Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

the lost hero 1-11

Chapter I

Jason

Ngay cả trước khi bị điện giật, Jason đã có một ngày tồi tệ.

Cậu thức giấc trên băng ghế sau của xe buýt trường, không chắc chắn về nơi mình đang ở, nắm chặt tay một cô gái mà cậu không quen. Đó không hẳn là một phần của sự tồi tệ. Cô gái dễ thương, nhưng cậu không thể nghĩ ra cô ấy là ai hay mình đang làm gì. Cậu bật dậy và dụi mắt, cố gắng nghĩ ngợi.

Một vài tá trẻ con ưỡn người trên những băng ghế trước mặt cậu. Chúng nghe ipod, trò chuyện hay ngủ khò. Tất cả chúng xêm xêm tuổi cậu, khoảng mười lăm hay mười sáu nhỉ? Thôi được rồi, thật đáng sợ. Cậu ấy không hề biết tuổi của mình.

Xe buýt kêu ầm ầm suốt đoạn đường dằn xóc. Nhìn qua cửa sổ, cảnh sa mạc lướt qua dưới bầu trời trong xanh. Jason khá chắc chắn rằng mình không sống ở sa mạc. Cậu cố gắng nhớ lại…điều cuối cùng cậu còn nhớ là…

Cô gái siết tay cậu: “Jason, cậu ổn chứ?”

Cô ấy mặt quần jean bạc màu, mang giầy đi bộ, khoác áo khoác lông loại để trượt tuyết. Mái tóc màu chocolate của cô được cắt bồng bềnh và so le, bím tóc mảnh thả dài xuống sau lưng. Cô không trang điểm, có vẻ như cô không cố lôi kéo sự chú ý vào mình, nhưng không thành công lắm. Cô ấy thực sự đẹp. Đôi mắt cô dường như đổi màu như kính vạn hoa, nâu, xanh, xanh lá.

Jason thả tay cô ra: “Ừm, tớ không…”

Ngay lối đi phía trước của xe buýt, một giáo viên la lớn: “Được rồi, mấy cái bánh nhỏ kia, nghe nhé!”

Người đó hẳn nhiên là huấn luyện viên. Mũ bóng chày kéo thấp hơn tóc mái, nên bạn chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt long lanh của ông ấy. Ông có chòm râu dê lòa xòa và gương mặt cau có, giống như ông ta vừa ăn thứ gì bị nổi mốc. Cánh tay để trần và khuôn ngực kéo căng áo thun cổ lọ màu cam tươi. Quần dù thể dục và đôi Nike của ông ta trắng tinh. Ông đeo một cái còi trên cổ, loa gắn ở thắt lưng. Ông ấy trông sẽ đáng sợ một chút nếu ông không chỉ cao năm bộ chẵn. Khi ông đứng giữa lối đi, một sinh viên gọi:

“Đứng lên nào, huấn luyện viên Hedge!”

“Tôi nghe rồi nhé!” – huấn luyện viên quét mắt khắp xe buýt tìm kẻ tội đồ. Rồi mắt ông dừng lại phía Jason, vẻ cau có hằn sâu hơn.

Cảm giác chết điếng chạy dọc sống lưng Jason. Cậu chắc chắn huấn luyện viên biết cậu không thuộc chỗ này. Ông sẽ gọi Jason ra, gặng hỏi cậu đang làm gì trên chuyến xe buýt này – và Jason sẽ không có chút gì để giải thích.

Nhưng huấn luyện viên Hedge nhìn sang chỗ khác rồi hắng giọng:

“Chúng ta sẽ đến nơi trong năm phút nữa! Hãy ở cạnh đồng đội của bạn. Đừng làm mất phiếu bài tập. Nếu có bất cứ bạn nào gây rắc rối trong chuyến đi, tôi sẽ gửi trả bạn đó trở lại trại theo cách không dễ chịu gì.”

Ông ấy nhặt gậy bóng chày và huơ lên như đang quật một cú ghi điểm trực tiếp(1).

Jason nhìn sang cô gái ngồi bên: “Ông ta có thể ăn nói với chúng ta kiểu đó hả?”

Cô ấy nhún vai: “Luôn như thế. Đây là trường học Hoang dã. Nơi trẻ con là thú hoang.”

Cô ấy nói cứ như đó là một lời đùa họ từng nói trước đây.

“Có nhầm lẫn gì đó,” – Jason nói – “Tớ không nghĩ mình sẽ ở đây.”

Cậu trai ngồi trước quay lại cười lớn:

“Phải, đúng đấy Jason. Tất cả chúng ta đều bị dụ! Tớ không bỏ trốn sáu lần. Piper cũng không trộm một chiếc BMW.”

Cô gái đỏ mặt: “Tớ không trộm xe nhé Leo!”

“Ồ, tớ quên mất, Piper. Vậy chuyện của cậu là thế nào? Cậu bảo người bán xe cho cậu mượn hả?” – cậu ta nhướng cặp mày sang Jason, như có ý bảo, cậu tin cô ấy không?

Leo trông giống một chú lùn của ông noel, mái tóc đen xoăn, tai nhọn, một gương mặt vui vẻ như trẻ con. Nụ cười tinh nghịch của cậu ta nhắc bạn rằng chàng trai này không nên được tin tưởng bởi sự sắc sảo. Những ngón tay dài và linh hoạt của cậu ta không ngừng chuyển động, gõ gõ lên thành ghế, xoắn mớ tóc sau tai, nghịch nút áo trên cái áo khoác quân đội cũ kỹ của cậu. Hoặc thằng nhóc này là kẻ hiếu động bẩm sinh, hoặc cậu ta đã bị uống nhiều đường và caffeine đến nổi kích động như một con trâu.

“Dù sao đi nữa,” – Leo nói – “Tớ hy vọng cậu còn giữ phiếu bài tập, vì tớ đã dùng phiếu của mình để làm bì bắn mấy ngày trước rồi. Sao cậu nhìn tớ như thế? Ai vẽ gì trên mặt tớ hả?”

“Tớ không quen cậu.” – Jason nói.

Leo cười nhăn răng: “Chắc chắn rồi. Tớ không phải bạn tốt nhất của cậu. Tớ là nhân bản ma quỷ của nó.”

“Leo Valdez!” – huấn luyện viên Hedge thét lên từ đằng trước – “Chuyện gì ở đó vậy?”

Leo nháy mắt với Jason: “Xem đây nhé.” Cậu ta quay người lại: “Xin lỗi huấn luyện viên! Em hơi khó khăn khi nghe tiếng thầy. Thầy có thể xài cái loa đó không, xin thầy?”

Huấn luyện viên Hedge lẩm rầm như là ông ấy sẵn lòng tha thứ. Ông tháo cái loa khỏi thắt lưng và tiếp tục hướng dẫn, nhưng giọng ông nghe như Darth Vader.

Mấy đứa nhóc cười òa. Huấn luyện viên thử lại lần nữa. Nhưng lần này loa phát rất to: “Bò kêu moo(2)!”

Bọn nhóc rú lên. Huấn luyện viên ném phịch cái loa: “Valdez!”

Piper cười nắc nẻ: “Chúa ơi, Leo. Sao cậu làm được chuyện đó?”

Leo rút một cái tua-vít Phillips ra khỏi túi áo: “Tớ là người đặc biệt mà.”

“Các cậu, nghiêm túc nào,” – Jason khẩn khoản – “Tớ đang làm gì ở đây? Chúng ta đang đi đâu?”

Piper nhíu mày: “Jason, cậu đùa hả?”

“Không! Tớ không hề…”

“Ôi, phải rồi, cậu ấy đang đùa,” – Leo nói – “Cậu ấy đang cố trả đũa tớ vụ kem cạo râu trên thạch Jell-O chứ gì?”

Jason ngây ra nhìn chằm chằm cậu ta.

“Không, tớ nghĩ cậu ấy nghiêm túc.” – Piper cố nắm tay cậu lần nữa nhưng cậu giật lại.

“Xin lỗi,” – cậu nói – “tớ không…không thể…”

“Thế đấy!” – huấn luyện viên Hedge la to – “Hàng sau đã tình nguyện dọn dẹp sau bữa trưa!”

Bọn trẻ còn lại hò reo cổ vũ.

“Sốc thế!,” – Leo căn nhằn.

Nhưng Piper vẫn nhìn Jason, như là cô ấy không thể khẳng định cậu đang bị đau hay lo lắng:

“Cậu bị tông vào đầu hay chỗ nào hả? Cậu thực sự không biết chúng tớ là ai sao?”

Jason nhún vai chịu thua: “Còn tệ hơn. Tớ không biết mình là ai.”

Xe buýt thả chúng tôi ở trước một khối nhà lớn trát hỗn hợp vữa stucco(3) đỏ, trông như một viện bảo tàng, chỉ là nó nằm ở nơi xa xôi hẻo lánh. Có lẽ thứ này là Bảo tàng Quốc gia của Không nơi nào(4), Jason nghĩ. Một cơn gió lạnh thổi qua sa mạc. Jason đã không chú ý nhiều đến những thứ mình đang mặc, nhưng nó gần như không đủ ấm: quần jean với giầy đế mềm, áo thun chữ T, áo gió đen.

“Vậy, cần một khóa cấp tốc cho người mất trí,” – Leo nói, giọng đầy hứng khởi khiến Jason nghĩ ngay đó không phải chuyện ích lợi gì.

“Chúng ta tới Trường học Hoang dã.” –  Leo giơ những ngón tay làm thành hai cái dấu ngoặc – “Có nghĩa chúng ta là những đứa trẻ khó bảo. Gia đình, hoặc tòa án, hoặc ai đó, quyết định rằng cậu đã có quá nhiêu vấn đề, vậy là họ ném cậu đến nhà tù đáng yêu này, xin lỗi, nó mang bảng hiệu là Trường học, ở Armit, Nevada. Nơi đây cậu học những kỹ năng thiên nhiên quý báu như là chạy mười dặm một ngày xuyên qua đám xương rồng và tết hoa cúc thành những cái mũ! Đặc biệt hơn chúng ta được tiếp nhận những chuyến đi cày mang tính giáo dục của huấn luyện viên Hedge, người cầm gậy bóng chày kia kìa. Mấy thứ này trở lại đầu cậu chưa?”

“Không.” – Jason rụt rè liếc những đứa trẻ khác: có lẽ khoảng hai mươi đứa, phân nửa là con gái. Không ai trong chúng nhìn giống tội phạm khó trị, nhưng cậu tự hỏi chúng đã làm gi để bị kết án.

Leo đảo mắt: “Cậu thực sự muốn giỡn nữa hả? Được thôi, vậy thì ba chúng ta kết thân với nhau trong học kỳ này. Chúng ta hoàn toàn thân thiết. Cậu làm mọi thứ tớ bảo và tặng tớ món tráng miệng của cậu, rồi làm việc vặt của tớ…”

“Leo!” – Piper cáu gắt.

“Tốt thôi. Tớ bỏ qua phần cuối cùng. Nhưng chúng ta là bạn. Đúng rồi, Piper thân hơn mức bạn bè một chút, vài tuần trước…”

“Leo, thôi ngay!” – mặt Piper ửng đỏ. Jason có thể cảm thấy mặt minh cũng nóng bừng. Cậu nghĩ cậu phải nhớ nếu hẹn hò với một cô gái như Piper.

“Cậu ấy bị mất trí nhớ hoặc cái gì khác,” – Piper nói – “Chúng ta phải nói với ai đó.”

Leo nhạo: “Ai, huấn luyện viên Hedge hả? Ông ta sẽ cố chữa cho Jason bằng cú nện mạnh vào đầu cậu ấy.”

Huấn luyện viên đứng phía trước nhóm người, quát tháo ra lệnh và thổi còi để bảo bọn trẻ xếp hàng. Nhưng thi thoảng ông lại liếc nhìn Jason và cau có.

“Leo, Jason cần giúp đỡ,” – Piper cương quyết – “Cậu ấy bị va đạp hoặc…”

“Này, Piper.” – một trong những đứa nhóc lùi lại phía sau để tham gia với họ khi nhóm người đang hướng về phía bảo tàng. Thành viên mới chen giữa Jason và Piper, hất Leo ra: “Đừng nói chuyện với những cặp đôi khác. Cậu là đồng đội của tớ, nhớ chứ?”

Thành viên mới có mái tóc đen cắt theo kiểu Superman, da rám nắng, hàm răng trắng đến độ nên có một bảng cảnh báo: không nhìn thẳng vào răng, sẽ mù vĩnh viễn. Hắn ăn mặc kiểu cao bồi Dallas, quần jean Western và ủng. Khi hắn cười trông như hắn là món quà của chúa gửi đến những thiếu nữ lơ là nhiệm vụ ở khắp nơi. Jason ghét hắn ngay lần gặp đầu tiên.

“Đi đi, Dylan,” – Piper cằn nhằn – “Tớ không muốn làm việc với cậu”

“A, không còn cách nào đâu. Hôm nay là ngày may mắn của cậu nhé!” – Dylan vòng cánh tay qua và kéo cô ấy về phía lối vào bảo tàng. Piper ném cái nhìn cuối cùng qua vai mình như muốn gọi 911(5).

Leo đứng dậy và phủi sạch bụi: “Tớ ghét thằng này.” Cậu kéo tay Jason cứ như họ sẽ nhảy bổ vào nhau.

“Tớ là Dylan. Tớ rất tuyệt. Tớ muốn hẹn hò với chính mình. Nhưng tớ không thể hình dung nó sẽ thế nào! Cậu muốn được thay vào để hẹn hò với tớ không? Cậu rất may mắn đấy!”

“Leo,” – Jason nói – “Cậu kì quặc quá.”

“Phải, cậu bảo tớ như thế nhiều lần rồi.” – Leo toe toét cười – “Nhưng nếu cậu không nhớ ra tớ, nghĩa là tớ có thể xài lại những trò đùa cũ. Đi nào!”

Jason hình dung rằng nếu đây là bạn tốt nhất của cậu, hẳn cuộc sống của cậu sẽ lộn xộn lắm; nhưng cậu vẫn theo Leo vào bảo tàng.

Họ vào tòa nhà, dừng ở đây, ở đó, nơi mà huấn luyện viên Hedge giảng về chúng bằng cái loa của ông, thứ và luân phiên làm giọng ông biến thành Sith Lord hoặc gào toáng lên bằng những câu đại loại như “Con heo kêu oink(6)”.

Leo lôi ra nào đai ốc, bu-lông, ống thông từ túi áo khoác kiểu quân đội và gắn chúng với nhau, cứ như cậu ta không thể ngừng việc giữ cho hai tay mình bận rộn.

Jason bị quá nhiều sự phân tâm để chú ý đến các vật triển lãm, nhưng chúng toàn nói về Hẻm núi lớn(7) và bộ tộc Hualapai(8), những thứ sở hữu chính của bảo tàng.

Mấy đứa con gái cứ nhìn qua phía Piper va Dylan rồi cười khúc khích. Jason mường tượng ra những đứa con gái này là một bọn lắm trò. Chúng mặc quần jean hợp thời và áo hồng, trang điểm đủ để dự tiệc Halloween.

Một đứa trong bọn nói: “Này, Piper, có phải bộ tộc của cậu chạy đến đây không? Cậu sẽ tự do nếu cậu nhảy múa cầu mưa chứ?”

Những đứa khác cười rộ. Ngay cả kẻ mà Piper gọi là đồng đội, Dylan, cũng đang cố nín cười. Tay áo khoác của Piper che khuất cả cánh tay cô, nhưng Jason cảm giác cô đang nắm chặt tay lại.

“Bố tớ là người Cherokee(8),” – cô nói – “không phải Hualapai. Cậu cần một ít tế bào não nữa để phân biệt đấy, Isebel.”

Isabel trợn to mắt giả vờ ngạc nhiên, bởi vậy cô ta trông như một con cú đang trang điểm:

“Ồ, xin lỗi! Vậy nó là bộ tộc của mẹ cậu à? À, đúng rồi. Cậu chưa từng biết mẹ mình là ai mà.”

Piper tấn công cô ta. Nhưng trước khi cuộc chiến kịp nổ ra, huấn luyện viên Hedge đã quát:

“Đủ nhé! Hãy làm gương tốt hoặc tôi sẽ rút gậy bóng chày của mình ra đấy!”

Nhóm người lê gót tới vật triển lãm kế tiếp, nhưng mấy đứa con gái vẫn bàn tán về Piper.

“Tốt nhất là cứ gửi trả lại nhà nhỉ?” – một đứa hỏi với giọng ngọt lịm.

“Bố nó có lẽ hay bí tỉ, không làm việc được, “ – một đứa khác nói bằng giọng vờ thông cảm – “Bởi vậy nó mới thành đứa ăn cắp vặt.”

Piper tản lờ chúng, nhưng Jason thì sẵn sàng đấm vào chúng. Cậu có thể không nhớ ra Piper, hay thậm chí mình là ai, nhưng cậu biết mình ghét mấy đứa lắm lời này.

Leo chụp tay cậu: “Đừng nóng. Piper không thích chúng ta đánh nhau vì cậu ấy. Với lại, nếu tụi kia biết sự thật về bố Piper, chúng sẽ cúi đầu nghe cậu ấy quát. Chúng ta không đáng phải làm vậy!”

“Tại sao? Chuyện gì về bố cậu ấy?”

Leo cười hoài nghi: “Cậu đùa hả? Cậu thực sự không nhớ bố của bạn gái cậu…”

“Thôi nào, tớ ước được vậy, nhưng tớ thậm chí còn không nhớ ra cậu ấy, nói gì đến ông bố.”

Leo thì thầm: “Sao cũng được. Chúng ta phải nói chuyện khi tụi mình về lại phòng.”

Họ đến điểm xa cuối cùng của phòng triển lãm, nơi có vài cánh cửa kính lớn hướng thẳng ra sân thượng.

“Được rồi, mấy cái bánh nhỏ,” – huấn luyện viên Hedge thông báo – “Các em sắp được ngắm Hẻm núi lớn. Đừng cố làm vỡ nó. Hành lang(9) có thể chịu sức nặng của bảy mươi chiếc máy bay phản lực, bởi vậy nhẹ cân như mấy đứa sẽ được an toàn ở ngoài kia. Nếu có thể, cố tránh xô đẩy nhau ra ngoài bờ rào, như vậy sẽ tạo cho tôi thêm nhiều việc hơn.”

Huấn luyện viên mở cửa, và tất cả bước ra noài. Hẻm núi lớn trải ra trước mắt chúng, sống động và trực tiếp. Hành lang lối đi kéo dài và uốn cong như hình móng ngựa được làm bằng thủy tinh, nên bạn có thể nhìn xuyên qua nó.

“Trời,” – Leo thốt – “Đẹp dữ dội.”

Jason phải đồng ý. Mặc dù mất trí nhớ và cậu có cảm giác không thuộc về nơi này, cậu không thể không ấn tượng.

Hẻm núi to hơn và rộng hơn so với chuyện bạn thấy nó trong ảnh. Bọn trẻ đang ở trên cao đến nỗi chim lượn vòng dưới chân chúng. Năm trăm bộ bên dưới là một con sông uốn lượn gấp khúc dọc chân núi. Những đám mây bão bay qua đầu khi chúng đã vào bên trong hành lang, những cái bóng tụ lại trông như những gương mặt giận dữ xuyên qua vách đá. Ngay khi Jason có thể nhìn thấy mọi hướng, những vách núi xám và đỏ cắt qua sa mạc giống như mấy vị thần điên rồ đã lấy dao cắt nó ra.

Jason bị một cơn đau nhói trong mắt. Các vị thần điên rồ…Ở đâu mà cậu có ý nghĩ đó? Cậu cảm thấy như đã tiếp cận với cái gì đó quan trọng, cái gì đó mà cậu nên biết và cũng có nó.

“Cậu ổn không?” – Leo hỏi – “Cậu sẽ không nôn trên đây chứ? Vì tớ lẽ ra phải mang theo máy ảnh.”

Jason chộp lấy chấn song. Cậu run rẩy và đổ mồ hôi, nhưng nó không hề liên quan đến độ cao. Cậu chớp mắt, cơn đau bên trong lắng xuống.

“Tớ ổn,” – cậu chống chế – “Chỉ là cơn đau đầu.”

Tiếng sấm rền trên cao. Một trận gió lạnh gần như thổi dạt cậu sang bên.

“Ở đây không an toàn.” – Leo nheo mắt nhìn mây – “Bão đã đi qua chúng ta, nhưng rõ ràng nó luôn ở quanh đây. Kì quặc nhỉ?”

Jason nhìn quanh và thấy Leo nói đúng. Vòng mây đen đã phủ lên hành lang lối đi, nhưng phần bầu trời bốn phương tám hướng còn lại hoàn toàn trong veo. Jason có một cảm giác tệ hại.

“Được rồi, bánh nhỏ!” – huấn luyện viên Hedge la to. Ông chau mày với cơn bão như thể nó làm phiền ông quá nhiều – “Chúng ta phải chấm dứt ở đây thôi, hãy trở lại với việc chính! Nhớ hoàn tất các câu hỏi!”

Sấm nổ ầm ầm, đầu Jason bắt đầu đau trở lại. Không dấu hiệu nào cho biết tại sao cậu bị như vậy. Cậu lấy trong túi quần ra một vật tròn nhỏ, một đồng vàng có kích cỡ bằng đồng 50 cent, nhưng dầy hơn và không phẳng bằng. Một mặt được dán hình một cây rìu chiến. Mặt còn lại có hình gương mặt gã nào đó đội vòng nguyệt quế. Những dòng chú thích viết gì đó như là IVLIVS(11).

“A, vàng phải không?” – Leo hỏi – “Cậu giấu nó với cả tớ!”

Jason cất nó trở lại, tự hỏi tại sao mình có nó, tại sao cậu có cảm giác cậu sẽ sớm cần đến nó.

“Không có gì” – cậu trả lời – “Chỉ là một đồng tiền.”

Leo nhún vai. Có lẽ tâm trí cậu ta còn bận rộn với đôi tay mình: “Đến đây,” – cậu ta gọi – “Thách cậu nhoài người qua bờ rào.”

Chúng không quá khó khăn khi làm phiếu bài tập. Chỉ có điều, Jason đã quá phân tâm vì cơn bão và mớ cảm giác hỗn độn của mình. Một điều nữa, cậu không cách nào để biết trả lời “tên ba tầng trầm tích bạn đang quan sát” hay “mô tả hai ví dụ về sự sói mòn”.

Leo không giúp được gì. Cậu ta quá bận rộn với việc xếp máy bay bằng mấy cái ống thông của mình.

“Kiểm tra nào.” – Cậu ta khởi động cái máy bay. Jason nghĩ nó sẽ rơi xuống. Nhưng những cánh quạt bằng ống thông thực sự đã xoay. Chiếc máy bay nhỏ băng qua nửa đoạn hẻm núi trước khi nó mất đà và xoay vòng vòng giữa khoảng không.

“Cậu làm thế nào vậy?” – Jason hỏi.

Leo nhún vai: “Sẽ tuyệt hơn nếu tớ có một đai cao su.”

“Nghiêm túc nào,” – Jason nói – “Chúng ta có phải bạn không?”

“Lần cuối cùng tớ khẳng định.”

“Cậu chắc chứ? Ngày đầu chúng ta gặp mặt là ngày nào? Tụi mình nói chuyện gì?”

“Là…” – Leo chau mày – “Tớ không nhớ chính xác. Tớ mắc chứng ADHD(11) mà. Cậu đừng trông chờ tớ nhớ chi tiết chuyện gì.”

“Nhưng tớ không nhớ ra cậu. Không nhớ bất cứ ai ở đây. Nếu…”

“Cậu bảo mình đúng và mọi người đều nhầm sao?” – Leo hỏi – “Cậu nghĩ mình chỉ xuất hiện vào sáng nay, rồi tất cả chúng tớ có ký ức giả về cậu hả?”

Một giọng nói nhỏ vang lên trong đầu Jason: Đó chính xác là những gì tớ nghĩ.

Nhưng điều đó nghe có vẻ điên rồ. Mọi người ở đây công nhận cậu. Họ hành động như cậu là một thành viên bình thường của lớp – trừ huấn luyện viên Hedge.

“Giữ phiếu bài tập.” – Jason đưa tờ giấy cho Leo – “Tớ sẽ trở lại ngay.”

Trước khi Leo kịp phản đối, Jason đã băng qua hành lang trên không.

Từng nhóm đã có chỗ tốt cho mình. Có lẽ còn quá sớm với du khách, hoặc có lẽ thời tiết kì quặc làm họ sợ. Những học sinh Trường học Hoang dã đã tản ra thành từng cặp trên hành lang. Phần đông chúng đang nô đùa trò chuyện. Một số đứa tung đồng xu. Cách đó năm mươi bước chân, Piper đang cố điền vào phiếu bài tập của mình, nhưng đồng đội ngu ngốc Dylan của cô ấy đang tán tỉnh, vòng tay qua vai Piper và nở nụ cười chói lòa. Cô cứ đẩy hắn ra. Khi cô thấy Jason, cô ném cho cậu một cái nhìn, như là bảo bóp cổ thằng này giúp tớ.

Jason ra hiệu bảo hãy chờ. Cậu đi về phía huấn luyện viên Hedge. Ông đang tựa vào cây gậy bóng chày, nghiên cứu những đám mây bão.

“Là cậu làm phải không?” – huấn luyện viên hỏi cậu.

Jason lui một bước: “Làm gì?”

Nghe có vẻ như huấn luyện viên chỉ hỏi rằng có phải cậu tạo ra cơn bão.

Huấn luyện viên Hedge gườm cậu, đôi mắt ti hí lóe lên dưới vành mũ:

“Đừng đùa với ta nữa, cậu bé. Cậu đang làm gì ở đây, và tại sao cậu gây rắc rối cho công việc của ta?”

“Ý thầy là…thầy không biết em sao?” – Jason hỏi – “Em không phải một học sinh của thầy?”

Hedge khịt mũi: “Chưa từng nhìn thấy cho đến hôm nay.”

Jason cảm thấy nhẹ nhõm gần như muốn phát khóc. Ít nhất cậu không mất trí. Cậu bị đặt sai chỗ: “Xem nào, thưa thầy, em không biết làm thế nào em lại ở đây. Em thức dậy trên xe buýt. Tất cả những gì em biết là em không thể ở đây.”

“Đúng đấy.” – Hedge cộc cằn rồi lẩm bẩm, giống như ông đang tiết lộ một bí mật – “Cậu có quyền năng nào đó với trò ảo thuật sương mù, cậu nhỏ, nên cậu có thể làm mọi người ở đây nghĩ rằng họ biết cậu; nhưng không lừa được ta. Ta ngửi thấy mùi quái vật cả ngày hôm nay. Ta biết chúng ta đang có một kẻ đột nhập, nhưng mùi cậu không giống quái vật, như là một con lai. Vậy, cậu là ai, từ đâu tới?”

Hầu hết những gì huấn luyện viên nói đều vô nghĩa, nhưng Jason quyết định trả lời thành thật: “Em không biết mình là ai. Em không còn chút kí ức nào. Thầy phải giúp em.”

Huấn luyện viên Hedge nghiền ngẫm gương mặt Jason như cố đọc xem cậu nghĩ gì.

“Được.” – Hedge nói khẽ – “Cậu đang thành thật.”

“Đương nhiên! Và cái gì là quái vật và con lai? Là những từ mật mã hay cái gì khác?”

Hedge nheo mắt. Đâu đó trong đầu Jason tự hỏi, ông này có phải là hạt đậu hóa thành không. Nhưng với phần đầu óc còn lại, cậu biết không phải.

“Xem nào, cậu nhỏ,” – Hedge nói – “Ta không biết cậu là ai. Ta chỉ biết cậu là gì, đó là vấn đề. Bây giờ ta phải bảo vệ ba thay vì hai. Cậu có phải kiện hàng đặc biệt không nhỉ? Chắc là vậy ha?”

“Thầy đang nói về cái gì đó?”

Hedge nhìn vào cơn bão. Những đám mây ngày càng dày và tối hơn, lượn lờ qua hàng lang trên không.

“Sáng nay,” – Hedge nói – “Ta nhận được tin nhắn từ trại. Họ bảo rằng một đội tìm kiếm đang trên đường tới. Họ đến để đón một kiện hàng đặc biệt, nhưng không kể chi tiết. Hai đứa ta đang trông chừng, chúng khá là mạnh, hơn tất cả. Ta biết chúng đang bị rình rập. Ta có thể ngửi được mùi một con quái vật trong nhóm này. Ta nghĩ đó là lí do trại đột ngột điên cuồng đòi đón chúng. Nhưng sau đó cậu nhảy ra từ đâu đó, Vậy, cậu có lẽ là kiện hàng đặc biệt đó?”

Cơn đau trong mắt Jason thêm tồi tệ hơn. Con lai, Trại, Quái vật, cậu vẫn không biết Hedge nói gì. Nhưng mấy từ đó chèn đặc não cậu, cứ như tâm trí cậu đang cố truy cập những thông tin mà lẽ ra phải có nhưng không còn nữa.

Cậu trượt chân. Huấn luyện viên chộp lấy cậu. Một người đàn ông lùn, nhưng đôi tay ông ta rắn chắc như thép: “Ồ, cậu nhỏ. Cậu bảo không nhớ gì thật chứ? Được. Ta phải trông chừng cậu, đến khi đội kia tới đây. Chúng ta cứ để chỉ huy khám phá sau.”

“Chỉ huy gì?” – Jason hỏi – “Trại nào?”

“Cứ ngồi đợi. Quân tiếp viện sẽ đến sớm. Hy vọng không có gì xảy ra trước khi…”

Sét nổ trên đầu. Gió thốc dữ dội. Đống phiếu bài tập bay ra Hẻm núi lớn, toàn bộ hành lang rung chuyển. Đám nhóc ré lên, sẩy chân, chộp vội tay vịn bờ rào.

“Ta lại phải nói gì đó rồi,” – Hedge càu nhàu.

Ông hét vào cái loa: “Mọi người vào trong! Bò kêu moo! Rời khỏi hành lang!”

“Em nghĩ thầy nên gọi họ ôn định chứ!” – Jason hét trong cơn gió.

“Đó là trong tình huống bình thường,” – Hedge đồng ý – “tình trạng này thì không. Đi nào!”

(1): homer hay homerun, cú đánh ghi điểm trực tiếp của cầu thủ đánh bóng đội công (batter) vì bóng bay vọt đi mấy chục km đến nỗi cầu thủ bắt bóng đội thủ (catcher) không bắt được.

(2): tiếng bò rống

(3): vữa trát tường, được trộn từ nhiều lớp xi-măng, cát và nước, loại vữa này thường dùng trang trí tường cho những kiến trúc chuộng thiết kế đơn giản, thô ráp.

(4): Nowhere, không nơi nào cả, được sử dụng trong truyện như một danh từ riêng.

(5): 911 à số trực tiếp gọi cứu viện ở Mỹ, ở đây mang nghĩa cầu cứu.

(6): Grand Canyon

(7): Một bộ lạc của người Mỹ bản địa, tây bắc Arizona.

(8): Một tộc người Mỹ bản địa, trong lịch sử, họ từng định cư ở các bang miền Đông Nam nước Mỹ (Southeastern United States)

(9): Skywalk – Grand Canyon Skywalk: lối đi trên không vòng qua Hẻm núi lớn, làm bằng chất liệu trong suốt để khách tham quan khi nhìn xuống chân có cảm giác mình đang lơ lửng.

(10): Tiếng La Tinh cổ, một cái tên La Tinh, như IVLIVS CAESAR (Julius Caesar)

(11): Bệnh thiếu chú ý và hiếu động ở trẻ con.

The Lost Hero – Chapter II

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter II

Jason

Gió bão cuộn thành cơn lốc nhỏ. Phễu mây lắc lư đổ về phía hành lang không trung trông giống như tua vòi của một con quái vật sứa biển.

Đám trẻ la hét, chạy vào tòa nhà. Trận gió vồ lấy tập vở, áo khoác, mũ nón và ba lô của chúng. Jason trượt qua nền sàn trơn trợt.

Leo mất thăng bằng, cơ hồ bổ nhào về phía hàng rào. Nhưng Jason kịp chộp lấy áo khoác kéo cậu ta trở lại.

“Cảm ơn nhé, cậu bạn!” – Leo thốt.

“Đi, đi, đi nào!” – huấn luyện viên Hedge nói.

Piper và Dylan giữ cho cánh cửa mở toang, dồn những đứa khác vào trong. Áo khoác của Piper tung phần phật, mớ tóc đen tràn lên mặt cô ấy. Jason nghĩ cô ấy hẳn đang bị cóng đến đóng băng, nhưng cô ấy trông rất điềm tĩnh và tự tin, nói với những đứa khác mọi chuyện sẽ ổn, khuyến khích chúng tiếp tục di chuyển.

Jason, Leo và huấn luyện viên Hedge chạy về phía chúng. Nhưng họ giống như đang chạy qua đầm cát lún. Trận gió có vẻ đánh vật với họ, đậy họ ngược trở lại.

Dylan và Piper đẩy một đứa nhóc nữa vào trong, sau đó họ mất chỗ bám trên cánh cửa. Hai cánh đóng sầm lại, chặn lối ra vào hành lang.

Piper kéo mạnh tay nắm cửa. Bên trong, đám trẻ nện vào tấm kính, nhưng cánh cửa có vẻ đã bị kẹt.

“Dylan, giúp!” – Piper thét.

Dylan chỉ đứng đó nhăn răng cười một cách ngốc nghếch, cái áo thi đấu Cowboys(1) căng gió, như thể bỗng dưng hắn có hứng thú với cơn bão.

“Xin lỗi, Piper,” – nó nói – “Tớ đã giúp xong rồi.”

Hắn lắc cổ tay. Piper bị thổi văng ra phía sau, rơi phịch vào cửa rồi trượt dài trên sàn hành lang.

“Piper!” – Jason cố nhoài về phía trước, nhưng trận gió chống đối cậu ấy. Huấn luyện viên Hedge đẩy cậu ra sau.

“Huấn luyện viên” – Jason nói – “để em đi!”

“Jason, Leo, cứ ở phía sau ta,” – huấn luyện viên ra lệnh – “Đây là trận chiến cá nhân. Ta lẽ ra phải biết đâu là con quái vật của chúng ta.”

“Gì?” – Leo hỏi gặng, một tờ phiếu bài tập tạt vào mặt cậu ta, cậu gạt đi – “Quái vật gì?”

Mũ lưỡi trai của huấn luyện viên đã bị thổi bay, nổi lên trên mớ tóc xoăn của ông ấy là hai cái bướu, trông như cục u của các nhân vật hoạt hình khi đầu chúng bị va đập. Huấn luyện viên Hedge giơ cao cây gậy bóng chày, nhưng nó không còn là cây gật bình thường nữa. Bằng cách nào đó nó đã thay đổi hình dạng thành cành cây thô với ba nhánh rẻ chính, kèm theo nhánh nhỏ và lá cây.

Dylan cười như một kẻ tâm thần:

“Ồ, thôi nào, huấn luyện viên. Hãy để thằng nhóc chiến đấu! Rốt cục thì ông đã quá già. Có phải đó là lí do chúng cho ông nghỉ hưu và điều đến ngôi trường ngu ngốc này chăng? Ta đã ở trong đội của ông suốt mùa này, và ông thậm chí không biết. Ông bị mất cái mũi rồi, ông già ạ.”

Huấn luyện viên tức giận kêu lên như tiếng be be của động vật: “Thế à, bánh nhỏ, ngươi sắp bị hạ rồi.”

“Ông nghĩ có thể bảo vệ cả ba đứa con lai à, ông già?” – Dylan bật cười – “Chúc may mắn.”

Dylan trỏ Leo, phễu mây hiện lên quanh cậu ta. Leo lơ lửng trên hành lang không trung giống như cậu bị ném lên. Không biết làm thế nào cậu bị xoắn ở giữa không trung, đâm sầm vào vách hẻm núi. Cậu trượt đi, điên cuồng vồ lấy một chỗ bám. Cuối cùng câu cũng chộp được gờ nhỏ khoảng năm mươi bộ bên dưới hành lang, cố treo lơ lửng bằng mấy đầu ngón tay.

“Cứu!” – Cậu hét lên – “Dây thường, dây bungee, hay cái gì đó, làm ơn.”

Huấn luyện viên lầm rầm niệm và ném cây gậy cho Jason.

“Ta không biết cậu, nhóc à, nhưng ta hy vọng cậu được việc. Giữ hắn bận rộn” – ông hất ngón cái về phía Dylan – “trong khi ta đón Leo.”

“Đón cậu ấy bằng cách nào?” – Jason hỏi lại – “Thầy sẽ bay à?”

“Không bay. Trèo.” – Hedge đá bay đôi giầy.

Mạch máu Jason giật rần rần. Huấn luyện viên không có bàn chân. Ông ấy có móng, móng dê. Vậy tức là thứ trên đầu ông, Jason bỗng nhận ra, không phải bướu. Chúng là sừng.

“Thầy là một Thần Nông.” – Jason thốt.

“Thần Dê!” – Hedge cáu kỉnh – “Thần Nông là người La Mã gọi. Nhưng chúng ta nói chuyện này sau.”

Hedge nhảy qua hàng rào. Ông lướt về phía vách núi và húc nó bằng sừng. Ông nhảy trên vách núi bằng sự nhanh nhẹn không ngờ, tìm chỗ đặt chân nhô ra mà chỉ lớn hơn một chỗ dán tem, né tránh cơn lốc đang cố tấn công mình khi cẩn thận tiến về phía Leo.

“Không lịch sự rồi!” – Dylan quay lại phía Jason – “Bây giờ đến lượt mày, nhóc ạ.”

Jason ném gậy. Có vẻ vô dụng khi gió rất mạnh, nhưng cây gậy bay về phía Dylan, thậm chí bẻ ngoặt lại khi hắn cố né nó, đâm sầm vào đầu hắn đến nỗi hắn gục xuống trên hai gối.

Piper không còn sửng sờ như lúc đầu. Những ngón tay cô ấy vòng quanh thân gậy khi nó lăn đến chỗ cô. Nhưng trước khi cô kịp sử dụng, Dylan đã đứng dậy. Máu – máu vàng – đổ ròng ròng trên trán hắn.

“Có cố gắng, nhóc ạ.” – hắn trừng mắt với Jason – “Nhưng mày sẽ phải cố gắng hơn.”

Hành lang rung chuyển. Những vết rạn nhỏ xuất hiện trên lớp kính. Bên trong bảo tàng, bọn trẻ thôi đập cửa. Chúng lùi lại, quan sát trong nỗi kinh hoàng.

Cơ thể Dylan tan biến trong làn khói, cứ như các phân tử đang rã ra. Hắn vẫn có khuôn mặt cũ, vẫn nụ cười sáng chói, nhưng hình dáng của hắn đột nhiên trở thành xoáy nước đen ngòm, mắt hắn xẹt lửa điện như đám mây báo bão. Hắn mọc ra những đôi cánh bằng khói đen và vươn xa khỏi hành lang. Nếu thiên thần có thể là ác quỷ, Jason khẳng định, họ trông giống y hệt thứ này.

“Ngươi là một ventus(2),” – Jason thốt, mặc dù cậu không hiểu làm sao mình biết từ đó – “Một Hồn bão.”

Tiếng cười của Dylan như tiếng cơn bão xé toang nóc nhà:

“Tai sẵn lòng đợi đây, Á thần. Leo và Piper ta đã biết từ mấy tuần rồi. Có thể giết chúng bất cứ lúc nào. Nhưng bà chủ bảo kẻ thứ ba sẽ đến, một kẻ đặc biệt. Bà sẽ tặng thưởng hậu hĩnh cho cái mạng của ngươi!”

Hai phễu mây nữa chạm vào hai bên Dylan, rồi chúng hóa thành venti(3), những gã ma quái với đôi cánh bằng khói và cặp mắt chập chờn tia sét.

Piper cúi xuồng, giả vờ bị hoảng hốt, tay nắm chặt cây gậy. Mặt cô ấy tái nhợt, nhưng cô ném cho Jason một cái nhìn kiên quyết. Cậu hiểu ra tin nhắn trong đó: Thu hút sự chú ý. Tớ sẽ nện vào đầu chúng từ phía sau.

Dễ thương, thông minh và bạo lực. Jason ước gì mình nhớ ra cô ấy là bạn gái.

Cậu nắm chắc nắm đấm và sẵn sàng tấn công, nhưng cậu không hề có cơ hội.

Dylan cất tay, vòng điện chạy giữa những ngón tay hắn, đánh trúng ngực Jason.

Bang!

Jason bật ngửa. Trong miệng có vị như nhôm cháy. Cậu nâng đầu lên và nhìn thấy quần áo đang bốc khói. Tia chớp đã đánh thẳng vào cơ thể cậu, giật bung giầy trái. Những ngón chân cậu đen như nhọ.

Đám Hồn bão bật cười. Gió nổi lên dữ dội. Piper thét lên đầy thách thức, nhưng tất cả âm thanh đều nghe bé xíu và xa xăm.

Liếc mắt kín đáo, Jason trông thấy huấn luyện viên Hedge đang trèo qua vách đá, cõng Leo trên lưng. Piper đứng dậy, liều lĩnh huơ gậy tấn công hai Hồn bão phụ. Nhưng chúng giễu cô. Cây gậy xuyên qua cơ thể chúng như xuyên vào khoảng không. Còn Dylan, một mảng bóng đen chỉ có đôi mắt lù lù tiến về phía Jason.

“Dừng lại.” – Jason rên. Cậu đứng loạng choạng, không chắc rằng ai ngạc nhiên hơn: cậu, hay lũ Hồn bão.

“Làm sao mày còn sống?” – hình dạng của Dylan rung lên – “Đám sét đó đủ giết chất hai mươi gã!”

“Đến lượt ta.” – Jason nói.

Cậu cho tay vào túi rút ra một đồng vàng. Để bản năng trỗi dậy, cậu búng đồng tiền lên không trung cứ như cậu từng làm vậy hàng ngàn lần rồi. Cậu bắt nó trong lòng bàn tay. Bất ngờ, cậu đang cầm một thanh kiếm – thứ vũ khí nguy hiểm với hai lưỡi sắc bén. Chuôi cầm hoàn toàn vừa vặn với những ngón tay, toàn bộ đều bằng vàng: cán, tay cầm và lưỡi.

Dylan gầm gừ và lùi lại. Hắn nhìn hai tên đồng bọn rồi thét: Mau! Giết nó!”

Bọn Hồn bão trông không mấy vui vẻ với mệnh lệnh, nhưng chúng quạt vào Jason, những ngón tay của chúng nổ tách tách bởi dòng điện.

Jason tấn công Hồn bão thứ nhất. Lưỡi kiếm của cậu xuyên qua nó, và tạo vật từ khói ấy tan rã. Tia chớp của Hồn bão thứ hai lụi tắt. Jason tập trung tấn công. Jason bước tới, một nhát đâm chóng váng. Hồn bão thứ hai tan thành bột vàng.

Dylan rên rỉ giận dữ. Hắn nhìn chằm chằm cứ như trông đợi đồng bọn tái tạo trở lại, nhưng đám bụi vàng tan biến trong gió:

“Không thể nào! Tên con lai, mày là ai?”

Piper choáng váng buông rơi cây gậy: “Jason, làm thế nào…?”

Kế đó huấn luyện viên Hedge tựa lưng vào hành lang và thả Leo xuống như ném túi bột mì.

“Là Linh hồn sao, dọa ta à!” – Hedge rống lên, bẻ tay. Rồi ông nhìn quanh và nhận ra chỉ còn mỗi Dylan.

“Đáng nguyền rủa thật, cậu nhỏ!” – ông cáu gắt với Jason – “Sao không chừa lại một ít cho ta? Ta thích một chút thách thức!”

Leo đứng lên, thở sâu. Cậu ta trông hoàn toàn thảm hại. Đôi bàn tay tứa máu do bám vào đá:

“Này, huấn luyện viên Siêu-Dê(4), dù thầy là cái gì đi nữa, em vừa mới ngã xuống Hẻm Núi Lớn đáng kinh hãi! Ngừng đòi hỏi thách thức hộ em!”

Dylan xì một tiếng, nhưng Jason có thể thấy nỗi sợ hãi trong mắt hắn:

“Mày không biết có bao nhiêu kẻ thù đã bị mày đánh thức đâu, thằng con lai. Bà chủ ta sẽ hủy diệt hết bọn Á thần. Trận chiến này chúng mày không có cửa thắng.”

Phía trên đầu họ, cơn bão bùng nổ với toàn bộ sức mạnh. Tiếng rạn nứt lan rộng khắp hành lang. Mưa trút xuống. Jason phải thu người để giữ thăng bằng.

Một cái hố mở ra trong đám mây, một cơn lốc xoáy màu đen bạc.

“Bà chủ gọi ta về!” – Dylan hân hoan la lên – “Còn mày, Á thần, sẽ đi với ta.”

Hắn lao vào Jason. Nhưng Piper tấn công con quái vật từ phía sau. Mặc dù nó hình thành từ khói, bằng cách nào đó Piper đã tìm được sự liên kết. Cả hai quấn vào nhau. Leo, Jason và huấn luyện viên phóng ra giúp đỡ. Nhưng Hồn bão gầm giận dữ. Hắn trút mưa xối xả đánh bật họ lại. Jason và huấn luyện viên Hedge tiếp đất bằng mông. Kiếm của Jason trượt khỏi tay, văng lên sàn kính. Leo bị đập trúng sau đầu, cuộn người lại rên rỉ. Piper thiệt hại nhất. Cô bị ném ra phía sau Dylan, va phải hàng rào, bổ nhào ra ngoài cho đến khi cô treo lơ lửng bằng một tay dưới vực thẳm.

Jason lao nhanh về phía cô. Nhưng Dylan hét: “Ta sẽ mang đi một tên vậy!”

Hắn chộp cánh tay Leo và nhấc lên, kéo lê nửa thân Leo bên dưới hắn. Bão xoáy càng mạnh, hút lấy cả hai giống như cái máy hút bụi.

“Cứu!” – Piper hét – “Có ai không!”

Rồi cô tuột tay, thét lên khi đang rơi.

“Jason, đi!” – Hedge quát – “Cứu bạn ấy!”

Huấn luyện viên ném mình vào Hồn bão bằng cú bật của loài dê, quất móng giải thoát Leo khỏi sự níu kéo của hắn. Leo rơi trên sàn. Nhưng Dylan chụp được cánh tay huấn luyện viên thế vào. Hedge cố tông đầu vào hắn, rồi đạp đá và gọi hắn là “bánh nướng nhỏ”. Cả hai bay lên không, tốc độ càng tăng nhanh.

Huấn luyện viên Hedge vẫn hét thêm lần nữa: “Cứu bạn ấy! Ta lo được!”

Rồi Thần Dê và Hồn bão bị cuộn vào những đám mây và biến mất.

Cứu cô ấy? Jason nghĩ. Nhưng cô ấy rơi mất rồi!

Bản năng chiến thắng lần nữa. Cậu chạy đến hàng rao, nghĩ mình bị điên, cậu nảy qua đó.

Jason không sợ độ cao. Cậu chỉ sợ bị tan nát dưới hẻm núi cao năm trăm bộ. Cậu cho rằng mình không làm được bất cứ gì ngoài chuyện cùng chết với Piper. Nhưng cậu thu hai tay và cắm đầu xuống trước. Các mặt của hẻm núi lướt qua như một thước phim tua nhanh. Da mặt cậu có cảm giác như đang bị bóc ra.

Ngay tức khắc, cậu đuổi kịp Piper đang vùng vẫy dữ dội. Cậu tóm thắt lưng cô rồi nhắm mắt lại, chờ chết. Piper hét. Gió thì thầm bên tai Jason. Cậu tự hỏi cảm giác chết sẽ như thé nào. Cậu nghĩ có lẽ nó không được hay ho. Cậu ước bằng các nào đó họ không bao giờ đụng đáy.

Đột ngột đứng gió. Tiếng thét của Piper trở thành tiếng thở hổn hển. Jason nghĩ ắt họ đã chết. Nhưng cậu không cảm thấy gì khác lạ.

“J…J…Jason” – Piper trấn tĩnh.

Cậu mở mắt. Họ không rơi. Họ đang trôi nổi giữa không trung, khoảng một trăm bộ phía trên con sông.

Cậu ôm ghì Piper. Trái lại cô cũng đang ôm Jason, mũi cách mũi. Tim cô đập mạnh. Jason có thể cảm thấy nó xuyên qua lớp quần áo.

Hơi thở cô ấy có mùi quế. Cô hỏi: “Làm cách nào cậu…”

“Tớ không biết,” – cậu nói – “Tớ nghĩ mình sẽ biết nếu tớ có thể bay…”

Nhưng rồi cậu nghĩ: thậm chí tớ còn không biết mình là ai.

Cậu nghĩ trong đầu “lên”. Piper kêu la khi họ bị bắn ngược lên vài bộ. Họ không hẳn là đang nổi, Jason quả quyết vậy. Cậu có thể cảm giác áp lực dưới chân mình như thể họ đứng thăng bằng trên đỉnh một vòi phun.

“Không khí đang nâng đỡ chúng ta,” – cậu nói.

“Ồ, bảo nó nâng chúng ta lên nữa đi! Mang tụi mình ra khỏi đây!”

Jason nhìn xuống. Việc dễ dàng nhất là hạ xuống hẻm núi. Rồi cậu ngẩng lên. Mưa đã ngưng. Những đám mây bão trông không còn đáng sợ nữa, nhưng chúng vẫn nổ sấm giật chớp. Không có gì bảo đảm rằng đám Hồn bão đã đi hẳn. Cậu không biết chuyện gì đã xảy ra với huấn luyện viên Hedge. Và ông ta để Leo ở trên đấy, chỉ vừa mới tỉnh.

“Chúng ta phải giúp họ,” – Piper nói, giống như đọc được suy nghĩ của cậu – “Cậu có thể…”

“Để xem.” – Jason nghĩ Lên, tức khắc bọ bị bắn ngược trở lại hành lang trên không.

Quả thực cậu đang điều khiển gió bằng ý nghĩ. Nó sẽ thật tuyệt nếu trong hoàn cảnh khác. Nhưng bây giờ cậu chịu quá nhiều chuyện sốc rồi. Ngay khi họ đáp xuống hành lang, liền chạy đến chỗ Leo.

Piper lật Leo lại. Cậu ta đang rên rỉ. Áo khoác đẫm nước mưa. Mái tóc xoăn lấp lánh bụi vàng từ đám quái vật. Nhưng chí ít, cậu ta chưa chết.

“Con dê…xấu xí…ngu ngốc,” – cậu lầm rầm.

“Thầy ấy đâu rồi?” – Piper hỏi.

Leo trỏ tay thẳng lên: “Không hề thấy rớt xuống. Làm ơn bảo với tớ, ông ta không thực sự cứu tớ.”

“Hai lần,” – Jason trả lời.

Leo rên rỉ to hơn:

“Chuyện gì xảy ra đây? Những thằng bão tố, thanh kiếm vàng…Tớ bị tông trúng đầu. Đúng không? Tớ mắc chứng ảo giác?”

Jason quên bẵng thanh kiếm. Cậu bước qua chỗ thanh kiếm đang nằm tênh hênh. Lưỡi kiếm vẫn ổn. Cậu búng nó lên, xoay giữa không trung, thanh kiếm thu lại và trở thành đồng tiền đáp xuống lòng bàn tay cậu.

“Phải,” – Leo nói – “Chắc chắn là ảo giác.”

Piper rùng mình trong bộ quần áo sũng nước: “Jason, những thứ đó…”

“Venti,” – cậu tiếp – “Những Hồn bão.”

“Được rồi. Cậu cư xử như…như cậu từng thấy chúng trước đây vậy. Cậu là ai?”

Cậu lắc đầu: “Đó là điều tớ cố nói với các cậu. Tớ không biết.”

Bão tan. Bọn trẻ của Trường học Hoang dã nhìn chằm chằm qua lớp cửa kính với sự khiếp sợ. Bảo vệ giờ đang thử mở khóa, nhưng có vẻ họ không may mắn.

“Huấn luyện viên Hedge bảo thầy ấy phải bảo vệ ba người,” – Jason nhớ lại – “Tớ cho rằng thầy nói đến chúng ta.”

“Còn cái thứ mà Dylan biến thành…” – Piper rùng mình – “Trời ạ, tớ không dám tin nó đã tông vào tớ. Hắn gọi chúng ta là…gì nhỉ, Á thần?”

Leo nằm dài ra nhìn trời. Trông cậu ta có vẻ không muốn đứng dậy:

“Chẳng biết Á gì,” – cậu ta nói – “Nhưng tớ không thấy mình có cảm giác thần thánh nào cả. Các cậu thì sao?”

Tiếng rắc giòn tan như những cành khô đứt gãy, vết rạn trên hành lang bắt đầu lan rộng.

“Chúng ta phải rời khỏi thứ này,” – Jason nói – “Có lẽ nếu mình…”

“Ờ…được,” – Leo ấp úng – “Nhìn sang đó vào bảo tớ biết nếu kia đúng là những con ngựa bay.”

Đầu tiên Jason nghĩ Leo bị đụng trúng đầu quá nặng. Sau đó cậu cũng thấy các bóng đen tiến lại từ phía đông, quá chậm so với máy bay, quá to so với một con chim. Khi nó đến gần hơn, cậu có thể nhìn rõ một cặp động vật có cánh màu xám, bốn chân, chính xác trông giống con ngựa, trừ việc mỗi con đều có sải cánh rộng hai mươi bộ. Và chúng đang kéo theo hai cái hộp sơn màu sáng có bánh xe: xe ngựa.

“Quân tiếp viện,” – cậu hô – “Hedge nói một đội tìm kiếm sẽ đến đón chúng ta.”

“Đội khai(5) thác?” – Leo lê chân – “Nghe đau vậy.”

“Rồi họ khai thác chúng ta đến đâu?” – Piper hỏi.

Jason trông theo cái xe ngựa đáp xuống phía cuối hành lang. Con ngựa bay xếp cánh lại và phi nước kiệu băng qua lối đi bằng thủy tinh, cứ như chúng muốn nó vỡ nhanh hơn. Hai thiếu niên đứng trên xe. Một cô gái tóc vàng dáng cao, có lẽ lớn hơn Jason vài tuổi, một công tử to lớn với cái đầu bóng láng và khuôn mặt như đống gạch. Cả hai đều mặc quần jeans với áo thun màu cam, khiên giắt sau lưng. Cô gái phóng khỏi xe ngựa trước khi nó dừng lại. Cô rút dao, chạy lại nhóm Jason trong khi chàng công tử kềnh càng kia ghì cương ngựa.

“Anh ấy đâu?” – cô gái hỏi gặng. Đôi mắt xám hung dữ và lấp lánh.

“Ai ở đâu?” – Jason hỏi.

Cô chau mày cứ như câu trả lời đó không thể chấp nhận. Rồi cô quay sang Leo và Piper: “Gleeson thì sao? Người bảo vệ của các cậu đâu rồi, Gleeson Hedge ấy?”

Tên của huấn luyện viên là Gleeson? Jason ắt sẽ cười nếu sáng nay không phải toàn những chuyện kỳ quặc và đáng sợ. Gleeson Hedge: huấn luyện viên bóng đá, người dê, kẻ bảo vệ Á thần. Chắc chắn rồi. Tại sao không chứ?

Leo tằng hắng: “Thầy ấy bị bắt đi bởi…cái quái bão gì ấy.”

“Venti,” – Jason nói – “Hồn bão.”

Cô gái tóc vàng nhướng mày: “Ý cậu là anemoi thuellai? Đấy là thuật ngữ Hy Lạp. Cậu là ai, và chuyện gì đã xảy ra?”

Jason cố sức giải thích, dù thật khó khăn khi nhìn vào đôi mắt xám dữ tợn đó. Giữa câu chuyện, anh chàng còn lại nhảy xuống xe đi tới. Anh ta đứng nhìn họ chăm chú, khoanh tay lại. Anh có một hình xăm cầu vồng trên bắp tay, nhìn có vẻ hơi kỳ lạ.

Khi Jason kết thúc câu chuyện, cô gái tóc vàng trông dường như không vui:

“Không, không! Bà ta đã bảo tớ, anh ấy sẽ ở đây. Bảo rằng nếu tớ đến chỗ này, sẽ tìm được câu trả lời.”

“Annabeth,” – anh chàng trọc đầu thì thầm – “Kiểm tra đi.”

Anh ta chỉ vào chân Jason.

Jason đã không để ý, nhưng cậu vẫn đang lạc mất giầy bên trái, thứ đã bị ngọn sét thổi bay. Bàn chân trần vẫn ổn, nhưng trông nó như cục than.

“Chàng trai với một chiếc giầy,” – anh chàng đầu trọ cnói – “Cậu ta chính là đáp án.”

“Không, Butch,” – cô gái nhấn giọng – “Không phải cậu ta. Tớ đã bị lừa.”

Cô ngẩng nhìn trời cứ như ông trời đã làm gì đó rất sai lầm.

“Ngài muốn gì ở con?” – cô hét lên – “Ngài đã làm gì với anh ấy?”

Hành lang rung chuyển, đôi ngựa hý vang.

“Annabeth,” – chàng trọc đầu, Butch – “Chúng ta phải đi thôi. Đưa cả ba về trại rồi tìm hiểu sau. Đám Hồn bão có thể quay lại.”

Cô ta nổi giận: “Được thôi.”

Cô nhìn Jason đầy phẫn nộ: “Chúng ta sẽ giải quyết sau.”

Cô trở gót đi về phía cỗ xe.

Piper lắc đầu: “Cô ấy có vấn đề gì thế? Chuyện gì đang xảy ra?”

“Hỏi nghiêm túc đấy.” – Leo tán đồng.

“Chúng ta phải ra khỏi đây đã,” – Butch nói – “Tôi sẽ giải thích dọc đường.”

“Tôi không đi đâu với cô ấy cả.” – Jason chỉ tay về phía cô gái tóc vàng – “Cô ấy nhìn tôi cứ như muốn giết tôi vậy.”

Butch do dự:

“Annabeth ổn thôi. Cậu phải cho cô ấy ít thời gian. Một lời tiên tri bảo cô ấy đến đây, để tìm anh chàng đi một bên giầy. Điều đó sẽ là đáp án cho vấn đề của cô ấy.”

“Vấn đề gì?” – Piper hỏi.

“Cô ấy đang tìm một trại viên của chúng tôi, bị mất tích cách đây ba ngày,” – Butch trả lời – “Cô ấy ra ngoài với tâm trạng lo lắng, hy vọng cậu ta có ở đây.”

“Ai?” – Jason hỏi.

“Bạn trai cô ấy.” – Butch nói – “Một anh chàng tên Percy Jackson.

(1): Cowboys jersey, màu áo thi đấu của đội bóng bầu dục Dallas Cowboys.

(2): Ventus, tiếng La Tinh, hiểu nôm na là gió bão.

(3): Venti, bão lớn, số nhiều của ventus.

(4): Supergoat, chơi chữ với từ Superman.

(5): Extraction squad, từ đa nghĩa (khai thác/tìm kiếm)

The Lost Hero – Chapter III

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter III

Piper

Sau một buổi sáng với lũ Hồn bão, người dê, và một anh bạn trai biết bay, Piper lẽ ra phải thấy mình bị mất trí. Nhưng thay vì vậy, tất cả những gì cô cảm nhận được là sợ hãi.

Nó đang bắt đầu, cô nghĩ, giống như giấc mơ đã nhắc đến.

Cô đứng sau xe ngựa với Leo và Jason, trong khi anh chàng đầu nhẵn, Butch, điều khiển cương. Và cô gái tóc vàng, Annabeth, điều chỉnh thiết bị định hướng bằng đồng. Họ vượt lên Hẻm Núi Lớn và trực tiếp hướng về phía đông, gió lạnh toát xộc thẳng vào như muốn cắt nát áo khoác của Piper. Phía sau họ, nhiều đám mây báo bão hơn đang tập hợp lại.

Xe ngựa chạy nhanh và lắc lư. Nó không có dây an toàn, phía sau thì mở toang hoác, nên Piper tự hỏi liệu Jason có đón lấy mình nữa không nếu mình lại rơi. Phần hầu như đáng bận tâm nhất của cô vào sáng nay, không phải chuyện Jason có thể bay, mà chính là cậu ta đã ôm ghì cô trong tay và không biết cô là ai.

Suốt học kỳ cô đã xây dựng một mối quan hệ, cố làm Jason chú ý đến mình hơn so với cương vị một người bạn. Cuối cùng, cô đã ngây ngất với một nụ hôn. Những tuần cuối, cô có được khoảng thơi gian tuyệt nhất trong cuộc đời. Và sau đó, ba đêm trước, giấc mơ đã phá hỏng mọi thứ. Một chất giọng rùng rợn mang đến cho cô những thông tin khủng khiếp. Cô đã không nói với bất kỳ ai về nó, kể cả Jason.

Bây giờ, thậm chí cô cũng không có được cậu ta. Tựa như ai đó đã tẩy sạch ký ức của cậu ấy, rồi cô bị mắc kẹt trong những thứ “ngoài tầm” nhất suốt thời gian đó. Cô muốn thét lên. Jason đang đứng ngay cạnh cô: vẫn đôi mắt màu xanh da trời, mái tóc vàng được cắt ngắn, một vết sẹo nhỏ dễ thương ở môi trên. Nét mặt cậu ấy tử tế và dịu dàng, nhưng luôn luôn thoáng buồn. Và cậu ấy chỉ nhìn chăm chăm phía chân trời, chằng hề để ý đến cô.

Trong khi đó, như thường lệ, Leo đang quấy nhiễu. “Mát quá!” – Cậu phun một sợi lông của con “ngựa bay”(1) ra khỏi miệng – “Chúng ta đang đi đâu?”

“Một nơi an toàn,” – Annabeth trả lời – “Nơi an toàn duy nhất cho những đứa trẻ như chúng ta. Trại Con Lai.”

“Con Lai?” – Piper lập tức cảnh giác. Cô ghét từ đó. Cô bị gọi là con lai quá nhiều lần trước đây rồi, nửa Cherokee, nửa trắng, và đó không phải một từ thiện ý – “Không phải một kiểu pha trò tệ hại chứ?”

“Ý của cậu ấy rằng chúng ta là á thần,” – Jason nói – “Nửa thần, nửa người.”

Annabeth nhìn ra sau: “Jason, trông cậu có vẻ hiểu biết nhiều đấy. Ờ, phải, á thần. Mẹ tôi là Athena, nữ thần khôn ngoan. Butch là con trai của Iris, nữ thần cầu vồng.”

Leo nghẹn họng: “Mẹ anh là nữ thần cầu vồng?”

“Có vấn đề gì hả?” – Butch hỏi.

“Không, không,” – Leo nói – “Cầu vồng, rất mạnh mẽ(2).”

“Butch là kỵ sĩ tuyệt nhất của chúng tôi,” – Annabeth nói – “Anh ấy rất giỏi xoay sở với những con phi mã(3).”

“Cầu vòng, ngựa con,” – Leo lẩm bẩm.

“Tôi sẽ hất cậu khỏi xe ngựa đó.” – Butch cảnh cáo.

“Á thần,” – Piper nói – “Ý cậu là cậu nghĩ … cậu nghĩ chúng ta…”

Chớp giật. Xe ngựa sốc lên, Jason thét: “Bánh xe bên trái cháy kìa!”

Piper bước lùi lại. Không nghi ngờ gì nữa, bánh xe đang bốc cháy, ngọn lửa màu trắng cuộn lên trên xe ngựa.

Gió gào thét. Piper liếc mắt ra sau họ và thấy một hình dáng u ám đang hình thành trong đám mây, nhiều Hồn bão hơn đang xoay tròn về phía cổ xe – trừ việc chúng trông giống ngựa nhiều hơn là thiên thần.

Cô hỏi: “Sao bọn chúng…”

“Bọn Anemoi xuất hiện với nhiều hình dạng khác nhau,” – Annabeth giải thích – “Khi là người, khi là ngựa, tùy theo cách chúng tạo ra hỗn loạn. Giữ chắc. Sẽ sốc lắm đấy.”

Butch hất cương. Lũ ngựa bay phi nước đại, hình dáng cỗ xe mờ hẳn đi. Dịch dạ dày Piper cồn cào, trào lên đến cổ họng. Tầm nhìn của cô tối mịt, rồi khi nó trở lại bình thường, họ đã hoàn toàn ở một nơi khác.

Điểm xám lạnh lẽo kéo dài ra ở phía bên trái họ. Những cánh đồng phủ tuyết, đường xá và cánh rừng trải rộng bên phải họ. Ngay bên dưới họ là thung lũng xanh rì, giống như một hòn đảo mùa xuân, bao quanh ba bên là những ngọn đồi tuyết, rìa phía bắc được nước bao bọc. Piper trông thấy một cụm những tòa nhà trông như đền thờ Hy Lạp cổ xưa, một tòa nhà to lớn màu xanh dương, sân bóng, một cái hồ, và một bức tường leo dường như đang cháy hừng hực. Nhưng trước khi cô kịp xử lý tất cả khung cảnh đang trông thấy, bánh xe đã ngừng lại và cỗ xe ngựa rơi khỏi nền trời.

Annabeth và Butch cố kiểm soát. Những chú ngựa bay gắng giữ cỗ xe vào quỹ đạo bay, nhưng chúng có vẻ đã kiệt sức từ khi tăng tốc cực đại, kéo theo thùng xe với sức nặng của năm con người là quá tải.

“Cái hồ!” – Annabeth thét – “Nhắm vào hồ!”

Piper nhớ ra gì đó mà bố cô từng nói, về chuyện rơi xuống nước từ trên cao còn tệ hơn rơi trúng nền xi-măng.

Và … Bùm.

Một cú sốc nặng nề và lạnh ngắt. Cô đã ở dưới nước, mất phương hướng đến nỗi cô không biết lối nào là lối nào.

Cô chỉ đủ thời gian để nghĩ: Đây là một cách ngu ngốc để chết. Sau đó, những gương mặt xuất hiện trong bóng tối xanh thẳm – những cô gái với mới tóc đen huyền và đôi mắt vàng rực sáng. Họ mỉm cười với cô, túm vai cô rồi lôi mạnh lên.

Họ hất cô lên, thở hổn hển và run rẩy, nằm vật trên bờ. Ngay bên cạnh, Butch đứng trong hồ, đang cắt bỏ bộ yên hỏng khỏi những chú phi mã. May mắn, những con ngựa trông rất ổn. Chúng đang vẩy cánh và làm sóng nước cuồn cuộn khắp mặt hồ. Jason, Leo và Annabeth cũng đã lên bờ, bị đám trẻ bao quanh, choàng khăn cho họ và hỏi han đủ điều. Ai đó nâng Piper giúp cô đứng dậy. Rõ ràng những đứa nhóc trước đây từng ngã xuống hồ rất nhiều. Bởi vì những trại viên chạy đến cùng với thứ gì trông như một cái quạt bằng lá đồng rất lớn, quạt vào Piper, hai giây sau quần áo đã khô ran.

Ở đó có ít nhất hai mươi trại viên đang tụ tập chung quanh. Đứa trẻ nhất có lẽ mới chín tuổi, lớn nhất thì khoảng tuổi đại học, mười tám hay mười chín. Và tất cả họ đều mặc áo thun màu cam giống Annabeth. Piper nhìn lại hồ nước phía sau và trông thấy những cô gái kì lạ nọ ở ngay dưới mặt nước, tóc họ nổi lên trên. Họ vẩy tay, rồi lặn sâu xuống mất tăm. Một giây sau, đống đổ nát từ cỗ xe ngựa bị hất từ dưới hồ lên và rơi ngay khoảng đất ẩm ướt bên cạnh.

“Annabeth!” – một anh chàng cầm cung và đeo bao đựng tên ở sau lưng chạy băng qua đám đông – “Tôi đã nói cậu có thể mượn xe, nhưng đừng phá hỏng nó!”

“Will, tớ xin lỗi,” – Annabeth thở dài – “Tớ sẽ sửa nó, hứa đấy.”

Will cau có nhìn cái xe ngựa vỡ nát. Sau đó cậu nhìn dò xét Piper, Leo và Jason: “Những người này là một đội hả? Trông già hơn tuổi 13. Sao, họ không được xác nhận trước?”

“Xác nhận?” – Leo hỏi.

Trước khi Annabeth kịp giải thích, Will đã nói: “Có manh mối gì của Percy không?”

“Không,” – Annabeth trả lời.

Các trại viên xầm xì bàn tán. Piper không biết người tên Percy là ai, nhưng sự mất tích của anh ta có vẻ là chuyện lớn.

Một cô gái khác bước lên – cao, người châu Á, tóc đen uốn quăn, đeo nhiều nữ trang, trang điểm cẩn thận. Bằng cách nào mà cô ta làm chiếc quần jean cùng áo thun cam trông quyến rũ hơn? Cô liếc Leo, dán mắt vào Jason cứ như chỉ có cậu đáng được cô ta chú ý. Rồi cô ta cong môi với Piper giống như Piper là cái bánh bắp cuộn vừa được lôi ra khỏi thùng rác. Piper biết loại con gái này. Cô đã đối phó với rất nhiều đứa như thế ở Trường học Hoang dã và bất kỳ ngôi trường ngu ngốc nào mà bố từng gửi cô vào học. Piper biết ngay họ sẽ thành kẻ thù.

“Ồ,” – cô gái nọ nói – “Tôi hy vọng họ xứng đáng với rắc rối này.”

Leo khịt mũi: “Giời, cảm ơn. Chúng tôi là gì, thú cưng mới của cậu hả?”

“Không đùa.” – Jason nói – “Hãy trả lời một vài câu hỏi trước khi cậu bắt đầu đánh giá chúng tôi, ví dụ như, đây là đâu, tại sao chúng tôi ở đây, chúng tôi phải ở đây bao lâu?”

Piper có cùng các câu hỏi, nhưng sự lo âu dâng lên như một cơn sóng trong lòng cô. Xứng đáng với rắc rối. Nếu họ biết về giấc mơ của cô. Họ không biết…

“Jason,” – Annabeth nói – “Tôi hứa chúng tôi sẽ trả lời các câu hỏi của cậu. Và Drew,” – cô chau mày với cô gái hấp dẫn nọ – “Tất cả á thần đều đáng được cứu. Nhưng tôi thừa nhận, chuyến đi không hoàn tất được những gì tôi hy vọng.”

“Này,” – Piper nói – “Tôi không yêu cầu bị mang tới đây.”

Drew khịt mũi khó chịu: “Và không ai muốn cậu, nhé. Đầu tóc cậu luôn trông như con lửng chết à?”

Piper bước tới, sẵn sàng đo ván cô ta, nhưng Annabeth bảo: “Piper, đừng.”

Piper làm theo. Cô không sợ Drew chút nào, nhưng Annabeth trông không giống một người mà cô muốn đối đầu.

“Chúng ta cần tạo sự thoải mái cho những người mới đến.” – Annabeth nói và nhìn Drew lần nữa – “Chúng ta cần người hướng dẫn cho họ, đưa họ đi một vòng trại. Hy vọng trong đêm lửa trại tối nay, họ sẽ được xác nhận.”

“Ai đó có thể nói tôi nghe xác nhận là gì không?” – Piper hỏi.

Đột ngột có tiếng thở hổn hển. Các trại viên bước lùi lại. Ban đầu Piper những cô đã làm gì sai. Sau đó cô nhận ra vẻ mặt họ chìm trong ánh đèn đỏ, giống như ai đó đốt đuốc sau lưng cô. Cô quay lại và gần như quên cả cách thở.

Nổi trên đầu Leo là một biểu tượng vẽ tay phát sáng – một cây búa đang cháy.

“Đấy,” – Annabeth nói – “đang xác nhận.”

“Tớ đang làm gì?” – Leo nhìn lại chiếc hồ sau lưng. Rồi cậu liếc mắt lên trên và la hét – “Tóc tớ đang cháy hả?”

Cậu ngụp đầu xuống, nhưng biểu tượng vẫn bám theo, nhảy nhót và thêu dệt như cố gắng viết thứ gì đó bằng lửa trên đầu cậu.

“Không hay rồi,” – Butch lẩm bẩm – “Lời nguyền…”

“Butch, im ngay,” – Annabeth thốt – “Leo, cậu vừa được xác nhận…”

“Bởi một vị thần,” – Jason ngắt lời – “Đó là biểu tượng của thần Vulcan(4), đúng chứ?”

Mọi ánh mắt hướng về cậu ấy.

“Jason,” – Annabeth cẩn trọng nói – “Làm sao cậu biết?”

“Tôi không chắc.”

“Vulcan?” – Leo hỏi – “Tớ thậm chí còn không ưa Star Trek. Các người đang nói về cái gì đó?”

“Vulcan là một cái tên La Mã của Hephaestus,” – Annabeth giải thích – “một vị thần thợ rèn và ngọn lửa.”

Biểu tượng búa lửa mờ đi, nhưng Leo vẫn đập đập vào không khí như sợ nó còn theo mình: “Thần gì? Ai?”

Annabeth hướng về phía chàng trai cầm cung: “Will, cậu theo Leo, dẫn cậu ấy đi tham quan nhé? Giới thiệu cậu ấy tới giường ngủ mình ở Cabin 9.”

“Được thôi, Annabeth.”

“Cái gì là Cabin 9?” – Leo hỏi – “Và tớ không phải người Vulcan!”

“Đi nào, ngài Spock. Tớ sẽ giải thích mọi chuyện.” – Will đặt tay lên vai cậu ấy và đẩy cậu đi về phía các khu nhà gỗ.

Annabeth chuyển sự chú ý vào Jason. Thường thì Piper không thích khi cô gái khác dòm ngó bạn trai của mình. Nhưng Annabeth không có vẻ gì quan tâm đến anh chàng dễ nhìn này. Cô ta nghiên cứu kỹ cậu như thể cậu là một kế hoạch phức tạp. Cuối cùng cô nói: “Giơ cánh tay lên.”

Piper cũng thấy những gì cô ta đang nhìn, và mắt cô mở to.

Jason đã cởi bỏ áo khoác sau khi nó bị nhúng trong hồ, cánh tay cậu để trần và trong cẳng tay bên phải có một hình xăm. Làm thế nào mà Piper chưa từng chú ý đế nó trước đây? Cô đã nhìn vào cánh tay Jason hàng triệu lần. Hình xăm không thể chỉ mới xuất hiện, nhưng nó được khắc sâu vào da, không thể bỏ xót được: hàng tá vạch thẳng giống như mã vạch, cùng một con đại bàng với mấy chữ “spqr”.

“Tôi chưa từng thấy dấu hiệu này,” – Annabeth nói – “Ở đâu cậu có chúng?”

Jason lắc đầu: “Tôi thực sự bắt đầu chán nói câu này rồi, nhưng, tôi không biết.”

Những trại viên khác ùa tới, cố nhìn rõ hình xăm của Jason. Dấu hiệu này dường như làm phiền đến họ nhiều như một lời tuyên chiến vậy.

“Chúng hình như được thích(5) vào da cậu.” – Annabeth chú ý.

“Đã như thế,” – Jason nói, rồi cậu chau mày giống như đầu cậu vừa chịu một cơn đau – “Ý tôi là … Tôi nghĩ vậy. Tôi không nhớ.”

Không ai nói gì nữa. Rõ ràng các trại viên xem Annabeth là người lãnh đạo. Họ đợi chỉ thị của cô ấy.

“Cậu cần tới thẳng chỗ bác Chiron,” – Annabeth quyết định – “Drew, cậu sẽ…”

“Chắc chắn rồi.” – Drew vòng tay cô ta qua cánh tay Jason – “Lối này, anh bạn. Tớ sẽ giới thiệu cậu với người lãnh đạo của bọn tớ. Ông ấy … một người thú vị.”

Cô ta đánh mắt tự mãn với Piper và hướng dẫn Jason đi về phía ngôi nhà lớn màu xanh trên đồi.

Đám đông bắt đầu tản ra, cho đến khi chỉ còn Annabeth và Piper đứng lại.

“Ai là Chiron?” – Piper hỏi – “Có phải Jason đang gặp rắc rối nào đó không?”

Annabeth lưỡng lự: “Hỏi hay đấy, Piper. Đi nào, tôi sẽ dẫn cậu đi dạo. Chúng ta cần nói chuyện.”

(1) Pegasus: Phi thiên mã.

(2) Macho: từ gốc tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, có nghĩa như từ nam tính, bao hàm cả dũng cảm hung dữ, hống hách, can đảm…

(3) Pegasi: số nhiều của pegasus

(4) Thần lửa, phòng trường hợp bạn không phải fan phim Star Trek, Vulcan cũng là một chủng tộc người ngoài hành tinh trong phim.

(5) Một kiểu xăm hình vào da bằng kim đốt nóng, thủ công hơn một tẹo so với xăm điện, nhưng về cơ bản là như nhau.

The Lost Hero – Chapter IV

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter IV

Piper

Piper sớm nhận ra tâm tư của Annabeth không dành vào việc đi dạo.

Cô ấy nói về tất cả những thứ đáng ngạc nhiên sẽ được dạy ở trại, phép thuật bắn cung, cưỡi phi thiên mã, leo tường dung nham, chiến đấu với quái vật. Nhưng cô ấy không hề hào hứng, cứ như tâm trí cô ấy để đâu đó vậy. Cô ấy chỉ lều ăn tối ngoài trời có hướng nhìn ra Long Island Sound. (Phải, Long Island, New York; họ đã đi rất xa bằng xe ngựa.) Annabeth giải thích về Trại Con Lai gần như một trại hè, nhưng vài đứa trẻ sẽ ở đây suốt. Họ đã kết nạp quá nhiều trại viên đến nỗi bây giờ nó luôn luôn đông đúc, thậm chí cả vào mùa đông.

Piper tự hỏi ai mà chạy đến đây chứ. Họ làm sao biết Piper và bạn của cô thuộc về nơi này. Cô sẽ thế nào nếu ở đây cả đời, hay nếu cô không giỏi bất cứ hoạt động nào. Bạn có thi trượt môn chiến đấu với quái vật không? Hàng triệu câu hỏi sủi lên trong đầu cô, nhưng với tâm trạng Annabeth bây giờ, cô quyết định im lặng.

Khi họ trèo lên một ngọn đồi ở rìa trại, Piper xoay người nhìn và ngạc nhiên với quang cảnh thung lũng. Một cánh rừng lớn trải dài đến tận tây bắc, một bãi biển xinh đẹp, con sông, hồ chèo xuồng, những cánh đồng xanh tươi, và toàn bộ sơ đồ bố trí của các cabin – một sự sắp xếp kỳ lạ của những căn nhà tạo thành hình ảnh trông như chữ omega Hy Lạp, Ω, với vòng nhà gỗ bao quanh một màu xanh trung tâm, hai cánh nhô ra ở mỗi bên. Piper đếm có 20 trại tất cả. Một cái phát ra ánh vàng, cái khác ánh bạc. Một cái có thảm cỏ trên mái. Cái khác phát sáng đỏ rực với rãnh dây thép gai. Một cabin màu đen với ngọn đuốc xanh trước cửa.

Tất cả trông như một thế giới khác lạ so với những ngọn đồi tuyết và những cánh đồng bên ngoài.

“Thung lũng được bảo vệ tránh ánh mắt của những người bình thường,” – Annabeth nói – “Như cậu thấy đấy, thời tiết cũng được kiểm soát. Mỗi cabin đại diện cho một vị thần Hy Lạp, nơi dành cho những đứa con của thần sống trong đó.”

Cô ấy nhìn Piper như cố đánh giá xem Piper sẽ xử lý những thông tin này thế nào.

“Cậu nói mẹ cậu là một nữ thần.”

Annabeth gật đầu: “Cậu bình tĩnh một cách đáng sợ.”

Piper không thể nói lý do với cô ấy. Cô không thể thừa nhận những cảm giác kỳ lạ mà cô đã có suốt nhiều năm, tranh cãi với bố về chuyện tại sao không có một bức ảnh nào của mẹ trong nhà, và tại sao bố không bao giờ kể rõ ràng về lý do mẹ rời bỏ họ. Nhưng trên hết, giấc mơ đã cảnh báo rằng điều này đang đến. Chúng sẽ sớm tìm ra mày, á thần, giọng nói đó rên rỉ. Khi chúng đến, hãy theo chỉ dẫn của bọn ta. Hợp tác, và bố mày được sống.

Piper run rẩy thở ra: “Tôi đoán sau sáng hôm nay, tôi dễ tin hơn. Vậy ai là mẹ tôi?”

“Chúng ta nên biết sớm,” – Annabeth nói – “Cậu đã … mười lăm chứ? Thần linh lẽ ra phải xác nhận cậu ngay khi cậu mười ba tuổi cơ. Đó là thỏa thuận.”

“Thỏa thuận?”

“Họ có một lời hứa vào mùa hè năm ngoái … ờ, một câu chuyện dài … Nhưng họ đã hứa sẽ không tảng lờ những đứa trẻ là á thần nữa, để được xác nhận các cậu phải đủ mười ba tuổi. Đôi khi lâu hơn một chút, nhưng cậu đã thấy Leo được xác nhận nhanh như thế nào khi cậu ấy đến đây rồi đó. Sẽ sớm thôi. Trong buổi lửa trại tối nay, tôi cược là chúng ta sẽ có tín hiệu.”

Piper tự hỏi sẽ ra sao nếu cô có một cái búa lửa lớn trên đầu, hay may mắn hơn, một thứ gì đó thậm chí đáng xấu hổ hơn. Một con gấu túi lửa, chắc vậy. Bất kể ai là mẹ của cô, Piper cũng không có lý gì nghĩ bà ta phải hãnh diện xác nhận một đứa con gái mắc chứng ăn cắp vặt: “Tại sao là mười ba?”

“Càng lớn,” – Annabeth trả lời – “những con quái vật càng chú ý đến cậu, cố giết cậu. Mười ba thường là tuổi mà mọi thứ bắt đầu. Bởi vậy chúng tôi gửi người bảo vệ vào trường tìm các cậu, đưa các cậu về trại trước khi quá muộn.”

“Như huấn luyện viên Hedge hả?”

Annabeth gật đầu: “Ông ấy là một satyr, Thần dê: nửa người nửa dê. Các satyr làm việc cho trại, tìm kiếm các á thần, bảo vệ họ, mang họ về khi đến lúc cần.”

Piper không các nào tin huấn luyện viên Hedge là người nửa dê. Cô chưa từng thích huấn luyện viên, nhưng cô không dám tin ông đã hy sinh bản thân để cứu họ.

“Chuyện gì đã xảy ra với thầy ấy?” – cô hỏi – “Khi chúng tôi bị cuộn vào đám mây, có phải … thầy ấy đi sẽ tốt hơn?”

“Khó nói lắm.” – Annabeth vất vả diễn đạt – “Lũ Hồn bão … rất khó đánh bại. Thậm chí dù vũ khí của chúng tôi là loại tốt nhất, đồng Celestial(1), nó sẽ đâm xuyên qua chúng, chỉ khi nào cậu có thể tóm được chúng.”

“Kiếm của Jason biến chúng thành bụi.” – Piper nhớ lại.

“Cậu ta may mắn đó. Nếu cậu đâm trúng một con quái vật, cậu có thể làm nó tan biến, trả bản thể của nó trở lại Tartarus.”

“Tartarus?”

“Một vực thẳm khổng lồ ở Địa ngục, chỗ của những con quái vật tệ hại nhất. Giống một cái hố tận cùng của bọn quỷ. Dù sao thì mỗi lần quái vật tan rã, thường phải mất nhiều tháng, thậm chí nhiều năm để chúng tái tạo lại. Nhưng lần này thì Hồn bão Dylan đã trốn được. Ồ, tôi không biết tại sao hắn bắt giữ Hedge. Hedge là một người bảo vệ, bởi vậy, ông biết rất rõ rủi ro. Các satyr không có linh hồn của người thường. Ông sẽ tái sinh thành một cái cây, một cành hoa, hay thứ gì đó.

Piper cố tưởng tượng huấn luyện viên Hedge giống như một khóm hoa păng-xê cáu kỉnh. Điều đó còn làm cô cảm thấy tệ hơn.

Cô nhìn chằm chằm vào những nhà gỗ bên dưới, và không dễ vượt qua cảm xúc đang có. Hedge đã chết để cô được đến nơi an toàn này. Cabin đại diện cho mẹ cô ở đâu đó ngay dưới kia, với ý nghĩa là cô có anh chị em, thêm nhiều người hơn mà cô phải phản bội. Làm những gì bọn ta bảo, giọng nói đó đã nhắc nhở, hoặc là gánh lấy kết quả đau đớn. Cô rúc hai bàn tay vào dưới cánh tay, cố bắt chúng ngừng run.

“Sẽ ổn thôi,” – Annabeth hứa – “Ở đây cậu có bạn bè. Tất cả chúng tôi đều từng trải qua rất nhiều chuyện kỳ quái thế này. Chúng tôi biết cậu đang vượt qua những gi.”

“Tôi nghi ngờ việc đó,” – Piper nghĩ.

“Tôi đã bị đá khỏi năm trường học khác nhau trong năm năm qua.” – cô nói – “Bố luôn chạy quanh tìm chỗ ném tôi vào.”

“Chỉ có năm à?” – Annabeth không có vẻ đang chế giễu – “Piper, tất cả bọn tôi đều được dán mác ‘kẻ gây rối’, tôi đã chạy trốn khỏi nhà mình khi tôi bảy tuổi.”

“Nghiêm túc chứ?”

“Ồ, chắc rồi. Hầu hết chúng tôi đều bị chẩn đoán hội chứng rối loạn thiếu chú ý hoặc khó khăn khi đọc chữ, hoặc cả hai.”

“Chứng ADHD của Leo.” – Piper xác định.

“Phải. Bởi vì chúng ta được buộc chặt vào các trận chiến, bị thôi thúc, không ngừng nghỉ. Chúng ta không giống những đứa trẻ bình thường. Cậu nên nghe về các rắc rối của Percy…” – mặt cô ấy tối sầm – “Dù sao thì, á thần khá là phóng túng. Làm sao cậu vướng vào rắc rối?”

Thường thì ai hỏi câu này, Piper bắt đầu gây sự, hoặc đổi đề tài, hoặc làm sao lãng. Nhưng với một vài nguyên nhân, cô kể sự thật.

“Tôi trộm đồ.” – cô nói – “Ừ, không hẳn là trộm…”

“Nhà cậu thiếu thốn?”

Piper cười gay gắt: “Chưa từng. Tôi chỉ làm vậy, không biết tại sao. Để gây chú ý, tôi đoán thế. Bố không bao giờ có thời gian cho tôi trừ khi tôi gặp rắc rối.”

Annabeth gật đầu: “Tôi có thể hiểu. Nhưng cậu bảo cậu không thực sự ăn trộm? Ý là thế nào?”

“Ờ…không ai tin tôi, cảnh sát, giáo viên, ngay cả những người bị tôi đánh cắp đồ. Họ luôn lúng túng, phủ nhận những gì đã xảy ra. Nhưng sự thật là, tôi chẳng trộm bất cứ gì. Tôi chỉ hỏi mượn họ. Và họ đưa cho tôi, thậm chí là một chiếc BMW mui trần. Tôi chỉ cần hỏi mượn, và thỏa thuận ‘được chứ, lấy đi’. Sau đó, chủ xe nhận thức chuyện gì xảy ra, tôi đoán vậy. Kế tiếp, cảnh sát đuổi theo tôi.”

Piper chờ đợi. Cô quen với việc bị gọi là dối trá. Nhưng khi cô trông đợi, Annabeth chỉ gật đầu.

“Thú vị đó. Nếu bố cậu là thần, tôi nghĩ cậu là con của Hermes, Thần trộm cắp. Ngài rất có sức thuyết phục. Nhưng bố cậu là người…”

“Rất người.” – Piper tán thành.

Annabth lắc đầu, có vẻ bối rối: “Tôi không biết rồi. Nhưng may mắn, tối nay mẹ cậu sẽ xác nhận cậu.”

Piper hầu như mong nó không xảy ra. Nếu mẹ cô là một nữ thần, bà ấy sẽ biết về giấc mơ chứ? Biết những gì Piper được yêu cầu thực hiện? Piper tự hỏi sẽ ra sao nếu các vị thần Olympic lúc nào cũng trừng phạt con của họ bằng tia sét, hoặc tống chúng xuống lòng đất.

Annabeth ngắm kỹ cô. Piper quyết định phải cẩn thận với những gì mình nói kể từ bây giờ. Annabeth quả nhiên khá thông minh. Nếu ai đó có thể đoán ra bí mật của Piper…

“Đi nào.” – Annabeth cuối cùng lên tiếng – “Có vài thứ khác tôi cần kiểm tra.”

Họ đi xa hơn một chút, đến một cái hang gần đỉnh đồi. Những đoạn xương và thanh kiếm cũ rải rác trên mặt đất. Đuốc cắm ở lối vào, được che phủ bằng vải nhung thêu hình rắn, trông nó giống như được dựng lên cho màn trình diễn rối.

“Thứ gì ở trong này?” – Piper hỏi.

Annabeth đưa đầu vào trong, rồi thở dài khép màn lại: “Bây giờ thì không có gì. Nơi ở của một người bạn. Tôi từng trông mong cô ấy vài ngày trước, nhưng đến giờ thì không có gì nữa.”

“Bạn cậu sống trong một cái hang?”

Annabeth gần như cố nhịn cười: “Thật đấy. Gia đình cô ta có căn hộ sang trọng ở khu Queens, cô ấy học trong trường ở Connecticut. Nhưng khi đến trại, phải, cô ấy sống trong hang. Cô ấy là Nhà tiên tri của chúng tôi, dự đoán tương lai. Tôi hy vọng cô ấy có thể giúp tôi…”

“Tìm Percy.” – Piper đoán.

Toàn bộ sức lực thoát khỏi Annabeth, giống như cô ấy đã giữ nó đến lúc giới hạn. Cô ngồi xuống tảng đá, biểu hiện của cô đầy vẻ đau khổ. Piper thấy mình giống một kẻ tò mò.

Cô cố ý nhìn quanh. Tầm mắt dạt tới đỉnh đồi, nơi có một cây thông trơ trọi trên đường chân trời. Thứ gì đó lấp lánh treo trên cành thấp nhất, giống một cái khăn tắm bằng vàng.

Không … không phải khăn tắm. Nó là một bộ lông cừu.

À, Piper nghĩ, ở trại Hy Lạp, họ có bản sao Bộ Lông Cừu Vàng.

Rồi cô chú ý bên dưới. Thoạt đầu cô nghĩ nó được bao bọc bởi một mớ dây cáp lớn màu tím. Nhưng dây cáp có vẩy bò sát, móng vuốt, một cái đầu giống đầu rắn với đôi mắt vàng mà lỗ mũi phà khói.

“Đó là … một con rồng.” – cô nói lập cập – “Đó thực sự là Bộ Lông Cừu Vàng sao?”

Annabeth gật đầu. Nhưng rõ ràng cô ấy không thực sự đang nghe. Vai cô buông thỏng. Cô xoa mặt và hít một hơi run rẩy: “Xin lỗi. Hơi mệt một chút.”

“Trông cậu giống sẵn sàng từ bỏ vậy.” – Piper nói – “Cậu tìm kiếm anh bạn trai bao lâu rồi?”

“Ba ngày, sáu giờ, và mười hai phút.”

“Cậu không có ý nghĩ gì về chuyện xảy ra với cậu ấy?”

Annabeth lắc đầu thảm hại: “Chúng tôi đã rất hào hứng vì kỳ nghỉ đông của cả hai đến sớm. Chúng tôi gặp nhau ở trại vào thứ ba, biết rằng sẽ có ba tuần bên nhau. Thật là tuyệt. Sau đêm lửa trại, cậu ấy…hôn tạm biệt, rồi trở về Cabin của mình. Đến sáng thì cậu ấy đã đi mất. Chúng tôi tìm khắp trại, liên lạc với mẹ cậu ấy. Chúng tôi cố tìm mọi nơi mà mình biết. Chẳng có gì. Cậu ấy đã biến mất.”

Piper nghĩ ngợi: Ba ngày trước, cùng đêm mà cô có giấc mơ của mình: “Các cậu bên nhau bao lâu rồi?”

“Từ tháng tám.” – Annabeth trả lời – “Mười tám tháng tám.”

“Gần như trùng với thời gian tôi gặp Jason.” – Piper nói – “Nhưng chúng tôi chỉ mới bên nhau vài tuần.”

Annabeth chau mày: “Piper…về chuyện đó. Có lẽ cậu nên ngồi xuống.”

Piper biết chuyện đang xảy ra. Nỗi khiếp hãi bắt đầu dấy lên trong lòng cô, giống như phổi cô chứa đầy nước: “Thôi nào, tôi biết Jason nghĩ…cậu ấy nghĩ cậu ấy mới đến trường của chúng tôi hôm nay. Nhưng đó không phải sự thật. Tôi quen cậu ấy đã bốn tháng.”

“Piper,” – Annabeth buôn bã nói – “Sương Mù.”

“Mất(2)…gì?”

“M-i-s-t. Đó là một loại màn chắn tách biệt thế giới người thường với thế giới phép thuật. Với những tư tưởng bình thường, họ không thể tiếp nhận những thứ kỳ lạ như thần thánh và quái quật. Nên Sương Mù bẻ cong hiện thực. Nó giúp người thường thấy những gì mà họ có thể hiểu, tựa như việc mắt họ hoàn toàn bỏ qua thung lũng này, hoặc họ thấy con rồng giống như một đống dây cáp.”

Piper nuốt ực một cái: “Không. Cậu đang nói cậu à. Tôi không phải một người thường. Tôi là á thần.”

“Thậm chí á thần cũng có thể bị ảnh hưởng. Tôi đã chứng kiến rất nhiều lần. Bọn quái vật xâm nhập vào những nơi như trường học, biến thành con người, và mọi người đều nghĩ rằng họ nhớ người đó. Họ tin rằng hắn luôn luôn ở quanh họ. Sương Mù có thể thay đổi ký ức, thậm chí tạo ra những ký ức chưa từng xảy ra.”

“Nhưng Jason không phải quái vật!” – Piper khẳng định – “Cậu ấy là một con người, hoặc á thần, hay gì đó mà cậu muốn gọi. Ký ức của tôi không phải giả mạo. Chúng rất thật. Có lần chúng tôi đốt quần huấn luyện viên Hedge. Có lần Jason và tôi ngắm mưa sao băng trên mái nhà ký túc xá và cuối cùng tôi đã làm tên ngốc đó hôn tôi…”

Cô nhận thấy mình đang vòng vo, kể những chuyện trong suốt học kỳ của mình ở Trường học Hoang dã cho Annabeth nghe. Cô thích Jason từ tuần đầu gặp mặt. Cậu ấy cũng tử tế với cô, và thật kiên nhẫn, cậu ấy thậm chí chịu tham gia những trò đùa ngớ ngẩn của cậu nhóc Leo. Cậu ấy tiếp nhận cô vì bản thân cô và không để ý đến những chuyện ngu xuẩn cô đã làm. Họ nói chuyện hàng giờ, ngắm sao và cuối cùng là nắm tay. Tất cả những chuyện đó không thể là giả.

Annabeth mím môi: “Piper, kỷ niệm của cậu rõ ràng hơn rất nhiều những người khác. Tôi thừa nhận, và tôi không biết tại sao như vậy. Nhưng nếu cậu biết rõ cậu ấy…”

“Tôi biết!”

“Và cậu ấy đến từ đâu?”

Piper cảm giác như vừa bị đấm vào giữa mặt: “Cậu ấy chắc chắn đã nói với tôi, nhưng…”

“Cậu không để ý hình xăm của cậu ấy trước đây? Cậu ấy có nói gì về bố mẹ của mình, hoặc bạn bè, hoặc trường cũ chưa?”

“Tôi … tôi không biết, nhưng…”

“Piper, họ của cậu ấy là gì?”

Tâm trí cô trống rỗng. Cô không biết họ của Jason. Làm sao có thể chứ?”

Cô bắt đầu khóc. Cô thấy mình hoàn toàn giống kẻ ngốc. Cô ngồi ở tảng đá bên cạnh Annabeth, cảm giác như vừa mất mát chút gì đó. Như vậy đã quá nhiều. Có phải mọi thứ tốt đẹp trong cuộc sống ngu ngốc, khốn khổ của cô đã bị lấy đi?

Phải, giấc mơ đã nói với cô. Phải, trừ khi mày làm đúng những gì bọn ta bảo.

“Này,” – Annabeth nói – “Chúng tôi sẽ tìm hiểu. Jason đang ở đây. Ai biết được chứ. Có lẽ những chuyện của cậu với anh chàng đó là thật.”

Không thể, Piper nghĩ. Không, nếu giấc mơ nói với cô sự thật. Nhưng cô không thể kể ra đều đó.

Cô gạt nước mắt trên má: “Cậu mang tôi tới đây để không ai nhìn thấy tôi thút thít hả?”

Annabeth nhún vai: “Tôi nghĩ rằng cậu sẽ khó chấp nhận. Tôi biết thế nào là mất bạn trai.”

“Nhưng tôi vẫn không thể tin … Tôi biết chúng tôi có điều gì đó mà. Và giờ thì nó mất rồi, thậm chí cậu ấy cũng không nhận ra tôi. Nếu quả thật cậu ấy chỉ mới xuất hiện hôm nay, vậy tại sao? Làm thế nào cậu ấy ở đó? Tại sao cậy ấy không nhớ bất cứ chuyện gì?”

“Hỏi hay đấy.” – Annabeth nói – “Hy vọng bác Chiron có thể tìm ra. Nhưng bây giờ, chúng tôi cần cậu chuẩn bị. Cậu đã sẵn sàng xuống đó chưa?”

Piper chú tâm nhìn những khu nhà gỗ được sắp xếp một cách điên loạn dưới thung lũng. Nhà mới của cô, một gia đình cứ cho là hiểu cô, nhưng họ sẽ sớm thành một phần khác trong những người thất vọng vì cô, nơi này sẽ lại đá cô đi. Mày sẽ phản bội chúng vì bọn ta, giọng nói cảnh báo, hoặc mày sẽ mất tất cả.

Cô không có quyền lựa chọn.

“Ừ,” cô dối gạt – “Tớ sẵn sàng.”

Ở trung tâm thảm xanh rì, một nhóm trại viên đang chơi bóng rổ. Họ thực hiện những cú ghi điểm đáng kinh ngạc. Không quả nào nảy lên thành rổ, tự động ghi ba điểm.

“Trại Apollo.” – Annabeth giải thích – “Đang khoe kỹ năng bách phát bách trúng, bóng rổ.”

Họ đi bộ ngang qua hố lửa trung tâm, nơi hai anh chàng đang đấu với nhau bằng gươm.

“Lưỡi thật?” – Piper chú ý – “Có phải hơi nguy hiểm không?”

“Đó là một trọng điểm.” – Annabeth – “Ồ, xin lỗi, chơi chữ tệ quá. Kia là cabin của tôi. Số 6.”

Cô ấy hất đầu về phía một tòa nhà màu xám với hình khắc con cú trên cửa. Xuyên qua cửa ra vào mở toang, Piper có thể nhìn thấy nhiều kệ sách, vũ khí trưng bày, cùng một trong những máy tính bảng hay có trong lớp học. Hai cô gái vẽ thứ gì đó như bản đồ trận chiến.

“Nhân nói về những lưỡi gươm,” – Annabeth nói – “Đến đây.”

Cô ấy dẫn Piper đi quanh các phía của cabin, đến một khối kim loại to lớn trông như một nhà chứa dụng cụ làm vườn. Annabeth mở khóa, khi vào trong, không có dụng cụ làm vườn, trừ khi bạn muốn gây chiến với mảnh vườn cà chua của bạn. Nhà kho chằng chịt các loại vũ khí, từ kiếm đến giáo, đến cây gậy giống như của huấn luyện viên Hedge.

“Mọi á thần đều cần một vũ khí.” – Annabeth nói – “Đồ của Hephaestus là nhất, nhưng chúng tôi cũng có những món khá tuyệt để chọn. Tất cả ở đây là những vũ khí chiến lược thích hợp với từng người của thần Athena. Xem nào…”

Piper không mấy thích chuyện mua sắm những thứ chết chóc, nhưng cô biết Annabeth đang cố làm chuyện gì đó tử tế với mình.

Annabeth đưa cho cô một đống gươm, những thứ mà hầu như Piper không thể nâng lên nổi.

“Không.” – họ gần như nói cùng lúc.

Annabeth lục tìm xa hơn trong góc kho và mang ra một thứ gì đó.”

“Súng săn?” – Piper hỏi.

“Khẩu mossberg 500.” – Annabeth kiểm tra hoạt động của ống bơm, cứ như nó chẳng phải vấn đề gì – “Đừng lo. Nó không tổn hại con người. Nó được cải tiến để bắn đạn đồng Celestial, chỉ giết quái vật.”

“Ờ, tôi không nghĩ nó hợp với phong cách của mình.” – Piper nói.

“Ừm, phải,” – Annabet đồng ý – “quá rườm rà.”

Cô ấy trả súng lại trở lại và bắt đầu tìm trong giá nỏ thì cái gì đó trong kho lọt vào mắt Piper.

“Vật gì đó?” – cô hỏi – “Một con dao à?”

Annabeth đào bới nó ra và thổi sạch bụi. Trông nó như chưa từng được nhìn đến trong hàng thế kỷ.

“Tôi không chắc, Piper.” – Annabeth không thoải mái – “Tôi không nghĩ cậu muốn một thứ thế này. Gươm thường tốt hơn.”

“Cậu dùng một con dao.” – Piper chú ý đến đai lưng của Annabeth.

“Phải, nhưng…” – Annabet nhún vai – “Được rồi, cứ xem qua nó nếu cậu muốn.”

Vỏ được bọc da đen, bao lấy chất đồng. Không cầu kỳ, lòe loẹt. Tay cầm bằng gỗ bóng loáng, vừa khít bàn tay đẹp của Piper. Khi rút nó ra, cô thấy một lưỡi bằng đồng cạnh tam giác dài 18 inches, lấp lánh như vừa được đánh bóng hôm qua. Cạnh sắc bén chết chóc. Ảnh phản chiếu trong lưỡi gươm làm cô ngạc nhiên. Trông cô già hơn, nghiêm nghị hơn, không còn trông sợ hãi như cô nghĩ.

“Nó hợp với cậu.” – Annabeth thừa nhận – “Loại lưỡi này gọi là parazonium. Nó rất trang trọng, thường được các chỉ huy quân đội cấp cao mang theo bên mình. Nó cho thấy là cậu có quyền lực và giàu sang, nhưng trong chiến đấu, nó chỉ để làm đẹp.”

“Tôi thích nó.” – Piper nói – “Tại sao cậu nghĩ nó không hợp?”

Annabeth thốt ra bực bội: “Lưỡi gươm đó có một câu chuyện dài. Hầu hết mọi người đều lo ngại với nó. Người chủ đầu tiên…ừm, nó không đem đến điều gì tốt lành cho bà ấy. Tên bà ấy là Helen.”

Piper chùn xuống: “Đợi đã, ý cậu là Helen? Helen của thành Troy à?”

Annabeth gật đầu.

Đột nhiên Piper thấy mình nên đeo găng tay khi cầm con dao: “Và nó ở ngay trong kho dụng cụ của cậu?”

“Chung quanh đây toàn đồ Hy Lạp cổ.” – Annabeth nói – “Đây không phải viện bảo tàng. Những vũ khí này là để sử dụng. Đó là tài sản kế thừa của á thần chúng ta. Con dao là quà cưới từ Menelaus, người chồng đầu của Helen. Bà ấy đặt tên con dao là Katoptris.

“Nghĩa là gì?”

“Gương.” – Annabeth nói – “Gương soi. Hầu như bà ta chỉ dùng vào việc đó. Tôi nghĩ nó chưa kinh qua trận chiến nào.”

Piper nhìn lưỡi gươm lần nữa. Trong một phút chốc, hình ảnh phản chiếu nhìn chăm chăm vào cô, nhưng rồi hình ảnh thay đổi. Cô thấy ngọn lửa, một gương mặt lố bịch trông như thứ gì đó chạm khắc từ đá nền. Cô nghe được tiếng cười như trong giấc mơ, nhìn thấy bố mình đang bị xiềng xích vào một gốc cột trước đống lửa đang gầm gừ.

Cô đánh rơi con dao.

“Piper?” – Annabeth quát với mấy đứa nhóc nhà Apollo trên sân – “Cứu thương! Ở đây cần giúp đỡ!”

“Không, được…được rồi.” – Piper gắng gượng.

“Cậu chắc chứ?”

“Ờ, tôi chỉ…” – cô kiểm soát bản thân, nhặt con dao lên bằng những ngón tay run run – “Tôi chỉ hơi xúc cảm nhất thời. Quá nhiều chuyện xảy ra hôm nay. Nhưng…tôi muốn giữ con dao này, nếu được.”

Annabeth lưỡng lự. Rồi cô ấy vẫy tay với lũ nhóc Apollo, quay lại nói – “Được rồi, nếu cậu thích. Trông cậu thực sự xanh xao đó. Tôi nghĩ cậu đang bị nhồi máu hay đại loại thế.”

“Tôi ổn.” – Piper cam đoan, dù tim cô còn đang đập rộn – “Ở đây…à, có điện thoại không? Tôi có thể gọi cho bố chứ?”

Đôi mắt xám của Annabeth gần như đang đe dọa lưỡi dao. Cô ấy thầm tính toán hàng triệu khả năng, cố đọc ý nghĩ của Piper.

“Chúng ta không được phép dùng diện thoại.” – cô ấy nói – “Hầu hết các á thần khi dùng di động, sẽ như là gửi đi một tín hiệu để lũ quái vật biết cậu đang ở đâu. Nhưng…tôi có một cái.” – cô ấy cho tay vào túi – “Một kiểu phá luật, nhưng chuyện này là bí mật của hai ta…”

Piper lấy làm cảm kích, cố không để bàn tay run rẩy. Cô bước ra xa Annabeth, xoay mặt hướng về phía đám đông.

Cô gọi cho bố mình, dù cô biết sẽ nhận được gì. Tin nhắn thoại. Cô đã thử ba ngày nay rồi, thậm chí cả trong mơ. Trường học Hoang đã chỉ cho phép dùng điện thoại mỗi ngày một lần, nhưng cô gọi vào mỗi buổi chiều, ở bất cứ đâu.

Bất đắc dĩ cô phải gọi một số khác. Trợ lí của bố trả lời ngay: “Văn phòng ngài McLean.”

“Jane,” – Piper nghiến răng – “Bố tôi đâu?”

Jane im lặng một chút, dường như để tự hỏi xem mình có thể gác máy không: “Piper, chị nghĩ em không được phép gọi điện từ trường.”

“Hẳn là tôi không ở trường.” – Piper trả lời – “Hẳn là tôi đang chạy loanh quan trong rừng.”

“Ừm.” – Jane tỏ ra không quan tâm – “Được rồi, chị sẽ nói ông ấy gọi cho em.”

“Ông ấy đâu?”

“Ra ngoài rồi.”

“Chị không biết, phải không?” – Piper ạ thấp giọng, hy vọng Annabeth đủ dễ thương để không nghe lén – “Khi nào chị sẽ gọi cảnh sát, Jane? Bố có thể đang gặp rắc rối.”

“Piper, chúng ta không được để chuyện này thành trò đùa của giới truyền thông. Chị chắc ông ấy ổn. Ông ấy thi thoảng vẫn thế. Ông luôn biết quay về.”

“Vậy là đúng rồi. Chị không biết…”

“Chị phải đi, Piper.” – Jane khó chịu – “Vui vẻ ở trường nhé.”

Đường dây bị ngắt. Piper nguyền rủa. Cô trở lại trả điện thoại cho Annabeth.

“Không may à?” – Annabeth hỏi.

Piper không trả lời. Cô không tin mình bắt đầu khóc nữa.

Annabeth liếc màn hình điện thoại và do dự: “Họ bạn là McLean? Xin lỗi, không phải chuyện của tôi. Nhưng nghe rất quen.”

“Họ thường mà.”

“Ừ, tôi đoán thế. Bố bạn làm gì?”

“Ông có bằng cấp nghệ thuật.” – Piper nói như một thói quen – “Ông là một nghệ sĩ Cherokee.”

Một câu trả lời nghi thức. Không dối trá, chỉ là, không hoàn toàn đúng sự thật. Hầu hết mọi người, khi nghe vậy, đều nghĩ bố cô bán đồ lưu niệm Ấn Độ ở một quầy hàng ven đường. Tượng Sitting Bull(3), dây chuyền vỏ sò, những cuốn tập viết Big Chief, những thứ đại loại thế.

“Ồ.” – Annabeth có vẻ ngờ vực, nhưng cô cất điện thoại và nói – “Cậu ổn không? Đi tiếp chứ?”

Piper giắt con dáo mới vào thắt lưng và tự trấn an mình, khi một mình, cô sẽ tìm hiểu cách sử dụng nó.

“Chắc rồi.” – Cô nói – “Tôi muốn xem mọi thứ.”

Tất cả các trại đều hay, nhưng không chỗ nào gây ấn tượng với Piper. Không có dấu hiệu lửa, gấu túi hay tương tự vây, xuất hiện trên đầu cô.

Cabin 8 bàng bạc trong ánh trăng.

“Artemis hả?” – Piper đoán.

“Cậu biết về thần thoại Hy Lạp.” – Annabeth nói.

“Tôi từng đọc một ít khi bố thực hiện dự án năm ngoái.”

“Tôi tưởng ông ấy là nghệ sĩ Cherokee.”

Piper cố nén một lời nguyền rủa: “Ờ, đúng. Nhưng, cậu biết đó, ông cũng làm những việc khác.”

Piper nghĩ mình đã lỡ lời: McLean, thần thoại Hy Lạp. Ơn trời, Annabeth có vẻ không liên kết được.

“Dù sao,” – Annabeth tiếp tục – “Artemis là nữ thần mặt trăng, nữ thần săn bán. Nhưng không có trại viên. Artemis là một nữ thần đồng trinh, nên cô ấy không có đứa trẻ nào.”

“Ừ.” – Piper thốt một tiếng bâng quơ. Cô luôn luôn thích các câu chuyện của Artemis, và tưởng tượng mình sẽ có một người mẹ lạnh lùng.

“À, các Thợ săn của Artemis.” – Annabeth cải chính – “Họ đến thăm vài lần. Họ không phải con của Artemis, nhưng họ là những thiếu nữ hầu cận bất tử của cô ấy, những cô gái tham gia những chuyến phiêu lưu săn lùng quái vật hay tương tự thế.”

Piper ngẩng lên: “Nghe thật tuyệt. Họ bất tử à?”

“Trừ khi họ chết trong chiến trận, hoặc phá vỡ lời thề. Tớ đã đề cập chuyện họ thề từ bỏ các chàng trai chưa? Không hẹn hò, không bao giờ. Vĩnh viễn.”

“Ồ,” – Piper nói – “Thôi đừng để ý.”

Annabeth cười. Trong một lúc, cô gần như đang vui vẻ. Và Piper nghĩ cô ấy sẽ là người bạn tuyệt vời để đi dạo cùng vào những lúc thích hợp hơn.

Quên đi, Piper nhắc nhở mình. Mày sẽ không kết bạn với ai ở đây. Sẽ không có ai khi họ hiểu ra.

Hai người sang cabin tiếp theo, số 10, với những họa tiết trang trí như nhà của Barbie, màn ren và cửa hồng, những chậu cẩm chướng ở cửa sổ. Họ đến cửa ra vào, mùi nước hoa chẹn kín họng cô.

“Trời, có phải nơi ở của các siêu mẫu chết tiệt không?”

Annabeth cười kiểu cách: “Trại Aphrodite, nữ thần Tình yêu. Drew dẫn dắt.”

“Đoán được mà.” – Piper lẩm bẩm.

“Họ không hẳn tệ hết.” – Annabeth nói – “Người dẫn dắt trước đây rất tuyệt.”

“Chuyện gì xảy ra với cô ấy?”

Annabeth trầm buồn: “Chúng ta nên đi tiếp.”

Họ nhìn sang cabin khác, nhưng Piper cảm thấy phiền muộn. Cô tự hỏi ra sao nếu cô có thể là con của Demeter, nữ thần Mùa màng. Sau đó, cô sẽ giết chết mọi cây trồng nào khi cô chạm vào. Athena cũng tuyệt. Hoặc có lẽ là Hecate, nữ thần Phép thuật. Nhưng đó không thực sự là vấn đề. Thậm chí ở ngay đây, nơi mọi người được giúp đỡ để tìm ra bố mẹ mình, cô biết rằng mình sẽ kết thúc như một đứa trẻ không ai muốn. Cô không trông mong gì vào đêm lửa trại.

“Chúng ta sẽ bắt đầu với mười hai vị thần Olympus.” – Annabeth giải thích – “Nam thần bên trái, nữ thần bên phải. Sau năm ngoái, chúng tôi có thêm trại cho những vị thần không ngai trên Olympus: Hecate, Hades và Iris…”

“Ai là thần lớn nhất cho hai bên?” – Piper hỏi.

Annabeth chau mày: “Zeus và Hera, Vua và Nữ hoàng của các thần.”

Piper đi về phía đó. Annabeth theo sau dù cô không hăng hái. Trại Zeus làm Piper nghĩ tới cái ngân hàng. Nó là một khối cẩm thạch trắng với những cột lớn ở phía trước, cửa đồng bóng loáng được trang trí bằng tia chớp.

Trại Hera nhỏ hơn nhưng cũng mang hình dạng tương tự, ngoại trừ cửa được chạm khắc hình lông công để trang trí, tỏa sáng nhiều màu.

Không giống những trại khác, ồn ào và mở rộng cửa với rất nhiều các hoạt động, trại Zeus và Hera khóa kín, im ắng.

“Chúng trống rỗng à?” – Piper hỏi.

Annabeth gật đầu: “Một thời gian dài thần Zeus không có đứa con nào. À, hầu như. Zeus, Poisedon và Hades, ba vị thần lớn nhất trong các thần, gọi là Bộ ba Đại thụ. Con của họ rất mạnh và rất nguy hiểm. Suốt bảy mươi năm hơn, họ cố tránh sinh các á thần.”

“Cố gắng tránh à?”

“Đôi khi họ … ừm, phá luật. Tôi có một người bạn, Thalia Grace, con gái của Zeus. Nhưng cô ấy từ bỏ chuyện sống ở trại để trở thành Thợ săn của Artemis. Bạn trai tôi, Percy, con của Poseidon. Và một cậu bé hiếm khi xuất hiện, Nico, con trai Hades. Trừ họ, không còn á thần nào của Bộ ba Đại thụ nữa. Ít nhất là theo chúng tôi biết.”

“Còn Hera?” – Piper nhìn về phía cánh cửa trang trí chim công. Cabin này làm cô khó chịu mà không hiểu tại sao.

“Nữ thần Hôn nhân.” – Annabeth cẩn thận kiểm soát giọng mình, cứ như cố tránh một lời nguyền rủa – “Bà ấy không có đứa con nào với ai khác ngoài Zeus. Nên, ờ, không có á thần. Cabin này chỉ tượng trưng.”

“Cậu không thích bà ấy.” – Piper để ý.

“Một câu chuyện dài.” – Annabeth thừa nhận – “Tôi cứ nghĩ chúng tôi đã hòa bình, nhưng khi Percy mất tích…Tôi có giấc mơ kỳ lạ về bà ấy.”

“Bảo cậu tới đón chúng tôi.” – Piper nói – “Nhưng cậu nghĩ Percy ở đó.”

“Sẽ hay hơn nếu tôi không nói về chuyện đó.” – Annabeth nói – “Tôi chẳng có gì tốt đẹp để nói về Hera ngay lúc này.”

Piper nhìn xuống thềm cửa: “Vậy ai sẽ ở đó?”

“Không. Cabin để tượng trưng, như tôi bảo đấy. Không ai ở cả.”

“Ai đó đã vào.” – Piper chỉ vào những dấu chân trên ngưỡng cửa đầy bụi. Theo bản năng, cô đẩy cửa và chúng mở ra dễ dàng.”

Annabeth bước lùi lại: “Ờ, Piper, tôi không nghĩ chúng ta được…”

“Chúng ta đâu làm gì nguy hiểm, phải không?” – nói rồi Piper đi vào trong.

Trại Hera không phải một nơi Piper muốn sống. Nó lạnh lẽo như hầm băng, một vòng cột trắng vây lấy tượng nữ thần ở giữa, cao mười bộ, ngồi trên ngai vàng với áo choàng vàng. Piper luôn nghĩ mắt của các bức tượng Hy Lạp luôn có tròng mắt trắng, nhưng tượng này được sơn sáng nên trông giống người hơn, trừ việc nó khổng lồ. Tầm mắt của Hera dường như đang theo dõi Piper.

Dưới chân nữ thần, lửa đang bùng cháy trong cái lò đồng. Piper thắc mắc ai sẽ trông chừng nó nếu cabin này luôn trống rỗng. Một con diều hâu bằng đá đậu trên vai Hera, tay bà ấy cầm cây gậy có hoa sen trên chóp. Tóc nữ thần tết lọn đen huyền. Bà mỉm cười, nhưng mắt thì lạnh lẽo và toan tính, như thể bà ấy đang nói: Ta biết rõ hết. Nên đừng lừa ta hoặc ta sẽ giẫm lên ngươi.

Không có gì khác trong cabin, không giường, đồ gỗ, không phòng tắm, không cửa sổ, chẳng có gì nói lên rằng ai đó thực sự có thể sống ở đây. Nữ thần của Hôn nhân và Gia đình, trong khoảnh khắc, nơi của Hera gợi cho cô nhớ đến một lăng mộ.

Không, đây không phải mẹ cô. Ít ra thì Piper chắc chắn điều đó. Cô không vào đây bởi cô cảm thấy một mối liên hệ tốt đẹp, mà vì ý thức cô sợ hãi một cách dữ dội hơn khi ở đây. Trong giấc mơ, tối hậu thư khủng khiếp nhất cô được căn dặn, là phải làm gì đó tại cabin này.

Cô đứng chết lặng. Họ không ở đó một mình Đằng sau bức tượng, tại bàn thờ nhỏ, một hình dạng trong áo choàng đen đang đứng. Chỉ có đôi tay cô ta là nhìn thấy, đang ngửa lên. Cô ta giống như đang đọc thần chú hay cầu nguyện.

Annabeth há hốc: “Rachel?”

Cô gái nọ quay lại. Cô ta thả khăn choàng xuống, để lộ mái tóc đỏ với khuôn mặt đầy tàn nhang mà hoàn toàn không hợp với sự nghiêm trang của cabin hay của cái khăn choàng. Cô ta khoảng mười bảy tuổi, một thiếu niên bình thường trong áo choàng xanh lá và quần jean rách bươm nguệch ngoạc. Dù sàn nhà khá lạnh, cô ấy để chân trần.

“Này!” – Cô ta chạy tới ôm choàng Annabeth – “Tớ xin lỗi! Tớ đã đến nhanh hết mức có thể.”

Họ nói chuyện vài phút về cậu bạn trai Annabeth không có tin tức mới, phần còn lại của câu chuyện, tận đến khi Annabeth nhớ ra Piper, người đứng ngay bên cạnh và đang cảm thấy không cảm mấy thoải mái.

“Tớ bất lịch sự quá.” – Annabeth nhận lỗi.

“Rachel, đây là Piper, một trong những con lai bọn tớ cứu được hôm nay. Piper, đây là Rachel Elizabeth Dare, Nhà tiên tri của chúng tôi.”

“Người bạn sống trong hang à.” – Piper phỏng đoán.

Rachel nhăn răng cười: “Chính tớ.”

“Vậy, cậu là Nhà tiên tri?” – Piper hỏi – “Cậu biết trước tương lai?”

“Giống như tương lai chộp được tớ hết lần này tới lần khác hơn.” – Rachel nói – “Tớ đưa ra những lời tiên tri. Một linh hồn tiên tri cướp lấy thể xác tớ mỗi lần như vậy và nói ra những lời chẳng liên quan đến ai. Nhưng, ừ, những lời tiên đoán tương lai.”

“Ồ.” – Piper đổi chân đứng – “Tuyệt nhỉ.”

Rachel cười rộ: “Đừng lo. Mọi người nghe vậy đều hơi rợn người, ngay cả tớ cũng thế. Nhưng bình thường thì tớ vô hại.”

“Cậu là á thần?”

“Không.” – Rachel nói – “Con người.”

“Vậy cậu đang…” – Piper vẩy tay ra chung quanh căn phòng.

Nụ cười của Rachel biến mất. Cô ta liếc sang Annabeth rồi trở lại với Piper: “Chỉ là một linh cảm. Một thứ gì ở cabin này và sự biến mất của Percy. Chúng liên quan nhau theo cách nào đó. Tớ có linh cảm của mình, đặc biệt là tháng trước, khi các thần linh im lặng.”

“Im lặng?” – Piper hỏi.

Rachel chau mày với Annabeth: “Cậu chưa kể à?”

“Tớ sắp kể.” – Annabeth nói – “Piper, cả tháng qua…ờ, thường thì các thần không nói chuyện nhiều với con cái họ. Nhưng thi thoảng chúng tôi trông chờ những thông điệp. Vài người bọn tôi có thể ghé thăm Olympus. Tôi gần như mất cả học kỳ trên Empire State.”

“Xin lỗi?”

“Lối vào Olympus ngày nay.”

“Ồ.” – Piper nói – “Chắc rồi, tại sao không chứ?”

“Annabeth đang thiết kế lại Olympus sau thiệt hại từ trận chiến với các Titan.” – Rachel giải thích – “Cậu ấy là một kiến trúc sư tuyệt vời. Cậu nên thấy quầy salad trộn.”

“Dù sao thì,” – Annabeth nói – “bắt đầu khoảng một tháng trước, Olympus rơi vào im lặng. Lối vào bị đóng, không ai vào được. Chẳng ai rõ tại sao. Cứ như họ đang tự giam mình vậy. Thậm chí mẹ cũng không đáp lại lời cầu nguyện của tớ. Còn giám đốc trại, Dionysus, bị gọi về rồi.”

“Giám đốc trại của các cậu là thần…rượu?”

“Phải, một…”

“Câu chuyện dài chứ gì.” – Piper phỏng đoán – “Được rồi, tiếp nào.”

“Vậy đó.” – Annabeth nói – “Các á thần vẫn được xác nhận, nhưng ngoài ra không còn gì nữa. Không thông điệp, không thăm viếng, không dấu hiệu nào cho thấy các thần đang lắng nghe. Như thể đã có chuyện xảy ra, rất tệ. Và Percy mất tích.”

“Rồi Jason xuất hiện trong chuyến đi thực địa của chúng tôi.” – Piper thêm vào – “Không còn trí nhớ.”

“Ai là Jason?” – Rachel hỏi.

“Bạn…” – Piper ngập ngừng một chút trước khi kịp nói từ ‘bạn trai’, nhưng cô cảm giác lồng ngực đau nhói – “Bạn tôi. Annabeth này, cậu bảo Hera gửi đến cậu một giấc mơ.”

“Phải.” – Annabeth nói – “Sự liên lạc đầu tiên từ một vị thần trong một tháng nay, và đó là Hera, vị thần kém thiện ý giúp đỡ nhất, liên lạc với tôi, á thần không được bà ta ưa nhất. Bà ấy bảo tôi sẽ hiểu chuyện gì đã xảy ra với Percy nếu tôi tới Hẻm Núi Lớn tìm anh chàng chỉ đi một chiếc giày. Thay vào đó, tôi tìm được các cậu, và anh chàng đi giày một bên là Jason. Chẳng có ý nghĩa gì.”

“Điều gì đó rất tệ đang diễn ra.” – Rachel tán thành. Cô ta nìn Piper. Và Piper khao khát kể cho họ nghe về giấc mơ, để khẳng định rằng cô biết những gì đang xảy ra, ít nhất là một phần câu chuyện. Và thứ tồi tệ đó chỉ mới bắt đầu.

“Các cậu,” – cô nói – “Tôi…tôi phải…”

Trước khi cô tiếp tục, cơ thể Rachel cứng đờ. Mắt phát ra ánh sáng xanh lá nhạt. Cô ta chộp lấy hai vai Piper.

Piper cố lùi lại, nhưng đôi tay Rachel cứng như gọng thép.

Giải phóng ta, cô nói. Không phải giọng Rachel. Giọng này giống một người phụ nữ trưởng thành, vọng ra từ nơi vào đó rất xa xôi, sâu thẳm, vang vang. Giải phóng ta, Piper McLean, không thì mặt đất sẽ nuốt lấy chúng ta. Phải vào lúc điểm chí(4).

Căn phòng bắt đầu quay cuồng. Annabeth cố tách Piper và Rachel ra, nhưng vô ích. Khói xanh bao vây họ. Piper không biết mình đang tỉnh hay mơ. Bức tượng nữ thần khổng lồ đứng lên, cúi người về phía Piper, mắt dán vào cô. Miệng tượng mở ra, hơi thở sực nức nước hoa. Nó nói với chất giọng vang vang: Kẻ thù khuấy động. Duy nhất ngọn lửa bùng cháy đầu tiên. Khuất phục thiện chí của hắn, vua của chúng sẽ trỗi dậy, kết án tất cả chúng ta. Giải phóng ta!

Đầu gối Piper sụm xuống, và mọi thứ trở lại bóng tối.

(1) Đại loại mà một loại đồng xuất phát từ trên trời, của các vị thần, không có ở mặt đất.

(2) Mist – miss.

(3) Thủ lĩnh bộ tộc Hunkpapa Lakota Sioux, dẫn dắt bộ tộc trong cuộc đấu tranh với chính quyền Mỹ

(4) Đông chí hoặc hạ chí

The Lost Hero – Chapter V

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter V

Leo

Chuyến du ngoạn của Leo vẫn rất tuyệt cho đến khi cậu biết về con rồng.

Anh chàng bắn cung Will Solace, trông khá tử tế. Mọi thứ cậu ta chỉ cho Leo đều đáng ngạc nhiên, nó không hề bình thường. Những tàu chiến Hy Lạp thật sự được neo ở bãi biển mà đôi khi sẽ thực tập chiến trận với thuốc nổ cùng các mũi tên bóng loáng? Hay! Xưởng nghệ thuật hàng hải nơi bạn có thể tạo ra các tác phẩm điêu khắc với cưa xích và mỏ hàn? Leo biểu hiện như, tớ đăng ký! Khu rừng đầy quái vật nguy hiểm mà không ai nên vào đó một mình? Tuyệt! Và cả khu trại ngập tràn những cô nàng ưa nhìn. Leo hoàn toàn không hiểu sao tất cả họ lại có quan hệ đến thần thánh, nhưng cậu hy vọng điều đó không có nghĩa cậu là họ hàng với các quý cô này. Sẽ rất tệ. Ít nhất, cậu muốn kiểm tra lại những cô gái dưới nước kia lần nữa. Họ chắc chắn không đáng bị chết đuối.

Will chỉ cho cậu các khu nhà, phòng ăn tối và khu đấu kiếm.

“Tớ chọn một thanh kiếm nhé?” – Leo hỏi

Will liếc cậu cứ như cậu vừa đưa ra một ý kiến phiền nhiễu: “Cậu có thể tự chế cho mình, cậu sẽ biết cách ngay khi vào Cabin 9.”

“Ờ, đó là gì vậy? Vulcan ấy?”

“Thường thì chúng ta không gọi tên La Mã của các thần,” – Will nói – “Tên gốc là tiếng Hy Lạp. Bố cậu là Hephaestus.”

“Festus gì?” – Leo đã nghe ai đó nói trước đây, nhưng cậu vẫn không có can đảm – “Nghe như thánh của cao bồi.”

“He-phaestus,” – Will sửa lại – “Thần của thợ rèn và ngọn lửa.”

Leo đã từng nghe, nhưng cậu cố không nghĩ đến nó. Thần lửa…nghiêm túc chứ? Nếu xét đến những gì đã xảy ra với mẹ cậu, đó cứ như một lời nói đùa chết tiệt.

“Vậy cây búa lửa trên đầu tớ,” – Leo nói – “Điềm tốt, hay xấu?”

Will mất ít lâu mới trả lời: “Cậu được xác nhận ngay tức khắc. Như thế thường là điềm tốt.”

“Nhưng cậu ngựa nhóc cầu vồng, Butch…nhắc tới một lời nguyền.”

“À…xem nào, chẳng có gì cả. Kể từ khi người dẫn dắt trước của Cabin 9 chết…”

“Chết? Như thế nào, đau không?”

“Tớ nên để bạn cùng trại của cậu kể câu chuyện đó.”

“Ừ, vậy nhà tớ đâu? Người dẫn dắt của họ không đích thân tặng tớ một VIP tour hả?”

“Cậu ta, ừm, không thể. Cậu sẽ biết tại sao thôi.” – Will tiến lên trước khi Leo kịp hỏi thêm gì.

“Lời nguyền và cái chết,” – Leo tự nói – “Chuyện càng lúc càng khá hơn đấy.”

Cậu băng qua được nửa đoạn đồng cỏ khi cậu nhìn thấy bảo mẫu trước kia của mình. Và bà ta không phải loại người cậu muốn gặp ở trại á thần.

Leo như bị đóng băng trên đường đi.

“Chuyện gì vậy?” – Will hỏi.

Tía Callida – Dì Callida. Đó là từ mà cậu thường gọi bà ta. Nhưng Leo đã không gặp lại bà từ khi được năm tuổi. Bà ta đang đứng đó, đứng trong cái bóng của cabin trắng to lớn tại điểm mút đồng cỏ, nhìn về phía cậu. Bà mặc bộ đầm quả phụ bằng vải lanh đen, khăn choàng đen phủ qua đầu. Gương mặt bà không hề thay đổi, da nhăn nheo, mắt đen sâu hút. Đôi bàn tay khô quắt như bộ vuốt. Bà ta trông rất cổ kính, nhưng không khác biệt gì hơn trong trí nhớ Leo.

“Quý bà đó…” – Leo nói – “Bà ta làm gì ở đây?”

Will cố nhìn theo ánh mắt Leo: “Quý bà nào?”

“Anh bạn, quý bà đó. Một người đen thui kìa. Cậu nhìn thấy bao nhiêu quý bà chứ?”

Will chau mày: “Tớ nghĩ cậu đã có một ngày quá dài, Leo. Sương Mù có thể vẫn còn đánh lừa tâm trí cậu. Hay là chúng ta đi thẳng đến khu nhà của cậu nào?”

Leo muốn kiến nghị, nhưng khi cậu nhìn lại phía ngôi nhà lớn màu trắng đó, Tía Callida đã đi mất. Cậu chắc chắn bà ta ở đó, như thể ý nghĩ về mẹ của cậu đã gọi Callida trở lại từ quá khứ.

Và đó không phải tin tốt, vì Tía Callida từng cố giết cậu.

“Đùa cậu thôi, anh bạn.” – Leo lôi vài bánh răng và đòn bẩy trong túi ra, bắt đầu nghịch phá chúng để lấy lại bình tĩnh. Cậu không thể để mọi người ở trại nghĩ cậu điên. Ít nhất cậu không điên hơn bản tính thực của cậu.

“Đến thăm Cabin 9 nào.” – cậu nói – “Tớ thấy thoải mái với một lời nguyền tốt lành.”

Nhìn từ bên ngoài, Trại Hephaestus trong như một chiếc RV(1) ngoại cỡ với tường kim loại bóng loáng và cửa sổ trập bằng sắt. Lối vào trông như cửa kho bạc của ngân hàng, nó hình tròn cùng vài ra cái chân dày. Nó được mở bởi nhiều bánh răng xoay bằng đồng thau với pít-tông thủy lực đang xả khói.

Leo huýt sáo: “Họ chuộng phong cách steampunk(2) hả?”

Bên trong, cabin khá vắng vẻ. Giường thép được kê áp tường trông như những chiếc giường Murphy(3) công nghệ cao. Mỗi giường có một bảng điều khiển kỹ thuật số, những đèn LED nhấp nháy, đá quý lấp lánh và khóa bánh răng liên động. Leo đoán mỗi trại viên ở đây có một ổ khóa sổ để mở giường của anh ra, dường như hốc tường được xây hụt vào phía sau với một ngăn ngầm, có lẽ là cái bẫy để giữ các vị khách không mời. Chí ít đó là cách mà Leo sẽ thiết kế. Có một cột cứu hỏa thông xuống từ tầng hai, dù nhìn từ ngoài cabin không hề thấy tầng hai. Một cầu thang xoắn dẫn xuống tầng hầm. Trên tường treo đủ loại công cụ mà Leo có thể tưởng tượng ra. Một cơ số nào là dao, gươm và những công cụ phá hoại khác. Một cái bàn thợ ngổn ngang phế liệu kim loại: ốc, chốt, vòng đệm, đinh tán và hàng triệu bộ phận máy móc khác. Leo có một thúc giục mạnh mẽ là muốn dùng xẻng để xúc tất cả chúng vào túi áo khoác. Cậu yêu những thứ này. Nhưng cậu cần hơn trăm cái áo khoác để đựng vừa tất cả chúng.

Nhìn chung quanh, cậu hầu như có thể tưởng tượng mình đã trở lại xưởng máy của mẹ. Không có vũ khí, có lẽ thế, nhưng các công cụ, những đống phế liệu, mùi dầu máy và kim loại. Bà sẽ yêu thích nơi này.

Cậu xua đi ý nghĩ đó. Cậu không thích những kí ức đau buồn. Tiếp tục tiến lên, đó là khẩu hiệu của cậu. Đừng đào sâu mọi thứ. Đừng ở mãi một nơi quá lâu. Đó là cách duy nhất để tồn tại trước những nỗi đau.

Cậu lôi một dụng cụ dài ra khỏi tường: “Một ống điếu kì quặc à? Thần lửa làm gì với một ống điếu kì quặc?”

Một giọng nói đến từ bóng tối: “Cậu sẽ ngạc nhiên đó.”

Từ căn phòng sau lưng, một chiếc giường đã có người. Chiếc màn ngụy trang màu tối rút lại, Leo có thể trông thấy một anh chàng đã tàng hình trước đó ít giây. Thật khó để kể nhiều về cậu ta vì cậu ta được bọc trong một cái khuôn đúc. Phần đầu cũng được quấn gạc chỉ chừa ra khuôn mặt khá to và bầm dập. Cậu ta trông như Pillsbury Doughboy sau khi bị đánh gục.

“Tớ là Jake Mason,” – cậu ta nói – “Tớ phải bắt tay cậu, nhưng…”

“Ờ,” – Leo nói – “Đừng đứng dậy.”

Cậu ta cười giòn, sau đó thì chau mày đau đớn vì phải chuyển động cơ mặt. Leo tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với cậu ta, nhưng cậu sợ phải hỏi.

“Chào mừng đến Cabin 9,” – Jake nói – “Gần như đã tròn năm rồi chúng tớ không có cậu bé nào mới. Tớ là người dẫn dắt hiện tại.”

“Hiện tại?” – Leo hỏi.

Will Solace tằng hắng: “Vậy, mọi người đâu cả rồi, Jake?”

“Ở dưới lò rèn,” – Jake nói giọng đầy tiếc nuối – “Họ đang giải quyết…cậu biết mà, vấn đề đó.”

“Ồ.” – Will đổi đề tài – “Vậy, cậu có cái giường nào cho Leo không?”

Jake ngắm nghía Leo, đo đạc kích cỡ: “Cậu có tin vào lời nguyên không, Leo? Hoặc là hồn ma ấy?”

Tôi vừa thấy bảo mẫu ma quỷ của mình, Tía Callida, Leo nghĩ. Bà ta hẳn phải chết sau từng ấy năm. Và tôi không ngày nào không nhớ hình ảnh mẹ trong xưởng máy đang bừng cháy. Đừng nói với tôi về ma quỷ, Doughboy.

Nhưng cậu la lớn: “Ma à? Hừm, không. Tớ đủ khá đấy. Một Hồn bão đã ném tớ xuống Hẻm Núi Lớn vào sáng nay, nhưng cậu biết đó, thế là đủ cho một ngày rồi, đúng không?”

Jake gật đầu: “Hay đấy. Vì tớ sẽ trao cho cậu chiếc giường tốt nhất ở đây – giường của Beckendorf.”

“Ồ, Jake,” – Will hỏi – “Cậu chắc chứ?”

Jake gọi to: “Giường 1-A, nào.”

Cả căn nhà rung ầm ầm. Sàn nhà thay đổi liên tục như thấu kính máy ảnh, một chiếc giường toàn cỡ nhảy lên. Khung đồng có gắn thiết bị trò chơi cầm tay ở chân giường, một hệ thống âm thanh nổi trên chỗ gác đầu, tủ lạnh cửa trong suốt ở gầm, và toàn bộ bảng điều khiển chạy dọc hai bên hông.

Leo nhảy ngay lên và nằm gác đầu: “Tớ có thể dùng nó à.”

“Nó sẽ tự thu vào thành một căn phòng riêng bên dưới.” – Jake nói.

“Ồ, hay, phải rồi.” – Leo nói – “Tổng chào. Tớ sẽ xuống Hang Leo đây. Tớ nên ấn nút nào?”

“Gượm đã,” – Will Solace phản ứng – “Các cậu có phòng riêng dưới lòng đất?”

Jake chắc chắn sẽ cười nếu nó không làm cậu ta đau: “Bọn tớ có nhiều bí mật, Will ạ. Những anh chàng trại Apollp các cậu không thể hưởng thụ hết đâu. Trại viên chúng tớ đã đào một hệ thống đường hầm dưới Cabin 9 gần cả thế kỷ rồi. Chúng tớ vẫn chưa tìm thấy điểm cuối. Dù vậy, Leo, nếu cậu không ngại ngủ trên giường của người quá cố, nó là của cậu.”

Bất ngờ, Leo cảm giác như bị đá văng đi. Cậu bật dậy, cẩn thận không chạm vào cái nút nào: “Người dẫn dắt quá cố, đây là giường của anh ta?”

“Ừ.” – Jake nói – “Charles Beckendorf.”

Leo tưởng tượng ra những lưỡi gươm xuyên qua lớp đệm, hoặc có lẽ là những mảnh lựu đạn trong gối nằm: “Anh ta không, ý là, chết trên giường này chứ?”

“Không.” – Jake nói – “Trong cuộc chiến với các Titan, mùa hè trước.”

“Cuộc chiến Titan,” – Leo nhắc lại – “nó chẳng liên quan gì đến chiếc giường cực tốt này phải không?”

“Các Titan,” – Will giải thích, cứ như Leo là một gã ngốc – “Những gã có quyền năng to lớn đã thống trị thế giới trước các vị thần. Họ cố trở lại vào mùa hè trước. Thủ lĩnh của họ, Kronos, đã xây dựng một cung điện trên đỉnh Tam ở California. Quân đội của họ đến từ New York và hầu như phá hủy đỉnh Olympus. Rất nhiều á thần đã chết khi cố ngăn họ.”

“Tớ đoán đây không phải là tin tức trên báo nhỉ?” – Leo nói.

Đó có vẻ là một câu hỏi hợp lý, nhưng Will lắc đầu nghi hoặc: “Cậu không nghe về đỉnh St. Helens phun trào, hay những cơn bão kỳ lạ khắp nước, hoặc tin tòa nhà St.Louis bị giật sập à?”

Leo nhún vai. Mùa hè trước, cậu đang loanh quanh ở một trai mồ côi khác. Sau đó một viên chức bắt được cậu ở New Mexico. Tòa án phán cậu đến trại gần nhất, Trường học Hoang dã: “Tớ đoán tớ đang bận lúc ấy.”

“Không hề gì.” – Jake nói – “Cậu thật may mắn khi bỏ lỡ cuộc chiến. Vấn đề ở chỗ, Beckendorf là tổn thất lớn đầu tiên, và kể từ đó…”

“Trại của các cậu vướn lời nguyền,” – Leo phỏng đoán.

Jake không trả lời. Sau đó, cậu ta lại đóng khuôn cho mình. Đó là đáp án. Leo bắt đầu chú ý đến những thứ nhỏ nhặt mà khi nãy chưa thấy. Một dấu vết của vụ nổ trên tường, một vệt trên sàn có lẽ là dầu…hoặc máu. Những thanh gươm gãy và máy móc đổ vỡ trong góc phòng, có thể chúng là sản phẩm thất bại. Nơi này có cảm giác không may mắn.

Jake thở dài gượng gạo: “Ừm, tớ nên ngủ một chút. Hy vọng cậu thích chỗ này, Leo. Nó từng … rất đẹp.”

Cậu ta nhắm mắt, tấm màn ngụy trang phủ qua chiếc giường.

“Đi nào, Leo.” – Will nói – “Tớ dẫn cậu đến lò rèn.”

Ngay khi họ rời khỏi, Leo nhìn lại chiếc giường mới của mình. Và cậu có thể hình dung ra người dẫn dắt quá cố đang ngồi ở đó, một con ma khác sẽ không để Leo được một mình.

(1) Recreational Vehicle, những chiếc xe 4 bánh kích thước lớn được trang bị tiện ích sinh hoạt và giải trí thường ngày. Các gia đình khu vực Bắc Mỹ thường sử dụng chúng cho những chuyến cắm trại xa.

(2) Một phong cách kỹ thuật cổ điển, với hình ảnh những bánh răng, đai truyền động, pít-tông, đồng hồ thủy lực…; những mẩu mã hàng điện máy tiền công nghiệp, thời mà bộ máy vận hành của các thiết bị còn cồng kềnh và lộ cả ra ngoài.

(3) Giường gấp vào tường. Loại giường được William. L. Murphy phát minh vào năm 1990 tại Mỹ.

The Lost Hero – Chapter VI

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter VI

Leo

“Anh ta chết như thế nào?” – Leo hỏi – “Ý tớ là, người tên Beckendorf ấy.”

Will Solace lê gót đi tới: “Một vụ nổ. Beckendorf và Percy Jackson cho nổ tung một con tàu đầy quái vật. Beckendorf không ra được.”

Lại cái tên đó – Percy Jackson, người bạn trai thất lạc của Annabeth. Anh chàng ấy hẳn là trung tâm mọi thứ quanh đây, Leo nghĩ.

“Vậy Beckendorf đã rất nổi tiếng?” – Leo hỏi tiếp – “Ý là, trước khi bị nổ tung?”

“Cậu ấy rất tuyệt.” – Will tán thành – “Cả trại đã rất khó vượt qua khi cậu ấy chết. Jake trở thành người dẫn dắt giữa cuộc chiến, giống như tớ. Jake đã làm tốt nhất, nhưng cậu ta không bao giờ muốn thành người lãnh đạo. Cậu ta chỉ thích chế tạo các thứ. Sau cuộc chiến, mọi thứ bắt đầu không ổn. Các cỗ xe của Cabin 9 nổ tung. Người máy của họ nổi điên. Phát minh của họ bắt đầu trục trặc. Nó giống như một lời nguyền, cuối cùng mọi người gọi đó là Lời nguyền của Cabin 9. Rồi sau nữa, Jake gặp tai nạn…”

“Với chuyện gì đó đang được tiến hành để giải quyết vấn đề mà cậu ta từng đề cập?” – Leo đoán.

“Họ đang cố giải quyết.” – Will không hăng hái – “Chúng ta đến rồi.”

Lò rèn trông giống một đầu tàu thủy lực tông mạnh vào đền Parthenon Hi Lạp và chúng trộn lẫn vào nhau. Những cột đá hoa cương trắng xếp hàng dài trước những bước tường phủ đầy bồ hóng. Các ống khói nhả khói trên đầu hồi mái được chạm khắc tinh vi bằng hình tượng một nhóm thần thánh và quái vật. Kiến trúc này được xây dựng bên bờ một con suối, với vài bánh xe nước quay để chuyển động một lô bánh răng đồng. Leo nghe tiếng máy móc ken két bên trong, tiếng lửa phừng phực và tiếng búa nện trên đe.

Họ bước qua cửa chính, một tá các chàng trai cô gái đang làm việc đều ngừng lại. Tiếng ồn lắng xuống trong tiếng lửa gầm gừ của lò rèn và tiếng cách cách của các bánh răng, đòn bẩy.

“Ừm, các cậu,” – Will nói – “Đây là một người anh em mới đến, Leo, ờ, họ của cậu là gì?”

“Valdez.” – Leo nhìn các trại viên chung quanh. Cậu thực sự có họ hàng với tất cả à? Những anh em họ của cậu có ở một vài đại gia đình khác, nhưng cậu luôn luôn chỉ có mẹ, tận đến khi bà qua đời.

Bọn trẻ chạy đến bắt tay và tự giới thiệu mình. Tên chúng từa tựa như là: Shane, Christopher, Nyssa, Harley (phải, nghe như một chiếc mô tô). Leo biết cậu không bao giờ nhớ chính xác mọi người, quá nhiều, quá ồ ạt.

Không một ai trong số họ giống nhau. Đủ các khuôn mặt, màu da, màu tóc, chiều cao. Bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng, Này, nhìn kìa, đó là Nhà Hephaestus! Nhưng tất cả họ có bàn tay rất mạnh, chai sần và đầy dầu máy. Thậm chí nhóc Harley, đứa không thể già hơn 8 tuổi, trông cứ như nó có thể đi sáu vòng với Chuck Norris(1) mà không đổ giọt mồ hôi nào.

Và tất cả đang chia sẻ một vẻ mặt nghiêm nghị buồn bả. Vai họ buông thỏng như thể cuộc sống khó khăn đã đè nặng lên họ. Vài đứa trông như vừa bị đánh bầm dập. Leo đếm được hai cánh tay đang treo lên, một cặp nạng, sáu băng quấn dài và khoảng bảy ngàn miếng băng cá nhân.

“Ồ, được rồi!” – Leo nói – “Tớ nghe ở đây có tiệc!”

Không ai cười. Họ chỉ chăm chăm nhìn cậu.

Will Solace vỗ vai Leo: “Tớ sẽ để các cậu thắt chặt giao hảo. Ai đó chỉ cho Leo đến nơi ăn tối khi tới giờ được không?”

“Để tớ.” – một cô gái trong số họ lên tiếng. Nyssa, Leo còn nhớ. Cô ta mặc quần camo(2), áo hai dây khoe bắp tay, một cái khăn quấn đầu đỏ búi gọn mái tóc sẫm màu. Trừ hình mặt cười trên miếng băng dính ở cằm, cô ta trông giống các nữ anh hùng phim hành động mà giây nào cũng có thể tóm lấy đại liên và bắt đầu tàn sát lũ quỷ ngoài hành tinh.

“Tuyệt,” – Leo nói – “Tớ luôn muốn có một chị em hạ gục được tớ.”

Nyssa không cười: “Thôi nào, anh chàng thích đùa, tớ dẫn cậu đi xem chung quanh.”

-o0o-

Leo không lạ lùng gì với một xưởng máy. Cậu lớn lên giữa các thợ máy và công cụ điện. Mẹ cậu từng đùa rằng ti giả đầu tiên của cậu là một cái cờ-lê vặn đai ốc. Nhưng cậu chưa từng thấy nơi nào như lò rèn của trại hè.

Một anh chàng đang xử lý một cái rìu chiến. Cậu ta kiểm tra lưỡi trên tấm bê-tông. Mỗi lần cậu ta vung rìu, nó cắt tấm bê-tông như cắt phô mai, nhưng cậu ta dường như chưa hài lòng và trở lại với công đoạn mài lưỡi.

“Cậu ấy đang lên kế hoạch chém thứ gì với món đồ đó?” – Leo hỏi Nyssa – “Một chiến hạm à?”

“Cậu không biết đâu. Thậm chí là đồng Celestial…”

“Đó là kim loại hả?”

Cô ta gật đầu: “Khai thác từ đỉnh Olympus. Rất hiếm. Dù sao thì nó thường làm phân rã lũ quái vật khi tiếp xúc, nhưng sức mạnh lớn hơn của nó là cắt những thứ da bền bỉ nổi danh, như Drakons chẳng hạn…”

“Ý cậu là rồng hả?”

“Loài tương tự. Cậu sẽ học được sự khác biệt trong môn chiến đấu với quái vật.”

“Môn chiến đấu với quái vật. À, tớ đã được đai đen môn đó rồi.”

Cô ta không cười. Leo hy vọng cô không phải luôn nghiêm túc như thế. Một đặc tính của gia đình cùng bố này không phải là thiếu hài hước chứ?

Họ đi ngang qua một đôi đang chế tạo món đồ chơi lên dây cót bằng đồng. Ít ra thì nó trông giống như vậy. Đó là một con nhân mã cao sáu inch, nửa người nửa ngựa, vai đeo cây cung bé xíu. Một người vặn đuôi nhân mã. Nó sống dậy, phi trên bàn, hét:

“Chết nè, muỗi! Chết nè, muỗi!”

Và nó bắn mọi thứ trong tầm ngắm.

Rõ ràng chuyện này đang tái diễn, bởi vì mọi người biết, nằm xuống sàn để tránh, ngoại trừ Leo. Sáu mũi tên kích thước như cây kim ghim vào áo sơ mi của cậu trước khi một trại viên chộp cây búa và bổ con nhân mã thành nhiều mảnh.

“Lời nguyền ngu ngốc!” – trại viên đó ném cây búa lên trời – “Tớ chỉ muốn một sát thủ giết bọ! Như thế là đòi hỏi quá nhiều sao?”

“Ôi.” – Leo rên.

Nyssa gỡ kim khỏi áo cậu: “À, cậu ổn chứ. Tránh khỏi đây trước khi họ làm lại con mới.”

Leo xoa ngực mình khi họ đi tiếp: “Những chuyện tương tự xảy ra nhiều lần không?”

“Gần đây,” – Nyssa nói – “Mọi thứ bọn tớ làm ra đều vứt đi.”

“Lời nguyền à?”

Nyssa chau mày: “Tớ không tin lời nguyền. Nhưng có gì đó đã sai. Và nếu bọn tớ không xử lý được vấn đề của con rồng, sẽ còn tệ hơn.”

“Vấn đề của con rồng?” – Leo hy vọng cô ta đang nói về một con rồng tí hon, có lẽ dùng để diệt gián, nhưng cậu cảm thấy mình không may mắn như thế.

Nyssa dẫn cậu tới một bức bản đồ treo tường mà có hai cô gái đang nghiên cứu. Tấm bản đồ vẽ về khu trại, hình ảnh một vùng đất với phía Nam Long Island trên bờ bắc, rừng ở phía tây, các khu nhà ở phía đông và một vòng các ngọn đồi phía nam.

“Nó ở trên đồi.” – cô gái thứ nhất nói.

“Chúng ta đã tìm kiếm trên đồi” – Cô gái thứ hai tranh luận – “Khu rừng là nơi ẩn náu tốt hơn.”

“Nhưng chúng ta đã đặt bẫy…”

“Chờ đã.” – Leo nói – “Các cậu để thất lạc một con rồng hả? Một con rồng với kích thước thật?”

“Nó là con rồng bằng đồng.” – Nyssa trả lời – “Nhưng, đúng, nó là một bộ máy với kích thước thật. Trại Hephaestus tạo ra nó nhiều năm trước. Sau đó nó bị lạc trong rừng cho đến mấy mùa hè trước, khi Beckendorf tìm thấy các mảnh vỡ và tái tạo lại. Nó đã giúp bảo vệ trại, nhưng, ừ, nó hơi thiếu ổn định.”

“Thiếu ổn định.” – Leo lặp lại.

“Nó phát điên và tông sập các khu nhà, đẩy mọi người vào lửa, cố ăn thịt các thần rừng.”

“Đó là quá mất ổn định.”

Nyssa gật đầu: “Beckendorf là người duy nhất điều khiển được nó. Nhưng anh ấy chết, con rồng càng lúc càng tệ hại. Cuối cùng nó phát cáu và chạy mất. Thỉnh thoảng đó xuất hiện, phá hủy vài thứ rồi lại bỏ trốn. Mọi người trông chờ chúng tớ tìm và phá hủy nói…”

“Phá hủy nó?” – Leo kinh hãi – “Các cậu có một con rồng bằng đồng với kích thước thật, và các cậu muốn phá hủy nó sao?”

“Nó phun lửa,” – Nyssa giải thích – “Nó nguy hiểm và không kiểm soát được.”

“Nhưng nó là một con rồng! Quá tuyệt vời. Cậu không thể cố nói chuyện với nó, điều khiển nó à?”

“Bọn tớ đã cố. Jake Mason đã cố. Cậu thấy chuyện tốt nhất xảy ra rồi đấy.”

Leo nhớ đến Jake, cuộn người trong cái khuôn đúc, nằm một mình trên giường: “Vẫn…”

“Không còn lựa chọn khác.” – Nyssa quay lại với các cô gái – “Thử đặt nhiều bẫy hơn trong rừng, ở đây, đây, và đây nữa. Mồi thêm ba mươi ký dầu máy nữa.”

“Con rồng uống hả?” – Leo hỏi.

“Ừ.” – Nyssa thở dài đầy nuối tiếc – “Nó thường thích uống kèm với một ít sốt Tabasco, trước khi đi ngủ. Nếu nó mắc bẫy, chúng ta có thể dùng bình phun acid, làm tan chảy lớp vảy của nó. Rồi dùng máy cắt kim loại và…hết việc.”

Tất cả họ trông đều buồn bả. Leo nhận ra họ cũng không muốn giết con rồng như mình.

“Các cậu,” – cậu nói – “Hẳn phải có một cách khác.”

Nyssa nhìn đầy vẻ nghi ngờ, nhưng một vài trại viên dừng công việc và bước tới nghe cuộc nói chuyện.

“Như thế nào?” – Một người hỏi – “Thứ phun lửa, chúng ta không thể đến gần.”

Lửa, Leo nghĩ. Ôi trời, những gì mà cậu có thể kể cho họ nghe về lửa…Nhưng cậu phải cẩn thận, thậm chí nếu đây là các anh chị em của cậu. Đặc biệt khi cậu phải sống với họ.

“Ờ…” – cậu do dự – “Hephaestus là Thần lửa, đúng không? Vậy không có ai trong các cậu có sức đề kháng với lửa hay đại loại vậy sao?”

Không ai phản ứng như thể đó là một câu hỏi điên rồ, nhưng Nyssa làm vẻ mặt nghiêm trọng, lắc đầu:

“Đó là khả năng của các Cyclop, Leo ạ. Á thần, con của Hephaetus…chúng ta chỉ khéo tay. Chúng ta là thợ xây dựng, thợ thủ công, thợ rèn vũ khí, tương tự thế.”

Vai Leo buông thỏng: “Ồ.”

Một anh chàng đứng phía sau nói: “Ừ, cách đây khá lâu…”

“À, được rồi.” – Nyssa thừa nhận – “Cách đây rất lâu, vài đứa trẻ của Hephaestus được sinh ra với quyền năng của lửa. Nhưng khả năng đó rất, rất hiếm. Và luôn luôn nguy hiểm. Không có á thần nào như vậy được sinh ra trong nhiều thế kỷ. Người cuối cùng…”

Cô nhìn sang một người khác nhờ giúp đỡ.

“Năm 1666,” – cô gái lên tiếng – “Người đó lên Thomas Faynor. Ông ta thổi lên trận hỏa hoạn vĩ đại của London(3), phá hủy phần lớn thành phố.”

“Phải.” – Nyssa nói – “Khi một đứa trẻ của Hephaestus như thế xuất hiện, nó thường có nghĩ là tai họa thảm khốc sắp xảy ra. Và chúng ta không cần thêm thảm họa nào nữa.”

Leo cố không để cảm xúc biểu hiện trên mặt, không phải sở trường của cậu: “Tớ đoán tớ hiểu quan điểm của các cậu. Quá tệ, dù vậy, nếu đề kháng được lửa, cậu có thể tiếp cận con rồng.”

“Sau đó nó sẽ giết cậu với nanh và vuốt.” – Nyssa nói – “Hoặc đơn giản là dẫm bẹp cậu. Không, chúng ta phải phá hủy nó. Tin tớ đi, nếu ai tính được cách khác…”

Cô không nói hết câu, nhưng Leo hiểu thông điệp trong ấy. Đây là bài kiểm tra lớn nhất của trại. Nếu họ có thể làm điều gì mà chỉ Beckendorf làm được, nếu họ có thể tóm con rồng mà không cần giết nó, có lẽ lời nguyền được phá giải. Nhưng họ đã thử mọi sáng kiến. Bất cứ trại viên nào tìm ra cách sẽ trở thành người hùng.

Tiếng tù và vang từ xa xa. Các trại viên bắt đầu hạ dụng cụ xuống. Leo không nhận ra rằng đã muộn như vậy. Cậu nhìn ra cửa sổ và thấy mặt trời đang lặn. Chứng ADHD của cậu đôi khi tái phát. Nếu cậu nhàm chán, năm mươi phút trong lớp kéo dài như sáu tiếng đồng hồ. Nếu cậu hứng thú với điều gì đó, như đi tham quan trại á thần, nhiều giờ cứ trôi đi vù vù, hết ngày.

“Ăn tối.” – Nyssa bảo – “Đi nào, Leo.”

“Lên sảnh ăn phải không?” – cậu hỏi.

Cô ta gật đầu.

“Các cậu cứ đi trước,” – Leo nói – “Có thể cho tớ một giây không?”

Nyssa lưỡng lự. Rồi cô ấy nhẹ nhàng: “Được chứ. Có nhiều thứ cần tiếp nhận. Tớ nhớ đến ngày đầu của mình. Cứ lên khi nào cậu sẵn sàng. Đừng đụng vào bất cứ gì. Hầu như mọi dự án ở đây đều có thể giết cậu nếu cậu không cẩn thận.”

“Không táy máy.” – Leo hứa.

Bạn cùng trại dần dần rời lò rèn. Chẳng mấy chốc, Leo ở lại một mình với âm thanh của ống bể, bánh xe nước và tiếng lách cách rề rề của những cổ máy nhỏ.

Cậu ngắm nghía bản đồ trại, những khu vực mà các anh chị em mới tìm thấy của cậu sẽ đặt bẫy bắt rồng. Có sai lầm. Hoàn toàn sai.

Rất hiếm, cậu nghĩ, và luôn luôn nguy hiểm.

Cậu chìa bàn tay mình ra và săm soi các ngón tay. Chúng dài và gầy, không chai như các trại viên khác của trại Hephaestus. Leo chẳng bao giờ là một đứa trẻ to nhất hay khỏe nhất. Cậu sinh tồn trong môi trường dân cư khắc nghiệt, trường học khắc nghiệt, những trại mô côi khắc nghiệt bằng cách sử dụng trí thông minh của mình. Cậu là chú hề của lớp, một chú hề cung đình, vì cậu đã sớm học được rằng nếu bạn cười giòn giả và giả vờ sợ hãi, bạn ít khi bị đánh. Thậm chí những đứa côn đồ tệ hại nhất cũng sẽ bỏ qua cho bạn, giữ bạn quanh chúng để làm trò cười. Ngoài ra, hài hước là cách tốt nhất để che giấu nỗi đau. Và nếu không được, luôn có phương án B. Bỏ chạy. Hết lần này tới lần khác.

Còn một phương án C, nhưng cậu từng hứa với mình, không bao giờ dùng đến nó.

Cậu cảm giác bị thôi thúc muốn thử nó ngay bây giờ, một điều gì đó mà cậu đã không làm kể từ sau tai nạn, sau cái chết của mẹ.

Cậu mở rộng các ngón tay, cảm giác chúng căng tràn, cứ như chúng đang thức tỉnh, bứt rứt và ngứa ngáy. Ngọn lửa bập bùng vùng dậy, ngọn lửa đỏ khiêu vũ trên bàn tay cậu.

(1) Một sư phụ võ thuật kiêm diễn viên hành động cơ bắp nổi tiếng của Mỹ.

(2) Quần với màu rằn ri như đồng phục lính Mỹ.

(3) Great Fire of London, trận hỏa hoạn lớn nhất ở London, bắt đầu từ ngày 2 tháng 9, kéo dài đến ngày 5 tháng 9 năm 1666.

The Lost Hero – Chapter VII

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter VII

Jason

Ngay khi Jason nhìn thấy căn nhà, cậu biết cậu đã xong đời.

“Chúng ta đến rồi!” – Drew vui vẻ – “Nhà lớn, trại chỉ huy.”

Trông dáng vẻ nó không có gì đáng sợ, chỉ là một trang viên bốn tầng sơn màu xanh, viền trang trí màu trắng. Bao quanh hiên nhà là ghế tựa dài, bàn chơi bài và xe lăn trống. Chuông gió có hình dạng như các nữ thần đang biến hóa thành cây cối khi chúng xoay. Jason có thể tưởng tượng về những người già đến đây nghỉ hè, ngồi bên hiên nhà, nhấm nháp nước mận ép trong khi ngắm mặt trời lặn. Dù vậy, các cửa sổ dường như đang trừng trừng nhìn cậu với những cặp mắt đầy vẻ giận dữ. Cửa ra vào mở toang trông như thể sẵn sàng nuốt chửng cậu. Trên bậc thềm cao nhất, một cột la bàn gió hình con đại bàng bằng đồng có mũi chỉ thẳng vào cậu, cứ như bảo cậu phải quay lại.

Từng tế bào trong cơ thể đều mách với Jason rằng cậu đang đứng trên đất của kẻ thù.

“Tôi không nên ở đây.” – Cậu nói.

Drew vòng tay qua người cậu: “Ồ, thôi nào. Cậu ở đây là rất hoàn hảo, cưng ạ. Tin tớ đi, tớ từng gặp nhiều anh hùng rồi.”

Drew có mùi như mùi Giáng sinh, một sự kết hợp kỳ lạ giữa gỗ thông và hạt nhục đậu khấu. Jason tự hỏi có phải cô ta luôn có mùi như thế, hoặc là một hương nước hoa đặc biệt cho kỳ nghỉ. Viền mắt màu hồng của cô ta thật thu hút. Mỗi lần cô ta chớp mắt, cậu cảm giác bị ép phải nhìn vào đó. Có lẽ, cốt yếu là để khoe đôi mắt màu nâu ấm áp. Cô ta thực sự xinh đẹp, không còn gì nghi ngờ. Nhưng cô ta làm Jason thấy không thoải mái.

Cậu trượt cánh tay mình ra, tử tế hết mức có thể: “Nào, tôi rất cảm kích…”

“Là cô gái đó à?” – Drew bĩu môi – “Ôi, làm ơn, đừng bảo là cậu hẹn hò với Nữ hoàng thùng rác chứ.”

“Ý cậu là Piper hả? Ừ…”

Jason không biết trả lời thế nào. Cậu không nhớ mình từng gặp Piper trước ngày hôm nay, nhưng cậu có cảm giác tội lỗi lạ lùng. Cậu biết mình không nên ở đây. Cậu không nên kết bạn với những người này, và hiển nhiên là không nên hẹn hò với ai trong số họ. Dù thế … Piper đã nắm chặt tay cậu khi cậu thức dậy trên xe bus. Cô ấy tin chắc mình là bạn gái của cậu. Cô đã rất can đảm với chuyện xảy ra ở hành lang trên không, chiến đấu với lũ Hồn bão. Sau đó thì Jason tóm được cô giữa không trung. Họ ôm lấy nhau, mặt đối mặt. Cậu không thể giả vờ như mình chưa từng bị cuốn hút và muốn hôn cô ấy. Nhưng điều đó không đúng. Cậu thậm chí không biết đâu là câu chuyện của riêng mình. Cậu không được đùa giỡn trên cảm xúc của cô ấy như thế.

Drew đảo mắt: “Để tớ giúp cậu quyết định, cưng ạ. Cậu sẽ khá khẩm hơn. Một anh chàng với vẻ ngoài ưa nhìn cùng những tài năng hiển nhiên.”

Cô ta không nhìn cậu, thay vào đó, cô nhìn chăm chăm vào khoảng trống trên đầu cậu.

“Cậu đang đợi một dấu hiệu à,” – Jason đón – “Giống như thứ đã tung tăng trên đầu Leo.”

“Cái gì? Không! À … phải. Ý tớ là, từ những gì tớ được nghe, cậu rất mạnh, đúng chứ? Cậu sẽ trở nên quan trọng với trại, nên tớ đoán bố mẹ cậu sẽ xác nhận cậu ngay thôi. Và tớ thích được nhìn thấy điều đó. Tớ muốn bên cạnh cậu trên mỗi bước đi! Vậy, bố hay mẹ cậu là thần? Làm ơn hãy bảo đó không phải mẹ cậu. Tớ sẽ rất ghét nếu cậu là một đứa trẻ nhà Aphrodite.”

“Tại sao?”

“Vì thế cậu sẽ là anh em ngang hông của tớ, ngốc thật. Cậu không được hẹn hò với ai đó cùng trại với cậu. Kinh!”

“Nhưng chẳng phải tất cả thần linh đều có họ hàng sao?” – Jason hỏi – “Vậy thì chẳng phải mọi người ở đây đều là họ hàng của cậu sao?”

“Cậu thật chẳng dễ thương! Cưng ạ, thần thánh khác trong gia đình không tính, ngoại trừ bố mẹ. Nên sẽ là bất cứ ai từ những trại khác, trò chơi rất công bằng. Thế thì ai là bề trên thần thánh của cậu, mẹ hay bố?”

Theo lẽ thường, Jason không có đáp án. Cậu ngước nhìn lên, nhưng không có dấu hiệu phát sáng nào nhảy nhót trên đầu. Ở đỉnh Nhà lớn, la bàn gió vẫn chỉ thẳng vào cậu, mắt con đại bàng bằng đồng cứ như đang bảo, quay lại, nhóc, khi mày còn có thể.

Rồi cậu nghe tiếng bước chân trên hiên nhà. Không, không phải bước chân, là tiếng guốc.

“Chiron!” – Drew gọi – “Đây là Jason. Cậu ấy hoàn toàn tuyệt vời!”

Jason xoay người quá nhanh, đến nỗi suýt vấp ngã. Đứng ở góc hiên nhà là một người đàn ông trên lưng ngựa. Trừ việc ông ta không cưỡi lên lưng ngựa, ông là một phần của con ngựa. Từ eo trở lên, ông là người, mái tóc xoăn màu nâu và bộ râu được cắt tỉa gọn gàng. Ông mặc một áo thun in chữ “World’s Best Centaur”, lưng đeo cung và túi đựng tên. Đầu ông vươn cao đến nỗi ông phải rụt xuống để tránh đèn hiên, vì từ eo lưng trở xuống, ông ta là một con ngựa giống.

Chiron cười với Jason. Sau đó màu sắc trên mặt ông tái đi.

“Cháu …” – hai mắt nhân mã lóe lên như con thú bị dồn vào chân tường – “Cháu lẽ ra đã chết.”

Chiron yêu cầu Jason – Được, mời vào, nhưng nghe như một mệnh lệnh – vào trong nhà. Ông bảo Drew trở lại cabin của mình. Drew trông không được vui vẻ.

Nhân mã bước lộc cộc tới chỗ xe ăn trống đặt ở hiên nhà. Ông tháo cung và tên đặt vào ghế, nó mở ra như một chiếc hộp của ảo thuật gia. Chiron cẩn thận bước vào bằng hai chân sau, và ông bắt đầu co mình vào không gian lẽ ra quá nhỏ so với ông. Jason nghe được tiếng bíp bíp ầm ĩ khi nửa thân dưới của nhân mã biến mất, chiếc ghế gập lại, xuất hiện một đôi chân người giả được phủ chăn, và Chiron trông giống như một con người bình thường ngồi xe lăn.

“Theo ta,” – ông đề nghị – “Bên trong có nước chanh.”

Phòng khách trông cứ như bị cuốn vào một cơn mưa nhiệt đới. Nho thân leo bám quanh tường và trần, Jason cảm giác hơi lạ lẫm. Cậu không nghĩ cây cối có thể phát triển ở trong nhà như thế, đặc biệt đang là mùa đông, nhưng chúng rậm rạp xanh tốt và tràn ngập những chùm nho đỏ mọng.

Một chiếc ghế dài bọc da kê đối diện với lò sưởi bằng đá đang nổ lách tách. Chèn ở góc là một máy điện tử Pac-Man kiểu cổ phát ra tiếng kêu bíp bíp cùng với đèn nhấp nháy. Treo trên tường là mặt nạ đủ loại, kiểu mặt cười trong các nhà hát Hi Lạp, loại trang trí lông lá, loại mặt nạ lễ hội Carnival ở Venice với những cái mũi mỏ chim bự, mặt nạ chạm khắc gỗ của châu Phi. Những thân nho mọc xuyên qua miệng chúng trông như chúng có những cái lưỡi rậm rạp. Vài chùm nho đỏ leo qua hốc mắt của chúng.

Nhưng thứ kì quặc nhất là đầu của một con báo nhồi bông đặt ngay trên lò sưởi. Nó trông rất sinh động, cặp mắt dõi theo Jason. Sau đó nó gầm gừ. Jason gần như sợ toát cả hồn vía.

“Thôi nào, Seymour,” – Chiron khiển trách – “Jason là bạn. Cư xử đúng mực đi.”

“Thứ này vẫn sống!” – Jason nói.

Chiron lục tìm trong túi xe lăn và lôi ra một gói Snausages(1). Ông ném nó về phía con báo, nó đớp ngay rồi liếm môi.

“Cháu đừng để ý kiểu trang trí.” – Chiron nói – “Tất cả những thứ này là quà tạm biệt từ vị giám đốc cũ của chúng ta, trước khi ông ấy bị gọi về đỉnh Olympus. Ông ấy nghĩ chúng sẽ nhắc ta nhớ đến ông. Ngài D có khiếu hài hước lập dị.”

“Ngài D,” – Jason hỏi – “Dionysus à?”

“Ừm hm.” – Chiron rót nước chanh ra, dù tay ông hơi run – “Về phần Seymour, ờ, Ngài D giải phóng nó là một sạp bán đồ cũ ở Long Island. Con báo này là vật nuôi linh thiêng với Ngài D, cháu thấy đó, Ngài D kinh ngạc khi ai đó dám nhồi nhét bông vào con vật cao quý như thế. Ông ta quyết định tài trợ cho nó sự sống, theo nghĩa là sống bằng phần đầu thì tốt hơn là không sống. Ta phải thừa nhận rằng điều đó tử tế hơn so với người chủ trước của Seymour.”

Seymour nhe nanh đánh hơi, như thể nó đang săn thêm Snausages.

“Nếu nó chỉ có cái đầu,” – Jason thắc mắc – “Vậy thức ăn sẽ đi đâu khi nó ăn?”

“Tốt hơn hết là đừng hỏi,” – Chiron nói – “Mời ngồi.”

Jason hớp một ít nước chanh, dù dạ dày cậu cồn cào. Chiron đang ngồi trên chiếc xe lăn của mình và cố mỉm cười. Nhưng Jason biết nó quá gượng gạo. Mắt của người đàn ông lớn tuổi này sâu và tối.

“Nào, Jason,” – ông nói – “Cháu có phiền không khi kể – à – nơi mà cháu đến từ đó?”

“Cháu ước mình biết.” – Jason kể với ông cả câu chuyện, từ lúc thức giấc trên xe bus cho tới cú hạ cánh vội vã ở Trại Con Lai. Cậu không thấy cần giấu điều gì. Và Chiron luôn biết lắng nghe. Ông không cắt ngang câu chuyện, mà còn gật đầu để khích lệ.

Khi Jason kể xong. Ông hớp ngụm nước chanh.

“Ta hiểu rồi.” – Chiron nói – “Cháu hẳn phải có nhiều câu hỏi cho ta.”

“Chỉ một thôi.” – Jason thừa nhận – “Ý bác là gì khi bác bảo cháu lẽ ra đã chết?”

Chiron săm soi cậu với vẻ quan tâm, cứ như ông mong Jason sẽ bùng cháy trong ngọn lửa vậy: “Cậu bé của ta, cháu có biết ý nghĩa những dấu hiệu trên cánh tay cháu không? Màu áo của cháu nữa? Cháu không nhớ bất cứ gì à?”

Jason nhìn hình săm trên tay: SPQR, đại bàng, mười hai vạch thẳng.

“Không,” – cậu trả lời – “Chẳng nhớ gì.”

“Cháu có biết cháu thuộc về nơi nào không?” – Chiron hỏi – “Cháu có hiểu về nơi này, và ta là ai không?”

“Bác là Chiron, một nhân mã.” – Jason nói – “Cháu đoán bác giống những câu chuyện xưa cũ, người từng huấn luyện các vị anh hùng Hy Lạp như Heracles. Đây là trại dành cho các á thần, con cái của những vị thần Olympus.”

“Vậy là cháu tin thần thánh vẫn tồn tại?”

“Vâng.” – Jason trả lời tức khắc – “Ý cháu là, cháu không nghĩ chúng ta nên tôn thờ họ hoặc hiến tế gà cho họ hoặc làm bất cứ gì, nhưng họ vẫn ở quanh chúng ta bởi vì họ là một bộ phận đầy quyền lực của nền văn minh. Họ chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác khi trung tâm quyền lực di chuyển, giống như họ đã chuyển từ Hi Lạp cổ đại đến Rome.”

“Ta chẳng còn gì hay hơn để kể.” – một điều gì đó trong giọng nói của Chiron đã thay đổi – “Vậy cháu đã biết thần linh là có thật. Cháu đã được xác nhận rồi, đúng không?”

“Có lẽ,” – Jason trả lời – “Cháu không chắc.”

Con báo Seymour gầm gừ.

Chiron chờ đợi. Và Jason nhận thức chuyện gì đã xảy ra. Nhân mã đổi sang dùng một ngôn ngữ khác mà Jason có thể hiểu, tự động trả lời bởi cùng một thứ ngôn ngữ.

“Quis erat – “ – Jason choáng váng, sau đó cậu nỗ lực để nói tiếng Anh – “Chuyện gì vậy?”

“Cháu biết tiếng Latin.” – Chiron nhận định – “Hầu hết mọi á thần đều nhận biết vài cụm từ, tất nhiên. Nó có trong máu của họ, nhưng không nhiều như thời Hy Lạp cổ. Không ai có thể nói tiếng Latin lưu loát mà không luyện tập.”

Jason cố ép tâm trí mình vào một ý nghĩa về những thứ thế này, nhưng kí ức của cậu có quá nhiều mảnh ghép bị thiếu. Cậu vẫn còn cảm giác mình không nên ở đây. Đó là sai lầm … và nguy hiểm. Nhưng ít ra Chiron không phải mối đe dọa. Thực ra nhân mã này có vẻ qua tâm cậu, lo lắng cho an toàn của cậu.

Ánh lửa phản chiếu trong mắt Chiron, khiến chúng trông cau có: “Ta đã dạy dỗ một người có cùng tên với cháu, cháu biết không, Jason đầu tiên. Cậu ấy đã có một hành trình vất vả. Ta chứng kiến nhiều anh hùng đến và đi. Thỉnh thoảng, họ có kết cục vui vẻ. Phần đông thì không. Điều đó làm tim ta tan vỡ, cảm giác như mất đi một đứa con mỗi lần một học trò của mình chết. Nhưng cháu, cháu không giống bất kỳ học trò nào ta từng dạy. Sự hiện diện của cháu ở đây có thể là một thảm họa.”

“Cảm ơn.” – Jason nói – “Bác hẳn là một giáo viên biết truyền cảm hứng.”

“Ta rất tiếc, cậu bé. Nhưng đó là sự thật. Ta đã hy vọng sau thành công của Percy…”

“Percy Jackson, ý bác là cậu ta à. Bạn trai của Annabeth, người đã mất tích.”

Chiron gật đầu: “Ta hy vọng sau khi cậu ấy chiến thắng trong cuộc chiến Titan và cứu đỉnh Olympus, chúng ta sẽ có hòa bình. Ta thích một chiến thắng cuối cùng, một kết thúc có hậu, và có lẽ được nghỉ hưu hoàn toàn. Ta sẽ ra phải biết nhiều hơn. Khi đến gần chương cuối, sẽ như trước đây, điều tệ hại hơn đang đến.”

Trong góc phòng, máy trò chơi tự động tạo ra những tiếng pew – pew, giống như Pac-Man vừa chết.

“Được … rồi.” – Jason nói – “Vậy là, chương cuối, điều đã xảy ra trước đây, điều tệ hại chưa đến. Nghe thật ngộ nghĩnh, nhưng có thể quay lại đoạn cháu lẽ ra đã chết không? Cháu không thích đoạn này.”

“Ta e rằng ta không thể giải thích, cậu bé. Ta đã thề trên sông Styx(2) cùng những điều đáng sợ nhất là ta không bao giờ … “ – Chiron chau mày – “Nhưng cháu đã ở đây, đã phá vỡ lời tuyên thệ. Điều đó không thể. Ta không hiểu. Ai đã làm chuyện này? Ai …?”

Con báo Seymour tru lên. Miệng nó đông cứng, mở hờ. Máy điện tử ngừng kêu bíp bíp. Lửa ngừng nổ lách tách, ngọn lửa như bị đông cứng thành thủy tinh đỏ rực. Những chiếc mặt nạ lặng lẽ nhìn Jason với những hốc mắt nho lố bịch và những chiếc lưỡi rậm rì.

“Chiron?” – Jason hỏi – “Chuyện gì đang …”

Nhân mã già nua cũng cứng đờ. Jason nhảy khỏi băng ghế, nhưng Chiron vẫn nhìn chằm chằm vào chỗ cũ, miệng há hốc. Ông không chớp mắt. Ngực cũng không phập phồng.

Jason, một giọng nói.

Trong khoảnh khắc tệ hại, cậu nghĩ con báo đã nói chuyện. Rồi một làn sương tối tăm tuôn ra từ miệng Seymour, và một ý nghĩ tồi tệ hơn chiếm lấy tâm trí Jason: Hồn bão.

Cậu lôi ngay đồng tiền vàng ra khỏi túi, búng lên, nó biến thành thanh gươm.

Làn sương chuyển thành hình dạng một người phụ nữ với áo choàng đen. Bà ta đội mũ trùm kín mặt, nhưng mắt bà ta rực sáng từ bóng tối. Áo choàng da dê choàng qua vai bà. Jasson không chắc tại sao mình biết đó là da dê, nhưng cậu nhận ra và biết nó rất quan trọng.

Liệu ngươi có tấn công người đỡ đầu của ngươi không? Người phụ nữ trách cứ. Giọng bà ta vang vọng trong đầu Jason. Hạ gươm xuống.

“Bà là ai?” – cậu hỏi – “Làm thế nào bà …?”

Thời gian của chúng ta có hạn, Jason. Kẻ giam giữ ta đang mạnh lên từng giờ. Ta phải mất cả tháng tập hợp năng lượng đủ để tạo một phép thuật nhỏ nhất. Ta đã mang ngươi đến đây, nhưng giờ ta có rất ít thời gian để rời đi, thậm chí là rất ít quyền năng. Đây có thể là lần cuối ta nói chuyện được với ngươi.

“Bà bị giam?” – Jason quyết định có lẽ mình nên hạ gươm xuống – “Nào, tôi không biết bà, và bà không phải người đỡ đầu của tôi.”

Ngươi biết ta, bà nhấn mạnh. Ta đã biết ngươi từ khi ngươi chào đời.

“Tôi không nhớ. Không nhớ bất cứ điều gì.”

Không, ngươi không nhớ, bà ta xác nhận. Điều đó cần thiết. Cách đây rất lâu, cha ngươi trao sinh mạng của ngươi cho ta như một món quà dỗ dành cơn phẫn nộ. Ông ấy đặt tên ngươi là Jason, một cái tên người mà ta thích. Ngươi thuộc về ta.

“Ồ,” – Jason nói – “Tôi không thuộc về bất cứ ai.”

Bây giờ là lúc ngươi trả nợ, bà ta nói. Tìm nơi ta bị giam, giải phóng ta, hoặc là vua của chúng sẽ vùng dậy từ mặt đất, và mọi thứ sẽ bị phá hủy. Ngươi sẽ không bao giờ lấy lại được ký ức.

“Một lời đe dọa à? Bà đã lấy kí ức của tôi?”

Ngươi có thời hạn đến ngày điểm chí, Jason. Bốn ngày ngắn ngủi. Đừng làm ta thất vọng.

Người phụ nữ trong bóng tối ấy tan biến, làn sương cuộn trở lại vào miệng con báo.

Thời gian ngừng đóng băng. Tiếng tru của Seymour trở thành tiếng ho cứ như nó hít phải lông. Lò lửa tiếp tục nổ rôm rốp, cỗ máy trò chơi lại kêu bíp bíp, và Chiron nói hết câu: “… dám mang cháu đến đây?”

“Rõ ràng là một quý bà trong hình dạng sương mù.” – Jason đề xuất.

Chiron ngẩng lên ngạc nhiên: “Không phải cháu vừa ngôi … tại sao cháu rút gươm?”

“Cháu ghét phải nói điều này. “ – Jason nói – “Nhưng cháu nghĩ con báo của bác vừa ăn một nữ thần.”

Cậu kể lại chuyến thăm viếng vào lúc thời gian bị đóng băng, một hình dạng bằng khói đen đã biến mất trong miệng Seymour.

“Ồ, cháu yêu,” – Chiron thì thầm – “Đó là sự giải thích rõ ràng.”

“Vậy sao bác không giải thích rõ ràng hơn cho cháu?” – Jason nói – “Cảm phiền.”

Trước khi Chiron kịp nói gì, tiếng bước chân dội lại từ hiên nhà bên ngoài. Cửa trước bị mở tung, Annabeth và một cô gái tóc đỏ xông vào, xốc theo Piper chính giữa. Đầu Piper ngoẻo ra giống như cô ấy đang bất tỉnh.

“Chuyện gì xảy ra?” – Jason vội vàng chạy qua – “Cậu ấy làm sao thế?”

“Ở trại Hera,” – Annabeth thở dốc, gần như họ đã chạy suốt chặng đường – “Ảo ảnh. Rất tệ.”

Cô gái tóc đỏ ngẩng lên. Jason thấy cô ta đang khóc.

“Tớ đã nghĩ… “ – cô gái tóc đỏ nuốt nước bọt – “Tớ đã nghĩ tớ phải giết cậu ấy.”

(1) Một nhãn hiệu thức ăn cho thú nuôi.

(2) Con sông ranh giới giữa măt đất và thế giới trong lòng dất, giữa sự sống và cái chết.

The Lost Hero – Chapter VIII

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter VIII

Jason

Jason và cô gái tóc đỏ, người được giới thiệu với cái tên Rachel, đặt Piper trên băng ghế, trong khi Annabeth chạy đi lấy thùng thuốc y tế. Piper vẫn tở, nhưng cô ấy bất tỉnh. Dường như cô ấy bị hôn mê.

“Chúng ta phải chữa cho cậu ấy,” – Jason nhấn mạnh – “Ắt có cách, phải không?”

Trông cô ấy xanh xao, hơi thở yếu, Jason cảm giác bị thôi thúc muốn che chở. Có lẽ cậu thực sự không quen cô ấy. Có lẽ cô không phải bạn gái cậu. Nhưng họ đã vượt qua Hẻm Núi Lớn cùng nhau. Họ bên nhau suốt chặng đường. Cậu chỉ rời khỏi cô ấy chốc lát, và chuyện thế này đây.

Chiron đặt tay mình lên trán cô ấy và nhăn mặt: “Tinh thần cô bé trong trạng thái yếu ớt. Rachel, chuyện gì đã xảy ra?”

“Cháu ước gì mình biết.” – cô ta nói – “Ngay khi cháu đến trại, cháu có một linh cảm về Trại Hera. Cháu bước vào trong. Annabeth và Piper cũng tới khi cháu đã có mặt. Chúng cháu nói chuyện, rồi sau đó … Cháu choáng váng. Annabeth bảo cháu đã nói bằng một giọng khác.”

“Một lời tiên tri?” – Chiron hỏi.

“Không. Linh hồn của Delphi đến từ bên trong. Cháu biết cảm giác đó. Lần này cứ như ở xa xăm hơn, một sức mạnh cố nói thông qua cháu.”

Annabeth chạy vào với một cái túi da. Cô quỳ cạnh Piper: “Chiron, chuyện gì đã xảy ra sau tất cả … Cháu chưa từng cảm giác như thế này bao giờ. Cháu từng nghe những lời tiên tri của Rachel. Lần này rất khác. Cậu ấy phát thoại như một quý bà lớn tuổi hơn nhiều. Cậu ấy chộp vai Piper và bảo rằng …”

“Giải phóng bà ấy khỏi nhà ngục?” – Jason phán đoán.

Annabeth nhìn sững cậu: “Làm sau cậu biết?”

Chiron đặt ba ngón tay lên tim bên ngực trái, như một sự bảo hộ chống lại ma quỷ:

“Jason, kể với họ. Annabeth, phiền cháu đưa túi thuốc cho bác.”

Chiron nhỏ từng giọt từ lọ thuốc nước vào miệng Piper trong khi Jason giải thích những chuyện đã xảy ra kho căn phòng bị đóng băng … một quý bà hình dạng đám khói đen tuyên bố là người bảo hộ của Jason.

Khi cậu kể xong, không ai nói gì, càng làm cậu lo lắng hơn.

“Vậy chuyện như thế này có thường xảy ra không?” – cậu hỏi – “Một cú điện thoại siêu nhiên từ người bị cầm tù yêu cầu các bạn giải cứu họ khỏi ngục tối?”

“Người bảo hộ của cậu,” – Annabeth lặp lại – “Không phải bố mẹ thần linh của cậu?”

“Không, bà ấy nói là người bảo hộ. Bà ấy cũng bảo bố tôi ký thác cuộc đời tôi cho bà.”

Annabeth chau mày: “Tôi chưa từng nghe những chuyện đại loại vậy. Cậu kể đám Hồn bão ở hành lang trên không tuyên bố rằng chúng làm việc theo lệnh một bà chủ, đúng không? Có thể đó là người phụ nữ bạn thấy không, bà ta đang làm quẫn trí cậu?”

“Tôi không nghĩ vậy.” – Jason nói – “Nếu bà ấy là kẻ thù, tại sao phải nhờ tôi giúp? Bà ấy bị giam cầm, lo lắng về một kẻ thù nào đó đang mạnh lên. Điều gì đó về một lão vua sẽ trỗi dậy từ mặt đất vào ngày điểm chí …”

Annabeth quay sang Chiron: “Không phải Kronos, làm ơn nói với cháu không phải hắn.”

Nhân mã trông có vẽ bối rối. Ông giữ cổ tay Piper, kiểm tra mạch đập.

Cuối cùng ông lên tiếng: “Không phải Kronos. Mối đe dọa đó chấm dứt rồi. Nhưng …”

“Nhưng sao?” – Annabeth hỏi ngược.

Chiron đóng túi thuốc lại: “Piper cần nghỉ ngơi. Chúng ta hãy thảo luận sau.”

“Hoặc là bây giờ.” – Jason thốt – “Thưa ngài Chiron, bác từng bảo với cháu mối hiểm họa lớn nhất đang đến. Chương cuối cùng. Bạn không có ý nói thứ gì đó còn tệ hơn đội quân của các Titan chứ?”

“Ồ,” – Rachel thì thầm – “Tuyệt, người phụ nữ đó là Hera. Tất nhiên rồi. Trại của bà ấy, giọng bà ấy. Bà hiện thân và xuất hiện trước mặt Jason cùng thời điểm.”

“Hera?” – Tiếng gầm của Annabeth còn dữ dội hơn Seymour – “Bà ấy thông qua cậu à? Đã làm điều này với Piper?”

“Tôi nghĩ Rachel nói phải.” – Jason đồng ý – “Người phụ nữ đó trông giống một nữ thần. Và thứ bà ấy khoác, áo khoác da dê. Đó là biểu tượng của Juno, phải không?”

“Gì?” – Annabeth cau có – “Tôi chưa nghe bao giờ.”

Chiron gật đầu miễn cưỡng: “Juno, một tên La Mã khác của Hera, trong hầu hết các nhà nước hiếu chiến của bà ấy. Áo khoác da dê là một biểu tượng của lính La Mã.”

“Vậy Hera đang bị giam sao?” – Rachel hỏi – “Ai có thể giam một nữ hoàng của các vị thần?”

Annabeth khoanh tay: “Ồ, dù là ai, có lẽ chúng ta nên cảm ơn họ. Nếu họ có thể làm Hera câm …”

“Annabeth,” – Chiron cảnh báo – “Bà ấy vẫn là một vị thần của Olympus. Trong rất nhiều trường hợp, bà ấy là nhân tố cố kết gia đình thần thánh với nhau. Nếu thực sự bà ấy bị giam cầm và đang trong nguy cơ bị tiêu diệt, điều đó có thể làm rung chuyển nền tảng thế giới. Nó có thể tháo rời tính ổn định của Olympus, một chuyện mà không bao giờ là hay ho kể cả lúc thuận lợi nhất. Nếu Hera yêu cầu sự giúp đỡ của Jason …”

“Được.” – Annabeth cằn nhằn – “Tốt thôi, cúng ta biết các Titan có thể giam được thần, đúng không? Atlas đã giam Artemis cách đây vài năm. Và trong câu chuyện cũ hơn, các thần tự bẫy lẫn nhau suốt. Nhưng thứ gì tệ hơn cả một Titan …?”

Jason nhìn sang cái đầu con báo. Seymour đang liếm môi cứ như nó thích nếm một nữ thần hơn là bánh Snausage. Jason nói: “Hera bảo bà đang cố phá vỡ sự gắn kết với nhà tù của bà ấy trong suốt một tháng trời.”

“Đó là thời gian Olympus đóng đã đóng cửa.” – Annabeth nói – “Vậy các thần pải biết điều gì tệ hại đang diễn ra.”

“Nhưng tại sao bà ấy dùng sức mạnh của mình gửi tôi đến đây?” – Jason hỏi – “Bà ấy xóa sạch ký ức của tôi, ném tôi vào chuyến thực địa của Trường học Hoang dã, và gửi cho cậu một giấc mơ để đến đón tôi. Tại sao tôi quan trọng đến thế? Tại sao không gửi tin nhắn khẩn cấp đến các thần khác, để họ biết chỗ mà giải cứu bà ấy?”

“Thần thánh cần các anh hùng đại diện cho ý chí của họ trên thế gian,” – Rachel nói – “Đúng không nhỉ? Số phận của họ luôn bị thắt chặt với các á thần.”

“Đúng vậy.” – Annabeth khẳng định – “Nhưng tại sao Jason được chọn. Tại sao là cậu ấy? Sao phải lấy ký ức của cậu ấy?”

“Còn Piper liên quan như thế nào?” – Rachel tiếp – “Hera gửi đến cho cậu ấy cùng một thông điệp, Giải phóng ta. Rồi, Annabeth, phải có điều gì đó cần làm khi Percy biến mất.”

Annabeth chuyển mắt về phía Chiron: “Sao bác cứ im lặng, bác Chiron? Chúng ta đang đối mặt với điều gì?”

Gương mặt già dặn của nhân mã trông như thể đã tăng thêm mười tuổi chỉ trong vài phút. Hõm mắt ông ấy hằn sâu hơn, ông nói: “Các cháu của ta, lúc này, ta không thể giúp được gì. Ta rất tiếc.”

Annabeth chớp mắt: “Bác chưa từng … Bác chưa từng giữ kín thông tin với cháu. Thậm chí đó là lời tiên tri vĩ đại cuối cùng …”

“Ta sẽ ở lại văn phòng của mình.” – giọng ông nặng nề – “Ta cần thêm thời gian để suy nghĩ trước bữa tối. Rachel, cháu trông chừng cô bé này nhé? Gọi Argus mang cô bé đến trạm xá nếu cháu muốn. Và Annabeth này, cháu nên nói chuyện với Jason. Kể cho cậu ấy nghe về … về các thần La Mã và Hy Lạp.”

“Nhưng…”

Nhân mã quay xe lắn và lăn xuống hành lang. Mắt Annabeth tối sầm. Cô ấy điều gì đó bằng tiếng Hy Lạp, Jason cảm giác nó không phải lời ca tụng nhân mã.

“Tôi rất tiếc” – Jason nói – “Tôi nghĩ tôi đến đây … Tôi không biết. Tôi đã làm rối tung mọi thứ khi đến trại, bằng cách nào đó. Chiron bảo bác ấy đã thề không thể kể chuyện ấy ra.”

“Lời thề nào?” – Annabeth hỏi lại – “Tôi chưa bao giờ thấy bác ấy như thế. Và tại sao bác ấy lại bảo tôi kể với cậu về các thần linh …”

Giọng cô nhỏ dần. Rõ ràng cô đã chú ý đến thanh gươm của Jason đang đặt trên bàn café. Cô cẩn thận chạm vào lưỡi gươm, cứ như nó rất nóng.

“Phải vàng không?” – cô hỏi – “Cậu có nhớ từ đâu mà có nó không?”

“Không hề.” – Jason trả lời – “Như tôi nói. Tôi không nhớ bất cứ điều gì.”

Annabeth gật gù như vừa nghĩ ra một kế hoạch khá tuyệt vọng: “Nếu Chiron không giúp, chúng ta cần tự thân vận động. Vậy nghĩa là … Cabin 15. Rachel, cậu trông nom Piper được chứ?”

“Chắc chắn.” – Rachel hứa – “Cả hai, chúc may mắn.”

“Đợi đã.” – Jason hỏi – “Có gì ở Cabin 15?”

Annabeth đứng dậy: “Có lẽ là một cách để cậu lấy lại ký ức.”

—-

Họ tiến về một nhánh mới hơn của các khu nhà, nằm trong thảm xanh phía tây nam. Một số trông lạ lùng, những bức tường phát sáng hoặc những ngọn đuốc cháy rực. Nhưng Cabin 15 không thật sự ấn tượng. Trông nó giống một căn nhà trên thảo nguyên đã lỗi thời với tường đầy bùn và mái lợp cói. Trên cửa có treo một vòng hoa anh túc đỏ thẫm, Jason nghĩ, dù cậu không chắc chắn lắm về điều mình biết.

“Cậu nghĩ đây là cabin của bố mẹ tôi?” – cậu hỏi.

“Không.” – Annabeth trả lời – “Đây là Nhà Hypnos, Thần ngủ.”

“Vậy tại sao …”

“Cậu đã quên mọi thứ.” – cô nói – “Nếu có vị thần nào giúp cậu tìm lại ký ức đã mất, đó chính là Hypnos.”

Bên trong, mặc dù gần đến giờ ăn tối, ba đứa trẻ ngủ ngon lành dưới đống chăn. Một lò lửa ấm áp nổ lách tách. Trên lò sưởi có treo ba nhánh cây, mỗi cành đang nhỏ thứ chất lỏng màu trắng vào những cái chén lớn. Jason hứng một giọt lên đầu ngón tay, trong lòng nảy sinh cảm giác muốn nếm xem nó là gì, nhưng cậu cố kiềm lại.

Tiếng violin êm ả đang dạo lên từ đâu đó. Không khí có mùi giặt ủi. Khu trại này quá ấm áp và yên bình đến nỗi mắt Jason bắt đầu nặng trĩu. Nằm xuống chợp mắt là một ý kiến tuyệt vời. Cậu đã kiệt sức. Có nhiều giường trống, tất cả đều có gối bông và drap mới cùng chăn mềm mại và … Annabeth thúc chỏ vào cậu: “Tỉnh táo đi.”

Jason chớp mắt. Cậu nhận thấy hai đầu gối mình bắt đầu nhũn ra.

“Cabin 15 làm thế với tất cả mọi người,” – Annabeth cảnh báo – “Nếu cậu hỏi tôi, đây thậm chí còn là nơi nguy hiểm hơn Trại Ares. Ít ra với Ares, cậu có thể biết ở đâu đặt mìn.”

“Mìn?”

Cô lại gần một cậu nhóc đang ngáy ngủ và lay vai nó: “Clovis! Dậy!”

Thằng nhóc trông giống như một con bê. Đầu nó có một chỏm vàng, mặt phúng và cổ đầy đặn. Thân hình nó chắc nịch, nhưng hai cánh tay tong teo cứ như chưa bao giờ nâng cái gì nặng hơn cái gối.

“Clovis!” – Annabeth lay mạnh hơn, cuối cùng vỗ vào trán nó sáu lần.

“G…gì?” – Clovis than phiền, ngồi dậy và ngước mắt lên. Nó ngáp hết cỡ, làm Annabeth và Jason ngáp theo.

“Thôi ngay!” – Annabeth nói – “Chúng tôi cần em giúp.”

“Em đang ngủ.”

“Em ngủ suốt rồi.”

“Chúc ngủ ngon.”

Trước khi nó nằm xuống, Annabeth kéo cái gối của nó khỏi giường.

“Chơi không đẹp.” – Clovis phàn nàn – “Trả đây.”

“Giúp trước.” – Annabeth nói – “Ngủ sau.”

Clovis thở dài. Hơi thở của nó có mùi sữa ấm: “Được rồi. Gì nào?”

Annabeth giải thích vấn đề của Jason. Thỉnh thoảng cô ấy búng nũi Clovis để nó tỉnh ngủ.

Hẳn là Clovis đang rất phấn khởi, vì Annabeth kể xong rồi, nhưng nó chưa được tha. Nó bị buộc đứng lên, duỗi người, liếc sang Jason: “Vậy là anh không nhớ gì, hả?”

“Chỉ có ấn tượng,” – Jason nói – “Cảm giác, giống như …”

“Đúng?” – Clovis tiếp.

“Như anh biết mình không nên ở đây. Tại trại, anh đang gặp nguy hiểm.”

“Ừm. Nhắm mắt lại.”

Jason liếc sang Annabeth. Cô gật đầu khuyến khích.

Jason sợ mình sẽ kết thúc bằng việc nằm ngáy trên giường vĩnh viễn. Nhưng cậu vẫn nhắm mắt. Đầu óc cậu mù mịt, như thể cậu đang chìm vào một cái hồ tối om.

Chuyện kế tiếp mà cậu biết, cậu mở bừng mắt. Cậu đang ngồi trên cái gế cạnh lò sưởi. Clovis và Annabeth quỳ bên cạnh.

“…nghiêm trọng, được rồi.” – Clovis đang nói.

“Chuyện gì xảy ra?” – Jason hỏi – “Bao lâu…”

“Chỉ vài phút.” – Annabeth nói – “Nhưng rất căng thẳng. Cậu gần như muốn nổ tung.”

Jason hy vọng cô ấy không nói từ đó theo nghĩa đen, nhưng vẻ mặt cô ấy rất nghiêm túc.

“Thông thường.” – Clovis giải thích – “Các ký ức bị mất đều có lý do đúng đắn. Nó chìm dưới bề mặt như những giấc mơ, với một giấc ngủ sâu, em có thể đem chúng trở lại. Nhưng lần này…”

“Lethe?” – Annabeth đề nghị.

“Không.” – Clovis đáp – “Thậm chí có dùng Lethe.”

“Lethe là gì?” – Jason hỏi.

Clovis trỏ ba nhánh cây đang nhỏ giọt trắng đục như sữa trên lò sưởi: “Sông Lethe ở Địa ngục. Nó tiêu hủy mọi ký ức, xóa sạch tâm trí anh. Đó là nhánh cây bạch dương lấy từ Địa ngục, được nhúng trong sông Lethe. Đó là biểu tượng của cha em, thần Hypnos. Lethe không phải là nơi anh muốn bơi lội đâu.”

Annabeth đồng ý: “Percy đã đến đó một lần. Cậu ấy bảo nó đủ mạnh để tẩy sạch trí tuệ của một Titan.”

Jason chợt cảm thấy rất vui khi cậu đã không đụng vào nhánh cây: “Nhưng … Đó không phải vấn đề của anh chứ?”

“Không.” – Clovis gật đầu – “Trí tuệ của anh không bị tẩy sạch, và ký ức của anh của không bị chôn vùi. Chúng đã bị lấy trộm.”

Lò lửa nổ lốp bốp. Những giọt nước sông Lethe rơi tí tách vào chén trên lò sưởi. Một đứa trẻ khác nhà Hypnos lẩm bẩm trong giấc ngủ, điều gì đó về một con vịt.

“Bị trộm.” – Jason thốt – “Bằng cách nào?”

“Một vị thần.” – Clovis nói – “Chỉ có thần mới có thứ quyền lực đó.”

“Bọn anh biết rồi.” – Jason nói – “Đó là Juno. Nhưng làm thế nào bà ấy lấy được, và tại sao?”

Clovis gãi cổ: “Juno?”

“Ý anh ấy là Hera.” – Annabeth giải thích – “Bởi một lý do nào đó, Jason thích dùng tên La Mã.”

“Ừm.” – Clovis ậm ừ.

“Hả?” – Jason hỏi – “Chuyện này có ý nghĩa gì à?”

“Ừm.” – Clovis ậm ừ lần nữa, và lần ngày Jason nhận ra nó đang ngáy.

“Clovis!” – Cậu hét lên.

“Gì? Chuyện gì?” – mặt nó trợn to – “Chúng ta đang nói về những cái gối hả? À không, những vị thần. Em nhớ rồi. Hy Lạp và La Mã. Đương nhiên rồi, có thể điều đó quan trọng.”

“Nhưng họ là cùng một vị thần.” – Annabeth nói – “Chỉ khác tên gọi.”

“Không hẳn.” – Clovis nói.

Jason chồm về trước, bây giờ đã rất tỉnh táo: “Không hẳn, ý em là sao?”

“Ờ …” – Clovis ngáp – “Vài vị thần chỉ có ở La Mã, như Janus hoặc Pompona. Nhưng thậm chí các thần vĩ đại của Hy Lạp, không chỉ có tên thay đổi khi họ chuyển đến La Mã. Hình dạng của họ cũng thay đổi, thuộc tính cũng vậy. Họ thậm chí còn có một phân thân khác.”

“Nhưng …” – Annabeth rối bời – “Được rồi, vậy có lẽ mọi người đã thấy họ thật khác biệt qua hàng thế kỷ. Nhưng điều đó không thay đổi việc họ là ai.”

“Chắc chắn rồi.” – Clovis bắt đầu lim dim, Jason búng tay vào mũi nó.

“Thôi nào, mẹ!” – nó tru lên – “Ý em là … Ừ, em tỉnh rồi. Vậy, ừm … phân thân. Các thần thay đổi để phản ánh nền văn minh chủ yếu của họ. Chị biết rồi, Annabeth. Ý em là, bây giờ, Zeus mặc vest, xem truyền hình trực tiếp và ăn thức ăn Trung Hoa tại số 28 phố Đông, đúng không nào? Cũng giống như vậy, ở thời La Mã, các thần ở La Mã lâu như họ từng ở Hy Lạp. Đó là một đế chế lớn, kéo dài hàng thế kỷ. Dĩ nhiên khía cạnh La Mã cũng là một phần lớn trong tính cách của họ.”

“Có lý.” – Jason tán đồng.

Annabeth lắc đầu bối rối: “Nhưng làm thế nào em biết những chuyện đó, Clovis?”

“Ồ, em tốn rất nhiều thời gian để mơ. Em thấy các thần suốt, luôn thay đổi hình dạng. Giấc mơ hay thay đổi, chị biết đó. Chị có thể ở nhiều nơi khác nhau cùng lúc, luôn luôn thay đổi thân phận. Rất giống việc trở thành một vị thần. Gần đây, em mơ đang xem đêm diễn của Michael Jackson, và sau đó đứng trên sân khấu với Michael Jackson, hát đôi nhưng không nhớ nổi lời bài The Girl Is Mine. Ôi trời, thật đáng xấu hổ, em…”

“Clovis,” – Annabeth chặn lời – “Quay lại La Mã?”

“Phải, La Mã.” – Clovis nói tiếp – “Nên chúng ta gọi các thần bằng tên Hy Lạp vì đó là nguồn gốc. Nhưng gọi khía cạnh La Mã của họ chính là, không đúng. Ở La Mã, họ trở nên hiếu chiến hơn. Họ không hòa nhập nhiều với người thường. Họ tàn nhẫn hơn, quyền lực hơn, các vị thần của một đế chế.”

“Nghe như mặt trái của các thần?” – Annabeth hỏi.

“Không hẳn,” – Clovis tiếp – “Họ vẫn đại diện cho kiến thức, danh dự, sức mạnh…”

“Những điều tốt, sau đó,” – Jason nói, vì lý do nào đó cậu cảm thấy cần lên tiếng vì các thần La Mã, dù cậu không rõ tại sao nó quan trọng – “Ý anh là, kiến thức rất quan trọng, đúng không? Đó là điều làm cho Lã Mã trường tồn.”

Clovis nhìn cậu đầy vẻ hiếu kỳ: “Đúng vậy. Nhưng thần La Mã không thân thiện mấy. Chẳng hạn như, ca em, Hypnos… Ông không làm gì nhiều ở thời Hy Lạp ngoại trừ ngủ. Thời đại La Mã, họ gọi ông là Somnus. Ông thích giết những kẻ không chịu tỉnh táo trong công việc của mình. Nếu họ gật đầu không đúng lúc, bùm … họ không bao giờ tỉnh nữa. Ông đã giết người lái thuyền của Aeneas khi họ ra khơi từ Troy.”

“Quý ông dễ thương.” – Annabeth nói – “Nhưng chị không không hiểu điều này ảnh hưởng gì đến Jason.”

“Em cũng không hiểu.” – Clovis tán thành – “Nhưng nếu Hera lấy đi ký ức của anh, chỉ duy nhất bà ấy có thể mang nó trở lại. Và nếu phải gặp vị nữ hoàng của các thần, em trông đợi vào tâm trạng Hera nhiều hơn là Juno. Bây giờ em được ngủ tiếp chưa?”

Annabeth nhìn những cành cây trên lò sưởi đang nhỏ giọt Lethe vào chén. Trông cô có vẻ lo lắng. Jason tự hỏi sẽ ra sao nếu cô muốn uống nó để quên đi những rắc rối đang gặp. Rồi cô đứng dậy, thả gối trả lại Clovis: “Cảm ơn, Clovis. Gặp lại em vào giờ ăn tối.”

“Em có được phục vụ tại phòng không?” – Clovis ngáp và loạng choạng trở lại giường: “Em cảm giác như zzzz….”

Nó đổ ầm xuống với cặp mông chổng lên và mặt úp vào gối.

“Nó không ngộp thở chứ?” – Jason hỏi.

“Nó ổn thôi.” – Annabeth nói – “Nhưng tôi bắt đầu nghĩ cậu đang gặp rắc rối nghiêm trọng.”

The Lost Hero – Chapter IX

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter IX

Piper

Piper mơ về những ngày quá khứ với bố.

Họ ở bãi biển gần Big Sur, đang chuẩn bị cho chuyến lướt sóng. Một buổi sáng hoàn hảo, Piper biết điều gì đó sẽ sớm không ổn, một đám paparazzi điên dại, hoặc là một con cá mập trắng khổng lồ. Không đời nào may mắn của cô được giữ lại.

Nhưng hơn như thế, họ đã có những con sóng tuyệt vời, trời nhiều mây, cả dặm ven biển hoàn toàn dành cho họ. Bố đã tìm được một chốn thoát khỏi tâm điểm chú ý, thuê một biệt thự ngắm biển và những thứ khác, tìm đủ mọi cách để giữ bí mật. Nếu ông ở đây quá lâu, Piper biết những tay nhiếp ảnh sẽ tìm được ông ấy. Họ luôn phải chịu đựng như thế.

“Làm tốt lắm, Pipes” – ông cười với cô, nụ cười nổi tiếng: hàm răng hoàn hảo, cằm lúm đồng tiền, đôi mắt lấp lánh đen thẳm luôn khiến các phụ nữ thét lên và yêu cầu ông ký vào người họ bằng bút dầu. (Nghiêm túc nào, Piper nghĩ, tích cực lên).

Mái tóc đen cắt ngắn của ông sóng sánh nước muối: “Con khá hơn hồi lên mười rồi.”

Piper hãnh diện, dù cô nghi ngờ bố đang cố tỏ ra dễ thương, lịch sự. Cô vẫn dùng hầu hết thời gian để tập luyện. Cần có tài năng đặc biệt để đứng được trên một tấm ván. Bố cô là tay lướt ván thiên tài, điều mà chẳng có ý nghĩa gì khi ông vươn lên từ một đứa nhóc đáng thương ở Oklahoma, cách hàng trăm dặm đại dương, nhưng ông đang rẻ những cú ngoặc đáng kinh ngạc. Piper không từ bỏ lướt ván trong một khoảng thời gian dài trước đây, ngoại trừ thời gian cô được ở cùng bố. Không có nhiều dịp để cô được ở cạnh ông như thế.

“Sandwich?” – Bố bới tung túi du lịch mà đầu bếp của ông, Arno, đã chuẩn bị – “Xem nào: Gà tây sốt pesto(1), bánh cua wasabi, à, một món đặc biệt cho Piper: Bơ đậu phộng và thạch.”

Cô chọn bánh sandwich, dù dạ dày cô khó chịu đến độ không thể ăn nổi. Cô luôn luôn đòi PB&J(2). Piper ăn chay, vì một lý do duy nhất, từ khi xe chở cô ngang qua một lò mổ ở Chino, mùi của nó khiến những thứ trong bụng cô muốn trào ra ngoài. Nhưng hơn thế, PB&J là thức ăn thông dụng, mọi đứa trẻ đều ăn vào buổi trưa. Đôi khi cô giả vờ như bố đã thực sự tự làm nó cho cô, không phải một đầu bếp riêng đến từ Pháp, người đã đích thân cuộn sandwich trong miếng giấy vàng đính kim cương lấp lánh thay vì tăm xỉa răng.

Không thể có gì giản dị sao? Đó là lý do cô luôn từ chối những bộ quần áo lập dị mà bố đề nghị, những đôi giày kiểu cách, những chuyến viếng thăm thẩm mỹ viện. Cô cắt mái tóc của mình với cây kéo bọc nhựa in hình Garfield, cố tình làm cho nó nham nhở. Cô thích mang đôi giày đã chạy bộ đến tơi tả, quần jean, áo thun chữ T, cùng áo khoác Polartec cũ kỹ có từ khi cô đi trượt tuyết.

Và cô ghét những ngôi trường tư hợm hĩnh mà bố nghĩ là thích hợp. Cô luôn làm cho mình bị tống khứ. Ông cứ phải chạy quanh tìm thêm trường mới.

Hôm qua, cô lôi về một rắc rối trộm cắp lớn nhất, lái một chiếc BMW đã “mượn” ra khỏi đại lý xe. Cô phải khiến những trò gây chú ý đó mỗi lúc một lớn hơn, bởi vì nó sẽ thu hút thêm nhiều sự quan tâm của bố.

Giờ thì cô hối hận vì điều đó. Bố vẫn chưa biết.

Cô định sẽ báo với ông vào buổi sáng. Rồi ông làm cô ngạc nhiên với một chuyến đi, cô không thể phá hỏng nó. Đây là lần đầu tiên họ có một ngày bên nhau trong suốt … ba tháng, có lẽ?

“Sao vậy con?” – Ông đưa cô một ly soda.

“Bố, có gì đó…”

“Đợi đã, Pipes. Sẵn sàng cho Ba câu hỏi bất kỳ?”

Họ chơi trò này rất nhiều năm, một cách để bố cô có thể tiết kiệm thời gian nhất. Họ có thể hỏi bất kỳ ba câu hỏi nào. Bất cứ gì ngoài giới hạn, phải trả lời thành thật. Không trả lời được, ông hứa sẽ không can thiệp chuyện của cô, một chuyện quá dễ, vì ông không bao giờ ở gần cô.

Piper biết hầu hết những đứa trẻ sẽ tìm ra câu hỏi làm bố mẹ chúng xấu hổ. Nhưng cô trông đợi nó. Giống như lướt ván vậy, không dễ dàng, nhưng là cách để cảm thấy cô thực sự có một người cha.

“Câu thứ nhất,” – cô nói – “Mẹ.”

Không ngạc nhiên. Đó luôn là một trong các đề tài của cô.

Bố cô nhún vai cam chịu: “Con muốn biết gì, Piper? Bố đã bảo, mẹ biến mất. Bố không biết tại sao, hoặc mẹ đã đi đâu. Sau khi sinh con, bà ấy đơn giản là bỏ đi. Bố không bao giờ nhận được tin tức gi từ bà ấy nữa.”

“Bố có nghĩ mẹ vẫn còn sống không?”

Không hẳn là một câu hỏi. Ông được phép nói mình không biết. Nhưng cô muốn nghe câu trả lời của ông.

Ông nhìn chăm chú những con sóng.

“Ông nội Tom của con,” – cuối cùng ông lên tiếng – “Ông nội thường kể với bố rằng, nếu con đi bộ đủ xa về phía mặt trời lặn, con sẽ đến Vương quốc Hồn ma, nơi con có thể nói chuyện với người đã qua đời. Ông bảo thuở xa xưa, con có thể mang họ trở về từ cái chết; nhưng rồi nhân loại làm đảo lộn mọi thứ. Ừm, chuyện dài lắm.”

“Nghe như Miền Đất Chết của Hy Lạp.” – Piper nhớ lại – “Nó cũng ở phía tây. Và, Orpheus, người cố cứu vợ mình về.”

Ông gật đầu. Một năm trước, ông có một vai diễn lớn nhất khi đóng một ông vua Hy Lạp cổ đại. Piper đã giúp ông nghiên cứu về các thần thoại, câu chuyện xưa về những con người lấy đá và sỏi trong hồ dung nham. Họ có khoảng thời gian đọc truyện vui vẻ cùng nhau. Điều đó khiến cuộc sống cô dường như không quá tệ. Trong khoảnh khắc nào đó, cô thấy gần gũi với bố hơn, nhưng như mọi lần, không có kết thúc tốt đẹp.

“Có nhiều điểm giống nhau giữa Hy Lạp và Cherokee.” – ông đồng ý – “Chẳng biết ông nội sẽ nghĩ gì nếu ông thấy chúng ta như bây giờ, ngồi trên điểm cuối của vùng đất phía tây. Ông hẳn nghĩ chúng ta là hồn ma.”

“Vậy, bố nói mình tin những câu chuyện đó? Bố có nghĩ mẹ đã chết không?”

Nước mắt ông rơi xuống. Piper cảm thấy nỗi buồn ngay sau lưng họ. Cô đoán đó là lý do tại sao phụ nữ bị ông thu hút. Vẻ ngoài, ông tự tin và thô ráp, nhưng đôi mắt ông ẩn chứa nỗi buồn. Phụ nữ muốn tìm hiểu tại sao. Họ muốn xoa dịu ông và họ không bao giờ làm được. Ông bảo với Piper đó là một đặc điểm người Cherokee, bên trong họ luôn có một bóng tối đến từ sự chịu đựng và nỗi đau qua hàng thế hệ. Nhưng Piper nghĩ nó còn hơn thế.

“Bố không tin các câu chuyện.” – ông nói – “Chúng chỉ để giải trí, nhưng nếu thật sự tin vào Vương quốc Hồn ma, hoặc linh hồn vạn vật, hoặc thần thánh Hy Lạp … bố nghĩ mình không thể ngủ vào ban đêm. Bố luôn phải tìm một ai đó để oán trách.”

Một ai đó để oán trách về căn bệnh ung thư phổi của ông nội Tom, Piper nghĩ, trước khi bố nổi tiếng và có đủ tiền chữa cho ông. Oán trách vì mẹ, người phụ nữ duy nhất ông từng yêu, từ bỏ ông không một lời tạm biệt, để lại cho ông một bé gái mới sinh mà ông chưa sẵn sàng chăm sóc. Oán trách thành tựu của ông, dù đã có mà vẫn không vui vẻ.

“Bố không biết liệu mẹ có còn sống.” – ông tiếp – “Nhưng bố nghĩ mẹ có thể vẫn hạnh phúc khi ở Vương quốc Hồn ma,Piper ạ. Không thể đem mẹ trở lại. Nếu bố tin … Bố nghĩ mình không thể chịu đựng nổi.”

Gần chỗ họ, có một chiếc xe đang mở cửa. Piper quay đầu nhìn. Jane sải bước về phía họ trong bộ đồ công sở, đi lảo đảo trên cát với đôi giầy cao gót, cầm PDA trong tay. Vẻ mặt cô ta có phần vừa bực dọc, vừa đắc thắng. Piper biết cô đã gặp cảnh sát.

Làm ơn ngã đi, Piper cầu nguyện. Nếu có một linh hồn nào hoặc một thần Hy Lạp có thể giúp, làm Jane chúi đầu xuống đi. Cô không yêu cầu sự thương tật lâu dài, chỉ làm cô ta nằm nghỉ hết ngày thôi, làm ơn nào?

Nhưng Jane vẫn tiến tới.

“Bố” – Piper nói nhanh – “Đã có chuyện xảy ra hôm qua…”

Nhưng một lần nữa ông chỉ nhìn Jane. Ông đang củng cố lại hình ảnh của mình. Jane sẽ không đến đây nếu việc không nghiêm trọng. Một hãng phim đang gọi, một kế hoạch bị tuột mất, hoặc lộn xộn nữa do Piper gây ra.

“Chúng ta trở lại sau, Pipes.” – ông hứa – “Bố nên xem Jane cần gì. Con biết cô ấy sao rồi đó.”

Phải, Piper biết. Ông lê gót qua bãi cát đến gặp cô ta. Piper không thể nghe họ nói gì, nhưng cô không cần nghe. Cô rất giỏi đọc nét mặt. Jane nói với ông về chuyện chiếc xe bị đánh cắp, thỉnh thoảng trỏ về phía Piper như thể cô là một con thú cưng bẩn thỉu bị ném lên thảm.

Năng lượng và sự nhiệt tình của ông tan rã. Ông ra hiệu bảo Jane đợi. Rồi ông đi về phía Piper. Cô không chịu nổi khi nhìn vào mắt ông, giống như cô đã phản bội lòng tin của ông.

“Con hứa với bố con sẽ cố gắng,Piper.” – ông nói.

“Bố, con ghét trường đó. Con không được làm gì cả. Con muốn kể với bố về chiếc BMW, nhưng…”

“Họ đã đuổi con.” – ông nói – “Một chiếc xe, Piper? Năm sau con lên mười sáu. Bố sẽ mua cho con bất cứ chiếc xe nào. Sao con có thể …”

“Ý bố là Jane sẽ mua cho con một chiếc xe?” – Piper sửa lại, sự tức giận dâng lên và tuôn trào – “Bố, chỉ lắng nghe một lần thôi. Đừng bắt con phải chờ để hỏi bố ba câu hỏi ngớ ngẩn. Con muốn học trường bình thường. Con muốn có đêm gia đình quây quần, không phải Jane. Hoặc trường nội trú! Con học được rất nhiều khi chúng ta cùng đọc về Hy Lạp. Chúng ta có thể luôn luôn như thế! Chúng ta sẽ …”

“Đừng nói về bố.” – bố cô ngắt lời – “Bố đã gắng hết sức, Piper. Chúng ta đã nói về đề tài này rồi.”

Không, cô nghĩ. Ông luôn cắt ngang đề tài này, trong nhiều năm.

Bố cô thở dài: “Jane đã nói chuyện với cảnh sát, đã thỏa thuận. Đại lý xe sẽ không kiện, nhưng con phải chấp nhận đến một trường nội trú ở Nevada. Họ chuyên giải quyết những phiền phức … những đứa trẻ gặp khó khăn.”

“Là con sao.” – giọng cô run run – “Một phiền phức.”

“Piper … con bảo con sẽ cố. Con làm bố thất vọng. Bố không biết phải làm gì nữa.”

“Bất cứ gì.” – cô nói – “Nhưng chính bố thực hiện! Đừng để Jane lo liệu thay bố. Bố không thể đuổi con đi.”

Ông nhìn xuống giỏ cắm trại. Miếng sandwich chưa ăn, còn đặt trên một tấm giấy vàng. Họ đã lên kế hoạch lướt sóng cả buổi trưa.. Bây giờ nó bị phá hỏng.

Piper không tin ông thực sự đầu hàng Jane. Không phải lần này. Không phải một thứ gì to lớn như một trường nội trú.

“Đi với cô ấy.” – ông nói – “Cô ấy sẽ lo mọi chuyện.”

“Bố…”

Ông nhìn sang chỗ khác, chăm chú vào biển xanh như thể ông đang trông thấy con đường đến Vương quốc Hồn ma. Piper tự hứa sẽ không khóc. Cô tiến về phía Jane, người đang mỉm cười lạnh lùng, tay cầm vé máy bay. Như thường lệ, cô ta đã thu xếp sẵn mọi thứ. Piper chỉ là một rắc rối khác trong ngày mà Jane có thể gạch khỏi danh sách cần giải quyết.

—-

Giấc mơ của Piper thay đổi.

Cô đứng trên đỉnh núi vào ban đêm, thành phố bên dưới lấp lánh ánh đèn. Trước mắt cô, ánh lửa rực rỡ. Ngọn lửa tím có vẻ mang đến nhiều bóng tối hơn ánh áng, nhưng sức nóng mãnh liệt đến nỗi quần áo cô bốc hơi.

“Đây là cảnh cáo thứ hai cho ngươi.” – giọng nói gầm gừ, nó mạnh mẽ đến nỗi mặt đất rung chuyển. Piper đã nghe giọng nói đó trong giấc mơ của mình. Cô cố thuyết phục rằng nó không đáng sợ như cô từng nhớ, nhưng nó còn tệ hơn.

Đằng sau ánh lửa , một gương mặt khổng lồ lờ mờ hiện ra từ bóng đêm. Nó gần như trôi bềnh bồng trên lửa, nhưng Piper biết nó chắc chắn có một cơ thể. Hình dáng thô thiển đó có lẽ được tạc ra từ đá. Gương mặt hầu như không có sinh khí, ngoại trừ đôi mắt trắng dã, giông như kim cương thô. Nó có những lọn tóc dài kinh khủng được bện bằng xương người. Nó cười. Piper rùng mình.

“Ngươi phải làm những gì ta bảo.” – gã khổng lồ nói – “Ngươi phải tiếp tục. Nghe lệnh ta, và ngươi được sống. Bằng không…”

Hắn chỉ vào lửa. Bố Piper bị treo vào cọc, bất tỉnh.

Cô gắng hét lên. Cô muốn gọi bố, thỉnh cầu gã khổng lồ thả ông, nhưng giọng cô không thể vang lên.

“Ta sẽ theo dõi.” – gã khổng lồ nói – “Phục vụ ta, cả hai được sống. Ngươi có lời nhắn của Enceladus. Thất bại…tốt thôi, ta đã ngũ hàng thiên niên kỷ, nhóc á thần ạ. Ta rất đói. Thất bại, ta sẽ được ăn.”

Gã khổng lồ cười ầm. Mặt đất rung chuyển. Một vết nứt mở ra ngay dưới chân Piper. Cô rơi vào bóng tối hỗn độn.

Cô tỉnh dậy và cảm giác như mình bị một đoàn nhảy step-dance Irish giẫm lên. Ngực cô đau đớn, gần như không thở nổi. Cô cúi xuống và nắm tay quanh cán con dao mà Annabeth đã cho cô, Katoptris, vũ khí của Helen thành Troy.

Vậy Trại con lai không phải giấc mơ.

“Cậu thấy thế nào?” – ai đó đang hỏi.

Piper cố tập trung. Cô đang nằm trên một chiếc giường phủ rèm trắng một bên, trông giống phòng y tế. Cô gái tóc đỏ, Rachel Dare, ngồi cạnh cô. Trên trường có treo poster của một satyr hoạt hình, rất giống huấn luyện viên cáu kỉnh Hedge, đang ngậm nhiệt kế. Tiêu đề viết: Đừng để căn bệnh trêu tức bạn!

“Đâu…” – Piper chết lặng khi trông thấy một anh chàng đứng ngay cửa.

Cậu ta trông như một tay lướt ván ở California, da nâu rám nắng, tóc vàng, mặc quần soọc và áo thun chữ T. Nhưng cậu ta có hàng trăm con mắt xanh trên cơ thể, dọc theo cánh tay, dưới chân và khắp mặt. Ngay dưới bàn chân cũng có mắt, đang quan sát cô từ giữa quai sandal.

“Đó là Argus.” – Rachel nói – “Bảo vệ trưởng của chúng ta. Cậu ấy chỉ trông chừng mọi thứ thôi … Vậy cậu nói đi.”

Argus gật đầu. Mắt dưới cằm cậu ta nhấp nháy.

“Đây …?” – Piper cố thử lại, nhưng vẫn cảm thấy mình bị vải nhét vào miệng.

“Cậu đang ở Nhà lớn.” – Rachel nói – “Văn phòng trại. Chúng tớ mang cậu đến đây khi cậu ngất.”

“Cậu túm lấy tới,” – Piper nhớ lại – “Giọng Hera…”

“Tớ xin lỗi vì điều đó.” – Rachel nói – “Tin tớ đi, đó không phải ý của tớ. Chiron đã chữa cho cậu bằng một ít nectar…”

“Nectar?”

“Thức uống của các thần. Chỉ một ít thôi, nó sẽ hồi phục sức khỏe của các á thần, nếu không, à, nó sẽ thiêu cậu thành tro.”

“Ồ, hay nhỉ.”

Rachel chồm lên: “Cậu có nhớ ảo ảnh của mình không?”

Piper hơi sợ hãi, cho rằng cô ta đang đề cập tới gã khổng lồ. Rồi cô nhận ra Rachel đang nói đến những chuyện xảy ra trong Trại Hera.

“Nữ thần đó đang gặp vấn đề.” – Piper trả lời – “Bà ấy nhờ tớ giải cứu, giống như bà ta bị bắt vậy. Bà đề cập chuyện mặt đất nuốt lấy chúng ta, một ngọn lửa, một điều gì đó về ngày điểm chí.”

Trong góc phòng, Argus phát ra tiếng gầm gừ trong ngực. Tất cả con mắt của anh ta đều chớp.

“Hera tạo ra Argus.” – Rachel giải thích – “Anh ấy rất nhạy cảm nếu nhắc đến sự an toàn của bà ấy. Chúng tớ đã cố dỗ để anh ấy khỏi khóc, vì lần gần nhất… ừm, nó gây ra một trận lụt.”

Argus thút tít. Anh chộp một mớ khăn giấy từ chiếc tủ bên cạnh và bắt đầu đắp lên những con mắt khắp cơ thể.

“Vậy…” – Piper cố không liếc về phía Argus đang lau nước mắt ở khuỷu tay: “Chuyện gì xảy ra với Hera?”

“Chúng tớ không chắc.” – Rachel trả lời – “Annabeth và Jason để cậu ở lại với tớ, nhân tiện, Jason không muốn rời khỏi cậu, nhưng Annabeth có một ý tưởng, điều gì đó giúp lấy lại ký ức của cậu ấy.”

“Vậy … thật tuyệt.”

Jason đã ở lại vì cô sao? Cô ước mình được chứng kiến điều đó. Nhưng nếu cậu ta nhớ lại, liệu sẽ tốt chứ? Cô vẫn níu giữ hy vọng rằng họ thực sự trải qua quá khứ cùng nhau. Cô không muốn mối quan hệ của họ chỉ là một trò ảo thuật Sương mù.

Hãy vượt qua, cô nghĩ. Nếu cô muốn cứu bố mình, chẳng quan trọng gì khi Jason có thích cô hay không. Cuối cùng thì cậu ta sẽ ghét cô. Mọi người đều như vậy.

Cô nhìn xuống con dao ceremonial đeo bên hông. Annabeth bảo nó là một biểu tượng của quyền lực và địa vị, nhưng thường không ai dùng để chiến đấu, có vẻ ngoài và không thực chất. Một thứ hàng nhái, cũng như Piper. Tên nó là Katoptris, gương soi. Cô không dám rút nó ra lần nữa, vì cô không chịu đựng nổi khi nhìn vào hình ảnh phản chiếu chính mình.

“Đừng lo lắng.” – Rachel siết tay cô – “Jason có vẻ là chàng trai tốt. Cậu ấy cũng gặp ảo ảnh, giống như cậu. Dù điều gì đang xảy ra với Hera, tớ nghĩ hai cậu chắc phải hợp tác với nhau.”

Rachel mỉm cười như thể đó là một tin tốt. Nhưng tâm trí Piper càng bị nhấn chìm sâu hơn. Cô nghĩ trong cuộc tìm kiếm này, bất kể nó là gì, đều sẽ cuốn theo những người không liên quan. Giờ Rachel đem đến tin về cơ bản là: Tin tốt! Chẳng những bố bạn bị một gã khổng lồ ăn thịt người bắt cốc, thậm chí bạn còn phản bội anh càng bạn thích! Tin mới tuyệt làm sao?

“Này,” – Rachel nói – “Đừng khóc. Cậu sẽ tìm hiểu mọi chuyện được ngay mà.”

Piper lau nước mắt, cố khống chế bản thân. Cô bây giờ không giống cô. Cô lẽ ra phải cứng rắn, một tên trộm xe bướng bỉnh, một tai họa của các trường tư ở L.A. Tại đây, cô khóc như một đứa trẻ: “Làm sao cậu hiểu được những gì tớ đang đối mặt?”

Rachel nhún vai: “Tớ biết đó là một chọn lựa khó khăn, những lựa chọn thì không khá khẩm. Như tớ đã bảo, đôi khi tớ có những linh cảm. Nhưng cậu sẽ được xác nhận vào đêm lửa trại. Gần như tớ chắc chắn. Khi cậu biết bố mẹ thần thánh của mình là ai, mọi thứ sẽ rõ ràng.”

Rõ ràng, Piper nghĩ. Không cần thêm nữa.

Cô bật dậy trên giường. Trán đau như ai đó ném một ngọn giáo vào khoảng giữa hai mắt. Không thể đem mẹ con trở lại, bố đã nói với cô như thé. Nhưng rõ ràng, đêm nay, mẹ cô sẽ xác nhận đứa con gái. Lần đầu tiên, Piper không tin chắc vào những gì mình muốn.

“Tớ hy vọng là Athena.” – cô ngước lên, sợ Rachel sẽ trêu cô, nhưng nhà tiên tri chỉ mỉm cười.

“Piper, tớ không trêu cậu. Nhưng thành thật, tớ nghĩ Annabeth cũng hy vọng như vậy. Hai cậu rất giống nhau.”

Sự so sánh làm Piper cảm thấy hổ thẹn hơn: “Một linh cảm nữa à? Cậu đâu biết gì về tớ.”

“Cậu sẽ ngạc nhiên đấy.”

“Cậu chỉ nói thế vì cậu là một nhà tiên tri, đúng không? Cậu đáng lẽ đã nghe được mọi bí ẩn.”

Rachel cười: “Đừng cố tra bí mật của tớ, Piper. Và đừng lo nữa. Mọi chuyện sẽ kết thúc ổn thỏa, chỉ là, có lẽ không theo kế hoạch của cậu.”

“Điều đó không làm tớ thấy khá hơn.”

Từ đâu đó, tiếng tù và trỗi lên. Argus cằn nhằn mở cửa.

“Bữa tối?” – Piper đoán.

“Cậu đã ngủ suốt bữa ăn.” – Rachel xác nhận – “Giờ là đêm lửa trại. Đi nào, khám phá xem cậu là ai.”

(1) Một loại sốt thông dụng của Ý, gồm: húng quế, hành, đậu thông, dầu ô liu, bột phó-mát.

(2) Viết tắt của Peanut Butter & Jelly.

The Lost Hero – Chapter X

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter X

Piper

Toàn bộ quang cảnh đêm lửa trại làm Piper choáng ngộp. Nó khiến cô nhớ đến trận lửa tím khổng lồ trong giấc mơ, bố cô bị trói vào cọc.

Thay vào đó, cô có một cảnh tượng khủng khiếp gần như vậy: một buổi văn nghệ. Khán đài bậc thang vòng cung được gắn vào một bên ngọn đồi, hướng mặt xuống hố lửa bằng đá. Năm hay sáu mươi đứa ngồi kín các hàng ghế, túm tụm thành các nhóm dưới các bảng biểu ngữ khác nhau.

Piper chú ý thấy Jason đang ở phía trước, cạnh Annabeth. Leo gần dó, ngồi với một nhóm trại viên, trông có vẻ lực lưỡng, dưới bảng biểu bằng thép màu xám trang trí hình một cây búa. Đứng trước ngọn lửa là nửa tá trại viên ôm đàn ghi-ta, và, lập dị thay, đàn hạc kiểu cũ, những cây đàn lia à? Họ đang nhảy vòng quanh, dẫn nhịp một bài hát về những bộ giáp, thứ gì đó mà bà họ đã mặc trong chiến trận. Mọi ngươi hát cùng họ. Đó hoàn toàn là điều kỳ quặc nhất mà Piper từng thấy, một bài hát lửa trại đáng xấu hổ nhất nếu hát vào ban ngày, nhưng trong đêm tối, với sự tham gia của mọi người, nó ủy mị và ngộ nghĩnh. Ngay khi không khí sôi động lên, ngọn lửa cũng vậy, chuyển từ đỏ sang cam rôi sang vàng.

Bài hát kết thúc với nhiều tiếng tán thưởng rầm rộ. Một người cưỡi ngựa chạy lên. Ít nhất, trong ánh sáng mờ mờ, Piper nghĩ là người đàn ông cưỡi ngựa. Sau đó cô nhận ra ông là một nhân mã, thân dưới của ông ta là giống bạch mã, thân trên là người đàn ông trung niên có mái tóc xoăn cùng hàm râu tỉa tót. Ông vung ngọn giáo có xiên kẹo dẻo nướng lên:

“Rất dễ thương! Và đặc biệt đón chào những vị khách mới đến của chúng ta. Ta là Chiron, giám đốc điều hành trại. Ta rất vui khi các cháu đến được đây, còn sống với đầy đủ chân tay. Một lúc nữa thôi, ta hứa chúng ta sẽ đến phần bánh s’mores(1), nhưng trước hết…”

“Tiết mục cướp cờ thì sao?” – ai đó hét lên. Tiếng ồn vỡ òa ra từ đám trẻ mặc giáp, ngồi dưới băng rôn đỏ in biểu tượng đầu lợn rừng.

“Phải.” – Nhân mã nói – “Ta biết Trại Ares đang quan tâm đến việc trở vào rừng chơi trò chơi truyền thống của chúng ta.”

“Và giết ai đó!” – một đứa trong bọn la lên.

“Tuy nhiên,” – Chiron nói – “Cho đến khi con rồng bị đặt dưới sự kiểm soát, còn lại thì không thể được. Cabin 9, còn gì trình báo không?”

Ông quay lại với nhóm Leo. Leo nháy mắt với Piper và nhắm bắn cô ấy bằng ngón tay hình súng. Cô gái ngồi cạnh cậu miễn cưỡng đứng lên. Cô mặc một chiếc áo khoác lính rất giống cái của Leo, mái tóc cô được quấn trong băng đầu màu đỏ:

“Chúng cháu vẫn đang tiến hành.”

Nhiều tiếng xì xào hơn.

“Thế nào rồi, Nyssa?” – một đứa nhà Ares hỏi.

“Thực sự khó khăn.” – Cô gái trả lời.

Nyssa ngồi xuống lại trong những tiếng la ó than phiền rần rộ, khiến ngọn lửa xi xèo môt cách hỗn loạn. Chiron giẫm vó lên một hố đá lửa, bang bang bang, và các trại viên im lặng.

“Chúng ta sẽ phải kiên nhẫn,” – Chiron nói – “Vào lúc này, có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần thảo luận.”

“Percy?” – ai đó hỏi. Lửa thậm chí tối tăm hơn, nhưng Piper không cần hiệu ứng của ngọn lửa để cảm nhận sự lo âu của đám đông.

Chiron trỏ Annabeth. Cô hít thở sâu rồi đứng dậy.

“Tớ không tìm thấy Percy,” – cô thông báo, giọng tắt nghẹt một chút khi nhắc đến tên cậu ta – “Cậu ấy không có ở Hẻm Núi Lớn như tớ tưởng. Nhưng chúng ta sẽ không bỏ cuộc. Đội tìm kiếm của chúng ta ở khắp nơi. Grover, Tyson, Nico, các thợ săn của Artemis, mọi người đều đang làm việc. Chúng ta sẽ thấy cậu ấy. Bác Chiron đang đề cập đến chuyện khác. Một nhiệm vụ mới.”

“Lời tiên tri Vĩ đại, phải không?” – một cô gái thốt lên.

Mọi người quay đầu nhìn. Giọng nói xuất phát từ một nhóm ngồi phía sau, dưới băng rôn màu hoa hồng với biểu tượng chim câu. Họ đang tán gẫu và không tập trung chú ý cho đến khi người dẫn dắt của họ đứng lên: Drew.

Những người khác nhìn với vẻ ngạc nhiên. Rõ ràng việc Drew không mấy khi phát biểu trước đám đông là điều thường thấy.

“Drew?” – Annabeth hỏi – “Ý cậu là gì?”

“Ồ, thôi nào.” – Drew bẻ duỗi những đốt tay mình như thể sự thật đã quá hiển nhiên – “Olympus đã đóng cửa. Sự mất tích của Percy. Hera gửi đến một giấc mơ và cậu quay về cùng ba á thần mới nội trong một ngày. Ý tớ là, điều gì đó kỳ quặc đang diễn ra. Lời tiên tri Vĩ đại đã bắt đầu, đúng không nào?”

Piper thì thầm với Rachel: “Cô ta đang nói về cái gì vậy, Lời tiên tri Vĩ đại?”

Sau đó cô nhận ra mọi người cũng đang nhìn Rachel.

“Nào?” – Drew nói lớn – “Cậu là nhà tiên tri. Có phải nó đã bắt đầu không?”

Mắt Rachel thật khủng khiếp trong ánh lửa. Piper đã sợ cô sẽ gồng mình lên và bắt đầu biến thành vị nữ thần đuôi công kì cục lần nữa. Nhưng cô chỉ bước lên một cách điềm tĩnh, tuyên bố với cả trại.

“Phải,” – cô nói – “Lời tiên tri Vĩ đại đã khởi động.”

Sự huyên náo nổi lên.

Piper bắt gặp ánh mắt Jason. Cậu ta dùng khẩu hình, cậu ổn chứ? Cô gật đầu và cười gượng gạo, sau đó nhìn lãng đi nơi khác. Thật quá đau lòng khi nhìn thấy mà không được ở bên cạnh cậu ấy.

Khi những tiếng bàn tán cuối cùng lắng xuống, Rachel bước thêm một bước về phía các khán giả, và hơn năm mươi á thần tránh đường cho cô, như thể một cô gái gầy gò với mái tóc đỏ này đáng sợ hơn tất cả họ hợp lại.

“Với những ai trong các bạn chưa nghe về nó,” – Rachel nói – “Lời tiên tri Vĩ đại là tiên đoán đầu tiên của tớ, vào khoảng tháng tám. Nó thế này:

Bảy á thần sẽ đáp lại lời kêu gọi. Để đột chiếm hoặc thiêu đốt thế giới …”

—-

Jason bật dậy. Đôi mắt cậu trở nên hoang dại, cứ như vừa bị kích điện.

Thậm chí Rachel dường như cũng bất ngờ. “J … Jason?” – cô gọi – “Chuyện …”

“Ut cum spiritu postrema sacramentum dejuremus,” – cậu ta niệm – “Et hostes ornamenta addent ad ianuam necem.”

Một sự im lặng đến bức bối bao trùm đám đông. Piper có thể nhận ra vài người trong số họ đang cố dịch những lời ấy. Cô biết nó là tiếng Latin, nhưng không chắc tại sao người bạn trai tương lai đầy triển vọng của mình lại đột ngột niệm chú như một linh mục Thiên chúa.

“Cậu đang … hoàn tất lời tiên tri,” – Rachel ấp úng – “… Một lời tuyên thệ giữ đến hơi thở cuối cùng. Và kẻ thù vác trên tay Cánh cửa Tử thần. Làm sao cậu …”

“Tôi biết những câu đó.” – Jason chau mày vào áp tay lên thái dương – “Tôi không hiểu bằng cách nào, nhưng tôi biết lời tiên tri đó.”

“Bằng tiếng Latin, không tệ,” – Drew thốt – “Điển trai và thông minh.”

Một vài tiếng cười khúc khích phát ra từ Trại Aphrodite. Trời, một lũ thất bại, Piper nghĩ. Nhưng nó không phá vỡ nổi tình trạng căng thẳng. Đám lửa cháy hỗn loạn, chập chờn ánh xanh.

Jason ngồi lại, trông có vẻ bối rối. Nhưng Annabeth đặt tay lên vai cậu và lẩm bẩm vài câu an ủi. Piper cảm thấy đau đớn vì ghen tị. Lẽ ra phải là cô đang ngồi cạnh, an ủi cậu ấy.

Rachel Dare trông vẫn hơi run rẩy. Cô liếc nhìn Chiron phía sau xin một lời chỉ dẫn. Nhưng nhân mã vẫn đứng đấy, trông cay nghiệt và lặng lẽ, như thể ông đang xem một vở kịch mà ông không thể ngăn chặn, một bi kịch sẽ kết thúc với sân khấu đầy người chết.

“Ừm,” – Rachel nói, cố lấy lại bình tĩnh – “Vậy thì, phải, đó là Lời tiên tri Vĩ đại. Chúng ta hy vọng nó không xảy đến trong nhiều năm, nhưng tôi e rằng bây giờ nó đang bắt đầu. Tôi không thể trưng ra bằng chứng. Chỉ là một cảm giác. Và như Drew nói, những chuyện kì quặc đang diễn tiến. Bảy á thần, dù là ai đi nữa, họ chưa tập hợp đủ. Tôi cảm nhận được một vài người đang ở đây, đêm nay. Số khác thì không có mặt.”

Các trại viên bị kích thích và bắt đầu rầm rì bàn tán, nhìn nhau đầy lo lắng, cho đến khi một giọng ngái ngủ vọng ra từ đám đông:

“Tớ đây! Ôi, … đang điểm danh hả?”

“Ngủ tiếp đi, Clovis.” – ai đó hét lên, nhiều người khác thì cười ầm.

“Dù sao thì,” – Rachel tiếp tục – “Chúng ta không biết ý nghĩa của Lời tiên tri Vĩ đại. Chúng ta không biết thử thách các á thần phải đối mặt, nhưng từ Lời tiên tri Vĩ đại đầu tiên dự đoán trận chiến Titan, chúng ta có thể đoán Lời tiên tri Vĩ đại thứ hai sẽ dự báo điều gì đó ít nhất cũng tệ hại tương tự.”

“Hoặc tệ hơn,” – Chiron lẩm bẩm

Có lẽ ông không có ý để mọi người nghe, nhưng họ đã nghe. Lửa trại lập tức chuyển thành màu tím u tối, giống trong giấc mơ của Piper.

“Những gì chúng ta biết,” – Rachel nói – “chính là giai đoạn đầu đã khởi động. Một vấn đề lớn đang phát sinh, và chúng ta cần một cuộc tìm kiếm để giải quyết nó. Hera, nữ hoàng của các thần, đã bị bắt.”

Xé toạc sự im lặng. Năm mươi á thần cùng lúc lên tiếng.

Chiron giẫm vó lần nữa, nhưng Rachel vẫn đợi cho đến khi cô lấy lại sự tập trung của họ.

Cô kể về chuyện đã xảy ra trên hành lang không trung ở Hẻm Núi Lớn, Gleeson Hedge đã hy sinh khi các Hồn bão tập kích, và chúng cảnh báo đó chỉ là sự khởi đầu. Chúng rõ ràng phục vụ cho một vài chủ nhân vĩ đại nào đó, kẻ sẽ hủy diệt tất cả á thần.

Rồi Rachel kể về những trải nghiệm của Piper tại Trại Hera. Piper cố điều khiển biểu cảm của mình, ngay cả khi cô thấy Drew, ngồi ở hàng ghế phía sau, đang làm ra vẻ kinh tởm và đám bạn cô ta thì cười rúc rích. Cuối cùng, Rachel kể về điềm báo của Jason trong phòng khách của Nhà lớn. Tin nhắn từ Hera giống đến nỗi làm Piper cảm thấy ớn lạnh. Khác biệt duy nhất là: Hera cảnh báo Piper không được phản bội bà: Khuất phục ý chí của hắn, và vua của chúng sẽ nổi dậy, kết án tất cả. Hera biết về lời đe dọa của gã khổng lồ. Nhưng nếu đó là sự thật, tại sao bà ta không cảnh báo Jason, và vạch mặt Piper là gián điệp của kẻ thù?

“Jason,” – Rachel nói – “Ừm … cậu có nhớ họ của mình không?”

Trông cậu có vẻ đang nhận ra, nhưng cậu lắc đầu.

“Chúng tớ chỉ gọi cậu là Jason, và,” – Rachel nói – “Rõ ràng Hera đã giao nhiệm vụ tìm kiếm cho cậu.”

Rachel dừng lại, cứ như trao cho Jason một cơ hội phản kháng số mệnh. Ánh mắt mọi người đổ về phía cậu; có quá nhiều áp lực, Piper nghĩ cô sẽ gắn chặt mình vào vị trí của cậu ấy. Tuy nhiên, trông cậu rất can đảm và quả quyết. Cậu hất hàm mình và gật đầu: “Tôi đồng ý.”

“Cậu phải cứu Hera và ngăn chặn một con quỷ rất mạnh,” – Rachel tiếp tục – “Một thứ vua chúa nào đó đang nổi dậy. Vì vài lí do mà chúng tôi chưa hiểu hết, nó sẽ xảy ra vào đông chí, chỉ còn bốn ngày tính từ bây giờ.”

“Đó là ngày hội họp của các thần,” – Annabeth giải thích – “Nếu các thần không biết Hera đã biến mất, họ chắc chắn sẽ để ý đến sự vắng mặt cửa bà ấy. Họ ắt sẽ nổ ra tranh chấp, buộc tội lẫn nhau về việc ai đó đã mang bà ấy đi. Đó là chuyện họ thường làm mà.”

“Đông chí,” – Chiron lên tiếng – “ cũng là thời gian đen tối nhất, Các thần tập hợp lại vào ngày đó, giống như con người vẫn làm, vì như thế sức mạnh sẽ nhân lên. Điểm chí là ngày mà phép thuật ma quỷ rất mạnh, những phép thuật cổ đại, xa xưa hơn các vị thần. Đó là ngày mọi thứ … chuyển dời.”

Theo cách mà ông nói, sự chuyển dời nghe có vẻ chắc chắn là rất tai họa, giống như nó là một tội ác bậc nhất, không như việc bạn nhồi bột làm bánh quy.

“Ok,” – Annabeth nói, liếc nhìn nhân mã – “Cảm ơn bác, Thủ lĩnh Ánh sáng. Dù chuyện gì đang diễn ra, tớ đồng ý với Rachel. Jason sẽ được chọn dẫn đầu cuộc tìm kiến này, nên …”

“Tại sao chưa được xác nhận?” – ai đó hét lên từ Trại Ares – “Nếu cậu ta quan trọng đến thế …”

“Cậu ta đã được xác nhận,” – Chiron tuyên bố – “Cách đây rất lâu. Jason, cho họ xem bằng chứng.”

Thoạt đầu, Jason trông dường như không hiểu. Cậu bước tới đầy lo âu, nhưng Piper vẫn nghĩ trông cậu ta thật tuyệt với mái tóc vàng rực sáng trong ánh lửa bập bùng, đặc điểm vương giả đó của cậu trông như một bức tượng La Mã. Cậu đánh mắt sang Piper, cô gật đầu khích lệ. Cô bắt chước động tác búng đồng tiền.

Jason mò tay vào túi. Đồng tiền của cậu lóe sáng, khi cậu bắt gọn nó trong lòng bàn tay, nó đã là ngọn giáo bằng vàng dài bảy bộ có mũi nhọn ở đầu.

Những á thần khác trầm trồ. Rachel và Annabeth lùi lại, tránh mũi nhọn, trông nó có vẻ sắc hơn dùi đục đá.

“Đây không phải là …” – Annabeth lưỡng lự – “Tôi tưởng cậu có một thanh gươm.”

“Ừm, nó mọc thêm đuôi, chắc vậy.” – Jason nói – “Cùng một đồng vàng, một dạng vũ khí tầm xa.”

“Tuyệt, tớ muốn một cái!” – có người reo lên từ khu trại Ares.

“Tuyệt hơn lưỡi giáo điện của Clarisse, Lamer!” – một anh em khác tán thành.

“Điện,” – Jason lẩm bẩm, nghe như đó là một ý tưởng hay – “Lui lại.”

Annabeth và Rachel hiểu ngay thông điệp. Jason giơ cao ngọn giáo, chớp giật xé toang bầu trời. Mỗi sợi lông trên hai cánh tay Piper đều dựng đứng lên. Tia chớp giáng xuống ngọn giáo vàng và đánh trực tiếp vào đám lửa với sức mạnh như đạn tạc.

Khi đám khói tan dần, và khuyên tai của Piper ngừng rung rinh, toàn trại ngồi sững sờ, tầm nhìn bị tro phủ mù mịt, họ nhìn chằm chằm vào đám lửa. Gỉ than trút xuống như mưa. Một mẩu còn cháy văng đến chỗ cách Clovis đang ngủ gục chừng vài inch, nó thậm chí không hề nhúc nhích.

Jason hạ thấp giáo: “Ờ … xin lỗi.”

Chiron phủi gỉ thhan trên râu. Ông nhăn nhó như thể điều đáng lo sợ nhất của ông đã được xác nhận:

“Hơi phá hoại, có lẽ vậy, nhưng cháu đã chứng tỏ mình. Và ta tin chúng ta biết cha cháu là ai rồi.”

“Jupiter,” – Jason tiếp lời ông – “Ý cháu là, Zeus, Chúa tể bầu trời.”

Piper không thể không mỉm cười. Một suy đoán hoàn hảo. Vị thần quyền năng nhất, cha của tất cả anh hùng vĩ đại nhất trong thần thoại cổ, còn ai khác có thể là cha Jason chứ.

Số trại viên còn lại rõ ràng không tin chắc vào điều đó. Mọi người bắt đầu ồn ào, hàng tá người đặt câu hỏi cho đến khi Annabeth giơ tay lên.

“Đợi đã!” – cô nói – “Sao cậu ấy có thể là con của Zeus? Bộ ba Vĩ đại … hiệp ước giữa họ về việc không sinh con với người thường … Làm thế nào chúng ta không biết đến cậu ấy sớm hơn?”

Chiron không trả lời, nhưng Piper cảm giác ông ấy biết. Và sự thật thì không hay ho gì.

“Quan trọng là,” – Rachel nói – “Jason ở ngay đây. Cậu ấy phải thực hiện một cuộc tìm kiếm, nghĩa là cậu ấy cần lời tiên tri cho riêng mình.”

Cô nhắm mắt và ngất đi. Hai trại viên vội đến đỡ cô. Người thứ ba chạy đến hàng ghế khán giả thứ ba, chộp nhanh cái ghế đẩu ba chân, trông như họ đã được huấn luyện cho nhiệm vụ tương tự. Họ ấn Rachel vào ghế đẩu, đặt trước lò sưởi đã hỏng. Không có lửa, đêm tối mịt, nhưng khói xanh bắt đầu cuộn quanh chân Rachel. Khi cô mở mắt, chúng phát sáng. Làn khói màu ngọc lục bảo tỏa ra từ miệng cô. Giọng nói the thé trong cổ họng, nghe rất cổ kính, là thứ âm thanh của loài rắn nếu như chúng nói chuyện được:

“Đứa trẻ của thần sét, hãy trông chừng mặt đất, Sự báo thù của gã khổng lồ thứ bảy sẽ trùng sinh, Lò rèn và chim câu sẽ sổ lồng, Và tử vong sẽ phát tán thông qua cơn thịnh nộ của Hera.”

Nói xong câu cuối, Rachel đổ ập xuống, nhưng những người giúp việc đã đợi tóm được cô. Họ mang cô tránh xa lò sưởi, đặt cô ở một góc để nghỉ ngơi.

“Chuyện này là thường sao?” – Piper hỏi, rồi cô nhận ra mình đang nói trong lúc quá tĩnh lặng, mọi người đang nhìn cô – “Ý tôi là … cậu ấy vẫn phun khói xanh nhiều vậy hả?”

“Thần ơi, cậu thật là đầu đặc!” – Drew cười nhạo – “Cậu ấy vừa ban lời tiên tri, lời tiên tri dành cho Jason để cứu Hera! Tại sao cậu không …”

“Drew,” – Annabeth ngắt lời – “Piper chỉ hỏi câu hỏi hợp lý. Có gì đó về lời tiên tri chắc chắn không được bình thường. Nếu cứu thoát Hera sẽ giải phóng cơn thịnh nộ và tạo nên chết chóc … tại sao chúng ta phải cứu bà ấy? Đây ắt hẳn là cái bẫy, hoặc … hoặc có lẽ Hera sẽ căm thù những người cứu mình. Bà ta chẳng bao giờ tử tế với các anh hùng.”

Jason lên tiếng: “Tôi không có nhiều chọn lựa. Hera đã lấy ký ức của tôi. Và tôi muốn nó trở lại. Bên cạnh đó, chúng ta không thể không cứu nữ hoàng của thiên đàng nếu bà ta đang gặp rắc rối.”

Một cô gái của trại Hephaestus đứng lên, Nyssa, người đeo băng quấn đầu màu đỏ: “Có lẽ vậy. Nhưng cậu nên nghe lời Annabeth. Hera có thể đầy lòng căm thù. Bà ấy đã ném con trai mình, cha chúng tôi, xuống vách núi chỉ vì ông xấu xí.”

“Quá xấu,” – ai đó trong trại Aphrodite cười khúc khích.

“Câm ngay!” – Nyssa gầm gừ – “Dù sao thì, chúng ta cũng nên nghĩ một chút, tại sao phải cảnh giác với mặt đất? Và sự báo thù của gã khổng lồ là gì? Ở đây chúng ta có ai đối phó được với kẻ đủ quyền năng bắt cóc được cả nữ hoàng của thiên đàng?”

Không ai giải đáp, nhưng Piper chú ý thấy Annabeth và Chiron trao đổi ánh mắt trong im lặng. Piper nghĩ nó có nghĩa là:

Annabeth: Sự báo thù của những tên khổng lồ … không, không thể.

Chiron: Đừng nói vào lúc này. Đừng làm họ sợ.

Annabeth: Bác đang đùa cháu! Chúng ta không thể xui xẻo vậy.

Chiron: Để sau, cháu gái. Nếu cháu kể với họ mọi thứ, họ sẽ rất kinh hoàng.

Piper biết mình thật điên khi nghĩ bản thân đọc được suy nghĩ của họ, hai con người cô gần như không quen biết. Nhưng cô chắc chắn mình hoàn toàn hiểu họ, và nỗi sợ lây lan qua cả cô.

Annabeth hít thở sâu.

“Đó là nhiệm vụ của Jason.” – cô tuyên bố – “Nên do Jason lựa chọn. Quá rõ ràng, cậu ấy là đứa trẻ của thần sét. Theo thông lệ, cậu có thể chọn bất kỳ hai người bạn đồng hành.”

Ai đó từ trại Hermes reo to: “Ồ, cậu chắc chắn rồi, Annabeth. Cậu có kinh nghiệm nhất.”

“Không, Travis,” – Annabeth nói – “Đầu tiên, tớ không giúp Hera. Mỗi lần tớ cố thử, bà ta lại lừa tớ, hoặc sẽ cắn trả tớ sau này. Quên đi. Không đời nào. Thứ nữa, tớ sẽ lên đường ngay vào sáng sớm để tìm Percy.”

“Chúng có liên quan.” – Piper buộc miệng, không rõ sao mình can đảm như vậy – “Cậu biết mà, phải không? Toàn bộ chuyện này, với sự kiện anh bạn trai cậu mất tích, có mối quan hệ.”

“Như thế nào?” – Drew hỏi vặn – “Nếu cậu thông minh thế, thì liên quan thế nào?”

Piper cố nặn ra một đáp án, nhưng cô không thể.

Annabeth đỡ lời: “Có lẽ cậu đúng, Piper. Nếu có mối quan hệ, tớ sẽ tìm hiểu bằng khía cạnh khác, bằng việc tìm ra Percy. Như tớ nói, tớ không chạy quanh để cứu Hera, thậm chí sự mất tích của bà ta đặt các thần Olympus vào cuộc chiến lần nữa. Nhưng còn lí do khác mà tớ không thể đi. Lời tiên tri nhắc đến những lựa chọn khác.”

“Nó chỉ định người tôi phải chọn,” – Jason đồng ý – “Lò rèn và chim câu sẽ xổ lồng. Lò rèn là biểu tượng của Vul … Hephaestus.”

Dưới băng rôn của Cabin 9, vai Nyssa rủ xuống, cứ như cô vừa vác một cái đe nặng nề.

“Nếu cậu phải cảnh giác với mặt đất,” – cô nói – “cậu nên tránh đi lại bằng đường bộ. Cậu cần một phương tiện trên không.”

Piper suýt nữa thốt ra rằng Jason có thể bay. Nhưng sau đó cô đổi ý. Điều đó phải do Jason kể với họ, và cậu thì không tình nguyện chia sẻ thông tin. Có lẽ cậu hình dung được mình đã dọa họ quá đủ trong tối nay rồi.

“Cỗ xe ngựa bay đã hỏng,” – Nyssa tiếp tục – “và các con ngựa, chúng tôi dùng nó trong việc tìm kiếm Percy. Nhưng có lẽ trại Hephaestus sẽ cố giúp tạo ra thứ gi đó hữu dụng. Jake đành bất lực, tôi là trại viên năm cuối. Tôi tình nguyện tham gia hành trình.”

Giọng cô không có vẻ phấn khích.

Rồi Leo bật dậy. Cậu ta đã quá im lặng đế nỗi Piper suýt quên cậu ta ở ngay đó, hoàn toàn chẳng giống Leo.

“Là tớ.” – Cậu nói.

Trại viên cùng trại với cậu ta xì xầm. Vài người cố kéo cậu trở lại ghế ngồi, nhưng cậu phản kháng.

“Không, phải là tớ. Tớ biết mà. Tớ có một ý tưởng cho vấn đề phương tiện. Để tớ thử, có thể sửa lại nó!”

Jason ngắm nghía cậu ta một lúc. Piper chắc rằng cậu sẽ nói không với Leo. Nhưng cậu chỉ cười:

“Chúng ta đã bắt đầu chuyện này với nhau, Leo. Dường như chỉ đúng đắn khi có cậu theo cùng. Cậu tìm ra thứ để cưỡi, cậu được nhận.”

“Ừ!” – Leo đập nắm tay mình.

“Sẽ rất nguy hiểm.” – Nyssa cảnh báo – “Khó khăn, quái vật, những nỗi đau khủng khiếp. Có khả năng không ai trong các cậu còn sống sót mà về đây.”

“Ò.” – đột nhiên Leo trông kém hào hứng, rồi cậu nhận ra mọi người đang nhìn mình – “Ý tớ …ồ, tuyệt! Đau đớn? Tớ yêu chúng! Cứ làm thôi.”

Annabeth gật đầu: “Vậy, Jason, cậu cần chọn thành viên thứ ba. Chim bồ câu …”

“Ồ, chắc chắn rồi!” – Drew đứng lên và ném cho Jason nụ cười – “Chim câu là Aphrodite. Mọi người đều biết. Tớ hoàn toàn thuộc về cậu.”

Tay Piper siết chặt lại. Cô bước tới: “Không.”

Drew đảo mắt: “Ôi, làm ơn, cô nàng thảm hại, lùi lại đi.”

“Tôi có một giấc mơ từ Hera; không phải cậu. Tôi phải thực hiện.”

“Ai mà chẳng nằm mơ.” – Drew nói – “Cậu chỉ ở đúng nơi vào đúng lúc thôi.”

Cô ta quay lại với Jason.

“Thôi nào, tớ nghĩ, chiến đấu cũng được. Và ai đó thích chế tạo mọi thứ …” – Cô ta liếc Leo khinh bỉ: “Ừm, ai đó với đôi bàn tay dơ bẩn. Nhưng cậu cần thêm sự quyến rũ. Tớ thì rất giỏi thuyết phục. Tớ có thể giúp nhiều đấy.”

Các trại viên bàn tán về khả năng thuyết phục tuyệt vời của Drew. Piper có thể thấy Drew đang thắng thế. Ngay cả Chiron cũng đang chải bộ râu của mình, cứ như sự tham gia của Drew bất ngờ trở thành điều hợp lý.

“Được …” – Annabeth nói – “Theo gợi ý trong lời tiên tri…”

“Không!” – giọng Piper lạ lùng với chính cô ấy, kiên quyết hơn, trầm hơn – “Lẽ ra phải là tôi đi.”

Và rồi điều kỳ lạ nhất đã diễn ra. Mọi người bắt đầu gật gù, lẩm bẩm rằng ý kiến của Piper cũng hợp lý. Drew nhìn quanh, hoài nghi. Thậm chí trại viên cùng trại của cô ta cũng gật đầu.

“Quên đi!” – Drew cắt ngang đám đông – “Piper làm được gì chứ?”

Piper cố trì hoãn, nhưng sự tự tin của cô bắt đầu lung lay. Cô có thể làm gì? Cô không phải một chiến binh, hoặc một chuyên gia sách lược, hay thợ sửa chữa. Cô không có kỹ năng gì trừ việc hay nhảy vào rắc rối và thỉnh thoảng thuyết phục mọi người làm những điều ngu ngốc.

Thêm nữa, cô là kẻ dối trá. Cô muốn tham gia nhiệm vụ vì sẽ tránh xa Jason, và nếu cô được đi, cô sẽ chấm dứt việc phản bội mọi người. Cô nghe giọng nói trong giấc mơ: Thực hiện mệnh lệnh, và mày được sống. Làm sao cô có thể lựa chọn, giữa việc giúp bố mình và giúp Jason?

“Được rồi,” – Drew tự mãn – “Tôi nghĩ chuyện đã xong.”

Bỗng dưng mọi người cùng thở hổn hển. Mọi người chăm chăm nhìn Piper cứ như cô ấy đang phát nổ. Cô thắc mắc phải chăng mình đã làm gì sai. Rồi cô nhận ra có vòng sáng màu hung đỏ bao quanh mình.

“Gì?” – Cô hỏi.

Cô ngước nhìn lên, nhưng không có ký hiệu phát sáng giống cái của Leo. Và cô cúi xuống, rít lên.

Quần áo của cô … cô đang mặc cái quái gì ấy? Cô ghê tởm những chiếc đầm. Cô không bao giờ mua đầm. Nhưng hiện tại cô đang lộng lẫy trong một chiếc áo không tay màu trắng xinh đẹp, nó phủ dài đến tận mắt cá, cổ chữ V khoét sâu một cách ngượng ngùng. Bao tay bằng vàng mềm mại quấn quanh bắp tay. Vòng cổ tinh tế được làm từ hổ phách, san hô và hoa vàng lấp lánh trên cổ, còn mái tóc …

“Ôi, trời,” – cô thốt lên – “Chuyện gì đây?”

Annabeth kinh ngạc trỏ vào con dao của Piper, bây giờ nó lấp lánh và trơn bóng như thoa dầu, được đeo bên hông bằng một sợi thừng nhỏ bằng vàng. Piper không muốn rút nó ra. Cô sợ những gì sẽ thấy. Nhưng tính tò mò chiến thắng. Cô rút con dao Katoptris ra, nhìn chằm chằm hình ảnh phản chiếu của mình trong lưỡi dao. Mái tóc hoàn hảo: dầy và dài màu nâu chocolate, buộc bằng ruy băng màu vàng, thả dọc suôi theo một bên vài. Thậm chí cô còn được trang điểm, trông đẹp hơn một Piper chưa từng biết làm thể nào tự chạm vào mình đủ khéo léo để vẽ ra cánh môi anh đào cùng tất cả màu sắc khác trên đôi mắt.

Cô ấy … cô ấy …

“Đẹp,” – Jason kêu lên – “Piper, cậu … cậu thật say đắm.”

Trong những hoàn cảnh khác, đó sẽ là khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cuộc đời cô. Nhưng hiện giờ mọi người đang nhìn chằm chằm cô cứ như cô là sinh vật lạ. Gương mặt Drew tràn đầy nét kinh dị và ghê tởm.

“Không!” – cô ta bật khóc – “Không thể nào!”

“Đây không phải tôi,” – Piper phản đối – “Tôi không hiểu.”

Nhân mã Chiron hạ hai chi trước xuống và cúi chào cô. Tất cả trại viên đều làm theo.

“Hoan nghênh, Piper McLean,” – Chiron tuyên bố bằng giọng trang nghiêm, như thể ông đang diễn thuyết tại đám tang của cô vậy – “Con gái Aphrodite, quý bà của sự hòa bình, nữ thần Tình yêu.”

(1): Bánh kẹp kẹo dẻo và chocolate, đem nướng lên, món ăn truyền thống của đêm lửa trại ở Mỹ va Canada.

The Lost Hero – Chapter XI

The Lost Hero

Rick Riordan

Người dịch: Michelle Yip/Diệp

Chapter XI

Leo

Leo không ngồi lại chờ đợi sau sự kiện Piper trở nên xinh đẹp. Chắc chắn, đó vốn là một điều đáng ngạc nhiên. Cô ấy trang điểm! Một phép màu! Nhưng Leo có vấn đề khác cần giải quyết. Cậu lẩn ra khỏi dãy ghế khán giả, chạy biến vào bóng tối, tự hỏi không biết mình đang vướn vào điều gì.

Cậu đứng lên trước đám đông các á thần mạnh hơn, dũng cảm hơn, và xung phong. Cậu xung phong cho một nhiệm vụ có lẽ sẽ hại chết bản thân.

Cậu không nhắc đến chuyện đã thấy Tia Callida, bà bảo mẫu cũ. Nhưng ngay khi cậu nghe kể về điềm báo của Jason, một quý bà mặc bộ đầm đen và choàng khăn, Leo biết họ cùng một người. Bà bảo mẫu ma quỷ của cậu chính là nữ hoàng trong các vị thần. Những chuyện như thế thực sự có thể “rán chín” não bạn.

Cậu lê bước về phía khu rừng, cố không nhớ về tuổi thơ của mình, tất cả những thứ rối ren đã dẫn đến cái chết của mẹ cậu. Nhưng cậu không biết phải làm cách nào ngăn dòng hồi tưởng.

—-

Tia Callida đã cố giết cậu. Tia Callida trông nom cậu khi mẹ đang làm việc ở xưởng máy. Bà ta không thực sự giống một bà cô, một bà già hàng xóm, chuyên giúp người ta trông trẻ. Bà ta có mùi như dăm bông nướng mật ong, và luôn mặc đầm quả phụ, choàng khăn đen.

“Hãy để cháu ta nằm nghỉ một lúc,” – bà ta thường bảo – “Coi nào, cháu là người hùng bé nhỏ của ta, phải không?”

Leo buồn ngủ. Bà quấn nó trong cái chăn và ấn nó xuống một khối màu đỏ vàng ấm áp, một cái gối thì phải? Cái giường trông như một hốc tường, được xây bằng gạch đen, có một khe kim loại ở trên đầu cùng cái lỗ vuông vắn, nhìn xuyên qua cậu có thể trông thấy những vì sao. Cậu nhớ cảm giác thoải mái đó, khi cậu giơ tay bắt lấy những đốm sáng trông như đom đóm. Cậu ngủ gà gật, mơ về một chiếc thuyền kết từ ngọn lửa, dương buồm băng qua than xỉ. Cậu tưởng tượng mình đang điều khiển bánh lái, lèo lái cả bầu trời. Đâu đó rất gần, Tia Callida ngồi trên một chiếc ghế bập bênh đang phát ra những tiếng cót két, cót két. Bà ta hát ru. Ngay cả khi mới hai tuổi, Leo đã biết tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha khác nhau. Và cậu nhớ rõ mình bối rối thế nào khi Tia Callida đang hát, nhưng không phải bằng hai thứ ngôn ngữ đó.

Mọi thứ đều tốt đẹp cho đến khi mẹ về. Bà thét lên, phóng qua giật lấy cậu bồng trên tay, hét vào mặt Tia Callida:

“Làm thế nào … ?”

Nhưng mỹ phụ lớn tuổi đã biến mất.

Leo nhớ rõ mình đã nhìn qua vai mẹ, thấy ngọn lửa đang cuộn quanh cái chăn của chính cậu. Chỉ mất vài năm sau nữa để cậu hiểu rằng, mình đã ngủ trong một cái lò rèn hừng hực lửa.

Điều kỳ lạ nhất là, Tia Callida không bị bắt giữ, thậm chí còn không bị tống ra khỏi nhà. Bà ta xuất hiện một vài lần nữa trong vài năm tiếp theo. Có một lần, khi Leo lên ba, bà ta để cậu chơi với những con dao.

“Cháu phải sớm quen với những lưỡi gươm,” – bà ta nhấn mạnh – “nếu cháu bắt buộc trở thành người hùng của ta vào một ngày nào đó.”

Leo cố gắng không tự giết mình, nhưng cậu có cảm giác rằng Tia Callida sẽ không thèm quan tâm nếu cậu có làm chuyện như vậy.

Năm Leo lên bốn, Tia tìm cho cậu một con rắn chuông ở gần bãi cỏ gia súc. Bà đưa cậu một cây gậy và khuyến khích cậu chọc phá con vật:

“Sự dũng cảm của cháu đâu, tiểu anh hùng? Hãy cho ta thấy Số mệnh đã đúng khi chọn cháu.”

Leo nhìn chằm chằm đôi mắt màu hổ phách, nghe thấy tiếng xì xì khô ran của con rắn. Cậu không thể nhấc chân đến gần để chọt vào con rắn. Có vẻ không công bằng. Rõ ràng con rắn cũng cảm thấy như thế về việc đớp một thằng bé. Leo thề rằng con rắn đã nhìn Tia Callida như thể đang thách: Bà can đảm không, thưa quý bà? Rồi nó mất hút vào bụi cỏ.

Lần cuối cùng bà ta trông nom Leo, cậu được năm tuổi. Bà mang cho cậu một họp bút chì màu và một tập giấy. Họ ngồi cùng nhau tại bàn picnic phía sau khu căn hộ, dưới những tán hồ đào cổ thụ. Trong khi Tia Callida hát bài hát kì quặc của bà ta, Leo đã vẽ một bức tranh, bức tranh hình con thuyền bằng lửa cậu từng nhìn thấy, cánh buồm nhiều màu sắc và hai hàng mái chèo, đuôi thuyền cong đính một ngọn cờ tuyệt đẹp. Khi cậu vẽ gần xong, đặt bút kí tên mình theo cái cách được học ở trường mẫu giáo, cơn gió thổi phăng bức tranh. Nó bay lên trời và biến mất.

Leo muốn khóc. Cậu đã tốn rất nhiều thời gian vẽ bức tranh. Nhưng Tia Callida chỉ nấc lên một tiếng với vẻ thất vọng:

“Chưa phải lúc, tiểu anh hùng. Một ngày nào đó, cháu sẽ có chuyến hành trình của riêng mình. Cháu phải tìm thấy định mệnh bản thân, và cuộc phiêu lưu gian nan đó sẽ kết thúc rất ý nghĩa. Nhưng trước hết, cháu phải đối mặt với những nỗi đau. Ta thấy tiếc về điều đó, nhưng các anh hùng không có con đường khác. Bây giờ, hãy tạo một ngọn cho ta, ừm, để xem nào? Hãy Sưởi ấm những bộ xương già cỗi này.”

Vài phút sau, mẹ Leo bước ra và thét lên kinh hãi. Tia Callida đã đi mất, nhưng Leo ngồi giữa một đám cháy ngùn ngụt khói. Tập giấy đã ra tro. Hộp chì màu tan chảy thành những vũng bọt nhiều màu. Và tay Leo thì đang bốc cháy, đốt xuyên qua cái bàn một cách từ từ. Nhiều năm sau, mọi người trong khu chung cư sẽ tự hỏi: ai đó bằng cách nào đã khoan cháy mặt bàn bằng gỗ cứng dày đến một inch, để lại dấu ấn bàn tay của đứa trẻ năm tuổi thật ấn tượng.

Hiện tại Leo chắc chắn rằng Tia Callida, bà giữ trẻ tâm thần của mình, chính là Hera. Điều đó có nghĩa là, sao chứ, bà nội thần thánh à? Gia đình cậu thậm chí còn lộn xộn rối rắm hơn cả bản thân cậu.

Cậu thắc mắc, có lẽ mẹ biết sự thật. Leo còn nhớ, sau chuyến viếng thăm lần cuối đó, mẹ đã đưa cậu vào nhà và nói chuyện rất lâu, nhưng cậu chỉ hiểu được một chút.

“Bà ta không thể quay lại nữa.”

Mẹ có một gương mặt xinh đẹp với đôi mắt dịu dàng, mái tóc dợn màu đen thẳm, nhưng bà trông già hơn tuổi vì lao động vất vả. Viền thâm quanh mắt bà hằn sâu. Đôi tay bà chai sần. Bà là người đầu tiên trong gia đình tốt nghiệp đại học. Bà có bằng kỹ sư cơ khí và có thể thiết kế, sửa chữa, chế tạo mọi thứ.

Không ai thuê bà. Không một công ty nào xem xét việc tuyển bà một cách nghiêm túc. Vậy nên bà kết thúc công cuộc tìm việc trong một cửa hàng máy móc, cố gắng kiếm đủ tiền nuôi sống cả hai. Bà luôn bốc mùi dầu máy. Và khi trò chuyện với Leo, bà thường xen kẻ giữa tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh, dùng chúng như mấy thứ công cụ bổ sung lẫn nhau. Phải mất vài năm để Leo nhận ra rằng chẳng ai nói chuyện theo cách đó cả. Bà thậm chí còn dạy cậu mã Morse như một trò chơi. Vì vậy, họ có thể truyền tin nhắn cho nhau khi ở hai căn phòng khác nhau: Mẹ yêu con. Con ổn chứ? Những câu đại loại như thế.

“Mẹ mặc kệ Callida nói gì,” – mẹ cậu bảo – “Mẹ không quan tâm về vận mạng và Số mệnh. Con còn quá nhỏ để hiểu điều đó. Con luôn là cậu bé của mẹ, mijo.”

Bà nắm tay cậu, tìm kiếm dấu vết bị bỏng, nhưng tất nhiên không hề có:

“Leo, nghe mẹ đây. Lửa là một công cụ, giống những thứ khác, nhưng nó nguy hiểm hơn cả thứ nguy hiểm nhất. Con không biết được những giới hạn của mình. Xin con, hãy hứa với mẹ, không chơi lửa thêm lần nào nữa, cho đến khi con gặp cha mình. Một ngày nào đó, con sẽ gặp ông ấy. Ông sẽ giải thích tất cả.”

Leo đã nghe điều đó kể từ khi cậu có thể ghi nhớ. Một này nào đó cậu sẽ gặp cha. Mẹ cậu không trả lời bất kỳ câu hỏi nào về ông, chưa từng thấy những tấm ảnh. Nhưng bà nói như thể ông chỉ đến cửa hàng tạp hóa mua ít sữa rồi quay lại trong vài phút. Leo cố gắng tin bà. Một ngày nào đó, mọi thứ sẽ rõ ràng.

Thêm vài năm nữa, họ đã sống rất vui vẻ. Leo gần như quên bẵng câu chuyện về Tia Callida. Cậu vẫn mơ về con tàu bay, nhưng các sự kiện kỳ quặc gần như chỉ là một giấc mơ.

Tất cả quá khứ đều lùi xa khi cậu lên tám. Bởi vì ngay sau đó, cậu được ở hàng giờ tự do trong xưởng máy với mẹ. Cậu biết cách vận hành máy móc. Cậu có thể đo đạc và tính toán tốt hơn hầu hết mọi người lớn. Cậu học về không gian ba chiều, nghĩ cách gỡ rối những vấn đề liên quan đến cơ khí theo cách mẹ cậu hay làm.

Một đêm nọ, họ ở lại xưởng muộn vì mẹ phải hoàn tất bản thiết kế một mũi khoan mà bà hy vọng sẽ lấy được bằng sáng chế. Nếu bà bán được mẫu thử nghiệm, nó sẽ thay đổi cuộc sống của họ. Cuối cùng, bà muốn nghỉ ngơi một chút.

Khi bà làm việc, Leo bên cạnh phụ giúp và kể những câu chuyện cười, cố phấn chấn tinh thần mẹ. Cậu yêu thích những lúc làm bà bật cười. Bà cười và nói:

“Cha con sẽ tự hào về con, mijo(1). Con sẽ sớm gặp ông ấy, mẹ bảo đảm.”

Không gian làm việc của mẹ nằm phía sau cửa hàng máy móc. Đêm thật đáng sợ, bởi chỉ còn họ ở đó. Mỗi tiếng vọng đều văng vẳng trong cái kho tối om, nhưng Leo không để ý, miễn là cậu luôn bên cạnh mẹ. Nếu cậu lang thang trong cửa hàng, họ vẫn giữ được liên lạc thông qua cách gõ mã Morse. Bất cứ khi nào họ cũng sẵn sàng rời khỏi đó, họ phải băng qua lối vào cửa hàng, xuyên ngang phòng nghỉ và ra tới nơi đỗ xe, khóa hết những cánh cửa.

Đêm đó sau khi hoàn tất công việc, họ dừng lại ở phòng nghỉ khi mẹ cậu phát hiện bà để quên chìa khóa.

“Hài hước thật. – bà chau mày – “Mẹ nghĩ mẹ đã cất nó. Đợi đây nhé, mijo. Mẹ chỉ đi một phút thôi.”

Bà nở nụ cười với cậu, nụ cười cuối cùng cậu nhìn thấy, và bà trở lại nhà kho.

Bà chỉ vừa đi với thời gian ngắn ngủi bằng vài nhịp tim đập khi cửa trong đóng sầm lại. Sau đó, cửa ngoài cũng tự khóa.

“Mẹ?” – tim Leo đánh trống. Một thứ gì đó rất nặng đổ vỡ bên trong nhà kho. Cậu chạy về phía cửa, nhưng không cách nào mở được nó, dù cậu kéo hay đá vào nó.

“Mẹ!” – cậu gõ mã tin nhắn lên tường một cách điên cuồng: Mẹ ổn chứ?

“Cô ta không thể nghe được,” – một giọng nói cất lên.

Leo quay người lại và phát hiện mình đang đối mặt với một người phụ nữ kì lạ. Thoạt tiên, cậu nghĩ ngay đó là Tia Callida. Bà ta trùm kín trong bộ áo choàng đen, với một tấm mạn che mặt.

“Tia?” – cậu hỏi.

Người phụ nữ cười khúc khích, một thanh âm chậm rải từ tốn, như thể bà ta đang buồn ngủ:

“Ta không phải người giám hộ của ngươi. Chỉ đơn giản là một thành viên tương tự trong gia đình.”

“Bà … bà muốn gì? Mẹ tôi đâu?”

“À … rất trung thành với mẹ ngươi. Thật tử tế. Nhưng ngươi thấy đó, ta cũng có những đứa con … và ta biết ngươi sẽ chống lại chúng vào một ngày nào đó. Khi chúng cố đánh thức ta, ngươi sẽ ngăn cản chúng. Ta không cho phép điều đó xảy ra.”

“Tôi không biết bà. Tôi không muốn chống lại ai hết.”

Bà ta lẩm bẩm cứ như kẻ mộng du: “Một lựa chọn khôn ngoan.”

Rùng mình một cái, Leo nhận ra người phụ nữ đó, thực sự đang ngủ. Ẩn đằng sau tấm mạn che, đôi mắt bà ta khép chặt. Tuy nhiên, kì lạ hơn cả: quần áo của bà ta không may bằng vải. Chúng được tạo ra từ đất, bùn đen khô ráo, chúng cuộn lại và quấn quanh bà ta. Khuôn mặt xanh xao, ngáy ngủ của bà hầu như khó nhận biết từ sau màn bụi mù. Và cậu có cảm giác ghê rợn rằng, bà ấy vừa sống lại từ một ngôi mộ. Nếu người phụ nữ đó đã ngủ, Leo muốn bà ta cứ ở yên đó. Cậu biết nếu thức tỉnh hoàn toàn, bà ta thậm chí còn đáng sợ hơn.

“Ta chưa thể tiêu diệt ngươi,” – người phụ nữ thì thầm – “Những nữ thần Số mệnh không cho phép. Nhưng chúng không bảo vệ mẹ ngươi, chúng không thể ngăn ta bẻ gãy tinh thần ngươi. Hãy nhớ kĩ đêm nay, tiểu anh hùng ạ, khi mà chúng bảo ngươi chống lại ta.”

“Để mẹ tôi yên!” – nỗi sự hãi trong tiếng thét cứ tăng dần nơi cổ họng cậu, khi người phụ nữ bước tới. Cách bà ta di chuyển giống một trận tuyết lở hơn là một con người bước đi, một bức tường đất đen ngòm dịch chuyển về phía cậu.

“Ngươi ngăn ta bằng cách nào?” – bà ta thì thầm.

Bà ta đi xuyên qua cái bàn, từng tế bào trên cơ thể gắn với phần phía bên kia.

Bà ta hiện ra lờ mờ trước mặt Leo. Cậu biết bà ấy sẽ xuyên qua cả mình. Cậu là điều duy nhất chắn giữa bà ta và mẹ.

Đôi tay cậu bùng lên ngọn lửa.

Nụ cười gà gật nở rộ trên gương mặt bà ta, cứ như bà ấy đã thắng. Leo hét lên trong tuyệt vọng. Tầm nhìn của cậu chìm trong màu đỏ. Ngọn lửa rủ sạch đất trên cơ thể người phụ nữ, trên tường và trên cánh cửa bị khóa. Thế rồi Leo đã mất ý thức.

Khi cậu tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên xe cứu thương.

Chuyên viên y tế cố dịu dàng. Cô ta kể cậu nằm trong nhà kho bị hỏa hoạn. Mẹ cậu không thể thoát. Chuyên viên y tế bảo rất tiếc. Nhưng Leo cảm giác trống rỗng. Cậu đã mất kiểm soát, giống những gì mẹ đã cảnh báo. Cái chết của bà là lỗi do cậu.

Chẳng bao lâu, cảnh sát đến đón cậu. Họ chẳng mấy tử tế. Ngọn lửa bắt nguồn từ phòng nghỉ, họ nói vậy, ngay nơi Leo đứng. Cậu sống sót bởi một phép màu nào đó, nhưng loại con cái nào lại khóa cửa nơi làm việc của mẹ nó, khi biết mẹ nó vẫn còn bên trong, và phóng hỏa?

Sau đó, hàng xóm trong chung cư bảo với cảnh sát, cậu là đứa trẻ kì lạ. Họ kể về vết cháy hình bàn tay trên cái bàn dã ngoại. Họ luôn biết có điều gì đó kì quặc về đứa con của Esperanza Valdez.

Họ hàng không nhận nuôi cậu. Dì Rosa gọi cậu là đứa trẻ ma quỷ và hét vào mặt nhân viên xã hội, bắt họ đưa cậu đi ngay. Vì vậy, Leo được mang đến gia đình đầu tiên nuôi dưỡng cậu. Một vài ngày sau, họ bỏ chạy. Vài gia đình sau đó cũng không trụ được lâu hơn. Cậu phá phách trêu đùa, kết bạn, giả vờ như không có gì phiền lòng mình được, nhưng cậu luôn kết thúc bằng việc trốn chạy loanh quanh. Đó là điều duy nhất khiến nỗi đau vơi đi, làm cậu cảm giác như được di chuyển, tránh thật xa, thật xa đống tro tàn ở xưởng máy.

Cậu tự hứa với bản thân sẽ không bao giờ chơi lửa lần nữa. Từ rất lâu rồi, cậu không còn nghĩ về Tia Callida, hoặc người phụ nữ gà gật trùm tấm áo choàng bằng đất bùn.

Cậu gần như đang ở trong rừng khi cậu hình dung được giọng Tia Callida: Không phải lỗi của cháu, tiểu anh hùng. Kẻ thù của chúng ta đã thức giấc. Đến lúc ngừng trốn chạy rồi.

“Hera,” – Leo thì thầm – “bà không có ở đây, đúng chứ? Bà đang nằm trong một cái lồng ở đâu đó.”

Không có câu trả lời.

Nhưng bây giờ, ít nhất, Leo đã hiểu một vài chuyện. Hera đã theo dõi cuộc sống của cậu suốt thời gian. Bằng cách nào đó, bà ta biết sẽ có ngày bà cần cậu. Có lẽ chính là các Nữ thần Số mệnh mà bà từng kể, họ có thể nhìn thấy tương lai. Leo không chắc lắm. Nhưng cậu biết mình đã tham gia vào nhiệm vụ này. Lời tiên tri của Jason cảnh báo phải cẩn thận mặt đất. Leo hiểu điều này nghĩa là cậu phải làm gì đó với người phụ nữ gà gật trong xưởng máy năm nào, người được trùm kín trong một tấm áo choàng cố kết từ bùn đất.

Cháu sẽ tìm thấy định mệnh của mình, Tia Callida đã hứa như thế, và chuyến phiêu lưu đầy cam go của cháu rồi sẽ kết thúc rất ý nghĩa.

Leo có thể sẽ tìm được ý nghĩa về con tàu biết bay trong những giấc mơ của mình. Cậu sẽ gặp cha, hoặc thậm chí báo thù cho cái chết của mẹ.

Nhưng điều đầu tiên nhất, cậu đã hứa với Jason về một chuyến đi bằng đường không, một chuyến bay.

Không phải con thuyền trong những giấc mơ của cậu, chưa phải nó. Không đủ thời gian chế tạo một thứ gì quá phức tạp. Cậu cần phương pháp giải quyết nhanh hơn. Cậu cần một con rồng.

Cậu đứng do dự ngoài bìa rừng, nhìn chằm chằm vào bóng tối đen đặc. Có tiếng bầy cú rúc, và ở xa xa, một thứ gì đó rít lên như tiếng loài rắn.

Leo nhớ Will Solace từng kể: Chắc chắn không ai nên vào rừng một mình mà không vũ trang. Leo chẳng có gì, không gươm, không đèn pin, không ai giúp đỡ.

Cậu liếc nhìn những cabin sáng đèn phía sau. Cậu có thể quay lại ngay bây giờ và bảo với mọi người mình chỉ đùa thôi. Xì! Nyssa sẽ thế chỗ cậu trong hành trình. Cậu ở lại trại, tiếp tục học cách để trở thành một phần của nhà Hephaestus. Nhưng cậu tự hỏi, phải mất bao nhiêu thời gian, trước khi cậu trông giống những đứa nhóc cùng buồng: buồn bả, thất vọng, chấp nhận về “vận may” đen đủi luôn đeo bám mình.

Chúng không thể ngăn ta bẻ gãy tinh thần ngươi, người phụ nữ ngủ gà gật nọ đã nói như thế. Nhớ kĩ đêm nay, tiểu anh hùng, khi chúng bảo ngươi chống lại ta.

“Tin ta đi, quý bà,” – Leo lẩm bẩm – “Ta vẫn nhớ. Và bất kể bà là ai, ta sẽ đối diện với gương mặt “đất trồng” của bà, theo phong cách rất Leo.”

Cậu hít sâu một hơi và lao thẳng vào rừng.

(1): Tiếng Tây Ban Nha, “Mi hijo” – “my son” – “con trai tôi”

About these ad

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #lost