Thanh Tâm
1. Tóm tắt vụ việc.
Bên bán chào thầu bán cho Bên mua một tổ máy phát điện (có đặc điểm kỹ thuật kèm theo)... "Hàng nhập nguyên chiếc, mới 100%, sản xuất tại Nhật Bản..."
Ngày 11/12/2006 bên mua và bên bán có ký kết hợp đồng mua máy phát điện với nội dung cơ bản về quy cách chất lượng hàng hóa như biên bản chào thầu (xuất xứ: Japan), điều khoản giao nhận (Bên mua sẽ thuê công ty giám định và tự chịu chi phí. Nếu Bên bán giao hàng không đúng chất lượng quy định trong hợp đồng, Bên mua có quyền từ chối không nhận hàng và Bên mua phải bồi thường mọi thiệt hại, chi phí phát sinh cho Bên mua), chuyển giao công nghệ, điều khoản thanh toán.
Ngày 27/02/2007, bên bán giao cho bên mua máy phát điện có xuất xứ Singapore. Theo Bên mua thì "khi Bên bán nói máy đã tới cảng thì chúng tôi cũng phát hiện máy có xuất xứ SINGAPORE và không đồng ý nhận thì Bên bán cũng đã hứa là sẽ điều chỉnh lại" và nhận chứng từ hàng "vì tin tưởng mà chúng tôi đã giao tiền nhưng không để ý kỹ" và vẫn thanh toán 70% tiền hàng theo hợp đồng.
Ngày 11/03/2007, Bên bán lắp đặt và chạy thử không tải máy phát điện tại nhà máy của Bên mua. Bên mua yêu cầu lắp đặt, kiểm tra tủ điện ATS để nghiệm thu máy.
Ngày 12/4/2007, Bên mua sau khi nhận bộ chứng từ gốc và với kết quả giám định của Công ty cổ phần khử trùng - giám định Việt Nam (VFC) đã yêu cầu Bên bán nhận lại máy và trả tiền vì giao máy phát điện xuất xứ SINGAPORE, không đúng Điều 2 Hợp đồng (xuất xứ Nhật Bản).
Ngày 29/4/2007 Văn phòng đại diện hãng Mitsubishi tại Việt Nam xác nhận: "...Động cơ dẫn động của tổ máy phát điện này có xuất xứ từ Nhật bản được vận chuyển qua Singapore để dễ dàng cung cấp cho các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam..." và "loại máy phát điện diezel MGS được lắp ráp tại Singapore từ năm 1994. Máy được quản lý chất lượng và kiểm tra nghiêm ngặt của nhà sản xuất".
Ngày 31/5/2002 hai bên họp bàn giải quyết khiếu nại hợp đồng. Bên bán thừa nhận giao hàng không đúng tinh thần hợp đồng và đề nghị đấu thầu lại nhưng không được Bộ chủ quản của Bên mua chấp nhận và yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng.
Hai bên phát sinh tranh chấp về thực hiện hợp đồng mua bán máy phát điện.
2. Vấn đề pháp lý cần giải quyết.
Trong vụ việc trên, tranh chấp của hai bên đã làm phát sinh những vấn đề pháp lý cần phải giải quyết như sau:
2.1. Giao hàng và vấn đề chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Điều 42 Luật Thương mại 2005: "Bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ hàng hóa cho bên mua trong thời hạn, tại thời điểm hoặc phương pháp đã thỏa thuận hoặc tại địa điểm hợp lí để bên mua có thể nhận hàng".
Điều 34 Luật Thương mại 2005: "Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng"
Theo Điều 35 Luật Thương mại 2005: "Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên".
Bên cạnh đó, theo Điều 440 Bộ luật Dân sự 2005: "Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên mua, còn bên mua chịu rủi ro đối với tài sản mua bán kể từ khi nhận tài sản, nếu không có thoả thuận khác" và theo Điều 57 Luật Thương mại 2005 thì trong trường hợp này theo được coi là đã chuyển rủi ro cho người mua. (nghĩa là tất cả những rủi ro xảy ra sau thời điểm này thuộc trách nhiệm của bên mua)
2.2. Xuất xứ hàng hóa.
Theo hợp đồng mua bán máy phát điện mà hai bên đã kí kết vào ngày 11/12/2006, bên bán sẽ bán cho bên mua 1 máy phát điện hiệu MITSUBISHI, model MGS0450B có xuất xứ hàng hóa tại Nhật Bản. Do đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng xuất xứ hàng hóa phù hợp với nội dung mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng theo quy định tại Điều 34 Luật thương mại 2005.
Tuy nhiên, Bên bán đã không thực hiện đúng theo những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng. Cụ thể là, căn cứ vào Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) ngày 27/02/2007 của Phòng Thương mại công nghiệp SINGAPORE ghi "Made in Singapore" và bản chi tiết hàng hóa (Packing List) ngày 14/02/2007 của hãng MITSUBISHI mà Bên bán đã giao cho Bên mua cùng với kết quả giám định của Công ty cổ phần khử trùng - giám định Việt Nam (VFC) cho thấy rằng máy phát điện này có xuất xứ từ Singapore.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 39 Luật thương mại 2005, trong trường hợp này, hợp đồng đã có quy định cụ thể rõ ràng về xuất xứ hàng hóa. Cụ thể là, Bên bán phải giao hàng hóa có xuất xứ từ Nhật Bản cho Bên mua. Nhưng vào thời điểm giao nhận hàng, Bên bán lại giao hàng có xuất xứ từ Singapore cho Bên mua. Bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng
Căn cứ vào Bản chi tiết hàng hoá (packing list), Giấy chứng nhận hàng hoá (C/O) của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp SINGAPORE, kết quả giám định của Công ty cổ phần khử trùng - giám định Việt Nam (VFC), Xác nhận của Văn phòng đại diện hãng Mitsubishi tại Việt Nam và sự thừa nhận của bên bán,
Căn cứ quy định tại Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định về xuất xứ hàng hoá có thể kết luận: hàng hoá trong hợp đồng - máy phát điện có hiệu MITSUBISHI có xuất xứ SINGAPORE không phải xuất xứ JAPAN như trong hợp đồng đã quy định.
2.3. Hàng hóa không phù hợp với hợp đồng.
Căn cứ Khoản 1 Điều 34 Luật Thương mại 2005: "Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng"
Theo Điều 39 và Điều 40 Luật Thương mại 2005, vì hợp đồng đã quy định cụ thể nên hàng không đúng xuất xứ được xem là không phù hợp với hợp đồng (Khoản 1 Điều 39).
2.4. Trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng.
Khoản 2 Điều 39 LTM "Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này."
Và theo điều khoản Hợp đồng mua bán, bên mua có quyền từ chối không nhận hàng vì xuất xứ của máy không đúng với thoả thuận tại Hợp đồng (Điểm 2 của Hợp đồng quy định - xuất xứ Nhật Bản).
Tuy nhiên, ngay từ khi nhận bộ chứng từ vận tải trong đó có ghi mã xuất xứ Singapore, bên mua vẫn thanh toán 70% giá trị hàng cho bên bán (mặc dù theo Khoản 3 Điều 51 LTM "Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp đó")
Đồng thời bên mua đã nhận máy, yêu cầu lắp đặt, kiểm tra tủ điện ATS để nghiệm thu máy và được chuyển giao lắt đặt vào ngày 11-3-2007. Máy phát điện cũng đã được xác nhận thông số kỹ thuật phù hợp với hợp đồng mua bán.
Như vậy, bên mua đã không từ chối việc bên bán chuyển giao và lắp đặt máy phát điện, mặc dù cũng biết là xuất xứ của máy không đúng theo thoả thuận tại hợp đồng.
2.4bis. Ý kiến khác:
Bên mua có quyền từ chối nhận hàng theo Khoản 2 Điều 39 Luật thương mại 2005 và có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng theo Khoản 3 Điều 51 Luật thương mại 2005.
Vào thời điểm giao nhận hàng, việc Bên mua đã phát hiện máy có xuất xứ từ Singapore và không đồng ý nhận hàng là phù hợp theo quy định của pháp luật thương mại. Bên mua nhận chứng từ hàng không có nghĩa là Bên mua đã chấp nhận số hàng hóa đó. Vấn đề đặt ra là Bên mua đã thực hiện quyền từ chối nhận hàng của mình hay chưa.
Bên cạnh đó, áp dụng Điều 40, thì hàng hóa không phù hợp với hợp đồng cũng tương tự như hàng hóa có khiếm khuyết, theo Khoản 3 Điều 40: "Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng"
Theo đó, hàng hóa không đúng xuất xứ thì bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm sau thời điểm chuyển rủi ro (thời điểm giao hàng).
2.5. Vấn đề giám định hàng hóa.
Trong hợp đồng các bên có quy định bên mua sẽ thuê Công ty giám định (chi phí do bên mua chịu) nên việc án sơ thẩm buộc bên bán chịu chi phí giám định là không hợp lý, đó không phải là 1 loại chi phí phát sinh
2.6. Vấn đề giá thanh toán.
Theo quy định tại Điều 51 LTM, thì việc ngừng thanh toán của bên mua là hợp lí.
2.7. Thời hạn giao hàng và khắc phục hàng hóa không phù hợp với hợp đồng.
Thời hạn giao hàng là đúng theo hợp đồng. Bên bán đã cung cấp tất cả những chứng cứ để khắc phục sự không đúng xuất sứ theo hợp đồng của hàng hóa theo hồ sơ đấu thầu.
3. Yêu cầu đề bài.
Sau khi nghiên cứu tình tiết vụ việc như trên, nhận thấy:
Việc hai bên, bên mua và bên bán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là phù hợp với các quy định của pháp luật thương mại. Do đó hợp đồng có hiệu lực thi hành và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ các bên.
Bên bán giao máy có xuất xứ từ Singapore thay vì Japan là đã vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng; từ đó làm phát sinh quyền từ chối không nhận hàng, quyền đòi bồi thường thiệt hại của bên mua cùng với nghĩa vụ tương ứng của bên bán (đã được ghi nhận trog hợp đồng) và quyền ngừng thanh toán (khoản 3 Điều 51 LTM)
Tuy nhiên, bên mua đã đồng ý tiếp nhận hàng cùng chứng từ hàng và giao tiền dù biết hàng không phù hợp với hợp đồng vì lí do tin tưởng "bên bán hứa sẽ điều chỉnh lại". Điều này chứng tỏ hai bên đã đạt được thỏa thuận mới với nhau về nghĩa vụ khắc phục lại hàng hóa sao cho phù hợp với hợp đồng đã thỏa thuận của bên bán (thỏa thuận mới trong quá trình giao nhận hàng, không được ghi nhận trong hợp đồng).
Ở đây, trong hợp đồng đã kí kết không nêu rõ thời điểm chuyển quyền sở hữu là khi nào nhưng tại điều khoản giao nhận có ghi: nếu sau khi giám định mà hàng không đúng theo quy cách chất lượng quy định ở điểm 2 thì bên mua vẫn có quyền từ chối không nhận hàng. Mà hoạt động giám định là những công việc cần thiết để xác định tình trạng thực tế của hàng hóa (Điều 254 LTM). Từ đó có thể xác định, quyền sở hữu đối với máy phát điện sẽ được chuyển sang cho bên mua khi bên mua đã biết được chính xác tình trạng thực tế của hàng hóa và tỏ rõ sự đồng ý là sẽ nhận máy.
Hướng xét xử của Tòa án sơ thẩm khi buộc bên bán phải nhận lại máy phát điện và hoàn trả lại tiền cho bên mua là không hợp lý. Trước tiên là vấn đề thanh toán: trong hợp đồng đã quy định chi phí giám định (tại điều khoản giao nhận) do bên mua chịu nhưng Tòa lại buộc bên bán hoàn trả lại chi phí giám định 2.500.000 đồng cho bên mua là không chính xác.
Việc buộc bên bán nhận lại hàng cũng bất hợp tình vì:
- Bên bán đã áp dụng mọi biện pháp để chứng minh cho bên mua về xuất xứ hàng hóa. Đó là các giấy chứng nhận xuất xứ: Động cơ diezel hiệu MITSUBISHI (C/O 19/2/2007 tại Japan), đầu máy STAMFORD (C/O 08/02/2007 tại England). Như vậy là đúng với những tiêu chuẩn kĩ thuật và chất lượng hàng hóa mà hai bên đã kí kết.
- Đồng thời, bên bán cũng đã nhờ văn phòng đại diện của hãng MITSUBISHI xác nhận về xuất xứ hàng hóa và "việc vận chuyển hàng qua Singapore để dễ dàng cung cấp cho các nước trong khu vực, trong đó có VN"
- Bên cạnh đó, sau khi nghiệm thu, bên mua cũng đã có thời gian lưu giữ máy (không cần xét đến có sử dụng máy hay không) thì điều này chứng tỏ bên mua cũng đã có ý chấp nhận hàng hóa này.
- Không phù hợp với những nguyên tắc giao kết hợp đồng về tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho hai bên của luật dân sự.
Do đó, bản án sơ thẩm không thuyết phục cả về tình và lý.
Vấn đề thứ hai là có nên buộc bên bán nhận lại máy hay không khi mà máy đã lắp đặt không còn mới 100%, do hàng đặt nên không thể bán cho người khác (theo nhận định của Tòa án phúc thẩm) và quan trọng là chất lượng của máy hoàn toàn đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn của hợp đồng đã giao kết (có văn bản xác nhận của văn phòng đãi diện hãng Mistubishi tại Việt Nam)?
Bên mua đã biết rõ xuất xứ của hàng hóa là không đúng như trong hợp đồng và đã có thỏa thuận tạo điều kiện cho bên bán khắc phục. Ở đây chỉ có 2 cách khắc phục duy nhất (không phải thay đổi hợp đồng) có thể dễ dàng nhận biết và phải biết là bên mua phải chứng minh được máy do bên bán đã nhận có xuất xứ từ Nhật Bản thông qua C/O hoặc phải đổi máy mới. Tuy nhiên, bên bán không tiến hành bất cứ cách khắc phục nào như đã nói. Bên mua đại diện cho Bộ chủ quản tiến hành mua máy đáng lẽ phải thông báo ngay cho Bộ chủ quản để nhận được sự chỉ dẫn và nắm rõ quan điểm chỉ mua máy có xuất xứ từ Nhật Bản. Thế nhưng bên mua lại tiến hành cho lắp đặt máy và chạy thử, đồng thời tiến hành nghiệm thu. Quá trình nghiệm thu là nhằm để kiểm tra máy móc hàng hóa có đúng quy cách, chất lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng hay không. Như ta đã nói, bên mua biết rõ ràng là máy này có xuất xứ không đúng như hợp đồng và bên bán chưa hề có động thái nào để khắc phục. Việc bên mua tiến hành lắp đặt và nghiệm thu giám định chỉ có thể được hiểu là bên mua muốn kiểm tra chất lượng hoạt động của máy như thế nào. Nhưng việc máy hoạt động tốt hay không tốt như trong hợp đồng thì máy vẫn là xuất xứ từ Singapore. Với kết quả giám định, bên mua đã từ chối nhận máy với lí do máy không đúng xuất xứ như tại điều 2 của hợp đồng đã qui định. Ngay sau đó, bên mua nhận được văn bản xác nhận về chất lượng máy có xuất xứ từ Singapore tương đương với máy từ Nhật của văn phòng đại diện của hãng Mitsubishi nhưng bên mua vẫn không đồng ý mua máy. Bên bán đã có sự vi phạm hợp đồng nhưng việc làm của bên mua là vi phạm nguyên tắc thực hiện hợp đồng: đó là không thể hiện tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho 2 bên (theo như khoản 2 Điều 412 BLDS). Bên mua biết và phải biết khi máy được lắp đặt mà bên mua không nhận thì sẽ gây khó khăn cho bên bán nhưng bên mua vẫn tiến hành nên bên mua cũng có 1 phần lỗi trong việc dẫn đến tranh chấp.Và như đã trình bày ở trên, quyền sở hữu đã được chuyển sang cho bên mua; khi bên mua biết rõ tình trạng thực tế xuất xứ của máy (biết máy có xuất xứ từ Singapore, chính bên bán cũng đã thừa nhận điều này và không cần qua giám định) và đã tỏ rõ sự đồng ý là sẽ nhận máy (yêu cầu lắp đặt để kiểm tra chất lượng của máy và giám định cũng đã cho thấy là máy hoạt động tốt như hợp đồng đã thỏa thuận).
Từ những lí luận trên, có thể khẳng định việc Tòa buộc bên bán nhận lại máy là không thỏa đáng. LTM và BLDS không quy định chi tiết trường hợp này nên khi xét xử cần xem xét trên nguyên tắc chung của BLDS và căn cứ vào mức độ lỗi của cả 2 bên mà có cách giải quyết tránh gây thiệt hại lớn cho các bên. Cách giải quyết của Tòa phúc thẩm có phần hợp lí hơn khi xem xét theo hướng trên. Bên bán vi phạm hợp đồng nên có ½ lỗi, bên mua đã biết rõ máy có xuất xứ không phù hợp mà vẫn tiến hành lắp đặt nên có ½ lỗi. Máy thì đã lắp đặt, nếu buộc bên bán nhận lại thì không thể bán cho người khác được, sẽ gây tổn thất lớn cho bên bán. Máy đã lắp đặt có chất lượng hoạt động tương đương với máy có xuất xứ từ Mỹ, vẫn đảm bảo được mục đích sử dụng cho bên mua. Vì vậy mà yêu cầu bên mua nhận máy và tiếp tục thanh toán phần còn lại là hợp lý. Tuy nhiên, do bên bán có 1 phần lỗi nên việc thanh toán theo giá cả thỏa thuận lúc ban đầu là không chính xác. Để đảm bảo nguyên tắc tự do, bình đẳng trong giao kết hợp đồng (Điều 389 BLDS) thì nên để hai bên tự thỏa thuận giá cả; khi nào không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ thẩm định giá cả trên thực tế hiện tại của máy có xuất xứ từ Singapore để hai bên tiếp tục thanh toán tiền hàng.
Ngọc: Nhưng tôi không đồng ý với Tòa án về việc thẩm định lại giá của hàng hóa vào thời điểm tháng 3/2009. Ta nên thẩm định lại giá căn cứ vào thời điểm giao kết hợp đồng sẽ mang tính thuyết phục hơn. Căn cứ vào điều 52 LTM và điều 431 LDS về xác định giá thì giá cả của hàng hóa được tính lại phải được tính vào thời điểm giao kết hợp đồng, cùng loại, cùng chất lượng, số lượng, chi phí vận chuyển...chứ không phải tại thởi điểm xét xử, vì như thế sẽ không đảm bảo tính công bằng vì thời điểm xét xử, hàng hóa đó có thể thay đổi rất nhiều về giá.
3bis. Ý kiến khác.
Nhận xét quyết định của Tòa án sơ thẩm:
Theo quyết định của bản án kinh tế sơ thẩm ngày 26/09/2008 của TAND quận 3, TPHCM, Bên bán phải nhận lại máy phát điện như đã giao và hoàn trả cho Bên mua số tiền đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng, bồi thường thiệt hại và chi phí giám định cho Bên mua. Chúng ta có thể nhận thấy một số vấn đề pháp lý như sau:
Thứ nhất, việc buộc Bên bán phải nhận lại máy phát điện như đã giao và hoàn trả cho Bên mua số tiền đã nhận là hoàn toàn hợp lí. Bởi lẽ, Bên bán đã biết mình giao hàng không phù hợp với hợp đồng và có hứa sẽ điều chỉnh lại nhưng sau đó, Bên bán lại yêu cầu lắp đặt máy chạy không tải mà không khắc phục hàng hóa khi vi phạm nghĩa vụ. Nghĩa là Bên bán đã có hành vi lừa dối và không thiện chí khi thực hiện hợp đồng.
Thứ hai, việc bắt buộc Bên bán phải chịu chi phí giám định là không hợp lí. Các bên đã thỏa thuận rằng chi phí giám định sẽ do Bên mua chịu nên chúng ta không phải buộc Bên bán chịu phần phí này.
Nhận xét quyết định của Tòa án phúc thẩm:
Theo quyết định của bản án kinh tế phúc thẩm ngày 30/09/2008 của TAND TPHCM buộc Bên mua phải nhận máy phát điện và thanh toán tiếp số tiền còn lại cho Bên bán. (Còn tiếp)...
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro