Thien Long 3
Đã mang cái nghiệp đèo bòng,
Bên Tần bên Sở biết trông bên nào.
*
* *
Bọn Đoàn Chính Thuần quay trở về vương phủ, nội đường đã bày tiệc xong. Trên bàn rượu ngoại trừ vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự chỉ có thêm một mình Mộc Uyển Thanh, chung quanh đầy tớ hầu hạ phải đến mười bảy mười tám người. Trong đời Mộc Uyển Thanh làm gì từng nhìn thấy khí tượng vinh hoa phú quí như thế này bao giờ? Những món ăn đem lên cũng toàn là những thừ nàng chưa từng nếm, đến nghe nói cũng chưa. Nàng thấy ông bà Trấn Nam Vương coi mình như người trong nhà, chỉ có hai người được ngồi ăn chung quả như mở cờ trong bụng.
Đoàn Dự thấy mẹ mình đối với phụ thân ra chiều lạnh nhạt, cũng không uống rượu, chẳng ăn mặn chỉ gắp mấy món chay, bèn rót một chén rượu, đứng lên bưng hai tay nói:
- Mẹ, con xin kính mẹ một chén. Mừng mẹ đã đoàn tụ với cha con, ba người một nhà chúng ta cùng hưởng cái vui xum họp.
Ngọc Hư tản nhân đáp:
- Ta không uống rượu.
Đoàn Dự lại rót một chén khác, đưa mắt cho Mộc Uyển Thanh, nói:
- Mộc cô nương cũng kính mẹ một chén.
Mộc Uyển Thanh liền cầm chén rượu đứng lên. Ngọc Hư tản nhân nghĩ mình không nên thái quá lãnh đạm đối với Mộc Uyển Thanh, liền mỉm cười nói:
- Cô nương, thằng bé nhà ta tính lông bông lắm, cha mẹ không trị nổi, sau này cô phải giúp chúng ta giữ rịt nó mới được.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Nếu anh ấy không nghe lời, tiểu nữ sẽ nắm tai đánh cho một trận thật đau.
Ngọc Hư tản nhân phì cười, đưa mắt cho trượng phu, Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Phải thế mới được.
Ngọc Hư tản nhân đưa tay trái ra đón lấy chén rượu trong tay Mộc Uyển Thanh. Dưới ánh nến, Mộc Uyển Thanh thấy bàn tay bà ta thuôn dài, trắng trẻo nhẵn nhụi như tạc bằng ngọc, trên lưng bàn tay gần cổ tay có một vết bớt đỏ như son, lập tức toàn thân chấn động, run run hỏi:
- Bà ... tên của bà ... có phải là Đao Bạch Phượng hay không?
Ngọc Hư tản nhân cười nói:
- Tên họ của ta thật khác thường, sao cô biết được?
Mộc Uyển Thanh run run hỏi tiếp:
- Bà là Đao Bạch Phượng đấy sao? Có phải bà là người Bãi Di, trước đây sử dụng nhuyễn tiên, đúng không nào?
Ngọc Hư tản nhân thấy nàng thần sắc khác thường nhưng cũng không quan tâm lắm chỉ mỉm cười:
- Dự nhi đối với cô thật hết lòng, đến cả khuê danh của ta cũng nói cho cô biết. Lang quân của cô có một nửa là Bãi Di nên tính tình nó mới bất kham thế đó.
Mộc Uyển Thanh gặng lần nữa:
- Thực sự bà là Đao Bạch Phượng sao?
Ngọc Hư tản nhân mỉm cười:
- Chính ta đây.
Mộc Uyển Thanh kêu lên:
- Ơn thầy sâu nặng, lệnh thầy đâu dám không theo.
Tay phải nàng vung lên, hai mũi tên bắn thẳng vào ngực Đao Bạch Phượng. Trong bàn tiệc mọi người nói nói cười cười thân thiết như trong nhà, ai ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đột nhiên ra tay ám toán. Võ công Đao Bạch Phượng và Mộc Uyển Thanh cũng sàn sàn như nhau, lúc này hai người khoảng cách quá gần, biến cố quá bất ngờ không sao phòng bị kịp, hai mũi tên xem ra không thể nào tránh kịp. Đoàn Chính Thuần ngồi ngay trước mặt tức là sau lưng Mộc Uyển Thanh, kêu lên "Chao ôi!" một tiếng, giơ tay điểm ra. Thế nhưng chỉ đó chế ngự được Mộc Uyển Thanh nhưng làm sao cứu được vợ.
Đoàn Dự đã mấy lần thấy Mộc Uyển Thanh đang nói chuyện đột nhiên ra tay bắn độc tiễn giết người, mũi tên có tẩm thuốc độc cực kỳ lợi hại, có thể nói là "kiến huyết phong hầu" nên khi nàng vừa vung tay áo lên biết là không ổn, lúc này chàng đang đứng cạnh mẫu thân, nhưng lại không biết võ công nên không sao chống đỡ được, chân bèn sử dụng Lăng Ba Vi Bộ bước xéo qua, chắn ngay trước mặt mẹ. Bụp bụp hai tiếng, hai mũi tên độc cắm ngay vào ngực chàng, đồng thời Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng tê tái, nằm gục xuống bàn, không còn động đậy gì được nữa.
Đoàn Chính Thuần ứng biến thật nhanh, phóng chỉ ra liên tiếp điểm vào tám chỗ huyệt đạo chung quanh nơi Đoàn Dự trúng tên để cho máu độc tạm thời không chạy vào tim, tay ngoặt lại, nghe cách một tiếng đã bẻ sái khớp tay phải của Mộc Uyển Thanh, để nàng không còn có thể bắn tiếp rồi mới giải khai huyệt đạo cho nàng, hầm hầm quát:
- Mau đưa giải dược ra đây.
Mộc Uyển Thanh run rẩy nói:
- Tiện thiếp chỉ muốn giết Đao Bạch Phượng, không muốn hại Đoàn lang.
Nàng thấy tay phải đau nhói nhưng cố gượng thò tay trái vào bọc lấy ra hai bình giải dược nói:
- Thuốc đỏ uống, thuốc trắng thoa, mau mau, chậm trễ cứu không được.
Đao Bạch Phượng thấy tấm chân tình của nàng đối với Đoàn Dự quả từ tâm khảm, đã đoán được phần nào nguyên do, giơ tay đoạt lấy thuốc giải, lấy ra hai viên thuốc đỏ nhét vào mồm con, còn thuốc trắng là bột, bà ta bèn cầm đuôi tên nhẹ nhàng rút hai mũi đoản tiễn ra, sau đó mới đắp thuốc vào. Mộc Uyển Thanh nói:
- Tạ trời tạ đất, chàng ... tính mệnh chàng không có gì đáng ngại, có điều tôi ... tôi...
Ba người hết sức hốt hoảng, có ai biết đâu Đoàn Dự đã ăn phải con Mãng Cổ Chu Cáp là vạn độc chi vương rồi, các loại độc không thể nào xâm nhập, chất độc trên mũi tên của Mộc Uyển Thanh không làm gì được chàng, dù không uống giải dược cũng chẳng hề hấn. Có điều chàng trúng phải tên độc thấy ngực đau nhói, ai nấy trúng phải chết liền chàng đã thấy nên tưởng mình phen này thể nào cũng chết nên kinh hoảng quá liền ngất đi trong lòng mẹ.
Vợ chồng Đoàn Chính Thuần chăm chăm nhìn vết thương, thấy máu chảy ra từ đen sang tía, từ tía sang đỏ, cùng thở phào ra biết rằng mạng con mình không đến nỗi nào. Đao Bạch Phượng bồng con lên, đem vào phòng riêng của chàng, đắp chăn xong cầm tay xem mạch, thấy nhảy đều đặn có sức, không có vẻ gì yếu ớt, trong bụng vui mừng nhưng cũng không khỏi lạ lùng nên vội quay về noãn các. Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Không đáng ngại chứ?
Đao Bạch Phượng không trả lời, quay sang Mộc Uyển Thanh:
- Ngươi về nói với Tu La Đao Tần Hồng Miên rằng ...
Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Tu La Đao Tần Hồng Miên, sắc mặt biến hẳn lắp bắp:
- Bà ... bà ...
Đao Bạch Phượng không ngó ngàng đến chồng, vẫn nói tiếp với Mộc Uyển Thanh:
- Ngươi nói với bà ta rằng nếu muốn giết ta thì nên quang minh chính đại đến đây, cái trò cắn trộm chỉ làm cho người ta cười vẹo quai hàm thôi!
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Nhưng tiểu nữ đâu có biết Tu La Đao Tần Hồng Miên là ai?
Đao Bạch Phượng lạ lùng:
- Thế thì ai sai ngươi đến đây giết ta?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đó là sư phụ của thiếp. Sư phụ sai tiểu nữ đi giết hai người. Người thứ nhất là phu nhân, bà ấy nói trên bàn tay bà có cái bớt son, tên là Đao Bạch Phượng, là gái Bãi Di, tướng mạo thật xinh đẹp, dùng nhuyễn tiên làm binh khí. Sư phụ nào có ... nào có nói bà ăn mặc theo lối đạo cô. Tiểu nữ thấy bà sử dụng phất trần, lại tên là Ngọc Hư tản nhân, đâu có ngờ đó là người sư phụ tiểu nữ muốn giết ... cũng đâu ngờ bà lại là mẹ của Đoàn lang.
Nàng nói tới đây nước mắt ròng ròng chảy xuống. Đao Bạch Phượng hỏi thêm:
- Sư phụ ngươi còn sai ngươi đi giết một người nữa, có phải là Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo hay không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Không! Không! Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo là sư thúc của thiếp. Chính bà ta sai người đưa thư tới sư phụ thiếp, nói rằng hai người đàn bà làm khổ đời sư phụ, thù không thể không báo ...
Đao Bạch Phượng kêu lên:
- À, phải rồi! Còn người kia họ Vương đang ở Tô Châu, phải không?
Mộc Uyển Thanh ngạc nhiên hỏi lại:
- Đúng đó! Sao phu nhân lại biết? Thiếp cùng với sư phụ đến đó giết bà ta trước nhưng người đàn bà khốn kiếp đó tay chân đầy tớ thật đông, nơi ở lại thật lạ lùng, thiếp chưa từng gặp mặt, ngược lại bị đám thủ hạ mụ ta đuổi đến tận Đại Lý.
Đoàn Chính Thuần cúi đầu lắng tai nghe, khuôn mặt lúc đỏ lúc xanh. Trên má Đao Bạch Phượng đột nhiên một dòng lệ rơi xuống, quay sang Đoàn Chính Thuần:
- Mong ông ráng chăm lo cho Dự nhi. Tôi ... tôi đi đây.
Đoàn Chính Thuần vội ngăn lại:
- Phượng Hoàng nhi, tất cả đều là chuyện quá khứ, nàng để trong lòng làm gì?
Đao Bạch Phượng ai oán đáp:
- Ông không để trong lòng, tôi cũng không để trong lòng nhưng người ta để trong lòng.
Đột nhiên phi thân nhảy lên, theo cửa sổ vọt ra ngoài. Đoàn Chính Thuần giơ tay nắm lấy tay áo, Đao Bạch Phượng quay lại múa chưởng đánh luôn vào mặt ông. Đoàn Chính Thuần nghiêng đầu né tránh, nghe soẹt một tiếng, tay áo bà ta đã bị xé rách một nửa. Đao Bạch Phượng quay đầu lại giận dữ nói:
- Ông muốn động võ chăng?
Đoàn Chính Thuần hạ giọng:
- Phượng Hoàng nhi, nàng ...
Đao Bạch Phượng hai chân nhún một cái, nhảy lên mái nhà đối diện, nhô lên hụp xuống vài cái đã cách xa mươi trượng rồi. Xa xa có tiếng Chử Vạn Lý quát lên:
- Ai đó?
Đao Bạch Phượng đáp:
- Ta đây!
Chử Vạn Lý nói:
- Ồ, thì ra Vương Phi ...
Sau đó không nghe gì thêm chắc bà ta đi đã xa rồi.
Đoàn Chính Thuần đứng lặng đi hồi lâu, thở dài một tiếng quay lại noãn các, thấy mặt Mộc Uyển Thanh trắng bệch, nhưng chưa bỏ đi. Đoàn Chính Thuần đi đến gần cô ta hai tay cầm lấy cánh tay phải, nghe cắc một tiếng đã tiếp lại khớp xương. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: "Ta bắn tên độc vào vợ ông ta, không biết sẽ hành hạ mình cách nào?".
Chỉ thấy ông ta ngồi trở lại ghế, chậm rãi rót một chén rượu, ực một cái uống cạn, nhìn ra cửa sổ nơi vợ vừa bỏ đi, ngẩn ngơ một hồi, rồi lại rót một chén rượu khác, lại ực một cái uống cạn. Cứ tự rót tự uống như thế liên tiếp mười hai mười ba chén, hết hồ này lại lấy hồ khác, rót thì thật chậm nhưng uống thì thật nhanh.
Mộc Uyển Thanh sau cùng không còn chịu nổi, kêu lên:
- Ông muốn nghĩ cách nào thảm khốc quái đản để trị tội tôi thì mau mau hạ thủ.
Đoàn Chính Thuần ngửng đầu lên, chăm chăm nhìn vào nàng một hồi lâu, chầm chậm lắc đầu, thở dài:
- Giống quá! Giống quá! Thế mà ta không nhìn ra, hình dáng đó, tính tình đó ...
Mộc Uyển Thanh nghe xong chẳng hiểu gì, hỏi lại:
- Ông bảo cái gì? Chỉ nói quấy nói quá.
Đoàn Chính Thuần không trả lời, đứng lên đột nhiên tả chưởng chém xéo về đằng sau, nghe bụp một tiếng nhỏ, một ngọn nến đã bị chưởng phong đánh tắt, tiếp theo lại chém tay phải một cái, thêm một ngọn nến khác bị tắt ngúm. Ông liên tiếp vung tay năm lần, đánh tắt năm cây nến đỏ, mắt vẫn nhìn về trước, ra tay chẳng khác gì nước chảy mây bay, tiêu sái lạ thường.
Mộc Uyển Thanh kinh ngạc lắp bắp:
- Cái này ... cái này có phải là Ngũ La Khinh Yên Chưởng, làm sao ông biết?
Đoàn Chính Thuần cười buồn:
- Sư phụ cô có dạy cho cô chưa?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi bảo là môn chưởng pháp đó quyết không truyền cho ai, ngày sau mang theo xuống quan tài.
Đoàn Chính Thuần hỏi lại:
- Ồ, nàng bảo không truyền cho ai, mai này mang xuống tuyền đài ư?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng vậy! Thế nhưng sư phụ chỉ khi nào không có tôi ở đó chỉ luyện một mình thôi, tôi coi lén thấy được.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Nàng một mình vẫn thường luyện pho chưởng pháp này?
Mộc Uyển Thanh gật đầu:
- Phải rồi. Mỗi khi sư phụ luyện chưởng pháp này hay nổi giận mắng chửi tôi. Ông ... ông làm sao biết được? Xem ra ông sử dụng còn giỏi hơn sư phụ tôi nữa.
Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:
- Pho Ngũ La Khinh Yên Chưởng này chính ta dạy cho sư phụ cô đó.
Mộc Uyển Thanh hốt hoảng nhưng không thể không tin, nàng thấy khi sư phụ chém những ngọn nến, thường thường một lần không tắt, phải đến hai ba lần mới được, không phải như Đoàn Chính Thuần làm đâu được đó, tiêu sái nhẹ nhàng, lắp bắp hỏi lại:
- Thế ra ông là sư phụ của sư phụ tôi, là thái sư phụ của tôi sao?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu:
- Không phải vậy.
Ông chống tay lên cằm, lẩm bẩm nói một mình:
- Nàng mỗi khi luyện pho chưởng pháp này, thường nổi cơn tam bành lục tặc, lại quyết không truyền cho ai, nguyện mang theo xuống chốn cửu tuyền ...
Mộc Uyển Thanh gặng thêm:
- Thế thì ông là ...
Đoàn Chính Thuần xua tay bảo nàng đừng nhiều lời, một hồi sau, đột nhiên hỏi lại:
- Cô năm nay mười tám tuổi, sinh vào khoảng tháng chín, có phải không nào?
Mộc Uyển Thanh nhảy phắt lên, lạ lùng hỏi:
- Sao việc gì ông cũng biết, ông đích thực là gì của sư phụ tôi?
Đoàn Chính Thuần vẻ mặt đầy thống khổ, thanh âm nghẹn ngào:
- Ta ... ta thật không phải với sư phụ con. Uyển nhi, con ...
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Vì sao vậy? Tôi xem ông là người thật ôn hòa, thật tốt bụng mà?
Đoàn Chính Thuần hỏi thêm:
- Thế tên thực của sư phụ con, nàng không nói cho con nghe sao?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi bảo rằng tên bà ta là U Cốc Khách, còn đích thực tên gì, họ gì, tôi quả không biết.
Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:
- U Cốc Khách! U Cốc Khách ...
Ông chợt nhớ đến bài thơ "Giai Nhân" của Đỗ Phủ, từng chữ từng chữ như đâm vào tim...
Năm xưa có một giai nhân,
Hang cùng hiu quạnh trơ thân náu mình.
Cũng dòng thế phiệt trâm anh,
Lênh đênh lưu lạc phận đành cỏ cây ...
Tuyệt đại hữu giai nhân,
U cư tại thâm cốc.
Tự vân lương gia tử,
Linh lạc y thảo mộc ...
Chồng em bạc bẽo vô tình,
Chỉ còn biết đến người mình vừa quen ...
Phu tế khinh bạc nhi,
Tân nhân mỹ như ngọc ...
Vui vầy người mới nói cười,
Biết đâu người cũ ngậm ngùi xót xa.
Đãn kiến tân nhân tiếu,
Na văn cựu nhân khốc ...
Một hồi sau, ông lại hỏi:
- Thế trong bao nhiêu năm nay, sư phụ con sinh sống bằng cách nào? Hai người ở nơi đâu?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Tôi và sư phụ ở tại một sơn cốc, đằng sau một ngọn núi cao, thành thử sư phụ mới tự gọi mình là U Cốc Khách, tới lần này hai thầy trò mới ra khỏi nơi đây.
Đoàn Chính Thuần hỏi thêm:
- Thế cha mẹ con là ai? Sư phụ con có bao giờ nhắc tới không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi nói rằng tôi là một đứa con hoang bị cha mẹ bỏ rơi. Sư phụ tôi nhặt được tôi ở bên đường đem về nuôi cho tới khi khôn lớn.
Đoàn Chính Thuần gặng thêm:
- Thế con có hận cha mẹ con không?
Mộc Uyển Thanh nghiêng đầu, cắn ngón tay ngẫm nghĩ. Đoàn Chính Thuần trông thấy tình cảnh đó, trong lòng dâng lên một nỗi chua xót nghẹn ngào. Mộc Uyển Thanh thấy hai hàng lệ ròng ròng chảy trên má ông, thật là lạ lùng hỏi lại:
- Sao ông lại khóc?
Đoàn Chính Thuần quay mặt đi, lau khô nước mắt, gượng cười:
- Ta nào có khóc đâu? Chắc tại uống quá chén, hơi rượu bốc lên đấy mà.
Mộc Uyển Thanh không tin, nói:
- Rõ ràng tôi thấy ông khóc mà. Đàn bà con gái mới khóc, đàn ông con trai cũng khóc nữa hay sao? Từ xưa tới nay tôi chưa thấy đàn ông khóc bao giờ, trừ trẻ con thôi.
Đoàn Chính Thuần thấy nàng chẳng biết gì chuyện đời, lại càng đau lòng nói:
- Uyển nhi, từ giờ trở đi ta sẽ đối với con thật tử tế để bù lại những gì ta thiếu sót bấy nay. Con có tâm nguyện gì, nói cho ta nghe, ta sẽ hết lòng làm cho con.
Mộc Uyển Thanh từ khi bắn tên độc vào Đoàn phu nhân, trong lòng hết sức lo sợ, nghe ông ta nói thế, vui mừng nói:
- Tôi bắn tên vào phu nhân của ông, ông không oán trách gì sao?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Sư ân thâm trọng, sư mệnh nan vi. Chuyện của đời trước, nào có liên can gì đến con đâu. Ta không oán trách gì con cả. Có điều từ nay trở đi con không được vô lễ với phu nhân của ta nữa.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Thế sau này sư phụ hỏi ra thì biết nói thế nào?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Con đưa ta đến gặp sư phụ, ta sẽ nói cho bà ta nghe.
Mộc Uyển Thanh vỗ tay reo lên:
- Thế thì hay lắm.
Đột nhiên nàng nhíu mày nói:
- Sư phụ thường nói rằng đàn ông trên đời này đều là kẻ vô tình bạc nghĩa, trước nay không muốn gặp ai.
Trên mặt Đoàn Chính Thuần lộ vẻ kinh ngạc, hỏi lại:
- Trước nay sư phụ con không gặp đàn ông ư?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng thế! Mỗi khi cần mua gạo mua muối, sư phụ đều sai Lương a bà đi. Có một lần Lương a bà bị bệnh, sai con bà ấy đem đến, sư phụ giận lắm, bắt y bỏ ở xa xa ngoài cửa, không cho y vào trong nhà.
Đoàn Chính Thuần thở dài:
- Hồng Miên, Hồng Miên, sao nàng tự mình làm khổ mình đến thế.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Ông lại nói đến Hồng Miên, vậy thì Hồng Miên là ai vậy?
Đoàn Chính Thuần hơi ngần ngừ nói:
- Chuyện này cũng không có thể nào dấu con mãi được, tên thật của sư phụ con là Tần Hồng Miên, có cái ngoại hiệu là Tu La Đao.
Mộc Uyển Thanh gật đầu:
- Ồ, hèn gì phu nhân vừa thấy thủ pháp bắn tên độc của tôi đã hầm hầm hỏi ngay Tu La Đao Tần Hồng Miên là người liên quan thế nào. Lúc đó quả thực tôi không biết, chứ không phải là cố ý nói dối. Thế ra tên sư phụ tôi là Tần Hồng Miên, cái tên đẹp quá nhỉ? Chẳng hiểu sao bà ta không nói cho tôi biết.
Đoàn Chính Thuần hỏi thâm:
- Hồi nãy ta làm sái cánh tay con, bây giờ còn đau không?
Mộc Uyển Thanh thấy ông thần sắc ôn hòa trìu mến, mỉm cười nói:
- Đỡ nhiều lắm rồi. Thôi mình đi xem ... xem con trai ông đã khỏe chưa? Tôi sợ chất độc trên mũi tên chưa hết hẳn.
Đoàn Chính Thuần đứng lên nói:
- Hay lắm.
Ông tiếp:
- Con có tâm nguyện gì nói cho ta nghe.
Mộc Uyển Thanh đột nhiên mặt đỏ lên, thần sắc hơi e thẹn, cúi đầu nói nhỏ:
- Chỉ sợ ... chỉ sợ con bắn phu nhân rồi, bà ấy ... bà ấy giận con thôi.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Thể để từ từ rồi mình sẽ năn nỉ, chắc tương lai cũng sẽ không giận nữa đâu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Con xưa nay chưa từng van xin ai điều gì nhưng vì Đoàn lang mà phải năn nỉ bà ấy thì cũng được.
Đột nhiên nàng thu hết dũng khí nói:
- Trấn Nam Vương, con nói tâm nguyện của con ra, ông ... ông thực sự giúp con hoàn thành chứ?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Chỉ nếu ta có thể làm được, ta sẽ làm cho con ngay.
Mộc Uyển Thanh hỏi thêm:
- Ông nói ra rồi sau không nuốt lời đấy chứ?
Đoàn Chính Thuần nở một nụ cười, đi đến bên cạnh Mộc Uyển Thanh, giơ tay vuốt ve tóc nàng, ánh mắt đầy vẻ thương yêu, nói:
- Ta dĩ nhiên không nuốt lời đâu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hôn nhân của con và anh ấy, ông đứng lo liệu cho đừng để anh ta phụ bạc con.
Nàng nói mấy câu đó rồi, khuôn mặt bừng lên một vẻ rạng rỡ. Đoàn Chính Thuần mặt biến sắc, từ từ lùi lại, ngồi phịch xuống ghế, một hồi thật lâu, không nói lời nào. Mộc Uyển Thanh cảm thấy không ổn, run run hỏi:
- Ông ... ông không bằng lòng ư?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Con không thể nào lấy Đoàn Dự được.
Giọng ông ậm ừ nhưng chắc nịch. Mộc Uyển Thanh như bị dội nước đá lên người, ai oán hỏi:
- Sao lại thế? Ông ... chính miệng nói bằng lòng giúp con mà.
Đoàn Chính Thuần chỉ chép miệng:
- Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Mộc Uyển Thanh nói:
- Nếu anh ấy không bằng lòng lấy con, con ... con sẽ giết anh ấy, rồi tự sát, con ... con đã lập trọng thệ trước mặt sư phụ rồi.
Đoàn Chính Thuần chầm chậm lắc đầu, nói:
- Không được đâu.
Mộc Uyển Thanh hấp tấp nói:
- Để con đi hỏi anh ta xem, vì cớ gì mà không được?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Dự nhi ... chính nó ... cũng không biết.
Ông thấy Mộc Uyển Thanh thần sắc thê lương, chẳng khác gì Tần Hồng Miên mười tám năm trước nghe tin chẳng lành, không còn nhẫn nại thêm được nữa chặn lại:
- Con không thể thành hôn với Dự nhi, mà cũng không giết nó được.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Sao vậy?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Vì chưng ... vì chưng ... vì chưng Đoàn Dự chính là anh ruột của con.
Mộc Uyển Thanh há hốc mồm, mắt mở trừng trừng dường như không tin ở tai mình, lắp bắp hỏi lại:
- Cái ... cái gì? Ông nói Đoàn lang là anh ruột của tôi ư?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Uyển nhi, con có biết sư phụ con là ai không? Bà ta chính là mẹ ruột con đó. Còn ta ... ta chính là cha của con đây.
Mộc Uyển Thanh vừa kinh khủng, vừa phẫn nộ, mặt tái nhợt, dậm chân kêu lên:
- Tôi không tin! Tôi không tin! Tôi ... nhất định không tin.
Đột nhiên từ ngoài song cửa vọng vào một tiếng thở dài rồi giọng một người đàn bà cất lên:
- Uyển nhi! Mình về đi thôi.
Mộc Uyển Thanh quay phắt lại kêu lên:
- Sư phụ.
Cửa sổ đột nhiên mở tung, đứng đó là một người đàn bà trung niên, khuôn mặt trái xoan, lông mày hơi dài, tướng mạo cực kỳ xinh đẹp, có điều ánh mắt chứa đựng ba phần dữ tợn, ba phần ngang bướng.
Đoàn Chính Thuần thấy người tình năm xưa Tần Hồng Miên bất ngờ hiện thân, vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, kêu lên thảng thốt:
- Hồng Miên! Hồng Miên, bao nhiêu năm nay, ta ... ta nhớ em biết chừng nào.
Tần Hồng Miên gọi:
- Uyển nhi ra đây! Nhà của con người phụ phàng bạc bẽo kia đừng ở lại thêm một khắc nào.
Mộc Uyển Thanh nhìn thấy thần tình sư phụ và Đoàn Chính Thuần, trong lòng băng giá, nói:
- Sư phụ, ông ta ... ông ta lừa con, nói sư phụ là mẹ con, còn ông ta là ... là cha con.
Tần Hồng Miên đáp:
- Mẹ con chết rồi, cha con cũng chết rồi.
Đoàn Chính Thuần tiến đến bên cửa sổ, dịu dàng nói:
- Hồng Miên, nàng vào đây, để ta được nhìn nàng lâu thêm một chút. Từ nay nàng đừng bỏ đi nữa, đôi ta vĩnh viễn chung sống bên nhau.
Ánh mắt Tần Hồng Miên đột nhiên rạng rỡ, vui mừng hỏi:
- Chàng bảo từ nay mình vĩnh viễn bên nhau, có thật thế không?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Thật chứ! Hồng Miên, chẳng ngày nào ta không nhớ đến em.
Tần Hồng Miên hỏi thêm:
- Chàng bỏ được Đao Bạch Phượng chứ?
Đoàn Chính Thuần chần chừ không trả lời, trên mặt lộ vẻ khó nghĩ. Tần Hồng Miên nói:
- Nếu chàng thương đến đứa con gái mình thì ông đi theo thiếp, vĩnh viễn không còn ngó ngàng gì tới Đao Bạch Phượng, vĩnh viễn không quay về nhà.
Mộc Uyển Thanh nghe hai người đối đáp, trong lòng mỗi lúc một thêm thất vọng, nước mắt doanh tròng, chỉ thấy hình bóng của sư phụ và Đoàn Chính Thuần đều nhòe đi. Nàng biết hai người trước mặt quả đích thực là cha mình mẹ mình, dẫu không muốn tin cũng không được. Thời gian qua nàng tình yêu sâu nặng, ngày đêm mơ tưởng đến Đoàn lang, ngờ đâu chàng lại là anh em cùng cha khác mẹ với mình, chuyện hai người như chim liền cánh, chung sống với nhau đến lúc bạc đầu chỉ chớp mắt tan ra mây khói.
Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:
- Có điều ta là Trấn Nam Vương của Đại Lý, nắm hết mọi việc cơ yếu văn võ trong tay, bỏ đi ngay không tiện ...
Tần Hồng Miên hậm hực nói:
- Mười tám năm trước chàng đã nói thế rồi, nay mười tám năm sau cũng lại một câu đó. Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, chàng là người phụ tâm bạc hãnh, em ... em hận chàng không biết đâu mà kể ...
Đột nhiên trên mái nhà phía đông bốp bốp bốp ba tiếng vỗ tay, nóc nhà phía tây lập tức có tiếng đáp lại. Tiếp theo là tiếng của Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng cất lên:
- Có thích khách. Các anh em ở đâu yên đó, không được vọng động.
Tần Hồng Miên quát lên:
- Uyển nhi, con còn chưa chịu ra hay sao?
Mộc Uyển Thanh vội đáp:
- Vâng.
Nàng phi thân vọt qua cửa sổ, sà vào lòng người mẹ hiền mà cũng lại là ân sư. Đoàn Chính Thuần nói:
- Hồng Miên, nàng bỏ ta mà đi thực hay sao?
Giọng nói của ông thê lương đau đớn biết chừng nào. Giọng Tần Hồng Miên đột nhiên trở lại dịu dàng:
- Thuần ca, chàng đã làm vương gia mấy chục năm rồi, chưa đủ hay sao? Chàng theo em đi, từ nay về sau, em đối với chàng thiên y bách thuận, không dám nói nặng chàng nửa câu, không dám đánh chàng nửa cái. Đứa con gái dễ thương thế này, chẳng lẽ chàng không thương nó hay sao?
Đoàn Chính Thuần trong lòng rộn ràng, nhảy vọt ra nói:
- Được, ta theo nàng đi.
Tần Hồng Miên mừng rỡ vô cùng, đưa bàn tay cho ông ta nắm. Đột nhiên phía sau lưng có tiếng đàn bà lạnh lùng nói:
- Sư tỉ, chị ... chị lại vào tròng của y rồi. Y chỉ ôm ấp chị vài ngày, rồi lại trở về với chức vương gia đấy thôi.
Đoàn Chính Thuần bàng hoàng, kêu lên:
- Bảo Bảo, chính nàng rồi. Nàng cũng đến ư?
Mộc Uyển Thanh ngoảnh ra thấy người đàn bà vừa nói mặc áo dài màu toàn xanh, chính là Chung phu nhân của Vạn Kiếp Cốc, sư thúc của mình Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo. Đằng sau bà ta có bốn người, một người là Diệp Nhị Nương, một người là Vân Trung Hạc, người thứ ba đã đi rồi giờ quay lại Nam Hải Ngạc Thần, nhưng người thứ tư mới khiến nàng hoảng hốt, chính là Đoàn Dự, bàn tay Nam Hải Ngạc Thần cầm ngay cổ chàng, tưởng như lúc nào cũng có thể lách cách một tiếng bẻ gẫy ngay lập tức. Mộc Uyển Thanh kêu lên:
- Đoàn lang, chàng có sao không?
Đoàn Dự đang nằm trên giường dưỡng thương, đang mơ mơ hồ hồ thì bị Nam Hải Ngạc Thần nhảy vào bồng ra ngoài. Chàng vốn không bị trúng độc, mũi tên của Mộc Uyển Thanh có độc là ở thuốc tẩm chứ tiễn đầu nhỏ như thế chỉ làm thành một vết thương nhẹ, có đáng gì đâu. Chàng kinh hãi liền tỉnh dậy, đứng bên ngoài noãn các nghe hết tất cả những gì cha mình nói với Mộc Uyển Thanh và Tần Hồng Miên, tuy không nghe hết từ đầu chí cuối nhưng mười phần cũng hiểu tám chín. Chàng nghe Mộc Uyển Thanh vẫn gọi mình là "Đoàn lang", trong lòng chua xót, nói:
- Muội tử, từ nay trở đi mình tương thân tương ái, ... là anh em với nhau.
Mộc Uyển Thanh bực tức đáp:
- Không, không phải như thế. Chàng là người đàn ông đầu tiên nhìn thấy mặt em.
Nàng bỗng nghĩ tới mình và Đoàn Dự cũng đều là con của Đoàn Chính Thuần, anh trai em gái làm sao lấy nhau được? Nếu trên đời này có ai ngăn trở hôn nhân của hai người, nàng chỉ một mũi tên giết là xong ngay, còn bây giờ cái trở ngại chắn ngang lại là ý trời thăm thẳm, dù nàng võ công cao đến đâu, dù cho quyền thế đến đâu cũng không làm sao thay đổi được. Trong chớp mắt nàng thấy bao nhiêu ước mơ đều tan biến, hai chân dậm một cái nhảy vọt ra ngoài. Tần Hồng Miên vội kêu:
- Uyển nhi, con đi đâu thế?
Mộc Uyển Thanh đến sư phụ nàng cũng không thèm ngó đến, nói:
- Bà hại đời tôi, tôi không biết tới bà nữa.
Nàng lại càng chạy nhanh hơn. Một tên vệ sĩ trong vương phũ giang hai tay chặn lại, quát hỏi:
- Ai đó?
Mộc Uyển Thanh bắn tên độc ra, trúng ngay yết hầu tên lính. Chân nàng không chậm lại chút nào, trong khoảnh khắc đã tan biến vào trong bóng đêm.
*
* *
Đoàn Chính Thuần thấy con trai mình bị Nam Hải Ngạc Thần bắt được, không kể đứa con gái chạy đi đâu, giơ ngón tay về phía Nam Hải Ngạc Thần điểm tới. Diệp Nhị Nương múa chưởng đánh ra, chém vào cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần vòng tay lại chộp, Diệp Nhị Nương cười khanh khách, ngón tay giữa búng ngay vào lưng bàn tay đối phương. Chỉ nháy mắt hai người đã trao đổi ba chiêu, Đoàn Chính Thuần trong bụng kinh hãi ngầm: "Con mụ này quả là ghê gớm".
Tần Hồng Miên giơ tay để lên đỉnh đầu Đoàn Dự, kêu lên:
- Thế chàng muốn con chàng sống hay chết?
Đoàn Chính Thuần kinh hãi ngừng tay, biết bà ta tính tính cực kỳ bạo tợn, hận vợ cả của mình là Đao Bạch Phượng thấu xương, chỉ cần nhả nội lực ra là giết chết Đoàn Dự ngay nên vội vàng nói:
- Hồng Miên, con ta trúng phải độc tiễn của con nàng, bị thương không phải nhẹ.
Tần Hồng Miên đáp:
- Y đã uống giải dược rồi, không chết được đâu, thiếp tạm thời mang y đi. Để xem chàng muốn làm vương gia hay muốn toàn mạng cho con.
Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả, nói:
- Tên tiểu tử này rồi ra thể nào cũng phải bái ta làm thầy.
Đoàn Chính Thuần hấp tấp nói:
- Hồng Miên, việc gì ta cũng chịu hết, nàng ... nàng thả con ta ra.
Mối tình của Tần Hồng Miên đối với Đoàn Chính Thuần, tuy xa nhau đã mười tám năm nhưng không hề phai nhạt, nghe ông ta nói thiết tha như thế, thấy mềm lòng hỏi:
- Có thật là chàng ... chàng bằng lòng sao?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Thật, thật chứ.
Chung phu nhân vội xen vào:
- Sư tỉ, lời gã bạc tình này, chị còn tin được nữa hay sao? Nhạc nhi tiên sinh, thôi mình đi.
Nam Hải Ngạc Thần tung mình nhảy lên, ôm Đoàn Dự trên không trung quay người một cái đã rơi xuống ngay mái nhà bên kia. Kế đó nghe bình bình hai tiếng, Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã đánh hai tên vệ sĩ trong vương phũ ngã lăn xuống đất.
Chung phu nhân kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần, đêm nay ngươi có muốn đánh nhau một trận hay chăng?
Đoàn Chính Thuần tuy biết rằng tập trung tất cả nhân lực trong vương phủ, chưa chắc đã không thể không ngăn giữ được bọn người này nhưng vì con mình đang ở trong tay đối phương, ném chuột sợ vỡ đồ, không phải chỉ lấy võ công mà hơn thua được, huống chi hai sư tỉ sư muội này trước đây đã từng có quan hệ mật thiết với mình, bèn dịu dàng nói:
- Bảo Bảo, nàng ... nàng cũng tới đây gây sự với ta sao?
Chung phu nhân đáp:
- Ta nay là vợ của Chung Vạn Cừu, ngươi còn mồm năm miệng mười gọi tên ta là sao?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Bảo Bảo, trong những ngày tháng ta, ta vẫn thường nhớ tới nàng.
Chung phu nhân rưng rưng nước mắt dịu giọng đáp:
- Từ khi biết được Đoàn công tử là con của ông rồi, trong lòng tôi ... lòng tôi xiết bao trăn trở ...
Tần Hồng Miên vội lêu lên:
- Sư muội lại vào tròng của y sao?
Chung phu nhân nắm tay Tần Hồng Miên, kêu lên:
- Thôi, chúng ta đi.
Bà ta quay lại nói:
- Ông đem thủ cấp con tiện nhân Đao Bạch Phượng, nhất bộ nhất bái đến Vạn Kiếp Cốc thì bọn ta sẽ giao trả con lại cho ông.
Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:
- Vạn Kiếp Cốc.
Lúc ấy Nam Hải Ngạc Thần đã ôm Đoàn Dự chạy càng lúc càng xa. Cao Thăng Thái và bọn Chử Vạn Lý thì chia nhau bốn phía vây lại, Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:
- Cao hiền đệ, cứ thả cho họ đi.
Cao Thăng Thái kêu lên:
- Tiểu vương gia ...
Đoàn Chính Thuần nói:
- Để từ từ rồi tính sau.
Ông vừa nói vừa phi thân nhảy tới trước mặt Cao Thăng Thái, ra lệnh:
- Thích khách đi rồi, tất cả về chỗ cũ.
Thân hình lắc một cái, lạng tới ngay bên cạnh Chung phu nhân, đầm ấm nói:
- Bảo Bảo, lâu nay nàng có được khỏe không?
Chung phu nhân đáp:
- Có gì mà không khỏe?
Đoàn Chính Thuần lật tay một cái không nghe một tiếng động đã điểm trúng ngay huyệt Chương Môn ở bên hông bà ta. Chung phu nhân không kịp đề phòng, người mềm nhũn ngã lăn ra. Đoàn Chính Thuần giơ tay nắm lấy bà ta, giả vời kinh hoàng kêu lên:
- Chao ôi! Bảo Bảo, nàng ... nàng sao thế này?
Tần Hồng Miên có biết đâu là mưu kế, vội vàng chạy tới, hỏi dồn:
- Sư muội, chuyện gì thế?
Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần lại tung ra, trúng ngay huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miên và Chung phu nhân bị điểm huyệt rồi bị Đoàn Chính Thuần hai tay nắm hai người, hậm hực nhìn ông ta, cùng nghĩ: "Lại bị y đánh lừa, sao mình lại hồ đồ đến thế? Trong đời bị y lừa bao nhiêu lần rồi, hôm nay việc đến nước này cũng không biết đề phòng".
Đoàn Chính Thuần nói:
- Cao hiền đệ nội thương chưa khỏi, mau về phòng nghỉ ngơi. Vạn Lý, ngươi tất lãnh binh lính canh gác các nơi.
Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng khom lưng đáp lời. Đoàn Chính Thuần cắp hai người đàn bà quay trở vào noãn các, gọi đầu bếp thị tì bày tiệc rượu, sắp dọn chén bát. Sau khi đầy tớ đã lui ra, Đoàn Chính Thuần liền điểm những huyệt Hoàn Khiêu, Khúc Tuyền trên đùi nhị nữ để họ không thể nào chạy trốn được, sau đó mới hề hề vỗ lưng giải huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miên kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần, ngươi ... ngươi còn định hiếp đáp ta ...
Đoàn Chính Thuần quay lại, chắp tay vái hai người một cái thật sâu nói:
- Quả là đắc tội, ta xin bồi lễ trước.
Tần Hồng Miên giận dữ đáp:
- Ai cần ngươi xin lỗi? Mau thả bọn ta ra.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Ba người chúng ta hơn một chục năm qua không gặp nhau, hôm nay trùng phùng, có biết bao nhiêu điều muốn chia xẻ. Hồng Miên, sao tính nàng vẫn còn nóng nảy thế? Bảo Bảo, nàng càng ngày càng xinh đẹp, so với hồi đó xem ra còn trẻ hơn.
Chung phu nhân chưa kịp trả lời, Tần Hồng Miên đã nổi cáu:
- Ngươi thả ta ra đi. Sư muội ta thì ngày càng trẻ ra, còn ta thì càng ngày càng xấu, thế ngươi còn muốn gặp mụ già xấu xí này làm gì?
Đoàn Chính Thuần thở dài:
- Hồng Miên, nàng thử soi gương mà xem, nếu như nàng là một mụ già xấu xí thì khi viết văn tả một tuyệt sắc giai nhân sẽ viết là:
Bà già xấu xí làm sao,
Chim sa cá lặn dễ đâu sánh bằng.
Tần Hồng Miên nhịn không nổi cười khúc khích, đang định dậm chân, nhưng thấy đùi tê dại, không thể nào cử động được, hờn dỗi nói:
- Ai thèm đùa cợt với ông? Cười nói cợt nhả còn gì là thể thống vương gia nữa?
Dưới ánh đèn lung linh, Đoàn Chính Thuần thấy bà ta phụng phịu, nhớ đến năm xưa đêm nào hai người gần gũi, trong lòng không khỏi xốn xang, tiến đến ghé môi hôn lên má người tình cũ một cái. Tần Hồng Miên nửa thân trên cử động được, tay trái liền quạt một cái tặng ngay cho ông ta một cái bạt tai thật kêu. Đoàn Chính Thuần nếu như muốn né tránh thật chẳng có gì khó khăn, nhưng cố ý để cho nàng đánh một chưởng, ghé bên tai nói nhỏ:
Để anh chết dưới chân nàng,
Dẫu cho thành quỉ lại càng phong lưu.
Tần Hồng Miên toàn thân run rẩy, nước mắt đầm đìa, khóc rấm rứt, vừa khóc vừa nói:
- Chàng ... chàng lại ghẹo thiếp nữa rồi.
Thì ra năm xưa Tần Hồng Miên một đôi Tu La Đao hoành hành giang hồ, cho nên có cái ngoại hiệu là Tu La Đao, đêm đó thất thân với Đoàn Chính Thuần xong, ông ta bèn hôn lên má, nàng giơ tay tát yêu chàng một cái, Đoàn Chính Thuần cũng đọc hai câu này. Mười tám năm qua, hai câu "Tu La Đao hạ tử, Cố quỉ dã phong lưu" văng vẳng trong đầu nàng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ lại nghe chính người tình thốt ra, trong lòng Tần Hồng Miên vừa vui sướng, vừa phẫn nộ, vừa ngọt ngào, vừa đắng cay, ngổn ngang trăm mối.
Chung phu nhân hạ giọng nói nhỏ:
- Sư tỉ, gã này chỉ giỏi mật ngọt chết ruồi, khéo làm người khác vui lòng, chị đừng tin y nữa.
Đoàn Chính Thuần đi đến bên cạnh Chung phu nhân, cười nói:
- Bảo Bảo, để ta "mi" nàng một cái, có chịu không nào?
Chung phu nhân nghiêm giọng đáp:
- Ta là gái có chồng, quyết không làm hủy hoại thanh danh của chồng ta. Ngươi chỉ động đến người ta, ta lập tức cắn lưỡi, chết ngay trước mặt ngươi.
Đoàn Chính Thuần thấy bà ta thần sắc cương quyết, nói như chém đinh chặt sắt, không dám sàm sỡ, hỏi lại:
- Bảo Bảo, nàng lấy người đó là hạng người như thế nào?
Chung phu nhân đáp:
- Chồng ta hình dạng xấu xí, tính nết lạ lùng, võ công cũng không bằng ngươi, tài hoa cũng kém, không được vinh hoa phú quí như ngươi. Thế nhưng y một lòng một dạ đối với ta, ta cũng một lòng một dạ với y. Nếu như ta có nửa phần không phải, thì xin trời tru đất diệt Cam Bảo Bảo này, vạn kiếp chẳng được siêu sinh. Để ta nói cho ngươi biết, ta cùng chồng ta ở một nơi gọi là Vạn Kiếp Cốc, cái tên đó cũng là vì lời thề độc đó mà ra.
Đoàn Chính Thuần dâng lên một nỗi kính trọng, không dám nhắc đến tình cũ nghĩa xưa, miệng tuy không nói ra nhưng thấy Cam Bảo Bảo khuôn mặt trắng hồng xinh đẹp như ngày nào, đôi môi đỏ thắm cong cong, trong lòng làm sao quên được chuyện ngày trước? Ông nghe nàng tiết liệt đối với chồng, lòng không khỏi xót xa, thở dài một tiếng nói:
- Bảo Bảo, ta thật không may, không được nàng một lòng một dạ với ta như thế. Vẫn hay ... vẫn hay ta là người đến trước, nhưng, than ôi, cũng bởi ta không phải mà ra.
Chung phu nhân nghe ông ta nói thật thê lương, tình ý thật đậm đà, quyết không thể là lời ngon ngọt để lừa dối người, không khỏi rưng rưng cảm thán. Ba người nhìn nhau, ai cũng nghĩ đến chuyện xưa, đầu mày khóe mắt, lúc thì vui lúc thì buồn.
Một hồi sau, Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:
- Các người bắt con ta đi là để làm gì thế? Bảo Bảo, Vạn Kiếp Cốc của nàng ở nơi nào?
Ngoài cửa sổ bỗng có tiếng người ồm ồm nói:
- Đừng nói cho hắn nghe.
Đoàn Chính Thuần kinh hãi, nghĩ thầm: "Bên ngoài có bọn Chử Vạn Lý canh gác, sao lại có người lẻn vào đây được?" Chung phu nhân mặt sầm xuống nói:
- Thương thế của ông chưa lành, đến đây làm chi?
Tiếp theo là tiếng đàn bà nói:
- Chung tiên sinh, thôi vào đi.
Đoàn Chính Thuần lại càng hoảng hốt, tự nhiên mặt đỏ bừng. Chiếc màn cửa của noãn các vén lên, Đao Bạch Phượng từ ngoài bước vào, mặt hầm hầm, đằng sau là một người đàn ông thật xấu xí, mặt dài như mặt ngựa.
Thì ra Tần Hồng Miên đi đến Cô Tô hành thích không xong, hai mẹ con lại lạc nhau nên theo đúng ước định xuôi nam về Đại Lý, đến gặp nhau ở nhà sư muội. Nhà họ Vương ở Cô Tô sai bọn Thụy bà bà, Bình bà bà toàn lực đuổi theo Mộc Uyển Thanh khiến cho Tần Hồng Miên đi sau đến tám chín ngày nhưng trên đường bình an vô sự. Bà ta đến Vạn Kiếp Cốc rồi, hỏi rõ sự tình lập tức cùng Chung phu nhân đi dò thám, trên đường gặp bọn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc tam ác. Bọn tam ác này chính là do Chung Vạn Cừu mời đến tiếp tay đối phó với Đoàn Chính Thuần nên cho Chung phu nhân hay mọi việc xảy ra. Chuyện đáng xấu hổ của Nam Hải Ngạc Thần phải làm môn hạ Đoàn Dự, lẽ dĩ nhiên y không kể. Tần Hồng Miên nghe nói Mộc Uyển Thanh bị rơi vào tay Trấn Nam Vương phủ, vội vàng chạy tới trước.
Chung Vạn Cừu yêu vợ hơn cả yêu thân, lại cả ghen nên khi Cam Bảo Bảo đi rồi y đứng ngồi không yên, trong bụng nóng như lửa đốt nên chẳng kể đến vết thương chưa khỏi, ban đêm ban hôm cũng chạy đến nơi. Y ở bên ngoài phủ Trấn Nam Vương trông thấy Đao Bạch Phượng hầm hầm chạy ra, oán khí không biết đổ vào ai nên gặp nhau chẳng nói chẳng rằng liền động thủ ngay. Hai bên đấu đến lúc gay go, Đao Bạch Phượng xem chừng không chống nổi, đột nhiên có một bóng đàn bà áo đen chạy vụt qua, tay ôm mặt khóc nức nở, chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người cùng lên tiếng gọi, Mộc Uyển Thanh không thèm để ý cứ lầm lũi chạy đi.
Chung Vạn Cừu kêu lên:
- Ta còn phải đi kiếm vợ ta, không hơi đâu mà đấu lằng nhằng với ngươi.
Đao Bạch Phượng nói:
- Ngươi đi đâu để tìm vợ?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Thì đến nhà tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần chứ đâu. Vợ ta mà gặp Đoàn Chính Thuần rồi thì hỏng bét.
Đao Bạch Phượng hỏi thêm:
- Sao lại hỏng bét?
Chung Vạn Cừu nói:
- Đoàn Chính Thuần mồm mép lắm, là một thằng nhãi mặt trắng chuyên dụ đàn bà, lão tử thể nào cũng phải giết nó.
Đao Bạch Phượng nghĩ thầm: "Chính Thuần đã ngoài bốn mươi, râu đầy mặt, sao lại còn là một "thằng nhãi mặt trắng" được? Thế nhưng y quen thói gió trăng, lời của gã mặt ngựa này cũng đáng đề phòng lắm". Bà bèn hỏi kỹ tính danh lai lịch vợ Chung Vạn Cừu, ngờ đâu lại chính là Cam Bảo Bảo. Bà vốn biết Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo là một trong những nhân tình cũ của chồng nên máu ghen càng bừng bừng liền cùng Chung Vạn Cừu đến vương phủ.
Phủ Trấn Nam Vương bốn bề canh gác nghiêm nhặt nhưng vệ sĩ trông thấy vương phi không dám ngăn trở thành thử hai người đến bên cạnh noãn các mà vẫn chưa một ai lên tiếng báo động. Đoàn Chính Thuần lúc ấy đang cùng hai sư tỉ muội Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo ngỏ lời ong bướm, người thì tát tai người thì cự tuyệt, bên ngoài nghe thấy cả khiến cho Đao Bạch Phượng dường như muốn nổ tung lồng ngực. Còn Chung Vạn Cừu nghe thấy vợ đoan trinh tiết liệt thật mừng không để đâu cho hết.
Chung Vạn Cừu chạy đến bên cạnh Cam Bảo Bảo, vừa cao hứng vừa thương xót cứ ôm vợ mà xoay qua xoay lại, luôn mồm nói:
- Bảo Bảo, cám ơn nàng, nàng đối với ta thật tốt. Nếu như y dám ức hiếp nàng, ta thề sẽ thí mạng cùng y.
Một hồi sau y mới nhớ ra là vợ mình bị điểm huyệt liền quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:
- Mau mau giải khai huyệt đạo cho vợ ta.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Con trai ta bị các ngươi bắt đi, ngươi quay về thả nó ra, lúc ấy ta sẽ giải cứu tôn phu nhân.
Chung Vạn Cừu đưa tay vỗ lên bên sườn và eo của vợ, tuy nội công y hùng mạnh thật nhưng Nhất Dương Chỉ nhà họ Đoàn thủ pháp có một không hai trong thiên hạ, người ngoài không ai có thể giải được, thành thử y vỗ đến lúc trán nổi gân xanh, còn Chung phu nhân bị y vỗ vừa đau vừa nhột, huyệt đạo nơi chân vẫn không mở được chút nào. Chung phu nhân giận dữ nói:
- Ngốc ơi, thôi đừng giở xấu ra nữa!
Chung Vạn Cừu vội vàng ngừng tay, bực tức không để đâu cho hết lớn tiếng quát tháo:
- Đoàn Chính Thuần, có giỏi cùng ta đấu con mẹ nó ba trăm hiệp coi nào.
Y xăn tay ra bộ tịch tưởng như muốn xông lên đánh nhau đến nơi. Chung phu nhân lạnh lùng nói:
- Đoàn vương gia, công tử bị bọn Nam Hải Ngạc Thần bắt đi, chuyết phu dẫu có nói thả, bọn ác nhân kia chưa chắc đã nghe. Để tôi và sư tỉ về rồi tùy cơ giải cứu may ra còn có hi vọng, ít ra cũng khiến cho bọn chúng không làm khó cho công tử.
Đoàn Chính Thuần lắc đầu:
- Ta không tin được. Chung tiên sinh, xin ông đi về, đem con tôi tới đây đổi lấy phu nhân.
Chung Vạn Cừu nổi cơn lôi đình, hầm hầm quát:
- Trấn Nam Vương phủ nhà ngươi là chỗ hoang dâm vô sỉ, vợ ta ở đây nguy hiểm vạn phần.
Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, quát lớn:
- Ngươi còn mở miệng nói năng vô lễ, họ Đoàn này thẳng tay thì đừng trách.
Đao Bạch Phượng từ khi vào phòng tới giờ không nói nửa lời, bỗng dưng xen vào:
- Ông giữ hai người đàn bà lại là có dụng ý gì đây? Vì Dự nhi hay vì chính bản thân ông?
Đoàn Chính Thuần thở dài nói:
- Đến bà cũng không còn tin ở tôi nữa hay sao?
Ông vung tay một cái điểm vào ngang hông Tần Hồng Miên, lập tức giải huyệt cho bà ta, xong rồi tiến lên một bước giơ tay toan điểm vào hông Chung phu nhân. Chung Vạn Cừu lạng người chắn trước mặt vợ, xua hai tay lớn tiếng nói:
- Tên kia ngươi thập thò gì, lại toan chấm mút đàn bà con gái nữa chăng? Thân thể vợ ta không để cho ngươi đụng tới được.
Đoàn Chính Thuần cười khẩy nói:
- Công phu điểm huyệt của tại hạ tuy thô thiển thật nhưng người ngoài không giải nổi đâu. Để lâu thêm nữa, e rằng hai chân của tôn phu nhân phải tàn phế mất thôi.
Chung Vạn Cừu hầm hầm nói:
- Vợ ta như hoa tựa ngọc đang khỏe mạnh, nếu như thành người què thì ta sẽ băm thằng chó đẻ con ngươi ra thành muôn nghìn mảnh.
Đoàn Chính Thuần cười:
- Ngươi muốn ta giải huyệt cho tôn phu nhân nhưng lại không cho đụng vào người thì ta biết làm thế nào đây?
Chung Vạn Cừu không sao trả lời được, bỗng dưng nổi cơn thịnh nộ, quát lớn:
- Ai bảo ngươi điểm huyệt vợ ta làm chi? Chết rồi, hỡi ôi, khi ngươi điểm huyệt vợ ta, ngươi đã đụng vào người nàng rồi. Đã thế ta cũng điểm vợ ngươi một cái để bù lại.
Chung phu nhân lườm chồng, giận dỗi nói:
- Lại nói lăng nhăng, không sợ người ta cười cho sao?
Chung Vạn Cừu nói:
- Có gì đáng cười nào? Ta đâu có để y chơi trèo được.
Trong khi hai bên còn đang đôi co, màn cửa bỗng vén lên, một người chậm rãi bước vào. Người đó mặc trường bào bằng gấm vàng, râu ba chòm, mi thanh mục tú, chính là hoàng đế nước Đại Lý Đoàn Chính Minh.
Đoàn Chính Thuần cất tiếng chào:
- Hoàng huynh!
Bảo Định Đế gật đầu, hơi nghiêng mình từ xa vung ngón tay chỉ về ngực và bụng Chung phu nhân. Chung phu nhân thấy đan điền nóng hổi, hai luồng khí ấm truyền vào hai bên đùi, huyết mạch lập tức điều hòa, đứng lên ngay được.
Chung Vạn Cừu thấy ông ta để lộ chút thần kỹ Cách Không Giải Huyệt, kinh ngạc vạn phần, há hốc mồm không nói lên được lời nào, không ngờ trên đời này lại có công phu cao siêu đến thế.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hoàng huynh, Dự nhi bị người ta bắt cóc rồi.
Bảo Định Đế gật đầu, nói:
- Thiện Xiển Hầu đã cho ta hay. Thuần đệ, con cháu nhà họ Đoàn nếu lạc vào tay người thì cha mẹ chú bác phải đi cứu ra, chúng ta không thể bắt người để đánh đổi được.
Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, đáp lời:
- Chính thế.
Mấy câu nói đó của Bảo Định Đế thật quang minh lỗi lạc, đầy vẻ biết mình biết người, ý muốn là: "Nếu như mình bắt người làm con tin để đổi lại thì chẳng hóa ra làm mất thanh danh của họ Đoàn Đại Lý hay sao? Chúng ta đường đường con vua cháu chúa sao lại coi như ngang hàng với mấy con đàn bà đầu đường xó chợ?".
Ông ngừng lại một chút, quay sang nói với Chung Vạn Cừu:
- Xin ba vị cứ việc ra đi. Trong vòng ba ngày, họ Đoàn ắt sẽ đến Vạn Kiếp Cốc để đòi người lại.
Chung Vạn Cừu đáp:
- Vạn Kiếp Cốc chúng tôi cực kỳ khó tìm, chưa chắc các người đã kiếm được, có muốn chúng tôi chỉ vẽ đường đi nước bước chăng?
Y chắc rằng Bảo Định Đế thể nào cũng mở miệng hỏi thăm, lúc ấy mình sẽ không nói để làm khó ông ta một phen. Nào ngờ Bảo Định Đế không thèm trả lời, phất tay áo một cái ra lệnh:
- Tống khách!
Chung Vạn Cừu tính tình nóng nảy nhưng trước mặt vị hoàng đế bất nộ nhi uy này cũng cảm thấy chân tay luống cuống, vừa nghe ông ta nói "Tống khách" hậm hực nói:
- Thôi được, mình đi thôi. Lão tử hận nhất trên đời này là họ Đoàn. Trên đời này chẳng có người họ Đoàn nào ra cái quái gì.
Y cầm tay vợ, mặt hầm hầm hung hăng ra khỏi phòng. Chung phu nhân giật áo Tần Hồng Miên nói:
- Thư thư, thôi mình đi.
Tần Hồng Miên đưa mắt liếc Đoàn Chính Thuần một cái, thấy ông ta mặt lạnh như tiền không nói một lời, trong lòng chua chát, trừng mắt nhìn Đao Bạch Phượng rồi lủi thủi đi ra. Ba người vừa ra khỏi phòng lập tức phi thân lên mái nhà.
Cao Thăng Thái đứng ở một bên góc nhà hơi cúi mình nói:
- Tống khách.
Chung Vạn Cừu ở trên mái ngói nhổ toẹt một bãi nước bọt, hậm hực nói:
- Chỉ vờ vịt, làm bộ làm tịch, chẳng đứa nào ra cái đếch gì.
Y đề khí nhảy qua một mái nhà, hết căn nọ đến căn kia, trước mắt đã thấy bức tường bao quanh vương phủ. Y tung mình nhảy lên, đưa chân đặt xuống đầu tường. Đột nhiên ngay lúc đó, trước mặt đã có thêm một người mặc áo thụng đai vòng, đứng ngay chỗ y vừa định đáp xuống, chính là Cao Thăng Thái vừa đứng ngoài tiễn chân y.
Người này vốn ở sau Chung Vạn Cừu, không biết làm sao mà không nghe một tiếng động đã vượt qua trước mặt, đứng ngay đúng chỗ y vừa tính đặt chân.
Chung Vạn Cừu đang ở trên lưng chừng, nhảy lại thì không được, xoay qua cũng không xong, quát lên:
- Tránh ra!
Hai bàn tay y cùng tung ra, đánh thẳng vào Cao Thăng Thái. Y nghĩ thế chưởng của mình có sức vỡ bia tan đá, đối phương nếu như cố gượng chống trả thể nào cũng bị ngãn văng xuống đất, dù cho hai bên có ngang ngửa nhau thì cũng có thể mượn sức để chuyển hướng nhảy qua bên cạnh.
Song chưởng của y xem ra đánh trúng ngay ngực người kia, Cao Thăng Thái thân hình đột nhiên ngã ngửa về sau, sử dụng Thiết Bản Kiều chông chênh, hai chân bám chặt vào đầu tường, tránh khỏi thế đánh của Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu đánh không trúng, kêu thầm: "Không xong!". Thân hình y bay vụt qua người Cao Thăng Thái nhưng người đã mất thế, chân tay ngực bụng tênh hênh trống trải để cho địch nhân muốn làm gì thì làm. Cũng may Cao Thăng Thái không thừa cơ tập kích, Chung Vạn Cừu hai chân chạm đất kêu lên:
- Hú vía!
Quay lại thấy Chung phu nhân và Tần Hồng Miên hai người nhẹ nhàng vượt tường nhảy qua. Cao Thăng Thái đứng thẳng trở lên, cúi người vái chào nói:
- Xin thứ lỗi không tiễn xa hơn được.
Chung Vạn Cừu hừ một tiếng, đột nhiên thấy quần tụt xuống, vội vàng đưa tay giữ lại cho khỏi ê mặt, mò tay vào mới hay dây lưng đứt tự bao giờ. Thì ra khi y bay ngang người Cao Thăng Thái đã bị ông ta thọc tay cắt đứt nếu đối phương không nhẹ đòn, ngón tay đó đâm vào huyệt Đan Điền thì lúc này đã chết đứ đừ rồi. Y vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, khạc một cái quay lại nhổ toẹt một cục đờm lên tường, nghe bộp một cái, vừa nhanh vừa chính xác.
*
* *
Mộc Uyển Thanh hoang mang nửa mê nửa tỉnh từ phủ Trấn Nam Vương chạy ra, Đoàn vương phi cùng Chung Vạn Cừu vẫy gọi, nàng nghe mà như bỏ ngoài tai, vẫn chạy vùn vụt. Nàng thấy trời đất mênh mang nhưng sao không có một chỗ dung thân, trong hoang sơn dã lãnh chạy lung tung đến khi trời sáng, hai chân mỏi nhừ, lúc ấy mới ngừng bước, tựa lưng vào một thân cây, dậm châm kêu lên:
- Ta còn sống làm gì, thôi chết quách cho xong.
Tuy trong lòng nàng đầy oán hận nhưng chẳng biết đổ cho ai: "Đoàn lang nào có phụ tình đâu, chỉ vì trời xui đất khiến biến thành người anh cùng cha khác mẹ với ta. Sư phụ hóa ra chính là mẹ ruột, mười mấy năm qua mẹ ta chịu biết bao cay đắng nuôi dưỡng ta nên người, ơn nặng tày non, oán trách gì được ... Trấn Nam Vương hóa ra là cha ta, tuy ông đối với mẹ ta có lỗi nhưng hẳn bên trong cũng có biết bao nhiêu điều cực chẳng đã không nói ra được. Cha ta với ta thật dịu dàng, hết sức thương yêu, bảo ta dù có tâm nguyện gì, thể nào cũng hết sức làm cho kỳ được mới thôi. Thế nhưng điều ta muốn đâu phải ở sức người mà xong. Mẹ ta không được cùng cha ta nên vợ nên chồng, chắc cũng tại Đao Bạch Phượng bên trong ỏn thót nên mẹ ta mới sai ta giết bà ta ... thế nhưng nếu lấy bụng ta suy ra bụng người, ví thử ta lấy được Đoàn lang rồi, quyết chẳng để cho chàng có người thứ hai, huống chi Đao Bạch Phượng đã xuất gia làm đạo cô, hẳn là cha ta cũng có điều gì đáng trách khiến bà phải đau lòng. Ở ngoài Ngọc Hư Quan ta bắn bà ấy hai mũi tên, bà ấy không nổi giận, trong vương phủ bắn thêm hai mũi tên nữa khiến đứa con một yêu quí của bà ta suýt chết, bà ta cũng chẳng làm khó mình, xem ra ... xem ra bà ấy cũng không phải là người hung ác ...".
Nàng suy đi nghĩ lại, càng thêm đau lòng, nói:
- Ta đành phải quên Đoàn lang đi, từ nay không nhớ tới chàng nữa.
Thế nhưng nói ra thì dễ nhưng dẫu chỉ trong giây lát không nghĩ tới chàng cũng không xong, mỗi khi hình bóng tuấn tú, cao thon của Đoàn Dự hiện ra thì ngực nàng chẳng khác gì bị người ta đánh một chưởng. Một lúc sau nàng đành tự an ủi: "Từ nay chàng có là anh trai ta thì cũng được. Ta vốn là đứa mồ côi không cha không mẹ, bây giờ có cha, có mẹ lại có thêm một người anh trai, thật còn gì sung sướng hơn. Con ngốc ơi, ngươi còn đau lòng nỗi gì?".
Thế nhưng đã vướng mắc vào trong lưới tình rồi, dây mềm buộc chặt, càng vùng vẫy càng rứt không ra, trên đỉnh núi cao trong dãy Vô Lượng bảy ngày bảy đêm nàng vò võ ngóng trông khiến cho tình càng thâm trọng, làm sao có thể một sớm một chiều mà xong. Tiếng nước chảy ào ào, gầm thét từ xa vọng tới khiến cho Mộc Uyển Thanh trong cơn tuyệt vọng đột nhiên muốn tìm cái chết nên lần theo tiếng ỳ ầm mà tới. Nàng vòng qua một ngọn núi thấy dòng sông Lan Thương đang cuồn cuộn chảy dưới chân, thở dài một tiếng, nghĩ thầm: "Ta chỉ cần nhảy xuống là bao nhiêu phiền não sạch trơn". Nàng men theo triền núi đến bên bờ sông, mặt trời vừa lên chiếu trên giòng nước xanh như bích ngọc thành muôn ngàn con rắn vàng lộng lẫy, nếu như nhảy một cái thì bao nhiêu cảnh sắc đẹp đẽ kia sẽ không còn bao giờ thấy nữa.
Nàng đứng chết lặng, trong đầu ý nghĩ trồi lên hụp xuống, bỗng thấy trên một tảng đá cách chừng mươi trượng có ai đó đang ngồi. Người kia mặc một chiếc áo dài xanh, trước sau không hề động đậy, cùng một màu với đất đá nên tuy nàng đứng bên bờ sông đã lâu vẫn không nhìn ra. Mộc Uyển Thanh quan sát một hồi nghĩ thầm: "Chắc là một cái xác chết".
Nàng vốn dĩ giơ tay ra là giết người lẽ nào lại sợ tử thi nên nổi cơn hiếu kỳ, vội vàng đi tới xem xét. Người kia là một ông già, râu đen nhánh dài tới ngực, hai mắt mở trừng trừng nhìn ra ngoài sông, đến chớp mắt cũng không. Mộc Uyển Thanh buột miệng:
- Thì ra là một cái xác chết.
Nàng nhìn kỹ một hồi thấy quả thực người đó hoàn toàn không cử động chút nào, đến con ngươi cũng không chuyển, quả không phải là người sống liền nói:
- Quả đúng là người chết.
Nàng coi kỹ thêm thấy cái xác kia đôi mắt hữu thần, trên mặt lại ửng hồng nên đưa tay ra để dưới mũi thăm dò thử, hơi thở như có như không, bèn đưa tay sờ mặt, thì lại lúc nóng lúc lạnh, sờ tay vào ngực thì trái tim lúc đập lúc ngừng. Nàng ngạc nhiên quá đỗi, buột miệng:
- Người này lạ thật, bảo là người chết rồi thì lại dường như còn sống, thế nhưng bảo là còn sống thì lại giống như chết rồi.
Bỗng có tiếng nói đâu đó:
- Ta là người sống đấy chứ.
Mộc Uyển Thanh hoảng hồn, vội quay đầu nhìn lại nhưng sau lưng nào có ai. Bờ sông toàn những hòn đá lớn bằng trứng ngỗng, nhì ra xa xa không nơi nào có thể ẩn náu. Lúc đó rõ ràng nàng đang nhìn quái nhân kia, khi âm thanh vào tai, không thấy môi y mấp máy gì cả. Nàng gọi lớn:
- Ai đùa rỡn với cô nương đó? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?
Nàng lùi lại hai bước, quay lưng về phía giòng sông, mắt nhìn chung quanh. Lại nghe giọng kia nói tiếp:
- Ta quả là không muốn sống đó.
Mộc Uyển Thanh bấy giờ kinh hãi không để đâu cho hết, trước mắt chỉ thấy quái nhân kia nhưng đôi môi y mím chặt có thấy động đậy gì đâu, không thể nào là y nói được. Nàng cao giọng quát lên:
- Ai nói đó?
Tiếng nói kia đáp:
- Chính ngươi nói chứ còn ai.
Mộc Uyển Thanh hỏi lại:
- Thế thì ai đang nói chuyện với ta?
Tiếng nói kia đáp:
- Chẳng ai nói chuyện với ngươi cả.
Mộc Uyển Thanh quay người nhìn chung quanh mấy bận, ngoài cái bóng của chính nàng ra đâu có ai khác. Nàng liệu chừng chính người áo xanh kia giở trò quái dị nên đến gần, thu hết can đảm, đưa tay bịt mồm ông ta lại, hỏi:
- Phải ông nói chuyện với tôi chăng?
Tiếng nói kia đáp:
- Không phải.
Bàn tay Mộc Uyển Thanh không thấy động đậy chút nào, liền hỏi tiếp:
- Rõ ràng có người nói chuyện với tôi, sao lại bảo là không có ai?
Tiếng nói kia đáp:
- Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta, trên thế gian này không còn ta nữa.
Mộc Uyển Thanh nghe vậy người nổi gai ốc, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ mình nói chuyện với ma?". Bèn hỏi:
- Ông ... ông là ma chăng?
Tiếng nói kia đáp:
- Ngươi không muốn sống nữa tức là muốn thành ma, sao lại còn sợ ma?
Mộc Uyển Thanh cố gượng đáp:
- Ai bảo ta sợ ma? Ta trời không sợ, đất không kiêng.
Tiếng nói kia đáp:
- Thế nhưng ngươi sợ một thứ.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng:
- Ta chẳng sợ gì cả.
Tiếng nói kia đáp:
- Có một thứ ngươi sợ chứ, sợ lắm chứ. Ấy là ngươi sợ người chồng mình nay lại biến thành người anh.
Câu nói đó chẳng khác nào người ta giáng lên đầu nàng một gậy, hai chân Mộc Uyển Thanh nhũn ra, ngồi phệt xuống. Nàng chết sững một hồi bấy giờ mới lẩm bẩm:
- Ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ!
Tiếng nói kia tiếp:
- Ta có cách làm cho Đoàn Dự không còn là anh ngươi nữa, mà là chồng ngươi.
Mộc Uyển Thanh run rẩy nói:
- Ngươi ... ngươi lừa ta. Đây là chuyện ông trời đã định, thay đổi ... thay đổi thế nào được.
Tiếng nói kia lại tiếp:
- Ông trời đáng chết lắm, làm chuyện tầm phào, mình việc gì phải nói đến. Ta đã có cách, có thể biến anh ngươi thành chồng ngươi, ngươi có chịu không?
Trong lòng Mộc Uyển Thanh vốn đã nguội lạnh, không còn thiết tha gì nữa, nay nghe câu đó thật đúng là trên trời rơi xuống, tuy nửa tin nửa ngờ nhưng cũng hấp tấp nói:
- Tôi muốn chứ, tôi muốn chứ!
Tiếng nói kia không còn nghe thấy tiếp nữa. Một lúc sau, Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Thế ông là ai vậy? Có thể cho tôi xem hình dáng được không?
Tiếng nói kia trả lời:
- Ngươi nhìn ta từ nãy giờ, chưa đủ hay sao?
Tiếng người đó từ trước tới sau lúc nào cũng ngang phè không lên giọng xuống giọng. Mộc Uyển Thanh nói:
- Ông ... ông ... là ... chính là ông đấy ư?
Tiếng kia đáp:
- Ta cũng chẳng biết ta có phải là ta không nữa. Ôi!
Chỉ mãi đến khi nghe y thở dài mới biết lòng y đầy vẻ sầu muộn, chán chường. Mộc Uyển Thanh không còn hoài nghi gì nữa, biết là tiếng nói kia chính là từ ông già áo xanh bèn hỏi:
- Môi ông không mấp máy sao lại nói được?
Tiếng nói kia đáp:
- Ta giở sống giở chết, miệng không cử động được, thanh âm từ trong bụng phát ra.
Mộc Uyển Thanh tuổi còn nhỏ vẫn còn tính trẻ con, vừa mới đây bụng dạ ưu sầu bây giờ nghe nói ông ta không cần mấp máy môi mà vẫn nói được nên không khỏi tò mò, cảm thấy thật lạ lùng bèn hỏi:
- Dùng bụng cũng nói chuyện được sao? Thật là kỳ lạ.
Người áo xanh nói:
- Ngươi thử đưa tay sờ vào bụng ta thì biết ngay.
Mộc Uyển Thanh giơ tay để lên bụng người nọ, thanh bào khách nói:
- Bụng ta rung động ngươi cảm thấy chăng?
Bàn tay Mộc Uyển Thanh quả nhiên thấy bụng y tùy theo tiếng nói mà lên xuống, cười nói:
- Ha ha, thật là lạ lùng.
Nàng có biết đâu người áo xanh đã luyện được môn nói bằng bụng , trò này những người làm trò hát rong nhiều người biết nhưng muốn nói cho được rõ ràng như y thì thật không phải dễ, không có nội công thâm hậu thì không sao làm được.
Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người áo xanh mấy bận, chăm chú quan sát hỏi thêm:
- Thế môi ông không mấp máy được thì làm sao ăn cơm?
Người áo xanh đưa hai tay, một tay cầm môi trên, một tay cầm môi dưới kéo mồm mình ra, sau đó lấy hai ngón tay bên trái chống lên, tay phải bỏ cái gì đó vào mồm, nghe trệu trạo mấy tiếng nuốt vào bụng nói:
- Như thế đó.
Mộc Uyển Thanh thở dài:
- Chao ôi, tội nghiệp quá, thế thì có còn biết gì là ngon ngọt nữa đâu?
Bấy giờ nàng mới thấy rằng tất cả các bắp thịt trên mặt y đều cứng đơ, mi mắt không nhắm lại được nên không tỏ ra buồn vui giận ghét, thành thử thoạt mới gặp ai cũng tưởng là một xác chết.
Tuy nàng không còn sợ hãi nữa nhưng chợt nghĩ ra người này quả là khốn khổ không sao thoát được cảnh sống giở chết giở này nhưng sao y lại có thể biến anh trai mình thành chồng được? Xem ra những lời y nói ra chẳng qua chỉ là những câu nói bá láp lăng nhăng. Nàng trầm ngâm rồi thở dài, quay mình lặng lẽ bỏ đi. Tiếng nói kia lại vọng tới:
- Ta muốn biến Đoàn Dự thành chồng mi, mi không bỏ đi được.
Mộc Uyển Thanh cười nhạt, đi về hướng tây thêm mấy bước, đột nhiên quay phắt lại hỏi:
- Ông không hề quen biết với tôi, làm sao ông biết được bụng dạ tôi? Ông ... ông quen với Đoàn lang ư?
Người áo xanh nói:
- Tâm sự ngươi thế nào ta biết chứ.
Từ trong hai tay áo y thò ra hai chiếc gậy sắt nhỏ đen sì, nói:
- Thôi mình đi.
Gậy bên trái ấn lên tảng đá, thân hình y đã tung lên nhẹ nhàng rơi cách xa cả trượng. Mộc Uyển Thanh thấy hai chân y rời mặt đất tuy chỉ mới chống một cây gậy nhưng thân thể thật là vững chãi, lạ lùng hỏi:
- Thế hai chân ông ...
Người áo xanh nói:
- Hai chân ta tàn phế đã lâu. Thôi nhé, từ nay trở đi việc của ta ngươi không được hỏi nữa.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Nếu tôi cứ hỏi thì sao?
Mấy tiếng đó vừa nói xong đột nhiên hai chân nhũn ra, khuỵu ngay xuống. Thì ra người áo xanh đã phất phới bay tới, cây gậy bên tay phải điểm luôn vào hai bên khoeo chân nàng, tiếp theo quất ngang một cái khiến nàng đau thấu xương, "A" lên một tiếng. Thiết trượng của y lại liên tiếp điểm vào giải khai huyệt đạo cho nàng, thủ pháp nhanh nhẹn thật không ngờ nổi. Mộc Uyển Thanh đứng bật lên, bực bội nói:
- Sao ông vô lễ thế.
Nàng vung tay lên toan bắn độc tiễn ra. Người áo xanh nói:
- Ngươi bắn ta một mũi tên, ta đánh cho một roi vào mông, bắn ta mười mũi tên, ta đánh cho mười roi, cứ thử thì biết.
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: "Nếu ta bắn trúng y một mũi tên thì y đã chết đứ đừ rồi còn đâu, lấy gì mà đánh mình? Thế nhưng người này thần thông quảng đại, võ công còn cao hơn cả Nam Hải Ngạc Thần, xem ra bắn không trúng được y đâu. Người này nói là làm, để y đánh vào đít thì thật hỏng bét".
Lại nghe y nói tiếp:
- Ngươi không dám bắn ta thì ngoan ngoãn nghe lời ta, không được trái lời.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Tôi không nghe lời ông đâu.
Nàng tuy nói thế nhưng tay đã buông cơ quan bắn tên trong tay áo ra. Người áo xanh dùng hai cây gậy sắt thay chân, chạy thẳng về phía trước. Mộc Uyển Thanh chạy theo sau thấy hai cây gậy đó đều dài bảy, tám thước, mỗi khi đi một bước bằng mấy bước người thường. Mộc Uyển Thanh đề khí chạy thật nhanh cố gắng lắm mới theo kịp. Người áo xanh lên non vượt ngàn thật chẳng khác gì đi trên đất bằng, nhưng lại không đi vào những noi có đường mòn sẵn, mà dù cho đất đá gai góc, chỉ điểm thiết trượng một cái là vượt qua ngay, khiến cho Mộc Uyển Thanh chạy theo quần áo bị gai xé rách từng mảng, nhưng nhất định không lên tiếng thở than tỏ ra kém thế.
Đi qua dăm ngọn núi nhìn thấy xa xa một khu rừng rậm tối mò. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: "Đến Vạn Kiếp Cốc rồi" bèn lên tiếng hỏi:
- Mình đến Vạn Kiếp Cốc làm gì đây?
Người áo xanh quay đầu lại đột nhiên vung thiết trượng ra, nghe vút một cái đã đánh trúng ngay đùi nàng, nói:
- Ngươi có còn láu táu nữa thôi?
Cứ như tính tình Mộc Uyển Thanh thì dù nàng biết địch không lại cũng không đời nào chịu cho người ta ức hiếp như thế nhưng trong lúc này trong đáy lòng mơ hồ nẩy ra một tia hi vọng, bản lãnh người áo xanh kia cao cường như thế, biết đâu giúp được nàng đạt tâm nguyện thì sao, nên chỉ nói:
- Cô nương chẳng sợ gì nhà ngươi đâu, tạm nhường ngươi một bận.
Người áo xanh nói:
- Thôi đi!
Y không đi theo cái cửa hang nơi gốc cây mà đi vòng qua sườn núi ở bên cạnh sơn cốc, chạy về phía sau. Đường đi nước bước trong Vạn Kiếp Cốc y quen thuộc lắm, mấy lần Mộc Uyển Thanh định lên tiếng hỏi nhưng lại sợ y vung gậy đánh nên lời đến cửa miệng lại phải nhịn không nói ra. Chỉ thấy y quẹo trái quẹo phải, đi vào hậu sơn càng lúc càng xa. Khi Mộc Uyển Thanh đến Vạn Kiếp Cốc thăm sư thúc Cam Bảo Bảo đã ở đây mấy hôm bây giờ người áo xanh dẫn nàng đến những nơi nàng chưa từng đi qua bao giờ, đâu có ngờ trong Vạn Kiếp Cốc có những nơi hoang lương u tịch đến như thế.
Đi thêm mấy dặm lại đi vào trong một khu rừng rậm, toàn những cây cổ thụ cao vút, tuy ban ngày ban mặt ánh mặt trời sáng sủa mà vẫn tối mờ mờ như buổi chiều tà, càng vào sâu cây càng dày, đến sau phải nghiêng người mới len đi được. Đi thêm vài mươi trượng bỗng thấy những câu cổ thụ mọc thành một hàng dài trông như một bức tường cây, không còn làm sao qua được. Người áo xanh giơ gậy sắt tạt vào lưng Mộc Uyển Thanh hất một cái, người nàng bay vụt lên không, rơi ngay lên một tàn cây. Lại thấy người ấy cũng bay bổng lên, cầm thiết trượng điểm vào một cây to, thân hình bay lên nữa vượt qua luôn bức tường. Mộc Uyển Thanh đâu có tài ba như thế, đành phải trèo qua bám vào cành cây nhảy xuống.
Đằng trước mặt là một khoảng đất bằng, ngay chính giữa có một căn nhà đá. Thạch thất đó hình dáng lạ lùng, dùng toàn những tảng đá nặng hàng nghìn cân xếp chồng lên nhau, chỗ lồi chỗ lõm, đúng là một hòn núi nhỏ lộ ra một cái cửa trông như một cái hang. Người áo xanh quát lớn:
- Vào đi!
Mộc Uyển Thanh nhìn vào trong căn nhà đá thấy tối om không biết bên trong có cái quái quỉ gì làm sao dám ngang nhiên đi vào? Đột nhiên nàng thấy một bàn tay để lên lưng, vội tránh ra nhưng kình lực của người áo xanh đã đẩy nàng vào trong hang đá.
Nàng giơ tay trái lên bảo vệ thân mình, sử dụng chiêu Hiểu Phong Phất Liễu che trước mặt sợ từ trong hang có con quái vật gì xông ra, nghe thấy đằng sau một tiếng ầm lớn, cửa hang đã bị vật gì nặng chặn lại rồi. Nàng kinh hoảng, vội quay lại chỗ cửa cố sức đẩy thấy chỗ bàn tay chạm vào xù xì lạ thường, hóa ra đó là một phiến đá hoa cương lớn.
Nàng vận sức vào hai cánh tay, hết sức đẩy ra nhưng chẳng khác gì chuồn chuồn đẩy cột nhà, tảng đá không hề nhúc nhích. Mộc Uyển Thanh lớn tiếng gào:
- Này, ngươi nhốt ta ở đây làm gì đó?
Chỉ nghe tiếng người áo xanh vọng vào:
- Ngươi xin ta làm gì bộ quên rồi sao?
Thanh âm theo kẽ hở của khối đá truyền vào nghe rõ ràng như thường. Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại khối đá thấy bên trên thì sát trần nhà, hai bên tuy có khe hở nhưng chỗ thì vài tấc, chỗ độ một thước nhưng không cách nào đủ chỗ để chui qua được.
Mộc Uyển Thanh lại kêu lên:
- Thả tôi ra, thả tôi ra!
Bên ngoài không thấy tăm hơi gì, nàng theo khe cửa nhìn ra chỉ thấy người áo xanh đã nhảy vọt lên trông chẳng khác gì một con chim xanh đang bay vượt qua bức tường cây. Nàng quay trở lại giương to mắt thấy một góc nhà có bàn có giường, trên giường có một người ngồi đó. Nàng kinh hãi kêu lên:
- Ngươi ... ngươi ...
Người kia đứng lên, đi tới mấy bước kêu lên:
- Uyển muội, em cũng đến ư?
Trong giọng nói vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, chính là Đoàn Dự. Mộc Uyển Thanh trong cơn tuyệt vọng lại gặp được tình lang, vui mừng tưởng như trái tim ngừng đập, vội vàng nhào tới sà vào lòng chàng. Trong thạch thất ánh sáng yếu ớt, Đoàn Dự thấy nàng mặt tái nhợt, hai giòng lệ chảy dài trên má, trong lòng thật xót xa, giơ tay ôm chặt lấy nàng, thấy đôi môi nàng mấp máy, nhịn không nổi cúi xuống hôn một cái. Hai người vừa chạm vào nhau đột nhiên cùng nghĩ: "Mình là anh em ruột thịt, đâu có thế được". Thân thể cùng giật một cái, lập tức buông nhau ra.
Hai người dựa lưng vào vách đá, ngơ ngẩn nhìn nhau, Mộc Uyển Thanh khóc òa lên. Đoàn Dự dịu dàng an ủi:
- Uyển muội, cái đó là trời đã an bài, em cũng đừng quá đau khổ. Anh nay được một cô em như thế này, thật vui mừng biết bao.
Mộc Uyển Thanh liên tiếp dậm chân, khóc nói:
- Em vẫn thấy đau khổ, em không thấy vui mừng. Chàng trong lòng vui mừng, chàng là kẻ vô lương tâm.
Đoàn Dự thở dài:
- Mình đâu có cách nào khác? Giá như anh không gặp em có phải hay biết bao nhiêu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Cũng có phải em muốn gặp chàng đâu? Ai bảo anh đi kiếm em làm gì? Nếu khi đó anh không quay lại báo tin thì cùng lắm là chết trong tay người ta thôi. Anh làm chết con Hắc Mai Côi của em, làm cho lòng em biết bao đau đớn, làm cho sư phụ em biến thành mẹ ruột em, làm cho cha anh thành cha em, làm cho chính mình thành anh của em. Em không muốn thế, em nhất định không muốn thế. Anh làm em bị nhốt nơi đây, em muốn đi ra khỏi đây, ra khỏi đây ngay.
Đoàn Dự nói:
- Uyển muội, quả đúng là anh không ra gì. Em đừng giận nữa, chúng mình từ từ tìm cách trốn ra khỏi nơi đây.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Em không đi đâu hết, em chết ở trong này cũng thế mà chết ở ngoài kia cũng thế có khác gì đâu. Em không ra, nhất định không ra.
Nàng mới vừa gào lên: "Em muốn ra khỏi nơi đây" đến bây giờ lại đòi "em nhất định không ra". Đoàn Dự biết nàng tâm tình khích động, không thể nào khuyên bảo gì đành ngồi im.
Mộc Uyển Thanh hờn giận thấy chàng không nói năng gì bèn hỏi:
- Sao anh không nói gì cả?
Đoàn Dự đáp:
- Thế em bảo anh nói gì đây?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Thì anh nói xem anh ở đây để làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Tên học trò anh bắt anh đưa đến đây ...
Mộc Uyển Thanh lạ lùng:
- Học trò anh?
Nàng lập tức nghĩ ra, tuy đang khóc không khỏi bật cười, nói:
- Đúng rồi, là Nam Hải Ngạc Thần. Y bắt anh đến nhốt tại đây ư?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế.
Mộc Uyển Thanh cười:
- Thế thì anh phải ra oai sư phụ, bảo hắn thả anh ra chứ.
Đoàn Dự đáp:
- Ta nói đâu phải chỉ một lần mà thôi, thế nhưng hắn nào có nghe, ngược lại còn nói là chỉ khi nào ta chịu lạy hắn làm thầy thì mới thả ta ra.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ, chắc là anh lên mặt không đúng cách.
Đoàn Dự thở dài:
- Chắc hẳn là thế. Uyển muội, còn cô bị ai bắt đến đây thế?
Mộc Uyển Thanh đem chuyện người áo xanh kể lại sơ qua nhưng chuyện chính mình muốn "anh trai biến thành chồng" không đề cập đến. Đoàn Dự nghe nói người này môi không động đậy mà lại nói bằng bụng, hai chân tàn phế mà chạy như bay, không khỏi thích thú, liên tiếp hỏi cho ra, tấm tắc khen là lạ lùng.
Hai người nói chuyện một lúc lâu, bỗng nghe bên ngoài nhà có tiếng lách cách, một cái bát theo khe hổng đưa vào, có tiếng nói:
- Ăn cơm này.
Đoàn Dự đưa tay đón lấy, thấy trong bát là thịt quay thơm phức, kế đến đưa thêm vào độ mươi cái bánh hấp. Chàng đem hết đồ ăn đặt trên bàn, hỏi nhỏ:
- Em liệu xem họ có bỏ thuốc độc trong thức ăn chăng?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Họ muốn giết mình thì dễ như chơi, việc gì phải hạ độc.
Đoàn Dự nghĩ quả thực không sai, bụng đang đói cồn cào liền nói:
- Thế thì ăn thôi.
Chàng đem bánh kẹp thịt quay vào giữa, đưa cho Mộc Uyển Thanh ăn trước rồi tới lượt mình. Người bên ngoài nói:
- Ăn xong đem bát bỏ ra ngoài sẽ có người đến lấy.
Nói rồi y đi mất. Mộc Uyển Thanh từ trong hang nhìn ra thấy gã kia trèo lên cây lên đến trên mới nhảy qua phía bên kia nghĩ thầm: "Người này thân thủ cũng thường thôi". Nàng quay lại ngồi bên cạnh Đoàn Dự, hai người cùng ăn bánh với thịt quay. Đoàn Dự vừa ăn vừa nói:
- Em cũng đừng lo, bá phụ và gia gia thể nào cũng đến cứu mình ra. Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương bọn họ võ công tuy cao cường thật nhưng chưa chắc đã là địch thủ của cha mình. Còn nếu như bá phụ đích thân ra tay thật chẳng khác nào gió thổi lá rơi, sẽ đánh cho chúng một trận thất điên bát đảo.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ, ông ấy là hoàng đế Đại Lý, võ công được bao nhiêu? Em không tin là ông ấy đánh thắng được quái nhân áo xanh kia đâu. Chắc phải đem theo vài nghìn kỵ binh thiết giáp tấn công vào.
Đoàn Dự liên tiếp lắc đầu, nói:
- Không được, không được! Họ Đoàn chúng ta tổ tiên vốn là nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên, tuy ở Đại Lý làm vua một cõi nhưng quyết không quên qui củ võ lâm. Nếu như ỷ thế chèn ép người, lấy đông để thắng chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười họ Đoàn Đại Lý hay sao?
Mộc Uyển Thanh nói:
- Ồ, thì ra trong nhà anh tuy làm đến hoàng đế, vương gia nhưng vẫn không để mất thân phận anh hùng hảo hán.
Đoàn Dự nói:
- Bá phụ và gia gia vẫn thường nói rằng làm người không được quên nguồn cội.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:
- Sí, mồm thì nói nhân nghĩa đạo đức, đến việc thì lại đê tiện vô liêm sỉ. Cha anh đã có mẹ anh rồi, sao lại ... sao lại còn gian díu với sư phụ em?
Đoàn Dự chưng hửng nói:
- Hử, sao em dám nói nặng cha anh? Cha anh không phải là cha em sao? Hơn nữa, trên đời này vương công quí tộc, có người nào không có mấy vị phu nhân? Dẫu có tám người, mười người thì đã sao đâu.
Thời đó là đời Bắc Tống, miền bắc là Khiết Đan, giữa là Đại Tống, tây bắc là Tây Hạ, tây nam là Thổ Phồn, nam là Đại Lý. Trong năm nước các vương công ngoài chính thất ra ai ai cũng có cơ nhân thị thiếp, nhiều thì mấy chục người, ít cũng ba bốn, đến dưới một mức như hầu bá, quan to, cũng còn có vợ lẽ, nàng hầu. Từ xưa đến nay, đời nào cũng thế, người đời coi như đó là chuyện đương nhiên.
Mộc Uyển Thanh nghe thế, cơn giận bừng bừng nổi lên, bốp một tiếng giơ tay tát ngay trên má chàng khiến cho Đoàn Dự há hốc mồm, miếng bánh ăn dở còn cầm trên tay rơi bịch xuống đất. Chàng lắp bắp:
- Cô ... cô ...
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Em không gọi ông ấy là cha. Đàn ông lấy nhiều thê thiếp là người không có lương tâm. Người nào lòng nọ dạ kia là kẻ vô tình vô nghĩa.
Đoàn Dự xoa xoa chỗ má sưng, cười gượng:
- Ta là huynh trưởng của cô, cô là em gái của ta, phận là em không được vô lễ với anh như thế.
Mộc Uyển Thanh trong lòng uất ức chưa tan, giơ tay toan đánh nữa. Lần này Đoàn Dự đã đề phòng, chân liền bước ra sử dụng Lăng Ba Vi Bộ đã lòn ra sau lưng cô nàng. Mộc Uyển Thanh giơ tay đánh ngược trở về nhưng Đoàn Dự đã tránh được. Trong thạch thất chỉ chừng một trượng vuông nhưng Lăng Ba Vi Bộ quả thực thần diệu, Mộc Uyển Thanh xuất chưởng càng lúc càng nhanh nhưng không sao đánh trúng được chàng.
Mộc Uyển Thanh càng bực tức hơn, đột nhiên kêu lên "Ôi chao" một tiếng, làm như bị ngã, Đoàn Dự kinh hoảng nói:
- Sao thế?
Chàng vội cúi xuống đỡ lên. Mộc Uyển Thanh nằm thõng trong tay chàng đột nhiên tay trái vòng lên ôm lấy cổ, vít mạnh một cái, cười nói:
- Anh còn chạy nữa thôi?
Tay phải vung lên tát chàng một cái đích đáng. Đoàn Dự bị đau chỉ kêu được "A" một tiếng, bỗng thấy trong Đan Điền một luồng nhiệt khí bốc lên, chỉ giây lát huyết mạch bừng bừng, tình dục dâng lên như sóng biển, không sao kiềm chế được. Chàng thấy thiếu nữ đang nằm trong lòng mình thon thon xinh đẹp, hương thơm ngây ngất bốc lên, trong lòng đại loạn, liền ghé miệng hôn lên môi nàng.
Nụ hôn đó khiến cho Mộc Uyển Thanh người nhũn ra. Đoàn Dự bồng nàng lên để nằm trên giường, giơ tay cởi áo. Mộc Uyển Thanh nói nhỏ:
- Chàng ... chàng là anh trai của thiếp mà!
Thần trí Đoàn Dự tuy loạn nhưng câu nói đó thật chẳng khác nào một tiếng sét giữa ban ngày, ngơ ngẩn rồi vội vàng buông nàng ra, lùi lại mấy bước, xoạc chân giơ hay tay bốp bốp bốp bốp, tự đánh lên mặt mình bốn cái tát liền, chửi:
- Đáng chết thật, đáng chết thật.
Mộc Uyển Thanh thấy chàng hai mắt đỏ ngầu, phóng ra những tia sáng kỳ lạ, trên mặt bắp thịt giựt giựt liên tiếp, lỗ mũi phập phồng, kinh hoảng kêu lên:
- Chao ôi! Đoàn lang, trong thức ăn có độc, chúng mình bị trúng kế người ta rồi.
Đoàn Dự lúc ấy toàn thân nóng như sôi, chẳng khác nào bị người ta bỏ trong một cái lò hấp, nghe Mộc Uyển Thanh nói đồ ăn có độc, trong lòng lại thấy vui mừng: "Thì ra độc dược đó làm loạn bản tính mình, nên mới định làm trò loạn luân với Uyển muội, không phải mình uổng công đọc sách thánh hiền, đột nhiên táng tâm hóa điên hành động như loài cầm thú".
Thế nhưng trong thân nóng dường như không chịu nổi, từng món từng món y phục cởi cả ra sau cùng chỉ còn một chiếc quần, một chiếc áo cánh, lúc ấy mới không cởi tiếp, ngồi xuống xếp bằng, mắt nhìn mũi, mũi tập trung vào tâm, hết sức khắc chế không để cho ý niệm loạn động. Chàng ăn phải Mãng Cổ Chu Cáp vốn dĩ vạn độc không thể nào xâm nhập, nhưng trong thịt quay lại trộn với những loại thuốc không làm hại tính mạng con người, mà chỉ là xuân dược kích phát tình dục mà thôi. Tình dục trai gái vốn là bản tính trời sinh, thuốc khích dâm này chẳng qua chỉ để thúc đẩy cái tính tự nhiên của con người khiến cho người uống phải thấy thèm khát không sao chế ngự nổi. Còn chất kịch độc của Mãng Cổ Chu Cáp là lấy độc công độc, có thể trừ mọi loại độc dược nhưng xuân dược lại không phải thuốc độc nên Mãng Cổ Chu Cáp không có tác dụng gì.
Mộc Uyển Thanh cũng thấy trong lòng bồn chồn nóng nảy, đến sau không chịu nổi bèn cởi áo ngoài ra. Đoàn Dự kêu lên:
- Em không được cởi thêm nữa, dựa lưng vào tường cho hạ bớt xuống.
Hai người cùng ngồi dựa lưng vào vách đá, sau lưng tuy mát, nhưng trong ngực bụng tứ chi, đầu cổ chỗ nào cũng nóng bừng bừng. Đoàn Dự thấy hai má Mộc Uyển Thanh đỏ au, trông thật kiều diễm đáng yêu, đôi mắt long lanh hiển nhiên chỉ muốn nhảy vào lòng mình. Chàng nghĩ thầm: "Lúc này hai người mình quyết tâm chống lại dược tính nhưng sức người có hạn, nếu như mình giở trò loạn luân thì thanh danh họ Đoàn vứt đi hết, dù chết trăm lần cũng không chuộc được tội lỗi". Chàng bèn nói:
- Em cho anh một mũi độc tiễn.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Để làm gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Ta ... ta nếu như không chống nổi với sức thuốc, thì một mũi tên tự kết liễu đời mình, khỏi làm hại đời em.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Em không cho anh đâu.
Hai người có biết đâu thuốc độc trên mũi tên không làm hại được chàng. Đoàn Dự nói:
- Em hãy bằng lòng làm cho anh một việc.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Việc gì?
Đoàn Dự nói:
- Nếu như ta giơ tay ra đụng đến người cô thì cô bắn ta một mũi tên cho chết liền.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Em không bằng lòng đâu.
Đoàn Dự nói:
- Anh van em, bằng lòng đi. Thanh danh của họ Đoàn nước Đại Lý mấy trăm năm nay, không thể để hỏng trong tay anh. Nếu không khi anh chết đi rồi còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ liệt tông?
Bỗng nghe từ ngoài thạch thất một giọng nói truyền vào:
- Họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ có ra gì đâu, đến tay Đoàn Chính Minh, miệng nói nhân nghĩa đạo đức, nhưng trong lòng thì khác nào lang sói, có còn gì mà bảo là thanh danh?
Đoàn Dự nổi giận đáp:
- Ngươi là ai? Sao dám nói lếu láo.
Mộc Uyển Thanh nói nhỏ:
- Y chính là thanh bào quái nhân.
Chỉ nghe người áo xanh kia nói:
- Mộc cô nương, ta làm cho nàng rồi đó, biến ông anh trai thành đức ông chồng, việc cô đã nhờ đến ta là phải xong.
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Ngươi hạ độc hại người, nào có liên quan gì đến việc ta nhờ cậy ngươi?
Người áo xanh nói:
- Trong bát thịt quay kia, ta đã trộn khá nhiều Âm Dương Hòa Hợp Tán, ai ăn phải rồi, nếu như không điều hòa âm dương, trai gái thành vợ thành chồng thì da thịt sẽ nứt ra, thất khổng ứa máu mà chết. Dược tính của hòa hợp tán kia, càng ngày càng ghê gớm, đến ngày thứ tám thì dù có là Đại La thiên tiên cũng không chịu nổi.
Đoàn Dự giận đữ nói:
- Ta với ngươi không thù không oán, sao lại dùng kế độc ác như thế để hại ta? Ngươi muốn ta sau này không còn mặt mũi nào nhìn ai, để bá phụ và phụ mẫu ta suốt đời nhục nhã, ta ... ta thà chết trăm lần, nhưng nhất quyết không làm trò loạn luân vô sỉ.
Người áo xanh nói:
- Ta với ngươi không oán không thù thật nhưng ta với bá phụ ngươi thì thù sâu như bể. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần hai tên tiểu tử đó suốt đời nhục nhã không còn dám nhìn mặt ai thì thật tốt quá rồi còn gì. Hay lắm, hay lắm! Ha ha! Ha ha!
Miệng y không cử động được, giọng cười từ cổ họng thoát ra thật là cổ quái khó nghe.
Đoàn Dự còn đang toan cãi tiếp, liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh mặt như đóa hải đường mùa xuân mơn mởn, thân hình chẳng khác gì bông phù dung hé nhụy, tim đập thình thình, đến như chính mình cũng nghe được, đầu óc mơ hồ nghĩ thầm: "Uyển muội và ta vốn có ước định hôn nhân, nếu như không về Đại Lý, thì có ai biết đâu hai đứa lại là anh em cùng chung một bọc? Oan nghiệt kia đúng là trời xui đất khiến đời trước kết thành, với mình có liên quan gì đâu".
Chàng nghĩ đến đó, chập choạng đứng lên, thấy Mộc Uyển Thanh cũng tựa tay vào tường, đang chầm chậm trỗi dậy, đột nhiên trong lòng như một ánh chớp lóe lên: "Không được, không được! Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, cái khác biệt giữa con người và cầm thú chỉ là một ý niệm mà thôi, nếu hôm nay ngươi sẩy chân rồi, không phải chỉ mình thân bại danh liệt, mà cả bá phụ và cha mẹ ngươi cũng bị vạ lây".
Chàng bèn quát lớn:
- Uyển muội, ta là anh trai của nàng, cô là em gái của ta, biết chứ? Cô có biết Kinh Dịch không nào?
Mộc Uyển Thanh đang cơn mơ mơ màng màng, đột nhiên nghe chàng hỏi, liền đáp:
- Cái gì Dịch Kinh? Em không biết.
Đoàn Dự nói:
- Được, để ta dạy cho cô. Học Dịch Kinh rất là khó khăn, cô phải lắng tai nghe cho kỹ.
Mộc Uyển Thanh lạ lùng hỏi lại:
- Em học để làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Cô cứ học đi mai này có nhiều ích lợi lắm. Không chừng mình nhờ đó mà thoát được cảnh ngộ khó khăn.
Chàng biết rằng dục niệm của mình đang sôi sục, giữa người với thú chỉ là nghìn cân treo trên sợi tóc, nếu như Mộc Uyển Thanh sà vào lòng mình khêu gợi thì bờ đê chống giữ thể nào cũng lở nên chỉ có cách dạy cho nàng kinh Dịch, một người dạy, một người học, hai người chuyên chú, không nghĩ gì đến việc gái trai. Chàng nói:
- Cơ bản của Dịch Kinh là từ thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Em có biết hình vẽ bát quái như thế nào không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Không biết, nghe chán quá mất thôi. Đoàn lang, chàng lại đây, em có chuyện muốn nói với chàng.
Đoàn Dự đáp:
- Ta là anh trai của cô, không được gọi ta là Đoàn lang mà phải gọi là đại ca. Để ta đọc ca quyết đồ hình bát quái cho cô nghe, cô cố mà ghi nhớ.
Quẻ Càn ba vạch liền ngang,
Quẻ Khôn đứt đoạn ba hàng sáu que.
Quẻ Chấn chén ngửa giống ghê,
Quẻ Cấn bát úp chớ hề nhớ sai.
Quẻ Ly ở giữa đứt đôi,
Quẻ Khảm chính giữa là nơi vạch liền.
Quẻ Đoài chia hai bên trên,
Quẻ Tốn dưới đứt còn nguyên phía ngoài.
Mộc Uyển Thanh theo đúng thế đọc lại một lượt, hỏi:
- Chén uống nước với bát ăn cơm là cái gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Đó là nói về hình dáng của quẻ. Còn như nghĩa lý bên trong bát quái, trời đất vạn vật cái gì cũng bao trùm cả, chẳng hạn như trong một nhà, Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là con trai lớn, Tốn là con gái lớn ... hai đứa mình là anh em, ta là quẻ Chấn, còn cô là quẻ Tốn.
Mộc Uyển Thanh lại nhơn nhơn nói:
- Không phải, chàng là quẻ Càn, thiếp là quẻ Khôn, hai ngưới kết thành vợ chồng, sinh con đẻ cái, mới sinh ra quẻ Chấn, quẻ Tốn chứ ...
Đoàn Dự nghe nàng ăn nói lả lơi, không khỏi động lòng, kinh hãi nói:
- Cô chớ nên suy nghĩ lăng nhăng, nghe tiếp ta nói đây.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chàng ... chàng ngồi cạnh bên em, em sẽ nghe chàng nói.
Chỉ nghe người áo xanh từ bên ngoài nói vọng vào:
- Hay lắm, hay lắm! Hai đứa ngươi thành đôi lứa rồi, sinh ra con cái lúc ấy ta sẽ thả cho ra. Ta sẽ không giết hai đứa bay mà lại truyền cho hai người một thân võ công để hai vợ chồng dọc ngang thiên hạ.
Đoàn Dự giận dữ đáp:
- Nếu đối đế lắm ta sẽ đập đầu vào tường mà chết, con cháu họ Đoàn Đại Lý, thà chết chứ không chịu nhục, ngươi mong dùng ta để báo thù thì đừng hòng.
Người áo xanh đáp:
- Ngươi chết hay sống thì ta cũng chẳng cần. Nếu hai đứa ngươi tìm đường chết, ta sẽ lột sạch quần áo không còn một mảnh vải che thân, viết rõ là cháu trai và cháu gái của Đoàn Chính Minh, con trai và con gái Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý, hai đứa thông gian bị người ta bắt được nên xấu hổ tự sát. Ta sẽ đem xác hai đứa bay ra ướp muối, treo nơi thành Đại Lý ba ngày, sau đó đem đi Biện Lương, Lạc Dương, Lâm An, Quảng Châu các nơi cho mọi người đều biết.
Đoàn Dự giận quá, lớn tiếng quát:
- Họ Đoàn chúng ta có tội tình gì với ngươi mà ngươi trả thù độc ác đến thế?
Người áo xanh đáp:
- Việc của ta nói với bọn trẻ con chúng bay làm gì?
Đến đây không còn nghe gì thêm nữa. Đoàn Dự biết rằng còn nói chuyện với Mộc Uyển Thanh câu nào thì chỉ càng thêm nguy hiểm, ngồi quay vào vách ôn lại Lăng Ba Vi Bộ từng bước từng bước những chỗ phức tạp, mơ mơ màng màng hồi lâu đột nhiên nghĩ tới: "Thần tiên tỉ tỉ trong hang núi kia so với Uyển muội xinh đẹp gấp mười lần, nếu ta có lấy vợ, phải lấy được người như thần tiên tỉ tỉ mới khỏi uổng đời". Trong cơn mê man Đoàn Dự quay đầu lại, thấy dung nhan trang sức của Mộc Uyển Thanh từ từ biến thành ngọc tượng trong thạch động, kêu lên:
- Thần tiên tỉ tỉ, ta thật khổ, nàng cứu ta với.
Chàng quì gục xuống đất, ôm chặt lấy chân Mộc Uyển Thanh. Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người gọi:
- Cơm chiều đây.
Y đưa vào khe hở một ngọn nến đỏ cười nói:
- Mau cầm lấy, đêm động phòng phải có hoa chúc chứ!
Đoàn Dự kinh hãi đứng phắt dậy, dưới ánh nến thấy Mộc Uyển Thanh sóng mắt đưa tình, xinh đẹp không sao tả hết. Chàng liền thổi tắt phụp ngọn nến quát lên:
- Trong cơm có chất độc, mau đem đi. Bọn ta không ăn đâu.
Người kia cười nói:
- Ngươi vốn trúng độc rồi, phân lượng đã đủ, cần gì phải thêm.
Y nói rồi đẩy cơm và đồ ăn vào. Đoàn Dự ngơ ngẩn cầm lấy đặt lên bàn, nghĩ thầm: "Người ta chết đi rồi muôn việc đều xong, chuyện thị phi trên đời còn nghĩ tới làm gì?" Nhưng chàng chợt nghĩ lại: "Cha mẹ và bá phụ cưng chiều ta biết là nhường nào, làm sao lại để cho họ Đoàn bị người đời cười chê cho được?".
Đột nhiên Mộc Uyển Thanh nói:
- Đoàn lang, thiếp muốn dùng tên độc tự sát để khỏi làm hại đến chàng.
Đoàn Dự kêu lên:
- Khoan đã! Dẫu cho hai anh em mình cùng chết, tên vạn ác chi đồ kia cũng không buông tha. Người này âm hiểm độc địa, so với Diệp Nhị Nương giết trẻ con, Nam Hải Ngạc Thần vặn cổ người còn tệ hơn nhiều, không biết y là ai?
Chỉ nghe tiếng người áo xanh ở ngoài truyền vào:
- Tiểu tử quả có đôi chút hiểu biết. Lão phu chính là Ác Quán Mãn Doanh đứng đầu trong Tứ Đại Ác Nhân đây! Sơn lâm uy chấn cõi ngoài,
Cung đình vương giả tranh tài hơn thua.
Hổ gầm tiếng vọng canh khuya,
Rồng thiêng giương vuốt dễ đùa được sao?
*
* *
Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái quay về noãn các trong phủ Trấn Nam Vương báo cáo, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tần Hồng Miên đi đã xa. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng lo cho đứa con yêu liền hỏi:
- Tâu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở đâu hoàng thượng đã biết chưa?
Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp:
- Cái tên Vạn Kiếp Cốc hôm nay ta nghe đến mới là lần đầu, nhưng chắc cũng không xa thành Đại Lý bao nhiêu.
Đao Bạch Phượng vội vàng nói:
- Nghe như Chung Vạn Cừu nói thì địa phương này rất là kín đáo, e rằng tìm được không phải dễ. Dự nhi nếu lọt vào tay kẻ địch lâu ngày ...
Bảo Định Đế mỉm cười nói:
- Dự nhi được nuông chiều đã quen không hiểu cái hiểm ác của người đời, nếu trải qua một ít gian nan, có dịp giũa mài, biết đâu lại chẳng có ích cho nó.
Đao Bạch Phượng trong bụng nóng như lửa đốt nhưng không dám nhiều lời. Bảo Định Đế quay sang Đoàn Chính Thuần:
- Thuần đệ, mau bày rượu thịt ra đây khao thưởng mọi người một phen khổ sở.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Vâng!
Ông quay ra dặn dò, chỉ giây lát đã mang lên đủ mọi loại sơn trân hải vị. Bảo Định Đế ra lệnh cho tất cả mọi người cùng ngồi vào ăn uống chung.
Đại Lý là một nước nhỏ ở tận cùng phương nam, trong nước có rất nhiều sắc dân, người Hán chẳng có mấy, Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng là người Bãi Di, dân chúng chưa ảnh hưởng văn hóa Trung Nguyên bao nhiêu, triều nghi lễ pháp so với Đại Tống thì giản dị hơn nhiều. Bảo Định Đế tính tình từ hòa, trừ khi ở trong triều đình ra ngoài thường không thích đa lễ thành ra vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đều ngồi ở hạ thủ để bồi tiếp.
Trong khi ăn uống, Bảo Định Đế tuyệt nhiên không đề cập gì đến mọi chuyện, Đao Bạch Phượng lông mày nhíu lại, ăn chẳng thấy ngon. Đến khi trời sáng, thị vệ ngoài cửa vào bẩm:
- Ba Tư Không tham kiến hoàng thượng.
Đoàn Chính Minh nói:
- Cho vào!
Rèm cửa vén lên, một người da đen nhẻm, vừa thấp bé vừa gầy guộc bước vào, khom lưng hành lễ với Bảo Định Đế, nói:
- Khải tấu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở bên kia Thiện Nhân Độ, qua chiếc cầu treo là tới, cửa vào là một cái hốc ở một cây cổ thụ.
Đao Bạch Phượng vỗ tay reo lên:
- Ba Tư Không ra tay thì lẽ nào lại tìm không ra sào huyệt của địch? Nếu sớm biết thế ta đã không phải lo cả đêm.
Người da đen kia hơi cúi mình nói:
- Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này không dám nhận.
Ba Thiên Thạch tuy hình dáng khó coi nhưng là một nhân vật cực kỳ tinh minh mẫn cán, lập được nhiều công lao hiện đang làm quan Tư Không ở Đại Lý. Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không là Tam Công rất tôn vinh trong triều đình. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, có sở trường về khinh công, được Bảo Định Đế sai đi dò thám nơi chốn của kẻ địch, y bí mật theo dõi Chung Vạn Cừu, quả nhiên tìm ra được Vạn Kiếp Cốc.
Bảo Định Đế mỉm cười:
- Thiên Thạch, ngươi ngồi xuống ăn cho no rồi mình cùng lên đường.
Ba Thiên Thạch biết hoàng thượng không muốn người khác quỳ lạy, đối với bầy tôi chẳng khác gì anh em bạn bè, nếu người dưới quá ư cung kính, ông lại không vui, nên lập tức vâng một tiếng, bưng bát lên ăn ngay. Y không uống một giọt rượu nhưng ăn rất khỏe, chỉ chốc lát đã ăn hết tám bát cơm đầy. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái biết y đã lâu nên không lấy gì đáng ngạc nhiên.
Ba Thiên Thạch ăn xong, đứng dậy, giơ tay áo chùi mồm, nói:
- Thần Ba Thiên Thạch dẫn đường.
Nói xong y liền đi trước. Bảo Định Đế, vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái một dọc đi theo. Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thấy Chử Cổ Phó Chu Tứ Đại Vệ Hộ đã dắt ngựa đứng chờ sẵn cùng mấy chục người tùy tùng mang binh khí cho Bảo Định Đế đứng phía sau.
Họ Đoàn là thế gia võ lâm Trung Nguyên chiếm được Đại Lý, mấy trăm năm nay vẫn không quên phong cách của ông cha. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần tuy phú quí đến cực điểm nhưng vẫn thường ăn mặc như dân dã ra ngoài du ngoạn, gặp người trong võ lâm đến thăm viếng báo thù đều theo qui củ giang hồ mà tiếp đãi chứ không dùng nghi vệ hoàng đế. Cho nên lần này Bảo Định Đế ngự giá thân chinh, những người đi theo đều đã quen không ai lạ lùng gì. Từ Bảo Định Đế đổ xuống, ai nấy thay đồ thường phục, nếu không quen biết thì chỉ tưởng là một nhà phú hộ nào đó ra ngoài du ngoạn mà thôi.
Đao Bạch Phượng thấy trong đám tùy tòng của Ba Thiên Thạch có đến hai chục người mang theo búa lớn cưa dài, cười hỏi:
- Ba Tư Không, mình mang theo thợ mộc để cất nhà hay sao?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Đễ cưa cây phá nhà.
Những con ngựa cưỡi toàn là tuấn mã, chạy như bay, chưa đến giờ ngọ đã đến khu rừng bên ngoài Vạn Kiếp Cốc. Ba Thiên Thạch chỉ huy bộ thuộc chặt hết những cây to chắn đường. Đến cốc khẩu, Bảo Định Đế chỉ vào tấm biển sơn "Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha" trên cây, cười nói:
- Chủ nhân của Vạn Kiếp Cốc này thù mình quá đỗi.
Đoàn Chính Thuần biết Chung Vạn Cừu sợ mình vào Vạn Kiếp Cốc thăm Cam Bảo Bảo, liếc mắt nhìn vợ, thấy bà ta cười khẩy.
Bốn người liền vác đại phủ tiến tới, chỉ chốc lát đã chặt ngã cái cây chu vi mấy người ôm kia. Ba Thiên Thạch dặn mọi người dắt ngựa đứng chờ ngoài cốc khẩu. Chử, Cổ, Phó, Chu Tứ Đại Vệ Hộ liền đi trước, kế đó là Ba Thiên Thạch và Cao Thăng Thái, sau đó là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Định Đế đi sau cùng. Vào trong Vạn Kiếp Cốc rồi, thấy bốn bề vắng lặng không một ai ra nghinh đón. Ba Thiên Thạch theo qui củ giang hồ, tay cầm danh thiếp hai anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, hăng hái tiến đến trước căn nhà, lớn tiếng nói:
- Anh em họ Đoàn nước Đại Lý đến xin được gặp Chung cốc chủ.
Nói chưa dứt câu, trong tùm cây phía trái đột nhiên nhảy xổ ra một người cao gầy, nhanh nhẹn lạ thường giơ tay chộp danh thiếp trên tay Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch lách qua ba bước, quát lên:
- Tôn giá là ai?
Người đó chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Y chộp không trúng nhưng không bỏ cuộc lại xông về hướng Ba Thiên Thạch lần nữa. Ba Thiên Thạch thấy y lanh lẹ dị thường nên định bụng sẽ so tài khinh công lập tức chạy tới ba bước, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo ba bước. Ba Thiên Thạch liền co giò chạy, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo sau.
Một người cao, một người thấp chỉ chốc lát đã chạy quanh nhà ba vòng. Bước chân của Vân Trung Hạc rất xa, còn Ba Thiên Thạch lúc nhảy lúc chạy, nhún lên hụp xuống so với đối phương còn nhanh hơn nhiều, thành thử hai người lúc nào cũng cách nhau mấy thước. Vân Trung Hạc dĩ nhiên đuổi không kịp nhưng Ba Thiên Thạch thì chạy cũng không thoát. Hai người trước nay ai cũng cho rằng mình khinh công thiên hạ không ai bằng, bây giờ gặp được kình địch, trong bụng đều kinh hãi thầm. Hai người càng chạy càng nhanh, gió thốc vào quần áo nghe phần phật, tuy chỉ có hai người chạy đua nhưng ở bên ngoài nhìn vào tưởng chừng năm sáu người cùng đuổi theo nhau.
Càng về sau khoảng cách hai người càng xa, biến thành chạy vòng quanh nhà, không biết là Vân Trung Hạc đuổi theo Ba Thiên Thạch hay là Ba Thiên Thạch đuổi theo Vân Trung Hạc. Nếu Ba Thiên Thạch đuổi đến sau lưng Vân Trung Hạc thì cuộc tỉ thí khinh công này y đã thắng. Thế nhưng Vân Trung Hạc cũng hết sức chạy cho nhanh thành ra Ba Thiên Thạch lại xa y đến mấy trượng.
Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu từ trong nhà bước ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng chân, ám vận nội kình, tay phải liệng một cái, tờ danh thiếp tà tà bay về phía Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu đưa tay đón lấy, giận dữ nói:
- Họ Đoàn kia, nếu như ngươi theo qui củ giang hồ đến bái sơn, sao lại hủy mất cửa vào sơn cốc của ta?
Chử Vạn Lý quát lớn:
- Hoàng thượng là bậc chí tôn, không lẽ chui vào cái hang chuột của nhà ngươi sao?
Đao Bạch Phượng khắc khoải lo cho con, nhịn không nổi lên tiếng hỏi:
- Con ta đâu? Các ngươi dấu nó ở chỗ nào?
Từ trong nhà nhảy ra một người đàn bà, giọng rít lên:
- Ngươi đến chậm một bước. Tiểu tử họ Đoàn bọn ta đã băm vằm mổ xẻ vứt cho chó ăn rồi.
Mụ ta hai tay cầm hai thanh đao, lưỡi đao mỏng như lá liễu, lấp lánh màu xanh, chính là Tu La Đao tẩm thuốc độc dính máu là chết. Hai người đàn bà này mười tám năm trước vì ghen mà thành ghét thù nhau cực sâu xa. Đao Bạch Phượng cũng biết lời của Tần Hồng Miên không phải thực nhưng nghe mụ ta rủa đứa con yêu của mình như thế, chuyện cũ chưa qua, chuyện mới đã tới cơn giận bùng lên, lạnh lùng nói:
- Ta hỏi là hỏi Chung cốc chủ, ai thèm nói chuyện với thứ đàn bà hư thân mất nết như ngươi cho bẩn mồm.
Chỉ nghe hai tiếng leng keng, song đao của Tần Hồng Miên nhắm ngay Đao Bạch Phượng cùng chém ra nhanh như gió cuốn. Đòn Thập Tự Khảm là tuyệt kỹ thành danh của bà ta, không biết bao nhiêu giang hồ hảo hán bỏ mạng vì độc chiêu Tu La Đao này, Đao Bạch Phượng vung phất trần lên gạt, thân hình nhích ra cán phất trần điểm luôn vào sau lưng kẻ địch.
Đoàn Chính Thuần thật xấu hổ, một người là vợ yêu, một người là tình cũ, với Đao Bạch Phượng thật là sâu đậm, còn đối với Tần Hồng Miên thì cũng khó quên, nay thấy hai người vừa ra tay đã dùng ngay sát thủ, quyết sống mái, dù ai bị thương thì ông cũng một đời mang hận, bèn quát lên:
- Khoan hãy động thủ.
Ông nghiêng người tiến tới, rút phắt trường kiếm toan gạt binh khí của hai người ra.
Chung Vạn Cừu vừa nhìn thấy Đoàn Chính Thuần thì đã điên tiết, loảng xoảng một tiếng, rút ngay Đại Hoàn Đao vung lên chém xuống đầu tình địch. Chử Vạn Lý nói:
- Không cần vương gia phải ra tay, để tiểu nhân thanh toán y được rồi.
Chiếc cần sắt của y vung ra, quật xuống đầu Chung Vạn Cừu. Chiếc cần của y vốn đã bị Diệp Nhị Nương bẻ gãy rồi, đây là chiếc mới y vừa đúc. Chung Vạn Cừu chửi:
- Ta biết ngay họ Đoàn nhà chúng bay chỉ giỏi tài lấy thịt đè người.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Vạn Lý lui ra, ta đang muốn xem võ công Chung cốc chủ đến cỡ nào.
Ông giơ kiếm lên, gạt chiếc cần sắt của Chử Vạn Lý ra, thuận thế phất xuống sống thanh Đại Hoàn Đao rồi hớt lên mấy ngón tay Chung Vạn Cừu. Ba thức gạt ra, phất xuống rồi hớt lên liền lạc với nhau không cần khoảng cách nào để biến chiêu khiến Chung Vạn Cừu kinh hãi nghĩ thầm: "Tên giặc họ Đoàn này kiếm pháp ghê gớm thật". Y vội vàng nén cơn giận, vung ngang thanh đao bảo vệ trước ngực, không dám coi thường cường địch chút nào.
Đoàn Chính Thuần giơ kiếm lên đâm tới, Chung Vạn Cừu thấy thế kiếm lợi hại, không dám đỡ vội vàng nhảy lùi lại ba bước. Đoàn Chính Thuần chỉ mong y không dám đấu dây dưa, lập tức vọt qua chỗ Đao Bạch Phượng và Tần Hồng Miên, thấy đao pháp Tần Hồng Miên xem ra núng thế bị Đao Bạch Phượng từng bước ép phải lùi. Bỗng nghe soẹt soẹt soẹt ba tiếng, Tần Hồng Miên đã bắn ra ba mũi tên độc, những mũi tên đó cùng một hình dạng với độc tiễn của Mộc Uyển Thanh nhưng thủ pháp cao minh hơn nhiều, chia ra trái phải giữa khiến đối phương khó mà tránh né.
Đao Bạch Phượng tung mình nhảy lên cao, ba mũi tên bay vọt dưới chân, ngờ đâu khi thân hình bà ta còn đang lơ lửng trên không, lại có ba mũi tên khác bắn tới. Mũi tên thứ nhất bắn vào dưới bụng, mũi tên thứ hai bắn vào chân còn mũi tên thứ ba bắn vào dưới bàn chân. Đao Bạch Phượng không còn cách nào nhảy lên được nữa, vội vung phất trần ra đỡ, cuốn được mũi tên thứ nhất, thân hình liền rơi xuống, xem ra mũi tên thứ hai và thứ ba bắn vào bụng và ngực không sao có thể tránh né hay đỡ gạt. Đột nhiên một lằn ánh sáng lấp lánh, một thanh trường kiếm từ dưới gạt lên, chặt hai mũi tên đó thành bốn mảnh chính là Đoàn Chính Thuần nhảy tới chặn ngay trước mặt Đao Bạch Phượng,. Ví thử ông ta ra chiêu kém chính xác không chém đứt được hai mũi tên thì những mũi tên đó đã ghim vào người ông ta rồi.
Biến cố đó khiền cả Đao Bạch Phượng lẫn Tần Hồng Miên đều mặt xanh như tàu lá, tim đập thình thình. Đao Bạch Phượng kêu lên:
- Tôi không cần ông phải giúp tôi.
Bà lạng người vọt ra trước mặt trượng phu, múa phất trần đánh với Tần Hồng Miên lần nữa. Bà hận Tần Hồng Miên ra tay độc ác, chiêu số phất trần thật nhanh, quét xéo đâm thẳng, khiến đối phương không hở tay để có dịp bắn tên độc. Còn Tần Hồng Miên mới rồi bắn tên suýt nữa thì trúng phải Đoàn Chính Thuần, thấy ông ta liều mạng ra tay cứu vợ, thiên vị quá đỗi, vừa hoảng hốt lại vừa đau lòng thành thử không chống đỡ nổi phất trần của đối phương.
Đao Bạch Phượng sử dụng chiêu Phượng Thê Ư Ngô đánh thẳng xuống đầu kẻ địch, Tần Hồng Miên vội tránh qua bên phải ngờ đâu tả chưởng của Đao Bạch Phượng cùng đánh ra, xem chừng sẽ trúng ngực Tần Hồng Miên thể nào cũng phải hộc máu. Bàn tay còn cách ngực Tần Hồng Miên chừng nửa thước ngờ đâu có một bàn tay đàn ông gạt ra ngoài, chính là Đoàn Chính Thuần cứu người tình cũ, nói:
- Phượng Hoàng Nhi, chớ có như thế.
Tần Hồng Miên ngỡ ngàng, giận dữ nói:
- Cái gì mà phượng với chả công, gọi nhau thân mật nhỉ?
Đao bên trái của bà ta liền chém xuống vai Đoàn Chính Thuần. Đao Bạch Phượng cũng đang bực chồng ra tay cứu tình nhân, gạt tay mình ra nên cũng múa phất trần đánh luôn vào mặt ông ta.
Hai người đàn bà cùng tấn công Đoàn Chính Thuần nhưng lại cũng cùng thấy đối phương ra tay nên cùng kêu lên:
- Ối chao!
Ai cũng muốn ra tay bảo vệ cho lang quân. Phất trần của Đao Bạch Phượng chuyển hướng quay sang gạt thanh Tu La Đao, còn Tần Hồng Miên thì phóng một ngọn cước vào người Đao Bạch Phượng cốt để bà ta rút phất trần về.
Đoàn Chính Thuần nghiêng người né tránh, nghe bình một tiếng, cước của Tần Hồng Miên đã đá trúng mông ông ta. Đao Bạch Phượng hậm hực quát lên:
- Sao ngươi dám đá chồng ta?
Tần Hồng Miên nói:
- Đoàn lang, thiếp không cố ý, chàng ... chàng có đau không?
Đoàn Chính Thuần giả vờ nhăn nhó, kêu lên:
- Đau quá, đau quá, đau đến chết mất.
Nói xong giả vờ ngồi thụp xuống. Chung Vạn Cừu thấy cơ hội, giơ đao lên chém xuống đầu Đoàn Chính Thuần, Đao Bạch Phượng kêu lên:
- Ngừng tay!
Tần Hồng Miên cũng kêu lên:
- Đánh hắn.
Cả Tu La Đao lẫn phất trần cùng quay sang tấn công Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu đành phải thu đao hộ thân, kêu lên:
- Tên giặc thối tha họ Đoàn kia, cái đồ mặt thớt phải để cho đàn bà ra tay cứu, còn gì là hảo hán?
Đoàn Chính Thuần cười ha hả, từ đất nhảy lên, soẹt soẹt soẹt ba chiêu kiếm ép cho Chung Vạn Cừu phải lùi lại. Tần Hồng Miên ngạc nhiên giận dữ nói:
- Hóa ra ông không bị thương, chỉ giả vờ.
Đao Bạch Phượng cũng tiếp lời:
- Cái đồ này chỉ chuyên đi lừa người ta, còn ai mà chẳng biết.
Tần Hồng Miên quát lớn:
- Xem đao đây.
Đao Bạch Phượng cũng kêu:
- Đánh cho lão một trận.
Thế là hai người đàn bà liền liên thủ xông vào tấn công Đoàn Chính Thuần. Bảo Định Đế thấy em trai dây dưa mãi với hai người đàn bà, lắc đầu cười thầm, quay sang nói với Chử Vạn Lý:
- Các ngươi đi tra xét xem sao.
Chử Vạn Lý đáp:
- Tuân lệnh.
Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người liền chạy đến cửa vào nhà, Cổ Đốc Thành chân vừa đạp vào ngạch cửa đột nhiên cảm thấy gió lạnh trên đầu ập xuống. Chân trái y mới để hờ lên thềm, chân phải vội búng một cái lập tức nhảy vọt trở ra, thấy một thanh đao vừa rộng vừa mỏng chém vụt xuống, chỉ cách mặt chừng vài tấc, nếu như chậm một chút dù đầu không bị xẻ làm đôi, thì ít ra cũng vẹt mất mũi. Cổ Đốc Thành lưng toát mồ hôi lạnh, nhìn lại người vừa ra tay ám toán mình là một thiếu phụ trung niên, mặt mũi xinh xắn, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Thanh bạc đao của bà ta hình vuông, mỏng dính, bốn bề đều sắc, tay cầm chỉ là một cái cán ngắn, vừa múa lên đã thành một vòng tròn sáng choang.
Cổ Đốc Thành sau cơn hoảng vía định thần lại, quát lên một tiếng vung búa lên chém xuống thanh bạc đao, Diệp Nhị Nương vội vàng múa tít không để cho chạm vào món binh khí nặng nề ấy. Cổ Đốc Thành sử dụng bảy mươi hai đường Loạn Phi Phong phủ pháp, hai búa hai nơi chém trên chém dưới.
Diệp Nhị Nương giở trò pháp thuật miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú. Chu Đan Thần thấy mụ ta đánh như trò chơi nhưng đao pháp thật là ngụy bí khó mà lường được sợ rằng để lâu, Cổ Đốc Thành sẽ không chống nổi bèn múa phán quan song bút xông vào tiếp tay.
Lúc đó Ba Thiên Thạch và Vân Trung Hạc hai người vẫn đang đuổi nhau, hai người khinh công hơn kém ai cũng biết rằng không phải chỉ một lúc mà biết được. Ba Thiên Thạch chạy được trên trăm vòng rồi, thấy Vân Trung Hạc công phu hạ bàn nhẹ nhàng có thừa nhưng không đủ vững chãi, không được như mình mỗi lần nhún chân đều còn để lại dư lực phòng hờ chỉ cần đứng lại tấn công y ba chưởng là y sẽ chịu không nổi. Thế nhưng Ba Thiên Thạch nhất định muốn cùng y tỉ thí khinh công xem ai hơn, không muốn dùng quyền cước mà thủ thắng nên cứ tiếp tục chạy vèo vèo.
Bỗng nghe tiếng người ồm ồm chửi:
- Tiên sư mẹ chúng mày làm bố mất ngủ, đứa chó nào tới đây phá rối thế?
Nam Hải Ngạc Thần tay cầm ngạc chủy tiễn ở đâu huỳnh huỵch chạy ra. Phó Tư Qui quát lại:
- Thì bố của sư phụ ngươi tới chứ còn ai!
Nam Hải Ngạc Thần quát lên:
- Cái gì mà bố của sư phụ ta?
Phó Tư Qui chỉ vào Đoàn Chính Thuần nói:
- Trấn Nam Vương là cha của Đoàn công tử, Đoàn công tử là sư phụ của ngươi, bộ tính đánh nước bài bây hả?
Nam Hải Ngạc Thần tuy chuyện ác đã nhiều nhưng cũng còn được một điều tốt là đã nói thì làm nên vừa nghe thế, giân đến mặt vàng ệch nhưng không dám công nhiên chối bèn quát lên:
- Ta bái sư là chuyện của ta liên quan đếch gì đến thằng con rùa đen kia?
Phó Tư Qui cười:
- Ta có phải con ngươi đâu mà bảo ta là thằng con rùa đen?
Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, nghĩ một lúc mới biết là y nói bóng gió chửi mình là đồ ô qui. Nghĩ ra được rồi, y gầm lên, soẹt soẹt soẹt chém luôn ba nhát ngạc chủy tiễn. Gã tuy đầu óc chậm lụt nhưng võ công không đến nỗi tệ, những răng nhọn trên thanh ngạc chủy tiễn chẳng khác gì những móc trên lang nha bổng. Phó Tư Qui giơ thanh thục đồng côn đánh luôn ba chiêu, thấy chối cả tay, Chử Vạn Lý vội vàng vung cần lên, sợi dây tơ liền vụt ra chẳng khác gì nhuyễn tiên quất vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, Nam Hải Ngạc Thần đưa ngạc chủy tiễn gạt ra được.
Bảo Định Đế nhìn cuộc thế thấy bên mình không ai có gì nguy hiểm nói với Cao Thăng Thái:
- Ngươi đứng đây lược trận.
Cao Thăng Thái đáp:
- Vâng!
Y chắp tay sau lưng đứng một bên coi sóc. Bảo Định Đế đi vào trong nhà, gọi:
- Dự nhi, cháu có ở đây không?
Ông không nghe tiếng đáp lại, đẩy cửa vào sương phòng bên trái, lại gọi nữa:
- Dự nhi! Dự nhi!
Chỉ thấy một cô gái chừng mười lăm, mười sáu từ sau cánh cửa bước ra, mặt ngơ ngác, hỏi lại:
- Ông ... ông là ai?
Bảo Định Đế đáp:
- Đoàn công tử ở đâu?
Thiếu nữ đáp:
- Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?
Bảo Định Đế đáp:
- Ta muốn cứu y ra.
Cô gái lắc đầu:
- Ông không cứu nổi đâu. Đoàn công tử bị người ta lấy đá lớn nhốt trong thạch thất, bên ngoài lại có người canh.
Bảo Định Đế nói:
- Cô đưa ta tới, ta sẽ đánh ngã người canh gác, đẩy đá cứu y ra ngoài.
Thiếu nữ lại lắc đầu:
- Không được. Nếu tôi đưa ông tới, cha tôi giết tôi mất.
Bảo Định Đế hỏi:
- Thế cha cô là ai?
Cô gái đáp:
- Tôi họ Chung, cha tôi là chủ nhân của sơn cốc này.
Cô gái đó chính là Chung Linh mới trốn được từ núi Vô Lượng trở về đây. Bảo Định Đế gật gù, nghĩ thầm đối với một cô gái nhỏ tuổi như thế này, dù là dùng lời dụ dỗ hay dùng võ lực uy hiếp đều không khỏi thất giảm thân phận, nếu như Đoàn Dự có ở trong sơn cốc này, sớm muộn gì mình cũng tìm ra nên đi ra khỏi căn nhà để tìm người dẫn đường.
*
* *
Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ở trong thạch thất nghe thấy người áo xanh ở bên ngoài tự xưng là thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác Quán Mãn Doanh thì hết sức kinh hoàng, hai người nép lại bên nhau. Đoàn Dự nói nhỏ:
- Thì ra mình rơi vào tay kẻ ác nhất thiên hạ, thật hết nước nói.
Mộc Uyển Thanh ứ ự một tiếng dụi đầu vào lòng chàng. Đoàn Dự giơ tay vuốt ve tóc nàng, an ủi:
- Đừng sợ.
Áo hai người đẫm mồ hôi chẳng khác gì vừa ở dưới nước trồi lên còn toàn thân thì nóng như lửa, hơi bốc lên phà vào mũi lại càng thêm kích thích. Một người thì là trai mới lớn huyết khí phương cương, một người thì gái đương tơ ái tình nồng cháy, dẫu không uống phải xuân dược cũng chịu không nổi, huống chi Âm Dương Hòa Hợp Tán bá đạo vô cùng, trai chính trực cũng thành kẻ trăng hoa, gái đoan trang cũng thành đứa lăng loàn, tâm thần một khi mờ ám rồi thì thánh hiền cũng ra loài cầm thú.
Giờ đây chỉ còn trông chờ Đoàn Dự một điểm thiên lương, chăm chăm không quên cái thanh danh của họ Đoàn mà miễn cưỡng khắc chế. Người áo xanh cực kỳ đắc ý, cất tiếng cười quái đản nói:
- Hai anh em chúng bay mau làm cho xong việc đi, sinh con đẻ cái sớm một ngày thì ra khỏi lao lung sớm một ngày. Ta đi đây!
Nói xong y vượt qua bức tường cây đi mất. Đoàn Dự kêu lớn:
- Nhạc lão tam, Nhạc lão nhị! Sư phụ ngươi mắc nạn, mau đến cứu ta ra.
Chàng gọi đến khản cổ nhưng nào thấy ai trả lời? Đoàn Dự nghĩ thầm: "Trong lúc nguy cấp này thôi đành bái y làm thầy, biết làm sao? Chọn lầm thầy bất quá chỉ là chuyện một mình ta chịu khỏi phải liên lụy đến bá phụ và gia gia". Nghĩ như thế chàng lại gào lên:
- Nam Hải Ngạc Thần, ta cam tâm bái ngươi làm thầy, tình nguyện làm kẻ truyền nhân của phái Nam Hải, ngươi mau đến cứu đồ đệ đi thôi. Nếu không ta chết đi thì ngươi không có đệ tử nữa đó.
Chàng kêu réo om sòm một hồi lâu vẫn không nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần đáp lại, chợt nghĩ ra: "Chao ôi hỏng rồi! Nam Hải Ngạc Thần sợ nhất là lão đại Ác Quán Mãn Doanh, dù y có nghe ta gọi chăng nữa cũng chẳng dám tới cứu". Chàng càng thấy trong lòng bối rối.
Mộc Uyển Thanh đột nhiên nói:
- Đoàn lang, chàng với thiếp thành hôn rồi, đứa con đầu của chúng mình, chàng thích con trai hay con gái?
Đoàn Dự mơ mơ màng màng đáp lại:
- Con trai!
Đột nhiên ở bên ngoài thạch thất có tiếng một thiếu nữ vọng vào:
- Đoàn công tử, công tử là anh của cô ta, không thể nào lấy nhau được.
Đoàn Dự ngạc nhiên, hỏi lại:
- Cô ... cô có phải Chung cô nương đó không?
Cô gái đó chính là Chung Linh, nàng nói:
- Chính em đây, em nghe lén người áo xanh nói nên đang tìm cách cứu anh và Mộc tỉ tỉ ra.
Đoàn Dự mừng lắm nói:
- Thế thì hay quá, cô mau mau đi kiếm thuốc giải độc dược cho ta đi.
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Con tiểu quỉ Chung Linh kia, mau mau cút đi, ai cần ngươi cứu?
Chung Linh đáp:
- Để em tìm cách đẩy tảng đá cứu hai người ra trước đã.
Đoàn Dự vội nói:
- Chớ, chớ, cô mau mau đi ăn trộm thuốc giải, ta ... ta chịu không nổi nữa rồi, mau ... mau không thì chết mất.
Chung Linh kinh ngạc hỏi lại:
- Anh chịu không nổi cái gì? Đau bụng hả?
Đoàn Dự đáp:
- Không phải đau bụng.
Chung Linh lại hỏi:
- Hay là nhức đầu?
Đoàn Dự đáp:
- Cũng không phải nhức đầu.
C hỏi thêm:
- Thế nơi nào trên người khó chịu?
Đoàn Dự đang cơn tình dục nổi lên, làm sao nói cho một cô gái nhỏ hiểu được? Chàng đành nói:
- Ta khắp người chỗ nào cũng khó chịu, cô cứ đi trộm thuốc giải là được.
Chung Linh nhíu mày nói:
- Anh không nói bệnh trạng làm sao em biết đường đâu mà mò để kiếm thuốc giải. Cha em có nhiều loại thuốc giải lắm nhưng phải biết anh bị đau bụng, nhức đầu hay đau tim thì mới lấy được.
Đoàn Dự thở dài:
- Ta không đau gì cả, chỉ có ... chỉ có uống phải thứ thuốc độc tên là Âm Dương Hòa Hợp Tán mà thôi.
Chung Linh vỗ tay reo lên:
- Em biết được tên thuốc độc thì dễ lắm. Đoàn đại ca, để em đi kiếm cha em hỏi thuốc giải.
Nàng lật đật trèo qua bức tường cây đi kiếm phụ thân để hỏi thuốc giải Âm Dương Hòa Hợp Tán. Âm Dương Hòa Hợp Tán là thuốc của người áo xanh nhưng Chung Vạn Cừu vừa nghe tên biết ngay là loại gì, khuôn mặt ngựa xụ xuống mắng con:
- Đồ nhãi ranh, đến hỏi ấm ớ cái gì? Chỉ được cái lếu láo, ta lại nắm tai đánh cho một trận bây giờ.
Chung Linh hốt hoảng nói:
- Không phải lếu láo đâu ...
Ngay khi đó, Bảo Định Đế và tùy tùng đã tấn công vào Vạn Kiếp Cốc, Chung Vạn Cừu vội vàng chạy ra ứng chiến, bỏ mặc Chung Linh ở trong phòng. Nàng nghe thấy ở bên ngoài tiếng binh khí chạm nhau, hai bên đấu đến hồi kịch liệt nhưng chẳng thèm để ý, vẫn tiếp tục ở trong phòng thuốc của phụ thân lục lọi. Mấy trăm bình thuốc của Chung Vạn Cừu đều có ghi rõ tên nhưng kiếm mãi không ra thuốc giải của Âm Dương Hòa Hợp Tán. Nàng còn đang phân vân chưa biết tính sao bỗng nghe có người vào phòng, vội đi ra xem liền gặp phải Bảo Định Đế.
Bảo Định Đế chưa tìm ra ai dẫn đường bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay lại thì ra Chung Linh chạy tới, vội đứng lại chờ. Chung Linh dến gần nói:
- Tôi không kiếm được thuốc giải, thôi dẫn ông đến đó vậy. Chẳng hiểu ông có đẩy nổi tảng đá lớn đó không.
Bảo Định Đế mừng quá hỏi lại:
- Giải dược gì? Tảng đá nào vậy?
Chung Linh đáp:
- Ông đi theo tôi, nhìn là biết ngay.
Đường trong Vạn Kiếp Cốc tuy loằng ngoằng thật nhưng có Chung Linh dẫn lộ, chỉ một lát là tới ngay. Bảo Định Đế cầm tay Chung Linh, không nhún chân đột nhiên vọt lên nhẹ nhàng đáp xuống bức tường cây. Chung Linh vỗ tay reo lên:
- Hay thật, hay thật! Tưởng chừng như ông biết bay. Ối chao, không xong rồi.
Đã thấy ngoài thạch thất có một người ngồi đó, chính là quái khách áo xanh. Chung Linh rất sợ con người sống dở chết dở này, nói nhỏ:
- Thôi mình ra đằng khác, đợi cho người đó đi rồi quay lại sau.
Bảo Định Đế thấy người áo xanh không đến nỗi gì quái dị lắm, vội an ủi cô gái:
- Có ta ở đây, cô không việc gì phải sợ. Đoàn Dự ở trong căn nhà đó, có đúng không?
Chung Linh gật đầu, nép vào sau lưng ông. Bảo Định Đế chậm rãi bước tới, nói:
- Xin tôn giá tránh ra một bước.
Người áo xanh như không nghe không thấy, vẫn ngồi yên không cử động. Bảo Định Đế nói:
- Nếu như tôn giá không chịu nhường đường, tại hạ có vô lễ cũng đừng trách.
Ông lách qua người áo xanh giơ chưởng phải lên để vào tảng đá, đang định vận kình đẩy, bỗng từ dưới tay người áo xanh thò ra một cây thiết trượng nhỏ, điểm vào huyệt Khuyết Bồn. Cây gậy sắt đến còn cách ông ta chừng một trượng bỗng ngừng lại, không ngớt rung động, nếu Bảo Định Đế tiếp tục sử kình thì thiết trượng sẽ đâm tới ngay, không còn đường nào tránh né. Bảo Định Đế trong bụng hơi bàng hoàng: "Người này công phu điểm huyệt thật là cao minh, vậy là ai đây?". Tay phải hơi giơ lên đánh luôn vào cây gậy đồng thời bàn tay trái lòn xuống dưới đặt luôn lên tảng đá. Người áo xanh lập tức nhích cây gậy sang chỉ vào huyệt Thiên Trì. Bảo Định Đế liên tiếp đánh ra như gió biến đổi bảy phương vị liền nhưng cây gậy sắt của người áo xanh cũng liên tiếp hư điểm các nơi huyệt đạo, chế ngự cuộc thế.
Hai người liên tiếp biến chiêu, công phu nhận huyệt của người áo xanh thật chuẩn xác khiến cho Bảo Định Đế không cách nào có thể vận kình đẩy tảng đá. Ông thấy y với mình cũng tám lạng nửa cân, xem ra còn hơn em mình là Đoàn Chính Thuần một mức. Tả chưởng ông đánh xéo ra, đột nhiên từ chưởng biến thành chỉ, nghe sùy một tiếng, sử dụng Nhất Dương Chỉ điểm vào thiết trượng, nếu như điểm thực cây gậy thể nào cũng cong lại. Ngờ đâu cây gậy sắt củng sùy một tiếng điểm trở ra, hai luồng lực đạo trên không đụng vào nhau, Bảo Định Đế phải lùi một bước, còn thân hình người áo xanh cũng lảo đảo.
Trên mặt Bảo Định Đế ánh lên sắc hồng còn người áo xanh thoánh hiện một màu xanh nhưng hai người vừa bừng lên là biến đi ngay. Bảo Định Đế lạ lùng, nghĩ thầm: "Võ công người này không những cực kỳ cao cường, nhưng xem ra với ta có chút uyên nguyên. Trượng pháp của y với Nhất Dương Chỉ rõ ràng có liên quan".
Ông liền chắp tay nói:
- Tôn tính đại danh tiền bối là gì, làm ơn cho biết.
Chỉ nghe một thanh âm vọng lên:
- Nhà ngươi là Đoàn Chính Minh hay là Đoàn Chính Thuần?
Bảo Định Đế thấy y không mấp máy môi chút nào, vậy mà vẫn nói chuyện được, càng thêm ngạc nhiên, nói:
- Tại hạ là Đoàn Chính Minh.
Người áo xanh hừ một tiếng nói:
- Thì ra ngươi là đương kim Bảo Định Đế nước Đại Lý?
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thị.
Người áo xanh hỏi:
- Võ công ngươi so với ta, ai hơn ai kém?
Bảo Định Đế trầm ngâm giây lát đáp:
- Võ công tiền bối có hơn chút đỉnh nhưng nếu thực sự động thủ thì ta sẽ thắng.
Người áo xanh nói:
- Đúng vậy, ta dẫu sao cũng bị thiệt thòi là thân thể tàn phế. Ôi, có ngờ đâu ngươi ở ngôi vị cao như thế nhưng trong bao nhiêu năm nay vẫn không chểnh mảng việc luyện công.
Tuy thanh âm y phát xuất từ trong bụng nghe quái lạ nhưng nghe ngữ âm vẫn đầy vẻ tiếc nuối và thất vọng. Bảo Định Đế không đoán được lai lịch của y, trong bụng nảy ra bao nhiêu mối nghi ngờ. Bỗng từ trong thạch thất truyền ra tiếng gào thét nóng nảy, chính là của Đoàn Dự. Bảo Định Đế kêu lên:
- Dự nhi, cháu đấy ư? Không việc gì phải hoảng hốt, ta đến cứu cháu đây.
Chung Linh cũng kinh hãi kêu lên:
- Đoàn công tử! Đoàn công tử!
Thì ra Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh bị xuân dược thôi thúc mãnh liệt, càng lúc càng khó mà kháng cự lại được tình dục. Về sau Mộc Uyển Thanh thần trí mơ hồ, quên mất Đoàn Dự là anh của mình, luôn mồm gọi:
- Đoàn lang, ôm em đi, ôm chặt lấy em đi!
Nàng là gái còn tân, việc trai gái chưa từng biết đến, chỉ thấy người nóng như thiêu không chịu nổi, chỉ muốn Đoàn Dự ôm lấy mình cho hạ xuống nên xông vào chộp lấy chàng. Đoàn Dự kêu lên:
- Không được đâu!
Chàng lách người tránh ra, chân tự nhiên sử dụng Lăng Ba Vi Bộ. Mộc Uyển Thanh vồ không trúng, ngã lăn lên giường ngất đi. Đoàn Dự liên tiếp đi thêm mấy bước, nội tức trong người thuận theo kinh mạch mà vận hành, càng chạy càng nhanh khiến cho mỗi lúc càng thêm ngộp thở, tưởng như không hút nổi khí trời nữa nên nhịn không nổi phải rống lên một tiếng. Nhờ tiếng gào đó mà ngực thấy dễ thở hơn, nên chàng cứ đi vài bước lại hét lên một tiếng, ý niệm tình dục cũng vì thế mà giảm dần nhưng những câu đối đáp của Bảo Định Đế với người áo xanh cũng như tiếng gọi của bá phụ chàng lọt vào tai mà không nghe gì cả.
Người áo xanh nói:
- Tên tiểu tử này định lực giỏi thật, uống phải Âm Dương Hòa Hợp Tán của ta rồi, vậy mà còn giữ được tới giờ phút này.
Bảo Định Đế kinh hãi, hỏi lại:
- Thứ độc dược đó là gì thế?
Người áo xanh đáp:
- Không phải độc dược, chỉ là một loại xuân dược cực mạnh thôi.
Bảo Định Đế hỏi:
- Ngươi cho y uống loại thuốc đó là có ý gì?
Người áo xanh đáp:
- Trong thạch thất còn có một người nữa, chính là em gái nó.
Bảo Định Đế vừa nghe qua biết ngay âm mưu độc kế của người nọ. Ông tu dưỡng đã cao nhưng nghe thế không khỏi nổi cơn thịnh nộ, tay áo liền vung lên, nghe soẹt một tiếng đã phóng ra một chỉ. Người áo xanh giơ trượng lên gạt ra, chỉ thứ hai của Bảo Định Đế đã tung ra nhắm ngay vào huyệt Thất Đột dưới yết hầu, là một huyệt chí mạng liệu rằng y sẽ phải giở toàn lực ra chống đỡ.
Ngờ đâu người áo xanh chỉ cười ha ha, không tránh né cũng chẳng chống đỡ. Bảo Định Đế thấy y không chống trả, cũng không tránh né, trong bụng nghi ngờ, lập tức thu chỉ hỏi:
- Sao ngươi lại chịu chết là sao?
Người áo xanh đáp:
- Ta chết dưới tay ngươi thì thật tốt quá, tội nghiệt nhà ngươi càng dầy thêm một tầng.
Bảo Định Đế hỏi lại:
- Ngươi thực sự là ai vậy?
Người áo xanh hạ giọng nói nhỏ một câu gì đó. Bảo Định Đế nghe qua, sắc mặt lập tức biến đổi nói:
- Ta không tin.
Người áo xanh đưa cây gậy từ tay phải sang tay trái, ngón tay trỏ bên phải sùy một tiếng, điểm về phía Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng người tránh qua, trả lại một chỉ. Người áo xanh ngón tay giữa búng ra, Bảo Định Đế mặt mày trịnh trọng cũng lấy ngón giữa đáp lễ. Chiêu thứ ba của người áo xanh dùng ngón tay vô danh quét ngang, còn chiêu thứ tư dùng ngón út khẩy nhẹ. Bảo Định Đế từng chiêu từng chiêu đáp lại.
Đến chiêu thứ năm, người áo xanh lấy ngón tay cái miết xuống, trong năm ngón ngón tay cái ngắn nhất, cũng chậm chạp không linh hoạt nhưng lực đạo lại mạnh nhất, Bảo Định Đế không dám coi thường cũng giơ ngón cái của mình lên bật qua đối phương.
Chung Linh đứng bên cạnh coi thấy lạ lùng, quên cả sợ hãi người áo xanh, cười nói:
- Hai người đang đánh đố tay chăng? Bên này giơ một ngón, bên kia giơ một ngón xem ai thắng chứ gì?
Nàng vừa nói vừa đi tới gần. Bỗng đâu một luồng kình phong lặng lẽ xô tới, Chung Linh còn đang ngạc nhiên, vai trái đau nhói lên tưởng như muốn ngất đi. Bảo Định Đế hất tay về sau nhẹ nhàng đẩy nàng ra ngoài, tiếp đó nhảy lùi về sau đỡ lấy nàng nói:
- Đứng yên đừng cử động.
Chung Linh sững sờ hỏi:
- Ông ta ... ông ta định giết tôi ư?
Bảo Định Đế lắc đầu:
- Không phải. Ta cùng y đang tỉ thí võ công, người ngoài không đến gần được.
Ông giơ tay vỗ nhẹ lên lưng nàng mấy cái. Người áo xanh hỏi:
- Ngươi đã tin chưa?
Bảo Định Đế tiến lên mấy bước khom lưng nói:
- Chính Minh tham kiến tiền bối.
Người áo xanh nói:
- Ngươi gọi ta là tiền bối tức là không nhận ta hay vì chưa tin hẳn?
Bảo Định Đế đáp:
- Chính Minh này thân làm chủ một nước, lời nói hành vi lúc nào cũng phải cẩn thận. Chính Minh không có con, Đoàn Dự kia trên vai chất gánh nặng tông miếu xã tắc, xin tiền bối thả y ra.
Người áo xanh nói:
- Ta đang muốn cho họ Đoàn Đại Lý làm loạn nhân luân, bại hoại đạo đức, đoạn tử tuyệt tôn. Ta phải đợi bao lâu mới có ngày này, lẽ nào lại dễ dàng buông tay?
Bảo Định Đế gay gắt đáp:
- Đoàn Chính Minh này nhất quyết không thể bằng lòng.
Người áo xanh cười ha hả nói:
- Ngươi tự xưng là hoàng đế nước Đại Lý, đối với ta thì chỉ là kẻ soán vị đoạt triều, loạn thần tặc tử mà thôi. Nếu ngươi có gan thì việc quay về đem tay chân quân lính tới đây. Ta bảo cho ngươi biết, thế lực ta kém xa ngươi thật nhưng muốn giết tên tiểu tặc Đoàn Dự thì thật dễ như trở bàn tay. Còn như bây giờ ngươi ra tay đánh với ta, trong vài trăm chiêu chưa chắc đã thắng, muốn giết ta cũng thật khó vô cùng. Nếu ta không chết thì ngươi đâu có cứu nổi tính mạng Đoàn Dự.
Khuôn mặt Bảo Định Đế lúc thì xanh, lúc thì trắng biết lời của y quả không sai, không nói gì trở về đem binh lính tới mà chỉ cần mình có thêm một người tiếp tay thì người áo xanh cũng đã không chống đỡ nổi rồi nhưng y sẽ ra tay làm hại Đoàn Dự ngay, huống chi thân phận người này mình không thể nào ra tay giết y được. Ông bèn hỏi:
- Ông muốn thế nào thì mới chịu thả y ra?
Người áo xanh đáp:
- Dễ lắm, dễ lắm! Ngươi chỉ cần bằng lòng lên chùa Thiên Long xuất gia làm sư, đem hoàng vị nhường lại cho ta, ta sẽ cho Đoàn Dự uống thuốc giải, trả lại cho ngươi đứa cháu ngoan khỏe mạnh bình thường, đức hạnh vẹn toàn.
Bảo Định Đế đáp:
- Cơ nghiệp của tổ tông, đâu có lý nào tùy tiện dâng cho người khác được?
Người áo xanh cười ha hả nói:
- Thế đây là cơ nghiệp của ngươi hay là cơ nghiệp của ta? Vật qui nguyên chủ hay là tùy tiện dâng cho người? Ta không truy cứu tội mưu triều soán nghịch của nhà ngươi cũng đã là khoan hồng đại lượng lắm rồi, nếu như chấp nê không nghe thì cứ việc ngồi chờ, đợi đến bao giờ Đoàn Dự cùng với em gái y sinh được đứa con thì lúc ấy ta sẽ thả cho ra.
Bảo Định Đế đáp:
- Thế thì ngươi giết nó đi còn hơn.
Người áo xanh nói tiếp:
- Ngoài chuyện đó ra còn hai đường khác nữa.
Bảo Định Đế hỏi:
- Đường gì?
Người áo xanh nói:
- Cách thứ nhất là ngươi đột nhiên ám toán ta, nhân khi ta không phòng bị giết quách đi thì cứu được y ra ngay.
Bảo Định Đế nói:
- Ta không thể ám toán ngươi được.
Người áo xanh lại tiếp:
- Nếu như ngươi có muốn ám toán cũng dễ gì thành công. Con đường thứ hai là bảo Đoàn Dự đem Nhất Dương Chỉ công phu ra tỉ thí với ta, nếu thắng thì lúc ấy đi đâu chẳng được. Ha ha! Ha ha!
Bảo Định Đế bực tức, cơn giận đường như không còn nhịn nổi nhưng rồi cố dằn xuống nói:
- Đoàn Dự không biết chút võ công nào, lại chưa từng học công phu Nhất Dương Chỉ.
Người áo xanh cười khẩy:
- Cháu Đoàn Chính Minh nước Đại Lý mà lại không biết Nhất Dương Chỉ thì ai mà tin cho được?
Bảo Định Đế đáp:
- Đoàn Dự từ bé đọc sách vở thánh hiền, tụng kinh niệm Phật, bụng dạ từ bi, không chịu học võ.
Người áo xanh đáp:
- Thế thì lại chỉ là một đứa giả nhân giả nghĩa, ngụy quân tử mua danh hão. Người như thế nếu mà làm vua nước Đại Lý này đâu có phải là phúc của dân đen, giết sớm ngày nào tốt ngày đó.
Bảo Định Đế gằn giọng nói:
- Tiền bối, có phải là không còn đường nào khác nữa chăng?
Người áo xanh nói:
- Năm xưa nếu như ta còn một con đường nào khác thì đâu đến nỗi sống dở chết dở như thế này. Người khác không cho ta con đường sống, lẽ nào ta lại mở đường cho hươu chạy?
Bảo Định Đế cúi đầu suy nghĩ một lát, đột nhiên ngửng đầu lên, mặt đầy vẻ cương nghị kêu lên:
- Dự nhi, ta sẽ tìm cách cứu cháu ra. Cháu chớ quên rằng mình là con cháu nhà họ Đoàn.
Chỉ nghe từ trong nhà đá vọng ra tiếng của Đoàn Dự:
- Bá phụ, bác tiến vào một ngón tay ... một ngón tay đâm chết cháu đi.
Lúc này chàng đã ngừng bước, ngồi dựa vào vách đá nghỉ ngơi nên nghe rõ ràng từng lời đối đáp của người áo xanh và Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêm giọng hỏi:
- Cái gì? Ngươi làm bại hoại môn phong tư cách nhà họ Đoàn rồi sao?
Đoàn Dự đáp:
- Không! Không đâu, điệt nhi ... điệt nhi nóng quá chịu không nổi, chắc ... chắc không sống được.
Bảo Định Đế đáp:
- Sinh tử hữu mệnh, hãy để thuận theo tự nhiên.
Ông giơ ra nắm tay Chung Linh đi ra khoảng đất trống, nhảy lên tường cây nói:
- Tiểu cô nương, cám ơn cô đã dẫn đường, ngày sau thể nào cũng báo đáp.
Ông theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà chính. Chỉ thấy Chử Vạn Lý và Phó Tư Qui hai người đánh với Nam Hải Ngạc Thần, chưa biết bên thắng bên nào bại. Chu Đan Thần và Cổ Đốc Thành thì bị thanh phương đao của Diệp Nhị Nương ép cho càng lúc càng kém thế dường như không chịu nổi. Còn ở góc bên kia Vân Trung Hạc tuy chân không chậm lại chút nào nhưng thở hổn hển như bò rống, còn Ba Thiên Thạch nhún nhảy vẫn nhẹ nhàng như không.
Cao Thăng Thái chắp tay sau lưng đi qua đi lại làm như không quan tâm gì đến những trận đấu kịch liệt đang diễn ra chung quanh, thực ra mắt ông nhìn khắp sáu phía, tai nghe khắp tám phương, tinh thần tập trung theo dõi toàn cục, bên mình nếu như ai bị nguy hiểm gì sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Còn vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Tần Hồng Miên, Chung Vạn Cừu thì không thấy đâu.
Bảo Định Đế hỏi:
- Thuần đệ đâu?
Cao Thăng Thái đáp:
- Trấn Nam Vương đánh đuổi được Chung cốc chủ rồi cùng vương phi đi tìm Đoàn công tử.
Bảo Định Đế cao giọng truyền lệnh:
- Chuyện nơi đây có nhiều khúc mắc, mọi người lui lại đã.
Ba Thiên Thạch bèn đứng lại, Vân Trung Hạc bị lỡ trớn xông tới, nghe bình một tiếng, Ba Thiên Thạch đã đánh ra một chưởng. Vân Trung Hạc song chưởng giơ lên đỡ, thấy trên ngực khí huyết nhộn nhạo tưởng chừng hộc máu ra. Y cố gắng nén lại, mắt chỉ thấy hoa lên không còn nhìn rõ chiêu số của địch nữa. Ba Thiên Thạch không thừa thắng đánh tiếp, cười khẩy mấy tiếng nói:
- Lãnh giáo vậy đủ rồi.
Từ khu rừng ở bên cạnh có tiếng Đoàn Chính Thuần vọng ra:
- Ở đây không thấy gì, thôi mình đi ra đằng sau xem sao.
Đao Bạch Phượng nói:
- Đi kiếm xem có ai hỏi thăm nhưng chẳng thấy người nào cả.
Có tiếng Tần Hồng Miên:
- Sư muội ta bảo họ tránh đi cả rồi.
Bảo Định Đế nhìn Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch mỉm cười, thấy Trấn Nam Vương quả là thần thông quảng đại, không biết làm cách nào mà khiến cho hai người đàn bà không đội trời chung kia cùng đi kiếm Đoàn Dự. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:
- Vậy thì mình đi kiếm sư muội bà hỏi thăm, thể nào nàng cũng biết Dự nhi đang ở đâu.
Đao Bạch Phượng nổi cáu nói:
- Không để cho ông đi kiếm Cam Bảo Bảo được, chẳng có ý tốt lành gì.
Tần Hồng Miên nói:
- Sư muội tôi có nói rằng từ rày về sau không bao giờ gặp lại ông nữa.
Ba người vừa nói vừa từ đằng sau lùm cây bước ra, Đoàn Chính Thuần thấy anh bèn hỏi:
- Đại ca, có cứu ... có tìm được Dự nhi chưa?
Ông vốn định hỏi "có cứu được chưa" nhưng không thấy Đoàn Dự ở đó nên vội nói trớ đi. Bảo Định Đế gật đầu:
- Tìm thấy rồi, mình về nhà sẽ nói chuyện sau.
Chu Đan Thần, Chử Vạn Lý nghe thấy hoàng thượng xuống chỉ bảo ngừng tay đều muốn bãi chiến nhưng Diệp Nhị Nương và Nam Hải Ngạc Thần càng đánh càng hăng, vẫn xáp tới không hở tay chút nào. Bảo Định Đế hơi nhướng lông mày nói:
- Thôi mình đi!
Cao Thăng Thái nói:
- Tuân mệnh.
Ông lấy thiết địch trong bọc ra, giơ sáo điểm vào yết hầu Nam Hải Ngạc Thần, tiếp theo nhấc tay lật một cái, vung ra tạt vào Diệp Nhị Nương. Hai chiêu đó đều thật lợi hại nhằm toàn chỗ sơ hở của địch nhân mà tấn công. Nam Hải Ngạc Thần lập tức lộn một vòng nhảy ra bên ngoài, nghe bộp một tiếng thiết địch đã đánh trúng tay Diệp Nhị Nương, mụ ta kêu oái lên một tiếng vội vàng nhảy vọt ra.
Thực ra Cao Thăng Thái võ công không giỏi hơn hai người này bao nhiêu, có điều ông ta đứng ngoài quan sát đã lâu, trong bụng đã tính toán cách đối phó với hai người. Hai chiêu đó tưởng như chỉ để tấn công Nam Hải Ngạc Thần kỳ thực chỉ là đánh nhứ, đột nhiên xuất kỳ bất ý đánh vào Diệp Nhị Nương để trả thù mụ ta đánh ông một chưởng hôm trước.
Trông ông ra tay tưởng như làm chơi ăn thiệt, nhẹ nhàng như không nhưng thực ra mỗi chiêu đều tính toán không biết bao nhiêu lần, dùng tất cả công lực bình sinh.
Nam Hải Ngạc Thần mở tròn đôi mắt hí, vừa kinh hoàng vừa bội phục nói:
- Tiên sư nó chứ, quả là giỏi thật, trông ngươi biết thế chó nào ...
Y không nói tiếp khúc dưới nhưng mọi người đều hiểu là "Trông ngươi đâu biết được lợi hại đến thế, xem chừng ta không phải là đối thủ". Đao Bạch Phượng hỏi Bảo Định Đế:
- Hoàng thượng, Dự nhi ra thế nào?
Bảo Định Đế trong lòng hết sức lo lắng nhưng mặt vẫn điềm tĩnh như thường, thản nhiên nói:
- Không sao cả. Trước mắt hãy để cho nó có dịp rèn mài một phen, sau một vài ngày thì sẽ ổn thỏa, những chuyện khác về cung ta sẽ tính.
Ông nói rồi quay mình ra đi. Ba Thiên Thạch vượt lên trước dẫn đường, vợ chồng Đoàn Chính Thuần đi sát ngay sau huynh trưởng, kế đến là Chử, Cổ, Phó, Chu tứ hộ vệ, sau cùng là Cao Thăng Thái. Y vừa mới ra một tuyệt chiêu trấn nhiếp kẻ địch, Nam Hải Ngạc Thần tuy hung hăng bạo tợn nhưng cũng không dám đuổi theo gây sự.
Đoàn Chính Thuần đi được mươi trượng rồi, nhịn không nổi quay đầu đưa mắt nhìn Tần Hồng Miên, Tần Hồng Miên cũng đang ngơ ngẩn nhìn theo, bốn mắt chạm nhau hai người đều mê mẩn.
Chung Vạn Cừu tay cầm Đại Hoàn Đao thở hồng hộc từ sau nhà chạy ra ậm ọe:
- Đoàn Chính Thuần, lần này ngươi không gặp vợ ta là may cho ngươi lắm đó, có thế ta mới không cho ngươi một trận. Phu nhân ta đã thề rồi, từ rày trở đi không thèm nhìn mặt ngươi. Chẳng qua ... chẳng qua cũng chẳng phải gì, nàng sợ gặp cái đồ mặt mẹt ngươi, biết đâu chừng con mẹ nó lại ... nói qua nói lại một điều là ngươi không gặp được nàng nữa là xong.
Y đấu với Đoàn Chính Thuần được vài chiêu biết là không cách gì thắng được vội vàng quay vào canh chừng vợ, đề phòng Đoàn Chính Thuần đến tán tỉnh, nghe phu nhân lập lời thề không nhìn mặt Đoàn Chính Thuần mừng không để đâu cho hết vội vàng chạy ra nhắc lại những câu đoạn tình đoạn nghĩa ấy cho tình địch nghe.
Đoàn Chính Thuần trong lòng bồi hồi, nhủ thầm: "Thì đã sao? Vì sao lại không nhìn mặt ta nữa? Nàng nay là kẻ ván đã đóng thuyền, ta lẽ nào còn làm bại hoại danh tiết nàng hay sao? Đoàn nhị nước Đại Lý tuy phong lưu hiếu sắc thật nhưng nào có phải là kẻ hạ lưu vô sỉ. Nếu ta gặp lại nàng mà hai người chỉ lạnh nhạt không nói được với nhau một câu thì thà không gặp còn hơn". Ông quay lại thấy vợ lạnh lùng nhìn mình không khỏi chột dạ, vội vàng rảo bước đi ra khỏi cốc.
*
* *
Đoàn người về đến Đại Lý rồi, Bảo Định Đế nói:
- Tất cả vào cung thương nghị.
Vào đến thư phòng trong hoàng cung, Bảo Định Đế ngồi tại một chiếc ghế bành lớn lót da báo ngay chính giữa, vợ chồng Đoàn Chính Thuần ngồi bên dưới còn Cao Thăng Thái và những người khác thõng tay đứng hầu. Bảo Định Đế sai nội thị đem ghế lên cho mọi người cùng ngồi rồi vẫy tay cho những người hầu lui ra, đem chuyện Đoàn Dự bị rơi vào tay địch như thế nào kể hết cho mọi người cùng nghe.
Ai nấy đều biết tất cả chẳng qua từ người áo xanh mà ra, nghe Bảo Định Đế kể lại y không những biết Nhất Dương Chỉ, mà công lực còn cao cường hơn ông nên không ai dám nhiều lời, ai cũng cúi đầu trầm ngâm. Nhất Dương Chỉ là công phu thế đại tương truyền của họ Đoàn, chỉ dạy cho con trai mà không dạy cho con gái, không truyền cho người ngoài, người áo xanh biết công phu này thì nhất định phải là giòng dõi họ Đoàn.
Bảo Định Đế quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:
- Thuần đệ, chú thử nghĩ xem người này là ai?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp:
- Tiểu đệ đoán không ra, không lẽ chùa Thiên Long có người nào hoàn tục cải trang chăng?
Bảo Định Đế lắc đầu:
- Không phải, đó là thái tử Diên Khánh.
Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Đoàn Chính Thuần nói:
- Thái tử Diên Khánh đã chết rồi, người này chắc là mượn danh để làm càn thôi.
Bảo Định Đế thở dài:
- Tên tuổi có thể giả mạo nhưng công phu Nhất Dương Chỉ thì giả mạo làm sao được. Dẫu có học lén chăng nữa thì cũng là chuyện thường trong võ lâm thôi nhưng nội công tâm pháp thì làm sao học trộm được? Người này là thái tử Diên Khánh không còn nghi ngờ gì nữa.
Đoàn Chính Thuần trầm ngâm một hồi, hỏi thêm:
- Thế thì y chính là một giòng họ Đoàn nhà ta, sao lại muốn làm bại hoại môn phong thanh dự chúng mình?
Bảo Định Đế thở dài:
- Người này một thân tàn tật cho nên tính tình thật khác thường, không thể lấy thường lý mà đo lường được. Huống chi ta đang ở ngôi đế vương nước Đại Lý nên bụng y thù hận càng muốn làm cho anh em ta thân bại danh liệt cho hả lòng.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Đại ca lên ngôi đã lâu, thần dân ai nấy kính ngưỡng, bốn phương thanh bình, chẳng nói gì chỉ Diên Khánh thái tử mà dẫu vua Thượng Đức có sống lại cũng không thể trở lên ngôi được.
Cao Thăng Thái đứng bật dậy tâu:
- Lời của Trấn Nam Vương quả thật xác đáng. Thái tử Diên Khánh nếu như giao lại Đoàn công tử thì không nói gì, còn không chúng ta sẽ không coi y là thái tử hay không thái tử, chỉ biết y là kẻ đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân trong thiên hạ ai nấy đều có quyền tru diệt. Võ công y tuy cao cường thật nhưng không thể nào đánh lại được số đông.
Thì ra hơn mười năm trước vào năm Thượng Đức ngũ niên, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa đang tại vị triều đình bỗng sinh đại biến, nhà vua bị gian thần Dương Nghĩa Trinh giết chết. Cháu vua Thượng Đức là Đoàn Thọ Huy được các cao tăng chùa Thiên Long và trung thần Cao Trí Thăng giúp đỡ nên bình diệt được Dương Nghĩa Trinh lên nối ngôi xưng là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế không thích làm vua nên chỉ ở ngôi một năm rồi bỏ ngai vàng đi tu ở chùa Thiên Long, nhường ngôi cho em họ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Vua Thượng Đức vốn có một người con trai là thái tử Diên Khánh nhưng khi gian thần Dương Nghĩa Trinh soán ngôi đất nước đại loạn, y không biết đi đâu mất, ai nấy cho rằng đã bị Dương Nghĩa Trinh sát hại rồi, ngờ đâu bao nhiêu năm nay đột nhiên xuất hiện.
Bảo Định Đế nghe Cao Thăng Thái nói lắc đầu:
- Hoàng vị vốn dĩ là của thái tử Diên Khánh, khi xưa vì không kiếm thấy y, Thượng Minh Đế mới phải lên ngôi, sau đó mới truyền lại cho ta. Thái tử Diên Khánh nếu quay lại, ngôi vua này phải trả lại cho y mới phải.
Ông quay đầu nói với Cao Thăng Thái:
- Lệnh tôn nếu như còn tại thế ắt cũng một ý đó thôi.
Cao Thăng Thái là con của đại công thần Cao Trí Thăng năm xưa trừ gian diệt bạo toàn là công lao của ông ta. Cao Thăng Thái tiến lên một bước, phục xuống tâu:
- Tiên phụ trung với vua, yêu thương dân, thanh bào quái khách này là kẻ đứng đầu tứ ác, nếu như ngồi trên ngôi cửu ngũ, đứng trên trăm họ, muôn dân nước Đại Lý sẽ phải chịu không biết bao nhiêu khốn khổ. Việc hoàng thượng hỏi ý nhường ngôi, thần Thăng Thái dẫu chết vạn lần cũng không dám phụng chiếu.
Ba Thiên Thạch cũng phục xuống đất tâu:
- Mới rồi thần Thiên Thạch nghe Nam Hải Ngạc Thần gọi người đứng đầu trong tứ ác là Ác Quán Mãn Doanh. Ác nhân đó nếu không phải thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể nào giành ngôi đại bảo, còn như nếu y thực sự là thái tử Diên Khánh, một kẻ hung ác gian hiểm như thế làm sao có thể để y cai trị trăm họ nước Đại Lý? Nếu như vậy ắt quốc gia sẽ sụp đổ, xã tắc sẽ luân vong.
Bảo Định Đế xua tay nói:
- Hai vị đứng lên, những điều các ngươi nói quả là hữu lý. Có điều Dự nhi rơi vào tay họ, trừ khi ta nhường ngôi cho chúng, có cách nào đưa được Dự nhi về đâu?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Đại ca, từ xưa đến nay chỉ có khi quân phụ gặp nạn, thần tử xả thân ra cứu. Dự nhi tuy được đại ca yêu thương nhưng đâu có vì nó mà phải từ bỏ ngôi báu? Nếu làm như thế thì dù cho Dự nhi thoát hiểm cũng thành kẻ đại tội của nước Đại Lý này.
Bảo Định Đế đứng lên, giơ tay trái vuốt bộ râu dài dưới cằm, tay phải giơ hai ngón tay gõ gõ trên trán, chậm rãi đi bách bộ trong thư phòng. Mọi người biết ông khi gặp chuyện lớn khó khăn quyết định đều như thế để suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng làm cản trở giòng tư tưởng của ông. Bảo Định Đế đi qua đi lại, một hồi thật lâu mới nói:
- Gã Diên Khánh thái tử kia thủ đoạn thật là độc ác, cho Dự nhi uống Âm Dương Hòa Hợp Tán, dược tính thật là lợi hại, người thường khó mà đề kháng. Chỉ sợ ... chỉ sợ ... giờ phút này y đã bị thuốc làm cho mê man, thật không biết thế nào. Ôi, đây là gian kế của người ta bày ra, không thể nào trách Dự nhi được.
Đoàn Chính Thuần cúi đầu, xấu hổ vô cùng, nghĩ thầm đầu dây mối nhợ cũng chỉ vì mình có tính phong lưu mà ra. Bảo Định Đế quay trở lại chiếc ghế đang ngồi nói:
- Ba Tư Không, truyền hạ chỉ ý, ra lệnh cho Hàn Lâm Viện thảo chiếu phong cho em ta Chính Thuần làm Hoàng Thái Đệ.
Đoàn Chính Thuần hoảng hốt, vội vàng quì xuống tâu:
- Đại ca đang lúc thân thể cường tráng, công đức ban bố cho toàn dân, trời cao thể nào cũng phù hộ để cho con đàn cháu đống. Chức Hoàng Thái Đệ kia xin hãy khoan bàn đến.
Bảo Định Đế giơ tay đỡ lên nói:
- Anh em ta như thể tay chân, giang sơn Đại Lý này vốn do cả hai chúng mình cùng chấp chưởng, không nói gì ta không có con, dẫu như có con có cháu thì cũng truyền ngôi cho em. Thuần đệ, ta vốn đã có ý lập chú làm người kế thừa từ lâu, trong nước người người ai cũng biết. Hôm nay phải sớm định danh phận cốt để cho thái tử Diên Khánh tiêu tan hi vọng.
Đoàn Chính Thuần suy từ thêm mấy lần nữa nhưng đều không được, đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái liền tiến lên chúc mừng. Bảo Định Đế không có con cái, ngôi vua về sau ắt sẽ truyền cho Đoàn Chính Thuần, việc đó ai cũng đã biết nên không ai ngạc nhiên. Bảo Định Đế nói:
- Thôi mọi người lui về nghỉ ngơi. Việc thái tử Diên Khánh chỉ nên cho Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã hai người biết mà thôi, không được tiết lậu cho người khác.
Mọi người lên tiếng đáp ứng, khom mình cáo biệt. Ba Thiên Thạch lập tức đi xuống Hàn Lâm Viện truyền chiếu chỉ của nhà vua.
*
* *
Bảo Định Đế dùng cơm xong, ngủ một chốc, lúc tỉnh dậy nghe thấy ngoài cung vọng vào tiếng reo hò, chuông trống, tiếng pháo trúc ầm ỹ. Nội giám tiến vào phục vụ nhà vua thay quần áo, bẩm báo:
- Bệ hạ sách phong Trấn Nam Vương làm Hoàng Thái Đệ, dân chúng hoan hô chúc mừng thật là náo nhiệt.
Nước Đại Lý trong những năm gần đây không có việc binh đao, triều chính sáng suốt, dân chúng an cư lạc nghiệp, dân chúng cực kỳ kính mến hoàng đế, Trấn Nam Vương, Thiện Xiển Hầu và những quan chức. Bảo Định Đế nói:
- Truyền chỉ ý của trẫm ngày mai mở hội hoa đăng, trong thành Đại Lý bãi bỏ lệnh ngăn sông cấm chợ, khao thưởng ba quân, đem rượu thịt thưởng cho những người già cả cô nhi.
Đạo chỉ ý đó truyền xuống, dân chúng trong thành Đại Lý ai nấy đều mừng rỡ. Đến tối hôm đó, Bảo Định Đế thay quần áo thường, một mình ra khỏi cung. Ông kéo sụp mũ xuống che kín lông mày chỉ hở hai con mắt. Trên đường đi đâu đâu cũng thấy trăm họ vỗ tay hát hò, thanh niên nam nữ vừa múa vừa ca. Thời đó nhân sĩ Trung Nguyên coi Đại Lý là nước man di, lễ nghi so với trung thổ hoàn toàn khác hẳn, trên đường trai gái dắt díu nhau đi chơi, cười cợt nô đùa chẳng phải để ý đến ai, cũng chẳng ai coi là chuyện lạ. Bảo Định Đế trong bụng khấn thầm: "Cầu mong cho dân chúng nước Đại Lý ta đời đời kiếp kiếp được hoan lạc như thế này".
Ông ra khỏi thành rồi lập tức rảo bước đi thêm chừng hai mươi dặm thì lên trên một ngọn núi, càng lúc càng hoan tịch, đi vòng qua bốn thung lũng đến trước một cái miếu cổ nho nhỏ, trên đề ba chữ Niêm Hoa Tự. Phật giáo là quốc giáo của nước Đại Lý nên trong ngoài kinh thành chùa lớn cũng vài chục còn chùa nhỏ tính hàng trăm, ngôi Niêm Hoa Tự này ở nơi hẻo lánh, ít người khói hương, ngay cả người Đại Lý phần lớn cũng chẳng ai biết đến.
Bảo Định Đế đứng trước cửa chủa trầm ngâm khấn nguyện một hồi sau đó mới tiến tới nhẹ nhàng gõ vào cửa ba tiếng. Một lúc lâu sau, một chú tiểu mở cửa chùa chắp tay hỏi:
- Tôn khách quang lâm chẳng hay có chuyện gì?
Bảo Định Đế đáp:
- Xin phiền thông báo cho Hoàng Mi đại sư là có cố nhân Đoàn Chính Minh đến viếng.
Chú tiểu nói:
- Xin mời vào.
Nói xong quay mình dẫn đường cho khách. Bảo Định Đế tiến vào trong chùa, bỗng nghe hai tiếng chuông boong boong từ hậu viện truyền ra, lập tức cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, thần nhàn ý tĩnh. Hai người đạp trên những lá khô rơi trên thềm đi đến phía sau, chú tiểu nói:
- Xin tôn khách ở đây chờ một chút để tôi đi bẩm cho sư phụ biết.
Bảo Định Đế đáp:
- Được.
Ông chắp tay sau lưng đứng giữa sân nhìn lá vàng từ trên cây ngân hạnh lả tả rơi. Trong đời ông hiếm khi nào phải đứng ngoài cửa chờ người khác thế nhưng khi bước chân vào Niêm Hoa Tự này, bao nhiêu tục niệm đều tiêu tan, quên hẳn mình là chúa tể của cả một cõi trời nam.
Bỗng nghe một giọng già nua cười nói:
- Đoàn hiền đệ có chuyện gì khó khăn thế?
Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy một nhà sư già thân thể cao to, mặt đầy vết nhăn đang từ trong căn nhà nhỏ bước ra. Vị lão tăng đó có đôi lông mày dài vàng cháy, mi mao rủ xuống, chính là hòa thượng Hoàng Mi.
Bảo Định Đế chắp hai tay nói:
- Đến quấy quả việc thanh tu của đại sư.
Hoàng Mi hòa thượng mỉm cười nói:
- Xin mời vào.
Bảo Định Đế tiến vào trong căn nhà nhỏ thấy hai nhà sư trung niên đứng vái chào, biết đó là đệ tử của Hoàng Mi nên cũng giơ tay đáp lễ rồi xếp bằng ngồi xuống chiếc bồ đoàn ở phía tây, đợi cho hòa thượng Hoàng Mi ngồi ngay ngắn nơi chiếc đệm phía đông mới lên tiếng nói:
- Tôi có một đứa cháu tên là Đoàn Dự, năm lên bảy tuổi đã từng đem nó đến đây nghe sư huynh giảng kinh.
Hoàng Mi tăng mỉm cười:
- Thằng bé đó có ngộ tính khá, quả là đứa ngoan, ngoan lắm.
Bảo Định Đế nói:
- Nó nhờ được Phật pháp điểm hóa nên tính tình từ bi, không chịu học võ để khỏi sát sinh.
Hoàng Mi tăng nói:
- Không biết võ công vẫn có thể giết người, biết võ công chưa chắc đã giết người.
Bảo Định Đế đáp:
- Phải lắm!
Ông đem chuyện Đoàn Dự kiên quyết không chịu học võ, bỏ nhà trốn đi, làm sao gặp được Mộc Uyển Thanh, rồi bị Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân là thái tử Diên Khánh bắt giam trong thạch thất kể lại. Hoàng Mi tăng mỉm cười lắng tai nghe, không xen vào nửa lời còn hai đệ tử đứng sau lưng ông thõng tay hầu thầy mặt lạnh như tiền các bắp thịt trên mặt không hề rung động chút nào.
Đến khi Bảo Định Đế nói xong, Hoàng Mi tăng mới chậm rãi nói:
- Nếu như thái tử Diên Khánh là đường huynh của hiền đệ, hiền đệ không tiện động thủ với y mà sai hạ thuộc đến cứu người thì cũng không ổn.
Bảo Định Đế nói:
- Sư huynh nhận định sáng suốt lắm.
Hoàng Mi tăng nói tiếp:
- Trong các cao tăng chùa Thiên Long cũng có người võ công giỏi hơn hiền đệ nhưng bọn họ cũng đều trong họ Đoàn mà ra, không tiện tham dự tranh chấp trong nội tộc mà giúp hiền đệ thành thử không thể lên đó cầu cứu được.
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thế!
Hoàng Mi tăng gật đầu chậm rãi đưa ngón tay giữa ra, điểm vào ngực Bảo Định Đế. Bảo Định Đế mỉm cười, đưa ngón tay trỏ điểm ngay vào đầu ngón tay giữa của ông ta, hai người đều lắc lư một cái lập tức thu chỉ về. Hoàng Mi tăng nói:
- Đoàn hiền đệ, Kim Cương chỉ của ta không thắng nổi Nhất Dương Chỉ của hiền đệ đâu.
Bảo Định Đế nói:
- Sư huynh đại trí đại tuệ, không cần phải dùng chỉ lực mà thủ thắng.
Hoàng Mi tăng cúi đầu không nói. Bảo Định Đế đứng lên nói:
- Năm năm trước đây, sư huynh bảo tiểu đệ miễn thuế muối cho dân Đại Lý, nhưng một là quốc dụng chưa đủ, hai nữa tiểu đệ định đợi cho đứa em Chính Thuần tiếp vị rồi mới thi hành nhân chính đó để dân chúng hướng về y. Thế nhưng ngay sáng mai, tiểu đệ sẽ ra lệnh bãi bỏ thuế muối.
Hoàng Mi tăng đứng bật dậy, khom lưng vái lạy, cung kính đáp:
- Hiền đệ tạo phúc cho muôn dân, lão tăng cảm kích ân đức không để đâu cho hết.
Bảo Định Đế cũng cúi xuống vái trả lễ, không nói thêm lời nào, lặng lẽ đi ra khỏi chùa. Ông về đến cung lập tức sai nội giám truyền lệnh đòi Ba Thiên Thạch vào chầu, cho y hay việc bãi bỏ thuế muối. Ba Thiên Thạch khom mình tạ ơn nói:
- Hồng ân của hoàng thượng thực là phúc của toàn dân.
Bảo Định Đế đáp:
- Mọi việc tiêu dùng trong cung nên cố giảm thiểu tiết kiệm. Nhà ngươi cùng Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã bào thảo cho kỹ càng, xem những gì mình có thể cắt xén được.
Ba Thiên Thạch tuân lệnh, từ biệt ra khỏi cung lập tức hẹn với Tư Đồ Hoa Hách Cấn cùng đến phủ Tư Mã Phạm Hoa thông báo việc bãi bỏ thuế muối, còn việc Đoàn Dự bị bắt cóc thì Ba Thiên Thạch đã nói cho hai người biết rồi. Phạm Hoa trầm ngâm rồi nói:
- Trấn Nam thế tử bị rơi vào tay kẻ gian, hoàng thượng hạ chỉ miễn trừ thuế muối chắc là để cầu trời thương xót phù hộ cho thế tử được trở về bình an. Bọn thần tử chúng ta nếu chẳng chia xẻ cái nỗi lo của đấng chí tôn thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều?
Ba Thiên Thạch nói:
- Chính thế, nhị ca có diệu kế gì có thể cứu được thế tử chăng?
Phạm Hoa đáp:
- Nếu như đối thủ là thái tử Diên Khánh, hoàng thượng thật không muốn chính diện coi y là thù địch. Ta có một cách này nhưng có điều phải làm phiền đến đại ca thôi.
Hoa Tư Đồ vội hỏi:
- Cái gì mà phải làm phiền? Nhị đệ mau mau nói ra.
Phạm Hoa đáp:
- Hoàng thượng nói rằng võ công của Diên Khánh thái tử còn hơn ngài một bậc, nếu như mình tới xông vào cứu thì không thể nào làm được. Đại ca, nghề cũ của đại ca hai mươi năm trước nay thử lại một lần được chăng?
Khuôn mặt rám nắng của Hoa Tư Đồ hơi đỏ lên, cười nói:
- Nhị đệ lại trêu ta nữa rồi.
Quan Tư Đồ Hoa Hách Cấn vốn tên là A Căn, xuất thân nghèo hèn, nay làm tới chức Tam Công ở Đại Lý nhưng khi chưa thành đạt thì làm nghề đào mả trộm kiếm ăn, chuyên đi đào mồ những vương công cự phú. Những người giàu có sau khi chết thường chôn theo những đồ vật quí giá, Hoa A Căn từ xa đào hầm thông vào phần mộ để lấy bảo vật. Tuy làm thế mất nhiều công thật nhưng vì thế không ai phát giác. Một hôm y đào trúng một mộ phần trong quan tài có võ công bí cấp chôn theo, theo đó mà tu luyện thành một môn ngoại công trác tuyệt mới bỏ cái nghề hạ tiện này, quay sang phò tá Bảo Định Đế, lập được nhiều công lao thăng lên đến chức Tư Đồ.
Khi làm quan rồi ông thấy tên cũ khó nghe, đổi thành Hách Cấn, ngoại trừ Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa là hai người sinh tử chi giao, rất ít người biết rõ thân phận của ông. Phạm Hoa đáp:
- Tiểu đệ nào có dám đùa cợt đại ca? Tiểu đệ nghĩ bọn mình lẻn vào trong Vạn Kiếp Cốc, đào một đường hầm thông vào trong thạch thất giam Trấn Nam thế tử, lẳng lặng cứu y ra thì không ai có thể nào biết được.
Hoa Hách Cấn vỗ đùi reo lên:
- Hay lắm! Hay lắm!
Cái nghề đào mả trộm của y thật là tài trời cho, hơn hai mươi năm qua không còn dùng để mưu sinh nữa nhưng thỉnh thoảng nghĩ đến không khỏi ngứa ngáy chân tay, có điều thân đang giữ chức vụ cao, cực điểm phú quí, lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề cập đến trong bụng mừng thầm.
Phạm Hoa cười nói:
- Đại ca đừng mừng vội, bên trong còn nhiều chuyện khó khăn. Tứ Đại Ác Nhân đều ở trong Vạn Kiếp Cốc, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tu La Đao cũng là những nhân vật cực kỳ lợi hại, muốn tránh không để họ biết thực không phải dễ. Hơn nữa, gã thái tử Diên Khánh kia ngồi canh ngoài thạch thất, đào hầm dưới chân y làm sao không để y phát giác được?
Hoa Hách Cấn trầm ngâm một hồi mới nói:
- Thế thì phải đào từ sau thạch thất mà vào để tránh chỗ của thái tử Diên Khánh.
Ba Thiên Thạch nói:
- Trấn Nam thế tử thời khắc nào cũng đều gặp phải hiểm nguy, chúng ta đào hầm e rằng công trình không phải nhỏ sợ không kịp chăng?
Hoa Hách Cấn đáp:
- Thế thì cả ba anh em mình cùng làm, hai vị hiền đệ chịu khó học ta cái nghề đào mồ ăn trộm vậy.
Ba Thiên Thạch cười nói:
- Chúng ta làm đến Tam Công nước Đại Lý, nhưng sự bất đắc dĩ vì nghĩa mà phải làm cái việc đào mồ trộm mả đấy thôi.
Cả ba cùng vỗ tay cười ha hả. Hoa Hách Cấn nói:
- Việc không nên chậm trễ, nói là làm liền đi.
Nói xong Ba Thiên Thạch vẽ đồ hình trong Vạn Kiếp Cốc, Hoa Hách Cấn tính toán cửa hầm và đường đi, làm cách nào để tránh tai mắt người ngoài, làm thế nào chuyên chở được đất cát đem đi đổ mọi việc y đều tinh thông không ai sánh kịp.
*
* *
Trong một ngày một đêm qua, Đoàn Dự mỗi khi thấy trong người bứt rứt liền thi triển thân pháp Lăng Ba Vi Bộ ở trong thạch thất đi qua đi lại, chỉ cần một hai vòng là thấy dịu hẳn xuống. Thế nhưng Mộc Uyển Thanh thì người phát sốt, thần trí mơ hồ, phần lớn thời gian chỉ tựa lưng vào tường đá mà ngủ mê mệt.
Hôm sau vào khoảng giữa trưa, Đoàn Dự lại đi rảo bước trong căn phòng bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng người già cả ngâm:
Dọc ngang mười chín vạch,
Biết bao người mê say.
Cư sĩ nếu có thanh hứng, cùng với lão tăng đánh chơi một ván được chăng?
Đoàn Dự trong bụng lạ lùng vội vàng đi chậm lại, đi thêm mươi bước nữa rồi ngừng hẳn, ghé mắt nhìn qua cái lỗ hổng vẫn dùng để đưa cơm nhìn ra ngoài.
Chỉ thấy một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo, lông mày vàng hoe, tay trái cầm một cái mõ to bằng miệng bát, tay phải cầm một chiếc dùi đen nhánh, gõ lên cái mõ mấy tiếng cốc cốc cốc, nghe âm thanh thì ra cái dùi đó đúc bằng sắt. Ông ta vừa niệm: "A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!" vừa cúi xuống phiến đá xanh ngay trước căn nhà đá dùng dùi mõ vạch, nghe xạo xạo, bột đá bay tung tóe đã vạch thành một đường thẳng.
Đoàn Dự thấy lạ lùng, khuôn mặt vị lão tăng này chàng dường như có gặp ở đâu rồi, kình lực bàn tay ông ta mạnh thật, chỉ tiện tay vạch lên mà trên nền đá thành một hằn sâu chẳng khác gì đục bằng dùi sắt của người thợ tiện, chiếc dùi mõ chỉ chầm chậm vạch qua thành một đường thẳng tắp còn người thợ nếu muốn đục được thẳng như thể không thể không vạch trước bằng mực đen.
Trước căn nhà đá một giọng nói uất nghẹn vang lên:
- Kim Cương chỉ lực, công phu giỏi lắm.
Chính là tiếng của người áo xanh Ác Quán Mãn Doanh. Thiết trượng của y liền thò ra vạch một đường ngang thẳng góc với đường của Hoàng Mi tăng, cũng ăn sâu vào đá thẳng băng. Hoàng Mi tăng cười nói:
- Thí chủ bằng lòng tứ giáo, hay lắm, hay lắm!
Ông ta liền đưa dùi lên vẽ thêm một đường thẳng nữa, người áo xanh liền vẽ một đường ngang. Cứ như thế bên này khắc một đường, bên kia khắc một đường, hai người ngưng tụ công lực, chùy trượng càng vẽ càng chậm dần để cho đường mình vẽ không có chỗ nông chỗ sâu hay cong vẹo thì thua đối phương hay sao.
Độ chừng ăn xong một bữa cơm, một bàn cờ dọc ngang mười chín đường đã ngay ngắn khắc xong, Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: "Chính Minh hiền đệ nói không sai, gã thái tử Diên Khánh này nội lực quả là cao cường". Thái tử Diên Khánh không phải như Hoàng Mi tăng đã chuẩn bị rồi mới đến nên trong bụng cũng hãi thầm: "Ở đâu lại nhảy ra một lão hòa thượng lợi hại đến thế này? Hẳn là Đoàn Chính Minh mời đến tiếp tay. Gã hòa thượng này cầm chân ta để cho Đoàn Chính Minh thừa cơ vào cứu Đoàn Dự, ta đâu có cách nào phân thân ra đối địch được".
Hoàng Mi tăng nói:
- Đoàn thí chủ công lực cao thâm, bội phục, bội phục. Kỳ lực của thí chủ ắt cũng phải gấp mười lão tăng, lão tăng muốn thí chủ nhường cho bốn quân.
Người áo xanh ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Chỉ lực của ngươi ghê gớm như thế hẳn là thân phận cao nhân. Ngươi đến thách ta đấu vừa mở miệng lại đòi nhường là sao?". Y bèn nói:
- Đại sư việc gì phải khiêm tốn quá như thế! Nếu muốn hơn thua thì phải đánh ngang tay chứ.
Hoàng Mi tăng đáp:
- Bốn quân không nhường được hay sao?
Người áo xanh thản nhiên đáp:
- Nếu đại sư tự biết kỳ thế không bằng thì còn tỉ đấu làm gì nữa.
Hoàng Mi tăng khẩn khoản:
- Thế thì ba quân được chăng?
Người áo xanh đáp:
- Chỉ nhường đi trước cũng đã là quá rồi.
Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:
- Hóa ra tài đánh cờ của ông cũng chẳng đến đâu, thôi thì để ta chấp ông ba quân vậy.
Người áo xanh đáp:
- Không cần phải thế, cứ đấu ngang tay mỗi người đi trước một lần là được rồi.
Hoàng Mi tăng càng thêm ngại ngùng nghĩ thầm: "Người này không kiêu căng mà cũng không nóng nảy, quả là kình địch, dù ta có khích cách nào cũng vẫn điềm tĩnh như không".
Thì ra Hoàng Mi tăng không có cách nào chắc ăn, biết người thích cờ thường hiếu thắng, mình mở miệng xin y chấp ba quân, bốn quân thường là đối phương bằng lòng, nhưng người này tính tình khác hẳn, không coi cái hư danh đó vào đâu, nếu như thái tử Diên Khánh tự phụ là mình cao cờ bằng lòng chấp quân thì mình thật là lợi thế, đấu cờ phần thắng sẽ nhiều hơn. Ngờ đâu thái tử Diên Khánh không chịp chấp quân mà cũng chẳng để ai nhường mình, không sơ hở chút nào, cực kỳ nghiêm cẩn.
Hoàng Mi tăng nói:
- Được rồi, ngươi là chủ, ta là khách, vậy ta đi trước.
Người áo xanh nói:
- Không được, rồng mạnh không đè nổi rắn đất, để ta đi trước.
Hoàng Mi tăng đáp:
- Thôi thế thì đánh đố để định xem ai đi trước. Vậy ngươi đoán thử lão tăng năm nay bao nhiêu tuổi, chẵn hay lẻ? Đoán trúng thì ngươi đi trước; còn đoán sai thì lão tăng đi trước.
Người áo xanh nói:
- Ta có đoán trúng chăng nữa ông cũng giở thói bài bây.
Hoàng Mi tăng nói:
- Được rồi, thế này thì ngươi đoán lão tăng không có thể chây được. Ngươi đoán thử sau năm bảy mươi tuổi, số ngón chân lão tăng hai bên tổng cộng là số chẵn hay số lẻ?
Câu đố dó quả thật quái lạ, người áo xanh nghĩ thầm: "Người bình thường có mười ngón chân, dĩ nhiên là chẵn rồi. Y nói rõ là sau năm bảy mươi tuổi chắc là để cho ta tưởng rằng sau năm bảy mươi tuổi y mất đi một ngón chứ gì? Binh pháp có nói là: Thực ấy là hư mà hư ấy là thực. Y còn đủ mười ngón chân nhưng cố tình giở trò đánh lạc hướng, ta đâu có trúng kế lão?". Y bèn nói:
- Số chẵn.
Hoàng Mi tăng đáp:
- Sai rồi, số lẻ.
Người áo xanh nói:
- Cởi giày ra xem nào!
Hoàng Mi tăng cởi giày vớ bên chân trái ra thấy đầy đủ năm ngón không thiếu ngón nào. Người áo xanh chăm chăm nhìn mặt đối phương thấy ông ta miệng mỉm cười, thần tình trấn tĩnh nghĩ thầm: "Thì ra chân phải y chỉ có bốn ngón". Lại thấy nhà sư từ từ cởi giày vải chân phải ra, giơ tay cởi vớ đang định nói: "Thôi khỏi cần kiểm chứng, ông đi trước đi" thì lại chợt nghĩ: "Không thể mắc hỡm y".
Hoàng Mi tăng lại cởi nốt vớ chân phải, chân phải cũng đầy đủ năm ngón, có tàn khuyết gì đâu?
Trong giây phút đó bao nhiêu ý nghĩa hiện ra trong đầu người áo xanh, không biết đối phương có ý định gì. Chỉ thấy nhà sư già giơ chiếc dùi sắt lên đánh mạnh xuống, nghe cách một tiếng chặt gãy luôn ngón chân út của mình. Hai người đệ tử đứng sau lưng thấy sư phụ tự hủy hoại thân thể, máu chảy vọt ra nhịn không nổi kêu "Ối" lên một tiếng. Đại đệ tử Phá Nghi vội lấy thuốc kim sang trong bọc ra rịt cho thầy, xé một mảnh tay áo băng lại.
Hoàng Mi tăng cười nói:
- Lão tăng năm nay sáu mươi chín tuổi, đến khi bảy mươi thì ngón chân ta là số lẻ.
Người áo xanh đáp:
- Quả đúng thế, đại sư đi trước đi.
Y có cái tên là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, bao nhiêu chuyện hung ác tàn bạo đã từng thấy cả rồi thì việc chặt đứt một ngón chân có đáng gì đâu nhưng nghĩ thầm nhà sư này chỉ vì muốn tranh tiên một nước mà đã ra tay như thế đủ biết ông ta nhất định phải thắng ván cờ này, một khi mình thua thì những điều kiện ông ta đưa ra sẽ thật là gay go.
Hoàng Mi tăng nói:
- Xin phép.
Ông ta cầm cái dùi lên khắc xuống điểm tứ tứ ở hai góc đối diện mỗi bên một cái vòng tròn nhỏ thế là coi như đã đi hai quân cờ trắng. Người áo xanh giơ cây gậy sắt ra ấn vào hai bên cạnh hai điểm tứ tứ còn lại mỗi bên một cái, lập tức nền đá xanh lõm xuống hai lỗ tức là đi hai quân đen. Cả bốn góc điểm tứ tứ đều có quân đen trắng thì gọi là "thế tử" là một phép đánh cổ của vi kỳ Trung Quốc, trắng đi trước đen đi sau ngược lại với phép đánh sau này của hậu thế.
Hoàng Mi tăng kế đến đặt tại Bình Vị lục tam một quân, người áo xanh bèn đi một nước nơi chỗ cửu tam. Lúc đầu hai người đi rất nhanh, nhà sư không tỏ ra kém sút chút nào, quả có mất một ngón chân để đi trước một nước kể cũng đáng.
Đi đến nước thứ mười bảy mười tám, hai bên cáng lúc càng gay go, tranh nhau thật kịch liệt, kình lực trên tay cũng mỗi lúc một tiêu hao, một mặt suy nghĩ mong thắng, một mặt vận khí tăng gia kình lực thành thử càng lúc càng chậm.
Người đệ tử thứ hai của Hoàng Mi tăng Phá Sân cũng là một tay cờ khá thấy sư phụ dùng đoản binh đấu với người áo xanh hai bên toàn những thế kỳ lạ không khỏi bội phục ngầm. Đi đến nước thứ hai mươi bốn, người áo xanh đột nhiên tung ra kỳ binh, bàn cờ đột nhiên biến đổi nếu như nhà sư không đối phó kịp thì góc bên phải thể nào cũng nguy còn như nếu cố giữ thì lợi thế đi trước không còn nữa.
Hoàng Mi tăng suy nghĩ một hồi lâu chưa biết phải làm thế nào bỗng nghe từ bên trong thạch thất có tiếng truyền ra:
- Tấn công vào Khứ Vị thì không bị mất thế đi trước.
Thì ra Đoàn Dự từ bé đã ham đánh cờ lúc này thấy hai bên đến chỗ gay go nên buột miệng "gà" cho Hoàng Mi tăng. Người đời thường nói: "Cờ ngoài bài trong", người đứng xem thường sáng nước hơn người đang đánh, kỳ lực của Đoàn Dự vốn đã cao hơn Hoàng Mi tăng lại đứng ngoài nên nghĩ ngay ra được những nước lạ. Hoàng Mi tăng đáp:
- Lão tăng vốn cũng đã có ý đó rồi nhưng chưa đặt xuống được, thí chủ nói thế khiến giải quyết được nghi nan trong lòng.
Bèn đặt nơi Khứ Vị ngay chỗ thất tam một quân. Trong phép đánh cờ ngày xưa của Trung Quốc, Bình Thượng Khứ Nhập là bốn chỗ, Khứ Vị ở góc trên bên phải.
Người áo xanh lạnh lùng đọc:
Đứng ngoài chẳng nói là quân tử,
Tự mình suy tính mới trượng phu.
Đoàn Dự kêu lên:
- Ngươi đem ta nhốt ở nơi đây mà còn dám nói gì chân quân tử hay chăng?
Hoàng Mi tăng mỉm cười:
- Ta là đại hòa thượng chứ nào phải đại trượng phu đâu?
Người áo xanh cười khẩy:
- Vô sỉ thật, vô sỉ thật.
Y suy nghĩ một hồi rồi cũng đi một quân nơi Khứ Vị. Đi được thêm mấy nước, nhà sư già lại gặp thế bí, Phá Sân hòa thượng nóng ruột không nghe Đoàn Dự nhắc gì vội chạy lại trước thạch thất hỏi:
- Nước cờ này phải đi thế nào đây?
Đoàn Dự đáp:
- Ta đã tính ra đến bảy nước rồi nhưng nếu nói ra e rằng kẻ địch nghe được thì không còn hiệu nghiệm nữa thành thử cứ ngần ngừ không muốn nhắc.
Phá Sân giơ bàn tay ra, tay trái viết lên hai chữ:
- Xin viết ra.
Nói xong đưa bàn tai vào trong cái khe, miệng nói:
- Nếu đã thế thì thôi đành chịu vậy.
Y biết người áo xanh nội công thâm hậu dù cho Đoàn Dự có ghé tai nói nhỏ cũng có thể bị y nghe được. Đoàn Dự thấy kế này hay lắm, liều đưa ngón tay viết vào bàn tay y bảy nước đi nói:
- Tôn sư kỳ lực cao minh ắt sẽ có nước hay, chẳng cần tại hạ chỉ điểm.
Phá Sân suy nghĩ một chút thấy bảy nước cờ đó quả thật là cao nên quay trở lại bên sư phụ, đưa tay viết lên lưng ông. Tăng bào của y che hết bàn tay, nên người áo xanh không sao nhìn thấy y giở trò láu cá. Hoàng Mi tăng ngẫm nghĩ một hồi rồi cứ theo đúng thế mà đi.
Người áo xanh hừ một tiếng nói:
- Cái này là có người ngoài mách nước, cứ như sức cờ của đại sư xem ra không thể tới mức này được.
Nhà sư cười:
- Đánh cờ chẳng qua là trò đấu trí, trong cái giả có cái thật, người giỏi thì làm như không giỏi. Nếu như kỳ lực của lão tăng thí chủ biết hết cả rồi thì còn đánh cờ làm gì?
Người áo xanh đáp:
- Chơi trò giảo hoạt ném đá dấu tay.
Y thấy Phá Sân hòa thượng chạy qua chạy lại, lại dấu tay ở sau lưng nhà sư già, ắt hẳn có điều gì quái đản nhưng vì chú tâm đánh cờ thành ra chuyện chung quanh không nhìn rõ được.
Hoàng Mi tăng theo đúng lời Đoàn Dự chỉ, cứ thế mà đi đủ bảy nước. Sáu nước sau không cần phải suy nghĩ gì cả, chỉ chuyên chú vận công nên những cái lỗ do dùi đục vào đá xanh vừa sâu vừa tròn, đủ biết thần khí đầy đủ, nội lực dạt dào không dứt.
Người áo xanh thấy những nước cờ càng sau càng ghê gớm, nước nào cũng phải suy nghĩ cách chống đỡ nên nét đục của thiết trượng nông sâu không đều. Đến khi Hoàng Mi tăng đi xong nước thứ sáu rồi, người áo xanh xuất thần suy nghĩ một hồi đột nhiên đặt một quân vào Nhập Vị.
Quân cờ đó đi thật bất ngờ không liên quan gì đến lối tính toán của Đoàn Dự, Hoàng Mi tăng ngạc nhiên nghĩ thầm: "Bảy nước cờ của Đoàn công tử thật là tinh vi đi đến nước thứ bảy thì ta từ đi trước một nước đã thành hơn tới hai nước. Thế nhưng vào tình thế này thì ta không đi nước này được nữa rồi, chẳng hóa ra bao nhiêu nước trước thành công cốc hay sao?". Thì ra người áo xanh thấy tình hình bất lợi ứng phó cách nào xem ra cũng không xong thành ra không thèm lý đến nữa nên bỏ luôn thế thủ tiến lên công ngay một quân, cái đó chính là "lấy cái không để chống với cái có" quả thực là một nước lợi hại.
Hoàng Mi tăng nhíu mày không nghĩ ra được cách nào cho ổn. Phá Sân thấy thế cờ đột nhiên biến đổi khiến sư phụ bị lâm vào thế bí vội chạy lại thạch thất. Đoàn Dự cũng đã nghĩ chín liền viết cho y sáu nước cờ rõ ràng từng nước một. Phá Sân chạy lại chỗ Hoàng Mi tăng đưa tay viết lên lưng sư phụ. Người áo xanh đã nổi danh là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân lẽ nào lại dung cho y liên tiếp phá bĩnh mình? Thiết trượng từ tay trái liền tung ra hư điểm vào vai Phá Sân, quát lên:
- Đứa hậu sinh kia, mau đứng lại!
Thiết trượng điểm ra phát xuất tiếng vù vù. Hoàng Mi tăng thấy thế biết là đệ tử mình không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng trọng thương lập tức giơ tả chưởng chộp vào đầu trượng. Đầu trượng của người áo xanh liền rung động điểm luôn vào huyệt đạo dưới vú nhà sư. Hoàng Mi tăng biết trảo thành cương đao chém xuống đầu gậy, thiết trượng liền biến chiêu. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã trao đổi bảy tám thức.
Hoàng Mi tăng nhận thấy cánh tay mình ngắn còn thiết trượng của địch dài, nếu tiếp tục hóa ra chỉ thủ mà không công, chỉ thua chứ không có đường thắng nên vừa thấy trượng điểm tới liền tung ra một chỉ nhắm ngay đầu trượng đâm vào. Người áo xanh không rút về tránh, đầu trượng và ngón tay đụng nhau, hai người cùng dùng nội lực để đấu, lập tức cả hai bên đều đứng sững lại.
Người áo xanh nói:
- Đại sư nước cờ kia nhùng nhằng không đi, bàn cờ này chịu thua rồi phải không?
Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:
- Các hạ là tiền bối cao nhân, sao lại ra tay đánh trộm đệ tử của ta? Như thế có mất thân phận lắm chăng?
Tay phải cầm chiếu dùi sắt khắc một vòng tròn nhỏ dưới phiến đá. Người áo xanh cũng không nghĩ ngợi, tiện tay cũng đặt một quân. Từ đó trở đi, hai người tay thì vận nội lực không cách nào có thể lơi được, nhưng thế cờ mỗi lúc một gay go, hai bên tranh giành từng chút một.
Năm năm trước đây, Hoàng Mi tăng vì bách tính nước Đại Lý cầu xin Bảo Định Đế bãi bỏ thuế muối, đến tận bây giờ nhà vua mới bằng lòng, hai người hiểu ý nhau nên ông nhất định ra tay cứu Đoàn Dự. Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: "Ta dẫu có bỏ mạng cũng không thành vấn đề, nhưng nếu không cứu được Đoàn Dự ra thì còn ra gì với Chính Minh hiền đệ nữa?".
Kẻ tu tập võ học nội công cần nhất là không được có một chút tạp niệm nào, cái đó gọi là "phản chiếu không minh, vật ngã lưỡng vong " nhưng đánh cờ thì lại luôn luôn muốn hơn người một bước, trên bàn cờ ba trăm sáu mươi mốt điểm, điểm nào cũng phải nghĩ tới, quả đúng là đến một sợi tóc cũng không thể bỏ qua thì mới tính toán cho đến nơi đến chốn được.
Hai món đó gần như tương phản chống chỏi lẫn nhau. Hoàng Mi tăng công phu thiền định tuy cao thâm, nước cờ lại không cao bằng đối phương, chú tâm vào việc vận nội lực kháng địch thì lại sao nhãng nước cờ, còn như tập trung nghĩ nước cờ thì nội lực lại giảm đi trở thành núng thế, thấy cục diện hôm nay hung hiểm lạ thường nên quyết tâm lấy cái chết báo đền người tri kỷ nên không còn nghĩ gì đến việc an nguy của mình nữa. Cổ nhân có nói: "quân đang nguy ngập thì dễ thắng", thế nhưng Hoàng Mi tăng lúc này nguy thì có nguy còn chuyện tất thắng thì chưa thấy đâu cả.
*
* *
Tam Công nước Đại Lý là Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Mã Phạm Hoa và Tư Không Ba Thiên Thạch tất lãnh ba chục thuộc hạ biết võ công, đem gỗ, xẻng, đèn treo các món tiến vào khu rừng rậm trong Vạn Kiếp Cốc, chọn địa thế rồi đào đường hầm vào. Ba mươi ba người đào cả đêm đã được một con đường hầm dài đến vài chục trượng. Qua hôm sau lại đào thêm nửa ngày nữa đến xế trưa, tính toán ra không còn cách thạch thất bao xa. Hoa Hách Cấn bảo bộ thuộc lui lại phía sau để chuyển đất, chỉ còn ba người thay phiên đào. Ba người biết rằng thái tử Diên Khánh võ công rất cao cường nên khi đào chỉ nhè nhẹ ấn xẻng xuống không dám để phát ra chút thanh âm nào. Chính vì thế mà tiến triển rất chậm. Ba người có biết đâu lúc này người áo xanh đang hết sức chú tâm đánh cờ với Hoàng Mi tăng, lại đấu nội lực làm gì còn để ý đến âm thanh dưới đất.
Đào đến khoảng giờ Thân, tính ra đã đến nơi thạch thất Đoàn Dự đang bị cầm tù. Nơi này và nơi Diên Khánh đang ngồi cách nhau chỉ độ một trượng nên lại càng hết sức cẩn thận không để lộ chút thanh âm nào. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng xuống, dùng mười ngón tay moi đất, thi triển Hổ Trảo Công, mười ngón tay chẳng khác nào mười cái móng sắt, móc lên từng tảng đất lớn. Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch hai người ở sau chuyền những tảng đất y đào ra ngoài. Lúc này Hoa Hách Cấn không còn đào ngang nữa mà đã đào dọc từ dưới lên trên. Công trình đã gần xong, chỉ giây lát là biết có cứu được Đoàn Dự không, ba người không khỏi tim đập thình thịch.
Việc đào đất từ dưới lên tốn chẳng bao nhiêu công sức, đất vừa gỡ ra là rơi ngay xuống, Hoa Hách Cấn đã đứng thẳng lên được rồi ra tay càng nhanh nhẹn, cứ đào một lát lại lắng tai nghe ngóng xem bên trên có tiếng gì không. Đào như thế chừng tàn hai nén hương, xem ra chỉ còn cách mặt đất chừng một thước, Hoa Hách Cấn tay liềm chậm lại, nhẹ nhàng gạt đất ra sau cùng đụng phải một phản gỗ, trong bụng mừng thầm: "Dưới sàn thạch thất có lát ván xem ra càng tiện cho mình".
Y tập trung sức vào ngón tay, vạch vào tấm phản một hình vuông mỗi bề chừng hai thước, tay giữ tấm ván vừa buông ra một miếng gỗ vuông lập tức rơi xuống thành một cái miệng hầm đủ cho một người chui lọt. Hoa Hách Cấn đưa cái xẻng lên múa múa một vòng để phòng có người đột kích, bỗng nghe có tiếng đàn bà hoảng hốt kêu "A" lên. Hoa Hách Cấn nói nhỏ:
- Mộc cô nương chớ kêu, đây là phe bạn đến cứu hai người đây.
Y tung mình vọt từ dưới hầm lên. Vừa đưa mắt nhìn quanh thì lại càng hoảng hơn, nơi đây nào có phải thạch thất đâu mà là một căn phòng sạch sẽ đồ đạc tươm tất, đầy những kệ để đủ các loại bình lớn bé, một thiếu nữ mặt mày kinh hoàng, nép vào một góc.
Thạch thất kia toàn do Bảo Định Đế nói cho Ba Thiên Thạch nghe, Ba Thiên Thạch nói lại cho y nghe, y sợ mưu kế bại lộ nên đâu có dám đến tận nơi quan sát. Thành thử Hoa Hách Cấn tính toán sai, cái sai một li kia tuy không phải đi một dặm nhưng cũng không đúng chỗ.
Nơi y đào đến đúng ngay nhà Chung Vạn Cừu, thiếu nữ kia là Chung Linh, nàng đang ở trong phòng phụ thân lục lọi tìm giải dược để đi cứu Đoàn Dự, ngờ đâu từ dưới đất lại có một người đàn ông chui lên làm sao nàng không khỏi sợ đến mất cả hồn vía?
Ý nghĩ của Hoa Hách Cấn hiện ra thật nhanh: "Hóa ra mình đào lầm chỗ rồi, phải đào đường khác. Có điều tung tích đã lộ, nếu giết cô gái này để diệt khẩu, ngươi trong Vạn Kiếp Cốc thấy xác cô ta, lập tức sẽ tra xét mọi nơi, mình đào chưa tới thạch thất thì địa đạo này đã bị phát giác. Thôi đành tạm thời bắt cô ta xuống dưới hầm, nếu người nào đi tìm ắt sẽ ra ngoài sơn cốc".
Ngay lúc đó bỗng nghe thấy phòng ngoài có tiếng chân người đi đến. Hoa Hách Cấn đưa tay xua xua Chung Linh ý bảo cô ta không được lên tiếng, xoay người lại chân trái thò vào miệng hầm, tưởng chừng như định chui trở xuống, đột nhiên lật người nhảy vọt lên, tay trái đưa ra bịt ngay miệng cô gái, tay phải vòng ra ôm ngay lưng cô ta kéo lại gần cửa hầm tống xuống bên dưới. Phạm Hoa giơ tay đỡ lấy, bốc ngay một nắm đất nhét vào mồm Chung Linh. Hoa Hách Cấn nhảy trở vào hầm, cầm miếng gỗ vừa cắt ra để trở lại chỗ cũ rồi ghé tai vào khe nghe ngóng tiếng động bên trên.
Chỉ thấy hai người đi vào trong phòng, có tiếng đàn ông nói:
- Hẳn là nàng đối với y "tình cũ nghĩa xưa" vẫn còn nên khi ta muốn cho họ Đoàn bại hoại thanh danh mới hết sức ngăn trở chứ gì?
Có tiếng đàn bà giận dữ đáp:
- Cái gì mà tình cũ nghĩa xưa? Ta đối với y nào có tình ý gì đâu?
Tiếng đàn ông nói:
- Thế thì hay lắm. Hay lắm!
Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Người đàn bà nói:
- Có điều Mộc cô nương là con của sư tỉ ta, cũng là người bên mình, sao ông lại giở trò làm khó nàng ta như thế là sao?
Hoa Hách Cấn nghe đến đây, biết ngay đây là vợ chồng Chung cốc chủ, thấy họ bàn cãi với nhau có liên quan đến Đoàn Dự vội lắng tai nghe. Chung Vạn Cừu nói:
- Sư tỉ nàng toan len lén đến thả Đoàn Dự ra, may có Diệp Nhị Nương phát giác thành ra sư tỉ nàng bây giờ là kẻ địch của chúng ta, nàng còn lo cho con gái mụ ta làm gì? Phu nhân, khách tại đại sảnh toàn là những nhân vật thành danh trong võ lâm nước Đại Lý sao nàng chẳng coi ai ra gì, chỉ lườm họ một cái rồi bỏ xuống đây, chẳng ... chẳng hóa ra mình ... thiếu lễ độ quá hay sao?
Chung phu nhân hậm hực đáp:
- Ông mời bọn đó tới đây để làm gì? Những người đó với mình chẳng có giao tình gì lắm, liệu bọn họ có dám đắc tội với đương kim hoàng đế nước Đại Lý không?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Ta nào có mời họ đến để tiếp tay đâu, nào có phải muốn họ chống đối tạo phản Đoàn Chính Minh? Cũng may là bọn họ đều ở trong thành Đại Lý nên ta tiện thể mời đến uống rượu, để cho mọi người làm chứng tận mắt thấy rõ con trai và con gái Đoàn Chính Thuần ở chung một phòng, dâm uế loạn luân chẳng khác gì loài cầm thú. Hôm nay những tân khách mình mời đến có cả mấy hào kiệt từ Trung Nguyên phương bắc. Sáng sớm mai bọn ta sẽ mở cửa thạch thất cho tất cả mọi người nhìn rõ ràng đức tính của truyền nhân Nhất Dương Chỉ họ Đoàn như thế nào, có phải thú vị lắm không? Thế có phải truyền khắp giang hồ hay sao?
Nói xong y cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm. Chung phu nhân hừ một tiếng nói:
- Hèn hạ, hèn hạ! Vô liêm sỉ, vô liêm sỉ!
Chung Vạn Cừu nói:
- Nàng chửi ai là hèn hạ vô liêm sỉ vậy?
Chung phu nhân đáp:
- Kẻ nào làm những việc hèn hạ vô liêm sỉ thì là đồ hèn hạ vô liêm sỉ, cần gì phải chửi đích danh những người đó.
Chung Vạn Cừu nói:
- Đúng rồi, tên ác đồ Đoàn Chính Thuần tính tình trăng gió tạo nhiều oan nghiệt, để đến nỗi con ruột mình với con gái gian dâm, thật quả là đồ hèn hạ vô liêm sỉ hết nước nói.
Chung phu nhân cười khẩy hai tiếng, không trả lời. Chung Vạn Cừu nói:
- Sao nàng lại cười khẩy? Thế không phải nàng chửi Đoàn Chính Thuần là hèn hạ vô liêm sỉ hay sao?
Chung phu nhân lại cười khẩy nói:
- Mình đánh không lại họ Đoàn, cả đời chui rúc ở trong sơn cốc không dám thò đầu ra thì cũng còn được, ấy gọi là biết xấu hổ cũng đã gần được đức dũng , cũng khá gọi là làm người. Ngờ đâu lại đi dùng thủ đoạn dàn dựng con trai con gái người ta, thiên hạ anh hùng cười đâu có cười y mà sẽ cười Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu nhảy nhổm lên, giận dữ hỏi lại:
- Nàng ... nàng chửi ta là hèn hạ vô liêm sỉ chăng?
Chung phu nhân chảy nước mắt, nghẹn ngào đáp:
- Có ngờ đâu tôi lấy được ông chồng, gửi gấm chuyện trăm năm, lại là ... lại là một người như thế. Sao ... sao tôi khổ thế này?
Chung Vạn Cừu vừa thấy vợ khóc liền cuống quít chân tay nói:
- Được rồi, được rồi! Nàng muốn chửi ta thì cứ chửi cho thỏa thích.
Y đi qua đi lại trong phòng, tính nói vài câu xin lỗi vợ nhưng nhất thời không nghĩ ra cách nào, chỉ nói:
- Cái đó có phải chủ ý ta đâu! Đoàn Dự là do Nam Hải Ngạc Thần đem về, Mộc Uyển Thanh thì do Ác Quán Mãn Doanh bắt giữ, còn Âm Dương Hòa Hợp Tán cũng nào phải của ta? Ta làm gì có loại dược vật hèn hạ xấu xa đó?
Lúc này y chỉ nghĩ được chuyện đổ trách nhiệm qua người khác, Chung phu nhân cười khẩy:
- Nếu như ông biết được thế là hèn hạ xấu xa thì cũng tốt rồi. Nếu quả ông không tán thành chủ ý đó sao không thả Mộc Uyển Thanh ra đi?
Chung Vạn Cừu nói:
- Đâu có được, đâu có được. Nếu thả Mộc Uyển Thanh ra, một mình tên tiểu quỉ Đoàn Dự thì còn có làm được cái trò gì nữa?
Chung phu nhân cười gằn:
- Được rồi, ông đã hèn hạ vô liêm sỉ, tôi cũng sẽ làm trò hèn hạ vô liêm sỉ cho ông thấy.
Chung Vạn Cừu kinh hãi quá vội hỏi rối rít:
- Nàng ... nàng ... nàng làm cái trò gì thế?
Chung Vạn Cừu run run hỏi:
- Nàng ... nàng lại định cùng với Đoàn Chính Thuần ... tên ác tặc Đoàn Chính Thuần tư thông ư?
Chung phu nhân giận dữ hỏi lại:
- Cái gì mà bảo rằng lại định là sao?
Chung Vạn Cừu vội vàng cười làm lành:
- Phu nhân, nàng đừng giận. Ta nói sai, nàng trước nay đâu có ... đâu có đi lại gì với y. Nàng bảo sẽ làm điều hèn hạ vô liêm sỉ cho ta coi, chắc là ... chắc là để đùa chứ gì?
Chung phu nhân không trả lời. Chung Vạn Cừu trong lòng thảng thốt, liếc mắt nhìn thấy trong phòng chai lọ ngổn ngang liền nói:
- Ồ, Cái con bé Linh Nhi thật nghịch ngợm hết nước nói, mới tí tuổi đầu mà đã dám hỏi ta Âm Dương Hòa Hợp Tán là cái gì, không biết nó nghe được ở đâu, rồi vào đây lục lọi tùm lum.
Nói xong y tới bên giá thuốc xếp lại những bình, chân đạp lên miếng gỗ mới bị cắt đứt. Hoa Hách Cấn vội vận kình đỡ lên sợ y phát giác. Chung phu nhân nói:
- Linh Nhi đâu? Nó đi đâu rồi? Sao ông lại muốn đưa nó lên trên sảnh chào khách?
Chung Vạn Cừu cười nói:
- Chúng mình sinh được đứa con xinh đẹp như thế, sao không để cho bằng hữu được thấy qua?
Chung phu nhân đáp:
- Bộ ông muốn đem mỡ nhử mèo chăng? Tôi nhìn thấy đôi mắt hau háu của gã Vân Trung Hạc, nhìn Linh Nhi chăm chăm nhỏ nước dãi, ông phải coi chừng y đó.
Chung Vạn Cừu cười nói:
- Ta chỉ coi chừng có một mình nàng, người đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như bà, ai mà chẳng thèm nhỏ dãi?
Chung phu nhân chép miệng gọi lớn:
- Linh Nhi! Linh Nhi!
Một con a hoàn chạy lên bẩm:
- Tiểu thư vừa mới ở đây mà.
Chung phu nhân gật đầu nói:
- Ngươi đi mời tiểu thư lên, ta có chuyện cần nói.
Chung Linh ở dưới hầm tất cả những gì cha mẹ nói với nhau nghe rõ từng câu từng chữ, khổ nỗi không có cách nào lên tiếng cầu cứu, trong bụng hoảng hốt, mồm bị nhét đầy đất thật là khó chịu. Chung Vạn Cừu nói:
- Nàng nghỉ một lát, ta ra ngoài tiếp khách.
Chung phu nhân lạnh lùng hỏi lại:
- Sao ông không nghỉ để tôi ra tiếp khách?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Thôi cả hai vợ chồng cùng ra vậy.
Chung phu nhân nói:
- Thế khách muốn nhìn khuôn mặt hoa da phấn của tôi hay là muốn nhìn cái mặt ngựa của ông? Bao giờ đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy ông sẽ biết ngay nó thế nào!
Mấy hôm nay Chung Vạn Cừu thật là vô vị, dẫu nói gì ra cũng bị vợ cằn nhằn một chập, biết rằng nàng cùng Đoàn Chính Thuần hai người xa nhau lâu ngày nay gặp lại, gợi nhớ tình xưa nên trong lòng khó chịu. Trong bụng y tuy giận lắm nhưng nào có dám nói lại nửa câu, chỉ đành cười hì hì đi ra đại sảnh, vừa đi vừa nghĩ: "Không biết nàng làm cái gì mà hèn hạ vô liêm sỉ cho ta thấy đây? Nàng lại nói "đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy", như thế nghĩa là hiện giờ nàng chưa chán, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ sợ tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần ..."
1 Chim phượng làm tổ trên cây ngô đồng
2 Lời chú của Kim Dung: Mãi về sau tới đời Đoàn Trí Hưng tức Nhất Đăng đại sư vì tình thế phải chế ngự Âu Dương Phong nên mới phá lệ tổ tiên đem công phu này truyền cho Vương Trùng Dương và Ngư Tiều Canh Độc bốn đại đệ tử (xem Xạ Điêu Anh Hùng truyện)
3Hoàng Thái Đệ là người em nhưng được thừa kế ngôi vua. Trong sử quả có chép Bảo Định hoàng đế tại vị 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho em là Đoàn Chính Thuần tức là Trung Tông hoàng đế. Trung Tông làm vua 12 năm rồi cũng đi tu. Nước ta vào thời kỳ này cũng có nhiều vị hoàng đế bỏ ngôi vào chùa tu nhất là đời Trần các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều trở thànhø những cao tăng thâm hiểu Phật pháp.
4Theo quan chế ngày xưa Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã gọi là Tam Công. Tư Không coi về việc đất đai, lãnh thổ tức thượng thư Bộ Công. Tư Đồ trông coi về nhân dân, hành chánh nên còn gọi là Tướng Quốc (sau gọi là Thừa Tướng). Tư Mã coi về quân sự, binh bị sau gọi là thượng thư Bộ Binh. Ngoài ra còn một chức vụ nữa là Tư Khấu trông coi việc pháp luật (thượng thư Bộ Hình). Nếu đúng nguyên tắc thì việc công bố lệnh bãi bỏ thuế muối phải do quan Tư Đồ đảm trách mới phải.
5 Đây là cờ vây chứ không phải cờ tướng
6Bàng quan bất ngữ chân quân tử,
Tự tác chủ trương đại trượng phu.
7Giữ cho tâm thanh tịnh quên hết cả ta lẫn vật
8 tri sỉ cận hồ dũng
Phượng kia làm tổ đã lâu,
Chim loan bỗng chợt ở đâu bay vào.
*
* *
Bảo Định Đế hạ chỉ miễn thuế muối rồi, dân Đại Lý ai nấy cảm ân đức. Đất Vân Nam muối không sản xuất được nhiều, toàn cõi chỉ có các vùng Bạch Tỉnh, Hắc Tỉnh, Vân Long ... chín nơi là có muối nên năm nào cũng phải mua thêm từ đất Thục, thuế rất cao nên những người nghèo khổ các nơi biên địa xa xôi mỗi năm phải ăn nhạt vài ba tháng. Bảo Định Đế biết rằng một khi thuế muối bãi bỏ rồi, Hoàng Mi tăng sẽ tìm cách đi cứu Đoàn Dự ra để trả ơn. Ông trước nay vốn kính phục nhà sư cả về cơ trí lẫn võ công, lại biết hai đệ tử của ông võ công cũng không phải là kém, ba thầy trò một khi cùng ra tay thể nào cũng thành công.
Ông chờ một ngày một đêm vẫn không nghe tin tức gì cả, muốn sai Ba Thiên Thạch đi thám thính động tĩnh, ngờ đâu Ba Tư Không lẫn Phạm Tư Mã, Hoa Tư Đồ chẳng thấy một ai. Bảo Định Đế nghĩ thầm: "Không lẽ thái tử Diên Khánh lợi hại tới vậy sao, Hoàng Mi sư huynh cùng đệ tử ba người, luôn cả Tam Công trong triều đều bị thất hãm nơi Vạn Kiếp Cốc?". Ông lập tức cho triệu Hoàng Thái Đệ Đoàn Chính Thuần, Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái cùng bọn Chử Vạn Lý Tứ Đại Hộ Vệ, luôn cả Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng cùng trở lại Vạn Kiếp Cốc xem ra thế nào. Đao Bạch Phượng thương xót con nên xin Bảo Định Đế đem theo ngự lâm quân nhất quyết san bằng Vạn Kiếp Cốc. Bảo Định Đế đáp:
- Đến khi đối đế lắm không cách nào khác mình mới phải tính thế, còn thì cứ theo qui củ giang hồ mà hành sự. Lời dạy của tổ tiên họ Đoàn mấy trăm năm nay chúng ta không thể vi phạm được.
Đoàn người đi đến Vạn Kiếp Cốc thấy Vân Trung Hạc cười hềnh hệch chạy ra đón, vái một cái thật sâu nói:
- Chúng tôi Thiên Hạ Tứ Ác cùng Chung cốc chủ cũng đoán rằng hôm nay thể nào đại giá cũng một lần nữa quang lâm, tại hạ đã ở đây chờ từ lâu. Nếu như các hạ đem theo quân mã thiết giáp, chúng tôi đã cúp đuôi bỏ chạy, mang theo công tử và thiên kim của Trấn Nam Vương theo. Còn như theo qui củ giang hồ, dĩ võ hội hữu thì xin vào trong đại sảnh dùng trà.
Bảo Định Đế thấy đối phương cực kỳ trấn tĩnh ra vẻ không sợ hãi gì, không phải như hôm trước vừa gặp mặt đã xông ra đánh ào ào cho nên không khỏi dè dặt liền vái trả một cái nói:
- Vậy thì hay lắm.
Vân Trung Hạc đi trước dẫn đường cả đoàn người theo vào đại sảnh. Bảo Định Đế vừa bước vào cửa đã thấy bên trong ngồi đầy những giang hồ hào kiệt, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cũng có trong số đó nhưng không thấy thái tử Diên Khánh nên trong bụng cũng dè chừng. Vân Trung Hạc lớn tiếng nói:
- Thiên Nam Đoàn gia chưởng môn nhân Đoàn lão sư đến.
Y không nói "Hoàng Đế bệ hạ nước Đại Lý" mà dùng danh xưng trong võ lâm, rõ ràng muốn theo qui củ giang hồ để giải quyết. Đoàn Chính Minh không những là vua của một nước, chỉ cần nói tới danh vọng địa vị trong võ lâm cũng đã là một tông sư cao thủ ai ai cũng phải kính ngưỡng, quần hùng vừa nghe tới tên ai nấy lập tức đứng lên, chỉ có Nam Hải Ngạc Thần là vẫn nghênh ngang ngồi đó giọng chỏng lỏn:
- Ta tưởng ai hóa ra là gã hoàng đế. Ông khỏe chứ?
Chung Vạn Cừu tiến lên mấy bước nói:
- Chung Vạn Cừu không kịp ra xa nghênh tiếp xin thứ tội cho.
Bảo Định Đế đáp:
- Không dám! Không dám!
Kế đó chia ra chủ khách ngồi xuống. Vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái theo qui củ giang hồ không phải giữ lễ quân thần nên ngồi bên dưới Bảo Định Đế còn bốn người bọn Chử Vạn Lý đứng ở sau lưng nhà vua. Đầy tớ thị tì trong sơn cốc liền bưng trà lên. Bảo Định Đế không thấy Hoàng Mi tăng và bọn Ba Thiên Thạch ở trong phòng, tính toán trong bụng làm cách nào hỏi cho ra. Chung Vạn Cừu nói:
- Đoàn chưởng môn trở lại thăm lần nữa, thật là nở mày nở mặt cho tại hạ biết bao. Cũng may có đông đảo các vị bằng hữu nơi đây, để tôi giới thiệu với Đoàn chưởng môn.
Nói rồi y nói tên từng người trong đại sảnh, ngoài mấy người đến từ trung nguyên mạn tây bắc, còn lại đều là nhân vật thành danh trong nước Đại Lý, Tân Song Thanh, Tả Tử Mục, Mã Ngũ Đức cũng ở trong đó. Phần lớn những người này Bảo Định Đế chưa từng gặp qua nhưng cũng đã nghe tên. Quần hào giang hồ ai nấy đến chào Bảo Định Đế, có kẻ càng thêm khúm núm, cũng có kẻ đặc biệt ngạo mạn, có người thì lấy vai võ lâm hậu bối đến ra mắt. Chung Vạn Cừu nói:
- Chẳng mấy khi Đoàn lão sư đến chơi, nếu tiện xin ở vài ngày để cho các anh em được học hỏi.
Bảo Định Đế nói:
- Xá điệt Đoàn Dự đắc tội với Chung cốc chủ bị bắt đến quí xứ, tại hạ hôm nay đến trước là cầu tình, sau là xin lỗi, mong Chung cốc chủ nể chút bạc diện này tha cho đứa trẻ con không biết phải quấy, tại hạ cảm kích khôn cùng.
Quần hào nghe nói thế ai nấy đều ngầm bội phục: "Từng nghe Đoàn hoàng gia nước Đại Lý lấy qui củ võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất hư truyền. Nơi đây thuộc lãnh thổ nước Đại Lý ông ta chỉ cần sai vài trăm binh mã đến là bắt người được ngay, vậy mà tự mình đích thân đến lấy lời dịu ngọt cầu khẩn".
Chung Vạn Cừu cười ha hả, chưa kịp trả lời, Mã Ngũ Đức đã xen vào:
- Thì ra Đoàn công tử đắc tội với Chung cốc chủ. Mới rồi Đoàn công tử đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, cùng huynh đệ đến núi Vô Lượng du ngoạn, tại hạ săn sóc không chu đáo, để sinh ra bao nhiêu rắc rối, bây giờ cũng mở lời xin một chút tình.
Nam Hải Ngạc Thần đột nhiên lớn tiếng quát tháo:
- Chuyện của học trò ta, ai cho ngươi dám lèm bèm đâm thọc vào?
Cao Thăng Thái lạnh lùng nói:
- Đoàn công tử là sư phụ ngươi, ngươi đã khấu đầu bái sư rồi không lẽ lại định sổ toẹt đi hay sao?
Nam Hải Ngạc Thần mặt đỏ gay, chửi lại:
- Con bà ngươi chứ, ông đâu có đánh rắm cãi xóa. Lão tử hôm nay giết quách tên sư phụ hữu danh vô thực đó đi, sơ ý bái y làm thầy thật nhục muốn chết được.
Mọi người chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, ai nấy thật ngạc nhiên. Đao Bạch Phượng nói:
- Chung cốc chủ, thả hay không, xin ông nói thẳng một lời.
Chung Vạn Cừu cười đáp:
- Thả chứ! Thả chứ! Dĩ nhiên là thả, tại hạ giữ lệnh lang để làm gì?
Vân Trung Hạc xen vào:
- Đoàn công tử phong lưu anh tuấn, Chung phu nhân Tiếu Dược Xoa lại là tuyệt sắc giai nhân, để Đoàn công tử ở trong cốc có khác gì rước sói vào nhà, dưỡng hổ di hoạn hay sao? Chung cốc chủ dĩ nhiên muốn thả, không thể không thả, không dám không thả.
Quần hào nghe nói thế ai nấy kinh ngạc, vẫn biết tên Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc này ăn nói chẳng giữ lời, ngờ đâu chẳng coi Chung Vạn Cừu ra cái thá gì, quả thực đúng là hung ác không để đâu cho hết. Chung Vạn Cừu giận quá, quay sang nói:
- Vân huynh, chuyện hôm nay xong rồi, tại hạ mong được lãnh giáo cao chiêu của các hạ.
Vân Trung Hạc đáp:
- Hay lắm, hay lắm! Ta vốn có ý giết thằng chồng đoạt cô vợ, vơ vét tiền của chiếm luôn sơn cốc này.
Quần hào ai nấy thất sắc, động chủ Vô Lượng Động Tân Song Thanh nói:
- Anh hùng hảo hán trên giang hồ đã chết sạch đâu, các ngươi Thiên Hạ Tứ Ác dẫu có cao cường nhưng cũng không thể chạy thoát công đạo được.
Diệp Nhị Nương giọng ỏn thót nói:
- Tân đạo hữu, Diệp Nhị Nương này có mạo phạm đến bà đâu, sao lại lôi cả ta vào là thế nào?
Tả Tử Mục nghĩ lại chuyện mụ ta bắt cóc đứa con trai mình, trong bụng vẫn còn thấp thỏm, chỉ dám len lén liếc mụ một cái. Diệp Nhị Nương cười khúc khích nói:
- Tả tiên sinh, tiểu công tử chắc độ này béo tốt trắng trẻo lắm đấy nhỉ?
Tả Tử Mục không dám không trả lời, nói nhỏ:
- Lần trước cháu nó bị cảm lạnh, đến nay bệnh vẫn chưa hết.
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Chết chửa, cũng tại ta mà ra. Vậy để ta đến thăm cục cưng Sơn Sơn nhé.
Tả Tử Mục kinh hãi vội đáp:
- Không dám phiền đến đại giá.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: "Tứ Ác chuyên làm điều càn rỡ độc ác, kết oán thật nhiều. Xem ra những hào sĩ giang hồ này không phải ai cũng về phe với họ, như thế công việc càng dễ giải quyết. Để khi cứu được Dự nhi rồi, ta nhân cơ hội trừ khử chúng đi. Thái tử Diên Khánh đứng đầu Tứ Ác tuy trong họ Đoàn thật, ta không tiện ra tay hạ thủ nhưng rồi cũng có ngày tức nước vỡ bờ".
Đao Bạch Phượng thấy mọi người nói năng lung tung, lạc hẳn chuyện chính lập tức đứng lên nói:
- Chung cốc chủ nếu đã bằng lòng trả tiểu nhi lại cho chúng tôi vậy xin gọi y ra đây cho mẹ con được gặp nhau.
Chung Vạn Cừu cũng đứng lên nói:
- Vâng!
Đột nhiên y quay sang hầm hầm nhìn Đoàn Chính Thuần, cay đắng nói:
- Đoàn Chính Thuần, ngươi đã có vợ đẹp con khôn như thế sao còn tham lam chưa vừa lòng? Hôm nay ngươi thanh danh tảo địa, không còn mặt mũi nào nữa, cũng là mình làm mình chịu đừng trách Chung Vạn Cừu này.
Đoàn Chính Thuần thấy Chung Vạn Cừu bằng lòng giao trả con mình, liệu rằng sự việc không phải dễ dàng đến thế, đối phương thể nào cũng có sắp đặt âm mưu ngụy kế gì, bây giờ nghe y nói vậy lập tức đứng lên nói:
- Chung cốc chủ, nếu ngươi tính chuyện hại người, Đoàn Chính Thuần này sẽ có cách làm cho ngươi một đời ôm hận.
Chung Vạn Cừu thấy ông tướng mạo đường đường, uy phong lẫm liệt, khí độ sang trọng cao quí, mình không thể nào sánh kịp, phần thì thẹn vì mình hình dáng xấu xí, phần thì lửa ghen bốc lên nên lớn tiếng nói:
- Sự đã đến nước này, Chung Vạn Cừu dẫu có gia táng nhân vong, thịt nát xương tan thì cũng theo tới cùng. Nếu ngươi muốn đòi con thì đi theo ta.
Nói xong hung hăng đi ra khỏi sảnh. Cả đoàn người đi theo Chung Vạn Cừu đến trước bức tường cây, Vân Trung Hạc muốn khoe tài khinh công nhảy vọt qua trước. Đoàn Chính Thuần nghĩ chuyện hôm nay không thể nào giải quyết êm thắm, chi bằng lập uy trước để cho đối phương thấy khó mà chùn lại liền nói:
- Đốc Thành, chặt vài cái cây để bọn mình đi qua.
Cổ Đốc Thành đáp lời vung búa lên, chát chát chát mấy nhát đã đốn đứt một cây đại thụ. Phó Tư Qui hay tay đẩy ra, cái cây gãy lách cách đổ xuống một bên. Cương phủ lấp loáng vung lên liên tiếp, thanh âm bất tuyệt hết cây nọ đến cây kia ngã chỉ giây lát đã chặt đứt năm cây.
Bức tường cây này Chung Vạn Cừu trồng tỉa tốn biết bao công lao tâm huyết, bị Cổ Đốc Thành chặt đứt mất năm cây to, trong bụng tức lắm nhưng chợt nghĩ ngay: "Họ Đoàn Đại Lý hôm nay thật là ê chề, chuyện nhỏ nhặt này việc gì mình phải đôi co làm chi?". Nghĩ vậy y liền theo chỗ cây hổng đi qua. Sau bức tường cây kia, Hoàng Mi tăng và người áo xanh tay bên trái đẩy vào một cây gậy sắt, trên đầu hơi trắng bốc lên chính là đang tỉ đấu nội lực. Hoàng Mi tăng đột nhiên cầm cái dùi sắt vẽ một cái vòng trên phiến đá xanh. Người áo xanh suy nghĩ một chút, thiết trượng nơi tay phải cũng điểm xuống bàn cờ. Bảo Định Đế chăm chú nhìn bấy giờ mới rõ: "Thì ra Hoàng Mi sư huynh một mặt đánh cờ với thái tử Diên Khánh, một mặt cùng y tỉ thí nội công, cả đấu trí lẫn đấu lực, lối đánh phân chia hai bên thế này cực kỳ nguy hiểm. Thảo nào ông ta không hồi âm cho mình, xem ra cuộc đấu này đã một ngày một đêm rồi nhưng chưa phân thắng bại".
Ông liếc qua thấy hai bên đang đi vào thế cờ tàn, ai thắng ai bại toàn ở lúc tranh đoạt này, có điều Hoàng Mi tăng đang rơi vào thế yếu cốt chỉ mong khỏi thua. Hai người đệ tử của ông là Phá Si, Phá Sân thì nằm lăn trên mặt đất không động đậy gì được. Thì ra hai nhà sư thấy sư phụ bị nguy, ra tay tấn công người áo xanh nhưng đều bị thiết trượng của y điểm trúng.
Đoàn Chính Thuần tiến lên giải huyệt cho hai người, quát lớn:
- Vạn Lý, các ngươi ra đẩy tảng đả kia thả Dự nhi ra nào!
Bốn người bọn Chử Vạn Lý cùng lên tiếng đáp lời, dàn hàng tiến lên. Chung Vạn Cừu gọi giật lại:
- Khoan đã, các ngươi có biết trong thạch thất kia có những ai không?
Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp:
- Chung cốc chủ, nếu như ngươi dùng thủ đoạn tàn độc đối xử với con ta, thì phải biết ngươi cũng có vợ con chứ?
Chung Vạn Cừu cười khẩy:
- Ha ha, đúng rồi, Chung Vạn Cừu này có vợ có con cũng may không có con trai nên con trai ta không thể loạn luân với con gái ta như loài cầm thú được.
Đoàn Chính Thuần tím mặt lại quát lớn:
- Ngươi nói năng bậy bạ gì đó?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Mộc Uyển Thanh là con tư sinh của ngươi có phải không nào?
Đoàn Chính Thuần bực tức nói:
- Thân thế của Mộc cô nương có liên quan gì đến ngươi mà ngươi lắm chuyện?
Chung Vạn Cừu cười đáp:
- Ha ha! Cái đó chưa chắc đã là lắm chuyện đâu. Họ Đoàn Đại Lý, chúa tể trời nam, làm vua một cõi, trong võ lâm cũng danh tiếng lẫy lừng. Này các vị anh hùng hảo hán, tất cả mở mắt ra mà coi, con ruột của Đoàn Chính Thuần loạn luân với nhau ở chỗ này, thành vợ thành chồng chẳng khác gì cầm thú.
Y quay sang ra hiệu cho Nam Hải Ngạc Thần, hai người liền đưa tay đẩy tảng đá chắn trước cửa thạch thất. Đoàn Chính Thuần vội giơ tay chặn lại:
- Khoan đã!
Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đồng thời xuất chưởng, chia ra hai bên tập kích. Đoàn Chính Thuần giơ chưởng lên đỡ, Cao Thăng Thái nghiêng người tiến lên gạt chưởng của Vân Trung Hạc ra ngoài. Ngờ đâu Diệp Vân hai người chỉ dùng hư chiêu, tay phải rút ngay về đánh tay trái ra trúng ngay tảng đá. Tảng đá đó tuy nặng đến mấy nghìn cân nhưng cả bốn người Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cùng hợp lực lập tức lăn qua một bên. Việc này bốn người đã hẹn trước với nhau, hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần không cách nào có thể ngăn trở được.
Thực ra thì Đoàn Chính Thuần cũng muốn sớm gặp lại con nên không hết sức ra tay cản lại. Chỉ thấy tảng đá lăn qua rồi để lộ một cái cửa, nhìn vào chỉ thấy tối om om, không biết bên trong có những gì.
Chung Vạn Cừu cười nói:
- Cô nam quả nữ cởi trần cởi truồng ở trong một căn phòng tối tăm thế này, làm gì còn trong trắng cho nổi? Ha ha, ha ha! Mọi người xem đây!
Trong khi Chung Vạn Cừu còn đang cười sằng sặc thì một thanh niên đầu tóc bù xù, thân trên cởi trần chạy ra chính là Đoàn Dự. Chàng chỉ mặc một cái quần cộc, lộ cả hai đùi, tay bồng một cô gái, người con gái nép vào người chàng, trên người cũng chỉ mặc một chiếc áo cánh, hở cả tay cả đùi lẫn làn da trắng nõn sau lưng.
Bảo Định Đế mặt đỏ như gấc chín, thẹn không để đâu cho hết. Đoàn Chính Thuần cúi đầu không dám ngẩng lên còn Đao Bạch Phượng hai mắt nhòa lệ, lẩm bẩm:
- Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Cao Thăng Thái vội cởi trường bào định choàng lên người Đoàn Dự còn Mã Ngũ Đức muốn lấy lòng anh em họ Đoàn vội vàng tiến lên lấy thân che cho chàng. Nam Hải Ngạc Thần quát lớn:
- Thằng khốn kiếp kia, cút ra mau.
Chung Vạn Cừu cười ha hả cực kỳ đắc ý, đột nhiên tiếng cười tắt lịm, ngưng bặt rồi chuyển thành tiếng kêu thất thanh:
- Linh nhi, ngươi đấy ư?
Quần hào nghe tiếng kêu của y, ai nấy rùng mình, chỉ thấy Chung Vạn Cừu chen ngay lên trước mặt Đoàn Dự, giơ tay đoạt lấy cô gái chàng đang bồng trên tay. Bấy giờ ai nấy đều nhìn rõ mặt cô gái đó rồi, thấy nàng trẻ hơn Mộc Uyển Thanh, thân hình cũng nhỏ nhắn hơn, mặt chưa hết vẻ ngây thơ, nào có phải Mộc Uyển Thanh mà là Chung Linh, con gái của Chung Vạn Cừu.
Đoàn Dự mơ mơ màng màng nhìn thấy chung quanh đầy người, nhận ra bá phụ và cha mẹ mình trong đó, vội vàng đưa Chung Linh cho Chung Vạn Cừu ôm, kêu lên:
- Mẹ, bá phụ, cha!
Đao Bạch Phượng nhào lên ôm chàng vào lòng hỏi dồn:
- Dự nhi, con ... con có sao không?
Đoàn Dự chân tay cuống quít đáp:
- Con ... con cũng không biết nữa!
Chung Vạn Cừu có ngờ đâu hại người lại hại chính mình, người con gái Đoàn Dự ôm từ trong thạch thất ra lại là con gái của y. Y ngơ ngẩn một hồi, bỏ con xuống. Chung Linh lúc này chỉ mặt một chiếc áo cánh và một chiếc quần lót bỗng thấy chung quanh đông người như thế, mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi ngay trường bào ra chùm lên người cô ta, thẳng tay tát một cái khiến cô bé má sưng vù lên, chửi con:
- Đồ mặt dầy! Ai cho mày ở một chỗ với thằng tiểu súc sinh kia?
Chung Linh bị oan tầy liếp, khóc òa lên nhưng không biết cách nào biện bạch. Chung Vạn Cừu vội nghĩ ra: "Mộc Uyển Thanh rõ ràng bị nhốt trong thạch thất, nàng ta đâu có thể nào đẩy nổi tảng đá ắt là vẫn còn ở trong này, mình gọi cô ta ra chia bớt cái nhục cho Linh nhi". Y liền lớn tiếng gọi:
- Mộc cô nương, mau ra đây!
Y liên tiếp gọi mấy lần, trong thạch thất không nghe tiếng gì cả. Chung Vạn Cừu xông vào, căn phòng chỉ độ vuông vức một trượng, nhìn chung quanh nào có thấy một ai. Chung Vạn Cừu tức đến vỡ lồng ngực, quay mình đi ra lại vung tay đánh con quát lớn:
- Ta phải đánh chết con nhãi thối này!
Từ bên cạnh một người vung tay ra, ngón tay vô danh và ngón tay út phất vào cổ tay y. Chung Vạn Cừu vội vàng rụt tay về tránh, thấy người ngăn mình lại chính là Đoàn Chính Thuần nên nổi cáu:
- Ta dạy con ta, có liên can gì đến mi?
Đoàn Chính Thuần cười hì hì đáp:
- Chung cốc chủ quả thật ưu đãi con tôi quá, sợ y ở một mình không ai bầu bạn nên sai lệnh ái thiên kim đến tiếp, tại hạ cảm kích xiết bao. Nếu đã như thế lệnh ái nay đã thành người của họ Đoàn rồi, tại hạ đâu thể không can thiệp.
Chung Vạn Cừu nổi giận đáp:
- Cái gì mà bảo là người họ Đoàn?
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Lệnh ái ở trong thạch thất với tiểu nhi cũng đã lâu. Cô nam quả nữ cởi trần cởi truồng ở trong một căn phòng tối tăm thế này, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là thế tử Trấn Nam Vương tuy chưa chắc đã lấy con gái ngươi làm chính phi được, nhưng năm thê bảy thiếp có gì mà chẳng xong? Ta với ông thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì? Ha ha! Ha ha! Ha ha ha!
Chung Vạn Cừu nổi cơn cuồng nộ nhịn không nổi liền xông tới vù vù đánh ra liên tiếp ba chưởng. Đoàn Chính Thuần vẫn cười sằng sặc nhưng chiêu nào cũng hóa giải được. Quần hào ai nấy nghĩ thầm: "Họ Đoàn Đại Lý quả nhiên lợi hại thật, không biết họ dùng cách nào mà đem được con gái Chung cốc chủ nhốt chung ở trong thạch thất. Chung Vạn Cừu ở trong nước Đại Lý đâu có dễ gì mà gây sự với Đoàn gia, chỉ thêm khốn khổ".
Thì ra việc này chính là bọn ba người Hoa Hách Cấn làm. Hoa Hách Cấn bắt được Chung Linh đem xuống hầm rồi, vốn cũng chỉ để cô ta khỏi tiết lộ bí mật địa đạo, về sau nghe vợ chồng Chung Vạn Cừu đối đáp, mới hay Chung Vạn Cừu và thái tử Diên Khánh sắp đặt mưu kế ác độc cốt làm bại hoại thanh danh họ Đoàn. Ba người ở dưới hầm khẽ thương nghị thấy chuyện này liên quan trọng đại thật là khẩn cấp. Đợi cho Chung phu nhân đi khỏi rồi, Ba Thiên Thạch liền lẻn ra ngoài thi triển khinh công, đo đạc kỹ càng phương hướng cùng khoảng cách tới thạch thất để Hoa Hách Cấn đào hầm một lần nữa. Cả bọn ra sức đào thêm một đêm, đến sáng hôm sau mới đến bên dưới căn nhà đá.
Hoa Hách Cấn đào lên căn phòng thấy Đoàn Dự đang lòng vòng chạy lồng lên như người điên nên đưa tay ra tính giữ lại. Ngờ đâu thân pháp Đoàn Dự vừa nhanh nhẹn vừa quái dị, không làm sao bắt được. Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa cùng chui ra hợp lực vây quanh dồn chàng vào giữa. Thạch thất quá nhỏ, Đoàn Dự không còn cách nào chạy trốn, Hoa Hách Cấn vừa nắm được cổ tay chàng bỗng thấy rùng mình một cái chẳng khác gì chạm vào một khối than đỏ vội vàng hết sức giữ lại cố kéo chàng xuống hầm chạy cho nhanh. Ngờ đâu y vừa sử kình, chân khí trong người lập tức cuồn cuộn tuôn ra, nhịn không nổi phải kêu "Ối chao" một tiếng. Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa nắm tay Hoa Hách Cấn lôi ra, ba người cùng kéo mới thoát ra khỏi sức hút của Bắc Minh thần công. Công lực của Tam Công nước Đại Lý so với mấy đệ tử phái Vô Lượng cao hơn nhiều, lại phản ứng rất nhanh, ứng biến thần tốc nhưng cả ba cũng sợ đến toát mồ hôi lạnh, trong bụng nghĩ thầm: "Tà pháp của thái tử Diên Khánh ghê gớm thật". Họ không còn dám đụng đến người Đoàn Dự nữa.
Đang lúc chưa biết tính sao bên ngoài có tiếng người xôn xao, nghe thấy tiếng Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương cùng mọi người, xen tiếng của Chung Vạn Cừu đang huênh hoang. Phạm Hoa chợt nghĩ ngay ra: "Gã Chung Vạn Cừu này thật là khả ố, mình phải cho y một trận mới được".
Nghĩ rồi liền cởi áo ngoài của Chung Linh cho Mộc Uyển Thanh mặc vào rồi ôm Chung Linh giao cho Đoàn Dự thần trí nửa tỉnh nửa mê liền đón lấy, bọn Hoa Hách Cấn liền kéo Mộc Uyển Thanh chui vào hang, đóng nắp lại không còn chút dấu vết nào mà kiếm cho ra.
Bảo Định Đế đâu ngờ việc lại xảy ra như thế, thấy cháu mình không việc gì nên cũng khoan tâm lại thêm tức cười, nhất thời không sao nghĩ ra đầu đuôi câu chuyện, nhớ tới Hoàng Mi tăng và thái tử Diên Khánh đang đấu nội lực, đến lúc nghìn cân treo trên sợi tóc, chỉ sơ sẩy một chút là nguy đến tính mạng nên quay lại xem hai người ra sao. Chỉ thấy nhà sư trên trán mồ hôi thành từng hạt như hạt đậu, rơi tong tỏng xuống bàn cờ, còn thái tử Diên Khánh thần sắc vẫn như thường, tưởng chừng không có việc gì cả hiển nhiên ai thắng ai thua đã rõ ràng.
Đoàn Dự thần trí vừa tỉnh táo trở lại liền quan tâm ngay đến bàn cờ ai hơn ai thua, đi đến bên cạnh hai người, ngồi xem kỳ cục, thấy Hoàng Mi tăng nước đi đã lâm vào thế bí, thái tử Diên Khánh đặt thêm một quân lập tức nhà sư không còn nước nào mà đi nữa, chỉ còn nước chịu thua. Thái tử Diên Khánh giơ đầu gậy sắt ra toan điểm xuống bàn cờ nước cuối cùng, nơi đầu gậy chỉ vào chính là quan yếu kết thúc trận đấu, Hoàng Mi tăng không còn cách nào gỡ được. Đoàn Dự hốt hoảng nghĩ thầm: "Mình phải phá rối y mới được", chàng bèn giơ tay chộp lấy đầu cây gậy.
Gậy của thái tử Diên Khánh đang định để vào Thượng Vị ở điểm tam thất, bỗng thấy bàn tay giật một cái, cánh tay đang vận sức thế như cung căng hết giây, chân lực bỗng nhiên tuôn ra cuồn cuộn. Y kinh hãi không sao kể xiết, liếc mắt ngó qua, thấy hai ngón tay tro và ngón tay cái của Đoàn Dự đang cầm vào đầu gậy. Đoàn Dự chỉ muốn đẩy đầu gậy qua một bên không để cho y đặt quân xuống nước kết thúc nhưng thiết trượng tưởng chừng như đóng chặt trên không trung, không lay chuyển chút nào. Chàng sử kình đẩy mạnh qua, nội lực của thái tử Diên Khánh theo huyệt Thiếu Thương của chàng tuôn vào cơ thể.
Thái tử Diên Khánh còn đang kinh ngạc, trong bụng nghĩ thầm: "Đây là Hóa Công đại pháp của Đinh lão quái Tinh Tú Hải". Y bèn vận khí xuống đan điền đưa kình lên khắp cánh tay, thiết trượng lập tức có một luồng lực đạo mạnh kinh hồn, rung mạnh một cái, hất văng bàn tay của Đoàn Dự ra ngoài.
Đoàn Dự thấy nửa người ê ẩm dường như muốn ngất đi, thân hình lảo đảo mấy cái, đưa tay chống xuống tảng đá xanh mới gượng lại được. Thế nhưng luồng nội kình hồn hậu của thái tử Diên Khánh phát ra có đến gần một nửa như hòn đá rơi vào bể cả, không biết mất tăm mất tích nơi đâu. Y trong bụng kinh hãi không để đâu cho hết, thiết trượng lao xuống điểm đúng ngay Thượng Vị ở điểm thất bát. Chỉ vì Đoàn Dự ra tay ngăn trở, nội lực của y không còn thu phát được như ý muốn nên khi chọc xuống vẫn còn dư kình tống một cái mạnh. Thái tử Đại Lý kêu thầm: "Hỏng rồi!" vội nhắc gậy lên nhưng ngay chỗ giao điểm hai đường thất bát đã có một cái lỗ nhỏ.
Phàm cao thủ đánh cờ ai cũng theo luật "hạ cờ rồi không gượng lại", huống chi đã khắc đá làm bàn cờ, đục đá làm quân, nội lực đến đâu đá nát tới đó làm sao có thể bỏ đi không tính? Thế nhưng Thượng Vị ở điểm bảy tám theo phép đánh cờ là che một mắt mình lại, ai biết đánh cờ cũng hiểu "hai mắt là sống, một mắt là chết". Bàn cờ này thái tử Diên Khánh đang ở thế "hai mắt" là thế để tấn công Hoàng Mi tăng, lẽ nào lại tự chọc mù một mắt mình? Thành thử đi nước này thật không hợp phép đánh cờ có khác gì kẻ mới tập đánh?
Thái tử Diên Khánh kêu thầm: "Cờ đi nhầm một nước là thua cả bàn, phải chăng đây cũng là ý trời mà ra?". Y là người thân phận tiếng tăm không thể nào tranh chấp với Hoàng Mi tăng thêm nữa, lập tức đứng phắt dậy, hai tay chống xuống phiến đá chăm chăm nhìn một hồi lâu. Đa số quần hào chưa từng gặp y thấy thần tình kỳ quái đều chú mục nhìn vào. Chỉ thấy y nhìn một lát đột nhiên không nói lời nào cầm thiết trượng điểm xuống đất, chẳng khác gì người đi cà khêu, bước đi thật dài bỏ đi mất.
Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, phiến đá xanh rung động lắc lư vỡ ra thành bảy tám mảnh nằm ngổn ngang, bàn cờ chấn động cổ kim kia không còn ở trên đời này nữa. Quần hào kinh hoảng kêu lên, nhìn nhau thất sắc, ngoại trừ Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng và tam đại ác nhân ra, ai nấy nghĩ thầm: "Gã áo xanh người không ra người, quỉ không ra quỉ, sống dở chết dở này võ công sao ghê gớm đến thế".
Hoàng Mi tăng may mà thắng được ván cờ, hai tay ôm gối, ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ lại tình trạng đầy gian hiểm vừa qua, trong lòng khó mà có thể trấn tĩnh, không hiểu vì sao thái tử Diên Khánh đang thắng rõ ràng lại để một quân cờ bịt mắt mình lại. Không lẽ y thấy Đoàn Chính Minh và các cao thủ đến nên sợ bị vây đánh đành phải chịu thua đào tẩu? Thế nhưng người phe y cũng đâu phải ít đánh chưa chắc đã thua.
Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái cả bọn không hiểu ra sao, thế nhưng cứu được Đoàn Dự rồi, thanh danh họ Đoàn cũng không tổn hại, thái tử Diên Khánh đánh cờ thua bỏ đi, chuyến này coi như toàn thắng, những chuyện không hiểu rõ cũng chẳng cần tra cứu làm gì. Đoàn Chính Thuần nhìn Chung Vạn Cừu cười:
- Chung cốc chủ, lệnh ái đã thành cơ thiếp của tiểu nhi rồi, nay mai sẽ sai người đến đón dâu. Ngu phu phụ thể nào cũng đối đãi tử tế coi như con ruột, cốc chủ cứ yên tâm.
Chung Vạn Cừu đang cơn tức chưa biết đổ đi đâu, nghe Đoàn Chính Thuần châm chọc, soẹt một tiếng, rút ngay thanh đao đeo bên người, chém thẳng xuống đầu Chung Linh, quát lên:
- Tức muốn chết được, ta giết con tiện nhân này rồi tính sau.
Bỗng một người cao nghệu nhảy vụt tới, nhanh nhẹn dị thường bồng ngay Chung Linh như một làn gió chạy vụt đi, phút chốc đã ra ngoài mấy trượng. Bụp một tiếng đao của Chung Vạn Cừu bổ ngay xuống đất, thấy kẻ ôm Chung Linh chạy đi chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc bèn gầm thét:
- Ngươi ... ngươi làm trò gì đó?
Vân Trung Hạc cười đáp:
- Con gái ngươi ngươi không muốn giữ nữa, muốn chém nó chết thì để tặng cho ta.
Vừa nói y vừa chạy vọt xa thêm mấy trượng. Y biết rằng Bảo Định Đế và Hoàng Mi tăng võ công cao hơn mình nhiều, Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái cũng là những tay đáng kể nên đã tính đường ôm được Chung Linh là chạy luôn, thấy Ba Thiên Thạch không có ở nơi đây, mình chỉ cần thi triển khinh công trong đám này không ai đuổi kịp.
Chung Vạn Cừu biết y khinh công rất cao cường, chỉ đành nhảy đong đỏng, ngoạc mồm chửi bới. Cả bọn Bảo Định Đế hôm trước thấy y cùng Ba Thiên Thạch hai người chạy vòng quanh nhà, bây giờ thấy y ôm thêm Chung Linh nhưng nhún nhẩy vẫn nhanh như thường, biết rằng không thể nào làm gì y được. Đoàn Dự chợt động tâm kêu lên:
- Nhạc lão tam, sư phụ ra lệnh cho ngươi mau đoạt tiểu cô nương kia về.
Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, gắt lên:
- Con mẹ ngươi chứ, nói cái gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi bái ta làm thầy, đã khấu đầu rồi định nuốt lời chăng? Lời ngươi là hơi rắm chăng? Ngươi muốn thành đồ khốn kiếp đê tiện chăng?
Nam Hải Ngạc Thần trợn mắt quát lớn:
- Ta nói ra là phải giữ lời, ngươi là sư phụ ta thì đã sao? Ông mà nổi nóng, đến sư phụ cũng chém một đao chết tươi bây giờ.
Đoàn Dự nói:
- Ngươi nhận thế cũng hay. Tiểu cô nương họ Chung kia là vợ ta, tức là sư nương của ngươi, mau mau đoạt lại đem về cho ta. Nếu Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư nương ngươi thì thật đê hèn quá lắm, không còn anh hùng hảo hán chút nào.
Nam Hải Ngạc Thần ngẫm nghĩ thấy lời nói đó quả có lý, bỗng nghĩ ra Mộc Uyển Thanh là vợ của y rồi, sao Chung cô nương này cũng là vợ nữa, bèn hỏi:
- Thế thì ta có cả thảy bao nhiêu sư nương?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi chớ có hỏi lôi thôi, nói trắng ra nếu ngươi không đoạt về được, ngươi sẽ bị giáng xuống làm đệ ngũ ác nhân, không chừng là đệ lục ác nhân.
Nếu tên của Nam Hải Ngạc Thần bị đặt dưới Vân Trung Hạc thì thà giết y đi còn hơn, y rống lên một tiếng, co giò chạy đuổi theo Vân Trung Hạc, kêu lên:
- Mau bỏ sư nương ta xuống.
Vân Trung Hạc chạy vọt lên trước, kêu lên:
- Nhạc lão tam thật là đồ ngốc, ngươi bị mắc hỡm người ta rồi.
Nam Hải Ngạc Thần là kẻ ưa nịnh nay trước mặt mọi người mà Vân Trung Hạc lại bảo y là đồ ngốc bị mắc hỡm người ta nên lập tức nổi cơn thịnh nộ xung thiên, gào lên:
- Nhạc lão nhị này mắc hỡm ai bao giờ?
Y lập tức đề khí rượt theo, hai người kẻ trước kẻ sau chỉ giây lát đã khuất sau một triền núi. Chung Vạn Cừu nổi giận vung đao chém con bây giờ thấy nàng bị ác đồ bắt đi mất, dẫu sao cũng cha con nghĩa nặng, lại nghĩ nếu như vợ hỏi biết trả lời sao cho xuôi, trong bụng hốt hoảng cũng xách đao đuổi theo.
Kế đến Bảo Định Đế cũng cùng quần hào chia tay, cả đoàn người rời Vạn Kiếp Cốc quay về phủ Trấn Nam Vương thành Đại Lý. Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch từ trong phủ đi ra nghênh tiếp, bên cạnh là một thiếu nữ ăn mặc sang trọng mặt mày xinh xắn chính là Mộc Uyển Thanh.
Phạm Hoa bẩm lại sơ qua cho Bảo Định Đế việc Hoa Hách Cấn đào địa đạo đem Chung Linh bỏ vào thạch thất, cứu được Mộc Uyển Thanh ra sao, mọi người mới hay Chung Vạn Cừu hại người không xong quay lại tự hại mình là do như thế, ai nấy cười ha hả.
Âm Dương Hòa Hợp Tán kia tuy dược tính mãnh liệt thật nhưng không phải là thuốc độc, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh chỉ cần uống vài viên thuốc giải nhiệt, uống mấy bát nước lã là tiêu giải ngay.
Tới trưa vương phủ thiết yến, mọi người cao hứng nói chuyện ở Vạn Kiếp Cốc, ai nấy đều đồng ý chuyến này Hoàng Mi tăng và Hoa Hách Cấn hai người công lao to hơn cả, nếu như không có Hoàng Mi tăng cầm chân được Đoàn Diên Khánh thì việc đào hầm thể nào cũng bị y phát giác.
Đao Bạch Phượng đột nhiên nói:
- Hoa đại ca, tôi còm muốn đại ca cất công thêm một phen nữa.
Hoa Hách Cấn đáp:
- Vương phi sai bảo gì chúng tôi xin tuân lệnh.
Đao Bạch Phượng đáp:
- Xin đại ca sai người đi lấp cái đường hầm đó lại.
Hoa Hách Cấn ngạc nhiên không hiểu nguyên do ra sao nhưng cũng đáp:
- Vâng!
Đao Bạch Phượng lườm Đoàn Chính Thuần nói:
- Cái hầm đó thông vào cư thất của Chung phu nhân, nếu không lấp đi trong đám mình ắt có một vị nhân huynh tối nào cũng theo đó mà lẻn vào.
Mọi người cười ha hả. Mộc Uyển Thanh thì cứ chốc chốc lại nhìn trộm Đoàn Dự một cái, mỗi khi bốn mắt chạm nhau, hai người đều quay đi. Nàng biết rằng kiếp này không còn cách gì có thể cùng chàng nên duyên chồng vợ, nghĩ lại mấy ngày qua hai người cùng nhau ở trong thạch thất không khỏi đau lòng. Mọi người bàn tiếp chuyện Chung Linh sẽ thành cơ thiếp của Đoàn Dự, tuy nàng bị Vân Trung Hạc bắt đi nhưng Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu hai người liên thủ thể nào cũng cứu nàng về được. Bảo Định Đế cũng dặn Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người ăn trưa xong sẽ đi thám thính tin tức Chung Linh tìm cách bảo vệ. Mộc Uyển Thanh càng nghe càng căm tức từ trong bọc lấy ra chiếc hộp vàng nhỏ, chính là tín vật mà hôm trước Chung phu nhân giao cho Đoàn Dự yêu cầu về nhờ phụ thân đi cứu Chung Linh để trước mặt Đoàn Chính Thuần nói:
- Cam Bảo Bảo đưa cho ông vật này!
Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại:
- Cái gì thế?
Mộc Uyển Thanh hậm hực đáp:
- Đó là ngày sinh tháng đẻ của con nhãi Chung Linh.
Nói rồi chỉ vào Đoàn Dự:
- Cam Bảo Bảo nhờ anh ấy đưa lại cho ông.
Đoàn Chính Thuần cầm cái hộp, trong lòng chua xót, đã sớm nhận ra đây chính là cái hộp ông đã tặng cho Cam Bảo Bảo đêm hôm hai người gặp gỡ. Ông mở hộp ra thấy bên trong là một mảnh giấy nhỏ màu hồng, trên viết một hàng chữ nhỏ: "Giờ Sửu, ngày mồng năm, tháng Chạp năm Ất Mùi", nét nghiêng nghiêng ngả ngả chính là thủ bút của Cam Bảo Bảo.
Đao Bạch Phượng lạnh lùng nói:
- Thế thì tốt quá rồi, người ta đã gửi sinh thần bát tự đến rồi đó.
Đoàn Chính Thuần lật tờ giấy lại thấy phía sau viết mấy hàng chữ thật nhỏ: "Đau lòng mỏi mòn chờ đợi, bao nhiêu mơ ước tan ra mây khói. Ngặt vì con không lẽ không cha, mười sáu năm xưa ngày đêm khắc khoải mong chàng, việc chẳng đặng đừng, đến tháng năm năm Ất Mùi về nhà họ Chung". Nét chữ mảnh mai nếu không ghé mắt nhìn kỹ dường như không nhìn ra được. Đoàn Chính Thuần nghĩ đến mối thâm tình của Cam Bảo Bảo đôi mắt không khỏi đỏ hoe, đột nhiên chợt nghĩ ra ngay hàm nghĩa của những hàng chữ này:
Bảo Bảo tháng năm năm Ất Mùi lấy chồng, vậy mà Chung Linh ngày mồng năm tháng mười hai năm đó đã sinh, hẳn không phải con của Chung Vạn Cừu. Bảo Bảo mòn mỏi trông chờ nhưng ta không đến nói là "con không lẽ không cha", lại thêm "việc chẳng đặng đừng" nên mới phải xuất giá, ắt cũng bởi vì nàng đang mang thai không thể để xẩy ra cảnh không chồng mà chửa. Thế ra Chung Linh chính là con ta, đúng rồi ... đúng rồi ... vào thời gian đó, mùa xuân mười sáu năm về trước ta cùng nàng vui vầy chưa đầy một tháng đã có thai con bé Chung Linh ...
Ông nghĩ ra việc đó buột miệng kêu lên:
- Chao ôi! Không xong rồi!
Đao Bạch Phượng hỏi lại:
- Cái gì mà không xong?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu, cười gượng:
- Gã Chung Vạn Cừu kia ... gã kia tâm tính tồi bại, sắp xếp độc kế hại cả nhà họ Đoàn ta, mình không thể nào ... không thể nào thông gia với y được. Việc này nhất định là không xong rồi.
Đao Bạch Phượng thấy chồng ấp a ấp úng, hẳn là có điều gì muốn lấp liếm nên cầm lấy tờ giấy hồng điều trong tay ông đọc qua, chỉ hơi suy nghĩ đã hiểu ngay đầu đuôi câu chuyện, nhịn không nổi cười khẩy nói:
- Thì ra ... thì ra ... ha ha, con bé Chung Linh cũng lại là con riêng của ông nốt.
Lửa giận bốc lên, bà lật tay tát ngay ông một cái, Đoàn Chính Thuần vội nghiêng đầu né tránh. Trong sảnh ai nấy đều sượng sùng, Bảo Định Đế mỉm cười:
- Nếu quả như thế thì việc này không nên bàn tới nữa ...
Bỗng từ ngoài sảnh một gia tướng đi vào, hai tay trình lên một tờ danh thiếp, khom lưng nói:
- Hổ Lao Quan Quá Ngạn Chi Quá đại gia xin vào yết kiến vương gia.
Đoàn Chính Thuần biết Quá Ngạn Chi là đại đệ tử của Kha Bách Tuế, chưởng môn phái Phục Ngưu, có ngoại hiệu là Truy Hồn Tiên, nghe nói võ công cũng khá lắm có điều trước nay chưa hề qua lại với họ Đoàn, không biết đường xá xa xôi đến đây làm gì, vội vàng đứng lên quay sang nói với Bảo Định Đế:
- Người này không biết đến có chuyện chi để tiểu đệ ra xem thế nào.
Bảo Định Đế mỉm cười gật đầu, nghĩ thầm: "Gã Truy Hồn Tiên này đến quả đúng lúc, may cho ngươi thừa cơ thoát thân". Đoàn Chính Thuần đi ra khỏi hoa sảnh, Cao Thăng Thái và Chử, Cổ, Phó, Chu đi theo sau. Vừa bước vào đại sảnh thấy ngay một người đàn ông cao to ngồi ở chiếc ghế phía tây, mặc đồ tang đầu đội nón sô gai, mặt mày đầy bụi bậm, hai mắt sưng húp, hiển nhiên nhà có người chết, thấy Đoàn Chính Thuần đi vào lập tức đứng lên cung thân hành lễ nói:
- Hà Nam Quá Ngạn Chi bái kiến vương gia.
Đoàn Chính Thuần hoàn lễ đáp:
- Quá lão huynh quang lâm Đại Lý, tiểu đệ Đoàn Chính Thuần không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ tội cho.
Quá Ngạn Chi nghĩ thầm: "Vẫn thường nghe anh em họ Đoàn Đại Lý tuy đại phú quí nhưng không kiêu ngạo, quả thật danh bất hư truyền". Y bèn nói:
- Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu thảo dã, xin cầu kiến vương gia quả là mạo muội.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Tước vị "vương gia" chẳng qua chỉ do người đời đặt ra, còn tiếng tăm của Quá lão huynh thì tại hạ vẫn hằng kính ngưỡng, chúng mình nên coi như anh em việc gì phải nệ vào hư lễ như thế.
Nói xong giới thiệu Cao Thăng Thái rồi chia ra ngôi chủ khách ngồi xuống. Quá Ngạn Chi nói:
- Vương gia, sư thúc chúng tôi ở nhờ trong vương phủ đã lâu cũng mong được báo cho biết để xin gặp mặt.
Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại:
- Sư thúc của Quá huynh ư?
Ông nghĩ thầm: "Trong phủ ta làm gì có người của phái Phục Ngưu đâu?". Quá Ngạn Chi đáp:
- Tệ sư thúc đổi tên thay họ, tị nạn trong tôn phủ, không dám nói rõ cho vương gia hay, quả thực đại đại bất kính, mong vương gia khoan hồng đại lượng đừng trách phạt, tại hạ xin tạ tội nơi đây.
Nói xong đứng lên vái dài. Đoàn Chính Thuần một mặt hoàn lễ, một mặt tính toán nhưng quả thực không nghĩ ra được ai là sư thúc của y? Cao Thăng Thái cũng suy nghĩ: "Ai đấy nhỉ? Ai đấy nhỉ?". Ông duyệt qua hết một loạt tất cả mọi người lẫn tên tuổi chợt nhớ ra: "Chắc hẳn là y rồi!" bèn quay sang tên gia đinh bên cạnh nói:
- Đến trướng phòng mời Hoắc tiên sinh nói là Hà Nam Truy Hồn Tiên Quá đại gia đến đây có chuyện quan trọng bẩm với Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối, mời quá bộ ra ngoài sảnh.
Gã gia đinh tuân lời đi vào, chẳng bao lâu từ hậu đường có tiếp bước chân lẹp xẹp của một người ra vẻ lôi thôi nói:
- Ngươi làm thế này thì cái miệng ăn chực của ta kể như hết chỗ rồi.
Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối, sắc mặt hơi đổi nghĩ thầm: "Không lẽ Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền lại ẩn náu nơi đây? Sao ta lại không biết? Sao Cao hiền đệ không cho mình hay?". Chỉ thấy một người hình dáng bệ rạc cười hì hì đi ra, chính là người làm tạp vụ trong trướng phòng Hoắc tiên sinh. Người này nếu như ngày ngày không say túy lúy thì cũng cùng bọn đầy tớ bài bạc, thật là biếng nhác, chỉ vì y được cái tiền bạc phân minh nên hơn mười năm nay vẫn để y làm ở đó. Đoàn Chính Thuần hết sức kinh ngạc: "Hoắc tiên sinh này có thực là Thôi Bách Tuyền không? Ta đúng là có mắt không tròng, để cho gã cách nào trà trộn vào đây?". Cũng may Cao Thăng Thái mở miệng gọi đúng ngay y ra, Quá Ngạn Chi ắt nghĩ rằng trong phủ Trấn Nam Vương đều đã biết cả".
Gã Hoắc tiên sinh kia vốn dĩ bảy phần say, ba phần tỉnh, đầu óc lúc nào cũng mơ mơ màng màng, vừa thấy Quá Ngạn Chi mặc đồ tang không khỏi giật mình kinh hãi, ấp úng:
- Ngươi ... sao lại ...
Quá Ngạn Chi tiến lên mấy bước, phục xuống vái lạy, cất tiếng khóc òa lên nói:
- Thôi sư thúc, sư phụ ... sư phụ của cháu ... đã bị người ta giết chết rồi ...
Gã Hoắc tiên sinh Thôi Bách Tuyền kia mặt liền biến sắc, khuôn mặt gầy gò vàng ệch đầy vẻ cảnh giác, thủng thẳng hỏi:
- Kẻ thù là ai thế?
Quá Ngạn Chi khóc nói:
- Tiểu điệt bất tài nên không tra xét được cho minh bạch kẻ thù là ai nhưng đoán chừng là người của nhà Mộ Dung đất Cô Tô.
Trên mặt Thôi Bách Tuyền hiện ra một vẻ hoảng hốt nhưng nét sợ hãi chỉ thoáng qua, trầm giọng hỏi:
- Việc này cần phải bàn thảo cho kỹ.
Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái hai người nhìn nhau cùng nghĩ: "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, phái Phục Ngưu gây thù chuốc oán với họ Mộ Dung đất Cô Tô, thù này e rằng khó mà báo được". Thôi Bách Tuyền buồn bã nói với Quá Ngạn Chi:
- Quá hiền điệt, sư huynh ta bỏ mang qui tiên như thế nào, tình hình ra sao, ngươi thuật lại cho rõ.
Quá Ngạn Chi đáp:
- Thù thầy cũng chẳng khác gì thù cha, một ngày chưa báo, tiểu điệt ăn ngủ không yên. Xin sư thúc lập tức lên đường, vừa đi tiểu điệt vừa bẩm lại để khỏi mất thì giờ.
Thôi Bách Tuyền đoán chừng y hiềm đại sảnh có nhiều tai mắt không tiện nói ra chứ không phải chỉ cốt để tranh thủ một giờ một khắc, trong bụng tính toán: "Ta ở nhờ trong phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm không lộ hình tích có ngờ đâu Cao hầu gia lại khám phá ra hành tàng của ta. Nếu ta không lên tiếng xin lỗi Đoàn vương gia thì thật có tội lớn với nhà họ Đoàn. Huống chi việc tìm kiếm họ Mộ Dung để báo thù cho sư huynh, sức một mình ta không thể nào làm được. Nếu được họ Đoàn cho người giúp đỡ thì tình hình sẽ khác hẳn. Bên thù bên bạn như thế thật khác nhau xa". Y đột nhiên đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, quì xuống liên tiếp khấu đầu, tiếng nghe bình bịch.
Việc đó quả ngoài dự liệu của mọi người, Đoàn Chính Thuần vội vàng đưa tay đỡ lên, ngờ đâu thân hình Thôi Bách Tuyền chẳng khác gì đóng chặt xuống đất, cứng nhắc không động đậy. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: "Gã tửu quỉ này gớm thật, hóa ra võ công cao siêu như thế, đám đánh lừa ta". Ông vận kình lên hai cánh tay hất lên, Thôi Bách Tuyền không dám vận lực kháng cự lại nữa thừa thế đứng lên nhưng vừa đứng thẳng người thấy toàn thân thật là khó chịu, thật chẳng khác nào một chiếc thuyền con đang bị vùi dập trong cơn sóng to gió cả, biết là Đoàn Chính Thuần ra tay trừng trị mình. Y nghĩ thầm nếu như mình vận công đề ngự cơn giận của Trấn Nam Vương ắt sẽ chẳng tiêu, không chừng còn nghi mình vào trong vương phủ nằm vùng, có mưu đồ chuyện gì gian ác nên thừa cơ chân khí trong người còn nhộn nhạo lập tức ngồi thụp xuống, thuận thế ngã lăn ra dùng ra làm như đau đớn lắm kêu lên:
- Ối chao!
Đoàn Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo y lên, vừa kéo vừa véo y một cái, lập tức khó chịu trong người y liền tiêu giải. Thôi Bách Tuyền nói:
- Bẩm vương gia, Thôi Bách Tuyền này bị kẻ thù bức bách không có chỗ nào dung thân, nên phải mặt dày mày dạn trốn trong quí phủ để dựa uy danh vương gia mới sống được đến hôm nay. Thôi Bách Tuyền chưa từng thổ lộ chân tướng cho vương gia hay biết, quả thực đáng chết vạn lần.
Cao Thăng Thái tiếp lời:
- Thôi huynh việc gì phải quá khiêm tốn như thế? Vương gia vốn dĩ biết rõ lai lịch thân thế các hạ rồi, nhưng vì Thôi huynh kín đáo không tiết lộ nên vương gia cũng để yên không nói ra. Không lẽ vương gia biết mà người khác không biết hay sao? Hôm trước thế tử đối phó với Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã lôi Thôi huynh ra nhận làm sư phụ đấy ư? Thế tử biết rằng trong phủ chỉ có mình Thôi huynh là có thể đương đầu được với tên ác tặc họ Nhạc.
Kỳ thực hôm đó Đoàn Dự lôi Thôi Bách Tuyền ra mạo xưng sư phụ, chẳng qua chó ngáp phải ruồi, trong phủ chỉ có y là hình dáng nhếch nhác hơn cả nên đem ra làm trò cười trêu ghẹo Nam Hải Ngạc Thần. Thế nhưng lúc này Thôi Bách Tuyền nghe thế lại càng tin rằng thật trong lòng không khỏi xấu hổ ngầm.
Cao Thăng Thái nói tiếp:
- Vương gia trước nay vốn hiếu khách, không nói Thôi huynh vốn không có ác ý âm mưu gì với Đại Lý, mà nếu như có cái bụng làm chuyện bất lợi vương gia cũng đại lượng bao dung, lấy lòng thành mà đối xử, Thôi huynh việc gì phải đa lễ.
Ông ta nói thế là có ý rằng chỉ vì ngươi không có làm điều gì xấu xa nên còn dung cho ngươi tới hôm nay, nếu không thì đã thanh toán ngươi rồi. Thôi Bách Tuyền nói:
- Cao hầu gia minh giám, tuy nói là thế nhưng họ Thôi này vì sao lại vào ở ẩn trong vương phủ, trước khi cáo từ cũng nên bẩm rõ, nếu không quả là quá ư thiếu chính đại quang minh. Có điều việc này liên quan đến nhiều người khác, Thôi Bách Tuyền xin được trình riêng cho vương gia.
Đoàn Chính Thuần gật đầu quay sang Quá Ngạn Chi nói:
- Quá huynh, thâm cừu của sư môn có liên quan trọng đại không phải là việc một ngày một giờ, chúng ta từ từ tính toán cũng không muộn.
Quá Ngạn Chi chưa kịp trả lời, Thôi Bách Tuyền đã chen vào nói trước:
- Vương gia sai bảo thế nào chúng tôi xin tuân lệnh.
Ngay lúc đó một gia tướng lại tới ngay cửa sảnh khom lưng bẩm:
- Khải bẩm vương gia, phương trượng chùa Thiếu Lâm phái hai vị cao tăng đến trình một phong thư.
Chùa Thiếu Lâm từ đời Đường tới nay được xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm. Đoàn Chính Thuần vừa nghe nói thế vội vàng đứng lên, chạy ra ngoài mái hiên nghênh tiếp. Chỉ thấy hai nhà sư trung niên được hai gia tướng dẫn qua sân. Nhà sư hình dáng khô khan khom lưng chắp tay hành lễ nói:
- Tiểu tăng là Tuệ Chân, Tuệ Quan của chùa Thiếu Lâm tham kiến vương gia.
Đoàn Chính Thuần ôm quyền hoàn lễ nói:
- Hai vị đường xa quang lâm, quả thật mệt nhọc, xin mời vào sảnh dùng trà.
Đến trong sảnh hai nhà sư không chịu ngồi, Tuệ Chân nói:
- Bẩm vương gia, bần tăng phụng mệnh phương trượng tệ tự đến trình một phong thư cho Bảo Định hoàng gia và Trấn Nam Vương gia.
Nói rồi từ trong bọc lấy ra một cái bao giấy dầu, từng lớp từng lớp mở ra để lộ một bao thư màu vàng, hay tay dâng lên Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần cầm lấy nói:
- Hoàng huynh hiện cũng đang ở nơi đây, hai vị cũng may gặp được ngay.
Ông quay qua nói với Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi:
- Hai vị dùng qua điểm tâm, đợi rồi mình sẽ nói chuyện cho kỹ càng.
Nói xong đưa Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người vào trong. Lúc đó Bảo Định Đế đang ở trong noãn các cùng Hoàng Mi tăng uống trà đàm luận còn Đoàn Dự ngồi một bên lắng nghe, thấy Tuệ Chân, Tuệ Quan tiến và đều đứng cả dậy. Đoàn Chính Thuần đưa phong thư, Bảo Định Đế mở ra coi một lượt, thấy lá thư đó gửi cho hai anh em mình, bên trên là một đoạn dài những gì "nghe anh danh đã lâu nhưng chưa từng gặp", "uy chấn trời Nam, nhân đức bao trùm", "toàn dân ngưỡng mộ, hào kiệt theo về", "xiển hộ Phật pháp, hoằng dương thánh đạo" vân vân những câu khách sáo nhưng khi đến chính đề thì là:
Tệ sư đệ Huyền Bi dẫn bốn người đồ đệ đến thăm quí quốc, vì tình cùng sùng kính Phật tổ, nghĩa đồng đạo trong võ lâm, mong được chiếu cố đến.
Bên dưới thự danh đề là "Thích Huyền Từ chùa Thiếu Lâm chắp tay trăm lạy".
Bảo Định Đế đứng dậy đọc lá thư để tỏ lòng kính trọng chùa Thiếu Lâm, Tuệ Chân và Tuệ Quan cung kính đứng một bên thõng tay hầu hạ. Bảo Định Đế nói:
- Xin hai vị ngồi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm nếu đã có pháp dụ, chúng tôi là đệ tử Phật môn, là một phái trong võ lâm, nguyện đem hết sức để tuân lệnh. Huyền Bi đại sư tinh thông Phật học, võ công cao cường, anh em chúng tôi vẫn hằng kính ngưỡng, không biết pháp giá của đại sư bao giờ mới tới? Anh em chúng tôi xin quét tháp chờ đợi.
Tuệ Chân, Tuệ Quan đột nhiên quì gục xuống, bình bình khấu đầu rồi cùng khóc òa lên. Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần cùng kinh hãi, nghĩ thầm: "Không lẽ Huyền Bi đại sư chết rồi". Bảo Định Đế đưa tay đỡ lên nói:
- Chúng mình võ lâm đồng đạo, không nên dùng đại lễ làm gì.
Tuệ Chân đứng lên quả nhiên trả lời:
- Sư phụ chúng tôi viên tịch rồi.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: "Lá thư này vốn để Huyền Bi đại sư tự mình đem đến, không lẽ ông ta chết trong cảnh giới nước Đại Lý?". Ông bèn nói:
- Huyền Bi đại sư tây qui, cửa Phật mất đi một cao tăng, võ lâm mất đi một cao thủ, quả thực đáng tiếc. Không biết Huyền Bi đại sư viên tịch vào ngày nào?
Tuệ Chân đáp:
- Tháng trước phương trượng sư bá được tin Thiên Hạ Tứ Đại Ác Nhân định đến gây sự với Đoàn hoàng gia và Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Họ Đoàn Đại Lý uy chấn thiên nam, đâu có sợ gì bọn Tứ Đại Ác Nhân nhưng sợ hai vị không biết khiến chấp sự, bộ hạ có thể bị ám toán nên sai sư phụ chúng tôi dẫn bốn đệ tử đi đến Đại Lý bẩm trước cho hoàng gia để do hoàng gia sai bảo.
Bảo Định Đế hết sức cảm kích, nghĩ thầm: "Thảo nào phái Thiếu Lâm mấy trăm năm nay được mọi người kính phục, Huyền Từ đại sư coi việc an nguy của võ lâm như việc của mình, bọn ta tuy ở chốn xa xăm man di nhưng cũng quan tâm tới. Trong thư nói chúng ta chiếu cố cho thầy trò Huyền Bi đại sư nhưng thực ra là sai người đến trước là báo tin, sau là tiếp tay chống giữ ".
Ông bèn hơi khom mình nói:
- Long tình hậu ý của phương trượng đại sư, anh em chúng tôi không biết phải làm sao báo đáp cho được.
Tuệ Chân đáp:
- Hoàng gia quá khiêm tốn đấy thôi, thầy trò chúng tôi lên đường xuôi nam ngày hai mươi tám tháng trước ghé lại chùa Thân Giới ở châu Lục Lương nghỉ qua đêm, ngờ đâu sáng sớm ngày hai mươi chín, bốn anh em chúng tôi trở dậy, thì thấy sư phụ ... sư phụ chúng tôi bị người ta ám toán, chết ngay trên đại điện chùa Thân Giới rồi ...
Nói đến đây ông ta nghẹn ngào không thành tiếng. Bảo Định Đế thở dài một tiếng hỏi lại:
- Huyền Bi đại sư trúng phải ám khí độc hại chăng?
Tuệ Chân đáp:
- Không phải vậy.
Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng, Đoàn Chính Thuần lẫm Cao Thăng Thái đều tỏ vẻ ngạc nhiên, cùng nghĩ: "Cứ như võ công của Huyền Bi đại sư, nếu không phải là trúng phải ám khí "kiến huyết phong hầu", dẫu là địch nhân ở sau lưng đột nhiên tập kích, cũng không thể nào không còn sức kháng cự mà chết ngay. Trong nước Đại Lý ta có cao thủ nào có bản lãnh cao như thế?".
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hôm nay mồng ba, tối ngày hai mươi tám tháng trước tức là bốn ngày rồi. Dự nhi bị bắt tại Vạn Kiếp Cốc là ngày hai mươi bảy.
Bảo Định Đế gật đầu:
- Không phải là Tứ Đại Ác Nhân.
Đoàn Diên Khánh mấy ngày đó đều ở tại Vạn Kiếp Cốc quyết không cách nào phân thân ra để đi Lục Lương Châu giết người, nếu có phải Đoàn Diên Khánh chăng nữa cũng chưa chắc đã có thể giết chết Huyền Bi đại sư không một tiếng động như thế. Tuệ Chân nói:
- Chúng tôi đỡ sư phụ dậy thì người lão nhân gia đã lạnh, viên tịch từ lâu, trong đại điện không có dấu vết gì chứng tỏ đã động thủ. Chúng tôi chạy ra ngoài chùa tìm kiếm, các sư huynh trong chùa Thân Giới cũng chạy theo tìm kiếm giùm nhưng mấy chục dặm không hề thấy một chút tung tích nào của hung thủ.
Bảo Định Đế buồn bã nói:
- Huyền Bi đại sư vì họ Đoàn ta mà viên tịch, lại bị nạn ngay trong cảnh giới nước Đại Lý, dù tình dù lý, anh em chúng tôi nhất quyết không thể đứng ngoài.
Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư cùng quì xuống bái tạ, Tuệ Chân nói:
- Bốn người anh em chúng tôi cùng phương trượng chùa Thân Giới Ngũ Diệp đại sư bàn thảo xong tạm quàn pháp thể của sư phụ chúng tôi tại chùa Thân Giới, không dám hỏa hóa để tiện việc sau này chưởng môn sư bá có kiểm tra. Hai vị sư huynh quay về chùa Thiếu Lâm bẩm lại cho chưởng môn sư bá, tiểu tăng và sư đệ Tuệ Quan thì đi Đại Lý, bẩm cho hoàng gia và Trấn Nam Vương.
Bảo Định Đế nói:
- Phương trượng Ngũ Diệp tuổi cao đức trọng, kiến thức uyên bác, thông hiểu nhiều chuyện trong võ lâm, vậy lão nhân gia dạy thế nào?
Tuệ Chân đáp:
- Ngũ Diệp phương trượng dạy rằng: mười phần thì có đến tám chín, hung thủ là người trong họ Mộ Dung đất Cô Tô.
Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đưa mắt nhìn nhau, trong bụng cùng nghĩ: "Lại là Cô Tô Mộ Dung nữa". Hoàng Mi tăng từ nãy đến giờ chưa mở miệng đột nhiên xen vào:
- Phải chăng Huyền Bi đại sư bị địch nhân đánh một chiêu Đại Vi Đà Chử ngay giữa ngực mà viên tịch chăng?
Tuệ Chân kinh hãi hỏi lại:
- Đại sư đoán không sai, không hiểu tại sao ... tại sao ...
Hoàng Mi tăng đáp:
- Ta từng nghe công phu Đại Vi Đà Chử của Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm là một tuyệt học trong võ lâm, người nào trúng phải gân cốt đều đứt rời. Môn võ công này quả là ghê gớm nhưng dẫu sao cũng quá ư bá đạo, dường như không thích hợp cho đệ tử Phật môn ... Ôi!
Đoàn Dự cũng xen vào:
- Đúng thế! Môn công phu này quá ư độc địa!
Tuệ Chân, Tuệ Quan nghe Hoàng Mi tăng bình luận sư phụ của mình, trong bụng khó chịu nhưng kính trọng ông là tiền bối cao tăng không dám nói gì, bỗng nghe Đoàn Dự ở ngoài chõ mồm vào, không khỏi hầm hầm nhìn chàng. Đoàn Dự làm như không thấy chẳng coi vào đâu.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Sư huynh tại sao biết được Huyền Bi đại sư trúng phải đại Vi Đà Chử mà viên tịch?
Hoàng Mi tăng thở dài:
- Phương trượng chùa Thân Giới Ngũ Diệp đại sư đoán rằng hung thủ thuộc họ Mộ Dung đất Cô Tô ắt không phải là đoán sằng vô căn cứ. Đoàn nhị đệ, Cô Tô Mộ Dung có một câu rằng:
Hễ ai có tài nghệ gì,
Ta đem trả ngược lại về cho ngươi.
Chẳng hay hiền đệ có biết chăng?
Đoàn Chính Thuần trầm ngâm đáp:
- Câu đó tiểu đệ đã từng nghe qua, có điều không hiểu rõ lắm nghĩa lý của nó.
Hoàng Mi tăng lẩm bẩm:
- Gậy ông đập lưng ông, hừ, gậy ông đập lưng ông ...
Trên mặt ông đột nhiên lộ vẻ sợ hãi. Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần quen biết ông ta đã mấy chục năm chưa bao giờ thấy ông ta lộ vẻ kinh hãi, mới đây ông ta đụng độ với thái tử Diên Khánh rõ ràng đã vào thế thua, tuy bề ngoài hết sức gay cấn nhưng vẫn thản nhiên, bây giờ lại tỏ vẻ sợ sệt đủ biết đối phương quả thực đáng ngại.
Trong noãn các bỗng nhiên lặng tanh không một tiếng động. Qua một hồi lâu, Hoàng Mi tăng chậm rãi nói:
- Lão tăng nghe nói quả thực trên đời này có một nhân vật tên là Mộ Dung Bác, y dám lấy cái tên "Bác" vì võ công uyên bác không đâu kể xiết, tựa hồ không một tuyệt kỹ của nhà nào, phái nào trong võ lâm y không tinh thông, không am tường. Một điều kỳ lạ là nếu y muốn giết ai thì lại sử dụng ngay tuyệt kỹ thành danh của người đó.
Đoàn Dự nói:
- Thế thì quả là không sao tưởng tượng nổi, thiên hạ có biết bao nhiêu môn võ công, làm sao y học cho hết được?
Hoàng Mi tăng đáp:
- Lời đó của hiền điệt quả thực không sai, nếu không dùng chính tuyệt chiêu của người đó để giết người thì y nhất định không ra tay.
Bảo Định Đế nói:
- Ta cũng có nghe đất Trung Nguyên có một nhân vật kỳ tài như thế. Lạc thị tam hùng đất Hà Bắc giỏi về phi chùy, về sau cả ba người đều bị trúng phi chùy táng mạng, Chương Hư đạo nhân đất Sơn Đông khi giết người thì chặt đứt tứ chi kẻ địch để cho kẻ đó rên rỉ một hồi lâu rồi mới chết. Gã Chương Hư đạo nhân đó chính mình cũng bị thảm báo như thế, cái câu "Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" của Mộ Dung Bác chính là do miệng Chương Hư truyền ra.
Ông ngừng lại một chút nói tiếp:
- Khi đó giữa chợ ở Tế Nam, không biết bao nhiêu người bu chung quanh xem Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu la dưới đất.
Ông nói tới đây dường như còn tưởng tượng ra cái thảm trạng của Chương Hư đạo nhân trước khi chết, vẻ mặt xem chừng bất nhẫn, lại đầy vẻ không vui. Đoàn Chính Thuần gật đầu nói:
- Quả đúng là như thế.
Đột nhiên ông nghĩ ra một chuyện liền nói:
- Sư phụ của Quá Ngạn Chi Quá đại gia Kha Bách Tuế nghe nói giỏi sử dụng nhuyễn tiên, nhưng kình lực trên đầu roi lại dùng một lộ thuần cương, sát địch thì dùng tiên đánh vào đầu đối phương nát vụn, không lẽ ông ta ... ông ta ...
Ông vỗ tay ba cái gọi một tên đầy tớ vào nói:
- Mau mời Thôi tiên sinh và Quá đại gia vào trong này, nói là ta có việc muốn bàn.
Gã thị bộc kia đáp lời "Vâng " một tiếng nhưng không biết Thôi tiên sinh là ai nên ngần ngừ chưa chịu ra. Đoàn Dự cười nói:
- Thôi tiên sinh chính là Hoắc tiên sinh ở trướng phòng đó.
Gã đầy tớ bấy giờ mới dạ một tiếng thật to nhanh nhảu đi ra. Chẳng bao lâu Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng vào trong noãn các. Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Quá huynh, tại hạ có một chuyện muốn hỏi, xin đừng trách cứ.
Quá Ngạn Chi đáp:
- Không dám.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Xin hỏi lệnh sư Kha lão tiền bối bị người ta ám toán như thế nào? Bị quyền cước hay binh khí đến nỗi vết thương chí mệnh?
Quá Ngạn Chi đột nhiên mặt đỏ bừng thật là bẽn lẽn, ấp úng một hồi mới đáp:
- Gia sư bị thương vì chiêu nhuyễn tiên "Thiên Linh thiên liệt" , kình lực của hung thủ hung mãnh dị thường, dẫu có chính tay gia sư, cũng không thể ... không thể ...
Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và Hoàng Mi tăng ba người nhìn nhau, trong lòng không khỏi bàng hoàng. Tuệ Chân đến trước mặt Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi chắp tay hành lễ nói:
- Sư huynh đệ bần tăng và hai vị cùng cho chung một mối thù, nếu không diệt được Cô Tô Mộ Dung ...
Nói đến đây trong bụng tự nghĩ có diệt được họ Mộ Dung đất Cô Tô hay không quả thật khó nói, bèn nghiến răng nói:
- Bần tăng đành đem tính mạng giao cho họ mới thôi!
Quá Ngạn Chi hai mắt rưng rưng nói:
- Phái Thiếu Lâm cũng kết thâm cừu với họ Mộ Dung đất Cô Tô hay sao?
Tuệ Chân bèn đem chuyện sư phụ Huyền Bi bị chết dưới tay Cô Tô Mộ Dung như thế nào kể sơ lược lại. Quá Ngạn Chi thần sắc bi phẫn, nghiến răng căm tức còn Thôi Bách Tuyền thì ủ rũ thẫn thờ không nói một câu xem ra không để ý gì tới mối huyết cừu của sư huynh. Tuệ Quan hòa thượng buột miệng hỏi:
- Thôi tiên sinh sợ họ Mộ Dung đất Cô Tô hay sao?
Tuệ Chân vội quát lên:
- Sư đệ chớ có vô lễ.
Thôi Bách Tuyền nhìn ngang nhìn ngửa, qua phía đông rồi qua phía tây dường như sợ tai vách mạch rừng, lại dường như sợ một kẻ địch nào thật lợi hại đến tấn công, dáng điệu thật là hoảng hốt. Tuệ Quan hừ một tiếng nói một mình:
- Đại trượng phu đến chết là cùng, làm gì mà phải sợ dữ thế?
Tuệ Chân cũng coi thường thái độ nhút nhát khiếp sợ của Thôi Bách Tuyền nên cũng không lên tiếng ngăn trở câu nói khích bác của sư đệ. Hoàng Mi tăng ho nhẹ một tiếng nói:
- Việc đó ...
Thôi Bách Tuyền toàn thân run cầm cập, nhảy nhỏm lên làm đổ một chén trà trên bàn, chiếc chén lăn lông lốc rơi xuống đất vỡ tan. Y cố gắng định thần thấy ai nấy chăm chăm nhìn mình, tự nhiên mặt đỏ tía tai nói:
- Xin lỗi! Xin lỗi!
Quá Ngạn Chi nhíu mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: "Gã Thôi Bách Tuyền này quả là một tên nhút nhát". Ông quay sang hỏi Hoàng Mi tăng:
- Sư huynh, thế nào?
Hoàng Mi tăng uống một ngụm trà, chậm rãi nói:
- Thôi thí chủ đã từng gặp Mộ Dung Bác rồi phải không?
Thôi Bách Tuyền nghe đến ba chữ Mộ Dung Bác, giật mình kêu lên một tiếng, hai tay nắm chặt mép bàn, run run nói:
- Tôi chưa từng ... có ... có gặp qua ... không từng ...
Tuệ Quan lớn tiếng nói:
- Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác hay là chưa? Nói rõ ra.
Thôi Bách Tuyền mắt trợn ngược lên như kẻ mất hồn, bọn Đoàn Chính Thuần ai cũng thầm lắc đầu. Quá Ngạn Chi thấy sư thúc tỏ vẻ hèn kém đến thế lại càng chết điếng. Một lúc sau Thôi Bách Tuyền mới hoàn hồn run run đáp:
- Chưa từng ... đại khái ... dường như chưa từng ... chưa từng gặp ...
Hoàng Mi tăng nói:
- Lão nạp từng trải qua một kinh nghiệm bản thân, thôi cũng đành phải nói ra để các vị biết rõ. Chuyện đó xảy ra đã bốn mươi ba năm về trước, khi đó lão nạp tuổi còn trẻ, đang lúc tráng kiện mới ra đời chưa lâu nhưng trên giang hồ cũng đã có được chút danh tiếng. Quả đúng là nghé mới sanh chưa biết sợ cọp, tưởng rằng trên đời này tuy bao la thật nhưng ngoài sư phụ ra, không ai võ nghệ cao cường bằng mình. Năm đó ta hộ tống một vị quan hưu trí cùng gia quyến trở về bản quán, đi từ Biện Lương đến Sơn Đông, đến một triền núi gần Thanh Báo Cương thì gặp bốn tên cướp xông ra. Bốn tên đó không cướp tài vật mà lại muốn bắt cóc tiểu thư con viên quan kia. Lão nạp khi đó tuổi trẻ sốt tiết không thể nhịn được vừa ra tay là đã sử dụng độc chiêu, dùng ngay Kim Cương chỉ lực, tất cả đều đâm vào tâm oa, bốn tên phỉ đồ không kịp kêu lên một tiếng, chết ngay tại chỗ.
1 Trong thủ tục hôn lễ ngày xưa, khi hai bên đã bằng lòng nhau thường trao đổi ngày sinh tháng đẻ để so tuổi xem có hợp hay không (lễ vấn danh)
2 Chử là cái chày nhưng trong đạo Phật thì là một loại pháp khí (sceptre). Vi Đà là dịch âm chữ Vajra nguyên nghĩa là sấm sét hoặc kim cương (tùy theo người định nghĩa) cho nên Vi Đà Chử còn gọi là Kim Cương Chử là một pháp khí dùng để hàng phục ma chướng. Trong hình tượng tôn giáo Ấn Độ, cái chày là biểu tượng của dương (kim cương bất hoại), cái chuông là biểu tượng âm (trí huệ bát nhã). Chày này có khi một đầu hoặc hai đầu, chia làm hai nhánh, ba nhánh, năm nhánh hay chín nhánh. Cho đến nay người ta vẫn chưa biết nguồn gốc hai pháp khí này từ đâu nhưng rất thông dụng trong những món binh khí đạo Bà La Môn. Việc thờ cúng âm vật dương vật cũng xuất hiện tại nhiều vùng ở miền Bắc nước ta, rất có thể do ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ. Kim Dung mượn nhiều pháp khí Phật giáo làm binh khí cho những nhân vật của ông (nhất là các nhà sư) nhưng dĩ nhiên chỉ là biểu tượng vì thực tế những pháp khí này khó có thể dùng làm khí giới.
3 Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân
4 Đầu vỡ thành nghìn mảnh
Ta khi đó dương dương tự đắc, miệng sùi bọt mép huênh hoang với viên hưu quan kia, bảo là "dẫu có mười đứa, tám đứa đại đạo thì cũng sẽ dùng Kim Cương chỉ lực giết sạch". Vừa lúc đó, bỗng nghe tiếng lộp cộp, hai người cưỡi lừa từ bên đường đi qua, nghe giọng một người đàn bà hừ một tiếng, thanh âm đầy vẻ khinh miệt không coi vào đâu. Ta quay đầu lại thì thấy người ngồi trên lưng lừa là một thiếu phụ chừng ba mươi sáu, ba mươi bảy, còn người kia là một thiếu niên độ mười lăm mười sáu, mi thanh mục tú, coi thật là tuấn nhã, cả hai đều mặc sô gai theo kiểu đại tang. Lại nghe thiếu niên kia nói:
- Mẹ ơi! Kim Cương chỉ thì đã thấm vào đâu mà ở đây khoác lác.
Thân thế lai lịch của Hoàng Mi tăng anh em Bảo Định Đế cũng không biết rõ. Thế nhưng ông ta ở trong Vạn Kiếp Cốc dùng tay vẽ lên đá thành bàn cờ, khắc đá thành quân, đấu ngang ngửa với thái tử Diên Khánh, mọi người ai nấy đều hết sức kính ngưỡng, còn Kim Cương chỉ lực của ông có ai không phục, lúc này nghe ông thuật lại lời của thiếu niên kia, đều nghĩ chẳng qua trẻ con nói năng lếu láo.
Ngờ đâu Hoàng Mi tăng thở dài một tiếng nói tiếp:
- Khi đó ta nghe câu nói kia trong bụng cũng tức thật nhưng nghĩ thầm một đứa trẻ còn măng sữa nói năng bậy bạ chấp làm gì? Ta trừng mắt nhìn nó nhưng cũng bỏ qua. Lại nghe người đàn bà mắng con: "Kim Cương chỉ của người ta là chính tông của Đạt Ma hạ viện ở Bồ Điền Phúc Kiến, luyện cũng tới mức ba thành hỏa hầu rồi, con còn bé biết gì? Con đâm ra chưa chắc đã chính xác được đến thế".
Ta nghe đến đây, trong bụng vừa tức tối vừa kinh hãi. Uyên nguyên sư môn của ta trên giang hồ ít người biết đến, người đàn bà này vừa nói ra đã đúng ngay, lại bảo Kim Cương chỉ lực của ta chỉ mới được ba thành hỏa hầu, ta làm sao chịu nổi. Ôi, thực ra ta không biết trời cao đất dày là gì, chứ cứ theo công lực lúc đó mà nói, nói ta được ba thành hỏa hầu cũng đã là quá cao chứ tối đa chỉ được hai thành sáu bảy phân thôi. Ta liền lớn tiếng quát: "Tôn tính vị phu nhân kia là gì? Bà coi khinh Kim Cương chỉ lực của ta, liệu có thể tứ giáo vài chiêu được chăng?".
Thiếu niên kia dừng con lừa đốm lại toan trả lời, người đàn bà bỗng dưng hai mắt rưng rưng dường như muốn khóc nói:
- Cha con lúc lâm chung dặn con những gì? Sao con quên ngay thế?
Cậu bé kia đáp:
- Vâng! Hài nhi không dám quên.
Hai người liền vung roi quất lừa chạy về phía trước. Ta càng nghe càng thêm bực mình liền giục ngựa đuổi theo gọi lớn:
- Này! Nói láo lếu lăng nhăng chỉ trích võ công người khác, nếu không để lại vài chiêu tưởng bỏ chạy mà xong ư?
Con ngựa ta cưỡi là một con tuấn mã cước lực thật nhanh, vừa nói vừa đuổi đã vượt qua hai con lừa, chặn ngay trước mặt hai người. Người đàn bà nhìn con nói:
- Con xem đó, con chỉ ngứa miệng nói một câu người ta đã không chịu rồi.
Cậu bé kia xem chừng rất hiếu thuận với mẹ, không dám ngước mắt nhìn ta. Ta thấy họ sợ mình nghĩ thầm mẹ góa con côi có thắng cũng chẳng hay ho nên cũng không thèm chấp, nhưng nghe giọng điệu bà ta xem ra thiếu niên này cũng biết Kim Cương chỉ lực. Môn công phu này ta đã khổ luyện mười lăm năm, cũng đã có chút thành tựu, thằng bé con này biết gì đâu? Ta bèn lên mặt nói:
- Hôm nay ta tha cho hai mẹ con, từ rày ăn nói nên giữ mồm giữ miệng.
Người đàn bà kia chẳng nhìn vào mặt ta, quay sang nói với cậu bé:
- Vị thúc thúc này nói không sai, từ rày về sau con ăn nói nên giữ mồm giữ miệng.
Nếu cứ đến đó là xong thì chẳng hay lắm sao. Có điều khi đó ta tuổi còn trẻ, tính tình hung hăng, giục ngựa đứng tránh qua một bên, thiếu phụ phóng lừa chạy qua đến lượt thiếu niên vừa vỗ lừa, con vật vừa phóng lên ta liền vung roi quất ngay vào mông nó một cái, cười lớn:
- Chạy cho nhanh nào!
Cây roi ngựa còn cách mông lừa độ chừng một thước, bỗng nghe vèo một tiếng, cậu bé quay lại giơ ngón tay, chỉ lực lăng không phóng ra, chiếc roi của ta bay vụt lên trời. Sự việc xảy ra khiến ta sợ đến đờ đẫn cả người, chỉ lực của y thật ghê gớm hơn ta xa.
Lại nghe thiếu phụ kia nói:
- Đã chót ra tay thì phải kết thúc đi thôi.
Thiếu niên kia đáp:
- Vâng!
Y ghìm con lừa đốm quay lại xông vào ta. Ta vung tay trái ra chiêu "Lan Vân Thủ", đột nhiên nghe soẹt một cái tay y đã đâm ra một chỉ, ngực ta bên trái đau nhói, bao nhiêu kình lực mất hết.
Hoàng Mi tăng nói đến đây chầm chậm cởi tăng bào để lộ bộ ngực xương xẩu, thấy bên trái ngay đúng tâm tạng có một cái lỗ sâu chừng một tấc. Cái lỗ đó tuy đã thành sẹo rồi nhưng cũng mường tượng ra năm xưa bị thương nặng biết chừng nào. Có điều vết thương đó đâm thấu tim sao ông ta không chết mà còn sống đến ngày nay khiến ai nấy đều kinh ngạc.
Hoàng Mi tăng chỉ vào ngực bên phải nói:
- Các vị xem đây.
Mọi người thấy nơi đó phập phồng mới hay ông ta vốn có dị tướng, trái tim không nằm bên trái mà lại nằm bên phải năm xưa tưởng chết mà không chết cũng là do đó. Hoàng Mi tăng buộc lại dây lưng tăng bào nói tiếp:
- Người có tâm tạng lệch qua bên phải như ta thật vạn người không có một. Thiếu niên đó thấy một chỉ đã đâm trúng ngay trái tim mà không chết ngay liền giục lừa lách qua mấy bước, vẻ mặt thật ngạc nhiên. Ta thấy trên ngực máu chảy ào ào, xem chừng tính mạng không còn chẳng úy kỵ gì nữa ngoác mồm chửi: "Tiểu tặc kia, ngươi bảo ngươi biết sử dụng Kim Cương chỉ ư, hừ hừ! Kim Cương chỉ lực của Đạt Ma hạ viện không lẽ đâm người chảy máu mà không chết? Thủ pháp của ngươi sai bét đâu có phải là Kim Cương chỉ".
Cậu bé kia nhảy tới toan đâm thêm một chỉ nữa, lúc đó ta đâu còn sức nào mà kháng cự chỉ đành bó tay đợi chết. Ngờ đâu thiếu phụ kia vung cây roi trong tay ra, cuốn lấy cánh tay thiếu niên, trong cơn mơ màng nghe bà ta mắng con: "Họ Mộ Dung đất Cô Tô làm gì có người nào vô dụng thế? Chỉ lực của ngươi luyện chưa rốt ráo thì không được giết y nữa, để trong vòng bảy ngày ngươi ..." Không biết trong vòng bảy ngày y phải làm gì thì ta đã ngất đi không nghe thấy nữa.
Thôi Bách Tuyền run run hỏi:
- Đại ... đại sư, về sau ... về sau ngài có gặp lại họ không?
Hoàng Mi tăng đáp:
- Nói ra thật xấu hổ, lão nạp từ bữa đó trở đi trong lòng chán ngán, thấy một đứa bé con đã luyện được đến mức đó, dù ta có luyện thêm bao nhiêu cũng không thể nào bì kịp. Đến khi vết thương trên ngực khỏi rồi liền rời đất Đại Tống bỏ xuống Đại Lý nương náu dưới khu vực của Đoàn hoàng gia, mấy năm sau thì xuất gia. Lão tăng tuy bao nhiêu năm nay đã tham ngộ lẽ tử sinh không còn khắc khoải sự vinh nhục năm xưa nhưng đôi khi nhớ lại vẫn còn rùng mình, quả thật đúng là kinh cung chi điểu.
Đoàn Dự hỏi:
- Đại sư, nếu như thiếu niên đó còn sống đến hôm nay thì cũng phải trên dưới sáu mươi rồi, có phải y là Mộ Dung Bác chăng?
Hoàng Mi tăng lắc đầu:
- Nói ra thật là hổ thẹn, lão nạp cũng không biết nữa. Thực ra một chỉ của cậu bé đó có phải Kim Cương chỉ hay không, ta cũng đâu có nhìn rõ, nhưng xem chừng ra tay không giống hẳn. Thế nhưng phải hay không thì cũng thật là lợi hại, thật là ghê gớm ...
Mọi người ai nấy lặng thinh, lòng khinh thị Thôi Bách Tuyền giảm đi quá nửa, nghĩ thầm võ công cao siêu như Hoàng Mi tăng mà còn úy kỵ Cô Tô Mộ Dung đến thế, Thôi Bách Tuyền sợ đến mất cả hồn vía thì cũng có nguyên do.
Thôi Bách Tuyền nói:
- Hoàng Mi đại sư thân phận cao như thế mà chuyện ngày xưa còn không dấu diếm chút nào, họ Thôi này có đáng gì đâu mà còn sợ xấu mặt? Tại hạ vốn dĩ muốn đem chuyện trà trộn vào Trấn Nam Vương phủ nói rõ đầu đuôi ngọn ngành cho bệ hạ và vương gia, nơi đây cũng chẳng có ai người ngoài, vây tại hạ xin thuật lại để các vị cùng rõ.
Y nói mấy câu đó rồi, tâm tình khích động, cổ khô miệng đắng cầm chén trà lên uống ực một cái cạn sạch, lại cầm luôn cả chén của Quá Ngạn Chi uống luôn rồi mới tiếp tục:
- Chuyện ... chuyện này của tôi, là ... là đã mười tám năm rồi ...
Y nói tới đây tự nhiên nhìn ra ngoài cửa sổ. Y định thần rồi nói tiếp:
- Ở trong thành phủ Nam Dương, có một thổ hào họ Sái, giàu có nhưng bất nhân, hiếp đáp dân lành. Kha sư ca của tôi có một người bạn bị y hãm hại, toàn gia chết về tay y.
Quá Ngạn Chi hỏi lại:
- Sư thúc nói đến tên tặc tử Sái Khánh Đồ phải không?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Đúng đó. Sư phụ ngươi mỗi khi nói đến Sái Khánh Đồ vẫn thường nghiến răng hậm hực tuy có làm đơn kêu lên quan mấy lần đều bị họ Sái đem tiền đút lót ếm nhẹm đi. Nếu như sư phụ ngươi xách nhuyễn tiên đến giết phứt gã đi thì thật dễ như thổi tro trong bếp, tuy ông ta anh hùng khí khái trên giang hồ nhưng ở quê hương bản quán có nhà có cửa nên không dám làm chuyện phạm vương pháp như thế. Còn Thôi Bách Tuyền tôi thì khác, trộm gà bắt chó, bài bạc trai gái, giết người phóng hỏa chuyện gì cũng làm. Đêm đó tôi nổi giận nên mò vào nhà tên Sái Khánh Đồ, giết một hơi hơn ba chục mạng nhân khẩu.
Tôi từ cửa chính giết vào đến tận hoa viên đằng sau, đến làm vườn người ở cũng không tha. Đến giữa vườn thấy một căn lầu nhỏ trên có ánh đèn chiếu ra. Tôi chạy lên lầu, đá tung cửa vào thì ra đó là một thư phòng, bốn bề chung quanh đầy những kệ trên để toàn là sách vở, một đôi nam nữ đang ngồi đọc sách ở bàn.
Đôi nam nữ đó chừng trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn nhã ăn mặc theo lối thư sinh. Người đàn bà tuổi trông trẻ hơn, quay lưng lại không nhìn rõ mặt nhưng bà ta mặc áo lụa mỏng màu xanh nhạt, dưới ánh nến trông thật xinh đẹp, con bà nó chứ ...
Y vốn dĩ nói năng thật văn vẻ, so với ngôn ngữ bình thời thật khác xa, ngờ đâu đột nhiên chêm vào một lời thô tục, ai nấy đều sửng sốt. Thôi Bách Tuyền dường như không để ý nói tiếp:
- ... tôi một hơi giết hơn ba chục mạng, càng lúc càng say máu, trông thấy đôi trai gái chó má này, con mẹ nó chứ, xem ra có điều khác lạ. Trong nhà Sái Khánh Đồ ai nấy thô lỗ hung ác, sao lại lọt vào một đôi cẩu nam nữ thanh tú ở đâu ra? Trông họ có khác gì Đường Minh Hoàng với Dương quí phi trong tuồng hát? Tôi thật ngạc nhiên nhưng không có ý ra tay giết họ. Bỗng nghe người đàn ông nói: "Nương tử, từ Qui Muội đến Võ Vương, hình như không theo thứ tự này".
Đoàn Dự nghe nói "từ Qui Muội đến Võ Vương" nghĩ thầm: "Cái gì mà Qui Muội? Võ Vương?" Chàng suy nghĩ hiểu ngay: "À, thì ra là từ Qui Muội đến Vô Vọng, người đàn ông này nói về Kinh Dịch". Chàng thấy thế trong lòng liền phấn khởi hẳn lên.
Lại nghe Thôi Bách Tuyền nói tiếp:
- Người đàn bà trầm ngâm rồi nói: "Nếu như từ hướng đông bắc đi chéo xuống Đại Ca, rồi chuyển qua Tỉ Tỉ chàng nghĩ đi thế có thông hay không?".
Đoàn Dự nghĩ thầm: "Hừ, sao lại Đại Ca? Tỉ Tỉ là sao? À thì ra Đại Quá và Ký Tế". Bỗng chàng giật mình sửng sốt: "Thì ra người đàn bà nói về bộ pháp trong Lăng Ba Vi Bộ, có điều vị trí hơi sai không hoàn toàn đúng hẳn. Không lẽ người đàn bà này với thần tiên tỉ tỉ trong động núi kia có liên quan?".
Thôi Bách Tuyền nói tiếp:
- Tôi nghe hai vợ chồng bàn tán không ngừng, nói gì mà Ô Qui Muội Tử, Đại Cữu Tử, Tiểu Tỉ Tỉ càng nghe càng chán nên lớn tiếng quát: "Hai đứa cẩu nam nữ kia, con bà ngươi chứ, có mau cút ra không nào". Không ngờ hai người đó dường như giả điếc, không nghe ta nói gì, vẫn chăm chăm nhìn vào quyển sách. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói: " Từ chỗ này đến nhà tỉ tỉ cả thảy chín bước, không làm cách nào đi được". Tôi liền quát lên: "Cút mau! Cút mau! Cút ngay đến nhà ông bà ông vải nhà ngươi, gặp tổ tông mười tám đời". Tôi đang toan cất bước tiến lên, người đàn ông đột nhiên vỗ tay cười nói: "Hay lắm, ông bà là khôn, mười tám đời tổ tông, ồ, hai lần chín mười tám có thể chuyển qua vị trí khôn được. Thế là bước này nghĩ ra rồi!". Y thuận tay cầm một chiếc bàn toán trên bàn, không biết làm cách nào ba quân toán đột nhiên bắn ra, tôi chỉ thấy ngực đau nhói, thân hình đứng chết sững không còn động đậy gì được.
Hai người đó không ngó ngàng gì đến tôi, vẫn tiếp tục đàm luận chuyện tiểu ca ca, tiểu súc sinh còn tôi trong bụng sợ hãi không biết chừng nào. Tại hạ có cái phỉ hiệu là Kim Toán Bàn, luôn luôn đem theo trong người một cái bàn toán đúc bằng vàng, bên trong có dấu cơ quan, bảy mươi bảy quân toán muốn lúc nào là có thể bắn ra lúc ấy, nhưng cái bàn toán trên bàn kia làm bằng gỗ gụ trông thật bình thường, mấy thanh ngang làm bằng tre, hiển nhiên y dùng nội lực chấn gãy những thanh này rồi dùng nội lực bắn tung những viên toán ra, công phu đó quả con mẹ nó cao minh thật.
Đôi trai gái kia càng nói càng cao hứng, còn tôi thì càng lúc càng hoảng hốt. Tôi ở trong nhà này giết hơn ba chục mạng người gây ra một vụ đại huyết án vậy mà đứng trơ trơ nơi đây, không nhúc nhích gì được, nói cũng không nói được, tội tôi gây ra bị quả báo đã đành nhưng chuyện vỡ lở thì thể nào cũng liên lụy đến Kha sư huynh. Thời gian hơn hai giờ đó thật không khác gì chịu khổ hình mười năm, hai mươi năm.
Chờ mãi đến khi gà gáy sáng, người đàn ông bấy giờ mới cười nói: "Nương tử, mấy bước kế tiếp đây hôm nay mình nghĩ chưa ra, thôi mình đi chứ!". Người đàn bà nói: "Vị Kim Toán Bàn Thôi lão sư giúp chàng nghĩ ra được một bước thật kỳ diệu, mình phải tạ ơn y cái gì mới được". Tôi lại càng sợ hãi, không ngờ họ biết tên tuổi tôi rồi. Người đàn ông nói: "Nếu thế thì cho y sống thêm vài năm, lần sau gặp mình giết y cũng được. Y dám chửi nàng, chửi ta thì nay ha cho". Y nói rồi cầm cuốn sách lên, tiếp theo tay trái đưa về sau phất nhẹ sau lưng tôi giải khai huyệt đạo. Tiếp theo đôi trai gái đó nhảy qua cửa sổ đi mất. Tôi cúi đầu nhìn xuống thấy trước ngực áo có ba lỗ hổng, ba viên bàn toán ngay ngắn chỉnh tề gắn trên ngực tôi, thật dẫu có lấy thước mà đo cũng không được đều như thế. Chậc chậc, quí vị xem cái công trình của tôi đây.
Y nói xong cởi áo ra. Mọi người thoạt nhìn không khỏi bật cười, thấy hai quân gắn chặt trên hai đầu vú y, ngay chính giữa có thêm một viên khác, đã bấy lâu nay sao y không tìm cách gỡ ra.
Thôi Bách Tuyền lắc đầu, đóng khuy áo lại nói:
- Ba quân bàn toán này khảm trên thân thể tôi thật chịu không nổi. Tôi đã tính dùng dao nạy ra thế nhưng chỉ hơi dùng sức một chút, chạm phải huyệt đạo của mình lập tức chết giấc ngay, phải mất hai giờ sau mới hồi tỉnh. Còn như dùng dũa, dùng giấy nhám mà mài thì chao ôi, đau đến kêu ông kêu bà. Cái tội nghiệt này cứ lẩn quẩn theo tôi như bóng với hình, mỗi khi trái gió trở trời, ba chỗ đó tiên sư nó đau đến chết cha chết mẹ, thật chẳng khác gì rùa bị lột mai.
Mọi người nghe y nói vừa kinh hãi, vừa tức cười. Thôi Bách Tuyền thở dài một tiếng nói:
- Gã đó nói là lần sau gặp lại tôi sẽ lấy mạng, thành thử nếu muốn khỏi chết chỉ có cách là không gặp lại y, đó là cách duy nhất. Không còn đường nào khác hơn, tôi chỉ còn nước cao bay xa chạy trốn vào trong phủ Trấn Nam Vương. Tôi đã tính trong bụng, nước Đại Lý ở nơi xa vắng cõi thiên nam, những người trong võ lâm Trung Nguyên mấy ai rỗi hơi tìm đến, nếu vạn nhất tên khốn kiếp đó mò được tới đây thì có Đoàn vương gia, Cao hầu gia, Chử bằng hữu bao nhiêu là cao thủ, không lẽ ai cũng giương mắt không nhúng tay vào, để mặc cho y giết tôi hay sao? Ba viên quân bàn toán nằm trên ngực tôi, đau đớn chịu không nổi đành phải quay sang rượu chè bét nhè, quấy quá cho qua cơn đau. Bao nhiêu hùng tâm tráng chí, truyền tông tiếp đại, con mẹ nó đổ xuống sông xuống biển hết.
Mọi người nghĩ thầm: "Việc người này gặp phải với Hoàng Mi tăng chẳng khác gì mấy, chỉ có điều một người xuất gia làm sư, một người ẩn tính mai danh mà thôi". Đoàn Dự hỏi thêm:
- Hoắc tiên sinh, làm sao ông biết hai vợ chồng đó thuộc họ Mộ Dung đất Cô Tô?
Chàng quen miệng gọi "Hoắc tiên sinh" nhất thời chưa sửa đổi được. Thôi Bách Tuyền gãi đầu nói:
- Cái đó là do sư ca của tôi đoán chừng vậy thôi. Tôi bị trúng ba quân bàn toán rồi liền quay về bàn với sư ca, ông ta nói trong võ lâm chỉ có một họ Mộ Dung đất Cô Tô là có cái ngón "gậy ông đập lưng ông" đó thôi. Tôi quen dùng quân bàn toán đả thương người khác, y lại dùng nó đánh tôi. Họ Mộ Dung đất Cô Tô người không đông, con mẹ nó chứ, cũng may nhà này ít người, chứ nếu như con đàn cháu đống thì trên giang hồ còn ai sống sót nổi, chắc chỉ còn mình họ Mộ Dung thôi.
Câu nói của y nghe ra bất kính đối với họ Đoàn nước Đại Lý nhưng cũng không ai để ý tới. Thôi Bách Tuyền lại tiếp:
- Trong nhà này nổi danh thì chỉ có Mộ Dung Bác, bốn mươi ba năm trước thiếu niên mười lăm mười sáu kia dùng Kim Cương chỉ đả thương vị đại sư này, mười tám năm trước, gã trung niên khoảng bốn mươi ném quân bàn toán vào tôi xem ra cũng là Mộ Dung Bác đấy thôi. Có ngờ đâu sư ca của tôi lại chết dưới tay y. Ngạn Chi, sư phụ ngươi làm sao lại gây chuyện với y vậy?
Quá Ngạn Chi đáp:
- Sư phụ cháu trước nay chỉ lo làm ăn, vẫn thường bảo là "mọi người hỉ hả mới đẻ ra tiền", chẳng bao giờ mích lòng ai nên quyết không thể nào gây sự với họ Mộ Dung đất Cô Tô được. Mình ở Nam Dương, họ ở Tô Châu hai bên cách nhau đến mười vạn tám ngàn dặm.
Thôi Bách Tuyền nói:
- Nếu thế ắt hẳn Mộ Dung Bác thấy ta là con rùa đen rụt đầu rụt cổ kiếm không ra nên mới tra hỏi sư phụ ngươi. Sư phụ ngươi có nghĩa khí thà chết chứ không tiết lộ ta đang trốn ở Đại Lý nên mới trúng phải độc thủ của y. Kha đại ca, anh chết vì em rồi.
Nói xong nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, nghẹn ngào nghiến răng:
- Mộ Dung Bác, Mộ Dung Bác, ta nhất quyết lột da ngươi.
Y khóc mấy tiếng rồi quay sang Đoàn Chính Thuần:
- Đoàn vương gia, tôi đã nói hết cả rồi, bao nhiêu năm nay được vương gia che chở, lại cũng không lột mặt nạ tôi, Thôi mỗ thật là cảm kích, không biết cách gì báo đáp. Thôi chúng tôi đi Cô Tô đây!
Đoàn Chính Thuần lạ lùng hỏi:
- Ngươi đi Cô Tô ư?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Đúng thế! Sư ca tôi thật chẳng khác gì anh ruột. Cái thù giết anh không thể không báo! Ngạn Chi, thôi mình đi.
Nói xong quay sang mọi người vái một cái thật sâu rồi đi thẳng. Quá Ngạn Chi cũng chắp tay chào, đi theo y. Việc xảy ra hoàn toàn không ai ngờ nổi, thấy y nói tới Cô Tô Mộ Dung Bác lợi hại là thế nhưng vì mối thù sư huynh nhất định chịu chết không còn sợ sệt gì nữa, ai nấy trong lòng đều kính phục ngầm. Đoàn Chính Thuần nói:
- Hai vị đừng gấp. Quá huynh từ xa tới đây, đêm nay nghỉ lại đây, sáng mai đi cũng không muộn.
Thôi Bách Tuyền dừng chân quay lại nói:
- Vâng! Vương gia bảo như thế, thôi thì chúng tôi xin thêm một bữa cơm vậy. Ngạn Chi, thôi mình đi uống rượu.
Y dẫn Ngạn Chi ra ngoài. Bảo Định Đế nói với Đoàn Chính Thuần:
- Thuần đệ, sáng mai chú cùng Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã, Ba Tư Không đến chùa Thân Giới ở châu Lục Lương, thay ta làm lễ trước linh sàng Huyền Bi đại sư.
Đoàn Chính Thuần đáp lờn còn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người phục xuống bái tạ. Bảo Định Đế lại nói với Đoàn Chính Thuần:
- Sau khi bái kiến Ngũ Diệp phương trượng rồi ở lại chùa Thân Giới chờ những vị sư chùa Thiếu Lâm đến, nhờ họ trình lên phong thư ta gởi đến phương trượng Huyền Từ đại sư.
Ông quay sang nói với Ba Thiên Thạch:
- Viết hai phong thư, một lá gửi cho phương trượng chùa Thiếu Lâm, một lá gửi cho phương trượng chùa Thân Giới rồi sửa soạn hai món lễ vật.
Ba Thiên Thạch khom lưng phụng chỉ. Bảo Định Đế nói:
- Ngươi mời hai vị đại sư chùa Thiếu Lâm đi nghỉ.
Đợi Ba Thiên Thạch dẫn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi khỏi rồi, Bảo Định Đế nói:
- Họ Đoàn Đại Lý nhà ta vốn từ võ lâm Trung Nguyên mà ra, mấy trăm năm qua không hề vong bản. Bằng hữu võ lâm Trung Nguyên đến Đại Lý chúng ta đều lấy lễ mà tiếp đãi. Tổ tiên họ Đoàn đã di huấn nghiêm cấm con cháu tham dự vào việc oán thù, tranh chấp riêng tư của võ lâm. Cái chết của Huyền Bi đại sư, tuy họ Đoàn chúng ta không thể sõng tay đứng ngoài nhưng việc báo cừu thì phải do phái Thiếu Lâm tự lo liệu lấy, chúng ta không nhúng tay vào.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Vâng, em đã hiểu rồi.
Hoàng Mi tăng nói:
- Bên trong đây có chuyện gì thực không dễ gì mà biết rõ được. Chúng ta không thể không tương trợ phái Thiếu Lâm nhưng không nên xen vào chuyện thù hận chém giết. Họ Mộ Dung tuy người không đông nhưng là một thế gia trong võ lâm, bạn bè bộ thuộc không phải là ít. Phái Thiếu Lâm và họ Mộ Dung hai bên ngang nhiên chống báng nhau là một đại sự vang dậy cổ kim, gió tanh mưa máu, không biết chết bao nhiêu người. Nước Đại Lý ta mấy năm nay quốc thái dân an, nếu như chúng ta xen vào tranh chấp này, nay mai võ lâm Trung Nguyên tìm đến đây gây chuyện sinh sự e rằng không bao giờ dứt được.
Bảo Định Đế nói:
- Đại sư nói chí phải. Chúng ta một mặt theo chính đạo mà hành sự, mặt khác cố gắng nhịn một bước. Thuần đệ, em phải nhớ rõ bốn chữ "Trì Chính Nhẫn Nhượng".
Đoàn Chính Thuần khom lưng nhận lời dạy bảo của anh.
Hoàng Mi tăng nói:
- Hai vị hiền đệ, thôi bây giờ mình từ biệt nhau, ta còn phải trở lại Vạn Kiếp Cốc một lần nữa.
Mọi người ai nấy ngạc nhiên, Bảo Định Đế hỏi:
- Sư huynh đến Vạn Kiếp Cốc có chuyện gì? Có cần mang theo ai không?
Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:
- Đến cả hai tiểu đồ của ta ta cũng không cho theo. Hai vị hiền đệ đoán thử xem, ta đến Vạn Kiếp Cốc để làm gì?
Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần thấy ông ta cười khà khà, thầm nghĩ chắc việc này không có gì khó khăn nhưng không đoán ra chuyện gì. Hoàng Mi tăng quay sang nói với Đoàn Dự:
- Hiền điệt chắc là đoán ra.
Đoàn Dự ngạc nhiên: "Tại sao bá phụ và gia gia đoán không ra mà mình lại đoán ra là sao?". Chàng suy nghĩ hiểu ngay lý do cười nói:
- Đại sư muốn đến đánh cờ phục thù.
Hoàng Mi tăng cười sằng sặc nói:
- Đúng đó! Ta làm sao mà thắng được thái tử Diên Khánh ván cờ đó quả thực kỳ lạ. Y đánh cờ tự bịt một mắt là cớ gì?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Tiểu điệt cũng không hiểu nổi.
Hoàng Mi tăng nói:
- Hoặc giả trong thạch thất hay phiến đá có cái gì bất thường chăng? Lão nạp phải tới xem mới được.
Người ham đánh cờ mỗi khi xong một ván, dù thua dù được bao giờ cũng suy ngẫm lại, chỗ nào mình sơ sểnh mất nước, chỗ nào chậm chỗ nào nhanh phải hiểu rõ từng nước mới thấy an tâm. Hoàng Mi tăng thắng ván cờ đó thật lạ kỳ, nếu không tìm ra nguyên do tại sao ắt sẽ suốt đời thắc mắc.
Kế đó Bảo Định Đế khởi giá hồi cung, Hoàng Mi tăng cũng dặn hai người học trò quay về chùa Niêm Hoa một mình quay lại Vạn Kiếp Cốc, sắp lại phiến đá xanh đã bị Đoàn Diên Khánh chấn động vỡ nát từ đầu đến đuôi xem lại từng nước. Đoàn Chính Thuần tiễn đưa Bảo Định Đế và Hoàng Mi tăng đi rồi, quay về nội thất định nói chuyện với vương phi. Ngờ đâu Đao Bạch Phượng vẫn còn đang tức tối chuyện ông có thêm một đứa con riêng là Chung Linh nên đóng cửa không cho vào. Đoàn Chính Thuần đứng ngoài năn nỉ ỉ ôi một hồi lâu, Đao Bạch Phượng mới nói chõ ra:
- Nếu ông không đi nơi khác, tôi lẽ lập tức quay về Ngọc Hư Quan.
Đoàn Chính Thuần không biết gì hơn đành quay về thư phòng ngồi ngơ ngẩn, nghĩ tới Chung Linh bị Vân Trung Hạc bắt đi, chẳng hiểu Chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần đuổi theo cứu được hay không, bọn Chử Vạn Lý đi nghe ngóng tin tức cũng chưa thấy quay về bẩm báo, trong bụng thắc thỏm không yên.
Ông lấy trong túi ra chiếc hộp vàng của Cam Bảo Bảo trao lại xem kỹ càng, nhìn mấy hàng chữ nhỏ như đầu ruồi nàng viết, nghĩ lại mười bảy năm xưa cùng nhau vui vầy, loan điên phượng đảo, lại tưởng đến nàng chờ đợi mỏi mòn không thấy mình quay lại nên đành phải lấy Chung Vạn Cừu, trong lòng thật xót xa: "Khi đó nàng mới chỉ là một cô gái mười bảy tuổi, cha và dì ghẻ nàng vốn dĩ chẳng tử tế gì, trong bụng mang đứa con của ta thì nàng còn làm gì hơn được?".
Ông càng nghĩ càng đau lòng đột nhiên nghĩ đến khi trên bàn tiệc Đao Bạch Phượng nói với Hoa Tư Đồ: "Cái hầm đó thông vào cư thất của Chung phu nhân, nếu không lấp đi trong đám mình ắt có một vị nhân huynh tối nào cũng theo đó mà lẻn vào" liền gọi một tên thân binh sai y không được tiết lộ phong thanh, bí mật đi triệu hai gia tướng thân tín của Hoa Tư Đồ tới hầu.
*
* *
Đoàn Dự ngồi trong thư phòng, trong lòng miên man nghĩ đến những kỳ ngộ mình gặp phải trong mấy ngày qua, cùng Mộc Uyển Thanh đính ước thành vợ chồng, ngờ đâu nàng lại chính là em gái mình. Thế nhưng lạ hơn nữa, Chung Linh cũng lại là em mình nốt, bây giờ nàng bị Vân Trung Hạc bắt đi không biết có thoát hiểm hay không, trong lòng thật là bồn chồn. Chàng nghĩ tới vợ chồng Mộ Dung Bác nghiên cứu Lăng Ba Vi Bộ chẳng hiểu hai người có giây mơ rễ má gì đến thần tiên tỉ tỉ trong hang núi hay không? Không lẽ hai người đó là đệ tử phái Tiêu Dao? Thần tiên tỉ tỉ đã dặn ta phải giết sạch bọn họ, nhưng hai người này võ công cao cường như thế, bảo mình đi giết thật đúng là trò cười.
Chàng nghĩ đến những ngày bị giam trong thạch thất, không làm trò loạn luân, thật là hú vía, may sao bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ lại tập thuần thục hơn nhiều, nhưng công phu thần tiên tỉ tỉ dặn phải luyện thì chểnh mảng đã lâu. Nghĩ thế chàng bèn thò tay vào túi định đem quyển trục ra xem, tay vừa mò vào chợt thấy không xong vội vàng đem ra, kêu luôn mồm:
- Chết rồi! Trời ơi là trời!
Quyển trục kia giờ đây chỉ còn là những mẩu giẻ rách quấn lại thành một túm, vừa mở ra trông có còn gì nữa đâu. Những miếng giẻ đó tối đa chỉ còn được hai ba phần, hình vẽ và chữ nghĩa ghi trên quyển không còn gì nữa. Đoàn Dự tưởng nhơ rơi vào hầm băng, trong bụng tự hỏi: "Sao lại ra ... ra thế này là làm sao?".
Một lúc lâu sao chàng mới nghĩ ra khi bị người áo xanh nhốt trong nhà đá, trong người nóng không chịu nổi, bao nhiêu quần áo xé rách hết, sau cùng chạy như người điên tay vẫn rứt áo xé quần, trong cơn mê loạn còn phân biệt đâu là quần áo đâu là quyển trục nên cũng xé vụn hết cả vứt lung tung. Chàng nhìn những hình người khỏa thân, cái thì cụt tay cái thì cụt chân ngơ ngẩn một hồi nhưng cũng thấy gánh nặng trên vai nhẹ bỗng nghĩ thầm: "Quyển trục rách mất rồi, thần công của thần tiên tỉ tỉ truyền cho ta nay không sao luyện được nữa, không phải ta không luyện mà là không thể luyện. Cho nên việc "giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao" vân vân không tính đến nữa". Chàng vơ những mảnh vải rách đó vứt luôn vào trong lò, châm lửa lên đốt thành một đống tro nghĩ thầm: "Những hình người khỏa thân trong quyển trục này càng nhìn càng thêm khinh mạn thần tiên tỉ tỉ, chi bằng hỏa hóa âu cũng là ý trời đó thôi".
Chàng thấy trời đã tối dần nên đi đến phòng mẫu thân, định truyện trò với mẹ một lát rồi cùng bà ăn cơm chiều. Đến trước cửa phòng chỉ thấy cửa đóng chặt, con tì nữ hầu hạ vương phi cười hì hì nói:
- Vương phi ngủ rồi, xin công tử sáng mai hãy đến.
Đoàn Dự nghĩ thầm: "À, đúng rồi, cha ta đang ở trong đó". Chàng quay mình đi ra định đi tìm Mộc Uyển Thanh nói chuyện, qua đến một hành lang chợt nghĩ mình lúc này nên tránh mặt là hơn gặp nhau chỉ càng làm cho nàng thêm đau lòng. Chàng rảnh rỗi không có việc gì làm thuận chân đi ra vườn hoa đằng sau nhà.
Bấy giờ trời đã sâm sẩm tối, chàng đến ngồi bên trong căn đình bên cạnh ao nhìn lên vàng trăng non từ hướng đông đi lên, nghĩ đến bóng trăng này cũng chiếu vào ngọc bích nơi kiếm hồ trong núi Vô Lượng, một vài giờ nữa trên vách núi sẽ hiện lên thanh trường kiếm ngũ sắc, chỉ vào động phủ nơi có pho tượng thần tiên tỉ tỉ. Chàng còn đang suy nghĩ xuất thần, bỗng nghe ngoài tường truyền vào vài tiếng huýt nho nhỏ, ngừng lại một chút rồi lại có vài tiếng nữa. Nếu phải trước đây chàng cón ghe cũng chẳng để tâm, nhưng sau mấy ngày đã thêm duyệt lịch, trong bụng hơi lạ nghĩ thầm: "Chẳng lẽ là ám hiệu của nhân vật giang hồ nào chăng?".
Một lát sau, tiếng huýt còi lại nổi lên thấy nơi bụi hoa mẫu đơn có một bóng người nhanh nhẹn vụt qua chạy đến bên cạnh tường nhảy lên đầu tường. Đoàn Dự thất thanh kêu lên:
- Uyển muội!
Người đó chính là Mộc Uyển Thanh. Chỉ thấy nàng tung mình nhảy lên vọt ra bên ngoài tường. Đoàn Dự lại gọi:
- Uyển muội!
Chàng chạy đến chỗ Mộc Uyển Thanh vừa nhảy qua nhưng chàng không thể nào nhảy lên đầu tường được, cửa sau hoa viên ngay bên cạnh nhưng đã cài then lại thêm khóa sắt đóng chặt chỉ đành đứng đó mà réo:
- Uyển muội! Uyển muội!
Chỉ nghe Mộc Uyển Thanh ở bên ngoài nói lớn:
- Anh còn gọi tôi làm gì? Tôi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại anh, tôi đi theo mẹ tôi đây.
Đoàn Dự vội gọi giật lại:
- Em đừng đi, nhất định đừng nên đi.
Một lát sau bên ngoài tường có tiếng một người đàn bà giọng già dặn hơn:
- Uyển nhi! Thôi mình đi con. Ấy, chớ có làm thế!
Không nghe tiếng Mộc Uyển Thanh trả lời, Đoàn Dự đoán chừng người đàn bà kia là Tần Hồng Miên bèn kêu:
- Tần A Di, xin cả hai người vào đây.
Tần Hồng Miên hỏi lại:
- Vào làm gì? Để cho mẹ ngươi giết ta hay sao?
Đoàn Dự cứng họng, hết sức đẩy cửa hoa viên vừa kêu:
- Uyển muội! Em đừng đi, chúng mình thủng thẳng tìm cách tính lại.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Còn có cách nào nữa? Có trời cũng không làm gì được.
Một lát sau nàng đột nhiên kêu lên:
- A! có cách rồi, anh có dám làm không?
Đoàn Dự mừng rỡ đáp:
- Hay lắm! Cách nào thế?
Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, một thanh đao xanh biếc luồn vào khe cửa chặt đứt luôn cái khóa tiếng theo hai tiếng bình bình, cửa hoa viên mở toang ra, Mộc Uyển Thanh đứng ngay đó, trong tay cầm một thanh Tu La Đao nói:
- Chàng vươn cổ ra để cho em chém, sau đó em sẽ tự sát ngay, hai đứa mình đầu thai kiếp sau lúc đó không còn là anh em nữa sẽ thành vợ thành chồng.
Đoàn Dự sợ chết điếng run run nói:
- Cái đó ... cái đó ... không được đâu!
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Em bằng lòng, sao chàng lại không làm được? Hay là anh muốn giết em trước rồi tự sát sau.
Nói xong chuyển ngược thanh Tu La Đao lại. Đoàn Dự hoảng hốt lùi lại hai bước nói:
- Không đâu! Không đâu!
Mộc Uyển Thanh từ từ quay lại cầm lấy tay mẹ, rảo bước đi. Đoàn Dự đứng như trời trồng một hồi lâu, ngẩn ngơ nhìn theo bóng hai mẹ con lẫn dần vào bóng tối. Mặt trăng từ từ lên cao, chàng vẫn còn đứng chết lặng. Đột nhiên sau cổ bị ai nắm chặt, thân hình bị người nào đó xách bay vọt lên, có tiếng cười nhỏ bên tai:
- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn là sư phụ ta thì là sư phụ chết, còn chịu làm đồ đệ ta thì là đồ đệ sống.
Tiếng nói đó chính là của Nam Hải Ngạc Thần.
*
* *
Đoàn Chính Thuần dẫn hai gia tướng đắc lực của Hoa Hách Cấn giục ngựa chạy đến Vạn Kiếp Cốc. Hai tên gia tướng đó vốn đi theo Hoa Hách Cấn đào đường hầm nên biết lối vào ở chỗ nào, liền vạch những tùm cây che cửa hang. Một tên gia tướng nói:
- Tiểu nhân xin dẫn đường!
Đoàn Chính Thuần ngăn lại:
- Không cần, hai người ở ngoài này đợi ta.
Ông đang định chui vào trong hầm bỗng thấy ở phía tây đằng sau một cây to có bóng người thấp thoáng, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Đoàn Chính Thuần lập tức nhảy tới đuổi theo, quát nhỏ:
- Ai đó!
Đằng sau gốc cây có tiếng khẽ đáp lại:
- Bẩm vương gia, Thôi Bách Tuyền đây.
Y len lén chui ra. Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:
- Thôi huynh đến đây làm gì thế?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Tiểu nhân nghe thấy thiên kim của vương gia bị gian nhân bắt cóc nên cùng với sư điệt hai người chia ra đi tìm. Tiểu nhân trên đường có thấy đôi chút đầu dây mối nhợ nghĩ rằng tiểu thư chạy về phía này nhưng kẻ gian kia vẫn đuổi theo sát chưa chịu buông tha.
Đoàn Chính Thuần lập tức hiểu ra: "Gã Thôi Bách Tuyền này là người ân oán phân minh, y trốn trong nhà ta bấy nhiêu năm, chịu ơn chưa kịp báo đáp. Lần này đi kiếm Cô Tô Mộ Dung báo thù, quyết ý chết dưới tay người. Y chỉ mong giúp ta kiếm lại được Linh nhi, báo đáp cái ơn ta dung dưỡng y lâu nay". Ông liền cúi rạp người vái một cái nói:
- Cao nghĩa của Thôi huynh, tại hạ cảm kích khôn cùng.
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Tiểu nhân đến bên kia tìm kiếm.
Y lắc người một cái đã lẩn vào trong rừng cây, khinh công quả cũng vào loại khá.
Đoàn Chính Thuần thấy hơi yên trong bụng, nghĩ thầm: "Võ công của Thôi huynh không kém gì bọn Vạn Lý, Đan Thần". Ông quay lại cửa địa đạo tiến vào hang.
Bò được một lát, địa đạo chia làm hai nhánh. Ông đã hỏi kỹ hai tên gia tướng của Hoa Tư Đồ biết là đường hầm phía đông bắc thông vào thạch thất trước dùng để giam giữ Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh còn phía tây bắc thông vào ngọa thất của Chung phu nhân nên liền theo phía này bò tới. Đi đến hết cái hang, ông nhè nhẹ nâng phiến gỗ trên nắp lên mấy tấc thấy ánh sáng chiếu vào, nhìn qua khe hở thấy hai bàn chân đi giày thêu màu tím nhạt đang ở trên mặt đất.
Đoàn Chính Thuần trong lòng chấn động, đẩy mảnh gỗ lên thêm mấy tấc nữa, nghe tiếng Cam Bảo Bảo thở dài, một lát sau mới buồn bã nói:
- Nếu như chàng chẳng phải vương gia, chỉ là một người thợ cày thợ săn, hay dẫu cho có là một tên ăn cắp trộm gà bắt chó, đốt nhà cướp của, thiếp cũng nguyện theo chàng ... theo chàng suốt đời ...
Nói xong mấy giọt lệ lã chã rơi xuống, rơi lên trên ván bên cạnh đôi giày hoa. Máu nóng trên ngực Đoàn Chính Thuần dâng lên, nghĩ thầm: "Ta chẳng thèm làm vương gia, chỉ mong làm tên ăn cắp vặt, làm tên ăn cướp để nàng được mãi mãi bên ta. Cái chức vương gia này đâu có đáng gì?".
Lại nghe Cam Bảo Bảo nói tiếp:
- Không lẽ kiếp này thiếp không gặp lại được chàng một lần nữa hay sao? Một lần không được ư? Thiếp ... thiếp chết đi cho xong ... Thuần ca! Thuần ca! ... chàng có nhớ đến em không?
Mấy tiếng gọi thiết tha đó nghe thật não lòng não dạ. Đoàn Chính Thuần nhịn không nổi gọi khẽ:
- Bảo Bảo, cục cưng Bảo Bảo ơi!
Cam Bảo Bảo hoảng hốt, đứng phắt dậy nhưng rồi lập tức thở dài, tự nói một mình:
- Thiếp lại nằm mơ nữa rồi! Trong giấc mơ nghe tiếng chàng gọi em!
Đoàn Chính Thuần nói khẽ:
- Cục cưng Bảo Bảo ơi! Chính ta gọi em đây, anh lúc nào cũng nghĩ đến em, cũng nhớ thương em.
Cam Bảo Bảo mừng rỡ ồ lên một tiếng:
- Thuần ca! Có thật là chàng đấy không?
Đoàn Chính Thuần mở tấm gỗ lên, chui ra nói nhỏ:
- Cục cưng Bảo Bảo, ta đây!
Cam Bảo Bảo đột nhiên thấy Đoàn Chính Thuần, mặt tái mét, chạy tới mấy bước, thân hình lảo đảo. Đoàn Chính Thuần tiến lên ôm chặt lấy bà, Cam Bảo Bảo rùng mình một cái bất tỉnh nhân sự. Đoàn Chính Thuần vội vàng xoa trên nhân trung, Cam Bảo Bảo từ từ tỉnh lại, thấy mình đang ở trong lòng Đoàn Chính Thuần, ông đang hôn hít trên má mình, mừng đến nỗi toàn thân tưởng như bốc thành hơi, đầu óc hoang mang, nói khẽ:
- Thuần ca! Thuần ca! Em ... em lại nằm mơ nữa rồi!
Đoàn Chính Thuần ôm chặt thân hình mềm mại của người tình, ghé tai bà thì thầm:
- Cục cưng Bảo Bảo, nàng không nằm mơ đâu, chính ta mới đang nằm mơ đó!
Đột nhiên ở bên ngoài có tiếng người ồm ồm:
- Ai? Ai ở trong phòng đó? Ta nghe có tiếng đàn ông!
Chính là tiếng của Chung Vạn Cừu. Đoàn Chính Thuần và Cam Bảo Bảo đều hoảng hốt, Cam Bảo Bảo lớn tiếng nói:
- Tôi đây! Cái gì mà đàn ông với chẳng đàn bà! Lại nói năng bậy bạ nữa rồi.
Đoàn Chính Thuần ghé tai bà nói nhỏ:
- Nàng đi theo ta, ta sẽ làm tên tiểu tặc, làm tên cường đạo, ta không làm vương gia nữa đâu!
Cam Bảo Bảo mừng quá nói nhỏ:
- Em sẽ theo chàng làm vợ tên ăn cắp vặt, làm vợ tên ăn cướp. Rồi có ngày ... như thế thật sung sướng.
Chung Vạn Cừu chưa được vợ đồng ý đâu có dám tùy tiện tiến vào phòng nhưng trên song cửa thấy có thấp thoáng bóng một người đàn ông, kêu lớn:
- Trong phòng nàng có đàn ông, ta ... ta trông thấy rồi.
Y không còn chờ vợ đồng ý hay không, bình một tiếng giơ chân đá tung cửa phòng.
*
* *
Đoàn Dự bị Nam Hải Ngạc Thần chộp được sau ót, nhấc bổng lên lập tức không còn cử động gì được. Bắc Minh thần công của chàng chỉ mới luyện có một đường Thủ Thái Âm Phế Kinh, khi nào huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái tiếp cận với người khác, mà đối phương lại vận kình thì mới hút được nội lực người ta mà thôi, còn lại các huyệt đạo khác đều không dùng được. Chàng đang định há mồm kêu cứu, Nam Hải Ngạc Thần liến giơ tay bịt miệng chàng lại, ôm lên rồi co giò chạy như bay, đến một nơi hẻo lánh cách xa phủ Trấn Nam Vương lúc ấy mới bỏ xuống, nhưng tay vẫn nắm cổ sợ chàng giở môn bộ pháp cổ quái đào tẩu.
Đoàn Dự cười gượng:
- Thì ra ngươi đổi ý không chịu làm học trò ta nữa, cam chịu làm quân đệ tiện, làm đồ khốn kiếp.
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Ai bảo thế? Ngươi trước hết lạy trả ta tám cái, đuổi ta ra khỏi môn tường không chịu nhận ta làm học trò nữa, sau đó lại lạy ta thêm tám cái, bái ta làm thầy. Chúng ta rành mạch rõ ràng như thế, ta đâu có là quân đê tiện, là đồ khốn kiếp được.
Đoàn Dự bật cười, lắc đầu:
- Ta không chịu. Ta lúc này bị ngươi chộp được, không có hơi sức đâu mà chống trả, ngươi cứ giết ta đi.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Hừ, ta đâu có để mắc hỡm ngươi, lão tử đời nào để người ta lừa mình thành quân đệ tiện khốn kiếp được. Ngươi tưởng ta ngu lắm sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi thông minh lắm, thật là thông minh.
Nam Hải Ngạc Thần nghĩ ra được cái "diệu kế" đó, chỉ mong "rành mạch rõ ràng" hoàn tất thủ tục là có thể biến học trò thành thầy được ngay, ngờ đâu đối phương thà chết chứ không chịu rập đầu lạy mười sáu cái, mấy đêm nay suy nghĩ tính toán bây giờ hóa ra công cốc trong lòng không khỏi hoang mang.
Đoàn Dự nói:
- Qui củ của phái Nam Hải nhà ngươi, học trò có giết thầy được không?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Đương nhiên là không, chỉ có thầy giết trò chứ làm gì có chuyện trò giết thầy.
Đoàn Dự hỏi tiếp:
- Thế thì học trò nghe lời thấy hay là thầy nghe lời học trò?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Dĩ nhiên là trò phải nghe lời thầy, ngươi bái ta làm thầy rồi ta sai gì ngươi phải làm nấy.
Đoàn Dự cười đáp:
- Hiện giờ ngươi đang là học trò ta, ta bảo ngươi đi đoạt tiểu sư nương về, ngươi đã làm xong chưa?
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Con mẹ nó chứ, ta ra tay đánh nhau với Vân lão tứ thì ông già cũa tiểu sư nương chạy đến, thừa cơ đem tiểu sư nương bỏ chạy.
Đoàn Dự nghe thấy Chung Linh đã thoát khỏi độc thủ của Vân Trung Hạc trong lòng thật vui mừng. Nam Hải Ngạc Thần nói tiếp:
- Về sau ta lại đánh nhau với ông già của tiểu sư nương, y đánh một hồi thì không chịu đánh nữa, tiểu sư nương tự mình chạy đâu mất. Vân lão tứ bảo là bọn ta quay lại Vạn Kiếp Cốc giết Chung Vạn Cừu cho rồi.
Đoàn Dự hỏi:
- Sao lại thế?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Việc đó không thể không làm, nếu không thì Nhạc lão nhị không còn ngóc đầu lên được trên chốn giang hồ, ai ai cũng chẳng còn coi ta ra gì.
Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại:
- Nói thế là nghĩa làm sao? Vân lão tứ đánh lừa ngươi đó, đừng nghe lời y làm gì.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Không phải, không phải! Vân lão tứ có lòng tốt mới bảo cho ta hay, ngươi không rõ đạo lý ở bên trong, để ta chỉ cho ngươi. Tiểu cô nương đó là sư nương của ta vai vế đã hơn ta một hàng rồi, ông già của cô ta phải hơn ta hai bậc, con mẹ nó chứ, Chung Vạn Cừu là cái thá gì mà lại hơn ta đến hai hàng được? Không giết y không xong. Vân lão tứ còn bảo, y muốn đến cướp con vợ Chung Vạn Cừu về làm vợ, vì y nghĩ đến tình Tứ Đại Ác Nhân với nhau nên hết sức vì ta, hoàn toàn vì ta, không kể sống chết nhất quyết phải làm cho xong.
Đoàn Dự càng ngạc nhiên hơn hỏi tiếp:
- Thế là như thế nào?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Vợ của Chung Vạn Cừu là mẹ của sư nương ta nghĩa là hơn ta đến hai bậc. Nếu như Vân lão tứ chiếm được mụ làm vợ thì mụ ta sẽ thành vợ của em Nhạc lão nhị này, tức là em dâu ta. Con gái của mụ sẽ thấp hơn ta một bậc, trở thành cháu của ta. Ngươi là chồng của điệt nữ ta sẽ thành cháu rể ta, vậy là dưới ta một bậc. Đến khi đó ta gọi ngươi là sư phụ, ngươi lại gọi ta là bác hai, có phải mình hai người người nào cũng có vai vế hay chăng? Ha ha! Cách đó thiệt là hay.
Đoàn Dự cũng cười ha hả. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Thôi mau lên, mau lên! Mình là cho xong việc này, trên đời này quyết không thể có ai cao hơn Nhạc lão nhị đến hai bậc.
Y nắm tay Đoàn Dự kéo chạy như bay về phía Vạn Kiếp Cốc.
*
* *
Đoàn Chính Thuần nghe thấy tiếng Chung Vạn Cừu đá cửa phòng vào, trong đầu chợt nghĩ ra một ý niệm: "Mình không nên giết y", nhẹ nhàng gỡ tay Cam Bảo Bảo ra, chui xuống hầm, đóng nắp lại. Chung Vạn Cừu tay cầm đại đao, xông thẳng vào phòng thấy trong đó chỉ có mình Cam Bảo Bảo vội vàng mở tủ, ngó xuống gầm giường, sau cánh cửa các nơi xem xét, chẳng thấy một người đàn ông nào, đến bóng ma cũng không, trong bụng lạ lùng. Cam Bảo Bảo giận dữ nói:
- Ông lại hiếp đáp tôi, mau một đao giết tôi cho xong.
Chung Vạn Cừu không kiếm thấy ai trong bụng mừng không để đâu kể xiết, vội vàng vứt đại đao đi, cười nịnh:
- Phu nhân, chắc là tại mắt tôi hoa, mới rồi uống quá chén đấy mà!
Y vừa nói vừa nhìn ngang nhìn ngửa. Đột nhiên bên ngoài có tiếng chân người rầm rập, tiếng Chung Linh hoảng hốt kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Kế đó nàng chụt vụt vào trong phòng, rồi có tiếng Vân Trung Hạc kêu lên:
- Ngươi có chạy lên trời ta cũng đuổi cho bằng được.
Rồi lập tức y chạy theo vào. Chung Linh kêu lên:
- Cha ơi! Tên ác nhân kia ... tên ác nhân kia đuổi bắt con ...
Nàng bị Vân Trung Hạc rượt đuổi vốn dĩ đã thở không ra hơi, cũng may đang ở trong nhà mình nên nàng thuộc đường, tránh bên đông trốn bên tây, Vân Trung Hạc phải chạy khuất khúc góc nọ góc kia không thi triển khinh công nên nàng mới chạy vào được phòng của mẫu thân.
Vân Trung Hạc thấy vợ chồng Chung Vạn Cừu đều ở trong đó, trong bụng mừng lắm, gặp dịp giết Chung Vạn Cừu rồi bắt luôn cả Chung phu nhân lẫn Chung Linh. Chung Vạn Cừu liên tiếp đánh ra ba chưởng nhưng Vân Trung Hạc đều né tránh được cả tiếp tục lòn quanh chiếc bàn đuổi bắt Chung Linh. Y nghĩ thầm: "Bắt con nhãi con điểm huyệt nó trước, sau đó giết cha bắt mẹ để nó khỏi chạy thoát được".
Chung Linh kêu lên:
- Thằng sếu vườn kia, ngươi còn đuổi theo ta là ta thọc léc ngươi đó.
Vân Trung Hạc ngạc nhiên, kêu lên:
- Ngươi dám thọc léc ta ư? Có giỏi thì thử xem nào?
Nói xong y nhảy chồm tới.
*
* *
Hôm đó Chung Linh bị Vân Trung Hạc ôm đi, nàng cố hết sức giãy giụa nhưng làm sao thoát được tay y? Trong lúc nàng sợ muốn chết thì nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần từ sau đuổi tới, kêu lớn:
- Sư nương, sư nương! Mau thò tay cù dưới nách tên sếu vườn, gã tre miễu đó sợ nhất là thọc léc.
Chung Linh nghĩ thầm: "Cù léc ư? Cái đó chính là tài nghệ số một của ta đây". Nàng liền thò tay toan thọc léc Vân Trung Hạc, ngờ đâu Vân Trung Hạc nghe Nam Hải Ngạc Thần nói rồi không cần Chung Linh phải ra tay, nhịn không nổi đã cười sằng sặc. Tiếng cười vừa ra, y không còn thể nào chạy nhanh được nữa, Nam Hải Ngạc Thần đã đuổi tới nới. Vân Trung Hạc nói:
- Nhạc lão tam, ngươi mắc hỡm người ta rồi.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Cái gì mà mắc hỡm? Có mau bỏ sư nương ta xuống không, nếu không thì nếm thử mùi vị ngạc chủy tiễn của ta đây.
Vân Trung Hạc không còn cách nào khác đành phải bỏ Chung Linh xuống. Chung Linh nhân lúc Vân Trung Hạc không phòng bị liên giơ tay chọc vào nách y, Vân Trung Hạc gập người xuống cười như nắc nẻ đến nước thở không ra hơi. Y càng cười Chung Linh càng liên tục thọc léc khiến cho Vân Trung Hạc vừa cười khanh khách vừa ho sặc sụa. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Sư nương tha cho y đi, nếu còn cù nữa y không thở được chắc là chết mất.
Chung Linh ngạc nhiên, tên ác nhân này võ công cao cường như thế, cớ sao lại để người khác thọc léc đến chết được? Nàng bèn nói:
- Ta không tin, ta cứ thọc léc thử xem sao.
Nam Hải Ngạc Thần vội nói:
- Không được đâu, đừng có thử, y chết rồi không sống lại được đâu. Chỗ yếu điểm luyện công của Vân Trung Hạc là ở huyệt Thiên Tuyền dưới nách, nơi đó không thể đụng vào được.
Chung Linh nghe y nói thế liền rút tay lại không cù y nữa. Vân Trung Hạc đứng thẳng lên, đột nhiên nhổ một bãi nước bọt vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, chửi:
- Con cá sấu chết toi kia, con cá sấu thối tha kia, nơi luyện công bí hiểm của ta, sao ngươi lại để cho người ngoài biết được?
Chung Linh nói:
- Giỏi nhỉ, ngươi dám chửi người ta à!
Nàng lại giơ tay ra thọc léc Vân Trung Hạc, có ngờ đâu lần này không hiệu nghiệm bị Vân Trung Hạc phóng ra một cước đá nàng lăn chòng chọc ra tận đằng xa.
Nam Hải Ngạc Thần đỡ Chung Linh dậy hỏi:
- Sư nương ngã có đau lắm không?
Chung Linh chưa kịp đáp đã thấy Chung Vạn Cừu từ xa cầm đao chạy tới kêu lên:
- Con khốn kiếp kia, ngươi còn ở đây làm gì?
Nam Hải Ngạc Thần quay lại chửi:
- Con mẹ nó chứ, ngươi chẳng biết đầu đuôi đến đây lải nhải cái gì?
Chung Vạn Cừu giận quá quát lại:
- Ta chửi con ta, việc gì đến ngươi?
Nam Hải Ngạc Thần nổi cơn thịnh nộ, chỉ vào mặt Chung Vạn Cừu gầm lên:
- Ngươi ... ngươi là đồ chó má, tính chơi trèo với ta hả? Ta ... Nhạc lão nhị này phải dần cho ngươi một trận.
Chung Vạn Cừu hỏi lại:
- Cái gì mà bảo ta chơi trèo ngươi?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Cô ta là sư nương của ta, dĩ nhiên cao hơn ta một bậc, ấy chẳng qua việc chẳng đặng đừng, ta cũng không còn đường nào khác. Ngươi dám tự xưng là cha cô ta, cái đó ... cái đó ... ngươi ... ngươi chẳng hóa ra trên ta đến hai bậc hay sao? Nhạc lão nhị này ở Nam Hải thật là tôn quí, ai ai cũng phải gọi ta là ông cố, ông tổ, sang đến Trung Nguyên đi đâu cũng dưới người ta một hai bậc. Lão tử đếch thèm, nhất định đếch chịu.
Chung Vạn Cừu đáp:
- Ngươi đếch thèm thì kệ ngươi. Nó là con ruột ta, lẽ dĩ nhiên ta là cha nó chứ cái gì mà lại "tự xưng" là sao?
Nam Hải Ngạc Thần ngoẹo đầu ngắm hai cha con, nói:
- Ngươi đúng là "tự xưng", sư nương ta xinh đẹp như thế, còn ngươi xấu đến ma chê quỉ hờn làm sao lại là ông già sư nương ta được? Sư nương ta nhất định là con người khác, không phải con ngươi. Ngươi là cha hờ, không phải cha thật.
Chung Vạn Cừu nghe nói thế, giận đến mặt tím ngắt, vung đao chém xuống Nam Hải Ngạc Thần. Chung Linh vội ngăn cha:
- Cha ơi! Người này cứu con khỏi tay tên ác nhân, cha đừng giết y!
Chung Vạn Cừu giận đến điên người, chửi con:
- Đồ đĩ thối, ta đã sớm nghi ngươi không phải con ta rồi. Đến ngay như tên cả đẫn này cũng còn nói thế thì còn sai làm sao được? Ta giết y trước rồi giết ngươi sau, kế đó về giết mẹ ngươi nốt.
Chung Linh thấy hai người xông vào đánh nhau, nhất thời chưa phân thắng bại lớn tiếng kêu:
- Này, Nhạc lão tam, ngươi không được giết cha ta đấy nhé!
Nàng lại quay sang nói:
- Còn cha, cha cũng đừng đả thương Nhạc lão tam.
Nói xong liền bỏ chạy. Nàng về đến Vạn Kiếp Cốc người thật mỏi mệt, về phòng mình nằm ngủ. Ngủ đến nửa đêm bỗng nghe Vân Trung Hạc la hét om sòm, lục lọi từ phòng này sang phòng khác nên vội nhỏm dậy bỏ chạy. Khi đó Chung Linh biết rằng mình không thể đến gần mà thọc léc Vân Trung Hạc được, chợt đâu nhìn thấy mộc bản cửa địa đạo hôm trước bị Hoa Hách Cấn kéo vào trong hang, vội vàng chạy tới mở ra chui tọt ngay xuống.
Vân Trung Hạc và Chung Vạn Cừu đột nhiên thấy có một đường hầm đều hết sức ngạc nhiên. Vân Trung Hạc vội vàng nhào tới toan nắm lấy chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu liền xuất chưởng ngay lưng y đánh tới. Vân Trung Hạc đưa tay ngược lại gạt ra, sợ rằng cô bé Chung Linh xinh đẹp kia chui vào địa đạo rồi không thể nào bắt được nên cũng chui theo.
Bò được chừng một trượng, trong bóng đêm cứ vung tay chộp lung tung, đột nhiên nắm ngay được một bàn chân nhỏ nhắn rồi nghe Chung Linh kêu lên:
- Trời ôi!
Nàng cố gắng giựt chân ra nhưng Vân Trung Hạc mừng quá sao lại để nàng thoát được, vận kình vào cánh tay định kéo nàng ra. Ngờ đâu khi vừa kéo Chung Linh lại kêu lên: "Ôi chao!" nhưng không thấy nhúc nhích, dường như phía trước có ai giữ lại. Ngay lúc đó, Vân Trung Hạc cũng thấy hai chân mình bị người ta nắm chặt kéo ra cùng với tiếng Chung Vạn Cừu:
- Ra mau! Ra mau!
Đó là vì Chung Vạn Cừu sợ y làm hại con gái mình, cũng đuổi theo vào trong đường hầm định kéo y ra. Chung Vạn Cừu thấy y không nhúc nhích đang định dùng sức, đột nhiên thấy gót chân mình cũng bị ai nắm chặt, một luồng lực đạo cuồn cuộn tuôn ra, rồi tiếng khàn khàn của Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:
- Thằng quỉ mặt ngựa, ngươi dám "tự xưng" là ông già của sư nương ta, muốn hơn ta đến hai bậc, ta thể nào cũng phải giết ngươi mới được.
Thì ra lúc này Nam Hải Ngạc Thần cắp được Đoàn Dự chạy tới đây, đứng ngoài phòng thấy Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu ba người chui vào trong đường hầm, nổi cơn bực tức nhất định phải giết cho bằng được gã "tự xưng hơn mình đến hai bậc", nên cũng lẻn vào phòng rồi chui tọt xuống địa đạo, nắm lấy chân Chung Vạn Cừu.
Đoàn Dự cũng vội vàng vào trong phòng nói với Chung phu nhân:
- Chung bá mẫu, cứu Chung Linh muội tử mới là cần kíp.
Chàng đang toan chui vào trong hầm đột nhiên bị ai đó xô một cái thật mạnh ngã lăn ra, có tiếng đàn bà kêu lên:
- Nhạc lão ta, Vân lão tứ, các ngươi mau chui ra. Lão đại dặn rằng hai đứa ngươi không được tàn sát lẫn nhau.
Tiếng nói đó chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương phụng mệnh Đoàn Diên Khánh đến gọi Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc. Mụ ta đến chậm một bước nhưng cũng thấy Vân Trung Hạc chui vàng trong hang rồi đến Chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần cũng vào theo, lại tưởng Nam Hải Ngạc Thần muốn đuổi theo giết Vân Trung Hạc, lão tứ võ công không bằng chỉ sợ sẽ bị y giết chết, lão đại thể nào cũng trách phạt.
Mụ ta gọi mấy tiếng không thấy Nam Hải Ngạc Thần chui ra cũng chui vào theo, chộp được hai chân Nam Hải Ngạc Thần, hết sức kéo ra. Đoàn Dự kêu lên:
- Ối ối! Các ngươi không được hại đến cô em Chung Linh của ta, trước kia nàng là vợ chưa cưới, bây giờ thì là em gái ta.
Chỉ nghe thấy trong hầm tiếng hò hét nhốn nháo, thanh âm hỗn tạp, không biết là ai gọi ai. Chàng nghĩ thầm tam đại ác nhân cùng chui vào trong địa đạo, Chung Linh ắt sẽ dữ nhiều lành ít, nàng với ta có nghĩa có tình, mình dù không biết võ công cũng phải xả mệnh cứu giúp nên cũng chạy ra cửa hang nắm hai gót chân Diệp Nhị Nương hết sức kéo ra.
Hai tay chàng nắm chặt dĩ nhiên là nắm vào nơi hõm vào của hai chân Diệp Nhị Nương, nơi đó thường gọi là cổ chân nhưng cũng chính là đại huyệt Tam Âm Giao trong Túc Thái Âm Tì Kinh là nơi gặp gỡ của ba mạch âm Túc Thiếu Dương Thận Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh và Túc Quyết Âm Tâm Bao Kinh.
Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào Tam Âm Giao của Diệp Nhị Nương, hai bên cùng sử kình, nội lực của Diệp Nhị Nương lập tức cuồn cuộn tuôn ra, chảy thẳng vào trong người Đoàn Dự.
Trong địa đạo không ai xoay ngang xoay dọc gì được, Vân Trung Hạc nắm được chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu lại nắm chân Vân Trung Hạc, Nam Hải Ngạc Thần nắm chân Chung Vạn Cừu, Diệp Nhị Nương nắm chân Nam Hải Ngạc Thần sau cùng là Đoàn Dự nắm chân Diệp Nhị Nương, ngoại trừ Chung Linh ra, cả năm người ai nấy ráng sức kéo người kia ra khỏi cửa hang. Chung Linh lực khí chẳng có bao nhiêu, đáng lẽ Vân Trung Hạc kéo nàng thật dễ dàng nhưng không biết có ai đó giữ chặt nàng lại không cho bị kéo đi.
Cả một dãy như thế huyệt Thiếu Thương người sau nắm vào Tam Âm Giao người trước. Theo dây chuyền Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần nội lực bốn người cuồn cuộn chảy qua Diệp Nhị Nương vào người Đoàn Dự. Chung Linh vốn dĩ chẳng có bao nhiêu nội lực nên cũng không sao, những người còn lại ai nấy sợ đến mất hết hồn vía, cố hết sức vùng vẫy, mong thoát được người đằng sau nắm chân mình nhưng vẫn bị nắm chặt giãy giụa sao cũng không ra, càng dụng kình sử lực nội lực càng mau tán thất.
Vân Trung Hạc thấy từ bàn chân Chung Linh nội lực cuồn cuộn tuôn vào, rồi lại theo gót chân mình mà chảy ra, tự hỏi sao con nhãi này nội lực ở đâu mà thâm hậu đến thế, quả thực kỳ lạ, cũng may tuy chân mình nội lực tuôn ra thì tay lại có nội lực đổ vào thành thử sống chết cũng không dám buông chân Chung Linh ra để khỏi lâm vào cảnh chỉ có ra mà không có vào. Những người khác ai cũng nghĩ như thế, trong bụng càng thêm sợ hãi thì hai tay càng nắm chặt thêm, chẳng khác nào người đang chết đuối vớ được cái gì sống chết cũng không chịu nhả.
Cái xâu người đó ở trong địa đạo tuy không ai thấy ai, lúc đầu còn nghe la hét: "Lão đại bảo các ngươi đi ra" "Bỏ chân ta ra!" "Ông phải giết mày" "Sao nắm chân ta! Có bỏ ra không nào!" "Mẹ ơi! Cha ơi!" nhưng càng về sau thấy nội lực truyền vào yếu dần đi, còn nội lực ở chân tuôn ra không giảm tí nào, càng kinh hãi không đâu kể xiết.
Đoàn Dự nắm một hồi thấy nội lực cuồn cuộn đổ vào người mình, chàng hồi trên núi Vô Lượng đã có kinh nghiệm này rồi bây giờ biết cách ứng phó, mỗi khi thấy người nóng nảy khó chịu thì lại dẫn nội lực vào biển khí nơi huyệt Đãn Trung. Một hồi sau chàng cảm thấy huyệt Đãn Trung của mình dường như căng phồng muốn vỡ toang ra cảm thấy sợ hãi nhưng có điều Chung Linh đang gặp hung hiểm nên không thể nào buông tay ra được, đành nghiến răng có hết sức gắng chịu.
Cam Bảo Bảo thấy không biết bao nhiêu chuyện quái lạ, chân tay luống cuống, nhớ lại lúc nãy được Đoàn Chính Thuần ôm vào lòng hôn hít, ngồi nơi ghế ngơ ngẩn xuất thần, miệng lẩm bẩm:
- Thuần ca! Thuần ca! chàng gọi ta là "cục cưng Bảo Bảo", chàng ôm ta hôn ta, lần này là thật rồi, không phải nằm mơ.
Đoàn Dự trong ngực nóng ran chịu không nổi, những người ở trong hầm nội lực quá nửa đã tuôn vào người chàng. Đoàn Dự cảm thấy lực đạo trên tay càng lúc càng mạnh nên dần dần đã kéo được Diệp Nhị Nương ra khỏi miệng hang, kế đến là Nam Hải Ngạc Thần, Chung Vạn Cừu, Vân Trung Hạc, Chung Linh một xâu từ từ chui ra. Đoàn Dự nhìn thấy Chung Linh trong lòng mừng rỡ liền thả Diệp Nhị Nương, chạy đến đỡ nàng kêu lên:
- Linh muội! Linh muội! Em không bị thương chứ?
Bọn Diệp Nhị Nương bốn người ai nấy nội lực bị hao đến quá nửa cũng buông nhau ra ngồi trên sàn gỗ thở hổn hển. Chung Vạn Cừu đột nhiên kêu lên:
- Có đàn ông! Trong hầm này có đàn ông! Chính là Đoàn Chính Thuần, Đoàn Chính Thuần!
Y chợt nghĩ ra "trong phòng phu nhân có đường hầm này, ắt là do Đoàn Chính Thuần bày ra để gian díu với vợ mình, mới đây ở bên ngoài nghe tiếng đàn ông, lại thấy có bóng đàn ông hẳn là Đoàn Chính Thuần không còn ngờ gì nữa". Y nổi cơn ghen, xông tới đẩy Đoàn Dự ra, nắm cổ Chung Linh định ném nàng qua một bên để rồi chui xuống địa đạo lôi Đoàn Chính Thuần ra ngoài.
Cam Bảo Bảo nghe y kêu lên "Đoàn Chính Thuần" lập tức từ cơn mơ màng tỉnh dậy, đứng phắt dậy trong lòng kêu khổ thầm. Chung Vạn Cừu không nghĩ đến mình nội lực hao tổn quá nhiều, ném Chung Linh ra không nổi, ngược lại hai chân nhũn ra, ngồi phịch xuống đất. Thế nhưng y chưa chịu thua, chỉ cần Chung Linh ra khỏi miệng hang, nhất định không thể nào tha cho Đoàn Chính Thuần được.
Y kéo thêm mấy cái thấy từ trong hang chui ra hai bàn tay nắm chặt hai cổ tay Chung Linh, Chung Vạn Cừu kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần, ngươi đây rồi! Ta phải sống chết với ngươi mới được!
Y hết sức kéo Chung Linh ra sau, quả nhiên từ trong hang chui ra một người. Người đó quả là một gã đàn ông.
Chung Vạn Cừu kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần!
Y bỏ Chung Linh xuống, xông lên nắm ngực người kia, nhấc lên, thấy người này đầu dơi tai chuột, mặt mày dúm dó, so vai rụt cổ, thân hình gầy guộc khác xa Đoàn Chính Thuần. Đoàn Dự kêu lên:
- Hoắc tiên sinh, sao ông lại ở đây?
Thì ra người đó chính là Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền. Chung Vạn Cừu gầm lên:
- Không phải Đoàn Chính Thuần.
Y ngã ngửa ra nhưng bàn tay nắm Thôi Bách Tuyền vẫn chưa buông. Từ trong địa đạo đột nhiên lại có hai bàn tay nữa thò ra nắm chặt hai cổ chân Thôi Bách Tuyền. Chung Vạn Cừu kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần!
Y cố sức kéo ra lại thêm một người nữa. Người này đầu trọc lóc có vết điểm hương mặt mày nhăn nheo, đôi lông mày vàng úa, không chỉ là một hòa thượng mà là một nhà sư già. Đoàn Dự kêu lên:
- Hoàng Mi đại sư, sao ông cũng ở đây?
Đó chính là Hoàng Mi tăng. Chung Vạn Cừu thu hết tàn lực, cố sức kéo nhà sư ra khỏi hang nhưng dưới chân không còn ai thêm nữa. Chung Vạn Cừu chui vào trong hang một lúc lâu sau thở hổn hển chui ra kêu lên:
- Chẳng có ai, trong hầm không còn ai cả.
Y trừng trừng nhìn Thôi Bách Tuyền, rồi lại nhìn Hoàng Mi tăng, hai người này không thể nào là tình nhân của vợ mình được cũng thấy yên tâm kêu lên:
- Phu nhân! Ta xin lỗi, ta ... ta nghi oan cho nàng rồi.
Lúc này tinh lực hao kiệt, y bò ra khỏi hang chỉ còn nước thở hồng hộc không đứng lên nổi. Hoàng Mi tăng, Thôi Bách Tuyền, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc năm người đều ngồi xuống đất vận khí điều tức. Trong năm người Hoàng Mi tăng công lực cao hơn cả, chẳng mấy chốc đã đứng lên được quát lớn:
- Ba đứa ác nhân, hôm nay ta tha mạng cho các ngươi, mai sau còn đến Đại Lý quấy phá thì đừng trách lão tăng vô tình.
Việc mới rồi trong địa đạo không ai hiểu đầu đuôi ra sao. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc đều thầm cho là Hoàng Mi tăng ra tay, lão hòa thượng này đến lão đại đánh còn không lại, y lại mới thu hết hơn nửa nội lực của mình nên đâu có ai dám nói gì. Ba người điều tức thêm một lúc nữa, từ từ đứng lên, quay sang Hoàng Mi tăng hơi khom lưng rồi ra khỏi phòng đi mất. Lúc này tam đại ác nhân chẳng ai còn vẻ gì hung ác cả.
Hoàng Mi tăng, Thôi Bách Tuyền và Đoàn Dự từ biệt vợ chồng Chung Vạn Cừu và Chung Linh, đi ra khỏi cốc. Ba người đến cốc khẩu, Đoàn Chính Thuần cùng hai gia tướng còn đợi ở đó, cha con Đoàn Chính Thuần gặp nhau ai nấy đều hết sức ngỡ ngàng.
Khi đó Đoàn Chính Thuần thấy Chung Vạn Cừu xông vào phòng, trong lòng hổ thẹn vội theo đường hầm chạy trốn, ra khỏi hang thì thấy Thôi Bách Tuyền đứng bên canh chừng. Thôi Bách Tuyền vốn biết rõ tính cách phong lưu của vương gia, không dám hỏi nhiều vội xin chui vào đường hầm thám sát để đề phòng Chung phu nhân bị trúng phải độc thủ của trượng phu, ngờ đâu lại gặp ngay Chung Linh đang bị Vân Trung Hạc nắm được cổ chân. Thôi Bách Tuyền lập tức nắm lấy tay nàng kéo lại, đang thấy không chịu nổi bỗng thấy chân mình cũng bị ai nắm chặt. Thì ra Hoàng Mi tăng đang ngồi suy tính nước cờ bỗng nghe dưới hầm có tiếng động khác lạ nên từ thạch thất chui vào địa đạo, theo âm thanh lần tới, nghe rõ tiếng của Thôi Bách Tuyền nên ra tay tương trợ. Ngờ đâu trong chuyến đi này, gần một nửa nội lực của Hoàng Mi tăng và Thôi Bách Tuyền đã truyền vào trong người Đoàn Dự.
5 Trong y khoa quả có những trường hợp trái tim không nằm ở bên trái mà ở bên phải, có khi ở bụng (displacements of the heart)
6 Ở đây Kim Dung chơi chữ theo lối tá âm của Trung Hoa. Tiếng Tàu một âm viết có thể theo nhiều cách, nhiều nghĩa. Theo đúng chữ là "em gái con rùa đến vua Võ" vì chữ qui (rùa) và qui (về) đồng âm nên qui muội (em gái con rùa) với Qui Muội (tên quẻ) âm giống nhau, Võ Vương với Vô Vọng âm tương tự. Thành thử Thôi Bách Tuyền là một người dốt nát nghe hai quẻ Dịch lại hiểu theo một nghĩa khác ngây ngô.
7 abacus
Tưởng đâu khói phất phơ bay,
Ai ngờ kiếm khí tràn đầy không gian.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói Mộc Uyển Thanh đêm hôm qua đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi mất rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi hai người thì cũng đã lên đường đi về hướng bắc từ sớm.
Đoàn Chính Thuần dẫn theo Tam Công, Tứ Hộ Vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu. Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.
Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng tụng kinh thì một tên thái giám tiến vào bẩm:
- Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma làm, đã thỉnh Thái y đến chẩn bệnh.
Bảo Định Đế lo quá, từ khi Đoàn Dự bị trúng phải chất độc của thái tử Diên Khánh rồi chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng như thế, lập tức sai hai tên Thái y đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo:
- Hoàng thái đệ thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.
Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài ngọa thất của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi toàn là các loại khí mãnh bị đổ vỡ. Thị bộc ở bên ngoài thấy nhà vua liền quì xuống tiếp giá, ai nấy vẻ mặt kinh hoàng.
Bảo Định Đế đẩy cửa bước vào thấy Đoàn Dự đứng giữa phòng hoa chân múa tay, bao nhiêu bàn ghế cùng các loại trần thiết, đồ dùng văn phòng bị chàng vứt tung tóe. Hai tên thái y chạy đông né tây cực kỳ gấp rút. Bảo Định Đế gọi lớn:
- Dự nhi! Cháu sao thế?
Thần trí Đoàn Dự vẫn tỉnh táo như thường có điều chân khí trong người quá thịnh tưởng như muốn vỡ toang lồng ngực thành thử múa may quay cuồng đập phá đồ đạc một hồi thấy dần dần đỡ hơn. Chàng thấy Bảo Định Đế đi vào kêu lên:
- Bá phụ ơi! Cháu chết mất.
Hai tay chàng vung lên vòng vòng trên không. Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói:
- Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên.
Bảo Định Đế an ủi:
- Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.
Ông quay sang hỏi Đoàn Dự:
- Cháu thấy trong người thế nào?
Đoàn Dự liên tiếp dậm chân kêu lên:
- Điệt nhi toàn thân căng phồng lên thật là khó chịu.
Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.
Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được đạo dẫn nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, sử dụng Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.
Một tên thái y nói:
- Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vi thần trích huyết cho ra bớt đi không biết có được hay không?
Bảo Định Đế nghĩ thầm phương pháp này may ra có thể áp dụng bèn gật đầu nói:
- Được, ngươi rút bớt máu ra cho y đi.
Tên thái y tuân lệnh, mở hộp thuốc ra lấy từ trong hộp gốm ra một con đỉa thật to. Đỉa dùng để hút máu ứ trong người bệnh nhân thật là tiện lợi, lại không đau. Y cầm tay Đoàn Dự để con đỉa đúng vào ngay chỗ huyết quản. Con đỉa đụng phải tay Đoàn Dự rồi liên tiếp ngọ ngoạy, dù ép cách nào cũng không chịu cắn vào tay Đoàn Dự. Gã thái y lạ lùng dùng sức đè nó xuống, một lát sau con đỉa dãy một cái chết mất rồi. Gã thái y thấy bị bẽ mặt trước mặt hoàng đế, mồ hôi trán tong tỏng nhỏ xuống vội vàng lấy một con đỉa khác nhưng rồi cũng chết.
Một tên thái y lo lắng tâu lên:
- Khải bẩm hoàng thượng, trong mình thế tử có chất kịch độc, đến ngay cả đỉa cũng phải chết.
Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, dẫu loại rắn rết gì ngửi thấy mùi cũng phải chạy cho xa, dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi chỉ là một con đỉa nhỏ nhoi?
Bảo Định Đế trong bụng bồn chồn hỏi lại:
- Thế là loại độc dược gì, lợi hại cỡ nào?
Một tên thái y nói:
- Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải một độc vật cực nhiệt, còn tên ư? Đó là ... đó là ... vi thần ngu dốt ...
Tên thái y kia cãi lại:
- Không phải, mạch của thế tử âm hư, độc tính cực hàn, phải dùng nhiệt độc để trung hòa.
Trong cơ thể Đoàn Dự có các luồng nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu lại cũng có các luồng âm nhu của Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc hai tên thái y mỗi bên một cách không ai nói được thực sự nó là cái gì.
Bảo Định Đế thấy hai người tranh luận, cả hai đều là danh y giỏi nhất nước Đại Lý, bây giờ quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.
Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ một người tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói:
- Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử ba vị đều có phản quan mạch.
Tên thái y kia liền cãi:
- Ba vị đại phú đại quí nào có phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên đâu.
Người kia nói:
- Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.
Thế nhưng gã kia đâu có tin là thế nghĩ thầm: "Người đại phú đại quí tưởng không chết non à?". Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.
Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.
Đoàn Dự rùng mình kêu lên:
- Chao ôi!
Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy. Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi:
- Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu của Tinh Tú Hải chăng?
Đoàn Dự lắp bắp:
- Đinh ... Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.
Bảo Định Đế nói:
- Nghe nói y là một ông già trông rất tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.
Đoàn Dự đáp:
- Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.
Bảo Định Đế nói:
- Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công đại pháp, có thể phế trừ được võ công tu luyện cả đời của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao ... sao lại học được tà môn đó?
Đoàn Dự vội đáp:
- Điệt nhi chưa ... chưa từng học bao giờ. Hóa Công đại pháp của Đinh Xuân Thu kia, đây là lần đầu tiên cháu được nghe bá phụ nói tới.
Bảo Định Đế xem chừng chàng không dám nói láo nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: "Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học mông công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó ngẫu nhiên làm hại ta và Thuần đệ. Hà hà, người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền".
Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy những vết máu, cố hết sức gắng gượng mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con:
- Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: "Cái nạn đề này chỉ còn cách lên chùa Thiên Long cầu giáo thôi". Ông bèn nói:
- Dự nhi, ta đưa cháu đi bái kiến vài vị trưởng bối mong rằng họ có cách để trị tà độc cho cháu.
Đoàn Dự đáp lời:
- Vâng!
Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.
Chùa Thiên Long nằm ở ngọn trung nhạc phía bắc dãy núi Điểm Thương ở bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng người trong nước quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ_, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường_, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước_ gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: "Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo"_. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo_.
Họ Đoàn từ xưa tới nay các triều vua thường rời ngôi báu thì xuất gia làm sư, ai nấy đều tu tại chùa Thiên Long thành ra chùa Thiên Long cũng là gia miếu của hoàng thất được tôn vinh hơn cả trong các chùa chiền trong nước. Các vị hoàng đế sau khi xuất gia rồi, con cháu đến ngày sinh nhật thường lên chùa lễ bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn_, cấu trúc tinh kỳ so với danh sơn thắng địa ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi_ là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở sâu tại nam cương nên tên tuổi không mấy vang dội.
Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến tận chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.
Nếu tính vai vế trong họ ở ngoài đời thì Bản Nhân đại sư là chú của Bảo Định Đế, người xuất gia không giữ lễ quân thần, cũng không theo bối phận trong gia tộc nên hai bên dùng lễ phép ngang hàng mà xưng hô. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.
Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói:
- Xin mời theo ta đến Mâu Ni Đường để gặp ba vị sư huynh sư đệ.
Bảo Định Đế đáp:
- Làm phiền đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng quả thực tội lỗi quá lắm.
Bản Nhân phương trượng đáp:
- Trấn Nam thế tử mai sau là tự quân của nước Đại Lý ta, trên vai gánh vác họa phúc của trăm họ. Kiến thức nội lực của bệ hạ còn hơn cả ta nữa nhưng đã phải tới đây hỏi thì chuyện ắt là khó khăn trăm phần. Một mình ta không thể quyết định phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.
Hai chút tiểu đi trước dẫn đường đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.
Bản Nhân phương trượng chắp hai tay nói:
- A Di Đà Phật, Bản Nhân có một việc nghi nan bất quyết đến làm phiền công quả của ba vị sư huynh đệ.
Trong nhà có tiếng người vọng ra:
- Mời phương trượng vào.
Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa kẹt kẹt đủ biết bình thời ít ai dùng đến. Đoàn Dự đi theo phương trượng và bá phụ tiến vào, chàng nghe phương trượng nói đến "ba vị sư huynh sư đệ" nhưng trong nhà có đến bốn nhà sư mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba nhà sư ngồi hướng ra ngoài, trong đó hai người mặt khô héo còn một người cao to hồng hào. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.
Bảo Định Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của phương trượng Bản Nhân, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, các nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu nên không thể phân tâm, trước sau không để ý gì tới. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni vốn nghĩa là tĩnh mịch, trầm mặc, nơi đây được đặt tên Mâu Ni Đường nên càng nói ít chừng nào tốt chừng nấy, nên vắn tắt kể lại chuyện Đoàn Dự bị trúng tà độc, sau cùng kết luận:
- Thỉnh cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho một con đường sáng.
Bản Quan trầm ngâm một hồi, quay sang Đoàn Dự ngắm nghía thật lâu rồi mới nói:
- Hai vị sư đệ ý kiến ra sao?
Bản Tham nói:
- Nếu bị tổn thất nội lực e rằng không luyện xong được Lục Mạch Thần Kiếm.
Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm trong lòng chấn động nghĩ thầm: "Khi còn bé ta từng nghe cha ta nói đến họ Đoàn chúng ta tổ tiên có một môn võ công gọi là Lục Mạch Thần Kiếm, uy lực vô cùng ghê gớm. Thế nhưng cha ta cũng nói rằng cái đó cũng chỉ truyền lại vậy thôi chưa nghe nói vị tổ tiên nào luyện được, ngay cả công phu đó thần kỳ bậc nào cũng không ai hay biết. Bản Tham đại sư nói như vậy hóa ra có môn kỳ công này thật". Ông chợt nghĩ: "Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không nhờ vào sức của năm người thì làm sao mà trị được?". Trong lòng ông tuy thấy băn khoăn nhưng cũng không lên tiếng từ chối.
Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu đôi lông mày rủ xuống lim dim đứng vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí. Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói:
- Thiện tai! Thiện tai!
. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, bốn vị tổ công trưởng lão không ngại tổn hao công lực, giúp con khu trị tà độc, mau khấu đầu bái tạ.
Đoàn Dự nhìn thần sắc của bá phụ và cử chỉ của tứ tăng biết việc này không phải tầm thường, lập tức quì về phía bốn nhà sư khấu đầu từng người. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không sử dụng chút lực khí nào, nếu như đau nhói, ngứa ngáy, chỉ là hiện tượng bình thường chớ có kinh hãi, khiếp sợ.
Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.
Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng khí một chút rồi ấn vào sau huyệt Phong Phủ sau ót Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phủ nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch. Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.
Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực ngang ngửa nhau, chỉ nghe tiếng vèo vèo, năm nguồn thuần dương nội lực cùng tống vào cơ thể Đoàn Dự. Đoàn Dự thân thể rung động, lập tức thấy người thật là thư thái ấm áp chẳng khác gì đang lúc mùa đông ra sưởi nắng ngoài trời. Năm người vừa vận kình thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào người chàng không còn cách nào khác mỗi khi truyền tới biển khí nơi huyệt Đãn Trung thì lập tức chứa vào đó. Năm đại cao thủ họ Đoàn người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hoảng đầy nghi vấn, không hiểu ra sao.
Bỗng nghe một gầm thật lớn, tai người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một luồng nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng nhiếp phục kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào tường lên tiếng:
- Cường địch nội trong hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long hàng trăm năm nay lung lay muốn đổ, đứa trẻ miệng còn măng sữa này trúng độc cũng vậy, trúng tà cũng vậy, lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?
Mấy câu nói nó đầy vẻ uy nghiêm. Bản Nhân phương trượng đáp:
- Lời dạy của sư thúc phải lắm.
Tay trái ông vẫy một cái, cả năm người cùng lui trở ra. Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sư thúc vội nói:
- Không biết có Khô Vinh trưởng lão nơi đây, vãn bối chưa kịp lễ kính quả thực có lỗi.
Thì ra Khô Vinh trưởng lão là người vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, chư tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tiếng chứ trước nay chưa hề bái kiến, chỉ nghe nói ông ta tu khô thiền_ một mình trong Song Thụ Viện, hơn chục năm qua chẳng nghe ai nhắc đến lại tưởng ông ta đã viên tịch rồi.
Khô Vinh trưởng lão nói:
- Việc có khinh trọng hoãn cấp, ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là tới rồi. Chính Minh, ngươi cũng nên biết việc này.
Bảo Định Đế đáp:
- Vâng!
Ông nghĩ thầm: "Đại Tuyết Sơn Đại Luân Minh Vương Phật pháp uyên thâm nhưng có liên quan gì đến chúng ta đâu?".
Bản Nhân phương trượng lấy trong túi ra một phong thư sáng choang để vào tay Bảo Định Đế. Bảo Định Đế cầm lấy thấy nặng chình chịch, lá thư đó quả thật kỳ dị, dùng vàng ròng dát thật mỏng làm phong bì trên khảm bạch kim thành chữ Phạn. Bảo Định Đế đọc được thấy viết là: "Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì". Ông mở ra lấy phong thư cũng là vàng lá dát thật mỏng đại ý viết:
"Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, đính giao kết bạn để đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung Bác tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm thèm khát. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, thật là đau lòng, muốn báo đền tấm lòng tri kỷ nên cầu xin quí tự cuốn kinh này để phàn hóa trước mộ của Mộ Dung tiên sinh, ngày một ngày hai sẽ đến lấy xin đừng từ chối. Bần tăng sẽ đem vật quí báu đến đáp đền chứ không dám đến tay không".
Dưới phong thư thự danh là "Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy". Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế đủ biết do thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là hai món bảo vật trân quí đủ biết người gọi là Đại Luân Minh Vương kia tiêu xài rộng rãi biết chừng nào.
Bảo Định Đế biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp, cứ năm năm một lần lại khai đàn giảng kinh thuyết pháp, các cao tăng đại đức ở Tây Trúc, Thiên Trúc kéo đến chùa Đại Luân chất vấn kinh kệ, nghiên thảo nội điển khi trở về ai nấy đều đẹp lòng tấm tắc khen ngợi. Bảo Định Đế Cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư này nói là y cùng Mộ Dung Bác đàm luận võ công hai bên kết thành tri kỷ vậy thì y cũng là một đại cao thủ trong võ học. Một người đại trí đại tuệ như thế không học võ thì thôi chứ nếu đã đi vào con đường này thì cũng giỏi không kể đâu cho hết.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là bảo vật trấn tự, là đỉnh cao của võ học họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh, võ học tối cao của họ Đoàn ta là ở chùa Thiên Long, ngươi là người thế tục, tuy cũng là con cháu chúng ta, nhưng nhiều bí áo trong võ học cũng không tiết lộ cho ngươi được.
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thế, việc đó vãn bối đã biết rồi.
Bản Quan nói:
- Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?
Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng nơi Lang Hoàn Phúc Địa trên những giá sách trống rỗng kia nơi thẻ "Đại Lý Đoàn thị" có đề "Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu", "Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu" bèn nghĩ thầm: "Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được". Chàng trong bụng có vẻ đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ sẽ rất đau lòng".
Chỉ nghe Bản Tham hậm hực nói:
- Gã Đại Luân Minh Vương kia nghe nói là một cao tăng nổi tiếng trên đời sao lại không thông đạo lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó? Chinh Minh, phương trượng sư huynh biết rằng kẻ tốt lành thì chẳng tới, có tới cũng chẳng hay ho gì, hậu quả việc này ra sao không phải là nhỏ nên tự mình không thể chủ trương được nên đã mới Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.
Bản Nhân nói:
- Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra thật là hổ thẹn, không một ai trong chúng ta luyện thành thân công ghi trong kinh, ngay cả có gì kỳ diệu ẩn dấu trong đó cũng không ai biết. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ kiết hạ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?
Khô Vinh lạnh lùng đáp:
- Xem ra không phải y dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Trong thư rõ ràng y rất khâm phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh lại thèm muốn bộ kinh này. Có điều y cho rằng bản tự không có cao nhân nào xuất quần bạt tụy, bảo kinh tuy quí báu thật nhưng không một ai luyện thành thật là uổng phí.
Bản Tham lớn tiếng nói:
- Nếu y ngưỡng mộ như thế xin hỏi mượn xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì cũng không lấy gì quá đáng. Tức nhất là chỗ y muốn đem đi đốt để cúng người chết, có phải coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?
Bản Tướng thở dài nói:
- Sư đệ chớ nên vì việc này mà giận dữ phiền não, ta xem gã Đại Luân Minh Vương kia chẳng phải là kẻ cuồng vọng đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát_ nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa dủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh. Ôi, bạn hiền đã chết, không còn thấy lại được người xưa ...
Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế nói:
- Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh này là ai không?
Bản Tướng đáp:
- Ta không biết. Thế nhưng thử nghĩ Đại Luân Minh Vương là hạng người như vậy mà còn khâm bội như thế thì Mộ Dung tiên sinh hẳn là người thật phi thường.
Nói xong ông lặng người đi. Bản Nhân phương trượng nói:
- Sư thúc xét tình thế bên địch, thấy rằng chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng bảo kinh không chừng bị người ta đoạt mất, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói. Có điều môn thần kiếm này toàn là do nội lực làm chủ không thể gấp rút một ngày một buổi mà xong. Chính Minh, không phải bọn ta thấy cháu Dự bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ sợ tất cả hao tổn nội lực quá nhiều, cường địch đột nhiên tới nơi thật khó mà chống đỡ. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng, cứ để cho y tĩnh dưỡng ở đây mấy hôm, thương thế nếu như có gì đột biến, chúng ta sẽ tùy thời tìm cách cứu chữa, đợi khi đẩy lui được đại địch rồi, tất cả sẽ giốc toàn lực khu trừ tà độc cho y, được chăng?
Bảo Định Đế tuy lo lắng cho bệnh trạng của Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, biết rằng chùa Thiên Long là gốc rễ của họ Đoàn nước Đại Lý. Mỗi khi hoàng thất gặp chuyện khó khăn, chùa Thiên Long đều hết sức cứu viện để chuyển nguy thành an. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi tất cả đều nhờ vào chùa Thiên Long hợp với trung thần Cao Trí Thăng dẹp loạn. Họ Đoàn Đại Lý được nước từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trải qua biết bao sóng to gió cả nhưng xã tắc cũng không bị sụp đổ đều là nhờ chùa Thiên Long ổn trấn kinh kỳ mấy lần, hôm nay chùa có việc khẩn cấp thật không khác gì xã tắc lâm nguy, bèn nói:
- Phương trượng nhân đức, Chính Minh cảm kích không để đâu cho hết, không biết để đối phó với Đại Luân Minh Vương, Chính Minh có đem chút lực nhỏ giúp đỡ gì được hay chăng?
Bản Nhân trầm ngâm đáp:
- Ngươi là cao thủ đệ nhất trong số tục gia của họ Đoàn ta, nếu như có thể liên thủ cùng ngăn chặn cường địch thì tiếng tăm càng tăng gia. Thế nhưng ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn, không khỏi khiến cho Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long này không có người.
Khô Vinh bỗng nói:
- Nếu chúng ta mỗi người luyện Lục Mạch Thần Kiếm riêng, thì dù là ai chăng nữa cũng không đủ nội lực, chẳng thể nào luyện thành. Ta đã từng nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ nhưng chúng ta đâu có phải chủ trương cùng y đơn độc tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều tính tới tính lui, trong chùa Thiên Long không tìm đâu ra sáu người chỉ lực tương đương cho nên vẫn trù trừ không quyết định được. Chính Minh, ngươi đến thật vừa đủ số. Có điều ngươi phải cạo đầu, mặc tăng y mới được.
Ông ta càng nói càng nhanh dường như có chiều hưng phấn, nhưng giọng nói vẫn lạnh như băng. Bảo Định Đế đáp:
- Qui y đầu Phật vốn là chí nguyện của Chính Minh này, có điều thần kiếm bí áo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng ...
Bản Tham nói:
- Công phu cơ bản của lộ kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.
Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại:
- Thỉnh phương trượng chỉ điểm.
Bản Nhân phương trượng đáp:
- Ngươi ngồi xuống đây.
Bảo Định Đế liền ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn. Bản Nhân nói:
- Lục Mạch Thần Kiếm không phải là kiếm thực mà là chỉ lực của Nhất Dương Chỉ dùng làm kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình khí kiếm. Sở dĩ gọi là lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.
Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục. Bản Tướng cầm lấy treo lên trên tường, quyển trục mở ra mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân, thân thể ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch màu đỏ và màu đen vận chuyển thế nào. Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ làm cơ bản nên ông vừa trông đã hiểu ngay.
Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên cẩm trục vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: "Kinh mạch huyệt đạo trên con người, nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ thành hình đàn bà, mà những người khỏa thân kia lại vẽ tướng mạo của mình là sao?". Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên ý nghĩ chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.
Bản Nhân nói:
- Chính Minh, ngươi là chủ của nước Đại Lý, cải trang mặc quần áo khác, tuy chỉ là kế quyền nghi nhất thời, nhưng nếu để đối phương nhìn ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Lợi hại hai bên thế nào, nhà ngươi tự quyết định lấy.
Bảo Định Đế chắp hai tay nói:
- Hộ pháp hộ tự là việc nghĩa lẽ nào còn tính toán gì nữa.
Bản Nhân nói:
- Hay lắm, chỉ vì Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này không truyền cho đệ tử tục gia, ngươi phải thế độ thì ta mới truyền cho ngươi được. Đợi khi nào đẩy lui được cường địch rồi lúc ấy ngươi hãy hoàn tục.
Bảo Định Đế đứng lên, quì hai gối xuống nói:
- Xin đại sư mở lòng từ bi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Ngươi lại đây, để ta thế độ cho ngươi.
Bảo Định Đế tiến lên quì xuống ở sau lưng ông ta. Đoàn Dự thấy bá phụ định cắt tóc đi tu, trong lòng hơi bàng hoàng. Khô Vinh đại sư đưa tay phải ra, vòng lại sau để lên đầu Bảo Định Đế, bàn tay trông như không còn chút thịt nào, da sát vào chẳng khác gì một bộ xương khô. Khô Vinh đại sư vẫn ngồi đó không quay lại đọc một bài kệ:
Đã mang nghiệp xuống cõi trần,
Khác chi hạt bụi xoay vần hư không.
Lang thang nơi cõi mênh mông,
Nếu chưa kiến tính còn trong luân hồi.
Nhất vi trần trung nhập tam muội,
Thành tựu nhất thiết vi trần định.
Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng,
Ư nhất phổ hiện nan tư sát.
Bàn tay ông đưa lên bao nhiêu tóc trên đầu Bảo Định Đế lả tả rơi xuống, đầu trọc lốc không còn một sợi nào, tưởng như có dùng dao cạo cũng không nhẵn được đến thế. Đoàn Dự cố nhiên hết sức kinh ngạc mà cả Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Nhân mọi người đều vô cùng bội phục: "Khô Vinh đại sư tham tu khô thiền công lực đạt đến mức cao thâm thật".
Lại nghe Khô Vinh đại sư nói tiếp:
- Ngươi vào cửa Phật lấy pháp danh là Bản Trần.
Bảo Định Đế chắp tay đáp:
- Tạ sư phụ ban cho tên này.
Trong Phật môn không còn câu nệ vai vế ngoài đời, Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị hữu đạo cao tăng.
Khô Vinh đại sư nói:
- Gã Đại Luân Minh Vương kia hôm nay sẽ đến không chừng. Bản Nhân, ngươi đem những bí áo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.
Bản Nhân đáp:
- Vâng!
Ông chỉ vào kinh mạch đồ trên tường nói:
- Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khoeo tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.
Bảo Định Đế y theo đó vận chân khí, ra đến đầu ngón tay vô danh nghe tiếng vèo vèo theo huyệt Quan Xung vọt ra. Khô Vinh đại sư vui mừng nói:
- Nhà ngươi nội lực tu luyện không phải tầm thường. Pho kiếm pháp này tuy biến hóa phức tạp thật nhưng nếu kiếm khí đã thành rồi thì có thể tùy ý mà vận dụng.
Bản Nhân nói:
- Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sử dụng cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón tay phải, ta chuyên luyện Thương Dương Kiếm ở ngón tay trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón tay giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón tay vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón tay út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể chậm trễ, chúng ta nên bắt đầu ngay là vừa.
Ông ta lấy ra sáu bức đồ hình, treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Mỗi bức vẽ đầy những đường ngang dọc giao thoa, hình tròn cũng như hình cánh cung. Sáu người ai nấy chăm chú luyện kiếm khí đồ của mình, giơ ngón tay ra điểm hờ, vẽ hờ lên trên không.
Đoàn Dự len lén ngồi lên thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn khó chịu hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế, cùng sư huynh đệ của phương trượng Bản Nhân đã đem một số lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Đoàn Dự thấy bá phụ và những người khác tập trung tinh thần vận công nên không dám lên tiếng quấy nhiễu, ngồi ngơ ngẩn một lúc thấy thật rảnh rỗi, vô ý đưa mắt nhìn vào bức hình kinh mạch huyệt đạo treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.
Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân nhưng đường đi thì hoàn toàn khác hẳn. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên rồi nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, bao nhiêu nhộn nhạo khó chịu trong người liền tiêu giảm, chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đãn Trung.
Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như theo người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đãn Trung. Một hồi sau chàng liền phải suýt soa kêu lên mấy tiếng, Bảo Định Đế vội quay lại hỏi:
- Cháu thấy trong người ra sao?
Đoàn Dự đáp:
- Trong người cháu có vô số khí chạy nhảy lung tung, khó chịu quá. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sư bá để đưa khí về huyệt Đãn Trung, nhưng chao ôi! huyệt Đãn Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu ... cháu ... huyệt Đãn Trung của cháu muốn nổ tung ra.
Cái cảm giác đó chỉ có người trong cuộc mới biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi còn người ngoài không thấy gì khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những huyễn tượng, nhưng nếu huyệt Đãn Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm, nội lực hồn hậu vô cùng mới có cảm giác đó được, còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, huyễn tượng đó hẳn là vì bị trúng tà độc mà thành.
Bảo Định Đế thầm kinh hoảng biết rằng nếu như chàng không thể đạo khí qui hư_ thân thể sẽ bị tê liệt, thế nhưng nếu đem luồng tà độc ấy đưa vào tạng phủ thì sau này trục được ra còn khó khăn vạn lần. Bình thời mỗi khi gặp chuyện nguy nan đại sự ông luôn luôn sáng suốt quả cảm, chỉ một lời là quyết định xong nhưng trước mặt việc quan hệ đến cả đời Đoàn Dự, chỉ sai sẩy một chút lập tức có thể nguy đến tính mạng. Oâng thấy Đoàn Dự hai mắt thần quang tán loạn xem ra có vẻ điên cuồng, không còn chần chờ gì nữa lập tức quyết định: "Thôi thì chỉ còn có nước "ẩm chậm chỉ khát"_ đành vậy biết làm sao hơn". Ông bèn nói:
- Dự nhi, để ta dạy cháu pháp môn đạo khí qui hư.
Ông liền đem phương pháp chỉ dẫn cho Đoàn Dự. Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Pháp yếu về nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả thực tinh diệu tuyệt luân, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền thu vào trong tạng phủ. Y thư Trung Quốc gọi các bộ phận trong con người là tạng phủ, tạng đồng nghĩa với tàng trữ còn phủ chính là kho lẫm nên đã hàm ý tụ tập tích súc. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói là trên đời không ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, toàn thân càng lúc càng khoan khoái, thấy người nhẹ nhàng tưởng chừng có thể bay lên không.
Bảo Định Đế thấy chàng mặt tươi như hoa cực kỳ vui sướng lại tưởng chàng bị rơi vào ma chướng đã sâu, e rằng tà độc từ này sẽ đeo đuổi không thôi càng khó trừ hơn nữa, không khỏi di lụy suốt đời, trong bụng thầm chua chát.
Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo:
- Bản Trần, duyên nghiệp của con người ai làm nấy chịu, họa phúc đúng sai đều do tâm mà sinh ra. Con cũng chẳng nên quá lo lắng cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.
Bảo Định Đế đáp:
- Vâng!
Ông cố gắng thu nhiếp tâm thần, tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp. Chân khí trong người Đoàn Dự cực kỳ sung mãn, một buổi một lúc không thể nào đưa hết về tàng trữ trong tạng phủ được, nhưng có điều pháp môn này càng thực hành càng thuần thục, về sau cùng thu càng nhanh. Trong tăng xá bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã hưng hửng sáng.
Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong khắp người mình không còn chút chân khí nào ở ngoài nữa nên đứng lên vận động cho dãn gân cốt, thấy bá phụ và năm vị cao tăng vẫn chuyên tâm nghiên luyện kiếm pháp. Chàng không dám mở cửa bước ra ngoài tản bộ, cũng không dám lên tiếng làm rộn sáu người đang hành công, không có việc gì làm, tiện thể nhìn lên hình vẽ kinh mạch của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn kiếm pháp đồ hình Thiếu Dương Kiếm, tuy đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này chàng làm sao học nổi có xem cũng chỉ xem chơi cho biết.
Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông lên đến cánh tay thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu nghĩ thầm: "Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được". Chàng nghĩ vậy lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.
Đoàn Dự có biết đâu mình vô ý học được một phương pháp nội công thượng thừa, chỉ cảm thấy luồng chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường chàng thấy hòa thượng Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh Mạch Đồ của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới cùi chỏ, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ tự nhiên thấy một luồng chân khí đi theo lộ tuyến kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp thì chưa được như ý, có khi thì được, có lúc lại không đi, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.
Chỉ trong nửa ngày Đoàn Dự đã thông qua tất cả các huyệt đạo trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch sáu đường kiếm pháp. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa đầu mối thật khó mà dò nghĩ thầm: "Các kiếm chiêu phiền toái thế này, việc gì phải nhớ làm chi? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà".
Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói nghĩ bụng: "Sao mấy chú tiểu không ai mang cơm chay hay mì gì cả? Thôi mình len lén chui ra ngoài kiếm gì ăn mới được". Ngay lúc đó chàng ngửi thấy một mùi đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng Phạn tụng niệm văng vẳng tiếng được tiếng mất từ xa truyền tới.
Khô Vinh đại sư nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã đến rồi đây. Các ngươi luyện được đến đâu rồi?
Bản Tham đáp:
- Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch rồi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Hay lắm! Bản Nhân, ta không muốn đi ra vậy ngươi ra mời Minh Vương vào trong Mâu Ni Đường để gặp nhau.
Bản Nhân phương trượng đáp lời:
- Vâng!
Rồi đi ra ngoài. Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác. Ông ta ngồi vào chiếc đệm thứ nhất, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm còn Đoàn Dự không có chỗ ngồi nên đứng sau lưng Bảo Định Đế.
Cả Khô Vinh lẫn những người khác ôn lại đồ hình một lần cuối rồi mới cuộn các hình vẽ đó lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, tới khi kịch chiến trong phòng kiếm khí tung hoành rất là hung hiểm, báp hụ không thể nào phân tâm bảo hộ cho cháu được. Cháu đi ra ngoài chơi thì hơn.
Đoàn Dự trong lòng đau đớn: "Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, Quan Xung kiếm pháp bá phụ mới luyện đây, không biết có địch lại y không, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?". Chàng bèn nói:
- Bá bá, cháu ... cháu ở đây với bác, bác đấu kiếm với người ta cháu không yên tâm ...
Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế trong lòng rung động: "Thằng bé này quả là có hiếu".
Khô Vinh đại sư nói:
- Dự nhi, cháu ngồi trước mặt ta đây, Đại Luân Minh Vương kia dẫu có lợi hại đến đâu cũng không động đến một sợi lông của cháu được.
Giọng nói của ông ta tuy lạnh như băng nhưng ngữ khí có vẻ như ngạo nghễ. Đoàn Dự đáp:
- Vâng!
Chàng khom lưng đi vào trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng không dám ngẩng lên nhìn mặt ông ta, chỉ xếp bằng ngồi xuống. Thân hình Khô Vinh đại sư cao hơn Đoàn Dự nhiều nên che hết người chàng. Bảo Định Đế trong lòng cảm kích lại cũng yên tâm, mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.
Sau đó Mâu Ni Đường thật lặng thinh hoàn toàn không một tiếng động. Một lúc sau có tiếng Bản Nhân phương trượng:
- Minh Vương pháp giá xin mới quá bộ lại Mâu Ni Đường.
Kế đó có tiếng người nói:
- Cảm phiền phương trượng dẫn đường cho.
Đoàn Dự nghe giọng nói thật là thân thiết hòa hoãn rất là lễ độ không phải là kẻ hung ác áp bức người khác. Nghe tiếng chân có đến mươi người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói:
- Xin mời Minh Vương.
Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường nói:
- Xin phép.
Ông ta hướng về phía Khô Vinh đại sư chắp tay hành lễ nói:
- Vãn bối Cưu Ma Trí của nước Thổ Phồn tham kiếm tiền bối đại sư.
Một tươi một héo hai cây,
Hữu thường bên nọ bên đây vô thường.
Đông Tây Nam Bắc bốn phương,
Thật không, không thật đều không là gì.
Hữu thường vô thường,
Song thụ khô vinh.
Nam Bắc Tây Đông,
Phi giả phi không.
Đoàn Dự nghĩ thầm: "Bốn câu kệ này có nghĩa là gì?" Thế nhưng Khô Vinh đại sư giật mình: "Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả thật danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta".
Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn nơi giữa hai cây bà la_ tại thành Câu Thi Na_ thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là "tứ khô tứ vinh". Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Cây cối xanh tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; còn khô héo điêu tàn là thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhật diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô phi vinh, phi giả phi không.
Khô Vinh đại sư mấy chục năm qua tu khô thiền cũng chỉ mới cảnh giới "bán khô bán vinh", không sao lên thêm một tầng nữa để được tới cảnh giới "phi khô phi vinh, diệc khô diệc vinh" nên không khỏi thảng thốt nói:
- Minh Vương từ xa tới đây, lão nạp không đi ra đón được, xin Minh Vương mở lòng từ bi mà tha lỗi cho.
Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp:
- Uy danh của chùa Thiên Long tiểu tăng đã hâm mộ từ lâu, hôm nay được thấy bảo tướng trang nghiêm thực là hân hạnh.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Xin mời Minh Vương ngồi.
Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?". Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy trên một nhà sư mặc tăng bào màu vàng ngồi chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như có ánh sáng lẩn khuất chẳng khác gì minh châu bảo ngọc tự mang vẻ sáng. Đoàn Dự chỉ mới nhìn qua ông ta đôi lần trong lòng đã nảy sinh một vẻ ngưỡng mộ thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày bặm trợn dễ sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những tùy tòng Đại Luân Minh Vương mang từ Thổ Phồn qua.
1 Tu quay mặt vào tường
Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:
- Đức Phật có dạy rằng: Phải vào được cảnh giới không sinh không diệt, không nhơ bẩn cũng không thanh sạch. Thế nhưng tiểu tăng căn khí ngu độn không sao hiểu được lý lẽ yêu ghét tử sinh. Bình sinh tiểu tăng có một người tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không gì không am tường, chỗ nào cũng tinh thông, tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ còn hồ nghi đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khẳng khái tặng cho bí cập thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Ngờ đâu bậc đại anh hùng trời lại không cho ở lâu, Mộ Dung tiên sinh tây qui cực lạc mất rồi. Tiểu tăng có một việc cầu xin thật là không thuận tình xin quí vị trưởng lão mở lòng từ bi.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên mà thôi, duyên phận hết rồi việc gì phải cưỡng cầu làm gì? Mộ Dung tiên sinh vãng sinh cực lạc đi lễ phật ở chốn liên trì thì còn để tâm gì đến chuyện võ học ở chốn nhân gian? Việc của Minh Vương đang cố công kia phải chăng thêm chân cho rắn?
Cưu Ma Trí đáp:
- Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao dứt được mối tình bè bạn. Năm xưa khi Mộ Dung tiên sinh luận về kiếm pháp trong thiên hạ quả quyết rằng Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long nước Đại Lý là kiếm pháp đệ nhất trong thiên hạ, nhưng tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.
Bản Nhân nói:
- Tệ tự ở nơi hẻo lánh phương nam được Mộ Dung tiên sinh yêu mến quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không đích thân tới mượn kiếm kinh xem qua cho biết?
Cưu Ma Trí thở dài một tiếng, sắc mặt sầu thảm, yên lặng một hồi rồi mới đáp:
- Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo của quí tự nếu đến đòi xem ắt là không được. Ông ta bảo là họ Đoàn Đại Lý tuy ở chỗ phú quí đến cực điểm nhưng không quên nghĩa khí giang hồ thuở xưa, yêu thương trăm họ, nhân đức thấm nhuần khắp lê dân nên không tiện ra tay cưỡng đoạt trộm cắp.
Bản Nhân cảm tạ nói:
- Xin cám ơn Mộ Dung tiên sinh đã khen ngợi. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã coi trọng họ Đoàn nước Đại Lý như thế, Minh Vương là bằng hữu của ông ta thì cũng nên thể niệm di chí của người đã khuất.
Cưu Ma Trí đáp:
- Có điều năm xưa tiểu tăng từng huênh hoang nói rằng: Tiểu tăng là Quốc Sư nước Thổ Phồn đối với họ Đoàn Đại Lý vô thân vô cố, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao mật thiết. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện tự mình đến lấy thì tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh như thế rồi thì không thể nào nuốt lời được.
Nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương tiến vào để dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp thùng không có gió mà tự mở ra, thấy bên trong là một hộp nhỏ khác màu vàng chói lọi. Cưu Ma Trí cúi xuống cầm cái hộp bưng lên tay.
Bản Nhân nghĩ thầm: "Bọn ta đã là người xa lánh cuộc đời, không lẽ còn tham lam những loại kỳ trân dị bảo? Hơn nữa, họ Đoàn là chủ nước Đại Lý, tích súc trong một trăm năm mươi năm qua, có thiếu gì bạc vàng châu báu?".
Cưu Ma Trí mở chiếc hộp ra, lấy ra ba tập sách mỏng. Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách, đột nhiên nước mắt đầm đìa rơi xuống ướt đẫm cả bâu áo, thần tình thật là đau khổ không sao kể xiết. Cả bọn Bản Nhân ai ai cũng thấy ngạc nhiên.
Khô Vinh đại sư nói:
- Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn xưa chưa quên, lòng trần chưa thanh tịnh há chẳng thẹn cho hai tiếng "cao tăng" hay sao?
Đại Luân Minh Vương ủ rũ đáp:
- Đại sư đầy đủ trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng làm sao theo kịp. Ba quyển võ công yếu quyết này, chính là từ tay Mộ Dung tiên sinh viết thành, xiển thuật yếu chỉ về tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Mọi người nghe nói thế ai nấy đều sửng sốt, nghĩ thầm: "Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống luyện được hai mươi ba môn, ngoài ra không một ai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ cả. Vị Mộ Dung tiên sinh này thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào ngờ nổi".
Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba quyển kỳ thư này, tiểu tăng giở ra xem quả thật ích lợi rất nhiều. Vậy nay xin đem ba quyển kỳ thư để xin đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm bảo kinh của quí tự. Xin quí vị đại sư bằng lòng cho để tiểu tăng được hoàn thành lời hứa năm xưa, quả thực cảm kích không đâu cho hết.
Bản Nhân phương trượng lặng thinh không trả lời, nghĩ thầm: "Ba cuốn sách này nếu quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm thì bản tự có được rồi, võ học không phải chỉ cùng phái Thiếu Lâm đứng ngang hàng mà còn có phần trội hơn là khác. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long".
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Trước khi quí tự tặng cho bảo kinh vẫn có thể để lại phó bản, chúng vị đại sư gia ơn cho tiểu tăng, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ, tự thân không mất mát gì là một điều. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh lập tức gói kín, quyết không ghé mắt coi trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, cao nghệ của quí tự không thể nào lọt được ra ngoài, đó là hai điều. Các vị đại sư trong quí tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cầu đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó, trong đó Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quí phái có thể đem ra ấn chứng lẫn nhau, đó là ba điều.
Bọn Bản Nhân lúc đầu khi nhận được lá thư viết bằng vàng lá của y nghĩ rằng Cưu Ma Trí mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, dường như chùa Thiên Long chỉ có lợi mà không tổn hại gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính tham lam, trong bụng đã có ý bằng lòng, thế nhưng đứng về mặt tôn ti thì còn sư thúc ở trên, còn nói về mặt địa vị thì còn phương trượng nên không tiện nói ra thành lời.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Tiểu tăng tuổi còn trẻ, kiến thức còn nông, chỉ nói không chưa chắc các vị đại sư đã tin. Chi bằng tiểu tăng đem phô cái xấu ra trước các vị ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Y nói xong đứng lên:
- Năm xưa tiểu tăng chẳng qua chỉ vì quá cao hứng nên vụng về tập qua, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.
Y giơ ngón tay cái và ngón tay trỏ bên phải làm như đang cầm một đóa hoa tươi, miệng hơi mỉm cười, năm ngón tay trái búng nhẹ qua bên phải. Trong Mâu Ni Đường ngoài Đoàn Dự ra, ai ai cũng là những đại hành gia suốt đời nghiên cứu chỉ pháp, thấy y ra tay thật là nhẹ nhàng, mỗi lần tay trái búng ra tưởng như đang rũ cho những hạt sương còn đọng trên đóa hoa tươi nhưng lại e ngại sẽ làm rụng những cánh hoa, mặt lúc nào cũng mỉm cười hết sức từ hòa quả là trong lòng sảng khoái. Cứ như lịch sử Thiền tông truyền lại, khi đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên đỉnh Linh Sơn, ngài cầm trên tay một bông hoa ba la vàng giơ lên cho mọi người coi, ai nấy lặng thinh không trả lời, chỉ có Ca Diếp tôn giả mặt rạng rỡ nở một nụ cười. Thích Ca Mâu Ni biết Ca Diếp đã lãnh ngộ được tâm pháp liền nói:
- Ta có chính pháp nhãn tàng, niết bàn pháp môn, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền nay trao cho Ma Ha Ca Diếp.
Thiền tông coi việc tâm truyền, đốn ngộ là điều quan trọng nhất, phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, lại càng tinh cứu môn Niêm Hoa Chỉ này.
Thế nhưng Cưu Ma Trí búng ngón tay không thấy gì là thần thông, liên tiếp mấy chục cái rồi giơ tay áo bên phải lên, há mồm thổi phù một cái, lập tức tay áo bay lả tả những mảnh vải tròn như đồng tiền, trên tay áo hiện ra mấy chục cái lỗ nhỏ. Thì ra mấy chục lần sử dụng Niêm Hoa Chỉ của Cưu Ma Trí đều xuyên qua không khí đâm vào tay áo mình, nhu lực làm rách áo nhưng thoạt nhìn không ai biết, chỉ hơi có gió lúc ấy công lực mới lộ ra.
Bản Nhân cùng với Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham và Bảo Định Đế người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hãi thầm: "Với công lực của mình nếu dùng Nhất Dương Chỉ hư điểm vào cho rách áo thành lỗ thì không có gì khó, nhưng ra tay nhẹ nhàng như thế, vẻ mặt ôn hòa mỉm cười mà vận được thần công thì mình không thể nào làm nổi. Môn Niêm Hoa Chỉ này khác hẳn Nhất Dương Chỉ, nội lực âm nhu, quả thực có điểm độc đáo đáng phải học hỏi".
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Quả đáng xấu hổ, công phu Niêm Hoa Chỉ của tiểu tăng còn kém xa Huyền Độ đại sư của chùa Thiếu Lâm. Môn Đa La Diệp Chỉ này chắc còn sai sót nhiều.
Tiếp theo thân hình chuyển động rảo bước đi vòng quanh cái hòm gỗ dưới đất, mười ngón tay liên tiếp điểm ra, nắp hòm bay tung tóe, nhảy nhót liên tiếp, chỉ trong giây lát đã vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Bọn Bảo Định Đế thấy chỉ lực của y phá tan chiếc rương gỗ thực không có gì làm lạ, có điều ngay cả xích sắt, bản đồng, dây đai, bản lề các loại kim thuộc cũng bị chỉ lực của y cắt nát vụn khiến cho ai nấy không khỏi kinh hoàng.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu quả thực là nông cạn vụng về.
Nói xong đưa hai bàn tay thu vào bên trong tay áo. Đột nhiên một mảnh gỗ vỡ bỗng dưng nhảy tưng tưng, tưởng như có một người vô hình nào đó dùng gậy khuấy lên. Nhìn lại Cưu Ma Trí thấy mặt y vẫn ôn hòa rạng rỡ, tay áo không hề rung động, thì ra chỉ lực dấu trong tay áo lén bắn ra, không có một chút hình tích nào. Bản Tướng nhịn không nổi buột miệng khen:
- Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!
Cưu Ma Trí khom lưng đáp:
- Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu như muốn cho danh thực ăn khớp với nhau, luyện đến mức vô hình vô tướng, phải mất cả một đời người chưa chắc dã thành.
Bản Tướng đại sư nói:
- Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?
Cưu Ma Trí đáp:
- Có chứ! Cách phá giải cũng giống như pháp danh của đại sư vậy thôi.
Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Ồ, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.
Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Trí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai loại tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có đem phó bản đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ nên ai nấy đều trù trừ.
Bản Nhân nói:
- Sư thúc, Minh Vương từ xa đến đây, quả là có lòng thành, chúng ta ứng tiếp ra sao, xin sư thúc chỉ thị.
Khô Vinh đại sư hỏi:
- Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì thế?
Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, hơi ngạc nhiên rồi trả lời:
- Cốt là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ bờ cõi.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Nếu như ngoại ma đến mà chúng ta đạo hạnh thô thiển không đủ sức dùng Phật pháp điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng công phu gì?
Bản Nhân đáp:
- Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.
Khô Vinh đại sư hỏi tiếp:
- Thế công phu tu tập Nhất Dương Chỉ của nhà ngươi đến được cảnh giới nào rồi?
Bản Nhân trán toát mồ hôi, trả lời:
- Đệ tử căn cơ dốt nát, chẳng tiến bộ được bao nhiêu nên chỉ mới đến được phẩm thứ tư.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm đằng nào hơn, đằng nào kém?
Bản Nhân đáp:
- Chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công lực là cao thấp thôi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Đúng lắm. Nếu như Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện đến đệ nhất phẩm thì sẽ thế nào?
Bản Nhân đáp:
- Đến mức đó thì uyên thâm khôn biết đâu mà lường, đệ tử không dám nói liều.
Khô Vinh đại sư nói:
- Ví như ngươi sống thêm một trăm năm nữa thì liệu luyện đến được phẩm thứ mấy?
Mồ hôi trán Bản Nhân rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp:
- Đệ tử không biết.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Liệu có đến được phẩm thứ nhất chăng?
Bản Nhân đáp:
- Chắc là không được.
Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa. Bản Nhân nói:
- Sư thúc chỉ điểm rất đúng, đến như Nhất Dương Chỉ của chúng ta tu tập còn chưa xong, còn mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương từ xa khổ nhọc đến đây, để tệ tự dọn đồ chay khoản đãi.
Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt lời yêu cầu của Đại Luân Minh Vương. Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:
- Cũng chỉ vì tiểu tăng năm xưa nói một câu không ra gì, nếu không thì Mộ Dung tiên sinh dẫu sao cũng chết rồi, được hay không được cuốn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này cũng thế thôi, có gì khác đâu? Hôm nay tiểu tăng cuồng vọng, nói một câu không biết trời cao đất dày là gì, kiếm pháp trong bộ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này, nếu quả thực tinh áo như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quí tự tuy có đồ phổ thật thì cũng không ai có năng lực luyện cho thành. Mà dẫu có người luyện thành chăng nữa thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã thần diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nghĩ.
Khô Vinh đại sư nói:
- Lão nạp có một điều không rõ muốn thỉnh cầu Minh Vương chỉ điểm.
Cưu Ma Trí đáp:
- Không dám.
Khô Vinh đại sư nói:
- Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết, Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?
Cưu Ma Trí đáp:
- Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn bản phái cũng không biết mà Mộ Dung tiên sinh cũng rõ như bàn tay. Cái thuật: "Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.
Khô Vinh đại sư "Hừ" một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: "Nếu như y biết được những bí áo trong Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn".
Bản Nhân phương trượng nói:
- Sư thúc chúng tôi hơn chục năm qua không gặp người ngoài, Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.
Nói xong đứng lên ý muốn tiễn khách ra về. Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói:
- Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không thực dụng, quí tự hà tất phải coi trọng nó như thế làm gì? Để phải tổn thương hòa khí giữa chùa Thiên Long và chùa Đại Luân, tổn thương đến bang giao hai nước Thổ Phồn và Đại Lý?
Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại:
- Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?
Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh trú đóng nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế vội hết sức lắng tai nghe. Cưu Ma Trí đáp:
- Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh, dân tình bên Đại Lý từ lâu, sớm có ý muốn cùng quốc chủ quí quốc đi săn chung một chuyến_, có điều tiểu tăng thấy rằng như thế ắt không ít người sẽ phải bỏ mạng, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.
Bọn Bản Nhân ai cũng biết lời nói y có ý uy hiếp. Y là quốc sư nước Thổ Phồn, trong nước từ vua trở xuống ai nấy đều sùng tín Phật pháp chẳng khác gì nước Đại Lý. Cưu Ma Trí lại được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn do một lời của y, nếu như chỉ vì một bộ kinh mà để sinh linh phải đồ thán thì thật không nên chút nào. Thổ Phồn mạnh mà Đại Lý yếu, nếu như chiến sự xảy ra quả thật rất đáng lo. Thế nhưng Cưu Ma Trí chỉ mới dọa một lời mà chùa Thiên Long đã hai tay dâng bộ bảo kinh trấn tự kia lên thì còn gì là thể thống nữa?
Khô Vinh đại sư nói:
- Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bọn lão nạp lẽ nào dám từ chối? Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám bái lãnh. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại thêm cả võ công chùa Đại Luân Đại Tuyết Sơn thì hẳn là đương thế không ai có thể địch nổi.
Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:
- Ý của đại sư phải chăng muốn tiểu tăng phải ra tay phô cái xấu của mình?
Khô Vinh đại sư đáp:
- Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh, không thực dụng, vậy thì chúng tôi sẽ dùng Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, lộ kiếm pháp này chỉ rỗng tuếch không dùng được vào đâu thì có gì là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.
Cưu Ma Trí trong lòng kinh hãi thầm, năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, dù kiếm pháp thần kỳ cao minh bậc nào chăng nữa, dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi, bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì dường như ông ta biết sử dụng mà tất cả chư tăng cũng đều biết môn kiếm pháp này. Chùa Thiên Long danh tiếng lừng lẫy hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái của y vốn dĩ cung kính, bây giờ liền hơi khom lưng nói:
- Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở mắt thật là may mắn xiết bao.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin cứ việc đem ra.
Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao to từ bên ngoài bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên người kia liền gật đầu vâng lệnh, đi ra ngoài lấy trong rương ra một bó nhang đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.
Mọi người ai nấy lạ lùng, nghĩ thầm những cây hương này đụng vào là gẫy ngay không lẽ lại dùng làm binh khí được? Chỉ thấy tay trái cầm lên một cây nhang, tay phải vun gỗ vụn dưới đất nắn thành một cái gò cắm cây nhang lên. Cứ như thế y cắm sáu cây hương thành một dãy, mỗi cây cách nhau chừng một thước.
Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương lóe lên cùng cháy một lượt. Mọi người ai nấy kinh hãi thấy người này nội lực quả thật hùng mạnh, quả đã đến mức không ai dám nghĩ tới. Thế nhưng lập tức ai nấy ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hỏa dược, Cưu Ma Trí không phải chỉ dùng nội lực mà đốt những cây nhang này, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược đầu hương để đốt. Việc đó tuy cũng khó khăn thật nhưng bọn Bảo Định Đế miễn cưỡng cũng thể làm được.
Sáu làn khói xanh biếc của sáu cây hương bốc lên thẳng tắp. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thủ chưởng của y gọi là Hỏa Diễm Đao, tuy chỉ nhẹ nhàng hư vô không thể bắt nắm nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn lấy được bộ kinh không cố ý giết người cho nên mới thắp sáu cây nhang để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra y cậy tài nên chẳng có gì sợ hãi, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.
Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Cả bọn Bản Nhân ai nấy kinh hãi nghĩ thầm dùng nội lực đẩy khói đi thì không phải là khó khăn gì, nhưng nếu có thể hãm luồng khí đang tỏa ra kia giữa không gian thì phải nói là khó khăn gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một luồng khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói biếc trước mặt. Luồng khói đó bị nội lực đẩy vào, bay vụt trở lại hướng Cưu Ma Trí, đến còn cách y chừng hai thước, Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí tăng lên nên làn khói không thể nào tiến xa hơn được nữa.
Cưu Ma Trí gật gù nói:
- Thật là danh bất hư truyền, Lục Mạch Thần Kiếm quả có lộ kiếm pháp Thiếu Trạch Kiếm.
Hai người thúc đẩy nội lực thêm mấy lần, Bản Tham đại sư biết rằng nếu mình chỉ ngồi yên không động đậy thì khó lòng mà phát huy được uy lực của kiếm pháp nên đứng lên, đi xéo qua bên trái ba bước, nội lực theo ngón tay út bên trái từ trái phóng lệch qua phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.
Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên:
- Giỏi thật! Đây là Trung Xung kiếm pháp.
Y lấy một địch hai nhưng không thấy khiếp sợ chút nào. Đoàn Dự ngồi đằng trước Khô Vinh đại sư, nghiêng người ngó ra, chăm chú xem cuộc đấu kiếm nghìn năm một thuở này. Tuy chàng không biết võ công nhưng cũng biết mấy vị cao tăng kia đang dùng nội lực để đấu kiếm còn hung hiểm và ghê gớm gấp mấy việc dùng binh khí đánh với nhau. Cũng may Cưu Ma Trí đốt sáu nén hương nên chàng có thể nhìn theo làn khói xanh di động mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người.
Chàng coi được độ mươi chiêu trong bụng chợt nghĩ: "À, đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sư giống hệt như hình vẽ không khác chút nào". Chàng len lén mở đồ phổ Trung Xung kiếm pháp ra coi, theo luồng khói xanh đang di động, đối chiếu với kiếm chiêu vẽ trên đó, coi kỹ càng rồi không còn chỗ nào khó khăn nan giải nữa. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng như thế, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm mở ra thu vào bao trùm một khoảng lớn, khí thế thật hùng hậu còn Thiếu Trạch Kiếm thì chợt đến chợt đi biến hóa thật là tinh vi.
Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ cũng không thắng thế chút nào nghĩ thầm bên mình luyện kiếm chưa thành thục, kiếm chiêu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết, cả sáu người ra tay càng sớm càng tốt, gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt trần, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa dùng toàn lực để tấn công phòng ngự, nên ông bèn nói:
- Bản Tướng, Bản Trần hai vị sư đệ, tất cả chúng mình cùng ra tay đi thôi.
Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động, kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.
Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu, quay qua tây xem một chiêu đối chiếu với đồ phổ tuy đã rõ nhưng dẫu sao cũng hỗn loạn chẳng thành đầu đuôi gì. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay khô gầy để lên bức hình viết xuống: "Chỉ học một đồ hình, học xong hãy đổi qua bức khác". Đoàn Dự nghĩ ra, biết ngay Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười có ý cảm tạ.
Chàng vừa nhìn ông, nụ cười trên môi tắt ngóm, thấy khuôn mặt ông ta hết sức lạ kỳ, một nửa bên trái hồng hào tươi tắn, da dẻ trơn tru chẳng khác gì một đứa trẻ, còn nửa bên phải lại là xương khô, ngoài làn da vàng ệch ra không còn một chút thịt nào, các đầu xương lòi ra chẳng khác gì một nửa cái đầu lâu.
Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khô Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, chàng không thể nào định tâm được.
Chàng thấy ngón tay Khô Vinh đại sư viết tiếp trên tấm lụa:
"Dịp may chớ bỏ lỡ, hãy chăm chú xem kiếm pháp. Tự mình xem, tự mình học, để khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên"
Đoàn Dự hiểu rõ ngay: "Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, đợi đến khi bác ta cắt tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Ông ấy viết là "tự quan tự học, bất vi tổ huấn" ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn vô sư tự học. Thái sư bá bảo ta "lương cơ mạc thất, ngưng thần quan kiếm", ắt là bảo ta tự mình xem, tự mình học rồi.
Chàng gật đầu, quan sát kỹ càng Quan Xung kiếm pháp của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới cứ như thế mà xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Phàm năm ngón tay của con người, ngón tay vô danh là ngón vụng về nhất, còn ngón tay trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm lấy vụng về chậm chạp để thủ thắng, còn Thương Dương Kiếm thì lấy xảo diệu hoạt bát để địch thủ không mò ra được. Thiếu Xung kiếm phá với Thiếu Trạch kiếm pháp đều dùng ngón tay út để vận kình sử dụng, nhưng một đằng là bên tay phải, một đằng là bên tay trái, kiếm pháp phân biệt ra khéo léo, vụng về, nhanh nhẹn, chậm rãi. Thế nhưng "vụng" không phải không hay, còn "chậm" cũng không vì thế mà giảm uy lực, chỉ phân biệt một bên là kỳ, một bên là chính_ mà thôi.
Đoàn Dự vốn chỉ vì lòng hiếu kỳ, theo dõi những làn khói xanh qua lại, đem đối chiếu với những sợi chỉ trên đồ hình, chẳng khác gì xem vẽ chữ bằng đèn_ để đoán chơi nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò rồi chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi ba lộ kiếm pháp đó đã xem rõ cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan hai người đã sử dụng hết một lượt bây giờ quay lại lần thứ hai. Đoàn Dự không còn phải tham chiếu đồ phổ nữa, chỉ chăm chăm nhìn vào làn khói biếc đem ấn chứng với những lộ kiếm pháp đã thuộc nằm lòng, mới thấy là những đường chỉ trên đồ hình là đường dây chết, còn luồng khói biếc kia biến hóa vô cùng phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.
Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng, và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại ư búng ngón tay út, sử dụng chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu. Cưu Ma Trí mỉm cười gật gù, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng những kiếm chiêu biến hóa ra từ các chiêu cũ. Ngay lúc đó bỗng nghe thấy Cưu Ma Trí phát xuất những tiếng vù vù, uy lực của Hỏa Diễm Đao đột nhiên cực mạnh, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.
Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm, nay bắt đầu phản kích chuyển từ thủ sang công, năm làn khói biếc xoay chuyển quay quần thật là linh động. Riêng làn khói thứ sáu vẫn đứng sững cách Khô Vinh đại sư chừng ba thước, ổn định không động đậy. Khô Vinh đại sư có ý muốn biết xem y toan tính những gì cốt để xem y giữ thế năm luồng lực đạo tấn công, một luồng giữ nguyên kia kéo dài được bao lâu, thành ra trước sau vẫn không ra tay công kích. Quả nhiên Cưu Ma Trí muốn giữ cho luồng lực đạo thứ sáu kia đứng yên như vậy hồi lâu hao tổn nội lực khá nhiều, nên làn khói biếc cừ từ từ từng tấc một tiến vào sau ót Khô Vinh đại sư.
Đoàn Dự kinh hãi nói:
- Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.
Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy bản vẽ Thiếu Thương Kiếm này thật chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc vẽ theo lối "vẩy mực"_, nét tung hoành mạnh mẽ chỉ vài đường đã tỏ ra kiếm lộ hùng hồn xem ra chẳng khác gì thế gió bão mưa giông, long trời lở đất. Đoàn Dự xem kiếm phổ nhưng trong bụng vẫn lo lắng làn khói đang tấn công vào đằng sau Khô Vinh đại sư vừa quay đầu lại thấy làn khói chỉ còn cách đầu ông chừng vài ba tấc hoảng hốt kêu lên:
- Coi chừng!
Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, hai tiếng vụt vụt chia ra tấn công vào ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không thèm đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ. Ông cho rằng lực đạo Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí dùng nội lực chầm chậm tiến vào có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, thành ra nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là khiến y giở tay không kịp.
Cưu Ma Trí tính toán chu đáo, đã giữ sẵn một luồng chưởng lực tại trước ngực, nhưng y chỉ mới tính tới một luồng Thiếu Thương Kiếm tấn công tới, không ngờ Khô Vinh đại sư lại dùng cả hai luồng kiếm tấn công một lượt, chia ra tấn công hai nơi khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên gạt chỉ chặn được đường kiếm tấn công vào trên ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Tuy y nhảy đã nhanh nhưng vẫn không thể nhanh bằng kiếm khí tới chẳng khác gì ánh chớp, nghe soẹt một tiếng vai trái đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh đại sư lập tức quay ngoắt lại, kiếm khí rút ngược về, sáu nén hương đều gãy ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế cũng thu kiếm lại. Những người đó chiến đấu đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thở phào một cái.
Cưu Ma Trí rảo bước đi vào mỉm cười nói:
- Thần công của Khô Vinh đại sư quả là không phải bình thường, tiểu tăng hết sức bội phục. Pho Lục Mạch Thần Kiếm kia quả thật chỉ có hư danh.
Bản Nhân phương trượng hỏi lại:
- Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.
Cưu Ma Trí đáp:
- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh hâm mộ kính ngưỡng là kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm chứ không phải là kiếm trận Lục Mạch Thần Kiếm. Pho kiếm trận này của chùa Thiên Long quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là kiếm pháp thiên hạ vô song được.
Y chỉ nói là "kiếm trận" mà không phải là "kiếm pháp" là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm như y đã dùng Hỏa Diễm Đao.
Bản Nhân phương trượng nhận thấy lời nói của y quả có lý không sao trả lời được. Thế nhưng Bản Tham đại sư đã cười khẩy:
- Kiếm pháp cũng vậy mà kiếm trận thì cũng thế thôi. Trong cuộc tỉ đao luận kiếm này, Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?
Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt ngẫm nghĩ, độ thời gian uống một chén trà, mở mắt ra nói:
- Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng xem ra có bề thắng thế.
Bản Nhân kinh hãi hỏi lại:
- Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?
Cưu Ma Trí đáp:
- Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã đáp lời Mộ Dung tiên sinh không lẽ thấy khó thì chùn bước?
Bản Nhân nói:
- Thế nào mà Minh Vương bảo là có cơ thắng thế?
Cưu Ma Trí song chưởng từ từ tung ra, mỉm cười nói:
- Các vị võ học uyên thâm không lẽ không đoán ra? Xin tiếp chiêu đây.
Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ, ai nấy song chưởng tống ra, đỡ hai luồng chưởng lực kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn hai ngón tay cái búng ra, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.
Cưu Ma Trí đẩy hai luồng lực đạo ra rồi lập tức thu chiêu nói:
- Xin lỗi nhé!
Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hội ý: "Một chưởng của y cùng một lượt sinh ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diễm Đao của y".
Ngay lúc đó, bỗng thấy trước mặt Khô Vinh đại sư mù mịt bốc lên, một luồng khói đen chia ra thành bốn nhánh tấn công Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vốn cũng khiếp sợ nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này, bây giờ thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương định làm gì, chỉ đành sử dụng Hỏa Diễm Đao chia ra bốn phía chống đỡ. Y không dám phản kích, một mặt phòng bị bọn Bản Nhân xông lên tấn công, một mặt lặng yên thủ thế xem động tĩnh để xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.
Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí trong bụng lạ lùng: "Ông ta dùng toàn lực tấn công như thế nhưng gió mạnh không qua buổi sáng, mưa lớn không đổ trọn đêm, làm sao có thể chịu đựng lâu được? Khô Vinh đại sư là cao tăng đời nay, sao lại dùng phương thức gấp rút cương mãnh như thế để đối địch?".
Xem chừng ông ta không phải là người kém cỏi như thế, ắt bên trong có ngụy kế gì, y bèn thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tiện tùy cơ ứng biến. Chỉ trong chốc lát, bốn luồng khói đen một chia thành hai, hai chia thành bốn, bốn luồng khói đen chia thành mười sáu đường, bốn phương tám hướng tấn công thẳng vào Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí nghĩ thầm: "Cung đã giương hết sức rồi có đáng gì đâu?". Y thi triển Hỏa Diễm đao pháp chặng tất cả các luồng khói lại. Hai bên còn đang ra sức mười sáu luồng khói đen bỗng tan ra, trong căn phòng chỉ giây lát khói bay mù mịt. Cưu Ma Trí không hề sợ hãi vận dụng chân lực hộ vệ toàn thân.
Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung chỉ thấy năm nhà sư cùng quì cả xuống, thần tình trang nghiêm, trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: "Hỏng rồi! Nhà sư già Khô Vinh kia biết rằng không địch nổi ta nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi".
Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư dùng nội lực Nhất Dương Chỉ dồn ra đốt cháy Lục Mạch Thần Kiếm phổ, sợ Cưu Ma Trí ra tay sang đoạt hay ngăn trở nên thúc đẩy khói ra tấn công y để cho y phải hết sức chống đỡ đến khi khói tan hết rồi thì đồ phổ cũng đã cháy tiêu hết cả.
Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã biết ngay nguyên do, nghĩ thầm sư thúc thà làm ngọc vỡ chứ không chịu để ngói lành, cam tâm hủy bỏ món trấn tự chi bảo không để rơi vào tay địch thủ. Thế nhưng sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều những đồ phổ tổ truyền đó đành phải hủy mất.
Thế nhưng từ nay chùa Thiên Long và Đại Luân Minh Vương hai bên kết oán thật sâu không dễ gì mà bỏ qua cho được.
Cưu Ma Trí vừa kinh hãi vừa tức tối, y xưa nay vẫn tự phụ mưu trí hơn người, hôm nay hai lần liên tiếp thua dưới ta Khô Vinh đại sư, Lục Mạch Thần Kiếm Kinh cũng đã bị hủy mất rồi, chuyến đi này gây thêm một mối thù lớn mà lại xôi hỏng bỏng không. Y đứng lên chắp tay nói:
- Khô Vinh đại sư sao lại cương cường đến thế? Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Bảo kinh của quí tự vì tiểu tăng mà phải hủy, trong lòng quả thật áy náy không an, có điều kinh này một người không ai có thể luyện thành, hủy hay không hủy cũng không có gì khác biệt lắm. Vậy xin cáo từ.
Y hơi chuyển mình, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói:
- Quốc chủ tệ quốc ngưỡng mộ phong phạm Bảo Định Đế đã lâu, vẫn thường mong mỏi gặp được một lần, vậy xin mời bệ hạ rời gót sang chơi nước Thổ Phồn một phen.
Biến cố đó xảy ra thật bất ngờ, mọi người ai nấy giật mình kinh hãi. Gã phiên tăng kia đột nhiên tấn công, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay. Bảo Định Đế vội vận nội lực giẫy ra nhưng sáu bảy lần vẫn không thoát được. Bọn Bản Nhân thấy Cưu Ma Trí ra tay như thế thật là hèn hạ, mất đi thân phận của một cao thủ tuyệt đính nhưng chỉ đành phẫn nộ mà không còn biết tính sao, Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi lúc nào cũng có thể bị y giết chết.
Khô Vinh đại sư cười ha hả nói:
- Trước kia y là Bảo Định Đế, bây giờ đã bỏ ngôi xuất gia, pháp danh Bản Trần. Bản Trần, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.
Bảo Định Đế không biết cách nào hơn chỉ đành đáp lời:
- Vâng!
Ông biết được dụng ý của Khô Vinh đại sư, Cưu Ma Trí tưởng mình là vua của một nước, bắt được mới là một món hàng có giá, còn như nếu đã thoái vị đi tu, chẳng qua chỉ là bắt được một nhà sư của chùa Thiên Long mà thôi, thật chẳng đáng gì có thể y sẽ thả ra không chừng.
Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ, nhưng nếu muốn sử dụng pho Lục Mạch Thần Kiếm, mặc dù chỉ là một trong sáu mạch kiếm khí, cũng phải là cao thủ võ học đệ nhất có công phu tu tập cực kỳ cao minh. Những cao thủ bậc nhất đó trong võ lâm ai nấy đều biết cả. Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính nết tập quán, võ công bậc nào mười phần y cũng biết được đến tám chín.
Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ, bây giờ tự nhiên thêm vào một người là Bản Trần, tên đó y chưa từng nghe tới nhưng nội lực hùng mạnh không kém các nhà sư thuộc hàng chữ Bản chút nào. Y thấy ông thần thài ung dung uy nghiêm, khí tượng đầy vẻ phú quí tôn vinh nên đoán ngay là Bảo Định Đế.
Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: "Ta từng nghe họ Đoàn Đại Lý các đời vua thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long thật cũng không có gì là lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ thật lớn trên toàn quốc, cúng dường chư tăng lễ Phật, trùng tu tháp miếu, ồn ào lên một thời gian chứ lẽ đâu không ai hay biết như thế. Nước Thổ Phồn ta nghe được tin này thể nào chả sai sứ sang chúc mừng tân quân đăng vị. Việc này hẳn là có gì man trá".
Y bèn nói:
- Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, cũng xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.
Nói xong y nắm tay Bảo Định Đế lập tức rảo bước đi ra khỏi cửa. Bản Nhân quát lớn:
- Khoan đã!
Ông chuyển mình một cái, cùng Bản Quan hai người chặn ngay trước cửa. Cưu Ma Trí nói:
- Tiểu tăng không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia, thế nhưng nếu các vị bức bách thì đành phải vậy thôi.
Tay phải y đưa hờ ra để ngay giữa lưng Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diễm Đao của y dẫu kiên cố đến đâu cũng phá vỡ được, Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không thể nào kháng cự được. Nếu chúng tăng chùa Thiên Long hợp lực tấn công y, một là ném chuột sợ vỡ đồ, hai là chưa chắc đã thắng nhưng cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua của nước Đại Lý làm sao có thể để cho kẻ địch hiếp chế như thế được?
Cưu Ma Trí lớn tiếng nói:
- Đã từng nghe đại danh của chư cao tăng chùa Thiên Long, ngờ đâu chỉ mới một chuyện nhỏ nhặt, mà đã dùng dằng dúng dắng như đàn bà con trẻ là sao? Xin nhường đường thôi!
Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường, đâu có sợ gì y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại lúc gặp thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, lời ăn tiếng nói cùng vẻ mặt Cưu Ma Trí càng lúc càng thêm ngạo nghễ còn bọn Bản Quan, Bản Nhân mặt mày lo lắng phẫn nộ đành chịu không làm gì được. Đến khi Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế, từng bước từng bước đi ra cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không còn suy nghĩ gì thêm lớn tiếng quát:
- Này, ngươi có mau thả bá phụ ta ra không?
Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra. Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi đó nhưng không đoán ra được là người nào, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm gì bây giờ thấy chàng xông ra liền quay lại hỏi:
- Tôn giá là ai?
Đoàn Dự đáp:
- Đừng hỏi ta là ai, mau thả bá phụ ta ra rồi hãy tính.
Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, cháu đừng lo cho ta làm gì, mau mau bảo cha cháu đăng cơ, tiếp thừa ngôi báu. Còn ta nay chỉ là một lão tăng hạc nội mây ngàn, có là gì nữa đâu?
Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên:
- Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào?
Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, mới sử lực Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra. Ngay lúc đó, Cưu Ma Trí cũng thấy nội lực của mình bị hút ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: "Họ Đoàn Đại Lý sao lại học được Hóa Công đại pháp thế này?". Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.
Bảo Định Đế cũng cảm thấy hai cánh tay có một luồng nội lực tuôn ra ngoài, lập tức sử dụng phương pháp "mượn sức đánh sức" đưa hai luồng đó cùng đi vào một nơi. Nơi hai luồng nội lực đó gặp nhau chính là bản thân ông còn hai tay không hề chịu nên chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: "Thật là hổ thẹn, hôm nay ta phải nhờ Dự nhi cứu cho!".
Còn Cưu Ma Trí kinh hãi không đâu kể xiết, nghĩ thầm: "Trong giới võ lâm Trung Thổ sao lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn trẻ, chỉ chừng trên dưới hai mươi sao lại có công lực mạnh đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là vai vế dưới một mức trong họ Đoàn Đại Lý?".
Y chậm rãi gật đầu nói:
- Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn Đại Lý chỉ chuyên tập luyện nghệ thuật tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, nào có biết đâu hậu bối anh hiền lại kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên tập kỳ môn võ học Hóa Công đại pháp , thật là kỳ lạ, thật là kỳ lạ.
Y tuy uyên bác khôn ngoan nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công đại pháp, có điều tự trọng thân phận mình nên không đưa lời thương tổn người khác thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành "lão nhân". Người trong võ lâm đều coi Hóa Công đại pháp là một công phu yêu quái tà thuật, y lại đổi thành "kỳ môn võ học". Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được thành thử mới dùng hai chữ "kết giao".
Bảo Định Đế cười khẩy đáp:
- Chúng tôi từ lâu ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương túc trí viên thông, hiểu biết phi phàm sao lại buông lời nói năng nhăng cuội như thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn chúng ta làm gì có liên quan đến y?
Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ "chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa" chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi. Đoàn Dự nói:
- Đại Luân Minh Vương từ xa đến đây là khách, chùa Thiên Long lấy lễ đãi đằng sao ông lại dám phạm vào bá phụ của ta? Chẳng qua chúng tôi xem hai bên đều là đệ tử cửa Phật, cho nên mới xử sự khách khí, ông lại giở trò ngang ngược. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như Minh Vương?
Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng chỉ sợ Cưu Ma Trí xấu hổ mà nổi giận đột nhiên ra tay gia hại Đoàn Dự.
Ngờ đâu Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên như không, ôn tồn nói:
- Hôm nay được biết tới bậc cao hiền, thật may mắn biết mấy. Vậy xin dạy cho vài chiêu để cho tiểu tăng được phần ích lợi.
Đoàn Dự đáp:
- Ta không biết võ công, trước nay chưa từng học bao giờ.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cáo từ.
Y hơi nghiêng người một chút, tay áo tung ra, bàn tay từ bên trong đánh ra, bốn chiêu Hỏa Diễm Đao cùng chém vào Đoàn Dự . Chiêu số tối lợi hại của địch đánh ra nhưng Đoàn Dự nào có hay biết gì. Bảo Định Đế và Bản Tướng song chỉ cùng tung ra, đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diễm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng "Oa" lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.
Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết bấy giờ mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi:
- Ngươi là đồ phiên tăng không biết phải quấy là gì!
Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp. Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc nãy ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đao kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa chỉ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe soẹt một tiếng, một luồng nội kình cực kỳ hồn hậu bắn vọt vào người Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí kinh hãi, vội giơ chưởng lên dùng Hỏa Diễm Đao chặn lại. Đoàn Dự vừa ra tay không những Cưu Ma Trí hết sức kinh hãi mà cả Khô Vinh đại sư cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu, trong đó Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự ngạc nhiên hơn cả. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Việc này quả thực quái đản, ta tiện tay chỉ ra sao lão hòa thượng kia phải hết sức chăm chú chống đỡ là sao? Đúng rồi! Chắc là ta ra tay rất giống nên gã phiên tăng này lại tưởng mình biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha, nếu đã thế, ta phải dọa y một phen mới được".
Chàng bèn lớn tiếng nói:
- Công phu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu! Để ta ra mấy chiêu Trung Xung Kiếm cho ngươi biết tay.
Chàng vừa nói vừa chỉ ngón tay ra. Thế nhưng tuy thủ pháp có đúng thật nhưng lần này không có nội lực đi theo, chỉ điểm hờ ra thôi không hiệu quả chút nào. Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế chặn lại, ngờ đâu chỉ của đối phương không có một chút kình lực nào, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiêu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chỉ nữa không thấy tăm hơi gì cả, trong bụng mừng thầm: "Ta đã nghe trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người làm mình sợ hết hồn".
Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì Đại Luân Minh Vương sẽ thật là bẽ mặt, liền giơ tả chưởng chém trái phải luôn mấy cái, để ngăn chặng Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự.
Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật_ là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diễm đao pháp, một đao đã dường như chặt đứt vai của Đoàn Dự. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt giơ chỉ điểm vào Cưu Ma Trí đồng thời hoảng hốt kêu lên:
- Coi chừng!
Ba người xuất chiêu đều dùng võ công thượng thừa để kẻ địch không thể không quay về tự cứu, ngờ đâu Cưu Ma Trí đã dùng nội kình bao quanh những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe Bảo Định Đế và những nhà sư lên tiếng cảnh cáo biết là không ổn, song chưởng cùng hết sức tung ra, trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên vọt ra, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng hất chiêu Hỏa Diễm Đao, dư thế chưa dứt, soẹt soẹt hai tiếng, phản kích ngược lại Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí không dám nghĩ ngợi gì thêm, tay trái vận kình đánh ra.
Đoàn Dự đâm ra hai kiếm rồi, hiểu được bí quyết muốn ra chiêu phải có ý nghĩ trước sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, nội kình chân khí mới có thể vọt ra, làm được như thế quả là tuyệt diệu. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, ngón này rụt về ngón kia tung ra liên miên bất tận.
Cưu Ma Trí kinh hãi hết sức thúc đẩy nội kình chống đỡ, trong gian phòng kiếm khí dọc ngang, xen với đao kình bay lượn, chẳng khác nào vô số lằn sét bay gió giật cùng nổi lên. Hai bên đấu một hồi, Cưu Ma Trí thấy đối phương nội kình càng lúc càng mạnh, kiếm pháp biến hóa càng thêm kỳ diệu, có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu khiến cho không sao có thể suy đoán được.
Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không kỹ những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiếm pháp, trong cơn nguy cấp tùy ý đâm loạn lên chứ nào có phải là tự sáng tạo ra chiêu mới? Y trong bụng vừa kinh hãi vừa hối hận: "Trong chùa Thiên Long có ẩn một cao thủ thanh niên như thế này, hôm nay mình đúng là mua lấy cái nhục". Đột nhiên soẹt soẹt soẹt y chém luôn ba đao kêu lên:
- Ngừng tay đã!
Chân khí của Đoàn Dự không thể tùy ý thu phát, nghe đối phương kêu lên "Ngừng tay đã" không biết thu hồi nội kình cách nào, chỉ đành hất ngón tay lên chỉ thẳng vào nóc nhà, nghĩ thầm: "Ta không nên phát kình thêm nữa chờ xem y nói gì đã nào".
Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống hoàn toàn không biết phép tắc gì, trong lòng chợt động lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.
Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn võ họ tối cao thâm là Lục Mạch Thần Kiếm nhưng công phu quyền cước tầm thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí có ẩn bảy tám chiêu biến hóa tiếp theo là một môn quyền pháp cực kỳ cao minh nhưng so với Hỏa Diễm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bên nông sâu khó dễ không thể nào bì kịp.
Trên đời này dù kỹ thuật học vấn không ai lại biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng trong võ học thì Đoàn Dự là một biệt lệ. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới lật đật quờ quạng đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí tay phải liền vươn ra, chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Đoàn Dự lập tức toàn thân tê dại không còn cử động gì được nữa.
Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa hề luyện qua.
Cưu Ma Trí tuy nhìn thấy Đoàn Dự có rất nhiều sơ hở, nhất thời không sao địch lại Lục Mạch Thần Kiếm vẫn tưởng phải tìm một loại võ học cao thâm nào khác để đánh bại địch thủ, thật không thể ngờ rằng lại có thể bắt được chàng một cách dễ dàng đến như vậy. Y còn sợ Đoàn Dự cố ý giả vờ để thi hành ngụy kế nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Những kinh mạch có các huyệt đạo đó Đoàn Dự chưa hề luyện qua.
Cưu Ma Trí lùi lại ba bước nói:
- Vị tiểu thí chủ này nhớ hết các đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh thì cũng thế thôi.
Y giơ tả chưởng ra chém luôn về trước liền năm đao rồi nắm Đoàn Dự xách ra khỏi Mâu Ni Đường. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định xông lên cướp Đoàn Dự về đều bị ngũ đao liên hoàn của y chặn lại không cách nào cứu người được.
Cưu Ma Trí nắm Đoàn Dự tung ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn:
- Mau đi thôi!
Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường cũ mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh Mâu Ni Đường. Cưu Ma Trí liên tiếp dùng Hỏa Diễm Đao chém vào phía cửa Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế và đồng bọn phóng Nhất Dương Chỉ ra nhưng nhất thời không phá nổi lưới đao vô hình của Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp, biết rằng chín tên bộ thuộc đã đem Đoàn Dự chạy về hướng bắc, cười dài một hồi nói:
- Đốt đồ phổ chết sao bằng đồ phổ sống, Mộ Dung tiên sinh dưới suối vàng có người bạn bè, cũng đỡ tịch mịch.
Y chém xéo chưởng phải ra, nghe lách cách mấy tiếng, chặt gãy luôn hai cái cột của tòa Mâu Ni Đường, thân hình hơi lắc một cái, đã như một làn khói bay thẳng vào rừng trong nháy mắt không biết đi đằng nào.
Bảo Định Đế và Bản Tham hai người cùng chạy ra, thấy Cưu Ma Trí đã đi mất dạng. Bảo Định Đế nói:
- Đuổi theo mau!
Gió thổi vào tăng bào phần phật ông đã bay ra ngoài mấy trượng, cùng Bản Tham đại sư hai người đuổi theo về hướng bắc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro