THIỀN SƯ TRUNG HOA I-7
THIỀN SƯ TRUNG HOA
TẬP MỘT
H.T THÍCH THANH TỪ
ÐỜI THỨ TƯ SAU LỤC TỔ
B. PHÁI HOÀI NHƯỢNG
I. NỐI PHÁP BÁ TRƯỢNG HOÀI HẢI (30 vị)
1- Thiền sư Linh Hựu (Qui Sơn)
2- Thiền sư Hy Vận (Hoàng Bá)
3- Thiền sư Hoàn Trung
4- Thiền sư Phổ Ngạn
5- Thiền sư Thường Quán
6- Thiền sư Tánh Không
7- Thiền sư Ðại An
8- Thiền sư Thần Tán
9- Thiền sư Thông
10- Thiền sư Long Vân Ðài
11- Thiền sư Vệ Quốc Ðạo
12- Hòa thượng Vạn Tuế
13- Hòa thượng Niết-bàn
14- Hòa thượng Ðông Sơn
II. NỐI PHÁP TÂY ÐƯỜNG TRÍ TẠNG (4 vị)
1- Thiền sư Xứ Vi
2- Thiền sư Ðạo Nghĩa
3- Thiền sư Huệ (Tân La quốc)
4- Thiền sư Hồng Trực (Tân La quốc)
III. NỐI PHÁP MA CỐC BẢO TRIỆT (2 vị)
1- Thiền sư Lương Toại
2- Thiền sư Vô Nhiễm (Tân La quốc)
IV. NỐI PHÁP THIỀN SƯ NHƯ HỘI (4 vị)
1- Thiền sư Huệ Siêu
2- Thiền sư Cảnh Chư
3- Thiền sư Quang Triệu
4- Thiền sư Sơn Chiêu
V. NỐI PHÁP CHƯƠNG KỈNH HOÀI UẨN (16 vị)
1- Thiền sư Hoằng Biện
2- Thiền sư Trí Chơn
3- Thiền sư Hoài Chánh
4- Thiền sư Thao
5- Thiền sư Cổ Ðệ
6- Thiền sư Công Kỳ
VI. NỐI PHÁP NAM TUYỀN PHỔ NGUYỆN (17 vị)
1- Thiền sư Cảnh Sầm (Trường Sa)
2- Thiền sư Ðảm Chiếu
3- Thiền sư Vân Tế Sư Tổ
4- Thiền sư Nghĩa Ðoan
5- Thiền sư Tùng Thẩm (Triệu Châu)
6-Thiền sư Nhàn
7- Thiền sư Lợi Tung
8- Hòa thượng Thù Du Sơn
9- Hòa thượng Tung Sơn
10- Hòa thượng Nhựt Tử
11- Hòa thượng Tây Thiền
12- Cư sĩ Lục Hoàng
13- Cư sĩ Cam Chí
VII. NỐI PHÁP THIÊN VƯƠNG ÐẠO NGỘ (1 vị)
1- Thiền sư Long Ðàm Sùng Tín
*
35. THIỀN SƯ LINH HỰU
Qui Sơn - (771 - 853)
Sư họ Triệu, quê ở Trường Khê, Phước Châu. Năm mười lăm tuổi, Sư từ thân xuất gia theo Luật sư Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện tại bản quận thế phát. Sau, Sư đến chùa Long Hưng ở Hàng Châu thọ giới. Sư học kinh, luật Ðại thừa, Tiểu thừa rất uyên thâm.
Năm hai mươi ba tuổi, Sư đến Giang Tây tham học với Bá Trượng Hoài Hải. Bá Trượng vừa thấy Sư liền nhận cho nhập chúng. Trong chúng, Sư là người được cử đứng hàng đầu.
Một hôm, Sư đứng hầu Bá Trượng. Bá Trượng hỏi:- Ai?
Sư thưa:- Con. Linh Hựu!
Bá Trượng bảo:- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa:- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.
Bá Trượng bảo:
- Ðây là con đường rẽ tạm thời. Kinh nói: "Muốn thấy Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến như mê chợt ngộ, như quên được nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được." Cho nên Tổ sư bảo: "Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp." Chỉ là không tâm hư vọng phàm thánh v.v..., xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay ngươi đã vậy, tự khéo gìn giữ.
*
Sư theo Bá Trượng làm việc trong núi, Bá Trượng hỏi:
- Ðem được lửa đến chăng?
- Ðem được.
- Ở chỗ nào?
Sư cầm một cành cây thổi vài cái, đem trao cho Bá Trượng.
Bá Trượng bảo:- Như trùng đục cây.
*
Tư Mã Ðầu-đà [là một Thiền sư thông cả địa lý và tướng số.] từ Hồ Nam đến yết kiến Bá Trượng, thưa:
- Qui Sơn là thắng cảnh nên lập đại đạo tràng kết tập bạn pháp.
Bá Trượng hỏi:- Lão tăng muốn đến Qui Sơn nên chăng?
- Qui Sơn kỳ tuyệt có thể họp một ngàn năm trăm chúng, nhưng chẳng phải chỗ Hòa thượng ở.
- Sao vậy?
- Hòa thượng là người xương, núi kia là núi thịt, dù có ở, đồ đệ chẳng đầy một ngàn.
- Trong chúng ta có người ở được chăng?
- Ðợi xem qua mới biết.
Bá Trượng sai thị giả gọi đệ nhất tọa đến, tức Thiền sư Hoa Lâm, hỏi:
- Người này thế nào?
Ðầu-đà bảo Hoa Lâm tằng hắng một tiếng, đi vài bước, thưa:
- Người này không được.
Bá Trượng sai thị giả gọi Ðiển tọa đến, tức Sư Linh Hựu.
Ðầu-đà thưa: - Ðây chính là chủ Qui Sơn.
Tối lại, Bá Trượng gọi Sư vào thất dặn dò:
- Ta hóa duyên tại đây, ngươi sẽ ở thắng cảnh Qui Sơn để nối tiếp tông môn của ta và rộng độ kẻ hậu học.
*
Hoa Lâm nghe tin này đến thưa:
- Con là thượng thủ, tại sao Linh Hựu được trụ trì?
Bá Trượng bảo:
- Nếu ai hay ngay trong chúng này nói được một câu xuất cách, sẽ cho trụ trì.
Bá Trượng liền chỉ tịnh bình hỏi:
- Chẳng được kêu là tịnh bình, ngươi kêu là gì?
Hoa Lâm thưa:- Không thể kêu là cây lủng vậy.
Bá Trượng lại hỏi Sư.
Sư đạp nhào tịnh bình rồi đi ra.
Bá Trượng cười bảo:- Ðệ nhất tọa thối lui núi này.
Bá Trượng bèn sai Sư đến Qui Sơn.
*
Non Qui cao vót không có bóng người lai vãng, là hang ổ của cọp sói. Sư đến đây cất một am tranh, hằng ngày lượm trái lật, trái dẻ làm thức ăn nuôi sống.
Ðã bảy năm qua, một hôm Sư tự nghĩ: Ðạo cốt tiếp vật lợi sanh, ở một mình chẳng phải. Sư bèn đi lần xuống núi, thấy cọp sói, Sư bảo: "Nếu ta có duyên với núi này, các ngươi nên đi tránh chỗ khác. Nếu ta không có duyên ở đây thì các ngươi cứ ăn thịt ta đi." Sư nói xong, các loài thú dữ đều đi tứ tán, Sư trở về am yên ở như trước.
Không bao lâu, dân cư dưới chân núi từ từ hay biết, họ rủ nhau kéo lên núi cất một ngôi chùa cho Sư. Sau này, Liên soái Lý Cảnh Nhượng tâu vua xin ban hiệu chùa, vua ban hiệu là Ðồng Khánh. Kế đến, có Thượng tọa Ðại An và một số chúng từ Bá Trượng đến phụ tá Sư. Ðại An nói: "Tôi sẽ làm điển tọa cho Hòa thượng." Số chúng lần lần lên đến cả ngàn. Tướng quốc Bùi Hưu cũng thường tới lui thưa hỏi chỗ huyền ảo.
*
Sư thượng đường dạy chúng:
- Phàm tâm của người học đạo phải ngay thẳng chân thật không dối gạt, không tâm hạnh sau lưng trước mặt, lừa phỉnh, trong tất cả giờ thấy nghe bình thường không có chiều uốn, cũng chẳng phải nhắm mắt bịt tai, chỉ lòng chẳng chạy theo vật là được. Từ trước chư thánh chỉ nói: bên nhơ bợn là lỗi lầm. Nếu không như thế, lòng nhiều nghĩ ác là việc tình kiến tưởng tập. Ví như nước mùa thu lóng đứng trong trẻo lặng lẽ không động không ngại, gọi người này là Ðạo nhân, cũng gọi là người vô sự.
Khi ấy, có vị Tăng hỏi:- Người được đốn ngộ có tu chăng?
Sư bảo:
- Nếu người khi thật ngộ được gốc thì họ tự biết, tu cùng không tu là lời nói hai đầu. Như nay có người sơ tâm tuy từ duyên được một niệm đốn ngộ chân lý nơi mình, nhưng vẫn còn tập khí (thói quen) nhiều kiếp từ vô thủy chưa có thể chóng sạch, nên dạy hắn trừ sạch dòng thức tạo nghiệp hiện tại, tức là tu vậy. Không nói có một pháp riêng dạy hắn tu hành thú hướng. Từ nghe nhập được lý, nghe và lý sâu mầu, tâm tự tròn sáng không ở chỗ mê lầm, hiện thời dù có trăm ngàn diệu nghĩa thăng trầm, hắn vẫn được ngồi yên mặc áo, tự biết tạo sinh kế. Nói tóm lại, "chỗ lý chân thật không nhận một mảy bụi, trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp" (thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp). Nếu được như vậy, là một mình cầm đao thẳng vào, lòng phàm thánh sạch, hiện bày chân thường, lý sự không hai, tức Phật như như.
*
Thiền sư Huệ Tịch (Ngưỡng Sơn) hỏi:
- Trăm ngàn muôn cảnh đồng thời đến, phải làm sao?
Sư đáp:
- Xanh chẳng phải là vàng, dài chẳng phải là ngắn, các pháp mỗi pháp ở địa vị của nó, chẳng can hệ đến việc của ta.
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ đến?
Sư chỉ lồng đèn bảo:- Lồng đèn rất tốt.
- Ðâu chỉ cái ấy là phải sao?
- Cái ấy là cái gì?
- Lồng đèn rất tốt.
- Hẳn là chẳng thấy.
*
Sư cùng chúng đi hái trà. Sư bảo Huệ Tịch:
- Trọn ngày hái trà chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con, hãy hiện bản hình cho ta thấy coi.
Huệ Tịch liền đập cây trà.
Sư bảo:- Con chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.
Huệ Tịch thưa:- Chưa biết Hòa thượng thế nào?
Sư im lặng.
- Hòa thượng chỉ được cái thể của nó, không được cái dụng của nó.
- Cho con hai chục gậy.
*
Sư ngồi, Huệ Tịch đi vào, Sư bảo:
- Tịch con! hãy nói mau chớ vào ấm giới.
Huệ Tịch thưa:- Huệ Tịch tin cũng chẳng lập.
- Con tin rồi chẳng lập hay chẳng tin chẳng lập?
- Chỉ là Huệ Tịch lại tin cái gì?
- Nếu thế ấy chỉ là định tánh Thanh văn.
- Huệ Tịch Phật cũng chẳng lập.
*
Sư ngủ vừa thức giấc. Huệ Tịch đến hỏi thăm. Sư liền xây mặt vào vách. Huệ Tịch thưa:
- Hòa thượng đâu được như vậy.
Sư trỗi dậy bảo:
- Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, con thử vì ta đem lại xem.
Huệ Tịch lấy thau múc một thau nước đem lại cho Sư rửa mặt. Sư rửa mặt xong, giây lát Trí Nhàn (Hương Nghiêm) đến hỏi thăm, Sư bảo:
- Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, Huệ Tịch vì ta đem lại xem xong, ngươi lại đem cho ta xem.
Trí Nhàn liền đi rót một chung trà bưng đến.
Sư bảo:- Hai con thấy hiểu còn hơn Xá-lợi-phất.
*
Sư hỏi Vân Nham (Ðàm Thạnh):
- Nghe huynh ở Dược Sơn lâu lắm phải chăng?
- Phải.
- Tướng Dược Sơn đại nhân thế nào?
- Sau khi Niết-bàn mới có.
- Sau khi Niết-bàn mới có thế nào?
- Nước rưới chẳng dính.
Vân Nham hỏi lại Sư:- Bá Trượng đại nhân tướng thế nào?
- Chững chạc vòi vọi, sáng suốt rực rỡ, trước tiếng chẳng phải tiếng, sau sắc chẳng phải sắc, con muỗi đậu trên trâu sắt, không có chỗ huynh cắm mỏ.
*
Thấy Trí Nhàn, Huệ Tịch làm bánh, Sư bảo:
- Bá Trượng Tiên sư đương thời thân được đạo lý này.
Huệ Tịch, Trí Nhàn nhìn nhau nói:
- Người nào đáp được lời này?
Sư bảo:- Có một người đáp được.
Huệ Tịch thưa:- Người nào?
Sư chỉ con trâu bảo:- Nói! nói!
Huệ Tịch chạy lấy một bó cỏ đem lại. Trí Nhàn lấy thùng múc một thùng nước đem lại để trước con trâu. Con trâu đang ăn, Sư bảo:
- Cho gì? cho gì? Chẳng cho gì? chẳng cho gì?
Huệ Tịch, Trí Nhàn đồng lễ Sư. Sư bảo:
- Hoặc khi sáng, hoặc khi tối.
*
Một hôm, Sư thúc chúng trình ngữ, bảo:
- Ngoài thanh sắc cho ta cùng thấy.
Thượng tọa Giám Huyền trình ngữ:
- Chẳng từ ra đây, người ấy không mắt.
Sư chẳng nhận.
Huệ Tịch ba phen trình ngữ:
Lần đầu: - Thấy lấy, chẳng thấy lấy.
Sư bảo:- Nhỏ như chót lông, lạnh tợ sương tuyết.
Lần thứ hai: - Ngoài thanh sắc, ai cầu thấy nhau?
Sư bảo:- Chỉ kẹt Thanh văn, bên ngoài giường hẹp.
Lần thứ ba: - Như hai gương chiếu nhau, ở trong không hình tượng.
Sư bảo:
- Ngữ này chánh, ta phải ngươi chẳng phải, sớm lập hình tượng rồi vậy.
Huệ Tịch hỏi lại Sư:
- Con tinh thần tối tăm, đối đáp vụng về, chẳng biết Hòa thượng hồi còn ở với Sư ông Bá Trượng trình ngữ thế nào?
Sư bảo:
- Ta hồi ở với Tiên sư Bá Trượng trình ngữ như vầy: "Như trăm ngàn gương sáng soi sáng hình bóng, chiếu nhau cõi cõi bụi bụi mỗi mỗi chẳng lầm lẫn."
Huệ Tịch lễ bái.
*
Sư thượng đường bảo chúng:
- Sau khi Lão tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ "Qui Sơn Tăng Linh Hựu". Khi ấy gọi là Qui Sơn Tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn Tăng? Gọi thế nào mới đúng?
Sư truyền bá Thiền giáo hơn bốn mươi năm, người đạt được lý thú không thể kể hết, đệ tử được nhập thất (được truyền tâm) được bốn mươi mốt người.
Ðời Ðường niên hiệu Ðại Trung năm thứ bảy (853 T.L.), ngày mùng chín tháng giêng, Sư tắm gội xong, ngồi kiết già vui vẻ thị tịch. Sư thọ tám mươi ba tuổi, sáu mươi bốn tuổi hạ.
Vua ban hiệu Ðại Viên Thiền sư, tháp hiệu Thanh Tịnh.
Sư có trước tác tập Qui Sơn Cảnh Sách rất được lưu hành trong thiền môn.
*
36. THIỀN SƯ HY VẬN
Hoàng Bá - (? - 850)
Sư người tỉnh Mân (tỉnh Phước Kiến), Hồng Châu, thuở nhỏ xuất gia trên núi Hoàng Bá tại bản châu. Trên trán Sư có cục thịt nổi vun lên như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý chí đạm bạc.
Ði dạo núi Thiên Thai, Sư gặp một vị Tăng nói chuyện với nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn kỹ là người Mục quang xạ. Hai người đồng hành, gặp một khe suối nước đầy chảy mạnh, Sư lột mũ chống gậy đứng lại. Vị Tăng kia thúc Sư đồng qua. Sư bảo:
- Huynh cần qua thì tự qua.
Vị Tăng kia liền vén y, bước trên sóng như đi trên đất bằng. Qua đến bờ, vị Tăng kia xây lại hối:
- Qua đây! qua đây!
Sư bảo:
- Bậy! Việc ấy tự biết. Nếu tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi huynh.
Vị Tăng kia khen:
- Thật là pháp khí Ðại thừa, tôi không bì kịp.
Nói xong, không thấy vị Tăng ấy nữa.
*
Sư đến kinh đô nhờ người mách đến tham vấn Mã Tổ, đến nơi Mã Tổ đã tịch. Sư đến Thạch Môn lễ tháp, rồi tìm đến Bá Trượng.
Bá Trượng hỏi:- Chững chạc to lớn từ đâu đến?
Sư thưa:- Chững chạc to lớn từ Lãnh Nam đến.
- Chững chạc to lớn sẽ vì việc gì?
- Chững chạc to lớn chẳng vì việc khác.
Sư liền lễ bái hỏi:- Từ trước tông thừa chỉ dạy thế nào?
Bá Trượng lặng thinh.
Sư thưa:- Không thể dạy người sau, dứt hẳn mất.
Bá Trượng bảo:- Sẽ nói riêng với ngươi.
Bá Trượng đứng dậy đi vào phương trượng. Sư đi theo sau, thưa:
- Con đến riêng một mình.
Bá Trượng bảo:
- Nếu vậy, ngươi sau sẽ không cô phụ ta.
*
Một hôm, Bá Trượng hỏi:- Ở đâu đến?
Sư thưa:- Nhổ nấm dưới núi Ðại Hùng đến.
- Lại thấy đại trùng chăng?
Sư làm tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa thủ thế. Sư vỗ vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười to bỏ đi.
Bá Trượng thượng đường bảo chúng:
- Dưới núi Ðại Hùng có con đại trùng, các ngươi nên xem. Lão Bá Trượng này hôm nay đích thân bỗng gặp và bị cắn một cái.
*
Sư ở chỗ Nam Tuyền. Một hôm, toàn chúng đi hái trà, Nam Tuyền hỏi:
- Ði đâu?
Sư thưa:- Ði hái trà.
- Ðem cái gì hái?
Sư đưa con dao lên. Nam Tuyền bảo:- Tất cả đi hái trà đi.
*
Hôm nọ, Nam Tuyền bảo Sư:
- Lão Tăng ngẫu hứng làm bài ca "Chăn Trâu", mời Trưởng lão hòa.
Sư thưa:- Tôi tự có thầy rồi.
*
Sư từ giã đi nơi khác. Nam Tuyền tiễn đến cổng, cầm chiếc mũ của Sư đưa lên hỏi:
- Trưởng lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy?
Sư thưa:- Tuy nhiên như thế, đại thiên thế giới đều ở trong ấy.
Nam Tuyền bảo:- Vương lão sư vậy.
Sư đội mũ ra đi.
*
Sau, Sư về trụ trì tại Hồng Châu chùa Ðại An. Ðồ chúng tìm đến rất đông.
Có lần, Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy trụ trì:
- Vẽ cái gì đây?
Thầy trụ trì đáp:- Vẽ hình Cao tăng.
Bùi Hưu hỏi:- Hình có thể thấy, Cao tăng ở đâu?
Thầy trụ trì không đáp được.
Bùi Hưu hỏi:
- Trong đây có Thiền nhân chăng?
Thầy trụ trì đáp:
- Vừa có một vị Tăng vào chùa đang làm việc in tuồng Thiền giả.
Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói:
- Hưu vừa có một câu hỏi, chư đức tiếc lời, giờ thỉnh thượng nhân đáp thế một câu.
Sư bảo:- Mời Tướng công hỏi lại.
Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước.
Sư dùng tiếng trong thanh gọi:- Bùi Hưu!
Bùi Hưu:- Dạ!
Sư bảo:- Ở chỗ nào?
Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ làm thầy.
*
Có hôm Bùi Hưu hỏi:- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Tức tâm là Phật, không tâm là đạo. Chỉ không có cái tâm khởi tâm động niệm, có không, dài ngắn, ta người, năng sở... Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm, tâm như hư không, sở dĩ nói: "Chân Pháp thân của Phật ví như hư không." Không nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Giả sử trải qua số kiếp như cát sông Hằng tu hành lục độ vạn hạnh, được Phật Bồ-đề, cũng không phải cứu kính. Vì cớ sao? Vì thuộc về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô thường. Sở dĩ nói: "Báo, Hóa không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp." Cốt biết tâm mình không ngã không nhân xưa nay là Phật.
Bùi Hưu hỏi:
- Tâm đã xưa nay là Phật, lại cầu tu lục độ vạn hạnh chăng?
Sư đáp:
- Ngộ tại tâm, không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn hạnh đều là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh. Giả sử Bồ-đề, chân như, thật tế, giải thoát, pháp thân, thẳng đến thập địa, bốn quả vị thánh đều là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Tâm tức là Phật, nên nói: "Tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc nhất." Chỉ không tâm sanh tử phiền não v.v... tức không cần đến pháp Bồ-đề v.v... nên nói "Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp" (Tổ Huệ Năng). Từ Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ luận một tâm, cũng nói là "Nhất thừa", nên nói "tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng sanh này không còn nhánh lá, chỉ toàn hạt chắc (kinh Pháp Hoa). Bởi vì ý này khó tìm, nên Tổ Ðạt-ma sang xứ này đến hai nước Lương, Ngụy mà chỉ có một mình Huệ Khả đại sư thầm tin tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội "tức tâm là Phật". Thân tâm đều không, ấy là đại đạo. Ðại đạo xưa nay bình đẳng, nên nói "tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh". Tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ. Lại có câu: "Khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn."
Sau này, Tướng quốc Bùi Hưu đến trấn Uyển Lăng lập đại Thiền uyển thỉnh Sư làm hóa chủ ở đó. Vì mến núi cũ nên Sư vẫn để hiệu là Hoàng Bá [Phần truyền dạy của Sư cho Bùi Hưu đầy đủ, nên đọc phần sưu tập "Tối Thượng Thừa Luận"].
*
Một hôm, Sư thượng đường, đại chúng vân tập, Sư bảo:
- Các ngươi! các ngươi muốn cầu cái gì?
Sư cầm trượng đuổi chúng. Ðại chúng không tan. Sư lại ngồi xuống bảo:
- Các ngươi toàn là bọn ăn hèm, thế mà xưng hành khước để cho người chê cười.
Thà cam thấy tám trăm, một ngàn người giải tán, chớ không thể chịu sự ồn náo. Ta khi đi hành khước hoặc gặp dưới rễ cỏ có cái ấy, là đem hết tâm tư xem xét nó. Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường. Trong lúc đó, nếu dễ dàng như các ngươi hiện giờ thì làm gì có việc ngày nay. Các ngươi đã xưng là hành khước, cần phải có chút ít tinh thần như thế, mới có thể biết đạo. Trong nước Ðại Ðường không có Thiền sư sao?
Có vị Tăng ra hỏi:
- Bậc tôn túc ở các nơi hợp chúng chỉ dạy, tại sao nói không Thiền sư?
Sư bảo:
- Chẳng nói không thiền, chỉ nói không Sư. Xà-lê chẳng thấy sao, dưới Mã Tổ Ðại sư có tám mươi bốn người ngồi đạo tràng, song được chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng Lô Sơn Qui Tông là một trong số ấy.
Phàm người xuất gia phải biết sự phần từ trước lại mới được. Vả như, dưới Tứ Tổ, Ðại sư Ngưu Ðầu Pháp Dung nói dọc nói ngang vẫn chưa biết then chốt hướng thượng. Có con mắt này mới biện được tông đảng tà chánh. Người hiện giờ không hay thể hội, chỉ biết học ngôn ngữ, nghĩ nhầm trong đãy da tức chỗ đến an ổn, xưng là ta hội thiền, lại thay việc sanh tử cho ngươi được chăng? Khinh thường bậc lão túc vào địa ngục nhanh như tên bắn. Ta vừa thấy ngươi vào cửa liền biết được rồi. Lại biết chăng? Cần kíp nỗ lực chớ dung dị. Thọ nhận chén cơm manh áo của người mà để một đời qua suông, người sáng mắt chê cười. Ngươi thời gian sau hẳn sẽ bị người tục lôi đi. Phải tự xem xa gần cái gì là việc trên mặt? Nếu hội liền hội, nếu không hội giải tán đi. Trân trọng!
*
Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi:- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư liền đập một gậy. Ðến ba phen hỏi, mỗi lần đều bị một gậy. Sau cùng, Sư Lâm Tế phải từ giã Sư đi nơi khác. Sư dạy qua tham vấn Ðại Ngu. Sau này, Lâm Tế đắc ngộ ý chỉ của Sư.
*
Chỗ chỉ dạy của Sư đều nhằm vào bậc thượng căn, người trung và hạ khó thấy được yếu chỉ.
Ðời Ðường khoảng niên hiệu Ðại Trung (847-860 T.L.), Sư tịch tại núi Hoàng Bá.
Nhà vua sắc thụy là Ðoạn Tế Thiền sư, tháp hiệu Quảng Nghiệp.
Sư có làm bài kệ khích lệ chúng:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Ðầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
*
37. THIỀN SƯ ÐẠI AN
(? - 883)
Sư họ Trần, quê ở Phước Châu, xuất gia lúc còn bé, ở núi Hoàng Bá chuyên học Kinh Luật. Sư thường tự nghĩ: "Ta tuy cố gắng nhọc nhằn mà chưa nghe được lý huyền cực." (lý cao siêu tột cùng của đạo) Do đó, Sư bèn một mình du phương, định sang Hồng Châu, đi Thượng Nguyên gặp một ông già bảo Sư: "Thầy nên đến Nam Xương sẽ có sở đắc." Sư liền đi đến ra mắt Bá Trượng.
Lễ bái xong, Sư thưa:- Con muốn cầu biết Phật, thế nào là phải?
Bá Trượng bảo:- Thật là người cỡi trâu tìm trâu.
- Sau khi biết thì thế nào?
- Như người cỡi trâu về đến nhà.
- Chẳng biết trước sau gìn giữ thế nào?
- Như người chăn trâu cầm roi dòm chừng không cho nó ăn lúa mạ của người.
Sư nhân đây lãnh hội ý chỉ, chẳng đi tìm đâu nữa.
*
Nhân Thiền sư Linh Hựu khai sáng tại Qui Sơn, Sư đích thân đến đó phụ tá. Ðến khi Linh Hựu tịch, đại chúng thỉnh Sư tiếp nối trụ trì.
Sư thượng đường bảo chúng:
- Cả thảy các ngươi đến Ðại An này tìm cầu cái gì? Nếu muốn làm Phật, các ngươi tự là Phật. Sao lại gánh Phật sang nhà bên cạnh tìm, luống tự nhọc nhằn? Ví như con nai khát nước mà chạy theo ánh nắng (ánh nắng giống như nước, con nai lầm tưởng là nước cắm đầu chạy tìm), biết bao giờ được khế hợp.
Các ngươi muốn làm Phật, chỉ cần không có những tâm: điên đảo, vin theo, vọng tưởng, nghĩ ác, cấu đục, chẳng sạch của chúng sanh, tức các ngươi là Phật chánh giác mới phát tâm, lại đến chỗ riêng nào luận bàn. Sở dĩ, Ðại An này ở tại núi Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui, mà không học thiền núi Qui, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ, liền lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người, liền đánh đập điều phục nó. Ðáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi.
Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa con mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa lỗ tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ, sáu cửa ngày đêm thường phóng quang sáng, cũng gọi là phóng quang tam-muội. Các ngươi tự chẳng biết, lại nhận bóng trong thân tứ đại. Nó là vật do trong ngoài giúp đỡ không dám chinh nghiêng, như người gánh nặng đi qua cây cầu khỉ, không dám để sẩy chân. Hãy nói vật gì có thể gìn giữ được? Như thế, không có một mảnh tơ, một sợi tóc có thể thấy. Ðâu chẳng nghe Hòa thượng Chí Công nói: "Trong ngoài tìm kiếm trọn không ra. Trên cảnh thi vi gồm tất cả."
Trân trọng!
*
Có vị Tăng hỏi Sư:
- Tất cả thi vi là dụng của pháp thân, thế nào là pháp thân?
Sư đáp:- Tất cả thi vi là dụng của pháp thân.
- Lìa năm uẩn, thế nào là thân xưa nay?
- Ðất nước gió lửa, thọ tưởng hành thức.
- Cái ấy là năm uẩn?
- Cái ấy là năm uẩn.
*
Tăng hỏi:- Khi ấm này đã mất, ấm kia chưa sanh thì thế nào?
Sư bảo:- Ấm này chưa mất, cái gì là Ðại đức?
- Chẳng hội.
- Nếu hội ấm này liền rõ ấm kia.
*
Hòa thượng Tuyết Phong nhân vào núi lượm được một nhánh cây hình giống con rắn, đề trên lưng một câu: "vốn tự thiên nhiên chẳng nhờ bào gọt", gởi tặng Sư.
Sư nhận, nói:- Người bản sắc ở núi, vẫn không vết dao búa.
*
Có người hỏi Sư:- Phật ở chỗ nào?
Sư đáp:- Chẳng lìa tâm.
- Người trên hai ngọn có được cái gì?
- Pháp không có chỗ được, dù có chỗ được, được vốn không được.
*
Sư giáo hóa ở thành Mân (tỉnh Phước Kiến) hơn hai mươi năm.
Ðời Ðường niên hiệu Trung Hòa năm thứ ba (883 T.L.), ngày hai mươi hai tháng mười, Sư trở về chùa Hoàng Bá, có chút bệnh rồi tịch. Môn đồ xây tháp thờ Sư trên núi Lăng-già.
Vua ban hiệu là Viên Trí Thiền sư, tháp hiệu Chứng Chơn.
*
38. THIỀN SƯ THẦN TÁN
Sư quê ở Phước Châu, xuất gia tại chùa Ðại Trung quận nhà. Sau, Sư đi hành khước gặp Bá Trượng Hoài Hải chỉ dạy được khai ngộ.
Sư trở về quê, bổn sư hỏi:
- Ngươi rời ta đi các nơi, đã được sự nghiệp gì?
Sư thưa:- Hoàn toàn không có sự nghiệp.
Bổn sư sai hầu hạ như trước.
*
Một hôm, nhân bổn sư tắm, bảo Sư kỳ đất. Sư bèn vỗ vào lưng bổn sư nói:
- Chỗ điện Phật đẹp mà Phật chẳng thánh.
Bổn sư xoay đầu ngó lại.
Sư nói tiếp:
- Phật tuy chẳng thánh vẫn hay phóng quang.
*
Lại một hôm, bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có con ong chui đầu vào tấm giấy dán ở cửa sổ tìm lối ra. Sư trông thấy nói:
- Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?
Sư liền nói bài kệ:
Không môn bất khẳn xuất
Ðầu song dã thái si
Bách niên tán cổ chỉ
Hà nhật xuất đầu thì?
Dịch:
Cửa không chẳng chịu ra
Quá ngu chui cửa sổ
Giấy cũ trăm năm dùi
Ngày nào dùi được phủng?
Bổn sư để kinh xuống hỏi:
- Ngươi đi hành khước gặp người nào, ta trước sau nghe ngươi nói lời dị thường?
Sư thưa:
- Con nhờ ơn Hòa thượng Bá Trượng chỉ dạy được chỗ thôi dứt, nay muốn đáp lại đức từ bi.
Bổn sư bèn bảo chúng đến giờ trai, thỉnh Sư thuyết pháp. Sư lên tòa đề cao môn phong của Bá Trượng, nói:
- Linh Hòa ngọc sáng quang riêng chiếu vượt khỏi căn trần, bày hiện chân thường chẳng câu nệ văn tự. Tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên tức như như Phật.
Bổn sư nghe câu này liền cảm ngộ, bảo:
- Có khi nào Lão tăng nghe được việc tột thế này!
*
Sau, Sư đến trụ trì tại chùa Cổ Linh, giáo hóa đồ chúng được mấy trăm. Sắp tịch, Sư cạo tóc tắm gội bảo đánh chuông, gọi chúng dặn:
- Cả thảy các ngươi có biết chánh định không tiếng tăm chăng?
Chúng thưa:- Chẳng biết.
Sư bảo:- Các ngươi lắng nghe chớ có suy nghĩ riêng.
Chúng đều lắng nghe. Sư an nhiên thị tịch.
*
39. THIỀN SƯ VÔ NGÔN THÔNG
(? - 826)
Sư họ Trịnh, quê ở Quảng Châu, xuất gia tại chùa Song Lâm xứ Vũ Châu. Tánh Sư điềm đạm ít nói mà thông minh, nên thời nhân gọi là Vô Ngôn Thông.
Sư lễ Phật, có một Thiền khách hỏi:- Tọa chủ lễ đó là cái gì?
Sư đáp:- Là Phật.
Thiền khách bèn chỉ tượng Phật hỏi:- Cái này là Phật gì?
Sư không đáp được.
Ðến tối, Sư y phục chỉnh tề đến lễ Thiền khách, thưa:
- Hôm nay Thầy hỏi, tôi chưa biết ý chỉ thế nào?
Thiền khách hỏi:- Tọa chủ được mấy hạ?
Sư thưa:- Mười hạ.
Thiền khách bảo:- Ðã từng xuất gia chưa?
Sư càng thêm mờ mịt.
Thiền khách khuyên Sư đồng đến tham học với Mã Tổ. Ði đến Giang Tây nghe tin Mã Tổ đã tịch, bèn đến yết kiến Bá Trượng Hoài Hải.
*
Một hôm, trong giờ tham vấn, có vị Tăng hỏi Bá Trượng:
- Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Ðại thừa?
Bá Trượng đáp:
- Ðất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu.
Nghe câu này, Sư hoát nhiên đại ngộ.
*
Sau, Sư về Quảng Châu trụ trì tại chùa Hòa An.
Có người hỏi:- Thầy phải Thiền sư chăng?
Sư đáp:- Bần đạo chẳng từng học thiền.
Sư lặng thinh giây lâu, gọi người kia:
Người kia đáp:- Dạ!
Sư chỉ cây tông lư (cây móc).
*
Một hôm, Sư bảo Huệ Tịch đem giường lại. Huệ Tịch đem đến.
Sư bảo:- Ðem lại chỗ cũ.
Huệ Tịch vâng theo.
Sư hỏi:- Cái giường ở bên này là vật gì?
- Không vật.
- Cái giường để bên kia là vật gì?
- Không vật.
Sư gọi: Huệ Tịch!
Huệ Tịch đáp: Dạ!
Sư bảo: Ði!
*
Năm Canh Tý niên hiệu Nguyên Hòa đời Ðường (820 T.L.), Sư sang An Nam ở chùa Kiến Sơ làng Phù Ðổng (Bắc Ninh). Ở đây trọn ngày, Sư ngồi xây mặt vào vách suốt mấy năm mà không ai biết, chỉ Thiền sư Cảm Thành (trụ trì chùa này) biết Sư là vị Cao tăng đắc đạo trong nhà thiền. Cảm Thành hết lòng kính trọng tôn thờ Sư làm thầy.
Một hôm, Sư gọi Cảm Thành đến bảo:
- Ngày xưa Tổ sư là Nam Nhạc (Hoài Nhượng) khi sắp tịch có dặn mấy lời:
Nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại
Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.
Dịch:
Tất cả các pháp đều từ tâm sanh
Tâm không chỗ sanh, pháp không chỗ trụ
Nếu đạt tâm địa chỗ trụ không ngại
Chẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy.
Nói xong, Sư chấp tay thị tịch, nhằm năm Bảo Lịch thứ hai đời Ðường (826 T.L.). Cảm Thành rước Sư lên hỏa đàn, thu hài cốt xây tháp thờ ở núi Tiên Du.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro