Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Thep da toi the day II từ c6 - hết

CHƯƠNG IV

    Biên giới là hai cột biểu. Hai cột biểu đối diện nhau, im

lặng và thù địch, là hiện thân của hai thế giới. Một chiếc làm

bằng thân cây bào nhẵn, trơn tru, sơn vằn đen trắng như

chòi canh của cảnh sát. Con diều hâu một đầu bằng gỗ

đóng chắc bằng đinh to tướng vào đỉnh cột. Con diều hâu

xù lông cánh, móng như bíu lấy cột sơn vằn, mỏ cong vênh

vểnh ra đằng trước, mắt càu cạu nhìn cái biển sắt trước

mặt. Cách sáu bước chân là chiếc cột khác, tròn trĩnh, bằng

gỗ sên để mộc, chôn thật sâu xuống đất. Trên cột có một

tấm biển bằng sắt mang hình búa liềm. Hai cột biển đều

trồng trên một dải đất bằng, thế mà giữa hai thế giới đó là

một vực sâu thăm thẳm. Người nào liều mạng mới dám

vượt qua sáu bước chân đó.

    Biên giới là đây.

    Trên một khoảng dài hàng ngàn cây số, từ Hắc Hải

chạy đến cực Bắc, cho đến tận đại dương băng giá dựng

lên cả một dãy cột biển sừng sững, không động. Những

người lính gác không biết nói ấy, mang trên những tấm

mộc bằng sắt huy hiệu vĩ đại của lao động, đứng canh

phòng cho các nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa.

Chiếc cột biển đầu gắn con diều xòe cánh ấy đánh dấu

biên giới giữa hai Nhà nước U-cơ-ren Xô-viết và nước Ba

Lan của bọn địa chủ quý tộc. Thôn Bê-rê-dơ-đốp nhỏ xíu

khuất vào rừng sâu. Cách thôn đó mười cây số là biên

giới. Chỗ ấy giáp mặt với thôn Cô-rê-xơ bé nhỏ của Ba

Lan. Giữa khoảng thôn Xư-la-vút và thôn A-na-pô- li là khu

đóng quân của tiểu đoàn biên phòng X.

    Hàng cột biển nối tiếp nhau chạy ngang cánh đồng phủ

tuyết, xuyên qua các ngả rừng, đổ xuống các vực nước, rồi

lại bò lên các gò cao, nhấp nhô trên các đồi núi và khi tới

một con sông thì từ trên bờ cao, hàng cột đưa mắt dò xét

nhìn xuống dải đồng bằng tuyết phủ trắng xóa bên kia của

nước ngoài.

    Trời lạnh cóng, nước đóng băng. Tuyết vỡ tan kêu răng

rắc dưới gót ủng lông cừu. Trước cột biển mang hình búa

liềm nổi bật lên bóng người đội mũ chiến đấu kiểu dũng sĩ,

với bước đi chắc nịch, đang đi tuần trong khu vực mình.

Người Vệ quân đỏ tầm vóc cao lớn ấy mặc áo ca-pốt xám,

ren cổ xanh, chân đi ủng dạ. Ngoài chiếc áo ca-pốt lại

khoác thêm một chiếc áo tơi cao cổ rộng bằng da cừu, đầu

đội một chiếc mũ dạ ấm áp. Anh mang bao tay bằng da

cừu. Cái áo tơi dài chấm gót dù bão tuyết dữ dội đến đâu

cũng giữ được cho người ấm. Khẩu súng trường khoác

vai đè lên áo tơi. Anh Vệ quân đỏ khoái trá hút khói thuốc

mộc, đi theo lối mòn, áo dài quét tuyết. Trên biên cương

Xô-viết, giữa đồng quang, các chiến sĩ biên phòng đứng

người nọ cách người kia một cây số để mắt vừa nhìn thấy

nhau. Bên phía Ba Lan, mỗi cây số có hai lính đứng.

    Đi ngược lại phía anh Vệ quân đỏ là một người lính Ba

Lan cũng đang đi tuần bên địa phận mình. Người lính Ba

Lan mang đôi giày cao cổ thô kệch, mặc quần áo xanh ngả

xám, ngoài khoác áo ca-pốt có hai hàng khuy lấp lánh. Trên

đầu đội mũ "liên bang” mang huy hiệu diều hâu trắng;( Một

thứ mũ của dân tộc Ba Lan gọi là "Konfédératka" mà

những người cách mạng thời cách mạng liên minh ở Ba

Lan năm 1768 đã dùng. Về sau bọn phản động Ba Lan

cũng dùng mũ này cho quân lính để che giấu những đã tâm

phản cách mạng của chúng. ) trên ngù dạ ở cầu vai cũng

diều hâu, trên nẹp cổ áo cũng diều hâu. Nhưng ngần ấy con

diều hâu cũng không làm cho người lính thấy ấm hơn. Rét

cóng làm anh ta buốt thấu xương. Anh ta lấy tay xát hai tai

đã tê cóng, vừa đi vừa đập đế giày vào nhau, hai bàn tay

mang găng mỏng cũng bị tê cóng. Không một phút nào anh

ta có thể dừng chân được, dừng lại thì giá rét như khóa lấy

chân tay. Vì thế, lúc nào anh ta cũng cứ bước, đôi lúc lại

chạy như ngựa phi nước kiệu. Khi hai người lính biên

phòng đã đi gần nhau, người lính Ba Lan quay lại và đi

song song với đồng chí Vệ quân đỏ.

    Hai bên biên giới không được nói chuyện với nhau.

Nhưng khi mà chung quanh vắng tanh vắng ngắt, cách một

cây số mới có bóng người, thì ai biết được hai người lính

này im lặng mà đi hay đang vi phạm luật lệ quốc tế?

    Người lính Ba Lan thèm hút thuốc, nhưng lại bỏ quên

bao diêm ở trại. Đang lúc ấy, gió cứ cố tình tạt cái mùi

thuốc lá mộc quyến rũ từ phía Xô-viết sang mới hại chứ!

Người lính Ba Lan ngừng tay xát tai tê buốt của mình và

quay nhìn ra đằng sau: vì đôi khi có đội ba tui, thường do

tên đội dẫn đi, có lúc do chính tên quan hai dẫn đi nữa, từ

trên một đỉnh núi cao nào đó nhô ra bất ngờ, để kiểm soát

các trạm gác. Nhưng lần này chung quanh không một bóng

người. Tuyết óng ánh sáng dưới ánh nắng. Trên trời không

một bông tuyết rơi.

    - Đồng chí ơi, cho tôi xin que diêm. - Anh ta là người

đầu tiên vi phạm điều luật quốc tế ác hại. Anh ta hất ra sau

lưng khẩu súng trường kiểu bắn được mấy phát liền của

Pháp, đầu có lắp lưỡi lê con kiếm, tay anh ta lóng cóng vất

vả lắm mới móc trong túi áo ca-pốt ra được gói thuốc lá rẻ

tiền.

    Đồng chí Vệ quân đỏ nghe rõ lời khẩn cầu của anh lính

Ba Lan. Song điều lệnh quân sự trong công tác biên phòng

ngăn cấm chiến sĩ không được bắt chuyện với người bên

kia biên giới. Hơn nữa, đồng chí không hoàn toàn hiểu hết

những tiếng Ba Lan của anh lính kia. Cho nên đồng chí lại

tiếp tục đi, đặt mạnh chân xỏ ủng lông cừu êm ấm lên lớp

tuyết vỡ kêu lạo xạo.

    - Đồng chí bôn-sê-vích ơi, cho tôi xin tí lửa hút thuốc,

ném cho tôi mượn bao diêm. - Lần này người lính Ba Lan

nói tiếng Nga.

    Người Vệ quân đỏ nhìn anh ta chăm chú. "Hình như giá

rét làm cho "pan" buốt thấu gan rồi. Gọi là anh lính tư sản

mà đời anh ta thật cực như con chó. Rét cóng thế này mà

bọn chúng bắt anh ta ra đây, chỉ cho được manh áo ca-pốt

nhỏ xíu thổ tả. Đấy, anh ta nhảy cẫng lên như thỏ, và không

có thuốc thì nhảy thế cũng chẳng ấm được". Đồng chí Vệ

quân đỏ không quay đầu lại, ném sang bên kia bao diêm.

Anh lính Ba Lan bắt ngay lấy và đánh luôn mấy que, mãi

mới châm được thuốc. Bao diêm lại theo đường cũ ném

trả lại qua biên giới. Lúc đó đến lượt anh Vệ quân đỏ vô

tình phạm luật.

    - Giữ lấy mà dùng, tôi còn bao khác.

    Nhưng từ bên kia biên giới có tiếng đáp lại.

    - Thôi, xin cảm ơn. Tôi mà cầm cái bao diêm này thì ăn

hai năm tù mất.

   Đồng chí Hồng quân nhìn bao diêm. Trên nhãn bao vẽ

một chiếc máy bay. Ở chỗ đáng lẽ vẽ cánh quạt lại vẽ một

quả đấm khỏe có đề chữ "Tối hậu thư”. Anh nghĩ thầm: "Ừ,

mà phải, của này không hợp với họ" .

   Người lính Ba Lan vẫn tiếp tục đi song song một chiều

với đồng chí Hồng quân. Vì đi một mình giữa đồng không

mông quạnh, chẳng có một bóng người, anh lính Ba Lan đó

cũng thấy buồn.

   *

   Đôi yên nghiến kĩu kịp nhịp nhàng, hai con ngựa chạy

nước kiệu đều và vững. Lông quanh mũi con ngựa giống

đen nhánh dính nước đông lại: mũi nó thở ra thành lớp hơi

trắng tan vào không khí. Con ngựa cái lang trắng mà người

tiểu đoàn trưởng cưỡi có một dáng đi đẹp, nó nhằn nhằn

dây cương, cúi cái cổ thon thon xuống thành một đường

vòng cung. Hai người đi ngựa đều mặc áo ca-pốt xám, thắt

dây lưng to bản, ở mỗi ống tay có ba gạch vuông đỏ,

nhưng người tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp thì mang lon

xanh và người đồng hành của anh ta thì mang lon đỏ. Ga-

vơ-ri-lốp là chiến sĩ biên phòng. Các trạm của tiểu đoàn do

anh chỉ huy đóng rải ra trên một khoảng dài bảy mươi cây

số. Ở đây, anh là "chủ nhân". Người bạn cùng đi với anh là

khách từ Bê-rê-dơ-đốp đến, đấy là chính ủy tiểu đoàn tổng

huấn luyện quân sự tên là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.

   Đêm ấy có tuyết rơi. Tuyết mềm mại, mịn màng phủ lấy

mặt đất; chưa có một móng ngựa, một vết chân người

chạm tới lớp tuyết trắng xóa. Hai người từ trong rừng cây

đi ngựa ra bất thình lình phi nước kiệu trên cánh đồng. Độ

bốn mươi thước lại có hai cột biển.

    - Pơ-ru... u...!

    Ga-vơ-ri-lốp ghì riết cương ngựa. Pa-ven quay ngoắt

con hắc mã lại để biết tại sao bạn mình dừng ngựa. Ga-vơ-

ri-lốp từ yên ngựa rướn người ra cúi xuống, nhìn chăm chú

một vết lạ lùng kéo dài trên tuyết, trông hình như có ai lăn

bánh xe nhỏ qua. Có một con thú ranh mãnh nào đã qua

đây, chân nó bước chồng lên nhau, vẽ lên thành một đường

mắt xích rất tinh khôn để đánh lạc dấu vết. Khó mà biết

được dấu chân con vật đi từ đâu, nhưng đồng chí tiểu đoàn

trưởng dừng ngựa lại không phải vì vết chân con thú ấy.

Cách hai bước nữa, lớp dấu chân hình mắt xích lấm chấm

tuyết phủ ấy lại có những dấu chân khác nữa. Có một

người đã qua đây. Hắn không làm rối dấu chân mà đi

thẳng về phía rừng. Xem dấu chân thì thấy rõ là người đó

từ phía Ba Lan sang.. Đồng chí tiểu đoàn trưởng thúc ngựa

theo dấu chân trên tuyết đi lại phía con đường vẫn đi tuần.

Bên phía Ba Lan, dấu chân người đi xa có đến mươi

thước nữa.

    Tiểu đoàn trưởng càu nhàu:

    - Đêm qua có kẻ vượt biên giới. Lại một lần nữa, trung

đội ba đã để lọt, vậy mà trong báo cáo sáng nay không nói

gì hết ! Lơ mơ thật.

    Ga-vơ-ri-lốp có bộ ria đã hoa râm, hơi thở đông lại làm

bạc bộ ria ấy và bộ ria bám vào làn môi trên, trông rất

nghiêm.

    Có hai bóng người đi lại phía tiểu đoàn trưởng và chính

ủy. Một bóng người bé nhỏ đen ngòm, có đeo lưỡi lê Pháp

ánh nắng sáng loáng; còn bóng kia thì to lớn bận áo tơi da

cừu vàng. Con ngựa cái màu lang trắng bị thúc rảo bước

chạy và hai người đi ngựa chẳng mấy chốc đã đến gần hai

bóng người kia. Người lính Hồng quân sửa lại dây đeo

súng trên vai và nhổ mẩu thuốc lá đã hút tàn xuống bãi

tuyết.

    - Chào đồng chí! Thế nào, khu vực đồng chí ở đây ra

sao? - Anh lính Hồng quân to cao đến nỗi tiểu đoàn trưởng

hầu như không phải cúi xuống khi giơ tay bắt. Anh chiến sĩ

to lớn vội rút găng tay ra. Tiểu đoàn trưởng bắt tay anh.

    Người lính Ba Lan từ xa theo dõi cảnh tượng đó. Hai sĩ

quan Hồng quân bắt tay người lính như những người bạn

rất hẩu với nhau. Trong nháy mắt, anh lính Ba Lan bỗng nảy

ra mong ước: giá mình cũng được bắt tay lão quan tư

Giắc-rếp-ski của mình như thế nhỉ ! Và mơ tưởng hão

huyền ấy đột nhiên làm cho anh quay mặt đi.

    Anh lính Hồng quân báo cáo:

    - Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, tôi vừa mới ra

nhận gác.

    - Đồng chí đã thấy dấu chân người đằng kia chưa?

    - Báo cáo chưa thấy.

    -Thế đêm qua ai gác từ hai giờ đến sáu giờ?

    - Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, lúc ấy Xu- rô-ten-

cô gác.

    - Thôi được! Đồng chí nhìn cho kỹ nhớ.

    Và lúc sắp đi tiểu đoàn trưởng giọng nghiêm nghị dặn

trước:

    - Đồng chí đừng có đi đi lại lại nhiều với bọn đó nhớ.

    Khi đôi ngựa đã phi nước kiệu dọc con đường rộng

chạy dài từ biên giới về thôn Bê-rê-dơ-đốp, tiểu đoàn

trưởng kể chuyện:

    - Ở biên giới phải tỉnh mắt mới được. Sơ ý một phút là

có khi ân hận cay người. Chúng tôi ở đây làm việc là phải

chịu mất ngủ. Ban ngày ban mặt, chúng vượt biên giới còn

khó chứ ban đêm thì mình phải thính tai mới được. Đồng

chí Pa-ven ạ, đồng chí nghĩ mà xem. Ở khu vực của tôi, có

bốn thôn bị cắt làm hai (Hồi này có nhiều thôn ở biên giới

Liên Xô- Ba Lan bị cắt làm đôi. Liên Xô một nửa, Ba Lan

một nửa) cho nên rất nhiều khó khăn. Đặt bao nhiêu trạm

gác cũng chẳng ăn thua gì. Cứ hễ có đám cưới hay có việc

vui mừng gì là bà con phía bên kia lại kéo sang. Không có

cách nào khác nữa: nhà bên này bên kia chỉ cách nhau có

hai chục bước, con sông con thì con gà cũng lội qua được.

Thêm vào đấy cái nạn buôn lậu. Hàng buôn lậu lặt vặt thôi,

quả như thế. Một mụ đàn bà mang sang được chừng vài

chai rượu Ba Lan 40 độ chẳng hạn. Nhưng cũng không ít

những tên buôn lậu lớn có vốn rất to. Đồng chí có biết bọn

Ba Lan làm gì không? Trong tất cả các thôn biên thùy,

chúng đều mở cửa hàng bách hóa lớn: ai muốn mua gì

cũng có. Tất nhiên, chúng làm thế chẳng phải vì nông dân

nghèo khổ bên nước chúng nó đâu.

    Pa-ven chăm chú nghe người tiểu đoàn trưởng. Cuộc

sống của những chiến sĩ biên phòng thật là một công tác

quân báo thường xuyên.

    - Đồng chí Ga-vơ-ri-lốp này, việc đó chỉ là buôn lậu hay

còn là thế nào nữa?

    Tiểu đoàn trưởng, không cười nữa, đáp lại:

    - Cái hóc là ở chỗ ấy đấy.

    Bê-rê-dơ-đốp là một thôn bé nhỏ trong tỉnh, xưa kia là

khu cư trú của người Do-thái. Hai ba trăm nóc nhà dựng

lên lộn xộn chẳng ra sao. Một bãi đất to họp chợ, giữa bãi

là vài chục cửa hàng tạp hóa. Bãi đất bẩn thỉu, phủ đầy

phân rác. Những nóc nhà nhỏ của nông dân như một cái

dây lưng đánh đai lấy thôn này. Ở giữa khu người Do-thái

ở, dọc đường đi đến lò lợn, có một cái nhà thờ Do-thái.

Tòa nhà cũ kỹ trông thật ảm đạm. Thật ra, vào các ngày thứ

bảy thì nhà thờ này không phải than phiền là vắng vẻ đâu:

người đi lễ đến đông chật. Nhưng cũng chẳng được như

ngày trước và cuộc đời của ông thầy tu "ráp-banh”( tên gọi

thầy tu của đạo Do-thái) không được như ý ông mong

muốn nữa. Nhất định là đã có chuyện gì rất tệ xảy ra vào

năm 1917, vì ngay cả ở đây, là nơi hẻo lánh mà bọn thanh

niên nhìn thầy "ráp-banh" không còn cung kính cho phải đạo

nữa. Thật ra thì những người già vẫn kiêng những món ăn

Chúa cấm, nhưng đã có biết bao gã trai hư hỏng ăn thứ

xúc-xích lợn mà Chúa đã từng nguyền rủa. Chỉ nghĩ đến

không thôi cũng đã đủ thấy tởm! Thầy tu Bô-rúc hầm hầm

giận dữ, lấy chân đá con lợn sề đang rúc mõm vào đống

rác kiếm ăn. Phải, thầy chẳng ưa gì việc thôn Bê-rê-dơ-đốp

trở thành một trung tâm của quận này một tí nào. Một lũ

cộng sản không hiểu từ đâu kéo đến, bày đặt ra lắm trò đời

và mỗi ngày một đẻ ra thêm nhiều chuyện khó chịu. Hôm

qua, một thầy ráp-banh đã từng thấy ở cổng biệt thự cũ của

lão cố đạo một cái biển mới: "Đoàn thanh niên cộng sản U-

cơ-ren, Ban chấp hành quận đoàn Bê-rê-dơ-đốp".

    Cái biển ấy chẳng phải điềm lành. Lão thầy tu đang mải

suy nghĩ thì mắt chạm ngay vào tờ yết thị nhỏ dán ở cửa

nhà thờ của lão.

    "Hôm nay, tại câu lạc bộ, có cuộc họp của thanh niên

lao động. Li-xi-xưn, chủ tịch Ban chấp hành và Ca-rơ-sa-

ghin, quyền bí thư quận đoàn thanh niên, sẽ đọc báo cáo.

Sau cuộc họp sẽ có hòa nhạc của học sinh trường chín

năm".

   Lão thầy tu Do-thái giận dữ xé tờ giấy:

   - Đã bắt đầu giở trò!

   Cái khu vườn rộng của lão cố đạo ôm lấy hai bên nhà

thờ nhỏ thôn này. Trong vườn có một tòa nhà cổ rất lớn.

Hơi mốc xông lên trong những gian phòng vắng vẻ, chán

ngắt, nơi này trước kia là chỗ ở của lão cố đạo từ lâu đã

chán ghét nhau, cả hai cùng già khọm và tẻ lạnh như cái

nhà vậy. Nhưng từ khi có những người chủ mới đến ở thì

vẻ tẻ lạnh biến đi ngay. Trong phòng khách, chỗ trước kia

chủ cũ chỉ tiếp khách vào những dịp lễ lớn, bây giờ lúc nào

cũng đông người. Nhà lão cố đạo đã trở thành trụ sở của

Đảng ủy Bê-rê-dơ-đốp. Trên cánh cửa một phòng nhỏ phía

bên phải lối vào, có mấy chữ viết bằng phấn: "Quận đoàn

thanh niên cộng sản". Tại đây, ngày nào Pa-ven cũng đến

làm việc một buổi. Anh vừa làm chính ủy của tiểu đoàn tổng

huấn luyện quân sự thứ hai, vừa kiêm bí thư của quận đoàn

thanh niên cộng sản vừa mới thành lập.

   Kể từ buổi tối các anh chị em liên hoan ở nhà An- na

đến nay đã tám tháng trôi qua. Thế mà Pa-ven có cảm

tưởng như chỉ mới hôm qua. Anh gạt chồng tài liệu sang

bên, ngả lưng ra ghế bành, nghĩ ngợi...

   Đêm đã khuya. Trụ sở Đảng ủy không còn ai. Im ắng,

tịch mịch. Đồng chí Tô-rô-phi-mốp, bí thư quận Đảng ủy, là

người ở lại sau cùng cũng vừa đi khỏi. Và bây giờ Pa-ven

một mình ở lại nhà. Nước đóng băng vẽ lên cửa kính những

nét chạm trổ muôn hình muôn vẻ. Trên bàn một ngọn đèn

dầu, lò sưởi tỏa hơi nóng ấm. Pa-ven nhớ lại những

chuyện xảy ra cách đây không lâu. . . Tháng Tám, tổ chức ở

nhà máy đã phái anh đi phụ trách thanh niên trong "chuyến

tàu sửa chữa" đến E-ca-chê-ri-nô-sláp. Suốt cả mùa thu,

một trăm rưởi thợ đã đi từ ga này đến ga kia, dọn dẹp vết

tích chiến tranh và tàn phá, thu vén những toa tàu bị cháy, bị

đổ nát. Chuyến tàu đi từ Xi-nhen- nhi-cốp đến Pô-lốc. Vùng

này chính là đất xưng hùng xưng bá trước kia của tên phỉ

Ma-khơ-nô, cho nên mỗi bước đều gặp dấu vết phá hoại

và giết chóc. Ở Gu-lay Pô-lê, mất một tuần lễ để sửa chữa

kho nước, đặt những mảnh tôn vào lòng thùng nước đã bị

mìn làm thủng đáy. Pa-ven vốn là thợ điện nên không thuộc

nghề và không am hiểu kỹ thuật và những khó khăn của

nghề thợ nguội, vậy mà bàn tay anh với cái lắc-lê đã vặn

đến mấy nghìn đinh ốc gỉ sét.

    Cuối mùa thu, chuyến tàu lại trở về nhà máy. Nhà máy

lại nhận một trăm rưởi đôi tay thợ...

    Người ta thấy người thợ điện Pa-ven năng đến nhà An-

na hơn. Trên trán anh, nếp nhăn đã biến đi và lại hay nghe

thấy những tiếng cười lôi cuốn của anh vang lên.

    Bạn bè dự các nhóm học tập lại được nghe Pa-ven kể

chuyện những năm đấu tranh qua đã lâu rồi. Anh kể về

nước Nga xưa kia xơ xác, tả tơi, thân nô lệ mà lòng bất

khuất, nước Nga đã từng vươn lên lật đổ con ác quỷ Nga

hoàng. Anh kể về những cuộc khởi nghĩa của Stê-pan Ra-

din và Pu-ga-sốp.

    ( Stê-pan Ra-din, người anh hùng Cô-dắc sông Đông

đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống phong kiến của

nông dân và dân tộc Cô-dắc chống lại Nga hoàng, từ năm

1667 đến năm 1671.

    E-mê-liên Pu-ga-sốp, nhà lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa

rất lớn có phạm vi toàn quốc chống phong kiến của nông

dân Cô-dắc nước Nga vào thế kỷ 18.)

    Một buổi tối, anh em thanh niên đến họp ở nhà An-na,

người thợ điện Pa-ven hôm đó đột nhiên bỏ một thói quen

có hại, mắc từ lâu. Anh quen hút thuốc, gần như từ bé đã

hút, thế mà tuyên bố bằng một giọng quả quyết, dứt khoát

rằng:

    - Tôi không hút thuốc nữa.

    Chuyện ấy xảy ra đột ngột. Đang nói chuyện có một

người nêu lên thói quen là bản năng thứ hai của con người,

do đó, gây ra tranh luận; người đó lấy tật nghiện thuốc lá ra

làm ví dụ. Ý kiến bất đồng. Anh thợ điện Pa-ven không tham

gia vào cuộc tranh luận. Nhưng Ta-li-a kéo Pa-ven vào, bắt

nói. Anh nói điều mình nghĩ:

    - Chính con người chỉ huy thói quen của mình, chứ

không phải thói quen chỉ huy con người. Nếu không thế thì

con người ta sẽ đi đến đâu?

    Svê-tai-ép từ góc anh ta ngồi, nói to ra:

    - Nói thế nghe thì kêu lắm. Pa-ven vẫn thích cái lối nói

như thế. Nhưng nếu đem bắc cân lời nói và việc làm thì

thấy gì? Bản thân Pa-ven có hút không? Có hút. Pa-ven có

biết hút thuốc lá có hại không? Có biết. Nhưng bỏ thuốc thì

muộn rồi. Cậu ta không có gan bỏ. Gần đây, Pa-ven lại mới

khởi xướng ra một "phong trào văn hóa" trong các nhóm

học tập đấy. - Và Svê-tai-ép đổi giọng, hỏi có vẻ chế nhạo:

- Hãy để cho Pa-ven trả lời chúng ta: Pa-ven có còn văng

tục nữa không? Ai biết Pa-ven cũng đều phải nói: cậu ấy

đã ít chửi tục, nhưng đã chửi thì lại chửi rất tệ. Nghề đời,

thuyết pháp người ta vẫn dễ hơn là tự mình làm thánh.

    Gian phòng trở nên im lặng. Giọng đả kích của Svê tai-

ép làm cho mọi người cảm thấy khó chịu. Người thợ điện

Pa-ven không trả lời ngay. Anh từ từ rút điếu thuốc đang

ngậm ở miệng ra, vò nát điếu thuốc và nói, giọng vẫn như

thường:

    - Tôi không hút thuốc nữa.

    Im lặng một lát, anh nói thêm:

    - Tôi làm thế trước hết là ích cho tôi và đồng thời cũng

ích phần nào cho Svê-tai-ép. Kẻ nào không bỏ được tật

xấu của mình thì kẻ đó chẳng đáng một đồng kẽm. Tôi còn

tật chửi tục nữa. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thắng hẳn được

cái thói nhục nhã ấy. Nhưng ngay Svê-tai-ép cũng nhận

rằng ít nghe thấy tôi chửi tục nữa. Văng ra một lời nói tục

còn dễ hơn châm một điếu thuốc hút. Vì vậy cho nên ngay

bây giờ, tôi chưa dám nói là đã bỏ hẳn được chửi tục.

Nhưng rồi tôi sẽ bỏ được, chắc chắn là như vậy.

    *

    Bước vào mùa đông, gỗ trôi về ngáng lấy cả dòng

sông. Cơn nước lũ mùa thu đã xô vỡ hết các bè củi và củi

gỗ cứ thế bị nước cuốn trôi về xuôi. Khu Xô- lô-men-ca lại

tung thanh niên đi cứu lấy của rừng.

    Pa-ven không muốn rớt lại sau anh em, nên giấu không

cho anh em biết là mình đã bị cảm mạo nặng. Và một tuần

sau, khi trên các bến sông, củi gỗ vớt lên đã chất đống cao

như núi thì nước lạnh buốt và khí ẩm mùa thu đã làm thức

tỉnh kẻ thù lâu nay còn ngủ im trong máu Pa-ven: anh bị sốt,

nóng như than, nằm liệt giường. Trong hai tuần lễ, cơ thể

anh bị bệnh tê thấp ác tính giày vò và khi ra bệnh viện, anh

đứng chưa vững, làm việc cứ phải ngồi buông hai chân

trên bàn thợ như "cưỡi ngựa". Đốc công nhìn anh chán

ngán lắc đầu. Mấy ngày sau, ủy ban công bằng(ở các nhà

máy có lập ra ủy ban này, làm việc không thiên vị ai nên gọi

là ủy ban vô tư hay công bằng ) đã công nhận anh là người

không thể lao động được nữa. Người ta thanh toán tiền

công còn lại cho anh và cho lĩnh thêm một số tiền trợ cấp

nữa, làm anh nổi giận; từ chối không nhận số tiền ấy.

    Anh giã từ công xưởng, lòng nặng trĩu, chống gậy lững

thững ra về, mỗi bước chân nhấc đi lại đau điếng người.

Mẹ đã nhiều lần viết thư cho anh, mong con về thăm. Và

bây giờ đây, anh nghĩ đến bà cụ, nhớ lại lời mẹ nói lúc ra

đi: "Chỉ khi nào chúng mày bị ốm đau thương tật, mẹ mới

được trông thấy mặt chúng mày thôi!"

    Đến tỉnh ủy, anh nhận hai tập hồ sơ cá nhân cuộn tròn

lại: hồ sơ Đoàn và hồ sơ Đảng. Để khỏi làm tăng nỗi đau

buồn cho mình, anh chẳng đến chào biệt ai cả, về thẳng

nhà với mẹ. Suất hai tuần, bà cụ chườm nước nóng và xoa

bóp hai chân sưng cho con; được một tháng thì Pa-ven đã

đi được không cần chống gậy nữa: nỗi vui mừng tràn ngập

trong lòng anh và buổi chiều tàn thế là lại đổi ra cảnh bình

minh. Con tàu đưa anh đến tỉnh lỵ. Ba ngày sau, ban tổ

chức cấp cho anh giấy giới thiệu điều anh đến nhận công

tác của ủy ban quân sự tỉnh, làm chính trị viên ở cơ quan

tổng huấn luyện quân sự đang thành lập lúc bấy giờ.

    Sau đấy một tuần nữa, anh đến đây, đến thôn nhỏ ngập

trong tuyết này, làm chính ủy tiểu đoàn số hai. Ở Liên quận

Đoàn thanh niên cộng sản, anh nhận nhiệm vụ tập hợp các

đoàn viên lâu nay bị phân tán lại và lập ra tổ chức đoàn ở

khu mới này. Đấy, đời anh đã xoay chiều ra như vậy đấy.

     *

     Ngoài trời nóng dữ. Cành anh đào ngó đầu vào cửa sổ

bỏ ngỏ nơi phòng làm việc của chủ tịch Ban chấp hành.

Mặt trời rọi sáng cây thập tự mạ vàng trên gác chuông kiểu

gô-tích của nhà thờ ở phía bên kia đường, đối diện với trụ

sở Ban chấp hành. Trong khu vườn nhỏ, trước cửa sổ, đàn

ngỗng con bé tí xíu của bà gác cổng trụ sở ủy ban nhanh

nhảu chạy tìm ăn. Những con ngỗng mới nhú lông tơ màu

xanh dịu như cỏ non quanh mình chúng.

     Chủ tịch ủy ban đã đọc xong bức điện vừa nhận được

Một bóng tối chạy qua mặt đồng chí. Bàn tay to gân guốc

của đồng chí thọc vào mái tóc quăn rậm và nằm yên ở đấy.

     Nhi-ca-lai Nhi-ca-lai-ê-vích Li-xi-xưn là chủ tịch Ban

chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: đồng chí chỉ mới hai mươi bốn

tuổi, nhưng anh chị em cán bộ Đảng và những người giúp

việc chẳng ai ngờ là đồng chí ít tuổi đến thế cả. Li-xi-xưn

người to lớn, khỏe mạnh, nét mặt nghiêm nghị và đôi khi

dữ tướng, trông bề ngoài tưởng chừng như tuổi đã ba

mươi lăm. Người đồng chí rắn chắc lại, đầu to cắm trên cái

cổ vạm vỡ, cặp mắt nâu minh mẫn nhìn hơi lạnh nhạt, cằm

bạnh đầy nghị lực. Li-xi-xưn mặc quần cộc xanh thẫm, áo

lót xám, túi trên bên trái mang huân chương Cờ đỏ.

     Trước tháng Mười, Li-xi-xưn "chỉ huy” chiếc máy tiện ở

nhà máy chế tạo vũ khí Tu-la. ông đồng chí, cha đồng chí và

bản thân đồng chí hầu như từ lúc còn bé đã cắt và gọt sắt ở

đấy.

    Từ cái tối mùa thu ấy, lần đầu tiên trong đời, Li- xi-xưn

cầm vũ khí mà trước kia anh chỉ làm ra thôi; bão táp đã

cuốn anh đi. Cuộc cách mạng và Đảng đã kéo anh từ trận

lửa này đến trận lửa khác. Người thợ quân khí vùng Tu-la

đó đã trải qua cả một con đường quang vinh: mới đầu là

binh nhì, anh đã trở thành sĩ quan chỉ huy và chính ủy trung

đoàn của Hồng quân.

    Lửa cháy, đạn réo đã thuộc về dĩ vãng rồi. Hiện nay, Li-

xi-xưn công tác ở biên khu này. Cuộc đời lặng lẽ trôi đi.

Ngày ngày, anh ngồi đến tối khuya nghiên cứu những báo

cáo về tình hình mùa màng; nhưng bức điện hôm nay bỗng

làm anh vụt sống lại trong chốc lát dĩ vãng lửa đạn. Bức

điện viết gọn, ngắn:

    "Tối mật. Gửi chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp:

đồng chí Li-xi-xưn.

    Ở biên giới, quan sát thấy bọn Ba Lan tích cực chuyển

đến một đám thổ phỉ quan trọng có thể gây khủng bố các

vùng biên thùy. Đồng chí thi hành ngay những biện pháp đề

phòng. Đề nghị tiền bạc và vàng của ngân khố cho chuyển

đến liên quận ngay, đừng giữ tiền thuế ở nhà đồng chí”.

    Nhìn qua cửa sổ phòng làm việc của mình, Li-xi- xưn

trông thấy được hết những ai đi vào trụ sở Ban chấp hành.

Pa-ven đang leo lên thềm. Một phút sau, anh đập cửa.

    Li-xi-xưn bắt tay Pa-ven.

    - Cậu ngồi xuống, mình bàn chuyện này.

    Suốt một tiếng đồng hồ, chủ tịch Ban chấp hành không

tiếp một ai.

    Pa-ven ở phòng làm việc của Li-xi-xưn bước ra thì trời

đã đứng bóng. Cô bé Nhu-ra, em gái Li-xi-xưn, từ trong

vườn chạy ra. Pa-ven thường gọi em bé là A-nhu-ca. Cô

bé hay thẹn và tuy còn nhỏ tuổi mà vẻ người rất đoan trang,

hễ cứ gặp Pa-ven là chào, miệng bao giờ cũng chúm chím

cười đến ngoan. Hôm nay, cô bé cũng chào với một vẻ

ngượng nghịu trẻ con, hất ngược chùm tóc cắt ngắn xòa

trên trán.

    Nhu-ra hỏi:

    - Có ai trong buồng anh em không anh. Nãy giờ, chị

Ma-ri-a đợi mãi anh em về ăn cơm.

    - Có mình anh ấy trong phòng thôi. Em vào gọi được

đấy A-nhu-ca ạ.

    Sớm hôm sau, trời còn lâu mới sáng, có ba chiếc xe

đóng ngựa béo tốt, dừng trước trụ sở Ban chấp hành.

Những người đi áp tải xe nói chuyện nhỏ với nhau. Họ

mang từ trong phòng tài vụ ra nhiều túi niêm phong, xếp lên

xe và mấy phút sau, bánh xe đã lăn ầm ầm trên đường

nhựa. Pa-ven chỉ huy một tiểu đội đi áp tải. Vượt bốn chục

cây số (trong đó có hai mươi nhăm cây số đường rừng)

đến liên quận không một trở ngại gì. Tiền và vàng được cất

vào các két sắt của của ty tài chính liên quận. Mấy ngày

sau, một người đi ngựa từ phía biên giới phi về phía Bê-

rê-dơ-đốp. Những người vô công rồi nghề trong thôn ngơ

ngác nhìn theo người đi ngựa và con ngựa ướt đẫm mồ

hôi, sùi bọt mép.

    Đến trước cửa trụ sở Ban chấp hành, người đi ngựa tụt

xuống đất, và tay cầm kiếm, anh ta lọc cọc nện gót ủng trên

bậc thềm. Li-xi-xưn cau mày, nhận thư trong tay người kia,

bóc ra và ký lên phong bì. Người lính biên phòng đó không

để ngựa nghỉ, nhảy phốc lên yên, phi nước đại trở về.

    Không ai biết được nội dung bức thư kia, ngoài đồng

chí chủ tịch Ban chấp hành. Nhưng những người dân ở

thôn này đã đánh hơi thính như chó săn. Cứ ba người bán

hàng tạp hóa ở đây, ít nhất cũng có hai đứa là dân buôn lậu

vặt và cái nghề ấy vốn rèn linh tính đoán trước nguy biến.

    Có hai người bước nhanh trên hè phố đi về phía bộ

tham mưu của tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự. Một

trong hai người đó là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Nhân dân ở

đấy đều biết anh, lúc nào anh cũng mang vũ khí bên mình.

Nhưng hôm nay, người cùng đi với Pa-ven là Tơ-rô-phi-

mốp, bí thư Đảng ủy, cũng mang một khẩu súng ngắn ở

dây lưng, thì đấy là một dấu hiệu không hay rồi.

    Mấy phút sau đã có chừng mươi mười lăm người, từ

trong bộ tham mưu chạy ra, người nào cũng có súng lắp

lưỡi lê tuốt trần; họ chạy về phía cối xay máy ở ngã tư. C; c

đảng viên và đoàn viên thì nhận vũ khí phát ở trụ sở Đảng

ủy. Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành phi ngựa, đầu đội mũ

Cô-dắc, khẩu súng Mô-de muôn thuở đeo bên hông. Không

còn ngờ gì nữa: lại có chuyện gì không ổn xảy ra. Quảng

trường và các phố nhỏ vắng tanh như chết: không một

bóng người lảng vảng. Chỉ trong nháy mắt, các cửa hàng

tạp hóa đã đóng hết cửa chớp, những chiếc khóa to tướng

kiểu cổ, khóa kín các cổng. Chỉ còn những con gà mái táo

gan và những con lợn mình nhẽo ra vì nóng nực là còn cố

rúc vào đống rác bẩn hí húi kiếm ăn. Bộ đội vào bố trí trong

vườn cây ăn quả ở rìa thôn. Từ đấy là bắt đầu cánh đồng

làng, và bố trí ở đấy nhìn thấy rõ đằng xa con đường cái

thẳng tắp. Thông báo mà Li-xi-xưn nhận được chỉ có mấy

dòng chữ ngắn:

   "Đêm qua trong khu vực thôn Pết-đúp-xi, một toán phỉ

đi ngựa có chừng một trăm tay kiếm và hai súng liên thanh,

sau một trận xô xát với ta, đã vượt qua được biên giới lọt

vào lãnh thổ Xô-viết. Đồng chí hãy thi hành mọi biện pháp

đối phó. Dấu vết bọn phỉ đến khu rừng Sla-vút thì mất. Ngày

hôm nay sẽ có một đại đội chiến sĩ Cô-dắc đỏ chạy qua

Bê-rê-dơ-đốp truy kích bọn phỉ. Báo đồng chí biết để khỏi

nhầm...

   Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn độc lập biên phòng.

   Ga-vơ-ri-lốp".

   Một giờ sau, có người đi ngựa hiện ra trên con đường

chạy về phía thôn Bê-rê-dơ-đốp. Cách một cây số, sau

người đó, có một đại đội kỵ binh. Pa-ven chăm chú nhìn ra

phía trước. Người đi ngựa tiến lại gần, vẻ thận trọng,

nhưng không nhìn thấy ta bố trí trong vườn cây. Đấy là một

chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi của Trung đoàn Hồng quân Cô-

dắc thứ mười bảy. Lần đầu tiên, anh được phái đi trinh sát.

Những người từ trong vườn đổ ra vây lấy anh đột ngột; anh

thấy trên áo va-rơ của họ đều có huy hiệu Đoàn thanh niên

cộng sản thì mỉm cười vẻ hơi lúng túng. Sau mấy lời trao

đổi ngắn, anh quay ngựa lại, phi đến đại đội kỵ binh đang

chạy nước kiệu. Anh em bộ đội địa phương để cho các

chiến sĩ Hồng quân Cô-dắc đi rồi mới trở lại vị trí trong

vườn như cũ.

   Nhiều ngày lo âu trôi qua. Li-xi-xưn nhận được bản tin

báo bọn phỉ không mở rộng được hoạt động biệt kích của

chúng: bị kỵ binh Cô-dắc đỏ lùng riết, chúng bắt buộc phải

vội vàng vượt biên giới trở về bên kia.

   Nhóm đảng viên bôn-sê-vích ở đây số lượng quá ít:

trong toàn khu chỉ có mười chín người. Họ làm việc rất

khẩn trương trong công cuộc xây dựng Xô- viết. Cơ sở

trong quận còn non yếu. Phải xây dựng lại tất cả. Vị trí gần

biên giới bắt mọi người phải cảnh giác

    Việc tuyển cử lại các Xô-viết, cuộc đấu tranh chống phỉ,

công tác văn hóa, cuộc đấu tranh chống bọn buôn lậu, công

tác quân sự của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản - đấy

là cả một cái vòng công tác quay cuồng suốt từ sáng tinh

sương cho đến tận đêm khuya, công việc ấy thu hút tất cả

cuộc đời của Li-xi-xưn, của Tơ- rô-phi-mốp, của Pa-ven và

một số cán bộ mà các anh đã tập hợp được.

    Từ trên mình ngựa nhảy xuống là đến ngay bàn giấy, từ

bàn giấy lại nhảy ra quảng trường, nơi các trung đội thanh

niên tập luyện quân sự; rồi lại đến câu lạc bộ, trường học,

hai ba cuộc họp. Còn ban đêm thì ngựa, súng Mô-de bên

hông và tiếng quát: "Ai, đứng lại", tiếng bánh xe ngựa

mang hàng lậu nước ngoài phóng chạy trốn - đấy tất cả

ngần ấy thứ chiếm hết ngày và nhiều khi hết cả đêm nữa

của người chính ủy tiểu đoàn hai.

    Quận đoàn thanh niên cộng sản Bê-rê-dơ-đốp gồm Pa-

ven, Li-đa Pô-lê-vích - một cô gái vùng sông Vôn- ga mắt

híp, phụ trách nữ thanh niên - và Ra-dơ-va- li-khin Giên-ca -

một tay học trò ly-xê ngày trước, người cao dong dỏng, vẻ

bảnh trai, "còn non tuổi mà đã sớm hiểu nhiều điều" như

người ta thường nói, một tay thích.những chuyện kỳ hùng

mạo hiểm, rất thuộc những chuyện Xéc-lốc Hôm và Luy-y

Bút-xê- na. Ra-dơ-va-li-khin trước đã từng làm trưởng

phòng hành chính của đảng ủy quận, cách đây bốn tháng

mới vào Đoàn thanh niên cộng sản, nhưng trong đám đoàn

viên thì vẫn ra vẻ ta đây là "đảng viên bôn-sê- vích lão

thành". Không còn ai để gửi đến Bê-rê-dơ- đốp nên sau khi

suy nghĩ khá lâu, liên quận ủy đã phái Ra-dơ-va-li-khin đến

đây làm "cán bộ chính trị".

    Mặt trời lên đúng ngọ. Hơi nóng ùa vào cả những chỗ

mát nhất, mọi loài vật đều nấp dưới mái nhà; ngay những

con chó con cũng bò xoài dưới những kho chứa rơm và

nằm uể oải ngã vật vã, mình nhẽo ra vì nóng. Hình như mọi

sinh vật đều bỏ làng này đi cả, chỉ còn có con lợn sề đang

nằm rúc trong vũng bùn cạnh giếng, miệng kêu ủn ỉn có vẻ

thú vị lắm.

    Pa-ven cởi dây buộc ngựa và đôi môi cắn chặt với

nhau để nén cơn đau buốt nhoi nhói ở đầu gối chân, anh

trèo lên ngựa. Cô giáo đứng trên thềm nhà trường, tay che

mặt cho khỏi chói nắng.

    - Thôi chào đồng chí chính ủy. - Cô nói và mỉm cười.

    Con ngựa giậm chân sốt ruột, cổ gập lại mà giật dây

cương.

    - Chào đồng chí Ra-ki-chi-na nhé ! Thế là đã quyết định

rồi đấy: mai đồng chí sẽ đến dạy bài đầu.

    Con ngựa cảm thấy dây cương thả lỏng liền phi nước

kiệu. Ngay lúc ấy có tiếng gào thét dữ tợn đưa đến tai Pa-

ven. Những khi xảy ra cháy nhà thì những người đàn bà nhà

quê vẫn thường kêu la inh ỏi như thế. Dây cương giật

mạnh kéo con ngựa quay phắt trở lại, và Pa-ven trông thấy

một chị nông dân trẻ thở hồng hộc từ ria làng chạy ra. Cô

giáo Ra-ki-chi- na bước ra giữa đường, ngăn chị lại. Dân

làng lũ lượt kéo ra cổng, số đông là các ông già bà cả.

Những người trai tráng đều bận làm ngoài đồng.

    - Các ông các bà ơi, lại xem ngoài kia kìa! Có trời đất

nào như thế được không? Có thể nào như thế được

không?

    Khi Pa-ven phi ngựa lại gần thì dân làng từ khắp các

ngả đã chạy đến. Người ta quây lấy chị nông dân, kéo tay

chiếc áo trắng của chị, tiếng hỏi dồn, giọng hoảng hốt,

nhưng nghe chị nói lung tung chẳng còn ai hiểu đầu cua tai

nheo ra sao! Có một ông cụ già râu xồm xoàm, một tay giữ

cái quần vải ngắn, nhảy cẫng lại gần trông bộ rất kỳ quặc,

cụ sấn sổ hỏi chị ta:

    - Đừng la gào lên như người điên ấy! Người ta đánh

nhau ở đâu? Tại sao lại đánh nhau? Thôi, đừng có la ồn lên

nữa, trời ạ!

    - Làng ta với dân Pốt-đúp-xi đánh nhau... vì chuyện bờ

ruộng! Bên Pốt-đúp-xi đang đánh người làng ta chết đến

nơi kia kìa!

    Mọi người đã hiểu cơn tai họa. Ngoài đường, tiếng phụ

nữ rống lên, các cụ già tru tréo điên cuồng. Và tiếng la hét

chạy khắp làng, nhao lên khắp sân các nhà, như tiếng báo

động cấp cứu: "Bọn Pốt-đúp-xi, vì chuyện bờ ruộng, lấy

liềm giết chết người làng ta!" Dân làng ai có thể đi được là

từ nhà chạy túa ra, vác đinh ba, vác rìu hay vác độc có

chiếc cọc rào nhổ lên. Họ chạy ra đồng đến chỗ ẩu đả đổ

máu, nơi dân hai thôn đang giải quyết vấn đề tranh chấp

hàng năm về chuyện bờ ruộng.

    Pa-ven quất dữ vào mình ngựa, con ngựa lồng lên phi

ngay lập tức. Hăng lên vì tiếng thúc của chủ, con ngựa vượt

toán người đang chạy, phi nhanh lên phía trước. Hai tai rạp

vào đầu, co chân giơ cao, con ngựa cắm cổ chạy như bay.

Trên một quả đồi, chiếc cối xay gió giương cánh quạt ra tứ

phía như cản đường. Bên phải cối xay, ở bãi đất thấp,

cạnh bờ sông là cánh đồng cỏ. Bên trái, một cánh đồng lúa

mạch chạy dài xa tắp, lúc thì đổ xuống những bờ lạch. Gió

hây hây lướt trên lúa chín như vuốt ve. Hoa mào gà rực bên

đường. Sự yên lặng và nồng nực khó chịu bao trùm lấy chỗ

này. Chỉ có xa xa, ở chỗ dòng sông lấp lánh như con rắn

bạc uốn mình sưởi nắng là có tiếng kêu vọng lại.

    Con ngựa nhào xuống dốc, lao vút về phía đồng cỏ. Một

ý nghĩ thoáng qua đầu Pa-ven: "Nếu vấp chân thì cả mình

lẫn nó đều chết mất!". Nhưng không thể nào ghìm ngựa

được nữa. Rạp mình sát bờm ngựa, Pa-ven nghe gió rít

bên tai. Con ngựa trổ ra đồng cỏ, hăng như điên. Người ta

đang đánh nhau dữ tợn như cuồng như dại ở đằng ấy. Mấy

người mình đẫm máu nằm sóng sượt trên đất.

    Một người nhiều râu, tay cầm cái cán liềm gãy, đang

đuổi theo một anh con trai mặt bê bết máu; người nhiều râu

chạy xô vào ức con ngựa bị ngã lộn nhào ra đất. Một nông

dân chắc khỏe da sạm nắng đang lấy giày ống nặng trịch

đá lấy đá để đối thủ đã ngã vật trên đất, cố tình muốn cho

anh ta đến phải "hồn lìa khỏi xác".

    Dồn tất cả sức nặng của con hắc mã, Pa-ven phi ngựa

thọc sâu vào đám đông, làm cho bọn đang ấu đả nhau chạy

tán loạn. Không để cho họ hoàn hồn, anh điên người quay

ngoắt ngựa lại lao vào đám đông hầm hầm hung hãn như

thú dữ. Cảm thấy chỉ có cách cũng làm ra hung hãn, cũng

làm cho khiếp sợ mới giản tán được đám người bê bết

máu này, anh điên người thét lên:

    - Hãy buông nhau ra, lũ khốn! Tao sẽ bắn chết hết này,

bọn thổ phỉ!

    Và rút khẩu Mô-de trong bao ra, Pa-ven bắn lướt qua

một cái mặt đang nhăn nhó giận dữ. Con ngựa nhảy một

cái - một phát súng nữa. Nhiều người vất liềm quay đầu

chạy. Người chính ủy phi ngựa khắp đồng cỏ như điên

giận, không để cho khẩu súng im miệng, và anh đã đạt

được ý muốn: đám người từ cánh đồng cỏ chạy tỏa ra bốn

phía để tránh mang vạ vào mình và tránh cái con người

không hiểu ở đâu tới lồng lộn, dữ tợn, đáng sợ với "cái

máy thổ tả” bắn không ngừng đó.

    Ít lâu sau, tòa án quận đến Pốt-đúp-xi. Đồng chí chánh

án nhân dân hỏi những người làm chứng rất lâu mà không

tìm ra kẻ thủ mưu. Sau cuộc ẩu đả, không có ai chết, những

người bị thương cũng đã lành. Đồng chí chánh án bền bỉ,

với đức tính kiên nhẫn của người bôn-sê-vích, đã cố gắng

giải thích cho những người nông dân đang đứng sầm mặt

ở trước đồng chí tất cả tính chất dã man và không thể nào

tha thứ được của cuộc ẩu đả mà họ đã gây ra.

    - Thưa đồng chí chánh án, đấy là lỗi tại cái bờ ruộng,

ranh giới bờ ruộng của chúng tôi bị lẫn lộn. Vì thế cho nên

năm nào cũng sinh ra đánh nhau.

    Tuy thế vài người cũng phải trả lời về những việc làm

của họ.

    Sau đấy một tuần, có một ủy ban đến cắm cột mốc ở

chỗ xảy ra tranh chấp trên đồng cỏ. Ông cụ già làm nghề đo

đất, mình đẫm mồ hôi, mệt lử vì say nắng và vì phải đi lại

nhiều, vừa cuộn cái thước dây, vừa nói với Pa-ven:

    - Tôi đã đo đất ba mươi năm trời nay rồi và ở đâu cũng

thế, bao giờ cũng thế, cái bờ ruộng là duyên cớ gây ra bất

hòa. Đồng chí cứ nhìn đường phân giới các đồng cỏ mà

xem! Thật là kỳ quái! Người say rượu bước đi còn thẳng

hơn. Còn những đám ruộng? Rộng có ba thước mà cũng

đám này lấn lên đám kia. Phân giới thế nào bây giờ? Phân

giới được thì cũng đủ loạn óc mất. Thế mà hàng năm các

đám ruộng cứ bị chia nhỏ, chia nhỏ ra mãi. Con ra ở riêng,

tách khỏi bố - thế là đám ruộng lại tách ra làm đôi. Tôi dám

chắc với đồng chí là chỉ hai mươi năm nữa, cái cánh đồng

chỉ còn toàn là bờ ruộng dày chi chít, rồi chẳng có chỗ mà

gieo lúa nữa đâu. Ngay bây giờ đã có mười phần trăm đất

để làm bờ ruộng, không trồng trọt gì được.

    Pa-ven mỉm cười:

    - Đồng chí đo đất ạ, hai mươi năm nữa thì ở ta chẳng

còn một cái bờ ruộng nào cho mà xem.

    Ông già nhìn người nói chuyện với mình bằng cặp mắt

độ lượng.

    - Ý đồng chí nói đến xã hội cộng sản có phải không?

Chà, chắc đồng chí thừa hiểu rằng cái đó còn là chuyện xa

xôi lắm.

    - Thế cụ có biết nông trang tập thể Bu-đa-nốp không?

    - À ra đồng chí nghĩ đến cái nông trang ấy đấy?

    - Phải.

    - Tôi có đến Bu-đa-nốp... Nhưng đấy dù sao vẫn là

chuyện ngoại lệ, khác thường, đồng chí Pa-ven ạ.

    Ủy ban đo xong. Hai thanh niên cắm cọc xuống. Hai bên

cánh đồng, bà con nông dân đứng giương mắt chăm chăm

theo dõi; cọc cắm ở chỗ cũ, mốc cũ là những chiếc gậy vót

nhọn đã mục dở, chỉ còn từng quãng, từng quãng nhú lên

trong cỏ rậm.

    *

    Người đánh xe quất mạnh đầu roi vào con ngựa gầy và

quay lại phía những người khách ngồi trên xe. Bác ta là

một người chất phác hay nói bô bô. Bác ta kể:

    - Ai mà biết được những ông côm-xô-môn ( Đoàn viên

thanh niên cộng sản) ấy ở đâu hiện ra? Trước ở đây chẳng

hề có. Tất cả chuyện đó tôi cho là khởi đầu tự cái cô giáo

tên là Ra-ki-chi-na, chắc bà con đều biết chứ? Cô ấy còn

trẻ, nhưng có thể nói là người đến tai hại. Cô ấy khuấy tất

cả các mụ già trong làng này lên, tập hợp họ lại rồi làm náo

cả lên. Vì thế mà làng này không yên nữa. Ngày trước,

đáng lẽ công bằng ra thì phải cho mụ nhà tôi cái tát vào

miệng, làm thế là mụ sụt sịt mấy cái và câm ngay. Nhưng

bây giờ tốt nhất là đừng có đụng đến mụ, đụng vào mụ là

phải biết. Mụ lôi ngay tòa án nhân dân ra mà nói vào mặt

mình; còn nếu là các bà còn trẻ thì là dọa ngay ly dị và kể

vanh vách ra mọi thứ đạo luật. Cái mụ Gan-ca nhà tôi thật

hiền như cục đất, không có ai lại hiền và ít lời như mụ, thế

mà bây giờ làm đại biểu đại biếc đấy. Chừng như là làm

trùm món phụ nữ ở thôn tôi ấy mà. Tất cả các bà trong làng

đều kéo đến tìm gặp mụ. Lúc đầu, tôi những muốn dần cho

mụ Gan-ca nhà tôi mấy roi ngựa, nhưng sau nghĩ lại tôi lại

thôi. Thôi, mặc xác họ ! Cứ để cho họ lắm miệng cho thích.

Mụ nhà tôi việc nhà việc cửa được cái đảm đang, thế là đủ,

tôi cũng chẳng phàn nàn gì về mụ nó cả.

    Bác đánh xe đưa tay lên gãi cái ngực lông lá, áo sơ mi

để hở, rồi lấy roi quất vào bụng ngựa. Trên xe có Ra-dơ-

va-li-khin và Li-đa, cả hai đều có việc ở Pốt- đúp xi: Li-đa

muốn đến tổ chức họp các nữ đại biểu, còn Ra-dơ-va-li-

khin thì đến sắp xếp công tác của chi bộ thanh niên cộng

sản.

    Li-da hỏi đùa bác đánh xe ngựa:

    - Thế ra bác không ưa thanh niên côm-xô-môn hay sao?

    Bác ta kéo râu và chậm rãi trả lời:

    - Nói thật ra, tôi chẳng có gì phản đối… Tuổi trẻ có thể

chơi bời được. Diễn một vở kịch hay làm một cái gì đấy.

Chính tôi khi nào có vở kịch vui gì đáng xem là tôi rất thích

xem. Lúc đầu, chúng tôi cũng tưởng là bọn trẻ sẽ họp nhau

lại làm ba lăng nhăng. Nhưng không, câu chuyện lại ngược

hẳn lại. Người ta nói rằng bọn họ rất nghiêm khắc đối với

những chuyện rượu chè, du côn vô lại và các chuyện chơi

bời bậy bạ khác. Họ lại chăm học hành. Chỉ phải cái họ hay

nhạo đức Chúa lời và cứ khăng khăng đòi lấy cái nhà thờ

làm câu lạc bộ. Trong việc này họ trái hẳn đi rồi. Vì cái

chuyện này mà các cụ già xem những người côm-xô-môn

chẳng ra gì và ghét cay ghét đắng bọn họ. Nhưng ngoài

chuyện ấy ra thì được thôi! Chỉ có một điều làm tôi thắc

mắc là họ chỉ kết nạp con nhà cùng khổ, cố nông hay bần

nông thôi. Họ không cho con nhà giàu vào.

    Chiếc xe ngựa xuống dốc và đỗ trước cửa trường học.

    Bà cụ gác cổng dọn giường cho khách nằm trong

phòng mình, còn bà thì ra ngủ ngoài nhà kho chứa cỏ khô.

Li-đa và Ra-dơ-va-li-khin vừa mới ở hội nghị về. Cuộc họp

đã kéo dài quá. Trong căn nhà tranh, tối om om, Li-đa tháo

giày ra, leo lên giường và ngủ thiếp ngay. Hai bàn tay Ra-

dơ-va-li-khin chạm rất thô bạo vào người chị làm chị thức

giấc dậy: hắn định giở trò, điều đó thế nào, chẳng còn phải

ngờ gì nữa.

    - Anh làm cái gì thế?

    - Khẽ chứ, Li đa, Li-đa nói to thế? Li-đa hiểu cho, tôi

nằm trơ một mình một giường chán quá. Khỉ thật. Thế Li-

đa, Li-đa không biết có gì thú hơn là ngủ say như chết à?

    - Buông tay ra và xéo ngay khỏi giường tôi lập tức, cút

đi đâu thì cút!

    Li-đa ẩy tay ra. Từ xưa nay, chị đã không thể nào chịu

được cái cười khả ố của Ra-dơ-va-li-khin. Lúc này chị

muốn nói vào mặt Ra-dơ-va-li-khin một điều gì thật nhục và

thật đau cho hắn. Nhưng chị buồn ngủ quá, nhắm nghiền

mắt lại ngay.

    - Cứ màu mè làm gì thế? Làm như là thượng lưu trí

thức không bằng? Hay là cô tốt nghiệp trường dạy con nhà

trâm anh thế phiệt ra đấy? Cô tưởng tôi tin được như thế

hay sao? Thôi, đừng có vớ vẩn nữa. Nếu em giác ngộ thì

em hãy cho lòng anh được thỏa rồi tha hồ ngủ.

    Cho là không cần nói lắm, hắn một lần nữa rời ghế dài,

lại ngồi xuống giường và đặt tay lên vai Li- đa, làm y như là

hắn đã làm chủ hoàn toàn người con gái.

    Li-đa thức giấc dậy ngay, mắng vào mặt hắn:

    - Đồ quỷ xéo đi ngay! Mai tôi sẽ kể hết mọi chuyện cho

Pa-ven biết, tôi nói thật đấy.

    Ra-dơ-va-li-khin nắm lấy tay Li-đa và tức tối rỉ vào tai:

    - Tôi cóc cần cái thằng Pa-ven nhà cô; cô cưỡng lại

cũng vô ích, thế nào tôi cũng ngủ được với cô.

    Vật lộn giữa hai người trong giây lát. Túp nhà im ắng

vang lên tiếng tát "bốp" rồi "bốp" nữa... Ra-dơ- va-li-khin

lăn kềnh ra đất. Trong tối Li-đa chạy vội đến cửa, đẩy cửa

ra và chạy ra ngoài sân. Chị đứng lại ngoài ấy, người tắm

ánh trăng, trong lòng tức giận vô kể.

    Ra-dơ-va-li-khin tức tối quát lên:

    - Thôi, đi vào nhà, đồ ngu như bò.

    Rồi hắn dọn giường ra mái hiên và nằm ngủ ở ngoài

ấy. Còn Li-đa, sau khi cài then cửa lại, cuộn mình nằm co

trên giường.

    Sáng hôm sau, hai người ra về; ngồi trên xe cạnh cụ

già đánh xe, Ra-dơ-va-li-khin hút hết điếu thuốc này đến

điếu khác.

    "Cái con bà cô không thể sờ đến được này có thể đem

kể hết chuyện với Pa-ven thật đấy. Con bé cũng lắm mồm

lắm đấy! Thà như nó đẹp gì cho cam. Đằng này nó xấu như

ma. Phải làm lành với con bé mới được không thì đến

phiền mất. Pa-ven vốn chẳng ưa gì mình".

    Nghĩ vậy, Ra-dơ-va-li-khin bèn lại ngồi bên Li-đa. Hắn

làm ra bộ hổ thẹn, đôi mắt có vẻ như sầu não; ấp a ấp úng

thanh minh câu trước mâu thuẫn với câu sau, hắn tỏ ra hắn

đã ăn năn hối hận rồi.

    Và Ra-dơ-va-li-khin đã đạt được ý muốn: đến đầu thôn,

Li-đa hứa sẽ không kể lại câu chuyện xảy ra đêm qua với

ai cả.

    *

    Các chi đoàn thanh niên cộng sản lần lượt ra đời trong

các xã biên khu. Các đồng chí ủy viên của quận đoàn thanh

niên cộng sản đã hiến nhiều thì giờ và sức lực cho những

mầm non đầu tiên đó của phong trào cộng sản. Pa-ven và

Li-đa Pô-lê-vích suốt cả ngày công tác ở các làng vùng đó.

    Ra- dơ-va-li-khin không thích về xã. Hắn không biết làm

thân với anh em thanh niên nông dân, không được họ tin và

làm việc gì cũng hỏng. Còn Li-đa và Pa-ven thì khác hẳn, cả

hai đều có một tác phong làm việc giản dị và tự nhiên. Li-

đa tập hợp được các chị em trẻ, kết bạn và liên hệ chặt

chẽ với họ, làm cho chị em tự nhiên thích thú với sinh hoạt

và công tác của Đoàn thanh niên cộng sản. Trong khắp

quận, toàn thể anh em đều biết Pa-ven. Tiểu đoàn tổng

quân huấn thứ hai đã có một ngàn sáu trăm thanh niên

chưa đến lượt gọi nhập ngũ, vào học tập quân sự. Chưa

bao giờ tiếng đàn gió lại giữ một vài trò lớn trong công tác

tuyên truyền như là ở đây, trong những tối liên hoan của

dân làng ở ngoài trời. Chiếc đàn gió đã làm Pa-ven thành

"bạn cố tri" của mọi người. Đối với khá nhiều chàng trai,

con đường đi đến vội Đoàn thanh niên cộng sản Lê-nin vĩ

đại thường bắt đầu bằng cái đàn gió có sức thu hút mê

người, lúc thì lôi cuốn say sưa và làm rung động trái tim với

nhịp điệu đầy nhiệt huyết của bài hành quân, lúc lại dịu ngọt

và mơn man bởi những làn ngân não ruột của những bài

dân ca U-cơ-ren. Người ta nghe tiếng đàn gió, người ta

nghe cả người chơi đàn gió - trước kia anh là công nhân,

ngày nay là chính ủy bộ đội và "bí thư tí hon" thanh niên

cộng sản. Âm điệu của đàn gió và những lời nói chuyện

của người chính ủy trẻ tuổi thấm vào lòng mọi người, êm ái

và hòa nhịp với nhau. Những bài hát mới đã bắt đầu vang

lên trong các thôn xóm; trong những túp nhà tranh, bây giờ

không phải chỉ cố độc những tập Thánh thi và những sách

dạy đoán mộng, mà đã có cả những loại sách khác rồi.

    Cuộc đời của bọn buôn lậu trở nên gay go. Đối với

chúng bây giờ không phải chỉ độc có những chiến sĩ biên

phòng mới là đáng gờm thôi: chính quyền Xô- viết đã tranh

thủ được những bạn trẻ, những người giúp sức tích cực

của mình. Đôi khi, vì bốc lên muốn tự mình tóm được kẻ

thù, nên các chi đoàn thanh niên cộng sản biên thuỳ đã

vượt quá phạm vi của họ. Và lúc đó thì Pa-ven lại tìm cách

gỡ ra cho anh em. Có một hôm, Gơ-ri-sút-ca Khô-rô-vết-

cô, bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản ở Pốt-đúp-xi, một

tay mắt xanh, nhanh nhẹn, rất hăng say trong những cuộc

thảo luận chống tôn giáo, được báo bằng nguồn tin riêng

của anh là đêm nay sẽ có chuyến hàng lậu tới nhà tên chủ

máy xay trong thôn. Lập tức anh huy động toàn chi đoàn

thanh niên đi. Cả chi đoàn do Gơ- ri-sút-ca đứng đầu, võ

trang bằng khẩu súng tập và hai lưỡi lê, ngay đêm ấy, thận

trọng đến nấp trước cái máy xay rình con thú dữ. Đồn biên

thùy của Cục chính trị Nhà nước đã biết tin về bọn buôn lậu

và đã phái một đơn vị đến. Đêm hôm ấy, hai bên chạm trán

nhau và nhờ có tinh thần kiên nhẫn sáng suốt của các chiến

sĩ biên phòng mà các đoàn viên thanh niên đã không bị bắn

chết trong trận chạm trán đó. Người ta chỉ tước vũ khí

những chàng trai mà thôi và các cậu bị dẫn đến giam ở

một làng bên cạnh cách đấy bốn cây số.

    Lúc đó Pa-ven đang ở nhà Ga-vơ-ri-lốp. Sáng hôm sau,

tiểu đoàn trưởng cho biết bản báo cáo vừa nhận được về

việc trên, bí thư quận đoàn Pa-ven liền phi ngựa đi cứu bọn

trẻ của anh.

    Đồng chí đại diện Cục chính trị Nhà nước vừa cười vừa

kể lại chuyện xảy ra đêm qua cho Pa-ven nghe:

    - Bây giờ chúng ta làm thế này, đồng chí Pa-ven ạ. Các

chú ấy là những tay thanh niên can đảm đấy. Chúng tôi

cũng chẳng làm to chuyện với họ làm gì. Nhưng để từ nay

về sau, họ đừng giẫm chân vào nhiệm vụ của chúng tôi, thì

đồng chí cẩn phải chỉnh cho họ một chập ra trò mới được.

     Người gác mở cửa nhà giam. Mười một chàng thanh

niên nhổm dậy, lúng ta lúng túng, chân nhúc nhích mà không

dám bước.

     Đồng chí đại diện Cục chính trị Nhà nước chìa hai tay ra

dáng bất bình:

     - Đấy, đồng chí xem. Mấy chú cứ vẽ ra thêm chuyện cho

nên tôi bắt buộc phải giải mấy chú lên tỉnh thôi.

     Nghe nói thế, Gơ-ri-sút-ca rất đỗi xúc động:

     - Thưa đồng chí Xa-kha-rốp, chúng tôi có làm gì bậy

đâu? Chúng tôi muốn phục vụ chính quyền Xô- viết. Từ lâu,

chúng tôi đã đặt người theo dõi cái tên buôn lậu đó rồi. Thế

mà các đồng chí lại tống giam chúng tôi như thể chúng tôi

là thổ phỉ.

     Gơ-ri-sút-ca tủi thân quay đi.

     Pa-ven và Xa-kha-rốp khó khăn lắm mới giữ mãi được

vẻ mặt nghiêm nghị. Sau một hồi làm ra vẻ phải điều đình

với nhau găng lắm, hai người thôi không "chỉnh" toán thanh

niên nữa.

     Xa-kha-rốp nói với Pa-ven:

     - Nếu đồng chí đảm bảo cho các chú ấy và hứa với

chúng tôi là từ nay về sau, các chú không đi ra biên giới

nữa, còn giúp đỡ chúng tôi thì giúp đỡ bằng cách khác, có

thế tôi mới tha cho các chú ấy.

     - Được tôi xin chịu trách nhiệm về các anh em ấy. Tôi hy

vọng anh em sẽ không làm phiền cho tôi nữa.

     Thế là cả chi đoàn thanh niên lại hát vang trên đường

trở về Pốt-đúp-xi. Việc rắc rối vẫn chưa lộ ra. Còn tên chủ

máy xay thì sau đó ít lâu bị bắt quả tang. Lần này, việc tóm

cổ nó làm rất đúng nguyên tắc.

    Bọn chủ trại Đức sống giàu sang trong những làng vùng

rừng Mai-đan Vin-la. Những trại ấp sung túc của bọn cu-lắc

ở cách nhau từng nửa cây số một; những tòa nhà đèo thêm

những nhà phụ trông giống như những đồn lũy nhỏ. Bọn thổ

phỉ An-tô-nhúc được bọn cu-lắc ở đây chứa chấp. Tên

quan hai cũ ấy của Nga hoàng đã tập hợp họ hàng bà con

nó, lập thành một nhóm gồm bảy tên phỉ và bắt đầu dùng

đến khẩu súng ngắn của hắn trên các ngả đường lân cận,

làm đổ máu nhiều người. Hắn chẳng từ gì bọn buôn lậu,

nhưng cũng không tha các cán bộ Xô-viết qua lại. Bọn hắn

di động rất nhanh. Hôm nay, chúng giết chết hai xã viên

hợp tác xã trong thôn, ngày mai, cách đấy hai mươi cây số,

đã thấy hắn tước vũ khí một nhân viên bưu điện và móc hết

của anh từng hào, từng xu. An-tô-nhúc thi nhau với tên đồng

nghiệp của nó là Goóc-đi; thằng này chẳng kém gì thằng

kia, cả hai đứa đã làm mất khá nhiều thời giờ của dân

quân và Cục chính trị Nhà nước của liên quận. An- tô-nhúc

đã mò đến tận ngoại vi thị trấn Bê-rê-dơ- đốp. Các ngả

đường vào thị trấn đã trở thành nguy hiểm. Khó mà tóm cổ

được tên phỉ ấy; cứ khi nào bị dồn bí quá thì hắn chuồn

sang bên kia biên giới, ngồi rúc ở đấy, rồi những lúc nào

người ta ít để tâm nhất đến hắn thì hắn lại thò đầu ra. Mỗi

lần con thú dữ nguy hiểm và không tài nào bắt được đó xồ

ra cắn chảy máu thì đồng chí Li-xi-xưn lại một phen cắn môi

tức tối.

    - Còn để cho tên mạt kiếp này cắn chúng mình đến bao

giờ? Cuối cùng rồi mình đến phải tự tay trừ nó mới được. -

Tiếng đồng chí rít qua hai hàm răng cắn chặt. Có hai lần

đồng chí chủ tịch cùng đi với Pa-ven và ba đảng viên cộng

sản nữa đã đuổi theo vết chân còn mới của tên phỉ. Song

An-tô-nhúc đã đi khỏi rồi.

    Trên liên quận đã phái về Bê-rê-dơ-đốp một đội chống

phỉ, do anh chàng Phi-la-tốp rất diện chỉ huy. Vì kiêu căng,

vênh váo như một con gà trống mới lớn, Phi-la-tốp đã

không chấp hành đúng điều lệnh công tác hiện hành ở vùng

biên giới, cho việc đến trình diện với đồng chí chủ tịch là

không cần thiết, nên cứ dẫn đội của mình đến thẳng một

làng bên cạnh là Xê-ma-ki. Đến vào lúc đêm, Phi-la-tốp cho

đóng quân trong túp nhà ngay đầu thôn. Toán người lạ có

vũ khí, hành động lại rất bí mật ấy, làm cho một đoàn viên

thanh niên cộng sản ở bên hàng xóm để ý. Người đoàn

viên này liền chạy đến báo cho chủ tịch Xô-viết thôn. Chủ

tịch Xô-viết thôn không hiểu gì về đội này, tưởng nhầm đấy

là bọn phỉ, thế là cho người đoàn viên thanh niên đi ngựa

hỏa tốc lên quận. Sự sơ suất của Phi-la-tốp suýt nữa thì

làm toi mạng rất nhiều người. Li-xi-xưn đang đêm nghe tin

có "phỉ", liền huy động dân quân và mang theo độ chục

người phi ngựa đến Xê-ma-ki. Họ chạy thộc vào tận sân,

xuống ngựa và nhảy qua hàng rào, tiến vào nhà. Người gác

đứng ở ngưỡng cửa bị một cú báng súng ngắn vào đầu

ngã lăn xuống như cái bị rơi. Li-xi-xưn lấy vai hích mạnh

cánh cửa bật tung ra, và toán người ùa vào gian nhà le lói

ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn treo trên trần. Một tay cầm

quả lựu đạn vung ra sau người chực ném, tay kia lăm lăm

khẩu súng ngắn Mô-de, Li-xi-xưn thét lên, mạnh đến nỗi làm

rung cả cửa kính:

    - Giơ tay hàng, không tao xé tan xác chúng bay ra bây

giờ.

    Chỉ thiếu một giây nữa là người của Li-xi-xưn lia cho

toán người còn ngái ngủ kia một làn mưa đạn. Nhưng cái

vẻ đáng sợ của người lăm lăm cầm lựu đạn kia làm cho

hàng chục cánh tay giơ cao lên. Một lát sau, khi các người

trong đội diệt phỉ mặc độc có áo ngủ bị dẫn ra sân, Phi-la-

tốp nhìn thấy chiếc huân chương đính trên áo Li-xi-xưn mới

khỏi ríu lưỡi.

    Li-xi-xưn nhổ nước bọt tức tối và phát bẳn lên, giọng

khinh bỉ:

    - Thật là đồ ngu!

    *

    Tiếng vang của cách mạng Đức vọng đến tận quận này.

Những tràng đạn nổ đổ hồi réo trên các chiến lũy Hăm-bua

vang tới. Biên giới không còn yên tĩnh như xưa nữa. Người

ta đọc báo, lòng náo nức mong đợi. Gió của tháng Mười

từ phía Tây thổi lại. Ở quận đoàn thanh niên, đơn gửi đến

như mưa xin gia nhập Hồng quân, làm quân chí nguyện.

Pa-ven phải giải thích nhiều cho đại biểu các chi đoàn hiểu

chính sách của nước Xô-viết là chính sách hòa bình, và

hiện nay thì Nhà nước Xô-viết không có ý định gây chiến

với bất cứ một nước láng giềng nào cả. Nhưng những lời

giải thích đó ít tác dụng lắm. Chủ nhật nào, những đoàn viên

thanh niên tất cả các chi đoàn cũng kéo tới thị trấn, và họp

ngay trong khu vườn nhà lão cố đạo.

    Một hôm vào giữa trưa, toàn chi đoàn thanh niên Pốt-

đúp-xi đông đủ mặt, hàng ngũ chỉnh tề kéo đến cái sân

rộng trước trụ sở quận đoàn. Pa-ven nhìn qua cửa sổ,

trông thấy, liền đi ra thềm. Mười một người thanh niên do

Gơ-ri-sút-ca dẫn đầu, người nào cũng đi giày ống, đeo ba-

lô to tướng trên lưng. Họ dừng lại trước cửa.

    Pa-ven ngạc nhiên hỏi:

    - Chuyện gì thế, Gơ-ri-sút-ca?

    Nhưng Gơ-ri-sút-ca nháy mắt ra hiệu và cùng Pa- ven đi

vào trong nhà. Khi Li-đa, Ra-dơ-va-li-khin và hai đoàn viên

thanh niên nữa xúm quanh lấy Gơ-ri- sút-ca thì anh này

đóng cửa và cau đôi mày nhợt lại một cách nghiêm nghị,

giải thích rằng:

    - Các đồng chí ạ, đây là tôi làm báo động diễn tập đấy

mà. Hôm nay, tôi có tuyên bố với những đoàn viên chi đoàn

tôi rằng: ở quận có điện xuống, tất nhiên là điện tối mật:

chiến tranh với bọn tư sản Đức bắt đầu rồi, và không bao

lâu nữa sẽ nổ ra chiến tranh chống bọn chúa đất Ba Lan. Vì

thế ở Mát-xcơ-va ra lệnh: tất cả đoàn viên thanh niên cộng

sản đều ra tiền tuyến; còn ai sợ, cứ viết đơn xin, sẽ cho ở

nhà. Tôi nói với họ là không được nói gì về chiến tranh cả

mỗi người mang theo một miếng bánh mì và một ít mỡ, ai

không có mỡ thì mang đi mấy nhánh hành hay nhánh tỏi,

một giờ sau phải bí mật tập hợp ở sau làng. Chúng ta sẽ đi

lên quận và từ quận lên liên quận nhận vũ khí. Chuyện đó có

tác dụng rất lớn đối với anh em. Họ bắt đầu hỏi vặn tôi

nhiều lắm, song tôi cắt đứt: không có nói chuyện lôi thôi gì

cả. Ai đi thì đi. Còn ai từ chối thì cứ việc viết đơn. Đi đây là

đi tình nguyện. Nghe tôi nói xong, các bạn đoàn viên của tôi

ai về nhà nấy. Lúc đó tim tôi đập mạnh lắm: nếu không ai

đến đi cả thì sao? Nếu vậy tôi chỉ còn cách giải tán chi

đoàn, còn mình thì bỏ đi nơi khác. Tôi ngồi đợi ở gần thôn

và theo dõi. Họ đến từng người một. Một vài người mặt

mũi còn ngấn nước mắt, nhưng bề ngoài họ làm ra vẻ thản

nhiên. Cả mười người đều đến, không một ai bỏ trốn cả.

Đấy, chi đoàn Pốt-đúp- xi như thế đấy! - Gơ-ri-sút-ca kết

luận, giọng rất phởn, nắm tay lại hãnh diện đập lên ngực.

    Và khi Li-đa bực mình mắng Gơ-ri-sút-ca như tát nước

thì Gơ-ri-sút-ca nhìn chị bằng một con mắt ngạc nhiên

không hiểu ra làm sao cả.

    - Chị Li-đa nói gì lạ thế ? Thử hỏi Li-đa, để tập báo

động, còn có sáng kiến nào hơn nữa? Có như thế thì mới

nhìn người kỹ được, nhìn ai cũng mới khỏi bị lầm. Muốn có

thêm tác dụng, tôi còn muốn đưa họ lên liên quận nữa kia,

nhưng họ đều mệt cả rồi. Thôi để cho họ về. Song anh Pa-

ven ạ, thế nào anh cũng nên nói chuyện với họ, được chứ

anh? Anh không nói thì còn ra thế nào nữa. Cứ nói là lệnh

động viên đã bãi bỏ rồi, song danh dự và quang vinh thuộc

về những người thanh niên anh dũng như họ.

    Pa-ven ít lên liên quận. Những chuyến đi như thế

thường mất đến mấy ngày, mà công tác thì cần ngày nào

cũng có mặt ở quận. Trái lại, Ra-dơ-va-li-khin động có dịp

là nhảy tót lên thị xã ngay. Võ trang từ đầu đến chân, trong

lòng cứ những sánh mình với một trong những nhân vật của

Cu-pơ((Phê-mi-no Cu-pơ, tác giả Mỹ thế kỷ 19, viết nhiều

tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm về những bộ lạc người da

đỏ ở Châu Mỹ) ), đi du ngoạn như thế hắn ta lấy làm thích

thú lắm. Hắn tạt vào rừng, đem súng ra bắn vào đàn quạ

hoặc bắn vào con sóc chạy nhanh thoăn thoắt, chặn khách

qua đường nào đi một mình, hỏi người ta như là dự thẩm

tòa án hỏi cung: ông là ai, ở đâu đến và đi đâu. Đến gần thị

xã, Ra-dơ-va-li-khin bỏ súng trường giấu xuống lớp rơm

trên xe ngựa, súng ngắn thì nhét vào túi và cố giữ vẻ bình

thường, đi vào liên quận đoàn thanh niên cộng sản.

    - Thế nào, ở Bê-rê-dơ-đốp các anh có gì mới không?

    Trong phòng Phê-đô-tôp, bí thư của liên quận đoàn,

người lúc nào cũng đông. Ai cũng tranh nói lấy được. Phải

biết làm việc trong hoàn cảnh ấy thì mới làm nổi, một lúc

nghe bốn người nói, đồng thời lại viết và trả lời cho một

người thứ năm. Phê-đô-tốp còn trẻ măng, song đã vào

Đảng từ 1919. Chỉ có ở cái thời sóng gió ấy mới có thể

mười lăm tuổi đã được kết nạp vào Đảng.

    Nghe câu hỏi của Phê-đô-tốp, Ra-dơ-va-li-khin uể oải

đáp lại:

    - Nhiều chuyện mới lắm, không thể kể hết được. Tôi

chạy ngược chạy xuôi suốt từ sáng cho đến tận tối khuya.

Phải lấp hết mọi lỗ hổng hiện nay, phải làm từ đầu mọi việc

trên một vùng cơ sở trắng. Tôi đã tổ chức được thêm hai

chi đoàn mới nữa. Các đồng chí triệu tập về đây có việc gì

thế? - Và nói xong, hắn làm ra bộ quan trọng ngồi xuống

ghế bành.

    Đồng chí Cơ-rưm-ski, trưởng ban kinh tế, từ nãy giờ

cúi mình trên tập tài liệu, nghe hắn nói thì ngẩng đầu lên nhìn

lại:

    - Chúng tôi triệu tập Pa-ven, chứ không triệu tập anh.

    Ra-dơ-va-li-khin thở phun ra một làn khói thuốc dày đặc.

    - Pa-ven không thích đến đây, tôi cứ phải vất vả đi lại

thay hắn... Có một số bí thư láu cá như thế đấy. Bản thân họ

chẳng muốn động xác làm gì, chỉ đẩy những con lừa như

hạng tôi đi. Khi nào Pa-ven đi ra biên giới, thế là ở lại đấy

hàng hai ba tuần. Tôi lại phải nai lưng gánh hết mọi việc

cho hắn.

     Ra-dơ-va-li-khin chẳng úp mở gì, có ý muốn tỏ cho mọi

người biết lẽ ra chính hắn mới thực đáng làm bí thư quận

đoàn kia.

     Khi Ra-dơ-va-li-khin ra rồi, đồng chí Phê-đô-tốp nói

thẳng với các đồng chí trong chấp ủy:

     - Tôi thấy chẳng ưa cái thằng cha này chút nào cả.

     Những cách luồn lọt xúc xiểm thâm hiểm của Ra- dơ-va-

li-khin bị phơi ra ánh sáng một cách tình cờ. Một hôm, Li-xi-

xưn rẽ vào nhà đồng chí Phê-đô-tốp nhận thư từ, công văn.

Thường hễ có ai ở quận lên là nhận luôn thư cho mọi

người khác. Phê-đô-tốp nói chuyện lâu với Li-xi-xưn. Trong

câu chuyện đó, Ra- dơ-va-li-khin đã bị lột mặt nạ.

     Khi tiễn đồng chí chủ tịch quận ra về, Phê-đô-tốp dặn :

     - Nhưng dù sao đồng chí cũng cứ cho Pa-ven lên đây

nhé. Chúng tôi ở đây vẫn chưa quen biết đồng chí ấy lắm.

     - Được. Nhưng phải định trước với nhau mới được:

các đồng chí đừng nhằm lấy mất của chúng tôi Pa- ven kia,

nếu lấy, chúng tôi kiên quyết phản đối đấy.

     Năm ấy, ở biên giới, quốc khánh tháng Mười cử hành

trong không khí phấn khởi chưa từng có. Pa- ven được bầu

làm chủ tịch ban tổ chức lễ kỷ niệm Cách mạng tháng

Mười ở các xã biên giới. Sau cuộc mít tinh ở Pốt-đúp-xi,

khối quần chúng năm ngàn người, gồm nam nữ nông dân

ở ba xã lân cận họp lại, xếp hàng trên một cây số rưỡi, bắt

đầu đi về phía các xã biên giới. Đi đầu là đội kèn và tiểu

đoàn quân huấn, với những lá cờ đỏ tung bay. Đoàn biểu

tình rất trật tự và có tổ chức bắt đầu tiến hành trên đất xô-

viết, dọc theo các cột biển, tiến về phía những thôn xã biên

giới cắt làm đôi. Dân Ba Lan chưa bao giờ được trông

thấy cảnh tượng ấy. Đi trước hàng quân là tiểu đoàn

trưởng Ga-vơ-ri-lốp và Pa-ven, cả hai cùng cưỡi ngựa;

phía sau hai người, tiếng kèn đồng rung lên như sấm động,

cờ bay phần phật và những bài hát, những bài hát vang lên.

Thanh niên nông dân mặc toàn quần áo ngày hội. Những

nhịp cười của các cô gái vang đi xa, nghe như tiếng róc

rách của một dòng thác bạc; nét mặt người lớn thì nghiêm

túc, các cụ già thì trịnh trọng. Cả dòng sông người ấy cứ

chảy mãi, đến nơi xa tít; bờ của dòng sông ấy là biên giới.

Không một bàn chân nào rời khỏi mảnh đất Xô-viết, không

một bước chân nào chạm vào đường phân giới nghiêm

cấm. Pa-ven đứng ra bên, nhường cho thác người chảy

qua trước mặt mình. Bài hát của thanh niên cộng sản vang

lên:

"Từ rừng Tai-ga đến tận biển nước Anh

Hồng quân là hùng mạnh nhất".

nối tiếp bài đồng ca của nữ thanh niên:

"Kìa trên, đồi cao,

Chị em thợ gặt đang gặt lúa vàng”.

    Các chiến sĩ biên phòng Xô-viết vui sướng mỉm cười

chào mừng đoàn biểu tình; những lính gác Ba Lan thì đứng

nhìn, đầy vẻ bối rối hốt hoảng. Cuộc tuần hành dọc biên

giới, tuy đã có báo trước cho bộ Tư lệnh Ba Lan, vẫn làm

cho phía bên kia lo lắng. Những đội tuần tra của hiến binh

tiền tuyến hối hả đâm bổ đi sục sạo; mỗi chỗ gác tăng lên

gấp năm, ở trong các giao thông hào thì bố trí thêm quân

dự bị để đề phòng mọi việc bất ngờ xảy đến. Nhưng, đoàn

biểu tình chỉ tiến bước trên đất nước nhà mình, náo nhiệt và

vui vẻ, tiếng hát vang dậy khắp không trung.

     Trên một mô đất, một người lính Ba Lan đứng gác.

Đoàn người đi đều bước, tiến gần lại. Âm điệu đầu tiên

một bài hành khúc cất tiếng bay lên. Người lính Ba Lan trút

súng khỏi vai đặt xuống chân, đứng nghiêm. Pa-ven nghe

rõ tiếng hô: "Công xã muôn năm!".

     Trông đôi mắt của người lính thấy đúng là chính anh ta

vừa hô khẩu hiệu đó. Pa-ven nhìn anh ta không chớp mắt,

nhìn anh ta hết sức nhiệt tình.

     Đấy là một người bạn! Dưới vạt áo lính, trái tim anh ta

đang đập hòa nhịp với đoàn du hành. Và Pa- ven khẽ đáp

lại bằng tiếng Ba Lan:

     - Chào đồng chí!

     Người lính gác đứng lại đằng sau. Anh ta nhường

bước cho đoàn người, súng vẫn để dựng nguyên như cũ.

Pa-ven nhiều lần ngoái cổ lại nhìn cái bóng bé nhỏ đen đen

đó. Kia lại một người Ba Lan khác nữa. Râu mép bạc lốm

đốm. Hai con mắt nhìn không động trông dài dại dưới vành

mạ kền của chiếc mũ "liên bang". Pa-ven trong đầu vẫn còn

mang máng lời nói của người lính Ba Lan trước mà anh

vừa nghe, liền nói trước như là nối thầm với mình bằng

tiếng Ba Lan :

     - Chào đồng chí.

     Không có tiếng đáp lại.

     Ga-vơ-ri-lốp mỉm cười. Ga-vơ-ri-lốp hiểu hết chuyện.

Anh nói:

     - Cậu tham quá, Pa-ven ạ ! Ngoài những lính bộ binh

thường, ở đây còn có cả bọn hiến binh đi chân nữa kia.

Cậu không thấy cái lon hình chữ V trên tay áo hắn à? Đấy là

một thằng hiến binh.

   (Lon chữ V thường thêu trên tay áo bọn quân nhân đế

quốc để ghi công trạng và niên hạn tại ngũ của chúng)

   Đoạn đầu của đoàn người đã từ trên núi kéo về phía

làng bị biên giới cắt đôi. Nửa làng bên Xô-viết đã chuẩn bị

đón tiếp một cách long trọng. Cả thôn Xô-viết đều tập hợp

gần cầu biên giới, trên bờ dòng sông con. Trai, gái trong

làng đứng thành hàng rào hai bên vệ đường. Bên nửa thôn

phía Ba Lan, mái các nhà, mái các quán đều đầy kín những

người trèo lên chăm chú nhìn xem những việc đang xảy ra

bên kia sông. Nông dân xúm lại trên ngưỡng cửa các nhà

và dọc các hàng rào. Khi đoàn biểu tình tiến vào dãy hàng

rào người kia thì đội nhạc cử bài ca "Quốc tế” . Trên bục

diễn đàn vừa làm vội, trang hoàng bằng lá cây lớp thanh

niên mái tóc còn xanh và nhũng cụ già đầu bạc, đọc những

diễn văn cảm động. Pa-ven cũng lên nói chuyện bằng tiếng

U-cơ-ren, tiếng mẹ đẻ của anh. Những lời nói của anh bay

vượt qua biên giới và những người đứng bên kia bờ sông

cũng nghe được rõ. Ở bên kia, chúng nó đã quyết không

để cho bài nói này làm bốc cháy lòng người. Đội ba-tui của

hiến binh bắt đầu phi ngựa đi khắp làng, lấy roi ngựa quất

đuổi nhân dân vào trong nhà. Tiếng súng nổ đì đẹt lướt qua

các mái nhà.

   Đường sá trở nên vắng tanh. Đám thanh niên bị đạn

xua chạy, đã tụt xuống khỏi các mái nhà. Từ phía bên bờ

Xô-viết, nhân dân đã nhìn sang thấy thế đều cau mày. Một

ông lão chăn cừu có các thanh niên đỡ bước lên diễn đàn.

Lòng sôi sục căm giận, ông lão nói bằng một giọng cảm

động :

    - Khá thật! Các con hãy nhìn xem! Ngày trước, chúng ta

cũng đã từng bị quân chúng nó đánh đập như vậy rồi.

Nhưng bây giờ, trong làng chẳng còn ai thấy cảnh chính

quyền dùng roi ngựa đánh một nông dân bao giờ. Chúng ta

đã tiêu diệt được hết đời bọn địa chủ quý tộc và cái roi da

nện trên lưng chúng ta cũng hết đời luôn. Các con hãy giữ

gìn chính quyền mới này cho vững, các con ạ. Lão già rồi,

lão chẳng biết nói chuyện. Nhưng lão muốn nói nhiều lắm.

Dưới ách Nga hoàng, suốt đời chúng ta đã phải chịu vất vả

cay đắng như thân con bò kéo xe, cho nên bây giờ nhìn

thấy cảnh đó vẫn còn đang tiếp tục ở bên kia, thật đau

lòng!... - Nói đến đây ông lão giơ bàn tay xương xẩu vẫy

sang phía con sông và bắt đầu khóc hu hu lên, thật chỉ có

các trẻ em và các cụ già mới khóc như vậy.

    Gơ-ri-sút-ca lên tiếp lời cụ già. Nghe bài nói đầy căm

hờn của Gơ-ri-sút-ca, Ga-vơ-ri-lốp quay ngựa lại nhìn xem

bên kia bờ sông có kẻ nào đứng ghi những lời nói của Gơ-

ri-sút-ca không. Nhưng bờ sông bên kia vắng vẻ, ngay cả

người lính gác cạnh cầu cũng bị gọi về rồi.

    Ga-vơ-ri-lốp nói đùa:

    - Thế thì chắc chẳng có công hàm phản đối gửi đến Ban

dân ủy ngoại giao của ta đâu.

    Vào một đêm mưa thu vào cuối tháng Mười Một, tên

phỉ An-tô-nhúc và bảy đứa bộ hạ của nó đã phải ngừng làm

đổ máu người trên các đường nó qua lại. Cái đàn chó sói

đó mò đến dự đám cưới của một tên chủ trại giàu có ở

Mai-đan Vin-la. Các đảng viên vùng Khơ-rô-lin-ski đã bám

riết và tóm được chúng trong đám cưới.

    Mồm các mụ đàn bà lắm điều đã truyền cái tin những

tay khách ấy sẽ đến dự đám cưới tên chủ trại. Trong nháy

mắt, cả mười hai đảng viên của chi bộ đã họp lại, ai có thứ

khí giới gì thì mang thứ nấy. Họ đi xe ngựa đến thôn Mai-

đan Vin-la, còn người liên lạc hỏa tốc thì phi ngựa như bay

về Bê-rê-dơ- đốp. Đến Xi-ma-ki thì đồng chí liên lạc tìm

được đội của Phi-la-tốp. Phi-la-tốp dẫn quân của mình phi

nước kiệu đuổi theo dấu chân còn mới của địch. Các đảng

viên Khơ-rô-lin-ski vây lấy thôn Mai-đan, và cuộc nói chuyện

bằng súng đạn giữa họ với bọn phỉ An-tô- nhúc thế là bắt

đầu. An-tô-nhúc cùng bọn thủ hạ nấp vào một chái nhà bên

và cứ thế bắn bất cứ ai sa vào tầm súng của chúng. Hắn

muốn liều sức thử mở đường máu chạy, song các chiến sĩ

Khơ-rô-lin-ski sau khi bắn chết một thằng phỉ, dồn cả bọn

chúng chui vào chái nhà trở lại. Nhiều phen An-tô-nhúc

cũng đã bị hãm vào đường cùng như thế. Nhưng lần nào

hắn cũng thoát thân vô sự: thủ pháo và đêm tối đã giúp cho

hắn thoát. Có thể lần này nữa, hắn cũng quyết chạy thoát vì

các chiến sĩ công xã đã mất đi hai người trong cuộc chiến

đấu. Nhưng đang lúc đó, Phi-la-tốp vừa kịp đến tiếp viện.

An-tô-nhúc hiểu rằng hắn bị kẹp chặt rồi và lần này không

lối nào thoát. Đạn từ trong các cửa sổ chái nhà phụt ra cho

đến tận sáng, nhưng tảng sáng thì người ta bắt được hắn.

Cả bảy thằng chẳng thằng nào chịu hàng phục cả. Việc tiêu

diệt cái ổ chó sói đó đã phải hy sinh mất bốn mạng người.

Chi đoàn trẻ tuổi thanh niên cộng sản Khô- rô-lin-ski đã

hiến ba người trong số bốn liệt sĩ đó.

    *

    Tiểu đoàn Pa-ven bị gọi đi tham gia cuộc diễn tập mùa

thu của các đơn vị địa phương. Tiểu đoàn bắt đầu hành

quân từ sáng sớm, đi suốt một ngày dưới mưa rào, vượt

bốn mươi cây số, tối mịt mới đến doanh trại của sư đoàn

địa phương. Tiểu đoàn trưởng Gu- xếp và chính ủy hành

quân bằng ngựa. Tám trăm thanh niên vừa đến trại đã lăn

ra ngủ. Bộ tham mưu sư đoàn địa phương đã triệu tập tiểu

đoàn này quá chậm: sáng mai đã bắt đầu diễn tập rồi. Tiểu

đoàn mới dàn ra trên thao trường để duyệt. Một chốc thì đã

có nhiều kỵ binh từ tham mưu sư đoàn phi đến. Tiểu đoàn

mặc quân phục và mang súng rồi thì trông như là thay hình

đổi dạng hẳn. Cả Gu-xếp lẫn Pa- ven đã bỏ ra nhiều sức

lực và thời giờ rèn luyện tiểu đoàn của mình, cho nên đến

tham gia diễn tập lòng bình tĩnh không lo lắng. Khi cuộc

duyệt chính thức đã xong và tiểu đoàn đã tỏ rõ tài vận động

và lập đội hình của mình, thì có một người trong cấp chỉ huy,

mặt bảnh trai nhưng phị mỡ, lại hỏi Pa-ven bằng một giọng

xẵng:

    - Tại sao đồng chí lại đi ngựa? Chỉ huy và chính ủy của

một tiểu đoàn tổng quân huấn không được có ngựa. Tôi ra

lệnh đồng chí cho ngựa vào chuồng, diễn tập toàn phải đi

đất hết.

    Pa-ven biết rằng nếu anh xuống ngựa thì không thể nào

tham gia cuộc diễn tập được: chân anh không thể đi bộ

được lấy một cây số. Làm thế nào để giải thích điều đó cho

chàng công tử nhặng ngậu xị, mình buộc đầy những dây

lòng thòng này?

    - Không đi ngựa, tôi không thể tham gia diễn tập được.

    - Tại sao?

    Biết là không thể giải thích cách nào khác, Pa-ven trả

lời một cách gọn lỏn:

    - Chân tôi bị sưng. Tôi không thể chạy và đi bộ trong

một tuần được. Hơn nữa, tôi không biết đồng chí là ai.

    - Tôi là tham mưu trưởng trung đoàn của anh, đấy là

một điều tôi nói với anh. Còn điều thứ hai là một lần nữa tôi

ra lệnh cho anh xuống ngựa, còn nếu anh là người có

thương tật mà vẫn ở trong bộ đội thì đấy không phải là lỗi

của tôi.

    Pa-ven có cảm tưởng như bị roi quất vào mặt. Anh quất

mạnh roi vào con ngựa, nhưng bàn tay chắc của Gu-xếp đã

giữ anh lại. Mấy phút qua, trong người Pa-ven có hai thứ

tình cảm đấu tranh với nhau: ức không chịu được và kiên

tĩnh. Song Pa-ven ngày nay không còn là cậu lính Hồng

quân ngày trước không hề do dự chạy từ đơn vị này sang

đơn vị khác. Pa- ven bây giờ là chính ủy của một tiểu đoàn,

tiểu đoàn đó đang đứng sắp hàng sau anh. Cách xử sự

của anh sẽ nêu một gương chấp hành kỷ luật như thế nào

cho cả đơn vị? Bởi vì anh đã huấn luyện giáo dục tiểu đoàn

mình có phải vì cái thằng cha bắng nhắng này đâu! Anh bỏ

chân ra khỏi bàn đạp, từ trên ngựa tụt xuống và cố bấm

bụng chịu đau đớn ghê gớm trong các khớp xương, anh đi

về chỗ đứng của anh, ở sườn bên phải tiểu đoàn.

    Liên tiếp trong nhiều ngày, trời nắng đẹp không chê vào

đâu được. Cuộc diễn tập đã gần xong. Đến ngày thứ năm

thì cuộc diễn tập tiến hành ở quanh thị trấn Sê-pê-tốp-ca.

Đây là địa điểm diễn tập cuối cùng. Tiểu đoàn Bê-rê-dơ-

đốp nhận nhiệm vụ từ phía làng Cơ-li-men-tô-vích tiến công

chiếm lĩnh nhà ga. Pa-ven đã thông thạo vùng này quá đi

rồi, anh chỉ cho Gu-xếp biết hết các ngõ ngách ra vào. Tiểu

đoàn chia làm hai, không cho "kẻ địch" biết, đi vòng một

đường sân luồn vào tung thâm và thét to những tiếng "hoan

hô" rồi ập vào nhà ga. Những người trọng tài diễn tập đều

công nhận đấy thật là một trận đánh rất cừ. Nhà ga bị các

chiến sĩ Bê-rê-dơ-đốp chiếm lĩnh, còn tiểu đoàn giữ nhà ga

thì sau khi bị "thiệt hại" năm mươi phần trăm số quân, đã

rút lui vào rừng.

     Pa-ven chỉ huy một nửa tiểu đoàn. Cùng với đại đội

trưởng và chính trị viên đại đội ba đứng ở giữa đường

phố, anh ra lệnh cho bố trí tuyến xạ kích.

     Một chiến sĩ Hồng quân chạy đến vừa thở vừa báo cáo:

     - Báo cáo chính ủy. Tiểu đoàn trưởng hỏi là các chỗ

đường xe lửa và đường xe hơi gặp nhau đã có các chiến

sĩ súng máy chiếm lĩnh chưa? Ban giám khảo diễn tập sẽ

đến đóng ở đấy.

     Pa-ven và một đại đội trưởng tới chỗ hai đường xe lửa

và xe hơi gặp nhau. Ban chỉ huy trung đoàn đã họp mặt cả

ở đây. Người ta khen Gu-xếp đã khéo chỉ huy trận đánh

thành công. Các đại biểu của tiểu đoàn bị thua day chân

ngượng nghịu và cũng không buồn nói năng bào chữa gì

nữa.

     - Đây không phải công lao của tôi, mà chính là công

đồng chí Pa-ven người địa phương đây, đã chỉ huy chúng

tôi nên mới đánh được như thế.

     Tham mưu trưởng cho ngựa sát lại gần Pa-ven và nói

giọng chế giễu:

     - À té ra đồng chí có thể chạy được rất cừ, đồng chí ạ.

Còn lúc trước đồng chí đi ngựa thì chắc là để diện thôi, có

phải không?

    Hắn định nói gì thêm nữa, nhưng cái nhìn của Pa- ven

đã làm hắn dừng ngay lại và đứng tưng hửng.

    Khi ban chỉ huy trung đoàn đã đi rồi, Pa-ven khẽ hỏi Gu-

xếp:

    - Cậu có biết thằng cha ấy tên là gì không?

    Gu-xếp vỗ vai Pa-ven:

    - Thôi cậu đừng để ý đến cái thằng khốn ấy làm gì Tên

hắn đâu là Tru-gia-nin. Hình như thời trước hắn là một tên

chuẩn úy của quân đội cũ thì phải.

    Ngày hôm ấy, Pa-ven đã mấy lần cố nhớ ra xem cái tên

ấy anh đã nghe được ở đâu rồi, song mãi vẫn không tài

nào nhớ được.

    Cuộc diễn tập đã xong. Sau khi đã được giấy chứng

nhận thành tích diễn tập xuất sắc, tiểu đoàn lại kéo về Bê-

rê-dơ-đốp. Pa-ven thân thể bị đau nhừ, đem ngựa gửi ở

nhà A-rơ-chom, rồi về chỗ mẹ nghỉ hai ngày. Suốt hai ngày,

ngày nào Pa-ven cũng ngủ mười hai tiếng đồng hồ. Đến

ngày thứ ba, anh đến xưởng đầu máy tìm A-rơ-chom.

Trong tòa nhà kho đầu máy ám khói đen sì này, Pa-ven thấy

hình như được về chính nhà mình: anh thở hít một cách say

sưa mùi khói than. Cái khung cảnh này đây, quen thuộc từ

tấm bé, có một sức mạnh quyến rũ anh mãnh liệt. Chính ở

nơi đây, anh đã lớn lên. Anh có cảm tưởng như thời gian

qua mình đã mất đi một cái gì rất yêu rất quý. Bao nhiêu

tháng trời ròng rã, anh không được nghe tiếng rú của còi

tàu. Giờ đây, cảnh thân thuộc này của nhà máy thu hút tâm

hồn anh thợ đốt lò và thợ lắp máy điện, y như một người

thủy thủ sau một thời gian xa biển, lòng bồi hồi xúc động

mỗi lần được trông thấy khoảng nước biếc bao la. Phải

một lúc lâu Pa-ven mới nén được bồi hồi. Chuyện với A-rơ-

chom, Pa-ven nói ít. Anh nhìn thấy một nếp răn mới hiện ra

trên trán A-rơ-chom. A-rơ-chom làm việc ở cầu di động.

Anh đã có thêm một đứa con nữa. Rõ ràng cuộc sống của

anh gay go vất vả. A-rơ-chom không nói gì đến cảnh nhà,

song chỉ nhìn anh cũng đủ rõ cảnh nhà anh như thế nào.

     Anh em cùng làm việc với nhau trong hai tiếng đồng hồ

rồi chia tay nhau. Đến chỗ hai đường xe lửa và xe hơi gặp

nhau, Pa-ven dừng ngựa lại và nhìn nhà ga một hồi lâu, rồi

quất ngựa như bay dọc theo con đường đi về phía rừng.

     Đường rừng bây giờ không còn nguy hiểm đối với

người qua lại nữa. Những người bôn-sê-vích đã tiêu diệt

hết tất cả bọn phỉ lớn nhỏ rồi, đã đốt hết sào huyệt của

chúng. Bà con các thôn xóm đã bắt đầu được sống yên ổn.

     Pa-ven phi ngựa đến Bê-rê-dơ-đốp vào khoảng gần

trưa. Li-đa vui sướng ra tận thềm trụ sở quận đoàn đón

anh.

     - Anh về đấy à! Vắng anh, chúng tôi đã bắt đầu thấy

buồn rồi - Và Li-đa khoác vai Pa-ven cùng đi vào nhà.

     Pa-ven vừa cởi áo ca-pốt vừa hỏi:

     - Ra-dơ-va-li-khin đâu?

     Li-đa đáp lại, có một vẻ gì không thích:

     - Chẳng biết anh ấy đi đâu. À, tôi nhớ ra rồi. Sáng nay,

anh ta nói là anh ta đi đến trường học lên lớp bài khoa học

xã hội thay anh. Anh ta bảo: "Đấy là nhiệm vụ trực tiếp của

tôi, chứ không phải của Pa-ven".

     Chuyện ấy làm Pa-ven ngạc nhiên một cách khó chịu.

Chẳng bao giờ anh thấy ưa Ra-dơ-va-li-khin cả. Pa-ven

bực mình nghĩ thầm: "Cái thứ ấy lại đến trường để bày trò

gì đây!".

    - Thôi được, chị kể xem ở nhà có chuyện gì hay không

nào? Chị có đến Gơ-ru-sốp-ca không? Thế nào công việc

ở đó ra sao?

    Li-đa kể hết mọi chuyện cho Pa-ven nghe. Pa-ven nhoài

ra đi-văng, duỗi hai chân mỏi nhừ cho đỡ mệt.

    - Ngày hôm kia vừa kết nạp Ra-ki-chi-na làm đảng viên

dự bị. Thế là chi bộ Pốt-đúp-xi của chúng ta được tăng

cường hơn. Ra-ki-chi-na là một nữ thanh niên tốt, tôi rất

thích cô ấy. Anh có thấy không, trong đám giáo viên đã bắt

đầu có chuyển, một số bây giờ hoàn toàn đi hẳn với chúng

ta.

    Đôi khi buổi tối ở nhà Li-xi-xưn, ba người : Li-xi-xưn,

Pa-ven và đồng chí bí thư mới của Đảng ủy, khu Lư-xi-cốp,

ngồi quanh cái bàn lớn, nói chuyện cho đến tận khuya.

    Cửa vào phòng ngủ đã đóng kín. A-nhút-ca là vợ li-xi-

xưn đang ngủ, còn ba người đang ngồi quanh bàn cặm cụi

trên một cuốn sách nhỏ. Chỉ ban đêm, Li-xi-xưn mới có thời

giờ học tập. Những ngày Pa-ven ở nông thôn trở về, buồn

rầu nhận thấy Li-xi-cốp và Li-xi-xưn đã học bỏ xa mình rồi.

    Một tin buồn từ Pốt-đúp-xi đến : đêm qua không biết có

bọn nào đã giết chết mất Gơ-ri-sút-ca. Được tin ấy, Pa-ven

quên cả chân vẫn còn bị đau nhói. Chỉ mấy phút sau anh đã

chạy đến chuồng ngựa của Ủy ban. Giận như điên, anh vội

thắng yên ngựa và lấy roi da thúc hai hông ngựa, chạy như

bay về phía biên thùy.

    Trong căn nhà rộng của Xô-viết làng, Gơ-ri-sút-ca nằm

trên chiếc bàn kết lá xanh, người anh phủ lá cờ Xô-viết.

Trước khi chính quyền đến, không ai được lại gần thi hài

anh ; ngoài ngưỡng cửa có một chiến sĩ biên phòng của

Hồng quân và một Đoàn viên thanh niên cộng sản đứng

canh. Pa-ven đi vào nhà, lại gần bàn, cuốn lá cờ lên : Gơ-ri-

sút-ca nằm không động, gục đầu vào vai, mặt anh tái nhợt,

hai mắt mở to còn ghi sâu cơn giãy giụa trước khi mất.

Gáy anh bị một thứ vũ khí gì nhọn đâm, người ta đã lấy một

cành thông phủ lên vết thương đó.

    Bố Gơ-ri-sút-ca trước là một người đi ở cho tên chủ

máy say, sau trở thành ủy viên của Ban dân cày nghèo và

đã hy sinh cho cách mạng. Bàn tay kẻ nào đã phạm vào

Gơ-ri-sút-ca, vào người thanh niên này, vào đứa con một

của bà mẹ góa Khô-rô-vốt-cô này ?

    Con bị giết, bà cụ đau đớn ngã vật ra đất. Hàng xóm

đến ân cần săn sóc bà cụ đã nửa sống nửa chết ; con bà

chết đi, đem theo những điều bí mật về cái chết của mình.

    Cái chết của Gơ-ri-sút-ca làm chấn động cả xã. Rõ ràng

là Gơ-ri-sút-ca, người phụ trách trẻ tuổi của thanh niên

cộng sản và người bảo vệ quyền lợi cho anh chị em cố

nông này, có nhiều bạn hơn là thù ở trong thôn xã.

    Xúc động vì cái chết của người đồng chí, Ra-ki-chi-na

òa lên khóc ở phòng riêng. Và khi Pa-ven đến, chị cũng

chẳng ngẩng đầu lên nữa.

    Pa-ven nặng nề đặt mình xuống ghế, hỏi Ra-ki-chi-na :

    - Ra-ki-chi-na nghĩ thế nào ? Ai đã giết Gơ-ri-sút-ca ?

    - Còn ai ngoài bọn chủ máy say nữa ? Vì Gơ-ri-sút-ca là

cái gai trước mắt đối với những quân buôn lậu ấy.

    Hai xã đến đưa đám Gơ-ri-sút-ca. Pa-ven đẫn cả tiểu

đoàn của anh tới. Toàn thể tổ chức Đoàn thanh niên cơ sở

đến tiễn biệt người đồng chí của mình. Ga-vi-rơ-lốp cho

dàn hai trăm rưởi chiến sĩ của đại đội biên phòng bồng

súng đứng trước trụ sở Xô-viết thôn. Theo điệu nhạc buồn

vĩnh biệt, người ta chuyển quan tài phủ màu cờ đỏ đến đặt

trên khu đất đã đào sẵn trong đám huyệt, cạnh những mộ

các chiến sĩ du kích bôn-sê- vích đã hy sinh trong thời nội

chiến.

    Máu của Gơ-ri-sút-ca đã thắt chặt thêm nữa hàng ngũ

những người mà lúc sống anh đã suốt đời đem toàn sức ra

bênh vực. Thanh niên bần cố nông hứa hết lòng ủng hộ chi

đoàn thanh niên. Tất cả những người lên phát biểu đều

căm phẫn vô cùng, đòi kết tội tử hình bọn giết người, đòi

phải tìm ra được bọn chúng và xử ngay ở đây, trước nấm

mồ này, để mỗi người đều được trông thẳng vào mặt kẻ

thù.

    Súng vang ba loạt vĩnh biệt người bạn chiến đấu và

những cành thông đã phủ lên nấm mồ mới. Ngay tối hôm

ấy, chi đoàn cử người bí thư mới: Ra-ki-chi- na. Trạm biên

thuỳ của Cục chính trị Nhà nước báo tin cho Pa-ven biết là

ngoài ấy đã dõi được hành tung của lũ giết người.

    Một tuần sau, cuộc đại hội lần thứ hai của Xô-viết quận

họp tại nhà hát địa phương. Li-xi-xưn, vẻ mặt nghiêm nghị,

trịnh trọng bắt đầu bản báo cáo.

    - Thưa các đồng chí! Tôi sung sướng có thể báo cáo

với đại hội rằng một năm qua, tất cả chúng ta đã cố gắng

rất lớn. Chúng ta đã củng cố vững mạnh chính quyền Xô-

viết trong quận, đã diệt đến tận gốc bọn phỉ và tróc được

tận rễ bọn buôn lậu. Những tổ chức vững mạnh của bần cố

nông trong các xã đã lớn lên, những tổ chức thanh niên

cộng sản đã đông lên gấp mười lần, những tổ chức Đảng

đã được mở rộng. âm mưu ngóc đầu dậy gần đây của bọn

phú nông ở Pốt-đúp-xi mà đồng chí Gơ-ri-sút-ca của chúng

ta đã là nạn nhân, âm mưu đó cũng đã bị khám phá. Bọn

thủ phạm giết người là tên chủ máy xay và con rể hắn, cả

hai đều bị bắt. Ngày sắp tới, tòa án tỉnh sẽ tới đây xử bọn

chúng. Rất nhiều đoàn đại biểu xã đã đến gặp văn phòng

Xô-viết và yêu cầu đại hội ra quyết nghị đòi xử tử bọn phỉ

khủng bố giết người...

     Cả phòng họp rung lên những tiếng hô vang:

     - Ủng hộ đề nghị đó! Kẻ thù của chính quyền Xô- viết

phải chết!

     Có bóng Li-đa hiện ra ở cửa nách. Chị lấy ngón tay ra

hiệu gọi Pa-ven.

     Ngoài hành lang, Li-đa đưa cho Pa-ven một bì thư có

dấu "Cần". Pa-ven bóc ra:

     "Gửi Quận đoàn thanh niên cộng sản quận Bê-rê- dơ-

đốp. Sao gửi Đảng ủy quận. Ban thường vụ Tỉnh đoàn ra

quyết nghị điều động đồng chí Pa-ven từ quận về tỉnh để

giao một công tác phụ trách của Đoàn".

     Pa-ven từ biệt quận mà anh đã từng công tác trong một

năm nay. Trong cuộc họp vừa qua, đảng ủy quận đã thảo

luận hai vấn đề: Thứ nhất là công nhận đồng chí Pa-ven làm

đảng viên chính thức Đảng cộng sản; thứ hai, sau khi cho

đồng chí từ chức bí thư quận đoàn thanh niên cộng sản rồi

thì nhận xét về phẩm chất của đồng chí ấy.

     Li-xi-xưn và Li-đa siết chặt tay Pa-ven, siết đến đau và

ôm lấy anh thân thiết. Khi con ngựa Pa-ven cưỡi rời khỏi

sân nhà bước ra đường cái thì mười khẩu súng ngắn bắn

lên trời chào biệt.

CHƯƠNG V

    Chiếc tàu điện lao lên phố Phun-đúc-cơ-lép-scai- a, đầu

máy rú hung hăng. Tàu dừng lại trước nhà hát. Một toán

thanh niên từ trên tàu bước xuống và xe điện lại tiếp tục

chạy lên phố trên.

    Pan-cơ-ra-tốp giục những đồng chí đi chậm ở phía sau:

    - Nhanh chân lên các cậu. Trễ đứt đuôi đi rồi.

    Đến cửa nhà hát, Ô-cu-nhếp đuổi kịp Pan-cơ-ra-tốp.

    - Cậu còn nhớ không, Pan-cơ-ra-tốp. Trước đây ba

năm, chúng mình cũng đi đến đây như thế này. Lúc đó

thằng Đu-ba-va cùng "nhóm đối lập thợ thuyền" trở về với

chúng ta. Bữa tôi ấy vui lắm. Thế mà hôm nay chúng mình

lại đến choảng nhau với Đu-ba-va.

    Mọi người đều chìa giấy chứng minh cho ban kiểm soát

đứng ở ngoài cửa phòng họp xem, rồi đi vào phòng.

    Lúc đó Pan-cơ-ra-tốp mới trả lời Ô-cu-nhếp:

    - Ừ chuyện với thằng Đu-ba-va lại tái diễn ở chỗ này

đây.

    Người ta "suỵt" đừng nói chuyện. Họ phải ngồi vào

những chỗ gần ngay đấy vì phiên họp buổi tối của hội nghị

đã bắt đầu rồi. Trên diễn đàn, một bóng phụ nữ.

    Pan-cơ-ra-tốp lấy tay thích vào sườn Ô-cu-nhếp thì thào:

    - Vừa đúng giờ. Cậu ngồi yên mà nghe xem mụ vợ cậu

nói gì.

    - …Chúng ta đã mất nhiều sức lực vào cuộc tranh luận

này, điều đó đúng. Song, ngược lại, anh chị em thanh niên

tham gia tranh luận đã học tập được nhiều. Chúng ta rất hả

dạ thấy trong tổ chức của chúng ta những bọn theo phe tơ-

rốt-skít đã bị đập mất mặt. Chúng không thể than trách rằng

người ta không để cho chúng nói hết, trình bày đầy đủ

những quan điểm của chúng. Thực tế trái ngược hẳn thế.

quyền tự do hành động mà chúng ta đã cho phép chúng,

chúng đã lợi dùng quyền tự do đó vi phạm nghiêm trọng và

rất nhiều lần kỷ luật của Đảng.

    Nói đến đây, Ta-li-a tức sôi người lên, một mớ tóc xòa

xuống mặt làm chị vướng. Chị hất đầu một cái, đưa mớ tóc

về phía sau:

    - Chúng ta đã được nghe nhiều đồng chí đại biểu các

quận, đồng chí nào cũng nói đến những phương pháp mà

bọn Tờ-rốt-skít đã dùng. Trong cuộc hội nghị này, bọn họ

được cử đại biểu đến khá đông. Các quận đã có ý cho họ

giấy chứng nhận lên đây, lên hội nghị Đảng ở thành phố

này để một lần nữa, họ được trình bày ý kiến của họ. Nếu

bọn họ đến đây mà câm như hến thì điều đó không phải là

lỗi ở chúng ta. Bị thất bại thảm hại ở các quận và các chi

bộ cũng đã mở mắt cho họ một chút nào rồi. Bây giờ đây,

ngay từ trên diễn đàn này, họ cũng thấy khó mà phát biểu

và lắp lại những điều vừa mới hôm qua học còn nhai nhải

nói.

    Từ góc rạp bên phải, có giọng xấc xược ngắt lời Ta-li-

a:

    - Đến lúc nói, bọn này sẽ nói.

    Ta-li-a quay lại:

    - Thế thì lên ngay diễn đàn này nói đi, Đu-ba-va. Chúng

tôi sẵn sàng nghe anh nói.

    Đu-ba-va nhìn chị bằng cặp mắt nặng nề và bực tức

mím môi lại:

   - Đến lúc nói, chúng tôi sẽ nói! - Hắn trả lời lại và sực

nhớ đến ngay sự thất bại cay đắng của hắn hôm qua ở

quận hắn ở, nơi mọi người đều biết hắn.

   Có tiếng ồn ào chạy khắp phòng họp. Pan-cơ-ra- tốp

không nén được nữa:

   - Sao, các anh định phá Đảng lần nữa à?

   Đu-ba-va đã nhận ra tiếng Pan-cơ-ra-tốp, nhưng không

quay lại, chỉ cắn chặt môi và cúi đầu xuống. Ta-li-a tiếp tục:

   - Chính Đu-ba-va có thể là một trong những ví dụ rất rõ

về cách bọn tờ-rốt-skít vi phạm kỷ luật Đảng như thế nào.

Đu-ba-va là một cán bộ cũ của Đoàn thanh niên cộng sản,

nhiều đồng chí đã biết, đặc biệt là các đồng chí ở quân khí.

Đu-ba-va hiện nay là một sinh viên ở Trường đại học cộng

sản Khác-cốp, thế mà tất cả chúng ta đều biết rằng Đu-ba-

va cùng với Sum-ski có mặt ở đây đã ba tuần nay. Vì sao

đang ở giữa thời kỳ bận học nhất họ lại đến đây? Không có

quận nào mà bọn họ không đến diễn thuyết. Thật ra, trong

những ngày gần đây, Sum-ski cũng đã bắt đầu tỉnh lại. Ai

gửi họ đến đây? Ngoài họ ra, trong chúng ta còn có nhiều

phần tử tờ-rốt-skít từ các tổ chức khác đến. Tất cả bọn

chúng trước đây có lúc đã làm công tác ở vùng này và bây

giờ lại đến đây để khêu lên ngọn lửa xung đột trong nội bộ

Đảng. Tổ chức Đảng có biết hiện nay họ ẩn ở đâu không?

Tất là không.

   Hội nghị chờ đợi những phần tử tờ-rốt-skít lên phát biểu

nhận những sai lầm của chúng. Ta-li-a định mở đường cho

chúng nhận, và những lời của chị không phải là những lời

từ diễn đàn nói xuống mà như là trong một cuộc nói chuyện

giữa những đồng chí với nhau:

    - Các đồng chí chắc còn nhớ, cách đây ba năm, cũng ở

trong nhà hát này, Đu-ba-va cùng "nhóm đối lập thợ thuyền"

cũ đã trở về với chúng ta. Các đồng chí hãy nhớ lại những

lời của Đu-ba-va: "Chúng tôi sẽ không bao giờ để ngọn cờ

của Đảng tuột khỏi tay chúng tôi nữa" và chưa được ba

năm thì Đu-ba-va đã bỏ rơi ngọn cờ đó. Phải, tôi quả quyết

rằng đã bỏ rơi rồi. Vì những lời của Đu-ba-va vừa nói, "đến

lúc nói, chúng tôi sẽ nói", tỏ ra rằng anh ta và những kẻ

cùng tư tưởng tờ-rốt-skít với anh ta sẽ còn bước xa hơn

nữa.

    Từ những hàng ghế sau cùng có tiếng vang lên:

    - Để cho Túp-ta nói về cái phong vũ biểu xem, anh ta là

nhà khí tượng học của bọn họ đấy.

    ( Trong cuộc đấu tranh chống Đảng, bọn tờ-rốt-skít gọi

thanh niên là cái "phong vũ biểu của Đảng" để nịnh thanh

niên hòng lôi cuốn họ theo chúng chống lại Đảng)

    Có tiếng người quá nóng giận nổi lên.

    - Thôi, đừng có đùa nữa!

    - Để cho họ trả lời xem họ có chịu ngừng cuộc đấu

tranh chống Đảng hay không?

    - Để cho họ nói xem ai đã thảo ra bản tuyên ngôn chống

Đảng?

    Lòng căm phẫn càng tăng lên. Chủ tịch phiên họp lắc

chuông hồi lâu.

    Lời nói của Ta-li-a đã bị chìm trong tiếng ồn ào. Nhưng,

một lát sau thì tiếng ồn ào đã như giông bão dịu đi, và

phòng họp lại nghe tiếng Ta-li-a:

    - Chúng tôi có nhận được thư của các đồng chí chúng

ta từ các địa phương lân cận: các đồng chí đó tuyên bố ủng

hộ chúng ta và điều đó càng cổ vũ chúng ta. Tôi xin phép

đọc một đoạn trong một bức thư. Đây là thư của Ôn-ga I-u-

nhê-rê-va. Nhiều người có mặt ở đây biết nữ đồng chí ấy.

Hiện nay, Ôn-ga phụ trách phòng tổ chức của Liên quận

đoàn thanh niên cộng sản.

    Ta-li-a rút trong tập giấy ra một lá thư, xem lướt qua một

lượt rồi đọc:

    "Công tác thực tế đều gác lại hết; đã bốn ngày rồi, toàn

thể ban thường vụ đều xuống các quận: bọn tờ- rốt-skít đã

mở rộng một cuộc đấu tranh gay gắt chưa từng có. Hôm

qua đã xảy ra một chuyện làm cả tổ chức đều căm phẫn.

Sau khi không giành được đa số trong bất cứ một chi bộ

nào ở thành phố, bọn đối lập đã quyết định tập trung lực

lượng khai chiến trong chi bộ của dân ủy quân sự liên

quận. Chi bộ này còn gồm các đảng viên cộng sản trong

ban kế hoạch và các cán bộ giáo dục. Trong chi bộ có bốn

mươi hai người, nhưng tất cả bọn tờ-rốt-skít đều tập trung

ở đấy. Chúng tôi chưa từng nghe những bài diễn thuyết

nào mà lại chống Đảng ra mặt như những bài chúng nói

trong cuộc họp ấy. Một trong những tên đại biểu của dân ủy

quân sự đã lên phát biểu và tuyên bố trắng ra rằng: "Nếu

bộ máy của Đảng không chịu hàng thì chúng tôi sẽ dùng

sức mạnh để bẻ gãy nó". Bọn đối lập vỗ tay hoan nghênh

lời tuyên bố ấy. Lúc bấy giờ, Pa-ven lên phát biểu và nói:

"Sao các đồng chí là những đảng viên của Đảng mà lại có

thể vỗ tay hoan nghênh cái thằng phát-xít ấy được?". Bọn

chúng không cho Pa-ven nói tiếp, chúng xô đẩy ghế ầm ĩ,

gào thét om sòm. Căm phẫn trước hành động lưu manh

đểu cáng của chúng, các đảng viên trong chi bộ đã yêu cầu

để cho Pa-ven nói hết. Song, khi Pa-ven vừa cất tiếng thì

chúng lại phá. Pa-ven thét vào mặt chúng: "Cái thứ dân chủ

của chúng bay mới đẹp chứ! Mặc, tao cứ nói”. Lúc đó có

nhiều đứa xô lại túm lấy Pa-ven và định ẩy anh ra khỏi diễn

đàn. Chúng hành động rất dã man. Pa-ven giãy ra được và

vẫn tiếp tục nói nhưng bọn chúng lại lôi anh ra hậu trường

và ẩy anh qua cửa nách ném xuống cầu thang. Một tên

trong lũ khốn nạn đó đã đánh anh chảy máu mắt. Hầu hết

chi bộ đều bỏ họp. Chuyện xảy ra ấy đã mở mắt cho nhiều

người..."

    Ta-li-a đọc xong bức thư, rời khỏi diễn đàn.

    *

    Đã hai tháng nay, đồng chí Xê-gan phụ trách công tác

tuyên huấn của Tỉnh ủy. Ngồi trên bàn chủ tịch đoàn, cạnh

Tô-ca-rếp, đồng chí chăm chú lắng nghe những lời tham

luận của các đại biểu hội nghị. Chỉ mới có những thanh

niên trong Đoàn thanh niên cộng sản lên phát biểu. Xê-gan

nghĩ thầm:

    "Mấy năm qua, họ đã trưởng thành thật!".

    Đồng chí nói với Tô-ca-rếp: "Trọng pháo hãy còn chưa

dùng đến đấy, thế mà bọn đối lập đã bị ngạt rồi. Chỉ lực

lượng thanh niên thôi cũng đã đủ quật tơi bời lũ tờ-rốt-skít".

    Túp-ta nhảy lên diễn đàn. Tiếng xì xào phản đối; một

trận cười ngắn nổi lên chế giễu hắn. Túp-ta quay mặt lại

phía chủ tịch đoàn, định phản đối thái độ đó của hội nghị

đối với hắn, nhưng trong phòng đã trở nên im lặng rồi. Hắn

tuôn ra một mạch:

    - Ở đây có người gọi tôi là nhà khí tượng học. Như thế

là các đồng chí miệt thị những quan điểm chính trị của tôi

đấy, các đồng chí đa số ạ.

    ( Trong cuộc đấu tranh chống Đảng, bọn tờ-rốt-skít bị

thiểu số nên chúng gọi đảng viên của Đảng là phái đa số.)

    Cả phòng họp cười ồ lên át lời hắn nói. Túp-ta bối rối

quay lại phía chủ tịch đoàn, lấy tay chỉ phòng họp:

    - Dù các người có cười, tôi vẫn nói một lần nữa rằng

thanh niên là cái phong vũ biểu. Lê-nin đã nhiều lần viết như

thế.

    Phòng họp bỗng im ngay. Từ những hàng ghế, có tiếng

đưa lên:

    - Lê-nin viết thế nào?

    Túp-ta hứng lên:

    - Khi chuẩn bị cuộc khởi nghĩa tháng Mười, Lê-nin đã ra

chỉ thị tập hợp lớp thanh niên công nhân kiên quyết cách

mạng lại, vũ trang cho họ và phái họ cùng với lính thủy đến

những chỗ xung yếu nhất. Các người có muốn, tôi xin đọc

đoạn ấy cho mà nghe. Tôi có ghi đủ hết những đoạn trích

lời Lê-nin ghi trong sổ tay đây. Rồi hắn bắt đầu lục cặp.

    - Biết cả rồi, không cần đọc nữa.

    - Thế Lê-nin còn viết những gì về vấn đề thống nhất?

    - Và vấn đề kỷ luật của Đảng?

    - Có chỗ nào Lê-nin lại đem thanh niên đối lập với lớp

đồng chí già không?

    Túp-ta lúng túng liền nói sang vấn đề khác:

    - Ta-li-a vừa rồi đã đọc bức thư của Ôn-ga. Chúng tôi

không thể trả lời về một vài trường hợp không bình thường

xảy ra trong cuộc tranh luận được.

    Svê-tai-ép ngồi cạnh Sum-ski bực tức càu nhàu:

     - Thật là làm đầy tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng

dại.

     Sum-ski cũng khẽ đáp lại:

     - Ừ, cái thằng ngốc này đến làm chúng ta bị ngụp chết

ngấm mất.

     Túp-ta vẫn nói nheo nhéo như khoan vào tai người ta:

     - Nếu các người đã tổ chức ra phái đa số, thì chúng tôi

cũng có quyền tổ chức ra phái thiểu số.

     Một trận bão căm phẫn nổi lên trong phòng họp. Tiếng

phản đối giận dữ như mưa đá tới tấp choảng vào đầu hắn

làm Túp-ta đinh tai nhức óc.

     - Thế nào? Lại diễn lại chuyện bôn-sê-vích và men-sê-

vích ư?

     ( Trong cuộc đấu tranh bảo vệ đường lối cách mạng,

Lê-nin được đa số ủng hộ, bọn chống Lê-nin bị thiểu số.

Do đó có tên "bôn-sê-vích" là người phái đa số và "men-

sê-vích" là người phái thiểu số)

     - Đảng cộng sản Nga không phải là nghị viện đâu nhớ!

     - Chúng nó làm đầy tớ không công cho bọn men- sê-

vích từ Mi-a-sni-cốp cho đến Mác-tốp.

     Túp-ta vùng hai tay lên không, như là kẻ định trườn ra

bơi, rồi nói liến thoắng:

     - Phải, cần phải có tự do tổ chức các nhóm. Nếu không

thì khi chúng tôi không đồng ý kiến với các người, chúng tôi

làm sao có thể đấu tranh bảo vệ những quan điểm của

chúng tôi chống lại phái đa số có tổ chức, có kỷ luật gắn bó

nhau của các người được?

     Tiếng chế giễu nổi lên khắp phòng họp. Pan-cơ- ra-tốp

đứng dậy la lên:

     - Để cho hắn ta nói hết. Biết được cũng hay. Túp- ta đã

xì ra những điều mà bọn khác còn giấu.

     Im lặng trở lại. Túp-ta hiểu rằng mình đã quá đà. Chưa

phải là lúc cho ra cái khoản đó. Ý nghĩ của hắn đã đi lạc

đường và khi kết luận thì hắn lại tuôn ra một mớ lời rơi tõm

vào phòng họp:

     - Tất nhiên là các người có thể khai trừ và đẩy chúng tôi

vào một xó. Chuyện ấy đã bắt đầu rồi. Người ta đã loại tôi

ra khỏi tỉnh đoàn thanh niên cộng sản. Không can gì. Rồi sẽ

biết chân lý về ai.

     Và hắn từ trên diễn đàn bước xuống phòng họp.

     Đu ba-va nhận được mảnh giấy của Svê-tai-ép:

     "Đu ba-va, cậu lên phát biểu ngay đi. Thật ra, cậu cũng

chẳng xoay chuyển được tình thế đâu. Sự thất bại của

chúng ta đã sờ sờ ra rồi. Nhưng cần phải nói để chữa lại

những lời phát biểu của Túp-ta. Nó thật là một thằng ba

hoa, chúa ngốc".

     Đu-ba-va xin lên phát biểu. Người ta liền cho hắn nói

ngay.

     Khi hắn bước lên sân khấu, không khí im lặng căng

thẳng trùm lấy phòng họp. Đu-ba-va cảm thấy lạnh người

trong không khí im lặng rất thông thường trước khi có

người nói, cái lạnh người của kẻ bị cô lập. Hắn không còn

máu hăng của những lần lên nói ở các chi bộ nữa. Mỗi một

ngày, ngọn lửa lại nhụt đi, và bây giờ đây, hắn như một

đống củi đang cháy bị giội nước chỉ còn bốc lên một làn khí

khét lèn lẹt: khói ấy chính là bệnh tự ái ốm yếu của hắn khi

bị chạm nọc, vì sự thất bại quá rõ rằng của bọn hắn, vì sức

phản đối kiên quyết của các bạn cũ, khói ấy còn là thái độ

ngoan cố của hắn không chịu nhận sai lầm của mình. Hắn

định cứ thế phớt đi, cắm đầu bước, tuy biết rằng thái độ đó

chỉ làm hắn càng xa thêm đa số. Hắn nói giọng khàn khàn

nhưng rành rọt:

    - Tôi yêu cầu đừng ngắt lời tôi và dùng những lời bắt bẻ

uy hiếp tôi. Tôi muốn trình bày một cách đầy đủ quan điểm

của chúng tôi tuy biết trước rằng có trình bày cũng vô ích, vì

các người là đa số.

    Hắn vừa nói dứt lời, phòng họp ầm ầm lên như có một

quả lựu đạn nổ. Tiếng la ó như bão táp đổ xuống đầu Đu-

ba-va. Người ta mắng, người ta chửi như roi ngựa quất

vào mặt hắn!

    - Thật nhục nhã!

    - Đả đảo bọn chia rẽ!

    - Thôi im đi ! Trát bùn nhơ đã đủ rồi!

    Tiếng cười chế giễu theo Đu-ba-va, khi hắn tự trên sân

khấu bước xuống, và tiếng cười đó đã giết hắn. Nếu người

ta giận dữ tức tối mắng hắn thì hắn còn thấy dễ chịu hơn.

Nhưng đằng này người ta cười chế giễu hắn như chế giễu

một ca sĩ hát lạc điệu, rồi tưng hửng đứng trơ ra.

    Chủ tịch tuyên bố.

    - Sum-ski lên phát biểu ý kiến.

    Sum-ski đứng dậy:

    - Tôi xin thôi phát biểu.

    Từ những hàng ghế sau vang lên giọng ồ ồ của Pan-

cơ-ra-tốp:

    - Xin nói !

    Nghe tiếng, Đu-ba-va đã hiểu ngay tâm trạng của Pan-

cơ-ra-tốp. Chỉ khi nào có ai xúc phạm đến anh kịch liệt thì

người công nhân khuân vác đó mới nói giọng như vậy.

    Đu-ba-va đưa mắt tức tối nhìn theo bóng dáng cao cao

hơi gù của Pan-cơ-ra-tốp đang rảo bước lên diễn đàn. Đu-

ba-va đâm lo. Hắn biết trước những điều Pan-cơ-ra-tốp sẽ

nói. Hắn sực nhớ đến cuộc gặp mặt hôm qua ở Xô-lô-men-

ca với các bạn cũ. Cùng đi với hắn có Svê-tai-ép và Sum-

ski. Họp mặt ở nhà Tô-ca- rếp. Ở đó có Pan-cơ-ra-tốp, Ô-

cu-nhếp, Ta-li-a, Vô- lưn-xếp, Dê-lê-nốp, Sta-rô-vê-rốp, Ác-

chu-khin. Trong cuộc nói chuyện thân mật, các bạn cũ đã

muốn thuyết phục Đu-ba-va từ bỏ nhóm đối lập. Nhưng Đu-

ba- va làm thinh như câm như điếc trước cố gắng của anh

chị em muốn khôi phục lại sự thống nhất trong nội bộ. Giữa

lúc thảo luận đang hăng thì Đu-ba-va cùng với Svê-tai-ép

bỏ ra về, tỏ rõ thái độ không chịu công nhận sai lầm. Sum-

ski ở lại. Và bây giờ Sum- ski từ chối không phát ngôn. Đu-

ba-va căm giận nghĩ thầm: "Thật là một tên trí thức nhu

nhược. Đúng là nó đã bị bọn đó thuốc cho rồi!".

    Trong cuộc đấu tranh quyết liệt này, Đu-ba-va đã mất

hết các bạn thân. Ở trường đại học cộng sản, hắn đã cắt

đứt tình bạn lâu đời với Giác-ki: trong cuộc họp hiệu đảng

ủy, Giác-ki đã kịch liệt chống lại lời tuyên bố của "bốn

mươi sáu phần tử tờ-rốt-skít". Càng về sau, khi sự phân

hóa mỗi ngày một trở nên sâu sắc, Đu-ba-va cạch mặt,

không chuyện trò gì với Giác-ki nữa. Nhiều lần, Đu-ba-va

thấy Giác-ki đến nhà mình thăm An-na. An-na Bô-khac là

vợ Đu-ba- va, lấy nhau đã một năm nay. Hai người đều ở

buồng riêng. Đu-ba-va cho rằng những quan hệ gay go

giữa mình và An-na là người không đồng quan điểm với

hắn, càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn lên, vì một lẽ

nữa là Giác-ki hay đến thăm An-na. Không phải vì chuyện

ghen tuông, nhưng thấy An-na thân với Giác-ki là người mà

Đu-ba-va không muốn nói năng chuyện trò gì nữa thì hắn

đâm ra tức tối. Đu- ba-va đã nói với An-na điều đó. Hai

người cãi nhau kịch liệt và quan hệ hai bên lại càng căng

thẳng thNm. Đu ba-va đến đây cũng chẳng nói gì cho An-na

biết cả.

    Những lời của Pan-cơ-ra-tốp làm đứt quãng luồng ý

nghĩ thoáng qua nhanh trong đầu óc Đu-ba-va:

    - Các đồng chí! - Pan-cơ-ra-tốp nói rành rọt mấy tiếng

đó bằng một giọng chắc nịch. Anh bước lên diễn đàn và

đứng ngay cạnh dãy đèn sân khấu:

    - Các đồng chí ! Trong suốt chín ngày chúng ta đã nghe

tham luận của các đại biểu phái đối lập. Tôi nói thẳng ra

rằng: những lời phát biểu của họ không phải là lời của

những chiến hữu, những chiến sĩ cách mạng, những người

bạn cùng giai cấp và cùng chiến đấu của chúng ta. Những

lời phát biểu ấy của họ là những lời của bọn thù địch không

đội trời chung, những lời oán cừu, những lời vu khống.

Phải, chính là những lời của bọn vu khống, các đồng chí ạ!

Bọn chúng mưu định vu cho những người bôn-sê-vích

chúng ta là những kẻ thi hành chế độ "dùi cui" trong Đảng,

vu cho chúng ta là những người phản bội quyền lợi của giai

cấp và của cách mạng. Đội ngũ ưu tú nhất, đội ngũ đã

được thử thách nhất của Đảng ta, đội vệ quân già dặn gồm

những người bôn-sê-vích quang vinh, lớp người đã rèn

luyện và giáo dục nên Đảng cộng sản Nga, lớp người đã

từng bị nền chuyên chế của Nga hoàng đày đọa điêu đứng

trong các nhà tù, lớp người đứng đầu là đồng chí Lê-nin,

đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩ men-

sê-vích quốc tế và tên Tơ-rốt-skit. Lớp người đó bị bọn đối

lập âm mưu gọi là những đại biểu của chủ nghĩa quan liêu

trong Đảng! Còn ai có thể nói được những lời đó, nếu

không phải là kẻ thù của chúng ta? Đảng và bộ máy của

Đảng lại không phải là một khối thống nhất hay sao? Tôi xin

lỗi các đồng chí, âm mưu của họ giống âm mưu của bọn

nào? Nếu có những kẻ đẩy các chiến sĩ trẻ của Hồng quân

chống lại chỉ huy và chính ủy của mình, chống lại bộ tham

mưu, ngay cả giữa lúc đội quân đang bị địch bao vây bốn

phía, nếu có những kẻ hành động như thế, thì chúng ta gọi

bọn chúng là hạng người gì? Đây nhé, hôm nay tôi còn là

thợ nguội, vậy thì theo ý kiến của bọn tờ-rốt-skít, tôi có thể

được xem là một người "trung thực", nhưng nếu mai tôi trở

thành bí thư Đảng ủy thì lập tức tôi là "thằng quan liêu", là

một tên "thơ lại" rồi! Các đồng chí ạ, thật là quái gở? Trong

nhóm đối lập nổi lên chống chủ nghĩa quan liêu, đòi dân

chủ, có những nhân vật như Túp-ta, là kẻ cách đây không

lâu đã bị cách chức vì bệnh quan liêu, như Svê-tai-ép mà

mọi người ở Xô-lô-men-ca đều biết cái thứ "dân chủ" của

anh ta, hay là A-pha-na-xi-ếp mà Tỉnh ủy đã triệt chức ba

lần vì anh ta quen thói chỉ tay năm ngón và hành động độc

đoán trong quận Pô-đôn-ski. Sự thật đã hiển nhiên là tất cả

những bọn bị Đảng đập cho, đã liên kết lại với nhau trong

cuộc đấu tranh chống Đảng. Về "chủ nghĩa bôn-sê-vích"

của Tơ-rốt- skit, thì cứ để cho các chiến sĩ bôn-sê-vích già

nói cho mà nghe. Cần thiết phải cho thanh niên biết cái lịch

sử của Tơ-rốt-skit đấu tranh chống những người bôn- sê-

vích, biết những hành động nhảy hết từ phe này sang phe

khác của hắn. Cuộc đấu tranh chống bọn đối lập đã càng

thắt chặt hàng ngũ chúng ta, đã làm cho trình độ thanh niên

ta mạnh thêm về mặt tư tưởng, về mặt lý luận. Trong cuộc

đấu tranh chống những khuynh hướng tiểu tư sản, Đảng

bôn-sê-vích và Đoàn thanh niên cộng sản đã lại được rèn

luyện thêm một lần nữa. Những tên gây hoang mang điên

rồ của phe đối lập tiên đoán là chúng ta sẽ phá sản hoàn

toàn về kinh tế và về chính trị. Tương lai sẽ đánh giá lời tiên

đoán đó đáng giá mấy xu. Bọn chúng đòi phải đuổi những

đồng chí già của chúng ta, chẳng hạn như bác Tô-ca-rếp

trở về với bàn thợ, còn chỗ của những đồng chí đó thì thay

bằng cái "phong vũ biểu" đã long ốc, vào loại như Đu-ba-

va là kẻ cho rằng đấu tranh chống Đảng là một thứ gì anh

hùng lắm. Không đời nào, các đồng chí ạ. Không đời nào

chúng ta làm như vậy. Các đồng chí già sẽ có lớp người

mới lên thay thế, nhưng lớp người ấy không phải là bọn

người mỗi lúc Đảng gặp khó khăn lại hầm hè tiến công dữ

dội vào đường lối của Đảng. Chúng ta sẽ không cho phép

kẻ nào phá hoại sự thống nhất của Đảng vĩ đại của chúng

ta. Không thể nào chia rẽ được đội vệ quân già và đội vệ

quân trẻ. Trong cuộc đấu tranh không điều hòa chống

những khuynh hướng tiểu tư sản, dưới ngọn cờ của Lê-nin,

chúng ta nhất định thắng.

    Pan-cơ-ra-tốp rời khỏi diễn đàn. Anh được vỗ tay hoan

hô sôi nổi.

    *

    Ngày hôm sau có mười hai người họp mặt ở nhà Túp-

ta. Đu-ba-va nói:

    - Hôm nay mình và Sum-ski đi Khác-cốp. Ở đây chúng

mình không còn việc gì làm nữa. Các cậu gắng sức giữ

vững, đừng phân tán. Bây giờ chúng ta chỉ còn nước đợi

tình hình biến chuyển. Tất nhiên, Hội nghị toàn quốc sẽ lên

án bọn mình. Nhưng định đàn áp chúng mình ngay thì mình

thấy thế là sớm quá. Phái đa số đã quyết định còn kiểm tra

thêm chúng ta trong công tác. Hiện thời, nếu đấu tranh công

khai, nhất là sau Hội nghị toàn quốc, thì là làm mình bị bật

ra khỏi Đảng mất, điều đó kế hoạch hành động của ta

không muốn như thế. Giờ cũng khó dự đoán được về sau

sẽ ra sao. Mình thấy cũng không còn gì nói thêm nữa.

    Và Đu-ba-va đứng dậy, chực đi.

    Sta-rô-vê-rốp người gầy, môi mỏng, cũng đứng lên.

Giọng Sta-rô-vê-rốp vừa hơi ngọng, vừa nói lắp:

    - Đu-ba-va ạ, mình vẫn không hiểu ý cậu. Sao, nghị

quyết của hội nghị, chúng ta không bắt buộc phải phục tùng

hay sao?

    Svê-tai-ép cắt đứt lời Sta-rô-vê-rốp:

    - Theo điều lệ thì là bắt buộc, nếu không thì người ta sẽ

thu mất thẻ đảng viên của cậu. Còn chúng ta thì sẽ xem

xem gió thổi chiều nào che chiều ấy. Bây giờ thì hãy giải

tán.

    Túp-ta ngồi không yên trên ghế, cựa quậy một cách

nóng nảy. Sum-ski mặt tái, nhăn nhó, hai mắt quầng thâm vì

những đêm mất ngủ, ngồi ở cửa sổ gặm móng tay. Nghe

những lời cuối cùng của Svê-tai-ép, Sum- ski đột nhiên tức

giận, thôi cắn móng tay, quay lại nói với mọi người, giọng

ồm ồm:

    - Mình phản đối cái lối tính toán như vậy. Riêng ý kiến cá

nhân mình cho rằng nghị quyết của hội nghị đối với chúng

mình là bắt buộc. Chúng mình đã bảo vệ những quan điểm

của chúng mình, nhưng hội nghị đã quyết định, chúng mình

phải phục tùng.

    Sta-rô-vê-rốp nhìn Sum-ski tỏ ý tán thành và nói líu ríu:

    - Mình cũng định nói thế.

    Đu-ba-va nhìn chòng chọc vào Sum-ski và nói rít giữa

hai hàm răng, cố ý mỉa mai:

    - mà.

    Sum-ski nhảy phắt xuống.

    - Đu ba-va, cậu nói giọng gì đấy? Mình nói thẳng ra rằng

những lời nói của cậu đẩy mình xa cậu và bắt buộc mình

phải xét lại quan điểm trước đây của mình.

    Đu-ba-va giơ tay gạt đi một cách khinh bỉ:

    - Cậu rút cuộc chỉ còn có cách ấy thôi. Đi mà ăn năn tự

hối đi, hãy còn chưa muộn đâu.

    Rồi Đu-ba-va bắt tay Túp-ta và những người khác, chào

họ ra về.

    Được một lát, Sum-ski và Sta-rô-vê-rốp cũng đi ra.

    *

    Năm một nghìn chín trăm hai mươi bốn bắt đầu bằng

một trận rét cắt ruột. Trời tháng Giêng, gió rét căm căm trên

đất nước ngập tuyết phủ, và suốt cả nửa tháng về cuối, bão

tuyết và những trận cuồng phong rít lên từng đợt kéo dài.

    Đường xe lửa Tây Nam, tuyết phủ chắn lấy đường sắt.

Người ta đấu tranh chống cơn giận dữ của thiên nhiên.

Chân vịt bằng thép của những máy quét tuyết thọc sâu vào

những đống tuyết trắng để dọn đường cho xe lửa chạy.

Băng giá và bão tuyết làm đứt tung những đường dây điện

báo phủ băng. Trên mười hai đường dây chỉ còn làm việc

được có ba: đường điện báo từ Âu sang Ấn và hai đường

dây trực tiếp với trung ương.

    Trong phòng điện tín của ga Sê-pê-tốp-ca 1, ba cái máy

"Moóc" không ngừng tiếng tạch tè, một thứ tiếng chỉ có tai

quen nghề nghe mới hiểu.

    Những cô điện báo viên trẻ tuổi, từ lúc vào nghề đến

giờ dịch băng chữ điện tổng cộng chưa quá hai mươi cây

số. Trong khi đó thì người đồng nghiệp già của các cô đã

làm đến hai trăm cây số và đã bắt đầu sang trăm thứ ba

rồi. Ông đọc điện không như các cô không phải nhăn trán

vất vả, không phải đọc cả câu để đoán những chữ khó.

Ông nghe tiếng tạch tè của máy và ghi ngay chữ nọ nối tiếp

chữ kia ra tờ giấy chép điện in sẵn. Tai ông nhận được:

"Toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào"

    Tay ghi, ông già điện báo viên nghĩ bụng: "Chắc lại

thêm một thông tri nữa về cuộc đấu tranh gạt tuyết chắn

đường”. Ngoài kia, bão lốc ném từng nắm tuyết vào cửa

kính. Ông điện báo viên già có cảm tưởng như có ai gõ

vào cửa kính. Ông quay đầu ra và mải ngắm trong giây lát

những gợn băng in lên cửa kính những nét vẽ vui mắt. Bàn

tay con người không thể nào khắc nên bức chạm tinh vi có

nhiều cành lá kỳ lạ muôn hình muôn vẻ như thế được.

    Ông già mải ngắm cảnh ấy nên đãng trí quên nghe tiếng

máy truyền và khi cặp mắt của ông quay lại không nhìn cửa

sổ nữa, ông cầm băng chữ lên tay để đọc những chữ từ

nãy bỏ qua.

    Máy truyền:

    "Ngày hai mươi mốt tháng Giêng, lúc sáu giờ năm

mươi phút"…

    Người điện báo viên ghi lại rất nhanh hàng chữ vừa

đọc. Rồi ông bỏ băng chữ xuống, lấy tay chống đầu, bắt

đầu nghe:

    "Hôm qua tại Gor-ki đã từ trần"... ông già thong thả ghi

lại. Trong đời ông, có biết bao nhiêu tin vui, tin buồn tai ông

đã từng nghe. Ông là người đầu tiên biết nỗi đau khổ và

niềm vui của người khác. Từ lâu, ông đã thôi không đi sâu

làm gì vào ý nghĩa của những câu vắn tắt, rời rạc; tai ông

nghe và tay ông như cái máy viết lên giấy, không hề nghĩ

đến nội dung nói gì.

    Bây giờ, chắc là có ai chết, và người ta báo tin buồn

cho người thân. Ông đã quên mất đầu bức điện: "Toàn thể

đồng bào, toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào". Cái máy

kêu tách tách: "V-ơ-l-a-đ-i-m-i-a-I-l-i-t-sơ”. Và ông già phiên

âm ra tiếng viết những tiếng gõ tạch tè của chiếc búa nhỏ

ấy. Ông vẫn ngồi yên bình tĩnh, người hơi mệt - "Chắc là có

người nào là Vơ- la-đi-mia I-lít-sơ vừa chết đâu đây” - ông

già sẽ viết những chữ báo tin đau đớn cho người thân của

họ; người nhận sẽ thổn thức vì đau thương và thất vọng.

Song đối với ông, chuyện ấy chẳng có gì liên quan đến cả,

ông chỉ là người chứng kiến dửng dưng thôi. Máy điện

truyền những cái chấm, những cái gạch, rồi lại những cái

chấm, những cái gạch, và từ những dấu hiệu quen thuộc

ấy, ông già đã viết ra chữ đầu tiên đưa lên băng. Đấy là

chữ "L". Rồi ông ghi tiếp sang chữ thứ hai, chữ "E", bên

cạnh, ông nắn nót chữ "N", gạch đi gạch lại nét chéo ở

giữa ngay sau đó ông thêm chữ "I" và sau đó, tay ông như

máy ghi tiếp chữ cuối cùng, chữ "N".

    Cái máy dừng lại một lát và trong một phần mười giây

đồng hồ, ông già trố mắt nhìn vào chữ ông vừa viết xong:

"LÊ-NIN".

    Máy lại tiếp tục gõ, nhưng ý nghĩ của ông già điện báo

bị cái tên thân thuộc đó làm chú ý lại trở lại suy nghĩ về cái

tên Lê-nin. Ông nhìn lại một lần nữa chữ cuối cùng: "LÊ-

NIN”. Sao?... Lê-nin?... Nhãn quan của ông dõi vào toàn

văn bức điện. Ông nhìn tờ giấy một hồi và, trong ba mươi

hai năm làm việc, đây là lần đầu tiên ông không thể nào tin

điều mình đã viết.

    Ông đưa mắt đọc những dòng chữ đến ba lần xem có

thật là mình đã ghi đúng thế hay không; song những chữ ấy

vẫn cứ nhắc lại một cách ngang ngạnh: "Vơ- la-đi-mia I-lít-

sơ Lê-nin đã từ trần. Ông già nhảy phắt xuống, nâng băng

điện xoắn ốc lại ấy lên và nhìn chòng chọc. Đoạn băng dài

hai thước đó đã khẳng định điều mà ông không có thể tin

được! Ông quay lại phía các bạn đồng nghiệp của mình,

mặt xanh nhợt đi. Họ đều nghe tiếng kêu kinh hoàng của

ông:

    - Lê nin mất rồi!

    ( Nguyên văn bức điện nhận được là: "Đã từ trần Vơ-la-

di-mia I-lít- sơ Lê-nin". Lối nói của ngữ pháp Nga như thế

cho nên thoạt nghe mấy chữ trên, ông điện báo viên vẫn

chưa ngờ đấy chính là Lê-nin từ trần.)

    Tin cái tang lớn ấy đã từ phòng điện báo qua cửa lớn

mở toang, và nhanh như cơn gió lốc, truyền đến nhà ga,

hòa lẫn vào trận bão tuyết, quay cuồng trên các đường đi,

trên các ngã ba và như một luồng hơi lạnh buốt, lùa vào

một bên cửa bọc sắt mở hé của kho đầu máy.

    Một đầu tàu đứng trên rãnh chữa thứ nhất: đội tiểu tu

đang chữa chiếc đầu tàu đó. Cụ già Pô-len- tốp-ski tự cho

mình chui vào rãnh ngay dưới gầm chiếc đầu tàu và chỉ cho

anh em thợ nguội những bộ phận bị dơ, bị hỏng. Bác Bơ-

ru-giắc đang cùng với A-rơ-chom dàn bằng cái vỏ bọc

bánh xe. Bác giữ thỏi sắt ra lò trên đe, lật đi lật lại cho A-

rơ-chom nện búa.

    Bác Bơ-ru-giắc đã già đi trong mấy năm gần đây.

Những thử thách mà bác đã trải in sâu trên trán bác. Tóc

bác hai bên thái dương đã nhuốm bạc, lưng bác đã còng

đi, hai mắt bác đã trũng sâu vào như chứa đầy bóng chiều

tàn.

    Có bóng người thoáng qua kẽ hở sáng của cửa xưởng

đầu máy rồi bị chìm ngay vào bóng tối nhá nhem. Tiếng

đập sắt làm át tiếng kêu đầu tiên của người ấy nhưng khi

người đưa tin ấy chạy tới đám công nhân đang làm việc

trên chiếc đầu tàu thì A-rơ-chom đang giương búa lên,

không đập búa xuống nữa.

    - Các đồng chí! Lê-nin mất rồi!

    Chiếc búa từ từ rơi thõng, tay A-rơ-chom hạ búa xuống

sàn xi-măng không một tiếng động.

    - Anh nói cái gì thế? - Tay A-rơ-chom như những gọng

kìm nắm chặt lấy cái áo tơi da cừu của người vừa đem tin

kinh hoàng kia đến.

    Và người kia, mình đầy tuyết bám, thở hổn hển, nhắc

lại, nhưng lần này giọng nghẹn ngào, nức nở:

    - Phải, các đồng chí ạ, Lê-nin đã từ trần...

    Và chính vì lần này, người ấy không kêu lên nữa, A-rơ-

chom mới hiểu sự thật ghê gớm đã xảy ra và nhìn mặt

người báo tin, nhận ra là đồng chí bí thư Đảng bộ.

     Từ trong rãnh, anh em công nhân bò lên, im lặng nghe

tin về cái chết của người mà toàn thế giới đều biết tiếng.

     Ở ngoài cửa, một chiếc đầu máy rúc còi rú lên làm mọi

người rùng mình. Có tiếng rú nữa ở đầu nhà ga đáp lại rồi

tiếng thứ ba… Trong tiếng kêu mạnh và bi thảm của những

dịp còi tàu, có lẫn cả tiếng thét vút cao, xé trời xé đất của

còi máy cái nhà máy điện, nghe như tiếng trái phá nổ tung

lên. Tất cả những tiếng ấy bị át trong tiếng còi đồng lanh

lảnh của chiếc đầu máy đẹp hiệu chữ "S" ở chuyến tàu tốc

hành sắp sửa lên đường đi Ki-ép.

     Đồng chí nhân viên Cục chính trị Nhà nước giật nảy

mình và ngạc nhiên: người thợ máy chuyến xe tốc hành Ba

Lan "Sê-pê-tốp-ca - Vác-sa-va", sau khi đã biết nguyên

nhân tiếng còi báo động, lắng tai nghe đến một phút, rồi từ

từ giơ tay và kéo dây xích nhỏ mở nắp còi tàu ra.

     Anh công nhân ấy hiểu rằng đây là lần kéo còi cuối cùng

của anh, anh sẽ không còn được làm trên chuyến tàu này

nữa, nhưng bàn tay anh không thể rời dây còi được. Và

tiếng còi rú trên đầu tàu anh lái đã làm cho những giao

thông viên và bọn ngoại giao Ba Lan sợ hãi đứng dậy khỏi

các ghế đi-văng mềm trong các ngăn của toa.

     Các cửa mở toang, người ùn ùn kéo vào đầy xưởng

đầu máy nhà ga. Khi tòa nhà rộng lớn đã chật ních người,

trong không khí im lặng đau đớn của tang chung, bật lên

những lời nói đầu tiên, lời nói của người đảng viên bôn-sê-

vích già, đồng chí Sa-ra-bơ-rin, bí thư đảng ủy Sê-pê-tốp-

ca:

     - Các đồng chí! Lãnh tụ của vô sản toàn thế giới, đồng

chí Lê-nin đã mất. Đồng chí mất đi, tổn thất của Đảng ta

không lấy gì hàn gắn được. Người đã sáng lập ra Đảng

bôn-sê-vích, Người đã giáo dục Đảng tinh thần đấu tranh

không thỏa hiệp trước quân thù… Người hôm nay không

còn nữa... Lãnh tụ của Đảng ta và của giai cấp mất đi, cái

chết của Người gọi vào hàng ngũ của Đảng những người

con ưu tú nhất của giai cấp vô sản.

    Âm nhạc cử bài mặc niệm, hàng trăm con người đứng

bỏ mũ, và A-rơ-chom cảm thấy nghẹn ngào trong cổ đôi vai

khỏe run lên. Mười lăm năm nay, giờ anh mới khóc là một.

    Tường dày của câu lạc bộ công nhân đường sắt

dường như không chịu nổi sức xô đẩy của khối người.

Ngoài kia, tuyết rơi buốt giá. Đôi cây thông rậm cành lối

cửa đi vào bám đầy tuyết và tuyết đóng thành băng nhô ra

như kim tua tủa. Thế mà trong phòng thì ngột ngạt vì hơi

nóng giá của lò sưởi và hơi thở của sáu trăm con người

tha thiết muốn được tham dự lễ truy điệu do Đảng bộ tổ

chức.

    Trong phòng họp không có tiếng ồn ào, không có tiếng

trò chuyện như mọi khi hội họp. Đau buồn đã làm những

giọng nói khàn đi; người ta khẽ nói, và trong hàng trăm cặp

mắt đều lộ vẻ ngẩn ngơ vì thương tiếc đau đớn. Dường

như đây là tập hợp cả đoàn thủy thủ của một con tàu đã bị

sóng cồn biển cả cướp đi mất người cầm lái dày dạn kinh

nghiệm của mình.

    Những ủy viên của ban thường vụ Đảng ủy cũng lặng lẽ

ngồi vào ghế chủ tịch đoàn. Đồng chí bí thư Xi rô-tên-cô từ

từ cầm cái chuông và lắc rất nhẹ, rồi đặt ngay xuống bàn.

Thế cũng đủ rồi. Im lặng nặng trĩu lòng người dần dần

chiếm lấy cả gian phòng.

    Vừa đọc xong diễn văn truy điệu, đồng chí Xi-rô- tên-cô

đã đứng dậy nói. Vấn đề đồng chí nêu lên thật là khác hẳn

lệ thường trong một buổi lễ truy điệu, vậy mà nghe đồng chí

nói, không ai lấy làm ngạc nhiên cả.

    Đồng chí Xi-rô-tên-cô nói như thế này:

    "Ba mươi bảy đồng chí công nhân đề nghị chúng ta

trong buổi họp này xét đơn xin gia nhập Đảng của các

đồng chí ấy”.

    Và Xi-rô-tên-cô đọc to:

    "Kính gửi Đảng bộ Đảng cộng sản bôn-sê-vích của nhà

ga Sê-pê-tốp-ca, khu vực đường sắt Tây-nam. Lãnh tụ mất

đi, cái chết của Người đã gọi chúng tôi đến gia nhập đội

ngũ những người bôn-sê-vích Chúng tôi mong được thẩm

tra lý lịch ngay trong cuộc họp hôm nay và được kết nạp

vào Đảng của Lê-nin”.

    Sau những hàng chữ vắn tắt ấy có hai cột chữ ký.

    Xi-rô-tên-cô đọc tên những chữ ký ấy, sau mỗi tên lại

dừng lại mấy giây để mọi người có mặt có thể nhớ lấy

những tên mà họ đều biết cả:

    - Pô-len-tốp-xki Sta-nhi-láp, thợ máy xe lửa, ba mươi

sáu năm làm nghề.

    Tiếng xôn xao tán thành lan khắp phòng họp.

    - A-rơ-chom Ca-rơ-sa-ghin, thợ nguội, mười bảy năm

làm nghề.

    - Bơ-ru-giắc Gia-kha-rơ thợ máy xe lửa, hai mươi mốt

năm làm nghề.

    Càng đọc, càng nghe thấy tiếng xì xào bàn tán nổi lên

trong phòng. Xi-rô-tên-cô đứng cạnh bàn cứ tiếp tục đọc

tên này kế tiếp tên khác. Phòng họp lắng nghe tên những

người công nhân con nhà thợ gốc của ngành đường sắt.

     Ai nấy đều im bặt khi người ký tên đầu tiên xin vào

Đảng đi gần lại bàn.

     Kể lại lịch sử đời mình, cụ già Pô-len-tốp-ski có thể nào

không xúc động được?

     - …Các đồng chí, tôi biết nói gì hơn nữa bây giờ? Cuộc

đời người thợ trong chế độ cũ có thế nào, ai mà chẳng

biết. Sống thì sống y như nô lệ mà tuổi già chết đi thì chết

cùng chết khổ. Tôi xin thú thực rằng khi Cách mạng đến, tôi

tự cho mình già lão rồi. Gánh gia đình nặng trĩu hai vai nên

tôi đã bỏ lỡ dịp đi con đường vào Đảng. Tuy trong đấu

tranh, tôi đã không bao giờ làm lợi cho kẻ thù, song tôi thật

ít tham gia vào cuộc chiến đấu. Năm 1905, khi làm ở các

xưởng tại Vác-sa-va, tôi cũng có chân trong ủy ban bãi

công và cùng đi theo với các anh em bôn-sê-vích. Hồi bấy

giờ tôi còn trẻ, trong lòng hăng hái. Nhưng thôi, nhắc lại

chuyện cũ làm gì? Lê-nin mất đi, lòng tôi đau xót. Mất

Người là mãi mãi từ đây anh em ta mất một người bạn,

mất người bênh vực giai cấp chúng ta. Và bây giờ tôi

không còn nói được rằng tôi đã già ! . . . Thôi để anh em

khác lên nói hay hơn tôi, tôi không phải là người ăn nói. Tôi

chỉ nói chắc một điều rằng: con đường những người bôn-

sê-vích đi là con đường của tôi và không thể khác được.

     Cái đầu bạc của người thợ máy già lắc một cách quả

quyết và dưới đôi mày xám, mắt cụ nhìn phòng họp, vững

vàng thẳng thắn, không chớp, như chờ đợi quyết định

chung của mọi người.

     Không ai giơ tay phản đối việc kết nạp cụ già thấp bé,

tóc đã hoa râm ấy vào Đảng. Khi Đảng ủy đề nghị quần

chúng ngoài Đảng cho ý kiến thì ai cũng tán thành.

    Cụ già Pô-len-tốp-ski rời diễn đàn trở về chỗ, từ nay đã

là một đảng viên cộng sản rồi.

    Mỗi người dự lễ hôm nay đều hiểu giờ phút này có một

cái gì khác thường. Chỗ cụ thợ máy vừa đứng nói lúc nãy

bây giờ đã hiện ra bóng dáng đồ sộ của A-rơ-chom.

Người thợ nguội ngượng ngùng không biết giấu hai cánh

tay dài đi đâu, vò trong bàn tay chiếc mũ có bịt tai. Chiếc

áo tơi lông cừu mòn gấu để hở khuy, cổ áo va-rơ nhà binh

màu xám cài khuy đồng cẩn thận làm cho hình dáng anh

nghiêm chỉnh, trịnh trọng. A-rơ-chom quay mặt lại phía

phòng họp và thoáng nhận ra khuôn mặt phụ nữ quen

thuộc: đấy là Ga-li-na, người con gái bác thợ đá, ngồi trong

đám thợ xưởng khâu. Trong nụ cười đầy khoan thứ của

chị, có chiều khuyến khích đồng tình và còn có một cái gì

chưa nói hết nữa ẩn trên làn môi. Người thợ nguội nghe

tiếng Xi-rô-tên-cô nhắc:

    - Đồng chí A-rơ-chom, báo cáo với hội nghị lý lịch của

đồng chí đi!

    Bắt đầu nói thật là khó. A-rơ-chom không quen nói ở

các cuộc họp lớn. Mãi bây giờ anh mới cảm thấy một đời

người làm lụng khó nhọc chồng chất bao nhiêu ý nghĩ trong

đầu nói ra thế mà khó thật. Khó tìm ra lời mà nói, lại cảm

động nữa, làm sao mà nói được. Chưa bao giờ anh thấy

mình như hôm nay. Anh nhận thấy rất rõ cuộc đời mình đến

một chỗ ngoặt hẳn hoi đây anh sắp sửa bước lên một

bước cuối cùng, có bước lên như thế thì cuộc đời khô khan

cằn cọc của anh mới ấm áp lên được và mới có ý nghĩa.

    - Mẹ tôi có bốn người con . . .

    A-rơ-chom bắt đầu. Trong phòng im phăng phắc. Sáu

trăm con người chăm chú nghe lời tự thuật của anh thợ cao

lớn mũi khoằm khoằm, mắt nấp dưới lớp lông mày đen

rậm.

    - Mẹ tôi đi ở nấu bếp. Còn cha tôi thế nào tôi không nhớ

rõ nữa: tôi chỉ biết hai người ăn ở với nhau không hợp.

Cha tôi hay rượu chè quá chén. Mẹ tôi làm ăn vất vả để

nuôi ngần ấy miệng ăn. Bọn chủ trả cho mẹ tôi bốn rúp một

tháng với cơm nuôi; lấy được bốn đồng rúp mẹ tôi phải nai

lưng ra làm từ sáng bảnh mắt đến tối mịt. Tôi hãy còn may,

thuở bé được đi học trường sơ học được hai năm biết

đọc, biết viết. Nhưng năm tôi lên mười thì nhà hết gạo,

không còn cách nào khác, mẹ tôi phải đưa tôi vào học việc

ở nhà một lão thợ khóa. Ở ba năm không một đồng công,

chỉ có cơm nuôi... Lão chủ - người Đức - tên là Phéc- stơ.

Hắn không muốn nhận tôi vào làm, bảo tôi còn bé quá.

Nhưng tôi là một đứa bé sức lực, mẹ tôi nói tăng cho tôi

thêm hai tuổi nữa. Tôi ở với hắn được ba năm. Hắn chẳng

dạy gì nghề cả mà chỉ sai vặt và bắt chạy đi mua rượu vốt-

ca cho hắn: hắn ta nghiện rượu, nốc bao nhiêu cũng không

vừa. Người ta sai tôi đi xách than, khiêng sắt. . . Mụ chủ

biến tôi thành thằng hầu của mụ: nào đi đổ bô cho mụ, nào

là đi gọt khoai cho mụ. Ai cũng đá tôi được, lắm lúc tự

nhiên vô cớ cứ quen chân là đá. Hễ mụ chủ bực mình cái gì

là cứ lôi tôi ra vả vào mặt. Hễ thằng chồng say rượu là mụ

bực dọc với cả mọi người. Mụ đánh một lần, mụ đánh hai

lần. Tôi bỏ đi. Nhưng biết đi đâu? Biết kêu ai? Nhà mẹ thì

ở xa đến bốn mươi dặm, mà trốn ở nhà cũng không yên

được. . . Ở xưởng cũng chẳng hơn gì. Em mụ chủ làm

vương làm tướng ở đấy. Cái thằng khốn nạn ấy thích hành

hạ tôi. Hắn bảo: "Mày cầm cục kia đưa cho tao". Và hắn

chỉ xuống đất, chỉ vào một góc gần lò rèn. Tôi vào đấy lấy

cục sắt. Cục sắt ấy vừa hắn vừa nung, mới rút ra khỏi lò.

Cục sắt nằm đen đen trên đất nhưng mó tay vào là bỏng

cháy thịt lòi xương. Tôi bị đau thét lên. Còn hắn thì phá ra

cười khoái trá. Tôi không thể chịu được nơi tù ngục ấy, nên

bỏ về với mẹ. Mẹ cũng không biết đưa vào đâu, lại dẫn

đến thằng Đức ấy, dọc đường mẹ tôi khóc mãi. Làm được

hai năm thì chúng cũng bắt đầu dạy nghề bập bõm cho,

nhưng vẫn cứ tiếp tục đánh đập. Tôi lại bỏ trốn đi đến Sta-

rô-công-stan-ti-nốp, xin vào làm một nhà hàng bán thịt và

chịu khổ chịu nhục ở đấy cạo rửa ruột lợn đến một năm

rưỡi trời. Thằng chủ đánh bạc nướng mất cơ nghiệp và

quịt của chúng tôi bốn tháng lương, không trả lấy một hào,

rồi bỏ đi đằng nào mất. Thế là tôi lại ra khỏi cái xó ấy. Lên

tàu xuống Giơ-mê-rin-ca đi tìm việc làm. May có một bác

thợ xưởng kho thông cảm tình cảnh của tôi. Bác ấy biết tôi

bập bõm tí nghề thợ nguội, bèn nhận tôi làm cháu và xin

việc với lão chủ. Trông mặt, nó cho tôi đã mười bảy tuổi và

do đó được vào làm phụ thợ nguội. Tôi làm ở xưởng ta

đây được chín năm rồi. Cuộc đời đã qua của tôi là như thế.

Còn về cuộc đời hiện tại thì các đồng chí đều biết cả rồi.

    A-rơ-chom lấy mũ thấm mồ hôi trán và trút ra một hơi

thở dài. Anh thấy phải nói điều cốt yếu nhất, khó nói nhất,

không cần đợi ai hỏi, phải nói ngay. Và cau mày lại, anh kể

tiếp:

    - Mỗi người có thể hỏi rằng: tại sao tôi không vào Đảng

bôn-sê-vích ngay từ khi bùng nổ: Hỏi thế thì tôi biết trả lời

thế nào? Tôi chưa già gì cho cam, thế mà mãi đến bây giờ

tôi mới nhận ra đường đi. Tôi không giấu giếm gì cả. Phải,

chúng tôi đã bỏ lỡ dịp đi vào con đường ấy. Đáng lẽ chúng

tôi phải giác ngộ từ cái năm 1918, dạo bãi công chống

Đức ấy. Hồi đó, đồng chí lính thủy Giu-khơ-rai đã nói

chuyện với chúng tôi nhiều lần. Thế mà mãi đến năm 1920

tôi mới cầm súng đi bộ đội. Hết đánh nhau, ném hết bọn

trắng xuống Hắc Hải rồi thì lại về nhà. Tôi lập gia đình, sinh

con đẻ cái... Cứ lúi húi vào việc nhà. Nhưng giờ đây, đồng

chí Lê-nin của chúng ta mất đi và Đảng ra lời kêu gọi, tôi

nhìn lại cuộc đời tôi và tôi hiểu rằng đời tôi thiếu mất một

cái gì. Bảo vệ chính quyền Xô-viết cũng chưa đủ. Tất cả

chúng ta phải hưởng ứng lời kêu gọi, chúng ta phải đồng

tâm hiệp lực mà bù lại chỗ trống của đồng chí Lê-nin, để

chính quyền Xô viết của chúng ta vững mạnh như một núi

thép. Chúng ta phải trở thành những đảng viên bôn-sê- vích

vì Đảng chính thật là Đảng của chúng ta !

    A-rơ-chom lúng túng vì cách nói không quen của mình.

Anh kết thúc lời phát biểu một cách giản dị, nhưng thật là

chân thành. Nói xong, anh thấy như đã trút được gánh nặng

trên vai, anh đứng thẳng người lên, đợi chờ anh em hỏi lại.

    Xi-rô-tên-cô phá tan không khí im lặng:

    - Có ai muốn chất vấn gì không?

    Hàng người cựa quậy, nhưng không ai lên tiếng ngay.

Một bác thợ đốt lò người đen như củ súng, vừa rời đầu

máy xe lửa đi thẳng đến đây dự lễ ngay, nghe hỏi thì đáp lại

bằng giọng quả quyết:

    - Còn chất vấn làm gì nữa? Chúng ta lại còn không biết

đồng chí đó hay sao. Phát cho đồng chí ấy cái thẻ đảng

viên đi thôi.

    Bác thợ rèn Ghi-li-a-ca người thâm thấp, mặt đỏ lên vì

nóng và óc nghĩ căng thẳng, giọng nói khàn khàn, run run:

    - Tay như thế chẳng bao giờ xuống dốc cả, một đồng

chí vững đấy. Cho biểu quyết đi thôi, đồng chí Xi rô-tên-cô

ạ!

    Ở những hàng cuối, chỗ các đoàn viên thanh niên cộng

sản ngồi, có một người đứng dậy, trong bóng tối không rõ

là ai. Người ấy nói:

    - Đề nghị đồng chí A-rơ-chom cho biết tại sao đồng chí

lại quá dính chặt với ruộng đất? Cơ sở nông thôn của đồng

chí có làm đồng chí xa rời tư tưởng vô sản không?

    Trong phòng hơi có tiếng xì xào, không tán thành câu

hỏi đó. Có tiếng phản đối.

    - Nói cho giản dị ! Đây không phải lúc nói chữ...

    Song A-rơ-chom đã trả lời rồi:

    - Không sao cả, các đồng chí ạ! Đồng chí vừa rồi nói là

tôi đã quá dính chặt với ruộng đất. Đồng chí ấy nói đúng

đấy. Thật vậy, nhưng có điều là tôi không vì thế mà mất

được ý thức giai cấp của người thợ đâu. Kể từ ngày hôm

nay, tôi xin dứt khoát. Tôi sẽ cùng gia đình dọn đến ở gần

sở đầu máy, như thế chắc con người hơn. Bởi vì, cái mảnh

ruộng ấy cũng làm tôi vất vả khó thở lắm.

    Lòng A-rơ-chom lại bồi hồi lần nữa khi anh nhìn thấy cả

rừng cánh tay cùng giơ lên. Anh thấy nhẹ hẳn người, thân

vươn lên, bước về chỗ. Đằng sau anh nghe tiếng Xi-rô-tên-

cô tuyên bố.

    - Nhất trí tán thành.

    Người thứ ba lên cạnh bàn chủ tịch là bác Bơ-ru- giắc

người "ét" cũ tính ít nói của ông già Pô-len-tốp- ski, từ lâu

cũng đã ra đứng đầu máy. Bác kể về cuộc đời lao động

của mình. Khi kể đến những ngày gần đây, giọng bác hạ

thấp xuống, nhưng rõ ràng, để ai cũng nghe rõ được.

     - Tôi phải làm cho xong sự nghiệp mà các con tôi đã

bắt đầu. Thằng Xéc-gây và con Va-li-a nhà tôi hy sinh

không phải là để cho tôi ngồi chết dúi trong xó bếp với nỗi

đau khổ của mình. Chúng nó chết đi, tôi đã không biết đứng

lên thế vào chỗ chúng nó bỏ lại, nhưng ngày nay lãnh tụ mất

đi, cái chết của Người đã mở mắt cho tôi. Các đồng chí

đừng hỏi tôi về dĩ vãng làm gì. Bắt đầu từ ngày hôm nay

đây, chúng tôi mới thật là sống cho ra sống.

     Bác Bơ-ru-giắc nói đến đây thì rầu nét mặt, nghĩ đến hai

con mà lòng quặn lại. Nhưng khi mấy trăm cánh tay đều

nhất trí giơ lên nhận bác vào Đảng, không ai chất vấn điều

gì, thì đôi mắt bác sáng lên và mái đầu hoa râm không cúi

gằm xuống ngực nữa.

     Đến tận đêm khuya, trong xưởng đầu máy, người ta

vẫn tiếp tục bình nghị những đảng viên mới. Chỉ những

người ưu tú nhất mới được nhận vào Đảng, những người

mà ai nấy đã hiểu rõ, tất cả cuộc đời của họ là một bảo

đảm.

     Cái chết của Lê-nin đã dẫn đến với Đảng hàng trăm

ngàn công nhân. Lãnh tụ mất đi, không hề lầm đội ngũ của

Đảng tan tác. Đảng ví như cây to, bám chặt rễ sâu vào đất,

dù cho ngọn có gãy đi, cây vẫn không tàn héo.

CHƯƠNG VI

   Hai người đứng gác ở cửa phòng hòa nhạc của khách

sạn. Người cao lớn mang kính kẹp mũi, trên tay áo có cái

băng đỏ đề chữ: "Phụ trách trật tự".

   Ri-ta hỏi:

   - Đoàn đại biểu U-crơ-ren họp ở đây phải không?

   Người đó trả lời, giọng hách dịch:

   - Phải, chị muốn gì?

   - Xin phép cho tôi vào.

   Anh ta chắn ngang lấy lối ra vào, mắt nhìn Ri-ta và hỏi:

   - Chị cho xem giấy chứng minh. Chỉ có các đại biểu có

thẻ chính thức và dự thính mới được vào đây.

   Ri-ta rút từ trong ví tay ra một cái thẻ viết chữ vàng.

Người kia cầm lấy đọc: "Ủy viên Ban chấp hành Trung

ương". Giọng hách dịch của người đó bỗng biến đi ngay,

và anh ta lập tức trở nên lễ phép và "thân mật".

   - Xin mời đồng chí vào. Mời đồng chí đi sang bên phải,

còn nhiều chỗ chưa ai ngồi.

   Ri-ta đi qua giữa các hàng ghế, tìm được chỗ không,

ngồi xuống. Cuộc họp của các đại biểu gần xong. Chị lắng

nghe diễn văn của chủ tịch phiên họp, nhận ra hình như

giọng nói quen quen.

   - Các đồng chí, thế là chúng ta đã cử xong đại biểu vào

các bộ phận công tác của Đại hội. Còn hai tiếng đồng hồ

nữa thì Đại hội sẽ khai mạc. Tôi xin phép kiểm tra lại lần

nữa danh sách các đại biểu đã đến dự Đại hội.

   Ri-ta nhận ta A-kim: chính anh đang đọc vội bản danh

sách.

    Mỗi lần A-kim gọi tên, có những bàn tay cầm thẻ đỏ hay

trắng giơ lên để đáp lại.

    Ri-ta hết sức chú ý nghe.

    Đây là một tên quen thuộc:

    - Pan-cơ-ra-tốp.

    Ri-ta quay nhìn về phía bàn tay vừa giơ lên, nhưng trong

dãy các đại biểu ngồi, chị không thể phân biệt được nét

mặt quen của người công nhân khuân vác. Những tên

người nối tiếp nhau và trong số đó có tên "Ô-cu-nhếp", liền

sau đấy lại một tên khác cũng quen nữa: "Giác-ki".

    Ri-ta trông thấy Giác-ki. Giác-ki ngồi ngay gần, mặt

quay nghiêng về chỗ chị. Anh ta kia, nét mặt lâu ngày chị đã

quên mất rồi. Phải, Giác-ki đấy. Đã bao nhiêu năm trời, chị

chưa gặp lại Giác-ki.

    Những tên trong danh sách cứ tiếp nhau đọc lên rồi qua

đi và bỗng nhiên có tên một người làm cho Ri-ta giật thót

mình.

    - Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.

    Mãi tận xa, đằng hàng ghế trước, một bàn tay giơ lên

và hạ xuống. Và có điều rất lạ, không hiểu tại sao Ri-ta thấp

thỏm khao khát được thấy mặt ngay người có tên trùng với

tên người bạn cũ của chị đã hy sinh. Chị chăm chăm nhìn

về phía lúc nãy có bàn tay giơ lên, chị nhìn không rời mắt,

nhưng nào có thấy gì, những đầu người dường như đều

giống nhau cả. Ri-ta đứng dậy đi men rìa tường, lại gần

mấy hàng ghế đầu. A-kim đã đọc hết. Tiếng ghế xô đẩy ầm

ầm, các đại biểu bắt đầu nói chuyện to, tiếng cười của tuổi

trẻ vang lên và A-kim cố nói át tiếng ồn trong phòng:

    - Bây giờ tại Nhà hát lớn! Các đồng chí nhớ đừng đến

trễ đấy?

    Ngoài cửa, người ùn ùn đi ra, bị nghẽn lại.

    Ri-ta hiểu rằng giữa cái thác người này, khó tìm cho

được một ai quen thuộc trong số những người mà chị vừa

nghe đọc tên. Chỉ còn cách đừng bỏ mất bóng A-kim, nắm

được A-kim thì có thể tìm được những bạn khác. Chị

nhường cho nhóm đại biểu cuối cùng đi trước rồi bước về

phía A-kim.

    Bỗng phía sau chị có tiếng nói:

    - Thế nào Pa-ven? Cùng đi thôi chứ, mày?

    Rồi có tiếng rất quen thuộc, thoạt nghe chị đã nhận ra

ngay, nhớ ra ngay:

    - Ta cùng đi.

    Ri-ta quay lại. Trước mặt chị là một thanh niên cao lớn,

da ngăm ngăm, mặc áo va-rơ màu ka-ki, có thắt một dây

da Cô-ca-dơ mỏng, và mặc quần đi ngựa màu xanh thẫm.

    Ri-ta trố mắt nhìn người thanh niên ấy, và khi đôi tay

bạn thân thiết ôm chặt, và giọng bạn run run kêu khẽ "Ri-

ta", thì chị đã hiểu thanh niên ấy chính là Pa-ven Ca-rơ-sa-

ghin.

    - Pa-ven còn sống ư?

    Mấy tiếng đó đã nói với Pa-ven tất cả? Ri-ta không hề

biết rằng cái tin Pa-ven hy sinh là một tin nhầm.

    Phòng họp đã vắng hẳn. Từ phố Tơ-véc-scai-a, phố lớn

nhất của thành phố, tiếng ồn ào vọng vào cửa sổ mở toang.

Đồng hồ treo tường đã điểm sáu tiếng rồi, nhưng hai

người có cảm tưởng như vừa mới gặp nhau cách đây vài

phút. Tiếng chuông đồng hồ giục hai người đi đến nhà hát

lớn. Khi đi xuống cầu thang rộng ra cửa, Ri-ta còn đưa mắt

nhìn lại Pa-ven một lượt nữa. Bây giờ Pa-ven đã đứng cao

hơn Ri-ta một nửa đầu người rồi. Nhưng trông Pa-ven vẫn

như xưa, chỉ khác là cứng cỏi hơn, trầm tĩnh, vững vàng

hơn.

    - Đấy Pa-ven thấy không, Ri-ta quên mất cả không hỏi

bây giờ Pa-ven công tác ở đâu?

    - Pa-ven là Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản liên quận,

hay là nói như Đu-ba-va thường nói: làm "thơ lại" rồi. - Và

Pa-ven mỉm cười.

    - Pa-ven gặp anh ta à?

    - Có gặp. Và cuộc gặp ấy đã để lại cho tôi một kỷ niệm

khó chịu.

    Hai người bước ra. Ngoài phố, tiếng còi xe hơi inh ỏi

phố xá nhộn nhịp, ồn ào. Dọc đường đến Nhà hát lớn, hai

người đều im lặng, hầu như không nói chuyện với nhau,

nhưng đều nghĩ về một chuyện như nhau. Cả một biển

người huyên náo, dữ dội, vây lấy Nhà hát lớn. Biển người

ấy kéo tới tòa nhà đá đồ sộ của nhà hát, định ùa vào những

cửa có anh em bộ đội Hồng quân đứng gác, nhưng những

người gác rất hắc kia chỉ cho các đại biểu vào thôi. Những

ai được vào đều lấy làm hãnh diện đưa giấy chứng minh

ra, khi bước qua hàng dây ngăn cửa.

    Biển người bao quanh nhà hát toàn là những đoàn viên

thanh niên cộng sản. Những anh chị em đó không có giấy

mời, nhưng tha thiết muốn được đến dự cho được lễ khai

mạc Đại hội. Có những anh láu cá đi lẫn vào giữa nhóm

đại biểu và cũng giơ lên một miếng giấy gì đo đỏ, miễn là

phải thật đúng màu giấy chứng minh của đại biểu, thế là họ

có lúc vào được gần cửa trong. Một vài người lọt được

vào cửa. Nhưng đến đây họ lại đụng phải đồng chí ủy viên

Trung ương hoặc người phụ trách trật tự đứng túc trực,

chờ dẫn khách mời lên gác, còn đại biểu thì đi vào tầng

dưới. Và mấy anh láu cá kia liền bị đuổi ra ngoài làm cho

những tay "không vé" khác khoái chí.

   Nhà hát không thể chứa được một phần hai mươi tổng

số những người muốn vào dự.

   Ri-ta và Pa-ven chen vất vả lắm mới đến được cửa.

Các đại biểu đến mỗi lúc một đông: xe điện, xe hơi đưa họ

tới. Ngoài cửa, người xô đẩy nhau. Các đồng chí bộ đội

gác, cũng là những đoàn viên thanh niên cộng sản, bị một

mẻ gay go. Các đồng chí bị xô ép đến tận tường. Có tiếng

kêu to lên gần cửa vào:

   - Ê! Các cậu khu Bâu-man chen vào đi nhé.

   - Chen vào đi các cậu, thế nào cũng vào được đấy.

   - Vào này !...

   Cùng lúc ấy, Pa-ven và Ri-ta đi vào cửa, có một cậu bé

mắt sắc, đeo huy hiệu thanh niên cộng sản, lừa lúc bất thần

lẻn vào cửa. Cậu ta tránh được mặt người "phụ trách trật

tự”, liền lẩn vào phía trong. Chỉ một nháy mắt là cậu ta đã

biến vào thác người đi họp.

   Ri-ta và Pa-ven đi vào tầng dưới; Ri-ta chỉ dãy ghế

bành ở cuối, nói với Pa-ven:

   - Chúng ta ngồi đây.

   Hai người ngồi vào một góc.

   - Ri-ta muốn Pa-ven trả lời một câu hỏi . Tuy là chuyện

cũ, song Ri-ta tin rằng Pa-ven sẽ trả lời: tại sao hồi ấy Pa-

ven lại bỏ dở việc học tập và cắt đứt tình bạn của chúng ta

như thế ?

    Pa-ven đã chờ đợi câu hỏi ấy ngay từ phút đầu tiên gặp

gỡ; vậy mà anh vẫn cứ lúng túng. Hai cặp mắt bắt gặp nhau

và Pa-ven hiểu rằng Ri-ta đã biết tất cả rồi.

    - Tôi tưởng rằng Ri-ta đã hiểu tất cả. Đã ba năm rồi đấy

nhỉ và bây giờ đây Pa-ven chỉ còn có thể trách cậu Páp-ca

về cách xử sự lúc bấy giờ. Chính Pa-ven là người đáng

trách trong chuyện này. Pa-ven trong đời mình đã có nhiều

sai lầm, lớn có, nhỏ có, và một trong những sai lầm đó

chính là điều Ri-ta vừa hỏi.

    Ri-ta mỉm cười:

    - Pa-ven vào đề khéo lắm. Nhưng Ri-ta chờ một câu trả

lời kia!

    Pa-ven hạ thấp giọng:

    - Trong chuyện này, không phải chỉ riêng Pa-ven có lỗi.

Mà đấy cũng là lỗi ở truyện Ruồi trâu nữa, ở cái lãng mạn

cách mạng của nhà hiệp sĩ này. Những cuốn sách tả các

chiến sĩ cách mạng dũng cảm đầy quyết tâm và ý chí, không

biết sợ sệt, đem cả thể lực lẫn tinh thần hiến cho sự nghiệp

của chúng ta, những cuốn sách đó để lại cho tôi một ấn

tượng không bao giờ phai nhòa, nuôi trong người tôi cái

mong muốn noi gương những anh hùng ấy. Và trong tình

cảm đối với Ri-ta, tôi đã bắt chước Ruồi trâu nén tình cảm

xuống. Ngày nay thì nhận ra thái độ đó thật buồn cười, hơn

thế, lại còn rất là đáng tiếc nữa.

    - Thế nghĩa là bây giờ ý kiến của Pa-ven về Ruồi trâu đã

khác đi rồi hay sao?

    - Không, Ri-ta ạ! Về căn bản thì không! Tôi chỉ muốn

tước bỏ đi cái phần bi kịch vô ích, đem ý chí mình thử thách

vào những việc không cần đến, tự mình gây cho bản thân

mình đau đớn không lợi gì. Nhưng còn cái phần căn bản,

chủ yếu trong Ruồi trâu thì tôi rất tán thành, tán thành đức

tính dũng cảm, tinh thần kiên nhẫn không bờ bến của Ruồi

trâu, tán thành con người biết chịu đựng được đau khổ,

không kêu ca, không hề ngỏ cho một ai biết. Tôi rất tán

thành, rất hâm mộ hình ảnh đó của con người cách mạng,

con người thấy được rõ ràng so với sự nghiệp chung, thì

bất cứ cái gì thuộc cá nhân mình thật không đáng là bao.

    Ri-ta tư lự mỉm cười nói với Pa-ven:

    - Pa-ven ạ, giờ chỉ còn biết tiếc là câu chuyện này đáng

lẽ phải nói với nhau cách đây ba năm rồi kia, thế mà bây

giờ mới nói.

    - Sao lại tiếc, hở Ri-ta? Phải chăng vì Pa-ven đối với

Ri-ta không bao giờ có thể đi quá tình đồng chí không hơn

không kém ư?

    - Không. Đáng lẽ Pa-ven đã có thể đi xa hơn thế nhiều

lắm, Pa-ven ạ.

    - Bây giờ còn có thể nối lại được.

    - Hơi muộn rồi, đồng chí Ruồi trâu ạ.

    Ri-ta mỉm cười về câu đùa của chính mình và nói cho

Pa-ven rõ:

    - Ri-ta đã có một cháu bé, cháu bé gái xinh xắn lắm.

Cháu bé có bố nó, bố cháu là một người bạn lớn của Ri-ta.

Ba người sống với nhau thân lắm và bây giờ đây tay ba

không thể nào rời nhau ra được.

    Những ngón tay của Ri-ta nắm lấy bàn tay Pa-ven tỏ vẻ

lo ngại cho Pa-ven. Song Ri-ta hiểu là lo ngại vô ích. Phải,

ba năm qua, Pa-ven đã lớn hẳn lên rồi, không những chỉ

thân thể lớn lên không thôi. Ri-ta biết giờ đây Pa-ven đang

đau đớn: mắt Pa-ven để lộ ra vẻ đau đớn ấy. Nhưng Pa-

ven đã chân thành nói với Ri-ta:

    - Dù sao Pa-ven vẫn còn giữ được một cái gì muôn

ngàn lần quý hơn cái Pa-ven vừa mất đi.

    Pa-ven và Ri-ta đứng dậy. Đã đến lúc phải tìm chỗ ngồi

gần hơn. Hai người đi lại dãy ghế của đoàn đại biểu U-cơ-

ren. Nhạc nổi lên. Những băng khẩu hiệu đỏ chói mang

những hàng chữ sáng ngời "Tương lai thuộc về chúng ta".

Hàng ngàn đại biểu ngồi kín tầng dưới và các ghế "lô", các

dãy ghế hai bên gác. Hàng ngàn con người ấy hòa vào đây

thành một cái máy biến thế điện mạnh với một sức điện

không bao giờ tắt được Tòa nhà hát lớn khổng lồ đã nhận

vào lòng mình tất cả tinh hoa của lớp vệ quân thanh niên

trong đạo quân công nghiệp vĩ đại. Hàng ngàn cặp mắt

sáng lên đổ dồn vào nhìn hàng chữ chói lọi chăng ở phía

trên cái màn sân khấu: "Tương lai thuộc về chúng ta".

Những tiếng nói chuyện vẫn ồn lên. Còn vài phút nữa. Và

cái màn nhung nặng từ từ giãn ra. Đồng chí bí thư Ban

chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Nga bắt

đầu nói. Đồng chí xúc động quá, trong giây lát mất tự chủ,

đứng yên một lúc lâu trước cảnh tượng trang nghiêm

không tả xiết của giờ phút này.

    - Đại hội lần thứ sáu Đoàn thanh niên cộng sản Nga

khai mạc.

    Chưa bao giờ như hôm nay, Pa-ven cảm thấy rõ ràng,

sâu sắc sức hùng mạnh và vĩ đại của cách mạng, lòng tự

hào không lời nào diễn đạt nổi và niềm vui sướng không gì

bằng mà cuộc đời đã cho anh hưởng, cuộc đời đã đưa

anh, người chiến đấu và xây dựng, tới đây đến chỗ thắng

lợi huy hoàng này của lớp vệ quân thanh niên bôn-sê-vích.

    Đại hội làm việc căng thẳng, chiếm hết cả thời giờ của

các đại biểu, từ sáng sớm đến khuya, Pa-ven chỉ gặp lại

Ri-ta ở một trong những phiên họp cuối cùng. Pa-ven nhận

ra Ri-ta đang đứng với một nhóm đại biểu U-cơ-ren, Ri-ta

nói với anh:

    - Ngày mai, sau khi Đại hội bế mạc, Ri-ta sẽ đi ngay.

Không biết chúng ta còn có dịp trò chuyện và chào biệt

nhau không. Vì vậy hôm nay, Ri-ta đưa cho Pa-ven hai tập

nhật ký riêng của Ri-ta liên quan đến chuyện ngày xưa và

một bức thư nhỏ. Pa-ven xem xong rồi gửi lại theo đường

bưu điện cho Ri-ta nhớ. Pa-ven đọc nhật ký của Ri-ta sẽ

hiểu tất cả những điều Ri-ta nói với Pa-ven.

    Pa-ven bắt tay Ri-ta và nhìn bạn hồi lâu như để khắc

sâu nét mặt bạn vào tâm trí mình.

    Ngày hôm sau, đúng hẹn, hai người gặp nhau ở cửa

chính. Ri-ta trao cho Pa-ven một gói cuộn tròn và một

phong bì dán kín. Chung quanh đông người, nên cả hai chỉ

kín đáo chào biệt nhau. Chỉ riêng trong đôi mắt hơi rơm

rớm lệ của Ri-ta là Pa-ven thấy rõ lòng trìu mến sâu xa và

một thoáng buồn rầu.

    Ngày hôm sau, hai con tàu đưa mỗi người về mỗi ngả.

Những người U-cơ-ren ngồi ở nhiều toa. Pa-ven ở trong

nhóm đại biểu thành Ki-ép. Tối đến, khi mọi người đã đi

ngủ, và Ô-cu-nhếp đã nằm ngáy như kéo gỗ ở giường bên,

Pa-ven lại gần ánh đèn bóc thư ra:

"Pa-vơ-lu-sa thân yêu ơi!

Đáng lẽ Ri-ta có thể trực tiếp nói thẳng với Pa- ven,

nhưng Ri-ta nghĩ là viết cho Pa-ven thế này thì hơn. Ri-ta

chỉ muốn một điều: sao cho những chuyện chúng ta nói

với nhau trước khi bắt đầu Đại hội không để lại vết tích

nặng nề trong đời Pa-ven. Ri-ta biết Pa-ven có nghị lực,

nên Ri-ta tin ở điều Pa-ven đã nói với Ri-ta. Ri-ta không

nhìn đời một cách hình thức, giáo điều đâu: đôi khi, tuy

đấy thật ra là những trường hợp đặc biệt rất hiếm, người

ta có thể ra ngoài lẽ thường trong quan hệ giữa cá nhân

và cá nhân, nếu điều đó là do một thứ tình cảm rất lớn, rất

sâu chi phối. Pa-ven xứng đáng được như thế. Gặp lại

Pa-ven, lúc đầu Ri-ta đã định đền bù lại mối tình của thuở

mười tám đôi mươi ấy, song Ri-ta đã cưỡng lại. Ri-ta

cảm thấy làm thế không cho chúng ta có được một niềm

vui lớn trong tâm hồn. Pa-ven ạ, không nên khe khắt quá

với mình đến thế. Trong cuộc đời chúng ta, không phải

chỉ có đấu tranh không thôi mà còn có niềm vui của một

tình cảm tốt đẹp nữa.

    Về cuộc đời tương lai của Pa-ven, nghĩa là về nội

dung chủ yếu của đời Pa-ven, Ri-ta hoàn toàn không cảm

thấy có gì đáng lo ngại cả. Bắt tay Pa- ven rất chặt.

    Ri-ta".

    Pa-ven nghĩ ngợi, xé vụn bức thư. Thò tay ra ngoài cửa

sổ, anh cảm thấy gió dứt khỏi ngón tay từng mảnh thư nát

vụn.

    Đến sáng thì Pa-ven đã đọc xong hai cuốn nhật ký. Anh

lại lấy giấy gói và buộc lại. Đến Khác-cốp, một số các đồng

chí U-cơ-ren xuống tàu, trong đó có Ô-cu-nhếp, Pan-cơ-ra-

tốp và Pa-ven. Ô-cu-nhếp phải đi Ki-ép đón Ta-li-a hiện

đang ở nhà An-na. Pan-cơ- tốp mới được bầu vào Ban

chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren

thì có việc bận phải đi giải quyết ngay. Pa-ven quyết định

cùng đi với họ đến Ki-ép, tiện thể vào thăm Giác-ki và An-

na. Anh nán ở lại sở bưu điện nhà ga, gửi hai cuốn nhật ký

trả lại Ri-ta. Khi anh ra tàu thì các bạn không còn ai nữa. Xe

điện đưa anh tới nhà An-na và Đu- ba-va ở. Pa-ven leo

thang lên tầng hai, gõ cửa bên phải - chỗ buồng An-na.

Nhưng không có tiếng đáp lại Còn sớm thế này, An-na

chưa thể nào đã đi đến cơ quan làm việc được. Pa-ven

nghĩ thầm: "Chắc lại còn đang ngủ". Cửa buồng bên hé ra,

và Đu-ba-va ngái ngủ lừ đừ bước ra cầu thang. Mặt hắn

xám ngắt, mắt quầng thâm. Pa-ven vốn thính mũi nhận ra

ngay cả mùi rượu nữa. Qua cánh cửa hé mở, Pa-ven nhìn

thấy trên giường có người đàn bà beo béo, hay nói đúng

hơn là nhìn thấy cái cẳng chân để hở và đôi vai nung núc

của người ấy.

    Đu-ba-va thấy Pa-ven nhìn vào buồng liền lấy chân đá

khép kín cửa lại. Hắn hỏi giọng khàn khàn, mắt nhìn chằm

chằm vào một góc nào ở ngoài sân:

    - Cậu đến tìm nữ đồng chí An-na Bô-khác chứ gì? Bà ấy

bây giờ không ở đây nữa. Cậu lại còn không biết chuyện

hay sao?

    Pa-ven cau mày nhìn thẳng vào mặt Đu-ba-va:

    - Mình không biết, thế An-na dọn đi đâu?

    Đu-ba-va cáu lên ngay:

    - Cái đó chẳng liên quan gì đến đây cả, - và sau

    khi ợ một cái, hắn nói thêm, giọng đầy tức tối: -

    - Cậu đến an ủi cô ả chứ gì? Thật là đúng dịp! Chỗ

trống rồi đấy. Làm đi. Nó chẳng chê cậu đâu. Nó nhiều lần

nói với đây là nó thích cậu đấy. Hay nói thế nào nhỉ, như

bọn đàn bà thường nói ấy mà... Tóm lấy thời cơ đi, cô cậu

thông cảm với nhau cả phần hồn lẫn phần xác.

    Pa-ven cảm thấy nóng má. Anh cố nén, nói khẽ:

    - Đu-ba-va, cậu sa ngã quá đi mất rồi. Mình không ngờ

lại thấy cậu đểu cáng đến như thế được. Bởi vì, dù sao

trước đây đã có hồi cậu cũng là một thanh niên không đến

nỗi nào. Tại sao cậu sinh ra đốn mạt đến như vậy?

    Đu ba-va dựa lưng vào tường. Hắn đi chân không trên

sàn xi-măng. Trông thấy hắn rét ra mặt, người hắn run lên.

Cánh cửa mở, một người đàn bà má núng na núng nính, vẻ

còn ngái ngủ, ló ra.

    - Vào đây, mình ơi. Mình cứ đứng ngoài ấy làm gì thế ?

    Đu-ba-va không để cho con mụ ấy nói hết câu, đóng

sập cửa lại, rồi lấy lưng đứng chắn.

    Pa-ven nói:

    - Bước đầu hay đấy. .. Bây giờ, cậu tiếp những hạng

người thế nào và rồi cậu sẽ đi đến tận đâu?

    Đu-ba-va nghe chuyện rõ ràng là thấy chán tai lắm rồi.

Hắn quát lên:

    - Có phải mày đến đây để chỉ thị cho tao là phải ngủ với

hạng ngườii nào hay sao? Cái thói lên lớp ấy, tao xin đủ

rồi. Ớ đâu dẫn xác đến đây thì cút vế đấy đi ! Mày cứ đi mà

rêu rao là thằng Đu-ba-va rượu chè be bét và ngủ với gái

nhà thổ.

    Pa-ven lại gần hắn, nói những lời xúc động:

    - Đu-ba-va, cậu hãy đuổi người đàn bà ấy đi, mình

muốn nói với cậu một lần cuối...

    Mặt Đu-ba-va sa sầm lại. Hắn quay gót và lui vào

buồng.

    - Đồ khốn! - Pa-ven lẩm bẩm trong miệng và thong thả

bước xuống cầu thang.

    *

    Hai năm qua thời gian vô tình đã cuốn dần ngày tháng

trôi đi. Nhưng cuộc sống băng băng, mãnh liệt, rực rỡ

muôn màu đã chứa chất lên mỗi một ngày qua (trông bề

ngoài tưởng như đều đều phẳng lặng) những nhân tố mới,

khác hẳn với ngày hôm trước. Một trăm sáu mươi triệu

người của nhân dân vĩ đại này, lần đầu tiên trên thế giới đã

trở thành chủ nhân của đất nước bao la, chủ nhân của

những tài nguyên thiên nhiên phong phú không sao kể xiết,

một trăm sáu mươi triệu người đó đã đem sức lao động

anh hùng, được phát huy đến cao độ, ra khôi phục lại nền

kinh tế quốc dân đã bị chiến tranh tàn phá. Đất nước đã hồi

sức lại, trở nên cường tráng và những nhà máy, mới gần

đây thôi, còn bỏ hoang, trông ảm đạm nhà như nhà máy

chết, không còn thấy những ống khói tắt ngấm nữa.

    Pa-ven đã trải qua hai năm ấy trong cái đà đi lên không

gì cưỡng nổi. Chính anh cũng không còn kịp để ý là đã hai

năm qua nữa. Anh là người không thể sống bằng lặng, anh

ghét cái lối sống sáng sáng ra uể oải ngáp dài và tối đến

đúng mười giờ đi ngủ. Anh sống hối hả. Và không những

chỉ bản thân mình hối hả sống mà còn thúc đẩy kích thích

những người khác nữa.

    Anh hà tiện giờ ngủ. Thường cửa sổ phòng anh, ánh

đèn sáng cho đến tận đêm khuya, người ta năng trông thấy

những bóng người châu đầu vào nhau quanh chiếc bàn. Họ

đang học tập. Trong vòng hai năm qua, họ đã nghiên cứu

xong cuốn thứ ba của bộ sách Tư bản luận. Bây giờ đây họ

đã thấu hiểu được bộ máy tinh vi của chế độ bóc lột tư bản.

    Ra-dơ-va-li-khin lại đến liên quận mà Pa-ven công tác.

Tỉnh ủy phái hắn đến đấy, đề nghị để hắn làm bí thư một

quận đoàn thanh niên cộng sản. Hồi đó Pa-ven đi công tác

biệt phái. Trong lúc Pa-ven đi vắng ban thường vụ liền điều

động Ra-dơ-va-li-khin xuống một quận. Pa-ven về, biết

chuyện ấy, nhưng không nói gì.

    Một tháng sau, Pa-ven bất thình lình về quận của Ra-dơ-

va-li-khin. Anh phát hiện được một số không lấy gì làm

nhiều những sự việc, nhưng trong những sự việc đó có

những sự việc này: Ra-dơ-va-li-khin nào uống rượu say bí

tỉ luôn, nào tụ tập quanh mình bọn xu nịnh và đàn áp những

đoàn viên tốt. Pa-ven đem những việc ấy về trình bày với

ban thường vụ. Khi tất cả mọi người đã tỏ ý tán thành

nghiêm khắc cảnh cáo Ra-dơ-va-li-khin thì Pa-ven nói đốp:

    - Phải khai trừ vĩnh viễn khỏi Đoàn và tước hẳn quyền

gia nhập lại.

    Điều đó làm cho ai nấy đều ngạc nhiên, thấy kỷ luật

dường như quá nặng, nhưng Pa-ven nhắc lại:

    - Phải khai trừ thằng khốn kiếp ấy. Thằng học sinh ly-xê

mất dạy ấy đáng lẽ có thể trở nên người. Nhưng nó không

thể. Nó chỉ tìm cách len lỏi vào tổ chức ta cầu lợi mà thôi.

    Rồi Pa-ven kể cho mọi người biết tư cách của Ra- dơ-

va-li-khin ở Bê-rê-dơ-đốp.

    Ra-dơ-va-li-khin kêu lên:

    - Tôi cương quyết phản đối những lời tuyên bố của Pa-

ven. Đây là những chuyện tư thù cá nhân, không ít kẻ có thể

cứ đặt điều nói xấu tôi. Pa-ven nói thế thì tài liệu đâu,

chứng cớ đâu, sự việc đâu? Tôi cũng có thể bịa ra rằng

anh ta buôn lậu. Vậy thì có phải khai trừ anh ta ra không?

Không thể được. Đề nghị Pa-ven nói thì tài liệu đâu, trình

bày đi.

    Pa-ven đáp lại hắn:

    - Được tôi sẽ có tài liệu

    Ra-dơ-va-li-khin đi ra. Nửa giờ sau, Pa-ven đã được

mọi người tán thành thông qua nghị quyết: "Khai trừ Ra-

dơ-va-li-khin, một phần tử lạc loài, ra khỏi hàng ngũ của

Đoàn thanh niên cộng sản".

    *

    Hè đến, tất cả các bạn Pa-ven đều lần lượt thay nhau đi

nghỉ. Ai yếu sức thì đi ra bờ biển. Đến mùa này là mọi

người đều nghĩ đến nghỉ mát. Và Pa-ven để các đồng chí

đi, xoay xở cho anh em giấy vào nghỉ ở các nhà an dưỡng

và giúp anh em tiền nong đi nghỉ. Anh em ra đi, người xanh

xao, mệt mỏi nhưng mặt mày tươi tỉnh. Công việc của anh

em ở nhà lại trút lên vai Pa-ven và anh gánh tất cả, như một

con ngựa thuần nai lưng kéo xe lên dốc. Sau một thời gian

nghỉ, anh em trở về, da rám nắng, tràn đầy nghị lực và lòng

yêu đời. Lại đến lượt tốp khác đi. Suốt vụ hè có vắng mặt

ai thì cuộc sống vẫn không ngừng bước tiến. Pa-ven làm

việc không nghỉ một ngày nào. Anh vắng mặt một ngày

trong phòng làm việc là một điều không thể có được.

    Hè đã đi qua như vậy.

    Pa-ven không thú mùa thu, cũng chẳng thú mùa đông:

hai mùa ấy đến là anh lại có thể đau nặng.

    Mùa hè này, anh đặc biệt sốt ruột mong đợi nó đến. Anh

thú nhận với mình là sức khỏe mỗi năm một suy và điều đó

làm anh đau buồn. Có hai cách giải quyết: hoặc là tự nhận

mình không đủ sức chịu được nữa những khó khăn của

hoàn cảnh công tác căng thẳng, nhận mình là người tàn

phế, hay là vẫn đứng vững ở cương vị công tác cho đến

khi nào không kham được nữa mới thôi. Và anh đã chọn

cách giải quyết thứ hai.

    Một hôm, trong cuộc họp của ban thường vụ Đảng ủy

liên quận, Pa-ven ngồi gần bác sĩ Ba-rơ-tê-lích, trưởng ty y

tế, một người bôn-sê-vích già đã hoạt động bí mật lâu năm.

    - Anh Pa-ven này, tôi trông anh yếu quá. Anh thấy trong

người thế nào? Anh đã đến cho ban y tế khám chưa?

Chắc là chưa phải không? Đúng như thế, tôi không nhớ là

đã có lần nào khám cho anh. Thế nào anh cũng phải để cho

tôi khám. Thứ năm này, vào chập tối, đến tôi xem cho nhé.

    Pa-ven không đến ban y tế. Anh bận việc. Song bác sĩ

Ba-rơ-tê-lích vẫn không quên; một hôm bác sĩ kéo Pa-ven

vào phòng thăm bệnh của mình. Buổi khám bệnh rất cẩn

thận ấy, có sự tham gia của Ba-rơ-tê- lích vốn là nhà

chuyên môn về bệnh thần kinh, đã đi đến kết luận như sau:

    "Ban y tế nhận thấy cần thiết phải cho ngay Pa- ven đi

nghỉ chữa bệnh một thời gian lâu ở Cơ-rưm, cần theo dõi

điều trị cẩn thận, nếu không, không thể tránh khỏi hậu quả

nghiêm trọng".

    Lời kết luận ấy còn kèm theo một tràng dài kể tỉ mỉ

những tên bệnh bằng tiếng la-tinh. Xem giấy khám đó, Pa-

ven chỉ hiểu được một điều: bệnh đáng ngại nhất, không

phải là hai chân mà là ở thần kinh, chính là trong não bị đau

nặng.

    Ba-rơ-tê-lích trình thẳng ban thường vụ kết quả chẩn

bệnh ấy. Toàn thể đồng ý cho Pa-ven đi nghỉ ngay. Nhưng

chính Pa-ven lại đề nghị hãy đợi Sbít- nhếp là trưởng phòng

tổ chức của liên quận đoàn về đã. Pa-ven sợ liên quận ủy

hết người, vắng cán bộ.

    Các đồng chí đành phải đồng ý đề nghị của Pa-ven, tuy

rằng Ba-rơ-tê-lích có phản đối.

    Còn ba tuần nữa thì đến chuyến đi nghỉ đầu tiên trong

đời của Pa-ven. Cái giấy vào nhà điều dưỡng ở Ơ-pa-tô-

ri-a đã nằm chờ sẵn trong ngăn kéo.

    Trong những ngày đó, Pa-ven gấp rút giải quyết mọi

công việc. Anh chuẩn bị một cuộc hội nghị toàn thể chấp ủy

liên quận thanh niên cộng sản. Anh làm không tiếc sức, cố

giải quyết hết mọi vấn đề còn dở cho xong để yên tâm mà

đi.

    Song trước khi đi nghỉ và được ra biển mà suốt đời

anh chưa từng được thấy bao giờ thì xảy ra ngay một

chuyện vô lý, bất bình anh không ngờ tới.

    Sau khi làm việc xong, Pa-ven đi đến ban tuyên huấn:

anh ngồi ở khung cửa sổ bỏ mở, sau cái tủ sách để chờ

họp ban. Khi anh tới thì chưa có ai. Một lát sau, nhiều

người vào. Ngồi sau tủ, anh không nhìn thấy họ, song nhận

ra giọng nói của một người. Đấy là Phai-lô làm trưởng ban

kinh tế của liên quận. Người hắn cao gọn, trông bảnh trai,

dáng đi ra vẻ quân sự. Đã nhiều lần, Pa-ven được nghe nói

hắn là một tay nghiện rượu và thích chim gái.

    Trước đây Phai-lô có thời kỳ là du kích và bây giờ hễ có

dịp là hắn vừa cười ha hả, vừa kể lại chuyện hắn chặt đầu

bọn phỉ Ma-khơ-nô, mỗi ngày một chục cái đầu. Pa-ven

không thể chịu được hắn ta. Một hôm, có một nữ đoàn viên

thanh niên cộng sản đến gặp Pa-ven vừa khóc vừa báo

cáo chuyện Phai-lô lừa cô ta: Phai-lô hứa hôn với cô ta,

nhưng ăn ở với nhau được một tuần thì bỏ rơi, thậm chí

gặp cô ta hắn cũng phớt đi không chào hỏi nữa. Ban kiểm

tra đem ra xét nhưng Phai-lô thoát được vì người con gái

không có tang chứng. Song Pa-ven tin lời cô ta nói.

    Pa-ven lắng tai nghe, bọn mới đến không ngờ rằng có

Pa-ven ngồi ở đây:

    - Kìa Phai-lô, dạo này thế nào? Gần đây người anh em

có làm thêm được món nào ly kỳ không?

    Người hỏi là Gơ-ri-bốp, một trong những bạn của Phai-

lô, cùng một phường như hắn cả. Gơ-ri-bốp là một đứa hết

sức chậm tiến, vừa dốt vừa ngu, thế mà không hiểu tại sao

người ta lại cho hắn làm tuyên truyền viên. Hắn rất lấy làm

hãnh diện với danh nghĩa đó, bạ đâu hắn cũng mang ra

phô.

    - Cậu có thể chúc mừng tớ được. Hôm qua tớ đã tốc

được váy con Cô-rô-ta-ê-va rồi đấy. Thế mà cậu trước kia

cứ bảo là không ăn thua gì đâu. Ông anh ạ khi mà Phai-lô

này đã đuổi con bé nào, thì các bạn cứ yên trí…

    Và Phai-lô chêm vào một câu rất tục .

    Pa-ven cảm thấy nổi gai trong người, căm tức đến tột

bậc. Cô-rô-ta-ê-va là đồng chí phụ trách ban phụ vận. Chị

đến đây cùng một thời gian với Pa-ven. Và trong công tác

chung, Pa-ven đã quen thân với người nữ cán bộ dễ có

cảm tình ấy. Chị vốn tính rất thảo, thường ân cần chăm sóc

đến tất cả những chị em nào tìm đến nhờ chị khuyên bảo

hay giúp đỡ. Chị được anh chị em cán bộ chung quanh liên

quận đoàn rất tín nhiệm. Chị chưa có chồng. Không còn

nghi ngờ gì nữa, thằng Phai-lô này đang nói về chị đây.

    - Phai-lô, cậu không lòe chúng tớ đấy chứ? Chúng tớ

nghi lắm, vì con mụ Cô-rô-ta-ê-va không có như cậu nói tí

nào đâu.

    - Tớ lại nói dối các cậu à? Thế các cậu cho tớ là hạng

người thế nào? Tay này đã chài được khối đứa rồi. Chỉ

cần biết cách tán thôi. Mỗi một con, mình phải có một chiến

thuật tiếp cận riêng. Có con thì chỉ một ngày là ăn câu,

nhưng hạng ấy thật tình chẳng lý thú gì lắm. Có con phải

lẵng nhẵng đến hàng tháng. Chủ yếu là nắm chắc được

tâm lý. Mỗi đứa một khác. Cả một khoa học đấy, mày ạ,

nhưng trong khoa học này thì tao là bậc thầy. Hô hô hô!

    Phai-lô đắc chí cười lên ha hả. Đám người nghe lại

khích cho hắn nói: bọn họ nóng lòng muốn biết cho được

những chi tiết.

    Pa-ven đứng dậy, bàn tay nắm chặt, tim đập mạnh.

Phai-lô vẫn bô bô:

    - Phỗng được con Cô-rô-ta-ê-va mà không chịu vất vả

thì đừng có hòng. Nhưng vất vả thì vất vả, tao không muốn

nhả, với lại thằng Gơ-ri-bốp đã cuộc với tao mười hai chai

rượu poóc-tô. Thế là tao bắt đầu nghi binh, dương đông

kích tây. Tao đến tìm cô ta một lần, hai lần, cô ả có vẻ lườm

nguýt tao. Nhiều chuyện đồn đại về tao đến con bé ... Tóm

lại, tấn công chính diện không được, tao mới xoay đánh

vòng sau lưng. Ha ha! Chúng mày biết không, tao nịnh con

bé: "Em ạ, anh đã từng tham gia chiến đấu, đã từng giết

bao nhiêu quân địch, anh đã đi khắp thế gian, đã vào sống

ra chết", đấy là cách tao nói cho con bé hiểu là đời tao đã

ba đào chìm nổi, thế mà vẫn không tìm được người ý hợp

tâm đầu. "Em ơi, anh sống như con sói cô đơn, không kẻ

yêu chiều, không người âu yếm . . ." . Tao cứ cái điệu ấy

mà tuôn ra, nịnh con bé phổng cả mũi. Tóm lại, mình đánh

vào tình cảm của nó. Mà con bé cũng gớm lắm, nó quay lại

tao, làm tao mướt mồ hôi. Có lúc tao đã tưởng đi đời nhà

ma, cho hạ màn sớm tấn hài kịch mất. Nhưng, đây là một

vấn đề nguyên tắc, vì vấn đề nguyên tắc, tao nhất định

không có chịu buông. Cuối cùng, tao thắng. Có kiên nhẫn

cũng có lãi thật. Tưởng là một con mụ nạ dòng, hóa ra vớ

được một con bé trinh nguyên. Ha ha, buồn cười thật.

    Và Phai-lô cứ tiếp tục kể cái câu chuyện nhơ bẩn đó.

    Pa-ven cũng không còn nhớ là anh đã sấn đến chỗ

Phai-lô lúc nào không biết. Tiếng anh rít lên:

    - Đồ khốn nạn !

    - Tao khốn nạn hay mày khốn nạn, đồ mật thám đi rình

nghe trộm chuyện người ta.

    Chắc Pa-ven còn nói gì nặng lời nữa, cho nên Phai- lô

túm lấy ngực anh.

    - À à, mày chửi tao phải không?

    Và hắn ta vốn đang say rượu, đấm vào Pa-ven túi bụi.

    Pa-ven liền vớ lấy cái ghế gỗ sến và giáng cho một cái

quật Phai-lô xuống sàn nhà. Trong túi Pa-ven lúc đó may

mà không mang súng ngắn, nếu có súng thì Phai-lô đã mất

mạng rồi.

    Tuy thế, việc vô lý vẫn xảy ra: đúng ngày định lên đường

đi Cơ-rưm nghỉ thì Pa-ven bị gọi ra trước tòa án của Đảng.

    Toàn thể tổ chức Đảng họp ở nhà hát thành phố.

Chuyện xảy ra ở ban tuyên huấn đã làm chấn động dư luận.

Vụ án đã gây một cuộc luận chiến gay go về vấn đề tác

phong sinh hoạt. Tác phong sinh hoạt, những quan hệ giữa

cá nhân và cá nhân, đạo đức cộng sản, những vấn đề đó

đã làm mờ bản thân sự việc mà vụ án đang xét. Vụ án trở

nên dấu hiệu của một vấn đề tư tưởng. Trước tòa án Đảng,

Phai-lô đã có một thái độ khiêu khích, hắn vênh mặt cười

khẩy. Hắn nói việc này phải đưa ra toà án nhân dân và đòi

Pa-ven sẽ phải đi tù khổ sai vì đã can tội đánh hắn vỡ đầu.

Hắn khăng khăng một mực từ chối, không đáp lại những

câu tòa hỏi.

     - Các đồng chí định nhúng mõm vào đời tư của tôi à?

Xin lỗi các đồng chí. Tha hồ các đồng chí cứ gán cho tôi đủ

các chuyện, song nếu giống cái chồm chồm lên với tôi thì

chẳng qua vì tôi chẳng coi các mụ ra quái gì. Mà việc này

chẳng ra làm sao, không đáng cái vỏ trứng. Năm nay chứ

năm 1918 thì tôi đã giải quyết việc này theo cách của tôi

với cái thằng loạn óc Pa-ven ấy rồi. Bây giờ thì chẳng cần

tôi ở đây nữa. - Nói rồi hắn bỏ đi ra.

     Khi chủ tọa bảo Pa-ven trình bày chuyện ẩu đả, thì Pa-

ven kể lại bình tĩnh, nhưng ai cũng cảm thấy rằng Pa-ven đã

dùng nhiều nghị lực lắm mới tự chủ được mình như vậy.

     - Tất cả câu chuyện hôm nay phải xét xử ở đây đã xảy

ra là do tôi đã không trấn tĩnh được. Tôi biết rằng, thời kỳ

tôi làm việc bằng hai cánh tay đã qua, mà giờ phải làm việc

bằng óc. Nhưng tôi đã mất tỉnh táo và khi tôi đã kịp nhận rõ

ra điều đó rồi thì Phai- lô đã bị ghế của tôi đập vào đầu.

Trong vòng mấy năm gần đây, lần này là lần độc nhất mà

tôi phạm phải một hành động mang tác phong du kích và tôi

tự trách mình về hành động đó, tuy rằng tên Phai- lô là một

hiện tượng ghê tởm trong sinh hoạt cộng sản của chúng ta.

Tôi không thể hiểu và không khi nào có thể công nhận

được một người cách mạng cộng sản có thể đồng thời là

là một tên súc sinh nhơ bẩn, một thằng chó đểu. Việc này

đề ra cho chúng ta phải bàn đến vấn đề tác phong sinh

hoạt, và tất cả câu chuyện chỉ có khía cạnh ấy là có tính chất

xây dựng mà thôi.

    Tuyệt đại đa số Đảng bộ biểu quyết khai trừ Phai- lô ra

khỏi Đảng. Gơ-ri-bốp bị nghiêm khắc khiển trách có kèm

theo cảnh cáo vì đã làm chứng gian. Những người khác đã

tham gia vào cuộc nói chuyện với Phai- lô hôm trước, vì đã

thành thật kiểm thảo, nên chỉ bị khiển trách .

    Ba-rơ-tê-lích trình bày tình trạng bệnh thần kinh của Pa-

ven. Khi đồng chí dự thẩm của toà án Đảng đề nghị khiển

trách Pa-ven thì toàn thể Hội nghị nhao nhao phản đối.

Đồng chí dự thẩm phải rút lui ý kiến. Pa-ven được trắng án.

    Sau đó mấy ngày, con tàu vụt đưa Pa-ven đến Khác-

cốp. Đảng ủy liên quận đồng ý với đề nghị tha thiết của Pa-

ven, giao anh thuộc quyền điều động của Ban chấp hành

Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản U- cơ-ren. Đảng ủy

ghi những lời nhận xét rất tốt vào lý lịch và Pa-ven lên

đường. Trong số các bí thư của Ban chấp hành trung ương

Đoàn có A-kim. Pa-ven tìm đến gặp anh và kể lại hết mọi

chuyện.

    Trong bản nhận xét, sau những chữ "Tuyệt đối trung

thành với Đảng”, A-kim đọc thấy: "Có đức tính tự chủ của

con người đảng viên. Trong những trường hợp cá biệt, có

nóng nảy và không kiềm chế được mình. Khuyết điểm ấy là

tại thần kinh bị đau nặng".

    - Thế ra họ cũng vẫn ghi cả chuyện ấy vào bản lý lịch

vốn tốt của cậu. Cậu đừng vì thế mà buồn nhé! Nói ngay

những người khỏe hẳn hoi, đôi khi cũng còn phạm phải kia

mà. Thôi cậu thu xếp đi miền Nam nghỉ, lấy lại sức. Bao

giờ về ta sẽ bàn đến công tác của cậu.

    Và A-kim bắt tay Pa-ven rất chặt.

    *

    An dưỡng đường "Người công xã" của Trung ương.

Những lẵng hoa hồng, những tia nước sáng óng ánh ở bể

phun nước, những tòa nhà có giàn nho phủ trong vườn áo

dài trắng và quần áo tắm biển của những người đi nghỉ

mát. Một nữ y sĩ trẻ tuổi ghi họ tên những người đến nghỉ.

Pa-ven ở một gian phòng rộng trong tòa nhà góc vườn,

giường đệm trắng tinh, ở đây sạch không một mảy bụi, im

không một tiếng động nhỏ. Tắm xong, mát tỉnh người, Pa-

ven thay quần áo đi ra bãi biển.

    Trước mắt là cả khoảng bao la biển lặng, cảnh tượng

hùng tráng thăm thẳm một màu xanh đen như cẩm thạch

đánh nhẵn bóng. Không biết đâu là bờ bến, xa xa màu

nước biển lẫn với màu trời nhòa trong sương biếc. Mặt trời

đỏ rực như nung sắp chảy ra, phản chiếu vào mặt nước,

bắt đầu mọc lên như một đám cháy. Xa tít, qua làn sương

sớm, dãy núi chạy dài nhô dần lên từng khối lớn. Pa-ven

căng ngực cố hít thật nhiều không khí tươi mát khỏe người

của gió biển, mắt anh không thể nào rời được cái khoảng

trời yên lặng xanh man mác kia.

    Sóng uể oải dạt dào, âu yếm trườn đến tận chân Pa-

ven, liếm lên lớp cát vàng óng của bờ biển.


CHƯƠNG VII

    Mé cạnh nhà an dưỡng của Trung ương là khu vườn

lớn của bệnh viện bách khoa. Những "công xã viên" mỗi lần

ở ngoài biển về thường đi qua khu vườn đó. Trong vườn

này, Pa-ven ưa đến ngồi nghỉ dưới bóng một cây ngô đồng

cành lá um tùm, gần một bức tường đá màu xám. Ở đây, ít

khi có người đến quấy rầy. Ngồi đấy, có thể nhìn thấy tất cả

đám dân nghỉ mát đi đi lại lại náo nhiệt trên những đường

lớn và lối mòn của khu vườn; tối đến, ngồi đấy lại có thể

nghe hòa nhạc mà vẫn xa lánh được cái cảnh chen chúc

bực mình của một nơi tắm biển lớn.

    Ngày hôm ấy, Pa-ven cũng vào ngồi dưới bóng cây ngô

đồng. Anh khoan khoái nằm dài trên ghế chao bằng mây;

tắm biển và tắm nắng mệt, anh thiu thiu ngủ. Khăn tắm

bông và cuốn "Phiến loạn" của Phua- rơ-ma-nốp đọc chưa

xong để trên mặt ghế chao bên cạnh. Những ngày mới đến

nhà an dưỡng, Pa-ven vẫn luôn luôn bị căng thẳng trong

thần kinh, bệnh nhức đầu liên miên không khỏi. Các giáo

sư tiếp tục nghiên cứu căn bệnh phức tạp và kỳ lạ của anh.

Bắt mạch, nghe tim suốt ngày làm anh mệt phờ và phát

cáu. Bác sĩ điều trị là một người đàn bà có cái tên rắc rối lạ

lùng: I-ê-ru-xa-lim-sích, một nữ đảng viên dễ có thiện cảm,

vui tính. Bác sĩ khó nhọc đỡ Pa-ven dậy và bền tâm thuyết

phục anh chịu khó theo bà sang cho các bác sĩ chuyên

khoa khám. Pa-ven bảo lại bác sĩ:

    - Thú thật với bác sĩ là tôi ngấy lắm rồi. Ngày năm lần

bảy lượt cứ bắt trả lời những câu hỏi, lần nào cũng giống

như lần nào. Bà ngoại đồng chí có loạn óc không? Cụ bốn

đời về đằng họ nội đồng chí có đau bệnh tê thấp không?

Tôi làm thế quái nào mà biết được các cụ đau bệnh gì. Tôi

có trông thấy các cụ bao giờ đâu! Rồi mỗi vị lại muốn tôi

thú nhận là mắc bệnh lậu hay một bệnh gì còn xấu xa hơn

nữa. Còn tôi thì xin thú thật với bác sĩ rằng cái cảnh này

khiến tôi cứ muốn gõ thẳng vào đầu họ. Xin các bác sĩ để

cho tôi được yên. Nếu các vị cứ khám đi khám lại suốt cả

tháng rưỡi trời tôi ở đây thì tôi đến hóa điên hóa rồ mất.

    Bác sĩ I-ê-ru-xa-lim-sích nghe Pa-ven nói chỉ cười, tìm

câu nói đùa vui đáp lại, nhưng mấy phút sau bà đã cầm tay

Pa-ven dắt đi được rồi. Vừa dìu anh đi, vừa kể một câu

chuyện lý thú, bà đưa anh đến cho bác sĩ phẫu thuật khám.

    Ngày hôm ấy không phải khám gì cả. Còn một giờ nữa

mới đến bữa cơm trưa, Pa-ven đang thiu thiu ngủ thì nghe

thấy tiếng bước chân đi vào. Anh không mở mắt: "Người ta

tưởng mình ngủ thì người ta sẽ đi thôi". Pa-ven tính nhầm:

tiếng ghế bên kêu ken két, có ai ngồi xuống. Thoang

thoảng mùi nước hoa nhẹ. Pa-ven đoán người vừa ngồi

xuống là đàn bà...

    Anh mở mắt ra nhìn. Điều anh trông thấy trước tiên là

một tấm áo dài trắng toát, đôi chân nâu rám nắng đi dép

nhỏ bằng da dê, rồi một cái đầu xinh xinh, tóc cắt ngắn kiểu

giả trai, hai mắt rất to và hàm răng nhọn nhọn như răng

chuột nhắt. Người con gái mỉm cười, xấu hổ.

    - Đồng chí thứ lỗi. Tôi có làm phiền đồng chí không ạ?

    Pa-ven không đáp. Kể làm như thế thì không lịch sự tí

nào, song anh vẫn hy vọng rằng mình im không nói, thì

người con gái sẽ bỏ đi.

    - Quyển sách này có phải của đồng chí không?

    Chị lật lật từng tờ, giở xem cuốn "Phiến loạn".

    - Phải.

    Một phút im lặng.

    - Tôi hỏi khí không phải, đồng chí có phải là ở bên nhà

an dưỡng "Người công xã" không?

    Pa-ven cựa mình, bực bội "Cơm gió tai ác nào xui con

bé đến đây? Hừ, mình đang nằm nghỉ, chẳng có nói gì hết.

Nó lại sắp hỏi mình đau bệnh gì đây. Đi quách đi cho rảnh"

Anh càu nhàu nói:

    - Không.

    - Vậy mà hình như tôi có gặp đồng chí ở bên ấy.

    Pa-ven sắp sửa đứng dậy thì có giọng trầm trầm của

đàn bà hỏi :

    - Đô-ra vào làm gì ở đấy?

    Một người con gái tóc vàng, da rám nắng, mặc quần áo

tắm biển lại ngồi bên mép ghế mây. Cô ta đưa mắt liếc

nhìn Pa-ven.

    - Tôi gặp đồng chí ở đâu rồi thì phải. Đồng chí công tác

ở Khác-cốp có phải không?

    - Phải, ở Khác-cốp.

    - Hồi ấy đồng chí làm công tác gì nhỉ?

    Pa-ven nhất định chấm dứt câu chuyện xem chừng sắp

sửa kéo dài này.

    - Làm ở sở đổi thùng.

    Hai người con gái cười ồ lên làm anh cũng phải giật

mình.

    - Người ta không thể nói rằng đồng chí quá hòa nhã

đấy, đồng chí ạ.

   Thế là bắt đầu quen nhau. Sau này, Đô-ra Rốt- ki-na, ủy

viên thường vụ thành ủy Khác-cốp, thường hay nhắc lại cái

buổi đầu mới làm quen nhau ngộ nghĩnh này.

   *

   Pa-ven sang khu vườn nhà an dưỡng "Ta-la-xa" chơi

để nghe hòa nhạc buổi chiều. Bỗng gặp Giác-ki. Thật là kỳ

ngộ. Chính là cái điệu kèn "phốc-tơ-rốt" đã làm cho hai

người trông thấy nhau.

   Trong buổi hoà nhạc, sau khi mụ nữ ca sĩ phốp pháp đã

hoa chân múa tay như điên để chơi bản tình ca "Đêm ngây

ngất ngát hương tình say đắm" thì một cặp nhảy lên sân

khấu. Vai nam ăn mặc nửa kín nửa hở, đội mũ ống cao đỏ

chót, đeo nhạc sắt bên hông, ngực thì lại đeo yếm áo sơ-mi

trắng bốp, lủng lẳng chiếc cà-vạt. Tóm lại, y như biếm họa

một người mọi. Vai nữ trông cũng kháu, trên người cũng

chỉ che độc có vài mảnh vải. Trông thấy cặp đó thì cả đám

"nép- man" béo ú, cổ bự như cổ bò, ngồi sau những ghế

bành và ghế dài của những người bệnh nhà an dưỡng, xì

xào tán phục. ( Nép-man: nép gọi tắt "chính sách kinh tế

mới" áp dụng ở Liên Xô vào những năm 1921-1923 thừa

nhận quyền tự do thương mại và cho phép mở mang xí

nghiệp tư doanh nhỏ. Nép-man là chỉ bọn làm giàu trong

thời kỳ đó).

   Cặp đó ngoáy một điệu "phốc-tơ-rốt" vẹo hông. Không

thể nào tưởng tượng được một trò kinh tởm hơn nữa. Tên

đàn ông béo, đội cái mũ ống sao hết sức lố lăng, và đứa

con gái dính lấy thịt nhau, uốn éo như kiểu khiêu dâm mất

dạy. Ngồi sau Pa- ven, một lão bụng phệ khoái trá thở hổn

ha hổn hển. Pa-ven quay mặt sắp đi ra thì ở hàng đầu, ngay

sát sân khấu có người đứng dậy thét lên giận dữ:

     - Các người chưa hết nghề đánh đĩ hay sao? Cút đi

ngay lập tức.

     Pa-ven nhận ra người nói là Giác-ki.

     Người đánh pi-a-nô thôi không chơi nữa, cây vi- ô-lông

rít lên một tiếng lần cuối rồi im bặt. Cặp nọ trên bục cao

cũng ngay người, thôi không uốn éo. Sau những hàng ghế

dựa, có tiếng "suỵt, suỵt" giận dữ phản đối người đã thét

lên kia:

     - Rõ thật là đồ vô giáo dục! Phá đám một tiết mục của

người ta !

     - Cả châu Âu người ta nhảy như thế !

     - Thật là loạn!

     Nhưng trong đám những người nghỉ ở nhà an dưỡng

"Người công xã" đến xem ở đây, có Xê-ri-ô-gia Gi-ba-

nốp, bí thư Đoàn thanh niên liên quận Sê-rê-pô-vét, đang

thọc bốn ngón tay vào mồm huýt sáo ầm ĩ. Nhiều người

khác ủng hộ anh. Cặp nọ biến, như có trận gió thổi bay vù

đi. Gã ba hoa giữ việc giới thiệu chương trình, giống như

một tên đầy tớ láu cá, tuyên bố với người xem là ban hát

đó sẽ đi khỏi ngay đây thôi.

     - Cút đi đâu thì cút. Chẳng ai giữ.

     Một chàng trẻ tuổi, mặc áo ngủ nhà an dưỡng còn chửi

mát theo chúng mấy câu, khiến bà con ai nấy cười phá lên.

     Pa-ven tìm đến hàng ghế đầu gặp Giác-ki. Hai người

về buồng Pa-ven trò chuyện rất lâu. Giác-ki làm công tác

tuyên truyền viên ở một đảng ủy liên quận. Giác- ki nói:

     - Cậu biết mình lấy vợ chưa nhỉ? Mình sắp có con rồi

đấy. Chẳng biết sẽ là trai hay gái.

   - Thế à. Cậu lấy ai đấy?

   Giác-ki rút ở túi ra một tấm ảnh, đưa cho Pa-ven xem.

   - Cậu có nhận ra ai không?

   Người trong ảnh: An-na Bô-khác.

   - Thế Đu-ba-va giờ ở đâu? - Pa-ven hỏi lại, trong lòng

càng ngạc nhiên thêm.

   - Đu-ba-va hiện ở Mát-xcơ-va. Khi nó bị khai trừ khỏi

Đảng thì cũng thôi không học Trường đại học cộng sản

nữa. Giờ học Trường cao đẳng kỹ thuật. Theo tin đồn thì

hắn đã được phục hồi. Nhưng phục hồi nó là sai lầm. Nó là

một phần tử thối nát ... Cậu có biết Pan-cơ-ra-tốp giờ ở

đâu không? Giờ nó làm phó giám đốc một xưởng đóng tàu

biển. Còn tin tức những đứa khác, tớ không biết mấy. Anh

em mỗi thằng một ngả, công tác ở khắp mọi chỗ trong

nước. Nhưng được gặp nhau, kể lại chuyện xưa thì thú thật.

   Đô-ra đi vào cùng với mấy đồng chí khác. Giác- ki khép

cửa lại. Đô-ra nhìn huân chương trên ngực Giác-ki hỏi Pa-

ven:

   - Bạn anh đấy à? Đảng viên chứ? Công tác ở đâu đấy?

   Pa-ven không hiểu chuyện gì, giới thiệu vắn tắt Giác-ki

với Đô-ra.

   Đô-ra giải thích:

   - Vậy thì Giác-ki cứ ngồi lại đây. Có những đồng chí

mới ở Mát-xcơ-va đến, cho biết tin tức mới của Đảng. Định

mượn buồng anh họp kín.

   Trừ Pa-ven và Giác-ki ra, những người có mặt hầu hết

là đảng viên bôn-sê-vích lâu năm. Bác-ta-ép, ủy viên ban

kiểm tra Mát-xcơ-va nói chuyện về phe đối lập mới do

nhóm tờ-rốt-skít Di-nô-vi-ếp và Ca-mê- nhếp đứng đầu.

Đồng chí kết luận:

   - Giữa lúc tình hình nghiêm trọng như thế này, chúng ta

không thể vắng mặt. Mai tôi về đây.

   Ba ngày sau, nhà an dưỡng chưa hết hè đã vắng ngắt.

Cả Pa-ven nữa, không nghỉ hết thời hạn đã quy định, cũng

bỏ về.

   Đảng không giữ anh lâu ở Trung ương Đoàn, chỉ định

anh làm bí thư liên quận ủy một vùng công nghiệp. Một tuần

sau, anh đọc bài diễn văn đầu tiên trước các cán bộ địa

phương.

   Dạo ấy đã về cuối thu rồi. Chiếc xe hơi của liên quận ủy

đi về một quận bị rớt xuống vực bên đường. Trên xe có Pa-

ven và hai cán bộ nữa.

   Cả ba cùng bị thương nặng. Pa-ven bị giập đầu gối

bên phải. Mấy ngày sau, anh được chuyển đi chữa ở một

viện giải phẫu ở Khác-cốp. Các bác sĩ khám đầu gối bị

sưng của anh và chiếu điện, đều tuyên bố là phải mổ ngay.

   Pa-ven đồng ý.

   Bác sĩ cao lớn đứng đầu hội đồng chẩn bệnh, kết luận:

   - Vậy thì sáng mai sẽ mổ.

   Rồi bác sĩ đứng dậy và tất cả các bác sĩ khác cũng

đứng dậy theo đi ra.

   Một phòng nhỏ sáng sủa cho một người bệnh nằm.

Trong phòng sạch như lau như li và có mùi đặc biệt của

nhà thương, cái mùi ấy Pa-ven lâu không ngửi đã quên

khuấy rồi. Pa-ven nhìn chung quanh phòng. Một chiếc bàn

nhỏ trải khăn trắng bong và một chiếc ghế đẩu sơn trắng.

Chỉ có thế thôi.

   Một chị hộ lý mang cơm tối vào.

     Pa-ven từ chối không ăn. Anh đang ngồi ngả người trên

giường viết thư. Chân đau làm anh không nghĩ ngợi gì

được. Bụng anh không muốn ăn.

     Viết xong lá thư thứ tư thì thấy cửa buồng hé mở. Một

người đàn bà trẻ tuổi, mặc áo khoác trắng và mũ trắng, lại

đầu giường anh. Bóng tối nhá nhem, anh chỉ nhận ra đôi

mày rất mỏng và đôi mắt to mà anh đoán là mắt đen.

Người đàn bà một tay đỡ cặp da, một tay cầm lấy tờ giấy

và cái bút chì, tự giới thiệu với Pa-ven:

     - Tôi là bác sĩ điều trị của đồng chí. Hôm nay đến phiên

tôi trực. Tôi sắp hỏi cung đồng chí đây, dù muốn hay không

đồng chí thế nào cũng phải kể cho tôi nghe hết tất cả những

điều bệnh viện cần biết về đồng chí đấy nhé.

     Bà bác sĩ cười niềm nở. Nụ cười làm buổi "hỏi cung"

đỡ nặng nề. Suốt một giờ liền, Pa-ven nói chuyện về mình

và nói chuyện cả về những bà cụ tổ bốn đời nhà mình nữa.

     Trong phòng mổ, đông người làm việc, ai nấy đều có

lượt băng mỏng bịt lấy mồm và mũi.

     Đồ mổ bằng kền sáng bóng, một chiếc bàn dài hẹp bề

ngang và dưới mặt bàn một chiếc chậu to. Pa-ven nằm trên

bàn, giáo sư chuyên về phẫu thuật cũng vừa rửa tay xong.

Phía sau, những người giúp việc vội vàng sắp xếp đồ mổ.

Pa-ven quay mặt đi. Một nữ y tá đang xếp dao mổ. Bác sĩ

Ba-gia-nô-va cởi băng vết thương ở chân Pa-ven, nói rất

nhỏ bảo anh:

     - Đồng chí quay đi chỗ khác, nhìn thấy dễ xúc động,

không lợi đến thần kinh.

     - Bác sĩ bảo xúc động thần kinh của ai cơ?

     Pa-ven mỉm cười có vẻ khinh thường.

    Mấy phút sau, mặt nạ dày úp chụp lấy mặt anh.

    Giáo sư giải phẫu nói:

    - Đồng chí bình tĩnh nhớ. Chúng tôi sắp đánh thuốc mê.

Đồng chí thở đi, thở chậm đường mũi và đếm một, hai, ba,

bốn...

    Tiếng người bị nghẹt dưới cái mặt nạ, bình thản trả lời:

    - Được, nếu tôi mê đi, có văng lời chửi tục thì xin lỗi

Các đồng chí trước.

    Bác sĩ không nhịn được, hé môi mỉm cười.

    Mấy giọt thuốc mê đầu tiên, mùi ngột ngạt, nôn nao.

    Pa-ven hít thở mạnh và chậm, cố dằn từng tiếng, bắt

đầu đếm: một, hai, ba, bốn ... Anh bước vào màn đầu tấn

bi kịch của đời anh như thế đấy.

    *

    A-rơ-chom mở như xé đôi phong bì và không hiểu sao

lòng bồi hồi, giở thư ra đọc. Mắt ngốn mấy dòng đầu rồi

đọc lướt một mạch cả thư.

   "Anh A-rơ-chom!

   Em với anh rất ít khi viết thư cho nhau. Mỗi năm chỉ

một hai lần. Nhưng cốt nội dung thư, chứ cần gì viết

nhiều, anh nhỉ? Trong thư trước, anh cho em hay tin anh

đã đem gia đình rời Sê-pê-tốp-ca đến làm ở một kho đầu

máy nhà ga Ca-da-chin, để "dứt cho đứt rễ”. Em hiểu: rễ

ấy là chị Schi-ô-sa, là ông bà sinh ra chị, là cái tư tưởng

tư hữu nhỏ lạc hậu của họ... Cải tạo những người như chị

Schi-ô-sa chẳng phải chuyện dễ. Em lo là đến anh cũng

không cải tạo được chị ấy đâu. Anh cứ bảo: "Không còn

tuổi thanh niên thì học khó vào". Vậy mà anh học tiến bộ

lắm đấy. Anh cứ khăng khăng không chịu bỏ sản xuất để

nhận công tác chủ tịch Xô-viết thành phố. Như thế không

đúng, anh ạ. Anh đã chiến đấu giành chính quyền có phải

không, anh? Vậy thì anh phải nắm lấy chính quyền. Ngay

ngày mai, anh nhận trách nhiệm ấy đi và bắt tay vào công

tác.

    Giờ nói đến em. Có chuyện không hay, anh ạ. Em

phải đi nằm bệnh viện. Bác sĩ làm thịt hai lần, đổ mất khá

máu, sức mất đi nhiều, thế mà đến tận bây giờ, không ai

dám nói là bao giờ em khỏi.

    Em phải bỏ công tác, tìm ra được một cái nghề mới,

cái nghề "con bệnh". Em chịu trăm sự đau đớn giày vò và

kết quả là đầu gối bên phải tê liệt, trên người bao nhiêu là

sẹo và sau hết, sự khám phá cuối cùng của các thầy

thuốc: cách đây bảy năm, em bị đá giáng vào xương

sống. Ngày nay, thầy thuốc bảo vết thương ấy gay cho

em lắm. Em sẵn sàng chịu đựng hết thảy, quý hồ sẽ

được trở về vị trí của em trong đội ngũ.

    Đối với em, trong đời không gì đáng kinh sợ hơn là sẽ

phải xa rời đội ngũ. Thậm chí em cũng không dám nghĩ

đến cảnh ấy nữa. Cho nên em đề nghị các bác sĩ tha hồ

làm thế nào thì làm. Chữa mãi chẳng ăn thua gì mà mây

đen kéo đến lại càng dày hơn trước. Lần mổ thứ nhất đã

khỏi, em vừa chập chững đi được em đã lại công tác

ngay. Nhưng chẳng bao lâu lại quy lại bị đưa vào bệnh

viên. Hiện nay em đã có giấy đi nghỉ tại nhà an dưỡng

"Mai-nắc" ở Ơ- pa-tô-ri-a. Mai em sẽ lên đường. Anh

đừng lo, anh A-rơ-chom ạ, chẳng dễ mà đem em đi chôn

được đâu. Em đủ sức để sống ba đời người. Chúng ta sẽ

thắng cuộc đời lần nữa, anh ạ! Anh giữ gìn sức khỏe, anh

nhớ. Đừng có làm gì quá sức kẻo sau đó lại phải chữa

chạy tốn kém cho Đảng. Năm tháng cho ta kinh nghiệm

với hiểu biết, không phải để ta mang kinh nghiệm với

hiểu biết đó vào nằm dài ở nhà thương.

  PA-VEN CA-RƠ-SA-GHIN"

    Trong khi A-rơ-chom cau đôi mày rậm, đọc bức thư này

thì Pa-ven từ giã bác sĩ Ba-gia-nô-va. Bác sĩ bắt tay Pa-ven

và hỏi anh:

    - Mai đồng chí mới đi Cơ-ri-mê? Vậy ngày hôm nay

đồng chí định đến chơi đâu?

    Pa-ven trả lời:

    - Chị Đô-ra chốc nữa sẽ đến đón tôi. Tôi đến ở chơi

nhà Đô-ra qua đêm nay, và sáng mai chị ấy sẽ đưa tôi ra

tàu.

    Bác sĩ Ba-gia-nô-va biết Đô-ra là người con gái thường

đến thăm Pa-ven.

    - Đồng chí Pa-ven, ta đã đồng ý với nhau là trước khi đi,

đồng chí sẽ đến gặp cha tôi, đồng chí có nhớ không? Tôi

đã nói chuyện với cha tôi về đồng chí, đã trình cha tôi hiểu

cặn kẽ về bệnh của đồng chí rồi đấy. Tôi rất muốn được

ông khám bệnh cho đồng chí. Tối nay, đồng chí có thể đến

để ông xem cho được.

    Pa-ven đồng ý ngay.

    Ngay tối hôm đó, nữ bác sĩ Ba-gia-nô-va đưa Pa- ven

vào phòng thăm bệnh rộng lớn của cha.

    Trước mặt con gái, nhà phẫu thuật nổi tiếng chăm chú

khám bệnh cho Pa-ven, Ba-gia-nô-va đã đem ở bệnh xá về

những ảnh chiếu điện cho những bản phân tích về bệnh của

Pa-ven. Ông cụ bỗng nói một tràng dài bằng tiếng la-tinh.

Pa-ven nhận thấy Ba-gia-nô- va đột nhiên tái mặt. Anh nhìn

chăm chăm chiếc đầu hói của ông cụ, cố đoán một điều gì

trong đôi mắt sắc của vị giáo sư già. Song ông cụ Ba-gia-

nốp hết sức điềm tĩnh không lộ một vẻ gì.

    Khi Pa-ven mặc lại quần áo rồi thì bác sĩ Ba-gia- nốp

chào biệt anh; ông cụ phải đến dự một cuộc họp và ủy cho

con gái nói để Pa-ven biết nhận xét của ông về bệnh của

anh.

    Trong gian phòng của Ba-gia-nô-va, đồ đạc bày biện

cầu kỳ, Pa-ven nằm ra đi-văng nghỉ, đợi Ba-gia-nô- va nói.

Nữ bác sĩ không biết bắt đầu thế nào và nói gì bây giờ, nên

rất lúng túng. Cha của bác sĩ vừa tuyên bố : y học hiện thời

chưa có phương tiện ngăn được sức tàn phá của chứng

viêm ngày một phát triển trong cơ thể Pa-ven. Ông cụ

không tán thành chủ trương dùng giải phẫu để trị bệnh này.

"Chàng trẻ tuổi này chẳng chóng thì chầy sẽ bị tê liệt một

cách bi đát. Thầy thuốc chúng ta bất lực, không có cách gì

ngăn được đâu”.

    Bác sĩ Ba-gia-nô-va tự nghĩ mình vừa là thầy thuốc, vừa

là bạn, không thể nào nói hết sự thật cho Pa- ven nghe

được, chỉ tìm lời nhẹ nhàng thuật cho Pa- ven một phần nhỏ

sự thật mà thôi.

    - Tôi tin chắc là bùn nóng vùng Ơ-pa-tô-ri-a sẽ có tác

dụng quyết định và chỉ mùa thu này thôi đồng chí sẽ có thể

trở lại làm việc.

Bác sĩ quên là có đôi mắt sắc đang chăm chú nhìn bác

sĩ.

     - Theo những lời bác sĩ nói, hay đúng hơn theo những

lời bác sĩ không nói hết, tôi đoán hiểu bệnh của tôi trầm

trọng đến mức nào. Bác sĩ chẳng còn nhớ tôi đã yêu cầu

bác sĩ bao giờ cũng cứ nói thật hết với tôi. Đừng giấu tôi

điều gì. Tôi nghe điều dữ chẳng đến nỗi ngất đi đâu và

cũng chẳng cắt cổ họng tự tử đâu. Song tôi nhất định muốn

biết tương lai bệnh tình của tôi sẽ ra sao? - Pa-ven nói dằn

từng tiếng.

     Ba-gia-nô-va dùng một câu bông đùa để đánh trống

lảng.

     Thế là tối hôm ấy, Pa-ven vẫn không làm sao tìm được

sự thật. Khi hai người chia tay, nữ bác sĩ thủ thỉ:

     - Đồng chí chớ quên có tôi là bạn của đồng chí, đồng chí

Pa-ven ạ; cuộc đời đồng chí rồi đây phải đề phòng tất cả

mọi sự bất thần xảy ra. Nếu đồng chí cần tôi giúp đỡ hay

tham gia ý kiến, xin cứ viết thư. Tôi có thể làm được việc

gì, xin làm hết sức.

     Nữ bác sĩ ngó qua cửa sổ, nhìn theo bóng người cao

lớn, mặc áo bành-tô da đang khó nhọc chống gậy bước

chân xuống thềm đi ra xe ngựa.

     *

     Lại về Ơ-pa-tô-ri-a. Trời phương Nam nóng nực.

Người miền Nam da rám nắng, đội mũ nồi nhỏ thêu chỉ

vàng, tính tình ưa náo động. Chỉ mươi phút, xe ca đã đưa

hành khách tới tòa nhà hai tầng xây bằng đá màu xám, nhà

an dưỡng "Mai-nắc".

     Bác sĩ thường trực phân phối bệnh nhân vào buồng. Khi

bác sĩ đến trước phòng số 11, bác sĩ quay hỏi Pa-ven:

    - Cơ quan nào gửi đồng chí đến đây?

    - Trung ương Đảng cộng sản U-cơ-ren.

    - Nếu vậy thì chúng tôi xếp đồng chí vào ở buồng này

với đồng chí Ép-ne. - Bác sĩ giải thích thêm: - Đồng chí ấy

người Đức, có đề nghị được ở chung với một đồng chí

người Nga.

    Bác sĩ gõ cửa. Có tiếng Nga lơ lớ trả lời.

    - Cứ vào!

    Pa-ven đặt va-li xuống sàn và quay ra nhìn người nằm

trên giường có mái tóc vàng hoe, có một đôi dép màu xanh

biếc. Đồng chí người Đức cười hồn nhiên đón chào Pa-

ven.

    - Gúd moóc-ghen, ghê-nô-xen( Tiếng Đức: Chào đồng

chí ). Tôi muốn nói: Chào đồng chí. - Rồi giơ bàn tay xanh

xao, ngón tay thon thon ra bắt tay Pa-ven.

    Mấy phút sau, Pa-ven đến ngồi đầu giường Ép-ne và

đôi bên trò chuyện sôi nổi bằng tiếng "quốc tế”, thứ tiếng

mà chữ nghĩa chỉ là phụ, mỗi câu nói không hiểu thì lại dùng

thêm óc đoán, tay chỉ trỏ và nét mặt làm điệu bộ - nói tóm

lại, dùng thêm đủ mọi phép của một thứ quốc tế ngữ không

văn tự.

    Pa-ven đã hiểu ngay được là Ép-ne vốn là thợ bên Đức

trong cuộc khởi nghĩa năm 1923 ở Hăm-bua, đồng chí bị

đạn vào hông; vết thương cũ bây giờ lại loét ra, bắt đồng

chí nằm liệt giường. Tuy bị đau đớn như vậy, đồng chí vẫn

tươi tỉnh, và đức dũng cảm đó được Pa-ven rất lấy làm

kính nể.

    Pa-ven không thể nào mơ ước một người bạn nằm

cạnh tốt như thế. Một người bạn "láng giềng" như vậy sẽ

chẳng nói nhiều về bệnh mình và chẳng than thở luôn mồm

từ sáng đến tối đâu. Trái lại, ở cùng buồng với một người

như vậy, có thể quên hết nỗi đau buồn của chính bản thân

mình. Pa-ven thầm nghĩ "Tiếc thật, mình chẳng biết một

tiếng Đức quái nào cả".

    Trong một góc vườn có kê nhiều ghế mây, một chiếc

bàn tre, hai ghế bành có xe đun. Bộ "năm" mà anh em gọi

đùa là "ban chấp hành của Quốc tế cộng sản" thường ra

đấy nghỉ sau mỗi lần làm thuốc.

    Ép-ne ngả người trên một chiếc ghế bành; Pa-ven thì

bác sĩ không cho đi lại cũng ngồi trên chiếc ghế bành kia.

Ba người bệnh nữa là đồng chí Vai-man béo phục phịch,

người Ét-stô-ni, cán bộ giúp việc ở Bộ dân ủy thương mại

nước cộng hòa Cơ-ri-mê; nữ đồng chí Ma-giơ-ta La-u-rin,

người Lét-tô-ni, còn trẻ, mắt nâu, trông tưởng chừng như

con gái mười tám, và đồng chí Lét-đê-nhếp, người Xi-bê-ri

cao lớn, tóc ở thái dương đã hoa râm. Thế là năm người

thuộc năm dân tộc: Một người Đức, một người Ét-stô-ni,

một người Lét-tô-ni, một người Nga và một người U- cơ-

ren. Ma-rơ-ta và Vai-man nói tiếng Đức, hai người làm

phiên dịch cho Ép-ne và Pa-ven thân nhau vì ở cùng buồng,

Ép-ne gần với Ma-rơ-ta và Vai-man vì nói chuyện được với

nhau bằng tiếng Đức. Còn Pa- ven và Lê-đê-nhếp thân

nhau vì cùng thích đánh cờ.

    Trước khi Lê-đê-nhếp chưa đến đây thì Pa-ven là "vô

địch" ở nhà an dưỡng. Anh đã đấu kịch liệt với Vai-man

mới giành được chức đó. Vì thua cờ, anh chàng người Ét-

stô-ni lầm lì này phát cáu. Anh ta từ lâu nuôi hận với Pa-ven

vì trận thua cờ này. Nhưng rồi có một ông cụ già cao lớn

đến nhà an dưỡng. Ông lão năm mươi tuổi mà trông trẻ lạ

lùng, ông cụ ấy là Lê-đê-nhếp. Một hôm, Lê-đê-nhếp gạ

Pa-ven đánh một ván cờ. Pa-ven có ngờ đâu ông cụ là tay

lợi hại, đấm tốt đầu. Pa-ven là tay "vô địch" nên được ra

đương đầu với bất cứ tay cờ nào mới đến nhà an dưỡng.

Những trận như thế, người ta thường xúm lại xem đông.

Đến nước đi thứ chín thì Pa-ven nhận ra Lê-đê-nhếp đi rất

chắc, đã bắt đầu thế công, anh hiểu rằng anh đang đương

đầu với một đối thủ nguy hiểm. Lúc ấy anh mới thấy anh đã

ra quân không kín nước là dại.

     Ván cờ ròng rã ba tiếng. Mặc dù đem hết cố gắng, đem

hết tâm lực, Pa-ven cũng phải xin thua. Anh đã thấy, trước

tất cả năm người chầu rìa, là mình thua mất. Nhìn sang đối

thủ: ông cụ Lê-đê-nhếp tủm tỉm cường một cách độ lượng.

Lẽ tất nhiên ông cụ cũng thấy là Pa-ven thua rồi. Nhưng

người xem vẫn chưa biết thắng bại về ai, cả Vai-man là

người mong Pa- ven thua ra mặt, cũng chưa hề biết.

     - Tôi bao giờ cũng kháng cự đến quân cuối cùng. Pa-

ven nói thế. Và Lê-đê-nhếp gật đầu đáp lại câu nói mà chỉ

có riêng cụ hiểu.

     Pa-ven đánh với cụ Lê-đê-nhếp mười ván trong năm

ngày: Thua bảy, được hai, hòa một.

     Vai-man khoái quá.

     - Cám ơn đồng chí Lê-đê-nhếp nhé! Đồng chí già hay

thật ! Đáng đời cu cậu Pa-ven lắm ! Nó đã đánh bại những

tay lão tướng chúng tôi. Giờ thì nó cũng lại bị một lão

tướng đánh bại, ha, ha, ha!

     Rồi anh ta quay ra trêu người đã thắng mình nay thất

trận.

    - Sao cậu, thua có thú không, cậu?

    Pa-ven đành phải nhường chức "vô địch" cờ, song mất

cái danh vọng trẻ con đó, anh đã được làm quen với Lê-

đê-nhếp và ông cụ đối với anh sau này rất thân, rất quý. Pa-

ven thua cờ là phải. Anh mới chỉ đi nước nào biết nước ấy,

nên phải chịu thua bậc thầy đã nắm được hết phép bí

truyền của cờ thế .

    Rồi lại thêm một ngày kỷ niệm chung làm đồng chí già

và đồng chí trẻ càng thêm gần gũi. Pa-ven sinh năm mà Lê-

đê-nhếp vào Đảng. Cả hai là tiêu biểu rất điển hình của lớp

vệ quân trẻ và lớp vệ quân già bôn-sê-vích. Một người giàu

kinh nghiệm về đời và kinh nghiệm chính trị, đã từng qua

nhiều năm đấu tranh bí mật, ra vào ngục tù của Nga hoàng

và sau đó đã từng làm công tác chính quyền, giữ trọng

trách của nhà nước. Một người thì mới qua một thời thanh

niên sôi nổi và mới chỉ có tám năm tuổi đấu tranh thôi,

nhưng sống thời thanh niên và tám năm ấy tốn sức hơn cả

một đời người. Cả hai người, già cũng như trẻ, lòng còn

hăng, máu còn nóng, nhưng sức khỏe đã hư rồi.

    Tối đến ở phòng 11 là phòng của Ép-ne và Pa-ven, ồn

ào, ầm ĩ như một câu lạc bộ vậy. Từ đấy truyền đi các tin

tức thời sự chính trị. Thường thường Vai- man tìm cách

tương vào một câu chuyện tiếu lâm tục tĩu mà anh rất lấy

làm thú, nhưng cứ mở mồm kể thì bị Ma-rơ-ta và Pa-ven

trừng mắt nhìn lại ngay. Ma-rơ-ta dùng lời mỉa mai tế nhị và

sâu sắc bắt anh ta im và nói mỉa không xong, thì Pa-ven lại

phải dính vào.

    - Vai-man, anh tưởng chúng tôi thưởng thức cái lối pha

trò của anh đấy phỏng? - Pa-ven cất giọng đùng đùng nổi

giận: - Tôi không hiểu làm sao anh có thể dung hoà những

quan điểm . . .

     Vai-man bĩu làn môi dày, mắt ti hí liếc nhìn mọi người có

vẻ chế nhạo:

     - Ta phải lập một cơ quan thanh tra đạo đức bên cạnh

cơ quan Tổng giám đốc giáo dục quốc dân và đề cử đồng

chí Pa-ven làm tổng thanh tra mới được. Ma-rơ-ta chọi lại

thì còn có lý. Chị và phe phụ nữ, đối lập nhà nghề với tôi rồi.

Còn Pa-ven lại làm ra bộ ngây thơ cụ hay như người ta

thường nói, làm ra bộ tí nhau của Côm-xô-môn... Tôi ấy à,

tôi không ưa cái lối trứng đòi dạy khôn vịt.

     Sau cuộc tranh cãi về đạo đức cộng sản ấy, vấn đề tục

tĩu được đưa ra thảo luận về nguyên tắc. Ma- rơ-ta dịch cho

Ép-ne nghe những quan điểm khác nhau. Ép-ne tuyên bố.

     - Chuyện tục tĩu không tốt.Tôi tán thành ý kiến của Pa-

ven.

     Vai-man phải rút lui ý kiến, nói dăm câu bông phèng để

đánh trống lảng, nhưng rồi thôi không kể những chuyện tủ

ấy của anh nữa.

     Pa-ven tưởng Ma-rơ-ta cũng là Côm-xô-môn. Anh trông

mặt Ma-rơ-ta đoán mới mười chín tuổi. Anh rất đỗi ngạc

nhiên, một hôm nói chuyện với Ma-rơ- ta biết chị vào Đảng

từ năm 1917, chị đã ba mươi mốt tuổi rồi và chị là một

trong những cán bộ đắc lực nhất của Đảng cộng sản Lét-

tô-ni. Năm 1918 chị đã bị bọn trắng kết án tử hình, song

nhờ Chính phủ Xô-viết trao đổi tù binh, chị được lấy về

cùng nhiều đồng chí khác. Hiện chị công tác ở báo "Sự

thật" và đồng thời học nốt đại học. Hai người trở nên thân

thiết lúc nào Pa-ven cũng không biết: Ma-rơ-ta thường hay

sang chơi bên buồng Ép-ne, bắt đầu không rời "bộ năm" ra

nữa.

    Đồng chí Ê-gơ-lít, cán bộ bí mật, cũng người Lét- tô-ni,

thường chế chị một cách tinh nghịch:

    - Này Ma-rơ-ta, thế còn anh chàng Ô-dôn tội nghiệp ở

lại Mát-xcơ-va một mình thì sao đây? Không được đâu

nhớ!

    Sáng sáng, cứ trước khi có chuông một phút thì có

tiếng gà gáy lên giòn giã. Ép-ne bắt trước gà gáy rất tài.

Nhân viên nhà ăn cứ nháo lên đi tìm con gà nào lạc vào

trong các phòng, song tìm mãi không ra, Ép-ne lấy làm thú

vị về chuyện đó lắm.

    Đến cuối tháng, Pa-ven thấy bệnh nặng thêm lên. Thầy

thuốc bắt anh nằm. Ép-ne thương bạn, rất buồn. Anh thấy

quý người thanh niên bôn-sê-vích giàu sức sống, sôi lên

sùng sục không hề chán nản bao giờ, mà đã sớm mất sức

lực. Đến khi Ma-rơ-ta kể cho Ép- ne nghe là các thầy thuốc

đều nói bệnh Pa-ven sẽ phát triển đến chỗ bi đát thì Ép-ne

đau đớn rụng rời.

    Suốt cả thời gian nằm điều trị Pa-ven bị cấm không

được đi lại

    Pa-ven giấu được những cơn đau bệnh của mình để

chung quanh không ai thấy. Chỉ có Ma-rơ-ta trông thấy mặt

anh tái mét là đoán được anh đau lắm. Một tuần trước khi

rời nhà an dưỡng này anh nhận được thư của Trung ương

đoàn thanh niên U-cơ-ren cho phép anh nghỉ thêm hai

tháng và căn cứ vào kết luận của các thầy thuốc nhà an

dưỡng, Đoàn nhận thấy tình hình sức khỏe anh không cho

phép anh trở về nhận lại công tác được. Kèm theo thư,

Đoàn gửi cho anh một món tiền.

    Pa-ven chịu đựng cái cú đầu tiên này như xưa kia anh

đã từng chịu đựng những cú của Giu-khơ-rai dạy anh học

quyền Anh: Xưa kia bị Giu-khơ-rai đấm, anh ngã khuỵu,

nhưng rồi lại dậy ngay được.

    Bỗng anh nhận được thư mẹ. Bà cụ viết cho anh bảo là

ở hải cảng ngay cạnh Ơ-pa-tô-ri-a, bà cụ có bà bạn cũ tên

là An-bi-na Quýt-xam đã mười lăm năm nay không gặp lại.

Mẹ nhắn Pa-ven thế nào cũng sang thăm bà bạn. Bức thư

ấy đã đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc đời Pa-ven.

    Một tuần sau, Hội ái hữu của nhà an dưỡng tiễn chân

Pa-ven ra tận bến tàu. Ép-ne ôm chặt lấy Pa- ven, hôn anh

như hôn em trai của mình. Còn Ma- rơ-ta thì biến đâu mất.

Pa-ven đi không gặp được Ma-rơ-ta để chào biệt.

    Sáng hôm sau, Pa-ven lên bến, đáp xe ngựa, xe đỗ

trước một căn nhà nhỏ có vườn chung quanh, Pa- ven nhờ

bác xà-ích vào hỏi thăm, đúng là gia đình bà Quýt-xam ở

nhà này.

    Gia đình Quýt-xam có năm người : Bà cụ An-bi- na,

người đẫy đà, có cái nhìn chậm chạp lờ đờ của đôi mắt

đen, trên khuôn mặt nhăn nheo còn tàn dư của vẻ đẹp thời

con gái, ông lão Quýt-xam, dáng người thô lỗ, khinh khỉnh,

trông y như lợn ỉn.

    Ông lão làm hợp tác xã; cô gái út là Thai-a thì ở nhà

trông nom bếp nước, cô gái lớn là Li-ô-la trước kia đi đánh

máy chữ, gần đây li dị với chồng là một tên vô lại say rượu

bí tỉ. Hiện chị không có việc làm, ở nhà trông con và giúp

mẹ chăm lo việc trong nhà.

    Ông bà Quýt-xam còn có cậu con trai tên là Gioóc- giơ,

xong Gioóc-giơ hiện ở Lê-nin-gơ-rat.

    Nhà Quýt-xam niềm nở đón Pa-ven. Chỉ có ông lão nhìn

khách một cách hằn học, nghi kỵ.

    Pa-ven kiên nhẫn ngồi kể hết chuyện nhà cho bà cụ An-

bi-na nghe và hỏi thăm lại về cảnh gia đình bà cụ.

    Li-ô-la hai mươi hai tuổi. Tính tình rất đơn giản, tóc màu

hạt dẻ cắt ngắn, nét mặt nở nang, cởi mở, cô thân ngay

được với Pa-ven và không ngần ngại cho anh biết hết

những chuyện uẩn khúc trong gia đình. Pa-ven nhờ đó biết

được lão già Quýt-xam hành hạ cả nhà như một tên ác

chúa, động ai có ý kiến gì hay ý định gì là lão ta đàn áp

ngay. Lão ta ngu xuẩn, thiển cận, ti tiện, cả ngày gieo rắc

khủng bố trong gia đình, cho nên con cái hờn oán, và bà cụ

đã hai mươi năm trời nay phải đấu tranh với tính độc đoán

ấy cũng sinh ra thù ghét lão. Các con gái luôn đứng về phía

mẹ, chuyện lục đục, liên tiếp xảy ra trong gia đình làm cả

nhà đều khổ sở. Ngày nào cũng như ngày nào, rặt những

chuyện bực mình lớn, nhỏ.

    Còn một con quỷ nữa trong gia đình là Gioóc-giơ. Cứ

theo chuyện Li-ô-la kể thì nó thật là một thằng chẳng làm

được trò trống gì, mà cứ lên mặt ta đây, huênh hoang hết

sức, chỉ thích ăn ngon mặc đẹp, uống rượu chết thôi. Học

hết trường chín năm, Gioóc- giơ cậy là con út được cưng,

đòi mẹ cho tiền ra thủ đô học .

    - Tôi muốn học lên đại học. Li-ô-la bán nhẫn đi. còn mẹ

bán quần áo, đồ đạc. Tôi cần tiền tiêu. Các người làm thế

nào cho tôi thì làm.

    Gioóc-giơ biết mẹ không từ chối mình bao giờ, và hắn

lợi dụng mẹ chiều, thẳng tay đục khoét. Đối với hai chị thì

khinh bỉ ra mặt, tự coi như bề trên nhìn xuống kẻ dưới. Thôi

thì bà cụ bòn được ông lão đồng nào và Thai-a làm ra

được đồng nào là bà gửi cho con trai tất. Thằng con thì thi

gì cũng trượt liểng xiểng, vậy mà chẳng buồn tí nào. Nó ở

trọ nhà chú nó, đánh dây thép liên tiếp về đòi mẹ gửi tiền

ra, làm bà cụ phát hoảng.

     Cô gái út là Thai-a, Pa-ven tới khuya mới trông thấy cô

ta. Mẹ Thai-a đón ở cửa, khẽ nhắc con nhà có khách. Thai-

a bối rối chìa tay ra bắt tay Pa-ven và trước mặt người

khách lạ còn trẻ, cô thẹn đỏ chín má. Tay Pa-ven không

buông ngay bàn tay nhỏ, cứng rắn, có nốt chai ấy.

     Thai-a năm nay mới vừa mười chín tuổi. Người không

lấy gì làm đẹp, song có đôi mắt nâu, cặp lông mày nhỏ

xếch, cái mũi dọc dừa, cặp môi tươi và bậu khiến cho ai

cũng ưa nhìn. Ngực trẻ của Thai-a bó căng trong chiếc sơ-

mi cộc tay kẻ dọc.

     Hai chị em ở hai buồng nhỏ xíu liền nhau. Buồng Thai-a

có cái giường sắt hẹp, một chiếc tủ đứng đựng đồ vật bề

bộn, với một gương con và trên tường treo chừng ba chục

tấm ảnh chụp và ảnh in. Ở mặt cửa sổ hai chậu hoa tươi:

hoa hương diệp và hoa thúy cúc hồng nhạt, màn cửa bằng

tuyn có buộc băng xanh màu da trời.

     - Thai-a không thích để cho đàn ông vào buồng mình

đâu, nhưng đối với anh, anh xem, thật là đặc biệt đấy. - Li-

ô-la nói đùa cô em như thế.

     Tối hôm sau cả nhà ngồi uống trà bên buồng ông bà

già, Thai-a ở lại phòng riêng, ngồi đấy, lắng nghe mọi

người nói chuyện. Lão Quýt-xam vừa đưa tay quấy đường

trong cốc nước, vừa nghếch mắt qua cặp kính nhìn khách

ngồi trước mặt một cách chẳng ưa lành gì.

     - Tôi không tán thành luật hôn nhân gia đình thời bây

giờ. Muốn lấy nhau thế nào thì lấy tùy thích. Muốn bỏ nhau

thì bỏ, chẳng ai ngăn được. Tha hồ là tự do.

     Lão già cầm ngang thìa húp trà và lên một cơn ho. Khi

đã ngớt cơn lão lại lấy tay chỉ mặt Li-ô-la:

     - Như con bé này đây chẳng hạn. Nó ăn ở với nhân tình

nó chẳng có phép tôi, rồi nó bỏ nhau cũng chẳng nói qua gì

với tôi. Giờ thì mới sung sướng chứ, phải rước lấy mà nuôi

cả cô ả lẫn thằng con chẳng biết bố là đứa nào. Đẹp mặt

thật!

     Li-ô-la đỏ nhừ mặt và quay nhìn Pa-ven mắt trào lệ. Pa-

vẹn trừng cặp mắt nảy lửa, giặn dữ nhìn lão già hỏi lại:

     - Sao cụ lại nói thế ? Theo ý cụ thì bắt cô ấy ở đời với

thằng ăn hại ấy hay sao?

     - Lấy chồng thì cũng phải xem cái mặt thằng chồng nó

thế nào đã chứ!

     Bà cụ An-bi-na phải nói chen vào. Bà cụ giận quá

không sao nén hết giận được, nói bằng một giọng hổn hển:

     - Ông lão này, sao lại đem chuyện ấy mà nói trước mặt

khách! Thiếu gì chuyện để nói cơ chứ!

     Lão già cũng chồm lên:

     - Tao biết tao nói gì, không phải dạy! Người nhà này

dám mở mồm mắng lại tao từ lúc nào thế ?

     Đêm hôm ấy, Pa-ven nghĩ mãi về cảnh nhà Quýt- xam.

Anh vô tình đến đây, tự nhiên bị tham gia vào tấn bi kịch gia

đình này mà nào anh có muốn dây vào làm gì. Anh nghĩ

cách giúp bà cụ và hai cô gái thoát cảnh áp chế của lão

già. Cuộc đời riêng của chính bản thân anh khiến anh phải

bó tay: bao nhiêu vấn đề không giải quyết được nảy sinh

trong óc. Lúc này hơn lúc nào hết, anh thấy hành động quyết

liệt khó khăn thật.

    Chỉ có một biện pháp - tách gia đình này ra, mẹ với hai

cô gái phải từ bỏ hẳn không bám vào lão già nữa. Nhưng

cách đó chẳng đơn giản đâu. Ở tình thế anh, anh không thể

dính đến cuộc cách mạng gia đình này được; vài ngày nữa

thôi, anh sẽ đi khỏi đây, có lẽ chẳng còn bao giờ gặp lại

những người trong nhà này nữa. Thôi, đành để cho đời

mặc sao hay vậy, mà chẳng nên khuấy động bụi bặm cái

nhà bé bằng lỗ mũi này lên làm gì. Nhưng cái mặt lão già

cứ ám ảnh anh. Pa-ven vạch hết kế hoạch này đến kế

hoạch khác kế hoạch nào cũng thấy không thể thực hiện

được .

    Hôm sau là ngày chủ nhật, khi Pa-ven ra phố về, thì thấy

ở nhà chỉ còn một mình Thai-a. Cả nhà đã đi sang chơi bên

nhà người họ.

    Pa-ven vào buồng Thai-a, người mệt, ngồi xuống một

cái ghế dựa, Pa-ven hỏi:

    - Sao cô không đi chơi đâu cho khuây khỏa?

    Thai-a thỏ thẻ trả lời:

    - Em chẳng muốn đi đâu cả.

    Pa-ven sực nhớ đến những kế hoạch nằm nghĩ đêm

qua và định bụng thử xem kế hoạch của mình thế nào. Anh

liền bắt đầu nói thẳng vào đề ngay, nói vội vã để nhỡ có ai

vào khỏi đứt quãng:

    - Thai-a ơi, chúng ta sẽ xưng hô với nhau bằng "anh

em" cho thân mật. Việc gì phải giữ cái kiểu lễ phép

phương Đông làm gì! Anh sắp đi khỏi đây. Anh đến nhà em

giữa lúc tình cảnh anh cũng đang lúc khó khăn, chứ không

anh đã làm cho câu chuyện xoay hẳn chiều hướng khác.

Trước đây một năm thì anh đã đem cả bà cụ và hai em đi

nơi khác. Đối với những bàn tay như em và Li-ô-la thế nào

cũng kiếm được việc làm. Không tài nào làm ông lão

chuyển được đâu. Nhưng bây giờ thì anh không thể giải

quyết như thế được. Chính anh cũng chẳng biết đời anh sẽ

ra sao, cho nên thật như người ta nói, anh đã bị tước khí

giới trước cuộc đời rồi. Giờ thì làm thế nào? Anh sẽ thử về

xin được đi công tác xem sao. Các thầy thuốc viết về bệnh

anh những cái quái gì ấy và các đồng chí của anh bắt anh

phải nghỉ chữa bệnh mãi không biết đến bao giờ. Nhưng ta

phải làm thay đổi ngược cảnh này ngay tại đây . . . Anh sẽ

viết thư cho mẹ anh và sẽ nghĩ cách chấm dứt tình cảnh

này. Anh thế nào cũng không bỏ mặc cụ với hai em. Nhưng

Thai- a này, anh hỏi em nhớ: cảnh sống của nhà này và

nhất là riêng đời em cần phải đảo lộn lại tất cả. Em có đủ

can đảm làm như thế không và em có muốn làm thế

không?

    Thai-a ngẩng mặt lên và khẽ trả lời:

    - Muốn thì em muốn lắm, nhưng không biết em có đủ

can đảm không.

    Pa-ven hiểu vì sao Thai-a trả lời còn lưỡng lự.

    - Không sao, em ạ. Quý hồ em cũng muốn như thế thì ta

sẽ thu xếp được thôi. Nhưng anh hỏi em, em có nặng tình

gia đình ràng buộc không?

    Thai-a bị hỏi đột ngột, không trả lời ngay. Mãi sau mới

nói:

     - Em rất thương đẻ em. Thầy em làm khổ đẻ em suốt

một đời người. Thằng Gioóc-giơ lại bòn rút hết của đẻ. Em

nghĩ tội cho đẻ em lắm. .. Tuy đẻ quý thằng Gioóc-giơ hơn

em...

     Hai người nói chuyện với nhau nhiều lắm. Khi cả nhà đi

chơi gần về, Pa-ven hỏi đùa:

     - Cũng lạ thật! Làm thế nào mà ông lão chưa bắt em lấy

chồng nhỉ?

     Thai-a giãy nảy:

     - Em không lấy. Em cứ trông chị Li-ô-la là đủ biết rồi.

Em thế nào thì thế, nhất định chẳng bao giờ lấy chồng đâu!

     Pa-ven cười:

     - Ra cô thề suốt đời ở vậy phải không? Thế nếu có

người hiền lành dễ thương thì sao?

     - Em không lấy! Khi còn lượn qua cửa nhà mình ve vãn

thì anh nào cũng hiền lành dễ thương lắm.

     Pa-ven làm lành đặt tay lên vai người con gái:

     - Thôi, chẳng nói nữa. Chẳng lấy chồng, đời người ta

vẫn có thể sống được. Nhưng em đã quá giận đám thanh

niên đấy. May quá anh lại không bị em ngờ là anh có ý hỏi

em, không thì anh cũng rất khó xử lý - Nói rồi, Pa-ven thân

ái đặt lòng bàn tay lạnh ngắt của mình lên mu bàn tay người

con gái đang bối rối thẹn thùng.

     Thai-a dịu dàng:

     - Những người như anh chọn những đám khác, chứ

chọn những đứa con gái như em làm gì?

     Mấy hôm sau, Pa-ven đáp xe lửa về Khác-cốp. Thai- a,

Li-ô-la, bà cụ An-bi-na và em bà cụ là bà Ra-da đi ra ga

tiễn anh. Lúc chia tay, bà cụ nhắc, và Pa- ven hứa không

quên hai cô em, sẽ giúp hai cô thoát khỏi cái vũng lầy gia

đình này. Đám người ra tiễn Pa-ven từ biệt anh như từ biệt

một người nhà thân thiết. Thai-a ứa nước mắt. Tàu đi đến

xa, Pa-ven còn trông thấy Li-ô-la vẫy khăn tay trắng và cái

áo cộc kẻ sọc của Thai-a.

    Đến Khác-cốp, Pa-ven không muốn phiền Đô-ra, vào

nhà bạn quen là Pê-chi-a Nô-vi-cốp. Anh nghỉ ở đây và tới

trụ sở Trung ương gặp A-kim. Đến lúc trong phòng chỉ có

hai người, Pa-ven đề nghị giao ngay công tác cho anh. A-

kim lắc đầu:

    - Không được, Pa-ven ạ. Chúng mình đã nhận được kết

luận của ban y tế và của Trung ương Đảng ghi rõ như sau:

"Vì bệnh Pa-ven trầm trọng, phải đưa đồng chí ấy vào viện

thần kinh học để được điều trị và không thể cho đồng chí ấy

công tác được"

    - Bao giờ họ chẳng viết thế, anh A-kim ạ. Tôi tha thiết

đề nghị anh cho tôi được làm việc. Tôi lang thang trong các

bệnh viện mãi cũng vô ích thôi.

    A-kim từ chối:

    - Đã có quyết định thì bọn mình không thể nào không thi

hành. Cậu nên hiểu, Pa-ven ạ, như thế chỉ là tốt cho cậu

thôi.

    Nhưng Pa-ven cố tình đòi mãi, khiến A-kim không nỡ

chối từ, đành phải đồng ý.

    Ngày hôm sau, Pa-ven đã làm ở văn phòng mật của

ban bí thư Trung ương Đảng. Anh tưởng cứ bắt tay vào

việc là đủ cho sức khỏe đã mất đi có thể dần dần trở lại.

Nhưng mới ngày đầu, anh đã nhận thấy là mình nhầm. Anh

ngồi bàn giấy tám giờ liền không ăn uống gì, vì không đủ

sức từ tầng ba đi xuống ăn bữa sáng và bữa trưa ở nhà ăn

bên cạnh: chốc chốc, lúc thì tay bại hẳn, lúc thì chân liệt đi.

Đôi khi cả người bại liệt và ngây ngấy sốt. Có hôm đã đến

giờ đi làm mà anh không làm sao bước chân xuống

giường được. Mãi mới nhấc được người dậy, đến cơ

quan, anh thất vọng nhận ra mình đi chậm mất một tiếng

đồng hồ. Nhiều lần như thế, anh em mới phê bình anh, và

anh hiểu: đấy là bước đầu đi đến những điều anh ghê sợ

nhất trong đời anh - phải xa rời đội ngũ.

    A-kim còn cố giúp anh hai lần nữa, giao cho anh công

tác khác. Nhưng điều không tài nào tránh khỏi đã xảy ra:

Đến tháng thứ hai thì anh phải nằm liệt trên giường. Anh

mới nhớ đến bác sĩ Ba-gia-nô-va lúc chia tay và viết thư

cho bác sĩ. Bác sĩ ngay hôm ấy đến thăm anh. Anh được

bác sĩ cho biết điều cốt yếu nhất đối với anh: anh đau như

thế không nhất thiết phải đưa vào nhà thương.

    - Vậy ra đời tươi đến nỗi tôi không cần đi chữa bệnh

nữa. - Anh cũng nói đùa một câu cho vui, song không lòng

nào cười được.

    Vừa hơi lại người một chút, Pa-ven đã lại đến Trung

ương đề nghị trao công tác. Nhưng lần này thì A-kim rất

nghiêm. Anh cương quyết bắt Pa-ven vào nhà thương. Pa-

ven giọng nghẹn ngào:

    - Tôi không đi đâu hết, đi là vô ích, tôi biết có ý kiến

chuyên môn bảo thế. Tôi chỉ còn một cách: Xin Đảng cấp

cho tiền trợ cấp và xin thôi công tác. Nhưng tôi nhất định

không làm thế. Các đồng chí không có quyền cắt đứt công

tác của tôi. Tôi mới có hai mươi bốn tuổi đầu, tôi không

muốn lang thang mãi trong các nhà thương mà sống nốt

cuộc đời tàn tật, trong khi biết rằng nằm nhà thương mãi

cũng không đi đến đâu. Các đồng chí phải cho tôi một công

tác thích hợp tình cảnh của tôi. Tôi còn có thể làm việc tại

nhà riêng hay ở hẳn một cơ quan nào đó . . . Có điều là

đừng bắt làm một anh cạo giấy, ghi sổ công văn đi đến.

Công việc phải làm cho tôi vui thích, để tôi khỏi cảm thấy

mình bị bỏ rơi.

    Giọng Pa-ven càng nói càng vang lên và càng xúc cảm.

A-kim thấu hiểu những tình cảm sôi nổi trong lòng người

thanh niên mới gần đây còn tràn đầy biết bao lửa sống.

Anh hiểu tấn bi kịch của Pa-ven; anh biết rằng nếu phải xa

rời chiến đấu và lùi tít về hậu phương, đối với Pa-ven, một

người đã từng hiến cả cuộc đời ngắn ngủi của mình cho

Đảng, điều đó ghê sợ đến nhường nào. Anh quyết định

dùng mọi biện pháp thuộc phạm vi anh giải quyết để cứu

Pa-ven.

    - Thôi được, Pa-ven ạ, cậu đừng lo nữa. Mai ban bí thư

sẽ họp. Mình sẽ đặt vấn đề cậu. Mình hứa với cậu hết sức

cố gắng giải quyết.

    Pa-ven nặng nề đứng dậy và chìa tay ra bắt tay A-kim.

    - Anh A-kim ơi, anh có thể nào đinh ninh được rằng

cuộc đời tôi sẽ dồn tôi vào một góc và sẽ đè bẹp tôi

không? Trái tim tôi còn đập ngày nào - nói đến đây anh

nắm tay A-kim kéo đặt lên ngực mình và A-kim thấy rõ tiếng

tim đập thình thịch và gấp. - Không ai bắt được tôi xa rời

Đảng. Chỉ có cái chết mới làm tôi từ bỏ đội ngũ mà thôi.

Anh nhớ thế cho, anh A-kim nhé.

    A-kim im không nói. Anh biết những lời Pa-ven vừa nói

không phải là những câu nói thường, mà là tiếng kêu của

một chiến sĩ bị thương nặng. Anh hiểu rằng những người

như Pa-ven không thể nào nói và làm khác được.

    Hai hôm sau, A-kim báo tin cho Pa-ven biết là đã xếp

cho anh một công tác phụ trách ở bộ biên tập báo của

Trung ương; nhưng muốn được nhận công tác ấy cần phải

kiểm tra trình độ văn hóa, xem có thể phục vụ trên địa hạt

văn học được không. Bộ biên tập báo niềm nở tiếp anh.

Phó tổng biên tập là một nữ chiến sĩ già, công tác bí mật

lâu năm, nay là ủy viên Ban kiểm tra Trung ương Đảng U-

cơ-ren. Đồng chí ấy hỏi Pa-ven mấy điểm:

    - Đồng chí đã theo học đến đâu?

    - Chỉ có ba năm tiểu học thôi.

    - Đồng chí đã theo học ở Trường Đảng nào chưa?

    - Chưa ạ.

    - Điều đó không quan trọng, có nhiều trường hợp không

học ở một trường nào mà vẫn trở nên một người viết báo

giỏi. Đồng chí A-kim đã nói chuyện với chúng tôi về đồng

chí. Chúng tôi có thể trao công tác cho đồng chí, không phải

việc ở đây, mà việc mang về nhà làm được và nói chung

chúng tôi sẽ tạo những điều kiện làm việc thích hợp với

hoàn cảnh đồng chí. Song muốn làm được công tác ấy,

phải hiểu nhiều, biết rộng mới được. Nhất là về mặt văn

học và ngôn ngữ học.

    Mới nghe mấy câu mào đầu, Pa-ven cũng có linh cảm

thấy không xuôi rồi. Trong nửa giờ nói chuyện với đồng chí

phó tổng biên tập, anh thấy đã rõ mình thiếu nhiều hiểu biết

quá. Đồng chí phó tổng biên tập đưa anh viết thử một bài,

Pa-ven viết xong, đồng chí ấy lấy bút chì đỏ gạch đít có đến

ba mươi chỗ văn viết sai mẹo luật và nhiều lỗi về chính tả

nữa.

     - Đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin ạ, đồng chí có nhiều

khả năng lắm. Nếu đồng chí chịu khó tích cực học tập thì

tương lai có thể trở nên một cán bộ trợ lý văn học. Nhưng

hiện thời đồng chí viết chưa thạo. Xem bài đồng chí viết

thấy là đồng chí chưa nắm được văn Nga. Điều đó không

lạ: đồng chí đâu có thời giờ học. Nhưng có điều rất tiếc là

chúng tôi không xếp công tác cho đồng chí được. Tuy

nhiên, tôi cũng nhắc thêm lại lần nữa: đồng chí rất có khiếu

về văn. Nếu bài đồng chí viết, vẫn nội dung ấy mà đem

chữa văn đi thì sẽ là một bài báo rất hay. Song ở đây thì

chúng tôi lại cần người có trình độ chữa được bài người

khác kia.

     Pa-ven chống gậy đứng dậy. Lông mày mắt phải mấp

máy giậm giật.

     - Đồng chí nói, tôi rất đồng ý. Văn hay chữ tốt gì tôi ấy!

Tôi đốt lò giỏi, chữa điện được, biết cưỡi ngựa tài, huấn

luyện thanh niên thạo, nhưng trên mặt trận của các đồng chí

thì tôi là một tên vũ dũng không hợp.

     Pa-ven cáo từ ra về.

     Đến chỗ hành lang rẽ sang bên, anh suýt ngã. Một bà

đang cầm cặp ở tay lại đỡ anh .

     - Đồng chí sao thế? Trông đồng chí mặt tái xanh quá.

     Mất mấy giờ đồng hồ, anh mới hồi lại được. Anh khẽ ẩy

bà kia ra, rồi nặng nhọc chống gậy lê chân đi.

     Từ ngày hôm ấy đời Pa-ven xuống dốc. Không còn nghĩ

đến công tác được nữa. Càng ngày anh càng phải nằm liệt

giường, có khi suốt cả mấy ngày, không bước đi đâu

được. Trung ương miễn công tác cho anh và đề nghị cơ

quan bảo hiểm xã hội Trung ương phát trợ cấp cho anh.

Anh nhận tiền trợ cấp cùng với giấy chứng nhận tàn phế

không lao động được. Trung ương cũng cấp cho anh một

số tiền và bản lý lịch của anh cùng với giấy phép đi đâu tùy

anh chọn. Anh nhận được thư Ma-rơ-ta mời anh về nghỉ ở

nhà mình. Anh cũng có ý định lên Mát-xcơ-va với hy vọng

mong manh là đề nghị với cơ quan Trung ương Đảng toàn

Liên Xô cho anh một công tác nào không phải đi lại. Nhưng

đến Mát-xcơ-va, các đồng chí cũng lại bảo phải nghỉ mà

chữa cho khỏi và hứa đưa anh vào nằm một bệnh viện tốt.

Anh từ chối.

    Mười chín ngày sống ở nhà Ma-rơ-ta trôi qua lúc nào

không biết, Ma-rơ-ta có bạn là Na-đi-a Pê-tác- sơn. Ban

ngày, Pa-ven ở nhà một mình, Ma-rơ-ta và Na-đi-a sáng

sáng đi làm, mãi đến tối mới về. Pa-ven đọc liên miên

không lúc nào rời sách. Nhà Ma-rơ-ta nhiều sách. Tối đến,

có các bạn lại chơi.

    Anh nhận được nhiều thư ở dưới cảng miền Nam gửi

lên. Gia đình Quýt-xam mời anh về chơi: Cuộc đời lại càng

siết chặt thêm cái dây thòng lọng, bà cụ và hai cô con gái

cầu cứu anh.

    Một buổi sáng Pa-ven từ giã căn nhà yên tĩnh ở phố

Gút-xi-át-nhi-xốp ra đi. Con tàu tốc hành đưa anh về

phương Nam, đi ra miền duyên hải ấm áp ở Nam Cơ-ri-

mê, tránh cho anh cái mùa thu ẩm ướt, mưa sùi sụt của

phương Bắc. Ngồi trên tàu, anh nhìn qua cửa sổ, trông

những cột dây thép chạy qua. Đôi mày cau nhíu lại và trong

đôi mắt ủ dột của anh thầm ẩn ý chí cưỡng lại số mệnh.

CHƯƠNG VIII

    Dưới chân núi, sóng biển vỗ bì bõm vào một đám đá

mọc lởm chởm. Gió hanh từ bên Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi thổi đến

mơn vào mặt. Cảng này, có tường chắn sóng bằng bê-tông

cốt sắt ngăn với biển cả, chạy khoằm vào đất liền theo hình

vòng cung gãy góc. Đèo cao của rặng núi tràn lên mặt biển.

Và những nếp nhà quét vôi trắng của ngoại ô thành phố

này, mọc trèo lên lưng đèo thoai thoải.

    Khu vườn tàn tạ của ngoại ô yên ả không một tiếng

động. Cỏ mọc lấp lối đi lâu ngày không dọn bỏ hoang. Gió

thu dứt lá những cây phong vàng úa lả tả rơi xuống dần dần

phủ lên lối đi ấy.

    Một ông già Ba Tư đánh xe ngựa đưa Pa-ven từ trong

phố ra đấy. Khi đỗ cho người khách lạ lùng này xuống xe,

ông lão xà-ích không nhịn được nói ra miệng điều ông nghĩ

bụng:

    - Tại sao ông lại đến đây, hở ông? Ở đây chẳng có gái

đẹp, chẳng có rạp hát. Chỉ có độc giống sói lang đi rình mò

…Ông đến đây làm gì? Tôi không hiểu sao ông lại đến đây.

Thôi, quay về đi, ông đồng chí ạ.

    Pa-ven trả tiền, và ông lão xà-ích lại đánh xe đi.

    Khu vườn vắng tanh, vắng ngắt. Pa-ven tìm thấy một

tấm ghế dài kê trên mỏm đá trông thẳng ra biển. Anh ngồi

xuống, ngửa mặt đón ánh nắng lúc bấy giờ đã tàn rồi.

    Anh đến đây, đến chốn tịch mịch này, để suy nghĩ xem

nên tổ chức đời sống của mình ra sao và dùng đời mình

làm việc gì bây giờ. Đây là lúc kiểm điểm lại cuộc đời và

phải quyết định mọi bề.

    Từ lúc anh trở lại, những mâu thuẫn trong gia đình Quýt-

xam trở nên sâu sắc đến cực độ. Khi biết tin anh đến thì lão

già đùng đùng nổi trận lôi đình, ầm ĩ cửa nhà lẽ tất nhiên, có

sự phản kháng trong gia đình này chống lại lão già là do

Pa-ven lãnh đạo. Lão già đột nhiên bị hai con gái và vợ

cưỡng lại một cách quyết liệt, và ngay hôm đầu tiên Pa-ven

đến nhà, gia đình này liền chia làm hai phe đối địch, thù

ghét nhau. Cửa vào buồng ông bà già đã đem chắn lại;

một phòng nhỏ của nhà ngang thì cho Pa-ven thuê. Pa-ven

đưa tiền nhà trước cho lão già và chẳng bao lâu lão thậm

chí cũng có vẻ yên lòng, vì các con gái rời lão ra như thế,

chẳng có đòi lão cung cấp cho đồng nào để sống.

    Để cho người ngoài khỏi nói, bà cụ An-bi-na vẫn ở lại

bên nhà lão già, chồng bà. Lão ta không bước chân sang

bên bọn trẻ bao giờ, không muốn trông thấy mặt cái anh

chàng mà lão chí ghét. Ngược lại, ra đến sân thì lão thở

hồng hộc như cái đầu tàu xe lửa để tỏ ra rằng lão là chủ cái

nhà này.

    Trước khi vào làm ở hợp tác xã, lão có hai nghề: nghề

thợ khâu giày và nghề thợ mộc. Đến nay, lúc rỗi rãi, lão

cũng làm thêm hai nghề ấy kiếm ra tiền; chỗ làm của lão

trước đặt ở nhà dưới, sau lão vác bàn thợ đến làm ngay

bên cửa sổ buồng Pa-ven để chọc tức anh chơi. Mỗi lần

đóng đinh, lão ra tay đập búa chan chát, như điên, như

giận, và lấy thế làm thích thú lắm. Lão hiểu lão làm thế thì

Pa-ven có ngồi đọc sách cũng khổ với lão.

    Lão rối rít lên trong chòm râu.

    - Rồi biết tay ông, ông sẽ tống cổ mày đi cho mà xem.

    *

    Xa xa, mãi tít gần chân trời có con tàu đi qua, nhả làn

khói đặc như một thoáng mây đen. Một đàn chim hải âu

vừa bay vừa kêu, chúc đầu xuống mặt biển.

    Pa-ven, tay ôm đầu, triền miên suy nghĩ. Chuỗi hình ảnh

của đời anh, từ tấm bé đến bây giờ diễu qua trước mặt.

Hai mươi bốn năm qua anh có sống trọn hay chăng cái

đạo làm người? Như một vị quan tòa công minh, anh kiểm

điểm lại trong trí nhớ cuộc đời mình từng năm một. Đời anh

sống cũng không đến nỗi hỏng lắm, anh nhận thấy như thế

và thâm tâm lấy làm hài lòng với mình. Đành rằng anh cũng

sai lầm không phải ít, vì ngu xuẩn, vì bồng bột, nhưng sai

lầm nhất là vì anh không hiểu biết. Song về căn bản không

đến nỗi nào. Anh đã không bỏ trôi qua những ngày nồng

cháy nhất, anh đã chọn ngay chỗ đứng của anh trong cuộc

chiến đấu thép lửa để giành chính quyền và trên lá cờ đỏ

chói của cách mạng cũng có vài giọt máu của anh nhuộm

thắm.

    Còn chút sức lực nào thì anh vẫn chưa chịu rời đội ngũ.

Giờ đây, bị thương nặng, anh không đấu tranh ở tiền tuyến

được. Anh chỉ còn có cách lùi về những bệnh viện hậu

phương. Anh nhớ lại cái ngày Hồng quân ào ào như sóng

cuộn tiến quân vào gần thành Vác-xô-vi. Quân đang tiến thì

đạn thù bắn trúng một chiến sĩ. Chiến sĩ ngã lăn ra đất, nằm

dưới chân ngựa. Anh em đồng đội hối hả băng bó lại, rồi

trao chiến sĩ cho quân y và xông tiếp lên, mải truy kích quân

thù. Mất một chiến sĩ, đơn vị không vì thế mà ngừng xông

lên đuổi địch. Trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp chung cao

cả, thường như thế đấy, mà phải như thế đấy. Đành rằng

có những trường hợp đặc biệt. Như anh đã từng trông thấy

những chiến sĩ bắn súng máy cụt chân, ngồi trên xe ngựa

ta-san-ca. Đấy là những con người làm quân thù khiếp sợ:

súng máy của họ vẫn gieo chết chóc và tàn phá vào hàng

ngũ địch. Họ bắn rất vững, mắt nhắm rất trúng, khiến cho cả

trung đoàn lấy làm tự hào. Nhưng, những con người như

vậy, hiếm lắm.

    Con người anh phải làm gì bây giờ, sau cuộc thất trận

này, khi anh chẳng còn chút hy vọng gì trở về chỗ anh trong

đội ngũ. Anh đã làm cho bác sĩ Ba- gia-nô-va chẳng có lần

đã phải nói thật với anh là trong tươi lai, anh phải đề phòng

mọi sự bất thần ghê khiếp hơn nữa xảy ra đấy ư? Làm gì

bây giờ? Câu hỏi đề ra không cách giải quyết này hiện ra

trước mắt anh như một vực thẳm đen ngòm ghê sợ.

    Khi đã mất thứ quý báu nhất là khả năng chiến đấu thì

còn sống làm gì nữa? Ngày hôm nay và ngày mai đây đầy u

ám, làm thế nào để chứng minh là đời mình còn đáng

sống? Lấy gì lấp được nỗi trống trải của cuộc đời? Hay

đành là chỉ biết ăn, biết uống và biết thở hít khí trời mà thôi?

Chỉ còn cách khoanh tay trố mắt đứng nhìn các đồng chí

của mình chiến đấu và tiến lên hay sao? Như thế để rồi

sống báo cô tập thể ư? Rồi đến phải huỷ quách tấm thân

tàn phế phản phúc này đi thôi? Một viên đạn vào giữa tim

và thế là xong, đời hết vướng! Đã biết sống phải đạo làm

người thì cũng cần phải biết chết đi vào đúng lúc nên chết.

Ai dám kết tội người chiến sĩ không muốn kéo dài cơn hấp

hối của mình?

    Bàn tay anh sờ vào túi, nắn khẩu Bơ-rao-ninh dèm dẹp;

ngón tay anh, theo thói quen, nắm lấy báng súng. Anh từ từ

rút khẩu súng ngắn ra.

     - Có ai ngờ mi lại sống đến một ngày tận số như thế

này?

     Nòng súng nhìn thẳng vào mắt anh khinh bỉ. Pa- ven đặt

súng lên đầu gối và thốt ra một câu chửi giận dữ.

     - Thế chỉ là anh hùng rơm đây thôi mi ạ! Tự sát như thế,

một thằng khốn nạn bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng

làm được. Đấy là lối thoát dễ nhất mà cũng là hèn nhất.

Sống có khó khăn thì làm một phát cho xong đời. Nhưng mi

đã thử chiến thắng cuộc đời hóc hiểm ấy chưa? Mi đã làm

hết cách để dứt ra khỏi vòng đai thép đang chịt lấy cổ mi

chưa? Mi quên rồi sao, trước thành Nô-vô-gơ-rát - Vô-lưn-

ski, mi và đồng đội của mi đã từng tung mười bảy đợt xung

phong một ngày và đã biết chống lại tất cả để chiếm kỳ

được lấy thành? Thôi hãy cất súng đi và đừng có hở

chuyện này với ai. Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở

nên không thể chịu được nữa. Hãy làm cho đời mi còn có

ích.

     Anh đứng dậy và đi theo con đường cái. Một đồng bào

ở núi cho anh lên ngồi nhờ xe ngựa và đáp về phố. Về đến

phố, anh xuống một ngã tư mua tờ báo tỉnh. Báo đăng tin

có họp toàn thể Đảng bộ thành tối nay ở câu lạc bộ Đê-mi-

an Bét-đơ-ni.

     Pa-ven đi họp đến khuya mới về. Trong buổi họp ấy anh

đã lên nói chuyện và nào có hay đấy là lẩn nói cuối cùng

của anh trước một hội nghị lớn.

     Thai-a không ngủ được. Pa-ven đi mãi không về làm cô

lo ngại. Có việc gì xảy ra với anh ấy? Anh Pa- ven ở đâu

bây giờ? Hôm ấy, Thai-a thấy trong mắt nhìn của Pa-ven,

trước kia anh nhanh nhẹn bao nhiêu, giờ có một cái gì lạnh

lùng và khắc khổ. Pa-ven ít nói đến anh, song Thai-a đoán

là anh đang trải qua một thử thách ghê gớm.

    Lúc có tiếng cổng con ngoài vườn đóng sập, lại thì bên

phòng mẹ, đồng hồ vừa buông hai tiếng. Thai- a khoác áo

ngoài lên vai, chạy ra mở cửa. Chị Li-ô- la ngủ ở buồng,

nói mê lẩm bẩm. Thai-a thấy Pa-ven đã về thì mừng quá;

khi Pa-ven bước vào nhà, Thai- a nói thầm:

    - Thế mà em cứ lo cho anh mãi.

    - Anh còn sống thì không có việc gì mà phải lo cho anh

đâu, em ạ, Li-ô-la ngủ rồi à, hở em? Em biết không, anh

chẳng muốn ngủ tí nào. Hôm nay anh muốn nói với em.

Thôi, ta sang buồng ngủ đi em, kẻo lại làm thức giấc chị Li-

ô-la mất. - Pa-ven nói, giọng cũng thì thào.

    Thai-a lưỡng lự. Như thế là thế nào? Đêm hôm khuya

khoắt nói chuyện với anh ấy ư? Nhỡ mẹ biết thì sao?

Nhưng nói thế nào để anh Pa-ven hiểu điều ấy nhỉ? Không

nên, anh ấy giận mất. Mà anh ấy định nói chuyện gì thế nhỉ?

    Nghĩ thế, Thai-a vẫn đi về phòng.

    Khi hai người đã ngồi trong phòng tối, mặt đối mặt, gần

sát nhau đến nỗi Thai-a nghe rõ hơi thở của anh, thì Pa-ven

bắt đầu nói, giọng khàn khàn:

    - Chuyện thế này, Thai-a ạ. Chuyện đời xoay ra đến chỗ

anh cũng lấy làm lạ quá. Những ngày gần đây anh thấy hết

sức khó chịu trong người. Có một điều anh cứ luẩn quẩn

nghĩ mãi không biết nên thế nào: anh làm thế nào mà tiếp

tục sống được bây giờ! Anh chưa bao giờ gặp cơn đen

vận bĩ như thế. Nhưng hôm nay, anh đã họp "bộ chính trị"

trong đầu anh và anh đã quyết nghị một điều rất là quan

trọng. Em đừng lấy làm lạ, anh nói em nghe đây.

    Anh kể cho Thai-a nghe tất cả những điều anh cảm thấy

trong những tháng gần đây và một phần lớn những điều

anh đã suy nghĩ ngoài khu vườn ngoại ô.

    - Hiện tình thì như thế này. Anh nói ngay vào điểm chính.

Câu chuyện ngang trái trong gia đình em hiện nay chỉ mới

là bước đầu thôi. Ta phải bỏ đi, đến nơi không khí tươi

lành, tránh được càng xa càng hay cái hang đen tối này. Ta

phải làm lại cuộc đời. Đời của riêng em cũng như đời của

anh lúc này đều đang bi cả. Anh định đốt lửa lên sưởi nóng

cuộc đời hai đứa chúng ta. Em hiểu như thế nghĩa là như

thế nào không? Anh hỏi em làm vợ của anh thì em có đồng

ý không, em?

    Thai-a nghe Pa-ven nói từ đầu đến giờ, trong lòng hết

sức xúc động. Nghe đến câu sau cùng thì Thai- a giật mình

sửng sốt.

    - Anh không bảo em phải trả lời anh ngay bây giờ đâu

Thai-a ạ. Em nghĩ cho kỹ. Em có lẽ không hiểu tại sao anh

có thể nói với em điều đó mà không ướm ý em trước,

không tán tỉnh em,v.v... Những trò ấy đều chẳng cần. Em bé

ơi, anh đưa tay cho em cầm nhé, tay anh đây, em này. Nếu

em tin anh thì em sẽ không bao giờ phải lo là bị lừa dối

đâu. Ở anh, có nhiều điều mà em cần đến, và ngược lại,

anh cũng thấy ở em như thế. Anh quyết định như thế này

nhớ: chúng mình ước với nhau, cho đến ngày em lớn, em

trưởng thành nên người - anh sẽ giúp em tiến bộ, nếu anh

không giúp thế thì con người anh chẳng đáng một đồng

kẽm nhỏ giữa chợ phiên đâu. Cho đến ngày ấy ta không

được bội ước với nhau. Khi nào em lớn rồi thì tha hồ tùy

em quyết định. Biết trước thế nào được? Có thể lúc bấy

giờ thì anh đã hóa ra thân tàn ma dại. Nếu như gặp cảnh

ngộ ấy thì em nên nhớ rằng, anh chẳng nỡ cột đời em vào

đời anh đâu.

    Anh im một lát, rồi lại âu yếm và nồng nàn:

    - Ngay giờ đây, anh mong em hãy nhận ở anh tình bạn

thân và lòng yêu thương em.

    Anh không buông những ngón tay của Thai-a mà anh

vẫn giữ trong tay anh, lòng bình tĩnh dường như là Thai-a

đã ưng ý rồi.

    - Anh có giữa đường bỏ em không?

    - Không thể bằng vào lời nói miệng được. Thai- a. Em

chỉ cần hiểu rằng: Những con người như anh không có bội

bạc đâu. Quý hồ người ta đừng có bội bạc với anh.

    Anh nói hết câu mà lòng chua xót.

    Thai-a đáp lại:

    - Hôm nay, em chưa trả lời anh được: tất cả chuyện này

đối với em thật đột ngột quá.

    Pa-ven đứng dậy:

    - Thôi, em đi ngủ đi. Trời sắp sáng rồi.

    Anh về phòng riêng, không cởi quần áo, cứ thế mà lăn

ra giường. Đầu vừa áp gối đã ngủ say.

    Trong phòng Pa-ven, ở mặt bàn, gần cửa sổ, có những

chồng sách lấy ở thư viện Đảng về, một chồng báo và

nhiều sổ tay viết chi chít. Một chiếc giường, hai cái ghế và

trên cánh cửa thông sang buồng Thai- a treo một tấm bản

đồ Trung Hoa, khổ rất rộng, trên lấm chấm những lá cờ nhỏ

tí, đen và đỏ. Pa-ven đến Đảng ủy điều đình được với văn

phòng gửi cho anh sách văn nghệ. Ngoài ra, các đồng chí

còn hứa chỉ thị cho đồng chí phụ trách thư viện lớn nhất của

cảng liên lạc với anh, làm "người đỡ đầu" về văn hóa cho

anh. Chẳng bao lâu, thư viện cảng bắt đầu gửi đến cho anh

từng bó sách nguyên. Li-ô-la lấy làm lạ, thấy hôm nào Pa-

ven cũng miệt mài đọc sách và ghi sổ tay trong suốt ngày,

từ sáng sớm cho đến chiều tối, chỉ nghỉ một chốc lát ăn

cơm sáng và trưa, tối đến thì chị em Li-ô-la lại sang buồng

Pa-ven ngồi chơi. Pa-ven kể lại cho chị em Li-ô-la những

điều mình đọc được ban ngày.

   Thường quá nửa đêm, lão già Quýt-xam đi ra sân, lần

nào cũng thấy kẽ cửa sổ buồng anh chàng ở thuê đáng

ghét có vệt đèn sáng. Lão rón rén năm đầu ngón chân

bước lại gần nhìn qua kẽ cửa sổ, thấy cái đầu kia cứ cúi

xuống bàn.

   "Mọi người thì ngủ, còn nó thì cứ chong đèn suốt đêm.

Nó thức canh nhà, làm như nó là chủ ở đây. Mấy con bé

nghe nó đã giở quẻ rồi". Lão già nghĩ bụng thế, lấy làm bực

tức và bỏ đi.

   Tám năm nay, lần đầu tiên Pa-ven mới có dịp được thư

thả thời giờ và không mắc một công việc gì hết. Anh đọc

một cách say sưa, thèm khát như một cậu thiếu niên chưa

bước vào đời. Ngày làm việc mười tám tiếng. Cứ cái đà

làm việc như thế thì ảnh hưởng đến sức khỏe của anh như

thế nào, nếu một hôm, Thai-a không buột miệng nói ra

những lời này:

   - Em đã kê dịch cái tủ chặn cửa buồng em ra rồi. Anh

có muốn nói chuyện với em thì mở cửa sang thẳng bên em,

không cần qua phòng chị Li-ô-la nữa.

   Pa-ven đỏ ửng mặt. Thai-a mỉm cười, vui sướng: thế là

đã hẹn ước với nhau.

    Lão già đêm đêm không thấy ánh sáng lọt qua khe cửa

sổ ở góc nhà nữa. Và bà cụ An-bi-na thì nhận ra đôi mắt

của Thai-a có long lanh một niềm vui không giấu hết được.

Quanh cặp mắt ánh rực lửa lòng nồng cháy, mờ mờ có

quẳng thâm vì những đêm không ngủ. Trong căn nhà nhỏ lại

thường văng vẳng tiếng đàn ghi-ta và tiếng hát của Thai-a.

    Thai-a lòng xuân đã động, cảm thấy đau đớn vì tình yêu

hình như có chiều lén lút vụng trộm. Nghe tiếng động nhỏ

cũng giật mình, lúc nào cũng ngỡ là có tiếng chân bà mẹ.

Thai-a rất khổ tâm mỗi lần nghĩ đến: nếu nhỡ ai hỏi tại sao

đêm lại đóng cửa buồng mình, cài then kỹ thế thì sẽ trả lời

thế nào? Pa-ven hiểu nỗi lòng của Thai-a, lựa lời âu yếm,

làm người yêu yên lòng.

    - Em làm sao mà sợ kia chứ? Anh với em hoàn toàn

làm chủ ở đây. Em cứ ngủ yên. Không ai bước chân được

vào đời tư của chúng mình cả.

    Thai-a áp má vào ngực anh, và vững lòng hơn, ôm ghì

lấy người yêu mà ngủ. Anh để tai nghe Thai-a thở một lúc

lâu, nằm yên không động, để cho Thai- a được ngon giấc.

Anh thấy lòng thương quá, mến quá người con gái đã gửi

gắm tất cả đời mình vào anh rồi.

    Li-ô-la là người đầu tiên hiểu duyên cớ vì đâu cặp mắt

Thai-a bừng sáng. Từ hôm ấy, chị em đối với nhau có

chiều hướng xa cách. Bà mẹ rồi cũng biết, hay nói đúng

hơn, bà cũng đoán ra. Bà để ý đề phòng. Bà cụ có ngờ đâu

Pa-ven lại thế. Một hôm, bà cụ nói với Li-ô-la:

    - Con bé Thai-a không xứng đôi được với cậu ta đâu

chẳng biết rồi sẽ ra sao?

Bà thấy lo. Nhưng không lần nào dám hỏi thẳng Pa-ven

cả.

   Bọn thanh niên bắt đầu lui tới phòng Pa-ven. Đôi khi

anh em ngồi đông chật gian phòng nhỏ tí. Lão già nghe cứ

ồn ồn như đàn ong vỡ tổ. Nhiều lần, cánh trẻ lại hát đồng

thanh:

"Biển của ta quang vắng

Ngày đêm có tiếng sóng gầm"

và bài hát mà Pa-ven thích nhất:

"Thế gian bao la này tràn đầy nước mắt”.

   Đấy là anh chị em cán bộ Đảng đến họp Câu lạc bộ

công nhân. Đảng ủy địa phương từ khi nhận được thư của

Pa-ven đòi được làm công tác tuyên truyền đã giao cho

anh phụ trách câu lạc bộ đó. Ngày tháng của Pa-ven cứ

như thế mà trôi qua.

   Thế là anh đã lại hai tay giữ vững được lái con thuyền

và sau đôi lúc ngả nghiêng, anh đã hướng đời anh vào đích

mới. Anh mơ ước lấy việc nghiên cứu học hỏi và công tác

văn học để trở về chỗ đứng của anh trong đội ngũ.

   Nhưng cuộc đời cừ dồn dập hết trở lực này đến trở lực

này khác. Anh thấy trở lực hiện ra mà lo: trở lực sẽ ngăn trở

anh đến độ nào trên đường tiến tới đích của mình?

   Bỗng nhiên Gioóc-giơ, anh chàng sinh viên thi trượt vào

đại học từ Mát-xcơ-va dẫn xác về với con vợ. Nó xuống ở

nhà bố vợ làm luật sư, rồi cứ từ bên ấy mà về bòn tiền của

bà mẹ.

   Gioóc-giơ về làm mọi quan hệ trong gia đình càng rắc

rối thêm. Nó chẳng do dự, vào phe ngay với bố, rồi thông

đồng với nhà vợ, vốn sẵn có tư tưởng bài Xô-viết bắt đầu

phá đám, tìm cách đuổi bằng được Pa-ven đi, bắt Thai-a

phải lìa anh.

    Mười lăm hôm sau, khi Gioóc-giơ về đến nhà, thì Li-ô-la

kiếm được việc làm ở một quận bên cạnh. Chị đem mẹ già

và con thơ ở với nhau bên ấy. Còn Pa- ven và Thai-a cũng

đem nhau đi đến một thành phố xa ở gần biển.

    *

    A-rơ-chom ít khi nhận được thư Pa ven. Nhưng mỗi lần

anh thấy trên mặt bàn giấy của anh ở Xô- viết thành phố có

chiếc phong bì màu xám, đề chữ viết gãy góc quen thuộc,

thì anh lật lật trang giấy, lòng không giữ nổi bình tĩnh như

thường nữa. Lần này cũng thế, tay mở phong bì, anh nghĩ

thầm trong bụng, với nhiều cảm động âu yếm mà anh cố

không để lộ ra mặt: "Pa-vơ-lu-sa, Pa-vơ-lu-sa ơi! Giá lúc

này em ở gần anh, thì thằng bé em của anh sẽ giúp ý kiến

cho anh, tốt biết mấy".

    "Anh A- rơ-chom !

    Em muốn kể cho anh nghe cảnh ngộ của em bây giờ.

Những thư thế này chỉ có gửi cho anh, em mới viết thôi.

Anh biết tính em và sẽ hiểu rõ từng chữ em viết.

    Trên mật trận đấu tranh giành lại sức khỏe của em,

cuộc đời vẫn bi lắm, anh ạ. Chưa khỏi chứng này đã sinh

ra tật nọ. Em vừa mới khỏi trận này đã lại bị giáng một trận

khác bi đát hơn. Mà ghê sợ nhất là em không sao gắng

gượng được nữa. Tay trái em liệt, em đã khổ lắm, giở lại

thêm hai chân nó phản em. Và giờ em chỉ có thể hơi nhích

được người đi (nhích trong bốn bức tường phòng em thôi)

em khó nhọc lắm mới lê được từ giường em nằm ra bàn

viết. Thế chưa phải là hết tội đâu, em chắc thế. Mai kia của

nợ còn sinh ra thế nào nữa em chưa biết được.

    Em ru rú ở nhà không đi đâu cả, chỉ ngày ngày nhìn qua

cửa sổ trông ra được một góc biển. Có thể nào có một tấn

kịch thảm hơn là bi kịch của một người như em, thân thể thì

bại liệt không sao sai khiến được nữa mà trái tim người

bôn-sê-vich ở em thì cứ lôi cuốn em không thể nào cưỡng

lại được, lôi cuốn về với công tác, về với anh em, về với

đội quân chiến đấu đang tiến trên khắp mặt trận, đang xung

phong tiến công như một dòng thác thép?

    Em vẫn còn tin em sẽ trở về đứng trong đội ngũ, tin mũi

súng của em sẽ xuất hiện trong hàng trận xung phong. Em

không thể nào không tin như thế, em không có quyền không

tin như thế. Mười năm giáo dục của Đảng và Đoàn đã rèn

cho em nghệ thuật chống chọi với cuộc đời, và lời của lãnh

tụ cũng đúng cả vào trường hợp của em nữa: "Không có

thành trì nào mà người bôn-sê-vích không đánh chiếm

được".

    Đời em bây giờ là học tập, là đọc sách, đọc sách nhiều

và đọc sách nữa. Em đã học được khá rồi, anh A-rơ-chom

ạ. Em đã đọc kỹ được hết các sách văn học cổ điển của ta.

Em đã học xong năm thứ nhất của Trường đại học cộng

sản hàm thụ. Tối tối em lãnh đạo một nhóm nghiên cứu

gồm các đồng chí đảng viên trẻ. Chính qua đám đồng chí

trẻ ấy mà em liên hệ được với công tác thực tế của tổ

chức. Rồi đời em còn có Thai-a nữa. Thai-a tiến bộ trong

học tập, tiến tới trong công tác, và sau hết là chúng em yêu

nhau, người bạn đời bé bỏng của em chiều em thắm thiết.

Chúng em sống hợp nhau lắm. Kinh tế gia đình em cũng

giản dị thôi: chúng em có 32 rúp trợ cấp của em và tiền

lương tháng của Thai-a, Thai-a đi vào Đảng cũng theo con

đường như em. Thai-a cũng đi làm chân dọn dẹp bếp

nước và bây giờ làm nghề rửa bát trong một quán cơm

(nơi em không có nhà máy nào).

    Mấy hôm gần đây, Thai-a khoe với em tấm giấy chứng

nhận đầu tiên của mình, thẻ hội viên chi hội phụ nữ. Đối với

Thai-a, chứng minh thư không phải là chỉ một mẩu bìa. Em

để ý xem ở Thai-a đang thoát thai ra một con người mới.

Em cố giúp cho Thai-a tiến. Rồi sẽ có ngày nhà máy lớn

với anh chị em thợ sẽ làm cho Thai-a thành hẳn một con

người mới. Chúng em còn ở đây thì Thai-a vẫn còn phải đi

theo con đường duy nhất có thể đó.

    Bà mẹ Thai-a hai lần đến tìm. Bà mẹ, vì thương con, đã

vô tình tìm cách kéo Thai-a tụt lại, lôi về với cuộc đời nhỏ

nhen, với những suy tính cá nhân bần tiện. Em đã cố cắt

nghĩa cho bà cụ An-bi-na hiểu, để bà ta đừng đem bóng tối

của đời bà ta che tối con đường Thai-a đã chọn. Nhưng

nói mãi cũng vô ích. Em cảm thấy thế nào cũng có ngày bà

ta ngáng trở con đường Thai-a tiến đến một cuộc đời mới.

Và phải đấu tranh với bà ta, không thể nào tránh khỏi

được.

    Em bắt tay anh.

    Em Pa-ven của anh”.

    Nhà an dưỡng số5 Ở phố Sta-rai-a Ma-xét-sta. Một toà

nhà hai tầng xây bằng đá, trên miếng đất bằng, đẽo vào

sườn núi. Chung quanh là rừng; con đường chữ chi chạy

xuống dốc. Cửa sổ các buồng đều mở, gió hiu hiu thổi tạt

vào mùi nước có chất diêm sinh của những con suối dưới

chân núi bốc lên. Pa-ven ở một mình trong buồng. Mai sẽ

có nhiều đồng chí khác đến và anh sẽ có bạn láng giềng.

Ngoài kia có tiếng chân đi và.giọng ai quen thuộc. Có tiếng

nhiều người nói chuyện với nhau, nhưng cái giọng trầm và

sang sảng kia, anh đã nghe thấy ở đâu ấy nhỉ? Anh bắt trí

nhớ làm việc căng thẳng và moi trong óc ra một cái tên

chôn sâu trong ký ức chứ không phải là quên mất: "Lê-đê-

nhếp In-nô-ken-ti Páp-vơ-lít-sơ. Chắc là đồng chí ấy thôi".

Pa-ven không nghi ngờ gì nữa. Anh gọi to lên. Một phút

sau, Lê-đê-nhếp đã ngồi ở đầu giường anh và mừng rỡ lắc

mãi tay anh.

    - A chú bé, còn sống cơ à? Có chuyện gì vui kể cho lão

nghe đi chú? Sao chú có vẻ muốn ốm thật sự nhỉ? Lão

không đồng ý chú như thế đâu nhớ? Chú hãy theo gương

lão. Các thầy thuốc cũng định cho lão ra rìa đấy. Nhưng lão

vững lắm, cứ nhất định không nghe làm họ tức điên lên -

Và cụ già Lê-đê-nhếp cười rất hồn nhiên.

    Pa-ven nhận thấy trong nụ cười có ẩn chút lòng thương

hại và lo buồn.

    Hai người nói chuyện với nhau suất hai tiếng đồng hồ.

Cụ già Lê-đê-nhếp kể tin tức Mát-xcơ-va. Nhờ ông cụ, Pa-

ven mới biết được hai nghị quyết trọng yếu nhất của Đảng

về tập thể hóa nông nghiệp và tổ chức lại nông thôn. Pa-

ven nghe thèm khát, uống từng lời một.

    - Thế mà lão cứ tưởng chú đang hoạt động ở đâu dưới

U-cơ-ren nhà chú cơ mà. Bực nhỉ. Nhưng, không việc gì

mà buồn, cảnh lão còn bi hơn. Lão đã tưởng nằm liệt rồi

cơ đấy. Bây giờ, chú xem, lão cố cưỡng lại. Không thể nào

đang lúc này cứ khoanh tay để mặc cho nước chảy bèo trôi

được, chú hiểu không. Không thể thế được! Có lúc lão

nghĩ: mình phải nghỉ thôi để lấy lại sức Lão còn trẻ đâu nữa,

mà làm ngày mươi, mười hai tiếng cũng khá gay. Nhưng

mỗi lần lão nghĩ như thế, lão xem lại công việc để giải quyết

nốt, thì lần nào cũng thế, hễ lão định "giải quyết nốt" thì lại

chúi đầu vào đến quá mười hai giờ đêm cũng chưa về đến

nhà được. Bộ máy càng chạy khỏe, bánh xe lại càng phải

quay nhanh. Ở nước chúng ta như thế đấy. Nhịp điệu công

việc mỗi ngày một dồn dập, cho nên bọn già như lão, dù

muốn hay không, cũng cứ phải sống như hồi còn thanh

niên.

    Lê-đê-nhếp đưa tay lên vuốt cái trán cao và nói ân cần

như cha với con:

    - Thôi bây giờ chú kể cho lão nghe về chú đi.

    Lê-đê-nhếp nghe Pa-ven kể những trận thử thách của

anh, và Pa-ven thấy người bạn già nhìn anh bằng cặp mắt

long lanh ra chiều khuyến khích.

    Ở góc sân, dưới bóng cây rậm rạp, một nhóm người

bệnh của nhà an dưỡng ngồi chơi. Khơ-ri-xan Séc- nô-cô-

dốp ngồi đọc báo "Sự thật" bên chiếc bàn nhỏ, cặp mày

rậm nhíu lại. Sơ-mi anh bằng xa-tanh đen, mũ cát-két đã

sờn, mặt anh gầy gò, rám nắng, râu lâu ngày không cạo,

mắt xanh sâu hoắm, trông rõ ra vẻ một người thợ mỏ chính

tông. Mười hai năm trước đây, anh đã từ bỏ cuốc chim,

được điều động ra làm công tác lãnh đạo vùng này. Thế

mà xem dáng anh đi, cách anh nói và những tiếng anh

dùng, người ta tưởng anh vừa mới ở mỏ ra.

    Sec-nô-cô-dốp là ủy viên thường vụ xứ ủy Đảng và có

chân trong Chính phủ. Một ác bệnh - chứng hoại thư ở chân

- làm người anh kiệt sức. Anh căm thù cái chân đau đã bắt

anh nằm liệt giường nửa năm nay.

    Trước mặt anh là Gi-ghi-rê-va đang ngồi hút thuốc nghĩ

ngợi. A-lêc-xan-đơ-ra A-lếch-xê-ep-na Gi-ghi-rê- va năm

nay ba mươi bảy tuổi. Chị vào Đảng đã mười chín năm

nay. Lúc ấy "Su-rốt-ca, cô thợ kim khí” - đấy là bí danh của

chị hồi hoạt động bí mật ở Pê-téc- bua - còn trẻ măng, gần

như là một cô bé con, thế mà đã phải nếm mùi đi đày ở Xi-

bê-ri rồi.

    Người thứ ba cùng ngồi ở bàn là Pan-cốp. Anh nghiêng

nghiêng cái đầu đẹp như một bức tượng thời cổ đọc một

tờ tạp chí tiếng Đức, chốc chốc lại sửa đôi kính to tướng

bằng đồi mồi trên mũi. Thật quái lạ người thanh niên ba

mươi bảy tuổi ấy to lớn như một lực sĩ, thế mà khó nhọc

mới nhích được cái chân bại liệt. Pan-cốp là biên tập viên

báo kiêm nhà văn, cán bộ của Bộ dân ủy quốc gia giáo

dục. Anh đã từng ở châu Âu đọc được nhiều tiếng nước

ngoài. Trong óc anh có cả một kho kiến thức giàu có, cho

nên đến cả Séc-nô-cô-dốp, vốn tính dè dặt, cũng phải tỏ ra

kính nể anh.

    Gi-ghi-rê-va hất đầu chỉ chiếc ghế bành và bánh xe đun

mà Pa-ven đang ngồi, khẽ hỏi Séc-nô-cô-dốp:

    - Đồng chí ấy ở cùng buồng với anh có phải không?

    Séc-nô-cô-dốp ngừng đọc báo, nét mặt anh bỗng chốc

tươi hẳn lên:

    - Phải, Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đấy. Chị nên làm quen với

cậu ta, Su-ra ạ. Bệnh tật đã thọc một đống gậy vào bánh xe

của cậu ta rồi. Chứ không thì cậu bé ấy sẽ đắc lực ra trò ở

những nơi đang gặp khó khăn ấy. Một tay thanh niên cộng

sản thuộc lớp đầu tiên. Nói tóm lại, nếu ta hết sức nâng đỡ

cậu ấy - mà tôi thì nhất định giúp đấy - cậu ta còn có thể làm

việc được.

    Pan-cốp để tai nghe. Su-ra Gi-ghi-rê-va vẫn giọng khe

khẽ hỏi tiếp:

    - Đồng chí ấy đau bệnh gì đấy?

    - Hậu quả của năm một nghìn chín trăm hai mươi.

Xương sống cậu ấy bị làm sao ấy. Tôi đã hỏi thăm các

thầy thuốc. Họ ngại là vết giập ở xương sống làm cậu ta có

thể sinh ra bại liệt toàn thân. Chị trông mà xem?

    - Để tôi đem ghế đồng chí ấy lại đây.

    Thế là quen nhau. Lúc ấy Pa-ven có ngờ đâu Gi- ghi-rê-

va và Séc-nô-cô-dốp sau này đã trở nên những người bạn

thân của anh, những người đầu tiên nâng đỡ tinh thần cho

anh trong những năm bệnh hiểm nghèo sắp đến với anh.

    Đời cứ thế mà trôi. Thai-a đi làm, Pa-ven ngồi đọc

sách. Hôm ấy, anh chưa đến giờ lãnh đạo nhóm nghiên

cứu thì một tai họa mới ngầm đến hại anh. Cả hai chân anh

bị liệt. Giờ chỉ có tay phải giơ lên giơ xuống được nữa thôi.

Anh cắn môi đến chảy máu cho đến khi cố gượng mãi

cũng chẳng ăn thua gì, anh hiểu ra rằng thế là từ nay không

nhúc nhích được nữa rồi. Thai-a can đảm chịu đựng, cố

giấu không để lộ ra mặt nỗi thất vọng trong lòng và niềm

chua xót không sao giúp đỡ chồng được. Còn Pa-ven cười

gượng như một kẻ có tội, bảo Thai-a:

    - Thai-a ơi, chúng mình nên li dị thôi. Khi hai đứa đính

ước với nhau có ngờ đâu có chuyện thế này. Hôm nay anh

đã nghĩ kỹ rồi mới nói với em như thế, em bé gái của anh

ạ.

    Thai-a không để cho Pa-ven nói. Nhưng cũng không

sao cầm được nước mắt. Chị khóc nức nở, áp đầu Pa-

ven vào ngực mình.

    A-rơ-chom được tin về chuyện không may mới của em;

anh viết thư nhắn mẹ. Thế là mẹ bỏ mặc nhà cửa đấy, đến

ở với con út. Bà cụ và Thai-a ăn ở rất thích hợp tính nết với

nhau.

    Pa-ven vẫn tiếp tục học tập.

    Một buổi tối mùa đông, Thai-a đem về cho anh xem

thành tích đầu tiên của Thai-a: tấm thẻ đại biểu Xô-viết

thành phố. Từ đấy, Pa-ven ít khi trông thấy mặt vợ. Thai-a

thôi không làm chân rửa bát ở ban cấp dưỡng nhà an

dưỡng này nữa. Chị sang Xô-viết công tác ở ban phụ vận

mà tối nào cũng khuya mới về nhà, người mệt nhưng phấn

khởi lắm. Đã gần đến ngày được kết nạp làm đảng viên,

Thai-a hết sức hồi hộp phấn khởi thì một tai họa mới nữa

giáng xuống gia đình Pa-ven. Bệnh tật cứ phát triển sức tàn

phá ác độc của nó. Mắt phải Pa-ven bị sưng đau nhức nhối

không thể nào chịu được, rồi đau lại truyền sang cả mắt

trái. Lần đầu tiên trong đời, Pa-ven hiểu thế nào là bị mù,

tất cả chung quanh bị một tấm màn đen phủ kín.

    Thế là trên con đường đời, có một trở lực ghê gớm,

không thể nào vượt qua được, đã lẳng lặng trồi lên, chẹn

lấy lối đi. Mẹ và Thai-a thất vọng đến cùng cực. Nhưng Pa-

ven kiên tĩnh tự bảo mình:

    "Phải chờ xem thế nào đã. Nếu quả thật là mình không

sao ngoi lên được nữa, cái bệnh mù này ngăn hết đường

không cho mình cố gắng để làm việc được, nếu thật sự từ

nay mình không còn hy vọng gì trở về chỗ đứng của mình

trong đội ngũ thì phải kết liễu cuộc đời".

    Pa-ven viết thư cho các bạn thân. Anh nhận được thư

của các bạn trả lời, khuyến khích anh kiên trì và vững lòng

phấn đấu.

    Vào những ngày thật là cay đắng cho anh này, Thai-a

sung sướng vui mừng báo tin cho anh biết:

    - Anh Pa-vơ-lu-sa ơi, em được kết nạp làm đảng viên

dự bị rồi.

    Và Pa-ven nghe vợ kể chi bộ kết nạp nữ đồng chí mới

như thế nào, cũng gợi lại cho vợ nghe những bước đầu

tiên của mình đi vào con đường của Đảng. Anh nắm tay vợ:

    - Nữ đồng chí Ca-rơ-sa-ghin-na này, thế là hai vợ chồng

mình họp thành một đảng đoàn cộng sản trong nhà này rồi

đấy!

    Ngày hôm sau, anh viết thư mời đồng chí bí thư quận ủy

địa phương đến cho anh gặp. Tối hôm ấy, một chiếc xe hơi

lấm bê bết bùn đỗ trước nhà anh. Đồng chí Von-me, một

người Lét-tô-ni đã đứng tuổi, râu quai nón, bắt tay Pa-ven:

    - Sao, anh thấy trong người có khá không? Sao anh cứ

nằm lì mãi thế ? Đấy, có xe hơi đây, dậy đi thôi. Quận ủy

phái anh đi công tác ngay lập tức ở nông thôn. - Và đồng

chí cười cố làm cho vui.

    Đồng chí bí thư quận ủy ở chơi với Pa-ven hai giờ liền,

quên khuấy là tối nay có họp. Đồng chí người Lét-tô-ni ấy đi

đi lại lại trong phòng nghe câu chuyện thật cảm động của

Pa-ven. Cuối cùng, đồng chí nói:

    - Thôi, anh đừng nói đến nhóm nghiên cứu nữa nhớ.

Anh phải nằm nghỉ cho khỏe. Với lại, phải quyết định thế

nào về chuyện đôi mắt đi. Có thể là chưa đến nỗi hỏng cả

đâu. Hay là về Mát-xcơ-va chữa, anh thấy thế nào?

    Pa-ven ngắt lời:

    - Tôi thì tôi chỉ cần được tiếp x#432c với những con

người, đồng chí Von-me ạ, những người đang sống kia

kìa! Nếu để tôi lẻ loi, mình tôi sống với tôi thôi, thì tôi đến tắt

ngấm mất. Lúc này hơn lúc nào hết, tôi cần có người làm

bạn. Đồng chí cho bọn trẻ đến đây. Bọn trẻ ở nông thôn thì

dễ "tả" lắm, nông trang tập thể chưa vừa ý, đòi đến công xã

ngay. Nếu để mặc không người chỉ bảo, thì Côm-xô-môn

dễ tiền phong chủ nghĩa. Tôi hiểu, vì chính tôi lúc trẻ cũng y

như thế.

    Von-me dừng bước lại:

    - Ai nói mà anh biết được tình hình ấy thế. Mãi hôm nay

người ta mới cho tôi hay tin có tình hình ấy xảy ra trong

quận đấy.

    Pa-ven cười:

    - Đồng chí có lẽ không nhớ ra vợ tôi? Hôm qua vợ tôi

được kết nạp vào Đảng. Cô ấy cho tôi biết tin ấy đấy.

    - À chị Ca-rơ-sa-ghin-na, làm nghề rửa bát có phải

không? Vợ anh đấy à? Thế mà tôi không biết đấy!

    Suy nghĩ một lát, Von-me mới vỗ trán nói:

    - Thôi, để chúng tôi bảo Lép Béc-xê-nhếp sang đây làm

bạn với anh. Không có đồng chí nào tốt hơn để đi lại với

anh hơn đồng chí đó! Hai người lại rất hợp tính nhau nữa.

Thật là hai cái máy biến thế điện cao. Ấy là vì tôi trước kia

có làm thợ điện nên ví von như thế. Với lại, Lép sang đây

sẽ mắc giúp anh cái ra-đi-ô. Anh ấy rất cừ về môn này.

Nhiều khi tôi ở lì bên nhà anh ta nghe ra-đi-ô đến hai giờ

đêm. Đến nỗi mụ nhà tôi sinh ra ngờ vực; mụ ấy truy tôi:

đêm hôm khuya khoắt la cà đi đâu đấy, hở cái nhà ông lão

quỷ khập khiễng này?

    Pa-ven mỉm cười hỏi lại Von-me:

    - Béc-xê-nhếp? Đồng chí ấy là ai thế nhỉ?

    Von-me đi đi lại lại cũng mệt, ngồi xuống một cái ghế

dựa, kể lai lịch Béc-xê-nhếp cho Pa-ven nghe.

    - Béc-xê-nhếp là công chứng viên ở tòa án đây. Nhưng

kiểu anh ấy lâm công chứng viên cũng như tôi làm nhà vũ

đạo ấy mà. Cách đây không lâu, anh giữ một chức vụ quan

trọng. Vốn là một chiến sĩ cách mạng kỳ cựu, tham gia từ

1912 và vào Đảng từ tháng Mười. Trong nội chiến, làm ở

tòa án cách mạng quân đoàn kỵ binh thứ hai. Đã tham gia

diệt bọn rệp trắng ở Cô-ca-dơ. Đã từng ở Xa-ri-xưn và ở

mặt trận Nam. Sang Viễn Đông, làm chủ tịch tòa án quân

sự tối cao nước Cộng hoà. Cũng đã trải lắm mùi đời. Anh

ta bị bệnh lao quật ngã. Được đổi từ Viễn Đông sang đây.

Thoạt đầu về Cô-ca-dơ, làm chánh án tỉnh, phó chánh án

xứ. Song phổi bị rữa hết rồi. Giờ mới đổi về đây, để khỏi

nghoẻo mất. Lịch sử đồng chí công chứng viên kỳ lạ của

chúng ta là như thế. Công tác công chứng viên đỡ mệt;

cũng để cho anh ấy thở một tí. Nhưng rồi người ta cứ từ từ

giao cho anh ấy phụ trách một chi bộ, rồi nhét cho anh ấy

phụ trách trường Đảng, rồi lại cử vào ban kiểm tra; anh ấy

là ủy viên thường trực của các tiểu ban điều tra về các vụ

án hóc búa và phức tạp. Ngoài ra lại là một tay đi săn và

chơi ra-đi-ô rất ham. Anh ấy chỉ còn một bên phổi thôi thế

mà chẳng ai tưởng là anh lao cả. Sức sống anh ta trào ra

khắp mọi lỗ chân lông. Thế nào rồi cũng có hôm chết giữa

đường chạy từ quận ủy về tòa án cho mà xem.

    Pa-ven gắt lên ngắt lời Vôn-me:

    - Sao các đồng chí dồn cho anh ấy lắm việc thế ! Công

tác đồng chí ấy lại nặng hơn trước.

    Von-me lấy mắt nguýt Pa-ven.

    - Ấy thế đấy, khi tôi giao đồng chí nhóm học tập với

thêm một công tác gì nữa thì Lép bấy giờ cũng kêu lên:

"Cậu ấy có phải là ngựa thồ đâu". Nhưng chính anh ấy lại

bảo là: "Thà sống một năm, làm cho ra làm, còn hơn sống

mòn mỏi năm năm, cứ ốm ngoặt, ốm ngoẹo". Chỉ có xây

đựng chủ nghĩa xã hội xong rồi thì mới nói đến chuyện con

người ta thôi phải làm việc quá sức được

    - Đúng như thế. Tôi cũng tán thành sống cho ra sống

một năm còn hơn sống vật vờ năm năm. Nhưng nhiều khi

chúng ta phung phí sức lực của chúng ta một cách tội lỗi vô

cùng. Tôi bây giờ mới hiểu rằng cái tính bồng bột liều lĩnh

không suy nghĩ, chẳng lấy gì làm anh hùng lắm. Mãi bây giờ

tôi mới nhận ra tôi không có quyền phá hoại không thương

tiếc sức khỏe của tôi. Làm như thế có phải là anh hùng

đâu. Nếu đừng có sống cái cách khắc khổ cực đoan thì có

phải bây giờ tôi còn đứng vững được nhiều năm nữa. Nói

tóm lại, một trong những nguy cơ chính sinh ra cái tình cảnh

tôi bây giờ là cái bệnh ấu trĩ tả khuynh ấy.

    "Giờ thì anh chàng nói vậy. Nhưng mà giá đứng dậy đi

được thì lại quên ngay cả trời đất mà thôi". Vôn-me nghĩ

vậy, nhưng không nói ra.

    Tối hôm sau Lép đến tìm Pa-ven. Mãi nửa đêm, hai

người mới chia tay nhau. Khi từ biệt người bạn mới, Lép

có cảm tưởng như gặp lại một đứa em trai đã lâu năm biệt

tăm.

    Sáng ngày ra, anh em đến trèo lên mái nhà Pa- ven

trồng cột dây ăng-ten; Lép mắc máy ra-đi-ô trong buồng

Pa-ven, vừa làm vừa kể chuyện những bước đường say

mê đã qua của đời mình. Pa-ven không trông thấy Lép,

nhưng nhờ Thai-a tả, anh biết là Lép có tóc vàng, có mắt

sáng, người dong dỏng cao, dáng dấp nhanh nhẹn, nghĩa

là đúng y như Pa-ven tưởng tượng trong óc, ngay từ những

phút đầu tiên mới gặp nhau.

     Chiều đến, mở máy ra-đi-ô. Lép trịnh trọng đưa Pa-ven

khoác vào tai cái ống nghe. Không gian ồn ào ầm ĩ trăm

ngàn tiếng động lộn xộn. Tiếng máy điện báo ngoài cảng

ríu rít như chim (chắc biển đâu gần đây); ngoài biển cả, một

chiếc máy phát thanh trên tàu biển truyền đi, báo hiệu.

Trong đám tiếng động và âm thanh chằng chịt, máy bắt

được luồng điện và phát ra tiếng nói bình tĩnh và vững tin:

     - Đây là đài phát thanh Mát-xcơ-va.

     Dây ăng-ten máy nhỏ này bắt được sáu mươi đài trên

khắp thế giới. Cuộc sống ngoài kia mà Pa-ven đã phải xa

lìa, nhờ cái màng thép đó mà ập vào phòng này, Pa-ven

cảm thấy hơi thở mãnh liệt của cuộc sống ấy.

     Thấy mắt bạn có tia sáng rọi lên, Béc-xê-nhếp tuy mệt,

cũng mỉm cười.

     Trong tòa nhà lớn này, ai nấy ngủ yên cả. Thai- a ngủ

mê, nói lẩm bẩm. Đêm nào cũng đến khuya, chị mới về,

mệt lả, rét run. Pa-ven không mấy khi gặp vợ. Thai-à bị hút

vào công việc, bận tíu tít thì càng ít có tối rỗi ở nhà. Pa-ven

nhớ lời Béc-xê-nhếp nói với mình:

     - Nếu vợ một người bôn-sê-vích mà cũng là một đồng

chí Đảng thì hai người thật ít có dịp trông thấy nhau. Như

thế có hai cái lợi: không bao giờ chán nhau được mà cũng

không có thời giờ cãi nhau nữa!

     Pa-ven có thể lấy điều đó làm phàn nàn không? Không,

anh phải chịu như thế. Có một hồi Thai-a tối nào cũng về

với anh. Dạo ấy gần gũi hơn, âu yếm hơn. Nhưng dạo ấy

Thai-a chỉ có là bạn trăm năm, là vợ của anh thôi. Bây giờ

thì Thai-a còn là học trò anh và đồng chí Đảng của anh.

     Anh hiểu Thai-a càng tiến thì càng ít có thời giờ săn sóc

đến anh. Anh nhận như thế, điều đó tất nhiên.

     Đảng giao anh lãnh đạo một nhóm nghiên cứu.

     Tối đến, nhà lại huyên náo. Những tối họp với bọn trẻ

làm cho nghị lực của anh như được tôi luyện lại.

     Ngoài những lúc ấy ra, anh chỉ mắc ống nghe vào tai,

bà mẹ vất vả mới bảo anh bỏ ra được để ăn cơm.

     Anh mù không đọc được sách thì nay ra-đi-ô lại giúp

anh học tập. Lòng ham học không gì thắng nổi làm anh

quên hết đau đớn quằn quại của cơ thể tàn tạ quên đôi mắt

nhức hỏng và quên tất cả cuộc đời anh thật lắm gian truân

mà ít được trìu mến.

     Khi qua làn dây ăng-ten, máy phát ra tiếng nói từ công

trường xây dựng Ma-gơ-nhi báo tin những thành tích mới

của lớp trẻ dưới ngọn cờ Đoàn đang xông lên thay thế cho

thế hệ của những Pa-ven, thì Pa-ven cảm thấy vui sướng

sâu xa.

     Anh tưởng tượng cơn bão tuyết, hung hãn như đàn sói

dữ, những trận rét ghê người ở vùng U-ran. Gió gầm thét

và trong đêm sâu, mưa tuyết dưới ánh đèn than cháy rực,

một đơn vị thanh niên cộng sản thuộc thế hệ thứ hai đang

gội tuyết trèo lên lợp kính trên những tòa nhà khổng lồ, để

bảo vệ những xưởng đầu tiên mới xây dựng của khu công

nghiệp lớn vào hạng nhất thế giới này, chống lại bão tuyết

và gió lạnh. So với chiến công của họ, cuộc đấu tranh

chống lại bão táp của lớp thanh niên cộng sản đầu tiên

thành Ki-ép ở công trường trong rừng sâu ngày trước thật

chẳng thấm vào đâu.

    Đất nước đã lớn lên, những con người cũng lớn lên.

    Trên sông Đơ-nhi-ép, thác lũ đổ về, cuốn băng những

đập chôn xoáy người và máy móc. Những thanh niên cộng

sản lao mình vào trấn ngự cơn nước lũ tràn bờ. Đấu tranh

hai ngày ác liệt, không ngủ, không nghỉ qua một phút, họ

mới dẫn được dòng nước lũ lui về nép mình trong bờ thép.

Thế hệ thanh niên cộng sản mới lại đi hàng đầu trong cuộc

đấu tranh vĩ đại. Trong danh sách những anh hùng được

đọc tên ở máy truyền thanh, Pa-ven sung sướng đón nghe

cái tên chí thân chí thiết: Pan-cơ-ra-tốp.

CHUƠNG IX

    Gia đình Pa-ven dọn về ở Mát-xcơ-va đã khá lâu, ở một

buồng kho lưu trữ công văn của một cơ quan; đồng chí thủ

trưởng cơ quan đó ra sức giúp Pa-ven, tìm cách đưa anh

vào chữa ở một bệnh viện chuyên khoa.

    Mãi đến giờ Pa-ven mới hiểu rằng, thân còn cường

tráng, máu còn thanh niên mà đứng vững thì hãy còn là

chuyện tương đối dễ và thường thôi. Nhưng giờ bị cuộc

đời dồn ép vào một vòng đai thép như thế này, mà vẫn

không nao núng, thì đấy mới là tiết tháo.

    Mười tám tháng đau liên miên.

    Ở bệnh viện, giáo sư A-véc-bác đã nói thẳng với Pa-

ven là không thể nào chữa cho anh khỏi mù được. Nếu sau

này, mắt anh không sưng nữa - nào biết bao giờ khỏi

được sưng - thì sẽ thử dùng cách giải phẫu mổ con ngươi

xem sao. Trong khi chờ đợi, để cho mắt khỏi sưng tấy lên

nữa, thầy thuốc đề nghị mổ chỗ mắt đau.

    Hỏi ý kiến Pa-ven thì Pa-ven cho phép muốn làm gì thì

làm, tùy các thầy thuốc xét thấy cần thiết.

    Anh nằm trên bàn mổ hàng giờ, trong khi dao mổ rạch

thịt cổ và cắt hạch lấy tuyến giáp thì cánh đen của thần chết

ba lần suýt quệt vào anh. Nhưng sự sống vẫn bám chắc rễ

trong người Pa-ven. Thai-a chờ đợi lo hãi từng giờ, lúc

được vào thăm thì thấy anh tái mét như người chết, nhưng

Pa-ven vẫn còn sống và vẫn bình tĩnh, dịu dàng như mọi khi.

.

    - Em đừng lo, em ạ, làm anh ngoẻo được không phải là

dễ đâu. Anh còn sống hằng năm và anh sẽ nhảy múa nữa

cho mà xem, dù chỉ để cải chính những tính toán máy móc

của các thầy lang thông thái ấy chơi. Bảo cơ thể anh suy

kiệt thì các thầy đều có lý cả, nhưng bảo anh trăm phần

trăm là một người tàn phế thì nhầm quá lắm. Rồi mà xem.

    Pa-ven quyết tâm chọn con đường đưa anh trở về hàng

ngũ nhũng con người xây dựng cuộc đời mới.

    Mùa đông qua. Mùa xuân đã tới, mở toang các cửa sổ

ra, và Pa-ven gầy rộc đi qua lần mổ vừa rồi, thấy rằng

không thể ở bệnh viện lâu hơn được nữa. Sống bằng ấy

tháng trời, chung quanh toàn là những con người đau đớn

bệnh tật, giữa tiếng kêu la rên xiết của những người bệnh

tuyệt vọng, anh thấy khổ hơn là chịu đựng những đau đớn

của riêng bản thân mình.

    Khi thầy thuốc bảo nên mổ nữa thì anh trả lời, lạnh lùng

và dứt khoát:

    - Tôi không mổ nữa đâu. Mổ thế là đủ. Tôi đã hiến cho

khoa học một phần máu của tôi rồi. Chỗ máu còn lại tôi còn

phải để dùng vào việc khác.

    Ngay ngày hôm ấy, Pa-ven viết thư đề nghị Trung ương

thu xếp cho anh ở lại Mát-xcơ-va, sợ sau này phải đi lại

mất công, vả chăng vợ anh cũng có công tác ở đấy rồi. Đây

là lần đầu tiên anh phiền đến Đảng, xin Đảng giúp anh. Đáp

lại lời đề nghị đó, Xô-viết Mát-xcơ-va xếp cho anh một căn

phòng. Pa-ven liền ra viện với một mong ước độc nhất là

không bao giờ phải trở lại đấy nữa.

    Nhà anh chỉ là một căn phòng giản dị ở ngõ rẽ ra phố

Cơ-rô-pốt-kin . Anh cho thế là đã sang trọng nhất rồi. Thỉnh

thoảng giữa đêm, Pa-ven thức dậy, anh vẫn không tin là

mình chỉ vừa mới rời khỏi bệnh viện.

     Thai-a được công nhận là đảng viên chính thức. Chị làm

việc bền bỉ, tuy cả tấn bi kịch của đời tư cứ đè trĩu trên

người, chị vẫn không kém các nữ công nhân xung kích; và

tập thể theo dõi người nữ công nhân ít nói ấy, đem lòng tín

nhiệm chị và bầu chị vào ủy ban công xưởng. Lòng tự hào

về vợ nay đã trở thành một chiến sĩ bôn-sê-vích cũng làm

cho Pa- ven dịu bớt đau buồn về cảnh ngộ.

     Ba-gia-nô-va có công tác đi qua, vào thăm Pa-ven. Hai

người nói chuyện với nhau lâu. Pa-ven nói với bạn một

cách say sưa về con đường trong một tương lai gần đây

sẽ đưa anh về hàng ngũ chiến đấu.

     Ba-gia-nô-va nhận thấy tóc ở thái dương Pa-ven đã

bạc. Chị dịu dàng nói:

     - Tôi thấy anh đã trải nhiều gian khổ mà vẫn giữ được

lòng hăng hái không gì dập tắt được. Cuốn sách mà anh

nghĩ đã năm năm, giờ anh định bắt đầu viết phải không?

Nên lắm anh ạ. Nhưng anh làm thế nào mà cầm bút viết

được.

     Pa-ven mỉm cười, nói cho bạn khỏi lo:

     - Mai người nhà sẽ làm cho tôi một thứ bìa để kê giấy

viết. Không có bìa kê ấy, không viết được, dòng chữ sẽ lên

xuống, đè lên nhau. Tôi nghĩ mãi mới tìm ra cách ấy. Những

mảnh bìa ấy sẽ làm cho tôi không đưa chệch ngọn bút chì

ra khỏi dòng thẳng. Viết mà không trông thấy điều mình viết

thì khó viết lắm, nhưng không phải là không viết được. Tôi

tin như thế. Tôi tập viết đã lâu mà không được. Nhưng giờ

thì tôi rút kinh nghiệm, tôi viết chậm thôi, tôi nắn nót từng

chữ, và kết quả thì cũng khá.

     Pa-ven bắt đầu làm việc.

     Anh dự định viết một truyện về sư đoàn anh dũng Cô-

tốp-ski. Tên cuốn sách do ngay chủ đề cuốn sách mà ra:

     "Ra đời trong bão táp" .

     Từ hôm ấy, anh sống chỉ để mà viết cuốn sách đó. Dần

dần mọc ra hết dòng này đến dòng khác, hết trang này đến

trang khác. Anh quên hết mọi việc, chỉ miệt mài với những

hình tượng. Lần đầu tiên anh biết cái đau đớn của sáng

tác, khi anh thấy mình không tài nào ghi hết lên giấy được

những cảnh đời rực rỡ không sao quên được, hồi tưởng

lại rất nồng cháy, thế mà viết ra thì nhợt nhạt, thiếu lửa,

thiếu tình.

     Tất cả những điều anh đã viết, anh phải nhẩm trong óc,

nhớ từng chữ một. Đôi khi anh quên khuấy mất dòng văn thì

công việc dừng cả lại. Bà mẹ nhìn con hí hoáy viết cả ngày

thì rất đỗi kinh sợ.

     Anh phải đọc lại bằng trí nhớ hàng trang sách, có khi

hàng cả chương sách nữa, mới có thể lại tiếp tục viết

được nữa. Những lúc ấy bà mẹ ngỡ là con hóa dại. Trong

khi con còn đang mải viết, bà mẹ không dám lại gần.

Nhưng khi nào bà cụ đến nhặt những tờ giấy vương rơi

dưới đất thì ngập ngừng, rồi ngần ngại khẽ bảo Pa-ven:

     - Con đừng viết thế nữa, Pa-vơ-lu-sa ạ. Mẹ chẳng trông

thấy ai viết lắm như thế bao giờ.

     Thấy mẹ lo, anh bật cười vui và nói cho mẹ vui và nói

cho mẹ yên tâm là anh chưa đến nỗi hóa rồ hẳn đâu.

     Ba chương cuốn sách anh định xây dựng đã viết xong.

Pa-ven gửi đi Ô-đét-xa cho mấy đồng chí cũ trong sư đoàn

Cô-tốp-ski đọc để lấy ý kiến. Ít lâu sau, anh nhận được

thư.họ trả lời tỏ ý khen ngợi. Song bản thảo gửi trả lại lạc

mất. Toi công sáu tháng trời. Anh rụng rời điếng người,

tiếc cay tiếc đắng sao lại gửi đi bản thảo duy nhất của cuốn

sách mà không chép lại một bản giữ ở nhà. Anh nói chuyện

với Lê- đê-nhếp về việc mất bản thảo đó.

    - Ai lại vô ý đến thế. Nhưng, đừng buồn bực, chú ạ. Bực

tức giờ cũng vô ích.Thôi, chú lại chịu khó viết lại đi

    - Nhưng, bác Lê-đê-nhếp ơi, thế là cướp không mất

của tôi sáu tháng trời, quần quật làm căng óc tám giờ một

ngày. Trời ơi, chúng nó là đồ ăn hại, ba lần chết tiệt!

    Lê-đê-nhếp tìm lời khuyên nhủ cho anh nguôi lòng.

    Phải viết lại từ đầu. Lê-đê-nhếp kiếm giấy cho anh viết.

Bản thảo viết ra, đồng chí lại đem đi nhờ đánh máy lại.

Được sáu tuần thì làm sống lại được chương thứ nhất.

    Gia đình Pa-ven ở chung nhà với gia đình A-lêc- xê-ép.

Gia đình này có con trai lớn là A-lêc-xan-đơ- rơ, làm bí thư

quận Đoàn thanh niên. Em gái A-lêc- xan-đơ-rơ là Ga-li-a,

mười tám tuổi, đã tốt nghiệp trường dạy nghề của nhà

máy.

    Ga-li-a đang tuổi chan chứa lòng yêu đời. Pa-ven nhờ

mẹ hỏi xem cô ấy có ưng giúp làm "thư ký" cho anh không.

Ga-li-a vui vẻ nhận lời. Cô niềm nở, vui cười sang gặp Pa-

ven. Khi cô em được biết là anh đang viết một cuốn tiểu

thuyết, thì bảo với anh rằng:

    - Em vui lòng giúp anh lắm, đồng chí Pa-ven ạ. Chép

tiểu thuyết cho anh còn thú vị hơn là thảo cho thầy em

những thông tri về việc giữ gìn vệ sinh trong các phòng.

    Từ hôm ấy, công việc tiến hành nhanh gấp đôi. Qua một

tháng thì viết được đã khá, đến Pa-ven cũng phải lấy làm

lạ. Ga-li-a, với tính tình vui tươi và giàu lòng trắc ẩn, đã làm

cho công việc sáng tác của anh đỡ vất vả nhiều. Ngọn bút

chì của cô nhẹ nhàng đưa sột soạt trên mặt giấy; những

đoạn cô thú nhất, cô thường đọc đi đọc lại, thấy Pa-ven viết

được thành công như thế, thì cô lấy làm vui thích lắm. Có lẽ,

trong nhà này, cô là người duy nhất tin tưởng vào công việc

của Pa-ven làm. Những người khác thì cho là viết thế

chẳng đi đến đâu, chẳng qua bị bắt buộc phải ngồi không

thì Pa-ven vẽ ra làm cho đời đỡ trống trải.

    Lê-đê-nhếp có công tác trở lại Mát- xcơ-va. Đồng chí

đọc xong những chương đầu, nói với Pa-ven:

    - Cứ viết đi chú ạ. Nhất định là thành công đấy. Đồng chí

Pa-ven ơi, đồng chí sẽ còn được sống những niềm vui lớn.

Tôi tin tưởng chắc chắn là mộng ước của chú trở về trong

đội ngũ sẽ thực hiện được. Đừng ngã lòng, con ạ.

    Đồng chí già ra về rất hài lòng: đồng chí nhận thấy Pa-

ven đang tràn đầy nghị lực.

    Ngày ngày, Ga-li-a lại sang, bút chì của cô siết trên giấy,

những hàng chữ mọc lên kể lại dĩ vãng không bao giờ quên

được. Những khi Pa-ven nghe thấy những kỉ niệm cũ trào

lên, lặng suy nghĩ thì mi mắt mấp máy, mắt như động đậy

phản ánh những ý nghĩ trôi qua. Những lúc ấy, Ga-li-a khó

mà tin được là mắt anh không nhìn thấy, bởi vì ở đôi con

ngươi trong vắt không có lòng đen kia trông có tinh thần, có

sự sống.

    Mỗi ngày viết xong, Ga-li-a đọc lại, Pa-ven lắng nghe,

nét mặt đăm chiêu, mày cau lại.

    - Sao anh lại cau mày, hở anh? Đoạn này viết hay lắm

cơ mà!

    - Không hay đâu Ga-li-a ạ. Còn tồi lắm.

    Những trang không vừa ý thì anh lại tự tay viết lại. Tay bị

bó trong những mảnh bìa kê chật hẹp, lắm lúc anh viết

chệch ra ngoài dòng: anh liền bỏ cả không viết nữa. Những

lúc ấy, anh tức giận như điên, như dại, giận thân, giận đời

đã bắt anh mù. Anh bẻ gãy bút chì, và trên môi cắn chặt

rớm mấy giọt máu.

    Công việc gần xong, nhưng những tình cảm tiêu cực

càng hay đến trong lòng, mặc dù ý chí của anh lúc nào cũng

tỉnh táo cố kìm những tình cảm ấy lại. Đấy là nỗi buồn vô

hạn vì những tình cảm nồng cháy, tha thiết, những tình cảm

mà con người ai cũng có, ai cũng có quyền được hưởng,

thế mà riêng anh không được Nếu anh không biết tự chủ,

dù chỉ để cho một trong những tình cảm kia lôi cuốn, thì

cuộc đời sẽ kết thúc bằng một tấn thảm kịch mất.

    Thai-a đi làm mãi khuya mới về, nói chuyện thầm với

mẹ dăm ba câu, rồi đi ngủ ngay.

    Chương cuối cùng đã viết xong. Suốt mấy hôm, Ga-li-a

đọc lại cuốn tiểu thuyết cho Pa-ven nghe.

    Mai là ngày gửi bản thảo đi Lê-nin-gơ-rát cho Ban tuyên

huấn của Đảng ủy khu. Nếu ở đấy người ta cấp cho cuốn

sách " giấy thông hành vào đời" - và đưa sang nhà xuất

bản cho in thì...

    Pa-ven những nghĩ mà hồi hộp. Nếu được thế thì... Thế

sẽ là bắt đầu một cuộc đời mới, giành lại được bằng bao

nhiêu năm khó nhọc, làm cật sức và bất chấp gian nan.

    Số phận cuốn sách sẽ quyết định số phận Pa-ven. Nếu

bản thảo bị từ chối, không in được thì đấy sẽ là cảnh chiều

tàn cuối cùng của đời anh. Song nếu không bị bỏ đi tất cả,

thì còn có phương có chữa, anh sẽ tiếp tục sửa đi sửa lại,

bắt tay vào ngay một trận tiến công mới..

     Mẹ đem ra nhà dây thép gửi đi một gói giấy nặng.

Những ngày lo lắng đợi chờ... Trong đời chưa bao giờ anh

đợi thư đến một cách sốt ruột khắc khoải đau xót như lúc

này. Cuộc đời anh trông vào ngày hai buổi sớm chiều phát

thư của nhà dây thép. Lê-nin- gơ-rát vẫn tuyệt vô âm tín.

     Sự im hơi lặng tiếng của nhà xuất bản làm anh phát lo.

     Càng ngày càng đinh ninh là thất bại đến nơi rồi, và Pa-

ven thú thật với mình rằng nếu cuốn sách bị bác đi, thì đời

anh thế là hết: anh chẳng còn sống làm gì nữa.

     Những lúc nghĩ thế, anh lại nhớ tới cái buổi chiều hôm

nào ở khu vườn ngoại ô bên bờ biển, và một lần nữa anh

tự hỏi:

     "Để trở về chỗ đứng của mi trong đội ngũ, làm cho đời

mi còn có ích, mi đã làm hết cách để giựt tung vòng đai

thép đang chịt lấy cổ mi chưa?

     Và lần này anh tự trả lời:

"Lần này thì ta đã cố hết phép rồi !"

   Ngày lại ngày, cảnh chờ đợi đau đớn đến cùng cực.

   Bỗng một hôm, mẹ chạy vào phòng, mẹ cũng cảm động

như con, mẹ kêu lên:

   - Có dây thép ở Lê-nin-gơ-rát đánh về!

   Dây thép của Đảng ủy khu. Mấy chữ vắn tắt trên một

bức điện trả lời có mẫu sẵn: "Tiểu thuyết được nhiệt liệt tán

thành xuất bản. Bắt đầu in. Xin có lời chúc mừng thắng lợi

của đồng chí”.

   Tim Pa-ven đập gấp. Mong ước thế là thành! Anh đã

giựt tung được vòng đai thép. Với vũ khí mới, anh đã giành

lại được chỗ của anh trong đội ngũ và trong cuộc sống.

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: