thienlongbatbo4
Hồi 25(a)
Mãng Thương Đạp Tuyết Hành
Vi vu tuyết thổi mịt mùng,
Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.
*
* *
Tiêu Phong đi được khoảng trên mười dặm, thấy bên cạnh đường có một cái miếu nhỏ liền đi vào trong điện, ngồi dựa lưng vào tường đánh một giấc đến hơn hai giờ, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, lại tiếp tục đi về hướng bắc. Đi thêm bốn chục dặm nữa đi đến nơi cửa ải quan yếu của miền bắc là Trường Đài quan. Việc đầu tiên là đi kiếm một quán rượu gọi ngay mười cân rượu trắng, hai cân thịt bò, một con gà quay, một mình ngồi ăn uống. Hết mười cân rồi lại gọi thêm năm cân nữa, còn đang uống dở bỗng nghe tiếng bước chân
một người nào đó đi vào, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Con bé này đến làm mình uống rượu mất hết cả hứng thú. Ông quay mặt đi làm như không nhìn thấy. A Tử mỉm cười, đến ngồi ngay trước bàn đối diện với ông, gọi lớn:
- Điếm gia, điếm gia, đem rượu lên đây!
Một tên hầu bàn vội vàng chạy đến cười nói:
- Tiểu cô nương, cô cũng uống rượu sao?
A Tử mắng liền:
- Cô nương là cô nương, hà cớ gì lại phải thêm một chữ tiểu? Ta sao lại không uống rượu được? Mau đem lên cho ta mười cân rượu trắng trước, sau đó lấy thêm năm cân, còn đồ nhắm lấy hai cân thịt bò, một con gà quay, mau, mau!
Tên tửu bảo le lưỡi một hồi, kêu lên:
- ối mẹ ơi! Cô nương nói thật hay nói chơi, còn bé thế này làm gì mà ăn nhiều vậy?
Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: Cô nương này đang châm chọc ông đó, ông uống gì cô ta uống nấy, ông ăn gì cô ta gọi nấy. A Tử đáp:
- Ai bảo ta còn bé? Bộ ngươi không có mắt hay sao? Hay là ngươi sợ ta ăn uống không tiền trả?
Nói xong lấy một đĩnh bạc trong túi ra, cạch một tiếng vứt ngay lên trên bàn, nói:
- Ta uống không hết, ăn không hết, cho chó ăn không được hay sao? Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?
Tên hầu bàn cười nịnh đáp:
- Dạ! Dạ!
Y lại liếc Tiêu Phong một cái nghĩ thầm: Cô này quả là định gây chuyện, nói bóng nói gió để chửi ông đó. Chỉ một chốc đồ ăn thức uống đã dọn lên, gã tửu bảo đem một cái bát lớn đặt ngay trước mặt cô gái cười nói:
- Cô nương, để tôi rót rượu cho cô nhé!
A Tử gật đầu nói:
- Hay lắm!
Tên tửu bảo liền rót cho cô gái một bát rượu đầy, trong bụng nghĩ thầm: Cô mà uống hết bát rượu này, không lăn quay ra sàn nhà thì mới là lạ. A Tử hai tay bưng bát rượu lên, để vào môi nhắp một ngụm, nhăn mặt nói:
- Cay quá, cay quá! Liệt tửu này khó uống quá. Trên đời này nếu không có mấy đứa ngu xuẩn chịu uống thì rượu các ngươi bán được cho ai?
Người hầu bàn liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy ông trước sau mặc kệ không lý đến không khỏi cười thầm. A Tử lại xé hai chiếc đùi gà, cắn một miếng nói:
- Xì, thịt gì ươn quá!
Tên tửu bảo liền cãi lại:
- Con gà béo ngậy thơm nức mũi thế này, mới sáng nay còn kêu cục cục, thịt mới nguyên nóng sốt, sao lại ươn được?
A Tử nói:
- Hừ, thế thì chắc người mi hôi, hoặc giả khách khứa trong tửu điếm này hôi.
Khi đó ngoài trời bông tuyết đang rơi, trên đường nào có ai, trong quán rượu này chỉ có Tiêu Phong và cô nàng là hai người khách. Tên tửu bảo vội cười:
- Thân thể tôi hôi hám đó, đương nhiên là người tôi hôi rồi. Cô nương ăn nói nên cẩn thận kẻo vô ý mích lòng người khác.
A Tử đáp:
- Thế thì đã sao? Mích lòng người ta không lẽ một chưởng đánh chết ta chăng?
Nói xong cầm đũa gắp một miếng thịt bò, cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên:
- ối trời, sao thịt bò gì chua thế, cái này đâu phải thịt bò mà là thịt người. Các ngươi bán thịt người, bộ đây là hắc điếm hay sao?
Tên tửu bảo quýnh quáng vội nói:
- Chao ôi, cô nương làm ơn làm phước đừng có la ầm lên thế. Thịt này là thịt bò tươi, sao lại bảo là thịt người? Thịt người làm gì mà thớ to như thế? Làm gì mà đỏ au như thế này?
A Tử nói:
- Giỏi nhỉ, ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt người. Ta hỏi ngươi, quán của các ngươi giết bao nhiêu người rồi?
Gã hầu bàn gượng cười đáp:
- Gớm sao cô nương này thích nói bông lơn quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, chúng tôi mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt bao giờ?
A Tử nói:
- Được rồi, giả tỉ như không phải thịt người thì cũng giống gì hôi rình, chỉ có mấy đứa khùng mới chịu ăn. ối chà, giày ta đi trời tuyết sao dơ quá chừng.
Nói rồi cô ta liền cầm một miếng thịt bò xào đang còn bốc hơi thơm phức, chà lên giày bên trái. Mũi giày vốn đầy những bùn bị cô ta quệt đi, một nửa bên liền sạch bùn đất, mỡ màng xoa lên lập tức bóng lộn. Gã tửu bảo thấy cô gái dùng miếng thịt mà đại sư phụ nơi nhà bếp đã dụng công nấu nướng để chùi giày, tiếc hùi hụi, đứng một bên mà luôn mồm suýt soa. A Tử hỏi:
- Ngươi suýt soa gì thế?
Tên hầu bàn đáp:
- Thịt bò xào của tiểu điếm xưa nay vẫn được coi là một tuyệt phẩm của Trường Đài trấn, chung quanh đây một trăm dặm, ai ai nghe tiếng cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi, nuốt nước miếng ừng ực, vậy mà cô nương lại đem dùng chùi giày, cái đó ... cái đó ...
A Tử trừng mắt nhìn y hỏi:
- Cái đó làm sao?
Gã tửu bảo đáp:
- Xem chừng coi nhẹ quá.
A Tử nói:
- Ngươi bảo ta coi nhẹ đôi giày ư? Thịt cũng ở con bò mà ra, da đóng giày cũng ở con bò mà ra, có bên nào nhẹ hơn bên nào đâu. Này, quán đây còn món gì ngon đặc biệt nữa? Nói cho ta nghe thử xem nào.
Tên tửu bảo đáp:
- Món đặc biệt thì dĩ nhiên là có. Có điều giá cả không phải rẻ.
A Tử lấy trong túi ra một thỏi bạc, quăng xuống bàn kêu cạnh một tiếng hỏi lại:
- Bây nhiêu đủ không?
Tên hầu bàn thấy đĩnh bạc đó nặng phải đến năm lượng, dẫu đến hai mâm rượu thịt cũng đủ, vội vàng cười nịnh:
- Đủ chứ, đủ chứ, quá đủ là khác! Những món đặc biệt của tiểu điếm, có cá chép nấu rượu, thịt cừu non xắt lát, thịt heo hầm tương ...
A Tử cướp lời:
- Được lắm, mỗi thứ làm cho ta ba tô.
Tên tửu bảo nói:
- Cô nương nếu muốn nếm thử, chắc là mỗi thứ gọi một tô cũng đủ ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ta bảo ba tô là ba tô, việc gì đến ngươi?
Gã hầu bàn vội đáp:
- Dạ, dạ!
Lập tức dài giọng ngân nga kêu xuống:
- Cá chép nấu rượu ba tô! Cừu non xắt lát ba tô ...
Tiêu Phong ở bên cạnh thản nhiên ngồi xem, biết tiểu cô nương này gây chuyện làm phiền gã hầu bàn, cốt để cho mình ở ngoài chõ vào can thiệp nên cứ làm như không nghe không thấy, thản nhiên uống rượu thưởng tuyết. Một hồi sau, thịt cừu bốc hơi nghi ngút bưng lên, A Tử nói:
- Để một bát ở đây, một bát đem qua mời vị gia đài ngồi bên còn một bát nữa để nơi bàn kia. Bên đó cũng dọn đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.
Tên hầu bàn bèn hỏi:
- Bộ có khách sắp đến hay sao?
A Tử trừng mắt nhìn y nói:
- Ngươi sao lắm lời, coi chừng ta cắt lưỡi ngươi đó.
Gã tửu bảo le lưỡi, đùa lại:
- Muốn cắt lưỡi tiểu nhân chỉ e cô nương không đủ bản lãnh.
Tiêu Phong thót ruột, liếc y một cái nghĩ thầm: Bộ ngươi muốn tìm cái chết hay sao? Sao dám ăn nói kiểu đó với con tiểu ma đầu này? Tửu bảo mang thịt cừu lên đặt trên bàn Tiêu Phong, ông chẳng nói chẳng rằng cầm đũa gắp ăn. Lại một lát sau, cá chép nấu rượu, thịt heo kho tương cũng đem lên, mỗi thứ ba tô, một tô đưa cho Tiêu Phong, một tô cho A Tử, còn một tô để riêng một bàn bên cạnh. Tiêu Phong hễ thấy đồ ăn đem tới đều không từ chối, lập tức ăn uống tự nhiên. A Tử mỗi bát chỉ gắp một miếng rồi chê:
- Hôi quá, thịt rữa cả rồi, chỉ đáng cho chó ăn.
Vừa nói vừa cầm thịt cừu, cá chép, thịt heo đem ra chùi giày. Tên hầu bàn tuy sót ruột thật nhưng đành chịu, biết làm sao. Tiêu Phong trông ra ngoài cửa sổ, nghĩ thầm: Con tiểu ma đầu này quả là đáng ghét, để nó lẽo đẽo theo mình thì hậu hoạn không biết đâu lường được. A Châu gửi ta lo cho nó, con này thuộc loại quỉ thành tinh, thị lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến mình phải lo. Chi bằng mình tránh trước là hơn, cứ làm như không thấy. Còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy từ xa trên con đường đầy tuyết một người đi tới. Trời đang mùa đông tháng giá vậy mà y chỉ phong phanh một chiếc áo chùng đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì. Chỉ chốc lát đã đến gần, thấy y chừng bốn mươi tuổi, hai tai đeo hai cái vòng lớn bằng vàng sáng choang, mồm rộng mũi to như mũi lân, hình dáng vừa dữ dằn vừa ngụy bí, hiển nhiên không phải người Trung Thổ. Người đó đi tới trước cửa quán, vén màn bước vào chợt thấy A Tử hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng lập tức tỏ ra vui mừng, dường như định nói gì lại thôi, rồi ngồi xuống cái bàn bên cạnh. A Tử nói:
- Có rượu thịt, sao không ăn đi?
Người kia thấy một chiếc bàn bỏ không nhưng bày đầy thức ăn liền nói:
- Để dành cho ta đấy ư? Đa tạ sư muội.
Nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong túi ra một chiếc dao nhỏ, cán vàng, cắt thịt bò ra, lấy tay nhón ăn, ăn vài miếng lại uống một bát rượu, tửu lượng xem ra không dở. Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra gã này cũng là học trò của Tinh Tú Lão Quái. Ông vốn không ưa hình mạo cử chỉ của người kia, nhưng thấy y uống rượu cũng khá nên cảm thấy không đến nỗi hoàn toàn đáng ghét. A Tử thấy y uống cạn một hồ rượu rồi, quay sang nói với gã tửu bảo:
- Lấy chỗ rượu này đem qua cho vị gia đài kia.
Nói xong thò hai tay vào trong bát rượu trước mặt, xoa xoa vài cái, rửa sạch dầu mỡ dính trên tay, sau đó đẩy cái bát ra. Gã hầu bàn nghĩ thầm: Rượu này còn uống thế nào được nữa?. A Tử thấy có vẻ ngần ngại không dám bưng bát rượu đi liền giục:
- Mau bưng qua bên kia, người ta đang đợi.
Gã tửu bảo cười:
- Cô nương có nói chơi không chứ rượu này làm sao uống nữa?
A Tử vênh mặt lên nói:
- Ai bảo là không uống được? Ngươi cho là tay ta dơ phải không? Đã vậy, ngươi uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.
Nói xong thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc nhỏ chừng một lượng, quẳng xuống bàn. Tên hầu bàn mừng quá nói:
- Uống một hớp được một lượng bạc, thế thì tốt quá. Chẳng nói rượu này cô nương rửa tay qua, mà dẫu có nước rửa chân, tiểu nhân cũng uống.
Nói xong bưng bát rượu lên, nốc ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào trong mồm thật chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ chạm vào lưỡi, gã tửu bảo rát quá chịu không nổi, rống lên một tiếng há hốc mồm, rượu phun tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, kêu toáng lên:
- ối mẹ ơi! Trời ơi là trời! ối mẹ ơi!
Tiêu Phong thấy thần tình y như vậy cũng giật mình kinh hãi, thấy tiếng kêu của y càng lúc càng ú ớ khó nghe hiển nhiên đầu lưỡi đã sưng tấy lên rồi. Trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp chính, đứa quạt lò, cùng những tên hầu bàn khác nghe tiếng kêu đều chạy ra, hỏi rối rít:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
Tên tửu bảo hai tay ôm mặt, không còn nói năng gì được nữa, lè lưỡi ra, thấy sưng to bằng ba lần bình thường, màu đen kịt. Tiêu Phong lại càng hoảng hốt: Đây là y bị trúng độc cực mạnh. Con tiểu ma đầu này chỉ nhúng ngón tay vào trong rượu một chốc mà rượu đã độc đến như thế. Mọi người thấy đầu lưỡi của gã hầu bàn quái lạ như vậy ai cũng kinh hoàng, nhốn nháo cả lên:
- Trúng phải chất độc gì vậy?
- Có phải bị rết cắn không?
- Trời ơi, không thể chần chờ, mau mau đi mời thầy thuốc.
Tên tửu bảo giơ tay chỉ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quì xuống rập đầu lạy như tế sao. A Tử cười nói:
- ấy chết! Ta không dám nhận, ngươi cầu xin ta chuyện gì?
Người hầu bàn ngẩng lên, chỉ chỉ vào miệng mình, rồi lại tiếp tục khấu đầu. A Tử cười hỏi:
- Muốn ta trị cho ngươi, có phải không?
Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào vào người liên tiếp, lại tiếp tục rập đầu, rồi chắp tay vái. A Tử thò tay vào bọc, lấy ra một chiếc dao nhỏ cán vàng, giống hệt chiếc dao của gã mũi lân, một tay nắm sau gáy tên tửu bảo, tay phải múa kim đao, soẹt một tiếng nhỏ đã cắt đứt một khúc lưỡi của y. Người chung quanh thất thanh kêu la, thấy máu tên hầu bàn phun ra như suối, y kinh hãi nhưng máu chảy ra rồi, độc tính liền giảm hẳn, bao nhiêu đau đớn trên đầu lưỡi đều hết ngay, chỉ trong giây lát vết sưng liền xẹp xuống. A Tử lại lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng, búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, máu nơi vết thương liền chảy chậm lại. Tên tửu bảo tuy tức lắm nhưng không dám nổi giận, tạ ơn thì không đành lòng, vẻ mặt cực kỳ ngượng nghịu, chỉ ú ớ:
- Ngươi ... ngươi ...
Đầu lưỡi y đã bị cắt một khúc, nói năng không còn rõ ràng. A Tử thò tay cầm lại đĩnh bạc, cười nói:
- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu sẽ cho ngươi một lượng bạc, nhưng vừa rồi ngươi đã nhổ rượu ra rồi, thành thử không tính, ngươi uống lại đi.
Gã hầu bàn xua tay liên tiếp, ú ớ nói:
- Ta ... ta không muốn, ta không uống.
A Tử bỏ đĩnh bạc vào túi, cười nói:
- Thế hồi nãy ngươi bảo sao? Hình như là Muốn cắt lưỡi tiểu nhân ư? Chỉ e cô nương không đủ bản lãnh, có phải không? Thế sao ngươi lại lạy lục ta xin ta cắt lưỡi? Ta hỏi ngươi: Cô nương có đủ bản lãnh không?
Tên tửu bảo bấy giờ mới hiểu ra, tất cả mọi việc chẳng qua chỉ vì mình lỡ lời một câu, trong lòng giận đến cực độ, toan xông lên đánh cho cô nàng một trận nhừ đòn, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người đàn ông cao to hùng tráng, xem ra cùng bọn với cô ta nên cũng khiếp. A Tử lại tiếp:
- Thế ngươi có chịu uống không?
Gã hầu bàn giận dữ đáp:
- Ông ... ông không ...
Y toan chửi mấy câu nhưng chợt nghĩ lại e rằng lại làm cho cô ta nổi nóng, vừa giận vừa sợ, quay mình chạy vào nội đường, không dám thò đầu ra nữa. Bọn chưởng quĩ ai nấy xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử rồi quay trở về chỗ làm, sai một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này thấy tình cảnh vừa rồi, run như cầy sấy, một câu cũng không dám hở môi. Tiêu Phong cực kỳ tức tối: Tên tửu bảo kia chẳng qua chỉ nói đùa một câu, vậy mà ngươi trừng trị y đến chung thân tàn phế, từ nay không còn nói năng rõ ràng được. Mới tí tuổi đầu, hành sự sao lại độc ác đến thế. Chỉ nghe A Tử nói:
- Tửu bảo, đem bát rượu này qua cho vị gia đài kia uống.
Nói xong giơ tay chỉ vào gã mũi lân. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ vào bát rượu, giật nảy mình, đến khi thấy nàng bảo đem qua cho người khác uống, lại càng khiếp vía. A Tử cười nói:
- à, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là muốn tự mình uống chứ gì? Có gì không được, ngươi cứ việc uống đi.
Tên tửu bảo sợ đến mặt xám ngoét, ấp úng:
- Không, không! Tiểu nhân ... tiểu nhân không uống!
A Tử nói:
- Vậy thì mau đem đi.
Tên tửu bảo đáp:
- Vâng! Vâng!
Hai tay trịnh trọng bưng bát rượu, lập cập đi qua bàn bên gã mũi lân ngồi, chỉ sợ sóng sánh đổ ra ngoài, tay run rẩy, lúc bát rượu đặt xuống vẫn còn lạch cạch mãi. Gã mũi lân hai tay bưng bát rượu lên, chăm chăm nhìn, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đem tới gần hơn nữa, cũng không để lại trên bàn. A Tử cười nói:
- Nhị sư ca, sao thế? Tiểu muội mời sư ca uống rượu, sao sư ca nể mặt chút nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bát rượu này độc ghê gớm, người này đương nhiên không để bị khích mà bỏ mạng lãng nhách. Nội công dù cao cường cách mấy cũng khó mà kháng cự lại được chất độc trong rượu này. Ngờ đâu gã mũi lân vẫn chăm chăm nhìn thêm một lát rồi đưa bát lên môi, ùng ục ùng ục uống vào ruột. Tiêu Phong kinh ngạc, nghĩ thầm: Người này không lẽ có nội lực cực kỳ thâm hậu, có thể hóa giải chất kịch độc đó?. Còn đang kinh nghi đã thấy y uống cạn bát rượu, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái lên vạt áo. Tiêu Phong hơi suy nghĩ, hiểu ngay: Đúng rồi, trước khi y uống rượu đã thò hai ngón tay vào, cầm chén một hồi chưa uống, chắc là ngón tay có thuốc giải, hóa tán kịch độc trong rượu. A Tử thấy y uống hết chỗ rượu độc rồi vẻ mặt liền hoảng hốt, gượng cười nói:
- Bản lãnh hóa độc của nhị sư ca tiến bộ thật, quả đáng mừng!
Gã mũi lân không đáp, lại hùng hục ăn uống nhồm nhoàm, chỉ một chốc đồ ăn trên bàn mười phần còn một hai, giơ tay vỗ bụng, đứng lên nói:
- Thôi đi!
A Tử đáp:
- Xin sư ca tự tiện, chúng mình sẽ gặp lại sau.
Tên mũi lân trợn tròn đôi mắt quái dị nói:
- Cái gì mà gặp lại sau? Ngươi phải đi theo ta.
A Tử lắc đầu:
- Tiểu muội không đi.
Cô ta chạy sang bàn Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội và vị đại ca này có hẹn trước, phải cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.
Gã mũi lân trừng trừng nhìn Tiêu Phong, hỏi lại:
- Thằng cha này là ai?
A Tử đáp:
- Cái gì mà thằng cha với chả thằng mẹ? Sư ca phải nói năng cho lễ phép. Đây là anh rể của tiểu muội, còn tiểu muội là em vợ của anh ấy, hai người là chỗ chí thân.
Gã mũi lân nói:
- Ngươi ra đề mục ta đã làm văn rồi, ngươi phải vâng lời ta. Ngươi định vi phạm môn qui của bản môn chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra khi A Tử bảo y uống rượu độc, ấy ra ra một thai đố, có ngờ đâu y ngang nhiên tiếp nhận. A Tử đáp:
- Ai bảo là tiểu muội ra đề mục? Sư ca bảo chuyện uống rượu ấy à? Ha ha, cười đến chết được, bát rượu đó là để cho gã tửu bảo uống. Còn đường đường môn hạ Tinh Tú phái, lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo dơ dáy kia uống không chết, sư ca lại uống nữa thì có gì là ghê gớm? Tiểu muội hỏi sư ca, tên xú tửu bảo kia có chết không? Không chứ gì? Đến hạng người đó uống còn được, lẽ nào đề mục lại dễ dàng đến thế?
Câu nói đó quả là cãi chầy cãi cối nhưng muốn vặn lại cô ta cũng không phải dễ. Gã mũi lân cố nén giận nói:
- Sư phụ ra lệnh cho ta dẫn ngươi về, ngươi dám chống lại sư môn chăng?
A Tử cười đáp:
- Sư phụ cưng em lắm, xin nhị sư ca về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp ông anh rể, muốn cùng đi Giang Nam chơi một chuyến, tiện thể tìm mua biếu sư phụ ít món châu báu cổ vật, sau đó sẽ về.
Gã mũi lân lắc đầu:
- Không được, ngươi lấy của sư phụ ...
Nói đến đây y liếc Tiêu Phong dò chừng, dường như sợ tiết lộ chuyện cơ mật, ngừng lại một chút nói tiếp:
- Sư phụ nổi cơn lôi đình, bảo ngươi phải về ngay lập tức.
A Tử năn nỉ:
- Nhị sư ca đã biết sư phụ nổi giận rồi sao còn ép tiểu muội phải trở về, có phải định cho em nếm mùi khổ sở hay sao? Lần sau sư phụ trách mắng nhị sư ca, tiểu muội sẽ không xin xỏ giùm cho đâu nhé!
Câu đó dường như khiến cho gã mũi lân chạnh lòng, lập tức tỏ ra do dự ắt hẳn Tinh Tú Lão Quái có chiều sủng ái cô ta, nói gì sư phụ cũng chiều theo. Y trầm ngâm giây lát nói:
- Nếu ngươi bướng bỉnh không chịu quay về thì đưa cái vật đó cho ta. Ta đem về giao hoàn cho sư phụ để làm bằng, có thế cơn giận của lão nhân gia mới hạ xuống.
A Tử nói:
- Sư huynh nói chi? Cái vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì cả.
Gã mũi lân sầm mặt xuống nói:
- Này sư muội, ta không động thủ mạo phạm ngươi vì nghĩ đến tình nghĩa đồng môn, ngươi phải biết phải biết quấy chứ?
A Tử cười đáp:
- Tiểu muội đương nhiên biết phải biết quấy, sư ca đến ăn nhậu với tiểu muội, cái đó là phải; còn sư ca ép ta quay về gặp sư phụ, cái đó là quấy.
Gã mũi lân nói:
- Vậy ngươi muốn sao? Nếu ngươi không giao lại cái vật đó thì theo ta về.
A Tử đáp:
- Ta không về, cũng chẳng hiểu sư ca nói cái gì. Sư ca muốn có cái gì trên người tiểu muội chăng? Được rồi ...
Nói xong rút trên tóc một cái trâm cài nói:
- Nếu sư ca muốn có vật gì làm tin để giao lại cho sư phụ thì cầm cái châu thoa này vậy.
Gã mũi lân hầm hè:
- Ngươi nhất định ép ta phải ra tay hay sao?
Nói xong y liền tiến lên một bước. A Tử thấy y thản nhiên uống cạn bát rượu độc, bản lãnh sử độc so với mình cao hơn nhiều, đến cả nội lực võ công, không môn gì mình có thể địch với y được. Phái Tinh Tú võ công âm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, địch nhân trúng đòn không chết cũng trọng thương, bị thương rồi còn phải bị biết bao dày vò, lúc chết thật là thảm khốc. Sư huynh đệ trừ khi tranh đoạt vị thứ cao thấp trong môn phái phải đem tính mạng ra đánh đổi, trước nay không bao giờ cùng nhau sách chiêu luyện quyền vì đã sách chiêu là có hơn thua, đã phân hơn thua ắt có kẻ chết. Thành thử trong đám sư phụ đệ tử với nhau không ai thi diễn công phu bao giờ. Tinh Tú Lão Quái truyền thụ yếu quyết luyện công xong, ai nấy tự mình tu luyện, cao thấp sâu nông chỉ một
mình mình biết, chỉ đến khi đối địch mới biết ai mạnh ai yếu. Cứ theo đúng môn qui của phái Tinh Tú cô ta đã đem độc tửu ra để thử tài đồng môn, ấy là một chuyện hết sức quan trọng, nếu gã mũi lân chịu thua thì mọi sự đều phải để nàng sai khiến, còn đây không do dự uống bát rượu độc vào bụng, nếu A Tử không có cách gì phản bại vi thắng, thì phải nhất nhất nghe lời y, nếu không sẽ bị cái họa sát thân ngay. Cô nàng thấy sự tình gấp gáp, vội nắm tay áo Tiêu Phong, kêu lên:
- Tỉ phu ơi, y định giết em kìa! Tỉ phu cứu em với.
Tiêu Phong thấy cô ta đầu một tiếng tỉ phu, cuối một tiếng tỉ phu, không khỏi thảng thốt, nghĩ đến lời trối trăn của A Châu nên định bụng sẽ đánh đuổi gã mũi lân đi. Thế nhưng vừa ngó qua thấy trên máu me đầy mặt đất, nhớ lại A Tử đối phó với tên hầu bàn độc ác như thế, phải để cho cô nàng chịu ít nhiều đau khổ, bị trừng trị một phen cho đáng kiếp, nên vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ làm như không biết. Gã mũi lân cũng chẳng muốn hạ sát thủ với A Tử, chỉ muốn cô ta biết mình ghê gớm cỡ nào, mất vía một phen mà ngoan ngoãn theo mình về, lập tức vươn tay phải ra chộp ngay cổ tay trái Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy vai phải của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, cũng chẳng thèm để ý, để cho y chộp cổ tay. Da cổ tay ông vừa chạm vào vào tay y, liền thấy nóng như than, biết ngay lòng bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, vội vàng vận chân khí lên cổ tay, cười nói:
- Cái gì thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?
Ông đưa tay rót hai bát rượu nói:
- Xin mời!
Gã mũi lân liên tiếp vận nội lực nhưng thấy Tiêu Phong vẫn như không, làm như không hay biết gì cả, nghĩ thầm: Ngươi đừng đắc ý vội, rồi coi độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào. Y bèn nói:
- Uống thì uống, có gì không dám?
Y cầm bát rượu lên, uống ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội tức từ trong ngực dội ngược trở lên, nhịn không nổi Oa lên một tiếng, bao nhiêu rượu phun ra hết khiền cho vạt áo trước ướt đầm đìa, sau đó ho sặc sụa một hồi lâu. Việc xảy ra khiến y kinh hãi thất sắc, nội tức nghịch lưu rõ ràng là do nội lực của đối phương truyền vào thân thể mình, nếu như muốn lấy mạng mình thật dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay Tiêu Phong như có một sức hút thật mạnh, bàn tay y dính chặt vào đó, không cách nào thoát ra được. Gã mũi lân sợ quá, dùng sức dãy dụa, Tiêu Phong ngồi yên không động đậy mà y vẫn chẳng khác gì lay cột đá. Tiêu Phong lại rót bát rượu khác nói:
- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay, được chăng?
Gã mũi lân lại cố gắng giựt tay về nhưng không cách nào thoát được, tay trái liền nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chưởng lực chưa đến, Tiêu Phong đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi thối tha chẳng khác gì một con cá chết sình, tay phải liền nhẹ nhàng vung lên gạt ra. Chưởng đó gã mũi lân sử dụng toàn lực, ngờ đâu thế đánh đi được nửa chừng, bị đẩy xéo đi, không cách gì có thể thu về được, biết ngay đối phương đã mượn sức khiến cánh tay y không thể nào điều khiển được nữa, đẩy tới đánh mạnh vào vai phải của chính mình, chỉ nghe lốp cốp, khớp xương vai đã bị trật ra rồi. A Tử cười nói:
- Sao nhị sư ca tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhân nhượng gì cả? Tiểu thật muội không hiểu có dụng ý gì?
Gã mũi lân tức giận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải dính cứng vào cổ tay Tiêu Phong rồi, không sao thoát ra được, tay trái đâu đám đánh tiếp, giãy dụa lần thứ ba không thoát, bèn thúc đẩy nội lực, truyền chất độc súc tích trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay địch nhân, lập tức bị dội ngược trở về, lại không chỉ ngừng lại tại thủ chưởng, mà vẫn tiếp tục chạy lên khiến gã cực kỳ kinh hãi vội vàng vận nội lực đề kháng. Thế nhưng luồng nội lực chứa đầy chất độc đó thật chẳng khác nào sóng biển tràn vào sông, chỉ khoảnh khắc đã đến khuỷu tay, rồi chạy thẳng lên nách, từ từ đổ vào lồng ngực. Gã mũi lân làm gì chẳng biết chất độc của mình lợi hại là nhường nào, chỉ cần xâm nhập tâm tạng là chết ngay, khiến y sợ đến mồ hôi đổ ra như tắm, nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà. A Tử cười nói:
- Nội công nhị sư ca cao cường thật. Trời đông giá rét thế này, vậy mà vẫn mồ hôi mồ kê đầm đìa, tiểu muội thật bội phục hết sức.
Gã mũi lân còn thì giờ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử, biết mình đường cùng nhưng chẳng lẽ bó tay chịu chết, càng hết sức thúc đẩy nội lực, hi vọng giữ lâu thêm được chút nào hay chút ấy. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này với mình không thù không oán, tuy y ra tay hạ độc thủ với mình trước nhưng cũng chẳng cần giết y làm gì!. Đột nhiên ông thu nội lực về. Gã mũi lân thấy sức hút nơi tay mình không còn nữa, nội lực cùng chất độc đang kề bên tâm tạng lập tức chảy ngược về chưởng tâm, vừa mừng vừa sợ, vội vàng lùi lại hai bước, mặt tái mét không còn giọt máu, thở hồng hộc, nhưng không dám tiến đến gần Tiêu Phong. Y mới rồi chết đi sống lại, thực đúng là đến quỉ môn quan lại quay về. Gã tửu bảo hoàn toàn nào có biết gì, vội đến rót rượu cho y. Gã mũi lân tung ra một chưởng, đánh trúng ngay mặt y, gã hầu bàn chỉ kêu lên được một tiếng, ngã ngửa ra. Tên mũi lân liền chạy vọt ra cửa, chạy thẳng về hướng tây nam, rồi nghe một hồi còi thật mơ hồ, thật sắc nhọn từ xa truyền đến. Tiêu Phong lại coi gã tửu bảo thấy mặt y đen sì, chỉ giây lát đã chết ngay, không khỏi nổi cơn thịnh nộ, quát lên:
- Tên này quả là đáng ghét, ta đã tha mạng cho y, cớ sao lại ra tay giết người?
Ông đẩy bàn toan đuổi theo. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.
Nếu như A Tử chỉ gọi ông Này, hay Kiều bang chủ, Tiêu đại ca gì đó, Tiêu Phong cũng chẳng thèm nghe đâu, thế nhưng hai tiếng tỉ phu khiến ông nhớ đến A Châu, lòng chua xót hỏi lại:
- Cái gì?
A Tử đáp:
- Nhị sư ca không phải đáng ghét đâu, y ra tay không đả thương được anh, chất độc không thể tán phát, không giết một người không được.
Tiêu Phong biết trong võ công tà phái có một môn gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào địch nhân thì cũng phải đánh con bò con ngựa gì đó, giết chết một con vật, nếu không chất độc chạy ngược trở vào mình, bèn nói:
- Nếu muốn tán độc, sao y không kiếm một con vật mà đánh? Sao lại vô duyên vô cố giết người là sao?
A Tử liếc xác người hầu bàn nằm dưới đất, cười nói:
- Những kẻ ngu độn như thế có khác gì bò ngựa, giết y với giết một con vật cũng vậy thôi.
Cô ta thuận miệng nói ra như một chuyện đương nhiên là thế. Tiêu Phong cảm thấy lạnh người: Con bé này tính tình tàn nhẫn quá, mình lo cho nó làm gì?. Ông thấy người trong quán lại chạy ra, không muốn thêm phiền phức, vội lẻn ra khỏi cửa tiệm chạy về hướng bắc. Ông nghe thấy tiếng bước chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ nhảy mấy bước đã bỏ cô ta thật xa, bỗng nghe tiếng A Tử uyển chuyển từ xa vọng tới:
- Tỉ phu ơi, đợi em với, em ... em không theo kịp.
Lúc trước Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô ta, thấy thần tình cử chỉ cô nàng sinh bụng chán ghét, lúc này nghe từ phía sau gọi tới, nghe êm ái chẳng khác gì giọng A Châu lúc sinh thời. Hai người chị em cùng một bọc tuy mới sinh ra đã chia tay, nhưng cùng cha cùng mẹ, nên cách ăn nói, giọng điệu cũng hệt nhau. Tiêu Phong trong lòng rung động, dừng chân quay đầu lại, mắt rưng rưng thấy mờ mờ hình ảnh một thiếu nữ trên tuyết địa chạy tới, thật không khác gì A Châu sống lại. Ông giang cánh tay ra, thốt lên tiếng gọi nho nhỏ:
- A Châu! A Châu!
Chỉ trong giây lát, ông tưởng chừng mình và A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay về Trung Nguyên, đường đi hai người thân mật, má tựa vai kề, rồi một thân hình mềm mại ấm áp sà vào lòng, kêu lên:
- Tỉ phu, sao không đợi em?
Tiêu Phong giật mình choàng tỉnh, giơ tay nhè nhẹ đẩy nàng ra nói:
- Ngươi đi theo ta làm chi?
A Tử nói:
- Tỉ phu đánh đuổi nhị sư ca giúp em, em phải tạ ơn chứ?
Tiêu Phong thản nhiên nói:
- Chẳng cần phải cảm ơn. Cũng chẳng phải ta có ý giúp ngươi mà vì y ra tay đánh ta, ta chỉ tự vệ để khỏi chết dưới tay y.
Nói xong lại quay người bước đi. A Tử chạy lên nắm cánh tay ông, Tiêu Phong hơi nghiêng người, A Tử liền chộp hụt, lỡ trớn ngã xoài về phía trước. Cứ như võ công cô ta ắt có thể tự mình đứng lên được, thế nhưng cô nàng được dịp nhõng nhẽo, ngã xuống rồi, liền nằm luôn trên tuyết, kêu lên:
- ối chao! Đau muốn chết được!
Tiêu Phong biết cô ta giả vờ, nhưng nghe giọng kiều mị của A Tử, trong lòng lại nhớ đến A Châu, cảm thấy thật là êm ái, lập tức quay người, đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy, thấy cô gái đang mủm mỉm cười. A Tử nói:
- Tỉ phu ơi, chị em xin anh lo lắng cho em, sao anh không nghe lời chị ấy? Em chỉ là một cô gái nhỏ, cô khổ lênh đênh, biết bao nhiêu người định hiếp đáp em, sao anh không ngó ngàng gì tới?
Mấy lời đó nghe thật là thiết tha Tiêu Phong biết là mười phần đến chín là giả dối nhưng vẫn thấy mềm lòng hỏi lại:
- Ngươi theo ta thì được gì? Ta trong lòng u uất, không thiết gì nói chuyện với ai. Ngươi làm chuyện sái quấy thì ta lại ngăn cản.
A Tử đáp:
- Tỉ phu trong lòng u uất có tiểu muội đi theo giúp anh giải sầu, dần dần chẳng khuây khỏa hơn sao? Mỗi khi tỉ phu uống rượu, em sẽ rót rượu cho, khi nào thay quần áo ra, tiểu muội sẽ may vá giặt giũ. Nếu tiểu muội làm gì sai có tỉ phu ngăn cản thì còn gì hơn. Tiểu muội từ bé cha mẹ đã không thèm nuôi, không ai dạy dỗ, việc gì cũng không thông ...
Nói đến đây cô nàng dường như nghẹn ngào, ứa nước mắt. Tiêu Phong nghĩ thầm: Chị em cô này quả là có thiên tài đóng kịch, tài nghệ đánh lừa người khác đã đến mức lô hỏa thuần thanh, thật là cao minh. Cũng may ta đã biết cô ta hành sự độc ác, nên không để mắc mưu. Cô ta định theo mình không biết có mưu tính gì? Hay là sư phụ cô ta sai đến ám hại ta chăng? Ông cảm thấy hơi chột dạ: Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái? Có khi chính là y không chừng?. Nhưng ông lại nghĩ ngay: Tiêu Phong đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một đứa con gái nhỏ lén hạ độc thủ hay sao? Chi bằng tương kế tựu kế, cứ cho nó theo để xem nó còn giở trò gì, đâu biết chừng nhờ có nó mà mình báo được mối thù. Ông liền nói:
- Nếu đã thế, ngươi cùng đi với ta. Mình nói trước với nhau, nếu như ngươi giết người đánh người càn rỡ thì ta không tha đâu nhé.
A Tử le lưỡi nói:
- Nếu như người ta hại em trước thì sao? Nếu như người em giết là kẻ xấu thì sao?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Con nhãi con này giảo hoạt lắm, nếu như nó ra tay giết người thể nào chẳng mồm năm miệng mười bảo là người ta đánh nó trước, đối phương rõ ràng là người ngay, nó sẽ bảo là nhận lầm. Ông bèn nói:
- Dù xấu hay tốt ngươi cũng chẳng phải lo đến. Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả, nói đi nói lại, ngươi tuyệt đối không được động thủ với ai.
A Tử vui mừng nói:
- Được rồi, tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng do tỉ phu chống đỡ hết.
Nói rồi thở dài:
- Ôi, anh bất quá chỉ là anh rể mà đã quản thúc em chặt chẽ đến thế. Chị em nếu không chết mà lấy phải anh, chắc còn bị giám sát chặt chẽ đến chừng nào?
Tiêu Phong nổi giận, toan lớn tiếng la rầy một phen nhưng lại cảm thấy đau lòng, thấy ánh mắt A Tử lóe ra đầy vẻ tinh quái, tự hỏi: Mình nói thế sao con bé này lại có vẻ hả hê vậy nhỉ?. Ông nhất thời chưa nghĩ ra nên không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới chợt nghĩ ra: Chết rồi! Chắc là cô ta có đại đối đầu, đại cừu nhân đang định gây chuyện nên đánh lừa để cho mình nhận lời bảo vệ cho. Mình bảo Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả thì có nghĩa là nhận lời trông nom cô ả rồi. Thực ra không cần biết cô ta đúng hay sai, dẫu mình chẳng nói ra chăng nữa thì một khi đã ở bên cạnh mình, mình lẽ nào lại để cô ả bị lép vế". Đi thêm một dặm nữa, A Tử nói:
- Tỉ phu ơi! Để em hát cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong đã có chủ ý: Dù cô nàng có ý định gì mình cũng nhất định không nghe. Mình càng gắt gao cô ta càng có lợi. Ông bèn đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Thế em ra câu đố để tỉ phu đoán, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu hát cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
Cô ta liên tiếp hỏi đến mười bảy, mười tám câu liền, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi đều nhất nhất cự tuyệt. A Tử lại nói:
- Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong thuận mồm đáp:
- Không được.
Hai tiếng đó vừa buột mồm liền biết ngay mình nói hớ, cô ta hỏi là Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng? mà lại trả lời Không được, thì hóa ra là mình bắt nàng phải thổi sáo rồi. Ông nói rồi cũng không để ý nữa, nếu ngươi muốn thổi sáo thì cứ thổi đi. A Tử thở dài nói:
- Cái gì cũng không chịu, thật khó chiều quá, nếu nhất định bắt em phải thổi sáo thì cũng đành phải chiều.
Nói xong rút trong tút ra một chiếc địch bằng ngọc. Cái ngọc địch đó ngắn lạ lùng, chỉ dài chừng bảy tấc, toàn thân trắng tinh, bóng lộn thật đẹp đẽ. A Tử đưa lên môi, nhẹ nhàng thổi, một âm thanh sắc nhọn truyền ra thật xa. Mới rồi gã mũi lân bỏ đi, cũng có phát ra một tiếng còi lanh lảnh như thế. Tiếng sáo vốn dĩ nhẹ nhàng êm ái nhưng tiếng từ chiếc địch ngọc này nghe thật thê lương, không có vẻ gì vui thú. Tiêu Phong chỉ hơi suy nghĩ đã biết ngay lý do, trong bụng cười khẩy: Đúng rồi, thì ra ngươi ước định đồng đảng, mai phục chung quanh đâu đây, định tập kích ta, Tiêu mỗ lẽ nào lại sợ cái bọn hồ quần cẩu đảng này? Có điều không có gì thích lắm. Ông biết môn hạ Tinh Tú Lão Quái võ công cực kỳ âm độc, nếu chỉ sơ sẩy một chút là trúng ám toán ngay. Chỉ nghe tiếng địch của A Tử lúc thì cao, lúc thì thấp, như heo bị cắt tiết, như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái xinh xắn hoạt bát như thế, cầm một ống sáo ngọc bóng loáng dễ thương nhưng lại thổi ra một điệu cực kỳ rùng rợn càng làm tăng thêm vẻ tà ác của phái Tinh Tú. Tiêu Phong cứ mặc cô ta vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một đường núi dài và hẹp vắt ngang một đỉnh núi, nghĩ thầm: Địch nhân nếu như phục kích thì hẳn phải ở chỗ này. Quả nhiên lên trên núi rồi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn đằng trước. Cả bốn người đó đều mặc áo dài bằng vải gai màu vàng, phục sứ giống hệt gã mũi lân vừa
gặp trong quán rượu. Bốn người đó không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, trong tay người nào cũng cầm cương trượng dài ngoằng. A Tử không thổi sáo nữa, dừng chân lại, gọi:
- Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca, các vị khỏa cả chứ? Sao thật khéo quá, mọi người ai cũng tụ lại đây là sao?
Tiêu Phong cũng ngừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: Để xem chúng bay giở trò gì?. Trong bốn người, gã đứng đầu là một người trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân đánh giá một hồi rồi mới hỏi:
- Tiểu sư muội khỏe chứ? Ngươi sao lại đả thương nhị sư ca?
A Tử thất kinh kêu lên:
- Nhị sư ca bị thương sao? Ai đả thương thế? Vết thương có nặng hay không?
Người đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp:
- Ngươi còn giả ngây giả dại nữa sao? Nhị sư ca bảo là chính ngươi gọi người đả thương y đó.
Người nói lùn xủn, lại đứng sau cùng, toàn thân bị ba người đứng trước che khuất, Tiêu Phong không nhìn thấy y hình dáng ra sao nhưng nghe y nói năng liến thoắng cũng đủ biết tính tình nóng nảy nhưng cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ biết cánh tay rất khỏe, nhưng vì trời sinh thấp lùn nên muốn tìm cách nổi trội hơn người. A Tử nói:
- Bát sư ca nói gì đó? Nhị sư ca bảo là anh gọi người đánh y sao? Chao ôi, sao anh lại nỡ nào hạ độc thủ? Sư phụ lão nhân gia mà biết thì chẳng thể nào tha thứ cho bát sư ca đâu, không lẽ anh không sợ hay sao?
Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy nhổm lên, tay cầm cương trượng động xuống đá ầm ầm, miệng gào lên:
- Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu.
A Tử nói:
- Cái gì? Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu! Đúng quá, sư ca thú nhận rồi. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca ba người chính tai nghe thấy nhé, bát sư ca nói là y giết chết nhị sư ca, phải rồi, chắc là bát sư ca dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư ca.
Gã lùn lại gào lên:
- Ai bảo nhị sư ca chết đâu! Y chưa chết, thụ thương đâu phải do Tam Âm Ngô Công Trảo...
A Tử cướp lời:
- Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo sao? Thế hẳn là do Trừu Tủy Chưởng, ngón nghề ruột của bát sư ca, nhị sư ca sơ xẩy không để ý nên bị trúng ám toán, ngươi ... ngươi quả là ghê gớm thật.
Gã lùn càng nổi điên lên, quát lớn:
- Tam sư ca mau động thủ, bắt con tiểu tiện nhân này về, về để bắt lại, xin sư phụ phát lạc, nó ... nó ... nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng biết nói những gì, chẳng đâu ra đâu ...
Giọng y vốn đã khó nghe, lại thêm gấp gáp càng lắp bắp, không hiểu muốn nói gì. Gã mập liền nói:
- Động thủ thì chưa cần, tiểu sư muội xưa nay vốn ngoan ngoãn, chịu nghe lời. Tiểu sư muội, ngươi đi theo bọn ta thôi.
Gã mập đó nói năng chậm rãi, xem ra vẻ người dễ tính. A Tử cười đáp:
- Được rồi, tam sư ca bảo sao thì tiểu muội làm vậy, xưa nay em vẫn nghe lời sư ca.
Gã mập cười khà khà nói:
- Nếu thế thì hay lắm, chúng mình đi thôi.
A Tử đáp:
- Được rồi, xin chư vị cứ tự tiện.
Gã lùn ở phía sau lại rống lên:
- ấy, ấy, chư vị tự tiện là thế nào? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.
A Tử cười nói:
- Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau.
Gã lùn nói:
- Không được! Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta mới xong.
A Tử nói:
- Thế cũng được! Có điều ông anh rể của tiểu muội lại không chịu.
Nói rồi chỉ vào Tiêu Phong. Gã lùn nói:
- Ai là anh rể ngươi? Sao ta không thấy đâu cả?
A Tử cười nói:
- Bát sư ca cũng cao quá nên anh rể tiểu muội cũng không thấy đâu cả.
Chỉ nghe coong một tiếng, cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, thân hình bay vọt lên, cả người lẫn gậy đã vọt qua khỏi đầu ba người đứng trước rơi xuống trước mặt A Tử, quát lên:
- Mau theo bọn ta trở về.
Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào đầu vai cô gái. Gã này tuy lùn tịt nhưng hông to vai nở, nhìn ngang trông cũng khá vạm vỡ, động tác thật là nhanh nhẹn. A Tử không tránh, không né cứ để mặt y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào đầu vai cô ta bỗng y hơi chần chừ rồi ngừng lại, hỏi:
- Ngươi đã dùng nó rồi ư?
A Tử hỏi:
- Dùng cái gì?
Gã lùn đáp:
- Tự nhiên là Thần Mộc Vương Đỉnh ...
Bốn chữ Thần Mộc Vương Đỉnh vừa buột khỏi miệng, ba người kia đã cùng quát lên:
- Bát sư đệ, ngươi nói gì đó?
Thanh âm cực kỳ gay gắt, gã lùn lật đật lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt. Tiêu Phong lập tức suy tính: Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, quyết không phải chuyện đùa. Bọn chúng mai phục nơi đây sao không ra tay mà còn cãi nhau ỏm tỏi, không lẽ sợ không địch lại mình, hay còn đang chờ thêm ngoại viện?. Chỉ thấy gã lùn giơ tay ra nói:
- Đưa đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Gã lùn đáp:
- Là cái Thần ... Thần ... cái đó đó.
A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.
Câu đó vừa nói ra, ánh mắt cả bốn người liền quay về phía Tiêu Phong, đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn này quả là đáng ghét, mình cũng chẳng nên dây dưa với chúng làm chi. Ông chậm rãi đứng lên, bất thần hai chân búng một cái bay vọt qua đầu bốn người kia. Hành động đó vừa kỳ quái, vừa nhanh nhẹn, cả bọn không thấy ông chạy hay cong chân nhún lấy đà, chỉ thấy trước mắt thấp thoáng, gió trên đầu hơi động, Tiêu Phong đã ở phía sau bốn người rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la om sòm, xoay người lại đuổi theo nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng. Bỗng nghe vù một tiếng thật mạnh, một món binh khí nặng nề phóng vào sau lưng. Tiêu Phong không cần quay đầu lại, biết là có người dùng cương trượng ném tới, lật ngược tay trái đón ngay lấy chiếc gậy. Cả bốn người cùng hung hăng quát tháo, lại có thêm hai chiếc cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại đưa tay về sau bắt được. Mỗi chiếc gậy phải đến năm chục cân, cả ba chiếc ở trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân nhưng bước chân ông không chậm lại chút nào, chỉ nghe vụt một tiếng, lại một chiếc nữa ném tới. Chiếc gậy này bay tới tiếng kêu mạnh hơn cả, rõ ràng nặng nề hơn hết ắt hẳn là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Mấy thằng mọi này chẳng biết phải quấy, phải cho chúng biết tay mới được. Ông nghe thấy tiếng gió bay tới sau ót, chỉ còn cách chừng hai thước liền thò tay về sau bắt được. Bốn người ném gậy ra đã tính toán nếu như đối phương tránh né cũng không phải dễ, trong bốn cái thể nào cũng có một hai chiếc gậy trúng vào người chứ đời nào lại để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ đâu Tiêu Phong thản nhiên như không bắt được tất cả, ai nấy vừa kinh hãi vừa tức tối, lập tức lao xao chạy đuổi theo. Tiêu Phong dụ cho chúng chạy theo một quãng, bất thần đứng chựng lại. Bốn gã kia đang ra sức đuổi theo, không hãm kịp lao cả vào người ông, vội vàng đứng lại ai nấy thở hồng hộc. Tiêu Phong theo tiếng gậy ném tới và cách bọn chúng chạy theo biết rằng võ công chỉ bình thường, mỉm cười hỏi:
- Các vị đuổi theo tại hạ có điều gì dạy bảo chăng?
Gã lùn lắp bắp:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi là ai? Võ ... võ công ... ngươi thật là ghê gớm.
Tiêu Phong cười đáp:
- Có gì ghê gớm đâu.
Ông vừa nói vừa vận sức vào bàn tay, ấn một cây cương trượng lún xuống dưới tuyết. Sơn đạo đó đất thật cứng, chỉ thấy chiếc gậy ngắn dần, đến khi chỉ còn khoảng hai thước bấy giờ Tiêu Phong mới buông ra, giơ chân phải lên dậm xuống một cái, cả cây gậy liền lún tịt xuống. Bốn người kẻ thì mắt trợn tròn, kẻ thì mồm há hốc. Tiêu Phong cứ từng chiếc một ấn xuống, sau cùng đạp một cái cắm thẳng vào mặt đất. Đến chiếc sau cùng, gã lùn liền nhảy tới, quát lên:
- Chớ có đụng đến binh khí của ta.
Tiêu Phong cười nói:
- Được, trả lại ngươi đây.
Tay phải cầm cương trượng lên, nhắm thẳng vào vách núi phóng một cái, nghe keng một tiếng, chiếc gậy tám thước phải đến năm thước lún vào trong đá. Nơi chiếc gậy cắm vào đá là một vùng đá đen cực kỳ cứng rắn, vậy mà Tiêu Phong ném sâu đến thế, chính ông cũng phải ngạc nhiên bụng bảo dạ: Mấy tháng nay mình có biết bao chuyện ưu phiền, lo lắng mà công phu không sút chút nào, ngược lại còn tiến bộ nhiều là khác. Nửa năm trước e rằng ta ném không được mạnh đến như vậy. Bốn người kia không hẹn mà cùng kêu la rầm rĩ, vẻ mặt hết sức kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi:
- Tỉ phu, công phu đó của anh thật là hay, dạy cho em nhé!
Gã lùn giận dữ nói:
- Ngươi là môn hạ đệ tử phái Tinh Tú sao lại còn đi nhờ người ngoài dạy võ nghệ là thế nào?
A Tử nói:
- Y là anh rể ta đâu có phải người ngoài?
Gã lùn nóng lòng lấy lại binh khí, tung mình nhảy lên, thò tay chộp lấy cây cương trượng. Ngờ đâu Tiêu Phong đã tính toán tài nghệ khinh công của y nông sâu cỡ nào, nơi cương trượng cắm vào vách đá phải cách mặt đất đến một trượng bốn năm thước, bàn tay gã lùn còn cách cây trượng khoảng một thước, chưa chạm được tới nơi. A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay lắm, bát sư ca ơi, nếu như anh nhổ được binh khí cầm tay tiểu muội sẽ theo sư ca đi gặp sư phụ liền, nếu không thì đừng hòng.
Gã lùn lần nhảy vừa rồi đã sử dụng hết sức bình sinh, nhưng khinh công y có hạn nên nhảy cao hơn một tấc đã khó khăn biết là chừng nào, nghe A Tử giở giọng khích bác, trong bụng tức lắm, lại phóng mình nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa quả nhiên chạm được vào cây trượng. A Tử cười nói:
- Chạm đến không tính, phải nhổ ra được kìa.
Gã lùn cực kỳ giận dữ, công phu so với bình thường tăng vọt lên, hai chân dùng hết sức, tấm thân lùn xủn to bè bè của y liền bung lên, hay tay chộp vội quả nhiên đã nắm được cây gậy rồi. Thế nhưng tới đây thân hình y lủng lẳng giữa trời, lúc lắc đong đưa nhưng không cách nào xuống được. Y hết sức lay chiếc cương trượng nhưng chiếc gậy dài tám thước này đã cắm sâu vào nham thạch đến năm thước, dù có lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì, cảnh tượng đó trông thoạt kê biết mấy. Tiêu Phong cười nói:
- Tiêu mỗ xin lỗi không thể chờ được.
Nói xong ông quay bước ra đi. Gã lùn kia bằng giá nào cũng không chịu buông tay, y đối với võ công mình cũng biết thừa, vừa rồi nhảy lên nắm được cây gậy cũng là may lắm, nếu như rơi xuống đất rồi, lần sau nhảy lên khó mà cách nào với tới được. Cây cương trượng đó là món võ khí y hết sức quí mến, nặng cũng vừa, cầm gọn tay, dẫu có đánh cái khác cũng chưa chắc được như thế. Y lay cây gậy mấy lần nhưng không chuyển động chút nào bèn kêu lên:
- Này này, mau bỏ Thần Mộc Vương Đỉnh lại, nếu không thì hậu hoạn không biết đâu mà kể.
Tiêu Phong hỏi:
- Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế?
Ba người đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói:
- Các hạ võ công xuất thần nhập hóa, chúng tôi hết sức bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài thì chẳng dùng được vào việc gì, mong các hạ giao lại, chúng tôi ắt sẽ hậu tạ.
Tiêu Phong xem bộ dạng bọn họ xem chừng không phải giả dối, cũng không phải mai phục nơi đây để tấn công mình liền nói:
- A Tử, mau đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đưa ra ta coi xem đó là cái gì nào?
A Tử nói:
- Trời ơi, tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà? Đưa ra hay không đưa ra là toàn do tỉ phu thôi. Tỉ phu ơi, hay là tỉ phu giữ luôn cho được việc.
Tiêu Phong nghe nói đoán chừng cô ả đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ bảo là giao lại cho mình rồi ắt hẳn muốn đứng ra chịu trận, bèn tương kế tựu kế, cất tiếng cười ha hả nói:
- Ngươi giao cho ta biết bao nhiêu món, ta nào có biết cái nào là Thần Mộc Vương Đỉnh đâu!
Gã lùn đang bông bênh giữa lưng chừng trời, lập tức chõ miệng vào:
- Đó là một cái đỉnh gỗ nho nhỏ, cao chừng sáu tấc màu vàng sậm.
Tiêu Phong kêu lên:
- ồ, cái đó ư? Ta biết rồi, chẳng qua chỉ là một món đồ chơi be bé chứ có dùng làm việc gì được đâu?
Gã lùn nói:
- Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi be bé? Cái mộc đỉnh ...
Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên:
- Sư đệ chớ có nói nhăng nói càn.
Y quay sang nói với Tiêu Phong:
- Tuy đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của ... là của ... phụ thân gia sư ban cho, thành thử không thể để mất, xin các hạ làm ơn trả lại cho, chúng tôi cực kỳ cảm kích.
Tiêu Phong đáp:
- Ta tiện tay quăng bỏ, không biết vứt đâu mất rồi, có kiếm lại được không kể cũng khó nói. Nếu các ngươi quả thực muốn lấy lại thì ta phải quay lại Tín Dương kiếm thử xem, có điều đường sá xa xôi, bây giờ quay lại thì thật phiền quá đi mất.
Gã lùng liền láu táu xen vào:
- Quả muốn lắm chứ, sao lại không muốn lấy? Chúng mình mau ... mau ... quay về Tín Dương đi thôi.
Y nói xong liền thả tay rơi xuống, đến binh khí của mình cũng không còn ngó ngàng gì nữa. Tiêu Phong giơ tay vỗ vỗ lên đầu nói:
- Hừ, mấy hôm nay chẳng uống được bao nhiêu rượu, trí nhớ sao kém quá, cái mộc đỉnh nhỏ kia, không biết vứt ở Tín Dương hay ở tại Đại Lý, hừ, không chừng ở Tấn Dương ...
Gã lùn vội kêu lên:
- ấy, ấy, ngươi nói gì đó? Xem lại xem ở Đại Lý hay tại Tấn Dương nào? Thiên nam địa bắc, không phải chuyện đùa đâu nhé!
Gã mập biết Tiêu Phong cố tình gây khó khăn bèn nói:
- Các hạ chẳng cần phải cố tình bỡn cợt làm chi, nếu như chiếc đỉnh đó hoàn hảo trở về, chúng tôi thể nào cũng hậu tạ, quyết không nuốt lời.
Tiêu Phong đột nhiên thất kinh kêu lên:
- Chết rồi, không xong, ta nghĩ ra rồi.
Cả bốn người kinh hãi hỏi dồn:
- Gì thế?
Tiêu Phong đáp:
- Cái mộc đỉnh đó ở nhà Mã phu nhân, mới rồi ta châm lửa, đốt cháy rụi rồi còn đâu, không biết cháy to thế có hỏng mất không?
Gã lùn thất thanh kêu lên:
- Sao lại không hỏng, cái đó ... cái đó ... tam sư ca, tứ sư ca, bây giờ biết làm sao. Ta không biết, sư phụ nếu trách phạt, không liên quan gì đến ta cả. Tiểu sư muội, ngươi đích thân đến bẩm với sư phụ, ta, ta không dám đâu.
A Tử cười nói:
- Tiểu muội nhớ hình như không phải ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư ca, tiểu muội xin lỗi, các vị ở đây nói chuyện với tỉ phu.
Nói xong nghiêng người lách qua chen lên trước mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn người kia nói:
- Các ngươi nếu nói cho rõ ràng lai lịch Thần Mộc Vương Đỉnh cùng dùng để làm gì không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm, nếu không, tại hạ xin lỗi không thể hầu tiếp được.
Gã lùn liên tiếp xoa tay nói:
- Tam sư ca, không còn cách nào khác, chi bằng nói cho y hay cho xong!
Gã mập nói:
- Được, để ta nói cho các hạ hay ...
Tiêu Phong đột nhiên lao mình tới bên cạnh gã lùn, vươn tay chộp luôn vào nách y nói:
- Mình đi tới đằng kia, ta chỉ nghe ngươi nói, không nghe y.
Ông biết rằng gã mập trông mặt mũi thực thà, kỳ thực cực kỳ giảo hoạt, không câu nào nói thật, chỉ có gã lùn tính thẳng lại nhanh mồm nhanh miệng, không quen nói láo. Ông xách gã lùn lên, chạy vọt lên trên vách núi. Vách núi thật là cheo leo, vốn dĩ không thể nào bám víu vào đâu mà trèo lên được, nhưng Tiêu Phong đề khí chạy thẳng lên, chỉ một hơi đã chạy được hơn chục trượng, thấy một mỏm đá thò ra, liền đặt gã lùn ngồi ngay đó, còn mình một chân đứng một chân giơ ra ngoài không nói:
- Ngươi nói ta nghe đi!
Gã lùn ở chỗ giữa lưng chừng trời, đưa mắt nhìn xuống, không khỏi hoa mắt choáng váng, vội nói:
- Mau ... mau thả tôi xuống!
Tiêu Phong cười nói:
- Ngươi tự mình nhảy xuống đi!
Gã lùn đáp:
- Chỉ nói lăng nhăng! Nhảy xuống có mà nát thây!
Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có đôi phần hảo cảm hỏi:
- Ngươi tên là chi?
Gã lùn đáp:
- Ta là Xuất Trần Tử.
Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: Cái tên đó phong nhã quá, chỉ có điều không xứng với thân hình lão huynh chút nào. Ông bèn nói:
- Xin lỗi ta không thể bồi tiếp, gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử lớn tiếng kêu lên:
- Không được, không được! Trời ôi, ta ... ta ngã xuống thì chết.
Hai tay y bám chặt lấy vách đá, ám vận nội kình định ôm lấy tảng đá nhưng chung quanh chỗ nào cũng trơn tuột, làm gì có chỗ nào mà tựa vào? Võ công y tuy không kém nhưng ở vào chỗ ba mặt chênh vênh như thế này, không khỏi cực kỳ kinh hãi. Tiêu Phong nói:
- Nói mau, Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta bỏ đi đó.
Xuất Trần Tử vội vàng đáp:
- Ta ... ta không nói không được hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Không nói không được, thôi để gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử vội vàng níu tay áo ông lại nói:
- Để ta nói, để ta nói. Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của môn phái chúng ta, dùng để tu tập Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ có nói là, người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến mất cả hồn vía, nếu thấy tòa Thần Mộc Vương Đỉnh ắt sẽ đập cho tan nát, cái đó ... cái đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ...
Tiêu Phong đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp từ lâu, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu, bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần phải hỏi thêm, giơ tay cầm ngay nách Xuất Trần Tử, chạy bon bon xuống. Chạy từ trên vách núi dựng đứng xuống, so với chạy lên còn nguy hiểm hơn nhiều, Xuất Trần Tử sợ đến la hét rầm lên, tiếng kêu chưa dứt, hai chân đã chạm đất rồi, mặt tái mét không còn hột máu, hai đầu gối run lập cập. Gã mập hỏi:
- Bát sư đệ, ngươi đã nói chưa?
Xuất Trần Tử hàm răng vẫn còn đánh vào nhau kêu lốp cốp, không nói nên lời. Tiêu Phong quay sang nói với A Tử:
- Đưa ra đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Tiêu Phong đáp:
- Thần Mộc Vương Đỉnh!
A Tử đáp:
- Thì anh đã chẳng bảo là để ở nhà Mã phu nhân hay sao? Sao lại còn hỏi tiểu muội?
Tiêu Phong ngắm cô gái, thấy nàng eo thon, áo quần mỏng mảnh, bên người xem ra không thể dấu chiếc một đỉnh cao sáu tấc được, nghĩ thầm: Con bé con này tinh quái lắm. Việc môn phái của nó mình vốn không muốn nhúng tay vào, bọn tà ma ngoại đạo này chẳng nên dây dưa để chúng cứ như oan hồn không tan luẩn quẩn bên mình, thật là khó chịu. Ông liền nói:
- Cái vật chi đó Tiêu mỗ có cũng vô ích, không thể nào lấy mà không chịu trả. Các ngươi tin cũng được, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo lỗi vậy.
Nói xong phi thân chạy đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ cả năm người ở lại thật xa. Bọn bốn người kia thấy ông thần uy như thế, đuổi theo thì không dám, còn đang bàn cãi Tiêu Phong đã không biết chạy tận nơi nào. Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm lúc ấy mới tìm được một cái quán ghé vào ăn cơm uống rượu. Chiều tối hôm đó, ông nghỉ lại Chu Vương điếm, vận nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, trong giấc mơ nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi khác, rồi phía đông nam cũng có tiếng đáp lại, tiếng còi chói tai nghe thật ghê rợn, chính là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng đã đến rồi đây, mặc kệ, chẳng việc gì đến mình. Đột nhiên có hai tiếng sáo ti ti vọng lên nghe thật gần, ngay tại trong khách điếm này, rồi có tiếng người nói:
- Dậy đi thôi, đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.
Lại một người khác nói:
- Bắt được rồi ư? Ngươi thử nghĩ thị liệu có sống được chăng?
Người trước nói:
- Làm sao biết được? Đi mau, đi mau!
Rồi có tiếng hai người đẩy cửa sổ, nhảy ra khỏi phòng. Tiêu Phong nghĩ thầm: Lại thêm hai môn hạ đệ tử nữa của phái Tinh Tú, té ra trong cái quán này có hai tên ẩn sẵn nơi đây, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì thành ra mình không biết. Hai đứa đó hỏi nhau A Tử có sống được không, tiểu cô nương này tuy tàn nhẫn độc ác thật nhưng không thể để cho cô nàng bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu. Nghĩ thế ông cũng nhảy ra khỏi phòng đuổi theo. Bỗng nghe tiếng địch nổi lên liên tiếp, chỗ này vừa thổi thì chỗ kia đáp lại, từ từ chuyển qua tây rồi xuống phía nam. Ông theo tiếng địch mà lần theo, chỉ giây lát đã đuổi kịp hai người từ khách điếm đi ra. Ông lặng lẽ theo sát hai gã đó giữ khoảng cách chừng mươi trượng, vượt qua hai ngọn núi thì thấy dưới sơn cốc có một đống lửa. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu xanh biếc trông cực kỳ ngụy bí khác hẳn lửa bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến chỗ đốt lửa, vừa tơi nơi đã quì phục xuống vái lạy. Tiêu Phong rón rén tới gần, ẩn thân sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy chung quanh đám lửa tụ tập đến hơn chục người, ai nấy đều mặc áo gai màu vàng, ánh lửa xanh chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo dài màu tím đứng đó, chính là A Tử. Hai tay nàng đã bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông thật thần bí. Mọi người không ai nói một lời chỉ chăm chăm nhìn ngọn lửa, tay trái để trên ngực, miệng lẩm bẩm không biết đang tụng niệm gì. Tiêu Phong biết rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo nên chẳng thèm để ý. Mới đây ông nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú bàn với nhau :Đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội, nhìn lại hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, động tác thần thái không ai có gì đặc biệt tỏ ra là một kẻ đứng đầu.
Bỗng nghe u u u mấy tiếng địch nhu hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại cùng hướng về phía có tiếng sáo kia khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi, nhưng không thèm quay lại. Tiêu Phong nhìn về phía có tiếng địch thấy một người áo trắng thong dong đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ thoáng một cái đã đến trước đống lửa, đưa một đầu
chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên môi, thổi vào đống lửa một cái, đám lửa lập tức tắt ngúm, rồi đột nhiên bừng lên thật to, nghe bùng một tiếng bay vọt lên trên không phải chừng hơn một trượng, lúc ấy mới từ từ rơi xuống. Mọi người cùng cất tiếng hô to:
- Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, khiến chúng ta ai nấy được một phen mở mắt.
Tiêu Phong nhìn vào gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên, người này đứng đầu cả bọn, tưởng phải là một lão già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, gương mặt xanh mét có ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong mới thấy y phiêu hành đến đây cùng công phu thổi tắt ngọn lửa, biết y nội lực không phải là kém nhưng cung cách thổi ngọn lửa xanh, kế đó bùng lên ắt không phải do nội công mà có lẽ trong ống sáo có để dược liệu dẫn hỏa gì đặc biệt. Gã đó quay sang nói với A Tử:
- Tiểu sư muội, ngươi quả là nở mày nở mặt, vì ngươi mà biết bao nhiêu người phải lao sư động chúng, từ biển Tinh Tú nghìn dặm xa xôi tới tận Trung Nguyên.
A Tử đáp:
- Đến cả đại sư ca cũng phải ra tay, tiểu muội quả thực vinh hạnh, thế nhưng nếu biết được cái chỗ dựa của tiểu muội thì e rằng cả bây nhiêu người xem ra chưa phải là đủ.
Gã đại sư huynh kia hỏi:
- Sư muội còn chỗ dựa ư? Không biết kẻ đó là ai thế?
A Tử đáp:
- Chỗ dựa ư, thì phải là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu của tiểu muội chứ còn ai.
Gã đại sư huynh hừ một tiếng nói:
- Sư muội từ tấm bé do sư phụ nuôi dưỡng cho đến lớn khôn, không cha không mẹ, sao tự nhiên lại ở đâu ra lắm thân thích đến thế?
A Tử đáp:
- Trời ơi, có ai mà lại không cha không mẹ, chẳng lẽ nứt trong đá ra hay sao? Có điều tên tuổi của cha mẹ tiểu muội là một đại bí mật không thể để cho mọi người ai cũng biết được đấy thôi.
Gã đại sư huynh hỏi:
- Thế thì cha mẹ của sư muội là ai?
A Tử đáp:
- Nói ra chỉ sợ mọi người sợ mất vía. Sư ca muốn tiểu muội nói ra thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.
Tên đại sư huynh nói:
- Mở khóa thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng ngươi phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước.
A Tử đáp:
- Vương đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca cũng đã đòi tỉ phu tiểu muội đưa ra, tiểu muội còn cách nào hơn được?
Gã đại sư huynh liền quay sang bốn người Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, hơi mỉm cười, thần sắc ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt liền biến sắc, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Xuất Trần Tử lắp bắp:
- Đại ... đại ... đại sư ca, chuyện này không liên quan gì đến sư đệ. Tỉ phu ... của thị tài giỏi quá, chúng tôi ... chúng tôi đuổi theo không kịp.
Gã đại sư huynh nói:
- Tam sư đệ, ngươi nói đi.
Gã mập đáp:
- Dạ, dạ!
Y liền thuật lại gặp Tiêu Phong thế nào, y bắt được bốn cái gậy của họ ra sao, rồi sau đó bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép buộc phải nói ra tất cả kể rõ không dám dấu diếm chút nào. Y vốn dĩ hành sự nói năng chậm rãi ra chiều kẻ cả nhưng lúc này giọng run run, chẳng khác gì đang ở vào cảnh đại họa lâm đầu. Xuất Trần Tử ấp úng:
- Sư đệ ... sư đệ ...
Gã đại sư huynh hỏi:
- Ngươi nói những gì nào? Nói lại cho ta nghe.
Xuất Trần Tử đáp:
- Sư đệ ... sư đệ nói ... cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó là một trong tam bảo của bản môn, để ... để ... luyện đại pháp đó. Đệ lại nói là sư phụ từng nói người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp của bản môn ai ai cũng bạt hồn bạt vía, nếu như thấy được cái đỉnh thể nào cũng đập cho tan nát. Đệ nói đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ... vì thế nên xin y làm ơn trả lại. Gã đại sư huynh nói:
- Hay lắm! Thế y trả lời sao?
Xuất Trần Tử đáp:
- Y ... y chẳng nói gì cả, chỉ thả sư đệ xuống thôi.
Gã đại sư huynh kia nói:
- Ngươi giỏi lắm! Ngươi nói cho y hay cái Thần Mộc Vương Đỉnh kia dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không biết Hóa Công Đại Pháp là môn gì nên nhấn mạnh hễ võ lâm Trung Nguyên nghe đến tên nó là ai cũng bạt hồn vía. Quả là hay thực, hay thực, chẳng hay y có phải là người trong võ lâm Trung Nguyên không nhỉ? Xuất Trần Tử lắp bắp:
- Sư đệ ... sư đệ ... không biết nữa.
Gã đại sư huynh hỏi vặn lại:
- Có thực là ngươi không biết, hay là ngươi biết?
Giọng y ôn hòa nhưng gã Xuất Trần Tử tính tình bộp chộp kia lại hồn bất phụ thể, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách, nói:
- Đệ ... lách cách ... đệ ... lách cách ... không ... biết ... lách cách ... nữa.
Tiếng lách cách là do hàm răng y chạm vào nhau, vì y không thể nào giữ cho khỏi kêu được. Gã đại sư huynh hỏi:
- Vậy y có bạt hồn bạt vía không? Hay là chẳng sợ gì cả.
Xuất Trần Tử lập cập đáp:
- Dường như là ... y ...y ... lách cách ...chẳng có gì ... chẳng có vẻ gì ... sợ cả.
Gã đại sư huynh hỏi thêm:
- Ngươi đoán thử xem vì cớ gì y lại không sợ?
Xuất Trần Tử đáp:
- Sư đệ đoán không ra, xin ... xin đại ... sư ca cho biết.
Gã đại sư huynh trả lời:
- Võ nhân Trung Nguyên sợ Hóa Công Đại Pháp của chúng ta lắm, nhưng để luyện môn Hóa Công Đại Pháp này thì không thể không dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay tòa Thần Mộc Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, Hóa Công Đại Pháp của chúng ta còn luyện sao được nữa, thành ra y chẳng sợ nữa.
Xuất Trần Tử vội hùa theo:
- Dạ, dạ, đại sư ca minh kiến vạn lý, liệu địch như thần, sư đệ ... sư đệ vạn vạn không thể theo kịp.
Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp các môn nhân đệ tử phái Tinh Tú, thấy trong tất cả có gã Xuất Trần Tử này là người tính tình bộc trực hơn cả, đối với y cũng có chút hảo cảm, thấy y sợ đại sư huynh đến như thế, có ý ra tay cứu y, ngờ đâu càng nghe càng thấy y chẳng đâu vào đâu, gã lùn này câu nào câu nấy hèn hạ, nịnh bợ hết chỗ nói. Tiêu Phong liền nghĩ: Gã này không phải là hảo hán tử, y chết hay sống chẳng mắc mớ gì đến ta. Gã đại sư huynh quay sang A Tử hỏi thêm:
- Tiểu sư muội, anh rể ngươi là ai thế?
A Tử đáp:
- Y ư? Nói ra e rằng khiến đại sư huynh phải giật mình.
Gã đại sư huynh nói:
- Ngươi cứ việc nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng danh tiếng lừng lẫy, Trích Tinh Tử này sẽ để tâm lưu ý.
Tiêu Phong thấy y tự thông báo đạo hiệu, nghĩ thầm: Trích Tinh Tử! Cái tên nghe lớn lối nhỉ?1 Xem thân pháp y phiêu hành mới rồi, khinh công tuy khá thật nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Đại ác Nhân. Lại nghe A Tử nói:
- Y ấy ư? Đại sư ca, trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?
Gã đại sư huynh Trích Tinh Tử đáp:
- Mọi người đều nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, không lẽ cả hai người này đều là anh rể ngươi hay sao?
Cơn giận Tiêu Phong xông lên nghĩ thầm: Tên tiểu tử này ăn nói lếu láo, để rồi ta cho ngươi biết phải biết quấy. A Tử cười khanh khách nói:
- Đại sư ca ăn nói quả là thú vị, tiểu muội chỉ có một người chị, làm thế nào có hai ông anh rể được?
Trích Tinh Tử mỉm cười đáp:
- Ta nào có biết ngươi chỉ có một người chị. Ôi, dẫu quả chỉ có một tỉ tỉ nhưng có đến hai ông anh rể cũng có gì là lạ lùng đâu.
A Tử nói:
- Tỉ phu của tiểu muội tính nóng lắm, lần sau nếu gặp lại anh ta, nếu tiểu muội nhắc lại câu nói của đại sư ca cho y nghe thì sư ca hẳn sẽ phải khổ thân. Tiểu muội nói cho sư ca nghe, tỉ phu của tiểu muội là bang chủ Cái Bang, uy chấn Trung Nguyên Bắc Kiều Phong đó.
Lời đó vừa nói ra, những người trong phái Tinh Tú đã từng gặp Tiêu Phong ai nấy kinh hoàng, nhịn không nổi cùng A lên một tiếng. Gã mũi lân nhị sư ca nói:
- Thảo nào! Thảo nào! Thua dưới tay y ta cũng đành lòng.
Trích Tinh Tử hơi nhíu mày nói:
- Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì kể cũng khó xoay sở.
Xuất Trần Tử tuy sợ hãi lắm nhưng cái tính lanh chanh cũng không chừa liền chõ mồm vào:
- Đại sư ca, gã Kiều Phong kia không còn làm bang chủ Cái Bang nữa, sư ca mới ở phương tây qua chắc là chưa nghe chuyện đại sự mới đây của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia, gã Kiều Phong kia đã bị bọn Cái Bang trục xuất ra khỏi bang rồi.
Việc không liên quan gì đến y ăn nói lại lưu loát hơn nhiều. Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt đang căng thẳng liền dãn ra, hỏi lại:
- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Có thật thế không?
Gã mập tam đệ tử liền đáp:
- Trên giang hồ ai cũng nói thế, còn nói y không phải người Hán mà là người Khất Đan, anh hùng Trung Nguyên ai cũng muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói người này giết cha, giết mẹ, giết sư phụ, giết bạn bè, hèn hạ đáng khinh, không chuyện ác gì là không làm.
Tiêu Phong ẩn nấp sau sơn thạch, nghe y kể lại những chuyện bất hạnh mình gặp phải trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng, dẫu ông võ công cái thế, can đảm hơn người nhưng thanh danh trên giang hồ tệ mạt như vậy, bị tất cả anh hùng thiên hạ coi khinh, sống trên đời thật là vô vị hết sức. Chỉ nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử:
- Sao chị ngươi lại chịu lấy một đứa như thế? Không lẽ người trên đời này chết hết không còn ai hay sao? Hay là bị y tiên gian hậu thú, cưỡng bức bắt phải làm vợ?
A Tử mỉm cười nói:
- Tại sao lại lấy y, tiểu muội cũng không biết nữa, có điều tỉ tỉ của tiểu muội bị y đánh một chưởng chết tươi.
Mọi người nghe thế đều kinh ngạc A lên một tiếng. Bọn này lòng dạ trơ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác nhưng nghe Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết thầy, giết bằng hữu chưa đủ, lại giết cả vợ con, thủ đoạn tàn nhẫn đến như thế thiên hạ quả là hiếm thấy mình quả không thể nào bằng được đành chịu ở vào thế hạ phong. Trích Tinh Tử nói:
- Cái Bang người nhiều thế mạnh quả là không phải dễ đối phó, nay Kiều Phong đã bị trục xuất khỏi bang rồi, mình còn sợ gì y nữa? Ha ha!
Y cười khẩy mấy tiếng nói tiếp:
- Cái gì mà Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, chẳng qua bọn võ lâm Trung Nguyên tự trương bảng huênh hoang, ta chẳng tin rằng hai gã đó lại chống nổi với thần công diệu thuật của phái Tinh Tú chúng ta đâu.
Gã mập liền hùa theo:
- Đúng thế! Đúng thế! Bọn sư đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư ca võ công siêu phàm nhập thánh, lần này đến Trung Nguyên, chính là lúc đem hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia giết quách để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú lợi hại là dường nào.
Trích Tinh Tử hỏi:
- Tên Kiều Phong kia đi về hướng nào?
A Tử đáp:
- Y nói y định ra ngoài Nhạn Môn Quan, nếu mình cứ đuổi theo thể nào rồi cũng bắt gặp.
Trích Tinh Tử nói:
- Đúng vậy! Nhị, tam, tứ, thất, bát năm vị sư đệ lần này gặp địch để bị thua, các ngươi tội đó tội gì?
Năm người khom lưng đáp:
- Cung lãnh đại sư ca trách phạt.
Trích Tinh Tử nói:
- Bọn chúng ta đến Trung Nguyên, có biết bao nhiêu việc phải làm, nếu cứ tội nào trị nấy thì không khỏi làm giảm số người của mình đi. Ôi, ta xem, thế thì đành ...
Y nói chưa hết câu tay trái đã vung lên, từ trong tay áo bay vụt ra năm đốm lửa màu xanh, chẳng khác gì năm con đom đóm, chia ra bắn vào đầu vai năm người, vừa đụng phải lập tức phát tiếng xèo xèo. Tiêu Phong ngửi thấy mùi khét lẹt của thịt cháy, nghĩ thầm: Tên này gớm thật, không lẽ y thiêu sống mấy người đó hay sao?. Đốm lửa chỉ giây lát liền tắt ngúm nhưng nét đau đớn trên khuôn mặt năm người càng lúc càng khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: Vật y ném ra là loại hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng bên trong còn chứa chất độc, nên khi lửa tắt rồi, độc tính mới lan ra trong thân thể khiến cho càng thêm đau đớn khó chịu. Chỉ nghe Trích Tinh Tử nói:
- Đây là Luyện Tâm Đạn. Các ngươi trải qua một phen mài dũa, tính chịu đựng sẽ tăng thêm, lần sau có gặp kình địch thì chẳng vừa đánh đã chịu thua, làm mất mặt phái Tinh Tú chúng ta.
Gã mũi lân và gã mập cùng đáp:
- Vâng, vâng! Đa tạ đại sư ca giáo huấn.
Ba người còn lại vẫn tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, không cách gì mở miệng nói năng được. Độ chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ và tiếng thở hắt ra của năm người lắng xuống dần. Trong thời gian đó những đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn năm người nghiến răng chịu đựng, ai nấy đều kinh hoàng run rẩy. Trích Tinh Tử đưa mắt chầm chậm nhìn sang Xuất Trần Tử nói:
- Bát sư đệ, ngươi tiết lộ chuyện cơ mật trọng đại khiến cho trọng bảo của bản môn có nguy cơ bị hủy diệt, thì phải chịu xử tội thế nào?
Xuất Trần Tử mặt mày biến sắc, đột nhiên hai đầu gối khuỵu xuống, quì dưới đất van xin:
- Đại sư ... đại sư ca, khi đó ... khi đó tiểu đệ hoảng hốt buột miệng khai ra ... xin ... xin sư ca tha mạng, từ nay ... từ nay làm trâu làm ngựa, không dám nửa lời oán trách, không ... không dám để bụng ...
Nói xong y liên tiếp khấu đầu. Trích Tinh Tử thở dài một tiếng nói:
- Bát sư đệ, ngươi với ta là chỗ đồng môn, nếu như tài sức ta có thể làm được thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều ... ôi, nếu như tha cho ngươi lần này thì từ nay còn ai chịu tuân theo giới lệnh của sư phụ nữa? Ngươi ra tay đi vậy! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần ngươi đánh bại được chấp pháp tôn giả thì bao nhiêu tội nghiệt cũng xóa sạch.
Thôi ngươi đứng lên động thủ đi.
Thế nhưng Xuất Trần Tử đời nào dám đối địch với sư ca? Y vẫn tiếp tục rập đầu binh binh. Trích Tinh Tử nói:
- Nếu như ngươi không chịu ra tay trước thì hãy tiếp chiêu của ta.
Xuất Trần Tử kêu rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt luôn hai hòn đá, sử kình ném về phía Trích Tinh Tử, kêu:
- Đại sư ca, tiểu đệ đành đắc tội!
Y lại nhặt hai cục đá khác ném tiếp, đồng thời nhảy vọt về phía đông bắc, nghe vù vù hai tiếng, ném thêm hai cục đá nữa, thân hình trông như trái cầu thịt của y đã chạy ra xa. Y tự biết võ công so với Trích Tinh Tử chênh lệch quá xa, chỉ mong sáu cục đá đó cản y lại được một chút để có dịp đào tẩu rồi từ nay ẩn tính mai danh ngõ hầu môn hạ phái Tinh Tú
không tìm ra được. Cánh tay áo bên phải của Trích Tinh Tử vung lên, phất vào viên đá bay tới trước tiên, cục đá liền quay ngược lại, bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Công phu mượn sức đánh sức của gã này kể cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp. Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít ở phía sau, nhảy qua một bên tránh né, Trích Tinh Tử liền phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y kịp thở. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba đã tới rồi. Mỗi viên đá lại ép Xuất Trần Tử nhảy về bên trái thêm một bước, sáu bước nhảy xong y đã quay trở lại bên cạnh đống lửa. Chỉ nghe cạch một tiếng, viên đá thứ sáu rơi ở xa xa. Xuất Trần Tử mặt tái mét, lật tay một cái đã rút trong túi ra một con dao găm, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào cổ tay y, đốt huyệt đạo nơi đó nghe sèo sèo, bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, con dao đã rơi xuống đất. Y la lớn:
- Xin đại sư ca mở lòng từ bi! Xin đại sư ca mở lòng từ bi!
Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên, một luồng kình phong bắn vào đống lửa, ngọn lửa liền vươn ra một ngọn lửa nhỏ lao vào người Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bùng lên lem lém, quần áo đầu tóc liền bốc cháy. Chỉ thấy y lăn lộn trên mặt đất, kêu la thảm thiết nhưng chưa chết ngay, mùi khét lẹt bay ra trông thật kinh hoàng. Người trong môn phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh. Trích Tinh Tử nói:
- Không nghe ai nói gì cả, ôi, các ngươi nghĩ ta ra tay quá độc ác, Xuất Trần Tử chết thật là oan, phải không?
Mọi người vội vàng tranh nhau đáp lời:
- Xuất Trần Tử tội thật đáng chết, đại sư ca giúp y luyện thể hóa cốt, đối với đồng môn quả là nhân chí nghĩa tận.
- Đại sư ca anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, không rộng rãi mà cũng chẳng hẹp hòi, chúng sư đệ hết sức kính phục.
- Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho món chí bảo trong việc luyện công của sư tôn lâm nguy, đáng ra phải lóc da xẻo thịt, để y chịu đựng bảy ngày bảy đêm rồi mới giết chết. Đại sư ca cố giữ nghĩa khí đồng môn, gã có thành ma cũng còn cảm kích ân huệ.
- Bọn chúng ta ai ai cũng có tội, xin đại sư ca khoan dung tha thứ.
Bao nhiêu lời vô sỉ chen lẫn tiếng kêu thảm khốc của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong cảm thấy cực kỳ chán ghét, quay mình, chân phải búng một cái, không một tiếng động đã vọt ra xa hơn hai trượng, đến tài ba như Trích Tinh Tử cũng không hề hay biết. Ông đang định bỏ đi bỗng nghe Trích Tinh Tử cất tiếng dịu dàng hỏi:
- Tiểu sư muội, ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư tôn giao cho người ngoài thì phải chịu tội gì?
Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: E rằng hình phạt A Tử phải chịu so với Xuất Trần Tử còn thảm khốc gấp mười, nếu ta xuôi tay bỏ đi thì lòng dạ đâu yên được?. Nghĩ thế ông quay lại lén lén trở về chỗ ẩn thân khi nãy. Chỉ nghe A Tử đáp:
- Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó không sai, nhưng chẳng hay đại sư ca có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?
Trích Tinh Tử đáp:
- Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên không thể không thu hồi, làm sao để rơi vào tay người ngoài được?
A Tử nói:
- Tính nết của ông anh rể em không mấy dễ chịu. Cái bảo đỉnh đó do chính tiểu muội giao cho anh ta, nếu như em lên tiếng đòi lại, anh ấy sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn như người khác hỏi ư, đại sư ca liệu y có chịu giao không?
Trích Tinh Tử hừm một tiếng đáp:
- Cái đó cũng khó nói lắm. Nếu như bảo đỉnh có gì hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng.
A Tử nói:
- Nếu như các vị đòi y, nhất định y sẽ không giao trả. Đại sư ca võ công tuy cao thật, giỏi lắm cũng chỉ giết được y thôi, còn như muốn thu hồi bảo đỉnh thì thật khó bằng lên trời.
Trích Tinh Tử trầm ngâm rồi đáp:
- Theo như ngươi thì phải làm sao?
A Tử đáp:
- Các vị thả tiểu muội ra để một mình ra ngoài Nhạn Môn Quan nói với tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là đái công chuộc tội nhưng đại sư ca phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội nữa.
Trích Tinh Tử đáp:
- Lời nói của ngươi nghe cũng có lý. Thế nhưng, cô em nhỏ ơi, nếu làm như thế thì có khác gì bôi tro trát trấu vào mặt người anh này, từ rày về sau ta có còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả cô ra rồi, cô sẽ cao bay xa chạy, cùng với ông anh rể trốn mất biệt, bóng chim tăm cá ta biết nơi mô mà tìm? Còn cái bảo đỉnh kia, có chí thì nên, cố là phải được, chỉ cần không tiết lậu phong thanh, gã họ Kiều kia chưa chắc đã dám vô cớ hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi vậy, chỉ cần ngươi đánh thắng ta thì ngươi sẽ lên là đại sư tỉ của phái Tinh Tú lúc đó ta lại nghe hiệu lệnh của cô, để cô muốn làm gì thì làm.
Tiêu Phong bấy giờ mới rõ: Thì ra thứ bậc trên dưới của bọn chúng là do công phu mạnh yếu mà định chứ không phải nhập môn trước hay sau, thành thử tuy y tuổi còn trẻ mà lại là đại sư huynh, biết bao nhiêu người tuổi lớn hơn y lại là sư đệ. Nếu cứ như thế, nội bộ ắt luôn luôn tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình đồng môn, nghĩa anh em nữa?. Ông không biết rằng đó chính là phương pháp của phái Tinh Tú để người sau phải giỏi hơn người trước. Đại sư huynh quyền lực rất lớn, nếu sư đệ bất phục có thể dùng võ lực phản kháng, dùng công phu để định thấp cao. Nếu đại sư huynh đắc thắng thì muốn đánh muốn giết gã sư đệ kia cũng đành chịu, không thể kháng cự. Còn như sư đệ đắc thắng, y lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, quay lại xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ cũng chỉ chống mắt đứng nhìn, quyết không can thiệp. Vì có qui củ như thế nên ai ai cũng phải nỗ lực tu tập cốt để tự bảo tính mạng của mình, ngoài mặt thì thản nhiên làm như kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử cánh tay rất khỏe, cây cương trượng y đúc vừa to vừa dài, vừa nặng, tuy đứng hàng thứ tám nhưng cũng đã khiến cho Trích Tinh Tử đố kỵ, nay nhân cớ này trừ khử y. Người môn phái khác thường chỉ luyện tới một mức nào đó là ngừng lại không còn tiến thêm được nữa, còn môn đệ phái Tinh Tú đến nửa ngày cũng không dám bê trễ, lúc nào cũng phải chuyên cần luyện tập. Đại sư huynh phải dè chừng sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình đã đành, đến ngay cả các sư đệ cũng sợ đại sư huynh tìm chuyện đổ lên đầu mình, nếu như công phu luyện đến mức cao, đại sư huynh không chắc ăn thì sẽ không dám gây sự. A Tử nghĩ rằng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh sẽ không dám mạnh tay, nào ngờ y không mắc bẫy, lập tức đòi động thủ khiến cho mặt hoa tái mét, nghe tiếng rên rỉ của Xuất Trần Tử chưa dứt hẳn, cái số phận đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình, đành bậm môi run run nói:
- Chân tay ta đều bị khóa chặt, làm sao động thủ quá chiêu với ngươi được? Nếu như ngươi muốn hại ta sao không dùng cách quang minh chính đại mà lại giở trò đê hèn này?
Trích Tinh Tử đáp:
- Được lắm! Để ta thả ngươi ra.
Y phất tay áo một cái, một luồng kình phong phóng thẳng vào đống lửa. Từ đống lửa một ngọn lửa xanh nhỏ bay ra, chẳng khác gì một tia nước xịt thẳng vào dây xích nối hai tay A Tử. Tiêu Phong nhìn rất kỹ, thấy đốm lửa đó quả không bắn vào người A Tử. Chỉ nghe thấy tiếng xì xì, chẳng bao lâu, hai tay A Tử bung ra, sợi xích đã đứt ngay giữa nhưng hai chiếc vòng vẫn còn ở nơi cổ tay. Ngọn lửa xanh lại thu về, rồi lại phóng tới lần này bắn vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát sợi xích đó cũng bị cắt đứt. Tiêu Phong lúc đầu thấy ngọn lửa nung chảy được dây xích không khỏi kinh ngạc nội lực Trích Tinh Tử quả thực ghê gớm, đến lúc nhìn vào ngọn lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, ngọn lửa tới đâu dây xích liền biến sắc, xem ra ngọn lửa này có điều gì cổ quái chứ không phải chỉ thuần nhờ vào nội lực. Các môn đệ phái Tinh Tú không ngớt tấm tắc ca ngợi:
- Nội lực đại sư ca đã đến mức siêu phàm nhập thánh, quả thực kinh người.
- Bọn chúng ta thực thấy chưa từng thấy, nghe chưa từng nghe, đời nay ngoài sư tôn ra, đại sư ca nhất định thiên hạ vô địch.
- Bọn gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung có xách dép cho đại sư ca cũng không đáng.
- Tiểu sư muội, ngươi bây giờ đã thấy lợi hại chưa? Thế nhưng có hối hận cũng muộn rồi.
Người này một câu, người kia một câu, tranh nhau nói. Trích Tinh Tử nghe những lời nịnh hót đó, mặt tươi như hoa, khẽ gật gù, liếc mắt nhìn A Tử. A Tử tuy tâm cơ linh xảo nhưng cũng chưa tìm ra cách nào thoát được cái họa trước mắt, chỉ mong bọn chúng nức lòng ca tụng khiến cho Trích Tinh Tử ra tay chậm lúc nào hay lúc nấy nhưng nói qua nói lại một hồi, không còn thêm được ý gì mới mẻ, giọng cũng lắng dần. Trích Tinh Tử chậm rãi nói:
- Tiểu sư muội, ngươi xuất chiêu đi thôi.
A Tử run run đáp:
- Ta không xuất chiêu.
Trích Tinh Tử hỏi lại:
- Vì sao vậy? Ta xem ngươi cử động được rồi mà.
A Tử đáp:
- Ta không đấu với ngươi, biết chắc đánh không lại, việc gì phải phí hơi phí sức? Ngươi muốn giết ta thì cứ giết đi.
Trích Tinh Tử thở dài đáp:
- Ta cũng chẳng muốn giết ngươi làm chi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế, giết đi quả là đáng tiếc, có điều không còn cách nào hơn. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi, ngươi giết được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Trong phái Tinh Tú, khi đó ngoài sư phụ ra có ai chẳng phải nghe lời ngươi.
A Tử đáp:
- Ta là một cô gái nhỏ, cả đời cũng không bao giờ hơn ngươi được, có gì phải e ngại mà ngươi lại muốn giết ta.
Trích Tinh Tử thở dài:
- Nếu như ngươi không phạm phải tội tày trời như thế này, ta nhất quyết không bao giờ làm khó ngươi đâu, thế nhưng lúc này ... ôi ... ta thật tiếc không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu!
Nói xong y phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, đẩy một tia lửa xanh từ từ phóng tới cô gái, nhưng dường như chưa muốn giết A Tử ngay nên đốm lửa bay thật chậm. A Tử kinh hãi kêu lên một tiếng, nhảy qua bên trái hai bước. Tia lửa lập tức đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, lưng dựa ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang náu sau đó. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại ép tới, A Tử không còn đường lui đang tính nhảy sang bên cạnh nhưng tay áo Trích Tinh Tử đã múa lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu khiến cô gái không còn đường chạy nữa trong khi ngọn lửa trước mặt càng lúc càng gần. Tiêu Phong thấy ngọn lửa chỉ còn cách mặt A Tử chừng hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa bèn nói khẽ:
- Đừng sợ, có ta đến giúp ngươi đây!
Ông vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra để vào lưng cô gái, nói:
- Ngươi vận chưởng lực đánh thẳng vào ngọn lửa.
A Tử đang sợ đến mất cả hồn vía, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong, mừng không sao kể xiết, không kịp suy nghĩ gì liều vung chưởng đánh ra. Khi đó nội lực Tiêu Phong đã truyền vào thân thể cô ta rồi, chưởng đó đánh ra thật là hùng hậu, ngọn lửa xanh liền dội lại hai thước. Trích Tinh Tử hết sức kinh hãi, thấy A Tử đã như cá nằm trên thớt, đang định mãi lộng công phu cho ngọn lửa vờn qua vờn lại trên mặt cô gái, dọa cho kêu la một hồi để hiển thị uy phong trước đám đồng môn lúc đó mới ra tay hạ sát nhưng có ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực lại mạnh dường ấy, thực ngoài dự liệu. Võ công của phái Tinh Tú, sau khi sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự tu luyện riêng, cao siêu tới mức độ nào, chỉ đến khi gặp địch hay khi đồng môn tàn sát lẫn nhau mới hiển lộ, ngoài ra không ai biết được. Thành thử khi A Tử một chưởng đánh ra lại có thể dồn cho ngọn lửa dội ngược lại, ai nấy A lên một tiếng, tuy ngạc nhiên nhưng chẳng nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông minh tự luyện được công phu cực cao thâm. Trích Tinh Tử vận lực đẩy ra, ngọn lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới, lần này y dùng sức cực kỳ mãnh liệt, thế đi thật nhanh. A Tử hốt hoảng không biết tính sao để ngăn ngọn lửa, vội vàng né qua bên trái. Cũng may lúc này kình lực Trích Tinh Tử dùng chặn hai bên đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn thẳng vào tảng đá, soẹt soẹt mấy tiếng. Tiêu Phong hạ giọng nói nhỏ:
- Tả chưởng đánh ra cắt đôi ngọn lửa đi.
A Tử nghĩ thầm: Cách này hay quá!, tay trái liền giơ lên, một luồng chưởng lực đẩy vào giữa cắt đứt sợi dây lửa, phần trước không còn tiếp nối phía sau nên chỉ cháy tại tảng đá được một hồi rồi tàn dần. Trích Tinh Tử nghĩ thầm: Nếu để tắt sợi dây lửa này thì ta đã thua một trận trước mặt đồng môn, bao nhiêu uy phong mất sạch còn gì. Nghĩ vậy y bèn thúc đẩy chưởng lực, đưa sợi dây lửa bắn vào tảng đá, định nối lại đầu kia để thu về. A Tử chỉ thấy từ sau lưng nội lực cuồn cuộn đổ vào, nếu không phát tiết chỉ sợ thân mình sẽ nổ tung lập tức vung ta phải đánh thẳng ra. Nội lực Tiêu Phong vô cùng hùng hậu, tuy đổ vào người A Tử uy lực đã giảm nhiều nhưng nếu nàng khéo sử dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Có điều nàng chưa hết sợ hãi, chưởng đó lập cập đánh ra, nghe vù một tiếng, ngọn lửa xanh lập tức tắt phụp, tuy thắng thế nhưng không làm Trích Tinh Tử tổn hao chút nào. Việc xảy ra, đám đồng môn phái Tinh Tú ai nấy không khỏi mặt màythất sắc. Riêng gã thất đệ tử chẳng hiểu ngô khoai, ù ù cạc cạc, vẫn tiếptục lên tiếng bợ đỡ:
- Đại sư ca công lực ghê gớm thật, chưởng của tiểu sư muội giỏi lắm cũng chỉ tắt được thần hỏa chứ có làm gì được đại sư ca đâu?
Câu nói đó y bản tâm bốc thơm sư huynh nhưng Trích Tinh Tử nghe vào tai, thật chẳng khác gì châm chọc, đột nhiên phất tay áo một cái, đám lửa tạt qua, nghe suỵt một tiếng, như một mũi tên bắn thẳng vào mặt gã sư đệ. Ngọn lửa chỉ chạm vào rồi lại thu về ngay nhưng gã kia đã hai tay bưng mặt, nhào xuống đất kêu la chẳng khác gì heo bị chọc tiết. Trích Tinh Tử trừng trị gã thất sư đệ rồi tả chưởng liền đánh xéo ra, luồng lửa xanh lại tấn công về phía A Tử. Lần này ngọn lửa to hơn nhiều, tiếng kêu ù ù, chiếu lên khiến cho khuôn mặt cô gái trở thành xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa lập tức ngừng lại trên không, cứ xông tới được một hai tấc, lại lùi về một hai tấc. Trong bóng đêm ngọn lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài màu xanh lơ lửng vắt ngang, chỉ hơi uốn éo, màu sắc vừa rực rỡ, lại vừa ngụy bí, ánh sáng khi mờ khi tỏ,lấp lánh bất định. Trích Tinh Tử liên tiếp thôi động chưởng lực ba lần nhưng đều bị A Tử đẩy lui, không khỏi sốt ruột, lại thêm tức tối. Y thúc đẩy thêm hai lần nữa vẫn không đến đâu, một luồng hơi lạnh theo sống lưng chạy dài lên đến cổ: Dư lực ... dư lực ... của con bé này vẫn còn, thì ra nó định đùa rỡn mình, không lẽ sư phụ thiên vị, bí mật truyền công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta ... ta làm sao chống nổi?. Y nghĩ thế, trong lòng không khỏi hoảng sợ, chưởng lực lập tức yếu đi, con rắn xanh liền quay vụt về đống lửa. Trích Tinh Tử gầm lên một tiếng, chưởng lực mạnh thêm, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to bằng cái đấu, bay về phía A Tử. A Tử vội vàng đánh chưởng bên phải ra nhưng không chặn nổi khối cầu lửa, vội vàng đẩy thêm chưởng bên trái, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được. Chỉ thấy một cục lửa tròn lung linh trên không chuyển động vô cùng nhanh nhẹn, các đệ tử vội vàng cất tiếng reo hò:
- Đại sư ca công lực thần kỳ, con tiểu a đầu lần này chỉ có chết!
- Tiểu sư muội, ngươi còn hung hăng được nữa thôi? Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư ca cũng cho ngươi một con đường sống.
A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực, mặc dù sức của Tiêu Phong đưa vào mạnh mẽ thật, nhưng dẫu sao cũng chỉ từ bên ngoài, nàng không thể nào vận dụng được như ý muốn. Trích Tinh Tử cùng nàng cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của cô gái, đột nhiên lông mày dựng lên, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ. Từ đống lửa nghe hai tiếng soẹt soẹt phóng ra hai đốm hỏa hoa, thế đi thật nhanh chẳng khác gì sao băng chia ra hai bên tấn công A Tử. A Tử kêu lên Chao ôi! một tiếng, hai tay nàng đang ngưng tụ chặn hỏa cầu, làm sao chia ra để chống đỡ được? Nàng không còn cách gì hơn đành né sang một bên, nhưng hai đốm lửa dưới sức thôi động của Trích Tinh Tử lập tức đuổi theo. Tiêu Phong thấy A Tử không còn cách nào kháng cự được, lập tức tay trái hơi giơ lên, một luồng chưởng lực nhè nhẹ phóng ra, vừa lúc thân hình A Tử hơi chuyển động, tà thắt lưng tung bay, nhởn nhơ phần phật, hai đốm lửa hoa nhanh nhẹn dị thường bắn ngược trở về Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử sợ đến há mồm trợn mắt, còn đang ngỡ ngàng, hai đốm lửa đã bắn tới người y, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hỏa hoa bay xẹt dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò:
- Hảo công phu, đại sư huynh quả là giỏi thật.
Tiếng hoan hô chưa dứt, đốm lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới, Trích Tinh Tử còn đang ở trên không, làm sao có thể lên cao hơn được nữa? Chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, hỏa hoa đã trúng bụng, Trích Tinh Tử rống lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu liền quay ngay trở lại đống lửa. Các đệ tử nhìn A Tử, ai nấy lộ vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: Xem ra tiểu sư muội công lực không phải tệ, đại sư huynh chưa chắc đã thắng, mình chẳng nên reo hò quá đáng. Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, giơ tay gỡ búi tóc, mái tóc dài liền xõa xuống che mặt, tiếp theo cắn đứt đầu lưỡi, phun một ngụm máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói lập tức bùng lên, ánh sáng chói lòa khiến mọi người không mở mắt nổi. Đám đệ tử không nhịn nổi lại reo hò:
- Công lực đại sư ca quả là ghê gớm khiến chúng ta một phen đại khai nhãn giới.
Trích Tinh Tử chẳng khác gì một con vụ thân hình quay tít đến hơn chục vòng, tay áo phất động, bốc đống lửa dướt đất bay lên, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử. Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang ngưng tụ công lực bình sinh vào một đòn, sử dụng một tà thuật rất lợi hại. Gã này tuy gian ác thật nhưng với ông không thù không oán, việc gì phải quyết tử với y, lập tức biến chưởng thành trảo, chộp luôn sau lưng A Tử, định kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên:
- A Châu tỉ tỉ, A Châu tỉ tỉ, đứa em gái đang bị người ta ức hiếp, sao chị không rửa hờn cho em?
Tiêu Phong ngạc nhiên: Sao nàng lại kêu réo A Châu, ta ... ta ... làm sao bỏ đi được?. Tiêu Phong còn hơi chần chừ, khối lửa xanh kia đã đến thật nhanh, dường như muốn chồm lên, liền song chưởng tung ra một luồng kình phong luồn vào tay áo A Tử. Dưới ánh sáng xanh, hai cánh tay áo màu tím phần phật căng phồng, kình lực của Tiêu Phong ra theo, đẩy vào bức tường lửa. Ngọn lửa xanh chựng lại trên không, rồi từ từ tiến trở về phía Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử kinh hãi quá, nghiến răng cắn đầu lưỡi lần nữa, một ngụm máu khác phun vào, lửa lại bừng lên, quay ngược trở lại nhưng chỉ được độ hai thước thì bị nội lực của Tiêu Phong đẩy lui. Bọn đệ tử thấy cánh tay áo A Tử chẳng khác gì một cánh buồm no gió, đều tưởng nội lực vị tiểu sư muội này mạnh quá đỗi, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ. Lúc này mặt Trích Tinh Tử tái mét không còn hột máu, cứ từng ngụm từng ngụm máu phun ra. Mỗi lần như thế nội công lại giảm đi một phần nhưng ở vào thế cưỡi hổ rồi chỉ đành còn nước còn tát, cốt sao đốt chết được A Tử sau đó sẽ bỏ đi ngay từ từ tìm cách khôi phục lại nguyên khí, nếu không bọn sư đệ nhìn ra chỗ yếu, thừa cơ dậu đổ bìm leo tiến đến khiêu chiến. Y liên tiếp phun máu ra nhưng đối với nội lực hùng hồn của Tiêu Phong, ngọn lửa đâu có cách gì tiến thêm được lấy nửa thước? Tiêu Phong theo nội kình đối phương mà nhận xét thấy chân khí của y càng lúc càng yếu, dầu cạn đèn khô, liền ngưng khí nói với A Tử:
- Ngươi bảo y chịu thua đi, đừng đấu tiếp nữa.
A Tử kêu lên:
- Đại sư ca, ngươi đấu không lại ta đâu, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha không giết. Ngươi chịu thua chưa?
Trích Tinh Tử hoảng hốt dị thường, biết mạng mình chỉ còn trong giây lát, nghe A Tử nói thế, vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại:
- Sao ngươi không chịu mở miệng? Ngươi không nói nghĩa là không chịu thua, phải không?
Trích Tinh Tử lại liên tiếp gật đầu, nhưng không sao nói được. Y đang ngưng tụ toàn lực chống đỡ chưởng lực của Tiêu Phong, chỉ vừa há miệng, chân khí thoát ra ngọn lửa biếc sẽ quay ngược về nướng sống y ngay. Các đồng môn thấy thế lập tức nhao nhao lên chửi rủa:
- Trích Tinh Tử, ngươi thua rồi sao chưa quì xuống rập đầu đi?
- Cái thứ bị thịt như ngươi mà ra ngoài thì phái Tinh Tú còn mặt mũi nào nữa?
- Tiểu sư muội khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao còn bướng bỉnh? Mau mau mở miệng van xin đi thôi.
- Trích Tinh Tử, mười năm trước ta đã biết ngươi là đứa tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Tiểu sư muội hôm nay thanh lý môn hộ, lập được công lớn, quả là đại công thần làm rạng danh bản phái.
- Ngươi âm mưu ám toán sư tôn, toan gia nhập phái Thiếu Lâm, may có tiểu sư muội nhìn thấy gian mưu của ngươi. Ngươi thật đúng là đồ thú vật, vô sỉ không đâu kể xiết.
- Tiểu sư muội thần công cái thế, ngoài sư tôn ra thì sư muội là người tài giỏi nhất, ta đã biết từ lâu rồi.
- Trích Tinh Tử, chính ngươi là đứa ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám mở mồm vu vạ cho tiểu sư muội, bộ không muốn sống nữa hay sao?
Tiêu Phong thấy bọn chúng lựa gió đổi chiều, thấy Trích Tinh Tử vừa vào thế hạ phong, lập tức hùa theo nước đục thả câu, mới vừa đây ca tụng đại sư huynh như kẻ anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như trâu như ngựa, thực tư cách không bằng tuồng chó lợn, nghĩ thầm: Tinh Tú Lão Ma thu được bọn đệ tử nhân phẩm kém cỏi thế này, A Tử lăn lộn với chúng từ nhỏ, thảo nào hành vi cũng chẳng ra gì. Ông thấy Trích Tinh Tử thảm hại quá rồi, không nỡ làm quá, nội kình thu về, hai cánh tay áo A Tử lập tức xẹp xuống. Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình lảo đảo lắc lư, đột nhiên hai gối nhũn đi ngồi phịch xuống đất. A Tử hỏi:
- Đại sư ca sao thế? Phục ta chưa?
Trích Tinh Tử nói nhỏ:
- Ta chịu thua. Ngươi ... ngươi đừng ... đừng gọi ta là đại sư ca nữa, ngươi là đại sư tỉ của tất cả.
Các đệ tử cùng cất tiếng hoan hô:
- Hay thật! Hay thật! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có truyền nhân như vậy thể nào cũng dương danh.
- Đại sư tỉ mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung để phái Tinh Tú chúng ta độc tôn thiên hạ.
Một gã khác liền cãi:
- Ngươi chỉ nói năng tầm bậy! Bắc Kiều Phong là anh rể của sư tỉ, sao lại giết đi?
- Sao lại không giết được? Trừ phi y mở mồm chịu thua, đầu nhập môn phái Tinh Tú.
A Tử liền mắng:
- Các ngươi ồn ào gì thế? Không ai được mở mồm.
Cả bọn liền im bặt không xôn xao nữa. A Tử cười hì hì nhìn Trích Tinh Tử:
- Qui củ của bản môn, sau khi thay đổi truyền nhân rồi thì người truyền nhân cũ xử tội như thế nào?
Mồ hôi trán Trích Tinh Tử nhỏ xuống tong tỏng, run rẩy đáp:
- Đại ... đại ... đại sư tỉ, xin ... xin sư tỉ ...
A Tử cười khanh khách:
- Ta cũng muốn tha cho ngươi lắm, có điều qui củ bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi thôi! Có tài cán gì hãy hết sức đem ra thi triển.
Trích Tinh Tử biết số mạng mình đã quyết định rồi, không thể van xin thêm được nữa, ngưng khí vào song chưởng nhắm ngọn lửa đẩy tới. Thế nhưng nội lực của y đã hết rồi, song chưởng đánh ra ngọn lửa chỉ hơi lay động một chút rồi không thôi. A Tử cười nói:
- Vui thật! Thích quá đi thôi! Đại sư ca, pháp thuật của ngươi sao không còn linh nghiệm nữa?
Nàng tiến lên hai bước, đẩy song chưởng một luồng lửa biếc phun ra, bắn thẳng vào người Trích Tinh Tử. A Tử nội lực bình thường, làn lửa xanh đi cũng chậm, lại tung tóe khắp nơi nhưng Trích Tinh Tử lúc ấy không còn hơi sức nào chống trả, đến đứng lên bỏ chạy cũng không xong. Ngọn lửa vừa chạm vào người y, lập tức đầu tóc, áo quần bốc cháy, kêu la thảm thiết luôn mồm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống. Bọn đệ tử lại cất tiếng ca tụng, cùng tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, mừng cho phái Tinh Tú trừ được một tên bại hoại lâu nay, theo đúng ý nguyện của sư tôn, lập nên công lớn. Tiêu Phong tuy đã từng chứng kiến nhiều cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp tú lệ, trong trắng ngây thơ như A Tử lại hành sự tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông cảm thấy chán chường, khẽ thở dài, cất bước bỏ đi. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, đừng đi vội, đợi em chút nào.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú đột nhiên thấy một người ở sau tảng đá bước ra, bọn nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra là Tiêu Phong, không khỏi ngạc nhiên thất sắc. A Tử lại gọi:
- Tỉ phu, đợi em với.
Nàng cất bước chạy đến bên Tiêu Phong. Lúc đó tiếng kêu rú của Trích Tinh Tử, thêm tiếng vang từ sơn cốc vọng lại càng lúc càng thêm ghê rợn. Tiêu Phong nhíu mày:
- Ngươi theo ta làm chi? Ngươi là truyền nhân của phái Tinh Tú, là đại sư tỉ của cả bầy, chưa thấy hả lòng hả dạ hay sao?
A Tử cười nói:
- Không!
Nàng hạ giọng thì thầm:
- Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là đồ giả, có gì thích thú đâu? Tỉ phu, cho em theo anh ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé!
Tiêu Phong nghe thấy tiếng kêu la của Trích Tinh Tử, không muốn lưu lại đây thêm nữa, rảo bước đi về hướng bắc. A Tử đi song song với ông, quay đầu lại nói:
- Nhị sư đệ, ta có việc phải đi lên mạn bắc, các ngươi quanh quẩn đâu đây đợi ta về, không được người nào tự ý bỏ đi, nghe rõ chưa?
Cả bọn cùng tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói:
- Cẩn tuân pháp chỉ của đại sư tỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.
Tiếp đó bọn chúng lại nhao nhao tán tụng:
- Cung chúc đại sư tỉ lên đường bình an.
- Cung chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.
- Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.
- Đại sư tỉ mang trong người thần công như thế, có việc gì trong thiên hạ mà chẳng xong? Những câu chúc tụng chỉ bằng thừa.
A Tử giơ tay vẫy vẫy mấy cái, khuôn mặt đầy vẻ đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong thấy cô gái xinh đẹp, vẻ mặt ngây thơ dễ thương kia mỉm cười, thật chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một cục kẹo, nếu ông không chính mắt nhìn thấy, thì ai
dám tin rằng nàng vừa ra tay giết đại sư huynh, mới được chức truyền nhân của một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong khẽ thở dài, bỗng thấy trên đời chuyện gì cũng chán chường hết sức. A Tử hỏi:
- Tỉ phu, sao anh lại thở dài? Hay là tại em cứng đầu bướng bỉnh?
Tiêu Phong đáp:
- Ngươi đâu có bướng bỉnh, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Bọn ta là đàn ông đã ra đời, nếu có hung ác thì cũng đành. Còn ngươi chỉ là một cô bé con, sao hạ thủ lại không dung tình như thế?
A Tử ngạc nhiên hỏi lại:
- Anh biết rồi mà còn vờ vịt, hay là không biết thật?
Nói xong nàng nghiêng ngó đầu, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, khuôn mặt đầy vẻ dò hỏi. Tiêu Phong hỏi:
- Sao ta lại biết rồi mà còn vờ vịt?
A Tử đáp:
- Cũng lạ nhỉ, không lẽ tỉ phu không biết hay sao? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả, là do anh tranh đoạt dùm em nhưng bọn chúng chưa nhìn ra đấy thôi. Nếu như tiểu muội không giết y, thể nào cũng có lúc y tìm ra chân tướng, lúc ấy chắc gì có tỉ phu ở bên cạnh, tính mạng em sẽ đi đời nhà ma. Em muốn sống không thể không giết y cho xong.
Tiêu Phong nói:
- Được rồi! Thế ngươi theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan làm gì thế?
A Tử đáp:
- Tỉ phu ơi, để em nói thực cho anh nghe, có được chăng? Tỉ phu có chịu nghe không nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Giỏi nhỉ! Hóa ra xưa nay ngươi chỉ toàn nói láo với ta thôi, bây giờ mới nói thực. Ông bèn đáp:
- Dĩ nhiên là được, ta chỉ sợ ngươi không nói thực thôi.
A Tử cười khúc khích mấy tiếng, nắm cánh tay ông đáp:
- Tỉ phu cũng còn sợ em nữa hay sao?
Tiêu Phong thở dài:
- Ta có nhiều chuyện sợ ngươi lắm, sợ ngươi gây ra tai họa, sợ ngươi vô cớ giết người, sợ ngươi giở trò tinh ma, nghịch ngợm ...
A Tử nói:
- Thế anh có sợ người ta ăn hiếp tiểu muội, bị người ta giết hay không nào?
Tiêu Phong đáp:
- Ta nhận lời gửi gấm của chị cô, dĩ nhiên phải chiếu cố cho cô rồi.
A Tử hỏi lại:
- Vậy như nếu tỉ tỉ không gửi gấm thì sao? Nếu như thiếp không phải là em gái của chị A Châu thì sao?
Tiêu Phong hừ một tiếng đáp:
- Nếu thế thì ta việc gì phải lo cho ngươi làm gì?
A Tử hỏi:
- Chị em có gì tốt vậy? Sao anh lại chẳng coi em ra gì?
Tiêu Phong đáp:
- Chị ngươi so với ngươi tốt gấp nghìn lần vạn lần! A Tử, người như ngươi vĩnh viễn chẳng bao giờ bì kịp được nàng đâu.
Ông nói tới đây mắt lại rưng rưng, thanh âm có chiều nghẹn ngào. A Tử bĩu môi, hờn dỗi nói:
- Nếu chị A Châu hay như thế, sao tỉ phu không gọi chị ấy đi chung với anh, tiểu muội không đi nữa đâu.
Nói xong quay mình bỏ đi. Tiêu Phong chẳng ngó ngàng gì đến cô nàng, cũng cất bước, trong lòng không khỏi chua xót: Giá như có được A Châu cùng đi với ta trên tuyết địa này, nếu như nàng hờn giận ta, quay mình bỏ đi như thế thì ta se lập tức đuổi theo ngay, ngon ngọt dỗ dành nàng một hồi. Không đâu, ta chẳng bao giờ để nàng phải bực mình, chuyện gì cũng chiều theo nàng cả. Ôi, A Châu đối với ta nhu thuận dịu dàng, có bao giờ lại giận ta được?. Đột nhiên nghe tiếng chân người đuổi theo, A Tử đã chạy lại nói:
- Tỉ phu ơi, anh quả là người lòng lang dạ sói, nói không là không, không có một chút nhân từ nào.
Tiêu Phong bật cười hỏi lại:
- Người như ngươi mà nói gì chuyện bụng dạ nhân từ? Này A Tử, ngươi nghe ai nói đến hai chữ nhân từ thế?
A Tử đáp:
- Em nghe mẹ em nói, bà ấy bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có lòng nhân từ.
Tiêu Phong nói:
- Mẹ ngươi nói thế là phải lắm, chỉ tiếc rằng từ bé ngươi đã không ở với mẹ nên chỉ học được ở sư phụ những chuyện tàn ác xấu xa.
A Tử cười hỏi:
- Hay lắm! Thế từ nay em ở bên cạnh tỉ phu sẽ học ở anh những điều hay, điều tốt.
Tiêu Phong giật nảy người, liên tiếp xua tay, lật đật đáp:
- ấy chết, không được đâu! Ngươi đi theo một gã thô lỗ mãng phu như ta để làm gì? Này A Tử, ngươi đi đi! Ngươi ở gần bên ta chỉ khiến ta thêm phiền não, có muốn ngồi không một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không xong.
A Tử hỏi:
- Nếu như tỉ phu muốn suy nghĩ chuyện gì, chi bằng nói cho em hay, em sẽ giúp anh suy nghĩ. Anh tốt bụng quá dễ bị người ta cho vào tròng.
Tiêu Phong vừa bực mình, vừa tức cười nói:
- Ngươi chỉ là một đứa bé con, biết gì mà nói? Không lẽ chuyện ta suy tính không ra mà ngươi lại nghĩ được hay sao?
A Tử đáp:
- Cái đó đương nhiên rồi, có biết bao nhiêu chuyện, dẫu cách nào tỉ phu cũng chẳng nghĩ ra.
Cô ta bốc một nắm tuyết dưới đất, nặn thành một cục, vung tay ném ra xa hỏi:
- Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Chẳng làm gì cả. Săn bắn thả cừu, sống cho qua ngày, có vậy thôi.
A Tử nói:
- Thế ai nấu cơm cho anh ăn? Ai may áo cho anh mặc?
Tiêu Phong ngỡ ngàng, trước nay ông chưa hề tính đến chuyện đó, tiện mồm đáp:
- Nấu ăn may áo chẳng phải dễ đâu? Người Khất Đan ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, đâu đâu cũng là nhà, tiện đâu hay đó, chẳng có gì phải lo lắng cả .
A Tử nói:
- Thế lúc anh cô đơn một thân một mình, ai nói chuyện với anh?
Tiêu Phong đáp:
- Ta trở về với người cùng bộ tộc, sẽ có bằng hữu ở nơi đó.
A Tử hỏi:
- Nếu có nói qua nói lại cũng chỉ toàn chuyện đi săn, cưỡi ngựa, giết bò, xẻ cừu nói mãi cũng nhàm, còn có gì là thú vị đâu?
Tiêu Phong thở dài, biết nàng nói đúng không biết phải trả lời ra sao. A Tử nói:
- Anh không quay về Liêu quốc không được hay sao? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư?
Tiêu Phong nghe nàng nói ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư? bỗng thấy máu nóng dâng trào, hào khí sôi sục, ngẩng đầu, hú lên một tiếng dài nói:
- Ngươi nói phải lắm!
A Tử giật giật cánh tay ông ta nói:
- Tỉ phu ơi, thôi anh đừng đi nữa, tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo anh uống rượu đánh lộn.
Tiêu Phong cười:
- Ngươi là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, ngươi đi rồi họ không có truyền nhân, không có đại sư tỉ thì đâu có được?
A Tử nói:
- Cái chức đại sư tỉ đó của em chẳng qua nhập nhoạng đánh lừa mà có, đến khi lộ ra thì tính mạng ắt khó mà còn, tuy thích thật nhưng cũng chẳng đáng gì. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn vui gấp bội.
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Nói đến uống rượu, ngươi có biết uống đâu, chỉ e uống chưa đến một bát đã say mèm. Còn đánh lộn thì tài nghệ cũng không ra gì, giúp ta không xong, ta lại phải giúp ngươi thì có.
A Tử mặt mày bần thần không vui, lông mày cau lại, đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong thấy thế sợ hết hồn, vội hỏi:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi sao thế?
A Tử không trả lời, lại càng khóc to thêm nghe thực thảm thiết. Tiêu Phong thấy chuyện gì cô bé cũng lấn lướt thiên hạ, ngay cả khi bị phái Tinh Tú bắt giữ, thái độ vẫn ngang tàng bất khuất, có ngờ đâu lại khóc lóc bi ai đến vậy, không khỏi cuống quít, hỏi gặng:
- Này, này! A Tử, cô sao thế?
A Tử vẫn sụt sùi, nghẹn ngào nói:
- Anh đi đi, khỏi lo cho em làm gì, để em ở đây khóc đến chết luôn, có thế anh mới vừa lòng.
Tiêu Phong mỉm cười:
- Đang khỏe khoắn thế này, có khóc cũng không chết được.
A Tử vẫn khóc:
- Nếu em muốn khóc cho chết thì sẽ khóc cho anh coi.
Tiêu Phong cười nói:
- Thế ngươi ngồi đây khóc cho chán đi nhé, ta không ở đây với ngươi được đâu.
Nói xong ông bỏ đi, chỉ được mấy bước thấy cô ta đã nín bặt, không còn nghe gì nữa. Tiêu Phong lạ lùng, quay đầu lại nhìn, thấy cô bé đã nằm phục dưới tuyết, không cử động gì cả. Ông trong bụng cười thầm: Trẻ con hay nhõng nhẽo, mình mà đến hỏi thăm là mình thua kế nó. Nghĩ thế ông vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông đi được mấy dặm rồi, quay đầu lại nhìn, nơi vùng này địa thế bằng phẳng, không có cây cối núi đồi gì ngăn trở, thấy dường như A Tử vẫn còn nằm yên nơi đó. Tiêu Phong trong bụng băn khoăn: Con bé này tính tình cực kỳ quái dị, xem chừng nó sẽ nằm luôn nơi đây không bao giờ trở dậy nữa. Ông lại nghĩ: Ta đã làm chết chị nó rồi, nếu không theo lời dặn dò của A Châu, chẳng quay lại lo cho nó, bảo hộ nó e rằng sẽ khiến cô nàng tức đến cũng chết theo. Tiêu Phong vừa nghĩ đến A Châu, ngực không khỏi sôi lên, lập tức rảo bước quay lại. Ông chạy đến bên cạnh A Tử, thấy cô ta vẫn nằm y nguyên chỗ cũ, hình dáng vẫn hệt lúc đầu không xê xích một chút nào. Tiêu Phong đến gần hơn nữa, đột nhiên kinh hoàng thấy tuyết trên người nàng đã đóng đến mấy tấc, ở chung quanh cũng không tan, không lẽ chết thật rồi sao? Ông vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, thăm mũi quả nhiên không còn hô hấp. Tiêu Phong đã thấy nàng trá tử đánh lừa cha mẹ, biết phái Tinh Tú có môn qui tức công phu, có thể ngừng thở, nhưng cũng không khỏi hoảng hốt, lập tức giơ tay điểm luôn vào mạng sườn mấy cái, nội lực theo huyệt đạo của nàng truyền vào. A Tử ậm ự một tiếng, chậm rãi mở mắt, bất thần há miệng, một mũi kim xanh biếc phun thẳng vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Tiêu Phong với nàng cách nhau chỉ chừng một thước, không thể nào ngờ cô ta đột nhiên ám toán, mũi độc châm đó bắn thật nhanh, võ công ông tuy cao thật nhưng chỉ trong nháy mắt, lại cận kề nếu muốn tránh né cũng không thể nào kịp được. Ông không kịp suy nghĩ, tay phải vung lên, đánh ra một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu. Chưởng đó kết tụ một đời công lực, chiếc kim nhỏ kia chỉ cách một thước bắn tới muốn dùng kình phong vô hình vô ảnh đánh tạt ra thì chưởng lực phải kinh người biết chừng nào. Chưởng đánh ra thân hình Tiêu Phong đồng thời nghiêng qua bên phải, mũi ngửi thấy thoang thoảng một mùi tanh hôi, chiếc kim độc đã sượt qua bên má, chỉ cách chừng một tấc, quả thật hung hiểm. Cũng khi đó, thân hình A Tử bị chưởng lực đánh trúng, không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay tung ra, rơi xuống bịch cách đến hơn mười trượng. Thân hình nàng rơi xuống tuyết rồi còn trượt đi một quãng dài mới ngừng lại
hồi 26(a)
XÍCH THỦ ĐỒ HÙNG TRÓC HỔ
Xa xôi vạn dặm đường trường,
Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.
Anh hùng giữa cảnh núi non,
Can vân hào khí vẫn còn như xưa.
*
* *
Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo
như thế, kêu thầm: Hú vía, ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: Con tiểu yêu
nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta. Ông biết ám
khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn
trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.
Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục
trượng, đột nhiên thất kinh: Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi?
E rằng bị mình đánh chết rồi. Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới,
thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt
vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.
Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại
giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng ... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo
lắng cho muội muội, ngờ đâu ... ngờ đâu ... ta lại đánh chết luôn cả nó.
Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên
tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ
chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào.
Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:
- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu
em.
Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức
bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử
lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ
từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc
này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm
cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức
chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn
hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.
Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy,
rên khẽ lên một tiếng:
- Tỉ phu!
Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện
với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ.
Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển
nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn
xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo
bước chạy đi.
Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau
lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới
đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi
về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ
thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu
hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo
nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được
ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.
Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra
khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi
nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A
Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa
Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm
Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi.
Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu
bó tay, chỉ nghĩ: Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt
hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà
chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu.
Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu
không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao
cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay
chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu
có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra
họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết
nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.
Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không
ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu
bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện
giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức
chết ngay.
Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng
hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà
tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn
bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.
Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không
có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần
có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: Trên người A Tử ắt có mang theo tiền
bạc.
Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh
bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi
dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm:
Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà
buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng. Ông cởi cái nút buộc
vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công
lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì
dấu trong quần.
Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là
một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi
xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ
bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ.
Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa
Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới
nữa, nghĩ thầm: Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng
mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu
trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật,
hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám
phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ
thân ngoại chi vật này có làm gì?.
Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn
mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ
tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn
tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền
theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ
luôn.
Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi
lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao
lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.
Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi
nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm
này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng
thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được
câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ
thầm: Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong
khách điếm này rồi cũng vô phương.
Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc,
thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người,
chi bằng đập vỡ nó đi cho xong. Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng
chợt nghĩ lại: A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này.
Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết
hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại
hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà
chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài.
Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên
trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung
quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn,
xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh,
dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên
chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không
khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc
trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.
Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có
gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong
đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh
Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết,
sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền
nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.
Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi
càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng
đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại
không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với
người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường
mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an
vô sự.
Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo
bảng: Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí, nghĩ
bụng: Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ
vào thử xem thế nào. Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.
Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại
bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột
nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:
- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ
thầy chữa cho ta đâu.
Vương Thông Trị lắc đầu nói:
- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn
đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.
Tiêu Phong đáp:
- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?
Vương Thông Trị đáp:
- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể
chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng
phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể
sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi
bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.
Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có
lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp,
thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm
thuốc giục giã:
- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm1 tốt nhất. Lão thái
gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho
khỏi chết.
Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:
- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.
Tiêu Phong nghe nói lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết lập tức
nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy
ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối
trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy
ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng
ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên
1 Nhân sâm mọc hoang lâu năm
ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân
tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông
chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.
Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm
thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm
thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra.
Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch
nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không
khỏi mừng thầm.
Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:
- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng.
Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết
sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.
Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước,
trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm
bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một
chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: Đánh bừa bãi kẻ không
biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?. Ông bèn rụt tay về, ôm A
Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn
còn khinh khỉnh nói theo:
- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi,
xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.
Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại,
nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương
Thông Trị cũng thành bất trị.
Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: Nghe nói lão sơn nhân
sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó
cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ
cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì
trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy.
Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc.
Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau
tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky2 làm
gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng
có thể mở mắt ra, kêu khẽ: Tỉ phu! đến tối cũng ngủ được vài giờ
không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng
đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường
Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu
không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành
sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ.
Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa,
đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy
ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: Chết
rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm?
Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì
cướp. Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.
Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước
thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù
không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.
Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa
mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy
một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng
hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ
có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.
Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn
bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có
biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường
bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất
gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại
một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi
thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi
tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê
man, sống dở chết dở.
2 khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm
Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà
rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: Mình cứ
chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong
rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng.
Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa
cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng
sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng
không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.
Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ
A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng
nghe một tiếng à uôm thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong
mừng quá: Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi.
Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có
tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng
người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng
tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt
chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến
cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.
Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ
vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú,
tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được
một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn.
Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con
cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó
con hổ kia cũng xông tới vồ.
Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán
chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp
đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.
Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe
nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y
đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn
đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.
Tiêu Phong kêu lên:
- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.
Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu
Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán
ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên,
nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con
vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.
Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ
công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ
cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi
một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: Giỏi nhỉ, mi quả là
gớm thật! nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe
bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.
Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng
quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp
trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi
triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị
Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung
lên.
Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong
quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không
nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một
tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới
con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính
là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn
một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.
Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh
cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta
coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái,
hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng
mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.
Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một
tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên
thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp
xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú
trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn
cuộn trông thật hùng vĩ.
Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: Hảo hán tử!. Con hổ nằm chổng
bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn
động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay
người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu.
Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết
đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng
giơ hai ngón tay cái lên nói:
- Anh hùng! Anh hùng!
Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả!
Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Tiêu Phong!
Người kia hỏi lại:
- Tiêu Phong? Khất Đan?
Tiêu Phong gật đầu nói:
- Khất Đan! Ngươi?
Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!
Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao
Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện
chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này3. Tuy
ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được
một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y
3 tức Mãn Châu sau này
biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử
đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.
Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho
máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết
uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi
nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé
con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn
hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét
mặt đầy vẻ kính phục.
Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả
mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm
nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại
múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao
nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay
phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:
- Khỏe thật!
Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng
không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng,
đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa
ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt
Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai
cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm
căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh
trướng lập tức có người ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một
đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người
thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính
giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng
mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt
A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói
huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay
không đánh chết hổ.
Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên,
không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn
mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:
- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?
Tiêu Phong mừng rỡ đáp:
- Được chứ! Đươc chứ!
Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân.
Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy
mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ.
Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới
đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác
Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.
Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau
nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả
là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ
lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai
hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.
A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu
Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu
Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.
Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong,
thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa
tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ
người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu
Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực
mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn
một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn
xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không
đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này,
mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả
đều kính phục.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức
chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A
Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành.
Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không
lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y
dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng
Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn
không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng
Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta
hiểu không cần phải thông dịch nữa.
Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng
nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm
nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả
hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú,
đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào
phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh
tận.
Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ
một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly
thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại
không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều
do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên
không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm
một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật
an ủi.
Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền
tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất
nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh
nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi
săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường
về hướng bắc.
Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt,
trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người
Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa,
một người thợ săn già kêu lên:
- Gấu kìa! Gấu kìa!
Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có
những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân
gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.
Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ
con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những
vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài
thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.
Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa
xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại
cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người
cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay
cầm cung tên ra chiều hăm hở.
A Cốt Đả kêu lớn:
- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!
Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm
thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy
theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét
lên:
- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!
Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong
trong bụng bực tức nghĩ thầm: Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao?
Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?. Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị
ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng A thảm thiết, người thợ săn
Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.
A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống,
cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa,
không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn
tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi
tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:
- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?
A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:
- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết
ngươi là người Khất Đan đâu!
Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào
Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu.
Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai
cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã
phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã
kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A
Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.
Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn
tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai
cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả,
nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.
A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và
Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai
người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không
trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất
Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.
Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái
gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp
lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào
cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống
ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có
kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.
Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên
đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị
trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp,
xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt.
Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn
tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán?
Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó
mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy
người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai
bên bãi đấu được.
Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:
- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không
nể nang gì nữa đâu nhé!
Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là
gì. Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt
Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:
- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!
Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người
Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn
công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm
thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh
khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người
áo đỏ.
Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến
không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương4 của thủ hạ chung
quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt
được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một
cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã
xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:
- Giỏi lắm!
Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu
mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con
ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên: Ối trời! vội vàng
4 mũi lao (javelin)
nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra
chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió
ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng,
nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu
Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ
Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.
Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái
lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát
lên:
- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi
chết tươi bây giờ.
Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:
- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.
Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra
tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát
lớn:
- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?
Một lão già Khất Đan quát lên:
- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân
thi ngay lập tức.
Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng
không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn
chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử
dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia
trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm
xem ra không còn sống được nữa.
Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không
chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy
hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh
trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:
- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.
Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người
áo đỏ vội kêu:
- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!
Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong
nghĩ thầm: Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình
thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể
nào chạy thoát được. Ông quay sang nói với người áo đỏ:
- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.
Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn
mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình,
đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn
Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:
- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để
sót con nào.
Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng
truyền lệnh:
- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.
Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội
đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không
ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ
thầm: Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng
nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người
Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ
cũng thắng nhiều thua ít. Ông bèn nói:
- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một
người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt
hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.
Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể
làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:
- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt
người Nữ Chân.
Các võ sĩ hô to:
- Tuân lệnh!
Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho
bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được
mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo,
bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một
con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả
bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu
Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui
mừng nói:
- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.
Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng
hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của
Khất Đan bèn hỏi:
- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?
Gã kia ương ngạnh đáp:
- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?
Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được
ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:
- Ngươi nói đúng lắm!
Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên
gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:
- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông
mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu
thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba
chục con tuấn mã.
Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:
- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá.
Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn
lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.
Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp
mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái
giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã
là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan
mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu
người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là
một món hoạnh tài khổng lồ.
Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:
- Được rồi, cứ thế mà tính.
Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình,
tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo
để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua
bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ
nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan
không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ
không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.
Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn
bèn nói:
- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng,
bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!
Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:
- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã
ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên
hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.
Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:
- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta
không thèm nghe đâu.
Phả Lạp Tô nói:
- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?
Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:
- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo
đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh
hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành
thử xin đừng hỏi làm gì.
Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay
phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm
hè quát:
- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu
ngươi thì sẽ ra sao?
Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:
- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ
nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy
hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ
việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không
kém gì ông đâu.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết
ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu
một trận nữa.
Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:
- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy
tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da
đánh cho y một chập thật đau là được.
Tiêu Phong đáp:
- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y
toại nguyện.
Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung
tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:
- Lên ngựa mau!
Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu
Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ
là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không
sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.
Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:
- Quay qua hướng tây!
Người áo đỏ đáp:
- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.
Tiêu Phong nói:
- Tiếp lấy!
Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả,
lớn tiếng nói:
- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất
Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!
Tiêu Phong đáp:
- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!
Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ
còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận
dữ, gầm lên:
- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá
lắm hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu
thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ
đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi
trở về bộ tộc của mình đi.
Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:
- Cái ... cái gì?
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình
an quay trở về.
Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng
không sao kể xiết hỏi lại:
- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi ... chẳng hay ngươi ... muốn
gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.
Tiêu Phong hiên ngang đáp:
- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ
đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay
sao?
Người áo đỏ đáp:
- Đúng thế!
Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:
- Đa tạ ân công tha mạng!
Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:
- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy.
Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng
tha đâu.
Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:
- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông
kết làm anh em, nên chăng?
Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế
phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có
Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ
các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang
túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao
bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu
rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ
nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung
Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở
đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến
chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào
hùng, quả là một hảo hán liền đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi.
Tôn huynh quí canh bao nhiêu?
Người kia cười đáp:
- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.
Tiêu Phong nói:
- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là
đại ca, xin nhận một lạy của đệ.
Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.
Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm
hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong
lòng cực kỳ vui sướng nói:
- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.
Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật
Cơ vừa thấy thật mừng nói:
- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan.
Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh,
chung hưởng phú quí.
Tiêu Phong đáp:
- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra
không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn
uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào
cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.
Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế
nàng thế nào bèn nói:
- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.
Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa
đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy
Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của
người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu
Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất
anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng
như thế lại càng thán phục.
Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho
y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy
dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm,
hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:
- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân
chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ,
xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế
nào?
Tiêu Phong mừng quá nói:
- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta
sẽ cố gắng giết ít con là xong.
Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A
Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm
gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn
tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được
một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống.
Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi
thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật
gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như
thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn
sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi,
còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi
cho A Tử uống thì càng khó hơn.5
Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm
cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:
- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại
ca.
Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem
tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào,
trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã
nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa
đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:
- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm,
đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến
Thượng Kinh hàn huyên.
Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn6, thần thái cực kỳ
cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:
- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.
Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:
- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.
Thất Lý nói:
- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng
bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng
ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài
ra còn một số quần áo đồ dùng.
Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền
chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến
5 sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều
chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây
tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.
6 lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới
đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải
bao nhiêu ngựa xe mới đủ.
Thất Lý khom lưng nói:
- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò
ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ
nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú,
sinh khẩu7 tổn thất rất ít.
Tiêu Phong thở dài:
- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ
tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết
sao cho phải.
Thất Lý nói:
- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không
nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.
Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều
cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:
- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.
Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng
chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:
- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.
Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia
chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy
tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.
Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ
thầm: Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn
dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không
ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh
nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa. Thất Lý kêu lên:
7 con vật còn sống
- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để
khỏi hiểu lầm.
Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một
cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa
chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn
trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân
sĩ.
Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố.
Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át
cả tiếng người không nghe thấy gì cả.
Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi
khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng
cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông
đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia
cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau,
không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy
Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở
trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc
ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của
Tiêu Phong.
Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần,
thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương
thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong
chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng
trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu
Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những
ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau
những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng
trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp
đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc
châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều,
không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.
Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông
hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh
coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:
- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông
ngòi gì mà coi.
A Tử đáp:
- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội
chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển
nhưng vẫn còn bến còn bờ.
Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến biển Tinh Tú cũng thấy chột dạ.
Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ
lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm
chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng
trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả
nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?
Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút
máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người
gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong
lòng: Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị
ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ
nghĩ đến những điều xấu của nàng?. Ông bèn mỉm cười:
- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử,
khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để
xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ,
cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em
khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.
Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:
- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.
A Tử cười đáp:
- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại
càng linh hoạt hơn nhiều.
Tiêu Phong mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại
dấu ta?
Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:
- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày
ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại
đuổi em đi.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi
thương hại nói:
- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô
ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?
A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:
- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?
Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:
- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị
thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta
không?
A Tử đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu
đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải
được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.
Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương
này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ
bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm
đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.
Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm,
A Tử bỗng hỏi:
- Tỉ phu có đoán ra được chưa?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Đoán ra cái gì?
A Tử nói:
- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết
vì cớ gì không?
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?
A Tử thở dài một tiếng nói:
- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem
thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng
nam là sao?
Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành
hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:
- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam
tránh tuyết.
A Tử hỏi:
- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay
lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở
luôn phương nam, cần gì phải quay lại.
Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ
về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời
được, lắc đầu cười nói:
- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ
là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.
A Tử gật đầu nói:
- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà
cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó
cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.
Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động
đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía
đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ
thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ
chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ
nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta
sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai
mới trút đi được.
Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi,
Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở
đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều.
Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn
quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao
hứng nói:
- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển
cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ
không bến.
Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái
ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.
Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn
chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó
vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu.
Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn
con đó, không lo không sầu.
Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô
số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại
trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:
- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về
dể khỏi gây thêm rắc rối.
A Tử nói:
- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động
được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?
Tiêu Phong cười nói:
- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác
gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.
A Tử cười nói:
- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.
Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên,
nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những
doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình
cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn
hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội
đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.
Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:
- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.
A Tử nói:
- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không
hay?
Tiêu Phong đáp:
- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.
Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được
mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh
Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bốn bề không thấy có
địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?.
Chỉ nghe tiếng người vang lên:
- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!
Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn
hươu. Tiêu Phong nói:
- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.
Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông
nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên
trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì
vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng
binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen
ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường
mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái
rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn
mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy
được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng
tròn đuổi trở lại vào trong.
Hồi 27(a)
KIM QUA ĐÃNG KHẤU AO BINH
Thiên quân vạn mã vào ra,
Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.
Cuộc đời như giấc mộng lành,
Hôm nay khất cái mai thành đại vương.
*
* *
Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi:
- Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: "Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?". Ông quay lại
thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã
đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật
đến cho mình.
Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy
xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói:
- Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân
thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết
ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp
chủ nhân chúng tôi.
Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ
nói:
- Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây,
thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.
Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy
đến. Y dặn dò:
- Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch
qua thăm.
Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.
Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một
đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.
Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y
ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế
như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi
đó.
Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào
cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói:
- Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở
đây có một buổi hội thật là vui nhộn.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi:
- Cái gì mà vui nhộn?
Thất Lý đáp:
- Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái
Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai
nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ
hai chức vụ này.
Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi
lên, hết sức cao hứng, cười nói:
- Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan
như thế nào.
A Tử cười nói:
- Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt
được một chức thống lãnh.
Thất Lý lè lưỡi nói:
- Tiểu nhân nào có cái gan đó?
A Tử lại cười:
- Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho
ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.
Thất Lý vui mừng nói:
- Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn
không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận
chẳng dám mơ tưởng tới.
Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước
mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói:
- Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1
Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài
bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là
uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ
mã, chia ra đứng hai bên nói:
- Cung nghinh Tiêu đại gia.
Tiêu Phong đáp:
- Không dám! Không dám!
Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục
tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da
hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ
thầm: "Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi
vệ rầm rộ thế này". Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia
Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu
không hỏi nữa.
Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội
Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu
Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn
tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong
trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy
đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo
nói:
- Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ
tương kiến.
Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên
uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.
Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải
đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.
Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói:
- Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.
Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn
dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua
sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy
doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một
khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ
tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.
Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng
pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con
ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm,
chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn:
- Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?
Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống,
bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung
quanh quân sĩ reo hò vang dội:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Tiêu Phong giật mình tự hỏi: "Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?". Ông
đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao
chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn
ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp:
- Ca ca, thì ra ca ca ... là ... là ...
Gia Luật Cơ cười ha hả nói:
- Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e
rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực
của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn
không bao giờ quên.
Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện
kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối
rối, ấp úng:
- Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng
muôn thác.
Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc
hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.
Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói:
- Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em
kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ
vua tôi cũng không muộn.
Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống
đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong
hai người cùng đi vào đại trướng.
Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn
bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì
thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong
ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào
tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam
Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã
Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ ... Tiêu Phong nhất thời không
thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.
Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà
con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là
rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt
tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước
mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật,
thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân
hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con
nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng
miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận
quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.
Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu.
Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau
phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người
hết sức kinh ngạc.
Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị
Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong
biểu lộ cái năng lực phi phàm để che dấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ
đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công
nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng
khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói:
- Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.
A Tử đột nhiên xen vào:
- Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.
Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại:
- Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại
anh hùng là ai?
A Tử đáp:
- Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.
Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ,
không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?
Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã
thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu
để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:
- Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi
một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho
xứng?
Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ
lên trán. Tiêu Phong vội nói:
- Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà
hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô
định, quả là không thích làm quan.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ uống rượu không
phải làm gì cả...
Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi,
nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống
rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm
dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới
nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm,
lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Trên đời
này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công
thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm
truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù
và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp". Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ
truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.
Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào
như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.
Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên,
uống cạn chén rượu nói:
- Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về vậy.
Nhổ trại!
Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng
"Nhổ trại" truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn,
thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ
gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Nước Đại Liêu ta lập
quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội
loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy
quân đội có phép tắc hẳn hòi".
Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2
ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền
quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.
Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:
- Mình ra xem thế nào!
Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ
đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh,
hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp,
không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: "Trị
quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng
thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân
cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống
nổi với số đông.
Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một
thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất
lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người
lập tức khởi hành. Bắc Viện Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó
bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai
nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn
trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện
giờ vẫn chưa rõ rệt.
Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa
đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia
Luật Hồng Cơ:
- Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng
thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia
quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.
Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.
Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra
cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện
Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật
Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng
cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong
Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.
Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là
Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ
là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn
Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà
có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng
hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.
Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử
ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng
khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo
cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều
không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích,
lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền
ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.
Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta
qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà
lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.
Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên
phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú
mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ
Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban
cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải
nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được
phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc quân chính yếu vụ Nam Viện
nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.
Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng
nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt
nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân
quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi
ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện
Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh
hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn
nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.
Bắc Viện Đại Vương tâu rằng:
- Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không
thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc
này đã đem quân bình loạn rồi.
Gia Luật Hồng Cơ đáp:
- Cũng mong là thế.
Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo:
- Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra
chiếu cáo tri thiên hạ.
Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của
tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh
Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật
Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng
biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi
đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị
lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy ...
Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào
đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: "Đạo ngụy chiếu
này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người
hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên
Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh
mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở
đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế
nào bây giờ đây?". Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ
được.3
Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan
đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế
nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông
ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ
tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi,
nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở
Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn.
Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động
lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ
sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực ngăn trở, chém đầu mấy kẻ
khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được.
Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng
quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.
Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở
Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm
giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: "Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn
đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong".
Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một
lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng
chỉ lo lòng quân không còn vững chãi.
Hồng Cơ truyền lệnh xuống:
Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên
được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.
Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến
với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình
cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần
quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ
phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang
tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.
Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng
vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở
hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết
ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.
Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên.
Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh:
- Xuống ngựa!
Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn
Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong
không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật
Hồng Cơ cười hỏi:
- Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương
pháp hành quân của người Khất Đan, phải không?
Tiêu Phong đáp:
- Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười đáp:
- Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt
trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em
mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?
Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói:
- Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.
Hồng Cơ nói:
- Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người
chỉ đứng hàng thứ hai.
Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói:
- À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.
Hồng Cơ gật đầu nói:
- Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn
khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng
đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.
Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao
đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.
Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói:
- Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những
tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng
sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể
nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.
Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi
lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân,
phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật
Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra
lệnh:
- Kết trận lập trại mau!
Trung quân tướng quân đáp lời:
- Tuân lệnh!
Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu
quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột
dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông,
chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên,
tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn
sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.
Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: "Trận đại chiến này dù cho ai
thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.
Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận
thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi
an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao".
Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của
loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi
cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn
liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh,
bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa
mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu
là cùng nghĩ thầm: "Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng,
xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào
tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y". Thế nhưng
bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt
trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.
Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành
đội giữa lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười
gượng nói:
- Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không
bay khỏi nơi đây được.
Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc,
biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch
đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng
chỉ huy trung quân hét lớn:
- Đánh trống!
Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên.
Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang
trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của
địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng
trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra,
quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước
ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho
kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới
nơi bắn tên vào ngự doanh.
Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến
rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao,
ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc
chiến đều hô lớn:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Bên địch nghe thấy "Vạn tuế!" ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng
Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời
sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may
liền quát lớn:
- Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.
Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng
ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn
quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại
loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ
tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy
sát, khí thế cực kỳ hung tợn.
Tiêu Phong mừng lắm kêu lên:
- Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.
Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân
tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản
loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng
vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu
trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: "Cảnh
ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ
công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng
dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.
Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có
thể so sánh với nhau được".
Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu
thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra
như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung
phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị
bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói:
- Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.
Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh.
Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích
nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân
liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm
người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh
quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó
chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.
Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa
hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê
thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm
người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng
kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra
tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút
phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị
thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền
đấu với nhau.
Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp
loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết
lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công
tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến
thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu
thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế
nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản
loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng
ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân
còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Chắc là
người Liêu có cái phép tắc như thế".
Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần
trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường
đao, lớn tiếng nói:
- Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh
thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi.
Quân ngự doanh cùng la to:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa
chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng
đọc bản chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:
Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái
thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước
Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba
cấp...
Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe
kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp
tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn
đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết "chiếu thư" của Hoàng thái thúc, lúc
đó mới quay về.
Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ
động lòng liền quát lớn:
- Ra chửi lại đi!
Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm
thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên "thợ chửi", đứa nào cũng mồm to
giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là "phản quốc gian tặc, chết
không có đất mà chôn" ... tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu
hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn
từ của những tay "thợ chửi" này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy
Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những "mạ
thủ" này chửi cũng có đầu có đuôi.
Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng
vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một
người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn
người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh
anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Xem ra hai người này hẳn là cha con
Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi".
Đột nhiên mười tên "thợ chửi" kia hạ giọng thì thầm bàn tán một
hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng
thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn,
không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn
chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế
cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián
cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau
truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít
người nghe rõ ràng.
Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt,
người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên
"thợ chửi" kia.
Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy
chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính
đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng
như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.
Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.
Gia Luật Hồng Cơ kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản đồ, băm chúng
ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.
Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng
Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các
phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra
ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả
những người kia.
Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:
- Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc
đi.
Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi,
những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi
giận, quát lên:
- Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!
Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang
khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên:
- Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để
hủy diệt trong tay gian tặc được.
Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế,
không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân
tâm bên mình bèn ra lệnh:
- Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.
Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên
xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh:
- Đem gia quyến quân địch ra.
Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã
lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một
đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng
khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.
Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ
đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho
binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh
chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ
đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc
của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền
bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa
phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn
cả lên.
Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói:
- Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi
lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình,
thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng
đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.
Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến "giết sạch"
thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có
người nhận ra thân thuộc mình "Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi ..."
hai bên gọi nhau ơi ới rầm rĩ.
Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ
hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại,
hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự
doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên:
- Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không,
bao nhiêu người thân bị giết sạch.
Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng
một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc
kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật
Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem "thăng quan" "trọng
thưởng" ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con
vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?
Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự
doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ
kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!
Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám
địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra,
trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục
lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng "Mẹ ơi! Con ơi!" ồn ào vang
dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những
tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng
làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc
thành mấy nghìn người. Sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn,
trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người
qua bên kia.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa
cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối
phương lập tức ra lệnh:
- Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.
Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng
còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về
hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên
chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không
nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự
doanh quân đã đi xa rồi.
Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ
vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm
thế phòng ngự. Sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở
Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.
Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn.
Sở Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an
doanh ở chân núi.
Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía
nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con
rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công.
Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu
Mật Sứ đến bẩm:
- Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu
hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.
Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói:
- Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.
Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa
xa bèn nói:
- Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ
bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ,
đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi
võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.
Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp:
- Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú
quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại
làm lụy đến cả ngươi.
Tiêu Phong đáp:
- Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không
lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi
lại tính sau.
Hồng Cơ lắc đầu:
- Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng
phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ
phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi
hãy một mình đi thôi.
Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp:
- Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận
tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là
hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều
là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh
đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?
Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói:
- Hảo huynh đệ, cám ơn em.
Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một
góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi:
- Tỉ phu có giận em không?
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Giận ngươi chuyện gì?
A Tử đáp:
- Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo
nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng
mình sẽ chết ở đây có phải không?
Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có
thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng
cực kỳ thương xót dịu dàng đáp:
- Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng
mình đâu có đến chỗ này.
A Tử mỉm cười nói:
- Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương
em.
Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng
thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài
một tiếng nói:
- Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.
A Tử nói:
- Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây
giờ thì em hiểu rồi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: "Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng,
một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một
kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu
được đây?". Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.
A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói:
- Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh
chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử
động được để em được hầu hạ anh thôi.
Tiêu Phong lạ lùng:
- Thế để làm gì?
A Tử mỉm cười đáp:
- Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu
không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được,
không ngó ngàng gì đến em nữa.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không
phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: "Thôi thì đằng nào
sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao". Ông bèn
nói:
- Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói
thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.
Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói:
- Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi
không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!
Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực
chẳng dám quay lại đâu nên cười nói:
- Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì
quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay. Em mặc kệ họ.
Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi
rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc
mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự
doanh quân nhớ người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ
chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.
Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị
ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt
cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời
còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh
quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau
không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung
yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía
đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía
xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.
Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng
cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ,
sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã.
Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ
vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến
dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán.
Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó
cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng
cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống
tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên
mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.
Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói:
- Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao
nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha
ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm
Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!
Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm
Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên,
chửi lại:
- Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?
Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên:
- Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần
ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.
Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông
xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này
có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét
vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít
dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi
tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao
nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không làm sao cứu được nghĩ đến lòng
trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.
Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói:
- Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân
lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại
Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy
cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số
hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao
cầm tay nói:
- Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay
vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương
tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.
Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra,
đoạt ngay con dao nói:
- Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường,
lẽ nào lại tự tận bao giờ?
Hồng Cơ thở dài:
- Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn
hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.
Sở Vương lại lớn tiếng giục:
- Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn?
Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.
Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ:
- Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một
mũi.
Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm
mắt.
Nói rồi cao giọng kêu lên:
- Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả
muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu
dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại
Liêu?
Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường
tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui
dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con
vật liền chạy thẳng xuống.
Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại
tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai
để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có
người lập tức hô hoán rầm rĩ.
Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở
Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa
giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh
Sở Vương liền giơ thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa
chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại
nhắm vào ngực Sở Vương.
Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng
roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người
bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào
đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi
một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên
"Chao ôi!" một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.
Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,
mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được
một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.
Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: "Sao mình không
thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc".
Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm
mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng
đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy
vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,
cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.
Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.
Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân
địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như
dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.
Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm
thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường
đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ
bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay
nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc
đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi
tên.
Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi
nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng
thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn
bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy
mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba
mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái
thúc.
Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy
nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng
là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung
Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung
hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn
làm sao chạy thoát được đây?
Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy
lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi
xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,
giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi
xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn
sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:
- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ
binh khí xuống.
Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không
nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,
hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu
Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động
khinh suất?
Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:
- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe
tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả
quan binh, không truy cứu bất cứ ai.
Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm
còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau
núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong
Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát
khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,
nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức
tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ
chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,
trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói
liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.
Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của
quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định
được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ
nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,
mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể
diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:
- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức
lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết
không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy
mau mau bỏ binh khí xuống.
Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy
người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua
người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số
người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.
Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa
chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập
tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng
núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi
trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:
- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí
xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.
Hoàng thái thúc run run hỏi lại:
- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?
Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn
cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết
nghĩ thầm: "Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái
thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ
càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa". Ông liền nói:
- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng
chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.
Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con
ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,
chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:
- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.
Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:
- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.
Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:
- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng
khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ
binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.
Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn
mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào
dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn
quân đều vứt binh khí xuống đất.
Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia
Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,
tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:
- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi
chung hưởng.
Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.
Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:
- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng
thương xót.
Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu
Phong:
- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?
Tiêu Phong đáp:
- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu
xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!
Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:
- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ
chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5
Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc
chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn
tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho
chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại
Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:
- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong
cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng
đi.
Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:
- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng
về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức
nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm
quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.
Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:
- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc
cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần
phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn
cách nào khác nữa.
Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: "Ca ca vui quá, nói năng
chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần
quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa". Ông
đành quì xuống nói:
- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.
Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:
- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là
kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy
xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.
Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:
- Quyết không sao cả.
Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:
- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò
tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.
Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay
sang Tiêu Phong tham bái nói:
- Tham kiến đại vương!
Hồng Cơ nói:
- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn
quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.
Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn
người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng
thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật
Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi
sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen
ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.
Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc
Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,
thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam
Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong
thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không
phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì
với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang
nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe
lệnh của ông.
Tiêu Phong nói:
- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,
từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản
trắc.
Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:
- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến
chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu
tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.
Tiêu Phong gật đầu:
- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.
Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:
- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi
kinh.
Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham
kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ
Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào
kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,
nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra
mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào
đấy.
Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu
và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu
Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi
trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu
Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào
rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến
một nửa không khỏi tức cười.
A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,
bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại
chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu
Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.
A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:
- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội
đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?
Làm em lo ơi là lo.
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định
trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.
A Tử nói:
- Tỉ phu qua đây.
Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của
nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa
gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại
vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.
A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:
- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?
Tiêu Phong đáp:
- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình
nhân, thú vị quá.
A Tử bực bội đáp:
- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.
Tiêu Phong vẫn cười:
- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc
chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy
thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta
nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.
A Tử nói:
- Tỉ phu cũng sợ chết sao?
Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:
- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.
A Tử nói:
- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu
quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại
dám xông vào?
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông
vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không
dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay
một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại
cắn thôi.
A Tử bật cười:
- Anh so sánh mình với loài súc vật.
Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt
nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài
như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải
chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.
A Tử hết sức vui lòng nói:
- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh
Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất
cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.
Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ
phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang
hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn
chúng cho được việc.
Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:
- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho
ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn
bè ta, sao lại giết họ?
A Tử đáp:
- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết
chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của
anh nữa hay sao?
Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc
mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu
hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:
- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước
Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay
không về?
Tiêu Phong mủm mỉm cười:
- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán
nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng
từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.
A Tử nói:
- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở
xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: "Qua khỏi dãy núi kia là Trung
Nguyên". Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương
nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng
bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh
không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam
Viện Đại Vương.
A Tử nói tiếp:
- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong
anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh
với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách
thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,
đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình
chẳng thắng thì là gì?
Tiêu Phong mỉm cười nói:
- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay
quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,
Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh
thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,
giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn
thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.
A Tử gật đầu nói:
- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết
Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì
trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có
được không?
Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự
tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại
gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ
nói gọn một câu: "Đã giết được những ai những ai ..." còn như bao nhiêu
gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa
ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong
đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo
lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:
- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không
được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.
A Tử nói:
- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại
Tụ Hiền Trang.
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Làm sao cô biết?
A Tử đáp:
- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ
em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ
công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc
đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ
nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con
ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp
ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân
phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân
tình.
Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc
lại:
- Ôi, "vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc", anh hùng hảo hán
Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?
A Tử an ủi ông:
- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói
là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan
trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại "vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn
hiếu sắc", nhưng đối với tình nhân thì lại cũng "phụ nghĩa hiếu sắc", đối
với con cái thì "tàn nhẫn vô tình" chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội
đứng một bên vỗ tay tán thành.
Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.
Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân
chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu
Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không
ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ
nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia
quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa
Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:
- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.
- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại
phú đại quí!
Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào
người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: "Kẻ ở
trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn
vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng
nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với
bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều
tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ
nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu
tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói".
Ông lại nghĩ: "Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc
thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo
cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại
càng khó tưởng ra nổi".
Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước
lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế
nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng
Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém
xa.
Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở
Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.
Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?
Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập
hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một
cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.
Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,
tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất
lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.
Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất
các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái
thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết
rồi.
Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không
hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu
việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,
đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn
tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng
hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả
thật chất cao như núi.
Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét
công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến
tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai
Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp ... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là
quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,
rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích
Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước
Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,
Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,
Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng ... Những nước đó đều có sứ thần tại
Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều
đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.
Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt
thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán
dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật
Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:
- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn
Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không
muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau
sớm đem binh xuống phía nam.
Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong
bụng kinh hoảng nói:
- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần
Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở
trường.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở
Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,
cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể
tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong
đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần
phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống
phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem
binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Vâng! Quả là như thế!
Hồng Cơ nói:
- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm
họ nhân tâm qui phục?
Tiêu Phong đáp:
- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười sằng sặc nói:
- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài
bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa
đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,
cố mua được càng nhiều càng tốt.
Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa
nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,
mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết
người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua
chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ
lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,
trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: "Ca ca có lòng tốt phong
ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không
khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta
xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng
kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi
anh ta không trách gì được". Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử
xuống Nam Kinh.
Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là
Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường
nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên
Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,
Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,
Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.
Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại
Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại
được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng
trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một
mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.
Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,
dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao
đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi
thật lớn.
Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ
phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam
triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay
về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn
mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.
Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.
Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai
Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn
phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi
là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của
hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu
Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,
đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.
Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười
sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,
phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn
như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải
dọn vào vương phủ.
Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam
Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính
vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.
Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những
dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm
thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi
ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du
ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,
đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.
Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo
Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:
- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi
săn nhé.
Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe
nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để
ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng
phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ
thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A
Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.
Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.
Tiêu Phong nói:
- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.
Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục
dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay
để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh
cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau
nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay
nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.
Những người đi theo reo ầm cả lên.
Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,
lạ lùng hỏi:
- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?
A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:
- Em ... em thành phế nhân rồi, đến giương cung ... mà cũng chẳng
xong.
Tiêu Phong dỗ dành:
- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là
tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng
tăng gia sức khỏe.
A Tử đang khóc bật cười nói:
- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công
đấy nhé.
Tiêu Phong đáp:
- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.
Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân
ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu
Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người
Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn
xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng
chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Mình làm gì có
giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?".
Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay
sang nói với kẻ tùy tòng:
- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?
Gã tùy tòng liền đáp: "Vâng" rồi hỏi:
- Có phải các anh em "đi gặt" về đấy chăng?
Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,
bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền
lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước
đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:
- Đại vương thiên tuế!
Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:
- Miễn lễ!
Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa
chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,
phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều
theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.
Gã đội trưởng nói:
- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi "đi gặt", nhờ phúc
đại vương nên thu được cũng kha khá.
Y quay lại quát:
- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu
quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.
Các quan binh cùng reo lên:
- Tuân lệnh!
Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại
lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan
binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,
hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và
những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.
Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh
nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi
bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ
chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu
quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả
tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính
qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân
cận, gọi là "gặt hái", thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan
binh Tống triều cũng lại đi qua "gặt hái" của người Liêu để trả thù.
Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng
nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô
đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt
làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân
quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm
trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã
đội trưởng:
- Các ngươi ở đâu ... "gặt hái" ở đâu về thế?
Gã đội trưởng cung kính đáp:
- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi "đi gặt" tại bên ngoài cảnh giới
Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không
dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.
Tiêu Phong nghĩ thầm: "Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của
người Tống ngay tại bản châu". Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ
đang đứng trước đầu ngựa:
- Cô là người ở đâu?
Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:
- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho
tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.
Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người
bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng
sừng sững không chịu quì.
Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm
nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:
- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?
Thanh niên kia đáp:
- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.
Tiêu Phong đáp:
- Được, ngươi lại đây!
Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:
- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người
khác nghe thấy được.
Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: "Một đứa bé thế này làm
gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía
nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?". Y
là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại
Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có
chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra
cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:
- Lại đây!
Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:
- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn
trình lên.
Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng
chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây
thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu
Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:
- Ngươi có cái gì?
Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:
- Đại vương xem thì biết.
Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón
lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt
Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì
ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe
khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.
Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó
thường dùng.
Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: "Thằng bé này lớn mật, thì ra
không phải là Hán gian". Ông gật đầu hỏi:
- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?
Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:
- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.
Thanh niên đáp:
- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.
Tiêu Phong hỏi:
- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?
Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt
Tiêu Phong lớn tiếng nói:
- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta ... ta giận
không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.
Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình
giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn
hỏi:
- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?
Thanh niên đáp:
- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi
họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!
Tiêu Phong "À" lên một tiếng nói:
- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là
Du Câu Du nhị gia không?
Ông ngừng lại một chút nói tiếp:
- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt
buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và
lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.
Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:
- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của
bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?
Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:
- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được
cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.
Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên
đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con
dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:
- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết
kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.
Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:
- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?
Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.
Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ
ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:
- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được
nếm mùi.
Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:
- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,
vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.
Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:
- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được
chăng?
Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:
- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại
vương.
Tiêu Phong nói:
- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến
vương phủ lãnh thưởng.
Các quan binh vui vẻ đáp:
- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải
thưởng.
Tiêu Phong nói:
- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ
đến lãnh thưởng.
Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:
- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng
bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò
này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy
không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe
mạnh.
Nói xong hành lễ dẫn binh đi. "Muốn dùng bọn Tống chư làm bia
sống chứ gì", câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước
mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm
người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong
khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết
từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất
Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai
cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,
chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn
người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những
người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe
chuyện "bắn bia sống", bây giờ sợ đến mất vía.
Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam
nghĩ thầm: "Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta
vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một
thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,
lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly
làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi "gặt lúa", ta sang đất ngươi ta đốt nhà?
Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?". Trong nhất thời,
lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.
Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo
không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:
- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.
Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ
bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:
- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi
"gặt lúa" bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu
được lần thứ hai đâu.
Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả
cùng quì xuống khấu đầu nói:
- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại
vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.
Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh "gặt lúa" bắt
được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,
còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được
về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy
vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo
khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình
thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho
về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.
Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia
đi về hướng nam nghĩ thầm: "Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại
thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,
ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?".
Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn
đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:
- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc
gì không?
Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong
mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu
nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân
Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa
Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao
không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:
- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì
tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.
Du Thản Chi lớn tiếng nói:
- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì
cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói
cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!
Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối
thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô
ích bèn bảo:
- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến
kiếm ta cũng được.
A Tử vội nói:
- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng
cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi
bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.
Tiêu Phong lắc đầu:
- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn
hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.
Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải
chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả
con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?
Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:
- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.
A Tử bĩu môi nói:
- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ
ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?
Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu
ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu
nói:
- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy
kiếm tỉ phu ta báo thù.
Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.
Hôi28(a)
THẢO MỘC TÀN SINH LÔ CHÚ THIẾT
Chết đi sống lại mấy lần,
Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.
Kim chi ngọc diệp còn đâu,
Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.
*
* *
Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng
bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ
thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng
vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y ... y ở nước Liêu làm cái chức đại
vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít
nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.
Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà
Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái
có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra
rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách,
thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn
ngoèo, không đọc được lấy một chữ.
Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản
Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền
văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển
sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan
trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y
cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải
dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.
Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt,
không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng,
học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là
con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi
vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính:
- Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như
thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu
ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra
tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y
học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.
Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ
nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học
chữ cũng không chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ
dạy:
- Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái
đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh
quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.
Thầy đồ cáu tiết nói:
- Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp
kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?
Du Thản Chi nói:
- Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra
gì, để con đi nói cho cha con biết.
Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc
giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó
không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.
Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao
chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du
Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn
dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột
tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong
đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để
báo thù.
Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh
nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói
ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ
một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy
cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt
trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất
Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao
vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.
Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa
càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn
độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là
nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia ... còn tiểu cô nương kia, chao ôi,
sao ... sao mà có người đẹp thế!.
Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt
cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được
gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.
Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa
được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng
chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến
kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không
nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác
nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ
uống tuyết thật sung sướng bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con
cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu
mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên
phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ
tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm
thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.
Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa
lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã
lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra,
nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây
liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng,
con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã
kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy
tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.
Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi
ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã
Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống,
ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ
Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết
lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần
này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở
được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.
Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ:
Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình
về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt
rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong
bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên
khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước
mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút
dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu
tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.
Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong
đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y
cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém
vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao,
chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái,
mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã
kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn
sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành
rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ mong sao chết sớm chừng nào
đỡ khổ chừng nấy.
Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa,
lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót
toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa
ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào
trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp
thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia
vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã
ngã lăn ra.
Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba
vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan
binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y
định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào
đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.
Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười
trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng,
loáng thoáng nghe cô gái cười nói:
- Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.
Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y
thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên
lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như
thả con diều bằng giấy.
Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào
thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên
rồi.
Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia
chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị
chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay
lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.
Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho
Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền
cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng
không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được
Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc
yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay
lại bắt Du Thản Chi.
A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh
Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất
Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có
người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh
thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.
A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói:
- Để cho ta thả diều một tí.
Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói:
- Ngươi xuống đi.
Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A
Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa:
- Thích quá! Thích quá!
Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra,
chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch
xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc
thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói:
- Cái thằng ngốc này sao nặng thế?
Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể
nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành
lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ,
một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi
vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?
A Tử nói:
- Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho
vui, càng cao càng thích.
Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng
thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện
tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới
nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng:
- Lên nào!
Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy
vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi
lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.
Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du
Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử
và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên
bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật
rồi!.
Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao
thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan
binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo
ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo
giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó
quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay
hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng
xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để
làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín
người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế
đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau.
Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A
Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng
tạ ơn, hỏi thêm:
- Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?
A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay
chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm
đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói:
- Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y
đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu
đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.
Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu
me ra.
Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng
vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không
nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình
đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ
họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng:
- Nước! Nước!
Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?
Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào
bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng
đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình
đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong
veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành
đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh
nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không
cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới
đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy
mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không
phát ra một tiếng nào ...
Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà
trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại
áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã
bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng
chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết
chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn
mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài,
đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm
báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng,
sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.
Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực
lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm
ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên
thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn
màng như ngọc, mềm mại như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình,
hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô
gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến
vuốt ve cho thỏa dạ.
Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau
cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn
chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông
chẳng khác gì mười cánh hoa.
A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me,
khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm
thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn
được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng
chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình,
lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên
cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn
hoắt gầm gừ.
A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ
nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi,
không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm
qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra
vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm
tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho
người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông
lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng
được.
Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại
không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi
nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui
đây?.
Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết
một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn
lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít
lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất
Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.
Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính
Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông,
ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không
dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một
đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn
sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì
đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử,
tiếp tục hôn chân nàng.
A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào
chân mình, trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột
nhiên kêu hoảng lên:
- Ối trời! Y cắn ngón chân ta.
Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan:
- Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng
để y cắn đứt ngón chân ta.
Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy
đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là
không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống
chết cắn một cái thì khốn.
Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A
Tử lại kêu:
- Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.
Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói
những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần
rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y
ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương
cho nên ngần ngừ không dám.
A Tử lại tiếp:
- Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao?
Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.
Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên
không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng
lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa
từng mây.
Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản
Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân
lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn
điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền
giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi
quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực
rỡ kia.
A Tử quát:
- Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.
Sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái
lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không
đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần
dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ
nhỉ?.
A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn
mình, liền hỏi:
- Ngươi nhìn ta làm chi?
Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp:
- Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.
A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với
ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một
chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở
phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược
lanh lợi, còn khi đi cùng với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện
thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.
Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng,
nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên,
thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là
thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ dấu được
anh ấy hôm nay nhưng làm sao dấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể
nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng
nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.
Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa
trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này
thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y
không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng
cũ thế thì có ích gì đâu?.
Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay
reo lên:
- Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.
Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ
nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm
chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành
lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.
Du Thản Chi kêu lên:
- Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.
Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y
đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định
thông minh của mình, càng thêm đắc ý.
Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến
chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.
Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ
quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói
nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.
Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ,
thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ
mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính
chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa
mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên:
- Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm
chúng bay ra.
Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông
tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi
thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ
thầm: Thì ra bọn chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.
Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng
mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt
dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên
một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên
ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.
Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra,
Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt
người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái
vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi:
- Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà
chôn.
Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó
đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt
mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha,
da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái .... Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:
So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu
chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt
nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập
đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.
Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói,
nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn
ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa
lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt
ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể
có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên
khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.
Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn
nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá,
một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang
xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản
Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một
người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại
đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.
Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng
sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang
suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên,
chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh,
nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt
nạ liền áp vào mặt y. Y cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào
kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi
mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.
Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do,
một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái
mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi
thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ ...
không lẽ .... Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng
để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy
mong sao thoát ra được.
Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng
một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa,
đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm
xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn
toàn ăn khớp.
Du Thản Chi kêu lên:
- Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên
hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng
bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết
nốt, con nít cũng chết non.
Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.
Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt
đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.
Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm
về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.
Sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán
cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền
kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài
bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt
đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân
người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?
Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho
nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng
xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ
kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã
thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại
thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn
nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ
rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa
chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.
Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn
trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và
sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần
tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những
tiếng ú ớ không ra tiếng người.
Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố
chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay
lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì
mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn
phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố,
không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn
không nổi khóc òa lên.
Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao
nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết
thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy
mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ
biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào
thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh
lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này,
không biết có dụng ý gì?.
Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra
rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che dấu để ông không nhận ra y.
Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi
hành.
Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái
lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y
vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu
Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi
đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui
lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung
này là ban riêng cho nàng ở.
A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm
vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật
được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y
cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ
tay khen ngợi nói:
- Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng
bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.
Thất Lý đáp:
- Vâng! Đa tạ quận chúa.
Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi
rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không
khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái
lạ, nhưng mắt vẫm đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi:
- Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?
Du Thản Chi đáp:
- Tôi ... tôi ... không biết nữa. Cô ... cô nương đẹp quá.
A Tử mỉm cười:
- Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?
Du Thản Chi hậm hực hỏi lại:
- Thế cô nghĩ có thích hay không?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Ta không nghĩ ra.
Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp,
miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng
tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng
không được bèn cười nói:
- Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào
cắn ta được.
Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại:
- Cô nương sẽ cho tiểu nhân ... cho tiểu nhân ... được ... luôn luôn ở
gần bên hầu hạ hay sao?
A Tử đáp:
- Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính
chuyện hại ta thì sao mà chịu được.
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân ... tiểu nhân ... nhất quyết không bao giờ hại cô nương.
Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.
A Tử nói:
- Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác
gì đâu?
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên
trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói:
- Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng
ngốc, ngươi có muốn chết không?
Du Thản Chi đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên
đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so
với chết thì có khác gì bao nhiêu?
A Tử nói:
- Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp
ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu.
Ta chặt tay trái ngươi trước đã.
Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh:
- Thất Lý, ngươi đem y ra, chặt tay trái trước.
Thất Lý đáp lời:
- Vâng!
Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu
lên:
- Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương ...
cô nương đừng chặt tay tôi.
A Tử cười nhạt nói:
- Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi ... trừ phi ... ngươi quì
xuống khấu đầu.
Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản
Chi không còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống
rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười
khanh khách nói:
- Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ,
ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.
Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không
được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát
nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con
ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều
tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong
vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy
hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi
hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa,
nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội,
được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe,
trong lòng thầm hoan hỉ.
A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói:
- Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì
không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng! Vâng!
A Tử lại tiếp:
- Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không
biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay
sao?
Du Thản Chi đáp:
- Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.
A Tử nói:
- Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại
để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi
thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu
đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta
cũng phải chịu liên lụy rất lớn.
Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp:
- À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là
vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân ... tiểu nhân thật là
cảm kích, thật thế ... hết sức cảm kích.
A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm
cười nói:
- Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng
gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là
ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.
Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một
cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.
Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du
Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử
vui lòng cố ý mặc cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ,
trông như một thằng hề.
A Tử nhếch mép cười:
- Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là ... gọi là ... Hề Sắt. Từ nay
ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt!
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Dạ!
A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói:
- Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử,
phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.
Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm
trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ,
rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng
mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông
khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con
sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc,
thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.
A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói:
- Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật
hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý
gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói:
- Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không,
ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn
vỡ được cái lồng sắt đó hay không?
Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng:
- Cái đó ... cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu
nhân ...
A Tử nói:
- Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ,
nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải
chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.
Du Thản Chi năn nỉ:
- Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con
súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân ...
A Tử cười khanh khách nói:
- Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật
lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng
vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.
Du Thản Chi vội đáp:
- Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh
lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt.
Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp:
- Vâng!
Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng
nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu
lên:
- Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.
A Tử cười nói:
- Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi làm
gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất
Lý, đánh cho y ba chục roi.
Thất Lý đáp:
- Tuân lệnh!
Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã
quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử
nói:
- Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.
Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.
A Tử nói:
- Thế thì được, đánh đi.
Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ
đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái
lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng
cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói:
- Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải
không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Chính thế!
A Tử nói:
- Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa
ta?
Du Thản Chi đáp:
- Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.
A Tử nói:
- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là
được đánh thật sướng quá?
Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,
chỉ đành xuôi theo:
- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là
sướng đời.
A Tử nói:
- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.
Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:
- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.
Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì
đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:
- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.
Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên
chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến
lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn
chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A
Tử quát:
- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?
Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm
tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt
răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một
luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình
đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.
Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc
lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử
cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.
Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn
bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản
Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy
vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép
tại một góc lồng.
Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản
Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót
gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,
khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:
- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau
xem ai sống ai chết.
Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,
nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết
sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất
định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:
- Cắn! Cắn y ngay!
Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ
nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng
nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn
óc tung tóe đầy mặt đất.
A Tử cười nói:
- Hề Sắt thắng rồi!
Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,
nói với Du Thản Chi:
- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!
Thưởng cái gì đây nhỉ?
Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:
- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một
việc.
A Tử hỏi:
- Ngươi cầu xin gì?
Du Thản Chi đáp:
- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô
nương.
A Tử ngạc nhiên:
- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết
rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù
cho cha mẹ chứ gì?
Du Thản Chi vội đáp:
- Không! Không! Không phải thế đâu.
A Tử nói:
- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,
hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.
A Tử hỏi:
- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên
hạ. Tiểu nhân ... tiểu nhân ... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.
Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là
lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn
nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại
thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất
trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình
mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.
Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng
nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:
- Đại vương đến thăm.
A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:
- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?
Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:
- Không sợ!
Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm
rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,
lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ
lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:
- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới
chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?
A Tử cười đáp:
Bối cảnh xã hội đời Tống
- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến
cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi
nè, đây là vết răng sư tử đó.
Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú
thật. A Tử lại tiếp:
- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?
Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng
chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần
hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá
phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì
thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau
khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở
trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.
Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát
tiếng leng keng cười nói:
- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng
lắm.
A Tử nói:
- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh
nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng
hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi
làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y
thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?
Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.
Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:
- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này
từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem
lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?
Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn
nói:
- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta
sống dở chết dở như thế?
A Tử hứ một tiếng nói:
- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?
Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không
thèm đến thăm.
Tiêu Phong nói:
- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận
tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô
một lúc hay sao?
A Tử phụng phịu:
- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái
lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá
như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời
một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.
Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,
chỉ đành cười trừ nói:
- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em
không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?
A Tử hậm hực đáp:
- Trẻ con, trẻ con ... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích
chơi với em, sao còn đến đây làm gì?
Tiêu Phong đáp:
- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?
A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá
một cái nói:
- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái
mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.
Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ
dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì
càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:
- Thôi em đi nghỉ đi thôi.
Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn
khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc
muốn trút lên đầu y bèn quát:
- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.
Thất Lý vội đáp:
- Vâng!
Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:
- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?
A Tử không đáp, vẫy tay nói:
- Đánh mau!
Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:
- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần
sau khỏi tái phạm.
Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:
- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta
đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi
cho nên ta mới đánh.
Du Thản Chi nói:
- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô
nương đã sai đánh rồi mà.
Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:
- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả
nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó
chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên
muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động
hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng
không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh
cũng chẳng sao.
Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run
lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau
đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi
còn hơn, vội nói:
- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích
cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.
A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:
- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người
khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta
cao hứng tha cho ngươi chứ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô
nương.
A Tử nói:
- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng
đấy chăng?
Du Thản Chi đáp:
- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.
A Tử nói:
- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh
cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.
Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì
mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo
mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên
đành lặng thinh không dám nói gì cả.
A Tử hỏi:
- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ
gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?
Du Thản Chi đành gượng đáp:
- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng
tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.
A Tử nói:
- Thế sao ngươi không nói gì cả?
Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:
- Cái đó ... cái đó ... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày
non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai
làm thế nào để báo đáp.
A Tử nói:
- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh
ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.
Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:
- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện
báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương
tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng
không từ.
A Tử nói:
- Được, thế thì đánh đi.
Thất Lý vội đáp:
- Vâng.
Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục
roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm
xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một
tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ
đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ
rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã
ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó
mới ngừng.
A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không
khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý
đến mình, trong bụng ấm ức nói:
- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào
nữa không?
Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới
khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành
hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải
làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,
nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.
Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng
làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.
Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người
khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi
qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một
chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh
đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng
cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.
Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi
theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp
thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,
mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:
- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời
nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.
Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh
cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt
xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình
thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.
A Tử lại gọi:
- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?
Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:
- Thưa cô nương, vâng.
Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười
nói:
- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân vẫn mong ... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà
chưa được nên không thể chết.
A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:
- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để
làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,
nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.
Du Thản Chi đáp ngay:
- Vâng!
Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên
vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng
đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên
đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì
xẩy ra bèn nói:
- Xin cô nương sớm quay về phủ.
Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục
ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ
vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai
người da thịt như se lại.
A Tử nói:
- Thôi, ở đây được rồi!
Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:
- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ
cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?
Du Thản Chi vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi
theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập
thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc
lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:
- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối
om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Vâng!
A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có
mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi
cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên
châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:
- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.
A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,
ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang
thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn
tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y
phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh
viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu
bên cạnh.
Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,
một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết
thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác
xa những con rết thường.
Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,
chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy
trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên
trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong
chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:
- Thôi đi!
Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ
thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt
hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái
gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.
A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở
bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng
rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã
sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong
điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,
mở nắp ra cười nói:
- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?
Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm
qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để
san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết
kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng
độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như
muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:
- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công
được rồi!
Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn
công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng
nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.
Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì
hỏi:
- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.
A Tử hỏi thêm:
- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,
xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện
gì tiểu nhân nhất định không từ chối.
A Tử nói:
- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn
công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng
giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng
trọng thưởng cho ngươi.
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần
phải thưởng.
A Tử nói:
- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.
Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,
một hồi sau mới nói:
- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,
ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng
nhiều càng tốt.
Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu
gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,
đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần
ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:
- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Không phải không muốn, có điều ... có điều ...
A Tử ngắt ngang:
- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?
Ngươi là người hay ngươi là gà trống?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân không phải là gà trống.
A Tử nói:
- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là
gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông
vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì
đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?
Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy
nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình
mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:
- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.
Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào
trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị
đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:
- Giữ yên đó! Không được động đậy!
Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang
cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai
ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.
Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A
Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm
sao dám cử động?
Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ
phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một
lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến
thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên
cánh tay.
Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn
thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau
tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.
A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám
sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất
động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:
- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,
đừng làm nó tổn thương.
Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh
để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong
chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa
tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó
vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của
ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô
Công độc chưởng.
Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp
ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn
tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết
máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ
không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút
con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản
Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được
nữa.
Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc
ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh
tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn
con rận cùng cắn một lượt.
Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng
ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo
ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật
khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc
đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất
đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.
Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải
dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh
thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy
kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn
sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy
như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng
hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt
chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.
Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính
đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong
quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ
quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm
hai cổ chân.
Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy
người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung
tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ
ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,
đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái
rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay
phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.
Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,
không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn
thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư
thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức
cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy
như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu
ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa
ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của
nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn
nhiều.
Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng
nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng
quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi
tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức
mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến
ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm
cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ
chịu mà thôi.
Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc
gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở
bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa
mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa
trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực
bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến
mất.
Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào
cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa
đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến
nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay
chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh
tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.
Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn
toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:
- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc
cả rồi.
Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau
này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn
sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa
thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà
sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống
đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng
sắt gõ xuống đất kêu boong boong.
Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha
với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu
lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của
hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà
sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình
vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du
Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa
rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp
trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép
Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.
Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo
hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,
đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y
chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn
một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong
điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:
- Sao ngươi còn chưa chết?
Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:
- Vì ... tiểu nhân ... tiểu nhân còn sống.
Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử
nói:
- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo
ta đi bắt độc trùng lần nữa.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan
hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn
một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.
A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc
Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút
máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện
màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng
theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.
Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy
có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư
phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ
đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.
Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung
quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng
hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,
không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng
phải đi xa hơn.
Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử
đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột
soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:
- Nằm xuống!
Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng
lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi
tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,
thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn
mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.
Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng
như thế xưa nay chưa từng thấy.
Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến
hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng
nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái
đầu to lớn húc vào.
A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức
kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du
Thản Chi nói nhỏ:
- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi
ôi!
Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,
tự nhiên hăng máu lên nói cứng:
- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.
Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe
thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ
chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như
thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.
Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có
một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm
sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là
trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém
vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.
Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa
ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so
với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng
bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem
chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.
Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một
mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo
xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con
sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,
chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái
bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.
A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:
- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.
Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này
nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu
đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc
đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh
tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ
còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.
A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:
- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!
Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du
Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con
tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa
đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên
không mất dấu.
Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước
có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến
suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm
đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân
than thở:
- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,
ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.
Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có
thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm
tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:
- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không
thì đừng gặp ta nữa.
Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản
Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến
bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại
có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:
- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!
Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo
vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở
phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến
trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc
Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem
xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy
sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng
chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng
này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.
Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người
trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy
vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.
Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có
con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng
rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng
vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:
- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài
chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay
về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà
mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày
biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau
chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!
Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương
xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản
Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem
đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ
thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.
Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì
một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du
Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia
đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.
Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa
sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất
cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó
chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng
khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái
vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi
được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ
thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.
Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật
gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,
xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở
nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu
hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một
nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều
lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.
Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng
người gọi:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!
Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu
dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây
làm gì?
Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục
lên luống rau đáp:
- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.
Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:
- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không
trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!
Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa
Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ
chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?
Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:
- Vâng!
Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con
tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai
cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận
mới được!.
Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội
vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái
vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi
tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn
chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống
rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu
vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt
vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng
chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy
về đường cũ.
Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ
lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du
Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa
qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn
cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí
lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,
tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y
liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng
không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái
bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương
mỏng.
Hồi 29(a)
TRÙNG NGÃI NGƯNG HÀN CHƯỞNG TÁC BĂNG-
Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,
Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.
Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,
Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.
*
* *
Du Thản Chi xách chiếc hồ lô, rảo bước đi về thành Nam Kinh, bẩm
lại cho A Tử là đã bắt được con băng tàm. A Tử mừng lắm vội vàng bảo y
bỏ con tằm vào trong chiếc hũ sành để nuôi. Lúc đó đang vào tháng bảy,
giữa mùa hè trời nóng gắt ngờ đâu vừa nuôi con băng tàm ở điện phụ, lập
tức trong nhà càng lúc càng lạnh, chẳng bao lâu nước trong bình trà chén
trà cũng kết thành băng.
Đêm hôm đó, Du Thản Chi nằm trong chăn mà run lẩy bẩy, không
sao ngủ được, nghĩ thầm: Con tằm này thật lạ trên đời ít có. Nếu như cô
nương đem nó hút máu mình thì dù không chết vì chất độc, cũng lạnh
cóng mà chết.
A Tử liên tiếp bắt mấy con rắn độc, trùng độc đem đến đấu với nó,
đều bị con băng tàm chạy quanh vài vòng là đông cứng chết ngay để cho
nó hút hết trấp dịch. Đến hơn mười ngày, không giống độc trùng nào
đương cự nổi.
Hôm đó A Tử đến điện phụ nói:
- Hề Sắt, hôm nay mình phải giết con băng tàm, ngươi thò tay vào
trong hũ để cho con tằm hút máu.
Du Thản Chi những ngày qua lúc nào cũng lo ngay ngáy, đêm trằn
trọc sợ cái giờ phút này, quả nhiên cô nương chẳng chút dung tình, rồi
cũng bắt y và con băng tàm cùng hi sinh, trong lòng buồn bã, quay sang
nhìn A Tử một lát không nói năng, không cử động. Về phần A Tử nàng
chỉ nghĩ: Ta vô tình được bảo vật hiếm có này, độc chưởng công phu khi
luyện thành rồi e rằng so với sư phụ còn ghê gớm hơn. Nàng liền giục:
- Ngươi thò tay vào hũ đi thôi.
Nước mắt Du Thản Chi nhỏ ròng ròng, quì xuống khấu đầu nói:
- Cô nương luyện thành độc chưởng rồi, đừng quên tiểu nhân vì cô
nương mà phải chết. Tôi họ Du, tên Thản Chi chứ không phải là Hề Sắt.
A Tử mỉm cười nói:
- Được, tên ngươi là Du Thản Chi, ta nhớ rồi. Ngươi trung thành với
ta, tốt lắm, đúng là một đứa đầy tớ hết lòng với chủ.
Du Thản Chi được nàng khen ngợi mấy câu như thế, cảm thấy hết sức
an ủi, lại khấu đầu thêm hai lần nữa nói:
- Đa tạ cô nương!
Thế nhưng y vẫn không muốn bó tay chịu chết bèn rùn người, vòng
xuống chui đầu qua hai đùi, tay trái nắm cổ chân, tay phải thò vào trong
hũ, trong đầu nghĩ đến những mũi tên nhỏ ở hai chữ quái dị bên cạnh nhà
sư khỏa thể trong cuốn sách. Đột nhiên đầu ngón tay trỏ hơi ngứa, một
làn khí lạnh như băng chạy thẳng lên như tên bắn, theo cánh tay vào
trong ngực. Du Thản Chi trong đầu chỉ nhớ đến hướng của mũi tên, luồng
hàn khí kia đi đúng theo những kinh mạch y đang nghĩ tới, từ ngón tay lên
cánh tay rồi từ ngực chạy lên đỉnh đầu, sợi dây nhỏ đó đi đến đâu tỏa hơi
lạnh buốt thấu xương.
A Tử thấy tư thế cổ quái của Du Thản Chi thật tức cười, qua một lúc
sau, thấy y đứng lộn tùng phèo như thế, không khỏi ngạc nhiên, đến gần
xem thấy con băng tàm vẫn cắn chặt ngón tay trỏ. Thân con tằm óng ánh
trong suốt như thủy tinh, nhìn kỹ thấy có một dòng máu chạy từ miệng đổ
vào, đi vòng qua phía tả, quấn quanh một vòng, rồi từ bên phải chảy
ngược trở về ngón tay trỏ Du Thản Chi.
Thêm một lúc nữa, trên chiếc đầu sắt, y phục, chân tay Du Thản Chi
đều phủ một làn sương mỏng, A Tử nghĩ thầm: Tên nô tài này chắc là
chết rồi. Người sống trên mình phải có hơi ấm, làm sao kết thành sương
được?. Thế nhưng trong người con băng tàm máu vẫn còn lưu chuyển,
hiển nhiên hút máu chưa xong. Đột nhiên trên mình con tằm có những sợi
nhiệt khí như tơ bốc ra.
A Tử còn đang kinh ngạc thì đã nghe bộp một tiếng, con tằm từ ngón
tay Du Thản Chi rơi xuống đáy hũ, vội dùng cây gậy cầm sẵn trong tay
giã xuống một cái. Nàng vẫn tưởng con tằm bản thể linh dị, một gậy như
thế chưa chắc đã giết được nó, ngờ đâu khi rơi xuống rồi, con vật chỉ nằm
phơi bụng không lật lại nổi, thành thử một gậy của A Tử đã đâm băng
tàm nát ngướu.
A Tử mừng lắm vội vàng thò tay vào hũ, bôi huyết dịch con tằm vào
lòng bàn tay, nhắm mắt hành công, hút hết vào trong người. Nàng cứ xoa
lên hết lần này sang lần khác đến khi không còn tí gì mới thôi.
Hành công lâu như thế trong người mệt mỏi, A Tử ngáp dài một
tiếng, đứng dậy, thấy đầu Du Thản Chi vẫn còn lộn ngược chui giữa hai
đùi, toàn thân trắng xóa, kết đầy băng sương. Nàng hết sức sợ hãi, đưa
tay sờ thử người y thấy lạnh buốt, quần áo đóng băng cứng ngắc. Nàng
vừa lạ lùng vừa tức cười, gọi Thất Lý vào bảo đem Du Thản Chi đi chôn.
Thất Lý liền cùng hai tên lính Khất Đan nữa, vứt xác Du Thản Chi
lên một chiếc xe ngựa, chạy ra khỏi thành. A Tử không dặn y phải chôn
cất cho chu đáo, Thất Lý cũng chẳng phí sức đào một cái huyệt, thấy bên
cạnh đường có một khe nước, liền vứt luôn xuống suối, rồi quay về.
Thế nhưng cũng chính vì Thất Lý làm biếng một chút mà lại cứu được
mạng Du Thản Chi. Thì ra ngón tay y bị băng tàm cắn rồi bèn dùng phép
vận công của Dịch Cân Kinh để hóa giải độc khí, huyết dịch bị con tằm
hút ra lại theo ngón tay quay ngược trở về huyết quản đem bao nhiêu tinh
hoa kịch độc của con băng tàm vào người. A Tử sau đó hút huyết tương
của con tằm chỉ mất công toi chứ không còn hiệu dụng gì cả.
Nếu như Du Thản Chi đã học toàn bộ phép hành công của Dịch Cân
Kinh thì sẽ có thể tiêu giải chất độc của con băng tàm nhưng vì y chỉ mới
học được có một pháp môn, thu vào mà không biết đẩy ra nên chất kỳ
độc đệ nhất âm hàn của con sâu kia đã khiến cho người y bị đông cứng.
Còn như Thất Lý đem y chôn xuống đất thì sẽ thành một cái xác ướp
dù có vài trăm năm sau cũng chưa chắc đã rữa được. Du Thản Chi bị vứt
xuống suối trôi theo dòng, hơn một chục dặm sau gặp chỗ uốn khúc,
vướng vào một đám lau sậy. Chẳng bao lâu, nước chung quanh người y đã
biến thành băng chẳng khác gì một chiếc quan tài thủy tinh. Nước suối
tiếp tục soi mòn, tiêu giải từng chút từng chút hàn khí khiến cho khối
băng bao quanh y dần dần tan hết.
Cũng may đầu Du Thản Chi có cái lồng sắt, kim loại mau nóng mà
cũng mau nguội nên đá trên đầu tan ra trước. Nước suối ọc vào mồm y
khiến Du Thản Chi ho sặc sụa, đầu óc tỉnh táo liền từ dưới khe nước bò
lên, nước đá trên người chạm vào nhau kêu loong coong.
Khi thân thể mới biến thành băng không phải y hoàn toàn không biết
gì cả mà chỉ vì bị kết trong khối băng không cử động được mà thôi. Đến
sau y hôn mê không còn biết gì nữa, bây giờ chết đi sống lại thật không
khác một giấc mộng dài.
Du Thản Chi ngồi trên bờ suối, nghĩ mình đối với A Tử một lòng
trung thành sắt son cam nguyện đem thân nuôi độc trùng để giúp nàng
luyện công, vậy mà khi mình chết đi, A Tử chẳng thèm thở dài lấy một
tiếng. Y từ trong băng nhìn ra thấy A Tử mặt mày hớn hở có được huyết
tương của con băng tàm đem chà vào lòng bàn tay, chỉ nghiêng đầu nhìn
mình, thấy y chết xem chừng thú vị, lại hơi kỳ quái, hoàn toàn chẳng có
chút gì thương xót.
Y lại nghĩ: Băng tàm độc địa như thế, đã từng hút chất độc của hàng
nghìn độc trùng độc xà, cô nương nay hút hết vào trong lòng bàn tay rồi,
độc chưởng chắc đã luyện thành. Nếu như ta quay về... Y đột nhiên run
bắn người lên, nổi gai ốc nghĩ thêm: Cô ta vừa thấy mình thể nào chẳng
đem ra thử độc chưởng. Nếu như đã luyện thành thể nào đánh một cái là
mình chết tươi. Còn như luyện chưa xong, thì lại sai mình đi bắt rắn độc,
trùng độc nữa cho đến bao giờ luyện xong một chưởng đánh chết mình
lúc ấy mới thôi. Hai đằng đằng nào cũng chết, quay về làm gì?.
Du Thản Chi đứng lên, nhảy nhót vài cái rũ hết những mảnh băng
còn bám trên người nghĩ thầm: Bây giờ mình biết đi đâu đây?. Đi tìm
Kiều Phong báo thù cho cha ư, điều đó y nào dám nghĩ đến. Nhất thời y
không biết tính sao, chỉ đành lang thang trong đồng rộng núi hoang, hái
trái dại, bắt chim chóc, thú nhỏ mà ăn. Đến chiều hôm sau, không có việc
gì làm, y bèn mang cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn ra định học theo
tư thức của nhà sư trần truồng trong sách.
Cuốn sách đó khi rơi xuống suối đã ướt mèm, đến giờ vẫn chưa khô.
Y cẩn thận giở từng tờ, chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng có hình một quái
tăng, tư thức mỗi người một khác. Y suy nghĩ một hồi rồi cũng hiểu ra,
hình trong quyển sách gặp nước thì lộ ra chứ chẳng phải bồ tát hiện thân
cứu mạng gì cả, bèn làm theo tư thức thứ nhất trên trang đầu tiên, lần
theo mũi tên đỏ trên những chữ quái lạ thấy có một sợi chỉ nhỏ thật lạnh
chạy ngang chạy dọc khắp tứ chi và xương cốt, chẳng khác gì con băng
tàm còn sống bò trong cơ thể mình. Y kinh hãi vội vàng đứng lên, lập tức
con tằm lạnh trong người liền biến mất.
Suốt hai giờ sau y chỉ nghĩ đến: Không biết con tằm chui vào người
mình đã chạy đi chưa?. Thế nhưng y không sờ thấy, cũng chẳng mò ra,
không hình không bóng, sau cùng nhịn không nổi lại tập theo tư thức cổ
quái kia rồi nghĩ theo mũi tên đỏ trên hai chữ quái lạ, chẳng bao lâu lại
thấy có một con băng tàm bò trong cơ thể. Y kêu lên một tiếng, vội
ngừng lại không còn dám nghĩ thêm lập tức con tằm biến mất nhưng cứ
vừa nghĩ đến thì nó lại bò ra.
Mỗi lần con tằm bò một vòng, y lại thấy toàn thân thoải mái không
biết đâu mà kể. Trong cuốn sách hình những nhà sư khỏa thể rất nhiều, từ
những chữ lạ lùng kia những mũi tên đỏ cái cong cái thẳng, biến hóa
phức tạp. Y cứ theo những tư thức khác nhau mà gọi con tằm, trong người
khi nóng khi lạnh, mỗi lúc có một lối thư thái riêng.
Cứ như thế luôn mấy tháng trời, tay chân y bắt cầm thú càng lúc càng
linh hoạt, nhảy nhót cũng xa hơn, chạy thêm nhanh nhẹn mà trước kia
không thể nào bì kịp. Một buổi chiều, một con chó sói đói ở đâu đi kiếm
mồi, chồm đến vồ Du Thản Chi. Y kinh hãi, đang định bỏ chạy nhưng con
sói đã giương vuốt ra chộp vào đầu vai, nhe răng nhọn hoắt, định ngoặp
vào cổ họng. Du Thản Chi hết sức kinh hoàng, tiện tay đánh một chưởng
trúng ngay đầu con vật. Con chó sói đó văng ra xa, quằn quại mấy cái rồi
nằm thẳng cẳng. Du Thản Chi quay người chạy ra mấy trượng thấy con
chó sói vẫn nằm đó, trong bụng lạ lùng, nhặt một cục đá ném trúng ngay
thân nhưng con lang vẫn nằm yên. Y vừa mừng vừa sợ, rón rén đến gần
xem hóa ra con chó sói đã chết tự bao giờ.
Y thật không dám nghĩ tới chuyện mình chỉ tiện tay đánh một cái mà
ghê gớm đến thế, giơ tay lên lật qua lật lại xem kỹ, không thấy có gì
khác, nhịn không nổi kêu lên:
- Hồn ma con tằm này thiêng quá!
Y vẫn tưởng con tằm kia chết rồi hồn nó nhập vào người mình nên
mới có tài phép như thế chứ có ngờ đâu đó hoàn toàn do công lực từ Dịch
Cân Kinh, lại thêm băng tàm là vật kịch độc hãn hữu, luồng âm hàn ghê
gớm đó bị y hút vào trong người, chứa vào nội công thượng thừa của Dịch
Cân Kinh nên mỗi khi đánh ra đều có chứa âm kình cực kỳ ghê gớm.
Dịch Cân Kinh là bảo điển chí cao vô thượng trong võ học, có điều
pháp môn tu tập không phải dễ dàng, cần phải phá được cảnh giới ngã
tướng, nhân tướng, trong bụng không còn nghĩ đến chuyện tu tập võ
công. Thế nhưng tăng lữ tập môn thượng thừa này, ai chẳng muốn tinh
tiến thật nhanh, mong cho chóng thành để công phu được ích lợi? Muốn
đến được tâm vô sở trụ1 quả thật là thiên nan vạn nan.
Trong mấy trăm năm qua, các cao tăng chùa Thiếu Lâm tu tập Dịch
Cân Kinh không phải là ít, thế nhưng dụng công năm chày tháng tận, vẫn
không mấy ai đạt được thành thử các nhà sư cho rằng kinh này không linh
hiệu, hôm trước A Châu ăn cắp mất, tăng chúng trong chùa tức giận thật
nhưng cũng không coi là chuyện lớn.
Hơn một trăm năm trước, chùa Thiếu Lâm có một nhà sư, xuất gia từ
thuở bé, tâm trí đần độn, điên điên khùng khùng. Sư phụ ông ta khổ công
tu tập Dịch Cân Kinh không thành, giận quá mà tọa hóa2. Nhà sư điên kia
nhặt được quyển kinh ở bên cạnh di thể của sư phụ, hăm hăm hở hở đem
ra luyện, ngẫu nhiên sao thành một đại cao thủ. Thế nhưng võ công ông
ta tại sao cao cường như thế, đến lúc viên tịch tây qui, cũng vẫn không
sao giải thích được, chẳng một ai biết đó là công phu Dịch Cân Kinh.
Đến bây giờ Du Thản Chi vô tâm luyện công phu này, chỉ tưởng là
gọi con băng tàm trong người bò ra bò vào cho đỡ buồn, có biết đâu ngày
một tiến bộ, chính là theo được con đường của nhà sư khùng hồi trước.
Mấy hôm sau y lại liên tiếp đánh chết thêm mấy con dã thú khác, bấy
giờ mới biết chưởng lực của mình rất mạnh, trong bụng cũng can đảm
thêm được một chút. Du Thản Chi tiếp tục đi về hướng nam, trong bụng
ngay ngáy sợ rằng nếu mình bỏ quên không gọi hồn con băng tàm một
ngày, ma tằm sẽ bỏ đi mất, thành thử ngày nào cũng phải kêu nó ra,
không dám lơ là. Com ma tằm bây giờ cực kỳ linh dị, gọi là ra ngay.
Du Thản Chi đi càng lúc càng xa, hôm đó đã đến địa giới tỉnh Hà
Nam ở trung châu. Y cũng biết cái đầu sắt của mình làm người ta sợ hãi
nên ban ngày chỉ ẩn náu tại những sơn động hoang dã hay rừng sâu, bao
giờ trời tối mới mò ra nhà dân chúng ăn trộm đồ ăn. Lúc này thân thủ y
mẫn tiệp dị thường nên không bao giờ bị người ta phát giác.
Ngày hôm đó y chui vào một chiếc miếu hoang bên vệ đường nằm
ngủ, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, có ba người đi vào trong am. Y vội
vàng chui xuống dưới bệ thờ, không dám để cho người ta thấy. Ba người
đó đi vào trong miếu, ngồi xuống đất, lục đục ăn uống, nói năng chuyện
trên giang hồ. Bỗng nhiên một người hỏi:
- Ngươi thử nghĩ Kiều Phong bây giờ trốn ở đâu, sao hơn một năm
nay, không ai nghe thấy tin tức gì của y cả?
Du Thản Chi vừa nghe thấy hai tiếng Kiều Phong liền chột dạ, vội
vàng cố lắng tai nghe. Lại nghe một người khác nói:
- Tên đó tác ác đa đoan bây giờ rụt đầu rụt cổ như con rùa, chắc
không kiếm được y đâu.
Người nói lúc nãy lại tiếp:
- Chưa hẳn thế đâu. Y đợi đúng lúc mới ra tay, một khi người ta lơ là,
lúc ấy mới hạ thủ. Ngươi thử nghĩ mà xem, sau khi đại chiến Tụ Hiền
Trang rồi, y còn giết thêm bao nhiêu người nữa? Từ trưởng lão, vợ chồng
Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn, toàn gia Thái Sơn Thiết Diện Phán
Quan Đơn lão anh hùng, Trí Quang lão hòa thượng của núi Thiên Thai,
rồi Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, ôi, quả là đếm
không hết.
Du Thản Chi nghe đến đại chiến Tụ Hiền Trang, trong lòng đau xót
nên những gì người đó nói sau không nghe thấy gì cả, một lúc sau mới
nghe một giọng già nua:
- Kiều bang chủ xưa nay đãi người nhân nghĩa, không ngờ... ôi...
không ngờ... quả thật là số kiếp nó làm ra thế. Thôi mình đi.
Nói xong ông ta đứng lên. Người kia nói:
- Này lão Uông, ông bảo bản bang đang bầu tân bang chủ, thế thì
phải cử ai đây?
Người già cả kia đáp:
- Nào ta có biết! Bầu tới bầu lui, đã hơn một năm rồi cũng chưa tìm
ra một anh hùng hảo hán nào được toàn bang bội phục. Thôi, chúng mình
đi xem sao.
Người kia nói:
- Thôi tôi biết bụng ông rồi, chắc ông mong Kiều Phong quay trở lại
làm bang chủ chứ gì? Thôi đừng mơ mộng hão huyền nữa, lỡ chuyện đó
truyền ra đến tai Toàn đà chủ thì ông khó sống đó!
Ông già họ Uông hốt hoảng nói:
- Tiểu Tất, câu đó là ngươi nói chứ ta có bao giờ bảo là mong Kiều
bang chủ trở lại làm bang chủ bản bang đâu?
Tiểu Tất cười khẩy:
- Ông mở miệng ra là Kiều bang chủ này, Kiều bang chủ nọ chẳng
phải bụng mong y về làm bang chủ hay sao?
Lão Uông bực tức đáp:
- Ngươi mà còn nói bậy nói bạ xem ta có đập chết cái đồ chó đẻ như
ngươi không?
Người thứ ba can:
- Thôi được rồi! Mình là chỗ anh em, đừng để mích lòng nhau, đi
nhanh lên không lại trễ. Kiều Phong làm sao làm bang chủ của mình
được? Y là giống Khất Đan chó má, mình gặp y là hai bên nhất định một
sống một chết rồi. Vả lại, ví như mình mời y về làm bang chủ, chắc gì y
đã chịu?
Lão Uông thở dài một tiếng nói:
- Ngươi nói thế phải lắm.
Nói xong cả ba người cùng đi ra khỏi miếu. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Cái Bang muốn kiếm Kiều Phong mà kiếm không ra, bọn họ có biết đâu
gã đó đang ở nước Liêu làm Nam Viện Đại Vương, ta phải nói cho họ
biết mới được. Cái Bang người nhiều thế mạnh, lại ước định thêm anh
hùng hảo hán Trung Nguyên may ra có thể giết được tên ác tặc đó. Ta sẽ
theo bọn họ đi giết Kiều Phong. Y nghĩ đến quay lại Nam Kinh sẽ gặp A
Tử, trong ngực lập tức nóng bừng bừng.
Du Thản Chi rón rén từ trong miếu đi ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang
đi đường núi về hướng tây, liền lẳng lặng theo sau. Lúc này trời đã tối
mịt, hoang sơn không một bóng người, đi được vài dặm đến một thung
lũng, nhìn xa xa nơi sơn cốc có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Cái đầu sắt của mình thật quái đản, bọn họ trông thấy thể nào cũng hô
hoán rầm rĩ lên, chi bằng trốn trong bụi cỏ nghe ngóng rồi hãy tính.
Y chui vào trong đám cỏ dày, bò dần đến gần đống lửa. Bò được mấy
trượng, ngừng lại một chút, lại bò tiếp, nghe thấy tiếng người xôn xao,
xem ra người tụ tập chung quanh đám lửa không phải là ít. Du Thản Chi
lâu nay từng chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò nên không dám sơ sẩy
chút nào, bò càng gần càng chậm lại, tới sau một tảng đá cách chừng vài
trượng thì không dám tiến xa hơn nữa nên nằm phục tại đó lắng tai nghe.
Những người chung quanh đống lửa ai nấy đều đứng nói chuyện, Du
Thản Chi nghe một hồi mới biết ra đây là người của Đại Trí phân đà tụ
hội thương nghị về việc đại hội Cái Bang sắp tới sẽ suy cử ai lên làm
bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người lại muốn
Ngô trưởng lão. Một người nói:
- Nói đến trí dũng song toàn thì phải bầu cho Toàn đà chủ của bản
bang, tiếc rằng Toàn đà chủ hôm trước đã bị tên Kiều Phong giả công vi
tư đuổi ra khỏi bang rồi, việc quay trở lại bang chưa ổn thỏa.
Lại một người khác nói:
- Gian mưu của Kiều Phong chính là do Toàn đà chủ đứng ra vạch
trần, Toàn đà chủ lập được đại công cho bản bang, việc trở lại thật dễ
dàng. Một khi đại hội khai mạc, chúng ta trước hết lo việc Toàn đà chủ
qui bang, sau đó mới nói đến công lao khi trước, rồi bầu ông ta lên làm
bang chủ.
Một giọng sang sảng cất lên:
- Việc bản nhân trở lại bang cũng là chuyện thuận lý. Thế nhưng
việc các huynh đệ bầu mỗ lên làm bang chủ thì chưa nên đề cập đến vội,
nếu không người khác lại tưởng huynh đệ vạch trần gian mưu của Kiều
Phong là có ý đồ riêng tư.
Một người khác lớn tiếng nói:
- Toàn đà chủ, nếu gặp việc thì đương nhân bất nhượng3. Ta xem
trong mấy vị trưởng lão của bản bang, võ công tuy cao cường thật nhưng
kể về mưu trí thì không ai bì kịp với ông được. Chúng ta đối phó với tên
gian tặc Kiều Phong, là việc đấu trí chứ không phải đấu sức, Toàn đà
chủ...
Gã Toàn đà chủ kia ngắt lời:
- Thi huynh đệ, ta chưa chính thức trở lại bang, ba chữ Toàn đà chủ
xin đừng gọi thế vội.
Hơn hai trăm người ăn mày đang đứng quanh đống lửa nhao nhao lên:
- Tống trưởng lão đã có dặn rằng nhờ ông tạm thời giữ chức đà chủ
bản đà, ba chữ Toàn đà chủ kia có gì mà không được?
- Tương lai ông lên làm bang chủ, thì chẳng còn hơn chức đà chủ hay
sao?
- Toàn đà chủ nếu chưa đảm đương bang chủ thì ít nhất cũng phải
lên chức trưởng lão, nhưng khi đó cũng phải kiêm lãnh cả bản đà.
- Đúng lắm, dẫu Toàn đà chủ có làm bang chủ vẫn có thể kiêm luôn
cả chức đà chủ Đại Trí phân đà.
Còn đang bàn luận xôn xao, một bang chúng từ cửa sơn cốc chạy vào,
lớn tiếng báo:
- Khải bẩm đà chủ, Đoàn vương tử nước Đại Lý xin bái phỏng.
Toàn đà chủ Toàn Quan Thanh lập tức đứng bật dậy hỏi:
- Đoàn vương tử nước Đại Lý ư? Bản bang trước nay có giao thiệp gì
với nước Đại Lý đâu?
Y liền lớn tiếng nói:
- Các vị huynh đệ, Đoàn gia nước Đại Lý là thế gia trứ danh trong võ
lâm, Đoàn vương tử tự mình đến đây, tất cả cùng đứng lên nghênh tiếp.
Nói xong tất lãnh mọi người cùng đi ra ngoài sơn khẩu đón khách.
Chỉ thấy một thanh niên công tử mặt mày tươi tỉnh đứng ngay tại đó, đằng
sau có bảy tám người tùy tòng. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, hai
người chắp tay chào, hóa ra biết nhau rồi, đã từng gặp ở trong rừng hạnh
ngoài thành Vô Tích. Toàn Quan Thanh lúc đó chưa biết lai lịch, thân
phận Đoàn Dự, nghĩ lại khi đó mình bị Kiều Phong đuổi ra khỏi bang
Đoàn Dự đều biết cả, không khỏi ngượng ngùng, nhưng lập tức trấn tĩnh
ngay, ôm quyền nói:
- Không biết Đoàn vương tử tới thăm nên không ra xa nghinh tiếp,
xin lượng thứ cho.
Đoàn Dự cười đáp:
- Không dám! Không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có một
việc muốn phụng cáo quí bang cho nên mới đến làm phiền.
Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu đi cùng là Cổ
Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần ba người. Toàn Quan Thanh mời
Đoàn Dự đến ngồi tại một phiến đá trước đống lửa, sau đó bang chúng
đem rượu ra mời. Đoàn Dự tiếp lấy uống cạn rồi nói:
- Mấy tháng trước4, gia phụ ở tại Trung Châu có đến phủ của cố Mã
phó bang chủ quí bang, gặp một kỳ sự, chính mắt trông thấy cái chết của
Bạch Thế Kính Bạch trưởng lão. Việc này có liên can trọng đại đến quí
bang, lại cả đến anh hùng võ lâm Trung Nguyên nữa nên muốn trình cho
các nhân vật thủ não của quí vị. Có điều gia phụ thụ thương, dưỡng bệnh
đến nay mới đỡ mà các trưởng lão trong bang hành tung vô định, không
sao gặp được, khiến cho phong thư gia phụ viết vẫn chưa có cách nào
trình lên. Mấy bữa trước gia phụ nghe tin quí đà tụ hội nơi đây nên mới
sai vãn sinh đưa tới.
Nói xong chàng lấy trong tay áo ra một phong thư, đứng lên đưa ra.
Toàn Quan Thanh cũng vội vàng đứng dậy, hai tay nhận lấy nói:
- Phải phiền đến Đoàn công tử đích thân đưa thư, cái tấm lòng
thương yêu của Đoàn vương gia khiến cho tất cả tệ bang từ trên xuống
dưới ai ai cũng cảm đại đức.
Y nhìn thấy phong thư đó gắn rất kỹ, trên phong bì viết tám chữ lớn:
Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải5
Y nghĩ thầm tự mình không tiện mở ra xem bèn nói:
- Tệ bang không lâu nữa sẽ khai đại hội, các trưởng lão sẽ đều đến
cả, tại hạ sẽ đem thư của Đoàn vương gia trình lên cho chư vị thủ lãnh.
Đoàn Dự nói:
- Như thế xin phiền vậy, vãn sinh cáo biệt.
Toàn Quan Thanh luôn mồm cảm ơn, tiễn khách ra rồi mới nói:
- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân của tệ bang bất hạnh bị gian tặc
Kiều Phong hạ độc thủ, hôm đó chính mắt Đoàn vương gia trông thấy hay
sao?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân không phải do Kiều đại ca giết
hại đâu, sát hại Mã phó bang chủ cũng là người khác. Trong phong thư
này của gia phụ có nói rất rõ ràng, sau này Toàn đà chủ đọc thư sẽ biết
rõ mọi chuyện.
Chàng trong bụng nghĩ thầm: Việc này nói ra dài dòng, nhà ngươi
đâu phải là người tốt, không nên nói nhiều làm chi. Ta đoán chừng ngươi
không dám dấu lá thư của cha ta đâu. Đoàn Dự quay sang ôm quyền
chào Toàn Quan Thanh nói:
- Sau này gặp lại, không dám phiền chư vị tiễn ra xa.
Chàng quay mình đi ra sơn cốc, vừa trở đầu đã thấy hai tên bang
chúng Cái Bang dẫn hai hán tử tiến vào. Hai người đó đưa mắt cho nhau,
đi lên mấy bước khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, trình lên một tờ danh
thiếp màu đỏ chói. Đoàn Dự cầm lấy xem qua, thấy trên tờ thiếp viết bốn
hàng chữ:
Tô Tinh Hà cung kính mời những vị tinh thông kỳ nghệ6 trong thiên hạ,
đến ngày mồng tám tháng hai giá lâm hang Thiên Lung Địa Á, núi Lôi Cổ,
tỉnh Hà Nam để gặp gỡ một phen.
Đoàn Dự vốn thích đánh cờ thấy bốn hàng chữ đó, tinh thần phấn
chấn vui vẻ nói:
- Thế thì hay lắm, nếu vãn sinh không có chuyện tục vụ gì vướng
bận, thể nào cũng đến. Thế nhưng xin hỏi tại sao hai vị lại biết vãn sinh
thích đánh cờ?
Hai hán tử lộ vẻ vui mừng, mồm ú ớ, giơ tay múa chân, hóa ra hai
người đó bị câm. Đoàn Dự không hiểu hai người đó chỉ trỏ ra hiệu những
gì, mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:
- Núi Lôi Cổ có xa lắm không?
Nói xong chàng giao tờ thiếp lại cho ông ta. Chu Đan Thần cầm lấy
xem qua, trước hết vòng tay hành lễ với hai người kia nói:
- Trấn Nam Vương thế tử Đoàn công tử nước Đại Lý, xin gửi lời
chào đến Thông Biện tiên sinh, trước hết tạ ơn bao giờ đến kỳ sẽ đến bái
phỏng.
Ông ta chỉ vào Đoàn Dự, chỉ trỏ mấy cái biểu thị sẽ đến phó hội. Hai
hán từ khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, sau đó lại lấy ra một tờ thiếp nữa
đưa cho Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh cầm lấy xem qua, cung
kính trả lại xua tay nói:
- Người tạm lãnh chức Phân Đà Chủ Đại Trí phân đà của Cái Bang
là Toàn Quan Thanh, xin kính chào Thông Biện tiên sinh núi Lôi Cổ,
Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chẳng bõ làm trò cười, không dám phó hội,
xin Thông Biện tiên sinh tha lỗi cho.
Hai hán tử khom lưng hành lễ, sau đó quay qua chào Đoàn Dự,
chuyển thân đi ra. Chu Đan Thần lúc đó mới trả lời Đoàn Dự:
- Lôi Cổ Sơn ở phía nam Tung Huyện, đông bắc Khuất Nguyên
Cương, đến đó cũng không xa lắm.
Đoàn Dự từ biệt Toàn Quan Thanh rồi, ra khỏi thung lũng lúc đó mới
hỏi Chu Đan Thần:
- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người thế nào? Là quốc thủ về
đánh cờ ở Trung Nguyên hay sao?
Chu Đan Thần đáp:
- Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh7.
Đoàn Dự ồ lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh chàng ở Đại Lý đã
từng nghe bá phụ và phụ thân nhắc tới, biết đó là một cao thủ kỳ túc của
võ lâm Trung Nguyên, vừa điếc vừa câm nhưng nghe nói võ công lại rất
cao cường, khi đề cập đến ông ta giọng của bác chàng xem chừng kính
trọng. Chu Đan Thần lại tiếp:
- Lung Á tiên sinh tuy tàn tật nhưng nhất định tự xưng mình là Thông
Biện tiên sinh, cho rằng mình tâm thông, bút biện còn hơn xa người
thường nhĩ thông, thiệt biện.8
Đoàn Dự gật đầu nói:
- Kể cũng có lý.
Chàng đi thêm mấy bước bỗng cất tiếng thở dài. Đoàn Dự nghe Chu
Đan Thần nói Lung Á tiên sinh tâm thông, bút biện hơn cả người thường
nhĩ thông, thiệt biện không khỏi chạnh lòng nhớ tới Vương Ngữ Yên
đánh võ miệng còn giỏi hơn người ta đánh võ tay chân binh khí.
Chàng ở thành Vô Tích cùng A Châu cứu được bọn người Cái Bang
rồi, chẳng bao lâu Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai người đến tụ hội với
Vương Ngữ Yên. Năm người đó muốn lên miền bắc đi kiếm Mộ Dung
công tử, Đoàn Dự dĩ nhiên cũng muốn đi theo, Phong Ba Ác nhớ ơn
chàng đã dùng mồm hút nọc độc con bò cạp nên rất hoan nghênh, có điều
Bao Bất Đồng ăn nói cực kỳ sỗ sàng, trách cứ Đoàn Dự giả trang làm Mộ
Dung công tử làm bại hoại tiếng tăm y đi. Đến sau y tỏ ý ngươi không
cút đi, ta sẽ đập cho một trận, trong khi Vương Ngữ Yên chỉ lo bàn với
Phong Ba Ác cách nào kiếm được biểu ca, coi tình cảnh quẫn bách của
Đoàn Dự như không biết đến.
Đoàn Dự chẳng còn biết sao hơn đành phải chia tay cùng Vương Ngữ
Yên nhưng cũng đi lên miền bắc nghĩ bụng: Các ngươi muốn đi Hà Nam
tìm Mộ Dung Phục, ta cũng đang định đi Hà Nam. Hà Nam là đất trung
châu chứ có phải của riêng nhà Mộ Dung các ngươi đâu, Mộ Dung Phục
và Bao Bất Đồng đến được, chẳng lẽ Đoàn Dự không đến được? Nếu như
trên đường chạm trán họ thì cũng là ý trời, Bao tam tiên sinh kia làm sao
trách mình được?.
Thế nhưng trời già nào có cho Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên giải cấu
tương phùng, suốt thời gian đó, Đoàn Dự ở Hà Nam lang thang đi khắp
mọi nơi, tiếng là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực ra đến đâu mắt cũng dáo
dác, chỉ mong sao được nhìn thấy mớ tóc dài óng ả, một chéo áo của
Vương Ngữ Yên, còn núi non sông nước chàng nào có để mắt đến.
Một hôm, Đoàn Dự đang ở chùa Bạch Mã thành Lạc Dương đàm luận
với phương trượng về kinh A Hàm, nghiên thảo việc đức Phật giảng về
truyện chuyển luân thánh vương có bảy bảo vật. Đoàn Dự nghe nói
bảo vật ngọc nữ không dài không vắn, không trắng không đen, mùa đông
thân thể ấm áp, mùa hạ thân thể mát mẻ cực kỳ hứng thú nhưng phương
trượng lắc đầu quầy quậy nói:
- Đoàn cư sĩ, đó chẳng qua là thí dụ của nhà Phật đấy thôi, huống chi
Phật dạy thất bảo cũng đều là vô thường...
Vừa nói tới đây, bỗng có ba người vào chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ
Đốc Thành và Chu Đan Thần. Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần rời nhà
họ Mã ở phủ Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, mới đi tìm chỗ dưỡng
thương, nghĩ đến việc Tiêu Phong bị Cái Bang đổ tiếng oan giết Mã Đại
Nguyên không thể không biện bạch giùm cho ông ta nên mới viết một
phong thư, sai bọn Phó Tư Qui ba người đem tới đưa cho Cái Bang.
Bọn Phó Tư Qui đến Lạc Dương tìm tổng đà Cái Bang, không gặp
nhân vật thủ lãnh nào, lại nghe phân đà Đại Trí tụ hội gần bên nên dự
định đem thư đến. Ngờ đâu khi ở tại tửu lâu họ nghe lỏm người ta kể
chuyện một chàng thư sinh gàn dở, hình dáng có phần tương tự như Đoàn
Dự nên mới hỏi xem công tử đó nơi đâu rồi tìm đến Bạch Mã tự.
Bốn người gặp nhau hết sức mừng rỡ. Đoàn Dự nói:
- Để ta theo các vị đi đưa thư, rồi chư vị đưa ta đến bái kiến phụ
vương.
Chàng nghe nói cha mình cũng đang ở Hà Nam nên càng nóng lòng
muốn gặp, nhưng bao lâu nay không nghe tin tức gì về Vương Ngữ Yên
ngày đêm nhung nhớ, chỉ mong nơi Đại Trí phân đà có các nhân vật
giang hồ, may ra thấy được ngọc dung tiên nhan của người đẹp nhưng hỡi
ôi tất cả đều chỉ là một chữ không.
Chu Đan Thần thấy chàng thở vắn than dài, lại tưởng chàng mong
nhớ Mộc Uyển Thanh, việc này không thể nào khuyên giải gì được, nghĩ
bụng cách tốt nhất là làm cho chàng phân tâm qua chuyện khác nên nói:
- Vị Thông Biện tiên sinh này phát thiếp rộng rãi mời thiên hạ đến
đánh cờ, kỳ lực ắt phải cao lắm. Công tử gia sau khi bái kiến Trấn Nam
Vương rồi, cũng nên đến gặp Thông Biện tiên sinh đánh vài ván xem
sao!
Đoàn Dự gật đầu đáp:
- Đúng đó! Cuộc đen trắng cũng là cách tiêu khiển khiến cho con
người bớt ưu phiền. Có điều tuy nàng tinh thông các môn phái võ công
thiên hạ, bụng chứa binh giáp, muôn nhà muôn vẻ nhưng lại không biết
đánh cờ. Buổi hội ngộ đấu cờ của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không
tới đâu!
Chu Đan Thần ngơ ngẩn hoang mang, không biết chàng đang nói đến
ai, trên đường đi thấy công tử hồn vía đâu đâu, câu trước đầu Ngô, câu
sau mình Sở nghe cũng đã nhiều nên không tiện gặng hỏi.
Cả đoàn người rong ruổi chạy về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên
lưng ngựa, lúc thì nhíu tít lông mày, lúc lại cười mủm mỉm, lẩm bẩm một
mình:
- Kinh Phật có dạy rằng: Khi nghĩ đến mỹ nữ thì hãy nhớ thân thể ai
thì cũng chỉ là máu mủ, một trăm năm sau thì cũng thành một bộ xương
trắng mà thôi. Lời nhà Phật tuy không sai nhưng người như nàng dù có
một trăm năm nữa hóa thành bạch cốt, thì mớ xương đó cũng đẹp hơn
những bộ xương người thường.
Chàng còn đang mơ màng nghĩ đến bộ xương trong người Vương Ngữ
Yên ra thế nào, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân dồn dập, hai con
ngựa ở đâu chạy tới, trên yên mỗi con nằm phục một người, trong lúc trời
tối không nhìn rõ là hạng người nào.
Hai con ngựa đó dường nhưng không ai cầm cương, chạy xông đến
bọn Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành hai người chia ra mỗi người
giữ một con lại, thấy người nằm trên đó không còn cử động gì nữa. Phó
Tư Qui hơi kinh hãi, lại gần xem cho kỹ hóa ra chính là hai sứ giả của
Lung Á tiên sinh, trên mặt nở một nụ cười kỳ bí, đều đã chết cả rồi. Hai
người này vừa mới đây đưa thiếp mời Đoàn Dự còn khỏe như vâm, sao
chỉ quay đi quay lại đã lăn ra chết là sao? Họ đều là sứ giả của Lung Á
tiên sinh, sao nét mặt lại kỳ lạ như thế? Phó Tư Qui vừa thoạt nhìn biết
ngay hai người bị trúng chất cực độc vội kéo cương ngựa lùi lại hai bước
không dám đứng gần hai cái tử thi.
Đoàn Dự giận dữ nói:
- Gã họ Toàn của Cái Bang độc ác thật, tại sao lạ hạ thủ những
người này? Ta phải hỏi cho ra lẽ.
Chàng trở đầu ngựa, toan quay lại tra vấn Toàn Quan Thanh. Phía
trước trong bóng tối có người lên tiếng hỏi:
- Tên tiểu tử kia chẳng biết trời cao đất dày là gì, khắp thiên hạ trừ
môn hạ Tinh Tú lão tiên ra thì có ai mà giết người một cách vô hình như
thế được? Lão già câm điếc rụt đầu rùa trốn một chỗ thì còn được chứ
nếu thò mặt ra thì Tinh Tú lão tiên không tha cho y đâu. Này, thằng bé
kia, chuyện không liên can gì đến ngươi, mau cút đi nơi khác.
Chu Đan Thần ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:
- Công tử, đây là người của phái Tinh Tú, mình không nên dây dưa
với họ, đi thôi!
Đoàn Dự kiếm không thấy Vương Ngữ Yên nên đang rảnh rỗi, hai sứ
giả của Lung Á lão nhân gặp chuyện nguy hiểm, chàng thể nào cũng
xông lên cứu viện, nhưng lúc này lại chết rồi, nên cũng không muốn rắc
rối, thở dài một tiếng nói:
- Nếu chỉ mới miệng câm tai điếc thì cũng chưa đủ, còn phải thêm
mắt mù, mũi không ngửi thấy mùi hương, trong lòng không còn ý niệm gì
thì mới mong giải thoát khỏi phiền não.
Chàng nói đây là nói về nếu gặp lại Vương Ngữ Yên, giọng nói hình
dáng, nhất cử nhất động của nàng đã ăn sâu vào tâm khảm mình rồi, dẫu
có vừa câm vừa điếc thì nỗi nhớ mong cũng đâu có vì thế mà dứt được.
Ngờ đâu người phía bên kia nghe chàng nói thế lại cười hềnh hệch, vỗ
tay nói:
- Đúng đó! Đúng đó! Ngươi nói thật có lý, phải chọc mù mắt y đi, cắt
mũi y đi, rồi đánh cho y đến khi nào phải đổi ý mới xong.
Đoàn Dự thở dài:
- Ngoại lực dù có ép thế nào chăng nữa thì cũng chẳng đến đâu. Phải
chính bản thân mình tu hành sao cho tâm không bám vào những gì nhìn
thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy mà phải đạt tới chỗ vô trụ xứ
9 có thế mới rời xa được hình tướng, trở thành bồ tát. Chúng ta là kẻ
phàm phu tục tử, làm sao tu đến mức đó được? Ghét nhau mà phải ở gần
nhau, yêu nhau mà phải xa nhau, muốn mà không được10 năm nhóm11 đó
thiêu đốt con người cho nên sống trên đời mới đầy đau khổ.
Du Thản Chi nằm trong đám cỏ phía sau tảng đá thấy bọn Đoàn Dự đi
rồi quay trở lại, sau đó phía trước có tiếng người quát tháo, vừa lúc đó hai
tên đệ tử Cái Bang chạy đến, nói nhỏ với Toàn Quan Thanh:
- Toàn đà chủ, hai gã câm kia không hiểu sao bị người ta giết rồi, kẻ
hạ thủ tự xưng là thủ hạ của cái gì Tinh Tú lão tiên phái Tinh Tú.
Toàn Quan Thanh kinh hãi, mặt liền biến sắc. Y đã từng nghe tiếng
Tinh Tú Lão Quái ở biển Tinh Tú chuyên sử chất độc cực mạnh, võ công
cũng thật cao cường nghĩ thầm: Bọn họ giết sứ giả của Lung Á lão nhân,
chuyện này không liên can gì đến mình, chẳng nên gây chuyện với họ
làm gì. Y liền nói:
- Ta biết rồi, bọn chúng hai đằng quỉ đánh với ma, mình chẳng dây
vào.
Đột nhiên trước mặt có tiếng người nói:
- Bọn chúng bay ăn nói láo lếu, đã biết ta là môn hạ của Tinh Tú lão
tiên, sao dám chửi ta là ma là quỉ? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?
Toàn Quan Thanh kinh hãi, giật mình lùi lại một bước, dưới ánh lửa
thấy một người đứng sừng sững trước mặt, chính là một tên bang chúng
thủ hạ. Y chăm chú quan sát kỹ, gã đó trông cười mà chẳng ra cười, hình
dạng thật kỳ bí, dường như sau lưng y còn có ai nữa thì phải, bèn quát
lên:
- Các hạ là ai, giả ma giả quỉ dọa người để làm gì thế?
Người nấp ở sau gã đệ tử Cái Bang giọng lạnh như tiền nói:
- Quả là to gan! Ngươi lại nói thêm một chữ quỉ. Lão tử là môn hạ
Tinh Tú lão tiên, Tinh Tú lão tiên giá lâm Trung Nguyên, đang cần ngay
hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Các ngươi trong Cái Bang
xưa nay lúc nào cũng sẵn độc trùng, độc xà, mau mau dâng lên coi. Tinh
Tú lão tiên thấy các ngươi ngoan ngoãn dễ bảo may ra tha cho bọn ăn
mày khốn khó. Còn nếu không, hà hà, tất cả cũng như tên này thôi.
Nghe bình một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đột nhiên bay tung lên, rơi
bịch xuống cạnh đống lửa, không còn động đậy gì nữa, hóa ra chết từ bao
giờ. Gã đệ tử đó vừa văng đi, để lộ ra một gã thấp bé mặc áo vải, không
biết y đã lẻn tới từ lúc nào mà lại giết được một đệ tử Cái Bang rồi náu ở
đằng sau như thế.
Toàn Quan Thanh vừa kinh hãi vừa tức giận, trong giây lát trong đầu
xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ: Tinh Tú Lão Quái đổ lên đầu Cái Bang,
việc trước mắt nếu không khuất phục thì đến phải một mất một còn. Việc
này tuy hung hiểm thật nhưng nếu y chỉ mới dọa một câu, ta đã đem rắn
độc trùng độc dâng lên thì anh em trong bang từ nay còn coi ta vào đâu
nữa. Ta dĩ nhiên không còn dám tơ tưởng cái chức bang chủ mà cũng
chẳng còn mặt mũi nào ở trong bang. Cũng may Tinh Tú Lão Quái chưa
đích thân đến đây, chỉ mới có một mình gã này, không có gì phải sợ cả.
Y nghĩ thế nên cười khì khì nói:
- Thì ra đây là nhân huynh của phái Tinh Tú, cao tính đại danh các
hạ là chi?
Gã lùn đáp:
- Pháp danh ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau dự bị cho đủ độc
trùng độc xà đi thôi.
Toàn Quan Thanh cười đáp:
- Các hạ nếu cần độc trùng độc xà thì cũng chỉ là chuyện cỏn con, có
gì mà phải lo lắng?
Y tiện tay cầm một chiếc túi vải ở dưới đất lên nói:
- Trong đây có mấy con rắn, xin các hạ xem thử xem Tinh Tú lão
tiên dùng có được không?
Gã lùn Thiên Lang Tử kia thấy Toàn Quan Thanh mở miệng một điều
Tinh Tú lão tiên hai điều Tinh Tú lão tiên, trong lòng cực sung
sướng, thấy y thần thái cung thuận, nghĩ thầm: Nghe nói gì Cái Bang là
bang lớn số một của Trung Nguyên, vừa nghe tên của sư phụ lão nhân gia
đã sợ đến mất vía. Ta đem mấy con rắn độc trùng độc về, chắc sư phụ
hoan hỉ lắm, sẽ khen ta chu đáo, được việc. Nói gì thì nói, cũng là nhờ uy
danh của sư phụ lão nhân gia.
Nghĩ thế y bèn thò đầu vào túi vải để xem. Đột nhiên mắt tối sầm,
cái túi đó đã chụp lên đầu y, Thiên Lang Tử kinh hãi, vội vàng múa
chưởng đánh ra nhưng không trúng vào đâu cả. Vừa khi đó, trên mặt, trên
trán, sau ót đều đau nhói lên, đã bị độc vật trong túi cắn trúng rồi. Thiên
Lang Tử không kịp bỏ chiếc túi trên đầu xuống, vội đánh ra hai chưởng
nữa rồi bỏ chạy thục mạng. Y trên đầu vẫn còn chiếc túi nên không thấy
đường, tay đánh loạn xạ, chỉ thấy khắp đầu, khắp mặt chỗ nào cũng bị
cắn, càng hoảng hốt thêm cứ tiếp tục chạy cho nhanh, ngờ đâu bước hụt
một cái, lục tục từ trên triền núi lăn xuống, rơi tõm ngay vào khe suối
dưới thung lũng, theo dòng trôi đi.
Toàn Quan Thanh vốn dĩ định giết y bịt miệng, ngờ đâu y lại chạy
mất, tuy y đã bị bò cạp cắn trúng rồi, lại rơi xuống suối, tính mạng khó
bảo toàn, nhưng phái Tinh Tú vốn giỏi sử dụng độc vật, rất có thể y có
cách giải độc, còn ở vùng biển Tinh Tú thì chắc biết bơi. Nếu như gã này
không chết, phái Tinh Tú hay được, thể nào cũng tới báo thù.
Y trầm ngâm giây lát rồi nói:
- Chúng ta bố trí Cự Mãng Trận, hơn thua với phái Tinh Tú một
phen. Không lẽ Kiều Phong đi khỏi, Cái Bang chúng ta không còn đứng
vững được nữa, ai sai bảo gì cũng được hay sao? Phái Tinh Tú biết sử
dụng chất độc, mình không nên dùng quyền cước binh khí mà cũng phải
dĩ độc công độc.
Người của Cái Bang nhao nhao khen phải, lập tức giàn ra bốn bề, bố
trí trận thế cách đống lửa mấy trượng, người người ngồi xuống xếp bằng.
Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng túi vải đuổi được Thiên
Lang Tử chạy mất nghĩ thầm: Thì ra trong cái túi của y có độc vật, bọn
họ có nhiều túi vải như thế, túi nào cũng toàn là rắn độc trùng độc hay
sao? Bọn ăn mày giỏi nghề bắt trùng bắt rắn không có gì lạ. Nếu mình ăn
cắp được vài cái túi đem về cho A Tử cô nương chắc cô ta vui mừng
lắm.
Y thấy người của Cái Bang ngồi xuống rồi không ai nói năng một lời,
người nào bên cạnh cũng để mấy cái túi, có cái thì thật lớn, bên trong có
gì cục cựa, Du Thản Chi nhìn mà lạnh người. Lúc này bốn bề hoàn toàn
yên tĩnh, nếu như y bò ra thể nào cũng bị người của Cái Bang phát giác,
nghĩ thầm: Nếu bọn họ chụp chiếc túi lên đầu mình, mình có cái lồng
sắt không việc gì phải sợ, thế nhưng nếu chúng bắt mình bỏ luôn vào bao
chung với rắn rết thì mới thực là hỡi ôi!.
Mấy giờ sau đó vẫn không thấy động tĩnh gì, lại thêm một hồi nữa,
trời bắt đầu tờ mờ sáng rồi mặt trời nhô lên, chiếu khắp núi đồi. Trên đầu
cành chim hót líu lo, bỗng nghe Toàn Quan Thanh kêu khẽ:
- Đến rồi! Tất cả anh em đề phòng!
Y ngồi xếp bằng trên một phiến đá bên ngoài xà trận, bên cạnh cũng
để mấy cái túi, tay cầm thiết địch. Chỉ nghe phía tây bắc văng vẳng tiếng
đàn tiếng sáo, một đoàn người chậm rãi đi lên, trong tiếng nhạc có lẫn cả
chiêng trống, nghe rất là réo rắt. Du Thản Chi tự hỏi: Có đám cưới
chăng?.
Tiếng nhạc càng lúc càng gần, đến cách xa chừng mươi trượng thì
ngừng lại, có tiếng mấy người cùng cất lên:
- Tinh Tú lão tiên pháp giá Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau
tiến lên quì xuống nghênh tiếp.
Câu nói vừa dứt, lập tức trống đánh tùng tùng tùng. Ba hồi trống vừa
dứt, thanh la đánh choang một cái, tiếng trống liền ngưng bặt, mấy chục
người cùng cao giọng:
- Cung thỉnh Tinh Tú lão tiên hoằng thi đại pháp, hàng phục bọn tiểu
xú Cái Bang.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Nghe như đạo sĩ làm phép trừ tà bắt ma. Y
len lén từ sau tảng đá thò đầu ra nhìn, thấy nơi phía tây bắc có đến hơn
hai chục người xếp thành hàng ngang, kẻ thì cầm chiêng trống nhạc khí,
kẻ thì cầm phướn cầm cờ, cái xanh cái đỏ trông thật đẹp đẽ, xa xa thấy
thấp thoáng trên những lá cờ đó có thêu: Tinh Tú lão tiên, thần thông
quảng đại, pháp lực vô biên, uy chấn thiên hạ... nhiều câu khác
nhau. Trong tiếng tơ tiếng sáo dặt dìu, một ông lão chậm rãi bước ra,
những người đứng sau lưng lập tức chia thành hai hàng, lẽo đẽo đi theo
cách xa ông ta chừng vài trượng.
Ông lão đó tay cầm một chiếc quạt bằng lông ngỗng, ánh mặt trời
chiếu vào, thấy mặt mũi hồng hào, tóc trắng như bông, dưới cằm là ba
chòm râu trắng như cước, đồng nhan hạc phát, thật chẳng khác gì người
trong truyện thần tiên.
Ông lão đó đi đến còn cách bọn ăn mày chừng ba trượng thì ngừng
lại, đột nhiên chúm môi thổi mấy cái, phát ra tiếng thật chói tai, giơ quạt
phất một cái đẩy tiếng sáo tới (?), bốn tên bang chúng Cái Bang ngồi
dưới đất lập tức ngã ngửa ra.
Du Thản Chi kinh hãi: Tinh Tú lão tiên này pháp thuật quả nhiên
quảng đại thật. Ông lão nở một nụ cười, thổi toe một tiếng, quạt phẩy ra,
lại có một người ngã, xem chừng tiếng thổi là một loại ám khí vô hình
cực kỳ lợi hại, chỉ trong phút chốc trong Cái Bang đã có sáu bảy người
lăn quay ra. Lập tức đằng sau ông lão, tiếng người ca tụng rộn lên:
- Công lực sư phụ chói lọi cổ kim! Bọn ăn mày kia dám đối đầu với
mình, thật đúng là đom đóm lập lòe đua tranh cùng vầng nhật nguyệt.
- Châu chấu đá xe quả không biết lượng sức mình, thật tức cười quá
đỗi!
- Sư phụ chỉ nói nói cười cười mà đưa cả bọn yêu ma tiểu xú Cái
Bang vào chỗ chết, thật dễ như bẻ củi mục mà được toàn thắng, đồ nhi
thật chưa từng thấy, đến nghe cũng chưa nghe tới bao giờ.
- Đây là công nghiệp vĩ đại trên đời chưa từng có, nếu sư phụ lão
nhân gia không lộ một chút thân thủ thì bọn võ học Trung Nguyên nào có
biết trên đời lại có công phu ghê gớm đến mức này.
Trong khi cả bọn ca công tụng đức, nghe chối cả tai thì tiếng ti trúc
quản huyền vẫn tấu lên thật là réo rắt. Đột nhiên có mấy tiếng tu tu,
Toàn Quan Thanh đã đưa sáo sắt lên môi thổi mấy tiếng. Du Thản Chi
nghĩ thầm: Y thổi sáo làm gì thế? Để nghênh đón Tinh Tú lão tiên
chăng?.
Bỗng nghe dưới đất có tiếng sột soạt, từ trong những chiếc túi vải
mấy con rắn lớn vằn vện ngũ sắc bò thẳng tới chỗ ông lão. Những đệ tử
chung quanh ông lão kinh hoảng kêu lên:
- Rắn kìa! Có rắn độc!
- Chao ôi! Không xong, sao lắm rắn độc thế này.
- Sư phụ ôi, những con rắn độc này lại xông tới mình là sao?
Chỉ thấy tất cả những cái túi của bọn ăn mày đâu đâu cũng có rắn bò
ra, con lớn con bé đủ cả, phùng mang lè lưỡi, xông tới chỗ ông lão và bọn
đệ tử. Bọn chúng đứa nào đứa nấy quýnh quáng kêu la ỏm tỏi.
Đệ tử phái Tinh Tú liền cầm cương trượng lên, đập túi bụi những con
rắn đang lúc nhúc bò tới, chỉ riêng ông lão thần sắc vẫn bình thường, lại
chúm môi huýt một tiếng, vẫy quạt đánh ra. Toàn Quan Thanh cũng thổi
địch liên tiếp, người trong Cái Bang cũng hò hét trợ uy.
Đàn rắn càng lúc càng đông, chỉ trong phút chốc chung quanh phải
đến hàng trăm con, trong đó có dăm con trăn lớn. Mấy con mãng xà bò
tới gần, dùng đuôi cuốn được hai người, tiếp theo lại quấn chết thêm hai
người nữa. Nếu đệ tử phái Tinh Tú bỏ chạy, những con rắn chắc không
theo kịp, thế nhưng sư tôn còn đang nghinh địch, quần đệ tử nào ai dám
bỏ đi một bước, chỉ đành múa binh khí, đâm chém loạn cả lên, khiến rắn
độc bị chúng giết chết cũng phải đến tám chín chục con, còn người bị rắn
cắn cũng đến bảy tám người.
Những con trăn lớn kia càng lợi hại hơn nữa, da thô thịt dày, gậy đập
vào không thấm đâu, quấn được ai rồi càng lúc càng xiết chặt, nhất định
không buông. Theo tiếng sáo, từ trong túi bò ra mỗi lúc một nhiều, tổng
cộng phải đến hai mươi bảy, hai mươi tám con cự mãng.
Ông lão thấy tình thế không ổn, toan tấn công Toàn Quan Thanh để
rút lui, thì có hai con rắn nhỏ phóng tới cắn vào mặt ông ta. Ông lão quát
lên:
- Gớm nhỉ!
Quạt trong tay phất lên, kình phong đổ ra, đánh bạt hai con rắn
xuống, bỗng thấy một vật gì mềm nhũn cuốn lấy gót chân, biết là không
xong, phi thân vọt lên, bỗng nghe tiếng địch vi vu, bốn con trăn cùng
vung đuôi lên, quật vào người ông ta. Ông lão đang ở trên không, bình
bình đánh ra hai chưởng, đánh bật hai con trăn phía trước và phía trái,
người lắc một cái đã vọt ra ngoài hai trượng. Ngay lúc đó con rắn thứ ba
và thứ tư cùng dùng đuôi tấn công tới. Trong cơn nguy cấp, ông lão vận
kình đánh ra, chưởng phong đánh nát đầu một con trăn lớn.
Thế nhưng bầy rắn vẫn xông vào, ông lão tuy đánh chết được ba con
cự mãng nhưng hông và đùi bên phải đã bị hai con trăn quấn được. Ông
ta vận nội lực lên, quát lớn một tiếng, giơ ngón tay chộp vào bụng con
trăn đang quấn ngang lưng khiến cho máu me tung tóe đầy người. Ngờ
đâu trăn là giống rất dai, tuy bụng đã bị vỡ nhưng không chết ngay, bị
đau liền xiết người lại, tưởng chừng quấn nát người ông lão. Ông ta dùng
sức dãy hai lần, kế đó lại có hai con mãng xà xông tới, quấn thêm mấy
vòng nữa trên người ông ta, đến cánh tay cũng cuốn luôn vào, khiến cho
không còn cách nào kháng cự. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ chứng
kiến trận đấu kinh tâm động phách, tưởng chừng thở không ra hơi.
Toàn Quan Thanh trong bụng mừng lắm, thấy bên địch ai nấy bị trăn
quấn cả rồi, chỉ còn rên rỉ, chửi rủa, không còn cách gì kháng cự nữa nên
không tiếp tục thổi sáo, tiến lên cười khì khì hỏi:
- Tinh Tú Lão Quái, phái Tinh Tú ngươi và Cái Bang ta trước nay
đường ai nấy đi, nước sông không phạm nước giếng, sao lại đến gây sự
với bọn ta là sao? Bây giờ còn gì để nói nữa không?
Ông lão đồng nhan hạc phát kia chính là người mà võ lâm nhân sĩ
Trung Nguyên ghét cay ghét đắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Vì
một trong tam bảo của phái Tinh Tú là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử
A Tử ăn cắp mất, liên tiếp phái các đệ tử ra đuổi bắt, thậm chí cả đại đệ
tử Trích Tinh Tử cũng sai đi nhưng lần nào bồ câu đem thư về cũng thấy
tình thế thật là bất lợi. Về sau ông ta nghe nói A Tử dựa vào thế anh rể là
Kiều Phong của Cái Bang, đánh bại Trích Tinh Tử, Đinh Xuân Thu vừa
tức tối vừa kinh hoàng, biết Cái Bang là bang hội lớn nhất trong võ lâm
Trung Nguyên không dễ gì đối phó, lại nghe Lung Á lão nhân tái xuất
đầu lộ diện cũng đang hoành hành trong võ lâm vài năm qua, mối lo
trong gan ruột kia chưa trừ được thì không yên tâm, một khi đoạt lại được
vương đỉnh rồi phải thừa cơ thanh toán cho xong chuyện cũ, thành thử
đem hết đệ tử đích thân đi vào Trung Nguyên.12
Môn Hóa Công Đại Pháp y luyện thường phải dùng các loại chất độc
của rắn rết bôi lên lòng bàn tay, hút vào trong người, nếu bảy ngày không
có thì không những công lực giảm thiểu mà chất độc tích tụ trong cơ thể
mấy chục năm qua không có chất mới khắc chế có thể dần dần phát tác,
họa hại ghê gớm khó mà hình dung.
Chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh trời sinh có một mùi kỳ lạ, lại thêm
hương liệu đốt ở trong đỉnh, chỉ trong giây lát là có thể dẫn dụ độc vật
đến, trong vòng mười dặm chung quanh khó có con vật nào gượng lại nổi
sức thu hút của nó. Đinh Xuân Thu có chiếc kỳ đỉnh đó trong tay nên bắt
trùng độc chẳng khó khăn gì, thành thử Hóa Công Đại Pháp càng luyện
càng cao thâm, càng luyện càng tinh tiến. Năm xưa Đinh Xuân Thu có
một tên đệ tử đắc ý được y đích thân truyền dạy Hóa Công Đại Pháp, đã
có chút thành tựu, ngờ đâu về sau ỷ mình có tài, không còn cung thuận
như trước. Đinh Xuân Thu chế ngự được y rồi, không cần phải dùng đến
đao trượng xử tội, chỉ nhốt y vào một gian thạch thất, khiến y không cách
nào bắt được các loại trùng độc tu luyện thêm, kết quả độc tố trong người
phát tác, nhịn không nổi tự mình cấu từng miếng thịt, rên rỉ mãi, bốn chục
ngày sau mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý nhưng cũng thêm phần
cẩn thận, môn Hóa Công Đại Pháp từ đó không truyền cho người nào
nữa. Thành thử bọn Trích Tinh Tử không một ai biết, A Tử muốn luyện
môn thần công này đành phải học lén, ăn cắp bảo đỉnh trốn đi.
A Tử tính toán thật kỹ, ngay hôm sư phụ mới bắt được độc vật luyện
công liền trốn về phương đông, đến khi Tinh Tú Lão Quái phát giác ra
Thần Mộc Vương Đỉnh bị ăn trộm thì đã bảy ngày, A Tử đi đã xa lắm rồi.
Nàng đi toàn theo đường nhỏ, các sư huynh truy nã tuy võ công cao hơn
cô ta nhiều nhưng mưu kế lại kém xa, bị A Tử liên tiếp dùng ngụy kế hư
trương thanh thế, thanh đông kích tây nên đều trốn thoát được.
Vùng Tinh Tú Lão Quái ở là một thâm cốc rậm rạp tối tăm, độc xà
độc trùng không hiếm gì, tuy mất Thần Mộc Vương Đỉnh nhưng muốn đi
bắt rắn để thêm chất độc cũng chẳng khó khăn, nhưng chỉ bắt được những
loại tầm thường, còn những loại đặc biệt, hiếm quí quái lạ, kịch độc lợi
hại như trước thì chỉ còn nước cầu may.
Một chuyện khác cũng khiến ông ta lo lắng là nếu như võ lâm Trung
Nguyên biết được lai lịch chiếc đỉnh thì ai cũng có thể lập tức hủy ngay,
thành thử một ngày chưa lấy lại được thì thêm một ngày không an tâm.
Ông ta gặp lại bọn đệ tử ở Thiểm Tây, đại đệ tử Trích Tinh Tử tuy
không chết nhưng võ công mất hết13 bị bọn đệ tử kia trên đường lăng
nhục chửi bới không còn ra người nữa, còn nhị đệ tử là gã mũi lân Sư
Hống Tử tạm thời lên thay đại sư huynh.
Bọn đệ tử thấy đích thân sư phụ ra tay, ai nấy vừa kinh hoàng vừa sợ
hãi, biết rằng sư mệnh không hoàn thành, tội vạ kỳ này chắc là phải ghê
gớm khó mà chịu nổi. Cũng may Tinh Tú Lão Quái đang cần người nên
tạm thời gác việc trách phạt sang một bên để mọi người có cơ đái tội lập
công.
Đoàn người vừa đi vừa thăm dò tin tức của Cái Bang nhưng một là
bọn họ hình tướng kỳ dị, ngôn ngữ khiến cho người ta ghét bỏ nên chẳng
ai tiết lộ cho họ chuyện gì, thứ nữa Tiêu Phong đã sang nước Liêu làm
Nam Viện Đại Vương, trong võ lâm chẳng mấy ai hay, thành thử dò hỏi
mãi mà không ra đến cả tổng đà Cái Bang dọn đi đâu cũng không biết.
Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe được phân đà Đại Trí tụ hội,
muốn tâng công liền một thân một mình xông vào nên bị Toàn Quan
Thanh ám toán. Thế nhưng người y vốn đầy chất độc nên nọc bò cạp
không giết nổi, thoát chết rồi liền cấp báo sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức
đi tới, ngờ đâu một thân đầy chất độc và võ công thâm hậu như thế nhưng
bị trăn quấn cũng không sao thoát ra được.
Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, chỉ khinh
khỉnh hỏi:
- Trong Cái Bang chúng bay có một gã tên Kiều Phong, bây giờ ở
đâu? Mau gọi y ra gặp ta.
Toàn Quan Thanh trong lòng chợt động, hỏi lại:
- Các hạ muốn gặp Kiều Phong là để làm gì?
Đinh Xuân Thu ngạo mạn hỏi lại:
- Tinh Tú lão tiên hỏi ngươi, sao ngươi không trả lời, lại còn hỏi tới
hỏi lui? Kiều Phong đâu?
Toàn Quan Thanh thấy y đã bị trăn quấn chặt không còn cách gì
kháng cự, vậy mà ăn nói vẫn còn phách lối, khả ố như thế quả trên đời
hiếm có, bèn nói:
- Tinh Tú Lão Quái ai ai cũng nghe nói tới, ngờ đâu chỉ có hư danh,
có mấy con rắn quèn mà đối phó không xong. Thôi đành xin lỗi, chúng ta
vì thiên hạ mà trừ mối hại cho người.
Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:
- Lão phu không cẩn thận nên chẳng may bị mấy con súc sinh máu
lạnh này làm hại, hôm nay về chốn tây phương cực lạc, thôi cũng đành...
Y nói chưa dứt câu, một đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn đột
nhiên cất tiếng:
- Đại anh hùng Cái Bang ơi, xin ngài tha cho con có nhiều cái lợi
lắm. Sư phụ con rất nhiều ngụy kế, ngài đề phòng không nổi đâu. Ngài
chỉ sơ ý một chút là bị ông ta lật ngược ngay.
Toàn Quan Thanh cười khẩy hỏi:
- Thả ngươi ra thì có lợi những gì?
Gã kia đáp:
- Phái Tinh Tú có cả thảy ba món bảo vật, gọi là Tinh Tú tam bảo.
Chỉ có Tinh Tú Lão Quái và con là biết chỗ dấu ở đâu thôi. Ngài tha chết
cho con, sau khi giết Tinh Tú lão quái rồi, con sẽ lấy ra dâng lên. Nếu
như ngài giết con thì Tinh Tú tam bảo vĩnh viễn không có được.
Lại một tên đệ tử khác của phái Tinh Tú gào lên:
- Đại anh hùng ơi, đại anh hùng ơi, ngài đừng có mắc lừa tên đó.
Trong Tinh Tú tam bảo thì có một món bị người ta ăn cắp mất rồi. Ngài
tha con ra là hơn cả, chỉ có mình con đối với ngài trung thành không bao
giờ lừa dối mà thôi.
Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Tinh Tú liền nhao nhao lên:
- Đại anh hùng Cái Bang ơi, ngài tha mạng cho con là hay hơn hết,
bọn kia chẳng có đứa nào trung tâm chỉ có mình con một lòng một dạ, hết
lòng hết sức.
- Đại anh hùng ơi, công phu của môn phái Tinh Tú, chỉ có mình con
biết nhiều nhất, tất mọi thứ con sẽ nói hết cho ngài nghe, không dám dấu
diếm tí gì.
- Bản phái đến Trung Nguyên lần này là có mưu tính ghê gớm lắm,
chủ yếu là để đối phó với Cái Bang. Các vị đại anh hùng ơi, các ngài có
muốn biết rõ không?
- Chúng tôi chôn dấu rất nhiều bạc vàng châu báu ở biển Tinh Tú,
chỗ nào nơi nào nhà cháu cũng biết. Nhà cháu xin dẫn các ngài đến đào,
các vị anh hùng hảo hán Cái Bang từ nay khỏi phải đi ăn xin nữa.
Mấy người đó mồm năm miệng mười, người nào cũng nịnh nọt khoe
mình trung thành, kẻ thì lấy lợi ra dụ, người lại muốn gợi tính tò mò của
đối phương, có đứa thì lại công nhiên nói phét, một tấc lên đến trời. Cả
đến kẻ đã bị rắn độc cắn trúng, hoặc bị trăn cuốn thở không ra hơi cũng
sợ mình đi sau thiên hạ, phều phào van lạy xin tha.
Người trong Cái Bang đâu có ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại hèn mạt đến
thế, không khỏi khinh thị, lại thêm hiếu kỳ, lục tục đến gần nghe cho rõ.
Toàn Quan Thanh cười khẩy:
- Các ngươi đối với sư phụ còn chả trung thành, làm gì có chuyện hết
lòng với người ngoài chẳng có liên hệ gì? Nghe thật tức cười quá!
Một tên đệ tử phái Tinh Tú vội nói:
- Không thể so sánh thế được! Hoàn toàn không giống! Hoàn toàn
không giống! Tinh Tú Lão Quái bản lãnh thấp kém, chúng tôi có coi y ra
gì đâu? Trung thành với y để làm gì? Còn các anh hùng Cái Bang võ
công uy chấn thiên hạ, lại có đại pháp thuật khu xà chế địch14, Tinh Tú
Lão Quái làm sao bì kịp?
- Cái Bang nếu thu nạp đệ tử phái Tinh Tú thì võ lâm cả Trung
Nguyên lẫn Tây Vực đều chấn động, ai mà chẳng bội phục Cái Bang anh
hùng?
- Hai chữ anh hùng đâu đã đủ ca ngợi các vị cao nhân hiệp sĩ, mà
phải gọi là đại hiệp, thánh nhân, vị cứu tinh mới đúng.
- Ta nói giỏi làm hay, từ nay chu du bốn phương, đi đâu cũng tuyên
dương uy đức thì danh vọng các đại hiệp Cái Bang ai ai cũng biết.
- Gớm, danh đầu các đại hiệp Cái Bang thiên hạ ai mà chẳng biết,
cần đếch gì đến ngươi ca tụng?
- Mấy tiếng thánh nhân cứu tinh là do tiểu nhân nói trước tiên,
bọn kia chỉ theo đuôi, chẳng có công lao gì.
Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang cau mày nói:
- Bọn các ngươi hèn hạ tiểu nhân như thế, nói lèm bèm chỉ thêm bẩn
tai. Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi đốn mạt thế, thu nạp toàn bọn đệ tử vô
liêm sỉ là sao? Ta thanh toán ngươi trước, sau đó sẽ đưa luôn cả bọn này
theo ngươi, lão tử hôm nay đại khai sát giới.
Nói xong nghe bình một tiếng đánh thẳng vào Đinh Xuân Thu.
Chưởng đó hơi gió vù vù, kình đạo thật là cương mãnh, trúng ngay ngực
Đinh Xuân Thu. Ngờ đâu Đinh Xuân Thu dường như không sao cả, còn
gã Cái Bang kia hai gối nhũn đi, phục ngay xuống đất, co rúm lại, dãy
dụa mấy cái rồi không còn động đậy gì nữa. Quần cái kinh hãi, cùng kêu
lên:
- Sao thế này?
Lập tức có hai tên ăn mày đến đỡ y dậy, hai gã đó vừa chạm vào
người tên kia, cũng lại lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Ba tên đệ tử Cái
Bang đứng bên cạnh thuận tay đưa ra giữ lại, cũng chẳng khác gì hai tên
kia, cùng gục xuống. Người Cái Bang còn lại ai nấy kinh hãi đến thất
thần, không còn ai dám xông lên tiếp cứu đồng bọn.
Toàn Quan Thanh quát lên:
- Lão già đó trên người có chất độc, mọi người chớ có chạm vào y.
Ném ám khí!
Tám chín tên đệ tử bốn, năm túi liền móc ám khí ra, cương tiêu, phi
đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch cùng vèo vèo ném vào Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu quát lên một tiếng, lắc đầu một cái, tóc bạc trên đầu xổ
tung ra, thật chẳng khác gì một loại nhuyễn tiên ngắn, hất ngược tất cả
hơn chục món ám khí lại. Chỉ nghe ối ối liên tiếp, sáu bảy têm đệ tử Cái
Bang bị bắn trúng. Những ám khí đó không phải cái nào cũng trúng chỗ
yếu hại, có món chỉ trầy xước ngoài da nhưng mấy tên Cái Bang lập tức
ngã lăn ra chết.
Toàn Quan Thanh kêu lớn:
- Lui ra! Lui ra!
Đột nhiên vụt một cái, một mũi cương tiêu phóng thẳng ra, chính là
do Đinh Xuân Thu dùng tóc giữ lại bây giờ vận kình ném vào người y.
Toàn Quan Thanh vội vàng dùng thiết địch trong tay gạt ra, nghe keng
một tiếng, hất bắn mũi cương tiêu ra thật xa. Y thấy Tinh Tú Lão Quái
quả nhiên lợi hại, chi bằng thúc giục trăn quấn chết y cho xong, bèn đưa
ống tiêu lên môi toan thổi, bỗng thấy môi tê đi, đầu choáng váng, mắt
hoa lên, biết là không ổn, vội vàng ném thiết địch, bịch một tiếng ngã lăn
ra.
Người của Cái Bang kinh hãi lập tức có hai người đến đỡ y, Toàn
Quan Thanh mơ mơ hồ hồ kêu lên:
- Ta... ta trúng độc rồi, các... các ngươi... mau chạy... chạy đi.
Quần cái ai nấy mất hồn mất vía, vội dìu y chạy bay chạy biến, để lại
xác chết, túi vải, rắn rết vung vãi khắp nơi.
Du Thản Chi nằm phục trong đám cỏ, hết sức kinh hãi, không dám cử
động. Bốn bề tĩnh mịch, hơn chục tên ăn mày co rút thành một cục, chẳng
khác gì những con nhím gặp phải nguy cơ, hiển nhiên đều chết cả rồi.
Những con trăn không còn nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh
thúc giục nữa, không dám giết người, chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân
Thu. Người trong phái Tinh Tú không ai dám ngọ ngoạy, chỉ sợ khích
động hung tính của loài rắn, ngoặp cho một cái thì bỏ đời.
Yên lặng một hồi như thế, một tên trong bọn cất giọng nói trước:
- Sư phụ ôi, lão nhân gia thần công độc bộ thiên hạ, chỉ nói nói cười
cười ra tay một cái đã đánh cho bọn ăn mày ăn nhặt vạn ác bất xá kia
chạy cong đuôi...
Y nói chưa dứt câu đã có một tên khác cướp lời:
- Sư phụ đừng nghe y bợ đít, mới vừa đây chính nó gọi bọn ăn xin kia
là đại hiệp, thánh nhân chứ còn ai.
Lại có một đệ tử khác lên tiếng:
- Chúng ta theo sư phụ bao nhiêu năm nay, ai mà chẳng biết thầy
mình có tài thông thiên triệt địa? Vừa rồi chúng mình nói khuếch nói
khoác với bọn ăn mày, chẳng qua là để đánh lừa chúng, để khi chúng ỷ y
không đề phòng, sư phụ lúc ấy mới thi triển pháp lực vô biên.
Đột nhiên một người khóa òa lên:
- Sư phụ ôi! Sư phụ ôi! Đệ tử thật là đáng chết, đệ tử hồ đồ, tham
sống sợ chết, đầu hàng địch nhân, bây giờ hối hận còn làm sao kịp, đành
nguyện cho rắn độc cắn chết chứ không dám xin sư phụ nhiêu dung.
Cả đám bấy giờ mới vỡ lẽ ra, sư phụ ghét nhất là đổ tội cho người
khác, chỉ có cách tự xỉ vả mình hồ đồ đáng chết, đem bao nhiêu tội vạ
trút lên đầu mình may ra được sư phụ khai ân tha thứ. Chỉ trong phút
chốc, ai nấy đều tự chửi mình, nào là có lòng bất lương, nào là tội đáng
muôn thác. Riêng Du Thản Chi nằm trong bụi cỏ thấy hoa mắt nhức đầu,
chẳng hiểu ra sao.
Đinh Xuân Thu ám vận kình lực, định giựt đứt ba con trăn đang quấn
chặt lấy mình. Thế nhưng mãng xà có thể dãn ra co lại, Đinh Xuân Thu
vận sức, ba con rắn chỉ nhỉnh ra một chút, nhưng không đứt được. Người
lão ta chỗ nào cũng đầy chất độc, đến cả quần áo tóc tai cũng có nên bọn
đệ tử Cái Bang bắn ám khí vào lão ta đều bị nhiễm độc. Thế nhưng
những con trăn da dày, vảy trơn, độc tố khó mà xâm nhập. Chỉ nghe bọn
đệ tử lải nhải mãi không thôi, Đinh Xuân Thu bực quá quát lên:
- Đứa nào tìm cách đuổi được rắn đi thì ta tha chết cho đứa ấy.
Không lẽ chúng bay chưa biết tính ta nữa hay sao? Ai mà còn dùng được
thì ta chưa giết. Còn nói năng nhăng cuội có ích gì đâu?
Y vừa nói xong, quần đệ tử bèn lặng như tờ. Một lúc sau có người
nói:
- Chỉ cần có ai đốt một mồi lửa dí vào mấy con rắn thế là bọn súc
sinh này sẽ chạy te ngay.
Đinh Xuân Thu chửi liền:
- Cái con bà mày, nói thối bỏ mẹ. Nơi đây đồng không mông quạnh,
đằng trước không thôn, đằng sau không xóm, có ai qua đây bây giờ? Ví
phỏng có dân đi ngang qua, bọn chúng thấy lắm rắn độc thế này, sợ khiếp
vía chạy còn không kịp, lấy đâu ra chuyện đốt lửa mà hun?
Thế là bọn đệ tử lại rầm rĩ cả lên, nhưng chẳng có cách nào dùng
được, sở dĩ bọn chúng tranh nhau nói, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, tỏ ra
mình tuân theo sư mệnh hết sức vắt óc ra để tìm mưu. Cứ như thế một hồi
lâu thì có một tên đệ tử bị trăn quấn nghẹt thở không chịu nổi, trong khi
mê loạn há mồm cắn vào thân mãng xà một cái. Con rắn bị đau, ngoặp
ngay cổ họng y, tên đó chỉ kêu lên thảm thiết rồi chết ngay.
Đinh Xuân Thu càng lúc càng nóng ruột, nếu như bị địch nhân vây
khốn thì trong bấy lâu y đã có thể hạ độc tính mưu tìm cách thoát thân,
thế nhưng những con rắn này vô tri vô thức, dù mưu kế hay cách mấy
cũng không sao thi hành được, chỉ sợ một khi chúng đói rồi, sẽ há mồm
nuốt mình vào bụng.
Mối lo của y quả nhiên đúng thực, một con trăn lâu không nghe thấy
tiếng sáo, bụng đói lắm rồi, há mồm ngoạm tên đệ tử Tinh Tú đang quấn.
Tên đệ tử đó kêu lên:
- Sư phụ cứu con! Sư phụ cứu con!
Hai cái chân y bị trăn nuốt trước rồi đến mình cũng từ từ chui vào,
miệng vẫn kêu la thảm thiết nhưng răng mãng xà hình móc15, chân tên đệ
tử đó chui vào rồi, dần dần đến bụng, lên đến ngực. Y nhất thời chưa
chết, vẫn lớn tiếng kêu la, vang dậy cả cánh đồng.
Mọi người ai nấy biết rằng số phận mình trong chốc lát rồi cũng như
thế, không khỏi sợ đến vỡ mật. Một người thấy Tinh Tú Lão Quái cũng
đành bó tay chịu chết, tự nhiên lòng căm hận nổi lên, lớn tiếng chửi bới,
nói mọi chuyện chẳng qua chỉ vì y ép buộc, mình đang sinh sống yên lành
bằng nghề nuôi cừu ở biển Tinh Tú, bị y vừa uy hiếp vừa dụ dỗ, bắt phải
gia nhập làm môn hạ, hôm nay chết thảm nơi miệng độc xà, xuống đến
cõi âm, thể nào cũng dâng cáo trạng lên Diêm Vương.
Gã đó mở đầu, bao nhiêu người khác cũng chửi theo. Mọi người ngày
thường bị Tinh Tú Lão Quái hành hạ ngược đãi, lòng đầy oán hận, có
điều chỉ để trong bụng mà không dám nói ra lời, hôm nay cũng cùng chết
cả nên chửi một phen cho hả tức. Một người chửi lớn quá thân hình dao
động, khiêu khích con rắn đang quấn, mãng xà liền há mồm ngoạm ngay
đầu vai, y chỉ có nước kêu lên:
- Ối! Ối! Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Du Thản Chi thấy cả bọn ai cũng bị mãng xà quấn chặt không thể
nào thoát thân được, trong lòng không sợ hãi gì nữa, từ trong bụi cỏ đứng
lên, thấy nơi này không phải là chỗ tốt lành gì nên định chạy cho mau.
Người trong phái Tinh Tú đột nhiên thấy một quái nhân đầu đội lồng sắt,
ai nấy thất kinh nhưng lập tức có người nghĩ ra là chỉ còn trông vào y để
cứu mạng, liền kêu lên:
- Đại anh hùng ơi, đại hiệp sĩ ơi, nhờ ngài lấy nắm cỏ khô, đốt lửa
lên, đuổi giùm mấy con trăn này cho chúng tôi, mỗ lập tức tặng cho...
tặng cho ngài một nghìn lượng bạc.
Lại một người khác kêu lên:
- Một nghìn lượng đâu có đủ, phải ít nhất một vạn lượng.
Lại một người khác nói:
- Vị tiên sinh đây bụng nhân lòng hiệp, hết sức tử tế, chỉ chuyên
hành hiệp trượng nghĩa, huống chi đốt lửa dọa rắn thì có gì là nguy hiểm.
Chỉ trong giây lát tiếng ca tụng vang lên, còn kẻ hứa thưởng tiền thì
chỉ chớp mắt đã lên đến trăm vạn lượng hoàng kim. Những gã này mồm
miệng chửi ai thì số một đã đành mà nịnh bợ ca tụng thì cũng có bài có
bản. Du Thản Chi trong đời đã có bao giờ nghe ai gọi mình là đại hiệp
sĩ, đại anh hùng, người nhân kẻ hiệp, hảo hán trên đời có một
không hai bao giờ? Bây giờ nghe bọn người này tâng bốc lên tận mây
xanh, y cảm thấy hởi lòng hởi dạ, tưởng chừng như đang bay bổng, tự
nhiên cảm thấy mình có phong độ đại hiệp sĩ, đại anh hùng thật, một
trăm vạn lượng hoàng kim chẳng coi vào đâu, có điều A Tử cô nương
không được chính tai nghe những lời tán tụng mình quả cũng đáng tiếc.
Y bèn gom cỏ khô, mò trong người đồ đánh lửa châm vào nhưng khi
thấy bao nhiêu là trăn lớn trông thật hung dữ, trong bụng cũng sợ lắm,
nghĩ thầm thôi chẳng nên trêu vào những con rắn này, không chừng chính
mình cũng vướng vào trong rọ. Y suy nghĩ một lát bèn đi gom các cành
khô đốt thành một đống lửa thật lớn ở ngay trước mặt, sau đó mới cầm
một cành cây đang cháy, ném vào con trăn lớn gần mình nhất.
Y đứng nấp ở sau đống lửa, nép người lại để nếu con mãng xà phóng
tới cắn mình thì sẽ lập tức co giò chạy thoát thân, cái danh đại anh
hùng, đại hiệp sĩ cũng chẳng màng chi nữa.
Trăn quả nhiên sợ lửa, thấy lửa lem lém ở bên cạnh lập tức đang
quấn người liền lỏng ra, chui vào trong cỏ. Du Thản Chi thấy đốt lửa kiến
hiệu, trong tiếng hoan hô của phái Tinh Tú, cầm hết que củi này đến que
củi khác vứt ra. Những con rắn lập tức lúc nhúc bỏ chạy, đến những con
trăn lớn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng đành thả người ra
chạy mất. Chỉ trong giây lát, mấy trăm con rắn và trăn đã đi hết sạch.
Các đệ tử phái Tinh Tú lớn tiếng ca tụng:
- Minh kiến của sư phụ quả xa vạn dặm, thật là thần cơ diệu toán,
dùng hỏa công linh nghiệm biết bao.
- Sư phụ hồng phúc tề thiên, phùng hung hóa cát.
- Mọi việc đều do sư phụ tính toán mới cứu được cái mạng kiến của
chúng con.
Bao nhiêu lời ca tụng toàn là nhắm vào công đức của sư tôn Tinh Tú
Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi chẳng ai nhắc
đến một câu. Du Thản Chi đứng ngơ ngẩn như trời trồng, hơi lấy làm lạ,
nghĩ thầm: Mới đây cả bọn chúng bay còn chửi sư phụ không tiếc lời,
bây giờ lại tán tụng tận mây xanh, cái tiếng đại anh hùng, đại hiệp sĩ
của ta nay thành thằng nhãi này, ấy là vì cớ gì?.
Đinh Xuân Thu vẫy tay nói:
- Thằng đầu sắt kia, lại đây, tên ngươi là gì?
Du Thản Chi bị người ta khinh khi đã quen, thấy đối phương vô lễ,
cũng chẳng để bụng nói:
- Tôi tên Du Thản Chi.
Nói xong đi tới mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi:
- Mấy tên ăn mày kia đã chết chưa? Ngươi thử lại sờ mũi y xem có
còn thở không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y cúi xuống sờ mũi một tên đệ tử Cái Bang, thấy tay chạm vào lạnh
ngắt, gã đó chết từ lâu rồi. Y lại thăm một gã khác thì cũng đã tắt thở bèn
nói:
- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.
Chỉ thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú mặt mày hớn hở đứa nào đứa nấy ra
chiều hạnh tai lạc họa16. Y không hiểu vì sao, lại nhắc lại lần nữa:
- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.
Những gã kia khuôn mặt đang nhăn nhở ra chiều diễu cợt bỗng nhiên
biến mất, từ từ chuyển sang lạ lùng, rồi trở thành kinh hãi. Đinh Xuân
Thu nói:
- Mỗi tên ăn mày ngươi thử dò xem có đứa nào còn cứu được không?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y bèn thăm dò hết lượt hơn chục tên ăn mày rồi lắc đầu:
- Người nào cũng chết cả rồi. Công lực của lão tiên sinh ghê gớm
thật.
Đinh Xuân Thu cười khẩy:
- Công phu kháng độc của ngươi còn ghê gớm hơn nhiều.
Du Thản Chi lạ lùng hỏi:
- Tôi...cái gì... công phu kháng độc của tôi ư?
Y hoang mang không hiểu ý tứ câu nói của Đinh Xuân Thu ra sao,
cũng chẳng biết rằng mỗi lần mình thò tay xem hơi thở của người trong
Cái Bang là một lần đến quỉ môn quan, sờ thử hơn mười người, là trải qua
hơn mười lần chết đi sống lại. Y nào có biết được rằng, Tinh Tú Lão Quái
bị trăn quấn không sao thoát thân được tất cả đều do tiểu tử này cứu
mạng, nếu như truyền ra trên giang hồ thì chẳng còn mặt mũi nào, thành
thử khi rắn trăn đi khỏi rồi lập tức nảy ra ý định giết y để bịt miệng.
Ngờ đâu trong mấy tháng qua Du Thản Chi tập luyện liên tục nên độc
chất của con băng tàm đã dung hợp trong cơ thể, những gì Đinh Xuân Thu
thổi vào xác những tên đệ tử Cái Bang kia không làm gì y nổi.
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Cứ nhìn da tay và nghe giọng nói của gã
này thì xem ra còn trẻ lắm, chắc không có bản lãnh gì chân thực đâu, có
lẽ trên người y có chất gì kỵ độc như hùng hoàng châu, tịch tà kỳ hương
chẳng hạn, hay đã uống sẵn thuốc giải nên không bị chất độc xâm nhập.
Y liền nói:
- Du huynh đệ, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.
Du Thản Chi thấy y nói ra vẻ thành khẩn nhưng đã từng chứng kiến
thủ đoạn giết bọn Cái Bang thật là tàn độc, thầy trò y khi thì nịnh bợ tâng
bốc, lúc lại chửi bới nhục mạ lẫn nhau, biết hạng người này thật khó mà
đối phó, chi bằng kính nhi viễn chi là hơn bèn đáp:
- Tiểu nhân đang có chuyện cần, không thể phụng bồi, xin cáo từ.
Nói xong chắp tay chào, quay mình đi thẳng. Y mới đi được mấy
bước, đột nhiên thấy bên cạnh người có hơi một chút gió, hai cổ tay ghịt
lại thì ra đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn, thấy người nắm tay
mình chính là một đệ tử phái Tinh Tú. Y không hiểu đối phương có dụng
ý gì nhưng thấy mặt y nở một nụ cười nham hiểm, xem ra không có hảo
ý, trong lòng kinh hãi kêu lên:
- Bỏ ta ra!
Y giằng mạnh một cái, bỗng thấy có vật gì bay vụt ngang đầu, một
thân hình to lớn từ sau lưng nhảy qua người y, bình một tiếng, giáng mạnh
vào vách đá trước mặt, đầu vỡ tan, nát ngướu thành một cục bầy nhầy.
Du Thản Chi thấy gã đó đụng mạnh như thế, không sao tin nổi, còn
đang ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra chính là gã vừa nắm tay mình, càng
thêm kỳ quái: Gã này đang khỏe mạnh như thường, sao tự nhiên lại lao
đầu vào đá tự tử ? Không lẽ hóa điên chăng?. Y có ngờ đâu chính là vì
mình giãy một cái, một luồng kình lực đưa ra ném gã kia vào trong núi.
Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ hãi kêu lên, mặt mày biến sắc.
Đinh Xuân Thu thấy y ra tay quật chết đệ tử mình, thủ pháp thật là
vụng về quờ quạng, không phải công phu thượng thừa, chỉ vì sức lực
mạnh lạ lùng mà ra, nghĩ thầm người này trời cho thần lực, võ công lại
tầm thường, lập tức nhún mình một cái, giơ tay chộp vào đầu y. Du Thản
Chi không kịp đề phòng lập tức bị đè đến quì xuống đất, bèn chõi lên
định đứng dậy, nhưng đầu tưởng như đang đội một khối đá vạn cân,
không cách nào động đậy gì được vội vàng van xin:
- Xin lão tiên sinh tha cho.
Đinh Xuân Thu thấy y mở miệng xin tha nên cũng yên tâm hỏi lại:
- Sư phụ ngươi là ai? Sao ngươi dám to gan, giết đệ tử của ta?
Du Thản Chi đáp:
- Tôi... tôi không có sư phụ. Tiểu nhân chẳng bao giờ dám giết đệ tử
của lão tiên sinh.
Đinh Xuân Thu nghĩ bụng chẳng cần nhiều lời với y làm gì, giết
người diệt khẩu cho được việc, nên buông tay ra đợi Du Thản Chi vừa
đứng lên liền múa chưởng đánh vào ngực y. Du Thản Chi kinh hãi vội
vàng đưa tay gạt ra. Thế đánh của Đinh Xuân Thu thật chậm, Du Thản
Chi vừa đưa tay ra đụng ngay phải chưởng tâm của lão. Đinh Xuân Thu
vốn đã tính trước, chất độc trong người theo nội kình lòng bàn tay tống ra,
chính là công phu Hóa Công Đại Pháp thành danh mấy chục năm qua,
trong chưởng hoặc chứa kịch độc, hoặc hóa tán nội lực kẻ địch trong
khoảnh khắc, kẻ thì chết ngay tại chỗ, có kẻ đau đớn quằn quại mấy
tháng mới chết toàn do ý muốn thi triển khác nhau.
Trong đời Đinh Xuân Thu đã từng dùng pháp môn này giết không
biết bao nhiêu người, võ lâm nghe đến Hóa Công Đại Pháp ai ai cũng
căm hận chán ghét, sợ đến bủn rủn cả tay chân. Bắc Minh Thần Công
của Đoàn Dự hút nội lực người khác lấy làm của mình, khác hẳn với Hóa
Công Đại Pháp dùng chất kịch độc hóa tán nội công người khác, nhưng
người bị trúng phải thấy mình trong giây lát tiêu tán hết nội lực, chưa một
ai có kinh nghiệm của cả hai nên đều hiểu lầm. Đinh Xuân Thu thấy gã
đầu sắt sờ mũi hơn chục tử thi Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên lập
tức thi triển bản lãnh tối đắc ý của lão ra.
Hai người song chưởng chạm nhau, thân hình Du Thản Chi lảo đảo,
lịch bịch lùi luôn sáu bảy bước, định gượng dậy nhưng cũng phải ngồi
phệt xuống, vậy mà dư lực vẫn còn đẩy y ngã ngửa, đầu va xuống đất,
lộn tùng phèo ba bốn vòng mới ngừng lại được. Y vội vàng liên tiếp khấu
đầu van xin:
- Lão tiên sinh tha mạng! Lão tiên sinh tha mạng!
Đinh Xuân Thu hai tay đụng với y thấy Du Thản Chi nội lực hùng
mạnh, kình đạo âm hàn, thật là quái dị, lại có ngầm chứa chất cực độc,
tuy bị mình đẩy ngã lăn chòng chọc thật là thê thảm, nhưng nếu so sánh
nội lực và độc kình thì không kém gì mình, vậy mà lại van xin cầu tha
mạng? Không lẽ y thực sự không biết? Lão liền tiến lên hỏi lại:
- Ngươi cầu xin ta tha mạng, đó là thực lòng hay là giả ý?
Du Thản Chi vẫn một mực rập đầu van lạy:
- Tiểu nhân một lòng thành thực, cầu xin lão tiên sinh tha mạng cho
tiểu nhân.
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã này không biết dùng cách gì, gặp
được cơ duyên làm sao mà chất độc tích trong người còn hơn cả ta, quả là
một kỳ bảo. Ta phải tìm cách tóm lấy gã dò xem pháp môn luyện công ra
sao sau đó hút hết chất độc trong người y, lúc đó mới xử tử. Còn nếu chỉ
giết y đi thì thật uổng quá!. Ông ta giơ chưởng ấn xuống đầu Du Thản
Chi, hơi vận nội lực nói:
- Trừ phi ngươi bái ta làm thầy, nếu không ta làm sao tha mạng cho
ngươi được?
Du Thản Chi thấy chiếc lồng sắt trên đầu như bị đút vào lò lửa, nóng
đến mặt hừng hực, trong bụng hết sức sợ hãi. Y từ khi bị A Tử hành hạ
dày vò trở nên bảo sao nghe vậy, chẳng còn phân biệt thiện ác thị phi,
bao nhiêu cốt khí cứng cỏi ương ngạnh mất sạch, chỉ sao được bảo toàn
tính mạng nên lật đật nói:
- Sư phụ, đệ tử Du Thản Chi cam nguyện gia nhập môn hạ của sư
phụ, xin lão nhân gia thu nạp cho.
Đinh Xuân Thu mừng lắm, thản nhiên nói:
- Ngươi muốn bái ta làm thầy thì cũng được. Thế nhưng qui củ bản
môn thật nhiều, ngươi có tuân thủ được không? Ví thử sư phụ bảo làm gì,
ngươi có thành tâm thành ý làm hết lòng, quyết không vi kháng chăng?
Du Thản Chi đáp:
- Đệ tử nguyện tuân thủ qui củ, phục tòng mệnh lệnh của sư tôn.
Đinh Xuân Thu hỏi thêm:
- Nếu sư phụ muốn lấy mạng ngươi, ngươi có cam tâm tình nguyện
chịu chết không?
Du Thản Chi ấp úng:
- Cái đó... cái đó...
Đinh Xuân Thu nói:
- Ngươi nghĩ cho chín, cam tâm thì là cam tâm, không bằng lòng thì
nói không bằng lòng.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Nếu ông muốn lấy mạng tôi thì dĩ nhiên
không cam tâm rồi. Nếu tới lúc đó trốn được là mình trốn ngay, còn như
chạy không xong thì dù không cam tâm cũng đành vậy chứ biết sao hơn.
Y bèn nói:
- Đệ tử cam tâm chịu chết vì sư phụ.
Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:
- Hay lắm, hay lắm! Ngươi đem tất cả mọi chuyện trong đời nói hết
cho ta nghe.
Du Thản Chi không muốn nói rõ hết cho ông ta nghe thân thế và
những gặp gỡ trong đời, chỉ nói mình là con nhà nông bị người Liêu bắt
trong một kỳ đi gặt, đội cho y một cái lồng sắt. Đinh Xuân Thu hỏi y
độc chất vì đâu mà có, Du Thản Chi chỉ thổ lộ vì sao thấy con băng tàm
và nhà sư Tuệ Tịnh, ăn cắp con tằm ra sao rồi nói láo là sơ ý nên bị con
băng tàm trong hồ lô cắn vào tay khiến cho toàn thân đông cứng, còn con
tằm thì chết, còn chuyện A Tử tu luyện độc chưởng y bỏ qua không đề
cập tới.
Đinh Xuân Thu hỏi kỹ lưỡng hình dáng và tình trạng con băng tàm,
trên mặt không khỏi lộ vẻ thèm thuồng thán phục. Du Thản Chi nghĩ
thầm: Nếu ta nói đến cuốn sách ướt hiện hình lên y thể nào cũng cướp
mất không trả lại đâu. Đinh Xuân Thu lại gặng hỏi công phu cổ quái y
luyện thế nào nhưng y nhất quyết không hé răng.
Đinh Xuân Thu vốn dĩ đâu có biết đó là công phu Dịch Cân Kinh thấy
võ công y hết sức kém cỏi lại tưởng vì y luyện được nội kình âm hàn
hoàn toàn chỉ do con băng tàm mà có, trong bụng không khỏi chửi thầm:
Loại thần vật như thế mà lại bị tên tiểu tử này thần xui quỉ khiến làm
sao hút được vào người, thật uổng quá. Y suy nghĩ một chút bèn hỏi
thêm:
- Thế nhà sư mập bắt được con tằm đó, ngươi bảo là nghe người khác
gọi là Tuệ Tịnh ư? Là sư chùa Thiếu Lâm, chấp tác nơi chùa Mẫn Trung
ở Nam Kinh?
Du Thản Chi đáp:
- Quả đúng thế.
Đinh Xuân Thu nói:
- Gã Tuệ Tịnh đó bảo là bắt được con băng tàm ở trên đỉnh núi Côn
Lôn. Thế thì tốt lắm, ở đó đã có một con thì hẳn sẽ có hai con, ba con. Có
điều núi Côn Lôn vuông vức mấy nghìn dặm, nếu không phải người thuộc
đường đưa đi thì không phải dễ gì mà bắt được.
Lão đã đích thân nếm mùi linh nghiệm của con băng tàm, tính ra so
với Thần Mộc Vương Đỉnh còn quí hơn nhiều, thấy chuyện cần kíp trước
mắt phải làm sao ép được nhà sư Tuệ Tịnh dẫn đường đi lên núi Côn Lôn
bắt con trùng quí. Hòa thượng đó thuộc phái Thiếu Lâm, vốn cũng khó
mà động tới được, nay lại ở Nam Kinh thế thì may quá. Sau đó Du Thản
Chi làm lễ bái sư gia nhập phái Tinh Tú.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ có chiều thương mến y cho nên
lập tức xúm lại ninh bợ, tán tụng không tiếc lời. Mới rồi cả bọn chửi bới
Tinh Tú Lão Quái, phản nghịch hàng địch nhưng lúc này Đinh Xuân Thu
đang cần người nên giả bộ làm như không nhớ đến, vả lại những chuyện
đó thì y cũng đã biết thừa nên không thấy bực tức chút nào.
Đoàn người liền chuyển qua đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi đi
sau Đinh Xuân Thu thấy lão tay áo rộng phất phới, bộ pháp nhẹ nhàng
thật chẳng khác gì thần tiên, trong lòng tự nhiên sinh kính ngưỡng: Ta
bái một vị tài ba thế này làm sư phụ, quả đúng là kiếp trước khéo tu.
Người phái Tinh Tú đi ba ngày liền, đến xế trưa hôm đó, cả bọn ở lại
một tòa lương đình ở bên đường uống nước nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau
có tiếng vó ngựa, bốn kỵ sĩ từ phía đường bên kia chạy tới. Bốn con ngựa
đó chạy tới gần căn nhà mát, người đầu tiên kêu lên:
- Đại ca, nhị ca, trong đây có nước, mình ghé lại uống vài bát cho
ngựa nghỉ một chút.
Y vừa nói vừa nhảy xuống ngựa, đi vào lương đình, ba người còn lại
cũng hạ mã. Bốn người đó thấy bọn Đinh Xuân Thu, hơi gật đầu chào, đi
đến bên chum nước, cầm bát lên múc nước uống. Du Thản Chi thấy người
đi đầu mặc áo đen, bé nhỏ gầy gò, trên mép để hai chòm râu đuôi chuột
vẻ mặt ranh mãnh. Người thứ hai mặc áo bào màu hoàng thổ, cao lỏng
khỏng, hai lông mày xuôi xuống, vẻ mặt cáu kỉnh trông như người ốm dở.
Người thứ ba mặc trường bào màu đỏ cánh kiến, thân hình cao lớn, tai to
mặt vuông, dưới cằm là một bộ râu hoa râm khá rậm trông chẳng khác gì
một phú thương. Người sau cùng mặc áo xanh khăn áo theo vẻ nho sinh,
chừng trên dưới năm mươi, đôi mắt lờ đờ dường như vì đọc sách nhiều
quá nên cập kèm, không uống nước mà cầm chiếc hồ lô lên tu rượu ừng
ực.
Cũng vừa khi đó, từ phía đường trước mặt, một nhà sư xăng xái đi tới,
đến trước lương đình, chắp hai tay cung kính nói:
- Chúng vị thí chủ, tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào trong
đình nghỉ ngơi, uống bát nước.
Người áo đen cười đáp:
- Sư phụ chẳng phải đa lễ, ở đây ai cũng là người qua đường, tòa nhà
mát này có phải chúng tôi dựng lên đâu, xin mời vào nghỉ.
Nhà sư đáp:
- A Di Đà Phật, xin đa tạ.
Nói xong ông ta đi vào trong lương đình. Nhà sư đó tuổi chừng hai
mươi nhăm, hai mươi sáu, mắt to mày rậm, mũi to nhưng tẹt, mặt mày
không lấy gì làm đẹp trai, tăng bào tuy vá nhiều chỗ nhưng sạch sẽ. Y đợi
ba người kia uống xong lúc đó mới đến gần chum nước, dùng bát múc, hai
tay nâng lên, đôi mắt khép lại, cung kính đọc một bài kệ:
Phật quan nhất bát thủy
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sinh nhục.
Ở trong lòng bát nước kia,
Phật trông thấy tám muôn tư côn trùng.
Chú này chưa tụng cho xong,
Khác gì ăn thịt một vùng chúng sinh.
Rồi y niệm:
- Am phọc thái ba la ma ni sa ha.
Niệm xong y mới bưng bát nước lên để vào miệng uống. Gã áo đen
lấy làm lạ bèn hỏi:
- Tiểu sư phụ, chú xí xa xí xố niệm chú gì đó?
Nhà sư đáp:
- Tiểu tăng niệm đó là ẩm thủy chú. Phật dạy rằng trong mỗi bát
nước đều có tám vạn bốn ngàn loại côn trùng, người xuất gia giới sát
thành ra phải niệm ẩm thủy chú xong lúc đó mới uống được.
Người áo đen cười sằng sặc nói:
- Nước trong veo, đến một con trùng cũng không có, tiểu sư phụ chỉ
giỏi nói đùa.
Nhà sư nghiêm trang đáp:
- Thí chủ có chỗ không biết. Chúng ta là bọn phàm phu nhìn vào thì
trong nước không có côn trùng nhưng đức Phật nhìn bằng thiên nhãn, thấy
trong nước tiểu trùng hàng nghìn hàng vạn con.
Người áo đen cười hỏi lại:
- Thế chú niệm ẩm thủy chú rồi uống tám vạn bốn nghìn con trùng
kia vào bụng thì tiểu trùng không chết hay sao?
Nhà sư trù trừ rồi đáp:
- Cái... cái đó... sư phụ tiểu tăng chưa dạy. Có lẽ tiểu trùng không
chết đâu.
Người áo vàng chen vào:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu trùng cũng vẫn chết chứ. Có điều
tiểu sư phụ niệm chú rồi, tám vạn bốn nghìn con trùng kia đi thẳng lên
tây phương cực lạc thế giới, tiểu sư phụ uống một bát nước ấy là siêu độ
cho tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Công đức thật là vô lượng! Quả thật là
vô lượng!
Nhà sư kia không biết y nói thật hay nói đùa, hai tay vẫn cầm bát
nước đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mồm lẩm bẩm:
- Một lần siêu độ tám vạn bốn ngàn chúng sinh ư? Tiểu tăng làm sao
có pháp lực to lớn dường ấy?
Người áo vàng đi đến bên cạnh nhà sư, cầm lấy bát nước trong tay y,
nhìn chăm chăm miệng đếm:
- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu... một nghìn, hai nghìn, một vạn, hai
vạn... Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu sư phụ ơi ơi, trong cái bát này có
cả thảy tám vạn ba nghìn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng, thiếu
đâu mất một con.
Nhà sư nói:
- Nam Mô A Di Đà Phật, thí chủ chắc nói đùa, thí chủ là người phàm
làm sao có thần thông thiên nhãn được?
Người áo vàng đáp:
- Thế chú có thần thông thiên nhãn không?
Nhà sư đáp:
- Tiểu tăng dĩ nhiên cũng không có.
Người áo vàng nói:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta xem chú có thiên nhãn thông, nếu
không làm sao chú chỉ mới nhìn thoáng qua đã biết ngay ta là kẻ phàm
phu tục tử mà không phải là bồ tát giáng trần?
Nhà sư nhìn y, nhìn tới nhìn lui đầy vẻ hoang mang. Đại hán mặc áo
màu cánh kiến liền đi tới cầm lấy bát nước, trả lại cho nhà sư cười nói:
- Sư phụ uống nước đi! Thằng em tôi đùa chơi với chú đấy mà, đừng
có coi là thật.
Nhà sư tiếp lấy bát nước cực kỳ cung kính đáp:
- Đa tạ! Đa tạ!
Trong bụng không biết phải làm sao nên không dám uống. Đại hán
kia lại tiếp:
- Ta xem tiểu sư phụ đi đứng nhanh nhẹn chắc biết võ công. Xin hỏi
pháp danh là gì, đang xuất gia tại chùa nào?
Nhà sư liền để bát nước trên nắp chum, hơi khom lưng nói:
- Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.
Người áo đen kêu lên:
- Hay quá! Hay quá! Hóa ra chú là cao thủ chùa Thiếu Lâm. Ra đây,
ra đây mau! Hai đứa mình làm thử một keo nào.
Hư Trúc cuống quít xua tay nói:
- Tiểu tăng võ công kém cỏi, làm sao dám động thủ cùng thí chủ?
Người áo đen cười:
- Mấy hôm nay không đánh nhau, ngứa tay ngứa chân quá. Chúng
mình làm vài chiêu, không cần đánh thật, có gì đâu mà sợ?
Hư Trúc lùi lại hai bước nói:
- Tiểu tăng tuy có luyện võ mấy năm thật nhưng chỉ cốt để cho thân
thể khỏe mạnh chứ nào có đánh nhau được đâu?
Người áo đen nói:
- Sư chùa Thiếu Lâm ai cũng võ công cao cường, người mới học đâu
có ai được ra khỏi sơn môn. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn hẳn là phải nhất
lưu cao thủ. Lại đây nào! Hai đứa mình chỉ trao đổi một trăm chiêu, ai
thua ai được cũng chẳng sao cả.
Hư Trúc lại thoái lui thêm hai bước nữa nói:
- Thí chủ không biết, phen này tiểu tăng xuống núi chẳng phải vì võ
công đã đủ, chỉ vì nhà chùa sai rất đông đệ tử đi đưa thư, thiếu người nên
miễn cưỡng khiến luôn cả tiểu tăng cho đủ số. Tiểu tăng cầm cả thảy
mười trương anh hùng thiếp, sư phụ dặn kỹ là đưa đủ mười cái thiếp xong
là phải về chùa ngay, giá nào cũng không được động võ với ai, hiện nay
đã đưa được bốn lá thiếp rồi, trong người còn sáu cái. Thí chủ võ công
cao cường, vậy xin nhận một trương anh hùng thiếp.
Nói xong lấy trong túi ra một chiếc bao bằng vải dầu, mở lấy ra một
phong bì đỏ chói, cung kính đưa lên nói:
- Xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ để tiểu tăng khi về chùa bẩm
lại với sư phụ.
Hán tử áo đen không cầm tờ thiếp chỉ nói:
- Nếu như ngươi không đánh nhau với ta thì ta còn anh hùng cẩu
hùng gì nữa? Hai đứa mình sách giải vài chiêu, ta có thắng ngươi lúc đó
mới dám nhận anh hùng thiếp.
Nói xong y tiến lên hai bước, nhứ tay trái, tay phải đấm luôn vào mặt
Hư Trúc nhưng quyền sắp đến đã thu lại kêu lên:
- Trả đòn mau.
Người cao to từ khi thấy Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp thì
đã chú ý lắng tai nghe lúc này lên tiếng:
- Tứ đệ, không nên tỉ võ vội, trước hết xem anh hùng thiếp xem nói
những gì.
Y cầm lấy lá thiếp từ tay Hư Trúc thấy trên đó viết:
Trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ, chắp tay cung thỉnh anh hùng
thiên hạ, vào giai tiết Trùng Dương mồng chín tháng chín, xin vui lòng
đến Tung Sơn Thiếu Lâm Tự để kết mối thiện duyên, đồng thời chứng
kiến phong phạm dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung Cô
Tô.
Đại hán đó liền kêu lên một tiếng, cầm tờ thiếp giao cho nho sinh
đứng bên cạnh, nói với Hư Trúc:
- Phái Thiếu Lâm chiêu khai anh hùng đại hội, hóa ra là để gây
chuyện với Mộ Dung Cô Tô...
Hán tử áo đen liền la to:
- Hay lắm! Hay lắm! Ta tên là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác, chính
là thủ hạ của họ Mộ Dung Cô Tô đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó
Mộ Dung Cô Tô thì chẳng việc gì phải mở anh hùng đại hội, ngay bây
giờ ta xin lãnh giáo thân thủ cao chiêu của phái Thiếu Lâm.
Hư Trúc lại lùi thêm hai bước, chân trái đã bước ra khỏi lương đình
nói:
- Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ tiểu tăng có dặn là, tệ tự cung thỉnh
Cô Tô Mộ Dung thí chủ đến chùa, quyết không dám đắc tội. Có điều là
trên giang hồ ai ai cũng xầm xì, trong võ lâm những năm gần đây không
ít anh hùng hảo hán bỏ mình vì thần công dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân
của nhà Mộ Dung Cô Tô. Sư bá tổ của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư viên
tịch tại chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên can gì với họ Mộ
Dung không, tệ phái từ phương trượng đại sư giở xuống, ai ai cũng nghi
hoặc, thành ra mới...
Người áo đen liền ngắt lời:
- Chuyện đó vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhà Cô Tô Mộ Dung
chúng ta cả, thế nhưng chúng ta nói các ngươi nào có ai chịu tin đâu, nếu
như nói chuyện không xong thì chỉ còn nước quyền cước phân hơn thiệt.
Ví như thế, hai người mình hôm nay đánh nhau một trận, cũng như trước
khi diễn trò thì đánh phèng la chiêng trống, sắp vào vở tuồng thì nói lối
mấy câu giáo đầu, có thế mới vui. Còn đến tiết Trùng Dương mồng chín
tháng chín, Phong mỗ sẽ đến chùa Thiếu Lâm, từ dưới đánh lên, không
sót một mống, thế mới thống khoái. Có điều chỉ đánh được chừng mười
bảy mười tám mạng là Phong mỗ khắp người thương tích, không còn đánh
tiếp được nữa, muốn giao thủ với Huyền Từ lão phương trượng, chắc là
không thể nào có cơ duyên. Tiếc quá! Tiếc quá!
Y vừa nói vừa xắn tay áo dường như muốn xông lên động thủ. Hán tử
to cao nói:
- Tứ đệ, hãy khoan đã, nói năng cho minh bạch rồi đánh cũng chưa
muộn.
Người áo vàng chặn lại:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Nói cho minh bạch xong thì đâu cần
đánh nữa. Tứ đệ, cơ hội tốt chớ để mất, nếu muốn đánh nhau thì chớ có
nói cho minh bạch.
Người đàn ông to cao kia không nhìn nhõi gì đến y quay sang nói với
Hư Trúc:
- Tại hạ là Đặng Bách Xuyên còn người này là nhị đệ Công Dã Can.
Y vừa nói vừa chỉ vào người nho sinh, rồi chỉ vào người áo vàng:
- Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, chúng tôi đều là thủ hạ của Mộ
Dung công tử.
Hư Trúc liền chắp tay chào bốn người miệng nói:
- Đặng thí chủ, Công thí chủ...
Bao Bất Đồng chen vào:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Nhị ca ta họ kép là Công Dã, ngươi lại
gọi Công thí chủ, thật sai hết chỗ nói.
Hư Trúc vội nói:
- Xin lỗi! Xin lỗi! Tiểu tăng chẳng có học vấn, xin Công Dã thí chủ
đừng trách. Bao thí chủ...
Bao Bất Đồng lại chặn ngang:
- Nhà ngươi lại cũng sai nữa rồi. Ta tuy họ Bao thật nhưng xưa nay
đã từng bố thí cho sư cho vãi bao giờ đâu, không thể nào gọi ta là Bao thí
chủ được.
Hư Trúc lật đật nói:
- Dạ! Dạ! Bao tam gia, Phong tứ gia.
Bao Bất Đồng liền đáp:
- Ngươi lại sai rồi! Phong tứ đệ của ta muốn cùng người giao đấu,
không kể ai ăn ai thua thì ngươi cũng một phen thêm lịch duyệt, võ công
ắt là trường tiến, thế chẳng phải đã bố thí cho ngươi hay sao?
Hư Trúc vội đáp:
- Vâng! Vâng! Phong thí chủ, có điều là tiểu tăng nhất quyết không
đánh nhau. Người xuất gia tu hành là gốc, học võ chỉ là ngọn, võ công
trường tiến hay không, cũng không quan hệ gì lắm.
Phong Ba Ác thở dài:
- Ngươi coi võ học xem thường như thế, võ công chắc cũng tầm
thường, thôi trận này chẳng cần đấu nữa.
Nói xong lắc đầu quầy quậy ra chiều thất vọng. Hư Trúc chẳng khác
gì trút được gánh nặng trên vai, mặt mày tươi rói nói:
- Phải lắm! Phải lắm!
Đặng Bách Xuyên nói:
- Hư Trúc sư phụ, cánh thiếp anh hùng này, chúng tôi đại diện công
tử nhận. Công tử chúng tôi mấy tháng trước đây đã từng đến bái phỏng
quí tự, không lẽ chưa tới nơi hay sao?
Hư Trúc đáp:
- Chưa thấy đến. Phương trượng đại sư vẫn mong Mộ Dung công tử
đến thăm nhưng đợi lâu quá mà không thấy, đã từng hai lần phái người
đến quí phủ bái phỏng, nghe tin Mộ Dung lão thí chủ qui tây, thiếu thí
chủ ra ngoài. Phương trượng đại sư lần này nhờ thủ tọa Đạt Ma Viện đến
tận tôn phủ ở Tô Châu đưa thư, lại sợ Mộ Dung thiếu thí chủ không có
nhà nên gửi anh hùng thiếp đến đông đảo đồng đạo giang hồ, những điều
thất lễ xin nhờ bốn vị bẩm lại Mộ Dung công tử cho minh bạch. Sang
năm Mộ Dung thí chủ giá lâm tệ tự, phương trượng đại sư sẽ đích thân tạ
tội sau.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tiểu sư phụ không phải khách sáo quá. Kỳ hội còn đến hơn nửa
năm, tới lúc đó công tử chúng tôi thể nào cũng đến thăm quí tự, bái kiến
phương trượng đại sư.
Hư Trúc chắp tay khom lưng chào nói:
- Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm Thiếu Lâm Tự, phương
trượng đại sư chúng tôi cực kỳ hoan nghênh. Hai chữ bái kiến thật
không dám nhận.
Phong Ba Ác thấy y cực kỳ chấp nê, không có chút gì khẳng khái hào
sảng của võ lâm, tuy cũng là nhà sư đấy nhưng thật chẳng có vẻ gì là
hòa thượng chùa Thiếu Lâm danh tiếng trên đời, trong lòng không lấy
gì làm vui lắm, chẳng ngó ngàng gì đến y nữa, quay sang xem xét bọn
Đinh Xuân Thu. Y thấy quần đệ tử phái Tinh Tú tay cầm binh khí, hiển
nhiên cũng là người trong võ lâm, liền tìm xem có người nào xứng đáng
là đối thủ để mời ra đánh nhau một trận.
Du Thản Chi từ khi thấy bốn người này đi vào lương đình, lập tức nấp
vào đằng sau sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao to, che khuất y nên bọn
bốn người Đặng Bách Xuyên không nhìn thấy cái đầu sắt quái dị. Phong
Ba Ác thấy Đinh Xuân Thu đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt, trông
ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong bụng không khỏi có chiều kính ngưỡng,
thành thử chưa dám ngang nhiên tiến lên khiêu chiến liền hỏi:
- Vị lão tiền bối kia xin hỏi cao tính đại danh là gì?
Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:
- Ta họ Đinh.
Vừa lúc đó Hư Trúc bỗng kêu lên một tiếng nói:
- Sư thúc tổ lão nhân gia cũng đã đến rồi.
Phong Ba Ác quay đầu lại thấy trên đường cái bảy tám hòa thượng đi
tới, đi đầu là hai vị lão tăng, còn lại có hai người khiêng một chiếc cáng,
trên đó có người nằm. Hư Trúc vội vã đi ra khỏi lương đình, hành lễ với
hai nhà sư già rồi bẩm lại lai lịch của bốn người Đặng Bách Xuyên.
Nhà sư phía bên phải gật đầu, đi vào trong đình tiến đến chào bọn
Đặng Bách Xuyên rồi nói:
- Lão nạp là Huyền Nạn.
Ông chỉ về nhà sư già kia nói:
- Còn đây là sư đệ của lão nạp Huyền Thống may mắn được gặp bốn
vị đại hiền của Cô Tô Mộ Dung Trang.
Bọn Đặng Bách Xuyên từng nghe danh Huyền Nạn từ lâu, thấy ông
mặt dăn deo nhưng đôi mắt thần quang thăm thẳm, vội vàng trả lễ. Phong
Ba Ác nói:
- Đại sư phụ là thủ tọa Đạt Ma Viện của chùa Thiếu Lâm, nghe nói
thần công ghê gớm lắm, hôm nay xin được lãnh giáo.
Huyền Nạn mỉm cười đáp:
- Lão nạp và Huyền Thống sư đệ phụng pháp dụ của phương trượng
đến phủ Mộ Dung thí chủ tại Giang Nam cung trình thiếp mời, đây là lần
thứ ba chùa chúng tôi sai người đến Yến Tử Ổ. Thế nhưng may sao ngay
tại đây được cùng quí vị giải cấu tương phùng, duyên pháp quả là không
nhỏ.
Nói xong từ trong túi lấy ra một thiếp mời màu đỏ. Đặng Bách Xuyên
hai tay cầm lấy thấy trên bao thư có viết:
Cung trình Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ đất Cô Tô
Bằng chữ lớn, liệu chừng bên trong thiếp cũng giống như cái thiếp Hư
Trúc vừa đưa cho bèn nói:
- Hai vị đại sư phụ là cao tăng đại đức của chùa Thiếu Lâm, vọng
trọng trong võ lâm mà phải thân lao đại giá đến tệ trang, quả thực Mộ
Dung Cô Tô được nở mày nở mặt quá. Mới đây vị Hư Trúc tiểu sư phụ
cũng đã đưa cho một danh thiếp anh hùng, chúng tôi đã nhận rồi, nhất
định thể nào cũng bẩm lại bề trên. Đến giai tiết Trùng Dương mồng chín
tháng chín, tệ thượng là Mộ Dung công tử thể nào cũng lên chùa lễ Phật,
đích thân cảm tạ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm rồi trước mặt anh hùng
thiên hạ, nói rõ các chuyện hiểu lầm.
Huyền Nạn nghĩ thầm: Ngươi bảo các chuyện hiểu lầm, hóa ra
Huyền Bi sư huynh không phải do nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi giết
chết hay sao?. Bỗng nghe ở sau có tiếng người kêu lên:
- A, sư phụ, chính y đó!
Huyền Nạn nghiêng đầu nhìn qua, thấy một người hình thù kỳ quái
chỉ vào chiếc cáng, ghé tai một ông lão tóc bạc thì thầm. Du Thản Chi nói
với Đinh Xuân Thu:
- Gã sư mập nằm trên cáng kia chính là người bắt được con băng
tàm, không biết vì sao lại bị phái Thiếu Lâm bắt.
Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư đó là nguyên chủ của con băng tàm,
vui sướng không đâu cho hết, hỏi nhỏ:
- Ngươi không nhìn lầm người chứ?
Du Thản Chi đáp:
- Không đâu, tên y là Tuệ Tịnh. Sư phụ thử xem, cái bụng tròn quay
của y phồng lên thế kia.
Đinh Xuân Thu thấy bụng Tuệ Tịnh còn to hơn đàn bà chửa sắp đẻ,
nghĩ thầm một hòa thượng mập như thế, dù ai gặp y một lần thì suốt đời
không quên, bèn quay sang nói với Huyền Nạn:
- Đại sư phụ, vị hòa thượng Tuệ Tịnh kia có quen với ta, y bị bệnh gì
chăng?
Huyền Nạn chắp tay đáp:
- Cao tính đại danh thí chủ là chi? Không biết nguyên do nào mà lại
biết sư điệt của lão nạp?
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã Tuệ Tịnh kia lại đi cùng với các hòa
thượng Thiếu Lâm, quả thực là phiền. Cũng may gặp ngay trên đường đi,
chặn lại cướp lấy thật dễ hơn vào trong chùa Thiếu Lâm mà bắt, mà lại
dễ dàng hơn nhiều. Y nghĩ đến sự linh dị thần hiệu của con băng tàm,
ngực không khỏi nóng hôi hổi nói:
- Tại hạ là Đinh Xuân Thu.
Ba tiếng Đinh Xuân Thu vừa ra khỏi cửa miệng, Huyền Nạn,
Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong
Ba Ác sáu người không hẹn mà cùng kinh ngạc kêu lên một tiếng, mặt ai
nấy đều hơi biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu vang
dậy thiên hạ, ai ngờ lại gặp nơi đây trông khí độ ung dung, phong thái
tiêu sái đến thế. Sáu người ai nấy lập tức đều có ý phòng bị.
Thế nhưng chỉ trong một nháy mắt Huyền Nạn đã bình tĩnh lại ngay
nói:
- Thì ra là Đinh lão tiên sinh của Tinh Tú Hải. Đã ngưỡng mộ đại
danh từ lâu, quả thực như sấm rền bên tai.
Những câu khách sáo như may mắn thay được gặp ông không nhắc
đến, nghĩ thầm: Người nào gặp phải ngươi đúng là kiếp trước vụng tu.
Đinh Xuân Thu nói:
- Không dám, môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tọa Đạt Ma Viện chùa
Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, lão phu cũng từng ngưỡng mộ lâu rồi. Vị
Tuệ Tịnh sư phụ này, ta đang muốn đi tìm đây, bây giờ gặp được nơi đây
thật là hay quá, hay thật là hay.
Huyền Nạn hơi nhíu mày nói:
- Nói ra quả thật xấu hổ, gã sư điệt Tuệ Tịnh của lão nạp đây, chỉ vì
bổn tự thiếu giáo huấn nên phạm nhiều thanh quy giới luật, hơn một năm
trước trốn ra khỏi chùa, làm nhiều điều ác. Phương trượng sư huynh của
tệ tự sai người đi khắp nơi tìm kiếm, chẳng dễ gì kiếm được y, bắt đem về
chùa. Đinh lão tiên sinh đã từng gặp y rồi ư?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Thì ra không phải y bị bệnh mà là bị người ta đả thương, thương thế
có nặng lắm không?
Huyền Nạn không trả lời, một hồi sau mới nói:
- Y không tuân theo pháp dụ của phương trượng, ngược lại còn ra tay
đánh người nữa.
Ông nghĩ thầm: Y kết giao với những loại tà ma ngoại đạo như
ngươi, lại phá thêm một đại giới nữa. Đinh Xuân Thu nói:
- Tại hạ ở núi Côn Lôn, tốn biết bao nhiêu tâm huyết mới bắt được
một con băng tàm, là một loại cực kỳ hữu dụng, ngờ đâu lại bị gã Tuệ
Tịnh sư điệt của đại sư ăn cắp mất. Tại hạ vạn lý xa xôi từ biển Tinh Tú
tới Trung Nguyên, chẳng qua cũng chỉ để lấy lại con băng tàm...
Y nói chưa dứt lời, Tuệ Tịnh đã kêu lên:
- Con băng tàm ư? Này, có phải ngươi trông thấy con băng tàm? Con
tằm đó ta khổ sở mới kiếm thấy được trong núi Côn Lôn... ngươi... ngươi
ăn trộm của ta phải không?
Từ khi Du Thản Chi tiến ra thì thầm, Phong Ba Ác chăm chăm nhìn
cái lồng trên đầu y, mắt láo liên, những gì Huyền Nạn, Đinh Xuân Thu
và nhà sư Tuệ Tịnh đối đáp y hoàn toàn không nghe gì cả. Y đi vòng
quanh Du Thản Chi mấy bận, thấy cái mặt nạ đúc thật khít khao, cứ đeo
mãi trên đầu không bỏ xuống, toan đưa tay ra ra gõ thử, lại coi thêm một
lát mới hỏi:
- Này bồ, khỏe chứ?
Du Thản Chi ấp úng:
- Tôi... tôi khỏe.
Y thấy Phong Ba Ác lúc nào cũng lanh chanh, tay chân không yên,
trong bụng cũng khiếp. Phong Ba Ác lại hỏi:
- Cái mặt nạ của bồ làm sao đúc được vậy? Tôi đi khắp nơi nhưng
chưa bao giờ thấy cái mặt nạ nào như vầy.
Du Thản Chi cực kỳ ngượng ngập, cúi đầu xuống nói:
- Hèm, tôi... tôi bị người ta ép buộc, không... không làm sao được.
Phong Ba Ác nghe y nói thấy thật đáng thương, giận dữ hỏi dồn:
- Sao có người chơi trò gì ác ôn vậy? Họ Phong muốn biết là đứa
nào.
Nói xong y liếc mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cho rằng đây là công trình
của lão già này. Du Thản Chi vội kêu:
- Không... không phải sư phụ tôi đâu.
Phong Ba Ác lại nói:
- Ai đời con người ta đang yên lành, nay đem nhốt trong cái mặt nạ
bằng sắt là sao? Lại đây, để ta tháo ra cho ngươi.
Y vừa nói vừa rút trong ống giày ra một con dao găm sáng quắc, đủ
biết cực kỳ sắc bén toan gỡ cái lồng sắt ra. Du Thản Chi biết rằng chiếc
mặt nạ này đã dính liền vào mặt mũi và sau đầu y, nếu cố tháo đi thì có
thể chết được vội vàng nói:
- Không, không tháo được đâu.
Phong Ba Ác đáp:
- Nhà ngươi chớ có sợ, thanh chủy thủ của ta gọt sắt như bùn, để ta
cắt cái mặt nạ, quyết không tổn thương thịt da đâu.
Du Thản Chi kêu lên:
- Không, không được.
Phong Ba Ác nói:
- Ngươi sợ người đội cho ngươi cái mũ sắt này, phải không nào? Kỳ
tới gặp lại y cứ nói là ta đây Nhất Trận Phong Phong Ba Ác tháo cho
ngươi đó, ngươi bị ta ép buộc nếu muốn gì cứ bảo ác nhân đó đi kiếm ta
là xong.
Y nói rồi liền chộp cổ tay Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy con dao
găm trong tay y hàn quang lấp loáng, sợ quá quay đầu lại nhìn Đinh Xuân
Thu cầu cứu, kêu lên:
- Sư phụ, sư phụ!
Đinh Xuân Thu đứng ở bên cạnh chiếc cáng, đang khoái trá nhìn Tuệ
Tịnh, tiếng kêu của Du Thản Chi không nghe thấy. Phong Ba Ác giơ
chiếc dao lên toan cắt xuống chiếc mặt nạ. Du Thản Chi quýnh quáng,
tay phải đẩy đối phương ra nghe bịch một tiếng trúng ngay vai trái Phong
Ba Ác.
Phong Ba Ác đang hết sức chú tâm vào việc cắt chiếc mũ sắt, sợ lỡ
tay cắt không chuẩn, chạm vào mặt y, có ngờ đâu bất thần bị đánh một
chưởng. Thế đánh của chưởng đó vốn dĩ cực kỳ tầm thường, Phong Ba Ác
chỉ hự lên một tiếng, ngã sấp mặt xuống. Tay trái y chống xuống đất, đẩy
một cái nhảy vọt lên, ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người thấy Du
Thản Chi đột nhiên hạ độc thủ khiến người em kết nghĩa của mình bị hố
to, mặt trắng bệch, ba người không khỏi lo âu. Công Dã Can vội đưa tay
bắt mạch, thấy mạch dồn dập, xem chừng có dấu hiệu trúng độc liền chỉ
mặt Du Thản Chi mắng:
- Hảo tiểu tử, môn nhân Tinh Tú Lão Quái lấy oán báo đức, vừa ra
tay đã giở thủ đoạn tàn độc hại người.
Y vội lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp đổ ra một viên thuốc
giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác còn Đặng Bách Xuyên và Bao Bất
Đồng cùng lạng người xông ra chặn Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi. Bao
Bất Đồng ám vận nội kình vào tay trái, năm ngón tay thành trảo toan
chộp vào ngực gã đầu sắt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:
- Tam đệ ngừng tay.
Bao Bất Đồng rụt tay lại không đánh ra, đưa mắt nhìn đại ca, Đặng
Bách Xuyên nói:
- Chúng ta nhà Mộ Dung và phái Tinh Tú không thù không oán, tứ
đệ chỉ vì long tốt muốn giúp y tháo cái mặt nạ ra, sao người của phái Tinh
Tú lại ra tay đả thương là sao? Việc này xin Đinh lão tiên sinh chỉ giáo.
Đinh Xuân Thu thấy gã học trò mới thu chỉ một chưởng đã đánh bại
một hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, đại hiển uy phong cho phái Tinh
Tú nên không khỏi đắc ý ngầm, càng thêm khát khao ham muốn con
băng tàm, mỉm cười nói:
- Vị Phong tứ gia kia hung hăng hiếu đấu, thích nhúng tay vào
chuyện đâu đâu. Người của phái Tinh Tú ta đội trên đầu mũ sắt hay mũ
đồng thì có liên quan gì đến nhà Mộ Dung Cô Tô nhỉ?
Lúc này Công Dã Can đã đỡ Phong Ba Ác ngồi lên, thấy y run lẩy
bẩy, răng đánh vào nhau kêu lách cách, chẳng khác gì rơi vào một hầm
băng, trong giây lát môi tím lại, sắc mặt từ trắng chuyển thành xanh. Giải
độc hoàn của Công Dã Can cực kỳ linh nghiệm nhưng Phong Ba Ác uống
rồi chỉ như hòn đá ném vào biển cả, không còn tung tích gì.
Công Dã Can nóng ruột, giơ tay thăm hơi thở y, đột nhiên một làn gió
thổi buốt thấu xương vào gan bàn tay. Công Dã Can vội vàng rụt tay về
kêu lên:
- Không xong, sao lại lạnh đến thế này?
Y nghĩ thầm hơi trong miệng thở ra đã lạnh đến thế, ắt hẳn hàn độc
trong người phải ghê gớm đến chừng nào. Trong tình thế nguy cấp làm
vậy, không kịp nói chuyện phải quấy, y đành quay sang nói với Đinh
Xuân Thu:
- Người em kết nghĩa của tôi trúng phải độc thủ của đệ tử tiên sinh,
làm ơn ban cho thuốc giải.
Độc tính Phong Ba Ác trúng phải là do nội công Dịch Cân Kinh của
Du Thản Chi dồn chất kịch độc của con băng tàm ra, chẳng nói Đinh
Xuân Thu không có thuốc giải, mà dẫu có giải dược y cũng đời nào chịu
cho? Y ngửng đầu cười ha hả, niệm lớn:
- A ô lục lỗ cộng! A ô lục lỗ cộng!
Tay áo bào phất một cái, một luồng gió xoáy tung ra. Các đệ tử phái
Tinh Tú lập tức cả bọn chạy ra khỏi lương đình, chạy bay chạy biến. Bọn
Đặng Bách Xuyên và tăng chúng Thiếu Lâm biết tay áo y có chứa độc
phấn, thấy cơn gió lốc này như chọc vào mắt, thật là khó chịu, nước mắt
nước mũi ràn rụa, mở mắt không nổi kêu thầm: Không xong rồi!.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng
xông tới chặn trước mặt Phong Ba Ác, sợ rằng đối phương thừa cơ hạ độc
thủ. Huyền Nạn nhắm mắt đánh ra một chưởng, trúng ngay cây cột của
tòa lương đình, lập tức gãy đôi, lắc rắc mấy tiếng một bên căn nhà mát
liền nghiêng xuống, ngói đất đổ xuống ào ào. Đến khi mọi người mở
được mắt ra, Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đã chạy đâu mất.
Mấy nhà sư Thiếu Lâm kêu lên:
- Tuệ Tịnh đâu rồi? Tuệ Tịnh đâu rồi?
Thì ra nhân lúc hỗn loạn, Tuệ Tịnh đã bị Đinh Xuân Thu bắt đi mất
rồi, chiếc cáng chụp lên đầu một nhà sư. Huyền Thống giận dữ quát lớn:
- Đuổi theo!
Ông phi thân chạy ra khỏi lương đình, Đặng Bách Xuyên và Bao Bất
Đồng cũng vội theo, Huyền Nạn phất tay một cái cùng các đệ tử đi sau
tiếp viện. Công Dã Can ở lại nửa mái đình còn chưa sụp lo cho nghĩa đệ
nhưng mắt cũng đau buốt, nước mắt ràn rụa. Phong Ba Ác trán toát mồ
hôi, chỉ trong giây lát liền đóng thành sương. Công Dã Can còn đang
hoang mang bỗng nghe tiếng chân người, ngẩng lên thấy Đặng Bách
Xuyên bế Bao Bất Đồng đang rảo bước quay về. Y kinh hoảng không sao
kể xiết, kêu lên:
- Đại ca, tam đệ cũng bị thương nữa ư?
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Lại trúng phải độc thủ của tên đầu sắt.
Kế đó Huyền Nạn cũng dẫn quần tăng trở lại lương đình. Huyền
Thống nằm phục trên lưng Huyền Từ, lạnh run cầm cập, hai hàm răng
kêu lách cách. Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can ai nấy
bần thần. Đặng Bách Xuyên nói:
- Gã đầu sắt cùng tam đệ đối một chưởng, sau đó y lại cùng Huyền
Thống đại sư đánh một chưởng nữa. Có ngờ đâu... có ngờ đâu hàn độc
chưởng của phái Tinh Tú lại ghê gớm đến thế.
Huyền Nạn lấy trong túi ra một cái hộp gỗ nhỏ nói:
- Lục Dương Chính Khí Đơn của tệ phái có chút công hiệu khắc chế
hàn độc.
Ông mở nắp lấy ra ba viên thuốc đỏ chon chót, đưa cho Đặng Bách
Xuyên hai viên, còn viên thứ ba giao cho Huyền Thống. Sau chừng một
bữa cơm, cơn lạnh của ba người thấy đỡ. Bao Bất Đồng ngoạc mồm ra
chửi:
- Gã đầu sắt kia, con... con mẹ nó chứ, chưởng lực đó là cái gì thế?
Đặng Bách Xuyên vội khuyên:
- Tam đệ, để sau này chửi cũng không muộn, ngươi nên ngồi xuống
hành công đi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Giờ này không chửi, đợi đến khi ô hô
ai tai rồi thì đâu còn chửi gì được nữa.
Đặng Bách Xuyên mỉm cười nói:
- Chớ có lo, không chết đâu mà sợ.
Nói xong đưa bàn tay đè vào huyệt Chí Dương ở sau lưng y, dùng nội
lực giúp y khu trừ hàn độc. Công Dã Can và Huyền Nạn cũng chia ra
giúp cho Phong Ba Ác và Huyền Thống hai người.
Huyền Nạn, Huyền Thống hai người nội lực thâm hậu, chỉ một lát,
Huyền Thống đã thở một hơi dài nói:
- Khỏe rồi!
Ông đứng lên nói tiếp:
- Lợi hại thật!
Huyền Nạn có bụng muốn giúp cho Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai
người trừ hàn độc có điều bên kia chưa lên tiếng yêu cầu, mình tự ý đưa
ra không khỏi coi họ nội công không đủ, trong võ lâm chuyện đó là điều
cấm kỵ.
Đột nhiên Huyền Thống lảo đảo mấy cái, hai hàm răng gõ vào nhau
kêu lách cách, vội vàng ngồi xuống hành công, nói:
- Sư... sư huynh, cái thứ... cái thứ hàn độc này... thật là quái dị...
Huyền Nạn vội vàng vận công tương trợ. Ba người liên tục hành công
nhưng thân thể chỉ dễ chịu được một chút rồi lại phát tác, cho đến khi
chiều tối, mỗi người uống ba viên Lục Dương Chính Khí Đơn mà hàn khí
không thấy bớt chút nào. Huyền Nạn chỉ mang theo mười viên đan dược,
bây giờ còn một viên, đành chia làm ba, đưa cho mỗi người một phần.
Bao Bất Đồng nhất định không uống nói:
- E rằng có uống đến một trăm viên, cũng... cũng chẳng đến đâu...
Huyền Nạn bó tay không còn cách nào khác bèn nói:
- Lời của Bao thí chủ đúng lắm, loại thuốc Lục Dương Chính Khí
Đơn này trị không đúng bệnh mà nội công của chúng ta cũng không đối
phó nổi với môn âm độc này. Lão nạp nghĩ chỉ còn một cách là đi tìm
Tiết Thần Y nhờ chữa cho, không biết bốn vị nghĩ sao?
Đặng Bách Xuyên mừng rỡ nói:
- Đã từng nghe Tiết Thần Y được người đời gọi là Diêm Vương Địch,
dù bệnh nặng cỡ nào ông ta đều có thể chữa khỏi. Đại sư có biết vị thần y
này ở đâu không?
Huyền Nạn nói:
- Tiết Thần Y nhà ở Liễu Tông Trấn, phía tây thành Lạc Dương từ
đây đến đó cũng không xa lắm. Ông ta với lão nạp có duyên gặp gỡ mấy
lần, nếu đến xin chữa trị, có lẽ không chối từ đâu.
Ông lại tiếp:
- Nhà Mộ Dung Cô Tô danh mãn thiên hạ, Tiết Thần Y xưa nay vẫn
ngưỡng mộ, nay có cơ duyên làm bạn với bốn vị anh hùng, ông ta chắc
cũng vui vẻ lắm.
Bao Bất Đồng nói:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiết Thần Y thấy bọn ta đến cửa chắc
là không vui vẻ gì. Có điều trong võ lâm ai ai cũng ghét cái môn dĩ bỉ
chi đạo hoàn thi bỉ thân của công tử chúng tôi, riêng có Tiết Thần Y là
không sợ. Mai này ví thử y có... mệnh hệ gì, thì chỉ cần đến cầu công tử
gia chúng tôi dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, thế là... thế là cái mạng
già... của y có cơ cứu được.
Mọi người ai nấy cười ha hả, lập tức đi ra khỏi đình. Đến thị trấn
trước mặt họ liền mướn ba cỗ xe cho ba người bị thương nằm dưỡng bệnh.
Đặng Bách Xuyên lấy tiền mua thêm mấy con ngựa cho những nhà sư
Thiếu Lâm cưỡi.
Đoàn người cứ đi chừng hai ba giờ thì lại ngừng để trợ giúp ba người
bị thương kháng ngự hàn độc. Đến sau Huyền Nạn không còn tị hiềm gì,
dùng Thiếu Lâm thần công tương trợ Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Nơi
đây tuy chỉ cách Liễu Tông Trấn vài trăm dặm đường nhưng đường núi
gập ghềnh, lại phải ngừng luôn, nên đến chiều ngày thứ tư mới đến nơi.
Tiết Thần Y ở trong núi sâu cách Liễu Tông Trấn ba mươi dặm về
phía bắc, cũng may hôm ở Tụ Hiền Trang ông ta đã chỉ vẽ cho Huyền
Nạn rõ ràng đường đi nước bước nên không mất công dò hỏi, đã đến
trước cửa nhà Tiết Thần Y.
Huyền Nạn trông thấy bên cạnh giòng sông nhỏ mấy gian nhà lớn,
tường trắng ngói đen, đằng trước là một vườn cây thuốc rộng, biết ngay là
nơi ở của Tiết Thần Y. Ông giục ngựa chạy đến gần, từ xa đã thấy trước
cửa nhà treo hai chiếc lồng đèn bằng giấy trắng, hơi kinh hãi: Nhà họ
Tiết có bệnh nhân nào trị không được hay sao?. Đi thêm vài trượng nữa,
thấy trên ngạch cửa có đóng mấy vuông vải gai, bên cạnh cửa có mấy cột
phướn chiêu hồn, quả đúng là trong nhà có người chết. Lại thấy trên đèn
lồng viết hai hàng chữ đen:
Tiết Công Mộ Hoa chi tang, hưởng niên ngũ thập ngũ tuế17
Huyền Nạn hoảng hốt: Tiết Thần Y không chữa nổi cho mình, nay
chết mất rồi, thật là bất hạnh làm sao. Nghĩ đến cố nhân nay đã qui tiên,
âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi thương cảm. Vừa lúc đó Đặng
Bách Xuyên và Công Dã Can cũng đã tới nơi, hai người cùng kêu lên:
- Chao ôi!
Bỗng nghe trong nhà có tiếng đàn bà khóc vang lên:
- Ông ơi là ông ơi! Ông y thuật như thần, có ngờ đâu bất ngờ bị bệnh,
bỏ chúng tôi mà đi. Ông ơi! Ông xưng là Diêm Vương Địch, vậy mà sau
cùng cũng không thắng nổi Diêm Vương, e rằng khi xuống cõi âm, Diêm
Vương thể nào cũng đòi nợ cũ, hành hạ khổ sở lắm ông ơi!
Chẳng bao lâu ba cỗ xe và sáu nhà sư Thiếu Lâm trước sau cũng đến.
Đặng Bách Xuyên nhảy xuống ngựa, lớn tiếng nói:
- Thiếu Lâm Tự Huyền Nạn đại sư cùng bè bạn, có việc đặc biệt đến
cầu Tiết Thần Y.
Tiếng của y vang vang như chuông, tiếng khóc trong nhà liền ngưng
bặt. Một lúc sau, một ông già đi ra, ăn mặc theo lối đầy tớ, trên mặt còn
hoen ngấn lệ, sụt sùi cực kỳ thương tâm, đấm ngực nói:
- Lão gia qua đời xế trưa hôm qua, các ông ... các ông không gặp
được nữa rồi.
Huyền Nạn chắp tay hỏi lại:
- Tiết tiên sinh mắc phải chứng bệnh gì mà qua đời?
Người lão bộc khóc nói:
- Cũng chẳng biết bệnh gì nữa, đột nhiên thở hắt ra rồi chết. Lão gia
xưa nay thân thể khang kiện, tuổi cũng chưa già, có ai ngờ nổi. Lão nhân
gia đi trị bệnh cho người ta, bệnh nào cũng khỏi, vậy mà ... vậy mà bệnh
chính mình ...
Huyền Nạn lại gặng thêm:
- Tiết tiên sinh trong nhà còn những ai?
Người đầy tớ già nói:
- Chẳng còn ai cả, không còn một người nào.
Công Dã Can và Đặng Bách Xuyên hai người đưa mắt nhìn nhau,
cùng ngầm thấy người lão bộc này nói mấy câu đó có phần không thành
thực, huống chi vừa mới rồi ai cũng nghe tiếng đàn bà khóc. Huyền Nạn
thở dài nói:
- Chết sống đều có mạng, nếu đã thế thì cho chúng tôi tới trước linh
vị người bạn cũ lạy một lạy.
Người lão bộc ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ... vâng vâng!
Y dẫn mọi người vào trong cửa chính. Công Dã Can đi sau một bước
ghé tai hỏi nhỏ Đặng Bách Xuyên:
- Đại ca, tiểu đệ xem chừng có điều gì không minh bạch, tên lão bộc
này dường như ra chiều ỡm ờ.
Đặng Bách Xuyên gật đầu, đi theo tên đầy tớ tới linh đường. Linh
đường trần thiết sơ sài, mọi thứ còn chưa đầy đủ, trên linh bài có viết:
Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị
Mấy chữ đó nét bút cứng cỏi, hiển nhiên là thủ thư của một tay túc
học, quyết không phải tên lão bộc này viết được. Công Dã Can xem
nhưng không nói gì. Mọi người hành lễ trước linh vị, Công Dã Can quay
đầu lại thấy nơi sân trong có đến mươi món quần áo phơi trên sào tre, áo
đàn bà cũng có, lại cả quần áo trẻ con nam nữ, nghĩ bụng: Tiết Thần Y
rõ ràng có thân quyến, sao lão bộc này lại bảo là chẳng còn ai?.
Huyền Nạn nói:
- Chúng tôi từ xa xôi đến đây để cầu Tiết Thần Y trị bệnh, có ngờ
đâu Tiết tiên sinh lại đã tiên du, khiến cho không khỏi đau lòng. Trời
cũng tối rồi, đêm nay cho ở lại quí phủ qua đêm.
Người lão bộc xem chừng khó xử nói:
- Cái đó ... cái đó ... thôi, cũng được! Mời chư vị ngồi nghỉ ngoài
sảnh đường, tiểu nhân đi lo cơm nước.
Huyền Nạn nói:
- Quản gia chẳng cần phải lo lắng nhiều, cơm với chút rau dưa là
được rồi.
Người lão bộc đáp:
- Vâng! Vâng! Mời quí vị ngồi nghỉ.
Y dẫn mọi người ra ngoài sảnh đường rồi quay vào trong. Một hồi
lâu, người gia nhân đó vẫn không thấy đem trà ra, Huyền Nạn nghĩ thầm:
Người lão bộc này chủ mới chết, hồn vía để đâu đâu. Ôi! Huyền Thống
sư đệ trúng phải hàn độc, không biết phải làm sao đây?. Mọi người đợi
đến hơn nửa giờ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đầy tớ già đâu.
Bao Bất Đồng nóng ruột nói:
- Để ta đi kiếm chút nước uống!
Hư Trúc nói:
- Bao tiên sinh, xin ông ngồi nghỉ. Để tiểu tăng đi xuống giúp người
lão bộc nấu nước.
Y đứng lên đi vào nội đường. Công Dã Can cũng muốn quan sát động
tĩnh trong nhà họ Tiết bèn nói:
- Để ta đi với tiểu sư phụ.
Hai người đi ra phía sau nhà, phòng ốc nhà họ Tiết không phải là ít,
trước sau cả thảy năm dãy, nhưng bên trong bên ngoài không thấy một
bóng người. Hai người tìm được nhà bếp nhưng cũng không thấy người
lão bộc đâu.
Công Dã Can biết có chuyện khác thường, rảo bước quay trở về sảnh
nói:
- Nhà này xem chừng không ổn, Tiết Thần Y có thể chỉ giả chết thôi.
Huyền Nạn đứng lên lạ lùng hỏi:
- Sao thế?
Công Dã Can đáp:
- Đại sư, tại hạ nghĩ mình nên đến xem cỗ quan tài.
Y chạy vào linh đường, giơ tay toan nhắc chiếc hòm, đột nhiên chợt
nghĩ ra, rút tay về, lấy ở ngoài sân một chiếc áo dài đang phơi, lót vào
tay. Phong Ba Ác nói:
- Sợ trên quan tài có độc ư?
Công Dã Can đáp:
- Lòng người khó lường, không thể không đề phòng.
Y vận kình nhắc chiếc quan tài lên, thấy cực kỳ trầm trọng, bên trong
nhất định không phải chỉ là một xác người bèn nói:
- Tiết Thần Y quả nhiên giả chết.
Phong Ba Ác rút đơn đao nói:
- Bẩy nắp hòm ra xem sao.
Công Dã Can nói:
- Người này được gọi là thần y, hẳn cũng giỏi sử dụng thuốc độc, tứ
đệ phải cẩn thận.
Phong Ba Ác đáp:
- Tiểu đệ biết rồi.
Y luồn mũi đao vào khe quan tài ấn xuống, nghe tiếng ken két nắp
hòm từ từ bật lên. Phong Ba Ác nín thở, sợ trong quan tài có phấn độc bay
ra. Bao Bất Đồng nhảy ra sân chộp hai con gà mái đang tìm giun bắt dế ở
dưới gốc quế, đem vào linh đường, vung tay ném hai con gà qua ngang
quan tài. Hai con gà kêu quang quác, đáp xuống trước linh tòa, rồi chạy
ra ngoài thiên tỉnh nhưng chỉ được mấy bước, đột nhiên ngã chổng cẳng,
hai chân dãy mấy cái rồi nằm chết đứ đừ. Vừa lúc đó trong hiên nhà một
luồng gió lạnh thổi qua, những chiếc lông trên mình hai con gà lập tức
bay lên phơi phới. Mọi người thấy thế ai nấy kinh hãi, hai con gà vừa
trúng độc chết mà bao nhiêu lông đã rụng sạch, đủ biết độc tính mạnh là
dường nào khiến cho không ai còn dám đến gần chiếc quan tài nữa.
Huyền Nạn nói:
- Đặng thí chủ thử xem thế này là cớ gì? Tiết Thần Y quả thực trá tử
hay sao?
Ông vừa nói vừa nhún mình nhảy lên, tay trái chộp lấy xà ngang, nhìn
vào trong quan tài, thấy bên trong đầy những đá tảng, giữa những cục đá
là một bát lớn đựng đầy nước. Nước ở trong bát hiển nhiên phải là thuốc
độc. Huyền Nạn lắc đầu, buông mình nhảy xuống nói:
- Tiết thí chủ nếu không muốn trị thương, việc gì phải bố trí cơ quan
độc địa như thế này để hãm hại chúng ta. Phái Thiếu Lâm với y không
thù không oán, làm như thế không vô lý quá hay sao? Không lẽ ... không
lẽ ...
Ông ta nhắc lại hai chữ không lẽ rồi lặng thinh, trong lòng nghĩ
thầm: Không lẽ ông ta có thù oán sâu xa với họ Cô Tô Mộ Dung
chăng?. Bao Bất Đồng nói:
- Đại sư chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng, Mộ Dung công tử và Tiết Thần
Y xưa nay chưa biết nhau, cũng không thù oán. Nếu như hai bên có
chuyện gì, bọn chúng tôi dù có phải đau đớn gấp mười chăng nữa, cũng
không bao giờ lại hạ mình đi nhờ kẻ thù chữa trị cho đâu. Đại sư coi họ
Bao, họ Phong là người hèn hạ, vô tư cách chăng?
Huyền Nạn chắp tay nói:
- Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng quả đoán sằng đoán bậy.
Ông ta là bậc cao tăng hữu đạo, trong bụng đã nghĩ như thế tuy chưa
nói ra lời nhưng cũng nhận là mình quấy. Đặng Bách Xuyên nói:
- Nơi đây độc khí cực thịnh, không nên rốn lại lâu, mình ra tiền sảnh
ngồi nghỉ.
Tất cả mọi người ra đến bên ngoài, người bàn thế này kẻ nói thế
khác nhưng cũng không ai đoán được tại sao Tiết Thần Y giả chết rồi bố
trí cơ quan giăng bẫy. Bao Bất Đồng nói:
- Gã Tiết Thần Y quả thật đáng ghét, mình cho một mồi lửa đốt rụi
cái tổ quỉ của lão đi.
Đặng Bách Xuyên ngăn lại:
- Ấy chết, không được đâu, dẫu sao Tiết tiên sinh cũng là một bằng
hữu của phái Thiếu Lâm, chúng ta phải nể kim diện Huyền Nạn đại sư
chớ có hồ đồ.
Lúc đó trời đã tối hoẳn, trong sảnh lại không đèn đóm gì, ai nấy vừa
đói vừa khát nhưng chẳng ai dám đụng chạm đến một ngụm nước, một ly
trà trong nhà. Huyền Nạn nói:
- Hay là chúng mình đi ra, tìm một nhà nông nào ở quanh đây xin
ngụm nước bữa cơm, Đặng thí chủ nghĩ thế nào?
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Đúng đó. Thế nhưng chung quanh ba chục dặm tốt hơn hết không
nên ăn uống gì. Thầy lang họ Tiết này mưu kế lắm, quyết chẳng phải chỉ
sắp xếp một cỗ quan tài là xong đâu, nếu như các vị đại sư có chuyện gì,
anh em chúng tôi thật là ân hận.
Y và Công Dã Can tuy chưa biết rõ nguyên ủy ra sao nhưng cũng cho
rằng cái tiếng dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung quá vang
dội, trên giang hồ kết biết bao nỗi oan cừu, có lẽ Tiết Thần Y có thân
bằng quyến thuộc bị hại, mối hận này đổ cả lên đầu nhà Cô Tô Mộ
Dung.
Mọi người đứng lên, đi ra cửa chính, đột nhiên trên bầu trời phía tây
bắc có ánh sáng lóe lên, kế đó một đốm lửa đỏ nổ tung ra, lập tức
chuyển sang màu lục thật chẳng khác gì mưa hoa đầy trời, lả tả rơi xuống
cực kỳ diễm ảo. Phong Ba Ác nói:
- Ồ, ai đốt pháo bông kìa!
Lúc đó không phải tiết Nguyên Tiêu, cũng chẳng phải Trung Thu, sao
lại có người đốt pháo bông18 nhỉ? Chẳng mấy chốc, lại có một chiếc pháo
bông màu vàng bay vút lên không, nở ra muôn vạn đóa sao băng, đụng
chạm lẫn nhau.
Công Dã Can chợt nghĩ ra, nói:
- Đây không phải pháo bông đâu, mà là tín hiệu của kẻ địch kéo đến
tấn công đó.
Phong Ba Ác kêu lên:
- Thế thì hay lắm! Đánh một trận cho sướng tay.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tam đệ, tứ đệ, các ngươi vào trong sảnh canh chừng, ta chặn phía
trước mặt, nhị đệ đoạn hậu. Huyền Nạn đại sư, việc này không liên quan
gì đến phái Thiếu Lâm, xin quí vị cứ dựa lưng vào tường đứng coi, miễn
là đừng giúp bên nào, nhà Mộ Dung thâm cảm đại đức.
Huyền Nạn nói:
- Đặng thí chủ sao lại nói thế? Nếu kẻ địch đến tấn công có thù oán
với chư vị thì phải trái ngay gian, chúng tôi sẽ theo công tâm mà xử,
không để cho họ thừa gió bẻ măng, cậy đông đánh ít. Nếu đúng là cùng
bọn với Tiết Thần Y, lén lút bố trí hầm bẫy để làm hại người thì các vị
với chúng tôi cũng cùng chung cừu địch, lẽ nào lại tụ thủ bàng quan? Này
các tì khưu19, chuẩn bị nghinh địch.
Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc cùng lớn tiếng đáp lời. Huyền Thống nói:
- Đặng thí chủ, lão nạp với hai vị sư đệ của thí chủ đồng bệnh tương
lân20 lẽ dĩ nhiên phải cùng nắm tay nhau mà kháng địch.
Còn đang nói chuyện, lại có thêm hai chiếc pháo bông nữa bắn thẳng
lên trời, lần này xem chừng gần hơn. Một hồi nữa, lại có thêm hai cái
pháo bông khác, trước sau như thế là sáu cái rồi. Mỗi chiếc pháo bông
màu sắc hình dáng không giống nhau, có cái giống như một cái bút thật
lớn, có cái thì vuông vức bốn bề, tông như một bàn cờ, cái thì lại giống
hình một chiếc đại phủ, có cái lại giống như một bông hoa mẫu đơn to.
Sau đó bầu trời lại tối đen như mực.
Huyền Nạn ra lệnh cho sáu đệ tử Thiếu Lâm canh chừng bốn phía
nhưng một hồi lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Ai nấy ngưng thần nín
thở, lại sau chừng một bữa ăn nữa, bỗng nghe phía đông có tiếng đàn bà
hát lên rằng:
Lông mày luống tỉa đã bao nhiêu,
Phấn nhạt hoen màu lệ nhỏ tiêu.
Đong đưa biếng chải thêm hờ hững,
Ngọc lấp sao đầy nỗi tịch liêu? 21
Giọng ca dịu dàng uyển chuyển đầy vẻ u oán thê lương. Giọng người
đó vừa hát xong một khúc, lập tức chuyển qua giọng nam rằng:
- Chao ôi ái khanh đấy ư? Quả nhân đã lâu lắm không được gặp
nàng, trong lòng thương nhớ xiết bao. Đây ta ban cho nàng một đấu trân
châu, khanh gia mau nhận lấy.
Người đó nói xong, lại chuyển qua giọng nữ:
- Bệ hạ đã có Dương phi bầu bạn, đến buổi chầu sớm cũng chẳng ra,
còn hơi đâu mà nhớ đến thần thiếp con người bạc mệnh này, than ôi ....
Nói tới đây liền cất tiếng khóc thút thít. Các nhà sư Thiếu Lâm không
biết việc đời, không hiểu sao người này lúc thì là nam, lúc lại là nữ, làm
trò quỉ quái gì đây, chỉ thấy nghe rồi trong lòng cực kỳ buồn bã. Bọn
Đặng Bách Xuyên thì biết người này đang diễn tích Đường Minh Hoàng22
và Mai Phi, khi thì đóng vai Mai Phi lúc lại đóng vai Đường Minh Hoàng,
giọng điệu thanh âm giống hệt, sao lại có người khéo đến thế, ai nấy
trong lòng rộn ràng, không hiểu có dụng ý gì.
Lại nghe người đó tiếp tục:
- Ái phi chớ nên khóc lóc, mau mau dọn yến tiệc ra. Nàng thổi tiêu,
quả nhân sẽ ca một khúc để giải sầu cho ái khanh.
Người kia lại chuyển qua giọng đàn bà nói:
- Tiện thiếp ngày ngày chảy nước mắt ra rửa mặt, chỉ mong được gặp
lại đấng quân vương một lần thôi. Hôm nay được toại nguyện rồi, dẫu có
chết cũng đành nhắm mắt ... hu hu ...hu hu ...
Bao Bất Đồng lớn tiếng nhại lại:
- Cô vương là An Lộc Sơn đây. Này vua nhà Đường Lý Long Cơ ơi,
ngươi là một gã hồ đồ, mau giao Dương Ngọc Hoàn ra cho ta.
Người bên ngoài kêu A lên một tiếng dường như kinh hãi đang
khóc lập tức im bặt. Chỉ trong giây lát, chung quanh bốn bề lặng như tờ.
Hồi 30(a)
HUY SÁI PHỌC HÀO ANH
Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,
Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.
Gặp khi tụ hội anh hào,
Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.
*
* *
Một hồi sau, mọi người bỗng ngửi thấy một mùi hương thơm thoang
thoảng, Huyền Nạn kêu lên:
- Địch nhân phóng độc, mau nín thở, ngửi thuốc giải ngay.
Thế nhưng một hồi lâu không thấy có gì khác thường, ngược lại đầu
óc tỉnh táo, dường như mùi hoa thơm không có chất độc gì cả. Người ở
bên ngoài nói:
- Thất tỉ đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân, dám tự
xưng là An Lộc Sơn.
Có tiếng đàn bà đáp:
- Chỉ riêng đại ca là chưa đến. Nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ,
tất cả cùng ra mặt đi thôi.
Bà ta vừa dứt lời bên ngoài cửa đột nhiên sáng lòa, ánh sáng kỳ dị
chiếu vào năm người đàn ông, một người đàn bà. Một ông già râu đen
lớn tiếng nói:
- Lão ngũ, sao chưa chịu ra?
Trong tay ông ta cầm một phiến gỗ hình vuông, người đàn bà là một
mỹ phụ trung niên, trong bốn người còn lại hai người ăn mặc theo lối
nho sinh, một người trông như thợ mộc, tay cầm búa ngắn, vai đeo cưa.
Còn một người mặt xanh nanh vàng, tóc đỏ râu xanh, hình dáng thật là
dữ dằn dễ sợ như yêu quái, trên người mặc cẩm bào sáng lấp lánh.
Đặng Bách Xuyên chăm chú nhìn, biết ngay là mặt người đó vẽ
bằng màu chứ không phải có dị tướng, y ăn mặc chẳng khác gì một
phường tuồng trên sân khấu, người vừa mới đóng cả hai vai Đường
Minh Hoàng lẫn Mai Phi hẳn phải là y bèn lớn tiếng nói:
- Xin hỏi tôn tính đại danh của chư vị, tại hạ là Đặng Bách Xuyên,
môn hạ nhà Cô Tô Mộ Dung.
Bên kia còn chưa kịp trả lời, từ trong đại sảnh một bóng đen đã lao
ra, ánh đao lấp loáng, nhắm ngay người kép hát chém liên tiếp bảy
nhát liền, chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Người kép hát kia
không kịp đề phòng, né đông tránh tây, tình thế cực kỳ luống cuống.
Bỗng nghe y hát rằng:
Khí cao ngất trời chừ ... sức bạt núi
Thời thôi chẳng còn chừ ... ngựa chồn chân
Ngựa chồn chân chừ ... đành ...Thế nhưng thế công của Phong Ba Ác thật gấp gáp, câu thứ ba y hát
chưa hết thì không còn tiếp được nữa. Người râu đen liền mắng:
- Hán tử kia quả thực vô lý, vừa xông lên đã chém ngang chém
dọc, hãy nếm một chiêu Đại Thiết Võngcủa ta nào!
Chiếc bản vuông trong tay y liền vung ra, nhắm ngay đầu Phong Ba
Ác đập xuống. Phong Ba Ác trong bụng nhủ thầm: "Ta xưa nay đánh
nhau hàng mấy trăm trận lớn nhỏ nhưng chưa thấy ai dùng một phiến
gỗ vuông làm khí giới bao giờ". Đơn đao y liền vung lên chém xuống
bản gỗ. Nghe keng một tiếng, lưỡi đao đụng phải cạnh phiến gỗ, nhưng
phiến gỗ không hề suy suyển, thì ra phiến vuông đó trông tưởng bằng
gỗ nhưng lại bằng thép, bên ngoài sơn giả như thớ gỗ mà thôi.
Phong Ba Ác lập tức thu đao, đang định chuyển thế chém tiếp ngờ
đâu cánh tay giựt lại nhưng đơn đao không kéo về được, lưỡi đao đã bị
thiết bản hút dính cứng. Phong Ba Ác hoảng hồn, vận kình giựt lại, lúc
ấy mới tách được đơn đao khỏi bản thép, quát lên:
- Thật là tà môn! Cái bửng sắt của ngươi làm bằng từ thiết phải
không?
Người kia cười đáp:
- Xin lỗi! Đây là món kiếm cơm của lão phu mà.
Phong Ba Ác trong một thoáng đã nhìn thấy trên phiến sắt đường
dọc, đường ngang rất nhiều vạch thẳng, hóa ra đó là một bàn cờ vâybèn nói:
- Lạ lùng thật! Để ta đấu với ngươi.
Y tiến đao như gió, càng đánh càng nhanh, có điều lưỡi đao không
dám để chạm vào bàn cờ bằng nam châm kia. Người kép hát thở hắt ra
một hơi, cất giọng ồm ồm hát:
Ngựa chồn chân chừ ... đành chịu vậy
Ngu Cơ nàng ơi chừ ... biết cho chăng?Đột nhiên y chuyển sang giọng đàn bà, õng ẹo ỏn thót:
Đại vương ơi! Chớ có ưu phiền,
Trận Cai Hạ hôm nay bất lợi.
Tiện thiếp sẽ một lòng một dạ,
Cùng chàng giục ngựa phá trùng vi.
Bao Bất Đồng quát lên:
Sớm biết phận hãy mau mau tự sát.
Mụ Ngu Cơ vợ Sở Bá Vương ơi,
Đừng để mỗ phải ra tay tru diệt,
Hàn Tín này có giết cũng hoài hơi.
Y tung mình nhảy ra vươn tay chộp vào vai gã kép hát. Người đóng
trò hạ vai xuống tránh qua hát tiếp:
Gió bão bùng chừ ... mây vần vũ
Không lẽ ...
- Ối chao, ta là Hán Cao Tổ giết Hàn Tín đây.
Y đưa tay mò vào thắt lưng lấy ra một cây nhuyễn tiên, soạt một
tiếng đã nhắm vào Bao Bất Đồng đánh tới. Huyền Nạn thấy mấy người
này đánh nhau tưởng như trò trẻ nhưng hai bên võ công đều cao cường,
mình chẳng biết lai lịch đối phương là ai, ông hơi nhíu mày, quát lên:
- Chư vị tạm ngừng tay, trước hết hỏi cho minh bạch đã.
Thế nhưng muốn Phong Ba Ác ngừng đấu thì quả là khó khăn vô
cùng, y biết rằng bị trùng phải hàn độc rồi, thể lực kém xa bình thường,
nhưng hàn độc tùy thời mà phát, cực kỳ nguy hiểm, thành thử thanh
đơn đao của y múa như gió táp mưa sa, mong thắng đối phương càng
sớm càng tốt.
Trong tiếng người hò hét giao đấu, đại sảnh lại xuất hiện thêm một
người, loảng xoảng loảng xoảng, hai thanh giới đao chạm nhau cực kỳ
uy phong, chính là Huyền Thống. Ông quát lớn:
- Bọn chúng bay là đám gian đồ bày độc kế hại người, hôm nay
lão tăng đại khai sát giới.
Ông suốt mấy hôm nay bị hàn độc hành hạ, tức tối không có chỗ
phát tiết, lúc này chẳng cần hỏi han gì nữa, song đao vung tới chém hai
người ăn mặc theo lối nho sinh kia. Một người né qua tránh được, còn
người kia thò tay vào túi, lấy ra một món binh khí hình phán quan bút,
thi triển tiểu xảo công phu đấu với Huyền Thống.
Người nho sinh kia lắc đầu chép miệng:
- Lạ thật! Người xuất gia sao nóng tính đến thế, không biết thế thì
tu ở chỗ nào?
Y cũng thò tay vào túi mò mò, thảng thốt kêu lên:
- Ủa, đâu mất rồi?
Y hết thò tay vào túi bên phải, lại mò vào túi bên trái, rũ rũ tay áo,
vỗ vỗ trên ngực, nhưng không cách nào tìm ra. Hư Trúc nổi tính hiếu
kỳ, hỏi:
- Thí chủ kiếm gì đó?
Nho sinh kia đáp:
- Vị đại hòa thượng này võ công cao cường quá, người anh em ta
đánh không lại nên ta muốn lấy binh khí ra để lấy hai đánh một, ủa, lạ
nhỉ, binh khí của ta đâu mất rồi?
Y gõ gõ trên trán, cố gắng nhớ lại, Hư Trúc nhịn không nổi cười bật
lên một tiếng nghĩ thầm: "Ra trận muốn đánh nhau mà lại quên không
biết để binh khí chỗ nào quả là thú vị". Y bèn hỏi:
- Thí chủ dùng binh khí gì thế?
Nho sinh đáp:
- Người quân tử tiên lễ hậu binh, binh khí thứ nhất của ta là một
bộ sách.
Hư Trúc hỏi:
- Sách gì thế? Võ công bí quyết chăng?
Nho sinh đáp:
- Không phải, không phải. Đó là bộ Luận Ngữ . Ta muốn đem lời
của thánh nhân ra cảm hóa đối phương.
Bao Bất Đồng liền chen vào:
- Ngươi là học trò, đến Luận Ngữ cũng không thuộc, thì còn học
với hành gì?
Nho sinh đáp:
- Lão huynh mới chỉ biết một mà không biết hai. Nói đến Luận
Ngữ, Mạnh Tử, Xuân Thu, Thi Kinh thì ta thuộc như cháo chảy, có điều
đối phương là đệ tử Phật môn, đọc kinh thì nhiều nhưng sách vở nhà
nho chắc gì đã đọc, ta có nói ra, nếu như y không biết thì cũng vô ích
thôi! Thành thử ta muốn đem sách giở cho y xem, y mới không cãi
chầy cãi cối được, thế mới hiệu quả. Người đời thường bảo, nói phải có
sách, mách phải có chứng.
Y vừa nói vừa mầy mò khắp người để kiếm cuốn sách. Bao Bất
Đồng kêu lên:
- Tiểu sư phụ, mau đánh y đi.
Hư Trúc nói:
- Để vị thí chủ kia tìm ra binh khí đã, lúc đó mình động thủ cũng
chưa muộn.
Người nho sinh nói:
- Hai nước Tống Sở đánh nhau ở chỗ nước sâu, quân Sở qua sông
chưa xong, hàng ngũ chưa tề chỉnh, chính là lúc nên đánh nhưng Tống
Tương Công nói: "Đánh lúc này không phải là người quân tử". Tiểu sư
phụ có bụng dạ như thế, quả là đã học được tấm lòng nhân của Tống
Tương Công.
Người trông như thợ mộc thấy song đao của Huyền Thống múa tít
lên, chém trên lia dưới, chiêu số cực kỳ độc địa, sách giải thêm mấy
chiêu nữa e rằng thư sinh cầm phán quan bút có thể mất mạng được,
bèn múa búa xông lên trợ chiến. Công Dã Can lập tức nhắm vào y
đánh vù ra một chưởng. Công Dã Can trông vẻ người nho nhã nhưng
chưởng lực thật hùng hồn, đã được gọi là "Giang Nam đệ nhị", hôm
trước cùng Tiêu Phong tỉ thí uống rượu và chưởng lực, tuy thua đấy
nhưng Tiêu Phong vẫn phải kính trọng y, đủ biết nội lực và tài nghệ
không phải bình thường. Gã thợ nghiêng qua tránh được, vung búa
chém trả lại.
Người nho sinh tuy không tìm thấy quyển Luận Ngữ nhưng thấy
đồng bạn cầm phán quan bút chiêu pháp bắt đầu hỗn loạn, xem ra
chống không nổi song đao của Huyền Thống đại sư, bèn nói với Huyền
Thống:
- Này! Đại hòa thượng, đức Khổng Tử có nói rằng: Quân tử vô
chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị. Ông
chăm chăm định giết tứ đệ của ta, thế đâu còn là nhân nữa. Nhan Uyên
hỏi điều nhân, đức Khổng Tử trả lời: Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất
nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Phu tử lại nói rằng: Phi
lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động. Ông múa
đao loạn cả lên, hung hăng chỉ chăm chăm định giết người, hành động
như thế sao gọi là "khắc kỷ" được? Như thế thật là "phi lễ".
Hư Trúc quay sang hỏi nhỏ nhà sư Tuệ Phương đứng bên cạnh:
- Sư thúc thử nghĩ người này ngớ ngẩn giả hay thật?
Tuệ Phương lắc đầu:
- Ta cũng không biết. Lần này ra khỏi chùa, sư phụ có dặn ai nấy
phải cẩn thận, trên giang hồ người người gian trá, trò quái quỉ gì cũng
có thể làm được cả.
Gã đồ gàn kia lại nói với Huyền Thống:
- Đại hòa thượng, Tử viết: Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả tất hữu
nhân. Ông dũng cảm thì có đấy nhưng chắc gì đã có lòng nhân, không
phải là người quân tử chân chính. Đức Khổng tử có nói rằng: Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân. Nếu người ta giết ông ông có chịu không? Nếu
bản thân ông không muốn chết, sao lại muốn giết người khác?
Huyền Thống xông tới nhảy lui, múa đao vùn vụt, thế nhưng gã đồ
gàn đó tránh đông né tây, khi trái khi phải, khi nào cũng cách ông
chừng ba thước, mồm thì khuyên nhủ đủ biết võ công không phải tầm
thường. Huyền Thống ngầm cảnh giác: "Gã này lải nhải lăng nhăng,
hẳn là để cho ta phân tâm chờ sơ hở là xông ngay vào. Người này võ
công còn cao hơn tên cầm phán quan bút, không thể không phòng bị".
Ông nghĩ như thế nên tinh thần sáu phần đề phòng gã đồ gàn, chỉ dành
bốn phần tấn công thư sinh cầm phán quan bút mà thôi. Chính vì thế
mà tình trạng thư sinh đỡ hẳn đi.
Lại trao đổi thêm hơn chục chiêu nữa, Huyền Thống bắt đầu nóng
ruột, quát lên:
- Tránh ra!
Ông xoay giới đao lại, dùng cán đao tống vào ngực gã đồ gàn. Ông
nhà nho kia vội tránh ra nói:
- Ta xem đại sư võ công cao cường, ta và tứ đệ hai người đánh
một, cũng chưa chắc thắng nổi ông, nên mới đem lời hay ra khuyên
nhủ, cốt để hai bên bãi đấu. Đức thánh Khổng nói rằng: Sâm hồ! Ngô
đạo nhất dĩ quán chi . Tăng Tử trả lời: Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ
hĩ.. Phàm làm người như chúng ta, cái đạo " thứ " kia phải nên giữ
cho kỹ, chớ nên quá ư là ngang ngược.Huyền Thống giận quá, nghe vút một tiếng, vung đao chém ngang,
miệng chửi:
- Trung thứ chi đạo cái gì? Nhân nghĩa đạo đức ở đâu? Thế sao
các ngươi lại bỏ thuốc độc vào trong quan tài để hại người? Lão nạp
nếu sơ ý thì giờ đây đã viên tịch tây qui, còn nghe nhà ngươi nói "kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân" nữa chăng? Thế ngươi có muốn trúng độc mà
chết không cơ chứ?
Gã đồ gàn lùi lại hai bước, ngạc nhiên hỏi:
- Lạ thật! Lạ thật! Ai mà lại bỏ thuốc độc vào quan tài? Ở trong
quan tài ắt phải là những món đồ chôn theo người chết. Đức Khổng tử
có nói rằng: Lý dã tử, hữu quan nhi vô quách.Trong quan tài bỏ
thuốc độc có phải giết chết cả cái tử thi hay sao? Ối chà, không phải,
tử thi vốn chết sẵn rồi còn đâu!
Bao Bất Đồng chen vào:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Trong quan tài các ngươi đâu có để
xác chết mà để thuốc độc, cốt là để giết người sống chúng ta đấy chứ!
Người nho sinh gàn dở kia lắc đầu quầy quậy nói:
- Các hạ đem lòng dạ tiểu nhân đo lường bụng người quân tử. Ở
đây đâu có quan tài, cũng chẳng có độc dược.
Bao Bất Đồng đáp:
- Đức Khổng tử nói rằng: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng
dã. Ngươi chính là tiểu nhân.
Y vừa nói vừa chỉ người mỹ phụ trung niên:
- Còn mụ ta là đàn bà, hai người chúng bay quả thực là khó dạy
quá. Lời đức thánh Khổng, không lẽ còn sai hay sao?
Gã đồ gàn sững sờ nói:
- Vương cố tả hữu nhi ngôn tha, lời của nhà ngươi ta không thèm
để ý, cũng chẳng trả lời làm gì.
Nhân lúc Bao Bất Đồng nói chuyện với anh đồ gàn, Huyền Thống
được thể không còn gì nghi ngại, song đao càng đánh ép tới khiến cho
thư sinh cầm phán quan bút phải luống cuống. Gã đồ gàn lạng người
tiến đến bên cạnh Huyền Thống nói:
- Tử viết: Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như
nhạc hà?Đại hòa thượng ơi, người mà bất nhân thì thật kém cỏi quá
lắm.
Huyền Thống bực tức đáp:
- Ta là đệ tử Thích gia, bọn hủ nho các ngươi nói gì thi thư lễ nhạc,
người mà bất nhân, không làm động đến tâm ta được đâu.
Gã nho sinh giơ ngón tay lên gõ gõ vào trán nói:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Ta quả là nói toàn những chuyện sách vở
của đám nhà nho, quả đúng là anh đồ gàn. Đại hòa thượng rõ ràng là
đệ tử cửa Phật, ta nói chuyện nhân nghĩa đạo đức Khổng Mạnh, thì
đúng là không đâu với đâu.
Phong Ba Ác đấu với người sử dụng bàn cờ làm khí giới đã lâu
nhưng khó mà thắng được, thời gian càng dài trong bụng thấy ngâm
ngẩm hàn độc bắt đầu tấn công. Bao Bất Đồng đấu với gã kép hát,
thấy đối phương võ công không thật là cao nhưng chiêu số biến hóa lại
cực kỳ phức tạp, khi thì đóng vai Tây Thi, nói năng yểu điệu ỏn ẻn,
chau mày ôm bụng, bước chân uyển chuyển như cánh sen, rõ ra là
phong tư của một tuyệt đại giai nhân, thế nhưng trong nháy mắt lại
đóng vai kẻ thơ túi rượu bầu Lý Thái Bạch, chân nam đá chân xiêu,
say sưa loạng choạng. Cái khéo là y đóng vai trò nào đều có võ công
phối hợp theo, nhuyễn tiên trong tay lúc thì biến thành tay áo của
người đẹp, lúc lại biến thành bút hoa của văn sĩ, khiến cho Bao Bất
Đồng cười không xong, khóc cũng dở, nhất thời không biết phải thế
nào.
Gã đồ gàn tự trách mình một hồi, đột nhiên cất tiếng ngâm lớn:
Ký dĩ xá nhiễm lạc, tâm đắc thiện nhiếp bất?
Nhược đắc bất trì tán, thâm nhập thực tướng bất?Huyền Nạn và Huyền Thống hai người cùng kinh ngạc: "Gã đồ gàn
này quả thực uyên bác, ngay cả mấy câu kệ của cao tăng đời Đông
Tấn Cưu Ma La Thậpy cũng thuộc". Lại nghe y ngâm tiếp:
Tất cánh không tướng trung, kỳ tâm vô sở lạc.
Nhược duyệt thiền trí huệ, thị pháp tính vô chiếu.
Hư cuống đẳng vô thực, diệc phi đình tâm xứ.- Này đại hòa thượng, hai câu sau là gì thế nhỉ? Ta quên khuấy
mất rồi.
Huyền Thống đáp:
Nhân giả sở đắc pháp, hạnh nguyện thị kỳ yếu.Gã đồ gàn lúc ấy mới cười ha hả nói:
- Đúng quá! Đúng quá! Này đại sư nhà Phật ơi, đấy chẳng nhắc
đến "người nhân" đấy sao? Mọi đạo lý trong thiên hạ, cũng cùng một
dạng. Ta khuyên ông cũng chỉ là quay đầu lại thấy bờ, bỏ dao đồ tể
xuống mà thôi.
Huyền Thống trong lòng thảng thốt, đột nhiên đại triệt đại ngộ, nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà
Phật!
Chỉ thấy loảng xoảng mấy tiếng, hai thanh giới đao đã vứt xuống,
ông ngồi xếp bằng trên mặt nở một nụ cười, đôi mắt khép lại không
nói một lời. Thư sinh kia đang cùng ông ta đấu đến hồi ác liệt, chợt
thấy ông ta làm thế, cũng lại giật mình, tay lăm lăm cầm phán quan bút
nhưng không tấn công nữa. Hư Trúc kêu lên:
- Sư thúc tổ, hàn độc lại phát tác hay sao?
Y đưa tay định đỡ ông ta dậy, Huyền Nạn liền quát lên:
- Không được chạm vào.
Ông đưa tay thăm hơi thở Huyền Thống, thấy hô hấp đã ngừng rồi,
thì ra đã viên tịch. Huyền Nạn chắp hai tay, niệm Vãng Sinh Chú. Các
nhà sư Thiếu Lâm thấy Huyền Thống đã chết rồi, ai nấy khóc ầm lên,
lấy thiền trượng giới đao, toan cùng hai ông nhà nho kia thí mạng.
Huyền Nạn liền nói:
- Ngừng tay! Huyền Thống sư đệ tham ngộ chân như, vãng sinh
cực lạc, như thế là tròn chính quả rồi, các ngươi phải vui mới phải.
Những người đang kịch đấu đột nhiên thấy biến cố đó, ai nấy ngừng
tay nhảy ra ngoài. Gã đồ gàn kêu lên:
- Lão ngũ, Tiết ngũ đệ, mau mau ra đây, có người bị ta khích một
câu mà lăn ra chết đây này. Ngươi Tiết Thần Y cái con mẹ gì mà
không ra cứu người cho mau thì thật chẳng còn ra gì nữa.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tiết Thần Y không có trong nhà, vị tiên sinh đây ...
Gã đồ gàn bèn mở toang cửa, ngó dáo dác kêu lên:
- Tiết Mộ Hoa, Tiết lão ngũ, Diêm Vương Địch, Tiết Thần Y, có
mau ra cứu người không nào? Tam ca của ngươi chọc tức người ta đến
chết, người ta không để yên cho bọn ta đâu.
Bao Bất Đồng bực tức nói:
- Ngươi làm cho người ta chết còn giả tảng giở trò gì nữa đây?
Vù một chưởng, y vung tay đánh tới, chưởng trái lại tiếp theo lòn
bên dưới tay phải, sử chiêu Lão Long Thám Châu, chưởng biến thành
trảo nắm râu gã kia. Gã đồ gàn nghiêng qua tránh được, Phong Ba Ác,
Công Dã Can lại nổi hứng lên, chưa chịu ngừng tay lại xông ra đánh
tiếp. Đặng Bách Xuyên quát lớn:
- Ngã này!
Tay trái vươn ra, chộp ngay vào sau lưng người kép hát. Đặng Bách
Xuyên là người đứng đầu trong các thủ hạ của Mộ Dung Cô Tô ở Yến
Tử Ổ, võ công cao cường, nội lực hùng hậu, trên giang hồ tuy danh
tiếng không vang dội nhưng những ai biết đến ông ta đều kính trọng.
Ông ta giơ tay nắm lấy người đóng trò, thuận tay ném xuống. Người
kép hát đó thật là nhanh nhẹn, vai trái vừa chạm đất, lập tức xoay đi
nửa vòng, chân phải quét ngang, đá vào đùi Đặng Bách Xuyên. Thế
đánh đó thật là đột ngột, Đặng Bách Xuyên thân thể to béo nên
chuyển động không được nhanh, xem chừng khó mà tránh né, lập tức
dồn khí xuống hạ bàn, ngang nhiên chịu một đá. Chỉ nghe lắc rắc, trong
hai bắp chân có một người gãy đôi rồi.
Người kép hát lại lăn thêm mấy vòng nữa, ra ngoài xa mấy trượng
rồi quát lên:
Ta chửi là chửi mi,
Này Mao Diên Thọ kia.
Ngươi là đồ gian tặc,
Tàn hại kẻ trung lương,
Ối ối ối,
Cái chân tôi ...
Thì ra hai luồng kình lực đụng nhau, người kép hát chịu không nổi,
xương đùi đã gãy lìa. Người đàn bà trung niên xinh đẹp trước sau vẫn
đứng ngoài thản nhiên coi, lúc này thấy người kép hát gãy chân, những
đồng bọn khác cũng bị tấn công thật nguy ngập liền nói:
- Các ông vì cớ gì lại chiếm đóng nhà của ngũ ca ta, chẳng hỏi
đầu đuôi đã ra tay đả thương người là sao?
Bà ta tuy lên tiếng chất vấn đối phương nhưng giọng nói vẫn ôn nhu
dịu dàng. Người kép hát nằm dưới đất, ngửng đầu lên nhìn thấy trước
cửa nhà treo hai cái đèn lồng, kinh hoảng kêu lên:
- Sao thế này? Sao thế này? Tiết công Mộ Hoa chi tang, ngũ ca ta
đã ra người thiên cổ rồi ư?
Người sử dụng bàn cờ, hai nho sinh, người thợ mộc cầm búa và
người đàn bà cùng hướng theo tay y chỉ, thấy hai chiếc đèn lửa đã tắt
từ bao giờ, treo trong đêm tối, mọi người đến cổng nhưng không chú
tâm, mãi đến khi người đóng trò nằm dưới đất lúc ấy mới ngẩng đầu
nhìn ra.
Người kép hát khóc òa lên, hát rằng:
Ca ca ơi!
Anh em ta đào viên kết nghĩa,
Tại cổ thành gặp gỡ một phen.
Mới ngày nào anh quá ngũ quan,
Chém sáu tướng uy danh lừng lẫy ...
Khúc đầu y hát là bài ca Khóc Quan Vũ, đến sau tâm tình khích
động, hát không còn ra vần điệu gì nữa. Năm người còn lại nhao nhao
hỏi:
- Ai làm hại ngũ đệ?
- Ngũ ca ơi là ngũ ca, hung thủ giết anh là đứa nào?
- Hôm nay ta và các ngươi phải một phen sống mái.
Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:
"Những người này xem ra đều là anh em kết nghĩa của Tiết Thần Y".
Đặng Bách Xuyên nói:
- Chúng ta có đồng bạn bị thương nên đến đây cầu Tiết Thần Y
chữa trị, nào ngờ...
Người đàn bà ngắt lời:
- Nào ngờ y không chịu chữa, các ngươi liền giết y đi, phải không
nào?
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Không ...
Chữ "phải" chưa kịp nói ra thì người đàn bà đã phất tay áo, ai nấy
đều ngửi thấy một mùi thơm nồng, đầu óc choáng váng, chân bông
bênh như đi trên mây, đứng không vững nữa. Người mỹ phụ kêu lên:
- Ngã này!
Đặng Bách Xuyên giận quá, quát lớn:
- Hảo yêu phụ!
Ông ta vận sức lên bàn tay, vù một tiếng đánh ra. Người đàn bà
thấy Đặng Bách Xuyên đang loạng choạng, tưởng ông ta đã vào tròng,
ngờ đâu lại còn đủ sức xuất chưởng, đang định nghiêng qua né tránh thì
không còn kịp nữa rồi, chỉ thấy một luồng lực đạo mãnh liệt như bài
sơn đảo hải ập đến, lập tức nghẹn thở, thân hình không còn điều khiển
được nữa bay vụt ra ngoài. Lách cách mấy tiếng, ngực bà ta đã gãy
mấy chiếc xương sườn, chưa rơi tới đất đã ngất đi rồi. Đặng Bách
Xuyên cũng thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra.
Hai bên mỗi bên ngã một người, những người còn lại đều xông ra
xuất thủ. Huyền Nạn nghĩ thầm: "Việc này bên trong có điều gì thật là
bí mật, trước phải làm sao bắt hết đối phương, có thế mới khỏi thương
vong". Ông bèn ra lệnh:
- Lấy thiền trượng ra.
Tuệ Kính quay lại cầm chiếc thiền trượng dựa nơi cửa đưa cho
Huyền Nạn. Người thư sinh sử dụng phán quan bút tung mình nhảy tới,
cây bút bên phải điểm vào ngực Tuệ Kính. Chưởng trái của Huyền
Nạn liền đánh ra, tay chưa đến, chưởng lực đã trúng hậu tâm y, gã thư
sinh liền ngã ngay xuống. Huyền Nạn cười một tiếng dài, trượng cầm
trên tay tiến lên hai bước, múa gậy đánh vào người cầm bàn cờ.
Người kia thấy thế đánh thật mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà
trượng phong đã bao trùm thân mình, lập tức vận kình lên cánh tay, giơ
bàn cờ lên chịu đòn, nghe keng một tiếng lớn, đốm lửa bắn ra tứ bề.
Người kia thấy cánh tay ê ẩm, hổ khẩu tay rách toạc. Huyền Nạn nhắc
trượng lên, cả chiếc bàn cờ cũng bị nhấc lên theo. Cái bàn cờ đó từ tính
cực mạnh, trước đây chuyên dùng để hút binh khí đối phương, hôm nay
địch mạnh ta yếu, khiến cho lại bị thiền trượng của Huyền Nạn lấy
mất.
Thiền trượng của Huyền Nạn lại đập xuống đầu người kia, y kêu
lên:
- Cái thế Trấn Thần Đầu lại thêm Ỷ Cái, ta đỡ không nổi.
Y lập tức chạy vọt về phía trước. Huyền Nạn đảo ngược thiền
trượng, quát lên:
- Tên đồ gàn, đến lượt ngươi.
Ông vung trượng đánh quét ngang, uy thế mạnh không gì đương cự
được. Người nho sinh kia đáp:
- Phu tử là bậc thánh nhân cũng phải theo thời. Gió thổi thì cỏ rạp
xuống, nằm xuống thì nằm có sao đâu?
Mấy câu đó nói chưa xong, y đã nằm phục xuống, mấy nhà sư
Thiếu Lâm liền xông tới đè nghiến y lại. Thủ tọa Đạt Ma Viện của
chùa Thiếu Lâm quả nhiên không phải tầm thường, chỉ vừa ra tay đã
đánh ngã ba cao thủ của đối phương. Người cầm búa đang phải đánh
với hai người Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, tránh đông né tây, có
chiều thua đến nơi. Người cầm bàn cờ nói:
- Ngừng lại! Lục đệ, thôi chúng mình chịu thua cho xong, bàn cờ
này không cần phải đi tiếp nữa. Đại hòa thượng, ta hỏi ông, ngũ đệ của
bọn ta phạm tội gì mà các ông lại giết y?
Huyền Nạn đáp:
- Đâu có chuyện đó ...
Hai người chưa dứt câu chuyện, bỗng nghe tính tang hai tiếng đàn từ
xa truyền tới. Hai tiếng đàn đó vào tai mọi người, tim ai nấy nhói lên
hai cái. Huyền Nạn còn đang ngạc nhiên, lại nghe thêm hai tiếng đàn
nữa. Lúc này xem chừng đã gần hơn nhiều, tim mọi người thót càng
mạnh hơn, Phong Ba Ác thấy trong lòng buồn bực, tay phải lơi ra, nghe
keng một tiếng, đơn đao đã rớt xuống. May nhờ có Bao Bất Đồng xuất
chưởng ra đỡ không thì búa của địch nhân đã chém xuống đầu vai y.
Gã đồ gàn kêu lên:
- Đại ca đến mau, mau lên! Thôi đừng có chướng nữa! Sao đại ca
vẫn còn ung dung đàn địch cái quái gì? Tử viết: Quân mệnh triệu, bất
hậu giá hành hĩ.Tiếng đàn liên tiếp vang lên, một ông lão mặc áo tay rộng phất phơ
chậm rãi đi tới, đầu cao trán dồ, hình thù lạ lùng cổ quái, miệng cười
khì dung mạo đầy vẻ hòa nhã dễ thân, trong tay ôm một cỗ dao cầm.Bọn gã đồ gàn cùng kêu lên:
- Đại ca!
Người đó đến gần, ôm quyền chào Huyền Nạn nói:
- Vị cao tăng nào của Thiếu Lâm ở đây thế? Tiểu lão nhi thật là
thất lễ.
Huyền Nạn cũng chắp tay đáp:
- Lão nạp là Huyền Nạn.
Người kia nói:
- Ồ, thì ra là Huyền Nạn sư huynh. Huyền Khổ đại sư của quí phái
có phải sư huynh đệ với đại sư phụ chăng? Tiểu lão nhi với ông ta có
duyên gặp gỡ mấy lần, truyện trò cực kỳ tâm đầu ý hợp, độ này ông ấy
có khang kiện không?
Huyền Nạn buồn bã đáp:
- Huyền Khổ sư huynh bất hạnh bị đứa nghịch đồ ám toán, đã viên
tịch tây qui rồi.
Người kia chết sững một hồi, đột nhiên nhảy vọt lên, phải cao đến
hơn một trượng, chưa rơi tới đất, giữa lưng trời đã khóc òa lên thật là
thảm thiết. Huyền Nạn và bọn Công Dã Can ai nấy kinh ngạc, không
ngờ một người tuổi tác đã cao như thế, vậy mà khóc lóc chẳng khác gì
một đứa trẻ thơ.
Hai chân ông ta vừa chạm đất, lập tức ngồi thụp xuống, tay vặt râu,
hai chân dậm thình thình, khóc lóc:
- Huyền Khổ ơi, sao ông không bảo ta một tiếng rồi hãy chết?
Trên đời này sao lại có chuyện như thế được? Bản đàn Phạn Âm Phổ
An Tấu của ta biết bao nhiêu người nghe rồi nhưng có ai hiểu được đạo
lý bên trong đâu, chỉ mình ông nói được ra rằng trong khúc nhạc này có
chứa rất nhiều thiền ý, đòi nghe hết lần này sang lần khác. Gã Huyền
Nạn sư đệ, chắc gì đã có được ngộ tính như ông, dẫu đàn cho y nghe,
thì khác gì đàn gảy tai trâu, đem hồng ngâm cho chuột vọc. Hu hu, sao
ta khổ thế này!
Huyền Nạn lúc đầu nghe ông ta khóc lóc thảm thiết, lại tưởng là
người chí tính với sư huynh mình, đau lòng vì cái chết của Huyền Khổ,
không khỏi cảm kích, nhưng càng nghe càng không phải, hóa ra y thất
vọng vì trên đời thiếu mất một kẻ tri âm. Tiếng khóc về sau, lại bảo
đàn cho mình nghe có khác gì "đàn gảy tai trâu". Ông là một cao tăng
hữu đạo nên cũng chẳng bực mình, chỉ mỉm cười nghĩ thầm: "Cả bọn
này người nào cũng dở dở ương ương, người này tính tình tâm sự thật là
ăn khớp với đám anh em kết nghĩa, quả đúng là vật dĩ loại tụ".
Lại nghe người kia khóc tiếp:
- Huyền Khổ ơi là Huyền Khổ, ta hết lòng tận lực vì người tri kỷ
sáng tác ra một bản đàn để báo đáp chút tình, đặt tên là Nhất Vi Ngâm
để ca tụng thủy tổ của phái Thiếu Lâm từng qua sông bằng một cành
lau, sao ngươi lại không sống mà nghe?
Đột nhiên y quay đầu lại hỏi Huyền Nạn:
- Phần mộ Huyền Khổ sư huynh ở nơi nào? Ông mau mau đưa ta
đến, mau mau! Càng mau càng tốt. Ta đến trước mồ đàn tân khúc này,
biết đâu y nghe rồi trong lòng thoải mái, sống lại không chừng.
Huyền Nạn đáp:
- Thí chủ chớ nên nói năng loạn xạ, sư huynh ta viên tịch đã hỏa
hóa thành tro rồi còn đâu.
Người kia bần thần, đột nhiên nhảy nhổm lên nói:
- Thế thì càng tốt, ngươi cho ta cốt hôi đó, ta dùng keo trộn với tro
dán vào đáy cây dao cầm, từ nay mỗi khi đàn một bản nào, y cũng đều
được nghe cả. Ngươi thử nghĩ thế có khéo không? Ha ha! Ha ha! Chủ ý
đó hay nhỉ?
Y càng nói càng cao hứng, nhịn không nổi vỗ tay cười ha hả, đột
nhiên nhìn thấy người đàn bà xinh đẹp nằm gục một bên kinh hoảng
kêu lên:
- Ối, thất muội sao vậy? Ai đả thương cô thế?
Huyền Nạn nói:
- Việc này bên trong có chỗ hiểu lầm, bọn ta đang muốn nói năng
cho rành mạch.
Người kia đáp:
- Hiểu lầm thế nào? Ai hiểu lầm? Nói gì thì nói, người đả thương
thất muội không phải là người tốt. Ối trời, bát đệ cũng bị thương nữa,
người đả thương bát đệ cũng không thể là người tốt được. Sao lại tới
mấy người không tốt? Mọi người báo danh tính đi, rồi cho biết ý kiến,
điều đó đã hẳn rồi.
Người kép hát nói:
- Đại ca ơi, bọn họ giết chết ngũ ca, đại ca mau mau trả thù rửa
hận cho anh ta.
Gương mặt của người đánh đàn biến đổi kịch liệt, kêu lên:
- Có chuyện đó sao? Lão ngũ là Diêm Vương Địch, Diêm La
Vương làm gì được y?
Huyền Nạn đáp:
- Tiết Thần Y chết giả đó, trong quan tài chỉ có độc dược, không
có xác người.
Cả bọn phe ông lão đánh đàn đều mừng ra mặt, nhao nhao hỏi dồn:
- Lão ngũ vì cớ gì mà giả chết thế?
- Xác chết bây giờ quàn ở đâu?
- Y chưa chết, lấy đâu ra xác chết bây giờ?
Đột nhiên từ đằng xa có tiếng nhỏ vo ve vọng tới:
- Tiết Mộ Hoa, Tiết Mộ Hoa, sư thúc lão nhân gia của ngươi đã
tới, mau mau ra ngoài nghinh tiếp.
Tiếng nói đó lúc có lúc không, còn cách rất xa thế nhưng vào tai
thật rõ ràng đủ biết người nói câu này nội công thâm hậu không biết
chừng nào. Người kép hát, gã đồ gàn, anh thợ mộc cả bọn kia không
hẹn mà cùng kêu lên kinh hoàng. Ông lão đánh đàn hoảng hốt:
- Ôi thôi, đại họa lâm đầu rồi.
Y dáo dác nhìn quanh, thần sắc cực kỳ sợ hãi miệng lắp bắp:
- Chạy mau kẻo không kịp, mau lên, mau lên, tất cả vào trong nhà
ngay.
Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:
- Cái gì mà đại họa lâm đầu? Bộ trời sập hay sao?
Ông già kia run run nói:
- Mau, vào mau! Trời sập cũng không sợ, cái này ...
Bao Bất Đồng đáp:
- Xin lão tiên sinh tự tiện, ta không vào đâu.
Ông già kia đột nhiên vung tay phải ra, chộp vào huyệt đạo trên
ngực Bao Bất Đồng. Y ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, Bao Bất Đồng không
kịp đề phòng nên bị chế ngự ngay, hai chân rời mặt đất, lập tức bị ông
ta xách lên kéo chạy vào trong nhà.
Huyền Nạn và Công Dã Can đều thật ngạc nhiên, đang định mở
miệng hỏi, người cầm bàn cờ đã nói nhỏ:
- Đại sư phụ, tất cả chúng mình nên vào trong nhà ngay, có một
tên đại ma đầu cực kỳ ghê gớm chớp mắt sẽ đến đây.
Huyền Nạn một thân thần công, trong võ lâm ít người là đối thủ, có
gì mà phải sợ đại ma đầu, tiểu ma đầu? Ông hỏi lại:
- Có một đại ma đầu ư? Kiều Phong chăng?
Người kia lắc đầu:
- Không phải, không phải! So với Kiều Phong còn ghê gớm, tàn
nhẫn hơn nhiều. Đó là Tinh Tú Lão Quái.
Huyền Nạn hơi nhếch mép:
- Tinh Tú Lão Quái ư? Thế thì hay quá, lão nạp đang muốn đi
kiếm y đây.
Người kia nói:
- Đại sư phụ võ công cao cường, dĩ nhiên không sợ. Có điều ở đây
ai ai cũng sẽ bị y giết sạch, còn mình đại sư sống được thôi, thật là từ bi
quá đỗi.
Y nói câu này đầy vẻ châm chọc nhưng thật công hiệu, Huyền Nạn
ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Được rồi, tất cả cùng vào vậy.
Vừa ngay lúc đó, ông già đánh đàn đã bỏ Bao Bất Đồng xuống, từ
trong nhà chạy ra luôn mồm thúc giục:
- Mau! Mau! Còn chờ gì nữa?
Phong Ba Ác quát hỏi:
- Tam ca ta đâu?
Ông già nọ đánh ngược tay trái lại một chưởng, quét ngang má phải
của y. Hàn độc trong người Phong Ba Ác lại vừa phát tác, tưởng chừng
chịu không nổi, thấy ông ta đánh tới, vội vàng hụp xuống. Ngờ đâu
chưởng của ông già nọ chưa hết tay, đột nhiên đổi hướng đánh thấp
xuống, chộp ngay được sau ót Phong Ba Ác, miệng nói:
- Mau, mau đi vào!
Ông ta xách y lên chẳng khác gì một con gà. Công Dã Can tuy thấy
lão già kia xem chừng không có ác ý, nhưng hai người anh em của
mình chỉ một chiêu đã bị chế ngự rồi, lập tức kêu la ỏm tỏi xông lên
toan động thủ. Thế nhưng ông già thân pháp nhanh như gió, đã tới đại
môn. Người thư sinh liền ôm gã kép hát, gã thợ mộc đỡ người đàn bà,
cùng đi vào trong nhà.
Huyền Nạn nghĩ bụng chuyện ngày hôm nay rất nhiều ngụy kế đa
đoan, không nên lỗ mãng làm hỏng việc nên nói:
- Công Dã thí chủ, tất cả cùng vào rồi mình tính sau.
Hư Trúc và Tuệ Phương khiêng xác Huyền Thống, Công Dã Can bế
Đặng Bách Xuyên tất cả cùng tiến vào. Ông già đánh đàn lại ra giục
giã, thấy mọi người đều vào cả, lập tức đóng cổng lại, chặn then cửa.
Người cầm bàn cờ nói:
- Đại ca, cái cổng chính này nên mở ra. Cái đó gọi là thực giả hư
chi, hư giả thực chi khiến cho y không dám ngang nhiên tiến vào.
Ông già kia hỏi:
- Vậy sao? Được, ta nghe lời ngươi. Liệu ... liệu có được không?
Giọng nói ông ta dường như không tự tin chút nào. Huyền Nạn và
Công Dã Can hai người nhìn nhau, cùng nghĩ:
- Lão già này võ công cao cường, sao lúc gặp chuyện hoảng hốt
đến thế? Cái cánh cửa này thì đến trộm cướp tầm thường cũng chẳng
coi vào đâu, huống chi là Tinh Tú Lão Quái, đóng hay không đóng
cũng thế mà thôi. Cái điệu này y đã từng bị thua đậm dưới tay Tinh Tú
Lão Quái thành ra kinh cung chi điểu, vừa mới nghe thấy y ở quanh
đây đã hồn vía lên mây.
Ông già kia lại luôn mồm:
- Lục đệ, ngươi tính xem thế nào? Mau nghĩ cách nào coi?
Huyền Nạn tuy công phu hàm dưỡng khá cao nhưng thấy ông ta
cuống quít như thế cũng không khỏi bực mình bèn nói:
- Lão trượng, người đời có câu: Binh đến thì tướng ngăn, nước lên
thì be bờ. Tinh Tú Lão Quái dẫu có ghê gớm tàn ác cỡ nào, bọn chúng
ta liên thủ kháng địch cũng chưa chắc thua y đâu, việc gì mà phải ...
mà phải ... ờ ... mà phải quá lo xa như thế.
Lúc đó trong sảnh đã đốt lên một ngọn đuốc, chỉ trong một thoáng
ông thấy lão già kia thần sắc kinh hoàng đã đành mà cả người đánh cờ,
gã đồ gàn, anh thợ mộc, người sử dụng phán quan bút cả bọn ai nấy
mặt mày đăm chiêu. Huyền Nạn chính mắt thấy những người này võ
công không phải là kém, lại thêm ương ương gàn gàn xem chừng đều
là những hào sĩ phóng khoáng coi thường thế sự, đột nhiên sợ sệt khiếp
đảm tuồng như những kẻ hèn nhát, quả thực không biết nói sao.
Công Dã Can thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đều khỏe khoắn
ngồi trên ghế, có điều hàn độc phát tác, người run như cầy sấy, lập tức
đỡ Đặng Bách Xuyên lên trên một chiếc ghế khác, cũng may mạch
ông ta vẫn đều hòa, chỉ lơ mơ như người say rượu xem ra không có gì
nguy hiểm.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, một lúc sau người thợ sử dụng đoản
phủ lấy từ trong người ra một cái thước gấp, nhắm nhắm nơi góc nhà,
lắc đầu, cầm cây đèn đi vào hậu sảnh. Mọi người liền đi theo y, thấy
người đó nhìn quanh quất bốn bề tính toán, đột nhiên nhảy lên, vạch
vào xà ngang một cái, lại lắc đầu đi tiếp ra sau, đến trước chiếc quan
tài giả của Tiết Thần Y, nhìn qua nhìn lại, lắc đầu nói:
- Tiếc thay! Tiếc thay!
Ông già đánh đàn hỏi:
- Không dùng được ư?
Người cầm búa ngắn đáp:
- Không được! Sư thúc thể nào cũng nhìn ra.
Ông già đánh đàn giận dữ nói:
- Ngươi ... ngươi còn gọi y là sư thúc ư?
Người cầm búa lại lắc đầu, không nói một lời đi tiếp xuống nhà
dưới. Công Dã Can nghĩ thầm: "Người này ngoài việc lắc đầu chắc
chẳng còn biết làm gì khác". Người thợ lại nhìn góc nhà tính toán, đếm
bước đi, bấm đốt ngón tay, dáng như người đang tính toán việc xây
phòng, đi ra bên ngoài vườn sau. Y cầm cây đuốc, suy nghĩ hồi lâu, đi
đến chỗ đặt một hàng năm cái cối nơi hành lang, lại suy nghĩ một hồi
nữa, vứt cây đuốc xuống, đi tới bên cạnh cái cối đá lớn thứ nhì, bỏ vài
nắm cám và đất vào trong cối, cầm chiếc chày đá ở bên cạnh, bắt đầu
giã, bình một tiếng lại bình một tiếng, chày đá nặng nề rơi xuống cực
kỳ mạnh mẽ.
Công Dã Can thở dài một tiếng nghĩ thầm: "Phen này đúng là số
mình đen như mõm chó, gặp một lũ điên, đến lúc này mà còn rỗi hơi đi
giã gạo. Nếu như giã gạo thì cũng còn được, còn đằng này trong cối
toàn là vỏ trấu với đất bùn, chán thật!". Một hồi sau, hàn độc trong
người Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác tạm bớt, cũng chạy theo ra hậu
viên.
Bình! Bình! Bình! Bình! Bình! Tiếng chày giã gạo cứ liên miên bất
tuyệt. Bao Bất Đồng nói:
- Này lão huynh, ngươi định giã gạo nấu cơm ăn chăng? Trong cối
có gạo gì đâu! Chi bằng tụi mình cuốc đất lên, bỏ ít hạt lúa vào chờ
cho nảy mạ ...
Đột nhiên cách chừng bảy tám trượng nơi góc đông nam khu vườn
hoa có tiếng kẹt kẹt, tuy nhỏ nhưng có chiều lạ lùng. Cả bọn Huyền
Nạn, Công Dã Can theo hướng tiếng động nhìn theo, thấy nơi đó có
bốn cây hoa quế trồng thành một hàng.
Bình một tiếng lại bình một tiếng, người cầm búa vẫn tiếp tục giã
xuống, mà lạ thay, cây quế thứ hai về hướng đông ở bên ngoài mấy
trượng bỗng cành lá dao động, từ từ di chuyển ra bên ngoài. Một lát
sau, mọi người ai cũng thấy rõ, mỗi lần chày nện xuống một cái, cây
quế lại di chuyển một tấc nửa tấc. Ông già đánh đàn reo lên mừng rỡ,
chạy lại phía cây quế kia, nói khẽ:
- Đúng rồi! Đúng rồi!
Mọi người theo ông ta chạy ra, chỉ thấy chỗ cây quế di chuyển ra, lộ
ra một phiến đá lớn, trên thạch bản có cái vòng để cầm tay. Công Dã
Can càng thêm bội phục, lại cũng tẽn tò nói:
- Cơ quan dưới đất này xếp đặt thật là khéo léo, thực khó mà tin
nổi. Vậy mà vị nhân huynh đây trong khoảnh khắc đã phát hiện được
cách mở cơ quan, thông minh tài trí so ra không kém gì người làm ra cơ
quan này.
Bao Bất Đồng nói:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Làm sao nhị ca biết không phải
chính y là người làm ra cơ quan này?
Công Dã Can cười nói:
- Ta nói tài trí so ra không kém người làm ra cơ quan này, nếu quả
đúng là y làm ra, tài trí của y lẽ dĩ nhiên không thể kém tài trí của
chính mình.
Bao Bất Đồng vẫn lắc đầu:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Không kém nhưng cũng không thể
hơn. Tài trí của y làm sao lại có thể hơn chính mình?
Người dùng búa lại giã thêm độ một chục chày nữa, phiến bửng đá
đã hoàn toàn lộ ra. Người đánh đàn cầm chiếc vòng sắt, kéo mạnh lên
nhưng không chuyển động chút nào, đang tính dùng sức kéo thêm lần
nữa, người cầm búa kinh hãi kêu lên:
- Đại ca! Ngừng tay.
Y tung mình nhảy vào trong một cái cối lớn ở bên cạnh, vén quần
lên, tiểu ngay một bãi đồng thời kêu lên:
- Tất cả mau tới đái vào đây.
Lão già đánh đàn sau phút kinh ngạc, vội bỏ chiếc vòng xuống, chỉ
phút chốc người cầm bàn cờ, gã đồ gàn, người sử phán quan bút thêm
cả ông lão đánh đàn và người dùng búa cùng đái vào trong cối.
Bọn Công Dã Can thấy năm người đó đột nhiên lên cơn dở người
cùng tiểu tiện, ai nấy cười nghiêng ngả, nhưng chỉ trong khoảnh khắc
đều ngửi thấy mùi khét lẹt của thuốc nổ. Người cầm búa nói:
- Được rồi, hết nguy hiểm.
Chỉ có ông già đánh đàn đái lâu nhất, vẫn còn tiếp tục chảy tồ tồ,
mồm lẩm bẩm:
- Đáng chết thật! Đáng chết thật! Ta lại làm hỏng mất một cơ
quan. Lục đệ, nếu không nhờ ngươi phát giác cơ quan sớm thì bọn mình
ai nấy tan xương nát thịt rồi.
Bọn Công Dã Can ai nấy chết khiếp, biết rằng mình vừa mới từ quỉ
môn quan quay về, hiển nhiên bên dưới chiếc vòng sắt có nối với hỏa
thạch, hỏa đao, ngòi nổ nên vừa nhắc lên lập tức đốt cháy dây dẫn hỏa,
thuốc nổ chôn sẵn dưới đó sẽ nổ tung, may nhờ người mang búa ngắn
kia cực kỳ cơ cảnh, tất cả đều đái vào làm ướt sợi dây nên mới tránh
được tai họa.
Người mang búa đi tới bên cái cối đá thứ nhất, dùng sức vần chiếc
cối xoay qua bên phải ba vòng, ngẩng đầu lên, miệng lâm râm khẩu
quyết, tính toán một hồi, lại xoay ngược cái cối qua bên trái sáu vòng
bán nguyệt. Chỉ nghe những tiết ken két liên tiếp, chiếc bửng đá chạy
qua một bên, lộ ra một cái hầm. Lần này ông già đánh đàn không còn
dám ẩu tả xông vào mà quay sang người cầm búa vẫy tay, bảo y đi
trước. Người cầm búa quì xuống quan sát kỹ cái cối đá thứ nhất.
Đột nhiên từ dưới đất có tiếng người chửi:
- Tinh Tú Lão Quái, con bà nhà ngươi, quân đê tiện! Được lắm,
được lắm, rồi ra ngươi cũng kiếm được ta, quả là ghê gớm thật. Ngươi
làm điều càn rỡ, rồi sẽ có ngày bị quả báo. Tới đây đi, mau xuống đây
giết ta đi!
Gã thư sinh, người thợ mộc, anh kép hát cả bọn cùng reo lên:
- Lão ngũ quả nhiên chưa chết.
Ông già đánh đàn gọi lớn:
- Ngũ đệ, bọn ta tới đây.
Tiếng nói dưới hầm ngừng bặt rồi có tiếng kêu lên:
- Quả thực là đại ca đó sao?
Giọng nói đầy vẻ vui mừng. Roạt một tiếng, từ trong hầm một người
chui ra, chính là Diêm Vương Địch Tiết Thần Y. Y có ngờ đâu ngoài
những nghĩa huynh nghĩa đệ còn có rất nhiều người ngoài, không khỏi
kinh ngạc quay sang Huyền Nạn nói:
- Đại sư cũng đến nữa! Những vị này cũng là bằng hữu, phải
không?
Huyền Nạn hơi ngần ngừ rồi đáp:
- Phải, đều là bằng hữu.
Trước đây chùa Thiếu Lâm vẫn cho rằng Huyền Bi đại sư chết về
tay Cô Tô Mộ Dung nên vẫn coi họ Mộ Dung là đại đối đầu. Thế
nhưng lần này ông cùng bọn Đặng Bách Xuyên cùng đi cầu thầy chữa
bệnh, trên đường Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can hết sức giải thích
Huyền Bi đại sư quyết không phải do Mộ Dung công tử ra tay, Huyền
Nạn cũng đã tin đến sáu bảy phần, lại thêm lần này cùng gặp nguy
nan, đồng hội đồng thuyền nên đã coi những người này là bạn. Công
Dã Can nghe ông ta nói thế, quay sang gật gù. Tiết Thần Y nói:
- Nếu cũng là bạn cả thì thật tốt quá, tất cả cùng xuống đây. Xin
mời Huyền Nạn đại sư đi trước.
Tuy ông ta nói thế nhưng vẫn nhanh nhẹn xuống hầm đầu tiên. Một
cái hang tối thui như thế này hẳn là cực kỳ hung hiểm, trên giang hồ
lòng người trá ngụy khó dò, có ai lại dám tin ai nên mình phải xuống
trước, ấy là đạo đãi khách.
Tiết Thần Y tiến vào rồi, Huyền Nạn lúc ấy mới xuống, mọi người
đỡ kẻ bị thương theo sau, cả thi thể của Huyền Thống cũng khiêng nữa.
Tiết Thần Y điều khiển máy móc, phiến đá đóng lại, ông ta lại tiếp tục
vận động nghe có tiếng lẹt kẹt vang lên, mọi người liệu rằng ông ta
đang di chuyển cây quế trở về chỗ cũ.
Ở bên dưới là một địa đạo lót đá, ai nấy phải khom lưng mới đi
được, một lát sau đường hầm rộng hơn dẫn đến một cái hang thiên
nhiên, thêm chừng chục trượng thì tới một thạch động rộng rãi. Bên
cạnh một đống lửa ở một góc là khoảng hai chục người, già trẻ lớn bé
đều có cả. Những người đó nghe thấy tiếng chân người đều quay lại
nhìn. Tiết Thần Y nói:
- Đây đều là người nhà của tại hạ, sự tình khẩn bách nên không
bảo họ ra chào quí vị được, thất lễ xin đừng trách. Đại ca, nhị ca, sao
hai người lại đến đây?
Ông ta không đợi ông già đánh đàn trả lời, lập tức xem xét thương
thế cho mọi người. Người đầu tiên ông ta coi là Huyền Thống, Tiết
Thần Y nói:
- Vị đại sư này ngộ đạo viên tịch, quả là đáng mừng.
Y lại coi đến Đặng Bách Xuyên, mỉm cười nói:
- Phấn hoa của thất muội ta chỉ làm cho người say sưa, một hồi
nữa sẽ tỉnh, không có chất độc.
Người đàn bà trung niên và gã kép hát cũng chỉ bị ngoại thương, tuy
không phải nhẹ nhưng Tiết Thần Y chỉ coi là chuyện nhỏ. Ông ta lại
coi mạch cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, ngửng đầu nhắm mắt lại,
hết sức suy nghĩ. Một hồi sau, Tiết Thần Y lắc đầu:
- Lạ thật! Lạ thật! Ai là kẻ đả thương hai vị huynh đài này?
Công Dã Can đáp:
- Là một thanh niên hình mạo cực kỳ cổ quái.
Tiết Thần Y lắc đầu:
- Thanh niên ư? Người này võ công bao gồm cả sở trường hai bên
chính tà, nội công thâm hậu, ít nhất cũng phải có ba mươi năm tu tập,
sao lại còn là thanh niên được?
Huyền Nạn đáp:
- Quả thực là một thanh niên nhưng chưởng lực hùng hậu, Huyền
Thống sư đệ của ta đối chưởng với y, cũng bị hàn độc mà bị thương. Y
là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái.
Tiết Thần Y kinh hoảng hỏi lại:
- Đệ tử của Tinh Tú Lão Quái mà lợi hại đến thế sao? Ghê gớm
quá!
Ông ta lắc đầu:
- Thật xấu hổ, hàn độc của hai vị huynh đài này, tại hạ không có
cách nào chữa được. Hai tiếng Thần Y, từ nay không còn dám xưng
nữa.
Đột nhiên nghe tiếng một người nói oang oang:
- Tiết tiên sinh, nếu đã thế, chúng tôi xin cáo từ.
Người đó chính là Đặng Bách Xuyên, ông ta bị phấn hoa làm mê
man, lúc này đã tỉnh lại rồi, nghe Tiết Thần Y nói mấy câu sau cùng.
Bao Bất Đồng cũng phụ họa:
- Đúng thế! Đúng thế! Trốn ở dưới cái hang này làm gì? Đại
trượng phu sinh tử hữu mệnh, lẽ nào lại theo cái thói của con rùa con
chuột, chui dưới cái hang hay sao?
Tiết Thần Y cười nhạt:
- Thí chủ quả là khoa trương. Liệu ngươi có biết ở ngoài đó là ai
không?
Phong Ba Ác đáp:
- Các ngươi sợ Tinh Tú Lão Quái chứ ta cóc sợ. Thật uổng thay
những người võ công cao cường mà mới nghe cái tên của Tinh Tú Lão
Quái đã kinh hồn bạt vía.
Ông già đánh đàn nói:
- Đến ta ngươi đánh còn chưa lại, Tinh Tú Lão Quái là sư thúc của
ta, ngươi nghĩ y lợi hại hay không nào?
Huyền Nạn vội nói lảng sang chuyện khác:
- Những điều lão nạp trông thấy, nghe thấy hôm nay, thật nhiều
chỗ không hiểu, đang muốn thỉnh giáo.
Tiết Thần Y nói:
- Chúng tôi sư huynh đệ tám người, xưng là Hàm Cốc bát hữu.
Ông ta chỉ vào ông già đánh đàn:
- Vị này là đại sư ca của chúng tôi, tôi là thứ năm, còn những việc
khác, một là nói ra thật dài dòng, hai nữa không tiện cho người ngoài
biết ...
Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng gọi thật nhỏ truyền tới:
- Tiết Mộ Hoa, sao ngươi chưa ra gặp ta?
Thanh âm đó mong manh như tơ, tưởng chừng chỉ loáng thoáng nghe
thấy nhưng người ở trong hang sâu vẫn nghe thật rõ ràng, tựa hồ một
sợi dây kim loại thật nhỏ, xuyên qua đất dày hơn chục trượng mà
xuống, lại cũng như theo đường hầm quanh co mà chạy vào tai mỗi
người.
Ông già đánh đàn kêu lên một tiếng, nhảy nhổm lên run run nói:
- Tinh ... Tinh Tú Lão Quái!
Phong Ba Ác lớn tiếng:
- Đại ca, nhị ca, tam ca, chúng mình đi ra quyết một phen tử chiến.
Lão già đánh đàn nói:
- Không được đâu, nhất định là không được. Các ngươi ra khỏi đây
dẫu có chết uổng mạng cũng không sao nhưng lại làm lộ cái mật thất ở
dưới đất, trong này mấy chục mạng người cũng sẽ chết vì cái "nhất
dũng chi phu" của các ngươi.
Bao Bất Đồng nói:
- Tiếng nói của y có thể truyền đến tận đây không lẽ không biết
bọn mình chỗ nào hay sao? Ngươi cam nguyện làm con rùa rụt đầu rụt
cổ nhưng y nhất định lôi ngươi ra thì có trốn cũng không được.
Thư sinh sử phán quan bút nói:
- Nhất thời tam khắc y chưa thể vào được, tất cả chúng mình nên
tìm một cách gì cho phải lẽ.
Người cầm búa ngắn hình dáng như thợ thuyền kia trước sau vẫn
không nói năng gì, lúc này mới xen vào:
- Đinh sư thúc tài nghệ tuy cao thật nhưng muốn tìm hiểu được cơ
quan vào địa đạo này, ít ra cũng phải mất hai giờ. Nếu muốn tìm ra
cách tấn công vào lại phải mất thêm hai giờ nữa.
Ông già đánh đàn nói:
- Hay lắm, như thế chúng mình có bốn giờ để bàn tính kế sách, có
phải không nào?
Người cầm búa ngắn đáp:
- Bốn giờ rưỡi.
Ông già đánh đàn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại có thêm nửa giờ là sao?
Người cầm búa ngắn đáp:
- Trong bốn giờ đó, tiểu đệ có thể bố trí ba cơ quan, ngăn trở y
thêm được nửa giờ nữa.
Ông già đánh đàn nói:
- Hay lắm! Huyền Nạn đại sư, một khi đại ma đầu tới đây, anh em
tám người chúng tôi chắc không thể nào thoát khỏi độc thủ của y. Các
vị là người ngoài, một khi đại ma đầu kia chuyên tâm đối phó với bọn
sư điệt, các vị ắt có cơ hội bỏ chạy. Các vị nhất định đừng có ỷ mình
anh hùng hảo hán, tranh đấu với y làm gì. Nên biết rằng người nào
chạy thoát được độc thủ của Tinh Tú Lão Quái cũng đã là anh hùng
lắm rồi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Thối quá! Thối quá!
Mọi người hít hít nhưng không ai thấy có gì hôi, ai nấy nhìn Bao Bất
Đồng như dò hỏi. Bao Bất Đồng chỉ vào ông già đánh đàn nói:
- Người này đánh rắm thối quá, chịu không nổi.
Y mới rồi chỉ có một chiêu đã bị người đánh đàn chế ngự, trong
bụng vẫn còn ấm ức, tuy lúc đó là lúc đang bị hàn độc phát tác, chân
tay không có sức, nhưng cũng biết võ công mình kém y xa, đối thủ
càng mạnh y lại càng muốn chửi.
Người sử dụng bàn cờ lườm y một cái nói:
- Ngươi muốn thoát khỏi được bàn tay của đại sư huynh ta cũng đã
không phải dễ, huống hồ gì sư thúc ta võ công gấp mười lần đại sư
huynh ta, như vậy thử hỏi ai mới là người đánh rắm thối?
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Võ công cao cường với đánh rắm có
liên quan gì đâu. Võ công cao cường không lẽ không đánh rắm? Không
đánh rắm là nhất định phải võ công cao cường hay sao? Khổng phu tử
không biết võ công, không lẽ lão nhân gia là người chuyên đánh rắm ...
Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: "Những người này nói không hẳn
hoàn toàn vô lý, Bao tam đệ cùng với họ cãi qua cãi lại chỉ làm hao phí
thời gian". Y liền nói:
- Lai lịch của chư vị tại hạ chưa được cung kính lắng nghe thành
thử lầm lỡ đã nhiều, đánh nhầm vị nương tử đây, tại hạ muôn phần có
lỗi. Hôm nay nếu cùng chống lại yêu ma, tất cả coi như người nhà. Khi
cường địch tới, thủ hạ Cô Tô Mộ Dung công tử tuy chẳng bằng ai
nhưng bỏ chạy thì quyết không bỏ chạy, nếu quả không chống nổi thì
tất cả chúng ta cũng đành bỏ mạng thôi.
Huyền Nạn nói:
- Tuệ Kính, Hư Trúc các người nếu có cơ hội thì nên tìm cách
thoát thân, trở về đến chùa, bẩm lại cho phương trượng, để khỏi tất cả
bị yêu nhân quăng một mẻ lưới bắt sạch, đến tin tức cũng không truyền
được ra ngoài.
Sáu nhà sư Thiếu Lâm chắp tay đáp:
- Cung lãnh pháp chỉ.
Bọn Tiết Mộ Hoa và Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói như
thế, biết ông đã quyết chí cùng mọi người đồng sinh cộng tử, nhưng có
đối phó nổi với Tinh Tú Lão Quái hay không thì cũng không ai biết
được.
Ông già đánh đàn ngẩn ngơ, đột nhiên vỗ tay cười nói:
- Tất cả cùng nhau chết hết. Huyền Khổ sư huynh nếu như giờ này
còn sống thì từ rày về sau cũng không còn bao giờ được nghe vô
thượng chí khúc Nhất Vi Ngâm của ta nữa, ta lẽ nào còn vì cái chết của
y mà thương tâm? Ôi! Có ngưới bảo Khang Quảng Lăng này là một tên
cực kỳ ngốc nghếch, ta vẫn không phục, thế nhưng xem ra nếu không
phải là cực kỳ ngốc thì cũng hơi hơi ngốc.
Bao Bất Đồng nói:
- Nhà ngươi chính hiệu là tên đại ngốc, là tên cực kỳ khù khờ.
Ông già đánh đàn Khang Quảng Lăng đáp:
- Ta cũng chẳng ngốc bằng ngươi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi ngốc gấp mười lần ta.
Khang Quảng Lăng nói:
- Ngươi ngốc gấp trăm lần ta.
Bao Bất Đồng nói:
- Ngươi ngốc gấp ngàn lần ta.
Khang Quảng Lăng nói:
- Ngươi ngốc gấp vạn lần ta.
Bao Bất Đồng nói:
- Ngươi ngốc gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, nghìn vạn lần, vạn
vạn lần ta.
Tiết Mộ Hoa chen vào:
- Hai vị kẻ tám lạng, người nửa cân, không người nào ngốc hơn
người nào. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm, các vị về đến chùa rồi,
phương trượng đại sư hỏi đến tiền nhân hậu quả e rằng quí vị không trả
lời được. Việc này vốn dĩ là một điều đáng hổ thẹn của tệ phái, đáng
lẽ không cho người ngoài hay. Thế nhưng để tiêu diệt cái họa hoạn cho
võ lâm, nếu không do các cao tăng Thiếu Lâm chủ trì đại cuộc thì khó
mà thành công. Tại hạ phải thuật lại tỏ tường cho quí vị, có điều các vị
chỉ nói lại cho phương trượng của quí tự chứ đừng nói với ai khác.
Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc cùng đáp:
- Những gì Tiết Thần Y nói ra đây, bọn tiểu tăng chỉ nói cho
phương trượng tệ tự nghe, ngoài ra quyết không nói cho ai khác nửa
câu.
Tiết Mộ Hoa nhìn Khang Quảng Lăng nói:
- Đại sư ca, những nguyên do trong vụ này, tiểu đệ muốn nói cho
mọi người nghe.
Khang Quảng Lăng tuy vị trí đứng đầu tám người, võ công cũng cao
hơn các đàn em xa lắc nhưng lại là người tính tình ấu trĩ, Tiết Mộ Hoa
sở dĩ hỏi ông ta một câu cũng chỉ vì có người ngoài nên muốn cho đẹp
mặt. Khang Quảng Lăng đáp:
- Lạ nhỉ, mồm là mồm của ngươi, ngươi muốn nói thì cứ nói, sao
lại hỏi ta?
Tiết Mộ Hoa nói:
- Huyền Nạn đại sư, Đặng sư phó, thụ nghiệp ân sư của chúng tôi
ở trong võ lâm người ta gọi là Thông Biện tiên sinh ...
Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên cả bọn ai nấy ngạc nhiên, cùng
hỏi:
- Vậy sao?
Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á lão nhân. Ông ta vừa điếc
vừa câm nhưng lại lấy ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh, đệ tử của
ông ta người nào cũng bị dùi thủng tai cho điếc, cắt lưỡi cho câm trên
giang hồ ai ai cũng biết. Thế nhưng bọn Khang Quảng Lăng ai nấy tai
thính miệng trơn, như thế quả thật lạ kỳ.
Tiết Mộ Hoa nói tiếp:
- Môn hạ đệ tử của gia sư ai ai cũng vừa câm vừa điếc là việc chỉ
mới vài chục năm nay. Còn trước đó, gia sư không phải là người câm,
cũng chẳng điếc, mà vì bị sư đệ là Đinh Xuân Thu khích, biến thành
câm điếc.
Bọn Huyền Nạn ai nấy ồ lên kinh ngạc. Tiết Mộ Hoa nói:
- Tổ sư chúng tôi cả thảy chỉ thu hai người đệ tử, đại đệ tử họ Tô,
tên trên Tinh dưới Hà, đó là gia sư, nhị đệ tử Đinh Xuân Thu. Võ công
hai người vốn ngang ngửa nhau, thế nhưng về sau mới phân thành kẻ
cao người thấp ...
Bao Bất Đồng chen vào:
- Ha ha, chắc hẳn là sư thúc ngươi Đinh Xuân Thu thắng được sư
phụ ngươi, cái đó còn việc gì phải nói.
Tiết Mộ Hoa tiếp:
- Nói ra thì cũng không hẳn vậy. Tổ sư chúng tôi học đủ mọi thứ
trên trời đưới đất, bụng chứa bao la vạn tượng ...
Bao Bất Đồng nói:
- Chưa chắc đâu!
Tiết Mộ Hoa biết người này chuyên môn cà khịa với người khác
nên không ngó ngàng gì đến y, vẫn tiếp tục nói:
- Ban đầu sư phụ chúng tôi và Đinh Xuân Thu chỉ cùng học võ
công, nhưng về sau sư phụ chúng tôi phân tâm, học tổ sư gia đánh đàn,
âm vận ...
Bao Bất Đồng chỉ vào Khang Quảng Lăng nói:
- Ha ha, cái môn đánh đàn quỉ quái của ngươi là học ở đó chứ gì?
Khang Quảng Lăng trừng mắt nhìn y nói:
- Bản lãnh của ta không học sư phụ không lẽ học của ngươi sao?
Tiết Mộ Hoa nói:
- Nếu như sư phụ ta chỉ học một môn đánh đàn thì cũng không có
gì vướng mắc lắm, có điều tổ sư gia sở học quá bao la, cầm kỳ thư họa,
y bốc tinh tướng, công nghệ tạp học, buôn bán cấy trồng, cái gì cũng
biết, cái gì cũng tinh. Sư phụ ta lúc đầu chỉ học đánh đàn, chẳng bao
lâu lại học đánh cờ, rồi sang thư pháp, rồi sang hội họa.
Các vị thử nghĩ xem, mỗi môn môn nào cũng hao phí rất nhiều thời
gian tâm huyết, Đinh Xuân Thu lúc đầu cũng giả vờ học thử, nhưng chỉ
dăm bữa nửa tháng thì bảo là mình tư chất đần độn, khó mà học cho
xong, nên chỉ chuyên tâm về võ công thôi. Cứ như thế tám năm, mười
năm, hai sư huynh đệ võ công liền có kẻ cao người thấp.
Huyền Nạn liên tiếp gật gù nói:
- Chỉ một môn đánh đàn hay chơi cờ không thôi cũng đã hao sinh
lực một nửa đời người, vậy mà Thông Biện tiên sinh tinh thông mấy
loại, quả thực khó thay. Còn Đinh Xuân Thu chuyên tâm một môn, võ
công thắng được sư huynh thì cũng không có gì là lạ.
Khang Quảng Lăng nói:
- Lão ngũ, còn một việc hết sức quan trọng, sao ngươi không nói
ra đi, mau lên, mau lên!
Tiết Mộ Hoa nói:
- Đinh Xuân Thu chuyên tâm học võ, vốn dĩ cũng là chuyện tốt,
có điều ... có điều ... ôi ... chuyện này nói ra, thật xấu xa cho sư môn
quá. Nói tóm lại, Đinh Xuân Thu sử dụng mọi thủ đoạn hèn hạ, không
biết học đâu ra mấy môn tà thuật cực kỳ lợi hại, đột nhiên ra tay đánh
tổ sư gia bọn ta trọng thương.
Tổ sư gia vốn dĩ thân mang tuyệt học, tuy bị ám toán bất ngờ không
kịp đề phòng nhưng vẫn gắng gượng chống trả được cho đến khi sư phụ
bọn ta đến cứu viện. Võ công sư phụ bọn ta không bì được với tên ác
tặc, sau một trận ác đấu, sư phụ ta cũng bị thương còn tổ sư gia rơi
xuống dưới thâm cốc, chẳng biết sống chết thế nào.
Sư phụ ta vì tạp học mà xao nhãng võ công nhưng những môn đó
không phải không có chỗ dùng. Vào lúc nguy nan, sư phụ ta thi triển
thuật kỳ môn độn giáp, ngũ hành bát quái làm loạn tai mắt Đinh Xuân
Thu khiến y không thể giải được.
Đinh Xuân Thu không thể nào phá trận mà vào giết sư phụ ta, hơn
nữa, y cũng biết bản môn còn nhiều thần công áo diệu mà tổ sư gia
chưa truyền cho hai sư huynh đệ, ắt rằng khi lâm tử ắt thể nào cũng nói
cho sư phụ ta biết nơi cất dấu bí cập, cần phải từ từ bức bách sư phụ ta
thổ lộ, vì thế hai người mới đính ước với nhau, nếu như sư phụ ta từ nay
không mở miệng nói một câu nào thì y sẽ không đi tìm sư phụ ta trả
đũa.
Khi đó môn hạ của sư phụ ta chỉ gồm tám đứa đệ tử chưa thành tài.
Sư phụ ta mới viết một phong thư khai trừ cả tám người không nhận
làm học trò nữa, từ đó quả nhiên giả vờ câm điếc, không nghe không
nói, nếu có thu đệ tử cũng chọc tai cắt lưỡi, lập ra Lung Á Môn.
Theo như ta đoán ý của sư phụ, chắc là cực kỳ hối hận năm xưa đã
phân tâm theo đuổi các môn tạp học để đến nỗi võ công không bằng
Đinh Xuân Thu nên sau khi câm điếc rồi, những môn tạp học đó không
hề dạy nữa.
Anh em sư huynh đệ bọn ta tám người, ngoài võ công ra còn học
của sư phụ một môn tạp học. Đó là từ trước khi Đinh Xuân Thu phản
thầy, lúc đó gia sư chưa thấy rõ được cái hại to lớn của phân tâm, nên
không cấm đoán mà còn khuyến khích, gia công chỉ điểm. Khang đại
sư huynh Quảng Lăng học đánh đàn.
Bao Bất Đồng nói:
- Y đúng là "đàn mình mình nghe cũng còn chẳng lọt tai".
Khang Quảng Lăng hầm hầm hỏi lại:
- Ngươi bảo ta đàn không hay phải không? Để ta đàn thử cho
ngươi nghe.
Vừa nói vừa để cây dao cầm lên trên gối. Tiết Mộ Hoa vội vàng
xua tay chặn lại rồi chỉ vào người cầm bàn cờ:
- Phạm nhị sư huynh Bách Linh, học môn cờ vây, trên đời này khó
có ai gọi là địch thủ.
Bao Bất Đồng đưa mắt nhìn Phạm Bách Linh rồi nói:
- Thảo nào ngươi dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ làm
bằng từ thiết, hút binh khí người ta, không khỏi lợi thế, chẳng phải là
hành vi của kẻ chính nhân quân tử.
Phạm Bách Linh đáp:
- Trong thuật đánh cờ, cố nhiên là phải đường đường chính chính
nhưng kỳ binh ngụy đạo cũng chẳng cấm đoán.
Tiết Mộ Hoa nói tiếp:
- Bàn cờ của Phạm nhị sư ca sở dĩ dùng nam châm đúc thành, vốn
là để nghiên cứu kỳ thuật. Dù cho đi đứng nằm ngồi, đột nhiên nghĩ
đến một thế cờ đều có thể dùng quân đen quân trắng bày thành trận
ngay. Bàn cờ của anh ta làm bằng từ thiết, để quân cờ bằng sắt lên, dù
trên xe trên ngựa cũng không xê xích, rơi rụng. Về sau để cho tiện với
kỳ nghệ nên dùng luôn bàn cờ làm binh khí, quân cờ dùng làm ám khí
chứ không phải muốn dùng bàn cờ bằng từ thiết để lấn lướt người ta.
Bao Bất Đồng trong bụng cũng đồng ý nhưng mồm vẫn lèm bèm:
- Nói thế thật chẳng thông, không thông chút nào. Với võ công
như Phạm lão nhị, nếu có dùng một bàn cờ gỗ, dùng quân cờ sắt gắn
lên, lẩn hẳn vào trong gỗ thì quân cờ đó còn làm sao rơi ra được?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Thế nhưng cũng không tiện bằng bàn cờ sắt. Còn Cẩu tam sư ca
của ta đơn danh là Độc, tính thích đọc sách, đọc đủ mọi loại, sách gì
cũng ngó đến, là một túc nho bụng đầy chữ nghĩa, chắc các vị cũng đã
lãnh giáo qua rồi.
Bao Bất Đồng nói:
- Tiểu nhân chi nho thì có đáng gì!
Cẩu Độc giận dữ hỏi:
- Cái gì? Ngươi bảo ta là "tiểu nhân chi nho" ư? Không lẽ ngươi là
"quân tử chi nho" chăng?
Bao Bất Đồng đáp:
- Đâu dám! Đâu dám!
Tiết Mộ Hoa biết rằng một khi hai người tranh cãi rồi, có đến ba
ngày ba đêm cũng chưa dứt vội vàng ngắt ngang, chỉ vào thư sinh sử
dụng phán quan bút:
- Còn đây là tứ sư ca của ta, giỏi về nét đan thanh, sơn thủy nhân
vật, cỏ cây hoa lá món gì cũng tinh xảo. Y họ Ngô, trước khi vào làm
môn đệ gia sư, đã từng làm chức lãnh quân của Tống triều thành thử ai
ai cũng gọi y là Ngô lãnh quân.
Bao Bất Đồng nói:
- E rằng lãnh quân đánh đâu thua đó, vẽ vời thì người chẳng ra
người, ngợm chẳng ra ngợm.
Ngô lãnh quân đáp:
- Nếu như phải vẽ tôn dung của các hạ, thì đúng là nhân quỉ nan
phân.
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:
- Lão huynh khi nào rảnh, lấy dung mạo Bao lão tam này làm mẫu
vẽ một bức Quỉ Thú Đồ thì thật hay lắm.
Tiết Mộ Hoa cười nói:
- Bao huynh anh tuấn tiêu sái, sao lại quá khiêm tốn như thế? Tại
hạ đứng hàng thứ năm, học môn y thuật, trên giang hồ cũng có chút
danh còm, thật không dám quên ơn của sư phụ.
Bao Bất Đồng nói:
- Ho cảm phong hàn thì may ra chữa được, còn gặp phải hàn độc
của tại hạ thì cũng bó tay. Cái đó đúng là bệnh nặng chữa không xong,
bệnh nhẹ chữa không chết. Ha ha, cái tiếng Thần Y quả là danh bất hư
truyền.
Khang Quảng Lăng giơ tay vuốt râu, đưa mắt nhìn Bao Bất Đồng:
- Vị lão huynh này tính tình kỳ khôi, thật đúng là không giống ai.
Bao Bất Đồng đáp:
- Ha ha, ta họ Bao, tên Bất Đồng, thì dĩ nhiên là không giống ai
rồi.
Khang Quảng Lăng cũng cười khà khà nói:
- Ngươi họ Bao thật sao? Tên Bất Đồng thật sao?
Bao Bất Đồng đáp:
- Không lẽ còn giả hay sao? Này, còn vị nhân huynh chuyên chế
tạo cơ quan đây, hẳn là tinh thông mộc nề xây cất, môn hạ của Lỗ Ban
tiên sư chăng?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Chính thế! Lục sư đệ Phùng A Tam, vốn dĩ là thợ mộc xuất thân,
trước khi đầu nhập sư môn từng là một người thợ khéo, về sau lại học
thêm nghề của gia sư, khéo càng thêm khéo. Thất sư muội họ Thạch,
giỏi về hoa cỏ, kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ cây nào cô ta trồng cũng
tốt tươi.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Dược vật Thạch cô nương dùng để làm ta mê man ắt hẳn lấy từ
các loại phấn hoa chứ không phải thuốc độc.
Người đàn bà xinh đẹp họ Thạch kia khuê danh là Thanh Lộ, mỉm
cười đáp:
- Mới rồi quả là đắc tội, mong Đặng lão sư tha thứ cho.
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Tại hạ lỗ mãng, ra tay quá nặng, mong cô nương rộng lượng.
Tiết Mộ Hoa chỉ vào người cứ mở miệng là hát xướng nói:
- Bát đệ Lý Khổi Lỗi cả đời chỉ mê diễn trò đóng tuồng, dở dở
ương ương thành thử võ học không khỏi chểnh mảng. Ôi, thế nhưng nào
chỉ mình y đâu! Bọn chúng tôi tám người, ai ai cũng đều thế cả. Thực
ra võ công sư phụ chúng tôi truyền thụ tu tập cũng chưa xong vậy mà
còn ôm đồm nhiều thứ, học cả tuyệt chiêu của người ngoài, đến nỗi ...
ôi ...Lý Khổi Lỗi vẫn nằm dưới đất, hát lên:
Cô vương đây chính thị,
Lý Tồn Húc là ta Giang sơn nào đáng trọng,
Đóng tuồng mới thật ưa.
Ải ải ải!
Thích ơi là thích.
Bao Bất Đồng nhại lại:
Cô vương đây chính thị,
Tên gọi Lý Tự Nguyên,Giang sơn ta lấy được,
Chém đầu đứa hôn quân.
Gã đồ gàn Cẩu Độc chen vào:
- Lý Tồn Húc bị bọn thủ hạ kép hát Quách Tòng Khiêm giết chết
chứ nào phải chết vì tay Lý Tự Nguyên.
Bao Bất Đồng không thông sử sách biết mình cãi không lại Cẩu
Độc bèn cất giọng ngâm:
Ử ử ử,
Nào ai còn phải hỏi,
Quách Tòng Khiêm là ta.
A a a!
Tần Thủy Hoàng cũng mỗ,
Đốt sách chôn học trò.
Học trò ta ghét nhất,
Bọn tiểu nhân chi nho.
Tiết Mộ Hoa nói tiếp:
- Bọn huynh đệ chúng tôi tám người tuy đã bị trục xuất ra khỏi sư
môn nhưng không dám quên ân đức giáo huấn của sư phụ nên mới lấy
cái tên Hàm Cốc bát hữu cốt để ghi nhớ năm xưa được thụ nghệ ở
ngoài ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ tưởng chúng tôi chỉ vì cũng cám
hấp như nhau ...
Bao Bất Đồng khịt khịt mũi nói:
- Hôi thật, hôi thật!
Cẩu Độc nói:
- Hệ Từ trong kinh Dịch có viết: "Lời kẻ đồng lòng, hôi cũng
thành lan". Hôi cũng là thơm, lão huynh chẳng biết gì cả.
Bao Bất Đồng đáp:
- Lời của lão huynh, mùi thơm như rắm.
Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:
- Không ai biết chúng tôi là huynh đệ đồng môn. Chúng tôi cũng
đề phòng Tinh Tú Lão Quái quay trở lại Trung Nguyên một mẻ vét
sạch nên chỉ hai năm gặp nhau một lần, còn lúc bình thường thì ở rải
rác mỗi người một nơi.
Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Thần Y nói rõ lai
lịch tám anh em, những nghi vấn trong lòng giảm đi quá nửa. Công Dã
Can hỏi lại:
- Nếu nói thế Tiết tiên sinh giả vờ chết, trong quan tài bố trí độc
dược cũng chỉ là để đối phó với Tinh Tú Lão Quái mà thôi. Thế tại sao
Tiết tiên sinh biết được là y sẽ đến đây?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Hai hôm trước đây, tôi đang ngồi không trong nhà, bỗng có bốn
người đến xin chữa bệnh, trong đó có một hòa thượng béo trục béo
tròn, trên ngực sau lưng có đến tám chiếc xương sườn bị gãy, bị thương
vì chưởng lực của phái Thiếu Lâm nhưng chỗ gãy đã nối lại rồi chỉ để
một thời gian cũng tự lành được, không có gì hung hiểm. Có điều trong
tạng phủ y có ẩn hàn độc, tuy không liên quan gì đến ngoại thương
nhưng chẳng bao lâu sẽ phát tác mà chết.
Huyền Nạn nói:
- Thật là xấu hổ! Y chính là Tuệ Tịnh hòa thượng, môn hạ phái
Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ thanh qui, làm điều càn rỡ nên tệ tự
đã sai người đi bắt y về để trừng trị theo giới luật, vậy mà y lại ra tay
trước đả thương người. Thì ra trên thân y đã vốn có hàn độc rồi nhưng
chuyện đó chẳng có liên can gì đến bọn ta, không biết ai đã đưa y đến
đây chữa trị?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Đi cùng với y là một bệnh nhân thật kỳ quái, đầu đội một cái
lồng sắt ...
Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cùng nhảy dựng lên kêu lớn:
- Đả thương bọn ta chính là tên tiểu tử đầu sắt đó.
Tiết Thần Y lạ lùng hỏi:
- Thanh niên đó công lực cao cường vậy sao? Tiếc thay lúc y đến
lật đà lật đật, ta không kịp đưa tay coi mạch, nếu không tình trạng nội
lực của y thế nào ít ra cũng biết được chút đầu dây mối nhợ.
Bao Bất Đồng hỏi thêm:
- Thế tiểu tử đó bị bệnh gì thế?
Tiết Thần Y đáp:
- Y muốn nhờ ta gỡ bỏ cái lồng sắt trên đầu y ra. Thế nhưng lúc ta
coi lại, cái lồng đó dính chặt vào đầu y rồi, không thể gỡ ra được.
Bao Bất Đồng nói:
- Lạ nhỉ? Không lẽ cái đầu sắt đó là do cha sinh mẹ đẻ ra đã có,
từ bé đã thế rồi sao?
Tiết Thần Y nói:
- Không phải thế. Cái lồng đó khi người ta chụp lên đầu y thì còn
nóng hổi thành thử làm lở loét, chín rục thịt ra, đến khi máu đông kết
thành sẹo rồi thì dính chặt vào mặt vào ót. Nếu phá đi thì sẽ lột luôn cả
mí mắt, miệng, mũi không còn ra hình thù gì nữa.
Bao Bất Đồng hạnh tai lạc họa, cười khẩy nói:
- Nếu y đã nhờ ông tháo ra thì cứ làm nát bấy ngũ quan lẫn khuôn
mặt, y đâu có trách gì ông được.
Tiết Thần Y nói:
- Ta còn đang ngẫm nghĩ xem có cách gì không, hai tên đồng bạn
của y bỗng lớn tiếng thúc giục, bảo ta mau mau ra tay. Họ Tiết này cả
đời có cái tính xấu hễ ai nhờ ta trị bệnh thì phải nói ngon nói ngọt, còn
như ỷ mạnh lấn lướt thì Tiết mỗ thà chết dưới đầu đao mũi kiếm chứ
nhất định không chữa chạy gì cả. Nhớ năm xưa anh hùng đại hội ở Tụ
Hiền Trang, gã Kiều Phong kia mạo hiểm đánh liều đưa một tiểu cô
nương đến nhờ ta chữa bệnh. Kiều Phong tuy ngang ngạnh tàn ác vô
cùng nhưng khi đến cầu ta, trong ngôn ngữ cũng không dám có chỗ nào
thất lễ ...
Ông ta nói tới đây, nghĩ đến về sau A Châu điểm huyệt ông ta, cạo
sạch bộ râu, quả là kỳ sỉ đại nhục trong đời nên không nói tiếp nữa.
Bao Bất Đồng nói:
- Ngươi phét lác cái gì? Họ Bao này cũng có cái tính chẳng giống
ai, nếu như ai muốn chữa bệnh cho ta thì phải ngon ngọt cầu xin, còn
như đối phương cậy mạnh áp bức, Bao mỗ thà để cho bệnh đến chết
chứ không cho ai chữa.
Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:
- Ngươi là cái quái gì mà báu thế? Người ta muốn chữa bệnh cho
ngươi mà phải năn nỉ, họa chăng ... họa chăng ...
Ông ta chưa nghĩ ra "họa chăng" cái gì thì Bao Bất Đồng đã tiếp:
- Họa chăng ngươi có là con ta thì mới thế.
Khang Quảng Lăng ngơ ngẩn, nghĩ bụng lời y quả không sai, nếu
như cha mình bị bệnh mà không chịu đi thầy lang thì mình đành phải
năn nỉ ông ta vậy. Ông ta là người rất biết đạo lý, không nghĩ đến
chuyện Bao Bất Đồng nói câu đó là chơi trèo mình, liền đáp:
- Đúng thật! Thế nhưng ta nào có phải là con ngươi đâu?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi có phải là con ta hay không, chỉ có mẹ ngươi mới biết chứ
ngươi làm sao mà biết được?
Khang Quảng Lăng ngẩn người nhưng rồi cũng gật gù nói:
- Ngươi nói quả có lý.
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nghĩ thầm: "Gã này đúng là một tên
đại ngốc, nếu mình còn tiếp tục chơi gác y thì có thắng cũng chẳng
vinh dự gì".
Công Dã Can nói:
- Tiết tiên sinh, hai người kia nếu quả ngôn ngữ vô lễ, ông liền từ
chối hay sao?
Tiết Thần Y gật đầu nói:
- Chính thị. Khi đó ta còn nói: "Tại hạ tài năng hữu hạn, không
làm được, chư quân đi kiếm người khác cao minh hơn". Gã đầu sắt đối
với ta hết sức khiêm cung, lúc ấy mới nói: "Tiết tiên sinh, y đạo của
ông thiên hạ vô song trên giang hồ đặt tên là Diêm Vương Địch, trong
võ lâm ai mà không kính ngưỡng? Tiểu nhân trước nay kính trọng bội
phục tiên sinh, gia phụ vốn cũng là bạn cũ của lão nhân gia, xin tiên
sinh mở lòng từ bi cứu chữa cho đứa con khốn khổ của cố nhân.
Mọi người ai cũng quan tâm đến lai lịch của gã đầu sắt, lập tức sáu
bảy người nhao nhao hỏi:
- Thế phụ thân y là ai?
Lý Khổi Lỗi đột nhiên xen vào:
- Y là con ai thì chỉ có mẹ y mới biết được chứ y làm sao mà biết?
Gã bắt chước giọng của Bao Bất Đồng không sai một mảy. Bao Bất
Đồng cười nói:
- Hay lắm, ngươi học cách nói của ta giống y chang, xem chừng
không cần phải bắt chước mà chính là cha nào con nấy.
Lý Khổi Lỗi lại hát:
Hoàng Đế đích thực mỗ,
Ông tổ cả Trung Nguyên,
Phàm là dân Hoa Hạ,
Có ai không cháu con.
Y muốn đóng vai ai là ý tưởng tuôn ra đóng được ngay vai đó, Bao
Bất Đồng lấn lướt chơi trèo y cũng chẳng để vào tai. Tiết Mộ Hoa tiếp
tục nói:
- Ta nghe gã đầu sắt tự nhận là con của người quen lập tức hỏi
ngay cha y là ai thì gã trả lời: "Tiểu nhân gặp cảnh không may làm
nhục đến tiên nhân cho nên tên của phụ thân không dám nhắc đến.
Thế nhưng khi tiên phụ còn tại thế, quả thực là chỗ chí giao với tiên
sinh, việc đó hoàn toàn có thật, tiểu nhân không dám đem cha mình ra
để đánh lừa ai".
Ta nghe thấy y thành khẩn như thế, chắc không phải là lời nói
không. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bằng hữu không phải là ít, nghe
y nói phụ thân đã qua đời rồi, trong nhất thời không đoán ra được là ai.
Ta cũng định khi tháo được cái mặt nạ cho y rồi, xem diện mạo may ra
biết được cha y là người nào.
Thế nhưng để gỡ được cái lồng sắt đó nhưng làm sao cho mặt y ít
bị tổn thương, quả không phải dễ, còn đang trầm ngâm thì một tên
đồng bạn của y liền nói: "Pháp chỉ của sư phụ, việc trước hết là trị cho
lành vết thương của hòa thượng Tuệ Tịnh, còn cái lồng sắt của gã này
tháo được hay không, chẳng quan hệ lắm". Ta nghe nói thế, lửa giận
bốc lên bừng bừng nói: "Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ông ta là cho các
ngươi, chứ làm sao bắt ta phải theo cho được?". Gã kia hầm hầm nói:
"Tên sư phụ của ta nói ra, chỉ e ngươi sợ đến vỡ mật. Lão nhân gia bảo
ngươi mau mau trị cho khỏi vết thương của nhà sư mập này, nếu còn
diên trì thời khắc, làm hỏng chuyện của lão nhân gia thì sẽ cho ngươi
đi chầu Diêm Vương ngay".
Khi ta vừa mới nghe y nói, trong bụng tức lắm thế nhưng y nói
xong thấy khẩu âm của y không thuần, lơ lớ giọng người Hồ ở Tây
Vực, nhìn lại diện mạo y thấy mắt sâu tóc quăn, khác hẳn người Trung
Hoa mình, chợt nghĩ ra một người bèn hỏi: "Ngươi từ biển Tinh Tú đến
đây chăng?". Người kia vừa nghe thế, mặt liền biến sắc nói: "Hừ, mắt
của ngươi sắc bén nhỉ? Đúng đó, ta từ Tinh Tú Hải đến đây. Nếu ngươi
đã đoán ra được thì mau mau chữa bệnh đi thôi". Ta thấy y ngang
nhiên nhận là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái, nghĩ thầm: "Thâm cừu của
sư môn không thể không báo". Ta liền giả vờ làm như sợ hãi lắm hỏi
thêm: "Đã từ lâu ngưỡng mộ pháp thuật của Đinh lão tiên ở biển Tinh
Tú thông thiên triệt địa, đệ tử khâm phục xiết bao nhưng chưa từng có
duyên bái kiến, không biết lão tiên lão nhân gia có đến Trung Nguyên
hay không?".
Bao Bất Đồng nói:
- Chậc, chậc! Ngươi nói Tinh Tú Lão Quái cũng được mà ngươi
nói Tinh Tú Lão Ma cũng được, hà cớ gì cam tâm hạ mình, gọi y là
"lão tiên"! Thật đáng thẹn ơi là đáng thẹn!
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tam đệ, Tiết tiên sinh cố ý dùng lời thăm dò, chứ có phải thực
lòng gọi y là "lão tiên" đâu?
Bao Bất Đồng nói:
- Chuyện đó thì dĩ nhiên đệ biết rồi. Nếu như muốn dò hỏi thì lại
càng phải gọi là "lão quỉ", "lão yêu", "lão tặc" để khích cho bọn yêu
tử tặc tôn gầm lên cũng phải thổ lộ chân tình chứ gì nữa.
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Lời của Bao tiên sinh quả là hữu lý. Lão phu không giỏi dối trá,
miệng vừa gọi y là "lão tiên" nhưng mặt lại lộ vẻ phẫn nộ. Yêu nhân
kia cực kỳ giảo hoạt, vừa thấy thế là nghi ngay, giơ tay chộp lấy mạch
môn của mỗ, quát hỏi: "Ngươi tra vấn hành tung sư phụ ta là dụng ý
gì?". Ta thấy việc bị bại lộ, đối phó với môn hạ phái Tinh Tú không
thể dung tình được, lật tay đâm ra một chỉ điểm ngay vào tử huyệt của
y. Yêu nhân thứ hai rút ngay ra một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc,
xông tới đâm.
Ta trong tay không có binh khí, yêu nhân đó võ công cũng ghê gớm
lắm, trong lúc nguy cấp bỗng tên đầu sắt đưa tay đoạt con dao găm nói:
"Sư phụ sai chúng ta đi cầu thầy chữa thuốc chứ nào có bảo mình đi
giết người". Yêu nhân kia giận dữ đáp: "Thập nhị sư đệ bị y giết rồi,
ngươi không thấy hay sao? Sao ... sao ngươi ... ngươi dám che chở cho
người ngoài?". Gã đầu sắt nói: "Nếu ngươi muốn giết vị thần y này là
tùy ngươi, thế nhưng nếu gã sư mập này không cứu chữa, tính mạng
khó toàn. Y không chỉ đường được để đi tìm băng tàm, sư phụ sẽ hỏi
đến ngươi đó".
Ta nhân lúc hai đứa đó cãi nhau, lập tức rút binh khí ra. Yêu nhân
kia thấy giết ta không phải dễ, lại nghe tên đầu sắt nói cũng phải liền
nói: "Nếu đã thế, ngươi bắt lấy tên quỉ y sinh này đem về cho sư phụ".
Gã đầu sắt đáp: "Hay lắm!". Y vừa nói vừa đâm ngay thanh chủy thủ
vào ngực, giết luôn tên kia.
Mọi người ai nấy ồ lên kinh ngạc. Bao Bất Đồng nói:
- Thế thì có gì là lạ. Tên đầu sắt kia có chuyện cầu đến ông nên ra
tay giết đồng môn để lấy lòng.
Tiết Mộ Hoa thở dài một tiếng nói:
- Trong giờ phút đó, ta nào biết được chân ý của y ra sao, không
hiểu vì ta là bạn của phụ thân y, hay vì y muốn tỏ chút ân huệ với
mình. Ta vừa định hỏi, bỗng nghe đằng xa có một tiếng còi, gã đầu sắt
mặt liền biến sắc nói: "Sư phụ tại hạ giục phải quay về. Tiết bá phụ,
tốt hơn cả bá phụ chữa cho gã hòa thượng mập này đi. Sư phụ trong
lòng vui vẻ không chừng sẽ tha cho bá phụ cái tội giết đồ đệ của ông
ta". Ta đáp: "Tinh Tú lão yêu cùng ta thù sâu tợ bể, bất cứ ai có liên
quan với y một chút là ta nhất định không trị. Ngươi có giỏi thì cứ giết
ta đi".
Gã đầu sắt mới nói: "Tiết bá phụ, tiểu điệt quyết không dám đắc tội
với bá phụ". Y đang định giãi bày thì tiếng còi của Tinh Tú lão yêu lại
nổi lên, y bèn cắp gã sư mập hấp tấp chạy đi.
Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên rồi, hai tên đệ tử của lão chết
nơi nhà ta, sớm muộn gì rồi lão cũng tìm đến. Dẫu gã đầu sắt có dấu
giùm ta chăng nữa thì cũng chẳng dấu được lâu. Thành thử ta đành
phải giả chết, trong quan tài ám tàng thuốc độc cực mạnh mong sẽ dụ
được y tới. Toàn gia già trẻ lớn bé đều trốn trong địa đạo này. Khi các
vị đến tệ xá, người lão bộc của tại hạ, tuy trung thành thật đấy nhưng
đầu óc chậm lụt, lại tưởng các vị là kẻ đối đầu mà ta đang e ngại ...
Bao Bất Đồng nói:
- Ha ha, y lại tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái, còn
bọn chúng ta là đồ tử đồ tôn của y trong phái Tinh Tú. Bao mỗ và mấy
người bạn hình dung quái dị, bảo là yêu ma của phái Tinh Tú cũng còn
giống vài phần, thế nhưng Huyền Nạn đại sư cao nhã từ tường, đạo
mạo trang nghiêm, vậy mà lại nhận lầm thành Tinh Tú Lão Quái thì
quả là vô lễ thật.
Mọi người ai nấy cười ồ lên. Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:
- Quả đúng thế, việc đó đáng phải đánh đòn. Thế nhưng lại khéo
làm sao, cũng đúng vào dịp hai năm một lần tám anh em chúng tôi tụ
hội. Người lão bộc thấy tình thế gấp gáp, không đợi dặn dò, đốt ngay
lưu tinh hỏa pháo báo tin cho đồng môn lên. Lưu tinh hỏa pháo đó là
do lục sư đệ khéo léo chế tạo, bắn lên trên không rồi có thể chiếu ra
chung quanh mấy dặm, tám anh em đồng môn, mỗi người một kiểu
không giống nhau.
Chuyện này phải nói là vừa may, vừa không may. May là Hàm Cốc
bát hữu trong lúc nguy nan lại tụ lại một chỗ, chung sức kháng địch, thế
nhưng nếu như thế thì Tinh Tú Lão Quái một mẻ vét sạch, quả là cực
kỳ bất hạnh.
Bao Bất Đồng nói:
- Tinh Tú Lão Quái bản lãnh dẫu có lợi hại cũng chắc gì thắng
được cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn đại sư? Lại thêm bao
nhiêu binh tôm tướng cá chúng ta đứng bên hò hét trợ uy, liều chết một
trận thì đã biết mèo nào cắn mỉu nào. Việc gì phải ... việc gì phải ...
phải làm thế ...
Y ấp úng mấy tiếng, hai hàm răng đập vào nhau kêu lộp cộp, hàn
độc đang phát tác nói không nổi nữa. Lý Khổi Lỗi lớn tiếng hát:
Tay Kinh Kha bạo Tần kia phải chết,
Gió thổi hắt hiu chừ, người lạnh ngắt.
Tráng sĩ phều phào chẳng ra hơi,
Người run cầm cập răng lách cách.
Đột nhiên một bóng người thấp thoáng phóng tới dùng đầu húc vào
ngực y. Lý Khổi Lỗi "Ối trời" một tiếng, dùng vai đẩy y ra. Người kia
nắm được y rồi liền đấm đá túi bụi, chính là Nhất Trận Phong Phong
Ba Ác. Đặng Bách Xuyên vội kêu:
- Tứ đệ, không được làm càn.
Y đưa tay lôi Phong Ba Ác lại. Ngay lúc đó, một giọng nhỏ vo ve
truyền vào sơn động:
- Hỡi các đồ tử đồ tôn của Tô Tinh Hà, mau mau ra đầu hàng may
ra còn giữ được tính mạng, nếu còn dùng dằng thì đừng trách lão nhân
gia không nghĩ đến nghĩa khí đồng môn.
Khang Quảng Lăng giận dữ đáp:
- Tên này quả là không biết xấu, vẫn còn nói gì đến nghĩa khí
đồng môn.
Phùng A Tam quay sang nói với Tiết Mộ Hoa:
- Ngũ ca, cái hang này cứ xem thớ gỗ và đất cát thì phải kiến tạo
ít ra cũng ba trăm năm, không biết do thợ khéo của phái nào?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Đây là sản nghiệp tổ truyền của gia đình, là chỗ dùng để tị nạn
đời đời truyền xuống, quả ta không biết ai đã dựng nên.
Khang Quảng Lăng nói:
- Giỏi nhỉ, nhà ngươi có cái hang rùa thế này vậy mà trước nay
chưa từng hở môi cho ai biết.
Tiết Mộ Hoa sượng sùng:
- Đại ca rộng lượng cho. Cái hang này nào có phải cái gì đáng
khoe khoang, thành thử không dám đề cập ...
Nói chưa dứt câu bỗng nghe ầm một tiếng thật lớn, tưởng chừng như
có động đất, mọi người trong hang ai cũng thấy dưới chân lắc lư, đứng
không vững. Phùng A Tam thất sắc nói:
- Không xong rồi, Đinh lão tặc dùng thuốc nổ phá hoại, chỉ phút
chốc sẽ đến đây ngay.
Khang Quảng Lăng hầm hầm:
- Thật là hèn hạ vô sỉ không đâu cho hết. Tổ sư gia và sư phụ đều
là những người tinh thông kiến trúc, giỏi cách sắp đặt cơ quan, coi đó là
bản lãnh chân thực của bản môn. Tên Tinh Tú Lão Quái này không phí
thì giờ giải quyết cách sắp xếp, chỉ dùng thuốc nổ phá vỡ, thế thì còn
xưng là đệ tử bản môn sao được?
Bao Bất Đồng khinh khỉnh nói:
- Y đã giết sư phụ, hại sư huynh, không lẽ ngươi vẫn còn coi y là
sư thúc trong bản môn hay sao?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Cái đó ...
Vừa lúc đó lại một tiếng ầm thật lớn, trong sơn động bụi bay mù mịt
khiến cho mọi người không ai mở mắt nổi. Trong động bị bịt mất lỗ
thông hơi, dưới sức chấn động không khí giật thật mạnh khiến người
nào cũng ù cả tai.
Huyền Nạn nói:
- Nếu như y dùng thuốc nổ tấn công vào địa động, chi bằng mình
đi ra thì hơn.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cả
bốn người cùng hùa theo khen phải. Phạm Bách Linh nghĩ Huyền Nạn
là một cao tăng Thiếu Lâm, nay trốn dưới hầm sâu để tránh địch, quả
thực tổn thương đến uy danh chùa Thiếu Lâm rất lớn, huống chi nay chỉ
còn một mất một còn, không thể nào ẩn dưới này mãi được bèn nói:
- Nếu đã thế thì tất cả bọn mình đi ra một lượt, cùng lão quái sống
mái một phen.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Huyền Nạn đại sư cùng lão quái không thù không oán, chẳng
may bị vướng mắc vào vụ này, vậy xin chư tăng chùa Thiếu Lâm tụ
thủ bàng quan.
Huyền Nạn đáp:
- Mọi việc liên quan đến võ lâm Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm
đều muốn nhúng tay vào, xin các vị tha lỗi cho. Huống chi Huyền
Thống sư đệ viên tịch, cũng khởi đầu do trúng phải độc thủ của đệ tử
phái Tinh Tú, phái Thiếu Lâm và phái Tinh Tú nào phải là không thù
không oán đâu.
Phùng A Tam nói:
- Đại sư trượng nghĩa tương trợ, sư huynh đệ chúng tôi cực kỳ cảm
kích. Chúng mình theo đường cũ mà ra để cho lão quái kinh hoảng một
phen.
Mọi người đều gật đầu đồng ý. Phùng A Tam lại nói:
- Gia quyến của Tiết ngũ ca và hai vị Bao Phong có thể ở lại nơi
đây, lão quái chưa chắc đã tìm ra được.
Bao Bất Đồng đưa mắt lườm y nói:
- Sao ngươi không ở lại đi có hay hơn không?
Phùng A Tam vội vàng phân trần:
- Tại hạ nào có dám coi thường hai vị, có điều hai người đang bị
trọng thương, nếu phải ra tay e rằng không thuận lợi lắm.
Bao Bất Đồng đáp:
- Càng bị thương nặng ta đánh ra kình lực càng mạnh thêm.
Bọn Phạm Bách Linh ai nấy lắc đầu, thấy người này quả là ngang
bướng. Kế đó Phùng A Tam vận động cơ quan, nhanh nhẹn tiến lên
trước. Chỉ nghe kẹt kẹt mấy tiếng, cửa hang mở được một khe nhỏ,
Phùng A Tam liền ném hỏa pháo ra, ầm ầm ầm ba tiếng, khói trắng
mù trời. Ba viên hỏa pháo phá vỡ thạch bản đậy miệng hang một lỗ
lớn đủ một người chui lọt, Phùng A Tam lại ném ra thêm ba viên hỏa
pháo nữa, sau đó chuồi người phóng qua.
Hai chân Phùng A Tam chưa chạm đất, trong khói trắng mịt mù một
bóng đen lướt ngang qua mình xông vào đám người đang đứng ở bên
ngoài kêu lớn:
- Tên nào là Tinh Tú Lão Quái, họ Phong muốn gặp ngươi.
Người đó chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Y thấy trước mặt
có một gã mặc áo gai liền quát:
- Nếm của ta một quyền!
Bình một tiếng đã đánh trúng ngay ngực y. Gã đó là đệ tử thứ chín
của phái Tinh Tú, thân hình lảo đảo, quyền thứ hai của Phong Ba Ác
lại trúng ngay vai. Chỉ nghe chát chát bộp bộp liên miên bất tuyệt,
Phong Ba Ác ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, dường như quyền nào chưởng
nào cũng trúng đối phương. Có điều sau khi bị thương rồi không còn
lực khí, đánh không ngã được đệ tử phái Tinh Tú. Huyền Nạn, Đặng
Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa tất cả mọi người đều từ
dưới động chui lên.
Một lão già thân hình cao to đứng ngay nơi góc tây nam, đằng trước
sau lưng, bên trái bên phải cao thấp hai hàng không đều đứng lố nhố,
gã đầu sắt dĩ nhiên cũng ở trong số đó. Khang Quảng Lăng kêu lên:
- Đinh lão tặc, sao ngươi chưa chết? Ngươi còn nhớ ta không?
Lão già đó chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, y chỉ liếc
mắt đã nhận ra đối phương gồm những ai, quạt trong tay phe phẩy mấy
cái, nói:
- Mộ Hoa hiền điệt, nếu như ngươi có thể chữa khỏi được gã sư
Thiếu Lâm mập thì ta tha cho ngươi khỏi chết, nhưng có điều phải bái
ta làm thầy, gia nhập làm môn hạ phái Tinh Tú.
Y chỉ mong Tiết Mộ Hoa chữa khỏi Tuệ Tịnh để y đưa mình lên
đỉnh núi Côn Lôn bắt con băng tàm, xem giọng lưỡi chẳng coi những
người trước mặt vào đâu, tưởng như sinh tử tồn vong của cả bọn đều do
y muốn làm gì thì làm. Tiết Mộ Hoa biết rõ người sư thúc này rất lợi
hại, trong bụng cũng hơi e dè nhưng vẫn nói cứng:
- Đinh lão tặc, trên đời này ta chỉ nghe lời một người, chỉ có lão
nhân gia bảo ta chữa cho ai thì ta chữa cho người đó. Ngươi muốn giết
ta, thật dễ như trở bàn tay. Thế nhưng bảo ta trị bệnh cho người thì
ngươi phải đi cầu vị lão nhân gia đó mới được.
Đinh Xuân Thu lạnh lùng hỏi lại:
- Ngươi chỉ nghe lời Tô Tinh Hà, có phải thế không?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Chỉ có giống cầm thú mới có dạ khi sư diệt tổ.
Lời của ông ta nói ra, Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh, Lý
Khổi Lỗi cả bọn cùng reo hò tán trợ. Đinh Xuân Thu nói:
- Được rồi, các ngươi đều là những đứa học trò ngoan của Tô Tinh
Hà, thế nhưng Tô Tinh Hà đã từng cho người đến báo cho ta hay, bảo
là đã đuổi cả tám đứa chúng bay ra khỏi môn tường, không coi là môn
hạ nữa. Hay là họ Tô kia không đếm xỉa đến lời đã nói ra, vẫn lén lút
giữ danh phận sư đồ?
Phạm Bách Linh đáp:
- Nhất nhật vi sư, chung thân như phụ. Sư phụ quả đã đuổi bọn
tám người chúng ta ra khỏi môn phái thật, trong bao nhiêu năm nay
bọn ta chưa hề gặp lại được lão nhân gia một lần, có lên núi bái yết lão
nhân gia cũng không tiếp. Thế nhưng cái bụng kính yêu sư phụ của
chúng ta không vì thế mà giảm chút nào. Họ Đinh kia, tám anh em ta
sở dĩ biến thành thứ ma trơi vất vưởng như thế này, không môn không
phái cũng là do ngươi tên lão tặc mà ra.
Đinh Xuân Thu mỉm cười:
- Ngươi nói đúng lắm. Tô Tinh Hà vì sợ ta hạ độc thủ, đem từng
đứa ra giết sạch nên mới đuổi các ngươi ra khỏi môn tường để mong
bảo toàn cái mạng ong kiến của chúng bay. Y không đục tai, cắt lưỡi
các ngươi đủ biết tình cảm sâu xa là dường nào. Ôi, cứ lèo nhèo như
tuồng đàn bà thì làm sao nên chuyện lớn? Ha ha, hay lắm, hay lắm.
Các ngươi nói lại đi, Tô Tinh Hà có còn là sư phụ chúng bay nữa hay
không?
Bọn Khang Quảng Lăng nghe y nói thế đều hiểu rằng nếu như
không phủ nhận danh hiệu "đệ tử của Tô Tinh Hà" thì Đinh Xuân Thu
sẽ ra tay giết họ ngay, thế nhưng ơn thầy sâu nặng, lẽ nào tham sống
sợ chết mà phản bội sư môn, trong tám người trừ Thạch Thanh Lộ đang
bị thương nặng, còn ở trong địa động không ra ngoài, cả bảy người
đồng thanh nói:
- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất khỏi môn tường nhưng dạnh phận
thầy trò không bao giờ thay đổi.
Lý Khổi Lỗi đột nhiên lớn tiếng hát:
Ta mẹ ruột của ngươi,
Tinh Tú Lão Quái ơi!
Năm xưa ta tư thông,
Với con Hao Thiên Khuyển,
Đẻ ra loài súc sinh.
Đánh gãy cái cẳng chó,
Đồ khốn kiếp hôi tanh.
Y bắt chước giọng một bà già, kế đó gâu gâu gâu sủa lên mấy
tiếng. Khang Quảng Lăng, Bao Bất Đồng cả bọn ai cũng cười sằng sặc.
Đinh Xuân Thu giận không đâu cho hết, đôi mắt lóe ra một tia sáng lạ
kỳ, tay áo trái phất một cái, một đốm lân tinh màu xanh biếc nhanh
hơn cả sao băng bắn vào người Lý Khổi Lỗi. Lý Khổi Lỗi một bên
chân đã gãy, tay chống gậy nên không còn nhanh nhẹn muốn tránh né
cũng không kịp nữa rồi, nghe soẹt một tiếng, áo quần bốc cháy. Y vội
vàng lăn tròn dưới đất nhưng càng lăn thì đốm lửa lân tinh càng bốc
lên. Phạm Bách Linh vội vàng bốc bùn đất rắc vào người y.
Tay áo của Đinh Xuân Thu lại liên tiếp bắn ra thêm năm đốm hỏa
tinh nữa, chia ra bắn vào năm người Khang Quảng Lăng, chỉ trừ Tiết
Mộ Hoa mà thôi. Khang Quảng Lăng song chưởng cùng vung lên, đánh
bạt đốm lân tinh. Huyền Nạn cũng dao động song chưởng, đánh tan hai
đốm lửa khác. Thế nhưng Phạm Bách Linh, Phùng A Tam hai người
vẫn bị trúng lân hỏa, chỉ trong chốc lát ba người bọn Lý Khổi Lỗi bị
đốt cháy kêu ầm cả lên.
Lời ca tụng sư phụ của bọn đệ tử Đinh Xuân Thu liền vang lên:
- Sư phụ chỉ mới thi triển một trò vặt vãnh đã đốt chúng bay như
heo quay, sao chưa mau mau quì xuống đầu hàng.
- Sư phụ có tài thông thiên triệt địa, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai
giả, nay dạy cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết tay phái Tinh Tú.
- Sư phụ lão nhân gia đánh đâu được đó, công đâu cũng thắng, anh
hùng hảo hán xưa nay nghe thấy đều chạy giạt hết.
Bao Bất Đồng la lớn:
- Rắm thối quá! Làm ta ngứa muốn chết! Đinh lão tặc, ngươi quả
là đồ mặt dày.
Bao Bất Đồng nói chưa xong, hai điểm hỏa tinh đã bắn thẳng vào y.
Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can vội vàng mỗi người tung ra một
chưởng, đánh giạt hai đốm lửa nhưng cả hai cảm thấy ngực như trúng
phải một búa, hự lên một tiếng, lịch bịch lùi lại ba bước. Thì ra Đinh
Xuân Thu đưa nội lực cực kỳ hùng mạnh của ông ta vào trong đốm lửa,
Huyền Nạn nội lực tương đương nên khi đánh bạt hai đốm lửa vẫn
không bị thương, còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can thì chịu
không nổi.
Huyền Nạn lạng người đến trước Lý Khổi Lỗi đánh ra một chưởng,
chưởng lực nhẹ nhàng tống ra, phụp một tiếng áo đã nát bấy văng đi
một mảng lớn, nhưng đốm lân tinh đang cháy trên người y cũng bị đánh
tắt ngúm.
Một tên đệ tử phái Tinh Tú kêu lên:
- Con lừa trọc chưởng lực không phải yếu, so ra cũng được một
phần mười của sư phụ ta.
Một tên khác vội vàng cãi lại:
- Xì, chỉ được một phần trăm của sư phụ thôi.
Huyền Nạn nương theo tiếp thêm hai chưởng nữa, đánh tắt hai đốm
lửa lân tinh trên người Phạm Bách Linh và Phùng A Tam. Khi đó Đặng
Bách Xuyên, Công Dã Can, Khang Quảng Lăng cũng đã nhảy tới tấn
công bọn đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu vuốt bộ râu dài nói:
- Thiếu Lâm cao tăng quả thực công lực phi phàm, hôm nay lão
phu xin được lãnh giáo.
Nói xong tiến lên, tả chưởng nhẹ nhàng đánh vào Huyền Nạn.
Huyền Nạn đã biết Đinh lão quái toàn thân đầy chất độc, lại giỏi môn
Hóa Công Đại Pháp nên không dám sơ sẩy, lập tức song chưởng múa
tít lên, đánh liên tiếp mười tám chưởng liền. Mười tám chưởng đó liên
hoàn, tả chưởng chưa thu về hữu chưởng đã đánh ra, nhanh nhẹn dị
thường khiến cho Đinh Xuân Thu không có lúc nào ở không mà sử
dụng độc dược được. Môn Khoái Chưởng của phái Thiếu Lâm, quả
nhiên uy lực cực mạnh ép cho Đinh Xuân Thu phải liên tiếp thối lui,
Huyền Nạn đánh ra mười tám chưởng thì Đinh Xuân Thu phải lùi mười
tám bước. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng, hai chân lại liên
hoàn uyên ương, nhanh như chớp đá liền ba mươi sáu lần, bóng vùn vụt
khiến không ai biết đó là chân phải hay chân trái.
Đinh Xuân Thu triển động thân hình tránh né thật nhanh, ba mươi
sáu cú đá đó đều vuột ra ngoài, nhưng nghe bạch bạch hai tiếng, đầu
vai đã bị trúng hai quyền, thì ra Huyền Nạn đá hai cú sau cùng cũng
giơ tay đấm luôn hai cái. Đinh Xuân Thu tuy tránh được ngọn cước
nhưng không tránh kịp song quyền, thân hình loạng choạng kêu lên:
- Ghê gớm thật!
Huyền Nạn bỗng thấy choáng váng hoa cả mắt, lảo đảo muốn ngã,
biết có sự chẳng lành, quần áo Đinh Xuân Thu có tẩm thuốc độc, vừa
rồi đánh trúng y hai quyền đã bị ám toán, lập tức thở mạnh một cái,
chân khí trong người lưu chuyển, quyền bên trái lại đánh vào Đinh
Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu giơ hữu chưởng chặn cú đấm của Huyền Nạn, tiếp
theo chưởng bên trái tống ra. Huyền Nạn sau khi trúng độc cử động
không còn linh hoạt nữa nên không tránh nổi, đành giơ chưởng ra
chống đỡ. Đến nước đó hai cao thủ chỉ còn cách đấu bằng chân lực,
Huyền Nạn trong bụng hoảng thầm: "Ta không thể đấu nội lực với y
được". Thế nhưng nếu quyền không sử dụng nội kình thì chân khí của
đối phương ào tới ắt tạng phủ sẽ nát ngướu, thành thử biết là đi vào
chỗ chết nhưng vẫn phải vận sức lên chống đỡ. Ông vừa vận kình, bỗng
thấy nội lực cuồn cuộn chảy ra không cách gì giữ lại được nữa.
Chưa đầy thời gian uống một chén trà, Đinh Xuân Thu cười ha hả,
hất vai một cái, nghe bịch một tiếng đã xô Huyền Nạn ngã lăn quay,
toàn thân hư thoát không còn hơi sức. Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền
Nạn rồi đưa mắt nhìn quanh, thấy Công Dã Can và Phạm Bách Linh
hai người cũng nằm dưới đất đang run cầm cập, thì ra đã trúng phải hàn
độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra bọn Đặng Bách Xuyên, Tiết
Mộ Hoa thì đang đánh với các đệ tử khác, phái Tinh Tú có đến bảy
người hoặc chết, hoặc bị thương.
Đinh Xuân Thu cười một hồi dài, tay áo rộng phất lên, lướt tới sau
lưng Đặng Bách Xuyên cùng y đối một chưởng lại quay về đá một cái
trúng Bao Bất Đồng. Đặng Bách Xuyên hữu chưởng đụng phải Đinh
Xuân Thu, trong ngực cảm thấy trống trải, muốn hít một hơi ngưng thần
thì Đinh Xuân Thu lại đánh ra thêm một chưởng khác. Đặng Bách
Xuyên không còn cách nào hơn, chỉ còn nước xuất chưỡng ra đỡ, lòng
bàn tay thấy hơi lạnh, toàn thân đã mềm xèo không còn lực khí, trước
mắt chỉ thấy mờ mờ một làn sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú
bước tới giơ tay đẩy một cái, Đặng Bách Xuyên liền ngã lăn ra.
Chỉ trong khoảnh khắc các bộ thuộc của nhà Mộ Dung, chư tăng do
Huyền Nạn dẫn theo, bọn Khang Quảng Lăng Hàm Cốc bát hữu đều bị
Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi hai người chia nhau đánh ngã. Du
Thản Chi vồn dĩ nội lực cực kỳ hồn hậu tuy võ nghệ thật tầm thường
nhưng đã được Đinh Xuân Thu chỉ điểm ít ngày, cũng biết được bảy
tám chiêu chưởng pháp, lấy võ công mà luận thì so với những người
học võ bình thường cũng còn kém xa nhưng nhờ phát huy được hàn độc
của con băng tàm tích kết trong người thành ra uy lực phi phàm. Bọn
Công Dã Can xuất chưởng đánh trúng người y, vừa đụng phải đều bị
hàn độc trong người y phản kích bị thương, lại bị y đánh thêm một
chưởng không còn cách gì chống đỡ.
Khi đó chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương, ông ta xung
kích mấy lần, bọn đệ tử phái Tinh Tú đều chỉ mủm mỉm cười tránh ra,
cũng không trả đòn. Đinh Xuân Thu cười nói:
- Tiết hiền điệt, võ công ngươi so với các sư huynh đệ giỏi hơn
nhiều.
Tiết Mộ Hoa thấy các sư huynh đệ đồng môn từng người ngã xuống,
chỉ còn mình không sao cả, biết là Đinh Xuân Thu thủ hạ lưu tình. Ông
thở dài một tiếng nói:
- Đinh lão tặc, gã sư mập kia ngoại thương dễ khỏi, nội thương khó
lòng, chỉ còn sống được vài ngày, ngươi nghĩ có thể bức bách ta cứu
người ư, thôi đừng mơ tưởng hão.
Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi:
- Tiết hiền điệt lại đây!
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Ngươi muốn giết ta cứ việc giết, dù ngươi nói gì chăng nữa, ta
quyết không nghe lời.
Lý Khổi Lỗi lại hát rằng:
Đại nghĩa thay con người Tiết ngũ,
Há sánh cùng Tô Vũ kém chi.
Hai chục năm nơi đất Hồ di,
Vẫn một dạ hướng về đất Hán.
Đinh Xuân Thu mỉm cười, đi đến cách Tiết Mộ Hoa chừng ba bước
thì đứng lại, tả chưởng để nhẹ lên đầu vai y mỉm cười hỏi:
- Tiết hiền điệt, ngươi tập luyện võ công được bao nhiêu năm rồi?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Bốn mươi nhăm năm.
Đinh Xuân Thu nói:
- Bốn mươi nhăm năm, đông qua hè đến không phải dễ. Nghe nói
ngươi dùng y thuật trao đổi võ học với người, học được không ít các
chiêu thức tinh diệu của nhiều môn phái, có đúng vậy không?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Ta học những chiêu thức đó cũng chỉ mong dùng để giết ngươi,
ngờ đâu ... ngờ đâu dù chiêu thức tinh diệu mực nào, gặp phải tà thuật
cũng đành vô dụng ... ôi!
Nói xong lắc đầu thở dài. Đinh Xuân Thu nói:
- Không phải thế. Dù gì chăng nữa, nội lực mới là gốc rễ, chiêu số
chỉ là lá cành. Gốc rễ có vững chắc, lá cành mới tốt tươi, chiêu số
không phải hoàn toàn vô dụng. Ngươi đầu nhập môn hạ ta, ta sẽ truyền
cho ngươi nội lực thiên hạ vô song, từ nay tung hoành Trung Nguyên
thật dễ như lật bàn tay.
Tiết Mộ Hoa giận dữ đáp:
- Ta đã có sư phụ rồi. Muốn Tiết Mộ Hoa này vào làm môn hạ
ngươi, thà ta đập đầu mà chết còn hơn.
Đinh Xuân Thu mỉm cười:
- Nếu muốn đập đầu mà chết cũng cần phải có sức mới được. Nếu
như nội lực của ngươi bị hủy mất rồi, đi một bước cũng đã khó, nói gì
đến chuyện đập đầu mà chết? Bốn mươi nhăm năm khổ luyện, ha ha,
tiếc nhỉ, thật đáng tiếc.
Tiết Mộ Hoa nghe thế mồ hôi trán vã ra, cảm thấy bàn tay y đặt
trên vai mình hơi nóng lên, hiển nhiên y chỉ cần hơi động tâm một chút
là sử dụng ngay Hóa Công Đại Pháp, bốn mươi nhăm năm cần tu khổ
luyện của mình, lập tức đổ ra sông ra biển. Ông nghiến răng đáp:
- Ngươi lòng lang dạ sói dám giết cả sư phụ, tàn hại sư huynh, có
giết thêm tám người chúng ta thì cũng có là gì đâu? Bốn mươi năm khổ
luyện của ta bị hủy đi trong một buổi quả đáng tiếc thật, nhưng đến
tính mệnh còn chẳng giữ được, nói gì khổ công hay không khổ công?
Bao Bất Đồng reo lên:
- Mấy câu đó quả là cứng cỏi. Môn hạ phái Tinh Tú làm gì có ai
anh hùng như thế?
Đinh Xuân Thu nói:
- Tiết hiền điệt, ta tạm thời không giết ngươi, chỉ hỏi ngươi tám
câu: "Ngươi có chịu chữa cho gã sư mập đó không?". Câu thứ nhất
ngươi trả lời không chữa, ta sẽ giết đại sư huynh Khang Quảng Lăng
của ngươi. Câu thứ hai trả lời không chữa, ta sẽ giết nhị sư huynh Phạm
Bách Linh. Đứa sư muội thích trồng hoa của ngươi trốn đâu rồi? Thể
nào ta cũng kiếm ra nó. Câu thứ sáu hỏi ngươi không chữa ta sẽ giết
đứa sư muội xinh đẹp kia. Câu thứ bảy giết đến bát sư đệ Lý Khổi Lỗi.
Đến câu thứ tám hỏi ngươi, ngươi vẫn còn trả lời không chữa thì ngươi
thử đoán sẽ ra sao?
Tiết Mộ Hoa nghe y đưa ra phương pháp thảm khốc đó, mặt tái nhợt
run run đáp:
- Lúc đó ngươi sẽ giết ta thì cũng đâu có gì là lớn chuyện. Như thế
cả tám người cùng chết mà thôi.
Đinh Xuân Thu mỉm cười:
- Ta đâu có giết ngươi làm gì. Nếu câu thứ tám ngươi vẫn trả lời
không chữa, ta sẽ đi giết một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh Tô
Tinh Hà.
Tiết Mộ Hoa thất thanh kêu lên:
- Đinh lão tặc, ngươi có giỏi thì đụng tới một sợi lông sư phụ ta đi.
Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:
- Có gì mà không dám? Tinh Tú lão tiên xưa nay hành sự độc lai
độc vãng, hôm nay nói mai đã quên. Ta tuy đáp ứng Tô Tinh Hà là nếu
như y từ nay không mở miệng nói thì ta không giết y. Thế nhưng ngươi
làm ta bực mình, học trò nợ thì thầy phải trả, ta muốn đến giết y thì
trên đời này còn ai ngăn ta nổi?
Tiết Mộ Hoa trong bụng rối như mớ bòng bong, biết rằng tên lão tặc
này bức bách mình chữa chạy cho Tuệ Tịnh là có dụng ý cực kỳ âm
độc, nếu ra tay trị bệnh cho gã sư mập thì có khác gì nối giáo cho giặc,
thế nhưng nếu mình nhất định không bằng lòng, tính mệnh bảy người
anh em không bảo toàn được đã đành, ngay cả sư phụ Thông Biện tiên
sinh cũng phải chết dưới tay y. Ông trầm ngâm một hồi nói:
- Được, ta đành chịu khuất phục, có điều ta chữa khỏi cho gã sư
mập rồi, ngươi không được làm khó các vị bằng hữu nơi đây cùng sư
phụ và các sư huynh đệ của ta.
Đinh Xuân Thu mừng lắm, vội đáp:
- Được, được, được! Ta bằng lòng tha cái mạng chó cho chúng nó.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Đại trượng phu hôm nay trúng phải độc thủ của bọn gian tà, chết
cũng đành, ai cần ngươi tha mạng?
Y vốn dĩ tiếng oang oang như chuông nhưng lúc này chân khí hao
tán hết rồi, ngôn ngữ tuy vẫn khẳng khái hiên ngang nhưng giọng thều
thào chẳng ra hơi. Bao Bất Đồng la to:
- Tiết Mộ Hoa, chớ có tin y, chính miệng tên cẩu tặc này vừa mới
nói, y nói mà chẳng giữ lời.
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Đúng đó, ngươi vừa mới bảo "hôm nay nói mai đã quên".
Đinh Xuân Thu đáp:
- Tiết hiền điệt, ta hỏi ngươi câu thứ nhất: "Ngươi chữa hay không
chữa cho gã sư mập?".
Y vừa nói vừa duỗi chân phải ra, gót chân nhắm vào huyệt Thái
Dương của Khang Quảng Lăng, hiển nhiên nếu Tiết Mộ Hoa chỉ nói:
"Không chữa" là y đạp xuống ngay, giết Khang Quảng Lăng ngay lập
tức. Mọi người ai nấy tim đập thình thình, bỗng nghe một người nói lớn:
- Không chữa.
Người la lên câu đó không phải Tiết Mộ Hoa mà là Khang Quảng
Lăng. Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:
- Ngươi tưởng ta đạp một cái lấy mạng ngươi sao, đâu có dễ dàng
như thế.
Y quay lại nói với Tiết Mộ Hoa:
- Ngươi có muốn mượn tay ta giết tên đại sư ca này đi chăng?
Tiết Mộ Hoa thở dài:
- Thôi được! Thôi được! Ta bằng lòng chữa cho gã sư mập kia.
Khang Quảng Lăng chửi liền:
- Tiết lão ngũ, sao ngươi không biết nhục. Đinh lão tặc là đại cừu
nhân của sư môn, ngươi lẽ nào tham sống sợ chết, bị y uy hiếp phải
khuất phục?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Y giết anh em ta tám người cũng không có gì đáng kể. Thế
nhưng tên lão tặc này còn định đến gây chuyện với sư phụ nữa, sư ca
mới rồi không nghe y nói hay sao?
Nghĩ đến an nguy của sư phụ, bọn Khang Quảng Lăng không ai dám
nói thêm câu nào. Bao Bất Đồng nói:
- Nhát ...
Y định nói "nhát như cáy" nhưng y vừa mới nói được một chữ, Đặng
Bách Xuyên đã đưa tay bịt mồm y lại. Bao Bất Đồng đối với vị đại ca
này năm phần kính sợ, cố nhịn không chửi tiếp nữa. Tiết Mộ Hoa nói:
- Họ Đinh kia, ta đành phải khuất phục, trị bệnh cho nhà sư mập,
ngươi đối với bạn bè ta phải nể nang một chút.
Đinh Xuân Thu đáp:
- Được rồi, ta sẽ y lời ngươi.
Đinh Xuân Thu lập tức bảo đệ tử khiêng Tuệ Tịnh lại. Tiết Mộ Hoa
hỏi Tuệ Tịnh:
- Ngươi năm chầy tháng rộng tiếp xúc với các vật lợi hại để đến
nỗi hàn độc xâm nhập tạng phủ, ấy là loại gì thế?
Tuệ Tịnh đáp:
- Đó là băng tàm trên đỉnh Côn Lôn.
Tiết Mộ Hoa lắc đầu, không hỏi thêm nữa, trước hết châm cứu cho
y, sau đó lấy ra hai viên thuốc to màu đỏ chót cho y uống. Kế tiếp
người nào cần tiếp cốt thì ông tiếp cốt, người nào cần trị thương thì trị
thương, mãi đến lúc trời đã sáng bạch bấy giờ mới xong. Những người
bị thương chia nhau ra kẻ nằm trên giường, người nghỉ ngơi trên cánh
cửa tháo ra thay phản. Người nhà họ Tiết nấu mì đem ra cho mọi người
ăn.
Đinh Xuân Thu ăn hết hai tô mì rồi, quay sang cười với Tiết Mộ
Hoa nói:
- Cũng may ngươi hiểu thời vụ không bỏ thuốc độc vào trong đồ
ăn.
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Nói đến sử dụng thuốc độc thì trên đời này còn ai hơn được ông?
Ta cũng có bụng ấy nhưng đâu dám đánh trống qua cửa nhà sấm.
Đinh Xuân Thu cười sằng sặc nói:
- Ngươi bảo gia nhân đi mướn cho ta mươi cỗ xe lừa.
Tiết Mộ Hoa hỏi lại:
- Làm gì mà phải cần mười cỗ xe?
Đinh Xuân Thu trừng mắt lên khinh khỉnh nói:
- Chuyện của ta ngươi hỏi làm gì? Tiết Thần Y ở đây chắc quen
biết nhiều, muốn mướn mười cỗ xe đâu phải là chuyện khó?
Tiết Mộ Hoa không biết làm sao hơn, đành phải dặn dò gia nhân ra
ngoài tìm xe. Đến trưa, mười chiếc xe lừa đã thuê đủ, Đinh Xuân Thu
nói:
- Đem giết hết các phu xe đi.
Tiết Mộ Hoa kinh hãi nói:
- Sao thế?
Chỉ thấy các đệ tử phái Tinh Tú vung chưởng lên, bộp bộp mấy
tiếng, mười người xa phu đã chết lăn dưới đất. Tiết Mộ Hoa giận dữ
nói:
- Đinh lão tặc, những người phu xe này có làm gì nên tội đâu?
Ngươi ... ngươi ... cớ gì lại hạ độc thủ?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Phái Tinh Tú muốn giết vài người, không lẽ còn phải xem có tội
hay không có tội, giảng đạo lý nữa hay sao? Tất cả các ngươi lên xe
hết cho ta. Không ai được ở lại! Tiết hiền điệt, ngươi có thuốc men,
sách vở gì thì mang theo người, ta đốt nhà ngươi đây.
Tiết Mộ Hoa lại càng kinh hãi, nhưng nghĩ lão quái này không
chuyện ác gì không làm, có nói cũng phí lời, các loại sách thuốc ông
đã đọc thuộc lòng, chẳng cần phải mang, thế nhưng bao nhiêu cao đơn
hoàn tán dày công chế tạo bằng những dược tài cực kỳ khó kiếm, thành
thử vừa dọn thuốc vừa luôn mồm chửi rủa. Ông chưa thu thập xong, các
đệ tử phái Tinh Tú đã châm lửa đốt phía sau nhà.
Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc trong phái Thiếu Lâm vốn đã được Huyền
Nạn dặn dò, muốn về chùa báo tin ngờ đâu Đinh Xuân Thu bố trí
nghiêm nhặt nên chạy chưa xa đã bị bắt lại. Bọn Huyền Nạn cả thảy
bảy người, Cô Tô Mộ Dung trang cả thảy bốn người, Hàm Cốc bát hữu
thêm tám người, tổng cộng mười chín người ngoại trừ Tiết Mộ Hoa
không bị tổn thương, ngoài ra nếu không bị Hóa Công Đại Pháp tiêu
hao nội lực thì cũng bị chưởng lực của Đinh Xuân Thu, hoặc phải hàn
độc băng tàm của Du Thản Chi, hoặc bị trúng độc của đệ tử phái Tinh
Tú thành thử không ai cử động được. Ngoài ra còn người nhà của Tiết
Mộ Hoa cũng chia nhau lên mười cỗ xe đó.
Còn đệ tử phái Tinh Tú chia ra kẻ làm xa phu, số còn lại cưỡi ngựa
đi bên cạnh áp tống. Xe bỏ màn xuống rồi còn dùng thừng buộc chặt,
bên trong tối như bưng, không nhìn thấy bên ngoài như thế nào. Huyền
Nạn cả bọn ai ai cũng nổi dạ nghi ngờ: "Tên lão tặc này đưa mình đi
đâu đây?". Mọi người biết rằng nếu như mở miệng dò hỏi thì chỉ thêm
nhục, phái Tinh Tú nhất định sẽ không trả lời nên đành tự nhủ: "Tạm
thời nhẫn nại, đến đâu khắc biết".
Hồi 31(a)
THÂU DOANH THÀNH BẠI, -HỰU TRANH DO NHÂN TOÁN
Thành bại hơn thua cũng bởi trời,
Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.
Trăm sự chẳng qua do mạng số,
Phúc phận cho mình được đấy thôi.
*
* *
Xe đi lộc cộc ngày đêm không nghỉ. Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên,
Khang Quảng Lăng cả bọn đều là những nhân vật có bản lãnh trong võ
lâm, lúc này võ công đều mất hết, trở thành những người tù tùy thuộc vào
tay người khác bảo sao chịu vậy. Mọi người chỉ đoán chừng đoàn xe đang
đi về hướng đông nam.
Cứ như thế đi tám ngày liền, đến ngày thứ chín, mới sáng sớm đã đi
lên một sơn đạo. Đến trưa hôm đó, địa thế càng lúc càng cao, đến sau xe
lớn không thể lên nổi. Bọn đệ tử phái Tinh Tú gọi bọn Huyền Nạn ra
khỏi xe, đi bộ chừng hơn nửa giờ đến một nơi thấy trúc mọc dầy đặc,
cảnh sắc thanh nhã, bên giòng suối là một tòa lương đình dựng toàn bằng
tre lớn, cấu trúc tinh nhã thật là khéo léo, trúc là đình, đình là trúc khiến
thoạt vừa trông không biết đó là rừng trúc hay đình viện. Phùng A Tam
tấm tắc khen ngợi, nhìn ngang nhìn ngửa trong lòng bán tín bán nghi.
Mọi người liền vào trong đình ngồi nghỉ, từ sơn đạo có bốn người rảo
bước đi xuống. Hai người đi trước là đệ tử của Đinh Xuân Thu, chắc là
khi xe vừa dừng bánh đã lên núi thám thính hoặc báo tin. Đi sau là hai
thanh niên ăn mặc theo lối nhà nông, đến trước mặt Đinh Xuân Thu khom
lưng hành lễ, trình lên một phong thư.
Đinh Xuân Thu mở ra xem qua, cười khẩy nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi vẫn chưa thoái chí đòi quyết một trận
sinh tử, ta sẽ bồi tiếp.
Người thanh niên lấy trong túi ra một cái pháo hiệu, đốt lửa châm,
nghe bùng một tiếng, chiếc pháo đã bay vọt lên không. Những pháo bình
thường nổ một tiếng bay lên rồi sẽ nổ bạch một tiếng vỡ tung ra, còn
chiếc pháo hiệu này lên trên trời nổ bạch bạch bạch liên tiếp ba tiếng.
Phùng A Tam ghé tai Khang Quảng Lăng nói:
- Đại ca, pháo này do bản môn chế tạo.
Không bao lâu từ sơn đạo một đoàn người đi xuống, tổng cộng phải
đến hơn ba chục người, đều mặc theo lối nhà quê, tay cầm binh khí dài.
Đến gần hơn mới thấy đây không phải là binh khí mà là đòn gánh, cứ hai
chiếc đòn gánh lại có mắc một chiếc võng để cho người ngồi. Đinh Xuân
Thu cười nhạt:
- Chủ nhân chiều khách, các ngươi không phải khách sáo, lên võng
đi thôi.
Bọn Huyền Nạn các người liền lên cáng, những thanh niên đó hai
người khiêng một người, bước đi nhanh nhẹn chạy thẳng lên núi. Đinh
Xuân Thu tay áo rộng phất phới, đi trước. Y đi không có vẻ gì gấp gáp
nhưng cứ theo sơn đạo khúc khuỷu mà vùn vụt như cưỡi gió lướt đi, chân
không chạm đất, chỉ một thoáng đã biến mất trong khu rừng trúc.
Bọn Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân
Thu đều phẫn nộ cho rằng mình bị yêu pháp làm hại, chưa đánh đã thua
bây giờ thấy khinh công của y cao siêu như thế, bản lãnh đó không thể
đánh lừa được, ai nấy thán phục nghĩ thầm: "Nếu y không sử dụng công
phu yêu quái chăng nữa thì mình cũng chẳng phải là đối thủ". Phong Ba
Ác khen ngợi:
- Lão yêu này khinh công cao siêu quá, quả thật bội phục hết sức.
Y vừa mở miệng tán thưởng, bọn đệ tử phái Tinh Tú lập tức ùa theo
xưng tụng, nói là võ công Đinh Xuân Thu đương thế không ai sánh kịp đã
đành mà các võ học đại sư từ xưa đến nay, dù cho Đại Ma lão tổ ... cũng
chẳng bằng, toàn những lời nịnh hót chưa ai từng nghe bao giờ. Bao Bất
Đồng nói:
- Này các vị lão huynh, công phu của phái Tinh Tú quả thực hơn hẳn
các môn phái khác, quả đúng là "tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả".
Bọn đệ tử ai nấy mừng rơn, một người liền hỏi lại:
- Theo ý của huynh đài, công phu ghê gớm nhất của môn phái chúng
tôi là công phu gì thế?
Bao Bất Đồng đáp:
- Nào phải chỉ một môn, ít ra cũng phải ba môn.
Bọn đệ tử càng thêm phấn khởi, nhao nhao hỏi:
- Ba môn nào?
Bao Bất Đồng nói:
- Môn thứ nhất là Mã Thí Công1. Công phu này luyện không tinh, e
rằng không sống nổi trong quí phái được một ngày một buổi. Môn thứ hai
là Pháp Loa Công2, nếu không thổi phồng tài ba đức hạnh của quí môn
lên rõ to thì chẳng những bị sư phụ ghét bỏ mà ngay cả đồng môn cũng
chèn ép, không còn đường nào mà ngóc đầu lên. Còn môn công phu thứ
ba là Hậu Nhan Công3. Nếu không biết táng tận lương tâm, mặt dày mày
dạn thì làm sao luyện cho thành được Mã Thí và Pháp Loa hai đại kỳ
công?
Y nói ra rồi, tưởng rằng quần đệ tử phái Tinh Tú sẽ nổi giận đùng
đùng, xông lại tẩn cho một trận, nhưng mấy câu đó đã lên đến cổ, không
1 2 3
nói không chịu được, ngờ đâu bọn kia nghe xong, ai nấy lặng lẽ gật gù.
Một người nói:
- Lão huynh quả thực thông minh, biết rất rõ những kỳ công của bản
phái. Có điều ba môn kỳ công Mã Thí, Pháp Loa, Hậu Nhan tu tập cực kỳ
khó khăn. Những người tầm thường bị nhiễm thói của thế tục, luôn luôn
nghĩ đến tốt, xấu giữ trong lòng cái thói hủ lậu phân biệt thiện ác, chia ra
thị phi thì khi tu tập môn Hậu Nhan Công, cố gắng nhiều, thành tựu chẳng
bao nhiêu, lúc nào cũng thắc thỏm, công phu sẽ kém đi một mức.
Bao Bất Đồng ra lời châm chích, nào có ngờ được bọn này lại thản
nhiên như không, chẳng nghi ngờ gì cả, không khỏi kinh ngạc, cười nói:
- Thần công của quí phái thâm áo không đâu sánh kịp, tiểu tử vốn
thầm ngưỡng mộ, mong được đại tiên mở đường khai lối.
Gã kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là "đại tiên", mặt liền câng câng
đắc ý nói:
- Ngươi không phải là người trong bản môn, cái bí áo của thần công
ta không thể nào truyền thụ cho ngươi được. Thế nhưng cái đạo lý thô
thiển mặt ngoài có nói cho ngươi biết cũng không sao. Bí quyết trọng yếu
hơn cả là phải coi sư phụ không khác gì thần minh, dù cho lão nhân gia có
đánh rắm ...
Bao Bất Đồng liền cướp lời:
- Đương nhiên phải khen thơm rồi. Lại phải hít lấy hít để, ca ngợi hết
lời ...
Gã kia chặn lại:
- Lời của ngươi nói chung thì đúng nhưng vào chi tiết cũng có khuyết
điểm, không phải là "hít lấy hít để" mà phải là "hít rõ mạnh, thở thật
êm".
Bao Bất Đồng khen rối rít:
- Đúng quá! Đúng quá! Đại tiên chỉ điểm thật phải, nếu như thở
phào ra thì có phải đã coi rắm của sư phụ ... không ... không thơm lắm
hay sao.
Người kia gật đầu nói:
- Đúng đó, thiên tư của ngươi cực tốt, nếu như đầu nhập bản phái thì
cũng có triển vọng, tiếc rằng lầm đường lạc lối tả đạo bàng môn. Công
phu bản môn biến hóa vô cùng nhưng công quyết cơ bản thì cũng không
phức tạp lắm đâu chỉ cần nhớ kỹ bốn chữ "rũ sạch lương tâm" là làm gì
cũng không sai sẩy nhiều.
Bao Bất Đồng gật gù liên tiếp nói:
- Quả đúng là:
Nghe ngài nói chuyện một đêm,
Còn hơn đọc sách mười năm dùi mài.4
Tại hạ trong lòng từng ngưỡng mộ quí phái từ lâu, tiếc thay không
được đầu nhập làm môn hạ, không biết đại tiên có vui lòng tiến dẫn
chăng?
Gã kia mặt nhơn nhơn, mỉm cười đáp:
- Gia nhập bản môn nào phải chuyện đùa, phải qua bao nhiêu khảo
nghiệm cực kỳ khó khăn năm này tháng nọ, chỉ sợ ngươi không chịu nổi
mà thôi.
Một tên khác liền chặn lại:
- Nơi đây tai mắt lắm người, không nên nói chuyện nhiều. Họ Bao
kia, nếu ngươi quả có lòng muốn xin vào bản môn, đợi khi nào sư phụ ta
trong lòng khoan khoái, ta sẽ nhân đó nói tốt cho ngươi vài câu. Bản phái
thu nhận đồ đệ rất đông, ta xem ngươi căn cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu
được sư phụ mở lòng từ bi, nhận ngươi làm học trò, may ra mai sau cũng
nở mày nở mặt.
Bao Bất Đồng mặt nghiêm lại đáp:
- Đa tạ! Đa tạ! Ân đức của đại tiên, Bao mỗ quyết không bao giờ
quên được.
4
Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nghe Bao Bất Đồng phỉnh nịnh
bọn đệ tử phái Tinh Tú, trong bụng không khỏi vừa tức cười, vừa lộn ruột
nghĩ thầm: "Trên đời này sao lại có những kẻ hèn mạt vô sỉ đến thế, lấy
trò bốc thơm, bợ đít làm vinh, quả thực chưa từng nghe đến".
Trong khi nói chuyện, đoàn người đã đi vào một sơn cốc, bên trong
thung lũng toàn là cây tùng, gió núi thổi đến tiếng reo dạt dào như sóng
vỗ. Đi thêm chừng một dặm nữa thì đến ba gian nhà gỗ. Trước nhà là một
cây cổ thụ bên dưới hai người ngồi đối diện nhau. Người phía bên trái có
ba người đứng sau lưng. Đinh Xuân Thu đứng xa xa, ngẩng đầu nhìn trời,
thần tình cực kỳ ngạo mạn.
Đoàn người đến gần, Bao Bất Đồng nghe thấy Lý Khổi Lỗi ở cáng
phía sau ồ lên một tiếng, dường như định nói gì nhưng lại cố nén lại. Bao
Bất Đồng quay đầu lại nhìn, thấy mặt y tái nhợt, thần tình cực kỳ hoảng
hốt. Bao Bất Đồng hỏi:
- Ngươi làm sao thế? Trông thấy ma à? Làm gì mà sợ vậy?
Lý Khổi Lỗi không trả lời, làm như không nghe thấy y nói gì. Đến gần
hơn nữa, thấy giữa hai người ngồi là một phiến đá lớn, bên trên có một
bàn cờ, hai người đang đánh. Người ngồi bên phải là một ông già nhỏ bé
gầy gò, còn phía bên trái là một thanh niên công tử. Bao Bất Đồng nhận
ra thanh niên đó chính là Đoàn Dự, trong lòng chán ngắt, nghĩ thầm: "Ta
đối với tiểu tử này cực kỳ vô lễ, hôm nay y thấy mình thân tàn ma dại thế
này, gã thể nào chẳng buông lời nhạo báng".
Chỉ thấy bàn cờ được khắc vào một phiến đá xanh lớn, quân trắng
quân đen đều bóng lộn, hai bên đã để được đến trên trăm quân. Đinh
Xuân Thu chậm rãi đến gần xem hai người, ông già thấp bé cầm một
quân đen để xuống, đột nhiên đôi lông mày nhướng lên, dường như trông
thấy cuộc cờ đi vào chỗ biến hóa kỳ diệu. Đoàn Dự cầm một quân cờ
trắng, trầm ngâm chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu lên:
- Này, tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi hỏng rồi, cờ vào thế tiến cũng dở ở
không xong chịu thua quách đi thôi.
Ba người đứng sau lưng Đoàn Dự liền quay lại hầm hầm nhìn y, chính
là bọn Chu Đan Thần ba người hộ vệ. Bất thình lình, Khang Quảng Lăng,
Phạm Bách Linh cả bọn Hàm Cốc bát hữu người nào cũng từ trên cáng
gắng gượng nhảy xuống, đi đến cách bàn cờ bằng đá xanh chừng một
trượng, cùng quì cả xuống. Bao Bất Đồng kinh ngạc nói:
- Làm trò quỉ gì đây?
Vừa mới nói ra khỏi miệng lập tức hiểu ngay, ông già mình hạc xác ve
kia chính là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, sư phụ của Hàm Cốc
bát hữu. Thế nhưng ông ta cũng là kẻ tử đối đầu của Tinh Tú Lão Quái
Đinh Xuân Thu, kẻ đại thù trước mặt sao vẫn còn nhàn hạ ngồi đánh cờ?
Đối thủ của ông ta lại chẳng phải là một nhân vật trọng yếu mà chỉ là
một anh đồ gàn không biết võ công?
Khang Quảng Lăng nói:
- Lão nhân gia xem chừng còn khang kiện hơn xưa, bọn hậu bối tám
người chúng tôi mừng không sao kể xiết.
Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đuổi khỏi sư
môn nên không dám gọi ông bằng thầy. Phạm Bách Linh nói:
- Huyền Nạn đại sư của phái Thiếu Lâm đến thăm lão nhân gia đó.
Tô Tinh Hà đứng bật dậy, quay về mọi người vái một cái thập sâu nói:
- Huyền Nạn đại sư giá lâm, lão hủ Tô Tinh Hà không kịp nghinh
tiếp, thật đáng trách lắm.
Ông ta chỉ liếc ngang mọi người một cái rồi lại quay ngay trở lại bàn
cờ. Mọi người đã nghe Tiết Mộ Hoa kể rõ nguyên nhân tại sao sư phụ
ông ta bị ép phải giả như câm như điếc, lúc này ông ngang nhiên mở
miệng nói năng, xem ra đã quyết cùng Đinh Xuân Thu một mất một còn.
Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn không thể không liếc qua nhìn
Đinh Xuân Thu một cái, trong lòng vừa phấn khởi, vừa âu lo.
Huyền Nạn nói:
- Không dám! Không dám!
Ông thấy Tô Tinh Hà coi bàn cờ trọng như thế nghĩ thầm: "Người này
tạp vụ quá nhiều, thư họa cầm kỳ, không môn gì không tinh thông, thảo
nào võ công không bằng sư đệ".
Trong khi không ai nói một tiếng nào, bỗng dưng Đoàn Dự cất tiếng:
- Được rồi, đi vào đây.
Chàng vừa nói vừa đặt một quân cờ trắng xuống bàn cờ. Tô Tinh Hà
mặt lộ vẻ vui mừng, gật đầu, dường như đã hiểu tay đặt một quân cờ đen
khác. Đoàn Dự đã nghĩ xong được mươi nước trước, liền hạ thêm một
quân trắng khác, Tô Tinh Hà lại để một quân cờ đen.
Hai người đặt được hơn mươi quân rồi, Đoàn Dự thở dài một tiếng, lắc
đầu nói:
- Lão tiên sinh bày bàn cờ Trân Lung này quả là thâm áo xảo diệu,
vãn sinh không phá giải nổi.
Xem ra Tô Tinh Hà đã thắng, tuy nhiên mặt ông ta lại lộ vẻ thất vọng
nói:
- Kỳ tứ của công tử quả là tinh mật, mười nước vừa đi thật cao,
nhưng chưa nghĩ được sâu thêm một chút, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc
thay! Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc lắm thay!
Ông ta liên tiếp chép miệng, miệng nói bốn lần "đáng tiếc" quả thực
biết bao ngậm ngùi. Đoàn Dự nhặt mười quân cờ trắng mình vừa đi lên,
bỏ trở lại vào hộp, Tô Tinh Hà cũng lấy mười viên cờ đen của mình mới
bỏ xuống, bàn cờ trở lại trận thế như lúc đầu.
Đoàn Dự lùi lại đứng qua một bên, nhìn bàn cờ ngẩn ngơ suy nghĩ:
"Thế cờ Trân Lung này chính là bàn cờ hôm trước ta đã thấy trong thạch
động núi Vô Lượng. Vị Thông Biện tiên sinh này và thần tiên tỉ tỉ trong
động ắt có uyên nguyên, đợi khi nào thuận tiện ta sẽ len lén hỏi ông ta
nhưng không thể để cho người ngoài hay biết. Nếu không mọi người sẽ
tìm đến để nhìn thần tiên tỉ tỉ, chẳng phải khinh mạn nàng lắm hay sao?".
Người thứ hai trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là một
người mê đánh cờ, từ xa đứng nhìn kỳ cục, biết rằng không phải sư phụ
cùng thanh niên kia đánh cờ mà là sư phụ bố trí bàn cờ Trân Lung, còn
thanh niên kia thử vào phá giải nhưng giải không được. Y quì dưới đất
nên nhìn không rõ, đầu gối lập tức nhấc lên, vươn dài cổ định nhìn cho rõ.
Tô Tinh Hà nói:
- Tất cả các ngươi mau đứng dậy! Bách Linh, thế cờ Trân Lung này
có ảnh hưởng rất lớn, ngươi lại đây xem thử, nếu như phá giải được thì
thật hay không đâu cho hết.
Phạm Bách Linh mừng rỡ vội đáp:
- Vâng!
Y liền đứng lên, đi đến bên cạnh bàn cờ, ngưng thần xem xét. Đặng
Bách Xuyên hỏi nhỏ:
- Nhị đệ, sao lại gọi là Trân Lung?
Công Dã Can cũng thì thầm trả lời:
- Trân Lung tức là nạn đề của môn cờ vây. Đó là cờ thế do người ta
cố ý bày chứ không phải do hai người đánh cờ mà thành, do đó hoặc sinh,
hoặc kiếp nước nào cũng thật khó mà đoán được.
Những thế Trân Lung tầm thường, ít thì mươi quân, nhiều có khi lên
đến bốn năm chục quân, thế nhưng bàn cờ này có đến hơn hai trăm, gần
như kín cả bàn cờ rồi. Công Dã Can cũng không hiểu biết bao nhiêu, xem
một hồi chẳng hiểu gì cả nên không coi nữa.
Phạm Bách Linh chuyên tâm nghiên cứu cờ vây mấy chục năm qua,
quả đã là một cao thủ về môn này, thấy trên bàn cờ trong kiếp có kiếp,
lại có cộng hoạt, lại thêm trường sinh, hoặc phản phác, hoặc thu khí, tụm
năm tụm ba mỗi chỗ một nhóm thật là phức tạp. Y cảm thấy tinh thần
phấn khởi, xem thêm một lúc, tự nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ
mới suy nghĩ về quân trắng một góc bên phải thắng bại ra sao, đã thấy
khí huyết trong ngực nhộn nhạo.
Y cố gắng định thần, tính lại lần thứ hai mới thấy rằng lúc trước vẫn
tưởng bên trắng ở nơi đó đã hỏng, bây giờ mới hay cũng vẫn còn đường
sống, thế nhưng muốn giết nhóm quân đen ở bên cạnh thì thể nào cũng
dứt dây động rừng, bèn tính toán thêm nữa, đột nhiên mắt tối sầm, cổ
họng mằn mặn, ọc ra một ngụm máu tươi.
Tô Tinh Hà lãnh đạm nhìn y nói:
- Thế cờ này rất ư là khó, ngươi thiên tư có hạn, tuy kỳ lực chẳng dở
nhưng xem chừng giải không nổi đâu, huống chi có thêm tên ác tặc Đinh
Xuân Thu đứng bên cạnh thi triển tà thuật, làm điên đảo hồn vía, quả
thực hung hiểm, ngươi có còn muốn giải nữa hay thôi?
Phạm Bách Linh đáp:
- Sinh tử hữu mệnh, đệ ... tại hạ ... tại hạ ... quyết ý tận tâm tận lực.
Tô Tinh Hà gật đầu nói:
- Vậy ngươi cứ thư thả mà suy nghĩ.
Phạm Bách Linh chăm chú vào cuộc cờ, thân hình lảo đảo, lại phun ra
thêm một ngụm máu nữa. Đinh Xuân Thu cười gằn nói:
- Chỉ bỏ mạng toi, sao việc gì phải khổ sở thế? Lão tặc đó bố trí cơ
quan, cốt là để hành hạ, giết người, Phạm Bách Linh, ngươi đúng là chui
đầu vào rọ.
Tô Tinh Hà đưa mắt hầm hầm nhìn y, hỏi:
- Ngươi gọi sư phụ là gì thế?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Y là lão tặc nên ta gọi là lão tặc.
Tô Tinh Hà nói:
- Lung Á lão nhân hôm nay không còn câm điếc, chắc ngươi đã biết
lý do tại sao rồi?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Hay lắm! Ngươi tự ý phá lời thề, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng
trách ta nhé.
Tô Tinh Hà tiện tay nhắc một phiến đá ở bên cạnh, đặt xuống bên
cạnh Huyền Nạn nói:
- Mời đại sư ngồi.
Huyền Nạn thấy tảng đá đó không thể nào dưới hai trăm cân, một ông
lão gầy gò nhỏ thó như Tô Tinh Hà, cả người không đến tám chục cân,
vậy mà làm như trò trẻ, không phí một chút sức lực đã nhắc được cục đá
lên, công lực thực là ghê gớm. Ông nghĩ chính mình khi võ công chưa
mất, muốn nhắc một tảng đá như thế thật không khó khăn gì, nhưng làm
một cách nhẹ nhàng như thế cũng chưa chắc được, bèn chắp tay nói:
- Đa tạ!
Sau đó ngồi xuống. Tô Tinh Hà lại tiếp:
- Thế cờ Trân Lung này là do tiên sư tạo thành. Năm xưa tiên sư
phải mất ba năm tâm huyết mới sắp đặt xong, chỉ mong trên đời có người
hiểu lòng mình mà phá giải. Tại hạ trong ba mươi năm qua khổ công
nghiên cứu, vậy mà vẫn chưa giải được.
Ông ta nói đến đây, ông đưa mắt quét qua cả bọn Huyền Nạn, Đoàn
Dự, Phạm Bách Linh rồi tiếp:
- Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, hiểu được yếu chỉ Thiền tông
là ở chỗ đốn ngộ. Khổ công năm này tháng khác, chưa chắc đã bằng được
người đầy đủ căn cốt, huệ tâm vừa thấy đã thông hiểu ngay. Đánh cờ
cũng vậy thôi, đứa trẻ tám chín tuổi có tài trí đầy đủ, đánh cờ vẫn có thể
thắng được hạng nhất lưu cao thủ. Mặc dầu tại hạ nghiên cứu mãi không
ra, nhưng kẻ tài giỏi trong thiên hạ rất nhiều, không phải là không thể
giải được.
Tiên sư năm xưa để lại thế cờ này, nếu như có người hoàn thành được
tâm nguyện của lão nhân gia thì tiên sư tuy không còn tại nhân gian, dưới
cửu tuyền nếu biết được cũng thật là an ủi.
Huyền Nạn nghĩ thầm: "Sư phụ đồ đệ của vị Thông Biện tiên sinh này
cùng một nguồn gốc, những trò chơi cầm kỳ thi họa đều lôi kéo con người
đi vào ma chướng, đem hết cả cái thông minh tài trí một đời tiêu vào cái
việc đâu đâu khiến cho Đinh Xuân Thu ở trong môn phái hoành hành
không còn úy kỵ gì nữa, không ai chế ngự nổi y, cũng thật đáng buồn".
Lại nghe Tô Tinh Hà tiếp tục:
- Gã sư đệ của ta ...
Ông vừa nói vừa chỉ vào Đinh Xuân Thu:
- ... năm xưa phản bội sư môn, khiến cho tiên sư ẩm hận tạ thế, lại
đánh ta không còn đường nào chống đỡ. Tại hạ vốn dĩ đã mong đem cái
chết để đền ơn thầy, nhưng nghĩ lại cái tâm nguyện của sư phụ chưa hoàn
tất, nếu chưa đi tìm người phá giải thì ở dưới suối vàng còn mặt mũi nào
mà nhìn sư phụ, nên đành cố chịu kiếp sống thừa cho đến ngày nay.
Trong bao nhiêu năm qua, tại hạ tuân thủ ước định với sư đệ, không
nói một lời, tự cho mình danh xưng Lung Á lão nhân, ngay cả môn hạ đệ
tử mới thu, cũng ép phải thành người câm điếc. Than ôi, ba mươi năm qua
chẳng thành tựu được chuyện gì, thế cờ này đến nay vẫn chưa ai phá giải
được. Vị Đoàn công tử đây tuy anh tuấn tiêu sái ...
Bao Bất Đồng lại chen vào:
- Vị Đoàn công tử đây chắc gì đã anh tuấn, còn tiêu sái thì nhất định
chẳng có chút nào, huống chi bề ngoài anh tuấn tiêu sái với đánh cờ có gì
liên quan đâu, không thông ơi là không thông!
Tô Tinh Hà đáp:
- Có liên hệ lắm chứ! Thật nhiều là khác!
Bao Bất Đồng đáp:
- Vẻ người lão tiên sinh, ha ha, có thấy chút nào anh tuấn tiêu sái
đâu!
Tô Tinh Hà quay sang chăm chăm nhìn y một hồi, miệng hơi mỉm
cười. Bao Bất Đồng nói:
- Chắc tiền bối định nói Bao Bất Đồng so với lão tiên sinh hình dung
cổ quái xấu xí ...
Tô Tinh Hà không nhìn nhõi gì đến y nữa, tiếp tục:
- Đoàn công tử đi mười bước đầu quả thực cực kỳ tinh diệu khiến cho
lão phu thật là kỳ vọng, có ngờ đâu lỡ mất một nước nên mấy nước sau
đành chịu thua.
Đoàn Dự vẻ mặt sượng sùng nói:
- Tại hạ tư chất ngu độn làm phụ lòng nhã ái của lão trượng, thật
đáng hổ thẹn ...
Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to một tiếng, máu từ
miệng tuôn ra ồng ộc, ngã lật về sau. Tô Tinh Hà hơi nhắc tay trái lên,
soẹt soẹt soẹt, ba quân cờ ném ra đánh trúng ba huyệt đạo trên ngực y
lúc đó mới ngưng thổ huyết.
Mọi người còn đang kinh ngạc bỗng nghe cạch một tiếng, từ trên
không một vật gì trăng trắng bay xuống, trúng ngay bàn cờ. Tô Tinh Hà
nhìn lại, hóa ra một mẩu gỗ tùng còn tươi ai đó mới móc ra, khéo làm sao
trúng ngay khứ vị ở điểm thất cửu, chính là một nước phá giải thế cờ Trân
Lung. Ông ngửng đầu lên thấy trên cây tùng phía bên trái cách chừng
năm sáu trượng, thấp thoáng một tà trường bào màu vàng nhạt, hiển
nhiên có người ẩn nơi đó.
Tô Tinh Hà vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói:
- Lại có thêm một vị cao nhân nào giá lâm, lão hủ thật vui mừng
khôn xiết.
Ông đang định đi một quân cờ đen, đột nhiên bên tai một tiếng gió
nhẹ vụt qua, một vật gì đen sì từ sau lưng bay đến, rơi ngay vào khứ vị ở
điểm bát bát, đúng ngay vào nơi Tô Tinh Hà vừa định hạ xuống.
Mọi người ồ lên một tiếng, quay đầu lại nhưng không thấy bóng dáng
ai. Những cây tùng ở phía bên phải không cây nào cao to, nếu trên cây có
người ngồi đó thì thấy ngay, không biết kẻ kia ẩn náu nơi nào. Tô Tinh
Hà nhìn vật đen sì kia chính là một miếng vỏ cây tùng nho nhỏ, điểm rơi
xuống thật chính xác, trong bụng cũng hơi kinh hãi. Quân đen kia vừa hạ
xuống, từ cây tùng bên trái lại đi một mẩu gỗ tùng thay quân trắng vào
khứ vị ngũ lục.
Vèo một tiếng, một vật đen đen bắn thẳng lên trời, rơi thẳng xuống,
không nghiêng không lệch đúng ngay khứ vị tứ ngũ. Quân cờ đen đó khi
lên thì quay vòng vòng như trôn ốc, phát xuất từ đâu thật khó mà nhìn ra
được, ngoằn ngoèo một hồi vậy mà rơi xuống chính xác như thế, công
phu ném ám khí đó đủ đã kinh người. Người đứng chung quanh ai nấy bội
phục, cùng suýt xoa reo hò.
Tiếng khen chưa dứt bỗng nghe một giọng vang vang từ trên cành cây
truyền xuống:
- Mộ Dung công tử đến phá giải thế Trân Lung, tiểu tăng thay người
đi giùm hai nước xin đừng trách tội mạo muội.
Cành lá hơi rung động, nghe tiếng gió thoảng qua, bên cạnh bàn cờ đã
xuất hiện thêm một nhà sư nữa. Hòa thượng đó mặc tăng bào màu xám
tro, thần thái sáng láng, bảo tướng trang nghiêm, trên mặt ẩn một nụ
cười.
Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: "Tên ma đầu Cưu Ma Trí lại
đến rồi". Chàng lại bụng bảo dạ: "Không lẽ quân cờ trắng kia là do Mộ
Dung công tử đi hay sao? Vị Mộ Dung công tử này rồi đến hôm nay ta
cũng sẽ gặp".
Chỉ thấy Cưu Ma Trí chắp hai tay, quay sang Tô Tinh Hà, Đinh Xuân
Thu và Huyền Nạn hành lễ nói:
- Tiểu tăng trên đường nhận được Kỳ Hội Thiếp của Thông Biện
tiên sinh, không tự lượng sức mình nên vội tới gặp mặt thiên hạ cao nhân.
Y lại tiếp:
- Mộ Dung công tử xin cũng hiện thân đi thôi.
Chỉ nghe một tiếng cười trong trẻo, từ sau một cây tùng hai người bước
ra. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tai ù đi, miệng đắng ngắt, người nóng
bừng. Người đó uyển chuyển chậm rãi bước tới, chính là giai nhân mà
chàng đêm mong ngày nhớ, không lúc nào quên Vương Ngữ Yên.
Nàng mặt đầy vẻ say mê lưu luyến, ngẩn ngơ nhìn thanh niên công tử
đi bên cạnh. Đoàn Dự theo ánh mắt nàng nhìn theo, thấy người đó chừng
hăm bảy, hăm tám, mặc áo lụa mỏng màu vàng nhạt, trường kiếm đeo
ngang hông, diện mục tuấn tú, đi đứng nhẹ nhàng đầy vẻ tiêu sái nhàn
nhã.
Đoàn Dự vừa trông thấy y lập tức nửa người chết cứng, rưng rưng
dường như muốn rơi nước mắt, nghĩ thầm: "Người ta vẫn thường bảo Mộ
Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên không phải nói
ngoa. Vương Ngữ Yên đối với y ái mộ như thế cũng chẳng trách nàng
được".
Chàng chỉ biết tự oán mình, than thân trách phận, chẳng muốn ngẩng
lên nhìn Vương Ngữ Yên nhưng rồi không cưỡng nổi cũng len lén liếc
nàng một cái. Chỉ thấy người đẹp mặt mày rạng rỡ, tưởng như toàn thân
chỗ nào cũng đầy hỉ khí, từ khi biết nhau đến nay, chưa từng thấy nàng
vui vẻ đến thế bao giờ.
Hai người đến gần hơn nhưng Vương Ngữ Yên gặp Đoàn Dự mà
dường như thị nhi bất kiến5 cũng chẳng gọi lấy một câu. Đoàn Dự tự nhủ:
"Trong lòng nàng trước nay có bao giờ để ý đến ta đâu, khi ở bên cạnh
mình cũng chĩ nghĩ tới biểu ca mà thôi".
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác tiến ra
nghinh tiếp. Công Dã Can hướng về Mộ Dung Phục hạ giọng bẩm báo lai
lịch Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn mọi người. Bao Bất Đồng
nói:
- Gã họ Đoàn kia là một tên đồ gàn, không biết võ công, mới rồi đã
đánh cờ thua một trận rồi.
Mộ Dung Phục liền cùng mọi người hành lễ tương kiến, ngôn ngữ
khiêm hòa ra vẻ muốn làm quen. Cô Tô Mộ Dung danh chấn thiên hạ, có
ai ngờ đâu lại là một thanh niên công tử hình dáng tuấn nhã, điệu bộ
thanh quí, nên người nào cũng nói vài lời ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân
Thu cũng khách sáo đôi câu.
Người sau cùng Mộ Dung Phục chào là Đoàn Dự:
- Đoàn huynh khỏe chứ?
Đoàn Dự thần tình ủ rũ, lắc đầu:
- Các hạ khỏe chứ ta ... ta ... chẳng khỏe chút nào.
Vương Ngữ Yên ồ một tiếng nói:
- Đoàn công tử hóa ra cũng ở nơi đây.
Đoàn Dự ấp úng:
- Chính ... chính ... tôi đây.
Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng mấy bận, không thèm nói đến
nữa, đi đến bên cạnh bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống. Cưu Ma
Trí mỉm cười nói:
5
- Mộ Dung công tử võ công cao cường, nhưng môn cờ vây e rằng
cũng chỉ bình thường.
Nói xong cũng đặt một quân cờ đen. Mộ Dung Phục nói:
- Chưa chắc thua đại sư đâu.
Nói xong cũng hạ một quân cờ đen, Cưu Ma Trí cũng theo đó mà đi
thêm một nước. Mộ Dung Phục đã xem bàn cờ này rất lâu, tự tin rằng
mình đã tìm được giải pháp, ngờ đâu nước cờ của Cưu Ma Trí lại hoàn
toàn ngoài dự tính của y, bao nhiêu những tính toán trong đầu trôi theo
giòng nước, lại phải tính lại từ đầu, một lúc lâu sau mới đi thêm được một
nước.
Cưu Ma Trí suy nghĩ cực nhanh, đặt liền một quân nữa. Hai người một
chậm một nhanh, đi đến hơn hai chục quân, Cưu Ma Trí đột nhiên cười ha
hả nói:
- Mộ Dung công tử, chúng mình kẻ nọ bó chân bó cẳng người kia.
Mộ Dung Phục giận dữ đáp:
- Ngươi đặt cờ loạn xạ, bây giờ có giỏi thì phá giải đi.
Cưu Ma Trí cười đáp:
- Thế cờ này vốn dĩ trên đời không ai giải được, chẳng qua chỉ bày ra
để trêu ngươi. Tiểu tăng biết thân biết phận nên chẳng muốn hao tâm
huyết suy nghĩ những chuyện không đâu. Mộ Dung công tử, đến ta ở một
góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi
hươu ở Trung Nguyên sao?
Mộ Dung Phục giật mình, trong một thoáng trăm ngàn mối vấn vương,
trăn qua trở lại chĩ nghĩ đến câu Cưu Ma Trí vừa nói: "Đến ta ở một góc
trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi
hươu ở Trung Nguyên sao? ".
Trước mắt y chỉ thấy mờ dần, quân trắng quân đen trên bàn cờ nay
biến thành quan quân sĩ tốt, tây một thế trận, ta vây ngươi, ngươi vây ta,
hai bên lẫn lộn chém giết nhau. Mộ Dung Phục trừng trừng nhìn vào, bên
mình cờ trắng giáp trắng bị quân cờ đen, giáp đen vây chặt, tả xông hữu
đột vẫn không sao ra khỏi trùng vi, trong bụng càng lúc càng thêm bồn
chồn: "Họ Mộ Dung ta thiên mệnh đã hết rồi, bao nhiêu tâm cơ nay đành
uổng phí. Ta một đời tận tâm tận lực, nhưng rồi cũng chỉ là một giấc
mộng ảo mà thôi! Thời là thế, mệnh là thế, còn nói năng gì nữa?". Y đột
nhiên hét lên một tiếng, rút phắt trường kiếm đưa lên cổ cứa ngang.
Trong khi Mộ Dung Phục thần sắc bất định, đứng ngơ ngẩn không nói
năng, Vương Ngữ Yên, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can cả bọn chăm
chăm nhìn y. Đến khi Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm tự vẫn, không ai
có thể ngờ tới, cả bọn liền xông lên giải cứu nhưng công lực hoàn toàn
mất hết rồi, thành ra vẫn chậm một bước. Đoàn Dự vung tay điểm ra kêu
lên:
- Không được làm thế!
Chỉ nghe soẹt một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục giật
bắn lên, nghe keng một tiếng đã rơi xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói:
- Đoàn công tử, chiêu Lục Mạch Thần Kiếm quả hay thật.
Mộ Dung Phục trường kiếm rời khỏi tay còn đang kinh hãi, từ trong
mơ mơ màng màng tỉnh lại. Vương Ngữ Yên cầm tay y, liên tiếp vừa lắc
vừa kêu:
- Biểu ca, không giải được thế cờ thì có đáng gì đâu? Sao lại nỡ nào
tự tận?
Nàng nói rồi nước mắt chảy dàn dụa trên má. Mộ Dung Phục bàng
hoàng kêu lên:
- Ta sao thế?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Cũng may Đoàn công tử đánh rơi thanh trường kiếm trong tay biểu
ca, nếu không ... nếu không ...
Công Dã Can khuyên nhủ:
- Công tử, bàn cờ này làm mê hoặc lòng người, xem ra bên trong có
cả huyễn thuật, công tử đừng hao phí tâm tư thêm nữa làm gì.
Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự nói:
- Kiếm chiêu mới rồi của các hạ có phải thực là Lục Mạch Thần
Kiếm chăng? Tiếc thay tại hạ không được xem, các hạ có thể thử thêm
lần nữa để cho bỉ nhân được dịp mở mắt.
Đoàn Dự quay sang nhìn Cưu Ma Trí, e ngại y thấy mình sử dụng Lục
Mạch Thần Kiếm rồi sẽ lại bắt mình lần nữa. Lộ kiếm pháp đó khi thì
linh, khi thì không, nếu như tên ác hòa thượng này ra tay, thực khó mà
chống trả, trong bụng sợ hãi, tránh ra ba bước cho cách xa Cưu Ma Trí, có
bọn Chu Đan Thần ba người xen vào giữa, lúc đó mới đáp:
- Ta ... ta trong cơn gấp gáp, chó ngáp phải ruồi, muốn sử thêm một
chiêu nữa quả thật khó khăn. Có thực ngươi không nhìn thấy hay chăng?
Mộ Dung Phục vẻ mặt ngượng ngập nói:
- Tại hạ nhất thời tâm thần mê loạn chẳng khác gì ma nhập.
Bao Bất Đồng lớn tiếng kêu lên:
- Đúng đó, hẳn là Tinh Tú Lão Quái đứng bên cạnh thi triển tà pháp,
công tử phải hết sức cẩn thận.
Mộ Dung Phục lườm Đinh Xuân Thu, nói với Đoàn Dự:
- Tại hạ chẳng may trúng phải tà thuật, may được các hạ cứu viện,
trong lòng thật là cảm kích. Đoàn huynh biết được tuyệt kỹ Lục Mạch
Thần Kiếm, có phải là người trong Đoàn gia Đại Lý hay không?
Đột nhiên từ đằng xa một giọng nói văng vẳng truyền đến:
- Có một tên họ Đoàn Đại Lý ở đó hay sao? Có phải Đoàn Chính
Thuần không?
Chính là thanh âm của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Bọn
Chu Đan Thần lập tức biến sắc. Lại nghe một giọng oang oang sắc cạnh
như kim loại chạm nhau:
- Lão đại của anh em ta mới đích thực là họ Đoàn Đại Lý, còn ngoài
ra đều là đồ giả.
Đoàn Dự cười thầm nghĩ bụng: "Tên học trò của ta cũng đến nữa
đây". Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa dứt, từ dưới núi chạy lên
một người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chính là Vân Trung Hạc, miệng
kêu:
- Thiên hạ Tứ Đại Ác Nhân đúng theo ước hẹn cuộc cờ đến bái
phỏng Thông Biện tiên sinh.
Tô Tinh Hà đáp:
- Hết sức hoan nghênh.
Bốn chữ đó vừa ra khỏi miệng, Vân Trung Hạc đã phiêu phiêu đi đến
trước mặt mọi người. Một lát sau, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương,
Nam Hải Ngạc Thần ba người cũng sánh vai tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần
lớn tiếng nói:
- Lão đại chúng ta xem thiếp mời, cực kỳ hoan hỉ, mọi chuyện khác
gác sang một bên đến đây đánh cờ. Lão đại ta võ công thiên hạ vô địch,
so với Nhạc lão nhị này còn ghê gớm hơn. Kẻ nào không phục cứ lên
đánh thử với y ba ván. Các ngươi muốn một chọi một cũng tốt, mà tất cả
xông lên cũng được. Sao không thấy binh khí đâu cả là sao?
Diệp Nhị Nương vội chặn lại:
- Lão tam chớ có nói năng lếu láo. Đánh cờ nào phải là đánh nhau,
có cần gì binh khí?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Có mụ nói lếu láo thì có. Không đánh nhau thì lão đại lật đật đến
đây làm gì?
Đoàn Diên Khánh mắt đăm đăm nhìn bàn cờ, ngưng thần suy nghĩ,
qua một hồi thật lâu, thiết trượng bên trái điểm vào trong hộp quân, đầu
trượng dường như có sức hút, dính chặt một quân cờ trắng, đặt lên trên
bàn cờ. Huyền Nạn khen ngợi:
- Họ Đoàn Đại Lý võ công độc bộ trời nam, quả là không phải chỉ có
hư danh.
Đoàn Dự từng chứng kiến Đoàn Diên Khánh đánh cờ với Hoàng Mi
tăng, biết ông ta không những nội lực thâm hậu mà kỳ lực cũng thật cao,
có thể phá giải thế cờ Trân Lung không chừng. Chu Đan Thần ghé tai
chàng nói nhỏ:
- Công tử, mình đi thôi! Đừng để lỡ cơ hội.
Thế nhưng Đoàn Dự một mặt muốn xem Đoàn Diên Khánh làm thế
nào phá giải ván cờ này, lại thêm dễ dầu gì gặp được Vương Ngữ Yên,
nên dù trời sập chăng nữa cũng chưa chắc khiến cho chàng bỏ nàng mà đi
khỏi, thành thử chỉ ậm ừ mấy tiếng nhưng chân lại nhích dần về chỗ bàn
cờ.
Bàn cờ này thiên biến vạn hóa, bao nhiêu nước Tô Tinh Hà đều đã
thuộc nằm lòng, lập tức đặt ngay một quân đen xuống. Đoàn Diên Khánh
suy nghĩ thêm một lát, lại đặt một quân. Tô Tinh Hà nói:
- Các hạ đi nước này quả là cao minh, để xem có thể phá được cửa
quan tìm ra một lối thoát không nào.
Ông ta đặt một quân đen, chặn ngay đường lại, Đoàn Diên Khánh lại
đi một quân nữa. Hư Trúc bỗng nói:
- Nước cờ đó xem ra không ổn.
Y mới rồi thấy Mộ Dung Phục đã đi quân đó, đi tiếp thêm mấy nước
đột nhiên rút kiếm tự vẫn, sợ rằng Đoàn Diên Khánh cũng rơi vào vết xe
đổ, trong lòng bất nhẫn nên lên tiếng nhắc. Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ
giận dữ, quát lớn:
- Cái thứ chú tiểu như ngươi mà dám nói lão đại ta ổn hay không ổn
hay sao?
Y vừa nói vừa chộp vào lưng Hư Trúc, nhắc lên. Đoàn Dự nói:
- Hảo đồ nhi, không được đả thương tiểu sư phụ.
Nam Hải Ngạc Thần khi vừa đến đã trông thấy Đoàn Dự, trong bụng
ngượng ngập, tốt nhất là chàng chẳng nói năng gì, ngờ đâu lại ra lệnh cho
y, bèn hầm hầm nói:
- Không đả thương thì thôi, đã làm sao nào.
Y bèn để Hư Trúc xuống. Mọi người thấy một gã ngang ngược hung
ác như Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lời Đoàn Dự, gọi y là "đồ nhi" mà
không thấy cãi lại đều cảm thấy lạ lùng. Chỉ có bọn Chu Đan Thần hiểu
được nguyên do, trong bụng cười thầm.
Hư Trúc ngồi xuống trong lòng suy nghĩ: "Sư phụ ta vẫn thường dạy
rằng Phật tổ truyền xuống bao gồm giới, định, huệ ba tu chứng pháp môn.
Kinh Lăng Nghiêm có viết: "Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sinh định, nhân
định sinh huệ 6". Con người chúng ta căn cốt ngu độn, khó lòng nhiếp tâm
để giữ mình, thành thử Đạt Ma tổ sư mới truyền cho phương tiện pháp
môn, dạy chúng ta học võ để nhiếp tâm, mà đánh cờ cũng có thể nhiếp
tâm. Học võ tính chuyện hơn thua, đánh cờ cũng là chuyện thua được
cũng đều ngược lại với thiền lý thành ra dù học võ hay đánh cờ cũng phải
cố giữ cái tâm vô thắng bại. Khi tụng kinh, ăn cơm, đi đường thì vô thắng
bại tâm rất là dễ, còn như tỉ võ, đánh cờ mà đạt được vô thắng bại tâm thì
thật khó thay. Nếu như khi tỉ võ, đánh cờ mà không còn cái tâm thắng bại
thì đã là gần được đạo rồi. Kinh Pháp cú có viết: Thắng ắt bị người ta oán
hận, thua sẽ tự cho mình là thấp hèn. Bỏ được cái tâm thắng bại, không
tranh giành thì lòng mới yên.7 Ta võ công kém cỏi, kỳ thuật tầm thường,
cùng sư huynh đệ tỉ võ, đánh cờ bao giờ cũng thua nhiều thắng ít, vậy mà
sư phụ ngược lại khen ta giữ được không giận không oán, coi chuyện
thắng bại nhẹ như bông. Vậy mà sao hôm nay khi ta thấy vị Đoàn thí chủ
này đi sai nước cờ, lại lo cho y lạc bại nên ra lời chỉ điểm? Huống chi cứ
kỳ thuật như ta thì còn chỉ điểm cho ai được nữa? Y đi nước cờ tuy tương
đồng với Mộ Dung công tử nhưng về sau ắt sẽ khác đi, chính ta không
giải được, sao lại dám mở lời "xem ra không ổn", chẳng hóa ra mang cái
tâm tự cao tự mãn hay sao?".
Đoàn Diên Khánh cứ đi một nước lại suy nghĩ một hồi, từng quân từng
quân càng lúc càng lâu, đặt đến hơn hai chục quân thì mặt trời đã ngả về
tây. Huyền Nạn đột nhiên nói:
- Đoàn thí chủ, mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính nhưng từ
thứ mười một trở đi lại vào bàng môn, càng lúc càng sâu, để đến lúc
không còn cứu được nữa rồi.
6 7
Các bắp thịt trên mặt Đoàn Diên Khánh đã cứng không tỏ ra có ý gì
nhưng từ cổ họng phát ra thanh âm nói:
- Phái Thiếu Lâm là danh môn chính tông, theo như chính đạo của
các ông thì giải pháp thế nào?
Huyền Nạn thở dài một tiếng nói:
- Bàn cờ này tưởng như chính mà không phải chính, giống như tà mà
không phải tà, dùng chính đạo mà giải cũng không xong nhưng đi vào con
đường vạy thì cũng không được.
Cây gậy trúc nơi tay trái của Đoàn Diên Khánh ngừng lại giữa lưng
chừng, hơi run run, thủy chung không điểm xuống, qua một hồi lâu mới
nói:
- Đằng trước đã nghẽn lối rồi, đằng sau lại có truy binh, chính cũng
không mà tà cũng không, thật là khó lòng.
Võ công gia truyền của y vốn là chính tông Đoàn gia Đại Lý, nhưng
về sau đi vào đường tà, mấy câu nói của Huyền Nạn khiến y phải chạnh
lòng, cũng chẳng khác gì Mộ Dung công tử dần dần đi vào ma đạo.
Bàn cờ Trân Lung đó biến chuyển hàng trăm lối, tùy theo người mà
thành, kẻ tham tài thì vì tiền bạc mà thất cơ, kẻ nóng tính thì vì sân hận
mà hỏng việc. Đoàn Dự thất bại vì ái tâm quá nặng, không dám bỏ quân;
Mộ Dung Phục thua, chỉ vì chấp trước quyền uy, tuy dám thí quân nhưng
không chịu thất thế. Còn Đoàn Diên Khánh thì mối hận to lớn nhất trên
đời là sau khi tàn phế, đã bỏ võ công chính tông của bản môn, chuyển
sang tập luyện bàng môn tà thuật, đến lúc toàn tâm toàn ý tập trung vào
đó thì ngoại ma xâm nhập, để đến tâm thần hoang mang không còn tự
chế được nữa.
Đinh Xuân Thu cười khì khì tiếp lời:
- Đúng đó! Con người từ chính chuyển sang tà thì dễ, cải tà qui
chánh mới thật gay go, một đời của ngươi thôi đành xôi hỏng bỏng không,
bỏ đi, bỏ đi thật rồi! Ôi, thật là đáng tiếc, một bước sa chân khiến cho
nghìn đời ôm hận, kịp lúc quay đầu mới hay muôn sự lỡ làng.
Lời của y đầy vẻ xót thương. Thế nhưng những đại cao thủ ai ai cũng
biết Tinh Tú Lão Quái nào có ý tốt, chỉ nhân cháy nhà hôi của, định dẫn
Đoàn Diên Khánh vào chỗ tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một kẻ đối đầu
lợi hại.
Quả nhiên Đoàn Diên Khánh lặng người thảm thiết nói:
- Ta vốn ở ngôi vị tôn quí hoàng tử nước Đại Lý, hôm nay lưu lạc
giang hồ để tang thương thế này, quả đáng hổ thẹn cùng liệt tổ liệt tông.
Đinh Xuân Thu nói:
- Ngươi chết xuống dưới suối vàng, còn mặt mũi nào mà gặp lại tiên
nhân họ Đoàn, nếu biết xấu hổ, sao không tự tận, cũng còn coi là một
hành vi anh hùng hảo hán, thôi thôi, chi bằng tự tận cho xong, chi bằng tự
tận cho xong!
Giọng nói nhu hòa dễ nghe, những người công lực hơi yếu, nghe mơ
mơ màng màng tưởng như muốn gục xuống. Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm
nói một mình:
- Thôi! Chi bằng tự tận cho xong!
Y nhắc thiết trượng lên, chầm chậm nhắm ngay ngực mình điểm vào.
Thế nhưng vốn dĩ y tu tập rất cao siêu, mang máng cảm thấy dường như
có gì không phải, từ nơi đáy lòng có tiếng gọi giật lại:
- Không nên! Không nên! Điểm xuống là hỏng đó.
Thế nhưng đầu trượng vẫn từng tấc từng tấc tiến vào ngực. Y năm xưa
mất nước lưu vong, thân bị trọng thương rồi đã từng có ý định tự tận, chỉ
vì một cơ duyên đặc biệt mà phấn chấn trở lại, đến giờ sức tự chế giảm
đi, cái ý niệm muốn tìm cái chết ẩn dấu trong tim lại hiện đến.
Trong các đại cao thủ đứng chung quanh, Huyền Nạn bụng dạ từ bi, có
ý muốn lên tiếng cảnh tỉnh nhưng muốn dùng "đương đầu bổng hát" 8 cần
phải có nội công tương đương với Đoàn Diên Khánh mới có thể làm cho y
ù tai, còn không thì chẳng đi đến đâu, ngược lại còn mang họa nên tuy
8
nôn nóng cũng đành bó tay. Còn Tô Tinh Hà thì phải tuân theo qui củ của
sư phụ đặt ra năm xưa, không thể cứu viện. Mộ Dung Phục biết Đoàn
Diên Khánh không phải là người tốt, nếu y bị tẩu hỏa nhập ma mà chết,
trong thiên hạ bớt đi một mối hại thì còn gì hơn. Cưu Ma Trí hạnh tai lạc
họa, cười hề hề tụ thủ bàng quan. Đoàn Dự và Du Thản Chi tuy công lực
thâm hậu nhưng không biết Đoàn Diên Khánh đang làm trò gì. Vương
Ngữ Yên tuy hiểu biết về võ học các môn phái rộng rãi thật nhưng thuật
dẫn dụ của Đinh Xuân Thu là tà thuật bàng môn, không phải võ học
thành thử nàng cũng chẳng biết gì cả. Còn Diệp Nhị Nương trước nay vốn
bị Đoàn Diên Khánh đè đầu cưỡi cổ, bình thời hống hách, cực kỳ ngang
ngược nên trong bụng vẫn oán giận ngầm nay thấy y sắp tự tận cũng
chẳng muốn cứu làm gì. Còn bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng
không những công lực mất hết, lại cũng chẳng muốn dính vào việc tranh
chấp giữa Tinh Tú Lão Quái và Đệ Nhất Ác Nhân.
Trong đám đó chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là bồn chồn hơn cả,
thấy đầu trượng chỉ còn cách ngực Đoàn Diên Khánh chừng vài tấc, nếu
nhích thêm chút nữa sẽ điểm ngay vào tử huyệt, thuận tay chộp luôn Hư
Trúc, kêu lên:
- Lão đại, bắt lấy nhà sư này.
Vừa nói y vừa ném luôn vào người Đoàn Diên Khánh. Đinh Xuân Thu
đánh ra một chưởng quát:
- Cút ngay! Đừng có phá đám.
Cái ném đó của Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ hồn hậu, Hư Trúc theo
kình phong bay tới bị Đinh Xuân Thu đánh nhẹ một cái lập tức bay ngược
trở ra lao thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần.
Nam Hải Ngạc Thần hai tay đỡ lấy, đang toan vứt trở vào Đoàn Diên
Khánh lần nữa, ngờ đâu trong chưởng lực của Đinh Xuân Thu, còn có dấu
ba luồng hậu kình, Nam Hải Ngạc Thần mắt trợn tròn, lịch bịch lùi lại ba
bước, vừa toan gượng lại, luồng kình lực thứ hai đã đến nơi, hai đầu gối
khuỵu xuống, ngồi phịch ngay trên mặt đất, tưởng đã yên, ngờ đâu bấy
giờ luồng kình lực thứ ba mới ập đến. Y không tự chủ được lộn mèo một
vòng, hai tay vẫn còn nắm chặt Hư Trúc, lại đè nhà sư xuống lộn thêm
một vòng nữa. Y sợ chưởng lực của Đinh Xuân Thu còn một luồng kình
đạo thứ tư, vội xô Hư Trúc tới trước để đỡ đòn, nhưng may không còn,
Nam Hải Ngạc Thần liền trợn mắt chửi:
- Con bà ngươi gì mà mạnh thế.
Y liền cầm Hư Trúc vứt xuống đất. Đinh Xuân Thu phát ra chưởng đó
rồi tâm lực hơi nhãng ra, thành thử trượng của Đoàn Diên Khánh ngừng
lại lưng chừng, không di động nữa. Đinh Xuân Thu nói:
- Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi! Này Đoàn Diên Khánh, ta
khuyên ngươi nên tự tận cho xong, tự tận cho xong!
Đoàn Diên Khánh thở dài:
- Phải rồi! Sống ở trên đời, có còn ý nghĩa gì đâu? Chi bằng chết cho
xong.
Trong khi y nói thì đầu trượng đã tiến sâu thêm hai tấc nữa. Lòng từ bi
của Hư Trúc nổi lên mãnh liệt, biết rằng muốn giải trừ ma chướng cho
Đoàn Diên Khánh thì phải xen vào bàn cờ, có điều kỳ nghệ của y thấp
kém, muốn giải nạn đề vô cùng phức tạp khó khăn kia, thật không dám
nghĩ đến, thấy trước mắt Đoàn Diên Khánh đang chết sững nhìn bàn cờ,
nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên linh cơ nhất động: "Ta không giải
được thế cờ này thật, nhưng quấy phá loạn lên thì thật dễ dàng, chỉ miễn
sao tâm thần y nhãng ra là có cơ cứu được. Đã không có bàn cờ thì đâu
còn gì thắng hay bại?". Hư Trúc liền nói:
- Để cho tiểu tăng giải bàn cờ này.
Y nhanh nhẹn tiến tới gần bên, lấy trong hộp ra một quân cờ trắng,
nhắm mắt lại để bừa xuống bàn cờ.
Y chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng Tô Tinh Hà quát lớn:
- Chỉ giỏi quấy hôi bôi nhọ! Đi quân bậy bạ, ai đời tự mình giết quân
mình, làm gì có phép đánh cờ nào như thế?
Hồi 31(b)
THÂU DOANH THÀNH BẠI, -HỰU TRANH DO NHÂN TOÁN
Thành bại hơn thua cũng bởi trời,
Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.
Trăm sự chẳng qua do mạng số,
Phúc phận cho mình được đấy thôi.
*
* *
Hư Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để
đại xuống một quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân
đen bao vây không còn hở chỗ nào lọt ra được. Đám quân trắng đó vốn dĩ
còn một nước nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu
như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ thì cũng còn có đường sống, mà
bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước đó mà thôi. Thế nhưng
lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ chưa từng
có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như tan rã.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự trông thấy thế không khỏi cười
ha hả. Huyền Nạn lắc đầu ái ngại, Phạm Bách Linh tuy đang sống dở
chết dở cũng phải thốt lên:
- Đi nước đó thực đúng là làm trò cười.
Tô Tinh Hà nói:
- Tiên sư có di mệnh, bàn cờ này dù lài ai chăng nữa cũng có thể
nhập cuộc. Tiểu sư phụ đi nước đó quả khác thường không ai nghĩ ra
được, nhưng cũng là đi một nước.
Ông giơ tay lấy những quân cờ bị Hư Trúc tự giết chết bỏ ra ngoài, kế
đó đi một quân đen. Đoàn Diên Khánh kêu lên một tiếng, từ trong huyễn
mộng bừng tỉnh lại, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: "Tinh Tú
Lão Quái, ngươi thừa gió bẻ măng, ám thi độc thủ, chuyện này ta nhất
định không bỏ qua đâu".
Đinh Xuân Thu liếc Hư Trúc, ánh mắt đầy oán độc, chửi:
- Giặc trọc con.
Đoàn Diên Khánh thấy nước cờ đã biến hóa, biết mình vừa chết đi
sống lại, cũng là nhờ có Hư Trúc cứu viện, trong lòng dâng lên một niềm
cảm kích, sợ rằng Đinh Xuân Thu sẽ ra tay giết Hư Trúc trả thù nên nghĩ
thầm: "Có cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn ở đây, chắc Tinh Tú
Lão Quái không dám gây chuyện với đồ tử đồ tôn của ông ta, thế nhưng
nếu như lão hủ Huyền Nạn tầm thường không bảo vệ được chu đáo, ta sẽ
không để cho tiểu hòa thượng này phải chết vì ta".
Tô Tinh Hà nói với Hư Trúc:
- Tiểu sư phụ, ngươi giết một số quân của mình, quân đen càng thúc
ép thêm nữa, ngươi ứng phó ra sao?
Hư Trúc cười gượng đáp:
- Tiểu tăng kỳ nghệ kém cỏi, đi đại một quân chẳng qua chỉ vì muốn
cứu người. Bàn cờ này tiểu tăng không biết đánh, xin lão tiền bối tha thứ
cho.
Tô Tinh Hà sầm mặt xuống, gằn giọng:
- Tiên sư sắp đặt ván cờ này cung thỉnh cao nhân thiên hạ đến phá
giải. Nếu như phá giải không được thì cũng không sao, còn gặp tai ương
xảy tới, cũng là do mình thu lấy. Thế nhưng nếu người nào đến chỉ để
phá rối bàn cờ, khinh mạn tâm huyết một đời của tiên sư, thì dẫu có
người đông thế mạnh, ha ha, lão phu mặc dầu vừa câm vừa điếc, cũng
vẫn nhất định sẽ đi tới cùng.
Y tên gọi Lung Á lão nhân, thực ra nào có điếc có câm gì đâu, hiện
giờ vểnh tai nghe, mở mồm nói, vậy mà vẫn tự cho mình "vừa câm vừa
điếc", có điều trong khi nói, mày râu dựng ngược, thần tình cực kỳ hung
mãnh nên không ai dám mở miệng cười.
Hư Trúc chắp tay hành lễ thật sâu nói:
- Lão tiền bối ...
Tô Tinh Hà quát lớn:
- Đánh cờ là đánh cờ, nói nhiều có ích gì đâu? Sư phụ ta có phải để
cho ngươi đến phá quấy tiêu khiển chăng?
Ông ta vừa nói vừa vung tay lên đánh ra một chưởng, nghe bình một
tiếng, bụi bay mù mịt, trước mặt Hư Trúc lập tức hiện ra một cái hố lớn.
Chưởng đó mãnh liệt không gì sánh kịp, nếu chỉ nhích lên chừng một
thước thì Hư Trúc đã gân cốt nát nhừ, chết tươi ngay.
Hư Trúc sợ đến tim đập thình thình, đưa mắt nhìn Huyền Nạn, mong sư
bá tổ đứng ra cứu y khỏi cảnh ngộ khó khăn này. Huyền Nạn nước cờ đã
không cao, võ công lại mất hết, làm gì còn cách gì bây giờ? Trong tình
cảnh đó ông chỉ còn một cách là muối mặt xin Tô Tinh Hà nhẹ tay, bỗng
thấy Hư Trúc thò tay vào hộp, lấy ra một quân cờ trắng, đặt lên bàn cờ.
Nơi y để quân, chính là nơi những quân trắng mới mất đi còn bỏ trống.
Nước cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy
nghĩ tất cả những thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm
lòng, dẫu đối phương đi nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta
đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự
mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép đánh cờ rất nặng, dù
người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.
Cái cách đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ
mình. Ngờ đâu sau khi y nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối
lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng
quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ, không phải như trước bó
chân bó tay, được chỗ nọ mất chỗ kia. Cục diện mới này Tô Tinh Hà dù
có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ
một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.
Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp,
sư bá tổ cũng không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo
lắng, bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai:
- Để vào bình vị ở nước tam cửu.
Hư Trúc chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần
biết đúng hay sai, cầm ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị
tam cửu. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại
truyền vào tai Hư Trúc:
- Bình vị nhị bát.
Hư Trúc lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi
rồi, chỉ nghe Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cả bọn đều ồ lên một
tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên,
đồng thời khâm phục đủ biết nước đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ
mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng nhưng cũng nóng nảy bồn chồn,
đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.
Hư Trúc trong bụng khởi nghi: "Sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế?
Không lẽ nước cờ mình đi sai rồi chăng?". Thế nhưng lại lập tức nghĩ
ngay: "Không cần biết đi đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước
trở lên, đủ để biết rằng mình cũng có đường đi nước bước, không phải
đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên sư của ông ta, lúc đó sẽ
không trách mình được nữa". Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa, y
lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một quân
trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá
tổ bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra
chiều nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở
miệng nói câu nào.
Người đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu,
hiển nhiên là "truyền âm nhập mật" dùng thượng thừa nội công truyền lời
nói thẳng vào tai y, người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không
nghe thấy gì cả.
Thế nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp
máy, Hư Trúc lén quan sát môi mọi người, không thấy người nào động
đậy, vậy mà câu: "Để xuống vị trí ngũ lục" vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư
Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: "Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai
nữa. Những người khác với mình vô thân vô cố, việc gì phải giúp mình?
Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ chưa đánh cờ, còn ai
cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công phi phàm, thành
ra không mấp máy môi vẫn có thể "truyền âm nhập mật", ta không biết
đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó".
Y có biết đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có
cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi Đoàn
Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc cờ, bị Đinh Xuân Thu thừa cơ
dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập ma, tự sát thân vong,
cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được. Y thấy
Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này
nên buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y
giỏi về thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm
nội công thâm hậu nên biết cách "truyền âm nhập mật", tuy bên cạnh có
mấy cao thủ hạng nhất nhưng vẫn không ai khám phá ra.
Thế nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Đoàn
Diên Khánh nắm ngay được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Đó là
bên trắng phải tự giết một số quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ
diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép đánh cờ có những nước phản phác,
đảo thoát ngoa, tự mình cố ý đi vào chỗ chết để nhử cho đối phương ăn
quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm cũng chỉ tám
chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép "tự
mình giết mình" quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho
loại cao thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước
cờ như vậy. Ai ai cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm
đường sống, chứ có ai lại nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra,
nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận tay đặt bừa một nước cực kỳ
ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ Trân Lung này cũng
không ai giải được.
Kỳ thuật của Đoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh
cờ với Hoàng Mi tăng nước Đại Lý đã làm cho nhà sư này không còn
đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất đi một mảng lớn, thế đánh
bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình vừa mất, cũng
không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải mái mà
đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Đoàn Diên Khánh đứng ngoài
chỉ điểm, chỉ thấy Hư Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ
đen, nhịn không nổi phải tấm tắc khen ngợi.
Huyền Nạn lẩm bẩm nói một mình:
- Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường thắng bại đắc thất, cho nên
không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc không còn màng sinh
tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi vòng sống chết,
đạt tới giải thoát ...
Ông mang máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết
mình cả đời chuyên lo võ học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng
nghĩ ra: "Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu chuyên về tạp học, cho
nên võ công không bằng được Đinh Xuân Thu, ta trước đây cười chê họ
đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công, không chăm lo
tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay
không?". Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.
Đoàn Dự lúc đầu còn chăm chú xem bàn cờ nhưng về sau, đôi mắt
chàng chỉ dán chặt vào người Vương Ngữ Yên, càng nhìn càng thêm đau
lòng, thấy nhãn quang nàng từ đầu đến cuối không lúc nào rời khỏi Mộ
Dung Phục đành bụng bảo dạ: "Thôi mình đi cho xong! Ở đây càng lâu
càng thêm khổ, không chừng lại hộc máu ngay tai đây mất". Thế nhưng
nếu để chàng tự mình rời xa Vương Ngữ Yên thì làm sao cho được?
Chàng nghĩ thầm: "Thôi đợi Vương Ngữ Yên quay đầu lại lúc ấy mình sẽ
nói: Vương cô nương, chúc mừng cô đã gặp được biểu ca, hôm nay tại hạ
được gặp cô nương thêm một lần nữa, quả là có duyên. Tôi xin từ biệt".
Nếu lúc đó nàng nói: "Được, thôi chào công tử" thì mình sẽ ra đi. Còn
nếu như nàng nói: "Sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử"
thì mình sẽ nán lại xem nàng muốn nói gì.
Thực ra, Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên sẽ chẳng bao giờ quay đầu lại
nhìn mình, cũng chẳng bao giờ bảo chàng: "Sao gấp thế, ta còn có
chuyện muốn nói với công tử". Bỗng nhiên, đám tóc phất phơ sau cổ
Vương Ngữ Yên hơi lay động, Đoàn Dự tim đập thình thình: "Nàng quay
lại đó!". Thế nhưng chỉ nghe nàng thở dài một tiếng gọi khẽ:
- Biểu ca!
Mộ Dung Phục chăm chú nhìn bàn cờ, thấy bên trắng giờ này đã
chiếm thượng phong, đang dần dần ép lại nghĩ thầm: "Mấy nước cờ đó ta
làm sao nghĩ ra nổi. Vạn sự khởi đầu nan, là một bàn cờ quái lạ bậc nhất,
không sao tưởng được". Vương Ngữ Yên lại khẽ gọi lần nữa nhưng y nào
có nghe thấy gì đâu. Vương Ngữ Yên lúc ấy mới chép miệng, từ từ quay
đầu lại. Đoàn Dự tim đập mạnh: "Nàng quay lại rồi! Nàng quay lại rồi!".
Quả nhiên khuôn mặt tú lệ của Vương Ngữ Yên đã chuyển qua, Đoàn Dự
thấy dung nhan nàng nhuốm một vẻ ưu sầu, trong ánh mắt lại có chiều u
oán, nghĩ thầm: "Từ khi nàng sánh vai cùng Mộ Dung Phục đến đây, thần
sắc trước sau lúc nào cũng hết sức vui vẻ, sao bây giờ nàng bỗng dưng lại
trở nên buồn tủi? Không lẽ ... không lẽ trong lòng nàng cũng có đôi chút
khắc khoải đến ta chăng?". Chỉ thấy mắt nàng đưa qua phía phải, gặp ánh
mắt chàng, Đoàn Dự lập tức tiến lên một bước toan hỏi: "Vương cô
nương, cô có điều gì muốn nói ư?". Thế nhưng ánh mắt Vương Ngữ Yên
lại tiếp tục di chuyển, nhìn bâng khuâng về chốn xa xăm rồi lại quay về
Mộ Dung Phục.
Tâm hồn Đoàn Dự trĩu hẳn xuống, khổ sở không đâu tả xiết: "Nàng
chẳng phải không nhìn ta, mà so với không nhìn ta còn gấp mười lần. Mắt
nàng tuy nhìn ta nhưng chỉ là "thị nhi bất kiến". Tuy mắt nàng để vào ta
nhưng hình ảnh ta nào có vào được tim nàng. Nàng chỉ nghĩ đến biểu ca
chứ Đoàn Dự này có chút nào ở trong tâm khảm nàng đâu! Ôi, thôi đi cho
xong, chi bằng đi cho xong!".
Ở bên kia Hư Trúc nghe lời chỉ điểm của Đoàn Diên Khánh, thấy bên
đen dù đi cách nào cũng bị bên trắng ăn mất một mớ, còn như để hở ra thì
quân trắng sẽ xung sát trùng vi, lúc đó sẽ không còn cách nào chống đỡ
được nữa.
Tô Tinh Hà suy nghĩ một hồi, cười hì hì đặt thêm một quân đen. Đoàn
Diên Khánh liền truyền âm:
- Hạ thượng vị thất bát.
Hư Trúc theo đúng thế mà làm, tuy y hiểu biết về cờ rất nông cạn
nhưng cũng biết là mình đặt quân cờ này xuống rồi là đã phá giải được
thế Trân Lung, vỗ tay cười nói:
- Xem chừng đã xong!
Tô Tinh Hà mặt rạng rỡ, chắp tay nói:
- Tiểu thần tăng trời cho tài ba như thế, quả là đáng mừng.
Hư Trúc vội vàng hoàn lễ nói:
- Không dám, không dám! Cái này không phải tiểu tăng ...
Y vừa định thú thật là do sư bá tổ chỉ điểm, bỗng thấy có tiếng "truyền
âm nhập mật" vào tai:
- Bí mật này, bằng giá nào cũng không được tiết lộ. Hiểm cảnh chưa
thoát đâu, càng phải cẩn thận hơn nữa.
Hư Trúc lại tưởng đó là do Huyền Nạn ra lệnh, bèn cúi đầu đáp:
- Vâng! Vâng!
Tô Tinh Hà đứng thẳng dậy nói:
- Tiên sư sắp đặt thế cờ này, mấy chục năm nay không ai giải được,
nay tiểu thần tăng phá được thế Trân Lung, tại hạ cảm kích không đâu
cho hết.
Hư Trúc không biết nguyên do bên trong, chỉ biết khiêm tốn đáp:
- Tiểu tăng đi lăng nhăng toàn do trưởng bối thương tình, lão tiên
sinh quá khen, quả thực hổ thẹn không dám nhận.
Tô Tinh Hà đi đến trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách nói:
- Xin mời tiểu thần tăng bước vào.
Hư Trúc thấy ba gian nhà đó kiến trúc lạ lùng, lại không có cửa,
không biết bảo vào là vào làm sao, cũng chẳng hiểu vào để làm gì, thành
thử đứng ngẩn người ra, không biết thế nào cho phải. Lại nghe thanh âm
kia bảo:
- Thế cờ mở ra một con đường, chính là xung đột đấu tranh mà được.
Nhà không cửa, ngươi hãy dùng ngạnh công Thiếu Lâm phá ra.
Hư Trúc nói:
- Như vậy đành phải đắc tội.
Y xoạc cẳng xuống tấn, giơ tay phải lên, phát chưởng chém xuống
vách gỗ. Hư Trúc võ công thấp kém, hôm đó bị Đinh Xuân Thu phất tay
áo một cái đã ngã lăn ra, lập tức bị môn nhân phái Tinh Tú đè xuống bắt
giữ, cũng nhờ thế nội lực không mất. Dưới mắt biết bao nhiêu cao thủ tại
đương trường, chưởng lực của y thật chẳng bõ cười, cũng may vách nhà
không lấy gì làm kiên cố, chỉ nghe lách cách đã nứt ra một đường. Hư
Trúc lại bổ thêm hai chưởng nữa, lúc đó mới đánh vỡ cánh cửa nhưng bàn
tay cũng ê ẩm.
Nam Hải Ngạc Thần cười khằng khặc nói:
- Ngạnh công của phái Thiếu Lâm thật dở ơi là dở.
Hư Trúc quay lại đáp:
- Tiểu tăng là một đồ đệ chẳng đâu ra đâu của phái Thiếu Lâm,
công phu nông cạn chứ không phải võ công phái Thiếu Lâm không ra gì.
Lại nghe thanh âm kia nói tiếp:
- Mau mau vào đi, không được quay đầu lại, cũng đừng để ý đến
người ngoài.
Hư Trúc đáp:
- Vâng!
Y hăng hái đi vào. Bỗng nghe Đinh Xuân Thu quát lên:
- Đây là môn hộ của bản phái, một chú tiểu như ngươi sao dám bước
vào?
Tiếp theo là hai tiếng bình bình thật lớn, Hư Trúc cảm thấy một luồng
kình phong ập tới cuốn lấy y như muốn nhấc bổng người lên, kế đó là hai
luồng đại lực thúc vào lưng và mông, không còn tự chủ được nữa người
lộn tùng phèo, lăn vào bên trong.
Hư Trúc có biết đâu vừa mới chết đi sống lại, một đằng Đinh Xuân
Thu phát chưởng đánh lén định giết y, mặt khác Cưu Ma Trí vận dụng
Khống Hạc Công định chộp y kéo lại. Thế nhưng Đoàn Diên Khánh đã
dùng ám kình từ đầu trượng tiêu giải chưởng của Đinh Xuân Thu, còn Tô
Tinh Hà đang đứng giữa y và Cưu Ma Trí, đưa tay trái chặn Khống Hạc
Công còn tay phải đánh luôn hai cái, đẩy Hư Trúc tọt vào trong nhà.
Hai luồng lực đạo đó thật cương mãnh, Hư Trúc phá vỡ một mảnh ván
rồi, trán đụng bình một cái, lại va ngay vào một bức vách khác, đầu óc
mịt mù, tưởng chừng muốn ngất đi, phải một lúc sau mới gượng đứng lên
được, giơ tay xoa đầu thấy trán sưng u một cục lớn. Y thấy mình đang
đứng trong một căn phòng trống không có một ai, đang định đi tìm cửa
nhưng gian nhà đó kín mít như bưng, chỉ có mỗi cái lỗ mình vừa phá vỡ đi
vào. Y đứng ngẩn ngơ, đang định theo cái lỗ đó chui trở ra.
Bỗng nghe từ vách phía bên kia một giọng nói già cả khẽ truyền qua:
- Đã vào được đây, sao lại còn muốn đi ra?
Hư Trúc quay người lại nói:
- Xin lão tiền bối chỉ lối cho.
Thanh âm kia nói tiếp:
- Lối đi ngươi đã tự mình xông vào được, có cần gì phải ai chỉ. Ta
sắp xếp bàn cờ đó, mấy chục năm qua không ai phá giải nổi, sau cùng
hôm nay ngươi đã sách khai9 rồi, sao không vào đây.
Hư Trúc nghe thấy ông ta nói "ta sắp xếp bàn cờ đó" không khỏi nổi
da gà, lập cập hỏi:
- Ông ... ông ... ông ...
Y đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại bàn cờ đó do "tiên sư" bày ra,
thế giọng này là người hay ma đây? Lại nghe giọng nói tiếp:
- Thời cơ chỉ vụt qua rồi mất, ta đợi đã ba mươi năm nay, chẳng còn
thì giờ đâu mà đợi ngươi nữa! Này con ơi, mau vào đây thôi.
Hư Trúc nghe tiếng nói cực kỳ thân mật hiền từ, xem ra không có chút
ác ý nào, chẳng suy nghĩ gì thêm, dùng đầu vai huých vào tấm vách,
nghe lách cách một tiếng lớn, tấm vách đó lâu ngày cũng mục rồi nên lập
tức vỡ ngay một miếng.
Hư Trúc đưa mắt nhìn không khỏi hoảng hốt, thấy bên trong cũng là
một gian phòng trống nhưng có một người ngồi giữa lưng chừng trời. Ý
niệm đầu tiên hiện ra là "có ma", sợ quá toan quay mình bỏ chạy thì
nghe người kia nói:
- Ồ, thì ra là một chú tiểu! Ôi, lại là một chú tiểu mặt mày xấu xí!
Chán quá, chán quá, chán quá! Ôi! Chán quá, chán quá, chán quá!
Hư Trúc nghe ông thở dài liên tiếp ba lần, lại nói sáu câu "chán quá"
nên đăm đăm nhìn ông ta, lúc ấy mới rõ, thì ra người ông ta treo bằng
một sợi dây thừng đen, một đầu dây buộc vào sà ngang, nên mới lơ lửng
giữa trời như thế. Chỉ vì bức tường đằng sau lưng ông ta tối om om, dây
thừng lại sẫm màu trộn lẫn vào nhau nên không nhìn ra sợi dây, thoạt
mới nhìn lại tưởng ông ta đang ngồi trên không.
Hư Trúc mặt mũi cũng hơi xấu trai, mày rậm mắt to, mũi huếch, hai
tai đón gió10, đôi môi dày, lại thêm mới va vào tường bị thương thành ra
9 sách chiết sách chiêu chiết chiêusách giải chiết giải nãi nhưng tam thiếu nãi tam thiếu nhưng
lem luốc, quả cũng khó coi thật. Y mồ côi cha mẹ từ nhỏ, những nhà sư
trong chùa Thiếu Lâm thương tình đem vào nuôi dưỡng, trong chùa nếu
người nào không chuyên cần thanh tu thì cũng chăm lo luyện võ, chẳng
một ai để ý xem y xấu hay đẹp. Người trong cửa Phật coi là thân thể chỉ
là "cái túi da hôi thối"11 nếu còn để ý đến cái túi đó dễ coi hay không thì
việc chứng đạo chỉ thêm vướng bận. Thành ra khi nghe người này bảo là
"một chú tiểu mặt mày xấu xí" thì Hư Trúc cũng chỉ mới nghe lần đầu
tiên.
Y len lén ngửng đầu lên nhìn người kia, thấy ông ta râu dài ba thước
không có một sợi bạc nào, mặt như quan ngọc12, chẳng có chút vết nhăn,
tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ nữa nhưng thần tình sảng lãng, phong độ
nhàn nhã. Hư Trúc hơi cảm thấy sượng sùng nghĩ thầm: "Nói đến tướng
mạo thì mình so với ông ta đúng là một trời một vực". Khi đó trong lòng
không còn sợ hãi gì nữa, y liền khom người hành lễ nói:
- Tiểu tăng Hư Trúc xin bái kiến tiền bối.
Người kia gật đầu hỏi:
- Thế ngươi họ gì?
Hư Trúc sựng lại nói:
- Người đã xuất gia không còn tên họ thế tục nữa.
Người kia hỏi lại:
- Thế trước khi xuất gia thì ngươi tên họ là chi?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, xưa nay không có tên họ gì cả.
Người kia chăm chú nhìn y như để suy đoán, thở dài một tiếng nói:
10
11 12
- Ngươi đã phá giải được thế cờ của ta ắt thông minh tài trí phải thật
hơn người, nhưng tướng mạo thế kia, xem chừng không ổn, ôi, thật chán
ngán thay. Ta xem rồi sau cùng nước lã ra sông, uổng tâm tư một đời lại
chỉ làm ngươi bỏ mạng oan thôi. Này chú tiểu ơi, ta cho ngươi một lễ vật
để ngươi đi khỏi đây nhé.
Hư Trúc nghe giọng điệu ông lão kia, xem chừng có một việc rất khó,
không ai giúp mình nên lo phiền, tuy nhiên pháp môn thứ nhất của nhà
Phật là "giúp chúng sinh qua cơn khổ ách"13 nên nói liền:
- Kỳ đạo của tiểu tăng thực ra hết sức nông cạn, cuộc cờ của lão tiền
bối chẳng phải do tiểu tăng sách giải đâu. Thế nhưng lão tiền bối nếu có
chuyện gì phải làm, tiểu tăng tuy bản lãnh kém cỏi nhưng cũng nguyện
hết sức cố gắng, còn như món quà thì tiểu tăng không dám nhận.
Ông lão kia nói:
- Ngươi có bụng dạ hiệp nghĩa như thế, quả là hay lắm. Ngươi kỳ
nghệ không cao, võ công thấp kém, cũng chẳng hề gì nhưng đã đến được
đây, cũng là có duyên. Có điều ... có điều ... tướng mạo nhà ngươi sao
khó coi quá.
Nói rồi ông ta lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc mỉm cười nói:
- Tướng mạo đẹp hay xấu cũng là do nghiệp báo từ khi vô thủy đến
nay tụ lại mà thành, chính mình đã không làm chủ được, mà cả cha mẹ
cũng đành chịu vậy mà thôi. Tiểu tăng xấu xí khiến cho tiền bối không
vui, thôi xin cáo từ.
Nói xong lùi lại hai bước. Hư Trúc đang định quay đi thì ông lão kia
nói:
- Hãy khoan!
Tay áo của ông ta phất ra, để lên đầu vai phải của Hư Trúc. Thân hình
y hơi trĩu xuống, thấy cánh tay áo đó chẳng khác gì cánh tay, giữ chặt lấy
người. Ông lão cười:
- Người tuổi trẻ mà có ngạo khí như thế, quả là hay lắm.
13
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng nào đám cuồng vọng kiêu ngạo, chỉ vì sợ lão tiền bối bực
mình đấy thôi, cho nên cáo thoái sớm cho xong.
Ông già kia gật đầu hỏi thêm:
- Ngày hôm nay đến đây giải thế cờ gồm có những ai?
Hư Trúc kể lại tất cả. Ông lão trầm ngâm một hồi nói:
- Cao thủ trong thiên hạ, mười phần thì đến sáu bảy đến đây rồi. Thế
Khô Vinh đại sư của họ Đoàn Đại Lý có đến không?
Hư Trúc đáp:
- Ngoài tăng chúng trong tệ tự ra, người xuất gia chỉ có một mình
Cưu Ma Trí đại sư thôi.
Ông lão kia lại hỏi:
- Trong những năm gần đây võ lâm nghe nói có một gã tên Kiều
Phong võ công rất khá, y có đến không?
Hư Trúc đáp:
- Không.
Ông già thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình:
- Ta đã đợi bao nhiêu năm nay, nếu đợi thêm nữa, chắc gì đã gặp
được người hoàn toàn đẹp đẽ cả bên ngoài lẫn bên trong. Thiên hạ bất
như ý sự thường thất bát, thôi cũng đành như thế mà thôi.
Ông ta trầm ngâm một hồi, dường như tâm ý đã quyết nói:
- Mới rồi ngươi có nói, thế cờ đó không phải ngươi sách giải, thế sao
Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?
Hư Trúc đáp:
- Quân thứ nhất cũng do tiểu tăng lớn mật không biết, nhắm mắt đặt
bừa, còn những nước sau thì do tệ sư bá tổ pháp húy thượng Huyền hạ
Nạn, dùng "truyền âm nhập mật" bí mật chỉ điểm.
Nói rồi đem tình hình phá giải thế cờ ra sao kể lại một lượt. Ông lão
thở dài:
- Quả là ý trời! Quả là ý trời!
Đột nhiên khuôn mặt đang buồn trở nên rạng rỡ, cười nói:
- Nếu đã là ý trời định như thế, ngươi nhắm mắt đặt bừa mà giải
được thế cờ của ta, đủ biết phúc duyên thâm hậu, có thể lo việc đại sự
cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm, hay lắm, hay lắm! Con ngoan ơi,
ngươi quì xuống khấu đầu đi.
Hư Trúc từ bé lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, ngày ngày nếu không
gặp sư phụ thì cũng sư thúc sư bÿ, có khi sư bá tổ, sư thúc tổ các loại
trưởng bối, đến ngay cùng hàng với mình, những sư huynh tuổi tác lớn
hơn, võ công cao hơn cũng biết bao nhiêu, xưa nay phục tòng đã quen.
Đệ tử nhà Phật tập luyện tính khiêm tốn cho nên khi nghe ông lão bảo y
rập đầu, tuy không hiểu vì lý do tại sao, nhưng nghĩ bụng người này là
tiền bối trong võ lâm, có lạy ông ta mấy cái cũng là chuyện đương nhiên,
cho nên cung kính quỳ xuống cộp cộp cộp cộp rập đầu bốn cái liền. Y
vừa định đứng lên thì người kia lại nói:
- Thêm năm cái nữa, đó là qui củ bản môn.
Hư Trúc đáp liền:
- Vâng!
Rồi y lại rập đầu thêm năm lần nữa. Ông lão nói:
- Con ngoan lắm! Con ngoan lắm! Lại đây!
Hư Trúc đứng lên đến trước mặt ông ta. Ông lão nắm cổ tay y, nhìn y
từ đầu đến chân đánh giá. Đột nhiên Hư Trúc thấy mạch môn nóng lên,
một luồng nội lực theo cánh tay chạy lên, nhanh nhẹn dị thường đi thẳng
vào tim, tự nhiên không định mà dùng Thiếu Lâm tâm pháp kháng cự lại.
Nội lực của ông lão liền quay trở ra, trở lại bình thường. Hư Trúc biết
rằng ông già thử xem mình nội lực nông sâu bực nào, không khỏi mặt đỏ
tía tai, ngượng ngập nói:
- Tiểu tăng bình thời hay đọc kinh Phật, lại ham vui chơi, không
chăm chỉ tập luyện nội công sư phụ truyền thụ chẳng bõ làm trò cười cho
tiền bối.
Ngờ đâu ông lão lại cực kỳ hoan hỉ, cười nói:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Nội công phái Thiếu Lâm ngươi tập rất ít nên
cũng đỡ mất công cho ta.
Ông ta nói xong Hư Trúc thấy toàn thân mềm ra, tưởng như đang trầm
mình tắm trong một dòng suối ấm, nhiệt khí theo lỗ chân lông mà bốc
hơi, cảm thấy hết sức khoan khoái. Chỉ trong chốc lát, ông lão đã buông
tay y ra, cười nói:
- Xong rồi! Ta đã dùng Bắc Minh Thần Công của bản môn hóa tán
hết nội lực Thiếu Lâm của ngươi đó.
Đoàn Dự hoảng hốt, kêu lên:
- Cái ... cái gì?
Y nhảy nhổm lên nhưng khi rơi xuống đất hai đầu gối mềm oặt, ngồi
phệt xuống đất, bao nhiêu khớp xương rã rời, đầu óc choáng váng, trời
đất quay cuồng, biết là ông già nói không sai, trong lòng thảng thốt, nước
mắt dàn dụa, khóc òa lên:
- Tôi ... tôi ... tôi với ông có thù oán gì đâu, cũng đâu có làm gì đắc
tội, sao ông nỡ lòng nào hại tôi như thế?
Người kia mỉm cười:
- Sao ngươi lại ăn nói vô phép như vậy? Đã không gọi "sư phụ" lại
gì mà "tôi" với "ông", chẳng có qui củ gì cả.
Hư Trúc kinh hoàng lắp bắp:
- Cái gì? Sao ông lại là sư phụ của tôi?
Người kia nói:
- Ngươi vừa mới rập đầu lạy ta chín cái, đó chính là lễ bái sư đó.
Hư Trúc kêu lên:
- Không! Không! Tôi là đệ tử Thiếu Lâm, làm sao có thể bái ông
làm thầy được? Cái môn tà thuật hại người của ông, tôi nhất định không
học đâu.
Nói xong y gắng gượng đứng lên. Người kia cười:
- Có thực ngươi không học hay không?
Hay tay vung lên, tay áo bay ra, chộp vào đầu vai Hư Trúc. Hư Trúc
thấy đầu vai nặng chịch, không cách nào vùng lên được, hai đầu gối lại
nhuyễn ra ngồi phịch xuống, mồm kêu toáng lên:
- Ông có đánh chết tôi, tôi cũng không học.
Người kia cười ha hả, đột nhiên thân hình bay tung lên, lộn một vòng
trên không, chiếc khăn vuông trên đầu bay vào một góc nha, chân trái
đạp vào xà ngang một cái rơi xuống, đầu ông ta trúng ngay đầu Hư Trúc,
hai thiên linh cái đụng nhau. Hư Trúc sợ quá lập cập hỏi:
- Ông ... ông làm gì thế?
Y cố sức lắc đầu, định hất ông ta ra. Thế nhưng tưởng như đầu ông lão
có đinh đóng chặt vào đầu Hư Trúc, dù có vùng vằng thế nào chăng nữa
vẫn không cách nào thoát ra được. Đầu Hư Trúc lắc qua hướng đông thì
cả thân hình ông ta nghiêng qua hướng đông, Hư Trúc lắc qua hướng tây
thì ông ta lại nghiêng về hướng tây, cả hai người liền thành một lắc lư
qua lại không ngớt.
Hư Trúc càng thêm khủng khiếp, đưa hai tay ra, cố đẩy tay trái, tay
phải thì nắm lấy định đẩy đầu ông ta ra khỏi đầu mình. Thế nhưng vừa
đẩy một cái đã thấy tay mình mềm oặt như bông không có một chút khí
lực nào, càng thêm bồn chồn: "Bị trúng phải tà thuật của lão ta rồi, không
những võ công mất sạch, xem chừng đến mặc áo ăn cơm cũng chẳng còn
hơi sức, từ nay mình đã tê liệt, thành người tàn phế, biết làm sao đây?'. Y
càng thêm kinh hoàng thất tán, mở miệng kêu gào, bỗng thấy từ trên
huyệt Bách Hội nơi đỉnh đầu một sợi nhiệt khí đi thẳng vào trong óc,
miệng kêu không ra tiếng, nghĩ thầm: "Hỏng rồi! Chắc mình mất mạng".
Chỉ thấy óc càng lúc càng nóng, rồi thì mơ mơ như muốn căng lên, tưởng
như muốn bốc thành ngọn lửa, luồng nhiệt khí từ trên đi thẳng xuống,
chẳng mấy chốc đã chịu không nổi, ngất đi.
Y thấy người nhẹ nhàng bay bổng tưởng chừng đang đằng vân giá vụ,
lang thang trên không, rồi bỗng nhiên thân trên lạnh buốt, tưởng như rơi
vào biển khơi, đùa dỡn với bầy cá, có lúc lại đang ở trong chùa đọc kinh,
có khi lại đang khổ luyện võ nghệ, nhưng luyện đi luyện lại mãi chưa
được. Còn đang hoang mang, bỗng thấy trời đổ mưa rào, từng giọt từng
giọt rơi đầy người, nhưng những giọt mưa cũng nóng hổi.
Khi đó Hư Trúc cũng đã hơi tỉnh lại, mở mắt ra thấy ông già đó mặt,
cổ, chân tóc chỗ nào cũng có mồ hôi toát ra đầm đìa không ngớt rơi tong
tỏng lên người y. Hư Trúc cũng thấy mình đã nằm gục dưới đất, ông lão
thì ngồi một bên nhưng đầu hai người không còn dính với nhau nữa.
Hư Trúc ngồi dậy nói:
- Ông ... ông ...
Chỉ nói được hai tiếng "ông", chợt giật mình kinh dị, thấy ông lão bây
giờ biến đổi hẳn, khuôn mặt trắng trẻo đẹp đẽ mới rồi, bây giờ nhăn nheo
đầy vết ngang dọc, mái tóc dài đã rụng hết, còn bộ râu trước kia đen
nhánh thì nay bạc trắng. Ý niệm đầu tiên của Hư Trúc là: "Ta ngất đi đã
bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm chăng? Hay năm mươi năm? Sao người
này bỗng nhiên già đi đến vài mươi tuổi?". Ông lão trước mắt giờ đây
hom hem lụ khụ, nếu không phải một trăm hai mươi tuổi thì cũng phải
một trăm.
Ông già kia đôi mắt lờ đờ, cố hết sức nở một nụ cười nói:
- Việc lớn đã xong! Con ngoan ơi, ngươi phúc trạch thâm hậu, vượt
quá kỳ vọng của ta nhiều, người đánh thử một chưởng vào bức vách trống
kia xem nào!
Hư Trúc không hiểu ra sao, y lời đánh ra một chưởng, chỉ nghe lách
cách, mảng tường lớn vỡ tung đến một nửa, thật nếu y dùng hết sức lao
vào đến mươi lần cũng chưa bằng. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, ấp
úng:
- Cái ... cái đó là vì sao thế?
Ông lão mặt rạng rỡ, hết sức hoan hỉ, cũng hỏi lại:
- Cái ... cái đó là vì sao thế?
Hư Trúc hoang mang:
- Sao bỗng nhiên ...bỗng nhiên tiểu tăng có lực đạo mạnh đến thế?
Ông già mỉm cười:
- Ngươi chưa được học chưởng pháp của bản môn cho nên lực đạo sử
dụng chưa được tới một thành. Hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện của
sư phụ ngươi không lẽ tầm thường?
Hư Trúc nhảy bật dậy, biết rằng có điều gì không ổn, kêu lên:
- Ông ... ông ... cái gì mà hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện?
Ông lão vẫn mỉm cười:
- Không lẽ đến giờ này ngươi chưa hiểu rõ hay sao? Thực chăng hay
là không dám nghĩ đến?
Hư Trúc dường như mang máng hiểu câu nói của ông già, có điều việc
xảy ra quá đột ngột, quả không bao giờ ngờ tới, không ai tin nổi, khép
nép nói:
- Lão tiền bối truyền một môn thần công ... một môn thần công cho
tiểu tăng ư?
Ông lão vẫn mỉm cười:
- Sao ngươi chưa gọi ta là sư phụ?
Hư Trúc cúi đầu đáp:
- Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể khi tổ diệt tông, đổi
qua phái khác.
Ông lão nói:
- Trong người ngươi không có chút xíu công phu Thiếu Lâm nào, sao
lại còn là đệ tử Thiếu Lâm được? Trong người ngươi súc tích hơn bảy
mươi năm thần công phái Tiêu Dao, sao lại không phải là đệ tử bản phái?
Hư Trúc xưa nay chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, hoang mang
hỏi lại:
- Phái Tiêu Dao ư?
Ông lão mỉm cười:
- Thừa thiên địa chi chính, ngự lục khí chi biện, dĩ du ư vô cùng, thị vi
tiêu dao14. Ngươi nhảy lên thử xem nào?
Hư Trúc nổi dạ hiếu kỳ, hai đầu gối cong lại, nhún chân một cái, nhẹ
nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe bình một tiếng, đỉnh đầu đau nhói, mắt
sáng lòa, một nửa người đã xuyên qua nóc nhà mà vẫn tiếp tục bay lên,
vội vàng đưa tay giữ mái nhà ghìm lại, rơi trở xuống đất, còn nhảy tưng
tưng mấy bận, lúc ấy mới ngừng lại được. Khinh công như thế quả là
không dám nghĩ tới, trong nhất thời đã không vui mừng lại đâm ra sợ hãi.
Ông lão nói:
- Thấy thế nào?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng ... tiểu tăng bị ma làm chăng?
Ông lão nói:
- Ngươi cứ bình thản ngồi xuống, nghe ta kể hết nguyên nhân. Thời
khắc không còn nhiều, chỉ nói những gì quan trọng. Nếu như ngươi không
bằng lòng gọi ta là thầy, không muốn đổi tông phái thì ta cũng không ép
ngươi được. Tiểu sư phụ, ta cầu ngươi giúp ta một điều, thay ta làm một
chuyện, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc xưa nay vẫn thích giúp người, nhà Phật tu theo lục độ15, đứng
đầu là bố thí, thế nhân có nạn phải hết sức giúp đỡ bèn nói:
- Tiền bối đã sai bảo ắt tiểu tăng sẽ kiệt lực mà làm.
Câu đó vừa nói ra, bỗng y chợt nghĩ công phu của ông lão này dường
như yêu tà của tả đạo, nên lại tiếp theo:
14
15
- Thế nhưng nếu tiền bối sai tiểu tăng làm chuyện sai quấy thì sẽ
không thể tòng mệnh đâu.
Ông lão kia trên mặt nụ cười gượng gạo hỏi lại:
- Thế ngươi nghĩ thế nào là chuyện sai quấy?
Hư Trúc chựng lại đáp:
- Tiểu tăng là đệ tử cửa Phật, những điều làm tổn hại đến người khác
thì nhất quyết không làm.
Ông già lại hỏi:
- Nếu như trên đời này có kẻ kia chuyên làm điều tổn hại người
khác, những chuyện sai quấy, giết người không gớm tay, ta sai ngươi đi
tiêu diệt kẻ đó, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng sẽ hết lời khuyên y trở về đường ngay nẻo chánh.
Ông lão lại hỏi:
- Thế nhưng nếu chấp mê không nghe thì sao?
Hư Trúc ưỡn ngực nói:
- Phục ma trừ hại, đó là điều đương nhiên phải làm của chúng ta, có
điều tiểu tăng tài nghệ nông cạn, e rằng không gánh vác nổi trọng nhiệm
đó.
Ông lão nói:
- Thế có nghĩa là ngươi bằng lòng chứ gì?
Hư Trúc gật đầu nói:
- Tiểu tăng bằng lòng.
Ông già ra chiều vui sướng nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ta muốn ngươi đi giết một người, một kẻ đại
đại ác, chính là đệ tử của ta Đinh Xuân Thu, hiện nay trong võ lâm gọi là
Tinh Tú Lão Quái đó.
Hư Trúc thở phào một hơi, tưởng như trút được gánh nặng. Y chính
mắt thấy Tinh Tú Lão Quái chỉ một câu đã giết mười người phu xe, quả
là đại ác, chính sư bá tổ Huyền Nạn cũng bị y dùng tà thuật hóa tán hết
nội lực, liền đáp:
- Trừ khử Tinh Tú Lão Quái quả là công đức vô lượng, có điều tiểu
tăng công phu nhỏ bé, làm sao có thể ...
Nói đến đây y nhìn ông già, bốn mắt chạm nhau, thấy ông dường như
có ý diễu cợt, lập tức nghĩ ra: "Công phu nhỏ bé " xem chừng không đúng
nên im bặt. Ông lão nói:
- Cái công phu nhỏ bé mà ngươi đang có, không kém gì Tinh Tú Lão
Quái đâu, có điều muốn trừ diệt y quả là chưa đủ, thế nhưng ngươi chớ lo
lắng, lão phu đã sắp đặt cả rồi.
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ nói về những chuyện ác
của Đinh ... Đinh thí chủ biển Tinh Tú, bảo là tiền bối đã bị ông ta hại
rồi, ngờ đâu lão tiền bối vẫn còn ở trên trần thế, quả ... quả là hay lắm,
hay lắm!
Ông lão thở dài nói:
- Năm xưa tên nghịch đồ đó đột nhiên giở chứng, đánh ta rơi vào
thâm cốc, tưởng ta đã táng mạng rồi. Cũng may người học trò lớn của ta
là Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, có thế mới che dấu được tai mắt tên
phản phúc kia, ta mới giữ được chút hơi tàn, sống thêm ba mươi năm. Tư
chất của Tinh Hà cũng không phải dở đâu, có điều bị ta dẫn vào ngã rẽ,
phân tâm tập luyện bàng vụ, đi học cầm kỳ thư họa những trò vui chơi
nhàn nhã nên võ công thượng thừa của ta y không sao học nổi.
Trong ba mươi năm nay ta ngong ngóng một đứa học trò thông minh
mà lại chuyên tâm học hỏi để truyền lại võ học cả một đời, sai đi tru diệt
Đinh Xuân Thu. Thế nhưng cơ duyên không dễ gặp, người thông minh mà
bản tính chẳng ra gì, không chừng lại rơi vào vết xe đổ, dưỡng hổ di
hoạn; còn người tính tình tốt thì ngộ tính lại chẳng đủ. Đến lúc này ta xem
chừng đã tận tuổi trời rồi, không còn chờ thêm được nữa, nên đành phải
công bố cho thiên hạ bàn cờ Trân Lung năm xưa ta bày ra để tìm người
tài tuấn. Đại hạn của ta đã đến rồi, không còn thì giờ truyền thụ võ công
thành thử đứa quan môn đệ tử của ta ắt phải là một người trẻ tuổi thông
minh tuấn tú.
Hư Trúc nghe ông ta nói đến "thông minh tuấn tú", nghĩ thầm mình tư
chất đã chẳng thông minh, còn tuấn tú thì khỏi cần nói đến làm gì, nên
ngượng ngập nói:
- Những người tuấn nhã trên đời có biết bao nhiêu, ngay bên ngoài
kia cũng có hai người, một là Mộ Dung công tử, còn một vị là công tử họ
Đoàn. Tiểu tăng đi ra mời hai người đó vào hội kiến với tiền bối được
chăng?
Ông lão cười khẩy một tiếng nói:
- Ta nghịch vận Bắc Minh Thần Công đem hơn bảy mươi năm công
phu tu tập, trút vào cho ngươi cả rồi, làm sao còn truyền thụ cho người thứ
hai được nữa?
Hư Trúc hoảng hốt nói:
- Có thật là tiền bối ... tiền bối đem công lực cả đời truyền vào tiểu
tăng không? Lẽ ... lẽ nào ...
Ông lão nói:
- Chuyện này đối với ngươi là họa hay phúc, lúc này thật khó nói.
Võ công cao cường chắc gì đã là phúc, trên thế gian những người không
biết chút võ công nào, không lo không sầu, bớt tranh cạnh thì chẳng phải
cũng bớt phiền não hay sao? Nếu như năm xưa ta chỉ học cầm, học kỳ,
học thư, học họa mà chẳng nghiên cứu những môn võ học thì đời ta ắt
khoái hoạt hơn nhiều.
Ông nói tới đây thở dài một tiếng, ngẩng đầu nhìn qua lỗ hổng trên
mái nhà mà Hư Trúc đã đụng vỡ, dường như đang nhớ lại rất nhiều
chuyện đã qua, một lúc sau mới nói:
- Hảo hài tử, Đinh Xuân Thu vẫn tưởng ta đã chết dưới tay y rồi nên
không kiêng nể gì ai nữa. Còn bức tranh đây, bên trên vẽ nơi ta ngày xưa
hưởng thanh phúc ở núi Vô Lượng nước Đại Lý, là chỗ ngươi tìm võ học
điển tịch ta tàng trữ, theo đúng thế mà luyện tập thì võ công sẽ chẳng
kém gì Đinh Xuân Thu. Có điều tư chất ngươi dường như không tốt lắm,
tu tập võ công bản môn, chỉ sợ có nhiều chỗ ngắc ngứ, có thể gặp khó
khăn hung hiểm không chừng.
Vậy ngươi phải đi cầu một người đàn bà ở thạch động trong núi Vô
Lượng chỉ điểm cho. Bà ta thấy ngươi tướng mạo không đẹp, chắc là
không chịu dạy đâu, nhưng xin bà ta hãy nghĩ đến ta ...khục ... khục ...
Ông ta nói đến đây thì ho sù sụ, thở chẳng ra hơi, lấy trong người một
quyển trục nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc. Hư Trúc không khứng chịu,
dùng dằng nói:
- Tiểu tăng học nghệ chưa thành, lần này theo lệnh thầy xuống núi
đưa thư, phải trở về núi ngay để phục mệnh, từ nay về sau có gì cũng
phải theo sư mệnh mà làm. Nếu như phương trượng bản tự và nghiệp sư
không bằng lòng, thì không thể nào tuân theo lời dặn dò của tiền bối
được.
Ông lão gượng nở một nụ cười nói:
- Nếu quả đó là thiên ý muốn cho kẻ ác tự tung tự tác, thì cũng
chẳng còn cách nào hơn, ngươi ... ngươi ...
Ông ta nói được hai chữ "ngươi" bỗng toàn thân run rẩy, từ từ gục
người xuống, hai tay chống dưới đất, tưởng chừng như sắp tắt thở rồi. Hư
Trúc hoảng hốt vội vàng đưa tay đỡ hỏi:
- Lão ... lão tiền bối sao thế?
Ông già đáp:
- Hơn bảy mươi năm tu luyện của ta truyền hết cho ngươi rồi, hôm
nay mệnh đã hết. Này con, ngươi nhất định không chịu gọi ta bằng "sư
phụ" ư?
Ông ta nói tới đây thì hổn hển dường như sắp chết. Hư Trúc nhìn ánh
mắt van xin của ông lão thật đáng thương, nẫu cả ruột buột miệng kêu
lên:
- Sư phụ!
Ông lão mừng quá, cố sức tháo trên ngón tay bên trái ra một chiếc
nhẫn bằng bảo thạch, muốn đeo vào tay cho Hư Trúc, có điều lực khí hao
kiệt, đến nắm cổ tay Hư Trúc cũng không xong. Hư Trúc vội kêu lên:
- Sư phụ!
Rồi cầm chiếc nhẫn đeo luôn vào ngón tay mình. Ông lão phều phào:
- Ngoan ... con ngoan lắm! Con là đệ tử thứ ba của ta, nếu gặp Tô
Tinh Hà thì gọi y ... gọi y là đại sư ca. Con họ gì?
Hư Trúc đáp:
- Con quả thực không biết.
Ông lão thở dài:
- Tiếc thay mặt mũi con không được dễ coi, rồi đây sẽ gặp nhiều
chuyện rắc rối, có điều con là chưởng môn phái Tiêu Dao, người đàn bà
ấy không dám vi kháng mệnh lệnh của con đâu, tốt lắm, tốt lắm ...
Ông ta càng nói thanh âm càng nhỏ, tới câu "tốt lắm" thứ hai thì chỉ
còn mong manh như tơ, nghe không rõ, đột nhiên cười ha ha mấy tiếng,
người bổ nhào về trước, nghe bình một tiếng, trán đập xuống đất, rồi
không động đậy gì nữa.
Hư Trúc vội vàng đỡ ông ta lên, đưa tay thăm dò thì đã tắt thở, vội
vàng chắp tay niệm Phật:
- Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện cầu Phật A
Di Đà, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát tiếp dẫn lão tiên sinh
vãng sinh thế giới tây phương cực lạc.
Y ở với ông lão này chưa đầy một giờ, đúng ra chẳng có bao nhiêu
tình nghĩa, thế nhưng trong người nhận hơn bảy mươi năm công lực của
ông ta, ngấm ngầm cảm thấy ông lão đối với mình thân cận hơn bất cứ ai
khác, nói đúng ra, một phần của ông ta đã biến thành con người mình, đột
nhiên trong lòng buồn bã, khóc òa lên.
Y khóc một lúc rồi mới quì xuống, hướng về di thể của ông lão lạy
mấy lạy, lẩm nhẩm khấn:
- Lão tiền bối, tiểu tăng giả vờ gọi ông là sư phụ đấy thôi, xin ông
đừng coi là thật. Ông tâm thần nếu không mê muội xin đừng trách tôi.
Khấn xong rồi, y mới quay lại theo lỗ hổng đã phá ban nãy chui ra,
nhảy nhẹ một cái, đã vượt qua hai lần vách đến bên ngoài.
Hồi 32(a)
THẢ TỰ TIÊU DAO MỘT THÙY QUẢN
Tiêu dao tự tại một thân,
Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.
*
* *
Hư Trúc vừa ra khỏi căn nhà gỗ, không khỏi kinh ngạc, thấy trên khu đất là
một cột lửa thật lớn, còn trên mặt đất cây tùng đổ nằm ngổn ngang. Y vào trong
căn nhà gỗ dường như cũng chẳng bao lâu, thế nhưng bên ngoài đánh nhau long
trời lở đất, ắt là những cây tùng này bị người ta đánh ngã lúc y đang hôn mê
thành ra ở trong nhà không nghe gì cả.
Lại thấy người đứng chung quanh cây cột lửa chia thành hai phe. Lung Á lão
nhân Tô Tinh Hà đứng ở phía bên phải, Huyền Nạn cùng các nhà sư Thiếu Lâm,
Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn đứng sau lưng ông ta. Tinh Tú Lão Quái
đứng phía bên trái, gã đầu sắt Du Thản Chi và bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng sau
lưng ông ta. Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên
Khánh, Nam Hải Ngạc Thần các người khác thì đứng rải rác ở xa xa.
Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu hai người đang thúc đẩy chưởng lực, đẩy cây
cột lửa rạp về đối phương, thế nhưng trước mắt ngọn lửa ngả về bên phải, hiển
nhiên Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.
Mọi người đăm đăm nhìn cây cột lửa, thành ra khi Hư Trúc từ trong nhà
bước ra chẳng một ai chú ý. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm một mình
biểu ca Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì chỉ nghĩ đến Vương Ngữ Yên, hai người
tuy không nhìn cây cột lửa, nhưng cũng chẳng ngó ngàng gì đến Hư Trúc.
Hư Trúc đi vòng xa xa sau lưng mọi người qua đến bên phải, đứng ở bên
cạnh sư thúc Tuệ Kính, thấy ngọn lửa mỗi lúc một rạp về hướng mình, quần áo Tô
Tinh Hà đều căng phồng chân khí, chẳng khác gì một cánh buồm no gió, song
chưởng không ngừng mãnh liệt đẩy về phía trước.Còn Đinh Xuân Thu thì vẫn thản nhiên như không, tay áo phất nhẹ, làm như
chẳng coi vào đâu. Tiếng tán tụng của bọn đệ tử vang lên đều một nhịp:
- Tinh Tú lão tiên ra tay trông thì nhẹ nhàng mà thật mạnh, thần công cái
thế hôm nay khiến cho bọn chúng mở mắt.
- Sư phụ ta chẳng qua chỉ muốn giáo huấn bọn đứng ngoài, cho nên chậm
rãi thúc đẩy thần công, chứ không thì đã tru diệt lão họ Tô từ đời nào rồi.
- Đứa nào không phục thì cứ ra nếm thử mùi vị thần công của Tinh Tú lão
tiên.
- Chúng bay có giỏi thì cứ liên thủ tiến lên ai sợ gì đâu!
- Cổ vãng kim lại có ai sánh kịp với Tinh Tú lão tiên được đâu! Kẻ nào bọ
ngựa chống xe thật chỉ có mua cái chết!
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh mọi người đều nghĩ, nếu như
mấy người sát cánh tiến ra, vây đánh Đinh Xuân Thu, Tinh Tú Lão Quái dẫu ghê
gớm thật nhưng làm sao chống được với mấy cao thủ hợp lực. Thế nhưng những
người đó tự trọng thân phận, chẳng đời nào làm chuyện họp nhau vây đánh một
người, hai nữa Tinh Tú Lão Quái và Tô Tinh Hà đồng môn tàn sát lẫn nhau, người
ngoài chẳng nên tham dự làm gì, ba là ai ai cũng e ngại kẻ khác thừa cơ hạ thủ,
cho nên tuy bọn đệ tử phái Tinh Tú đưa sư phụ lên tận mây xanh mà Cưu Ma Trí
vẫn chỉ mủm mỉm cười, không lý tới.
Đột nhiên cây cột lửa đổ ập về phía trước, cuốn lấy người Tô Tinh Hà, mùi
khét lẹt xông lên, bộ râu dài của ông ta đã bị đốt cháy sạch. Tô Tinh Hà hết sức
chống trả mới đẩy lùi được nhưng ngọn lửa cũng chỉ cách người ông chừng hai
thước, không ngừng chồm tới hụp lui, chẳng khác gì một con đại mãng xà há mồm
lè lưỡi, đang định nuốt chửng ông lão. Hư Trúc trong bụng hãi ngầm: "Xem chừng
Tô thí chủ sắp bị Đinh thí chủ đốt đến nơi, mình phải làm gì đây?".
Bỗng nghe phèng phèng, rồi thêm hai tiếng tùng tùng, tiếng trống tiếng
thanh la nổi lên, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú có mang theo não bạt, trống chiêng
lúc này đem ra, kẻ thổi kèn ti toe, người đánh trống inh ỏi để diệu võ dương oai
cho sư phụ, lại cũng có người vừa phất cờ xanh, cờ vàng, cờ đỏ, cờ tím vừa reo hò
rầm rĩ.
Trong võ lâm hai người tỉ thí nội công lại có người đứng bên khua chiêng
đánh trống trợ uy, quả thực từ thuở khai thiên lập địa đến giờ chưa từng có. Cưu
Ma Trí đứng cười ha hả nói:- Da mặt Tinh Tú Lão Quái quả là dày, đúng là xưa nay chưa ai bì kịp.
Trong tiếng thanh la kèn trống, một tên đệ tử lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng
ngâm nga, lên bổng xuống trầm, hóa ra là một thiên "Cung Tụng Tinh Tú Lão
Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán"1. Không biết gã này thuê được tên hủ nho nào
viết bài từ ca công tụng đức, nghe lên vừa bợ đỡ, vừa vênh vang, tiếng chập cheng
phụ họa giữ nhịp cho lời phét lác.
Thế nhưng nếu bỏ qua những lời rặt giọng vô liêm sỉ này, nội lực Tinh Tú
Lão Quái phải nói là ào ào như sóng cả. Cùng với tiếng chiêng trống và lời ca
tụng, cây cột lửa mỗi lúc một vượng, ngả về đằng trước nửa thước nữa.
Đột nhiên có tiếng chân người rầm rập, hơn hai chục người từ căn nhà phía
sau chạy ra, đứng chắn ngay trước mặt Tô Tinh Hà, chính là những hán tử câm
điếc vừa mới cáng bọn Huyền Nạn lên núi khi nãy, đều là môn hạ đệ tử của Lung
Á lão nhân.
Đinh Xuân Thu càng thúc chưởng lực tới, cây cột lửa ập lên hai chục gã kia,
lập tức có tiếng sèo sèo, cả bọn liền bị cháy xém như heo quay. Tô Tinh Hà toan
dùng chưởng đẩy bọn họ ra ngoài nhưng hai bên cách nhau khá xa, chưởng lực
không tới được. Hai chục người đó đứng như trời trồng, cháy như cây đuốc, không
ai cử động chút nào, miệng lại không nói được nên cảnh tượng quả là bi tráng.
Việc xảy ra khiến người bên ngoài ai nấy chấn động, đến cả Vương Ngữ
Yên và Đoàn Dự cũng quay đầu lại. Cây cột lửa vẫn cháy bừng bừng, bao trùm cả
hai chục người trong đó. Đoàn Dự kêu lên:
- Không nên tàn nhẫn như thế.
Tay phải chàng vung ra, toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm đâm vào Đinh
Xuân Thu, tuy nhiên chàng vận kiếm không đúng phép tắc, nội lực chứa đầy trong
người nhưng chỉ chạy qua chạy lại không cách nào theo ngón tay bắn ra được.
Chàng toát mồ hôi hột, kêu lên:
- Mộ Dung công tử mau ra tay ngăn chặn họ đi.
Mộ Dung Phục đáp:
- Đã có phương gia Đoàn huynh nơi đây, tiểu đệ nào dám múa búa trước
cửa Lỗ Ban? Đoàn huynh thử Lục Mạch Thần Kiếm lần nữa xem nào!
1 Đoàn Diên Khánh đến chậm nên không nhìn thấy Lục Mạch Thần Kiếm của
Đoàn Dự, nghe Mộ Dung Phục nói thế, trong lòng không khỏi chấn động, liếc mắt
nhìn Đoàn Dự để xem có thần công này thật hay không nhưng chỉ thấy anh chàng
chỉ chỉ trỏ trỏ, xuất thủ xem ra cũng có khuôn phép nhưng không có một chút nội
lực nào, nghĩ thầm: "Cái gì mà Lục Mạch Thần Kiếm, làm ta bở vía một phen. Thì
ra tiểu tử này hư trương thanh thế, hoa chân múa tay để dọa người khác. Mặc dù
người xưa có truyền lại là Đoàn gia nhà mình có kỳ công Lục Mạch Thần Kiếm
nhưng đã thấy ai luyện được đâu?".
Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu ra tay, lại tưởng chàng cố tình dấu
tài, nên cứ thản nhiên đứng xem động tĩnh biến chuyển thế nào rồi tính sau.
Một hồi sau, hơn hai chục người câm bị lửa thiêu đã chết quá nửa, chỗ còn
lại thì ai cũng trọng thương, lục tục ngã xuống. Trong tiếng trống chiêng, Đinh
Xuân Thu phất tay áo hai lần, cây cột lửa lại ập về phía Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa
kêu lên:
- Không được hại sư phụ ta!
Ông ta xông lên toan đứng chặn ngọn lửa, Tô Tinh Hà tung chưởng đẩy
người học trò ra nói:
- Chết vô ích thôi!
Tay trái ông ngưng tụ công lực tàn dư, đánh mạnh vào cây cột lửa. Thế
nhưng lúc này nội lực hao kiệt cả rồi, chưởng đó chỉ chặn ngọn lửa lại một cái, rồi
thấy nóng bừng, trước mắt chỉ toàn màu đỏ rực, đâu đâu cũng là lửa cả. Tô Tinh
Hà ở vào thế dầu cạn đèn khô, nghĩ đến Đinh Xuân Thu sau khi giết được mình rồi
thể nào cũng xông vào, sư phụ giả chết ba mươi năm nay, sau cùng rồi cũng không
thoát khỏi độc thủ của y. Ông bị cây cột lửa ép tới mà trong lòng chua xót không
đâu cho xiết.
Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà ở vào cảnh cực kỳ nguy hiểm nhưng vẫn đứng trơ
trơ, không chịu lùi lấy nửa bước. Y càng nhìn càng thấy thương tâm, lập tức xông
ra, nắm lấy lưng ông ta kêu lên:
- Chết chỉ uổng mạng thôi, mau lùi ra đi!
Ngay lúc đó, Tô Tinh Hà đang vận chưởng đánh ra nhưng thế đã yếu lắm
rồi, xem ra cũng chẳng công hiệu, có điều sống mái một trận đến cùng chứ chẳng
lẽ bó tay chịu chết. Ngờ đâu một luồng nội lực hồn hậu vô cùng từ sau lưng truyền
vào, gia số cùng loại với mình không sai một mảy, thành ra chưởng đó tung ra, lựcđạo mạnh hơn không biết bao nhiêu lần. Chỉ nghe vù một tiếng lớn, cây cột lửa
quay ngược trở lại, ập lên người Đinh Xuân Thu, dư lực chưa hết đốt luôn cả một
mớ học trò của lão.
Chỉ nghe thấy tiếng loảng xoảng, leng keng liên hồi cộng thêm tiếng la ó
rầm trời, loạn cả lên:
- Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên, ân sư chúng ta đời nay không ai
địch nổi.
Xen lẫn với:
- Ối ối! Mẹ ơi!
- Chết cha rồi! Phái Tinh Tú chạy cho mau!
- Phái Tinh Tú lúc co lúc duỗi, thôi lần sau mình dương uy cũng được.
Đinh Xuân Thu kinh hoảng, thực ra nội lực của Hư Trúc cộng với chưởng
phong của Tô Tinh Hà, chưa hẳn đã thắng được y, có điều y đang chắc mẩm nhơn
nhơn đắc ý không đề phòng, đột nhiên bị phản kích nên một phen bở vía. Y lại
thấy trong chưởng phong hàm chứa nội lực già dặn chín chắn, hơn hẳn sư huynh Tô
Tinh Hà, hiển nhiên là công phu bản phái, không lẽ đó là sư phụ bị mình giết rồi
hiển linh chăng? Là hồn ma sư phụ đến đòi mạng chăng? Y nghĩ đến đó, tâm thần
hoảng loạn, nội lực không còn ngưng tụ được nữa, cây cột lửa liền cuốn vào người
không còn sức đâu đẩy ngược lại, quần áo râu tóc lập tức cháy bùng lên.
Bọn đệ tử liền hô hoán rầm lên:
- Tinh Tú lão tiên xem chừng không xong!
Đinh Xuân Thu hoảng hốt vội gọi:
- Học trò đầu sắt ơi, mau ra tay đi!
Du Thản Chi lập tức múa chưởng đánh vào cây cột lửa, chỉ nghe phụp phụp
mấy tiếng, cây cột lửa gặp phải chưởng lực cực kỳ lạnh lẽo của y, lập tức tắt
ngúm, đến khói xanh cũng tan biến thật nhanh, dưới đất chỉ còn mấy cây gỗ tùng
đã thành than.
Đinh Xuân Thu râu tóc cháy rụi, quần áo cũng rách bươm, mặt hầm hầm
nhưng trong bụng vẫn thấp thỏm chuyện hồn ma sư phụ hiển linh, nên không còn
dám hung hăng nữa, quát lớn:
- Thôi đi!Y nhún mình một cái đã vọt ra ngoài bảy tám trượng. Bọn đệ tử phái Tinh
Tú lập tức chạy theo, thanh la não bạt, chiêng trống đều quăng bỏ hết, còn thiên
"Cung Tụng Tinh Tú Lão Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán" đọc chưa xong,
cũng bị ngọn lửa cháy mất một miếng lớn, theo gió bay vật vờ, tưởng chừng như
đang nhạo báng Tinh Tú Lão Quái "dương uy Trung Nguyên".
Bỗng nghe từ đằng xa một tiếng kêu thảm khốc, rồi một tên đệ tử phái Tinh
Tú bay bổng lên, khi rơi xuống nằm không nhúc nhích. Mọi người mặt mày ngơ
ngẩn, chắc mẩm Tinh Tú Lão Quái bị thua, thẹn quá hóa giận, không biết tên đồ
đệ đó mở miệng chữa thẹn thế nào, bốc thơm không đúng cách, mó phải hàm chó
vó ngựa bị đánh một chưởng chết tươi.
Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí ai ai cũng cho rằng Lung Á lão
nhân Tô Tinh Hà dùng kế khổ nhục để dụ cho Đinh Xuân Thu hao phí công lực
tiêu diệt những hán tử câm điếc kia, sau đó mới bất ngờ tấn công một đòn trời long
đất lở, khiến y trở tay không kịp phải cúp đuôi mà chạy.
Lung Á lão nhân về mưu kế cũng như võ công đã nổi tiếng trên giang hồ từ
lâu, mới rồi cùng Tinh Tú Lão Quái một trường ác đấu, đánh ngã những cây tùng
sần sùi đường kính cả thước, ai ai trông thấy cũng kinh tâm động phách. Sau cùng
ông ta lại thi triển thần công, đánh đuổi được Tinh Tú Lão Quái cũng chẳng ai cho
là lạ. Huyền Nạn nói:
- Tô tiên sinh thần công thâm hậu đuổi được lão quái đó đi, xem ra sau trận
ác đấu này hết hồn mất vía, không còn dám bước chân vào Trung Nguyên nữa
đâu. Tiên sinh tạo phúc cho võ lâm quả không phải là nhỏ.
Tô Tinh Hà thoáng thấy trên ngón tay Hư Trúc chiếc nhẫn bằng bảo thạch
của sư phụ, hiểu ngay nguyên do, trong lòng vừa buồn bã, vừa vui mừng, nhìn
quanh thấy đám đệ tử mười người chết chín, còn lại cũng bị thương nặng khó mà
chữa lành, cực kỳ đau khổ, nhưng khắc khoải an nguy của sư phụ nên quay qua
trao đổi với Huyền Nạn, Mộ Dung Phục vài câu khách sáo rồi nắm tay Hư Trúc
nói:
- Mời tiểu sư phụ theo ta vào trong.
Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn, đợi ông ta ra lệnh. Huyền Nạn nói:
- Tô tiền bối là võ lâm cao nhân, nếu có dặn bảo điều gì, ngươi nhất thiết
nên tuân theo.
Hư Trúc đáp:- Vâng!
Rồi theo Tô Tinh Hà chui qua chỗ bức vách bị vỡ đi vào trong nhà. Tô Tinh
Hà tiện tay cầm một mảnh ván, bịt cái lỗ hổng đó lại. Mọi người từng đi lại trên
giang hồ, hiểu rộng biết nhiều thấy ông ta làm thế là có ý không muốn ai dòm
ngó, nên cũng chẳng ai muốn dính dáng vào chuyện người ngoài. Có lẽ người duy
nhất không hiểu rộng biết nhiều là anh chàng Đoàn Dự, nhưng từ nãy đến giờ chỉ
chăm chăm nhìn vào Vương Ngữ Yên đến Tô Tinh Hà và Hư Trúc đi vào trong
nhà chàng cũng không hay biết, thì còn lòng dạ đâu mà lo đến chuyện gì khác?
Tô Tinh Hà và Hư Trúc dắt tay nhau xuyên qua hai lần vách thấy ông lão
kia nằm phục dưới đất, đưa tay sờ thử thì đã tắt thở. Việc này Tô Tinh Hà đã đoán
được tám chín phần nhưng cũng buồn bã nhịn không nổi, quì xuống rập đầu mấy
cái nói:
- Sư phụ ơi là sư phụ! Rồi sau cùng thầy cũng bỏ con mà đi!
Hư Trúc nghĩ thầm: "Ông lão này quả nhiên là sư phụ của Tô lão tiền bối
thật". Tô Tinh Hà gạt lệ đứng lên, đỡ xác sư phụ ngồi ngay ngắn dựa lưng vào
vách, sau đó lại đỡ Hư Trúc cũng ngồi xuống ngay bên cạnh xác ông lão kia. Hư
Trúc chột dạ: "Ông ta để mình ngồi ngang hàng với xác lão tiên sinh để làm gì thế
này? Không lẽ ... không lẽ ... muốn mình đi theo hầu sư phụ ông ta xuống tuyền
đài chăng?". Y rợn người, toan đứng lên nhưng lại không dám.
Tô Tinh Hà sửa lại áo quần vốn đã bị cháy rách bươm, đột nhiên quì xuống
trước mặt Hư Trúc rập đầu lạy mấy cái nói:
- Kẻ đệ tử không xứng đáng của phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà, tham kiến
tân chưởng môn của bản phái.
Câu nói đó khiến cho Hư Trúc giật nảy người, chân tay như tê liệt, nghĩ
thầm: "Người này điên quá mất thôi! Người này điên quá mất thôi!". Y vội vàng
quì xuống hoàn lễ nói:
- Lão tiền bối hành đại lễ thế này, tiểu tăng không thể nào dám nhận.
Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói:
- Sư đệ, ngươi là quan môn đệ tử 2 của sư phụ, lại là chưởng môn của bản
phái. Ta tuy là sư huynh thật nhưng phải khấu đầu trước mặt ngươi.
Hư Trúc ấp úng:
2 - Cái đó ... cái đó ...
Lúc đó y mới biết Tô Tinh Hà không hóa điên nhưng nếu ông ta không mất
trí thì mình lại ở vào cảnh cực kỳ khó xử, trong bụng chỉ biết than trời trách đất. Tô
Tinh Hà nói:
- Sư đệ, cái mạng ta là do ngươi cứu, tâm nguyện của sư phụ cũng do ngươi
hoàn thành, có nhận vài cái lạy thì cũng đúng thôi. Sư phụ bảo ngươi rập đầu chín
cái bái lão nhân gia làm thầy, ngươi đã lạy chưa?
Hư Trúc đáp:
- Khấu đầu thì có đấy, nhưng khi đó tiểu tăng nào có biết đó là bái sư. Tiểu
tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm không thể đổi qua gia nhập phái khác được.
Tô Tinh Hà nói:
- Sư phụ cũng đã nghĩ đến chuyện đó rồi, chắc đã hóa tán võ công cũ của
sư đệ rồi mới truyền công phu bản phái. Sư phụ đem công lực cả một đời truyền
cho ngươi, có phải không?
Hư Trúc đành phải gật đầu nói:
- Đúng thế!
Tô Tinh Hà nói:
- Cái nhẫn bằng bảo thạch dấu hiệu của chưởng môn bản phái này là do sư
phụ rút ra từ tay mình đeo vào cho ngươi, có phải không nào?
Hư Trúc đáp:
- Đúng thế! Có điều ... có điều tiểu tăng nào có biết đó là tiêu ký của
chưởng môn đâu.
Tô Tinh Hà ngồi xếp bằng dưới đất nói:
- Sư đệ, ngươi phúc trạch quả là dày. Ta và Đinh Xuân Thu mơ tưởng đến
cái nhẫn bảo thạch này mấy chục năm qua, nhưng chẳng bao giờ tới tay mình
được, còn ngươi chỉ trong một giờ mà đã được sư phụ để mắt đến rồi.
Hư Trúc vội vàng tháo chiếc nhẫn đưa ra nói:
- Vậy thì tiền bối cầm lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng chẳng dùng được vào
việc gì cả.
Tô Tinh Hà không nhận, mặt sầm xuống:- Sư đệ, ngươi nhận trọng thác của sư phụ lúc lâm chung, sao lại đẩy trách
nhiệm cho người khác? Sư phụ đem chiếc nhẫn giao cho ngươi là để sai ngươi đi
diệt trừ Đinh Xuân Thu, có đúng không?
Hư Trúc đáp:
- Quả có thế thực, thế nhưng tiểu tăng công phu nông cạn, làm sao đảm
đương nổi việc nặng nề to lớn như thế?
Tô Tinh Hà thở dài một tiếng, cầm chiếc nhẫn đeo lại vào tay Hư Trúc nói:
- Này sư đệ, những chuyện bên trong phần lớn ngươi chưa biết gì cả, để ta
giản lược thuật lại cho ngươi nghe. Bản phái gọi là phái Tiêu Dao, trước nay có lệ
là chưởng môn không hẳn phải do đại đệ tử tiếp nhiệm, trong môn hạ ai võ công
cao siêu nhất thì người đó làm chưởng môn.
Hư Trúc vội đáp:
- Đúng! Đúng! Có điều tiểu tăng võ công cực kỳ kém cỏi.
Tô Tinh Hà không lý đến việc y ngắt ngang, nói tiếp:
- Đồng môn với sư phụ chúng ta cả thảy là ba người, sư phụ đứng thứ hai,
thế nhưng võ công lão nhân gia giỏi hơn sư bá thành thử được làm chưởng môn. Về
sau thu ta và Đinh Xuân Thu làm đệ tử, sư phụ mới định ra qui củ, sở học của
người rất là đa tạp, ai muốn làm chưởng môn thì phải tỉ thí mọi môn, không riêng
gì võ nghệ, mà cả cầm kỳ thư họa. Đinh Xuân Thu không thông môn tạp học nào,
thấy không còn hi vọng gì chức vụ chưởng môn thành thử mới bất ngờ ra tay ám
toán đánh sư phụ rơi xuống vực sâu, lại đánh cả ta trọng thương.
Hư Trúc khi còn trong hầm nhà Tiết Mộ Hoa đã từng nghe câu chuyện này,
ngờ đâu bây giờ trách nhiệm lại đổ lên đầu mình gánh vác, trong bụng chỉ biết
than trời trách đất, thuận miệng đẩy đưa:
- Cũng may lúc đó Đinh thí chủ không giết tiền bối.
Tô Tinh Hà đáp:
- Ngươi đừng tưởng là y có bụng nhân từ mà cho ta sống sót. Một là khi đó
y không phá được trận ngũ hành bát quái, kỳ môn độn giáp ta bày ra; hai là ta bảo
với y: "Đinh Xuân Thu, ngươi ám toán sư phụ, võ công lại thắng cả ta, nhưng công
phu thâm áo nhất của phái Tiêu Dao, ngươi chưa biết tí gì. Bộ kinh thư Bắc Minh
Thần Công ngươi có muốn xem chăng? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ, ngươi có muốnhọc chăng? Rồi Thiên Sơn Lục Dương Chưởng? Tiêu Dao Chiết Mai Thủ? Tiểu Vô
Tướng Công nữa?".
Đó đều là những công phu tối thượng thừa của bản phái, đến ngay cả sư phụ
chúng ta vì quá màng đến tạp học nên nhiều môn cũng chưa học đến. Đinh Xuân
Thu vừa nghe thấy thế, sung sướng đến run bắn người lên, nói: "Ngươi đem những
võ công bí cập đó giao ra, hôm nay ta tha mạng cho ngươi". Ta mới nói: "Ta làm
sao có được những bí cập đó được? Có điều nơi sư phụ cất dấu những quyển sách
đó thì ta biết. Ngươi muốn giết ta thì cứ ra tay đi". Đinh Xuân Thu đáp: "Bí cập dĩ
nhiên ở bên bờ biển Tinh Tú, chẳng lẽ ta không biết hay sao?". Ta đáp: "Đúng đó,
quả thực ở bên biển Tinh Tú. Ngươi có giỏi thì tự mình đi tìm đi". Y trầm ngâm
một hồi, biết rằng biển Tinh Tú chu vi mấy trăm dặm, mấy bộ bí cập nhỏ xíu đó
biết dấu nơi đâu, quả là khó mà tìm cho ra được, bèn nói: "Được, ta không giết
ngươi. Có điều từ rày trở đi, ngươi phải giả câm giả điếc, không được đem bí mật
của bản phái tiết lộ cho ai hay".
Tại sao y không giết ta? Y để ta sống sót vì còn mong ép buộc ta khai ra còn
nếu giết ta rồi, nơi bí mật tàng trữ những bí cập này trên đời không còn ai biết nữa.
Thực ra những võ công bí cập đó nào có phải ở bờ biển Tinh Tú đâu, mà phân tán
ra cho sư bá, sư phụ, sư thúc ba người.
Đinh Xuân Thu cứ tưởng ở bên bờ biển Tinh Tú, dường như lật hết mọi tảng
đá ở đó rồi nhưng nào có tìm thấy thần công bí cập? Mấy lần y đến tìm ta gây
chuyện, đều bị ta sắp xếp cơ quan, các loại phương thuật kỳ môn độn giáp ngăn
chặn được. Lần này y lại định hỏi nữa, nhưng thấy không hi vọng gì, mà ta lại phá
lời thề rồi, nên định giết ta cho hả tức.
Hư Trúc nói:
- Cũng may tiền bối ...
Tô Tinh Hà ngắt ngang:
- Sư đệ là chưởng môn bản phái, sao còn gọi ta tiền bối, phải gọi ta là sư ca
mới phải.
Hư Trúc nghĩ thầm: "Chuyện này quả là nhức đầu nhức óc, không biết đến
bao giờ mới nói rõ nguồn cơn được". Y bèn đáp:
- Tiên sinh có phải sư huynh của tiểu tăng hay không, tạm thời không đề
cập đến, mà dẫu có là sư huynh thật chăng nữa, thì cũng là "tiền bối".
Tô Tinh Hà gật đầu:- Nói thế cũng đúng. Vậy cũng may ta làm sao?
Hư Trúc đáp:
- Cũng may tiền bối hết sức nhẫn nhịn, dưỡng uy súc nhuệ đến lúc sinh tử
quan đầu mới đột nhiên phản kích trở lại, khiến cho Tinh Tú Lão Quái đại bại bỏ
chạy trối chết.
Tô Tinh Hà xua tay liên tiếp nói:
- Sư đệ, ngươi quả là không phải, rõ ràng ngươi dùng thần công sư tôn
truyền thụ ra tay trợ giúp ta, có thế mới cứu ta khỏi chết, sao lại khiêm tốn không
chịu nhận? Ta với ngươi là sư huynh đệ đồng môn, ngôi thứ đã định rồi, mạng ta
cũng do ngươi cứu, ta không bao giờ có ý định dòm ngó chức vụ chưởng môn. Từ
rày về sau ngươi không được khách sáo như thế nữa.
Hư Trúc chưng hửng hỏi lại:
- Tiểu tăng trợ giúp tiền bối hồi nào? Việc cứu mạng kia ở đâu mà ra mới
được chứ?
Tô Tinh Hà suy nghĩ một chút rồi nói:
- Cũng có thể ngươi vì vô tâm mà làm cũng không biết chừng. Nhưng dẫu
sao chăng nữa, khi bàn tay ngươi đặt lên lưng ta thì thần công bản môn truyền ra
giúp ta phản bại vi thắng.
Hư Trúc đáp:
- Ồ, thì ra là thế. Như vậy là sư phụ tiền bối cứu mạng chứ nào có phải tiểu
tăng đâu.
Tô Tinh Hà nói:
- Thì ta cũng bảo sư tôn mượn tay ngươi cứu ta, ngươi có nhận thế không
nào?
Hư Trúc không còn cách gì phủ nhận được, đành phải gật đầu:
- Cái đó cũng thuận theo nhân tình, không nhận cũng không xong, tiểu
tăng đành phải chịu.
Tô Tinh Hà nói tiếp:
- Khi đó nhân lúc xuất kỳ bất ý thần công của ngươi tung ra đánh Đinh
Xuân Thu, khiến y kinh hoảng bỏ chạy. Nếu như giao đấu thực sự hẳn hòi, hai
người mình hợp lực, cũng chưa phải là địch thủ của y đâu. Nếu không thì sư phụ
chỉ cần trút thần công vào người ta là đã có thể lấy mạng tên phản đồ đó, việc gìphải hao phí biết bao công sức đi tìm truyền nhân? Trong ba mươi năm qua, ta đã
bao lần thử đủ mọi cách, vẫn không sao tìm được người kế thừa võ công của sư
phụ. Đến khi ta thấy sư phụ ngày càng già yếu, việc kiếm truyền nhân càng thêm
khó khăn, phải là một trang thanh niên không những ngộ tính cực cao, mà còn phải
anh tuấn tiêu sái ...
Hư Trúc nghe ông ta đề cập đến "một trang thanh niên anh tuấn", hơi nhíu
mày nghĩ thầm: "Tu luyện võ công có liên quan gì đến xấu hay đẹp đâu? Hai thầy
trò cứ đề cập đến hình mạo kẻ truyền nhân, không hiểu vì lý do gì?". Tô Tinh Hà
đưa mắt đánh giá Hư Trúc, thở dài một tiếng. Hư Trúc nói:
- Tiểu tăng tướng mạo xấu xí, không thể nào đủ tư cách làm truyền nhân
của tôn sư. Lão tiền bối đi kiếm một thanh niên anh tuấn tiêu sái tới đây, tiểu tăng
đem thần công của tôn sư truyền lại cho y, thế là xong.
Tô Tinh Hà sững sờ nói:
- Thần công của bản phái đi liền với tâm mạch khí huyết, công còn người
còn, công mất người mất. Sư phụ truyền thần công cho ngươi xong liền cỡi hạc tiên
du, không lẽ ngươi không thấy hay sao?
Hư Trúc liên tiếp dậm chân nói:
- Thế thì biết làm sao đây? Tôi làm hỏng việc lớn của tôn sư và tiền bối
mất rồi.
Tô Tinh Hà nói:
- Sư đệ, gánh nặng đó giờ đây do ngươi đảm trách. Sư phụ sắp đặt bàn cờ
cốt để khảo sát ngộ tính những người đến phá giải. Bàn cờ Trân Lung đó quá ư
khó khăn, ta hết sức suy nghĩ mấy chục năm nhưng vẫn không sao giải được, chỉ có
sư đệ làm được chuyện đó. "Ngộ tâm kỳ cao" ấy là thế.
Hư Trúc gượng gạo cười:
- Việc ấy chẳng phù hợp chút nào. Bàn cờ Trân Lung, thực ra không phải
do tiểu tăng giải đâu.
Y liền đem chuyện sư bá tổ Huyền Nạn dùng truyền âm nhập mật, bí mật
chỉ điểm cho mình đi nước cờ như thế nào kể lại. Tô Tinh Hà bán tín bán nghi nói:
- Xem hình dạng Huyền Nạn đại sư dường như đã trúng phải độc thủ của
Đinh Xuân Thu, một thân thần công đã bị hóa tán hết rồi, không thể nào còn sử
dụng công phu truyền âm nhập mật được nữa.Ông ta ngừng lại một chút rồi tiếp:
- Thế nhưng phái Thiếu Lâm là võ học chính tông trong thiên hạ, Huyền
Nạn đại sư cố ý giả vờ không chừng, cái kiến thức "ếch ngồi đáy giếng" của ta
không biết được đâu. Sư đệ, ta sai người đem thư mời cao thủ trong thiên hạ đến
giải thế cờ Trân Lung, hễ ai thích đánh cờ, nghe tiếng có hội cờ này, thể nào cũng
mò đến. Có điều tuổi tác đã lớn, mặt mũi ... cái đó ... mặt mũi không tuấn nhã lắm,
hoặc không phải là người trong võ lâm thì ta không mời. Cô Tô Mộ Dung công tử
mặt như quan ngọc, võ kỹ trong thiên hạ môn nào cũng biết, vốn là người xứng
đáng hơn cả, ngờ đâu y lại không phá giải được.
Hư Trúc nói:
- Đúng thế, Mộ Dung công tử giỏi gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn một vị ở
họ Đoàn Đại Lý Đoàn công tử, cũng là người đẹp đẽ phong độ khác phàm.
Tô Tinh Hà nói:
- Ôi, chuyện này chẳng nên đề cập tới nữa. Ta từng nghe Trấn Nam Vương
Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý tinh thông thần kỹ Nhất Dương Chỉ, lại là người
phong lưu khó gặp, trên giang hồ dù là gái còn son hay đã nạ dòng, hễ gặp y đều
thần hồn điên đảo, không sao cưỡng được. Ta đã sai mấy tên đệ tử đến Đại Lý
mời, ngờ đâu y không có ở đó, chẳng hiểu đi đâu, người đến lại là cậu ấm ngốc
nghếch ù ù cạc cạc.
Hư Trúc mỉm cười nói:
- Vị Đoàn công tử kia không chớp mắt, đăm đăm như dán vào người Vương
cô nương.
Tô Tinh Hà lắc đầu nói:
- Thật chán quá mất thôi! Đoàn Chính Thuần dập dìu ong bướm, đã được
gọi là kẻ phong lưu lãng tử số một trong võ lâm, đẻ được đứa con chẳng giống bố
lấy một li, thật vô tích sự, làm mất mặt phụ thân. Y chỉ chăm chăm lấy lòng Vương
cô nương, mà Vương cô nương thì có lý gì đến y đâu, trông thật lộn ruột.
Hư Trúc nói:
- Đoàn công tử một dạ thâm tình, còn hơn phong lưu lãng tử, tiền bối sao
lại bảo là "chán quá"?
Tô Tinh Hà đáp:- Cái thứ y chỉ là "dẻ cùi tốt mã", chẳng biết mánh lới gì với đàn bà con
gái, có dùng vào đâu được.
Hư Trúc nói:
- Quả thế!
Y trong bụng mừng thầm: "Thì ra các ông đi tìm một thanh niên đẹp trai để
đối phó với đàn bà con gái, thế thì tốt quá, chắc không thể nào lại kiếm một chú
tiểu xấu như ma là ta đâu". Tô Tinh Hà hỏi thêm:
- Sư đệ, sư phụ có bảo ngươi đi tìm một người hay không? Hay đưa cho
ngươi một địa đồ chẳng hạn?
Hư Trúc sững sờ, thấy việc mình đoán xem chừng không đúng, đang định
chối quanh nhưng y từ nhỏ được các nhà sư chùa Thiếu Lâm dạy dỗ, không được
nói láo, huống chi khi thụ giới tì khưu, vọng ngữ là một đại giới, nên đành ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ...
Tô Tinh Hà nói:
- Ngươi là chưởng môn, ngươi hỏi gì ta không thể không trả lời, nếu không
có thể lập tức đem ta ra xử tử. Còn như ta hỏi ngươi điều gì, ngươi thích thì trả lời,
còn không thì có quyền bảo ta đừng lắm mồm hỏi lăng nhăng.
Nghe Tô Tinh Hà nói thế, Hư Trúc không tiện dấu xua tay liên tiếp nói:
- Tiểu tăng nào dám lên mặt kẻ cả với tiền bối? Tiền bối, sư phụ ông giao
cái này cho tôi đây.
Nói xong y lấy quyển trục trong bọc, thấy Tô Tinh Hà hơi rụt người lại, thần
sắc cực kỳ cung kính, không dám thò tay nhận nên đành tự mình mở ra.
Quyển trục trải ra rồi, hai người cùng ngơ ngẩn, không hẹn mà cùng "Ồ" lên
một tiếng. Thì ra trên quyển trục chẳng có bản đồ gì cả, cũng chẳng phải phong
cảnh núi non sông nước mà là một thiếu nữ xinh đẹp ăn mặc theo lối trong cung
vua. Hư Trúc nói:
- Hóa ra là Vương cô nương ở ngoài kia.
Thế nhưng lụa trên cuốn trục đó đã ố vàng, nét đan thanh trên bức tranh
cũng hơi bạc màu, hiển nhiên là một bức họa cũ kỹ, ít ra cũng ba bốn chục năm, so
với tuổi của Vương Ngữ Yên thì lớn hơn nhiều, nếu có người nào trước đấy mấy
chục năm, hay thậm chí cả trăm năm vẽ nên hình mạo nàng thì quả không sao ngờ
nổi. Nét bút vẽ trên đồ họa rất là kỹ lưỡng nhưng cũng hoạt bát sinh động, ngườitrong bức tranh tươi tắn như đang còn sống, tưởng chừng như thu nhỏ Vương Ngữ
Yên để vào trong tranh.
Hư Trúc tấm tắc, nhìn qua Tô Tinh Hà, thấy ông ta đưa ngón tay trỏ tô theo
từng nét trên bức tranh, suýt soa mãi rồi đột nhiên choàng tỉnh nói:
- Sư đệ đừng ngạc nhiên, cái máu đam mê của tiểu huynh lại nổi lên, vừa
thấy đan thanh diệu bút của sư phụ đã muốn học rồi. Ôi, ăn cho nhiều mà nhai
không kỹ, cái gì cũng học mà có nên cơm cháo gì đâu, để đến nỗi bị Đinh Xuân
Thu đánh cho chạy không kịp.
Ông vừa nói, vừa cuộn bức quyển trục lại, trả lại cho Hư Trúc, tưởng chừng
sợ mình coi thêm sẽ bị nét bút mực trong tranh mê hoặc. Ông nhắm mắt suy nghĩ
rồi lắc đầu như muốn xua đuổi những nét đan thanh đã in vào óc, một hồi sau mới
mở mắt ra nói:
- Khi sư phụ giao quyển trục này cho ngươi thì nói gì?
Hư Trúc đáp:
- Ông ta bảo là công phu của tiểu tăng lúc này chưa đủ sức tru diệt Đinh
Xuân Thu, nên phải theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng nước Đại Lý để tìm
võ học điển tịch ông cất giữ năm xưa, học những công phu đó. Thế nhưng e rằng
tiểu tăng học không được nên phải đi nhờ một người khác chỉ điểm cho. Ông ta
bảo trên quyển trục này vẽ nơi ngày xưa ông hưởng thanh phúc3, tưởng là danh sơn
đại xuyên hay cảnh vật thanh u, có ngờ đâu lại chỉ là tiếu tượng của Vương cô
nương? Hay là ông ta đưa nhầm quyển trục khác?
Tô Tinh Hà đáp:
- Sư phụ hành sự người ta khó mà đoán định được, bao giờ đến việc ngươi
sẽ rõ. Ngươi nên tuân hành sư mệnh tìm cách đi học công phu cho giỏi để trừ Đinh
Xuân Thu.
Hư Trúc ngập ngừng đáp:
- Cái đó ... cái đó ... tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, phải trở về chùa phục
mệnh. Đến chùa rồi, từ nay thanh tu chăm lo tìm hiểu thiền lý, lễ Phật tụng kinh,
không ra ngoài nữa.
3 Tô Tinh Hà hoảng hốt, nhảy dựng lên khóc òa lên, nghe bịch một tiếng đã
quì trước mặt Hư Trúc, rập đầu như bổ củi nói:
- Chưởng môn không tuân theo giáo huấn của sư phụ, lão nhân gia có phải
chết uổng hay sao?
Hư Trúc cũng quì xuống đáp lễ nói:
- Tiểu tăng thân đã vào cửa không, giới sân giới sát, trước đây nhận lời tôn
sư đi trừ Đinh Xuân Thu, bây giờ nghĩ lại không ổn. Phái Thiếu Lâm môn qui
nghiêm nhặt, tiểu tăng không thể nào làm chuyện quấy quá, đổi qua phái khác
được.
Thế rồi dù cho Tô Tinh Hà khóc lóc van xin, dụ dỗ, thậm chí uy hiếp cưỡng
bức, Hư Trúc một mực khăng khăng không bằng lòng. Tô Tinh Hà không còn cách
nào khác, vừa đau lòng, vừa tuyệt vọng, quay sang thi thể sư phụ nói:
- Sư phụ ơi, chưởng môn nhân không chịu tuân hành di mệnh của thầy, tiểu
đồ không biết làm sao, thôi đành theo thầy về nơi chín suối.
Nói xong ông ta nhảy lên, đầu lộn xuống, chân chổng lên, từ trên không lao
vào nền đá xanh. Hư Trúc kinh hoảng kêu lên:
- Không được đâu!
Y liền ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hư Trúc lúc này không những nội lực hồn
hậu mà tay chân cũng nhanh nhẹn lạ thường nên Tô Tinh Hà không sao cử động
được nữa. Tô Tinh Hà nói:
- Sao ngươi không để cho ta tự tận?
Hư Trúc đáp:
- Kẻ xuất gia lấy từ bi làm gốc, tôi không thể bất nhẫn nhìn ông táng
mạng.
Tô Tinh Hà nói:
- Ngươi bỏ ta ra, ta quyết ý không muốn sống nữa rồi.
Hư Trúc đáp:
- Tôi không bỏ.
Tô Tinh Hà hỏi lại:
- Không lẽ ngươi cứ ôm chặt ta mãi thế này không bao giờ buông ra?Hư Trúc nghĩ câu nói này quả không sai nên lật ngược ông ta lại để cho
thuận chiều đầu trên, chân dưới rồi thả ra nói:
- Được rồi, buông thì buông nhưng ông không được tự tận nữa.
Tô Tinh Hà chợt động tâm nói:
- Ngươi không cho ta tự tận ư? Được rồi, xin tuân hành hiệu lệnh của
chưởng môn nhân. Hay lắm, sau cùng ngươi cũng bằng lòng làm chưởng môn bản
phái.
Hư Trúc lắc đầu nói:
- Tôi nào có bằng lòng đâu. Ở đâu mà bảo là tôi bằng lòng?
Tô Tinh Hà cười ha hả nói:
- Chưởng môn nói rồi lại xí xóa đâu có xong. Ngươi vừa ra lệnh cho ta, ta
đã tuân theo rồi là từ nay không được tự tận. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là
hạng người nào? Trừ người chưởng môn bản phái ra, có ai dám ra lệnh cho ta đâu?
Ngươi không tin thì thử hỏi Huyền Nạn đại sư xem dẫu Huyền Từ phương trượng
của phái Thiếu Lâm cũng không ra lệnh bảo ta làm thế này thế khác được.
Lung Á lão nhân danh tiếng vang dậy trên giang hồ, trên đường đi Hư Trúc
đã từng nghe sư bá tổ Huyền Nạn nói qua rồi, Tô Tinh Hà bảo không ai dám ra
lệnh cho ông ta cũng không phải là nói ngoa. Hư Trúc nói:
- Tôi nào có dám bảo ông phải làm thế này thế khác, chỉ khuyên ông nên
coi trọng tính mạng đó là hảo ý đấy thôi.
Tô Tinh Hà đáp:
- Ta nào có dám hỏi chưởng môn có hảo ý hay ác ý đâu. Ngươi bảo ta chết,
ta lập tức chết ngay, ngươi bảo ta sống, ta không thể không sống. Cái lệnh sinh sát
đó là quyền bính đệ nhất trong thiên hạ, nếu ngươi không phải là chưởng môn của
ta thì làm sao có thể muốn bảo ta sống cũng được, bảo ta chết cũng được?
Hư Trúc cãi không lại đành nói:
- Nếu như thế thì cứ coi như tôi đã nói sai, xin rút lại vậy.
Tô Tinh Hà nói:
- Ngươi rút lại cái lệnh "không để ta tự tận" có nghĩa là bảo ta tự tận chứ
gì. Tuân lệnh, ta tự tận ngay lập tức.
Cái phép tự tận của ông ta cũng lạ lùng, lại nhảy lên, chúi đầu lao xuống
nền đá xanh. Hư Trúc vội vàng ôm chặt lấy ông ta nói:- Không phải thế, không phải thế! Ta nào có bảo ông tự tận đâu.
Tô Tinh Hà nói:
- Ồ, ngươi lại không cho ta tự tận. Xin kính cẩn tuân lệnh chưởng môn.
Hư Trúc bỏ ông ta ra, giơ tay gãi cái đầu trọc, không biết phải nói thế nào.
Tô Tinh Hà có biệt hiệu là Thông Biện tiên sinh, chuyện đó đâu phải nói không,
mà vốn dĩ là người giỏi biện bác, tuy ba mươi năm qua không nói năng gì, bây giờ
lại dùng đầu môi chót lưỡi, mồm miệng lại trơn như nước chảy, Hư Trúc tuổi còn
trẻ, tính tình chất phác, trước nay ở chùa có bao giờ gây gỗ cãi cọ với ai đâu, làm
sao có thể là đối thủ của Tô Tinh Hà được?
Hư Trúc trong lòng thấy mang mang việc "rút lại lời không cho ông ta tự
tận" dường như không phải là "bảo ông ta tự tận", còn "không để ông ta tự tận" thì
cũng đâu có phải là "không cho phép ông ta tự tận". Có điều Tô Tinh Hà mồm
miệng lanh lợi, câu nào cũng chặn trước, Hư Trúc không biết phải biện bạch thế
nào, chỉ đứng ngẩn ngơ một lát rồi thở dài:
- Tiền bối, ta cãi không lại ông nhưng ông bảo ta cải nhập quí phái thì
không thể nào được.
Tô Tinh Hà đáp:
- Khi mình vào đây, Huyền Nạn đại sư dặn ngươi những gì? Lời Huyền
Nạn đại sư đã dặn ngươi có tuân theo chăng?
Hư Trúc chưng hửng nói:
- Sư bá tổ dặn tiểu tăng ... dặn tiểu tăng ... phải nghe lời tiền bối.
Tô Tinh Hà cực kỳ đắc ý nói:
- Đúng đó, Huyền Nạn đại sư bảo ngươi phải nghe lời ta. Mà lời của ta là
gì, là bảo ngươi phải tuân theo di mệnh của sư phụ làm chưởng môn bản phái. Nếu
ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao rồi thì những lời của cao tăng chùa Thiếu
Lâm đâu có còn phải để ý đến nữa. Thành ra, nếu ngươi tuân theo lời của Huyền
Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao, còn như ngươi không theo lời
của Huyền Nạn đại sư, thì cũng vẫn là chưởng môn phái Tiêu Dao. Nếu như ngươi
có làm chưởng môn phái Tiêu Dao thì mới coi lời Huyền Nạn đại sư gác bỏ ngoài
tai được, bằng không, ngươi sao có thể không nghe lời sư bá tổ được?
Luận chứng này, câu nào Hư Trúc nghe thấy cũng có lý, nên không biết phải
trả lời ra sao. Tô Tinh Hà lại tiếp:- Sư đệ, Huyền Nạn đại sư và mấy vị hòa thượng Thiếu Lâm ở ngoài kia,
đều trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không cứu chữa, tính mệnh chỉ
trong sớm tối. Trong đời nay, chỉ có một người cứu được họ mà thôi, mà cứu hay
không cứu cũng toàn tùy thuộc vào ý của ngươi đó.
Hư Trúc nói:
- Sư bá tổ của tiểu tăng quả đúng là bị độc thủ của Đinh Xuân Thu, các vị
sư bá sư thúc khác cũng thụ thương, có điều ... có điều tài nghệ tiểu tăng nông cạn,
làm sao cứu được họ?
Tô Tinh Hà mỉm cười nói:
- Sư đệ, bản môn trước nay không phải chỉ sở trường về võ học, mà cả về y
bốc tinh tướng, cầm kỳ thư họa, bao trùm các gia các phái. Ngươi có một gã sư điệt
là Tiết Mộ Hoa, y thuật chỉ mới biết chút vỏ bên ngoài, vậy mà giang hồ đã gọi y
là Tiết Thần Y, có cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật có phải tức cười muốn
trẹo quai hàm hay sao? Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh
Xuân Thu, nhà sư mặt vuông thì bị trúng phải Băng Tàm Chưởng của gã mặt sắt,
còn sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá trúng hông dưới mạng sườn
ba tấc, bị thương kinh mạch ...
Tô Tinh Hà thao thao bất tuyệt, thương thế và nguyên do từng người nói ra
rõ ràng. Hư Trúc cực kỳ bội phục nói:
- Tôi thấy tiền bối chỉ chăm chú vào bàn cờ, không nhìn đến ai, cũng
chẳng chẩn bệnh người nào, sao lại biết rõ như thế?
Tô Tinh Hà đáp:
- Trong võ lâm giao đấu bị thương, nhìn qua là biết thật dễ dàng. Chỉ có
bệnh do trời đất tự nhiên, hư nhược phong tà, thương hàn nóng sốt, cái đó mới khó
chẩn đoán. Sư đệ, ngươi mang trong người hơn bảy mươi năm Tiêu Dao thần công
của sư phụ, dùng nó trị bệnh liệu thương, thật không gì bằng. Nếu muốn khôi phục
công phu bị tiêu hao của Huyền Nạn đại sư, quả không phải dễ, thế nhưng muốn
bảo toàn tính mạng thì chỉ giơ tay là xong.
Nói rồi dạy cho Hư Trúc phép nắn huyệt vận khí, tiêu giải hàn độc, lại chỉ
dẫn rõ ràng muốn cứu Huyền Nạn thì dùng thủ pháp gì, cứu Phong Ba Ác thì dùng
thủ pháp gì, mỗi phép trị một lối bị thương khác nhau.Hư Trúc ghi nhớ kỹ các thủ pháp Tô Tinh Hà dạy cho mình nhưng chỉ mới
biết cách làm chứ chưa hiểu tại sao phải làm như thế. Tô Tinh Hà thấy y đã rành
rọt không sai lầm gì nữa, mỉm cười khen ngợi:
- Trí nhớ của chưởng môn tốt lắm, học là biết ngay.
Hư Trúc thấy ông ta mỉm cười có vẻ ngụy bí, dường như có ý không tốt,
không khỏi nghi ngờ hỏi lại:
- Sao ông lại cười?
Tô Tinh Hà vội vàng nghiêm mặt, cung kính khom lưng:
- Tiểu huynh nào có dám cười, nếu có điều gì thất kính, mong chưởng môn
nhân tha tội cho.
Hư Trúc nóng ruột trị thương cho mọi người nên không hỏi thêm nói:
- Thôi mình ra ngoài xem sao!
Tô Tinh Hà đáp:
- Vâng!
Ông ta liền đi theo Hư Trúc ra khỏi căn nhà. Chỉ thấy những người bị thương
ai nấy ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục tiềm vận nội
lực cố gắng làm giảm bớt nỗi đau đớn cho Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, còn
Vương Ngữ Yên đang săn sóc cho Công Dã Can.
Tiết Mộ Hoa trán mồ hôi thành giọt, chạy tới chạy lui thấy người nào nguy
cấp thì cứu chữa nhưng người này vừa dịu lại thì bên kia đã có người kêu réo. Y
thấy Tô Tinh Hà đi ra cảm thấy yên dạ vội vàng chạy tới kêu lên:
- Sư phụ, xin lão nhân gia mau mau tìm cách cứu chữa cho họ.
Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn thấy ông đang nhắm mắt vận công
liền thõng tay đứng chờ không dám mở miệng. Huyền Nạn chầm chậm mở mắt,
thở dài một tiếng nhè nhẹ nói:
- Sư bá tổ của ngươi vô năng, trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, làm
thương tổn uy danh của bản phái, quả thật hổ thẹn vô cùng. Ngươi trở về bẩm cùng
phương trượng, nói là ta ... ta và sư thúc tổ Huyền Thống của ngươi không còn mặt
mũi nào về chùa nữa.
Hư Trúc từ trước tới giờ thấy vị sư bá tổ này lúc nào cũng đạo mạo trang
nghiêm, không giận mà vẫn có uy, xưa nay chưa dám nhìn thẳng vào ông, bây giờthấy ông ủ rũ, cái cảnh anh hùng mạt lộ trông thật thê lương, ông đã nói vậy hẳn là
đã định tìm con đường kết liễu đời mình nên vội vàng nói:
- Sư bá tổ, lão nhân gia cũng đừng nản lòng. Chúng ta là người học võ, cần
phải giữ cho lòng vô sân nộ, vô tranh cạnh, vô thắng bại, vô đắc thất ...
Y thuận miệng nói ra, đem những lời ngày thường sư phụ giáo huấn dạy lại
cho sư bá tổ, đến lúc nghĩ lại mới thấy lỡ lời vội vàng nín bặt nhưng cũng đã thốt
ra mấy câu rồi. Huyền Nạn mỉm cười, thở dài:
- Ngươi nói đúng lắm, thế nhưng sư bá tổ ngươi nội lực mất hết, năng lực
thiền định cũng không còn nữa.
Hư Trúc nói:
- Vâng! Vâng! Đồ tôn chẳng biết nặng nhẹ, nói năng láo lếu.
Vừa định ra tay trị thương cho ông ta, bỗng nhớ tới nụ cười ngụy bí của Tô
Tinh Hà, trong bụng kinh hãi: "Y dạy ta giơ chưởng lên đánh vào yếu huyệt trên
thiên linh cái sư bá tổ, biết đâu y cố ý hại người thì sao? Nếu như ta đánh xuống
rồi, sư bá tổ công lực đã mất trúng chưởng sẽ chết tươi thì biết làm sao?".
Huyền Nạn nói:
- Ngươi bẩm lại với phương trượng, bản tự sắp có đại nạn, phải hết sức
phòng bị. Trên đường đi ngươi phải cẩn thận, ngươi tính khí đôn hậu, trì giới và
thiền định hai đường không cần phải chăm lo quá, ngày sau công phu cốt ở chữ
"huệ", bốn quyển kinh Lăng Già phải cố sức nghiền ngẫm. Ôi, tiếc rằng sư bá tổ
không còn hơi sức đâu mà chỉ điểm cho ngươi được nữa.
Hư Trúc vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Y thấy ông đối với mình quan hoài như thế, trong lòng cảm kích lại tiếp:
- Sư bá tổ, nếu như bản tự có đại nạn thì xin lão nhân gia bảo trọng thân
thể để còn về chùa hiệp lực với phương trượng chống với đại địch.
Huyền Nạn gượng cười chua xót nói:
- Ta ... ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã trở thành
người tàn phế mất rồi, làm sao còn hiệp trợ phương trượng, cùng chống đại địch
được nữa?
Hư Trúc nói:- Sư bá tổ, Thông Biện tiên sinh dạy cho đệ tử một cách trị liệu thương thế,
đệ tử không lượng sức mình, định thử chữa cho Tuệ Phương sư bá, xin sư bá tổ cho
phép.
Huyền Nạn hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết
Thần Y, chắc hẳn truyền cho y phương pháp liệu thương phải đúng cách, không
hiểu sao ông không ra tay cũng chẳng bảo Tiết Mộ Hoa chữa trị bèn nói:
- Thông Biện tiên sinh đã dạy thì thể nào cũng cực kỳ cao minh rồi.
Ông nói xong đưa mắt nhìn Tô Tinh Hà rồi nói với Hư Trúc:
- Vậy ngươi cứ theo thế mà làm đi.
Hư Trúc đến trước mặt Tuệ Phương khom lưng nói:
- Sư bá, đệ tử phụng pháp dụ của sư bá tổ đến trị thương cho sư bá, có đắc
tội xin đừng trách.
Tuệ Phương mỉm cười gật đầu. Hư Trúc làm đúng như Tô Tinh Hà đã dạy, sờ
kỹ bộ vị dưới hông bên trái, tay phải vung chưởng đánh ra, đánh vào ngay bên
dưới mạng sườn. Tuệ Phương hự lên một tiếng, thân hình lảo đảo, thấy ngang lưng
mình như có đục một cái lỗ hổng, bao nhiêu máu huyết tinh khí trong người cuồn
cuộn theo cái lỗ đó mà chảy ra, chỉ trong giây lát người thấy trống rỗng, không còn
gì cả nhưng bao nhiêu đau đớn ngứa ngáy do Hàn Băng độc chưởng của Du Thản
Chi cũng vì thế mà tiêu trừ.
Cách chữa của Hư Trúc không phải là dùng nội lực giúp ông ta đối phó với
hàn độc, mà là dùng Bắc Minh chân khí trên bảy mươi năm đánh vào mạng sườn
ông ta, mở một lối thoát cho khí độc tuôn ra, chẳng khác gì người ta bị rắn cắn phải
rạch vết thương cho rộng để nọc độc chảy ra ngoài.
Có điều môn Khí Đao Cát Thể 4 này, bộ vị không thể sai đã đành mà nếu
chân khí nội lực không đủ, đánh không ngấm tới kinh mạch thì độc khí đã không
chảy ra, ngược lại còn dồn vào tạng phủ, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.
Hư Trúc đánh ra một chưởng rồi, trong lòng hoang mang không biết ra sao,
thấy Tuệ Phương lắc lư nhưng rồi lại vững vàng, nét mặt nhăn nhó chau mày đau
đớn lúc trước dần dần dãn ra tỏ vẻ thoải mái, tuy chỉ trong giây lát nhưng trong
lòng y tưởng như dài đằng đẵng đến mấy giờ. Thêm một hồi nữa, Tuệ Phương thở
ra một hơi, mỉm cười nói:
4 - Hảo sư điệt, lực đạo của chưởng vừa rồi không phải nhỏ.
Hư Trúc mừng lắm vội đáp:
- Không dám.
Y quay lại nói với Huyền Nạn:
- Sư bá tổ, những vị sư bá sư thúc còn lại, đệ tử cũng muốn thử chữa xem
sao, liệu có được không?
Huyền Nạn lúc này mặt tươi như hoa nhưng lại lắc đầu:
- Không nên, ngươi trị cho các vị tiền bối khác trước rồi sau hãy chữa cho
người của mình.
Hư Trúc hơi hoảng sợ vội đáp:
- Vâng!
Y nghĩ thầm: "Người trước, ta sau chính là tấm lòng đại từ đại bi của nhà
Phật lúc nào cũng mong mỏi việc cứu độ chúng sinh". Hư Trúc thấy Bao Bất Đồng
đang run lẩy bẩy, răng đập vào nhau kêu lách cách, lập tức đến trước mặt ông ta
nói:
- Bao tam tiên sinh, Thông Biện tiên sinh dạy tiểu tăng phép trị hàn độc,
hôm nay mới học lần đầu, tuy chưa tinh thục nhưng cũng xin chữa thử cho tiên
sinh. Nếu có điều gì thất kính thì xin lượng thứ.
Nói xong đưa tay mò mò vào ngực Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng cười nói:
- Ngươi làm trò gì thế?
Hư Trúc giơ chưởng phải lên, nghe bình một tiếng đánh trúng ngay ngực ông
ta. Bao Bất Đồng nổi cáu liền chửi:
- Xú hòa ...
Chữ "thượng" chưa ra khỏi miệng, bỗng thấy hàn độc vốn dĩ luẩn quẩn trong
người bao lâu nay, theo nơi bị trúng chưởng trên ngực tuôn ra ào ạt, nên vội vàng
nín bặt, nuốt luôn chữ "thượng" vào bụng không dám chửi tiếp.
Hư Trúc chữa xong những người bị trúng băng tàm hàn độc rồi qua chữa cho
những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Những người đó, kẻ thì bị Hóa Công
Đại Pháp tiêu hủy công lực, Hư Trúc chỉ đánh một chưởng vào huyệt Bách Hội
trên thiên linh cái hay tại huyệt Linh Đài trên ngực để vun gốc bón nguồn, kẻ bị
nội lực đả thương thì Hư Trúc dùng ngón tay ấn vào huyệt, hóa giải nội lực phái
Tinh Tú. Được cái y trí nhớ thật tốt, bao nhiêu phương pháp chữa trị Tô Tinh Hàdạy cho đều thuộc lòng, cứ thế mà làm, chỉ trong khoảng một bữa ăn đã giải trừ
hết bao nhiêu đau khổ cho mọi người.
Người được chữa dĩ nhiên vô vàn cảm kích đã đành, người đứng ngoài cũng
hết sức bội phục tài Lung Á lão nhân nhưng nghĩ lại ông ta là thầy của Tiết Thần
Y nên cũng không lấy gì làm lạ.
Sau cùng Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn khom lưng nói:
- Sư bá tổ, đệ tử làm liều một phen, muốn đánh vào huyệt Bách Hội của sư
bá tổ.
Huyền Nạn mỉm cười đáp:
- Ngươi được lọt vào mắt xanh của Thông Biện tiên sinh, học được tài nghệ
xảo diệu để chữa bệnh, quả là phúc duyên không nhỏ, cứ việc đánh vào huyệt
Bách Hội của ta đi.
Hư Trúc khom lưng đáp:
- Nếu như thế đệ tử đành mạo muội.
Khi y còn ở trong chùa Thiếu Lâm, mỗi khi gặp Huyền Nạn đều phải đứng
xa xa mà nhìn, thỉnh thoảng Huyền Nạn tụ tập tăng chúng, giảng giải tâm pháp võ
công, Hư Trúc chỉ đứng theo địa vị mà nghe, chưa bao giờ được cùng ông nói
chuyện, lần này lại giơ tay đánh lên đầu ông ta, tuy nói là để trị thương, trong bụng
không khỏi phập phồng, thấy nụ cười của ông ta trông có vẻ lạ lùng, không hiểu
có ý gì, bèn cố gắng định thần nói thêm một câu:
- Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ thứ tội cho.
Y nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng nhắm thẳng huyệt Bách Hội của
Huyền Nạn, không nặng không nhẹ, chẳng chậm chẳng nhanh đánh xuống.
Chưởng của Hư Trúc vừa đánh xuống đầu Huyền Nạn, nét mặt Huyền Nạn đột
nhiên lộ một nụ cười quái đản, chỉ kêu lên một tiếng dài, đột nhiên người sụm
xuống, dãy dụa mấy cái, nằm gục xuống đất không động đậy gì nữa.
Những người đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu ầm lên, Hư Trúc cũng sợ đến
tim đập thình thình, vội vàng xông lên, đỡ Huyền Nạn dậy, Huyền Phương cũng
chư tăng cũng ùa đến. Nhìn lại Huyền Nạn thấy ông mặt vẫn mỉm cười nhưng
không còn thở nữa quả đã từ trần. Hư Trúc kinh hãi kêu lên:
- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao thế này?
Đột nhiên nghe Tô Tinh Hà kêu lên:- Ai đó? Đứng lại!
Ông ta từ phía đông nam chạy lên nói:
- Có người đứng đằng sau ám toán nhưng thân pháp y nhanh quá, không
nhìn rõ là ai!
Ông giơ tay bắt mạch Huyền Nạn chau mày:
- Huyền Nạn đại sư công lực mất hết rồi, bị người ta đứng bên ám toán,
không có sức kháng cự nên đã viên tịch.
Đột nhiên ông ta nở một nụ cười thần sắc cổ quái. Đầu óc Hư Trúc lúc này
cực kỳ hỗn loạn, chỉ biết vừa khóc vừa kêu:
- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao ... sao ... lão nhân gia lại ...
Bỗng y nhớ tới nụ cười thần bí của Tô Tinh Hà khi ở trong căn nhà gỗ, giận
dữ hỏi:
- Thông Biện tiên sinh, ông nói thực cho ta nghe, vì cớ gì mà sư bá tổ của
ta lại chết? Có phải do ông có ý hãm hại chăng?
Tô Tinh Hà lập tức hai gối quì xuống nói:
- Khải bẩm chưởng môn nhân, Tô Tinh Hà này quyết không dám đẩy
chưởng môn nhân làm điều bất nghĩa. Huyền Nạn đại sư đột nhiên viên tịch, nhất
định có người lén lút gia hại.
Hư Trúc vặn thêm:
- Thế tại sao ở trong căn nhà gỗ ông lại cười một cách kỳ quặc, thế là vì cớ
gì?
Tô Tinh Hà kinh hoảng đáp:
- Ta cười ư? Ta cười ư? Chưởng môn nhân phải hết sức cẩn thận, có người
...
Câu nói chưa dứt ông ta bất thần ngừng bặt, trên mặt lại lộ một nụ cười thần
bí. Tiết Mộ Hoa kêu rống lên:
- Sư phụ!
Ông ta vội móc trong túi ra một bình thuốc giải độc, lấy ra ba viên nhét vào
mồm Tô Tinh Hà. Thế nhưng Tô Tinh Hà đã tắt hơi, giải độc hoàn nằm ở trong
miệng nhưng không nuốt xuống được. Tiết Mộ Hoa khóc òa lên:- Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết mất rồi, tên ác tặc Đinh Xuân Thu
...
Tới đây tiếng y nghẹn ngào không ra tiếng nữa. Khang Quảng Lăng chen
lên trước mặt Tô Tinh Hà, Tiết Mộ Hoa vội vàng nắm lưng ông ta kéo lại khóc
nói:
- Trên thân thể sư phụ có chất độc.
Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô lãnh quân, Phùng A Tam, Lý Khổi Lỗi,
Thạch Thanh Lộ đứng bên cạnh Tô Tinh Hà không ai là không vừa tức tối, vừa bi
thương. Khang Quảng Lăng theo học Tô Tinh Hà đã lâu, biết rõ qui củ bản môn,
lúc thấy sư phụ quì trước mặt Hư Trúc, miệng gọi "chưởng môn nhân", đã đoán
được tám chín phần, bây giờ chú ý nhìn vào bàn tay y thấy Hư Trúc đeo chiếc nhẫn
bảo thạch liền nói:
- Các vị sư đệ cùng ta tham kiến tân nhiệm chưởng môn sư thúc của bản
phái.
Nói xong quì xuống trước mặt Hư Trúc khấu đầu mấy lần. Bọn Phạm Bách
Linh sửng sốt nhưng rồi hiểu ra ngay, ai nấy đều quì lạy. Hư Trúc ruột rối như tơ
vò nói:
- Đinh ... Đinh Xuân Thu tên gian tặc thí chủ, giết chết sư bá tổ của ta, lại
hại cả sư phụ các vị.
Khang Quảng Lăng đáp:
- Tru diệt kẻ gian để báo thù toàn do chưởng môn sư thúc chủ trì lo liệu
cho.
Hư Trúc vốn chỉ là một chút tiểu chưa từng từng trải việc đời, cả võ công lẫn
kiến thức, cả danh vị lẫn tiếng tăm những người trước mặt ai ai cũng hơn y nhiều,
trong bụng ý niệm quay cuồng: "Không thể không báo thù cho sư bá tổ, không thể
không báo thù cho Thông Biện tiên sinh, không thể không báo thù cho lão tiền bối
trong ngôi nhà gỗ". Y miệng kêu lên thành tiếng:
- Không thể không giết Đinh Xuân Thu ... tên ác tặc Đinh Xuân Thu ... tên
ác tặc thí chủ.
Khang Quảng Lăng lại rập đầu thêm vài lần nữa nói:
- Chưởng môn sư thúc bằng lòng lo việc diệt trừ gian tặc, vì sư phụ chúng
tôi báo thù, bọn sư điệt thâm cảm đại ân đại đức của sư thúc.Bọn Phạm Bách Linh, Tiết Mộ Hoa cũng đều khấu đầu, Hư Trúc vội vàng
quì xuống hoàn lễ nói:
- Không dám! Không dám! Mời các vị đứng lên.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc, tiểu điệt có chuyện cần bẩm báo nhưng nơi đây đông người bất
tiện, xin vào trong nhà chỉ một mình tiểu điệt trình bày cho sư thúc nghe.
Hư Trúc đáp:
- Được!
Y liền đứng lên, mọi người tất cả cùng đứng dậy theo. Hư Trúc đi theo
Khang Quảng Lăng đang toan đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh bỗng nói:
- Hãy khoan, sư phụ bị Đinh lão tặc hạ thủ ngay trong nhà này, chưởng
môn sư thúc và đại sư huynh không nên tiến vào, lão tặc đó ngụy kế đa đoan, nên
phòng bị là hơn.
Khang Quảng Lăng gật đầu:
- Nói thế đúng lắm! Cái thân nghìn vàng của chưởng môn sư thúc không
nên mạo hiểm làm gì.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Hai vị đứng đây nói chuyện cũng được. Chúng tôi ra bốn bề canh chừng
để đề phòng lão tặc có ngụy kế gì khác chăng?
Nói xong chính mình đi ra trước, những người còn lại Phùng A Tam, Ngô
lãnh quân cả bọn cũng đi ra ngoài mười trượng. Thực ra trong đám đó trừ Tiết Mộ
Hoa ra, những người khác nếu không công lực tiêu tan thì cũng bị trọng thương,
nếu quả Đinh Xuân Thu đến tập kích, ngoài việc kêu la cảnh cáo không còn chút
hơi sức nào mà phòng ngự cả.
Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cùng những người khác thấy thầy trò bọn
họ bàn chuyện riêng của môn phái nên cũng lảng ra xa. Còn bọn Cưu Ma Trí,
Đoàn Diên Khánh thấy chuyện lạ lùng nhưng việc không liên can gì đến mình nên
cũng lần lượt đi khỏi.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc ...
Hư Trúc chặn lại:- Ta không phải là sư thúc của ông, cũng chẳng phải chưởng môn nhân của
các ông gì đó, ta là sư chùa Thiếu Lâm, cùng với phái Tiêu Dao không có liên hệ
gì cả.
Khang Quảng Lăng đáp:
- Sao sư thúc lại không nhận? Cái tên phái Tiêu Dao, nếu không phải
người trong bản môn thì không thể để cho người ngoài nghe thấy được. Nếu ai đó
vô tình hữu ý mà lọt vào tai, qui củ của bản môn là phải giết ngay bịt miệng, dù
phải đuổi theo đến tận chân trời góc biển cũng không tha.
Hư Trúc nghe thế nổi da gà, nghĩ thầm: "Cái qui củ đó quả là tà môn. Nếu
như thế, nếu ta không chịu đầu nhập môn phái của bọn họ, bọn chúng liền giết ta
ngay hay sao?".
Khang Quảng Lăng lại tiếp:
- Sư thúc mới đây trị thương cho mọi người, chính là nội công đích truyền
của bản phái. Việc sư thúc đầu nhập bản phái ra sao, được thái sư phụ tâm truyền
thế nào, tiểu điệt không dám hỏi tới. Cũng có thể là vì sư thúc phá giải được thế cờ
Trân Lung nên sư phụ chúng tôi tuân theo di mệnh của thái sư phụ, thay thầy thu
nhận làm đệ tử và truyền chức vụ chưởng môn chăng, điều đó cũng không biết
nữa. Nói tóm lại, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên của bản phái đã đeo trên tay sư
thúc rồi, gia sư lúc lâm tử lại khấu đầu trước sư thúc, gọi sư thúc là "chưởng môn
nhân" thì sư thúc không nên từ chối nữa. Đưa qua đẩy lại, chối lên chối xuống
cũng không đâu vào đâu cả.
Hư Trúc đưa mắt nhìn hai bên, thấy bọn Tuệ Phương đang vây quanh thi thể
Huyền Nạn, nhìn qua bên kia thấy xác Tô Tinh Hà vẫn còn quì sừng sững dưới đất,
trên mặt nở một nụ cười thần bí, trong lòng chua xót nói:
- Chuyện này nói một lúc không hết được, hiện nay sư bá tổ của ta chết
rồi, chẳng biết phải làm sao đây, lão tiền bối ...
Y vừa mới nói đến đây, Khang Quảng Lăng lại quì mọp xuống. Hư Trúc vội
nói:
- Ấy chết ta quên, không nên gọi ông như thế. Mau đứng lên đi!
Y lấy quyển trục ông lão đưa cho mở ra nói:
- Sư phụ ngươi bảo ta theo quyển trục này tìm cách học võ công để đi tru
diệt Đinh thí chủ.Khang Quảng Lăng liếc qua hình người đàn bà ăn mặc theo lối cung trang,
lắc đầu nói:
- Tiểu điệt không biết sự tình bên trong thế nào, sư thúc nên cất giữ cho kỹ
đừng để người ngoài trông thấy. Nếu khi sư phụ tiểu điệt lúc sinh tiền có nói thế,
xin sư thúc nể mặt người theo đúng lời dặn mà hành sự. Tiểu điệt muốn bẩm lại
cho sư thúc hay, thứ thuốc độc gia sư bị trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán.
Chất độc này vô hình, một khi trúng rồi, trên mặt hiện ra một nụ cười quái lạ,
người trúng độc không hề hay biết gì cả, cười như thế đến lần thứ ba là tắt thở chết
ngay.
Hư Trúc cúi đầu nói:
- Nói ra thật hổ thẹn, khi tôn sư vừa bị trúng độc trên mặt lộ một nụ cười
kỳ lạ, ta lại có cái bụng tiểu nhân đoán sằng nghĩ bậy tưởng rằng tôn sư không có
thiện ý, nếu như lúc đó thành thực hỏi ngay, lập tức cứu chữa thì đâu có đến nỗi
như thế này.
Khang Quảng Lăng lắc đầu:
- Cái món Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trúng phải rồi thì khó mà cứu giải. Một
trong những nguyên nhân Đinh lão tặc sở dĩ hoành hành giang hồ không úy kỵ ai
cả cũng vì có môn thuốc độc này. Người ta chỉ biết đến Hóa Công Đại Pháp của
lão ta cũng chỉ vì người bị trúng phải yêu pháp tuy công lực mất hết nhưng mạng
vẫn còn nên đi loan truyền được, còn người trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì
chết rồi là hết.
Hư Trúc gật đầu:
- Môn đó quả tàn độc thật. Khi đó ta cũng đứng ở bên cạnh tôn sư, vậy mà
không sao phát giác được Đinh Xuân Thu hạ thủ cách nào. Ta võ công tầm thường,
kiến thức nông cạn thì đã hẳn rồi nhưng sao Đinh Xuân Thu không ra tay giết ta,
lại để cho ta sống sót?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Chắc là y thấy sư thúc tài nghệ kém cỏi, không thèm hạ độc. Chưởng
môn sư thúc, tiểu điệt xem chừng sư thúc tuổi còn nhỏ, làm gì có được bao nhiêu
bản lãnh? Phương pháp trị thương giải độc tuy hay thật đấy nhưng cũng là do gia sư
dạy cho, xem ra cũng chẳng là bao nên Đinh Xuân Thu chẳng coi vào đâu.
Y nói tới đây chợt nghĩ lại mình nói huỵch toẹt ra như vậy không khỏi trắng
trợn vội vàng chữa:- Chưởng môn sư thúc, tiểu điệt nói thế là tình thực, xin sư thúc đừng phật
lòng, thế nhưng nếu như sư thúc bỏ qua cho thì cũng nói thêm rằng võ công sư thúc
xem chừng chẳng lấy gì làm cao minh.
Hư Trúc đáp:
- Ngươi nói mọi việc đúng lắm, võ công ta thật là thấp kém, Đinh lão tặc ...
ấy, chết thật, tội quá, tiểu tăng buông lời dữ, phạm vào "ác khẩu giới" mất rồi,
không đáng là đệ tử nhà Phật ... gã Đinh Xuân Thu Đinh thí chủ chẳng thèm giết ta
làm chi.
Hư Trúc tâm địa chất phác, còn Khang Quảng Lăng thì không thông chuyện
đời nên cả hai đều không nghĩ ra, Đinh Xuân Thu lẻn được vào trong căn nhà gỗ,
vừa đúng lúc nghe Tô Tinh Hà trình bày những phương pháp trị thương liệu độc, lẽ
nào lại không có ý ám toán Hư Trúc? Cũng nào có phải vì y thấy Hư Trúc võ công
kém cỏi mà tha không giết bao giờ? Môn Tam Tiếu Tiêu Dao Tán phải dùng nội
lực đẩy chất độc ra, bắn vào người đối phương, khi Đinh Xuân Thu ở trong căn nhà
gỗ, chia hai đằng bắn vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, sau đó cũng dùng cách này giết
hại Huyền Nạn.
Tô Tinh Hà sau khi ác chiến uể oải không còn hơi sức đâu nữa còn Huyền
Nạn nội lực mất hết rồi nên đều trúng độc. Riêng Hư Trúc vì có được hơn bảy
mươi năm thần công của phái Tiêu Dao nên nội lực của Đinh Xuân Thu vừa chạm
vào người đã bị phản kích trở lại, bao nhiêu chất độc chạy qua người Tô Tinh Hà
cả, còn mình thì không bị nhiễm chút nào.
Đinh Xuân Thu mỗi khi chính diện đấu với ai không dám sử dụng Tam Tiếu
Tiêu Dao Tán, sợ rằng đối phương nội lực hồn hậu, chất độc lại bắn ngược vào
mình.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc, việc này sư thúc sai quấy hết sức. Phái Tiêu Dao không Phật mà
cũng không Lão, muốn đi đâu thì đi, có phải sung sướng chăng? Sư thúc là chưởng
môn bản phái, trong thiên hạ còn ai quản thúc gì được nữa? Ông mau mau cởi áo
cà sa ra, để tóc dài, lấy mười bảy mười tám cô vợ, việc quái gì mà phải cửa Phật
với lại không cửa Phật, ác khẩu giới với chẳng thiện khẩu giới?
Ông ta cứ nói một câu, Hư Trúc lại giật mình niệm "A Di Đà Phật" đợi khi
nói xong mới đáp:- Ở trước mặt ta chớ có nên nói những lời bổ báng nhà Phật như thế. Ngươi
bảo có việc muốn nói với ta, thế là việc gì?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Ối chao, sư thúc xem tôi quả là hồ đồ, nói chuyện hồi lâu vẫn chưa vào
câu chuyện chính. Chưởng môn sư thúc, sau này khi ông tuổi lớn rồi, chớ có bao
giờ đi theo học những tật xấu của bọn tôi. Ấy chết, ấy chết, lại nói dông nói dài,
lạc đề nữa rồi, thất đáng chết. Chưởng môn sư thúc, tôi yêu cầu sư thúc một
chuyện lớn, xin sư thúc nghĩ lại cho.
Hư Trúc đáp:
- Chuyện gì mà phải cần đến tôi chấp nhận, quả không dám.
Khang Quảng Lăng nói:
- Ôi, chuyện đại sự của bản môn, nếu không xin chưởng môn bằng lòng thì
còn cầu ai? Anh em chúng tôi tám người, năm xưa bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái,
nhưng nào có phải vì chúng tôi phạm tội gì đâu, mà vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia
hại, lại không nỡ chọc tai cắt lưỡi chúng tôi nên mới phải đánh bài hạ sách đó.
Đến nay sư phụ đã quyết ý cho chúng tôi trở lại môn phái, có điều chưa bẩm với
chưởng môn, cũng chưa làm đại lễ nên chưa thể chính thức coi là đệ tử thành thử
xin chưởng môn kim ngôn đồng ý. Nếu không tám anh em chúng tôi cho đến chết
cũng vẫn không môn không phái, lang thang cô hồn dã quỉ, trong võ lâm không
sao ngóc đầu lên được, thật khổ sở biết chừng nào.
Hư Trúc nghĩ thầm: "Cái vụ chưởng môn nhân phái Tiêu Dao này ta nhất
quyết không thể nhận được, thế nhưng nếu không đáp lời y, lão già này cứ lầy
nhầy cù cưa, không biết đến bao giờ, chi bằng cứ bằng lòng trước rồi tính sau". Y
bèn nói:
- Tôn sư nếu đã đồng ý cho các ngươi trùng liệt môn tường thì đương nhiên
đã trở lại môn phái rồi, còn lo gì nữa?
Khang Quảng Lăng mừng rỡ, quay lại kêu to:
- Sư đệ, sư muội, chưởng môn sư thúc đã bằng lòng cho chúng ta trở lại sư
môn rồi.
Bảy người còn lại trong Hàm Cốc bát hữu nghe thấy thế, ai nấy vui mừng,
lập tức người thứ hai mê cờ Phạm Bách Linh, thứ ba đồ gàn Cẩu Độc, thứ tư danh
thủ vẽ vời Ngô lãnh quân, thứ năm Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, thứ sáu thợ
khéo Phùng A Tam, thứ bảy thiếu phụ giỏi trồng hoa Thạch Thanh Lộ, thứ támthích hát xướng đóng tuồng Lý Khổi Lỗi, tất cả cùng chạy lại chắp tay cảm tạ
chưởng môn sư thúc, nghĩ đến sư phụ không chính mắt trông thấy tám người trở lại
sư môn, ai nấy ngậm ngùi nhỏ nước mắt.
Hư Trúc vô cùng sượng sùng, thấy mỗi việc lại làm cho cái danh vị "chưởng
môn sư thúc" lún sâu thêm một chút, như đóng đinh vào chân càng lúc càng khó
thoát thân. Mình đang là đệ tử Thiếu Lâm danh môn chính phái, bỗng dưng đi làm
chưởng môn một thứ tà ma ngoại đạo gì đó chẳng phải là cực kỳ vô lý hay sao?
Trước mắt thấy bọn Phạm Bách Linh ai nấy vui mừng đến phát khóc, nếu mình lại
đưa lời dị nghị việc làm "chưởng môn nhân" thì chỉ làm họ mất mặt, không biết
sao hơn đành phải lắc đầu cười gượng.
Y quay đầu lại, thấy bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự,
Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn cũng không còn
một ai, trong khu rừng tùng nơi đỉnh núi chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao, bèn
hoảng hốt:
- Ủa, bọ họ đi đâu hết cả rồi?
Ngô lãnh quân đáp:
- Mộ Dung công tử và các cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta đàm
luận không dứt nên đã tự ý bỏ đi rồi.
Hư Trúc kêu lên:
- Ôi chao!
Lập tức đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng trở lại chùa bẩm lại cho phương
trượng và thụ nghiệp sư phụ, trong bụng cảm thấy "quả là may quá", tiện dịp thoát
ra khỏi bọn người phái Tiêu Dao đang níu kéo.
Y rượt theo đến nửa giờ, càng chạy càng nhanh nhưng không thấy sáu nhà sư
chữ Tuệ đâu. Y đã được ông lão phái Tiêu Dao truyền cho hơn bảy mươi năm thần
công nên chạy nhanh như gió còn hơn cả tuấn mã nên vừa hạ sơn đã vượt qua
những nhà sư Thiếu Lâm rồi. Thế nhưng Hư Trúc lại tưởng bọn Tuệ Phương vẫn
còn ở phía trước nên càng ra sức đuổi theo nào ngờ chỉ trong chớp mắt, ngay tại
khúc quẹo nơi thung lũng khuất nẻo nên không nhìn thấy sáu nhà sư, nhô lên hụp
xuống vài lần đã qua mặt họ xa lắc.
Hư Trúc đuổi một mạch tới tận xế chiều vẫn không thấy tung tích sáu vị sư
bá sư thúc đâu, lấy làm lạ, đoán chừng mình đi nhầm lối nên chạy ngược trở lại haichục dặm, kiếm người đi đường hỏi thăm nhưng chẳng một ai trông thấy sáu vị hòa
thượng cả.
Chạy tới chạy lui như thế nhưng y không thấy mỏi mệt chút nào, thấy trời đã
tối, bụng lại đói meo nên đi tới một quán ăn nơi phố chợ vào gọi hai tô mì chay.
Trong khi chờ đợi chủ quán nấu mì, Hư Trúc không ngừng ngó dáo dác ra ngoài
quán bỗng nghe một giọng trong trẻo nói:
- Hòa thượng đang chờ ai đó?
Hư Trúc quay đầu lại thấy nơi sát cửa sổ phía tây có một thanh niên áo xanh
ngồi đó, mắt sáng mày thanh, da trắng muốt, tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, tuổi chừng
mười bảy mười tám, đang nhìn mình mủm mỉm cười.
Hư Trúc đáp:
- Quả đúng thế! Xin hỏi tiểu tướng công có thấy sáu nhà sư ở đâu không?
Thanh niên kia đáp:
- Không thấy sáu nhà sư đâu cả, chỉ thấy một hòa thượng thôi.
Hư Trúc nói:
- Ồ, một nhà sư ư? Xin hỏi tướng công thấy ở đâu vậy?
Thanh niên đáp:
- Ở ngay trong cái quán này.
Hư Trúc nói:
- Chỉ một nhà sư thì không phải nhóm Tuệ Phương sư bá rồi. Thế nhưng đã
là tăng nhân may ra cũng hỏi thăm được chút tin tức.
Y bèn hỏi:
- Xin hỏi tướng công, hòa thượng đó hình dáng ra sao? Tuổi tác lớn hay
nhỏ? Đi về hướng nào?
Thanh niên kia mỉm cười:
- Nhà sư đó trán rộng tai to, mồm rộng môi dày, mũi huếch lên trời, tuổi
chừng hăm ba hăm bốn, y đang ngồi trong quán này chờ ăn hai tô mì, chưa đi đâu
cả.
Hư Trúc cười ha hả nói:
- Hóa ra tiểu tướng công nói đến chính là ta.
Thanh niên kia đáp:- Tướng công thì là tướng công, hà tất lại thêm một chữ "tiểu" vào? Ta gọi
ông là "hòa thượng" chứ nào có gọi là "tiểu hòa thượng" đâu?
Thanh niên đó giọng nói dịu dàng, thật là dễ nghe. Hư Trúc đáp:
- Quả thế, vậy thì gọi là tướng công vậy.
Còn đang nói chuyện, hầu bàn đã bưng ra hai tô mì chay. Hư Trúc nói:
- Tướng công, tiểu tăng xin phép ăn mì.
Thanh niên đáp:
- Toàn rau với nấm, chẳng có mỡ màng gì, ăn có gì ngon? Mau lại bên ta,
ta mời ngươi ăn thịt nạc, ăn gà quay.
Hư Trúc đáp:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tiểu tăng cả đời không ăn đồ mặn, xin tướng
công cứ tự tiện.
Nói xong quay lại cúi xuống ăn mì, cái cảnh thanh niên kia ăn thịt ăn gà y
cũng không muốn nhìn thêm nữa. Y bụng đói cồn cào, chỉ giây lát đã ăn hết hơn
nửa tô, bỗng nghe thanh niên kia kêu lên:
- Ủa, cái gì thế này?
Hư Trúc quay đầu lại thấy thanh niên kia tay cầm cái thìa đựng đầy canh
đang toan đưa vào mồm, đột nhiêng ngừng lại dường như nhìn ra vật gì kỳ lạ, cái
muỗng còn cách miệng chừng nửa thước thì ngừng lại, tay trái cầm một vật gì đó
trên bàn. Thanh niên đó đứng lên, tay phải nhón lấy vật kia đi đến bên cạnh Hư
Trúc hỏi:
- Hòa thượng nhìn con trùng này có lạ không?
Hư Trúc thấy y cầm trong tay là một con bọ nhỏ màu đen, loại cánh cam
cánh quýt đó thì đâu chẳng có, không lạ lùng gì, liền hỏi:
- Lạ ở chỗ nào?
Thanh niên kia đáp:
- Ngươi coi con trùng này có vỏ cứng, đen nhánh bóng loáng trông tưởng
như quết dầu không bằng.
Hư Trúc đáp:
- Ồ, con cánh cam nào chẳng vậy.
Thanh niên hỏi:- Vậy sao?
Y vứt con cánh cam xuống đất, giơ chân di cho chết rồi quay lại chỗ ngồi.
Hư Trúc thở dài:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp!
Y quay lại ăn nốt bát mì. Cả ngày hôm nay y chưa ăn gì cả, thấy bát mì này
thật là ngon, đến nước dùng cũng húp sạch tận đáy rồi lấy tô thứ hai cầm đũa định
ăn, bỗng nghe thanh niên kia cười sằng sặc nói:
- Hòa thượng, ngươi mồm thì leo lẻo nghiêm thủ thanh qui giới luật, hóa ra
cũng chỉ thuộc loại giả vờ, nói một đằng làm một nẻo.
Hư Trúc đáp:
- Ta làm gì mà nói một đằng làm một nẻo?
Thanh niên nói:
- Ngươi bảo là một đời không ăn mặn, thế cái bát mì nước gà, sao lại húp
sùm sụp thế là sao?
Hư Trúc nói:
- Tướng công chớ nói đùa. Đây rõ ràng là mì chay với rau cải, nấm hương,
làm gì có nước gà? Ta đã dặn kỹ hầu bàn, đừng có cho một tí dầu mỡ nào.
Thanh niên kia mỉm cười:
- Mồm ngươi bảo không đụng vào đồ tanh đồ mặn, vậy mà húp nước thang
gà thì soạp soạp chắc lưỡi, ngon ngọt chẳng biết là chừng nào. Này hòa thượng, để
ta cho thêm một muỗng thang gà vào tô mì này nhé?
Y vừa nói vừa đưa muỗng vào trong bát gà quay lênh láng mỡ màng, múc ra
một thìa đứng lên. Hư Trúc kinh hãi không sao kể xiết, ấp úng:
- Ngươi ... ngươi ... vừa mới ... đã ...
Thanh niên kia cười nói:
- Đúng đó! Ta vừa mới bỏ vào bát mì của nhà ngươi một muỗng canh gà,
không lẽ ngươi không nhìn thấy? Chao ôi, này nhà sư ơi, ngươi mau mau nhắm mắt
lại giả vờ không nhìn thấy, ta lại đổ cho một muỗng canh gà vào bát mì, ăn cho
ngon, miễn là không phải chính ngươi đổ vào, Phật tổ Như Lai sẽ không trách cứ gì
đâu.
Hư Trúc vừa sợ vừa tức, bấy giờ mới biết y đem con cánh cam sang cho
mình coi, chẳng qua chỉ dương đông kích tây, khiến cho mình chú ý đến chỗ khácrồi thừa cơ đổ muỗng canh gà vào bát mì, thảo nào khi ăn thấy thơm ngon lạ
thường, chỉ vì cả đời chưa từng nếm qua nên không biết. Bây giờ canh gà đã nuốt
vào bụng thì làm sao đây? Có nên ói ra hay không? Y nhất thời bàng hoàng chẳng
biết thế nào cho phải.
Thanh niên kia bỗng nói:
- Này hòa thượng, ngươi muốn đi tìm sáu nhà sư, có phải họ đang đến
không kìa?
Y vừa nói vừa chỉ ra ngoài. Hư Trúc mừng quá, chạy vội ra cửa, nhìn dáo
dác ra đường nhưng nào có thấy ai đâu. Y biết lại bị gã thanh niên đánh lừa, trong
bụng bực bội, có điều người xuất gia không được giận hờn nên cố nhịn, không nói
một lời quay lại tiếp tục ăn mì. Hư Trúc nghĩ thầm: "Vị tiểu tướng công này tuổi
chẳng bao nhiêu, sao lại cứ nhắm mình mà chơi ác thế này?'. Nghĩ rồi y cầm đũa
lên, ăn như rồng cuốn ngay hết nửa bát, đột nhiên kẽ răng cắn trúng cái gì trơn
tuột, kinh hãi vội vàng nhìn vào, thấy trong bát mì có một miếng thịt to béo ngậy,
một nửa đã bị cắn mất rồi, hiển nhiên mình đã nuốt vào bụng. Hư Trúc buông đũa
xuống bàn, kêu lên:
- Khổ quá! Khổ quá!
Gã thanh niên kia cười hỏi:
- Này hòa thượng, miếng thịt mỡ ăn có ngon không? Sao lại kêu khổ?
Hư Trúc giận dữ nói:
- Ngươi đánh lừa cho ta chạy ra ngoài cửa rồi bỏ miếng thịt vào bát mì. Ta
... ta ... suốt hai mươi ba năm nay, chưa từng nếm đồ mặn, ta ... ta ... bị ngươi hủy
hoại mất rồi.
Thanh niên kia mỉm cười nói:
- Thế miếng thịt béo kia chẳng ngon gấp mười rau cải, đậu phụ hay sao?
Ngươi trước nay không ăn thì quả thật ngu hết chỗ nói.
Hư Trúc mặt mày thiểu não đứng lên, giơ tay nắn yết hầu, ruột rối như tơ vò,
bỗng nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo, một đám đông người đi về phía
quán. Y vừa nhìn qua, tưởng ai hóa ra chính là đám đệ tử phái Tinh Tú, trong lòng
kêu thầm: "Ối chao, hỏng rồi, bị Tinh Tú Lão Quái bắt được chết là cái chắc!". Y
vội vàng chạy ra đằng sau, định đào tẩu, nào ngờ vừa đẩy cửa bước vào, đó là một
căn phòng ngủ. Hư Trúc đang định lùi ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói:- Điếm gia, điếm gia! Mau đem rượu thịt ra đây!
Chính là đám đệ tử Tinh Tú đã vào trong khách đường. Hư Trúc không dám
lùi trở lại, đành nhẹ nhàng đóng cửa lại. Bỗng nghe tiếng người nói:
- Kiếm chỗ nào cho gã sư mập kia nằm ngủ.
Chính là tiếng của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú liền đáp:
- Vâng!
Có tiếng bước chân nặng nề đi về phía bên ngoài cửa phòng. Hư Trúc kinh
hãi, không còn cách nào khác bèn cúi xuống chui tọt vào gầm giường. Đầu y chui
vào rồi, đụng ngay phải vật gì đó, rồi có tiếng người khẽ kêu "A" hóa ra dưới gầm
giường đã có ai trốn dưới đó. Hư Trúc cũng hoảng hốt, toan lùi trở ra thì tên đệ tử
phái Tinh Tú đã bế Tuệ Tịnh tiến vào, để y lên giường rồi đi ra.
Chỉ nghe người ở bên cạnh ghé tai y nói nhỏ:
- Này hòa thượng, thịt mỡ ngon quá nhỉ? Ngươi sợ cái gì?
Thì ra đó chính là thanh niên tướng công. Hư Trúc nghĩ thầm: "Ngươi tay
chân quả là nhanh nhẹn, đã chui vào trốn dưới gầm giường trước cả ta". Y cũng
nói nhỏ:
- Bên ngoài kia là một bầy đại ác nhân, tướng công chớ có nói năng gì cả.
Thanh niên kia hỏi lại:
- Sao ngươi lại biết bọn họ là đại ác nhân?
Hư Trúc đáp:
- Ta nhận ra họ, bọn người này giết người không nháy mắt, không phải
chuyện chơi đâu.
Thanh niên kia vừa toan bảo y đừng nói gì nữa thì gã Tuệ Tịnh đang nằm
trên giường đột nhiên kêu toáng lên:
- Có người dưới gầm giường! Có người dưới gầm giường!
Hư Trúc và thanh niên kia sợ quá, vội vàng chui ra. Chỉ thấy Đinh Xuân Thu
đứng ngay tại ngạch cửa, cười khẩy, khuôn mặt vô cùng đắc ý, đầy vẻ độc ác.
Thanh niên kia sợ đến mặt xanh như tàu lá, quì xuống run run kêu lên:
- Sư phụ!
Đinh Xuân Thu cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Đưa ra đây!Thanh niên kia đáp:
- Đệ tử không mang theo.
Đinh Xuân Thu hỏi:
- Thế ở đâu?
Thanh niên đáp:
- Tại thành Nam Kinh nước Liêu.
Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng hỏi lại:
- Đến nước này mà ngươi còn định lừa ta nữa sao? Ta sẽ cho ngươi sống
không xong, chết không được.
Thanh niên nói:
- Đệ tử không dám nói láo với sư phụ.
Đinh Xuân Thu đưa mắt liếc qua Hư Trúc, hỏi thanh niên kia:
- Sao ngươi lại đi cùng với y?
Thanh niên đáp:
- Đệ tử mới gặp y nơi quán này thôi.
Đinh Xuân Thu hừ một tiếng nói:
- Láo toét! Láo toét!
Y hầm hầm nhìn hai người một hồi, quay ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú liền
xông vào phòng vây hai người lại. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức tối nói:
- Thì ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú.
Thanh niên kia dậm chân, hậm hực nói:
- Cũng tại ngươi tên hòa thượng thối tha mà ra, còn trách gì ta nữa?
Một tên đệ tử phái Tinh Tú chào:
- Đại sư tỉ, từ đó tới nay vẫn khỏe chứ?
Giọng nói đầy vẻ hạnh tai lạc họa, cực kỳ khinh bạc. Hư Trúc lạ lùng:
- Cái gì? Ngươi ... ngươi ...
Thanh niên kia hứ một tiếng nói:
- Đồ sư ngốc nghếch, đồ sư thối tha! Ta đương nhiên là con gái, không lẽ
ngươi nhìn không ra sao?Hư Trúc nghĩ thầm: "Thì ra vị tiểu tướng công này là đàn bà, mà lại là đệ tử
phái Tinh Tú, không những là đệ tử phái Tinh Tú, mà lại còn là đại sư tỉ của bọn
họ. Chao ôi không xong rồi, cô ta cho ta húp canh gà, lại ăn thịt mỡ, e rằng trúng
độc mất thôi".
Thanh niên đó dĩ nhiên là A Tử cải trang. Nàng ở Nam Kinh nước Liêu tuy
hưởng đủ mọi cảnh vinh hoa phú quí nhưng bình sinh hiếu động, lâu ngày chán
ngấy. Tiêu Phong việc công bề bộn, làm gì có thì giờ ngày ngày đưa nàng đi săn,
đi chơi. Một hôm trong lòng bực bội, nàng một mình ra ngoài du ngoạn, cũng định
đến tối sẽ về, ngờ đâu gặp phải một trò vui, đuổi theo một người, nhưng càng đuổi
càng mịt mù, sau cùng phóng độc giết được y thì cách thành Nam Kinh đã xa,
thuận bước đi vào Trung Nguyên. Nàng đi lang thang, cũng khéo làm sao hôm đó
lại gặp ngay Hư Trúc lẫn thầy trò Đinh Xuân Thu.
Nàng dụ cho Hư Trúc phá giới ăn mặn, chẳng qua tính tình quái ác rắn mắt,
nhất thời cao hứng cốt sao người khác đau khổ phiền não là nàng khoái chí chứ có
ý gì đâu.
A Tử vẫn tưởng sư phụ chỉ ở bờ biển Tinh Tú hưởng nhàn, chẳng khi nào lại
đến Trung Nguyên, ngờ đâu oan gia ma đưa lối quỉ đưa đường, ở cái quán nhỏ này
lại gặp nhau. Nàng sợ đến mất cả hồn vía, lớn tiếng mắng mỏ Hư Trúc chẳng qua
chỉ để ra vẻ ta đây nhưng tiếng nói đã run lập cập, cố gắng trấn tĩnh cũng không
đến đâu, trong bụng cấp tốc tính toán một kế hoạch thoát thân: "Cứ như hôm nay
chỉ còn cách đánh lừa sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết quách lão đi, đó
là đường sống duy nhất. Ngoại trừ tỉ phu ra, chẳng một ai đánh được ông ta. Cũng
may Thần Mộc Vương Đỉnh ta để lại Nam Kinh, sư phụ không thể không đi tìm để
lấy lại chiếc đỉnh đó".
Nàng nghĩ đến đó, thấy an tâm hơn nhưng lại chợt nghĩ: "Thế như nếu như
sư phụ trước hết đánh cho ta tàn phế, tiêu hủy võ công của ta sau đó mới áp giải về
Nam Kinh, cái cảnh khổ sở đó, so với chết ngay bây giờ còn khó chịu hơn". Nghĩ
đến đó mặt nàng tái mét cắt không còn giọt máu.
Ngay lúc đó, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi đến trước cửa phòng, cười hinh
hích nói:
- Đại sư tỉ, sư phụ cho mời.A Tử nghe thấy sư phụ gọi ra, thật chẳng khác gì con chuột bị con mèo kêu
đến, sợ đến xương cốt tưởng như sụm xuống, nhưng biết có trốn cũng không xong
chỉ đành theo tên đệ tử kia ra ngoài đại đường.
Đinh Xuân Thu ngồi một mình một bàn riêng, trên bàn rượu thịt ê hề, còn
bọn đệ tử thì xuôi tay đứng hầu ở xa xa, hết sức cung kính, không ai dám thở
mạnh. A Tử đi ra đến nơi cất tiếng chào:
- Sư phụ!
Đinh Xuân Thu hỏi:
- Thế quả thật ở nơi đâu?
A Tử nói:
- Không dám dấu sư phụ, đúng là ở thành Nam Kinh nước Liêu.
Đinh Xuân Thu hỏi thêm:
- Thế nơi nào ở thành Nam Kinh?
A Tử đáp:
- Trong phủ Nam Viện Tiêu Đại Vương nước Liêu.
Đinh Xuân Thu cau mặt gằn giọng hỏi:
- Vì cớ nào mà rơi vào tay tên Liêu cẩu Khất Đan đó?
A Tử nói:
- Không phải rơi vào tay y. Đệ tử khi lên đến biên giới phương Bắc, e ngại
làm mất bảo vật của sư phụ, lại sợ lỡ tay làm hư, thành thử len lén vào trong hoa
viên vương phủ Tiêu đại vương, đào lỗ chôn nơi đó. Nơi đó cực kỳ kín đáo, hoa
viên của vương phủ rộng đến hơn sáu nghìn mẫu, ngoại trừ đệ tử ra, không một ai
có thể tìm ra được chiếc vương đỉnh đó đâu, sư phụ cứ yên chí.
Đinh Xuân Thu cười nhạt nói:
- Chỉ có mình ngươi biết được thôi. Hừ, con nhãi kia, ngươi kể cũng gớm
lắm, ngươi tưởng rằng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám giết ngươi chứ gì? Ngươi
bảo là giết ngươi rồi không thể nào tìm ra chiếc đỉnh nữa, phải không?
A Tử run bắn người lên, lập cập đáp:
- Nếu như sư phụ không tha cho đệ tử cái tội cứng đầu nghịch ngợm, tiêu
trừ công lực, cắt đứt cân mạch, hay chặt chân chặt tay thì đệ tử thà chết ngay tại
đây chứ nhất quyết không thổ lộ chiếc vương đỉnh ... chiếc vương đỉnh ... đó ở đâu.Nói đến câu sau cùng, trong bụng sợ hãi lắm, lắp bắp không ra lời. Đinh
Xuân Thu mỉm cười nói:
- Con oắt kia, ngươi lại dám cả gan bắt thóp ta ư? Môn hạ phái Tinh Tú có
ngươi gớm thật, cả đến ta cũng bị mắc lỡm, Tinh Tú lão tiên này quả là không có
mắt.
Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói:
- Tinh Tú lão tiên nhìn thấu suốt quá khứ vị lai, biết cái số kiếp Thần Mộc
Vương Đỉnh nó phải thế, nên mới giả vờ cho A Tử lấy được để cho bảo cụ này trải
qua gian hiểm, có dịp mài giũa thêm khiến cho bảo đỉnh càng thêm pháp lực.
Một tên đệ tử khác lại chõ vào:
- Mọi việc trong thiên hạ, có cái nào không nằm trong thần cơ diệu toán
của lão tiên? Lão tiên khiêm tốn mà nói thế, chúng đệ tử chẳng nên coi là thật.
Lại một tên đệ tử khác tiếp lời:
- Tinh Tú lão tiên hôm nay mới giở chút kỹ xảo con con, đã giết chết cao
thủ phái Thiếu Lâm là Huyền Nạn, tru diệt thầy trò Lung Á lão nhân mấy chục
người, cổ vãng kim lại, thật Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng? Tiểu A Tử! Dù
ngươi có giảo hoạt cách nào, cũng làm sao chạy cho thoát bàn tay của Tinh Tú lão
tiên? Dù cứng đầu chống trả hay van lạy xin tha thì cũng đều vô ích.
Đinh Xuân Thu mỉm cười gật gù, vuốt râu ngồi nghe. Hư Trúc đứng trong
ngọa thất, nghe rõ ràng từng chữ, nghĩ thầm: "Sư bá tổ và Thông Biện tiên sinh
quả nhiên bị Đinh thí chủ giết hại. Ôi, nói gì đến báo thù rửa hận, đến cái mạng
cỏn con của mình đã chắc gì còn".
Quần đệ tử phái Tinh Tú kẻ một câu, người một lời, ai nấy khuyên A Tử
mau mau nghe lời, khai rõ ra, trong ngôn từ dọa nạt thì quá nửa là tuyên dương oai
đức Tinh Tú lão tiên, cứ một câu nói với A Tử thì kèm theo ba câu ca công tụng
đức Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu bình sinh có cái tật là thích nghe người khác tâng bốc mình,
càng đưa lão lên, lão càng khoái trí, được đám đệ tử nịnh hót mấy chục năm đã
quen nên tưởng rằng câu nào câu nấy đều là thật. Nếu như có ai không đưa lão lên
tận mây xanh thì cho rằng kẻ đó thiếu dạ trung thành. Bọn đệ tử hiểu rõ tính khí
đó nên mỗi khi có cơ hội là ai nấy đều hết sức đánh trống thổi kèn, nịnh bợ hết
mực, chỉ sợ mình ca tụng chưa đủ, khiến sư phụ không vui thì tính mạng sẽ như chỉ
mành treo chuông, lúc nào cũng lo ngay ngáy.Đám đệ tử phái Tinh Tú không phải ai cũng mặt dày mày dạn vô liêm sỉ, có
điều ở vào thế chẳng đặng đừng, không thế thì khó mà tồn tại, hơn nữa năm này
tháng nọ dần dần thành quen, lời tâng bốc thuận miệng tuôn ra, chẳng ai còn coi là
điều đáng hổ thẹn nữa.
Đinh Xuân Thu vuốt râu mỉm cười, hai mắt hấp him, lắng nghe bọn đệ tử ca
tụng, đầu óc lâng lâng như người say. Hàm râu dài của lão khi đấu phép với sư
huynh Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một phần lớn, chỉ còn loe hoe một dúm, về sau
lão lén phóng chất kịch độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán giết được Tô Tinh Hà, trận
đó kể như thắng, nên có bị mất chòm râu cũng không đến nỗi nào.
Y trong bụng ngầm tính: "Con tiểu a đầu này hôm nay khó mà thoát được
bàn tay lão tiên, còn chú tiểu trong phòng kia thì phải từ từ tính lại. Tam Tiếu Tiêu
Dao Tán không giết được nó, hay là mình dùng Hủ Thi Độc, hoặc Hóa Công Đại
Pháp, tùy cơ mà hành sự. Thế là Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn rơi vào tay mình, thật
hên quá sức! Sướng quá!".
Phải đến thời gian một bữa ăn, tiếng ca công tụng đức của đám đệ tử thưa
dần, chỉ những kẻ trường thiên đại luận còn đang lải nhải, Đinh Xuân Thu bèn giơ
tay lên, tiếng liền im bặt, tất cả đồng thanh nói:
- Công đức sư phụ bao trùm trời đất, chúng con ngu si, một vạn phần không
phô ra được một.
Đinh Xuân Thu mỉm cười gật đầu, quay sang A Tử hỏi:
- A Tử, ngươi còn gì để nói nữa không?
A Tử tâm niệm chợt động: "Trước đây sư phụ cưng chiều mình, cũng bởi vì
mình tâng bốc có chỗ đặc biệt không giống kẻ khác, chẳng phải như bọn ngốc này,
nói tới nói lui, cả trăm năm cũng chỉ có bao nhiêu đó". Nàng bèn nói:
- Sư phụ, đệ tử sở dĩ lén ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh đem ra ngoài
chơi, cũng có lý do.
Đinh Xuân Thu trừng mắt hỏi lại:
- Có lý do là sao?
A Tử đáp:
- Khi sư phụ còn trẻ, công lực chưa đạt đến chỗ đăng phong tạo cực như
bây giờ, tu tập mới cần phải cần vương đỉnh để trợ giúp cho việc luyện công. Thế
nhưng những năm gần đây, hễ ai có mắt nhìn cũng đều biết sư phụ đã đến mứcthông thiên triệt địa, cái vương đỉnh kia chỉ dùng để dụ độc vật, so với thành tựu
của sư phụ thật khác gì đom đóm sánh với mặt trăng mặt trời, làm sao bì được. Sư
phụ sở dĩ chưa vứt cái mộc đỉnh đó đi, chẳng qua cũng vì nghĩ đến món đồ cũ
không nỡ bỏ đấy thôi. Chúng sư đệ la lối om sòm, cứ làm như sư phụ không có
vương đỉnh đó không được, cho là bản môn trọng bảo mất đi thì chuyện không phải
nhỏ, quả thực ngu xuẩn biết mấy, có khác gì coi thần thông của sư phụ không vào
đâu.
Đinh Xuân Thu liên tiếp gật gù:
- Hừm, hừm, nói nghe có lý lắm! Nói nghe có lý lắm!
A Tử lại tiếp:
- Đệ tử thiển nghĩ, võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường là dường nào,
không môn phái trên đời này theo kịp được, có điều sư phụ đại nhân đại lượng,
chẳng thèm chấp bọn nhân sĩ võ lâm nên không chịu dời gót ngọc đến Trung
Nguyên dạy cho bọn ếch ngồi đáy giếng kia một trận. Trong võ lâm lắm kẻ cuồng
vọng tự tôn, biết chắc sư phụ chẳng thèm ganh đua với chúng làm gì cho mệt nên
huênh hoang hợm hĩnh, đứa nào cũng xưng hùng xưng bá, kẻ thì cho mình đương
thế cao nhân, kẻ khác tự phong danh gia võ học.
Thế nhưng mồm thì khoe mình vang trời dậy đất, nhưng có đứa nào dám vác
mặt tới biển Tinh Tú lãnh giáo sư phụ vài chiêu. Kẻ học võ trong thiên hạ, ai mà
chẳng biết sư phụ võ công cao thâm khôn lường, thế nhưng quanh đi quẩn lại cũng
cứ bốn chữ "thâm bất khả trắc", ví như hỏi rằng cao siêu tới đâu, thì có đứa nào
nói được?
Cho đến lúc này, Mộ Dung Cô Tô tiếng nổi như cồn, Hà Nam Thiếu Lâm
cũng xưng mình Thái Sơn Bắc Đẩu, thậm chí đến cái gì Lung Á tiên sinh, cái gì
Đoàn gia Đại Lý cũng thành những nhân vật kiệt hiệt. Sư phụ nghĩ xem thế có nực
cười không?
Tiếng nào trong trẻo, ỏn thót bên tai, câu nào câu nấy như xoáy vào tim
Đinh Xuân Thu, so với các đệ tử khác lớn tiếng tung hô ca tụng dễ nghe hơn nhiều.
Đinh Xuân Thu càng lúc càng phởn phơ, mắt híp lại chỉ còn là một đường nhỏ như
sợi chỉ, không ngớt gục gặc đầu, mười phần đắc ý.
A Tử lại tiếp:
- Thành ra đệ tử nổi tính trẻ con, nghĩ bụng sư phụ mình thần thông như
thế, nếu không đến Trung Nguyên lộ chút thân thủ cho bọn giun dế kia được dịpmở mắt, thì sao chúng biết được rằng thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu
nhân? Do đó mới bày ra một kế mời sư phụ đến Trung Nguyên, cho bọn nhãi nhép
kia biết thế nào là trời cao đất dày. Thế nhưng cung thỉnh sư phụ một cách bình
thường thì xoàng xĩnh quá, không xứng với thân phận một đệ nhất cao nhân, cổ
vãng kim lai như lão nhân gia. Thân phận sư phụ không giống người khác, cung
thỉnh sư phụ đến Trung Nguyên cũng phải khác người. Thành thử đệ tử mới mượn
chiếc vương đỉnh, cốt chỉ để mời được đại giá của lão nhân gia đấy thôi.
Đinh Xuân Thu bật cười ha hả hỏi:
- Nếu nói thế, ngươi lấy chiếc vương đỉnh thì chỉ vì lòng hiếu kính hay sao?
A Tử đáp:
- Lẽ nào không phải? Thế nhưng đệ tử ngoài hiếu tâm, thực ra lại cũng có
chút tư tâm.
Đinh Xuân Thu chau mày hỏi:
- Tư tâm thế nào?
A Tử mỉm cười đáp:
- Xin sư phụ đừng trách. Đệ tử nghĩ mình là môn đồ phái Tinh Tú, cũng
mong bản phái uy chấn thiên hạ để khi hành tẩu giang hồ, người người kính trọng,
như thế có nở mày nở mặt hơn chăng? Đó chính là cái tư tâm nhỏ mọn của đệ tử.
Đinh Xuân Thu lại cười khà khà nói:
- Nói nghe được lắm! Nói nghe được lắm! Ta có bao nhiêu là đệ tử, vậy
mà có đứa nào tâm cơ linh mẫn được như ngươi đâu. Thì ra ngươi ăn trộm Thần
Mộc Vương Đỉnh, là chỉ vì muốn ta dương oai đấy thôi. Ha ha, một đứa mồm
miệng lanh lợi như ngươi, giết đi thật uổng, bên mình thiếu đi một kẻ nói chuyện
cho đỡ buồn, thế nhưng nếu ta phủi tay không tra xét ...
A Tử vội vàng cướp lời:
- Tuy thế quá ư là tiện nghi cho đệ tử nhưng bản môn từ trên xuống dưới ai
ai chẳng cảm kích lòng khoan hồng độ lượng của sư phụ? Từ nay trở đi sẽ vì sư
môn mà tận tâm kiệt lực, tan xương nát thịt mới thôi.
Đinh Xuân Thu đáp:
- Những lời của ngươi đem ra đánh lừa người khác thì may ra còn được, còn
như với ta, thì có khác gì bảo ta là một lão già mê muội hay sao? Ngươi tâm tư quả
là đại bất thiện. Hừ, ngươi nói nếu ta phế công lực, chấn đoạn kinh mạch ...Vừa nói tới đây, bỗng có một giọng vang vang nói:
- Điếm gia, dọn chỗ cho ta.
Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn ra, thấy một thanh niên công tử mặc áo dài
màu vàng, hông đeo trường kiếm, ngồi ngay ở bàn bên cạnh, chẳng biết vào quán
từ lúc nào. Người đó chính là Mộ Dung Phục mình mới gặp nơi hội cờ lúc ban
ngày, đã thi triển tà thuật gia hại nhưng không thành công. Đinh Xuân Thu vừa rồi
lắng tai nghe A Tử nói, lòng lâng lâng như đi mây về gió vào nơi cực lạc, mặt khác
lắng nghe xem Hư Trúc ở trong phòng động tĩnh ra sao, sợ y vượt tường chạy mất
khiến cho trong quán có thêm một người mà cũng không hay, quả là sơ xuất đến
cùng cực. Nếu như Mộ Dung Phục vừa đến đã ra tay ám toán, e rằng sẽ bị hố to. Y
kinh hãi mặt mày biến sắc nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro