THI HỌC KỲ =.=
Vào một giây phút nào đó trong cuộc sống, ta tìm được một người có thể thay đổi cuộc sống của ta dù chỉ một phần nhỏ. Đó là một người không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng : “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Trong cuộc sống, ta gặp gỡ nhiều người, cảm thấy thoải mái khi bên cạnh họ, ta giới thiệu với mọi người rằng đấy là bạn ta. Nhưng thực ra họ chỉ mới là những người quen biết. Có thể mời những người này đến nhà, cùng nhau đi chơi, cùng chia sẻ một số thứ. Nhưng không phải ai trong số họ cũng có thể trở thành người chia sẻ cuộc sống cùng với ta.
Bạn, hiểu đơn giản thì đó là người mà ta quen biết. Tuy nhiên không phải bất cứ ai ta quen cũng là bạn của ta. Một khi đã coi ai đã là bạn tức là người ấy với ta phải có quan hệ thân thiết, gần gũi ở một mức độ nào đó, là người biết đồng cảm và chia sẻ với ta. Ấy là chưa kể những người bạn thân, những người luôn lắng nghe khi ta có chuyện rắc rối, luôn bên ta lúc ta khó khắn và giúp ta vượt qua cơn hoạn nạn. Chỉ có người bạn thân thật sự mới là người ta có thể cùng sẻ chia cuộc sống. Đó là người ta yêu quý, quan tâm và thường xuyên chia sẻ với họ những vui buồn và ngược lại. Đó là một người bạn khiến ta cảm thấy an tâm khi ở bên cạnh bởi lẽ ta biết chắc họ quan tâm đến ta, luôn ở bên ta những khi ta gặp khó khăn buồn phiền. Đó cũng là người ngăn ta mắc sai lầm hoặc giúp ta sửa chữa khi ta phạm lỗi. Đó là người luôn gắn bó và ủng hộ ta. Họ nắm lấy tay ta để tiếp thêm sức mạnh và niềm tin. Họ dõi theo từng bước của ta trên đường đời, ngược lại, ta cũng dõi theo cuộc sống của họ và học hỏi từ đó. Vâng, chỉ có người bạn thân thiết và chân thành đó mới có thể là người “ đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”. Để cuối cùng, sau bao thăng trầm của cuộc sống ta chợt nhận ra rằng ta có rất nhiều người quen nhưng ta không có nhiều bạn-những người bạn thân thật sự.
Khi ta ngã quỵ và thế giới quanh ta dường như quá đen tối, trống rỗng, người bạn ấy sẽ nâng ta lên và làm cho thế giới bỗng sáng lên và lấp đầy những trống rỗng ấy. Người bạn ấy có thể dắt ta qua những giây phút khó khăn của cuộc sống, nắm lấy tay ta và nói rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.Cuộc sống không phải luôn trải hoa hồng , đôi khi ta phải đối mặt với những khó khăn tưởng như không thể vượt qua được , những thất bại tưởng như có thể làm ta gục ngã. Ấy là khi ta hiểu rõ giá trị của tình bạn hơn hết. Bên cạnh gia đình, tình yêu, thì tình bạn chân thành là chỗ dựa vững chắc cho mỗi người trong cuộc sống. Người bạn thật sự là người biết khích lệ , động viên khi ta đang vươn lên, biết mừng vui khi ta hạnh phúc, biết bật khóc sẻ chia khi ta đau buồn, biết tìm đến ta khi ta cô đơn. Nếu cuộc đời khắc nghiệt khiến ước mơ , niềm tin của ta trong vùng giông bão thì bờ vai của một người bạn luôn là chỗ dựa an toàn cho ta. Những người bạn thật sự sống dựa vào nhau bằng niềm tin mạnh mẽ nhất. Chính niềm tin ấy khiến chúng ta có thể chia sẻ cùng nhau cả những điều tốt đẹp lẫn khó khăn nhất trong đời bằng nụ cười.
Có những người bạn đã đến bên ta, trao cho ta niềm tin, nghị lực, làm chỗ dựa cho ta khi mọi người đã quay lưng lại với ta, khi số phận dường như không mỉm cười với ta.
Bạn là người đến bên ta khi mọi người đã bỏ ta đi ”.Ai cũng mong mình có được một người bạn như vậy trong đời. Vậy ta phải làm gì để có một người bạn như thế? “Cách duy nhất để có bạn tốt là chính bản thân mình phải là một người bạn chân thành”. Tố Hữu viết rằng :
"Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho đâu chỉ nhận cho riêng mình.”
Trong bất kì mối quan hệ nào cũng cần đến sự Cho- Nhận. Đặc biệt đối với tình bạn vì đó là một cuộc giao lưu vô vụ lợi của những người bình đẳng, không ai chỉ Cho hoặc chỉ Nhận. Ta hãy đối xử với bạn bè , yêu thương, quan tâm đến họ như chính bản thân mình.Hãy giúp đỡ mà không đòi hỏi trả công vì đến một lúc nào đó ta sẽ nhận lại được sự giúp đỡ của họ trong cuộc sống. Và thường thì nó nhiều hơn những gì ta nghĩ mình có thể nhận được. Hãy san sẻ mà không toan tính, cho đi mà không chờ nhận lại. Hãy trao yêu thương từ đáy lòng chứ không phải vì những âm mưu vụ lợi, để đó là tình cảm của trái tim chứ không phải toan tính của lý trí...Một mối quan hệ lâu dài là những bài học phải học suốt đời. Học cách yêu thương và quan tâm đến người bạn của mình . Học cách tha thứ cho lỗi lầm và giúp họ tránh những sai lầm như vậy. Học cách chấp nhận khuyết điểm của người khác… Tình bạn đôi khi là những điều giản đơn mà đôi khi cuộc sống bộn bề làm ta quên đi mất. Đôi khi đó chỉ là ánh nhìn động viên, một cái siết tay lúc mềm yếu, hay một bờ vai, một sự yên lặng để lắng nghe tất cả nỗi lòng của bạn bè.Tình bạn không có khuôn mẫu cũng không có chuẩn mực nhất định để thể hiện. nhưng luôn có những điều nhỏ nhặt, những tình cảm chân thành kết nối những người bạn với nhau.
Có được một người bạn thân đã khó , giữ được tình bạn ấy còn khó hơn. Bạn hãy nắm một nắm cát đầy trong tay đi. Bạn biết không, nắm cát trong lòng bàn tay của bạn cũng giống như bạn bè của bạn vậy. Những hạt cát quá xa lòng bàn tay bạn sẽ theo kẻ hở giữa những ngón tay bạn mà rơi ra ngoài. Nếu bạn càng siết chặt bàn tay thì chúng càng rơi ra nhiều hơn. Chỉ có những hạt cát nằm giữa lòng bàn tay bạn, được giữ chặt trong đó mới còn lại mà thôi. Đó chính là những người bạn thân thiết mà chúng ta thật sự cần, những người bạn này sẽ ở lại với ta dù bất cứ chuyện gì xảy ra. Nhưng, bạn thấy đó, những hạt cát này rất ít và dễ dàng rơi ra nếu ta không biết giữ gìn. Hãy giữ gìn và nâng niu chúng bằng tình cảm của mình. Chúng sẽ ở bên cạnh bạn và không rơi ra đâu.Cũng giống như cát, muốn giữ được bạn không phải nắm thật chặt mà phải biết nâng niu, trân trọng với tất cả sự yêu mến và tôn trọng.
Thực tế cuộc sống quanh ta đã chỉ ra rằng trong nhiều trường hợp có nhiều người đến với ta nhưng không phải là bạn ta. Chảng hạn như khi bạn là một người giàu có, thành đạt, tương lai rộng mở, quanh bạn có nhiều người tìm đến nhưng có phải tất cả những người trong số họ đều là bạn của bạn? Họ còn đến vì những mục đích gì? Cầu cạnh, nhờ vả, lợi dụng và biết đâu đấy, một ngày khi bạn sa cơ họ lại chẳng lạnh lùng bỏ đi, không chút bận tâm. Vậy mới nói : “ Bạn là người đến bên ta khi mọi người đã bỏ ta đi.”
Tuy nhiên trong thực tế cũng chỉ ra rằng có trường hợp mọi người quanh bạn bỏ đi và có người tìm đến với bạn nhưng không vì mục đích chia sẻ, giúp đỡ, không có mục đích tốt thì họ cũng không thể được coi là bạn.
Trong cuộc sống của chúng ta, có nhiều điều dễ dàng đến rồi đi, nhanh chóng và mỏng manh như một làn khói, dễ tan vỡ như lâu đài cát trước những cơn sóng gào. Chỉ có tình cảm là điều duy nhất có thể vượt qua mọi bão giông cuộc đời, là nền tảng, là gốc rễ cho mọi niềm vui và nguồn hạnh phúc. Và không có gì tuyệt vời hơn được trao gửi tình cảm của mình cho một người khác, và rồi cảm nhận được sự bình yên khi gọi nhau là bạn.
Trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều mối quan hệ thân sơ, nhiều cung bậc tình cảm giữa con người với nhau. Tất cả hoà quyện vào nhau, hình thành nên nhiều khúc tình cảm tâm tình : tình cảm gia đình, tình yêu, tình bạn ... . Tuy rằng, tình cảm bạn bè không thiêng liêng, cao cả bằng tình cảm gia đình, không nồng nàn, mãnh liệt như tình yêu, nhưng ai cũng cần có một tình bạn chân thành để có thể cùng nhau chia sẽ bao niềm vui và nỗi buồn. Nếu trên thế gian này không có tình bạn thì sẽ tẻ nhạt biết bao. Có thể nói tình bạn đã tiếp thêm cho chúng ta nghị lực để vươn lên trong cuộc sống. Đặc biệt, những tình bạn thời học sinh là những tình cảm hồn nhiên, trong sáng và đẹp đẽ biết bao.
Có khi nào ngồi buồn, bạn tự hỏi mình “ Tình bạn là gì ” chưa ? Tình bạn – friendship. Nếu dịch sát nghĩa từ tiếng Anh, theo như tôi hiểu, là con thuyền của tình bạn. Mỗi chiếc thuyền lớn là một sự gắn kết của biết bao mảnh ghép nhỏ bé. Nếu không có sự liên kết bền chặt thì những mảnh ghép mãi mãi chỉ là những miếng gỗ vô dụng không hơn không kém… Và tình bạn cũng như con thuyền kia, cũng được xây dựng từ những mảnh ghép của sự thông cảm, hiểu biết và chia sẻ. Nếu lỡ một ngày nào đó, một trong hàng ngàn, hàng vạn mảnh ghép nhỏ bé đấy mất đi, hay mai một, đấy là lúc luyển tiếc thay một tình bạn tình bạn bị tan vỡ chỉ vì một chuyện nhỏ. Cũng như những chiếc thuyền lớn, thường xuyên cần được tu sửa. Đấy là khi bạn đã quá mệt mỏi với biết bao lo toan, suy nghĩ giữa những bon chen của cuộc sống và dường như cảm thấy không còn thời gian dành cho những người bạn của mình. Đừng vội trách bạn không chia sẻ, không quan tâm để rồi sẽ làm cho mình xa bạn hơn thôi. Hãy tạm quên đi tất cả và quan tâm hơn đến những người bạn của mình. Đừng để những mối mọt phiền muộn, hiểu lầm làm hư mục, rạn nứt tình bạn. Nếu có người từng ví tình yêu như những chuyến tàu, sẽ đi ngang qua cuộc đời ta hoặc đưa ta đi đến những chặng dừng khác nhau… thì tình bạn chân thành sâu sắc sẽ như những chiếc thuyền vững chắc, cùng ta vượt qua tất cả bão tố, sóng gió của cuộc đời… Luôn luôn thầm lặng và bền bỉ …. Như vậy, một tình bạn sẽ chẳng thể bền vững nếu như thiếu đi những chia sẻ, đồng cảm và hiểu nhau… cũng như 1 chiếc thuyền không thể đối mặt với phong ba, bão táp nếu thiếu đi bất kỳ một mảnh ghép nào, dù là một mảnh ghép rất nhỏ.
Tình bạn được xây dưng từ những giọt kết tinh tình cảm của bạn bè. Đó là người có thể thay đổi cuộc sống của bạn dù chỉ là một phần nhỏ nào đó, là người có thể làm cho bạn cười đến ngặt nghẽo đến nỗi bạn không thể dừng lại, làm cho bạn tin rằng thế giới này thật tốt đẹp, và có thể người đó đã ngồi hàng giờ để thuyết phục bạn rằng “ thật sự cánh cửa cuộc đời vẫn chưa đóng lại với bạn và nó đang cho bạn mở ra” . Người bạn ấy có thể giúp bạn vượt qua những giây phút khó khăn của cuộc sống, lúc buồn và cả những lúc rối trí hay những lúc khi bạn ngã qụy và thế gíơi quanh bạn dường như qúa đen tối và trống rỗng. Người bạn ấy sẽ nắm lấy tay bạn và nói với bạn rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. Và nếu bạn đã tìm thấy một ngừơi bạn như thế, bạn đã cảm thấy hạnh phúc và đầy đủ, bởi vì bạn không cần lo âu, bạn đã có một tình bạn mãi mãi trong cuộc đời và nó sẽ không bao giờ kết thúc. Bạn sẽ không còn những ngày tháng cô đơn, tẻ nhạt mà sẽ luôn tươi cười, sống một cuộc sống đầy hạnh phúc và ấm áp trong vòng tay bè bạn .
Người bạn bình thường có thể chưa bao giờ thấy bạn khóc, nhưng người bạn thật sự sẽ luôn là đôi vai cho bạn tựa vào mỗi khi bạn buồn khổ. Người bạn bình thường tỏ ra khó chịu khi bạn trễ hẹn, nhưng người bạn thật sự sẽ hỏi xem bạn mắc kẹt chuyện gì. Người bạn bình thường lắng nghe những vướng mắc của bạn, nhưng người bạn thật sự sẽ giúp bạn giải quyết những vướng mắc đó. Người bạn bình thường luôn là khách khi đến thăm bạn, nhưng người bạn thật sự thì luôn tự phục vụ mình khi đến nhà bạn. Người bạn bình thường cho rằng tình bạn sẽ chấm dứt sau những lần cãi cọ, còn người bạn thật sự lại tin rằng tình bạn sẽ càng thân thiết hơn sau những cuộc tranh cãi như vậy. Người bạn bình thường luôn mong muốn bạn sẽ giúp đỡ họ, người bạn thật sự luôn có mặt khi bạn cần sự giúp đỡ. Vậy người bạn thật sự là ai? Là người vẫn gắn bó với bạn ngay cả khi tất cả những người bạn khác xa lánh bạn. Có người nói có một người bạn là điều dễ dàng. Làm một người bạn tốt là một điều khó.
Bước đầu tiên để có một tình bạn đẹp là làm bạn với chính bản thân bạn. Khi chúng ta thật sự yêu thương bản thân mình, chúng ta sẽ tạo được sự lôi cuốn đối với người khác. Vì chúng ta không chú trọng nhiều tới cá nhân chúng ta nên chúng ta sẽ quan tâm đến người khác nhiều hơn. Chúng ta sẽ có niềm tin để dành thời gian cho người bạn của mình vì chúng ta muốn có những giây phút yên bình, vui vẻ bên bạn ấy chứ không phải chúng ta cần người ấy để làm những điều có lợi cho bản thân. Sự gần gũi, thân mật thì quan trọng hơn nhiều so với khoảng thời gian cả hai tiếp xúc nhau. Hãy quyết tâm dành cho nhau những giờ phút vô cùng đặc biệt và đáng nhớ, đừng ngại ngần gì cả. Nếu bạn muốn tình bạn được phát triển, hãy bỏ đi nỗi sợ người ta không muốn làm bạn với bạn. Mời họ ăn trưa hoặc tổ chức một buổi họp nhóm và cùng nhau ăn tối. Khi bạn bè giận nhau, nên là người gọi điện trước nhất. Bạn của bạn cũng đang nóng lòng muốn làm lành với bạn.
Hãy cư xử với bạn của bạn như là cư xử với chính bản thân bạn. Quan tâm người khác hơn là chờ đợi người ấy quan tâm mình. Hãy thông cảm, tránh than phiền về nhau, cũng như việc ngồi lê đôi mách và chỉ trích nhau, hãy luôn nghĩ về những người yêu thương bạn. ... Với mỗi người làm bạn khóc, sẽ có ba người làm bạn cười, và một nụ cười sẽ tồn tại thật lâu, thật lâu nhưng giọt nước mắt thì chỉ tồn tại trong một lúc. Nếu ai đó có một điều gì đó tội lỗi, đừng để nó hằn sâu vào bạn. Vì thế để có thể hành động một cách đích xác, hãy nghĩ đến những người yêu thương bạn và đừng để điều gì làm hỏng cái thứ tình cảm cao đẹp ấy
Niềm vinh quang của tình bạn không phải là ở vòng tay giang ra, không phải là ở nụ cười thân mật, cũng không phải là sự vui vẽ bên nhau, đó là nguồn cảm hứng thiêng liêng mà ngươì này cảm nhận được khi phát hiện có ai đó tin tưởng ở mình và vui sướng với sự tin tưởng đó trong tình bạn hữu. Với 1 người bạn thật tình, mình có thể nói thật lòng về 1 điều ngốc ngếch nào đó bởi vì bạn là 1 người đáng tin cậy. Khi niềm vui đến với bạn , nó sẽ lan qua bạn. Ngọn đèn của bạn tôi sáng lên bao nhiêu thì đèn của tôi cũng sáng lên bấy nhiêu. Có tình bạn là có được chiếc chìa khoá mở vào tâm hồn của ngươì khác. Hãy tin cậy người đã giúp bạn vượt qua nỗi sầu muộn, những ngày đen tối hơn là những ngươì chung vui với bạn, những ngày huy hoàng thịnh vượng vì đó mới chình là tình bạn thật sự. Tình bạn sẽ xoa dịu đi mọi lo lắng, xua tan đi mọi buồn phiền và khuyên nhũ ta khi bất hạnh.Tình bạn chân thành là 1 cái cây mọc chậm và phải thử thách nó, phải chịu đựng nhiều nghịch cảnh trước khi được kêu bằng danh hiệu đó. Không ai toàn điện cả và bạn bè là phần mà mình còn thiếu. Tình bạn lí tưởng chỉ có những người bạn tốt và những ng có cùng đức tính tốt. Hãy duy trì một cuộc sống tốt đẹp với bạn bè, đó là ưu điểm của tình bạn. Bạn mới là bạc, bạn cũ là vàng.
Mỗi khi nhắc tới hai tiếng “ tình bạn” thân thương đó, trái tim nhỏ bé của tôi lại xao xuyến hẳn lên. Trăm hoa đẹp nhất bông hồng, không bằng tình cảm trong thời học sinh. Tình bạn thật trong sáng và đẹp đẽ biết bao. Tình bạn cao cả hơn vật chất, luôn tồn tại trong tâm hồn mỗi con người chúng ta, đó là những ngôn lửa hồng ấp ám giúp chúng ta đoàn kết, yêu thương nhau hơn. Nó còn là một vị thuốc tinh thần giúp chúng ta vượt qua mọi sự khó khăn, nguy hiểm, giúp chúng ta luôn hướng tới cái đẹp, cái tốt - một vị thuốc không thể thiếu trong đời người. Việc kết bạn đã khó nhưng giữ gìn được 1 tình bạn thuỷ chung còn khó hơn. Nếu ta biết coi trọng nó, thì tình bạn luôn đâm hoa, kết trái, không bào giờ tạn lụi.Chính vì vậy, khi chúng ta đã có một tình bạn chân chính, thì ta đã là người hạnh phúc nhất rồi. Đúng như Gióoc giơ Hê be đã viết “ Sống không có bạn là chết cô đơn”.
Suy nghĩ của giới trẻ về gia đình
Bữa cơm gia đình giúp cha mẹ gần gũi con cái
(VOV) - Nền tảng của gia đình chính là tình yêu thương. Khi mỗi người trẻ tuổi có ý thức vun đắp cho tình cảm ấy, họ sẽ thực sự hạnh phúc
Trong cuộc sống hiện đại, quan niệm về gia đình và các mối quan hệ trong gia đình truyền thống đã có nhiều thay đổi so với trước đây. Trong đó, điểm nổi bật là cách suy nghĩ, cũng như ứng xử của những người trẻ tuổi.
Hơn một năm nay, cứ kết thúc các buổi học trên giảng đường, bạn Anh Thư, sinh viên năm thứ 3, trường Đại học Mỏ Hà Nội lại vội vàng vào Viện K để trông nom người mẹ đang từng ngày, từng giờ chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác.
Vất vả và mệt mỏi, nhưng không bao giờ Anh Thư kêu ca, phàn nàn điều gì. Rất nhiều người, cả bệnh nhân và người nhà từng đến Viện K, đều không khỏi cảm động trước hình ảnh một cô gái trẻ kiên nhẫn ngồi bón từng thìa cháo, hoặc dịu dàng xoa lưng cho bà mẹ gầy yếu. Tình yêu mà Thư dành cho mẹ sâu sắc như thế.
Anh Thư tâm sự, đối với bạn giờ đây, mỗi giờ khắc được ở bên mẹ là vô cùng quý giá, vì Thư hiểu rằng, quỹ thời gian của mẹ đang cạn dần: “Nhiều lúc tôi cũng nghĩ là tại sao ngày xưa không yêu mẹ nhiều hơn, không quan tâm mẹ nhiều hơn. Bây giờ mình chỉ biết động viên mẹ, chăm sóc mẹ bằng hết sức mình thôi. Nhưng mà tôi vẫn cảm thấy cố thế nào cũng không đủ so với những gì mà mẹ đã cho mình”.
Những giây phút tình cảm gia đình đáng quý như vậy không phải lúc nào cũng diễn ra, mà chủ yếu là ở những trường hợp đặc biệt như gia đình Anh Thư. Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập, quan niệm gia đình truyền thống đã có nhiều thay đổi so với trước.
Không thể phủ nhận, mối quan hệ gia đình hiện đại đã trở nên dân chủ hơn. Con cái có thể chủ động bày tỏ ý kiến của mình, tự lựa chọn nghề nghiệp, bạn đời, cởi mở hơn trong việc trao đổi suy nghĩ với cha mẹ. Thế nhưng, do ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp dường như đang dần bị mai một. Bố mẹ thì lao vào làm việc, kiếm tiền, cống hiến… Những bữa ăn sáng, ăn trưa, các thành viên trong gia đình đều “tùy nghi di tản”. Thậm chí có gia đình, bữa ăn tối được chia thành hai ba đợt, sau những hoạt động không cùng thời gian biểu của bố đi đánh tenis, mẹ tập yoga, con đi học tiếng Anh… Xem truyền hình thì cũng mỗi người ngồi một nơi, với một kênh yêu thích riêng. Chính cách sống này đã khiến không ít bạn trẻ trở nên cô đơn ngay trong ngôi nhà của mình. Khoảng cách giữa con cái và cha mẹ ngày càng lớn hơn.
Tiến Đạt, sinh viên năm thứ hai Đại học Giao thông vận tải là một trong những trường hợp như vậy. Tiến Đạt chia sẻ, mọi sinh hoạt cá nhân của bạn đều diễn ra trong phòng riêng – thế giới riêng, nơi mà bố mẹ hầu như chẳng bao giờ đặt chân vào: “Bố mẹ tôi đi làm cả ngày, bận bịu về đến nhà cũng nghỉ luôn. Là con trai nên đi học về phần lớn thời gian tôi ở trong phòng. Việc nhà cũng không phải động tay chân vào, vì nhà có người giúp việc rồi. Thi thoảng, bố mẹ cũng có hỏi han về chuyện học hành. Nhiều người bảo như thế là buồn nhưng tôi quen rồi nên chẳng có gì phàn nàn. Bây giờ lại thấy tự do, thoải mái”.
Mặc dù vậy, đối với đa số các bạn trẻ, gia đình vẫn là tổ ấm, là đôi cánh nâng đỡ để các bạn vươn lên và giúp các bạn vượt qua những khó khăn, vấp váp trong cuộc đời. Nguyễn Thảo Minh, sinh viên lớp Phát thanh K28, Học viện Báo chí và Tuyên truyền nêu suy nghĩ về gia đình như thế này: “Tôi cảm thấy rất may mắn có được bố mẹ rất tôn trọng quyết định của mình. Tất nhiên là cũng có những lúc bất đồng quan điểm vì cha mẹ và con cái có khoảng cách thế hệ, nhưng tôi nghĩ bố mẹ luôn luôn là người mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho con. Do đó, trước khi làm việc gì thì tôi đều hỏi ý kiến bố mẹ”.
Theo bạn Mai Hương, nhà ở đường Giải Phóng, Hà Nội, gia đình sẽ bền vững và khoảng cách thế hệ sẽ không còn, nếu như các bạn trẻ chủ động kết nối với cha mẹ mình: “Tôi thấy nhiều bạn đổ hết lỗi lên bố mẹ, nào là bố mẹ hay đi làm xa, không quan tâm đến các bạn. Vậy tại sao các bạn không chủ động gần gũi với bố mẹ. Tôi nghĩ chỉ cần những câu động viên, hỏi han dành cho bố mẹ những lúc mệt mỏi, hay tham gia nấu cơm chẳng hạn. Đó là cách tốt nhất để các bạn thể hiện tình yêu của mình đối với bố mẹ”.
Nền tảng của gia đình chính là tình yêu thương. Khi mỗi người trẻ tuổi biết quý trọng và có ý thức vun đắp cho tình cảm ấy, họ sẽ thực sự hạnh phúc và đóng góp phần công sức không nhỏ trong việc xây dựng tổ ấm của gia đình mình./.
M
ở
c
ử
a nhìn trăng, trăng
tái m
ặ
t,
Khép phòng đ
ố
t n
ế
n, n
ế
n r
ơ
i châu…”
M
ấ
y
ai đã t
ừ
ng say trăng nh
ư
Hàn M
ặ
c T
ử
? “Trăng sõng soài trêncành li
ễ
u - Đ
ợ
i gió
đông v
ề
đ
ể
l
ả
l
ơ
i…” (“B
ẽ
n l
ẽ
n”) – Thi sĩ còn nói đ
ế
n thuy
ề
n trăng, sông trăng,
sóng trăng… C
ả
m
ộ
t tr
ờ
i trăng m
ộ
ng
ả
o, huy
ề
n di
ệ
u. Th
ơ
Hàn M
ặ
c T
ử
r
ợ
n ng
ợ
p ánh
trăng, th
ể
hi
ệ
n tâm h
ồ
n “say trăng” v
ớ
i tình yêu tha thi
ế
t cu
ộ
c đ
ời
, v
ừ
a th
ự
c v
ừ
a
m
ơ
. Ông là m
ộ
t trong nh
ữ
ng nhà th
ơ
l
ỗ
i l
ạ
c nh
ấ
t c
ủ
a phong trào Th
ơ
mói
(1932-1941). V
ớ
i 28 tu
ổ
i đ
ờ
i (1912-1940), ông đ
ể
l
ạ
i cho n
ề
n th
ơ
ca dân t
ộ
c hàng
trăm bài th
ơ
và m
ộ
t s
ố
k
ị
ch th
ơ
. Th
ơ
c
ủ
a ông nh
ư
trào ra máu và n
ướ
c m
ắ
t, có
không ít hình t
ượ
ng kinh d
ị
. Cũng ch
ư
a ai vi
ế
t th
ơ
hay v
ề
mùa xuân và thi
ế
u n
ữ
(“Mùa xuân chín”), v
ề
Hu
ế
đ
ẹ
p và th
ơ
(“Đây thôn Vĩ Gi
ạ
”) nh
ư
Hàn M
ặ
c T
ử
.
“Đây thôn Vĩ Gi
ạ
” r
út trong t
ậ
p “Th
ơ
điên” xu
ấ
t b
ả
n năm 1940, sau khi nhà th
ơ
qua
đ
ờ
i. và con ng
ườ
i Vĩ Gi
ạ
.
Câu đ
ầ
u “d
ị
u ng
ọ
t” nh
ư
m
ộ
t l
ờ
i chào m
ờ
i, v
ừ
a Bài th
ơ
nói r
ấ
t hay v
ề
Hu
ế
, v
ề
c
ả
nh s
ắ
c thiên nhiên h
ữ
u tình, v
ề
con ng
ườ
i
x
ứ
Hu
ế
, nh
ấ
t là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu th
ơ
m
ộ
ng say
đ
ắ
m, lung linh trong ánh sáng hu
y
ề
n
ả
o. Bài th
ơ
giãi bày m
ộ
t n
ỗ
i ni
ề
m bâng
khuâng, m
ộ
t khao khát v
ề
h
ạ
nh phúc c
ủ
a thi sĩ đa tình, có nhi
ề
u duyên n
ợ
v
ớ
i
c
ả
nh m
ừ
ng vui h
ộ
i, v
ừ
a nh
ẹ
nhàng trách móc
ng
ườ
i th
ươ
ng bi
ế
t bao nh
ớ
đ
ợ
i ch
ờ
. Gi
ọ
ng th
ơ
êm d
ị
u, đ
ằ
m th
ắ
m và tình t
ứ
: “Sao
anh không v
ề
ch
ơ
i thôn Vĩ?”. Có m
ấ
y xa xôi. C
ả
nh cũ ng
ườ
i x
ư
a th
ấ
p thoáng trong
v
ầ
n th
ơ
đ
ẹ
p mang hoài ni
ệ
m. Bao k
ỷ
ni
ệ
m s
ố
ng d
ậ
y trong m
ộ
t h
ồ
n th
ơ
. Nó g
ắ
n li
ề
n
v
ớ
i c
ả
nh s
ắ
c v
ườ
n
t
ượ
c và con ng
ườ
i x
ứ
Hu
ế
m
ộ
ng m
ơ
:
“Nhìn n
ắ
ng hàng cau,
n
ắ
ng m
ớ
i lên
V
ườ
n ai m
ướ
t quá, xanh nh
ư
ng
ọ
c
Lá trúc che ngang m
ặ
tchu
đi
ề
n?”
C
ả
nh đ
ượ
c nói đ
ế
n là m
ộ
t sáng bình minh đ
ẹ
p. Nhìn t
ừ
xa, say mê ng
ắ
m
nhìn nh
ữ
ng ng
ọ
n cau, tàu cau ng
ờ
i lên màu n
ắ
ng m
ớ
i, “n
ắ
ng m
ớ
i lên” r
ự
c r
ỡ
. Hàng
cau nh
ư
đón chào ng
ườ
i thân th
ươ
ng sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là
hình
ả
nh thân thu
ộ
c thôn Vĩ Gi
ạ
t
ừ
bao đ
ờ
i nay. Quên sao đ
ượ
c màu xanh cây lá
n
ơ
i đây. Nhà th
ơ
tr
ầ
m tr
ồ
th
ố
t lên khi đ
ứ
ng tr
ướ
c m
ộ
t màu xanh v
ườ
n t
ượ
c thôn Vĩ
Gi
ạ
: “v
ườ
n ai m
ướ
t quá xanh nh
ư
ng
ọ
c”. S
ươ
ng đêm
ướ
t đ
ẫ
m cây c
ỏ
hoa lá. Màu xanh
m
ỡ
màng, non t
ơ
ng
ờ
i lên, bóng lên d
ướ
i ánh mai h
ồ
ng, trông “m
ượ
t quá” m
ộ
t màu
xanh nh
ư
ng
ọ
c bích. Đ
ấ
t đai màu m
ỡ
, khí h
ậ
u ôn hoà, con ng
ườ
i c
ầ
n cù chăm bón
m
ớ
i có
“màu xanh nh
ư
ng
ọ
c”
ấ
y. Thiên nhiên r
ạ
o r
ự
c, tr
ẻ
trung và đ
ầ
y s
ứ
c s
ố
ng.
Cũng nói v
ề
màu xanh ng
ọ
c bích, tr
ướ
c đó (1938) Xuân Di
ệ
u đã t
ừ
ng vi
ế
t: “Đ
ổ
tr
ờ
i
xanh ng
ọ
c qua muôn lá…” (“Th
ơ
duyên). Hai ch
ữ
“v
ườ
n ai” đã g
ợ
i ra nhi
ề
u ng
ạ
c
nhiên và man mác. Câu th
ứ
t
ư
t
ả
thi
ế
u n
ữ
v
ớ
i khóm trúc v
ườ
n đ
ầ
y đ
ặ
n, phúc h
ậ
u.
“Lá trúc che ngang” là m
ộ
t nét v
ẽ
th
ầ
n tình đã tô đ
ậ
m nét đ
ẹ
p c
ủ
a cô gái Hu
ế
duyên dáng, d
ị
u dàng, kín đáo, tình t
ứ
đáng yêu. Hàn M
ặ
c T
ử
h
ơ
n m
ộ
t l
ầ
n nói v
ề
trcs và thi
ế
u n
ữ
. Khóm trúc nh
ư
to
ả
bóng xanh m
át che ch
ở
cho m
ộ
t m
ố
i tình đ
ẹ
p
đang n
ả
y n
ơ
:
“Th
ầ
m thì v
ớ
i ai ngôì d
ướ
i trúc
Nghe ra ý nh
ị
và th
ơ
ngây”
(“Mùa xuân chín”)
Câu 3, 4 trong kh
ổ
th
ơ
đ
ầ
u t
ả
cau, t
ả
n
ắ
ng, t
ả
v
ườ
n,
t
ả
trúc và thi
ế
u n
ữ
v
ớ
i m
ộ
t gam màu nh
ẹ
thoáng,
ẩ
n hi
ệ
n, m
ơ
h
ồ
. Đ
ặ
c s
ắ
c nh
ấ
t là
hai hình
ả
nh so sánh và
ẩ
n d
ụ
. (xanh nh
ư
ng
ọ
c… m
ặ
t ch
ữ
đi
ề
n) C
ả
nh và ng
ườ
i n
ơ
i
Vĩ Gi
ạ
th
ậ
t h
ồ
n h
ậ
u, thân thu
ộ
c đáng yêu.
Vĩ Gi
ạ
- m
ộ
t làng quê n
ằ
m bên b
ờ
H
ươ
ng Giang, thu
ộ
c ng
o
ạ
i ô c
ố
đô Hu
ế
. Vĩ Gi
ạ
đ
ẹ
p
v
ớ
i nh
ữ
ng con đò th
ơ
m
ộ
ng, nh
ữ
ng m
ả
nh v
ườ
n xanh t
ươ
i b
ố
n mùa, sum sê hoa trái.
Nh
ữ
ng ngôi nhà xinh x
ắ
n th
ấ
p thoáng
ẩ
n hi
ệ
n sau hàng cau, khóm trúc, mà
ở
đây
th
ườ
ng dìu d
ặ
t câu Nam ai, Nam bình qua ti
ế
ng đàn tranh, đàn th
ậ
p l
ụ
c h
uy
ề
n
di
ệ
u, réo r
ắ
t. Thôn Vĩ Gi
ạ
đ
ẹ
p nênth
ơ
. Hàn M
ặ
c T
ử
đã dành cho Vĩ Gi
ạ
v
ầ
n th
ơ
đ
ẹ
p
nh
ấ
t v
ớ
i t
ấ
t c
ả
lòng tha thi
ế
t m
ế
n th
ươ
ng.
Kh
ổ
th
ơ
th
ứ
hai nói v
ề
c
ả
nh tr
ờ
i
mây, sông n
ướ
c. M
ộ
t không gian ngh
ệ
thu
ậ
t thoáng đãng, m
ơ
h
ồ
, xa xăm. Hai câu 5,
6 là b
ứ
c tra
nh t
ả
gió, mây, dòng sông và hoa (hoa b
ắ
p). Gi
ọ
ng th
ơ
nh
ẹ
nhàng,
thoáng bu
ồ
n. Ngh
ệ
thu
ậ
t đ
ố
i t
ạ
o nên b
ố
n phiên c
ả
nh hài hoà, cân x
ứ
ng và s
ố
ng
đ
ộ
ng. Gió mây đôi ng
ả
nh
ư
m
ố
i tình nhà th
ơ
, t
ưở
ng g
ầ
n đ
ấ
y mà xa v
ờ
i, cách tr
ở
.
Dòng H
ươ
ng Giang êm trôi l
ờ
l
ữ
ng, t
rong tâm t
ưở
ng thi nhân tr
ở
nên “bu
ồ
n thiu”,
nhi
ề
u bâng khuâng, man mác. Hoa b
ắ
p lay nhè nh
ẹ
đung đ
ư
a trong gió tho
ả
ng. Nh
ị
p
đi
ệ
u khoan thai th
ơ
m
ộ
ng c
ủ
a mi
ề
n sông H
ươ
ng, núi Ng
ự
đ
ượ
c di
ễ
n t
ả
r
ấ
t tinh t
ế
.
Các đi
ệ
p ng
ữ
luy
ế
n láy g
ợ
i nên nhi
ề
u v
ươ
ng v
ấ
n m
ộ
ng
m
ơ
:
“Gió theo l
ố
i gió,
mây đ
ườ
ng mây
Dòng n
ướ
c bu
ồ
n thiu, hoa b
ắ
p lay”.
Hai câu ti
ế
p theo nhà
th
ơ
h
ỏ
i “ai” hay h
ỏ
i mình khi nhìn th
ấ
y hay nh
ớ
t
ớ
i con đò m
ộ
ng n
ằ
m b
ế
n sông
trăng. Sông H
ươ
ng quê em tr
ở
thành sông trăng. Hàn M
ặ
c T
ử
v
ớ
i tình yêu Vĩ Gi
ạ
mà
sáng t
ạ
o nên v
ầ
n th
ơ
đ
ẹ
p nói v
ề
dòng sông H
ươ
ng v
ớ
i nh
ữ
ng con đò d
ướ
i v
ầ
ng
trăng. Nguy
ễ
n Công Tr
ứ
đã t
ừ
ng vi
ế
t: “Gió trăng ch
ứ
a m
ộ
t thuy
ề
n đ
ầ
y”. Hàn M
ặ
c T
ử
cũng góp cho n
ề
n th
ơ
Vi
ệ
t Nam hi
ệ
n đ
ạ
i m
ộ
t v
ầ
n th
ơ
trăng đ
ộ
c đáo:
“Thuy
ề
n ai
đ
ậ
u b
ế
n sông trăng đo
Có ch
ở
trăng v
ề
k
ị
p t
ố
i nay?”
Tâm h
ồ
n nhà th
ơ
xao
xuy
ế
n khi nhìn sông trăng và con thuy
ề
n. Thuy
ề
n em hay “thuy
ề
n ai” v
ừ
a thân
quen, v
ừ
a xa l
ạ
. Ch
ấ
t th
ơ
m
ộ
ng
ả
o “Đây thôn Vĩ Gi
ạ
” là
ở
nh
ữ
ng thi li
ệ
u
ấ
y. Câu
th
ơ
g
ợ
i t
ả
m
ộ
t h
ồ
n th
ơ
đang
rung đ
ộ
ng tr
ướ
c v
ẻ
đ
ẹ
p h
ữ
u tình c
ủ
a x
ứ
Hu
ế
mi
ề
n
Trung, nói lên m
ộ
t tình yêu kín đáo, d
ị
u dàng, th
ơ
m
ộ
ng và thoáng bu
ồ
n.
Kh
ổ
th
ơ
th
ứ
ba nói v
ề
cô gái x
ứ
Hu
ế
và tâm tình thi nhân. Đ
ươ
ng th
ờ
i nhà th
ơ
Nguy
ễ
n
Bính đã vi
ế
t v
ề
thi
ế
u n
ữ
sông H
ươ
ng: “Nh
ữ
ng nàng thi
ế
u n
ữ
sông H
ươ
ng –
Da th
ơ
m
là ph
ấ
n, má h
ườ
ng là son”…Vĩ Gi
ạ
m
ư
a nhi
ề
u, nh
ữ
ng bu
ổ
i s
ớ
m mai và chi
ề
u tà ph
ủ
m
ờ
s
ươ
ng khói. “S
ươ
ng khói” trong Đ
ườ
ng thi th
ườ
ng g
ắ
n li
ề
n v
ớ
i tình c
ố
h
ươ
ng.
Ở
đây sông khói làm nhoà đi, m
ờ
đi áo tr
ắ
ng em, nên anh nhìn mãi v
ẫ
n không ra hình
dáng em (nhân
ả
nh). Ng
ườ
i thi
ế
u n
ữ
Hu
ế
thoáng hi
ệ
n, tr
ắ
ng trong, kín đáo và
duyên dáng. G
ầ
n mà xa. Th
ự
c mà m
ơ
. Câu th
ơ
ch
ậ
p ch
ờ
n, bâng khuâng. Ta đã bi
ế
t
Hàn M
ặ
c T
ử
t
ừ
ng có m
ộ
t m
ố
i tình v
ớ
i m
ộ
t thi
ế
u n
ữ
Hu
ế
mang tên m
ộ
t loài hoa đ
ẹ
p.
Ph
ả
i chăng nhà th
ơ
mu
ố
n nói
v
ề
m
ố
i tình này?
“M
ơ
khách đ
ườ
ng xa, khách đ
ườ
ng
xa
Áo em tr
ắ
ng quá nhìn không ra
Ở
đây s
ươ
ng khói m
ờ
nhân
ả
nh
Ai bi
ế
t tình ai có đ
ậ
m đà”.
“M
ơ
khách đ
ườ
ng xa, khách đ
ườ
ng xa… ai bi
ế
t… ai
có…” các đi
ệ
p ng
ữ
luy
ế
n láy
ấ
y t
ạ
o nên nh
ạ
c đi
ệ
u sâu l
ắ
ng, d
ị
u b
u
ồ
n, mênh mang.
Ng
ườ
i đ
ọ
c thêm c
ả
m th
ươ
ng cho nhà th
ơ
tài hoa, đa tình mà b
ạ
c m
ệ
nh, t
ừ
ng say đ
ắ
m
v
ớ
i bao m
ố
i tình nh
ư
ng su
ố
t cu
ộ
c đ
ờ
i ph
ả
i s
ố
ng trong cô đ
ơ
n b
ệ
nh t
ậ
t.
Cũng c
ầ
n nói đôi l
ờ
i v
ề
ch
ữ
“ai” trong bài th
ơ
này. C
ả
4 l
ầ
n ch
ữ
“ai” xu
ấ
t hi
ệ
n đ
ề
u
m
ơ
h
ồ
ám
ả
nh: “v
ườ
n ai m
ướ
t quá xanh nh
ư
ng
ọ
c?” – “Thuy
ề
n ai đ
ậ
u b
ế
n sông trăng
đó?” – “Ai bi
ế
t tình ai có đ
ậ
m đà?”. Con ng
ườ
i mà nhà th
ơ
nói đ
ế
n là con ng
ườ
i
xa v
ắ
ng, trong hoài ni
ệ
m bâng khuâng. Nhà th
ơ
luôn c
ả
m th
ấ
y mình h
ụ
t h
ẫ
ng, ch
ơ
i
v
ớ
i tr
ướ
c m
ộ
t m
ố
i tìn
h đ
ơ
n ph
ươ
ng m
ộ
ng
ả
o. M
ộ
t chút hi v
ọ
ng mong manh mà tha
thi
ế
t nh
ư
đang nh
ạ
t nhoà và m
ờ
đi cùng s
ươ
ng khói?
Hàn M
ặ
c T
ử
đã đ
ể
l
ạ
i cho
ta m
ộ
t bài th
ơ
tình th
ậ
t hay. C
ả
nh và ng
ườ
i, m
ộ
ng và th
ự
c, say đ
ắ
m và bâng
khuâng, ng
ạ
c nhiên và th
ẫ
n th
ờ
… bao hình
ả
nh và
c
ả
m xúc đ
ẹ
p h
ộ
i t
ụ
trong ba kh
ổ
th
ơ
th
ấ
t ngôn, câu ch
ữ
toàn bích. “Đây thôn Vĩ Gi
ạ
” là m
ộ
t bài th
ơ
tình tuy
ệ
t
tác. Cái màu xanh nh
ư
ng
ọ
c c
ủ
a v
ườ
n ai, con thuy
ề
n ai trên sông trăng, và cái
màu tr
ắ
ng c
ủ
a áo em nh
ư
đang d
ẫ
n h
ồ
n ta đi v
ề
mi
ề
n s
ươ
ng khói c
ủ
a Vĩ
Gi
ạ
thôn
m
ộ
t th
ờ
i xa v
ắ
ng:
“
Ở
đây s
ươ
ng khói m
ờ
nhân
ả
nh
Ai bi
ế
t tình ai có đ
ậ
m
đà?”
GỢI Ý ĐỀ 11
* Nội dung cốt lõi của vấn đề nghị luận : vấn đề nhân sinh quan (chỉ có cuộc sống vị tha, sống vì người khác mới thực sự là cuộc sống đáng quý). Hạnh phúc giữ riêng cho bản thân mình thì rất hạn hẹp; hạnh phúc được mang ra san sẻ cho người khác mới thực sự là hạnh phúc đẹp đẽ, lớn lao.
* Ý cơ bản cần thể hiện :
- Thế nào là hạnh phúc ?
- Thế nào là“Hạnh phúc giữ trong tay” ? (Đó là biểu hiện của cuộc sống riêng tư, vị kỉ, khép kín…). Vì sao nói “hạnh phúc giữ trong tay chỉ là hạt ” ? (Vì hạnh phúc riêng tư đókhông có sức lan tỏa đến người khác, hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống chung. “Hạt” chỉ ươm mầm sự sống, chứ chưa thực sự có sức sống…
- Thế nào là “Hạnh phúc mang ra san sẻ” ? (Đó là biểu hiện của cuộc sống vì tha nhân, cuộc sống luôn hướng đến cộng đồng). Hạt, một khi nảy mầm, sẽ làm cho cây đâm chồi nảy lộc, đơm bông kết trái…
Vì sao nói “ hạnh phúc mang ra san sẻ mới trổ hoa ” ?
+ Vì đó là cuộc sống cao đẹp (vị tha, luôn nghĩ đến người khác; cuộc sống cống hiến, sẵn sàng hi sinh quyền lợi cá nhân- hạnh phúc riêng tư để hiến thân vì sự nghiệp chung, vì hạnh phúc của người khác, vì dân vì nước, vì nhân loại…).
+ Một số biểu hiện cụ thể của “cuộc sống vì người khác” trong xã hội hiện nay: cha mẹ hi sinh vì con cái, người chiến sĩ dũng cảm ngã xuống trong cuộc chiến tranh giữ nước, thầy cô giáo chăm lo giáo dục thế hệ trẻ, văn nghệ sĩ và các nhà khoa học miệt mài với tác phẩm nghệ thuật và công trình phục vụ nhân sinh…
+ Đối lập với “cuộc sống vì người khác” là cuộc sống ích kỉ, nhỏ nhen, tầm thường (vì mình, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, chỉ lo hưởng thụ- thỏa mãn các nhu cầu vật chất của riêng bản thân mình…).
àCâu nói trên thể hiện một lẽ sống cao đẹp, một nhân sinh quan đúng đắn. Đời người (khác cuộc sống bản năng của loài vật) chỉ có ý nghĩa khi biết sống vì đồng loại, biết hi sinh quyền lợi cá nhân để góp phần làm thăng hoa cuộc sống chung.
àLẽ sống vị tha cao đẹp đó chính là động lực thúc đẩy xã hội tiến bộ, văn minh, phát triển không ngừng ; làm cho thế giới xích lại gần nhau hơn, con người sống nhân ái hơn ; các dân tộc gia tăng tình hữu nghị, sống chung hòa bình…
“Người thực sư hạnh phúc là người suốt đời chỉ biết
đem hạnh phúc đến cho người khác”.
1. Đặt Vấn Đề
- Trong thi nhân Việt Nam Hoài Thanh và Hoài Chân xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ Kỳ Di cùng với Chế Lan Viên. Đọc thơ Hàn Mặc tử qua nhiều bài quả là kỳ dị. Ông đã tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật ma quái, xa lạ với đời thực.
- Tuy vậy bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi lại sáng tao nên những hình ảnh tuyệt mỹ và hồn nhiên trong trẻo lạ thường. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Đọc bài thơ ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
2. Giải quyết vấn đề
-Bài thơ được gợi hứng từ ức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc, người con gái thôn vĩ dạ xứ Huế cũng là người mà Hàn Măc Tử đã thầm yêu trộm nhớ từ những ngày ở Quy Nhơn. Nay hai người hai nới Hàn Mặc Tử lai mắc bệnh hiểm nghèo. VÌ thế bài thơ vừa làm sống dậy những kỷ niệm về Huế mộng à thơ vừa thể hiện được tậm trạng buồn bã vô vọng chập chờn lăng đăng như sương như khói.
-Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Câu thơ mở đầu này như một câu hỏi vừa như một lời mời gọi trong đó hàm chứa cả sự ngạc nhiên lẫn nối tiếc. Cảnh vĩ giạ đẹp tế hấp dẫn là vậy sao anh không về?
Cảnh thiên nhiên tươi đẹp của thon vĩ dạ hiện lên qua một vài nét vẽ thoáng nhẹ nhưng đầy ấn tượng. Cái ấn tượng vốn đã ăn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ về xứ Huế.
Cảnh vật ở đây dường như đã được sàng lọc qua tâm trí nà thơ, chỉ giữ lịa những đường nét tiêu biểu nhất. Một buổi sáng ở Thôn vĩ ánh nắng chiếu áng lập loáng những hàng câu còng ướt đẫm sướng đêm. Hàng câu hiện lên trong một khoảnh khắc dạc biệt. Gắn liền với cánh ánh nắng mới lên trong trẻo tinh khôi cụ thể và gợi cảm.
Tả cảnh vườn cây tươi tốt sum suê Hàn Mặc TỬ chỉ tập trung làm nổi bật cái mướt xanh của lá: vườn ai mướt quá xanh như ngọc " . Cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi thấp thoáng xuất hiện bòn người một khuôn mặt kín đáo , phúc hâu, dịu dàng. Lá trúc che ngàn mặt chữ điền " Thiên nhiên và con người rất hài hòa gởi lên cái tần thái cái hồn của Vĩ Giạ môt Vĩ Giạ vốn thơ mộng vì có nàng ở đó, trong những vườn tược nên lại càng thở mông hơn đâu hết
Ở khổ thơ thứ 2 tâm trạng của nhà thơ như chuyển sang một gam khác. Nếu như ở khổ thơ đầu một VĨ Da với cảnh vật tươi sáng trong trẻo lạ thường thì đến khổ thơ này môt nỗi buồn đã bao phủ lên tất cả. Sự chuyển biến đột ngôt từ vui sang buồn như thế khá pổ biến trong thơ mới và văn chương lãng ạn nói chung.
Gió theo lôi gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Phải chăng Huế ở khổ thơ đầu là Huế trong ký ức đẹp ngày xưa, còn Huế ở khổ thơ thứ 2 là Huế trong tâm trạng của nhà thơ khi trở về hiện tại . Thôn Vĩ Dạ hiện lên vẫn thơ ộng với gió trăng, mây, nước thuyền bến và hoa bắp lay. Những tất cả đều nhuốm một nỗi bồn. Tâm trạng của người tình nhân tuyệt vọng nhìn nơi đâu cũng thấy chia lìa và buồn bã.
Gió theo lối gió mây đường mây
Gió mây đã chia lìa làm đôi ngả dường như chã có quảng hệ gì, dòng nước vốn chẳng biết vui buồn cũng trở nên buồn thiêu . hình ảnh hoa bắp lay gợi một nỗi buồn hiu hắt. Một nỗi buồn được bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông . Đằng sau những cảnh vật ấy lại có một tâm trạng của một con người mang mặt nỗi buồn xa cách, 1 mối tình vô vong. Giờ đây tất cả chỉ còn trong cõi mộng cả cảnh vật cũng như tình người. Một không gian tràn ngập ánh trăng, một bến đò trăng một con thuyền đầy trăng... Cảnh tật thơ mộng những buồn mênh mang
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trang về kịp tối nay
Nhà thơ như không còn sống với cảnh vật bên ngoài nữa mà chím đắm trong cõi lòng riêng của mình
Sống với cảnh mộng và với người trong một Hàm Mặc Tử ở khổ thơ cuối như lối thoái với một đối tượng hư ảo
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sướng khói mở nhân ảnh
Ai biết tình ai có đâm đà
Hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo nên nơi ông một cảm giác bâng khuâng ngơ ngẩn. Màu áo trắng ủa cô gái Huế trắng qua như lẫn vào sương khói. Sướng khói của đất trời xứ Huế hay là sương khói của thời gian và không gian xa cách phủ lên một mối tình thật xa vời.
Bài thơ mở đầu bằng những câu hỏi và kết thúc bằng một lời đáp lại. Phải "ai biết tình ai co đậm đà" để có thể trở về thôn Vĩ
3. Kết Thúc Vấn Đề
Hàn mặc tử đã mất rồi nhưng bài thơ thôn Vĩ vẫn còn đó. Bài thơ ấy đã vượt qua lớp sương khói của thơi gian đễ bất từ hóa một mối tình tuyêt vọng nhưng rất đỗi thiết tha, trong sáng.
__________________
Hàn Mặc Tử viết bài thơ này ở Quy Nhơn, nhân lúc nhận được bức bưu ảnh, kèm theo mấy lời hỏi thăm sức khoẻ của Hoàng Cúc gửi cho anh.
Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt.
Mở đầu là câu: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ". Đây có thể là Hàn Mặc Tử nhắc lại lời thăm hỏi của Hoàng Cúc ghi trong bức bưu ảnh hoặc bức bưu ảnh gợi nhớ những kỉ niệm về thôn Vĩ.
Bốn câu thơ (khổ đầu) có tính chất tạo hình như một bức tranh có ba chiều: chiều rộng, chiều cao, lẫn chiều sâu. Đó là nỗi nhớ giúp tác giả hình dung ra trước mắt mình một cảnh tượng sống động.
Bức tranh thôn Vĩ được phác hoạ bằng mấy nét xinh xắn.
ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cau, "nắng mới lên" đem lại cảm giác trong lành, bình yên; những hàng cau đứng thẳng tắp, hình ảnh rất quen, nét đặc trưng của thôn Vĩ:
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc".
Những vườn cây trái sum sê, tươi tốt của thôn Vĩ (mướt quá), một màu xanh mà nhà thơ so sánh: "xanh như ngọc". Trong hồi tưởng của nhà thơ giữa cảnh và người hoà quyện với nhau đưa đến cảm xúc trìu mến, dịu ngọt.
Thấp thoáng đàng sau những khóm trúc có bóng dáng mặt con người dịu dàng, phúc hậu khi ẩn khi hiện:
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
Bốn câu tiếp theo trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tìm đến dòng kỉ niệm về Huế gắn liền với con sông Hương thơ mộng, êm đềm. Con sông có gió, có mây, có dòng nước, có con thuyền và ánh trăng. Hầu như sóng nước sông Hương rất hiền lành, nước chầm chậm trôi giữa đôi bờ sương khó như mang một nỗi "buồn thiu":
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?..."
Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng chậm rãi uyển chuyển, cảnh ở khổ thơ trên tươi sáng, đến khổ thơ này trở nên buồn: gió và mây không đi liền nhau mà gió một lối, mây một đàng gợi lên nỗi buồn xa cách. Dòng nước trôi lững lờ, vắng vẻ "buồn thiu", hai bên bờ sông Hương đoạn chảy qua thôn Vĩ có những vườn bắp, gió đưa hoa bắp khẽ lay động, một khung cảnh vắng lặng và gợi buồn. Đây là hình ảnh thấm đượm tâm hồn xao xuyến của nhà thơ.
Hình ảnh con "sông trăng" là một tứ thơ rất mới mẻ. Trăng trên sông Hương thật mơ mộng, "sông trăng", thuyền "chở trăng" làm cho cảnh trở nên huyền ảo lung linh. Có thể nói chưa có nhà thơ nào tả dòng Hương Giang với nét đẹp hư ảo như Hàn Mặc Tử. Trong nỗi nhớ nhung mơ màng của nhà thơ, thuyền và trăng đã thành những vật thể có linh hồn.
Khổ ba tiếp tục những kỉ niệm về Huế:
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?..."
Trong những kỉ niệm về Huế, hình ảnh người thiếu nữ của Huế và cũng là thôn Vĩ - hiện lên đậm nét hơn cả, trở thành điểm sáng của bài thơ. Cô gái Huế của Hàn Mặc Tử có nét hư hư, thực thực, cô gái và nhà thơ có một khoảng cách về không gian, về thời gian, hơn nữa giữa hai người cũng chưa có những hứa hẹn, gắn bó cho nên chỉ là "khách đường xa". Hình ảnh người thiếu nữ trở nên xa vời. Câu thơ trở nên đa nghĩa phủ lên kí ức một lớp sương mờ nên "áo em trắng quá nhìn không ra", nhưng trong tâm tưởng nhà thơ dù chỉ là kỉ niệm của một thời, "em" vẫn là hình bóng thân yêu.
Hình ảnh người thân xa cách chìm đi trong "sương khói" của trời đất xứ Huế, kết thúc bài thơ là một câu hỏi:
"Ai biết tình ai có đậm đà?..."
Câu thơ thứ hai chứa đầy tâm trạng. "Ai", "ai" là anh hay là em, đúng hơn là cả hai người, nhà thơ tự hỏi mình và cũng hỏi "em" về mối tình đơn phương chưa nói nên lời. Nay giữa hai người là màn "sương khói" của không gian và thời gian làm sao biết được mối tình này có đậm đà hay phai nhạt. Có thể hiểu đây là bài thơ hướng nội, ẩn dấu cái sâu xa nhất của tâm hồn thi nhân là tình đời; ta thấy thấp thoáng bóng hình một mối tình dang dở giữa nhà thơ và người con gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình đơn phương này qua năm tháng chưa tàn phai. Bởi thế, khi chỉ có tấm bưu thiếp và mấy lời hỏi thăm từ xứ Huế gửi đến đã làm sống dậy trong lòng nhà thơ cả một trời thương nhớ. Có người cho rằng mỗi khổ thơ đều có hai giọng nói. Hai câu trên của một người, hai câu dưới của một người. Thật ra thì khó phân định. Ví dụ câu: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Đây là lời trách móc hay là lời mời hỏi của "thi nhân" hay của "cố nhân"? Nhưng có điều có thể xác định được đó chính là lời hỏi thăm kia (ở tấm bưu thiếp) đã được Hàn Mặc Tử tiếp nhận một cách đầy tình cảm ngọt ngào. Vì vậy có thể nói đây là bức tranh tâm trạng. Một mối tình đã gieo vào lòng nhà thơ biết bao nỗi nhớ nhung khắc khoải.
Về nghệ thuật, đây là bài thơ có những nét nghệ thuật độc đáo trong diễn tả, diễn cảm và biểu hiện một tâm trạng đầy xúc động.
Có thể nói bài thơ là những bức tranh đẹp. Bức tranh vườn cây thôn Vĩ, bức tranh sông nước sông Hương hiền hoà, êm dịu, bức tranh tâm trạng có bóng dáng người con gái Huế.
Về thời gian thì khổ một là buổi sáng, khổ hai cảnh ban đêm, khổ ba thì không thể xác định.
Về không gian thì khổ một là vườn cây thôn Vĩ, khổ hai bến sông Hương, có đôi bờ, có thuyền và trăng, nhưng đến khổ thứ ba thì hầu như không có không gian hoặc khó xác định. Nhưng ở đây có thể nhận ra là nhà thơ muốn nói sát hơn về mối tình không trọn vẹn với người thôn Vĩ. Đối tượng có thể xác định "khách đường xa" là "em".
Đây không phải là một bức tranh tả cảnh nên nhà thơ không diễn tả theo một trật tự nào. Vì nó là "bức tranh tâm trạng", tả cảnh để nói tâm trạng cho nên trật tự của bài thơ là dòng xúc cảm của tác giả, cách sắp xếp đó làm tăng hiệu quả biểu hiện hồn thơ.
Trong bài thơ, tác giả dùng phương pháp láy lại một số từ để biểu cảm:
"Nắng hàng cau, nắng mới lên,…
Gió theo lối gió, mây đường mây…
Mơ khách đường xa, khách đường xa,…
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đây là biện pháp điệp từ, điệp ngữ ta thường gặp trong thơ. Nhưng trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã sử dụng biện pháp nghệ thuật này có hiệu quả thẩm mĩ cao, vì những từ ngữ đó gây ấn tượng mạnh. Nhất là điệp từ "ai" gợi nhớ bao thân thương trong những câu hò xứ Huế.
Cuộc đời Hàn Mặc Tử là một bi kịch khắc nghiệt nhưng nhà thơ đã sáng tạo cho đời những áng văn chương làm say đắm lòng người. Bài thơ có một cấu trúc độc đáo, lấy cảnh để ngụ tình, tình trang trải dịu buồn khôn khuây.
Vũ Tiến Quỳnh
Bình giảng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.
Bài làm
Đây thôn Vĩ Dạ trích trong tập có tựa đề là Thơ điên, sau đổi thành Đau thương, ra đời năm 1938. Từ những bài thơ Đường luật đầu tiên, qua tập Gái quê, đến Đau thương, thơ Hàn Mặc Tử đã đi qua một bước dài.
Trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1930 - 1945, có nhiều bài thơ hay về thiên nhiên, đất nước. Đây thôn Vĩ Dạ viết về cảnh đẹp xứ Huế thơ mộng và thanh lịch, đồng thời bộc lộ khát khao được gắn bó, hòa hợp với cảnh, với người của Hàn Mặc Tử.
Thôn Vĩ Dạ nằm ven thành Huế, ngay bên bờ sông Hương. Thôn này nổi tiếng bởi những vườn cây xanh tốt, hoa thơm trái ngọt bốn mùa và phong cảnh hữu tình cùng với những thiếu nữ duyên dáng, đoan trang dễ làm say đắm lòng người.
Bài thơ mở đầu bằng một lời trách: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Trách nhẹ nhàng, sơ sơ mà nghe rất đáng yêu. Trách mà ngụ ý mời mọc: anh hãy về thăm thôn Vĩ và thăm... em. Cách nói rất tinh tế, cô gái nhờ cái nắng hàng cau để gửi gắm ý mình. Anh về thôn Vĩ mà ngắm cảnh: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Cái nắng mới lên buổi sớm mai - phơn phớt hồng trên tán lá cau xanh cao vút, từ xa đã đập vào mắt. Từ nét rất thực của cảnh vật ấy, ta có thể nghĩ cây kia thay người kiễng chân lên thật cao để đón lấy cái trìu mến của người về thăm, thay em để được đầu tiên đón lấy cái nhìn của anh. Hình ảnh này gợi nên một tình lưu luyến vơi đầy.
Câu 2, 3, 4 là cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của vườn cây Vĩ Dạ. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc là lời trầm trồ ngạc nhiên trước cảnh đẹp lộng lẫy: màu xanh mỡ màng, non tươi của lá, màu vàng tinh khiết của nắng sớm lọc qua vòm lá tạo nên màu xanh như ngọc bích. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng sức sống. Tưởng như nghe tiếng nhựa chuyển lên cành, lên lá. Tâm hồn con người trước cảnh ấy cũng một điệu tươi vui.
Vườn ai có thể là vườn của cô gái. Cây đã đẹp, người càng đẹp hơn: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Con người thấp thoáng ẩn hiện sau khóm trúc. Đường nét thanh mảnh của lá trúc làm tôn thêm vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu của gương mặt chữ điền. Câu thơ nêu bật nét e ấp, dịu dàng cổ truyền của cô gái Huế.
ý nghĩa của khổ thơ này là vậy. Kẻ ở thôn Vĩ thì trách khéo bằng lời mời mọc và giới thiệu nét đẹp dân dã quê mình. Người về thăm thì khen ngợi, say mê cảnh đẹp và người đẹp. Cảnh đẹp màu, người đẹp nết. Tất cả hài hoà thành một bức tranh quê hương tươi mát, tràn đầy sinh lực và có sức quyến rũ lạ lùng. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy, có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui thấm vào cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm mơ hồ, hư ảo của tình yêu.
Phút vui không dài. Mà không một tiếp chuyển nào, cái buồn tiếp theo ngay:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.
Hoa bắp trổ cờ, lay lay trong gió nhẹ. Dòng nước sông Hương như không muốn trôi, lặng lẽ, im lìm. Gió mây trên tầng không cũng mỗi thứ mỗi đường, gió ở cây lá còn mây ở tận trên trời. Cảnh thật chứ? Đúng. Trên kia thật mà đây cũng thật. Tươi tắn, ủ ê đều Huế cả. Vườn tươi sáng mai, sông ủ buổi chiều. Cái buồn phơn phớt, nhè nhẹ, thấm tận vào đáy lòng, cái nét trầm tư không nơi nào có được, ấy là đặc trưng của Huế. Nhớ Quê mẹ, Tố Hữu nhớ cái không khí vô hình mà rất thấm ấy: Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng... Đây có gió thổi, mây bay, có hoa bắp lay mà nghe vắng lặng đến nao người.
Nỗi buồn ấy trong cảnh có liên quan gì tới người không? Kẻ mời, người về, hai đằng lặng lẽ mà nên cảnh tươi vui. Nhưng ngăn cách nằm sâu trong sự thật gió mây chia đường. Gió thổi mây bay thường là một chiều, đây lại đứt gãy: Gió theo lối gió, mây đường mây. Lại ngăn cách quyết liệt, gió đóng khung trong gió (hai chữ gió đóng hai đầu); mây cuộn trong mây (hai chữ mây cũng khép kín vòng lại). Số kiếp của cô gái và chàng trai này là vậy. Cho nên dòng nước cũng như buồn theo và hoa bắp cũng vật vờ lay động như lảo đảo bên cạnh dòng nước im lìm.
Buồn đến thế ư? Có chút hi vọng nào chăng? Đến lúc chàng trai hỏi: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay? thì câu thơ sáng hẳn lên. Từ ngày đến đêm và đêm trăng là một bước nhảy vọt không báo trước. Tối nay lại là một sự đột ngột khác.
Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương đêm trăng là chuyện bình thường. chở cả tình cũng hình dung được. Nhưng sông trăng thì chỉ có trong hồn thơ của Hàn Mặc Tử. Nếu có một cuộc hèn hò tối nay cần trăng cần thuyền thì thuyền về kịp cuộc hẹn sẽ vui, có rượu có trăng, có những người yêu nhau thì đẹp biết bao! Bù lại cảnh tượng ở hai câu trên là ngăn cách, buồn não trong lặng lẽ, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hoà hợp mát lành. Hi vọng mỏng manh bởi vì nó được đặt thành một nghi vấn, dù đã được chốt lại một cách xác định rõ ràng: kịp tối nay?.
Buồn não đã liên quan đến hai người thì hi vọng này có dính dấp gì tới không? Thuyền ai là thuần tuý phiếm chỉ hay là một chiếc thuyền xác định: thuyền em? Thuyền em đang đậu ở bến sông đầy trăng như đời em đang đầy xuân tươi, em có chở trăng về, chở tươi vui về bến anh cho anh được chút vui mát lành một tối là tối nay? Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết đến mức từ xa xôi trong thời gian vội hiện ngay vào hiện tại: tối nay. Tha thiết mà mỏng manh. Càng mỏng manh càng tha thiết.
Bốn câu trước khổ này là vậy. Gió mây chia đường. Bạn tình rẽ đôi. Buồn đến cả dòng sông, ngọn bắp. Buồn quá! Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Chở trăng về kịp tối nay để ta gặp nhau. Nhưng đó chỉ là ước mong, sáng lòng mà mờ ảo, mông lung.
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
áo em trắng quá nhìn không ra.
ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà!
Hình ảnh cô gái Huế hết sức thân thiết nhưng cũng xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ linh cảm thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng thành hư ảo. Bởi đã hứa hẹn gắn bó gì đâu? Em là thiên thần ở cõi nào, còn anh trời đày thân xác dưới trần gian. Câu thơ trên đương còn là mơ, câu này đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những bài thơ tình khác...
Lời thơ ở hai câu này sao mà nghe như có gì đứt đoạn, tắc nghẹn, hụt hẫng, chới với, mất thăng bằng. Bẽ bàng, tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!
Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quá, đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền! Cũng chẳng còn gió mây lặng lẽ, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về... Chỉ còn sương khói che khuất bóng người: ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Em cũng mờ mà anh cũng mờ tan, trong khói sương lạnh lẽo. Còn lại may có chữ tình, như: Ai biết tình ai có đậm đà? Ai trước là người nào? Ai sau là người nào? Sau những gió lối gió, mây đường mây, có chở trăng về, mơ khách đường xa, nhìn không ra thì ai trước phải là cô gái, còn ai sau là chàng trai.
ở khổ thơ cuối, tác giả trả lời cho câu trách móc ở đầu bài thơ: Sao anh không về? Có về đấy chứ. Về bằng tưởng tượng, bằng hồi ức, lặng lẽ mà nhìn, mà say, mà buồn, mà trông mong, hi vọng, rồi thất vọng, bẽ bàng. Chỉ còn chắc chắn một điều, đó là tâm tình đậm đà mãi mãi của anh. Câu thơ chấm dứt lơ lửng. Và như thế là phải xét lại hai chữ ai, và xét lại tình. Đảo ngược lại, chữ ai trước là anh, chữ ai sau là em. Về phía anh, anh tự biết tình vẫn đậm đà, nhưng em có biết cho không?
Dù hiểu cách nào đi nữa, câu thơ vẫn có nét buồn buồn: sương khói mờ nhân ảnh đã là mù mịt mông lung, khuất lấp mất dạng, chữ có đậm đà lại gieo thêm một nỗi lửng lơ, nghi hoặc nên càng buồn.
Khổ thơ thứ ba này tiếp nối đi sâu vào bên trong mối tình, từ cái cách ngăn mây gió chia đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ một đi dần tới sự xóa nhoà tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ ba. Một mối tình hết sức thiết tha đang để nó mất hút vào mông lung, mờ mịt, chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.
Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui, nếu không cũng điệu tươi, nhưng kết thúc lại phơn phớt buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. Cái buồn mới đến thế. Nó đang ở trong miếng đất của lãng mạn. Bài này và một số bài khác vốn đứng riêng và mang một ánh sáng riêng trong tập Đau thương.
Có phải bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng với một người con gái Huế? Nếu vậy, số mệnh nó không dài đến tận nay. Cũng không phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ sâu của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ một đôi trai gái, mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tay mình. Tâm trạng của thế hệ thanh niên 1930 - 1945 rất hào hứng, tự khẳng định mình nhưng những cách ngăn của xã hội luôn có mặt để phủ định, khi tiếng vọng của Cách mạng đối với họ vẫn còn xa.
Trần Thị Thìn
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá. . ." ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây"
("Mùa xuân chín")
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc. . . , mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
2. Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa. . . như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông trăng". Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?".
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.
3. Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương - Da thơm là phấn, má hường là son. . .". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,
áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà".
"Mơ khách đường xa, khách đường xa. . . ai biết. . . ai có. . ." các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói? .
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,. . . bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:
"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".
Bình giảng bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu
Bài làm
Xuân Diệu yêu đời, tha thiết với cuộc sống, muốn tận hưởng những giây phút của tuổi trẻ, của mùa xuân (mùa xuân của đất trời và mùa xuân của lòng người) nên nhà thi sĩ "vội vàng". Thái độ vội vàng này chắc chắn là có chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn phương Tây:
"Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! Thời gian ăn cuộc đời".
(Bô-đơ-le)
Có điều là Xuân Diệu không truyền đến cho người đọc niềm đau đớn "trước sự vận động của thời gian như Bô-đơ-le mà chỉ bộ lộc nỗi cuống quýt "vội vàng" trước "thời gian không đứng đợi".":
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi".
Xuân Diệu mê hoặc người đọc bằng cử-chỉ-thi-sĩ chứ không phải bằng thái độ ngông cuồng. Nhà thi sĩ cảm nhận thời gian trôi đi bằng ánh sáng, màu sắc và hương thơm, khiến cho người đọc cảm nhận được niềm say mê yêu đời, lạc quan của nhà thi sĩ chứ không phải nỗi tuyệt vọng.
Cũng chính nội lực mạnh mẽ đó đã phá vỡ hết những khuôn sáo ước lệ của "thơ cũ", không còn đâu là số chữ, số câu, niêm luật nghiêm ngặt của câu thơ Đường ngự trị hàng ngàn năm trên thi đàn Việt Nam. Những hình ảnh, âm thanh của đời sống trào vào thơ tự nhiên, dòng tâm tư tuôn chảy dào dạt, hồn nhiên như nhịp điệu của thời gian. Trẻ trung quá! Tươi thắm quá! Ngọt lành quá!
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất.
Của yến anh này đây khúc tình si..."
Và trong khoảnh khắc xúc cảm cao độ, trong ánh chớp của trí tuệ, nhà thơ đã sáng tạo được một hình tượng thơ kì diệu:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần".
Sự thèm khát đến vô biên của thi sĩ Xuân Diệu không chỉ là sự hưởng lạc mà còn hướng đến sự giao cảm với tuổi trẻ nên từ "tôi" đã chuyển thành "ta". Sự biến hoá của đại từ ấy có lẽ là diễn ra trong vô thức:
"Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu.
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều..."
Nét riêng của thơ Xuân Diệu đã trở thành phong cách là xúc cảm bằng cảm giác, nhà thi sĩ đã huy động các giác quan mà tạo hoá đã ban cho để tận hưởng những giây phút kì diệu của đời sống. Chính những cảm giác lạ lùng của nhà thi si đã tạo ra sức hấp dẫn mê li của thơ Xuân Diệu. Thị giác thì nhạy cảm với màu sắc "Này đây hoa của đồng nội xanh rì", khứu giác thì "ngửi" được hương... thời gian "Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi", thính giác thì nghe được lời cây cỏ gió mây "Con gió xinh thì thào trong lá biếc", xúc giác thì trần tục đó rồi thánh thiện đó "Ta muốn ôm... Ta muốn riết mây đưa và gió lượn", vị giác thì, hỡi ôi, mùa xuân cũng ngon như môi, như má thiếu nữ "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!".
"Tôi rất sợ sự lạnh nhạt, sở dĩ tôi tha thiết như vậy, là muốn xứng đáng với lòng bạn thiết tha. Tôi gửi tâm hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng; nhưng Thơ Thơ cũng là những cái bỏng lưỡi hay những cơn buốt môi, vì đã uống tham lam vào suối của mặt trời, đã ăn hàm hồ vào trái của mùa xuân. Và khi nào người ta đã xua tay không còn khát thèm, là lúc người ta đã không còn vui sống nữa..." (Xuân Diệu).
Có lần đến thăm Xuân Diệu, tôi có hỏi nhà thơ "Nếu sau này (vì hồi đó thơ tình của Xuân Diệu hãy còn là trái cấm) thơ lãng mạn của anh được đưa vào sách giáo khoa thì anh ưa chọn bài nào?". Xuân Diệu trả lời ngay "Bài Vội vàng". Hôm nay, bài thơ "Vội vàng" của thi sĩ Xuân Diệu đã được đưa vào sách giáo khoa văn học bậc phổ thông trung học, chắc nhà thi sĩ đang "si tình đến ngất ngư" ở thế giới bên kia cũng cảm thấy êm ái nơi trái tim.
Nguyễn Đức Quyền
Sức hấp dẫn của bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu.
Bài làm
Trong Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh đã có nhận xét thật xác đáng về một đặc điểm của thơ Xuân Diệu: "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết".
Điều này có thể nhận thấy rõ nhất qua bài Vội vàng, rút trong tập Thơ Thơ.
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu thể hiện một khát vọng kì lạ đến ngông cuồng:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi".
Trong làng thơ mới, Chế Lan viên thấy cuộc đời "tất cả là vô nghĩa" là khổ đau. Không thích mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn bước chân của nó bằng những gì sót lại từ mùa thu trước. Những lá vàng rơi, muôn cánh hoa tàn... với cả "ý thu góp lại" tạo nên một hàng rào tâm tưởng, để "chắn nẻo xuân sang". ở bài "Vội vàng", Xuân Diệu dường như lại có thái độ khác hẳn: thi sĩ cũng muốn đoạt quyền của tạo hóa, "muốn tắt nắng đi", "muốn buộc gió lại", nhưng để cho hương sắc của mùa xuân "đừng bay đi". Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó một cách thành công.
Sở dĩ có khát vọng kì lạ đó, bởi lẽ, dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này dây khúc tình si.
Mùa xuân - mùa của tình yêu, của sự sống đã đi vào trong thơ từ hàng ngàn năm, nhưng trước Xuân Diệu, có lẽ chưa ai có tứ thơ, lời thơ tương tự. Đây là mùa xuân tươi đẹp bướm ong dập dìu, chim chóc ca hát, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng nội. Đáng nói hơn là vạn vật như căng đầy sức sống, giao hoà vui sướng. Bằng cách sử dụng linh hoạt, dồn đập các điệp từ và điệp ngữ ("của", "này đây"); những dòng thơ trên tạo cho người đọc ấn tượng một mùa xuân viên mãn, thiên nhiên phong phú bất tận như chờ đợi, như chào mời, sẵn sàng dâng hiến trao tặng tất cả cho con người.
Cũng như trong cảnh mùa thu trong bài Đây mùa thu tới, cảnh mùa xuân trong bài thơ này được phát hiện bằng niềm háo hức mê say, tất cả đều ngỡ ngàng mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham sống.
Táo bạo nhất, mới mẻ nhất có lẽ chính là mấy câu thơ tiếp theo:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi buổi sớm Thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Mỗi buổi sáng, thi sĩ thức dậy mở mắt là được chứng kiến một cảnh tượng mới mẻ, diễm lệ. ánh bình minh rực rỡ chiếu sáng thế giới. Nguồn ánh sáng ấy như phát ra từ đôi mắt xinh đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp chớp hàng mi. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu đã lấy lại hình ảnh gợi cảm này:
Tà áo mới cũng say màu gió nước;
Rặng mi dài sao động ánh dương vui.
(Xuân đầu)
Người đọc còn bắt gặp cách diễn đạt trên đây trong chuyện ngắn Lệnh, in trong tập Trường ca (1945): "Khi hứng thú nồng nàn, ánh sáng lấn át cả không gian, ôm chầm vũ trụ, đè bẹp bóng tối dưới triệu móng chân. Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đượm (...) ánh sáng đứng ở một chỗ mà ở khắp nơi con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng". (Tuyển tập Xuân Diệu - Sđd).
Tuy vậy, gây ấn tượng mới mẻ, tươi đẹp nhất chính là câu: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". ở đây, nhà thơ có sự so sánh thật táo bạo, thiên về cảm giác, gây được ấn tượng mạnh cho người đọc. Dưới con mắt "xanh non" của Xuân Diệu, mùa xuân tựa hồ như một cô gái kiều diễm, hồng hào, tình tứ, đầy hấp dẫn...
Qua sự so sánh trên đây, ta có thể nhận thấy con người ở đây là một thiếu nữ - sản phẩm diệu kì của tạo hóa, được Xuân Diệu coi là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp trên thế gian này. Xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ ấy, Xuân Diệu sáng tạo ra được nhiều câu thơ khoẻ khoắn, mới lạ đầy sức sống, mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, mà trước đó, có lẽ ta chưa bao giờ thấy:
... Lá liễu dài như một nét mi...
... Hơi gió thở như ngực người yêu mến...
... Mây đa tình như thi sĩ đời xưa...
Thơ xưa, thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Vẻ kiều diễm của nàng Kiều được Nguyễn Du ví với thiên nhiên: đôi mắt trong như làn nước mùa thu, nét mày thanh như sắc núi mùa xuân; khiến cho "hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Còn cái đẹp phúc hậu của Thuý Vân thì được ví như "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang, - Hoa cười ngọc thốt đoan trang - Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"... (Truyện Kiều). Từ quan niệm chuẩn mực của cái đẹp là thiên nhiên đến quan niệm chuẩn mực của cái đẹp là con người có sự cách biệt của biết bao thế kỉ.
Như vậy, ở phần đầu bài thơ, bằng cặp mắt "xanh non" "biếc rờn", Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời và vạn vật có nhiều điểm khác lạ so với các nhà "thơ cũ". Ông phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi bình dị ở quanh ta đây biết bao điều mới lạ, thật đáng yêu, đáng quý.
Cuộc đời trần thế đẹp đẽ và hấp dẫn biết bao! Nhưng không ai có thể được sống mãi mãi để hưởng mọi lạc thú. Năm tháng chảy trôi, tuổi xuân một đi không bao giờ trở lại, đúng là "thời gian ăn cuộc đời": "Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua - Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già". Do đó, người thi sĩ này "không chờ nắng hạ mới hoài xuân".
Thực ra, thơ xưa không ít bài than thở về sự hữu hạn của kiếp người. Cổ nhân từng coi đời người trôi qua nhanh chóng chẳng khác gì bóng ngựa qua cửa sổ. Nhưng người xưa không vì thế mà hoang mang hoảng hốt. Họ quan niệm vũ trụ tuần hoàn, thời gian quay tròn trở lại, và con người là một phần tử của vũ trụ sẽ nhập thêm vào cái vĩnh cửu của đất trời. Người của thời đại, của thơ mới, Xuân Diệu chỉ thấy thời gian một đi không trở lại và vũ trụ là thế giới khách thể độc lập với con người. Với sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân, nhà thơ cảm nhận thấm thía hơn ai hết sự thật đáng buồn: "Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"; cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.
Đến đây, cái tươi vui rạo rực ở phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn, nuối tiếc khôn nguôi cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây chẳng qua là một cách biểu hiện khác của lòng ham sống, lòng yêu đời thiết tha say đắm. Tình cảm mãnh liệt này đã được diễn đạt một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, mà ít nhiều ta đã gặp ở phần đầu bài thơ:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Những câu thơ trên đây cùng với những câu thơ trước đó đã góp phần hoàn thiện bức tranh mùa xuân trẻ trung tươi đẹp trong ánh mắt vồ vập đắm say của nhà thơ.
Phải chăng vì ý thức rất rõ không có gì ngăn cản được bước đi âm thầm nhưng vội vã của mùa xuân - của đời người, nên trong tâm tưởng của thi sĩ: cảnh xuân càng trở nên lộng lẫy - cuộc đời càng đáng sống, đáng yêu bội phần?
Điều này giải thích khát vọng ngông cuồng của tác giả, muốn đoạt quyền của tạo hoá, để có thể "tắt nắng" và "buộc gió" khi mở đầu bài thơ.
Và đương nhiên, khát vọng này không bao giờ có thể thành hiện thực. Nhà thơ ham sống cũng đành bất lực, rồi cũng phải tuân theo quy luật khắc nghiệt của trời đất. Do đó, chỉ còn có một cách duy nhất là phải sống vội vàng, cuống quýt, tận dụng cao độ từng giây, từng phút của tuổi thanh xuân. ý tưởng táo bạo này được diễn tả một cách thật mới mẻ. Đoạn thơ cuối cùng sau đây chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài, thể hiện tập trung những nét nổi bật trong phong cách thơ Xuân Diệu:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nên thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
ở đây, từ lối vắt câu, đến nghệ thuật dùng điệp ngữ, từ việc sử dụng nhiều hình ảnh táo bạo thiên về cảm giác, đến nhịp thơ hăm hở sôi trào..., tất cả đều góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say của tác giả. Đúng là "ông muốn thành một cây kim để hút vào mình thiên hạ" như Thế Lữ đã nhận xét.
"Vội vàng" đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát được giao cảm với đời. Tuy có thể còn những cách cảm nhận tác phẩm khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ đã giúp phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống, biết tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để biết sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận bởi những năm tháng sống hoài, sống phí.
(Trích cuốn 217 Đề và Bài văn)
Phân tích bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu.,
Bài làm Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân Diệu. ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy. Nếu trong Tỏa nhị Kiều là một tấm lòng yêu thương người phải sống một cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt thì trong Vội vàng, đó cũng là một tấm lòng, một tâm hồn yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt trước cuộc sống "mới bắt đầu mơn mởn". Ngay tựa đề của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó "vội vàng" cuống quýt, ham muốn của một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu: Tôi muốn tắt nắng đi, Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại, Cho hương đừng bay đi. ý muốn táo bạo quá! Phải chăng hồn thơ thiết tha với đời ấy đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời, cảnh vật nên muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả với vẻ đẹp vốn có của nó?... ý muốn của Xuân Diệu lớn quá, mạnh mẽ quá như chính hồn ông vậy? "Muốn tắt nắng đi", "muốn buộc gió lại" có vẻ không ngoài ý muốn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại cái đẹp, giữ lại thời gian... Những ý muốn, những hành động của ông cứ mạnh dần lên, lớn hơn lên: "tắt nắng" rồi lại "buộc gió"; cũng như sự "lớn" của lòng ham muốn của niềm khao khát trước cuộc sống trần thế đang tràn đầy hứa hẹn. Một loạt những điệp từ "này đây", "này đay" đặt song song như sự sắp đặt những món ăn tinh thần sẵn có, như gợi mở quyến rũ hấp dẫn đến lạ kì. Qua "cặp mắt xanh non" của nhà thơ, cuộc sống trần thế xung quanh ta bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong phú giàu có. Cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc, những cái giá trị nhất của cuộc đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng "biếc rờn" "mơn mởn". Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu "nỗi buồn thế hệ", nhưng không có phần chán chường, buồn nhưng ông vẫn nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp, đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong Điêu tàn có phần quay lưng lại thực tại một cách gay gắt, quyết liệt, hay chán nản, bế tắc như trong những vần thơ Huy Cận, hoặc tìm đến một nơi tiên cảnh như trong thơ Thế Lữ, thơ Xuân Diệu luôn toát lên niềm ham sống mãnh liệt. Đó là nét bao trùm của hồn thơ ông. Tất cả như gợi lên sự tận hưởng, gợi lên niềm tha thiết với tình yêu và cuộc sống. Cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai, về hạnh phúc và với Xuân Diệu, cuộc đời đầy đáng yêu, ngay cả tháng giêng cũng thật thi vị, hấp dẫn: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Một câu thơ gợi cảm thật đắt! Xuân Diệu không nói cả mùa xuân mà chỉ nói mỗi tháng giêng - tháng đẹp nhất, tháng mở đầu cho cả mùa xuân. Nói tháng giêng, nhưng Xuân Diệu gợi đến cả mùa xuân, mùa mà vạn vật căng đầy sức sống: cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa lá xanh tươi, con người trẻ trung, yêu đời, tất cả như trồi dậy một sức sống mạnh mẽ, một niềm say sưa sống, thiết tha với đời. "Tháng giêng" là tháng đẹp nhất của mùa xuân, mùa xuân là "mùa" đẹp nhất của con người, của cuộc đời. Thiên nhiên đẹp được Xuân Diệu ví với "cặp môi gần". Đây là một câu thơ rất truyền thống lấy chuẩn mực cái đẹp là cỏ cây hoa lá, thì với Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp lại là con người. Cái hay, cái đẹp, của hồn thơ Xuân Diệu, cái rất Xuân Diệu có phần là ở đó. Khác với Nguyễn Du tả mùa xuân đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên, khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa xuân đẹp, hấp dẫn là thế mà thi sĩ chối bỏ gay gắt, quyết liệt. Đối với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chế Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách mãnh liệt, thiết tha. Bởi lẽ ông đang trong thời xuân. "Cặp mắt xanh non", "biếc rờn" của nhà thơ nhìn vào cái gì cũng đẹp, cũng thấy thú vị, hấp dẫn: "ngon như một cặp môi gần". "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần" là một câu thơ trong sáng. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần "ngon nhất" của cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh lại vừa ngụ tình - tình Xuân Diệu, khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, tha thiết cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã "say sưa", "chếnh choáng" trước vẻ đẹp "no nê", "đã đầy" của mùa xuân. Nhưng vì lẽ thường, xuân chỉ là một trong bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời gian để mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nên xuân mang trong nó tính thời gian, mang ý nghĩa trôi chảy: Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già. Khát khao giao cảm với đời nên Xuân Diệu nhạy cảm, khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên. Ông đang chứng kiến sự chuyển vần, thay đổi nhanh chóng của trời xuân, đang chứng kiến thời gian trôi qua, và cái hữu hạn của đời người. Cuộc đời sẽ mất đi, xuân sẽ qua đi, nhưng thời gian vẫn mãi mãi là thời gian, trường tồn cùng vũ trụ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng hấp tấp, vội vàng, giục giã để tận hưởng hết phần quý nhất, đẹp nhất của đời. Lúc nào Xuân Diệu cũng cuống quýt, vội vã: - Mau với chứ, vội vàng lên với chứ! - Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai! - Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm! "Mau đi thôi", vì xuân của cuộc đời cũng phải qua đi, mà bi đát thay, lại không được tuần hoàn như xuân của trời đất. Cuộc đời, tuổi xuân đi qua là không bao giờ trở lại. Nhịp thơ, câu thơ như cũng đang "vội vàng" gấp gấp, nhanh nhanh, dồn dập. Lúc nào cũng cuống quýt, cũng "gấp đi em", nên lúc nào Xuân Diệu cũng muốn níu kéo, muốn giữ lại tuổi trẻ, tình yêu. Tấm lòng Xuân Diệu lớn quá, hồn thơ mênh mông quá "nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời". Xuân Diệu là thế đấy! Ta muốn ôm, Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều Chữ "ôm" như gói trọn "Cả sự sống mới bát đầu mơn mởn", như ghì riết, ôm tất cả để giữ lại tất cả. "Cặp mắt biếc rờn" của nhà thơ như đang khám phá hết những bí ẩn của thế giới thiên nhiên, như thấy tất cả đều căng đầy, tràn trề nhựa sống. Nhà thơ "mới nhất trong các nhà thơ thơ mới" (Hoài Thanh) đang làm cho những bạn đọc trẻ lòng, trẻ tuổi kinh ngạc khi thưởng thức thơ ông đó sao? Lời thơ mạnh mẽ, trần thế quá. Nhưng đó là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt, muốn được "chếnh choáng", "no nê" trong sự tận hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như Xuân Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà, một niềm vui tột bậc khi nhà thơ buông câu kết: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! Mùa xuân như một trái chín ửng hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi thúc ta hành động để đến cái đích: "cắn vào ngươi!". Lòng ham muốn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu trước tình yêu, trước cuộc đời mãi mãi là khát vọng, là ham muốn chưa toại nguyện. Xuân đẹp quá, gần quá mà chưa với tới được. Như thế Vội vàng không chỉ thể hiện một hồn thơ Xuân Diệu, một tấm lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thể hiện một quan niệm nhân sinh mới "chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống". Đó là thái độ sống tích cực, sống hết mình, sống "say sưa", sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu. Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. Mặc dù có thể còn không ít cách cảm nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ này khiến phần đông người đọc biết yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm hạnh phúc được sống trên trái đất này, và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những năm tháng sống hoài phí. Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ chính là do lẽ đó. Đặng Thuỳ Như Một cảm nhận về bài thơ Mộ - Chiều tối của Bác Hồ. Những năm 40 của thế kỉ này, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng (Chiều tối – bản dịch) Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con Người: Bác Hồ kính yêu! Buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim. Khung cảnh chiều về tối thường gợi nên chất thơ đặc sắc, nỗi buồn lắng đọng, suy tư về nhân sinh. Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày. Cảm xúc trên đường đi của Bác đã lộ rõ cốt cách của thi nhân – chíên sĩ Hồ Chí Minh. Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí – Đỗ, của Thôi Hiệu, e cũng khó phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi! Nhưng đọc thật kỹ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng – phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại. Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng: Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không) Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Ngày xưa Lí Bạch từng mô tả không gian “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn”, và chúng ta có thể nhận ra nét quen thuộc ấy trong những câu thơ này của Hồ Chí Minh. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người!Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Buổi chiều ấy dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Rất tiếc bản dịch thơ đã không thể lột tả được khoảnh khắc rất thi sĩ của Bác trong điệp từ “mạn mạn” này! Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhoà ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Tinh thần “tự do lãm thưởng vô nhân cấm” (Tẩu lộ) chính là ở điểm này. Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa: Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” (ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác: Chùa xa chuông giục người nhanh bước Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay (Hoàng hôn) Hay: Làng xóm ven sông đông đúc thế Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh (Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung) Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiện của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng lộ rõ hơn. Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sống. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác – màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai. Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sống, vừa cổ điển vừa lãng mạn. Ta nhận ra trong nỗi buồn, niềm vui của Bác phẩm chất của một vĩ nhân: rất bình thường, giản dị nhưng mỗi câu thơ toả sức ấm của một ý chí mãnh liệt và sáng bừng lên hồng bao thế hệ, sự hài hoà giữa tình cảm và tinh thần thép đã làm nên những vần thơ sâu sắc thâm trầm./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro