Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

thiên trường

Câu 1: Triều Trần ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nào? Thời gian tồn tại của nhà Trần, kể tên các vua đời Trần?

1.1. Hoàn cảnh ra đời của triều Trần:

 - Bối cảnh chính trị xã hội cuối thời Lý: Kể từ thời Vua Lý Huệ Tông xã hội dối loạn, nhân dân không thiếu lòng tin với triều đình. Lý Huệ Tông là người yếu đuối, không quan tâm đến việc triều chính

 - Sự lớn mạnh của họ Trần, từng bước nắm giữ các vị trí, trọng trách trong triều đình nhà Lý: Trong triều đình nhà Lý có một số chức quan do người dòng họ Trần nắm giữ, khi nhà Lý có những rối loạn thì uy thế của họ Trần ngày càng tăng lên nhất là thời vua Lý Huệ Tông. Khi nhà Lý suy yếu người đứng đầu họ Trần lúc đó là Trần Cảnh nhưng người có công chính cho sự ra đời của nhà Trần là Trần Thủ Độ.

 - Vai trò của Trần Thủ Độ và sự chuyển giao quyền lực giữa triều Lý sang triều Trần:. Là người có cơ mưu, quyết đoán Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh và cắt tóc đi tu. Liền sau đó Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng(7 tuổi) kết duyên cùng con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (8 tuổi). Một năm sau vào tháng 12 âm lịch năm 1225 Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị.

Khi lên ngôi, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) còn nhỏ nên mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là nhiếp chính Trần Thừa.

1.2. Thời gian tồn tại của nhà Trần :

 - Triều Trần tồn tại từ năm nào đến năm nào?

                Trong 175 năm từ 1225 đến 1400

 - Có bao nhiêu đời vua?

                Có 12 đời Vua, ngoài ra có 2 vị Vua thời hậu Trần

1.3. Kể tên các đời vua nhà Trần:

 - Tên vị vua, niên hiệu, năm lên ngôi.Thời gian ở ngôi vua.

Trần Thái Tông (1225-1258)

Trần Thánh Tông (1258-1278)

Trần Nhân Tông (1279-1293)

Trần Anh Tông (1293-1314)

Trần Minh Tông (1314-1329)

Trần Hiến Tông (1329-1341)

Trần Dụ Tông (1341-1369)

Trần Nghệ Tông (1370-1372)

Trần Duệ Tông (1372-1377)

Trần Phế Đế (1377-1388)

Trần Thuận Tông (1388-1398)

Trần Thiếu Đế (1398-1400)

Câu 2: Sự ra đời của địa danh phủ Thiên Trường? Vai trò, vị thế của “Hành cung Thiên Trường” trong quốc gia Đại Việt thế kỷ XIII-XIV?

2.1. Sự ra đời của phủ Thiên Trường:

- Tức Mặc là quê hương, đất dấy nghiệp của vương triều Trần.

- Sự kiện Thượng hoàng Trần Thái Tông đổi hương Tức Mặc thành phủ Thiên Trường, thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Trần với vùng đất Tức Mặc.

Ngay từ năm 1239, Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của triều Trần đã cho xây dựng ở đây nhiều đền đài, cung điện nguy nga, tráng lệ. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi rõ: "Đến năm 1262, vào tháng 2, Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc ban tiệc to. Đổi hương Tức Mặc làm Phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây cung riêng cho vua đương triều đến chầu ở, gọi là cung Trùng Hoa... Từ đây về sau các vua nhường ngôi đều ngự ở cung này". Vùng đất Tức Mặc, nơi dấy nghiệp và lập căn cứ địa của 3 lần chống giặc Nguyên - Mông, theo thuyết phong thuỷ xưa có dạng "ngoạ long" là thế đất đẹp, phát về đường đế vương, khanh tướng. Thực tế lịch sử triều đại Trần - đỉnh cao của văn minh Đại Việt với rất nhiều đức anh quân, văn thần, võ tướng đã minh chứng.

Bao bọc khu cung điện là dinh thự, thái ấp của các tướng lĩnh cao cấp của triều đình. Thái ấp Quắc Hương của Thượng phụ Thái sư Trần Thủ Độ, thái ấp Cao Đài của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải... Phía tây cung đình là chùa Phổ Minh, lại dựng một cung riêng cho các vua đương triều mỗi khi về thăm Thái Thượng Hoàng thì về nghỉ tại đó. Trong suốt 175 trị vì, Phủ Thiên Trường được coi như kinh đô thứ 2, là phên dậu vững chắc phía Nam kinh thành Thăng Long.

2.2. Vai trò, vị thế của hành cung Thiên Trường:

- Về chính trị: Là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện chế độ Thái Thượng hoàng của nhà Trần là trung tâm quyền lực thứ 2 (sau Thăng Long) gắn kết chặt chẽ với Thăng Long của quốc gia Đại Việt vào thế kỷ XIII-XIV.

- Về quân sự: Thể hiện tầm nhìn chiến lược của các vua Trần về một hậu cứ, hậu phương quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.

 - Về giáo dục: Là trung tâm giáo dục với các thiết chế và chế độ thi cử.

 - Về kinh tế: Phát triển kinh tế điền trang thái ấp, với chính sách “ngụ binh ư nông”, phát triển kinh tế tiểu thương, nông nghiệp, thực hiện chính sách khai khẩn đất đai.

  - Về văn hóa: Là một trung tâm hình thành, phổ biến, phát triển Phật giáo phái Trúc Lâm. Văn hóa Thiên Trường đã góp phần phát triển nền văn minh Đại Việt vào thế kỷ XIII-XIV.

 Câu 3: Những hiểu biết của bạn về ba lần quân dân Đại Việt chống quân xâm lược Nguyên – Mông thời Trần? Nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử?

 3.1. Những hiểu biết về ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của quân dân Đại Việt:

      Trình bày tóm tắt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của quân dân Đại Việt, trong mỗi cuộc kháng chiến cần nêu đủ các ý sau:

 - Âm mưu thôn tính Đại Việt của quân Nguyên - Mông.

 - Quá trình chuẩn bị kháng chiến của vua tôi nhà Trần.

 - Diễn biến của cuộc kháng chiến.

 - Kết quả và ý nghĩa.

     Gợi ý:

Cuộc kháng chiến lần 1: (1258)Nguyên Mông dự định đánh chiếm Đại Việt và từ Đại Việt đánh lên Nam Tống. chiếm được Đại Việt còn có ý nghĩa lớn sau này cho đế quốc Mông Cổ lập bàn đạp cho các cuộc viễn chinh xuống Đông Nam Á,do đó Đại Việt là mục tiêu chiến lược và đó cũng là sự cố gắng rất lớn của chúng.

Nguyên Mông dứng đầu là Ngột Lương Hợp Thai quyết định chia quân làm hai đạo tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao (nhiệm vụ tham dò, dẫn đường)

ngày 17/1/1258 chúng đến tới Bình Lệ Nguyên. Trận chiến diến ra vua Trần trực tiếp chiến đấu. Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kị binh của Mông Cổ phát huy sở trường của chúng. Trận địa của ta bị lấn dần, quân của vua Trần rút lui an toàn nhờ vào sự giúp sức của quân và dân. Âm mưu cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần hoàn toàn thất bại. Ngột Lương Hợp Thai tức dận đổ lên đầu tướng tiên phong, Trếch Trếch Đu hoảng sợ uống thuốc tử tử.

Cố thủ không được, triều đình quyết định rút lui khỏi kinh đô để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế dã thanh.

Thăng long yên tĩnh trống không. Quân Mông Cổ tiến vào kinh đô vắng lặng, gặp khó khăn về hậu cần, chúng đánh ra vùng xung quanh kinh đô để hòng cướp bóc lương thực. Nhưng ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp chống cự quyết liệt tiêu biểu là dân Cổ Sở (Yên sở, Hoài Đức, Hà Tây) đã tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào bao quanh làng, dựng luỹ chiến đấu. Khi giặc đến, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra. lực lượng quân Mông Cổ đã thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến đấu từ xóm làng. Chỉ mấy ngày đến Thăng Long quân Mông Cổ hoàn toàn mất hết nhuệ khí chiến đấu : Ngột Lương Hợp Thai và bọn tướng lĩnh đều hốt hoảng cực độ. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết định phản công giải phóng Thăng Long nhanh chóng giành thắng lợi. Kinh thành sạch bóng quân thù.

                Cuộc kháng chiến lần 2:(1285) lần này Hốt Tất Liệt lại huy động 50 vạn quân. chỉ huy là Thoát Hoan (con của Hốt Tất Liệt)

Để chuẩn bị kháng chiến, nhà Trần mở Hội Nghị Bình Than tập trung các vương hầu võ tướng để bàn kế đánh giặc.

Sau hội nghị Bình Than, các tướng lĩnh được phân chia đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu, quan trọng. Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh quân đội cả nước. Trần Quang Khải được cử giữ chức Thượng tướng thái sư.

Trong khi quân dân cả nước đang khẩn trương chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Trần Quốc Tuấn ra Hịch tướng sĩ nêu nghĩa lớn cứu nước, cứu mình. Toàn văn bài hịch là lời kêu gọi thiết tha, tràn đầy tinh thần yêu nước và chí căm thù cướp nước như ngọn lửa bốc cao.

Quân dân cả nước thích vào cánh tay của mình 2 chữ “Sát thát”. 1/1285, thượng hoàng thánh Tông mời các bậc phụ lão có uy tín trong nước về Kinh đô Thăng Long để hỏi kế đánh giặc. trong bữa tiệc ở Điện Diên Hồng, các vị đã đồng thanh hô lớn “Đánh!”. Khắp nơi nhân dân ta thực hiện mệnh lênh của triều đình “ Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết mà đánh. Nếu không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”.

Giữa năm 1284, Thoát Hoan khẩn trương điều quân vào Đại Việt. bọn Mông – Nguyên muốn diệt Đại Việt bằng 3 gọng kìm đánh vào biên giới phía bắc và phía nam.

Ngày 2/2/1258, quân giặc chia làm 6 mũi đánh vào Nội Bàng (Bắc Giang). Trần Quốc Tuấn chỉ huy đại quân đánh chặn giặc. Trước thế mạnh của giăc, quân ta bị tổn thất, Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về Vạn Kiếp. Nghe tin quân ta rút lui, vua Thánh Tông vội vã ra gặp Trần Quốc Tuấn và vờ hỏi Thống soái “thế giặc như thế, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn nghiêm chỉnh trả lời “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”.

11/2/1285, địch tấn công phòng tuyến Bình Than, quân ta chống trả quyết liệt, vua Trần dẫn quân về tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Quân ta rút khỏi Vạn Kiếp. Vua trần và Trần Quốc Tuấn về Thăng Long.

Trước sức mạnh của giặc Trần Nhật Duật (đóng quân tại Thu Vật (yên bái)) rút quân về Bạch Hạc sau đó kéo về hạ lưu sông Hồng.

Thượng hoàng Thái Tông và vua Nhân Tông về Thiên Trường (Nam Định). Thoát Hoan vừa chiếm đựoc Thăng Long vội vàng đuổi quân theo

Nắm vững tình hình địch, Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão đem quân ngược sông Thái Bình đánh chiếm lại Vạn Kiếp không mấy khó khăn. Thoát Hoan bị cô lập.

13/3/1285, Trần Kiện lại dẫn đường cho giặc tấn công quân Trần Quang Khải, cuộc chiến ác liệt, thế trận lại thuộc về địch, Quang Khải cho rút quân.

giữa tháng 3/1285, cuộc chiến vẫn diễn ra gay go phức tạp. quân Trần về Thăng Long Thoát Hoan lại thúc quân xuống Thiên Trường.

5/1258, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật cùng nhiều tướng sĩ khác đem quân ra bắc. chiến lược phản công bắt đầu.

Mục tiêu trước mắt của ta là đánh tan quân giặc ở Khoái Châu (Hưng Yên) để chia cắt quân Thoát Hoan và Toa Đô, đẩy quân Thoát Hoan vào thế cô lập bị động. vua Trần cho rằng “quân giặc đi xa nhiều năm, lương thảo chuyên chở hàng vạn dặm, thế tất phải mọi. lấy nhàn chống mệt, trước hãy làm chúng nhụt chí, thì ắt đánh thắng được”.

Cuối tháng 5, quân Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật  nhanh chóng tiêu diệt địch ở Tây Kết và Hàm Tử.

Tiếp đó, Trần Quang Khải và các tướng khác đánh vào Chương Dương nhanh chóng thắng lợi. Tàn quân địch rút về Thăng Long.Quân ta bao vây Thăng Long, địch ra sức cố thủ.

Trước tình cảnh hiểm nghèo chúng liều chết phá vây vượt sông Hồng chạy sang Gia Lâm. Kinh thành được hoàn toàn khôi phục.sức tàn, thế yếu, Thoát Hoan rút quân theo hưỡng Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn đánh chặn, quân Thoát Hoan phải chạy sang phía sông Như Nguyệt lại gặp quân Trần Quốc Toản đánh tổn thất nặng nề. Thoát Hoan chạy sang Vạn Kiếp lại bị sa vào bẫy phục kích của Trần Quốc Tuấn. hoảng sợ Thoát Hoan mở đưòng máu chạy về biên giới Lạng Sơn lại bị quân của Quốc công tiết chế đánh chặn ở cửa ải, Thoát Hoan hoảng sợ chui vào ống đồng cho quân lính khiêng chạy.

Các trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp đã tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta.

                Cuộc kháng chiến lần 3:(1288) Hai lần xâm lược, hai lần thất bại thảm hại, vua Nguyên Hốt Tất Liệt mất mặt, tức tối muốn tổ chức ngay cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ ba hòng trả thù, đồng thời để gấp rút đánh thông con đường bành trướng xuống ĐNA. Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản để tập trung lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần này.

Toàn bộ quân viễn chinh lần này do Thoát Hoan chỉ huy gồm 30 vạn quân cả bộ binh lẫn thuỷ binh, mang theo lương thực đầy đủ. Chúng tiến vào nước ta chia thành 3 đạo:

- Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây theo đường Lạng Sơn tiến vào.

- Đạo quân do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến xuống.

- Đạo quân thuỷ do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy với hơn 600 chiến thuyền từ Quảng Đông vào vịnh Hạ Long theo sông Bạch Đằng tiến vào hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).

Khác với lần trước, lần này chúng chú ý đến thuỷ binh.

Trần Quốc Tuấn lại được cử làm tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang. Ông đề ra kế hoạch : lúc đầu thế giặc mạnh, quân ta rút về vùng ven biển để bảo toàn lực lượng. Nhân dân trên đường tiến quân của địch và trong vùng chiếm đóng có nhiệm vụ cất giấu lương thực, kiên quyết triệt nguồn lương thực của địch, đồng thời cùng với dân binh đẩy mạnh hoạt động đánh địch làm tiêu hao sinh lực của chúng, ăn không ngon, ngủ không yên, đẩy chúng vào thế bị động.

Được tin giặc sắp tràn vào biên giới, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn “Giặc tới, liệu tình hình thế nào?”, Trần Quốc Tuấn trả lời “Năm nay đánh giặc nhàn”.

Lần này, Trần Quốc Tuấn chú trọng đến chiến trường biển đông bắc - đường tiến quân lương của địch. Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm về biên thuỳ vên biển và Trần Toàn có nhiệm vụ ngăn chặn thuỷ quân giặc.

Trận Ngọc Sơn, do tương quan lực lượng của Ô Mã Nhi mạnh hơn nên Trần Toàn có nhiệm vụ tiêu diệt đội thuyền đi sau của chúng đã thu được thắng lợi. Nhưng vì lực lượng giặc mạnh nên chúng vẫn vượt qua vùng biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh) và gặp quân của Trần Khánh Dư, trận chiến xảy ra ác liệt. quân của Trần Khánh Dư không sao cản được đạo quân của giặc, chúng ngược sông Bạch Đằng kéo vào Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan.

Trận Vân Đồn - Cửa Lục, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân ta tiêu diệt sạch đoàn thuyền lương của địch. tạo điều kiện cho quân dân ta nhanh chóng chuyển lên chiến lược phản công.

Ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố xây dựng thành căn cứ quân sự. Y để lại một số quân ở đây, còn lại tiếp tục tiến về Thăng Long. Quân dân ta tạm thời rút khỏi Kinh thành.

Hạu cần bao giờ cũng là một vấn đề then chốt của bất cứ một quân đội nào. Quân Nguyên trông chờ vào thuyền lương của Trần Văn Hổ, giờ này mấy chục vạn quân Nguyên ở Thăng Long lâm vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Thoát Hoan sai quân đi tìm đoàn thuyền lương nhưng đều bị ta đánh bại. sau khi biết được tin báo thuyền lương nằm trong tay ta, Thoát Hoan hoang mang lo sợ. Đầu tháng 3, Thoát Hoan buộc phải quyết định bỏ Thăng Long về Vạn Kiếp tổ chức phòng thủ, sau đó quyết định chia đạo quân làm hai theo đường thuỷ bộ rút về nước.

Biết trước ý đồ và đường hành quân của địch, Trần Quốc Tuấn chuẩn bị một cuộc phản công chu đáo. Sông Bạch Đằng được chọn làm điểm quyết chiến tiêu diệt đạo quân Ô Mã Nhi. Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật hoàn hảo, ngoài việc dựa vào địa thế thiên nhiên hiểm yếu và lợi dụng Gềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mô lớn chỉ trong vòng không quá 20 ngày.

Nhờ sự chu bị chu đáo, quân dân ta lần lượt đánh bại quân giặc trên đường rút lui trận quyết chiến đúng như dự định xảy ra trên sông Bạch Đằng. Sau chiến thắng Bạch Đằng, ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đem bọn tù binh Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và các tên thiên hộ, vạn hộ về phủ Long Hưng (Thái Bình) làm lễ mừng thắng trận trước lăng mộ vua Thái Tông. Trần Nhân Tông đọc :

“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá; Giang sơn mãi mãi vững âu vàng”.

3.2. Nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử:

3.2.1. Nguyên nhân thắng lợi:

 - Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt là cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa nên được sự hưởng ứng của mọi giai tầng trong xã hội.

 - Nhà Trần đã phát huy được tinh thần yêu nước, đoàn kết kháng chiến của “bách dân, trăm họ”,

 - Nghệ thuật quân sự mưu lược, sáng tạo.

3.2.2. Bài học lịch sử:

 - Đoàn kết thống nhất chặt chẽ trong vương triều, dòng họ, toàn dân. Ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ bờ cõi.

 - Lấy dân là gốc, dựa vào dân để tiến hành kháng chiến.

 - Bài học về nghệ thuật quân sự.

Câu 4: Những đóng góp nổi bật của quân, dân Nam Định trong kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ; thành tựu trong đổi mới và hội nhập của Đảng bộ, quân, dân Nam Định?

4.1.  Những đóng góp nổi bật trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

 -  Khái quát Âm mưu và thủ đoạn chiến tranh của thực dân Pháp; đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

 - Thành tích trong xây dựng, củng cố chính quyền vững mạnh; tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến của Đảng bộ, quân, dân Nam Định (1945-1946) .

 - Cuộc chiến đấu giam chân địch trong thành phố Nam Định, ý nghĩa thắng lợi.

 - Các phong trào thi đua yêu nước và những trận đánh tiêu biểu, kết quả.

 - Quê hương Nam Định được giải phóng trước khi Hiệp Định Giơne vơ được ký kết là một đóng góp lớn vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

 - Những đóng góp cụ thể về sức người, sức của của quân dân Nam Định (số người tham gia lực lượng vũ trang, số liệt sĩ, thương binh, các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, bà mẹ Việt Nam anh hùng; tổng số lương thực, thực phẩm đóng góp cho các chiến trường…).

 - Những phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước trao tặng cho Đảng bộ, quân, dân Nam Định.

Gợi ý: 1. KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-4954)

+ Đấu tranh giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng (1945 -1946).

Với cuộc Cách mạng Tháng Tám, chính quyền mới đã được thiết lập, nhân dân ta đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Nhưng nằm trong tình hình chung của cả nước, sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, Đảng bộ và nhân dân Nam Định cũng phải đối phó với nhiều khó khăn phức tạp. Thù trong giặc ngoài đe dọa, tình hình đất nước ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc.

Về kinh tế, mọi ngành sản xuất đều sút kém, đình đốn. Sản xuất nông nghiệp suy giảm. Hàng hóa khan hiếm. Về tài chính, ngân quỹ, kho bạc nói chung không còn gì. Giữa lúc đó, các thế lực đế quốc núp dưới danh nghĩa quân Đồng minh để tước vũ khí quân đội Nhật cũng tràn vào từ hai đầu đất nước. Thực chất là chúng muốn lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ.

Về phía chủ quan, Đảng bộ Nam Định còn thiếu kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo chính quyền.Thuận lợi cơ bản nhất đối với chính quyền cách mạng non trẻ là được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng. Trong mọi hoàn cảnh, các tầng lớp nhân dân Nam Định nói riêng và cả nước nói chung luôn vững tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh, sẵn sàng đem tính mạng và của cải để bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ chế độ mới.

Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách và quan trọng hàng đầu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh là dồn toàn lực vào việc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân trước sự tiến công thâm độc của những kẻ thù có tiềm lực quân sự lớn mạnh, tàn ác và nguy hiểm.

Nhờ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I và Hội đồng nhân dân các cấp diễn ra một cách tốt đẹp. Ngày 6-1-1946, gần 100% số cử tri đã đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội.

Ngày 10-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nam Định lần đầu tiên. Những lời chỉ bảo ân cần của Người đã để lại ấn tượng sâu sắc và cổ vũ Đảng bộ, nhân dân Nam Định đoàn kết, phấn đấu, khắc phục những khó khăn trở ngại, tiếp tục đi lên trong giai đoạn mới của cách mạng.

Với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và quân dân trong tỉnh, những khó khăn bước đầu đã dần được khắc phục, đời sống nhân dân ổn định, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở được củng cố, giữ vững; quân và dân Nam Định có điều kiện bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, chống thực dân Pháp xâm lược.

 + Chiến đấu giam chân địch trong thành phố, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

24h ngày 19-12-1946, cả thành phố Nam Định rền vang tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến chống xâm lược. Cuộc chiến đấu của ta nhằm kiềm chế, tiêu hao sinh lực địch trong thành phố diễn ra dài ngày và mỗi lúc một ác liệt hơn. Ta và địch đánh lấn, giành nhau từng căn nhà, góc phố từng nhà máy, xí nghiệp. Trong cuộc chiến đấu không cân sức ấy đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, không sợ hy sinh, quyết tâm giết giặc lập công.

Ngày 6-1-1947, quân dân Nam Định đánh thắng cuộc hành quân chi viện quy mô lớn của địch, chiến thắng to lớn này đã được Hồ Chủ Tịch điện khen ngợi nhân dân Nam Định

Sau 86 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân dân Nam Định đã kìm chế, giam chân một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp, giết và làm bị thương 400 tên, bắt sống sáu tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Cùng với Hà Nội, và một số thành phố, thị xã khác ở Bắc Bộ, cuộc chiến đấu của quân dân Nam Định đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, góp phần cùng cả nước có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Qua chiến đấu ác liệt, lực lượng kháng chiến tại Nam Định vẫn được bảo toàn và ngày càng trưởng thành.

+ Xây dựng làng chiến đấu, củng cố hậu phương, chống địch lấn chiếm (1947 -1949)

Ở Nam Định, thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng theo chiến thuật vết dầu loang, địch đã mở nhiều cuộc càn quét xung quanh thành phố để khủng bố nhân dân, phá cơ sở, gây tâm lý cầu an; dụ dỗ, thúc ép dân hồi cư và đẩy lực lượng ta ra ngoài. Từ tháng 4 đến tháng 6-1947, chúng đã đóng thêm một số vị trí ngoài thành .Cũng trong thời gian này, địch còn tổ chức một số trận đánh ra vùng tự do để khủng bố tinh thần nhân dân, cướp bóc lương thực, thực phẩm và để vây quét lực lượng của ta, nhưng đều bị đánh trả đích đáng

Vừa cơ động chiến đấu, các đơn vị bộ đội vừa đưa một bộ phận lực lượng về các địa phương hỗ trợ, phát triển chiến tranh du kích. Năm 1947, bộ đội chủ lực đánh 75 trận, bộ đội địa phương đánh 24 trận, dân quân, du kích đánh 40 trận.Tiêu biểu cho thành tích chiến đấu là đội du kích Mai Mỹ (Thành Mỹ) đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh biểu dương.

Nhân dân các vùng bị địch uy hiếp tổ chức triệt phá cầu, đường, đắp ụ ngăn cơ giới của địch thực hiện khẩu hiệu vườn không, nhà trống khi địch tới. Việc rào làng kháng chiến chống địch càn quét cũng được tiến hành ở nhiều địa phương.

Từ phong trào thi đua ái quốc, Đảng bộ đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc, tự cấp.. Sản lượng muối tăng tương đối nhanh, đáp ứng yêu cầu lớn của kháng chiến. Công nghiệp và thủ công nghiệp cũng được đẩy mạnh Trong khói lửa chiến tranh, phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển mạnh. Những kết quả trên đã làm cho đời sống kinh tế văn hoá, xã hội của nhân dân trong tỉnh được cải thiện từng bước trong quá trình kháng chiến kiến quốc, động viên mọi người hăng hái sản xuất và phục vụ chiến đấu.

+ Từng bước phát triển lực lượng, chống địch mở rộng chiếm đóng,giải phóng quê hương (1949 –1954).

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cùng với những thắng lợi của quân, dân Lào, Camphuchia trên chiến trường Đông Dương năm 1949 đã đẩy quân Pháp vào thế sa lầy, đế quốc Mỹ lợi dụng can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương.

Cuối tháng 4-1951, theo chủ trương của Đảng, Bộ Tổng tư lệnh mở Hội nghị tổng kết chiến dịch Hoàng Hoa Thám và quyết định mở chiến dịch Quang Trung nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá một mảng nguỵ quân nguỵ quyền, tạo điều kiện cho việc phục hồi cơ sở, phát triển chiến tranh du kích và bảo vệ tài sản, tính mạng, mùa màng của nhân dân.

Tại Nam Định, vừa đánh địch, vừa rút kinh nghiệm, khắc phục những khó khăn, yếu kém, Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Định xác định quyết tâm xốc mạnh phong trào, bắt kịp thời cơ, đặt lên hàng đầu là công tác khuếch trương thắng lợi sâu rộng trong quần chúng cùng với việc phá rã ngụy quyền của địch. Bằng sự kiên trì, vượt mọi gian khổ, hy sinh, quân dân ta đã từng bước chiến đấu giành giật với địch từng vùng đất, làm thất bại âm mưu chia rẽ lương - giáo của kẻ thù, giành lại thế chủ động..

Mặc dù lực lượng không cân sức, quân và dân trong tỉnh vẫn kiên cường chiến đấu để bảo vệ khu du kích làm cho địch tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, Như vậy trước cuộc chiến đông - xuân 1953 - 1954, quân dân Nam Định đã tạo được thế và lực mới cho cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn quyết liệt nhất.

Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, đêm ngày 25-5-1954, tại Nam Định, bộ đội chủ lực đã phối hợp với bộ đội địa phương tiêu diệt hoàn toàn vị trí Thức Khoá (Giao Thuỷ) bắt 650 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Ngày 4-6-1954, quân ta tiếp tục tiến công vị trí Đông Biên (Hải Hậu). Sau 12 giờ chiến đấu, ta đã giành thắng lợi, tiêu diệt một số tên, bắt sống 500 tên. Trong vòng nửa đầu năm 1954, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Nam Định đã đánh trên 1.600 trận (du kích đánh 800 trận), diệt và làm bị thương trên 3.000 tên, thu hàng trăm súng các loại, phá huỷ gần 100 xe cơ giới.

Trong khi Hội nghị Giơnevơ chưa kết thúc, thì trung tuần tháng 6-1954 địch đã rục rịch rút khỏi Nam Định. Và đến 9 giờ ngày 1-7-1954, thực dân Pháp đã rút toàn bộ các vị trí còn lại ở Ngô Đồng, Hành Thiện, Bùi Chu, Lạc Quần, Cổ Lễ và cuối cùng là thành phố Nam Định.

Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền còn non trẻ và kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng đã giành thắng lợi vẻ vang. Với nhũng thành công đã đạt được, những kinh nghiệm và cả thử thách tôi luyện trong chiến tranh cách mạng, Đảng bộ và quân, dân Nam Định càng thêm vững tin cùng cả nước bước vào một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.

4.2. Những đóng góp nổi bật của quân, dân Nam Định trong kháng chiến chống  Mỹ (1965-1975).

 - Đảng bộ lãnh đạo nhân dân chuyển hướng chiến lược từ thời bình sang thời chiến.

 - Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968).

 - Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1972-1975).

 - Kết quả của phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” và xây dựng hậu phương vững mạnh.

 - Những đóng góp cụ thể về sức người, sức của của quân dân Nam Định (số người tham gia lực lượng vũ trang, số liệt sĩ, thương binh, các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, bà mẹ Việt Nam anh hùng; tổng số lương thực, thực phẩm đóng góp cho các chiến trường…).

 - Những phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước trao tặng cho Đảng bộ, quân, dân Nam Định.

Gợi ý: Góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho tiền tuyến lớn (1965-1975).

Thất bại trong chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ phải trực tiếp đưa quân vào miền Nam thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ, đồng thời leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc

Thực hiện Quyết định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 21-4-1965 và Nghị quyết số 111-NQ/TW về việc hợp nhất hai tỉnh Nam Định và Hà Nam; ngày 4-6-1965, Ban chấp hành Đảng bộ hai tỉnh họp liên tịch. Hội nghị xác định nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng bộ lúc này là đoàn kết toàn quân, toàn dân Nam Hà thực hiện thắng lợi nghị quyết của Trung ương Đảng trong thời kỳ mới.

Quân dân Nam Hà phối hợp với trung đoàn 250 pháo cao xạ, đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ người, tài sản, huyết mạch giao thông chi viện cho tiền tuyến đồng thời duy trì, giữ vững sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự, bắn rơi 42 máy bay Mỹ. Đơn vị tự vệ thành phố và trung đoàn 250 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất. Nhà máy Liên hợp Dệt và Chi cục xăng dầu được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Ngày 10-7-1965, quân và dân Nam Hà long trọng mít tinh đón nhận cờ thưởng luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Qua gần bốn năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, tính đến ngày 8-11-1968, các lực lượng vũ trang Nam Hà đã bắn rơi 86 máy bay phản lực Mỹ, góp phần bắn chìm một tàu biệt kích, bắn cháy một tàu chiến và một tàu biệt kích khác, bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển quê hương.

Ngày 1-11-1968, Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, chấp nhận ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pari.

Từ năm 1969, quân và dân Nam Định đã tranh thủ thời gian hoà bình, từng bước khắc phục khó khăn, gian khổ, khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom mìn, bảo đảm an toàn cho các tuyến giao thông vận tải, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất.

Ngày 16-4-1972, Mỹ lại cho một lực lượng lớn máy bay, có cả B52, ồ ạt đánh phá Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ kéo dài 188 ngày đêm, không quân Mỹ đã đánh phá 633 trận vào 893 mục tiêu khác nhau, số máy bay tham gia đánh phá thành phố Nam Định lên tới 1.345 lượt chiếc.

Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai này, lực lượng vũ trang trong tỉnh bắn rơi 28 máy bay, hai tàu chiến. Riêng lực lượng vũ trang địa phương lập công lớn, hiệu suất chiến đấu cao gấp hai lần trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.

Chiến tranh ác liệt nhưng sự nghiệp y tế, giáo dục và văn hoá phục vụ đời sống nhân dân vẫn được duy trì và củng cố.Các phong trào Tiếng hát át tiếng bom, Dạy tốt học tốt,được phát động khắp nơi và ngày càng sôi nổi.

Bị thất bại nặng nề, đầu năm 1973 đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam, quân đội Mỹ và đồng minh của Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Nhưng ở miền Nam, chúng vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, tiếp tục chia cắt lâu dài đất nước ta.

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, quân và dân Nam Hà đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đoàn kết thống nhất ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, sản xuất và chiến đấu giỏi góp phần bảo vệ vững chắc quê hương và miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong niềm vui chung của cả nước, quân dân Nam Hà rất phán khởi tự hào vì đã tích cực góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc.

4.3. Thành tựu trong đổi mới và hội nhập của Đảng bộ, quân, dân Nam Định:

- Đặc điểm, tình hình nổi bật của tỉnh Nam Định khi bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập.

- Thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực: Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng (giao thông, điện lực, bưu chính viễn thông, y tế, trường học), thu ngân sách, sự nghiệp giáo dục - đào tạo, xây dựng đời sống văn hoá…

 Gợi ý: Bước đầu thực hiện đường lối đổi mới (1986-1991)

Bước vào công cuộc đổi mới, tình hình chung ở tỉnh có nhiều khó khăn, phức tạp. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, mục tiêu chủ yếu trong kế hoạch 5 năm 1986 – 1990 của tỉnh được xác định từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó phát triển sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hàng hoá xuất khẩu.

Nhờ phát triển kinh tế nông nghiệp một cách đồng đều nên địa phương không những giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực đủ ăn mà nhiều hộ nông dân đã có lương thực dự trữ. Đời sống nhân dân bước đầu được ổn định. Nhiều gia đình ở các huyện Nghĩa Hưng, Xuân Thuỷ đã nhận đấu thầu các vùng khai thác tôm, nuôi cua biển, trồng rau câu xuất khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong quá trình chuyển đổi cơ chế bao cấp sang hạch toán kinh doanh có nhiều khó khăn bỡ ngỡ, nhưng đã có sự chuyển biến mới. Một số mặt hàng mới như đay xe, tôm và thịt đông lạnh xuất khẩu, may mặc, điện tử … chiếm lĩnh thị trường, từng bước làm thay đổi mặt hàng công nghiệp quốc doanh địa phương. Trong 5 năm 1986-1990, giá trị công nghiệp địa phương tăng bình quân 1,4% năm. Riêng năm 1990 tăng 7,2% so với năm 1985.

Nhìn chung, thời kỳ này công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chưa tạo được hướng đi cụ thể và có phần sa sút nghiêm trọng, sản xuất chủ yếu là gia công.

Thương nghiệp tư nhân dần phát triển, chiếm lĩnh phần lớn khâu bán lẻ, một phần bán buôn.

Hoạt động tài chính, ngân hàng bước đầu đã chuyển theo cơ chế mới, cố gắng tạo thêm nguồn thu cho ngân sách và huy động các nguồn vốn, nhất là vốn tiết kiệm trong dân cư. Đầu tư xây dựng cơ bản được điều chỉnh theo hướng chú trọng những công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng các trạm bơm và đầu tư thiết bị cho hệ thống các trạm bơm lớn. Hệ thống thuỷ nông từng bước được hoàn thiện, mạng lưới điện được mở rộng, xây dựng mới các xí nghiệp tôm, thịt đông lạnh; xe đay, may mặc… đồng thời bước đầu dầu tư củng cố xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông. Ngành thông tin bưu điện với phương châm “trung ương và địa phương cùng làm” đã tranh thủ được sự hỗ trợ của Tổng cục Bưu điện, thay thế và trang bị mới các thiết bị hiện đại, nâng cao chất lượng thông tin liên lạc.

 Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có cố gắng lớn, duy trì và phát triển các ngành học, cấp học, chú ý chất lượng giáo dục. Nam Định là một trong bốn tỉnh được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và là đơn vị tiên tiến xuất sắc của ngành giáo dục toàn quốc.

Về y tế, đã triển khai các chương trình chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, dịch vụ y tế phát triển, cải thiện một bước điều kiện khám, chữa bệnh cho nhân dân.

Hai năm 1991-1992, thực hiện Chỉ thị 11 của Ban Bí thư trung ương Đảng (khoá VI) và Nghị định 46 của Chính phủ, bộ máy hành chính sự nghiệp trong tỉnh được sắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ, giảm trung gian.

Những thành tựu bước đầu thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại sự khởi sắc mới trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư có sự chuyển biến theo hướng tập trung vào ba chương trình kinh tế, đã thu được kết quả. Đây là những tiền đề hết sức quan trọng tạo đà cho nhân dân trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội trong giai đoạn 1992-1996.

Phát huy thắng lợi bước đầu, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội (1992-1996).

Theo Nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, tỉnh Hà Nam Ninh, được tách thành hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình từ ngày 1-4-1992. Nam Định nằm trong tỉnh Nam Hà.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được và quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, năm 1992, UBND Tỉnh đã ra Quyết định thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân.. Đảng bộ, chính quyền các cấp, cũng đặc biệt coi trọng chỉ đạo đưa tiến bộ khoa học mới các khâu trọng yếu nhằm tạo ra năng suất cao. Do đó, sản xuất lúa của tỉnh đã từng bước tiếp cận thị trường và trở thành sản phẩm hàng hoá, không những đáp ứng nhu cầu địa phương mà còn trở thành nguồn hàng xuất khẩu.

Thời kỳ này, chăn nuôi cũng chuyển mạnh sang hướng sản xuất hàng hoá với giống ngoại và chăn nuôi kết hợp theo phương pháp truyền thống từng bước mở rộng trong dân. Nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản, nuôi tôm, cá nước ngọt và nước lợ được mở rộng. Nghề làm muối cũng được duy trì và phát triển, có năm sản lượng đạt tới 100.000 tấn.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã vượt qua khó khăn. Từ năm 1993, sản xuất đã tăng dần. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bình quân năm 1991-1995 tăng 5%, đã có 18 trong số 19 ngành công nghiệp có mức sản xuất khá, sản phẩm chủ yếu tăng trên 70%. Bước đầu, hình thành những khu vực kinh tế trọng điểm, từng bước đổi mới thiết bị công nghệ dệt may… Những kết quả trên tuy mới là bước đầu nhưng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm tiếp theo trên địa bàn tỉnh.

Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, tỉnh đã khai thác và huy động các nguồn vốn để tập trung cho xây dựng, đổi mới máy móc trang thiết bị kỹ thuật, ưu tiên đầu tư cho thuỷ lợi, các công trình công nghiệp, công trình phúc lợi xã hội. Tỉnh mở rộng mạng lưới điện 110 và 220KV. Hệ thống bưu chính, viễn thông, mạng lưới điện thoại phát triển rộng khắp.

Công tác xuất khẩu có đà phát triển mới, giá trị xuất khẩu tăng từ ba đến sáu lần. Lĩnh vực quản lý tài chính, ngân hàng từng bước được đổi mới. Thương nghiệp quốc doanh từng bước được tổ chức sắp xếp lại, vẫn giữ vai trò chi phối thị trường với các mặt hàng thiết yếu. Các hình thức thương nghiệp tư nhân phát triển mạnh.

Nền kinh tế nhiều thành phần hình thành và phát triển ở địa phương. Trên cơ sở nền kinh tế địa phương có mức tăng trưởng khá, đời sống của nhân dân ổn định và nhiều mặt được cải thiện. Các chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với người có công với cách mạng được thực hiện tốt. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, giữ vững và phát huy được truyền thống hiếu học, dạy tốt, học tốt.

Các chương trình chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, thanh toán các bệnh phong, lao, mắt hột được thực hiện, đã sản xuất một số lượng lớn thuốc phòng, chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh. Các hoạt động văn hoá, thể thao, văn học, nghệ thuật, báo chí, phát thanh truyền hình đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Công tác quốc phòng, an ninh được các cấp uỷ đảng, chính quyền chú trọng, thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng cho các cấp, các ngành và toàn dân.

Bốn năm tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng, tuy thuận lợi là cơ bản nhưng cũng bộc lộ nhiều khó khăn yếu kém. Tuy nhiên, nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đang có bước chuyển động. Những thành tựu đạt được trong bốn năm (1992-1996) đã tạo ra thế và lực để quân dân toàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX.

Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1997-2000).

Theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, Nam Hà tách thành hai tỉnh Nam Định và Hà Nam. Sau 32 năm phát triển với tư cách là một bộ phận trong cơ cấu tỉnh hợp nhất, ngày 1-1-1997, Nam Định được tái lập là một sự kiện quan trọng trong tiến trình phát triển của tỉnh.

Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp trở thành một nhiệm vụ cấp bách nhằm đảm bảo yêu cầu HTX là chủ thể kinh tế ở nông thôn, hộ xã viên tự chủ trong sản xuất; đồng thời tách chức năng sản xuất - kinh doanh với quản lý nhà nước ở nông thôn, giữa HTX nông nghiệp và Uỷ ban nhân dân xã.

Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tỉnh xác định mục tiêu trọng điểm để đầu tư đẩy mạnh hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng cường đầu tư cho thuỷ lợi, thực hiện kiên cố hoá kênh mương …nhằm thúc đẩy sản xuất một cách cơ bản, vững chắc hơn. Với những nỗ lực từ năm 1997 đến năm 200, sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã vươn lên giành kết quả toàn diện. Sản xuất lương thực luôn đạt những đỉnh cao mới về năng suất và tổng sản lượng, năm sau lại phá kỷ lục của năm trước. Nam Định trở thành một trong những tỉnh có năng suất lúa vụ chiêm xuân đứng đầu cả nước. Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp từng bước được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng giá trị sản phẩm. Cùng với sản xuất lương thực, chăn nuôi tiếp tục phát triển tạo ra sản phẩm hàng hoá và chăn nuôi gia cầm có qui mô lớn theo mô hình VAC. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân trên 1 ha canh tác đạt khoảng 28 triệu đồng. đời sống nông dân có bước cải thiện rõ. Đây là một trong những thành tựu kinh tế nổi bật của Nam Định từ sau khi tái lập tỉnh.

 Tỉnh có đề án phát triển kinh tế vùng biển toàn diện trên các lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt xa bờ, chế biến hải sản, phát triển du lịch, dịch vụ biển…Tuy mới là những kết quả ban đầu, nhưng trên thực tế, kinh tế biển đã được khẳng định và đang mở ra một hướng mới về phát triển kinh tế của Nam Định trong những năm tới.

Cơ sở hạ tầng ở hai khu nghỉ mát Hải Thịnh và Quất Lâm được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện thu hút được khách trong và ngoài tỉnh. Đây là một trong những tiền đề quan trọng cho ngành du lịch của Nam Định phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI.

Sau khi tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, từ năm 1999, tỉnh chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch. Nam Định là tỉnh có tốc độ cổ phần hóa nhanh. Nhiều doanh nghiệp đã khắc phục được khó khăn ,do đó, giá trị sán xuất công nghiệp trên địa bàn ngày một tăng. Công nghiệp dệt may với sự hỗ trợ của trung ương và cố gắng của địa phương đã dần được ổn định và có bước phát triển. Trong lĩnh vực công nghiệp, doanh nghiệp tư nhân phát triển năng động và tăng nhanh giá trị tổng sản lượng.

Từ năm 1997, tỉnh đã tập trung xây dựng đề án qui hoạch, sắp xếp lại khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, đồng thời khuyến khích tạo điều kiện cho làng nghề phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất - kinh doanh và đời sống nhân dân ở các làng nghề, phố nghề được cải thiện rõ nét, tiêu biểu là làng La Xuyên, Tống Xá (huyện Ý Yên); Xuân Tiến, Xuân Bắc (huyện Xuân Trường); Nam Giang, Hồng Quang (huyện Nam Trực); Trực Chính, Trực Đông (huyện Trực Ninh) và thành phố Nam Định.

  Kết hợp phát huy nội lực với mở rộng liên kết tạo nguồn cho đầu tư phát triển, vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh te - xã hội đạt khá, chiếm khoảng 35% tổng nguồn vốn đầu tư. Các công trình đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, cây xanh, công viên, nhà ở, các công trình văn hoá, lịch sử của thành phố được xây dựng và hoàn thành như tượng đài Trần Hưng Đạo, Nhà văn hoá 3-2, tu sửa đền Trần, công viên Tức Mặc, Cột Cờ… Hệ thống giao thông đường bộ bao gồm cả quốc lộ trên địa bàn tỉnh và tỉnh lộ, các trục giao thông nông thôn đều được nâng cấp cải tạo, xây dựng. Năm 2000, tỉnh hoàn thành xây dựng cầu Lạc Quần phục vụ tốt cho phát triển kinh tế - xã hội. Cầu cáp treo qua sông Đào cũng hoàn thành, dự án xây dựng quốc lộ 10 qua tỉnh, cầu Tân Đệ đã được xây dựng kiên cố và hiện đại. Với những thành tích nổi bật về giao thông, Nam Định được Chính phủ tặng cờ luân lưu toàn quốc về giao thông nông thôn. Thành phố Nam Định có đề án mở rộng quy hoạch và được Chính phủ quyết định nâng cấp thành đô thị loại II.

Sự phát triển của mạng lưới bưu chính, viễn thông đã tạo sự năng động trong sản xuất kinh doanh và giao lưu xã hội cả trong nước và quốc tế, đồng thời cũng là tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thế kỷ XXI.

Hệ thống ngân hàng, kho bạc đi vào đổi mới phương thức hoạt động tạo được nguồn vốn đảm bảo phục vụ doanh nghiệp cà cho nhân dân vay để phát triển sản xuất. Tổng giá trị mức lưu chuyển hàng hoá trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 3.400 tỷ đồng trong năm 2000.

Lĩnh vực xuất khẩu đang mở rộng.  Hoạt động du lịch đã xây dựng đề án phát triển và mở tuyến lữ hành du lịch đền Trần, Phủ Dầy, Hải Thịnh, Quất Lâm thu hút được nhiều khách tham quan từ nhiều miền trong nước.

Sự nghiệp giáo dục – đào tạo bám sát nhu cầu thực tiễn xã hội, phát triển cả về quy mô và chất lượng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ dạy và học được cải tạo nâng cấp, không còn tình trạng học ca ba. Nhiều năm liền là tỉnh dẫn đầu cả nước về phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo.

Sự nghiệp y tế của tỉnh trong bốn năm qua có tiến bộ. Hầu hết các bệnh viện, trung tâm y tế cấp được cải tạo, xây dựng mới, trang thiết bị y tế khá đầy đủ, có thêm thiết bị hiện đại .Đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn. Các hoạt động văn hoá – văn nghệ, thông tin báo chí được duy trì, phát triển. Toàn tỉnh có trên 100 làng và 70 cơ quan, đơn vị được công nhận là làng văn hoá. Huyện Hải Hậu được công nhận 20 năm liên tục là điển hình văn hoá cả nước. Hệ thống truyền thanh phủ kín 100% số xã, có 85% số hộ dân trong tỉnh được xem truyền hình. Phong trào thể dục, thể thao phát triển rộng. Chất lượng tổ chức cơ sở đảng được nâng cao, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Bước sang thế kỷ XXI, cùng với cả nước, Nam Định đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu. nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong hành trang đi tới tương lai, lịch sử đấu tranh gìn giữ và xây dựng quê hương là một trong những di sản vô giá mà người dân Nam Định luôn trân trọng và phát huy.

Câu 5: Thành phố Nam Định được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam đồng bằng sông Hồng năm nào? tiềm năng và điều kiện để Thành phố Nam Định phát triển?

5.1. Thành phố Nam Định được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam đồng bằng sông Hồng:

 - Cơ sở để Đảng ra Quyết định “Xây dựng thành phố Nam Định thành trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng” :  Ngày 3-9-1957 sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Thời kỳ 1965-1975 là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà; 1975-1991, là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam Ninh; 1991-1996, trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Từ 6-11-1996, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định.  Trong quá trình thay đổi địa dư hành chính, thành phố Nam Định luôn luôn trở thành trung tâm chính trị - kinh tế văn hoá của các tỉnh hợp nhất và tỉnh Nam Định từ 1996 đến nay.

Thành phố Nam Định hiện nay là trung tâm của phủ Thiên Trường xưa vốn là một thành phố có truyền thống văn hiến.

 - Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam đồng bằng sông Hồng” từ năm nào? Nội dung cơ bản của Đề án.

Gợi ý: Thành phố Nam Định đã được thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận là đô thị loại I ngày 28/11/2011. Trước đó, ngày 22/11/2011 thành phố Nam Định cũng đã được thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng thành phố Nam Định thành trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và xã hội của tỉnh Nam Định và của vùng Nam đồng bằng sông Hồng; đây cũng là một thành phố của vùng duyên hải Bắc Bộ.

Phát huy tiềm năng và chất lượng lao động sẽ trở thành nguồn lực quan trọng của tỉnh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

5.2. Tiềm năng và điều kiện để Thành phố Nam Định phát triển:

 - Vị thế của thành phố Nam Định đối với tỉnh và khu vực Nam đồng bằng sông Hồng.

 - Tiềm năng về nguồn lực, kinh tế, văn hoá, xã hội để Thành phố phát triển.

- Điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở chính trị hiện nay để thành phố phát triển thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam đồng bằng sông Hồng.

Gợi ý: Thị trường tiêu thụ của Nam Định rộng lớn với các mặt hàng thế mạnh như: nông - thuỷ sản, hàng dệt may, sản phẩm công nghiệp chế biến, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng và các làng nghề truyền thống. Mạng lưới giao thông - vận tải tỉnh Nam Định khá thuận tiện cho việc giao lưu, thông thương với các tỉnh bạn và quốc tế. Trong đó, đường sắt xuyên Việt đi qua 5 ga của tỉnh với chiều dài 42 km; trục quốc lộ 21 và quốc lộ 10 qua tỉnh dài 108 km đang tiếp tục được đầu tư nâng cấp thành đường chiến lược ven biển của vùng đồng bằng Bắc Bộ, hệ thống đường liên tỉnh, liên huyện, liên xã, liên thôn xóm đã được nâng cấp, rải nhựa hoặc bê tông hoá, tạo điều kiện thuận tiện cho vận tải hàng hóa và đi lại của nhân dân. Đặc biệt, với 72 km bờ biển, cùng các cửa sông lớn như: cửa Bà Lạt, cửa Hà Lan, cửa Ninh Cơ, cửa Đáy thông ra biển và các dòng sông lớn, sông nhỏ, kênh rạch được phân bố đều trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện cung cấp nước tưới tiêu và vận tải dễ dàng. Ngoài ra, tỉnh Nam Định còn có nhiều cảng sông và cảng biển Thịnh Long mới xây dựng thuận tiện cho phát triển vận tải thủy.

Bên cạnh đó, Nam Định là một trong những tỉnh khu vực phía Bắc có tiềm năng rất lớn về nguồn lợi thuỷ sản ở cả ba vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Hiện nay, tỉnh Nam Định có 22 nghìn ha rừng ngập mặt và 13,5 nghìn ha đồng trũng nội đồng có thể nuôi trồng thuỷ sản. Trong đó, diện tích mặt nước được sử dụng để nuôi trồng thủy sản là 13,5 nghìn ha. Nam Định là quê hương của triều Trần, lẫy lừng hào khí Đông A "Non sông muôn thuở vững âu vàng". Nơi đây, ngoài tiềm năng kinh tế - xã hội với những sắc thái, truyền thống riêng, một địa bàn trọng yếu, có vị thế hết sức đặc biệt trong tiến trình lịch sử Việt Nam, còn là mảnh đất có tiềm năng lớn về du lịch. Nam Định có nhiều di tích lịch sử và văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng như: đền Bảo Lộc (thờ 14 vị vua Trần), nhà tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh, quần thể di tích văn hoá Phủ Dầy thờ bà chúa Liễu Hạnh, chùa Keo Hành Thiện, chùa Cổ Lễ - quần thể kiến trúc độc đáo thời Lý. Đặc biệt, Nam Định có vùng đất bồi Cồn Lu - Cồn Ngạn (Giao Thuỷ) là "sân ga" cho nhiều loài chim quý hiếm từ phương Bắc đến cư trú vào mùa đông. Vùng đất này được Nhà nước đầu tư quy hoạch thành lập Vườn quốc gia Xuân Thuỷ. Nam Định có hai bãi biển Quất Lâm và Thịnh Long đang được đầu tư nâng cấp hạ tầng cơ sở để đón du khách trong và ngoài nước.

 Câu 6: Cảm nghĩ của bạn về truyền thống lịch sử - văn hoá của Nam Định và việc phát huy các giá trị đó để góp phần xây dựng tỉnh Nam Định giầu đẹp, văn minh?

6.1. Đúc rút những giá trị truyền thống lịch sử-văn hoá của tỉnh.

6.2. Những giá trị  truyền thống tốt đẹp được phát huy mạnh mẽ, nhân lên sức mạnh nội lực góp phần xây dựng tỉnh Nam Định giầu đẹp, văn minh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: