Thấu hiểu trên văn hoá- tính trên văn hoá và bản sắc trong sự đa dạng của các nền văn minh thế giới
Thấu hiểu trên văn hoá, tính trên văn hoá và bản sắc trong sự đa dạng của các nền văn minh thế giới
Bản báo cáo Hành tinh đa văn hoá của Nhóm chuyên gia quốc tế thuộc UNESCO đã chỉ rõ: "Tương lai của nhân loại không thể được mô tả như là sự thống nhất mà không có đa dạng hay đa dạng mà không có thống nhất. Thách thức đối với tất cả những người đương thời là xây dựng một thế giới như vậy, và trên tất cả là thách thức đối với những nền văn hoá làm cơ sở cho thế giới quan và hệ giá trị của họ"(l). Trong xu thế toàn cầu hoá thế giới ngày nay, điều cần tránh là việc biến các nền văn minh đa dạng thành sự đồng quy về một nền văn minh độc nhất và khiến cho các nền văn hoá trở nên thuần nhất. Chúng ta nên duy trì sự đa dạng hiện tồn của các nền văn minh và văn hoá. Mặt khác, điều cần thiết là thúc đẩy đối thoại giữa các nền văn minh khác nhau, gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau, loại bỏ những hố sâu ngăn cách nào đó, hoà giải những đối kháng, chống lại "xung đột giữa các nền văn minh", từ đó hiện thực hoá sự thống nhất của các nền văn minh và văn hoá cũng như thực hiện toàn cầu hoá về nhân tính dựa trên cả sự đa dạng và sự thống nhất của các nền văn minh thế giới. Giao lưu liên văn hoá hợp lý chính là con đường quan trọng để đạt được mục tiêu cao quý này.
Khổng Tử, triết gia Trung Quốc cổ đại, đã từng nói: "hài hoà trong đa dạng". Điều đó có nghĩa là chúng ta nên tôn trọng những nét dị biệt và đa dạng của mình, tìm kiếm sự chung sống hoà hợp thông qua giao lưu với người khác để đáp ứng sự quan tâm và những lợi ích chung của con người. Văn minh và văn hoá đều có những đặc điểm của sự đa dạng và sự đồng nhất. Kiểu đồng nhất này là đồng nhất động, dựa trên sự đa dạng. Điều này có hai nghĩa: thứ nhất, đó là bản sắc của nền văn hoá dân tộc trong nền văn minh nhất định; thứ hai, những truyền thống khác nhau của các nền văn minh và văn hoá thực hiện khả năng bù trừ xác định hay khả năng văn hoá tích cực hướng đến những mục tiêu và giá trị của sự tiến bộ chung trong sự giao lưu hợp lý của mình. Sự giao lưu liên văn hoá hợp lý phải là sự giao lưu song phương và dựa trên sự thấu hiểu liên văn hoá lẫn nhau, trong đó có việc giải thích cho nhau những "văn bản" trong các nền văn hoá khác nhau. Điều này có nghĩa là "văn hoá bản địa" với tính cách là "cái bản ngã" và "văn hoá bên ngoài" với tính cách là "cái khác" đều ý thức về đối tác như là cái "khác" xa lạ và siêu việt khỏi cái "ngã", tiến vào cái "khác" để phản ánh nền văn hoá của chính mình trong cái xa lạ. Cả cái "ngã" và cái "khác" đều hiển hiện ra trong sự tương phản lẫn nhau. "Văn hoá bản địa" và "văn hoá bên ngoài" đều có thể trở nên kỳ vĩ trong sự lý giải mới về mình. Trong hình thức giao lưu liên văn hoá biện chứng này, một sự "đồng tâm chéo" nào đó, được hiểu như một dạng liên văn hoá tích cực, có thể trở thành hiện thực. Đó là một sự "đồng tâm" bao hàm khác biệt, một kiểu tương đồng trong dị biệt, một sự đồng nhất động dựa trên tính đa dạng. "Văn hoá bản địa" và "văn hoá bên ngoài" đều có thể siêu việt khỏi bản thân trong sự thấu hiểu lẫn nhau và đạt được tổ thức mới mang tính cách tân.
Bất kỳ nền văn hoá nào cũng không thể gạt bỏ truyền thống văn hoá đã tiến hoá ở mức độ nhất định. Sự thấu hiểu liên văn hoá cũng bao hàm sự thấu hiểu lẫn nhau giữa hai kiểu truyền thống văn hoá động là "văn hoá bản địa" và "văn hoá bên ngoài". Chú giải học triết học của H.G.Gadamer khẳng định rằng, truyền thống - với tính cách là hợp lưu của những định kiến được lưu giữ bởi lịch sử - chính là tiền đề cho hành vi thấu hiểu mang tính người, đồng thời con người cũng tham dự vào sự tiến hoá của truyền thống thông qua hoạt động lý giải và thấu hiểu sáng tạo của họ. Chúng ta có thể áp dụng quan điểm này để lý giải rằng, hai truyền thống khác nhau của "văn hóa bản dài và "văn hoá bên ngoài" đều đạt được sự hợp lưu và hoà hợp của hai tầm nhìn trong sự thấu hiểu lẫn nhau của chúng, do đó thúc đẩy sự tiến hoá của chính mình trong sự giao lưu liên văn hóa.
Tính liên văn hoá là một thuộc tính bản chất, là chức năng của thấu hiểu liên văn hoá và cũng là kết quả của giao lưu liên văn hóa. Một mặt, nó biểu thị một vai trò trung gian xuất hiện trong sự tương tác và lý giải đối với "văn hoá bản địa" và "văn hoá bên ngoài", nó giống như quy tắc "trung dung" của Nho giáo. Mặt khác, nó có nghĩa là hai nền văn hoá khác nhau tạo nên sự "đồng tâm chéo" nào đó trong khi cùng lý giải, xây dựng lẫn nhau và thực hiện sự đồng nhất trong đa dạng văn hoá. Giao lưu liên văn hoá làm cho các quan hệ phức tạp của sự tương đồng và dị biệt đan xen vào nhau, biểu hiện thành một số phương thức như tính bù trừ, tính cân xứng hay bất hoà và bất cân xứng. Nếu không có giao lưu, sự bất hoà và bất cân xứng thái quá - những cái tiêu biểu cho tính liên văn hoá tiêu cực - rất dễ dẫn đến xa cách, thậm chí là xung đột giữa các nền văn hoá khác nhau. Việc tìm kiếm những tương đồng trong khi vẫn duy trì khác biệt, "hài hoà trong đa dạng", nói lên tính liên văn hoá tích cực, hợp lý, được hiểu như là mục tiêu đích thực của giao lưu liên văn hoá. Điều này cũng có nghĩa là thực hiện sự đồng nhất của các nền văn minh đa dạng, thúc đẩy sự cộng tồn hài hoà và tiến bộ chung của các nền văn minh thế giới.
Chúng ta hãy xem xét một thí dụ: những học thuyết triết học của Khổng Tử và Xôcrát, vốn có ảnh hưởng sâu sắc đối với truyền thống văn minh Trung Quốc và phương Tây, cho đến ngày nay có cả sự đồng nhất lẫn tính đặc thù. Điều đó nói lên rằng, cả truyền thống triết học Trung Quốc lẫn truyền thống triết học phương Tây trong hai nền văn minh đều có thể thấu hiểu, chuyên chở lẫn nhau và đều thực hiện được tính liên văn hoá tích cực trong giao lưu liên văn hoá.
Cả Khổng Tử (551 - 479 TCN) và Xôcrát (469 - 399 TCN) đều sống trong kỷ nguyên ban đầu, đều sáng lập ra những trường phái triết học mới coi đạo đức học như là cốt lõi của chúng - một dạng triết học đúng đắn về tồn tại người. Học thuyết của Khổng Tử đã khởi phát nền văn minh Nho giáo vẫn tồn tại cho đến ngày nay, còn triết học Xôcrát đã đem lại cơ sở lý tính khoa học và tinh thần nhân văn cho văn minh phương Tây. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều điểm tương đồng giữa họ, qua đó chỉ ra tính đồng nhất của hai truyền thống triết học và văn minh. Ở đây, tôi chỉ điểm qua một cách vắn tắt ba điểm tương đồng sau đây:
(1) Nguyên lý nhân văn của triết học:
"Nhân" là phạm trù trung tâm xuyên suốt các học thuyết triết học và đạo đức Khổng Tử. Nó biểu hiện một bản chất mang tính người: "nhân là yêu thương tất cả con người" và "đem tình yêu thương đến mọi người" (Luận Ngữ, 12.22, l.6). Nó có nghĩa là lòng tốt, tính thiện và tình bằng hữu phải là nhân tính đích thực. Mặt khác, "nhân" bao hàm một nguyên tắc cơ bản đối với bản chất tốt đẹp của một người: hãy trung thực và thực hiện sự tương trợ đối với người khác, như lời dạy của ông: "Điều không muốn xẩy ra với mình thì cũng đừng làm với người khác" (4.15, 15.24). Đó là một quy tắc vàng. Quy tắc "Trung Dung" này chính là phương pháp luận để đạt đến đức Nhân. Trung Dung được dùng để biểu thị một quy tắc bất di bất dịch, điều chỉnh tất cả mọi thứ dưới gầm trời này và là con đường trung gian đúng đắn để tiến tới trạng thái cân bằng và hài hoà(2). Ông cho rằng, khi thực hiện quy tắc đúng đắn này, sự hài hoà chắc chắn sẽ đạt được. Tuy nhiên, theo quan điểm của ông, hài hoà không giống như sự đồng nhất tuyệt đối nào đó, mà là một sự thống nhất có tính bù trừ của những sự vật đa dạng, giống như một món ăn được chế biến tốt sẽ gồm những thành phần khác nhau.
"Đức công chính" là phạm trù triết học cao nhất của Xôcrát, cũng là nguyên lý nhân văn trong đạo đức học của ông, hoàn toàn giống với chủ "nhân" của Khổng Tử. Bản tính người vốn có đức công chính biểu hiện thành tình yêu, tình bằng hữu, lòng tốt, sự nhân từ và tương ái, những phẩm chất ấy làm cho đời sống xã hội trở thành một thể thống nhất hài hoà. "Hãy tự biết mình" - Xôcrát đã giảng giải rất kỹ về câu văn khắc ở đền Delphi này, đã nhấn mạnh ý nghĩa "sophrosyne" của nó. Bản chất thật sự của "sophrosyne" là tri thức về bản ngã(3). Cái "Sophrosyne" không chỉ có nghĩa là tính khiêm tốn, lòng tốt, sự kiềm chế dục vọng mà về bản chất, nó có nghĩa là một dạng minh triết để nhận biết bản tính của con người hiện thực, để kiểm nghiệm chính họ. Nói chung, Xôcrát - cũng như Khổng Tử - ngay từ đầu, đã đặt bản thân con người vào vị trí trung tâm của truyền thống triết học.
(2) Nhận thức luận duy lý và lý thuyết đạo đức.
Cả hai bậc thầy này đều cho rằng, lý tính là bản chất của linh hồn hay tinh thần và con người phải vận dụng sự thông thái của họ, tức là tư duy duy lý, vào nghiên cứu để nhận thức cái bản chất phổ quát của đạo đức, để nâng cao sự hoàn thiện đạo đức của họ trong thực tiễn đạo đức. Những lời giáo huấn của họ cho thấy sự đồng quy đầy mê hoặc giữa lý tính và đạo đức.
(3) Chính trị học mang tính đạo đức, lý tưởng xã hội về việc thực hiện nhân tính và sự hài hoà phổ quát.
Cả hai bậc thầy này đều cho rằng, đạo đức phải trở thành nền tảng cho chính trị, những người cai trị phải là những bậc hiền triết hay những người ưu tú. Những người này điều hành nhà nước theo nguyên tắc đạo đức và những người có giáo dục về đạo đức để xây dựng một xã hội hài hoà, thịnh vượng đem lại lợi ích cho những công dân thuần phác.
Do cơ sở lịch sử và bối cảnh văn hoá khác nhau, giữa các học thuyết của Khổng Tử và Xôcrát có những khác biệt. Đó là những yếu tố làm nên dị biệt giữa truyền thống văn minh Nho giáo và văn minh phương Tây. Trước hết, học thuyết Khổng Tử đề cao tôn ti gia tộc và huyết hệ, một nhà nước được coi như một gia đình mở rộng. Đạo đức học truyền thống của Trung Hoa bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Nho giáo nên mang đặc điểm của toàn thể luận hay những giá trị cộng đồng. Trong khi đó, Xôcrát lại nhấn mạnh đạo đức công và chú trọng đến những phẩm chất của nhà nước thành bang vốn không coi giá trị gia đình là trung tâm. Thứ hai, phương pháp suy diễn của học thuyết triết học Khổng Tử có thể được quy thành việc giải thích ý nghĩa của các phạm trù và kinh điển bằng sự thấu hiểu trí tuệ hay bằng trực giác thống nhất với lý tính biện chứng - điều đã được nói đến trong Kinh Dịch. Điều này có thể được gọi là phương pháp chú giải cổ điển ở Trung Hoa cổ đại. Phương pháp này đã ảnh hưởng đến mô thức tư duy truyền thống của Trung Hoa. Tuy nhiên, điều mà Xôcrát áp dụng với từ "biện chứng" để tìm hiểu những định nghĩa về đức hạnh và diễn giải những vấn đề khác lại nằm ở tư duy phân tích mang tính lôgíc chặt chẽ.
Với tính cách nguồn gốc của hai truyền thống văn minh vĩ đại - Trung Quốc và phương Tây, các học thuyết đạo đức và triết học của Khổng Tử cũng như Xôcrát đều có những điểm tương đồng và cả sự khác biệt. Điều đó nói lên rằng, những truyền thống văn hoá và triết học của mỗi dân tộc đều có sẵn cả tính đa dạng và tính đồng nhất sáng tạo cũng như tính bù trừ cho nhau. Cho nên, người ta có thể gia tăng sự giao lưu hợp lý trong sự thấu hiểu lẫn nhau và trong sự cộng sinh để theo đuổi thịnh vượng chung về văn hoá và tiến bộ xã hội. Ở đây, một trong những mắt xích then chốt chính là việc xác lập tâm thế đối với giao lưu trên văn hoá.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro