THIỀN SƯ TRUNG HOA
TẬP MỘT
H.T THÍCH THANH TỪ
ÐỜI THỨ BA SAU LỤC TỔ
B. PHÁI HOÀI NHƯỢNG Ðệ tử THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT (138 vị)
13. THIỀN SƯ HOÀI HẢI Bá Trượng - (724 - 814)
Sư họ Vương, quê ở Trường Lạc, Phước Châu. Lúc bé theo mẹ đi chùa lễ Phật, Sư chỉ tượng Phật hỏi mẹ: Ðây là gì? Mẹ bảo: Phật. Sư nói: Hình dung không khác với người, con sau cũng sẽ làm Phật. Sư xuất gia lúc còn để chóp và hằng chuyên cần tu học giới định tuệ.
Sau, Sư đến tham học với Mã Tổ (Ðạo Nhất) làm thị giả. Mỗi khi thí chủ đem trai phạn đến, Sư vừa giở lồng bàn ra, Mã Tổ liền cầm nửa cái bánh chỉ chúng hỏi: "Ðây là gì?" Như thế mãi đến ba năm.
Một hôm, Sư theo hầu Mã Tổ đi dạo, thấy một bầy vịt trời bay qua.
Mã Tổ hỏi:- Ðó là cái gì?
Sư thưa:- Con vịt trời.
- Bay đi đâu?
- Bay qua.
Mã Tổ bèn nắm lỗ mũi Sư kéo mạnh, đau quá Sư la thất thanh.
Mã Tổ bảo:- Lại nói bay qua đi.
Ngay câu ấy, Sư tỉnh ngộ.
Trở về phòng thị giả, Sư khóc lóc rất thống thiết. Những người đồng phòng nghe, hỏi:
- Huynh nhớ cha mẹ phải chăng?
Sư đáp:- Không.
- Bị người ta mắng chửi chăng?
- Không.
- Tại sao khóc?
- Lỗ mũi tôi bị Hòa thượng kéo đau thấu xương.
- Có nhân duyên gì không khế hội?
- Huynh hỏi Hòa thượng đi.
Những vị ấy đến hỏi Mã Tổ:
- Thị giả Hải có nhân duyên gì chẳng khế hội ở trong phòng khóc, xin Hòa thượng vì chúng con nói.
Mã Tổ bảo:
- Y đã khế hội, các ngươi tự hỏi lấy y.
Các vị ấy về phòng hỏi:
- Hòa thượng nói huynh đã hội, bảo chúng tôi về hỏi huynh.
Sư bèn cười hả! hả!
Các vị ấy bảo:- Vừa rồi khóc, sao bây giờ cười?
Sư đáp:- Vừa rồi khóc, bây giờ cười.
Các vị ấy mờ mịt không hiểu.
Hôm sau, Mã Tổ vừa lên tòa, chúng nhóm họp xong, Sư bước ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống tòa, Sư theo sau đến phương trượng.
Mã Tổ hỏi:- Ta chưa nói câu nào, tại sao ngươi cuốn chiếu?
Sư thưa:- Hôm qua bị Hòa thượng kéo chót mũi đau.
- Hôm qua ngươi để tâm chỗ nào?
- Chót mũi ngày nay lại chẳng đau.
- Ngươi hiểu sâu việc hôm qua.
Sư làm lễ, lui ra.
Ðứng hầu Mã Tổ, Sư thấy phất tử (đồ quét bụi) ở góc giường, bèn hỏi:
- Tức đây dùng, lìa đây dùng?
Mã Tổ bảo:- Về sau ngươi mở miệng sẽ lấy cái gì vì người?
Sư cầm phất tử dựng đứng.
Mã Tổ hỏi:- Tức đây dùng, lìa đây dùng?
Sư để phất tử lại chỗ cũ.
Mã Tổ nghiêm chỉnh nạt một tiếng, đến ba ngày Sư còn điếc tai.
Sau, Sư về núi Ðại Hùng tại Hồng Châu. Ngọn núi này cao vót đến trăm trượng nên thời nhân gọi Sư là Bá Trượng. Bốn phương học giả đua nhau đến tham học rất đông. Trong số học chúng có Thiền sư Hy Vận và Linh Hựu là hàng đầu.
Một hôm, Sư bảo chúng:
- Phật pháp không phải là việc nhỏ, Lão tăng xưa bị Mã Tổ một nạt đến ba ngày lỗ tai còn điếc.
Hy Vận nghe nói bất giác le lưỡi.
Sư bảo:- Con về sau thừa kế Mã Tổ chăng?
Hy Vận thưa:
- Không. Nay nhân Hòa thượng nhắc lại, con được thấy Mã Tổ đại cơ, đại dụng, nhưng vẫn không biết Mã Tổ. Nếu con thừa kế Mã Tổ, về sau mất hết con cháu của con.
Sư bảo:
- Ðúng thế, đúng thế, thấy bằng với thầy là kém thầy nửa đức, thấy vượt hơn thầy mới kham truyền trao. Con hẳn có cái thấy vượt hơn thầy.
Hy Vận liền lễ bái.
Lại một hôm, có vị Tăng vừa đi vừa khóc đi thẳng vào pháp đường.
Sư hỏi:- Làm gì?
Tăng thưa:- Cha mẹ đồng thời chết, thỉnh Thầy chọn ngày.
Sư bảo:- Ngày mai đồng thời chôn.
Sư mỗi khi thượng đường dạy chúng có một ông già theo chúng nghe pháp. Hôm nọ, chúng ra hết chỉ còn ông già không đi. Sư hỏi:
- Ông là người gì?
Ông già thưa:
- Con chẳng phải người. Thời quá khứ thuở đức Phật Ca-diếp, con làm Tăng ở núi này, nhân học trò hỏi: "người đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng", con đáp: "không rơi vào nhân quả". Do đó, đến năm trăm đời đọa làm thân chồn. Nay thỉnh Hòa thượng chuyển một câu nói để con thoát khỏi thân chồn.
Sư bảo:- Ông hỏi đi.
Ông già hỏi:- Người đại tu hành có rơi vào nhân quả chăng?
Sư đáp:- Không lầm nhân quả.
Ngay câu nói ấy, ông già đại ngộ, làm lễ thưa:
- Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi, dám xin Hòa thượng lấy theo lễ Tăng chết mà tống táng con.
Sư vào trong kêu duy-na đánh kiểng bảo chúng ăn cơm xong đưa đám một vị Tăng, đại chúng nhóm nhau bàn tán "đại chúng đều mạnh, nhà dưỡng bệnh không có người nào nằm, tại sao có việc này?"
Sau khi cơm xong, Sư dẫn chúng đến hang núi phía sau, lấy gậy khơi lên thấy xác một con chồn vừa chết, bèn làm lễ thiêu như vị Tăng.
Sư thượng đường dạy chúng:
- Linh quang chói sáng vượt khỏi căn trần, thể bày chân thường không cuộc văn tự, tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên tức như như Phật.
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là pháp yếu Ðại thừa đốn ngộ?
Sư đáp:
- Các ngươi trước dứt sạch các duyên, thôi hết muôn việc, tất cả các pháp thiện cùng chẳng thiện, thế gian và xuất thế gian chớ ghi nhớ, chớ duyên niệm, buông bỏ hết khiến tâm tự tại. Tâm như cây đá không có phân biệt, không có chỗ đi. Ðất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự hiện. Như mây tan thì trăng hiện. Chỉ dứt tất cả thứ vin theo, tình cảm tham sân ái thủ nhơ sạch đều hết. Ðối với ngũ dục, bát phong không bị thấy nghe hiểu biết ràng buộc, không bị các cảnh làm mê hoặc, tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, ấy là người giải thoát.
Ðối với tất cả cảnh, tâm không yêu không loạn, không thu nhiếp không phân tán, thấu tất cả thanh sắc không bị dính ngại, gọi là Ðạo nhân.
Thiện ác phải quấy đều không dùng, không mến một pháp, cũng không bỏ một pháp, gọi là người Ðại thừa.
Không bị tất cả pháp thiện ác, không hữu, nhơ sạch, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, phước đức trí tuệ ràng buộc, gọi là Phật tuệ.
Phải quấy, tốt xấu, đúng lý phi lý, các tình cảm thấy biết hết sạch, không thể trói buộc, nơi nơi đều được tự tại, gọi là Bồ-tát mới phát tâm liền lên địa vị Phật.
Tăng hỏi:- Ðối tất cả cảnh làm sao tâm được như cây đá?
Sư đáp:
- Tất cả pháp vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc, chẳng nói phải quấy nhơ sạch, cũng không có tâm trói buộc người, chỉ tự người hư vọng tính chấp, tạo bao nhiêu thứ hiểu, khởi bao nhiêu thứ thấy biết, sanh bao nhiêu thứ yêu sợ. Cần phải nhận rõ các pháp không tự sanh, đều do một niệm vọng tưởng điên đảo của mình chấp tướng mà có. Biết tâm cùng cảnh vốn không đến nhau thì ngay nơi đó là giải thoát, mỗi mỗi pháp ngay nơi đó là lặng lẽ, ngay nơi đó là đạo tràng.
Lại, tánh sẵn có không thể gọi tên, xưa nay không phải phàm không phải thánh, chẳng phải nhơ sạch, chẳng phải hữu không, cũng chẳng phải thiện ác, cùng các pháp nhiễm hợp nhau, gọi là người trời nhị thừa. Nếu tâm nhơ sạch hết, chẳng trụ nơi ràng buộc chẳng trụ nơi giải thoát, không tất cả tâm lượng hữu vi vô vi, phược thoát, ở nơi sanh tử tâm vẫn tự tại. Hoàn toàn không hòa hợp với uẩn, giới, sanh tử, các nhập, trần lao hư huyễn, siêu nhiên không nương tựa, tất cả không ràng buộc, đi ở không ngại, qua lại trong sanh tử như cửa mở.
Phàm người học đạo nếu gặp các thứ khổ vui, việc vừa ý không vừa ý, tâm không lui sụt, chẳng để tâm đến danh dự lợi dưỡng ăn mặc, chẳng tham tất cả công đức lợi ích, không bị các pháp thế gian buộc ngại, không thân mến khổ vui, tâm hằng bình đẳng, ăn cơm hẩm cốt nuôi mạng sống, mặc áo vá chỉ để ngừa lạnh; ngơ ngơ như ngu như điếc, sẽ được ít phần tương ưng. Nếu trong tâm ham học rộng biết nhiều, cầu phước cầu trí, đều là ở trong sanh tử, đối với lý đạo thật vô ích, lại bị gió hiểu biết thổi trôi giạt trở lại trong biển sanh tử.
Phật là người không cầu, có cầu tức trái lý, lý không cầu này nếu cầu liền mất. Nếu chấp không cầu, lại đồng có cầu. Nếu chấp vô vi, lại đồng hữu vi. Cho nên kinh nói: "Không thủ pháp không thủ phi pháp, không thủ phi phi pháp." Lại nói: "Như Lai đã được pháp, pháp này không thật không hư."
Nếu người hay một lúc tâm giống như cây đá, không bị ấm, giới, ngũ dục, bát phong thổi trôi giạt, liền đoạn được nhân sanh tử, đi đứng tự do, chẳng bị tất cả hữu vi nhân quả ràng buộc, chẳng bị hữu lậu câu thúc. Khi khác, trở lại đem thân không phược làm lợi ích chúng sanh, lấy tâm không phược ứng hợp tất cả tâm, dùng tuệ không phược cổi tất cả phược, cũng nói "hợp bệnh cho thuốc".
Tăng hỏi:
- Như nay thọ giới rồi thân khẩu được thanh tịnh, lại làm đủ các việc thiện, như thế được giải thoát chăng?
Sư đáp:
- Ðược ít phần giải thoát, chưa được tâm giải thoát, chưa được tất cả chỗ giải thoát.
Tăng hỏi:
- Thế nào là tâm giải thoát và tất cả chỗ giải thoát?
Sư đáp:
- Chẳng cầu Phật, Pháp, Tăng, cho đến chẳng cầu phước trí tri giải, tình cảm nhơ sạch hết, chẳng chấp tâm không cầu là phải, chẳng trụ chỗ hết, cũng chẳng mến thiên đường sợ địa ngục, trói buộc cổi mở không ngại, tức thân tâm và tất cả chỗ đều gọi giải thoát.
Ngươi chớ cho có ít phần giới thân khẩu ý tịnh là xong, đâu biết môn giới định tuệ như hà sa, mà vô lậu giải thoát toàn chưa dính một mảy.
Cố gắng! Nhằm hiện nay cố tìm xét lấy, đừng đợi mắt mờ tai điếc, tóc bạc, mặt nhăn, già khổ đến thân, buồn thảm triền miên mắt hằng rơi lệ, trong tâm hoảng sợ không một nơi y cứ, chẳng biết chỗ đi. Ðến khi ấy, muốn nghiêm chỉnh tay chân cũng không thể kềm được, dù có phước trí, danh dự lợi dưỡng trọn không cứu được. Vì mắt tâm chưa mở, chỉ nhớ các cảnh, không biết phản chiếu, lại chẳng thấy Phật đạo. Một đời có tạo việc thiện ác thảy hiện ở trước, hoặc vui hoặc sợ, sáu đạo năm uẩn thảy bày hiện tiền. Trang sức nhà cửa ghe thuyền xe cộ đẹp đẽ hiển hách, đều từ tâm tham ái của mình hiện ra, tất cả cảnh ác đều biến thành cảnh thù thắng. Chỉ tùy tâm tham ái chỗ nào nặng, nghiệp thức dẫn đến thọ sanh, hoàn toàn không có phần tự do, rồng súc tốt xấu trọn chưa định được.
Tăng hỏi:- Thế nào được phần tự do?
Sư đáp:
- Hiện nay đối với ngũ dục bát phong lòng không lấy bỏ, xan tham tật đố tham ái ngã sở đều hết, nhơ sạch chẳng còn, như mặt trời mặt trăng trong hư không, không duyên mà chiếu. Tâm tâm như cây đá, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, cũng như con voi lớn qua sông vừa ùm xuống là đến bờ kia, không bị ngăn ngại. Người này không nhiếp thuộc về thiên đường hay địa ngục.
Phàm học kinh xem giáo lý, mỗi câu đều phải uyển chuyển xoay về nơi mình, tất cả ngôn giáo chỉ làm sáng tỏ tánh giác hiện nay của mình. Chỉ không bị tất cả cảnh có, không... lôi là Ðạo sư của người; hay chiếu phá tất cả cảnh có, không... là tuệ Kim Cang, tức có phần tự do tự tại. Nếu không như thế để hội đạo, dù có tụng được mười hai phần giáo cũng chỉ thành Tăng thượng mạn, lại là người chê bai Phật, không phải là người tu hành. Chỉ lìa tất cả thanh sắc, cũng chẳng trụ nơi lìa, chẳng trụ nơi tri giải, là người tu hành.
Ðọc kinh xem giáo lý, nếu chiếu theo thế gian là việc tốt, nếu nhằm vào người minh lý thì thường đọc xem là kẻ bế tắc. Người thập địa vượt ra, không đi vào vòng sanh tử, nhưng giáo lý Tam thừa để trị bệnh tham, sân... như hiện nay niệm niệm nếu có bệnh tham, sân... thì trước phải trị nó, chẳng cần tìm cầu câu nghĩa hiểu biết. Hiểu biết thuộc về tham, tham thì trở thành bệnh. Như hiện nay chỉ lìa tất cả pháp có, không, cũng lìa cái lìa vượt ngoài ba câu (có, không, chẳng phải có chẳng phải không) tự nhiên cùng Phật không khác. Ðã tự là Phật, lo gì Phật không hiểu ngôn ngữ. Chỉ e không phải là Phật, bị các pháp có, không trói buộc chẳng được tự do. Bởi lý chưa vững, trước có phước trí, bị phước trí chở đi, như người nghèo ở trong cảnh sang. Không bằng trước vững lý, sau mới có phước trí. Nếu cần phước trí thì tạm thời làm được, nắm đất biến thành vàng, nắm vàng biến thành đất, biến nước biển thành tô-lạc, đập núi Tu-di thành bụi nhỏ, hốt nước bốn biển dồn vào một lỗ chân lông, nơi một nghĩa làm vô lượng nghĩa, nơi vô lượng nghĩa làm một nghĩa.
Có vị Tăng hỏi:
- Cuốc cỏ chặt cây, khai mương đào đất, có tướng tội báo chăng?
Sư đáp:
- Không thể nói quyết định có tội, cũng không thể nói quyết định không tội, có tội không tội việc tại người đương thời. Nếu tham nhiễm tất cả pháp có, không... có tâm lấy bỏ, còn chưa vượt khỏi ba câu, người này nhất định nói có tội. Nếu vượt ngoài ba câu, tâm như hư không, cũng chẳng tưởng hư không, người này nhất định nói không tội.
Lại nữa, nếu tạo tội rồi, nói không thấy có tội thì thật vô lý. Nếu không làm tội, mà nói có tội thì cũng vô lý. Như trong Luật, do mê giết người và chuyển tướng giết, còn không phạm tội sát. Huống là Thiền tông truyền trao nhau tâm như hư không, không dừng ở một vật, cũng không có tướng hư không, thì đem tội để ở chỗ nào?
Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là "hữu tình không Phật tánh, vô tình có Phật tánh"?
Sư đáp:
- Từ người đến Phật là tình chấp thánh, từ người đến địa ngục là tình chấp phàm. Chỉ như hiện nay đối hai cảnh phàm, thánh có tâm nhiễm ái gọi là "hữu tình không Phật tánh". Hiện nay đối hai cảnh phàm, thánh và tất cả pháp có, không... trọn không có tâm lấy bỏ, cũng không cái hiểu biết không lấy bỏ, ấy là "vô tình có Phật tánh". Chỉ không có tình ràng buộc, nên gọi vô tình. Không đồng với loài vô tình như: cây, đá, hư không, hoa vàng, trúc biếc, mà cho là có Phật tánh. Nếu nói loài vô tình ấy có Phật tánh, tại sao trong kinh không thấy thọ ký được thành Phật? Chỉ cái giác chiếu soi hiện nay không bị hữu tình thay đổi, dụ như trúc biếc, ứng cơ biết thời thiết dụ như hoa vàng.
Lại, nếu bước lên nấc thang Phật thì vô tình có Phật tánh, chưa bước lên nấc thang Phật thì hữu tình không Phật tánh.
Hằng ngày làm công tác, Sư đều dẫn đầu trong chúng. Một hôm, chúng Tăng lén giấu dụng cụ không cho Sư làm, Sư tìm mãi không được, bảo:
- Tôi không có đức hạnh, đâu dám làm nhọc người. Sư nhịn ăn hôm ấy, nên có câu "một ngày không làm, một ngày không ăn" (nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực).
Sư có soạn bộ qui tắc trong nhà Thiền, lấy tên là "Bá Trượng Thanh Qui". Ðời Ðường niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ chín (814 T.L.) ngày mười bảy tháng giêng, Sư qui tịch, thọ chín mươi lăm tuổi. Vua ban hiệu là Ðại Trí Thiền sư, tháp hiệu Ðại Bảo Thắng Luân.
14. THIỀN SƯ PHỔ NGUYỆN Nam Tuyền - (749 - 834)
Sư họ Vương, quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu. Ðời Ðường niên hiệu Chí Ðức thứ hai (758 T.L.), Sư theo Thiền sư Ðại Huệ ở núi Ðại Ngung xuất gia học đạo. Năm ba mươi tuổi, Sư lên núi Cao Nhạc thọ giới cụ túc. Lúc đầu, Sư học tập Tướng tông và Luật tông, kế tìm đến các nơi giảng Kinh Luận thọ học. Sư đã học được kinh Lăng-già, Hoa Nghiêm, Trung Luận, Bách Luận...
Sau, Sư đến Mã Tổ bỗng nhiên "được cá quên nôm" (đạt lý quên lời), được du hí tam-muội (chánh định ngao du tự tại). Một hôm, Sư bưng cháo cho chúng Tăng, Mã Tổ hỏi:
- Trong thùng thông là cái gì?
Sư thưa:- Ông già nên ngậm miệng, nói năng làm gì?
Mã Tổ bèn thôi.
Từ đây về sau, những bạn đồng tham học không ai dám gạn hỏi Sư điều gì.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ mười một (795 T.L.), Sư tạm biệt Mã Tổ đi tìm nơi cất am. Sau khi rời Mã Tổ, Sư đồng đi với Thiền sư Bảo Vân, Trí Thường, Trí Kiên cả thảy bốn người. Ðến giữa đường, sắp từ biệt nhau, Sư cắm gậy xuống đất bảo:
- Nói được cũng bị cái ấy ngại, nói không được cũng bị cái ấy ngại.
Trí Thường liền nhổ gậy, đập Sư một gậy, rồi nói:
- Cũng chỉ cái ấy, Vương lão sư (thầy già họ Vương) nói cái gì ngại, chẳng ngại?
Bảo Vân nói:- Chỉ một câu này truyền khắp thiên hạ.
Trí Thường hỏi:- Lại có cái chẳng khắp chăng?
Bảo Vân đáp:- Có.
Trí Thường hỏi:- Thế nào là cái chẳng khắp?
Bảo Vân ra bộ tát tai.
Bốn vị ngồi uống trà. Bảo Vân đưa chung trà lên nói:
- Khi thế giới chưa thành vẫn có cái ấy.
Sư bảo:- Người nay chỉ biết cái ấy, chưa biết thế giới.
Trí Thường nói:- Phải.
Sư bảo:- Sư huynh đâu đồng cái thấy này.
Trí Thường lại đưa cái chung trà lên bảo:
- Khi thế giới chưa thành nói được chăng?
Sư ra bộ tát tai, Trí Thường đưa mặt nhận tát tai.
Sư đến núi Nam Tuyền cất am, ở mãi hơn ba mươi năm chưa từng xuống núi. Niên hiệu Thái Hòa năm đầu (827 T.L.), Liêm sứ thành Tuyền Châu là Lục Công Tuyên nghe đạo phong của Sư bèn cùng Giám quân đồng đến thỉnh Sư xuống núi, với tư cách đệ tử thỉnh thầy. Từ đây, Sư mở rộng đạo huyền, số người tham học không khi nào dưới vài trăm. Các nơi gọi Sư là "người mô phạm đất Dĩnh".
Dưới núi Nam Tuyền có một Am chủ, có người nói: "Gần đây có Hòa thượng Nam Tuyền ra đời, sao ông không đến yết kiến?" Am chủ bảo: "Chẳng những Nam Tuyền ra đời, dù có ngàn đức Phật xuất thế, tôi cũng chẳng đến." Sư nghe lời này, bèn sai Tùng Thẩm (Triệu Châu) đi khám phá. Tùng Thẩm đến làm lễ, Am chủ chẳng thèm nhìn. Tùng Thẩm từ Ðông qua Tây, lại từ Tây qua Ðông, Am chủ cũng chẳng nhìn. Tùng Thẩm bảo: "giặc cỏ đại bại", bèn bỏ tấm mành xuống ra về. Tùng Thẩm về thuật lại Sư nghe. Sư bảo:
- Ta từ lâu nghi lão ấy.
Một hôm, Sư đến Trang sở, Trang chủ dự bị đón tiếp. Sư hỏi:
- Lão tăng ra vào thường không cho người biết, sao Trang chủ biết trước mà bày biện như vậy?
Trang chủ thưa:
- Ðêm qua thổ địa mách ngày nay Hòa thượng đến.
Sư bảo:- Vương lão sư tu hành vô lực bị quỉ thần xem thấy.
Thị giả hỏi:- Hòa thượng đã là thiện tri thức, vì sao bị quỉ thần xem thấy?
Sư bảo:- Trước thổ địa để một phần cơm.
Tùng Thẩm hỏi:
- Ðạo chẳng ngoài vật, ngoài vật chẳng đạo, thế nào là đạo ngoài vật?
Sư liền đánh. Tùng Thẩm nắm gậy lại, nói:
- Từ đây về sau chớ có đánh lầm người.
Sư bảo:- Rồng rắn dễ phân biệt, nạp tử (tăng sĩ) khó lường.
Một hôm, Sư đóng cửa phương trượng (nhà thầy trụ trì ở vuông vức một trượng), lấy tro rắc ngoài cửa, bảo:
- Nếu có người nói được liền mở cửa.
Có nhiều vị Tăng nói, mà không hợp ý Sư.
Tùng Thẩm nói:- Trời xanh.
Sư liền mở cửa.
Sư dạy chúng:
- Mã Tổ ở Giang Tây nói "tức tâm tức Phật", Vương lão sư chẳng nói thế ấy, mà nói "chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật", nói thế có lỗi chăng?
Tùng Thẩm lễ bái đi ra.
Khi ấy có vị Tăng theo hỏi Tùng Thẩm:
- Thượng tọa lễ bái đi ra, ý thế nào?
Tùng Thẩm bảo:- Thầy nên hỏi Hòa thượng.
Vị Tăng ấy đến hỏi Sư:
- Hành động vừa rồi của Thượng tọa Thẩm, ý thế nào?
Sư bảo:- Ông ấy đã nhận được ý chỉ của Lão tăng.
Nhà Ðông, nhà Tây tranh nhau con mèo. Sư trông thấy, liền bảo chúng:
- Nói được là cứu con mèo, nói không được thì chém nó.
Chúng Tăng đều ngơ ngác không nói được. Sư liền chém con mèo. Tùng Thẩm ở ngoài đi vào, Sư dùng câu nói trước hỏi. Tùng Thẩm liền cổi giày để trên đầu đi ra. Sư bảo:
- Giá khi nãy có ngươi ở đây, đã cứu được con mèo.
Lục đại phu hỏi Sư:
- Trong nhà đệ tử có một phiến đá, hoặc khi ngồi, hoặc khi nằm, nay tính đem làm tượng Phật được chăng?
Sư đáp:- Ðược.
Ðại phu hỏi:- Chẳng được chăng?
Sư đáp:- Chẳng được.
Ðại phu hỏi:- Ðại Bi Bồ-tát dùng nhiều mắt tay như thế để làm gì?
Sư hỏi lại:- Quốc gia dùng Ðại phu để làm gì?
Sư thượng đường dạy chúng:
- Vương lão sư từ nhỏ nuôi một con trâu đực, tính thả ăn ở khe Ðông sợ e không khỏi phạm nước cỏ của quốc vương, tính thả ăn ở khe Tây cũng sợ e không khỏi phạm nước cỏ của quốc vương, chi bằng tùy thời nhận chút ít trọn chẳng thấy được.
Sư thượng đường bảo:
- Phật Nhiên Ðăng nói "nếu tâm tướng khởi nghĩ sanh ra các pháp là hư giả chẳng thật". Vì cớ sao? Vì tâm còn không có, lấy gì sanh ra các pháp, ví như bóng phân biệt hư không, như người lấy tiếng để trong rương, cũng như thổi lưới muốn được đầy hơi. Cho nên Lão túc bảo "chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật". Nói thế là dạy các huynh đệ chỗ đi vững chắc. Nói: "Bồ-tát Thập địa trụ chánh định Thủ Lăng Nghiêm được pháp tạng bí mật của chư Phật, tự nhiên được tất cả thiền định giải thoát thần thông diệu dụng, đến tất cả thế giới khắp hiện sắc thân, hoặc thị hiện thành Phật chuyển bánh xe đại pháp, vào Niết-bàn, khiến vô lượng vào một lỗ chân lông, nói một câu trải vô lượng kiếp cũng không hết nghĩa, giáo hóa vô lượng ngàn ức chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn, còn gọi là sở tri ngu vi tế." Sở tri ngu cùng đạo trái nhau. Rất khó! rất khó! trân trọng.
Sư thượng đường dạy chúng:
- Các ngươi! Lão tăng lúc mười tám tuổi đã biết kế sống, có ai biết kế sống ra trình, sẽ cùng ngươi thương lượng, người ấy mới đáng ở núi.
Sư lặng thinh giây lâu, nhìn đại chúng chấp tay, nói:
- Vô sự! Trân trọng! Mỗi người tự tu hành.
Ðại chúng vẫn ngồi yên.
Sư bảo:
- Huynh đệ người thời nay gánh Phật để trên vai mà đi, nghe Lão tăng nói: "tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo", bèn hội họp suy nghĩ. Lão tăng không có chỗ để các ngươi suy nghĩ. Nếu các ngươi trói hư không lấy gậy đập được, Lão tăng sẽ cho suy nghĩ.
Có vị Tăng ra hỏi:
- Từ Thượng Tổ cho đến Ðại sư ở Giang Tây đều nói: "tức tâm là Phật", "tâm bình thường là đạo". Nay Hòa thượng nói "tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo", học nhân chắc sanh nghi ngờ, xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy.
Sư đáp:
- Ngươi nếu là Phật thì đâu còn phải nghi, lại hỏi Lão tăng chỗ gì? Có nhà bên cạnh nghi Phật như thế đến, Lão tăng chẳng phải Phật cũng chẳng từng thấy Tổ sư, ngươi nói như thế, tự tìm Tổ sư đi!
Tăng thưa:- Hòa thượng nói như thế, dạy học nhân làm sao phù trì được?
Sư bảo:- Ngươi mau lấy tay bắt hư không đi!
Tăng thưa:- Hư không không tướng không động, làm sao mà bắt?
Sư bảo:
- Ngươi nói không tướng không động tức là động vậy. Hư không đâu biết nói "ta không tướng không động". Ðây đều là tình kiến của ngươi.
Tăng thưa:
- Hư không không tướng không động còn là tình kiến, trước Hòa thượng dạy con bắt hư không là còn vật gì?
Sư bảo:
- Ngươi đã biết không nên nói bắt, mà lại nghĩ làm sao phù trì?
Tăng thưa:
- Tức tâm là Phật đã chẳng được, thị tâm tức Phật được chăng?
Sư bảo:
- Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật, do tình chấp mà có, đều bởi tưởng mà thành. Phật là người trí, tâm là chủ nhóm phân biệt, khi đối vật phát ra diệu dụng. Ðại đức chớ nhận tâm, nhận Phật, dù nhận được cảnh ấy vẫn còn bị người gọi là Sở tri ngu. Cho nên Ðại sư ở Giang Tây bảo: "Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật." Vả lại đã dạy người sau các ngươi chỗ đi như thế. Người học thời nay mặc y phục nhà bên cạnh nghi như thế, muốn được rảnh việc có được chăng?
- Ðã chẳng phải tâm chẳng phải Phật chẳng phải vật, nay Hòa thượng lại nói "tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo", chưa biết thế nào?
- Ngươi chẳng nhận tâm là Phật, trí là đạo, Lão tăng chợt được tâm lại để chỗ nào?
- Ðã hoàn toàn chẳng được thì đâu khác hư không?
- Ðã chẳng phải vật làm sao so với hư không, lại nói cái gì là khác chẳng khác?
- Chẳng lẽ không cái chẳng phải tâm chẳng phải Phật, chẳng phải vật?
- Ngươi nếu nhận cái ấy, lại thành tâm Phật rồi.
- Thỉnh Hòa thượng nói.
- Lão tăng tự chẳng biết.
- Tại sao chẳng biết?
- Bảo ta nói làm sao?
- Ðành chẳng cho học nhân hội đạo sao?
- Hội đạo gì? Lại làm sao hội?
- Con không biết.
- Không biết lại tốt. Nếu lấy lời Lão tăng cho là người nương tựa thông suốt, dù thấy Phật Di-lặc ra đời vẫn bị Ngài nhổ hết lông đầu.
- Dạy người sau thế nào?
- Ngươi tự xem, chớ lo những người sau.
- Trước Hòa thượng chẳng cho con hội thông, giờ lại bảo con tự xem, chưa biết thế nào?
- Thầm hội, diệu hội, làm sao cho ngươi hội?
- Thế nào là diệu hội?
- Lại muốn học ngữ của Lão tăng, dù có nói, là Lão tăng nói, Ðại đức thế nào?
- Con nếu tự hội thì đâu phiền xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy?
- Không thể chỉ Ðông chỉ Tây lừa người, ngươi khi còn khóc tu oa! tu oa! Sao chẳng đến hỏi Lão tăng? Bây giờ khôn ngoan mới nói con chẳng hội, mong cái gì? Nếu người đời này lọt lòng mẹ bèn nói ta xuất gia làm Thiền sư, vậy khi chưa xuất gia từng làm việc gì, hãy nói xem, ta sẽ cùng ngươi thương lượng?
- Khi ấy con chẳng biết.
- Ðã chẳng biết thì hiện nay nhận được, có thể phải sao?
- Nhận được đã chẳng phải, không nhận được phải chăng?
- Nhận, chẳng nhận là lời nói gì?
- Ðến trong ấy con càng chẳng hội.
- Ngươi nếu chẳng hội, ta cũng chẳng hội.
- Con là học nhân tức chẳng hội, Hòa thượng là thiện tri thức phải hội.
- Chỉ nói với ngươi chẳng hội, ai luận thiện tri thức.
Chớ khôn xảo, xem như Mã Tổ lúc còn tại tiền, có một học sĩ đến hỏi: "Như nước không gân xương, hay thắng thuyền muôn đấu, lý này thế nào?" Mã Tổ bảo: "Trong ấy không nước cũng không thuyền, luận gì gân xương." Huynh đệ! học sĩ ấy bèn thôi, đâu không tỉnh lực. Sở dĩ thường thường nói với các ngươi Phật không hội đạo, ta tự tu hành, dùng biết để làm gì?
- Thế nào là tu hành?
- Không thể nghĩ lường, đâu thể nói với ngươi tu thế này, hành thế này, đại nạn!
- Lại cho học nhân tu hành chăng?
- Lão tăng không thể ngăn ngươi.
- Con làm sao tu hành?
- Cần hành thì hành, không nên chuyên tầm bọn khác.
- Nếu không nhờ thiện tri thức chỉ dạy thì không do đâu được hội? Như Hòa thượng mọi khi nói "tu hành phải hiểu mới được, nếu không hiểu thì rơi vào nhân quả, không có phần tự do", chưa biết tu hành thế nào khỏi vào nhân quả?
- Lại chẳng cần thương lượng. Nếu luận tu hành thì chỗ nào chẳng hành được?
- Thế nào hành được?
- Ngươi không thể theo bọn kia tìm được.
- Hòa thượng chưa nói dạy, con làm sao tìm?
- Giả sử nói chỗ tìm đó, vả như ngươi từ sáng đến tối chợt đi Ðông, đi Tây, ngươi còn không suy nghĩ nói, đi được chẳng được, người khác không thể biết được ngươi.
- Ngay khi đi Ðông đi Tây toàn không suy nghĩ, là phải chăng?
- Khi ấy, ai nói là phải chẳng phải?
Có vị Tăng hỏi:
- Trong hư không có một hạt châu làm sao lấy được?
Sư bảo:
- Chặt tre làm thang bắc trong hư không lấy.
- Trong hư không làm sao bắc thang?
- Ngươi nghĩ thế nào lấy?
Sư dạy chúng:
- Chỉ hội được tánh từ vô lượng kiếp đến giờ không biến đổi tức tu hành, diệu dụng mà chẳng trụ tức là hạnh Bồ-tát. Ðạt các pháp không, diệu dụng tự tại, sắc thân tam-muội rõ ràng. Hành lục ba-la-mật không, thì nơi nơi không ngại, dạo trong địa ngục như xem vườn đẹp, không thể nói y chẳng được tác dụng. Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến giờ quên bản tánh, chẳng tự liễu ngộ chân thể, bị mây trần che lấp, đắm mê sắc dục, như mây bay thấy trăng chạy, thuyền đi thấy bờ dời, tạm thời chia đường, chẳng được tự tại, thọ các thứ khổ chẳng tự hiểu biết. Ðến hôm nay hội được tánh bản lai, tánh ấy cùng hiện giờ không khác.
Sư sắp tịch, đệ nhất tọa hỏi:
- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi đi về chỗ nào?
Sư bảo:- Làm con trâu dưới núi.
Tăng hỏi:- Con theo Hòa thượng được chăng?
Sư bảo:- Nếu ngươi muốn theo ta phải ngậm theo một bó cỏ.
Niên hiệu Thái Hòa thứ tám (834 T.L.) ngày rằm tháng hai, Sư có chút bệnh. Sáng hôm sau, Sư bảo chúng:
- Sao che đèn huyễn lâu vậy, chớ bảo ta có đi lại. Sư nói xong liền tịch, thọ tám mươi bảy tuổi.
15. THIỀN SƯ HUỆ HẢI (Ðại Châu)
Sư họ Châu, quê ở Kiến Châu, theo Hòa thượng Ðạo Trí chùa Ðạo Vân ở Việt Châu xuất gia học đạo.
Sư đến tham vấn Mã Tổ.
Mã Tổ hỏi:- Từ đâu đến?
Sư thưa:- Ở Việt Châu chùa Ðại Vân đến.
- Ðến đây tính cầu việc gì?
- Ðến cầu Phật pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?
Sư lễ bái, thưa:- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Ngay câu này, Sư tự nhận bản tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ. Sư ở hầu Mã Tổ sáu năm.
Vì bổn sư tuổi già, Sư phải về phụng dưỡng. Từ đây, Sư tàng ẩn chỗ thâm ngộ của mình, chỉ hiện bề ngoài như kẻ tầm thường. Sư có soạn quyển "Ðốn Ngộ Nhập Ðạo Yếu Môn Luận", bị Huyền Ấn là cháu trong pháp môn lén lấy đến trình Mã Tổ.
Mã Tổ xem xong, bảo chúng:
- Việt Châu có Ðại Châu (hạt châu lớn) tròn sáng thấu suốt tự tại không ngại.
Khi ấy, ở trong chúng có người biết Sư họ Châu bèn rủ nhau lần lượt tìm đến Sư, thưa hỏi và nương tựa. Từ đó người ta gọi Sư là Ðại Châu Hòa thượng.
Sư bảo những vị đến tham vấn:
- Thiền khách! Tôi chẳng hội thiền, trọn không có một pháp có thể chỉ dạy người, không phiền các vị đứng lâu, hãy tự đi nghỉ.
Tuy vậy, mà học chúng dần dần thêm đông, ngày đêm thưa hỏi. Sư bất đắc dĩ vì hỏi giải đáp, biện tài không ngại.
Có vài vị Pháp sư đến hỏi:
- Ðịnh hỏi một câu, Thầy có vui lòng đáp lại chăng?
Sư bảo:- Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc ý mò bắt.
- Thế nào là Phật?
- Hồ nước trong đối diện, chẳng phải Phật là gì?
Các vị ấy còn ngơ ngác, không biết gì cả. Giây lâu có vị lại hỏi:
- Thầy nói pháp gì độ người?
- Bần đạo chưa từng có một pháp gì độ người.
- Thiền sư nhà tối như thế.
- Ðại đức nói pháp gì độ người?
- Giảng kinh Kim Cang Bát-nhã.
- Giảng được bao nhiêu lần?
- Hơn hai mươi lần.
- Kinh này ai nói?
Pháp sư tằng hắng lên giọng gắt:
- Thiền sư khéo nói đùa, há không biết Phật nói sao?
- "Nếu nói Như Lai có nói pháp là chê bai Phật, người ấy không hiểu nghĩa ta nói." (kinh Kim Cang) Nếu nói kinh này không phải Phật nói tức là phỉ báng kinh. Thỉnh Ðại đức nói xem?
Pháp sư im lặng không đáp được.
Sư lại hỏi:
- Kinh nói: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai." Ðại đức hãy nói cái gì là Như Lai?
- Ðến chỗ này tôi mê hẳn?
- Từ trước đến giờ chưa từng ngộ, nói cái gì là mê?
- Thỉnh Thiền sư vì tôi nói!
- Ðại đức giảng kinh hơn hai mươi lượt, lại chưa biết Như Lai?
Pháp sư lại lễ bái, cầu xin chỉ dạy.
Sư bảo:
- Như Lai là nghĩa như của các pháp, đâu thể quên được.
- Phải. Là nghĩa như của các pháp.
- Ðại đức nói phải, cũng chưa phải.
- Văn kinh rõ ràng đâu thể chưa phải?
- Ðại đức "Như" chăng?
- Như.
- Cây cỏ như chăng?
- Như.
- Ðại đức như, đồng cây cỏ như chăng?
- Không hai.
- Ðại đức cùng cây cỏ đâu khác?
Pháp sư không đáp được, im lặng giây lâu lại hỏi:
- Thế nào được Ðại Niết-bàn?
- Chẳng tạo nghiệp sanh tử.
- Thế nào là nghiệp sanh tử?
- Cầu Ðại Niết-bàn là nghiệp sanh tử, bỏ nhơ lấy sạch là nghiệp sanh tử, có đắc có chứng là nghiệp sanh tử, không vượt khỏi môn đối trị là nghiệp sanh tử.
- Thế nào chóng được giải thoát?
- Vốn tự không phược (trói buộc) chẳng cần cầu giải thoát, dùng thẳng hành thẳng là không thứ bực.
Pháp sư khen:- Thiền sư như Hòa thượng thật là ít có.
Khen xong, Pháp sư lễ tạ lui ra.
Có vị cư sĩ đến hỏi:- Tức tâm tức Phật, cái gì là Phật?
Sư bảo:- Ông nghi cái gì không phải Phật chỉ ra xem!
Cư sĩ lặng thinh.
Sư nói tiếp:- Ðạt thì khắp cảnh là Phật, chẳng ngộ hằng trái xa.
Có Luật sư hiệu Pháp Minh đến nói:
- Các Thiền sư phần nhiều rơi vào không.
Sư bảo:- Trái lại, các Tọa chủ phần nhiều rơi vào không.
Pháp Minh hoảng sợ hỏi:- Tại sao rơi vào không?
- Kinh luận là giấy mực văn tự, giấy mực văn tự đều là không, dù trên tiếng dựng lập danh, cú, văn, thân, đâu chẳng phải là không, Tọa chủ bám chặt vào giáo thể đâu chẳng rơi vào không?
- Thiền sư rơi vào không chăng?
- Văn tự v.v... đều từ trí tuệ mà sanh, đại dụng hiện tiền đâu thể rơi vào không.
- Cho biết một pháp không đạt, chẳng gọi là tất-đạt.
- Luật sư chẳng những rơi vào không, lại còn dùng lầm danh ngôn.
Pháp Minh đổi sắc mặt, hỏi:- Lầm chỗ nào?
- Luật sư chưa rành âm Trung Hoa và Phạn, làm sao giảng thuyết?
- Thỉnh Thiền sư chỉ ra chỗ lầm của Pháp Minh?
- Ðâu chẳng biết "tất-đạt" là tiếng Phạn sao?
Pháp Minh tuy nhận thấy lỗi, mà tâm vẫn còn giận, lại hỏi:
- Phàm Kinh, Luật, Luận là lời Phật, đọc tụng y giáo phụng hành, sao chẳng thấy tánh?
Như chó điên đuổi bóng, sư tử ăn thịt người. Kinh, Luật, Luận là tự tánh dụng, người đọc tụng là tánh pháp.
- Phật A-di-đà có cha mẹ và họ chăng?
- Phật A-di-đà họ Kiều-thi-ca, cha tên Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan.
- Xuất phát từ kinh điển nào?
- Xuất phát từ tập Ðà-la-ni.
Pháp Minh lễ tạ khen ngợi lui ra.
Có vị Pháp sư thông Tam tạng đến hỏi:- Chân như có biến đổi chăng?
Sư đáp:- Có biến đổi.
- Thiền sư lầm.
- Ðại đức có chân như chăng?
- Có.
- Nếu không biến đổi quyết định Ðại đức là phàm Tăng. Ðâu chẳng nghe: "Thiện tri thức hay chuyển ba độc thành ba món tịnh giới, chuyển sáu thức thành sáu thần thông, chuyển phiền não thành Bồ-đề, chuyển vô minh thành đại trí chân như." Nếu không biến đổi , Ðại đức thật là ngoại đạo chủ trương tự nhiên vậy.
- Nếu vậy chân như tức có biến đổi.
- Nếu chấp chân như có biến đổi cũng là ngoại đạo.
- Thiền sư vừa nói chân như có biến đổi, giờ lại nói không biến đổi, vậy thế nào thật đúng?
- Nếu người thấy tánh rõ ràng, như hạt châu ma-ni hiện sắc, nói biến đổi cũng được, nói không biến đổi cũng được. Nếu người không thấy tánh, nghe nói chân như biến đổi bèn hiểu biến đổi, nghe nói không biến đổi bèn hiểu không biến đổi.
Pháp sư khen:
- Nên biết, Nam tông (Thiền đốn ngộ miền Nam) không thể lường.
Luật sư Nguyên đến hỏi:- Hòa thượng tu có dụng công chăng?
Sư đáp:- Dụng công.
- Dụng công thế nào?
- Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ.
- Tất cả người đều như vậy, đồng chỗ dụng công của Thầy chăng?
- Chẳng đồng.
- Tại sao chẳng đồng?
- Họ khi ăn chẳng chịu ăn, đòi trăm thứ cần dùng, khi ngủ chẳng chịu ngủ, tính toán ngàn chuyện, do đó chẳng đồng.
Nguyên im lặng.
Ðại đức Uẩn Quang đến hỏi:- Thiền sư tự biết chỗ sanh chăng?
Sư đáp:
- Chưa từng tử đâu cần luận sanh. Biết sanh tức là pháp không sanh, chẳng lìa pháp sanh nói có không sanh. Tổ sư nói: "Chính cái sanh tức không sanh."
- Người không thấy tánh cũng được như vậy chăng?
- Tự chẳng thấy tánh chẳng phải không tánh. Vì sao? Thấy tức là tánh, không tánh thì không thể thấy. Thức tức là tánh, nên gọi thức tánh. Liễu tức là tánh, nên gọi liễu tánh. Hay sanh muôn pháp gọi là pháp tánh, cũng gọi là pháp thân. Tổ sư Mã Minh nói: "Nói là pháp tức là tâm chúng sanh, nếu tâm sanh nên tất cả pháp sanh, nếu tâm không sanh, pháp không nương đâu sanh, cũng không danh tự." Người mê không biết pháp thân không hình tượng hay ứng vật hiện hình, bèn nói: "Trúc biếc xanh xanh đồng là pháp thân, hoa vàng mịt mịt thảy đều Bát-nhã."(Thanh thanh thúy trúc tổng thị pháp thân, uất uất hoàng hoa vô phi Bát-nhã.) Hoa vàng nếu là Bát-nhã, Bát-nhã tức đồng vô tình, trúc biếc nếu là pháp thân, pháp thân tức đồng cây cỏ. Như người ăn măng tức là ăn pháp thân.
Những lối nói như thế đâu thể kể chép hết. Ðối diện mê Phật nhiều kiếp mong cầu, trong pháp thể mà mê lầm, chạy tìm kiếm bên ngoài. Thế nên, người hiểu đạo đi đứng ngồi nằm đều là đạo, người ngộ pháp tung hoành tự tại đều là pháp.
- Hư không hay sanh linh tri chăng? Chân tâm duyên thiện ác chăng? Người tham dục là đạo chăng? Người chấp phải quấy về sau tâm thông chăng? Người xúc cảnh sanh tâm có định chăng? Người trụ chỗ yên lặng có tuệ chăng? Người ôm lòng khinh người có ngã chăng? Người chấp không chấp hữu có trí chăng? Người tầm văn thủ chứng, người khổ hạnh cầu Phật, người lìa tâm cầu Phật, người chấp tâm là Phật, trí này hợp đạo chăng? Thỉnh Thiền sư mỗi mỗi vì đáp:
Hư không chẳng sanh linh tri, chân tâm chẳng duyên thiện ác, người chìm sâu trong tham dục căn cơ cạn, người phải quấy lăng xăng chưa thông, người xúc cảnh sanh tâm ít định, người yên lặng quên hết là tuệ chìm, người khinh người cao mạn là ngã mạn, người chấp không chấp có đều ngu, người tầm văn thủ chứng thêm kẹt, người khổ hạnh cầu Phật là mê, lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo, chấp tâm là Phật là ma.
- Nếu như thế thì rốt ráo không thể có?
- Rốt ráo là Ðại đức, chẳng phải rốt ráo không thể có.
Uẩn Quang vui mừng lễ tạ.
Tọa chủ giảng kinh Duy-ma-cật hỏi:
- Kinh nói: "Lục sư v.v... ngoại đạo kia là thầy của ngươi, nhân kia xuất gia, thầy kia bị đọa ngươi cũng theo đó mà đọa. Người thí cho ngươi chẳng gọi phước điền, cúng dường cho ngươi đọa trong ba đường ác. Chê Phật, hủy Pháp, chẳng vào chúng số, trọn chẳng được diệt độ. Ngươi nếu như thế mới nên nhận thức ăn." (kinh Duy-ma) Thỉnh Thiền sư vì giải thích.
Sư đáp:
- Người mê chạy theo sáu căn gọi là lục sư, ngoài tâm cầu Phật gọi là ngoại đạo, thấy có vật để thí chẳng gọi phước điền, sanh tâm nhận cúng dường đọa ba đường ác. Người nếu hay chê bai Phật là chẳng dám cầu Phật, hủy báng pháp là chẳng dám cầu Pháp, chẳng vào chúng số là chẳng dám cầu Tăng, trọn chẳng được diệt độ là trí dụng hiện tiền. Nếu có người hay hiểu như thế liền được thức ăn thiền duyệt pháp hỉ.
Tọa chủ hỏi:
- Kinh Bát-nhã nói: "độ chín loài chúng sanh đều vào vô dư Niết-bàn", lại nói: "thật không chúng sanh được diệt độ". Hai đoạn văn kinh này làm sao hội thông? Người xưa nay đều nói "thật độ chúng sanh mà chẳng nhận tướng chúng sanh". Tôi còn nghi chưa giải quyết, thỉnh Thiền sư vì giải thích.
- Chín loài chúng sanh trong một thân đầy đủ, tùy tạo tùy hành: vô minh là noãn sanh (sanh bằng trứng), ôm ấp phiền não ở trong là thai sanh (sanh bằng bào thai), nước ái thấm ướt là thấp sanh (sanh chỗ ẩm ướt), nóng nảy khởi phiền não là hóa sanh (từ loài này hóa sanh loài khác). Ngộ tức là Phật, mê gọi là chúng sanh. Bồ-tát chỉ lấy tâm sanh niệm niệm làm chúng sanh, nếu rõ tâm ở trên bản tế (nguồn tâm) của mình mà độ lúc chưa hiện bày, chưa hiện bày đều không, tức biết thật không có chúng sanh được diệt độ.
Sư thượng đường dạy:
- Các ngươi may mắn tự khéo giữ cái vô sự. Kẻ nhọc nhằn tạo tác là mang cùm sa ngục chớ gì? Mỗi ngày từ sáng đến tối bôn ba nói: "ta tham thiền học đạo, hiểu thấu Phật pháp". Như thế càng không dính dáng gì, chỉ chạy theo thanh sắc, biết khi nào dứt. Bần đạo đến tham vấn Hòa thượng ở Giang Tây (Mã Tổ), Hòa thượng dạy: "Kho báu nhà của ngươi đầy đủ tất cả, sử dụng tự tại chẳng nhờ cầu bên ngoài." Bần đạo từ đây thảy thôi, của báu của mình tùy thân thọ dụng, có thể nói sống thích thú, không một pháp có thể thủ, không một pháp có thể xả, chẳng thấy một pháp tướng sanh diệt, chẳng thấy một vật tướng qua lại, khắp mười phương thế giới không có bằng hạt bụi mà chẳng phải của báu nhà mình. Chỉ tự quan sát kỹ càng, tâm mình một thể Tam Bảo, thường tự hiện trước, không thể nghi ngờ. Chớ suy xét, chớ tìm kiếm, tâm tánh xưa nay thanh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt, nếu hay hiểu như thế, chư Phật thường hiện tiền." Kinh Tịnh Danh nói: "Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy." Nếu chẳng theo thanh sắc mà động niệm, chẳng theo tướng mạo mà sanh hiểu, tự nhiên vô sự. Ði! Chớ đứng lâu. Trân trọng!
Hôm nay đại chúng nhóm họp mãi không giải tán.
Sư hỏi:
- Các ngươi vì cớ sao ở đây mãi không đi? Bần đạo đã đối diện trình nhau, lại chịu thôi chăng? Có việc gì khả nghi? Chớ lầm dụng tâm uổng phí khí lực. Nếu có nghi ngờ, các ngươi tùy ý thưa hỏi.
Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là Phật? Thế nào là Pháp? Thế nào là Tăng? Thế nào là một thể Tam Bảo?
Sư đáp:
- Tâm là Phật, chẳng cần đem Phật cầu Phật, tâm là Pháp, chẳng cần đem pháp cầu pháp, Phật Pháp hòa hợp không hai là Tăng, tức là một thể Tam Bảo. Kinh nói: "Tâm, Phật, Chúng sanh cả ba không khác." Thân khẩu ý thanh tịnh gọi là Phật ra đời, ba nghiệp thanh tịnh gọi là Phật diệt độ. Dụ như khi giận thì không vui, khi vui thì không giận. Chỉ là một tâm, thật không hai thể. Bản trí sẵn vậy, vô lậu hiện tiền, như rắn hóa thành rồng không đổi vảy, chúng sanh hồi tâm thành Phật chẳng đổi mặt. Tánh vốn thanh tịnh chẳng đợi tu hành, có chứng có tu tức đồng người tăng thượng mạn. Chân không chẳng kẹt, ứng dụng không cùng, không thủy không chung. Người lợi căn đốn ngộ dụng không thứ bực, tức là A-nậu-bồ-đề (Vô thượng chánh giác). Tâm không hình tướng tức là Sắc thân vi diệu. Không tướng là thật tướng pháp thân. Thể tánh tướng đều không tức là thân hư không vô biên. Muôn hạnh trang nghiêm tức là công đức Pháp thân. Pháp thân này là gốc của muôn hóa, tùy chỗ đặt tên: trí dụng không hết gọi là Vô tận tạng (kho không hết), hay sanh muôn pháp gọi là Bản pháp tạng (kho gốc các pháp), đủ tất cả trí gọi là Trí tuệ tạng (kho trí tuệ), muôn pháp về như gọi là Như lai tạng (kho như lai). Kinh nói: "như lai đó, tức nghĩa như của các pháp", lại nói: "Tất cả pháp sanh diệt thế gian, không có một pháp chẳng về như."
Sư thọ bao nhiêu tuổi, tịch lúc nào và nơi nào, chẳng thấy ở đâu ghi.
16. THIỀN SƯ ẨN PHONG (Ðặng Ẩn Phong)
Sư họ Ðặng, quê ở Thiền Võ, Phước Kiến. Trước Sư đến tham vấn Mã Tổ mà chưa nhận được chỗ huyền áo, Sư lại đến Thạch Ðầu đôi ba phen vẫn không thấy đạo.
Lúc ở chỗ Thạch Ðầu, Sư hỏi:- Làm sao được hội đạo?
Thạch Ðầu bảo:- Ta cũng chẳng hội đạo.
- Cứu kính thế nào?
- Ngươi bị cái ấy bao vây rồi!
Một hôm, Hòa thượng Thạch Ðầu hớt cỏ. Sư khoanh tay đứng bên trái. Thạch Ðầu xoay nhanh chiếc kéo sang trước mặt Sư hớt một gốc cỏ.
Sư thưa:
- Hòa thượng chỉ hớt được cái ấy, không hớt được cái này.
Thạch Ðầu đưa chiếc kéo lên. Sư nắm chiếc kéo, làm thế hớt.
Thạch Ðầu bảo:
- Ngươi chỉ hớt được cái này, không hớt được cái ấy.
Sư không đáp được.
Sau, nơi Mã Tổ một câu nói, Sư ngộ đạo.
Một hôm, Sư đẩy xe đất, Mã Tổ ngồi duỗi chân trên đường.
Sư thưa:- Thỉnh Thầy rút chân.
Mã Tổ bảo:- Ðã duỗi thì không rút.
- Ðã tiến thì không lùi.
Sư bèn đẩy xe qua, cán chân Mã Tổ bị thương. Mã Tổ vào pháp đường cầm chiếc búa gọi:
- Vừa rồi ai đẩy xe cán chân Lão tăng bị thương, hãy ra đây!
Sư bước ra đưa cổ trước Mã Tổ. Mã Tổ liền dẹp búa.
Sư đến chỗ Nam Tuyền Phổ Nguyện, thấy chúng Tăng đang thẩm vấn. Nam Tuyền chỉ tịnh bình bảo:
- Bình đồng (bình bằng đồng) là cảnh, trong bình có nước, chẳng được động đến cảnh, đem nước đến cho Lão tăng.
Sư bèn nắm tịnh bình đem đến trước mặt Nam Tuyền đổ nước.
Nam Tuyền bèn thôi.
Sư đến Qui Sơn vào nhà Tăng, cổi y bát bỏ chỗ Thượng tọa. Qui Sơn nghe Sư thúc đến, sửa soạn oai nghi vào nhà Tăng chào. Sư thấy Qui Sơn đến bèn làm thế nằm ngủ. Qui Sơn trở về phương trượng. Sư ra đi giây lâu, Qui Sơn hỏi thị giả:
- Sư thúc còn đó chăng?
Thị giả thưa:- Ðã đi.
- Khi đi có nói lời gì chăng?
- Không nói lời nào.
- Chớ nói không nói lời nào, tiếng kia vang như sấm.
Sư mùa Ðông ở Hoành Nhạc, mùa Hạ dừng nơi Thanh Lương. Ðời Ðường khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-821 T.L.), Sư định lên Ngũ Ðài Sơn, đi đường đến Hoài Tây gặp Ngô Nguyên Tế khởi binh chống triều đình. Quân hai bên đang đánh nhau chưa phân hơn thua. Sư nghĩ: "ta phải cứu nạn này", bèn ném tích trượng trong hư không, phi thân bay qua. Tướng sĩ hai bên trông thấy, tâm tranh đấu dứt sạch, liền rút quân. Sư đã dùng phép lạ, ngại làm mê hoặc quần chúng, bèn vào Ngũ Ðài Sơn nơi hang Kim Cang thị tịch.
Trước khi thị tịch, Sư hỏi chúng:
- Tôi thường thấy các vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi, hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng?
Chúng thưa:- Có.
Sư hỏi:- Có vị nào lộn ngược tịch chăng?
- Chưa từng thấy.
Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn như đứng. Chúng định để vào áo quan trà-tỳ, mà xô không lung lay. Dân chúng xa gần đồn đãi nhau kéo đến xem đông vô số. Sư có người em gái xuất gia làm Ni cũng có mặt tại đây. Cô Ni ấy nắm thân Sư, vừa trách:
- Lão huynh ngày trước chẳng giữ luật, khi chết lại làm mê hoặc người.
Trách xong, cô xô một cái, thân Sư ngã xuống. Chúng đem trà-tỳ lấy xá-lợi.
17. THIỀN SƯ HUỆ TẠNG (Thạch Củng)
Lúc còn tại gia, Sư chuyên nghề săn bắn, không thích gặp các nhà tu. Một hôm, nhân đuổi bầy nai chạy qua trước am Mã Tổ, gặp Mã Tổ đứng trước.
Sư hỏi:- Hòa thượng thấy bầy nai chạy qua đây chăng?
Mã Tổ hỏi lại:- Chú là người gì?
- Thợ săn.
- Chú bắn giỏi không?
- Bắn giỏi.
- Một mũi tên chú bắn được mấy con?
- Một mũi bắn được một con.
- Chú bắn không giỏi.
- Hòa thượng bắn giỏi không?
- Bắn giỏi.
- Một mũi tên Hòa thượng bắn được mấy con?
- Một mũi tên bắn được một bầy.
- Sanh mạng chúng nó, đâu nên bắn một bầy.
- Chú đã biết như thế, sao không tự bắn?
- Nếu dạy tôi bắn tức không có chỗ hạ thủ.
- Chú này phiền não vô minh nhiều kiếp, ngày nay chóng dứt.
Ngay khi đó, Sư ném cung bẻ tên, tự lấy dao cạo tóc, theo Mã Tổ xuất gia.
Một hôm, Sư làm việc ở nhà trù, Mã Tổ xuống hỏi:
- Làm việc gì?
Sư thưa:- Chăn trâu.
- Làm sao chăn?
- Một khi vào cỏ, bèn nắm mũi kéo lại.
- Con thật là chăn trâu.
Sư cùng Trí Tạng (Tây Ðường) đi dạo chơi. Sư hỏi Trí Tạng:
- Sư đệ biết bắt hư không chăng?
Trí Tạng đáp:- Biết bắt.
- Làm sao bắt được?
Trí Tạng lấy tay chụp hư không.
Sư bảo:- Làm thế ấy đâu bắt được hư không!
- Sư huynh làm sao bắt được?
Sư liền nắm mũi Trí Tạng kéo mạnh.
Trí Tạng đau quá la:- Giết chết lỗ mũi người ta! buông ngay!
Sư bảo:- Phải làm như thế mới bắt được hư không.
Trí Tạng về đến khuya mới nhận ra ý chỉ ấy.
Về sau, Sư trụ trì, thường dùng cung tên để tiếp độ người. Chúng Tăng đến tham vấn, Sư hỏi:
- Vừa rồi ở chỗ nào?
Vị Tăng thưa:- Ở.
- Ở chỗ nào?
Tăng khảy móng tay một tiếng, đến lễ bái Sư.
Sư hỏi:- Ðem được cái này đến chăng?
- Ðem được.
- Ở chỗ nào?
Tăng khảy móng tay ba tiếng, hỏi Sư:
- Thế nào khỏi được sanh tử?
- Dùng khỏi làm gì?
- Thế nào khỏi được?
- Ðến ấy không sanh tử.
Không hiểu Sư tịch lúc nào và ở đâu.
18. THIỀN SƯ TRÍ TẠNG Tây Ðường - (735 - 814)
Sư họ Liệu, quê ở Kiền Hóa, xuất gia lúc tám tuổi, hai mươi lăm tuổi thọ giới cụ túc. Có ông thầy tướng thấy tướng Sư nói: "Thầy cốt cách phi phàm sẽ làm phụ tá cho vị Pháp vương."
Sư tìm đến tham vấn Mã Tổ, được Mã Tổ chấp nhận chỉ dạy. Sư đồng nhập thất với Thiền sư Hoài Hải v.v... cũng đồng được ấn ký. Mã Tổ sai Sư đến Trường An dâng thơ cho Quốc sư Huệ Trung.
Quốc sư hỏi:- Thầy ngươi nói pháp gì?
Sư từ bên Ðông sang bên Tây đứng.
Quốc sư hỏi:- Chỉ cái ấy hay còn gì khác?
Sư trở lại bên Ðông đứng.
Quốc sư bảo:- Cái đó là của Mã sư, còn ngươi thế nào?
Sư thưa:- Ðã trình tương tợ với Hòa thượng.
Mã Tổ hỏi Sư:- Sao con chẳng xem kinh?
Sư thưa:- Kinh đâu có khác.
-Tuy nhiên như thế, song con về sau vì người cần phải xem.
- Con bệnh cần phải trị dưỡng, đâu dám nói vì người.
- Con lúc lớn tuổi sẽ làm Phật pháp hưng thạnh ở đời.
Sau khi Mã Tổ tịch, chúng thỉnh Sư khai đường giáo hóa, nhằm năm thứ bảy niên hiệu Trinh Nguyên đời Ðường (791 T.L.).
Thượng thơ Lý Tường thường hỏi Tăng chúng:
- Mã Tổ có dạy pháp gì?
Tăng chúng đáp:
- Hoặc nói tức tâm tức Phật, hoặc nói phi tâm phi Phật.
Lý Tường nói:- Ðều sai, bên ấy.
Lý Tường đến hỏi Sư:- Mã Tổ có dạy pháp gì?
Sư gọi:- Lý Tường!
Lý Tường đáp:- Dạ.
Sư bảo:- Gốc trống động.
Sư thượng đường dạy chúng:
- Nhân quả rõ ràng, phải làm sao, phải làm sao?
Có vị Tăng bước ra, lấy tay bươi dưới đất.
Sư hỏi:- Làm gì?
Tăng thưa:- Cứu nhau, cứu nhau.
Sư bảo:- Ðại chúng! vị Tăng này vẫn còn chút ít so sánh.
Vị Tăng ấy phủi áo chạy đi.
Sư bảo:- Trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử.
Có người thế tục đến hỏi Sư:
- Có thiên đường, có địa ngục chăng?
Sư đáp:- Có.
- Có Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo chăng?
- Có.
Người ấy hỏi nhiều vấn đề nữa, Sư đều đáp có. Người ấy thưa:
- Hòa thượng nói thế e lầm chăng?
- Ông đã hỏi vị tôn túc nào rồi mới đến đây chăng?
- Con đã hỏi Hòa thượng Cảnh Sơn.
- Hòa thượng Cảnh Sơn nói với ông thế nào?
- Ngài nói tất cả đều không.
- Ông có vợ chăng?
- Có.
- Hòa thượng Cảnh Sơn có vợ chăng?
- Không.
- Hòa thượng Cảnh Sơn nói không là phải.
Người ấy lễ tạ lui ra.
Niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ chín (814 T.L.) ngày mùng tám tháng tư, Sư qui tịch, thọ tám mươi tuổi.
Vua Hiến Tông sắc ban hiệu là Ðại Tuyên Giáo Thiền sư, tháp hiệu Nguyên Hòa Chứng Chơn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro