Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Thiên thần và ác quỷ chap6-

 Trên một đường phố ở châu Âu, tên giết người đang luồn lách giữa dòng người đông đúc. Hắn là kẻ đầy uy lực. Da ngăm ngăm và mạnh mẽ. Vẻ nhanh nhẹn giảo hoạt. Các cơ trong người hắn vẫn căng lên sau cuộc gặp mặt ly kỳ đó.

    "Mọi việc đều tối đẹp" hắn tự nhủ. Mặc dù kẻ thuê hắn không bao giờ để lộ mặt nhưng tên sát nhân vẫn cảm thấy hãnh diện khi được gặp người đó. Có phải ông chủ liên lạc với hắn lần đầu cách đây chỉ mới 15 ngày? Tên giết người vẫn còn nhớ như in lừng lời trong cuộc điện thoại đó...

    - Tên ta là Janus. - Người gọi điện nói - Chúng ta là những huynh đệ cùng chung một kẻ thù. Ta nghe nói ngươi rất được việc.

    - Cái đó còn phụ thuộc vào việc ông đại diện cho ai, - kẻ giết người đáp.

    Người gọi điện nói cho hắn biết.

    - Ông có đùa không đấy?

    - Ta biết ngươi đã nghe nói đến tên của chúng ta, - người gọi điện đáp.

    - Đương nhiên. Hội kín này chỉ còn là truyền thuyết.

   - Và ngươi vẫn còn nghi ngờ.

    - Ai mà chẳng biết hội kín đó đã tiêu tan thành cát bụi.

    - Đó chỉ là một âm mưu để đánh lừa kẻ địch thôi. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là kẻ mà không ai ngờ đến.

    Tên sát nhân vẫn còn ngờ vực:

    - Hội kín đó vẫn còn tồn tại?

    - Bí mật hơn bao giờ hết. Bọn ta có chân rết khắp nơi, mọi thứ như ngươi thấy... thậm chí cả ở trong pháo đài thiêng liêng nhất của kẻ thù muôn đời của hội.

    - Không thể nào. Nơi đó là bất khả xâm phạm.

    - Tầm với của chúng ta rất xa.

    - Không ai có thể với xa như vậy.

    - Ngươi sẽ tin điều này ngay thôi. Một cuộc biểu trưng quyền lực vô cùng hoành tráng của hội chúng ta sắp bắt đầu. Ngươi sẽ thấy!

    - Ông đã làm gì?

    Kẻ gọi điện nói cho hắn biết. Tên giết người mở to mắt:

    - Điệp vụ đó là bất khả thi.

    Ngày hôm sau, báo chí trên toàn thế giới đều đưa chung một cái tin. Tên giết người hoàn toàn tâm phục khẩu phục.

    Bây giờ, sau 15 ngày, niềm tin của tên sát thủ đã được củng cố, bóng đêm ngờ vực đã tan biến hẳn. Hội kín vẫn còn tồn tại, hắn nghĩ. Đêm nay họ sẽ sống dậy và thực thi quyền lực.

    Rảo bước trên phố, đôi mắt hắn ánh lên đầy hiểm ác. Một trong những hội kín đáng sợ nhất trên đời này đã vời đến hắn.

    Họ đã lựa chọn một cách khôn ngoan, hắn nghĩ. Danh tiếng về tài giết người và sự kín mồm kín miệng của hắn đã vang xa.

    Cho đến tận bây giờ, hắn vẫn luôn nhiệt tình phục vụ họ. Hắn đã giết người và chuyển cho Janus thứ ông ta yêu cầu. Bây giờ Janus muốn đặt vật đó ở đâu là tuỳ ông ta.

    Nơi đặt vật đó...

    Tên sát nhân băn khoăn không hiểu làm thế nào Janus có thể giải quyết một việc khó khăn đến vậy. Người này rõ ràng có nội gián. Quyền lực của hội kín dường như vô tận.

    Janus, kẻ giết người nghĩ. Rõ ràng đây là một bí danh. Hắn băn khoăn, liệu nó có ngụ ý chỉ vị thần hai mặt của người La Mã... hay để chỉ mặt trăng của thần Satuya không? Không khác nhau là mấy. Janus đang sở hữu quyền lực vô biên. Ông ta đã minh chứng điều này một cách hết sức thuyết phục.

    Chân tiếp tục sải bước, tên sát thủ hình dung tổ tiên đang mỉm cười với hắn. Đêm nay, hắn sẽ chiến đấu cho cuộc chiến của họ, cho kẻ thù chung mà họ đã chiến đấu từ bao lâu nay, từ thế kỷ XI… khi những đội quân thập tự chinh lần đầu tiên hành quân đến vùng đất quê hương hắn, bắn giết và cưỡng bức dân lành, viện cớ rằng họ không thanh sạch, rồi làm ô uế các đền thờ và các vị thần của họ. Tổ tiên của hắn từng tạo ra một đội quân nhỏ nhưng tinh nhuệ để tự bảo vệ mình. Đội quân này trở nên nổi tiếng khắp nơi với vai trò người bảo vệ - những tay đao phủ thiện nghệ lang thang khắp các vùng và tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào họ bắt gặp.

    Những người này nổi tiếng không chỉ bởi kiểu giết người man rợ mà còn bởi những trận say ma tuý mà họ tự thưởng cho mình sau mỗi lần giết chóc. Thứ thuốc mà họ thường dùng là một loại chất gây nghiện có tên gọi hashish. Từ khi trở nên nổi tiếng khắp nơi, những sát thủ chuyên nghiệp này được gọi bằng một cái tên chung - Hassasin - nghĩa là "những tông đồ của hashish". - Cái tên Hassasin đồng nghĩa với sự chết chóc trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ngày nay, từ này vẫn được sứ dụng, kể cả trong tiếng Anh hiện dại… nhưng giống như những thủ thuật giết người, từ này cũng phát triển thêm.

    Bây giờ người ta dùng thuật ngữ assasin- Sát thủ.

    

   - Và ngươi vẫn còn nghi ngờ.

    - Ai mà chẳng biết hội kín đó đã tiêu tan thành cát bụi.

    - Đó chỉ là một âm mưu để đánh lừa kẻ địch thôi. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là kẻ mà không ai ngờ đến.

    Tên sát nhân vẫn còn ngờ vực:

    - Hội kín đó vẫn còn tồn tại?

    - Bí mật hơn bao giờ hết. Bọn ta có chân rết khắp nơi, mọi thứ như ngươi thấy... thậm chí cả ở trong pháo đài thiêng liêng nhất của kẻ thù muôn đời của hội.

    - Không thể nào. Nơi đó là bất khả xâm phạm.

    - Tầm với của chúng ta rất xa.

    - Không ai có thể với xa như vậy.

    - Ngươi sẽ tin điều này ngay thôi. Một cuộc biểu trưng quyền lực vô cùng hoành tráng của hội chúng ta sắp bắt đầu. Ngươi sẽ thấy!

    - Ông đã làm gì?

    Kẻ gọi điện nói cho hắn biết. Tên giết người mở to mắt:

    - Điệp vụ đó là bất khả thi.

    Ngày hôm sau, báo chí trên toàn thế giới đều đưa chung một cái tin. Tên giết người hoàn toàn tâm phục khẩu phục.

    Bây giờ, sau 15 ngày, niềm tin của tên sát thủ đã được củng cố, bóng đêm ngờ vực đã tan biến hẳn. Hội kín vẫn còn tồn tại, hắn nghĩ. Đêm nay họ sẽ sống dậy và thực thi quyền lực.

    Rảo bước trên phố, đôi mắt hắn ánh lên đầy hiểm ác. Một trong những hội kín đáng sợ nhất trên đời này đã vời đến hắn.

    Họ đã lựa chọn một cách khôn ngoan, hắn nghĩ. Danh tiếng về tài giết người và sự kín mồm kín miệng của hắn đã vang xa.

    Cho đến tận bây giờ, hắn vẫn luôn nhiệt tình phục vụ họ. Hắn đã giết người và chuyển cho Janus thứ ông ta yêu cầu. Bây giờ Janus muốn đặt vật đó ở đâu là tuỳ ông ta.

    Nơi đặt vật đó...

    Tên sát nhân băn khoăn không hiểu làm thế nào Janus có thể giải quyết một việc khó khăn đến vậy. Người này rõ ràng có nội gián. Quyền lực của hội kín dường như vô tận.

    Janus, kẻ giết người nghĩ. Rõ ràng đây là một bí danh. Hắn băn khoăn, liệu nó có ngụ ý chỉ vị thần hai mặt của người La Mã... hay để chỉ mặt trăng của thần Satuya không? Không khác nhau là mấy. Janus đang sở hữu quyền lực vô biên. Ông ta đã minh chứng điều này một cách hết sức thuyết phục.

    Chân tiếp tục sải bước, tên sát thủ hình dung tổ tiên đang mỉm cười với hắn. Đêm nay, hắn sẽ chiến đấu cho cuộc chiến của họ, cho kẻ thù chung mà họ đã chiến đấu từ bao lâu nay, từ thế kỷ XI… khi những đội quân thập tự chinh lần đầu tiên hành quân đến vùng đất quê hương hắn, bắn giết và cưỡng bức dân lành, viện cớ rằng họ không thanh sạch, rồi làm ô uế các đền thờ và các vị thần của họ. Tổ tiên của hắn từng tạo ra một đội quân nhỏ nhưng tinh nhuệ để tự bảo vệ mình. Đội quân này trở nên nổi tiếng khắp nơi với vai trò người bảo vệ - những tay đao phủ thiện nghệ lang thang khắp các vùng và tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào họ bắt gặp.

    Những người này nổi tiếng không chỉ bởi kiểu giết người man rợ mà còn bởi những trận say ma tuý mà họ tự thưởng cho mình sau mỗi lần giết chóc. Thứ thuốc mà họ thường dùng là một loại chất gây nghiện có tên gọi hashish. Từ khi trở nên nổi tiếng khắp nơi, những sát thủ chuyên nghiệp này được gọi bằng một cái tên chung - Hassasin - nghĩa là "những tông đồ của hashish". - Cái tên Hassasin đồng nghĩa với sự chết chóc trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ngày nay, từ này vẫn được sứ dụng, kể cả trong tiếng Anh hiện dại… nhưng giống như những thủ thuật giết người, từ này cũng phát triển thêm.

    Bây giờ người ta dùng thuật ngữ assasin- Sát thủ.

    

   - Và ngươi vẫn còn nghi ngờ.

    - Ai mà chẳng biết hội kín đó đã tiêu tan thành cát bụi.

    - Đó chỉ là một âm mưu để đánh lừa kẻ địch thôi. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là kẻ mà không ai ngờ đến.

    Tên sát nhân vẫn còn ngờ vực:

    - Hội kín đó vẫn còn tồn tại?

    - Bí mật hơn bao giờ hết. Bọn ta có chân rết khắp nơi, mọi thứ như ngươi thấy... thậm chí cả ở trong pháo đài thiêng liêng nhất của kẻ thù muôn đời của hội.

    - Không thể nào. Nơi đó là bất khả xâm phạm.

    - Tầm với của chúng ta rất xa.

    - Không ai có thể với xa như vậy.

    - Ngươi sẽ tin điều này ngay thôi. Một cuộc biểu trưng quyền lực vô cùng hoành tráng của hội chúng ta sắp bắt đầu. Ngươi sẽ thấy!

    - Ông đã làm gì?

    Kẻ gọi điện nói cho hắn biết. Tên giết người mở to mắt:

    - Điệp vụ đó là bất khả thi.

    Ngày hôm sau, báo chí trên toàn thế giới đều đưa chung một cái tin. Tên giết người hoàn toàn tâm phục khẩu phục.

    Bây giờ, sau 15 ngày, niềm tin của tên sát thủ đã được củng cố, bóng đêm ngờ vực đã tan biến hẳn. Hội kín vẫn còn tồn tại, hắn nghĩ. Đêm nay họ sẽ sống dậy và thực thi quyền lực.

    Rảo bước trên phố, đôi mắt hắn ánh lên đầy hiểm ác. Một trong những hội kín đáng sợ nhất trên đời này đã vời đến hắn.

    Họ đã lựa chọn một cách khôn ngoan, hắn nghĩ. Danh tiếng về tài giết người và sự kín mồm kín miệng của hắn đã vang xa.

    Cho đến tận bây giờ, hắn vẫn luôn nhiệt tình phục vụ họ. Hắn đã giết người và chuyển cho Janus thứ ông ta yêu cầu. Bây giờ Janus muốn đặt vật đó ở đâu là tuỳ ông ta.

    Nơi đặt vật đó...

    Tên sát nhân băn khoăn không hiểu làm thế nào Janus có thể giải quyết một việc khó khăn đến vậy. Người này rõ ràng có nội gián. Quyền lực của hội kín dường như vô tận.

    Janus, kẻ giết người nghĩ. Rõ ràng đây là một bí danh. Hắn băn khoăn, liệu nó có ngụ ý chỉ vị thần hai mặt của người La Mã... hay để chỉ mặt trăng của thần Satuya không? Không khác nhau là mấy. Janus đang sở hữu quyền lực vô biên. Ông ta đã minh chứng điều này một cách hết sức thuyết phục.

    Chân tiếp tục sải bước, tên sát thủ hình dung tổ tiên đang mỉm cười với hắn. Đêm nay, hắn sẽ chiến đấu cho cuộc chiến của họ, cho kẻ thù chung mà họ đã chiến đấu từ bao lâu nay, từ thế kỷ XI… khi những đội quân thập tự chinh lần đầu tiên hành quân đến vùng đất quê hương hắn, bắn giết và cưỡng bức dân lành, viện cớ rằng họ không thanh sạch, rồi làm ô uế các đền thờ và các vị thần của họ. Tổ tiên của hắn từng tạo ra một đội quân nhỏ nhưng tinh nhuệ để tự bảo vệ mình. Đội quân này trở nên nổi tiếng khắp nơi với vai trò người bảo vệ - những tay đao phủ thiện nghệ lang thang khắp các vùng và tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào họ bắt gặp.

    Những người này nổi tiếng không chỉ bởi kiểu giết người man rợ mà còn bởi những trận say ma tuý mà họ tự thưởng cho mình sau mỗi lần giết chóc. Thứ thuốc mà họ thường dùng là một loại chất gây nghiện có tên gọi hashish. Từ khi trở nên nổi tiếng khắp nơi, những sát thủ chuyên nghiệp này được gọi bằng một cái tên chung - Hassasin - nghĩa là "những tông đồ của hashish". - Cái tên Hassasin đồng nghĩa với sự chết chóc trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ngày nay, từ này vẫn được sứ dụng, kể cả trong tiếng Anh hiện dại… nhưng giống như những thủ thuật giết người, từ này cũng phát triển thêm.

    Bây giờ người ta dùng thuật ngữ assasin- Sát thủ.

        64 phút đã trôi qua kể từ khi Robert Langdon, với vẻ hoài nghi và say máy bay, bước từ cầu thang máy bay xuống dải đường băng ngập tràn ánh nắng mặt trời. Làn gió khô lạnh thổi qua, khiến chiếc áo jacket vải tuyt của anh bay lật phật. Khoảng không gian mở thật tuyệt vời. Anh dưa mắt quan sát khắp thung lũng xanh tươi với những đỉnh núi phủ đầy tuyết bao quanh.

    Ta đang mơ, anh tự nhủ. Từ bây giờ ta sẽ phải tỉnh táo.

    - Xin chào mừng ông đến với Thuỵ Sĩ. - Viên phi công nói, cố át tiếng gầm rú của động cơ HEDM từ chiếc X-33 đang nhả khói ngay sau lưng họ.

    Langdon kiểm tra đồng hồ. 7 giờ 07 phút sáng.

    - Ông vừa bay qua sáu múi giờ, - viên phi công nói - Bây giờ ở đây là hơn 1 giờ chiều rồi.

    Langdon đặt lại đồng hồ.

    - Ông thấy thế nào?

    Anh lấy tay xoa bụng"

    - Như thể tôi vừa ăn món bọt biển.

    Viên phi công gật đầu"

    - Say độ cao thôi. Chúng ta bay cách mặt đất hơn 18.000 mét. Ở trên đó, trọng lượng của ông nhẹ đi 30%. May mắn thay chúng ta mới chỉ thực hiện bước nhảy nhỏ. Nếu đi Tokyo, tôi phải nhảy xa nhiều hơn nữa - những 160km. Bấy giờ thì lục phủ ngũ tạng của ông sẽ lộn tùng phèo hết.

    Langdon uể oải gật đầu, anh tự thấy mình vẫn còn may mắn. Như đã nói, chuyến bay rất suôn sẻ. Ngoại trừ cú xóc lúc tăng tốc cất cánh chuyền động của chiếc máy bay này giống hệt các máy bay bình thường khác - thỉnh thoảng rơi vào vùng xoáy, vài lần thay đổi áp suất do thay đổi độ cao, nhưng không hề có cảm giác bị va mạnh trong không gian khi máy bay chuyển động với vận tốc 17.600km/h.

    Một số kỹ thuật viên đang chạy hối hả trên đường băng và tiến lại gần chiếc X-33. Viên phi công hộ tống Langdon đến chiếc Peugeot mui kín màu đen đang đỗ trong bãi đỗ xe bên cạnh tháp điều khiển. Một lát sau, họ đã lao nhanh trên con đường trải rộng tới chân thung lũng. Một khu nhà thấp thoáng nhô lên ở phía xa. Bên ngoài, những đồng cỏ lúc ẩn lúc hiện, rẽ sang hai bên.

    Langdon sửng sốt khi thấy viên phi công chạy xe với tốc độ 170km/h - trên 100 dặm một giờ. Gã này làm sao thế nhỉ? Anh băn khoăn.

    - Năm cây số nữa sẽ đến phòng thí nghiệm, - viên phi công nói - Hai phút nữa chúng ta sẽ có mặt ở đó.

    Langdon đưa mắt tìm đai an toàn nhưng vô vọng. Sao không là 3 phút để mình còn có cơ sống sót nhỉ?

    Chiếc xe tăng tốc.

    - Ông có thích nhạc Reba không? - Viên phi công vừa hỏi vừa nhét cuốn băng cát-sét vào hộc.

    Một giọng nữ cất lên. "Đó chỉ là nỗi sợ cô đơn…"

    Không có nỗi sợ nào cả, Langdon lơ đễnh nghĩ. Một số nữ đồng nghiệp thường đùa anh rằng bộ sưu tập các hiện vật đáng trưng bày ở bảo tàng của anh chẳng qua là để lấp kín ngôi nhà trống trải, ngôi nhà mà họ khăng khăng cho rằng nó sẽ tuyệt vời hơn nếu có bàn tay chăm sóc của phụ nữ. Langdon thì thấy chuyện đó thật nực cười. Anh nhắc họ rằng anh có ba tình yêu lớn trong đời biểu tượng học, bóng nước Polo và thói quen độc thân - tình yêu cuối cùng này cho phép anh được tự do đi khắp nơi trên thế giới, ngủ nướng thêm bất cứ lúc nào anh muốn và hưởng những đêm yên tĩnh tại nhà với một chai rượu mạnh hay một cuốn sách hay.

    - Khuôn viên chỗ chúng tôi không khác gì một thành phố thu nhỏ - viên phi công lên tiếng, kéo Langdon ra khỏi trạng thái mơ màng. - Không chỉ có phòng thí nghiệm, chúng tôi còn có cả siêu thị bệnh viện và rạp chiếu bóng.

    Langdon lơ đễnh gật đầu và nhìn những loà nhà đang vụt qua trước mặt.

    - Trên thực tế. - viên phi công nói tiếp. - chúng tôi sở hữu cỗ máy lớn nhất thế giới.

    - Thật sao? - Langdon đưa mắt nhìn xung quanh.

    - Ngồi trong xe thế này thì không trông thấy được đâu! - Anh ta mỉm cười. - Nó nằm ở rất sâu, cách mặt đất những sáu tầng nhà kia.

    Langdon không còn thời gian để hỏi. Bất ngờ, viên phi công đạp phanh, chiếc xe trượt ngay vào điểm đỗ bên ngoài một chòi gác.

    Langdon đọc tấm biển trước mặt. SECURITE. ARRESTEZ(1).

    Nhận ra nơi mình đang đặt chân tới, anh chợt thấy e ngại.

    - Chúa ơi! Tôi không mang theo hộ chiếu!

  - Không cần hộ chiếu, - người lái xe trấn an. - Chúng tôi đã có thoả thuận với chính quyền Thuỵ Sĩ.

    Langdon im lặng quan sát người lái xe khi anh ta trình thẻ căn cước cho lính gác. Người lính gác dùng một thiết bị nhận dạng điện tử quét qua thẻ. Chiếc máy lập lòe ánh sáng màu xanh.

    - Tên hành khách?

    - Robert Langdon, - người lái xe đáp.

    - Khách của ai?

    - Giám đốc.

    Người lính gác phướn mày. Anh ta quay lại và kiểm tra dữ liệu từ máy tính, đối chiếu thông tin trên màn hình, rồi quay ra cửa sổ và nói:

    - Chúc vui vẻ, thưa ông Langdon.

    Chiếc xe lại lao di chừng gần 200 mét quanh lối vòng lớn dẫn đến cửa chính của trung tâm. Hiện ngay trước mắt họ là một khu nhà bằng thuỷ tinh và thép hình chữ nhật cực kỳ hiện đại. Langdon kinh ngạc quan sát toà nhà trong suốt này. Anh luôn yêu thích các kiểu kiến trúc.

    - Nhà thờ xây bằng kính. - Người hộ tống lên tiếng.

    - Một nhà thờ?

    - Ôi không. Nhà thờ là thứ chúng tôi không có. Vật lí là tín ngưỡng duy nhất ở đây. Ông có thể gọi tên Chúa mỗi khi cảm thấy tuyệt vọng, nếu ông muốn, - anh ta cười. - Nhưng đừng phỉ báng hạt quark hay meson(2).

    Langdon lặng người đi khi người lái xe lượn chiếc ô tô vòng quanh và dừng lại phía trước toà nhà kính. Hạt quark và meson? Không biên giới? Phản lực Mach 15(3)? Câu trả lời nằm ở dòng chữ khắc trên tấm biển đá granite phía trước toà nhà viết:

    CERN(4)

    Collseil Européen pour la Recherchc Nuclcaire

    "Nghiên cứu hạt nhân?" Không biết mình dịch có đúng không, Langdon cất tiếng hỏi.

    Người lái xe không trả lời. Anh ta đang cúi người về phía trước điều chỉnh chiếc máy cát-sét trong xe tô.

    - Đã đến nơi. Giám đốc sẽ gặp ông ngay ở cửa.

    Langdon trông thấy một người đàn ông đang ngồi trên xe lăn, ngay lối vào toà nhà. Ông ta trạc 60 tuổi, khuôn mặt hốc hác, đầu hói, mặc chiếc áo phòng thí nghiệm trắng toát, đôi giày đặt chắc chắn trên bệ kê chân của chiếc xe lăn. Từ rất xa đã nhận thấy đôi mắt vô hồn của con người này - hai mắt như hai viên đá xám.

    - Ông ta đấy phải không? - Langdon hỏi.

    Người lái xe ngước lên.

    - Ồ, đúng đấy. - Anh ta quay lại nhìn Langdon và nở nụ cười vẻ hăm doạ. - Nhắc đến Tào Tháo là Tào Tháo có mặt.

    Không biết chắc điều gì sắp xảy ra, nhưng Langdon vẫn bước đến bên chiếc xe lăn..

    Người đàn ông ngồi trên xe tiến về phía Langdon và chìa bàn tay ướt nhoẹt.

    - Ông Langdon phải không? Chúng ta đã nói chuyện với nhau qua điện thoại. Tên tôi là Maximilian Kohler!

 Khi không có mặt Maximilian Kohler - Tổng Giám đốc CERN, người ta còn gọi ông là Konig - Ông vua. Danh hiệu này khiến mọi người cảm thấy sợ hãi hơn là tôn kính đối với một người cai trị đầy quyền lực ngồi trên ngai vàng - chiếc xe lăn. Mặc dù ít người được tiếp xúc riêng với ông ta, nhưng câu chuyện khủng khiếp vì sao ông ta tàn tật thì ai ở CERN cũng biết, và một số ít người cằn nhằn về tính khí gay gắt của ông… chứ không phải niềm đam mê khoa học thuần tuý.

    Dù mới tiếp xúc với Kohler, Langdon nhận ra ngay, giám đốc Kohler luôn tự mình giữ khoảng cách. Anh phải đi rất nhanh mới theo kịp chiếc xe lăn chạy bằng điện của Kohler khi họ im lặng tiến đến cửa chính. Chiếc xe lăn này không giống bất cứ chiếc nào mà Langdon từng nhìn thấy - nó được trang bị nhiều thiết bị điện tử gồm hệ thống điện thoại đa đường dây, hệ thống nhắn tin, màn hình máy tính, thậm chí cả máy quay camera nhỏ có thể tháo rời. Nó thực sự là trung tâm chỉ huy di động của vua Kohler.

    Langdon bước qua cánh cửa dẫn vào sảnh chính rộng lớn của CERN.

    Nhà thờ kính, Langdon đăm chiêu, ngước mắt nhìn lên trời.

    Phía trên, mái nhà kính màu xanh nhạt lấp lánh dưới ánh mặt trời ánh lên những tia nắng, tạo ra các tia có dạng hình học trong không gian, mang lại cảm giác về một gian đại sảnh kỳ vĩ. Những vệt tối góc cạnh buông thõng tựa như những đường vân cắt ngang bức tường ốp gạch trắng, rồi phủ xuống nền nhà lát đá cẩm thạch. Không khí sạch sẽ, thoáng mùi thuốc khử trùng. Một nhóm các nhà khoa học đang vội vã đi tới đi lui, bước chân họ dội vào khoảng không.

    - Lối này, ông Langdon! - Tiếng ông ta vang lên như một chiếc máy, giọng nói cứng nhắc, khô khan y như vẻ ngoài nghiêm nghị của ông ta. Kohler húng hắng ho và lau miệng bằng chiếc khăn mùi xoa trắng, trong khi đôi mắt xám cô hồn nhìn chằm chặp vào Langdon.

    - Nào, hãy nhanh chân lên. - Chiếc xe lăn dường như muốn lao vút đi trên sàn nhà ốp đá.

    Langdon cứ bước theo ông ta, đi qua những dãy hành lang tưởng như vô tận. Mỗi dãy hành lang đều rất sống dộng. Các nhà khoa học trông thấy Kohler đều tỏ vẻ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn Langdon như muốn hỏi anh ta phải là người thế nào thì mới được ưu ái đến vậy.

    - Tôi rất xấu hổ khi phải thú nhận rằng, - Langdon đánh bạo lên tiếng, cố gắng bắt chuyện. - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến CERN cả.

    - Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, - Kohler đáp, câu trả lời gấp gáp của ông ta nghe có vẻ cay nghiệt - Đa số người Mỹ không xem châu Âu là cái nôi của những nghiên cứu khoa học. Họ chỉ coi chứng tôi là một khu vực buôn bán kỳ dị - một quan niệm kỳ quặc nếu ông nhìn lại quốc tịch của những người như Anhxtanh, Galieo hay Newton.

    Langdon không biết phải trả lời ra sao. Anh lôi tờ fax từ trong túi áo ra.

    - Người đàn ông trong tờ fax này, ông có thể…

    Kohler vẫy tay ngắt lời anh:

    - Thôi nào. Không phải ở đây. Tôi sẽ đưa ông đến chỗ ông ta ngay bây giờ. - Ông ta chìa tay ra - Có lẽ tôi nên lấy lại cái đó.

    Langdon đưa cho ông ta tờ fax và im lặng bước theo.

    Kohler đột ngột rẽ trái rồi đi vào một sảnh rộng treo đầy bằng khen và huy chương. Một tấm biển lớn chắn ngay lối vào.

    Langdon chậm rãi đọc hàng chữ được khắc bằng đồng trên đó.

    GIẢI THƯỞNG ARS ELECTRONICA

    Vì những sáng tạo văn hoá trong thời kỳ kỹ thuật số

    Trao cho Tim Berners Lee và CERN vì phát minh ra

    MẠNG THÔNG TIN TOÀN CẦU

  Ồ mình thật tệ, Langdon nghĩ thầm khi đọc những dòng chữ này. Ông ta không đùa tí nào. Anh cứ tưởng rằng người Mỹ phát minh ra Web. Và vốn kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở mấy trang web tải cuốn sách của anh hay thỉnh thoảng anh lên mạng tìm tài liệu về Bảo tàng Louvre hay El Prado bằng cái máy Macintosh cổ lỗ sĩ của mình.

    - Mạng toàn cầu, - Kohler vừa nói vừa ho và lau miệng - Ban đầu, đây là một mạng kết nối các máy tính nội bộ. Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều bộ phận khác nhau chia sẻ những phát kiến của họ hàng ngày. Đương nhiên, cả thế giới đều cho rằng Web là công nghệ của Hoa Kỳ.

    Langdon vẫn bước dọc hành lang.

    - Sao không công bố chuyện này một cách công khai?

    Kohler nhún vai, rõ rành không bận tâm.

    - Một sự hiểu nhầm vặt vãnh về một công nghệ chẳng có gì to tát. CERN vĩ đại hơn rất nhiều so với việc nối mạng máy tính toàn cầu. Các nhà khoa học của tôi ngày nào cũng tạo ra những phép màu.

    Langdon nhìn Kohler vẻ dò hỏi. Những phép màu? - Từ phép màu chắc chắn không nằm trong vốn tử vựng của Harvard. Phép màu là để dành cho khoa thần học.

    - Ông có vẻ hoài nghi? - Kohler nói - Tôi nghĩ ông là nhà nghiên cứu biểu tượng học tôn giáo. Chẳng lẽ ông không tin vào phép màu sao?

    - Tôi không dám chắc về những phép màu. - Langdon nói - Nhất là những thứ diễn ra trong phòng thí nghiệm.

    - Có lẽ dùng từ phép màu ở đây chưa đúng lắm. Tôi chỉ muốn nói bằng ngôn ngữ của đất nước các ông thôi.

    - Ngôn ngữ của tôi? - Langdon đột nhiên cảm thấy không thoải mái.

    - Tôi không muốn làm ông thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - Tôi là một học giả chứ không phải một linh mục.

    Kohler đột ngột giảm tốc độ và quay lại, ánh mắt ông ta dịu đi đôi chút:

    - Đương nhiên. Tôi cũng khá đơn giản. Người ta không cần chờ đến lúc bị ung thư rồi mới đem ra phân tích các triệu chứng.

    Langdon chưa bao giờ thấy ai lập luận kiểu như vậy.

    Khi họ đi dọc hành lang, Kohler gật đầu đồng tình:

    - Chắc là tôi và ông sẽ hiểu nhau rất nhanh thôi, ông Langdon ạ.

    Dù sao thì Langdon cũng nghi ngờ điều đó.

    ***

    Khi hai người rảo bước nhanh hơn, Langdon bắt đầu thấy như có tiếng gõ trên đầu. Âm thanh càng ngày càng vang dội theo mỗi bước đi, vọng cả vào tường. Dường như nó phát ra từ phía cuối hành lang trước mặt họ.

    - Cái gì vậy? - Cuối cùng Langdon cũng lớn tiếng hỏi. Anh cảm thấy như họ sắp đi vào chỗ có núi lửa đang hoạt động.

    - Ông rơi tự do, - Kohler đáp, giọng nói ồm ồm của ông ta phá tan bầu không khí tẻ nhạt và ông không đưa ra thêm lời giải thích nào.

    Langdon ngừng hỏi. Anh quá mệt mỏi, còn Maximilian Kohler thì dường như không muốn thể hiện lòng hiếu khách.

    Langdon nhắc mình nhớ lại tại sao anh có mặt ở đây. Illuminati.

    Anh chắc rằng ở đâu đó trong cái phòng thí nghiệm khổng lồ này có một xác chết… xác chết được đóng dấu biểu tượng mà anh phải bay gần 5.000 km tới để xem.

    Khi họ đến cuối hành lang, tiếng động trở nên lo đến nỗi điếc cả tai, làm đế giày Langdon rung lên bần bật. Họ rẽ vào một lối ngoặt và nhìn thấy phòng trưng bày bên phải. Bốn cánh cửa dày gắn trên một bức tường cong, giống cửa sổ tàu ngầm. Langdon dừng lại và nhìn qua một trong những cái lỗ.

    Giáo sư Langdon đã từng trông thấy nhiều thứ kỳ quặc trong đời nhưng đây là thứ kỳ lạ nhất. Anh chớp mắt mấy lần, băn khoăn không hiểu mình có bị ảo giác hay không. Anh nhìn chằm chằm vào căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong là những người đang trôi bồng bềnh như không trọng lượng. Ba người tất cả. Một trong số họ vẫy chào và làm động tác nhào lộn trên không.

    Chúa ơi, anh nghĩ. Mình đang ở vùng đất kỳ lạ của Oz.

    Sàn nhà là một mạng lưới hỗn độn, giống như lưới chuồng gà. Những gì nhìn thấy được ở phía dưới chiếc lưới là ánh sáng kim loại lờ mờ của một cánh quạt lớn.

    - Ông rơi tự do, - Kohler nói và dừng lại đợi anh. Trò chơi lộn nhào trên không trong nhà để xả stress. Đây là đường hầm quay theo chiều dọc.

    Langdon nhìn với vẻ kinh ngạc. Một trong số những người lộn nhào là một phụ nữ béo phì đang tiến dần về phía cứa sổ. Bà ta đang bị dòng không khí đẩy đi nhưng vẫn cười tươi và giơ cao ngón tay cái với Langdon báo hiệu mọi việc tốt đẹp. Langdon mỉm cười yếu ớt, cũng đáp trả lại bằng cứ chỉ đó và băn khoăn không biết bà ta có biết rằng đấy là biểu tượng phồn thực cổ xưa, biểu trưng cho sức mạnh tình dục của đàn ông hay không.

    Langdon nhận ra rằng bà béo đó là người duy nhất mang trên người một thứ trông giống như chiếc dù nhỏ xíu. Miếng vải quấn quanh người khiến bà ta trông chẳng khác gì một món đồ chơi.

    - Cái dù bé của bà ta để làm gì vậy? - Langdon hỏi Kohler. - Nó có đường kính chưa đến 1 mét.

    - Để ma sát, - Kohler nói - Làm giảm khí động lực học của bà ta, như thế cánh quạt ở dưới mới nhấc bà ta lên nổi. - Ông tiếp tục di chuyển dọc theo hành lang. - Mỗi mét vuông lực cản sẽ làm giảm trọng lượng rơi của cơ thể di gần 20%.

    Langdon gật đầu lơ đễnh.

    Anh không thể ngờ rằng vào đêm nay, ở một đất nước cách xa nơi đây hàng ngàn cây số, thông tin này sẽ cứu sống anh.

  Ồ mình thật tệ, Langdon nghĩ thầm khi đọc những dòng chữ này. Ông ta không đùa tí nào. Anh cứ tưởng rằng người Mỹ phát minh ra Web. Và vốn kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở mấy trang web tải cuốn sách của anh hay thỉnh thoảng anh lên mạng tìm tài liệu về Bảo tàng Louvre hay El Prado bằng cái máy Macintosh cổ lỗ sĩ của mình.

    - Mạng toàn cầu, - Kohler vừa nói vừa ho và lau miệng - Ban đầu, đây là một mạng kết nối các máy tính nội bộ. Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều bộ phận khác nhau chia sẻ những phát kiến của họ hàng ngày. Đương nhiên, cả thế giới đều cho rằng Web là công nghệ của Hoa Kỳ.

    Langdon vẫn bước dọc hành lang.

    - Sao không công bố chuyện này một cách công khai?

    Kohler nhún vai, rõ rành không bận tâm.

    - Một sự hiểu nhầm vặt vãnh về một công nghệ chẳng có gì to tát. CERN vĩ đại hơn rất nhiều so với việc nối mạng máy tính toàn cầu. Các nhà khoa học của tôi ngày nào cũng tạo ra những phép màu.

    Langdon nhìn Kohler vẻ dò hỏi. Những phép màu? - Từ phép màu chắc chắn không nằm trong vốn tử vựng của Harvard. Phép màu là để dành cho khoa thần học.

    - Ông có vẻ hoài nghi? - Kohler nói - Tôi nghĩ ông là nhà nghiên cứu biểu tượng học tôn giáo. Chẳng lẽ ông không tin vào phép màu sao?

    - Tôi không dám chắc về những phép màu. - Langdon nói - Nhất là những thứ diễn ra trong phòng thí nghiệm.

    - Có lẽ dùng từ phép màu ở đây chưa đúng lắm. Tôi chỉ muốn nói bằng ngôn ngữ của đất nước các ông thôi.

    - Ngôn ngữ của tôi? - Langdon đột nhiên cảm thấy không thoải mái.

    - Tôi không muốn làm ông thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - Tôi là một học giả chứ không phải một linh mục.

    Kohler đột ngột giảm tốc độ và quay lại, ánh mắt ông ta dịu đi đôi chút:

    - Đương nhiên. Tôi cũng khá đơn giản. Người ta không cần chờ đến lúc bị ung thư rồi mới đem ra phân tích các triệu chứng.

    Langdon chưa bao giờ thấy ai lập luận kiểu như vậy.

    Khi họ đi dọc hành lang, Kohler gật đầu đồng tình:

    - Chắc là tôi và ông sẽ hiểu nhau rất nhanh thôi, ông Langdon ạ.

    Dù sao thì Langdon cũng nghi ngờ điều đó.

    ***

    Khi hai người rảo bước nhanh hơn, Langdon bắt đầu thấy như có tiếng gõ trên đầu. Âm thanh càng ngày càng vang dội theo mỗi bước đi, vọng cả vào tường. Dường như nó phát ra từ phía cuối hành lang trước mặt họ.

    - Cái gì vậy? - Cuối cùng Langdon cũng lớn tiếng hỏi. Anh cảm thấy như họ sắp đi vào chỗ có núi lửa đang hoạt động.

    - Ông rơi tự do, - Kohler đáp, giọng nói ồm ồm của ông ta phá tan bầu không khí tẻ nhạt và ông không đưa ra thêm lời giải thích nào.

    Langdon ngừng hỏi. Anh quá mệt mỏi, còn Maximilian Kohler thì dường như không muốn thể hiện lòng hiếu khách.

    Langdon nhắc mình nhớ lại tại sao anh có mặt ở đây. Illuminati.

    Anh chắc rằng ở đâu đó trong cái phòng thí nghiệm khổng lồ này có một xác chết… xác chết được đóng dấu biểu tượng mà anh phải bay gần 5.000 km tới để xem.

    Khi họ đến cuối hành lang, tiếng động trở nên lo đến nỗi điếc cả tai, làm đế giày Langdon rung lên bần bật. Họ rẽ vào một lối ngoặt và nhìn thấy phòng trưng bày bên phải. Bốn cánh cửa dày gắn trên một bức tường cong, giống cửa sổ tàu ngầm. Langdon dừng lại và nhìn qua một trong những cái lỗ.

    Giáo sư Langdon đã từng trông thấy nhiều thứ kỳ quặc trong đời nhưng đây là thứ kỳ lạ nhất. Anh chớp mắt mấy lần, băn khoăn không hiểu mình có bị ảo giác hay không. Anh nhìn chằm chằm vào căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong là những người đang trôi bồng bềnh như không trọng lượng. Ba người tất cả. Một trong số họ vẫy chào và làm động tác nhào lộn trên không.

    Chúa ơi, anh nghĩ. Mình đang ở vùng đất kỳ lạ của Oz.

    Sàn nhà là một mạng lưới hỗn độn, giống như lưới chuồng gà. Những gì nhìn thấy được ở phía dưới chiếc lưới là ánh sáng kim loại lờ mờ của một cánh quạt lớn.

    - Ông rơi tự do, - Kohler nói và dừng lại đợi anh. Trò chơi lộn nhào trên không trong nhà để xả stress. Đây là đường hầm quay theo chiều dọc.

    Langdon nhìn với vẻ kinh ngạc. Một trong số những người lộn nhào là một phụ nữ béo phì đang tiến dần về phía cứa sổ. Bà ta đang bị dòng không khí đẩy đi nhưng vẫn cười tươi và giơ cao ngón tay cái với Langdon báo hiệu mọi việc tốt đẹp. Langdon mỉm cười yếu ớt, cũng đáp trả lại bằng cứ chỉ đó và băn khoăn không biết bà ta có biết rằng đấy là biểu tượng phồn thực cổ xưa, biểu trưng cho sức mạnh tình dục của đàn ông hay không.

    Langdon nhận ra rằng bà béo đó là người duy nhất mang trên người một thứ trông giống như chiếc dù nhỏ xíu. Miếng vải quấn quanh người khiến bà ta trông chẳng khác gì một món đồ chơi.

    - Cái dù bé của bà ta để làm gì vậy? - Langdon hỏi Kohler. - Nó có đường kính chưa đến 1 mét.

    - Để ma sát, - Kohler nói - Làm giảm khí động lực học của bà ta, như thế cánh quạt ở dưới mới nhấc bà ta lên nổi. - Ông tiếp tục di chuyển dọc theo hành lang. - Mỗi mét vuông lực cản sẽ làm giảm trọng lượng rơi của cơ thể di gần 20%.

    Langdon gật đầu lơ đễnh.

    Anh không thể ngờ rằng vào đêm nay, ở một đất nước cách xa nơi đây hàng ngàn cây số, thông tin này sẽ cứu sống anh.

  Ồ mình thật tệ, Langdon nghĩ thầm khi đọc những dòng chữ này. Ông ta không đùa tí nào. Anh cứ tưởng rằng người Mỹ phát minh ra Web. Và vốn kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở mấy trang web tải cuốn sách của anh hay thỉnh thoảng anh lên mạng tìm tài liệu về Bảo tàng Louvre hay El Prado bằng cái máy Macintosh cổ lỗ sĩ của mình.

    - Mạng toàn cầu, - Kohler vừa nói vừa ho và lau miệng - Ban đầu, đây là một mạng kết nối các máy tính nội bộ. Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều bộ phận khác nhau chia sẻ những phát kiến của họ hàng ngày. Đương nhiên, cả thế giới đều cho rằng Web là công nghệ của Hoa Kỳ.

    Langdon vẫn bước dọc hành lang.

    - Sao không công bố chuyện này một cách công khai?

    Kohler nhún vai, rõ rành không bận tâm.

    - Một sự hiểu nhầm vặt vãnh về một công nghệ chẳng có gì to tát. CERN vĩ đại hơn rất nhiều so với việc nối mạng máy tính toàn cầu. Các nhà khoa học của tôi ngày nào cũng tạo ra những phép màu.

    Langdon nhìn Kohler vẻ dò hỏi. Những phép màu? - Từ phép màu chắc chắn không nằm trong vốn tử vựng của Harvard. Phép màu là để dành cho khoa thần học.

    - Ông có vẻ hoài nghi? - Kohler nói - Tôi nghĩ ông là nhà nghiên cứu biểu tượng học tôn giáo. Chẳng lẽ ông không tin vào phép màu sao?

    - Tôi không dám chắc về những phép màu. - Langdon nói - Nhất là những thứ diễn ra trong phòng thí nghiệm.

    - Có lẽ dùng từ phép màu ở đây chưa đúng lắm. Tôi chỉ muốn nói bằng ngôn ngữ của đất nước các ông thôi.

    - Ngôn ngữ của tôi? - Langdon đột nhiên cảm thấy không thoải mái.

    - Tôi không muốn làm ông thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - Tôi là một học giả chứ không phải một linh mục.

    Kohler đột ngột giảm tốc độ và quay lại, ánh mắt ông ta dịu đi đôi chút:

    - Đương nhiên. Tôi cũng khá đơn giản. Người ta không cần chờ đến lúc bị ung thư rồi mới đem ra phân tích các triệu chứng.

    Langdon chưa bao giờ thấy ai lập luận kiểu như vậy.

    Khi họ đi dọc hành lang, Kohler gật đầu đồng tình:

    - Chắc là tôi và ông sẽ hiểu nhau rất nhanh thôi, ông Langdon ạ.

    Dù sao thì Langdon cũng nghi ngờ điều đó.

    ***

    Khi hai người rảo bước nhanh hơn, Langdon bắt đầu thấy như có tiếng gõ trên đầu. Âm thanh càng ngày càng vang dội theo mỗi bước đi, vọng cả vào tường. Dường như nó phát ra từ phía cuối hành lang trước mặt họ.

    - Cái gì vậy? - Cuối cùng Langdon cũng lớn tiếng hỏi. Anh cảm thấy như họ sắp đi vào chỗ có núi lửa đang hoạt động.

    - Ông rơi tự do, - Kohler đáp, giọng nói ồm ồm của ông ta phá tan bầu không khí tẻ nhạt và ông không đưa ra thêm lời giải thích nào.

    Langdon ngừng hỏi. Anh quá mệt mỏi, còn Maximilian Kohler thì dường như không muốn thể hiện lòng hiếu khách.

    Langdon nhắc mình nhớ lại tại sao anh có mặt ở đây. Illuminati.

    Anh chắc rằng ở đâu đó trong cái phòng thí nghiệm khổng lồ này có một xác chết… xác chết được đóng dấu biểu tượng mà anh phải bay gần 5.000 km tới để xem.

    Khi họ đến cuối hành lang, tiếng động trở nên lo đến nỗi điếc cả tai, làm đế giày Langdon rung lên bần bật. Họ rẽ vào một lối ngoặt và nhìn thấy phòng trưng bày bên phải. Bốn cánh cửa dày gắn trên một bức tường cong, giống cửa sổ tàu ngầm. Langdon dừng lại và nhìn qua một trong những cái lỗ.

    Giáo sư Langdon đã từng trông thấy nhiều thứ kỳ quặc trong đời nhưng đây là thứ kỳ lạ nhất. Anh chớp mắt mấy lần, băn khoăn không hiểu mình có bị ảo giác hay không. Anh nhìn chằm chằm vào căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong là những người đang trôi bồng bềnh như không trọng lượng. Ba người tất cả. Một trong số họ vẫy chào và làm động tác nhào lộn trên không.

    Chúa ơi, anh nghĩ. Mình đang ở vùng đất kỳ lạ của Oz.

    Sàn nhà là một mạng lưới hỗn độn, giống như lưới chuồng gà. Những gì nhìn thấy được ở phía dưới chiếc lưới là ánh sáng kim loại lờ mờ của một cánh quạt lớn.

    - Ông rơi tự do, - Kohler nói và dừng lại đợi anh. Trò chơi lộn nhào trên không trong nhà để xả stress. Đây là đường hầm quay theo chiều dọc.

    Langdon nhìn với vẻ kinh ngạc. Một trong số những người lộn nhào là một phụ nữ béo phì đang tiến dần về phía cứa sổ. Bà ta đang bị dòng không khí đẩy đi nhưng vẫn cười tươi và giơ cao ngón tay cái với Langdon báo hiệu mọi việc tốt đẹp. Langdon mỉm cười yếu ớt, cũng đáp trả lại bằng cứ chỉ đó và băn khoăn không biết bà ta có biết rằng đấy là biểu tượng phồn thực cổ xưa, biểu trưng cho sức mạnh tình dục của đàn ông hay không.

    Langdon nhận ra rằng bà béo đó là người duy nhất mang trên người một thứ trông giống như chiếc dù nhỏ xíu. Miếng vải quấn quanh người khiến bà ta trông chẳng khác gì một món đồ chơi.

    - Cái dù bé của bà ta để làm gì vậy? - Langdon hỏi Kohler. - Nó có đường kính chưa đến 1 mét.

    - Để ma sát, - Kohler nói - Làm giảm khí động lực học của bà ta, như thế cánh quạt ở dưới mới nhấc bà ta lên nổi. - Ông tiếp tục di chuyển dọc theo hành lang. - Mỗi mét vuông lực cản sẽ làm giảm trọng lượng rơi của cơ thể di gần 20%.

    Langdon gật đầu lơ đễnh.

    Anh không thể ngờ rằng vào đêm nay, ở một đất nước cách xa nơi đây hàng ngàn cây số, thông tin này sẽ cứu sống anh.

  Ồ mình thật tệ, Langdon nghĩ thầm khi đọc những dòng chữ này. Ông ta không đùa tí nào. Anh cứ tưởng rằng người Mỹ phát minh ra Web. Và vốn kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở mấy trang web tải cuốn sách của anh hay thỉnh thoảng anh lên mạng tìm tài liệu về Bảo tàng Louvre hay El Prado bằng cái máy Macintosh cổ lỗ sĩ của mình.

    - Mạng toàn cầu, - Kohler vừa nói vừa ho và lau miệng - Ban đầu, đây là một mạng kết nối các máy tính nội bộ. Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều bộ phận khác nhau chia sẻ những phát kiến của họ hàng ngày. Đương nhiên, cả thế giới đều cho rằng Web là công nghệ của Hoa Kỳ.

    Langdon vẫn bước dọc hành lang.

    - Sao không công bố chuyện này một cách công khai?

    Kohler nhún vai, rõ rành không bận tâm.

    - Một sự hiểu nhầm vặt vãnh về một công nghệ chẳng có gì to tát. CERN vĩ đại hơn rất nhiều so với việc nối mạng máy tính toàn cầu. Các nhà khoa học của tôi ngày nào cũng tạo ra những phép màu.

    Langdon nhìn Kohler vẻ dò hỏi. Những phép màu? - Từ phép màu chắc chắn không nằm trong vốn tử vựng của Harvard. Phép màu là để dành cho khoa thần học.

    - Ông có vẻ hoài nghi? - Kohler nói - Tôi nghĩ ông là nhà nghiên cứu biểu tượng học tôn giáo. Chẳng lẽ ông không tin vào phép màu sao?

    - Tôi không dám chắc về những phép màu. - Langdon nói - Nhất là những thứ diễn ra trong phòng thí nghiệm.

    - Có lẽ dùng từ phép màu ở đây chưa đúng lắm. Tôi chỉ muốn nói bằng ngôn ngữ của đất nước các ông thôi.

    - Ngôn ngữ của tôi? - Langdon đột nhiên cảm thấy không thoải mái.

    - Tôi không muốn làm ông thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - Tôi là một học giả chứ không phải một linh mục.

    Kohler đột ngột giảm tốc độ và quay lại, ánh mắt ông ta dịu đi đôi chút:

    - Đương nhiên. Tôi cũng khá đơn giản. Người ta không cần chờ đến lúc bị ung thư rồi mới đem ra phân tích các triệu chứng.

    Langdon chưa bao giờ thấy ai lập luận kiểu như vậy.

    Khi họ đi dọc hành lang, Kohler gật đầu đồng tình:

    - Chắc là tôi và ông sẽ hiểu nhau rất nhanh thôi, ông Langdon ạ.

    Dù sao thì Langdon cũng nghi ngờ điều đó.

    ***

    Khi hai người rảo bước nhanh hơn, Langdon bắt đầu thấy như có tiếng gõ trên đầu. Âm thanh càng ngày càng vang dội theo mỗi bước đi, vọng cả vào tường. Dường như nó phát ra từ phía cuối hành lang trước mặt họ.

    - Cái gì vậy? - Cuối cùng Langdon cũng lớn tiếng hỏi. Anh cảm thấy như họ sắp đi vào chỗ có núi lửa đang hoạt động.

    - Ông rơi tự do, - Kohler đáp, giọng nói ồm ồm của ông ta phá tan bầu không khí tẻ nhạt và ông không đưa ra thêm lời giải thích nào.

    Langdon ngừng hỏi. Anh quá mệt mỏi, còn Maximilian Kohler thì dường như không muốn thể hiện lòng hiếu khách.

    Langdon nhắc mình nhớ lại tại sao anh có mặt ở đây. Illuminati.

    Anh chắc rằng ở đâu đó trong cái phòng thí nghiệm khổng lồ này có một xác chết… xác chết được đóng dấu biểu tượng mà anh phải bay gần 5.000 km tới để xem.

    Khi họ đến cuối hành lang, tiếng động trở nên lo đến nỗi điếc cả tai, làm đế giày Langdon rung lên bần bật. Họ rẽ vào một lối ngoặt và nhìn thấy phòng trưng bày bên phải. Bốn cánh cửa dày gắn trên một bức tường cong, giống cửa sổ tàu ngầm. Langdon dừng lại và nhìn qua một trong những cái lỗ.

    Giáo sư Langdon đã từng trông thấy nhiều thứ kỳ quặc trong đời nhưng đây là thứ kỳ lạ nhất. Anh chớp mắt mấy lần, băn khoăn không hiểu mình có bị ảo giác hay không. Anh nhìn chằm chằm vào căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong là những người đang trôi bồng bềnh như không trọng lượng. Ba người tất cả. Một trong số họ vẫy chào và làm động tác nhào lộn trên không.

    Chúa ơi, anh nghĩ. Mình đang ở vùng đất kỳ lạ của Oz.

    Sàn nhà là một mạng lưới hỗn độn, giống như lưới chuồng gà. Những gì nhìn thấy được ở phía dưới chiếc lưới là ánh sáng kim loại lờ mờ của một cánh quạt lớn.

    - Ông rơi tự do, - Kohler nói và dừng lại đợi anh. Trò chơi lộn nhào trên không trong nhà để xả stress. Đây là đường hầm quay theo chiều dọc.

    Langdon nhìn với vẻ kinh ngạc. Một trong số những người lộn nhào là một phụ nữ béo phì đang tiến dần về phía cứa sổ. Bà ta đang bị dòng không khí đẩy đi nhưng vẫn cười tươi và giơ cao ngón tay cái với Langdon báo hiệu mọi việc tốt đẹp. Langdon mỉm cười yếu ớt, cũng đáp trả lại bằng cứ chỉ đó và băn khoăn không biết bà ta có biết rằng đấy là biểu tượng phồn thực cổ xưa, biểu trưng cho sức mạnh tình dục của đàn ông hay không.

    Langdon nhận ra rằng bà béo đó là người duy nhất mang trên người một thứ trông giống như chiếc dù nhỏ xíu. Miếng vải quấn quanh người khiến bà ta trông chẳng khác gì một món đồ chơi.

    - Cái dù bé của bà ta để làm gì vậy? - Langdon hỏi Kohler. - Nó có đường kính chưa đến 1 mét.

    - Để ma sát, - Kohler nói - Làm giảm khí động lực học của bà ta, như thế cánh quạt ở dưới mới nhấc bà ta lên nổi. - Ông tiếp tục di chuyển dọc theo hành lang. - Mỗi mét vuông lực cản sẽ làm giảm trọng lượng rơi của cơ thể di gần 20%.

    Langdon gật đầu lơ đễnh.

    Anh không thể ngờ rằng vào đêm nay, ở một đất nước cách xa nơi đây hàng ngàn cây số, thông tin này sẽ cứu sống anh.

 Cùng Kohler ra khỏi cổng hậu tổ hợp chính của CERN đứng ngắm ánh mặt trời Thuỵ Sĩ ảm đạm, Langdon thấy mình như được về nhà. Cảnh vật trước mắt anh trông giống như khu nội trú Ivy League(1).

    Một con dốc phủ đầy cỏ dẫn xuống lối đi rộng phía dưới, nơi những rặng cây maple(2) điểm xuyết bốn góc sân tiếp giáp với khu nhà ở xây bằng gạch và những lối mòn. Những con người trông có vẻ uyên bác, tay ôm hàng chồng sách đang nhộn nhịp ra vào toà nhà như góp phần làm tăng không khí của một trường đại học, hai nhân vật tóc dài ăn mặc kiểu hippy ném dĩa Frisbee(3) qua lại cho nhau trong khi đang thường thức bản Giao hưởng số bốn của Mahler phát ra từ cửa sổ khu nội trú.

    - Đây là khu nhà ở của chúng tôi, - Kohler giải thích khi ông ta tăng tốc xe lăn tiến xuống đường mòn về phía toà nhà. - Chúng tôi có trên 3000 nhà vật lý học ở đây. Chỉ riêng CERN đã thu nạp hơn một nữa số nhà vật lí hạt cơ bản trên thế giới - những bộ óc thông minh nhất - người Đức, người Nhật, người Ý và Hà Lan. Các nhà vật lí này đại diện cho hơn 500 trường đại học và 60 quốc gia trên thế giới.

    Langdon ngạc nhiên.

    - Họ làm thế nào để giao tiếp được với nhau?

    - Dĩ nhiên là họ dùng tiếng Anh. Đó là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học.

    Langdon luôn nghe thấy người ta nói rằng Toán học mới là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học, nhưng anh quá mệt mỏi nên không muốn tranh luận. Anh ngoan ngoãn đi theo Kohler xuống dưới đường.

    Đi được nửa đường, họ gặp một thanh niên chạy bộ qua. Trên áo phông của anh ta có dòng chữ: KHÔNG GUT, KHÔNG VINH QUANG!

    Langdon nhìn anh ta ngạc nhiên:

    - Gut là gì?

    - Thuyết thống nhất chung, Kohler châm biếm - Học thuyết về vạn vật.

    - Tôi hiểu, - Langdon nói nhưng chẳng chú ý gì cả.

    - Ông có biết vật lí hạt cơ bản(4) không, ông Langdon?

    Langdon nhún vai:

    - Tôi biết vật lí học đại cương - cơ thể rơi tự do, đại loại như thế. - Những năm tháng kinh nghiệm của môn nhảy cầu đã làm anh lưu tâm đặc biệt tới sức mạnh kinh ngạc của gia tốc rơi tự do. - Nghiên cứu vật lí hạt nguyên tử, đúng thế không?

    Kohler lắc đầu:

    - Nguyên tử giống như các hành tinh nếu so với những gì chúng tôi nghiên cứu. Mối quan tâm của chúng tôi là hạt nhân nguyên tử kia - chỉ bằng một phần trăm kích cỡ của nguyên tử. - Ông ta lại ho, vẻ rất ốm yếu - Tất cả mọi người ở CERN đều đang tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi chung mà nhân loại đặt ra từ thuở sơ khai. Chúng ta xuất hiện từ đâu? Được tạo thành từ vật chất nào?

    - Và những câu trả lời này nằm trong phòng thí nghiệm vật lí?

    - Ông có vẻ ngạc nhiên.

    - Đúng thế. Những câu hỏi này dường như mang nặng chất tâm linh.

    - Ông Langdon, tất cả những câu hỏi này đã từng liên quan đến lĩnh vực tâm linh. Ngay từ thuở xa xưa, tâm linh và tôn giáo đã cùng nhau lấp chỗ trống mà khoa học chưa khám phá nổi. Việc mặt trời mọc và lặn cũng được gán cho thần Helios và cỗ chiến xa lửa thần kỳ. Động đất và sóng thần là do sự nổi giận của thần Poseidon. Khoa học ngày nay chứng minh rằng những vị thần này chỉ là hình mẫu giả tưởng. Sắp tới tất cả những vị thần sẽ được minh chứng là hình mẫu giả tưởng. Khoa học ngày nay đã giải đáp gần hết mọi câu hỏi của con người. Chỉ còn vài câu hỏi nữa và chúng là những câu bí truyền. Loài người xuất hiện từ đâu? Chúng ta đang làm gì ở đây? Ý nghĩa của cuộc sống và vũ trụ là gì?

    Langdon ngạc nhiên:

    - Và đây là những câu hỏi mà CERN đang cố giải quyết?

    - Sửa một chút. Đây là những câu hỏi mà chúng tôi đang tìm kiếm câu trả lời.

    Langdon im lặng khi có hai người đàn ông đi lướt qua sân khu nhà ở. Langdon và Kohler đang đi thì một chiếc đĩa bay qua đầu và rơi ngay trước mặt họ. Kohler bỏ qua và đi tiếp.

    Một giọng nói cất lên từ trong sân "S il vous plalt!"(5)

    Langdon nhìn quanh. Một người đàn ông luống tuổi tóc bạc mặc chiếc áo thể thao có in chữ College Paris trên ông tay đang vẫy anh. Langdon nhặt chiếc đĩa và ném lại cho ông ta một cách thành thạo. Ông già đó giơ một ngón tay chụp lấy và tung lên vài lần trước khi ném qua vai cho người bạn cùng chơi.

    - Cám ơn! -Ông ta gọi với theo Langdon.

 

 - Xin chúc mừng, - Kohler nói khi thấy anh bắt trúng cái đĩa. -Ông vừa chơi ném đĩa với một người từng giành giải Nobel, Georges Charpark đấy, người phát minh ra buồng tỉ lệ đa dây (Multi-vice Propotional Chamber).

    Langdon gật đầu. Một ngày may mắn.

    Phải mất ba phút nữa Langdon và Kohler mới đến đích, đó là một khu nhà lớn, gọn gàng và sạch sẽ nằm giữa rừng dương. So với những khu khác, toà nhà này có vẻ sang trọng hơn. Tấm biển khắc đá phía trước đề dòng chữ NHÀ C.

    Một cái tên mang đầy tính tưởng tượng, Langdon nghĩ.

    Mặc cho cái tên khô khan, toà nhà C thu hút sự chú ý của Langdon bởi lối kiến trúc rất bảo thủ và vững chắc, với mặt tiền màu gạch đỏ, hàng lan can trang trí và hàng rào chạm trổ cân xứng. Khi hai người đàn ông tiến xuống con đường đá dẫn đến lối vào họ băng qua cánh cổng được tạo bởi hai cột đá cẩm thạch. Ai đó đã dán một mẩu giấy nhắn trên một trong hai chiếc cột.

    ĐÂY LÀ CỘT IONIC(6)

    Dòng chữ nghịch ngợm của các nhà vật lí? Langdon trầm ngâm, mắt dán vào cột và tự mỉm cười một mình. "Tôi thở phào khi thấy chính những nhà vật lí lỗi lạc cũng mắc lỗi.

    Kohler nhìn sang:

    - Ý ông là gì?

    - Người viết dòng chữ này mắc một sai lầm. Đó không phải là cột Ionic. Các cột Ionic đều có chiều rộng thống nhất. Cái kia có hình tháp nhọn: Nó được gọi là Doric - một bản sao của người Hy Lạp, rất nhiều người lầm lẫn kiểu này.

    Kohler không buồn mỉm cười.

    - Tác giả câu này muốn đùa một chút, ông Langdon ạ. Ionic có nghĩa hàm chứa i-ôn - các hạt tích điện. Đa số các vật thể đều chứa hạt này.

    Langdon nhìn lại cây cột đó và rên lên.

    Khi bước ra khỏi thang máy lên tầng trên cùng của toà nhà C, Langdon cảm thấy vốn kiến thức của mình thật ít ỏi. Anh theo Kohler đến một dãy hành lang được trang hoàng rất công phu. Lối trang trí tuyệt vời theo kiểu thuộc địa truyền thống của Pháp đi văng màu mận chín, lọ hoa bằng sứ, đồ gỗ chạm trồ.

    - Chúng tôi muốn cuộc sống của các nhà khoa học nơi đây phải thật thoải mái. - Kohler giải thích.

    Rõ rồi, Langdon thầm nghĩ. Anh hỏi.

    - Vậy người đàn ông trong tờ fax cũng sống ở đây à? Có phải là một trong những nhân viên cấp cao của các ông không?

    - Gần như vậy! - Kohler nói - Sáng nay ông ta bỏ lỡ một cuộc họp với tôi và không trả lời máy nhắn tin. Tôi lên đây để tìm và phát hiện ông ta đã chết trong phòng khách.

    Langdon cảm thấy một luồng khí lạnh chạy qua khi biết rằng mình sắp nhìn thấy một xác chết. Anh chưa bao giờ gặp phải tình huống này. Hồi còn là sinh viên nghệ thuật, anh đã thấy nôn nao khi nghe giáo viên kể rằng Leonardo Da Vinci có được kinh nghiệm về giải phẫu cơ thể người là do đi khai quật những xác chết và mổ xẻ các cơ trên người họ.

    Kohler dẫn đường đi tới cuối góc hành lang. Chỉ có một cánh cửa.

    - Nhớ thông tầng, như chính các ông gọi. - Kohler tuyên bố, rồi thấm nhẹ những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán.

    Langdon đưa mắt dọc tấm biển trên cánh cửa gỗ sồi trước mặt.

    Trên tấm biển viết:

    LEONARDO VETRA

    - Leonardo Vetra, - Kohler nói - Tuần sau ông ta sẽ tròn năm 58 tuổi, ông ta là một trong những nhà khoa học lỗi lạc nhất của thời đại này. Cái chết của ông ấy là một mất mát lớn cho khoa học.

    Trong chốc lát, Langdon cảm nhận được sự xúc động trên khuôn mặt cứng đờ của Kohler. Nhưng cảm xúc đó ngay lập tức tan biến. Kohler lần túi và lôi ra một chùm chìa khoá to.

    Langdon chợt thấy lạ lùng. Toà nhà này dường như rất vắng vẻ.

    - Mọi người đâu rồ? - anh hỏi. Nơi đây vắng bóng các hoạt động mà anh thường nghĩ đến khi họ sắp bước vào hiện trường một vụ giết người.

    - Những cư dân ở đây đang trong phòng thí nghiệm, - Kohler đáp tay vẫn mải tìm chìa khoá.

    - Ý tôi là cảnh sát kia, - Langdon nói lại cho rõ. - Họ đã rời khỏi dây rồi à?

    Đang tra dở khoá vào ổ, Kohler lập tức ngừng lại:

    - Cảnh sát?

    Langdon nhìn thẳng vào mắt vị giám đốc:

    - Cảnh sát chứ sao.

    - Ông gửi cho tôi một tờ fax về vụ giết người. Hẳn ông đã phải gọi cảnh sát rồi chứ?

    - Không thể được.

    - Cái gì?

    Đôi mắt màu xám của Kohler quắc lên:

    - Tình hình rất phức tạp ông Langdon ạ.

    Langdon cảm thấy e ngại;

    - Nhưng… thể nào chả có người biết chuyện này rồi!

    - Có. Con gái nuôi của Leonardo. Cô ấy cũng là nhà nghiên cứu vật lí của CERN. Hai cha con cô ấy cùng làm chung trong một phòng thí nghiệm. Họ là đồng nghiệp của nhau. Tuần này cô Vetra đi nghiên cứu thực nghiệm. Tôi đã thông báo về cái chết của cha cô ấy và trong khi chúng ta nói chuyện ở đây, cô ấy đang trên đường trở về.

    - Nhưng có một người bị giết…

    - Một cuộc điều tra chính thức, sẽ được tiến hành. - Kohler nói, giọng chắc nịch. - Tất nhiên, chắc chắn người ta sẽ tiến hành khám xét phòng thí nghiệm của Vetra, nơi hai cha con họ muốn giữ bí mật. Vì vậy chúng ta phải đợi đến khi cô Vetra trở về. Tôi cho là cần phải thận trọng một chút.

    Kohler xoay chìa khoá.

    Cánh cửa mở ra, một luồng khí lạnh từ trong phòng phả thẳng vào mặt Langdon. Anh hoang mang lùi lại, nhìn qua ngưỡng cửa của một thế giới xa lạ. Căn hộ trước mặt anh chìm trong màn sương mù màu trắng dầy đặc. Làn khói màu trắng đục bao phủ căn phòng và cuộn xoáy xung quanh đồ đạc.

    - Cái gì thế này? - Langdon lắp bắp.

    - Hệ thống làm lạnh freon, - Kohler đáp. - Tôi phải giữ lạnh căn phòng để bảo quản xác.

    Langdon cài nút áo khoác vải tuýt để đỡ lạnh. Mình lạc vào xứ sở Oz(7) anh nghĩ. Lại còn quên không mang theo đôi dép thần kỳ.

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: