lóc. Do vậy,
mời vợ chồng chàng La về ở chung.
* Đời Minh, ở Tấn Giang có Hứa Triệu Hinh, đỗ Cử Nhân năm Mậu Ngọ.
Trên đường đến bái yết vị chủ khảo của mình, ngẫu nhiên đi qua một ni am. Do
mê thích một ni cô trẻ tuổi, bèn cậy thế cưỡng bức làm nhục cô ta. Ngày hôm sau,
bỗng tự cắn lưỡi đứt làm hai đoạn mà chết.
* Gã X... là người ở Diên Sơn, mê thích sắc đẹp của vợ người hàng xóm,
dụ dỗ nhưng cô ta không thuận theo. Nhằm lúc chồng cô ta ngã bệnh, trời đổ mưa
to, sấm sét ầm ĩ, bèn khoác áo hoa có hai cánh diều, nhảy vào nhà hàng xóm,
vung chùy sắt giết chết [người chồng], rồi lại nhảy tường trở ra. Mọi người đều
tưởng là sét đánh chết người chồng. Sau đấy, gã đó cậy mai mối xin cưới [người
vợ góa]. Người vợ do nghèo túng bèn cải giá, vợ chồng ân ái hết mực. Một hôm,
vợ sắp xếp rương, thắc mắc quần áo may kiểu gì mà lạ thế. Chồng nhân đó cười
cợt, nói rõ chuyện. Vợ giả vờ cười nói, đợi lúc chồng đi vắng, bèn ôm áo cánh
diều lên báo quan. Quan phán tội treo cổ. Ngày xử giảo, sấm sét ầm ĩ, [gã đó] đầu
một nơi, thân một nẻo, tứ chi đứt lìa.
* Tường sanh Quách Hanh ở Giang Ninh, năm Kỷ Mão vào trường thi. Khi
chưa yết bảng, người bạn là Dương sinh nói: "Gần đây, tôi làm phán quan cho âm
phủ, biết ông đáng lẽ đậu hạng năm mươi bảy. Trong nhà ông có một đứa tớ gái,
bị ông cưỡng ép làm tiểu thiếp. Nó uất ức nên đã chết. Nó đã nhiều lần tố cáo ông
[dưới cõi âm]. Vì lẽ này, tên ông đã bị gạt bỏ". Chàng Quách thoạt nghe, không

   tin, đến chừng nhận lại quyển thi, [mới thấy] giám khảo đã xếp [bài văn của mình]

   vào loại trình lên chủ khảo, mới hối hận vô cùng! Quách Hanh cả đời trung hậu,
chỉ vì vô ý chuyện này, cả đời thất vọng!
Nhận định: Xét theo Công Quá Cách, "ép tớ gái làm thiếp, phạm ba mươi
lỗi". Đó là đặc biệt nói theo Lý, chứ nếu xét theo tình, châm chước thế, sẽ là tội
lỗi vô cùng! Bởi lẽ, nam nữ kết hôn, dẫu nghèo hèn đều mong xứng nguyện.
Cưỡng ép trở thành thiếp, tức là đã trái với ý nguyện của họ, mà cũng là chuyện
khó chịu đựng nhất. Thường có những trường hợp vợ trẻ đẹp phải hầu hạ chồng
già khú đế, hoặc người dịu dàng, mềm mỏng gặp [vợ cả] hung tợn, ghen tuông,
sẽ ngậm hờn, nuốt oán, uất ức mong chết đi cho rảnh! Kẻ gặp những nỗi khổ ấy,
thật là đáng thương! Suy xét nguồn cơn, đều là do một kẻ không thể chế ngự lòng
dục mà ra. Trong đám thê thiếp, nói xấu, chửi bới, tranh chấp với nhau, chuyện
trong chốn buồng the, xấu xa, nhơ bẩn không thể che giấu, tai hoạn chẳng phải là
một mối! Con người nếu chẳng phải là chuyện muôn phần bất đắc dĩ, hãy thận
trọng đừng tạo nỗi oan nghiệt vô cùng ấy!
* Vương Cần Chánh ở Trừ Dương thông gian với người đàn bà hàng xóm,
đã ước hẹn cùng nhau bỏ trốn. Do vậy, bà ta bèn giết chồng. Cần Chánh nghe
chuyện, sợ quá, liền một mình trốn tới huyện Giang Sơn cách đó bảy mươi dặm,
ngỡ là đã có thể thoát họa. Đói bụng, vào quán cơm. Chủ quán dọn cơm cho hai
người ăn. Cần Chánh hỏi nguyên do. Chủ quán bảo: "Chẳng lẽ người đầu bù tóc
rối đi theo ông không phải là người ư?" Cần Chánh kinh hãi, biết là oán quỷ đi
theo mình, liền đến cửa quan tự thú. Nam nữ đều phải đền tội.
* Ở Dự Chương có một cặp song sanh, tướng mạo và tiếng nói giống hệt như
nhau. Từ lúc còn ẵm ngửa cho tới lúc ba mươi tuổi, những chuyện gặp gỡ, được
mất đều y hệt như nhau. Lúc ba mươi mốt tuổi, do đi thi, anh em lên tỉnh. Một
phụ nữ ở gần đó góa chồng, xinh đẹp, quyến rũ người anh. Người anh nghiêm mặt
cự tuyệt, lại còn đem chuyện ấy răn nhắc đứa em. Đứa em giả vờ vâng dạ, nhưng
lén lút gian díu với người đàn bà ấy. Thoạt đầu, bà ta chẳng biết đó là người em.
Đôi bên tình cảm sâu đậm; do vậy, ước hẹn với bà ta: "Nếu ta thi đậu, ắt sẽ cưới
nàng". Đến khi yết bảng, anh đậu, em rớt. Người em lại gạt bà ta: "Đợi ta đỗ ông
nghè xong sẽ cưới nàng". Lại còn than thở thiếu hụt tiền chi dụng. Bà ta dốc hết
tiền bạc dành dụm trao cho. Mùa Xuân, người anh đỗ kỳ thi Đình, bà ta sớm chiều
mong ngóng, chẳng thấy tin tức gì, uất ức thành bệnh. Ngầm gởi thư cho người
anh, [không lâu sau] bà ta chết. Người anh nhận được thư, kinh hãi, vặn hỏi đứa
em. Người em cúi đầu thừa nhận đã lừa tình. Năm sau, con trai của người em bị
chết, con người anh không sao. Người em khóc lóc không ngừng, hai mắt bỗng
mù hẳn! Không lâu sau cũng chết. Người anh quyền cao tước trọng, đông con,
lắm cháu, có thể nói là hưởng phước trọn vẹn.

Nhận định: Con người thường là khi họa hoạn xảy tới, chẳng thể đổ thừa hết
cho số mạng được! Hãy nên kinh sợ, tự xét hành vi trong thường nhật xem đã trót
tạo nỗi oan nghiệt nào mà dẫn đến [nông nỗi] hiện thời! Tự trách sâu xa, sửa lỗi
đổi mới, hòng có thể vãn hồi sự trút giận của thần minh. Nếu không, cũng sẽ giống
như người em ở Dự Chương đó thôi!
* Thư sinh X... ở Duy Dương vừa viết xong một quyển dâm thư, mộng thấy
thần quở trách. Tỉnh giấc bèn tự hối, liền thôi [không viết nữa]. Về sau, do con
thơ, nhà nghèo, vẫn lấy ra đem in. Chẳng lâu sau, mắt mù, tay sanh ghẻ độc, năm
ngón tay đều co quắp mà chết.
* Thi Nại Am viết bộ Thủy Hử, trong ấy, miêu tả những chuyện gian dâm,
cướp bóc [sống động] như vẽ. Con cháu ba đời bị câm.
* Năm Bính Ngọ (1666) đời Khang Hy nhà Thanh, tại một huyện thuộc
Duyện Châu, có Trịnh sinh là người đẹp trai, phong nhã, giỏi văn chương. Mê
thích con gái của người cậu vừa đẹp vừa hiền thục, xin cưới; người cậu chẳng chấp
thuận, vì đã nhận sính lễ của nhà họ Tiêu ở ấp bên cạnh. Do chú rể bị bệnh, nên
cả năm chưa xuất giá. Trịnh sinh mua chuộc tớ gái của cô ấy, lấy được đôi hài
dùng khi đi ngủ9 1 F92 và túi thơm của cô ta. Trịnh sinh thường giắt theo, khoe với họ
nội của chàng Tiêu, bảo cô gái ấy và mình có tư tình; ấy là vì muốn lập kế cho
chàng Tiêu biết đến, ắt sẽ ly hôn. Khi đã bị ly hôn, [cô em họ] bị mang tiếng,
chẳng có ai muốn lấy; sau đấy, [Trịnh sinh] sẽ có thể xin cưới được. Chàng Tiêu
biết chuyện, nửa tin, nửa ngờ, sai người đến hạch hỏi mẹ cô ta. Cô gái nghe những
lời báng bổ, phẫn hận không thể kiềm chế nổi, vung dao sắc tự tử. Cha cô ta kiện
lên quan. Vị chủ ấp là ông X... tính tình công chánh, cương nghị, bắt Trịnh sinh
lên tra hỏi, vạch trần sự thật. Trịnh sinh bị phán xử tử.
Nhận định: Đời Đường, cô con gái người dì của Nguyên Chẩn là Thôi Oanh
Oanh, vốn là tuyệt thế giai nhân. Chẩn cố công xin cưới, nhưng bà Thôi vốn muốn
gả [Oanh Oanh] cho cháu là Trịnh Hằng. Chẳng được toại ý, Nguyên Chẩn hết
sức phẫn hận, do vậy, viết bộ Hội Chân Ký9 2 F93 để bêu xấu, đội tên Thôi Oanh Oanh

viết những bài thơ xướng họa lưu truyền trong cõi đời, khiến cho ngọc trắng không

tỳ vết bị lấm lem muôn đời. So với Trịnh sinh, tội ấy càng nặng hơn nữa. Về sau,
Nguyên Chẩn mắc quả báo lửa sét đốt thây, há cũng chẳng thích đáng ư?
* Một thư sinh ở Giang Nam, văn chương hay khéo, nhưng tính chuyên thích
bàn chuyện buồng the của kẻ khác. Năm Kỷ Dậu đi thi Hội, đến khi vào tam
trường, lúc được ban đuốc9 3 F94, bỗng dưng thấy trên quyển văn của mình có bốn
chữ "háo đàm khuê khổn" (ham bàn chuyện buồng the). Chàng vội vàng lấy tay
xóa đi. Khi kiểm lại, sửa lỗi, thấy phía sau quyển thi đã bị chà nát. Khi khảo quan
dùng bút son chấm bài, thấy bảy bài văn do anh ta đã viết hết sức hay khéo, tính
lấy anh ta đỗ đầu, nhưng vì không có bài nộp cho vòng thi thứ ba, chẳng thể chấm
đậu. Từ đấy, chàng thư sinh suốt đời lận đận [chẳng đỗ đạt gì].
* Cuối đời Minh, ở vùng Ngô Hạ (Tô Châu), có Tần sinh học giỏi, lắm tài,
giỏi nhất là sáng tác thi từ, nhạc phủ9 4 F95. Anh ta là một kẻ hết sức khinh bạc, chỉ
thích châm biếm, nhạo báng cõi đời. Hễ thấy kẻ nào dung mạo, hình dáng xấu xí
bèn chẳng chịu nổi, ngay lập tức làm một bài thơ [chế giễu] ngay trước mặt [người
đó]. Hễ nghe kẻ khác làm chuyện gì đáng cười, lọt vào tai anh ta là đã có ngay
một khúc ca [nhạo báng]. Một người bạn thân của anh ta đút lót để được vào
trường huyện, anh ta bèn làm bài thơ "Du Tường Thi" (thơ nhập học trường
huyện) gồm một trăm vần để chúc mừng. Nhà hàng xóm có chuyện mèo chuột,
anh ta liền tặng cho mười bài thơ Chim Hoàng Anh, xiên xỏ bóng gió tột bậc hay
khéo, miệng đời rao truyền thấu khắp xa gần. Do vậy, nhiều lượt bị khốn đốn bởi
nắm đấm, lại còn bị thưa kiện lên quan, gần như bị tước sạch danh vị, vẫn trọn
chẳng thay đổi. Đến tuổi xế chiều, bỗng bị sốt rét phát cuồng, tự ăn phân của
chính mình, cầm dao tự cắt lưỡi. Người nhà giằng lấy dao, xiềng trong buồng
trống. Tìm dao không được, bèn nhai lưỡi nát bét phun ra. Mùi thối lan ra tận

   ngoài cửa. Sau đó, từ khe cửa sổ trông ra, thấy trong sân có cái búa chẻ củi, bèn
dũng mãnh phá vỡ cửa sổ thoát ra, vớ lấy búa tự chém chính mình đến chết!
Nhận định: Trong bộ Giác Thế có nói: "Với tài năng ấy, Tần sinh [hô hào
khiến cho] dân chúng tuân theo phong tục tốt đẹp, há khó khăn gì? Sao lại khiến
cho cái tài đó trở thành công cụ để giết mình? Khác gì Tùy Hầu dùng minh châu
để ném chim sẻ, dùng gươm Thái A để đốn củi!" Gần đây, có một thư sinh, có tài
lạ, tự cho rằng ắt sẽ thi đậu, nhưng ưa dùng những giáo huấn trong kinh sách [của
thánh hiền] để châm chọc. Về sau, [đi thi] nhiều lần được chấm điểm cao, nhưng
cứ vào vòng thi sau bèn có chỗ viết sai, luôn luôn bị trượt. Đấy chính là lẽ báo
ứng vì đã vũ nhục lời lẽ thánh hiền! Những kẻ có tài trong cõi đời thường phạm
lỗi này mà chẳng biết sai trái. Ôi! Đọc sách như vậy, có khác gì kép hát diễn tuồng
ư? Hình tượng tư văn9 5 F96 đã bị hạng người ấy vùi xuống tận đất mất rồi!
* Lý Thúc Khanh luôn liêm khiết, cẩn thận; đồng liêu là Tôn Nham ghen
ghét, bịa chuyện rêu rao cùng mọi người: "Thúc Khanh chỉ được cái danh suông!
Theo như tôi thấy, hắn chẳng bằng chó, lợn!" Nếu có ai hỏi vì sao nói như vậy,
hắn ta đáp: "Thúc Khanh ăn nằm với em gái của chính mình, còn đáng làm người
ư?" Do vậy, [lời ong tiếng ve] đồn đại ồn ào xa gần. Thúc Khanh muốn biện minh,
nhưng chẳng tiện mở miệng. Nếu chẳng muốn nói rõ, phẫn hận, giận dữ khó chịu
nổi. Vì thế, ôm nỗi uất ức mà chết. Em gái ông ta nghe tin, biết chuyện, hết sức
kinh hoảng, phẫn hận, cũng treo cổ tự tử. Chẳng được mấy hôm, trời nổi giông tố,
sét đánh Tôn Nham chết tươi, quăng thây đến tận cửa nhà Thúc Khanh. Đến khi
đem chôn, sét lại đánh xuống mồ hắn!
Nhận định: Đây là kẻ có ý niệm bịa chuyện ô nhục, khinh miệt người khác,
cho nên mắc phải quả báo nặng nề như vậy. Dẫu không có tâm châm biếm, cũng
trọn chớ nên! Vào năm Nhâm Tý, tại trường thi Chiết Giang, có một phụ nữ bước
vào khu vực đặt lều thi, vừa đi vừa hét to: "Vương Nhị ở Đông Dương". Cả trường
thi hoảng hồn, dùng đèn đuốc soi, chẳng thấy bà ta đâu cả. Do vậy, tìm kiếm trong
dãy lều thi, quả thật có một người họ Vương đứng hàng thứ hai. Mọi người kể rõ
nguyên do [tìm kiếm], rồi vặn hỏi nguyên nhân. Người ấy suy nghĩ rất lâu, nói:
"Mấy năm trước, họ hàng tụ tập chuyện gẫu đùa cợt. Ngẫu nhiên nói tới một bà
góa thủ tiết trong thôn, bèn bảo [thủ tiết] khó tin quá! Bà ta nghe chuyện, phẫn
hận chết đi, chắc là chuyện ấy!" Do vậy, anh ta sợ hãi, không dám nộp quyển thi,
thâu thập hành lý ra khỏi lều thi, [bỗng dưng], vấp ngã nơi bậc thềm, bị thương ở
trán, đến sáng bèn chết. Có thể thấy tai hại của sự đùa bỡn, châm chọc. Đối với

   những chuyện liên quan đến danh tiết của người khác, trọn chẳng thể coi thường
thốt ra lời được!

   * Lam Nhuận Ngọc tuổi chớm hai mươi, rất mực tài hoa, phong thái thanh
tú. Các bạn học đều cho rằng anh ta sẽ đỗ đạt, vinh hiển. Gần chỗ anh ta ở là nhà
của một vị Thượng Thư nọ. Vị Thượng Thư có đứa con gái đã hứa hôn, nhưng
chưa gả. Cô ta tài sắc nức tiếng một thuở. Có lần, ngẫu nhiên Lam sinh thấy cô ta
lên xe; trở về, khát khao mơ tưởng. Một hôm, tản bộ nơi vườn sau, nghe cách
tường có tiếng con gái, trèo lên dòm trộm, biết đó là người [mình đã từng thấy]
trong xe, bèn ngấm ngầm khoét nửa viên gạch ở chân tường để hằng ngày ngắm
nghía. Được nửa năm, cô ta về nhà chồng. Chàng Lam không còn cách nào nhìn
trộm được nữa! Buồn bã, thất vọng quá sức. Do vậy, viết bài từ Trường Tương
Tư, bị một người bạn đọc được. [Người ấy] liền đốt ngay, lại căn dặn [Lam sinh]
đừng nói với ai, vì sẽ gây tổn hại rất lớn cho đức hạnh. Lam sinh cười chê lời ấy
là vớ vẩn. Về sau, vào trường thi, đêm mộng thấy bị một vị thần khoét mắt. Chàng
ta nằm ngủ mà mắt rất đau, hai tròng mắt như bị kim đâm, chẳng thể mở mắt
được. Do vậy, phải để giấy trắng. Trở về nhà, vẫn không ngừng đau, rồi mù cả
hai mắt. Đến khi yết bảng, người bạn thiêu hủy bài từ ấy được xếp đỗ đầu.
* Công tử X... ở đất Ngô, do muốn gian dâm một bà góa, bèn cùng với gã
bạn hợp ý bày mưu tính kế. Người bạn liền bày một kế, ước hẹn sẽ thực hiện vào
ngày nào đó. Đến ngày ấy, cha hắn mộng thấy một vị thần mặc áo đỏ bảo: "Con
trai ngươi lẽ ra đỗ đạt; do có tâm thuật bại hoại kẻ khác, công danh bị tước sạch.
Thằng bạn kia vốn nghèo hèn, lại vì người khác bày mưu xấu xa, ắt sẽ bị cắt từng
tấc ruột". Ông bố kinh hãi, tỉnh giấc, tới ngay thư phòng, quả nhiên nghe tin gã
bạn ấy rên siết đau bụng rồi chết. Công tử cũng dần dần phát cuồng, đầu bù tóc
rối lang thang khắp phố phường, trọn chẳng thể cứu chữa!
* Có người họ Hoàng Phủ ở Chiết Giang, đậu Tiến Sĩ dưới đời Càn Long.
Sau khi bị bãi quan, bèn làm chủ giảng tại thư viện Lệ Trạch. Về sau, chỉ có hai
vợ chồng già [sống cô quạnh], chết trong nghèo túng. Ông ta thường nói với người
khác: "Khi ta làm Tri Huyện ở huyện nọ, có đứa môn sinh là X... có tài nhưng vô
hạnh. Sau khi đậu kỳ thi Hương, nó chê người vợ đã đính hôn [nhưng chưa cưới]
nghèo hèn. Nhằm lúc cô ta mắc bệnh cổ trướng, nó vu khống cô ta chửa hoang,
thưa lên tôi, xin ly hôn. Khi đó, tôi xử oan cô ta, chẳng cho cô ta biện bạch. Cô ta
rút dao tự mổ bụng [minh oan]. Chuyện được tâu lên trên, thằng học trò ấy phải
đền tội, mà tôi cũng bị bãi chức. Tôi chỉ có một đứa con, đã từng thi đậu, nào ngờ
giữa ban ngày, thấy nữ quỷ ấy hiện ra, chết tươi! Nay vợ chồng tôi già cả, không
nơi nương cậy, mắt sắp thấy chính mình trở thành quỷ tha hương, không ai cúng
tế! Quả báo cũng thảm khốc thay!"

( Chú thích

   89 Theo lề lối thi cử thuở ấy, thí sinh phải nộp những quyển giấy trắng đã đóng bìa theo
đúng quy định, trang đầu viết tên tuổi, quê quán v.v... Nhân viên trường thi thu lấy, kiểm
xem có đúng quy định hay không, sau đó sẽ đóng dấu vào chỗ giáp trang. Đến hôm thi, sẽ
phát ra, trả lại cho thí sinh viết bài thi vào đó. Trước khi nộp quyển thi, thí sinh phải kiểm
lại, ghi rõ những chữ nào đã sửa vì bị viết sai, thiếu nét, bao nhiêu chữ vì phạm húy mà
viết bớt nét v.v... để khi giám khảo chấm bài sẽ trình lên chủ khảo, chứng minh bài thi ấy
do chính thí sinh viết, không có chuyện tráo bài hay ngụy tạo, cũng như đảm bảo không
có chuyện giám khảo vì cảm tình riêng mà sửa chữ trong bài văn. Quyển thi phải lành lặn,
không được rách bìa, sứt trang, không được thiếu trang v.v...
90 Thuở trước, bút lông dùng xong thường nhúng nước cho sạch hết mực, rồi treo lên giá
bút cho ráo nước.

   91 Chỉ Sơn là một quả núi thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.

   92 Do khi xưa phụ nữ Trung Hoa bó chân, nếu tháo vải bó chân ra, chân sẽ bị thốn đau
không đi lại được. Trước khi ngủ, phải thay vải bó mới, rửa chân, ngâm hương liệu cho
khỏi hôi thối, bọc lại, dùng một loại hài mềm riêng để dùng khi cần đi lại trong nhà, khác
với loại hài cứng, thêu thùa công phu dùng để đi ra ngoài. Để giữ cho thân thể thơm tho,
nữ nhân cũng hay đeo những chiếc túi bằng lụa gấm, thêu thùa cầu kỳ, đựng hương liệu.
Ngay cả nam giới thuộc các dòng họ quyền quý cũng hay đeo túi thơm ngang thắt lưng.
Khi một cô gái có tình ý với ai thường đích thân thêu túi thơm tặng cho người ấy.
93 Hội Chân Ký còn gọi là Thôi Oanh Oanh Truyện, mô tả mối tình giữa Trương Quân Thụy
và Thôi Oanh Oanh. Theo bộ truyện đó, Thôi Oanh Oanh do theo mẹ đưa quan tài của cha
về quê, đã ở nhờ dãy sương phòng phía Tây chùa Phổ Cứu, đã gian díu với Trương Quân

   Thụy, ăn nằm với nhau trước khi cưới hỏi v.v... Đến đời Nguyên, Vương Thực Phủ biên
soạn thành tuồng hát có tên là Tây Sương Ký.
94 Do những buổi thi kéo dài từ sáng đến tối, thí sinh phải dựng lều trong khu vực trường
thi, đến tối được cấp đèn đuốc để tiếp tục viết bài cho đến khi nghe trống chấm dứt buổi
thi và quyển thi được thu hồi.
95 Nhạc Phủ (樂府) là một loại thơ, thuộc vào trong ba hình thức thơ cổ điển của Trung Hoa
(tức Cổ Thi, Cận Thể Thi, và Nhạc Phủ). Nhạc Phủ vốn là loại thơ có thể phổ nhạc để ca
hát. Vì thế, sau này bất cứ loại thi ca nào có thể phổ nhạc đều có thể gọi là Nhạc Phủ. Nhạc
Phủ là danh xưng từ đời Tần để chỉ cơ quan quản lý âm nhạc của triều đình. Các triều đại
sau gọi cơ quan ấy là Nhạc Phủ Lệnh hoặc Nhạc Phủ Thự. Điểm đặc sắc của lối Nhạc Phủ
là chịu ảnh hưởng các bài thơ trong kinh Thi, chú trọng mô tả hiện thực, có âm điệu du
dương, văn tự uyển chuyển, chú trọng miêu tả khắc họa và tự sự, dần dần diễn biến thành
nhiều loại như ca, hành, ngâm, khúc, nhạc, lộng, tháo, dẫn v.v... Những tác phẩm nổi tiếng
như Lệ Nhân Hành, Binh Xa Hành của Đỗ Phủ, Trường Hận Ca, Tỳ Bà Hành của Bạch Cư
Dị được coi là tiêu biểu cho lối tân nhạc phủ.

   96 Tư văn (斯文) là từ ngữ dùng để chỉ người có học thức, có sự hàm dưỡng, lễ độ, biết tôn
trọng người khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, từ ngữ này được dùng để chỉ giới nho sĩ.)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: