The Devil wears Prada
Yêu nữ thích hàng hiệu - The Devil wears Prada
Tác giả: Lauren Weisberger
Chương 1
Hãy cẩn thận trước khi làm những việc đòi hỏi phải mặc đồ mới?
HENRY DAVID THOREAU, WALDEN, 1854
Đèn giao thông ở ngã tư đường 17 cắt Broadway chưa kịp chuyển hẳn sang màu xanh thì cả một bầy taxi vàng vênh váo đã vượt qua tôi, trong khi tôi gây ùn tắc cả làn đường bên phải bằng cái bẫy giết người mà tôi phải lái đi khắp phố phường New York. Đạp côn, nhấn ga, vào số (từ mo vào số một hay từ số một lên số hai?) Nhả côn, tôi lẩm nhẩm quy tắc thần thánh ấy cả chục lượt, song giữa đám xe cộ đan như mắc cửi buổi trưa cây thần chú này chẳng giúp gì được. Chiếc ôtô lồng lên hai bận như con ngựa bất kham, để rồi tiếp đó ngật ngưỡng như con thỏ què qua ngã tư. Tim tôi nhảy thình thịch trong ngực. Đột ngột xe thôi ngật ngưỡng và chuyển động trơn tru. Trơn như bôi mỡ. Tôi liếc nhanh xuống xem có đúng là vẫn đang số hai, và khi ngẩng lên thì mũi xe đã gí sát đuôi chiếc taxi vàng phía trước, làm cho tôi không còn cáchnào khác ngoài việc nghiến răng đạp trí mạng lên bàn phanh và gãy quặp gót giày.
Khốn nạn! Lại một đôi giày 700$ đi tong vì sự vụng về của tôi - đôi thứ ba trong tháng này rồi. Tôi nhẹ cả người khi thấy động cơ chết nhóm (hình như trong lúc đạp cú phanh cứu mạng thì đáng lẽ tôi phải đạp cả côn mới đúng). Giờ thì tôi có mấy giây đồng hồ, đủ để thong thả tháo đôi Manolo quẳng lên ghế phụ, trong khi xung quanh tôi inh ỏi tiếng còi xe và rào rào những cây quát chửi tục tĩu. Lấy gì chùi bàn tay đẫm mồ hôi bây giờ, ngoài cái quần Gucci bó chặt người đến nỗi máu hết đường chảy, và chỉ riêng chui được vào rồi cài đến chiếc khuy trên cùng không khác gì đánh vật. Những ngón tay quẹt thành từng vệt kinh tởm trên lớp da lộn mềm như nhung. Tôi phải làm hơi thuốc thôi, không thì khó mà đưa nổi cái xe mui trần 84.000$ này lành lặn qua khỏi ma trận của Mahattan đúng vào giờ nghỉ trưa.
"Biến nhanh đi được không chị gái!" Một tay lái xe trông rất bụi với túm lông ngực thò qua cổ may ô ba lỗ. "Hay là chị gái tưởng đây là bãi học lái xe? Biến!"
Tay run, nhưng tôi vẫn ngỏng ngón tay giữa tục tĩu lên và hoàn thành ngay nhiệm vụ thiết yếu nhất cái đã: châm ngay tắp tự một choác nicotin! Tay tôi lại ướt mèm, dễ hiểu tại sao mấy que diêm liền tuột khỏi tay tôi rơi xuống sàn xe. Rốt cuộc đúng vào lúc tôi định rít hơi đầu tiên thì đèn tín hiệu bật xanh. Với điếu thuốc ngậm trên môi, tôi trở lại nghệ thuật phức tạp của đạp côn, nhấn ga, vào số, nhả côn, khói thuốc phì phọt vọt ra vào theo từng hơi thở. Phải qua hẳn ba khối nhà nữa thì xe mới chạy đều đều để tôi có dịp lấy điếu thuốc khỏi miệng, song quá muộn: tàn thuốc đã rụng xuống, rơi ngay cạnh vệt chùi mồ hôi trên quần. Điên quá. Trước khi hiểu hết toàn bộ thảm cảnh là trong ba phúc tôi đã phá hỏng đồ dùng trị giá 3.100$ - tính cả đôi giày Manolo - thì chiếc điện thoại di động lại rèn rẹt lên tiếng. Cứ như cuộc đời này chưa đày đọa tôi đủ mức, số điện thoại của người gọi hiện lên khẳng định điều tôi lo sợ nhất đã thành sự thật, đích thân bệ hạ, Miranda Prestly, bà chủ của tôi.
"Aan-dree-aa! Chị có nghe tôi ko đấy? Aan-dree-aa!"
Tiếng bà rền lên chói tai khi tôi vừa bật được chiếc nắp Motorola - quả là kỳ công trong khi còn phải bận tíu tít với cả hai tay hai chân (trần). tôi kẹp chiếc điện thoại vào giữa cằm và vai rồi ném điếu thuốc qua cửa sổ xe, thiếu chút nữa thì trúng một gã xe đạp đưa thư. hắn gào toáng lên một câu chửi bậy trước khi phóng tiếp.
"Vâng, Miranda, tôi nghe bà rất rõ"
"Aan-dree-aa, xe tôi đâu rồi? chị đã đưa nó vào nhà đỗ xe chưa?"
thế rồi trong chuyến đi bão táp này, may mắn cũng có lần mỉm cười với tôi. Đèn hiệu trước mặt chuyển sang đỏ. Tôi lập bập dừng được xe mà không đâm phải người nào hay cái gì, rồi hít một hơi thật sâu.
"Miranda, tôi đang trên xe mà, nhưng tôi sắp về đến nơi rồi." Tôi đưa đẩy thêm mấy câu trấn an để quả quyết với bà ta là cả chiếc xe mui trần lẫn tôi đều lành lặn và chỉ vài phút nữa thôi là chúng tôi sẽ về tới đích yên ổn.
"Ờ, được rồi," bà ta thô lỗ ngắt lời tôi. "Trước khi về văn phòng, chị phải đón Madeleine và đưa nó về nhà. "Cạch! Cuộc thoại chấm dứt. tôi ngớ ra và nhìn chằm chằm vào điện thoại một lúc, nhưng nó không nhả ra tiếng động nào nữa. rõ ràng Miranda cho rằng đã nói xong mọi chuyện cần thiết rồi. Madeleine? Madeleine là của nợ nào chỉ? Và nó đang ở đâu lúc này? Nó có biết là tôi đến đón nó không cơ chứ? rồi nó sẽ làm gì trong căn hộ của Miranda? Và tại sao lại chính tôi phải giơ đầu ra hứng lấy công việc này, trong khi Miranda nuôi một tay tài xế, một bà quản gia và một cô trông trẻ suốt 24 giờ mỗi ngày?
ở New York cấm gọi điện thoại trong khi lái xe, vì vậy tôi rẽ sang làn dành cho xe buýt, tạt vào lề đường rồi bật đèn nháy cảnh báo - lúc này thì chuyện mà tôi ngán nhất là đụng độ với cảnh sát New York. Hít vào, thở ra, tôi tự nhủ.
Thậm chí tôi còn nhớ kéo phanh tay sau khi bỏ chân khỏi bàn đạp phanh. Từ đời nảo đời nào rồi tôi không lái xe có số tay bao giờ, nói chính xác là từ năm năm nay rồi. Hồi ở trường trung học tôi được một cậu bạn dạy cho mấy giờ song không nhớ gì mấy. Tất cả những chuyện đó không ý nghĩa gì với Miranda cả, lại càng chẳng đáng để hỏi lại lúc bà ta gọi tôi tới văn phòng cách đây một tiếng rưỡi.
"Aan-dree-aa, chị đi lấy ôtô cho tôi, đánh về nhà đỗ xe. Ngay bây giờ chúng tôi cần xe để đến Hampston." Tôi đứng như trời trồng trước cái bàn làm việc to lớn của bà ta, nhưng lúc đó bà ta có nhìn tôi nữa đâu. Ít nhất là tôi tưởng thế, cho tới khi bà thả cho tôi đi với một câu kết: "thế thôi, Andrea, làm đi," bà nói thêm mà không ngẩng nhìn tôi.
Tất nhiên rồi, Miranda, tôi nghĩ vậy khi rời văn phòng. Chưa đi qua hẳn khung cửa tôi đã đần ra nghĩ xem bà ta có ý định gì khi trao cho tôi nhịêm vụ kì bí nhất định đầy những cạm bẫy này. Dù thế nào chăng nữa thì trước tiên tôi cũng phải tìm ra địa điểm chiếc xe mà tôi phải đi lấy về đã. Có lẽ nó ở trong xưởng bảo dưỡng theo hợp đồng, nhưng cũng hoàn toàn có thể nó đang được sửa chữa ở đâu đó trong số hàng triệu xưởng sửa chữa ôtô theo dịch vụ trọn gói đắt chóng mặt nào đó trên đại lộ Park Avenue. Dĩ nhiên không ngoại trừ trường hợp bà ta ám chỉ một chiếc xe mới toanh vừa mua mà tôi phải đến lấy về ở một nhà xe (mà tôi chưa biết). Dù sao chăng nữa, đối với tôi nhiệm vụ này trước tiên đồng nghĩa với một mớ công việc.
Vậy thì xắn tay áo lên nào. Đầu tiên tôi thử hỏi cô trông trẻ của nhà Miranda, nhưng chỉ được nối với hộp thoại nhắn tin di động. Tìm bà quản gia thì may mắn hơn. Bà ta không chỉ đang ở nhà mà còn giúp cho tôi được mấy thông tin. Bà cho tôi biết là may mắn hơn. Bà ta không chỉ đang ở nhà mà còn giúp tôi được mấy thông tin. Bà cho tôi biết là may mắn thay đó không phải là một chiếc ôtô mới đập hộp, mà là một chiếc thể thao mui trần màu xanh lá cây đậm, bình thường thì Miranda vẫn hay để ở nhà xe của mình.
tuy nhiên bà quản gia không rành mác xe, cũng chẳng hiết hiện giờ nó ở đâu. Tiếp đó tôi gọi điêjn cho cô trợ lý của chồng Miranda. Cô cho tôi hay rằng theo cô thì vợ chồng Miranda còn đi một chiếc Lincoln Navigator hạng cao cấp màu đen và một chiếc Porsche nhỏ màu xanh nữa. Quá hay! Dấu vết đầu tiên có triển vọng. Thêm một cuộc gọi đến xưởng Porsche ở đại lộ số 11, và vụ điều tra đã được hoàn tất. Ở đó họ vừa tút xong mấy mảng sơn nho nhỏ trên chiếc Porsche Carrera 4 mui trần màu xanh của bà Miranda Priestly và lắp ổ đổi đĩa CD mới. Trúng rồi!
Tôi gọi một chiếc ô tô đưa tôi tới nhà xe, trao cho họ một tờ thư ủy nhiệm có chữ ký của Mirada do chính tay tôi giả mạo. Giấy này cho phép tôi có quyền lấy chiếc Porsche ra. Dường như chẳng ai quan tâm đến việc tôi không có họ hàng gì với Miranda, cũng như chuyện một người lạ hoắc tiến vào và điềm nhiên lấy ra một chiếc ô tô đắt tiền không phải của mình. Họ ném cho tôi chùm chìa khóa và chỉ cười khi tôi nhờ đánh xe ra khỏi xưởng, vì tôi không chắc có tìm được số lùi hay không. Sau nửa tiếng dài dằng dặc, tôi đánh xe qua được hẳn 10 dãy nhà, song vẫn chưa biết cách quay đầu xe để đi theo hướng dẫn đến nhà riêng của Miranda mà bà quản gia đã miêu tả rõ cho tôi. Có lẽ không thể nào yên ổn đi đến đó mà không gây tai họa nghiêm trọng nào cho chính tôi hay cho chiếc Porsche cả, cho một người đi bộ hoặc một chiếc xe khác. Và cuộc gọi của Miranda cũng chẳng góp phần làm ổn định thần kinh của tôi.
Lại gọi di động một lần nữa, song lần này cô trông trẻ của Miranda nhấc máy ngay từ hồi chuông đầu tiên.
"Chào Cara, tôi đây."
"Alô có chuyện gì vậy, chị đang ở ngoài đường hả, ồn quá đi mất."
"Chính xác. Tôi phải đi lấy chiếc Porsche của Miranda từ xưởng về. Nhưng tôi không thạo đi xe có số tay, mà bà ấy vừa gọi bảo tôi đón Madelaine đưa về nhà. Con bé Madelaine khốn khiếp ấy là ai vậy và nó đang ở xó nào?"
Cara cười sằng sặc, như hóa rồ trước khi nói được tiếp. "Madelaine là con mèo giống Ba Tư của bà ấy, nó đang ở chỗ bác sĩ thú ý. Hôm nay nó bị hoạn. Lẽ ra tôi phải đi đón nó, nhưng Miranda vừa gọi điện bảo tôi đón 2 đứa sinh đôi từ trường về để cả nhà đi Hamston."
"Chị đùa hay sao. Tôi đi đón một con mèo chết tiệc bằng chiếc xe này sao? Mà không được đâm phải ai? Quên khẩn trương."
"Nó đang ở bệnh viện thú ý East Side. Xin lỗi Andrea nhé, tôi phải lên đường đón 2 cô bé ngay, nếu cần gì cứ điện thoại cho tôi nhé, ok?"
Đưa được cục sắt khốn khiếp màu xanh đến đường số 52 thì đã lạc hết cả 3 hồn 7 vía. Đúng lúc tôi nghĩ rằng không có gì tồi tệ hơn có thể xảy ra được nữa thì một chiếc taxi phanh kít lại cách đuôi xe tôi vừa đúng 2 phân. Một vết xước trên xe nhất định làm tôi mất việc, nếu không nói là mất mạng - đó là chuyện hiển nhiên. Giữa ban ngày ban mặt thì có nằm mơ cũng không ra một chỗ đỗ xe hay thậm chí một vệt trống trong đoạn cấm dừng. Vì vậy tôi gọi điện cho bệnh viện thú y và đề nghị họ đưa Madelaine ra xe cho tôi. mấy phút sau một phụ nữ dễ thương xuất hiện với cái lồng con mèo (vừa vặn lúc đó thì Miranda gọi điện hỏi tại sao tôi vẫn chưa về văn phòng) qua chấn song tôi nhìn thấy một đống lông xù trăng trắng. bà ta dặn tôi lái xe rất, rất cẩn thận, vì con mèo đang bị đau. tất nhiên rồi, thưa bà, tôi sẽ đi rất, rất cẩn thận, cốt chỉ để giữ chỗ làm của mình, và có thể cả tính mạng của mình nữa chứ, nếu điều đó có lợi cho con mèo thì càng tốt thôi.
Sau khi đặt con mèo lên ghế phụ lái và châm xong một điếu thuốc, trước hết là tôi nắn bóp đôi chân lạnh ngắt cho ấm lên để có cảm giác khi đạp lên bàn đạp côn và phanh. đạp côn, nhấn ga, vào số, nhả côn, tôi lẩm bẩm như đọc kinh và cố lờ con mèo Madelaine cất tiếng meo meo tội nghiệp mỗi khi tôi tăng tốc. nếu kp kêu toáng lên thì nó rên rỉ hay rít lên những âm thanh khó hiểu và mỗi lúc lại càng hung hăng hơn. Tôi thử xoa dịu nhưng nó nhận ra là tôi thật sự không có ý định đó, vả lại tôi không có tay nào rảnh để vuốt ve hay vỗ về nó cả. Thì ra để làm việc này tôi đã tiêu phí 4 năm trời của đời mình để phân tích hay trình bày tiểu thuyết, tác phẩm sân khấu, truyện ngắn và thơ - cốt chỉ để an ủi vỗ về một con mèo nhỏ trắng được nuông chiều quá mức, trong khi cố gắng không đâm nát chiếc xe rất, rất đắt tiền. Cuộc đời vẫn đẹp sao. Thật đúng như tôi hằng mơ ước!
Rồi thì tôi cũng quẳng được chiếc xe vào nhà đỗ và con mèo cho tay gác cổng của Miranda mà không gây ra sự cố nào, song tay tôi vẫn run khi leo lên chiếc xe từ nãy vẫn bám đuôi tôi đi dọc ngang thành phố. Ông tài xế nhìnt ôi đầy thông cảmv à nói là xe số tay quả là không đơn giản, nhưng tôi không còn bụng dạ nào mà bắt chuyện.
"Bây giờ quay về tòa nhà Elias Clark," tôi thở dàim trong khi tài xế đánh xe vòng quanh khu nhà và đi về phía Nam, hướng Park Avenue. Quãng đường này tôi đi qua hằng ngày, đôi khi 2 lần, do vậy tôi biết mìnhc òn chính xác 8 phút để hít vài hơi thật sâu, trấn tĩnh suy nghĩ xem làm cách nào tẩy được những gì màn tàn thuốc lá và mồ hôi đã biến thành hình trang trí vĩnh cửu trên chiếc quần da lộn hiệu Gucci. Còn đôi giày thì rõ ràng là đi tong rồi, cứu tinh duy nhất có lẽ chỉ là đội thợ giày của Runway luôn túc trực để giải quyết những sự cố tương tự.
Nào ngờ lần này xe chỉ mất 6 phút rưỡi là tới nơi và tôi không còn sự lựa chọn nào khác là tập tễnh chấm phẩy như một con hươu cao cổ bị sai chân với một chiếc giày cao gót và một chiếc mất gót. Đảo qua khi quần áo, tôi htủ luôn một đôi bốt Jimmy Choo màu hạt dẻ cao đến đầu gối, cực kỳ đúng cạ với chiếc váy da lộn màu nâu mà tôi với được khi chạy ngang giá treo. Chiếc quần da bay lên chồng quần áo đưa lên bộ phận Tẩy đồ cao cấp (mà tôi biết là giá giặt khô mỗi chiếc từ 75$ trở lên). Giờ thì nhanh nhanh tới phòng trang điểm, một chuyên viên nhìn thấy lớp phấn lem nhem của tôi và lập tức mở ngay hộp đồ nghề để khắc phục.
Được đấy, tôi nghĩ bụng khi nhìn vào một trong những tấm gương cao đến đầu người dựng khắp nơi. Chắc chẳng ai đoán được rằng chỉ trước đây mấy phút tôi còn đang phi như một tên giết người hàng loạt và rốt cuộc sẽ tự sát. Đầy tự tin, tôi bước vào phòng trợ lý nằm trước phòng của Miranda, vui mừng được tận hưởng vài phút rảnh rỗi trước khi bà ta đi ăn trưa về.
"Andrea," bà ta gọi từ căn phòng bày biện rất sơ sài và lạnh lẽo của mình, "Otô và con mèo ở đâu rồi?"
tôi vùng dậy khỏi ghế và lao như tên sang phòng bà, với tốc độ mà đôi gót giày 12 phân cho phép tppo chạy trên lớp thảm dày. "Tôi đã trao xe cho bảo vệ ở nhà đỗ xe, thưa bà, còn con mèo thì đưa cho gác cổng rồi ạ," tôi đáp đầy tự hào đã hoàn thành cả 2 sứ mệnh mà không đưa chiếc xe, con mèo và ngay cả tôi sang thế giới bên kia.
"Đầu óc chị để đâu vậy nhỉ?" Bà ta hỏi và lần đầu tiên từ khi tôi bước vào ngước mắt khỏi tờ Thời trang phụ nữ hằng ngày đang đọc. "Rõ ràng tôi đã bảo chị đưa cả 2 tới văn phòng. Hai đứa bé sẽ đến đây bất cứ lúc nào, và chúng tôi đi luôn."
"Vậy sao, tôi tưởng là bà bảo tôi..."
"Đủ rồi, tôi ít quan tâm đến các chi tiết trong sự yếu kém của chị. chị đi lấy xe và đưa con mèo về đây. 15 phút nữa tôi định xuất phát. Hiểu chưa?"
15 phút nữa. Bà ta nằm mơ hay sao nhỉ? Tôi cần một, hai phút để đi thang máy xuống tầng dưới và gọi xe, sáu đến tám phút mới đi tới nhà bà, sau đó cần khoảng 3 tiếng để tìm con mèo trong căn hộ 18 phòng của bà ta, đánh chiếc xe chết tiệt khỏi nhà đỗ rồi đi 20 dãy nhà mới về đến văn phòng.
"Tất nhiên rồi, Miranda, 15 phút nữa."
Ra đến phòng ngoài, tôi bắt đầu run bắn. Tôi tự hỏi, liệu tim tôi có ngừng đập ngay bây giờ ở cái tuổi 23 đẹp đẽ hay không? Đến nỗi điếu thuốc mà tôi châm vội tuột ngay khỏi tay, rơi đúng chiếc giày Jimmy, và trước khi lắn xuống nền đất, nó đã đủ htời gian kịp đốt một lỗ thủng tròn trên lớp da. Tuyệt, tôi rên lên, tuyệt đến thế là cùng. Trong vòng một ngày mà tôi đã phá chỗ quần áo trị giá 4.000$, quả là kỷ lục cá nhân mới, khi mi quay về, có thể bà ta đã nghẻo rồi chăng, tôi nghĩ bụng và hạ quyết tâm phải nhìn đời một cách lạc quan. Có thể thôi, có thể bà ta chết vì mọt chứng bệnh kì bí hiếm hoi nào đó, đó sẽ là sự giải thoát cho tất cả chúng tôi. Tôi rít hơi cuối cùng từ điếu thứ 2, trước khi đi tắt trên vỉa hè và tự nhắc mình hãy giữ đúng mực. Mi không muốn bà ta chết, tôi nghĩ vậy trong khi duỗi người trên ghế sau. Vì nếu Miranda chết rồi thì mi sẽ hết mọi hy vọng được tự tay hạ sát bà ta, và thế thì tiếc ơi là tiếc.
Chap 2
Hôm đi phỏng vấn xin việc lần đầu tiên trong đời, tôi còn là một đứa khờ khạo hết chỗ nói.Tôi bước vào một trong những thang máy của công ty Elias Clarknổi tiếng đang chở lên chở xuống những đại ca đại tẩu của giới thời trang. Tôi chưa biết được rằng các cây bút lá cải, các nhân vật có máu mặt trong xã hội và các đầu nậu truyền thông có thế lực nhất lại có những đêm mất ngủ bởi những con búp bê trang điểm tuyệt hảo, quần áo là lượt ngất trời đang lướt nhẹ trên cao trong những chiếc thang máy chạy êm như ru. Tôi chưa bao giờ gặp những cô gái tóc vàng mà lại vàng đến thế, và chẳng biết rằng nhuộm mấy nhành highlight ở thợ làm tóc siêu sao mỗi năm tốn mất 6000 dollar, cũng như người sành điệu chỉ cần liếc qua màu tóc là biết nghệ nhân nào đã nhuộm nó.Tôi cũng chưa khi nào nhìn thấy các chàng điển trai trong áo len cổ lọ ôm khít và quần da chặt cứng khi họ phô diễn cơ thể tuyệt hảo do gian khổ rèn luyện nhưng không phải quá cơ bắp để mất vẻ sexy. Những chiếc túi và đôi giày mà tôi chưa hề nhìn thấy trên một con người bằng xương bằng thịt tự hào khoe nguồn gốc của chúng : Prada!Armani!Versace! Qua người quen của một người quen-cô này là biên tập viên của tờ Chic- tôi nghe nói rằng thỉnh thoảng những trang sức đó có diễm phúc gặp lại những người tạo ra nó trong những thang máy này, một cuộc gặp gỡ nhất định là rất thú vị ngay cả với Miuccia, Giorgio hay Donatella khi nhìn lại đôi giầy cao gót của mốt hè 2002 hoặc chiếc túi đầm hình giọt nước của bộ thời trang Xuân vừa rồi.Tôi biết là sắp có chuyển biến lớn trong cuộc đời mình-chỉ không rõ là nó có theo chiều hướng tốt lên hay không.
Cho đến giờ phút này, tôi đã sống hai mươi ba năm đầu tiên của đời mình như một con bé nhà quê ở một tỉnh lẻ ở Mỹ.Lớn lên ở Avon, Connecticut, thời thơ ấu của tôi bó rập khuôn mĩ mãn: thể thao ở trường, họp nhóm thanh niên ,Những cuộc" chè chén" ngây thơ vô hại ở nông trại của các bạn khi phụ huynh vắng mặt.Ở trường, chúng tôi mặc quần áo thể thao, tối thứ bảy thì đóng quần bò, và áo dài đăng ten thì để dành cho các buổi khiêu vũ ngoan ngoãn.Rồi lên đại học!Quả là một thế giới phấn khích sau khi hết bậc phổ thông.Ở đó ai cũng tìm được gì đó cho mình, kẻ cả là nghệ sĩ,kẻ lập dị hay dân nghiện máy tính.Mọi khả năng đều mở ra trước mắt tôi khi lên đại học.Tôi chóng mặt vì không biết chọn theo sở thích tri thức hay nghệ thuật, học một nghành quái dị hay tâm linh kì bí.Chỉ có một môn không thấy trong danh mục các nghành học : Thời trang.Bốn năm trời số phận bắt tôi khoác áo bông và xỏ ủng lặn lội đến lớp học về các nghệ sĩ Pháp theo trường phái ấn tượng hoặc viết những bài dài lê thê về văn học Anh,nhưng chúng không , nói đúng là không hề, chuẩn bị chút xíu nào cho tôi bước chân bước chân vào một nghề đầu tiên sau tốt nghiệp
Tôi cố đầy thời khắc đó càng xa càng tốt.Mấy tháng sau khi thi, trước tiên tôi vay quàng vay xiên một ít tiền và làm một cú du lịch đơn thương độc mã.Tôi đi tàu hỏa xuyên Châu Âu trong một tháng, thăm thú nhiều bãi biển hơn bảo tang, và cũng chẳng thêm giữ liên lạc với một ai khác ở nhà ngoài Alex, bạn trai của tôi từ ba năm nay.Anh biết là chậm nhất là sau đến năm tuần đơn thương độc mã trên đường là tôi chán ngấy đến tận cổ, và do đến tận tháng Chín là lúc bắt đầu đi dậy học, vì không biết giết thời gian kiểu gì nên Alex bất ngờ đón lõng tôi tại Amsterdam.Cho đến lúc ấy tôi đã càn quét xong Châu Âu, và Alex đã từng ở Amsterdam hè năm ngoái. Sau một buổi tối không được thánh thiện cho lắm tại một Coffe Shop chúng tôi dồn toàn bộ chỗ séc du lịch của mình chung làm một và mua cặp vé một chiều bay đi Bangkok.
Hai đứa chúng tôi cày ngang dọc Đông Nam Á, hiếm khi chi quá mười dollar mỗi ngày, và luôn bàn kế hoạch cho tương lai. Alex nóng lòng đợi ngày bắt đầu dạy tiếng Anh ở tại một trong những trường thuộc dạng điểm nóng xã hội của thành phố, mê muội với ý tưởng nhào năn những tâm hồn trẻ thơ cũng như đấu tranh cho người nghèo và chịu thiệt thòi. Đúng là Alex. Cứu cánh của tôi thì không cao cả như vậy :tôi chỉ chăm chăm kiếm cho đươc chỗ làm ở một tạp chí. Không phải bất cứ tạp chí nào, mà cho tờ New York Yorker nổi tiếng. Chẳng phải không biết vừa ra trường mà leo được bậc ấy thì quá chật vật, song tôi quyết tâm sau lần họp lớp thứ năm phải đạt được mục tiêu.Ước vọng lớn nhất của tôi xưa nay vẫn là viết bài cho New York Yorker. Số đầu tiên tôi mua sau khi nghe bố mẹ nói chuyện với nhau về một bài báo rất hay, và mẹ tôi nói " Thời buổi này không kiếm đâu ra được bài báo viết tử tế như thế "Bố thì phụ họa "Đúng là tuyệt đỉnh." Tôi thấy mê ngay. Mê những bài bình luận chát chúa , những tranh biếm họa hóm hỉnh , lại còn mê cả cảm giác được thuộc vào một giới độc giả đặc biệt nữa chứ.Cho đến bây giờ đã là bảy năm tôi không bỏ qua một số nào, thuộc làu làu đến từng ban phòng , mọi biên tập viên và tác giả.
Alex và tôi đứng trước ngưỡng cửa của một phần đời sắp mở ra, và bàn bạc xem cả hai sẽ cùng tiến vào ra sao.Mặc dù vậy chúng tôi cũng không vội về nhà làm gì.Linh tính mách bảo chúng tôi đang được sống những ngày thanh thản cuối cùng trước khi bước chân vào vòng điên đảo của thực tế, và vậy là chúng tôi gia hạn thị thực ở Delhi để ngao du thêm vài tuần trên đất nước Ấn Độ kì bí.
Nhưng, đối với cuộc chơi lãng mạn thì không có kết cục nào thảm hại hơn một trận kiết lị amip.Tôi nằm bẹp một tuần liền trong một nhà thương Ấn Độ nhơ nhuốc và cầu khẩn Alex chớ bỏ tôi chết ở cái nơi địa ngục này. Bốn hôm sau chúng tôi bay về tới Newark.Mẹ tôi sầu muộn đặt con gái ngồi trên ghế sau của oto và phóng thẳng về nhà. Xét về mặt nào đó thì ước muốn của những bà mẹ Do Thái như mẹ tôi đã thành hiện thực : mẹ có cớ để lôi tôi đi hết phòng khám này đến phòng khám khác , cho đến khi tin tưởng tuyệt đối rằng lũ kí sinh trùng khốn nạn đã bị tống khỏi cơ thể con bé yêu của mình.Phải đến bốn tuần sau tôi mới có lại cảm giác thoát khỏi bàn tay thần chết, và thêm hai tuần nữa thì tôi lờ mờ nhận ra rằng không thể sống ở nhà được.Bố mẹ thật tuyệt vời nhưng liên tục bị hỏi đi đâu khi ra vào cửa-hoặc đã ở đâu khi về đến nhà- thì dễ phát điên lắm. Tôi gọi điện cho cô bạn Lily và hỏi cô ấy có thể cho tôi tạm trú trên cái đi văng trong căn hộ mini ở Harlem không.Cô ấy đồng ý, thật quá tử tế.
Mồ hôi như tắm, tôi thức dậy trong căn hộ mini ở Harlem.Đầu óc nhức như búa bổ, dạ dày sôi cồn cào , thần kinh căng như dây đàn.Chết rồi- Bệnh lại tái phát-tôi thất kinh.Lũ kí sinh trùng đã tìm được đường quay lại, và tôi sẽ không giũ nổi chúng cho đến khi cuối đời. Biết đâu lại có những di chứng gì kinh khủng hơn? Có thể tôi mắc một chứng bệnh sốt xuất huyết hiếm và có thể tiến triển chậm?Sốt rét? Hay thậm chí vi khuẩn Ebola? Tôi nằm cứng đơ, đang chuẩn bị tinh thần đón nhận cái chết sắp tới thì những hình ảnh đêm qua chợt hiện ra.Một quán bar đặc khói thuốc đâu đó ở East Village. Những âm thanh quỷ quái có tên là Jazz Fusion Music. Một thứ đồ uống màu hồng chóe trong ly chuyên rót Martini-khiếp, tởm quá. Bạn bè ghé qua chào mừng tôi quay về cố hương.Một lời chúc, một ngụm rượu, lại một lời chúc tiếp theo. Ơn chúa, thì ra không phải một dạng sốt xuất huyết hiếm hoi, mà chỉ là một cơn váng đầu sau cuộc phê.Tôi không ngờ rằng với mười cân thịt sút sau trận kiết lị thì tửu lượng giảm đi trông thấy.Với 52 kg và chiều cao 1,75 mét thì lẽ ra không nên tham gia một đêm đạp phá như vậy ( tuy vậy sau này nghĩ lại thì té ra những số cân đo ấy quá hợp lí khi làm cho một tạp chí thời trang.)
Tôi dũng cảm duỗi tứ chi ê ẩm trên chiếc đi văng trên đó tôi đã co quắp ngủ từ một tuần nay, tập trung tuần bộ tinh thần nén cơn buồn nôn trực trào lên. Không khó khăn lắm để làm quên trở lại đất Mỹ với những đồ ăn , cách hành xử, vòi hoa sen tắm đã lâu đời.Duy chỉ có việc ăn nhờ ở đậu này thì hơi khó tiêu. Nếu sống tằn tiện và vét nốt mấy đồng tiền Thái và Ấn Độ còn sót lại thì khoảng một chục hôm nữa thì là tôi nhẵn túi, và cách duy nhất để xin được tiền phụ huynh là quay trở về cái vòng luẩn quẩn vô tận với những lời ca thán. Chỉ nghĩ đến đấy là tôi lao ngay ra khỏi ổ, và cái ngày định mệnh của tháng Mười một ấy với việc không đầy một tiếng nữa là phải có mặt trong cuộc phỏng vấn đầu tiên trong đời. Cả tuần vừa qua, khi người ngợm còn uể oải ,dặt dẹo, tôi ườn xác trên cái đi văng nhà Lily cho đến khi cô ta phải tống tôi ra khỏi nhà, ít nhất mỗi ngày vài tiếng đồng hồ. Không biết phải làm gì cho hết thì giờ, tôi mua một vé tàu điện ngầm, lãng đãng di cả một ngày ngang dọc thành phố và nộp hồ sơ xin việc ở tòa soạn của tất cả các tập chí lớn : sơ yếu lí lịch và một tấm là đơn khá cẩu thả trình bày rằng tôi muốn làm trợ lý biên tập và nhặt nhạnh vài kinh nghiệm đầu đời trong nghề viết lách.Tôi còn quá mệt mỏi và ốm yếu để quan tâm xem có ai đọc mấy thứ đó không, huống hồ là hy vọng sẽ được gọi đến phỏng vấn. Song hôm qua điện thoại của Lily réo chuông, và kì diệu thay, một người ở phòng nhân sự Elias Clark muốn gọi tôi tới " hàn huyên". Tôi không chắc đó có là một cuộc phỏng cấn thật sự hay không, nhưng trong trạng thái cuả tôi từ " hàn huyên" nghe sướng tai hơn.
Tôi chiêu một vài viên thuốc đau đầu với một cốc Pepto và bới trong đống quần áo để tìm ra một chiếc áo khoác và quần, trong không hẳn hợp nhau lắm một cách lí tưởng nhưng ít nhất cũng quấn quanh được bộ xương còm nhom của tôi.Một chiếc áo sơ mi màu lam cái khuy, tóc buộc đuôi ngưa trông không đến nỗi khó coi , một đôi giày sục khá xơ xác, thế là đủ bộ. Không ngon mắt lắm, tôi biết, thậm chí hơi phản cảm, nhưng buộc phải chấp nhận thôi.Chẳng nhẽ họ đuổi hay nhận mình chỉ vì bộ cánh bên ngoài sao, tôi nghĩ bụng.Rõ rồi. Tôi còn ngây thơ lắm.
Tôi có mặt đúng mười một giờ để vào phỏng vấn.Và tái mặt khi trông thấy một loạt những thân hình mảnh mai chân dài đến nách đang đứng chờ thang máy. Họ nói như không để môi mọc da non, đẹm vài tiếng gót giày cao gót kêu lách cách đanh nhọn trên nền nhà.Lũ cẳng sếu kia, tôi nghĩ bụng. Quá hoàn hảo ( thang máy đến rồi) Hít vào , thở ra tôi tự nhủ, không được nôn ra ở đây, không được nôn, mi đến đây để chuyện trò đôi chút về việc làm trợ lí biên tập, rồi quay bề ngay với chiếc đi văng nhà Lily. Mi không được nôn.Vâng, tất nhiên tôi thích làm việc cho Reaction! The buzz cũng hay đấy, tất nhiên.Sao cơ ah? Tôi được phép chọn sao? Được ah, cho phép tôi suy nghĩ một hôm nữa để quyết định giữa mấy chỗ ấy và MAison vous.Rất hân hạnh!
Mấy giây sau, một biển in chữ KHÁCH được dán xộc xệch trên bộ cánh cũng khá xộc xệch của tôi trước khi tôi lao người vào thang máy ( KHi tôi kịp nhận ra rằng tất cả khách khứa đều chỉ dán hờ hững nó trên túi, và thậm chí vứt luôn vào sọt rác, chỉ có hạng lơ quơ , quê mùa mới dán nó lên ngực-thì đã quá muộn.) Thang máy lên cao, cao, và cao nữa, một chuyến bay qua không gian và thời gian và vẻ khêu gợi vô tận, tới...cửa phòng nhân sự.
Tôi cho phép mình được thư giãn một chút trong khi chiếc thang máy nhẹ lướt lên cao. Mùi nước hoa khêu gợi trộn lẫn với hương vị da thuộc tươi rói làm cho chiếc thang máy hoàn toàn vô hồn chợt thoáng về sexy. Chúng tôi lướt qua các tầng gác dừng lại để thả ra các mỹ nhân đến với Chic, mantra, The Buzz và Coquette . Cửa thang máy nhẹ nhàng mở ra, để tầm mắtb phóng tới bộ phận lễ tân trang hoàn màu trắng. Bàn ghế lịch thiệp, đường nét đơn giản, thách thức bất kỳ ai dám ngồi lên đó. Không thể tưởng tượng ra ai đó lỡ tay làm vấy bẩn lên đệm trắng! Trên tường bao quanh lối đi nổi bật những hàng chữ đen quen mắt viết tên của các tạp chí mà đứa trẻ con nào ở Mỹ cũng biết, nhưng không ai tin là tất cả đều quần tụ trong một tòa nhà chọc trời duy nhất này. Những tấm cửa kính mờ dày cộp chắn mọi ánh mắt không mời.
Tuy rắng cho đến nay chưa làm công việc gì hơn là vài lần đi bán kem sữa chua, tôi cũng nghe đủ chuyện từ các bạn cùng học ngày xưa và đã đi làm được vài tháng để biết là thế giới của công việc không như thế này. Hoàn toàn không. Ở đây tuyệt đối vắng bóng những đèn tuýp xanh lét kinh tởm và thảm trải trơ lì với vết giày. Thay vì những bà thư ký cổ hủ núp thu lu sau bàn giấy là các cô gái trẻ mượt mà với gò má cao và trang phục ngất trời. Hãy quên khẩn trương khái niệm đồ dùng văn phòng! Mấy trang bị cơ bản như sổ ghi giờ hẹn, sọt rác, sách vở, đơn giàn là không được phép có mặt nơi đây. Nỗi sửng sốt về những ma trận trắng toát hoàn hảo của tôi chợt biến mất ở tầng sáu, khi một giọng cay độc xoáy vào tai tôi.
" Con khốn nạn ấy chứ gì? Tớ không thể chịu được nó nữa. Ai nghĩ chuyện ấy cơ chứ? Tớ nói thật đấy - AI NGHĨ RA CHUYỆN ẤY?" Một cô gái trước mặt tôi rít lên. Cô ta chừng 25 tuổi, với chiếc váy da rắn và băng vải cũn cỡn che ngực nom như sắp tới sàn nhảy chứ không phải giữa thanh thiên bạch nhật ở văn phòng.
" Tớ biết rồi, biết rồồồi. Cậu có biết là 6 tháng qua tớ đã phải chịu đựng những gì không? Con khốn nạn. Nó còn có gu thẩm mỹ khá tanh tưởi nữa chứ. " Cô bạn gái vừa phụ họa vừa lắc quầy quậy mái đầu cắt tỉa rất ưa mắt.
Ơn Chúa, rốt cuộc tôi cũng lên đến tầng định tìm, và cửa thang máy mở ra không tiếng động. Thú vị đấy, tôi nghĩ bụng. Tuy nhiên, so với một ngày bình thường của một nữ sinh viên bình thường thì mức đánh giá " thú vị " có lẽ hơi bị thấp. Choáng? Không, thế thì hơi quá. Dễ thương, thân thiện, ấm áp? Không, không đúng hẳn. Một nơi để ta đáng nở một nụ cười thỏa mãn và làm việc tử tế? Hoàn toàn sai! Nhưng, nếu ai tìm sự nhanh nhạy, mảnh mai, kiểu cách, tân tiến và sành điệu đến ngộp thở, thì, Elisa Clark là thiên đường.
Các đồ trang sức lộng lẫy và lớp phấn phủ hết chê của cô gái lễ tân trước phòng nhân sự quả là không giúp gì xoa dịu mặc cảm tự ti ngày càng tăng lên của tôi. Cô mời tôi ngồi và " cứ tự nhiên ngắm qua mấy ấn phẩm của công ty". Thay vì làm việc đó, tôi điên đầu lên để cố ghi nhớ tất cả tên các tạp chí mà công ty xuất bản - cứ làm như người ta sẽ thách đố tôi chuyện ấy. Kìa! tôi đã biết Stephen Alexander của Reaction, tất nhiên, và nhớ được tên Tanner Michel của The Buzz cũng dễ thôi. Thật ra thì đó cũng là hai sản phẩm duy nhất đáng chú ý của nhà xuất bản này nên tôi cảm thấy khá vững tâm.
Một phụ nữ nhỏ nhắn xưng tên là Sharon ra đón tôi. " Chị là người muốn đến làm việc ở tạp chí này, đúng không? " Bà ta hỏi trong khi dẫn tôi diễu qua một hàng búp bê chân dài nom giống hệt nhau vào văn phòng bày biện tinh giản và lạnh lẽo của mình, " Vừa rời ghế đại học thì quả là lắm vấn đề, chị biết đấy. Cả trăm người tranh nhau xin làm một nhúm công việc. Mà mấy chỗ làm còn trống ấy thì cũng chẳng được hưởng mức lương hậu hĩnh lắm đâu, chắc chị hiểu tôi muốn nói gì."
Tôi đưa mắt nhìn xuống bộ cánh rẻ tiền chắp vá cùng đôi giày quê kệch của mình và tự hỏi tại sao lại dẫn xác đến đây làm gì. Khôn ngoan thì kiếm mấy gói bim bim và thuốc lá đủ dùng cho nửa tháng rồi rúc về cái đi văng của Lily là hơn. Quá luẩn quẩn với ý nghĩa ấy, tôi không nhận ra bà ta khẽ nói tiếp" Tuy nhiên tôi được phép tiết lộ với chị, đây là một dịp may bất ngờ. Nhưng chị phải nhanh tay kẻo tuột mất."
A ha. Hệ thống báo động của tôi tức khắc được khởi động, trong lúc tôi cố đón ánh mắt của bà ta. Cơ hội? Nhanh tay? Đầu óc tôi tỉnh như sáo. Bà ta định giúp mình? Có cảm tình với mình? Nhưng tại sao? Tôi đã mở miệng nói câu nào đâu cơ chứ - cớ gì mà bà ấy có cảm tình với mình được? Và chẳng hiểu tại sao giọng bà ta chuyển sang ngọt như mía lùi, chẳng khác gì một tay bán ô tô cũ đang mời khách hàng?
" Chị có thể cho tôi biết tên chủ bút của Runway được không?" Bà hỏi tôi, lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt tôi từ lúc tôi ngồi xuống ghế.
Chấm hết. Không gì khác ngoài dấu chấm hết to tướng. Trong đầu tôi hoàn toàn trống rỗng. Thật không ngờ là tôi bị bà ta thách đố. Cả đời tôi chưa hề giở tờ Runway ra bao giờ, thật bất công khi gặp đúng câu hỏi này. Ai đọc Runway làm gì cơ chứ, nó chẳng qua chỉ là một tạp chí thời trang, chắc là không có lấy một bài viết tử tế trong đó, trừ mấy người mẫu nhom nhem như suy dinh dưỡng và ảnh quảng cáo bóng bẫy. Tôi lúng búng như ngậm hột thị. Tên tuổi các chủ bút mà lúc nãy tôi cố nhồi nhét vào óc nhảy múa loạn xạ trong đầu và chắp lại thành những cặp đôi khập khiễng. Tôi tin là tôi biết tên bà chủ bút - ai mà chẳng biết. Có điều là nó không chịu nảy ra trong óc.
" À, vâng, ngay lúc này tôi không nhớ ra. Nhưng tôi biết tên bà ấy quá đi chứ, dĩ nhiên tôi biết, ai chả biết cái tên đó. Chỉ tội ngay lúc này thì tôi không nhớ ra."
Bà săm soi nhìn tôi một hồi, cặp mắt nai dán chặt vào khuôn mặt tôi đang tứa mồ hôi. " Miranda Priestley," bà thì thào với giọng pha lẫn sùng kính và khiếp đảm. " Bà ấy là Miranda Priestley."
Cả hai cùng im lặng. Dường như cả một phút đằng đẵng chúng tôi im lặng nhìn nhau. Nhưng rồi Sharon rõ ràng quyết định lờ đi lỗi lầm trầm trọng này của tôi. Ngày đó tôi chưa biết là Sharon đang vất vả ra sao để tìm ra một chân trợ lý mới cho Miranda cũng như không thể chịu nổi cảnh cả ngày lẫn đêm bị sếp gọi điện tra hỏi đã có ứng cử viên tiềm năng nào chưa. Cắn răng tìm một ai khả dĩ vừa lòng Miranda. Và nếu tình cờ chỉ có một hy vọng cỏn con là chính tôi sẽ đỡ bớt gánh nặng đó thì cố nhiên Sharon không được phép cầu toàn quá mức.
Sharon nhếch mép mỉm cười và cho biết bây giờ tôi sẽ đi gặp hai trợ lý của Miranda. Những hai trợ lý?
" Đúng thế," Sharon uể oải xác nhận. " Tất nhiên Miranda cần hai trợ lý . Trợ lý chính Allison vừa được lên chức biên tập viên về thẩm mỹ của Runway, và trợ lý trẻ là Emily sẽ thế chỗ Allison, nghĩa là chỗ cô ấy sẽ trống cho một người mới vào! Andrea, tôi biết là chị vừa rời ghế đại học nên chắc là chưa thể biết tường tận các công việc của giới báo chí..." bà ngưng giọng đầy kịch tính để tìm chữ nào cho hợp. " Nhưng tôi có linh cảm muốn nói, đúng hơn là phải nói cho chị biết rằng một cơ hội ngàn vàng đang mở ra trước mắt chị. Miranda Priestley..." bà lại dừng lần nữa đầy kịch tính , tựa như đang kính cẩn nghiêng mình trước mặt bà sếp tưởng tượng," Miranda Priestley là người đàn bà có ảnh hưởng lớn nhất trong công nghiệp thời trang và thực sự là một trong những chủ bút tạp chí danh giá nhất thế giới. Toàn thế giới! Cơ may được làm việc cho một nhân vật như thế, được quan sát công tác biên tập và tiếp kiến những cây bút và người mẫu nổi tiếng , được hỗ trợ nhất cử nhất động của bà hằng ngày - quả là nghìn năm có một. Chắc là tôi khỏi phải nhấn mạnh với chị rằng hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này.
" Thế ạ, vâng, tôi muốn nói là nghe rất tuyệt ." tôi thoáng ngạc nhiên tại sao Sharon phải dỗ tôi làm một công việc mà hàng triệu người khác sẵn sàng xin chết vì nó. Nhưng bây giờ tôi không có thì giờ để cân nhắc . Sharon nhấc điện thoại nói một câu ngắn rồi tiễn tôi luôn ra phía thang máy để đi phỏng vấn ở chỗ hai trợ lý của Miranda,
Bản thân Sharon đã nói giông giống như một robot, nhưng còn thua xa Emily. Sau khi xuống đến tầng 17, tôi vật vã nửa tiếng ngồi đợi ở khu lễ tân trắng toát sang trọng của Runway cho đến lúc một cô gái cao kều bước ra khỏi cánh cửa
Kính. Cô ta mặc chiếc váy da đến nửa bắp chân, mái tóc đỏ bất trị buộc cao lên thành một búi trễ nãi nhưng vô cùng quyến rũ. Cô có nước da trắng xanh mịn màng không một vết tàn nhang và lưỡng quyền ấn tượng nhất mà tôi từng thấy. Không hề mỉm cười, cô ngồi xuống bên tôi, nhìn tôi từ đầu tới chân, nghiêm nghị nhưng thoáng chút tò mò. Hời hợt. Do cô ta không tự giới thiệu nên tôi đoán đó là Emily. Đột ngột cô cất tiếng giải thích cho tôi về công việc phải làm. Cái giọng đều đều của cô cho tôi biết nhiều hơn nội dung những lời kể lể: có lẽ cô ca bài này đến hàng chục lần rồi , và cũng chẳng trông đợi gì ở tôi hơn các ứng cử viên khác, nói cho cùng thì chỉ tốn thì giờ vô ích với tôi mà thôi.
" Mệt lắm, đó là điều chắc chắn. Ngày làm việc kéo dài 14 tiếng, không phải thường xuyên như thế, nhưng cũng chẳng hiếm, " cô mở máy, mắt vẫn không nhìn tôi. " Và quan trọng là chị phải biết sẽ không được giao nhiệm vụ biên tập nào cả. Là trợ lý trẻ cho Miranda nghĩa là sẵn sàng làm bất cứ việc gì bà cần. Từ đặt mua loại giấy viết vẫn được ưa thích hay theo chân bà đi shopping. Ít nhất thì cũng luôn có thay đổi. Tôi định nói là hằng ngày , hằng tuần, hằng tháng chị như cái bóng của người đàn bà độc nhất vô nhị này. Đúng thế, độc nhất vô nhị. " Giọng cô nhẹ như gió thoảng; lần đầu tiên từ khi bắt đầu nói chuyện, có chút sức sống hiện ra trong điệu bộ của cô.
" Nghe hay đấy," tôi nói - và cũng tin như vậy. Các bạn cùng học với tôi nay đã trải qua sáu tháng trong môi trường công tác thực tế, ai cũng than vãn ngán ngẫm, bất kể họ làm ở nhà băng, công ty quảng cáo hay nhà xuất bản - tất cả đều kêu khổ. Ở đâu cũng rên rỉ về ngày làm việc lê thê, đồng nghiệp đểu giả và những trò hành hạ ở nơi làm việc, song cái khổ nhất là không khí buồn tẻ. So với những đòi hỏi hồi còn ở trường thì công việc được giao hôm nay thật ngu xuẩn, vô dụng và đáng đem dạy con khỉ làm thì hơn. Họ ngồi hàng tiếng đồng hồ để nhập thông số vào kho dữ liệu, gọi điện chào hàng tới những người ghét bị quấy rầy, lập danh mục các dữ liệu vô dụng trên màn hình computer hoặc điều tra nghiên cứu hàng tháng trời những đề tài chẳng ai cần để rốt cuộc chứng tỏ cho sếp biết là mình có làm việc. Ai trong bọn họ cũng có cảm giác là trong có mấy tháng từ khi tốt nghiệp đến giờ họ chỉ ngu thêm đi và chẳng thấy tia sáng nào cuối đường hầm. Bản thân tôi cũng không mặn mà chuyện thời trang, nhưng thà suốt ngày làm cái gì đó vui vẻ còn hơn ôm lấy một công việc tẻ nhạt.
"Vâng, việc thú vị đấy. Rất thú vị. Tôi nói thật đấy. Rất hân hạnh được làm quen với chị. Bây giờ tôi đi gọi Allison cho chị gặp. Bà ấy rất hay." Chưa nói dứt câu, cô ta đã biến mất sau cửa kính cùng chiếc váy da sột soạt và những lọn tóc phất phới, và một thân hình thon thả khác xuất hiện.
Phải nói rằng Allison, cựu trợ lý chính của Miranda vừa lên chức, là một cô gái da màu cực kỳ ấn tượng. Tôi vẫn nhớ là cô ta quá gầy, và ngạc nhiên về phần bụng của cô hóp vào và xương hông trồi hẳn ra. Nhưng còn ngạc nhiên hơn là được mặc hở bụng ở nơi làm việc. Cô mặc một cái quần da màu đen bó chặt, áo trên màu trắng xù bông ( hay lông? ) bó căng ngực để hở đến năm phân trên rốn. Mái tóc dài, đen như mực, phủ xuống lưng như một tấm mền dày lóng lánh. Móng tay và móng chân sơn trắng và như phát sáng từ bên trong, đôi xăng đan cao gót hở ngón nối thêm bảy phân vào thân hình 1.80 mét của cô. Người cô đồng thời trộn lẫn nét khêu gợi khó tả, sự lõa lồ e ấp và quý phái. Song tôi chỉ thấy lạnh lẽo, theo đúng nghĩa đen, chả gì thì cũng đã cuối tháng Mười một.
" Xin chào, tôi là Allison. Nhưng chắc chị biết rồi," cô mở đầu và nhón ra mấy sợi vải của chiếc áo cũn cỡn vương trên bắp đùi teo tóp. " Tôi vừa được nâng lên chức biên tập, và đó là nét thực sự tuyệt vời trong khi làm việc cho Miranda. Thế đấy, ngày thì dài và công việc thì căng thẳng, nhưng cực kỳ thú vị và hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết vì nó đấy. Miranda là một phụ nữ, chủ bút và con người tuyệt vời, bà luôn thực sự chăm chút những cô gái làm việc cho mình. Hãy làm việc cho Miranda một năm, chị sẽ tiết kiệm hàng năm trời vất vả bon chen ở những nơi khác. Nếu có năng khiếu, chị sẽ được Miranda đưa ngay lên đỉnh cao, và ..." Cứ thế, cô tiếp tục huyên thuyên và chẳng thèm bận tâm lồng vào lời nói của mình một chút gì tương tự như niềm phấn khích giả tạo. Trong mắt tôi thì cô ta không hẳn là ngu, nhưng ánh mắt của cô hơi có quầng sương đờ đẫn của những tín đồ theo một tà giáo nào đó hay những kẻ bị tẩy não. Tôi tin là nếu tôi ngủ quay ra đó, lấy ngón tay ngoáy mũi hay đứng dậy đi mất thì cô ta cũng chẳng nhận ra.
Rồi cuộc trò chuyện ấy cũng xong; lúc Allison đi kiếm người tiếp tục phỏng vấn thì tôi gần như lả đi vì mệt mỏi trên cái ghế đệm ở phòng lễ tân kém thân thiện. Mọi thứ diễn ra nhanh quá, tuột mất khỏi tầm kiểm tra, làm tôi quay cuồng đầu óc. Tôi không biết Miranda Priestly là ai thì có sao đâu? Có vẻ như tất cả đều chịu ấn tượng rất sâu đậm về bà ta thì phải. Dĩ nhiên, đây chỉ là một tạp chí thời trang chứ không phải thứ gì đó ghê gớm, nhưng làm việc ở Runway rõ ràng còn thú vị gấp bội so với mấy tờ báo thương mại kinh tởm nào khác, đúng không nào? Sau này, nếu tôi tới xin việc ở The New Yorker thì cái tên Runway trong lý lịch công tác sẽ gây nhiều tín nhiệm hơn là một nơi làm việc vớ vẩn nào đó, ví dụ như tờ Cơ khí thường thức chẳng hạn. Vả lại; chẳng phải hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này hay sao?
Sau khi tôi vẩn vơ với những suy tưởng đại loại như thế mất thêm nửa giờ nữa, lại thêm một cô gái cao kều và ốm nhom khác tiến vào phòng lễ tân. Cô xưng tên mình, nhưng tôi chẳng để ý mà chỉ tập trung dán mắt vào người cô ta. Cô mặc một chiếc váy bò chật ních, rách tơi tả, áo sơ mi trắng trong suốt và xăng đan quai nhỏ tí màu bạc. Cô có nước da rám nắng tuyệt đẹp, móng tay nuột nà, và khoe nhiều da thịt theo cái lối không một ai đầu óc bình thường dám làm khi ngoài trời có tuyết rơi. Khi cô ra hiệu cho tôi đứng dậy và theo cô đi qua cửa kính, tôi mới thực sự ý thức được bộ dạng của mình trong mấy món đồ quê kệch phát khiếp và mái tóc èo uột. Không có lấy một món đồ trang sức hay son phấn cho tử tế. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn rùng mình nhớ lại hôm ấy đã ăn mặc ra sao, lại còn cắp theo một thứ gì từa tựa như cái cặp đựng tài liệu nữa chứ. Tôi vẫn đỏ mặt phừng phừng khi nhớ lại cảnh mình đã ngơ ngác đứng giữa những người mẫu hào nhoáng và kiểu cách nhất NewYork City. Mãi về sau, khi đã mon men sán lại gần được đẳng cấp của bọn họ thì tôi mới biết rằng họ khoái trá bình phẩm tôi ra sao giữa các vòng phỏng vấn.
Sau khi dò xét tôi từ chân lên đầu, cô nàng đẹp dã man nọ dẫn tôi tới gặp bà Cheryl Kenston, tổng biên tập của Runway và là một người đồng bóng dễ mến. Cuộc nói chuyện với bà có vẻ như cũng lê thê không dứt, nhưng lần này tôi chú ý lắng nghe. Lý do là bà ta có vẻ yêu công việc của mình thực sự. Bà say sưa nói về chuyện chủ nghĩa của tạp chí, về các bài báo tuyệt vời mà bà được đọc , các cây bút do bà quản lý và các biên tập viên dưới quyền bà.
" Tôi tuyệt đối không dính gì đến mảng thời trang của tạp chí" , bà tự hào tuyên bố, " chị muốn biết gì thì tốt nhất nên đi hỏi người khác."
Khi tôi thú thực là thật ra tôi thích làm những việc như ở chỗ bà, vì tôi không hề thích thú gì và cũng chẳng có những kiến thức nền về chuyện thời trang, nụ cười của bà nở đến tận mang tai. " Thế hả Andrea, vậy thì chị đúng là người chúng tôi cần tìm cũng nên. Tôi nghĩ là đã đến lúc chị làm quen Miranda rồi đấy. Và nếu tôi được phép cho chị một lời khuyên: hãy nhìn thẳng vào mắt bà ta, và đừng ngại nói tốt về chính mình. Bà ấy ưa những người như thế."
Cứ như đã hẹn trước, cô nàng đẹp dã man lượn vào đưa tôi đến văn phòng của Miranda. Đoạn đường từ sau cách cửa kính mờ của tổng biên tập qua phòng các trợ lý đi chưa hết nửa phút, song tôi cảm thấy mọi cặp mắt đều dồn vào mình. Một mỹ nương đứng cạnh máy photocopy quay hẳn người lại để dò xét tôi, cũng như một anh chàng điển trai nhưng lộ rõ vẻ đồng tính, và anh ta cũng chỉ chăm chú quan sát cách ăn mặc của tôi. Tôi đến trước ô cửa dẫn tới tiền sảnh dành cho các trợ lý của Miranda, vừa toan bước vào thì Emily giật phắt chiếc túi xách của tôi và quẳng xuống gầm bàn của cô. Tôi sững lại một tích tắc để hiểu ra thông điệp Ôm thứ này vào thì thà nghỉ ở nhà cho khỏe. Rốt cuộc thì tôi cũng vào đến phòng Miranda: thoáng đãng, rộng rãi, cửa sổ choán hết tường để ánh sáng tràn vào. Ngoài ra, tôi không nhớ lại được chi tiết nào trong căn phòng gây ấn tượng cho tôi hôm ấy, vì tôi không thể rời mắt khỏi bà.
Do chưa nhìn thấy Miranda Priestly trên bất cứ tranh ảnh nào nên tôi ngạc nhiên khi thấy bà mảnh khảnh như vậy . Bà chìa tay ra, những ngón tay thật nữ tính, mềm mại, dài và thanh nhã như một nghệ sĩ dương cầm. Bà phải ngửa đầu lên mới nhìn thẳng được vào mắt tôi, nhưng bà không đứng dậy khi chào. Mái tóc nhuộm vàng tuyệt hảo của bà chải thành một búi trang nhã sau gáy, lồng vừa vặn để tạo vẻ thoải mái, nhưng cũng đủ chặt để không tuột sợi nào ra. Và ngay cả khi không mỉm cười thì bà vẫn không làm cho người ta phải e sợ. Thậm chí còn có vẻ dịu dàng và yếu ớt đằng sau chiếc bàn to tướng màu đen. Tôi chẳng ngại chuyện bà không mời ngồi mà điềm nhiên tự lôi lại cho mình một trong mấy chiếc ghế cứng màu đen dành cho khách. Giờ thì bà ta chăm chú quan sát những nỗ lựa của tôi cố tỏ vẻ tự tin và bặt thiệp với ánh mắt đượm về thích thú. Có thể bà là người cao ngạo và khó gần, được thôi, nhưng tôi không nghĩ rằng bà thuộc loại xấu xa và nhỏ nhen. Bà lên tiếng trước.
" Vì sao chị tìm đến Runway, Aan-dree-aa?" Bà hỏi với ngữ điệu tiếng Anh của giới quý phái, mắt vẫn không rời khỏi tôi.
" Tôi xin được phỏng vấn ở chỗ bà Sharon, và được biết là bà cần một trợ lý riêng ." Tôi bắt đầu, giọng vẫn hơi run. Thấy bà gật đầu, tôi tự tin thêm một chút. " Và sau khi nói chuyện với Emily, Allison và Cheryl, tôi nghĩ rằng tôi biết rõ là bà cần tìm nhân viên như thế nào, và tôi tin mình rất thích hợp công việc đó," tôi nói, trong đầu vẫn nhớ những gì Cheryl dặn. Bà ta thoáng vẻ lắng tai, nhưng vẫn lạnh nhạt.
Và đó là lúc mà tôi muốn giật lấy công việc này bằng được, giống như khi người ta cầu mong có được thứ gì quá xa vời. Nó không giống như xin vào trường luật hay có một bài viết được in trong tạp chí của trường, mà trong trạng thái cắn răng tấn tới của tôi đó là một thử thách thực sự, khiến tôi thành một kẻ trí trá liều mạng - dù không xuất sắc lắm. Từ phút đầu bước chân vào đây tôi đã rõ rằng mình không thuộc dạng hợp cạ với Runway, tôi biết quần áo tóc tai của tôi không đúng mốt, nhưng tệ nhất là quan điểm của tôi đối với nghề này. Tôi không biết gì về thời trang, mà cũng chẳng thèm biết làm gì. Cần gì cơ chứ. Nhưng chính vì thế mà tôi phải có chỗ làm này bằng được. Vả lại, chẳng phải hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết vì nó hay sao?
Tôi trả lời tiếp những câu hỏi của Miranda về cá nhân mình với một vẻ cả quyết và tự tin đến nỗi chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Không có cả thì giờ để e sợ nữa. Thêm vào đó, bà ta cũng có vẻ rất dễ chịu và cho tới lúc đó tôi chẳng biết gì không hay về bà. Cuộc trò chuyện chỉ hơi chựng lại khi bà hỏi tôi biết ngoại ngữ nào. Khi biết tôi nói tiếng Do Thái cổ, bà ngừng lời, xòe tay chống lên mặt bàn và lạnh lùng hỏi: " Tiếng Do Thái à? Tôi lại hy vọng chị biết tiếng Pháp, hoặc tối thiểu một thứ tiếng nào đó hữu dụng hơn." Suýt nữa thì tôi xin lỗi, nhưng kìm lại được.
" Tiếc là tôi không nói được lấy một câu tiếng Pháp, nhưng tôi nghĩ rằng đó không phải là vấn đề lớn."
Miranda chắp hai tay lại.
" Trong hồ sơ thấy chị đã học ở đại học Brown?"
" Vâng, ngành tiếng Anh, tôi đi sâu môn sáng tác. Viết văn luôn là nỗi đam mê của tôi." Sến quá! Tôi thầm mắng mình. Mình có nhất thiết phải dùng từ " đam mê" không?
" Ra thế, chị mê viết lách đến nỗi không quan tâm gì đến thời trang hay sao?" Bà uống một ngụm nước suối rồi nhẹ nhàng đặt cái ly xuống. Rõ ràng bà ta thuộc loại phụ nữ biết uống mà không làm dính một vệt son ghê tởm trên miệng ly. Và bất cứ thời điểm nào, ngày cũng như đêm, luôn có cặp môi đánh son hoàn hảo.
" Ồ không, không phải! Tôi nghiện thời trang là đằng khác," tôi nói dối lem lẻm. " Tôi đang cố gắng học hỏi thêm về thời trang, và tin là một ngày đẹp trời được viết về đề tài này thì tuyệt quá." Có trời mới biết tại sao tôi lại tuôn ra mấy lời như thế. Cứ như tôi là một người khác đứng bên cạnh và nghe mình lải nhải.
Câu chuyện cứ thế nhàn nhạt trôi đi, cho đến khi bà ta đặt câu hỏi cuối cùng về các tạp chí thời trang mà tôi thường đọc. Tôi hăng hái rướn ra phía trước và bắt đầu kể : " Tôi đặt mua dài hạn The New Yorker và Newsweek, nhưng tôi thường xuyên xem The Buzz, thỉnh thoảng đọc Time nhưng thấy tờ ấy khá khô khan, còn U.S.News thì bảo thủ quá. Tất nhiên đôi khi tôi cũng ngó qua tờ Chic ngớ nhẩn, và từ khi đi du lịch về tôi đọc tất cả các tạp chí du lịch và ..."
" Chị có đọc Runway không?" Bà ngừng nói, tì người lên bàn và săm soi tôi kỹ hơn lúc nãy.
Chuyện xảy ra nhanh quá, bất ngờ quá, chộp đúng lúc tôi thiếu cảnh giác nhất. Tôi ngớ ra, không kịp nói dối hay giải thích lòng vòng.
"Không."
Mười giây im lặng nặng như chì. Miranda ra hiệu cho Emily tiễn tôi ra khỏi phòng. Tôi tin là mình được nhận vào làm.
Hết chap 2.
"Nghe không có vẻ như em sẽ được nhận vào làm việc", Alex khẽ nối. Anh nghịch mấy lọn tóc của tôi trong khi tôi ngả cái đầu nhức như báu bổ lên lòng anh. Sau cuộc tra tấn ở nơi phỏng vấn tôi phi thẳng về nhà Alex ở Brooklyn. Tôi khong sung sướng gì phải ngủ thêm một đêm trên chiếc đivăng của Lily, và cũng muốn kể ngay cho Alex nghe những gì vừa xảy ra. thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ đến chuyện dọn đến ở cùng Alex, song tôi không muón bám nhằng nhẵng lấy anh. "Anh vẫn chưa hiểu tại sao em thích làm việc ấy". Nhưng sau một hồi im lặng thì Alex thay đổi ý kiến. "Nghe chẳng có vẻ như đây là cơ hội ngàn năm có một, nhưng tại sao không nhỉ. Ý anh định nói là nếu Allison bắt đầu ở vị trí trợ lí cho Miranda và bây giờ đã thành biên tập viên, thì còn mong gì hơn nữa? Em đừng để lỡ thời cơ."
Anh rất cố gắng tỏ ra vui mừng vì tôi. Chúng tôi đi với nhau từ năm dự bị Brown và tôi quá rành từng ẩn ý trong giọng anh, từng ánh mắt, từng cử chỉ. Trước đây mấy tuần anh vừa bắt đầu làm giáo viên tại trường tiểu học số 227 ở Bronx và đã chán nản đến mức ruồi đậu mép không thèm đuổi. Anh sốc thực sự khi thấy lũ trẻ ranh chín tuổi đã lì lợm và hư hỏng ra sao. Anh phẫn nộ thấy chúng ngang nhiên nói về các kiểu khiêu dâm, biết mười từ lóng ám chỉ cần sa và huênh hoang đã ăn trộm được những thứ gì hoặc anh họ đứa nào bị giam tại nhà tù khắc nghiệt hơn. Alex đặt tên cho bọn chúng là Thợ tù. "Chúng nó có thể viết cả một cuốn sách về sự khác biệt giữa các nhà tù Sing Sing và Rikers, nhưng chúng không đọc nổi một chữ tiếng Anh." Anh vật vã tìm cách tiếp cận chúng để cải thiện tình hình.
Tôi luồn tay xuống dưới T-shirt để gãi lưng anh. Trông anh tàn tậ đến tội nghiệp, khiến tôi hối hận đã làm anh bận tâm vì những chi tiết của buổi phỏng vấn, song tôi không để mãi trong lòng được. "Em biết là việc này không liên quan gì đến công tác biên tập, nhưng vài tháng nữa nhất định em sẽ được phép viết một bài." Tôi nói "Hay anh nghĩ là em bán rẻ mọi lý tưởng của mình khi đi làm cho một tạp chí thời trang?"
Alex nắm chặt cánh tay tôi và nằm xuống bên cạnh. "Em yêu, em là một cây bút cừ khôi, anh biết là ở đâu em cũng sẽ là người xuất sắc. Không có gì gọi là bán rẻ cả, hãy coi đó là thời gian học nghề. Em có nói là làm việc một năm cho Runway sẽ học được nhiều hơn ba năm điếu đóm ở một nơi nào khác?"
Tôi gật đầu. "Emily và Allison nói thế. Đó cũng là một kiểu có đi có lại. Hãy làm việc tử tế cho Runway một năm, rồi Miranda sẽ nhấc điện thoại và kiếm cho em một công việc ở nơi nào em muốn."
"Thế thì sao lại không làm? Nói nghiêm chỉnh đấy, Andy ạ. Em hãy làm việc ở đó một năm, rồi sẽ có việc ở The New Yorker. Em vẫn luôn mong muốn thế mà. Có lẽ làm việc ở Runway rồi thì em sẽ đạt mục đích nhanh hơn nhiều."
"Anh nói đúng. Rất đúng."
"Ngoài ra thì em nhất định phải chuyển đến New York, anh phải công nhận ý tưởng đó rất hấp dẫn." Anh hôn tôi, một cái hôn dài và nhẹ, một kiểu hôn cóc lẽ do hai chúng tôi sáng tạo ra. "Đừng suy nghĩ thêm nữa làm gì. Chính em đã tự nói chưa biết có được nhận việc hay không. Hãy đợi xem cái gì sẽ đến."
Chúng tôi nấu bữa tối đơn giản, nằm quay ra ngủ trong khi xem Letterman dẫn trò trên tivi. Tôi nằm mơ thấy những đứa trẻ con chín tuổi ghê rợn vừa làm tình ngoài sân trường vừa nốc rượu vừa quát tháo với Alex đáng yêu của tôi. Giữa lúc ấy thì điện thoại đổ chuông.
Alex nhấc máy, áp ống nghe vào tai nhưng chẳng thèm mở mắt ra hay nói alô. Anh chuyền luôn ống nghe cho tôi. Cố gắng lắm tôi mới đủ cầm lấy.
"Alô?" Tôi là nhè nói và ngó vào đồng hồ. 7giờ15. Ai gọ điện vào cái giờ quái quỷ này?
"Tớ đây" giọng Lily cáu kỉnh.
"Xin chào, mọi việc ổn cả chứ?"
" Cậu nghĩ mọi việc đều ổn mà tớ lại gọi điện sao? Tớ đang váng đầu muốn chết đaya, vừa xong cơn nôn mửa để ngủ thiếp đi thì một bà cô dựng tớ dậy và tươi tỉnh thông báo rằng bà ta làm việc ở phòng nhân sự của Elias Clark. Bà ấy tìm câu đấy! Vào lúc 7giờ15 còn tối mịt! Gọi lại cho bà ấy đi, và bảo bà ấy quẳng số điện thoại này của tớ đi."
"Tha lỗi cho tớ, Lily, tớ cho họ số của cậu vì tớ không có điện thoại di động. Ai ngờ bà ấy lại gọi sớm thế. Không biết tin lành hay dữ đây?" Tôi ôm điện thoại, rón rén ra khỏi phòng ngủ và khẽ tay đóng cửa lại.
"Lành hay dữ cũng được. Chúc cậu may mắn. Nhớ báo cho tớ kết quả ra sao nhé, nhưng không nhất thiết trong mấy tiếng đồng hồ tới, ok?"
"Nhất định rồi. Cảm ơn. Và đừng giận nhé."
Tôi nhìn lại đồng hồ và không tin là mình có thần kinh thép để bàn chuyện công vệc vào lúc này. Tôi đặt một ấm nước, pha xong cà phê và bưng tách ra đi văng. Đến lúc phải gọi điện thôi. Tôi không được phép lựa chọn nữa.
"A lô, tôi là Andrea Sachs", tôi nói chắc nịch, tuy nhiên nghe giọng khàn đục thì cahức biết là tôi vừa chui trên giường xuống.
"Andrea, chúc chị một buổi sớm mai tốt lành! Hy vọng là tôi không gọi quá sớm" giọng Sharon ngân tươi tỉnh như ánh mặt trời. "Tôi chắc là không quá sớm, đúng không, nhất là khi chị sắp phải khẩn trương làm quen với việc này đấy! Tôi có tin cực hay cho chị đây. Miranda có ấn tượng rất tốt về chị và dự kiến chắc chắn sẽ làm việc cùng với chị đấy. Có tuyệt không nào? Xin chúc mừng chị. Chị có cảm giác gì khi sắp là trợ lý mới của Miranda Priestly? Tôi tưởng tượng ra chị đang..."
Đầu óc tôi quay như chong chóng. Tôi toan nhỏm dậy khỏi đi văng để đi lấy thêm cafê, hay nước, gì cũng được, cốt để đầu óc minh mẫn trở lại, song tôi càng lún sâu xuống đệm. Bà ta vừa hỏi tôi có thích công việc ấy không, hay đó là một lời mời chính thức? Tôi không luận ra được gì từ lời bà vừa nói, ngoài một chuyện là tôi đã làm Miranda Priestly hài lòng.
"... phấn khởi sau khi nghe tin này. Ai lại không phấn khởi chứ? Giờ thì chúng ta hãy xem tình hình ra sao nào. Chị có thể bắt đầu vào thứ Hai chứ? Lúc đó Miranda đang nghỉ, nhưng thế thì càng tiện cho lúc khởi đầu, để chị từ từ làm que công việc với các nữ cộng tác viên khác. Ôi, toàn là các cô gái dễ thương làm sao!" Sao cơ? Làm quen với công việc? Thứ Hai bắt đầu? Các cô gái dễ thương? Đầu óc rối tung của tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi lọc ra đúng một cấu hỏi mà tôi hiểu rõ và trả lời luôn.
"Nhưng, tôi không tin là thứ Hai có thể bắt đầu được" tôi nói khẽ, hy vọng là đã phát ra một câu liền mạch. Vừa nói hết câu thì tôi chợt tỉnh hẳn. Hôm qua, lần đầu tiên ttôi đi qua ô cửa của Elias Clark, giờ thì tôi bị lôi khỏi cơn ngủ sâu để nghe một người báo tin là ba hôm nữa tôi bắt đầu làm việc. Hôm nay là thws Sáu - vào lúc 7giờ sáng tinh mơ - và họ muốn tôi thứ Hai bắt đầu làm việc? Mọi chuyện bắt đầu tuột khỏi vòng kiểm soát. Tại sao lại phải vội vàng một cách kì cục như vậy? Bà ta quan trọng đến mức phải cần tôi gấp đến thế sao? Và có lý do gì để giọng Sharon nhụt hẳn lại khi nhắc đến Miranda?
Tứ Hai thì không thể bắt đầu được. Tôi còn chưa có chõ trú chân. Phần lớn đồ đạc của tôi trong khi đi du lịch hồi mùa hè còn cất ở nhà bố mẹ ở Avon, nơi tôi miễn cưỡng chui về sau khi tốt nghiệp. Mấy bộ quần áo khả dĩ dễ coi để mặc khi đi phỏng vấn tìm việc còn nằm ngổn ngang trên đi văng nhà Lily. Tôi đã cố gắng dọn bát đĩa, đổ gạt tàn và mua hàng kilo kem Häagen-Dazs để lấy lòng cô bạn gái, nhưng cũng tính toán sao cho hợp lývà thỉnh thoảng biến đi cho khuất mắt Lily bằng cách cuối tuần đến ăn nhờ ở đậu chỗ Alex. Nghĩa là đồ diện đi chơi cuối tuần và son phấn thì ở chỗ Alex ở Brooklyn, laptop và quần áo linh tinh ở căn hộ một phòng của Lily ở Harlem, phần còn lại ở nhà bố mẹ ở Avon. Tôi không có nàh ở New York và càng không hiểu nổi những chuyện mà ai ai cũng biết là muốn tới đại lộ Mandison thì chạy lên phố trên, còn khu thương mại Broadway phải xuống phía dưới. Tôi còn chẳng biết phố trên là gì. Thế mà bà ta muốn tôi thứ Hai bắt đầu đi làm?
"Tôi e là thứ Hai chưa đi làm được, vì tôi chưa có nhà ở New York." Tôi vội giải thích và tóm chặt ống nghe. "Tôi cần vài hôm để kiếm nhà và mua đồ đạc."
"Chà, vậy thì tôi nghĩ là thứ Tư cũng kịp" giọng bà bực bội.
Sau vài phút đôi co, chúng tôi nhất trí ngày 17 tháng Mười một, thứ Hai tuần sau nữa. Có nghĩa là tôi còn hơn tám ngày đểe tìm ra và trang bị đồ đạc cho một căn hộ ở thị trường thuê nhàa thuộc hạng điên đỏa nhất thế giới.
Tôi đặt máy và thả phịch người xuống đi văng. Tay tôi run đến nỗi thả rơi điện thoại xuống đất. Một tuần. Tôi còn một tuần nữa, sau đó sẽ bắt đầu công việc làm trợ lý cho Miranda Priestly mà tôi vừa nhận. Nhưng khoan đã! Có gì đó chưa ổn thì phải... Tôi đã nhận việc đó đâu? Sharon có chính thức mời tôi làm đâu? Bà ta không hề nói dứt khoát "Chúng tôi mời chị" vì bà cầm chắc là bất cứ ai có chút trí khôn trong đầu cũng vồ ngay lấy. Cũng chưa ai nói ra chữ "lương" cả. Thiếu chút nữa thì tôi cười phá lên. Hay đó là một đòn chiến thuật mà học đã quá thạo? đợi cho đối thủ ngủ say ngủ say như chết sau một ngày căng thẳng rồi đánh vỗ mặt bằng một sự kiện có tính quyết định cả cuộc đời? Hay Sharon cho rằng chỉ phí hơi sức và thời gian để làm một việc vặt vãnh như hỏi xem ai đó có thích làm việc cho tạp chí Runway không? Bà ta tin là nhất định tôi sẽ sung sướng nhẩy cẫng lên khi nhận được cơ hội này. VÀ bà ta có lý, hệt như mọi người trong công ty Elias Clark luôn luôn có lý. Mọi việc xảy ra quá nhanh, quá áp đảo, không để tôi có thì giờ thong thả suy sét như tính tôi mọi khi vẫn thế. Tuy nhiên tôi có cảm giác đó chính là một cơ hội ngon lành, có mà điên mới bỏ lỡ nó. Biết đâu Runway là bước dài đầu đầu tiên trên con đường tiến tới The New Yorker. Tôi phải chộp lấy nó. Một dịp may như thế sẽ không trở lại.
Bừng bừng nhiệt huyết, tôi dốc nốt ngụm cà phê và rồi vặn nước thật nóng để tắm qua quýt. Lúc tôi pha một tách café mới đem vào phòng cho Alex thì anh đã dậy.
"Em đã mặc quần áo xong xuôi rồi đấy à?" Anh nói và lần mò tìm cặp kính nếu thiếu thì anh sẽ trở thành kẻ mù dở. "Sáng nay ai gọi điện đấy, hay anh nằm mơ?"
"Không phải mơ đâu" tôi nói và chui vào chăn, để nguyên quần bò và áo thun đã mặc, không ngại tóc chưa khô làm ướt gối. "Lily gọi điện. Bà phụ trách nhân sự của Elias Clark gọi đến đó vì em cho họ số điện thoại của Lily. Đố anh chuyện gì?"
"Em dược nhận vào làm?"
"Em được nhận vào rồi!"
"Lại đây với anh!" Anh ngồi bật dậy và ôm tôi. "Anh rất tự hào vì em! Thật là một tin mừng, thật tuyệt!"
"Anh có thực sự cho rằng đó là một cơ hội tốt? Mình đã bàn chuyện đó rồi, em biết, nhưng họ không cho em thì giờ suy nghĩ nữa. Họ chắc chắn là em nhận lời."
"Một cơ hội không ngờ. Thế giới này còn khối thứ tệ hơn thời trang - biết đâu em lại thích nó cũng nên."
Tôi xịu mặt.
"Okay, okay, anh không muốn đòi hỏi em quá nhiều. Nhưng với Runway trong lý lịch công tác và thư giới thiệu của cái bà Miranda này, hay thậm chí thêm vài bài viết nho nhỏ thì em sẽ đạp toang được mọi cửa. The New Yorker sẽ rộng tay đón em."
"Em mong nah nói đúng, thật đấy." Tôi nhảy khỏi giường và bắt đầu nhét quần áo vào balô. "Anh cho em mượn ôtô được chứ? Em về nhà càng sớm thì cũng sẽ quay lại sớm. Mặc dù về sớm hay về muộn cũng không quan trọng nữa, vì em đang chuyển nhà đến New York! Đó là tuyên bố chính thức."
Từ khi Alex mỗi tuần hai lần về nhà ở Westchester đeer trông thằng em nhỏ vì mẹ anh đi làm thêm giờ, anh được mẹ cho cái xe cũ. Nhưng anh không cần xe từ giờ đến thứ Ba, lúc đó thì tôi đã quay lại rồi. Đằng nào thì tôi cũng đã có kế hoạch về thăm bố mẹ cuối tuần này, và giờ còn đem theo một tin vui.
"Được, không vấn đề gì. Xe đậu ở Grand Street, gần ngã tư. Chìa khóa trên bàn bếp ấy. Khi nào về nhớ gọi điện cho anh, nhớ chưa?"
"Tất nhiên. Anh không muốn đi cùng à? Sẽ có đồ ăn ngon - anh biết đấy, mẹ em chỉ đặt những món tử tế nhất."
"Nghe rất hấp dẫn. Anh cũng muốn, nhưng ngày mai anh tổ chức một cuộc họp mặt mấy giáo viên trẻ, buổi tối cùng nhau đi uống chút gì đó. Có theer có lợi cho không khí làm việc tập thể, anh thực sự không muốn vắng mặt."
"Nhà từ tâm vĩ đại ơi, đến đâu cũng phải làm được việc thiện, đúng không? May mà em rất yêu anh, không thì em đã bỏ anh lâu rồi." Tôi rướn lên trao anh một nụ hôn chia tay.
Tôi tìm thấy ngay chiếc Jetta màu xanh lá cây của anh, chỉ sau hai mươi phút đã tìm ra đại lộ rộng mở dẫn lên cao tốc 95 về phía Bắc. Hôm nay là một ngày lạnh giá của tháng Mười một, trên đường có vài đoạn đóng băng, nhưng mặt trời chiếu sáng rực khiến tôi phải nheo mắt lại cho đỡ chói, gió lạnh trong trẻo lùa vào phổi. Suốt dọc đường tôi hạ cửa kính xuống, nghe đi nghe lại phần nhạc của phim Almost Famous. Tôi lấy một tay vuốt mái tóc ẩm sau gáy để khỏi bay vào mắt, và hà hơi vào tay cho ấm để nắm chặt được bánh lái. Mới rời ghế đại học được sáu tháng mà cuộc đời tôi đã lên bệ phóng. Mới hôm qua nữ đại gia Miranda Priestly còn là một người lạ đối với tôi, nhưng chính tay bà đã chọn tôi làm trợ lý. Giờ thì tôi có lý do cụ thể để rời Connecticut và đơn thương độc mã tiến tới Manhattan với tư cách là một người trưởng thành. Đến đoạn rẽ vào ngôi nhà thời thơ ấu, tôi không nén nổi niềm vui nữa. Má tôi ửng đỏ trong gương hậu vì gió đông, tóc tai bay rối tung, mặt không tí có tí phấn son nào, phần dưới ống quần bò dính bẩn lúc lội qua tuyết nhão nhoét ở thành phố. Nhưng trong lúc này tôi thấy mình đẹp và rất rạo rực trong người. Tôi mở toang cửa và gọi mẹ. Đó là lần cuối cùng trong đời tôi được hưởng cảm giác bay bổng như thế.
"Một tuần? Mẹ chỉ không thể tưởng tượng được con sẽ làm thế nào để bắt đầu công việc trong một tuần nữa, con gái yêu ạ." mẹ tôi nói trong khi lấy thìa quấy tách trà. Cả nhà ngồi ở vị trí quen thuộc quanh bàn bếp. Như mọi khi, mẹ tôi uống trà đã khử cafein với đường hóa học, còn tôi ngồi trước một cốc trà bữa sáng to tướng của Anh pha đường. Mặc dù đã bốn năm nay tôi khôngthường xuyên ở nhà nhưng chỉ cần một cốc trà đun trong lò vi sóng cùng mấy miếng bánh bơ lạc là đủ tao cảm giác như chưa chưa bao giờ đi khỏi nơi đây.
"Con không có sự lựa chọn nào, và thực sự là con vui mừng khi nhận được cơ hội này. Mọi người phải được nghe giọng bà ấy rắn như đinh trong điện thoại thì mới hiểu" tôi nói. Mẹ nhìn tôi đầy nghi ngại. "Dù sao thì cũng chẳng thay đổi được gì nữa. Con có việc làm ở một tạp cí rất danh tiếng, với một trong những phụ nữ có thế lực nhất trong công nghiệp báo chí. Để có việc này, hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết."
Cả nhà nhìn nhau cười, song nụ cười của mẹ tôi pha lẫn buồn rầu. "Mẹ rất vui cho con" mẹ nói "Mẹ có một đứa con gái trưởng thành như thế này , con gái yêu ạ, mẹ biết là cuộc đời con bắt đầu một chặng đường vô cùng tốt đẹp. Mẹ cứ nhớ lại hồi mới ra trường và chuyển đến New York. Một mình giữa cái thành phố khổng lồ và điên đảo. Khủng khiếp, nhưng cực kỳ hấp dẫn. Mẹ muốn con tận hưởng từng phút ở đó, sân khấu, phim ảnh, con người, cửa hiệu, sách báo. Đó sẽ là phần đời đẹp nhất của con - mẹ biết chắc sẽ như thế." Mẹ đặt tay lên tay tôi, một cử chỉ hiếm thấy. "Mẹ rất tự hào về con."
"Con cảm ơn mẹ. Liệu lòng tự hào có đủ để trả tiền cho một căn hộ, đồ gỗ nội thất và toàn bộ quần áo mới không?"
"Hiểu rồi" mẹ nói và lấy tờ báo đập lên đầu tôi lúc ra phía lò vi sóng làm thêm hai cốc trà mới. Mẹ không lắc đầu, nhưng cũng chẳng hào hứng rút ngay quyển séc.
Buổi tối tôi dành thời gian còn lại để viết email cho tất cả những ai quen biết,, hỏi xem có ai tìm người ở cùng hay quen ai có nhu cầu. Tôi bắn tin lên mạng và gọi điện cả cho những người mà tôi hàng tháng trời không bắt liên lạc. Không kết quả. Nếu không muốn vĩnh viễn nằm ườn trên đi văng của Lily và chắc chắn làm tiêu tan tình bạn giữa hai người hoặc bám chặt lấy Alex việc mà cả hai chúng tôi đều chưa sẵn sàng để làm, thì tôi phải quuyết định tạm thuê nhà ngắn hạn ở đâu đó, đợi đến khi tôi thông thạo hơn trong thành phố khổng lồ này. Lý tưởng nhất là tìm được một căn phòng riêng, tốt hơn nữa là có sẵn nội thất để tôi khỏi phải bận tâm mua sắm mấy thứ đó.
Qua nửa đêm một chút thì có chuông điện thoại. Tôi lao ra vớ lấy điện thoại, thiếu chút nữa thì ngã khỏi cái giường bé tíhồi trẻ con của mình. Chris Everst, người hùng thời niên thiếu của tôi đang mỉm cười trên một bức ảnh đóng khungcó chữ ký treo trên tường, phía dưới một tấm bảng găm đầy các bài báo về Kirk Cameron. Tôi bất giác mỉm cười.
"Chào bà tướng, Alex đây" giọng anh tiết lộ là có tin gì đó mới, chỉ có điều không nhận ra được đó là tin xấu hay tin tốt. "Anh vừa nhận được email của một cô gái tên là Claire McMillan đang tìm người ở cùng. Cựu sinh viên Princeton. Anh nhớ là có quen cô ấy ngày xưa. Cô ấy là bạn gái Andrew, hoàn toàn bình thường. Em nghĩ sao?"
"Tại sao không? Anh có số điện thoại của cô ấy không?"
"Không, chỉ có địa chỉ email. Nhưng anh chuyển tiếp thư của cô ấy đến em để liên lạc thẳng. Anh nghĩ cô này tốt đấy."
Tôi gửi email cho Claire McMillan trong khi vẫn tiếp tục truyện trò với Alex. Rồi rốt cuộc được ngủ một lần trên giường riêng của mình. Có thể, nếu may mắn, vần đề nhà ở đã giải quyết xong.
Tìm đến Claire McMillan cũng uổng công. Căn hộ của cô là một lỗ tối tăm và u ám, lại ở giữa một khu khá bất hảo. Lúc tôi đến xem nhà, một gã nghiện đang ngồi ngay bậu cửa. Phần còn laịi cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Có một phòng riêng trong căn hộ của một đôi trai gái muốn cho thuê, nhưng họ ý tứ nhắc trước là sinh hoạt giường chiếu của họ khá đều đặn và ồn ào. Một chủ nhà tiềm năng là nữ nghệ sĩ trên ba mươi tuổi, có bốn con mèo và đang tha thiết tậu thêm vài con nữa. Phòng tếp theo ở tận cuối một hành lang hun hút tối mò, không cửa sổ lẫn tủtường. Lại một chàng đồg tính hai mươi tư tuổi nữa, tự nhận là đang trong "giai đoạn nhếch nhác". Mỗi căn phòng tồi tàn mà tôi đến xem đều có giá trên 1000 dollar, trong khi lương lậu của tôi đạt mức hoành tráng là 32500 dollar (cả năm!). Ngay cả khi không có năng khiếu toán kiệt xuất thì tôi cũng dễ dàng tính ra aaf mỗi năm riêng tiền nhà đã ngốn mất trên 12000, và phần còn lại chỉ đủ đóng thuế. Đã thế, bố mẹ tôi còn tịch thu luôn chiếc thẻ tín dụng vốn chỉ để đề phòng các trường hợp khẩn cấp. Tôi trưởng thành rồi mà. Bó tay luôn!
Sau ba ngày đầy tuyệt vọng, Lily đã vào cầu. Do phần nào cũng quan tâm đến việc tôi cuốn xéo khỏi chiếc đi văng của mình, Lily viết email thông báo cho mọi bạn bè gần xa của cô. Một bạn học ngày xưa của Lily ở đại học Columbia có bạn là nhân viên của ông sếp có quen hai cô gái tìm người ở cùng. Tôi gọi điện ngay, nói chuyện với một cô gái dễ thương tên là Shanti. Cô kể là đang cùng bạn mình, Kendra, tìm người chia sẻ căn hộ ở Upper East Side. Căn phòng đó kì thực là một gian tí xíu, nhưng có cửa sổ và tủ tường, thậm chí một bức tường lát gạch rất đẹp. Mỗi tháng 800 dollar. Trong căn hộ có nhà tắm, bếp (đương nhiên không có bồn tắm nằm và máy rửa bát hay thang máy, nhưng lần đầu đi ở riêng thì cũng chẳng ai mong có cuộc sống xa xỉ cả). Được rồi. Shanti và Kendra là hai cô gái Ấn Độ rất đáng mến, vừa tốt nghiệp đại học Duke, hiện đang làm việc tối mắt tối mũi ở một ngân hàng tư vẫn đầu tư. Hôm đầu, và cả những ngày sau đó tôi không thể phân biệt được họ vì hai cô giống nhau như hai giọt nước. Thôi được. Thế là tôi đã có chỗ ở.
Cả khi đã ngủ ba hôm trong căn phòng mới, tôi vẫn cảm thấy mình là một người lạ trên một mảnh đất lạ. Căn phòng quả là bé. Chắc chỉ to hơn túp lều đựng dụng cụ làm vườn của bố mẹ tôi ở Avon một chút, nhưng cũng chỉ một chút thôi. Đã thế nó lại co lại chỉ còn một nửa sau khi tôi bày biện đồ đạc ra. Vốn ngớ ngẩn không có kinh nghiệm, tôi cho là nó rộng như một phòng bình thường và quyết định mua một chiếc giường đôi, một hòm đựng quần áo, một hoặc hai bàn con kê cạnh giường. Lily và tôi lấy ô tô của Alex đi đến cửa hàng Ikea, thiên đường của các sinh viên vừa tốt nghiệp, và mua một loạt đồ gỗ tuyệt đẹp sáng màu, cùng một tấm thảm dệt pha các màu lam nhạt, lam đậm, thanh thiên và chàm. Hệt như chuyện mốt, trang trí nội thất không thuộc về các mặt mạnh của tôi: tôi tin là Ikea đang trong "chu kỳ xanh lam". Chúng tôi sắm đồ trải giường có chấm xanh và cái chăn mềm nhất bán trong cửa hàng. Lily còn thuyết phục tôi mua một chiếc đèn ngủ bọc giấy dó của Trung Hoa. Tôi chọn thêm mấy tranh đen trắng đóng khung sẵn để bổ sung cho bức tường gạch đỏ sẫm còn trống. Lịch thiệp, thông dụng, pha một chút tư tưởng Thiền. Thế là căn phòng đầu tiên trong đời tôi tại thành phố lớn đã hoàn chỉnh.
Hoàn chỉnh nghĩa là ...trước khi đồ gỗ được chở đến nhà. Ngắm nghía một căn phòng xem chừng không hẳn giống như lấy thước ra đo chiều dài chiều rộng của nó. Chẳng có gì vừa. Sau khi Alex lắp xong giường và đẩy nó sát vào bức tường gạch trống trơn (" Bức tường dang dở", gọi theo kiểu Manhattan) thì nó đã choán hết diện tích phòng. Tôi phải xua mấy ông thợ chở cái hòm quần áo sáu ngăn kéo, hai chiếc bàn con và cả chiếc gương to trở về cửa hàng. Họ và Alex bằng cách nào đó đã nâng được giường lên để tôi luồn tấm thảm ba màu xuống dưới, và mỗi bên lòi ra một gang tay thảm xanh dưới con quái vật gỗ khổng lồ đó. Do cái đèn giấy dó không còn chỗ trên hòm hay bàn con nữa nên tôi đặt bén xuống nền nhà, đúng vào cái rẻo 15 phân còn thừa ra giữa thành giường và cửa kéo của tủ tường. Khi thử treo mấy bức tranh đen trắng lên bức tường gạch còn trống thì tôi thất bại thảm hại, mặc dù đã dùng cả băng cách điện, đinh, dây thép, keo dán, băng dính hai mặt mà không sao gắn nổi chúng lên tường. Sau gần ba giờ đồng hồ vật lộn, tay chân trầy xước rớm máu, tôi đành đặt tranh lên bậu cửa sổ. Té ra đó là cách tối ưu, che luôn được một phần góc nhìn xuyên vào phòng tôi của bà hàng xóm đối diện, chỉ cách chừng hai thước từ bên kia sân trời. Vấn đề ở đây chẳng phải là sân trời thay cho đường chân trời của NewYork, là hòm quần áo không có chỗ hay tủ tường quá hẹp để nhét vào một cái áo khoác mùa đông - căn phòng này là của tôi, căn phòng đầu tiên do tôi tự trang trí nội thất theo ý mình, không bị bố mẹ hay người cùng phòng nói chọc vào. Yêu quá.
Tối Chủ nhật, trước ngày làm việc đầu tiên, tôi chỉ bận tâm mỗi chuyện duy nhất là ngày mai sẽ mặc đồ gì. Kendra, cô bạn mau chuyện hơn trong hai người ở cùng, thỉng thoảng ngó vào và nhẹ nhàng hỏi có giúp được tôi chuyện gì. Hai cô này thì ngày nào cũng mặc đồ công sở quá ư cổ hủ đến nơi làm việc, vì vậy tôi xin kiếu luôn những góp ý của họ về thời trang. Tôi chạy đi chạy lại trong phòng - nếu được phép thì dùng từ "chạy" trong phạm vi bốn bước chân - rồi ngồi phịch xuống mép giường sát màn hình tivi. Mặc gì khi đi làm hôm đầu tiên cho bà chủ bút ăn mặc đúng mốt nhất của tạp chí thời trang tiên phong nhất về mốt? Cố nhiên tôi đã nghe nói về Prada ( từ mấy cô bạn người Nhật du lịch balô ở Brown ) và Louis Vuitton ( vì bà tôi vẫn xách mấy cái túi in đầy kí tự ấy ra đường, không ngờ là chúng thuộc hạng sành điệu đến mức nào ) hay có thể cả Gucci nữa ( đố ai kiếm ra lấy một người không biết hiệu Gucci! ). Nhưng tôi không có lấy đến một thứ đồ hiệu nào cả, mà kể ra nếu có thì tôi cũng chẳng hiểu sẽ xoay xở đặt chúng vào đâu trong cái phòng tí tẹo của tôi. Tôi lại vào phòng - hay đúng hơn là cái đệm kẹp giữa hai bức tường - nằm lăn ra trên cái giường đôi xinh đẹp và thúc luôn mắt cá vào cạnh giường. Mắt tóe đom đóm.
Sau bao nhiêu khổ sở vật vã để chọn lựa, tôi quyết định sẽ mặc một chiếc áo pull xanh nhạt, váy đen dài đến đầu gối và ủng đen. Do đã biết là cái cặp sách hôm phỏng vấn bị ngược đãi ra sao nên tôi chọn một túi kẹp nách bằng vải thô màu đen. Hình ảnh cuối cùng còn nhớ lại tối hôm đó là tôi mặc váy và xỏ ủng cao gót , nhưng không khoát áo, liêu xiêu đi quanh chiếc giường đồ sộ, rồi ngồi thừ ra vì kiệt sức.
Chắc là tôi thiếp đi vì quá mệt mỏi, rồi không phải vì đồng hồ báo thức mà là chính sự bồn chồn đã dựng tôi dậy vào đúng năm giờ rưỡi. Tôi nhảy bổ khỏi giường. Đầu óc như muốn bung ra sau cả tuần căng thẳng. Bây giờ tôi còn đúng một tiếng rưỡi để tắm, mặc quần áo và đi phương tiện công cộng từ cái ký túc xá nửa mùa này vào đến nội thành - nỗi ám ảnh kinh hoàng cho đến bây giờ. Cũng có nghĩa là tôi mất một tiếng xe cộ và nửa tiếng để tô vẽ mặt mày.
Vòi tắm là một ác mộng, mỗi lần vặn nước nó huýt như còi và chỉ cho ra nước hơi âm ấm. Khi tắm xong và chuẩn bị bước ra ngoài phòng tắm lạnh như băng thì nước lại nóng như sôi. Mất đến ba ngày sau tôi mới rút ra kinh nghiệm : tôi nhảy khỏi giường, vặn nước, và chui lại vào chăn ngủ nướng thêm 15 phút trong khi đồng hồ báo thức réo ba lần, rồi quay trở lại phòng tắm để bắt đầu hai, khi gương đã mờ hết vì hơi ẩm và nước nóng tuyệt vời - tuy rằng chỉ chảy một dòng nhỏ ti tỉ.
Tôi chui vào bộ trang phục gò bó, chỉ hai mươi lăm phút từ khi tỉnh giấc là đã ra đến ngoài đường - kỷ lục cá nhân! Sau đó cũng chỉ cần có mười phút là tìm đến bến tàu điện ngầm gần nhất. Kể ra thì tối qua tôi nên đi thăm dò trước một lần quãng đường này, nhưng tôi ngoan cố không thèm nghe lời khuyên đó của mẹ, còn lần đi phỏng vấn tuần trước thì tôi đi taxi. Tôi cũng rất ngán đi xuống mạng lưới tàu điện ngầm chằng chịt. Nhưng may sao có một người ngồi sau quầy thông tin nói tiếng Anh, hướng dẫn tôi đi tuyến số 6 đến phố 59. Đến đó chỉ cần xuống bên phải đi bộ hai dãy nhà là đến Madison. Quá đơn giản. Tôi lên toa tàu lạnh ngắt và vắng người, giữa tháng Mười một ngoài tôi ra ít kẻ nào dở hơi ra đường vào cái giờ mọi người còn ngáy khò khò. Thôi thì đến đâu hay đó, chưa thấy gì trục trặc cả - cho đến khi tôi xuống tàu và đi lên mặt đất.
Tôi lên cầu thang gần nhất, trên phố là một bầu không khí lạnh ngắt mà nguồn sáng duy nhất hắt ra từ một hiệu ăn mở 24/24. Sau lưng tôi là cửa hiệu bách hóa Bloomingdale's, ngoài ra thứ gì cũng lạ lẫm cả. Elias Clark, Elias Clark, Elias Clark, mày trốn đâu rồi? Tôi quay một vòng 180 độ và phát hiện ra biển tên phố: 60. À ha, phố 59 không thể xa phố 60 lắm đâu. Vấn đề chỉ là đi về hướng nào bây giờ? Madison ở về phía nào của Lexington? Tôi không nhận ra nét gì quen thuộc từ lần đi phỏng vấn lần trước, vì hôm đó tôi xuống xe ngay trước cửa tòa nhà Elias Clark. May mà đã tính dôi thêm khối thời gian, tha hồ mà lạc đường. Tôi ngơ ngác đi lại mấy bước và chui vào một quầy bán đồ ăn để mua cà phê.
" Xin lỗi, tôi đi tìm tòa nhà Elias Clark, ông có thể chỉ cho tôi đi theo hướng nào được không?" Tôi hỏi một ông đang tíu tít ở bàn thu ngân. Tôi cố không mỉm cười một cách khả ái, thực hiện đúng theo lời khuyên của mọi người, rằng tôi chớ quên mình không còn ở chốn Avon nhà quê nữa. Dân ở đây vốn nghi ngại những cử chỉ thân thiện. Ông ta cau có nhìn tôi, tôi lúng túng không rõ có phải ông ta cho mình là khiếm nhã không, và mỉm cười thân thiện.
" Một dollar," ông chìa tay ra.
" Ông đòi tiền chỉ đường hay sao?"
"Một dollar, nâu hay đen, muốn gì?"
Tôi ngớ ra nhìn ông ta một lát mới hiểu ra là tiếng Anh của ông ta chỉ đủ để nói chuyện cà phê. " ông cho xin cà phê với sữa, cám ơn." Tôi đưa một dollar rồi ra ngoài. Ngơ ngác hơn cả lúc nãy, tôi hỏi người bán báo, người quét đường, cả một người đang đẩy xe bán dạo đồ ăn sáng. Không ai đủ hiểu tôi để chỉ hướng đi tới phố 59 và Madison. Tôi có cảm giác như bị đưa về Delhi với trầm cảm và kiết lị. Không! Tôi sẽ tìm ra đường!
Sau mấy phút ngược xuôi giữa các tòa nhà văn phòng giờ này đang dần dần tỉnh ngủ, đột nhiên tôi đứng ngay trước cửa ra vào của tòa nhà Elias Clark. Sau những tấm kính là tiền sảnh sáng choang trong khung cảnh ràng rạng sáng sớm, thoạt trông có vẻ ấm cúng và mời mọc. Nhưng khi tôi toan đẩy cánh cửa xoay bước vào thì nó đứng im. Tôi mắm môi đẩy mạnh hơn, và chỉ khi tôi lấy hết sức bình sinh tì cả người vào tấm kính thì nó mới hơi nhúc nhích, thoạt tiên rất chậm chạp, rồi thì đột ngột quay nhanh đến nỗi tôi bị tấm cửa phía sau dộng vào lưng , suýt đẩy tôi lao vào tiền sảnh. Tôi díu hai chân và may mà chưa ngã. Một gã ngồi sau quầy an ninh cười phá lên. " Cái cửa khốn nạn quá nhỉ? Cô không phải người đầu tiên bị , và cũng sẽ không phải là người cuối cùng đâu," hắn ta cười rung cặp má nung núc thịt. " Người ta đón tiếp cô hơi bị dở đấy."
Tôi thoáng nhìn gã và biết rằng không thể có cảm tình với loại người này, cũng như gã sẽ chẳng ưa mình, bất kể tôi nói gì hay làm gì. Vì vậy tôi cười cho qua chuyện.
" Tôi là Andrea," tôi nói, rút găng ra và đưa tay qua mặt quầy. " Hôm nay là ngày làm việc đầu tiên của tôi ở Runway. Tôi là trợ lý mới của Miranda Priestly."
Gã cười rống lên, gật cái đầu tròn ra sau đầy khoái trá. " Ha ha ha, này Eduardo, ra đây xem này, Miranda lại kiếm thêm được một nô lệ mới đây này! Cô ở đâu đến thế hả cô bé? Từ nhà quê ra đúng không? Bà ấy sẽ súc miệng cô trong chớp mắt, ha ha ha!"
Trước khi tôi tìm ra câu trả lời thì một người đàn ông khác trông bộ cảnh phục giống hệt gã này đi tới và nhìn tôi dò xét. Tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nghe vài câu giễu cợt khả ố, nhưng không phải, thay vào đó ông quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi.
" Tôi là Eduardo, còn thằng ngố này tên là Mickey," ông nói và chỉ tay vào gã kia đang tỏ vẻ bực mình vì sự nhã nhặn của ông làm tịt trò đùa. " Chị không cần để ý tới hắn làm gì, hắn chọc ghẹo chị ấy mà," ông nói giọng NewYork pha lẫn phương ngữ Tây Ban Nha và lôi cuốn sổ ghi tên ra. "Chị điền các thông tin vào phần này, tôi sẽ đưa chị một thẻ thông hành tạm thời để lên tầng trên. Nói với phòng nhân sự là chị cần một thẻ có dán ảnh."
Chắc là vẻ mặt tôi lúc đó lộ rõ vẻ hàm ơn, nên ông ta chợt lúng túng và đẩy cuốn sổ qua mặt bàn. "Đây, chị điền vào đi. Chúc chị nhiều may mắn - đó cũng là thứ chị rất cần đấy."
Lúc đó tôi quá bối rối và mệt mỏi nên không hỏi ông có ẩn ý gì, vả lại chẳng cần hỏi cũng đoán ra. Cả tuần qua, từ khi nhận làm việc cho đến hôm nay mặc dù bù đầu chuẩn bị tôi cũng đã hỏi dò chút ít về bà sếp mới của mình. Qua những thông tin trên Google tôi ngạc nhiên biết rằng Miranda Priestly ra đời ở East End, London, với tên khai sinh là Miriam Princhek. Gia đình bà không khác gì các gia đình theo Do Thái giáo chính thống ở thành phố: bần hàn nhưng mộ đạo. Cha bà thỉnh thoảng làm những công việc vặt vãnh, chủ yếu dành thời gian để nghiên cứu các bài kinh kệ Do Thái, vì vậy gia đình sống nhờ vào sự trợ giúp của địa phương. Bà mẹ mất khi sinh hạ Miriam nên các con bà được bà ngoại nuôi nấng. Cả thảy 11 anh chị em! Hầu hết theo gương ông bố, kiếm những công việc lao động chân tay và thì giờ còn lại để cầu nguyện; vài người tự lực leo lên được đại học, sớm thành hôn và sinh con đàn cháu đống. Miriam là người duy nhất đi chệch khỏi truyền thống gia đình.
Miriam tích cóp những đồng tiền thỉnh thoảng được anh chị dúi cho và bỏ học ba tháng trước khi hết phổ thông để đi làm trợ lý cho một nhà tạo mẫu trẻ mới nổi người Anh, giúp anh ta tổ chức các show thời trang theo mùa. Chỉ vài năm sau, Miriam đã tạo được tên tuổi riêng trong làng mốt London. Buổi tối bà học tiếng Pháp và tìm được việc làm trợ lý biên tập cho tạp chí Chic ở Paris. Ở thời điểm ấy bà đã không quan hệ gì với gia đình nữa: họ không hiểu nổi quan điểm sống của bà, còn bà thì mặc cảm về sự sùng tín cổ hủ và địa vị xã hội thấp kém của họ. Sợi dây nối với gia đình bị đứt hẳn sau khi bà nhận việc ở tờ Chic và và cô gái Miriam Princhek hai mươi tư tuổi biến thành Miranda Priestly, đổi cái tên lồ lộ vẻ quê kệch thành một danh tính điệu đà. Cách phát âm đặc London cũng nhanh chóng nhường chỗ cho giọng nói kiểu cách của kẻ có học vấn cao, và chưa đầy ba mươi tuổi sự biến hóa màu nhiệm từ con nhà lao động lên bậc vai vế trong xã hội đã hoàn tất. Cứ thế bà nhanh chóng và liên tục leo hết các thang bậc trong làng xuất bản tạp chí.
Mười năm liền bà cầm lái cho con tàu Runway Pháp, sau đó Elias Clark đưa bà lên ngôi chủ bút của số Runway phát hành trên thị trường Mỹ - đỉnh cao nhất của giấc mơ ngày. Bà cùng hai con gái và ông chồng hồi ấy - một ngôi sao nhạc rock lăm le kiếm cơ may thăng tiến ở Mỹ - chuyển đến một căn hộ penthouse ở đại lộ số 5 cắt phố 75 và khai trương một thời kỳ mới: kỷ nguyên Priestly đã kéo dài được gần 6 năm tính đến ngày đi làm đầu tiên của tôi.
Số tôi đúng là may hơn khôn: tôi sẽ làm việc gần một tháng trời trước khi Miranda quay trở lại văn phòng. Như mọi năm, Miranda nghỉ phép từ một tuần trước lễ Tạ ơn qua tận năm mới. Thông thường thì bà nghỉ mấy tuần ở căn hộ mà bà còn giữ lại ở London, nhưng năm nay tôi nghe nói là bà lôi chồng con sang trang trại của Frederic Marteau ở St Barth's ở hai tuần, sau đó họ về Paris vui lễ Noel và giao thừa ở khách sạn Ritz.
Tôi cũng được cảnh báo trước là bà chỉ nghỉ phép theo " danh chính ngôn thuận" chứ bất cứ lúc nào cũng có thể bắt liên lạc được và làm việc suốt ngày, và điều đó cũng đúng với mọi nhân viên của bà. Tôi được tập huấn và dạy bảo trong khi " bà lớn" không có mặt, tránh cho bà phải phiền muộn về những sai phạm khó tránh của tôi trong giai đoạn học nghề. Nghe có vẻ lợi cho tôi. Đúng bảy giờ, tôi ghi tên vào sổ đăng ký của Eduardo và lần đầu tiên đi qua hàng rào xoay. " Chú ý tư thế!" Eduardo gọi với sau lưng tôi trước khi cửa thang máy dập lại.
Emily đợi tôi ở khu lễ tân, nom mệt mỏi rõ rệt và lếch thếch trong chiếc T-shirt trắng bằng thun nhàu và quần túi bên rất thời thượng. Với cốc cà phê Starbucks trong tay, cô đang giở qua số Runway mới của tháng 12. Đôi giày cao gót của cô đặt chình ình lên mặt bàn kính. Nịt vú đăng ten màu đen hiện rõ qua lớp vải bông của T-shirt. Son của cô hơi bị lem ra quanh môi và miệng cốc cà phê, mái tóc đỏ uốn sóng bù xù rủ xuống tận vai, khiến trông cô như vừa chui từ giường ra sau khi ngủ bảy mươi hai tiếng liền.
" Xin chào," cô làu bàu, đưa mắt dò tôi từ đầu đến chân như một nhân viên an ninh. " Ủng đẹp đấy."
Tim tôi đập rộn. Cô ta khen thật, hay nói mỉa? Giọng cô khó đoán. Chân tôi đau nhừ, và các ngón chân như bị thắt lại, nhưng nếu tôi muốn được người của Runway khen đẹp thì phải cắn răng chịu đựng thôi.
Emily ngắm tôi thêm một lúc rồi rút cẳng khỏi mặt bàn, thở dài đầy kịch tính: " Nào, bắt đầu thôi. Cực may mắn cho chị là sếp không có mặt ở đây," cô nói. " Không có nghĩa là bà ấy không phải là sếp tốt, tất nhiên, mà vì bà ấy là sếp tốt," cô bồi thêm rất nhanh - một cú thụt vòi cổ điển đúng kiểu Runway. Cứ mỗi khi người nào đó lắm mồm để buột ra một câu mang tính tiêu cực về Miranda - kể cả khi có lý - là run như cầy sấy vì sợ đến tai Miranda, và vội lấp liếm ngay. Một trong những kiểu giết thời gian sướng nhất của tôi khi đi làm là quan sát các đồng nghiệp hớt hải cải chính những lời phạm thượng mà họ thốt ra.
Emily quét thẻ thông hành của mình qua máy kiểm tra điện tử và chúng tôi im lặng đi cạnh nhau dọc hành lang hun hút đến phòng Miranda nằm chính giữa tầng. Cô mở cánh cửa dẫn vào phòng trợ lý, quẳng túi và áo choàng lên một trong hai chiếc bàn kê ngay trước cửa vào cấm cung của Miranda ." Kia là bàn của chị ," cô chỉ sang chiếc bàn gỗ phía đối diện, mặt bàn hình chữ L lát formica trơn bóng. Trên đó là một chiếc máy tính iMac mới cứng màu ngọc lam, điện thoại, khay để đồ linh tinh. Trong ngăn kéo có sẵn bút , kẹp giấy và sổ ghi chép. " Tôi để lại mấy đồ cũ của tôi cho chị và đặt mua các dụng cụ văn phòng mới cho riêng tôi, như thế đơn giản hơn."
Emily vừa được lên chức biên tập viên chính và nhường lại ghế trợ lý biên tập cho tôi. Cô giải thích rằng sau hai năm làm biên tập viên chính cho Miranda cô sẽ trực tiếp nhảy lên ban biên tập thời trang của Runway. Ba năm thâm niên làm trợ lý là một cơ sở vững như bàn thạch để tiến chân trong làng thời trang. Riêng tôi thì vẫn thích níu lấy hy vọng rằng một năm hầu hạ này sẽ đủ để tiếp bước tới The New Yorker. Allison sau khi rời chân trợ lý cho Miranda cũng đã leo lên vị trí mới ở bộ phận thẩm mỹ, chịu trách nhiệm về thử nghiệm và viết bài về phấn da, kem dưỡng ẩm và mỹ phẩm tóc.
...Tôi chưa hình dung nổi vị trí trợ lý cho Miranda sao lại đạt trình độ làm công việc đó, tuy nhiên tôi rất có ấn tượng. Hứa gì làm nấy: ai làm việc cho Miranda sẽ có cơ hội tiến thân.
Các cộng tác viên khác lần lượt đến nơi vào khoảng mười giờ, tổng cộng chừng năm mươi người trong ban biên tập. Bộ phận thời trang đông nhất, tất nhiên, ngót ba mươi người, kể cả các trợ lý về phụ trang. Các bộ phận viết bài, thẩm mỹ và nghệ thuật không thể thiếu. Hầu như ai cũng dừng chân ngó vào tiền sảnh của Miranda để tán gẫu vài câu với Emily, buôn mấy tin mới nhất về bà sếp và điểm mặt cộng tác viên mới. Buổi sáng đấu tiên tôi làm quen hàng chục người, khuôn mặt nào cũng sáng láng, nụ cười hiện hàm răng trắng muốt, và có vẻ như họ thực sự muốn làm quen với tôi.
Tất cả đàn ông đều ẽo ợt lại cái, hoành tráng trong quần da và T-shirt dệt gân bó chít như lớp da thứ hai, phô hết những làn cơ bắp hoàn hảo. Giám đốc nghệt thuật, một người đàn ông đứng tuổi với mái tóc vàng màu sâm banh hơi thưa trông như mục đích duy nhất của cuộc đời là ganh đua với Elton John; ông đi giày lười bằng lông thỏ mà tô lông mi đậm mascara. Không thấy ai phản ứng gì. Tôi cũng có mấy người bạn trong các nhóm đồng tính ở trường địa học, nhưng không ai dám khoe lộ liễu như vậy cả. Ở đây tựa nhu người ta đứng giữa buổi chon diễn viên đóng vở nhạc kịch về đồng tính Rent, tất nhiên phục trang ở đây tử tế hơn.
Đám phụ nữ, hay gọi cho đúng là "Girl", mỗi người đẹp một kiểu riêng. Nhìn chung phải nói là mê hồn. Đa số trông như khoảng hai mươi lăm tuổi, ít ai quá ngưỡng ba mươi lấy một ngày. Hầu như ai cũng mạng hạt xoàn khủng khiếp ở ngón đeo nhẫn - dấu hiệu đã thành hôn - song không thể tưởng tượng trong số họ đã có ai từng sinh nở, kể cả trong quá khứ lẫn tương lai xa xôi. Đi ra lượn vào, họ lướt yểu điệu trên những gót giầy mười phân lênh khênh, bay tới bên bàn tôi, chìa bàn tay trắng như sữa với bộ móng dài mài giũa cẩn thận và tự giới thiệu là "Jocelyn, làm cùng chỗ Hpoe", "Nicloe ở bộ phận thời trang" và "Stef, phụ trách thời trang". Người duy nhất dưới 1.80 mét là Shayna, mảnh mai đến mức có cảm giác cô không thể mang thêm lấy một phân chiều cao nào nữa. Không ai mang quá 50kg lên bàn cân.
Tôi ngự trên chiếc ghế xoay và cố nhớ hết tên mọi người, đột nhiên cô gái đẹp nhất mà tôi từng thấy trong đời bước vào. Cô mắc một chiếc áo len cashmere hồng, trong như dệt bằng những đám mây. Suối tóc trắng đến sửng sốt chảy tràn xuống lưng. Trông cô gầy đến mức khó tin có đủ sức đứng vững, song cô di chuyển với dáng vẻ yểu điệu của một vũ nữ. Gò má cô sáng hồng, và hột kim cương trong vắt nặng đến mấy cara trên chiếc nhẫn đính hôn tỏa ánh lấp lánh vô thường. Tựa như đã nhận ra tôi ngó chòng chọc vào viên kim cương, cô gí sát tay vào mũi tôi.
"Tự sáng tác đấy" cô tuyên bố trong khi mỉm cười với bàn tay mình và nhìn vào mắt tôi. Tôi đưa mắt dò sang hỏi Emily, nhưng cô ta lại bận nói điện thoại. Tôi tưởng cô gái mới vào ám chỉ viên kim cương mà cô tự thiết kế, nhưng cô nói ngay: "Màu quá lộng lẫy, đúng không? Một lớp Marshmallow và một lớp Ballet Sliper, đúng ra là sơn Ballet Sliper trước rồi đè lớp sơn phủ lên. Tuyệt đỉnh - lấp lánh như thế mà trông không như sơn bằng White Out. Tớ nghĩ là từ giờ trở đi tớ chỉ chọn màu này mỗi khi đi chăm sóc móng tay!" Nói xong cô quay gót và lướt ra khỏi phòng. Vâng, rất hân hạnh được làm quen, tôi gửi theo một câu chào nhẩm trong óc tới tấm lưng cô nàng đang oai vệ bước ra ngoài.
Gặp gỡ các cộng tác viên kể cũng vui; trông ai cũng có vẻ dễ mến và thân thiện, trừ cô nàng dở hơi say mê sơn móng tay ai cũng tỏ ra thích thú làm quen với tôi. Emily không rời tôi một bước, cô tận dụng mọi cơ hội để chỉ bảo công việc. Cô giảng giải cho tôi hay, ai thực sự quan trọng, ai không được phép làm mếch lòng, ai nên bắt thân bằng được vì đó là người tổ chức nhưng cuộc vui hoành tráng nhất. Lúc tôi kể lại chuyện cô gái sơn móng tay, mặt Emily sáng lên.
"Ôi" cô rên lên; tôi chưa thấy cô phấn khích như vậy với bất cứ người nào từ nãy đến giờ. "Một người tuyệt diệu, phải không?"
"Vâng, đúng, có vẻ dễ thương. Nhưng tôi không có cơ hội nói gì nhiều cô ấy chỉ khoe móng tay của mình thôi."
Emily mỉm cười rạng rỡ và tự hào: "Thế đấy, chị không biết cô ta là ai à?"
Tôi vắt óc xem cô ta có giống ai đó trong số minh tinh màn bạc, ca sĩ hay người mẫu, nhưng bó tay không biết xếp cô ta vào đâu. Hay thật, thì ra là một người nổi tiếng! Có thể cô ta không tự giới thiệu vì cho rằng ai cũng biết mình. Nhưng tôi thì không. "Không, tôi không biết thật, người nổi tiếng à?"
Ánh mắt đáp lại của Emily pha lẫn sửng sốt và phẫn nộ: "Hừm, thôi được" cô dài giọng nhấn mạnh chữ thôi được và nguýt tôi đến rách mắt, đồ nhà quê dốt nát. "Đó là Jessica Duchamps." Cô đợi. Tôi đợi. Im lặng. "Đúng là chị không biết đó là ai sao?" Một lần nữa tôi soi lại cáca danh mục VIP trong đầu, cố liên hệ với thông tin mới nhận được, rồi đành bó tay. Quả thật tôi chưa từng nghe cái tên ấy bao giờ. Và bắt đầu chán cái trò đnáh đố này.
"Emily, tôi chưa hề thấy mặt cô ta lần nào, và tên cô ta cũng chẳng gợi nhớ điều gì. Chị có thể cho tôi biết cô ta là ai không?" Tôi hỏi, cố không mất chút bình tĩnh còn sót lại. Nói cho cùng thì tôi cũng cahửng thèm biết cô ấy là ai, nhưng rõ ràng Emily không chịu bỏ cuộc trước khi chứng minh được căn bệnh dốt nát của tôi đã hết thuốc chữa trị.
Giờ thì Emily cười rất kẻ cả: "Tất nhiên, sao chị không nói ngay? Jessica Duchamps là...là Duchamps! Chắc chị nghe rồi, nhà hàng Pháp danh giá nhất New York! Bố mẹ cô ấy là chủ nhà hàng, giàu không tưởng tượng nổi. Có khủng khiếp không?"
"Thật hả?" Tôi giả đò kinh ngạc, thì ra người ta phải biết đến cô gái đẹp ngất trời ấy, chỉ vì bố mẹ cô làm nhà hàng? "Hay ra phết."
Tôi đón mấy cuộc điện thoại bằng câu "Đây là văn phòng Miranda Priestly" đã khá trôi chảy, tuy vậy cả Emily và tôi đều e ngại nếu chính Miranda gọi đến và tôi không biết phải làm gì. Có lần tôi đã phát hoảng khi một người phụ nữ không xưng tên lảm nhảm chuyện gì đó với giọng Anh đặc sệt. Tôi lúng túng đưa máy cho Emily, quên rằng có thể chuyển cuộc gọi qua đó.
"Bà ấy đấy" tôi thì thào năn nỉ, "bắt điện đi."
Và lần đầu tiên tôi được thưởng thức ánh mắt đặc biệt mà Emily dành riêng cho mình, cô nhướng mày và vênh cằm lên, lộ rõ cảm xúc nửa thương hại, nửa căm ghét.
"Miranda? Emily đấy" cô nói, nụ cười tươi rói hiện trên khuôn mặt, cứ như là Miranda sắp chui qua đường dây điện thoại và nhìn thấy cô. Im lặng. Lo lắng. "Mimi? Xin lỗi nhé! Cô nhân viên mới tưởng chị là Miranda! Vâng, tôi biết, Nhộn thật đấy. Tôi đoán là phải dạy lại bài không nhất thiết giọng Anh nào cũng là của sếp!" Cô nhìn tôi đầy hàm ý, cặp lông mày nhướng lên, nay còn nhích cao thêm một đoạn.
Trong khi cô tiếp tục tán chuyện với đầu dây bên kia, tôi tiếp tục nhận điện thoại và ghi lại tên để Emily gọi lại. Gần trưa, khi bụng bắt đầu cồn cào, tôi nhấc máy và nghe một giọng Anh ở đầu kia.
"A lô, Allison phải không?" Giọng người hỏi lạnh băng, nhưng đầy quyền uy. "Tôi cần một cái váy."
Tôi giật bắn minh, úp tay lên ống nghe. "Emily, bà ấy đấy, lần này đúng đấy" tôi rít lên, vung ống nghe lên để Emily chú ý. "Bà tấy cần một cái váy."
Emily quay lại, nhìn thấy bộ mặt hoảng hốt của tôi và dập ngay máy xuống, không đủ thì giờ nói "Tôi sẽ gọi lại sau" hay thậm chí "Good bye". Cô nhấn nút chuyển cuộc gọi của Miranda sang máy mình rồi úp ngay lên mặt nụ cười tươi rói:
"Miranda? Emily đây. Tôi có thể làm gì?" Cô vớ cây bút và viết ngoay ngoáy, trán hằn sâu nhưng nếp nhăn. "Vâng, nhất định, tất nhiên rồi." Thế là xong. Tôi nhìn cô dò hỏi.
"Có vẻ như chị nhận được nhiệm vụ đầu tiên rồi đấy. Ngày mai Miranda cần vài thứ, trong đó là một cái váy, chậm nhất là tối nay phải đưa ra máy bay ngay."
"Ok, bà ấy cần loại váy nào?" Tôi hỏi lại, thực sự choáng sau khi thấy sếp bà chỉ cần phẩy tay một cái là phải gửi ngay một cái váy theo đường máy bay đến tận St Barth's.
"Miranda không nói rõ." Emily lẩm bẩm trong khi nhấc điện thoại.
"Jocelyn, tôi đây, sếp cần một cái váy, tôi sẽ gửi nó theo máy bay của bà Marteau đêm nay để đưa sang đó cho sếp. Không, tôi không rõ. Không, bà ấy không nói. Tôi không biết thật đấy. Ok, cảm ơn." Cô quay sang và nói với tôi: "Việc sẽ phức tạp hơn, vì bà ấy không nói rõ. Bà có quá nhiều việc phải làm, không có thì giờ cho mấy chi tiết lặt vặt, bây giờ không biết lấy vải nào, màu nào, cắt kiểu nào, hiệu nào. Nhưng không sao. Tôi có số đo của Miranda rồi, tôi cũng biết rõ gu để đoán bà ấy muốn gì.Tôi vừa gọi Jocelyn bên bộ phận thời trang, cô ấy sẽ đặt đưa đến đủ đồ để chọn." Tôi tưởng tượng ra cảnh các loại váy khác nhau rầm rập tiến vào trong tiếng kèn trống rộn ràng.
Tuy nhiên sự việc diễn ra không hẳn thế. Đi đặt váy là bài học đầu tiên cuẩ tôi về những cái lố bịch diễn ra ở Runway, mặc dù tôi phải công nhận là mọi thứ diễn ra với độ chính xác của một chiến dịch quân sự. Khi có nhu cầu, Emily hoặc tôi thông báo cho các trợ lý thời trang - tổng cộng tám người, tất cả đều có quan hệ mật thiết với các nhà tạo mốt và cửa hiệu đã chọn lựa. Các trợ lý ngay tức khắc gọi điện tới những mối quan hệ ở các nhà hàng thời trang, và nếu được thì lục tung các cửa hiệu khắp Manhattan và nói rằng bà Miranda Priestly, đúng thế, đích thân Miranda Pristly, vâng, Miranda Priestly chứ còn ai nữa, cần một món hàng nhất định. Trong vòng mấy phút, phòng tiếp thị và quảng cáo của Michael Kors, Gucci, Prada, Versace, Fendi, Armani, Chanel, Barney's, Chloé, Calvin Klein, Bergdorf, Roberto Cavalli và Saks phái ngay nhân viên (tùy trường hợp, họ còn đích thân) đem đến mọi chiếc váy có ít nhiều hy vọng được Miranda Priestly để mắt tới. Tôi quan sát thấy quá trình đó diễn ra chuẩn mực như biên đạo múa balê vậy, mỗi mắt xích trong guồng máy đó biết rõ ở bộ phận nào ai sẽ làm gì và làm như thế nào trong khâu tiếp theo. Trong việc này, giống như những vụ việc hầu như diễn ra hàng ngày, Emily sai tôi đi kiếm một loạt các thứ khác mà chúng tôi sẽ gửi đi cùng với chiếc váy tối nay.
"Xe của chị đang đợi ở phố 58," cô nói trong khi đồng thời nâng hai máy điện thoại lên và nguệch ngoạc viết những việc giao cho tôi lên tờ giấy viết thư của Runway. Cô chỉ ngừng việc một cút để ném cho tôi chiếc điện thoại di động và nói: "Cầm lấy, đề phòng tôi cần gọi hoặc chị có việc gì cần hỏi lại. Chớ tắt máy. Và bao giờ cũng phải bứat điện thoại." Tôi đón chiếc điện thoại, tờ giấy và chạy xuống phố 58 bên sườn tòa nhà, vẫn chưa biết làm sao tìm ra chiếc ôtô "của tôi" đỗ ở đâu. Cũng chẳng rõ tại sao lại gọi là ôtô "của tôi" nữa. Song chỉ mới bước chân ra đến vỉa hè và đang ngơ ngác ngó quanh thì một người đàn ông tóc hoa râm béo quay, mồm ngậm tẩu tiến lại.
"Cô là nhân viên mới của bà Priestly?" Ông ta lè nhè hỏi, hàm răng vàng khè khói thuốc vẫn cắn chặt chiếc tẩu màu gụ. Tôi gật đầu. "Tôi là Rich, phụ trách đội xe. Khi nào cần xe thì cứ báo với tôi. Tóc chưa, tóc vàng?" Tôi lại gật đầu và rụt cổ leo lên ghế sau của chiếc ghế Cadillac đen đợi sẵn. Rich đóng cửa đánh sầm và vẫy tay.
"Cô đi đâu?" Tiếng người lái xe hỏi làm tôi sực nhớ không biết đi đâu. Tôi moi tờ giấy trong túi ra.
Nơi đến đầu tiên: cửa hàng Ralf Lauren, số 355 phố 57
Tây, lầu 6.
Tìm Leanne, muốn gì có nấy.
Tôi nói địa chỉ cho tài xế roòi ngó qua cửa kính. Một giờ chiều, ngày tháng Mười một lạnh căm căm. Tôi, một con nhãi ranh hai mươi ba tuổi được tài xế chở trên một chiếc Cadillac đen bóng tới cửa hiệu cảu Ralf Lauren. Bụng sôi lên vì đói. Mất gần bốn mươi lăm phút luồn lách qua dòng xe cộ vào giờ nghỉ trưamới đi xong quãng đường ngắn, lần đầu tiên tôi biết thế nào là nạn ùn tắc xe ở thành phố lớn. Tài xế thả tôi xuống, anh ta sẽ lượn vài vòng quanh khu nhà, đợi tôi xong việc quay lại. Ở quầy lễ tân trên lầu 6 tôi hỏi tìm Leanne, đúng lúc một cô bé dễ thương nhảy chân sao từ cầu thang xuống, nom giỏi lắm là mười tám tuổi.
"A lôôô!" Cô líu lo kéo dài âm "ô". "Chị là Andrea, trợ lý mới của Miranda đúng không? Ở đây ai cũng mê bà ấy lắm. Chúc mừng chị đã vào hội!" Cô ta cười toe toét. Tôi cũng cười toe toét. Thoắt một cái, cô lôi một túi nylon to tổ bố dưới gầm bàn ra và đổ hết ra sàn. "Đây này, chúng tôi có quần bò loại Caroline thích, ba mầu khác nhau, một loạt T-shirt nữa. Còn Cassidy thì rất mê váy kaki của Ralph Lauren, tôi gửi chị một chiếc màu ô liu và một chiếc màu ghi đá." Váy bò, áo khoác Denim, thêm mấy đôi tất tuôn một đống ra khỏi túi; và tôi há hốc mồm; chỗ quần áo này đủ mặc cho ít nhất bốn, năm đứa trẻ con. Nhưng caroline và Cassidy là những của nợ nào cơ chứ? Tôi ngơ ngác ngắm núi quần áo. Có người nào tử tế lại đi mặc quần bò hiủphalph lauren, lại những ba màu khác nhau nữa?
Chắc là vẻ mặt tôi không được thông minh cho lắm, chả thế mà Leanne ý tứ xây lưng lại và nói trong khi xếp lại đống đồ vào túi. "Tôi biết là mấy cô con gái nhà Miranda sẽ rất thích. Chúng tôi trang bị quần áo cho mấy cô bé từ nhiều năm nay và Ralph Lauren bao giờ cũng tự tay lựa đồ đấy." Tôi đưa mắt nhìn cô đầy vẻ biết ơn rồi chất túi lên vai.
"Chúc chị may mắn." Leanne gọi với theo trong khi cửa thang máy đóng lại, miệng cười rạng rỡ. "Chị thật may mắn có được công việc siêu hạng này..." Chẳng cần phải nghe hết câu, tôi cũng nhẩm ra trong đầu khúc còn lại: hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này đấy. Và ở giây phút đầu tiên trong đời được bước chân vào cửa hàng của nhà tạo mốt nổi tiếng và khuân đống quần áo trị giá hàng nghìn dollar về, tôi cũng tin là cô ta nói đúng.
Một khi đã biết đường đi lối lại, mấy tiếng còn lại trong ngày cũng nhanh chóng trôi đi. Tôi tự hỏi, liệu có ai phản đối chuyện mình dành ra một phút đi kiếm chiếc bánh mì kẹp hay không, vì quả thật tôi không có sự lựa chọn nào khác. Từ khi nhét được một chiếc bánh sừng bò vào bụng lúc bảy giờ sáng nay tôi chẳng ăn thêm gì. Mà bây giờ đã gần hai giờ chiều rồi. Tôi bảo tài xế đỗ trước một quầy bán đồ ăn, vào mua một chiếc bánh kẹp gà tây với mù tạc mật ong, và trước lúc quay ra cũng nhân thể lấy luôn cho anh ta một cái nữa. Anh chàng há hốc mồm, khiến tôi ngại răng đã làm anh ta khó xử.
"Tôi nghĩ chắc anh cũng đói bụng rồi." tôi nói. "Suốt ngày đi xe vòng vèo trong thành phố, nhất định anh không có thời gian nghỉ ăn trưa."
"Cảm ơn, rất cảm ơn cô, tôi lái xe cho các cô gái của Elias Clark đã hai mươi năm rồi, tôi biết họ không thân thiện lắm. Tôi thấy cô khác hẳn." anh ta nói với giọng địa phương nặng trịch không rõ miền nào, mắt nhìn tôi trong gương chiếu hậu. Tôi mỉm cười đáp lại và bỗng có một linh tính chẳng lành. Nhưng cảm giác ấy cũng vụt biến, chúng tôi khoan khoái gặm bánh trong lúc giao thông bị tắc nghẽn và nghe nhạc CD ưa thích của anh ta, nghe nhu tiếng một người đnà bà hét inh tai nhức óc bằng một ngôn ngữ lạ hoắc trên nền đàn sitar.
Điểm tiếp theo mà Emily viết cho tôi là nơi lấy một đôi quần soóc trắng cho Miranda tập thể thao. Tôi nghĩ là ở Polo, nhưng trên giấy ghi rõ là Chanel. Chanel cũng làm đồ thể thao sao? Tài xế đưa tôi tới một tiệm tư nhân. Bà bán hàng đã luống tuổi, da mặt căng nhiều lần đến nỗi mắt híp tịt lại, trao cho tôi một đôi quần cộc vải thun Lycra trắng, cỡ 0, gắn bằng kim vào mắc treo bọc lụa và tất cả bọc trong một túi nhung. Tôi nhìn chiếc quần tí xíu như cho một đứa sáu tuổi rồi ngó qua bà bán hàng.
"Hừm, bà có tin là Miranda sẽ mặc đồ này không?" Tôi ngập ngừng hỏi lại.
Bà ta nhìn tôi trừng trừng và ngoạc mồm ra như một con quái vật chuẩn bị xơi tái tôi: "Tôi hy vọng thế, cô em ạ, đấy là đồ may đo theo đúng sở thích riêng của Miranda," bà cấm cảu nói trong khi trao cho tôi gói đồ bé xíu. "Cho gửi lời trân trọng nhất của ông Kopelman." Vâng, thưa bà. Của ai cũng được.
Điểm tiếp theo trên tờ giấy Emily đưa cho tôi là J&R Computer World gần tòa thị chính, tận đầu kia thành phố. Có vẻ như đó là cửa hiệu duy nhất ở New York bán trò chơi điện tử Warriors of the West mà Miranda định mua tặng Maxime, con trai nhà Frederic và Marie-Élise Marteau. Lần này xe đi mất hơn một tiếng. Tôi mò ra được là điện thoại di động này gọi ngoại tỉnh được, thích quá, tôi gọi luôn về nhà cho bố mẹ để kể về công việc tuyệt vời ra sao.
"Bố à? Con đấy. Andy đây. Bố đoán xem con đang ở đâu nào? Vâng, tất nhiên đang giờ làm việc, nhưng con lại ngồi trên xe, có tài xế chở đi vòng quanh Manhattan. Con đã xong việc ở Ralph Lauren và Chnel, bây giờ đi mua trò chơi điện tử nữa, sau đó con đưa mọi thứ đến nhà riêng của Frederic Marteau ở đại lộ Park Avenue. Toàn các nhà tạo mốt siêu hạng! Không, mấy đồ này không cho ông Marteau, Miranda đang ở St Barth's và Marie -Élise sẽ bay tới đó đêm nay. Vâng, phi cơ riêng đấy bố ạ!"
Giọng bố tôi hơi thận trọng, nhưng ông rất vui khi thấy tôi sung sướng. Tôi hoanf toàn không bận tâm làm một chân sai vặt có bằng đại học. Sau khi trao túi quần áo Ralh Lauren, quần soóc và trò chơi game cho người gác cổng lịch thiệp của tòa nhà lộng lẫy ở đại lộ Park Avenue (thì ra người ta gọi khu nhà đó là Park Avenue!) tôi quay về tòa nhà Elias Clark. Vào đến văn phòng, tôi thấy Emily đang ngồi xếp bằng tròn dưới sàn nhà như một người da đỏ, đang gói quà tặng bằng giấy trắng và thắt băng trắng. Cô ngồi giữa một núi hộp trắng đỏ, phải đến vài trăm hay vài ngàn chiếc hộp giống hệt nhau nằm chồng chất giữa hai cái bàn của chúng tôi và tràn túa cả vào phòng Miranda. Emily không thấy tôi đang đứng quan sát cô, mỗi hộp cô chỉ cần hai phút, cộng với mười lăm giây để thắt chiếc băng xa-tanh trắng. Cô cử động nhịp nhàng, không thừa lấy một giây, đặt các hộp trắng đã gói xong lên núi hộp chất sau lưng mình.Đống hộp đã gói xong mọc cao dần, nhưng đống chưa gói cũng chẳng hề nhỏ đi. Tôi ước tính là cô còn làm bốn hôm nữa cũng chưa chắc đã xong.
Tôi phải hét lên để át tiếng đĩa CD nhạc thập kỷ 80 từ computer của Emily. "Hello, Emily, tôi về rồi!"
Cô quay lại nhìn tôi, một lát sau vẫn ngơ ngác không nhớ ra tôi là ai. Nhưng rồi cô cũng nhận ra con bé mới đến và hỏi: "Thế nào rồi?" Cô hỏi ngắn gọn. "Có kiếm được hết các thứ ghi trên giấy không?"
Tôi gật đầu.
"Cả trò chơi video? Lúc tôi gọi điện thì họ chỉ còn có một hộp cuối cùng. Có lấy được không?"
Tôi lại gật.
"Và tất cả đã đưa cho gác cổng nhà Marteau ở Park Avenue? Quần áo, soóc, tất cả?"
"Rõ, không có vấn đề gì, mọi việc trôi chảy cả, tôi đã bàn giao mọi thứ cách đây mấy phút. Chỉ không hiểu là liệu Miranda có thực sự mặc tất cả..."
"Gượm nào, tôi phỉa đi vệ sinh ngay cái đã, từ lúc nãy chỉ đợi chị về. Chị ngồi canh điện thoại một lát được không?"
"Chị không đi vệ sinh từ lúc tôi ra khỏi nhà?" Tôi hỏi bán tín bán nghi. Năm tiếng đồng hồ liền! "Tại sao không?"
Emily thắt nốt dải băng quanh chiếc họp vừa gói xong và mát mẻ nhìn tôi: "Ngoài các trợ lý, Miranda không cho phép ai trả lời điện thoại gọi đến cho bà, vì vậy từ khi chị vắng mặt tôi không muốn đi đấu cả. Tôi nghĩ là chạy đi một thoáng cũng được thôi, nhưng tôi biết Miranda hôm nay rất bận bịu nên tôi muốn liên tục có mặt, phòng khi bà ấy cần. Chị hãy ghi nhớ, chúng mình không được đi vệ sinh - hay đi bất cứ đâu - mà không thống nhất trước với nhau. Chúng mình phải làm việc với nhau, làm sao đạt được kết quả tốt nhất như có thể, ok?"
"Hiểu rồi," tôi nói. "Chị cứ đi đi, tôi sẽ không rời khỏi đây nửa bước." Emily đứng dậy ra khỏi phòng. Tôi không tin ở tai mình nữa. Không đi vệ sinh, chừng nào chưa thống nhất kế hoạch hành động? Có đúng là Emily ngồi đây năm tiếng đồng hồ liên tục và dỗ dành bọng đái của mình, chỉ vì lo là trong hai phút rưỡi phi ra toilet chẳng may mẹ già kia gọi từ bên kia Đại Tây Dương sang? Mà chắc thế thật! Nghe có vẻ hơi kinh khủng, nhưng tôi cho rằng đó chỉ là sự hăng hái thái quá của Emily mà thôi. Không thể tin nổi là Miranda mong đợi điều gì đó ở trợ lý của mình. Tôi không tin. Nhưng biết đâu...
Tôi rút vài tờ giấy từ máy in ra. Đó là một danh sách với tiêu đề "Quà Noel đã nhận được." Một, hai, ba, bốn, năm, sáu trang giấy in nhỏ sít, mỗi dòng một tên người tặng và nội dung đồ tặng. Cả thảy 256 món quà. Trông như danh mục quà tặng đám cưới Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị vậy. Tôi đọc thấy hộp phấn trang điểm Bobby Brown, đích thân Bobby Brown tặng, một túi đầm (làm riêng độc bản!) bằng da, hiệu Kate Spade, do Kate và Andy Spade gửi đến, một sổ ghi lịch công tác bìa da màu huyết dụ từ Bond Street sang trọng do Graydon Carter biếu, một túi nngủ lót lông chồn của Miuccia Prada, một vòn gtay Verdura của Aerin lauder, một đồng hồ nạm kim cương của Donatella Versace, một hòm sâm banh của Cynthia Rowley, một áo con đính ngọc cộng với túi đầm cùng bộ của Mark Badgley và James Mischka, một bộ sưu tập bút Cartier của Irv Ravitz, một ống bao tay lông sócVora Wang, một áo khoác in sọc ngựa vằn của Alberto Ferretti, một cái chăn len cashmere Burberry của Rosemarrie Bravo. Đó mới chỉ là đoạn đầu. Còn cả một lô tí xách đủ màu đủ kiểu đủ cỡ của Herb Ritts, Bruce Weber, Giselle Bundchen, Hillary Clinton, Tom Ford, Calvin Klein, Annie Leibovitz, Nicole Miller, Adrienne Vittadini, Michael Kors, Helmut Lang, Giorgio Armani, John Sahag, Bruno Magli, Mario Testino, và Narcisco Rodriguez, chỉ để gọi ra vài tên lấy lệ. Thêm vào đó là hàng mấy chục khoản quyên góp mang tên Miranda gửi đến các tổ chức từ thiện, mấy trăm chai vang và sâm banh, tám đến mười túi hiệu Dior, vài tá nến thơm, mấy đồ gốm phương Đông, pijama tơ tằm, sách bọc bìa da, mỹ phẩm phòng tắm, sôcôla, vòng tay, trứng ca, áo len cashmere. ảnh đóng khung, vô số hoa và cây cảnh đủ để trang trí cho những đám cưới tập thể 500 đôi uyên ương tại sân vận động như vẫn thấy ở Trung Quốc. Lạy chúa! Tôi cấu vào tay mình xem mê hay tỉnh. Có thật là mình đang làm viẹc cho một bà sếp vừa nhận 256 món quà Noel của những người nổi tiếng nhất địa cầu? Ít nhất thì tôi cũng cho rằng họ rất nổi tiếng. Tất nhiên là tôi đâu có biết hết tất cả tên tuổi ấy, trừ mấy người quan trọng và các nhà tạo mốt. Cũng không biết phần còn lại là tên của những ngệ sĩ nhiếp ảnh, chuyên gia trang điểm, người mẫu, VIP và một loạt giám đốc điều hành có ảnh hưởng lớn của Elias Clark. Trong lúc tôi tự hỏi liệu Emily có biết tất cả những người đó ai là ai hay không, thì cô quay về phòng. Tôi giả bộ không đọc mấy tờ danh sách, nhưng cô cũng chẳng để tâm.
"Có kinh khủng không cơ chứ? Miranda quả là người đàn bà siêu hạng." cô trầm trồ, vồ lấy tập giấy trên bàn và cahừm chằm ngó với ánh mắt cảm thán không sao tả xiết. "Chị đã bao giờ được thấy thứ gì tuyệt diệu hơn chưa? Đây là danh sách cảu năm ngoái. Tôi chỉ in ra để mường tượng còn những việc gì phải làm nữa. Nhưng món quà đầu tiên đã tới rồi. Một trong những mặt hay nhất của công việc ở đây là được mở tất cả các gói quà ra." Tôi bối rối. Tại sao chúng tôi lại mở quà của Miranda ra, mà bà ấy không tự làm lấy? Một cấu hỏi không kìm lại được.
"Chị có vấn đề về thần kinh không hả? Chín mươi phần trăm chỗ quà này đằng nào Miranda cũng không ưa. Một vài thứ quà thì chẳng khác gì chửi vào mặt người nhận, tôi không muốn cho bà ấy nhìn thấy. Như cái này này," cô nói và nhặt ra một chiếc hộp nhỏ. Trong đó là một chiếc điện thoại không dây kéo dài hiệu Bang & Olufsen màu bạc mờ, nằm gọn trong tay và có thể sử dụng xa máy mẹ đến 3.000 cây số. Chính tôi cách đây mấy tuần đã vào một cửa hàng Bang & Olufsen để chứng kiến Alex rỏ dãi ngắm một dàn stereo, vì vậy tôi biết nó có giá tối thiểu 500 dollar và cực kỳ nhiều công dụng - ngoài ra khả năng tự gọi đi hộ người sử dụng. "Điện thọai! Chị có tưởng tượng ra ai đó dở hơi đến mức tặng Miranda Priestly một chiếc điện thoại?" Cô quẳng nó cho tôi. "Chị thích thì giữ lấy mà dùng. Tôi không dám để Miranda nhìn thấy nó, bà ấy nổi xung lên ngay khi người nào tặng đồ dùng điện tử." Emily phát âm chữ "điện tử" như một từ đồng nghĩa với thổ tả vậy. Tôi đút hộp điện thoại xuống dưới bàn mình và cố nén cười. Quá may mắn! Máy điện thoại kéo dài đang nằm trong danh sách những thứ tôi cần cho căn phòng mới, đã vậy cái máy 500 dollar này lại còn miễn phí nữa chứ.
"Này" Emily nói tiếp và ngồi xệp xuống sàn nhà. "Chúng mình gói thêm ít chai rượu vang nữa. Vài tiếng nữa xong việc thì chị có thể mở các gói quà mới đến hôm nay. Đống bên kia kìa." Cô chỉ sang một núi nho nhỏ sau bàn mình, toàn những hộp, túi và giỏ bảy sắc cầu vồng.
"Còn đây là quà của Miranda mà mình sẽ gửi đi, đúng không?" Tôi hỏi và nhặt một hộp lên, gói vào tấm bìa trắng. "Phải. Năm nào cũng thế. Các vị chiếu trên được nhận một chai Dom Pérignon, đó là các thành phần trong ban giám đốc của Elias Clark và các nhà tạo mốt mà Miranda không thân, cả luật sư và cố vấn thuế của bà ấy nữa. Tầng giữa được một chai Veuve Clicquot, đa số thuộc vào lớp này - thầy giáo của hai đứa sinh đôi, thợ làm tóc, lái xe, vân vân. Lớp vô danh nhận một chai Ruffino Chianti - thường là bộ phận quảng cáo, bá sĩ thú y, mấy cô trông trẻ hay thế chỗ cho Cara, nhân viên bán hàng ở các cửa hiệu Miranda hay đến, và nhân viên chăm sóc nhà nghỉ ở Connecticut. Đầu tháng Mười một là tôi đặt mua mấy thứ này, hết khảng 25000 dollar, Elias Clark trả tiền và nhà Shery-Lehman cung cấp hàng, và mất chừng một tháng để gói quà. May mà Miranda hiện giờ không có mặt ở văn phòng, không thì mình phải đem hết về gói ở nhà."
"Tôi đoán là nếu đề nhà Sherry-Lehman gói hàng thì sẽ đắt gấp đôi, đúng không?" Tôi vẫn ngạc nhiên về thứ hạng của những người nhận quà.
"Thì dính gì đến mình?" Emily làu bàu. "Tin tôi đi, chị sẽ nhanh chóng học một điều là tiền nong ở đây không đóng vai trò gì cả. Mà Miranda không thích loại giấy gói hàng của công ty cung cấp. Năm ngoái tôi đã gửi họ giấy gói màu trắng này, nhưng tự gói lấy trông vẫn tử tế hơn." Cô nói đầy hãnh diện.
Chúng tôi cứ thế gói ghém đến gần sáu giờ tối. Emily giảng giải cho tôi những việc cần làm ở cái chốn lạ lùng và lý thú này. Trong lúc cô tả cho tôi biết chính xác cách uống cafê của Miranda (café sữa với hai viên đường mía) thì một cô gái tóc vàng - tôi nhớ cô ta thuộc vào đám trợ lý thời trang - hớt hải khuân vào một giỏ đan bằng liễu gai to như xe đẩy trẻ con. Trước cửa phòng Miranda cô khựng lại, cứ như sợ lớp thảm mềm màu ghi dưới thành cát trượt dưới gót đôi Jimmy Choo nếu cô cả gan bước qua ngưỡng cửa.
"Hello Emily, tôi vừa lấy được chỗ váy về. Xin lỗi vì hơi lâu, nhưng trước lễ Tạ ơn chẳng gặp được ai cả. Hy vọng các cậu tìm ra được món nào làm sếp vừa lòng." Cô ngó xuống chiếc giỏ chất đầy váy.
Emily nhìn cô ta, không giấu vẻ khinh bỉ. "Đặt giỏ lên bàn tôi. Tôi sẽ trả lại những đồ không được chọn. Tôi đoán là sẽ trả lại gần hết chỗ này, gu của cô thì tôi biết rồi." Câu cuối cô khẽ nói thêm, chỉ đủ để tôi nghe thấy.
Cô tóc vàng lúng túng ra mặt. Nhất định cô không phải loại trợ lý có đầu óc xuất chúng, nhưng trông cô dễ mến. Tôi ngạc nhiên, tại sao Emily ghét cô ta ra mặt như thế. Hôm nay là một ngày dài, chạy khắp thành phố làm những việc vặt, hàng trăm khuôn mặt và danh tính mà tôi cố nhớ. Thôi không hỏi nữa.
Emily chống nạnh đứng nhìn cái giỏ to tướng trên bàn mình. Vẫn ngồi rtên nền nhà trong văn phòng Miranda nhưng tôi cũng nhận ra ít nhất hai mươi lăm cái váy bằng đủ loại vải, màu sắc và kích cỡ. Miranda không nói rõ là bà muốn loại nào cụ thể? Có thật là bà ko báo cho Emily biết dùng váy vào dịp nào - màu đen để đi ăn tôi, hay để chơi tennis hoặc đơn giản trùm lên bikini khi đi bơi về? Bà ưa vải bò, hay nhung the hợp hon? Làm sao chúng tôi đoán được chính xác bà muốn gì?
Câu trả lời không phải đợi lâu. Emily khuân cái giỏ đan vào phòng Miranda và nhẹ nhàng, kính cẩn đặt nó xuống nền thảm mềm cạnh tôi. Cô ngồi thụp xuôntgs và bắt đầu lần lượt trải từng chiếc váy thành một vòng xung quanh người.
Bộ sưu tập quả là đáng nể: một chiếc váy sợi móc màu hoa vân anh rực rỡ của Celine, một váy quấn màu xám ngọc của Calvin Klein, một chiếc váy da đính cườm đen dọc gấu do chính tay Oscar de la Renta làm. Váy đỏ, váy mộc, váy màu tím oải hương, cái thì có đăng ten cái thì làm bằng len cashmere. Một số dài đến mức đủ chấm mắt cá, ại có mấy cái ngắn tũn như áo con có gấu chùng. Tôi áp lên mình một chiếc váy lụa nâu dài đến bắp chân, hẹp ngang đến nỗi chỉ vừa đủ quấn quanh một bắp đùi tôi. Cái tiếp theo mà tôi nhặt ra từ đống avý là một dòng xoáy bằng vải tuyn và nhung the phủ đến tận đất, trông như để mặc đi vũ hội ngoài trời ở Charleston. Một chiếc váy bò mài đi kèm với thắt lưng da nâu to bản, một chiếc khác may bằng vải nhàu màu bạc mỏng như giấy. Tôi ngây ngất cả người.
"Trông có vẻ như Miranda rất khoái mạc váy" tôi nói, vì chẳng có gì đáng nói hơn.
"Thật ra thì không. Miranda hơi bị nghiện dùng khăn." Emily tránh ánh mắt của tôi, cứ như là cô vừa tự thú mình bị hắc lào. "Đó là một trong những điểm riêng đáng yêu của Miranda mà chị nên biết."
"Hay nhỉ!" Tôi nói, cố tạo ra vẻ thích thú chứ không phải kinh ngạc. Nghiện khăn? Tôi chú trọng quần áo, túi xách và giày, như hàng nghìn cô gái khác xung quanh, nhưng không thể goi đó là "nghiện" được. Và cách Emily nói ra điều ấy chứng tỏ có gì đó không bình thường.
"Miranda nhất định cần cái váy này cho một dịp đặc biệt, nhưng khăn mới là thứ bà ấy mê. Khăn cũng giống như danh thiếp của Miranda vậy." cô nhìn tôi. Chắc thấy mặt mũi tôi thộn ra nên cô nói tiếp: "Chị không nhớ hôm đến đây phỏng vấn à?"
"Có chứ." Tôi vội vàng trả lời, linh cảm là tốt nhất không cho Emily biết rằng bữa phỏng vấn tôi chỉ nhớ được tên Miranda là cùng, chứ đâu để ý là bà ấy mặc gì. "Nhưng tôi không nhớ đến cái khăn nào."
"Miranda không bao giờ đi đâu mà lại thiếu một chiếc khăn Hermès trắng, không bao giờ. Thường là quàng cổ, nhưng đôi khi bà ấy bảo thợ làm tóc tết lẫn vào búi tóc, hay lấy khăn làm thắt lưng. Như danh thiếp của mình vậy. Mọi người đều biết là Miranda luôn có trên người một chiếc khăn Hermès trắng. Thế mới tuyệt chứ."
Đột nhiên tôi nhận ra là Emily cũng có một chiếc khăn xanh xỏ qua các đỉa quần túi hộp của mình. lấp ló dưới gấu T-shirt trắng.
"Đôi lúc Miranda thích pha trộn, tôi đoán là lần này cũng thế. Nhưng cái bọn ngu xuẩn bên bộ phận thời trang không bao giờ hiểu nổi bà ấy thích gì. Nhìn cái của nợ này xem, có kinh không cơ chứ!" Cô nhón tay giơ lên một chiếc váy đẹp kinh hồn, trông nó lịch sự hơn những chiếc khác một chút, điểm chấm vàng lấp lánh trên nền nâu nhạt.
"Quá đúng." Tôi phụ họa, cốt làm sao để dứt dòng buôn chuyện của Emily, "trông khiếp quá đi mất. Cái váy rất đẹp, tôi sẵn sàng mặc nó hôm đám cưới của mình.
Emily vẫn lải nhải nói tiếp về loại vải và kiểu kắt, về những nhu cầu và sở thích của Miranda, thỉnh thoảng chen câu bình luận khinh miệt về một đồng nghiệp. Rốt cuộc cô quyết định chọn ba chiếc váy hoàn toàn khác kiểu nhau để gửi cho Miranda, trong lúc luôn mồm nói không nghỉ lấy một tích tắc. Tôi cố lắng tai nghe, nhưng lúc đó đã gần bảy giờ tối và tôi không rõ mình sắp chết đói, kiệt quệ thần kinh hay lả ra vì mệt. Chắc là cả ba triệu trứng cùng lúc. Tôi đờ ra đến nỗi không hề nhận thấy có một người đàn ông to lớn đến kinh dị vừa bước vào phòng.
"CÔ KIA!" Đột ngột có tiếng nói đâu đó sau lưng tôi. "ĐỨNG DẬY CHO TÔI XEM MẶT CÔ!"
Tôi quay phắt lại và nhìn thấy một người đàn ông cao hơn hai mét, da rám nâu, tóc đen, đang chỉ thẳng vào mặt tôi. Ông ta không chỉ cao mà còn to ngang, với tấm thân trên ngót tạ rưỡi như chực xé bung bộ áo liền quần bằng vải bò. Lạy Chúa! Đúng là ông ta mặc bộ áo lièn quần. Đúng thế, bằng vải bò, bó sát người, thắt lưng, tay xắn cao. Lại còn khăn nữa! Một chiếc khăn lông to bằng cả cái chăn quấn quanh cổ trâu. Đôi chân to như voi dận trong ủng quân sự màu đen bóng lộn to bằng cái tiểu sành. Trông ông ta chừng ba mươi alưm tuổi, nhưng với dáng vạm vỡ, nước da nâu và quai hàm bạnh ra người ta dễ đoán già thêm mười tuổi hay trẻ đi năm năm. Ông ta hất tay ra hiệu cho tôi đứng dậy. Tôi làm theo. Trong khi tôi không rời mắt ngạc nhiên nhìn thì ông kiểm tra tôi kỹ lưỡng.
"AHA, XEM AI VÀO LÀM Ở ĐÂY NÀÀÀO," ông ta gào lên, tuy giọng lại the thé chua cả tai. "CÔ BÉ XINH ĐẤY, NHƯNG QUÊ QUÁ. QUẦN ÁO THÌ QUÊN KHẨN TRƯƠNG!"
"Tôi là Andrea, trợ lý mới của Miranda."
Ông đảo mắt quét dọc người tôi, thẩm tra từng phần một. Emily quan sát tấn trò với nụ cười giễu cợt. Im lặng đến khó chịu.
"ỦNG CAO CỔ? ĐI CÙNG VÁY DÀI ĐẾN GỐI? CÔ ĐỊNH TRÊU TÔI HẢ? CƯNG NÀY, NẾU CÔ LỠ MẮT BỎ QUA, HAY NẾU CÔ KHÔNG NHÌN THẤY TẤM BIỂN ĐEN TO TƯỚNG NGOÀI CỬA - ĐÂY LÀ TẠP CHÍ RUNWAY, TẠP CHÍ THỜI TRANG SIÊU ĐẲNG NHẤT QUẢ ĐẤT. NHẤT QUẢ ĐẤT, NGHE CHƯA? NHƯNG KHÔNG SAO, BÉ Ạ, NIGEL NÀY SẼ KHẨN TRƯƠNG GIẢI PHÓNG CÔ KHỎI BỘ ĐỒ SIDA NÀY."
Ông đặt hai bàn tay to tướng lên hông và xoay người tôi lại, tôi nhận rõ ánh mắt của ông tia lên mông và đùi.
"THẬT KHẨN TRƯƠNG, BÉ Ạ. TÔI HỨA VẬY, VÌ PHẦN THÔ CỦA CÔ TỐT ĐẤY. CHÂN DÀI, TÓC ĐẸP, VÀ KHÔNG BÉO. CÓ THỂ CẢI TẠO ĐƯỢC. KHẨN TRƯƠNG BÉ Ạ."
Lẽ ra tôi phải thấy mình bị xúc phạm và hất tay ông ta ra khỏi eo lưng mình, để nghĩ xem tại sao con người lạ hoắc này - chắc là cộng tác viên - lại bỗng dưng vô tư đưa ra những lơqì nhận xét thành thật về dáng người và quần áo của mình. Nhưng tôi không phản ứng gì. Tôi đưa cặp mắt xanh lá cây thân thirnj lúc nào cũng như đang cười giễu, hơn thế nữa, tôi sung sướng đã qua kỳ sát hạch. Trước mặt tôi là Nigel - một cái tên như Madonna hay Prince - ông vua thời thời trang mà tôi dã biết amựt trên tivi, trong các tạp chí và bài viết ở mục xã hội, khắp nơi, và ông ấy khen tôi xinh. Và nói là tôi chân dài! Tôi lờ đi lời nhận xét về quần áo sida. Tôi rất có cảm tình với ông ta.
Sau lưng tôi, Emily xin ông đừng quấy quả tôi nữa vì chúng tôi đang bận, nhưng tôi không muốn ông ta bỏ đi. Qua muộn, Nigel đã đi ra phía cửa, chiếc khăn lông thú phất phới bay. Tôi không kịp nói ra là tôi rất vui mừng được làm quen ông, tôi không hề bị xúc phạm bởi những gì ông nói và rất sung sướng được ông "tân trang" lại. Chợt Nigel quay lại, tiến hai bước dài như cú nhảy xa của người bình thường. Sừng sững trước mặt tôi, ông dang hai cánh tay lực lưỡng ôm chầm lấy tôi và xiết chặt. Đầu tôi chỉ chạm ngực ông, và tôi ngửi thấy hương thơm không thể lẫn được của kem thoa da trẻ con Johnson. Tôi cũng tỉnh táo ôm lại, nhưng ông đã đẩy tôi ra, chụp gọn lỏn tay tôi mà lắc và kêu the thé:
"BÉ CƯNG, HÃY VUI LÊN ĐI TRONG NHÀ BÚP BÊ!"
Chương 5
"Ông ấy nói gì?" Lily hỏi, trong khi đưa một thìa kem trà xanh vào miệng. Chúng tôi hẹn gặp nhau chín giờ ở nhà hàng Sushi Samba để tôi kể ngay về ngày làm việc đầu tiên. Bố mẹ tôi đã nghiến răng giải tỏa thẻ tín dụng cho trường hợp khẩn cấp, để tôi còn sống đến ngày phát lương đầu tiên chứ. Món cá thu cuốn cay và xalat rong biển tạm gọi là trường hợp khẩn cấp cũng được, tôi thầm cảm ơn phụ huynh đã thết đãi mình và Lily một bữa thịnh soạn như vậy.
"Ông ấy nói BÉ CƯNG, HÃY VUI LÊN ĐI TRONG NHÀ BÚP BÊ, tớ thề đấy. Nghe có sướng tai không?"
Lily trợn tròn mắt thán phục nhìn tôi, thìa kem chưa kịp vào miệng.
"Cậu vớ được công việc ngon nhất mà tớ từng thấy," Lily nói. Cô vẫn luôn tiếc rằng đã học lên cao học ngay mà không bỏ ra một năm đi làm.
"Nghe có vẻ ngon lành, đúng không? Hơi kỳ quái một chút, nhưng ngon lành, tớ nghĩ vậy," tôi nói, tiếp tục thanh toán cốc kem sô cô la hạnh nhân. "Tuy rằng tớ vẫn thích cuộc đời sinh viên hơn."
"Rõ rồi. Tớ biết là cậu chỉ thích làm nửa ngày, đủ trang trải cho bài luận án tiến sĩ đắt lòi mắt và hoàn toàn vô dụng của cậu, tớ nói có chính xác không? Có thật cậu ghen tị khi thấy tớ đêm nào cũng đi bồi bàn cho lũ sinh viên vắt mũi chưa sạch trong một quán bia mạt hạng, bốn giờ sáng mới về đến nhà, ngủ chưa đẫy giấc đã chạy đến lớp hay không? Và trong đầu luôn biết rằng nếu cả chục năm nữa có làm xong luận án, một thành tích cực kỳ vĩ đại, thì cũng chẳng kiếm đâu ra việc làm." Cô ngoạc mồm cười nhạo báng và nốc đánh ực một ngụm Sapporo. Lily đang viết luận án tiến sĩ văn học Nga ở đại học Columbia. Cô đi làm thêm vào mỗi phút rảnh rỗi. Bà ngoại cô cũng chỉ chật vật đủ ăn, không giúp gì được, và cơ may kiếm được học bổng cô cũng chỉ hy vọng có sau khi làm xong bằng cao học. Tối nay cô có thì giờ ra đây là mừng cho tôi lắm rồi.
Tôi cắn vào miếng mồi là Lily vứt ra, như mọi khi Lily vẫn ca thán về cuộc sống của mình. "Thế tại sao cậu còn theo đuổi việc học hành làm gì?" Tôi hỏi, mặc dù đã nghe câu trả lời cả triệu lần rồi.
Lily khịt mũi chán nản. "Vì mình yêu công việc ấy!" Cô ca giọng mai mỉa. Quả thật là cô ít khi thú nhận điều đó và thích ca thán hơn, nhưng cô yêu môn đó thực sự. Cô yêu văn hóa Nga từ hồi học lớp tám, khi nghe thầy giáo kể rằng trông cô với khuôn mặt tròn và mái tóc đen loăn xoăn rất giống Lolita như ông luôn mường tượng ra. Cô lập tức về nhà và ngốn ngấu cuốn dâm thư bậc thầy của Nabokov, không phiền muộn chỉ về toàn bộ quan hệ giữa thầy giáo và Lolita, rồi từ đó cô đọc hết những gì mà Nabokov viết ra. Và Tolstoy. Và Gogol. Và Chekhov. Khi Lily đâm đơn xin vào đại học Brown, người phỏng vấn cô là một giáo sư chuyên về văn học Nga. Ông thừa nhận là ít từng gặp ai trong số sinh viên, tiến sĩ hay ngoài đời mà lại đọc và say đắm văn học Nga như cô bé mười bảy tuổi này. Cô vẫn giữ trọn tình yêu ấy, vẫn nghiên cứu ngữ pháp Nga và có thể đọc tất cả trong nguyên bản. Chỉ có một chuyện làm cô thích hơn: than vãn về số phận mình.
"Okay, tớ công nhận đã vớ được cần câu cơm tử tế. Thử nghĩ xem: Ralph Lauren, Chanel, biệt thự của Frederic Marteau - mới là ngày đầu tiên đấy. Nhưng cũng phải nói thêm là tất cả những thứ đó liệu có đưa tớ lại gần The New Yorker chút nào không? Có thể hôm nay quá sớm để nhận xét. Hiện tớ thấy mọi thứ đều nửa hư nửa thực, cậu hiểu không?"
"Rõ rồi. Bất cứ khi nào có nguyện vọng trở lại thực tế phũ phàng, cậu biết địa chỉ của tớ rồi đấy," Lily nói trong khi rút vé tàu điện ngầm khỏi ví. "Cậu tha thiết mong gặp lại xóm liều, khát khao thở không khí của khu da đen phải không? Căn hộ mini của tớ luôn chờ đón cậu."
Tôi thanh toán hóa đơn, chúng tôi ôm hôn nhau từ biệt. Lily cố giải thích cặn kẽ cho tôi biết đường đi từ đại lộ 5 và phố Christopher Street về nhà ra sao. Tôi thề đi thề lại rằng tôi đã nhớ chính xác các bến đỗ của tàu điện, đến phố 96 đi bộ về nhà theo lối nào. Nhưng Lily vừa đi khuất góc phố là tôi nhảy lên taxi.
Chỉ lần này thôi nhé, tôi tự nhủ, ngồi lún vào ghế đệm mềm và cố tránh luồng khí hôi hôi phả ra từ gã lái xe. Chả gì thì giờ đây tôi đã lên hạng Runway.
Tôi hài lòng nhận ra là cho đến cuối tuần làm việc đầu tiên, mọi việc đại khái cũng như ngày đầu. Hôm thứ Sáu gặp nhau ở phòng lễ tân trắng lốp lúc bảy giờ sáng, Emily trao cho tôi thẻ ra vào tòa nhà, có dán ảnh mà tôi không nhớ chụp khi nào.
"Chụp bằng camera theo dõi," cô nói khi thấy tôi ngạc nhiên xem ảnh. "Máy quay lắp khắp nơi trong nhà, nói để chị biết thế. Công ty có vấn đề lớn vì mất trộm đồ đạc và trang sức dùng để chụp ảnh. Có vẻ như mấy người đưa hàng, hay đôi khi cả các biên tập viên cũng cầm nhầm. Bây giờ ai cũng bị giám sát." Cô quẹt thẻ qua máy đọc và cánh cửa kính xịch mở ra.
"Giám sát? Chị nói giám sát, cụ thể như thế nào?"
Emily rảo bước đi nhanh qua hành lang tới bàn làm việc, mông lắc đi lắc lại trong chiếc quần nhung kẻ hiệu Sevens màu nâu bó khít. Vừa mới hôm qua cô còn khuyên tôi nên quyết tâm mua một chiếc, vì Sevens và MJ là hai mác quần bò hay nhung kẻ mà Miranda cho phép các nhân viên mặc ở văn phòng. Và cũng chỉ mặc Sevens và MJ cùng với giày cao gót. "MJ là gì?" "Marc Jacobs," Emily đáp, giọng ngán ngẩm.
"Nhờ camera và thẻ ra vào, họ nắm được tương đối rõ mọi người làm gì." Cô đặt chiếc túi Gucci lên bàn, cởi chiếc áo vest da ôm sát người hoàn toàn không hợp chút nào trong tiết trời lạnh buốt cuối tháng Mười một. "Tôi không nghĩ là họ xem lại các thước phim giám sát khi bị mất đồ, nhưng thẻ ra vào bộc lộ tất cả, ví dụ như chị qua quầy an ninh vào nhà hay lên tầng này đi qua cửa thì họ biết ngay chị là ai. Họ cũng biết là ai đang ở chỗ làm việc. Nếu chị không đi làm - chuyện không bao giờ xảy ra, trừ trường hợp thiên tai địch họa khủng khiếp lắm - thì chị đưa thẻ cho tôi quẹt vào máy đọc, như thế thì những ngày vắng mặt chị vẫn được trả lương. Ngược lại thì chị cũng làm việc đó cho tôi - ở đây ai cũng thế."
Tôi vẫn hơi choáng vì câu "chuyện không bao giờ xảy ra" trong khi Emily tiếp tục bài giảng.
"Cầm thẻ này chị cũng lấy đồ ăn ở căng tin. Đây đồng thời cũng là thẻ trả tiền, chị nạp ít tiền vào đó và mỗi lần mua máy sẽ trừ đi. Tất nhiên là qua đó họ biết chị ăn gì." Emily mở khóa vào phòng Miranda, ngồi thụp xuống sàn, vớ ngay lấy một hộp rượu vang và bắt đầu gói.
"Họ quan tâm đến cả đồ ăn của mình?" Tôi hỏi, ngạc nhiên như đang xem phim kinh dị Sliver.
"Hừm, tôi cũng không rõ. Có thể lắm chứ! Tôi chỉ biết là họ có thể làm được chuyện ấy. Cả ở phòng tập cũng phải quẹt thẻ, như khi mua sách báo ở quầy. Tôi nghĩ là rất tiện cho việc tổ chức."
Tổ chức? Tôi đi làm cho một công ty muốn "tổ chức" tốt thông qua việc nắm vững nhân viên nào lên tầng nào, ai chọn xúp hành ăn trưa hay xalat, tập thể dục bao nhiêu phút trên máy? Được "chăm sóc" như thế thì còn gì bằng.
Mệt lả vì đến hôm nay đã là bốn buổi sáng liền phải dậy sớm đi làm, tôi cần năm phút để nghỉ ngơi trước khi cởi áo khoác và ngồi xuống bàn. Đang định gục xuống bàn nghỉ một lát thì ở phòng bên Emily hắng giọng khá to.
"Chị vào đây giúp tôi một tay được không?" Cô hỏi, dĩ nhiên đó không phải câu hỏi. "Chị gói mấy thứ này," cô đẩy một chồng giấy gói quà màu trắng sang phía tôi rồi tiếp tục việc mình. Nhạc của Jewel ầm ầm dội ra từ cặp loa gắn bên máy tính iMac.
Cắt, gói, gấp, dán: Emily và tôi làm việc suốt buổi sáng, chỉ ngừng tay sau mỗi lần gói xong hai mươi lăm hộp quà để gọi nhân viên chở hàng từ tầng trệt lên lấy đi. Khoảng giữa tháng Chạp, khi chúng tôi bật đèn xanh, họ sẽ túa ra khắp Manhattan để trao quà. Quà gửi đến các địa chỉ ngoài thành phố chúng tôi đã gói xong trong hai ngày đầu tiên kể từ khi tôi đi làm, xếp sẵn trong kho đợi dịch vụ chuyển phát nhanh DHL tới lấy. Do bưu kiện đến tay người nhận ngay hôm sau với chuyến sớm nhất, tôi không hiểu tại sao cứ phải vội vàng làm gì - bây giờ mới là cuối tháng Mười một. Song tôi đã học được một điều là tốt nhất chớ hỏi nhiều. Chúng tôi gửi qua FedEx khoảng 150 chai Priestly đi khắp thế giới: Paris, Cannes, Bordeaux, Milan, Rome, Florence, Barcelona, Geneva, Bruges, Stockholm, Amsterdam, London. Riêng London hàng chục chai. FedEx bay đến cả Bắc Kinh, Hongkong, Capetown, Tel Aviv và Dubai (Dubai!). Cả ở Los Angeles, Honolulu, New Orleans, Charleston, Houston, Bridgehampton và Nantucket cũng sẽ có người nâng cốc chúc sức khỏe Miranda Priestly. Tất cả sẽ diễn ra trước khi chai đầu tiên cán đích New York là nơi tụ họp bộ sậu thân cận nhất của Miranda: bạn bè, bác sĩ, thầy dạy Yoga, huấn luyện viên thể hình, giúp việc, thợ làm tóc, cô trông trẻ, lái xe, nhân viên mua hàng. Và đương nhiên ở nơi tập trung phần lớn các thành phần của công nghiệp thời trang: các nhà tạo mốt, người mẫu, diễn viên, chủ bút, quảng cáo, quan hệ đại chúng. Ai ai cũng được nhân viên bưu điện của Elias Clark chuyển đến một chai, phù hợp với cấp bậc.
"Chị nghĩ là tất cả tốn bao nhiêu tiền?" Tôi hỏi Emily trong khi cắt dán đến tờ giấy gói quà trắng thứ một triệu.
"Tôi đã kể rồi, tôi đặt cả thảy 25.000 dollar mua rượu."
"Không, không, tôi định hỏi tổng cộng tất cả vụ này. Gửi chuyển phát nhanh toàn bộ những gói này đi khắp thế giới, có những địa chỉ mà lệ phí gửi đắt hơn tiền chai rượu bên trong, nhất là loại rượu cho tầng lớp vô danh."
Lần đầu tiên Emily đần mặt ra suy nghĩ, không có vẻ miệt thị, ngán ngẩm hay hờ hững như tôi vẫn quen. "Hừm, thử tính xem, FedEx đòi khoảng 20 dollar cho mỗi bưu kiện trong nước, gửi ra nước ngoài thì khoảng 60 dollar, riêng khoản này đã hết 9.000 dollar rồi. Tôi nghe ai đó kể lại là bưu điện của công ty tính 11 dollar mỗi gói, nghĩa là gửi 250 gói phải trả 2.750 dollar. Còn công làm của mình nữa, cứ cho là mất hẳn một tuần gói ghém, nghĩa là lương của hai tuần làm việc, thêm 40 vé nữa..."
Tôi giật mình nghĩ thầm, thì ra khoản chi nhỏ nhất trong đó là trả lương của hai chúng tôi cho cả tuần lao động.
"Ờ, nếu cộng tất cả các khoản thì khoảng 16.000 dollar. Choáng chưa? Nhưng không làm không được. Chị biết rồi, Miranda Priestly mà lại."
Gần một giờ chiều, Emily kêu đói và xuống tầng dưới đi ăn chút gì với mấy cô gái ở bộ phận phụ trang. Tôi cứ nghĩ là cô chỉ ăn trưa một lát như chúng tôi vẫn quen cả tuần nay. Tôi đợi mười, mười lăm phút, rồi hai mươi phút vẫn không thấy cô quay về. Từ khi tôi vào làm, không ai trong chúng tôi dám ăn ở căng tin vì đề phòng trường hợp Miranda gọi điện, thật là ngớ ngẩn. Hai giờ, hai rưỡi, rồi ba giờ. Tôi gọi vào điện thoại di động của Emily nhưng được nối với hộp thoại tin nhắn. Cô ta chết đột ngột ở căng tin rồi hay sao? Hóc lá xà lách hay lăn đùng ra sau khi tọng một cốc kem vào bao tử? Tôi nghĩ đến chuyện nhờ ai đó kiếm hộ đồ ăn đưa lên, nhưng lại ngại phải đi nhờ vả một người lạ. Nói cho cùng thì chính tôi phải tự lo kiếm đồ ăn, chẳng lẽ lại xin lỗi, tôi không được phép rời vị trí cực kỳ quan trọng của nhân viên gói quà, cảm phiền chị đi lấy cho tôi một chiếc bánh mì kẹp được không ạ, chị tốt quá. Tôi không thể làm thế được. Bốn giờ chiều. Vẫn chưa thấy bóng dáng Emily đâu cả và Miranda cũng không thấy gọi điện. Và tôi đã làm một chuyện không ngờ: tôi rời văn phòng, không có ai thế chỗ.
Sau khi ngó ra ngoài và chắc chắn không thấy bóng dáng Emily, tôi chạy vút ra phòng lễ tân và ấn nút thang máy đến hai mươi nhát. Sophy, cô gái lễ tân xinh đẹp người Á nhướng mày ngạc nhiên rồi xây qua hướng khác. Chẳng rõ là cô không thích chứng kiến nỗi sốt ruột của tôi hay không muốn biết văn phòng Miranda bây giờ thiếu người trông. Tôi cũng không cần biết. Rồi thang máy cũng lên tới nơi, tôi lao ngay vào. Một gã nhom nhem tướng xì ke, tóc tai vuốt keo kiểu lông nhím, chân đi giày Puma xanh cốm, mỉm cười giễu cợt và nhấn nút đóng cửa. Khoang thang máy còn khối chỗ, nhưng không ai nhích một phân để nhường chỗ cho tôi. Bình thường ra thì tôi nổi xung lên rồi, nhưng bây giờ đầu óc tôi chỉ tập trung kiếm được thứ gì ăn và quay lại văn phòng ngay, khẩn trương!
Trước cửa căng tin choáng lộn toàn kính và cẩm thạch là một đàn sếu cẳng dài hạng hai, chụm đầu vào nhau thì thào và ngắm nghía những ai ra khỏi thang máy. Các bạn gái của nhân viên Elias Clark đây mà - nhờ lời kể trước của Emily mà tôi nhận ra ngay bọn họ qua sự phấn khích lộ liễu khi được đứng giữa trung tâm của thế giới thời trang. Lily cũng đã năn nỉ xin tôi đưa cô đến phòng căng tin này ăn trưa nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa có dịp. Nhà hàng này được hầu hết báo chí Manhattan khen hết lời nhờ chất lượng tuyệt hảo và thực đơn phong phú - chưa kể đến hàng đống khuôn mặt sáng giá. Ngoài ra, kế hoạch làm việc hàng ngày ở văn phòng trói chặt Emily và tôi đến mức chưa khi nào tôi quá hai phút rưỡi để chọn và trả tiền đồ ăn, tôi cũng không tin rằng một ngày đẹp trời sẽ có đủ thì giờ mời Lily.
Tôi lượn tránh đám con gái, thấy cả lũ quay phắt lại xem tôi có phải là VIP nào không. Nhầm. Tôi dồn nghị lực bỏ quầy khai vị hoành tráng đầu phòng với cừu và bê xốt vang, lướt nhanh qua chỗ bày pizza với cà chua khô và pho mát là món luân chuyển hôm nay (một cái bàn nhỏ, bị đẩy ra cạnh tường, ai cũng biết với cái tên "Đồ ăn chay"). Cứ điểm ngoan cố nhất vẫn ở phía trước: dãy bàn xalat trộn (còn gọi là quầy "Xanh," dân eo thon vẫn hẹn "Gặp nhau ở quầy Xanh nhé!") dài bằng đường băng phi trường và có thể tấn công từ bốn phía! May mà đám đông để tôi chen vào sau khi tôi lớn tiếng hứa sẽ không xúc mất mấy viên đậu phụ cuối cùng. Tận cuối phòng, trơ trọi ngay sau quầy bánh mì là một quầy xúp cô đơn. Cô đơn, bởi vì bếp trưởng phụ trách các món xúp là người duy nhất trong nhà bếp kiên cường không chịu nấu món duy nhất nào ít béo, giảm mỡ, không mỡ, ít muối, hay ít ca lo. Chính vì thế mà trong toàn nhà ăn chỉ có quầy của ông ta không có ai xếp hàng, và tôi lao bổ đến chỗ ông. Từ khi có tin cả công ty chỉ có mình tôi mua xúp - tôi mới vào đây có một tuần - ông ta hạn chế thực đơn của mình xuống còn một món xúp mỗi ngày. Tôi khấp khởi đợi món xúp cà chua với pho mát Cheddar, nhưng lại được ông cho một bát xúp nghêu to tướng, lại còn hãnh diện khoe là nấu với kem béo. Ba người ở quầy "Xanh" sửng sốt quay lại nhìn tôi. Chướng ngại cuối cùng là đám đông vây quanh đầu bếp năm sao đến biểu diễn ở đây. Trong bộ đồ trắng muốt, ông thể hiện cho các fan xem nghệ thuật biến các khúc cá to thành món Sashimi. Tôi lẩm nhẩm nhớ tên ông ta, tí nữa về chỗ làm phải đọc lại xem đó là ai, chắc chắn tôi là nhân viên duy nhất trong tòa nhà không biết ông. Tội nào lớn hơn nhỉ: chưa bao giờ nghe tên ông Matsuhisa hay Miranda Priestly?
Cô thu ngân nhỏ bé trước tiên nhìn vào bát cháo, rồi nhìn vào vòng eo của tôi khi bấm máy tính tiền. Hay tôi tưởng tưởng ra? Tôi đã quen với chuyện đi đến và lúc nào cũng bị người ta săm soi, nhưng tôi thề là cô ta nhìn tôi với một biểu cảm không khác gì ánh mắt tôi dành cho một người nặng hai tạ rưỡi đang mua tám chiếc hamburger loại bự: ánh mắt đó khẽ hỏi:" Cô nhất thiết phải ăn lắm như thế không?" Có lẽ tôi hơi bị chứng hoang tưởng rồi. Con bé này là ai cơ chứ? Thu ngân ở căng tin! Chứ không phải nhân viên tư vấn về ăn kiêng. Không phải biên tập viên thời trang.
"Dạo này ít người mua xúp", cô khẽ nói trong khi bấm số tiền vào máy.
"Đúng, tôi nghĩ chắc ít người thích ăn xúp nghêu," tôi lầm bầm, quẹt thẻ vào máy, chỉ chực giục cô ta nhanh tay lên một chút.
Cô ngừng tay, đưa cặp mắt nai nhìn thẳng vào mắt tôi: "Không, tôi cho là ông trưởng bếp xúp khăng khăng đòi nấu mấy thứ xúp rất nhiều chất này - chị biết có bao nhiêu ca lo trong bát xúp này không? Chị có tin là bát xúp này làm người ta béo ra bao nhiêu không? Lắm người chỉ cần nhìn vào bát xúp đã tăng lên năm cân rồi..." có vẻ như cô định nói thêm: phom người chị không được phép tăng năm cân nữa đâu đấy.
Choáng! Tựa như chưa đủ khốn khổ cho tôi khi luôn phải tự nhủ rằng trọng lượng của mình hoàn toàn bình thường so với chiều cao mỗi khi bị các kiều nữ tóc vàng cao lớn và thanh mảnh của Runaway đưa mắt xét nét, bây giờ lại còn bị côn bé thu ngân này đay nghiến là quá cân? Tôi giằng lấy túi đồ ăn, chen phứa qua đám đông, đi vào phòng vệ sinh ngay gần cửa căng tin, rất thuận tiện cho những ai muốn thanht oán các vấn đề về ăn uống. Ngay cả khi biết chắc là tấm gương trên tường không nói gì khác so với sáng sớm hôm nay, tôi vẫn ngó vào. Một khuôn mặt méo xệch vì căm tức nhìn tôi.
"Chị làm cái khỉ gì ở đây?" Emily kìm giọng hét lên với hình tôi trong gương. Tôi quay phắt lại, thấy cô treo chiếc áo da trùm lên túi Gucci rồi đẩy cặp kính râm lên trán. Và tôi hiểu ngay là những gì Emily nói với tôi trước đây ba tiếng rưỡi đồng hồ phải hiểu theo nghĩa đen: cô đi ăn. Không ở căng tin, mà ra ngoài. Để mặc tôi hơn ba tiếng đồng hồ, không một lời báo trước. Gần như trói tôi vào cái điện thoại, không cho ăn, không cho đi vệ sinh. Nhưng tôi biết, tất cả sự tồi tệ ấy không biện hộ được lỗi của tôi đã bỏ đi, và sẵn sang hứng chịu một trận mắng chửi của cô. May mắn thay, cửa mở bung ra và bà tổng biên tập tờ Coquette sải bước tiến vào. Bà nhìn hai chúng tôi từ đầu xuống chân, và Emily vội chụp lấy tay tôi và dìu ra khỏi phòng vệ sinh, đi ra ngoài phía thang máy. Chúng tôi đứng đó như bị cột vào nhau, Emily tóm chặt tay tôi còn tôi bứt rứt như vừa tè ra giường. Như trong một cuốn phim, khi tên bắt cóc giữa ban ngày ban mặt ấn sung vào lưng một phụ nữa và bắt cô ta đi tới một căn phòng tra tấn.
"Tại sao chị làm thế với tôi?" Cô rít lên tỏng khi đẩy tôi qua cửa phòng lễ tân Runaway, lôi tôi xềnh xệch ra bàn. "Là trợ lý chính, tôi chịu trách nhiệm về mọi việc xảy ra ở đây. Tôi biết là chị còn mới, nhưng tôi đã nói với chị ngay từ hôm đầu: không bao giờ được để Miranda một mình."
"Nhưng Miranda có ở đây đâu?" Tôi lí nhí.
"Nhưng có thể bà ấy đã gọi điện và không ai có mặt ở đây để nhắc cái điện thoại thổ tả này lên cả," cô hét lên trong khi đóng sầm cửa phòng lại. "Nhiệm vụ quan trọng nhất - và duy nhất - của chúng ta là Miranda Priestly. Luôn luôn. Nếu không hiểu ra điều đó thì chị nên nhớ rằng ngoài kia có hàng triệu cô gái sẵn sang xin chết để được làm việc của chị. Bây giờ thì chị kiểm tra hộp thoại đi. Nếu Miranda có gọi điện thì đời chị thế là xong. Là đi tong."
Tôi chỉ muốn chui xuống cái lỗ nẻ nào mà chết đi cho rồi. Tại sao có thể mắc một sai lầm như thế trong tuần đầu tiên được nhỉ? Miranda chưa quay về đến văn phòng thì tôi có thể đợi được chứ. Xung quanh tôi toàn là những nhân vật cực kỳ quan trọng, với những nhiệm vụ quan trọng, họ đặt lòng tin vào tôi, còn tôi thì bỏ rơi họ. Tôi quay số hộp thoại.
"Alo Andy, anh đây, Alex đây. Em đang ở đâu? Sao không bao giờ gọi lại cả. Anh sốt ruột đợi gặp em để đi ăn tối nay, được không? Ở nhà hàng nào cũng được, cho em chọn. Gọi lại cho anh sau khi nhận được tin này. Sau bốn giờ chiều anh luôn luôn ở phòng giáo viên. Anh yêu em." Lập tức tôi cảm thấy áy náy, vì tôi đã quyết định bỏ hẹn ăn tối sau cú sốc trưa nay. Tuần làm việc đầu tiên của tôi điên đảo quá, làm chúng tôi hầu như không thấy mặt nhau, vì vậy chúng tôi dự định chắc chắn tối nay sẽ đi ăn, chỉ hai người với nhau. Nhưng tôi biết là sẽ chẳng vui vẻ gì khi tôi ngủ gục xuống bên bàn ăn, và tôi cần một buổi tối để xả hơi, một mình. Tôi không được quên gọi lại cho Alex, nếu được thì hoãn đến tối hôm sau vậy.
Emily đã kiểm tra xong hộp thoại của mình, cô cúi xuống bên tôi. Qua vẻ mặt khá bình thản của cô, tôi đoán rằng Miranda không để lại bản án tử hình nào. Tôi lắc đầu, ra hiệu là cũng không nhận được tin nào của Miranda.
"Alo Andrea, tôi đây, Cara đây." Cô trông trẻ của Miranda. "Tôi chỉ muốn báo là Miranda vừa gọi điện lúc nãy" - đứng tim - "và nói là bà gọi tới văn phòng mà không có ai nhấc máy. Tôi đoán là có chuyện gì ở đói, vì vậy tôi nói là vừa nói chuyện với chị và Emily cách đây một phút. Không có gì đáng lo cả, Miranda chỉ bảo fax cho bà ấy tờ Thời trang Phụ nữ Hằng ngày. Tôi có tờ ấy ở đây và fax đi luôn. Bà ấy cũng báo là đã nhận được rồi. Không vấn đề gì cả. Chỉ muốn tin cho các chị biết thôi. Chúc cuối tuần vui vẻ. Nói chuyện sau nhé. Bye bye."
Vị cứu tinh. Cô nàng đúng là một vị thánh. Khó tin là tôi mới quen cô ta có một tuần - mà cũng chẳng quen trực tiếp, chỉ qua điện thoại - nhưng tôic ó thể ôm chầm lấy cô ta được. Cara là hình ảnh tương phản của Emily trong mọi phương diện: nhẹ nhàng, thực tế, và hoàn toàn không đếm xỉa đến thời trang. Cô biết rõ các tật của Miranda, nhưng không lấy đó làm bực dọc quá đáng. Cô còn có một phẩm chất hiếm hoi và đáng quý là có thể cười nhạo chính mình và người khác.
"Không, không phải Miranda," tôi nói với Emily và cười đắc thắng, cũng không hẳn là nói dối. "Chúng ta thoát rồi."
"Chị thoát thì có, một lần này thôi," cô nói trơn tuột. "Và hãy ghi nhớ: chúng ta ngồi chung một thuyền, nhưng tôi cầm lái. Chị phải bao sân khi tôi chạy ra ngoài đi ăn, cả năm mới có một bận thôi - nhưng tôi có quyền đó. Không được để chuyện này xảy ra lần nũa, hiểu chứ?"
Tôi cắn răng nén một câu trả đũa độc địa. "Hiểu rồi," tôi đáp. "Hiểu rồi."
Đến bảy giờ tối thì chúng tôi gói hết chỗ rượu còn lại và chuyển cho bên chở hàng, và Emily không nhắc lại vụ đào tẩu khỏi văn phòng của tôi nữa. Tám giờ tối, tôi thả phịch người xuống ghết sau của chiếc taxi (chỉ một lần này thôi) và lúc mười giờ thì tôi nằm vật lên trên tấm chăn chưa lật lên, tay chân dang rộng, quần áo không thèm cởi. Trong bụng chưa có chút gì, vì chỉ nghĩ đến việc ra ngoài kiếm đồ ăn và quanh quẩn lạc đường trong khu phố lân cận như bốn đêm vừa rồi là tôi lại thấy ớn. Tôi gọi cho Lily để than thở qua chiếc điện thoại Bang & Olufsen mới cứng của mình.
"Alo, tớ tưởng cậu và Alex hẹn nhau đi chơi tối nay," cô nói
"Ừ, có hẹn, nhưng tớ mệt đến chết được, Alex đồng ý hoãn đến mai. Tớ phải đặt đồ ăn đến nhà đây, gù cũng được. Cậu hôm nay ra sao?"
"Tóm gọn vào một chữ là: kinh tởm! Okay, đó là hai chữ. Cậu không thể tưởng tượng được chuyện gì xảy ra với tớ hôm nay. Hay cậu đoán ra rồi đấy, tớ suốt đời toàn gặp những..."
"Vào phần chính đi, Lily, tớ muốn thiếp đi ngay đây này."
"Okay. Hôm nay một chàng hoàng tử trong mộng xuất hiện tại lớp học. Suốt buổi ngồi say sưa nghe giảng, sau đó đợi tớ và hỏi có thì giờ đi uống chút gì không. Hắn muốn nói chuyện về bài luận văn của tớ ở Brown mà hắn đã đọc xong."
"Nghe hay đấy. Hắn được bao nhiêu phần trăm?" Mỗi buổi tối sau giờ làm việc Lily thường đi chơi với một chàng trai mới, nhưng vẫn chưa gặp được hoàng tử của mình. Một tối sau khi nghe nói mấy người tỏng đám bạn trai chúng tôi có một bảng điểm để chấm các bạn gái, điểm càng cao càng tốt, cô cũng tạo một bảng đánh giá cho mình. "Bàng được sáu, tám, hai cộng," cậu bạn Jake hay chấm các cô trợ lý quảng cáo mà người ta mối mai cho anh tối hôm trước theo bảng điểm gồm mười thang. ĐIểm đầu tiên để đánh giá khuôn mặt, điểm thứ hai cho phom người, điểm thứ ba cho tính cách. Lily sáng tác ra bảng phần trăm, gồm mười mục, mỗi mục là 10%. Chàng trai lý tưởng của cô tối thiểu phải có cả năm mục đầu: thông minh, hài hước, phom chuẩn, đẹp trai, có công việc khả dĩ được gọi chung chung là "ổn". Chàng có thể kiếm vài phần trăm nữa nếu có tiềm năng trong năm mục còn lại, trong đó bao gồm: tuyệt đối không được có người yêu cũ thuộc loại ấm đầu, phục huynh dở hơi, bjan cùng phòng thay người yêu như thay áo, sở thích tiêu khiển dính dáng đến thể thao hay mấy trò con heo. Cho đến nay, ứng cử viên viên sáng giá nhất được nhận 90%, nhưng chính anh ta đã cắt Lily.
"Thoạt tiên chàng ta có vẻ như ngấp nghé 70%. Học nghệ thuật sân khấu ở Yale, và rất đàn ông, và chàng tranh luận về chính trị Israel một cách nghiêm túc, chứ tuyệt đối không phải kiểu cho chúng nó một quả bom nguyên tử đâu. Nói chung là ngon lành."
"Nghe rất thú vị. Tớ khá hồi hộp rồi đấy. Kể nốt đi! Thế hắn có vấn đề gì? Hắn chỉ tán về trò chơi game Nintendo thôi à?"
"Tệ hơn," cô thở dài.
"Hắn gầy hơn cậu?"
"Tệ hơn," giọng cô tuyệt vọng.
"Còn gì trên đời này có thể tệ hơn nữa cơ chứ?"
"Chàng sống ở Long Island..."
"Lily! Kể cũng xa xôi cách trở, nhưng không vì thế mà không để ý tới hắn nữa. Cậu cũng biết là..."
"Nhưng chàng muốn sống cùng bố mẹ!" Cô ngắt lời tôi
Thôi chết.
"Từ bốn năm nay rồi."
Hỏng.
"Và chàng chỉ thích ở cạnh phụ huynh thôi. Chàng nói là không thể tưởng tượng làm sao có thể sống một mình trong thành phố khổng lồ này, khi phụ huynh đã có một tổ ấm như thế."
"Thôi thôi, stop đã. Tớ nghĩ là chưa bao giờ bọn mình có trường hợp nào mà vừa gặp nhau lần đầu đã từ 70% tụt xuống bậc 0. Chàng của cậu đã lập lỷ lục mới, xin chúc mừng! Xin công bố chính thức là ngày hôm nay của cậu tệ hơn của tớ." Tôi vươn cẳng đạp cánh cửa phòng sập lại khi nghe tiếng Shanti và Kendra đi làm về. Tôi nghe một giọng đàn ông lẫn vào, và ngạc nhiên là một trong hai cô có bạn trai. Trong mười hôm vừa qua, tôi thấy mặt hai cô tổng cộng khoảng mười phút. Hình như họ còn làm việc lâu hơn tôi.
"Sao lại tệ? Công việc của cậu sao lại tệ được? Cậu làm về thời trang cơ mà?"
Có tiếng gõ cửa khe khẽ.
"Đợi một giây, có người đến. Vào đi!" Tôi gọi ra phía cửa, nghe quá to trong căn phòng tí tẹo này. Chắc là một trong hai cô cùng nhà sắp rón rén ngó vào hỏi tôi có nhớ bảo chủ nhà ghi thêm tên toi vào hợp đồng thuê nhà (không!) hay đã mua thêm đĩa giấy (không!) hoặc có ai gọi điện thoại và để lại tin tức gì không (không!) - nhưng người xuất hiện là Alex.
"Lúc khác tớ gọi lại nhé? Alex vừa đến." Thấy anh bất ngờ đến thăm, tôi mừng quá, nhưng tng thâm tâm tôi đã phần nào ngấp nghé muốn nhảy đi tắm một trận rồi chui vào chăn cho khỏe.
"Tất nhiên. Cho tớ gửi lời chào, và chớ quên rằng cậu là người hạnh phúc có một chàng trai 100% như Alex. Một cục vàng đấy, Andy, hãy giữ chặt lấy."
"Tớ lại không biết hay sao? Chàng là thiên thần của tớ đấy," tôi cười tươi với anh.
"Bye bye."
"Chào anh," tôi cố gắng ngồi dậy, rồi đến bên anh. "Bất ngờ quá!" Tôi định ôm anh, nhưng anh lùi lại, giấu hai tay sau lưng.
"Có chuyện gì thế?"
"Không có chuyện gì. Em làm việc cả tuần rồi, và như anh quá biết rõ em thì em chẳng thiết tha gì chuyện ăn uống cả. Anh đem đồ ăn cho em đây này." Anh đưa một túi giấy nâu từ sau lưng ra, như kiểu cửa hiệu thực phẩm ngày xưa vẫn gói, mùi thức ăn ngào ngạt bay lên. Đột nhiên bụng tôi cồn cào.
"Không thể tin nổi! Sao anh biết là em đang cố động viên mình đứng dậy đi kiếm đồ ăn? Em vừa định bỏ cuộc."
"Thế thì ra đây ăn nào!" Anh cười hài lòng, mở túi ra. Nhưng rẻo sàn nhà không đủ chỗ cho cả hai. Chúng tôi cũng không ra phòng khách để ngồi ăn được, vì Kendra và Shanti đã lăn ra trước màn tivi với hai tô xalat mua sẵn chưa bóc ra. Tôi tưởng hai cô xem xong chương trình Real World rồi mới ăn, hóa ra họ đã ngủ khì. Sướng thật.
"Đợi đấy, anh đã có cách," Alex nói và nhón chân rón rén đi ra phòng khách. Quay về phòng, anh đem theo hai túi nylon to đùng vốn để đựng rác, trải lên chiếc chăn xanh phủ giường. Anh lôi trng túi giấy lem mỡ ra hai cái bánh hamburger khổng lồ và suất khoai tây chiên cho hai người. Không quên cả túi xốt cà và muối cho tôi, thậm chí cả giấy lau miệng. Tôi vỗ tay reo lên, mặc cho khuôn mặt thất vọng của Miranda thoáng hiện trong đầu: "Có thật là chị định ăn hamburger không đấy?"
"Từ từ, chưa xong. Xem này." Alex lấy trong ba lô ra một nắm nến thơm vị vani, một chai vang đỏ con nút xoáy và hai cốc giấy.
"Nhà ảo thuật của em," tôi dịu dàng nói, chưa thể tin là Alex hì hụi đi kiếm mọi thứ về, sau khi tôi đã để lỡ cuộc hẹn.
Anh đưa cho tôi một cốc vang, chúng tôi chạm cốc. "Chẳng lẽ em tưởng là anh bỏ lỡ cơ hội nghe kể về tuần đầu tiên trng phần đời còn lại của em? Chúc sức khỏe!"
"Cám ơn anh," tôi từ từ nhấp một ngụm. "Cám ơn, cám ơn, cám ơn."
"Trời ơi, nữ biên tập viên thời trang đến thăm nhà kìa!" Jill diễn vở vui mừng khi mở cửa. "Xin mời vào nhà để bà chị già này được quỳ gối chào nào."
"Biên tập viên thời trang?" Tôi phì cười. " Không lọt tai chút nào. Gọi là ô-sin thì hay hơn. Hãy chào mừng em quay lại thế giới văn minh đi." Tôi ôm Jill cả chục phút và không muốn thả ra nữa. Ngày xưa tôi rất buồn khi chị đi học ở Standford, để tôi một mình với bố mẹ lúc mới lên chín tuổi. Tệ hơn nữa là sau đó chị theo bạn trai - bây giờ là chồng - về Houston. Houston! Cái vùng đất ngập ngụa bùn lầy và ruồi muỗi đến phát điên lên. Như chưa đủ khổ, bà chị tôi - một cô gái xinh đẹp, văn hay chữ tốt, yêu nghệ thuật cổ điển và làm người nghe rơi lệ khi đọc thơ - bây giờ còn nói pha thêm giọng địa phương miền Nam. Tôi không nói đến thứ giọng nhẹ nhàng dễ thương vùng Texas, mà ám chỉ một ngôn ngữ cowboy không lẫn vào đâu được, nghe như đấm vào màng nhĩ. Tôi vẫn chưa thể tha cho Kyle cái tội lôi chị tôi đến mảnh đất bất hạnh nọ, cho dù anh ta là một ông anh rể rất tử tế - ít nhất là chừng nào chưa mở miệng ra.
"Kìa, bé Andy, cứ mỗi lần gặp em lại thấy em xinh ra hơn. Ở Runway người ta cho bọn em ăn thứ gì vậy?"
Tôi chỉ ước gì tọng luôn một quả bóng tennis vào mồm Kyle cho anh ta đừng bao giờ phát ra cái giọng Texas ấy nữa, nhưng anh đã mỉm cười, và tôi chạy ra ôm anh. Giọng anh rất nhà quê, miệng thì toang toác hay cười, nhưng anh là người đáng mến và say chị tôi như điếu đổ. Tôi tự hứa với mình là sẽ không rúm người lại nữa, nếu anh lại mở miệng. "Không phải thức ăn, ở cái nơi mà ăn uống chỉ là chuyện miễn cưỡng, chắc anh biết rồi. Nếu có chất gì thì chỉ có thể trong nước uống chứ không ở đồ ăn. Thôi cho qua chuyện đó. Kyle này, trông anh cũng khá lắm. Hy vọng là anh chăm sóc chị em tử tế ở chốn làng quê khốn khổ ấy chứ?"
"Andy, đến thăm anh chị đi cưng, đem theo cả Alex, ở đó các em có thể nghỉ hè ít lâu. Em sẽ thấy, ở đó không dở đâu." Anh cười với tôi, rồi quay sang cười với Jill, và Jill cười đáp lại ngay, vuốt lên má chồng. Sến không chịu nổi.
"Anh ấy nói đúng đấy, Andy, Houston giàu văn hóa và có nhiều việc để làm. Anh chị muốn em đến đó chơi thường xuyên hơn nữa. Chỉ gặp nhau ở nhà này thôi thì không hay đâu," chị vừa nói vừa đi lại lăng xăng trong phòng khách nhà bố mẹ. "Chị định nói là nếu em chịu nổi Avon thì nhất định cũng chịu nổi Houston."
"Andy về rồi à! Jay, con bé thăng quan tiến chức ở New York rộng lớn về rồi kìa. Bố ra đây với con đi!" Mẹ tôi vừa từ bếp ra. "Mẹ tưởng con gọi điện khi xuống đến ga."
"Bà Myers ra đón Erika về cùng chuyến tàu, cho con về cùng luôn. Bao giờ có ăn? Con chết đói rồi đây."
"Có ngay. Con không muốn tắm à? Mọi người đợi được. Trông con hơi nhàu nhĩ sau chuyến đi. Không sao, mọi người có thể..."
"Mẹ!" Tôi đưa mắt cảnh báo.
"Andy! Con trông rất tuyệt vời. Ra đây ôm bố già của con một lần nào!" Bố tôi mỉm cười đứng ở hành lang, ông cao lớn và vẫn rất đẹp ở tuổi gần sáu mươi. Ông giấu hộp xếp vần Scrabble sau lưng, chỉ cho tôi thấy từ bên cạnh. Đợi đến khi xung quanh không ai để ý, ông nói: "Bố sẽ hạ con, báo trước đấy."
Tôi gật đầu cười. Trái với mong đợi, tôi vui mừng chờ đón bốn mươi tám tiếng đồng hồ tới trong vòng tay của gia đình, mừng hơn bốn năm qua kể từ khi ra khỏi nhà. Ngày lễ thích nhất của tôi là lễ Tạ ơn, và năm nay tôi sẽ tận hưởng như chưa bao giờ có.
Chúng tôi tụ tập trong phòng ăn, đào xới trong núi thức ăn mà mẹ tôi đặt đưa đến nhà vào đêm trước lễ Tạ ơn, một dạng truyền thống Do Thái. Bánh Bagel, cá hồi, pho mát kem, cá chép trắng và bánh xèo khoai tây, sắp xếp ngon mắt trên khay bởi những bàn tay chuyện nghiệp, chỉ đợi được chuyển sang đĩa giấy và ăn bằng dao dĩa nhựa. Mẹ tôi cười sung sướng nhìn cả nhà lao vào ăn. Trông mẹ rất tự hào, tựa như phải vất vả cả tuần trong bếp chỉ để cho các con được no bụng.
Tôi kể cho mọi người nghe về công việc mới, cố gắng hết sức để giải thích một công việc mà ngay chính tôi cũng chưa hiểu hết. Tóm lại là tôi cũng thấy buồn cười khi kể về chuyện gọi đem váy đến và những hôm ngồi gói quà tặng và gửi đi, hay cái thẻ điện tử nho nhỏ giám sát được mỗi động tác của mình. Thật khó nói ra bằng lời, tại sao tôi thấy công việc của mình lại quan trọng ghê gớm đến thế. Tôi kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, nhưng chắc là mọi người vẫn thấy thế giới đó thật xa lạ. Một thế giới cách ngôi nhà này có hai tiếng đồng hồ theo múi giờ nhưng xa như ở hệ mặt trời khác. Mọi người gật đầu, mỉm cười và đặt câu hỏi, ra vẻ cũng quan tâm, nhưng tôi nhận ra là họ thấy mọi thứ đều quá quái dị, quá lạ lẫm và quá khó hiểu đối với ai chưa từng nghe tên Miranda Priestly - khác gì tôi trước đây mấy tuần. Cũng chưa hẳn có ý nghĩa gì nhiều đối với tôi: mọi việc đôi khi có vẻ đầy kịch tính, như một sân khấu hỗn loạn, nhưng rất kịch động và thú vị. Chẳng phải là một nơi làm việc cực kỳ thú vị hay sao?
"Andy, con tin là một năm ở đó sẽ ổn chứ? Có thể sau đó con thích ở Runway lâu hơn thì sao?" Mẹ tôi hỏi, trong khi quét pho mát lên bánh Bagel mặn.
Tôi ký hợp đồng lao động với Elias Clark, nhận trách nhiệm làm việc một năm ở chỗ Miranda - nếu không bị sa thải sớm hơn, đó là một hạn chế không nhỏ. Nếu tôi đủ trình độ, nhiệt tình và phong độ để hoàn tất công việc thì - điều này không ghi trong hợp đồng nhưng tôi nghe nhiều người ở phòng nhân sự, cả Emily và Allison gợi ý - sau đó tôi sẽ được phép mơ đến một công việc như mình thích. Tất nhiên không ai nói ra, nhưng đều tính đến một công việc tiếp tục ở Runway hay ít nhất cũng trong công ty Elias Clark, nhưng các khả năng đều để ngỏ. Ví dụ như tôi có thể viết phê bình sách hay giữ chân trung gian giữa các nhân vật đình đám của Hollywood và Runway. Mười trợ lý gần đây nhất từng hoàn thành một năm dưới quyền Miranda, 100% đều được nhấc lên ban biên tập của Runway, nhưng tôi không vơ cả vào mình làm gì. Một năm làm việc cho Miranda là biện pháp tối hậu để tránh được ba đến năm năm hầu hạ nhục nhã ở nơi khác, sau đó tôi sẽ kiếm ngay một chỗ tử tế hơn.
"Đúng thế. Cho đến giờ ai cũng có vẻ rất tốt. Emily thì, nói thế nào nhỉ, có thể hơi hăng hái quá, ngoài ra thì mọi việc đều ổn. Nếu con cứ nghe chuyện Lily than vãn về thi cử hay Alex phải làm những việc tồi tệ trong tuần, thì con nghĩ là mình rất may mắn. Có ai mới vào làm hôm đầu tiên đã được tài xế chở đi khắp nơi? Con nghĩ thật đấy, con nghĩ năm nay sẽ là một năm tốt đẹp, và con vui mừng đợi Miranda quay về. Con đã sẵn sàng."
Jill trợn mắt phóng sang tôi một ánh nhìn đầy hàm ý: "Thôi thôi, được rồi đấy Andy. Mọi người ai cũng biết là hình như em làm việc cho một con mẹ bị bệnh tâm thần, vây quanh là một lũ người mẫu da bọc xương. Và em chỉ cố miêu tả mọi thứ toàn màu hồng vì em lo là đã cho chân vào bẫy." Nhưng chị chỉ nói: "Andy, nghe rất thú vị, thật đấy. Một cơ hội nghìn vàng."
Jill là người duy nhất bên bàn tiệc có thể hiểu tôi, vì trước khi chuyển nhà đến xứ khỉ ho cò gáy chị đã làm việc cho một bảo tàng tư nhân nhỏ ở Paris và sinh ra hứng thú với thời trang. Chị tiếp cận với mốt qua khía cạnh nghệ thuật và thẩm mỹ hơn là thương mại, nhưng ít nhất cũng đã dính dáng đến mảng thời trang. "Chúng con cũng có tin vui đây," chị nói tiếp, đưa tay qua bàn nắm lấy tay Kyle. Anh đặt tách cà phê của mình xuống bàn và vươn cả hai tay ra.
"Ôi, cảm ơn Chúa," mẹ tôi thốt lên ngay và ngồi phịch xuống ghế, tựa như được ai đó đỡ hộ quả tạ một trăm cân mà bà đã vác trên từ hai thập kỷ nay. "Cũng đến lúc rồi đấy."
"Chúc mừng hai con! Bố phải nói là mẹ đã rất lo lắng. Các con có phải là vừa xong đám cưới đâu. Bố mẹ đã bắt đầu lo lo..." bố tôi nhướng mày phát biểu từ đầu bàn.
"Hay quá, thế là em sắp được làm dì rồi. Bao giờ thì nhóc con ra đấy?"
Cả hai đần mặt ra, và một giây dài tôi nghĩ là tất cả đã nhầm to, và tin "vui" của anh chị chỉ là sắp xây nhà mới to hơn trong cái vũng lầy mà họ đang sống, hoặc Kyle sau bao cân nhắc đã rời khỏi công ty luật của bố anh và cùng vợ mở Gallery tranh nghệ thuật như chị ấy vẫn luôn mơ ước. Có lẽ chúng tôi đã cầm đèn chạy trước ô tô, quá nóng ruột muốn nghe tin sắp có cháu. Đó là đề tài mà bố mẹ tôi đem ra bàn luận từ sáng đến tối, tại sao chị tôi và Kyle - chả gì thì cũng quá ngưỡng băm và cưới nhau bốn năm rồi - đến giờ vẫn chưa có gì xuất xưởng cả. Trong sáu tháng vừa qua, đề tài giết thời gian này của gia đình đã phát triển thành ám ảnh ở tầm khủng hoảng.
Chị tôi hạ ánh mắt xuống. Kyle nhăn trán. Bố mẹ tôi trông như sắp ngất lịm. Sự căng thẳng như sờ tay vào được.
Jill đứng dậy khỏi ghế và đi qua chỗ Kyle, ngồi lên lòng anh. Chị vòng tay qua gáy Kyle, ghé lại gần mặt anh và thì thầm vào tai. Tôi liếc qua nhìn mẹ đang choáng váng, đường nhăn bên khóe mắt hằn sâu phiền muộn.
Rốt cuộc, họ cười khúc khích, quay mặt ra phía bàn và đồng thanh tuyên bố: "Chúng con sắp có cháu." Và mọi vật bừng sáng. Và hò hét. Và ôm nhau. Mẹ tôi nhảy dựng lên, nhanh đến nỗi chiếc ghế đổ lật ra sau và kéo theo chậu xương rồng cạnh cửa kính. Bố tôi ôm chầm lấy Jill, hôn lên hai má rồi lên đỉnh đầu. Và lần đầu tiên sau khi cưới, nếu tôi không nhớ nhầm, Kyle cũng được nhận một cái hôn của bố.
Tôi lấy chiếc dĩa nhựa gõ lên lon nước ngọt và tuyên bố rằng bây giờ cần một lời chúc. "Tất cả hãy nâng cốc lên nào, nâng cốc chúc Baby sắp ra đời của họ nhà Sachs." Kyle và Jill giật mình nhìn tôi. "Okay, con biết rằng về bản chất thì đó là Baby họ Harrison, nhưng trong tim chúng ta nó là nhà Sachs. Chúc mừng Kyle và Jill, bậc cha mẹ tương lai tuyệt vời của đứa con tuyệt vời nhất hành tinh." Chúng tôi chạm đủ thứ đang cầm trong tay, bất kể là lon xô đa hay tách cà phê, uống mừng đôi vợ chồng đang tưng bừng và cái bụng mới nhu nhú của Jill. Trong lúc tôi thu dọn bàn ăn bằng cách tổng hết mọi thứ trên đó vào túi đựng rác, mẹ tôi tìm cách dỗ Jill lấy tên những họ hàng đã khuất bóng từ lâu đặt cho cháu bé. Kyle nhấm nháp cà phê và tỏ vẻ hài lòng. Gần nửa đêm, tôi và bố lẩn ra ngoài để chơi trò Scabble trong phòng làm việc của ông.
Ông bật chiếc máy tạo tiếng động màu trắng, thường dùng khi có bệnh nhân trong ngày, vừa để át những tiếng động trong nhà cũng như tránh ai đó trong nhà nghe tiếng ông nói trong phòng khám. Như các bác sĩ tâm lý tử tế khác, bố tôi có một chiếc ghế nằm bằng da màu xám trong góc phòng, rất mềm, tôi ưa tựa đầu lên chỗ tì tay, và ba chiếc ghế ngồi dễ chịu như ngồi võng. Ông cam đoan là dễ chịu như trong lòng mẹ. Bàn giấy của ông đen mờ, trên đó chễm chệ một màn hình phẳng, sau bàn là chiếc ghế da màu đen có tựa cao và rất êm. Tủ tường đầy sách về tâm lý học có cửa kính. Một bó thanh trúc cắm trong bình pha lê dưới sàn nhà và mấy bức tranh đóng khung - những đồ vật duy nhất có màu - làm toàn vẹn kiểu trang trí hiện đại. Tôi ngồi xuống sàn, giữa ghế nằm và bàn, và bố tôi cũng làm theo.
"Andy, nói cho bố biết mọi chuyện thực tế ra sao," ông hỏi, trong khi trao cho tôi nẹp gỗ để xếp quân. "Bố thấy con rất phấn khích."
Tôi nhặt bảy quân cho mình và xếp thành hàng cẩn thận trước mặt. "Vâng, đúng là hai tuần vừa rồi cực kỳ nhộn nhạo. Đầu tiên là chuyển nhà, sau đó vào làm việc. Một nơi kỳ quái, khó mà diễn tả được. Ai cũng đẹp, gầy và ăn mặc rất mốt. Và gây ấn tượng tốt. Ai cũng tỏ ra thân thiện, quá thân thiện, cứ như có bùa mê ấy. Con không biết nữa..."
"Sao? Con định nói gì?"
"Con không nhận ra đằng sau bức màn đó là gì. Có cảm giác như tất cả chỉ là một cái nhà xếp bằng quân bài, bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp xuống đầu mình. Con không nén nổi cảm giác khôi hài là đi làm cho một tạp chí thời trang, bố hiều chứ? Cho đến giờ, công việc tương đối ngu muội. Nhưng cũng là một thử thách, vì mọi thứ đều mới cả."
Ông gật đầu.
"Con biết đó là một công việc khá siêu, nhưng không hiểu nó giúp gì để sau này tiến đến The New Yorker. Con không có cảm giác yên tâm, mọi thứ quá trơn tru để tin là có thật. Đầy hứa hẹn. Con có lẩn thẩn không?"
"Bố không nghĩ là con lẩn thẩn, con gái yêu ạ. Bố cho là con nhạy cảm. Nhưng bố cũng công nhận là con gặp may trong chuyện này. Trong một năm con sẽ nhìn thấy nhiều điều hơn mọi người trong cả đời họ. Con nghĩ xem! Vừa ra trường, công việc đầu tiên, và con làm cho người phụ nữ quan trọng nhất trong tạp chí bán chạy nhất của nhà xuất bản tạp chí lớn nhất thế giới. Con sẽ được học hỏi nhiều điều, từ vị trí cao nhìn xuống. Nếu con luôn mở mắt quan sát và không quên những gì thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống thì trong một năm con sẽ học hỏi được nhiều hơn nhiều người khác trong cả sự nghiệp."
Ông xếp những chữ cái đầu tiên rồi nói tiếp: "Càng suy nghĩ kỹ, bố càng tin là sẽ có nhiều sự kiện lớn đến với con."
"Hy vọng là bố có lý. Vì con đã ngấy việc cắt giấy gói quà đến tận cổ. Con muốn làm những việc tử tế hơn."
"Rồi đâu sẽ vào đó, con gái yêu ạ, đâu sẽ vào đó. Hiện tại con nghĩ là người ta bắt con làm những việc ngớ ngẩn, nhưng con cứ tin bố, đây mới chỉ là bước đầu của một sự kỳ diệu. Bố có linh cảm như thế. Bố đã nghe ngóng về bà sếp của con. Bà Miranda này thuộc loại khó nhằn đấy, chắc chắn thế, nhưng con sẽ mến bà ta. Và bố nghĩ là bà ta cũng sẽ mến con." Ông áp được quân của tôi và trông rất thỏa mãn.
"Con hy vọng là bố có lý, con hy vọng thực sự."
"Bà ấy là tổng biên tập tờ Runway, tạp trí thời trang, chị biết chứ?" Tôi khẩn khoản thì thào vào điện thoại, cố giấu vẻ thất vọng.
"À, tôi biết chị nói gì rồi!" Julia, nhân viên quảng cáo của Sách khoa học nói. "Tạp chí nổi tiếng. Tôi thích đọc tất cả những bài của các cô gái viết về chuyện kinh nguyệt thầm kín. Có phải là chuyện thật không? Chị có nhớ câu chuyện về..."
"Không, không, không phải tờ họa báo cho lứa tuổi teen. Tạp chí cho phụ nữ trưởng thành hẳn hoi," Ít nhất là về lý thuyết. "Chị chưa bao giờ đọc Runway thật à?" Làm sao có thể thế được nhỉ? "Vâng, tôi đọc từng chữ nhé. P-R-I-E-S-T-L-Y. Miranda. Vâng," tôi nói với sự kiên nhẫn vô biên, Tôi tự hỏi, liệu Miranda sẽ phản ứng ra sao khi nghe kể là tôi gọi điện cho một người chưa hề nghe thấy tên bà bao giờ. Chắc sẽ không xúc động lắm.
"Vâng, xin chị gọi lại càng sớm càng tốt nếu như có thể, rất biết ơn chị," tôi nói với Julia. "Và nếu có biên tập viên chính nào đến, xin chị nhắn họ gọi lại cho tôi nhé."
Một buổi sáng thứ Sáu giữa tháng Chạp, chỉ còn mười tiếng nữa là bắt đầu cuối tuần trong tự do ngọt ngào. Tôi phải gãy lưỡi để thuyết phục cô Julia mù tịt về mốt ở Sách khoa học rằng Miranda Priestly là một VIP nặng ký để xông xênh làm ngơ các quy định cũng như phớt lờ mọi logic. Cuộc nói chuyện hóa ra phức tạp hơn chúng tôi mong đợi. Làm sao mà tôi tưởngtượng ra được rằng cô gái mà tôi định lấy địa vị chủ chốt của Miranda ra để gây ấn tượng lại chẳng hề biết đến tạp chí thời trang danh tiếng nhất thế giới - hay bà tổng biên tập noỏi tiếng ở đó? Trong bốn tuần ngắn ngủi làm chân trợ lý ở đây tôi đã học thuộc một bài - khoa trương thanh thế và nịnh nọt đơn giản là một cấu thành của công việc. Bình thường ra, chỉ cần nhắc tên bà sếp là tôi hoàn toàn thành công khi thuyết phục, hăm dọa hay gây sức ép cho đối tác.
Thật rủi cho tôi, Julia làm việc ở một nhà xuất bản sách giáo dục. Ở đó các tác giả, dù cho nhỏ nhoi đến mấy như Nora Ephron hay Wendy Wasserstein, cũng được trân trọng hơn một chuyên gia có thẩm mỹ kiệt xuất về lông thú. Chuyện ấy thì tôi quá hiểu. Tôi chỉ cần nhớ lại quãng thời gian trước khi nghe thấy cái tên Miranda Priestly lần đầu tiên và chẳng biết đó là ai - mới năm tuần chứ mấy. Song tôi cũng biết rằng thời oanh liệt đó nay còn đâu. Tôi ghen tị với sự hờ hững của Julia, nhưng nó chẳng giúp ích gì cho công việc mà tôi đang phải làm cả.
Ngày mai, thứ Bảy, tập IV của Harry Potter bất hạnh sẽ ra mắt, và hai đứa con gái song sinh mười tuổi nhà Miranda muốn có mỗi đứa một quyển. Thứ Hai mới có sách bán ngoài hiệu, nhưng tôi phải kiếm được sách vào sáng thứ Bảy - ngay sau khi sách giao cho cửa hàng. Chả là Harry và nhóm bạn phù thủy của cậu ta đã có kế hoạch bay bằng phi cơ riêng đến Paris.
Tiếng chuông điện thoại dứt tôi khỏi dòng suy nghĩ. Tôi nhấc máy. Đến hôm nay thì Emily đã đủ tin tưởng để cho phép tôi được nói chuyện trực tiếp với Miranda. Nói chuyện ở đây có nghĩa là ngót ba chục lần mỗi ngày. Thậm chí từ xa bà ta còn len lỏi được vào đời tư của tôi và ngự trị trong đó. Từ bảy giờ sáng trở đi, bà ta bắn sang tôi với tốc độ súng máy hàng tràng mệnh lệnh và câu hỏi và nguyện vọng cho đến khi tôi thở phào rời văn phòng lúc chín giờ tối.
"Aan-dree-aa? Alô? Có ai ngoài đấy không? Aan-dree-aa!" Vừa nghe bà réo tên là tôi nhảy bật khỏi ghế. Một giây sau tôi mới định thần nhớ ra là kỳ thực bà không ở trong văn phòng - thậm chí còn chẳng ở trong nước. Hiện tại tôi chắc là bà chẳng động đến mình. Emily cam đoan với tôi rằng Miranda không để ý đến chuyện Allison đã được thăng chức và tôi mới vào làm, vì đó là một chi tiết chẳng bõ cho bà để ý. Chừng nào có người nhấc điện thoại và cung cấp thứ gì bà cần thì tên tuổi người đó không quan trọng.
"Tôi không hiểu nổi tại sao chị nhấc máy lên rồi mãi mới trả lời." bà phán. Từ miệng bất kỳ ai khác trên quả đất này thì câu này nghe như oán thán, nhưng giọng Miranda rất lạnh và nghiêm. Như chính bản thân bà. "Trong trường hhợp chị chưa được thông báo sau từng ấy tuần ở đây: tôi gọi, chị trả lời, rõ chưa? Có gì phức tạp lắm đâu. Tôi gọi, chịi trả lời, chị thấy mình có đủ khả năng ấy không Aan-dree-aa?"
Mặc dù Miranda không nhìn thấy tôi, tôi vãn gật đầu như một đứa trẻ sáu tuổi vừa bị mắng vì trét mì spaghetti lên tường. "Vâng, Miranda, tôi xin lỗi" tôi khẽ nói, đầu cúi. Trong khi xin lỗi, tôi cảm thấy có lỗi thật, có lỗi vì không nhận ra giọng bà sớm hơn ba phần mười giây, vì tôi không tức khắc trả lời khi nhấc máy "Đây là văn phòng Miranda Priestly" mà chậm mất một tích tắc. Làm sao tôi dám quên rằng thời gian của bà quý hơn thời gian của tôi gấp bội.
"Thôi được. Tốn thì giờ thế là đủ rồi, vào việc đi. Chị đã xác nhận việc đặt bàn cho ông Tomlinson chưa?" Bà hỏi.
"Rồi ạ. Tôi đã đặt bàn cho ông Tomlinson lúc một giờ ở nhà hàng Four Seasons."
Tôi đánh hơi thấy gì rồi. Sau khi bảo tôi đặt bàn ở Four Seasons cách đây mười phút rồi gọi điện thông báo cho ông Tomlinson, lái xe và cô trông trẻ về kế hoạch ấy, giờ thì bà ấy lại muốn thay đổi tất cả.
"Tôi thay đổi ý định rồi. Nhà hàng Four Seasons không phải là nơi thích hợp nhất để ông ấy ăn trưa với Irv. Chị đặt một bàn hai người ở Le Cirque, và chớ quên thông báo cho ông trưởng nhóm phục vụ bàn là họ muốn ngồi ở phía cuối nhà hàng. Không chường mặt ra phía trước mà ở phía cuối. Hết."
Những lần đầu tiên nói chuyện với Miranda, tôi cứ nghĩ là khi bà chấm dứt bằng chữ "hết" thì thực ra có nghĩa là "cảm ơn". Ảo tưởng đó chấm dứt sau tuần thứ hai.
"Tất nhiên rồi, Miranda. Cảm ơn." Tôi mỉm cười đặt máy. Bên kia đầu dây tôi cảm thấy bà ngập ngừng, như không biết đáp lại ra sao. Liệu bà có nghe ra cú chọc ngóay của tôi? Liệu bà có thấy lạ lùng khi tôi cảm ơn vì đã bị sai bảo suốt ngày? Dạo này tôi bắt đầu nói cảm ơn sau mỗi câu bình phẩm nhạo báng và mỗi mệnh lệnh độc địa qua điện thoại. Nhất định bà biết tôi có ý châm chọc, nhưng biết nói gì? Aan-dree-aa, tôi không muốn nghe chị cảm ơn lần nữa đâu nhé. Tôi cấm chị tỏ ý hàm ơn kiểu ấy! Thật ra thì cũng chẳng lạ, nếu bà ta phát ra câu ấy.
Le Cirque, Le Cirque, Le Cirque,tôi lẩm bẩm nói đi nói lại, nhất định tôi phải đặt bàn ở đó càng nhanh càng tốt, để rảnh tay vượt qua thử thách Harry Potter rõ ràng còn khó khăn hơn nhiều. Người nhận đặt bàn ở Le Cirque đồng ý tắp lự sẽ có bàn cho các vị Tomlinson và Irv bất cứ lúc nào họ xuất hiện.
Sau khi lượn một vòng qua ban biên tập, Emily ngó vào hỏi Miranda có gọi điện không.
"Mỗi ba lần thôi, và không lần nào dọa sa thải tôi cả," tôi hãnh diện khoe. "Tất nhiên là bà ấy có nói xa xôi, nhưng không dọa hẳn ra mồm. Tiến bộ đấy chứ?"
Emily cười, theo cái cách mà cô vẫn cười khi tôi tự lấy mình ra làm trò cười, và hỏi vị thánh sống Miranda của cô muốn gì.
"Tôi phải đổi chỗ đặt bàn ăn trưa cho Mister Mờ-Cờ-Đờ. Không rõ tại sao việc đó lại rơi vào tôi, vì ông ấy có trợ lý riêng cơ mà, nhưng không sao, ai cho phép tôi hỏi ahn cơ chứ." Mr. Mờ-Cờ-Đờ hay Mù-Câm-Điếc là biệt danh mà chúng tôi đặt cho ông chồng thứ ba của Miranda. Mặc dù ông ta về bề ngoài không có gì bất thường, giới thạo tin trong bọn tôi cho rằng ông ta vừa mù vừa câm vừa điếc, đơn giản vì nếu không thì làm sao một người dễ mến như ông lại chiu đựng nổi cuộc sống với bà ấy được.
Bây giờ đến lượt gọi điện cho Mờ-Cờ-Đờ. Nếu tôi không kịp làm thì có thể ông ấy sẽ không tới nhà hàng đúng giờ. Ông vừa bay từ chỗ nghỉ mát về để làm việc vài hôm, trong đó bữa ăn trưa với Irv Ravitz - chủ tịch hội đồng quản trị của Elias Clark - là buổi quan trọng nhất. Miranda muốn kỹ càng đến từng chi tiết, cứ làm như đây là chuyện gì mới. Mờ-Cờ-Đờ tên thật là Hunter Tomlinson, ông và Miranda vừa cưới hồi Hè năm nay, sau một khởi đầu hi hữu mà theo tin đồn là Miranda là người tán tỉnh ông trước, còn ông thì e dè. Emily nói bà bám nhằng nhằng lấy ông như đỉa đói, cho đến khi rốt cuộc ông cũng ưng thuận vì quá kiệt sức không chạy trốn được nữa. Chồng thứ hai của Miranda (ca sĩ chính của một ban nhạc hồi cuối thập kỷ 60, bố của cặp song sinh) hoàn toàn bất ngờ khi nhận được đơn ly hôn từ tay luật sư của Miranda. Mười hai ngày sau khi hoàn tất thủ tục li dị thì Miranda đã lại lên xe hoa. Mr. Tomlinson tuân lệnh vợ chuyênẻ đến nhà Miranda ở đại lộ Park Avenue. Tôi mới thấy mặt Miranda một lần và chưa bao bao giờ gặp Mr. Tomlinson, nhưng tôi đã nói chuyện với họ không biết bao nhiêu lần, đến nỗi tôi cảm thấy như người trong nhà vậy, chán thật.
Ba chuông, bốn chuông, rồi năm chuông... Hừm, trợ lý của ông ta trốn đâu rồi? Cầu trời, làm sao tôi vớ được máy trả lời nhỉ. Hôm nay tôi không có lòng dạ đâu nghe những chuyện thân mật và vô bổ mà ông Tomlinson rất ưa kể lể. Đúng lúc đó thì thư ký của ông nhấc máy.
"Văn phòng Mr. Tomlinson đây." thổ ngữ miền Nam của cô ta ngân lên. "Tôi có thể giúp gì được không ạ?" Tôi cố nhịn cười.
"Chào Martha, Andrea đây. Tôi không muốn quấy rầy ông Tomlinson, phiền chị nhắn lại cho ông rằng tôi đã đặt..."
"Andrea, chị biết là Mr. Tomlinson luôn muốn tiếp chị. Chị giữ máy nhé." Trước khi tôi kịp thoái thác thì trong loa đã vang lên giai điệu Don't Worry, Be Happy của Bobby McFerrin. Tuyệt. Ông Mờ-Cờ-Đờ thật khéo chọn ra một âm điệu hơi bị siêu lạc quan để giải trí cho người gọi điện đến trong khi phải cầm máy đợi.
"Andy đấy à, cô bé yêu quý của tôi.?" Ông khẽ nói với giọng trầm dễ nhận. "Cô bé định tránh mặt Mr. Tomlinson hay sao đấy? Đã bao lâu rồi tôi chưa có hân hạnh được nói chuyện với cô rồi ấy nhỉ?" Lâu la gì đâu, nói cho thật chính xác là mới có một tuần rưỡi. Ông Mr. Tomlinson không chỉ mù, câm và điếc, mà cong có thói quen ngớ ngẩn là nói về mình bằng ngôi thứ ba.
Tôi hít một hơi thật sâu. "Chào ông Tomlinson, Miranda nhờ tooi nhắn lại cho ông là bữa trưa tổ chức ở nhà hàng Le Cirque, bà nói là ông đã..."
"Cô bé," giọng ông chậm rãi và bình thản. "Tạm gác qua một bên chuyện kế hoạch được không. Cô hãy cho ông già này một niềm vui, và kể cho Mr. Tomlinson nghe về cuộc đời mình đi. Cô kể cho ông ấy nghe được chứ? Nào, cô bé, nói cho tôi biết là cô có thích được làm việc cho bà nhà tôi không?" Tôi có thích làm việc cho vợ ông hay không à? Hừm, nói sao nhỉ. Gà con có reo lên sung sướng khi bị diều hâu xòe móng túm không? Tất nhiên là tôi vô cùng hạnh phúc được làm việc cho vợ ông, ông già đần ạ. Mỗi khi rỗi rãi, chúng tôi đắp mặt nạ dưỡng da cho nhau và trao đổi về chuyện yêu đương của mình. Sống với Miranda chẳng khác gì một cuộc liên hoan giữa các bạn bè thân thiết, ông nên biết thế. Lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười đùa.
"Ông Tomlinson, tôi yêu công việc của mình và rất sung sướng được làm việc cho Miranda." Tôi nín thở, cầu cho ông già chấm dứt ở đây.
"Tốt, Mr. Tomlinson rất xúc động khi thấy cô yêu thích công việc đó." Tuyệt vời, ông già lẩm cẩm ạ, thế nhưng tôi có xúc động không?
"Cảm ơn ông Tomlinson, chúc ông ăn ngon miệng." tôi cắt lời ông trước khi ông kịp đặt câu hỏi không thể tránh được về kế hoạch của tôi vào cuối tuàn, và đặt máy.
Tôi dựa lưng vào ghế và ngó dọc phòng làm việc. Emily đang nhíu mày tập trung tinh thần kiểm tra một hóa đơn 20.000 dollar thanh toán qua thẻ American Express của Miranda. Vụ Harry Potter vẫn án ngữ sừng sững trước mặt tôi, và tôi không được phép bỏ phí một giây nào, nếu còn muốn được yên ổn vào cuối tuần này.
Lily và tôi đã lên kế hoạch cuối tuần này chỉ toàn xem video. Tôi mệt mỏi vì công việc, còn Lily cũng nhức đầu vì học hành. Vì vậy, chúng tôi định cả hai hôm cuối tuần sẽ lăn ra đi văng, chỉ sống bằng bia và chip bột ngô. Không phải loại chip ít mỡ và Coca-Cola không đường. Và tuyệt đối không mặc đồ tử tế. Mặc dù chúng tôi gọi điện cho nhau liên tục nhưng từ khi chuyển đến thành phố tôi chưa thực sự dành nhiều thờì gian cho cô.
Từ hồi còn học lớp tám, chúng tôi là đôi bạn thân nhau nhất. Tôi nhìn thấy Lily khi cô ngồi khóc bên bàn căng tin. Cô vừa chuyển đến đây sống với bà và bắt đầu vào học ở trường tôi khi trước đó có dấu hiệu là bố mẹ cô không bao giờ quay lại nữa. Từ vài tháng họ theo chân ban nhạc Grateful Dead (khi sinh Lily cả hai mới mười chín tuổi và mê hút hít hơn trẻ con), để con lại cho một lũ bạn trốn nhà đi sống tại một cộng đồng ở New Mexico (mà Lily vẫn thích gọi là sống tập thể). Một năm sau vẫn chưa thâýa họ quay về, bà Lily đón cô từ cộng đồng (hay từ chỗ "lũ tà giáo" theo cách gọi của bà) về sống với mình ở Avon. Hôm Lily ngồi khóc ở căng tin là vừa lúc bà bắt cô cắt những lọn tóc xoắn thừng bẩn thỉu và mặc một chiếc áo dài mà Lily không ưa chút nào. Tôi thích kiểu cô nói chuyện, kiểu như "Câu làm rất Thiền" hay "Ta hạ áp suất chút nào" và chúng tôi nhanh chóng kết bạn. Những năm cuối ở trung học chúng tôi như hình với bóng, lên đại học chúng tôi ở chung phòng cả bốn năm ở Brown. Lily vẫn dùng dằng giữa son môi MAC hay dây chuyền bện bằng dây gai và còn hơi lập dị so với những người "bình thường" xung quanh, nhưng chúng tôi bù trừ cho nhau rất tốt. Tôi nhớ cô. Vì dạo này, khi cô viết luận án tién sĩ năm đầu và tôi vất vả như một nô lệ, chúng tôi hiếm khi thấy mặt nhau.
Tôi chỉ mong sớm đến cuối tuần. Những ngày làm việc kéo dài mười bốn giờ làm chân, tay và lưng tôi ê ẩm. Giờ đây tôi phải đeo kính thay vì dùng kính áp tròng mà tôi đã quen mười năm nay, vì mắt quá khô và mỏi. Mỗi ngày tôi hút hết một bao thuốc, chỉ sống bằng cafê Starbucks (trừ vào lương, tất nhiên) và sushi mua về (cũng trừ vào lương). Chỗ cân bị sụt sau trận kiết lị rồi cũng nhanh chóng phục hồi, nhưng chúng lại biến mất từ khi tôi bắt đầu làm việc ở Runway. Lý do có thể là không khí ở đây, hoặc sự ghẻ lạnh của mọi người trong ban biên tập đối với tất cả các thứ gì ăn được. Tôi đã bị một trận viêm xoang, da dẻ cũng tái nhợt đi trông thấy - vỏn vẹn trong vòng bốn tuần, mà tôi thì mới hai mươi ba tuổi đầu. Và Miranda còn chưa có mặt ở văn phòng đấy! Kệ thây tất cả. Tôi đáng được hưởng những ngày cuối tuần nhàn nhã lắm chứ.
Ngán ngẩm thay, thằng bé Harry Potter lại xía vào chuyện này. Miranda gọi điện từ sáng sớm. Bà không cần đến một một phút để nói ra ý muốn của mình, chỉ có tôi là lớ ngớ mãi mới diễn giải nổi lời bà. Tôi đã nhanh chóng học được một điều, đó là trong thế giới của Miranda priestly thà làm sai một việc rồi sửa sai bằng một đống thời giờ và tiền bạc, còn hơn thú nhận là không hiểu những mẹnh lệnh rối mù và khó nghe của bà rồi bắt bà nói lại lần nữa cho rõ. Khi bà làu bàu gì đó về chuyện mua quyển sách Harry Potter cho hai đứa song sinh sắp bay sang Paris là tôi có linh cảm ngay rằng nhiệm vụ này sẽ đảo lộn kế hoạch cuối tuần của tôi. Mấy phút sau, khi bà ta đột ngột đặt máy, tôi hốt hoảng ngó sang Emily.
"Trời ơi, bà ấy vừa nói gì ấy nhỉ?" Tôi rên rỉ và tự oán trách mình sao hèn nhát đến mức không dám xin Miranda nói lại lần nữa cho rõ. "Tại sao tôi không thể hiểu lấy một chữ nào từ miệng bà ta? Có phải lỗi của tôi đâu, Emily. Tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của tôi cơ mà. Nhất định bà ấy cố tình làm thế để tôi phát điên lên."
Emily nhìn tôi với ánh mắt pha lẫn chán chường và thương hại như thường lệ. "Cuốn sách này ngày mai sẽ có bán ngoài hiệu, nhưng Miranda không có mặt ở đây để mua được nên bảo chị kiếm hai quyển đem ra phi trường Teterboro. Sách theo máy bay qua Paris." Cô lạnh lùng tóm tắt lại. Và liệu hồn chớ có kêu ca gì về mệnh lệnh quỷ quái này. Tôi lập tức nhớ ra rằng Emily làm tất cả - đúng là tất cả - để Miranda vừa lòng; tôi nhứn vai và câm miệng.
Nhất định tôi sẽ KHÔNG hy sinh một giây nào trong cuối tuần cho Miranda! Và do tôi được sử dụng quyền lực và tiền bạc vô hạn (của Miranda) nên tôi cắm đầu lao vào nhiệm vụ ấy ngay để tổ chức cho Harry Potter bay sang Paris. Trước hết viết vài dòng cho Julia ở nhà xuất bản giáo dục cái đã.
Julia yêu quý,
Như trợ lý Andrea của tôi nói lại, chị là con người rất dễ mến mà tôi phải cảm ơn nồng nhiệt. Andrea nói với tôi, chịi là người duy nhất ở New York có khả năng kiếm được cho tôi vài quyển Harry Potter đáng yêu vào ngày mai. Tôi đánh giá cao cố gắng và tài trí của chị. Chị cũng phải biết là chị sẽ làm hai đứa con xinh đẹp của tôi hạnh phúc biết nhường nào. Và chị đừng ngại nói với tôi, nếu tôi làm được bất cứ gì để đền ơn một người dễ mến như chị.
Thân mến chào chị,
Miranda Priestly
Tôi nhái chữ ký của Miranda với nét bay bướm hoàn hảo (bõ công hàng tiếng đồng hồ tập ký dưới con mắt giám sát của Emily, cô cũng hướng dẫn viết chữ "a" thứ hai có nét móc hơi dài hơn), đính bức thư vào ấn bản mới nhất của Runway - chưa có ngoài sạp báo - rồi gọi người dưa thư hỏa tốc đem ngay cả gói đến văn phòng nhà xuất bản giáo dục ở trung tâm thành phố. Cú này mà không kết quả thì tài thánh cũng bó tay. Miranda không bận tâm chuyện chúng tôi mạo chữ ký - nhờ thế bà cũng bị quấy rầy bởi những tiểu tiết lặt vặt - song nếu biết tôi ký tên bà dưới một bức thư lịch thiệp và thân mật như vậy thì chắc bà sẽ nhảy chồm lên mất.
Chỉ mới trước đây mấy tuần thôi, nếu Miranda gọi điện đòi tôi làm việc gì đó cho bà vào cuối tuần thì nhất định tôi sẽ răm rắp cắt bỏ mọi kế hoạch riêng, nhưng gìơ thì tôi đã đủ kinh nghiệm - và lì lợm - để du di tí chút các quy định. Đằng nào thì ngày mai Miranda và hai đứa nhỏ cũng không có mặt ở phi trường New Jersey khi Harry Potter đến nơi, vì vậy tôi không có cớ gì mà phải tự tay đem sách ra phi trường cả. Cầm chắc là Julia sẽ nhả ra cho mình hai quyển, tôi đi ngay vào các việc cụ thể. Nhấn một vài số điện thoại, sau một vài giờ là kế hoạch hoàn tất.
Tôi chắc chắn là vài tiếng sau, Julia sẽ bật đèn xanh. Brian, trợ lý cộng tác ở nhà xuất bản giáo dục, tối nay sẽ cầm hai cuốn Harry Potter về nhà để sáng mai, thứ Bảy, không phải quay lại văn phòng. Brian sẽ gửi sách lại cho thường trực của tòa nhà Upper West Side nơi anh ở, và mười một giờ trưa mai tôi cho ôtô ghé qua lấy. Yuri, tài xế của Miranda, sẽ gọi vào số di động của tôi để báo là sau khi ấy được sách ông đang trên đường ra sân bay Teterboro. Hai cuốn sách ấy sẽ được chuyển tới phi cơ riêng của ông Tomlinson để bay qua Paris. Tôi thoáng nghĩ xem có nên đặt mã số bí mật cho vụ này giống một phim tình báo kiểu KBG, nhưng chợt nhớ ra rằng tiếng Anh của Yuri không được tử tế cho lắm. Tôi cũng đã kiểm tra khả năng gửi sách qua dịch vụ DHL để chuyển phát theo đường nhanh nhất, nhưng ở đó người ta không bảo đảm là sẽ tới trước thứ Hai, nghĩa là cách này không thể chấp nhận được. Vậy chỉ còn phi cơ riêng. Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch thì hai đứa nhỏ, Cassidy và Caroline, sớm Chủ nhật này khi thức dậy tại phòng riêng ở Paris và uống cốc sữa buổi sáng sẽ được đọc ngay chuyện mạo hiểm cảu Harry Potter - sớm hơn tất cả các bạn chúng trọn một ngày. Nghĩ đến thế là tôi đã rạo rực cả người.
Mấy phút sau khi phân xong xe cộ và lên dây cót các cá nhân liên quan, Julia gọi điện đến. Tuy là một chuyện rất mệt mỏi và có thể Julia bị lôi thôi nhg Julia đã lo được hai quyển sách cho bà Priestly và trao cho Brian rồi. Ơn Chúa lòng lành.
"Không sao tin được, hắn đính hôn rồi." Lily hỏi khi tua lại cuốn băng Ferris Bueller mà chúng tôi vừa xem xong. "Trời ơi, tớ định nói là hắn ta mới hai mươi tư tuổi, vội vàng làm gì nhỉ?"
"Đúng thế, tớ thấy chuyện có vẻ kì quái." Tôi trả lời từ trong bếp. "Có thể hắn không được bố mẹ cho chạm vào chỗ tài sản khổng lồ đang được ủy thác quản lý, nếu chưa ổn định được cuộc sống. Đó đủ là duyên cớ để hắn phải lồng nhân đính hôn vào ngón tay. Hoặc có thể hắn cô đơn quá cũng nên?"
Lily nhìn tôi cười. "Tất nhiên, hắn yêu và sẵn sàng sống suốt phần đời còn lại cùng cô ta là chuyện không thể xảy ra được, đúng không. Cậu cũng đồng ý với tớ là chuyện khó tin lắm, phải không?"
"Chính xác. Chuyện không tưởng. Cậu có cách giải thích nào khác không?"
"Nhất định rồi. Tớ đang vén màn cho khả năng thứ ba: hắn là một tên đồng tính và vừa mới nhận ra điều đó - mặc dù tớ biết ngay từ đầu - và cũng hiểu là bố mẹ hắn không chịu nổi cú sốc. Vì thế hắn cưới luôn cô gái đầu tiên mà hắn vớ được. Cậu nghĩ sao?"
Phim tiếp theo trong chương trình là Casablanca. Trong khi Lily tua nhanh phần giới thiệu đầu băng, tôi vào nhà bếp minỉntong căn hộ mini làm hai cốc cacao trong lò vi sóng. Cả tối thứ Sáu chúng tôi nằm ườn xác ra xem video, không làm gì thêm khác ngoài hút thuốc và chạy băng. Mãi đến chiều thứ Bảy chúng tôi mới có hứng la cà xuống khu SoHo đi shopping vài tiếng. Lily mua áo nịt mới cho buổi liên hoan giao thừa sắp tới, rôi chúng tôi uống chung một cốc kem trứng to đùng trong quán càfê bên đường. Mệt mỏi nhưng vui vẻ lê chân về đến nhà, chúng tôi bật tới bật lui tivi giữa When Harry Met Sally trên kênh TNT và Saturday Night Live. Nghỉ ngơi xả láng sau một tuần quay cuồng đã thành thông lệ, làm tôi quên khuấy vụ Harry Potter cho đến tận Chủ nhật, khi điện thoại chợt réo lên. Chết rồi, Miranda! May mà đó là điện thoại di động của Lily, cô tán chuyện tiếng Nga với ai đó, chắc là bạn cùng lớp. ơn Chúa, ơn Chúa, ơn Chú lòng lành: không phải Miranda. Nhưng việc của tôi đâu đã xong. Đã sang Chủ nhật rồi, và tôi vẫn chưa biết mấy quyển sách khốn nạn kia đã sang Paris chưa. Tôi tận hưởng cuối tuần theo quyết tâm đã vạch ra một cách say sưa đến nỗi quên cả kiểm tra công việc. Tất nhiên tôi vẫn mở điện thoại di động và để chuông ở mức to nhất, nhưng chẳng may ai đó gọi điện để báo có sự cố thì đăng nào cũng quá muộn và không làm gì được nữa. Lẽ ra hôm qua tôi nên cẩn thận phòng xa và xác định với từng người trong cuộc là mọi công đoạn trong kế hoạch chi li tuyệt vời của tôi đều ổn thỏa cả.
Tôi bới trong túi đồ đem theo, tìm chiếc điện thoại di động của Runway phát cho mà nhờ nó lúc nào tôi cũng chỉ cách Miranda bảy con số. Tìm mãi mới thấy nó ở tận đáy túi dưới mớ quần lót, rồi tôi lại lăn ra giường. Màn hình báo là ở đây ngoài vùng phủ sóng, nhưng linh tính báo cho tôi biết rằng Miranda đã gọi điện và bị nối thẳng với hộp thoại. Sao mà tôi căm thù cái điện thoại này thế. Và cái điện thoại Bang & Olufsen mới tinh ở nhà nữa. Tôi ghét cả điện thoại của Lily. Ghét tất cả điện thoại trên đời, ghét luôn ông Alexander Graham Bell đã phát minh ra nó. Làm việc cho Miranda đồng nghĩa với việc chịu đựng nhiều hiệu ứng phụ trong cuộc sống thường nhật, nhưng điên nhất là lòng căm thù vô bờ bến mà tôi dành cho các loại điện thoại.
Đa số những người khác cảm nhận tiếng chuông điện thoại như một tín hiệu vui. Ai đó tìm họ để chào hỏi, thăm sức khỏe, hay bàn kế hoạch. Với tôi thì tiếng chuông thật đáng sợ hãi và lo lắng đến đứng tim. Tuy rằng trước đây không khi nào tôi sử dụng công dụng báo cuộc gọi đợi, nhưng ký xong hợp đồng lao động ở Runway thì tôi phải bật báo cuộc gọi đợi (để Miranda không bao giờ bị nghe tín hiệu bận), hiển thị số điện gọi đến (để tránh các cuộc gọi Miranda), báo cuộc gọi đợi với số điện của người gọi (để tránh tiếp bà ta khi đang nói với người khác) và kích hoạt hộp thoại (để bà ta không nhận ra là tôi trốn bắt máy, vì ít nhất thì cũng nghe được băng ghi âm trả lời). Tất cả những dịch vụ gia tăng đó tốn 50 dollar mỗi tháng, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo, vì chúng giữ cho tôi được rảnh rang đầu óc. Thật ra cũng chẳng hẳn được rảnh rang, nhưng tôi được cảnh báo.
Với điện thoại di động thì những rào cản hữu hiệu đó chanửg có ích gì. Nó có những công như điện thoại bàn, đương nhiên, nhưng Miranda cho rằng chẳng có bất cứ lý do gì để tắt nó đi cả. Tôi lúc nào cũng phải sẵn sàng nhận điện. Khi Emily trao cho tôi điện thoại - trang bị bắt buộc ở Runway - và dặn luôn mở máy, tôi đã rụt rè hỏi khi nào được tắt điện thoại, nhưng cô lập tức gạt ngay.
"Thế lúc đi ngủ thì sao?" Tôi cố hỏi một cách vô vọng.
"Thì thức dậy mà nghe điện chứ sao nữa." cô vừa trả lời vửa giũa lại móng tay bị sứt.
"Còn nếu đang ngồi ở một nhà hàng sang trọng?"
"Thì chị làm như mỗi người New York vẫn làm: vừa ăn vừa gọi điện."
"Ở bác sĩ phụ khoa cũng thế?"
"Bác sĩ phụ khoa có khám tai đâu?" Ok, được rồi, tôi hiểu rồi.
Tôi miễn cưỡng với cái điện thoại di động khốn nạn nhưng không lờ nó đi được. Vì nó mà tôi bị cột vào Miranda như đứa trẻ chưa được cắt rốn, rời nó ra là tôi mất dưỡng khí để tồn tại và lớn lên. Miranda gọi điện liên tục, và tôi phản xạ như con chó trong thí nghiệm của Pavlov. Reng reng - tay tự động nắm thành quả đấm, vai ưỡn lên. Reng reng reng reng. Ôi tại sao bà ta không để cho tôi yên, trời ơi, hãy quên đi là tôi có trên đời này - mồ hôi rịn ra trên trán. Những ngày cuối tuần tôi đã quên kiểm tra xem máy có trong vùng phủ sóng hay không , cứ ỷ lại là nếu có vấn để gì thì chuông đã réo. Đó là sai lầm thứ nhất. Tôi tìm khắp phòng mới tìm ra một nơi có sóng cho mạng AT&T, rồi nín thở bấm số đến hộp thoại.
Mẹ tôi để lại một tin nhắn rất đáng yêu, chúc tôi vui vẻ với Lily. Một người bạn ở San Francisco tuần này có công chuyện ở New York và gọi tôi đi chơi cùng. Chị tôi nhắc chớ quên gửi thiệp mừng sinh nhật cho ông anh rể. Và lúc tôi tưởng là tai qua nạn khỏi thì trong ống nghe vang lên giọng nói đặc Anh đáng sợ. "Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giừo sáng Chủ nhật ở Paris và hai chúa bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn Ritz để báo chắc chắn là sách sắp đến rõ chưa. Hết."
Tôi ức nổ con ngươi. Như mọi khi, không có một lời thân thiện, không chào hỏi, tạm biệt hay cảm ơn. Chuyện đương nhiên. Nhưng dở nhất là đã gần nửa ngày trôi qua từ khi có tin nhắn mà tôi vẫn chưa gọi điện lại cho bà. Đủ lý do để bị sa thải, tôi biết, và đó là chuyện bất khả kháng. Như một kẻ nghiệp dư, tôi đã ỷ lại kế hoạch tôi đã vạch ra rất hoàn hảo, thậm chí chẳng thèm để ý là Yuri không gọi điện lại để báo đã lấy sách và đem tới sân bay. Tôi vội tra dnah bạ trong máy và gọi ngay vào điện thoại di động của Yuri. Miranda tất nhiên cũng trang bị cho Yuri một chiếc để sẵn sàng nhận lệnh 24/24.
"Alô Yuri, Andrea đây. Xin lỗi đã quấy quả ông vào Chủ nhật. Tôi chỉ muốn hỏi hôm qua ông đã lấy sách ở địa chỉ đã nói chưa?"
"Alô Andy, rất vui được nghe tiếng cô," giọng Nga ngọng nghịu của ông như an ủi tôi. Ngay từ khi gặp tôi lần đầu ông đã gọi tôi bằng cái tên Andy thân mật, như một ông chú trong nhà vậy, nghe dễ cảm tình chứ không như Mr. Mờ-Cờ-Đờ. "Tất nhiên tôi đi lấy sách đúng như lời cô dăn. Tôi muốn giúp cô mà."
"Vâng, vâng, Yuri, chỉ vì Miranda vừa nhắn tin cho tôi là bà ấy vẫn chưa nhận được sách, và tôi không biết là đã xảy ra chuyện gì."
Yuri im lặng một lát, sau đó ông đưa tôi tên và số máy của phi công lái chuyến máy bay riêng tối qua.
"Cám ơn, cám ơn ông rất nhiều," tôi nói và vôi vàng nguệch ngoạc ghi lại. Hy vọng là tay phi công giúp tôi tiếp. "Tôi phải gọi điện ngay. Xin lỗi không nói chuyện tiếp được, chúc ông cuối tuần vui vẻ."
"Chúc cô cuối tuần vui vẻ, Andy. Tôi tin là anh phi công sẽ giiúp chị tìm được sách. Chúc chị may mắn." ông hớn hở nói và cúp máy.
Lily đang làm bánh quế. Tôi cũng muốn phụ cô một tay, nhưng tôi phải giải quyết vụ này ngay, không thì mất việc như bỡn. Có thể tôi đã mất việc rồi cũng nên, chỉ tội chưa ai nói với tôi mà thôi. Ở vương quốc Runway này đã từng xảy ra chuyện một biên tập viên thời trang bị đuổi việc khi đang hưởng tuần trang mật. Và cô ta cũng chỉ biết tin đó khi tình cờ đọc tờ Thời trang Phụ nữ Hằng ngày ở đảo Bali. Tôi vội nhấn số điện thoại của tay phi công mà Yuri vừa đưa cho. Bực thật, chỉ gặp tin nhắn tự động.
"Alô Jonathan, đây là Andrea Sachs ở tạp chí Runway. Tôi làm trợ lý cho Miranda Priestly, và định hỏi ông về chuyến bay hôm qua. Ồ, bây giờ tôi mới nhớ ra là có khi ông vẫn còn ở Paris hoặc đang trên đường về. Vâng, tôi chỉ muốn hỏi xem mấy quyển sách, vâng, tất nhiên là cả ông nữa, đã hạ cánh an toàn xuống Paris chưa. Phiền ông gọi lại cho tôi theo số 917..., càng sớm càng tốt. Cảm ơn ông. Bye bye."
Tôi suy nghĩ, liệu có nên gọi cho lễ tân của khách sạn Ritz và hỏi có ai nhớ đã nhận được sách từ sân bay tư nhân ngoại ô Paris chuyển đến, nhưng lại sực nhớ ngay rằng điện thoại của tôi không gọi ra nước ngoài được. Thế đấy, hàng đống công dụng, nhưng tất nhiên riêng cái tôi cần thì không có. Đúng lúc đó Lily cất tiếng gọi, cô đã làm xong cho tôi một đĩa bánh quế và cafê. Tôi vào bếp lấy đồ ăn. Cô đang nhấm nháp một ly Martini đỏ. Khiếp quá. Ai lại uống rượu vào sáng Chủ nhật cơ chứ?
"Lại có chuyện gì với Miranda rồi hả?" Cô nói với giọng thông cảm.
Tôi gật. "Tớ nghĩ rằng lấn này chẳng còn gì để cứu vớt nữa." Tôi khoan khoái đón lấy đĩa đồ ăn. "Chắc tớ mất việc rồi."
"Ồ cưng, lúc nào cậu cũng nói thế. Bà ấy sẽ không đuổi cậu đâu. Thậm chí bà ấy còn chưa thấy cậu làm việc vất vả ra sao. Bà ấy khôn ngoan thì nên giữ cậu. Cậu đúng là có công việc thú vị nhất thế giới!"
Tôi nghi ngại nhìn cô và ép mình phải giữ bình tĩnh.
"Tớ nói có đúng không?" Cô nói. "Bà Miranda của cậu nghe có vẻ khó chiều và hơi điên điên. Nhưng có ai lại không thế? Bù lại thì cậu nhận được khối giày dép, mỹ phẩm, quần áo và làm đầu miễn phí. Chỉ tính riêng quần áo thôi! Có ai trên thế giới này được tặng quần áo mốt mới nhất, chỉ vì hàng ngày có mặt ở nơi làm việc? Andy, cậu đang làm việc ở Runway, hiểu chưa nào? Hàng triệu cô gái sẵn sàng chết vì việc của cậu đấy."
Tôi hiểu. Giờ thì tôi hiểu ra rằng Lily - lần đầu tiên kể từ khi tôi gặp cô chín năm trước đây - chẳng hiểu gì cả. Giống như mọi bạn bè và người quen khác của tôi, cô chỉ khoái nghe những chuyện giật gân về máy cô ả ngồi lê đôi mách và những người giàu có mà tôi lượm lặt trong tuần ở Runway, chứ không thực sự thấu hiểu lý do tại sao hằng ngày tôi phải vác xác đến đó. Không phải vì mấy thứ quần áo miễn phí. Chẳng có thứ quần áo nào trên đời khả dĩ làm công việc của tôi dễ chịu hơn. Chắc chắn đã đến lúc tôi phải làm cho cô bạn thân nhất đời mở mắt ra, để cô nhìn thấy tình cảnh của tôi. Phải nói cho cô biết. Đúng thế! Đã đến lúc giải thích cho mọi người hiểu chính xác những gì diễn ra ở đó. Tôi mở miệng toan bắt đầu, đúng lúc âýa, điện thoại của tôi réo chuông.
Đồ chết tiệt! Tôi chỉ muốn ném nó vào tường cho bõ ghét, chỉ muốn nói với người đầu dây bên kia hãy im đi cho tôi nhờ. Nhưng trong thâm tôi vẫn hy vọng là Jonathan gọi đến báo tin gì đó. Lily mỉm cười và giục tôi bắt máy.
"Có phải Andrea không?" Giọng đàn ông hỏi.
"Jonathan phải không ạ?"
"Đúng thế. Tôi vừa nghe hộp thoại và nhận được tin nhắn của chị. Tôi đang trên chuyến bay về từ Paris, đâu đó trên Đại Tây Dương. Nghe giọng chị có vẻ lo lắng nên tôi muốn gọi lại ngay."
"Cảm ơn, cảm ơn ông, tôi rất biết ơn ông. Đúng là tôi có chuyện lo lắng thật, vì tôi nhận được điện thoại của Miranda sớm nay, bà ấy nói là chưa nhận được gói quà. Ông đã đưa gói đó cho tài xế ở Paris rồi, đúng không ạ?"
"Chắc chắn như vậy. Chị biết không, trong nghề này tôi ít khi đặt câu hỏi, nhưng bỏ công bay qua Đại Tây Dương chỉ để chuyển một gói quà nhỏ thì không phải ngày nào cũng làm. Chắc là thứ gì quan trọng lắm, tôi nghĩ thế. Một bộ phận để phẫu thuật ghép tạng chẳng hạn, hay tài liệu mật. Vì vậy tôi rất cẩn trọng và trao gói cho tài xế như người ta đã dặn tôi. Ông tài xế của khách sạn Ritz rất tốt. Không có vấn đề gì."
Tôi cảm ơn ông và tắt máy. Lễ tân ở Ritz đã bố trí cho lái xe ra phi cơ riêng của Mr. Tomlinson ở sân bay Charles de Gaulle và đem sách về khách sạn. Nếu mọi việc đều diễn ra đúng kế hoạch thì Miranda phải nhận được sách lúc bảy giờ sáng giờ địa phương rồi mới phải. Bây giờ thì ở Pháp đã lầ buổi chiều muộn, tôi không tưởng tượng ra có thể có chyện trục trặc gì. Không còn sự lựa chọn nào khác là phải gọi điện cho lễ tân ở Ritz, và do máy di động của tôi không gọi ra nước ngoài được nên tôi phải đi tìm một điện thoại khác.
Tôi vào bếp và dốc cả đĩa bánh nguội ngắt vào thùng rác . Lily đã lại lăn ra đi văng, nửa thức nửa ngủ. Tôi ôm từ biệt Lily và hứa sẽ gọi điện lại .
" Kế hoạch hôm nay thì sao?" cô rên lên. " Tớ đã cho băng The American President vào máy rồi, chỉ cần bấm nút nữa thôi. Cậu không được bỏ đi, ngày cuối tuần của chúng mình đã hết đâu!"
" Tớ biết, Lily, xin lỗi cậu. Tớ phải làm việc này ngay. Tớ không ước gì hơn là được ở lại đây, nhưng lúc này thì bà ấy đã nắm được gáy tớ. Tớ gọi điện cho cậu ngay nhé?" Tôi nói và ra đường gọi taxi về văn phòng.
Văn phòng vắng ngắt, tất nhiên, chắc chắn mọi người đang ngồi với người yêu là các chủ ngân hàng đầu tư ở Paris. Tôi ngồi trong phòng tối mò, hít sâu một hơi và bấm số. May mắn thay, người nhận điện là ông Renaud, người tôi quen nhất ở khách sạn Ritz.
" Andrea thân mến, chị có khỏe không? Chúng tôi rất vui mừng được đón tiếp Miranda và hai cô bé song sinh quay lại sớm như vậy," ông ta nói dối trơn tru. Emily đã kể với tôi rằng Miranda thường xuyên ở Ritz và nhân viên ở đó biết rõ tên bà và hai đứa con gái.
" Vâng , thưa ông Renaud, tôi cũng biết là Miranda thích ở đó lắm," tôi cũng nói dối lại, thừa biết là ông già tội nghiệp này có cố gắng đến mấy thì Miranda cũng luôn có cớ gì đó để phàn nàn. Cũng phải công nhận là ông không bao giờ ngừng cố gắng hoặc không bao giờ ngừng nói dối là ông rất quý Miranda.
"Chiếc ô tô mà ông sai đến chỗ phi cơ của Miranda đã quay về đến khách sạn chưa?"
"Tất nhiên rồi, thưa chị. Trước đây mấy tiếng rồi. Tôi tin là trước tám giờ sáng nay. Tôi đã cử lái xe cừ nhất của khách sạn làm việc này," giọng ông đầy kiêu hãnh. May mà ông không biết lái xe cừ nhất của ông phải lòng vòng quanh thành phố để làm gì...
" Lạ thật. Vì tôi nhận được một cú điện thoại của Miranda, bà ấy nói là chưa nhận được gói hàng. Nhưng tôi đã kiểm tra hết cả rồi, ông lái xe thề là đã đưa hàng đến sân bay, tay phi công thề là đã bay tới Paris và đưa nó cho tài xế của ông, ông thì vừa nói là gói ấy đã đến khách sạn. Thế thì tại sao bà ấy chưa nhận được nhỉ?"
" Có lẽ cách duy nhất để làm sáng tỏ chuyện này là hỏi thẳng bà ấy," ông tung tẩy với giọng vui vẻ giả cầy. " Tôi nối máy cho chị nhé?"
Cho đến lúc đó tôi vẫn ngoan cố hy vọng sẽ giải quyết ổn thỏa mọi chuyện mà không phải nói chuyện với Miranda. Tôi biết nói gì với bà, một khi bà khăng khăng chưa hề nhận được gói hàng ? Chẳng lẽ gợi ý bà chạy ra xem trên bàn ngoài hành lang, liệu nhân viên khách sạn có đem sách đến đó trước đây mấy tiếng? Hay bà ấy yêu cầu tôi từ giờ đến tối đi kiếm hai quyển Harry Potter mới rồi gửi máy bay riêng qua Paris? Hoặc tốt nhất là lần sau tôi thuê một thám tử luôn ôm chặt quyển sách trên chuyến bay vượt đại dương và bảo đảm với tôi không có gì phương hại đến nó.
" Vâng, thưa ông Renaud, cám ơn ông.
Có tiếng lích kích nối máy, rồi tiếng tút dài. Tôi căng thẳng rịn mồ hôi, chùi bàn tay ướt dâm dấp vào chiếc quần thể thao và cố không nghĩ đến hậu quả gì xảy ra nếu Miranda thấy tôi mặc bộ đồ xộc xệch này tới văn phòng. Bình tĩnh nào, có gì phải sợ, tôi tự nhủ, bà ấy không thể chặt đầu mình qua điện thoại được đâu.
" Ai đấy?" Tiếng nói xa lắc dứt tôi khỏi ý nghĩ tự an ủi. Đó là Caroline, con bé mới hơn mười tuổi nhưng đã học được giọng gọi điện rất hách dịch của mẹ nó một cách hoàn hảo. Cassidy ít nhất còn nói " A lô" khi nhấc máy.
" A lô, cưng à," tôi ẽo ợt, tự cảm thấy xấu mặt vì phải giở giọng nịnh nọt với con nhãi ranh. " Chị là Andy ở văn phòng đây. Mẹ có nhà không?"
" Đợi đấy, em đi gọi."
Một lát sau Miranda lên tiếng. " Aan-dree-aa? Tôi hy vọng hộ chị đây là chuyện quan trọng. Chị biết là tôi không muốn bị quấy rầy khi đang ở bên bọn trẻ," giọng bà lạnh lùng và ngang tai như thường lệ. Tôi suýt nghẹn. Chị biết là tôi không muốn bị quấy rầy khi đang ở bên bọn trẻ? Thiếu chút nữa thì tôi hét lên. Bà có định đùa với tôi không đấy? Bà tưởng tôi gọi điện để giải trí hay sao? Bà tưởng tôi đau khổ vì suốt hai ngày cuối tuần không được nghe cái giọng khốn nạn của bà hay sao? Còn tôi có bị quấy rầy hay không thì bà chẳng cần quan tâm chứ gì? Tôi giận điên người, nhưng vẫn hít một hơi thật sâu và nhẹ nhàng trả lời.
" Miranda, xin lỗi, tôi biết là không phải lúc, nhưng tôi đã gọi điện khắp nơi để lo chuyện gửi quyển Harry Potter cho ổn thỏa. Tôi nghe tin nhắn là bà chưa nhận được, nhưng tôi đã nói chuyện với mọi người và ..."
Bà chặn lại giữa câu hỏi của tôi, trả lời chậm rãi và tự tin: "Aan-dree-aa. Lần sau chị phải chú ý nghe cho thủng. Tôi không hề nói câu nào như vậy. Sáng sớm nay tôi đã nhận được gói hàng , sớm đến nỗi nhân viên phải đánh thức tôi dậy để nhận cái đồ ngớ ngẩn này."
Tôi choáng váng không tin vào tai mình nữa. Chẳng lẽ tôi nằm mơ thấy tin nhắn, hay mới tuổi này mà tôi đã sớm mắc chứng Alzheimer?
" Tôi gọi vì lý do khác, đó là trong gói không phải là hai quyển Harry Potter như tôi đã yêu cầu. Chỉ có một quyển thôi, và chị có thể tưởng tượng ra là hai cháu bé thất vọng đến chừng nào. Chúng nó được tôi hứa là mỗi đứa được một quyển riêng. Tôi muốn chị giải thích tại sao yêu cầu của tôi không được đáp ứng chính xác."
Không thể. Không thể thế được. Đúng là tôi nằm mơ thật rồi, đúng là tôi sống ở một thế giới khác, một thế giới không biết đến phải trái và logic là gì. Ngay chính tôi cũng chẳng dám tin vào những gì trái khoáy đã xảy ra.
" Miranda, tôi nhớ là bà muốn có hai cuốn, và tôi cũng đặt hai cuốn," tôi lắp bắp, lại lần nữa tự căm ghét mình cứ phải cố gắng chiều lòng bà ta. " Tôi nói chuyện với bên nhà xuất bản và tôi tin họ hiểu rằng bà cần hai quyển. Không thể tưởng tượng ..."
"Aan-dree-aa, chị biết tôi không ưa nghe lý do lý trấu, bây giờ tôi cũng chẳng hứng thú nghe chị kể lể làm gì. Tôi mong là không bao giờ xảy ra những chuyện tương tự một lần nữa, được không? Hết." Bà cúp máy.
Tôi đứng đực ra, dễ có đến năm phút, tai vẫn áp vào ống nghe và nghe tiếng tút tút liên tục. Trong đầu tôi quay cuồng hàng nghìn câu hỏi. Tôi sẽ giết chết bà ta! Và liệu có ai điều tra được nguyên nhân không? Liệu tôi có nhất thiết là nghi phạm chính? Nhất định không, bởi vì nói cho cùng thì mọi người - ít nhất là ở Runway - ai cũng có động cơ muốn giết bà ta. Liệu tôi có thực sự đủ dũng cảm nhìn bà ta quằn quại giãy chết một cách từ từ và đau đớn? Câu trả lời rất đơn giản: có. Tôi chỉ còn phải nghĩ ra một phương pháp khoái trá nhất để đưa bà ta xuống suối vàng.
Tôi chậm chạp đặt ống nghe xuống. Tôi có thể hiểu sai tin nhắn trong hộp thoại của bà ta sáng nay không? Tôi móc di động ra và nghe lại tin nhắn: " Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giờ sáng Chủ Nhật ở Paris và hai cháu bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn Ritz để báo chắc chắn rằng là sách sắp đến rõ chưa. Hết." Tôi không làm gì sai cả. Tất nhiên, rất có thể là bà ấy chỉ nhận được một cuốn chứ không phải hai, nhưng bà ta đã gián tiếp nói đó là lỗi của tôi, một lỗi lầm kinh khủng có thể chấm dứt sự nghiệp. Bà ta gọi điện lúc chín giờ sáng và không thèm biết rằng lúc đó ở đây mới ba giờ rạng sáng một ngày Chủ Nhật ngon lành nhất trong tháng của tôi. Bà gọi điện để chọc cho tôi điên lên, làm tôi quay cuồng, thúc tôi phản kháng. Để tôi căm thù bà hơn gấp bội.
Hết chương 6
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro