Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Thanh cung mười ba triều (bản dịch, full)

THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU

Tác giả : HỨA TIẾU THIÊN

Dịch giả : NGUYỄN HỮU LƯƠNG

Nguồn: VNTHUQUAN

Đánh máy : NGUYỄN HỌC (MÕ HÀ NỘI )

Tập 1 - Hồi 1

Nguyên tác: Mãn Thanh Thập Tam Hoàng Triều

Chuyện trong cung cấm mười ba triều nhà Thanh.

NUÔI ONG TAY ÁO

Năm trước, Thư Nhĩ Cáp Tề theo anh là Nỗ Nhĩ Cáp Tề vào Trung Quốc tiến cống nhà Minh, thấy cung điện lâu đài của vua Minh tráng lệ nguy nga, lấy làm khâm phục và thích thú.

Hắn còn được Thần Tông hàng đế thưởng tứ nên lại càng cảm thấy vinh dự. Bởi vậy, khi về nhà hắn chẳng coi anh hắn ra gì. Ít lâu sau, Nỗ Nhĩ Cáp Tề khởi công xây cất cung điện bắt chước nếp sống đế vương hoa lệ của vua Minh thì Thư Nhĩ Cáp Tề càng ham hố cái khoái lạc của một vương gia.

Thư Nhĩ nghĩ rằng hai anh em hắn đều là con trai của Tháp Khắc Thế thì không có lý do gì mà chỉ mình anh hắn được hưởng phúc còn hắn phải chịu mãi cái kiếp tôi mọi cho anh hắn. Nỗ Nhĩ Cáp Tề thường đem Thư Nhĩ đi đánh trận nên hắn cũng lập được chiến công, bởi vậy hắn càng ngày càng làm tàng, thậm chí nhiêu khi ở trước mặt anh, hắn cũng bất chấp cả luật lệ. Nỗ Nhĩ Cáp Tề biết vậy nhưng vì tình nghĩa anh em, lại cùng nhau chịu hoạn nạn từ nhỏ, nên bỏ qua, chẳng trách cứ gì. Không ngờ Thư Nhĩ lại cho rằng ông anh sợ, nên hắn ngầm điều binh khiền tướng, chuẩn bị một cuộc đảo chính… Hắn có hai đứa con trai, thằng cá gọi là A Mân; thằng thứ gọi là Tế Nhĩ Cáp Lãng. Hắn lại có đến cả vài ngàn binh sĩ thủ hạ dưới quyền. Trong nhóm âm mưu này, còn có cả đứa con thứ sáu của Nỗ Nhĩ Cáp Tề, tên gọi là Chữ Anh.

Chữ Anh thấy cha mình quý hai đứa con khác mẹ là Đại Thiện và Hoàng Thái Cực nên đem lòng oán hận, ngầm nuôi quân lính, cấu kết với ba cha con Thư Nhĩ thành một bè cánh khá mạnh.

Ba cha con Thư Nhĩ vốn cũng ở trong thành Hưng Kinh với Nỗ Nhĩ, sợ việc mưu phản có chỗ bất tiện và khó bề bảo mật nên ngầm sai gia nhân đến vùng Hắc Chỉ Mộc xây cất cung điện lâu đài, giống hệt của Nỗ Nhĩ. Chúng định ước với Chữ Anh sau khi chuyển qua Hắc Mộc Chỉ rồi, sẽ mang quân về đánh Hưng Kinh. Chữ Anh mai phục quân sĩ ở trong thành, khi nghe hiệu pháo nổ tức thì khởi binh, nội ứng ngoại hợp, ắt thế nào cũng thành công. Chẳng ngờ A Ba Thái lượm được tin này vội về nói với mẹ là Y Nhĩ Căn Giác La Thi.

Bà này vốn là vợ của Nỗ Nhĩ Cáp Tề nhưng từ khi Nỗ Nhĩ lấy thêm một nàng hầu tên O Lạp Thị thì bị thất sủng. Nay được tin này, bà muốn lấy lòng chồng, nên bảo con tới tố cáo ngay cho Nỗ Nhĩ biết.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề nghe A Ba Thái nói xong, đột nhiên cả giận, tức khắc sai Hỗ Nhĩ Cổ điểm binh mã chờ lệnh. Nỗ Nhĩ bảo Hỗ Nhĩ Cổ:

- Ngươi đem bốn ngàn quân vào thành, đóng chặt cổng lại, rồi đi bắt ba cha con Nhị bối lặc cùng cả công tử Chữ Anh điệu về đây cho ta tức khắc!

Hỗ Nhĩ Cổ thấy sắc mặt Nỗ Nhĩ đầy sát khí, chẳng dám nhiều lời, vội lĩnh mệnh đi ra. Hỗ Nhĩ Cổ vừa quay gót thì Nỗ Nhĩ kêu lại bảo thêm:

- Nếu bọn chúng kháng mệnh, ngươi hãy chém ngay, mang thủ cấp về cho ta!

Hỗ Nhĩ Cổ điểm đủ bốn ngàn quân đóng ập cổng thành rồi chia làm ba cánh; cánh hai ngàn chia nhau giữ chặt bốn cửa, cánh một ngàn bảo vệ đô đốc phủ, còn cánh một ngàn do chính y chỉ huy tới bao vây phủ đệ của Thư Nhĩ như một bức thành đồng, con kiến cũng khó lọt qua. Hỗ Nhĩ Cổ đem ba trăm thần binh xông qua cửa trước mà vào. Trong nhà, ai nấy hoảng hồn bạt vía, người nào chân cũng như đinh đóng xuống đất, không nhúc nhích được nửa bước.

Hỗ Nhĩ Cổ quát lên một tiếng "Trói lại!" tức thì ba trăm thần binh hùng hố tiến lên, bắt toàn gia già trẻ, lớn bé, trói ké lại, nhốt vào một căn phòng. Tiếng kêu khóc rầm lên. Thư Nhĩ Cáp Tề cậy mình có công, nhất định không tuân mệnh. Hắn cầm đại đao, thấy người là chém. Bọn binh sĩ bị chém chết khá nhiều. Hỗ Nhĩ Cổ thấy thế giận lắm, vội rút trong bọc ra một cây cờ lệnh, quát lên một tiếng lớn: "Giết chết hắn đi!". Tức thì bọn xông binh ước đến bốn năm chục, nhất loạt tiến lên quật ngã Thư Nhĩ xuống đất, rồi một trận loạn đao chém xuống. Thư Nhĩ chỉ còn lại một đống thịt bầy nhầy lẫn máu đỏ ròng ròng. Hỗ Nhĩ Cổ nhảy tới cắt vội đầu Thư Nhĩ, một mặt cho binh sĩ lôi toàn gia Thư Nhĩ đi theo, tới bắt trói nốt Chữ Anh rồi mới điệu đến trước phủ Nỗ Nhĩ Cáp Tề.

Chữ Anh cậy mình là con trai của Nỗ Nhĩ, nghĩ vẫn còn tình nghĩa phụ tử, nên chạy đến trước mặt cha quỳ xuống, khóc rống lên một cách thảm thiết, mong được tha tội. Nào ngờ vừa thấy mặt Chữ Anh, máu hoả càng ngùn ngụt nối lên Nỗ Nhĩ không ngờ kẻ phản mình chẳng ai xa lạ mà chính là con trai mình, bởi vậy chẳng còn phân vân gì nữa, lập tức tuốt đao chém luôn một nhát. A Mẫn cùng Tế Nhĩ Cáp Lãng thấy vậy, kinh hồn bạt vía, vội chạy tói trước quỳ mọp xuống đất. Nỗ Nhĩ Cáp Tề nổi hung, đôi mắt như bắn lửa ra ngoài, tay vung lưỡi đao định chém nốt, song bỗng nhớ tới Thư Nhĩ Cáp Tề, vội dừng tay hỏi.

Hỗ Nhĩ Cổ dâng thủ cấp lên. Nỗ Nhĩ thấy hai mắt của người em ruột đã từng gian lao vất vả với mình buổi thiếu thời giờ đã nhắm nghiền, bỗng xúc động can tràng. Ông nhớ lại khi anh em ông bị cha đuổi ra khỏi nhà, trải biết bao cực khổ, đói lạnh có nhau, mà đến nay chẳng ngờ xảy ra chuyện đau lòng như vậy. Ông lại nghĩ đến chuyện chỉ vì tức giận nhất thời mà giết chết chính đứa con thân yêu của mình. Ông đau khổ nhớ tới Chữ Anh rồi lại nhớ tới mối tình ân ái xưa kia với người vợ đã quá cố, bất giác đôi dòng lệ trào ra. Ông quăng cây đao đi, rồi bước lên hai bước, nâng hai người cháu dậy, tha tội cho đồng thời khuyên phải cải tà quy chính. Hai anh em được bá phụ tha tội, vội gục đầu lạy tạ, khóc lóc một hồi rồi ra về.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề giết mất em và con liền một lúc, trong lòng buồn bã chẳng vui, nên cũng chẳng còn muốn kéo binh đi đánh Minh triều nữa. Ông ở lì trong phủ, ngày ngày cùng với mấy viên võ tướng, đại thần bàn việc cải biến binh chế. Cuộc bàn soạn kéo dài tới mấy ngày, lúc đó mới quy định được binh chế gọi là "Chế độ Bát Kỳ".

Theo binh chế này thì quân đội của Nỗ Nhĩ được phân biệt qua các sắc cờ. Binh chế Mãn Châu vốn đã có bốn loại cờ: Cờ vàng, cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ. Nay lại lấy thêm một màu khác để viền vào các lá cờ màu kia, gọi là: Cờ viền vàng, cờ viền trắng, cờ viền xanh, cờ viền đỏ. Cộng cả thảy có tám loại cờ.

Cấp bậc võ quan chỉ huy thì chia làm bốn: Ngưu lộc ngạch chân, Giáp thích ngạch chân, Cố sơn ngạch chân và Mai lặc ngạch chân. Mỗi một Ngưu lộc chỉ huy ba trăm quân. Mỗi một Giáp thích chỉ huy năm Ngưu lộc. Mỗi một Cố sơn chỉ huy năm Giáp thích, lại còn điều khiển cả hai Mai lặc nữa. Mỗi khi xuất quân, nếu thế đất rộng rãi thì quân Bát Kỳ bày thành hàng ngang nhưng nếu thế đất chật hẹp thì bày thành hàng dọc không được chạy hoặc rối loạn. Đến lúc đối chiến thì những đội quân mặc kiên giáp, cầm giáo dài, hoặc khoái đao sẽ xông lên trước làm tiền phong, còn những đội quân mặc khinh giáp, sử dụng cung tên thì tiếp ứng ở phía sau. Ngoài ra còn có một đội ky binh thường tới lui khi ở mặt trước lúc ở mặt sau để chiếu hộ và cứu ứng.

Kiên giáp tức là áo giáp bằng thép. Người ta lấy dây tơ và những mảnh gỗ kết lại thành quần áo, mặt trong lót một tấm thép dày hai tấc hoặc một tấc bốn phân (tấc, phân của Trung Quốc cổ).

Khinh giáp tức là áo giáp nhẹ, chỉ dùng có dây tơ và các mảnh gỗ kết thành chứ không có thép lót bên trong.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề biên định xong binh chế, chia cấp bậc đại tướng xong, ngày ngày thao luyện diễn tập. Ông lại bảo Ngạch Nhĩ Đức Ni, Ba Khắc Chẩm và Cát Cái Nhĩ Khắc Tề phỏng theo chữ Mông Cổ mà chế ra chữ Mãn.

Hồi đó Kiến Châu chiếm địa thế khá lớn ở Mãn Châu. Trừ những vùng như vùng phụ cận mặt nam Khai Nguyên, vùng nội địa rộng Liêu Hà, suốt hai dọc từ Liên Sơn quan tới Phượng Hoàng thành, còn tất cả những vùng bình nguyên phì nhiêu ở Nam cũng như Bắc Mãn Châu rộng rãi bao la đều do một tay Nỗ Nhĩ Cáp Tề nắm hết. Ngay cả miệt bắc đất Triều Tiên lúc đó cũng bị Kiến Châu chiếm cứ.

Nói đến binh lực của Kiến Châu thì riêng mình giải Tô Tử Hà Cốc đã có tới tám vạn tinh binh rồi. Thời đó, người Minh thường có câu tục ngữ "Nữ Chân không đủ vạn, đu vạn ắt khó địch" là để tả cái đức dũng cảm và cái công tập luyện tinh nhuệ của người Mãn Kiến Châu. Và nhờ những hành động đặc biệt về tổ chức này, ai cũng cho rằng Nỗ Nhĩ Cáp Tề phải là một người có chí lớn lắm.

Những tin tức về sự biên định quân đội của Nỗ Nhĩ Cáp Tề chẳng mấy chốc đã lọt tới tai tể tướng triều Minh. Diệp Hướng Cao giật mình, miệng lắp bắp:

- Nguy tai! Bọn ta phải liệu đề phòng ngay chứ không thì nguy!

Nói đoạn Cao cầm bút, viết sớ dâng lên. Sớ rằng:

"Thần trộm nghĩ: Về việc biên phòng ngày nay duy chỉ có bọn rợ Kiến Châu là đáng ngại. Sự thế có thể đi tới phản loạn. Thế mà nay, cửu biên (việc đề phòng chín mặt biên ải) không tốt, nhất là miền Liêu Tả thì lại càng tệ! Tên tù trưởng Lý Hoá Long mà động thì ắt là khó chống. Cả một trấn Liêu Dương, đành khoanh tay chịu cướp. Ví thử có phát binh cứu viện cũng chẳng thế kịp. Hơn nữa lương thực trong trấn thảy đều khánh kiệt, quân binh cứu viện một khi kéo tới, biết lấy gì mà ăn? Lúc đó, nếu không quay giáo trở về thì ắt phải làm điều cướp bóc. Như thế thì đại sự trong thiên hạ chỉ có tàn hoại chứ không thể cứu vãn. Thần nghe lời tới đó, ngủ không yên giấc, ăn không xuống cổ. Xin thánh thượng tìm phương phòng bị, đó là điều cần yếu trước mắt".

Thần Tông hoàng đế xem xong tờ sớ, cũng giật mình lo lắng, ăn ngủ không yên.

Ngài tuyên triệu ngay binh bộ thượng thư vào cung, dặn bảo phải gấp tăng quân đóng giữ quan ải. Quan thượng thư binh bộ trở ra liền phái ngay Phả Đình Tướng tới nhận chức phó tướng Liêu Dương, Bồ Thế Phương đương chức tham tướng Hải Châu và Liêu Dương. Hồi đó Quảng Ninh tổng binh Trương Thừa âm và Quảng Ninh tuần phủ Lý Duy Hãn cùng tiếp được văn thư cáo cấp bảo bọn họ tuỳ thời gian giám sát tình hình Kiến Châu, đồng thời báo cáo tin tức về triều.

Không ngờ chính giữa lúc triều Minh đang rối loạn cuống cuồng thì Nỗ Nhĩ Cáp Tề lên ngôi Đại Hãn, xưng nước Kim Quốc. Đúng vào năm 44 niên hiệu Vạn Lịch đời Minh thì đại điện hoàn thành ở Hưng Kinh.

Hôm đó Nỗ Nhĩ Cáp Tề, toàn thân nai nịt ngồi trong đại điện, có đại bối lặc Đại Thiện, nhị bối lặc A Mẫn, tam bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái, tứ bối lặc Hoàng Thái Cực cùng rất đông bối lặc chỉ huy quân Bát Kỳ đem theo các vị đại thần, đứng chờ trước điện, chia làm hai bên, y theo vị trí trước sau của tổ chức Bát kỳ.

Lễ quan xướng to hai tiếng "Hành lễ", tức thì bốn bối lặc đại thần cùng văn võ bá quan, nhất tề quỳ xuống, chật kín cả sân điện. Họ lặng lẽ quỳ xuống đứng lên làm lễ "Tam quy cửu khấu" (ba quỳ chín lạy) một cách vô cùng trọng thể, khắp điện chỉ nghe có tiếng sột soạt của tấm bào mới, hoặc tiếng giầy nện nhẹ xuống mặt đất mà thôi. Giữa lúc bá quan đập nhẹ những cái đầu có đủ loại mũ giát ngọc thêu hoa rực rỡ loè loẹt thì Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngồi trên bảo toạ trông xuống. Ông chỉ thấy khắp mặt điện những chiếc lông vũ, cái nào cái nấy dựng ngược lên tua tủa y như trong một vườn rau lá dày đặc. Lòng ông tự nhiên cảm thấy sung sướng vô cùng.

Cuộc hành lễ vừa xong, tám vị đại thần Bát Kỳ xuất ban quỳ xuống đất, hai tay bưng cao tờ biểu. Liền đó, hai viên thị vệ tử trên điện xuống, A Đôn Ba Khắc Chẩm và Ngạch Nhĩ Đức Ni, giơ tay tiếp lấy, rồi lại quay lên điện, quỳ xuống, lớn tiếng đọc tờ biểu tôn Nỗ Nhĩ Cáp Tề lên làm Phúc dục biệt quốc Anh Minh hoàng đế.

Anh Minh hoàng đế nghe xong biểu văn, liền bước xuống bửu toạ đất ba cây nhang, nước mắt lên tế cáo trời đất. Ông hạ lệnh cho triều thần làm lễ Tam quy cửu khấu. Lễ xong, ông trở lên điện, ngồi vào bảo toạ. Đám đông bối lặc, đại thần chia từng ban một, tuần tự tiến lên chúc mừng tân hoàng đế.

Thánh chỉ từ trên điện ban xuống: đổi niên hiệu làm Thiện Mệnh nguyên niên. Rồi ông thưởng cho bá quan uống rượu mừng Kim Quốc thịnh trị lâu dài.

Anh Minh hoàng đế bãi tráo, vào hậu cung, đã có các bà Kế Đại Phi, Trắc Phi, cùng thứ phi dắt theo bọn công chúa, phúc tấn chúc mừng. Sau khi làm xong gia lễ, cả bọn mời hoàng đế vào dự yến.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề lúc đó mềm môi uống đẫy, chẳng ngờ say bí tỷ lúc nào không hay. Đám cung nữ tiến tới nâng hoàng đế lên, đưa về cung của bà O Lạp Nạp Thích an nghỉ. Đêm đó chẳng cần phải nói, ai cũng có thể biết được cái cảnh điên loan đảo phụng, trăm sự tự nhiên tốt đẹp không bút nào tả nổi…

Hồi 2

BẢY ĐIỀU HẬN LỚN

Sáng ngày thứ hai, mới vừa canh năm, Anh Minh hoàng đế đã trở dậy toạ trào. Từ đó, ông phỏng theo hoàn toàn cách thức của triều Minh, từ cung điện lâu đài đến cấp bậc quan tước. Thỉnh thoảng ông lại triệu các bối lặc, đại thần cùng rời cung du ngoạn hoặc bàn tính quốc gia đại sự.

Hồi đó, Anh Minh hoàng đế rất căm giận Minh triều vì họ đã khinh khi ông nhiều lần. Ông thường đưa chuyện này ra cùng các đại thần bàn luận để tìm cách báo thù. Một hôm thám mã tại biên quan về tâu:

- Dân chúng miền biên tái của Minh triều thường vượt biên giới để trộm nhân sâm và đông mộc.

Anh Minh hoàng đế tức khắc hạ thánh chi, sai Đạt Nhĩ Hán và thị vệ Hỗ Nhĩ Hán đem quân tới biên giới tuần tra, nếu thấy người Minh vượt tuyến thì giết sạch.

Viên thị vệ Hỗ Nhĩ Hán y lệnh, giết đến năm mươi người Minh. Anh Minh hoàng đế còn sai Võng Cổ Lý, Phương Cáp Nạp tới gặp Quảng Ninh tuần phú là Lý Duy Hãn, hạch hỏi về chuyện vượt biên đó.

Lý Duy Hãn nghe nói quân Mãn giết chết dân mình, nổi giận đùng đùng, liền sai bắt hai sứ thần Kim Quốc, bắt luôn chín tên tuỳ tùng, trói chặt lại, một mặt viết thư gửi Nỗ Nhĩ Cáp Tề đòi đền mạng. Nỗ Nhĩ lòng tuy tức giận nhưng sứ thần hiện bị bắt giam thành thử đành thở dài, cho đưa mười tên phạm nhân bắt được ở Diệp Hách bộ hồi trước đến phủ Thuận Quan, nhất loạt chém hết, giả bộ đền mạng cho những người Minh bị giết. Nhờ vậy, Võng Cổ Lý và Phương Cáp Nạp mới toàn mạng trở về.

Anh Minh hoàng đế tuy nói nhất thời nhẫn nhục cho qua nhưng thực ra ý niệm báo thù ngày càng sâu thêm mãi.

Vào tháng giêng năm thứ ba, niên hiệu Thiên Mệnh, một hôm Nỗ Nhĩ Cáp Tề vừa thức dậy, sửa soạn ra thị triều, khi đẩy cánh cửa sổ nhìn ra ngoài thì chỉ thấy nơi vầng trăng mờ nhạt còn treo lủng lẳng góc trời tây một làn khói vàng vắt ngang, dài tới hơn bốn trượng, rộng có tới hai thước. Ông liền quan sát kỹ lưỡng rồi bất giác cười phá lên, nói:

- Khí số nhà Minh hết rồi! Đây là điềm báo nước Kim của ta đang vượng lên.

Bà Kế đại phi đứng ở đằng sau, cũng đang xem hiện tượng lạ lùng đó, chợt nghe lời Anh Minh hoàng đế, bèn hỏi:

- Bệ hạ lấy gì làm bằng cớ mà nói vậy?

Anh Minh hoàng đế nói:

- Khanh không thấy đó sao? Cái mặt trăng kia há không phải triều Minh sao? Mặt trăng sáng nhưng ánh sáng nhạt mờ há không phải là điềm báo của sự suy vong? Bây giờ, khanh xem tới làn khói vàng kia đi, nó ứng vào nước Kim ta đấy. Chữ Kim có nghĩa là vàng, tức là sắc vàng. Làn khói vàng kia, rất sáng, há lại không phải điềm báo nước Kim ta sẽ thịnh vượng ư? Hơn nữa, làn khói vàng lại còn vắt úp lên trên vầng trăng thì nước Kim diệt nước Minh há là đương nhiên rồi.

Bà Kế đại phi nghe giải thích mới hiểu ra, vội quỳ lạy, luôn mồm tung hô vạn tuế. Anh Minh hoàng đế vội nâng dậy, hối hả đòi ra thị triều.

Văn võ bá quan triều bái xong, Anh Minh hoàng đế bèn đem thiên tượng vừa xảy ra lúc ban mai rồi kết luận:

- Ý trời đã định. Chư khanh chớ nghi ngại nữa. Trẫm đã quyết, năm nay ta phải đánh người Minh.

Lúc đó, dưới điện, văn quan võ tướng đứng đầy. Họ nghe nói đánh Minh, lấy làm khoái chí, kẻ nào kẻ nấy xoa tay xắn áo y như cuộc đấm đá đã xảy ra trước mặt, và nhất loạt tâu xin hoàng đế đích thân điều khiếu cuộc chinh phạt.

- Chư khanh hãy lui. Đợi trẫm cùng pháp sư nghĩ kế thoả đáng đã, lúc đó tất nhiên sẽ có chỗ điều dụng chư khanh!

Qua hôm sau, chi ý được truyền ra, tuyên triệu pháp sư Hãn Lộc Dã Nhĩ Hãn Nang Tố vào cung.

Vị pháp sư này vốn từ Tây Tạng đi bộ tới Mãn Châu, đạo hạnh hết sức cao thâm, thuyết pháp rất là huyền diệu, được Anh Minh hoàng đế vô cùng quý trọng. Anh Minh hoàng đế sai người xây cất một ngôi chùa rất lớn gọi là Thích Ma Tự cho pháp sư, cứ mỗi khi có việc nghi ngờ khó giải quyết, lại tới thỉnh giáo.

Anh Minh hoàng đế cùng với vị pháp sư bàn tính kỹ lưỡng, cuối cùng đã tìm được chủ ý.

Ngày 14 tháng 2 niên hiệu Thiên Mệnh, là một ngày quan trọng, một ngày đã được vị pháp sư đắn đo tìm kiếm mới quyết định. Thế rồi, sáng tinh sương hôm đó, Anh Minh hoàng đế xa giá ra khỏi thành, khiến đủ Bát Kỳ người ngựa đến đại giáo trường chờ nghe lệnh. Hoàng đế mặc nhung trang, cưỡi trên lưng con ngựa ô cao lớn, chọn hai vạn tinh binh kéo tới tổ miếu hành lễ. Toàn ban văn võ đại thần, bối lặc tùng chinh cũng đều tới làm lễ, xong rồi quay về chỉnh đốn đội ngũ.

Chỉ trong chốc lát, người ta thấy cờ quạt rợp trời, kiếm kích như rừng, đại quân đội ngũ chỉnh tề, rầm rộ kéo thẳng tới Phủ Thuận quan.

Khi đại quân kéo tới Giới Phàm sơn, bỗng quân sĩ tiên phong bắt được một người Hán, áp giải tới trung quân. Anh Minh hoàng đế đích thân thẩm vấn. Mấy tên quân áp giải vừa đưa vào dưới trướng, nhà vua đã liếc mắt nhìn qua gã tù nhân một lượt để ước xét. Ông thấy người Hán này có bộ râu ngắn, mặt mũi rất thanh tú.

Chẳng cần phải xét lâu, nhà vua đã có thể biết rằng người Hán này phải là một kẻ đọc sách, ông bèn hạ lệnh cởi trói, lại cho gã ngồi đàng hoàng rồi mới hỏi han kỹ lưỡng. Gã người Hán nói:

- Tâu bệ hạ! Hạ thần họ Phạm tên Văn Trình, tự là Hiến Đẩu, vốn giòng giõi tiên tổ Phạm Văn Chính, tứ Trọng Yêm, đời Tống. Từ thuở nhỏ đọc rộng mọi sách, trên biết thiên văn dưới tường địa lý, giữa hay nhân sự, lại còn rành cả thao lược, thần đã mấy lần dâng sách lên Minh Hoàng nhưng Minh Hoàng chẳng dùng, đến nỗi về sau thần lênh đênh lưu lạc rồi trôi dạt tới đây. Thần lại thấy khói vàng úp nguyệt, biết rằng Mãn Châu sẽ xuất hiện chân chúa. Do đó, thần chẳng quản búa rìu, lặn lội tới quan ngoại để mong gặp bệ hạ. Thần nguyện đem hết tài năng để phò tá bệ hạ.

Anh Minh hoàng đế nghe Trình nói một hồi, trong lòng rất lấy làm vui mừng. Ông gọi thị vệ đem rượu thịt đế đãi Trình, lại bảo Trình:

- Trẫm đối với Minh triều có bảy điều đại hận, còn những việc tiểu oán thì chẳng cần nói làm chi, tiên sinh đã có lòng giúp Trẫm nên mới tới đây, vậy xin hãy bình luận rõ các mối hận của Trẫm xem sao?

Phạm Văn Trình nghe đoạn, bèn xin cho bút giấy, rồi ngay giữa bàn tiệc, viết thành bài "Thất hận đạo". Bài đó như sau:

"Ông cha ta chưa từng cắt một cọng cỏ, cướp một tấc đất của người Minh nơi biên ải, thế mà Minh triều vô cớ gây hân, giết hại ông cha ta. Đó là cái hận thứ nhất. Tuy Minh triều gây hấn nhưng ta vẫn cố tìm hoà. Ta dựng bia tuyên thệ "Hán cũng như Mãn chớ ai vượt tuyến. Kẻ nào liều lĩnh, gặp tức khác giết ngay". Thấy mà vẫn thả, ta giết đứa thả. Minh triều bất chấp lời ta. Lại còn cậy mạnh đem quân vượt tuyến giúp bọn Diệp Hách. Đó là cái hận thứ nhì. Hàng năm ở mé nam cũng như mặt bắc sông Minh Hà, người Minh thường đánh thuyền cướp bến, mặc sức lộng hành. Ta tuân lời thề nên phải giết. Minh triều lại phụ ước trước, trách ta giết bừa, bắt Quảng Ninh sứ thần của ta là Võng Cô Lý, Phương Cát Nạp, lại trói cả người tháp tùng, uy, hiếp ta. Đó là cái hận thứ ba. Quân Minh vượt tuyến giúp Diệp Hách, khiến người vợ sắp cưới của ta phải cải giá sang Mông Cổ. Đó là cái hận thứ tư. Lài Hà, Tam Soái, Phủ An, ba lộ đó là những nơi ta chia quân đóng giữ đã nhiều đời. Dân ta ở đây chuyên nghề nông, cấy cày ruộng đất thế mà Minh triều không cho họ làm ăn, đem binh đuổi sạch: Đó là cái hận thứ năm: Bọn Diệp Hách đắc tội với trời ngoài biên ải, thế mà Minh triều riêng tin lời chúng, sai người đưa thư tới để hạch hỏi ta, làm nhục ta, chẳng coi ta ra gì. Đó là cái hận thứ sáu. Lúc trước, Cáp Đạt giúp Diệp Hách hai lần tới xâm lăng, ta phải thân hành đi báo phục. Do đó, trời đã trao cho ta cả dân Cáp Đạt, ấy thế mà Minh triều lại ùa theo họ, bức hiếp ta phải trở về nước, khiến Cáp Đạt bị người Diệp Hách xâm lược. Ôi, giữa cái lúc liệt quốc phân qua chinh chiến, kẻ nào thuận ý trời thì kẻ đó thắng và tồn tại, kẻ nào nghịch ý trời thì kẻ đó bại và mất nước, lẽ nào khiến ké đã chết có thể sống lại, khiến kẻ được lòng mọi người lại phải bỏ đi? Trời đã giúp cho một nước lớn, một vị vua thì vị vua đó phải là người chủ chung của thiên hạ. Tại sao Minh triều lại oán giận nước ta? Buổi đầu Hỗ Luân chư quốc họp binh lại để đánh ta, nên trời chán ghét bọn Hỗ Luân gây hân đó. Nay Minh triều giúp bọn Diệp Hách, bị trời chán ghét, đó chính là chống lại ý trời, gây chuyện thị phi, tự ý làm bậy. Đó là cái hận thứ bảy, vì thế thì biết người Minh khinh ta quá đáng, tình thực khó bề chịu nổi. Đây là những nguyên cớ của bảy điều đại hận, bởi thế ta phải khởi binh đánh chúng!".

Phạm Văn Trình viết xong, A Đôn, bộ hạ Khắc Thấp Ngạch Nhĩ Đức Ni dịch ra tiếng Mãn, rồi lớn tiếng đọc một lượt. Anh Minh hoàng đế luôn miệng tán thưởng, cuối cùng trịnh trọng ngợi khen họ Phạm:

- Phạm tiên sinh thật là người bề tôi tâm phúc của Trẫm.

Anh Minh hoàng đế bèn phong cho Trình làm quân sư theo trong đại doanh để tham tán chiến sự. Hoàng đế gọi Trình là tiên sinh. Khắp triều văn võ ai cũng gọi một tiên sinh, hai tiên sinh vô cùng cung kính.

Lúc đó, đại quân tới Cổ Lặc, Anh Minh hoàng đế hạ lệnh đóng trại. Ngay đêm hôm đó, trên một bãi đất trống rộng rãi, Anh Minh hoàng đế tuyên chỉ bày hương án, chung quanh có Bát Kỳ binh mã vây kín hết tầng này tới tầng kia. Hoàng đế cùng với văn võ bá quan, bối lặc, đại thần bước ra khỏi trướng, tới trước hương án, quỳ xuống ngước lên trời mà làm lễ "Tam quy cửu khấu". Phạm Văn Trình tay nâng bức cáo văn THẤT HẬN, lớn tiếng đọc lên. Một cây long kỳ được dựng cao ngất trước ba quân. Tiếng quân nhạc trỗi lên vang lừng bốn phía.

Cuộc lễ chấm dứt, Anh Minh hoàng đế trở lui về dinh.

Ngày hôm sau, Anh Minh hoàng đế ngồi trên trướng đài, hạ lệnh chia đại quân ra làm hai lộ. Tả lộ đem bốn kỳ binh tiến đánh hai nơi Đông Châu và Mã Căn Đơn. Còn hữu lộ có bốn kỳ binh và tám kỳ hộ quân do chính nhà vua và các bối lặc chỉ huy tiến đánh phủ Thuận Quan. Khi nghe tiếng pháo hiệu, tức thì ba quân gióng cờ đánh trống lên đường.

Bốn kỳ quân hữu lộ vừa tới, Hãn Hỗn Ngao Mạc chọn một khu đất trống hạ trại. Phạm Văn Trình lên trướng bệ kiến Anh Minh hoàng đế, tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, thần ngửa xem thiên tượng, biết trời sẽ mưa lớn. Đại quân đóng tại bình nguyên sợ bị lụt ngập. Ở gần đây, về mé tây nam, có một toà núi cao tên gọi Phúc Kim Lĩnh, đó là chỗ đóng quân yên ổn. Rất mong bệ hạ lập tức truyền chỉ dời quân lên núi.

Anh Minh hoàng đế nghe lời Trình, hạ lệnh lập tức nhổ trại hành quân. Quả nhiên, đại binh mới chuyển tói nửa đường đã thấy mưa rơi tầm tã, hết trận này qua trận kia không ngớt. Đến khi kéo tới được sườn núi đóng doanh cắm trại, thì mọi người đã thấy thế nước mạnh như di sơn hải đảo, tràn ngập khắp nơi. Hoàng đế ngồi trong trướng phục tài Trình, cất tiếng khen:

- Phạm tiên sinh quả là người thần!

Trận mưa thật là dai, luôn một hơi mười ngày không lúc nào ngớt. Đứng trên nhìn xuống cả một cánh đồng dưới chân núi bị nước ngập mênh mông trắng xoá, y hệt biển khơi. Ngọn núi trơ trọi một mình giữa biển nước như một hòn đảo. Anh Minh hoàng đế ngồi trong trướng, bụng dạ như lửa đốt.

Một hôm, các bối lặc đại thần ngồi hầu bên cạnh hoàng đế nghe ngài nói:

- Trời mưa lớn quá, sợ không tiến quân được. Trẫm muốn hồi binh, có nên chăng?

Đại bối lặc Đại Thiện ngồi bên cạnh, đứng dậy tâu:

- Không nên. Nếu trở về, chúng ta cùng Minh triều giảng hoà hay kết oán? Huống hồ đại binh đã kéo tới biên giới của Minh triều, nếu không đánh mà trở lui, ta biết lấy gì để cho họ khuất phục?

Phạm Văn Trình cũng lên tiếng:

- Thần xem thiên tượng, chỉ nội ngày tới, thế nào cũng trời quang mây tạnh. Xin bệ hạ nhẫn nại thêm một chút là có cơ hành động.

Đế liền hỏi:

- Phạm tiên sinh! Theo ý tiên sinh thì quân ta tới khi nào thì mới có thể tiến quân được?

Trình nói:

- Hôm sau, vào giờ Hợi có thể tiến quân được.

Các tướng nghe lời Trình, cùng lấy làm quái lạ, bởi vì lúc đó họ vẫn nghe bên ngoài gió mưa rầm rập, không thấy một triệu chứng nào khả dĩ đoán được trời sắp tạnh.

Anh Minh hoàng đế rất tin lời Trình, nên ngày hạ lệnh:

- Ngày mai, giờ Hợi tiến quân vào thẳng tới phủ Thuận Quan.

Lại một ngày qua, mưa vẫn trút nước, gió vẫn giật dữ dội, tình cảnh vẫn đáng chán như trước. Nhưng đến giờ Hợi, quả nhiên gió ngừng mưa dứt. Rồi trời quang mây tạnh. Trên không trung, vầng trăng bạc lại tươi cười nhìn xuống trần gian. Đã khuya mà trăng sáng chẳng khác ban ngày.

Anh Minh hoàng đế ngồi trên ngựa, vỗ mạnh vào yên nói:

- Phạm tiên sinh quả là người thần!

Nói đoạn, Đế truyền lệnh ba quân rút tiến lên, trong lòng cảm thấy vui vẻ vô cùng:

- Sáng sớm tinh sương ngày thứ ba, tiền quân đã nhìn thấy một toà thành lờ mờ trước mặt. Thì ra đó là thành phủ Thuận Quan. Anh Minh hoàng đế hạ lệnh cho binh mã dàn mỏng, đóng thành hàng ngang suốt mặt trước cửa thành dài dằng dặc.

Lúc đó, trong thành phủ Thuận Quan có một người nông dân vừa ra khỏi thành để đốn củi liền bị quân tuần tra bắt trói dẫn tới chỗ Anh Minh hoàng đế. Đế lấy lời nói ôn tồn an ủi anh ta rồi hỏi xem trong thành có bao nhiêu người ngựa.

Anh ta cho biết chỉ có mình quan trấn thủ Lý Vĩnh Phương chỉ huy một ngàn quân.

Anh Minh hoàng đế hiểu rõ tình hình liền bảo quân sư Phạm tiên sinh viết một phong thư chiêu hàng rồi đưa cho anh nông dân đem về trao cho Phương.

Hồi 3

TÌNH TRONG KHÓI LỬA

Tuy đã trao thư chiêu hàng, hoàng đế vẫn sửa soạn, có ý muốn đánh. Quân sư họ Phạm vội tâu:

- Thuận Quan thành cao mà hào sâu nhất thời khó bề phá nổi. Huống hồ bức thư chiêu hàng Lý Vĩnh Phương mới vừa gửi đi, trong chốc lát ta chưa thể có hồi âm. Mà khi chưa có hồi âm thiết tưởng bệ hạ cũng chưa tiện hạ lệnh đánh thành. Theo ngụ ý của thần, ta hãy tạm lui quân ra ngoài mười dặm, đóng ẩn trong các khu rừng cây rậm rạp. Thấy quân ta rút, bách tính trong thành tự nhiên theo lệ thường mở cửa ra ngoài họp chợ mua bán. Lúc đó, ta sai dăm chục tên gian tế trà trộn vào thành nằm chờ thời cơ hành động… Như thế, há lại không dễ thắng ư?

Hoàng đế nghe kế, bất giác vỗ đùi khen hay rồi tức khắc hạ lệnh lui binh xa mười dặm, lẳng lặng vào ẩn trong rừng.

Quan trấn thủ thành Thuận Quan thấy địch quân đã rút xa, bèn cho phép mở cửa thành, cho nhân dân mua bán, giao dịch như ngày thường.

Viên thiên tổng tên gọi Vương Mệnh Ân, thấy cổng thành mở, sợ quân Kiến Châu lại kéo đến liền khuyên Lý đóng lại.

Nhưng họ Lý không chịu nói:

- Bách tính Thuận Quan này toàn nhờ vào việc chợ búa để sinh sống. Nếu ta đóng cửa thành, đình việc mua bán, nhân tâm ắt bối rối, hoảng sợ.

Ân lại nói:

- Mở cổng họp chợ, sợ gian tế dễ trà trộn vào thành.

Phương không nghe, vẫn cho phép dân chúng hai chủng tộc Mãn, Hán tự do ra vào, chẳng ai tra hỏi gì.

Bảy, tám ngày sau, mọi người như đã quên luôn cả cái đám binh mã Kiến Châu xuất hiện mấy bữa trước, thì chợt có một tiếng gầm vang như đất lở trời long. Kiến Châu binh mã ào ào xông tới như một trận cuồng phong. Quân canh thủ vội đóng chặt cửa thành, nhốt luôn cả một số đông người Mãn lại. Trong nháy mắt, ngoài tường thành quân Kiến Châu đá bắc thang mây và bắn tên như mưa rào rào. Đứng trên địch lâu, Lý Vĩnh Phương cũng đốc quân bắn trả. Phương còn cho binh sĩ ném đá, lăn gỗ xuống để ngăn cản địch quân. Giữa lúc đôi bên kịch chiến, bỗng bên vòng thành mặt tây lửa cháy ngụt trời, khói toả rộng cả vùng. Phương nhảy vội lên lưng ngựa phóng như bay về cửa tây. Nhưng vừa tới nơi thì cửa đông lại bị cháy, lửa bốc còn dữ dội hơn nhiều. Phương lại quay ngựa về đông. Khi gần tơi cửa đông, Phương lại thấy cửa nam, cửa bắc đều có lửa cháy ngùn ngụt. Đến lúc này, Phương đã rõ trong thành có gian tế trà trộn vào, nghĩa là đã trúng gian kế của địch. Phương hối hận đã không nghe lời Vương Mệnh Ân để đến nỗi hỏng việc, vội trở về nha sở của mình. Nhưng khi vừa đạp tới cổng nha thì đã nghe tiếng người hò la ầm ĩ, lửa cháy sáng thấu trời, Phương tuốt cây đại đao cầm lăm lăm trong tay, phóng ngựa qua cửa. Mới được vài bước, ngựa Phương đã vướng chân vì mấy sợi dây chằng chịt bên dưới. khiến Phương cả người lẫn ngựa té nhào xuống đất, không ngóc dậy được nữa. Hơn chục đại hán từ hai bên nhảy ra. Chúng đè lên người Phương rồi dùng dây bự trói ké Phương như trói heo, đoạn khiêng vào bỏ trong căn phòng tối, khoá chặt lại.

Lý Vĩnh Phương nằm trong phòng, lắng tai nghe, chỉ thấy tiếng người ầm ĩ như cái chợ vỡ, rồi tiếng hò hét chém giết, tiếng kêu la thất thanh, mãi tới nửa đêm mới tạm nguôi. Đến lúc này, Phương mệt quá, cũng thiếp đi lúc nào không hay.

Sáng hôm sau cửa phòng bật mở, năm tên lính Mãn vào khiêng Phương ra. Phương ngẩng đầu lên thì thấy Anh Minh hoàng đế oai nghi ngồi trên ghế cao, đôi bên có văn võ bá quan dàn hàng túc trực. Đế truyền chỉ xuống bảo Phương đầu hàng.

Nhưng Phương chỉ chửi bới om sòm. Mấy phút im lặng nặng nề trôi qua. Bên ngoài quân Mãn lần lượt khiêng vào rất nhiều thi hài. Phương nhìn xem, nhận ra là Thiên tổng Vương Mệnh Ân cùng một bọn tướng lĩnh, cả vợ Phương là nàng Trần thị và mấy đứa con cũng có trong số đó. Phương vụt khóc lóc vô cùng bi thảm. Anh Minh hoàng đế lại khuyên nhủ Phương:

- Ngươi bất tất phải bi thương. Vợ con ngươi đều do loạn quân trong thành giết chết chứ không phải quân Mãn Châu. Trẫm thấy họ chết một cách thảm thương nên đã sai người mua quan quách bậc nhất để khâm liệm, mai táng thay ngươi.

Vừa nói, Đế vừa sai quân sĩ đem thi thể Trần thị lên đại sảnh. Chẳng bao lâu, một số đông binh sĩ đem quan quách tới để khâm liệm. Khi Trần thị được nhập quan đàng hoàng rồi, Đế lại ra lệnh cho văn bõ bá quan tiến lên tế lễ, tỏ ra rất cung kính và thương cảm.

Lý Vĩnh Phương thấy Anh Minh hoàng đế có những hành động đặc biệt như vậy đối với vợ con y, trong lòng bỗng thấy cảm phục lắm. Đế cởi trói cho Phương, bày rượu thịt mời Phương ăn uống.

Phương nhịn đói đã quá lâu, nên khi thấy rượu thịt, không thể không thèm. Phương vừa ăn uống vừa tự nhủ: ăn thì cứ ăn, nhưng hàng thì chẳng hàng. Để xem bọn chúng đối xử với ta ra sao.

Nghĩ vậy, Phương ra no say tuý luý luôn. Vừa ngừng chén, Phương đã gục ngay xuống, ngủ li bì.

Phương không biết mình ngủ đã bao lâu, chỉ biết khi tỉnh dậy thì thấy đang nằm trên giường trong căn phòng đèn đuốc sáng choang, hương thơm ngào ngạt. Phương lấy làm lạ, quay mặt nhìn sang, bỗng giật mình vì thấy một cô gái tuyệt đẹp nằm bên. Phương định thần nhìn kỹ thì thấy là một cô gái Mãn Châu vì nàng trang điểm theo kiểu Mãn. Lọn tóc dài búi cao trên đỉnh, còn làn tóc mai thì lại để thấp mãi xuống đôi má phấn mịn màng, trắng muốt. Đói mày ngài cong cong chạy dài vào lọn tóc mai đen lánh. Chiếc mũi dọc dừa nhỏ xinh xinh đặt trên cặp môi tô thắm, tươi như hoa, càng làm cho khách đa tình phải say sưa mê mệt.

Cô gái đẹp người Mãn thấy Phương giương mắt nhìn mình chằm chặp như đo dò tìm hiểu, liền bật cười khanh khách, đôi tay vội kéo hai góc chăn lên che đôi má phấn. Phương ngắm đến người nàng. Nàng mặc bộ quần áo mỏng trắng như bạc, có điểm những chấm hồng lấm tấm; màu trắng chen màu hồng ấy càng làm cho đôi tay và chiếc lưng của nàng thêm trắng, thêm hấp dẫn muôn phần.

Phương cảm thấy trong lòng nóng như lửa cháy, đôi mắt đỏ ngầu, chỉ muốn cắn, muốn nghiến con mồi đã tự dẫn thân đến trước mặt. Nhưng giữa lúc định lăn mình sang bên để ôm lấy người đẹp, Phương bỗng la thất thanh: "ôi chao!" rồi vội đưa hai bàn tay rờ lên đầu mình.

Thì ra đầu Phương đã bị cạo trọc từ lúc nào, trên chót đầu treo lủng lẳng một bím tóc dài lê thê. Phương chẳng phải suy nghĩ lâu mới có thể hiểu được hoàn cảnh mình. Phương thở dài, cái thở dài hàm chứa cả một bầu tâm sự bi thương, uất hận. Đôi dòng lệ cũng tử từ tuôn trào trên đôi má đã quá dày dạn phong sương của Phương…

Người đẹp thấy Phương có vẻ bi thương quá, bèn lật tấm chăn hồng ngồi dậy. Nàng cất tiếng oanh vừa nhẹ êm, vừa tình tứ yêu đương, để khuyên nài an ủi Phương. Hồi lâu Phương mới khẽ hỏi nàng:

- Nàng là ai? Tại sao nàng lại chung chăn gối với ta?

Người con gái cười lên sằng sặc, tỏ ý chê Phương là ngây thơ như trẻ nít.

- Chàng thế mà ngốc thật! Chúng mình hai đứa đã thành vợ chồng rồi, tại sao không ngủ chung một giường, đắp chung một chăn? Nào, đố chàng biết thiếp là ai nào? Thiếp nói ra sợ chàng vỡ mật tan hồn mất. Thiếp chẳng phải ai xa lạ mà là đại công chúa của đệ thất hoàng tử A Ba Thái, con của đương kim hoàng đế nước Kim đó!

Lý Vĩnh Phương nghe nói quả nhiên giật nảy mình, bật dậy bước xuống đất, quỳ dưới chân giường mong nàng tha tội.

Nàng công chúa vừa cười vừa bước xuống, nâng Phương dậy rồi truyền gọi thị nữ tới để hầu hạ phò mã thay mũ đổi áo. Mũ áo của Phương đã khác hẳn. Một áo bào dài rộng, một đôi giày đỏ tươi, một chiếc mũ màu hồng đỉnh có cắm hoa. Nàng công chúa cũng trang điểm vô cùng đẹp đẽ. Thế rồi hai vợ chồng bước ra khỏi phòng để tạ ơn hoàng đế.

Anh Minh hoàng đế giáng chỉ, phong cho Phương làm quan tổng binh Phủ Thuận quan, trông coi mọi việc.

Lúc đó, Kiến Châu binh tả dực cũng tới hội tại Phủ Thuận. Đại quân đem toàn lực đánh phá luôn một lúc các nơi như Phủ An, Hoa Báo, Tam Soá. Sau đó, tiến tới Nha Cốt quan, vây Thanh Hà thành năm ngày năm đêm, cuối cùng phá tan thành này.

Khi quay trở về, Kiến Châu binh mã hội họp tại Giáp Bán, tướng sĩ lớn bé đều tới dâng công. Vàng bạc, người, vật cướp bóc được khá nhiều. Anh Minh hoàng đế thăng cấp cả cho các binh sĩ. Ngoài ra quân Mãn còn bắt được nhiều con buôn quê quán tại các vùng Sơn Đông, Sơn Tây, Giang Nam, Tô Châu, Hàng Châu tới Phủ Thuận để buôn bán, đổi chác.

Hoàng đế sai các quan cấp cho mỗi người đầy đủ tiền nong để dùng làm lộ phí trở về quê. Ngài còn sai các văn quan sao bài hịch "Thất Hận" thành nhiều bản rồi gửi cho mỗi người một tờ để mang về cho dân Hán xem.

Mọi việc đã xong xuôi, Anh Minh hoàng đế truyền lệnh ban sư. Người ngựa rầm rập khải hoàn, Hoàng đế đích thân áp trận, các bối lặc đại thần hộ giá.

Đại binh đã kéo về tới Tạ Lý điện, Đế truyền lệnh an dinh hạ trại. Thám mã bỗng chạy vội vào báo:

- Đằng sau, có Quảng Ninh tổng binh Thương Thừa Âm Liêu Dương phó tướng Phả Đình Tướng, Hải Châu tham tướng Bồ Thế Phương, đem một vạn quân Minh đang đuổi đánh tới đây.

Anh Minh hoàng đế nghe đoạn, cười gằn nói:

- Thật là cả một bọn nô tài hèn nhát, tham sống sợ chết. Khi đại quân ta tới thì chúng trốn biệt. Nay quân ta ra khỏi quan, chúng lại đuổi theo. Rõ ràng là chúng giả bộ để đánh lừa ông vua của chúng mà thôi. Ta xét chúng dù có tới cũng chẳng làm được trò trống gì. Hỡi các con! Hãy mau mau đi giết chúng nó một trận!

Lệnh truyền vừa tung ra, Đại bối lặc cùng Tứ bối lặc nai nịt gọn ghẽ, đem bản bộ binh mã đối địch. Ba Khách Thập Ngạch Nhĩ Đức Ni cũng theo gót hai bối lặc đem quân mã đi tiếp chiến.

Trương Thừa Âm thấy quân Mãn xông tới hết sức hùng hổ bèn tựa vào núi mà đóng trại, chia thành ba doanh trung, tả và hữu rồi đào hố sâu bố trí hoả pháo.

Quân Bát Kỳ, kẻ nào kẻ nấy phấn dũng, đánh thẳng lên núi. Từ bên trên, hoả pháo nã xuống. Quân Mãn bên dưới chết như dạ. Giữa lúc hai bên đang cầm cự, quyết tranh tiên đoạt phần thắng về mình, bỗng từ phía tây nam nổi lên một trận cuồng phong, tung đá bay cát, ào ào đánh thốc vào doanh trại của quân Minh.

Đại bối lặc gầm lên một tiếng dữ dội rồi xông lên, thấy người là chém, thấy ngựa là đâm. Tứ bối lặc cũng phấn lực đánh thủng phòng tuyến phía nam mà xông vào. Cuộc huyết chiến trong chốc lát đã xảy ra vô cùng khốc liệt. Bỗng từ phía sau núi, tiếng trống chiêng vang động, Ba Khách Thập Ngạch Nhĩ Đức Ni đem người ngựa đánh xuyên vào hậu dinh của quân Minh, khiến quân đội của Trương Thừa Âm mắc kẹt ở lưng chừng núi, tiến thoái lưỡng nan. Bốn trăm xạ thủ của quân Mãn vây cả bọn tướng tá Minh triều vào trong. Đáng thương cho Trương Thừa Âm, Phả Đình Tướng, Bồ Thế Phương cùng chết gục trong cơn loạn. Tàn binh của Minh triều thấy chủ tướng chết sạch, vội vàng chạy trốn xuống núi, tan tác ở khắp cả bốn mặt, quân Mãn truy kích xa đến năm mươi dặm mới ngừng.

Trận ác chiến này đem lại cho ba vị bối lặc vô vàn chiến lợi phẩm. Họ bắt được chín ngàn con chiến mã, lượm được bảy mươi bộ giáp trụ. Còn khí giới, quân nhu, quân dụng, quân trang, họ thu được không biết cơ man nào mà kể. Đại binh thắng trận trở về, ca khúc khải hoàn vang dậy khắp sơn khê.

Anh Minh hoàng đế trong lúc vui mừng truyền cho bày yến tiệc khao thưởng tam quân.

Hồi 4

MÃN MINH KHAI CHIẾN

Thần Tông hoàng đế nhà Minh nhận thấy mỗi ngày nước càng yếu, dân càng nghèo, trăm quan thì lười biếng hèn hạ, thì trong lòng rất lo ngại.

Một hôm, được tin quân Kiến Châu phạm cảnh rồi Phủ Thuận thất thủ, Lý Vĩnh Phương đầu hàng, bao tôi trung khác tử tiết, ngày càng sợ hãi. Sau đó được thêm tin Trương Thừa Âm và toàn quân bị tiêu diệt, thì ngài không còn giữ được bình tĩnh nữa, tay chân cứ run bắn lên. Ngài bèn truyền dụ triệu tập lục bộ đại thần tề tựu lại Cằn Chính điện để thảo luận kế sách thắng địch. Binh bộ thị lang quỳ xuống tâu rằng:

- Muôn tâu bệ hạ! Tên mọi Kiến Châu là Nỗ Nhĩ Cáp Tề vốn có ý phản từ lâu. Lúc trước, khi hắn được bổ làm tuần phủ Liêu Đông, thần đã đôi ba lần tâu bày. Song triều đình ta đang thiếu hụt về quân lương cho nên cứ dây dưa kéo dài mãi tới nay, đến nỗi cục diện ngày càng trầm trọng. Theo thiển ý của ngu thần thì tên mọi Kiến Châu đã tự xưng Khả Hãn, lại nhiều lần đem quân phạm cảnh, ắt đối với thiên triều hắn chăng coi ra gì. Bởi vậy nếu không đại phát binh mã, đánh hắn tan hoang một phen thì không được. Tuy nhiên, xuất gia quan ngoại thực không phải là chuyện chiến sự tầm thường. Cho nên, nhất định phải chọn những người am hiểu thông thố nơi quan ngoại mới có thể cử đi được. Cứ theo sự hiểu biết của thần thì lão tướng Lý Như Bá tuy về hưu đã lâu nhưng có thể đảm đương trọng nhiệm. Bởi vậy xin bệ hạ giáng chỉ triệu Lý tướng quân rồi phong cho chức Thống binh Liêu Đông. Ngoài ra còn mấy người như Đỗ Tùng, Lưu Đĩnh, Lưu Ngô Tiết, Mã Lâm, Ma Nham Hạ, Thế Hiền đều tỏ tường nơi quan ngoại, cũng xin bệ hạ cho vời họ về kinh, nhất nhất uỷ cho họ các chức lớn nhỏ, để cùng theo Lý Như Bá chỉ huy hai mươi vạn quân xuất quan, dốc tận lực chinh tiễu. Còn như việc xuất phát của các lộ quân thì ngu thần sớm đã có kế hoạch. Ta hãy chia đại binh ra làm bốn lộ. Lộ thứ nhất sẽ do Đỗ Tùng và Lưu Ngô Tiết chỉ huy với ba vạn quân mã, xuất phát từ Thẩm Dương tơi Phủ Thuận quan, rồi theo tả ngạn sông Hỗn Hà vào thẳng Tô Tử Hải cốc. Lộ thứ nhì sẽ do Mã Lâm và Ma Nham hợp binh với bọn Diệp Hách, điều động mười vạn rưỡi quân, theo mặt Khai Nguyên, Thiết Lĩnh ra Tam Soá rồi đột nhập vùng Tô Tử Hà. Lộ thứ ba sẽ do Lý Như Bá vào hạ Thanh Hà thành, rồi theo Nha Cốt chọc thẳng vào Hưng Kinh. Lộ thứ tư sẽ do Lưu Đĩnh đem một vạn quân hợp lực cùng một vạn quân tiếp viện của Triều Tiên, xuyên qua Khoan Điện và Đồng Gia giang rồi kéo thốc tới phía nam thành Hưng Kinh. Ngoài bốn lộ quân ra, ta còn uỷ riêng một viên đại tướng đem đại binh đồn trú Thẩm Dương, dùng làm quân tiếp ứng sau này. Theo kế hoạch này, tiến thoái thật là lưỡng lợi. Chỉ một mẻ lưói có thể lượm sạch. Kính mong bệ hạ chuẩn y cho.

Dương Cảo tâu xong, lui về chỗ cũ. Hai bên văn võ thấy Cảo trình bày kế sách một cách trôi chảy lưu loát, lý lẽ cao siêu nên chẳng ai có ý thêm thắt điều gì.

Thần Tông hoàng đế truyền lệnh bãi trào. Cảo vừa về tới nhà đã thấy một bọn đồng liêu đứng trực từ lâu chờ nghe tin tức.

Qua ngày hôm sau, quả nhiên thánh chỉ từ trong cung ban la, phong Dương Cảo làm binh bộ thị lang kiêm Liêu Đông kinh lược sứ, đồn trú tại Thẩm Dương, lĩnh chức tổng chỉ huy bốn lộ quân mã.

Còn bọn Lý Như Bá đều y theo tâu trình của Dương Cảo mà gia thêm quan hàm, theo đại quan xuất trận chinh phạt bọn mọi Kiến Châu. Quân sĩ tham chiến cùng lương bổng đều do các tỉnh Phúc Kiến, Triết Giang, Tứ Xuyên, Cam Túc cung cấp.

Thảm thay cho cuộc chinh tiễu lịch sử vô cùng bi thương này! Đạo dụ "Chinh nô" (bắt dân làm nô dịch đi đánh giặc) hạ xuống từ tháng tư năm thứ 46 niên hiệu Vạn Lịch mà mãi tới tháng hai năm sau mới biên chế được thành quân. Thế rồi, một hôm, đại quân nhổ trại lên đường. Dương Cảo truyền lệnh cho toàn bộ binh mã đều phải tới đại võ trường để nghe lệnh.

Lưu Đĩnh làm tướng tiên phong đợi trên trướng đài từ lâu. Cảo cưỡi ngựa tới võ trường quan sát, thấy người ngựa tám phương bốn xứ kéo tới chẳng có hiệu lệnh duy nhất, phục sức lại lung tung không thống nhất, mỗi nơi một kiểu, Cảo trong lòng băn khoăn lo lắng, nhưng chẳng có cách nào khác… Cảo cưỡi ngựa duyệt một lượt rồi truyền lệnh tế cờ. Một con trâu đã bị trói sẵn, đặt nằm trên mặt đất, tướng tiên phong Lưu Đĩnh chạy tới chân cột cờ soái. Thấy chủ tướng đã tới, binh lính bèn tuốt dao chém trâu. Chém luôn một hơi ba nhát mà đầu trâu, buồn thay, chẳng đứt. Đĩnh thấy vậy nhủ thầm quân sĩ kém cỏi như vầy thì khi ra quan ngoại làm sao địch nổi quân Kiến Châu được. Ông tỏ vẻ buồn, miễn cưỡng tế cờ cho xong.

Dương Cảo chia đại quân ra làm bốn lộ. Xong đâu đấy, ông quay về phủ, vợ Cảo biết chồng sắp phải đem quân đi viễn chinh, trong lòng lo sợ. Bà dọn một bữa tiệc ngay trong phủ để cùng chồng nâng chén quan hà. Giữa lúc ngà say, bà ứa lệ than thở và lo sợ cho cuộc viễn chinh chưa biết thắng bại ra sao vì quân Kiến Châu vô cùng dũng mãnh. Rồi cả bà và các công tử, tiểu thư, đôi hàng nước mắt bỗng rơi xuống lã chã. Cảo vội quát bảo thôi đi.

Giữa lúc cả nhà đang lo buồn rầu rĩ, bỗng gia nhân ở ngoài cửa vào báo có Lưu tướng quân xin yết kiến. Cảo hỏi kỹ biết rõ là Lưu Đĩnh, lòng tự nhủ: "Ta với Đĩnh vừa gặp nhau ngoài võ trường, tại sao y lại tới tìm ta? Phải chăng có gì khẩn cấp?" Nghĩ thế, bèn chạy ra đón. Vừa giáp mặt, Đĩnh vội hỏi:

- Thế nào, đại soái thấy quân ta có thể dùng được không?

Cảo thở dài đánh sượt một cái rồi chậm rãi trả lời:

- Đành chịu vậy thôi!

Đĩnh nói tiếp:

- Đại soái nên biết phen này xuất sư chẳng phải là chuyện đùa đâu. Với thứ quân đội hèn kém như vậy, mạt tướng sợ rằng khó có thể mong chờ được. Theo ý của mạt tướng xin đại soái tâu rõ với hoàng thượng cho mạt tướng huấn luyện một số tân binh, vài ba vạn trong một năm để chúng trở thành tinh luyện. Lúc đó chẳng cần phải lắm tướng làm chi cho mệt, một mình mạt tướng cũng có thể địch nổi hàng mười vạn quân Mãn kia.

Cảo nghe xong lại thở dài, rồi đưa cao tay vỗ vào vai Đĩnh, nói:

- Lão đệ! Lão đệ còn chưa hiểu rõ nữa sao? Hiện nay quốc khố không dư. Đầy triều gần hết là bọn gian thần. Cái đám quân đội hỗn tạp như vậy mà cũng phải đến tám, chín tháng trời mới tập họp được thì làm gì có chuyện cho lão đệ huấn luyện đến hàng năm bao giờ. Đừng nói đến việc quốc khố hiện nay rỗng tuếch, mà chỉ nói đến chuyện chậm trễ thêm một năm, quân Mãn lại chả đánh dốc tới quan nội ấy ư? Việc đến lúc này, không còn nói thêm được nữa! Lão đệ! Hãy nể mặt tại hạ, cố gắng cùng nhau chịu đựng đi thôi.

Lưu Đĩnh vốn là một trang nam tử đầy nhiệt huyết, nghe xong lời Cảo, hăng hái đứng dậy, vỗ ngực mà nói:

- Nguyên soái đã nói như vậy thì mạt tướng cũng xin thí cái mạng tôm tép này một phen vì hoàng thượng, vì nguyên soái. Tuy nhiên…

Đĩnh nói tới đây ngập ngừng hình như có điều gì khúc mắc làm cho y băn khoăn, không hé môi được. Cảo thấy vậy lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi:

- Tuy nhiên… tuy nhiên cái gì?

Đĩnh liếc mắt nhìn Cảo một lượt, bỗng nước mắt chảy ròng ròng trên đôi gò má. Đến lúc đó, Cảo đã rõ đôi phần. Ông liền lấy tay vỗ vào ngực, vào bụng mà nói:

- Lão đệ! Hãy yên lòng! Lão đệ sợ phen này xuất quân bất lợi chứ gì? Nếu có điều gì thì chuyện gia đình của lão đệ, thượng quan sẽ thế lão đệ mà lo liệu.

Đĩnh vội bước lên vài bước, quỳ xuống nói:

- Như vậy thì nhận cho mạt tướng một lạy.

Cảo cũng quỳ xuống lạy đáp lễ rồi nói:

- Bọn ta hai người hãy kết nghĩa anh em với nhau đã.

Làm lễ xong, hai người đứng dậy cầm tay nhau, bốn mắt nhìn nhau mà cùng rơi lệ. Cảo trong lòng băn khoăn, tự nhủ: "Đại binh chưa xuất phát mà Đĩnh đã khóc than, đấy phải chăng là một điềm chẳng lành?".

Nghĩ vậy, Cảo vội khuyên Đĩnh thôi khóc, kéo Đĩnh vào trong yết kiến vợ mình rồi ngồi vào bàn rượu giải sầu.

Ngày hôm sau, Cảo trước hết cho đưa vợ con Đĩnh vào phủ cùng ở với gia quyến mình, sau đó cùng thúc giục đại quân kéo thẳng ra quan ngoại.

Khi gần tới Thẩm Dương, Cảo truyền lệnh cho các tướng lĩnh tập họp để thảo luận quân cơ. Thám mã phi báo:

- Hoàng đế nước Kim đích thân chỉ huy Bát kỳ binh, mỗi kỳ bảy ngàn năm trăm người, ước vạn có sáu vạn quân cả thảy và cách quân ta không còn bao xa.

Nguyên soái Dương Cảo được tin, bèn rút lệnh tiễn hạ lệnh cho bọn Mã Lâm đem bản bộ binh mã hội họp với Diệp Hách, quân ước một vạn rưỡi, theo đường Khai Nguyên, Thiết Lĩnh mà ra Tam Soá rồi vào sông Tô Tử, phá rối mặt nam của địch.

- Chỉ cho phép hỗn chiến chứ không đối trận để dẫn dụ địch vào sâu miền nam. Được như thế thì công đầu thuộc các ngươi!

Mã Lâm được lệnh ra đi, Cảo rút cây lệnh tiễn thứ nhì, gọi Lưu Đĩnh lên trướng, bảo:

- Ngươi đem một vạn nhân mã hội họp với một vạn viên quân của Triều Tiên, theo đường Khoan Điện ra Đông Gia giang rồi tiến thẳng vào mặt nam thành Hưng Kinh. Nếu nghe được tin quân ở tây lộ khai chiến, ngươi sẽ theo đông lộ đánh nhử để cắt đường về của địch.

Đĩnh được lệnh, ra đi. Rút cây lệnh tiễn thứ ba, Cảo cho gọi Lý Như Bá lên trướng và dặn:

- Ngươi đem hai vạn rưỡi quân mã dọc theo Thái Tử hà ra Thanh Hà thành, rồi lại từ Nha Cốt quan đánh thắng tới sào huyệt Hưng Kinh của địch. Trong số ba lộ quân, lộ của ngươi gặp đường đá gồ ghề, hết sức khó đi. Bởi vậy ngươi phải ngày đêm ráng sức đăng trình, không được dừng chân, miễn sao tới sớm Hưng Kinh. Được vậy, công đầu cũng sẽ thuộc về ngươi nữa.

Bá đã ra đi, Cảo rút cây lệnh tiên thứ tư, cho gọi Đỗ Trung cùng Lưu Ngô Tiết lên trướng.

- Bọn ngươi đem ba vạn người ngựa theo đường từ Thẩm Dương ra Phủ Thuận quan, rồi dọc theo tả ngạn sông Hỗn Hà mà vào Tô Tử Hà, Hà Cốc để đương mặt chính của địch quân. Bọn ngươi phải hết sức cẩn thận, khi chiến đấu cũng như lúc hạ trại. Khi nghe tin quân mặt nam đã khai chiến, các ngươi mới được tác chiến, đem toàn lực mà xung kích, chớ có sai lời!

Bọn Tùng dạ dạ luôn mồm, nhận lệnh ra đi. Bốn lộ đã phân phát xong lúc đó Cảo mới viết chiến thư, sai người đưa tới Hưng Kinh. Mặt khác, Cảo phái Du kích quan sử An Nhân đôn đốc xe lương dọc đường, đồng thời trinh sát địch tình.

Trong số bốn lộ quân vừa kể, lộ của Mã Lâm hành quân nhanh nhất. Bởi vậy đại binh của Anh Minh hoàng đế nước Kim đang tiến phát về ngả Giới Phàm Sơn, bỗng được tin thám mã phi báo:

- Mặt nam sông Tô Tử thấp thoáng có bóng cờ quạt của quân Minh. Ngoài ra ba mặt tây, bắc và đông không có bóng địch quân.

Các bối lặc đại thần nghe tin đồng thanh tâu lên Anh Minh hoàng đế:

- Quân ta đang thẳng tiến về hướng tây. Nay địch quân lại từ mặt nam xông ngang vào hông. Như thế, trung quân của ta phải hứng chịu tiền quân của địch. E là điều "binh gia sở kỵ". Kính xin hoàng thượng truyền lệnh cho đại quân mau đổi hướng, quay mũi về phía nam mà tiến mới phải.

Đế nghe lời chư tướng, do dự một hồi rồi mời quân sư lên trướng. Phạm Văn Trình được lệnh truyền gọi, vội chạy vào trung doanh. Đế bèn đem quân tình tối khẩn ra kể một lượt cho Trình nghe. Trình suy nghĩ một lát rồi nói:

- Theo thiển ý của ngu thần thi quân ta không đi về ngả tây mà cũng khỏi quay về hướng nam. Tạm thời hãy đóng trại tại đây để chờ tin thêm hãy quyết.

Đế gật đầu mấy cái tỏ vẻ đồng ý rồi hạ lệnh dừng binh hạ trại, không được hành động. Một mặt sai nhiều đoàn thám mã đi tứ xứ trinh thám, điều tra địch tình.

Sáu vạn quân mã đang cấp tốc hành quân, bỗng được lệnh dừng lại khiến cho tướng tiên phong Hổ Nghĩ Hán bối rối chỉ còn biết giật đầu bứt tóc hậm hực nói:

- Quân địch đã ở trước mặt. Bọn ta chỉ còn tiếp gấp tới đánh cho mấy gậy là chúng toi mạng hết, há lại không thú sao? Cẳng đã không gãy, bệnh lại không nhuốm, không hiểu tại sao lại phải nằm bẹp tại đây? Phải chăng để bọn mình dưỡng sức cho khoẻ?

Bọn bối lặc nghe mấy lời có vẻ vừa tức vừa giễu cợt của Hán đều phá lên cười! Tưởng rằng đóng quân một hôm rồi đi, ai ngờ, nay chẳng đi, mai chẳng đi, mốt cũng chẳng đi, luôn một lèo mấy hôm chẳng đi, đại quân cứ nằm ỳ ra giữa lộ. Các tướng lĩnh lớn nhỏ, anh nào anh nấy đều thì thầm chửi rủa ổng quân sư họ Phạm.

Qua ngày thứ tư, thám mã khắp nơi tới tấp chạy về phi báo:

- Bắc lộ có một đạo quân Minh dọc theo Thái Tử hà đang tiến về Thanh Hà thành. Đông lộ cũng có một đạo quân tiến về ngả Khoan Điện. Tây lộ có một đạo quân tiến theo con đường nhỏ hoang vắng dọc sông Hỗn Hà. Độc chỉ có nam lộ, một đạo quân theo Khai Nguyên, Thiết Lĩnh, ngày đêm phất cờ hò hét tiến tới.

Anh Minh hoàng đế nghe tin báo, bèn hỏi quân sư họ Phạm xem bốn lộ nhân mã hành quân như vậy với mục đích gì. Phạm Văn Trình mỉm cười nói:

- Lộ quân Thanh Hà đánh thẳng tới Hưng Kinh mười phần khẩn yếu, nhưng con đường gồ ghề khó đi, hết sức trì chậm, cho nên trong lúc này Hưng Kinh quyết không có gì đáng ngại. Lộ quân mặt đông vốn chủ trương tấn công sau lưng quân ta. Nếu tiên phong của ta chiến thắng ắt đông lộ của địch tự lui. Còn như tây và nam hai lộ quân mã vụt tới, nhất là quân nam lộ lại tiến rất gấp thì thần thiển nghĩ, hai lộ quân này quyết chẳng phải thứ quân chủ lực, mà chỉ là nghi binh, dụng tâm mai phục để dẫn dụ quân ta tiến thẳng về nam. Quân ta càng tiến xa, càng sâu, lúc đó, chúng mới đem toàn lực từ tây lộ đánh thốc vào hậu trận của ta. Trong khi quân ta trước cũng như sau, lưng cũng như bụng đều bị địch tấn công, hai lộ quân đông và bắc địch sẽ rảnh tay kéo dốc tới Hưng Kinh, khiến quân ta cứu được đằng này thì lại hỏng mất mặt kia. Chúng ta quyết không thể trúng kế của chúng. Bởi vậy xin bệ hạ truyền lệnh chỉ, dùng năm trăm quân đóng chẹn những nơi hiểm yếu, cây cối um tùm rậm rạp của nam lộ, với những cờ quạt cắm rải la liệt. Thấy vậy, địch quân ắt không dám tiến mà chỉ đóng lì tại chỗ. Bệ hạ tự thống lĩnh Bát kỳ đại quân, đánh thẳng tới Phủ Thuận. Mặt này mới chính là quân chủ lực của Minh triều. Tây lộ một khi đã bị phá thì ba lộ quân kia chẳng cần đánh cũng phải hàng.

Trong khi quân sư họ Phạm thuyết trình kế hoạch, các bối lặc đại thần đứng vây xung quanh, lặng lẽ lắng nghe. Nghe đến đây, Hỗ Nhi Hán khoái quá, nhảy ra ngoài hàng, khoa chân múa tay rồi giơ cao ngón tay lên nói lớn:

- Kế của tiên sinh tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Vừa nói xong, Hán quay đầu nhìn lại thấy Anh Minh hoàng đế đang ngồi trên ngai cao, y biết lỡ lời, vội nằm bò xuống mặt đất dập đầu kêu binh để tạ tội.

Hồi 5

MÃN MINH ĐẠI CHIẾN TẠI HỖN HÀ

Vừa nghe xong kế hoạch của quân sư họ Phạm, Anh Minh hoàng đến như mơ ngủ bừng tỉnh, vội truyền lệnh để lại năm trăm quân đối phó địch quân ở mặt nam, một ngàn quân đối phó với giặc ở mặt Khoan Điện, còn tự mình thì kéo sáu vạn đại quân Bát Kỳ ngày đêm tiến gấp về hướng tây.

Chẳng bao lâu quân Mãn đã kéo tới Giới Phàm Sơn, ung dung hạ trại, xây đồn luỹ kiên cố. Lúc đó, tướng Minh là Đô Tùng và phó tướng là Lưu Ngô Tiết đem ba vạn quân đóng tại núi Tát Nhĩ Hử, đối diện với quân Mãn, chỉ cách có con sông Tô Tử.

Vị tướng họ Đỗ này thuộc loại dũng tướng. Tại nơi biên ải, ông đã trải dư trăm trận, không bao giờ tỏ ra sợ hãi, nản nhụt. Ông có cái tính hết sức kỳ quái là cứ mỗi lần giao chiến đều cởi bỏ hết quần áo ngoài, để lộ cả thân hình đen thui như đít chảo. Đao thương nếu có trúng, máu chảy khắp mình, ông cũng chẳng thèm để ý tới. Bởi vậy, toàn thân không có chỗ nào là không có vết sẹo đao, kiếm, thương, kích. Cái khoái nhất đối với ông là rượu. Mỗi khi say ông thường cởi hết y phục rồi chỉ từng vết sẹo trên mình, thuật lại những trường hợp bị thương mà đối với ông, là đáng hãnh diện lắm. Chiến công của ông thì oanh liệt như thế nhưng thực tế thì bao lần chinh chiến ông chỉ theo bên cạnh chủ soái chứ chưa từng được độc quyền chỉ huy bao giờ. Bởi vậy, lần này được đeo ấn tiên phong, đích thân chỉ huy đoàn quân tiên phong, ông cảm thấy sung sướng vô cùng, cho đó là một ân sủng hiếm có xưa nay, bèn đem quân vượt sông nghênh chiến, phó tướng Lưu Ngộ Tiết ngăn thế nào cũng không được.

Giữa lúc Tiết còn đang khuyên can thì quân Minh đã lấy thuyền qua sông đến quá nửa. Đỗ tướng quân có vẻ khinh khi Tiết, dặn bảo cứ việc ở lại giữ vững sơn doanh. Đỗ còn quát một tiếng lớn để giục toàn quân xung phong vượt đò cho lẹ.

Anh Minh hoàng đế ngồi lại trong trướng, được tin quân Minh đã vượt sông bèn để lại Giới Phàm Sơn hai kỳ binh mã, còn toàn quân năm vạn rưỡi người ngựa, hoàng đế đích thân chỉ huy, hạ lệnh lặng lẽ vượt qua mạn thượng lưu sông Tô Tử.

Lưu Ngộ Tiết y theo tướng lệnh, cố thủ sơn trại trên núi Tát Nhĩ Hử. Dọc sông tịch không có một tên quân nào canh giữ, chẳng ngờ Mãn quân sau khi vượt sông, ùn ùn như nước vỡ bờ kéo xuống. Lúc đó đã nửa đêm. Tướng sĩ Minh đang khểnh cẳng ngủ kỹ, chỉ nghe tứ phía một tiếng gầm vang như trời long đất lở, rồi thấy quân Mãn ùn ùn xông lên đỉnh núi. Tướng Tiết giật mình tinh dậy, thấy nguy, vội nhảy lên lưng ngựa, xông ra.

Đêm đó trời tối như mực. Mãn quân đốt đuốc, chia tám lộ xông lên, đứng xa trông chẳng khác gì tám con rồng lửa đang vùng vẫy bay lên trời. Tiết biết thế khó địch, bèn chọn hơn một vạn quân tìm hướng nào không có lửa sáng để xông xuống. Buồn thay cho Tiết tuy là tướng nhưng chưa bao giờ đặt chân tới quan ngoại, còn quân của Tiết lại đều là dân miền Giang Nam, chẳng biết tí địa thế nào ở vùng này. Trái lại Mãn quân thì kẻ nào cũng thuộc đường biết lối, chỉ chọn những đường lớn xông lên tấn công. Bởi vậy, nhiều quân Minh chỉ vì không biết đường nên chạy lạc vào lòng quân địch, bị đánh tơi bời, một manh giáp cũng chẳng còn. Hơn một vạn quân do tướng Tiết chỉ huy cũng chỉ vì không biết đường nên số thì nhào vào bụi rậm, số thì rớt xuống hang hốc, số nữa bị người ngựa đạp lên mà chết. Tướng Tiết xông bên tả, húc bên hữu, chạy cùng bốn phía tìm đường mà chẳng thấy đường! Tiết chạy suốt đêm, chạy đến người ngựa mỏi mệt. Rồi bỗng trong nháy mắt Tiết bị dây thòng lọng trói chặt, bị lôi tuột đến đại doanh của quân Mãn.

Bị điệu vào trước Anh Minh hoàng đế, Tiết thả sức chửi bới. Đại bối lặc cả giận vung đao chém Tiết đứt đôi ngay trước trướng.

Kết quả thật tai hại đối với quân Minh: ba ngàn quân chết, năm ngàn quân trốn biệt, một vạn quân bị bắt sống, quân Mãn bắt được cờ quạt, chiêng trống, ngựa lừa vô kể.

Tin đại bại truyền tới trại Đỗ Tùng. Tướng Đỗ hoảng hồn bạt vía, tay chân giật lên thon thót. Quân Đỗ vượt đò sang sông vẻn vẹn mất đúng một ngày trời. Tối đến, mưa lại đổ xuống như trút, khiến quân sĩ của Đỗ vừa ướt vừa lấm, vừa mỏi mệt lại vừa đói. Từ tướng đến quân, không một ai là không oán hận Đỗ. Mặc kệ, Đỗ vẫn cho quân tiến. Nhưng khi gần đến Giới Phàm, Đỗ thấy trong dinh địch không có ánh đèn đuốc nên đâm nghi, vội truyền lệnh dừng quân, rồi sai thám mã tiến trước thám sát.

Thám mã của Đỗ chưa thấy về, mà phía sau lại cấp báo đoàn quân trên núi Tát Nhĩ Hử bị tiêu diệt không còn lấy một tên. Đỗ vội truyền lệnh lặng lẽ lui binh về hữu ngạn sông Hỗn Hà. Đỗ tính như vậy vì cho rằng hữu ngạn sông Tô Tử thế nào cũng có địch quân ngăn chặn.

Lúc đó, đêm đã sang canh tư. Trên không mây đen che khắp. Trời tối như mực. Chỉ còn bóng nước sông Hỗn Hà là có chút sáng lờ mờ mà thôi. Đỗ vừa chạy vừa nghĩ bụng: May mà quân địch ở Giới Phàm Sơn không biết, chứ nếu biết, chúng đem quân đuổi đánh thì lúc đó, trước có sông lớn, sau có truy binh, mình không chết dưới đao kiếm thì cũng chết chìm dưới dòng nước. Càng nghĩ, Đỗ càng hú vía. Chẳng mấy chốc, toàn quân đã tới bờ sông Hỗn Hà. Đỗ hạ lệnh vượt đò sang sông.

Trời hửng sáng quân của Đỗ mới qua đò được có một nửa. Chính Đỗ cũng đã xuống thuyền ra giữa sông để xem xét. Thuyền bè lúc đó đầy nghẹt người ngựa, qua lại chi chít. Một nửa quân chưa sang kịp còn đứng cả trên bờ chờ đợi.

Bỗng phía sau bụi bay mù trời, tiếng hò hét vang dậy. Thì ra đám quân Mãn đông ước vạn rười đang xông tới như một trận cuồng phong, thấy người là đâm, thấy ngựa là chém. Thương hại thay cho quân Minh, rút chạy suốt đêm, vừa bị mưa gió đói lạnh vừa bị mệt mỏi kiệt quệ, nay lại gặp phải lúc quá nguy ngập, phía trước không có đường chạy, sau có truy binh.

Tướng Đỗ đứng ở giữa sông thấy quân Mãn vô cùng kiêu dũng, chạy nhảy ngang dọc như vào chỗ không người, mà quân mình thì bị tàn sát thê thảm, chỉ còn cách hô những thuyền quân trên sông chèo vội sang bờ bên kia trốn chạy mà thôi.

Lát sau, khi đã qua sông, tướng Đỗ chi thấy một bãi cát phẳng lì, xa tắp. Đỗ lúc đó mới tạm yên lòng. Quay lại nhìn đoàn quân, Đỗ chỉ thấy năm ngàn người ngựa tơi tả, thiểu não; không còn lập nổi hàng ngũ. Tuy mệt, nhưng Đỗ vẫn không dám dừng chân, dẫn quân chạy về phía tây. Chạy ước được mười lăm dặm, đám quân sĩ đã quá mệt vì đói, đứa thì nằm quay ra đường thiếp đi lúc nào không biết, đứa thì ngồi bệt xuống mặt đất rồi không đứng lên được nữa. Bọn tướng lĩnh đến dựng được đứa này thì đứa kia đã đổ xuống, cuối cùng đành khoanh tay vô phương. Tướng Đỗ thấy cảnh thê thảm đó lấy làm đau lòng, đành làm ngơ, mặc kệ chúng muốn sao tuỳ ý.

Nhưng giữa lúc mọi người đang nghỉ ngơi, bỗng một tiếng pháo hiệu nổ vang từ trong khu rừng vọng ra. Thế rồi, quân Mãn ồ ạt kéo tới, cánh tả có Đại bối lặc Đại Thiện, cánh hữu có Tứ bối lặc Hoàng Thái Cực. Chẳng còn kịp hô quân sĩ, tướng Đỗ vội mang theo Vương Tuyên và Triệu Mộng Lân cùng năm trăm thân binh nhảy lên ngựa chạy trốn như một vệt khói dài mất hút.

Hai vị bối lặc thả quân truy lùng lính nhà Minh quanh khu rừng. Quân Mãn mặc sức tung hoành, thẳng tay chém giết.

Tướng Đỗ cưỡi trên mình ngựa, giơ roi quất mạnh, chẳng còn phân biệt là đông, là tây, là nam, là bắc, cứ thấy đường là chạy. Khi tới một eo núi, Đỗ thấy bóng một chi quân mã xông ra. Rồi dưới bóng tán vàng lọng báu, Đô nhìn rõ ràng không phải ai xa lạ mà là Khả hãn Kiến Châu ngồi đường bệ và oai nghiêm trên lưng con bạch mã cao lớn, bên tả có đại tướng Hỗ Nhĩ Hán, bên hữu có quân sư Phạm Văn Trình.

Hỗ Nhĩ Hán thúc ngựa tiến lên bảo Đỗ Tùng:

- Bọn ta đợi ngươi ở đây đã lâu. Ngươi hãy mau dâng cái đầu lên đi!

Tướng Đỗ biết thế nguy, vội quay đầu ngựa chạy ngược lại. Phía sau quân Mãn đuổi theo như gió. Đỗ hoảng quá chẳng còn nghĩ đến việc chọn đường, cứ phóng ngựa như bay vào con đường nhỏ hoang vắng dưới chân núi. Chạy được hai mươi dặm, Đỗ gặp một ngọn núi cao chặn mặt.

Ngọn núi cao chót vót, vách núi lại dốc đứng. Đỗ không còn biết đi đường nào. Đến lúc này, Đỗ biết rằng tính mệnh mình khó toàn. Bởi vậy Đỗ quay vụt đầu ngựa lại, quát lên một tiếng rồi xông tới đối đầu với quân Mãn. Thế là hai tướng ác đấu. Đỗ đem tận lực bình sinh xông tả, chém hữu. Quân Mãn không đầy một giờ mà chết cũng khá bộn. Nhưng Vương Tuyên, Triệu Mộng Lân cũng không thoát chết dưới lưỡi dao của Hỗ Nhĩ Hán. Đỗ nổi giận sôi gan, phóng ngựa lại ác chiến với Hán. Giữa lúc đó, một viên tiểu tướng của Mãn quân phóng lén một mũi tên trúng ngay giữa yết hầu của Đỗ. Chỉ nghe một tiếng "ối chao", rồi cả thân hình to lớn đen đủi của Đỗ đổ xuống như một cây thịt.

Ngọn núi này tên gọi ngọn Chước Cầm. Còn viên tiểu tướng quân vừa bắn chết Đỗ Tùng đó chính là cậu con trai thứ mười ba của Anh Minh hoàng đế nước Kim, tên gọi Lại Mộ Bố. Bố vâng lệnh phụ hoàng đem hai ngàn người ngựa chờ đợi tại Chước Cầm sơn nên mới có chuyện chẳng may cho Đỗ.

Đỗ Tùng đã chết. Hai tướng Mãn chặt lấy thủ cấp, quay về đại doanh dâng công. Anh Minh hoàng đế luận công, thưởng cho đại bối lặc là lớn nhất. Những chiến lợi phẩm thu được đều phát thưởng cho tướng sĩ.

Minh tổng binh Mã Lâm đêm đó được tin toàn quân của tiên phong Đỗ Tùng đã bị tiêu diệt, bèn hành quân tới Thượng Gián Nhai, đào hào đắp luỹ mười phần kiên cố để tử thủ. Đại bối lặc Đại Thiện sau khi uống rượu khánh công, bèn tâu với Anh Minh hoàng đế xin ba trăm kỵ binh ruổi tới Thượng Gián Nhai để diệt Mã Lâm.

Tướng Lâm thấy quân Mãn kéo tới, bèn dàn pháo binh bên ngoài doanh, còn kỵ binh cho ở bên trong. Lâm còn sai Phan Tôn Nhan đem một cánh quân đóng tại núi Nghi Phấn về phía tây cách doanh trại ba dặm để làm thế ỷ dốc.

Đại quân của Anh Minh hoàng đế lục tục kéo tới, hợp với quân của Đại bối lặc. Thám mã phi báo:

- Vùng Ngạc Mạc, có tả dự của quân Minh, trung lộ hậu dinh là Cung Niệm Toại và Lý Hy Bĩ thống lĩnh bộ, kỵ binh một vạn, dùng đẳng bài (khiên mộc bằng mây, song) bày trận che bên ngoài đại quân.

Kim đế được tin, liền dặn Đại bối lặc trông coi đại doanh rồi tự mình cùng Tứ bối lặc đem một ngàn người ngựa đi quan sát cánh quân của Toại. Tứ bối lặc thấy doanh trại của quân Minh vây tròn như một bức tường thành, bèn quát bảo phóng tên lửa. Trong chốc lát, tên lửa phóng ra như mưa, chẳng khác gì nhưng con hoả long bay vọt sang trại của quân Minh.

Trại Minh bắt lửa, chảy đỏ rực trời. Tứ bối lặc gầm lên một tiếng lớn, phóng ngựa lên trước. Quân sĩ ở phía sau cũng lao mình xông lên. Quân Minh vừa bị tấn công kịch liệt, vừa bị đằng bài, hào luỹ cản thân không tìm được lối thoát, chết đến quá nửa dưới đao kiếm của quân Mãn. Lý Hy Bí, Cung Niệm Toái, đem tàn lực chống cự cho đến chết.

Anh Minh hoàng đế đứng trên gò cao nhìn xuống quan sát trận thế, thấy con trai mình xông vào quân địch như vào chỗ không người, trong lòng lấy làm sung sướng cực độ. Bỗng một kỵ mã phi vụt tới đưa tin:

- Đại bối lặc đang cùng với Mã Lâm tử chiến.

Anh Minh hoàng đế được tin, bỏ Tứ lặc đấy, vội quay về đại doanh, chỉ thấy quân đội của Mã Lâm trú đóng tại dưới chân Thượng Gián Nhai. Hoàng đế hạ lệnh cho quân sĩ theo phía núi khuất bóng cây bò tới, còn mình đích thân trèo lên núi phất cờ đỏ chỉ huy quân Mãn xông xuống chân núi. Hai bên ác chiến, nhưng quân Minh xem bề khó địch nổi, đã tính quay lui. Giữa lúc gieo neo đó, Đại bối lặc lại thống xuất một vạn thiết kỵ từ mặt chính diện xông tới. Thành thử quân của Lâm bụng, lưng đều chịu địch, chẳng dám đánh mà tự trốn; quân Kiến Châu của nước Kim đuổi giết một trận khiến quân Minh tan tác tơi bời, gần như không còn một manh giáp. Phó tướng Ma Nham của triều Minh cùng một số tướng sĩ đều bị trận vong, duy chỉ có Mã Lâm là thoát được mà thôi.

Lâm hốt hoảng chạy trốn. Đại bối lặc rượt theo. Quân Minh mỗi lúc một thua, cuối cùng coi như chết sạch. Lúc đó, Tứ bối lặc cũng đã đắc thắng trở về. Hai cánh quân hợp lại làm một, rồi quay về hướng ngả Phi Phấn Sơn để tấn công Phan Tôn Nhan.

Địa thế Phi Phấn Sơn rất hiểm trở. Anh Minh hoàng đế hạ lệnh kỵ binh xuống ngựa, tấn công ngược lên núi. Từ trên núi cao, quân Minh bắn hoả pháo xuống. Quân Mãn chết khá nhiều. Đại bối lặc và Tứ bối lặc đành quay về ngự doanh điều động một đại đội cung nỏ tới ứng chiến. Hai bên giáp chiến, tên bay như cào cào từ dưới lên. Nhưng trận cước quân Minh vẫn vững chứ không xao động. Quân Minh có lợi thế trông thấy.

Tướng Mãn Hỗ Nhĩ Hán thấy dùng sức mạnh tấn công khó bề thủ thắng, bèn đem một ngàn tay đao tinh luyện, theo đường nhỏ phía sau núi đánh bọc hậu trại địch. Khi lên gần tới nơi, Hán cùng với đám quân sĩ gầm lên một tiếng lớn vang động cả sơn cốc rồi xông vào trại Minh chém giết.

Quân Minh đại loạn.

Quân Mãn dưới chân núi thấy địch quân trên núi rối loạn, trận cước đã xao động, lại nhất tề liều chết xông lên. Phan Tôn Nhan vốn là một dũng tướng, bất chấp rối loạn ở mặt sau vẫn quyết liệt cầm cự ở mặt trước. Khi thấy quân Mãn đã tiến tới lưng chừng núi, Nhan hạ lệnh quân sĩ phóng hoả pháo tới tấp xuống, quân Mãn rụng như sung. Chỉ trong chốc lát mà quân Mãn đã tử thương ít ra cũng đến vài ba ngàn. Nhan chiến đấu vô cùng dũng cảm. Mãi tới khi quân Mãn do Hỗ Nhĩ Hán chỉ huy chiếm cứ được đỉnh núi, Nhan vẫn còn đích thân khai pháo oanh kích rầm rầm. Quan Mãn đã kéo tới sau lưng Nhan vẫn khai pháo. Nhưng rồi khẩu đại pháo bị quân Mãn hất tung đi, đồng thời ném cùng cả xác Nhan theo xuống chân núi, lúc đó người ta mới không nghe tiếng nổ ầm ầm nữa.

Toán quân của Mã Lâm coi như hoàn toàn bị tiêu diệt.

Hồi 6

LUI VỀ BẢO VỆ KINH ĐÔ

Diệp Hách bối lặc là Kim đài Bố Dương Cổ vốn đã ước định với Minh triều đem ba ngàn quân tiêu diệt quân đội Kiến Châu. Cổ vừa đưa quân tới Trung Cổ thành miền Khai Nguyên thì được tin chiến bại của quân Minh. Cổ hoảng hồn bạt vía, vội cuốn cờ bịt trống lặng lẽ trốn về.

Đến lúc đó coi như Anh Minh hoàng đế đã phá tan được hai lộ quân của Minh triều. Quân sư Phạm Văn Trình bèn tâu:

- Tâu bệ hạ! Xin bệ hạ cấp tốc hành quân về phòng về Hưng Kinh, đó là điều tối khẩn.

Anh Minh hoàng đế nghe lời bèn hạ lệnh thu thập Bát Kỳ binh mã hồi quân tới Cổ Lặc ban mới tạm nghỉ.

Tổng binh quan của nhà Minh lúc đó là Lưu Đĩnh và Lý Như Bá, cùng hai chỉ quân do hai tướng Đổng Ngạc và Hổ Lan tiến binh, không còn xa Hưng Kinh là mấy.

Tin tức báo về đại dinh quân Mãn. Anh Minh hoàng đế liền phong Hỗ Nhĩ Hán làm tiên phong, đem một ngàn người ngựa đi suốt đêm ngày về trước để bảo vệ Hưng Kinh. Quá ngày thứ hai, hoàng đế lại cho Nhị bối lặc đem bản bộ binh mã bà ngàn tên tiếp ứng. Còn chính mình thì cùng với các bối lặc đại thần văn võ bá quan về Giới Phàm Sơn để cùng làm lễ Khai Tuyền, chém tám đầu trâu tế cờ cáo trời.

Đại bối lặc thấy Nhị bối lặc đã đi rồi, sợ em đoạt mất công đầu vội tới tâu phụ hoàng xin đem hai mươi kỵ binh đi trước để do thám tình hình. Anh Minh hoàng đế gật đầu cho đi. Tam bối lặc thấy anh cả được đi cũng có ý muốn theo. Tứ bối lặc lúc đó đang đi săn ở sau núi, được tin hai anh mình sắp ra trận, vội chạy về xin cha cho theo. Hoàng đế thấy vậy, lấy làm vui mừng, bèn kéo Tứ bối lặc vào lòng, mà bảo:

- Con ngoan của cha! Hai anh con đi cả. Con ở lại trong dinh bầu bạn với cha có phải vui không?

Tứ bối lặc lòng vốn nhớ nhà từ lâu, khẩn khoản cha ba, bốn lần để được về Hưng Kinh trước. Thế là cả ba anh em được phép cha cùng lên đường.

Được tin bốn vị bối lặc trở về, các bà phi từ trong cung gọi vào và vây lấy hỏi thăm tin tức nơi quan ải chiến binh.

Bốn vị bối lặc vui mừng cực điểm, khoa chân múa tay, đem tất cả tình hình nơi chiến trường kể lại một lượt. Các bà nghe xong vừa mừng vừa sợ.

Trong số bốn bối lặc có mặt lúc đó, chỉ có Tam bối lặc Mãng Hỗ Nhĩ Thái là còn có mẹ. Bởi vậy khi bà Phú Sát thị ngồi nghe tới lúc xuất thần, bèn kéo con lại gần mình mà bảo:

- Chả trách mà mẹ thấy tim gan hồi hộp, nhiều lúc trống ngực tự dưng cứ thình thịch.

Kẻ đẹp trai nhất phải nói là Tứ bối lặc Hoàng Thái Cực, mẹ chàng là bà Diệp Hách thị tuy đã mất sớm, nhưng chàng có cái sắc tướng tươi trẻ đáng yêu nên ai cũng thích cũng chiều.

Các bà phi trong cung không ai là không quý mến chàng, nhất là bà Ô Lạp thị. Bà này lúc nghe kể chuyện quá hứng thú, cứ cầm lấy tay Hoàng Thái Cực mà xuýt xoa nói:

- Chả trách gì ta cũng thấy tim gan nó hồi hộp ghê gớm mấy bữa nay!

Hoàng tử thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn thấy mẹ yêu quý anh Tư cũng vội chạy tới nằm vào lòng mẹ. Bà Ô Lạp một tay thì cầm tay Đa Nhĩ Cổn, còn một tày thì nắm tay Hoàng Thái Cực. Cả nhà nhướng mắt nhìn bà và hai cậu hoàng tử đẹp trai mà tấm tắc ngợi khen. Đa Nhĩ Cổn tuổi tuy còn nhỏ nhưng xem bề sắc diện còn có phần bảnh trai hơn anh đôi phần.

Đại bối lặc cùng Nhị bối lặc nhìn quang cảnh đó bỗng nhiên nhớ tới mẹ mình, bất giác thấy chua xót trong lòng, đôi mắt rưng rưng ứa lệ. Hai anh em vội quay đầu chạy ra khỏi cung.

Trời hừng sáng. Bỗng tiếng pháo liên châu nổ vang ngoài thành rồi trống, còi vang lên. Mọi người đều biết xa giá hồi kinh. Thế là trong thành, từ lớn chí bé, từ dân đến quan, ai nấy đều vội vã ra khỏi thành đón rước.

Anh Minh hoàng đế về tới cung. Bà Ô Lạp vội bày yến tiệc để hoàng đế đón gió. Lúc đó trong doanh có bắt được mấy trang mỹ nữ của Minh triều. Được lệnh, họ phải vào cung. Các bà phi và các nàng công chúa thấy phía dưới quần họ lộ một đôi chân nhỏ bé xinh xinh, ai cũng đều lấy làm lạ. Các bà, các nàng tò mò, vây quanh họ, cởi bỏ đôi hài của họ, nắm đôi bàn chân xoay đi xoay lại để xem xét khiến họ mắc cỡ đến mặt đỏ tía tai, không cất đầu lên nổi nữa.

Bọn cung nữ được lệnh đưa mấy cô gái đẹp người Hán từ trong phòng tắm ra để trang điểm. Rồi ngay đêm đó họ được đưa vào cung để phục thị hoàng đế. Anh Minh hoàng đế thấy mấy cô này vừa xinh đẹp lại vừa hiền hậu ngoan ngoãn nên rất sủng ái.

A Mẫn vốn hiếu sắc, nên đêm đó cố xoay cho kỳ được hai cô gái Hán đến phòng mình để hầu hạ mua vui.

Sáng hôm sau, cậu tới xin hoàng phụ và được cha phong thưởng cho hai nàng làm thị nữ của Mãn, đồng thời cũng phong cho mấy người đẹp của mình làm thứ phi. Cậu hoàng A Mẫn lúc đó liếc mắt so sánh người đẹp của mình với người đẹp của cha, thấy của mình thua kém xa nên có vẻ chờm bơm, cười nói đưa tình chẳng nể mặt hoàng phụ. Anh Minh hoàng đế thấy vậy làm giận lắm, tức tốc sai cung nữ đuổi Mẫn ra khỏi cung. Từ đó, Đế trong lòng có ý chán ghét cậu hoàng nhi A Mẫn, rất ít khi cho gọi vào gặp mặt.

Ngày hôm sau, Anh Minh hoàng đế lâm triều. Đại tướng Hỗ Nhĩ Hán xuất ban tấu lên:

- Tây lộ của Minh triều hiện đã theo đường Khoan Diện tiến tới Đổng Ngạc. Cư dân quanh vùng đều phải chạy trốn vào những nơi rừng sâu, núi thẳm. Tổng binh Lưu Đĩnh tung quân đốt làng, cướp của, giết chết dân chúng rất nhiều. Ngưu Lộc Ngạch Nhân, Thác Bao Ngạch Nhĩ, Nạp Ngạch Hắc Ất, ba người đã chỉ huy quân trú phòng năm trăm người tiến tới nghênh địch nhưng đều bị quân Minh bao vây khắp mặt, Ngạch Chân và Hắc Ất đã bị loạn quân giết chết, ba trăm binh sĩ cũng bị tàn sát theo. Thác Bảo thoát chết vội đem tàn quân chạy tới Hưng Kinh cầu cứu. Xin bệ hạ truyền lệnh cho đại binh cấp tốc tiến tới nghênh địch.

Vừa nghe rời tâu trình của Hán, Anh Minh hoàng đế vội hạ lệnh cho Đại bối lặc, Tam bối lặc, Tứ bối lặc điều khiển toàn bộ quân mã tới Đổng Ngạc trước để nghinh chiến. Lại sai Hỗ Nhĩ Hán đem một chi quân ẩn trong rừng sâu để ứng sách, chỉ lưu có bốn ngàn quân lại Hưng Kinh, chuẩn bị để địch với lộ quân của bọn Lý Như Bá và Hạ Thế Hiền.

Xuất quân lần này, Đại bối lặc làm đại nguyên soái, Tam bối lặc làm phó nguyên soái, còn Tứ bối lặc làm tiên phong nguyên soái.

Tứ bối lặc thống lĩnh hai ngàn quân mã, nhổ trại đi trước. Khi gần tới địa phận Phú Sát, tiên phong nguyên soái được thám mã phi báo:

- Quân Minh ở phía trước tiến dọc theo Đông Gia Giang, chỉ còn cách có mười sáu dặm.

Tử bối lặc hay tin hạ lệnh đóng trại tại nơi sơn cốc rồi cho gọi hai trăm tên quân Minh ở hậu doanh đều là những tên quê miền Chiết Giang lên trướng, thưởng cho rượu thịt và dùng lời ngon ngọt vồ về:

- Các ngươi hãy mặc binh phục của Minh triều vào rồi vác cờ Minh đi thẳng tới Đông Gia Giang, gặp Lưu Đĩnh nói dối rằng: Đỗ Tùng tướng quân đã đánh chiếm được Hưng Kinh cho nên sai chúng tôi tới đây đón tướng quân vào thành thảo luận quân cơ.

Lại còn bảo thêm:

- Các ngươi cẩn thận đi cho thành việc. Nếu lừa được Lưu Đĩnh tới đây, thì các ngươi được kể như chiếm công đầu. Lúc đó ta sẽ tha hồ cho các ngươi trở về Chiết Giang với vợ con, cha mẹ.

Bọn binh sĩ người Hán này nghe nói được về quê với gia đình, kẻ nào kẻ nấy cảm kích, liền hăng hái ra đi. Thế là cả bọn thay đổi Minh trang, vác cờ hiệu Đỗ nguyên soái, thẳng đường tiến tới Đông Gia Giang gặp Lưu Đĩnh.

Tướng Mãn Hỗ Nhĩ Hán lúc đó cũng đã đem quân tới hợp với quân của bốn bối lặc. Thác Bảo với cánh tàn quân cũng chạy về tới, xin vào yết kiến bốn bối lặc, rồi được giao cho nhiệm vụ trinh sát địch tình, bằng cách phóng quân len lỏi trong các khu rừng cây rậm rạp.

Lại nói tướng Minh Lưu Đĩnh xuất phát từ Thẩm Dương, theo đường Khoan Điện, chật vật lắm mới tới được Đông Gia Giang để tiến đánh Hưng Kinh. Đĩnh sợ Đỗ Tùng chiếm được Hưng Kinh trước, cướp mất công lớn của mình, nên đốc thúc quân sĩ ngày đêm tiến gấp. Đường xá ở đây lại hoàn toàn là đường núi gồ ghề hiểm trở cây cỏ hoang vu, gai góc mọc đầy. Gặp núi thì mở đường, gặp sông thì bắc cầu, quân sĩ chịu muôn phần mệt nhọc lao khổ. Chúng kêu khổ khắp trời. Khi tới Đổng Ngạc không chỉ mong mượn được nhà dân mà nghỉ ngơi đỡ mệt. Ai ngờ dân chúng nơi đây đã trốn chạy sạch, mười nhà thì đã tới chín không còn lại một cái gì! Khỏi nói đến trâu bô, dê gà, chó lợn, ngay cả nhà cửa cũng đã bị phá hoại hết sạch, không còn gì đáng giá. Quân Minh kéo tới, muốn tìm cái ăn, không có, muốn tìm chỗ trú cũng không. Tướng Đĩnh bực mình lắm. Bọn quân sĩ cũng cáu tiết, châm một mồi lửa thiêu rụi tất cả nhưng gì còn sót lại, nào cái nhà bẹp, nào cái giường hư, nào cái cầu tiêu mục nát, nào cái bờ dậu xiêu vẹo…

Lộ quân lại kéo đi. Một con sông lớn chắn ngang, vượt qua phía đông là miền Phú Sát. Đây vốn là nơi hội ước với quân Triều Tiên. Trước đó mười ngày Đĩnh đã sai Hải Cái Đao, Khang Ứng Kiền đem năm trăm bộ tốt đi trước để đón quân Triều.

Thế mà nay vẫn không thấy họ tới, ngay cả Kiền cũng chẳng thấy về, Đĩnh chẳng biết làm cách nào hơn, đành hạ lệnh cho đại quân đóng bên sông chờ khi hợp binh để tấn công.

Không ngờ chờ đã mấy hôm liền mà quân Triều văn biệt vô âm tín. Đĩnh không nhẫn nại được nữa, bèn lệnh cho quân sĩ mai ăn cơm sớm để canh năm vượt đò qua sông.

Giữa lúc quân Minh đang vội vã thu lượm doanh trại, bỗng một tiểu đội người ngựa đi đò từ bên kia sông sang, chiếc đi đầu rõ ràng thêu chữ Đỗ to tướng tung tẩy trước gió, trong ánh chiều vàng rực rỡ. Đĩnh cho gọi vào nhìn qua một lượt, quả nhiên đúng là quân của nhà. Đĩnh hỏi về Đỗ nguyên soái thì bọn quân Minh vừa tới kia báo bẩm:

- Trước đây ba ngày, Đỗ nguyên soái đã đánh chiếm được thành Hưng Kinh. Đô đốc Kiến Châu đã bị loạn quân giết chết. Đỗ nguyên soái hiện ở trong đô đốc phủ. Ông chỉ còn chờ Lưu nguyên soái ngài qua sông để tới phủ bàn tính việc thu phục các bộ lạc ở miền bắc.

Nghe xong, Đĩnh bất giác vừa giận vừa mừng, mừng vì bọn mọi Kiến Châu đã bị diệt, quan dân từ đây gối cao ngủ kỹ khỏi phải lo lắng gì, giận vì quân Triều Tiên chậm trễ để đến nỗi công đánh chiếm Hưng Kinh bị Đỗ Tùng cướp mất, uổng phí cái chức tiên phong nguyên soái. Hơn nữa, phen này xuất quân chẳng lập được chút công nào thì khi về gặp mặt quan kinh lược biết ăn nói làm sao.

Sau đó Đĩnh truyền lệnh sáng mai thong thả hành quân lên đường. Quân Minh tin chắc thắng trận nên vũ khí thảy đều gói lại vác vai giáp trụ cũng cởi bỏ, chỉ mong sớm vào thành an nghỉ ít hôm cho bõ những lúc gian khổ trên con đường gổ ghề hoang vắng của cái vùng quan ngoại khỉ ho cò gáy này.

Hồi 7

ĐÁNH HƯNG KINH, QUÂN MINH THẢM BẠI

Một vạn binh sĩ của Lưu Đĩnh đều là những tay khoẻ mạnh, tinh luyện. Chỉ vì băng rừng xẻ núi mở đường, chịu bao nỗi phong trần gian khổ, mười người thì đã có đến năm bắt đầu phát bệnh. Nay được tin Đỗ tướng quân chiếm được Hưng Kinh, sai quân tới đón vào thành nghỉ ngơi ít hôm, ai nấy nhảy lên vì sung sướng. Nào binh khí nào giáp trụ, họ đều gói lại vác vai, vui ca qua sông. Bọn lính Chiết Giang tới báo tin hôm trước, đi đầu dẫn lộ. Đoàn quân đi vừa được 20 dặm đường, phía sau bỗng có chiêng trống vang rầm. Rồi một chi quân đánh tới. Đây chính là chi quân của Tam bối lặc nước Kim. Đĩnh hoảng hốt lo sợ. Trong chốc lát, đám lính Chiết Giang biến đâu mất, không còn thấy một tên. May thay Đĩnh còn có năm trăm tên thân binh chưa cởi bỏ giáp trụ, bèn hô quay ngay lại, bày thành trận thế. Đĩnh quất ngựa tiến lên. Tam bối lặc tiếp chiến. Quân Kiến Châu kéo tới mỗi lúc mỗi đông. Hậu đội quân Minh lại không kịp mặc áo giáp, tình thế nguy cấp vô cùng!

Lưu Đĩnh biết gần đây có một ngọn đồi tên gọi A Bố Đại Lý, có thể đóng quân được, bèn truyền lệnh cho ba quân tướng sĩ rút vội về đóng tại đỉnh đồi rồi sẽ nghênh địch. Quân sĩ đi trước, Đĩnh đích thân áp hậu, vừa đánh vừa lui. Khi tới đồi A Bố Đạt Lý, quân Minh tiến thẳng lên đỉnh.

Nhưng vừa tới sườn đồi bỗng nghe từ trên đỉnh một tiếng pháo hiệu nổ vang rền. Tứ bối lặc cầm đầu một cánh quân vừa hò hét vừa xông xuống. Quân Minh lúc đó tay chưa lấy kịp vũ khí, mình chỉ mặc có nhuyễn giáp.

Từ trên đinh đồi, tên đạn bắn xuống như mưa. Quân Minh tránh tên, té ngửa ra sau, lăn nhào xuống chân đồi thây lấp kín cả các hố hốc. Tướng sĩ chân tay của Đĩnh chết đã mất quá nửa. Tình cảnh thật vô cùng bi đát. Trước đã không có đường tiến, sau lại có truy binh, Đĩnh đành phải lượm lặt tàn quân chạy vội về hướng tây.

Một dãy núi đằng trước. Hai ngọn chọc trời song song. Quãng giữa là một đường độc đạo ngoằn ngoèo như ruột dê. Đĩnh bèn hô quân xếp thành hàng một từ từ rút qua. Đĩnh đích thân đoạn hậu. Nhưng khi đoàn quân của Đĩnh ra khỏi eo núi được một nửa, địch quân bỗng từ phía tây chia hai cánh giáp công. Bên trái có Đại bối lặc Đại Thiện, bên phải có Hỗ Nhĩ Hán cắt hẳn đoàn quân Minh ra hai đoạn.

Đại bối lặc Đại Thiện vừa thấy Lưu Đĩnh, quất ngựa xông tới nghênh chiến! Đĩnh thấy Thiện, đôi mắt bốc hoả, răng nghiến kèn kẹt, tay múa đại đao chém tới. Hai tướng đại chiến ngay tại eo núi, một qua một lại, chẳng mấy chốc đã năm, sáu chục hiệp không phân thắng bại. Thiện bỗng bỏ Đình giữa lúc đang kịch chiến, chạy ra ngoài eo núi, Đĩnh tức giận đến cực độ, giục ngựa đuổi theo, nhưng quân Kiến Châu đã bốn mặt xô tới vây kín lại.

Đĩnh phóng ngựa xông đông phá tây, chạy qua chạy lại mong thoát trùng vây, nhưng rút cục vô phương. Thủ hạ binh sĩ theo sát Đĩnh thưa dần. Bốn mặt tên vẫn như cào cào phóng tới. Đĩnh múa tít cây đao gạt tên, đồng thời ra sức tìm đường trốn chạy. Bỗng một mũi tên vụt tới trúng ngay vào giữa mắt ngựa Đĩnh. Con ngựa đau quá cất đứng người lên cao, miệng hí lên rầm rầm, quật ngã Đĩnh xuống đất. Quân Kiến Châu xô tới bắt. Đĩnh nhanh tay, rút vội đao tự vẫn.

Đại bối lặc Đại Thiện cắt thủ cấp Đĩnh rồi quay ngựa đem bản bộ binh mã tiến thẳng sang miền Phú Sát. Bởi vì lúc đó Thiện đã được tin Khang Ứng Kiên đem một vạn quân Triều Tiên theo miền Phú Sát nam lộ kéo tới. Quân Triều Tiên mình đều mặc áo giáp giấy, đầu đội mũ dây liễu. Thiện biết vậy, nẩy sinh một kế, đợi tới nửa đêm, đích thân chỉ huy một ngàn kỵ binh, đem theo đồ dẫn hoả xông vào cửa trước trại địch mà khiêu chiến, còn cửa sau thì phóng hoả đất trại. Đêm đó, gió đông nam lại thổi mạnh. Ngọn lửa bốc lên, xông vào doanh trại, chỉ trong nháy mắt đã cháy rực khắp nơi.

Quân Triều Tiên áo giáp đều bắt lửa, chạy không thoát, bị chết cháy quá nửa. Số còn lại đều nám mặt sém mày, vội chạy ra khỏi trại, lại bị phục binh của Thiện bắt hết.

Ba cánh quân khác của Kiến Châu do Tam bối lặc, Tứ bối lặc và Hỗ Nhĩ Hán chỉ huy lúc đó cũng đã kéo tới, thấy vậy, liền bổ vây tứ phía, nhất loạt phóng tên vào.

Cuộc chiến kéo dài từ nửa đêm đến mãi trưa hôm sau, một vạn quận Triều Tiên kẻ chết vì lửa người chết vì tên, chỉ có Khang Ứng Kiên là người duy nhất chạy thoát mà thôi. Trong trận đánh này, quân Kiến Châu bắt được ngựa lừa, vũ khí không thể kể xiết.

Hỗ Nhĩ Hán đem đoàn quân chiến thắng mở đường đi trước, lại gặp một tiểu đội quân mã du kích Kiều Nhất Kỳ của Minh Triều. Hai bên tiếp chiến. Kỳ đại bại, chạy trốn. Hán đuổi theo.

Khi đuổi tới chân núi Cố Lạp Khố, Hỗ thấy trên núi một dãy trại binh có cờ Triều Tiên bay phất phới. Hán nghi ngờ, cho Nhất Kỳ chỉ là một tướng dụ địch. Nên không dám tiến, sai người báo tin cho đại bối lặc cùng tam bối lặc biết. Chẳng bao lâu cả ba bối lặc đều đem quân tới nơi họp binh một chỗ.

Lại nói Đỗ nguyên soái Triều Tiên tên Khương Hoàng Lập được tin quân Minh thảm bại, bèn cất trống giấu cờ, sai thông sự quan tới doanh trại quân Kiến Châu để xin đầu hàng và bày tỏ:

- Việc giúp Minh triều vốn chẳng phải bản ý của quốc vương tôi. Chỉ vì ngày trước quân Nhật Bản xâm lăng tiến vào chiếm cứ thành trì nên quốc vương tôi phải nhờ tới quân Minh để đẩy lui quân Nhật. Nay Minh triều đưa thư tới gọi quân nước tôi tới Khoan Điện, quốc vương tôi vì nghĩa chẳng tiện từ chối. Bởi vậy quốc vương tôi sai một vạn quân đồn trú tại miền Phú Sát thực ra bọn tôi chẳng biết phải đánh nhau với ai, mãi nay mới biết là với quân Kiến Châu của các ngài. Bon tôi đâu dám xúc phạm tới oai hùm của thượng quốc. Huống hồ một vạn quân binh của bọn tôi đã nhờ ơn thượng quốc giết cho bằng hết rồi. Do đó, nguyên soái nước tôi xin lập tức đình chiến để mưu cầu hoà bình cho hai nước.

Đại bối lặc Đại Thiện nghe xong, bèn cùng bọn Hỗ Nhĩ Hán thương nghị. Tứ bối lặc liền có chủ ý, sai thông sự quan đi theo người Triều Tiên trở về núi Cố Lạp Khố, đặt điều kiện với Lập:

- Nếu các ngươi muốn xin hàng, hãy giết hết bọn quân Minh còn lại trong trại, sau đó Đô nguyên soái Khương Hoàng Lập phải đích thân đến trại ta xin hàng. Bọn ta lúc đó sẽ vì đức hiếu sinh của trời đất mà tha cho các ngươi.

Thượng Hoàng Lập nghe thông sự quan nói vậy, không còn cách nào khác, bèn hạ lệnh cho bắt hết quân Minh trong trại rồi lao từng tên một từ đỉnh núi xuống, tay gãy chân què, máu me lênh láng, chết không kịp kêu. Quân sĩ Kiến Châu cắt thủ cấp Kiều Nhất Kỳ rồi đem theo Đô nguyên soái, phó nguyên soái của Triều Tiên về Hưng Kinh.

Về tới thủ đô Kiến Châu, Lập được vào yết kiến Anh Minh hoàng đế, vội bò rạp xuống đất, đập đầu kêu binh binh.

Anh Minh hoàng đế cho người nâng dậy, rồi bày rượu thịt ra ăn uống ở ngay điện bên cạnh. Đồng thời truyền lệnh tiệc để ăn mừng thưởng công. Đế cho mời tất cả các quan viên lớn bé tòng chinh vào ngự hoa viên uống rượu. Trong cung cấm, Đế cũng cho triệu tập các bà phi, các thái tử, công chúa, các phúc tần, mở một tiệc linh đình.

Các phi hôm đó có bà Phú Sát, bà Ô Lạp, bà Giác La, cùng các thứ phi. Bọn con cái thì có thái tử Đại Thiện, tam tử A Bá, tứ tử Thang Cổ Đại, ngũ tử Mãng Cổ Nhĩ Thái, lục tử Tháp Bái, thất tử A Bát Thái, bát tử Hoàng Thái Cực, cửu tử Ba Nhĩ Thái, thập tử Đức Cách Loại, thập nhất tử Ba Bố Hải, thập nhị tử A Tế Cách, thập tam tử Lai Nộ Bố, thập tứ tử Đa Nhĩ Cổn, thập ngũ tử Đa Lạt, thập lục tử Phi Dương Cổ. Tất cả đều ngồi quây quần trong cùng một chiếu rượu.

Anh Minh hoàng đế lúc đó vừa uống rượu vừa nghe ba vị Đại, Tam và Tứ bối lặc kể lại trận đánh, trong lòng rất lấy làm sung sướng. Ông vốn yêu người con thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn nhất. Thấy Cổn mặt mũi khôi ngô, tính tình nhu thuận, đầu óc lại thông minh, bọn các bà phi, các bà phúc tấn ở trong cung ai cũng đều ưa thích. Trong bữa tiệc Cổn chẳng khác gì một con bướm đùa hoa, chạy tung tăng khắp nơi, khi thì ngồi vào lòng bà phi này một lát, khi lại tựa vào gối bà phúc tấn nọ một chập.

Anh Minh hoàng đế uống rượu đến lúc quá hứng, bèn kéo Cổn vào lòng mình, lấy tay vuốt má Cổn mà hỏi:

- Mấy hôm nay con vẫn tập dượt cung tên đấy,chứ?

Cổn bĩu môi, nũng nịu đáp:

- Có chứ! Mấy hôm nay cứ độ canh tư là con trở dậy bắn cung đấy!

Vị sư phó ngồi gần tiếp lời:

- Cậu nhỏ tập chưa được tinh luyện. Còn phải cố gắng thêm nữa mới được.

Anh Minh hoàng đế mỉm cười nói:

- Chẳng cần cố làm gì! Chớ có dùng sức quá độ, e mệt con trẻ.

Giữa lúc hai cha con Đa Nhĩ Cổn trò chuyện với nhau, thì bà phi Ô Lạp lòng sung sướng như mở cờ bởi vì bà thấy con mình được chồng cưng chiều hơn hết. Bà vội rời khỏi ghế ngồi, uốn éo lưng ong, bước lại trước mặt nhà vua rồi vừa cười vừa nói:

- Bệ hạ đừng coi nó là một thằng bé mười tuổi nữa nhé! Nó đã theo sư phó học làm thơ Hán rồi đấy!

Anh Minh hoàng đế nghe đoạn, giơ cao ngón tay cái nhấn mạnh vào không khí để tỏ dấu khen ngợi:

- Thằng bé hay quá!

Thấy cha khen, Đa Nhĩ Cổn muốn trổ tài bèn chạy đi lấy ngay giấy bút, viết bốn chữ: "Tây giao thí tiễn" (Thi bắn ngoài cánh đồng mé tây), rồi sau đó, viết luôn một bài thơ tứ tuyệt như sau:

"Rừng tây cờ gấm phất phơ bay.

Tên thép cung vàng rợp bóng cây.

Một phát bay ngang hơn tia chớp!

Nào ai giỏi bắn dám so tài?"

Thơ viết xong, Cổn liền dâng cho cha xem. Anh Minh hoàng đế cười khà khà, tỏ vẻ đắc chí, nói:

- Thật là uổng! Cha mày làm đến thiên tử một nước mà chẳng biết lấy một chữ Hán này! Con của cha khá lắm! Mau dịch ra cho cha mày xem coi! Khà! Khà! Khà!

Cổn bèn đem ý tứ trong thơ giảng giải cho cha nghe một cách hoạt bát thông thạo. Cử toạ ngồi khắp điện, ai cũng đều phải vỗ tay khen giỏi!

Giữa lúc bà Ô Lạp hớn hở đắc ý về cậu con cưng của mình thì bà Phú Sát lòng chua như dấm, bực tức đến không thể chịu nổi. Bà đưa mắt nhìn hai cậu con mình. Mãng Cồ Nhĩ Thái được cha phong cho làm Tam bối lặc, trong lòng rất lấy làm cảm kích nên chẳng dám phóng túng bừa bãi. Duy chỉ có Đức Cách Loại không được cha phong cho làm bối lặc, nên có lòng oán hận đã lâu. Nay thấy mẹ biểu đồng tình với mình, nên lại càng vững chí, tính nhân dịp này mà xả bớt tức cho hả lòng phần nào. Nhưng Loại nhìn quanh chăng thấy ai cố võ tự cảm thấy cô độc, lại thôi không dám hé răng. Đúng lúc đó, Loại nghĩ ngay tới Tứ bối lặc là Hoàng Thái Cực vì biết Cực không ưa Cổn. Loại bèn lẻn tới sau lưng Cực kéo tay áo Cực, đưa mắt cho Cực. Cực quay lại thấy vậy cũng đưa mắt cho Loại tỏ vẻ đồng tình.

Hoàng Thái Cực vốn là con trai bà Thái phi. Cực giỏi võ nghệ lại có bộ mặt xinh trai. Tuy vậy Cực vẫn không thể nào đọ được với Cổn vì Cổn bảnh trai nổi tiếng, các bà phi trong cung cấm, ai mà chẳng khoái Cổn, Cực vì đó mà ghen tức.

Nay thấy Cổn vênh váo làm bộ quá đáng, Cực đột nhiên cả giận. Cực cậy mình có chiến công, chắc hẳn phụ hoàng cũng không nỡ rầy bèn nheo mũi khịt một tiếng rồi nhếch mép cười nhạt.

- Đó bất quá chỉ là đồ trẻ nít cợt đùa! Nước đại Kim ta lấy việc tung hoành thiên hạ trên lưng ngựa mà thành nghiệp lớn chứ đâu có cần tới cái đồ trẻ nít đó!

Mấy lời nói của Cực tuy rất quang minh chính đại nhưng đối với Anh Minh hoàng đế, ngài đã thấy rõ được sự ghen tức giữa hai đứa con mình. Đế tự nhủ ghen tức chẳng phải là điều tốt, tính rầy la Cực. Khốn nỗi Cực cũng là cục cưng của ngài, hơn nữa Cực lại chơi thân với khắp văn võ bá quan trong triều, đồng thời lại vừa mới lập được chiến công. Cho nên ngài thấy chẳng tiện thực hiện ý mình. Ai ngờ Cực vừa nói xong thì bên kia, Loại đã lên tiếng. Loại vừa cười nhạt vừa nói giễu:

- Mấy câu thơ đó nghe đã quá quen mà! Sư phó ta cũng đã dậy ta từ lâu. Phải chăng mày đã chép lại trong sách nào đó để đem lừa dối phụ hoàng?

Cổn vốn chỉ là một đứa trẻ nít. Hắn nghe hai anh chém cụt hứng của mình, liền méo xệch mồm, oà lên khóc. Bà Ô Lạp vội vàng chạy lại kéo đi. Anh Minh hoàng đế tức quá, đôi mày dựng ngược lên, quát Loại:

- Hai anh em mày khinh nó trẻ nít phải không. Chỉ một chuyện nhỏ đó mà chúng mày cũng không chịu nhường nhịn, thử hỏi tương lai rồi đây sẽ ra sao?

Câu mắng của ông khiến bọn thất tử ngồi trong điện câm miệng lặng thinh. Ông truyền lệnh chỉ đuổi Loại ra khỏi cung và từ nay, phải có lệnh tuyên triệu mới được vào. Chỉ đó truyền xong, các thái tử mặt người nào người nấy cũng xám ngoét, rồi chả ai bảo ai, lần lượt rút êm ra khỏi cung cấm. Duy có Cực trong lòng bất phục. Bởi vậy, Cực mua chuộc văn võ bá quan, kết bè lập đảng để thủ thế. Đó là chuyện về sau.

Lại nói quan Kinh lược sứ nhà Minh là Dương Cảo ở Thẩm Dương lần lượt được phi báo ba lộ quân mã đều bị tiêu diệt thì hoảng hồn bạt vía, tay chân run lên bần bật. Một mặt ông viết sớ tâu về triều cho Thần Tông hoàng đế rõ sự thể, một mặt truyền lệnh cho Tổng binh Lý Như Bá đóng tại thành Thanh Hà lập tức rút quân về Thẩm Dương để bảo vệ thành trì.

Cuộc chiến tại Tát Nhĩ Hữ sơn này, Minh triều chết mất cả thảy tám vạn tám ngàn năm trăm chín mươi tên quân và hơn ba trăm mười viên tướng. Quân Triều Tiên cũng bị chết cháy theo mất đến hơn một vạn.

Một việc làm cho Cảo băn khoăn mãi chẳng yên, đó là thi hài của người anh em kết nghĩa Lưu Đĩnh. Cảo bèn sai năm mươi tên quân lẻn đến chân đồi A Bố Đạt Lý tìm xác Đĩnh đem về. Cảo lại sai thợ mộc dùng gỗ mộc hương làm một cái đầu người lắp vào cổ cụt của Đĩnh, mua sẵn một cỗ quan tài thượng hạng, khâm liệm rồi đích thân đưa vê Bắc Kinh.

Vợ con Đĩnh trông thấy quan mộc, khóc đến chết đi sống lại nhiều lần. May có Dương phu nhân vốn là chỗ thân tình đem lời lẽ hơn thiệt khuyên giải nên họ cũng nguôi dần. Từ đó, con cái Lưu Đĩnh ở lại trong phủ Dương Cảo. Dương phu nhân đem con gái mình hứa gả cho Lưu công tử. Hai gia đình trở thành sui gia, và Lưu phu nhân cũng có chỗ nương nhờ.

Minh triều từ khi bị một vổ chua cay, chết binh mất tướng một cách tai hại, chỉ còn biết giữ quan ải, không dám can thiệp đến chuyện quan ngoại nữa. Anh Minh hoàng đế bèn lợi dụng cơ hội tết đó chiếm Khai Nguyên thành, phá Thiết Lĩnh thành, đánh bại quân Mông Cổ Khách Nhĩ Khách, bắt sống tù trưởng Tể Trai. Đại tướng Hỗ Nhĩ Háp còn tâu với Kim đế:

- Diệp Hách bộ chủ trước đã chối bỏ cuộc cầu hôn của ta, nay lại giúp Minh triều để đánh bại ta. Cái hận ấy không thể không báo. Xin bệ hạ xưống lệnh chinh phạt.

Anh Minh hoàng đế nói:

- Trẫm đâu có quên cái thù của Diệp Hách. Chỉ vì Diệp Hách bộ chủ vốn có cái tình cậu cháu đối với Tứ bối lặc của ta. Nếu ta đem quân chinh phục, e khó coi về mặt bà con thân thích!

Đại bối lặc Đại Thiện lúc đó ngồi bên cạnh, vội đứng phắt dậy nói:

- Xưa nay thường nói: Vì đại nghĩa mà diệt thân tình. Chúng ta là những người muốn tạo nghiệp lớn há lại quá lo lắng đến điều nhỏ nhặt đó ư?

Anh Minh hoàng đế nghe Thiện nói, gật đầu luôn mấy cái, bèn bảo:

- Ừ, nói thế cũng phải!

Thấy cha tán đồng ý kiến của anh, Tứ bối lặc liền xin cha cho làm tiên phong nguyên soái, đem một vạn người ngựa đi trước. Anh Minh hoàng đế đích thân đem hai vạn quân lên đường theo sau; cái bối lặc đại thần cũng đều có mật trong dinh để nghe lệnh điều động.

Hồi 8

LIÊN MINH MÔNG MÃN

Diệp Hách bộ chủ có hai anh em, một là Kim Đài Thạch đóng đô tại Đông Thành, hai là Bố Dương Cổ đóng đô tại Tây thành. Hai anh em nhà này, từ khi thấy quân Minh đại bại bèn vội vã đem quân trốn về bản bộ. Họ đêm ngày lo phòng bị, sợ quân Kiến Châu tới đánh bất thần. Quân Kiến Châu quả tới đánh họ thật.

Anh Minh hoàng đế đích thân công phá Đông Thành, sai bọn bối lặc đánh chiếm Tây Thành. Ông vây đánh đến ngày thứ ba thì phá được ngoại Đông Thành. Lòng ông vẫn còn băn khoăn về tình nghĩa cậu cháu, bèn sai quân sĩ hô lớn:

- Kim Đài Thạch hãy mau mau ra hàng, ta sẽ tha chết cho ngươi.

Thạch đứng trên địch lâu ngang nhiên đáp lại:

- Nỗ Nhĩ Cáp Tề! Mi chớ nói điều đó. Ta đây, mi không thể ví với bọn Minh được. Ta cùng ngươi đều là người Mãn, đều là những bộ chủ anh hùng. Ta há lại khoanh tay chịu nhục. Đầu hàng mi thà tứ chiến còn hơn!

Thạch nói đoạn, tức thì gỗ đá từ trên thành lao xuống như mưa. Quân Kiến Châu bị đả thương, đầu vỡ máu chảy, nằm gục chết dưới chân thành vô số.

Anh Minh hoàng đế cả giận, tự lay mạnh cây lệnh tiễn, quất ngựa nhảy lên trước trận. Quân sĩ ở phía sau ùa vào, quân Diệp Hách liều mạng kháng cự. Thạch một tay kéo vợ, một tay bế đứa con trai nhỏ, ẩn tránh trên đài cao, quân Kiến Châu váy kín toà đài khắp bốn mặt, miệng hô lớn:

- Kim Đài Thạch, hãy mau mau xuống đầu hàng.

Thạch đứng trên đài cao nói vọng xuống:

- Tứ bối lặc của mi vốn là cháu ngoại ta. Nếu muốn ta đầu hàng, bọn mi hãy mời Tứ bối lặc lên cho ta gặp, lúc đó ta sẽ xuống hàng.

Anh Minh hoàng đế nghe lời Thạch nói bèn hạ lệnh cho quân sĩ lùi xa hơn tầm tên, lại sai người tới Tây thành gọi Tứ bối lặc. Tứ bối lặc chạy tới chân đài miệng kêu cửu phụ, Thạch vẫy tay bảo lên đài. Giữa lúc Tứ bối lặc tính leo lên, một tên thị vệ đứng cạnh nhanh mắt nhìn thấy Thạch có vẻ mặt hung ác vội chạy lại rỉ tai bảo: "Bối lặc, đừng! Không nên. Ngài có nhìn thấy sắc mặt của hắn thế nào không? Lòng hắn nhất định chứa ngầm ác ý".

Được nhắc nhở, Tứ bối lặc tỉnh ngộ, vội dừng lại, nói với Thạch:

- Cháu hiện đã có mặt tại đây. Cửu phụ hãy mau xuống đài đi!

Thạch cười nhạt bảo:

- Mày đã không chịu lên đài, tao lại chưa từng biết mặt mày thì làm sao bảo tao tin mày đích thị là cháu ngoại tao. Bới vậy tao đâu có dại gì mà xuống.

Viên đại thần Phí Anh Đông, Ngạch Phò Đạt Nhĩ Cáp lúc đó đứng cạnh thấy vậy, quát lớn:

- Mi hãy thử nhìn xem trong đám người thường có ai là kể ngôi ngô anh tuấn như Tứ bối lặc của bọn ta không. Xuống thì xuống đi, bằng không ta sẽ đốt cháy rụi đài.

Thạch lại nói.

- Con trai ta là Đức Nhĩ Cách Lặc, nghe nói nó bị thương ở nhà. Bọn ngươi hãy gọi hắn tới đây để cho cha con ta gặp nhau, lúc đó hãy tính chuyện mời ta xuống đài.

Một lát sau, Lặc lên đài gặp cha, bèn nói:

- Việc đã đến nước này, có giữ một cái đài cao thực cũng vô ích lắm! Cha con ta nên mau xuống bái kiến Anh Minh hoàng đế, hoặc giả ngài nể tình thân thích mà tha mạng cũng chưa biết chừng.

Thạch thấy con khuyên hàng bất giác nổi giận tuốt ngay cây bội đao chém tới. Bà Phúc Tấn, vợ Thạch, giật mình, vội chạy tới ôm chầm lấy con. Lặc thấy cha nhất định không chịu đầu hàng đành gạt lệ trở xuống. Vợ Thạch biết chồng cố chấp không chịu cũng bế đứa con nhỏ xuống theo, ba mẹ con Lặc chạy đến trước mặt Anh Minh hoàng đế dập đầu khóc lóc thảm thiết. Kim đế lấy lời lẽ ngọt ngào khuyên dỗ, lại thưởng rượu thịt cho ba mẹ con ăn uống. Ngài còn sai Tứ bối lặc ngồi hầu rượu rồi dặn bảo:

- Họ là anh em, là cửu mẫu của con. Từ nay về sau, con phải có biệt nhãn với họ.

Phí Anh Đông thấy Kim Đài Thạch nhất quyết không chịu hàng, bèn quát sai quân sĩ đánh tới. Quân Kiến Châu được lệnh, vác búa chặt cột. Thạch ở trên đài cao phóng hoả đốt đài. Chẳng mấy chốc, ngọn lửa bùng bùng bốc cháy, khắp đài đỏ rực Quân Kiến Châu ngẩng mặt, đứng nhìn chung quanh thành vòng. Đài cao bị cháy quá nửa, liền đổ ụp xuống.

Chân đài gãy đổ tan tành. Quân Kiến Châu nhảy tới bắt Thạch trói lại, rồi dùng dây thắt cổ chết. Anh Minh hoàng đế truyền chỉ dùng quan quách thượng hạng khâm liệm rồi đem chôn cất tử tế. Đông thành thất thủ, trong khi Tây thành bị bao vây cấp bách.

Bố Dương Cổ được tin Đông thành đã bị phá tròng lòng lo sợ đến cùng độ. Cổ bàn tính với em là Bố Nhĩ Hàng Cổ xin hàng, nhưng lại sợ Kim đế không cho. Bà mẹ nghe được nói:

- Để mẹ xuất thành thương thảo thoả đáng với Đại bối lặc trước, rồi các con hãy ra hàng sau.

Nói xong bà mẹ Bố Dượng Cổ ra ngoài thành xin gặp Đại Thiện. Thiện thấy bà ngoại tới vội chạy vội ra đón vào một cách rất cung kính. Bà ngoại tổ của Thiện nói:

- Hai cậu của cháu muốn xin hàng nhưng lại sợ cha cháu không cho. Bởi vậy nhờ bà tới đây hỏi cháu xem sao.

Thiện nghe xong tức khắc nâng chén rượn đầy trên bàn lên uống một nửa, còn một nửa sai đem cho Bố Dương Cổ uống, rồi vỗ ngực nói:

- Thằng cháu ngoại này xin đảm bảo tính mệnh của các cậu được chăng.

Bố Dương Cổ uống cạn chén rượu rồi lại sai quân sĩ mở cửa thành, đón rước Thiện vào bàn tiệc.

Cạn chén được vài tuần, Cổ đem tình bà con thân thuộc ra nói, bất giác lệ trào xuống má như mưa. Thiện giục Cổ nên mau xuất thành đầu hàng. Cổ đứng lên, chạy vào nhà trong cáo biệt vợ con. Vợ Cổ nắm tay chồng khóc nói:

- Thiếp nghe nói Kim Đài Thạch đã bị quân Kiến Châu bức phen này nên khôn ngoan cẩn thận. Nỗ Nhĩ Cáp Tề lòng rất nham hiểm, sợ rằng hắn không có ý tốt thương tình.

Bố Dương Cổ gạt lệ chia tay chạy ra tiền viện. Cổ cùng tới em là Bố Nhĩ Hàng Cổ theo gót Đại Thiện tới đại doanh yết kiến Anh Minh hoàng đế Cổ nhớ tới lời vợ lúc lâm điện lúc nào cũng cẩn thận đề phòng. Cổ ngồi trên mình, ngựa chạy tới sát cửa doanh môn mà chẳng ai ra đón tiếp. Cổ đâm nghi, ghìm cương ngựa mà không dám xuống. Thiện vội chạy tới nắm lấy cương ngựa nói:

- Cậu thực chẳng phải một tay hảo hán. Việc đã quyết định có gì mà phải nghi ngờ.

Cổ miễn cưỡng xuống ngựa, tiến vào trướng. Anh Minh hoàng đế ngồi trên ngai từ lúc nào, mặt sắt đen sì. Hai bên, một đoàn quân thị vệ đứng hầu, hông đeo yêu đao, mắt trừng trừng canh chừng Cổ. Bầu không khí nghiêm trang lặng như tờ. Thật là oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng.

Cổ nhìn thấy cơ nguy, lòng mỗi lúc một sợ, vội quỳ xuống một chân, còn một chân phòng hờ. Hắn tự nghĩ nếu họ muốn giết ta, âu là ta vẫn có thể vùng chạy cho lẹ. Lát sau, Cổ chỉ nghe từ trên có lời ban xuống: "Thưởng rượu!". Tức thì một tên thị vệ bưng ra một chén rượu đầy đặt trước mặt Cổ. Cổ cúi nhìn chén rượu, trống ngực đập thình thình. Y tự nhủ: Đây là chén rượu độc chứ còn gì. Ta không thể nào uống được.

Nghĩ vậy nhưng Cổ vẫn giơ tay nâng chén rượu lên môi. Hắn dùng tay áo che khuất chén rượu rồi lẳng lặng đổ nhẹ xuống đất. Hắn chẳng lạy tạ mà cũng chẳng dập đầu, đứng phắt dậy.

Bỗng hắn nghe Anh Minh hoàng đế cười nhạt một tiếng rồi bảo đại bối lặc Đại Thiện:

- Hãy đưa anh em bà con mày về Tây thành đi.

Hai anh em Bố Dương Cổ vội lui ra, trở về Tây thành.

Bà Phúc Tấn, vợ Cổ nóng lòng mong đợi, thấy chồng trở về bình an vô sự, cả mừng cười nói vui vẻ, y như bắt được vàng.

Vợ chồng hai người sai bày tiệc ngay trong phòng thù tạc với nhau để trút nỗi lo âu đã bấy lâu đè nặng trong lòng. Chè chén đến mãi khuya, vợ chồng tan tiệc đi nằm, say giấc mộng lành đi gió về mưa.

Giữa lúc cả hai đang say sưa giấc điệp, bỗng có hai tên đại hán nhảy qua cửa sổ vào trong. Chúng cầm chiếc dây lớn tiến tới cạnh giường quấn chặt dây vào Cổ. Người ta chỉ nghe Cổ thét lên một tiếng rồi lịm bặt. Thì ra Cổ đã bị thắt chết, không trối được một lời. Bà vợ Cổ, giật mình tỉnh dậy trông thấy tình cảnh hãi hùng, khóc đến chết đi sống lại nhiều phen.

Bọn thị vệ của Cổ đã trốn hết từ lâu nên lúc đó chẳng còn ai nữa để can thiệp cứu giúp. Hai tên đại hán nép trong bóng tối chờ mãi khi Cổ đã chết hẳn mới phi thân qua cửa sổ biến mất.

Hai tên đại hán đó do lệnh của Anh Minh hoàng đế sai tới để ám sát Cổ. Ngài thấy Cổ thuộc loại ngựa bất kham khó điều khiển, và sợ hắn còn có ý phản, nên đã nhổ cỏ nhổ cả gốc cho đỡ lo hậu hoạ. Còn Bố Nhĩ Hàng Cổ thì được tha là bởi vì hắn không có gì đáng để cho Kiến Châu lo ngại.

Toàn bộ Diệp Hách, sau khi Cổ chết đều quy hàng Kiến Châu.

Anh Minh hoàng đế ở lại Đông thành hai ngày rồi mới ban sư hồi quốc.

Khi về tới giữa đường, quân Kiến Châu bỗng được thám mã phi báo:

- Mặt trước có một toán binh mã, trưng cờ Mông Cổ chặn ngang đường. Vị tướng quân đi đầu, miệng nói lớn: "Vâng mạng lệnh của Lâm Đan Hãn, đem lá thư tới muốn được bệ kiến Kiến Châu hoàng đế".

Anh Minh hoàng đế được tin, tự nghĩ Mông Cổ vốn là nước lớn ở phía tây bắc, Lâm Đan Hãn lại là minh chúa của năm bộ lạc Mông Cổ, nay bỗng có sứ thần tới đây tất có sự gì quan trọng, ta chớ coi thường. Nghĩ vậy đế vội truyền lệnh an dinh hạ trại, và cho mời sứ giả vào trướng.

Một viên đại tướng hai tay bưng lá quốc thư đi từ ngoài vào, miệng nói:

- Lâm Đan Hãn sứ thần Khanh Khách Nhã Bái Hổ xin bải kiến và thỉnh an Anh Minh hoàng đế!

Nói xong, viên đại tướng cung kính hành lễ. Lúc đó, Đại bối lặc, Tứ bối lặc, cả hai đều ngồi bên cạnh. Tứ bối lặc giơ tay tiếp lá quốc thư của Mông Cổ đưa cho Anh Minh hoàng đế mở ra đọc, trong thư viết:

"Quốc chúa nước Mông Cổ Ba Đồ Lỗ Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh bốn mươi vạn quân mã, xin hỏi thăm quốc chúa nước Mãn Châu Anh Minh hoàng đế chỉ huy ba vạn quân mã miền thuỷ tàu có được bình an vô sự không. Minh với ta, hai nước vốn địch thù. Từ năm Ngọ tới giờ, ngươi đã mấy phen gây cảnh khổ cho nước Minh. Mùa hạ năm nay, ta đích thân tới miền Quảng Ninh của Minh, chiêu dụ thành này, thu đồ tiến cống. Nếu ngươi đem binh qua Quảng Ninh, ta sẽ ngăn chặn ngươi ngay. Ta và ngươi hai bên vốn không hiềm khích. Ví thử ngươi cướp thành của ta đã chinh phục để làm thành của ngươi thì danh ta còn gì. Nếu ngươi chẳng nghe lời ta thì hai bên ắt có chuyện thị phi, có trời chứng giám. Trước đây sứ giả hai nước thường hay qua lại chỉ vì sứ thần của ngươi bảo không lấy lễ tiếp đãi khiến hai bên không lấy lễ vật mà hỏi thăm nhau nữa. Như quả ngươi cho lời ta là phải, ngươi hay lại sai tên sứ trước tới nước ta".

Anh Minh hoàng đế xem xong quốc thư của Hoàng đế Mông cổ, nín lặng không nói một lời. Ngài cầm thư đưa cho các bối lặc xem. Bọn đại thần cũng đổ xô tới, người nào người nấy đều ngạc nhiên thết lên:

- Há lại có lý lẽ như thế này?

Trong đám này, Tứ bối lặc là người thiếu tính nhẫn nại nhất, bèn bước tới nắm lấy Bái Hổ rồi ruốt cây bội đao định cắt mũi cảnh cáo. Anh Minh hoàng đế thấy vậy vội xua tay rồi một mặt sai người đưa Hổ ra ngoài lấy rượu thịt thết đãi, một mặt triệu tập tất cả bối lặc, đại thần tới hổ trướng để bàn cách hồi đáp Mông Cổ.

Trong cuộc hội, có kẻ bảo đem giết quách tên sứ bái Hổ rồi mặc chúng, chẳng nên để ý làm gì. Có kẻ nói bắt hết đám Mông Cổ, đem cắt tai đuổi về để cho chúng biết dân Mãn cũng chẳng vừa. Anh Minh hoàng đế lắc đầu nói:

- Không được, không được!

Thập tứ hoàng tử Đa Nhĩ Cổn tuy nhỏ tuổi nhưng lúc đó cũng theo vua cha hiện có mặt trong trướng, đứng phắt dậy nói:

- Quân Mông Cổ có bốn mươi vạn. Ta có ý cướp nước Minh từ lâu tại sao ta không liên minh với họ để lợi dụng binh lực của họ hợp sức đánh phá Minh triều. Đường ta gần, đường chúng xa, khi chiếm được nước Minh rồi, lo gì nước Mông Cổ chẳng lọt và tay ta.

Cổn nói tới đây, Anh Minh hoàng đế bỗng ngồi ngay người lại, tỏ vẻ đắc ý đến tột độ, vỗ mạnh vào cổ con mà nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ý này quả trời cho!

Ngày hôm sau, Kim đế truyền Triệu Bái Hổ vào trướng, đem việc liên minh hai nước đánh phá triều Minh ra nói. Hổ luôn mồm khen: "Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!". Tức thì, Đế sai chém một đầu ngựa trắng, một đầu bò đen, rồi hai bên quỳ xuống chỉ trời lập thệ thề rằng:

"Nay bối lặc chấp chính Bát Kỳ Mãn Châu cùng với bối lặc chấp chính năm bộ lạc nước Mông Cổ mong nhờ trời đất phù hộ khiến hai bên hợp lực đồng mưu để đánh người Minh rửa hận. Nếu có thể cùng Minh cởi bỏ thù cũ, kết được mối hoà thì cả hai họp lại định mưu rồi sau sẽ nhận. Nếu Mãn Châu bội ước, không cùng Khách Nhĩ Khách bối lặc đồng mưu hoà hiếu với Minh thì trước xin hoàng thiên hậu thổ trừng phạt họ. Nếu Minh muốn hoà hiếu với Khách Nhĩ Khách bối lặc, mật sai ly gián mà bối lặc không báo cho Anh Minh hoàng đế Mãn Châu biết thì xin hoàng thiên hậu thổ cũng trừng phạt cho. Hai nước chúng tôi cùng giữ lời thề. Xin đất trời phù hộ. Uống chén rượu này ăn miếng thịt này, bối lặc chấp chính hai nước phải trọng mạng lệnh. Con cháu trăm đời đến mãi muôn thu, hai nước như một, cộng hưởng thái hoà".

Hồi 9

MUỐN ĂN CHƠI HÃY LÀM HOÀNG ĐẾ

Lại nói Anh Minh hoàng đế Mãn Châu một mặt liên minh với Mông Cổ, một mặt cho người vào quan nội thám thính tình hình triều Minh, rồi mới ban sư về Hưng Kinh huấn luyện quân sĩ Bát Kỳ chuẩn bị cuộc ác chiến trong tương lai.

Một hôm, giữa lúc Kim đế đang cùng bọn bối lặc đại thần nghiên cứu và thảo luận sách lược thôn tính đất nước triều Minh tại Tây Thiền điện, thì có Thừa tuyên quan lên điện tâu trình:

- Hiện đã có thám mã dò xét được tình hình Minh triều, đợi chờ chỉ ý của bệ hạ ngoài triều môn.

Anh Minh hoàng đế nghe xong liền truyền chỉ cho thám tử vào điện. Tức thì tên thám tử chạy vào quỳ trước điện ngọc, miệng tâu:

- Hiện nay, Thần Tông hoàng đế nhà Minh phong Trương Cư Chính làm tể tướng, chỉnh lý triều cương so với xưa khác hẳn.

Anh Minh hoàng đế bèn hỏi:

- Chỉnh lý như thế nào?

Thám tử tâu tiếp:

- Trương Tể tướng cách chức bọn gian thần, dùng toàn người chính nhân quân tử để phụ chính tại triều. Lại sai người tới Giang Nam, Giang Bắc kiểm tra hộ khẩu, đo đạc ruộng đất, điều tra ra nhiều mối tệ về thuế má, do đó mỗi năm triều đình còn thu thêm được đến hơn trăm vạn lạng bạc. Ông ta giảm bớt hơn một ngàn viên quan thuế vô dụng. Tháng Giêng năm nay, ông lại ra lệnh miễn thu hơn hai trăm vạn lạng bạc thuế thiếu, khiến trăm họ ai cũng đều cảm kích đối với triều đình và đem hết trung can để phục vụ hoàng thượng của họ. Trương Tể tướng lại còn dặn dò Binh bộ thượng thư tuyển mộ binh mã dụng tâm huấn luyện, chuẩn bị cùng ta chiến chinh. Một mặt họ Trương cho Thích Kế Quan thống lĩnh đại binh đồn trú tại biên cảnh Mông Cổ nơm nớp đề phòng, mặt khác điều động những đoàn quân tinh nhuệ đóng giữ Sơn Hải quan. Thần Tông hoàng đế thấy Trương Tể tướng trung trinh ái quốc như vậy, hết sức kính trọng, và cũng hết sức sợ hãi.

Anh Minh hoàng đế nghe tới chỗ này, hết sức ngạc nhiên bèn hỏi:

- Kính trọng họ Trương là phải, chứ tại sao lại sợ hãi?

Tên thám tử lại tâu:

- Bệ hạ không rõ chỗ này là phải. Bởi vì Trương Tể tướng tỏ ra rất nghiêm khắc đối với Thần Tông hoàng đế. Nghe nói họ Trương tiến cử rất nhiều danh sĩ miền Giang Nam để làm nhật giảng quan cho nhà vua. Bất cứ cử chỉ nào của nhà vua như đứng ngồi cười nói, bọn này đều phải ghi vào sổ hàng ngày rồi đưa cho họ Trương xem xét. Thảng hoặc có những hành động không hợp đạo lý, họ Trương bèn phê phán ngay. Do đó Thần Tông hoàng đế chẳng bao giờ dám lười nhác hay sai quấy, lầm lẫn. Họ Trương lại còn gọi nhiều bậc đại thần ngày ngày ở bên cạnh đọc sách cho vua nghe. Chính bản thân Trương, cũng có nhiều lần hầu cận bên vua. Khi có cuộc giảng thuyết, Trương Tể tướng luôn luôn có mặt, nhiều hôm lâu đến nỗi lưng nhà vua mồ hôi toát ra nhễ nhại. Một hôm Thần Tông hoàng đế đọc sách luận ngữ khi tới cậu "Sắc bột như dã", ngài đọc trật chữ "bột" ra chữ "bội". Trương Tể tướng bỗng đứng phắt dậy, mặt đuột thẳng ra, tỏ vẻ bực bội, lớn tiếng bảo nhà vua : "Chữ đó đâu phẩi là chữ "bội". Đó là chữ "bột nhiên đại nộ" đấy chứ!". Thần Tông hoàng đế giật mình đến thót một cái, ngay cả nhật giảng quan cả bọn biến sắc mặt.

Anh Minh hoàng đế nghe tâu đến đây, không khỏi thở dài:

- Thật là một viên Tể tướng xứng đáng. Minh triều có tên Trương Cử Chính ấy thì ta còn làm gì được họ nữa.

Nói đoạn, ông sai người thông báo tin tức đó cho Lâm Đan Hãn biết, mặt khác, ông lại sai tên thám tử trở vào quan nội dò la tiếp.

Ai ngờ Trương Tể tướng không được bao lâu thì mất. Thần Tông hoàng đế tuy mừng thoát được cái cùm kìm hãm nhưng từ đó mọi việc coi như hỏng bét. Khắp triều toàn một bọn gian thần thao túng. Nhà vua lại sinh ra biếng nhác, chẳng để ý đến việc triều chính. Suốt ngày vua chỉ ở lỳ trong cung cấm cùng bọn phi tần vui đùa ca hát. Đại sự của triều đình đều do mấy tên thái giám tha hồ tác oai tác phúc.

Triều chính đổ nát tất sinh loạn. Cam Túc, Ninh Hạ nhiều nơi nổi dậy. Đại tướng Nhật Bản tên Phong Thảnh Tú Cát thống lĩnh mười ba vạn lục quân, chín ngàn hai trăm thuỷ sư tới đánh Triều Tiên. Vua Triều Tiên là Lý Chiêu chạy trốn tới Nghĩa Châu, sai người tới Minh triều cầu cứu. Mặt khác Anh Minh hoàng đế nhân cơ hội đó bắt hai thái tử con Lý Chiêu đem về, rồi đánh phá mặt Bắc Triều Tiên.

Tin tức đó đến tai Thần Tông hoàng đế. Ông vội sai tướng quân Tổ Thừa Huấn thống suất đại đội binh mã đi tiếp viện.

Hành quân đến nửa đường, Huấn gặp tiền đội tiên phong Nhật Bản Tiểu Tây Hành Trương. Hai bên tiếp chiến, Huấn đại bại trốn về. Lý Như Bá lúc đó đồn trú quan ngoại, thường khoe khoang quân Minh tinh luyện hùng tráng, điều động đại đội binh mã ác chiến với tướng Nhật là Tiểu Hán Xuyên ở Bích Đế nhưng cũng đại bại, phải trốn về Bình Nhưỡng.

Tể tướng mới của Minh triều là Thạc Tinh được tin đó hết sức hoảng sợ, lập tức sai Thẩm Duy Kích đi giảng hoà. Lần này Minh triều ở Ninh Hạ dùng tới hơn một triệu tám trăm bảy mươi tám ngàn lạng bạc binh phí, còn tổng cộng ở Triều Tiên trong bảy năm trời đã hết tất cả hơn bảy triệu tám trăm hai mươi hai ngàn lạng bạc. Những chi phí khổng lồ đó làm cho kho tàng trong nước rỗng tuếch, nhân tâm rối loạn. Thần Tông hoàng đế lo lắng, suốt ngày đêm đứng ngồi không yên mà vẫn không tìm ra giải pháp nào.

Thần Tông hoàng đế có một tên thái giám hầu cận tính rất xảo quyệt. Hắn thấy nhà vua gặp lúc quá lo lắng, bèn nhân cơ hội đó khuyên ngài cho phép dân khai thác các mỏ khoáng sản để lấy thuế, như vậy quốc khố sẽ thu vào được nhiều, có thể bù đắp chỗ hống gây ra vì chiến phí. Nhà vua nghe xuôi tai liền chấp thuận đề nghị và hạ chỉ cho dân chúng địa phương khai mỏ.

Bọn thái giám thừa gió bẻ măng, lợi dụng thông đồng với bọn quan nha địa phương, thôi thì tha hồ sách nhiễu trăm họ. Những miền nào có nhiều khoáng sản đều bị chúng chiếm đoạt làm của riêng. Chúng lại còn mượn thế lực triều đình, chỗ nào khai không được bèn bắt dân bồi thường phí tổn cho chúng.

Thảng có kẻ không chịu, chống lại, chúng liền bảo dưới nhà họ, dưới ruộng đất họ có khoáng sản, để tịch thu luôn ruộng đất, để đào xới cả nền móng cửa nhà cho bõ ghét. Dân chúng không một ai không oán hận tận xương tận tuỷ. Ấy thế mà bọn thái giám này vẫn nhơn nhơn coi khinh. Chúng đã cướp bóc dân lành vô khối, nhưng vẫn chưa cho là đủ. Chúng tâu xin Thần Tông hoàng đế nạ dụ cho thu thuế phố xá ở Thiên Tân, thu thuế châu ngọc ở Quảng Châu, thu thuế muối ở Lưỡng Hoài, thu thuế chợ, thuế thuyền ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, thu thuế gỗ quý ở Trùng Khách, thu thuế thuyền ở Tràng Giang, thu thuế khách điếm ở Minh Châu, thu thuế cá ở Bảo Đệ vân vân…

Tiếp tay bọn thái giám, có bọn tham quan ô lại. Tụi này cũng nhờ lửa đánh cướp, mặc sức bóc lột dân lành. Trong xóm làng nhà nào có nuôi một con gà, một con heo cũng bị thuế, không chạy thoát được một cắc. Dân tình đo đó ngày càng khánh kiệt đói khổ mười nhà đã tới chín không đủ manh áo miếng cơm. Thế mà Thần Tông hoàng đế chẳng biết gì cả. Ngài chỉ biết ngày đêm nằm liệt trong cung cấm mà mua vui với bọn cung tần mỹ nữ.

. Bọn thái giám lộng hành sợ rằng ngài một hôm nào đó lâm trào tra ra điều bất minh của chúng nên thông đồng với tên Tổng quản cung cấm là Nguy thái giám phỉnh gạt ngài rằng:

- Quốc gia đại sự đã có trăm quan lo liệu. Thiên tử ngọc thực vạn thượng, đương nhiên hưởng thụ mọi vui thú cõi trần gian. Người đời thường nói: đời sống được bao năm. Bệ hạ nếu không nhân lúc trẻ trung khoẻ mạnh này mà hành lạc thì rồi đây trăm năm một nấm, thân nát theo cây cỏ há chẳng đáng tiếc lắm sao?

Câu nói phỉnh gạt khôn khéo đó quả thực đã khêu gợi được lòng dục của Thần Tông hoàng đế, thế là từ đó ngài buông mình vào khoái lạc, suốt ngày thâu đêm tha hồ ăn chơi phóng đãng. Kim Loan điện đã lâu lắm chẳng thấy ngài thiết triều. Tiếng chuông, tiếng trống không còn ngân vang nơi Cạnh Đường cung như trước. Đền đài miếu mạo làm bạn với cỏ cây hoang vắng mặc cho dơi bay én liệng, cáo chuột kết đàn kéo lũ trong các lau lách tốt quá đầu người, coi nơi cung đình như tổ ấm an toàn của chúng.

Nguy thái giám thấy nhà vua ăn chơi đã đến lúc sướng khoái bèn bắt chước cực chế của triều Nguyên xây cất ngay trong đại nội nào là cung Đức Thọ, cung Thuý Hoa nào là lầu Liên Thiên điện, Hồng Loan, điện Nhập Tiêu, điện Ngũ Hoa với một chương trình kiến trúc vĩ đại.

Hồi đó vào giữa mùa hè, khí trời nóng bức, Nguy Thái giám bèn chọn một nơi cây cối xum xuê bóng rợp, xây cất một toà Thanh Lâm Cát, bốn chung quanh trồng thông, trồng trúc, cành lá rườm rà.

Mỗi khi gió nam thổi qua kẽ lá, một tiếng nhạc vi vu êm dịu trỗi dậy y như một bản hoà tấu với muôn ngàn đàn sáo tiêu hồ: Phía đông có đình Tùng Thanh, phía tây có đình Trúc Phong. Phía nam có gác Thanh Thuỷ. Dưới chân núi Vạn Thọ dựng một toà Xuân Hải đường, trên vách vẽ toàn cành hoa tiêu, bốn mặt treo toàn màn gấm. Cột gác trên đều bằng gỗ thơm. Bình phong toàn bằng ô cốt. Trướng kết toàn bằng lông công. Dưới đất trải nệm gấm vừa dày vừa êm, vừa mướt, trong các phòng luôn toả một mùi hương thơm ngào ngạt. Thần Tông hoàng đế vừa mới đặt chân tới, thần hồn ngài bỗng điên đảo, mắt xuýt bị choá, mũi như muốn nghẹt thở. Nguy thái giám còn tuyển năm, bảy trăm mỹ nữ tuyệt sắc tại miền Giang Nam để trong các cung phòng cho hoàng đế ngài dùng. Họ Nguy lại còn bắt chước nhà Nguyên lấy một số danh từ thực đẹp để chỉ các cuộc đại yến tuỳ theo thời tiết. Ví dụ vào lúc hoa Bích đào nở rộ, trong bày yến thì gọi là Ái Kiều yến; vào lúc hoa Hồng mai bắt đầu cười gió, thì gọi là Ô Hồng yến; vào lúc hoa Hải đường khoe thắm thì gọi là Noãn Trang yến; vào lúc hoa Thuỷ hương rải hương thơm nức thì gọi là Bát Hàn yến: vào lúc hoa Mẫu đơn đua màu đỏ rực thì gọi là Tá Xuân yến, vào lúc hoa chưa nở thì gọi là Đoạt Tú yến. Ngoài ra, còn có Lạc Mao yến, Đao Thanh yến, Bội Lan yến, Thái Liên yến: Tóm lại không có một việc gì mà không có yến, không chỗ nào là không có yến. Ngày nào cũng có yến, nơi nào cũng có yến. Tiếng đờn ca vang lừng khắp chốn, mùi hương phấn thơm nức cung đình. Tất cả mọi thứ đều quyến rũ, mê ly, khiến vị phong lưu thiên tử của Minh triều mê mệt suốt ngày đêm như mộng như mơ.

Người đẹp được Thần Tông hoàng đế sủng ái nhất phải kể Trịnh quý phi. Nhà vua ở đâu là có Trịnh quý phi ở đấy.

Mỗi khi không thấy bóng nàng nhà vua mặt ủ mày ê, chẳng còn gì khiến ngài vui lên được.

Trịnh quý phi cùng một phe với Nguy thái giám, cả hai luôn luôn phát minh nhiều lối chơi hết sức tân kỳ độc đáo để phỉnh nịnh nhà vua.

Hồi đó tháng hè oi bức, trời đã vào khuya mà còn nóng nực. Mặt trăng gần treo sát trên không, Thần Tông hoàng đế vẫn còn mê mải trong cuộc truy hoan nơi Thanh Lâm các thì Trịnh quý phi bỗng nảy sinh một chủ ý: nàng mời đức vua sang Thái Dịch trì để thưởng nguyệt.

Nguy thái giám được lệnh gọi đi sửa soạn. Nơi đây Thần Tông hoàng đế cùng Trịnh quý phi dắt tay đến bên Thái Dịch trì, bước lên thuyền hoa từ từ chèo tới giữa hồ.

Trên trời lúc đó, ánh trăng vàng chiếu xuống đáy nước long lanh. Mặt hồ, những đoá sen tươi nào trắng, nào hồng, toả mùi hương thơm ngát. Quay nhìn bốn phía, nhà vua đều thấy có những chiếc thuyền hái sen nhỏ. Trên thuyền nào cũng có đội nữ quân. Chỉ huy toàn đội ở phía xa là một trang cung nữ tuyệt sắc, mặt đẹp như hoa, người xinh như liễu, đầu đội một chiếc mũ lông vũ màu đỏ, toàn thân mặc một bộ áo giáp vải pha màu, trong tay cầm một cây Nê Kim hoạ kích. Ở mũi thuyền nàng đứng có cắm một cây cờ đuôi phượng mỗi khi gió thổi bay tung, người ta thấy lộ ra hai chữ "Phượng đội" (đội chim phượng).

Còn ở phía hữu người ta cũng thấy một trang cung nữ đứng chỉ huy toàn đội. Nàng cũng đẹp cũng xinh chăng thua gì nàng kia, nàng cũng có một nhan sắc chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành. Trên đầu nàng đội một cái mũ Tất chu đỏ thắm, toàn thân nàng mặc một bộ áo giáp bằng lông mao trắng như tuyết, trong tay nàng cầm một cây Lịch Phấn điêu qua. Ở mũi thuyền nàng đứng có cắm một lá cờ cánh hạc. Dưới bóng trăng, người ta nhìn rõ trên lá cờ có hai chữ "Hạc đoàn" (đoàn chim hạc). Ngoài ra còn có nào mủng hái sen, nào mủng hái súng. Thuyền mủng nào cũng đều kết hoa thắt gấm, chở đầy cung nữ xinh đẹp như mộng, hoạt bát lẹ làng, chèo lướt như bay trên mặt nước.

Trời đã khuya, mặt trăng đã đứng bóng. Mây ngũ sắc trên trời lơ lửng treo dưới trăng.

Trịnh quý phi dặn bảo nội thị bày tiệc thưởng trăng, cùng hoàng đế sánh vai hoà tấu bản nhạc tình muôn thuở.

Hồi 10

AI ĐẦU ĐỘC GIẾT VUA

Trong bữa yến đêm đó, Thần Tông hoàng đế cùng Trịnh quý phi ngồi kề vai nhau trong khoang thuyền, bốn mặt cửa sổ đều mở toang để ánh trăng lọt vào soi sáng. Ngoài thuyền, kết hoa treo vóc. Một ban nhạc thổi sáo đánh đàn hoà tấu ở khoang giữa. Một đoàn cung nữ mặc toàn đồ tơ lụa, múa điệu Vũ Quần Tiên trước bàn tiệc, ánh trăng sáng chiếu qua làn tơ mỏng càng làm cho nước da trắng như tuyết của các nàng tăng vẻ mịn màng quyến rũ. Rồi ban đồng ca Hạ Tân lương trỗi dậy, khi nhẹ nhàng như tiếng gió thoảng ngoài hiên, khi thánh thót như suối tuôn lờ lững ngang đèo, khi êm ái như giọng tình tha thiết quyện đôi tim… Thật là một cảnh tượng thần tiên nơi non bồng nước Nhược… Thần Tông hoàng đế càng nhìn càng mê, càng ngó càng say. Ngài sung sướng vô cùng, bèn cười lên khanh khách, vỗ vai quý phi họ Trịnh mà nựng mà khen:

- Thuở xưa Tây Vương Mẫu thiết yến Mục thiên tử ở cung Diêu Trì, người đời sau ai cũng khen mừng ông. Từ xưa đến nay thử hỏi còn ai sung sướng bằng ông? Đêm nay trẫm cùng khanh kề vai thưởng nguyệt tận hưởng cái vui nơi Dịch Trì, nơi này có kém gì Diêu Trì thuở trước. Điều đáng tiếc phải chăng là thiếu mất Thượng nguyên phu nhân trong chiếu rượu khiến không nghe được tiếng oanh qua giọng hát, tiếng giày lướt nhẹ qua điệu múa!

Nghe lời phàn nàn của nhà vua, Trình quý phi liền bảo đội nữ nhạc hoà tấu khúc nhạc "Nguyệt chiêu lâm" rồi tự mình nhẹ gót rời tiệc, vừa múa vừa ca:

"Trăm hoa hề như dệt

Sáng soi hề một sắc

Đẹp tuyệt hề trong giữa

Cùng vui hề muôn nước".

Lời ca vừa dứt thì vũ điệu cũng dừng. Thần Tông hoàng đế như say như mộng, bàng hoàng nhìn người đẹp như tiên nga giáng thế, bèn đích thân đứng ra, hai tay bế người đẹp trở lại chỗ ngồi, ngài còn cho rót rượu bồ đào vào chén ngọc để tặng thưởng cho nàng.

Quý phi họ Trịnh vội đứng dậy bái tạ hoàng ân. Bọn cung nữ trong thuyền đều lên tiếng chúc mừng nàng.

Thẩn Tông hoàng đế đến lúc đó đã ngà ngà say. Ngài tựa vào vai quý phi mà đứng dậy, bước lại gần cửa sổ nhìn ra ngoài. Tức thì, thuyền hái sen dâng tiến ngó sen, thuyền hái súng dâng tiến đoá hoa tươi.

Quý phi ngồi ngay dưới chân nhà vua, tự tay bóc sen lấy hạt đưa cho ngài ăn. Nhà vua vừa ăn từng hạt sen vừa đưa mắt nhìn qua cửa sổ. Vầng trăng tròn đã lên đến đỉnh, tứ bề phẳng lặng mênh mang. Mặt nước gợn sóng lăn tăn, xao động muôn ngàn tia sáng vàng. Những chiếc thuyền con nhẹ lướt trong ánh trăng. Tiếng đàn ca sênh phách lại nổi lên, êm êm, nhẹ nhẹ như đưa người vào mộng.

Thần Tông hoàng đế tựa bước lan can, truyền chỉ cho hai đội nữ quân "chơi nước". Tức thì một hồi trống nổi lên vang dậy. Phượng đội, hạc đội răm rắp bày thành trận thế, rồi quay cuồng qua lại. Họ càng đua càng nhanh, mặt nước nổi lên những đợt sóng nhấp nhô. Họ bắt đầu tác chiến. Có cô cầm kích mà đập, có cô cầm thương mà chọc. Họ chọc, họ đập khiến nước trong hồ bắn lên tung toé, rơi lả tả xuống sàn thuyền. Họ nói, họ la, họ cười, họ giễu, tất cả đều nhộn nhịp trong cảnh hỗn loạn. Bề ngoài trông có vẻ vui tươi sung sướng nhưng bên trong họ nặng mối u tình khó tả.

Vui đùa như vậy một lúc lâu, hoàng đế hạ chỉ ngừng thuyền.

Hai đội thuỷ quân tức thì xếp thành hàng chữ nhất trước mặt ngài để cho ngài tặng thưởng tơ lụa son phấn. Mấy trăm cô cung nữ nhất tề thỏ thẻ tung hô:

- Hoàng đế vạn tuế! Hoàng đế vạn tuế!

Thần Tông hoàng đế lại cho gọi hai cô đội trưởng chỉ huy lên thuyền, đem về cung Thuý Hoa để đêm đó ngài tha hồ thưởng thức của lạ.

Ít hôm sau, Nguy Thái giám lại mời Thần Tông hoàng đế du ngoạn Giang Bích trì, được kiến trúc theo một kiểu đặc biệt. Chung quanh vòng ao, đều ghép đá xanh thành bờ. Bốn mặt treo màn đều sắc xanh lục. Hoa cỏ trồng ở đây đều một màu xanh biếc không lộn các màu khác. Trong ao nước ngâm trong vắt, trông như một chậu lớn bằng ngọc bích. Trên mặt ao, ba nhịp cầu vàng dài uốn cong lên không suốt bờ nọ sang bờ kia.

Ba toà Cẩm bình cất trên, mỗi toà mang một tấm biển vuông, tấm bên phải đề hai chữ Ngưng Hà, tấm bên trái đề hai chữ Thừa Tiêu, còn tấm ở giữa đề hai chữ Tiến Loan. Hoàng đế cùng các phi tần đều ngồi trong toà đình này để uống rượu mua vui. Uống rượu xong, một ban nhạc đem tất cả đám phi tần của ba mươi sáu viện tới Hương Tuần đầm (đầm suối thơm) để tắm gội, trong lúc đó hoàng đế ngồi ngay trên bờ đầm, dưới một cái lán lớn thêu chín con rồng đang ấp đám mây đỏ, để ngắm những tấm thân trắng như tuyết, mát như ngà đang bơi lội đùa rỡn dưới nước. Nước đầm này nóng, hơi bốc lên nghi ngút, mùi hương bay ngào ngạt. Đám phi tần, người nào cũng nhảy xuống nước đùa rỡn. Giữa đầm có đặt những con nghê bằng ngọc bích những con hươu bằng thuỷ tinh những con ngựa bằng cẩm thạch màu hồng. Bọn phi tần đùa rỡn dưới nước một lúc, nào bơi, nào lội, nào hụp, nào lặn rồi hè nhau nhảy lên lưng những con nghê, con hươu, con ngựa. Có cô nghiêng mình tựa vào nghê, có cô nằm ngang trên lưng ngựa, có cô ôm lưng hươu, có cô cưỡi lê lưng nghê ngồi ngất nghểu miệng cười sằng sặc, có cô tay cầm đủ loại nào mẫu đơn nào hải đường nào cúc, nào sen. Có cô còn đem cả đàn sáo xuống rồi tựa bên hươu, ngựa mà thổi vang lên những điệu nhạc mê ly quyến rũ. Cũng có cô đem trái cầu chuyền xuống mà tung chuyền cho nhau; lại cũng có những cô họp nhau thành ban vũ nhỏ múa ngay dưới nước những vũ điệu khi thong thả nhịp nhàng, khi vội vã loạn cuồng.

Trịnh quý phi ngồi bên Thần Tông hoàng đế ngắm bọn cung nữ đùa rỡn trong nước, cũng nổi hứng, bèn cởi bỏ hết y phục nhảy xuống. Nàng bơi, nàng lội, nàng cười, nàng đùa cùng bọn cung phi. Một lúc sau nàng bò lên ngồi trên mông con ngựa cẩm thạch.

Thần Tông hoàng đế thấy quý phi da trắng như tuyết, toàn thân mịn mát như nhung, từ đầu đến chân, chỗ nào cũng đẹp như hoa như ngọc, trong lòng thích thú đến cực độ, miệng không ngớt khen ngợi, và tự cho chỉ có mình mới có cái diễm phúc nâng niu người đẹp đến thế trong cõi trần này. Đám phi tần thấy quý phi cũng tìm vui với mình bèn quây chung quanh nàng vừa múa vừa hát. Mặt nước lúc này bị xao động mạnh. Ở khắp nơi, nước tung toé trên cao rồi rớt xuống lả tả. Cũng có khi những tia nước bắn cao vút lên bờ, khiến ướt cả quần áo râu tóc của Thần Tông hoàng đế. Thế mà nhà vua ngài chẳng giận, lại còn ha hả cười vang, cười đến đổ cả ngai vàng.

Biết bao ngày tháng Thần Tông hoàng đế đã mất đi để tầm hoan hưởng lạc như thế! Tinh thần sức lực nhà vua càng ngày càng giảm và đã đến lúc phải báo động. Trịnh quý phi đem việc này nói cho Nguy thái giám biết, hai người bàn tính cách giúp nhà vua tráng dương bổ khí. Thế là thái giám họ Nguy rước ngay bàn đèn thuốc phiện vào cung cho ngài đủ sức tìm vui. Từ ngày có "phù dung nương tử" trợ lực, hoàng đế quả nhiên tinh thần càng thêm hứng khởi. Thế rồi là ngày đêm hoàng đế miệt mài đi mây về gió.

Ngày hết hút lài chơi hết chơi lại hút. Á phiện quả thực lạ một vị thần có quyền lực vô biên mà ngài sùng phụng hơn cả Trời Phật. Ngài hút đến quỷ khốc thần sầu: ngài nằm loét bên cạnh bàn đèn luôn một hơi đến hai chục năm liền đôi tai của ngài bẹp dí gần như không thấy đâu nữa.

Hai chục năm, lúc nào cũng có Trịnh quý phí, có Phù dung nương tử, Thần Tông hoàng đế quên cả quốc gia đại sự, việc thiết triều đối với ngài chỉ còn là một việc xa xôi mộng ảo. Bao nhiêu việc lớn của triều đình, ngài chẳng hiểu biết mà cũng chẳng thèm để ý đến.

Nguy thái giám bên trong kết liên với Trịnh quý phi bên ngoài bồ bịch với bọn gian thần, tha hồ thao túng quyền oai, chẳng cần e dè kiêng nể ai cả.

Thần Tông hoàng đế vốn có hai trai. Người con cả tên gọi Thường Lạc, là con của Vương cung phi sinh ra. Người con thứ gọi Thường Tuân là con của Trịnh quý phi sinh ra.

Thường Tuân có mẹ được sủng ái, nên được cưng chiều, từ nhỏ tuổi đã được nhà vua cho làm Phúc Vương. Thường Lạc tuy là con cả nhưng lại phai chịu cảnh vô danh vô tước.

Bởi vậy nhiều vị đại thần ngay thẳng tỏ nỗi bất bình, thường thảo tấu chương lên nhà vua để xin ngài lập Thường Lạc làm thái tử, thâm ý giúp đỡ Thường Lạc trong tương lai mà tước đoạt quyền hành của nhóm Trịnh quý phi và Nguy thái giám. Tuy nhiên Thần Tông hoàng đế không chuẩn. Bởi vì ngài chỉ nghe lời ngon ngọt của quý phi họ Trịnh chứ chẳng thèm nghe ai. Cuối cùng ngài không cho bất cứ thần tử nào được đề cập tới việc lập thái tử nữa. Bọn đại thần dễ gì chịu bỏ cuộc. Sáng một bản, chiều một bản dâng tấu chương về việc lập thái tử lên nhà vua như bươm bướm. Nhưng họ có ngờ đâu, những bản tấu chương này chỉ tới có nửa đường là đã bị bọn thái giám cho vào sọt rác, một chữ cũng không được nhà vua xem đến.

Suốt năm đó, năm thứ 26 tại vị của ngài, Thần Tông hoàng đế không hề có một lần thiết triều. Bọn đại thần này chẳng được dịp nào để diện tấu. Họ bực tức vô cùng. Trong số đó có một vị Lại bộ lang trung tên gọi Cố Hiến Thành tức quá hoá khùng. Ông không chịu nổi được nữa liền tìm cách liên lạc với một tên tiểu thái giám nhờ đưa giùm tờ tấu chương của ông vào cung.

Thần Tông hoàng đế xem xong, chẳng ngờ ngài nổi trận lôi đình, lập tức hạ chiếu cách tuột chức của Cố Hiến Thành.

Thấy nhà vua thiên vị, cưng bọn thái giám mà vũ nhục trung thần, một số quan lại chính trực khác như Khảo công lang Triệt Nam Tinh, Tả đô ngự sử Trịnh Nguyên Tiêu, Vương Gia Bình đều treo ấn từ quan, dứt bỏ công danh trở về quê tập họp thành một bọn, tự mệnh danh là bọn người đọc sách phong lưu trong sạch rồi thành lập thư viện gọi là Đông Tâm thư viện ở Vô Tích. Họ lấy tiếng giảng cứu sách vở, thực ra là để họp nhau đàm luận về triều chính, nhục mạ bọn thái giám. Trong bọn, có một người tên gọi Cao Phan Long vốn là một cao thủ lợi hại. Long nhiều bạn bè, thế lực lại lớn, chẳng bao lâu kéo thêm được khá nhiều đồng đảng. Do đó, ai cũng gọi họ là Đông Lâm đảng. Đảng Đông Lâm liên kết với đám quan ngự sử trong triều, nhờ họ dâng sớ đàn hặc bọn quan lại tư thông với lũ thái giám lộng hành. Ngoài ra, còn có Thang Tân Doãn vốn giữ chức Tế tửu quan, thành lập đảng Tuyên Côn. Đảng viên của đảng này rải rác các tỉnh Trực Lê, Sơn Đông, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang. Về sau, hai đảng ngày càng đông. Bọn đại thần trong triều đều được nghe danh, nên trong lòng cũng rất lấy làm lo ngại.

Khi thanh thế đã mạnh, hai đảng đều lên tiếng buộc triều đình phải lập Thường Lạc làm thái tử. Lúc đầu còn khó, nhưng về sau thế bức ngày càng mạnh, càng dữ, bọn thái giám và bọn gian thần trong triều ngày càng cảm thấy nguy hiểm cho tính mệnh. Nhưng chúng chẳng tìm được kế sách gì thoát hiểm đành phải mời Thần Tông hoàng đế - vốn bỏ bê triều chính suốt 26 năm trường, không hề thiết triều thị chính - hôm đó ra toạ trào rồi dâng một tờ sớ tâu với nhà vua việc sôi động hung dữ của hai đảng Đông Lâm và Tuyên Côn.

Thần Tông hoàng đế xem sớ, đột nhiên cả giận. Ngài hạ luôn một hơi đến mấy đạo thượng dụ xem người của hai đảng, kẻ thì cách chức, kẻ thì bỏ tù. Mặt khác, nhà vua sách phong Thương Lạc làm thái tử, rồi cho Phúc Vương xuống miền Hoa Nam xây cất vương phủ đồ sộ nguy nga với số tiền lên đến hơn ba vạn lạng bạc. Cách giải quyết này không đẹp lòng Trịnh quý phi. Bởi vậy nàng bàn tính với Nguy thái giám âm mưu hành thích thái tử.

Thế rồi vào năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, người ta bỗng thấy một vị đại hán tên gọi Trương Tiết tay cầm một cây côn gỗ hùng hổ xông vào Từ Nghiêm cung nơi Hoàng thái tử ở.

Quân thị vệ giữ cửa vội chạy tới ngăn chặn nhưng đều bị đả thương. Bọn thái giám thấy thế nguy vội hô hoán ầm ỹ. Bọn hộ binh nghe hò la từ khắp nơi đổ về, nhất tề sấn tới bắt được Tiết đưa ngay tới Hình bộ nha môn để thẩm vấn. Tiết không giấu giếm, khai là do thái giám Mã Tam Đạo trong cung Trịnh quý phi sai đi hành thích thái tử.

Lời khai đó trong nháy mắt loan truyền ra ngoài. Dư luận nổi lên như sóng cồn. Ai cũng đều cho Trịnh quý phi mưu sát Thái tử. Nàng phi họ Trịnh linh cảm thấy nguy hiểm, vội chạy tới trước mặt Thần Tông hoàng đế, vừa làm nũng vừa khóc lóc minh oan.

Hoàng đế đứng giữa chẳng biết làm cách nào, cuối cùng ngài cho gọi thái tử vào cung, rồi một tay cầm tay Trịnh quý phi, một tay cầm tay Thái tử, miệng cố biện bạch cho Trịnh phi:

- Việc này, quý phi hoàn toàn chẳng biết gì. Thái tử nên vì tình cha con mà bỏ qua đi. Hơn nữa, Trương Tiết bất quá chỉ là một tên khùng có hành động điên cuồng ngu xuẩn, để ý đến làm gì.

Hình bộ lang trung Hộ Sĩ Tướng đem vụ án ra xét xử, kết tội Trương Tiết rồi chém đầu. Tướng lại bắt Mã Đao Tam, phát vãng xa ba ngàn dặm để sung quân.

Một điều lạ là sau khi xảy ra vụ hành thích, Trịnh quý phi bỗng đổi tính, đối xử rất tốt với Thái tử. Nàng thường tự tay thêu thùa những đồ rất đẹp tặng cho Thái tử. Thấy nàng không có ác ý, Thái tử cũng thường sang thăm.

Và cũng nhờ đó mà tình nghĩa cha con giữa Thần Tông và Thái tử cũng càng thêm thắm thiết nồng hậu. Trịnh quý phi sợ Thái tử chưa tin mình nên nói với Thần Tông hoàng đế hạ một đạo thánh chỉ cho Phúc Vương chỉ được phép tiến cung khi nào có lệnh tuyên truyền mà thôi.

Chỉ dụ này đối với Thái tử quả là một điều mong muốn. Bởi vậy Thái tử từ đó gần như không còn tí hiềm nghi ngào về những cuộc âm mưu có thể có sau này giữa hai mẹ con quý phi.

Không ngờ năm Vạn Lịch thứ 48, Thần Tông hoàng đế tạ thế. Thái tử Thường Lạc lên ngôi. Đó là Quang Tông hoàng đế.

Quang Tông hoàng đế thấy Trịnh quý phi tốt với mình, nên lưu lại trong cung đối xử như một người mẹ. Thế rồi chẳng được mấy ngày sau khi đăng vị, nhà vua nhuốm bệnh, một chứng bệnh nan y. Tuy vậy Quang Tông hoàng đế vẫn bình thản, không có vẻ gì là lo lắng, trái lại người lo lắng lại là Trịnh quý phi. Thế mới lạ! Nàng truyền lệnh ra ngoài cho gọi đại thần đi tìm thầy chạy thuốc. Hồi đó có một tên thái giám tên gọi Thôi Văn Thăng. Thăng hiến một phương thuốc gọi vị đan phương. Tưởng uống thuốc thì khỏi bệnh, nào ngờ nhà vua khi uống xong, bệnh lại trầm trọng hơn. Lại một vị đại thần khác tên Phương Tòng Triết tiến cử Lý Khả Chước, giữ chức Hồng lô tự thừa, dâng lên ngài ngự một viên thuốc hoàn màu đỏ. Trịnh quý phi khuyên Quang Tông cố uống hết viên thuốc. Lý Tiểu thị, nàng phi của nhà vua do Trịnh quý phi làm mai, lúc đó cũng có mặt ở đấy, cũng hết sức khuyên ngài nên uống. Quang Tông nể tình hai vị phi tử nên nghe lời và nuốt viên thuốc xuống họng.

Qua ngày thứ hai, nào ngờ dược tính phát tác khủng khiếp.

Tính mạng của Quang Tông hoàng đế, một vị vua trẻ tuổi tại vị chưa đầy một năm, coi mòi trầm trọng khó sống…

Hồi 11

QUÂN MINH ĐẠI BẠI, MẤT LIÊU DUƠNG

Quang Tông hoàng đế sau khi uống viên thuốc hồng hoàn của Lý Khả Chước thì qua ngày hôm sau hồn ngài đã trở về với Diêm Chúa. Tam cung lục viện được tin động trời này, ai cũng hoảng sợ, bàn tán xôn xao. Có người cho rằng chính Lý Khả Chước đã dùng viên thuốc hồng hoàn giết chết nhà vua.

Dư luận đồn đại đáng lẽ Chước không thoát khỏi tội thí quân, thế mà trái lại, Chước còn được thưởng thêm mới lạ.

Phương Tòng Triết tuyên bố với triều thần rằng theo di chỉ của Hoàng đế thì Chước có công đáng thưởng. Bên ngoài, dân chúng thì cho rằng chính Trịnh quý phi đã chủ mưu điều khiển cuộc thí nghịch này. Bởi vậy, Lễ bộ thượng thư Tôn Thận Hành, ngự sử Vương Anh Thuân, cấp sự trung Huệ Thế Dương đều dâng sớ buộc tội Phương Tòng Triết đã chủ mưu giết vua.

Lúc đó, Hy Tông hoàng đế đã tức vị. Ngài biết việc nước đã nát bét đến cùng độ, cho nên chẳng muốn truy cứu việc nhà cho thêm phần rắc rối. Thế là cái án giết vua rơi vào bóng tối, oan hồn của Quang Tông hoàng đế đành phải ngậm hờn nơi chín suối, chẳng biết đến bao giờ mới rửa được hận.

Lại nói Minh triều từ khi Dương Cảo binh bại, Trương tể tướng qua đời thì biến cố dồn dập xảy ra, chẳng lợi cho việc duy trì uy thế. Nào là việc bỏ bê triều chính của Thần Tông hoàng đế suốt hai chục năm, nào việc ngộ thuốc mất mạng của Quang Tông hoàng đế làm vua chưa được một năm, nào là việc lộng quyền của bọn thái giám, nào việc tham nhũng, đút lót hối lộ của bọn đại thần, nào việc khai mỏ đánh thuế bóc lột nhân dân… Tất cả đều khiến cho trời giận dân oán đến cực điểm, lại thêm việc tù đầy chém giết đảng viên các đảng Đông Lâm, đảng Tuyên Côn, vụ án viên thuốc hồng hoàn sôi nổi trong cung đình, càng làm cho triều đình rối loạn, nát bét như tương. Cả nước từ bậc đại thần cho đến hàng tục tử, ai cũng lo lắng đêm ngày đau khổ, lúc nào cũng như sống trong đe doạ sợ hãi.

Bởi thế chẳng còn ai có thì giờ nghĩ đến Mãn Châu nơi quan ngoại. Anh Minh hoàng đế nước Kim chờ cơ hội đó, một mặt sửa sang triều chính, một giao hảo với Mông Cổ, đồng thời chiêu binh mãi mã, tích thảo dồn lương, ngầm sai đoàn quân tiên phong tiến tới Thẩm Dương, trước hết đánh lấy hai toà thành Y Lộ, Bổ Hà ở mặt đông cũng như mặt tây Thẩm Dương.

Quân tình nguy ngập cấp báo về triều. Thần tông hoàng đế lúc đang mải mê chơi bời với bọn phi tần trong cung cấm, vừa được tin này, sợ hãi quá, chân tay run lên như bị một cơn sốt, lập tức ngài thăng điện triệu tập bá quan lớn nhỏ, bàn tính sách lược cự địch. Triều thần ngây mặt nhìn nhau, vô kế khả thi. May thay, trong bọn có người tiến cử Hùng Đình Bật có thể kham nổi trọng trách. Bật vốn người Giang Hạ, hiểu rõ tình hình biên phòng nơi quan ngoại.

Thần Tông hoàng đế chuẩn tấu vội hạ chỉ triệu Bật tiến kinh trao cho ấn tín Liêu Đông kinh lược sứ. Ngài còn tặng Bật cây kiếm Phượng Thương, cho phép Bật tiền trảm hậu tấu.

Nhưng sau khi tiễn Bật lên đường, ngài quay về thâm cung tha hồ thưởng thức rượu nồng gái đẹp, chẳng bao giờ hỏi tới những việc bên ngoài nữa.

Trong quãng hai mươi sáu năm dài đằng đẵng, đây là lần duy nhất ngài toạ triều, gặp mặt các đại thần để bàn tính công việc triều đình.

Lại nói quan kinh lược Hùng Đinh Bật sau khi vâng thánh chỉ thống lĩnh mười tám vạn quân ùn ùn kéo ra quan ngoại.

Vừa tới Sơn Hải quan, Bật được tin thám mã cho biết thành Tiết Lĩnh lại vừa thất thủ. Bật thúc giục đại binh tiến gấp.

Hành quân qua miền Liêu Dương, Bật thấy dân chúng tình cảnh thật đáng thương. Khi nhìn đến đoàn quân trú phòng đóng giữ các nơi cũng lạc lõng chạy trốn, Bật còn buồn hơn, bỏi vì quân chẳng ra quân, tướng chẳng ra tướng. Bật cả giận hạ lệnh bắt ba tên đào tướng là Lưu Ngộ Tiết, Vương Tiệp và Vương Văn Đĩnh trói vào cột, thẩm vấn rõ ràng rồi tức khắc chặt đầu đưa tới khắp các dinh trại để thị chúng. Bọn binh sĩ hoảng hồn bạt vía, từ đó tên nào cũng tuân lệnh răm rắp.

Bật một mặt huấn luyện quân sĩ, một mặt đôn đốc chế tạo chiến xa, hoả pháo, quật hào đắp thành. Bật lại chia mười tám vạn quân ra đồn trú các nơi hiểu yếu như ái Dương, Thanh Hà, Phủ Thuận, Sài Hà, Tam Phân, Trấn Giang.

Một hôm, được tin quân Mãn kéo tới đồn Phụng Tập, chỉ cách Thẩm Dương có 45 dậm, Bật kinh lược vội thống lĩnh đại binh, thừa lúc đêm khuya tuyết xuống đầy trời, tiến tới Thẩm Dương. Một mặt Bật vỗ yên bách tính, mặt khác đối trận cùng quân Mãn.

Lại nói Anh Minh hoàng đế lúc đó đã dò xét được nguồn gốc của Bật, biết Bật là một tay hảo hán của Trung Nguyên nên không dám tiến binh, truyền lệnh rút quân về báo vệ Hưng Kinh. Minh triều quân tình thuận lợi, tưởng phen này có cơ cứu vãn uy tín cho triều đinh, không ngờ giữa lúc đang tập trung lực lượng sửa soạn tấn công thì Bắc Kinh liên tiếp gửi ra mấy đạo dụ cách chức Bật, đồng thời phái Viên Ứng Thái tiếp nhiệm chức Liêu Đông Kinh lược sứ! Thế là hết! Hết một cơ hội ngàn năm một thuở cho Minh triều!

Kinh lược sứ Hùng Đình Bật tiếp thánh chỉ, không thể không giao binh quyền ấn tín. Bật buồn rầu chán nản trở về, khi tới kinh sư mới biết mình bị cách chức chỉ vì có thông đồng với đảng viên đảng Đông Lâm. Thần Tông hoàng đế lúc đó lại đã chết, triều đình rối tinh như nồi canh hẹ. Bật đành thở dài cho vơi nơi buồn chán rồi quay về nhà cuốc đất trồng khoai cho qua ngày đoạn tháng.

Tin Hùng Đình Bật bị cách chức, Viên Ứng Thái lên tiếp nhiệm kinh lược sứ một hôm bay tới tai Anh Minh hoàng đế.

Ông vỗ tay cười lớn, tỏ vẻ sung sướng đến cực độ. Ông nói với quần thần:

- Ta vốn chỉ e có thằng cha họ Hùng. Nay hắn đã cút về vườn cuốc đất trồng khoai thì còn gì khiến ta phải quan ngại nữa chứ. Thằng nhãi họ Viên chỉ là một tên văn quan, hiểu thế nào được binh pháp mà đánh đấm?

Nói đoạn ông hạ lệnh cho đại binh tiến chiếm đồn Phụng Tập. Tướng Minh giữ đồn là Lý Bỉnh Thành khai thành cự địch.

Anh Minh hoàng đế chia Bát Kỳ binh mã ra làm đôi. Cánh tả bốn kỳ xuất chiến với Thành còn cánh hữu bốn kỳ tiến đánh Hoàng Sơn. Độc một mình Tứ bối lắc đem một toán tân binh đánh thẳng tới Võ Tĩnh Doanh. Cuối cùng, chính Anh Minh hoàng đế tự thân thống lĩnh đại binh vây thành Thâm Dương. Mặt khác ông ước hẹn với Mông Cổ đem binh đánh phá tây bắc.

Hai bên kịch chiến mười ba ngày, thành Thẩm Dương tan vỡ, Anh Minh hoàng đế tiến binh tới Liêu Dương. Kinh lược sứ Viên Ứng Thái lúc đó thống lĩnh quân Minh triều tại Liêu Dương được tin Thẩm Dương thất thủ hoảng hồn bạt vía, vội triệu tập tướng lĩnh lớn nhỏ bàn tính kế sách giữ thành. Tuần án, ngự sử tên gọi Trương Khuyên hiến kế:

- Trước khi giặc tới ta nên mau tháo nước sông Thái Tử hà vào các thành hào cho đầy. Dọc theo bờ hào bày nỏ pháo, tiểu thương rồi chia quân lo giữ vùng mọi nơi. Lại phái phân thủ đạo Hà Đình Khôi đem năm ngàn người ngựa đóng chân tại mé đông bắc ngoài thành để tạo thế ỷ giốc.

Mé đông bắc thành vốn có một toà núi, gọi Mã Yên Sơn. Đấy là đường cuống họng tiến tới Liêu Dương.

Hà Đình Khôi vốn là viên võ tướng có tên tuổi, cho nên mới được phái đi đóng giữ nơi hiểm yếu này. Nói tới vị tướng quân họ Hà, ai cũng phải để ý tới một điểm đặc biệt. Đó là ông tuy có máu anh hùng nhưng lại mê gái. Ông có hai vị phu nhân một bà đàn giỏi, một bà hoạ tài. Hai bà ngày đêm bầu bạn với ông không rời nửa bước. Mỗi bà lại sinh cho ông một cô con gái, cô nào cũng xinh đẹp và giống mẹ như đúc. Ông cưng chiều hai cô con gái, do đó càng cưng chiều hai bà mẹ. Bởi vậy, được lệnh đi Mã Yên Sơn, ông băn khoăn thương nhớ, làm sao mà bỏ được bốn cái bửu bối này. Đứng trước hội nghị đủ mặt văn quan võ tướng ông nói cứng ở lỗ mồm nhưng thực ra sắc mặt ông đã tái. Viên Ứng Thái biết rõ cái tâm bệnh của ông nên hứa cho đem theo gia quyến ở trong dinh. Lời nói họ quả đúng tìm đen của ông, khiến ông cảm kích quá đến mềm nhũn cả người ra. Ông chỉ nói được có một câu để tỏ lòng tri ân với người thượng cấp hiểu mình và biết thương mình:

- Mạt tướng xin lấy cái chết để tận trung báo quốc!

Nói đoạn ông đem binh ra khỏi thành tức khắc.

Lại nói phía quân Mãn, Anh Minh hoàng đế được tin đầy đủ, bèn đem pháo ra vượt đò qua sông Thái Tử hà, cất ngay một toà đại doanh trên núi Đông Sơn, cùng Minh binh giao chiến hoả pháo. Quân Minh bắn trả dữ dội lúc đầu nhưng về sau xem chừng đuối sức. Anh Minh hoàng đế đích thân đem tám ngàn bộ tốt đánh phá cửa tây thành, một mặt ước hẹn với Mông Cổ đánh phá cửa đông. Ngài còn sai Đại bối lặc đem đánh tả Tứ Kỳ đánh thẳng tới Mã Yên Sơn.

Lại nói tướng quân họ Hà của Minh triều khi kéo tới Mã Yên Sơn định đóng quân ở chân núi, nhưng nghĩ tới nghĩ lui ông lo ngại hai bà thấy đánh nhau mà sợ nên kéo quân lên trên đỉnh núi, để hai bà ở trong toà cổ "Nương nương miếu", rồi sai một vài trăm tên quân đóng tạm phía dưới làm thám tử lượm tin và báo tin.

Không ngờ đại bối lặc của quân Mãn bất chấp cả đêm khuya đạp trên tuyết mà tiến quân. Mấy trăm tên thám tử của quân Minh ngủ kỹ chẳng biết gì, bị quân Mãn lượm sạch.

Khi quân Mãn tiến tới đỉnh núi thì Hà tướng quân đang mơ màng bên cạnh hai bà vợ đẹp, mói giật mình tỉnh giấc. Ngài vội nhảy chồm dậy xách gươm tính xông ra, nhưng đã muộn. Quân Mãn vây kín khắp các mặt đến một con kiến nhỏ cũng khó lọt, huống hồ ngài tướng quân họ Hà lớn bằng cả triệu lần chú kiến. Hà tướng quân không cách nào khác, chỉ còn biết đứng trên đỉnh núi mà xem quân Mãn diễu võ dương ai dưới kia, tỏ ý không cần tấn công ngài.

Qua ngày thứ ba, Hà tướng quân bỗng thấy thành Liêu Dương lửa cháy ngụt trời. Ngài biết rằng đại sự đã hỏng rồi nên chẳng còn tâm trí nào lo liệu được cho vợ con, bèn hò hét, đốc thúc quân binh liều chết xông xuống núi. Khốn thay quân Mãn quá đông, lại là quân thắng trận sẵn có hùng khí nên quân ngài kẻ chết, người bị bắt đến không còn một mống. Ngay chính ngài cũng bị bắt trói ké, hai tay quặt ra sau. Ngài tức quá mở mồm chửi oang oang. Quân Mãn nối khùng nhảy bố lại băm ngài như băm viên, chỉ còn lại một đống thịt lộn máu bầy nhầy trên mặt đất. Hai phu nhân trên núi được tin chồng đã chết, mỗi bà ôm một cô con mình chạy ra sau miếu nhảy xuống giếng tự tử chết cả.

Người sau vừa cảm động vừa kính phục hai bà, đổi tên miếu này thành Song liệt phụ miếu, đặt bài vị thờ phụng. Đó là việc sau.

Người sau vừa cảm động vừa kính phục hai bà, đổi tên Miếu này thành Song liệt phụ miếu, đặt bài vị thờ phụng Đỏ là việc sau.

Lại nói khi quân Mãn đánh phá cửa tây thành Liêu Dương, khi lọt vào rồi liền phóng hoả đốt cháy ngụt trời. Trong thành bấn loạn. Viên Ứng Thái không thể cứu, liền chạy lên địch lầu, ý muốn nhảy xuống chân thành tự vẫn. Tuần án ngự sử Trương Thuyên đứng mé sau vội chạy lên nắm giữ lại. Thái, lệ chan hoà đôi mắt, nói với Thuyên:

- Hạ thần vâng chịu ân của thánh thượng đã nhiều, thế mà không báo hộ được thành trì, lý đương nhiên phải lấy thân tuẫn quốc. Tướng quân được ký thác mọi việc nơi biên ngoại, bới vậy khi tại hạ chết rồi, tướng quân hãy thu thập tàn binh lui về giữ Hà Tây.

Nói đoạn, Viên kinh lược rút bội đao đâm cổ mà thác. Trương Thuyên ôm lấy thảy Viên kinh lược, khóc lóc thảm thiết một hồi, rồi xốc trên tay định mang xuống khỏi địch lầu. Nhưng quân Mãn đông như kiến từ bốn phía tiến lên bắt Thuyên, đưa tới trước mặt Anh Minh hoàng đế. Thuyên dậm chân cất tiếng chửi bới om xòm, tứ bối lặc đứng cạnh, nổi giận, giơ đao chém phắt, đầu Thuyên rớt phịch xuống đất.

Sau trận đánh này, Minh binh đại bại, một mảnh giáp không còn. Hơn 72 thành về mạn đông sông Liêu Hà đều đầu hàng quân Mãn. Đại thắng, lại mở rộng được biên cương, Anh Minh hoàng đế bèn rời đô tới thành Liêu Dương.

Tin thất thủ thành Liêu Dương báo tới Bắc Kinh. Hy Tông hoàng đế lo sợ bàng hoàng, dậm chân đấm ngực suốt ngày. Hôm sau, ngài lâm trào, mở cuộc bàn thảo kế sách cự địch với quân Mãn. Đại thần Lưu Nhất Cảnh xuất ban tâu xin phục chức cho Hùng Đình Bật như cũ, lại tiến cử Vương Hoá Thần làm tuần phủ Liêu Đông. Nhà vua nhất nhất đều y tấu lập tức sai người về quê gọi Bật về Kinh.

Hy Tông hoàng đế ngự yến ở thiên điện, lại phong Bật làm Liêu Đông kinh lược sứ, thống linh hai chục vạn quân lên đường chinh chiến. Hải quân đóng dọc suốt vùng Sơn Đông, Đặng Châu, Lại Châu cũng được lệnh thuộc quyền điều động của Bật.

Lúc đại binh xuất phát, Minh đế đích thân tiễn Bật ra khỏi thành, thưởng một chiếc Kỳ Lân chiến bào và bốn rương vóc lụa. Một bữa yến lớn được tổ chức ở ngoài thành. Hôm đó có đủ mặt văn võ đại thần cùng với nhà vua dự tiệc tiễn hành.

Hùng kinh lược cho Vương Hoá Thần thống suất đại binh đi trước ra quan ngoại. Còn mình thì đi với bốn ngàn tên thân binh từ từ tiến về ngả Liêu Đông dọc đường quan sát địa thế, thăm hỏi dân tình. Khi đến Quảng Ninh, Hùng kinh lược vào trong nha kinh lược. Qua ngày thứ hai, Vương Hoá Thần đến yết kiến. Kinh lược họ Hùng bèn hỏi tới tình hình quân sự. Thần cho biết đã phân phối thành sáu doanh đóng dọc suốt tây ngạn sông Liêu Hà. Họ Hùng nghe qua, tỏ vẻ không vừa ý bảo:

- Liêu Hà đất hẹp khó giữ, đồn nhỏ khó chứa đại quân. Theo quân tình hiện nay, ta nên cố thủ Quảng Ninh mới phải. Nếu chia quân đồn trú bên sông, quân chia tất vô lực. Thảng hoặc địch quân dùng khinh kỵ qua sông, đánh chiếm một dinh tất dinh đó không địch nổi. Một dinh đã bại thì sáu dinh đều bại. Quảng Ninh lúc đó cùng sẽ bại theo, không có cách gì cứu được.

Hùng kinh lược nhắc đi nhắc lại ba bổn lần, giải thích đi giải thích lại, nhiều lần nhưng Thần, tính vừa tự ái vừa ương ngạnh, chẳng thèm nghe theo vẫn đóng quân như cũ tại Liêu Hà, mặc họ Hùng với bốn ngàn quân ở Quảng Ninh.

Họ Hùng thấy Thần không tuân lệnh nhưng nghĩ rằng y là một viên quan tuần, mình phải thận trọng chẳng nên làm mất lòng y. Ông đành viết sớ dâng về triều để báo cáo quân tình theo bổn phận.

Hồi 12

ANH MINH HOÀNG ĐẾ BỊ TỬ THƯƠNG

Đúng như lời tiên đoán của Hùng kinh lược. Vương Hoá Thần bị đại bại. Số là Anh Minh hoàng đế thường dụng binh thần tốc, sau khi biết rõ tình hình của quân Minh, liền thống lĩnh Bát Kỳ đại quân, vượt qua sông Liêu Hà, đánh phá các lô Minh binh khắp các miền Trấn Võ, Tây Bình, Lư Dương, Trấn Ninh. Quân Mãn kiêu dũng quá, đánh đâu được đấy, bao nhiêu thành trì đều theo nhau thất thủ. Miền Lư Dương bị mất, quân của Thần vỡ tan.

Tin chiến bại về tới Quảng Ninh. Hùng kinh lược kinh hồn bạt vía, tay chân run lẩy bẩy, ông vội vã đem quân từ Cẩm Châu tới sông Đại Lăng. Đi tới con đường nhỏ trong khu núi cao rừng rậm, ông gặp Thần chân không giầy, đầu không mũ, tóc râu bối bù, lẽo đẽo theo sau vài tên hầu cận.

Thần thấy họ Hùng oà lên khóc, lệ trào xuống như mưa. Hùng kinh lược thở dài nói:

- Người không nghe lời ta nên mới có việc đại bị ngày nay. Đại sự đã hỏng, bọn ta chỉ còn cách liều mạng mà thôi.

Giữa lúc hai người đang than vãn hối tiếc, bỗng đằng trước mặt tiếng chuông tiếng vang dậy rồi một toán quân đánh tới.

Đấy chính là đại bối lặc Đại Thiện xem một vạn quân thiết kỵ chặn lối. Một trận hỗn chiến xảy ra, bốn ngàn quân Minh bị đánh tan như xác pháo.

Hùng kinh lược cùng Vương tuần phủ vội bỏ sắc phục trà trộn trong đám thường dân chạy nạn trốn vào quan nội.

Tiêu diệt sạch quân Minh của bọn Vương, Hùng, Anh Minh hoàng đế liền chiếm thành Quảng Ninh. Bắc Kinh liên tiếp nhận được tin bại trận mất thành, khiến văn võ bá quan toàn triều hoảng hồn bạt vía, kẻ nào mặt mũi cũng xám ngoét.

Hy Tông hoàng đế vừa nhục vừa tức, cả giận, hạ chỉ bắt ngay hai tên bại tướng Vương, Hùng áp giải tới Tây thành chém đầu, rồi đem tới mãi miền biên địa để bêu đầu hiệu lệnh.

Lại nói Anh Minh hoàng đế sau khi chiếm được Quảng Ninh và những vùng lân cận, lại thiên đô lần nữa tới Thẩm Dương, tập trung Đông lộ binh mã tại thành này đông tới mười vạn người ngựa, một mặt thảo luận với các bối lặc đại thần về kế hoạch tấn công Sơn Hải quan, mặt khác sai bọn thám tử thượng thặng vượt cảnh vào Trung Nguyên do thám tình thế Minh triều.

Lúc này, Minh triều đã cải nhiệm cho Vương Tại Tấn làm Liêu Đông kinh lược sứ. Tấn kinh lược xây cất một toà thành mới cách Sơn Hải quan tám dặm, thiết lập quan ải các nơi, hết tâm phòng thủ.

Một hôm, mọi người thấy một tên đại Hán cưỡi ngựa xông ra ngoài thành, miệng hô lớn:

- Ta chỉ cần xin hoàng thượng cấp cho ta quân mã tiền lương. Một mình ta đủ để đối phó với mười vạn quân Mãn.

Bọn quân sĩ canh cổng nghe tiếng hô, lập tức kéo tới và đưa tên đại Hán tới yết kiến Vương Tại Tấn. Hỏi tình hình Liêu Đông thì tên đại Hán giải thích đâu vào đấy thao thao bất tuyệt, chứng tỏ y am tường mọi lẽ, không phải là kẻ tầm thường.

Vương kinh lược cả mừng, một mặt lưu y lại nơi phủ đệ, một mặt tâu lên Hy Tông hoàng đế.

Tên đại Hán đó là ai mà dám lớn miệng đến thế? Đó là Viên Sùng Hoán. Khi Hùng kinh lược còn tại nhiệm ở Liêu Đông, Hoán đã có nhận chức võ quan. Về sau Minh binh đại bại, Hoán lưu lạc nơi quan ngoại. Hoán đi tới đâu là quan sát địa thế, tìm hỏi phong tục tới đó. Hoán giao kết được với nhiều đồn trại nơi quan ngoại, đồng thời thu thập kêu gọi được nhiều tân binh trong quan nội. Bởi vậy, một đạo thánh chỉ từ Bắc Kinh gửi tới bổ nhiệm Hoán chức quan ngoại giám quân, xuất quốc khố hai mươi vạn cho Hán chiêu mộ tân binh.

Binh bộ thượng thư Tôn Thừa Tông lúc đó cũng rất tín nhiệm Hoán. Ông thường hay đề cao Hoán trước Hy Tông hoàng đế.

Đến khi Vương Tại Tấn cáo lui, thì Hoán được thăng làm Liêu Đông kinh lược sứ. Chủ trương của kinh lược Viên Sùng Hoán là chú trọng cả hai mặt thuỷ lục. Lục bộ thì giữ Ninh Viên thành. Thuỷ bộ thì giữ Giác Hoa đảo. Tại Ninh Viễn, Viên kinh lược xây cất một toà thành trì rộng lớn, kiên cố, khích lệ tướng sĩ, thề sống chết với thành.

Tháng giêng năm thứ sáu niên hiệu Thiên Khai, Anh Minh hoàng đế đích thân thống lĩnh mười ba vạn quân tiến đánh Ninh Viên.

Viên kinh lược được tin quân Mãn kéo tới bèn cho kéo các khẩu đại bác kiểu Bồ Đào Nha ra bố trí trên mặt thành. Ông lại tuyển một đoàn quân binh người Phúc Kiến rất giỏi phóng hoả tiễn để phòng giữ mặt thành. Còn ông, đích thân lên thành đốc chiến, ăn uống ngủ nghỉ tất cả đều ở trên địch lâu, y hệt như các quân sĩ tại tiền tuyến. Bọn binh sĩ ai thấy ông cũng đều cảm kích, kẻ nào cũng dốc một lòng vì ông hy sinh tính mạng. Trên địch lâu những lúc rảnh ông thường đàm đạo thi văn với viên quan thông dịch của ông.

Rồi một hôm, ngoài thành tiếng chiêng trống vang rền, quân Mãn đã kéo tới. Viên kinh lược cười bảo tướng sĩ:

- Quân Mãn đã đến. Sửa soạn đại bác, chuẩn bị tác chiến!

Hạ lệnh xong, ông cho đưa lên mặt thành từng cái thùng gỗ lớn một trong đó ẩn các tay sành phóng hoa tiễn. Quân Mãn đã tiến tới thành ngoài. Theo kế sách của Viên kinh lược thì dụ cho địch tiến sâu vào thành ngoài, lúc đó nổ một phát pháo hiệu, tức thì cửa thành ngoài đóng lại, khiến quân Mãn bị vây chặt giữa hai lớp thành rồi hạ lệnh khai pháo phóng hoả tiễn.

Quân Mãn trúng kế. Giữa lúc bị kẹt, quân Mãn lại bị hoả tiễn vùn vụt phóng xuống như mưa rào. Rồi thây người đồ xuống, máu bắn vọt lên. Tiếng khóc, tiếng la như ong vỡ tổ dưới chân thành. Quân Mãn tử thương vô số.

Tình cảnh hỗn loạn vừa lắng dịu được một vài phút bỗng nghe tiếng "đoàng, đoàng" như sét nổ sấm vang. Tức thì vô số quân Mãn bị tung thây lên không rồi phịch xuống đất tơi tả kẻ vỡ sọ, người cháy lưng, kẻ gẫy chân, người cụt tay. Thì ra đó là đạn đại bác Bồ Đào Nha đã bắt đầu bắn xuống. Anh Minh hoàng đế cũng bị kẹt trong vòng thành. Chính ngài cũng bị ngã ngựa. May thay cạnh đó một tên lính chân tay nhanh nhẹn, bế xốc được ngài lên đem đi cấp cứu. Một tiếng "đoàng" tiếp theo. Hú vía cho hoàng đế nước Kim vì viên đạn đại bác này nổ tung ngay giữa chỗ ngài vừa ngã lăn ra hồi nãy. Tên lính Mãn chạy đã lẹ, nhưng khi chạy dọc chân thành, đức hoàng đế chẳng may bị một viên đá lớn từ trên mặt thành rơi đúng vào ót. Ngài mê đi lúc nào không biết.

Mãn Châu binh mã lúc đó rối loạn tơi bời, kẻ nào cũng tự tìm lấy lối thoát, đại bối lặc bi chôn từ lâu trong đống gạch vụn, mãi lúc đó mới bò ra được, vội tìm đến chỗ cha nằm, vực lên ngựa cố tìm cách thoát thân. May thay lúc đó chân thành phía đông bị đại bác bắn thủng một lỗ lớn. Đại bối lặc bảo vệ Kim đế nhờ lỗ đó chui qua. Chạy đến giữa đường, hai cha con gặp được Tứ bối lạc đem quân tiếp ứng.

Anh Minh hoàng đế dần dần tình lại, đau liệt khắp mình. Ngài biết mình bị thương trầm trọng, bèn dặn bảo Đại bối lặc cấp tốc lui binh, quay về gần Quảng Ninh. Còn Ngài thì ngồi thuyền xuôi dòng nước sông Thái Tử Hà tới Thanh Hà, vào suối nước nóng tắm rửa, nghỉ ngơi lấy lại sức.

Anh Minh hoàng đế nằm trên giường bệnh, thương thể ngày một thêm nặng, nhiều lần đã ngất đi. Trong cơn hôn mê ngài nhớ tới bà kế đại phi là Ô Nạp Thích, người mà ngài sủng ái bậc nhất cùng người con trai của bà là cửu vương tử Đa Nhĩ Cổn. Ngài bèn cho người ngày đêm đi gấp về Thẩm Dương gọi hai mẹ con tới, một mặt sai người tới đại doanh gọi đại bối lặc Đại Thiện.

Đại bối lặc Đại Thiện được cha gọi, vội giao binh quyền cho Tứ bối lặc, lên đường về đồn Hà Kê cách Thẩm Dương thành bốn mươi dặm, trong lòng buồn bã âu sầu.

Bà Nạp Thích tới trước, thấy hoàng đế bệnh nguy trong sớm chiều, oà khóc ngay tại bên giường. Ngày hôm đó, đại bối lặc cũng về tới. Anh Minh hoàng đế tỉnh lại, mở mắt nhìn vợ con rồi một tay cầm tay bà Nạp Thích, một tay Đại Thiện, trối trăng hết mọi việc về sau. Nghỉ một lát, ngài ân cần dặn bảo Đại Thiện:

- Bà Nạp Thích là một bà phi mà cha yêu quý nhất. Sau khi cha chết, con nên coi bà như mẹ đẻ.

Vừa nghe lời cha dạy, Đại bối lặc quỳ ngay xuống trước mặt bà Nạp Thích lạy ba lạy, miệng gọi "Mẹ! Mẹ!" và nói tiếp:

- Xin mẹ yên lòng. Con luôn giữ điều hiếu thuận với mẹ!

Anh Minh hoàng đế nằm trên giường thấy vậy gật đầu, tỏ vẻ hài lòng nói:

- Có thế mới là đứa con hiếu thảo chứ!

Nghỉ một chút, ngài lại tiếp:

- Nói đến việc lập Thái tử, cha có ý dành cho Cửu vương tử Đa Nhĩ Cổn. Tiếc thay Cổn còn nhỏ tuổi quá không hiểu biết lắm. Con vốn là anh cả, lại là đứa con hiếu thảo, vậy sau khi cha chết con hãy làm nhiếp chính vương đợi khi em con khôn lớn con bảo trợ cho nó lên ngôi. Đó là nỗi niềm tâm sự của cha, ngày đêm thường thắc thỏm. Hiện không có một ai ở đây hai cha con ta bàn tính cho xong, mong tránh khỏi tranh chấp về sau.

Nói đoạn, ngài kéo bàn tay Đa Nhĩ Cổn đặt vào lòng bàn tay Đại bối lặc Đại Thiện. Nhất thời cảm động về tình cốt nhục, Thiện kéo em vào lòng mình, ôm chặt lấy. Anh Minh hoàng đế nhận thấy vậy mỉm cười, rồi lim dim đôi mắt, cuối cùng nhắm hẳn lại, như có điều gì suy nghĩ…

Thực thế, Anh Minh hoàng đế đang thả hồn về dĩ văng xa xăm của cả một đòng họ, từ cụ tổ ông, cụ tổ bà của ngài, rồi dòng trưởng, dòng thứ, đã bao nhiêu đời gian truân khổ cực mới đến ngài, và chính ngài cũng đã trải qua bao độ buồn vui mới có ngày vang danh trong thiên hạ như hiện nay. Ngài biết cái ngày chót của mình đã gần kề, nhưng có hề gì, bởi vì ngài đã tự tạo được một sự nghiệp huy hoàng cho dòng họ, hơn nữa Ngài có một đàn con đông đảo, toàn là những trang thanh niên tuấn kiệt, đầy tương lai.

Như có ý để cho cha nghỉ ngơi yên giấc, Đại Thiện nắm tay Đa Nhĩ Cổn lặng lẽ lui ra khỏi phòng, trong khi đó Anh Minh hoàng đế cố đào sâu vào ký ức, nhớ lại những trang đời của tổ tiên, đòng họ từ lúc phát tích lâu hàng mươi thế kỷ, với bao biến đổi tang thương giữa khoảng núi rừng sâu thẳm của đất Mãn Châu lạnh giá…

Mãn Châu xứ núi rừng trùng điệp…

Trên cánh đồng rộng, cỏ non xanh rờn. Phía chân trời xa đồi núi nhấp nhô. Hoa xuân đua nở tươi như thêu, đẹp như gấm. Đây là mấy bông hạnh đầu mùa mở miệng chào đón đông xuân. Kia rừng lê trắng xoá một màu như tuyết rung rinh trước làn gió nhẹ. Trên không trung, ánh mặt trời vàng sưởi ấm cả bầu trời vừa dứt ngày đông. Trong rừng cây trên sườn đồi, đàn chim khuyên tung tăng bay nhảy trên cành. Những cánh hoa bị cánh chim chạm phải rơi xuống đất lả tả. Tiếng oanh ca, tiếng én hót, líu lo đây đó, phá tan cảnh tĩnh mịch của nơi trên tái cô liêu hoang sơ.

Giữa lúc muôn vật như đắm chìm trong bầu trời êm mát của ngày xuân, bỗng có tiếng nhạc ngựa từ xa vọng lại, tiếp theo là một trận cười xen lẫn những tiếng nói trong như ngọc dội trên mây bác. Rồi một con ngựa bạch phóng nhanh ra từ trong đám rừng lê, trên yên có một thiếu nữ trẻ đẹp, mặc một chiếc áo dài màu đỏ tía. Nàng giơ cao cánh tay ngọc để lộ làn da trắng như tuyết ra roi giục ngựa chạy nhanh. Đằng sau lưng nàng, xa chừng mười bước, hai thiếu nữ khác lớn tuổi hơn cũng cưỡi ngựa đuổi theo ra, một người mặc chiếc áo dài màu xanh cánh chả, tuổi ước hai mươi, một người mặc một áo dài nguyên sắc ba màu xanh đỏ vàng, tuổi chừng mười bảy, mười tám. Hai thiếu nữ này vừa giục ngựa đuổi theo, vừa cười vừa rủa:

- Con khỉ kia. Thử xem mày có chạy được lên tới trời không?

Người thiếu nữ trẻ đẹp lúc đó nằm rạp xuống yên ngựa, cũng ngặt nghẽo cười, gần như ngồi không vững. Một trong hai thiếu nữ đuổi sau thấy thế, vỗ tay cười rồi thét lên:

- Té đấy! Té đấy!

Tiếng kêu vừa dứt thì người thiếu nữ trẻ đẹp, mặc áo đỏ tía, bật ngửa người ra sau, quả nhiên té xuống nằm sấp trên thảm cỏ xanh rờn chẳng khác gì nằm trên một tấm nệm nhung xanh mềm mại, êm ấm. Nàng đang định ngồi dậy thì phía sau, hai người thiếu nữ lớn tuổi hơn đã đuổi tới, nhảy xuống ngựa chạy xô lại, một người giữ lấy vai còn một người thì cưỡi hẳn lên ngực, đè chặt xuống đất rồi. Cá hai đồng thời vén tay áo cù mạnh vào hai bên hông người thiếu nữ trẻ nằm bên dưới khiến nàng cười lên sằng sặc, hai chân đạp tứ tung, đôi hài nhỏ nhắn xinh xinh trùm bên ngoài đôi bàn chân thon mịn đẹp như ngọc. Hai người thiếu nữ lớn tuổi hơn cù một lúc chán rồi mới buông tay, để cho nàng kia ngồi dậy.

Người thiếu nữ trẻ đẹp ấy tuổi mới chừng mười lăm, mười sáu, gương mặt trái xoan, đôi má mịn màng thoa nhẹ chút phấn hồng, điểm thêm một cặp mắt sắc sảo đa tình, lóng lánh như làn nước hồ thu. Nàng vừa ngồi lên, liền đưa mắt nguýt hai người kia rồi bỗng phá ra cười. Thật là một nụ cười trăm duyên nghìn dáng, dù người sắt đá đến đâu cũng không thể không say đắm, bâng khuâng. Người thiếu nữ lớn tuổi nhất lấy tay chỉ nàng rồi bảo người thiếu nữ mặc áo dài nguyên sắc xanh đỏ vàng:

- Nhị muội! Em không nhìn tam muội xem. Có phải nó ăn mặc lẳng lơ không?

Người thiếu nữ trẻ đẹp cười nói:

- Em lẳng lơ thì có can gì đến các chị chứ?

Giữa lúc nàng nói vậy, người thiếu nữ lớn tuổi nhất ngồi nhích lại gần em, vén ống tay áo lên vừa vuốt mái tóc mây của nàng vừa nói:

- Em trang điểm tóc tai kiểu này thì ra đường sao khỏi người ta cười cho. Về nhà thế nào mẹ cũng chửi cho đấy!

Người thiếu nữ trẻ đẹp cúi đầu xuống để cho chị sờ đầu vuốt tóc và phụng phịu nói:

- Về nhà nếu mẹ hỏi, em sẽ nói là hai chị ăn hiếp đứa em nhỏ bé này.

Thì ra ba chị em nhà này quen búi một kiểu tóc rất đặc biệt là uốn những lọn tóc mây đen nhánh trên đỉnh đầu thành một hình tròn rồi bỏ thõng hai mối ra sau cái gáy trắng như ngọc khiến khuôn mặt xinh đẹp của các nàng càng thêm duyên dáng kiều diễm. Họ lại còn biết làm điệu khi chọn những bông hồng tươi thắm nhất đem cài lên mái tóc mai buông xoã xuống đôi má trắng mịn như tơ. Đôi lông mày cong và thanh, cặp mắt đen và trong, đôi môi hồng và tươi, hàm răng trắng và đều, tất cả đều là những tuyệt tác phẩm của hoá công hình như chỉ để dành riêng cho họ.

Một phút yên lặng qua đi. Cô thứ hai bèn giơ tay nhổ mấy đọt cỏ non. Rồi cả ba cô quây quần lại với nhau, đem những đọt cỏ ra so sánh và quan sát vui đùa. Giữa lúc vui đùa êm ái ấy bỗng nghe có tiếng tù và thổi inh ỏi, cô chị cả liền lạ rần lên:

- Gia gia về rồi. Bọn ta đi đón gia gia đi!

Ba cô quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy người cha cưỡi trên lưng con ngựa cao lớn đi đầu dẫn một đàn lửa ngựa, có bảy tám tên đại hán tay cầm roi cùng cưỡi ngựa theo sau, xa trông chỉ thấy một đám đông lúc nhúc đen ngòm đang từ từ vượt khỏi phía chân đồi.

Hồi 13

TÌNH NỞ TRONG MƠ

Cô gái út trẻ đẹp thấy cha vội đứng dậy bỏ mặc hai cô chị, nhảy tót lên lưng ngựa phóng về phía người cha. Đằng sau, hai cô chị thấy em đã đi xa cũng nhảy lên ngựa chạy đuổi.

Người cha của ba cô tên gọi là Cán Mộc Nhĩ: ông thấy con gái chạy tới đón mình, bèn dừng ngựa lại đợi. Vốn cưng cô gái út nên khi cô gái vừa chạy tới trước mặt thì ông giơ tay ra nắm lấy tay con rồi kéo sang ngựa mình. Hai cha con cùng ngồi trên yên, vừa đi vừa nói chuyện.

Đoàn người ngựa đi được một lúc thì đã thấy mấy dãy nhà san sát nằm gọn trong lòng một vùng sơn ao rộng rãi đằng xa. Mấy dãy nhà này có chừng năm, sáu chục gian, bên ngoài bao quanh bởi một bức tường đá thấp lè tè. Ông Cán Mộc Nhĩ quay đầu lại, nói với những người đồng bạn:

- Bọn ta mau về tới nhà để…

Câu nói còn chưa xong, bỗng mọi người nghe tiếng "vút, vút vút", vang dội trên đầu. Sau đó, ba mũi tên rơi phịch xuống đất trước đoàn người. Ông Cán Mộc Nhĩ thấy vậy mặt bỗng biến sắc, chỉ thốt ra được một tiếng "á", tức thì râu ria dựng ngược cả lên, đôi con ngươi như muốn nhảy ra ngoài tròng, ông giận dữ, lẩm bẩm nói một mình:

- Bọn chúng lại đã tới rồi!

Nói xong ông quay đầu lại phía sau hô lớn:

- Các anh em! Bọn ta lại có dịp đấm đá một phen đây!

Bọn đại hán theo sau, nghe ông báo động, đều quát rầm lên một tiếng rồi cầm binh khí lăm lăm trong tay, phóng ngựa như bay về phía sơn ao, bụi tung lên mù tròi, thành một vệt dài trên con đường đất gồ ghề. Ba chị em nhà họ Cán cũng phóng ngựa đuổi theo sau. Cô út vừa chạy vừa quay đầu nhìn về phía đỉnh núi Bố Khố Lý. Nàng thấy một chàng trai cao lớn cười ngựa đứng đấy từ lúc nào, đang nhe răng cười khanh khách, tỏ vẻ đắc ý.

Một vùng sơn ao cô tịch hoang vắng bỗng trở thành ồn ào náo nhiệt. Trong nhà Cán Mộc Nhĩ, tiếng người kêu la ầm ỹ. Người con trai cả của ông tên gọi Nặc Nhân A Lát vội leo lên nóc nhà; thổi tù và inh ỏi để báo động.

Dân làng nghe tiếng tù vả biết có chuyện ẩu đả, chẳng ai bảo ai đều bật dậy như những chiếc lò xo, tay cầm khí giới, vụt chạy ra khỏi nhà. Kẻ chạy bộ, người cười ngựa, cười bò làm thành một đám đông hỗn độn và ồn ào hết mức, ước đến bốn, năm trăm người. Ông Cán Mộc Nhĩ đi đầu, chỉ huy đám đông, xuất phát khỏi sơn ao. Miệng sơn ao vốn có cất một cái cổng lớn bằng gỗ. Đám đông vừa ra khỏi cổng, Cán Mộc Nhĩ liền hạ lệnh đóng chặt cửa, bọn đàn bà con gái đành phải đứng bên trong, ghé mắt kiễng chân mà nhìn ra ngoài xem.

Về phía bắc núi Bố Khố Lý, có thôn Lê Bì Cốc. Dân làng này vốn có thù hằn với dân làng Bố Nhĩ Hồ Lý ở phía nam núi đã từ lâu. Dân chúng giữa hai thôn thường tìm nhau để trả thù rửa hận. Một lời không hợp là y như có chuyện ẩu đả đến, thậm chí dẫn đến án mạng. Đã ba năm yên hàn, hai thôn không xảy ra chuyện gì. Nhưng hôm trước đấy, dân làng Lê Bì Cốc được tin ông Cán Mộc Nhĩ sắp đưa một đàn lừa ngựa đông đảo về làng. Thôn Lê Bì Cốc có vị thôn chủ tên gọi Mạnh Kha, tuổi đã ngoài sáu mươi. Ông này có một cậu con trai Ô Lạp Đặc, sức mạnh hơn người, rõ ràng là một nhân tài xuất chúng. Đặc thường đem dân làng vượt khỏi núi để báo thù, lần nào cũng đắc thắng trở về. Dân làng Bố Nhĩ Hồ Lý bị thua hoài, nên thù Đặc đến xương tuỷ. Và hôm nay, Đặc lại chỉ huy một đám đông dân làng có ý tới cướp đàn lừa ngựa của ông Cán. Đặc một mình đứng trên đầu núi, bắn ba phát tên trước để cảnh cáo. Thấy ông Cán chỉ huy một đoàn người ngựa trở ra bèn khoát ngọn giáo một cái, tức thì đám dân binh thôn Lê Bì Cốc theo chân Đặc, kẻ dao người gậy, rùng rùng kéo xuống chân núi. Khi tới giữa một khu đất rộng rãi và bằng phẳng dân hai thôn mới bày thành thế trận.

Rồi một tiếng gầm lên của hàng ngàn cái miệng vang dội khắp nơi sơn khê, hai cánh quân bắt đầu đâm chém nhau. Đao cất lên thì giáo phóng đi. Có kẻ gãy tay, có kẻ què chân, những chiếc đầu bị chém máu chảy lênh láng, những cái lưng bị đập nằm sóng soài trên mặt đất.

Ông Cán hôm đó cưỡi một con ngựa cao lớn, chỉ huy dân binh ác đấu, thấy có kẻ bị thương liền gọi người cướp lấy khiêng vào trong cổng để cho bọn đàn bà con gái băng bó dịt thuốc.

Ba cô con gái của ông cũng hăng hái tham gia vào công việc cứu thương, hết băng đầu cho người này lại bó chân cho người kia. Cô cả tên là Ấn Khố Luân. Cô thứ nhì gọi là Chính Khố Luân, và cô út gọi là Phật Khố Luân. Ân Khố Luân thì đã có chồng. Chính Khố Luân thì đã có người bỏ miếng trầu. Chi còn Phật Khố Luân là chưa có ai mai mối. Cả ba chị em đều xinh đẹp, nhưng Phật Khố Luân thì thật là một trang giai nhân sắc nước hương trời, trai làng người nào cũng mê mệt, nhiều cậu trai say mê đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên. Mỗi khi gặp nàng, dù có chuyện hay không cũng muốn nói với nàng vài ba câu để gọi là được gần gũi người đẹp trong chốc lát cho thoả lòng mộng ước. Buồn một nỗi là đám trai làng Bố Nhĩ Hồ Lý tuy nhiều mà chẳng có cậu nào xứng đôi phải lứa, lọt vào được mắt xanh của nàng, khiến mỗi khi gặp họ, nàng chẳng bao giờ thèm liếc mắt để ý tới.

Hôm nay thôn nàng đánh nhau với thôn bên, nàng đem hết sức mình cùng với chị em trong xóm bó chạy chữa cho những người chiến đấu bị thương. Khi thì dìu một cậu trai gãy chân đặt nằm trong giường bệnh. Khi thì an ủi một thanh niên khác bằng đôi lời nói ngọt ngào êm dịu, khi băng bó vết thương cho một cậu trai nọ bị thương ở trên lưng, khi thì pha sữa, đem nước cho bất kỳ kẻ nào kiệt sức vì quá mệt hay quá khát, cho họ chóng lấy lại sức, tiếp tục ra trận chiến đấu.

Bất cứ một trai nào được nàng săn sóc tới, tức thì khôi phục được tinh thần ngay để lại tham gia vào cuộc đấu bên ngoài cổng đang tiếp diễn ác liệt.

Cuộc ác đấu kéo dài đã làng giờ. Dân làng Bố Nhĩ Hồ Lý lần này không giống năm trước nữa. Họ liều mạng xông vào trận, đem hết sức bình sinh để chiến đấu. Dân làng Lê Bì Cốc xem ra đã có mòi thua đến nơi. Ô Lạp Đặc ngồi trên lưng ngựa thấy dân làng mình chống không lại, bèn gầm lên một tiếng lớn, nhẩy xuống ngựa, múa tít cây đao dài xông thẳng vào đám đông. Mọi người thấy cây giáo của Đặc vun vút trước gió, ai cũng sợ phải giãn ra, nhường cho Đặc một lối rộng tiến vào. Đặc đắc thế, xông tới trước mặt ông Cán Mộc Nhĩ. Ông Cán vốn lẹ tay lanh mắt, thấy Đặc đến gần, bèn rút tên đặt lên cung, bắn một phát trúng vào hõm xương vai Đặc, Đặc trúng tên đau quá, gầm lên một tiếng lớn, rồi quay đầu bỏ chạy.

Ông Cán vội quất ngựa đuổi theo. Năm trăm dân làng Bố Nhĩ Hồ Lý được thể rượt theo, cùng hô lớn:

- Bắt lấy, bắt lấy tên Ô Lạp Đặc! Bắt mau!

Dân làng Lê Bì Cốc thấy chủ tướng của mình bị trọng thương, ai nấy đều hoảng sợ, quay lại che chở cho Đặc, rồi cả bọn hè nhau chạy trốn lên phía đỉnh núi. Nhưng người căm hận nhất lúc này phải là Nặc Nhân A Lạp. Ba năm về trước, nhân một cuộc ác đấu với dân làng Lê Bì Cốc, Nặc đã bị Đặc bắn cho một phát bị thương. Bởi vậy hôm nay kẻ đại thù đã bại, lẽ nào Nặc lại chịu bỏ? Nặc vội phóng ngựa như bay đuổi theo hy vọng bắt sống được Đặc để báo cái thù mũi tên thuở nọ.

Nặc hăng máu, gặp người là đâm, thấy người là khám, khiến cho mấy trăm dân binh thôn Lê Bì Cốc bị một phen tơi bời tan xác, chạy bên đông lánh bên tây, chỉ còn biết than thầm cha mẹ không sinh thêm cho mình đôi chân nữa để lúc này chạy cho nhanh hơn. Nặc đánh rốc một hồi xem chừng đã xa thôn mình, nhắm đám dân thôn Lê Bì Cốc kẻ chết kẻ trốn không còn mấy người thế mà đại thù chẳng thấy đâu cả. Nặc tuy thắng thế nhưng vốn tính còn hơi nhát nên không dám tiếp theo lên quá đỉnh núi. Nặc dừng thương, quay ngựa lại rồi phóng nhanh xuống núi.

Cuộc đại chiến này, thôn Bố Nhĩ Hồ Lý đại thắng. Dân lâng sung sướng đến cực điểm. Họ vỗ tay hoan hô, họ cười, họ nói, họ múa, họ nhảy rồi họ mổ luôn ba con trâu, năm con heo, mười hai con dê, một trăm con gà để ăn khao. Họ rao mõ triệu tập toàn thôn, từ già đến trẻ, từ trai đến gái, lại nhà ông Cán để chè chén say sưa. Ba chị em Ấn Khố Luân cũng theo cha mẹ vào dự tiệc.

Đêm đó là đêm rằm tháng tư. Trên không trung trời quang mây tạnh, trăng tròn vành vạnh, rọi ánh vàng óng như kim tuyến xuống nóc trang viên, trên ngọn cây đỉnh núi. Cảnh sắc đẹp như mộng khiến khách đa tình không một ai có thể quên được những giờ phút thiêng liêng của chị Hằng vui tươi chờ đón gió xuân. Phật Khố Luân cô nương đêm đó thoa thêm chút phấn, bôi thêm chút son, sửa lại mái tóc mây. Gương mặt nàng trở nên lộng lẫy bội phần, nhất là khi nàng tung tăng chạy đi chạy lại trước vườn hoa hồng thắm, thơm ngát dưới ánh trăng rằm. Các thanh niên, bợm nhậu đêm đó chưa uống mà đã say. Họ nhìn nàng bằng những cặp mắt say đắm tình tứ, họ kêu tên nàng cho sướng miệng, cũng có vài kẻ làm bộ ta đây, chạy lại bên nàng định tâng bốc nịnh nọt, mong được nàng để ý tới. Nhưng họ chỉ làm cho nàng bực mình thêm.

Trên trời trăng sáng quá! Thật là một đêm kỳ ảo chốn bồng lai mà trần gian ít khi có được! Thôn Bố Nhĩ Hồ Lý nằm ở giữa đông núi Tràng Bạch. Từ tháng tám trở đi, miền bắc này băng tuyết phủ khắp sơn khê, cảnh đã hoang lương lại hoang lương hơn. Tuy nhiên, cứ mỗi độ xuân về hè tới chốn núi cô tịch ít bóng người qua lại này lại được dịp phô khoe hoa sắc, thấm đượm hương trời, đưa gió mát trăng thanh vào tận hang cùng ngõ hẻm. Phật Khố Luân vốn là một trang giai nhân tuyệt thế, sinh trưởng nơi đèo heo gió hút, khỉ ho cò gáy này khi gặp một đêm lương tiêu thanh dạ như đêm nay, há có thể ngồi một mình, âm thầm chiếc bóng trong căn phòng cô tịch được sao? Nàng càng thấy cảnh đẹp thì lòng càng nao nức xốn xang. Đôi khi nàng không khỏi than thầm số phận mình muộn màng, hẩm hiu. Giữa cái đám quê mùa trong thôn Bố Nhĩ Hồ Lý thử hỏi có ai xứng đáng là một trang nam nhi anh tuấn tài năng để sánh với nàng nào? Nghĩ tới đó, nàng sực nhớ đến chàng Ô Lạp Đặc lúc ban ngày đứng trên đỉnh núi. Chàng thực là một tay anh hùng khí khái. Khi chàng chi huy dân làng xông tới cổng thôn thì cái gương mặt kiêu hùng của chàng càng trông càng thấy đáng yêu. Môi chàng đỏ, răng chàng trắng, mày chàng thanh, mắt chàng đẹp! Thật là một gương mặt lý tưởng và cuộc hôn phối ấy mới là duyên kỳ ngộ tài tử giai nhân, xứng đôi phải lứa. Nhưng chàng hiện nay lại là kẻ đại thù của nàng, thì mối lương duyên mà nàng mơ tưởng đó cũng chi là một trường mộng ảo. Mà thật, tâm tư khúc mắc buồn rầu ấy chi mình nàng rõ.

Nàng đứng trước trang viên ngửa mặt lên không nhìn ánh trăng vằng vặc càng như khêu gợi mối u tình. Nàng càng nghĩ tâm tư càng rối loạn. Bỗng nàng sực nhớ cái cảnh ao hồ của thôn nhà vào lúc này hẳn là đẹp lắm, đẹp vì nước lặng trăng sáng.

Hồ nước này cách nhà nàng không xa, ngày thường nàng vẫn cùng hai chị ra ven bờ du ngoạn. Nàng ham cái cảnh đẹp thần tiên ấy nên thong thả rẽ liễu rạch hoa mà đi. Chẳng bao lâu nàng đã thấy hồ nước sáng như gương ở trước mặt, chung quanh vắng lặng như tờ, trên không trăng sáng chiếu xuống đáy nước long lanh. Nàng tìm một phiến đá nhẵn gần bờ nước, ngồi xuống.

Một con suối từ chân núi róc rách chảy ra rồi vòng quanh chân phiến đã chảy xuống hồ.

Lúc đó nàng mới cảm thấy tinh thần thư thái, bao nhiêu ý nghĩ hỗn loạn vừa rồi đã biến mất. Nàng ngửa mặt lên khóc nhìn trăng. Bỗng nàng nghe có tiếng người thở dốc ở hốc núi gần bên. Rồi tiếng cỏ rậm gãy đổ lắc rắc tiếp theo. Một bóng người bò ra như một bóng ma.

Hồi 14

GIAI NHÂN SA MIỆNG CỌP

Phật Khố Luân thấy cái bóng bò ra, sợ hãi giật mình. Chính lúc định hô hoán ầm lên thì nàng thấy một chàng thiếu niên cố gượng mãi mới cất được đầu lên. Mặt chàng nhợt nhạt, càng nhợt nhạt hơn dưới trăng. Nàng chú ý nhìn kỹ lại thì ra đó chính là Ô Lạp Đặc. Nàng bị xúc động mạnh, vội giơ cao ống tay áo lên che đôi môi thắm rồi lẳng lặng đứng nhìn.

Ô Lạp Đặc cố lết, vẻ mệt nhọc và đau đớn in hằn trên khuôn mặt xanh mét. Miệng chàng rên không ngớt. Toàn thân máu me bê bết áo quần rách toạc tả tơi. Chàng lết mãi, một lúc lâu mới tới được bờ suối. Chàng thấy nước, tỏ ý vô cùng mừng rỡ. Chàng giơ hai tay ra thọc sâu xuống dòng suối rồi vốc lên một vốc nước đưa vào miệng. Chàng uống liền một hơi mấy ngụm, thấy tinh thần sảng khoái phần nào. Chàng ngoảnh đầu lại chẳng ngờ thấy một trang giai nhân tuyệt thế đang đứng ở bân cạnh nhìn mình chăm chú. Chàng giật mình, tỏ vẻ ngạc nhiên đến cùng độ. Một lát sau, bình tĩnh trở lại, chàng vừa thở hổn hển vừa nói:

- Cô nương là người thôn Bố Nhĩ Hồ Lý phải không?

Phật Khố Luân chẳng tiện đối thoại với kẻ thù nên khẽ gật đầu tỏ ý xác nhận.

Ô Lạp Đặc thấy vậy, bèn cố gượng đứng dậy rồi lê bước về phía cô gái họ Cán. Phật Khố Luân cho rằng chàng định tiến tới để báo thù nên vội quay mình định bỏ chạy. Nhưng Ô Lạp Đặc biết ý, vội lên tiếng:

- Ô Lạp Đặc thân đã bị trọng thương, lại bị cô nương bắt gặp thì dù có muốn trốn cũng chẳng thoát được. Cô nương chẳng cần về báo động thôn xóm làm chi! Đặc này có một con dao, tại đây, xin cô nương hãy cắt đầu Đặc đem về làng, cô nương kiếm được chút công lao, còn Đặc này được chết dưới bàn tay một người đẹp như cô nương kể cũng đã mãn nguyện lắm!

Ô Lạp Đặc nói xong thò tay móc con dao, quăng xuống đất keng một tiếng. Thân hình của chàng đổ luôn theo. Phật Khố Luân nghe chàng nói càng tỏ lòng thương hại. Nàng lại thấy chàng đã ngã vật xuống đất, nằm sõng xoài chẳng cử động gì được. Trước tình cảnh đó, nàng tiến thoái lưỡng nan.

Nhưng chỉ một lát sau nàng thấy lòng mình se lại, vội bước lên mấy bước rồi cúi xuống vực chàng dậy, chẳng ngờ Ô Lạp Đặc bị thương khá nặng nên đã ngất đi từ lúc nào, trên vạt áo chàng một vệt máu lớn đã đóng váng gắn chặt vào vai. Những dòng máu tươi vẫn còn chảy ròng ròng không ngớt.

Phật Khố Luân bất giác xúc động: nàng bèn luồn tay xuống dưới hông Ô Lạp Đặc bế xốc chàng tới cạnh bờ suối gần đó rồi co một bên chân lại, đặt chàng xuống, gối đầu chàng lên đùi mình. Nàng nhè nhẹ cởi chiếc áo đã rách mướp của chàng rồi lấy tấm khăn vuông bằng lụa của mình, dấp nước suối lau rửa những vết máu bê bết quanh mình chàng. Nàng lại xé một mảnh áo của mình để băng vết thương. Ô Lạp Đặc nằm ngửa mặt lên trời. ánh trăng vàng chiếu sáng khuôn mặt anh tuấn của chàng càng làm cho nàng thêm động lòng chú ý. Hơi thở của chàng đều đều thổi lên má phấn mịn màng càng làm cho nàng thêm bâng khuâng mơ tưởng. Giữa lúc còn mải mê nhìn ngắm khuôn mặt tuấn tú đáng yêu của Ô Lạp Đặc thì bỗng nàng thấy chàng vặn mình một cái rồi kêu lên một tiếng: "ối chao!" và từ từ tỉnh lại.

Chàng thiếu niên anh dũng thôn Lê Bi Cốc mở mắt ra thấy mình nằm ngay trong lòng một giai nhân tuyệt sắc, bất giác mỉm cười. Phật Khố Luân lúc đó thẹn quá, lấy tay vội đẩy chàng ra và cố nhỏm dậy để chạy đi. Nhưng nàng không ngờ bàn tay trái của nàng đã bị nắm chặt, mặc cho nàng tìm đủ thiên phương bách kế để tháo gỡ cũng không tài nào thoát được. Muốn đi mà không được, nàng bỗng nổi cơn giận, vội cúi xuống lượm con dao rồi tiện tay chém thẳng vào cánh tay Ô Lạp Đặc.

Chàng thiếu niên họ Ô nhìn thấy rưỡi dao sáng quắc, thế mà không chút sợ hãi, chàng cố hất cao đầu lên, miệng vẫn ngọt ngào hỏi:

- Đến bao giờ tôi mới gặp lại cô nương! Tôi không biết lấy gì để cảm tạ tấm lòng quý báu của cô nương!

Phật Khố Luân nghe xong liền rụt tay dao, đáp:

- Chàng muốn gặp lại em ư? Trừ phi chàng tới được miếu Chân Chân!

Câu nói vừa dút, nàng bỗng cười lên mấy tiếng khanh khách vừa trong trẻo vừa duyên dáng, rồi giơ phắt tay ra, quay mình vụt biến vào lùm cây mất bóng.

Về phía đông núi Bố Khố Lý có một ngọn núi vách đá dựng đứng, cao muôn trượng, vòi vọi tận trời xanh.

Nếu từ thôn Bố Nhĩ Hồ Lý trông lên, ta thấy ngọn núi này in hệt cổ con lạc đà chênh vênh nghễu nghện giữa không trung. Do đó, dân làng mới gọi là mỏm lạc đà. Trên ngọn mỏm lạc đà này có một toà cổ miếu dân làng ai cũng muốn leo lên để ngoạn cảnh và viếng chùa. Nhưng khổ nối, đường thì đường ruột dê, vách thì vách đã dựng đứng, không có chỗ bám víu, hơn nữa tuyết lại tích quanh năm đầy nghẹt không biết đi lối nào mà lên. Cứ đến lúc giao thời xuân hạ, một ngọn thác mới bắt đầu chảy trắng xoá từ mỏm lạc đà xuống như một dải lụa trắng dài thẳng tới mãi đáy hồ. Dưới núi chính là thôn Bố Nhĩ Hồ Lý. Khi thác nước bắt đầu chảy thì nước hồ dâng lên cao, tràn ngập cả vùng, nhận chìm luôn cả con đường vào núi. Rồi mùa thu tới, bốn phương mây khói đầy trời, âm u mù mịt che kín khắp cửa động Đào Nguyên. Dân làng dù có tìm trăm phương nghìn kế, rút cuộc vẫn hiếm kẻ leo lên được tới nơi tới chốn. Bởi vậy, một toà cổ miếu cách chẳng là bao xả mà chỉ có thể trông chứ không thể đến. Do đó họ mới mệnh danh toà miếu này là Chân Chân miếu. Họ thường nói câu: "Anh muốn tìm em, trừ phi tới miếu Chân Chân". Đó là ý nói gặp nhau khó lắm, cũng khó như lên tới miếu Chân Chân trên mỏm núi Lạc Đà. Phật Khố Luân sở dĩ nói ra câu đó với Ô Lạp Đặc bất quá chi vì nàng với chàng hai người đã trở thành kẻ thù truyền kiếp, cho nên tìm gặp nhau là điều khó đến không bao giờ có được.

Lúc đó đã quá tháng sáu, thôn Bố Nhĩ Hồ Lý sớm đã phủ một màu thác trắng như bạc. Công việc đồng áng vừa xong, dân làng đều cưới ngựa vai mang cung tên, tìm đến những nơi bờ suối sườn non để săn bắn kiếm ăn. Ông Cán Mộc Nhĩ cũng mang theo năm bảy tay gia nhân lực lưỡng, ngày ngày vào dãy núi phía tây bắn diều hâu và săn hươu nai. Có một hôm ông bắn được một con mang, lấy dây đeo lên vai, miệng cười sằng sặc trở về nhà. Ba chị em Phật Khố Luân chạy ra đón cha, rồi đem con mang vào nhà sau cắt thịt nướng chả nhắm rượu với nhau. Lát sau, ông Cán ở trước sân mới ngửi thấy mùi thịt nướng thơm đến cháy mũi, vội chạy ra nhà sau thấy ba cô con gái đang nướng chả uống rượu, trò chuyện om sòm. Ông bèn lớn tiếng nói vọng ra ngoài:

- Này, bà con ơi! Vào đây! Vào đây! Bọn ta hãy vào đánh chén đã, nếu không thì chị em lũ này ăn hết mất.

Tiếng gọi vừa dứt thì có tới mười hai, mười ba người kéo vào, nào già trẻ nào trai nào gái, toàn gia quây quần tại bàn ăn, cười nói vui vẻ. Ăn uống đã lưng lửng bụng, ông Cán Mộc Nhĩ mới chỉ cô gái út Phật Khố Luân, vừa cười vừa nói:

- Con bé này này, nhỏ người mà tinh quái lắm! Mày lừa mọi người để đánh chén một mình. Mày chẳng biết cha mày với anh mày săn được một con mang đem về, vất vả gian nan biết bao ư? Lũ chúng mày trẻ nít chỉ biết có ăn chứ chẳng nghĩ tới ai cả! Hà! Hà! Hà!

Nghe cha nói có vẻ giễu mình, Phật Khố Luân làm ra vẻ bướng bỉnh, vênh mặt lên, quai mồm ra nói:

- Lũ trẻ nít làm sao? Cha bảo lũ chúng con không làm được việc gì ư? Vậy ngày mai, con sẽ cùng các chị con lên núi bắt một con mang về đây cho cha xem.

Ông Cán nghe con nói, cũng nghênh vẹo cái đầu sang bên trái rồi chảu mỏ ra, tỏ vẻ không tin hỏi:

- Thật hả?

Cô gái út trả lời ngay:

- Có gì mà chẳng thật, thưa cha!

Ông Cán càng tỏ vẻ hoài nghi cười rồi bảo:

- Đưa tay mày ra đây!

Phật Khố Luân không chút do dự, chìa ngay bàn tay ra để cùng cha bắt tay đánh cá. Cả nhà đang ăn uống, thấy câu chuyện "tân kỳ" đều ngưng đũa, cười vang rồi cùng nói với cái giọng nửa đùa nửa giễu:

- Bà con mình hãy để bụng chờ thịt mang của cô ba ngày mai nữa chứ? No rồi thì còn nhậu vào đâu được?

Sáng hôm sau, Phật Khố Luân nai nịt gọn gàng, mình mặc áo chẽn cộc tay, chân đi giày leo núi, cùng với hai chị cưỡi trên lưng ba con ngựa đốm hoa đào, đem theo mấy con chó săn khôn lẹ, phi nhanh vào rừng. Khi đã vào tới sườn núi họ nhảy xuống, cột ngựa vào mấy gốc cây khô bên đường: mỗi người đem theo một con chó, kẻ sục sạo hướng tây, người tìm kiếm về phía đông. Trên mặt đất phủ tuyết trắng xoá, không biết cơ man nào là dấu chân sói chứng tỏ đàn sói đông lắm vừa mới đi qua. Cô chị cả Ân Khố Luân bảo hai em:

- Này hai em. Bọn ta phải đề phòng cẩn thận. Vùng này vừa có một đàn sói kéo qua, dấu chân còn in rõ mồn một trên tuyết. Bởi vậy, bọn ta không nên đi xa nhau, phải ở gần nhau luôn mới được!

Phật Khố Luân tuy miệng luôn vâng dạ, tỏ ý nghe theo lời chị, nhưng vẫn cúi đầu xuống tìm vết thú. Một lúc sau, nàng thấy con chó của nàng ngửa mặt lên trời, kêu một tiếng lớn xong chạy như bay về phía chân đồi, tới một cửa hang mở toang hoác ở dưới chân vách đá, rồi dùng hai móng cẳng trước cào tới như điên. Nàng vội chạy theo sau.

Biết chắc trong hang có dã thú nấp, nàng quay lại lấy tay ngoặc hai chị. Chính Khố Luân và Ấn Khố Luân vội chạy tới, thấy trong vách có ba cái hang nhưng cái ở mé tây thì lớn hơn. Hai nàng cởi mấy cái lưới thú đeo bên sườn ra, chăng kín cửa hang lớn rồi lấy sào chọc vào trong hai cái hang nhỏ.

Bỗng có đến sáu bảy con thỏ rừng nhảy ra khỏi hang, nhào vào mấy cái lưới, xông bên này, húc bên kia lung tung, cuống quýt nhưng làm sao mà thoát được. Ba chị em Phật Khố Luân sung sướng đến phát điên lên được.

Tức thì không ai bảo ai, cô út lấy tay giữ chặt lấy lưới, cười như nắc nẻ, cô hai thò tay vào bắt từng con bỏ vào cái đậy lớn mà cô chị cả đang cầm banh cái miệng rộng toang hoác ra. Bắt thỏ xong, các cô hí hửng, khoan khoái lắm. Chính Khố Luân như nghĩ ra điều gì, tỏ ý chưa thoả mãn nên đề nghị:

- Bọn ta tuy bắt được một đàn thỏ, nhưng em ba ở trước mặt ba đã bạo miệng nói phét là sẽ bắt được một con mang như con mang hôm trước đem về. Tôi xem ra mang là giống thú rất nhát, bởi vậy bọn ta phải vào những nơi núi vắng lặng thì may ra mới thấy chúng.

Ấn Khố Luân nghe xong liền nói:

- Em hai nói có lý lắm!

Phật Khố Luân nói:

- Đã nói như vậy thì bọn ta sợ gì mà không tới chân mỏm Lạc Đà tìm chúng một phen?

Thế là ba cô chẳng ai bảo ai vội chạy xuống sườn đồi nhảy lên yên ngựa vòng một vòng hết eo núi thì đã thấy mỏm Lạc Đà cao vòi vọi trước mắt, bên dưới là hồ nước của thôn Bố Nhĩ Hồ Lý. Nước hồ lúc đó đã đóng lại thành băng. Ba cô cho ngựa đi quanh ven hồ, khi đến mút đường thì thấy lối trèo lên núi cong queo ngoằn nghèo. Thế núi càng lên càng hiểm trở, lại thêm băng tuyết đầy nghẹ cả hố hốc, khiến đường đi lối lại càng khó khăn hơn. Cả bọn bỏ ngựa đi bộ, nắm dây, vịn cành mà đi ngược lên. Đi một lúc, ba cô mệt nhoài, thở hổn hển. Bỗng thấy một đàn ưng bay vụt qua, Chính Khố Luân vội kêu cô chị Ấn Khố Luân:

- Kìa chị, bắn mấy con ưng đi!

Ấn Khố Luân lúc đó cũng đã trông thấy, vội rút tên, giương cung bắn vút một phát lên không; tức thì con ưng trúng tên lăn nhào xuống đất. Chó của nàng thấy chủ hạ được con ưng, thì kêu lên "ẳng ẳng" rồi co giò chạy như bay tới ngoặt lấy đem về.

Ba chị em họ Cán lúc đó thấm mệt, chọn một tảng đá lớn bên đường ngồi xuống nghỉ chân, vừa nói chuyện vãn vừa giở gói lương khô ra ăn. Phật Khố Luân thấy mũi tên xuyên qua đầu con ưng liền tấm tắc khen tài thiện xạ của chị. Nàng còn bảo thêm, chả trách chồng chị cứ hễ thấy chị là sợ hết vía lên thì phải!

Giữa lúc nói chuyện vãn đó, Chính Khố Luân bỗng nhìn thấy một con chồn đang men theo vách núi chạy tới. Nàng vội giật chiếc cung trong tay chị rồi rút tên, bắn một phát trúng ngay giữa sống lưng con chồn, chồn bị thương quằn quại trên vũng máu, chó ta chạy tới ngay từ lúc nào, ngoặt cố nó đem về cho chủ. Phật Khố Luân thấy hai chị người thì được chim, người thì được thú thì khoái chí la lên:

- Tốt lắm! Hai chị chuyến này đều đã có lời rồi chỉ còn em là chưa có cái gì thôi.

Nàng chưa nói xong thì đã nghe tiếng mang kêu gần đấy.

Nàng liền vỗ tay reo lên mà nói:

- Hay quá! Chuyến này thì em phải nhập phần với hai chị!

Nói đoạn, nàng đứng phắt dậy, nách kẹp cung tên, vội chạy vòng ra sau triền núi, chẳng thèm đợi hai chị. Ân Khố Luân ở đằng sau kêu mà nàng cũng chẳng đáp. Chính Khố Luân thấy nàng đã đi xa bèn vội vàng đuổi theo, chỉ có mình Ấn Khố Luân rớt lại sau, đường núi vừa trơn vừa gập ghềnh khó đi, nàng phải chú ý đếm từng bước. Đi một lúc nàng nhìn về phía trước, cố tìm hình bóng hai em mà chẳng thấy. Khi vừa tới eo núi, nàng bỗng nghe thấy tiếng kêu khóc của cô em thứ hai. Nàng giật mình kinh hoảng, vội chạy về phía trước, chỉ thấy Chính Khố Luân vừa bò vừa nhảy trên sườn núi vách đá dốc dựng ngược lên. Nàng thấy vậy càng kinh hoảng, trống ngực đánh thình thình, đôi chân cơ hồ như mềm nhũn ra.

Nguyên tại, Phật Khố Luân khi đến giữa lưng chừng núi thì bị một con cọp lớn lông vàng vằn đen, táp một miếng vào hông rồi nhấc lên đem tắp vào trong rừng rậm, cây cối um tùm. Con chó sợ cọp cũng hoảng hồn bạt vía, quắp đuôi, theo rều rều đằng sau Chính Khố Luân, chân đi xiêu bên này vẹo bên kia mà miệng thì la ăng ẳng. Con mãnh thú chỉ trong nháy mắt đã mang Phật Khố Luân chui tọt vào rừng sâu mất hút. Ấn Khố Luân chỉ còn có nước kêu trời rồi oà khóc rống lên.

Lúc đó nàng đã đuổi kịp Chính Khố Luân. Hai chị em liều mạng theo vào rừng, kiếm khắp mọi nơi nhưng tứ bề vắng ngắt, chẳng thấy tung tích cô em út đâu cả, cũng chẳng nghe được một tiếng la, tiếng rên, tiếng khóc của nàng. Họ theo dõi dấu chân còn in hằn trên tuyết, thì thấy chỗ cô em út bị con mãnh thú vồ cả một vùng rộng lớn đầy rẫy nhưng dấu chân. Họ theo dõi đến mé tây khu rừng thì bỗng mất dấu, không còn biết đường nào kiếm thêm nữa. Hai chị em vô cùng hoang mang, vừa khóc vừa kêu em, chạy hết chỗ này sang chỗ khác mà tuyệt vô âm tín. Trời lại gần tối mà tìm mãi, không thấy vẫn hoàn không thấy.

Chính Khố Luân trong lòng hoảng loạn, hét lên một tiếng rồi co chân định gieo mình xuống chân núi, may nhờ có Ân Khố Luân nhanh mắt, vội nhảy tới chụp lấy em, giữ lại được.

Hai chị em chẳng còn cách nào hơn là quay xuống núi về nhà, lòng đau khổ vô cùng tận. Tới nhà thì trời đã tối mịt, hai chị em đem hết tình tiết ra kể cho cha và mọi người nghe.

Thế là cả nhà oà lên khóc thảm thiết. Bà mẹ thương con khóc đến ngất xỉu. Lúc tỉnh dậy, bà hối thúc chồng đem gia nhân lên núi tìm con ngay trong đêm đó. Ông Cán Mộc Nhĩ càng thêm hối hận vì tại mình cá với con nên mới xảy ra chuyện thương tâm. Ông không dám trái ý vợ, vội kêu một số đông gia nhân, kẻ cầm thương, kẻ vác đao, kẻ đất đuốc, người xách đèn lồng, sửa soạn để vào rừng tìm kiếm…

Hồi 15

TÌNH VUƠNG Ý NHẠC

Lại nói Phật Khố Luân bỏ mặc hai chị lại sau, chạy lên núi, đưa mắt tìm kiếm mọi nơi mà chẳng thấy con mang đâu cả. Giữa lúc xuất thần ấy bỗng nàng nghe đằng sau có tiếng thở phì, liền quay đầu lại, mổ hôi toát ra như tắm. Đáng thương cho hai cặp giò của nàng, chúng mềm ra như bún, khuỵu xuống không còn cách gì để nâng nổi tấm thân lên mà chạy nữa. Thì ra, đằng sau nàng là con cọp vằn to lớn phóng từ khu rừng ra, giơ vuốt nhe nanh chộp nàng. Phật Khố Luân là một cô gái nhỏ thì làm gì có can đảm chống lại con thú dữ! Con mãnh thú đã phi tới gần sát sau lưng nàng bèn đập đuôi, gầm lên một tiếng lớn, rồi đứng thẳng lên như người, giơ hai chân trước to bằng hai cái quạt nan có vuốt sắc tua tủa, chộp ngay vào vai nàng. Tội nghiệp cho nàng, ba hồn chín vía lúc đó bay lên tận trời xanh, nằm vật ra trên mặt tuyết bất tỉnh nhân sự, mặc cho con mãnh hổ tha đi đâu thì tha.

Nàng mê đi không biết đã bao lâu, rồi bông bên tai văng vẳng tiếng người khẽ gọi. Nàng dần dần tỉnh lại và mở mắt.

Đang hoảng sợ nàng chọt cảm thấy kinh dị. Bới vì con mãnh hồ trước mắt bỗng nói lên tiếng người, khe khẽ bảo nàng:

- Cô nương đừng sợ. Tại hạ là Ô Lạp Đặc đây!

Trong khi nàng đang ngơ ngác thì con cọp vằn đã đưa hai chân lên kéo soạt một tiếng, tấm da cọp khoác trên mình bật tung ra sàn, để lộ một chàng trai khôi ngô tuấn tú, mặt mũi sáng sủa, mình cao ngực nở, chân tay vạm vỡ, dáng điệu thật oai ùng. Đằng sau chàng, lại có đến sáu bảy tên đại hán cũng cao hùng dũng.

Ô Lạp Đặc quay bảo bọn đại hán khiêng cái ghế xích đu kết bằng dây lại rồi tự mình gọi Phật Khố Luân dậy đặt nàng vào trong ghế, ôn tồn bảo nàng:

- Cô nương đừng sợ! Chiếc dây kéo này chắc lắm, không thể đứt được đâu!

Vừa nói chàng, vừa lấy tay lắc lắc sợi dây dài, thòng từ trên đỉnh núi cao, lơ lửng giữa khoảng không. Nàng la hoảng, hai tay ôm ghì lấy chiếc ghế, mắt nhắm nghiền. Nàng có cảm giác như mình đang lướt mạnh trong mây, bay lên tận đỉnh núi. Bỗng chiếc dây kéo ngừng lại. Nàng mở mắt ra xem, thì đó chính là mỏm Lạc Đà, trước miếu Chân Chân.

Miếu Chân Chân là gì và hình dạng ra sao? Nguyên lai, trên đỉnh núi này có một phiến đá đỏ lớn chìa ra ngoài như một mái nhà để lộ bên dưới một cái động sâu hoắm, từ chân núi nhìn lên nó tựa một cái miếu nhỏ có tầng đỏ thắm.

Ô Lạp Đặc lúc đó đã lên tới đỉnh núi. Từ trong động chạy ra hai đứa bé gái, dắt tay Phật Khố Luân tiến thẳng vào trong.

Cửa động có hai bức màn lụa lớn màu đỏ che kín. Hai đứa bé gái tháo bức màn lên, bên trong đèn đuốc sáng trưng. Ở bốn vách treo nhiều tấm màn da, trải một tấm đệm dày. Trên chiếc giường mới trải một tấm nệm gấm đặt song song đôi gối thêu. Tóm lại căn động trước trang trí một cách hoa lệ.

Phật Khố Luân ngồi xuống giường, mặt cúi gằm, tay mân mê tà áo chẳng nói một lời nào. Ô Lạp Đặc bước lại trước mặt nàng, chắp tay lạy ba lạy, lại nằm bò xuống đất, dập đầu tỏ vẻ hết sức cung kính. Nàng mắc cỡ quá vội đứng dậy, quay mặt đi chỗ khác, và chẳng thèm quay lại nữa. Nàng chỉ nghe Ô Lạp Đặc vẫn nằm bò dưới đất, nhỏ nhẹ nói:

- Tên Ô Lạp Đặc này bình sinh là một thám tử lòng gan dạ thép, chưa bao giờ mềm yếu trước phụ nữ, trong thôn Lê Bì Cốc tại hạ, biết bao nhiêu là cô nàng xinh đẹp. Từ trước đến nay, tại hạ thực chẳng bao giờ để ý đến họ. Nhưng từ khi gặp cô nương dưới ánh trăng trong, bên hồ nước băng tại hạ đã nguyện đem tất cả tâm hồn giao phó cho cô nương. Hơn nữa, cô nương lại còn vui lòng cho phép tại hạ tương kiến ở Chân Chân miếu. Thành thử tại hạ ngày đêm ăn không ngon, ngủ không yên, ngồi đứng cũng bâng khuâng mong nhớ. Tại hạ phí bao nhiêu tâm tư đặt kế tìm phương đến đỉnh núi này, trần thiết trang hoàng căn động này. Đôi khi tại hạ có ý xông vào thôn để cướp lấy cô nương đem về nhưng lại sợ cô nương giận và mang tiếng cho cô nương. Tại hạ chỉ còn cách ngày ngày âm thầm dò thăm tin tức để đón lấy một dịp tốt. May thay, được tin cô nương lên núi đi săn, tại hạ liền giả trang làm cọp chờ đợi dưới chân núi. Hình như ông trời cũng có lòng thương cho nên cô nương quả nhiên đã tới. Đã tới chốn này rồi thì đó thực là cô nương đáp ứng lời hẹn tương kiến tại miếu Chân Chân với tại hạ. Và từ bây giờ, tại hạ xin bỏ hết mọi việc để ở lại động núi này hầu hạ cô nương, xin cô nương vui lòng cho phép!

Thật là một thiên tự sự hàm chứa biết bao ý nghĩa yêu đương tha thiết. Phật Khố Luân lòng cảm động đến cực độ, hai má ửng hồng, miệng tuy không nói nửa lời nhưng cặp mắt huyền đa tình đã liếc nhanh về phía tri kỷ mà mãi hôm nay nàng mới được gặp.

Từ đó hai người như chim liền cánh, như cây liền cành. Bất cứ khi đứng khi ngồi, lúc ăn lúc ngủ, chàng và nàng không một chút nào rời nhau nữa. Sơn động trước đây vắng vẻ, lạnh lùng thì nay lại ấm cúng, thi vị. Cặp mắt nhân duyên trời định trước tưởng hết muôn ái nghìn ân trong lòng sơn động trang trí huy hoàng. Có khi họ ngồi cạnh lò sưởi, kể cho nhau nghe các chuyện vui trẻ thời niên thiếu thơ ngây. Có khi họ đối diện với hoa tươi cỏ biếc mà cầm kỳ, thi tửu. Bao nhiêu ngày tháng đối với họ đã mất đi trong lãng quân. Rồi một mùa đông qua.

Trời đất bước sang xuân, Phật Khố Luân một hôm ngẫu nhiên nhìn qua cửa động chỉ thấy tuyết tích khắp sơn khê trắng xoá một màu, nàng phóng tầm mắt ra xa hướng về phía quê cũ cảnh xưa, đồi núi nhấp nhô chẳng khác gì điện ngọc lầu vàng cao vút lên không trung, nàng lại nhìn về phía tây một dãy nhà thấp lè tè trong sơn ao hiện rõ mồn một. Nàng biết đó chính là nhà nàng. Nàng nhớ tới cha mẹ chẳng biết giờ này đau khổ ra sao, bất giác hai hàng lệ từ từ lăn trên gò má lúc nào không hay. Nàng cảm thấy lòng tê tái, vội quay vào trong động, ngồi lặng lẽ trên chiếc giường đệm gấm, gối bông để cho nước mắt tuôn xuống như mưa.

Ô Lạp Đặc thấy vậy vội chạy lại giơ hai tay ôm nàng vào lòng, rồi thì thầm an ủi. Phật Khố Luân tuy một mặt nhớ tới cha mẹ nhưng mặt khác không thể bỏ được người yêu trước mặt. Chàng tận lực truy vấn, lúc đó nàng mới đem tâm sự mình ra nói cho chàng hay. Ô Lạp Đặc nghe xong cúi đầu suy nghĩ một hồi rồi nói:

- Anh sẽ mạo hiểm đưa em về nhà!

Phật Khố Luân, lắc đầu lia lịa rồi nói:

- Như vậy không được đâu! Gia đình em thù anh đến tận xương tuỷ. Anh lại còn bắt cóc em đi nữa. Như thế thử hỏi, cha mẹ có chịu để anh yên thân không? Chuyến này nếu anh ra đi, ắt tính mạng khó toàn. Tốt hơn hết là anh cho em trở về một mình, khi gặp cha mẹ em sẽ có cách ăn nói.

Chàng tưởng đến cái cảnh chia tay não nề sắp tới, bất giác nhỏ mấy giọt lệ anh hùng thấm ướt cả khăn nàng. Với một giọng ảo não thê lương, chàng nói:

- Em ra đi có liệu cách tính nào cho anh chăng?

Nàng nghe câu đó, lòng se lại, ruột như đứt ra trăm đoạn.

Nàng tự nhủ thôn Bố Nhĩ Hồ Lý có kẻ trai nào đa tình được như chàng đâu. Song đã là kẻ thù truyền kiếp của nàng thì cái đoạn nhân duyên này thực không thể nào thành tựu được. Mà đã thế thì từ đây đời nàng đành chịu cô đơn lạnh lẽo. Nàng không còn chút hy vọng gì cùng chàng thành đôi vợ chồng trăm năm đầu bạc. Nghĩ tới đó nàng giật mình sợ hãi. Nàng cố xua đuổi ý nghĩ rùng rợn đó. Và trong lúc thảng thốt, nàng phản ứng mãnh liệt, miệng vừa nói mắt vừa nhìn chằm chằm vào mắt chàng:

- Phen này em trở về thăm cha mẹ, phải chăng đây là cuộc vĩnh biệt đau lòng? Anh ạ! Sớm là sáu tháng, chày là một năm, anh nên tính cách đi tìm em để cho em được cùng anh thành đôi vợ chồng bách niên giai lão. Em chỉ sợ lúc đó anh thay lòng đổi dạ mà thôi!

Ô Lạp Đặc vừa nghe đến đây liền rút trong bọc ra con dao nhỏ, đâm một nhát vào cánh tay, máu chảy ròng ròng. Chàng cầm lấy chén rượu đưa lên hứng máu rồi chuyển đến miệng nàng. Phật Khố Luân tiếp lấy uống cạn một nửa còn một nửa chàng cấm lấy uống nốt. Đây là một cách lập thệ tối trọng của dân địa phương vùng Tràng Bạch, có nghĩa là, nếu phản bội lời thề thì sẽ bị giết chết và còn bị sát thủ uống máu mình.

Phật Khố Luân thấy Ô Lạp Đặc tự đâm một nhát dao nên càng quyến luyến không muốn rời chàng, nàng vội dịt vết thương cho chàng rồi đỡ chàng nằm xuống an nghỉ.

Hai người ở lại trong động tiên mười ngày nữa. Một đêm nọ, trăng sáng như ban ngày, vành trăng vành vạnh toả ánh vàng xuống đồi cây ngọn núi. Cặp tình nhân ngồi kề vai ngoài cửa động ngắm trăng. Quang cảnh huyền ảo của đêm trăng càng làm cho Phật Khố Luân tưởng nhớ tới cha mẹ. Nàng đã bao phen thấm ướt khăn hồng. Ô Lạp Đặc phần thương người yêu phần khích động hùng khí, liền dặn bảo gia nhân treo ghế xích đu lên. Hai người cầm tay nhau mãi, rồi chàng đứng trên đầu núi bùi ngùi trông xuống, cho tới khi người yêu mất bóng mới thở dài, trở vào động.

Lại nói Cán Mộc Nhĩ khi lạc mất cô con gái cưng Phật Khố Luân, lúc nào cũng đau khố buồn rầu. Ngày nào cũng vậy, ông đem người đi khắp núi trước núi sau để tìm kiếm. Ông đã tìm kiếm đến một tháng mà tung tích con chẳng thấy đâu.

Ông ra thở vào than, sờ tai gãi má, lắm lúc như ngây dại. Bà Cáp cũng không hơn gì. Bà nhớ tới con gái mà lòng đau như cắt, kêu khóc thảm thiết rồi ốm nằm liệt giường. Hai người chị mắt thấy Phật Khố Luân bị cọp bắt tha đi lòng càng chua xót trong lòng. Người nào cũng khóc ngất từng hồi. Đám gia nhân thảy đều mặt buồn rười rượi. Ngoài trời hồi đó còn giữa đông, băng tuyết bạt ngàn, tình đã thê thảm mà cảnh lại thê lương, thành thử gia đình trước kia vui vẻ bao nhiêu thì ngày nay lại lặng lẽ bấy nhiêu.

Không bao lâu, đông qua xuân tới. Cô chị Ấn Khố Luân đã trở về nhà chồng. Trong nhà chỉ còn lại mình Chính Khố Luân. Nàng lúc nào cũng ủ rũ, đêm đến ghé lại giường mẹ ngồi để an ủi, luôn tay khâu giày vả dép dưới ánh đèn, lòng nhớ tới em mặc cho lệ tràn sóng mắt.

Bỗng một đêm canh khuya, mọi người ngạc nhiên thấy cánh rèm rung động. Rồi một bóng người lách cửa bước vào. Mọi người nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lạ, chính là người mà cả nhà mỏi mắt đợi trông đã bấy lâu nay. Người đó chính là Phật Khố Luân. Chính Khố Luân thấy em gái bước vào vội la lên một tiếng sung sướng, nhảy tới trước, giơ hai tay ôm chầm lấy nàng, miệng nói:

- Trời ơi! Em tôi đã về!

Bà mẹ đang ngủ, giật mình tỉnh dậy, mừng rỡ khôn xiết.

Bà kéo nàng vào lòng, hôn lấy hôn để vào mớ tóc mây của cô gái cưng xa nhà đã lâu ngày. Toàn gia, già trẻ trai gái; được tin đều chạy ùa vào phòng để thăm hỏi. Ông Cán Mộc Nhĩ cầm lấy tay con, giọt ngắn giọt dài, hỏi hết mọi điều. Nàng đứng trước mặt cha không dám nói thật. Nàng bịa chuyện rất khéo, đến nỗi cả nhà đều tin là thật.

Hôm đó, nhìn thấy con cọp vằn, con sợ quá ngất đi. Cọp tha con qua không biết đến mấy triền núi. May thay mấy người thợ săn đuổi bắt được cọp, cứu con khỏi miệng cọp. Thấy hông con bị thương, họ liền đưa về nhà chữa chạy. Gia đình họ có một mẹ già, bà ta săn sóc con rất chu đáo. Hai tháng qua vết thương vừa lành thì con lại sốt. Gia đình họ sống trong lều. Bởi vậy khi con sốt mê man bất tỉnh, họ phải chuyển đi hết chỗ này đến chỗ khác, càng ngày càng xa dần. Lúc hết bệnh con mới biết họ đưa con đến mã trại Hà Dương!

Ông Cán nghe đến đây liền thốt lên:

- Úi chà! Trại Hà Dương cách đây những tám trăm dặm. Vậy con làm cách nào về được tới đây?

Phật Khố Luân tiếp lời cha nói:

- May thay giữa đường con gặp một bọn thợ săn khác quen họ. Bọn này nói họ qua phía Bắc núi Trang Bạch để bắn chim điêu. Nhờ đó, con mới xin bọn này giúp đưa con về nhà.

Cả nhà nghe kể ai cũng tin nàng nói thật chứ có ngờ đâu đó là chuyện bịa!

Đêm hôm đó, nàng lại cùng chị là Chính Khố Luân chui vào chăn nằm cùng giường ngủ như xưa. Ngày hôm sau, Ấn Khố Luân, cúng đã được tin, vội chạy về thăm em. Ba chị em được đoàn tụ như trước, người nào cũng vui mừng khôn xiết.

Thôi thì hết chuyện này qua chuyện khác, họ cười nói suốt đêm mà không chán. Phật Khố Luân lâu ngày gặp chị nên cấm tay chị, không cho về nhà riêng với chồng nữa. Từ hôm đó ba chị em lại ở chung một nơi để trò chuyện, hàn huyên. Toàn thôn thấy cô gái cưng của ông Cán trở về yên lành, ai cũng có ý mừng chạy tới hỏi thâm.

Mùa xuân qua, tiết trời đã sang tháng ba. Đây là mùa của hoa trà mi. Dưới chân núi Tràng Bạch, trăm hoa đua nở xinh tươi. Nào hạnh, nào đào, nào mận, tất cả đang trong mùa rực rỡ. Gió xuân mát mẻ, mặc một chiếc áo mỏng không còn thấy lạnh. Bởi vậy, dân chúng địa phương đã từ lâu phải chịu lạnh lẽo vì băng tuyết, nay được dịp xuân sang hoà ấm, ai lại chẳng muốn đi dạo chơi nơi bờ suối ven đồi để thưởng hoa hóng gió.

Lúc đó, từ trên mỏm Lạc Đà, một dòng thác trắng xoá đã bắt đầu đổ xuống. Tiếng nước dội vào đá, nghe ầm ầm ào ào suốt từ hạ qua thu. Trong đêm khuya, dân Tràng Bạch sực tỉnh giấc nồng, ai mà chẳng nghe thấy tiếng nước đổ trào ấy?

Đối với họ, những tiếng ấy đã quá quen thành nhàm nên chẳng có nghĩa lý gì, trái lại, đối với Phật Khố Luân thì nó có một tác dụng kỳ lạ làm cho lòng nàng rối loạn không lúc nào không xao xuyến, bâng khuâng. Đã có nhiều đêm, nàng thao thức năm canh, để mặc cho đôi dòng lề chảy xuống như mưa trên đôi má phấn mịn màng. Trai thanh gái lịch trong vùng xúng xính trong bộ y phục sặc sỡ diêm dúa để rong chơi đây đó, nhưng riêng Phật Khố Luân không ra khỏi phòng, chỉ suốt ngày âu sầu buồn bã ngồi lặng trên giường. Nàng nhớ tới khi cùng Ô Lạp Đặc ân ái trên mỏm Lạc Đà để mặc cho tâm hồn như si như mê, bay tới tận đỉnh núi. Mẹ nàng thấy nàng biếng ăn nhác ngủ, trằn trọc ngày đêm, cho rằng nàng bị bệnh nên vội đi khắp nơi cầu Thần, bái Phật. Duy chỉ có Ấn Khố Luân ngấm ngầm để ý và liệu biết đôi phần…

Một hôm, ông Cán Mộc Nhĩ nhận thấy con bị bệnh, bèn cho mời thầy pháp tới nhà bắt ma trừ tà. Trong nhà ngoài sân, trai gái, già trẻ được một dịp ồn ào, náo nhiệt. Ấn Khố Luân nhân lúc vắng người, lén vào phòng nàng thấy nàng ngồi bó gối âu sầu trên giường. Người chị ngồi sát bên cạnh, thì thầm bảo nàng:

- Này con quỉ ơi! Bên ngoài người ta đang cúng cho mày đấy! Liệu chị mày lại không đoán được bệnh của mày sao?

Phật Khố Luân thấy chị bắt được thóp giật mình, luống cuống không nói được nên tời, chỉ châm chằm nhìn vào mặt người chị như để dò xét, cầu cứu. Ấn Khố Luân trước thái đô đó lại càng tin thêm bảy, tám phần, bèn nói:

- Hãy khoan biện bạch! Em nghe lời chì hỏi đây. Em bảo em bị cọp cắn ngang hông tha đi, về sau chữa lành được, thế mà sao chỗ hông chẳng có vết sẹo? Em lại còn bảo em bị sốt nặng. Bọn ta người quan ngoại mỗi khi bị bệnh sốt nóng lạnh, người đau nằm liệt đến hàng vài, ba chục ngày mà chưa chắc đã khỏi, hoặc khi đã khỏi rồi sắc mặt cũng không thể phục nguyên mau chóng được. Huống hồ, trong khi bịnh em phải theo bọn du mục sống trong lều vải, chuyển hết chỗ này tới chỗ kia hết sức vất vả. Vậy mà sau khi em đau nặng, chị chẳng thấy có một chút nào gọi là đau cả, cũng chẳng thấy có một chút nào gọi là vất vả cả? Khi em về tới nhà, chị đã để ý cẩn thận thì thấy em chẳng có vẻ gì là tiều tuỵ, trái lại, gương mặt còn có vẻ xinh tươi hơn ngày xưa. Rồi lúc em kể nỗi khổ cực trên đường, chị thấy em nói năng hoạt bát vui tươi, chẳng thấy có một tí gì gọi là buồn bã âu sầu, trái lại, còn có vẻ mừng rỡ, hí hửng nữa. Tuy vậy ngoài miệng tuy xoen xoét nói khổ cực chứ thực trong lòng không phải vậy. Còn điều này nữa, em theo bọn du mục chạy hết chỗ này đến chỗ kia, cùng với tụi đàn ông sống chung trong lều thì quyết em không thể giữ tròn được danh tiết. Em biết rằng tụi đàn ông con trai nơi quan ngoại này, đứa nào thấy gái cũng lắc la lắc lém như chó đói thấy thịt, mèo hoang thấy mỡ. Bọn chúng vốn là một bọn săn bắn man rợ, thô lỗ. mà em lại là cô gái dậy thì xinh đẹp. Trong lúc gặp nạn em phải theo bọn chúng sống chung nhiều ngày, thử hỏi em có bản lĩnh gì đề bảo toàn được thân mình? Không thể bảo toàn được thân mình thì lúc về tới nhà em ắt phải khổ sở buồn rầu. Thế mà nay, sau khi về, em chẳng có vẻ khổ sở buồn rầu tí nào. Bởi vậy, câu chuyện của bọn du mục, theo phỏng đoán của chị, chỉ là một câu chuyện bịa thôi. Chị nói điều này em đừng giận nhé: chỉ đã quyết rằng ngày nay em không còn là một cô gái nhỏ nữa. Không còn là một cố gái nhỏ nữa nghĩa là trong bụng đã có con rồi, tức là có bầu rồi đó.

Phật Khố Luân nghe tới đây, đôi má phấn mịn màng bỗng đỏ ùng lên như gấc chín. Nàng chỉ thốt lên được một tiếng "á" rồi thì câm bặt, mặt xám ngoách lại. Ấn Khố Luân không muốn cho nàng phân trần liền nói tiếp:

- Mấy hôm nay em bệnh làm cha mẹ cuống quýt cả lên. Nhưng kỳ thực em đâu có bệnh. Giá có chăng nữa thì cũng chỉ tại cái "nghiệp chướng" trong bụng nó làm eo mà ra. Em đừng che chống nữa. Dù em không chịu nói ra thì cái dáng điệu uể oải, cái khí sắc men mét kia sớm đã cho chị rõ rồi. Thường thường em chẳng ói mửa đó sao? Đã chẳng thèm của chua đó sao? Tất cả những triệu chứng đó báo hiệu đứa bé trong bụng làm eo đó. Cha mẹ nhất thời bị em qua mặt vì lòng thương em, chứ chị thì làm sao em giấu nổi. Nếu không tin lời chị, em hãy lấy kiếng mà soi, em sẽ thấy mi tâm trên mặt xơ xác, trông còn già dặn hơn cả chị nữa! Em yêu quý của chị! Em hãy nói thật cho chị nghe đi. Em hãy nói tất cả những gì xảy ra cho em ở ngoài…

Ấn Khố Luân nói một thôi một hồi khiến Phật Khố Luân vốn có tật giật mình đành phải câm lặng. Những lời lẽ của chị đối với nàng quá rõ ràng rành mạch. Thật là một tiếng sét mà nàng không kịp bưng tai. Đã bao ngày nàng xa cách người tình chung cho nên lòng nàng không thư thái, mặt nàng không vui tươi được. Lại thêm cái bụng kia đã reo rắc hoạ căn, một bầu tâm sự vừa não nề sầu khổ, vừa xấu hổ lo âu. Nàng lo buồn hơn nữa là không có lấy một ai khả dĩ giúp mình để bàn tính mọi việc. Cho nên khi nghe chị nói đúng tâm can của mình, với những lời vừa chân xác vừa thân mật, nàng bất giác xúc động can tràng rồi bỗng nàng ngẩng đầu lẽn nhìn chị như có vẻ cầu cứu, sau đó ném cả thân hình vào lòng chị, nức nở không thành tiếng. Nàng ôm ghì lấy chị, mặc cho đôi dòng lệ tuôn trào ướt đẫm cả vai áo chị. Nàng thút thít khóc một hồi lâu, mấy lọn tóc mây trên đầu bù rối, loã xoã xuống đôi má xanh mái vì quá lo sợ!

Ấn Khố Luân cũng lo lắng cho em, nên ngồi im lặng để tìm kế. Một lúc lâu đã qua nàng mới nâng em dậy, rồi đem hết lời dịu ngọt an ủi và khuyên em.

Phật Khố Luân lúc đó đã nguôi phần nào lòng lo lắng sợ hãi, hơn nữa tin tưởng ở tấm lòng quý mến của chị, nên mới đem hết mọi sự đã qua kể lại cho chị nghe. Ấn Khố Luân nghe xong một ngơ ngác lo lắng. Mãi một lúc sau, nàng mới nói:

- Việc này rắc rối to rồi! Em cũng biết cha chúng ta vốn là thôn trưởng thôn Bố Nhĩ Hồ Lý này. Dân làng cũng vì thế mà quý trọng em. Năm ngoái, người con trai của ông Oa La Tạp Ngưu Lộc đã nhờ người mối lái tính hỏi em nhưng cha chúng ta không thuận thể mà nay mai đây cha chúng ta biết được rằng cô con gái cưng của mình lấy một kẻ thù truyền kiếp của dân làng thì thử hỏi người còn mặt mũi nào để nhìn ngó dân làng nữa. Nếu tin này truyền ra ngoài thì chẳng những cái ngôi vị thôn trưởng của cha không còn vững mà ngay cả em cũng không thể nhìn được bất cứ ai ở trong cái thôn này nữa. Đứa bé ở trong bụng em, dân làng này quyết chẳng cho nó sống ở đời này đâu…

Nghe nói đến đây, Phật Khố Luân bỗng từ trên giường nhảy xuống đất, quỳ gối trước mặt chị, miệng lắp bắp khẩn khoản:

- Chị ơi! Chị cứu em! Chị cứu em với!

Ấn Khố Luân giơ tay ra nâng em dậy rồi lấy khăn lau nước mắt cho em! Giữa lúc hai chị em đang tựa nhau ngồi buồn bã âu sầu không tìm được kế thoát, thì Chính Khố Luân, người chị hai đầy cửa bước vào.

Nàng thấy em út nước mắt chạy quanh, mặt mày xanh xao thê thảm liền tiến gần lại hỏi. Phật Khố Luân thấy chị hỏi cũng muốn thổ lộ nỗi niềm nhưng khi nhìn vào đôi mắt như có vẻ nghi ngờ bực tức lại rụt rè không dám nói. Ấn Khố Luân tự nhủ: Đã là chị em với nhau việc này không thể dối trá được. Huống hồ cô em hai tính vốn thông minh thì việc này cần phải cho biết để cùng bàn tính với nhau. Bởi vậy nàng bèn đem mọi việc của cô em út kể hết ra, nào là chuyện chung sống với Ô Lạp Đặc, nào là chuyện có bầu đã được mấy tháng…

Chính Khố Luân nghe đoạn giật mình kinh hoàng, đôi mắt trừng trừng nhìn Phật Khố Luân như suy nghĩ điều gì lung lắm. Bỗng nàng vỗ tay đánh bẹt một cái rồi nói:

- Có rồi! Có rồi!

Phận Khố Luân thấy vội cầm tay nàng giật giật, gạn hỏi:

- Em có kế sách gì hay đó?

Chính Khố Luân lúc đó đã ngồi xuống giường. Tức thì ba chị em quây tròn chụm đầu lại với nhau. Nàng bắt đầu nói, giọng thì thầm tỏ vẻ bí mật:

- Bọn ta thường nghe họ nói: Thuỷ tổ Chu Mông dân Cao Cú Lệ vốn là con của Liễu Hoa cô nương. Nàng có ba chị em. Người chị cả chính là nàng. Người thứ nhì gọi là Vi Hoa cô nương, còn người em thứ ba gọi là Tuyên Hoa cô nương vốn là một cô gái trẻ đẹp. Một hôm nàng đứng một mình ở sau viện, bỗng một đám sao từ trên sa xuống, chui tọt vào miệng nàng. Tử đó nàng thụ thai và sinh ra Chu Mông. Người Cao Cú Lệ nói đó là chúa tinh của trời hạ giáng, bèn suy tôn lên làm Quốc Vương. Đó là chuyện xưa, nhưng tam muội lúc này cũng có thể bắt chước việc nói có một vật gì đó rơi vào miệng rồi nuốt đi, biến thành đứa hài nhi. Khi sinh ra, nếu nó là con trai ắt dân làng cũng phải tôn lên làm thôn trưởng chứ chẳng sai!

Ấn Khố Luân nghe xong giật mình tỉnh ngộ. Phật Khố Luân còn chưa tin hẳn nên nói:

- Kế sách này sợ không thành mất!

Ấn Khố Luân nói:

- Tại sao lại không thành? Em không nhớ cha thường kế cho bọn ta nghe chuyện vua nhà Thương đời xưa ở Trung Quốc sao? Ông vua Thương có người mẹ tên Giản Địch… Bà này cùng bọn phỉ tử ba người hôm đó đang tắm gội trong ao, bỗng thấy một con chim sẻ đen từ trên trời bay xuống đẻ rớt một quả trứng. Bà Giản Địch há miệng nuốt quả trứng vào bụng, sau này sinh ra Khiết hoàng đế của nhà Thương. Bọn ta hãy bắt chước chuyện này, đến hồ Bố Nhĩ Hồ Lý tắm gội. Trên bờ hồ này có rất nhiều quả hồng. Tam muội hái nuốt một trái đi rồi thì…

Giữa lúc ba chị em nhà họ Cán bàn tính kế hoạch đến lúc khoái trá xuất thần, bên ngoài ông thầy cúng cũng rã đám bắt tà. Cánh cửa mở, một bọn chị em lối xóm bước vào ngồi quây quanh giường. Cầm tay Phật Khố Luân ân cần hỏi han.

Phật Khố Luân lúc đó lòng đã có chủ ý nên sắc mặt đã trở lại xinh tươi, tinh thần cũng đối ra vui vẻ. Mọi người thấy bệnh nàng khỏi mau chóng như vậy, đều cho rằng nàng có Trời Phật phù hộ độ trì, và ông thầy cúng quả pháp thuật cao cường hơn người. Hai vợ chồng nhà Cán thấy vậy cũng yên tâm.

Đã cuối hè, thời tiết trở nên ấm áp. Phong cảnh hồ Bố Nhĩ Hồ Lý lại một phen thay đổi màu sắc, mặt nước gợn sóng lăn tăn, xanh biếc một màu. Những chóp núi cao vòi vọi giữa trời in hình xuống đáy nước rõ mồn một, quanh hồ trên các triền núi muôn hoa đua nở, y như một chiếc áo gấm khổng lồ, rực rỡ.

Một thác nước trắng xoá cao và dài từ mỏm Lạc Đà đang tuôn xuống chân núi đẻ chảy vào trong hồ. Hai bên bờ suối cây cỏ xum xuê, nham thạch nhấp nhô. Ngọn gió mát từ xa mang hương thơm ướp khắp sơn khê. Tới khúc quanh cua con suối, nước xô mạnh vào những táng đá khổng lồ đen sì, nhô đầu chênh vênh ra lòng suối, bỗng vọt lên trắng xoá cao đến mấy trượng rồi lại rớt xuống lả tả, tạo thành những tiếng rầm rầm rào rào suốt ngày không ngớt. Nước hồ dần sang thu càng trong càng mát. Người ta nhìn rõ cả từng đàn cá tung tăng bơi lội giữa hồ, cảnh hồ đẹp nước hồ trong, bởi vậy bọn đàn bà con gái thôn Bố Nhĩ Hồ Lý thường kéo nhau tới đây tắm gội.

Chung quanh hồ, sát mép nước, lại còn có một lớp lau sậy lá xanh rờn rậm rạp, tạo thành một bức màn che vây kín mặt hồ khiến các cô nàng tha hồ tắm gội, chẳng còn e ngại có kẻ tò mò nhìn ngó nhất là trong những lúc các nàng thích sống đôi ba phút tự do phóng khoáng như tổ tiên thời tiền sử.

Ba chị em Phật Khố Luân một hôm rủ nhau tung tắng tới dưới thác cạnh hồ tam gội. Cảnh núi rừng xinh đẹp lại yên tĩnh. Cả ba nàng cởi bỏ y phục, để lộ cả một tấm thân trong ngọc trắng ngà, nhảy xuống bơi lội vui đùa. Bướm ong không biết từ đâu tới cũng họp thành đàn, chấp chới bay quanh, có khi đậu cả xuống những lọn tóc mây uốn cao thành vòng trước trán.

Phật Khố Luân vùng vẫy vui đùa dưới nước một lúc đã thấy mỏi, tứ chi mất dần sức, mềm ra như sợi tơ. Nàng bơi lại gần bờ, chọn một phiến đá nhẵn sạch ngồi nghỉ. Nàng ngẩng đầu lên thì thấy mỏm Lạc Đà dừng sững trước mặt. Núi xanh còn đó nhưng người cũ nơi nao? Giữa lúc nàng đang ngẩn ngơ xuất thần, bỗng có một đàn chim khách líu lo hót vang, bay từ bắc sang nam. Khi chúng lướt qua đầu, từ trên không trung một quả hồng rớt xuống trúng ngay vào giữa bụng nàng không lệch một ly nào. Nàng liền giơ tay lượm lên xem thì thấy quả hồng hết sức tươi ngon. Nàng đang còn ngắm nghía thì bỗng nghe Ấn Khố Luân ngồi bên cạnh bảo:

- Tam muội, em nên nuốt ngay quả hồng vào trong bụng đi! Đó chính là trời đã cố ý thưởng cho em đấy!

Phật Khố Luân nghe chị nói, liền nuốt luôn quá hồng vào bụng. Chính Khố Luân vịn vào vai Phật Khố Luân leo lên bờ. Ba chị em láy khăn lau khô mình mặc quần áo xong dắt tay nhau ra về, trong lòng thoải mái như đã làm được điều gì đắc ý. Dọc đường ba chị em còn đem chuyện ra bàn tính với nhau thật kỹ lưỡng. Vừa bước chân vào nhà, Ấn Khố Luân vốn mau miệng liền đem chuyện con chim khách ngậm quả hồng thả vào miệng cô em út kể cho cả nhà nghe.

Ông bà Cán Mộc Nhĩ tin con là thật chứ đâu có ngờ con mình sắp đặt quỷ kế lừa mình…

Hơn một tháng sau, bụng Phật Khố Luân càng ngày càng lớn thêm. Bà mẹ lấy làm lạ cật vấn đôi ba lần. Nàng bảo với mẹ là ăn phải quả hồng nên sinh bệnh. Bà nghe nói lo quýnh lên, vội đi mời ông lang trong thôn đến chẩn mạch. Ông lang bắt mạch mãi chẳng rõ bệnh gì. Bà càng lo, bàn tính với ông Cán tìm cách chạy chữa. Ông Cán hỏi:

- Ừ! Tôi cũng thấy bụng con bà có vẻ kỳ quái thật. Bà hãy cho mời bà cốt tới hỏi xem sao.

Câu nói của ông Cán khiến Phật Khố Luân giật mình kinh hoảng, lòng nói rối như tơ vò. Nguyên lai, dân miền núi Tràng Bạch đều tin đồng cốt. Bà cốt vốn là một người đàn bà trông nom Phật đường. Theo truyền thuyết thì bà này phép thuật vô biên, nhân dân có việc gì nghi hoặc không quyết thì tìm đến bà cốt nhờ bà ta thỉnh đức Bồ Tát tới hỏi điều cát hung, hoạ phúc. Bởi vậy khi nghe cha muốn mời bà cốt về nhà thì nàng chi sợ đức Bồ Tát nói hết việc tư tình của nàng ra. Nàng lo thì lo thật nhưng chẳng dám cản cha. Nàng vội quay đi tìm hai chị. Ba chị em chụm đầu lại thì thầm bàn tính một lúc lâu. Mãi về sau, Ấn Khố Luân mới nghĩ ra được một kế, nàng nói:

- Đã nói láo thì phải nói láo đến cùng! Tụi mình phải làm như thế này… thế này… thì khi tam muội sinh đứa bé mới được toàn dân trong thôn kính trọng và quý yêu.

Cô chị nói đoạn, Phật Khố Luân lấy trong túi áo ra một hạt minh châu to bằng đầu ngón tay đưa cho chị. Ấn Khố Luân giấu kín viên ngọc rồi len lén ra đi, tìm tới nhà bà cốt.

Ngày hôm sau, ông Cán quả nhiên cho đi mời bà cốt tới. Người ta thấy bốn ông từ giữ đền khiêng một cái cán thư tế thần lướt ngược lên, có bà cốt ngồi xếp bằng ngất ngưởng bên trong. Họ chia đều mỗi người mỗi cẳng án thư rồi khiêng tới nhà ông Cán như khiêng kiệu.

Nhà ông Cán hôm đó người đông chật ních. Họ nghe nói ông Cán mời bà cốt nên mới kéo nhau tới xem. Bà cốt này trông già cả gầy guộc, tay cầm một cái gậy hun khói đen thui.

Ấn Khố Luân vừa thấy ba, vội bước ra đón vào nhà. Trên bàn thờ khói hương nghi ngút, đèn nến sáng choang, có đặt đồ lễ tam sinh. Giữa nhà treo một miếng vải đen dài từ trên nóc xuống dưới đất. Bà cốt tiến lên mấy bước, dậm gót chân một cái rồi làm lễ.

Bà cốt lấy ra một cái ống khói rồi chạy vào sau tấm vải đen. Căn phòng im phăng phắc, mọi người như nín thở. Ấn Khố Luân mình toát mồ hôi đầm đìa. Phật Khố Luân trống ngực đánh thình thình, mắt trắng bệch thất thần. Một lát sau, mọi người nghe có tiếng nói đều đều sau tấm vải đen:

- Đức Bồ Tát sai gọi ông thôn trưởng Bố Nhĩ Hồ Lý là Cán Mộc Nhĩ nghe phán.

Ông Cán vội lạy rạp xuống đất, người con trai tên Nặc Nhân A Lạp cũng theo ông quỳ mọp bên cạnh để nghe phán:

- Con gái ngươi là Phật Khố Luân tiền thân vốn là con trời. Chỉ vì vùng này sắp có một vị anh hùng, nên trời cho chim thần thước ngậm thai gửi vào bụng con gái ngươi. Đứa bé sắp sinh kia sẽ là một nhân vật siêu quần xuất chúng, ngươi cần phải săn sóc nuôi dưỡng cho cẩn thận. Nó vốn dòng giống quý trên Thiên Cung. Bởi vậy không thể lấy họ của ngươi để đặt cho nó. Sau khi nó sinh ra, bất luận là nam hay là nữ, ngươi cũng phải đặt họ cho nó là Ai Thân Giác La, còn tên là Bồ Khố Lý Ang Thuận.

Bà cốt nói đến đây bỗng im bặt. Ông Cán biết rằng lời phán đã hết vội đập đầu lạy ba lạy rồi đứng lên. Bà cốt cũng từ sau tấm vải đen bước ra. Rồi cả nhà đưa tiễn bà ra cổng.

Nặc Nhân A Lạp nghe lời phán của đức Bồ Tát nhảy lên vì sung sướng. Chàng cười, chàng múa, chàng ca hát vang nhà… Chàng hãnh diện về cha chàng đã làm thôn trưởng mà em gái lại sắp sanh thiên thần.

Câu chuyện sinh thiên thần này một truyền mười, mười truyền trăm, chỉ trong nháy mắt, đã lan đi khắp thôn. Từ đó, không hôm nào là không có người đem lễ vật nào ngan nào ngỗng, nào gạo nào tiền, nào dê nào heo, tới nhà ông Cán để dung dưỡng cho thai nhi. Cũng có kẻ đem cả trâu tới để cho nữa. Kho đựng nhà ông Cán lúc nào cũng đầy nghẹt đồ biếu.

Cái bầu của Phật Khố Luân càng ngày càng lớn. Mẹ nàng hôm nào cũng giết gà, mổ heo cho nàng ăn. Rồi nàng sinh hạ được một đứa trai mập mạp kháu khỉnh, mày thanh mắt sáng, tiếng khóc lớn như chuông. Cả nhà ai cũng mừng rỡ, như được bửu bối. Bà con lối xóm được tin đều chạy lại xem chú bé tiểu anh hùng. Phật Khố Luân bế con trong lòng nhìn gương mặt bụ bẫm xinh tươi của nó mà liên tưởng tới dáng điệu oai hùng của Ô Lạp Đặc, bất giác sung sướng đến cực độ

Một năm qua. Cậu nhỏ thiên thần ái Thân Giác La Bố Khố Lý Ang Thuận ra đời đã được một tuổi. Ông Cán Mộc Nhĩ đã xây hai cái trụ đá, trên mỗi trụ ông cắm một cái cán cờ, ông lại gắn chặt lên một cái đấu tròng, bên trong đựng đầy thịt dê, thịt trâu và thịt heo để tế trời. Tới ngày cúng, bọn dân làng đều tề tựu tại đây để chúc mừng. Họ đem bày lễ vật la liệt trong nhà: ba con trâu, ba con heo, ba con dê, một số lớn gà vịt, ngan ngỗng. Trên đàn cao thờ thần, chính giữa có Thích Ca, Quan Âm, Quan Công, ba pho tượng vòi vọi uy nghi. Một chiếc lư hương đồng lớn đặt giữa hương án, nghi ngút nhả khói. Chung quanh bàn thờ lại thắp nến đốt đèn sáng rực. Các gia trưởng thôn Bố Nhĩ Hồ Lý đều xếp bằng tròn ngồi hai bên đàn thần, dưới chân của hai bức tường bằng gạch. Còn đám đông dân làng thì đứng lố nhố đằng sau. Họ kiễng chân lên để nhìn bọn hầu bóng yểm bùa trừ tà. Bọn hầu bóng này có bốn người, đều là đàn bà. Bốn người này đi hàng một tiến vào phòng, ăn vận hết sức diêm dúa yêu kiều, trên đầu cắm hoa, má thoa phấn, lưng thắt khăn xanh, đeo lủng lẳng mấy cái nhạc đồng kêu lên xủng xoảng, một tay cầm con dao rựa một tay cầm cành cây, buộc trên đầu bảy cái nhạc vàng kêu lông bông. Khi tới trước bàn thờ, họ liền dậm đất rồi ngồi phịch xuống làm lễ. Lễ xong, họ lại đứng lên, chia mỗi người mỗi góc, lắc mạnh cái cành cây buộc nhạc: chân nhảy miệng ca.

Đứng đằng sau họ có tám bà già, bà nào cũng tay cầm nhạc khí bà gảy đàn nguyệt bà kéo nhi, bà thổi sáo, du dương hoà điệu, khi lui lúc tiến dập theo cước bộ của bốn người hầu bóng, khiến khán giả đều mắt hoa ý loạn, hồn như say, phách như lại.

Cả bọn cứ múa ca như vậy được một lúc thì có bốn tên đại hán khiêng một con heo sống chạy như bay vào trước bệ thờ, đặt phịch xuống. Rồi một bà cốt từ từ bước tới tay cầm một be rượu rót thẳng vào lỗ tai heo. Con heo thấy động phe phẩy hai tai. Dân làng đứng vây quanh vỗ tay hoan hô, miệng cầu xin đức Bồ Tát. Trong khi đó, hai tên đại hán tuốt hai con dao găm khỏi bao, cắt xoẹt lấy hai cái tai heo, dâng lên bàn thờ. Bọn đàn bà hầu bóng lại vây lấy con heo, nhảy múa ca hát một hồi rồi mới cho khiêng ra ngoài làm thịt. Sau đó bàn thờ thần cũng được dẹp đi…

Nhiều người khách vây quanh ông Cán ngỏ lời chúc mừng. Nặc Nhân A Lạp mời tân khách vào ngồi trong phòng trải bằng chiếu hoa cạp điều. Nặc Nhân A Lạp cùng em gái chàng là Phật Khố Luân chạy đi chạy lại mời khách an toạ, cứ mười người một chiếu. Tính ra hôm đó có đến sáu, bảy chục chiếu.

Ông Cán thấy mọi người đã an toạ, bèn gọi bưng cỗ. Tức thì từ nhà trong sáu bảy chục người đầu đội một chiếc mâm đồng giữa có đặt miếng thịt heo vuông vức mỗi bề đến một thước, theo hàng một bước ra rồi hạ mâm xuống chiếu. Họ lại quay vào, bưng thêm sáu bảy chục cái tô lớn đựng xáo thịt để cạnh chiếc mâm đồng. Rồi cứ trước mặt mỗi người khách, bọn lực dịch này còn để thêm một cái bát, đôi đũa, một chén uống rượu, một mâm rượu to tướng.

Thấy cỗ bàn đã bày biện xong, ông Cán đứng lên, trước mặt mọi người nói một tiếng "xin mời", tức thì cử toạ ai có phần nấy, tự động rót rượu, tự ý rút dao trong mình ra để xẻo thịt mà nhậu. Thịt heo và nước xáo thường lạt, bởi vậy thực khách thường phải lấy trong bao một xấp giấy tương do người Cao Ly sáng chế ra - họ lấy giấy làm nước tương để phơi khô rồi khi muốn ăn cứ việc bỏ vào nước là có bát nước tương ngay.

Đám thực khách càng ngày càng ồn ào ầm ĩ. Họ hò, họ kêu, họ giục lấy thêm thịt, thêm xáo, lấy thêm cơm. Bọn đại hán, lực dịch tiếp cho họ không kịp, anh nào anh nấy chạy đến liệt cả giò. Ông Cán đứng giữa nhìn khắp nơi, thấy vinh hạnh và sung sướng đến vểnh cả râu. Ông nói, ông cười hềnh hệch đến méo xệch cả mồm.

Bữa tiệc kéo dài mãi đến khi mặt trời gác núi mới tan.

Dân làng hôm đó được một bữa no nê, cười nói huyên thuyên, môi mép đầy những mỡ. Họ bước tới trước mặt ông Cán từ tạ. Cũng có kẻ say miệng lè nhè, chân xiêu bên nọ vẹo bên kia, loạng choạng giơ tay chào chủ nhân để rút lui.

Giữa lúc đang còn ồn ào thống khoái ấy, bỗng mọi người thấy một thằng bé con lách đám đông chạy vụt ra, ghé miệng vào tai ông Cán thì thầm. Không biết nó nói những gì mà người ta chỉ thấy ông Cán quát lên một tiếng lớn, mắt trợn lên tròn xoe như con ốc bươu, râu dựng ngược lên như những cái đinh cứng, rồi nhanh như tên bắn, ông lao cả cái thân hình to lớn của ông ra ngoài cổng…

Hồi 16

THOÁT CƠN NGUY HIỂM

Phía sau nhà ông Cán Mộc Nhĩ có một dãy tường quét vôi trắng, ẩn hiện dưới khóm hoa tươi. Cây mã anh hoa chìa một cành lớn qua lỗ tường khuyết. Cánh hoa rơi lả tả mỗi khi có ngọn gió thổi qua.

Hôm đó, dưới chân dãy tường này có một đôi trai gái ngồi kề bên nhau thì thầm trò chuyện. Người con gái là Phật Khố Luân, người con trai chính là Ô Lạp Đặc. Nàng tựa sát vào lòng chàng, vừa thút thít khóc vừa thỏ thẻ kể nỗi tương tự cùng cảnh cực khổ khi nuôi con với chàng. Chàng vừa an ủi, vừa lấy tay gạt lệ cho chàng.

Ông Cán Mộc Nhĩ có một đứa cháu ngoại tên Ân A. Nó là con của Ấn Khố Luân, năm đó đã lên bảy. Chú bé Ân A lúc đó trèo lên cây hái hoa, liếc nhìn qua phía chân tường thấy một đôi trai gái ngồi kề nhau trò chuyện thân mật. Nó để ý nhìn kỹ thì ra cô gái chẳng phải ai xa lạ mà chính là Phật Khố Luân - dì nó, còn cậu trai là Ô Lạp Đặc, kẻ thù của dân làng Bố Nhĩ Hồ Lý mà bất cứ ai, từ già đến trẻ, từ trai đến gái đều ghét đến tận xương tuỷ.

Ân thấy kẻ thù trước mặt, nó vội lui xuống đất, lẳng lặng chạy đi tố cáo với ông ngoại. Ông Cán là một vị thôn trưởng, hơn nữa là một ông lão hiếu thắng, thì làm sao có thể bỏ qua được. Bởi vậy ông lập tức nhảy chồm dậy, chạy vụt ra ngoài cổng. Hồi đó trong thôn còn có một gã đại hán người cao lớn, lực lưỡng khoẻ mạnh tên gọi Hoắc Tập Anh. Ngoài ông Cán ra trong thôn chỉ có hắn là đắc nhân tâm nhất. Hôm chè chén nhậu nhẹt ở đó cũng có hắn, khi ông Cán vội vã chạy đi, hắn lẹ chân đón đường nắm tay giữ ông Cái lại để hỏi nguyên do nhưng ông Cán chỉ thở dài không muốn nói ra.

Lúc đó khách khứa chưa tan, họ bèn vây quanh Ân A. Thằng bé bị mọi người dồn vào giữa, không còn chỗ nào tránh được nữa, đành kể lại, tất cả những gì nó đã thấy. Mẹ nó là Ấn Khố Luân đứng bên cạnh nghe xong, ngẩn mặt ra, chẳng nói lên được câu nào.

Tên đại hán Hoắc Tập Anh quay ngoắt mình, dùng hai tay bắt giữ ông Cán rồi trói lại. Bọn dân làng lúc đó cũng trở mặt, bắt tất cả gia đình ông Cán, nhỏ cũng như lớn, trói vào gốc cây đại thọ trước nhà. Xong rồi Hoắc mới đem theo đến bốn năm tên đại hán chạy ra sau, ngầm phục ở trên đầu tường. Riêng mình hắn leo lên cây, ghé sát tai nghe ngóng. Bên dưới, Phật Khố Luân và Ô Lạp Đặc đang thì thầm trò chuyện thì bỗng nghe một tiếng gầm vang lộng như tiếng sét giữa trời.

Rồi từ trên đầu tường, một bọn người nhảy vụt xuống đất, trong số đó có một tên đại hán nhảy đúng vào đầu Ô Lạp Đặc và ngồi hẳn lên lưng chàng. Ô Lạp Đặc xuất kỳ bất ý bị tấn công nhưng chàng vốn là tay võ nghệ cao cường, sức mạnh hơn người nên trấn tĩnh được ngay, vội tập trung toàn lực đứng vụt dậy, quăng tên đại hán cưới trên lưng ra xa đến sáu, bảy trượng đập đầu vào đá vỡ sọ chết tươi, không kịp ngáp. Phật Khố Luân hoảng sợ đến cực điểm, lúc đó chỉ biết lẩn tránh vào trong lòng Ô Lạp Đặc mà thôi. Hoắc Tập Anh thấy thế tức điên lên, bèn nhảy lên trước xông tới toan cướp lấy nàng. Ô Lạp Đặc một tay dìu Phật Khố Luân lui dần về góc tường thủ thế rồi vươn tay kìa ra bắt được người là bẻ, là quật, là ném. Đã có kẻ bị chàng vật chết, cũng đã có kẻ bị chàng đá cho lăn củ, bị thương khá nặng nằm sóng soài dưới đất rên la.

Chàng vừa chiếm được một vị trí khá tốt, vừa có sức mạnh hơn người cho nên đối phương mới xáp chiến trong mấy phút đầu đã bị chàng hạ đến cả chục và đã có phần núng thế. Song dân làng túa ra càng ngày càng đông. Họ vác dao, cầm giáo xông vào như điên.

Giữa lúc hai bên đang giáp chiến hỗn loạn, thì một chiếc thòng lọng từ trên không quăng xuống đầu chàng. Chàng nhất thời không kịp đề phòng, nên bị chiếc thòng lọng trói chặt cả chân tay, giật té sấp xuống đất. Đối phương có tới tám chín chục người, nhất tề ùa tới đè lên người chàng rồi lấy dây thừng trói chặt lại như trói một con heo nọc. Phật Khố Luân cũng bị chàng trói đem vào trong nhà.

Hoắc Tập Anh ngồi trên ghế thẩm vấn, Ô Lạp Đặc một lời cũng trăng trối. Chàng kể hết mọi chuyện xảy ra từ khi chiến đấu bị thương trốn nấp trên bờ hồ rồi lúc dưới trăng gặp Phật Khố Luân nàng hẹn tương ứng tại miếu Chân Chân, rồi lúc trang trí sơn động trên mỏm Lạc Đà, rồi khi giả làm cọp vằn bắt cóc nàng lên núi để giao kết mối ân tình, lại lúc đưa nàng xuống núi, lần sau được tin nàng sinh trai, rồi lén tới gặp nàng đã ba lần, mưu tính đem con trốn về Lê Bi Cốc để xây dựng một cuộc đời vợ chồng trăm năm đầu bạc. Chàng kể hết từ đầu chí cuối không thèm giấu một chút nào. Dân làng nghiến răng nghiến lợi tỏ vẻ tức giận đến cùng độ. Một số lớn phụ nữ lấy ngón tay chỉ Phật Khố Luân chửi nàng là đồ vô liêm sỉ, không biết ân cừu là gì. Trong chốc lát căn nhà bỗng trở nên ồn ào ầm ỹ chẳng khác chi một cái chợ.

Hoắc Tập Anh đứng phắt dậy quát bảo mọi người im lặng rồi gọi mười hai người gia trưởng họp lại bàn tính, xét xử. Mọi người đều nói: "Kẻ nào tư thông với địch thì theo tổ tiên xưa truyền lại, phải xử tội hoả thiêu. Do đó, hôm nay bọn ta phải đem đốt chết Ô Lạp Đặc, Phật Khố Luân và đứa con trai của chúng là ái Thân Giác La Bố Khố Lý Ang Thuận. Còn ông Cán Mộc Nhĩ thân đã làm thôn trưởng mà để cho con gái làm điều ô nhục thì không còn xứng đáng nữa. Bọn ta cần phải đuổi ông ta và cả gia đình ra khỏi thôn".

Bản án trên vừa tuyên bố xong, dân làng ai cũng lấy làm khoái ý. Họ bèn giam ba vợ chồng con cái Phật Khố Luân vào trong một căn phòng, còn hai vợ chõng ông Cán Mộc Nhĩ cùng với Chính Khố Luân, Nạc Nhân A Lạp bốn người giam vào trong một căn phòng khác. Ấn Khố Luân thực ra cũng có tội nhưng nàng nhờ có đứa con Ân A có công báo tin, nên có thể đem công chuộc tội. Hơn nữa, nàng đã đi lấy chồng thì lại cho về nhà chồng như cũ.

Qua ngày hôm sau, trong một vùng sơn ao đầu làng, người ta cất một cái đài, bên dưới chất đầy rơm cỏ củi đuốc, những đồ dẫn hoả. Dân làng hôm đỏ ai cũng dậy sớm, kéo nhau ra chung quanh đài để xem xử. Nhưng mãi đến đúng trưa mới thấy một đoàn người dùng mấy tấm ván khiêng Ô Lạp Đặc và Phật Khố Luân ra. Đứa bé bị trói chặt vào trong lòng mẹ nó. Họ đưa tội nhân lên đài, trói vào hai cái trụ cây đứng giữa mặt đài.

Họ nhìn mặt Ô Lạp Đặc thấy chàng vẫn tươi cười, không có vẻ gì sợ hãi. Chỉ có Phật Khố Luân âu sầu buồn bã, cúi gầm mặt xuống, để mặc cho dòng lệ tuôn trào. Bố Khố Ang Thuận bị trói chặt vào lòng mẹ, khóc đã gần đến khàn tiếng hết hơi. Phía dưới đài một số đông dân làng Bé Nhĩ Hồ Lý vây quanh, cười nói chửi rủa, nhảy nhót múa may quay cuồng hết sức ồn ào ầm ỹ.

Phật Khố Luân ngửng đầu lên, giương to cặp mắt đẫm lệ nhìn thấy cha mẹ anh chị, những người thân thích cúi đầu buồn thảm đang chạy trước mặt, đằng sau có từng đoàn dân đinh tay vác giáo, tay cầm đao áp tống họ ra khỏi làng. Xa hơn, Ấn Khố Luân một mình kêu khóc than vãn, theo sau cùng để tiễn đưa. Khi đoàn người đi qua phía dưới đài, Phật Khố Luân nghe mẹ mình kêu một tiếng, nhưng bọn dân làng đã xô đẩy bà ra khỏi sơn ao. Mắt nàng bỗng tối sầm lại rồi ngất đi lúc nào không biết. Mãi đến lúc mũi bị khói xông vào, nàng mới tỉnh lại thì thấy dưới đài lửa bốc cháy ngùn ngụt. Những ngọn lửa như những con rắn khổng lồ đỏ chói hùng hổ chỉ chực nuốt chửng mẹ con nàng. Nàng sợ hãi quá, tay chân như co quắp lại, trong khi Ô Lạp Đặc bị trói ở bên cạnh chi nói được có một câu:

- Anh làm hại đời em rồi!

Bỗng ở phía dưới đài, một tiếng gầm vang khang khác gì triều dâng núi lở. Rồi một đoàn người tay cầm đao thương hùng hổ xông tới, thấy người là chém, gặp vật là đâm, mạnh tợn không ai đương cự nổi. Ô Lạp Đặc nhận ra đó là đoàn dân đinh của thôn mình, liền hô lớn:

- Bớ các anh em! Mau lại đây cứu tôi! Mau lại đây cứu tôi! Mau lại đây cứu tôi! Bớ các anh em!

Tiếng hô vừa dứt thì đã thấy sáu bảy đại hán nhẩy lên đài, vung đao chém sạch những dây trói rồi cử người mang đi: Phật Khố Luân hai chân đã mềm ra như bún, một bước cũng không xê dịch được. Ô Lạp Đặc vội bế xốc nàng lên rồi co chân nhảy vụt ra sau đài, xuống đất. Một địch thủ vác dao chém tới. Chàng tung chân lên đá mạnh vào cườm tay hắn. Hắn đau quá, buông tay ra, tức thì cây đại đao rớt xuống. Chàng thừa dịp lượm lấy thanh đao, rồi múa tít như chong chóng, tiếng gió vang dội cả một vùng. Đối phương cũng chẳng phải tay vừa, họ cậy đông người, vây lấy chàng, tấn công ráo riết, nhưng võ nghệ của chàng tỏ ra siêu quần bạt chúng, nên rút cuộc chẳng có một địch thủ nào sáp lại được gần chàng. Chàng vừa đánh vừa lùi, lùi mãi tới ven hồ Bố Nhĩ Hồ Lý, vào sâu trong đám rừng tùng cành lá xum xuê… Cách đối phương đã xa, lúc đó chàng mới yên tâm phần nào, nâng Phật Khố Luân đậy đặt ngồi trên một phiến đá bằng phẳng cho nàng nghỉ ngơi đớ mệt. Hai vợ chồng nhìn lại đứa con bé trong lòng mẹ thì ra nó ngủ ngáy o o từ lúc nào. Phật Khố Luân nhìn con vừa nói được một lời: "Xấu hổ chưa" thì Ô Lạp Đặc đã vội xua tay ra hiệu cho nàng nín lặng. Thì ra bên ngoài ven rừng, còn có đến hơn chục truy binh đang tìm kiếm khắp nơi… Giữa lúc nguy cấp ấy chú bé bỗng khóc oa oa vang lên khiến bọn truy binh bên ngoài nghe được. Chúng hè nhau xông vào rừng.

Ô Lạp Đặc vội dắt Phật Khố Luân theo ven hồ chạy trốn. Khốn một nỗi chỗ này một bên thì vách đá dựng đứng còn một bên thì suối sâu thăm thẳm. Phật Khố Luân chú ý lắm mới len lỏi bước đi được nhưng nàng ngã lên ngã xuống khiến thằng bé hoảng sợ đến khóc tiếng càng lớn.

Truy binh đằng sau xem ra đã gần lắm. Ô Lạp Đặc liền đứng dừng lại, tay cầm ngang lưỡi đao chỉ còn đợi chiến đấu.

Chàng khoát tay ra hiệu cho Phật Khố Luân trốn lẹ. Nàng chẳng còn cách nào hơn là đành phải rời chồng bế con chạy miết về phía trước, vòng qua eo núi. Thằng bé khóc tiếng càng lớn. Nàng chỉ lo ngại bọn truy binh tìm đường ắt đuổi kịp.

Lúc đó một người đàn bà với một đứa bé con thì biết lấy gì mà chống đỡ, e tính mệnh khó còn. Nàng ngước mắt nhìn lên, thì ra chỗ nàng đang chạy chính là chân núi mỏm Lạc Đà thác nước từ trên cao như một tấm lụa trắng trải dài đang cuồn cuộn xô xuống nhanh như ngựa chạy. Bên ven suối cạnh rạch nước, nàng thấy có một chiếc thuyền độc mộc. Lúc ấy sinh mưu hay, nàng quyết định ngay chủ ý, vội ôm con đặt vào lòng chiếc thuyền rồi đem sức bình sinh đẩy thuyền ra giữa hồ. Chiếc thuyền bị dòng nước cuồn cuộn trôi phăng đi như tên bắn. Chỉ trong nháy mắt đã xa lắm: Nàng không còn nghe tiếng con khóc nữa, lúc đó mới quỳ xuống bên hồ cầu trời phù hộ cho con. Giữa lúc đang bi thương sầu khổ ấy bỗng có đôi cánh tay từ đằng sau ôm lấy thân nàng. Nàng giật mình sợ, vội quay đầu lại nhìn xem, thì ra đó là Ô Lạp Đặc. Khắp mình chàng còn đẫm máu tươi, chàng thở vo vo, tỏ vẻ rất mệt nhọc nhưng môi chàng vẫn cười. Nàng vội hỏi chàng thì được biết bọn truy binh vừa rồi đều đã bị chàng giết sạch.

Chàng lại hỏi nàng về đứa con mới hay là nàng đã thả con trên thuyền độc mộc và dòng nước đã cuốn đi. Chàng hết sức thương tâm, chi còn biết quay mặt về phía hồ nước mà thở vắn than dài.

Hai người đứng lặng, tần ngần một lúc rồi mới cặp tay đi, tìm đường qua đám rừng cây xuống phía chân núi rồi xa dần trên nẻo đường vô định.

                                            ***

Nước hồ Bố Nhĩ Hồ Lý cuồn cuộn trôi xuôi, len lỏi qua những khu rừng hoa tươi đẹp. Hai bên bờ suối cây cối in hình xuống đập nước lung lượn. Đấy đàn chim khuyên ríu rít trên cành, kìa năm ba con bướm lượn trong đồng xanh.

Dòng suối lúc đầu nước còn mạnh sau chậm dần. Một cô gái búi tóc xoã sau lưng, tay cầm chiếc thùng xách nước, cúi đầu như suy nghĩ điều gì đang chầm chậm bước tới bên bờ suối.

Nàng nhìn thấy cảnh sắc xinh đẹp bất giác tức cảnh sinh tình. Nàng không vội lấy nước khẽ đặt mình xuống dưới gốc cây lê đang nở hoa trắng xoá. Mỗi khi ngọn gió thổi qua, cánh hoa lại rơi xuống lả tả trên mặt nước. Mùa xuân đã đẹp mà nước suối lại trong. Nàng ngắm nhìn một lượt rồi ngửa mặt lên trời than thở.

Hoa đẹp chóng tàn, ngày xuân chóng qua. Thôn ta lại vào một nơi hoang lương sơn cùng thuỷ tận. Trước mặt ta chỉ thấy rặt một phường ngu phu chứ làm sao có được những chàng trai tuấn nhã phong lưu!

Tuổi ta năm nay đã ba sáu. Những ngày xuân tươi đẹp đã qua rồi. Dù ta có đẹp như hoa như ngọc thì rồi đây cũng mai một trong xó rừng hốc núi mà thôi. Ta cũng muốn lấy chồng nhưng tìm đâu cho thấy người chồng xứng đáng?

Bách Lý cô nương vốn cũng là một cô gái siêu quần ở miền Tam Tính. Khuôn mặt nàng đã đẹp mà đầu óc lại thông minh. Các chàng trai miền này ai lại chẳng mong lấy được nàng làm vợ, nhưng những chàng trai xuẩn đột ấy, nàng có bao giờ để ý tới đâu. Mẹ nàng mất sớm, chỉ còn có người cha tên gọi Bác Đa Lý. Ông Bác cưng con từ thuở nhỏ, coi làng như hạt ngọc minh châu. Đã nhiều lần, ông khuyên con nên lấy chồng cho có lứa đôi, nhưng lần nào nàng cũng lắc đầu không chịu. Chẳng mấy chốc, nàng đã tới băm sáu tuổi lúc đó ông Bác mới cuống lên. Một hôm, ông Bác lại đề cập tới việc hôn nhân. Ông bảo cô con gái rằng ở trên núi Tây Sơn, ông Mục Nga Nhĩ có đứa con trai lớn tên Cố Thuận thân hình khôi vĩ, trâu bò lại nhiều, điền địa lại lắm, có ý muốn lấy nàng làm vợ. Nhưng Bách Lý cô nương không chịu, nàng nói với cha rằng Cố Thuận chỉ là một đứa du côn, lỗ mãng thường hay hiếp đáp đàn bà con gái thì làm sao mà lấy được. Thế là hai cha con điều qua tiếng lại, cuối cùng nàng quyết định ở giá hầu cha chứ không lấy chồng.

Hồi 17

TRAI HAI MƯƠI LẤY GÁI LỤC TUẦN

Năm đó, Bách Lý cô nương năm mươi hai tuổi. Tuy đã về già nhưng vốn người xinh đẹp nên trông nàng như mời ngoài ba mươi. Nàng đẹp nhưng tiếc là đã quá muộn màng.

Bà con lối xóm thấy nàng phòng không chiếc bóng ai cũng đều than thở cho nàng. Nhưng đối với nàng thì từ khi có chú bé tiểu thôn trưởng sớm chiều quấn quýt bên nhau, nàng quên hết mọi nỗi cô tịch lạnh lùng.

Chú bé tiểu thôn trưởng Bố Khố Lý Ang Thuận quả thật là một tay anh hùng bản tính trời sinh nên mới tám, chín tuổi đã biết cưỡi ngựa bắn cung. Nhiều người lớn tuổi trong thôn chi thích ngày ngày theo chàng leo núi trèo đèo, du ngoạn những nơi danh lam thắng cảnh. Bởi thế, chẳng bao lâu chàng đã hiểu biết tất cả địa thế của vùng Tam Tính. Bách Lý cô nương lại còn là một nữ lang anh kiệt, giúp đỡ khá nhiều ý kiến cho chàng. Những lúc nhàn cảnh, nàng cùng với chú bé tiểu thôn trưởng bàn luận sự đời, nàng chỉ dạy cho chàng làm cách nào để chỉnh lý thôn Tam Tính. Chú bé nhất nhất đều nghe theo nàng. Rồi một hôm chàng triệu tập tất cả mười bốn vị niên trưởng có thế lực trong thôn để giao cho họ quản trị mọi việc, trong đó có việc chia thôn Tam Tính ra làm mười bốn xóm mỗi xóm đặt dưới quyền điều khiển của một vị quản trị. Chàng lại chọn bốn trăm tên dân đinh thân hình cao lớn khoẻ mạnh lực lưỡng, biến thành quân ngũ, ngày ngày tập luyện võ nghệ tại võ trường ở đầu thôn, nào cưỡi ngựa bắn cung, múa côn, phóng giáo, tên nào tên nấy đều dũng mãnh vô địch. Chàng còn cho rào bao chung quanh bằng những rào cao quá đầu người, có cổng ra vào. Từ đó về sau không còn có chuyện trộm trâu trộm ngựa hoặc mất bò lạc dê nữa. Chưa hết, chàng còn đặt kế hoạch tuần phòng cắt cử người canh gác tại bốn cổng trước sau tả hữu của thôn để tra xét kẻ gian nên nhờ đó dân làng mới được yên tâm ngon giấc khỏi lo tai biến.

Công đức của chú bé tiểu thôn trưởng đối với thôn Tam Tính quả thật vô lường. Dân làng ai lại dám quên ơn. Tuy nói là công đức của vị tiểu thôn trưởng nhưng thực ra đó là của Bách Lý cô nương mới đúng. Bởi vì tất cả những kế hoạch chỉnh lý thôn Tam Tính đều do Bách Lý cô nương sáng kiến ra cả. Ấy cũng vì vậy nên chàng càng ngày càng kính yêu Bách Lý cô nương.

Bố Khố Lý Ang Thuận có một điều mâu thuẫn kỳ quái, là khi chàng ra ngoài ngồi trên lưng con tuấn mã hiên ngang oai dũng thì thôn dân ai cũng sợ hãi, dốc lòng kính phục, nhưng trái lại lúc trở về nhà, chàng thấy Bách Lý cô nương thì tự nhiên cái thân bảy thước mày râu kia cứ mềm lại như bún, nhũn như con chi chi, không còn một tí nào là anh hùng quắc thước nữa.

Cái thân trai mười bảy tuổi cao lớn thế kia mà lúc nào cũng chỉ có một việc theo hầu Bách Lý cô nương nửa bước chẳng rời. Có khi ngồi tựa bên gối hoặc có khi nằm gọn trong lòng Bách Lý cô nương y như một đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, mặc dầu chàng đã mười bảy tuổi, cao lớn có khi còn hơn cả Bách Lý cô nương nữa. Bách Lý cô nương nuôi chàng từ nhỏ cho nên nếp sống thân mật ấy giữa đôi người đã thành một thói quen, không một ai để ý tới điều dị nghị nam nữ nữa. Hai người ngày đêm cười nói bên nhau để giải buồn, khiển hứng.

Nhiều khi chàng sờ đầu vuốt tóc Bách Lý cô nương và đến lúc quá thân thiết chàng đưa tay nâng đôi má Bách Lý cô nương, tiếng gọi "chị, chị" ra chiều quý mến cực độ. Tối đến, chàng ngủ chung một giường với Bách Lý cô nương, cùng đắp chung một chăn, nằm chung một chiếu. Thế nhưng cuộc sống chung đặc biệt này có điều độc đáo là tuy hai người khác giống, một đằng thì nam còn một đằng thì xử nữ, cả hai đều giữ được tuyết sạch giá trong, không có điều gì gọi là xấu xa, đê tiện về phương diện dâm ô cả.

Khi tiểu thôn trưởng Bố Khố Lý Ang Thuận hai mươi tuổi thì thôn Tam Tính người ngày càng đông, binh lực ngày một mạnh, lúa gạo sản xuất ngày một nhiều. Có những buổi rảnh rang, chàng đem theo đám bình sĩ vào trong khu rừng săn bắn mua vui.

Một hôm đi săn bắn, giữa lúc đang lùng kiếm con mồi trong rừng, chàng thấy ngoài ven rừng trên cánh đồng có đến bảy, tám chục con vừa trâu vừa ngựa đang gặm cỏ rải rác đó đây.

Tham tâm bỗng nổi trong lòng, chàng ra lệnh cho đám binh sĩ được tiến ra khỏi rừng, đánh cướp. Bọn binh sĩ được lệnh nhất tề ùa ra bao vây trâu ngựa dồn chúng vào giữa. Đàn trâu ngựa này vốn của đám dân du mục Nga Mạc Huệ. Lúc đó họ đang nghỉ ngơi ở trong lều, được tin có người đánh cướp bắt trâu ngựa, tức thì cầm binh khí xông ra cản trở. Bọn dân binh thôn Tam Tính nào phải kẻ tầm thường, họ đã làm là làm tới đâu có ngán chuyện hiểm nguy. Tức tốc, hai bên dàn trận. Thế rồi dao qua kiếm lại, hai bên chém giết một trận tơi bời đến quỷ khốc thần kinh, thiên sầu địa thảm.

Bọn du mục Nga Mạc Huệ đuối sức, dần dần xem ra khó chống. Họ đành phải bỏ cả đàn trâu ngựa, chạy trốn về hướng bắc. Bố Khố Lý Ang Thuận chưa chịu thôi, còn xuất lĩnh dân binh vượt khỏi đầu non, truy kích, giết thêm mấy tên nữa mới thôi. Đám binh dân dỡ hết lều vải, lượm lặt mọi vật dụng của bọn du mục rồi đón đầu trâu ngựa cướp được về thôn.

Dân làng được tin ra đón tiếp. Họ thấy vị thôn trưởng của mình còn nhỏ tuổi mà đã to gan, nên người nào cũng có vẻ kinh sợ thậm chí còn bò cả xuống đất lạy lục để tỏ lòng cung kính.

Bố Khố Lý Ang Thuận chạy đến trước nhà mình thì xuống ngựa. Bách Lý cô nương đã sớm chờ đón ở trước sân. Chàng đem những lều vải, trâu ngựa cướp được cho nàng xem.

Nàng thấy trong số có một con ngựa ô hết sức khoẻ đẹp, liền bảo chàng:

- Giữ con ngựa này lại, còn bao nhiêu thì đem phân phát cho bọn quản trị và binh lính.

Từ đó chàng quen mui, thường đem bọn binh sĩ đi khắp nơi đánh cướp, ỷ thế người đông sức mạnh, mỗi lần xuất mã là mỗi lần chàng đắc thắng trở về.

Miền Nga Mạc Huệ ở về phía đông núi Tràng Bạch. Mặt trước có một cánh đồng bằng cỏ mọc xum xuê, rải rác các khu rừng nhỏ cây cối xanh tươi. Đây là một nơi rất tốt đối với bọn du mục, bởi vậy họ thường chăn trâu bò lừa ngựa ở đó. Không ngờ thôn trưởng Tam Tính dữ tợn quá đôi nên chẳng có kẻ nào dám đem trâu ngựa tới chăn dắt trên cánh đồng cỏ này nữa. Thảng hoặc có kẻ không biết điều nguy hiểm đó, lâng vảng nơi đây thì đều bị bắt cả người lẫn vật. Từ đó tiếng tăm của Bố Khố Lý Ang Thuận ngày càng lớn. Cả thôn xóm lân cận sợ oai dần dần quy hàng đông đảo. Chàng ước định thổi tù và làm hiệu mỗi khi thôn xóm có biến để cấp cứu. Nhờ vậy mà chưa đầy ba năm chàng đã thu phục được cả thảy là mười ba thôn xóm. Do đó hội đồng quản trị gồm nhiều quản trị viên quyết định triệu tập một cuộc hội nghị cử chàng làm vị "bối lặc". Thế là một hôm người ta thấy mười bốn vị quản trị viên của thôn Tam Tính đi đầu xuất linh một số đông quản trị viên của các thôn xóm lân cận kéo nhau tới quảng trường giữa thôn để mở một cuộc đại hội. Giữa quảng trường, người ta thấy đắp một đài cao. Bố Khố Lý Ang Thuận được rước tới đây và được đặt ngồi trên đài để cho hội đồng quản trị cúi đầu lạy chàng. Phía sau dân làng cũng bắt chước gục đâu lạy. Toàn thôn tung hô, phong cho chàng chức "bối lặc" của mười bốn thôn.

Lễ tấn phong với nhiều nghi lễ phiền toái vừa xong thì một tiệc mừng được tổ chức ngay tại quảng trường. Họ ăn thịt uống rượu, nhậu nhẹt say sưa, rồi ca hát, nhảy múa, khoái thích như điên. Vị tân bối lặc đi mời Bách Lý cô nương. Hai người ngồi đối diện trên đài, uống rượu ăn thịt.

Từ giờ thìn đến giờ ngọ, họ ăn hết con trâu này đến con dê kia, uống hết hũ này đến hũ khác. Thật là một dịp vui mừng ngàn năm một thuở. Họ lại ca lại múa, lại nhảy lại hát. Vị tân bối lặc Bố Khố Lý Ang Thuận gặp lúc tửu hứng, cũng đứng dậy cầm tay Bách Lý cô nương múa nhảy lung tung ở trên đài. Nhảy múa hồi lâu, chàng sực nhớ tới con ngựa ô khoẻ đẹp, bèn lặng lặng nhảy xuống đài không cho ai biết rồi cùng với Bách Lý cô nương chạy ra khỏi cổng thôn, nhảy lên lưng ngựa phóng đi như bay. Một đôi ngựa ô, tai kề tai, đuôi kề đuôi một đôi nam nữ cũng kề vai, kề chân, như những đám khói mờ dần trên con đường tiến tới đồng cỏ Nga Mạc Huệ.

Bố Khố Lý Ang Thuận cùng Bách Lý cô nương vừa phi ngựa vừa trò chuyện nói cười vui vẻ, bất giác đã ra khỏi cánh rừng cây lớn. Hai người quay đầu nhìn lại, thấy các thôn xóm đằng sau đã mờ bóng trong sương. Bách Lý cô nương đã từ lâu không cưỡi ngựa nên hôm nay nàng thấy mệt, thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại. Ang Thuận thấy thế vội dừng ngựa và đỡ nàng xuống yên, hai người dắt tay nhau đến ngồi trên một đoạn tường đổ chỉ còn sót lại chút móng. Chàng thu mình nằm gọn vào lòng nàng. Hai người im lặng, không ai nói một câu nào. Chàng ngước mắt nhìn lên trời xanh cao rộng, ngắm mây trời lờ lững. Nàng cúi xuống nhìn khuôn mặt tuấn tú của chàng, hồi hộp xúc động. Chàng ngửi thấy hơi thở thơm ngát của nàng, lòng thầm bâng khuâng.

Bỗng chàng ngồi nhỏm dậy, quay lại, mặt đối mặt với nàng, rồi nhanh như chớp, đưa hai tay ra ôm lấy cố nàng, đặt cái hôn nồng cháy vào khoé miệng xinh tươi. Bách Lý cô nương tuy tuổi đã sáu chục mà vẫn còn là một xử nữ, chưa hề biết nụ hôn đàn ông là gì. Nay được Ang Thuận, trong lúc cuồng nhiệt, đặt một cái hôn nồng cháy lên môi, tự nhiên lòng nàng kích động đến cực độ. Nàng không còn tự chủ được nữa, ôm ghì lấy chàng. Hai người như phiêu diệu nơi đâu, mắt không nhìn thấy gì, tai cũng chẳng còn nghe gì nữa…

Đến khi buông tay nhau ra và ngẩng đầu lên thì cả hai đã thấy một đội quân binh đứng sững trước mặt, lặng lẽ nhìn họ.

Phía sau, dân làng thôn Tam Tính cứ ngó chằm chặp vào mặt hai người mà cười ngất, khiến Bách Lý cô nương xấu hổ đỏ mặt tía tai, giận không thấy một cái hốc nào mà trốn. Bỗng trong đám đông, ít ra có đến hàng đôi ba trăm người, đồng thanh hô lớn:

- Hoan hô bối lặc! Hoan hô Bạch cách cách! Hoan hô trăm họ thôn Tam Tính!

Tiếng hoan hô chấm dứt. Tức thời một đoàn người rầm rộ tiến lên, trai thì xúm quanh bối lặc Khố Ang Thuận, gái thì vây lấy Bách Lý cô nương, rồi nâng cả hai người lên ngồi trên lưng ngựa, kẻ trước người sau đưa rước về mãi tới nhà, vừa đi vừa nhảy múa tưng bừng.

Sau khi về nhà, bối lặc Ang Thuật được mười bốn vị quản trị mười bốn thôn khuyên nên ngay đêm đó cưới Bách Lý cô nương làm "phúc tấn". Chàng mừng rỡ nghe lời. Bọn quản trị mừng ra mặt, ùn ùn kéo nhau ra, triệu tập đông đảo người các thôn để nói cho họ rõ mọi việc. Mọi người nghe nói thấy đều sung sướng múa nhảy, ca hát ầm ỹ, thổi tù và loan báo tin vui, rồi rầm rộ kéo tới khu vườn rộng trước phủ đệ của bối lặc. Hôm đó, giữa quang trường, người ta dựng một cây cờ lớn ông Đồng, bà Cốt, bốn người y phục đặc biệt, tử từ bước tới lễ đường. Bối lặc và phúc tấn cũng bước theo họ vào lễ. Dân làng đứng bốn chung quanh cất tiếng reo hò vang dội.

Tiếp sau đó là mười sáu cô gái hầu bóng, ăn mặc hết sức diêm dúa, múa nhảy múa khoảng giữa quảng trường. Cuối cùng, mười bốn viên quản trị tiến lên dâng đồ lễ vật chúc mừng…

Bối lặc Ang Thuận sau khi làm lễ xong, mời tất cả mọi người lại quảng trường để dự tiệc, kéo dài mãi tới chập tối.

Đèn trong phủ đã thắp sáng trưng, thế mà họ vẫn còn kêu thịt đòi rượu, không muốn chấm dứt cuộc vui. Bối lặc Ang Thuận hôm đó vui quá cũng đã say chén quá say. Phúc tấn Bách Lý dìu chàng vào phòng.

Qua ngày hôm sau, Bách Lý phúc tấn tỉnh dậy, nàng tưởng nhớ tới khi cha mẹ còn sinh thời nàng đã phí bao tâm tư về việc hôn nhân, chỉ tại không có người xứng đôi với mình. Lắng đắng mãi tới nay không ngờ tuổi đã sáu mươi mà còn lấy được người chồng tuổi mới đôi mươi. Bối lặc thiếu niên này xem ra tuy lòng dạ anh hùng nhưng cũng có ân tình nhi nữ. Nay ta đã lấy chàng thiết tưởng không nên để cho chàng mai một chí anh hùng. Bởi vậy ta phải đem hết tài trí giúp chàng kiến tạo một sự nghiệp huy hoàng.

Trong lúc Bách phúc tấn nhủ thầm như vậy thì Ang Thuận bối lặc giật mình tinh giấc. Chàng nhìn người vợ mới nằm cạnh.

Tuy nàng đã sáu chục tuổi gương mặt vẫn còn xinh tươi chẳng khác gì gái ba mươi. Càng nhìn lâu chàng càng thấy đắm đuối say sưa. Chàng khẽ đưa tay qua, kéo nàng sát lại lòng mình.

Nàng nằm gọn trong chăn, thỏ thẻ bên tai chàng những lời dịu ngọt bàn tính việc quốc gia đại sự. Việc đầu tiên nàng đề nghị là di dân thôn Tam Tính tới một nơi hiểm yếu, có núi sông vây bọc, đắp thành đào hào, xây dựng thành một quốc gia. Việc thứ hai là luyện tập binh sĩ tinh nhuệ rồi chinh phục các bộ lạc lân cận để tạo dần thành một nước lớn, lúc đó đừng nói là làm một bối lặc mà phải nói làm một Khả Mãn mới đúng.

Chàng nghe nàng nói vậy hốt nhiên nổi hùng tâm, tức thì nhảy ra khỏi đống chăn, triệu tập ngay hội đồng quản trị mười bốn thôn thương nghị việc thiên cư đắp thành. Hội đồng tán thành và hoan nghênh nhiệt liệt. Chàng lại lên tiếng hỏi xem có ai biết nơi nào núi sông hiểm trở không thì ngay lúc ấy bức rèm lay động, một giai nhân xinh đẹp xuất hiện.

Giai nhân đó chẳng ai xa lạ mà chính là Bách Lý phúc tấn, người vợ mới cưới của chàng.

Hồi 18

ĐÔ ĐỐC HIẾN CHÂU VỆ

Lại nói Bách Lý phúc tấn vốn rất quan tâm đến quốc gia đại sự Nàng đứng sau cánh cửa, nghe bối lặc Ang Thuận cùng mọi người bàn tính việc xây thành đắp luỹ bèn vén màn bước ra. Mọi người nhất tề đứng dậy đón chào hết sức cung kính. Bối lặc cũng đứng dậy dắt tay nàng cùng ngồi bên cạnh.

Nàng đợi cử toạ an vị rồi mới hỏi:

- Bối lặc muốn tìm một nơi sơn thuỷ hiểm yếu để đào đắp thành trì phải không? Từ thuở nhỏ tiện thiếp thường được thân phụ nói cách nơi đây ba dặm về hướng tây, xuyên qua khu rừng cây tại đồng cỏ Nga Mạc Huệ có một toà thành gọi Ngạc Đa Lý. Toà thành này vốn do tố tiên của tiện thiếp xưa kia xây nên. Tiền thân của tiện thiếp sau khi bị Minh Thái Tổ đánh đuổi chạy ra miền quan ngoại bèn lui về giữ thành Ngạc Đa Lý. Về sau bị bọn Mông Cổ đánh thành, nào đất, nào giết, tàn phá tan hoang khiến một toà thành đẹp như gấm xinh như vóc mà nay chỉ còn trơ lại mấy viên đá tảng và năm ba vết tường đổ. Tổ tiên của tiện thiếp bị người Mông Cổ tàn sát đành phải ly tán mỗi người một nẻo nhưng khi chúng bỏ đi thì mọi người lại trở về chốn cu, lấy mười bốn thôn Tam Tính này. Nếu bối lặc không có ý muốn mưu đồ đại sự thì thôi, còn trái lại nếu muốn lập nghiệp thì theo ngu kiến của tiện thiếp, bối lặc nên khuyên toàn thôn di cư tới thành Ngạc Đa Lý. Thành này ba mặt là núi, một mặt là sông, địa thế hết sức hiểm yếu. Để đỡ một phần tốn kém công của, bối lặc nên theo cách kiến trúc của người xưa với những nền tảng sẵn có thì tốt nhất.

Khi Bách Lý phúc tấn nói tới đây thì bối lặc Ang Thuận tiếp lời, nói với mọi người:

- Trăm nghe không bằng một thấy. Phúc tấn đã nói như vậy, chi bằng bọn ta kéo nhau tới đó xem có phải hơn không.

Mọi người đồng thanh đáp:

- Đúng đấy!

Tức thì bỏ phòng họp ra đi. Họ nhảy lên lưng ngựa. Đoàn người phóng như bay, xuyên qua khu rừng câu, tới đồng cỏ Nga Mạc Huệ thì thấy di tích của thành xưa. Chân tường chỗ thấp chỗ cao, dựa vào chân núi làm thành một vòng lớn. Bối lặc định thần nhìn kỹ một lúc, bất giác mỉm cười rồi ghé vào tai Phúc tấn thì thầm mấy câu, nghe xong Phúc tấn bỗng nhiên đôi má ửng hồng rồi liếc mắt nguýt bối lặc. Thì ra chỗ chân tường đổ kia chính là nơi mà trước đây hai người đã ngồi nghỉ cho đỡ mệt và sau đó, bằng cái hôn nồng cháy, để bắt đầu một cuộc tình ái thi vị hiếm có trên nhân thế. Cái phiến đá lớn bên cạnh chính là viên đá tảng của thành Ngạc Đa Lý xưa.

Phải chăng hai vợ chồng Bách phúc tấn có cái sứ mạng trùng hưng họ Mãn cho nên trời xui đất khiến mời ngồi trên phiến đá "Tam Sinh Thạch" đó để kết mối lương duyên?

Vợ chồng bối lặc Ang Thuận ngồi trên ngựa, thả tầm mắt ra xa, chỉ thấy một dãy núi non trùng điệp chạy dài từ phía đồng bắc tới, vây quanh lấy ba mặt thành Ngạc Đa Lý, chẳng khác gì cái giao ỷ ôm toà thành vào lòng. Còn một mặt thì sông Đan Giang nước chảy nhanh như ngựa phi từ hướng tây bắc lại. Thực là một vị trí kiên cố, hiểm yếu khiến tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Bối lạc Bố Khố Lý Ang Thuận xem xong cả mừng, một mặt ra bảng triệu tập nhân công, một mặt hội họp các hội đồng quản trị ở trong phủ bối lặc ngày ngày bàn tính việc thiên cư.

Suốt ba năm trường, bối lặc Ang Thuận đem hết tâm lực để lo tính mọi việc, vì nước quên cả nhà, vì công quên cả tư, khiến cả một toà thành Ngạc Đa Lý cũ đã trở thành toà thành mới đồ sộ nguy nga, hùng tráng vào bậc nhất. Trong thành, phố xá nhà cửa san sát, nhất nhất cái gì cũng hoàn bị.

Đến ngày thiên cư, quang cảnh thật là huyên náo. Dân cư mười bốn thôn sửa soạn lên đường, nào gà nào chó, nào ngựa nào trâu, nào đồ ăn thức đựng, nào trai nào gái, nào già nào trẻ, lũ lượt kéo nhau vui vẻ ra đi.

Ở giữa thành, có cất một toà bối lặc phủ, dành riêng cho hai vợ chồng bối lặc và phúc tấn ở.

Thiên cư được một năm thì Bách phúc tấn sinh hạ một đứa con trai. Lúc đó Phúc tấn đã sáu mươi bốn tuổi. Đứa con trai của Phúc tấn vừa khôi ngô lại vừa thông minh. Dân chúng toàn thành ai cũng mừng rỡ. Họ làm lễ cúng thần để cầu phúc cho gia đình phúc tấn!

Sau khi đã ổn định việc xây thành đắp luỹ và thiên cư định dân, bối lặc Bố Khố Lý Ang Thuận nghĩ đến việc mở rộng bờ cõi cho quốc gia ngày một lớn mạnh.

Hồi đó, có bọn dã nhân Hốt Thích Ôn tiến dọc theo bờ Hắc Long Giang, hướng về phía tây nam mà kéo xuống. Chúng rất hung ác, thấy người là giết, thấy vật là cướp. Ngay cả sảnh đường của Nỗ Nhĩ Can nhà Minh cũng bị chúng đốt phá tiêu sạch cả.

Dân cư suốt một giải miền Hải Tây đều phải chạy trốn, mười nhà bỏ không đến chín. Rồi chúng kéo tới chân núi Tràng Bạch.

Bối lặc Ang Thuận được tin tức giận lắm. Ông bèn đích thân đem quân kéo tới mai phục dưới chân núi Tràng Bạch.

Bọn dã nhân Hốt Thích Ôn diễu võ dương oai, hùng hổ kéo qua. Hai bên ác đấu một trận tơi bời đến quỷ khốc thần kinh.

Bọn dã nhân đại bại, phải bỏ cả giáp, quăng cả mu mà chạy trốn. Từ đó chúng không còn dám nhìn ngó gì tới thành Ngạc Đa Lý nữa.

Sau cuộc đại thắng bọn Hốt Thích Ôn, uy thế của thành Ngạc Đa Lý càng ngày càng lớn. Các bộ lạc lân cận kéo nhau về hàng phục mỗi ngày một đông. Bối lặc Ang Thuận nhất nhất đều thu nhận, chỉ bảo họ cách thức tập luyện quân mã, phương pháp bảo vệ thành trì. Trong mười năm công phu, bối lặc đem hết tâm lực để xây dựng quốc gia, đêm quên ngủ, ngày quên ăn, nhiều khi đến chén trà cũng không kịp uống.

Bách Lý phúc tấn mãi tới tám mươi tám tuổi mới mất. Thế là thành Ngạc Đa Lý mất một vị lão mỹ nhân! Dân chúng trong thành ai cũng khóc than nhỏ lệ.

Bối lặc Ang Thuận sớm tối sầu khổ, nhớ một hồi, khóc một hồi, chẳng khác gì đứa trẻ khóc mẹ, đến nỗi cơm nước cũng chẳng thiết ăn uống nữa. Ông ngày đêm cười khóc bất thường, tinh thần hỗn loạn, dần dần thành bệnh, cuối cùng theo chân vị phúc tấn về Tây phương cực lạc Hội đồng quản trị toàn thành cử người con trai của bối lặc Bố Khố Lý Ang Thuận lên làm bối lặc thành Ngạc Đa Lý.

Vị bối lặc này cũng dốc một lòng cần kiệm liêm chính, yêu dân như con đỏ, lo việc nước hơn việc nhà.

Họ Ái Thân Giác La truyền hết đời này qua đời khác, thế nước cũng ngày một mạnh thêm. Các bối lặc con cháu ai cũng đêu tuân theo di huấn của tổ phụ là bối lặc Ang Thuận huấn luyện quân sĩ dũng mãnh, tinh nhuệ. Họ thường đem binh đi đánh thành này, cướp đất kia. Bởi vậy những thành trì lân cận dần dần đều bị thu phục dưới quyền họ một dải Hải Tây Nữ Chân, Hốt Thích Ôn dã nhân, đều quy về một mối.

Nói đến bọn dã nhân Hốt Thích Ôn thì ai cũng phải sợ cái tính hung hăng táo bạo của bọn chúng. Bọn người này từ khi bỉ bối lặc Ang Thuận đánh cho một trận tơi bời thì không dám bén mảng tới biên giới thành Ngạc Đa Lý nữa. Nhưng ngược lại, dân Ngạc Đa Lý cũng đó dám lảng vảng tới đất họ.

Ở về phía tây nam thành Ngạc Đa Lý có một thành tên gọi Cổ Liệt thành, còn một thành nữa gọi Đồ Luân thành. Hai toà thành này đồng đất phì nhiêu, khí hậu lại ấm áp. Người Ngạc Đa Lý đã sớm biết điều đó. Họ chỉ mong tìm cách thôn tỉnh. Đợi đến mùa xuân ấm áp, cỏ dài ngựa béo rồi họ mới kéo tới thành Cổ Liệt để uy bức đầu hàng. Bối lặc thành Ngạc Đa Lý kéo đại đội hùng binh tới. Dân thành Cổ Liệt đứng trong thành thấy binh tướng của đối phương trùng trùng, lớp lớp, giáp trụ sáng loà, đao kiếm giáo mác như rừng chĩa mũi lên trời xa đến hàng dặm, thì hoảng hồn bạt vía, cố lo cách chống đỡ nhưng vô hiệu.

Cổ Liệt thành vốn chỉ là một thành nhỏ, được Minh triều bảo hộ, nay đột nhiên bị quân Ngạc Đa Lý bao vây, dù có muốn cầu viện cũng không kịp nữa. Thành Đồ Luân ở phía tiếp cận Liễu Tây thành có một vị tổng binh của Minh triều trấn thủ.

Bới vậy, muốn cứu Cổ Liệt, chủ tướng Đồ Luân thành vội cho người cáo cấp với Liễu Tây. Tổng binh Liễu Tây được tin lập tức sai đại đội nhân mã lên đường tiếp cứu, nhưng khi tới nơi thì đã trễ; thành Cổ Liệt đã bị quân của Ngạc Đa Lý thu phục trước đó độ mấy tiếng đồng hồ. Quan tổng binh nhà Minh tức bực hết sức, tức tốc phái người tới gặp bối lặc thành Ngạc Đa Lý trách sao dám cướp thuộc địa của thiên triều. Bối lặc thành Ngạc Đa Lý thấy Minh triều can thiệp lấy làm sợ hãi.

Ông bịa chuyện nói rằng chỉ tại bọn du mục láo lếu nên nhất thời ông mới vào nhầm Cổ Liệt thành. Nay chẳng may bị thiên triều quở trách ông tình nguyện đem cả thành của ông làm thuộc quốc của Minh triều hàng năm tiến cống. Tống binh Liễu Tây chẳng suy xét kỹ cho những lời nói đó của ông là thật, bèn dâng sớ về triều. Bối lặc thành Ngạc Đa Lý sai mười hai viên quản trị đem chìm ưng, thú lạ, nhân sâm, đà điểu theo tống binh Liễu Tây tới Bắc Kinh tiến cống. Minh triều hoàng đế thấy người Ngạc Đa Lý vào tiến cống, lấy làm vừa lòng và đãi họ rất hậu. Nhà vua truyền chỉ thiết yến ở Tây Thiên.

Khi họ ra về, nhà vua còn ban thưởng cho khá nhiều vàng bạc, tơ lụa. Bối lặc thành Ngạc Đa Lý được vua Minh thưởng tứ, lấy làm hãnh diện. Ông cho người đem đồ thưởng đi khắp nơi để khoe.

Người Hải Tây, người Hốt Thích Ôn thấy người Ngạc Đa Lý được vinh dự như vậy thì ghét lắm. Bối lặc của hai bộ lạc này bèn cũng phái người vào triều tiến cống nhà Minh. Họ đem nào ngựa, nào da chuột bạch, nào da xá lợi tôn, nào thỏ thước, nào hoàng ưng, nào a giao, nào hải nha v.v… đủ mọi thứ vật lạ.

Chẳng mấy chốc tin này đến tai bối lặc thành Ngạc Đa Lý. Sợ người Hải Tây và người Hốt Thích Ôn chiếm được ưu thế hơn mình ở Minh triều, bối lặc thành Ngạc Đa Lý lại sai người vào Bắc Kinh lần thứ hai để tiến cống.

Minh triều hoàng đế xét qua tình hình trên biết ngay rằng dân chúng ở miền này có ý ganh ghét, nhau. Để giúp họ khỏi xích mích với nhau, nhà vua bèn cải tên Ngạc Đa Lý thành Kiến Châu vệ, Hốt Thích Ôn thành Nữ Chân vệ. Các bối lặc đều được phong là Chỉ huy sứ.

Kiến Châu vệ, từ khi có chỉ huy sứ, binh càng ngày càng mạnh, ngựa càng ngày càng khoẻ. Họ kéo binh đi khắp nơi cướp bóc, chinh phục. Họ còn oán Minh triều, cho rằng vua Minh không trọng thị họ. Họ là người đã tiến cống trước tiên, thế mà vua Minh cũng liệt họ ngang hàng với hai bộ lạc Hải Tây và Hốt Thích Ôn kia. Với ý quyết tranh tiến, họ lại cho người sang tiến cống lần thứ ba, xin Minh triều hoàng đế gia phong.

Hoàng đế nhà Minh tại vị lúc đó là Tuyên Đức. Ông thấy người Kiến Châu vệ ngày càng thêm mạnh bèn nghĩ tới kế "lấy độc trị độc" mượn binh lực của Kiến Châu vệ để diệt người Hải Tây và Nữ Chân. Bởi vậy ông gia phong Kiến Châu về chỉ huy sứ lên chức Kiến Châu vệ đô đốc, cấp ấn tín, còn thưởng thêm lụa hai kiện, đoạn bốn tấm, sa hai tấm. Ông cũng phong cho những viên quản trị chức đô chỉ huy và thưởng lụa ba kiện, đoạn bốn tấm, sa hai tấm. Minh triều hoàng đế lại dặn dò thêm nếu giữ chức đô đốc đú ba năm sẽ được thưởng mũ lớn đai vàng…

Thật là một ân sủng đặc biệt đối với Kiến Châu vệ. Từ đó về sau, đô đốc Kiến Châu vệ ngất ngưởng ngang tàng, chẳng coi các bộ lạc lân cận ra gì nữa. Ông bắt chước kiểu kiến trúc Kinh đô của nhà Minh, cho xây cất rất nhiều cung điện ở trong thành Ngạc Đa Lý. Ông cũng sai người chọn lựa hơn mười người con gái đẹp trong các dân thôn để đưa vào cung làm phi tử.

Từ lúc có gái đẹp, đô đốc ngày đêm chỉ uống rượu xem hát hoặc ôm phi tử ngủ trong cung cấm, binh cũng chẳng luyện mà việc quân cũng chẳng thèm ngó tới nữa. Ăn nhậu chơi bời nhiều nên tốn kém, ông bèn phái các vị đô chỉ huy vào từng nhà dân một, bắt nộp tiền bạc đem về cho ông xài. Ông xài quá đến nỗi dân cũng tài kiệt khiến người oán trời giận. Lại thêm mấy năm liền mùa màng thất bát vì hạn hán, nhân dân càng ngày càng khốn khó, thậm chí nhiều địa phương đã có vô số người chết đói chết rét. Vậy mà các đô đốc vẫn mặc kệ, cứ ăn chơi thả cửa, chỉ biết hưởng lạc riêng cho mình thôi.

Nữ Chân vệ kém chức Kiến Châu vệ nên có ý bất phục từ lâu. Khi thấy bọn đô đốc hôn ám, ăn chơi sa đoạ, làm hại nhân dân như vậy, chỉ huy sứ Nữ Chân vệ bèn ngầm sai quân đội tới các thôn xóm ngoại thành Kiến Châu vệ cưỡng đoạt ruộng đất gian dâm phụ nữ, mặt khắc lại chạy tới cáo cấp ở phủ đô đốc.

Đô đốc Kiến Châu vệ lúc đó tay tả đang ôm một mỹ nhân, tay hữu cầm hồ rượu lên tu, vừa nghe xong lời cáo cấp liền lè nhè bảo:

- Đối với bọn tao, tìm khoái lạc mới là chuyện cẩn! Việc dân ư! Kệ cha chúng nó!

Các quan chỉ huy đề nghị phát quân bảo hộ bách tính, thì quan đô đốc cười lên khắc khắc:

- Ngày mai ta còn phải đem quân ra ngoài thành đi săn, công đâu mà đi bảo hộ bách tính?

Bọn đó nghe xong giận đến sôi gan, chạy ra luôn cổng phủ. Ngoài cống phủ, dân chúng đã tụ tập khá đông từ hồi nào. Họ đang đợi tin tức. Bọn đô chỉ huy đành phải nói thật những lời nói của đô đốc. Mọi người máu hận bốc lên đầu, có kẻ nghiến răng nghe ken két. Thế rồi, như một tiếng sét nổ vang trời, họ hét lên và không ai bảo ai đồng thanh nói:

- Hay giết chết tên đô đốc hôn ám đó trước đã!

Họ nhảy, vào trong phủ, sục tìm quan đô đốc. Đội vệ binh vác binh khí ra ngăn cản. Nhưng người kéo tới mỗi lúc một đông, chẳng mấy chốc đã lên tới con số bảy, tám trăm. Họ cướp lấy đao thương trên giá rồi đánh thốc vào hậu viện. Trong khi đó, quan đô đốc hai tay vẫn ôm hai phi tử trẻ đẹp hai bên, miệng vẫn tu hồ lô rượu cho đến cạn.

Đám đông đã tiến sát tới giường mà ông vẫn lè nhè nói cười khắc khắc. Chi trong nháy mắt, đầu ông đã lìa khỏi xác. Mấy nàng phi tử thấy cảnh tượng khủng khiếp, hoảng hồn bạt vía, tìm lối chạy trốn.

Cuộc biến cố kéo dài từ giờ ngọ mãi tới giờ thân mới chấm dứt. Khắp phủ đệ, xác chết nằm ngổn ngang máu chảy thành vũng. Chém giết đã rồi đám dân chúng điên loạn kia mới ngừng tay. Họ tính nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nhưng họ đã bỏ sót đứa con trai út của viên đô đốc tên gọi Phạm Sát, năm đó mới có mười hai tuổi.

Sáng sớm hôm ấy, Sát ra ngoài thành đi săn với một nhóm binh sĩ. Thấy con thỏ chạy ngang đường, Sát vội thúc ngựa đuối theo. Ngựa chạy rất nhanh mà vẫn không đuối kịp, cuối cùng thỏ mất dạng không thấy tăm hơi đâu nữa. Sát vừa buồn vừa bức, thả lỏng dây cương cho ngựa thong thả trở về. Vừa ra khỏi sơn ao, bỗng Sát nghe có tiếng người nói lào xào sau một cây đại thụ. Sát tuy tuổi còn nhỏ nhưng có trí hơn người, bèn cho ngựa dừng lại lắng tai nghe:

- Hôm nay bọn tao giết cả nhà tên đô đốc, chỉ còn sót lại mình tên tiểu tặc Phạm Sát. Mọi người đều bảo nhố cỏ phải nhố cả gốc. Bởi vậy quan tân đô đốc phái tao tới đây để gạt nó trở về thành, khi thành công chúng mày cũng sẽ được trọng thưởng…

Sát nghe tới đây giật mình kinh sợ, chẳng đợi cho tên kia nói hết, liền quay ngựa phi nhanh. Phía sau bọn binh sĩ đông cỡ hai, ba chục, thấy Sát bỏ chạy, vội hè nhau thúc ngựa đuổi theo.

Sát một mình một ngựa chạy như điên ở phía trước. Bọn binh sĩ đuổi đã gần kíp. Sát hoảng quá. Trời lúc đó đã về chiều. Bóng tối đã nhuộm đen các lùm cây. Phút cấp bách, Sát bỗng nảy ra kế, vội ghìm cương ngựa, quay ngoắt lại, vòng quanh một cây đại thụ, leo lên dốc.

Đi thêm được mấy bước, Sát nhảy xuống, đập cho ngựa chạy tạt vào con đường nhỏ, còn mình thì vội cởi hết y phục, trùm kín đầu mặt, lại bẻ thêm một cành cây rậm lá phủ lên trên, sau đó lẩn vào đứng giữa đám cỏ rậm, nín thở…

Hồi 19

CHINH PHỤC ĐỂ MỞ NUỚC

Mặt trời gác núi. Nha thước đang xao xác trong bụi cây kẽ lá. Kỳ lạ nhất là lúc đó có một đàn chim chích không biết từ đâu tới đậu ngay cành cây che trên đầu Sát, rồi nhảy nhót tung tăng và lên giọng hót líu lo.

Bọn binh sĩ phi nhanh như một luồng gió cuốn vụt qua mặt Sát, Sát hoảng quá, nín hơi không dám thở. Đám truy binh đâu lường được quỷ kế của Sát lúc thảng thốt không ngờ.

Chúng giơ roi vụt vào đít ngựa trót trót, sợ đuổi không kịp mà trời thì đã tối. Trong nháy mắt, đoàn truy binh đã vọt xa.

Sát thở phào một cái, lẩm bẩm: "Xấu hố chưa!", Sát định ném cành che trên đầu đi. Vừa lúc đó bọn truy binh lại phóng ngựa quay lại đường cũ. Tới cạnh một khóm cây rậm, chúng nhất tề nhảy xuống ngựa, chui cả vào trong tìm kiếm.

Sát hồn vía lên mây, chắc chết cả mười phần, liền té xỉu, ngất đi lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy, Sát ngơ ngác nhìn quanh thì tứ bề vắng lặng, chẳng hiểu mình nằm đó đã bao lâu và bọn truy binh kia đã bỏ đi từ lúc nào.

Sát vội gạt bỏ cành cây còn phủ trên mình, đứng dậy co giò chạy tắt quá đầm cỏ rậm. Trời tối sập, giơ tay mà không thấy ngón. Sát bất chấp tối hay sáng, cứ vạch lá bẻ cành mà đi. Sát đi bừa, chẳng cần tìm đường, thực ra, không thể tìm được đường. Sát chẳng biết đông tây nam bắc gì, cứ lao đại vào bụi cỏ lùm cây. Không biết mình đã đi bao lâu và được bao nhiêu đường đất rồi, Sát thấy mệt nhoài, trong lòng chán nán đến cùng độ. Bỗng Sát quay mặt về phía trái, thấy có ánh đèn le lói xa xa. Mừng đến phát điên lên được, Sát hăng hái lần tới chỗ đèn sáng… Phải vất vả lắm, Sát mới tới được một khu vườn nhỏ có bức tường thấp bao quanh. Sát nghển cổ nhìn vào. Thì ra ánh đèn từ một ô cửa sổ nhỏ phát ra. Sát đứng lặng một lúc nghe ngóng, thấy không có gì khả nghi, mới yên tâm tiến đến, gõ cửa. Một ông lão bước ra mở cửa, hỏi:

- Thằng bé nào đó? Mày ở đâu mà ban đêm gõ cửa thế?

Sát bước lên thềm, chỉ trả lời được có ba tiếng "cha mẹ cháu…" rồi oà lên khóc lóc thảm thiết. Nhưng rồi Sát nín bặt vì chợt nghĩ mình đang chạy nạnh không thể để cho ai biết được gốc tích của mình. Sát bên tìm cách nói trớ đi.

- Thưa cụ, sáng ngày cháu đi theo cha mẹ đi săn. Khi vào tới rừng sâu, chúng cháu gặp phải một đàn sói. Cha mẹ cháu đều bị sói tha đi. Cháu bỏ hết cả ngựa lẫn đồ đạc, may thay chạy được thoát thân. Thật đáng thương cho cháu, đường thì chẳng thuộc, ăn thì chẳng có, chạy suốt cả ngày mới tới đây. Xin cụ làm ơn cứu cháu với!

Ông lão nhìn thằng bé mặt mày sáng sủa, tình cảnh lại đáng thương, bèn cầm tay nó dắt vào trong nhà. Một bà lão và một cô gái đang ngồi xếp bằng tròng trên giường, khâu vá dưới bóng đèn dầu… Sát để ý cô gái, thấy tuổi xấp xỉ tuổi mình.

Nàng vừa nghe cha nói, vừa liếc mắt nhìn Sát từ đầu tới gót, miệng mỉm cười, tỏ vẻ vui mừng lắm.

Gia đình ông lao vốn họ Mạnh Cách, tên gọi Đồ Lạc. Tổ tiên xưa làm ruộng, truyền nghề mai tới ông. Đôi vợ chồng già dưới gối chỉ có một mụn con gái. Bởi vậy hai ông bà mong sao sinh hạ thêm một đứa trai để sau này giúp ông trông coi vườn ruộng, giữa lúc sốt ruột mong chờ thì quả nhiên có thằng con trai đã tới với cặp vợ chồng già! Thật không có gì sung sướng cho ông hơn nữa!

Từ đó Sát ở lại nhà này, hàng ngày giúp ông chăn bò coi dê. Sát vốn dòng dõi quý tộc giàu sang, nên hết sức bỡ ngỡ. May sao Sát lại có Kiều Phương, cô con gái duy nhất của ông lão Đồ Lạc chỉ dẫn.

Ngày tháng thoi đưa, đã sáu năm qua. Phạm Sát năm đó đã mười tám tuổi. Sát với Kiều Phương xem ra tâm đầu ý hợp lắm, chàng nhớ thì nàng thương, sớm tối có đôi, chẳng một phút rời nhau.

Hai ông bà Đồ Lạc đã rõ hết tâm tình của đôi trẻ. Ông bà liền chọn ngày lành tháng tốt cho chúng giao bái thiên địa, thành vợ thành chồng. Mãi đến lúc đó, Sát mới đem gốc gác của mình nói cho vợ nghe. Kiều Phương biết chồng mình vốn là con trai của quan đô đốc nên không khỏi giật mình. Hai ông bà Đồ Lạc dần dần mất cả. Lại mấy năm sau, hai vợ chồng Kiều Phương cũng theo gót ông bà mà rời xa nhân thế! Vợ chồng Sát để lại cho con một trang trại khá lớn.

Hết con đến cháu, đời đời nối dõi, nhưng phải truyền đến đời cháu tên gọi Mạnh Đặc Mục thì trang trại kia mới biến thành một trang viên đồ sộ khang trang, với tám trăm mẫu điền địa. Ngoài ra, Mạnh còn có đất trồng cây ăn trái ở khắp mười hai trái núi. Trang viên Mạnh có đến trên hai, ba trăm gia đinh tráng kiện. Những lúc rỗi rảnh, họ tập quyền võ nghệ, kẻ nào kẻ nấy đều có bản lĩnh hơn người.

Mạnh Đặc Mục thực ra cũng là kẻ có chí khí anh hùng. Mạnh thường tự hào mình giòng dõi quý phái nhất quyết không chịu làm một tên trang chủ tầm thường để chết già trong chốn rừng hoang núi thẳm. Với ý đồ lớn lao đó, Mạnh ngày đêm ra công tập luyện bọn trai tráng, chờ dịp báo thù cho tổ tiên bị hại thuở trước.

Kịp đến khi Mạnh bốn hai tuổi, cơ hội báo thù đã đến.

Số là hôm đó đô đốc Kiến Châu vệ đem một cánh quân đi săn ở vùng Hách Đồ A Cáp, dưới chân núi Hổ Lâm Cáp Đạt, trong thung lũng Tô Cách Lan Hữ Hà.

Ngọn Hổ Lâm Cáp Đạt là một ngọn núi cao, ba mặt vây quanh như một bức bình phong. Hai chóp mũi nhô lên tận trời xanh, giữa để lộ một con đường nhỏ hẹp, chỉ một người một ngựa mới có thể đi qua được. Sau khi được tin tức đích xác, Mạnh liền đem ba trăm tráng đinh đến mai phục trong sơn ao. Đô đốc Kiến Châu vệ lúc đó đang hò hét bốn chục thân binh qua lại săn bắn trên cánh đồng Hách Đồ A Cáp. Bỗng có tiếng sói kêu từ phía sườn núi dội tới. Ông giật mình kinh hãi, vội khoát tay ra hiệu cho binh lính chạy qua ngã sơn ao.

Nhưng khi tới lưng đèo, ông và đoàn tuỳ tùng thấy bốn bề vắng ngắt, chẳng có bóng một con sói nào, mà chỉ thấy cây cối rậm rạp, thế núi hiểm trở.

Giữa lúc ông còn hoài hoài nghi nghi, chưa hiểu chân giả ra sao, bỗng một tiếng gầm vang động cả sơn khê. Trong nháy mắt, quân mai phục bốn bề nhất loạt đứng dậy, xông tới bao vây ông. Ông hoảng hốt, luống cuống, tính thoát ra cửa rừng nhưng cửa rừng đã bị gỗ đá chất ngổn ngang chẹn mất đường.

Ông đành phải quay lại tử chiến: hai bên ác đấu. Quân ông yếu thế rõ rệt. Chẳng mấy chốc, ông với bốn mươi thân binh đều bị trói gô lại xếp thành một hàng dài. Mạnh đứng trước chỉ huy, hô một tiếng "sát", tức thì bọn tráng đinh nhất tề động thủ, giơ tay đao chém xuống.

Quan đô đốc còn chưa bị chém. Mắt nhìn thấy mấy chục cái đầu lâu lăn lông lốc trên mặt đất, ông khiếp hãi, đành phải hạ mình xuống, chắp tay cúi đầu xin tha mạng, tình nguyện đem ấn tín quan đô đốc và thành trì Kiến Châu vệ dâng cho Mạnh. Mạnh động lòng thương, gật đầu ưng thuận, rồi sai một trăm trang đinh áp giải quan đô đốc theo sau, còn tự mình chỉ huy hai trăm tên khác đi trước. Đến cửa rừng, Mạnh bèn đem chuyện tổ tiên xưa bị hại ra sao và mưu đô việc phục thù như thế nào cho cả bọn quân binh lẫn bọn trang đinh cùng biết.

Bọn quân lính lúc đó mới rõ mọi sự, vả lại quan đô đốc của chúng đã bị bắt trói dẫn đi sau kia thì chúng chỉ còn có nước đập đầu xin hàng quan tân đô đốc mà thôi.

Mạnh Đặc Mục chỉ huy đám binh sĩ còn sót lại, cộng thêm ba trăm trang đinh của mình, diệu võ dương oai kéo thẳng tới phủ đô đốc Kiến Châu vệ, đoạt lấy ấn tín. Rồi, một mặt phái người qua Minh triều đầu phong, một mặt cho bắt trói tất cả bọn tử thù giết hại tổ tiên xưa, đứa có tên tuổi địa vì thì đem chém đầu, đứa vô danh tiểu tốt thì đuổi ra khỏi thành.

Minh triều phong Mạnh Đặc Mục làm đô đốc Kiến Châu vệ cũng như các đời trước. Để kỷ niệm nơi mình đã báo được thù xưa Mạnh bèn rời kinh thành về cánh đồng Hách Đồ A Cáp. Mạnh lấy vợ, sinh được hai trai. Đứa lớn tên Sung Thiên, đứa nhỏ gọi Chữ Yến. Sung Thiên về sau sinh ba trai. Thằng lớn tên Thoả La, thằng hai tên Thoả Nghĩa và thằng ba gọi Tích Bảo Tế Thiên Cổ.

Tích sau đó lại sinh một trai gọi Phúc Mãn. Đến Phúc Mãn thì sinh luôn một hơi bôn trai. Thằng lớn tên Đức Thế Khố. Thằng hai tên Lưu Xiển, thằng ba tên Sách Trường A và thằng út tên Bảo Thực.

Phúc Mãn làm đô đốc truyền chức lại cho con thứ tư là Giác Xương An, xây cất thêm năm toà thành trì nữa. Đức Thế Khố đóng tại miền Giác Nhĩ Sát, Lưu Xiển đóng tại miền A Cáp Hà Lạc. Sách Trường A đóng tại miền Hà Lạc Cát Thiên. Bão Lãnh A đóng ở vùng Ni Ma Thích. Còn Bảo Thực đóng ở vùng Chương Giáp, năm toà thành trì này cách Hách Đô A Cáp gần thì năm dặm mà xa thì hai mươi dặm. Tất cả đều xưng là Minh Cổ Tháp bối lặc. Sáu vị bối lặc này người nào cũng có võ nghệ cao cường. Các bộ lạc xa gần nghe danh đều kinh sợ. Duy chi có hai bộ lạc, một gọi Thạc Sắc Nạp ở phía tây, một gọi Gia Hổ ở phía đông, tỏ ý ương ngạnh bất phục.

Hai bộ lạc này dữ tợn đến thế nào mà dám cả gan chống lại oai quyền của đô đốc Phúc Mãn? Thạc Sắc Nạp có chín con trai đều được tập luyện võ nghệ hơn người. Những lúc nhan rảnh vô sự, chúng thường kéo thủ hạ đi tứ xứ, phá nhà cướp của. Các bộ lạc thân cận, bộ lạc nào cũng bị chúng cho ăn đòn ít ra đôi ba lần nhưng thế yếu đành phải chịu. Gia Hổ cũng có bảy con trai đọ được với Thạc Sắc Nạp. Đám này cũng đều dữ như sói, mạnh như cọp; đi tới đâu chúng cũng đốt nhà giết người hung dữ chẳng kém.

Một hôm chín con trai của Thạc Sắc Nạp kéo tới tỷ võ với bọn Gia Hổ. Hai bên cam kết trước rằng hễ ai bại thì phải hàng. Thế rồi nhập cuộc chiến. Hai bên ác đấu đến quỷ khốc thần sầu, từ sáng tới trưa rồi đại từ trưa tới tối mà không phân thắng bại. Hai phe mến tài nhau bèn kết làm anh em, thề với nhau rằng có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chịu. giữa lúc đôi bên còn đang bàn tính chuyện trò, bỗng từ trong đám đông nhô ra một trang thiếu niên mặt trắng môi son, khôi ngô tuấn tú. Người thiếu niên lầm lỳ, chẳng thèm nói một lời với ai, chàng bước thẳng tới chín con trâu. Bắt đầu từ con thứ nhất. Chàng giơ hai tay ra nắm lấy sừng trâu, dùng kình lực quật mạnh. Mọi người chỉ nghe một tiếng rống thê thảm, cổ trâu đã gãy từ lúc nào. Thân trâu như một đống thịt lớn đố kềnh xuống đất bất động. Chưa hết, chàng tiến qua con thứ hai rồi thứ ba, lần lượt tới con thứ chín, vẫn chỉ dùng một thế võ như trước. Chín con trâu đực mộng nặng hàng tấn, mạnh như voi, thế mà chỉ trong nháy mắt, chàng đã biến tất cả thành những đống thịt nằm chềnh ềnh trước các tay hảo hán của hai bộ lạc. Vừa quật chết xong đàn trâu, chàng liền giơ cao tay khoát một cái tức thì hơn hai chục đại hán lẩn trong đám đông từ lúc nào nhất tề động thủ, hè nhau xúm lại cướp mấy con trâu đem đi.

Trước thái độ ngang ngạnh hỗn xược của người thiếu niên, bọn Thạc Sắc Nạp và Gia Hổ đến lúc này không còn nhịn được nữa. Họ đồng loạt nhảy lên trước, cản bọn đại hán của người thiếu niên, rồi lên tiếng cãi lý với chàng. Nhưng thiếu niên chẳng nói nhiều lời, giơ ngang quả đấm tống cho mỗi tên một đấm vào mặt. Thế là cuộc ẩu đả bùng nổ. Chẳng biết thiếu niên có thần lực gì mà chàng đánh cho kẻ nào kẻ nấy tơi bời, kẻ thì lăn cù ra đến mấy trượng kẻ thì té ngửa ra mặt đất, không bò dậy được nữa.

Mấy chục người vây đánh một thiếu niên mà từ trước đến sau chẳng một ai lại gần được chàng và cuối cùng đuối sức trông thấy nếu không muốn nói là sắp thảm hại. Người của hai bộ lạc còn một số đông đứng ngoài thấy người mình thua đến nơi, nhất tề xông vào, vây chặt thiếu niên cùng hai mươi đại hán vào giữa, dùng hết bình sinh ứng biến.

Chàng thiếu niên không một chút hoang mang, cùng đám tuỳ tùng, lưng kề lưng, vai kề vai, mặt quay bốn phía, trả đòn kịch liệt. Cuộc đấu kéo dài từ trưa cho đến tối, ác liệt chưa từng có. Chàng thiếu niên không hề bị một vết thương nào.

Trái lại, về phía hai bộ lạc kia, kẻ nào cũng bị đập đánh tơi bời, không ít thì nhiều đều bị thương tích. Họ thấy thế nguy chỉ còn một ý nghĩ duy nhất là chạy tháo thân. Giữa lúc khốn quân đến cùng cực đó, bỗng họ nghe một tiếng quát vang lên ở mặt chính nam khiến trăm người như một ai nấy đều hoảng hồn bạt vía. Một đội binh mã không biết từ đâu hùng hổ xông tới như một trận cuồng phong.

Người hai bộ lạc biết thế nguy cấp, vội bỏ người thiếu niên và đoàn đại hán, cắm đầu bỏ chạy, chân vắt lên tận cổ. Thiếu niên dẫn quân đuổi theo sau thành một hàng dài đến mấy dặm.

Khi chạy tới một thôn xóm rộng lớn có rào kỹ bao quanh, hai bộ lạc hốt hoảng chạy vào trong đóng ập cổng lại, cắt người canh gác, chờ sẵn ứng chiến. Chàng thiếu niên ở bên ngoài vòng rào đốc suất binh sĩ khiêu chiến. Họ lên tiếng chửi bới thậm tệ. Bỗng cổng thôn mở. Từ bên trong một đội binh mã xông ra. Thế là hai cánh quân ráp lại ác chiến.

Cánh quân của chàng thiếu niên đã từng chiến đấu nhiều phen nên không coi cánh quân của hai bộ lạc kia ra gì. Chẳng bao lâu cánh quân của hai bộ lạc đã bi quét sạch. Người thiếu niên đứng lược trận, thấy đối phương đại bại bèn phóng ngựa như bay qua cổng thôn vào trông thấy người là đâm, thấy vật là cướp. Anh em Thạc Sắc Nạp chín người chết mất bốn, còn anh em Gia Hổ cũng vậy, bẩy người chết mất ba. Những người còn sống sót đều bị trói chặt và áp giải về thành Chương Giáp.

Người thiếu niên đó chẳng ai xa lạ, chính là cháu gọi đô đốc Phúc Mãn là ông nội, con của Bảo Thực, tên gọi A Cáp Nạp Ốc Tế Cách. Chàng theo cha đóng tại thành Chương Giáp. Chàng có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, thêm một tấm thân mình đồng da sắt. Chàng vẫn thường nghe nói hai bộ lạc Thạc Sắc Nạp và Gia Hổ hung dữ, ngang ngạnh rất khó trị, đã từ lâu chàng có ý tới khiêu khích để so tài thử sức. Hôm đó, chàng chuẩn bị đầy đủ xong rồi ra đi. Quả nhiên, chàng đại thắng trở về, đem dâng hết những chiến lợi phẩm lên cho cha, nào trâu bò ngựa, nào vàng bạc, đàn bà con gái. Nhưng cha chàng chẳng dám tự tư dùng, lại đem những chiến lợi phẩm đó dâng lên cho đô đốc Giác Xương An.

Giác Xương An một mặt khen thưởng ốc Tế Cách, một mặt kiểm điểm nhân mã, lên đường thẳng tới tra xét hai bộ lạc Thạc Sắc Nạp và Gia Hổ. Ông thu phục luôn một lúc hai, ba chục thôn phường rồi ra bảng an dân. Từ đó những miền chạy dọc theo phía đông núi Ngũ Linh hoặc phía tây sông Tô Cách Lan, xa chừng hai trăm dặm, đều quy về Kiến Châu vệ.

Sau khi chàng thiếu niên ốc Tế Cách lập được công lớn, đô đốc Giác Xương An tỏ lòng yêu quý lắm. Ông lưu chàng ở lại trong thành, luôn luôn bên cạnh ông. Chàng là một chàng thiếu niên tuấn tú khôi ngô, cho nên không một phúc tấn nào, một cách cách(1) nào không có mỹ ý đối với chàng. Bà phúc tấn vợ đô đốc Giác Xương An muốn làm mối cho chàng một cô vợ Chàng nói với bà:

- Nếu không lấy được một người đẹp bậc nhất thiên hạ, cháu thề suốt đời không lấy ai.

Một hôm chàng theo chú Giác Xương An ra miền đông ngoại thành để săn bắn. Vì ngọn núi chàng tới để săn rất xa thành nên chàng phải đem theo lều vải để nghỉ qua đêm.

Hôm sau, chàng dậy thật sớm. Đang lúc cao hứng, chàng một mình lấy ngựa ra đi. Chàng rời xa lều vải, ruổi ngựa vào mãi khu rừng già. Thấy một đàn hươu sao đang chạy ngoài ven rừng, chàng nắn lại tên, uốn lại cung rồi dục ngựa phi theo.

Đàn hươu sao nghe tiếng vó ngựa lộp cộp đằng sau giật mình kinh hoảng, cất gót chạy như bay, chỉ trong chốc lát đã không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Chàng đành rẽ cương cho ngựa đi vào một khu rừng cạnh đường. Chàng ngước mắt nhìn lên, không ngờ trông thấy một mỹ nhân đẹp như hoa xinh như ngọc, ngồi trên mình ngựa, mặt hơi cúi xuống ra chiêu e lệ.

Mỹ nhân xuất hiện đột ngột, quá, khiến chàng bối rối bâng khuâng, khó nói nên lời.

Chú thích:

(1) Phúc tấn là vợ của bối lặc - Cách cách là con gái của bối lặc và phúc tấn

Hồi 20

TÌNH CÔ SƠN NỮ

Người giai nhân tuyệt sắc, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài ấy đi một đôi hài thêu kim tuyến nhỏ nhắn, nhẹ đạp trên một đôi dây ngựa vàng. Nàng đưa đôi tay ngọc thon thon ra phía trước để ghìm cương ngựa. Nàng quay mặt về phía Ốc Tế Cách liếc nhanh cặp mắt đa tình. Nàng đẹp đến nỗi chàng ốc ngồi trên lưng ngựa không muốn vững nữa. Đôi mắt chàng như bị hút chặt vào cái miệng tươi như hoa và đôi má mịn màng, phảng phất hương thơm lúa chín.

Thấy Tế như ngây như dại, mỹ nhân quay đầu lại mỉm cười. Nụ cười của nàng vừa dứt thì làn sóng hồ thu cũng vừa quét một vòng qua thân hình chàng họ Ốc. Rồi nàng giật mạnh giây cương, ngựa nhảy chồm lên hí một tiếng vang rền lao về phía trước như mũi tên bắn, chỉ trong nháy mắt đã mất bóng sau lùm cây tùng rậm lá trước mặt.

Chàng thanh niên họ Ốc vội đập hai gót vào hông ngựa; tức thì con bạch mã nhảy vọt về đằng trước rồi cũng lao đi như tên bắn, cố hết sức đuổi theo cái chấm đen nhấp nhô giữa những rặng cây, đồi cỏ đang mờ dần. Vó ngựa đập lộp cộp trên con đường sỏi ngoằn ngoèo khúc khuỷu, vang động cả khu rừng tĩnh mịch âm u. Một ngựa trước, một ngựa sau, tung bụi mù thành một vệt dài mờ mờ trắng đục trong không gian. Chúng đuổi theo nhau, qua không biết đã bao nhiêu khóm tùng, rừng trúc, vượt không biết bao nhiêu đèo núi, sườn non. Nhưng rồi bóng mỹ nhân biến mất, chẳng hiểu nàng đã rẽ cương sang neo nào.

Mất hút bóng người đẹp, Cách dừng ngựa ngơ ngác nhìn quanh nhưng chỉ thấy một vùng sơn cốc bốn mặt toàn là vách đá dựng ngược, chẳng khác một cái giếng rộng đào sậu vào lòng núi. Trên mặt đất gai góc mọc đầy. Chân ngựa chàng bị vướng, nhiều lúc không thể cất lên nổi. Chàng thả lỏng cương mặc cho ngựa bước đi đâu thì đi, lòng bối rối xốn xang, mặt như ngây như mê, chẳng khác người trong mộng. Chàng rẽ về bên trái, rồi lại quay về bên phải, rồi thả ngựa bước tràn, chỉ mong sao tìm thấy lại bóng mỹ nhân.

Chàng đi như vậy không biết đã bao lâu. Mãi đến khi vô tình ngước mắt lên cao, chàng bỗng mừng quýnh vì trước mắt là hình bóng người đẹp lý tưởng của mình. Giai nhân như có ý trêu ghẹo chàng, đang dừng ngựa đứng chênh vênh trên đỉnh núi cao. Cũng với, nụ cười nửa miệng như bông hoa hàm tiếu, nàng liếc mắt đưa tình trong khi làn tóc loã xoã trên gò má phất phơ trước làn gió nhẹ đầu non. Chàng nhìn thấy nàng, trống ngực đập rộn, liền quất ngựa leo lên. Nhưng núi rừng rậm rạp gai góc mọc đầy, vó ngựa chàng không tiến lên được nửa bước. Vùng vẫy mãi và vô phương thoát đám cỏ gai, chàng đâm cuống, vội nhảy xuống ngựa, rẽ cây vạch cỏ lần đi. Mặt đất gồ ghề, chỗ cao chỗ thấp, khiến chàng té lên ngã xuống đến nỗi da trầy đầu vỡ, máu chảy loang lổ đầy người. Tuy vậy, chàng vẫn không chịu dừng chân, cố leo lên cho tới tận đỉnh.

Nhưng vách đá dựng đứng, làm sao mà lên được. Chàng đành phải đi quanh bốn phía, mong tìm được một con đường mà leo lên. Những ai đã yêu mới biết tình ái có một sức mạnh vô biên. Chàng thiếu niên họ Ốc đã nếm phải bả tình, dù núi có cao vách đá có hiểm trở, chàng chẳng coi ra gì. Bởi vậy chàng cố lấy lại sức, xắn tay áo, bám vào những dây leo, đu người lên không, chân đạp vào những mép hốc đá hoặc những mô đá nhô ra mà lần lần bò ngược lên trên. Chàng vừa bò vừa trèo như thế chẳng biết bao lâu rồi, chỉ thấy miệng thở phì phò, mồ hôi chảy ra nhễ nhại khắp mình. Tuy đã quá mệt nhưng chàng vẫn không sờn lòng thối chí. Chẳng mấy chốc chàng đã sắp lên tới đỉnh. Chàng khấp khởi mừng thầm vì chỉ trong vài phút nữa chàng sẽ được ngắm dung nhan người đẹp, sẽ được nghe tiếng oanh thỏ thẻ của giai nhân. Nhưng chẳng ngờ một cục đá dưới chân chàng bỗng tách ra khỏi vách đá rồi rớt xuống chân núi đánh rầm một tiếng. Bàn chân chàng cũng tuột theo. Chàng giật mình, hai tay đồng thời cũng tuột luôn chỗ bám. Tức thì toàn thân chàng bật ngửa ra, chới với giữa không trung. Trên đỉnh núi mỹ nhân thấy thế, vội cúi mình thấp xuống, giơ cánh tay xinh như ngọc ra, nắm chặt lấy vạt áo chàng.

Vốn võ nghệ cao cường, chàng nhờ tay cô gái, lấy đà tung người lên trên không, rồi rớt xuống đỉnh núi, bên cạnh cô gái. Đã quá mệt, lại phải vận dụng toàn lực vào cú nhảy vọt vừa rồi nên vừa rớt xuống khỏi mặt đất chàng liền ngất đi, nằm sóng soài bên cạnh mỹ nhân.

Thật là một dịp tốt cho nàng tha hồ nhìn ngắm diện mạo của chàng. Chàng quả là một trang thiếu niên tuấn tú. Lòng nàng tự nhiên cảm động, nhất là khi nàng thấy quần áo của chàng rách tướp, tà vạt tả tơi như cánh bướm, còn đầu, mặt, chân tay thì bị đá toạc, máu chảy ra đỏ lòm. Nàng lấy trong bọc ra một chiếc khăn lau sạch nhưng vết máu. Chiếc khăn toả mùi hương ngào ngạt. Hương thơm ấy bay xộc vào mũi khiến chàng giật mình hồi tỉnh, chàng mở mắt ra vừa lúc nàng đang đắm đuối nhìn chàng. Trời, khuôn mặt sao mà đẹp đến thế! Đôi má trắng mịn thoa phớt lượt phấn hồng, cặp lông mày cong cong vành lá liễu. Cặp mắt đa tình đen lay lý toả dài tia sáng rồi chiếc trán trắng hồng buông loã xoã hàng tóc ngắn, như những sợi tơ nhỏ mướt, và cái cổ nõn nà ba ngấn trắng như tuyết. Đáng yêu nhất phải nói là đôi môi hồng thắm điểm thêm nụ cười duyên dáng quyến rũ.

Ốc Tế Cách thừa lúc nàng không để ý, vụt dưới cao lên một chút, hôn vào chiếc miệng xinh tươi của người đẹp. Nàng có ý giận, biến ngay sắc mặt, nhíu đôi lông mày, đẩy chàng ra rồi quay mình chạy đi. Chàng hoảng lên, vội giơ tay nắm lấy vạt áo nàng giữ lại. Nàng thấy không đi thoát, bèn quay đầu lại, nghiêm nét mặt hỏi chàng:

- Mi là thằng khốn kiếp nào vậy?

Câu nói còn chưa dứt thì nghe soạt một tiếng, cây bội đao của nàng đã tuốt ra khỏi vỏ rồi vung lên và chém xuống. Chàng vội giơ tay ra đón bắt cánh tay nàng, rồi đem tung tích của mình kể hết cho nàng nghe. Nhân lúc này chàng nói lên điều sở nguyện của mình, mong được kết mối lương duyên với nàng.

Nghe thiếu niên họ Ốc nói, nàng biết ngay chàng chẳng phải kẻ tầm thường, vả lại chàng còn là một trang thiếu niên xinh đẹp khôi ngô, lời ăn tiếng nói tỏ ra rất ôn nhu, tha thiết, cho nên lỏng nàng bỗng mềm lại, miệng nở một nụ cười duyên dáng, đồng thời tay nàng thong thả tra đao vào vỏ.

Chàng bèn quỳ hai gối trước mặt nàng để cầu mong nàng gắn bó mối tình vợ chồng đầm ấm lâu dài. Nàng hai má ửng đỏ, cúi đầu lặng thinh chẳng biết nói gì. Chàng họ Ốc thấy vậy lại càng cầu khẩn luôn mồm, nào tình yêu tha thiết, nào bể cạn non mòn, nào trăm năm đầu bạc. Bỗng nàng bảo:

- Hãy cắt mớ tóc của chàng đi để…

Câu nói của nàng chưa dứt thì tay nàng đã đẩy mạnh chàng ra bên, rồi nhảy thốc lên lưng ngựa, giật cương chạy như bay xuống chân núi. "Cắt mớ tóc đi…" vốn là một câu nói rất quan trọng của trai gái người Mãn lúc yêu thương tình tự. Câu đó có nghĩa là: Con trai đã cắt tóc đi thì tóc không thể mọc cũng như đã yêu người con gái nào rồi thì không thể yêu người con gái khác nữa hoặc người con gái đã lấy tóc của người con trai nào rồi thì lòng luôn vương vân với người con trai đó, mai mãi không nguôi. Trang giai nhân nói câu đó tức là đã tỏ ra yêu chàng hết sức rồi. Nhưng vì mắc cỡ nên nàng vội phi ngựa chạy trốn luôn. Chàng đứng nhìn bóng nàng dần khuất sau rặng cây bên khúc rẽ mà lòng hồi hộp, thẫn thờ như ngây như dại, miệng lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại câu nói vừa rồi của nàng.

Bỗng chàng nổi lên một tràng cười ha hả vang động cả một vùng núi âm u tĩnh mịch. Nhưng tiếng cười lại ngừng bặt vì chàng chọt nhớ ra mình vẫn chưa biết họ tên nàng là gì và quê quán nơi đâu, vội co giò chạy gấp xuống chân núi. Chàng chạy hồi lâu, mồ hôi đã toát ra như tắm mà chẳng thấy tăm hơi người đẹp đâu. Chàng thấy âu sầu bực bội hết sức. Đưa mắt nhìn quanh, bỗng chàng thấy con ngựa của mình đang gặm cỏ cạnh đường. Chàng leo lên lưng ngựa thả lỏng giây cương cho ngựa thong thả bước đi.

Chẳng bao lâu chàng về tới phủ đô đốc. Bá mẫu của chàng nhìn thấy chàng mặt có vết máu, y phục rách nát, ngạc nhiên hết sức, vội hỏi chàng. Chàng không dấu giếm chút nào, bèn đem tất cả mọi việc vừa xảy ra kể cho bá mẫu nghe. Bá mẫu và người chị của chàng bất giác cười lên khanh khách. Người chị còn vỗ tay đen đét, cười mà bảo chàng:

- Thế mới thật là trời có mắt chứ! Mẹ chị làm mai cho chú mà chú không chịu. Nay tìm cô này, mai lại tính cô khác, vậy mà chú đều lắc đầu. Bây giờ thì chú đã gặp rồi, khỏi phải mối mai gì nữa nhé!

Tâm sự Ốc Tế Cách là tâm sự của một kẻ tương tư, lại thêm các chị cười cợt chế diễu, chàng không còn giữ được bình tĩnh nên đôi má bỗng ửng đỏ, hai chân như muốn khuỵu xuống đất chàng nói:

- Em mà không lấy được mỹ nhân này về làm vợ thì kiếp này quyết cắt tóc đi tu mà thôi.

Giữa lúc cả nhà đang cười nói om xòm thì bá phụ chàng là đô đốc Giác Xương An bước vào phòng. Ông thấy cháu ông có mặt tại đây liền hất hàm hỏi:

- Tại sao cháu lẳng lặng trở về, chẳng nói năng gì để bá phụ sai người đi kiếm khắp cả vùng Đồng Sơn thế?

Bà phúc tấn, vợ ông, thấy ông hỏi vậy biết rằng ông chưa hiểu gì về chuyện kỳ ngộ của cháu mình, chỉ chàng mà cười nói:

- Ông có biết không? Ông tiểu bối lặc này ngồi tán gẫu suốt ngày với người đẹp ở Đông Sơn đấy!

Đô đốc Giác Xương An ngạc nhiên, vội hỏi:

- Người đẹp nào thế?

Lúc đó cách cách lớn của ông đem chuyện Ốc Tế Cách gặp một mỹ nhân ở đỉnh núi Đông Sơn ra kể cho ông nghe.

Nghe chị kể vừa xong, Ốc Tế Cách liền quỳ xuống đất ngỏ lời cầu xin bá phụ mình tìm cho ra người đẹp nhờ đứng làm chủ hôn, tác hợp cho đôi lứa. Bá phụ chàng vốn rất yêu quý chàng nên vui lòng đứng ra lo liệu. Ông nói:

- Đã là con gái ở những miền phụ cận thành này thì việc tìm kiếm đâu có khó khăn gì? Thằng cháu của bá phụ ơi, cháu lo gì mà phải gấp thế?

Nói rồi, ông Giác Xương An bèn hạ lệnh cho người đi khắp nơi điều tra tung tích cô gái.

Không đầy bốn, năm ngày, thủ hạ ông đã điều tra ra.

Nguyên lai mỹ nhân này vốn là người Minh Cổ Tháp, em gái Ba Tư Hãn Ba Đồ Lỗ. Nàng là một cô gái có vẻ đẹp chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn. Năm đó, nàng hơn hai mươi tuổi, cha nàng rất yêu quý nàng, các bối lặc của những bộ lạc xa gần đều tới cầu thân nhưng đều bị Ba Tư Hãn cự tuyệt. Ông cự tuyệt là vì ông đã có một chủ ý. Ông nghĩ rằng con gái của ông sắc nước hương trời như vậy thì phải gả cho một trang thiếu niên tài mạo song toàn mới xứng đôi vừa lứa.

Bởi vậy bất cứ ai tới hỏi, ông đều từ chối, chẳng cần hỏi ý con gái. Một hôm đô đốc Giác Xương An phái người tới cầu hôn. Ba Tư Hãn thấy vậy lại cho rằng quan đô đốc đường đường là một vị trọng thần có ý cầu thân cho chính mình để làm một vị phúc tấn thì còn gì hay bằng. Nhưng hiềm nỗi quan đô đốc tuổi đã quá lớn, e rằng không xứng với con mình. Ông đặt một giả thuyết khác cho rằng có thể một cậu con trai nào đó của quan đô đốc muốn lấy con gái ông làm vợ. Cậu này một là còn trẻ, hai là sẽ trở thành đô đốc trong tương lai, như thế thì thật là phú quý song toàn, khỏi nói cũng biết là đắc ý nhất rồi! Nhưng đến khi ông mối vào vấn đề, nói là thay mặt quan đô đốc đến hỏi cô con gái ông cho người cháu trai thì lòng ông đã có đôi phần không ưng. Ông còn nghe thêm cả chuyện con gái ông, tình tự với cháu quan đô đốc ở Đông Sơn nên ông lại cho rằng ông mối có ý giễu cợt mai mỉa ông, do đó ông lại càng không vừa ý. Tuy vậy, ông không dám quyết liệt cự tuyệt vì ông còn nể mặt quan đô đốc. Ông trả lời người mối rằng xin cho Ốc Tế Cách đích thân đến diện đàm mới có thể quyết định được việc hôn nhân. Theo ý Ba Tư Hãn thì ông muốn xem Ốc Tế Cách diện mạo và phẩm chất ra sao trước đã.

Ít hôm sau, chàng thiếu niên họ Ốc tới nhà Ba Tư Hãn.

Chàng nhủ thầm mình là cháu quan đô đốc thì một tên Ba Đồ Lỗ này có nghĩa lý gì đối với chàng. Do đó chàng dương dương tự đắc bước vào, cất tiếng dõng dạc nói với Ba Tư Hãn:

- Lệnh ái đâu. Xin mời ra cho tại hạ diện kiến.

Ba Tư Hãn tức giận đến tái mặt bèn trả lời hết sức lạnh nhạt:

- Tiện nữ sinh trưởng nơi thâm khuê lại rất trọng lễ giáo nên không thể diện kiến với ngươi được.

Ốc Tế Cách liền nói.

- Tại hạ cùng lệnh ái có duyên phận vợ chồng thì sự diện kiến nào có hại gì?

Ba Tư Hãn không để Ốc Tế Cách nói xong, tiếp luôn:

- Về việc cầu thân tiếc rằng tiểu bối lặc tới trễ quá! Hôm qua tại hạ đã định việc chung thân cho người khách khác rồi!

Ốc Tế Cách giật mình lên như điện giật. Vội hỏi:

- Với ai vậy?

Ba Tư Hãn nói:

- Quyết định này do chính tiện nữ chủ trương. Tiện nữ đã thuận lấy con trai Khắc Triệt Ba Nhạn, tù trưởng Đổng Ngạc bộ, tên gọi là Ngạch Nhĩ Cơ Ngoã Ngạch!

Thất khiếu Ốc Tế Cách như bốc khói, đôi mắt trợn ngược, miệng há hốc ra. Không nói được lời nào. Chàng lắp bắp mãi mới nói được có một câu:

- Có thực lệnh ái quyết định như vậy?

Ba Tư Hãn cười nhạt, chẳng thèm trả lời. Ốc Tế Cách như phát điên lên, tuốt lẹ cây yêu đao đánh soạt một tiếng.

Ba Tư Hãn thấy thế lại cho rằng chàng tuốt đao để chém mình, cũng tuốt vội yêu đao lăm lăm cầm trong tay. Nhưng Ba Tư Hãn không ngờ được rằng chàng tuốt đao chẳng phải để giết người, mà để cắt phứt bím tóc trên đầu mình, ném lên mặt bàn rồi nói:

- Xin nhờ tôn ông đưa giùm cho lệnh ái. Tại hạ là Ốc Tế Cách, kiếp này nếu không lấy được lệnh ái làm vợ thì không còn gọi được là trang kỳ nam tử đội trời đạp đất ở đời này nữa.

Nói xong, chàng cũng chẳng quay đầu chào, cứ việc chạy đại ra ngoài cổng như một con trâu điên.

Ngạch Nhĩ Cơ Ngoã Ngạch trước đây đã có lần cầu thân với Ba Tư Hãn. Về mặt tài mạo thì Ngạch chẳng có gì xuất sắc khó sánh được với con gái ông. Nhưng sự thể đã quá gấp, ông Hãn cho cưới ngay trong ba ngày, dùng kế sét đánh chẳng kịp bưng tai.

Quả nhiên ba ngày sau, con gái ông Hãn đã gả về Đổng Ngạc Bộ.

Ốc Tế Cách được tin này càng căm giận đến tận xương tuỷ ít lâu sau, có một hôm Ngạch Nhĩ Cơ Ngoã Ngạch một mình cưỡi ngựa đi chơi dưới chân núi Bát Đạt. Bỗng từ trong sơn ao nhảy ra chín tên đại hán, quật ngã Ngoã Ngạch xuống đất rồi nhất tề giơ đao chém xuống, bám nát thây Ngoã Ngạch.

Vài hôm sau tù trưởng Khắc Triệt Ba Nhan mới tìm ra được thây của con trai ông dưới chân núi. Ngạch là đứa con trai duy nhất của ông, bảo sao ông không thương tâm và căm giận cho được. Ông một mặt cho liệm xác con, một mặt cho người điều tra hung thủ. Ông cho yết bảng khắp nơi hễ có ai đó biết họ tên hung thủ sẽ được thưởng trâu một trăm con, ngựa cũng một trăm, vàng mười cân. Tin này vừa truyền ra ngoài thì dư luận đã xôn xao bàn tán, cho rằng trong chín tên hung thu đó có một tên là Ốc Tế Cách. Tuy biết vậy nhưng chẳng ai dám tố cáo để lĩnh thưởng, bởi vì Cách là cháu của quan đô đốc Kiến Châu vệ. Thấy người ta khiêng con về tới nhà, ông Ba Nhan đau khổ vô cùng, cứ ôm choàng lấy thây con mà khóc hu hu. Con dâu ông cũng khóc lên khóc xuống, một tiếng lang quân hai tiếng lang quân. Hai người khóc lóc thê thảm khiến cả nhà ai cũng mủi lòng, nghẹn ngào trong nước mắt.

Giữa lúc cả nhà đang than khóc, vật vã thì được tin Ba Tư Hãn Ba Đồ Lỗ tới. Ông Ba Nhan định chạy ra đón tiếp thì đã thấy Ba Tư Hãn vào tới trong nhà, nắm tay con gái.

Cô gái đầu tóc rũ rượi, miệng luôn luôn xin cha báo thù cho chồng, ông khuyên con thôi khóc, bảo ông Ba Nhan:

- Lão nghe bên ngoài đồn rầm lên kẻ mưu sát con trai ông chẳng phải ai xa lạ chính là cháu ruột Kiến Châu vệ tên gọi là Ốc Tế Cách đó.

Ba Nhan ngạc nhiên hết sức vội hỏi:

- Ốc Tế Cách với con trai lão, kiếp trước không thù, đời này không oán, tại sao hắn lại hạ độc thủ như vậy?

Ba Tư Hãn bị hỏi vặn như vậy, không biết trả lời cách nào. Ông chỉ biết quay đầu lại đưa mắt nhìn cô con gái, ý muốn bảo hãy thay ông mà trả lời. Con gái ông lúc đầu thấy chồng bị hại thì căm lắm, nhưng tới khi nghe nói hung thủ chính là Ốc Tế Cách thì cặp má hồng tươi kia không khỏi nóng bừng.

Lòng nàng cảm thấy mềm lại. Nàng nhớ lại ngày nào cùng với Ốc Tế Cách kỳ ngộ trên đỉnh núi Sơn Đông. Rồi cũng vì mối tình thắm thiết đó chàng đã tự tới cầu thân, cắt tóc để lại. Nàng cho rằng chinh là nàng đã không xứng đáng, vì nàng đã phụ rẫy trước, chứ không phải chàng. Phụ thân nàng cố chấp nên mối lương duyên của hai người dang dở. Ngày nay, xảy ra tai vạ đó phải chăng là do tiền oan nghiệp chướng?

Vừa nghĩ tới đó cũng vừa lúc thân phụ nàng quay lại nhìn nàng. Nàng chỉ còn biết thở dài một tiếng cho vơi bớt sầu tư.

Rồi nàng lấy khăn lụa lau qua mấy giọt lệ còn vương lại trên đôi gò má mịn màng, cất bước vào phòng trong…

Hồi 21

TÌNH LÀ DÂY OAN

Ba Tư Hãn thấy con gái ông đã bước vào trong nhà rồi mới đem tất cả những tiền nhân hậu quả giữa con gái ông và Ốc Tế Cách kể ra một lượt. Ông Ba Nhan thà không nghe còn đỡ. sau khi vỡ lẽ liền nổi xung lên, chỉ mặt Ba Tư Hãn chửi lớn:

- Lão già hồ đồ kia, con gái mi ở nhà tằng tịu với trai, thế mà mi còn cho nó hại con tao!

Ba Tư Hãn đâu phải người chịu để cho kẻ khác mắng nhiếc, bởi vậy ông cũng quát trả lại. Thế là hai bên ông sui cùng nổi điên, chửi rủa om cả phòng khách. Họ đều là người ở bên quan ngoại nên tính tình rất hung bạo, nóng nảy, một lời không hợp tức thì tuốt đao để tương kiến ngay. Và lập tức cả hai đều đã làm vậy. Bọn thị vệ đứng hai bên hành lang nghe trong phòng khách náo loạn, vội chạy vào khuyên can rồi đưa Ba Tư Hãn ra bên ngoài. Trong nhà bà phúc tấn vợ ông Ba Nhan cũng chạy tới khuyên can chồng.

Từ hôm đó, hai vợ chồng Ba Nhan sống cuộc sống âm thầm đau khổ, đôi mắt lúc nào cũng đẫm lệ, cõi lòng nhàu nát như dưa. Tâm trạng thê thảm đó khiến ông Ba Nhan không chịu nổi nữa. Qua ngày thứ bẩy, ông mặc đủ nhung trang, lên giáo trường hạ lệnh cho quân sĩ toàn thành Chương Kim phải tề tập nghe lệnh. Ông đứng bên trướng đài, đem việc Ốc Tế Cách âm mưu giết hại Ngoã Ngạch như thế nào, người Kiến Châu vệ khinh khi người Đổng Ngạc bộ ra sao nói cho toàn quân được rõ.

Ông nói lúc lâm ly, lúc cảm khái hùng hồn, khiến cho ai nấy tóc dựng đứng, mắt trợn tròn xoe. Sau khi thuyết phục ba quân ông thao điểm trận đồ, huy động mã bộ quân sĩ, mãi tối mới căng lều an nghỉ. Đêm hôm đó ông không về nhà, nằm một mình trong trướng, đèn đuốc thắp sáng trưng. Tiếng tù và thổi u u từng chập đến nhức óc. Ông nhớ tới đứa con cưng bị chết thảm thương, thêm căm hận, lòng như có lửa đốt…

Giữa lúc ông đang khắc khoải với bầu tâm sự não nề ấy thì tên thị vệ tiến vào bẩm báo:

- Bên ngoài có Phụng Cát Đại Hãn và Sách Tràng A bộ chủ lại yết kiến.

Ông nghe tên hai người này bỗng giật nảy mình. Phung Cát Đại Hãn vốn là một vị quốc vương hạng nhất nhì nơi quan ngoại. Hùng binh dưới quyền chỉ huy của ông có tới vạn người, hơn mười toà thành có tiếng tăm đều nghe theo lệnh ông. Vậy mà đêm nay đích thân ông lại đến Đổng Ngạc bộ thì nhất định là có chuyện gì quan trọng lắm.

Nghĩ vậy. Ba Nhan vội chạy ra đón khách. Ra đến cống ông thấy bọn Phụng Cát Đại Hãn đã có tới hai, ba ngàn người cắm lều trại ngổn ngang. Đại Hãn cưỡi trên lưng ngựa, trông thấy Ba Nhan, vội nhảy xuống, vẻ mặt tươi cười. Hai ông tay bắt mặt mừng dắt nhau tiến vào trong trưởng. Sách Tràng A bộ chủ cũng theo vào. Ba người ngồi xuống ghế. Ba Nhan truyền lệnh bày tiệc.

Một lúc sau, bàn tiệc đã dọn xong. Ông Ba Nhan chường cho Phụng Cát Đại Hãn ngồi vào ngôi giữa. Còn Sách Tràng A bộ chủ ở ngôi khách. Rượu được ba tuần, Đại Hãn mới lên tiếng.

- Nghe tin túc hạ cùng với cháu ruột của quan đô đốc Kiến Châu vệ kết mối thâm cừu, hai bên cùng điều động binh mã để chém giết lẫn nhau. Tại hạ đêm nay đến đây với mục đích giảng hoà đôi bên, như thế nên chăng?

Đại Hãn nói tới đây ngừng lại. Ba Nhan lòng đầy oán hận song chỉ còn biết im lặng cúi đầu chờ…

Đại Hãn lại nói tiếp:

- Cậu con trai của túc hạ bị chín tên cường đạo giết chết. Trong số chín tên đó có một tên là Ốc Tế Cách. Túc hạ nên nhớ rằng cái tên Ốc Tế Cách này không giống cháu ruột quan đô đốc được. Ốc Tế Cách cháu ruột quan đô đốc đường đường là một trang nam nhi anh hùng, há chịu làm một kẻ đạo tặc có hành vi đê tiện được sao? Quan đô đốc Giác Xương An chỉ vì hoà khí của đôi nhà quan thiết nên mới có ý mời tại hạ đến đây để giảng hoà đôi bên. Hiện nay Ốc Tế Cách tự thân đem trâu dê vàng lụa đến đợi lệnh ngoài viên môn, nếu túc hạ vui lòng thì tại hạ sẽ cho gọi nó vào đây, một là tạ tội cùng túc hạ, hai là quỳ gối lạy túc hạ, nguyện làm con nuôi cho túc hạ hết cảnh cô đơn tịch mịch. Trái lại, nếu túc hạ không chịu, tại hạ có đem sẵn đây bốn năm ngàn quân tinh nhuệ, hễ thấy kẻ nào động thủ trước thì tại hạ sẽ đánh kẻ đó ngay…

Phụng Cát Đại Hãn nói tới đó bỗng sa sầm nét mặt. Ba Nhan vốn từ lâu sợ thế lực của Đại Hãn nên chẳng tiện nói. Tuy nhiên, khi sực nhớ tới thù con bị giết, ông lại thấy chẳng có cái lý gì giảng hoà cả. Ông tiến thoái lưỡng nan, thành thử do dự trầm ngâm, chẳng nói được nên lời.

Bỗng một hồi chiêng trống nổi lên rầm rĩ bên ngoài. Rồi tin tức dồn dập đưa vào:

- Công tử Ốc Tế Cách thân tự tới khao quân, hiện đang ở ngoài cửa doanh đợi lệnh bộ chủ.

Ba Nhan liếc nhìn Phụng Cát Đại Hãn đang sa sầm nét mặt, còn Sách Tràng A bộ chủ thì mắt tròn xoe nhìn chòng chọc vào mạt ông lộ vẻ hưng ác đáng sợ. Ông bối rối, không biết hành động ra sao. Rồi một tên thị vệ bước ra, cất tiếng:

- Xin mời công tử Ốc Tế Cách vào doanh.

Một lát sau, công tử họ Ốc cất cao bước, tiến thẳng vào.

Khi thấy Ba Nhan, chàng vội bước lên vài bước, làm lễ xong lại lui xuống đứng ra một bên, thái độ hết sức cung kính. Lúc Ốc Tế Cách vừa mới bước vào, ông Ba Nhan lấy làm căm hận lắm. Nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy chàng là một trang thiếu niên khôi ngô anh tuấn, phong tư tài mạo tuyệt vời, chẳng khác gì cây ngọc, cành vàng, ông tự nhiên mềm lòng, đổi sầu làm vui, mặt bỗng tươi cười như quên hết mọi sầu não bấy lâu. Lại nữa, Ốc Tế Cách đứng hầu bên cạnh cứ luôn mồm xưng tụng một cha nuôi, hai cha nuôi, khiến nỗi oán cừu chất chứa trong lòng ông bỗng như biến mất tự hồi nào.

Ngoài cửa doanh cỗ bàn bày la liệt, vàng bạc lụa vải chất từng mâm từng khay để khao thưởng quân sĩ. Đám quân sĩ được một bữa no say, mặt tươi như hoa nở, miệng cười như nắc nẻ. Họ đồng thanh hô vang:

- Đa tạ công tử Ốc Tế Cách! Đa tạ công tử!

Bên trong trướng, yến tiệc lại bày thêm. Ốc Tế Cách thân tự nâng chén mời. Ba Nhan tuổi đã lớn, tính thích rượu, lại thấy trang thiếu niên anh tuấn đứng cạnh, luôn luôn rót vào tai ông những lời thân mật êm dịu nên càng uống dữ, đến say khướt. Đêm đó, ba người ở lại trong trướng nghỉ ngơi.

Sáng hôm sau, ông Ba Nhan đưa mọi người vào thành, thẳng đến phủ bộ chủ. Ông còn đem Ốc Tế Cách vào nội viện bái kiến phúc tấn, rồi kể cho bà nghe chuyện nhận Ốc Tế Cách làm con nuôi. Bà phúc tấn thấy chàng thiếu niên họ Ốc khôi ngô quyền quý thì trong lòng mừng rỡ khôn xiết. Dưới gối bà hiện đang lạnh lùng hiu quạnh, cho nên có một người con nuôi như Ốc Tế Cách thì còn gì sung sướng vui vẻ cho bằng. Bà bèn lưu chàng ở lại trong phủ, ngày ngày mặc sức chuyện trò.

Nàng dâu của hai ông bà Ba Nhan từ khi trong nhà có Ốc Tế Cách, tự nhiên thấy tiêu tan hết mọi ưu phiền. Nàng là một Văn Quân goá bụa còn chàng cũng vốn một Lưu Lang đã một lần xa cách tình thương, hai người lúc đó tha hồ mà thề non hẹn bể.

Nhưng ngày vui ngắn chẳng tầy gang. Vừa mới đó mà Ốc Tế Cách đã ở lại trong phủ đến mười ngày rồi. Hôm trước, khi ra đi, chàng có đem theo một ngàn binh sĩ, đóng tại ngoại thành. Bọn quân sĩ thấy chủ trướng vào thành đã lâu mà chẳng trở lại, cho rằng đã bị Ba Nhan âm mưu hãm hại, bèn đánh trống khua chiêng, bồ vây tứ phía, miệng hô lớn:

- Trả lại chủ trướng cho bọn ta! Trả lại chủ trướng cho bọn ta!

Binh sĩ giữ thành thấy vậy vội chạy vào bẩm báo. Khi đó, chính là lúc Ốc Tế Cách đang cùng người yêu vui đùa trong hoa viên, khó mà xa nhau nửa bước. Họ muốn sống bên nhau vĩnh viễn, liền bàn nhau đặt ra một kế sách. Rồi một hôm, Ốc Tế Cách nói với ông Ba Nhan:

- Đổng Ngạc bộ kiến với Kiến Châu vệ vốn cùng nhau một tổ sinh ra, nhưng hiện chia làm mười hai xứ ở rải rác khắp nơi. Giá thử có một đạo quân từ đâu tới xâm phạm cõi bờ, e rằng khó bề cứu ứng. Chi bằng đôi nhà hợp lại làm một, cùng ở một nơi. Hiện nay Kiến Châu vệ binh hùng tướng mạnh, nếu lão nhân gia vui lòng tới đó cư trú, ắt nhàn hạ yên vui hơn. Huống hồ ở nơi đấy lại có thúc thúc của Can nhi (con nuôi) bảo hộ thì lão nhân gia có còn gì phải lo ngại nữa!

Ốc Tế Cách trình bày xong. Ba Nhan bùi tai bèn đem vợ con theo Ốc Tế Cách vào ở trong thành Kiến Châu vệ.

Thế là đô đốc Giác Xương An Kiến Châu vệ chẳng mất một tên quân, mũi giáo mà được tất cả thành trì của Đổng Ngạc bộ. Chàng họ Ốc cũng về ở với ông bà Ba Nhan một chỗ.

Nhưng về sau thấy ở vậy không tiện, chàng bèn chọn một nơi hợp ý nhất tại Đổng Ngạc bộ để ở riêng với người yêu cho tự do hơn.

Từ đó hai chú cháu Ốc Tế Cách uy danh ngày một lớn, thành trì chiếm được cũng ngày một nhiều. Sách Tràng A bộ chủ ở kế cận thấy vậy lòng thắc thỏm chẳng yên. Ông rất sợ người Kiến Châu xâm phạm dần địa giới xứ ông, bèn cho con trai là Ngô Thái sang bên nhà sui gia là Cáp Đạt Cát Hãn Vương Thái mượn năm ngàn quân để gìn giữ thành trì khắp nơi. Ông cũng dặn dò mọi người là cố giữ bờ cõi chứ không nên đi xâm phạm xứ khác.

Cổ ngữ có câu: "Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng". Đó là trường hợp của mấy bộ lạc này. Họ muốn yên thân, nhưng người Kiến Châu vệ đâu có để cho họ yên. Đô đốc Giác Xương Lê có năm người con trai chẳng khác gì đàn cọp dữ. Họ mang quân đi tới đâu là phá thành cướp đất tới đó, bao nhiêu thôn xóm đã bị đốt, bao nhiêu phố phường đã bị đánh. Người con cả tên gọi Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ, người thứ nhì gọi Ngạch Nhĩ Cổn, người thứ ba gọi Giới Kham, người thứ tư Tháp Khắc Thế và người thứ năm gọi Tháp Khắc Thiên Cổ. Trong số năm người này Lễ Đôn là xuất chúng nhất. Đôn một người một ngựa, qua lại muôn quân ngàn ngựa như vào chỗ không người.

Hồi đó, bọn năm anh em nhà này kéo nhau đánh thẳng tới Tô Khắc Tô Hữ Hà bộ, thu phục tất cả thành trì. Bộ này có một thành tên gọi là Đồ Luân thành, chỉ vì không chịu đầu hàng, bọn họ liền giết sạch. Các bộ lạc miền Mãn Châu nghe tin này, ai ai cũng bay hồn bạt vía.

Vương Thái thấy nguy bèn sai người sang triều cống Minh triều, lại cáo thêm việc người Kiến Châu vệ hoành hành bất pháp. Lịch hoàng đế nhà Minh nghĩ ngay một kế "dĩ độc trị độc" để kiềm chế bớt sự cuồng ngạo của người Kiến Châu vệ.

Sau khi tra cứu, biết tổ phụ của Vương Thái xưa là Tốc Hắc Thắc, đã từng được Minh triều phong hiệu, nhà vua bèn phong Thái làm quan hữu đô đốc Cáp Đạt bộ. Ngài còn dặn bảo Kinh lược sử Liêu Đông phái binh đưa Thái về bộ. Được Minh triều vinh sủng, Thái đâm ra cương ngạnh. Bộ lạc các miền lân cận về đầu hàng ngày một đông. Thái đứng giữa ngầm đem toàn lực để chống người Kiến Châu vệ và Mông Cổ, không muốn để cho họ xâm phạm bờ côi của Minh triều.

Đô đốc Kiến Châu vệ Giác Xương Lê đích thân đem quân tới áp chiến, bị Thái đánh cho một trận tơi bời. Người Kiến Châu vệ từ đó hận Thái đến cốt tuỷ. Hồi ấy, miền Kiến Châu có một viên kiện tướng tên gọi Vương Cảo. Dưới trướng Cảo có một đại đội hổ binh leo núi như cọp, vượt sông như rái cá.

Quân của Cảo đi tới đâu cũng không cần giao chiến, chỉ doạ nạt là đủ để địch thủ xin hàng. Suốt giải Ngũ Hành về mặt đông, nơi nào cũng bị Cảo thu phục cả. Do đó đô đốc Giác Xương Lê đối với Cảo cũng có biệt nhãn. Hai người thường bày tiệc trong phủ, nhậu nhẹt say sưa với nhau.

Một hôm, miền Mãn Châu có hội Lễ mẫu. Đền mẫu các nơi đều có lên đồng hầu bóng, quang cảnh rất là náo nhiệt. Nhà nào nhà nấy đều làm cỗ đãi khách. Hôm đó, không cần nói ai cũng biết, trong phủ đô đốc khách khứa đông như kiến, rượu thịt chất như rừng.

Vương Cảo được coi là thượng khách. Cảo đem con trai theo, cùng vào dự tiệc. Người con cả tên gọi A Thái, năm đó mười tám tuổi, mặt mày bảnh bao chẳng thua gì Ốc Tế Cách. Tiệc vào đã được nửa cuộc. Bỗng phi tử của đô đốc Giác Xương Lê xuất hiện, sai người ban phát cho bọn con cháu trong họ những cái túi sặc sỡ. A Thái cũng được một cái. Khi tiệc tan,, theo lễ thì mọi người phải tạ thưởng. A Thái theo mọi người mà vào. Tiệc lớn nên phúc tấn của bốn vị bối lặc đều có đem theo con gái tới dự. Trong số năm phúc tấn chi có bà Tháp Khắc Thế, tên gọi Hỉ Tháp Thích, là xinh đẹp hơn cả. Bà này nói cười duyên dáng. Trong căn phòng rộng, người ta chỉ nghe có tiếng nói của bà. Vừa nhìn thấy A Thái, bà liền nắm lấy tay chàng mà nói:

- Úi chà! Thằng bé đẹp thực!

Vừa nói, bà vừa đẩy A Thái lại trước mặt phi tử của đô đốc Giác Xương Lê. Bà phi này nhìn chằm chặp vào A Thái từ đẩu đến chân khiến Thái mắc cỡ, đôi má đỏ như gấc chín.

Bà Hỉ Tháp Thích cùng với bà Nạp Thích, vợ lẽ của bối lặc Tháp Khắc Thế, thấy vậy vỗ tay cười như nắc nẻ. Chung quanh còn có cả phúc tấn của bối lặc Lễ Đôn cùng các cô nàng mới xuân xanh đôi tám, cũng xúm lại nghe. Bà phi tử cười nói:

- Người ta vốn con nhà gia giáo, chứ có đâu có ranh mãnh, tai quái như bọn con gái chúng mày. Chúng mày phải có lễ độ mới được. Chúng mày chẳng thấy đôi má người ta đỏ ửng lên như thế kia sao? Thật dễ thương đấy chứ?

Bà Nạp Thích cũng lên tiếng hoạ theo:

- Này bà! Ngày đêm bà thường phàn nàn không tìm thấy một chú rể tài mạo song toàn. Hôm nay, chắc bà đã vừa ý với cậu này rồi chứ? Thiết tưởng bọn ta không nên để lỡ dịp.

- Hãy giữ cậu ta lại trong phủ rồi gả con gái cho có phải không?

Lời bà Nạp Thích làm cho bà phi tử sực tỉnh. Bà liền nói:

- Tốt lắm! Ta đem con cháu lớn mà gả cho cậu ta thì còn gì xứng đôi vừa lứa hơn nữa chứ!

Con cháu lớn chính là cô con gái đầu của bối lặc Lễ Đôn. Cô này khuôn mặt trái xoan, cười nói có duyên, mắt bồ câu, mày lá liễu, thân hình yểu điệu, tính nết đoan trang, tuy chưa phải nghiêng nước nghiêng thành nhưng cũng có thể liệt vào hàng sắc nước hương trời.

Bà phúc tấn Lễ Đôn nghe xong liền tiếp lời:

- Bà nói thì hẳn là tốt rồi. Con mắt của bà thì nhầm làm sao được chứ!

Giữa lúc các bà đang cao hứng nói cười thì đô đốc Giác Xương Lê từ ngoài bước vào. Ông thường liên lạc mật thiết với Vương Cảo đã từ lâu cho nên khi nghe chuyện gả bán vừa rồi thì khen lấy khen để, vỗ tay vào đùi. Thực ra thi vợ chồng bà Lễ Đôn muốn cho con gái lấy chồng xa, nhưng vì cha mẹ đã có ý đứng làm chú hôn trong việc này thì còn làm sao dám chống đối.

Chẳng bao lâu, phủ đô đốc lại một phen tưng bừng náo nhiệt. Người ta rầm rộ tổ chức lễ cưới. Chương Kinh, Kiến Châu, từ các nơi thuộc hạ đều đem lễ vật lại mừng: bộ lạc Tô Khác Tô Hữ, bộ lạc Vân Hà, bộ lạc Vương Giáp, bộ lạc Triết Trần, bộ lạc Nạp ân, bộ lạc áp Lục Giang, bộ lạc Ngột Tập, bộ lạc Ngoã Nhĩ Khách, bộ lạc Khố Nhĩ Cáp, bộ lạc Ngư Thích, bộ lạc Diệp Hách, tất cả các bộ chủ có tên tuổi khắp Mãn Châu đểu tới đông đủ. Đô đốc Giác Xương Lê sai người nhất nhất khoản đãi niềm nở, trọng thể. Thật là một cuộc vui hiếm có xưa nay ở đất Mãn Châu này.

Sau khi A Thái lấy được cô cháu của đô đốc vệ Kiến Châu, hai vợ chồng ăn ở với nhau rất là hoà thuận, mặn nồng. Vợ

Thái người vừa đẹp mà tính nết lại hiền hậu. Nhạc gia đối với Thái cũng rất tử tế. Bởi vậy đã có người đùa bảo Thái có số may "chuột sa chĩnh gạo". Vợ thái còn lưu ý cả tới tương lai của chồng nên nàng có lần ngầm xin ông nội giúp đỡ cho chồng mình. Đô đốc Giác Xương Lê nể lời cô cháu gái bèn phong cho A Thái chức Chương Kinh, trấn đóng tại thành Cổ Tượng.

Vợ Thái hí hửng chạy về cho chồng hay và giục chồng đáo nhiệm. Nào ngờ Thái mắc phải cái tật mê luyến vợ con. Vợ Thái bao lần khuyên nhủ rút cục Thái vẫn ỳ ra không đi. Vợ Thái bực mình lắm, bèn đem rửa sạch son phấn dồi mặt, cỏi bỏ hết áo sang quần đẹp, rồi mặc bộ quần áo cũ rách, hết sức tiều tuỵ. Nàng lại còn quỳ xuống trước mặt chồng, khóc thút thít mãi không thôi, Thái vội đỡ vợ đứng dậy, bất giác lệ cũng từ từ rơi trên má.

Hồi 22

TIỂU TIỆN CẢ RA SẢNH ĐUỜNG

Cô cháu gái của đô đốc Giác Xương An vốn được bà nội hết sức yêu quý. Nàng vừa có một nhan sắc diễm kiều lại vừa có tính tình nhu mì khiến bất cứ ai trong phủ cũng phải ưa thích, ngợi ca. Các bối lặc ở những bộ lạc lân cận đều đem lê vật tới cầu hôn, nhưng không ai bắn trúng chim sẻ cả! Bởi vì bà nội không muốn gả chồng xa cho nàng mà chỉ muốn cưới một anh chàng ở rể ngay trong nhà. Đến khi gả cho Chương Kinh A Thái rồi thì nàng, vì tương lai của chồng mà năm lần bảy lượt giục chồng lên đường phó nhiệm ở thành Cồ Tượng.

Theo ý A Thái, chàng muốn vợ con cùng đến nhiệm sở với mình nhưng bà nội nàng không chịu. Mà nàng thì cũng chẳng muốn xa chồng chút nào. Bởi thế, hai vợ chồng mới ở trong phòng buồn khóc, lòng dạ ngổn ngang.

Bọn thị nữ thấy tình cảnh bi thảm như vậy, vội chạy tới báo cho bà Hỉ Tháp Thích. Bà Thích lại lên báo cho bà nội nàng biết. Bà phi từ tỏ vè ngạc nhiên sợ hãi nói:

- Ấy thế thì hỏng. Khóc mãi để chết mất cháu cưng của già này ư?

Chưa nói hết câu, bà đã vội đứng dậy. Bà Nạp Thích cùng bà Hỉ Tháp Thích hề hai bên đỡ cho bà đi tới phòng cô cháu gái lớn. Đằng sau thì bốn nàng dâu với vài đông thị nữa đi theo.

Cô cháu gái lớn đang khóc nghe nói bà nội tới, vội lau nước mắt, chạy ra đón tiếp. Bà phi tử thấy nàng đầu tóc rũ rượi, áo xiêm rách rưới, bèn kêu lên:

- Như thế không được đâu! Bọn chúng mày có hai đứa, mới lấy nhau được vài tháng mà đã đảnh nhau rồi ư?

Vừa nói xong, bà liền giơ cao cây gậy trúc vụt vào lưng, vào đầu chàng rể A Thái mà nói:

- Cháu gái tao đẹp như nàng tiên, thế mà mày lại đám đánh nó ư?

Cô cháu gái thấy bà nội nối nóng đánh chồng, vội chạy tới đỡ lấy cây gậy trúc. Đoạn nàng kể việc xé áo khuyên chồng của mình cho bà nội nghe. Bà phi tử nghe xong, vỡ lẽ, gật gật đầu nói:

- Ừ! Có thế mới gọi là con gái của dòng họ quan đô đốc chứ!

Bà nói xong, quay đầu lại bảo A Thái:

- Hừ. Ông ngoại cháu có ý tốt, muốn cho cháu một chức quan. Tại sao cháu lại lưu luyến vợ con mà không chịu đáo nhiệm. Thằng cháu rể yêu quý của bà ơi, cháu nên hăng hái ra đi, bà nội sẽ thế cháu nuôi dưỡng vợ con cho cháu, cháu yên lòng. Con vợ cháu được bà nội cưng nhất đấy. Cháu ra đi, vợ cháu ở nhà, đã có bà nội. Bà nội cam đoan với cháu rằng bà nội sẽ nuôi nó mập ú như con heo quay cho mà xem.

Bà phi tử nói đến đây cả nhà ai nấy cười rộ lên. Độc chỉ có một mình A Thái vẫn còn nghẹn ngào tuôn lệ. Bà phi tử lấy làm lạ, cật vấn chàng. Chàng không còn giữ được nỗi niềm riêng, bèn oà lên khóc. Chàng còn quỳ xuống trước mặt bà, đem cái ý muốn đem theo vợ con đến nhiệm sở trình bày cho bà rõ. Vợ chàng cũng nhân cơ hội quỳ xuống cạnh chồng, nài nỉ. Bà phi tử thấy vậy, thở dài nói:

- Tốt đôi lắm! Nữ tâm ngoại hướng! Cháu bà cũng bỏ bà mà đi ư?

Bà vừa nói xong thì hai hàng lệ tuôn rơi trên má. Mọi người vội xúm quanh khuyên bà. Bà Hỉ Tháp Thích đỡ bà về phòng.

Bà phúc tấn Lê Đôn Ba Đồ Lỗ ở lại trong phòng, bàn tính với con gái. Hai vợ chồng A Thái luôn miệng khẩn cầu mẹ cho cùng đi với nhau tới Cổ Tượng thành. Bà phúc tấn Lễ Đôn đành chiều theo ý con, lại mách cho con gái cầu khẩn với chồng.

Ông Lễ Đôn tỏ ra thông hiểu đạo lý nên cười nói:

- Con gái gả cho gà thì theo gà, gả cho chó thì theo chó, chứ tại sao lại cấm nó theo chồng được?

Thế rồi, ông chọn ngày làng tháng tốt để tiễn đưa hai vợ chồng lên đường.

Hôm ra đi, trong nội đường có bày tiệc tiễn hành. Hai ông bà nhạc gia của A Thái không dám khóc. Chỉ có bà phi Giác Xương An và phúc tấn Tháp Khắc Thế, Hỉ Tháp Thích là khóc đến sưng cả mắt. Đô đốc Giác Xương An một lúc sau mới tới.

Ông cũng nét mặt chẳng được vui.

Ba anh em Lễ Đôn, Tháp Khắc Thế và Giới Kham sợ cha mẹ quá thương tâm e xảy ra chuyện liền thúc giục hai vợ chồng A Thái gấp rút lên đường. Các bà phúc tấn tiến qua cổng lớn rồi từ biệt, còn bọn bối lặc đưa mãi ra ngoài thành mới chia tay. Duy chỉ có đô đốc Giác Xương An và ông Tháp Khác Thế đưa cháu mãi tới Cổ Tượng thành mới quay về.

Đô đốc Giác Xương An về đến Kiến Châu thành thì được thêm tin mừng là Vương Cảo vừa được Minh triều phong làm Kiến Châu hữu vệ đô đốc chỉ huy sứ. Các bối lặc cùng Chương Kinh miền Kiến Châu đều kéo tới chúc mừng. Cảo mở tiệc rượu nhậu nhẹt say sưa suốt ba ngày mới tan. Đô đốc giác Xương An hồi đó đã già lại nhiều bệnh. Ông lại thường nhớ cô cháu gái lớn cho nên thân thể ngày một hao mòn. Ông bèn trao quyền đô đốc lại cho người con thứ tư là Tháp Khắc Thế rồi cáo lão về vườn, không màng đến việc công nữa.

Từ khi Vương Cảo được làm chỉ huy sứ thì nhiều nơi tới đầu phục, không cần phải quan tâm gì lắm. Vương Cảo là người như thế nào mà nhiều kẻ sợ như vậy? Cảo tính rất nóng nẩy, hung tợn, đi đến đâu là đem ngay bỉnh lực ra áp chế đến đấy.

Từ khi được Minh triều phong chức, Cảo càng ngày càng hống hách, ngang tàng. Ngay cả đô đốc Kiến Châu vệ có khi cũng không chế ngự nổi Cảo. Nhờ vậy, đất đai thu phục được của Cảo đã có một diện tích khá lớn. Quan tổng binh nhà Minh thấy Cảo cũng có phần sợ hãi. Nhiều lúc sang Trung Quốc tiến cống, Cảo có coi bọn quan lớn nhà Minh ra cái gì đâu. Theo thể lệ tiến cống thì hàng năm mở hội chợ ở đất Phủ Thuận.

Nơi đây, các bộ lạc phải đem thổ sản tới dâng cống. Bọn quan lớn nhà Minh ngồi trên sảnh đường để thu nhận. Đồ tiến cống thường là: ngựa thượng thặng một con, gạo thưởng năm thạch, lụa năm tấm, vải năm tấm. Ngựa trung bình một con, gạo thưởng hai thạch lụa hai tấm, vải hai tấm. Ngựa câu một con, gạo thưởng hai thạch, vải một tấm.

Mỗi khi đem đồ tiến cống, Cảo thường lấy loại ngựa xoàng làm loại ngựa thượng thặng để kiếm thưởng. Bọn quan lớn nhà Minh dù có biết cũng phải lờ đi mà nhận. Không ngờ Vương Cảo càng ngày càng làm tàng. Các bối lặc của các bộ lạc đều nhất luật đứng dưới thềm sảnh phủ để đợi các quan lớn Minh triều xem xét đồ tiến cống ban thưởng xong thì vào tiệc, lúc đó mới tha hồ nhậu nhẹt say sưa. Duy chỉ có Cảo là bất chất luật lệnh. Cảo chẳng cần đợi các quan làm triều Minh phải thưởng cho hay không, cứ leo phắt lên ghế ngồi, lấy rượu thịt ra nhậu đại chẳng thèm đợi ai.

Bọn tả hữu thấy Cảo có vẻ dữ tợn hung ác, cũng chẳng muốn làm khó dễ. Song Cảo, no say rồi lại cứ đập bàn phá ghế, chửi bới om sòm. Bọn quan lại của nhà Minh thấy Cảo nát rượu, bê bối bèn bao tả hữu dìu Cảo xuống thềm, một mặt thông báo cho đô đốc Kiến Châu vệ đừng sai Cảo đi tiến cống nữa.

Đô đốc Kiến Châu vệ lúc đó là Tháp Khắc Thế biết Vương Cảo to gan dám chửi bới bọn quan lại nhà Minh, lấy làm khoái chí lắm. Bởi vậy qua năm sau, Thế vẫn sai Cao đi tiến cống như trước. Chuyến này Cảo còn làm tàng hơn. Cao nhậu say rồi chửi bới, đập phá, thậm chí ỉa đái cả ra sảnh đường. Thế mà bọn quan lại nhà Minh cũng chẳng dám làm gì, cả đám đều bắt chước theo, trở thành ngang chướng lếu láo, không còn coi quan lại của Minh triều ra gì nữa.

Đến năm Long Khánh, Minh triều có một vị quan rất can trường. Hôm tiến cống ông đã có dự phòng trước, sai một số lớn binh sĩ túc trực ở hai bên sảnh phủ rồi ngồi đường bệ giữa sảnh, Vương Cảo ngất ngưởng từ ngoài bước vào, nết nào tật nấy, chạy bừa lên sảnh. Bỗng có tiếng hét lớn từ hai phía hông sảnh, đồng thời bọn thí vệ trên sảnh quay ngang ngọn giáo hất Cảo xuống thềm. Đến lúc xét ngựa của Cảo thì chỉ thấy toàn ngựa gầy, vị quan Minh liền cho gọi Cảo lên sảnh, thống trách một hồi rồi trả ngựa cho Cảo, chẳng thưởng gạo vải cũng chẳng thưởng rượu thịt. Cảo xấu hổ, mặt sa sầm, buồn bực trở về. Lòng oán hận không biết xì ra đâu, nên khi đi đường, Cảo gặp ai chém nấy. Bách tính miền quan ngoại bị Cảo giết kêu khổ vang trời.

Quan tổng binh nhà Minh biết rõ như vậy nhưng ông lại cho là vị quan Minh kia không tốt, bèn tâu về triều khiến vị quan này bị Minh hoàng đế cách chức. Cảo hay tin, từ đó lại hống hách, ngang tàng gấp bội. Thế rồi cứ mỗi lần đi tiến cống, Cảo mang theo nhiều quân sĩ đến gây rối quanh vùng Phủ Thuận. Lúc chợ ngựa tan rồi, Cảo đã không rút binh mà còn đi lùng bắt dân Minh đem về dinh, trói lại, để bắt chuộc, cứ mỗi người mười con trâu. Nếu chuộc trễ, Cảo giết luôn kẻ đó!

Hôm đó, có một người lái buôn sau khi đi chợ ngựa liền tới miền ải Dương Khoan Điện thuộc vùng Thanh Hà để mua bán.

Lúc đi qua dinh của Cảo, người lái buôn bị Cảo bắt vào dinh trói lại, cháu ngoại của ông ta tên gọi Bùi Thừa Tố, vốn làm quan ở Phủ Thuận, được tin đó liền tới dinh của Cảo cầu xin.

Cảo bèn mạo tự tích của ông ta dẫn dụ Tổ vào trong dinh, trói lại mổ bụng. Mấy tên quân đi hộ vệ Tổ cũng bị Cảo giết sạch.

Tin này đồn tới nha tống binh, quan tổng binh nổi trận lôi đình, một mặt tâu vê triều đình, một mặt điểm binh mã sửa soạn chém giết. Cảo bất pháp như vậy mà chẳng biết tiến lui, vẫn cứ gian dâm, cướp bóc, không có điều gì ác mà không làm.

Hồi 23

NỖ NHĨ CÁP TỀ

Tháng mười năm đó, vào một đêm khuya không trăng, dinh Cảo bị quân Minh vây chặt. Một chi thiết giáp xông thẳng vào trong. Cả dinh đang ngủ say, hốt hoảng tỉnh dậy, người không kịp mặc áo giáp ngựa không kịp đóng yên, chạy tán loạn. Cảo chân không kịp xỏ giầy, vội chạy ra sau trướng, bò lên sườn đồi ngoái nhìn, chỉ thấy một ngàn bốn trăm binh sĩ mới trong giây lát mà đã không còn lấy một mống. Cảo biết không thể địch nổi, vội chạy về nhà. Nhưng đường rút đã bị quân Minh đóng chẹn từ lúc đâu. Cảo đành phải chạy qua Mông Cổ.

Khi tới Phủ Thuận quan, Cảo thấy có hình ảnh cùng những yết thị nói ai bắt được Vương Cảo sẽ được thưởng một ngàn lạng bạc. Cảo hoảng hồn bạt vía, đành quay về lối cũ, chui vào rừng sâu nấp trốn. Một hôm Cảo sực nghĩ tới Cáp Đạt Vạn Hãn Vương Thái trước có biết Cảo, bèn vào yết kiến Thái, kể tình hình mình bị quân Minh lùng bắt.

Thái nghe nói, bèn bày tiệc rồi hứa sẽ vì Cảo áp kinh. Cảo thấy Thái đãi mình như vậy hết sức cảm kích. Đêm đó, Cảo ngủ trong trướng khách. Gíữa lúc giấc điệp mơ màng, Cảo bỗng giật mình tỉnh dậy, thấy đèn đóm sáng như ban ngày còn thân mình đã bị trói chặt vòng trong vòng ngoài, cà thảy mười tám vòng, không cử động gì được nữa. Cảo la hét om sòm, chỉ thấy Vương Thái bước lên trướng, tay cầm lệnh kỳ, miệng hô lớn:

- Vâng tướng lệnh của quan tổng binh nhà Minh Lý Thành Lương, ta bắt tên phản tặc Vương Cảo.

Nói xong, Thái chẳng cho Cảo biện bạch, hạ lệnh cho tám tên đại hán tống Cảo vào tù xa, chạy suốt đêm về phủ Thuận Quan.

Quan tổng binh Lý Thành Lương ngồi trên công đường thẩm vấn. Cảo chẳng che giấu gì, nhất nhất cung khai và nhận tội.

Lương truyền lệnh bày tiệc, vừa uống rượu với Vương Thái trên sảnh vừa sai đao phủ thủ giết chết Cảo.

Qua ngày thứ hai Lương tâu về triều. Minh hoàng đế hạ thánh chỉ phong Vương Thái làm Long Hổ Tướng quân. Lương nhân dịp này, thu phục tất cả những miền đông thành Phượng Hoàng, cũng như một giải đất Khoan Điện. Vương Thái được vua Minh phong chức rồi, bèn diễu võ dương oai trở về. Các bộ tướng vội chạy lại chúc mừng. Thái bày ngay tiệc lớn trong trướng để ăn khao. Ngay trong bàn tiệc, Thái dặn bảo bộ hạ lo chỉnh đốn binh mã, chuẩn bị tranh thành cướp đất.

Tin này truyền tới Kiến Châu đô đốc Tháp Khắc Thế. Thế vừa bị Minh triều giết mất quan Hữu vệ đô đốc chỉ huy sứ của mình, lại vừa nghe nói Vương Thái đem quân đi đánh thành cướp đất, nhiều bộ lạc nhỏ thấy Thái được Minh triều phong chức nườm nượp chạy về đầu hàng, lấy làm buồn lắm. Quân của Thái đã tiến tới Ninh Cổ Tháp. Nhiều bối lặc miền này vội chạy tới phủ đô đốc Kiến Châu vệ để nghị sự.

Sáu vị bối lặc niên kỷ đều đã cao. Riêng Giác Xương An lại nhiều bệnh. Bởi vậy, nhất thiết công việc đều do người con ông là Tháp Khắc Thế liệu lý.

Trong cuộc hội nghị, mọi người nghe nói Vương Thái ương ngạnh thảy đều lo sợ, mặt mặt nhìn nhau, không nghĩ ra một kế nào cả. Thế thấy cử toạ câm lặng, bất giác thở dài, nói:

- Bọn ta đường đường là con cháu của dòng họ Ái Thân Giác Lê, trấn giữ biết bao nhiêu thành trì, thế mà không chống cự nổi một tên Vương Thái ư?

Giữa lúc còn đang bàn tính, bỗng nghe ở phía sau có một người lớn tiếng nói:

- Vương Thái chính là kẻ thù đời đời kiếp kiếp của bọn ta. Cái thù giết ông cha ta chẳng thể quên được!

Mọi người quay đầu nhìn lại chỉ thấy một đại hán mặt mày đen đủi, quần áo rách mướp, mắt trợn ngược tròn xoe, đang đứng ở góc phòng, miệng không ngớt phát ra những tiếng gừ gừ giữa hai hàm răng bị rét run lập cập. Lúc đó ở miền quan ngoại, tiết trời đã sang đông tuyết xuống nhiều, thế mà chàng chỉ mặc có một cái áo mỏng rách.

Bỗng mọi người giật mình. Tháp Khắc Thế vừa thấy chàng đại hán, liền tuốt lẹ cây yêu đao, nhảy tới định giết. Nhưng Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ, người anh cả của Tháp Khắc Thế vội chạy tới cản. Bị cản, Thế bực tức như điên, chỉ còn biết văng tục, chửi mắng luôn mồm không ngớt.

Chàng đại hán đó chính là Nỗ Nhĩ Cáp Tề, con cả Tháp Khắc Thế. Thế có năm con trai. Thằng cả là Nỗ Nhĩ Cáp Tề, thằng thứ hai là Thư Nhĩ Cáp Tề, thằng thứ ba là Nhã Nhĩ Cáp Tề, ba thằng này đều do vợ cả là đại phúc tấn Hỉ Tháp Thích sinh ra. Thằng thứ tư tên Ba Nhĩ Tề, con trai của bà vợ thứ Nạp Thích. Còn thằng năm tên Mục Nhĩ Cáp Tề, con trai của bà ba.

Nhan sắc của bà hai Nạp Thích hơn hẳn bà cả Hỉ Tháp Thích. Khi còn sinh thời bà Hỉ, Nạp Thích không bao giờ có thái độ khinh khi. Nhưng từ lúc bà Hỉ mất, Nạp Thích rất ghét ba người con trai của bà Hỉ. Lúc đó Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã mười ba tuổi. Bà hai Nạp Thích coi ba thằng con trai của bà cả như những cái đinh trước mắt, bèn đặt điều mách với chồng là họ có ý muốn hại hai mẹ con bà. Tháp Khắc Thế nghe lời bà nên giận lắm, xách ngay cây đoản đao chạy tới định giết Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Nỗ Nhĩ vội núp vào trong lòng ông nội là Giác Xương An. Ông An vốn quý Nỗ Nhĩ, người cháu đích tôn đáng yêu nhất của ông. Tháp Khắc Thế đôi mắt đỏ ngầu, bảo Nỗ Nhĩ:

- Này thằng con bất hiếu kia! Hôm nay tao chỉ muốn lấy đầu mày. Khôn hồn thì cút xéo ngay đi!

Hai ông cháu ôm nhau mà khóc. Lát sau, Giác Xương An lặng lẽ trao cho cháu nội ít tiền rồi đưa chàng tới từ biệt cha chàng. Không ngờ, ông Thế nghe lời gièm pha của bà hai, vốn có lòng chán ghét cả ba anh em Nỗ Nhì nên bảo chàng:

- Mày muốn đi thì dẫn hai thằng em của mày đi luôn một thể. Mà phải đi xa, càng xa càng tốt. Từ nay về sau, tao cấm cửa mày, nghe chưa?

Nỗ Nhĩ Cáp Tề không còn cách gì khác là đem theo cả hai em ra đi. Ba anh em khóc lóc thảm thiết, cùng dắt tay nhau ra khỏi thành Kiến Châu. Đi nửa đường, ba người ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Nỗ Nhĩ rút gói bạc của ông nội cho, chia đều thành ba phần rồi bảo hai em:

- Từ đây ba anh em ta tạm chia tay nhau, ai có đường nấy, cứ việc theo đuổi đường của mình. Thảng hoặc về sau có một ngày nào đó được mở mày mở mặt thì không một ai được quên cái cảnh đau khổ ngày hôm nay.

Nói xong Nỗ Nhĩ cầm tay hai em, rơi lệ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề ở đậu trong một gia đình săn bắn. Hàng ngày, Nỗ lẽn núi hái trái tùng và đào nhân sâm rồi quảy ra chợ bán. Nỗ chịu khó làm việc, chẳng bao lâu sau đã tích được một kho lớn. Nghe nói chợ Phủ Thuận bán trái tùng và nhân sâm được giá lắm, Nỗ liền hỏi thăm đường tới đó. Đang là mùa hè, ở Mãn Châu mùa này hay có mưa to. Hôm đi chợ Phủ Thuận, Nỗ gặp đúng vào ngày mưa. Nước lũ từ trên cao đổ xuống, chỉ trong nháy mắt thung lũng đã ngập nước, mênh mông như biển cà. Vốn con nhà giầu sang, nhưng bị cha ghét bỏ, Nỗ lâm vào hoàn cảnh của kẻ có nước mà không được về, có nhà mà không được ở. Trải bao gian lao vất vả, Nỗ cũng tới được chợ Phủ Thuận. Nhưng khi mở bao ra thì hỡi ôi, nhân sâm, trái tùng đều thối cả, chẳng còn dùng được nữa. Tiền thì hết nhẵn, thân lại mệt nhoài, thực đã đến bước đường cùng, anh hùng mạt vận! Nỗ thấy hoàn cảnh mình quá bi đát, bất giác kêu khóc rùm lên, vang động cả hang núi lòng khe, khiến một lão chuyên nghề săn bắn chú ý tới. Ông lão quê quán Sơn Đông, lúc mười hai tuổi theo cha vượt biển đến miền này để săn bắn kiếm ăn. Ông trước có học võ, luyện được mấy môn quyền cước kha khá. Năm đó ông đã sáu mươi tư tuổi nhưng trong việc săn thú đuổi chim ông vẫn còn lẹ làng lắm. Vì trời mưa dầm lâu ngày, ông đành phải bó gối ngồi nhà. Khi nghe thấy tiếng khóc của Nỗ vang động khắp nơi, ông biết không phải là một kẻ thường vội tới xem, quả nhiên trước mắt ông đây là một trang đại hán hàm én râu hùm, tỏ rõ những nét anh hùng. Ông vội khuyên chàng nín khóc rồi ngỏ ý muốn đón chàng về nhà.

Hồi 24

TÌNH CÔ THÔN NỮ

Anh hùng mạt lộ, giữa lúc gặp gian truân mà có người tha thiết với mình, há lại không mong điều hồi đáp? Tuy nhiên Nỗ Nhĩ Cáp Tề đường đường là một vị công tử, con trai lớn của quan đô đốc đương nhiệm, nếu đem nói sự thật cả ra thì e rằng mất thể diện cha mình. Bởi vậy, Nỗ đành phải đặt điều nói dối cho qua. Chàng nói cha mẹ chàng đã mất cả, chỉ còn lại có một mình mình, côi cút túng nghèo, phải lưu lạc tha hương.

Ông lão họ Quan thấy chàng tình cảnh đáng thương, bèn dắt chàng về nhà, cho ăn uống tử tế. Ông ở một mình nơi đây, không vợ cũng chẳng có con. Những khi lên núi săn bắn, ông bảo Nỗ ở lại coi nhà. Lúc nhà rảnh ông lại dạy cho Nỗ năm ba miếng võ ở ngay đám đất trống trước nhà. Nỗ vốn tính thông minh hiếu học, rất chăm luyện võ, chưa đầy năm mà đã có một bản lĩnh kha khá.

Ông lão họ Quan hàng ngày săn bắn được khá nhiều hươu nai cầy cáo. Nỗ ở nhà làm thịt lột da rồi căng lên khung phơi khô để ông đem bán ở chợ Phủ Thuận. Nỗ cũng thường theo ông đi chợ và quen biết một số con buôn, trong đó người Hán chiếm đa số. Bọn này thấy Nỗ người thẳng thắn đàng hoàng nên cũng thích giao du, thường mời Nỗ tới nhà chè chén, bởi vậy Nỗ cũng hiểu biết được khá nhiều phong tục của người Hán.

Một hôm, có ông lão họ Đông ngồi trên một cỗ xe lớn đi qua phố để ra chợ. Chẳng ngờ, xe của ông bỗng sút trục bánh văng ra ngoài, lật úp sang bên đường, không ai có sức nhấc lên nổi. Ông lão họ Đông, may là nằm gọn trong thùng xe không đến nói bị đè chết. Nỗ thấy thế vội chạy tới, ghé vai vào càng xe rồi đem hết sức bình sinh đứng phắt dậy. Sức Nỗ mạnh quá khiến cả cỗ xe bị hất bổng lên. Ông lão bò ra được khỏi xe, thoát nạn. Mọi người đứng quanh ai cũng tấm tắc khen Nỗ khoẻ.

Ông lão họ Đông mời Nỗ qua nhà chơi. Nỗ thấy ông có nhiệt tâm biệt đãi, không tiện từ chối nhưng chẳng lẽ bỏ Quan lão một mình liền đưa mắt hỏi ý ông. Quan lão cười nói:

- Cụ Đông là một người có tên tuổi ở chợ Phủ Thuận. Nhà cụ giàu có lắm, người được cụ Đông mời về nhà là được hướng phúc rồi đấy.

Họ Đông vốn là một họ lớn nơi quan ngoại. Lão Đông có nhiều trang viện rộng mênh mông, chung quanh toàn là ruộng tốt riêng trâu ngựa đã có đến bốn năm trăm con. Trong nhà còn có sáu bảy chục gia nhân làm lụng quần quật suốt ngày.

Từ khi về nhà họ Đông, Nỗ được cử làm quản gia, trông coi toàn bộ gia nhân. Bọn người này tính tình thô lỗ, một lời nói không hợp tức thì gây sự đánh nhau. Lúc đầu, chúng không thèm để ý tới, nhiều khi còn chế nhạo là khác. Song thấy Nỗ có đến mà chẳng có đi, chúng sinh lòng ganh ghét.

Một hôm, có một tên biệt hiệu là Ngưu Ma Vương, người vừa đen vừa xấu, ngồi trên một phiến đá bên bờ ruộng, cật tiếng hát một bài có ý mỉa mai, giễu cọt Nỗ. Hát xong hắn vỗ tay cười sằng sặc, cái miệng đã méo lại càng méo thêm.

Bọn gia nhân làm đồng thấy hắn cười, chẳng hiểu phải trái gì cũng vỗ tay cười theo. Nỗ lúc đó từ nhà vừa ra tới nơi, nghe cười bực mình lắm, từ từ tiến tới sát mặt Ngưu Ma Vương, rồi như một tia chớp, Nỗ đưa tay chộp lấy cánh tay hắn vặn ngoéo ra sau, bắt trật lên tới tận gáy, tay kia giáng cho một đấm mạnh đến nỗi hàm của Ngưu vẹo hẳn sang một bên. Ngưu đau quá, chỉ còn biết há mồm kêu la om xòm. Cuối cùng, Ngưu đành phải hạ mình xin tha, thề không dám hỗn xược như trước nữa. Ngưu vốn là tay dữ dằn nhất trong bọn gia nhân, đã đầu hàng rồi thì bọn kia cũng bở vía, bèn quỳ cả xuống đất lạy Nỗ, tôn Nỗ làm sư phụ.

Ngoài cổng trang trại có một miếng đất rộng. Trong lúc rảnh rỗi sau những buổi làm đồng, Nỗ Nhĩ Cáp Tề lại đem bọn đồ đệ ra đó dạy võ. Một năm trôi qua, bọn gia nhân kẻ nào cũng học được ít nhiều ngón võ. Nỗ thường xuyên đấu với chúng. Tất nhiên, chẳng có kẻ nào địch nổi Nỗ.

Một hôm, vào giữa mùa hè, cây cỏ muôn hoa đang lúc tươi xanh, người ta thấy khá đông gia nhân ngồi nghỉ mát dưới bóng cây cố thụ. Nỗ Nhĩ Cáp Tề từ sau đi lại, bất thình lình có gần hai chục người cầm gậy gỗ nhảy tới vây Nỗ vào giữa, hè nhau tấn công kịch liệt. Nỗ không chút sợ hãi, bình tĩnh múa song quyền đỡ gạt. Hai bên đối chiến đã vài ba khắc mà đám người kia chẳng một ai đánh trúng Nỗ được lấy một đòn, thậm chí mong lại gần mà cũng chẳng được nữa.

Giữa lúc đôi bên đang ác đấu, một tiếng quát tuy lớn nhưng êm ngọt vang lên, Nỗ quay đầu nhìn lại thì thấy ông lão họ Đông đang đứng ngoài cổng trang, miệng cười tươi tắn, bên cạnh có một cô gái tuổi ước độ mười bảy, mười tám, má bôi phấn, môi tô son, bọn tóc mây búi cao lên mãi chóp đầu. Nàng vừa nói xong tiếng "tuyệt quá" để ca tụng võ của Nỗ, vừa nhìn thẳng vào mặt chàng, nhoẻn một nụ cười duyên dáng có một sức mạnh ghê gớm đến nỗi anh hùng vô địch như Nỗ mà bỗng nhiên cứng đờ người tay chân nhấc không nổi.

Trước thái độ kỳ cục đó của chàng, mọi người khoái chí cười ồ. Chàng vẫn như ngây như dại, mặc cho ai muốn nói gì thì nói. Bọn gia nhân chẳng muốn làm phiền chàng nên tản mát dần đi. Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngồi xuống dưới bóng cây, ngồi cho đến khi mặt trời gác núi vẫn không rời chỗ.

Mãi tới giờ ăn cơm tối, ông lão họ Đông không thấy Nỗ đâu bèn đi kiếm. Chàng lúc đó mới đứng dậy, thẫn thờ bước theo ông về nhà. Suốt dọc đường, gặp chàng ai cũng hỏi, nhưng chàng nào có đáp.

Ông lão họ Đông lúc đầu không hiểu tâm trạng chàng, nhưng về sau cũng đã đoán được phần nào. Lúc đó, ông không khỏi để ý đến con người của Nỗ. Ông chỉ biết Nỗ là một tay tài ba lỗi lạc, chứ thực ông chẳng biết lai lịch của Nỗ, vì chàng cố ý che giấu gia thế của mình ngay từ đầu.

Họ Đông là một họ lớn miền Phủ Thuận. Nói là lớn, nhưng thực ra số người trong nhà chẳng đông gì lắm. Ông lão họ Đông có ba cô con gái, và một cậu con trai. Ba con gái đều đã lấy chồng. Cô gái cả năm đó đã ngũ tuần. Cô gái út ngoài ba chục.

Cậu con trai đã mất năm ba mươi sáu tuổi. Nàng dâu ở goá nuôi con. Đứa con của nàng dâu này chinh là cô gái mười bảy, mười tám cái xuân xanh mà ông lão họ Đông rất cưng chiều, tính tình nóng nảy, bộc trực. Nhưng con người nàng thì lại là cả một tác phẩm thiên nhiên tuyệt hảo. Nàng cũng mặt hoa da phấn, con mắt cũng đa tình, cái miệng cười nào có thua gì hoa nở. Ông lão họ Đông lúc còn nhỏ có học chút ít chữ Hán. Bởi vậy, những lúc rảnh, ông dạy cho cháu đọc sách viết chữ. Tên nàng là Xuân Tú. Cái tên xinh đẹp ấy là tên chữ Hán. Toàn gia lớn bé ai cũng gọi nàng là Tú cô nương. Năm mười sáu tuổi, Tú cô nương đã trở thành một trang giai nhân tuyệt sắc, tinh thông chữ nghĩa, cách ăn ở lại rất đàng hoàng. Bởi thế Đông lão ông bèn đem giao cho nàng tất cả mọi việc tiền nong chi tiêu trong nhà: cơm nước ăn uống, quần áo vật dụng… Công việc trông coi đồng áng, nàng cũng được Đông lão giao nốt cho. Tóm lại chính nàng là người quản gia số một, có quyền thu quyền phát, chìa khoá trong tay không việc gì là không do nàng quyết định. Ông lão Đông đã từ lâu có ý kiếm cho nàng một tấm chồng xứng đáng. Nhưng nàng vốn tính thẳng thắn, hào sảng. Bởi vậy khách đồng sàng đâu có dễ tìm ở địa phương nây. Sáu bảy chục gia nhân ở gần nàng cảm thấy điều đó, nên kẻ nào kẻ nấy tỏ vẻ sợ hãi và kính trọng đối với nàng, không dám bờm xơm trêu chọc.

Nói đến việc chung thân thì Tú cô nương đã có chủ ý. Nàng chỉ muốn lấy một trang thanh niên anh hùng xuất chúng. Mộng của nàng thì đẹp như thế nhưng khốn nỗi nàng lại ở vào một nơi đèo heo hút gió, khỉ ho cò gáy như vùng quan ngoại này thì biết tìm đâu cho ra ý trung nhân mà nàng thường gặp trong mộng tưởng? Đấy chính là nỗi khổ tâm của Tú cô nương mỗi khi nằm vắt tay lên trán, thao thức giữa đêm trường canh vắng, trong lứa tuổi trăng tròn.

Đã có gái thuyền quyên ắt phải có trai anh hùng. Ông trời quả khéo xui khiến Nỗ Nhĩ Cáp Tề từ Kiến Châu tới miền Phủ Thuận. Từ cái hôm đáng ghi nhớ ấy, trong lòng chàng có nàng, trong lòng nàng cũng có chàng, và ngay cả chủ ý của Đông lão ông cũng có khác. Ông không có con và cháu trai để nối dõi, bởi vậy không không muốn có kẻ thừa kế nào khác để hưởng cơ nghiệp của ông. Ông chỉ muốn Tú cô nương lấy được một anh chàng chịu ở rể tại nhà, đảm nhiệm cái việc hương khói trọng đại đối với tổ tiên ông. Thực tế các cậu trai, con những gia đình khác đều có cha mẹ có bà con họ hàng, đời nào lấy vợ họ lại chịu ở rể để lo việc cúng kiếng đèn nhang cho gia tộc đằng vợ? Cho nên khi thấy Nỗ Nhĩ Cáp Tề, côi cút, một mình lưu lạc tha phương mà lại có tài có đức, bảo sao ông không kén chọn chàng làm rể cho cháu gái. Tuy nhiên, ông chưa được rõ lòng cháu gái ông. Nghĩ rằng nên lợi dụng lúc này cho đôi trẻ gặp nhau để xem tình ý chúng ra sao.

Chủ ý đã định, Đông lão ông bèn đưa Nỗ Nhĩ Cáp Tề vào nhà trong tương kiến với vợ ông và cháu gái.

Rồi từ đó, ông luôn luôn lưu ý tới hành động và thái độ của hai người. Ông thường thấy Tú cô nương tìm đến phòng Nỗ Nhĩ Cáp Tề để trò chuyện. Ông đã đoán ra tâm trạng của đôi trẻ đến tám chín phần rồi. Một điều khác thường khiến mọi người phải chú ý, đó là khi Nỗ Nhĩ Cáp Tề chưa quen biết Tú cô nương thì chàng thường tìm đến bọn gia nhân trò chuyện, nhưng sau khi đã quen biết nàng thì đố ai mà tìm ra bóng chàng.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy chốc lại đã xuân qua, hè tới, song cảnh sắc mùa xuân nơi quan ngoại đến với dân Mãn hơi trễ. Bởi vậy, trời sang tháng tư mà muôn hồng ngàn tía mới đua tươi, oanh ca én hót mới tưng bừng náo nhiệt. Đằng sau nhà ông lão họ Đông có một vườn đào vẫn đang mùa hoa nở.

Một hôm Ngưu Ma Vương vô tình đi qua vườn đào, bỗng nghe tiếng cười nói nhí nhảnh bên trong. Hắn định thần nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lại mà chính là Nỗ Nhĩ Cáp Tề đang cùng với Tú cô nương vui đùa, trò chuyện. Hắn thấy Tú cô nương tay cầm sào dài. Nàng muốn di chuyển cây sào nhưng không nhúc nhích được. Nàng ném cây sào xuống đất, rồi vừa cười vừa thở. Nỗ Nhĩ Cáp Tề lại bước tới đưa hai tay ra đỡ hai bên hông cho nàng đứng vững. Hai người lúc đó đối mặt nhau, tay cầm tay, cùng cười lên như nắc nẻ. Ngưu thấy tận mắt cảnh đó, lẩm bẩm một mình: "Hỏng bét!" rồi chạy đi mách ông lão Đông. Khi hắn dẫn ông lão quay lại, chỉ cho ông thấy thì bất giác ông lão cười khà khà một tràng dài. Thì ra lúc đó, Nỗ Nhĩ đang cùng Tú cô nương tựa vai nhau ngồi bên gốc hoa đào, tay nắm tay, vừa cười vừa nói, chuyện trò hết sức thân mật. Theo ý nghĩ của Ngưu, một khi ông lão họ Đông thấy cái cảnh tư tình của Nỗ Nhĩ và Tú cô nương ắt thế nào cũng nổi trận lôi đình mà Nỗ Nhĩ phải lãnh đủ. Ngưu không ngờ rằng Đông lão ông đã không tức giận mà trái lại, còn khà khà cười lớn; cười đến nỗi râu tóc dựng ngược cả lên, mắt như sắp rách ra, đôi chân cơ hồ không muốn đứng thẳng nữa. Thật là một điều ngoài sức tưởng tượng của Ngưu. Ngưu biết mình "hớ" rồi, vội quay mình chuồn một mạch mất dạng.

Đông lão ông lúc đó mới thong thả bước vào vườn đào. Nỗ Nhĩ và Tú cô nương thấy Đông lão ông, đều giật mình hoảng sợ, chỉ còn biết cúi đầu như để nhận tội lỗi, cặp má ửng hồng vì e thẹn, đôi vai trĩu xuống như phải gánh đến ngàn cân. Đông lão ông bước gần lại, khi đã đứng giữa hai người, ông liền giơ hai tay, mỗi tay đặt lên vai một người, miệng vừa cười vừa hỏi:

- Hai đứa đã bàn tính xong việc của chúng mày rồi ư?

Nỗ Nhĩ cũng như Tú cô nương cả hai đều lắc đầu lia lịa để đáp lời Đông lão ông. Giơ hai bàn tay xoè to ra như hai cái nan quạt, Đông lão vỗ một cái mạnh xuống vai cả hai rồi cười khà khà. Vừa dứt tiếng cười, ông lên tiếng bảo:

- Trẻ nít ngớ ngẩn có khác! Tụi chúng mày không nói mau đi, còn làm bộ ngây thơ để qua mắt ông nội chúng mày nữa sao?

Câu nói hình như đánh trúng tâm lý của cô cậu thì phải, bởi vậy Nỗ Nhĩ cũng như Tú cô nương không ai hẹn ai, bất giác phì cười nhưng để tự tố cáo và khẩn cầu ông nội tác thành cho. Đông lão ông lại nói:

- Tụi mày mắc cỡ phải không? Mau theo ông nội ra đây.

Nói xong, Đông lão ông chẳng cần để cho hai người chịu hay không, liền kéo tay họ vào nhà trong rồi bất chấp hai người mắc cỡ hay không, ông kể rõ đầu đuôi cho mẹ và bà nội Tú cô nương nghe. Ông kể hết rồi còn bắt buộc mẹ nàng phải hoàn tất việc chung thân cho con gái. Nhưng mẹ nàng có ý không chịu gả. Vì bà không muốn đem hạt minh châu trong tay trao cho một anh chàng lãng tử lưu lạc giang hồ như Nỗ Nhĩ. Đông lão ông biết ý, lên tiếng bảo:

- Nếu con bằng lòng cho chúng nó đẹp đôi thì ông nội sẽ đem toàn phần gia tài này giao lại cho thằng cháu rể, khiến nó phải ở rể trong nhà này để phụng dưỡng bọn già chúng ta cho tới lúc quy tiên. Đấy, ý của ông nội là thế, con hãy yên tâm mà bằng lòng đi!

Nàng dâu thấy bố chồng nói những lời lẽ khẩn thiết đến vậy nên đành phải bằng lòng. Thấy cả nhà không còn ai phản đối nữa, Đông lão ông bèn lên chợ tìm một thầy bói nhờ chọn ngày lành tháng tốt để cưới gả cho hai cháu…

Hôm đó nhà ông lão họ Đông thiết lập bàn thờ tế trời đất, tế ông Tơ bà Nguyệt. Bên bàn thờ khói hương nghi ngút, cô dâu chú rể cung kính quỳ lạy. Quang cảnh thật vô cùng trang nghiêm…

Khách mời xa gần đều đến đủ. Khách đông quá, ước chừng có tới năm bảy trăm người, ngồi chật, cả trong nhà ngoài sân.

Hàng dãy chiếu cói được trải ra khắp mặt đất. Thực khách ngồi xếp bằng trên chiếu, cứ bốn người một mâm, tay đũa tay chén, hết hũ rượu này đến đĩa thịt kia, tha hồ ăn uống, mặc sức nói cười. Khung cảnh tưng bừng nhộn nhịp của gia đình Đông lão ông quả hiếm đối với một nơi sơn cùng thuỷ tận như miền quan ngoại này. Ngày vui hôm đó đã trở thành một ngày kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời của đôi trai tài gái sắc Nỗ Nhĩ, Tú cô nương. Về sau họ còn nhớ mãi lúc họ quỳ cạnh nhau, vai kề vai, lễ tế cáo trời đất, lễ kính ông Tơ bà Nguyệt.

Sau hôn lễ, hai vợ chồng Nỗ Nhĩ Cáp Tề đem hết tâm lực giúp Đông lão ông trông nom việc nhà. Những lúc rảnh, Nỗ dạy cho vợ ít miếng võ. Ngược lại, Tú cô nương cũng dạy cho chồng chút chữ Hán. Nhiều khi nàng còn giảng cho chồng nghe nhiều chuyện vừa thú vị vừa có ý nghĩa trong Tam Quốc hay Thuỷ Hử. Càng nghe, Nỗ càng khoái, khoái bao nhiêu, Nỗ càng cố học, cố viết bấy nhiêu. Do đó, sự học của Nỗ khá lên trông thấy. Lúc đó Đông lão ông đã quá cố. Nhất nhất mọi việc trong gia đình, Nỗ đều trông coi, định liệu hết. Nỗ vung vãi tiên bạc thu nạp những tay hảo hán. Nhiều thiếu niên nghe nói Nỗ võ nghệ cao cường, bèn kéo nhau tới bái Nỗ làm sư phụ, tiếng tăm Nỗ càng ngày càng lớn, vang dậy cả vùng Phủ Thuận.

Từ khi ở rể trong gia đình Đông lão ông, Nỗ cải theo họ Đông, mọi người đều gọi Nỗ là Đông Nỗ Nhĩ Cáp Xích.

Trang viên của Nỗ hồi đó chẳng khác gì một Tiểu Lương Sơn Bạc, tụ tập toàn những tay anh hùng hảo hán, dũng cảm hơn người. Dân chúng ở chợ Phủ Thuận đều gọi Nỗ là Đông đại gia chứ có ai ngờ Nỗ là con trai lớn của quan đô đốc Kiến Châu vệ.

Nỗ sống một cuộc đời bình dị của người thường dân, nhưng thực ra đó chỉ là lối sống giả bộ để che mắt thế gian. Nỗ cho mình vốn là con trai cả quan đô đốc Kiến Châu vệ thì một ngày kia cái ghế đô đốc ắt phải vào tay mình. Nỗ không bữa nào là không nghĩ đến cái ghế ấy, rồi nhớ tới gia đình, tới cha mẹ, bà con thân thuộc. Nỗ kết giao với những tay anh hùng hảo hán bất quá chỉ vì ý đồ nối nghiệp cha mình trong tương lai, và cầu mong thực hiện được cái mộng lớn tạo một sự nghiệp vĩ đại nơi quan ngoại. Do đó, Nỗ thường ra chợ Phủ Thuận để nghe ngóng tinh hình chốn công môn.

Phủ Thuận lúc đó có các nha, sở của quan tổng binh nhà Minh trấn đóng. Nỗ tìm cách giao hảo với bọn quan binh tại đây Bởi vậy, với bất cứ một tin tức nào, Nỗ đều có thể nghe được một cách rõ ràng rành mạch.

Hồi đó, cách Phủ Thuận chừng ba mươi dặm có một cái chợ ngựa, cứ hai tháng họp một lần. Chợ ngựa chia làm hai khu: chợ công và chợ tư. Chợ công tức là chợ các bối lặc, cái đô đốc của các bộ lạc phái người đến đó để tiến cống Minh triều, đồng thời đem một số lừa ngựa đến bán cho bọn quan lại Trung Quốc. Còn chợ tư là chợ dân Mãn, dân Hán giao dịch buôn bán với nhau; người Mãn thì bán ngựa, trâu, da thú hoặc trái tùng, nhân sâm cho người Hán trong khi người Hán lại bán vải vóc tơ lụa, nồi niêu xoong chảo, và những nông cụ cho người Mãn. Đôi bên giao thương sòng phẳng đàng hoàng nên luôn luôn giữ được hoà khí. Cứ đến ngày hội chợ, Nỗ ăn mặc kiểu lái buôn, đem ít đồ lặt vặt để bán cho có lệ. Chuyện đô đốc Kiến Châu vệ phái Vương Cảo đến tiến cống, Cảo hỗn láo, ỷ thế làm càn rồi khởi loạn, cuối cùng bị Vương Thái bắt được đem dâng Minh triều và bị chém đầu như thế nào, Nỗ đều được thông tin đầy đủ. Đến Thái, Thái nhờ có công bắt Cảo nên được nhà Minh giúp, rồi thế càng mạnh hơn, đến nỗi dân Ninh Cổ Tháp cũng phải bị thua như thế nào, Nỗ cũng biết rõ hết.

Nỗ tuy nói rằng đã bị cha từ bỏ, đuổi ra khỏi nước nhưng thực ra việc nước, lúc nào Nỗ cũng quan tâm tới. Bởi thế cho nên khi dò la được tin khẩn cấp, Nỗ liền chạy suốt đêm ngày về Kiến Châu vệ để báo tin cho cha biết.

Trước khi ra đi, Nỗ sợ vợ mình không chịu nên đợi mãi tới đêm khuya, khi hai vợ chồng đã lên giường nằm cả, Nỗ mới đem cái lý lịch của mình cũng như cái tin vừa lượm được, nói cho vợ nghe một lượt. Nàng Xuân Tú biết chồng mình là con trai cả của quan đô đốc Kiến Châu vệ, càng lấy làm yêu quý hơn. Nhưng khi nghe chồng nói chuyện xa lìa vợ con về Kiến Châu thì nàng lại buồn ngay. Nỗ phải khuyên dỗ năm lần bảy lượt, cuối cùng cũng phải hứa hẹn rằng khi về tới Kiến Châu hoàn tất được việc lớn, Nỗ sẽ lập tức quay về đón vợ con cùng hưởng phú quý vinh hoa. Nàng Xuân Tú thấy đó là đại sự nên rốt cuộc cũng phải để cho chồng đi.

Rồi một buổi sáng tinh sương, hai vợ chồng cầm tay nhau từ biệt, nước mắt chạy quanh. Lúc đi dọc đường, sợ có người hỏi lôi thôi lộ hình tích, Nỗ bèn mặc tấm áo rách, lại lấy than và bùn đất bôi lên mặt, lên mình mẩy, tay chân cho có dáng một tên ăn mày ăn nhặt tầm thường.

Nỗ đã đi mấy ngày đêm, trải bao nhiêu là gian khổ mới tới Kiến Châu thành. Nỗ vẫn còn sợ cha nên không dám vào, đành đợi ngoài phủ bộ, trong một nơi kín đáo. Lúc đó các bối lặc các nơi đã tề tựu đông đủ trong phủ, trước là để thỉnh an Giác Xương An, sau là để bàn tính cách đối phó với Vương Thái.

May cho Nỗ là đám thị vệ canh gác phủ đều có thiện cảm với Nỗ cho nên Nỗ mới được một chỗ nấp rất tốt trong phủ.

Lúc lên mười, Nỗ đã mất mẹ. Từ đó, Nỗ bị người dì ghẻ là Nạp Thích hành hú đày ải. Trong tình cảnh đau khổ đó, nhờ có bác là phúc tấn Lễ Đông thương, thường che chở và trông nom giúp đỡ, hôm đó, Nỗ bỗng xuất hiện trong phủ, nhớ tới phúc tấn Lễ Đôn, Nỗ liền len lén tới thăm. Bà Lễ Đôn thấy cháu trở về, mừng rỡ khôn xiết, nhưng khi nhìn đến quần áo rách nát, thân hình dơ dáy của cháu, thì bà lại giật mình. Nỗ đành nói thật với bác về chuyện cái trang để che mắt thiên hạ. Tuy nhiên, chàng vẫn chưa dám cởi bỏ bộ quần áo rách rưới kia, giữa lúc hai người đang trò chuyện, ông bác Lễ Đôn bước vào phòng. Nỗ chào hỏi bác xong rồi đem tin tức mình lượm được nói cho bác nghe. Ông Lễ Đôn kinh sợ, một lúc lâu mà mắt ông vẫn còn trợn lên.

Tin gì mà làm ông Lễ Đôn kinh sợ đến thế? Thì ra ông mới vừa được cháu cho biết kế sách của Vương Thái: "Minh tu san đạo, ám độ Trần Thương"(1). Với kế sách này, Thái kéo binh đánh chiếm thành Ninh Cổ Tháp để hư trương thanh thế, trong khi đó Thái sai Đồ Luân thành chủ là Ni Kham hiệp lực với Ninh Viễn Bá Lý Thanh Lương nhà Minh tấn công thành Cổ Liệt. Chủ tướng thành Cổ Liệt là Chương Kinh A Thái, là con rể của ông Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ, cũng là cháu rể của nguyên đô đốc Kiến Châu vệ Giác Xương An, lại còn là con trai của Vương Cảo. Cảo bị Thái bắt rồi bị Ninh Bá Viễn giết, bởi vậy Vương Thái và Lương sự A Thái báo thù rửa hận cho cha, bèn tính kế chém cỏ nhổ gốc, diệt cho kỳ được Cổ Liệt thành.

Chú thích:

(1) Công khai sửa chữa đường xá, bí mật vượt khởi Trần Thương

Hồi 25

KẾ SÁCH DƯƠNG ĐÔNG KÍCH TÂY

Bọn Vương Thái không ngờ được rằng khi chúng rục rịch điều động binh mã thực hiện âm mưu độc hại thì phía bên kia, Nỗ Nhĩ Cáp Tề sớm đã rõ tin mật. Nỗ nghĩ thầm, vợ chồng bà chị chàng ở thành Cổ Liệt sẽ bị nguy khốn nếu không có quân cứu viện. Hơn nữa, bà Lễ Đôn là bác ruột của chàng lại rất tốt đối với chàng. Rồi chuyện này còn quan ngại đến tiền đồ của họ Áì Thân Giác La không ít. Bởi vậy chàng đành phải ngày đêm chạy về nhà cấp báo.

Được tin này, ông Lễ Đôn là người đầu tiên không giữ được bình tĩnh. Một mặt ông bảo vợ đi bẩm báo với bà nội; một mặt ông dẫn cháu chạy lên đại sảnh đúng giữa lúc các bối lặc đang họp bàn. Tháp Khắc Thế quay đầu lại nhìn thấy Nỗ Nhĩ Cáp Tề, bất giác lửa giận bốc lên, liền nhảy bổ tới, định cho một đao mà giết phứt cho rảnh. Ông Lễ Đôn ngăn lại, đem cái tin động trời kia kể hết cho mọi người nghe. Cử toạ nghe xong, kinh hoàng đến mức không ai thốt ra được lời nào.

Giữa lúc đó, bỗng có tiếng phụ nữ khóc từ sau bức bình phong dội ra. Người đi đầu chẳng phái ai xa lạ mà chính là phi của đô đốc Giác Xương An. Miệng bà kêu lớn nhưng giọng như líu lại.

- Con cháu gái của bà, bà cưng quý biết bao. Thế mà bọn bay không chịu đi cứu nó ư? Thôi được, để bà liều cái mạng già này đi vậy!

Phía sau còn có các bà phúc tấn Nạp Thích; vợ đô đốc Tháp Khắc Thế, cùng bà thứ phi, cả bà phúc tấn Lễ Đôn nữa, các bà đều lệ tràn đầy má, mắt đỏ hoe.

Chưa hết, nối đuôi sau nữa còn có các bà phúc tấn Đức Thái Khô, phúc tấn Lưu Xiển, phúc tấn Sách Tràng A, phúc tấn Sắc Lãng A, phúc tấn Bảo Quý, phúc tấn Ngạch Nhĩ Cổn, phúc tấn Gió Kham, phúc tấn Tháp Sát Thiện Cổ, đi cùng với một đám đông thị nữ. Các bà các cô đứng chật cả phòng, ai cũng nghĩ tới cô cháu gái, than vãn thở dài, hoặc khóc lên thành tiếng, nghe mà thảm sầu.

Chính lúc cử toạ khoanh tay nan giải, bỗng có một khoái mã bay về cáo cấp ngoài cổng phủ.

- Long Hổ tướng quân là Vương Thái, chỉ huy sứ Tô Khắc Tô Hử Hà bộ và Đồ Luân thành chủ là Ni Kham Ngoại Lan, vì muốn báo thù người Kiến Châu giết người Đồ Luân thuở nọ nên cấu kết với nhà Minh là Ninh Viễn Ba Lý Thành Lương tập hợp binh mã hơn một vạn, tiến đánh hai thành Cổ Liệt và Sa Tế. Lý Thành Lương cấp cho Ni Kham Ngoại Lan một cây lệnh kỳ được quyền điều động hai lộ quân Liêu Dương, Quảng Ninh bao vây bốn mặt Sa Tế… Viên phó tướng của Lương đã phá thành và giết mất Chương Kinh A Hợi là thành chủ thành La Tế. Hiện nay quân của Lương hợp với hai cánh quân kia đang đánh phá thành Cổ Liệt. Thành yếu khó giữ e mất trong sớm chiều. Do đó quan Chương Kinh A Thái mới cho tiểu tướng cấp tốc tới đây cầu cứu.

Nói xong, người đó thọc tay vào bọc lấy ra một phong thư cầu cứu của cô cháu gái rõi dâng lên. Đọc xong bức thư, mọi người hoảng hốt lo sợ, gãi tai sờ má mãi mà chẳng tìm được kế sách nào. Ông đô đốc già Giác Xương An lúc đó cũng cuống lên, hối hạ vừa nói vừa giục, y như làm giặc đã chờ ngay phía trước:

- Đóng yên ngựa mau! Đợi ta điểm đủ quân mã, thân ra trận tiền với chúng. Chúng cho ta tuổi già chẳng làm được việc gì ư? Thì ra chúng xem thường ta quá. Ta sẽ đem quân đi! Nếu không chém được đầu chúng, ta sẽ không trở về thành.

Nói xong, chẳng nghe lời ai khuyên giải, ông bước đại ra ngoài phòng. Đô đốc Tháp Khắc Thế thấy cha mình quyết chí như vậy, biết không còn cách gì khuyên can được, đành phải theo chân cha lên đường. Thế nhờ người anh cả là Lễ Đôn trông coi mọi việc rồi chỉ kịp nói lại với vợ con được có mấy tiếng "ta đi đây", tức thì phóng bộ ra cổng, đuối theo cha. Hai cha con ra ngoài thành, giục ngựa tới quân trường, điểm đủ binh mã, rồi rầm rầm rộ rộ kéo tới Cổ Liệt thành. Hôm đó, chung quanh thành Cổ Liệt, người ngựa tụ tập đông như kiến. Phía chính bắc có quân của Phó tướng thành Liêu Dương. Phía chính nam thì quân của Long Hổ tướng quân Vương Thái. Còn phía chính đông có quân của Ni Kham Ngoại Lan. Bốn cánh vây thành, chặt đến nỗi con kiến cũng khó chui lọt. Đô đốc An luôn thúc giục quân mã tiến tới. Khi gặp quân địch, ông hạ lệnh tấn công luôn. Hai bên ác đấu. Nhưng một bên thì đông, một bên thì ít, một bên lại lấy khoẻ để đợi mệt, còn một bên thì mệt lại phải đánh liền cho nên chỉ trong một tiếng đồng hồ, kết quả đã rõ rệt; quân An đại bại, phải rút lui xa ba mươi dặm mới có cơ đóng được doanh trại.

Xương An ngồi trong trướng, âu sầu chẳng vui. Bỗng Tháp Khắc Thế kéo màn bước vào. Thế vừa ngồi xuống ghế vừa nói:

- Cuộc chiến sáng hôm nay ta thua, chỉ tại phụ thân quá liều lĩnh mà ra.

Ông An vội hỏi:

- Thế nào là quá liều lĩnh?

Thế nói tiếp:

- Quân ta có bốn ngàn người ngựa từ xa tới, chưa được lấy một phút để nghỉ ngơi, thế mà phải đánh ngay với giặc. Đó là lấy kẻ mệt đánh người khoẻ, không thua sao được! Quân của giặc bốn lộ đông có hơn vạn, lại là thứ quân đắc thắng, được nghỉ lâu ngày, người khoẻ ngựa mạnh. Đó lại còn là ít đánh đông, đương nhiên là bại rồi. Để có thể thắng giặc, hiện nay đã có kế sách!

Ông An vội hỏi kế sách gì, Thế đáp:

- Ni Kham Ngoại Lan vốn là người của phe ta. Chỉ vì ngày trước, người Kiến Châu ta giết quá nhiều người Đồ Luân cho nên Lan mới có ý muốn báo thù đó thôi. Nghĩ cho cùng thì Lan cũng không phải là không ham một vài toà thành để mở rộng bờ cõi. Bởi vậy ta hãy cho người tới doanh Lan, đưa phong thư mời Lan tới, giảng cho hắn nghe mối giao tình giữa hai nước, xong rồi dâng thành Cổ Liệt cho hắn, tha tính mạng cho vợ chồng Chương Kinh A Thái, đợi khi Lan tiến vào thành liền nổi phục binh bắt giết đi. Quân của Minh triều không còn người dẫn đường ắt chẳng dám tiến. Nhân lúc đó, ta ước hẹn với A Thái trong ứng ngoài hợp, đánh lui quân của Vương Thái, rồi xin Minh triều gia phong cho ta, như thế có phải tuyệt diệu không?

Ông An nghe con nói, gật gật đầu, luôn miệng nói:

- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Cuộc bàn luận đáng lý còn dài, bỗng bên ngoài có tin: Đồ Luân thành chủ Ni Kham Ngoại Lan đến cầu kiến, hiện còn đứng ngoài doanh môn.

Hồi 26

QUÁ TIN LỜI NÊN TRÚNG KẾ

Ông Giác Xương An cho mời Ni Kham Ngoại Lan vào. Không đợi cho Ngoại Lan cất tiếng, ông đã phủ đầu:

- Bộ lạc Tô Khắc Tô Hữ Hà của ngươi đã đầu hàng ta và chịu dưới quyền chỉ huy của ta đã lâu. Thế mà ngày nay các ngươi lại phản ta, giúp Minh triều đánh lại người mình. Vậy ngươi còn có gì đáng nói nữa không?

Ni Kham Ngoại Lan nghe bản án kết tội của ông An, giật mình kinh hãi, luôn miệng kêu oan:

- Nô tài nhờ đô đốc đề bạt nên được cái chức Đồ Luân thành chủ. Công ơn ấy, nô tài đời nào dám quên. Phiền một nỗi lần này Vương Cảo đắc tội với triều đình nhà Minh nên Minh triều dùng kế "Chém cỏ nhổ gốc", muốn bắt con trai Cảo là Chương Kinh A Thái. Họ bức bách nô tài phải dẫn đường. Nô tài e rằng nếu chống lệnh, họ sẽ đem quân tướng mạnh đến tấn công thì nô tài biết làm cách nào để chống cự, trong khi đô đốc ở xa mãi Kiến Châu, nhất thời không biết nhờ quân cứu viện nơi đâu. Hơn nữa, nô tài còn sợ rằng họ gọi một kẻ khác dẫn đường thì toà thành này ắt còn bị tàn phá mau hơn. Bởi vậy nô tài một mặt giả bộ đầu hàng Minh triều giúp họ đánh thành, một mặt chờ đô đốc tới đây để cùng thảo luận diệu kế thoái binh.

An nghe xong liền hỏi thêm:

- Ngươi có biết Cổ Liệt thành chủ Chương Kinh A Thái đối với ta là người thế nào không?

Ngoại Lan lắc đầu đáp:

- Thực không biết rõ.

Tháp Khắc Thế ngồi cạnh Giác Xương An, lúc đó mới lên tiếng:

- Chương Kinh A Thái vốn là cháu rể, gọi ta bằng cậu và gọi cha ta bằng ông ngoại. Thằng cháu rể này, cha ta rất cưng quý đấy!

Ngoại Lan nghe xong lời giải thích, giật mình hoảng sợ, vội bò xuống đất, đập đầu lia lịa, lắp bắp nói:

- Nô tài tội đáng chết! Nô tài quả không hề biết điều đó. Nay nếu Chương Kinh A Thái đã là cháu rể của đô đốc, nô tài sẽ xin nói với Ninh Viễn Bá là đô đốc nguyện ý tự mình đến thuyết phục người cháu rể, khuyên nên nể tình thân thích ông cháu mà nhường thành Cổ Liệt lại cho Minh trong triều, đồng thời khuyên Ninh Viễn Bá hạ lệnh cho các lộ binh mã lui lại năm dặm đóng trại, mở đường cho đô đốc vào thành gặp A Thái. Tương kế tựu kế, đôi bên quân ta sẽ nội ứng ngoại hợp để tiêu diệt quân Minh. Lúc đó đô đốc hợp lực với quân Cổ Liệt đánh thốc từ trong ra, còn nô tài sẽ đem binh mã đánh rốc từ ngoài vào. Xuất kỳ, bất ý thì quân Minh ắt bị tan tành. Thắng trận rồi, giảng hoà với Minh triều, buộc họ phải tấn phong cho ta, như thế có phải hay không?

Đô đốc Giác Xương An lúc đó chỉ mong gặp cô cháu cưng, trong lòng nóng như lửa đất, nên khi nghe Ni Kham Ngoại Lan trình bày kế sánh, ông chẳng suy xét kỹ lưỡng, thỉnh thoảng gật đầu, luôn miệng bảo hay lắm, hay lắm!

Ngoại Lan từ biệt ra về. Lúc lên đường, Lan dặn thêm Giác Xương An nên đem quân mã theo phía chính đông mà vào thành.

Mặt trời đã gác núi từ lâu, bóng tối dày đặc, gần sát mặt nhau mà không trông thấy người, Giác Xương An hạ lệnh nhổ trại lên đường.

Khi gần tới bờ thành Cố Liệt, quả nhiên ông thấy quân Minh vây thành đã rút sạch. Mé chính đông, quân của Ni Kham Ngoại Lan thấy quân Kiến Châu kéo tới, liền mở một đường lớn để cho qua. Ngoại Lan ngồi trên mình ngựa thấy Giác Xương An và Tháp Khắc Thế chạy tới gần bên, bèn ghé miệng thì thầm:

- Xin đô đốc lưu tâm cho việc này, sáng sớm tinh sương ngây mai nếu nghe tiếng pháo nổ ngoài thành, xin đô đốc kéo binh trong thành đánh ra tiếp ứng cho.

Giác Xương An nghe nói gật đầu, tỏ vẻ tin tưởng. Khi đại binh kéo tới bên hào, A Thái ở trên nhận ra hiệu cờ của Kiến Châu, vội mở cửa thành đón vào phủ Chương Kinh. Cô cháu gái vừa thấy ông nội tới, liền lăn mình vào lòng ông, tấm tức khóc mãi không thôi. Giác Xương An một mặt an ủi cô cháu gái, một mặt kể lại cặn kẽ kế hoạch của Ni Kham Ngoại Lan cho cháu rể nghe. Chương Kinh A Thái tỏ ý hết sức mừng rỡ, không một chút nào nghi ngờ cả.

Đêm đó trong phủ Chương Kinh mở tiệc lớn. Các binh sĩ ngoài trại cũng có rượu thịt tha hồ ăn uống no say. Tiệc tàn, quân sĩ được lệnh đi nghỉ để canh năm thức dây thổi cơm và sửa soạn tấn công. Đêm về khuya, mọi người đều đã ngủ kỹ.

Duy chỉ có hai vợ chồng A Thái, hai cha con Giác Xương An vì thân tình cốt nhục lại xa cách lâu ngày nay mới được trùng phùng nên có rất nhiều chuyện muốn nói, hàn huyên mãi tới canh tư gà gáy mới chia tay về phòng an nghỉ.

Toàn thành quân sĩ bấy lâu vất vả mệt mỏi, nay được một hôm nghỉ ngơi thoải mái ai cũng ngủ say như chết, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Giữa lúc còn mơ màng giấc điệp, mọi người bỗng nghe một tiếng gầm long trời lở đất. Tháp Khắc Thế giật mình tỉnh dậy. Nhìn ra cổng, thấy trong ánh lửa sáng ngời, một đoàn quân vừa phá xong cửa lớn, hung hăng xông thẳng vào dinh, Thế biết tình thế nguy cấp, vội giấu cha xuống giường rồi cùng chạy ra phía sau và quay lại đóng chặt cửa sau viện lại.

Giác Xương An lúc đó sực nhớ tới cô cháu gái cưng, liền bảo Thế chẹn cửa trước chống địch, còn mình vội quay vào nhà sau. Cô cháu gái lúc đó đã tỉnh dậy, hoảng hốt tìm đường chạy, với ba, bốn đứa thị nữ, đầu tóc rối bù, áo quần xốc xếch, chân không kịp mang giày. Nàng vừa thấy ông nội chạy vào liền cầm lấy tay ông, vừa khóc vừa nói:

- Ông nội ơi! ông nội cứu cháu với!

Giác Xương An một mặt an ủi cháu, một mặt hỏi A Thái đâu, mới biết A Thái đã mang mấy tên vệ binh chạy ra trước cổng viện đánh nhau với địch.

Giữa lúc đó, bỗng một tiếng gầm vang như trời long đất lở, tiếp theo một tiếng hô dữ dội, rồi một ngọn lửa bốc cao lên tận mây xanh. Một tên thị vệ thở hổn hển, chạy từ ngoài vào nói với An:

- Cổng lớn đã bị phá. Một số địch quân đã xông vào thành, đang đi đốt phá. Đô đốc chạy trốn mau đi. Nếu chậm, e khó giữ được tính mạng.

Ông An nghe báo kêu lên một tiếng "trời" rồi vội lấy cái khăn gấm quấn chặt cô cháu gái vào trong, cướp cửa chạy ra.

Lúc đó, Tháp Khắc Thế dốc lực chiến đấu với bọn giặc, vừa đánh vừa lùi. Bọn chúng bị Thế chém chết ngã gục dưới đất ngổn ngang không ít. Thế cũng bị thương khắp mình, trào cả máu ra ngoài miệng. Tuy vậy, Thế vẫn vừa chửi bới vừa đâm chém túi bụi, Thế quay đầu lại nhìn, thấy cha bế cô cháu gái chạy ra, tinh thần thêm phấn chấn, miệng hô lớn:

- Phụ thân mau chạy trước đi.

Vừa nói, Thế vừa múa đao xông lên, mở một đường máu cho cha tiến lên phía trước. Một cái cửa ngách bỗng xuất hiện bên mé phải, Giác Xương An chẳng còn đủ thời giờ để lưu ý tới con nữa, vội dùng một tay vác bổng cô cháu gái lên vai, còn tay kia xô tung cánh cửa ngách để thoát ra. Ông quay đầu lại lần chót thấy một tên cường đồ tay cầm khoái đao nhọn hoắt nhè giữa lưng Thế mà đâm tới. Thế trúng mũi đao sắc, la một tiếng, ngã gục xuống vũng máu chết ngay. An chỉ còn thốt lên được một tiếng "đáng thương" rồi vội lấy vạt áo che kín mặt cất cao chân phóng thẳng ra. Nào ngờ vừa ra khỏi cửa, ông đã thấy thây người cháu rể là A Thái chết nằm gục đó, không biết từ lúc nào, trên mình còn rõ mồn một đến sáu, bảy vết đâm, loét to như cái chén, máu đang ri rỉ chảy. Cô cháu gái lúc đó cũng đã thấy chồng nằm chết gục, thét lên một tiếng lớn, rồi nhào xuống đất. Nàng chạy tới vài bước, quỳ xuống ôm lấy thây chồng, mê đi không còn biết gì nữa. Bọn cường đồ đến năm, bảy đứa trông thấy nàng bèn ùa lại bế xốc nàng lên, y như cọp bắt dê. Ông An vội tuốt bội đao nhảy tới tính cướp lại. Nhưng trong lúc không đề phòng, ông đã bị một ngọn đao cắt hằn mất ót phía sau, lẹ làng như một làn gió thoảng.

Cuộc ác chiến diễn ra khủng khiếp mái tới sáng sớm hôm sau mới chấm dứt, Ni Kham Ngoại Lan nghênh ngang đến trước phủ Chương Kinh, thong thả xuống ngựa. Lan hạ lệnh cho quân sĩ thu dẹp xác chết, quét dọn sảnh đường để sửa soạn tiếp giá, mặt khác ra bảng yên dân.

Thì ra kế hoạch cướp Cổ Liệt thành hoàn toàn do Ni Kham Ngoại Lan âm mưu trù tính từ lâu. Chỉ đáng thương cho hai cha con Giác Xương An nhất thời nóng lòng cứu cô cháu gái mà đến nỗi trúng phải độc kế, chết uổng mạng mất cả bốn người.

Trưa hôm đó, Ninh Viễn Bá huy động quân mã tiến vào thành, bên tả Ni Kham Ngoại Lan, bên hữu có Vương Thái.

Cả ba ngồi trên sảnh đường, khao thưởng ba quân. Đám binh lính được một tiệc rượu no say. Tiệc kéo dài mãi tới đầu canh tư mới tàn.

Ngày hôm sau, Ni Kham Ngoại Lan cùng Vương Thái vào yết kiến Ninh Viễn Bá Lý Thành Lương. Lương sai người đem mọi việc tấu về triều, đồng thời giao quyền chỉ huy Cổ Liệt thành lại cho Lan và Thái. Lương còn bàn với Thái:

- Hai cha con Giác Xương An tuy đã chết nhưng miền Kiến Châu còn có nhiều bối lặc và con trai Tháp Khắc Thế hiện chưa hàng phục, nhiều thành trì cũng chưa đánh chiếm được Bởi vậy tại hạ phiền nhị vị đem bản bộ binh mã chiêu an bọn họ!

Ni Kham Ngoại Lan nhận đem quân thẳng tới Kiến Châu. Vương Thái cũng xin đem quân đi thu phục các thành trì thuộc quyền Kiến Châu lúc trước. Ba người cáo biệt chia tay nhau.

Hai vị bộ chủ Lan và Thái rời khỏi thành Cổ Liệt, theo hướng đông mà đi. Được mấy hôm, Lan đã tới chân thành Kiến Châu. Dân chúng thành này được tin cấp báo, ai nấy hoảng hốt chuẩn bị, dốc tận dân làm lính. Họ lại được thêm tin hai cha con đô đốc Giác Xương An, hai vợ chồng A Thái đều chết theo thành, thôi thì từ đứa bé con ba tuổi đến ông già chín chục, không một ai là không khóc rơi lệ. Khóc đến ngất đi là bà phi tử, vợ Giác Xương An. Bối lặc Lễ Đôn nghe tin cha, rồi em, rồi con gái cùng con rể đều chết một cách thê thảm, uất quá, chỉ kịp oà lên một tiếng thế là máu tươi cứ hộc mãi ra, cuối cùng mê đi không biết gì nữa. Bà đại phúc tấn nằm phục bên cạnh chồng, mặc sức kêu khóc, gào la, cũng chẳng có ai tới giúp đỡ gì cả. Bọn bối lặc lâu nay đặc hưởng phú quý, đến lúc nguy cấp này không một kẻ nào dám ra chiến đấu cứ lùi lũi bế con dắt vợ vội vã chạy ra khỏi thành, rút cuộc lại, chỉ còn thấy duy có một mình Nỗ Nhĩ Cáp Tề, chàng vội chạy tới vừa giúp đỡ bà bác, vừa nâng ông bác dậy, đặt nằm trên giường.

Lát sau, Lễ Đôn tỉnh lại, hỏi ra mới biết anh em chú bác trong phủ đều đã trốn biệt, chỉ thấy có người em là Ngạch Nhĩ Cổn còn ở lại trong phủ, bèn cho gọi Cổn, giao tất cả mọi việc cho Cổn rồi nói:

- Đây là tất cả công việc mà cha và tứ đệ Tháp Khắc Thế giao cho anh. Nay anh giao lại cho em. Em nên tận tâm kiệt lực bảo vệ sự nghiệp của dòng họ Ái Thân Giác La chúng ta.

Nói đến đây, ông quay lại bảo Nỗ Nhĩ Cáp Tề, giọng mệt nhọc yếu ớt:

- Cháu khá lắm! Con trai như thế mới xứng đáng! Nếu cháu muốn đồ vương đồ bá, hãy theo bác cháu đây. Cháu không được bao giờ quên cái thù giết ông, giết cha này, nghe chưa?

Nói đến đây, ông Lễ Đôn ho lên mấy tiếng, rồi lại phun máu ra lênh láng. Ông mê đi, tứ chi buông xuôi, không động cựa nữa.

Ngạch Nhĩ Cổn thấy tình thế nguy ngập mà ông anh cả chắc chẳng hồi tỉnh được, bèn nắm tay Nỗ Nhĩ Cáp Tề kéo ra ngoài, ghé vào tai thì thầm:

- Ông chú, bà bác của cháu đều chạy trốn cả rồi. Bác và cháu xem chừng cũng khó sống. Hôm nay, tất cả toà thành này vẻn vẹn chỉ còn nhờ cậy vào một mình bác cháu ta thôi. Bác e rằng khó mà địch lại được đại quân của Thiên triều. Bởi vậy, theo ý bác, tốt hơn ta nên đầu hàng quách.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề không nghe thì chớ, chứ khi vừa nghe xong lời Ngạch Nhĩ Cổn chàng bỗng nổi giận, lửa hận bốc lên, mặt tái đi, răng nghiến kèn kẹt.

Chàng toan mở miệng để phản đối, bỗng nghe một hồi còi dài vang động, rồi từ bên ngoài thị vệ chạy như bay vào báo cho chàng biết Ni Kham Ngoại Lan đã tiến lại gần thành. Cổn lại càng hoảng, vội giục Nỗ đầu hàng. Trong sảnh phủ lúc đó còn đứng đầy binh tướng. Vừa nghe bác nói xong, chàng vội ném hẳn người xuống đất, quỳ trước mặt bọn bỉnh tướng, đôi mắt nhỏ lệ, vừa đập đầu binh binh trên nền gạch vừa nói:

- Chư vị tướng quân! Xin chư vị nhìn tới thể diện của cha và ông nội tôi mà đừng quên cái thù chẳng đội trời chung này. Các vị hãy tiếp tay giúp tôi…

Câu nói còn chưa hết, đã thấy thị nữ chạy từ trong nhà ra báo Đại bối lặc đã mất rồi. Nỗ Nhĩ Cáp Tề cùng Ngạch Nhĩ Cổn được tin giật mình, vội theo thị nữ chạy vào, chỉ thấy Lễ Đôn, đôi mắt mở to, tay chỉ ra bên ngoài viện, hơi thở đã tắt từ lúc nào.

Bà đại phúc tấn phục bên cạnh ông, khóc ngất đi không biết bao lần. Nỗ Nhĩ Cáp Tề càng mười phần thê thảm. Cả nhà không một ai không nhỏ lệ. Ngạch Nhĩ Cổn bảo Nỗ Nhĩ ở lại lo việc ma chay, còn mình thì chạy ra bên ngoài trù liệu việc quân binh…

Hồi 27

MÀI NANH GIŨA VUỐT ĐỂ BÁO THÙ

Nỗ Nhĩ Cáp Tề thân tuy ở lại bên trong để lo việc tang ma nhưng tâm chàng lúc nào cũng để bên ngoài. Tai chàng chốc chốc lại nghe những hồi tù và, trong lòng càng xốn xang lo lắng.

Ba ngày quay việc tang ma đã tạm xong, chàng lẳng lặng lẻn ra ngoài phủ. Dân trong thành chạy ngược chạy xuôi, hết phố này qua phố khác, lo lắng sợ hãi. Còn binh sĩ thì túm năm tụm ba bàn tán xôn xao hoặc bài bạc giải trí. Nỗ lấy làm kỳ, bèn ghé lại hỏi thăm tại sao không đi đánh giặc thì bọn chúng trả lời:

- Hiện nay quân của Ni Kham Ngoại Lan đã vây chặt thành trì, con kiến cũng không lọt. Nhị bối lặc có dặn án binh bất động vì ông đang thương lượng để mở thành xin hàng.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề giận sôi, máu uất bốc lên đến tận mây xanh. Chàng không hỏi gì thêm nữa, quay về nhà lấy khí giới, nhảy lên lưng ngựa phi như gió ra khỏi cửa Tây thành, xông thẳng tới cửa dinh địch hô lớn:

- Ni Kham Ngoại Lan có giỏi hãy ra đây nói chuyện!

Quân canh cửa vội chạy vào báo. Ni Kham Ngoại Lan bước ra cổng dinh. Nỗ vừa trông thấy Lan, răng nghiến ken két, chẳng nói chẳng rằng, cất cao đầu, cầm chắc ngọn thương, phóng ngựa tới đâm lia lịa. Vệ sĩ của Lan hoảng hất giơ đao chống đỡ. Lan không tức giận, cười khanh khách đáp:

- Cha và ông mi đều đã chết. Thành trì của các bộ lạc cha mi cũng đã đầu hàng cả. Mi không sớm hàng, còn đợi gì nữa.

Nỗ nghiến răng, trợn mắt quát mắng:

- Mi là một tên súc sinh, vong ân bội nghĩa, bán chúa cầu vinh. Đô đốc Kiến Châu chưa từng bạc đãi mi bao giờ, thế mà mi dám tư thông với quân Minh, hại cả ông và cha ta trong khi mi là bộ hạ của cha ta. Ta giận không thể cắt thịt người mà ăn, móc được tim người mà vằm nát để báo thù cho họ. huống hồ còn nói tới chuyện đầu hàng nữa sao?

Nói đoạn, Nỗ lại giơ cao ngọn thương đâm tiếp mấy nhát.

Thấy sự thể không đừng, một viên tướng từ sau lưng Ngoại Lan nhảy lên trước. Một cuộc ác đấu xảy ra. Bên này đâm thì bên kia chém; hai bên giao chiến kịch liệt. Quân của Lan kéo ra đông, vây quanh chờ dịp. Nỗ thấy thế quả bất địch chúng, bèn quay ngựa chạy về thành. Phía sau cũng không có ai truy kích.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề lúc quay về tới phủ, lòng bực tức không nguôi, chằng thèm tới thăm Cổn mà chạy thẳng tới linh sàng của bác Lễ Đôn, khóc lóc một hồi thảm thiết. Chàng về phòng, vì quá mệt mỏi, lăn quay ra ngủ. Giữa lúc mơ màng, chàng bỗng thấy có một bàn tay đưa nhẹ nắm lấy vai mình. Chàng mở mắt nhìn, thì ra chẳng phải ai xa lạ mà là bà bác phúc tấn Lễ Đôn. Bà sắc mặt hoảng hốt lo sợ, ghé sát vào tai chàng, thì thầm:

- Này cháu! Cháu nên chạy trốn mau đi. Bọn chúng định giết cháu đấy!

Bà vừa nói vừa đưa cho Nỗ một bao vàng, giắt vào bọc cho chàng, rồi chẳng để cho chàng nói năng gì thêm, vội mở cửa sổ hậu viện đẩy tấp chàng ra ngoài. Ngoài cửa sồ, một tên thị vệ đứng chực từ trước, khi thấy Nỗ ra khỏi cửa, liền dắt Nỗ chạy lẹ đi. Ngoài cửa sau, hai con ngựa đã chực sẵn.

Thế là chủ tớ lặng lẽ lên ngựa, nhè những con đường vắng vẻ hoang vu mà thoát.

Đêm đã khuya, ước quãng canh ba, dọc đường chẳng có một ai tra hỏi. Chủ tớ hai người tới cổng thành. Tên thị vệ tiến lên trước nói vài ba câu, tức thì cổng thành hé mở cho hai người chạy ra ngoài. Nỗ và tên thị vệ vượt khỏi mấy ngọn đồi núi. Vùng này còn thuộc đất của Kiến Châu vệ. Hai người đi một hồi lâu nữa, xem đã gần tới cửa quan Phủ Thuận.

Nỗ nghĩ tới vợ là Đông thị, chàng bèn đổi hướng lộ trình, rẽ dây cương chạy qua mé đông Phủ Thuận quan. Tới một ngọn đồi, chàng bỗng thấy một bọn người ngựa thập thò trốn nấp trong khu rừng cây lá rậm bóng rợp. Nỗ chẳng chút sợ hãi, quất ngựa tiến lên trước. Khi gần tới khu rừng, chàng thấy một người chạy ra giữa lộ quỳ xuống ngăn đường, miệng nói lớn:

- Người lại đó có phải là tiểu chủ nhân Nỗ Nhĩ Cáp Tề không?

Nỗ nghe nói, lấy làm lạ, vội hỏi:

- Ngươi là ai vậy?

Người kia bỗng oà lên khóc lớn. Tiếp đó, từ trong rừng cây chạy ra có tới vài ba chục người quỳ xuống trước Nỗ mà nói:

- Bọn tôi đều là tàn quân bại tướng theo lão đô đốc tới Cổ Liệt thành.

Nô vừa nghe nói xong, bất giác đôi đòng lệ tuôn xuống như mưa. Chàng vội nhảy xuống ngựa, nâng cả bọn đứng dậy, hỏi hết tình hình lúc đoàn quân bị hại ra sao. Một tên quân nhanh miệng kể hết đầu đuôi cho chàng nghe. Tất cả đều sa lệ, tỏ nỗi bi thảm khôn nguôi. Viên thị vệ trưởng tên gọi Y Nhĩ Cổ quay vào trong khu rừng bưng ra mười ba bộ giáp trụ cho chàng xem và bảo đây là di vật của hai vị đô đốc Kiến Châu - cha và ông nội chàng.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề nhìn thấy mấy bộ giáp trụ, bất giác ôm chầm lấy mà khóc lóc thảm thiết. Lát sau chàng quay lên nhìn, thấy đám quân sĩ mặt mày ốm o tiều tuỵ, quần áo rách nát. Chàng dắt cả bọn đi tìm đường thong thả về nhà Đông thị vợ chàng.

Đông thị thấy chồng trở về, mừng rỡ khôn xiết. Chàng đem hết mọi chuyện nói cho vợ nghe. Đông thị bèn nói:

- Nay trở về đây, chàng không nghĩ tới việc báo thù nữa sao?

Vừa nghe vợ nói xong, Nỗ Nhĩ Cáp Tề giơ tay lên cao, nắm chặt bàn tay lại to như cái bát, nghiến răng trợn mắt nói:

- Hận thù này còn ghi mãi trong tâm. Ta chỉ cầu mong nàng giúp một tay. Đến lúc thành công, ta không bao giờ quên cái đức lớn của nàng.

Đông thị tiếp lời:

- Chàng nói những điều gì lạ vậy? Gia đình của thiếp tức là gia đình của chàng. Tất cả những sản vật của thiếp đều là sản vật của chàng. Chàng muốn làm gì thì xin cứ làm, đừng lo ngại điều cái cả!

Nỗ Nhĩ Cáp Tề vội cúi đầu chắp tay vái Đông thị rồi nói:

- Xin đa tạ tấm lòng nàng!

Từ đó Nỗ náu mình trong thôn. Chàng bán ruộng bán đất để chiêu binh mãi mã, tích thảo dồn lương. Anh em bè bạn trước cũng như sau ai cũng một lòng bơi úp sức chàng. Rồi những môn đệ trước kia học võ với chàng cũng đều kéo nhau về đầu quân, chẳng bao lâu binh sĩ dưới trướng của chàng đã lên tới con số năm, sáu trăm người.

Chàng bèn chọn ngày tốt đặt hương án tế lễ, đem mười ba bộ giáp trụ bày hàng trước linh vị. Chàng bận đồ tang, quỳ lạy cha và ông, khóc lóc một hồi hết sức thảm thiết. Rồi một tiếng pháo hiệu nổ vang, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hạ lệnh nhổ trại lên đường.

Thám mã phi báo thành Kiến Châu đã đầu hàng Ni Kham Ngoại Lan từ lâu, nhưng Lan hiện đóng quân tại thành Đồ Luân bên ngoài Phủ Thuận quan.

Ninh Viễn Bá Lý Thành Lương cho rằng hai cha con đô đốc Giác Xương An đã chết rồi thì miền Kiến Châu không còn đối thủ. Bởi vậy, Lương thu thập binh mã rút về. Ni Kham Ngoại Lan, trong chốc lát mà cướp được khá nhiều thành trì, thường tự phụ chiến công của mình, tha hồ gối cao nằm khểnh.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề do thám biết được mạt đông thành Đồ Luân có một cái eo núi tên gọi ải Cửu Khẩu. Ải này ăn thông với yếu đạo Kiến Châu. Ải vô cùng hiểm trở, thực là một nơi có cái thế một kẻ chẹn đường muôn kẻ khó qua. Chàng sai hai trăm quân tới đóng chẹn cửa ải, chặn đứng đường tiếp viện của địch. Còn tự mình đem ba trăm quân tinh nhuệ nhất, ngậm tăm chạy vội tới chân thành Đồ Luân.

Trời đã sang canh ba. Đêm vào khuya, gió lộng, trăng mờ, đối diện cũng khó thấy mặt nhau. Chàng ngầm sai một đội quân tới đốt cửa nam. Quân binh trong thành giật mình tỉnh dậy, nghe kêu cháy vội chạy xô ra cả cửa nam, không lưu ý tới các cửa khác. Chàng thừa cơ xuất kỳ bất ý, đánh lúc địch chẳng phòng. Cửa đông thành bị phá vỡ, đoàn quân gầm lên mót tiếng vang động cả thành Đồ Luân, rồi xông vào như nước vỡ bờ. Hai bên ác đấu trong bóng tối dầy đặc. Quân của Ni Kham Ngoại Lan trong thành không biết kẻ địch đông hay ít, đâm ra hoang mang hoảng hốt. Nào dân, nào quân, nào tướng nào sĩ, kẻ nào cũng chỉ còn biết lo chạy tháo thân.

Họ ùn ùn kéo ra cửa tây, cảnh hỗn loạn chưa từng thấy. Ni Kham Ngoại Lan bạt vía kinh hồn, cũng chẳng dám nán lại, vội đem một tiểu đội vệ binh lẩn trong đám đông chạy nạn. Lan chạy một mạch, mãi tới miền Cáp Bản mới dám dừng chân.

Thế là chỉ trong một đêm, Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã cướp được Đồ Luân thành. Rồi hai thành Cổ Liệt, thành Sa Tế, cũng tiếp tục quay về với chàng. Từ đó, danh chàng vang dậy trong ngoài, quân đông, tướng lắm, binh hùng, ngựa khoẻ.

Qua tháng tám năm đó, chàng đem quân đánh phá Giáp Bản. Ni Kham Ngoại Lan lại chạy trốn khỏi Giáp Bản. Thắng được Ni Kham Ngoại Lan nhưng chàng lại gặp phải chúa thành Triệu Giai tên Lý Đại, Đại liên quân với Cáp Đạt tấn công chàng. Cuộc chiến kéo dài mãi tới mùa xuân năm sau, chàng mới bắt được Đại đem chém đầu trước cửa dinh.

Đến tháng sáu chàng đánh hạ đồn Mã Nhi. Rồi tháng chín, chàng đem năm trăm quân tinh nhuệ tiến đánh bô lạc Đổng Ngạc.

Sang năm thứ ba, Nỗ Nhĩ Cáp Tề huy động năm trăm kỵ binh đánh phá bộ lạc Triết Trần. Rồi qua năm thứ tư, vào hồi tháng bảy, được tin Ni Kham Ngoại Lan đã trốn về thành Nga Nhĩ Hỗn, chàng bèn hạ lệnh tiến công thành này. Lan hết đường, chỉ còn cách chạy về Phủ Thuận quan. Không ngờ viên tướng Minh giữ quan không chịu cho Lan vào, Lan đành phải quay về đường cũ, bị ngay quân của Nỗ Nhĩ Cáp Tề bao vây bốn mặt, kẻ thù ở trước mặt, mắt thấy rõ ràng, Nỗ khỏi cần hỏi, vội khua ngọn giáo xông tới đâm Lan. Lan giật cương vòng ngựa chạy trốn, lật đật tìm con đường nhỏ phóng như bay. Nhưng Nỗ đâu có để sổng, chàng thúc ngựa chồm lên, cuốn bụi trên đường thành một cột khói dài sau lưng. Tám vó xê xích nhau không còn mấy thước. Nỗ thuận tay vung thòng lọng, tức thì Lan bị trói chặt và bị giật mạnh, lăn cù xuống đất. Mấy tên quân nhẩy tới trói lại, khiêng về dinh như một con heo.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã ngồi trên trướng. Chàng vừa trông thấy Ni Kham Ngoại Lan, máu hận sôi lên sùng sục, chẳng thèm nói hỏi, liền tuốt cây bội đao chặt phắt ngay đầu Lan. Chàng hạ lệnh đặt hương án bày linh vị của ông và cha ngay tại giữa dinh rồi dâng đầu Lan lên để tế. Chàng quỳ trước bàn thờ, lạy tám lạy, oà lên khóc lóc thảm thiết. Binh sĩ thấy đều bận đồ tang.

Thành trì các nơi nghe tin Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã giết chết Ni Kham Ngoại Lan, tới tấp về hàng. Các bộ lạc thuộc hạ của Kiến Châu vệ xưa cũng đều dâng biểu xưng thần. Lúc đó, chàng mới ban sư trở về.

Khi Nỗ Nhĩ Cáp Tề đi qua miền Hô Lan Cáp Đạt, thấy địa thế nơi đây rất là hiểm trở hùng vĩ, chàng sực nảy sinh một chủ ý: không về Kiến Châu nữa, ở lại khu đồi thấp và bằng nằm vào quãng giữa sông Gia Cáp và cửa Tháp Lý để xây cất một toà thành trì mới. Lúc công trình xây cất đã hoàn thành chàng bèn cho đem hết gia tộc ở hai nơi Kiến Châu, Phủ Thuận về ở đấy. Đối với chàng, việc giết Ni Kham Ngoại Lan để trả thù rửa hận cho cha ông tuy đã xong nhưng chàng vẫn không thể quên được kẻ ngoại thù yểm trợ cho Lan là Ninh Viễn Bá Lý Thành Lương. Chàng căm giận Lương đến xương tuỷ tiếc rằng chưa thể tới ngay được Phủ Thuận quan mà đâm chết hắn, băm vằm hắn ra hàng trăm ngàn mảnh cho hả giận.

Thực ra, chàng tự biết quân lực của mình chưa đủ sức, nên nhất thời chưa dám hành động.

Năm đó vào mùa hạ, bộ chủ bộ lạc Tô Hoàn là Sách Nhĩ Quả đem con trai tên Phi Anh tới quy thuận. Nỗ Nhĩ Cáp Tề bày tiệc khoản đãi ngay trong phủ. Trong bàn tiệc, chàng thỉnh thoảng lại thở dài tỏ ý buồn bã không vui. Sách Nhĩ Quả thấy lạ bèn hỏi duyên cớ thì chàng đem kể ngay chuyện Lý Thành Lương giết hại cha và ông chàng năm trước, tới nay thù vẫn chưa báo mà thi hài của cha ông chàng vẫn chưa tìm ra được. Quả cúi đầu suy nghĩ một lát rồi nói:

- Bối lặc muốn báo thù kia, không có người này thì chắc không được đâu.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề vội hỏi người đó là ai thì Quả đề cập tới bộ chủ Đổng Ngạc tên Hà Hoà Lý. Quả còn giúp chàng thêm nhiều kế sách để nhờ Lý giúp đỡ. Chàng mừng quá vỗ tay khen hay.

Ngày hôm sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề sửa soạn đầy đủ dê trâu, thân chinh tới Đổng Ngạc bộ yết kiến Hà Hoà Lý. Hồi đó, Hà Hoà Lý được phong làm Đổng Ngạc ôn thuận, xưng bá một cõi, có binh hùng tướng mạnh, hiện đóng quân tai vùng Huy Xuân. Lý thấy Nỗ là một trang thanh niên có chí lớn, tay không mà xây dựng được sự nghiệp nên có ý biệt đãi chàng. Hai người tương đắc, ý hợp tâm đầu. Chàng thấy Lý mới chừng ba mươi, bèn tâm sinh một kế…

Đêm đó chàng nghỉ lại trong phủ, qua ngày hôm sau chàng khẩn khoản mời Lý tới Hưng Kinh, là kinh thành mới của chàng. Lý thấy chàng tỏ vẻ hết sức thành thực nên nhận lời chỉ đem có vài tuỳ tùng đi theo. Dọc đường hai người cưỡi ngựa song song mà đi. Lúc tới nơi, cùng xuống ngựa bước vào.

Bên trong phủ chiêng trống bỗng nổi lên vang dậy. Rồi bát âm, sáo, đàn,… tưng bừng náo nhiệt. Từ trên sảnh, bộ chủ Triết Trấn, bộ chủ Tô Hoa, bộ chủ Hỗn Hà, cùng các bối lặc đều bước xuống thềm đón rước… Hai bên chia chủ khách cùng ngồi. Nỗ Nhĩ Cáp Tề truyền lệnh bày tiệc, rồi cho các vũ nữ xinh đẹp tuyệt trần múa ca trước sân. Lý khoái chí, mở bụng uống tràn. Tới giữa buổi tiệc, Lý bỗng nghe một bản đàn hết sức du dương êm ái. Rồi, sau bức bình phong, một đoàn thị nữ đỡ một trang giai nhân tuyệt sắc bước ra. Đoàn thị nữ cùng cô gái xuân xanh đôi tám sắc nước hương trời ấy bước tới trước mặt Lý bỗng quỳ cả xuống làm lễ. Lý vội đáp lễ, lòng băn khoăn, thắc mắc. Trong chốc lát, căn đại sảnh bỗng trở thành lễ đường cho đôi họ kết thân. Rồi vị chủ hôn đầu râu tóc bạc, khăn đóng áo thụng, trịnh trọng bước ra bàn thờ ông Tơ bà Nguyệt. Chuông trống, bát âm lại nổi lên vang dậy. Tức thì Sách Nhĩ Quả tiến lên, dẫn Hà Hoà Lý tới chiếu giữa để cùng trang giai nhân nọ cúng tế trời đất ông Tơ bà Nguyệt và làm lễ phu thê giao bái. Mủi hương sực nức toả khắp phòng, xông vào mui, tiếng đàn êm ái du dương thánh thót rót vào tai. Lý vừa say mê thanh sắc, vừa ngạc nhiên, ngây người ra như một pho tượng, chẳng hiểu rồi cái cảnh kỳ lạ đột ngột này sẽ đưa mình tới đâu và mình phải xử trí thế nào? Chàng muốn quay lại hỏi Nỗ Nhĩ Cáp Tề thì một đám đông thị nữ đã vây lấy chàng và người đẹp rồi rầm rẩm rộ rộ đưa cả đôi trai tài gái sắc vào phòng hoa chúc.

Hồi 28

THẾ MỚI BIẾT CÁI GHEN LÀ KHỦNG KHIẾP

Đổng Ngạc bộ chúa Hà Hoà Lý ngơ ngác chưa rõ chuyện gì đang đến với mình. Khi mọi người đã ra hết, Lý mới để mắt nhìn quanh thì thấy căn phòng trang hoàng thật là lộng lẫy. Rồi bỗng mùi hương ngào ngạt xông vào mũi khiến thần hồn Lý chới với như muốn bay lên tận bồng lai tiên cảnh.

Thì ra đã có một người đẹp ngồi đó tự lúc nào. Lòng chàng càng ngây ngất say sưa, chỉ nói lên được một câu: "Xin mời cô nương ngồi", rồi im bặt. Người con gái đẹp cũng lên tiếng mời chàng ngồi để đáp lễ. Tiếng nàng mới êm ái làm sao, nó du dương thánh thót rót vào tai chàng, khiến chàng đờ đẫn.

Dường như chàng đang lạc vào động tiên, gặp được một tiên nữ. Chàng không tự chủ được nữa, tự nhiên tiến gần lại, nắm bàn tay ngọc, mân mê hồi lâu, không dám hé miệng vì sợ tiếng nói sẽ làm tan đi cái khoảnh khắc kỳ ảo này.

Mãi sau chàng mới thốt ra được mấy câu:

- Cô nương ơi! Không biết tên tục tử họ Hà này có cái phúc nào mà được gần gũi cô nương như vậy? Cô nương hãy nói cho tại hạ nghe xem cô nương là người như thế nào đối với đại bối lặc. Và nhất là tại sao cô nương lại muốn nối dây cầm sắt với tại hạ? Cô nương hẳn đã biết tại hạ có vợ rồi chứ?

Con người ngọc nghe Lý nói xong, quay hẳn bộ mặt xinh đẹp như hoa lại, đối diện ngay với mặt chàng nhoẻn một nụ cười tình tứ rồi thỏ thẻ đáp:

- Tiện thiếp vốn là đại công chúa của đại bối lặc. Năm nay tiện thiếp vừa đúng đôi tám. Chỉ vì phụ thân tiện thiếp quý yêu bộ chúa là một nhân tài xuất chúng cho nên mới muốn cho tiện thiếp hầu hạ bộ chúa. Ở nhà đã có phúc tấn, điều đó phụ thân tiện thiếp đã nói rồi. Điều sở cầu của tiện thiếp là chỉ xin sao bộ chúa đừng quên đêm ân ái này mà nhớ tới tiện thiếp mãi, đã là may cho tiện thiếp lắm rồi!

Đại công chúa nói tới đây, bất giác lệ trào trên má. Nàng gục vào vai chàng, rồi lấy khăn lau nước mắt đang từ từ lăn trên đôi má phấn mịn màng như trái đào đương tơ. Nàng khóc thút thít, chẳng cất đầu lên nữa. Bộ chúa họ Hà nổi danh là cương cường, đạp trên thây hàng ngàn xác chết không chút động tâm, thế mà chàng phải mềm lòng trước dòng lệ đang thánh thót rơi xuống áo mình. Chàng vội đưa tay lên đỡ lấy khuôn mặt nàng, rồi lấy chiếc khăn trong bọc ra lau nước mắt cho nàng. Chàng thì thầm khuyên dỗ rồi khi tình đã mặn ý đã nồng, chàng và nàng lúc đó mới lên giường, môi kề môi, má kề má, say sưa đưa nhau vào cõi mộng…

Sáng hôm sau, Đống Ngạc bộ chúa Hà Hoà Lý đến gặp Nỗ Nhĩ Cáp Tề và làm lễ con rể đối với ông nhạc. Lý còn nói nhiều điều cảm kích đối cha vợ. Từ hôm đó Lý lưu lại trong phủ, cứ ba ngày một tiểu yến, năm ngày một đại yến, Lý lại càng cảm kích Nỗ Nhĩ Cáp Tề hơn nữa.

Một hôm, trong bàn tiệc, Nỗ Nhĩ Cáp Tề đem hết cái chí lớn cái muốn phục thù và cái thế yếu vì quân ít của mình nói cho Lý nghe. Lý đưa tay vỗ mạnh vào ngực mình, cả quyết nói với Nỗ:

- Con xin giúp nhạc phụ năm vạn quân mã, như thế có được không?

Vừa nghe đoạn, Nỗ Nhĩ Cáp Tề vội đứng dậy chắp tay, nghiêng đầu xá một xá, luôn mồm cảm tạ. Lý thấy nhạc phụ tỏ vẻ trọng hậu đối với mình, cảm kích muôn phần, chàng hăng hái đứng lên nói:

- Việc điều động binh mã là việc lớn. Phi con đích thân quay về liệu lý không xong?

Sách Nhĩ Quả ngồi bên cạnh, nói chen vào:

- Nếu đã như vậy, thì việc không nên trễ. Xin phò mã khởi hành ngày hôm nay có tiện hơn không?

Tiệc tan. Lý ra khỏi phủ môn lên ngựa, có đoàn thị vệ theo hầu, tức khắc quay về Đổng Ngạc bộ.

Hồi đó vợ cả của Hà Hoà Lý là bà Triết Trần, về quê ngoại cho nên chuyện chồng về Hưng Kinh làm rể, rồi việc động binh mã của Lý đã chuẩn bị đâu đấy và các bộ lạc trong ngoài đồn rầm lên rằng Lý đã trở thành phò mã của Nỗ Nhĩ Cáp Tề, bà Triết Trần mới hay thì đã muộn. Bà vừa buồn, vừa giận bèn nói với cha xin hai ngàn người ngựa, đêm ngày quay về nhà. Đội quân của bà vừa về tới chân núi Ma Thiên Lĩnh bỗng thấy một chí quân kéo tới, cờ hiệu là cờ của Đổng Ngạc bộ.

Hà Hoà Lý lúc đó mới lấy Nỗ công chúa nên tình đang nồng thắm. Tuy mới xa nhau có mấy ngày nhưng Lý nhung nhớ khôn xiết. Chàng vội vã điều động binh sĩ lên đường, dặn các tướng thong thả đi sau, còn chính mình thì đem một đội thị vệ chừng sáu trăm người đi trước mong sao về Hưng Kinh sớm hơn, với người vợ trẻ đẹp mới cưới. Chẳng ngờ, đội quân của chàng vừa về tới chân núi Ma Thiên Lĩnh thì gặp ngay bà vợ cả Triết Trần Phi. Chàng cảm thấy mắc cỡ, bèn quất ngựa tiến lên đón vợ, tiện thể nói láo để lấp liếm:

- Này mình! Mình đi đâu lâu quá, khiến anh ở nhà một mình lẻ loi lạnh lẽo quá chừng. Nhớ quá không chịu nổi, nên anh tính đem quân tới đón mình về. Nào ngờ hôm nay vợ chồng tụi mình lại được gặp nhau ở đây. Vậy mình hãy mau theo anh về nhà đi…

Lý nói tới đây, bỗng chột dạ, cho rằng có sự gì chẳng lành vì phía sau vợ mình người ngựa đông như kiến kéo tới, dao kích như rừng, cờ quạt rợp trời. Dầu vậy, chàng vẫn lờ đi, làm bộ tươi vui, lên tiếng hỏi vợ:

- Mình trở về nhà mà sao đem nhiều quân sĩ vậy? Phải chăng mình muốn chiến đấu với ai đó?

Triết Trần Phi đứng trước mặt chồng, tay cầm cây trường thương, nghe chồng nói xong, bỗng biến sắc. Má đào của nàng bỗng xám ngoét lại, đôi mày ngài cong như lá liễu bỗng dựng ngược lên, để lộ đôi mắt xếch bắn ra những tia lửa giết người.

Triết Trần Phi vốn là một trang giai nhân tuyệt thế, lại được cha truyền thụ cho bản lĩnh võ công cao cường. Ngày thường Lý cùng với nàng tuy tình vợ chồng ân ái nồng đượm, nhưng lúc nào chàng cũng e ngại, sợ sệt. Nay Lý đã có tình riêng, nên lòng e ngại sợ sệt càng tăng gấp bội. Đến khi thấy mặt nàng nghiêm lại, đôi má bỗng xám ngoét thì chàng đã biết có điều chẳng lành. Giữa lúc đang bối rối, Lý bỗng nghe vợ lên tiếng, vô cùng giận dữ:

- Ta đi tìm mi để giết mi đây!

Tiếng quát hoà với tiếng nghiến răng kèn kẹt vì tức giận càng làm cho câu nói thêm ghê rợn. Lý chưa nghe xong mà như đã thấy một luồng khí lạnh xông lên tới thái dương. Mắt chàng bỗng mờ đi, đa chàng nổi gai ốc khắp mình…

Triết Trần Phi nói xong, thúc mạnh vào hông ngựa, lao tới đâm chồng. Thế là một cuộc ác đấu xảy ra ngay dưới chân núi Ma Thiên Lĩnh.

Một qua thì một lại, một chém xuống thì một đỡ lên, hai vợ chồng bỗng biến thành hai kẻ tử thù một sống một chết.

Lúc đầu, Hà Hoà Lý còn nghĩ tình chồng vợ, chỉ cho rằng vợ quá ghen nên nổi nóng, không ngờ thấy nàng đánh những đòn chí mạng, không kề gì ân nghĩa xưa kia, chàng nổi đoá, không còn nương tay nữa, múa tít lưỡi đại đao chém xuống như tuyết rớt hoa rơi. Triết Trần Phi biết thế chống không nổi, vội quay ngựa bỏ chạy. Lý quất ngựa đuổi theo. Hai người, một trước một sau, phóng như bay trên con đường núi mấp mô ngoằn ngoèo. Một lát sau hai con ngựa đã tới một eo núi, cây cối um tùm che kín cả mặt đất. Lý giật mình biết đã trúng kế, chỉ kịp la lên một tiếng "Hỏng rồi", vội quay ngoắt ngựa trở lui thì đã không kịp nữa. Một tiếng huỵch vang lên, Lý cùng con ngựa ô truy đã lăn nhào về phía trước. Thì ra quân mai phục của Triết Trần Phi đã chực sẵn từ lâu, đợi khi thuận lợi là tung dây trói ngựa, bắt người. Triết Trần Phi thấy chồng đã vướng dây té nhào, vội quay ngựa phóng tới, lấy dây trói chặt tay chân của Lý lại. Thị vệ của Lý vội tiến lên cứu chủ nhưng đều bị quân của Triết Trần Phi đánh lui.

Lý bị Triết Trần Phi bắt về dinh, thả cũng không mà chém cũng không. Nàng trói chồng dưới chân giường, còn mình thì nằm ngủ bên trên. Nàng mặc cho chồng năn nỉ kêu nài, trước sau chỉ nói vỏn vẹn có một câu:

- Ngươi khẩn cầu bà công chúa nào đó của ngươi đi…

Lý biết vợ ghen và lòng ghen đã lên đến cực độ, có van nài cũng vô ích. Chàng không thèm nói gì nữa, mắt nhắm nghiền, phó mặc cho trời xanh.

Một ngày một đêm trôi qua, Triết Trần Phi bàn thảo với các tướng định đánh thẳng tới Hưng Kinh. Nàng muốn đích thân bắt được công chúa họ Nỗ đem về chém đầu cùng với Lý, để có thể rửa được mối hận của mình. Chẳng ngờ giữa lúc đó, tiếng pháo liên châu bỗng nổ dậy ngoài dinh môn. Rồi bốn mặt tiếng pháo liên châu hưởng ứng liên hồi. Tiếng trống trận tiếp theo rầm rập khắp sơn cốc. Triết Trần Phi giật mình vội nai nịt lên ngựa, chạy ra xem. Thì ra, bốn mặt quân Kiến Châu xông tới như nước lũ vây khắp dinh trại. Nỗ Nhĩ Cáp Tề, một mình một ngựa, xông thẳng vào dinh môn, miệng luôn kêu lớn: "Trả ngay rể ta lại cho ta!". Triết Trần Phi thấy Nỗ Nhĩ Cáp Tề, máu hận bốc tới cổ, gầm lên một tiếng, "Chém cha con rùa đen già kia!" Rồi nghiến răng, quất ngựa tiến lên, liều mạng ác chiến.

Một người đàn bà lả lướt, yểu điệu tấm thân bồ liễu, dù có bản lãnh cao cường tới đâu đi nữa, làm sao có thể địch nổi thần lực của tay anh hùng cái thế như Nỗ Nhĩ Cáp Tề? Cuộc chiến tay đôi chưa được mấy hồi, rút cục Triết Trần Phi đã đại bại, chạy rút về dinh. Nàng dặn dò tướng sĩ không được xuất chiến.

Lại một ngày qua, năm vạn quân sĩ của Hà Hoà Lý đi sau cũng đã kéo tới. Cánh quân này tiếp sức Nỗ Nhĩ Cáp Tề đánh phá dinh trại của Triết Trần Phi.

Trần Phi biết thế chống không nổi, bèn lẳng lặng đem chồng lên ngựa trốn ra sau dinh, tính kế trốn đi. Chẳng ngờ vừa ra khỏi dinh, nàng đã bị Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt sống. Theo ý Nỗ thì Triết Trần Phi phải đem ra chính pháp, nhưng sau, nể mặt Hà Hoà Lý, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho gọi nàng lên trướng, trách mắng mấy câu xong rồi tha cho về Đổng Ngạc bộ. Từ đó, người Kiến Châu thường gọi Triết Trần Phi là Ách Hách má má (Ách Hách là một tiếng hàm chứa ý xấu).

Việc lộn xộn xảy ra khiến Nỗ Nhĩ Cáp Tề bỗng dưng được năm vạn quân mã, lại được thêm cả Đổng Ngạc, Triết Trần Phi. Nhờ lực lượng này, Nỗ chọn ngày tháng mười năm đó hành quân thẳng tới miền thượng lưu sông Tùng Hoa, thu phục thêm hai bộ lạc Chu Xá Lý và Nạp Ấn. Tháng sáu năm thứ hai, Nỗ đánh phá thành Đa Bích, lại lấy luôn An Chử Lạp Khố. Chưa vừa ý, Nỗ kéo binh lấy nốt Ái Hô bộ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề biết rằng dân Kiến Châu ít ỏi không thể chỉ dựa vào đó mà thành việc lớn, bởi vậy, khi đại binh tới đâu, Nỗ hạ lệnh bắt tất cả dân chúng đi theo, tới định cư ở đất mình. Vài năm sau, dân cư miền Kiến Châu đã trở nên đông đúc, làng mạc hết sức trù mật. Hồi này, bà Đông thị, vợ cả của Nỗ đã già. Bởi vậy, Nỗ cưới thêm một bà phi họ Phú Sát. Nỗ còn chọn, trong số dân bị bắt, mang về thêm mấy người con gái có nhan sắc để làm nàng hầu. Đô thành tân tạo của Nỗ càng ngày càng náo nhiệt, sầm uất.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề sau khi từ Ái Hô bộ trở về, án binh bất động được vài năm cho quân sĩ nghỉ ngơi: Chính lúc này, ông gọi hai người em: Thư Nhĩ và Nhã Nhĩ Cáp Tề bị thất tán hồi trước trở về. Ông cưới vợ và sắp mọi việc cho hai em. Từ đó, ba anh em ở chung một chỗ, thường trò chuyện, tiệc tùng với nhau. Nhân lúc vui chén, ba anh em nhắc lại chuyện xưa rồi bỗng chẳng ai bảo ai, cả ba đều nhắc tới tên Cáp Đạt Hãn Vương Thái. Thế là mặt họ cùng đỏ lên vì tức giận, răng nghiến ken két. Nỗ Nhĩ Cáp Tề quyết diệt Cáp Đạt Hãn, liền hạ lệnh điều đủ quân mã đích thân chỉ huy cuộc chinh phạt. Mọi việc ở Hưng Kinh, ông giao cho người em thứ hai. Bà phi họ Phú Sát thấy chồng đi chinh phạt, tình nguyện đi theo để phục vụ.

Chọn ngày lành tháng tốt, Nỗ Nhĩ Cáp Tề nhổ trại, thăng tới Liên Sơn. Quân thám mã phi báo:

- Cáp Đạt Hãn Vương Thái đã chết. Con trai tên Hãn cũng đoản mệnh chết rồi. Chỉ còn lại có một thằng cháu tên gọi Hổ Thương, tù trưởng Diệp Hách Bốc Trại hứa gả con gái cho Thương, bảo Thương qua Diệp Hách đón dâu. Chẳng ngờ, đi tới giữa đường, Thương bị một bọn cường đạo của Diệp Hách giết chết.

Câu chuyện oan oan tương báo này nguyên uỷ như sau: Lúc trước, Cáp Đạt Hãn Vương Trung chịu mệnh lệnh của Minh triều bắt Diệp Hách đô đốc là Chúc Cung Cách phải ưng thuận theo mình. Chúc quật cường không phụng mạng. Bởi vậy Trung khởi binh bắt giết Chúc. Chúc có hai con trai: Sinh Gia Nỗ và Ngưỡng Gia Nỗ. Hai người con này mang hận trong lòng thường nghĩ tới việc phục thù cho cha. Đến khi Vương Thái nắm quyền thay cha, Thái nghĩ ra một giải pháp để giảng hoà với Diệp Hách bộ là tình nguyện đem con gái gả cho Ngưỡng Gia Hổ. Chẳng ngờ, Ngưỡng không vui lòng lại còn chọc tức Thái bằng cách sang tận Mông Cổ cầu hôn, lấy con gái tù trưởng Mông Cổ làm vợ. Thái ỷ quân hùng tướng mạnh định tiến đánh Diệp Hách bộ. Quan tổng binh nhà Minh thấy thế vội đứng ra dàn hoà. Hận thù tạm yên được một thời gian, kịp đến khi Diệp Hách tù trưởng là Bốc Trại lên nắm quyền. Trại vẫn manh tâm trả hận, bèn lấy chuyện gả con gái cho Hổ Thương để lừa Thương tới giữa đường rồi sai thích khách dùng tên độc bắn chết.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề nghe tin liền hỏi tiếp:

- Hổ Thương bị Bốc Trại giết chết. Chẳng lẽ người Cáp Đạt bộ lại chịu thôi?

Tên thám tử đáp:

- Người vợ cả của Hổ Thương có sinh hạ một đứa con trai tên gọi Tao Thái Trú. Trú còn quá nhỏ nên chưa thể phục thù. Trú hiện đang trốn tại nhà bà ngoại.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề lại hỏi:

- Tao Thái Trú đã trốn tại nhà bà ngoại, vậy công việc của Cáp Đạt bộ ai là người đứng ra lo liệu?

Tên thám tử đáp:

- Có một người cháu họ Vương Thái tên gọi Mông Cách Bộ Lộc đứng ra lo liệu. Lộc vốn là một tay thiếu niên anh hùng, nên người Cáp Đạt mời Lộc tới cáng đáng ngôi vị tù trưởng của bộ lạc. Lộc ngày đêm huấn luyện binh mã, định bụng báo thù cho Hổ Thương. Bốc Trại biết điều đó nhưng không dám tới xâm lăng bờ cõi của Lộc, mà lại hành quân về ngả Tô Tử và Hỗn Hà.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề bất giác giật mình hoảng sợ, vội nói:

- Hành quân về ngả Hỗn Hà, phải chăng Thái muốn xâm phạm biên giới của ta?

Hồi 29

HẠI NGƯỜI CHẲNG BÕ KHI NGƯỜI HẠI TA

Giữa lúc còn đang nghe tình hình của tên thám tử thứ nhất, thì tên thám tử thứ hai lại đã vào trướng bẩm trình:

- Diệp Hách tù trưởng họp với chín lộ binh mã của các bộ lạc Ô Lạp Huy Phát, Khoa Nhĩ Bị, Tích Bát Quái Cần Sát theo ba ngả tiến đánh Hưng Kinh. Xin Đại bối lặc cấp tốc chuẩn bị chống địch.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề nghe xong, không hề tỏ vẻ hoang mang cúi đầu suy nghĩ trong chốc lát rồi cho người đi gọi đệ Tam bối lặc Nhã Nhĩ Cáp Tề vào trướng.

Hai anh em thì thào bàn tán hồi lâu, rồi Nhã Nhĩ Cáp Tề ra khỏi trướng, nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay về hướng đông bắc. Còn Nỗ Nhĩ Cáp Tề vẫn y theo kế hoạch đã định sẵn, huy động binh mã tiến về phía bắc quan ngoại.

Sau năm ngày hành quân liên tiếp, Nỗ Nhĩ Cáp Tề gặp một con sông lớn chặn ngang. Đội tiên phong vào bẩm báo:

- Con sông chắn ngang trước mặt chính là sông Tô Tử hà.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề bèn truyền lệnh hạ trại dọc theo bờ sông, riêng đại binh của nguyên soái thì đóng lùi sâu vào trong khu rừng già, cây cối um tùm. Mặt khác ông cho lệnh nhà bếp sửa soạn rượu thịt. Chiều hôm đó, các chiếu rượu đã bày xong, ngay tại khu rừng già. Nỗ Nhĩ Cáp Tề ra khỏi trướng, đích thân tới mời tướng sĩ ăn uống. Các tướng sĩ vội bò xuống đất hành lễ tạ thưởng. Nỗ Nhĩ lên tiếng:

- Hỡi chư vị tướng quân! Hãy uống cạn chén này rồi an nghỉ đêm nay. Sáng mai ta sẽ xung trận.

Một tràng tiếng hoan hô vang lên như sấm. Tướng sĩ kẻ nào kẻ nấy miệng nuốt rượu ừng ực, hết chén này qua chén khác. Trong trướng, Nỗ Nhĩ cùng với nàng Phú Sát cũng nâng chén. Dưới trướng, đoàn nữ nhạc, mặt hoa da phấn cất tiếng ca trầm bổng theo nhịp đệm những cây tỳ bà. Mười hai tên thị nữ khác, đứng đàn thành hai hàng, rót rượu dâng thịt theo lệnh của vợ chồng Nỗ Nhĩ.

Tiệc vui kéo dài mãi tới lúc lên đèn, chén cạn mâm quang mới tan. Nỗ Nhĩ Cáp Tề truyền lệnh tắt đèn nghỉ ngơi, cấm ngặt chuyện trò bàn tán.

Tướng lệnh được thi hành triệt để, chỉ trong nháy mắt đèn lửa tắt sạch. Cả một vùng dinh trại rộng lớn hàng mấy vạn người ngựa thế mà nhất loạt im lặng như tờ, chỉ còn nghe tiếng vi vu của những làn gió thoảng trên ngọn cây lá cỏ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng hạ lưng xuống giường, trong chốc lát tiếng ngáy đã như sấm dậy, rộn cả vùng. Bà phi Phú Sát không dám ngủ, cùng với bọn thị nữ tựa lưng bên cây đèn dầu, thì thào chuyện vãn. Bên ngoài, lính gác đã báo canh ba. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vẫn mê man trong giấc ngủ say sưa. Phú Sát thị bỗng thấy như mặt đất chuyển động. Nàng lắng tai nghe thì như có tiếng người chạy, quân đi. Nàng sợ hãi, vội đứng dậy, miệng khẽ kêu:

- Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy! Quân binh của chín nước hình như đánh tới nơi rồi! Thế mà chàng cứ ngủ hoài vậy!

Nỗ Nhĩ Cáp Tề choàng tỉnh, nghe tiếng vợ chỉ cựa mình một cái rồi lại ngáy lên như sấm. Bên ngoài, tiếng vó ngựa, chân người nghe mỗi lúc một gần. Phú Sát thị lại gọi chồng lần nữa. Nàng vừa lay vừa nói:

- Chàng sợ hay sao mà không dám dậy vậy?

Nỗ Nhi vụt mở to mắt, nhìn nàng cười nói:

- Chính thế! Ta sợ lắm! Bởi vậy, muốn ngủ mà ngủ chẳng được ngon giấc. Mấy hôm trước, ta nghe nói Diệp Hách bộ đem binh của chín nước lại đánh ta. Ta chẳng biết khi nào chúng tới đánh. Nay chúng đã tới rồi thi ta còn có gì phải lo nữa!

Nói xong Nỗ Nhĩ lại nhắm mắt, quay mình vào trong ngủ lỳ như cũ. Phú Sát thị nghe chồng nói vậy chẳng hiểu ra sao nhưng lần này không dám gọi tiếp vì sợ Nỗ Nhĩ nổi nóng, nàng chỉ còn biết lặng lẽ ngồi tựa bên cạnh giường chờ đợi.

Tiếng vó ngựa, chân người nghe càng rõ hơn, tựa hồ như đoàn quân nào đó đã tới cửa dinh. Nhưng rồi tiếng rầm rộ đó bỗng nín bặt. Phú Sát thị chẳng hiểu ra sao, lòng nghi hoặc càng làm cho nàng bối rối muôn phần.

Bỗng ngoài cửa dinh, một tiếng gầm long trời lở đất nổi lên. Trong nháy mắt, ánh lửa sáng rực trời. Cuộc ác đấu xảy ra, đao kiếm va nhau chan chát. Phú Sát thị hoảng hồn, hối hả lay chồng. Nỗ Nhĩ Cáp Tề khoát tay bảo nàng đừng làm rộn. Bên ngoài, tiếng hò hét chém giết mỗi lúc một lớn hơn, tuy ngồi trong trướng nhưng nàng cảm thấy như ngồi trong một vùng có động đất, có núi lở, biển sôi.

Hồi lâu sau, tiếng hò hét chém giết xa dần. Nỗ Nhĩ từ trên giường nhảy xuống đất, vỗ tay cười lớn rồi kéo Phú Sát thị lại ngồi bên cạnh giường mà bảo nàng:

- Nàng đã thấy kế sách của ta chưa? Ta vốn biết quân binh của Diệp Hách bộ và chín nước ở trước mặt, có ý muốn đánh tới cho nhanh. Bởi vậy ta giả bộ bày tiệc cho quân sĩ ăn uống no say rồi ngủ miết để chúng hí hửng đem quân cướp trại. Kỳ thực rượu của bọn ta uống đó chỉ là nước trà chứ đâu phải là rượu. Binh sĩ của ta có ai ngủ đâu. Họ đều nai nịt gọn gàng, cầm binh khí lặng lẽ chực sẵn để phản công đấy chứ! Quả nhiên quân địch kéo tới cướp trại, không ngoài kế hoạch của ta đã dự liệu. Bốn mặt quân mai phục của ta đều có. Bất cứ chỗ nào, địch quân cũng không thể nào thoát được. Chúng đã bị kế mai phục của ta ắt không biết quân ta nhiều ít ra sao, nên hoảng hồn, bắt buộc phải rút lui qua bên kia sông. Hơn nữa ta còn do thám được tin quân chủ lực chúng hiện đóng trại suốt dọc sông Hỗn Hà. Bởi vậy ta đã sai tam đệ lặng lẽ tới Cáp Đạt bộ bảo Mông Cách Bố Lộc mau đem quân đánh tập hậu, quân Diệp Hách. Đợi khi chúng vượt qua sông Hỗn Hà, ta cùng Lộc tiền hậu giáp công, phen này Bốc Trại khó thoát được tay ta.

Giữa lúc vợ chồng Nỗ Nhĩ còn trò chuyện với nhau, bên ngoài tin tức báo vào dồn dập:

- Tiền đội tiên phong đã đánh qua sông Tô Tử hà.

- Giết quân Diệp Hách được hơn ba trăm tên, bắt sống hơn năm trăm tên.

- Cướp được lương thảo, binh khí, lều vải rất nhiều, hiện chất đống ngoài cửa dinh, xin mời Đại bối lặc ra xem xét.

Lúc đó Nỗ Nhĩ Cáp Tề mới từ từ đứng dậy, bước ra khỏi trướng, thẩm vấn suốt lượt tất cả bọn tướng sĩ bị bắt của Diệp Hách bộ. Ông lại đi xem số lương thực vũ khí tịch thu được, xong xuôi truyền lệnh nhổ trại cho đoàn quân tiến tới bờ phía tây sông Hỗn Hà. Giữa lúc đó, quân Diệp Hách đang từ từ qua đò sang sông. Nỗ Nhĩ Cáp Tề tức tốc hạ lệnh truy kích.

Quân Diệp Hách luống cuống, rớt xuống sông chết chìm không biết bao nhiêu mà kể. Bốc Trại lúc đó đã vượt qua bờ bên kia. Một cánh quân bỗng từ đâu đánh tới, kéo cao lá cờ Cáp Đạt.

Quân của Trại bị Lộc đánh cho một trận tơi bời, manh giáp không còn. Bốc Trại thấy mặt trước bị quân Cáp Đạt chặn đường vội đem một tiểu đội binh sĩ vượt qua thượng lưu, về lại phía cũ. Nhưng vừa mới lên được bờ, Trại đã gặp ngay một đại đôi người ngựa ùn ùn kéo tới. Thật là oan gia gặp đường hẹp, kẻ kéo binh tới đó chẳng phải ai xa lạ mà là Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Trại thấy Nỗ hoảng hồn bạt vía, một mình hối hả chạy trốn. Nỗ Nhĩ đâu có chịu bỏ, cung đơn thương độc mã đuổi theo. Miền đất này vốn có một khu rừng cây cao rậm. Trại quất ngựa lẩn vào trong các hàng cây, khi chạy qua đông, lúc chạy sang tây. Nỗ đuổi gấp, không cho Trại rảnh lấy một phút nghỉ ngơi.

Hai người, một trước một sau, đuổi nhau vào mãi trong rừng sâu. Trại quay đầu lại thì thấy Nỗ đuổi kịp, đầu ngựa Nỗ đã bắt kịp đuôi ngựa mình. Trại hoảng hốt bối rối. Một tiếng quát vang như sấm, Nỗ cầm thương đâm tới. Trại giật mình, biết thế nguy, vội đập mạnh chân cho ngựa lao nhanh về phía trước, mong lách qua một cây cổ thụ chắn ngang đường mà lên. Không ngờ cây này có một cành nằm ngang cao bằng đầu người, chìa ngang qua đường. Trại trong lúc vội vã, không chú ý tới, hơn nữa, ngựa phi lại nhanh, thế nhào tới quá gấp nên tránh không kịp. Nỗ chỉ kịp nghe một tiếng đốp tức thì Trại rớt phịch xuống đất như đống thịt. Đáng thương cho Trại, một tay hảo hán sức mạnh hơn người, thế mà một phút sa cơ, chết thảm!

Giết được Bốc Trại rồi, Nỗ Nhĩ Cáp Tề thừa thế vượt qua sông, họp binh với Mông Cách Bố Lộc rồi kéo đi thu phục hết các thành trì của Diệp Hách bộ. Quân binh bảy nước liên minh với Diệp Hách được tin Bốc Trại tử trận, kẻ nào cũng rụt cổ như rùa, trốn biệt, không dám xuất đầu lộ diện nữa.

Trong cuộc đại thắng này, công lao của Mông Cách Bố Lộc thực không nhỏ. Bởi vậy Nỗ Nhĩ Cáp Tề mời Lộc tới dinh, mở yến tiệc thết đãi. Ông còn bảo Phú Sát cho đoàn thị nữ xinh đẹp hầu rượu Lộc. Mông Cách Bố Lộc lại hiếu sắc, khi thấy đám giai nhân xinh đẹp, chàng chẳng khỏi say mê, dần dần cử chi có chiều lả lơi, cuồng phóng. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vẫn không giận Lộc, còn cấp cho Lộc rất nhiều trâu, ngựa, lương thảo rồi đưa tiễn về nước.

Đến hồi này, binh lực Kiến Châu đã trở thành cường thịnh, ai cũng phải e sợ kinh nể. Thế mà đối với Nỗ Nhĩ, ông vẫn chưa hài lòng. Ông thường nghĩ tới các bộ lạc lân cận. Thấy trong số đó có Ô Lạp bộ là một bộ lạc mạnh tợn hơn cả, Nỗ Nhĩ bèn cho rằng việc tiêu diệt bộ lạc này để tiếp thông với biển Đông là rất cần.

Tháng giêng năm thứ 35 niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, có Sách Mạc Mặc Hắc tù trưởng bộ lạc Ngoã Nhĩ Khách ở Đông Hải, sai người tới nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề:

- Bộ lạc tôi vốn ở xa nên đành phải quy phục bọn Ô Lạp. Bối lặc Ô Lạp tên gọi Bố Chiên Thái ngược đãi bọn tôi quá tệ! Chúng tôi không còn cách nào hơn là tới xin đẩu hàng Kiến Châu của quý ngài, chỉ xin quý ngài mau mau phát binh tới giúp đỡ chúng tôi đuổi bọn Ô Lạp.

Nỗ Nhĩ coi lời yêu cầu này là dịp may nghìn năm một thuở. Ông nhảy lên vì sung sướng, vội điểm đủ quân mã và cho gọi người em thứ hai Thư Nhĩ Cáp Tề, phong làm tiên phong, đem ba ngàn quân từ thượng lưu sông Tùng Hoa qua Hắc Giang, vượt Đồ Môn Giang, xuyên qua thành trại Triều Tiên, đến bờ sông Khánh Nguyên phủ, lại vượt Đồ Môn giang, tiến thẳng tới thành Phi Du, của bộ lạc Ngoã Nhĩ Khách.

Tin này đồn đi. Bộ chủ Ô Lạp là Bố Chiêm Thái hay được, liền xuất binh tới Đồ Môn giang, định chẹn hậu Thư Nhĩ Cáp Tề. Trên đường hành quân, đội tiên phong của Thư Nhĩ bắt được mấy ngàn ngựa trâu của bách tinh. Tới Thư Thành giang, phải vượt qua đỉnh núi, thấy địch quân người ngựa rầm rộ kéo tới liền phi báo cho chủ. Thư Nhĩ tức khắc xuất binh khai chiến. Giữa lúc Bố Chiêm Thái đem toàn binh lực để đối phó địch quân, bỗng ở phía sau, ba lộ quân mã của Nỗ Nhĩ hùng hổ kéo tới, lộ thứ nhất xông đánh chặn hậu, lộ thứ nhì vượt qua bãi sông khúc dưới chặn đường rút, còn lộ thứ ba, do chính Nỗ Nhĩ và con trai tên Đại Thiện đánh thẳng vào trung quân của địch.

Đại Thiện là một bối lặc trẻ tuổi, dũng cảm hơn người. Bố Chiêm Thái thân xuất mã đối địch với Thiện. Hai bên đánh nhau bốn, năm mươi hiệp mà không phân cao thấp.

Thái rút lui, để viên mãnh tướng Trác Đẩu thay thế. Đẩu giao chiến luôn một hơi hơn ba mươi hiệp mà vẫn không thắng nổi. Thiện tạo một sơ hở để lừa Đẩu. Đẩu không ngờ, tưởng chắc ăn, vội chập cả hai tay nhè ngang hông Thiện chém vát xuống một đao hết sức lẹ. Thiện chờ ngọn đao chém tới liền né sang một bên khiến lưỡi đao bị hụt, vút mạnh vào chỗ không. Thiện liền giục ngựa tiến lên vài bước, một tay nắm chắc cán đao của Đẩu, tay kia giơ cao cây đao của mình, dùng hết sức bình sinh chém một nhát, cắt đứt nửa đầu Đẩu.

Quân sĩ của Đẩu thấy chủ tướng đã bị giết, vội hè nhau bỏ chạy. Mặt sau, trận thế không giữ được vững, cuối cùng cũng tan vỡ, quân mã chạy có cờ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngồi trên ngựa, thấy quân mình thắng thế, liền cầm cây cờ vàng nhỏ phất lên. Tức thì đại đội quân mã như tuyết tan núi lở, rùng rùng truy kích. Giữa lúc đó, một cơn gió lốc từ đâu cuốn tới, khiến đá cát bay tung, mù mịt cả trời đất. Bố Chiêm Thái hốt hoảng đem quân vừa đánh vừa lùi. Khốn thay, đường núi thì gồ ghề khó bước, trời đất lại mù mịt khó nhận ra lối, thành thử quân của Thái dẫm đạp lên nhau mà chết hoặc té sấp té ngửa xuống đường, què gẫy không biết bao nhiêu mà kể.

Binh Kiến Châu đuổi tới. Bối lặc Đại Thiện phóng ngựa lên trước, múa tít cây đại đao, khi chạy ngang, lúc chạy dọc chém người như chém chuối. Chỉ trong chốc lát, Thiện đã hạ đến hơn ba chục viên tướng, còn quân binh thì vô kể. Một viên quan tải lương vốn là chú ruột của Thái, tên gọi Xương Chủ Đích, chỉ vì xe lương chậm chạp rớt lại sau bị Thiện đuổi kịp bắt trói lại. Thiện rút cung tên ra, song chưa kịp bắn bỗng nghe có tiếng hô lớn từ phía sau: "Tướng kia không được dùng ám tiễn bắn người", rồi một viên mãnh tướng lao tới cản Thiện. Nhưng Thiện không để cho kịp trở tay, nhanh như chớp nắm lấy giải mũ của đối thủ rồi thuận tay mặt cắt luôn đầu y.

Trường ác đấu này khiến Bố Chiêm Thái tổn thất mất hơn bảy ngàn quân. Thái hốt hoảng chạy trốn, lui mãi về miền Cát Lâm. Nỗ Nhĩ Cáp Tề đại thắng, ban sư hồi kinh.

Đông tàn. Đầu hạ năm sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề đem theo cậu con trai thứ tám là Hoàng Thái Cực xuất quân đánh phá miền Cát Lâm để tiêu diệt Ô Lạp quốc. Bố Chiêm Thái được tin, hoảng hồn bạt vía, vội vàng đích thân đem mấy tên tuỳ tùng, đi thuyền qua sông Phục Nhĩ Cáp để cầu hoà. Nỗ Nhĩ Cáp Tề không cho, kéo rốc đại binh tới Ô Lạp, phá tan thành trì, chém giết thả cửa luôn năm ngày, đến nỗi dân trong thành gần như không còn ai. Bố Chiêm Thái đại bại, vội trốn qua Diệp Hách bộ mất dạng…

Hồi 30

VU OAN GIÁ HỌA

Cáp Tề giết chết còn lấy làm căm hận. Cho nên khi thấy Bố Chiêm Thái bị bại vì bọn Kiến Châu thì Lộc đồng bệnh tương lân, thu nạp luôn Thái. Lộc và Thái ngày đêm bàn tính kế hoạch báo thù. Hai người sực nhớ tới Cáp Đạt bộ chủ là Mông Cách Bố Lộc, trước đây đã có lần giúp Nỗ Nhĩ Cáp Tề khinh rẻ Diệp Hách bộ bèn cùng cho rằng trong công cuộc phục thù này, trước hết phải đánh Mông Cách.

Tháng năm năm thứ 27 niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, Nạp Lâm Bố Lộc điều động đại đội nhân mã tiến đánh thành Cáp Đạt. Cáp Đạt bộ chủ hoảng hốt lo sợ. Ông nghĩ rằng trước đây ông có công giúp người Kiến Châu thì ngày hôm nay, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hẳn sẵn lòng giúp lại ông. Bởi vậy ông đem theo ba người con trai tới Kiến Châu, nguyện ý dùng họ làm con tin, chỉ yêu cầu Nỗ Nhĩ mau phát binh cứu nước ông.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề lưu cả bốn cha con Mông Cách Bố Lộc lại Hưng Kinh, rồi sai Phi Anh Đông đem ba ngàn tinh binh đi cứu Cáp Đạt. Nỗ Nhĩ ngày ngày cùng Bố Lộc uống rượu, đàm đạo vui vẻ trong phủ. Còn mấy người con của Bố Lộc thì Phú Sát thị đều đưa vào trong nuôi dưỡng cẩn thận. Chúng đứa nào cũng khôi ngô tuấn tú, tính tình lại thông minh hiền hậu. Mỗi khi Phú Sát thị đến thăm, chúng đều kêu bà bằng má. Phú Sát thị vốn tính ưa trẻ con, thường bế chúng cho ngồi trên gối hỏi chuyện, lúc ấy thì bà mới biết là mẹ chúng đã chết. Cảm thấy nỗi đau xót của lu trẻ, bà bất giác sa lệ.

Một hôm, nhân lúc ngồi ăn cơm, vợ chồng Nỗ Nhĩ đề cập tới chuyện vợ con của Mông Cách Bố Lộc. Phú Sát thị ngỏ ý đem con gái của bà gả cho Bố Lộc. Theo ý bà, con gái mà lấy được vị bộ chủ chính là một vinh hạnh, hai nữa, Bố Lộc một khi đã là con rể rồi ắt phải đem hết lòng trung mà phò tá nhạc gia. Tuy lời bà Phú Sát thị tỏ rõ là cao kiến nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Tề lặng thinh chẳng nói một câu nào. Phú Sát thị đôi ba lần năn nỉ, cuối cùng ông chỉ vỏn vẹn có một câu:

- Tuỳ ý bà! Muốn làm sao thì làm.

Ngày thường Nỗ Nhĩ Cáp Tề rất sủng ái Phú Sát thị. Hơn nữa, bà thấy Bố Lộc quả là một nhân tài xuất chúng, nên thường thúc giục chồng nói cho Bố Lộc nghe việc này. Nỗ Nhĩ nể vợ quá đành phải nói. Mông Cách Bố Lộc trong lòng sung sướng đến phát điên, không thể ngờ mình há lại có cái diễm phúc hi hữu ấy. Lộc xin vào yết kiến bà Phú Sát đế tạ ơn. Bà Phú Sát cho triệu thầy cúng vào chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ ngay trong phủ.

Ngày vui của đôi trẻ đã gần tới. Trong phu treo đèn kết hoa lộng lẫy. Một hôm trước ngày cưới. Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho bày tiệc mời Mông Cách Bố Lộc vào bàn. Trong bữa tiệc Nỗ Nhĩ cực lực tán dương Bố Lộc. Nỗ còn cho gọi một nàng hầu thiếp xinh đẹp ra, đứng ngay cạnh Lộc để vừa ca hát vừa rót rượu mời Lộc.

Bố Lộc, mắt thì mơ màng vì sắc đẹp của mỹ nhân tai thì say sưa vì tiếng hát du dương, nhắp hết chén này đến chén kia, chẳng mấy chốc đã say bí tỷ. Nỗ Nhĩ Cáp Tề liếc mắt ra hiệu cho đám thị nữ. Tức thì một đứa xách đèn đi trước soi đường, trong khi nàng hầu kia đích thân đỡ Bố Lộc tới một căn phòng nhỏ…

Sáng hôm sau, Bố Lộc tỉnh dậy, mở mắt trông ra thì thấy mình cùng với người hầu thiếp, thân thể loã lồ bị trói vào nhau nằm trên giường. Trước giường, một đám binh sĩ đứng vây quanh từ lúc nào.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề, mặt giận hầm hầm đang cũng đứng đó, chỉ trời vạch đất chủ bới om sòm, tố cáo Bố Lộc gian dâm nhạc mẫu của y. Rồi chẳng cho Lộc nói điều gì, Nỗ Nhĩ vẫy tay một cái, tức thì bảy, tám tên quân tiến lên khiêng Lộc chạy đi Lộc kêu oan đến hết hơi khô cố mà chẳng ai thèm nghe.

Bọn quân sĩ đem Lộc tới một khu vườn hoang rồi trói chặt y vào một gốc cây cổ thụ. Bỗng đứa con trai lớn của Lộc tên gọi Ngô Nhĩ Hốt Đáp hối hả chạy từ ngoài vào, miệng kêu lớn: "Xin dừng đao chớ chém", rồi tiến tới trước mặt Nỗ Nhĩ Cáp Tề bò xuống đất, dập đầu lạy như tế sao xin tha cho cha.

Nỗ Nhĩ đẩy Ngô Nhĩ Hốt Đáp ra xa, quát to:

- Động thử!

Người ta chỉ nghe một tiếng soạt ngọt xót, đầu Mông Cách Bố Lộc đã rơi phịch xuống đất. Đáp chồm lên trước, ôm lấy thây cha mà khóc lóc thảm thiết rồi gục luôn xuống đất, mê đi.

Khi tỉnh lại Đáp chỉ thấy chung quanh là một khu vườn hoang vắng âm u, không còn lấy một bóng người. Đáp cúi đầu suy nghĩ, biết rằng mình không còn có thể ở lại phủ nữa, bèn vội đứng dậy, chạy ra khỏi vườn. Lúc đó trời đã hoàng hôn. không một bóng người. Đáp vội vã trốn khỏi thành Hưng Kinh, với ý định quay về Cáp Đạt khởi binh báo thù. Khi chạy tới núi Giám Phàm, Đáp gặp một tay thủ hạ của viên quan tổng binh nhà Minh vốn giữ chức quan tuần tra. Viên quan này có biết Đáp cho nên khi thấy Đáp hối hả vội vã, liền cầm lấy tay hỏi. Đáp bèn đem chuyện cha mình bị giết như thế nào kể ra một lượt rồi nói thêm cho viên quan tuần tra biết cái ý định quay về Cáp Đạt của mình.

- Ngốc ơi là ngốc? Mày về chuyến này đừng nói đến chuyện báo thù báo hận gì cho mệt ngay cả đến cái mạng của mày lồi đây cũng khó giữ đấy, ngốc ạ!

Đáp lấy làm lạ vội hỏi:

- Chuyện gì mà kỳ vậy?

Viên tuần tra nói tiếp:

- Mày quên Phi Anh Đông đã mang hai ngàn người ngựa tới đợi ở nhà mày rồi ư?

Đáp giật mình, lúc đó mới tỉnh ngộ, vội quỳ dập đầu xin viên tuần tra cứu giúp. Tay này bèn nâng Đáp dậy, đưa về Phủ Thuận quan, Đáp gặp Lý Thành Lương, khóc lóc thảm thiết xin được che chở giúp đỡ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy Ngô Nhĩ Hốt Đáp trốn mất, giữa lúc đang sai người đi tìm kiếm, bỗng được tin thám tử cho biết Minh triều sai quan Tổng binh đích thân đem quân tới Hưng Kinh hỏi tội. Nỗ Nhĩ tuy rằng hung hãn, nhưng khi nghe tin quân Minh tới thì cũng không khỏi hoảng sợ. Bởi vậy, Nỗ một mặt sai ngay Thư Nhĩ Cáp Tề sửa soạn nghênh chiến, đồng thời cho người trả thi hài Mông Cách Bố Lộc về cho con trai y. Lý Thành Lương đã thấy Nỗ có ý chịu phục nên rút quân trở về.

Không ngờ bà Phú Sát thấy chồng mưu sát mất anh chàng rể của mình trong lòng thật không khoái chút nào! Bà quý Đáp, cưng Đáp nhưng Đáp đã không còn ở cạnh bà, cho nên bà gây sự với chồng hoài. Ngay cả nàng công chúa con gái Nỗ thấy cha giết ý trung nhân của mình cũng buồn khôn tả, khóc lóc ngày đêm, âm thầm than thở.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy hai mẹ con bà Phú Sát kiếm chuyện hoài đành gọi Ngô Nhĩ Hốt Đáp trở về phủ Lý Thành Chương cũng đem người em Đáp về nuôi dưỡng, che chở. Đôi vợ chồng ăn ở với nhau hết sức đằm thắm. Bà Phú Sát thấy vậy cũng mười phần mừng vui. Thế rồi bốn mươi ngày qua, hai vợ chồng Đáp trở về Cáp Đạt.

Từ đó về sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng như Phú Sát thị, người nào cũng có ý định của mình, không còn hoà thuận như xưa nữa. Lúc đó, bà Đông thị vợ cả của Nỗ, đã chết. Bà hạ sinh hai trai: lớn gọi Chữ Anh, nhỏ gọi Đại Thiện. Chữ Anh tính rất quật cường, Nỗ Nhĩ Cáp Tề sai Anh đem quân đồn trú ở bên ngoài. Phú Sát thị cũng sinh hai trai, lớn gọi Mãng Cồ Nhĩ Thái, nhỏ gọi Đức Cách Loại, cả hai đều không được cha yêu. Đến khi bà Phú Sát bất hoà với Nỗ Nhĩ thì tình cha con càng ngày càng nhạt. Lúc đó còn có cả người con trai của bà Đại Phi họ Diệp Hách Nạp Thích tên gọi Hoàng Thái Cực. Cực rất được cha yêu, được cưng chiều quý như Đại Thiện. Rồi đến người con trai bà Ngoại Trắc Phi họ Y Nhĩ Căn Giác La, tên gọi Ba Thái Hoà. Cuối cùng là năm người con trai bà thứ phi, tên gọi A Bái, Thang Cổ Đại, Tháp Bái, Ba Bố Thái, Ba Bố Hải. Năm người này cũng không được gặp mặt cha.

Hồi Ngô Nhĩ Hốt Đáp cưới cô công chúa lớn làm vợ cũng là hồi bà Đại phi họ diệp Hách Nạp Thích mất. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vốn thương yêu bà này nên không khỏi bi thương buồn bã. Do đó, ông lại càng cưng cậu con trai của bà là Hoàng Thái Cực. Bản ý của Nỗ Nhĩ Cáp Tề là sau khi bà Diệp Hách chết, ông sẽ đưa bà Phú Sát lên hàm đại phúc tấn. Nhưng bà Phú Sát bây giờ lại bất hoà với ông, ông bèn tính chọn một người khác.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề được tin đồn tù trưởng bộ lạc Diệp Hách là Bố Dương Cổ có người em gái sắc đẹp tuyệt trần. Tại vùng quan ngoại ai cũng ca tụng nàng là một cô tiên trần thế. Thế là Nỗ Nhĩ đêm ngày mơ ước lấy được nàng. May thay, người em thứ hai của Nỗ Nhĩ Cáp Tề là Thư Nhĩ Cáp Tề lấy Ô Thích (em gái Bố Chiêm Thái bối lặc) làm vợ, thành thử Thái đích thân đem em gái tới Hưng Kinh. Thái thấy Nỗ, hết sức mắc cỡ. Nhưng Nỗ cho rằng đã là bà con thân thích với nhau rồi thì nên quên hết mọi hận thù thuở trước. Do đó hai người đánh chén với nhau, vui cười hể hả, không còn hậu ý gì nữa Trong lúc ăn nhậu, trò chuyện, Thái mới biết Nỗ đã mất bà đại phúc tấn. Thái liền nhắc tới em gái Bố Dương Cổ, tán dương sắc đẹp của nàng ta. Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt ngay lấy cơ hội, uỷ thác luôn cho Thái tới Diệp Hách bộ cầu hôn.

Qua năm thứ hai Diệp Hách, Cáp Đạt. Ô Lạp Huy, tù trưởng bốn bộ lạc đều sai người tới nhận tội trước Nỗ Nhĩ Cáp Tề.

Bố Dương Cố lại đích thân đem cô em gái tới gả cho Nỗ làm đại phúc tấn. Nỗ bèn đưa tới biếu Cổ một bộ yên cương bồn giáp hạng nhất để làm đồ sính lễ. Ngay lúc đó, Nỗ sai giết một con ngựa bạch để tế trời lập thệ. Hai người đồng thanh thề rằng:

"Sau khi minh thệ nếu có kẻ bỏ hôn nhân, phản bội lời thề thi kẻ đó se như đất này, như xương, như huyết này, tuyệt mạng muôn đời. Trái lại nếu trước sau giữ vẹn lời thề, kẻ đó sẽ uống rượu này, ăn thịt này, phúc lộc đầy đủ".

Thề xong, hai người mời bọn bối lắc bốn nước mở tiệc yến ẩm say sưa, một phen náo nhiệt vui vẻ.

Từ đó, Nỗ Nhĩ Cáp Tề càng đắc ý vênh vang. Quyền lực ngày một lớn mạnh, anh em chú bác trong họ đều chịu lép dướì thế lực của Nỗ. Rồi con gái, rồi phi tử, thê thiếp, nhiều kẻ bị thất sủng đều oán hận ông. Nỗ Nhĩ Cáp Tề biết rõ điều đó nên ông cho dời hết cả đám bà con chú bác ra ngoài thành. Việc di tản nảy khiến họ hàng hoảng hốt lo sợ. Đỗ Thế Thôi, Lưu Xiển, Sách Tràng A, Bảo Thực, tất cả bọn con cháu vội vàng họp bàn mật với nhau rồi anh nào cũng triệu tập gia tướng của mình, tính đợi đến khuya, trèo vào thành để giết chết Nỗ Nhi.

Một đêm trăng mờ gió giật. Nỗ Nhĩ một mình ngủ trên giường, bỗng thấy lòng dạ nóng như lửa đốt, đầu mình run bần bật. Ông thốt lên một tiếng: "Nguy rồi" và nhảy chồm dậy, tay cầm vội thanh bao kiếm, lẳng lặng mở cửa ra ngoài.

Hai cậu con trai ông, Đại Thiện và Hoàng Thái Cực, bước theo sau, đường phố lặng lẽ như tờ, lại thêm gió giật liên hồi. Ba cha con Nỗ Nhĩ Cáp Tề lén bước dần tới chân thành cửa tây, vốn là chỗ hoang vắng nhất. Ông tiến lên trước vịn vào bờ thành nhìn xuống dưới phía bên ngoài. Quả nhiên, ông thấy đến mười mấy người đang bám thang dây mà leo lên. Chờ cho họ leo lên gần mép thành, ông liền giơ cao cây bảo kiếm, quát lên một tiếng lớn. Bọn người leo thành bên ngoài giật mình đánh thót một cái, té nhào cả xuống đất. Tiếng quát đó đã đánh thức được bọn quân tướng giữ thành. Họ vừa chồm dậy chưa rõ chuyện gì xảy ra thì đã thấy Nỗ Nhĩ Cáp Tề đứng sừng sững trên chòi canh. Cả bọn giật mình hoảng sợ, vội cùng nhau quỳ mọp xuống đất xin đại bối lặc về phủ. Theo ý Hoàng Thái Cực thì cần phải mở cửa thành ra để bắt bọn giặc nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Tề không chịu, bảo quay về.

Hồi 31

NHỮNG VỤ MƯU SÁT

Đêm hôm sau, giữa lúc Nỗ Nhĩ Cáp Tề, Đại Thiện, Hoàng Thái Cực và cô công chúa con ông, tất cả bốn người đang ngủ say trong phòng, con chó ông nuôi tên gọi Dương Cổ Cáp bỗng sủa ầm lên. Ông nhỏm dậy, giương mắt nhìn qua bóng đêm, thấy con Dương Cổ Cáp đứng thẳng người bắt hai chân trước qua song cửa sổ. Ông nhìn qua cửa số thấy có nhiều bóng người chuyển động thấp thoáng. Ông nghĩ ngay rằng lại có kẻ ám sát vội chạy sang giường cạnh lay con gái ông dậy, rồi tới Đại Thiện, Hoàng Thái Cực. Hai cậu công tử vội cầm mỗi người một cây đao sắc, tới nấp bên cánh cửa sổ, rồi ông đứng bên trong dựng ngược cây kiếm, cho ra ngoài quát lớn:

- Kẻ nào nấp bên ngoài? Đã tới đây rồi tại sao không dám tiến vào? Ta sắp ra đây. Bọn ngươi có dám đối địch cùng ta chăng?

Nói đoạn ông dùng cây kiếm đập mạnh vào cánh cửa số, lấy chân đạp tung ra, làm bộ như muốn nhảy qua cửa số mà ra ngoài, nhưng thực ra ông đã quay lẹ mình sang trái, nhảy vèo qua cửa chính ra. Bọn thích khách bên ngoài không ngờ ông lại khôn ngoan và mau lẹ đến thế, hoảng hốt co giò chạy vội. Ông nhìn kỹ thì ra đó là một tên thị vệ trong phủ của ông tên gọi Mạnh Hải. Ông giận sôi gan hạ lịnh tất cả thị vệ đóng kín cổng thành rồi chia nhau đi lùng bắt thích khách.

Qua ngày hôm sau có một người chú họ tên Lang Đôn từ thành Ma Thích lại. Đôn bảo Nỗ Nhĩ Cáp Tề:

- Cả họ đều là cừu địch của mày. Mày bắt ai bây giò chứ?

Nỗ nghe xong bất giác hoảng sợ, chẳng dám bắt hung thủ nữa. Hôm đó, ông dọn sang ngủ bên phòng bà trắc phi Y Nhĩ Căn Giác La. Ngủ tới nửa đêm, bỗng nghe ngoài phòng có tiếng động "rắc rắc" ông vội mặc áo trỗi dậy. A Ba Thái, con trai của Giác La, theo mẹ ngủ tại phòng đó. Thái cũng cầm đao theo cha, lặng lẽ lẻn ra ngoài. Hai cha con Nỗ Nhĩ Cáp Tề nấp kín vào một góc kẹt của lò sưởi.

Trời đêm đó tối quá, tất cả khu nhà như chìm trong bể mực, không thể nhận ra được bất cứ ai, dù chỉ trong khoảng một thước. Thích khách sờ soạng mãi mới mò tới gần lò sưởi.

Bỗng trên không trung có tiếng sấm nổi dậy. Rồi một tia chớp loé lên, chiếu sáng khắp cả khu nhà. Nỗ Nhĩ Cáp Tề nhờ lúc trời chớp, giơ cao sống đao đánh xuống thật mạnh, khiến thích khách ngã lăn xuống đất. Nỗ Nhĩ nhảy tới, đưa chân trái đè chặt ngực tên thích khách xuống đất, miệng kêu "Lạc Mạc" liền mấy tiếng. Lạc Mạc là một tên thị vê thân cận, nghe đại bối lặc kêu vội xách đao chạy lên. Nỗ Nhĩ sai trói tên thích khách. Mạc nói:

- Tên ác tặc này đã xúc phạm tới đại giá của đại bối lặc. Giết quách là hơn!

Nỗ Nhĩ Cáp Tề sợ mang tội với họ mạc, bèn làm bộ hỏi tên hung thủ:

- Thằng kia? Có phải mi tới trộm ngựa không?

Hung thủ nghe đoạn gật đầu. Nỗ Nhĩ bật cười khanh khách, bảo Lạc Mạc cởi trói thả ra. Hung thủ vội quỳ xuống đất lậy Nỗ Nhĩ rồi quay mình bỏ đi.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho rằng mình khoan thứ cho người ắt người phải hối cải. Nào ngờ, mấy ngày sau lại xảy ra một chuyện nữa. Đêm đó, Nỗ Nhĩ lúc cởi áo đi nghỉ, nhác thấy một đứa thị nữ ở phòng bên vò đầu bứt cổ, đã đi nằm rồi lại dậy đốt đèn lên, đốt đèn xong lại tắt, tắt rồi lại đốt…

Linh tính báo cho ông biết thế nào đêm nay cũng có chuyện.

Ông bèn lẳng lặng ngồi dậy, mặc nhuyễn giáp, đeo cung tên lẻn ra ngoài phòng.

Trời tối như mực. Bên cạnh bức rèm, một bóng đen lao vút lại. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vội rút tên giương cung bắn một phát.

Thích khách quả thật nhanh nhẹn, tung người lên cao tránh thoát mũi tên. Ông đuổi tới, phóng liền ba phát tên, trúng ngay gót chân hung thủ. Hắn la lên một tiếng rồi té huỵch xuống đất. Bọn thị vệ lúc đó đã biết tin, nhất tề ồ tới trói gô thích khách, khảo đả. Hắn khai tên Nghĩa Tô. Nhưng rồi Nỗ Nhĩ cũng lại tha cho hắn đi.

Từ đó về sau, người trong phủ ai cũng lưu ý đề phòng từng phút. Hoàng Thái Cực tuổi tuy còn nhỏ, nhưng là người rất có kiến thức. Cực nói nhỏ với cha:

- Hiện nay, kẻ thù rất đông, phụ thân đề phòng khó lắm. Chi bằng phụ thân tạm thời ra ngoài đề tránh bất trắc.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề gật đầu nghe kế. Một ý nghĩ bỗng vụt tới. Ông nghĩ Lý Thành Lương, xưa kia đã thông đồng với Ni Kham Ngoại Lan giết hại ông và cha, mãi tới nay thù còn chưa báo mà thi hài ông cha cũng chưa đem về được. Thiết tưởng nay đem quân xuất thành hướng tới Minh triều hỏi tội, lúc đắc thắng trở về vừa có thể áp phục được anh em họ hàng, lại hoàn tất được ý muốn của ông cha đã khuất. Nỗ Nhĩ nghĩ vậy xong cho dựng một cây cờ trắng lớn, trên viết bốn chữ "Báo thù rửa hận". Ông lại điểm năm ngàn tinh binh, cho mặc hiếu phục. Việc trong nhà ông giao cho người em thứ là Thư Nhĩ Cáp Tề rồi chuẩn bị xuất quân. Tất cả họ hàng nghe Nỗ Nhĩ Cáp Tề xuất sư lần này để báo thù rửa hận cho ông cha, ai cũng đều cảm phục, kéo nhau tiễn ra khỏi thành Hưng Kinh.

Lại nói đến Lý thành Lương sau khi giết chết hai cha con đô đốc Giác Xương An, trong lòng lúc nào cũng tâm niệm đề phòng Nỗ Nhĩ Cáp Tề tìm cách báo thù. Quả nhiên hôm nay Nỗ đã tới vấn tội. Được tin này, Lương mất cả chủ ý. May thay dưới trướng ông có một viên quan vốn đa mưu túc kế, liền hiến một kế sách, nhưng đợi tới khi quân địch tới chân thành mới nói.

Chẳng mấy ngày, thám mã liên tiếp đưa tin:

- Binh mã Kiến Châu còn cách thành mười dặm.

- Binh mã Kiến Châu chỉ còn cách thành năm dăm.

- Binh mã Kiến Châu đã hạ trại sát chân thành.

Lý Thành Lương được tin vẫn không thèm để ý tới, chỉ dặn dò quân sĩ giữ vững cửa thành, không được giao chiến với giặc.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề tới ngoài thành Phủ Thuận, khiêu chiến suốt ngày mà vẫn chẳng thấy quân trong thành xuất chiến, Nỗ Nhĩ cũng đành vô kế khả thi. Qua ngày thứ tư, Nỗ Nhĩ lại đem quân tới chân thành khiêu chiến. Bỗng từ trên thành, một phong thư bắn xuống. Nỗ Nhĩ bóc ra xem, chẳng ngờ lòng uất hận bỗng tiêu tan, trái lại hết sức cảm kích đối với Lý Thành Lương, y theo lời lẽ trong thư, lui binh xa thành mười dặm.

Hôm sau, Nỗ Nhĩ mình mặc áo nhũn, chỉ đem theo có bốn, năm chục tên quân tiến thẳng vào thành. Vừa tới chân thành, Nỗ Nhĩ thấy cửa thành mở rộng, từ bên trong Lý Thành Lương thân ra đón tiếp. Hai người cưỡi ngựa song hành, vào tới dinh quan tồng binh mới xuống ngựa.

Một bàn rượu được đặt ra, hai người ngồi đối ẩm. Lý Thành Lương dần dần nói đến chuyện ngộ sát ông và cha Nỗ Nhĩ, cuối cùng đưa ra ý kiến:

- Nay để bảo toàn giao tình giữa hai bên, tình nguyện trả thi hài của hai vị gia tiên. Đồng thời xin cấp sắc thư ba mươi đạo, ngựa ba mươi con.

Nói đoạn, Lương sai thị vệ bưng sắc thư ra đặt trên án thư rồi dắt ngựa đến xếp hàng ngay giữa viện. Nỗ Nhĩ nhìn kỹ thì thấy ngựa đều là thứ tuấn mã, không thể nào không thích. Quay đầu lại, Nỗ còn thấy đèn đuốc sáng trưng, khói hương nghi ngút, càng làm tôn nghiêm thêm ba mươi đạo sắc thư bằng vải đoạn màu vàng. Nỗ cảm thấy đôi chân như nhũn ra, muốn quỳ xuống đất mà lạy. Lương tiến lên, ngăn lại nói:

- Thong thả hãy tạ ơn, ba ngày trước tại hạ đã thế Đại bối lặc xin được thánh chỉ tại đây. Hoàng thượng vẫn phong bối lặc làm Kiến Châu đô đốc như cũ.

Nói đoạn, Lương lớn tiếng hô:

- Xin mời ra đây!

Chỉ nghe bên trong có bát âm nổi dậy. Rồi hai vị văn quan đầu đội thánh chỉ, từ từ bước ra ngoài.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã mấy năm nay mơ tưởng chỉ duy có một việc phục lại nguyên chức đô đốc. Nay đã thấy trước mặt một sự thực hiển nhiên. Bởi vậy bèn bò rạp xuống đất, dập đầu tung hô:

- Vạn tuế vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Nỗ Nhĩ vừa tạ ơn xong thì Lương cùng các quan viên thủ hạ nhất tề tiến ra chúc mừng.

Đêm hôm đó Lương lại bày tiệc. Tiếng bát âm nối dậy nhà trên thì đàn sáo, nhà dưới thì trống phách. Cuộc vui kéo mãi suốt đêm. Nỗ Nhĩ nghỉ lại phủ quan tổng binh. Sáng hôm sau thức dậy, Nỗ Nhĩ đã thấy khắp phủ đệ treo toàn màu trắng. Trước cổng lớn, một cây cờ trắng đang phất phơ trước gió. Tất cả đều màu trắng chẳng khác gì một toà lâu đài bằng ngọc.

Nỗ Nhĩ lấy làm kỳ, bèn hỏi ra mới biết rằng Lương đứng việc tổ chức ngày lễ điếu hai cha con cố đô đốc Giác Xương An. Bữa cơm trưa đã xong, người ta thấy đưa vào hai cỗ quan tài, Nỗ Nhĩ biết đó là thi hài của cha và ông, bò lăn xuống đất kêu khóc thảm thiết.

Lý Thành Lương vội chạy tới nâng Nỗ Nhĩ dậy cho dựng hai chiếc quan tài giữa sảnh. Toàn thành văn võ quan viên khăn áo chỉnh tề đều tới phúng điếu. Cuộc hành lễ đã xong, Nỗ Nhĩ mới hỏi Lương xem ai là người giữ gìn cấn thận thi hài cha, ông của mình. Lương chỉ một người đứng cạnh và bảo:

- Y cũng là một vị bộ chủ tên gọi ước Xước. Thi hài cha, ông của túc hạ chính nhờ y gìn giữ lâu nay đó.

Nỗ Nhĩ tiến lên vài bước chắp tay lạy tạ ơn.

Qua ngày hôm sau, Nỗ Nhĩ mang hai cỗ quan tài ra khỏi thành trở về, có Lý Thành Lương tiễn đưa. Khi từ biệt, Nỗ Nhĩ tặng Lương một con ngựa tên gọi Tam Phi, có tài leo núi như chạy trên đồng bằng, vốn một loại ngựa quý hiếm có. Lương cũng lấy làm cảm kích đối với Nỗ Nhĩ. Lương bèn viết tấu chương về triều tàu với Minh hoàng đế rằng Nỗ Nhĩ rất cảm kích đối với thánh ân.

Chẳng mấy ngày, thánh chỉ từ Bắc Kinh tới nói mỗi năm thưởng cho đô đốc Kiến Châu tám trăm lạng bạc, mười lăm tấm đoạn hoa.

Tờ thánh chí này tới thành Hưng Kinh, đã làm cho Nỗ Nhĩ Cáp Tề mặt mũi vẻ vang. Quả nhiên, từ đó toàn thể họ hàng chẳng còn ai dám khinh nhờn ông nữa.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề mong mỏi lập nhiều công nghiệp lớn khác để khoe khoang với bà con họ hàng. Đại Thiện nghĩ ra một kế sách giúp cha. Thiện nói:

- Phụ nhân nên tới Bắc Kinh tiến cống một phen. Khi trở về nếu được điều may mắn, thì vừa có thể khoa trương oai vũ đối với thân tộc vừa có thể chế phục các bộ lạc khác.

Nỗ Nhĩ cho lời con là phải, lập tức truyền lệnh cho người tới các bộ lạc sưu tầm: ngọc châu, đà điểu và nhiều đồ quý khác nữa. Lại chọn một trăm con ngựa tốt đem theo. Sửa soạn xong, Nỗ nhờ chọn ngày tốt khởi hành với một ngàn vệ binh kiêu dũng.

Bối lặc các bộ lạc cũng như các anh em thân thuộc, tất nhiên, có một cuộc vui nhộn tưng bừng để tiễn đưa quan đô đốc lên đường.

Đô đốc Nỗ Nhĩ Cáp Tề trên đường đi chẳng mấy ngày đã tới Phủ Thuận quan.

Ninh Viễn Bá được tin Kiến Châu đô đốc tiến kinh triều cống, lấy làm vui mừng lắm. Ông liền sai quân sĩ thu dọn phòng trại sạch sẽ cho Nỗ Nhĩ tạm trú. Rồi chọn ngày tốt cùng Nỗ Nhĩ tiến kinh. Ý Nỗ Nhĩ muốn đem theo vào kinh ba trăm vệ binh, nhưng Lý Thành Lương bảo theo quy củ tiến cống thì không được mang nhiều nên chỉ cho Nỗ Nhĩ mang theo bốn mươi tên mà thôi. Người em thứ hai cũng theo Nỗ Nhĩ tiến kinh triều cống.

Hai anh em Nỗ Nhĩ Cáp Tề chưa từng tới Bắc Kinh bao giờ cho nên khi tới nơi, thấy kinh đô hoa lệ phồn thịnh, nhân vật thanh tú, trong lòng lấy làm mến thích. Rồi những cung điện cao lớn hiện ra trước mắt khiến họ sinh ra sợ hãi.

Hai anh em vào thành tới ở trong một toà khách quan. Ngay đêm đó, có hai vị công công tói dạy cho họ những lễ tiết khi vào triều. Nỗ Nhĩ tạ ơn hai vị công công khá nhiều lễ vật, ngoài ra còn biếu xén khắp các gia môn.

Ba hôm sau, đã đến ngày vào triều. Nửa đêm hôm trước, hai anh em Nỗ Nhĩ ngồi trên xe lừa đi thẳng vào tới cửa triều đình. Họ xuống xe, theo người dẫn đạo, tiến vào nội nha trong hoàng thành. Đêm còn khuya, đường xá vắng lặng, họ chỉ thấy hai bên tường cao vòi vọi, đứng sừng sững trong bóng đêm dày đặc. Những góc điện nhô ra ngoài trời, chênh vênh trên đầu các bức tường, chỗ cao chỗ thấp không biết bao nhiêu mà kể.

Càng ngắm, càng nhận họ càng thấy mới lạ. Đi quanh đi quẩn một lúc lâu, hai anh em Nỗ Nhĩ mới tới triều phòng, trong có rất nhiều quan viên túc trực từ lâu, tiến ra ngoài đón rước. Một vị quan thông dịch chuyển ngữ cho đôi bên.

Ngưng một lát, mọi người bỗng nghe vọng ra tiếng chuông vang vang từ Cảnh Dương cung. Ai nấy đều sửa lại mũ áo rồi xếp thành hàng nối đuôi nhau tiên thắng lên điện. Dưới bệ ngọc, hai bên chia ban đứng xếp hàng thứ tự, nghiêm cẩn.

Trời đã rạng đông. ánh nắng đã soi rực góc trơi đông, nhuộm hồng những khuôn mặt của bá quan văn võ đứng trong điện, đang lặng lẽ đợi chờ, thỉnh thoảng tiếng sột soạt của các tà áo mới bị gió thổi tung rồi lại im bặt.

Mọi người đứng đã khá lâu. Bỗng nghe tiếng nhạc trỗi dậy, vừa lúc trời đã sáng to. Trên điện, màu sắc rực rỡ, lấp lánh làm choá cả mắt, khó nhìn rõ mọi thứ. Bọn thị vệ ngự tiền đi qua đi lại hai bên tả hữu trước mặt. Lại còn thái giám mỗi người tay cầm cây đèn lồng "sa cung đăng" diễu qua diễu lại trước ngự toạ, nhảy xong múa điệu nhạc, khi khoan thai, khi dồn dập, họ chia ra đứng hai bên, lặng lẽ, nghiêm trang, tiếng nhạc cũng ngừng bặt.

Lúc đó Thần Tông hoàng đế đã ngồi ngay ngắn trên ngai vàng cao ngất ở phần cuối điện. Điện đình lặng lẽ thêm.

Bỗng trên thềm đá, có tiếng roi gõ mạnh ba tiếng. Tức thì Tán lễ quan đứng hai bên cạnh điện, xướng lễ. Sau đó là các văn thần võ tướng chia ban tiến lên từng đợt rồi quỳ xuống dập đầu gục lạy. Ninh Viễn Bá Lý Thành Lương cũng nối gót trăm quan bò dài xuống đất, trịnh trọng tâu mấy điều. Rồi, trong giây lát, từ bên trên có lệnh truyền xuống. Lương thụt lùi lui ra. Lúc đó, hướng đạo quan mới đưa hai anh em Nỗ Nhĩ lên điện. Một tấm thảm nhung trải ngang hình chữ nhật suốt từ bên tả sang bên hữu trên thềm điện. Hai anh em Nỗ Nhĩ tới đây, ngừng lạy quỳ mọp xuống làm lễ "Tam quy cửu khấu". Tán lễ quan hô lớn một tiếng "Lui" tức thì hai anh em đứng dậy, lui xuống mé dưới điện, tâm thần bấn loạn đến nỗi dung nhan đức hoàng đế như thế nào cũng chẳng rõ nữa.

Hồi 32

DU NGOẠN DOANH ĐÀI

Một lát sau, tan triều, vài quan chức cùng với thông dịch quan đưa hai anh em Nỗ Nhĩ sang Bảo Hoà điện để dự yến do hoàng đế ban. Yến tiệc xong, hai anh em Nỗ Nhĩ hướng lên phía ngai vàng, gục đầu tạ ơn rồi lui ra khỏi trường môn, lên xe về khách quán.

Ngày hôm sau, thánh chỉ giáng xuống, gọi nội vụ đại thần Cung Lý Phiên đưa hai anh em Nỗ Nhĩ đi dạo chơi doanh đài.

Hồi đó đang vào hè. Sáng sớm tinh sương, bọn Nỗ Nhĩ thức dậy ăn mặc đàng hoàng, theo hai vị quan trên đi thắng vào cửa Tây uyển. Anh em Nỗ Nhĩ để tâm quan sát. Họ thấy những cây liễu to cao, buông cành lả lướt xuống tận mặt đất. Bóng liễu trùm lên cả một vùng đất phủ cỏ xanh rờn. Bên dưới, cung nga mỹ nữ qua lại du ngoạn. Làn gió nhẹ thỉnh thoảng lại thổi qua, đẩy đưa mấy cành liễu lướt thướt. Rồi dãy tường hoa chảy dài theo bờ nước xa tít. Bọn Nỗ Nhĩ phóng tầm mắt trên đê, chỉ thấy rặt một loại cỏ bò trồng từng khóm, từng cụm. Trên mặt nước đàn én lông sắc tía bay đi bay lại, như có ý đua với những con thuý điểu màu áo xanh miệng chim chíp kêu tạo thành một điệu nhạc tân kỳ.

Càng đi sâu vào vườn phong cảnh càng u nhã, tĩnh mịch. Hai anh em Nỗ Nhĩ phải vượt qua một cái cầu ván. Hoa sen nở bên dưới đang mùa, hương thơm ngào ngạt, sộc vào mùi khiến tâm hổn kẻ trần tục như bớt được bao phần ô trọc. Phía bên cầu cất một toà thuỷ cát, bốn mặt yểm kính lấp lánh, gió lúc nào cũng hun hút thối qua song cửa nghe vi vút.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề xem xét kỹ khắp nơi, càng thấy cảm phục, cho là một nơi thần tiên hiếm có, chỉ có Thần Tông hoàng đế mới là người tốt phúc được hưởng mà thôi.

Trong khi Nỗ Nhĩ còn đang suy tương như vậy thì cả bọn đã bước tới cửa Tiểu Hồng Môn. Trước mặt mọi người phong cảnh bỗng mở rộng: đó là một hồ nước lớn, bát ngát. Trên hồ có một cái cầu dài bằng gỗ sơn son khúc khuỷu quanh có chạy ngang trên mặt nước, hai bên có bao lơn cũng sơn đỏ viền mép cầu. Thư Nhĩ Cáp Tề đi lên trên mặt cầu, miệng không ngót tán dương. Nỗ Nhĩ quay lại, trừng mắt nhìn em, khiến Thư Nhĩ ngậm miệng, im bặt không dám ho he thêm tiếng nào nữa.

Chẳng mấy chốc, cả bọn đã vượt khỏi chiếc cầu dài. Đối diện họ là một toà lâu đài cao rộng làm bằng ván sơn đỏ, phía trước viết ba chữ "CỬA DOANH ĐÀI". Đi qua toà lầu này thì tới một con đường đá rộng dài, hai bên có những cây cổ thụ mọc cao chót vót đến tận mây xanh. Bên cạnh đường là một toà đại sảnh, từ trong đó chạy ra vài tên thái giám mời khách vào uống trà. Vừa uống trà vừa nghỉ ngơi lấy sức. Bọn Nỗ Nhĩ Cáp Tề hỏi các viên quan hướng đạo thêm nhiều chi tiết đặc biệt của Doanh đài. Họ lại quành về sau sảnh để ra ngoài, xuyên qua một khu rừng thông. Ngoài mép rừng xây một kè đá trắng dài làm bến. Bọn Nỗ Nhĩ vừa ra khỏi rừng vừa thấy một chiếc thuyền lớn. Thế là cả bọn xuống thuyền. Thuyền từ từ trôi ra giữa hồ. Quay đầu nhìn lại mé bờ, bọn Nỗ Nhĩ thấy lâu đài san sát; thật là những điện ngọc lầu quỳnh, vàng son tráng lệ ẩn hiện trong rừng xanh lá cây bóng rợp. Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngự trên mui thuyền, lòng bất giác xúc động, bụng bảo dạ: Địa phương này quả thật đẹp như cành tiên, ví thử cho ta sống ở đây một năm thì dù có phải chết đi cùng cam tâm. Hai mắt ông đăm đăm nhìn mặt hồ, suy ngẫm.

Nỗ Nhĩ còn đang xuất thần thì thuyền đã tới bờ. Cả bọn rời thuyền ra khỏi cửa lên xe trở về khách quán. Lý Thành Lương lúc đó cũng đã về tới nơi. Yến tiệc lại được bày ra ngay tại khách quán. Giữa lúc đang ăn nhậu say sưa, mọi người lại thấy mấy ả phấn son ở đâu tới, rồi điệu múa tiếng ca nổi lên chen với những tiếng nhạc du dương êm ái. Các nàng, nước da trắng như tuyết, giọng hát ấm như oanh, đã làm cho hai anh em Nỗ Nhĩ Cáp Tề đâm ra ngây ngất say mê.

Ngày hôm sau, thánh chỉ giáng xuống, phong Nỗ Nhĩ Cáp Tề làm Long hổ tướng quân, em ông là Thư Nhĩ Cáp Tề cũng được thưởng khá nhiều đồ vật quý giá. Tạ ơn xong, họ thu xếp hành lý lên đường trở về quê.

Hai anh em Nỗ Nhĩ diễu võ giương oai suốt dọc đường về tới quan ngoại. Bộ lạc các nơi được tin Nỗ Nhĩ có điều vinh hiển, ai cũng kéo tới Hưng Kinh chúc mừng. Trong câu chuyện hàn huyên, Nỗ Nhĩ tả lại cảnh hoa lệ ở kinh đô nhà Minh, rồi đến sắc đẹp tuyệt trần của phụ nữ Trung Quốc khiến ai cũng ca tụng và thèm thuồng ước muốn.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt chước xây cất cung điện cao rộng ngay tại Hưng Kinh, định lễ tiết cho anh em bối lặc khiến dần dần mọi người phải công nhận cái địa vị tôn quý của ông.

Qua năm thứ hai, ông thường đem quân ra khỏi thành, nói rằng đi săn, có khi đến hai ba tháng không về, thật ra là đem quân đi đánh chiếm thành trì cướp bóc ruộng đất của ke khác. Ông còn phân chia tướng sĩ thủ hạ cùng anh em thân thích tản mạn đi khắp nơi cũng để đánh thành chiếm đất.

Vào năm thứ hai mươi sáu niên hiệu Vạn lịch nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho người con trai là Chử Anh và mấy người em tên Ba Nhã Tề Hoà, Cát Cái, Phí Anh Đông đem một ngàn quân đi đánh Chữ Lạp Khố lộ, lấy được hơn hai chục đồn trại bắt được đến hơn một vạn người dân bách tính.

Qua năm sau, ông lại sai Ngạch Diệc Đô, Phí Anh Đông, Hỗ Nhĩ Hán đem một ngàn tinh binh đi đánh Ác Rập bộ ở Đông Hải của Hách Tịch Hắc lộ. Nga Mạc cùng Tô Khoái lộ, Phật Nạp Hách Tháp Khắc Sách lộ, bắt sống được đến hai ngàn người đem về.

Đến năm ba mươi bảy, Nỗ Nhĩ Cáp Tề sai thị vệ Hỗ Nhĩ Mạc đem một ngàn quân tiến đánh Thuần Dã lộ, bắt được một số dân, ước đến hai ngàn, đem về Hưng Kinh.

Năm thứ ba mươi tám, ông sai Ngạch Diệc Đô chỉ huy một ngàn quân sĩ tinh nhuệ đánh Mộc Độ Lỗ, Tuy Phương, Ninh Cổ Tháp, Ni Mã Sát, bốn lộ cả thảy, áp giải bốn tay lộ trưởng cùng gia quyến của họ trở về. Khi hành quân qua miền Nhã Lan, lại đánh phá thành trì của họ, cướp được đến hơn một vạn người đem về.

Sang năm thứ ba mươi chín, ông lại sai con trai thứ bảy là A Ba Thái cùng Phí Anh Đông, An Phí Dương Cố, đem một ngàn quân sĩ tấn công Ô Nhĩ Cổ, Thần Mộc Luân, bắt sống được một ngàn người đem về.

Rồi một năm sau, ông lại tấn công Hà Hoà Lý, Ngạch Diệc Đô Hỗ Nhĩ Hán, đích thân chỉ huy đánh phá Hỗ Nhĩ Cổp Lộ với hai ngàn binh sĩ, vây hãm Trát Khố Tháp ba ngày liền, cuối cùng phá vỡ thành, giết chết hơn một ngàn người, bắt sống hơn hai ngàn.

Các lộ trưởng của các lộ về phía tả, thảy đều sợ hãi quay lại đầu hàng Nỗ Nhĩ. Khắp vùng Kiến Châu, Nỗ Nhĩ dụng binh hết năm này qua năm khác, so với trước tăng gấp bội. Thế mà ông vẫn chưa lấy làm vừa ý, kẻ khiến ông căm giận nhất là Ngô Nhĩ Cổ Đạt, tù trưởng bộ lạc Cáp Đạt mà cũng là con rể ông. Hồi đó, ngoài thì bị thế ép của Minh triều, trong lại chịu cảnh kiềm chế của Phú Sát thị, ông bất đắc dĩ phải đem con gái gả cho Ngô Nhĩ Cổ Đạt. Từ đó, hai vợ chồng ông đâm ra bất hoà kịch liệt. Mãi đến khi đi cống trở về, được Thần Tông hoàng đế cho phép thống trị người Nữ Chân, ông mới lấy danh nghĩa bảo vệ Cáp Đạt, đích thân đem quân thẳng tới bộ lạc này, buộc Ngô Nhĩ Cổ Đạt phải giao cho mình bức tỷ thư đời đời truyền lại do Minh triều cấp. Hồi đó Cáp Đạt bộ có tới bảy trăm đạo địa phương. Nỗ Nhĩ Cáp Tề bèn vây chặt thành trì của Ngô Nhĩ Cố Đạt, đến con chuột cũng không chạy thoát được, mục đích chỉ để lấy chiếc tỷ thư.

Ngô Nhĩ nhất định không chịu, bèn mở cửa thành đích thân đem quân đối địch với nhạc gia. Nỗ Nhĩ thấy thế giận sôi gan, liền cho gọi hai đại tướng tay chân tên gọi Hỗ Nhĩ Mạc, Phí Anh Đông, luân phiên đánh phá. Ông còn sai người chạy về Hưng Kinh lấy thêm hai ngàn binh trợ chiến.

Ngô Nhĩ Cổ Đạt tử thủ Cổ thành được đến hơn hai chục hôm, lương hết viện tuyệt: Vào quãng nửa đêm đó, binh Kiến Châu đánh thốc vào thành, bắt trói hết toàn gia Ngô Nhĩ. Nỗ Nhĩ vào thành, một mặt sai người áp giải vợ chồng Ngô Nhĩ về Hưng Kinh, mặt khác ra lệnh cho tướng lĩnh đi khắp nơi để thu phục thuộc địa.

Dưới trướng của Ngô Nhĩ, có một tên bộ tướng tên gọi Sát Thai Chẩm. Chẩm được tin Cáp Đạt bộ bị Kiên Châu tiêu diệt mất rồi, liền đem hai trăm đạo địa phương tới đầu hàng Diệp Hách bộ, để cầu xin Bố Dương Cổ bảo hộ cho mình. Cổ tham đất của Chẩm, bèn đích thân đem đại đội người ngựa dàn trận để đợi. Nỗ Nhĩ được tin đó giận lắm nói:

- Ta với Diệp Hách vừa mới đính ước hôn nhân. Em gái Bố Dương Cổ, ta đã hỏi lấy nhưng chưa cưới, thế mà nay Cổ lại dám cả gan đối đầu với ta thì láo thật!

Nói đoạn, Nỗ Nhĩ sai Đại Thiện đem quân đồn trú tại Cáp Đạt, thân tự điều động đại binh đến Diệp Hách bộ.

Bố Dương Cổ thấy Nỗ Nhĩ tới bèn trách Nỗ Nhĩ đã phản bội minh ước tiêu diệt Cáp Đạt. Nỗ Nhĩ cười nói:

- Đây là việc của gia đình ta, có quan hệ gì tới ngươi đâu mà ngươi nói. Hiện nay, ngươi đã thâu hai trăm đạo địa phương của Cáp Đạt, hỏi ngươi có phản bội minh ước hay không? Một việc nữa là em gái ngươi đã hứa gả cho ta làm vợ, ta hiện vẫn chưa lấy được nàng đem về. Thế mà ngươi lại đem quân đánh nhau với ta, như thế có phải ngươi đã có ý từ hôn rõ ràng rồi không?

Bố Dương Cổ nghe xong, tức như điên, răng nghiến kèn kẹt đến muốn vỡ ra. Cổ quát lớn:

- Lời nói của mi thối lắm! Có thể để cho mi hoành hành bất pháp mà không thể cho ta trượng nghĩa chấp ngôn được sao? Ta nay quyết thoái hôn, không thèm gả em gái cho mi nữa, nghe chưa?

Nỗ Nhĩ Cáp Tề vừa nghe xong câu nói "Không thèm gả em gái", tức giận sôi gan, vì điều đó vốn là một điều phạm kỵ đối với ông. Nỗ Nhĩ liền khoát tay một cái tức thì binh tướng của ông nhất tề xông lên chém giết. Hai bên trống trận vang gầm, tiếng hò hét kêu la inh ỏi. Cuộc ác đấu càng lúc càng kịch liệt. Hai bên đánh nhau mãi tới lúc mặt trời đã gác núi mà vẫn chưa phân thắng bại. Hai bên cùng đánh trống khua chiêng thu quân. Qua ngày hôm sau, hai bên lại đánh nhau.

Rồi cứ như thế, đánh nhau suốt một hơi sáu hôm liền. Quân binh Diệp Hách bộ coi mòi yếu dần, khó bề chống nổi, bèn lùi vào trong thành, đóng chặt cửa không xuất chiến nữa mà cho người ngày đêm đưa tin cấp cứu tói Phủ Thuận quan.

Quảng Ninh tổng binh của Minh triều là Trương Thừa Am, đi tuần cảnh tới miền Phủ Thuận, được tin đó lập tức điều động ba ngàn binh mã tiến tới cứu viện cho Diệp Hách bộ. giữa lúc Nỗ Nhĩ Cáp Tề đang thúc quân kiệt lực đánh thành, bỗng phía sau chiêng trống vang ầm, rồi một chi quân đông đảo ùn ùn kéo tói đi đầu là một cây cờ lớn trên viết hai chữ "Đại Minh".

Nỗ Nhĩ Cáp Tề tự nhủ: Mình vừa được Minh triều phong chức vậy thì quân mã này tới đây ắt để giúp ta. Ông liền hạ lệnh cho quân mã tách làm hai hàng, rồi tự mình tiến lên đón.

Chẳng ngờ, viên tướng Minh đi đầu im lặng chẳng nói lời nào, khi tói gần liền giơ cao ngọn cờ lệnh phất phất mấy cái. Tức thì chi quân Minh xông tới tấn công như bão táp. Nỗ Nhĩ trở tay không kịp, đành phải quay lui. Trận cuộc rối loạn. Nỗ Nhĩ đem hết dũng cảm áp trận, rồi thúc quân tiến tới chiến đấu.

Hồi 33

TRANH CHẤP BIÊN CƯƠNG

Giữa lúc đôi bên đang ác đấu, bỗng mặt sau có tiếng trống trận nổi dậy. Một chi quân mã từ trong thành đánh ra.

Kiến Châu binh trước sau đều gặp địch, đánh một trận là thua một trận, đánh hai trận là thua hai trận, thua luôn một hơi, phải lùi xa bốn chục dặm. Người ngựa tính lại chết mất hơn hai ngàn. Thấy không còn cách gì chống nổi nữa, Kiến Châu binh đành phải chuồn về Hưng Kinh mất dạng.

Từ đó về sau, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hận Bố Dương Cổ sâu đến tận xương tuỷ. Ông luyện tập binh mã ngày đêm, quyết chí báo thù. Chỉ có Ô Lạp Đặc bối lặc Bố Chiêm Thái là hay thường lui tới tặng đồ lễ vật. Bởi vậy, Nỗ Nhĩ có biệt nhãn với Thái.

Thái thấy Diệp Hách thoái hôn, lại làm mối cho Nỗ một đám khác. Thái muốn đem đứa con gái của Mãn Thái là anh mình đến gả cho Nỗ.

Năm sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề có một đứa con gái rất xinh đẹp. Ô Lạp Nạp Thích cũng chơi thân với nàng.

Hai năm sau, Bố Chiêm Thái đến Hưng Kinh thăm cô cháu gái. Nỗ Nhĩ lưu lại trong phủ. Nhờ đó, hai chú cháu thường được gặp mặt nhau bàn luận hàn huyên. Những lúc nói chuyện, người con gái của Thư Nhĩ cũng thường được dự chuyện bên cạnh. Bố Chiêm Thái trước đây đã đưa lễ vật để hỏi con gái Minh An, bối lặc Khoa Nhĩ Bí Đạt Mông Cổ làm vợ nhưng về sau không thành. Thái buồn rầu vô hạn. Nay Thái thấy một vị mỹ nhân đáng yêu như thế thì tránh sao không buồn lòng. Lúc không người để ý, Thái nói nhỏ ý mình với cô cháu gái. Ô Lạp thị đem chuyện này nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Hồi đó Nỗ với Thái bồ bịch với nhau lắm, ông bèn đứng làm mai hỏi cô cháu gái cho Thái.

Qua năm thứ nhì, Ô Lạp thị sinh đứa con trai, đặt tên là A Tế Cách. Sau đó sinh thêm hai đứa con trai nữa, một gọi Đa Nhĩ Cổn, một gọi là Đa Đạc, đó là chuyện về sau.

Lại nói người em gái Bố Dương Cổ vốn là một trang tuyệt thế giai nhân. Khắp cả xứ Mãn Châu không ai là không biết nàng đẹp. Trong gia đình người Mãn ở ngay gian giữa, chỗ tôn nghiêm nhất, thường có đặt tượng ba vị thần để thờ cúng: Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Quan Thế âm Bồ Tát, Quan Công. Họ thường nói thật Quan âm là một nữ Bồ Tát có sắc đẹp tuyệt trần. Do đó họ gọi em gái Bố Dương. Cổ là Hoạt Quan âm (Quan âm sống).

Hoạt Quan âm có sắc đẹp, lại được cha mẹ cưng chiều, thường hay trang điểm lộng lẫy khiến bất cứ ai nhìn thấy cung phải xôn xao trong lòng. Nàng thường cùng các bối lặc Cáp Đạt, Huy Phát, Ô Lạp, Triết Trần đi săn, đuổi thú, bắn chim, hết sức lanh lẹ hoạt bát. Bọn bối lặc thấy nàng đẹp anh nào cũng thèm thuồng muốn đến rỏ rãi. Trong số các bối lặc, nàng thường giao du với Mãng Cữ Lặc Đại, con trai của Lặc Ba Cáp Đạt Nhĩ Hãn, vốn là bối lặc của bộ Khách Nhĩ Khách đất Mông Cổ Mãng Cổ Lặc Đại cũng là một thanh niên tuấn tú. Vì yêu mê nàng nên Đại thường tới Diệp Hách bộ du ngoạn. Trong các cuộc săn bắn, chàng và nàng luôn cưỡi ngựa song hành tìm nơi cây cối rậm rạp để cùng nhau trò chuyện, tình tự. Về sau, khi anh nàng muốn liên kết lại với Kiến Châu vệ, hứa gả nàng cho Nỗ Nhĩ Cáp Tề, nàng biết điều đó nên nhiều lần cãi nhau kịch liệt. Rồi mỗi lần người Kiến Châu tới rước dâu là mỗi lần nàng liều mạng chống lại, nhất định không chịu đi Báo hại Bố Dương Cổ chỉ còn biết nói dối là nàng bị bệnh để khất lần cho qua chuyện. Chuyện rắc rối này kéo dài mãi tới mấy năm thì vừa lúc xảy ra cuộc ác đấu giữa Kiến Châu và Diệp Hách.

Bố Dương Cổ ỷ có Minh triều ủng hộ nên nhân dịp này thoái hôn với Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Mãng Cổ Lặc Đại biết vậy vội sai người đem rất nhiều sính lễ cầu hôn. Cổ thấy em gái mình ưng thuận nên cũng chịu hứa gả. Tin này đồn ra ngoài, khi chạy tới tai bọn bộ chủ, anh nào cũng dậm chân than thở.

- Thật là một đoá hoa tươi đem cắm bãi cứt trâu!

Qua năm sau, Bá Cáp Nhĩ Đạt Hán đem con trai Mãng Cổ Lặc Đại đến Diệp Hách bộ đón dâu. Khách Nhĩ Khách bộ cách rất xa Diệp Hách bộ. Bởi vậy trên đường về, đám cưới này có thể bị quân của các bộ lạc khác chặn đường đánh cướp. Nhờ Mãng Cổ Lặc Đại vốn là một trang thiếu niên anh hùng, lại thêm quân của Ba Cáp Đạt Nhĩ Hán rất đông nên dọc đường được bảo vệ an toàn. Tuy nhiên, họ vẫn trải qua không biết bao nhiêu là gian khổ, hiểm nguy mới về tới được Khách Nhĩ Khách.

Về tới nhà, Mãng Cổ Lặc Đại muốn lấy lòng người đẹp, bèn xây cất một toà nhà hết sức lộng lẫy. Chăng ngờ chưa được một năm, khi toà nhà chưa xong thì người vợ đẹp của Đại chết khiến Đại khóc lóc thê thảm, chết đi sống lại nhiều phen. Từ đó Đại thề không lấy ai nữa, định thủ nghĩa với vợ cho trọn đời. Tin này đồn đi khắp nơi, các bộ lạc xứ Mãn Châu ai cũng phàn nàn thương hại. Ô Lạp bối lặc hay tin cũng than thở.

- Tiếc thay người đẹp như vậy mà chết yểu? Chẳng giống con vợ họ Giác La nhà mình, người xấu như quỷ tính lại dữ như cọp, thế mà hắn không chịu chết cho, mới bực mình chứ.

Lúc Ô Lạp bối lặc phàn nàn như vậy, không ngờ bà Giác La thị đứng ở sau bình phong nghe rõ cả. Bà vốn cậy thế Nỗ Nhĩ Cáp Tề, vì bà là cháu của ông này, nên ăn ở với chồng có chỗ trịch thượng, kiêu căng. Hôm nay chính tai bà nghe được lời chồng nguyền rủa cho mình chết đi, thì làm sao chả tức điên lên. Bà không do dự gì nữa, nhảy bổ ra, chỉ vào mặt chồng hạch hỏi. Bố Chiêm Thái vốn sợ vợ, nay thấy bà xã làm dữ thì hoảng hồn bạt vía, mắt trợn lên trắng dã, miệng há hốc đến không ngậm lại được nữa. Bà công chúa Giác La xỉa xói, chửi bới anh chồng tội nghiệp kia một lúc đã đời rồi quay mình đi hậm hực nói doạ:

- Tao về nhà tố cáo việc này với chú tao, rồi mi biết…

Bố Chiêm Thái nghe nàng nói, giật mình bở vía, vội chạy lại dập đầu xin tha lỗi. Không ngờ, bà Giác La không thèm để ý tới. Bố Chiêm Thái nhục quá hoá giận. Máu hoả bốc lên đến tận đỉnh đầu. Thái thấy vợ đã đi hơi xa, liền rút một chiếc tên, đặt lên cung nhắm cẩn thận rồi bắn một phát thấu suốt qua lồng ngực vợ. Thấy câu chuyện trở thành tai hại, bọn thị vệ lẻn trốn về Hưng Kinh, đem mọi chuyện xảy ra tố cáo với Nỗ Nhĩ Cáp Tề.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề và Nhã Nhĩ Cáp Tề, hai anh em nghe xong vừa buồn vừa giận. Họ lập tức điều động người ngựa kéo tới Ô Lạp. Bố Chiêm Thái vốn đã có lần ăn đòn của quân Kiến Châu, nay nghe chúng sắp tới thì kinh hồn táng đởm, vội bỏ thành trì, chạy vắt giò lên cổ sang thành Diệp Hách bộ. Thành thử Nỗ Nhĩ Cáp Tề chẳng mất một tên quân nào mà tự nhiên được tất cả các thành trì của Ô Lạp. Thanh thế của Nỗ đã lớn, bây giờ lại còn lớn hơn. Nỗ để người em thứ hai ở lại giữ Ô Lạp rồi tự mình đem quân tới Diệp Hách bộ, viết lá thư sai người cầm vào thành. Thư rằng:

"Trước đây ta bắt được Bố Chiêm Thái trên trận địa. Ta tha chết cho hắn, nuôi nâng giúp đỡ hắn như quyên thuộc, lại còn gả đứa cháu gái thứ ba cho hắn làm vợ. Thế mà hắn vong án bội nghĩa dám âm mưu phản loạn. Ta vì vấn tội mà tiến đánh nước hắn. Nay hắn đã theo ngươi, ngươi hãy cắt đầu hắn đem dâng!"

Ba bức thư tương tự liên tiếp gửi vào thành, nhưng bối lặc Bố Dương Cổ coi khinh, chẳng để ý. Nỗ Nhĩ Cáp Tề căm giận đến cực điểm, sai người về nhà điều động thêm bốn vạn binh mã tới, chuẩn bị ác đấu. Một hôm ông với người con trai Đại Thiện bàn kế phá thành, chẳng ngờ dưới trướng có vài tên lính nghe lỏm được. Chúng vốn người Ô Lạp nên vội trốn về tố cáo với Bố Dương Cổ.

Cổ lập tức truyền lệnh di tản tất cả dân chúng hai bên lộ Trương Cát Đường A vào thành xong đốt rụi tất cả nhà cửa trang trại. Đại binh của Nỗ Nhĩ Cáp Tề kéo tới nhưng ăn chẳng có nơi, ở chẳng có chốn, cả một cánh đồng không mông quạnh, xa tít tắp, chỉ còn lại những bãi cỏ lùm cây và toà thành Ngột Tô, cách đó không xa. Ông bèn thúc quân đánh thành này. Thành trưởng là Sơn Đàm Hỗ Thạch Mộc cô thế chống không nổi phải đầu hàng. Ông đem quân vào đóng trong thành không ngờ thành bị phát dịch đậu mùa, quân Kiến Châu chết hơn quá nửa. Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy tình thế bất hảo, vội bỏ thành Ngột Tô, lòng bực tức vô cùng.

Chẳng biết xì cái tức vào đâu, Nỗ Nhĩ Cáp Tề liền phóng hoả một hơi không biết bao nhiêu thành trì, nào là Nhã Cáp thành, Hắc Nhị Tô thành, nào là Hà Đôn thành, Khách Bố Tề thành, nào là Nga Cát Đại thành… và mười chín nơi đồn trại khác cũng theo lửa mà ra tro cả.

Bố Dượng Cổ thấy quân Kiến Châu dữ tợn, tàn ác, chạy tới cáo cấp với triều Minh. Nhà Minh liền sai quan Châu Đại Kỳ đem một ngàn pháo binh giúp quân Diệp Hách bảo vệ thành trì. Quân Kiến Châu biết hoả pháo lợi hại, đành rút quân trở về Tuy phải rút lui, nhưng thực ra chuyến đi này, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng đã xơi ngon Cáp Đạt bộ với bao thành trì phụ thuộc. Về mặt nam của bộ này, người ta thấy có đồn Sài Hà, đồn Phủ An, đồn Tam Đại, đồn Bạch Gia Sung, đồn Tùng Sơn. Những đồn này đất đai phì nhiêu, người dân Kiến Châu thường sang đây để cày cấy làm ăn. Chúng còn tiếp giáp với Thiết Lĩnh quan của nhà Minh miền giới tuyến. Vì ruộng đất béo bở nên thưởng xảy ra việc vượt biên giới để cày cấy kiếm lợi một cách bừa bãi.

Quan tổng binh nhà Minh là Trương Thừa Âm sai viên thông sự quan tên gọi Đổng Quốc Âm tới nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề:

- Ruộng đất ở vùng Sài Hà, Tam Đại, mà dân chúng Kiến Châu của ngươi cày cấy đó, đều thuộc Minh triều ta. Ngươi nên đem hết số cư dân ở sáu cái đồn kia về thành đi. Địa phương này từ nay sẽ được dựng cờ cắm mốc, cấm không được vượt giới cày cấy như trước nữa.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề đáp:

- Nói những điều vô lễ như vậy, thật quả Minh triều ngươi có ý kiếm chuyện với ta rồi.

Nói đoạn Nỗ Nhĩ đưa Đổng Quốc Âm ra khỏi thành, chẳng thèm đếm xỉa đến ý kiến của quan tổng binh nhà Minh.

Trương Thừa Âm thấy Kiến Châu ngang ngược lếu láo như vậy, tự nhủ:

- Ta nay mới tới làm quan tổng binh nơi đây. Nếu không cho chúng biết oai danh của ta thì làm sao chúng sợ ta được.

Nghĩ vậy, Âm liền truyền lệnh cho binh sĩ nhất tề động thủ, đuổi tất cả bọn dân chúng hiện ngụ ở sáu cái đồn kia trở về Kiến Châu rồi ở ngay lằn ranh giới, còn cắm mốc đá và sai quân canh giữ, không cho người Kiến Châu vượt giới tuyến sang cầy cấy bừa bãi nữa.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề được tin tức lắm, nói:

- Triều Minh thường hay giúp bọn Diệp Hách đem quân tới phá ta. Chỉ vì chúng thuộc triều nước lớn, ta đành phải nhịn đấy thôi. Nay cố ý kiếm chuyện, khinh khi thái quá, phen này ta phải xuất quân cùng chúng quyết một phen sống mái mới được!

Nói đoạn, ông sai đại tướng Hỗ Nhĩ Cổ ra khỏi thành, điểm đủ người ngựa. Còn mình thì quay vào nhà trong, luôn luôn mồm kêu lớn:

- Đem quân trang lại đây cho ta!

Bà Ô Lạp vội chạy tới lấy nhung trang rồi vừa giúp chồng nai nịt, vừa hỏi chồng xem chuyến này đi đánh ai và có cần bà đi để hầu hạ chăm nom không. Nỗ Nhĩ tức khí, hung hăng đáp lời bà:

- Ta đi đánh Minh triều. Chúng khinh khi ta thái quá. Chuyến này ta đi để xem ai cao ai thấp, cuộc đánh nhau hẳn ác liệt bà không đi được đâu.

Bà Ô Lạp vốn được chồng rất yêu quý, bởi vậy khi nghe Nỗ Nhĩ nói cần xa bà để ra quân chinh chiến, bà liền để rơi mình vào lòng chồng, miệng năn nỉ:

- Thiếp theo đô đốc cùng đi không nên ư?

Nỗ Nhĩ Cáp Tề xoa xoa đôi má phấn mịn màng của bà một lúc rồi chậm rãi nói:

- Nên lắm chứ nhưng mình nên ở nhà.

Nỗ Nhĩ nói tới đó bỗng có tiếng người con thứ bảy tên A Đa Thái từ ngoài đi vội vào phòng, ghé sát tai bố thì thầm mây câu.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề tức thì biến sắc, để lộ vẻ hung dữ chết người…

                                            ***

Anh Minh hoàng đế (tức Nỗ Nhĩ Cáp Tề) ôn lại dĩ vãng, vừa đến đây nét mặt bỗng biến sắc. Ngài nằm trên giường bệnh đã mấy tiếng đồng hồ không động cựa, vì ngài mải mê trong câu chuyện của quá khứ. Nhưng ký ức chỗ này không còn cho phép ngài nằm yên đấy nữa, nhớ tới cái hậu quả vô cùng khủng khiếp là chính tay ngài đã giết mất đứa con thân yêu Chữ Anh, hơn nữa lại còn hạ lệnh giết cả Thư Nhĩ Cáp Tề, người em đã từng vào sinh ra tử để xây dựng sự nghiệp cho ngài.

Anh Minh hoàng đế bỗng thét lên một tiếng, vang động ra cả phía ngoài, thân hình ngài vụt ngồi dậy. Nhưng vì yếu quá, bởi vết thương trầm trọng, ngài lại nằm vật xuống nước mắt chảy ràn rụa.

Đại bối lặc Đại Thiện từ lâu vẫn ngồi phía ngoài để theo dõi sức khoẻ của ngài, vừa nghe tiếng thét biết là có biến, vội tông cửa chạy vào. Đại Thiện chỉ còn kịp thấy cha đang duỗi thẳng hai chân ra một lần chót, đôi mắt trợn ngược lên, và hắt hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Thế là Anh Minh hoàng đế đã ra đi.

Hồi 34

VUA THÁI TÔNG ĐĂNG VỊ

Anh Minh hoàng đế tức vua Thái Tổ, sáng lập nhà Mãn Thanh, đã mất. Ngài mất vì một viên đại bác của quan kinh lược sứ Liêu Đông Viên Sùng Hoán. Lúc lâm chung, ở bên cạnh ngài chỉ có Đại bối lặc Đại Thiện, bà Nạp Thích và người con trai Đa Nhĩ Cổn của bà. Việc trối trăng hậu sự, Anh Minh hoàng đế đã dặn dò cẩn thận trước ba người vừa vợ vừa con thân yêu này. Nhưng người ta không ngờ được rằng sự thể rồi đây lại khác hẳn ý ngài…

Bà Nạp Thích nằm phục bên cạnh chồng, kêu gào thảm thiết. Đại Thiện, Đa Nhĩ Cổn cùng nắm tay cha mà khóc. Giữa lúc buồn khổ sầu thảm ấy, Tứ bối lặc hối hả chạy từ ngoài vào thấy cha đã chết nằm đó nhưng chẳng khóc lóc gì, hỏi ngay tới việc lập thái tử.

- Phụ hoàng trối lại lập ai làm thái tử?

Đại bối lặc thấy mặt y có vẻ chẳng lành, biết lúc này chẳng thể nói, bèn trả lời một cách hàm hồ.

- Phụ hoàng vừa mất. Mọi sự bọn ta sẽ thu xếp.

Tứ bối lặc nghe đoạn lạnh lùng nói:

- Có gì mà phải thu xếp dần! Phụ hoàng đã mất thì lập thái tử là một việc tối quan hệ. Anh ở đây lo tang sự cho phụ hoàng. Còn em binh quyền nắm trong tay em có thể chủ động việc này. Đối với hai anh A Mẫn và Mãng Cổ Nhĩ Thái em đã nói qua rồi. Mọi sự bên ngoài, hai anh đó đều nghe theo em cả, anh khỏi cần lo ngại. Em sẽ xếp đặt ổn thoả.

Nói xong Tứ bối lặc trở ra, có vẻ dương dương tự đắc. Bà Nạp Thích và Đại Thiên xem cử chỉ của Tứ bối lặc biết y đã có dự bị bên ngoài. Nếu xảy ra cuộc tranh giành ngôi báu tất nhiên nguy hiểm không thể tránh khỏi. Vả chăng bà Nạp Thích cũng chẳng dại gì để con cưng của bà bị giết, bởi vậy bà khẩn khoản với Đại Thiện chớ tiết lộ việc vua cha đã lập Đa Nhĩ Cổn làm thái tử, tình nguyện bỏ luôn cái ngai vàng của hoàng đế để bảo toàn tính mạng cho cả hai mẹ con.

Đại bối lặc thấy tình cảnh của bà Nạp Thích quả thật nguy ngập nên đồng tình lờ chuyện thái tử đi.

Qua ngày thứ hai, các vị bối lặc, đại thần đưa thi hài Anh Minh hoàng đế vào thành Thẩm Dương, quàn tại chính điện để thờ phụng, có Đạt Hải Pháp sư cùng bọn Thích Ma Tăng tụng kinh siêu độ.

Đến giờ khâm liệm, văn võ bá quan cùng các bối lặc, thân vương tề tập tại nội điện để sửa soạn làm lễ. Bỗng thấy Tứ bối lặc, Nhị bối lặc, và Tam bối lặc ai cũng đeo bộ đao hùng hổ tiến vào điện, phía sau có đến hai ba trăm tên võ sĩ theo bén gót dàn hàng chữ nhất dưới thềm. Tứ bối lặc nhảy lên điện, miệng hô lớn:

- Còn có một việc lớn chưa ổn định. Di thể của phụ hoàng thong thả rồi hãy liệm.

Hô xong, y kéo mạnh Đại bối lặc lại giữa điện. Các vị đại thần ai cũng mặt cắt không còn giọt máu. Mọi người lại nghe Tứ bối lặc cất tiếng bảo Đại bối lặc.

- Nước không thể một ngày không vua, dân không thể một ngày không chúa. Phụ hoàng mất đã ba ngày, thế mà ta chưa định được ngôi quốc chủ, đến nỗi lòng ba quân bên ngoài xao xuyến, rối loạn tới cực điểm. Em tuy nắm binh quyền nhưng thực không trấn áp nổi nữa. Nếu không tin anh hãy nhìn kìa!

Nói đến đây, Tứ bối lặc lấy tay chỉ ra ngoài cửa điện. Những tiếng đổ vỡ rầm rầm bỗng vang lên làm mọi người giật mình.

Thì ra cửa điện đã bị phá tan hoang. Ngoài cửa, đông nghẹt lính tráng kẻ nào kẻ nấy đều nai nịt, gươm giáo tua tủa sáng ngời… Đám quân sĩ vừa trông thấy Tứ bối lặc, đồng thanh hồ rầm trời:

- Tứ bối lặc vạn tuế! Tứ bối lặc vạn tuế!

Vừa tung hô, chúng vừa giơ cao gươm giáo, một phần để mừng, một phần để doạ…

Khi đám binh sĩ tung hô vạn tuế vừa xong, Tứ bối lặc lại bảo Đại bối lặc:

- Lúc phụ hoàng lâm chung chỉ có anh và em mà thôi. Vậy phụ hoàng đã nói những gì với anh?

Đại bối lặc nghe Tứ bối lặc nói xong hiểu rõ thâm ý của em, tự nhủ chính mình cũng chẳng muốn làm thái tử thì tội gì không thuận nước xuôi thuyền để giải nỗi hận thù. Bởi vậy ông liền trả lời:

- Phụ hoàng lúc lâm tử có nói với anh rằng: "Tứ bối lặc niên thiếu lại có kiến thức, đáng nên lập làm thái tử".

Câu nói vừa dứt thì tiếng tung hô vạn tuế lại nổi dậy ở dưới điện. Tức thì Nhị bối lặc A Mãn, Tam bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái chạy vút lên điện, công kênh Tứ bối lặc lên ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng rồi quay đầu lại, nói với đám đông:

- Nước không thể một ngày không vua. Lập thái tử hay không lập thái tử, việc đó không thành vấn đề. Hiện nay bọn ta đã tôn Tứ bối lặc lên làm vua. Nếu có kẻ nào không chịu hãy nhìn báu dao của ta đây!

Nói xong, hai ông đích thân nằm bò sát xuống đất làm đại lễ trước ngai vàng của Tứ bối lặc. Thấy hành động của hai bối lặc như vậy, văn võ bá quan đứng đầy nghẹt trong điện nhất tề quỳ xuống làm lễ, dập đầu triều hạ, miệng tung hô:

- Hoàng đế vạn tuế, vạn tuế!

Tứ bối lặc lúc đó tự nhiên nẩy sinh một ý khá đặc biệt, ông vội kéo Đại bối lặc, Nhị bối lạc, Tam bối lặc cùng ngồi xuống ngai vàng, kề vai sát cánh bên nhau để cùng chịu trăm quan triều hạ.

Việc triều hạ vừa xong thì đã thấy Thích Ma Tăng lên điện tâu xin hoàng đế tống liệm, Hoàng Thái Cực (tức Tứ bối lặc, tân hoàng đế) ngồi trên ngai vàng, im lặng không trả lời như có ý chưa nghe thấy. Đại bối lặc cũng tưởng tân hoàng đế không nghe thấy thật, nên nhắc lại thêm một lượt. Nhưng Hoàng Thái Cực bỗng nhiên nói lớn:

- Đại hành hoàng đế hiện còn một điều sở nguyện nhưng chưa được giải quyết, bởi vậy việc khâm liệm hãy khoan!

Sau đó, ông truyền chỉ cho Tuyên quan mời bà Kế đại phi ra trước điện. Đại bối lặc nghe xong biết Tân hoàng đế có ý chẳng lành vội tâu lên.

- Chẳng nên! Chẳng nên? Bởi Kế đại phi hiện đã ở địa vị Thái Hậu. Nếu hoàng thượng cần chỉ dụ, thiết tưởng phải tự khuất thân vào cung của Thái hậu mà truyền. Hơn nữa, phụ hoàng vừa mới mất, kế đại phi đang lúc thương xót muôn phần, hoàng thượng không nên tuyên triệu.

Hoàng Thái Cực vừa cười vừa nói:

- Lời của Đại bối lặc quả không sai chút nào. Khốn thay, việc ngày nay thực ra không phải trẫm dám tuyên triệu Kế đại phi mà lại là phụ hoàng di chỉ tuyên triệu đại phi. Bởi vậy trẩm đâu dám chống đối di chỉ của phụ hoàng.

Đại bối lặc nghe lời nói của Hoàng Thái Cực là danh chính ngôn thuận, không tiện ngăn trở thêm nữa. Chẳng bao lâu bà Nạp Thích, mặt đầy nước mắt, bước ra trước điện.

Văn võ trăm quan ai cũng tiến lên thỉnh an. Hoàng Thái Cực cũng như mọi người thỉnh an xong, bỗng ông quát lên một tiếng lớn:

- Nghe di chỉ đây!

Quát xong, ông đích thân quỳ xuống trước. Tức thì, văn võ bá quan không ai bảo ai cũng vội vàng răm rắp quỳ theo. Tân hoàng đế bò mọp sát đất rồi tuyên đọc.

- Đại hành hoàng đế, có khẩu chiếu giao trẫm truyền rằng: "Sau khi ta mất rồi bà Nạp Thích phải tuẫn táng theo ta!"

Tuyên bố xong, ông đứng dậy, mặt nghiêm nghị đợi chờ. Bà Nạp Thích nghe xong câu nói, thét lên ruột tiếng thảm thiết ba hồn bảy vía lên tận mây xanh. Bà lảo đảo người đi mấy vòng rồi té xỉu ngay vào trong lòng mấy ngýời cung nữ đứng bên cạnh. Lát sau, bà tỉnh dần lại, gần như mất trí, không còn nói lên được lời nào. Hai người con của bà là Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc chạy lên bên cạnh bà, nắm lấy vạt áo mẹ oà lên khóc lóc thảm thiết. Bà cũng oà khóc mếu máo qua đôi lệ, mãi mới bật lên được thành tiếng:

- Ta may được hầu hạ tiên đế từ lúc 12 tuổi, đến nay đã 26 năm, tình sâu như bể, vốn bất nhẫn tương ly, duy chỉ có điều hai đứa con ta là Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc tuổi còn quá nhỏ mà thôi. Sau khi ta chết rồi, chỉ cầu mong hoàng thượng nể tình tiên đế mà săn sóc giùm ta.

Nói xong, bà Nạp Thích liền quỳ xuống đất lạy liền mấy lạy. Hoàng Thái Cực thấy vậy, vội vàng hồi bái. Bà Nạp Thích từ từ đứng dậy, rồi trở về cung.

Lát sau hai con cung nữ trở ra, báo lên:

- Đại phi đã tuẫn tiết theo tiên đế.

Tin báo này vừa xong thì một tin khác cũng vừa tới:

- Thưa, phi A Tế Căn và Đức Nhân Thạch cũng đều tự vẫn cả.

Ba bà phi đã tuẫn tiết cả. Sau đó người ta mới thấy trên chính điện chiêng khua trống gióng, bát âm đàn sáo trôi dậy để làm lễ tấm liệm thi thể Anh Minh hoàng đế. Người ta cũng được nghe Hoàng Thái Cực và triều đình tuyên bố cải hiệu là Thiên Thông năm thứ nhất, hoàng đế là Thái Tông (tức là vị Hoàng đế thứ nhì của nhà Mãn Thanh).

Nhân vì Đại bối lặc, Nhị bối lặc và Tam bối lặc có công lớn đối với mình, Thái Tông hoàng có biệt nhãn đối với họ.

Trong những buổi thiết triều, Thái Tông hoàng đế thường mời cả ba người lên cùng ngồi trên ngai ngang hàng với mình để chịu lễ "quỳ lạy" của bá quan. Sau đó, Thái Tông hoàng đế lại đem việc lập hoàng hậu bàn với anh cả là Đại bối lặc Đại Thiện.

Đại bối lặc hỏi Thái Tông hoàng đế có ý muốn lập ai vào ngôi đó thì Thái Tông hoàng đế bèn đáp:

- Khi phụ hoàng còn tại thế, tuy đã lấy cho trẫm nàng nguyên phi, hơn nữa trong hậu cung còn có rất nhiều phi tần được sủng ái. Nhưng theo ý riêng trẫm, thì chỉ có nàng Bác Nhĩ Tế Cát Đặc là người trẫm muốn lập lên làm hoàng hậu mà thôi. Song trẫm lại sơ rằng thiên hạ sẽ cười trẫm vì nàng vốn đã gái có chồng rồi. Do đó, trẫm do dự mãi, không dám quyết.

Đại bối lặc bèn hồi tâu:

- Bệ hạ thực quá lo xa. Xưa nay, vợ chồng cốt lấy ái tình làm trọng. Nàng Cát Đặc đã hợp ý bệ hạ, thì việc lập làm hoàng hậu có gì khó khăn nữa đâu. Nếu bệ hạ sợ dư luận đàm tiếu về trường hợp riêng của nàng thì hạ thần sẽ hiến cho bẽ hạ một kế, là bệ hạ sẽ cùng nàng làm lễ hôn phối một lần nữa, tế cáo tại nhà Tông miếu một cách trọng thể. Như thế thử hỏi có ai dám chê trách gì về việc lập hoàng hậu của bệ hạ nữa?

Thái Tông hoàng đế nghe xong, gật đầu lia lịa, miệng khen "đúng, đúng" và tiếp thêm:

- Cuộc lễ này cần phải thật linh đình và trang trọng, vậy ai có thể là người lo liệu việc này cho trẫm?

Đại bối lặc suy nghĩ một lát, bèn nói:

- Có rồi! Có rồi. Trong cung của bệ hạ, há chẳng có một cái bụng bự lễ giáo, tức là cái ông mà mọi người gọi là Phạm tiên sinh đó sao? Bệ hạ chỉ cần gọi ông ta tới mà hỏi là xong!

Thái Tông hoàng đế nghe vậy, gật đầu khen phải. Hôm đó, quay về cung, Thái Tông hoàng đế liền truyền gọi Phạm tiên sinh vào bệ kiến. Thế là chỉ vỏn vẹn có một đêm bàn tính với Phạm tiên sinh, Thái Tông hoàng đế đã có cả một chương trình về cuộc lễ đại hôn, với đầy đủ chi tiết.

Qua ngày hôm sau, Thái Tông hoàng đế hạ chỉ giao hết mọi việc lễ lạt cho bộ Lễ lo liệu. Chẳng mấy chốc, khắp thành trong ngoài không chỗ nào là không biết tin nhà vua sách phong Hoàng hậu, thậm chí còn có kẻ nhảy lên tưng tưng, miệng gào: "Hoàng đế ta cưới hoàng hậu".

Ngày hôn lễ đã đến, hoàng cung chăng đèn kết hoa tưng bừng náo nhiệt xưa nay chưa từng thấy. Hoàng hậu ngồi trên chiếc xe phượng liễn, một đội âm nhạc, rồi một đội âm nhạc khác nữa kế tiếp nhau trỗi nhạc đưa hoàng hậu vào cung. Tiếng nhạc đưa xa hàng mấy dặm, dân chúng như phải đứng tim lại mà nghe, mà hân hoan với niềm sung sướng của đức vua của họ.

Xe hoàng hậu vào tới cung. Bà được đoàn cung nữ xinh như mộng đưa lên bệ rồng bệ kiến Thái Tông hoàng đế. Tiếng bát âm lại trỗi dậy những nghì thức phức tạp của một cuộc đại hôn trong cung đình được lo liệu chu đáo. Hôm đó, không một cung, một phi tần nào là không quần đẹp áo tốt dự vào cuộc đại lễ này. Sau cuộc lễ quân thần, đến cuộc lễ phu thê.

Thái Tông hoàng đế và hoàng hậu kề vai ngồi trên ngai vàng để trăm quan triều hạ. Rồi đến cuộc lễ tại nhà Thái miếu. Hoàng đế và hoàng hậu cùng bá quan lại một phen võng lọng kiệu sang đó. Các cuộc lễ bên ngoài đã xong, nhà vua và hoàng hậu quay về cung, chịu lễ bái yến và chúc mừng của phi tần. Tiếp sau đó là cuộc lễ, tương kiến trong gia đình, nào là anh em, nào là chú bác, nào là chị em, nào là cô dì… tất cả đều theo nghi tiết mà hành lễ, mười phần hoàn hảo. Cuối cùng, đến cuộc triều hạ mệnh phụ, cũng vô cùng trọng thể. Mọi cuộc lễ đều xong, lúc đó nhà vua và hoàng hậu mới song song ngồi trên xe loan vào tẩm cung để làm lễ hợp cẩn. Thái Tông hoàng đế đến lúc này mới được rảnh để nhìn ngắm tường tận người vợ yêu của mình. Nàng mặc y phục hoàng hậu theo đúng nghi thức Đại hôn, thêu kim tuyến óng ánh muôn màu trước ánh đèn lồng soi sáng cung đình như ban ngày. Hoàng hậu hôm nay trang điểm vô cùng tinh tế, cặp lông mày nhỏ như lá liễu, uốn vòng cung trên đôi mắt đa tình lúc nào cũng như mặt nước hổ thu lóng lánh, đôi môi thắm nở một nụ cười hệt như bông hoa hàm tiếu. Mái tóc mây được những năm cung nữ chuyên môn chải búi. Người ta chỉ cần nhìn vào mái tóc đó cũng đủ để phải ngây hồn rồi. Tóc của bà là loại tóc mây đen óng ánh, lả lướt xuống đôi vai, mỗi khi làn gió nhẹ thổi qua những sợi tóc mảnh như tơ phất phơ bị làn gió xuân xao động. Đôi hài hết sức đặc biệt. Chung quanh hài dính toàn ngọc lưu ly nhỏ như hạt đậu, ánh sáng chiếu ra ngoài thành muôn đường sáng quắc. Phía trước, chiếc nào cũng có một con phượng xinh xinh, mỗi khi hoàng hậu bước đi đôi cánh phượng nhún nhẩy y như khi chúng đang bay trên khoảng trời xanh cao vút. Thái Tông hoàng đế càng nhìn hoàng hậu càng thấy mê mẩn tinh thần.

Theo sau gót hoàng hậu, một đoàn phi tần cũng áo mới xiêm mới, cũng đủ màu đủ vẻ, chẳng khác gì một đoàn tiên nữ đang theo hầu nàng Hằng Nga, đạo chơi trên Nguyệt điện.

Tuy các nàng phi tần cũng là những giai nhân tuyệt sắc, nhưng bên cạnh hoàng hậu, ai cũng thấy các nàng còn thua xa. Hoàng hậu quả là một giai nhân xưa nay chưa từng thấy ở cái xứ Mãn Châu man dại này. Bà là một đoá hoa rừng mà tạo hoá như có ý dành riêng cho dân tộc Mãn để tô điểm cho ngài vàng dòng tộc Mãn. Đứng trong đám phi tần nọ, bà như một con chim phượng hoàng giữa đàn gà, một cành mẫu đơn đang độ trong một vườn hoa tuy đủ sắc đủ vẻ nhưng quá tầm thường.

Mọi người đẹp trong hoàng cung hôm đó thực đã bị hoàng hậu hạ giá hết. Người ta chỉ thấy có bà duy nhất là nghiêng nước nghiêng thành. Chính cái sắc ấy đã khiến Thái Tông hoàng đế mê mệt đến độ bất chấp cả điều tiếng của thiên hạ để lăn xả vào đường tình, không chút e ngại.

Thái Tông hoàng đế càng trông thấy hoàng hậu của mình càng thấy lòng xốn xang bối rối. Ngài bèn liếc mắt cho toàn thể phi tần, cung nữ lùi ra ngoài rồi ngồi xuống bên cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình, hai kề vai, tay trong tay, tuy đôi miệng chưa nói điều gì nhưng ánh mắt đã gởi cho nhau những niềm ân ái kín sâu xưa nay chưa từng nói tới bao giờ.

Hoàng hậu sẽ vén ống tay áo lụa mỏng, để lộ cánh tay trắng như tuyết, cầm lấy hồ rượu bồ đào nhẹ rót vào hai chiếc ly bằng pha lê đặt trên bàn trước mặt. Ngắm đôi tay xinh như ngọc ấy, Thái Tông hoàng đế cảm thấy mình như được thượng đế cưng chiều nhất, dành riêng cho mình ưu vật có một không hai dưới trần thế. Thế rồi hai ly rượu được nâng lên để làm hợp cẩn, men rượu vừa say trong khi men tình cũng đã thấm sâu tận các thớ thịt cùng làn da của đôi tình nhân… Đây là cuộc tình duyên ngẫu nhiên của Thái Tông hoàng đế, bắt nguồn từ cuộc hành quân của Anh Minh hoàng đế ra Phủ Thuận.

Thân mẫu của Hoàng Thái Cực (tức Thái Tông hoàng đế) là bà Diệp Hách Nạp Thích rất được Anh Minh hoàng đế cưng chiều. Hoàng Thái Cực sinh ra trong cuộc ân ái mặn nồng đó. Chàng lại khôi ngô tuấn tú, nên càng được Anh Minh hoàng đế thêm phân sủng ái. Chàng tuổi tuy còn nhỏ nhưng giải quyết mọi việc rất nhanh và đúng. Thấy con có tài năng xuất chúng, Anh Minh hoàng đế để chàng lại kinh thành, thay mặt ngài xử lý mọi việc trong bộ lạc. Ngài còn cho gọi thêm mấy người anh là A Bái, Thang Cổ Đạt tháp Bái và A Bá Thái Giáp Cực chu toàn công việc.

Hoàng Thái Cực vâng lệnh cha, không dám biếng trễ, ngày đêm lo liệu mọi việc đến quên cả ăn ngủ. Bà Diệp Hách thấy chàng quá vất vả càng thương chàng. Bà biết chàng rất thích đi săn nên bảo mấy người anh của Cực thay phiên nhau xử lý công việc, để cho Cực có chút thì giờ rảnh rang ra ngoài săn bắn giải trí. Thế là Cực được các anh cho phép đi săn luôn ba ngày. Cực liền đem bọn thị vệ vào săn trong rặng núi phía tây…

Hôm đó đoàn thợ săn cao hứng đi sâu mãi vào rừng thẳm đến hàng năm, sáu chục dặm. Họ săn được không biết bao nhiêu thú, bao nhiêu chim. Họ cắm trại câng lều trong giữa khu rừng, tha hồ uống rượu ăn thịt, ca múa, vui thâu đêm. Thật là một đêm vui nhộn hiếm có mà Hoàng Thái Cực cảm thấy đặc biệt thích thú.

Qua ngày hôm sau, đoàn thợ săn lại lên đường đi tiếp, dã thú càng vào sâu trong rừng thẳm càng có nhiều. Đoàn đi tới một khu rừng thông, bỗng thấy trên một bãi đất trống rộng trước mặt có đàn hươu sao đang gặm cỏ. Hoàng Thái Cực mừng rỡ đến cực độ, vội truyền lệnh cho hơn một trăm tên kỵ mã thị vệ hướng về hướng tây săn đuổi, chỉ một chàng mình ở lại Cực lúc đó đứng dưới bóng một cây thông cao, bỗng thấy một con hươu mẹ bị người đuối đang hoảng hốt ba chân bốn cẳng chạy vào khu rừng thông. Cực vội nhảy lên mình ngựa, đuổi gấp. Con hươu mẹ thấy trong rừng có người chạy ra giật mình hoảng sợ, quay đầu chạy tạt về hướng đông, lẹ như mũi tên bắn. Tóm được chú mồi ngon, Cực đời nào chịu bỏ, phóng ngựa như bay đuổi theo. Ngựa của Cực vốn thuộc loại có tiếng cho nên đuổi một lát đã gần kịp, Cực tay tả giương cung, tay hữu rút tên rồi phóng luôn ba mũi, một mũi trúng ngay giữa lưng hươu mẹ. Hươu mẹ chịu đau, vừa chạy vừa lắc, xuyên thẳng tới đầu núi, bốn vó phóng như điên. Tuấn mã như cũng cảm thấy khoái thích lao theo như gió. Chẳng mấy chốc, Cực đã đuổi qua đầu núi, nhìn về trước chỉ thấy sừng sững đứng chắn ngang hai ngọn núi cao chót vót, chênh vênh trên đỉnh khu rừng già. Cực lúc đó đã thấm mệt nên muốn tới nghỉ ngơi đôi chút tại khu rừng, nhất là khi hươu chạy qua đầu núi, chẳng hiểu đã phóng về ngả nào mất hút.

Cực thả lỏng cho ngựa từ từ bước một vào rừng. Đang định xuống ngựa, bỗng nghe đằng sau gáy có tiếng "vút" xé không khí về phía trái. Thế rồi hai tiếng "vút vút" nữa tiếp theo liền.

Hai mũi tên sau thì một mũi chui qua nách Cực, còn mũi kia cắm vào vai áo nhuyễn giáp. Cực biết có người mưu hại, vội rạp đầu xuống, tay giật mạnh giây cương cho ngựa chạy vào hẳn trong rừng già để tạm nấp. Bỗng có tiếng gầm thét nối lên ở phía sau chàng rồi những tiếng vó ngựa rầm rầm đuổi theo, tiếng "vút vút" của những mũi tên bắn đi, tạo thành một quang cảnh hỗn độn giữa khu rừng núi âm u tịch mịch.

Một chiếc tên bay tới, trúng vào đùi ngựa. Lại một chiếc tên nữa cắm phập đùi Cực. May mà khoảng cách hơi xa cho nên sức yếu, tên cắm vào không sâu lắm, Cực vội dùng tay rút phắt tên ra. Con ngựa trúng tên, đau quá hoá khùng, hí một tràng dài rồi giơ cao bốn vó lao mình về trước, xuyên vào khu rừng. Cực bám chặt lấy cổ ngựa, tai chỉ nghe tiếng gió lướt vù vù, chẳng còn biết được gì xảy ra chung quanh nữa.

Chàng phi như thế không biết đã bao lâu, ngựa giảm bị tốc lực, chàng ngồi thẳng người lên, thở phào mấy cái dốc hết nỗi mệt nhọc ra ngoài. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, bốn phía đều là rừng núi bát ngát, cỏ rậm. Xa xa có tiếng suối chảy rì rào. Thật là một quang cảnh nên thơ.

Cực lúc đó đã quá khát, bèn cho ngựa hướng về phía co tiếng suối quay đầu lại sau không thấy kẻ nào theo đuổi, chàng nhảy xuống ngựa, tay cầm cương, rồi dắt ngựa từ từ đi trên đám cỏ mòn lá sắc. Vết thương trên đùi không nặng gì lắm nên không trở ngại nhiều cho cuộc đi bộ của chàng. Càng đi tới tiếng suối càng nghe rõ. Tìm đường về trái rồi về phải nhưng không thấy, chàng đành chậm bước tiến lên. Khi vượt qua một đoạn đèo núi, chàng mừng quýnh bởi đã thấy một thác nước trắng xoá như tấm lụa bạch chạy dài từ trên đỉnh núi xuống mãi tới chân đèo, rồi từ nơi chân đèo, thác nước đã biến thành một con suối nhỏ oằn oèo như lưng rắn chạy trên khu đồng cỏ xanh rì.

Hoàng Thái Cực lòng mừng rỡ khôn xiết, cố đi thêm một đoạn đường ngắn nữa. Chàng cho ngựa uống nước ở một cái vũng cạnh thác, rồi tiến lên vài bước, bụm hai tay hứng nước thác đưa vào miệng. Chàng uống luôn mấy ngụm nước trong mát, cảm thấy tinh thần sảng khoái, thư thái rồi ngồi xuống cạnh thác nước, đưa mắt nhìn trời mây… Phong cảnh núi non thật hùng vĩ. Tứ bề vắng lặng như tờ.

Giữa lúc đang mê mải thương thức cảnh tượng thiên nhiên. Hoàng Thái Cực bỗng nghe một tiếng gầm thét vang lên, xé tan bầu không khí tĩnh mịch. Rồi có tiếng vó ngựa nện trên đường đá lộp cộp vội vã chạy về phía chàng. Cực lúc đó chẳng khác gì con chim phải tên nghe những thanh âm đó mà hoảng sợ, trống ngực đập thình thình.

Phải chăng kẻ thù khi nãy đã đuổi tới đây? Nhưng chàng không đến nỗi lo lắm, bởi vì chỗ chàng ngồi bên cạnh thác nước được bóng cây che khuất, người bên ngoài không thể nhìn thấy được. Chàng lặng lẽ kéo con ngựa xích lại gần mình, rồi nhô đầu ra, nhìn về phía bờ suối.

Trên cánh đồng bằng trước mặt, một bọn người đông có tới ba, bốn chục, cưỡi ngựa đuổi theo một con sói lớn. Con sói khi chạy ra đến giữa cánh đồng thì bị bọn người vây quanh, chạy ngả nào cũng bị chặn lại. Nhìn kỹ bọn người cưỡi ngựa chàng lấy làm lạ lắm. Bởi đó toàn là những thiếu nữ trẻ đẹp, môi son mắt phượng. Các nàng vừa đuổi thú vừa hò hét vang tròn. Con sói xem ra hết đường chạy, chỉ còn một ngả duy nhất là con suối. Các cô gái kia đâu có chịu bỏ; vội quất ngựa đuổi theo. Sói hối hả chạy gần tới bờ suối.

Hoàng Thái Cực không thể ngồi yên, giương cung đặt tên nhắm chính sọ con sói bắn một phát. Cùng lúc đó, một cô gái trong bọn, cũng bắn trúng ngay sau ót con mồi, đối ngược lại với mũi tên của Cực. Sói la lên một tiếng thảm thiết rồi chết lăn ra đất. Cô gái chạy tới, nhảy xuống ngựa xem, thấy có hai mũi tên thì lấy làm lạ. Giữa lúc nàng còn phân vân thì đoàn con gái chạy theo sau đều đã tới, vây lấy con sói. Có một nàng trong số nhanh mắt nhìn thấy bóng Hoàng Thái Cực bên suối, bèn hò cả bọn chạy tới.

Cực lúc này biết rằng khó nấp, chàng dắt ngựa đi ra. Các cô gái chạy lại, vây quanh chàng rồi đưa tới trước mặt một cô nàng có tư thế của một vị chủ nhân. Khi giáp mặt, chàng mới có dịp nhìn kỹ. Chàng không ngờ lại có người đẹp đến thế. Mắt chàng bỗng như bị choá vì sặc đẹp rực rỡ của nàng.

Trang giai nhân trước mặt chàng qua là một ưu vật, sắc nước hương trời. Thân hình nhỏ nhắn, lưng eo, dáng yểu điệu dịu dàng. Chân nàng đi đôi man hài, mình mặc chiếc áo ngắn, tay cộc. Toàn thân nai nịt vừa gọn gàng vừa xinh đẹp, khiến ai cũng phải si mê. Khuôn mặt nàng hình trái xoan, trắng mịn, không cần trang điểm mà vẫn duyên dáng mặn mà. Đôi mi cong cong lá liễu, phủ dài trên cặp mắt lóng lánh. Chiếc mũi dọc dừa và cặp môi thắm như muốn cướp hồn những khách đa tình.

Giai nhân thấy có một chàng trai trẻ đứng trước mặt mình, đôi má bất giác ửng hồng, ra chiều e lệ ngại ngùng. Nàng quay lại bảo thị nữ đứng bên:

- Hỏi xem y là ai? Tại sao dám vào rừng săn bắn của ta?

Thị nữ được lệnh, bèn lại gần Hoàng Thái Cực, bảo:

- Công nương vừa nói gì, công tử nghe rõ rồi chứ?

Nghe hỏi đi hỏi lại hai, ba lần mà Cực vẫn không trả lời.

Đôi mắt chàng bị khuôn mặt xinh tươi kia hút lấy, có nghe thấy gì nữa đâu. Bọn thị nữ vây quanh thấy chàng như ngây như ngốc chẳng khác kẻ mất hồn, bèn cười ồ lên và đùa giễu với nhau:

- Anh chàng này xem chừng điếc chắc?

Có cô nói:

- Hắn có lẽ câm nữa đây?

Lai có cô thêm:

- E rằng là hắn sắp cả mù rồi…

Cô thứ tư có vẻ già dặn từng trải hơn, cười nhạt bào mọi người:

- Bậy nè! Hắn chẳng câm, cũng chẳng điếc đâu. Hắn chỉ mất hồn thôi.

Bọn chị em lại cười ồ cả lên khiến Hoàng Thái Cực giật mình như vừa tỉnh một giấc mộng, bất giác cũng mỉm cười. Rồi chàng lên tiếng:

- Ta vốn là một vị bối lặc. Đây là lần đẩu ta thấy có kẻ dám bảo ta vừa mù, vừa điếc, vừa câm. Mấy con a hoàn này gớm thật.

Bọn thị nữ nghe chàng tự xưng là bối lặc, lại phá lên cười nữa. Chúng chỉ vào mặt chàng, giễu cợt:

- Chị em hãy nhìn anh chàng bối lặc khốn khổ này xem. Hắn ra ngoài mà chả có một mống lính hầu nào! Hắn phải tự giắt ngựa, trông thảm não chưa kìa! Chẳng bù với Tái Tang bối lặc của bọn ta, mỗi khi ra cửa, tiền hô hậu hét ít ra là phải hàng trăm tuỳ tùng.

Hoàng Thái Cực chẳng đặng đừng, đành phải xưng tên họ, kể gia thế rồi thuật cuộc đi săn, gặp con hươu mẹ, đuổi đến nửa đường bị địch nhân ám hại nên phải chạy trốn lạc bước tới đây. Chàng kể rành mạch từ trước đến sau, đầy đủ chi tiết.

Cô gái ngồi nghe hết, tin là chàng nói thật. Hơn nữa nàng thường được thân phụ nàng kể lại cho nghe, nào là bộ lạc Kiến Châu cường thịnh ra sao, nào là Tứ bối lặc anh hùng thế nào, nên lại càng tin thêm. Nàng trông kỹ, thấy chàng quả nhiên khôi ngô tuấn tú, ăn nói hoạt bát, tỏ ra học thức hơn người. Nàng bất giác cảm thấy lòng mình xao xuyến, khó nói nên lời.

Một lúc sau, nàng mới cất giọng oanh thỏ thẻ:

- Bối lặc đã là người Kiến Châu thì đối với bọn thiếp chính là chỗ thân tình rồi. Địa phương này xa uý bộ tới hai trăm dặm. Thiết tưởng bối lặc nhất thời chưa thể về kịp, mà lều trại của bọn thiếp thì ở gần đây, vậy xin bối lặc quá bộ lại nghỉ, uống chén trà, nói chuyện cho vui.

Nôi đoạn nàng nhảy lên mình ngựa, chạy trước dẫn đường.

Hoàng Thái Cực lúc này đã quá si mê, chẳng thể chẳng lên ngựa theo đi. Phía sau bọn thị nữ xinh đẹp cười nói huyên thuyên, lần lượt bước theo. Đoàn người đi qua cánh rừng nhỏ thì thấy một khu lều trại khá lớn. Cực xuống ngựa bước theo vào lều, sau khi chia ngôi chủ khách, bọn thị nữ dâng rượu thịt. Cực chẳng làm khách, vào tiệc ngay, vừa ăn uống vừa hỏi về gia thế người đẹp. Nàng vui vẻ trả lời:

- Địa phương này là biên địa của bộ lạc Khoa Nhi Bí. Phụ thân của thiếp chính là Bộ chủ Bác Nhĩ Tề Cát Đặc, tên Tắc Tang bối lặc.

Hoàng Thái Cực nghe tới đây biết nàng là con gái của Tắc Tang bối lặc, bất giác lòng mừng khấp khởi. Chàng vội đứng dậy, cúi chào thỉnh an, rồi cất giọng trịnh trọng nói:

- Thì ra cô nương vốn là một vị cách cách. Tại hạ thực đã quá đường đột xúc phạm tới phương nhan nhiều lắm.

Vừa nói Cực vừa để ý liếc nhìn tấm thân yểu điệu, thướt tha của nàng. Chàng nhớ lại lời đồn đại của dân chung Mãn Châu, nói rằng Tắc Tang bối lặc có hai vị cách cách, hai đoá hoa hàm tiếu giữa mùa xuân đương độ. Da thịt của cả hai nàng trắng mịn như ngọc, bởi vậy cô lớn mới có tên Đại Ngọc Nhi, còn cô bé Tiểu Ngọc Nhi.

Hoàng Thái Cực có ý tinh nghịch, bèn lên tiếng hói nàng:

- Xin hỏi phương danh của cách cách là gì?

Cách cách Đại Ngọc Nhi (vì cô này là lớn) nghe hỏi cúi đầu hơi thấp xuống, lấy khăn che cặp môi hồng chỉ mỉm cười mà chẳng chịu trả lời. Một đứa thị nữ đứng hầu bên cạnh vốn tính nhanh nhẹn hoạt bát đã tiếp lời:

- Cách cách của tiện nữ tên gọi Đại Ngọc Nhi đấy ạ!

Đại Ngọc Nhi bỗng sa sầm nét mặt. Đứa thị nữ giật mình sợ hãi, lùi hẳn lại đến hai bước. Ngọc Nhi vừa khoát tay vừa bảo đứa thị nữ:

- Ra ngoài kia ngay đi! Đừng ở đây mà lẻo mép. Nếu không có lệnh gọi, cấm được vào, nghe chưa?

Bọn thị nữ thấy cách cách nổi giận, nhất tề lui ra, túm năm tụm ba trò chuyện. Bên trong lều chỉ còn lại có Ngọc Nhi và Thái Cực.

Chàng và nàng trò chuyện có mòi tương đắc lắm, mãi tới chiều tối, đèn cũng chẳng cần đốt, cơm chiều cũng chẳng hò dọn. Bon thị nữ không có lệnh gọi không dám hỏi, chi biết đợi chờ phía ngoài. Chúng ngồi nghe hết tiếng cười này đến tiếng cười khác, trong lều quả đã có một cuộc vui hiếm có.

Cuộc vui hiếm có của đôi trai gái tuổi xuân đương độ ấy kéo mãi suốt sáng. Lúc đó, bọn thị nữ mới được lệnh sửa soạn tiệc rượu. Đại Ngọc Nhi với Hoàng Thái Cực ngồi vào tiệc, vai kề vai, trò chuyện không dứt. Bữa tiệc kéo dài đến gần trưa.

Cực lúc đó mới sực nhớ tới việc nhà, bèn khẩn khoản cáo từ. Ngọc Nhi chẳng còn biết nói sao, đành sai người chạy về bộ lạc điều động một đội quân hộ tống chàng về Kiến Châu.

Lúc tạm biệt của hai người, bọn thị nữ lưu ý chỉ thấy vị cách cách của chúng đôi mắt đỏ hoe ngồi trên mình ngựa đưa tiễn mãi chẳng nỡ trở về. Đôi ngựa kề đầu chàng và nàng chẳng biết đã nói bao nhiêu chuyện cuối cùng đành bịn rịn chia tay. Đại Ngọc Nhi chằng còn lòng dạ nào săn bắn nữa. Nàng cho lệnh nhổ lều, cuốn gói lặng lẽ âm thầm trở về bộ lạc.

Lại nói bà Diệp Hách Nạp Thích từ khi Hoàng Thái Cực vào rừng săn bắn thường băn khoăn ra vào không yên. Đêm đầu không thấy con về, bà chỉ nhớ chứ không lo vì Cực đi săn qua đêm là thường. Qua ngày thứ hai, mãi tới chiều tối mà vẫn chẳng thấy Cực về thì bà đã thấy sốt ruột. Đến lúc lên đèn bà chỉ thấy bọn thị vệ hối hả chạy bố từ ngoài vào nói rằng Tứ bối lặc bị lạc đường chẳng rõ chạy về phương nào càng lấy làm lo, và cật vấn bọn thị vệ kỹ lưỡng thì thấy chính chúng cũng không rõ lý do nữa. Chúng chỉ khai rằng khi tất cà đuổi theo bầy hươu thì duy có Tứ hối lặc ngồi lại trong rừng thông, đến khi chúng quay về thì chẳng thấy chàng đâu nữa. Chúng đã tìm kiếm khắp cả ngả rừng, mãi đến đêm khuya mà chẳng thấy vết tích, bọn chúng đành phải quay về bẩm cáo.

Hai hôm sau, Tứ bối lặc trở về, dương dương đắc ý. Bà Diệp Hách chạy lại nắm lấy tay con, miệng cuống quýt hỏi han. Tử bối lặc nói chẳng có gì lạ xảy ra. Chàng chỉ giục bà cho người đi ngay tới bối lặc Khoa Nhĩ Bí để làm mai cho chàng. Các bà phúc tấn, các nàng cách cách nghe chàng nói, ai cũng cho chàng là điên! Bà Diệp Hách cật vấn mãi chàng mới thổ lộ chân tình, kể lại một lượt cho mẹ nghe.

Chàng còn nói với mẹ:

- Lần này con mới thấy được một người đẹp đấy, mẹ ạ.

Chàng buộc mẹ cho người đi làm mai cầu thân, bà Diệp Hách cau mày bảo:

- Phụ thân con đã định việc hôn nhân cho con rồi, ai còn dám mai mối kiếm đám khác?

Tứ bối lặc vẫn nài nỉ mẹ, không chịu thôi. Bà Diệp Hách chỉ còn biết thoái thác bằng cách bảo đợi phụ thân chàng ít ngày nữa trở về sẽ đứng ra chủ trương cho chàng.

Ít hôm sau, Anh Minh hoàng đế trở về. Lần này xuất quân thắng trận nên ngài vui vẻ lắm. Giữa lúc ngày đang cao hứng, Hoàng Thái Cực đem việc làm mai ra nói, được ngài bằng lòng ngay…

Thế là sau cuộc yến tiệc thành công, Anh Minh hoàng đế cho ngay một vị đại thần mang theo rất nhiều lễ vật đến Khoa Nhĩ Bí cấu hôn. Vị đại thần đi rồi, Hoàng Thái Cực ngày đêm mong ngóng hết ra lại vào, thở vắn than dài.

Đã bao ngày đêm mới thấy vị đại thần trở về, với đầy đủ sính lễ, tất cả vẫn còn nguyên phong, Anh Minh hoàng đế lấy làm lạ, bèn hỏi thì đại thần tâu:

- Tâu bệ hạ! Thật đáng tiếc vì chúng ta đến quá trễ! Khi thần tới Khoa Nhĩ Bí gặp Tắc Tang bối lặc, trình lời cầu hôn thì Tắc Tang cự tuyệt. Ông nói vừa hôm qua ông đã định việc hôn phối cho con gái ông lấy thế tử Đức Nhĩ Cách Lạc của bối lặc Kim Đài Thạch nước Diệp Hách rồi. Thần không tin thì Tắc Tang bối lặc nói ngay rằng mai nhân còn đó để chứng minh sự thực. Ông còn cho gọi một người ra trình diện. Thì ra đó là một viên quan nước Diệp Hách tên gọi A Nhĩ Tháp Thạch. Thần không còn biết nói gì hơn, đành cáo từ ra về.

Anh Minh hoàng đế nghe lời tấu xong cũng chẳng còn biết nói gì hơn. Người đau khổ nhất còn ai khác hơn là Hoàng Thái Cực, chàng không ngờ người đẹp của chàng lại bị người anh con ông cậu cướp mất. Chàng phát điên lên, nhiều lúc như ngày như dại. Chàng buộc mẹ chàng tới Diệp Hách nói với gia đình nhà cậu hãy nhường người đẹp Đại Ngọc Nhi lại cho chàng. Nhưng bà Diệp Hách e chẳng tiện đối với gia đình bên ngoại về việc này, bèn không chịu đi. Thế là mối hận thù phát sinh mãnh liệt trong lòng cậu con cưng của bà. Hoàng Thái Cực định huy động quân mã tới Diệp Hách quyết một phen sống mái. Nhưng Anh Minh hoàng đế ngăn lại và buộc chàng phải cưới vợ ngay tức khắc với người con gái mà ông đã lựa chọn từ trước. Chàng vẫn âm thầm tưởng nhớ đến người đẹp dù đã có người bạn trăm năm xinh đẹp cũng chẳng kém.

Chẳng ngờ ít lâu sau, Diệp Hách bộ ám trợ quân Minh, trong khi Anh Minh hoàng đế đánh bại quân Minh ở núi Tát Nhĩ Hủ. Bởi vậy Kim Đài Thạch chuyển quân qua chinh phạt Diệp Hách. Hoàng Thái Cực trong dịp này được kể là một vị tướng hăng hái nhất, xin xung chức tiên phong đánh phá Đông thành.

Đông thành chính là nơi tổng hành doanh của cha con Kim Đài Thạch. Lòng tưởng nhớ người đẹp năm xưa lúc này bộc phát dữ dội khiến chàng đốc thúc quân sĩ ngày đêm đánh phá, quên cả ăn, bỏ cả nghỉ. Bởi vậy Đông thành chẳng mấy chốc đã bị phá tan.

Kim Đài Thạch thấy đại sự đã hỏng, vội đem bà phúc tấn và gia quyến lên đài cao. Hoàng Thái Cực cho rằng Đại Ngọc Nhĩ cũng có trên đó, bèn hạ lệnh cho binh sĩ vây kín chân đài rồi hô lớn:

- Cửu cửu mau xuống hàng đi để tránh cho Cửu cửu mẫu và biểu tẩu khỏi kinh sợ.

Nhưng sau đó chàng nghe nói người đẹp của chàng còn ở lại trong cung. Thật may cho chàng là đại bối lặc Đại Thiện đem quân tới vừa đúng lúc. Chàng bèn giao quân mã cho anh rồi tức tốc phi ngựa vào cung chỉ mang theo có hai trăm cận vệ.

Lại nói Đại Ngọc Nhi từ khi lấy Đức Nhĩ Cách Lặc thì tình ân nghĩa ái kể thực thắm thiết nồng nàn, thường cùng cưỡi ngựa vào rừng săn bắn, hưởng mọi khoái lạc hạnh phúc.

Tuy vậy, đôi khi nàng cũng nhớ tới cái đêm cùng Hoàng Thái Cực trong căn lều săn khi chưa xuất giá, cảm thấy lòng xao xuyến bâng khuâng. Đức Nhĩ Cách Lặc đối với nàng thật muôn phần yêu quý cưng chiều cho nên lòng tưởng nhớ đó dần dần phai nhạt. Đến lúc này, lúc quốc gia đại sự, chồng thì bị quân Mãn bắt, chưa biết sống chết ra sao, nàng chỉ còn độc thân trốn núp trong thâm cung. Nàng cảm thấy lo sợ ghê gớm song cũng còn đôi chút hy vọng vì nàng nghĩ tới gia đình nhà mình còn có tình cậu cháu với họ Giác La thì nhất định tính mạng của nàng không có gì đáng ngại.

Giữa lúc Đại Ngọc Nhi suy nghĩ vẩn vơ như vậy, bỗng một đoàn cung nữ hớt hơ hót hải chạy tới la lên vội báo nàng:

- Nguy mất lồi! Nguy mất rồi Quân Mãn Châu đã phá thành ùa vào trong cung rồi.

Liền đó, Đại Ngọc Nhi nghe tiếng chân người ngựa rầm rập lao tới như thác lũ. Nàng đứng bật dậy, tỏ vẻ cương nghị đem theo đám cung nữ xông ra bên ngoài nghiêm nét mặt quát bảo tốp binh sĩ đang hùng hổ tiến vào:

- Bọn ngươi cầm gươm vác giáo xông vào nơi cung cấm thực chẳng còn đạo lý nào nữa! Hoàng đế của bọn bay với gia đình ta vốn có tình cậu cháu, chỉ vì mối bất hoà nhất thời xảy ra, ắt cũng không thể vì thế mà xúc phạm chốn cung đình. Việc bất pháp này nếu hoàng đế của bọn người mà biết được, ta e rằng cái đầu của bọn người khó lòng thoát rớt đấy.

Toán quân sĩ nhìn thấy Đại Ngọc Nhi mặt đẹp như hoa nở, tiếng nói lại sang sảng và lạnh lùng như băng giá, liền đứng khựng lại, tiến thoái lưỡng nan. Giữa lúc đó, bỗng một viên tướng trẻ ngồi trên lưng con bạch mã, phi như gió tới trước cửa cung. Toán binh sĩ vội xà thấp đầu xuống miệng hô: "Tứ bối lặc", xong đứng ra hai hàng, im phăng phắc.

Đại Ngọc Nhi nhận ngay ra Hoàng Thái Cực, người tình một đêm của nàng thuở nọ. Nàng liếc mắt nhìn trộm, mới biết hồi này người tình của mình càng tuấn tú, đáng yêu hơn. Nàng bất giác ửng hồng đôi má. Tứ bối lặc vừa thấy nàng liền tiến vội tới thỉnh an và cố chọn lấy cách xưng hô cũng như giọng nói bình thường nhất:

- Biểu tẩu lâu nay có được mạnh giỏi không? Tôi tới hơi trễ, khiến tẩu tẩu phải sợ hãi một phen, mong tẩu tẩu thứ lỗi cho. Tôi sẽ xin ở lại đây đề hầu hạ tẩu tẩu.

Rồi chàng khoát tay ra hiệu binh sĩ lui hết.

Đại Ngọc Nhi mặt càng đỏ thêm. Nàng cúi xuống, lấy vạt áo che nửa miệng hoa, mỉm cười đáp:

- Binh sĩ của quý bộ xông vào trong cung thì làm sao thiếp chẳng sợ hãi. May có bối lặc đến kịp khiến thiếp tránh được một phen nguy hiểm, đó thực là một cái ơn tái tạo. Song trong tình thế hiện nay, thiếp đã trở thành một cung tần vong quốc, thì cái chuyện hiểm nguy, sợ hãi kia cũng đành phải chịu chứ đâu dám oán giận bối lặc.

Nàng vừa nói xong bỗng mắt đỏ hoe, rồi nguýt chàng một cái dài lộ vẻ oán giận đến cùng cực. Chàng thấy vậy hiểu ý nàng, chỉ muốn đem lòng mình mà thổ lộ nhưng lại sợ con mắt tò mò của bọn cung nữ còn đứng cả đấy. Chàng bèn ghé sát tai nàng:

- Biểu đệ đứng đã quá lâu, chân đã quá mỏi. Bởi vậy biểu đệ mong biểu tẩu đưa vào trong cung ngồi nghỉ một lát cho đỡ mệt, không biết có được không? Biểu đệ còn có một việc mong được Phụng cáo.

Đại Ngọc Nhi thản nhiên nói:

- Chúng ta đều là người chí thân với nhau. Ngồi nghỉ một lát có hại gì?

Nói đoạn, nàng cùng bọn cung nữ đi trước dẫn đường. Hoàng Thái Cực theo sau, đi quanh quẩn một lúc lâu qua không biết bao nhiêu là cung điện mới tới một căn phòng trang trí rất lộng lẫy. Chàng biết đây là phòng ngủ của người đẹp Đại Ngọc Nhi, trong đầu liền nảy sinh một ý tưởng bất chính. Đại Ngọc Nhi quay đầu lại nhìn chàng nhoẻn miệng cười hỏi:

- Chỗ này có thể ngồi được chứ?

Cực tiếp lời:

- Ngồi được. Ngồi được lắm!

Nói đoạn, chàng tiến vào phòng. Đại Ngọc Nhi khoát tay ra hiệu cho các cung nữ lui ra hết. Cực thấy lúc đó chẳng còn ai, bèn đứng dậy tiến lên vài bước cầm lấy tay Ngọc Nhi nói:

- Biểu tẩu? Tẩu có nghĩ tới nỗi khổ sầu của biểu đệ không?

Ngọc Nhi khẽ giật tay ra khỏi tay chàng rồi lấy ở trên giường kỷ chiếc khăn màu hồng, vừa chùi nước mắt vừa khóc thút thít nói:

- Chàng thật là bạc.

Nàng chỉ nói được có một câu đó rồi bỗng oà lên khóc nghe bi thiết đến xé phối cào gan. Chàng đem hết mọi việc xảy ra và mối khổ tâm của mình ôn tồn thuật cho nàng nghe. Chàng còn nói những lời âu yếm rồi xin lỗi đôi ba lần. Người đẹp bỗng nhiên thôi khóc. Chàng đưa tay kéo nàng sát lại bên mình. rồi thay nàng lau nốt mấy giọt lệ còn đọng trên hàng mi. Chàng cất tiếng nói nhỏ nhẹ như chỉ muốn cho hai người nghe thôi:

- Người đẹp của anh đừng có sầu khổ làm gì. Nếu anh không thực tâm yêu em thì đời nào anh liều mạng tới đây ác chiến? Bây giờ đã gặp được em, mối tình xưa vẫn còn đó, em hà tất phải buồn tủi chuyện quốc phá gia vong nữa?

Nàng nghe lời chàng nói, ngẩng lên nhìn chàng âu yếm.

Cái cảnh gương vơ lại lành, hoa xưa ong cũ, khỏi nói ai cũng biết nó nồng thắm đến độ nào!

Hồi 35

KHI MỘT BÀ HẬU ĐA TÌNH THIẾU YÊU

Đại Ngọc Nhi vốn là một vưu vật trời sinh. Lúc lên bảy, nàng có lần theo bọn nô bộc đến mục trường du ngoạn.

Một vị Lạt ma tăng thấy nàng bèn nói:

- Vị cách cách này có cái tướng đại quý.

Bọn nô bộc đứng bên phá lên cười:

- Vị cách cách của bối lặc Khoa Nhĩ Bí bọn tôi chẳng cần phải nói cũng đã quý rồi. Hà tất phải nhắc điều đó.

Vị Lạt ma tăng lắc đầu nghiêm nghị, nói tiếp:

- Ta nói quý là cái quý của bậc đế vương kia!

Bọn nô bộc lại cười rộ:

- Ông sư này càng nói càng khùng rồi. Đất Mãn Châu này cũng như miền Nội Ngoại Mông, tìm đâu cho ra một ông vua chứ? Bộ ông muốn nói vị cách cách của bọn tôi lấy được hoàng đế của nhà Minh chắc?

Câu chuyện này được nhiều người truyền tụng sau đó. Mẹ nàng cũng thường lấy đó để đùa cợt nàng. Cho nên đối với nàng, câu chuyện đế vương coi như một hy vọng tương lai mà nàng thường ấp ủ trong tâm.

Lúc này trông thấy Hoàng Thái Cực trước mặt mình, nàng sực nhớ tới phụ thân chàng hiện đã làm hoàng đế rồi, chàng một ngày kia nhất định phải trở thành Thái tử. Ngoài cao vọng đó ra, nàng vốn có một đoạn ân tình nồng thắm với chàng. Lúc này đang gặp nạn, nàng lại càng phải sáng suốt và khôn ngoan hơn. Bởi vậy trong lòng nàng đã phát sinh ra một chủ ý.

Hai người trò chuyện với nhau trong cung cấm hồi lâu, bọn cung nữ đứng ngoài không ai dám tự tiện bước vào. Mãi sau từ phía trong mới có tiếng vọng ra bảo:

- Mau sửa soạn yên cương cho phúc tấn.

Sau đó, người ta chỉ thấy Hoàng Thái Cực và Đại Ngọc Nhi dắt tay nhau đi từ trong cung ra. Ngọc Nhi gọi bốn đứa thị nữ hầu cận cùng lên ngựa theo nàng. Chàng đem nàng về bản doanh của mình, không cho ai biết. Từ đó Đại Ngọc Nhị trở thành phi tử của Hoàng Thái Cực. Trong cung ai cũng gọi nàng là Cát Đặc phi tử. Hoàng Thái Cực nể tình nàng, cầu xin cha tha chết cho Đức Nhĩ Cách Lặc.

Trên đây đều là chuyện đã qua. Ngày nay tình thế đã đổi khác, Hoàng Thái Cực đã trở thành hoàng đế nước Kim, bèn sách phong người yêu xưa làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Trang Văn trong khi, người vợ cả chỉ được phong lam Quan Thư cung thần phi mà thôi.

Văn hoàng hậu thường ở trong cung Vĩnh Phúc. Thái Tông hoàng đế ngày ngày tới đây ngơi nghỉ. Các phi tần khác đừng hòng được một đêm ông lâm hạnh. Hoàng Thái Cực tuy làm hoàng đế nhưng vì quyến luyến cạnh Văn hậu nên việc quốc gia đại sự đều giao cho ba anh là Đại, Nhị, và Tam bối lặc chia nhau xử lý.

Hồi đó thân vương thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn tuổi mới 15, và thân vương thứ mười lăm là Đa Đạc tuổi mới 13. Văn hậu rất ưa thích hai anh em nhà này nên thường lưu lại trong cung đề bầu bạn với bà. Thái Tông hoàng đế nhớ đến cái chết thê thảm của bà Nạp Thích lúc trước thường bị lương tâm cắn rứt nên cũng biệt đãi hai anh em Đa Nhĩ Cổn.

Hơn nữa Cổn mặt mũi khôi ngô bảnh trai, tính lại khôn ngoan. Văn hậu đối đãi đặc biệt với Cổn cũng chính ở chỗ đó.

Người em gái bà tên Tiểu Ngọc Nhi cũng theo bà vào ở trong cung. Nàng cùng tuổi với Cổn. Bởi vậy hai người có dịp gần nhau, sớm cũng như chiều lúc nào cũng gặp mặt thành thử đâm thân nhau. Đã thế Tiểu Ngọc Nhi cũng có một sắc đẹp nghiêng thành chẳng thua gì chị. Cả hai chị em đều có màu da trắng đẹp như ngọc, cho nên cha mẹ nàng mới dùng chữ Ngọc để đặt tên.

Một hôm, vào buổi trưa hè nhàn nhã, Văn hậu vừa ngủ trưa dậy, không thấy Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đâu.

Bà đoán biết cả hai lúc đó hẳn tới vườn hoa du ngoạn nên đem theo vài đứa cung nữ đi vào vườn. Đến một cây hòe cao có bóng rợp che khắp cả một góc, bà nhác thất Tiểu Ngọc Nhi lúc đang ngồi dưới gốc một cây cổ thụ, trên một phiến đá vuông cạnh bờ hồ và không biết vì lý do gì đã làm nàng buồn giận mà Đa Nhĩ Cổn phải chắp tay lạy nàng, trong khi nàng quay mặt đi chỗ khác chẳng thèm để ý đến. Văn hậu thấy thế tức cười, nói một mình:

- Con nhỏ này kỳ thật! Tính khí vẫn trẻ con quá!

Bà tìm một phiến đá vuông bên cạnh hồ ngồi xuống rồi bảo cung nữ gọi hai người lại. Đa Nhĩ Cổn chạy tới trước mặt bà, được bà kéo vào lòng. Cổn vội quỳ xuống đất ngửa mặt nhìn lên. Văn hậu đặt hai bàn tay lên vai Cổn, nhìn thẳng vào mặt chàng.

Mãi lúc đó bà mới khám phá ra Cổn quả lả một trang thiếu niên xinh đẹp, mày chàng xanh, mắt chàng sáng, môi chàng đỏ, răng chàng trắng, cái gì trong con người của chàng cũng đều đẹp, đều đáng yêu đáng quý. Thế rồi bà nhịn chẳng nổi nữa, cúi đầu xuống đặt một cái hôn say sưa lên môi chàng và nói:

- Này thúc thúc! Thúc thúc yêu nó phải không? Ta gả nó cho thúc thúc nhé?

Đa Nhĩ Cổn vốn tính xảo quyệt khôn ngoan, nghe lời bà xong liền dập đầu tạ ơn. Lúc đó, Tiểu Ngọc Nhi cũng đứng bên cạnh bà. Nàng yêu Cổn nên khi thấy chị mình hôn vào miệng người yêu của mình thì lòng nàng bỗng nhiên nổi ngược máu ghen. Sau đó nàng lại thấy chị nàng hứa gả nàng cho Đa Nhĩ Cổn thì má nàng bỗng ửng đỏ, rồi vì mắc cỡ nàng quay người chạy trốn một mạch.

Buổi tối hôm đó, Văn hậu đem ý định của mình nói cho Thái Tông hoàng đế nghe. Ông xiết bao mừng rỡ lập tức truyền lệnh cho Nội vụ đại thần xây cất ngay một toà lâu đài cho Thập tứ thân vương ngay sau Diễn Khánh cung để chuẩn bị cuộc vui mừng.

Qua năm sau, Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đều mười sáu tuổi. Hai người làm đại lễ. Thật là một cuộc vui muôn phần náo nhiệt. Vợ chồng Cổn - Ngọc từ ngày cưới quả đã được hưởng hạnh phúc hơn người. Tình ân ái càng sâu như bể cả.

Cũng từ đó tình cảnh của Văn hậu càng ngày càng sa sút dần. Bà không còn có cô em gái và cậu thiếu niên Đa Nhĩ Cổn bên cạnh nữa. Thái Tông hoàng đế lúc này cũng thường tới các cung khác, hẳn ngài đã cảm thấy "ngon ăn mãi cũng chán".

Tình cảnh cô đơn khiến Văn hậu buồn bực vô cùng. Bà bèn đem bọn cung nữ cưỡi ngựa ra ngoài thành săn bắn làm vui như hồi còn con gái. Đối với người Mãn, việc săn bắn thường là một trò tiêu khiển. Bởi vậy Thái Tông hoàng đế thấy bà đi săn cũng chẳng ngăn trở gì.

Ai ngờ bà hôm nay đi săn, mai đi săn, đi riết rồi gây ra một mối kỳ duyên mà chẳng ai ngờ trước được.

Số là hôm đó, Văn hậu săn bắn trên một ngọn núi hoa cương, bỗng gặp một con heo rừng. Ngựa của bà là loại tuấn mã, nên bà bỏ xa đoàn tuỳ tùng. Tới một khu rừng con heo tinh quái chạy vòng hết gốc cây này tới mỏm đá nọ, khiến bà đã bắn cả chục mũi tên mà vẫn trật. Bà đuổi mãi tới khi người đã thấm mệt, mồ hôi nhễ nhại ướt đầm cả áo ngoài, hơi thở đã gấp gấp Giữa lúc đó, con heo rừng bỗng phát cáu, hộc lên một tiếng rồi quay lại xông thẳng vào bà; con thú hung hăng há cái mõm to tướng đỏ loét như chậu máu, để lộ những chiếc nanh to và nhọn hoắt. Văn hậu phát hoảng, tay chân run bắn lên, miệng la hét kêu cứu. Bỗng từ trong rừng sâu hai mũi tên phóng ra, trúng ngay vào hai lỗ tai con thú, không sai chệch một ly. Chỉ nghe một tiếng rú ghê rợn, con thú lăn quay ra đất, chết liền.

Bọn cung nữ cũng đã phi ngựa đuổi tới. Văn hậu lúc đó đã hoàn hồn, bèn bảo bọn chúng đi vào cánh rừng trước mặt tìm xem ai đã bắn thú cứu bà.

Không lâu la gì, hai tay đại hán từ trong rừng rậm đã chui ra, nhất tề quỳ xuống trước mặt bà. Văn hậu sai bọn cung nữ hỏi họ xem người ở địa phương nào thì hai tay đại hán vội vàng dập đầu luôn mấy cái và đáp lại:

- Bọn nô tài tên gọi là Vương Cao và Đăng Khoa Tử, đều người tỉnh Sơn Đông. Ông nội của bọn nô tài trước đây buôn bán miền quan ngoại, chẳng may thua lỗ, đành lưu lạc tha hương, kiếm ăn độ nhật tại vùng Liêu Dương, không có cách trở về quê nữa. Nhờ chút võ vẽ cung tên, bọn nô tài đi săn bắn làm kế sinh nhai, mong qua cơn túng quẫn. Mỗi khi săn được dã thú, bọn nô tài lại đem tới thành phủ Thuận bán. Mấy hôm nay thú rừng ít ỏi nên phải qua miền Thẩm Dương này săn bắn. Chẳng ngờ lạc vào vùng cấm địa, xúc phạm tới thánh giá của nương nương, kính mong nương nương tha thứ cho bọn nô tài hèn hạ!

Văn hoàng hậu thấy hai tay thợ săn người Hán ăn nói lanh lẹn, mặt mũi khôi ngô, trong lòng bỗng xúc động. Vừa rồi nếu không có hai tên này thì bà đã chết rồi còn gì. Bởi lễ đó, bà lại càng tỏ vẻ cảm kích bội phần. Bà còn nghĩ tới những lúc rỗi rảnh ở trong cung buồn như chấu cắn, cả ngày chỉ có bọn cung nữ loanh quanh bên cạnh thật là chán, chi bằng đem hai tên thợ săn hoạt bát lanh lợi này về để những lúc nhàn hạ chúng kể chuyện cho mà nghe có phải khoái không. Nghĩ tới đây bà bèn giật giật cương ngựa cho con ô truy của bà chậm rãi bước ra khỏi rừng.

Khi ra tới bên ngoài, Văn hậu gọi con cung nữ thân tín nhất của bà lại gần, ghé tai thì thầm những gì chẳng rõ, rồi bà đứng đấy chờ đợi. Một lát sau, con cung nữ đem hai tên thợ săn Vương Cao và Đăng Khoa Tử trở ra.

Văn hậu trông thấy họ cũng phải phì cười, vội lấy tay che miệng cho khỏi ngượng. Thì ra hai tên thợ săn đã cải trang thành cung nữ để theo bà lẻn vào cung. Từ đó, hai anh chàng thợ săn tha hồ phè phỡn trong cung cấm, sớm hôm thay phiên hầu hạ bà hậu, rồi những lúc rỗi rảnh, lại tỉ tê kể lể những chuyện tình tứ nơi làng xóm quê mùa cho bà nghe. Văn hoàng hậu vốn sinh trưởng nơi lầu son gác tía, nay điện này mai đài khác, thực quả chưa được nghe những chuyện này bao giờ.

Hơn nữa hai tên cung nữ đực nầy lại có tài kể chuyện, cho nên bà càng ngày càng cưng chúng. Bà từ đó yên lòng ở lỳ trong cung, chẳng thèm đi săn để mua vui bán sầu nữa.

Thái Tông hoàng đế bản tính anh hùng, vui chơi mãi với bọn phi tần cũng đâm chán. Ngài liên tục thiết triều, bàn tính việc quốc gia đại sự.

Hồi 36

KHOAN ÔN NHÂN THÁNH HOÀNG ĐẾ

Thấy Đa Nhĩ Cổn có công, Thái Tông hoàng đế tỏ ra hết sức thân thiết với em. Ngài thường truyền cho hai vợ chồng Cổn vào cung tiệc tùng. Văn hoàng hậu thấy Cổn đã trở thành một chàng trai đương sức, càng tỏ vẻ thân mật hơn. Bà thuộc nòi đa tình, thân thể ngọc ngà xinh đẹp, dù là ai khi nhìn thấy cũng khó thể không động lòng mê mẩn. Bởi vậy khi bà đưa trái cây cho Cổn, thì Cổn cũng vội đưa tay ra đón lấy và cố áp chạm vào da trắng muốt của bà. Làn da vừa trắng vừa mịn kia đã gieo một cảm giác kỳ lạ vào lòng chàng, tim chàng như ngừng đập. Cổn tự nhủ: da thịt của Tiểu Ngọc Nhi vợ chàng cũng trắng mịn và quyến rũ chẳng khác gì da thịt của chị nàng - còn gì mê ly hơn nếu ta được dịp du hành trên cả hai làn da tấm ngực ấy. Cổn chưa chịu để trí tưởng tượng chấm dứt nơi đây. Chàng còn tâm niệm một điều là quyết làm sao cho kiếp sống này phải có được những phút say sưa cuồng dại bên tấm thân ngà ngọc của bà chị vợ, thì dù có nát thịt tan xương chàng cũng cam lòng. Nghĩ tới nghĩ lui, Cổn mất cả tự chủ, đôi mắt chàng cứ chầm chập nhìn Văn hậu.

Văn hậu thấy đôi mắt Cổn nhìn bà đến ngây dại thì biết rằng lòng chàng đã có ý tưởng tội lỗi. Bà cũng nhìn thẳng vào mặt Cổn, thấy hàng mi chàng xanh, mắt chàng đẹp, môi chàng đỏ, răng chàng trắng vẫn giống in như ngày bà đã vì quá động tình đặt một cái hôn nồng cháy lên môi chàng dưới bóng cây hòe trong hoa viên. Bất giác lòng bà xao động mạnh, bứt rứt xốn xang. Bà vội quay mặt đi nhưng làm sao có thể che giấu được đôi má lúc đó đã ửng hông vì yêu đương, vì thèm muốn, vì xấu hổ! May thay, lúc đó Thái Tông hoàng đế đang mải nói chuyện với Tiểu Ngọc Nhi nên không lưu ý tới cuộc ngoại tình thầm kín đó của hai người! Tuy vậy cái tình cảm đó một khi đã gieo thì làm sao mà diệt, để rồi về sau một đoạn phong tình đã được thêu dệt tân kỳ, không ai thể ngờ trước được.

Phải chăng đó là duyên phận từ tiền kiếp của hai người, khó thể cưỡng lại định mệnh? Nhưng đó là chuyện về sau.

Qua ngày thứ hai, Thái Tông hoàng đế toạ trào, Võ Anh quận vương là A Tế Cách xuất ban tâu rằng:

- Tâu bệ hạ! Nay có Minh tướng là đê đốc binh đại nguyên soái Khổng Hữu Đức và Tổng binh quan Cảnh Trọng Minh đốc vận lương thảo, đem một vạn ba ngàn tám trăm bảy mươi tư tên quân sĩ tới hàng ta. Quân binh của hai tướng đang đồn trú tại An Đông. Hiện nay có hàng thư tại đây. Kính xin bệ hạ cho ý chỉ!

Nói đoạn, Cách hai tay dâng bức hàng thư lên ngự điện.

Thái Tông bóc thư xem. Thư đại lược nói:

"Trước đây, bản soái vâng lệnh điều quân Tây viện, nhưng tiền lương thiếu thốn, dọc đường lại bị nhân dân đóng cửa bãi chợ, cho nên ngày chẳng được ăn đêm chẳng được ngủ đành phải nhịn tức nuốt hờn. Bản soái hành quân tới Ngô kiều lại bị bọn ác quan ngăn chặn, đến nỗi quân binh nổi giận, phá tan Tân Thành, đánh chiếm Đăng Châu, sau đó thu phục thêm nhiều châu quận. Nhưng chẳng bao lâu viện quân khắp nơi kéo tới vây khốn quân của bản soái suốt nửa năm. Vì lương ít quân của bản soái đành phải bỏ Đăng Châu, vượt tới Quảng Hải đảo. Bản soái thừa cơ thu phục các đảo Quang Lộc, Trướng Sơn Thạch Thành. Từ lâu, bản soái đã có lòng ngưỡng mộ Minh Hãn coi như một tay anh hùng hảo hán trong thiên hạ, có cái chí cái tâm của Nghiêu, Thuấn, Thang, Võ. Bởi vậy bản soái nguyên đem quân đầu hàng, đặc sai phó tướng Lưu Thừa Tô, Tào Thiệu Trung làm quang dung, mong Minh Hãn thừa cơ hội tốt này để hoàn thành đại sự. Đó chính là trời ban phúc cho Mãn mà cũng là cái may lớn cho bản soái vậy!".

Thái Tông xem xong bức thư, bất giác cả mừng, lập tức truyền cho Lưu Thừa Tổ, Tào Thiệu Trung hai người vào bệ kiến. Ngài ngợi khen bọn Lưu, Tào mấy câu, rồi hạ lệnh cho Nhị bối lặc, Tam bối lặc, bối tử Bắc Lạc Nội, đại thần Đỗ Nhĩ Cách đem đại đội người ngựa tới An Đông đón tiếp nguyên soái Khổng Hữu Đức.

Minh triều cùng Triều Tiên được tin Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh đóng quân trên bờ sông An Đông bèn điều động binh mã kéo tới chặn đánh. Quân Mãn xuất lực cự địch quyết liệt. Hơn nữa quân của hai tướng Khổng, Cảnh lâm vào tuyệt địa nên liều chết kháng cự, rốt cuộc được an toàn mà qua sông.

Thái Tông liền truyền dụ cấp nhà cửa ruộng đất cho cánh quân này ở miền Liêu Dương. Khổng, Cảnh trong lòng mười phần cảm kích, có ý muốn vào Hưng Kinh triều kiến Thái Tông để bày tỏ lòng ân. Họ thảo một tờ biểu tạ ơn như sau:

"Hoàng thượng vạn phúc vạn an. Bọn Đức tới nơi thì quan binh đều đã chuẩn bị. Nhờ được cấp dưỡng, ơn lớn như trời bể. Bọn Đức có ý muốn tới đô môn để tạ ơn, nghe lời chỉ dụ của hoàng thượng, được khấu đầu ở cửa khuyết. Biệt bao nỗi run sợ lo âu".

Nghe tin Khổng, Cảnh hai tướng muốn tiến kinh. Thái Tông hoàng đế bèn đích thân đem theo các bối lặc, đại thần ra khỏi thành đón rước. Khổng Hữu Đức và Cảnh Trọng Minh khi đi tới hữu ngạn sông Hỗn Hà, đã được bệ kiến nhà vua. Ngài ngự trong một cái lều lớn toàn bằng vải đoạn vàng. Khổng và Cánh vào trướng, nằm bò xuống mặt đất, dập đầu, miệng nói:

- Đa tạ ơn trời của hoàng thượng.

Thái Tông vội bước xuống, đích thân nâng hai người dậy. Ngài còn giơ tay ra ôm choàng ngang lưng họ. Bọn đại thần đứng hai bên thấy vậy ngạc nhiên, mặt biến sắc. Cái ôm đó chính là một hình thức lễ nghi của người Mãn, tỏ lòng vô cùng kính trọng. Nay Thái Tông dùng đến lễ nghi đó khiến cho bọn đại thần ngạc nhiên vì không hiểu tại sao ngài xem trọng bọn hàng tướng này đến thế.

Cuộc kiến lễ đã xong. Thái Tông hoàng đế ban yến ngay trong trướng. Ngài hạ thánh chỉ phong Khổng Hữu Đức làm Đồ nguyên soái và Cảnh Trọng Minh làm Tổng binh quan. Hai người lãnh chỉ tạ ơn.

Ngày hôm sau, Thái Tông hoàng đế trở về kinh. Khổng, Cảnh hai người cũng được đi theo. Suốt mấy ngày, các bối lặc, đại thần luân phiên nhau thế ngài để tiếp đãi hai người. Cứ môi ngày bãi trào trở về quán khách, Khổng Hữu Đức lại cùng với Cảnh Trọng Minh đàm luận đến ơn đức của Thái Tông mà chưa có cách gì đền đáp. Ít hôm sau, Khổng nghĩ ra được một cách mà y cho là đắc sách lắm. Tức thì Khổng cho mời một số lớn bối lặc, đại thần khắp Mãn Châu, Mông Cổ lại quán khách, thương nghị về việc tôn hiệu cho hoàng đế. Thế là cả bọn nghe theo, rồi giao cho Phạm Văn Trình thảo biểu văn.

Tờ biểu còn được viết ra ba thứ chữ Mãn, Mông, Hán.

Sáng sớm tinh sương Thái Tông thiết triều. Lại bộ kiêm Thạc mặc cẩn Căn Đại Thanh, bối lặc Đa Nhĩ Cổn bưng tờ biểu viết chữ Mãn, Khoa Nhĩ Bí quốc, Thổ Thạc Đồ Tế Nông bưng tờ biểu viết chữ Mông. Còn Khổng Hữu Đức bưng tờ biểu viết chữ Hán. Cả ba vị đại thần nhất tề quỳ xuống trước điện, đợi thị vệ quan bưng biểu văn lên đặt trên long án. Thái Tông cầm tờ biểu lên đọc. Biểu rằng:

"Chư bối lặc, đại thần, văn võ các quan, cùng các bối lặc nơi phiên ngoại, cung duy Thánh thượng, nhờ trời phò trợ, ứng vận mà hưng nghiệp. Giữa lúc thiên hạ hỗn loạn, ngài hữu đức, theo trời; kẻ nào nghịch lại thì dùng binh mà ra oai, kẻ nào thuận theo thì lấy đức mà vỗ về. Lòng khoan hậu, tính ôn nhu của ngài phổ độ tới muôn phương. Ngài chinh phục Minh triều, ngài thống nhất Mông Cổ - Ngài còn thâu được ngọc tỷ, khiến Nội Ngoại (Mông) hợp một tên. Trên thì hợp ý trời, dưới thì thoả lòng dân. Bởi vậy thần dân ngưỡng vọng lòng tôn kính dâng tôn hiệu. Nghi lễ mọi thức đều đã hoàn bị. Rất mong thánh thượng doãn tứ, để thần dân khỏi thất vọng".

Thái Tông hoàng đế xem biểu bèn nói:

- Hiện nay thời cuộc chưa yên. Lúc này chinh là lúc dùng binh, làm gì rảnh rỗi mà nghĩ tới điều đó.

Các bối lặc, đại thần nhất tề khuyến giá. Mọi người đồng thanh nói:

- Xưa nay thường nói: danh có chính thì ngôn mới thuận. Hoàng thượng công trùm hoàn vũ. Nay hoàng thượng dùng binh đánh Minh quốc thì trước hết phải có tôn hiệu, rồi sau hạ chiếu thư chiến đấu với Minh triều mới phải.

Thái Tông hoàng đế nghe bọn triều thần nói có lý, bèn gật đầu ưng chịu. Thế là ngài cho chọn ngày tốt, tế cáo trời đất, vâng chịu tôn hiệu "Khoan ôn nhân thánh hoàng đế", đổi quốc hiệu ra Đại Thanh, cải nguyên Sùng Đức năm thứ nhất.

Ngày hôm sau, Thái Tông đem theo bọn bối lặc tới tế cáo nơi Thái Miếu, tôn ông Thuỷ tổ làm Trạch Vương, ông Cao tổ làm Khánh Vương, ông Tằng tổ làm Xương Vương, tôn ông nội làm Phúc Vương, tôn vua Thái tổ Nỗ Nhĩ Cáp Tề làm Võ hoàng đế. Và từ đó miếu thì gọi Thái miếu, lăng thì gọi Phúc lăng. Nhà vua lại phong Khổng Hữu Đức làm Cung Thuận Vương. Cảnh Trọng Minh làm Hoài Thuận Vương, các bối lặc, đại thần ai cũng được gia phong quan tước. Mặt khác ngài còn phong Duệ Thân Vương Đa Nhĩ Cổn làm Thống soái tiến quân tới sông Đại Lăng kịch chiến ba ngày ba đêm phá tan thành này, bắt được tướng Minh là Tổ Đại Thọ. Thọ bị bắt nhưng lại được thả ra cho trở về nước để giúp Thanh triều làm nội ứng. Cổn lại tiến quân vây chặt Cẩm Châu.

Tin thất thủ liên tiếp báo về Minh triều, Hy Tông hoàng đế bèn phong Hồng Thừa Trù làm kinh lược sứ, đem bọn Vương Phác, Tào Loan Giao, Mã Khoa, Ngô Tam Quế, Lý Phụ Minh, Đường Thông, Bạch Quảng Án, Vương Đình Thân, tám viên quan tổng binh cùng với hơn hai trăm viên tham tướng thu bị và mười ba vạn người ngựa tới Cẩm Châu. Minh quân đóng doanh tại phía bắc thành Tùng Sơn trên ngọn núi Nhú Phong. Đa Nhĩ Cổn được tin quân Minh binh thế lớn mạnh, sợ một mình địch không nổi bèn cho kỳ bài quan về Hưng Kinh cầu viện.

Thái Tông hoàng đế được tin đó lập tức điều động binh mã, thân hành chỉ huy kéo rốc tới Cẩm Châu, giao mọi việc quốc chính ở Hưng Kinh cho Trịnh Thân Vương Tế Nhĩ Cáp Lãng trông nom. Chẳng bao lâu, đại binh của Thái Tông đã kéo tới phía tây bờ sông Liêu Hà. Đa Nhĩ Cổn đi tiếp giá và thuật lại cho Thanh đế biết quân của Hồng Thừa Trù đã tấn công doanh trại của hữu dực quân do Thổ Tạ Đồ Thân Vương trấn đông nhưng đã bị đẩy lui.

Thái Tông nghe xong, im lặng chẳng đáp, cưỡi ngựa đem theo một số đông thân vương, đại thần tới chân núi Tùng Sơn để xem tình hình quân Minh. Khi về đến doanh ngài bèn hạ lệnh cho đại quân tản khai bao vây suốt một đoạn đường từ Tùng Sơn đến Hạnh Sơn, mặt khác đóng doanh trại từ Ô Cần Hà thẳng ra mai bờ bể, chặn con đường lớn.

Binh tướng Minh triều thấy bị quân Thanh bao vây kín khắp, kẻ nào kẻ ấy hoang hốt lo âu, đều có ý trốn chạy. Qua ngày thứ hai, vào giữa lúc còn mờ sương, tám viên quan Tổng binh của Minh triều đều mang quân bản hộ đánh trống thổi tù và xông thẳng xuống tấn công mặt trận do Cát Bố Thập Hiền chỉ huy.

Cát Bố Thập Hiền đã được mật kế của Thái Tông hoàng đế từ trước, chỉ im lặng đợi chờ, không trương cờ, không nổi trống. Hiền chờ quân Minh tiến sát đến cửa doanh, lúc đó mới phất ngọn cờ hồng, tức thì tứ phía trong doanh trại, vạn cây cung đều dương, vạn chiếc tên cùng bắn. Chỉ trong nháy mắt tiền đội tiên phong của Minh quân đã gục chết, ít nhất là bốn, năm trăm. Quân Minh hoảng sợ vội quay mình chạy trốn. Người ngựa phía sau không hay biết gì, vẫn tiến lên, phút chốc trở thành đại loạn. Quân Minh cứ thế tự đạp lên nhau, chết không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh thừa thế đuổi theo Võ Anh quận vương, A Tế Cách, bối tử Bác Lạc Nội, đại thần Đỗ Nhĩ Cách bốn mặt giáp công quân Minh, đuổi đánh tới mãi Tháp Sơn, mười hai kho quân lương của Minh binh cất ở núi Bút Giá đều bị quân Thanh cướp mất.

Bọn quan tướng nhà Minh bị thua một trận liểng xiểng hoảng sợ quá định chuồn về nước, vội triệt thoái bảy doanh bộ binh đóng ở Tùng Sơn. Nhượng hồng kỳ binh của quân Thanh liền bố trí chặn đường. Hôm sau, Hồng Thừa Trù truyền lệnh dốc toàn lực đánh phá đoàn quân này. Hai bên tử chiến.

Giữa lúc kịch đấu một mất một còn, Minh quân bỗng thấy một chi quân mã, dương cao chiếc tán vàng phía dưới có một người oai phong lẫm liệt, với trên một con ngựa cao lớn. Quân Minh giật mình kinh sợ, vội trốn chạy về bản doanh. Thái Tông hoàng đế truyền lệnh đánh chiêng thu quân, một mặt triệu tập chư tướng vào lều nghị sự. Nhà vua nói:

- Trẫm xét thấy quân Minh cờ quạt trong trại không được chỉnh tề. Đêm nay thế nào chúng cũng bỏ trốn!

Nói đoạn, Ngài liền truyền cho Tả dực Tứ kỳ Bãi Nha Thích hợp với quân Mông Cổ của A Lễ Cáp, quân của Bố Cát Thập Hiền, bày thành trận tràng xà, dài suốt tới bờ bể, chặn đường rút lui của quân Minh.

Hồi 37

KHI NGUỜI ĐẸP NỔI MÁU GHEN

Đêm đó, vừa qua canh một, gió bấc bỗng nổi lên đập cành lá phần phật, tiếng sóng bể xô vào những mỏm đá ỳ ầm.

Trong ngự doanh của quân Thanh, những bó đuốc chưng cao sáng rực như ban ngày. Thái Tông hoàng đế ngồi trên ghế có trải tấm da beo. Rất nhiều mãnh tướng chia hai hàng tả hữu. Ở giữa đặt một chiếc bàn lớn trải rộng lên trên là tấm bản đồ Thái Tông đang chỉ bản đồ cho chúng tướng rõ tình hình thì một viên tướng từ ngoài chạy vào cấp báo:

- Người ngựa của quân Minh đang âm thầm di động, e rằng đêm nay chúng cướp trại, xin vạn tuế bảo trọng!

Thái Tông nghe xong cười nhạt nói:

- Lũ chuột ấy thì làm gì có cái can trường đó!

Câu nói đó chưa nói xong lại đã thấy thám mã vào cấp báo:

- Quân Minh đã bỏ trốn. Tổng binh Ngô Tam Quế, Vương Pháp, Đường Thông, Ma Khoa, Bạch Quảng Án, Lý Phụ Minh đem quân mã bộ xông qua mặt trận Cát Bố Thập Hiền để chạy trốn rồi!

Thái Tông chỉ nói một tiếng: "đuổi!", tức thì bọn mãnh tướng đứng hai bên tử hữu nhất tề chạy ra khỏi lều, đem quân truy kích về ngả bờ biển, ào ào như một trận cuồng phong. Thái Tông lại sai bọn tướng Mông Cổ Cố Sơn Ngạch Chân, A Lai Khố Lỗ Khắc, Nhĩ Hán Sát Cáp Nhị đem bản bộ binh tới Hạnh Sơn mai phục, hễ thấy địch quân là đem tận lực đánh giết, không được đuổi xa, cũng không được tự ý hồi quân. Ngài còn hạ lệnh cho Duệ Quận Vương Đa Nhĩ Cổn, Bối Tử La Thác Công Chuẩn Tế đem Tư Kỳ Bài nha thích binh cùng với binh của Thồ Tạ Đồ Thân Vương tiến gấp tới Cẩm Châu, chặn ngang đường lui của địch quân ở ngoài thành, trên con đường đại lộ Tháp Sơn. Lại sai Đạt Tề Kham Tân, Đạt Lý Nạp Lâm xuất lĩnh đội pháo thủ tới Bút Giá Sơn bảo vệ lương thảo. Cũng sai Chinh hoàng kỳ A Lễ Cáp Siêu Cáp, Trấn quốc tướng quân tôn thất Ba Bố Hải Độc, Chương Kinh Đồ Lại đem quân triệt đường địch binh ở Tháp Sơn. Lại sai thêm Anh Võ quân vương A Tế Cách đi bọc hậu, nếu thấy quân địch muốn trốn qua Tháp Sơn thì đem quân Ba Bố Hải Đồ Lại theo đường Ninh Viên thẳng tới Liên Sơn mà truy kích. Lại sai Bối Tử Bác Lạc đem quân từ đồn Tang Cát Nhĩ chặn đánh địch quân. Lúc đó thám mã cũng đã cho tin Trung lang Trương Nhược Kỳ của Minh triều đã lén từ cửa sông Tiểu Lăng mà trốn đi nên nhà vua lại sai Thượng hoàng kỳ Mông Cổ Cô Sơn Mai Lặc, Chương kinh Hổ Sát Cáp Nhĩ, bộ hạ Ba Đặc Ba đem quân tiến lên trận tiền truy sát.

Các lộ binh mã được lệnh đều nhất nhất hành động. Thương thay cho quân Minh bị quân Thanh truy sát, thây nằm như rạ khắp cả đồng ruộng, máu chảy thành sông, thây chất cao như núi. Tên nào còn sống sót thì chạy đông chạy tây, tan tác như gà mất mẹ.

Thái Tông hoàng đế thấy quân mình thắng lợi, thuận thế sai Đa Nhĩ Cổn, A Tế Cách điều động chủ lực quân tiến vây Tháp Sơn, đồng thời cho mười khẩu hồng y đại bác tăng sức đánh phá. Thành Tháp Sơn bị phá. Nhiều tướng Minh bị bắt sống, như Phó tướng Vương Hy Hiền, tham tướng Thôi Định Quốc, Đô Tư Dương Trọng Trấn. Tổng binh Ngô Tam Quế và vương phác vội chạy trốn qua ngã thành Hạnh Sơn như hai con chuột mất hang.

Thái Tông hoàng đế ngầm sai quân binh đào hào bốn mặt, rồi vây kín. Đêm đó, Minh tổng binh Tào Loan Giao cho lệnh triệt thoái cánh quân ở Nhũ Phong Sơn Quân của Giao kéo lại xông lầm vào doanh trại của Thái Tông. Nhà vua cưỡi ngựa, cầm đao, thân tự đốc chiến. Giao bị thương bỏ trốn về thành Tùng Sơn.

Lại nói Cát Bố Thập Hiền đem quân mai phục ở Hạnh Sơn qua ngày thứ ba, quả thấy bụi bốc tung trời ở trước mặt rồi một đội Minh binh chạy tới. Hiền cho thám sát thì biết đó là quân bản bộ của tống binh Ngô Tam Quế và Vương Phác định trốn chạy qua Ninh Viễn. Hiền án binh bất động, đợi cho một nửa số quân Minh qua khỏi, tức thì phát khởi hiệu pháo phục binh nhất tề đứng dậy xông tới, như một đàn sói nhảy vào đàn dê. Quân Minh chết mất đến ba bốn ngàn, những kẻ sống sót chạy tan mát hết. Ngô Tam Quế đem một số tàn binh trốn về địa phận Cao Kiều. Bỗng có tiếng còi nổi lên inh ỏi, quân Thanh mai phục trỗi dậy, đi đầu là một viên đại tướng cầm ngang ngọn giáo chặn đường. Viên tướng đó chính là Đa Đạc Đạc hú lên một tràng lớn vang động ca sơn cốc, khiến quân Minh giật mình hoảng sợ, chạy bừa vào cả doanh trại quân Thanh. Ngô Tam Quế cùng Vương Phác đơn thân độc mã, nhờ ngựa tốt mà trốn mất dạng.

Thật là một cuộc tàn sát khủng khiếp. Quân Thanh từ đầu tới cuối đã giết quân Minh đến năm vạn ba ngàn bảy trăm tám chục người, bắt được đến bảy ngàn bốn trăm bốn chục con ngựa sáu mươi sáu con lừa còn khôi giáp thì cũng đến chín ngàn ba trăm bốn mươi sáu bộ.

Đêm hôm đó, Thái Tông hoàng đế hạ lệnh mở tiệc khao quân. Giữa lúc đang nói cười ầm ĩ, bối lạc Nhạc Thác đứng dậy nói:

- Tâu hoàng thượng, xin cho phép thần đêm nay đem một cánh quân đánh lấy thành Tùng Sơn.

Thái Tông lắc đầu:

- Không được! Tướng sĩ của ta liên tiếp chiến đấu bao ngày đã mệt. Đêm nay, hãy ngơi nghỉ cho lại sức. Hơn nữa, người cũng chớ nên coi thường thành Tùng Sơn. Trẫm được biết trong thánh, tướng sĩ Minh triều rất nhiều: nào là Hồng Thừa Trừ. Khâu Dân Ngưỡng, Trương Đẩu, Diêu Cung. Vương Sĩ Trinh, nào là Tổng binh Vương Đình Thần, Tào Loan Giao, Tổ Đại Lạc. Bọn đại tướng tên tuổi ấy còn điều động dưới trướng đến ba vạn người ngựa để kiên thủ thành trì. Trong số này, đặc biệt có vị Hồng kinh lược là người mà trẫm quý nhất. Trẫm nghe nói y vốn là tay tài tử của Trung nguyên, lại am tường mọi việc, từ phong tục đến triều chính của Trung Quốc. Trẫm muốn thôn tính Trung nguyên, trước hết phải thuyết hàng vị kinh lược đại thần này mới có thể thành công được.

Thái tông nói vừa xong, từ dưới trướng một vị đại thần bước lên nói:

- Việc đó dễ lắm! Thần vốn có đôi phần giao tình với phó tướng Hạ Thừa Đức ở Tùng Sơn. Thần xin thân đi vào thành thuyết hàng họ Hạ trước, sau đó nhờ y giúp thần thuyết hàng Hồng kinh lược, há chẳng hay sao?

Thái Tông quay mặt trông ra, thì đó là bối lặc Đa Đạc.

Nhà vua bất giác cả mừng, liền nói:

- Ngự đệ chịu thân hành đi thuyết hàng, đó thực là cái may lớn cho nhà Đại Thanh ta.

Sau đó khuyến hàng thư được thảo lẹ. Đạc cầm thư đem theo năm trăm danh sĩ tiến vào thành Tùng Sơn. Hà Thừa Đức được thư có ý đầu hàng, nhưng Hồng kinh lược thì nhất định không, dù chết không chịu. Họ Hồng nói:

- Thành có thể phá, đầu có thể rơi nhưng kinh lược nhà Đại Minh Không thể hàng Thái Tông được tin hồi báo, nhăn trán suy nghĩ. Ngài sai quân sư Phạm Văn Trình lại viết một phong thư khuyên hàng, rồi sai họ Phạm đích thân cầm đi. Cứ như thế, liên tiếp gởi đi đến sáu bức mà vẫn không lay chuyển được lòng họ Hồng. Ông hạ lệnh đóng cửa thành, cự tuyệt cả sứ…

Thái Tông vô kế khả thi, chỉ còn cách buộc cáo thị khuyên hàng vào mũi tên bắn vào trong thành. Tờ cáo thị đại lược nói:

"Ta đem quân tới, biết viện quân của ngươi sắp sửa kéo ra. Nhưng ta đã vây khôn Tùng Sơn, từ nam cho đến bể, từ bắc cho đến núi, mọi đường đi đều bị cắt đứt. Ta lại còn chia quân đóng chặn các bộ. Quân của người, kẻ bị chết thì xác nằm khắp đồng, kẻ bị hất xuống bể thì máu đỏ mặt nước. Nay viện binh của ngươi đã tuyệt, đó là ý trời muốn giúp ta. Bọn ngươi sớm hàng, ta không sát hại. Hơn thế nữa, ta quyết sẽ bảo toàn lộc vị cho bọn ngươi. Bọn ngươi nên suy nghĩ kỹ!".

Vây hãm mãi tới ngày mồng một tháng chín, Thái Tông thấy Hồng Thừa Trừ không có ý hàng bèn đem theo tất cả nội ngoại chư vương, bối lặc, bối tử đài thần đốt nhang vái trời rồi sai Duệ Quận Vương Đa Nhĩ Cổn, Túc Quận Vương Hào Cách quay về giữ Thịnh Kinh, đồng thời hạ lệnh nhổ trại hướng phía Tùng Sơn tiến phát. Khi lâm hành, nhà vua còn truyền lệnh hễ ai gặp Hồng kinh lược thì phải bắt sống chứ không được giết. Ngài lại đích thân dẫn pháo đội Hồng y đại bác tới bắn phá Tùng Sơn. Hồng Thừa Trừ chỉ huy quân sĩ trung thành liều chết chống cự. Hai quân tương trì mãnh liệt không phân cao thấp. Bỗng có một phi kỵ chạy như gió cuốn vào ngự doanh, quân canh giữ cửa liền giữ lại.

Viên tướng nhảy xuống ngựa, bước vội vào trướng đặt bức văn thư lên mặt ngự án.

Thái Tông xem xong, bất giác giật nẩy mình. Thì ra đó là bức văn thư báo tang. Bà nguyên phối Quan Thư cung thần phi vừa mới mất. Tuy Thái Tông chỉ sủng ái có Văn hậu nhưng thần phi với ngài từ khi kết tóc xe tơ đã có một phen ân ái cũng không kém phần tha thiết say sưa. Tình thương cảm trỗi dậy, ngài oà lên khóc. Tức khắc, ngài giao phó binh sư lại cho các vị bối lặc, đêm ngày chạy vội về Thịnh Kinh.

Bà thần phi lúc trẻ cũng mười phần xinh đẹp, nếu có thua là chỉ thua cái phong lưu thế thái của Văn hậu mà thôi. Bởi vậy Thái Tông cũng thường lâm hạnh nhất là khi nghĩ tới cái ân nghĩa vợ chồng buổi ban đầu. Những lúc đó, Văn hậu nhìn thấy không khỏi ấm ức, nổi máu ghen.

Thái Tông xuất quân lần này, lúc lâm biệt, bà Thái phi vẫn còn khỏe mạnh như thường, chẳng có chút gì gọi là bệnh hoạn đáng lo ngại. Nào ngờ, nhà vua mới đi có mấy hôm mà bà đã mất. Đại học sĩ Hy Phúc Cương Lâm, Mai Lặc Chương Kinh Lãng Tăng Cơ, được tin bà Thần phi chết, vội chạy vào cung xem xét, thì thấy mặt bà vẫn tươi đẹp, thân thể vẫn mập mạp bình thường, không có gì tỏ ra bạo bệnh đến nỗi phải chết cả. Lâm xem rồi, tỏ vẻ lo âu, bèn nói:

- Hoàng thượng viễn chinh. Trong cung có đại biến. Nay mai trở về, Hoàng thượng hỏi ta, ta biết trả lời cách nào?

Lãnh Tăng Cơ đứng cạnh bèn nói:

- Việc đó quá dễ mà! Ta hãy gọi bọn cung nữ ở Quan thư cung tới, thẩm vấn chúng xem Thần phi chết lúc nào, và có ai ở cạnh đó. Ta sẽ bắt kẻ đó điều tra thì tất nhiên rõ chuyện.

Mấy lời nói đó truyền lẹ tới tai Văn hậu ở Vĩnh Phúc cung.

Bà giật mình hoảng sợ chân tay luống cuống cả lên. Bà vội sai một tên tiểu cung nữ đi mời vị Đại học sĩ vào cung, mặt khác cũng truyền lệnh cho Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn vào cung gấp. Thế rồi mấy câu nói thì thầm bên tai đã khiến vụ án tày trời kia chỉ như đống tro tàn trước gió.

Hồi 38

QUAN KINH LUỢC CHỈ KHOÁI GÁI

Qua ngày thứ hai, Đa Nhĩ Cổn sai Lãnh Tăng Cơ rời thành đi đón rước Thái Tông hoàng đế. Cơ vốn là tay tâm phúc của Cổn, y gặp Thái Tông tự nhiên có nhưng lời che đậy khôn khéo… Mặt khác Hy Phúc Cương Lâm đà được Văn hậu dặn trước nên chỉ xem xét qua loa thi hài Thần phi rồi cho khâm liệm và nhập quan ngay.

Về tới nhà, Thái Tông chỉ còn thấy một cỗ quan tài nằm đó. Ngài không muốn hỏi gì thêm mà chỉ cốt lo tang sự cho xong. Văn hậu còn quỉ quyệt hơn nửa bằng cách làm cho nhà vua vui thích mà quên đi nỗi bi thương đó. Bà đem đủ các thứ nghệ thuật quyến rũ mê ly để cung phụng nhà vua. Bên cạnh người đẹp như tiên nga giáng thế lại được thoả mãn đủ thanh sắc, Thái Tông hoàng đế quả quên đi lúc nào không biết mọi nỗi bi thương. Ngài cùng Văn hậu cười nói, như không có việc gì buồn bã vừa xảy ra. Văn hậu biết Thái Tông tính thích săn bắn chim muông, lại một dịp để hai người ôn lại mảnh tình xua, khiến Đế và hậu bỗng có lại những phút ân ái của buổi ban đầu. Đêm đó, hai người nằm ngủ ngay tại trong lều săn, tận hưởng những khoái lạc trời ban. Rồi từ đó, không còn ai có thể làm cho Đế và Hậu rời xa nhau được nữa.

Thái Tông hoàng đế đi săn đã qua ngày thứ tư, bỗng thấy người con trai cả Túc Quận Vương Hào Cách mặt hớn hở chạy vào trướng, thỉnh an rồi bẩm báo:

- Phụ hoàng, có chuyện mừng lớn! Số là thành Tùng Sơn đã bị con đánh phá tan hoang.

Nhà vua nghe xong, mặt tươi như hoa nở, kéo vội tay cạu con trai ngồi xuống hỏi han mọi việc. Hào Cách nói:

- Số là phó tướng Hạ Thừa Đức giữ thành Tùng Sơn cho người qua báo: y giữ mặt Nam thành ước hẹn đêm đó bắc thang lên bờ thành mà bò vào, y sẽ từ bên trong tiếp sức. Bởi vậy đêm khuya, con đem đại đội nhân mã tới mặt Nam, quả nhiên lọt được vào thành và đã bắt được Kinh lược Hồng Thừa Trù, Tuần phủ Khâu Dân Ngưỡng, Tổng binh Vương Đình Ngưỡng -Tào Loan Giao, Tổ Đại Lạc, Du Kích Tổ Đại Danh, Tổ Đại Thành, cả một bọn quan chức của Minh triều đồng thời còn giết chết Minh binh đến ba ngàn sáu mươi ba tên, bắt sống đàn bà trẻ con đến một ngàn hai trăm bốn mươi chín người, thu được khôi giáp cung tên đến hơn một vạn năm ngàn bộ, hồng y pháo điểu thương đủ cỡ lớn nhỏ đến ba ngàn hai trăm bảy mươi ba khẩu. Xin phụ hoàng mau về kinh định đoạt.

Thái Tông hoàng đế nghe xong mừng quá, phá lên cười ha hả, rồi hạ lệnh trở về Thịnh Kinh. Khi ngài về tới cung, các đại thần lân lượt xin vào khai báo quán tình. Ngài đều lấy lời hay ý đẹp an ủi khen lao. Ngài lại dặn dò không được ngược đãi người Hán, chuẩn y tấu chương của bối lặc Nhạc Thốt. Tấu chương xin rằng: "Hán quan hàng nhất phẩm, thì đem các nàng cách cách con các bối lặc mà thưởng cho làm vợ. Hán quan hàng nhị phẩm thì đem các tiểu thư con các đại thần mà gả cho làm vợ".

Thái Tông hoàng đế lại hạ đạc dụ: đưa Hồng Thừa Trù đến khách quán, đối xử một cách đặt biệt, hằng ngày phải đem bày yến tiệc để khoản đãi, lại chọn bốn cung nữ tuyệt đẹp tới hầu hạ đê tuỳ nghi sai khiến.

Lại nói Hồng Thừa Trù vốn là một vị trung thần của Minh Triều. Ông còn là một danh tướng. Nay bị quan Thanh bắt, ông liều một thác. Không ngờ khi đưa tới Thịnh Kinh, ông chẳng thấy Thái Tông truyền cho bệ kiến mà cũng chẳng thấy đem giết. Những viên quan tổng binh tay chân của ông kẻ thì bị giết, kẻ thì hàng, mấy hôm thôi đã không thấy một ai bên cạnh.

Ngẫm tới bản thân, ông thấy mình ở khách quán, hàng ngày ăn thì sơn hào hải vị, nằm thì nệm gấm gối hoa. Ông cho rằng Thanh triều đối với mình vẫn còn có ý dụ hàng. Ông quyết tuyệt thực để tìm cái chết, nhất định không ăn lấy một hột cơm, suốt ngày chỉ quay mặt về phía tây ngồi như tượng gỗ.

Thái Tông hoàng đế sai người tới khuyên ăn, ông cự tuyệt. Khuyên hàng, ông cũng chẳng nghe. Thái Tông nhịn đã quá mức, phát cáu. Ngài bèn truyền lệnh khoá trái cửa phòng, đuổi hết cung nữ ra ngoài. Hồng Thừa Trù không ăn uống đã mấy bôm. Tin này truyền tới tai Thái Tông ngài rất lấy làm lo rầu nói với bọn đại thần:

- Hồng kinh lược chẳng chịu đầu hàng, thế là cái mộng đánh chiếm Trung nguyên của trẫm không thể thành được nữa.

Ngài bèn hạ thánh chỉ:

- Hễ có ai kỳ mưu xảo kế thuyết được Hồng kính lược đầu hàng, sẽ được thưởng vàng vạn lạng.

Thánh chỉ vừa mới hạ, kẻ nào cũng ngốt của, xun xoe lập mưu định kế. Trong số đại thần, nhiều ông định đến thăm Hồng để chực khuyết thuyết, nhưng Hồng kinh lược chẳng thèm tiếp.

Đã bốn ngày không ăn uống, Hồng kinh lược đói đến cái độ ốm o, trông không còn ra người nữa. Đa Đạc mới nghĩ ra một kế. Đạc cho gọi thư đồng của Hồng, tên gọi Kim Thăng, vừa dỗ vừa doạ để hắn nói cho biết lúc binh sinh Hồng kinh lược thường ưa thích cái gì nhất. Thăng lúc đầu không chịu nói. Về sau, Đạc dặn bọn thị nữ trong phủ cho hắn ăn uống no say rồi đùa giỡn khiêu khích hắn. Trong đám thị nữ có một đứa khá sạch mắt, nước da trắng, mặt xinh, miệng tươi. Thăng xem chừng khoái lắm. Thế là con thị nữ khôn ngoan này liền lấy sắc để nhử hắn. Đêm rồi, trong chiếc chăn êm ấm, mùi mẫn đó, Thăng nói toẹt tính tình của chủ. Thì ra Hồng kinh lược nhà ta tính chỉ có thích gái mà thôi.

Tin đó truyền ra. Đạc vội chạy tới tâu với Thái Tông hoàng đế. Nhà vua tức khắc ra lệnh chọn luôn một lúc năm cung nữ tuyệt đẹp, thêm bốn cô gái Hán cũng tuyệt đẹp mới bắt được ở Tùng Sơn đưa vào quán khách. Không ngờ, Hồng kinh lược vẫn ngồi lý như tượng gỗ, chẳng thèm để mắt tới một cô nao.

Thái Tông hoàng đế nóng lòng sốt ruột, cả ngày chỉ ra thở vào than, rờ tay bút tóc, vô kế khả thi. Văn hoàng hậu ở bên cạnh thấy thái độ kỳ quặc của nhà vua chẳng hiểu tại sao, bèn hỏi. Lúc đó, Thái Tông mới đem chuyện Hồng Thừa Trù không chịu hàng ra nói với bà. Văn hậu nghe xong mỉm cười nói:

- Thần thiếp nghĩ rằng họ Hồng tuy thích gái nhưng những loại gái tầm thường y chẳng ham đâu. Về việc này xin bệ hạ khỏi lo. Hãy phó thác cho thần thiếp. Thần thiếp xin trong ba ngày thế nào cũng làm y qui hàng cho bệ hạ coi Thái Tông nói:

- Đâu có được! Khanh là người mà trẫrn sủng ái nhất. Khanh còn là một vị quốc mẫu. Nếu làm vậy điêu tiếng bay ra ngoài, thử hỏi trẫm còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa.

Văn hậu nghe xong lại nói:

- Bệ hạ mưu việc lớn cho quốc gia mà còn tiếc một người đàn bà ư? Hon nữa tiện thiếp đi phen này là để biện sự cho bệ hạ, tình nghĩa vợ chồng của chúng ta vẫn còn đó chứ có mết đi đâu mà ngại. Nếu bệ hạ sợ câu chuyện lộ ra ngoài có hại cho thể diện của bệ hạ thì ta nên làm một cách bí mật.

Văn hậu nói tới đây thì Thái Tông hoàng đế nhìn thẳng vào mặt bà. Ngài nghĩ rằng với gương mặt này, kẻ có tim sắt gan đá cũng phải động lòng. Ngài thở dài nói:

- Thôi được, Hậu cố làm sao cho kín đáo, chớ để thiên hạ chê cười trẫm.

Văn hậu được thánh chỉ bèn trở về cung, trang điểm lộng lẫy. Bà búi tóc cao lên, thoa loại phấn hồng thanh cao, tô loại son tươi quý giá, cài những cành trâm toàn giác ngọc lưu ly óng ánh muôn màu. Thật là một trang giai nhân chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành, có một không hai trên nhân thế. Trang điểm xong xuôi, Văn hậu lấy một cỗ xe, đem theo một cung nữ thân tín, lặng lẽ qua cửa ngách sau cung mà ra đi.

Bà tới quán khách, cho đánh xe lọt hẳn vào bên trong khu vườn. Rồi bỗng người ta thấy phủ dụ của hoàng đế niệm yết tại cổng quán, trên viết rõ rằng: "Bất luận quan hay dân, cấm không được bén mảng tới quán khách!".

Văn hậu bước vào quán, thấy Hồng Thừa Trù quả thật khôi ngô tuấn tú. Hồng đang ngồi xếp bằng trên ghế. Tính đến hôm đó, Hồng đã không ăn đến bốn ngày. Bởi vậy cơn đói hành hạ làm cho Hồng mắt hoa đầu nặng, thần trí hôn trầm.

Văn hậu bảo cung nữ đỡ Hồng từ ghế xuống giường rồi đi ra ngoài. Tứ bề im lặng, không còn một bóng người lảng vảng.

Văn hậu lúc đó mỏi bước lên giường co chân ngồi xuống. Bà đưa hai tay ra nâng người Hồng kinh lược lên rồi đặt ngồi vào lòng mình. Hồng Thừa Trù nhắm nghiền hai mắt, hôn hôn mê mê, lúc đầu mặc kệ cho ai muốn làm gì thì làm nhưng tới lúc này ông bỗng có cảm giác mình đang ngồi ở một chỗ vừa ấm lại vừa êm, có gì đó khác lạ. Rồi mùi hương phấn thơm tho ngào ngạt đập vào mũi ông khiến ngũ quan bị kích thích quá mạnh. Ông vốn thuộc loại đa tình trời sinh. Không gì có thể làm ông xúc động duy chỉ có nữ sắc là có thể buộc chân và xâu mũi ông mà thôi. Bởi vậy dù đến lúc sắp chết, cái thói đa tình vẫn ám ảnh ông như ma men. Huống hồ cái hương vị tiết ra từ làn da thớ thịt của Văn hậu lại là thứ hương vị đặc biệt chỉ mình bà có, thành ra Hồng kinh lược thấy trống ngực nổi lên thình lình, máu nóng chay ngược lên đầu ào ạt.

Ông mở choàng mắt giật mình bàng hoàng; một trang giai nhân tuyệt thế, tình tứ muôn phần, đang nhìn ông mà chúm chím cười. Thật là cái cười giá đáng ngàn vàng, cái cười của Dương Quý Phi, Bao Tự, của Tây Thi, mà trong đời ông mãi đến nay mới được thấy. Hồn phách Hồng kinh lược lúc này đã nhu bị thần tình câu trói. Ông không chịu nổi nữa đành thốt hỏi:

- Nàng là ai vậy?

Hồng kinh lược chỉ thấy cặp môi thắm của người đẹp rung động rồi bật lên tiếng cười ròn rã nhưng thật êm tai quyến rũ. Dứt tiếng cười người đẹp õng ẹo đáp:

- Kinh lược thật là một vị trung thân tuẫn quốc! Kinh lược muốn chết thì cứ chết đi, hỏi thiếp là ai để làm gì?

Hồng kinh lược nghe giọng nói của người đẹp thỏ thẻ chẳng khác gì tiếng oanh hót đầu xuân, bất giác tâm thần mê mẩn.

Tự nhiên, ông ngồi ngay người lại, hỏi tiếp:

- Ta tuẫn quốc là tuẫn với nước ta, có liên quan gì tới nàng?

Văn hậu hói:

- Thiếp lòng vốn từ bi, thấy kinh lược chịu khổ nơi đây, thiếp bèn xin tới đây cứu kinh lược sống thoát bể khổ đó thôi!

Hồng kinh lược nghe đến đây, cười nhạt nói:

- Nàng cũng dám tới đây để khuyên ta hàng nữa sao? Ta đã quyết. Chỉ vài ngày nữa là ta có thề mãn nguyện rồi. Nàng tuy đẹp thật nhưng ta chỉ nghe nàng khi nàng nói tới chuyện khác. Còn việc khuyên hàng thì ta chẳng bao giờ muốn nghe đâu! Thôi nàng đi đi!

Văn hậu nghe nói lại mỉm cười xích người sát lại bên Hồng kinh lược rồi lên tiếng thì thầm dịu dàng:

- Thiếp tuy chỉ là một đứa con gái, một mụ đàn bà nhưng cũng biết kính trọng cái khí tiết của kinh lược. Ý của kinh lược đã quyết, đâu có dám tới để phá hoại cái chí khí của kinh lược. Chỉ tại thiếp thấy tình cảnh của kinh lược thật đáng thương mà…

Văn hậu nói mới tới chữ "mà" thì Hồng Thừa Trù ngạc nhiên ngắt lời:

- Nàng thương ta cái gì?

Văn hậu nói tiếp:

- Thiếp xét thấy kinh lược quả xứng đáng một trang nam nhi. Khi còn ở nhà thì năm thê bảy thiếp, kêu tớ gọi hầu, nệm êm chăn ấm, áo gấm mũ cao, rượu nồng dê béo, thử hỏi còn ai tôn quý hơn kinh lược nữa? Thế mà nay, kinh lược vò võ, tứ cố vô thân, muốn chết mà chẳng chết được! Trong vài ngày nữa kinh lược tin chắc có thể chết được cho xong một kiếp người, nhưng đối với thiếp thiết tưởng vài giây đó dài lắm mà khổ lắm, làm sao chịu nổi! Đem so với năm ngày đã qua, hai ngày sắp tới có lẽ còn bi đát khủng khiếp hơn nhiều. Trời ơi! Một người tài hoa đáng yêu như kinh lược mà bị cái cảnh đó, há chẳng đáng thương sao?

Trong khi Văn hậu nói, hơi thớ và mùi hương phấn xông vào mũi Hồng kinh lược, tự nhiên ông cảm thấy thư thái trong lòng, tim ông lại một phen hồi hộp ước mong. Nhưng vụt nhớ tới bổn phận tới danh dự không những của riêng mình mà của cả một dân tộc, ông vội nhắm mắt lại, cố xua đuổi những ý tưởng nguy hại. Ông định lấy tay đấy người đẹp ra xa nhưng tiếc thay tay ông mềm như bún, không còn chút khí lực nào.

Mắt nhắm nghiền nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, Hồng kinh lược lại nghe thấy tiếng oanh thỏ thẻ, lần này còn pha lẫn những tiếng nấc, tiếng khóc da diết thiết tha, chứng tỏ một tấm lòng quý yêu ông vô cùng tận:

- Hàng thì kinh lược chẳng chịu hàng, chết thì kinh lược chẳng chết lẹ được, biết làm sao bây giờ? Thiếp có một chén thuốc độc nơi đây, kinh lược hãy uống đi, có thể chết ngay được để khỏi phải chịu khổ. Thiếp vì thương kinh lược nên mới tới đây cứu kinh lược thoát khỏi bể khổ đó thôi.

Hồng Thừa Trù lúc đó đã đói lả, xót xa khố sở đến cùng độ, nghe nói có rượu độc, mừng quá, vội mở mắt nhìn thấy người đẹp tay đang býng một cái chén, bên trong dựng một thứ rượu màu vàng nhạt. Ông vội đưa tay ra giật lấy chén rượu độc đưa lên miệng uống ừng ực một hơi cạn chén, không còn sót lại một giọt. Văn hậu thu lại chiếc chén, để lên bàn, quay mình lại, đặt ông nằm xuống ngay ngắn cho ông đợi chết.

Sau đó, Văn hậu cũng nằm xuống cạnh Hồng kinh lược, không khác gì đôi vợ chồng mới cưới. Hổng kinh lược cố nhắm mắt để ngủ mà chẳng ngủ được, muốn chết ngay đi mà chẳng chết được. Mùi hương ngào ngạt mỗi lúc một nhiều xông vào mũi khiến Hồng kinh lược càng xao xuyến bâng khuâng. Rồi cứ mỗi lúc con lợn lòng của ông trỗi dậy thì ông lại cố đè xuống.

Không biết đã bao lần như vậy, ông cố sức thoát ra cái lưới tình đang vây quanh ông. Dần dần, ông thấy mình tỉnh táo hơn và có vẻ khỏe lên. Ông trằn trọc mãi mà chẳng ngủ được.

Văn hậu thấy tình cảnh khó khăn của Hồng kinh lược, bèn gợi chuyện. Lúc đầu Hồng kinh lược lờ đi, chẳng thèm để ý tới bà. Sau, Văn hậu lại lên tiếng hỏi ông:

- Quan kinh lược ơi! Trong phủ ngài có đến mấy dì mấy mợ? Dì nào, mợ nào trẻ nhất, thưa ngài?

Hồng kinh lược nghe mấy câu hỏi đó bỗng ông bồi hồi, tưởng nhớ tới cả một bầu tâm sự xa xôi. Lòng ông càng xao xuyến, càng sôi động, chẳng khác gì một nồi nước sôi không bớt lửa. Ông cảm thấy khó chịu quá. Người đẹp bên cạnh ông lại hỏi tiếp:

- Phen này kinh lược lìa nhà muôn dặm tìm chữ trung nơi quán khách, thôi cũng đành đi! Nhưng kinh lược có nghĩ tới người đẹp của kinh lược từ đây chỉ còn biết tìm kinh lược trong cơn mộng điệp nơi thâm khuê, dưới ánh trăng thu hay bên khóm hoa xuân mà thôi không?

Hồng kinh lược nghe tới đây không còn cầm lòng đặng, oà lên khóc, hai tay vươn ra ôm người đẹp vào lòng.

Hồi 39

HỒNG KINH LUỢC MÊ GÁI XIN HÀNG

Người đẹp khuyên can an ủi mãi Hồng kinh lược mới thôi khóc. Ông thở dài nói:

- Việc đã đến nước này thực chẳng còn mong gì nhiều! Có điều lạ là thuốc độc uống vào mà sao không chết chớ?

Lời nói này khiến cho người đẹp lúc đó đang rúc đầu vào lòng ông, cất tiếng cười khanh khách. Hồng kinh lược ngạc nhiên hỏi tại sao thì nàng vội lấy tấm khăn hồng che miệng, vừa cười vừa nói:

- Thuốc độc đâu mà thuốc độc? Sâm đó, ông ơi! Thiếp thấy kinh lược đã đói quá đến không chịu nổi, cầu sống chẳng được mà cầu chết cũng không xong nên mới cho kinh lược uống sâm thang để tiếp sức cho đó! Sâm này vốn là loại sâm tốt do bộ lạc Cát Lâm tiến cống. Sâm thang này uống vào, dù có nhịn ăn đến sáu, bảy ngày trời cũng vẫn sống. Thế là từ nay kinh lược không chết được nữa đâu nhé.

Nói xong, nàng lại cười lên khanh khách, tiếng cười giòn tan mà êm tai lạ thường, khiến bất cứ ai khó tính đến đâu cũng không thể giận nàng được. Hồng kinh lược nghe nàng nói một hồi, mặt lúc thì hồng lên, lúc lại trắng bệch ra. Quả nhiên, ông thấy tinh thần càng ngày càng khoái sảng hơn, trong lúc đó người con gái lại ghé miệng sát tai ông thì thầm thiết tha:

- Kinh lược đại nhân ơi! Thiếp vẫn thấy kinh lược nên đầu hàng là phải! Vừa là để bảo toàn tính mệnh, vừa chẳng mất địa vị phong hầu, các bà, các dì ở nhà khỏi cảnh lạnh lùng cô độc mà lại không phụ tấm lòng thiếp đã hết mình khuyên giải và an ủi kinh lược…

Nói tới đây, người đẹp bỗng ngồi phắt dậy, một tay nâng cao mớ tóc mai cho cặp mắt xinh đẹp tình tứ đủ chỗ liếc sang Hồng kinh lược như để dò xét, cặp má đã hổng lại càng hồng thêm. Nàng cúi thấp dần xuống, đưa hẳn đôi má sát vào má ngài. Hồng kinh lược đến lúc này mắt đã đỏ ngầu, chứng tỏ sự rối loạn cùng cực trong lòng ông. Ông vội thu góp tinh thần và ý chí còn lại, nhẩy vọt xuống đất, quát một tiếng lớn rồi bảo:

- Ngươi là con dâm phụ nơi đâu dám tới đây để dụ hoặc lão phu?

Người đẹp nghe đoạn chẳng luống cuống chút nào, ngồi xếp bằng cạnh giường, đưa tay vào bọc lấy ra một chiếc ấn vuông bằng vàng, ném vào lòng viên kinh lược họ Hồng. Hồng kinh lược lượm lên xem, bỗng thần sắc biến cải,đôi chân ông mềm đi như bún. Ông vội, quỳ xuống đất, trước mặt người đẹp, dập đầu liên hồi mà nói:

- Ngoại thần tội đáng chết. Mong ơn cao này của nương nương, ngoại thần tình nguyện đầu hàng, xin được làm kẻ hầu hạ nương nương trước phượng giá thì may lắm?

Nguyên lại trên chiếc kim ấn có khắc hai hàng chữ, một hàng chữ Mãn và một hàng chữ Hán. Hàng chữ Hán có sáu chữ "Tỷ báu của cung Vĩnh Phúc". Hồng kinh lược đến lúc đó mới biết người con gái ngồi trên giường mình chính là người đẹp số một miền quan ngoại và cũng là đệ nhất quý phụ đất Mãn Châu: Hiến Trang Văn hoàng hậu. Hồng kinh lược vẫn không thôi dập đầu lia lịa, miệng cầu mong tha tội. Văn hậu thò cánh tay trắng như ngọc ra, kéo Hồng kinh lược từ dưới đất lên giường cùng ngồi. Lúc đó, kinh lược họ Hồng mới chú ý tới y phục của bà thì thấy bà vận một bộ áo váy kỳ bào màu hồng thắm, có giải vàng óng ánh. Chính bộ áo vừa đẹp vừa quý phái này đã bị nước mắt nước mũi ông làm hoen ố một mảng lớn. Ông càng cảm thấy xấu hổ khó coi. Ông lại bò rạp xuống giường, dập đầu mãi. Nhưng rồi từ đó kẻ tò mò không còn nghe được hai người nhỏ to trò chuyện gì nữa…

Chẳng mấy chốc trời sáng, Hồng kinh lược đang mơ màng bỗng giật mình tỉnh dậy. Ông nhìn quanh thì không thấy người con gái đẹp tối qua nữa. Ông bàng hoàng, bâng khuâng như người đang trong giấc mộng. Quả thật việc này khó hiểu vô cùng đối với ông. Bỗng bốn đứa cung nữ từ ngoài vào đem nước rửa mặt cho ông, rồi dâng lên một nồi cháo yến. Bên ngoài đưa vào một số danh thiếp. Rồi Duệ Quận Vương, Đa Nhĩ Cổn, Trịnh Thân Vương Tế Cáp Lãng, Túc Quân Vương Hào Cách, Bối lặc Nhạc Thác, Bối Tử La Thác, Đại học sĩ Hy Phúc, Cương Lâm, Mai Lặc Chương Kinh, Lãng Tăng Cơ, tất cả đều đích thân lại bái vọng. Đa Nhĩ Cổn nói:

- Hoàng thượng mười phần mong nhớ kinh lược. Thế nào cũng xin mời kinh lược vào cung bệ kiến.

Một lát sau, trong cung có lệnh truyền ra. Tuyên chiếu đưa vào quán. Hồng kinh lược bốn bên đầu được hót tóc cẩn thận, chỉ để lại một lọn tóc trên đỉnh, tết thành bím nho nhỏ, dài dài. Ông mặc bộ áo hồng đính hoa của hoàng đế ân thưởng, đường bệ bước ra khỏi quán, trèo lên ngựa. Phía sau có một bọn bối lặc, đại thần tháp tùng, rầm rầm rồ rộ kéo vào Đại Thanh môn.

Ngoài cửa lúc đó đã có bọn hàng tướng nhà Minh như Tổ Đại Thọ, Đổng Hiệp, Tổ Đại Lạc, Tổ Đại Bật, Hạ Thừa Đức, Cao Huân, Tổ Trạch Viễn, đứng chờ từ trước. Khi thấy Hồng kinh lược tới, cả bọn đều tiến lên đón, sau đó cùng theo gót họ Hồng qua cửa Đại Thanh, vào điện Đốc Cung, rồi điện Cần Chánh. Hai bên điện, ngự quân đứng thành hàng, uy nghiêm. dũng mãnh. Hồng kinh lược quỳ xuống trước điện, làm lễ "Tam quy cửu khấu", miệng tung hô: Hoàng đế vạn tuế!

Hành lễ xong, Thái Tông hoàng đế tuyên triệu Hồng Thừa Trù lên điện. Phía trái ngai vàng, có đặt một chiếc bàn sơn son thiếp vàng, trên bày một hồ lô vàng, một chén vàng, bình vàng đựng nước, một lư hương, hai thẻ nhang thơm. Đằng sau, có bốn tên thị vệ đứng hầu, mình mặc bộ áo màu xanh lục, thắt đai vàng, đầu đội lương mão.

Thái Tông hoàng đế đưa tay cho họ Hồng ngồi xuống. Ngài hỏi về chính giáo, lễ chế, về phong tục quần chế, rất tỉ mỉ, cẩn thận. Hồng Thừa Trù trả lời từng điểm rành mạch, lưu loát. Hai người trò chuyện bàn bạc đến mấy tiếng đồng hồ, lúc đó hoàng đế mới hồi cung.

Một đạo thánh chỉ truyền xuống, phong Hồng kinh lược là Nội viện Đại học sĩ, được ban yến ngay tại Sùng Chính điện.

Từ đó về sau, Thái Tông hoàng đế thường vì quốc gia đại sự, truyền triệu Hồng kinh lược học sĩ tiến cung. Văn hậu cũng ngồi một bên. Khi thấy Văn hậu, Hồng học sĩ bò rạp mình xuống đất, miệng xưng tội thần, và dập đầu đôi ba lần tỏ vẻ cung kính đến cùng độ. Văn hậu thấy vậy, chỉ mỉm cười, không nói câu gì.

Bởi vì hậu có công khuyên Trù đầu hàng, nên Thái Tông hoàng đế cũng biệt đãi bà. Nhiều lúc chính ngài chỉ Hồng học sĩ mà bảo là:

- Hồng học sĩ hàng hậu chứ thực chẳng phải hàng trẫm.

Thế là mọi người đều phá lên cười. Tuy nói vậy chứ thực ra người ta đã thấy có điểu khác lạ trong tâm hồn của nhà vua. Nghĩa là sau khi họ Hồng đầu hàng thì Thái Tông hoàng đế cũng nhạt tình với Văn hậu. Văn hậu cũng đoán biết rõ tâm ý nhà vua cho nên trong lòng bà, nỗi oán hận càng ngày càng tăng mà không biết thổ lộ cùng ai. Bà chỉ còn biết đem Vương Cao, Đặng Khoá Tử, hai người bầu bạn với bà, vào rừng săn bắn giải khuây.

Có một hôm, giữa lúc đi săn về, Văn hậu gặp Duệ vương Đa Nhĩ Cổn. Hậu cho gọi Cổn tới trừng mắt nhìn Vương nói:

- Lão Cửu! Mạnh giỏi chứ? Tại sao mấy hôm nay không vào cung?

Đa Nhĩ Cổn làm bộ ngạc nhiên nói:

- Trời! Cung cấm là nơi nào mà thần dám tự tiện? Không có lệnh truyền triệu đâu dám vào?

Văn hậu nghe Cổn nói chẩu mỏ xì một tiếng, vừa cười vừa mắng yêu Cổn:

- Rõ nỡm chưa! Lại còn làm bộ ngớ ngẩn với bà! Người đã là em rể ta, lại còn là em chồng ta thì còn gì mà phải giữ lễ với tiếng!

Nói xong, Văn hậu lấy roi ngựa khẽ đập một cái vào đầu Duệ vương, nói tiếp:

- Thằng khùng kia, cút đi cho rảnh mắt bà!

Duệ vương cúi đầu xá, rồi dắt ngựa quay đi, tai còn nghe Văn hậu dặn thêm ở phía sau:

- Ngày mai không vào cung, coi chừng đôi giò của ngươi nghe không?

Đa Nhĩ Cổn lúc đó đã nhảy lên lưng ngựa, nghe hậu nói vậy định quay ngựa lại. Cũng lúc đó, Cổn bỗng thấy hai đầu ngựa đã tiến lên, đi song hàng với con ngựa của hậu, bên trái là ngựa của Vương Cao, bên phải là ngựa của Đặng Khoá Tử.

Ba người vừa đi vừa tỏ vẻ thân mật, có những cử chỉ khiến Cổn đâm nghi. Bất giác một nỗi hờn ghen xông lên tận đỉnh, Cổn tự nhủ:

- Hai con rận lạc! Vô phúc cho tụi mày rồi! Đợi sáng mai, ta sẽ lượm hết tụi mày đi!

Ngày hôm sau, Đa Nhĩ Cổn quả nhiên vào cung tìm gặp ông anh thì thầm cho biết câu chuyện bọn Vương Cao hôm qua. Thì ra Thái Tông hoàng đế đã lâu cũng có lòng nghi bọn Cao rồi. Trước đó mấy hôm, khi vào cung Vĩnh Phúc ngài thấy ở một nơi xa, hoàng hậu đang cùng Đặng Khoá Tử ôm nhau. Nhưng ngài cho rằng mình mắt hoa trông nhầm, nên cũng bỏ đi không nói tới. Nào ngờ hôm nay nghe Cổn mách, ngài nhớ lại chuyện hôm trước mà lòng càng nghi già, và cuối cùng thì tin là thật. Ngài đột nhiên cả giận, tự nhủ: hai thằng lưu manh nếu để ở trong cung thì còn ra thể thống gì nữa, nhân dịp này nên lượm chúng đi cho xong.

Ngài tức tốc hạ lệnh thị vệ vào cung truyền gọi Vương Cao và Đặng Khoá Tử. Văn hậu giữa lúc đang cùng Cao, Tử đùa giỡn, thấy lệnh gọi, vội hỏi sự thể nhưng bọn cung nữ đều không ai rõ chuyện. Cao và Tử đành theo thị vệ ra bệ kiến Thái Tông, quỳ xuống dập đầu lạy. Thái Tông không nói chẳng rằng, chỉ đưa một lệnh tiễn cho Đa Nhĩ Cổn lôi bọn Cao ra ngoài thành chém đầu tức khắc. Đến khi Văn hậu được tin thì đã trễ, không có cách gì cứu nổi. Nhưng sau đó bà đã rõ rằng Cổn vì yêu mình nên đã giết bọn Cao. Từ đó Văn hậu không còn có bầu bạn, lòng những âu sầu.

Thái Tông hoàng đế hồi đó, có chuyện lôi thôi với Triều Tiên, thành thử ngài bận bíu suốt ngày, lúc nào cũng cùng với bọn bối lặc, đại thần bàn tính việc chinh phạt. Hoàng hậu vì thế càng cảm thấy lạnh lẽo đơn chiếc.

Tại sao Thái Tông hoàng đế phải xuất binh chinh phạt Triều Tiên? Câu chuyện xảy ra như sau: Vua Triều Tiên là Nhân Tổ, phản đối việc tôn hiệu Thái Tông. Đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ nhì là chuyện khuyên Triều Tiên nên đầu hàng. Khi Hàn thị, phi tử của Nhân tổ chết, Thái Tông hoàng đế sai Anh Nga Nhĩ Đại, Mã Phúc Thái đi điếu rồi nhân dịp khuyên Nhân Tổ đầu hàng xưng thần. Tổ không những đã không chịu hàng, lại còn mai phục quân sĩ ở khách quán định ám sát sứ thần của Đại Thanh. Đại và Thái may thoát chết chạy về, kể hết mọi nội cho Thái Tông nghe. Nhà vua cả giận, lập tức điểm đủ mười vạn người ngựa, cùng bọn bối lặc, đại thần ngự giá thân chinh đi đánh Triều Tiên.

Văn hoàng hậu được tin hoàng đế đích thân xuất sư, bèn nghĩ ra một chuyện. Bà chờ khi hoàng đế bãi chầu về cung, liền tự mình tới gặp. Văn hậu bèn hỏi:

- Bệ hạ xuất chinh phen này giao cho ai làm giám quốc?

Thái Tông nói:

- Trẫm đã đem mọi việc triều chính giao cho Hồng học sĩ. Y tuy mới về hàng nhưng thực có thể ỷ cậy được. Còn mọi việc trong cung cấm thì đã có hậu chủ trương. Hậu hãy chiếu theo cung cách biện lý như lần trước, khi trẫm xuất quân đánh Phủ Thuận.

Văn hậu nghe xong, liền tâu:

- Lần này không thể chiếu theo cách biện lý của lần trước được! Bởi vì thần thiếp gần đây bệnh liên miên, không thể chịu đựng được tân khổ. Xin bệ hạ cử một người thân tín giám quốc thì hơn.

Thái Tông hoàng đế tỏ vẻ do dự, lát sau mới nói:

- Tìm ai làm được giám quốc bây giờ? A Mẫn, Mảng Cổ Nhĩ Thái cũng đều bệnh cả rồi!

Văn hậu nghe xong cười nhạt nói:

- Bệ hạ cho hai người đó là những người đáng trông cậy ư? Riêng thần thiếp thì thì lại rất sợ họ đó!

Thái Tông hoàng đế ngạc nhiên hỏi:

- Hai người đó thế nào?

Văn hậu đáp:

- Bệ hạ sắp xuất quân. Hai người đó ra thế nào cứ xin bệ hạ tới hỏi xem. Tóm lại thiếp vẫn phải xin bệ hạ cử người giám quốc thì lúc đó thiếp mới chắc được hoàn toàn vô sự.

Thái Tông hoàng đế vì trong lòng còn bận nhiều việc nên cũng chẳng muốn hỏi cho ra lẽ, ngài chỉ nói:

- Nhưng cử ai được bây giờ?

Bỗng Văn hậu bật người lên như, cái lò xo, vội nói:

- Có rồi! Có rồi! Đa Nhĩ Cổn! Bệ hạ đã chẳng thường ca tụng hắn có lòng trung nghĩa là gì? Hơn nữa, hắn lại là em rể của thần thiếp. Nếu để hắn giám quốc, nhất định chẳng có chuyện gì xảy ra. Hắn cũng có thể trông coi cả mọi việc trong cung cấm, khiến thẩn thiếp khỏi nghi kỵ lo âu.

Thái Tông hoàng đế nghe xong, vỗ tay nói:

- Ừ phải! Trẫm quên khuấy mất tên Lão cửu đó nhỉ! Cho gọi hắn vào ngay.

Bọn cung nữ được lệnh, ba chân bốn căng chạy đi. Chẳng mấy chốc Đa Nhĩ Cổn đã vào cung. Thái Tông hoàng đế giao cho Cổn làm giám quốc tại kinh đô, đồng thời đề phòng A Mẫn, Mãng Cổ Nhĩ Thái. Ngài còn dặn dò mọi việc đến năm, ba lần rồi mới ra khỏi cung, nhẩy lên ngựa, hối thúc quân mã lên đường thẳng tới địa giới Triều Tiên…

Hồi 40

GIẾT CỌP ĐUỢC VỢ

Đa Nhĩ Cổn thấy Thái Tông hoàng đế ra đi, ý cũng muốn tiễn chân, nhưng chẳng ngờ khi chạy qua dưới rèm bỗng nghe tiếng Văn hậu gọi giật lại:

- Lão cửu về đây mau! Ta có chuyện muốn nói.

Cổn nghe đoạn, vội quay lại, đứng sững trước mặt Văn hậu đợi lênh. Một lúc lâu mà Văn hậu cũng chẳng hạ lệnh, chẳng bảo đi. Cổn vội vàng thỉnh an, miệng nói:

- Đa Nhĩ Cổn đợi lệnh hoàng hậu!

Văn hậu mỉm cười khả ái nói:

- Ta có chuyện quan trọng bàn tính. Đây không phải nơi bàn bạc. Hãy theo ta vào cung mau!

Nói đoạn bà đứng dậy quay mình đi vào. Cổn theo sau, khi gần tới tam cung, Cổn thấy bên trong trang hoàng hết sức rực rỡ. Văn hậu trèo lên ngồi trên giao ỷ cẩn xà cừ và giát ngọc, đưa mắt liếc nhìn bọn cung nữ một lượt. Bọn này hiểu ý của hậu bèn từ từ rút lui, để mặc hai người, một bà chị dâu với một cậu em chồng, tha hồ mà nhỏ to tâm sự.

Chẳng biết họ đã bàn tính những chuyện gì mà mãi tới tối, đèn đã lên, vẫn chưa thấy họ đi ra. Cuối cùng, Đa Nhĩ Cổn từ giã ra về, Văn hậu nguýt một cái dài, nhí nhảnh cười bảo:

- Ăn cơm tối rồi hãy về.

Nói đoạn, bà đứng dậy vào phòng trang điểm, thoa lại chút phấn, đánh thêm tí son, thay bộ đồ ngủ. Cung nhân bày biện cơm tối. Hậu ngồi giữa, Cổn ngồi cạnh hầu bàn. Cung nữ chuốc rượu.

Hai người cất chén. Vừa uống vừa trò chuyện tỏ vẻ hết sức thân mật, bọn cung nữ hầu hạ phía ngoài cùng, chỉ thỉnh thoảng nghe những tiếng cười giòn tan của Văn hậu. Vài con thị nữ phục thị cũng dần dần lảng ra, thế là cả bọn quây quần đùa giỡn với nhau ở bên ngoài chẳng còn bận tâm gì tới tiệc rượu nữa.

Trong tẩm cung lúc đó ánh đèn đã mờ, những tiếng nói tiếng cười dần dần nhỏ đi. Mãi tới nửa đêm Đa Nhĩ Cổn mới chịu cáo từ. Bọn cung nữ cầm đèn lồng tiễn Cổn ra khỏi cung.

Khi từ biệt, Cổn vẫn còn muốn nán lại, để nói cho hết những điều tình tứ. Nhưng Văn hậu đã lấy tay vỗ vai Cổn, miệng vừa cười, vừa nói:

- Đã quá khuya rồi, về đi thôi! Ngươi thật nhẫn tâm bỏ mặc Tiểu Ngọc Nhi ở nhà một mình. Ngươi có biết lúc này nàng đang mong chờ ngươi không?

Đa Nhĩ Cổn cũng cười vang lên, rồi mới cất bước ra đi.

Lại nói A Mẫn và Cổ Nhĩ Thái. Hai người này quả có tâm phản đã lâu, đúng như lời Văn hậu nói. Mẫn và Thái đều là anh em với Thái Tông hoàng đế, nhưng là anh em cùng cha khác mẹ. Thái cậy mình là con cả của bà phi Phú sát, Chữ Anh, Đại Thiện đều đã chết cả, vậy thì cái ngôi báu kia phải là chỗ của Thái mới phải. Không ngờ, lúc Anh Minh hoàng đế băng hà, Thái Tông đã dùng uy lực cướp mất. Từ khi Thái Tông lên ngôi, Thái phải thay nhà vua, nam chinh bắc phạt, đông tiễu tây bình, chẳng được lúc nào nhàn rảnh nghỉ ngơi.

Do đó, Thái hết sức oán giận.Còn A Mẫn, y cũng cậy mình là con trưởng bà Thư Nhĩ Cáp Tề. Một khi con trưởng của phụ hoàng mất, tất nhiên ngôi báu phải về tay y, thế mà lại bị Thái Tông cướp đoạt, cho nên Mẫn sinh lòng oán hận. Tâm sự của hai người thường được bộc lộ vào những lúc vắng vẻ. Hai anh em bèn liên kết nhau, ngấm ngầm kết giao vây cánh đặt tâm phúc khắp mọi nơi. Lần trước, khi Thái Tông đi đánh Phủ Thuận, Mẫn và Thái đã dự tính việc cướp ngôi, nhưng Thái Tông về quá lẹ, thành thử trở tay không kịp, đành phải án binh bất động.

Lần này, Thái Tông ngự giá thân chinh thật là một cơ hội ngàn vàng cho họ. Không ngờ đại sự hỏng hết chỉ vì một đứa con gái! Đứa con gái đó là ai vậy? Xin thưa: cách cách Mãng Cổ Tế. Cô nàng Cổ Tế bình nhật thường cậy mình có nhan sắc, nên làm đỏm, làm dáng quá sá để câu bọn công tử. Người được nàng ta khoái nhất chính là cậu trai cả Hào Cách của vua Thái Tông. Nàng nghĩ thầm rằng, nếu nắm được đuôi anh chàng Hào Cách thì cái ghế hoàng hậu trong tương lai phải vào tay nàng chứ chẳng còn ai đoạt được. Không ngờ trời chẳng chiều người, chàng Hào Cách về sau lại lấy nàng Bắc Nhĩ Tế Cẩm làm phi tử mất, khiến Mãng Cổ Tế cách tức uất tràn hông. Từ đó, nàng giận Hào Cách đến xương tuỷ. Nàng nhập đảng của Mãng Cổ Nhĩ Thái, thường cùng hắn và Đức Cách Loại Toả, Nặc Mộc Đô Lăng với nhiều kẻ khác bí mật chuẩn bị khởi sự. Nhưng trong số họ chẳng kẻ nào đáng để nàng lọt mắt xanh. Rồi lẹo tẹo thế nào không rõ, nàng lại ngoắc vào anh chàng Lãnh Tăng Cơ. Hai người đi lại mật thiết. Nàng tưởng Cơ là tâm phúc, bèn kể ra hết âm mưu. Đâu ngờ Cơ là tay chân tin cẩn của Duệ vương. Thế là Cơ ngầm báo cho chủ hay mọi việc. Vương lại cho vợ là Tiểu Ngọc Nhi vào cung nói cho chị nàng là Văn hậu nghe. Đó chính là khi Thái Tông đem binh đi đánh Phủ Thuận. Khi Thái Tông về, Hậu không có bằng cớ xác thực nên chẳng dám tố cáo. Lần này Văn hậu mới xin cho một người giám quốc là vì thế. Có điều người giám quốc đó lại là Đa Nhĩ Cổn, thành thử công tư coi như vẹn cả đôi đường.

Từ đó Cổn lấy danh nghĩa giám quốc, ngày ngày vào cung với văn hậu. Bà vốn từ lâu thắc thỏm về âm mưu của Mảng Cỗ Nhĩ Thái, nên giục Cổn hạ thủ sớm chừng nào hay chừng ấy Hậu có ngờ đâu chính Cổn lúc đó cũng đã gia nhập đảng nhóm đó. Cổn lại còn khéo léo thỉnh thoảng thả những lời oán hận đối với hoàng đế ngay trong những cuộc hội mật. Rồi đến hôm tất cả toan tính khởi sự, Cổn nhận làm nội ứng trong cung. Cổn đưa kế hoạch, nào là điều động binh mã, nào là chặn đường về của Thái Tông, tất cả mọi việc đều được Cổn thuyết giảng minh bạch cặn kẽ, khiến Mãng Cổ Nhĩ Thái tin là thật, lại càng tin và khâm phục Cổn bội phần.

Qua ngày hôm sau, Cổn bèn mời cả bọn phản loạn tới phủ riêng đánh chén. Lúc đã quá say, cả bọn bị Cổn quăng một mẻ lưới, chẳng sót tên nào. Rồi Cổn cho đi lùng khắp các phủ đệ của nhiều bối lặc lục soát các đơn, thư của chúng.

Cổn hạ lệnh giam cả bọn vào ngục rồi báo cáo cho Văn hậu hay mọi việc.

Văn hậu nghe nói cả mừng, đưa bàn tay trắng như ngọc vỗ vào vai Cổn, mà vừa cười vừa nói:

- Cậu em rể khá lắm! Mắt ta nhìn chẳng nhầm người, tiến cử ngươi quả thực đích đáng lắm!

Nói đoạn, bà truyền lệnh triệu Hồng học sĩ và Lãnh Tăng Cơ vào cung để dặn dò việc giam giữ bọn phản loạn sao cho kỹ lưỡng, đợi Thái Tông về định đoạt. Rồi bà giữ Cổn ở luôn trong cung để đêm ngày ân ái.

Giữa lúc hai người đang triền miên trong cuộc hoan lạc, bỗng nghe tin hoàng đế hồi loan. Cổn đành phải rời khỏi nội cung, buồn bã ra ngoài, đem theo bọn văn võ đại thần đi tiếp giá.

Thái Tông hoàng đến phen này đại thắng, ưng chịu sự đầu hàng của vua Triều Tiên là Lý Tôn, cho nên mở tiệc khao quân rầm rập suốt ngày. Đa Nhĩ Cổn thấy vậy nên chưa vội nói chuyện mưu phản của bọn A Mẫn. Đến mấy hôm sau, Cổn mới tâu trình mọi việc rõ ràng. Thái Tông hoàng đế giận lắm, lập tức muốn lên điện thẩm vấn can nhân. Nhưng Hồng học sĩ tâu trình xin giao lại việc đó cho Cửu Thân vương ngài mới thôi.

Mãng Cổ Nhĩ Thái ở trong lao, được tin Thái Tông đắc thắng trở về, sợ quá chết luôn. Đa Nhĩ Cổn vâng ý chỉ của Thái Tông đem A Mẫn Đức Cảnh Loại Toả, Nặc Mộc Đỗ Lăng và Măng Cổ Tế cách cách, cả bọn ra thẩm vấn. Cổn vốn đã giả vờ nhập đảng với bọn này, nên có gì mà Cổn chẳng biết. Cho nên cả bọn không chối cãi được gì, đành phải cung khai đầy đủ. Cổn lấy xong cung, bèn tâu lên hoàng đế nghị án tử tội, rồi giao cho Hình bộ đại thần thi hành bản án.

Thái Tông hoàng đế nghĩ tới công lớn của Văn hậu, bèn vào cung Vĩnh Phúc. Vừa vào tới cửa cung ngài thấy hoàng hậu đang đãi rượu một chàng thiếu niên. Chàng ta thấy ngài vào liền đứng dậy thỉnh an. Ngài nhìn qua khuôn mặt chàng thì thấy hiền lành, hỏi ra mới biết là cháu gọi bằng cô của Văn hậu, tên gọi Bật Nhĩ Tháp Cát Nhĩ, con trai của Khoa Nhĩ Bí Trác Lễ Khắc Đồ thân vương Ngô Khắc Thiện. Từ khi Thái Tông hoàng đế thượng tôn hiệu, chàng theo cha vào kinh để chúc mừng. Bởi vậy Văn hậu mới lưu chàng ở lại. Chỉ vì nhà vua xuất chinh; quanh năm tại ngoại nên chưa có dịp bệ kiến mà thôi.

Sau khi hoàng hậu kể lể gốc tích, hoàng đế bèn kéo Cát Nhĩ lại gần mình, quả nhiên thấy Cát Nhĩ khôi ngô tuấn tú ít kẻ sánh kịp. Khi được hỏi bao tuổi, Cát Nhĩ hồi đáp: mười tám. Khi được hỏi có biết cưỡi ngựa bắn cung không, Cát Nhĩ trả lời biết chút ít. Văn hậu tiếp lời xin được cho ngựa và cung. Bà còn cho hoàng đế biết thêm là nhờ y mà công chúa mới thoát hiểm. Thái Tông lấy làm lạ bèn hỏi thì hoàng hậu kể lại:

- A Đốn vốn thích săn bắn, cho nên ba ngày sau khi ngài xuất chinh, bèn đem theo một bọn cung nữ đi săn ở Đông Sơn. Bỗng một con thỏ chạy ngang qua. Công chúa phóng ngựa đuổi theo tuốt vào rừng sâu. Không ngờ một con cọp vằn xông tới đầu ngựa của công chúa. Bọn cung nữ đứng tận ven rừng thì vừa xa vừa sợ, chỉ đành kêu cứu chứ chẳng có đứa nào dám xông vào. Con cọp văng tới, đã cắn được móng ngựa. Ngựa hí vang một tiếng, dựng đứng lên, khiến công chúa té xuống đất. Chính giữa lúc mười phần khốn nguy đó, bỗng một chàng niên thiếu từ trong bóng cây chui ra, nhảy phóc lên lưng cọp tay cầm dao ngắn nhằm mắt cọp mà đâm tới. Con cọp gầm lên một tiếng lớn rồi quật đuôi, hất lưng khiến chàng thiếu niên bật ra khỏi, bị cọp ép nằm dưới bụng. Công chúa lúc đó rảnh tay, thấy vậy vội giương cung tính bắn cọp nhưng lại sợ trúng chàng thiếu niên. Không ngờ chàng thiểu niên không chút sợ hãi, giơ cây đoản đao, đâm mạnh vào bụng cọp. Cọp chỉ kịp rống lên một tiếng thảm thiết rồi ngã vật ra đất. Chàng thiếu niên giết cọp xong bèn đứng phắt dậy. Lúc đó công chúa mới biết chàng nào phải ai xa lạ, chính là Cát Nhĩ.

Bà còn nói thêm:

- Con cọp đó chính do Cát Nhĩ cũng đi săn ở Đông Sơn từ hôm trước giết hụt.

Hoàng đế nghe xong, hỏi đầy ẩn ý:

- Con cọp này chắc cũng chỉ như con hươu hồi bọn mình đi săn chứ gì?

Nói đoạn Thái Tông cười lên ha hả. Câu nói này đã gợi trong lòng hậu những kỷ niệm xa xăm, bất giác má bà đỏ lên, chẳng biết vì xấu hổ hay vì sung sướng. Bà mỉm cười, đôi mắt mơ màng như đang tìm trong dĩ vãng những phút ái án cuồng nhiệt mà nay không còn có nữa.

Giữa lúc đó, bọn cung nữ tâu có công chúa xin vào. Văn hậu lên tiếng gọi:

- A Đốn! Mau tới bệ kiến phụ hoàng đi con!

Cố Luân công chúa vâng lời, tiến tới hành lễ, rồi quay đầu lại chợt thấy Cát Nhĩ, bất giác mỉm cười tươi tắn. Nàng thỏ thẻ gọi hai tiếng:

- Đại ca!

Thái Tông hoàng đế thấy vậy rất vui, cười nói:

- Xứng đôi quá.

Nói đoạn ngài quay đầu lại hỏi Văn hậu:

- A Đốn năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Văn hậu cười đáp:

- Đến cả tuổi con mà bệ hạ cũng quên rồi ư? Nó sanh năm bệ hạ diệt Khoa Nhĩ Bí đó.

Thái Tông hoàng đế vỗ tay nói:

- Ư! Nhớ, nhớ rồi! A Đốn năm nay 17 tuổi rồi!

Văn hậu nói câu đó vốn có dụng ý. Bởi vì Cố Luân công chúa không phải con gái của Thái Tông mà là con của Đức Nhĩ Cách Lặc. Văn hậu lấy Thái Tông vào tháng tám năm thứ tư niên hiệu Thiên Mệnh, thế mà qua tháng Giêng năm sau đã sanh ra nàng thì chẳng cần nói ai cũng có thể biết.

Thái Tông hoàng đế thấy Bật Nhĩ Tháp Cát Nhi quả là trang thiếu niên anh tuấn, có ý muốn gả Cố Luân công chúa cho. Ngài nói rõ ý mình cho Văn hậu nghe, bà lấy làm mừng lắm. Bà liền cho gọi người anh là Ngô Khắc Thiện tới để lo chuyện cưới gả, mặt khác sai Hào Cách xây cất một phủ phò mã rất lớn ở ngay trong kinh thành. Bà còn cho người đi lùng những vật trang sức quý báu cho công chúa hôm thành hôn. Mọi việc lo liệu tốn mất cả năm trời chưa xong.

Hoàng hậu năm đó lại cũng sinh một thái tử. Chú bé nom thật kháu khỉnh, tiếng la rõ lớn, ai thấy cũng tấm tắc khen ngợi. Thái Tông vào thăm, tươi cười nói:

- Có mẹ đẹp như thế kia tất phải có con bảnh như thế này chứ!

Văn hậu mỉm cười nói:

- Xin bệ hạ thưởng cho một cái tên.

Thái Tông suy nghĩ một hồi rồi đáp:

- Lấy tên Phúc Lâm vậy.

Thế rồi thái tử đầy tháng. Trong cung tưng bừng náo nhiệt một phen. Ngày ăn đầy tháng thật là trọng thể. Nào lễ nghi nào yến tiệc, tất cả đều được lo toan chu đáo, đến nỗi người ta phải gác lại chuyện gả chồng cho công chúa Cố Luân.

Nhưng Văn hậu thì vẫn nhớ. Bà giục nhà vua cho người tìm Tát Mãn (một loại thầy pháp ở Mãn Châu), để chọn ngày. Theo lời Tát Mãn thì phải đợi tới mồng một tháng sáu năm sau mới có ngày tốt được.

Văn hậu nghe xong chả còn cách gì khác, đành phải nhẫn nại đợi chờ. Trong cung Văn hậu thì thế, bên ngoài Đa Nhĩ Cổn từ lúc Thái Tông trở về, không còn có cơ hội tốt để vào cung nên suốt ngày ở nhà gây sự với vợ. Đã nhiều lần hai vợ chồng xỉ vả nhau um sùm. Tiểu Ngọc Nhi đã rõ chuyện tư tình của chồng với chị ruột mình, bởi vậy, nàng nhiều lúc nổi cơn ghen đến không chịu nổi. Nhưng vì tình chị em ruột thịt không tiện nói ra, thành thử nàng thường mượn chuyện gây gổ với chồng để xả bớt cơn ghen.

Văn hậu một mình trong cung cấm cũng nhớ chú em chổng ghê gớm, nên khi được tin nhà vua sang tháng giêng năm sau lại xuất chinh thì mừng rỡ như bắt được của báu.

Nguyên do cuộc chiến xảy ra như sau: từ khi thất thủ Tùng Sơn, bọn Hồng Thừa Trù đầu hàng, vua Minh sai binh bộ thượng thư là Lăng Tân Giáp qua Thịnh Kinh nghị hoà với Thái Tông. Thái Tông đưa ra hoà ước sáu điều. Nhưng vì những điều khoản này quá khắt khe nên Minh triều lờ đi, chẳng nhắc tới nữa. Mãi cho tới nay đã bảy tám năm, Thái Tông nhẫn nại không được nữa, nên ngài hưng binh, sai A Ba Thái làm tiên phong, đánh thốc vào quan nội, còn mình thì thống lĩnh đại quân theo sau tiếp ứng.

Hồi 41

HẬU MÊ TRAI GIẾT VUA

Thái Tông hoàng đế giận nhà Minh không thuận những điều kiện hoà ước, bèn ngự giá thân chinh đánh vào quan nội.

Lúc xuất hành, ngài giao phó triều chính cho Duệ Thân vương rồi đích thân chỉ huy tả, hữu dực tám vạn người ngựa ra đi.

Quân tả dực theo đường Giới Sơn đánh tới. Còn quân hữu dực theo lối Nhạn Môn quan và Hoàng Nhai khẩu đánh sang. Hai lộ quân sẽ họp làm một ở Kế Châu rồi tiến thẳng vào địa phận Sung Châu.

Dọc đường, quân Mãn đánh tan ba toà phủ thành, mười tám toà châu thành, sáu mươi bảy toà huyện thành, bắt được Lỗ Vương của Minh triều đem chém đầu trước hàng quân, cướp được bách tính nam nữ của Minh triều tới ba mươi sáu vạn người cùng trâu bò dê lợn tới năm mươi lăm vạn con. Tiên phong A Ba Thái theo Nam lộ tiến đánh, đại binh đồn trú tại Sơn Đông, Lữ Châu. Ròng rã hơn một tháng mà chẳng thấy một tên quân của nhà Minh, Thái bèn cho cột chiến lợi phẩm như vải vóc tơ lụa, vàng bạc ngọc ngà lên xe lừa, xe lạc đà rồi kéo vào Thiên Tân, Đồn Lộc. Quân đi dài tới hơn ba chục dặm đường, tiếng xe lăn rầm rầm rộ rộ không lúc nào dứt, vượt Lư Câu Kiều đến hơn mười ngày mà vẫn chưa qua hết…

Vua Minh là Sùng Trinh hoàng đế hạ chiếu mộ quân ở các tỉnh. Quân mộ được vừa tới địa phận Thông Châu, được tin quân Thanh vô cùng kiêu dũng, kẻ nào cũng kinh hồn bạt vía, chẳng dám chặn đánh, chỉ lo trốn tránh.

Thái Tông hoàng đế thấy chẳng tốn một tên quân nào mà thu được không biết bao nhiêu vàng bạc châu ngọc, lấy làm sung sướng vô cùng, bèn hạ lệnh lui binh, bày tiệc khao thưởng ba quân và chọn ngày ban sư.

Giữa lúc Thái Tông vui vẻ như vậy, không ngờ trong cung điện của ngài xảy ra một cơn giông tố hãi hùng. Tính mạng ngài rồi đây cũng vì đó mà tiêu vong.

Số là Duệ thân vương được Thái Tông phó thác quốc sự, bèn nằm bẹp trong cung cấm với Văn hậu như vợ chồng, chẳng cần kiêng cữ chút nào. Mọi người trong cung, từ trên xuống dưới đều là người tâm phúc của vương, chẳng kẻ nào dám tiết lộ tăm hơi. Tuy nhiên trong số cũng có hai người tuy không nói ra nhưng căm hận họ đến xương tuỷ: một người là Hào Cách con trai Thái Tông, còn một người là Tiểu Ngọc Nhi, vợ của Duệ thân vương.

Hào Cách tuy được lệnh lo việc cưới hỏi cho Cố Luân công chúa, nhưng đâu có được tự do, bất cứ việc gì cũng đều phải hỏi chú là Duệ thân vương. Thế mà lúc đó ông chú Duệ lại đang mê mệt bà hậu, suốt ngày đêm nằm trong cung cấm. Cách đốc thúc thợ thuyền xây cất phủ phò mã đã xong, nên cần hỏi chú mình xem bày biện trang hoàng bên trong ra sao vội lóc tóc chạy vào cung xin gặp. Ngày thường, Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn hay ở thư phòng mé tây cung Vĩnh Phúc nghỉ ngơi. Bởi vậy Cách chạy thẳng tới đây. Nhưng Cách chẳng thấy chú, mà chỉ thấy có ba, bốn tên thái giám giữ cửa đang đứng xớ rớ ở đó. Cách hỏi thì bọn này đều nói không biết. Cách quay ra khỏi cung, chạy tới phủ Duệ thân vương để hỏi tin, được biết vương đã không về phủ đến bốn, năm ngày rồi.

Còn Tiểu Ngọc Nhi thấy chồng đi luôn bốn, năm ngày không về bèn nổi ghen, nhiều đêm không ngủ được. Bà ta thấy Cách tới bèn gọi vào. Cách hỏi thím mình xem chú hiện ở đâu Tiểu Ngọc Nhi nghe hỏi máu ghen bỗng nổi lên như men giấm trong huyết quản, nhất thời không kìm hãm nổi, bèn cười nhạt nói:

- Chú ngươi ấy à? Y không trong cung thì ở đâu. Bọn họ lúc này tha hồ mà sướng. Y làm gì mà nghĩ tới chuyện về?

Chuyện ngoại tình của Cổn và Văn hậu, Cách đã biết từ lâu nhưng chưa có dịp cho nổ bung ra đó thôi. Không ngờ hôm nay bà thím lại nói toạc ra khiến Cách không khỏi đôi má ửng hồng, cố dằn lòng thong thả hỏi thím:

- Chú đã không về nhà, sao thím không vào cung mà tìm?

Bà phi Tiểu Ngọc bảo Cách:

- Thím có vào tìm đôi ba lần. Nhưng bọn cung nhân vốn là tay chân của chú nên đều bảo không có. Thím tính xông bừa vào nhưng bị chúng cản lại và nói: "Đấng vạn tuế đã truyền chỉ: nếu không có lệnh của hoàng hậu, cấm không ai được tự đo vào cung". Mấy hôm nay, thím loanh quanh mãi chẳng biết tìm cách gì! Này cháu của thím! Đã tới đây cháu thử tìm cách cho chúng một mẻ sợ, nếu không thím cháu mình còn mặt mũi nào mà chường ra với thiên hạ nữa?

Lời nói của phi tử Tiểu Ngọc Nhi quả đã khêu được lòng tức giận của Túc quận vương. Cách liền đập tay vào ngực, hậm hực nói:

- Thím hãy yên tâm. Chuyến này phụ hoàng trở về, cháu sẽ diện tấu cho phụ hoàng nghe, để ngài hạ chỉ cấm chú vào cung. Thím nên nhẫn nại ít hôm, chớ có nói ra, sợ chú biết thì thím cháu ta nguy cả đấy.

Nói đoạn, Túc quận vương Hào Cách cáo biệt ra về. Ngày lành tháng tốt cho việc nghinh hôn đã tới. Bỗng một đội người ngựa chạy như bay về cung báo hoàng đế hồi loan, văn võ triều thần được tin này vội mũ áo chỉnh tề đi tiếp giá.

Đi đầu bọn triều thần, tất nhiên là Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn trên lưng con tuấn mã lông hồng. Đoàn người ra khỏi thành chín dặm thì gặp đại quân của Thái Tông hoàng đế. Văn võ bá quan vội bò rạp xuống đất, tung hô vạn tuế.

Nhà vua thấy Cổn cũng nằm rạp bên đường, vội nhảy xuống ngựa, giơ tay nâng dậy. Hai anh em đồng lên ngựa, song song sát cánh tiến vào thành, tới Sùng Chính điện.

Thái Tông hoàng đế lên điện an vị ngai vàng. Trăm quan y thứ triều hạ. Nhà vua truyền chỉ, thiết yến ngay tại Tây Thiên điện. Thế rồi vua tôi chén tạc chén thù, mãi tới chiều tối ai nấy mới tan tiệc ra về.

Đêm đó, quá khuya, nhà vua không về cung nên nghi ngơi ngay tại Đông Thiên điện, có bọn cung nga hầu hạ.

Qua ngày hôm sau, ngày hôn lễ của Cố Luân công chúa, kinh thành nhộn nhịp, xe ngựa dập dìu. Đường con phố lớn, chỗ nào cũng treo đèn kết hoa, trăm họ ai cũng đều vui vẻ hân hoan.

Phò mã Sách Nhĩ Cáp, mũ áo chỉnh tề, tiến vào cung để đón dâu. Cố Luân công chúa vào lạy nhà Thái miếu, xong rồi từ biệt phụ hoàng và mẫu hậu, theo chân chồng ra khỏi cung về phủ phò mã. Các thân vương, quân vương, bối lặc, bối tử, phụng quốc tướng quân, Hoà thạc thân vương, phúc tấn, cách cách, tất cả bọn quốc thích hoàng thân lũ lượt kéo nhau thành từng tốp vào cung chúc mừng.

Theo ý của Hào Cách thì tính, tâu ngay việc ngoại tình của Đa Nhĩ Cổn cho Thái Tông hoàng đế nghe, nhưng bà phúc tấn vợ y cố khuyên can. Bà bảo chồng:

- Phụ hoàng suốt ngày vất vả, lại thêm nào yến tiệc khao mừng, nào đám cưới đưa dâu, lòng ngài lúc này cũng có đôi phần vui sướng. Chi bằng đợi khi mọi việc xong xuôi rồi ta hãy tâu cho ngài biết.

Hào Cách nghe lời vợ đành nén lòng chờ đợi. Rồi mọi việc xong xuôi, Thái Tông hoàng đế hạ dụ đêm đó về cung. Rồi suốt ngày hôm đó, ngài lại mở tiệc linh đình để khánh công đủ mặt các đại tiểu quần thần. Tất cả triều thần hội họp tại Sùng Chính điện chuẩn bị đưa nhà vua về cung. Chẳng ngờ đợi mãi tới khuya, bọn đình thần đứng chờ mãi, chân đã mỏi lưng sắp gẫy mà vẫn không động tĩnh gì cả! Lui không dám lui vì không có lệnh, hỏi cũng chẳng dám hỏi, vì biết đâu mà hỏi, cả bọn ngơ ngác chỉ biết còn nhìn nhau tự vấn. Mãi sau, chỉ dụ mới ban ra cho biết thì ra đêm đó hoàng đế lại không tiến cung nữa mà đổi lệnh qua sáng mai. Trăm quan được lệnh, lúc đó mới dám rút lui. Đa Nhĩ Cổn đưa trăm quan ra về; khi qua cửa triều môn, bỗng thấy một tên thái giám chạy như bay đuổi theo ông rồi ghé tai thì thầm mấy câu khiến mặt ông thất sắc vội xua tay ra lệnh cho trăm quan ai về nhà nấy. Thấy mọi người đi khuất hết, ông mới phóng ngựa chạy như bay vào cung Vĩnh Phúc, xuống ngựa, rồi lẻn vào. Cổn gặp Văn hậu, mặt ngơ ngác như mất hồn. Hậu thấy lạ vội hỏi. Cổn thở hắt ra một hơi dài như để vợi bớt phần nào nỗi lo sợ chứa chất trong lòng, lúc lâu mới lên tiếng khẽ bảo Văn hậu:

- Thằng chó con Hào Cách đem việc tụi mình ra tâu hết cho hoàng thượng nghe rồi. Hoàng thượng hiện giận lắm. Đại hoạ thế nào cũng xảy ra, tụi mình phải tính kế mau mới mong thoát hiểm được!

Thế rồi sau đó, người ta chỉ nghe tiếng cặp tình nhân chị dâu em chồng này thì thào với nhau. Cổn đưa ra một kế, dặn hậu phải lo liệu gấp. Lúc đầu bà không chịu, nhưng về sau nghĩ mãi bà thấy không còn cách gì hơn. Bóng đêm tràn ngập cung cấm. Người ta lại nghe những trận cười, những tiếng thì thầm cưng nựng. Mãi vào khuya, mới thấy Cổn ra khỏi cung.

Canh năm sáng hôm sau, trăm quan lớn nhỏ lại tề tập ở Sùng Chính điện để đón rước hoàng đế.

Trời vừa rạng đông. Thái Tông hoàng đế xuất điện, mặt hầm hầm, có vẻ giận dữ lắm. Quần thần vội bò sát xuống đất đập đầu lạy tạ.

Túc quận vương Hào Cách đi theo sát Thái Tông hoàng đế ở phía sau. Nhà vua lên chiếc noãn kiệu có ba mươi hai tên kiệu phu khiêng đi. Bọn thân vương hộ tống hai bên, chỉ giải tán khi tới cung Vĩnh Phúc rồi lần lượt rút êm ra khỏi cửa Đại Thanh.

Bỗng một tên thái giám, chạy lại đón đường, nắm vạt áo các quan, miệng thở hồng hộc, mãi mới lắp bắp được mấy tiếng:

- Hoàng… Hoàng… Hoàng thượng qui… qui… tiên rồi!

Câu nói động trời đó khiến trăm quan hoảng hồn bạt vía, mắt mở tròn xoe, miệng há hốc đến không ngậm lại được!

Một lát sau, Duệ thân vương mới lên tiếng bảo mọi người:

- Đứng đây mãi cũng vô ích. Bọn ta nên quay vào triều đợi chỉ thì hơn! *

Cả bọn hối hả vào triều, chưa kịp ngồi thì ý chỉ đã thấy ban ra. Chỉ ý truyền bảo Duệ thân vương vào cung tức khắc để thương nghị đại sự, Đa Nhĩ Cổn được chỉ vội vã tuân theo.

Lúc đó, thi hài của Thái Tông hoàng đế đã quàn tại chính điện trong Vĩnh Phúc cung. Cổn tiến tới trước hành lễ xong có bọn cung nữ đưa vào tẩm cung, Cổn thấy Văn hậu đang ngồi trên giường cúi đầu suy nghĩ, bèn vội tới thỉnh an. Nhưng Văn hậu như bộ không nhìn thấy, lẳng lặng làm thinh. Bọn cung nữ đều máy nhau rút ra khỏi cung, chỉ để lại một cô canh chừng hậu có sai khiến gì không. Ấy cũng nhờ người cung nữ này nên cuộc hội kiến bí mật hôm đó giữa Văn hậu và Đa Nhĩ Cổn về sau mới được tiết lộ ra ngoài. Duệ thân vương thấy Văn hậu chẳng nói chẳng rằng, bèn ghé ngồi trên an lạc ỷ. Lúc sau, Văn hậu mới đứng dậy, thong thả bước tới trước, cầm lấy tay Cổn, thì thầm nói những gì không biết. Người cung nữ để ý qua cửa sổ, chỉ thấy Duệ thân vương lắc đầu lia lịa.

Văn hậu buồn bã âu sầu, đưa cánh tay trắng như ngọc đặt lên đầu Cổn lay lay lắc lắc. Nhưng Cổn vẫn mặc, chẳng trả lời, Văn hậu như có vẻ băn khoăn, lo sợ rồi bỗng thấy bà ném phịch người xuống đất, vừa quỳ vừa cầu xin một cách khẩn thiết. Cổn vội quay mình sang phía khác, mắt ngước nhìn lơ đễnh, như chẳng thèm để ý tới bà. Văn hậu lại ghé sát tai Cổn nói, không biết những gì, Lúc đó, Cổn mới dần dần thay đổi thái độ, từ chỗ lạnh nhạt đến chỗ tươi cười và gật đầu lia lịa tỏ vẻ ưng thuận. Cuối cùng Cổn đỡ Văn hậu ngồi dậy, rồi từ biệt, xuất cung.

Hồi 42

BỊ PHẠT VẠ VÌ CUỠNG HIẾP MỆNH PHỤ

Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn xuất cung, chạy tới Sùng Chính điện. Văn võ bá quan đều vây lấy hỏi thăm tin tức. Cổn lớn tiếng nói:

- Hoàng thượng băng hà, hoàng hậu đau xót muôn phần, tâm thần hoảng loạn, chẳng có chủ ý gì cả. Bởi vậy bà cho gọi Tiểu vương vào cung thương nghị quốc gia đại sự, chủ ý của hoàng hậu là quyết lập ông hoàng thứ chín Phúc Lâm lên ngôi hoàng đế. Chư vị đại thần có tuân theo ý chỉ hay không?

Lời Duệ thân vương ai dám cãi. Chỉ nghe một tiếng "tuân chỉ" vang lên rầm trời để đáp lại lời vương. Cổn bèn đem trăm quan vào cung khóc bái rồi xúm nhau lại mang thi hài của Thái Tông hoàng đế tới Sùng Chính điện khâm liệm. Một mặt, Cổn phò trợ Cửu hoàng tử lên ngôi, chịu trăm quan triều hạ.

Cửu hoàng tử Phúc Lâm mới có chín tuổi. Nhất thiết lễ nghi đều do Duệ thân vương chỉ dẫn. Việc xong, hoàng hậu từ trong cung truyền chỉ ra ngoài phong Đa Nhĩ Cổn, Tế Nhĩ Cáp Lang, hai người làm Phụ chảnh vương, giúp hoàng đế biện lý triều chính. Cổn tiếp ý chỉ, hèn nói với bọn triều thần:

- Bọn ta hôm nay đồng tâm cộng sự phò trợ ấu chúa, nên thề trước trời đất không bao giờ đem lòng phản bội.

Bọn triều thân nghe nói vội đồng thanh đáp ứng. Cổn bèn mời đạo học sĩ Phạm Văn Trình thảo thệ thư (bản văn thư thề với đất trời) ngay tại trong điện. Cổn cho lập hương án để mọi người cùng tế lễ và tuyên thệ. Quan tán lễ bưng thệ thư tới trước hương án quỳ xuống, lớn tiếng tuyên đọc:

"Đại Thiện, Tế Nhĩ Cáo Lang, Đa Nhĩ Cổn, Hào Cách, A Tế Cách, Đa Đạc, A Đạt Lễ, A Ba Thái, La Lạc Ni, Lạc Thạc Thác, Ngai Đạc Lễ, Mãn Đạc Hải, Đồn Tể, Phí Dương Cổ, Bác Hoà Thác, Đồn Tê khác Hoà Thác, tất cả bọn tôi chẳng may gặp lúc tiên đế băng hà, trộm nghĩ rằng nước không thể một ngày không vua, bởi vậy phụng nghinh hoàng tử của tiên đế để kế đăng đại vị. Nếu có kẻ bất tuân định chế của tiên đế, chẳng sợ người trung thành, coi thường hoàng thượng thơ ấu, thì đó là kẻ khi quân có lòng gian xảo, hoặc nếu kẻ đó chẳng trọn tình nghĩa, chẳng làm nghĩa cứ, lại còn lập tâm thù oán hãm hại người ngay, chối bỏ anh em, tự kết vây cánh thì trời đất khiên phạt bắt phải chết non, chết yểu!".

Hoàng tử Phúc Lâm lên ngôi lấy hiệu là Thế Tổ hoàng đế, cải nguyên Thuận Trị. Nhất thiết quyền hành trị nước đều do Đa Nhĩ Cổn một mình nắm giữ. Trịnh thân vương Tế Nhĩ Cáp Lang cũng biết rõ Cổn không phải dễ chơi, đành mũ ni che tai để lấy lòng Cổn hoặc Cổn muốn làm gì thì làm, chẳng để ý gì nữa.

Văn hoàng hậu đã thăng lên làm Hoàng thái hậu. Lúc đó là lúc bà đang vào thời kỳ sung sức, nhiều ham muốn khoái lạc làm sao mà chịu cảnh phòng không gối chiếc? May còn có Duệ thân vương giúp bà đỡ buồn. Bà sợ người ngoài đàm tiếu cho nên phong Duệ làm Nhiếp chính vương, trông coi tất cả mọi việc triều chính để tránh tiếng. Từ đó, Nhiếp chính vương ở luôn trong cung cấm, lấy cớ là biện lý việc triều đình, để ngày đêm bất cứ lúc nào cũng được gần gũi Thái hậu, quên hẳn bà phi Tiều Ngọc Nhi ở nhà vào than ra thở mỏi mắt chờ trông.

Nhưng kẻ uất hận nhất phải là Túc quận vương Hào Cách. Cách bàn tính với Dự vương Đa Đạc lấy cớ hỏi việc triều chính để vào cung Nhiếp chính vương. Cổn lúc đó đang cùng Thái hậu mùi mẫn trong thâm cung, nghe nói Cách xin yết kiến, lấy làm bực mình lắm. Cuối cùng Cổn vẫn phải tiếp Cách. Trong thư phòng, Cổn thấy Cách mặt lộ vẻ giận.

Cổn hỏi, thì Cách đáp:

- Hoàng thượng hiện còn nhỏ tuổi. Công việc của triều đình lại nhiều. Một mình Vương nhiếp chính, e có phần lo không hết. Bởi vậy tiểu vương có ý cùng Dự vương mỗi ngày vào cung giúp việc Vương gia…

Câu nói còn chưa xong, Cổn đã hiểu ngay ý Cách. Cổn cười nhạt bảo:

- Đa tạ ý tốt của hai vị vương gia, nhận chức Nhiếp chính vương tại hạ ắt phải lo tròn bổn phận. Lo tròn được thì có công, không lo tròn được thì có tội. Nhị vị vương gia khỏi lo.

Cổn nói một hơi, gạt phắt tâu bày của Cách, khiến nhị vị vương gia kia thắt họng, cụt hứng chỉ còn biết dạ dạ luôn mồm rồi lui ra.

Từ đó, hận thù giữa Dự vương, Túc vương với Đa Nhĩ Cổn càng ngày càng chồng chất. Cổn bèn phái người theo dõi hai vị vương để loan báo tình hình cho mình biết. Đại học sĩ Phạm Văn Trình vốn là tâm phúc của Cổn nhưng lại ở dưới trướng của Dự vương. Cổn bèn cho người gọi Trình vào cung ngầm dặn Trình mật báo hành động của Dự vương. Cổn lại biết Trình chết vợ nên đem một người đẹp tuyệt thế tên Oanh cô nương gả cho Trình làm vợ kế.

Nói đến Oanh cô nương là cả một câu chuyện. Nàng vốn là con gái của quan Tham tướng họ Nhan của Minh triều. Hổi đó Đa Nhĩ Cổn đại chiến Tùng Sơn bắt được nàng đem về nuôi trong phủ. Nàng tuy nhỏ tuổi nhưng có sắc đẹp mê hồn, răng nàng trắng, mắt nàng đen, đa tình, người nhỏ nhắn yêu điệu. Cổn tính đem về nuôi đợi khi nàng lớn dành riêng cho mình dùng.

Nhưng việc lúc này là cần lấy lòng người, Cổn đành phải đem người đẹp thưởng cho Trình. Trình học sĩ thấy nàng quả là một giai nhân tuyệt thế, lòng cảm kích Nhiếp chính vương tới tận tim gan. Cả ngày ông chi muốn gần gũi người đẹp đề trò chuyện vui đùa. Có hôm ông nói tới việc theo dõi Dự vương thì chính Oanh cô nương lại nghĩ kế giúp ông. Nàng dọn một bữa tiệc hậu hĩ, cho mời Dự vương sang, cắt a hoàn xinh đẹp hầu hạ. Nàng làm vậy cả với Hào Cách. Cả hai bị rượu ngon gái đẹp, lời nói thường không được giữ gìn. Nhất là Dự vương, thấy có chỗ để dốc bầu tâm sự nên thường lui tới nhà Trình chè chén. Vốn sành ăn, Dự Vương tò mò hỏi Trình xem ai là người có tài đầu bếp quán thế như vậy thì Trình liền nói thực, bảo chính là vợ mình. Vương đã từ lâu vốn nghe tiếng vợ kế của Trình là một trang giai nhân tuyệt thế, muốn được gặp nhưng chưa có cơ hội. Nay nghe Trình nói vậy, Vương bèn tiếp lời nói:

- Ồ! Vậy thì phiền phu nhân quá nhỉ? Đã thế thì xin mời phu nhân ra đây, để tiểu vương có lời đa tạ.

Trình chẳng dám trái lời bèn bảo a hoàn chạy vào nhà trong mời phu nhân ra. Nàng nghe nói Dự vương có lịnh mời vội tô điểm son phấn hết sức lộng lẫy rồi cùng bốn con a hoàn bước ra phòng khách. Đa Đạc vừa nhìn thấy Nhan thị mắt bỗng sáng lên, lòng sao xuyến ngay từ phút đầu gặp mặt.

Nhan thị phấn điểm son tô, mùi hương bay ngào ngạt, mỗi lần làn gió nhẹ thổi phớt qua là làn hương ngào ngạt ấy xông vào mũi vương làm cho vương như ngây như dại. Dự vương vốn thuộc loại hiếu sắc, nên khi thấy Nhan thị thì như mất cả thần hồn, mắt nhìn chòng chọc, như chực nuốt chửng người đẹp để chiếm làm của mình. Nom vương thật trơ trẽn đến tức cười. Nhan thị đứng từ xa thi lễ xong, bèn quay mình vào trong. Không biết mất bao nhiêu giây phút Dự vương mới hoàn hồn.

Vương nhìn Trình cười nhạt, nói giọng trịch thượng:

- Phạm lão tiên sinh! Năm nay tiên sinh đã gần sáu chục, râu tóc đều đã bạc cả rồi thế mà lại chứa trong nhà một vị phu nhân trẻ măng, tiên sinh không sợ người ta dị nghị sao? Nay Tiểu vương có ý muốn nhờ một việc: tiên sinh hãy thương lượng với người đẹp giùm. Sáng mai xin cho hồi âm.

Dự vương nói đoạn phất tay áo, đứng dậy, cất bước ra ngoài.

Dự vương đi đã một lúc, Phạm Văn Trình ngẫm nghĩ thấy vương có ý không tốt, bèn vào nhà trong bàn với vợ. Nhan thị nói:

- Trong việc này chỉ có Duệ vương là cứu được vợ chồng mình thôi. Ông nên qua khẩn cầu Duệ vương đi.

Hôm đó trời đã tối, Phạm Văn Trình phải đợi qua hôm sau mới cân đại bố tử sửa soạn vào cung. Không ngờ Trình vừa ra khỏi nhà thì đã có một đội thân binh của Dự vương rầm rộ xông vào, chẳng nói chẳng rằng tìm bắt cho kỳ được Nhan thị bỏ vào noãn xa rồi đẩy về phủ. Đa Đạc ở trong phủ trông chờ, bỗng thấy người đẹp đã được đem về, lòng mừng như mở cờ. Y vội lại trước xe nắm lấy tay Nhan thị, khuyên nàng đừng lo sợ và bịa chuyện bảo:

- Chỉ vì phúc tấn của Tiểu vương thấy phụ thân thông minh xinh đẹp nên có ý mời phu nhân vào phủ để trò chuyện kết bạn tâm giao đó thôi.

Nhan thị vốn là người đàn bà trung trinh, nghe Dự vương nói vậy, bèn kêu la khóc lóc rùm lên, lại chỉ vào mặt vương mà chửi bới tàn tệ. Vương bị chửi, thẹn quá hoá giận, bèn quát bảo thị nữ đem lột truồng Nhan thị ra.

Dự vương có tính thích nhìn đàn bà ở truồng. Bởi vậy hai tên thị nữ không dám trái lệnh, vội nhất tề động thủ.

Chúng bế xốc Nhan thị đặt trên giường trước hết lột quần lụa, Nhan thị chỉ còn biết giơ cặp giò mũm mĩm trắng như ngọc giãy đạp tứ tung. Hai thị nữ tiếp lực, mỗi đứa nắm mỗi chân tính đè chặt xuống giường. Bỗng có hai tên nội giám hối hả chạy từ ngoài vào bảo Dự vương, miệng lắp bắp mãi mới thành tiếng:

- Vương… Vương… Vương gia nhân… nguy… nguy rồi…

Ba trăm quân ngự lâm tự trong cung đã bố trí vây quanh Vương phủ rồi…

Chúng còn chưa nói xong thì đã thấy một tên thái giám dẫn hơn mươi tên quân sĩ xông vào phòng, miệng nói: Hoàng thái hậu có chỉ đây. Dự vương thấy việc xảy ra đột ngột có ý sợ, vội cúi thấp mình xuống rồi quỳ trên mặt đất lĩnh chỉ.

Tên thái giám liền tuyên đọc ý chỉ rồi bảo bọn quân sĩ áp tống Dự vương vào cung.

Dự vương vừa vào tới cung đã thấy Túc quân vương Hào Cách cũng bị quân ngự lâm áp giải tới từ trước và Đa Nhĩ Cổn đang chễm chệ ngồi phía trên. Cổn nghiêm nét mặt, buộc tội Dự vương cưỡng đoạt mệnh phụ, gian dâm chưa thành, nên phạt bạc một ngàn lạng, và phải nộp trâu mười lăm đầu, còn Túc thân vương Hào Cách biết chuyện mà chẳng tố cáo, bị phạt 300 lạng bạc.

Dự vương từ khi bị phạt về nhà trong lòng tức giận không nguôi. Y cáu tiết làm bừa, cho bọn binh lính trong phủ hàng ngày đến nhà bách tính, hễ thấy gái đẹp là bắt ngay về phủ. Bọn gái Bát Kỳ hoảng quá, cô nào cô nấy trốn biệt không dám thò mặt ra ngoài. Mãi về sau, tin này đồn khắp Đô Sát viện.

Thừa Chính công Mãn Đại Hải biết chuyện bèn dâng một tờ sớ vào triều. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn cả giận, lại cho giải Dự vương vào cung, phạt vạ rất nặng. Cũng vì vậy Dự vương lại càng thù Cổn đến xương tuỷ.

Dự vương tới gặp Hào Cách, hai người bàn tính với nhau tìm cách đối phó Cổn. Riêng về Hào Cách y bỗng dưng bị phạt tiền, tức lắm bèn cho gọi Cố sơn ngạc trân Hà Lạc Hội, Nghi chính đại thần Dương Thiện, Giáp lại chương kinh Doãn Thành Cách, La Thạc cùng một bọn du đảng vào phủ tính cuộc âm mưu hành thích Đa Nhĩ Cổn. Các nói với đồ đảng:

- Khi Đa Nhĩ Cổn chết rồi, Tiểu vương sẽ làm nhiếp chính vương. Lúc đó các vị còn sợ không phú quý nữa ư?

Nào ngờ giữa lúc còn đang hội họp, Hà Lạc Hội đã chuồn êm ra khỏi phủ, đi mật báo. Hội vốn là tâm phúc của Nhiếp chính vương. Đa Nhĩ Cổn lúc đó đang ở trong cung ngắm Thái hậu chải đầu. Khổ thay vợ Hào Cách lúc đó cũng vào cung để thỉnh an Thái hậu. Bà này có cái tài chải đầu búi tóc rất giỏi, bởi vậy Thái hậu luôn gọi bà ta giúp. Túc vương phúc tấn chẳng dám trái lịnh bèn vén tay áo cao lên để chải, cánh tay trắng như tuyết lộ đến quá nửa, Đa Nhĩ Cổn đứng bên cạnh thấy đẹp quá, tâm hồn như mê mẩn. Cổn nhìn đến khuôn mặt thì ôi thôi, thật là cả một trời xuân muôn hồng nghìn tía, không có bút nào mà tả được cái đẹp, cái xinh, cái duyên, cái tình của nàng. Cổn càng say mê càng cuồng vọng. Y nhủ thầm, không hiểu sao tên tiểu tử Hào Cách lại có cái diễm phúc này! Báo thù xong ta phải đem người đẹp thế này về phủ vui thú mới được.

Hồi 43

LOẠN GIẶC SẤM, MINH ĐẾ TREO CỔ CHẾT

Giữa lúc Đa Nhĩ Cổn đang say sưa ngắm nghía cánh tay nõn nà và khuôn mặt xinh đẹp của cô cháu dâu, bỗng có một tên cung nữ chạy vào bẩm bên ngoài có Hà Lạc Hội xin vào bái kiến. Cổn biết có việc cơ mật, vội chạy ra Tây thư phòng và cho gọi vào. Hội vừa gặp Cổn liền đem âm mưu hành thích Nhiếp chính vương của Hào Cách ra kể hết.

Cổn nghe xong vừa sợ vừa giận, lập tức sai Hội đem đám binh sĩ giữ cung lặng lẽ đến Túc vương phu, bắt tất cả bọn thân vương, bối lặc, đại thần có mặt hôm đó giải vây cung.

Nhiếp chính vương nhìn thấy Hào Cách, nhớ tới chuyện Cách kể xấu mình trước Thái Tông hoàng đế trước đây, lại càng căm tức, giận chưa thể đập cho Cách chết ngay được lúc này. Cổn gầm lên như hổ rống, tức khắc cho lập hội đồng cùng Trịnh thân vương lên điện đốc cung thẩm vấn can phạm, có Hà Lạc Hội làm chứng. Hào Cách thấy không thể chối cãi bèn chửi bới Cổn tàn tệ. Nhiếp chính vương cả giận hạ lệnh phế Cách làm thứ dân, giam cầm vĩnh viễn trong ngục tối, Cổn thâu hồi vương phủ, một mặt ngầm đem cô cháu dâu xinh đẹp về giấu ở phủ mình, để ngày đêm hưởng dụng, không cho bất cứ ai biết chuyện.

Xong việc riêng, Cổn nghĩ tới việc công, đem bọn đại thần Á đạt lễ Thạc Thác và Ngô Đan ra kết tội chết, bắt đại học sĩ Cương Lâm hạ ngục, đồng thời chém đầu không biết bao nhiêu người trong đám triều thần, tịch thu tất cả quyến thuộc gia sản của họ đem về Duệ vương phủ. Từ khi Hào Cách bị giam cấm trong ngục tối, Đa Nhĩ Cổn coi như đã nhổ được cái đinh trước mắt, ngày ngày tự do vào cung của Thái hậu để thủ lạc, chẳng còn phải kiêng kỵ gì nữa. Thế Tổ hoàng đế lúc đó còn nhỏ tuổi lại ở riêng một cung làm sao mà biết được chuyện. Duy chỉ có Phạm Văn Trình là nghe ngóng được đôi lời xì xào bên ngoài và liệu chừng rằng lòng người có ý không phục.

Lại nói vào hồi này, tại Minh triều, bọn Lý Tự Thành, Trương Hiền Trung đã dấy binh làm phản.

Thành kéo theo bọn dân đói ở Thiểm Tây, vét hết bọn dịch tốt trên đường, đông có tới 20 vạn người, ngựa chiếm cứ nhiều tỉnh như Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên. Đầu mục của Thành có bọn Lão Hồi Hồi, Hoa Lý Nhã, Tả Kim Vương, Cái Thế Vương, Xạ Tháp Vương, Hoành Thiên Vương, Hổn Thập Vạn. Quá Thiên Tinh, Cửu Điền Long, Thuận Thiện Vương, chia là 13 nhà, 73 doanh trại.

Quân Thành đi tới đâu, xông ngang tiến dọc tha hồ mặc sức; quân binh của Minh triều đầu hàng vô số kể.

Số là Lý Tự Thành có một ông cậu tên Cao Nghinh Tường cầm đầu đám binh mã này. Tường vốn là tên mã tặc xuất thân rồi liên hiệp với tên đầu mục đám dân đói ở Diễn An phu tên Trương Hiền Trung, xưng hiệu Đại Lượng Vương. Trường xưng là Sâm vương. Còn Trung thì xưng Bát đại vương.

Nhưng về sau, Tường bị bọn quan binh giết chết. Từ đó Thành nối hiệu Sâm vương của cậu, đem đại quân tiến vào ngã Tây An. Trung không theo Thành mà lại kéo hùng binh sang ngã Tứ Xuyên.

Lý Tự Thành đánh mãi mới chiếm nổi Tây An, cướp được Vương cung Tần vương, một vị thân vương của nhà Minh, rồi đem Vương ra chém đầu. Thành tự tiện lập lên nước Đại Thuận, cải niên hiệu là Vĩnh Xương. Uy thế càng ngày càng lững lẫy, Thành kéo binh đánh phá Thái Nguyên, Đại Danh, Chán Định chiếm hết một dọc thành trì suốt vùng này.

Sùng Trinh hoàng đế nhà Minh được tin này, sợ quá, vội hạ chiếu trưng tập quân binh để bảo vệ kinh thành. Buồn thay lúc đó, Minh triều bị tên gian thần Nguy Trung Hiền, chuyên quyền làm bậy. Hoàng đế có muốn làm gì cũng chẳng được. Vua thì bị ép, cùng khổ đến cực độ, mà trung thần thì bói cũng chẳng ra một người! Thật là bi đát hết chỗ nói! Tin tức này truyền tới tai Phạm Văn Trình, Trình bèn bảo Đa Nhĩ Cổn:

- Cơ hội có một, không nên bỏ mất. Vương gia nên nhân lúc này đem quân đi thu phục Minh triều, lập đại công, thử hỏi ai chả phục!

Nhiếp chính vương nghe xong gật đầu khen phải. Thế là Cổn vào báo tin cho thái hậu hay. Văn thái hậu tuy lòng không muốn xa rời người tình, nhưng vì quốc gia đại sự, đành phải ưng chịu.

Thế là bà gọi bảo con trai là Thế Tổ hoàng đế chọn ngày lành, thăng điên Đốc cung, phong Đa Nhĩ Cổn là tướng quân thống lĩnh hai phần ba quân lực Mãn Châu, Mông Cổ phối hợp với quân của bọn Tam vương Hán quân Cung Thuận, Túc thuận công, tất cả không dưới mười vạn người ngựa. Hoàng đế lại thưởng cho Cổn một cây tán, hai lá cờ độc kỳ lớn, rồi mũ da cáo đen, áo bào da con điêu, áo choàng ngoài cũng da con điêu, nệm ngồi da điêu, mũ mát, áo bào da trăn, áo choàng da trăn, nệm ngồi da trăn, yên ngựa bằng lông diều hâu, ngựa tốt loại thượng thặng, không thiếu một thứ gì.

Cổn vào cung từ biệt Thái hậu. Lúc lâm hành, Cổn tâu với Thái hậu nếu cướp được Trung nguyên, sẽ đón bà vào quan nội cùng hưởng cảnh phú quý, phồn hoa của Trung Quốc.

Giờ Ngọ đúng ba khắc, tiếng pháo nổ vang trời nơi thành ngoại, Đại tướng quân Đa Nhĩ Cổn nhảy lên yên ngựa, trước mặt dựng cao tám cây cờ Đại độc kỳ, rồi đại binh ùn ùn kéo đi như nước chảy về phía Sơn Hải quan. Khi ra tới biên cương, Cổn thân phái Đa Đạc, A Tế Cách, Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh, Thượng Khả Thiện cùng vương tử của Triều Tiên là Lý Xí, người nào người nấy đem đại binh của mình tiến về phía trước còn chính. Cổn thống lĩnh nha binh đồn trú tại các miền phụ cận Quảng Ninh và vùng ông Hậu nghe ngóng tin tức.

Giữa lúc đang điều binh khiển tướng như vậy, bỗng tiền quân A Tế Cách đưa từ ngoài vào một tên quan sai của Minh triều. Tên quan sai này thấy Đa Nhĩ Cổn, vội quỳ xuống, miệng thưa:

- Bình tây bá Ngô Tam Quế có khẩn thư, đặc sai phó tướng Diệp Vũ Chung đưa tên Đại tướng quân khai khán.

Tức thì có thị vệ quan tiếp lấy, đưa lên cho Cổn. Cổn mở xem thấy thư viết: "Sùng Trinh hoàng đế bị treo cổ chết ở Môi Sơn. Lý Tự Thành đánh phá thành Bắc Kinh. Đại tướng quân phát binh cứu Trung Quốc thoát khỏi đại nạn"

Cổn đọc xong, bất giác ngạc nhiên nói:

- Tên Lý Tự Thành quả lợi hại thật! Chẳng mấy ngày mà hắn đã gây ra được chuyện lớn tày trời.

Cổn lại hỏi Diệp Vũ Chung xem Sùng Trinh đế bị treo cổ chết như thế nào?

Diệp phó tướng bỗng nước mắt chảy ròng, mãi sau mới trả lời được:

- Thật đáng thương cho vị hoàng đế phải chết một cách oan uổng Văn võ khắp triều đều là một lũ gian thần: Quân của Lý tặc đến chân thành rồi mà bách tính Bắc Kinh vẫn chưa hề biết tí gì. Mãi tới ngày 17 tháng 3, khi lâm triều nhà vua hỏi: bên ngoài thế giặc ra sao, thì bá quan văn võ chỉ còn có chảy nước mắt tỏ nỗi lo sợ mà thôi. Một lát sau có tin từ Ngọ môn báo vào nói quân của Lý Tự Thành đang vây đánh khắp Cửu môn (9 cửa thành). Bọn đại thần vừa nghe qua, chẳng hỏi tới hoàng đế nữa, ai nấy chuồn vội ra khỏi điện. Sùng Trinh hoàng đế thấy vậy, thở dài, thoái trào về cung, ôm lấy hoàng hậu khóc rống lên. Lúc đó có tên Tổng quản thái giám thấy hoàng đế khóc lóc thê thảm, bất giác xúc động, bèn kêu gọi bọn thái giám trong cung tất cả khoảng hơn trăm, người nào cũng vác binh khí chạy ra, chống giữ hoàng thành. Qua ngày 18, bên ngoài đánh phá kịch liệt, bên trong có một tên thái giám tên gọi Đỗ Huân thấy thế nguy bỏ trốn ra đầu hàng rồi đem mọi việc trong thành nhất nhất kể hết cho Thành nghe. Thành bèn dùng dây cho Huân leo trở lại thành ngay đêm đó vào cung Sùng Trinh hoàng đế, xin ngài nhường ngôi cho y. Sùng Trình hoàng đế bắt Đỗ Huân giam lại. Chiều tối hôm đó, thái giám Tào Hoá Thuần lén mở cửa Chương Nghi môn, thế là quân giặc ùn ùn kéo vào, gặp người là chém, thấy nhà là đốt, kinh thành ánh lửa rực trời, tiếng người kêu khóc dậy đất. Sùng Trinh hoàng đế hạ lệnh đóng chặt cửa thành. Thương thay cho ngài, một mình ra khỏi cửa cung, chạy lên núi Vạn tuế sơn, thấy binh lửa ngụt trời, bèn thở vắn than dài: "Thế là chết cả đám dân vô tội rồi!". Than xong, ngài giỏ mấy giọt nước mắt bi thương, quay về Kiều Thanh cung. Ngài lấy bút sơn viết một đạo thượng dụ, giao phó cho Thành quốc công Chu Thuần Thần và tất cả đề đốc nội ngoại chư quân, phò trợ Đông Cung. Viết xong, ngài cho mời hoàng hậu tới. Chỉ trong nháy mắt, một số đông cung nữ, cả hoàng hậu và Viên quý phi đều có mặt ngồi vây quanh lấy hoàng đế. Ngài sai bày tiệc rượu, uống liền ba chén rồi quay lại bảo hoàng hậu:

- Việc lớn hỏng hết rồi!

. Hoàng đế vừa nói xong thì đã nghe đám cung nữ oà lên khóc thảm thiết. Hoàng hậu cũng lấy vạt áo lau má lệ, nói giọng trách móc: "Thần thiếp phụng sự bệ hạ đã mười tám năm, nhiều lẩn khuyên can mà chẳng thèm nghe cho nên mới có ngày nay". Sùng Trinh hoàng đế cũng chẳng buồn nói nhiều, chỉ cho gọi Thái tử Vĩnh vương, Dịch vương, rồi cầm tay hai con nói được có một câu: Trốn đi. Lại dặn thái giám đem hai thái tử ra khỏi cung ký thác cho bên ngoài hai nhà họ Chân và họ Điền nuôi dưỡng. Một lát bọn cung nữ vào báo: Hoàng hậu thắt cổ chết. Sùng Trinh hoàng đế chạy vội lại xem, thì hậu đã tắt thở! Ngài chỉ nói được có một tiếng: Tốt! Công chúa ngồi bên cạnh oà khóc. Công chúa năm đó mới mười lăm, vẻ đẹp chim sa cá lặn. Ngài thấy lúc nàng không đề phóng, bèn tuốt bội đao một tay che khuất mặt, một tay vung đao chém tới Công chúa trúng đao ngã quỵ trong vũng máu, vai bên phải mất hẳn. Nàng lăn lộn gào khóc. Hoàng đế gạt lệ nói: "Ai khiến mày sinh vào cửa vua chúa làm gì?". Nói xong ngài quay đầu lại, thấy Viên quý phi đang ngồi bên cạnh liền hỏi: "Tại sao ngươi chưa chết đi?". Viên quý phi nghe xong, liền quỳ lạy hoàng đế mấy lạy rồi cởi dây lưng treo cổ trước mặt ngài. Chiếc dây lưng bỗng đứt, nàng hồi tỉnh trở lại. Hoàng đế cầm ngược con dao dùng hết sức bình sinh chém tới tấp vào người nàng đến mấy đao mới chết. Ngài, thu đao rồi cùng bọn thái giám chạy tới cửa Đông Hoa môn. Cả bọn bị đám binh sĩ chăn lại. Ngài đành quay sang cửa Tề Hoa môn tìm tới nhà Châu Thuần Thần. Đoàn người bị bọn lính canh cửa không cho vào. Ngài lại chạy vội qua cửa An Định môn. Binh sĩ dàn khắp mặt thành. Cửa thành đông như kiến không cách gì qua được nên ngài đành thở dài quay về cung. Lúc đó Sùng Trinh hoàng đế mặc áo bào xanh chạy qua chạy lại nên chẳng ai nhận ra được. Qua ngày thứ mười chín, vào lúc hừng sáng, nội thành cũng bị giặc phá nốt. Hoàng đế lặng lẽ một mình chạy lên núi Môi Sơn ngồi xuống thềm đình Thọ Hoàng. Chung quanh tiếng reo hò chém giết vang dậy. Ngài đưa con mắt lạc thần nhìn quanh một vòng, thở dài sườn sượt. Rồi ngài giơ tay cầm cây bút son để trên mặt án thư viết mấy chữ vào vạt áo xong rồi cởi giải áo treo cổ chết ngay trong thành…

Sùng Trinh hoàng đế đã chết trên núi Môi Sơn. Từ bên ngoài Lý Tự Thành đánh thốc vào cung. Thái giám Vương Thừa Ân lúc đó chạy khắp nơi tìm kiếm nhà vua. Khi lên Môi Sơn vào đình Thọ Hoàng hắn mới thấy xác nhà vua treo lủng lẳng trên hậu của, đầu tóc rũ rượi, chân trái để trần, chân phải còn lại chiếc giầy đỏ. Nhìn tới vạt áo hắn thấy mấy dòng chữ như sau:

"Trẫm lên ngôí vua đã mười bảy năm trời. Bọn nghịch tặc bức bách kinh sư. Trẫm tuy đức bạc tài hèn nên phạm tội với trời, nhưng thực ra tội lỗi đều do bọn bầy tôi làm trẫm lầm lạc. Trẫm chết đi không mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên dưới suối vàng nữa. Hãy lột hết mũ mãng của trẫm đi! Hãy lấy tóc che mặt cho trẫm. Hãy để mặc cho giặc băm nát thây trẫm xin chớ giết hại một người dân nào".

Vương Thừa Ân đọc xong di chiếu, không khỏi rơi lệ thương xót. Ân quỳ xuống lạy thây ma Sùng Trinh hoàng đế tám lạy rồi lẩm nhẩm khấn khứa:

- Đức vạn tuế ngài ở cõi âm xin hãy chậm chút, cho nô tài theo với!

Khấn xong, Ân cũng cởi thắt lưng treo cổ lủng lẳng dưới chân Sùng Trinh hoàng đế.

Nói thêm những điều Diệp Vũ Ung không biết nên không kể được ra.

- Lúc thành bị phá, Sùng Trinh hoàng đế thăng điện không thấy bóng một tên thái giám. Ngài bèn xuống điện tự tay đánh chuông, đánh mãi vẫn chẳng thấy một tên quan lớn quan nhỏ nào tới. Nhưng lúc Lý Tự Thành vào cung, leo lên ngai vàng ngồi chễm chệ trong điện Kim Loan, thì đánh chuông trống vừa kêu đã thấy Thành quốc công Chu Thuần Thần cầm đầu văn võ đại thần toàn triều kéo vào quỳ mọp dưới đất lạy lấy lạy để, miệng quai ra hô lớn:

- Hoàng đế vạn tuế!

Lý Tự Thành tra vấn thì chỉ có vài vị đại thần như Phạm Cảnh Văn Nghê, Nguyễn Lộ là còn có lòng trung nghĩa. Lại hỏi tới Sùng Trinh hoàng đế, thì bọn đại thần ngơ ngác nhìn nhau, chẳng biết vua đâu. Về sau, phát giác thây nhà vua trên núi Môi Sơn, Thành hỏi tên tiểu thái giám trông coi đình Thọ Hoàng thì hắn kể lại đầy đủ chi tiết lúc nhà vua lâm tử với Vương Thừa Ân tuẫn tiết chết theo. Thành sai quân sĩ lấy cánh cửa trong cung đặt xác hoàng đế tên khiêng đi, dùng chiếc áo quan bằng gỗ cây liễu tẩm liệm qua loa rồi mang ra ngoài Đông Hoa môn bỏ trong kho chứa cỏ, chỉ có ba, bốn tên thái giám già trông coi hàng ngày.

Lý Tự Thành ở lại trong cung, hàng ngày có văn võ bá quan triều bái, chẳng thấy kẻ nào tới lạy trước quan tài vua Minh. Bọn Trần Diễn, Nguy Tảo Đức, Trương Nhược Kỳ, Lương Triệu Dương, Dương Quan Quang, Châu Khuê, cả một lũ gian thần đều quay lại xu phụng nịnh bợ Lý Tự Thành. Cả cha Ngô Tam Quế là Đô chỉ huy Ngô Tương cũng đầu hàng họ Lý. Ngô Tam Quế có một ái thiếp tên gọi là Trần Viên Viên, vốn là con đào hát trong nhà ngoại thích Điền Uyển, có sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Một hôm Quế tới uổng rượu tại nhà họ Điền trông thấy liền xiêu lòng, bèn xin Điền Uyển đem về, Quế sủng ái Trần thị hết mức ngày đêm ôm ấp. Quế được ý chỉ của Sùng Trinh hoàng đế đem quân đồn trú tai Sơn hải quan. Y sợ da thịt của người tình quá non mỏng không chịu nổi phong sương nơi quan ngoại nên gửi nàng lại nhà cha mình. Khi Lý Tự Thành đánh Bắc Kinh, Ngô Tam Quế được phong Bình Tây bá, đem quân hồi kinh hộ giá.

Vừa về tới Phong Nhuận, Quế đã được tin kinh thành thất hãm. Quế hỏi tin được biết cha đã hàng giặc. Hỏi đến Trần Viên Viên, thì nàng đã bị tên tướng giặc Lưu Tôn Mẫn cướp đi và đem nàng dâng cho Lý Tự Thành hưởng thụ. Được những tin động trời ấy, thử hỏi làm sao Quế chịu nổi? Thế là một mặt Quế đem đại binh ngày đêm đánh thốc về kinh, một mặt sai phó tướng Diệp Vũ Chung tới quan ngoại nhờ cứu giúp.

Diệp Vũ Chung kể hết mọi sự xong, Đa Nhĩ Cổn còn hỏi đi hỏi lại nhiều điều chưa rõ ràng rồi mới suy tính kỹ lưỡng.

Sau đó Cổn lập tức truyền lệnh huy động binh mã, dựng một cây cờ lớn trên viết bốn chữ "Đoàn quân nhân nghĩa" diễu võ dương oai, đánh thẳng vào Bắc Kinh, có quân của Bình Tây bá dẫn đường.

Lý Tự Thành nghe tin quân Mãn Thanh kéo tới, hoảng quá bắt cóc thái tử của Minh triều và hai vị Vương gia rồi bỏ chạy về hướng tây. Ngô Tam Quế đuổi đánh, giết được cha y là Ngô Tương. Lúc hỏi tới Trần thị, Quế mới hay nàng đã bị Sấm Vương Thành đem đi mất. Quế đuổi theo. Đến giữa đường, bắt gặp Trần thị đang một mình thui thủi. Thật là vui buồn lẫn lộn! Quế lấy lại được người đẹp, chẳng còn bụng dạ nào mà truy kích nữa, bèn quay về thành Bắc Kinh.

Đa Nhĩ Cổn vào cung nhà Minh, chẳng cần làm khách, nhảy lên ngai vàng trong điện Anh Võ, để cho trăm quan triều hạ.

Cổn một mặt cho chiếm giữ các cung điện một mặt tự tay viết tờ sớ tâu về Thịnh Kinh, sai Phụ Quốc công Đồn Tề Khắc Hoà Thác, và Cố sơn ngạch chân Hà Lạc Hội đón rước vào Bắc Kinh.

Cổn lại phái hàng thần của Minh triều là Kim Chi Tuấn thiết lập vô số hành cung, dọc hai bên đường chạy từ Sơn Hải quan thẳng tới Bắc Kinh.

Tới ngày hai mươi tháng chín, Duệ thân vương được tin Thuận Trị hoàng đế đã cung thỉnh Thái hậu tiến vào thành Bắc Kinh. Đa Nhĩ Cổn vội triệu tập văn võ đại thần khắp triều mũ áo chỉnh tề, xuất thành xa chín dặm, cung tiếp thánh giá.

Bỗng người ta nghe chín tiếng đại bác nổ rền, rồi ở phía trước, chuông trống, nghi tượng, cờ rồng xe phượng, bọn thị tùng áo lông màu lam chia đôi hàng tả hữu, hộ tống long xa, oai vệ kéo tới. Trong long xa là Thái hậu má còn mịn, tóc còn xanh, bế trong lòng chú Trời con nhỏ xíu. Chiếc long xa từ từ lăn bánh, từ Vĩnh Định môn tiến vào Đại Thanh môn. Hai bên đường, bách tính nhà nào nhà nấy bày hương án đón tiếp.

Từ trong các cửa sổ, các ngách tường, đám dân đen nghé mắt nhìn trộm. Xa giá tiến vào Tử Cấm thành. Văn võ đại thần nhất tề sui ra, chỉ còn lại một mình Nhiếp chính vương theo giá vào cung. Thuận Trị Thái hậu vào Từ Ninh cung, nghỉ ngơi một lát rồi truyền chỉ cho Đa Nhĩ Cổn vào.

Hai người tình cũ xa cách đã lâu, nay được tái hội tự nhiên có một phen nghiêng trời lệch đất, tha hồ cho tình yêu lai láng. Đôi bên trò truyện mãi khuya, Cổn mới lui ra trở về dinh mình. Lúc đó Tiểu Ngọc Nhi, phúc tấn vợ Hoà Cách cũng đã theo gót vào Bắc Kinh. Cổn trở về phủ cười đùa trò chuyện với vợ một lát, rồi qua quấy phá hai chục cô thị thiếp một hồi, cuối cùng lẻn vào phòng cô cháu dâu nưng nịu mân mê bàn tay ngọc.

Vợ Cổn, nàng Tiểu Ngọc Nhi từ khi lấy chồng và biết chồng mình có tình với chị ruột mình, thì lòng lúc nào cũng ngầm ỹ oán giận, không cách nào nguôi. Đôi ba lần tức quá nàng đã định chạy vào cung để cãi nhau với chị, đánh ghen với chị, nhưng lại nghĩ chị mình nay đã làm tới Thái hậu, thế lực vượt xa mình, thì làm sao mà chống lại, đành lại phải câm nhịn.

Cổn mấy hôm đó vì trong cung bận nhiều việc, đành phải ở lại mấy ngày đêm. Tiểu Ngọc Nhi máu ghen lại càng sôi lên.

Thuận Trị hoàng đế chọn ngày mồng một tháng mười để đăng cơ. Bởi vậy ngày hai mươi sáu tháng chín ngài hạ dụ cho đại tiểu quần thần mặc tang phục để tang Sùng Trinh hoàng đế ba ngày. Tới ngày mồng một, toàn triều thay đổi cát phục.

Hoàng đế thăng triều, ngồi giữa điện Anh Võ Văn. Võ trăm quan nhất tề quỳ lạy tung hô vạn tuế ba lần. Sau đó nhà vua hạ luôn ba đạo dụ: Đạo thứ nhất là đem Minh triều cải đổi ra thành Đại Thanh, đại xá thiên hạ, miễn thuế cả nước một năm. Đạo thứ nhì là hạ lệnh chơ thần dân trong thiên hạ phái nhất luật cắt tóc trong thời hạn mười ngày. Đạo thứ ba là phong A Tế Cách làm Tĩnh viễn đại tướng quân, hợp binh lại với Ngô Tam Quế. Thượng Khả Hi từ biên viễn Đại đồng lại hợp với quân Mông Cổ, tiến vào Du lâm Diên An đánh mặt sau Thiểm Tây để tiêu diệt bọn Lý Tự Thành, lại phong Đa Đạc làm Định quốc đại tướng quân xuống miền Giang Nam đi thu phục thiên hạ của nhà Minh.

Chỉ nói riêng đạo dụ cắt tóc cũng đã gây chết chóc cho không biết bao trung thần nghĩa sĩ. Nhưng thôi, chẳng cần nhắc tới cho thêm đau lòng, chỉ cần nói chuyện Đa Nhĩ Cổn, sau khi phân phát các lộ binh mã đi rồi, ngày đêm nằm lì trong cung cấm cùng Thái hậu thủ lạc. Các bà tấn, vợ các thân vương, hàng ngày cũng phải luân phiên vào cung để chúc mừng. Duy chỉ có Tiểu Ngọc Nhi vì ghen tức với chị đến tận xương tuỷ. nhất định không thèm diện kiến.

Lần này thấy chồng vào cung ở lỳ trong đó đến mấy ngày không về, nàng điên lên, cưỡi xe xông thẳng vào Từ Ninh cung, đầu không chải, quần áo không thay. Bọn thái giám và cung nữ thấy nàng có vẻ hung dữ bèn chặn lại. Đang ghen tức uất hận, lại không có chỗ tiết, hơn nữa còn bị bọn người ngăn cản, nàng bèn đứng luôn ngoài cung chỉ trời vạch đất, vung tay múa chân lớn tiếng chửi bới om sòm, một lời kêu Đa Nhĩ Cổn, hai lời kêu Nhiếp chính vương. Nàng chửi bới chồng một lúc lâu rồi quay sang vạch hết chuyện tư tình của Cổn với Thái hậu ra cho mọi người biết, khiến bọn thái giám cũng như cung nữ hoảng hồn bạt vía, bịt tai chẳng dám nghe. Cuối cùng vài cung nữ đành phải tới dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ rồi mời nàng vào ngồi trong Tây thư phòng, mặt khác sai người chạy vào trong thông báo cho Nhiếp chính vương biết.

Lát sau, bọn cung nữ truyền lời ra, nói mời nàng về trước và báo Vương gia đêm nay thế nào cũng về phủ. Tiểu Ngọc Nhi nghe xong, chẳng biết làm gì hơn, đành lủi thủi lên xe trở về.

Trời gần tối, Đa Nhĩ Cổn quả nhiên về nhà. Đa Nhĩ Cổn tuyệt nhiên chẳng đả động tới chuyện xảy ra lúc ban ngày.

Hai vợ chồng ăn xong bữa tối rồi cùng lên giường nằm nghỉ tại phòng Ngọc Nhi. Bọn thị thiếp thấy vậy rất lấy làm lạ.

Qua ngày hôm sau, vào lúc sáng sóm tinh sương, cả bọn kéo nhau tới đợi trước phòng Ngọc Nhi thì thấy nàng nằm cứng đơ trên giường, thất khiếu đều chảy máu. Thì ra nàng đã chết từ lúc nào!

Cả bọn hoảng hồn bạt vía và không cần phải suy nghĩ cũng biết được ai là thủ phạm, nhưng không đứa nào dám kêu. Cổn coi việc xảy ra như không có gì đáng để ý, thủng thẳng cho gọi quan sai tới mua sắm quan quách khâm liệm rồi làm lễ chôn cất.

Sau vài ngày tang ma, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn lại vào cung như cũ, có lần nằm luôn tới mười ngày chẳng thấy ra ngoài. Chuyện tư tình giữa chị dâu em chồng từ khi Tiểu Ngọc Nhi kể xấu tại cung môn không còn ai là không biết.

Tiếng đồn chẳng đẹp này tới tai Thuận Trị hoàng đế. Nhà vua tuy nói là còn nhỏ tuổi nhưng cũng đã cảm thấy đôi phần nhục nhã, khó chịu.

Không ngờ lúc đó có một vị Lễ bộ thượng thư tên gọi Tiềm Khiêm Ích sớm đã biết tâm bịnh của Nhiếp chính vương và của Thuận Trị hoàng đế. Ông nghĩ thế nào đó, bèn dâng một tờ sớ, ý rằng:

"Hoàng thái hậu hiện đang xuân, sống một mình trong cung cấm, ắt hẳn cam chịu nhiều điều thương cảm. Nhiếp chính vương có công cao vị cả, lại chẳng may đoạn huyền. Vậy chi bằng xin Thái hậu hạ giá "(lấy xuống) Nhiếp chính vương khiến có thể cởi bỏ được đại công của hoàng thúc".

Đa Nhĩ Cổn đọc xong bản sớ, bất giác lòng như hoa nở. Ông bèn chạy vào cung đưa cho Thái hậu rồi bàn tính với nhau.

Thái hậu tuy cảm thấy xấu hổ, nhưng lại cười bảo Cổn:

- Ta không biết đâu đấy! Người bàn tính với bọn chúng xem sao.

Cổn quay về phủ liền cho gọi Tiềm Khiêm Ích tới. Hai người bàn đi tính lại với nhau suốt cả đêm. Qua ngày hôm sau, Ích vào triều, đem ý mình tâu lên cho hoàng thượng rõ.

Thuận Trị hoàng đế tất nhiên chuẩn tấu. Ngài hạ một đạo dụ xuống cho thần dân. Đạo dụ nói:

"Trẫm lấy tuổi trẻ lên ngôi, đặt vạc nơi Yên Kinh, biểu chính ở muôn phương, quét sạch bốn bể, dốc lòng đạo đức, cố làm cho nước nhà thịnh vượng. May nhờ được Thánh mẫu hoàng Thái hậu hiền đức bên trong, Nhiếp chính vương hoàng thúc khuông phò bên ngoài, một lòng một dạ, trẫm mới có cái cơ nghiệp như ngày nay. Trẫm nhớ lại Hoàng Thái hậu từ khi Hoàng khảo về trời một niềm vịn râu rồng mà trông ngóng, ắt không khỏi thương tâm, lại ngậm mật gấu để dạy con, không mở miệng cười. May nhờ có Nhiếp chính vương nên trẫm phó thác được trách nhiệm, gởi gắm được tâm lòng, lại nhuần thấm được từ ân vâng theo thêm ý đẹp. Trẫm nghĩ tới khi vương đuổi hươu công thành đem xích đởm tỏ lòng trung, lúc tung ứng vọng trọng, đem đan tâm mà phò trợ, hoặc khi vương mang kim đằng dẹp loạn, có công lập cơ công phụ trọng, lúc đem Thiệt Khoán báo ơn, quên cái gián của Khâu tẩu năm xưa. Trẫm lại cũng muôn làm vui nơi cung lạnh, cố đem cởi bỏ cảnh bi thương của con hạc lạc đàn và tìm cách gây mừng nơi cụng vắng, để khỏi nghe hát khúc của con loan cô độc. Tuy nói rằng cầm kính giữ lễ nhưng chấp kinh vẫn phái tòng quyền.

Thông biến kinh quyền chẳng qua để giữ tròn đạo vợ nghĩa chồng để gây vui cho bực thân trưởng bên trên. Ôi thôi! Lễ Kinh đều có đủ tuy chẳng nói cái điều tái giá nhưng gia pháp vẫn phải theo dù không có cái luật trùng hôn, nhưng thánh nhân đâu có ngại chi tới điều đạt tiết. Kẻ đại hiếu rất quý ở chỗ thuận theo đấng thân, đấy là nỗi khổ tâm nhất của trẫm, trẫm mong được thần dân trong thiên hạ lượng xét chung. Nghi điều của buổi đại hôn, trẫm giao cho Lễ bộ bàn định và tâu trình để trẫm cho thi chiếu. Khâm thử"

Hồi 44

ĐÁM CƯỚI CỦA HOÀNG THÁI HẬU HẠ GIÁ NHIẾP CHÍNH VƯƠNG

Lễ bộ tiếp được thánh chỉ, bèn đem bàn định những nghi tiết cho Thái hậu hạ giá. Bộ chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ. Mặc khác, phái định Hoà Thạc thân vương là Sung Khâm sung chức Đại hôn chánh sứ, Nhiêu Dư quận vương sung chức Đại hôn phó sứ. Hai vị chánh phó sứ có nhiệm trách đưa Nhiếp chính vương tới cửa Ngọ Môn để làm lễ Nạp thái. Trên lễ đơn có kê khai đủ thứ như sau: ngựa vằn hai chục con, giáp trụ hai chục bộ, đoạn hai trăm tấm, vải bốn trăm súc, vàng bốn trăm lạng, bạc hai vạn lạng, đồ trà bằng vàng hai bộ, đồ trà bằng bạc bốn bộ, mâm bạc bốn chiếc, ngựa tốt bốn chục con, giáp của lạc đà bốn chục chiếc. Tất cả những lễ vật này bày thành hàng trong cung điện Thái Hoà. Còn ở Kiền Thanh cung thì hoàng đế tứ yến mời Nhiếp chính vương vào tiệc.

Tiệc xong, Nhiếp chính vương lại phải tới cung Thọ Ninh để làm lễ "Tam quy cửu khấu" tạ ơn.

Đến hôm lễ Đại hôn, ngay từ canh năm, Nhiếp chính vương đã sắm sanh đầy đủ cả một ban chấp sự: một cặp voi trắng dẫn đầu, phía sau là một cỗ xe báu, rồi đội nhạc, đèn đỏ, quản tượng sư, Chỉnh nghi uý, Dẫn trượng, Liễu trượng, Lập trảo, Ngoạ trảo, Tính Việt, cờ ngũ sắc Kim Long nhỏ, cờ Thuý Hoa, cờ Kim Tú, cờ Môn Kỳ, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Dân, cờ Ngũ Lôi, cờ Bát Phong, cờ Cam Vu, cờ Liệt Tú, cờ Ngũ tinh, cờ Ngũ Nhạc, cờ Tứ độc, cờ Thần Võ, cờ Chu Tước, cờ Bạch Hổ, cờ Thang Long, cờ Thiên Mã, cờ Thiên Lộc, cờ Tịch Tà, cờ Tê Ngưu, Cờ Xích Hùng, cờ Bạch Hùng, cờ Bạch Chấn Lộ, cờ Minh Diên, cờ Xích Điểu, cờ tràng Hoa, cờ Hoàng hộc, cờ Bạch Tri, cờ Vân Hạc, cờ Khổng Tước, cờ Nghi Phượng, cờ Tường Loan, cờ ngũ sắc Long độc, cờ Tiền phong độc, cờ Hộ Quân độc, cờ Thiệp Kỳ Hoàng mao, Nghi Hoàng mao, Kim Tiết, cờ Tiến thiên nạp ngôn tình, cờ Phu văn chấn văn tình, cờ Bao công hoài viễn tinh, cờ Minh hình bật giáo tin, cờ Giáo hiếu biểu tiết tinh, cờ Long đều phan, cờ Báo vĩ phan, cờ Giáng dẫn phan, cờ Tin phan, quạt Loan phụng vượng đỏ, quạt đuôi trĩ, quạt đuôi công, quạt Đơn long nền đỏ, quạt Đơn long nền vàng, quạt chữ thọ, tàn vuông đỏ, tàn vuông tía, tàn hoa ngũ sắc, tàn cửu long ngũ sắc, tàn cửu long vàng, lọng Tứ Chi, lọng Thuý Hoa, lọng Cửu long vàng, Kích, giáo, thương đuôi beo, cung tên, nghi đao, thượng mã, kim cơ, giao ỷ bằng vàng, ống nhổ bằng vàng, hộp hương bằng vàng, lừ hương bằng vàng; phất trần, nắp bằng vàng, bình rượu. Tất cả những vật này cứ đôi một lần lượt tiến lên trước. Số nội giám hôm đó phải lực dịch vào việc nảy lên tới một ngàn hai trăm bốn mươi sáu người.

Đoàn chấp sự đi từ cửa Đại Thanh thẳng tới cửa cung Thọ Ninh đứng dày đặc con đường trải sỏi vàng.

Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn ngồi ngay ngắn trong xe Kim liễu, theo sau có các tên ngự lâm quân, tên nào cũng cầm thương đuôi beo, cầm nghi đao, cung tên, cưỡi trên lưng ngựa diễu võ dương oai. Chót hết là một cây cờ Hoàng long đại tộc được giơ cao tung bay trước gió.

Đoàn người từ từ tiến vào cửa cung. Phía trong cung, lúc đó đã có một bọn Thân vương phúc tấn, các phu nhân của bối lặc, bối tử, các bà mệnh phụ của các nội vụ đại thần, các bà mệnh phụ nội quản lĩnh, xét theo phẩm trật mà ăn vận đại phục, đều đứng chờ đợi. Đến giờ tốt, Hoàng Thái hậu mặt đồ cát phục vào, trong khi đó hoàng đế xuất lĩnh một bọn Thân vương đại thần vào nội cung làm lễ "Tam quy cửu khấu" và mời bà lên Phượng liễn, có mười sáu cung nữ tuỳ tùng hộ vệ và ba mươi hai tên nội giám khiêng liên ra khỏi cung. Bọn các bà phúc tấn, phu nhân, mệnh phụ hộ tống đều ngồi trên những chiếc xe sơn, màu đỏ, theo phía sau. Còn chiếc kim liễn của Nhiếp chính vương thì đi phía tay mặt hộ tống.

Khi tới cổng vương phủ tất cả nghi trượng đều dừng lại nhưng bọn các quan lớn nhỏ thì tới cửa nghi môn mới dừng.

Phượng liễn của Thái hậu đi thẳng mãi vào chính viện mới đỗ xuống. Bọn nữ quan tiến lên, nâng Thái hậu ra khỏi phượng liễn rồi đưa bà vào tây viện nghỉ ngơi.

Giờ động phòng tới. Bọn nữ quan vào mời Thái hậu ra, rồi quỳ xuống dâng rượu. Nhiếp chính vương cùng bà làm lễ hợp cẩn. Bọn nữ quan đưa hai người vào động phòng.

Qua ngày hôm sau, Thuận Trị hoàng đế thăng điện Thái Hoà. Trăm quan dâng biểu khanh hạ. Hoàng đế giáng dụ cho quần thần yến tiệc linh đình ngay tại hai bên thiên điện ở mé đông cũng nhứ mé tây. Và sau đó, hoàng đế hạ chỉ, tôn Duệ vương lảm Hoàng phu Nhiếp chính vương.

Mỗi ngày tảo triều, Hoàng phu Nhiếp chính vương ngồi ở phía tay mặt hoàng đế, cùng chịu trăm quan quỳ lạy. Thái hậu từ khi lấy Nhiếp chính vương, suốt ngày ở tân phòng mua vui hưởng lạc, quên mất là mình đã tới 40 cái tuổi mà chỉ coi mình như cô gái đôi tám, sáng nào cũng kề vai áp má, đêm nào cũng ấp ngực ủ môi. Nay đã lấy Đa Nhĩ Cổn, định hẳn danh phận thì thái hậu có còn phải kiêng kỵ gì ai. Suốt ngày, bà nằm trong phòng, độc chiếm lấy thúc thúc, báo hại hai chục cô hầu thiếp cùng cả cô cháu dâu chẳng còn ai được xơ múi gì nữa.

Nhiếp chính vương suốt ngày kề vai sát vế với bà chị dâu, thôi thì hết tân hoan đến cựu ái, mối ân tình quả thật nồng nàn mùi mẫn. Nhưng rồi một tháng sau, thúc thúc Nhiếp chính vương đâm chán, tự nhiên nhạt dần bà chị dâu. Cặp chị dâu em chồng này khi chưa cưới hỏi, còn tằng tịu giấu giếm thì tha thiết lắm, thèm thuồng lắm, nhưng nay đã công khai thì còn có gì ham hố mà chả chán. Bởi vậy Nhiếp chính vương thường lẻn vào buồng cô cháu dâu để gỡ gạc. Thái hậu biết được, máu ghen nổi lên thế là sóng gió tơi bời không ai can nổi.

Thực ra, Thái hậu cũng chẳng lép gì! Bà chợt nhớ tới người xưa là Đại học sĩ Hồng Thừa Trù của mình. Thế là bà cho triệu tình nhân vào phủ để trò chuyện mua vui khi vương ta vắng mặt. Ở đời có cái gì bí mật mãi được! Chuyện Thái hậu tằng tịu với trai một ngày kia cũng lọt vào tai Cổn. Ức lắm, nhưng không có cách đối phó nên Cổn đành chịu vậy.

Lúc đó, Đa Đạc ở Giang Nam đã dẹp yên khắp miền này, hưởng dụng đủ cảnh phồn hoa khoái lạc. Quan quân thủ hạ bắt được gái đẹp, Đạc đem dâng cho Dự vương. Gái Giang Nam có cái tuyệt là nước da mịn mát, thân hình mềm mại, quả là một cái thú đặc biệt. Trong phủ Đa Đạc đám son phấn xanh đỏ này ít ra cũng được bốn năm chục nàng, đều là những trang tuyệt sắc giai nhân. Trong số này có quả phụ Lưu Tam Tú, người tuy đã luống tuổi, nhưng mặt hoa da phấn, sắc sảo quyến rũ hết sức. Dự vương yêu quý muôn phần, nên phong cho nàng làm vương phi, ngày ngày cùng nàng du ngoạn hưởng lạc.

Hồi đó, gặp lúc Đoan dương giai tiết, Dự vương cùng Lưu Tam Tú theo tới bờ sông xem bơi thuyền rồng. Thế rồi vương liên tưởng tới Thái hậu ở trong cung cấm, tuy tận hưởng vinh hoa nhưng có khi nào được xem cái trò vui này bao giờ. Bởi vậy vương, cho đóng mười chiếc thuyền rồng, chọn một chục gái đẹp, tuyển một đội nhạc rồi gởi thẳng về kinh dâng Thái hậu. Thái hậu nhận thuyền liền hạ chỉ mở đại hội thuyền rồng ở vùng Tam Hải, mời rất nhiều phúc tấn, phu nhân, mệnh phụ ngồi trong thuỷ các để xem thuyền. Thuận Trị hoàng đế ngồi ở chính giữa, có Nhiếp chính vương ngồi bên cạnh. Mười chiếc thuyền rồng gióng lên mười hồi chiêng trống rồi lướt đi lướt lại rẽ sóng thành những vệt hoa trên mặt nước. Một lát sau, đoàn thuyền rồng nhất tề chèo gần lại bên thuỷ các.

Hai chục cô gái bước lên xin Thái hậu và hoàng thượng ban thưởng. Thái hậu nhìn bọn gái đẹp bỗng cảm thấy vui thích bèn hạ một tiếng thưởng, tức thì bọn Thái giám đưa những cái giỏ đã chuẩn bị sẵn nào là bạc vụn, nào là y phục, nào là đồ chơi, nào là trái cây xuống thuyền cho bọn con gái.

Giữa lúc mọi người đang mải ngắm, bỗng một đại hán nhảy từ mũi thuyền lên gác, tay cầm một cây đao nhọn đâm bổ vào Nhiếp chính vương. Vương mắt lẹ chân nhanh né được sang bên. Nhưng cây đao nhọn cũng đã hạ xuống nhanh như chớp chém chết một tên tiểu thái giám. Quân ngự lâm nhất tề xông lên, bắt giữ ngay tên thích khách, rồi giao cho hình bộ thẩm vấn. Hắn khai thẳng ra rằng y nhận lệnh của một vị đệ nhất đại nhân trong thiên hạ để hành thích.

Qua ngày hôm sau, hình bộ lại vào nhà lao gọi ra để hỏi tiếp nhưng hung thủ đã tự vẫn chết từ lúc nào.

Nhiếp chính vương biết chuyện, hết sức tức giận, tức khắc cách chức một loạt từ binh bộ thượng thư đến bọn quan thừa thẩm rồi bắt cho hết để tra vấn. Vương lại ngờ là tên thích khách từ Giang Nam tới. Hơn nữa Dự vương có cái thù với vương từ lâu, cho nên vương càng ngờ chính Dự vương đã sai người hành thích. Càng ngờ càng tức giận. Vương lập tức đòi Thái hậu hạ một đạo Thánh chỉ cách chức ngay Giang Nam tổng đốc, rồi phái Thừa Trù tới thay, dặn kín Trù thu phục để nắm lấy quân đội và lần lần thu phục hết binh quyền của Dự vương. Thành thử một việc ra mà lợi đủ đường, khiến vương tống khứ được cả tên Trù, chẳng khác gì nhổ được cái đinh trong mắt. Tất cả những chuyện này đều do kế hoạch của Hà Lạc Hội vẽ vạch cho vương.

Từ khi Nhiếp chính vương với Thái hậu chính thức thành vợ chồng thì ân tình giữa hai người lại không được nồng thắm như trước. Hồng Thừa Trù tuy đã bị tống đi nhưng máu ghen làm sao có thể dứt hẳn trong lòng Nhiếp chính vương được, lại thêm một việc mưu sát đột ngột khiến vương phải đôi phần hoảng sợ. Thái hậu tuy nói hạ giá nhưng bà chỉ ở tại phủ của Nhiếp chính vương vẻn vẹn có một tháng, rồi lại vào Từ Nình cung ở miết trong đó, vương phải chạy đi chạy lại, khi thì ở phủ khi thì vào cung, việc này khiến vương càng lo có người ám toán dọc đường. Bởi vậy, vương cũng bớt dần vào cung mà chỉ ở trong phủ mình cùng cô cháu dâu mua vui hưởng lạc mà thôi. Nhưng lâu ngày rồi vương cũng chán, Vương lại thèm của lạ.

Hồi đó nước Triều Tiên có phái một vị thần tên Kim Ngọc Thành đem đồ tiếng cống, ngụ tại khách quán. Thành có dịp thổ lộ cho Hà Lạc Hội biết quốc vương của y có hai nàng công chúa nhan sắc tuyệt vời. Hội vội chạy vào rỉ tai Nhiếp chính vương. Giữa lúc đang chán ngán kém vui, Nhiếp chính vương được tin đó vội đặt ngay kế hoạch cho Hội thi hành.

Hội được lệnh lập tức tới thương lượng với đại thần Triều Tiên. Vị này thấy đây là lệnh của Nhiếp chính vương, đâu dám trái ý, vội quay về nước, tâu tỏ cho quốc vương hay. Vua Triều Tiên là Lý Minh vốn có ý chơi trèo với thượng quốc đã từ lâu nên khi nghe nói Nhiếp chính vương muốn lấy hai nàng công chúa của mình làm phi tử, thì còn gì đắc ý hơn. Bởi vậy ông một mặt trả lời ưng thuận, một mặt báo cho hai cô con gái ông hay. Hai cô công chúa được biết sắp trở thành phi tử của nước Đại Thanh, trong lòng cũng lấy làm mãn nguyện lắm.

Nhưng họ còn phải giữ kẽ, bởi vì họ biết bà Thái hậu nước Đại Thanh đã hạ giá lấy Nhiếp chính vương, tất nhiên là được sủng hạnh chuyên phòng. Họ cho rằng nếu hai chị em họ qua Thanh quốc thì thế nào cũng bị bà ta khi dễ. Nếu vương muốn lấy họ thì chi bằng mời vương tới nước họ để thành thân rồi làm cho họ một toà vương phủ cao rộng to lớn để họ vĩnh viễn ở đó, khỏi phải xa cha xa mẹ. Hai cô công chúa tính toán với nhau như vậy, nên vua cha của hai nàng bèn cho người đem sở nguyện đó báo cho Nhiếp chính vương hay. Vương được hồi đáp, lúc đầu cũng lấy làm nguyện ý vì như thế tránh xa được tai mắt của Thái hậu, nhưng về sau suy đi nghĩ lại vương lại thấy bất tiện, cho rằng chẳng ra thể thống gì khi mình đường đường là một vị Nhiếp chính vương mà lại đi cầu thân ở một nước thuộc quốc. Mãi về sau Hà Lạc Hội mới nghĩ ra một kế, đại thể vương cho xây cất một toà Hành cung ở thành Khách Thích gần biên giới Triều Tiên để hai nàng công chúa ở còn vương thì láy cớ là xuất quân đi tuần cảnh rồi tới với hai nàng.

Mọi việc xếp đặt đã xong, Nhiếp chính vương chọn ngày Cát Nhật khởi trình từ Bắc Kinh, đem theo bọn quan binh của Bắc kỳ Cô Sơn Ngạch Châm. Thái hậu tuy không muốn cho Nhiếp chính vương xa mình, nhưng vì việc quốc gia đại sự chẳng tiện ngăn trở đành phải để cho vương đi.

Lại nói Thuận Trị hoàng đế mỗi ngày một lớn. Bởi vậy việc chung thân của ngài trở nên rất khẩn yếu. Trước đây, Nhiếp chính vương đứng làm chủ đã hỏi con gái của bộ chủ bộ lạc Khoa Nhĩ Bí Ngô Khắc Thiện cho hoàng đế làm hoàng hậu. Nay Nhiếp chính vương lên đường xuất binh, nên Thái hậu phải nói với vương chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ đại hôn cho hoàng đế. Nhiếp chính vương lúc đó, ngày đêm chỉ nghĩ tới hai nàng công chúa Triều Tiên cho nên mọi việc trong cung vương để mặc thái hậu định liệu.

Hồi 45

NHIẾP CHÍNH VUƠNG BỊ HEO RỪNG HÚC CHẾT

Sau khi đã đùn được mọi việc cho thái hậu giải quyết, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn vội vội vàng vàng chạy ra quan ngoại, để tới hành cung thành thân với hai vị công chúa. Vương chỉ dùng có một tên mà được cả hai chim, thành thử cảm thấy vô cùng mãn nguyện.

Nhưng sự đời thời vui lắm lại sinh buồn nhiều. Số là vương ở lại Khách Nhĩ thành ngày đêm cùng hai vị công chúa Triều Tiên tầm hoan thủ lạc bằng bất cứ trò du hí gì. Thành Khách Nhĩ này vốn rơi vào giữa nơi hoang lương u tịch, hai vì công chúa nhiều lúc nhàn rảnh, chẳng biết làm gì để giết thì giờ, bèn khuyên Nhiếp chính vương vào rừng đi săn.

Một hôm vương đưa hai vị công chúa ra ngoài thành. Giữa lúc bọn quan binh đang lo bảo hộ cho hai nàng săn thú, bỗng từ bên trong xông ra một chú heo rừng to tướng. Con ngựa của vương thấy heo vụt chạy ra, giật mình lồng lên, giơ cao hai vó trước lên, rồi cất tiếng hí vang trời, tỏ vẻ hoảng hốt cùng độ.

Vương ngồi trên ngựa trở tay không kịp bị hất tụt khỏi yên. Chẳng may cho vương, lúc rơi xuống lại vừa đúng vào đà xông tới của con heo. Thành thử vương vừa té ngựa gãy hẳn chân trái, lại vừa bị con heo đạp chân lên mặt, máu chảy lênh láng, đau đớn vô cùng. Viên võ quan tuỳ tùng vội chạy tới cứu nhưng không kịp, chi thấy vương ngất đi, nằm xỉu dưới đất.

Hai vị công chúa được tin, vội chạy ra khỏi rừng, vừa khóc vừa gọi vương, nhưng chẳng thấy vương tỉnh lại. Về sau xem xét kỹ vết thương mới biết sọ cái của vương đã bị bể, óc bên trong vọt cả ra ngoài. Đoàn người đành chỉ còn việc hè nhau lại khiêng xác vương về Hành cung, một mặt thông báo về triều. Năm đó, Nhiếp chính vương mới 39 tuổi.

Tin dữ bay về cung, người thứ nhất khóc lóc thảm thiết đến chết đi sống lại, đó là Thái hậu. Thuận Trị hoàng đế cũng vô cùng thương cảm. Một mặt, ngài hạ chỉ sai đại thần ra quan ngoại để mang linh cữu về triều, mặt khách ngài hạ dụ cho thần dân đều phải mặc đồ tang phục.

Hai vị công chúa Triều Tiên không chịu về Kinh, đợi khi linh cữu Nhiếp chính vương được đem đi, tức thì trở về nước mình.

Linh cữu của Hoàng phụ hôm đó về tới Bắc kinh, Thuận Trị hoàng đế ăn bận hiếu phục đem theo bọn thân vương, bối lặc và bá quan văn võ ra khỏi Đông Trực môn năm dặm để đón tiếp. Hoàng đế thân tự làm lễ tế bái, trăm quan quỳ ngay hai lộ cử ai, suốt từ cửa Đông Trực tới cầu Ngọc Hà các quan từ tứ phẩm trở lên đều phải quỳ khóc bên lộ thẳng tới vương phủ. Công chúa, phúc tấn và các bà vợ của các quan vặn võ đều phải mặc áo tang quỳ khóc bên trong cửa lớn. Linh cữu thì đặt ngay giữa đại đường vương phủ. Chư vương bối lặc suốt ngày đêm phải túc trực nơi đám tang. Lại còn có sáu mươi bốn vị sư Lạt ma tụng kinh siêu độ. Việc tang ma bận rộn suốt bốn mươi chín ngày đêm. Hoàng thái hậu tuy chẳng tiện vào phủ chịu tang, nhưng tình cảnh goá bụa, chốn cung vi lạnh lẽo kể ra bà cũng thương tâm lắm.

Thuận Trị hoàng đế cùng với Thái hậu vốn tình mẹ con quyến luyến, nên khi thấy mẹ khổ, tất nhiên con thương. Bởi vậy hoàng đế đón bà vào cung để ngày đêm, mẹ con gặp nhau, mong vơi bớt nỗi buồn của bà.

Lúc đó Thuận Trị hoàng đế mười bốn tuổi. Ngài bèn hạ chiếu thân chính (đích thân mình trông coi việc triều chính). Hằng ngày, vào lúc canh năm, ngài toạ trào, tra hỏi quốc chính rất kỹ, văn võ đại thần thảy đều sợ hãi. Khi ngài mười sáu tuổi, Thái hậu đứng làm chủ hôn chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ đại hôn cho ngài. Hôm đó Ngô Khắc Thiện đưa con gái vào cung. Dự vương nhân dịp cũng đã về kinh nên Thiện đưa con gái ở tạm trong phủ Dự vương.

Thực ra, theo ý của Thuận Trị hoàng đế thì ngài không muốn lập con gái của Ngô Khắc Thiện tên Bác Nhĩ Tế Cẩm Thị làm hoàng hậu. Nhưng chỉ vì Thái hậu đứng chủ hôn cho nên không dám phản đối đành phải miễn cưỡng thành thân.

Hoàng hậu ở tại cung Khôn Ninh. Tuần trăng mật chưa đầy năm ngày, mà đôi tân hôn đã cãi lộn chửi lộn rồi. Từ đó tình nghĩa vợ chồng càng ngày càng nhạt.

Tô Khắc Sản Cáp, Chiêm Mục Tế Luân, cùng Trịnh thân vương, Đoan Trọng quận vương, Kính Cẩn thân vương, Tốn thân vương, tất cả một bọn quý tộc thân thích này vốn đều có túc oán vời Nhiếp chính vương. Nay thấy Cổn đã chết, bèn lợi dụng cơ hội để báo thù bằng cách ngày ngày tâu trình những chuyện xấu xa bậy bạ của Nhiếp chính vương trước hoàng đế. Họ còn nói thêm tất cả những hành động bi ổi của Nhiếp chính vương đều là do tên quy hại người là Hà Lạc Hội bày vẽ ra.

Thuận Trị hoàng đế vốn chẳng ưa Nhiếp chính vương, nay nghe nhiều vị thân vương đại thần nói vậy, bèn lục lại cựu án hạ một đạo thánh chỉ, đem chính pháp ngay tên Hà Lạc Hội, đồng thời truy đoạt hết tước vị đã phong tặng cho Đa Nhĩ Cổn lúc sinh thời cũng như những ân điển, phong tặng cho vợ con Đa Nhĩ Cổn.

Đến năm thứ ba, Thuận Trị hoàng đế hạ chiếu phế luôn hoàng hậu con gái Ngô Khắc Thiện do hoàng Thái hậu đứng chủ hôn, để lập nàng Cách Cách, con gái Trần Quốc Công Xước Nhĩ Tế của nước Khoa Nhĩ Bí làm hoàng hậu. Bà tân hoàng hậu này tuy bảo rằng hoàng đế tự ý chọn lấy nhưng thực ra ngài chưa từng được thấy.

Ai ngờ khi lấy về cung, hoàng đế té ngửa người ra khi thấy hoàng hậu của mình vừa xấu như ma lem mà lại vừa ngu ngơ ngớ ngẩn như con đòi. Thế là lòng hoàng đế lại nặng thêm một buồn phiền nữa. Còn bà hoàng Thái hậu từ khi thấy hoàng đế độc đoán độc hành lại thêm việc hạ giá lấy chồng của mình nên lòng không khỏi cảm thấy đôi phần xấu hổ thẹn thùng.

Rồi cũng vì chuyện xấu hổ thẹn thùng mà mẹ con từ đó đâm ra hiềm nghi nhau. Chưa hết, đằng sau bà lại còn cả một bọn đông đảo cung nhân và thái giám thường đổ dầu vào lửa, giục bị xui nguyên. Hoàng Thái hậu vì oán trách hoàng đế nên bà càng cảm thấy buồn chán nơi cung đình.

May thay Tổng đốc Giang Nam Hồng Thừa Trù về kinh vừa đúng lúc khiến cả hai mẹ con Thái hậu cùng được vui vẻ an ủi. Tại sao vậy? Tại vì Hồng Thừa Trù vốn là người nhân tình của thái hậu, ngày gặp mặt sao Thái hậu chả vui mừng. Nhưng còn hoàng đế? Thì ra Trù từ Giang Nam trở về có mang theo về một mỹ nhân tuyệt sắc để dâng cho ngài. Thuận Trị hoàng đế vừa thấy trang mỹ nhân này, lòng ngài vô cùng sung sướng. Ngài say mê người đẹp ngay, rồi đem ơn mưa móc hết tình yêu dành cho nàng. Ngài cùng người đẹp yến ấm nói cười suốt cả ngày, nữa bước chẳng rời, giống hệt như Đường Minh Hoàng với Dương Quý Phi xưa kia.

Trang mỹ nhân đó là ai vậy? Đó là nàng Đổng Tiểu Uyển, vốn là ái thiếp của Như Cao tài tử tên Mạo Sào Dân. Hồi đó miền Giang Nam có bốn vị công tử đều vừa có tiền lại vừa có thế lực, có học vấn. Bạn bè họ lại đông cho nên chẳng ai dám động tới họ. Khi vừa tới Giang Nam, Hồng Thừa Trù liền cho người đi dò tìm người đẹp. Trù biết được nào là Quán Bạch Môn, nào là Mã Tướng Lan, nào là Lý Hương Quân, nào là cô Hoành Ba…

Những trang mỹ nhân đều là những vưu vật tuyệt thế, đẹp như ngọc xinh như hoa. Trù thèm người đẹp đến rỏ dãi, dám bỏ hang ngàn vàng ra để mua cho kỳ được một người đem về. Không ngờ, Trù bị cụt hứng vi khi thăm hỏi tới nơi mới biết rằng các nàng đều đã có chủ nhân cả. Trù buồn bực quá, lúc nào cũng thở ngắn than dài.

Hồng tổng đốc từ khi biết nơi đây có người đẹp, ông càng tưởng càng mơ, nhiều khi đến quên ngủ, bỏ ăn. Trù có một tên tâm phúc gọi Đông Nhị Gia. Gia vốn là tên vô lại điếm đàng, suốt ngày chỉ tìm cách xu phụng chủ nhân và cũng nhờ đó được chủ nhân để mắt tới, hắn biết chủ nhân có bầu tâm sự riêng, nên gợi chuyện và cuối cùng biết được ông chủ đã mê nàng Đổng đến hết mức rồi. Hắn liền tìm cách tâng công, nói với ông chủ Hồng Thừa Trù:

- Xin đại nhân để việc đó cho tiểu nhân lo liệu. Trong vòng mười ngày, người đẹp nhất định sẽ về tay đại nhân!

Nói xong câu đó, Đông Nhị Gia biến mất luôn, cách tám hôm sau, đúng vào ngày thứ chín, Hồng Thừa Trù đang ngồi trong thư phòng xem thư, bỗng thấy Gia miệng cười khì khì từ ngoài chạy vào tới trước mặt thỉnh an rồi nói, vẻ hết sức đắc ý:

- Xin mừng cho đại nhân. Tới rồi.

Hồng Thừa Trù ngẩng đầu, tỏ ý ngạc nhiên vội hỏi:

- Cái gì tới?

Đông Nhị Gia nói tiếp:

- Đổng Tiểu Uyển chứ còn cái gì nữa?

Trù nghe xong sướng tưởng như điên lên, nhảy vội ra khỏi ghế, hỏi lại:

- Người mang tới đây thật ư? Ta chẳng tin. Mao công tử vốn là một tay tài tử đất Giang Nam, thân thuộc bạn bè thiếu gì ở kinh đô. Hắn mà phát một tờ cáo trạng thì công nghiệp tiền trịnh của ta kể như đi đứt hết!

Gia lại nói tiếp:

- Đại nhân đừng sợ! Xin cho tiểu nhân bẩm cáo thêm. Số là tiểu nhân sớm đã biết Mao công tử có một số vô lại khá đông dưới trướng. Tụi vô lại này thường thông đồng với bọn buôn muối lậu. Tiểu nhân đem toàn ban Mã Khoái của bản nha đi suốt ngày đêm tới Thôn Lục Dương, phao tin bắt kẻ gian đạo trong nhà Mao công tử, theo lời mật cáo là Mao Sào Dân oa trữ đồ lậu lại cưỡng đoạt cả phụ nữ con nhà tử tế.

Xóm giềng nơi đây nghe tin đó, chẳng ai dám dính líu tới vụ này, sợ rằng thành cháy vạ lây. Mao công tử nghe tin động trời đó cũng hoảng hồn bạt vía vội chuồn cửa sau trốn biệt. Tiểu nhân bèn đánh thốc vào cửa trước, thấy Đông Tiểu Uyển dắt theo một con a hoàn đang vội vàng tìm đường lẩn trốn.

Thế là tiểu nhân chẳng hỏi lý do gì cả, cứ việc kéo nàng chạy đi, còn cố ý loan tin rằng người đàn bà này vốn con nhà lương thiện bị Mao Sào Dân cưỡng bức bắt làm thiếp, nên nay đưa nàng về nhà.

Hồng Thừa Trù nghe kể tới đây, bèn hỏi:

- Có phải người con gái này không?

Gia hồi đáp ngay:

- Phải! Ngay cả con a hoàn của nàng, tiều nhân cũng mang về đây!

Trù bảo Gia:

- Người đem nàng lại ngay cho ta xem!

Chỉ lát sau, quả nhiên, Trù thấy một con a hoàn đưa một trang mỹ nhân tuyệt sắc tiến vào. Trù thấy mặt nàng buồn rười rượi đôi mắt khóc đỏ hoe, cặp má phấn của nàng trải dài xuống một cách thê thảm. Nàng đứng lại bên cạnh ông ủ rũ như một cành lê bị gió đập, một đoá hải đường bị mưa vùi.

Hồng tổng đốc thấy tình cảnh của nàng, vừa thương lại vừa yêu. Ông không biết làm cách nào cho phải mãi sau mới lên tiếng hỏi:

- Bọn ngươi tên gì?

Con a hoàn đáp:

- Nô tỳ tên gọi Khấu Khấu. Chủ nhân của nô tỳ kêu gọi Mao Sào Dân. Ông vốn là đệ nhất tài tử của miền Như Cao, chẳng một ai là không biết tiếng. Còn bà này chính là bà họ Đổng, vị phu nhân sủng sái bực nhất của chủ nhân nô tỳ. Nay chẳng may bị thủ hạ của đại nhân bắt lầm tới đây, rất mong đại nhân tha cho chủ bộc nô tỳ hai người ra về. Trong kinh đô từ vương gia đến các quan ngự sử hầu hết đều là bạn bè thân thích của chủ nhân nô tỳ. Nếu việc này làm cho chủ nhân nô tỳ nổi giận, ông sẽ lên kinh đầu cáo, lúc đó đường công danh của đại nhân e khó mà giữ nổi.

Hồng Thừa Trù nghe con Khấu Khấu nói trong lòng cũng thấy sợ hãi, Trù định thả về nhưng khi nhìn tới Đổng Tiểu Uyển thì lại không thể bỏ được. Ông tặc lưỡi quyết cho phen này làm thì làm luôn một thể. Ông lấy lời lẽ ngon ngọt an ủi:

- Bọn người đừng lo chi. Chỉ vì có kẻ mật cáo chủ nhân ngươi oa trữ đồ gian lại cưỡng đoạt phụ nữ cho nên mới xẩy chuyện. Ta vốn là bạn với chủ nhân ngài. Bởi vậy ta có dặn bọn nha dịch ngầm để chủ nhân người trốn thoát, ta còn sợ bọn du đảng địa phương kéo tới nhà chủ nhân ngươi phá phách, làm phiền đến vị mỹ nhân này, cho nên ta cũng dặn chúng đem bà ta về nha để tránh ít hôm. Khi nào sóng gió êm rồi ta thả cho chủ tớ trở về.

Hồng tổng đốc vừa nói vừa bước sát lại bên cạnh hai người.

Đổng Tiểu Uyển thấy Trù có vẻ mặt đĩ thoã, biết quan tổng đốc chẳng có ý tốt bèn chạy lại bên cây cột đập đầu lia lịa vào để tự sát, máu chảy ra tung toé, ngất xỉu luôn.

Hồi 46

HỒNG TỔNG ĐỐC VU OAN, BẮT GÁI

May được con a hoàn Khấu Khấu giữ lại kịp, nàng Đổng Tiểu Uyển chỉ ngất đi, lúc tỉnh lại, nàng thấy mình nằm trên một chiếc giường nệm gấm gối bông, con a hoàn Khấu Khấu ngồi ngay bên cạnh. Hỏi ra nàng mới biết đây là nơi tư thất của Hồng Thừa Trù. Nàng càng nghĩ tới chồng càng khóc lóc thảm thiết. Con a hoàn Khấu Khấu tái tam khuyên can và bảo nàng:

- Tớ thầy ta hiện nay đang chịu dưới thế lực của Hồng tặc, thiết tương ta nên nhẫn nại đợi chờ. Chủ nhân ở bên ngoài ắt tìm cách cứu bọn ta ra.

Đổng Tiểu Uyển chẳng còn cách gì khác đành phải nghe lời mà nhẫn tâm chờ đợi. Vết thương trên đầu nàng dần dần khỏi hẳn. Thế rồi một hôm, Hồng Thừa Trù uống rượu say nhớ tới nàng, liền cho gọi hai người lại. Trù bảo nàng:

- Mao công tử hiện bị giam trong lao. Độ bốn, năm hôm nữa quân binh sẽ giải đi kinh sư để chém. Ta có ý thương nàng, nên cho nàng biết tin đó. Giả thử nàng chịu cải giá lấy ta, ta sẽ bỏ hết việc trước, ngầm tha cho Mao công tử trốn đi. Lúc đó ta cũng sẽ bỏ quan để cùng nàng tận hưởng hạnh phúc.

Hồng tổng đốc nói còn chưa hết câu thì Đổng Tiểu Uyển đang ngồi dưới đất bỗng lấy tay chỉ mặt ông rồi vừa khóc vừa chửi bới om sòm. Nhưng Hồng tổng đốc đã không giận, trái lại còn cười hề hề bước lại gần giơ tay định nâng nàng dậy.

Chẳng ngờ Đổng Tiểu Uyển bất thần giáng thẳng cánh tát mạnh vào mặt ông đốp một cái chát chúa, vang động cả căn phòng.

Hồng Thừa Trù đau quá hoá giận, tay đập bàn, chân đá ghế, quát tháo, chửi bới um sùm, thậm chí văng tục nào là con khỉ, nào là đồ chết dẫm, nào là con khỉ gió… một hồi lâu rồi mới bỏ ra ngoài. Trù giận bảo đem giam nàng lại. Tức thì có tên xuẩn phụ bước ra, nắm lấy tớ thầy nàng Uyển lôi đi đường ngang lối dọc, mãi một lúc mới tới một căn tiểu lâu.

Chúng đẩy tớ thầy nàng Uyển vào trong rồi khoá chặt cửa.

Nàng Đổng Tiểu Uyển đã mấy lần muốn tìm cái chết cho yên chuyện nhưng đều bị Khấu Khấu cản ngăn và bảo:

- Chủ nhân hết sức cưng quý chủ mẫu. Nếu chủ mẫu chết đi khiến chủ nhân biết được tin này, e rằng chủ nhân cũng không thể sống được.

Lại nói sau khi Mao Sào Dân trốn khỏi nhà, bèn ở ngoài nghe ngóng tình hình, phong thanh được biết rằng mình bị tố cáo toa trữ đồ gian nên hoàng đế hạ chỉ tra xét bắt giữ để xử chém toàn gia. Dân lại được dư luận cho biết thêm rằng Giang Nam tổng đốc hoạ anh đồ hình mình yết thị khắp nơi để lùng bắt. Mao công tử dồn dập được những tin ghê khiếp, không biết chạy ngả nào. May thay, bạn bè của Dân có khắp nơi, cho nên khi chạy tới ẩn tại một người bạn quê quán ở Hấp huyện thì được người này tìm cách bố trí che chở hết sức chu đáo, cấn thận. Dân lại còn cho người tới Kim Lăng để nghe ngóng tin tức tại nha môn của quan tồng đốc. Lúc đó Dân mói vỡ lẽ ra rằng Hồng Thừa Trù chỉ vì muốn đoạt Đổng Tiểu Uyển mà gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi vừa qua. Dân căm phẫn đến cực độ. Dân đã tính tới Kim Lăng quyết sống chết một phen với Trù nhưng một người thị thiếp cố hết sức khuyên can. Người thị thiếp đó tên là Thái Nữ La, hôm đào nạn cũng cùng chạy với Dân. Thái Nữ La bảo Dân:

- Hiện nay, thế lực của Hồng tặc rất lớn. Chủ nhân tới Kim Lăng, tức là tự mình xông vào lưới rọ của chúng. Lúc đó, Uyển ty được tin lại chỉ thêm phiền lòng mà thôi. Thiếp hiện có một kế hoạch mới đây, không biết công tử có ai là người đầy tớ tâm phúc không?

Mao Sào Dân nghe hỏi, suy nghĩ một lát liền gật đầu bảo:

- Có! Có một tên gọi là Phùng Tiểu Ngũ. Mẹ hắn đã chết, chính Đổng Tiểu Uyển đã thấy hắn mua quan quách khâm liệm cho mẹ hắn. Đến khi Uyển lấy chồng về nhà ta thì Phùng Tiểu Ngũ cũng trở thành một đứa đầy tớ trong nhà. Hắn thường nói tới ân đức của Tiểu Uyển. Bởi vậy hắn thế nào cũng mong có dịp hy sinh để báo đức.

Thái Nữ La nghe đoạn, liền thì thầm bàn kế với Dân như vậy… như vậy… thế nào cũng cứu được Tiểu Uyển trở về. Dân nghe kế của Nã La, bèn trở về Thuỷ Hội Viên để tìm người đầy tớ cũ.

Những tay hảo hán giang hồ được tin cũng đều ngầm tới Thuỷ Hội Viên hỏi thăm Dân. Lúc đó Dân bèn nói cho mọi người nghe kế sách của Nữ La. Quả nhiên Phùng Tiểu Ngũ nhảy ra vỗ ngực nói:

- Dù có phải đạp lửa lội nước, tiểu nhân vẫn xin tình nguyện ra đi.

Ngoài Tiểu Ngũ ra cũng còn vài kẻ tình nguyện theo đi để hành sự, cũng lại có cả vài kẻ tình nguyện giúp đỡ tiền nong chi dụng. Riêng Dân cũng xuất ra đến một ngàn quan tiều giao cho Tiểu Ngũ và bao:

- Nha môn họ cần bao nhiêu tiền, ta cũng chịu, miễn là làm sao cho chủ mẫu của ngươi được cứu thoát trở về.

Bọn Tiểu Ngũ vâng dạ ra đi, chỉ chốc lát đã lẩn vào bóng sương mờ. Dân tính xong việc lại trở về huyện đợi tin.

Lại nói Phùng Tiểu Ngũ vốn là một tay hảo hán giang hồ cho nên bọn sai dịch nơi nha môn quan tổng đốc, kẻ nào cũng đều biết mặt. Bởi vậy, khi tới Kim Lăng Ngũ liền đặt một bữa tiệc cho mời bọn anh em nha lại tới nhậu. Rượu đến lúc ngà say. Ngũ bèn đứng dậy gục đầu lạy tất cả cử toạ một lạy, rồi đem câu chuyện chủ nhân mình bị Hồng tổng đốc phao vu tội danh và cưỡng đoạt người thiếp yêu kể lại một lượt cho mọi người nghe. Ngũ lại nói:

- Nay chủ nhân tôi xin đem ngàn vàng, mong cầu chư vị anh em giúp đỡ, lập kế sao cho chủ mẫu được cứu thoát trở về.

Bọn sai dịch nghe Ngũ nói xong, cúi đầu suy nghĩ để tìm kế. Bỗng có một tên công sai hốt hoảng chạy từ ngoài vào, hấp tấp bảo:

- Chư vị huynh đệ xin về ngay tức khắc. Đại nhân vừa tiếp được thượng dụ từ kinh lại, thôi thúc đại nhân phải lên đường lập tức về kinh, hiện đại nhân đã truyền lệnh xuống thu xếp hành lý để chín giờ đêm nay cấp tốc lên đường. Chư vị huynh đệ phải về ngay tức khắc mới được.

Mọi người nghe câu chuyện xáy ra đột ngột quá chỉ còn biết nhìn nhau, mặt mày ngơ ngác gần như mất hồn rồi lặng lẽ đứng lên tản mác chạy đi. Trong bọn, có một tên gọi là Lý Tam, vốn là người bạn chí thân của Ngũ, rất có nhiệt tâm đối với công việc của bạn, bèn bảo Tiểu Ngũ:

- Lão đệ hà tất phải lo buồn! Đêm nay vào lúc canh ba, lão đệ hãy đến chờ tại Mạt Lăng quan, đợi ngu huynh xem chủ mẫu của lão đệ ngồi trong chiếc nào sẽ báo cho lão đệ hay. Lão đệ nên ước hẹn thêm mấy vị huynh đệ nữa rồi nhân dịp xông lên mà cướp về.

Phùng Tiểu Ngũ y theo lời Lý Tam, đến chờ sẵn tại Mạt Lăng quan. Mãi đến lúc trời sắp sáng, Ngũ mới nghe tiếng bánh xe lăn rầm rầm trên mặt đường rồi sau đó thấy một đại đội người ngựa vượt qua: xe của Hồng tổng đốc thì đi đầu, còn phía sau lục tục kéo theo đến năm, sáu chục chiếc xe lớn có thân hình bảo hộ hai bên. Ngũ quan sát từ đầu chí cuối, khi đoàn xe còn có một đội kỵ binh trong có cả Lý Tam. Tam thấy Ngũ vội xòe bàn tay giơ lên ba lần rồi lại xòe thêm hai ngón tay nữa.

Phùng Tiểu Ngũ xem ám hiệu xong đoán biết Đổng Tiểu Uyển ở trong xe thứ mười bảy. Ngũ lặng lẽ theo phía sau đoàn xe. Bọn quan binh đều cưỡi ngựa. Tiểu Ngũ phải chạy bộ nên thở hổn hển, mệt muốn đứt hơi. May thay, bọn chúng áp tống khá nhiều phụ nữ trong xe nên thường thường phải dừng lại để nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Nhờ đó Ngũ không đến nỗi theo không kịp. Đi hết một chặng đường dài, lại qua thêm một trạm nghỉ, bọn binh sĩ từ đó đề phòng hết sức nghiêm cẩn. Ngũ chẳng biết cách nào để hạ thủ.

Vài ngày sau, đoàn xe đã tới địa đầu Hàn Câu, cách thôn Lục Dương chẳng xa là bao. Phùng Tiểu Ngũ vội trở về gọi mấy tay đầy tớ của Mao Sào Dân ngày trước rồi cùng đuổi theo mãi tới bến Thanh Giang. Nhưng đến đây, bọn Tiểu Ngũ ngạc nhiên vì không còn thấy Lý Tam ở trong bọn. Tìm cách dò la Ngũ mới biết rằng vì có việc khẩn yếu nên Hồng tổng đốc phải đem theo Lý Tam và cả bọn thân binh ngày đêm đi gấp về trước, bọ lại sau khả nhiều xe chở bọn phụ nữ cho bọn quân sĩ hộ tống từ từ về sau. Thực ra, đó chỉ là chuyện Hồng Thừa Trù vẽ ra để tránh tai mắt của thiên hạ mà thôi.

Phùng Tiểu Ngũ nghe tin, hết sức mừng rỡ đinh ninh rằng đây là một cơ hội tốt cho mình.

Đêm đó, Ngũ được tin chiếc xe thứ mười bảy cùng với các chiến khác đều vào nghỉ trọ trong Duyệt Lai khách điếm. Bọn phụ nữ đều nằm ngủ trong xe như cũ. Sang canh tư, Tiểu Ngũ ước hẹn với mấy tay đồng bọn, lặng lẽ bò lên nóc nhà. Bọn quan binh nhân vì không có mật quan tổng đốc nên tham ít chén rượu ngủ lăn như chết. Bọn Ngũ phi thân nhảy vào nội viện, nhận thấy chiếc xe mười bảy có bức rèm che màu phấn hồng. Bọn Ngũ vội nhảy lên xe, thác rộng bức rèm, quả nhiên thấy con a hoàn Khấu Khấu của Đống Tiểu Uyển đang nằm ngủ ngay của xe dưới ánh trăng mờ. Bọn Ngũ lúc đó cũng không còn nhiều thì giờ để nhìn kỹ, bèn giật lấy hai cái chăn cướp hai người trong xe, quấn chặt lại mở cửa tửu điếm, phi thân chạy như bay về phía trước. Hai người con gái trong chăn đang ngủ mê bỗng choàng tỉnh lại, kêu khóc inh ỏi. Bọn Ngũ một mặt chạy, một mặt vỗ vào chiếc chăn bảo:

- Đừng kêu? Bọn tôi đi cứu nàng về đây mà!

Điếm tiểu nhị cũng như bọn binh sĩ lúc đó đều giật mình tỉnh dậy hè nhau đuổi ra cửa, nhưng bọn Ngũ chạy đã xa rồi.

Bọn họ quay vào trong viện xem xét mới biết người con gái và tên a hoàng trong xe thứ mười bảy đã bị cướp đi mất.

Họ một mặt báo quan truy nã thủ phạm, một mặt hộ tống đoàn xe lên đường, ngày đêm đi gấp qua địa phận Sơn Đông rồi mấy ngày sau đã về tới Kinh sư.

Lại nói Phùng Tiểu Ngũ cướp được chủ mẫu và con a hoàn Khấu Khấu, chạy một mạch về tới nhà một người bạn, mở chăn ra xem, thì con a hoàn Khấu Khấu có đấy, nhưng còn cô gái kia nào phải chủ mẫu. Bọn Ngũ lấy làm lạ, hỏi ra mới được con a hoàn Khấu Khấu bảo:

- Chủ mẫu đi đường bị cảm mạo phong hàn nên mấy hôm trước đã đổi qua chiếc xe hồ luân ở sau dành riêng cho bệnh nhân.

Phùng Tiểu Ngũ lại hỏi:

- Thế cô gái này là ai?

- Thiếp vốn họ Kim, cũng là gái trong gia đình lương thiện, bị thủ hạ của Hồng tổng đốc bắt về nha môn làm thị thiếp. Nay túc hạ vì lầm đã mang được thiếp tới đây thì đó là đã cứu được mạng thiếp. Thiếp không còn nhà để về, vậy thiếp xin theo túc hạ về nhà, nguyện xin hầu hạ chủ nhân của túc hạ suốt đời.

Ngu thấy người con gái kia không phai là chủ mẫu của mình cho nên chẳng có tâm nào mà nói chuyện với nàng, Ngũ bèn cho đồng bọn đem Kim thị và Khấu Khấu về nhà mình rồi lại lên đường và đuổi theo đoàn xe lên kinh.

Khi tới Bắc Kinh, Phùng Tiểu Ngũ được tin Đổng Tiểu Uyển đang ở tại phủ đệ của Hồng Thừa Trù, nhưng vẫn chưa bị độc thủ của họ Hồng. Phủ đệ của họ Hồng trùng trùng điệp điệp, quân lính canh phòng nghiêm mật, bảo Ngũ hạ thủ làm sao cho được.

Cách ít hôm, Ngũ được tin của chủ nhân mình cho biết ông có một người bạn chí giao ở kinh sư tên gọi là Tào ngự sứ có thể đến đó cầu khẩn ông ta giúp đỡ. Ngũ y lời, vội đến nhà Tào ngự sử xin yết kiến. Ngũ đem hết những chuyện đã xảy ra kể cho quan ngự sử họ Tào nghe. Tào ngự sử cà giận nói:

- Đối với tên lão tặc họ Hồng này, ta không làm một bản tấu chướng tàu lên thì làm sao tỏ rõ được thủ đoạn của tay lão Tào này?

Nói xong Tào ngự sử bảo Tiểu Ngũ trở về viết ngay một tờ cáo trạng đề cho ông căn cứ vào đó mà xuất thủ. Tiểu Ngũ lãnh ý vội về, chạy cùng khắp nơi mất đến ba ngày mới tìm được một anh biết viết đơn kiện.

Không ngờ anh chàng này một khi được biết Ngũ định tố cáo đại học sĩ Hồng Thừa Trù thì giật mình đánh thót một cái. Hắn vốn quen Hồ Lão Cửu, một môn đinh trong phủ đại học sĩ. Bởi vậy một mặt hắn lờ đi như không biết gì, miễn cưỡng viết giùm tờ cáo trạng cho Ngũ nhưng mặt khác hắn báo ngầm vào trong phủ. Hồng Thừa Trù được tin một mặt sai người lấy một đỉnh vàng y thưởng cho anh chàng viết mướn, một mặt bàn tính với đám môn khách thủ hạ. Trong đám môn khách có một ngòi tên gọi Từ Cửu Như, bèn nghĩ giúp ông một kế đó là kế sét đánh chẳng kịp bưng tai, đem dâng ngay Đổng Tiểu Quyến vào cung.

Quả nhiên Thuận Trị hoàng đế vừa thấy nàng thì đã mê ngay. Tuy được vua yêu nhưng nàng Uyển không thể nào quên được Mao Sào Dân. Khi bệ kiến hoàng đế, bọn cung nữ bảo nàng quỳ xuống, nhưng nàng chỉ gục đầu nhỏ lệ khóc ròng.

Hoàng đế thấy nàng khóc lóc thật đáng thương bèn bảo bọn cung nữ đưa nàng qua biệt cung và dặn phái trông coi săn sóc chu đáo.

Đổng Tiểu Uyển ở lại biệt cung, được hết sức ưu đãi. Hoàng đế cung thường tới đó thăm nàng, dùng lời lẽ dịu ngọt an ủi ủi nàng. Dù hoàng đế có thiên ngôn, vạn ngữ, nào an ủi, nào khuyên bảo, nàng Tiểu Uyển cũng vẫn im lặng chẳng chút trả lời. Thế mà hoàng đế cũng chẳng giận, cứ ngồi một lúc rồi lại đi.

Tình trạng đó kéo dài đến mấy hôm, Đổng Tiểu Uyển tự nhủ răng vị hoàng đế này tính tốt chớ không xấu xa hung bạo.

Thế rồi lâu ngày vê sau, lòng nàng cũng vơi bớt sầu bi. Bọn cung nữ thấy nàng đã chịu nói năng trò chuyện, bèn hỏi thăm về lai lịch của nàng thì nàng kể hết cho họ nghe. Bọn cung nữ bảo nàng:

- Nếu vậy thì Hồng Thừa Trù chính là kẻ thù của nàng. Nàng có nghĩ đến chuyện báo thù hay không?

Đổng Tiểu Uyển nghiến răng tức giận nói:

- Kiếp này không trả được thù này thì kiếp sau tôi cũng phải trả cho bằng được.

Bọn cung nữ lại nói:

- Nếu nàng muốn báo thù thì điều thứ nhất nàng phải thuận lấy hoàng đế đã. Khi được ngài sủng ái rồi, nàng sẽ nhờ thế lực của hoàng đế mà báo thù riêng, như thế có phải thượng sách không.

Câu nói đó làm cho Đống Tiểu Uyển tỉnh ngộ. Nàng nghĩ: "Thân mình một khi đã lọt vào cung thì khó lòng thoát, chi bằng ta tương kế tựu kế, thay Mao công tử báo cái thù này". Quả nhiên chỉ mấy hôm sau Thuận Trị hoàng đế đã phong cho Tiểu Uyển làm Thục phi. Nhà vua sợ bên ngoài bàn tán cho rằng ngài lấy gái Hán làm phi tử, nên ngài đối tên họ nàng thành Đống Ngạc thị và gọi nàng là Đống Ngạc Phi.

Hồi 47

NHƯ CHIM LIỀN CÁNH, NHƯ CÂY LIỀN CÀNH

Thuận Trị hoàng đế từ khi được Đổng Ngạc Phi thật là vừa đôi phải lứa, lúc nào cũng khanh khanh trẫm trẫm khiến bao nhiêu sầu buồn tích luỹ từ trước đều tiêu tan như tro bụi.

Về phía Đổng Ngạc Phi, nàng cũng một lòng phụng sự hoàng đế, có vẻ như quên hẳn người yêu xưa là Mao công tử.

Nàng ngấm ngàm mua chuộc bọn cung nữ cũng như thái giám trong cung hoàng Thái hậu, và cũng nhờ đó nàng mới biết được chuyện ngoại tình giữa bà Thái hậu với Hồng học sĩ.

Hoàng Thái hậu tuy nói rằng tấm hồng nhan đã luống tuổi xuân nhưng mỗi lần soi kiếng bà vẫn còn tin tưởng ở dĩ vãng vàng son của mình. Từ khi Đa Nhĩ Cổn chết, bà đã trải qua bao đêm võ võ phòng không trong chốn cung vi.

Bà hồi tưỏng lại thuở trước, biết bao bạn hữu của bà đều đã chết, chỉ còn lại có Hồng Thừa Trù xa xôi cách trở mãi Giang Nam. Bởi vậy bà bèn ngầm hạ đạo ý chỉ, gọi người bạn già về Kinh để những lúc buồn phiền có kẻ chuyện trò đấm bóp giải khuây.

Tất cả nhưng uẩn khúc đó của Thái hậu đã bị Đổng Ngạc Phi tìm hiểu rõ cả. Nàng tự nhủ với lòng quyết lợi dụng cơ hội gợi chuyện trước hoàng đế để tính mạng của tên Hồng tặc phải đi đứt chuyến này và chỉ cỏ thể mới thoả lòng oán hận của mình. Ý đã định, nàng quyết thực hiện.

Cách ít hôm, trời bỗng oi bức khó chịu. Hôm đó Đổng Ngạc Phi nằm ngủ trưa trên chiếc long sàng. Thuận Trị hoàng đế bất chợt tới nơi. Bọn cung nữ vội chạy vào gọi nàng tỉnh giấc để đi tiếp giá. Nhưng hoàng đế lắc tay ngăn lại bảo đừng. Rồi ngài tự tay vén bức rèm nhưng, rón rén bước vào. Nàng Tiểu Uyển lúc đó nằm nghiêng trên giường thiêm thiếp giấc nồng một bên má để lộ chút phấn hồng, càng làm tăng thêm phần duyên dáng đáng yêu của cái sắc chim sa cá lặn.

Thuận Trị hoàng đế bước sát lại cạnh giường. Ngài thấy Tiểu Uyển đôi mắt nhắm, mùi hương phảng phất, đang say sưa ngủ. Ngài lại nhìn đôi hài phía dưới, nhỏ như hình cái búp măng mùa xuân. Ngài thấy chúng xinh quá, liền cúi xuống lượm lên, lật đi lật lại trong tay. Khi nhìn tới gót hài, ngài bỗng thấy năm chữ "Châu diên nhu tiến trình" thêu bằng chỉ gấm.

Ngài gật đầu rồi mỉm cười trí ngài như đang để vào một chuyện gì. Một luồng gió nhẹ thổi từ ngoài vào lọt qua cửa số làm tung vạt áo lụa trên mình phi tử để lộ ra một miếng áo lót màu hồng trên đó có thêu một đôi chim uyên nhỏ đang quấn quýt bên nhau màu sắc thật là tươi đẹp. Ngắm nhìn một lát hoàng đế bất giác đâm ra bâng khuâng sờ sững.

Giữa lúc vắng lặng đó. Đồng Ngạc Phi bỗng tỉnh giác, nàng mở mắt ra thấy hoàng đế miệng cười chúm chím đang đứng phía trước. Nàng vội tuột xuống giường quỳ trên mặt đất để tiếp giá. Hoàng đế giơ tay nâng nàng dậy cười nói:

- Trời nóng nực như vậy, ở trong nhà mà làm gì! Phi đi hái sen với trẫm ở Thập Sát hải đi!

Đống Ngạc Phi tươi cười tuân chỉ. Nàng lại nói:

- Thần thiếp chưa tắm gọi gì cả Vạn tuế xin hãy ngồi ở ngoài nhà một lát.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong, nghiêng đầu, tỏ ý lẳng lơ cười bảo:

- Trẫm chính đang muốn xem ái khanh tắm gội đây mà!

Đổng Ngạc Phi vội quỳ xuống tâu:

- Thần thiếp đâu có dám làm bẩn mắt vạn tuế. Lỡ bọn ngoại thần biết được thì còn ra thể thống gì nữa.

Hoàng đế xua tay lia lịa bảo:

- Sợ cái quái gì? Bọn ngoại thần đâu có để ý tới những chuyện đó. Nếu khanh xấu hổ, thì hãy bảo bọn cung nữ bỏ bức mành tương xuống. Trẫm ở phía ngoài nhìn xem cũng được rồi.

Đổng Ngạc Phi hết phương chối từ, đành phải bảo bọn cung nhân sửa soạn hương thang (nước nóng pha hương thơm), mở bức mành tương.

Thuận Trị hoàng đế ngồi ngoài mành nhìn vào bốn cung nữ vây chung quanh Đổng Ngạc Phi để kỳ cọ. Ngoài ra còn có bốn đứa nữa đứng canh, tay cẩm khăn mặt, kiếng soi, áo tắm nước hoa, thôi thì hằng hà vô số.

Một lát sau, Đổng Ngạc Phi tắm xong. Nàng trang điểm son phấn, cuộn bức mành tương. Hoàng đế bước lại gần, cười nói:

- Làn da của khanh sao mà trắng mịn thế! Khanh quả thật xứng với cái tên người ngọc.

Đồng Ngọc Phi nghe lời tán tụng của hoàng đế bỗng đôi má ửng hồng. Hoàng đế ngồi bên cạnh lặng lẽ ngắm nàng trang điểm. Rồi khi thấy nàng trang điểm đã xong ngài cầm tay nàng chạy ra khỏi cung, bước lên lương kiệu (kiệu đi chơi mát).

Bọn thái giám khiêng kiệu, chạy tới Thập Sát hải.

Thật Sát hải là một vùng hồ sen bao la bát ngát, rộng có lối mười mẫu. Mỗi một cơn gió mát thối là mỗi lần lá sen lật lên úp xuống và đưa mùi hương thơm ngào ngạt khắp bốn phương. Bởi vậy cứ tới hồ sen là bất cứ ai cũng cảm thấy mát mẻ. Từ trong khóm sen giữa cầu, một chiếc thuyền vẽ từ từ ghé sát gần bờ. Bọn cung nữ đưa hoàng đế và phi tử lên thuyền, chèo ra giữa hồ. Nàng phi tử giơ tay hái một đoá hoa sen trắng dâng cho hoàng đế. Ngài cầm ngắm nghía, còn một tay cầm lấy tay nàng. Cả hai người ngồi trong cửa sổ của khoang thuyền, nhìn bọn cung nữ hái sen ngồi trên những chiếc mảng nhỏ nhắn xinh xinh đang lướt đi, lướt lại giữa những cụm sen lá xanh bông trắng, miệng hát bản thái liên khúc vừa êm ái vừa dịu dàng. Những tiếng hát duyên tình say mộng đó, vang đến tai hoàng đế, ngài luôn miệng khen hay.

Một lúc lâu bọn cung nữ, hái đã được khá nhiều hoa sen đem vào dâng cho hoàng đế. Ngài bảo xếp hết xuống dưới chân Đổng Ngạc Phi. Nàng ngồi trong khoang chung quanh đầy hoa sen; sắc hoa sánh với mặt người, mặt cùng như hoa trăm phần tươi đẹp.

Thuận Trị hoàng đế bất giác thở dài sung sướng thốt ra:

- Ái khanh quả có thể làm Liên Hoa tiên tử được.

Từ đó về sau bọn cung nữ đều gọi Đổng Ngạc Phi là Liên Hoa tiên tử. Hoàng đế sai dọn tiệc để cùng phi tử đối ẩm.

Hai người nâng chén tặng mời. Bọn cung nữ xếp bằng tròn ngồi cưới ván thuyền. Hoàng đế truyền lệnh ca nhạc. Tức thi những tiếng đờn tiếng phách dạo lên, những tiếng hát trong mà êm hoà theo:

"Trông bình khang

Nhìn thành Phượng

Liễu xanh buông mành cửa Thiên môn

Trên đường tơ tía rũ lơ thơ

Này Du lang chàng ơi!

Nhà ai én liệng song song,

Xa cách sông xưa

Khói xanh quyện sổ.

Ngắm trời trong tựa đường hóng hạnh

Cầu dài ván ghép,

Một giải xa xa gợn sóng tình,

Này đây quán rượu,

Nọ chốn trà lâu.

Giọng ai văng vắng tiếng mua hoa.

Sau sâu ngõ hẹp bóng ngang qua

Cành liễu la đà!"

Tiếng ca nhạc càng về sau càng rét rắc du dương. Nào du tử, nào tiên nương, ai lại chả vì hoa vì nhạc mà để hồn bâng khuâng mơ mộng.

Tiếng ca nhạc vừa dứt thì thuyền cũng vừa cập bến mé tây. Nhìn lên, Thuận Trị hoàng đế thấy cây cỏ xanh tươi, bóng râm mát rượi, người bỗng cảm khoái thốt ra:

- Thật là cả một thế giới thần tiên tao nhã!

Nói đoạn, ngài dắt tay Đống Ngạc Phi bước lên bờ chờ đợi, dặn bọn thái giám và cung nữ ở lại bên bờ chờ chứ không được đi theo. Thế là Đế Phi hai người, vai kề vai tay trong tay, bước dần vào lùm cây cao bóng rợp.

Đứng trước cảnh đẹp, Thuận Trị hoàng đế bỗng nổi sóng tình, vụt mở rộng đôi tay, ôm ghì tấm thân ngà ngọc của nàng Phi vào lòng, rồi từ từ đặt cái hôn nồng cháy vào miệng người ngọc. Ngài cười nói.

- Trẫm với khanh chẳng khác nào một cặp vợ chồng quê mà mặc tình ái ân vui sướng.

Nghe xong lời nói yêu đương của nhà vua, Đổng Ngạc Phi bỗng lệ sa thành giọt, đôi má phấn hoen nước mắt, mặt rầu rầu như bông hạnh sau cơn mưa.

Hoàng đế thấy vậy lại càng thương yêu. Ngài vội ôm sát nàng vào lòng thì thầm căn dặn. Đổng Ngạc Phi sụt sịt một lúc rồi mới nói:

- Thần thiếp thân hèn chẳng khác chi loại cỏ nội. May mà được ánh chiều dương soi rọi thần mới được hưởng vinh hoa phú quý. Rồi đây, gió thu thổi lạnh thâm cung, ôi thê lương biết bao cho thần thiếp!

Hoàng đế nghe xong liền vừa vuốt tóc người yêu vừa dặn dò:

- Ái khanh hãy an lòng! Trẫm được ái khanh giống như cá được nước. Chẳng những đời này nguyện cùng nhau trăm năm đầu bạc mà còn nguyện làm vợ chồng kết tóc xe tơ mãi mãi hết kiếp này đến kiếp khác. Trẫm cũng xin nói như Đường Minh Hoàng thuở nọ. Ở trên trời thì nguyện làm chim liền cánh ở dưới đất thì nguyện làm cây liền cành. Nếu khanh chẳng tin, trẫm sẽ nhìn trời mà lập thệ.

Thuận Trị hoàng đế vùa nói vừa giơ tay nắm lấy vai Đống Ngạc Phi kéo xuống rồi hai người song song quỳ dưới thê môn. Ngài lâm râm khấn:

- Hoàng thiên ở trên trời, tôi là Ai Thân Giác La Phúc Lâm cùng với Phi tử Đổng Ngạc thị xin nguyện ở đời này trăm năm đầu bạc, muôn đời về sau kết thành vợ chồng, chẳng bao giờ lìa nhau. Thảng hoặc giữa đường gặp biến, tôi nguyện từ bỏ thiên hạ để bảo toàn tình nghĩa vợ chồng.

Đổng Ngạc Phi nghe đoạn, vội dập đầu tạ ơn. Hoàng đế nâng dậy. Nàng liền nhân dịp này tâu rõ cho hoàng đế biết việc nàng bị Hồng học sĩ bắt đem về kinh, trong nhà còn có người anh ruột tên Sào Dân chẳng biết sống chết ra sao, khiến đêm ngày tâm niệm không quên. Bởi vậy, nàng cầu xin ân đức của ngài tuyên triệu Sào Dân vào cung để anh em có dịp gặp nhau thì dù chết cũng yên lòng nhắm mắt.

Thật là một việc quá tầm thường đối với một vị hoàng đế oai quyền khắp bốn bể! Bởi vậy lời cầu xin của Đổng Tiểu Uyển được Thuận Trị hoàng đế chấp thuận ngay.

Ngay ngày hôm sau hoàng đế hạ chỉ cho tổng đốc Giang Nam tuyên triệu Sào Dân lên kinh. Ít hôm sau, Mao Sào Dân tiếp được thánh chỉ, lập tức khởi trình.

Lại nói Hồng Thừa Trù đem Đổng Tiểu Uyển vào cung, tưởng rằng nàng vốn trinh liệt thế nào cũng chết ở trong cung. Đó chính là dụng ý nhờ đạo giết người. Chẳng ngờ sau khi vào cung nàng lại được hoàng đế sủng ái muôn phần, đến nỗi nhiều hôm ngài bãi cả chầu để tìm vui nơi người đẹp.

Họ Hồng biết chắc rằng Đổng Tiểu Uyển khi được sủng ái thế nào cũng tìm cách báo thù. Bởi vậy y liền nghĩ kế sách hạ thủ trước là hơn.

Y bèn kế vạch với thái hậu là hoàng đế tự ý lấy gái Hán bỏ phế cả triều đình. Thái hậu được tin này cả giận, lập tức muốn tới gặp hoàng đế. Họ Hồng ngăn lại bảo:

- Việc này phải chầm chậm giải quyết mới được. Trước hết thái hậu hãy hạ một đạo ý chỉ cấm gái Hán vào cung. Có thế thì sau này khi tra xét cung đình ta mới có cớ để kết tội.

Thái hậu nghe kế, liền hạ một ý chỉ cấm chỉ việc thông hôn giữa Mãn và Hán (nghĩa là người Mãn và Hán không được lấy nhau), lại không cho tuyển gái Hán làm cung nữ. Bà con cho treo tại phía trong cửa Thần Võ một tấm biển trên viết: "Kẻ nào đưa gái Hán vào cung sẽ bị chém!".

Thuận Trị hoàng đế đọc tấm biển, trong lòng ngấm ngầm lo lắng cho Đổng Ngạc Phi.

Qua được mấy hôm, Mao Sào Dân tới kinh. Đổng Ngạc Phi tiếp kiên tại cung Khôn Ninh. Tất nhiên khi gặp nhau, hai người có cả một nỗi lòng buồn vui khôn tả. Chỉ vì bọn cung nữ đứng trước mặt nên họ đành phải dùng tiếng anh em mà xưng hô. Trong khi trò chuyện, hoàng đế cũng triệu Sào Dân tới, hỏi han, rồi ban yến tại hoàng cung. Yến tiệc xong. Sào Dân lại được vào nội cung để gặp Tiểu Uyển. Hai người nói đến những lúc ân tình thuở nọ mà nay chịu cảnh phân ly thì bốn dòng lệ tuôn xuống như mưa. Hàn huyên còn nhiều điều muốn nói nhưng cung cấm đâu có phải là chỗ ngồi lâu nói nhiều.

Mao Sào Dân đành gượng gạo đứng dậy cáo từ lui ra. Lúc lâm biệt, hoàng đế thưởng cho Dân năm trăm lạng vàng, còn hạ chỉ cho tổng đốc Giang Nam kiến tạo hoa viên cho Dân và hết sức che chở.

Lại nói từ khi Mao Sào Dân từ biệt về quê thi Đống Ngạc Phi lòng buồn rười rượi bất giác nàng lâm trọng bệnh, suốt ngày đêm ngủ li bì trên giường. Quan ngự y đến chẩn bệnh và bốc thuốc. Hoàng đế cũng luôn luôn lại thăm, dùng lời ngon ngọt an ủi.

Trong khi Đổng Tiểu Uyển đang ốm yếu mê man thì bỗng bọn cung nữ, báo tin thái hậu tới. Tiểu Uyển giật mình hoảng sợ đến đổ mồ hôi hột, vội gượng dậy trang điểm.

Bỗng bốn tên cung nữ bước vào, không nói không rằng, túm ngay lấy Tiểu Uyển khiêng tắp ra ngoài. Thái hậu mặt hầm hầm ngồi ngay tại giữa nhà. Bọn cung nữ đưa Đổng Tiểu Uyển tới trước rồi bắt nàng quỳ xuống.

Hồi 48

THUẬN TRỊ BỎ ĐI TU

Đổng Tiểu Uyển mặt cúi gầm vừa quỳ xuống thì bà thái hậu quát lên ầm ĩ:

- Con khốn nạn kia! Ngửng mặt lên cho tao xem mày mặt ngang mũi dọc ra sao nào?

Tức thì một tên cung nữ bước tới nắm lấy mớ tóc sau ót của Tiểu Uyển giật ngửa ra sau làm cho mặt nàng hất giơ lên trước. Thái hậu cười nhạt nói:

- À, mặt mũi con này bảnh bao lắm! Tát vào mặt nó cho tao!

Thế là tên cung nữ giơ thẳng cánh, cứ hai bên má nàng tát lấy tát để, một hơi đến ba bốn chục cái, đến nỗi đôi má nàng sưng híp và thâm tím cả lại, mắt đổ hào quang. Lòng nàng lúc đó vừa tức vừa rối loạn. Bỗng nhiên mắt nàng tối sầm rồi nàng mê đi.

Bọn cung nữ lấy nước lã tạt vào mặt nàng. Đống Tiểu Uyển dần dần tỉnh lại. Thái hậu bảo tên cung nữ hỏi nàng từ đâu tới. Nàng vừa sụt sùi khóc vừa cung khai lai lịch của mình một cách cặn kẽ. Tuy nhiên nàng vẫn cố giấu một điểm mà chỉ khai nàng vốn con gái họ Mao chứ không phái con dâu họ Mao.

Giữa lúc đang cung khai như vậy, Thuận Trị hoàng đế từ ngoài hối hả chạy vào. Ngài vốn sợ Thái hậu nên khi thấy cảnh tượng đó ngài chỉ biết cúi đầu, cung kính đứng nép một bên, chẳng dám nói một câu. Thái hậu hỏi Tiểu Uyển xong liền truyền lệnh cho bọn cung nữ đem đánh cho kỳ chết.

Tức thì, bốn tên kỳ phụ thô lỗ tay cầm chiếc côn sơn đỏ, tay cầm một chiếc bao bố màu đỏ xáp lại và sắp sửa ném nàng vào đó.

Đây là một lối trừng phạt trong cung Mãn thời đó. Hễ người cung nữ nào bị tội chết, thì dùng bao bố để bỏ vào rồi lấy côn đánh tới tấp cho đến chết mới thôi.

Thuận Trị hoàng đế lúc này không thể nhịn được nữa, bèn quỳ xuống trước mặt Thái hậu năn nỉ thay nàng.

- Nàng vốn là con nhà lương thiện mà Hồng học sĩ đem tiến vào cung. Nếu Thái hậu muốn đánh chết thì trước hết hỏi tội ông ta.

Vừa nghe hoàng đế nói tới Hồng học sĩ, Thái hậu chạm đến lòng riêng, tức thì lòng bà mềm lại, Bà bảo bọn cung nữ ngừng tay và đuổi nàng ra khỏi cung, Thuận Trị hoàng đế lại kêu nài.

- Người con gái Hán này đã ở trong cung lâu ngày, nếu đuổi ra khỏi cung thì thể diện của hoàng gia có chỗ bất tiện lắm!

Nghe hoàng đế nói vậy, thái hậu thấy có phần đúng, bèn bảo bọn cung nữ đưa nàng ra giam tại chùa Ngọc Tuyền ở Tây Sơn. Hoàng đế lại khẩn cầu lần nữa. Nhưng Thái hậu chỉ vào mặt ngài thét lớn:

- Mày có thấy chỉ ý của ta yết ở Cửa Thần Võ không? Gái Hán mà vào cung thì bị chém đầu, nay ta nể mặt mày nên tha cái mạng cho con khốn nạn đó, mày còn muốn gì nữa?

Nói đoạn, bà quát báo bọn cung nữ lôi ngay nàng Đổng Tiểu Uyển ra khỏi cung. Một chiếc kiệu nhỏ chực sẵn bên ngoài.

Bọn cung nữ đấy nàng lên kiệu, bọn nội giám nhấc chiếc kiệu lên vai, rồi vội vã đưa nàng tới chùa Ngọc Tuyền tại Tây Sơn - Chùa Ngọc Tuyền vốn dành riêng cho các nhà sư Lạt ma tu hành. Theo qui cũ của cung nhà Thanh thì khi người cung nhân phạm tội nặng thì bị đánh chết, nhưng nhẹ thì gửi chùa học Phật.

Nàng Đống Tiểu Uyển từ khi tới chùa tự cảm thấy lòng nhẹ lâng lâng ngày đêm lễ Phật niệm kinh.

Nàng tự biết mình kiếp hồng nhan bạc mệnh cho nên quyết rũ sạch nợ trần dốc tâm tu đạo. Chẳng mấy ngày, nàng đã học thuộc lòng tất cả những bộ kinh trong chùa. Nàng vốn thông minh, thẩm thấu ảo lý của kinh điển nên ân oán đôi đường nàng đều bỏ đi hết, nào là Mao Sào Dân, nào là Thuận Trị hoàng đế nàng cũng đều quên đi cả.

Thuận Trị hoàng đế trái lại, mong nhớ nàng càng ngày càng kịch liệt. Từ khi nàng ra khỏi cung, hoàng đế tuy có cả một bầy cung tần mỹ nữ đông đảo hầu hạ ngày đêm nhưng ngài lúc nào cũng nhớ tới nàng ngày đêm khóc lóc bi thảm.

Thế rồi ít lâu sau, không còn nhẫn nại đước nữa, ngài bèn bỏ ra rất nhiều tiền cho bọn cung nữ và thái giám nhờ che mắt Thái hậu, để cho ngài lén lên chùa Ngọc Tuyển với Tiểu Uyển. Hai người gặp nhau, chỉ còn biết ôm nhau khóc vùi.

Về sau, Tiểu Uyển đem chuyện hồng trần hư ảo ra khuyên can và an ủi hoàng đế, nhưng ngài vẫn tha thiết một lòng chẳng muốn rời tay. Ngài ở lỳ trong chùa Ngọc Tuyền luôn ba ngày không chịu về cung. Thái hậu biết chuyện liên sai nên tổng quản thái giám đem kiệu tới để tiếp giá và bảo:

- Nếu hoàng thượng không chịu về cung, Thái hậu sẽ đích thân tới chùa.

Đổng Tiểu Uyển cũng khuyên nài hoàng đế nhiều lần và bảo ngài:

- Bệ hạ nếu không quên thiếp, thì xin được gặp lại ở Ngũ Đài sơn sau này.

Thái hậu lại cho thái giám tới giục và bắt buộc lần nữa, lúc đó Thuận Trị hoàng đế không còn biết làm thế nào đành phải lên kiệu trở về cung. Nhưng có ngờ đâu hai hôm sau, bỗng tên nội giám quản thủ chùa Ngọc Tuyền tơi báo cho ngài biết Đồng Ngạc Phi tự nhiên biến mất, không thấy đâu nữa.

Hoàng đế được tin này, trong lòng thương xót vô tận. Ngài bèn ngầm sai bọn thái giám tin cẩn đi khắp nơi dò la tìm kiếm nhưng tuyệt vô tung tích. Ngài cho gọi tên cung nữ hầu hạ Tiểu Uyển tới hỏi thì tên cung nữ này nói:

- Phi tử thành tiên biến đi rồi. Số là cách đây mấy hôm giữa một đêm gió mát trăng thanh, mọi người chỉ thấy phí tử ngắm trăng đi lại nhởn nhơ trên đạo đài phía sau chùa.

Bọn nội giám vội chạy tới xem thì bỗng phi tử biến đâu mất, không còn lại chút vết tích nào. Như vậy nếu không phải thành tiên biến đi rồi thì còn là gì.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong đã không lấy làm buồn, mà còn lấy làm sung sướng, vỗ tay nói:

- Trẫm đã nói nàng là Liên Hoa tiên tử nay quả nhiên nàng thành tiên thật. Trẫm phải làm sao bây giờ?

Nói đoạn, ngài cười lên sằng sạc như điên.

Tin này truyền đến tai Thái hậu. Bà sợ hoàng đế điên nên sai người ngầm tới Tây Sơn đang đêm phóng một mồi lửa đốt chùa. Chùa Ngọc Tuyền cháy rụi, chỉ còn trơ lại một đám đất đen xám. Đáng thương cho bọn thái giám, cung nữ bị ngọn lửa bạo tàn thiêu chết theo chùa. Trong số này, người ta thấy có xác một người cung nữ trông hao hao như nàng Đổng Tiểu Uyển. Thái hậu bèn dặn bọn cung nữ phao tin là nàng Tiểu Uyến đã bị chết cháy. Tin này đến ai hoàng đế. Một điều lạ đối với mọi người là ngài thản nhiên như chẳng có một chút gì gọi là bi thương cả.

Nhưng rồi một tin động trời bỗng truyền đi nhanh như chớp: Hoàng đế đã bỏ đi mất rồi.

Khi tới thư phòng của ngài, người ta lượm được tờ chiếu do chính tay ngài viết:

"Thái Tổ, Thái Tông sáng cơ lập nghiệp là việc rất trọng. Việc nối dõi không nên khiếm khuyết lâu ngày. Con của trẫm là Huyền Hoa do Đông Giai thị sanh ra, thông minh đỉnh ngộ có thể kế nghiệp tổ tông. Nay lập Hoàng thái tử, lên ngôi hoàng đê. Trẫm đặc mệnh bọn nội đại thân Sách Ni,, Tô Khắc Tát, Cáp Quá, Tất Long, Nhao Bái làm phụ thần (bầy tôi phò tá).

Bọn họ là những cựu thần có công lớn, trẫm đem tâm phúc để ký thác. Hãy gắng sức tỏ lòng trung, bảo hộ tự quân lo giúp việc cai trị, bố cáo khắp trong ngoài, khiến đều nghe biết, Khâm thử".

Thái hậu đọc xong tờ chiếu, ngẩn người một lúc lâu rồi truyền cho bọn cung nữ đi tìm nội đại thần Ngao Bái vào cung, tính mọi việc xong xuôi rồi mới truyền dụ ra ngoài nói hoàng đế bị cấp bệnh đã mất, di chiếu lập thái tử Huyền Hoa lên ngôi.

Tin này loan truyền ra ngoài, văn võ bá quan hớt ha hớt hải vội tề tựu ngoài cửa Đại Thanh môn đợi chỉ. Lệnh thái hậu ban ra phàm quan Mãn cũng như quan Hán, tất cả không được vào cung, đợi sáng mai triền kiến tân hoàng đế tại điện Thái Hoà.

Qua ngày hôm sau, văn võ đại thần, bối lặc, thân vương nhất tề đợi giá tại điện Thái Hoà.

Tĩnh tiên (roi dùng để ra lệnh yên lặng khi làm lễ triệu bái) đập xuống ba lần, tân hoàng đế đăng vị. Thái tử Huyền Hoa năm đó mới có tám tuổi, ngồi trên ngai vàng, chịu trăm quan triều hạ. Ngao Bái và Hồng Thừa Trù đứng ở hai bên.

Hoàng đế hạ chỉ cải hiệu là Khang Hi, mặt khác, sai lo việc tang ma cho Thuận Trị hoàng đế tại Bạch Hổ Điển.

Lại nói Thuận Trị hoàng đế khi đó đã lẻn ra khói cung, bèn cải trang thường phục cho nên chẳng ai biết mà ngăn cản, cật vấn. Vốn sinh trưởng trong cung cấm ngài chẳng thuộc đường trong kinh thành. Ngài nghĩ nên theo hướng Tây mà đi. Lần lủi đi một lúc lâu, ngài đã ra khỏi thành Bắc Kinh.

Lúc đó vào lúc cuối thu, khí trời lạnh lẽo.

Nhìn phía trước mặt thấy cả một vùng hoang vắng thê lương, Thuận Trị hoàng đế nhớ lại lúc trước Đổng Tiểu Uyển thủ thỉ bên nhau trong khu rừng cây kia, biết bao nhiêu ân tình thắm đưọm thiết tha cho nên ngài bỗng sinh lòng cảm khái, bước thấp bước cao tiến sâu mãi vào cánh đồng lúa đã ngả màu vàng nhạt. Giữa lúc Thuận Trị hoàng đế mải miết bước thì từ phía xa ngài thấy một nhà sư đầu chốc lở tay cầm một bức hoạ đã rách cuộn tròn, miệng chẳng biết ca bản gì lúc bổng lúc trầm đang dần dần đi tới. Khi tới gần hoàng đế, nhà sư lên tiếng hỏi:

- A di đà phật! Sư phụ đấy ư?

Thuận Trị hoàng đế nghe xong trong lòng không khỏi ngạc nhiên. Ngài tự nhủ:

- Nhà sư này ta đã gặp ở đâu mà tiếng nói quen quá nhỉ?

Nghĩ vậy rồi ngài định thân nhìn lại. Ngài thấy nhà sự ghẻ lở đầy người, mắt phía tả mù, chiếc cà sa đụp và hàng trăm mảnh, đôi chân trần chẳng có giầy vớ gì cả. Ngài ngắm nghía nhà một lúc rồi hỏi lại:

- Người để chân trần như vậy mà không sợ lạnh ư?

Nhà sư bỗng sằng sặc cười lớn lồi nói:

- Lạnh là cái gì?

Thuận Trị hoàng đế bất giác xúc động thiền cơn, trong lòng hoát nhiên đại ngộ. Tiếp đó ngài nói theo:

- Ta là cái gì? Cái gì là ta?

Nhà sư lại nói:

- May thay! May thay!

Thuận Trị hoàng đế nhìn vào bức hoạ hỏi nhà sư xem bức hoạ vẽ cái gì, bỗng thấy nhà sư khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Khóc một lúc lâu rồi nhà sư mới lên tiếng:

- Bần tăng vốn tu hành tại chùa Thanh Lương nơi Ngũ Đài sơn. Sư phụ của bần tăng đạo hạnh rất cao, tu luyện đã trên 80 tuổi bỗng một hôm bảo bần tăng rằng: Ngày mai ta sẽ hạ sơn. Bần tăng lúc đó nghe xong, không muốn rời xa sư phụ nên nắm lấy áo người mà khóc oà lên. Sự phụ của bần tăng thấy bần tăng khóc lóc thảm thiết bèn bảo: "Đó là số trời đã định, có khóc cũng vô ích. Ta thấy ngươi có lòng chí thành, ta cho ngươi bức hoạ này. Trong đo vẽ một người không có lông mày. Đợi hai mươi năm sau người đem bức hoạ này xuống núi, tìm vào kinh thành, tự nhiên có kẻ thế người vẽ thêm cặp lông mày cho người trong bức hoạ.

Thuận Trị hoàng đế nghe nhà sư nói có vẻ ly kỳ, bèn tỏ ý muốn xem bức hoạ. Quả nhiên khi mở bức hoạ ra, ngài thấy hình một vị hoà thượng đi chân không, mặt thiếu hẳn cặp lông mày. Ngài xem rồi bèn thò tay vào túi đẹp sau lưng lấy ra một cây bút vẽ thêm đôi lông mày vào bức hoạ.

Nhà sư thấy Thuận Trị hoàng đế thế mình vẽ đôi lông mày xong bèn vội bò xuống mặt đất dập đầu lia lịa, miệng gọi "Sư phụ" và nói:

- Sự phụ của bần tăng có dặn người vẽ cặp lông mày đó chính là hậu thân của người. Nhớ lời dặn đó, bần tăng đợi đến nay đã hai chục năm, bèn hạ sơn để tìm kiếm. Bần tăng phiêu bạt giang hồ đã mấy năm trường mới được gặp Quý đàn việt. Quý đàn việt nếu không phải là sư phụ của bần tăng thì thật không còn ai nữa. Vậy xin sự phụ mau mau trở về núi đi.

Thuận Trị hoàng đế nghe nói lại càng lấy làm lạ, hỏi thêm:

- Thế sư phụ của ngươi hiện nay ở đây?

Nhà sư lại đáp:

- Sự phụ của bần tăng sau khi cho bần tăng bức hoạ thì ngày hôm sau đã viên tịch.

Thuận Trị nghe đoạn, cúi đầu chốc lát, bỗng phá lên cười lớn rồ nói:

- Thôi được, ta theo người cùng đi.

Nhà sư còn nói thêm như để báo một tin mừng:

- Vị nữ bồ tát cũng đã đợi sư phụ lâu ngày ở trên núi.

Thuận Trị hoàng đế hỏi nhà sư vị nữ bồ tát đó là ai thì nhà sư bèn nói đó là vị nữ bổ tát ở chùa Ngọc Tuyền thuở nọ.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong, liền nắm tay nhà sư chạy như bay về phía Ngũ Đài sơn.

Về sau, người ta thấy Thuận Trị hoàng đế cùng Đống Ngạc Phi ẩn dật tu hành tại chùa Thanh Lương núi Ngũ đài sơn. Ngô Mai Thôn có một bài thơ tán Phật ở chùa núi Thanh Lương.

Bài thờ đó nói về sự tích Thuận Trị hoàng đế và Đổng Ngạc Phi. Thơ rằng:

Đẹp đôi ngắm cảnh dáng bồi hồi.

Binh phong đá đựng vách chơi vơi.

Sương mai còn ngắm đồng xanh cỏ.

Dưới núi rồng chầu, gió lộng khơi.

Hồi 49

KHANG HY - VUA ĂN CHƠI

Tin Thuận Trị hoàng đế xuất gia đầu Phật ở Ngũ Đài sơn truyền tới tai Thái hậu. Bà hối hận quá. Bà không ngờ việc đuổi Đổng Ngạc Phi lại gây ra cảnh xuất gia đầu Phật của con bà. Biết vậy nhưng không còn cách nào hơn, nhất là chuyện này lại cần phải giữ kín, bà chỉ còn lấy cớ lễ Phật đem theo Khang Hi hoàng đế tuần hành núi Ngũ Đài sơn để tìm kiếm. Hoàng thái hậu lên tới nơi, bèn lén tới chùa Thanh Lương, không để lộ hành tung cho một ai biết, nhưng bà chỉ thấy có một nhà sư ghẻ chốc đầy mình, vừa điếc lại vừa mù, hỏi chuyện thì mười câu đến chín chẳng nghe rõ. Bà không còn biết làm sao, đành đứng trước cửa chùa gạt lệ trở về.

Qua năm sau Thái hậu lại quay lên Ngũ Đài sơn lần nữa. Nhưng lần này bà chỉ thấy sơn môn nhà chùa đổ nát quá nửa, nhà sư ghẻ chốc cũng chẳng còn. Bà bèn hạ chỉ trùng tu chùa Thanh Lương coi như ngôi chùa của bà. Về sau, vì tuổi cao sức yếu, đi lại không dễ dàng như trước nên bà cũng chẳng tới Ngũ Đài sơn nữa. Tuy nhiên lòng bà luôn hướng về phía Tây mà nhớ nhung, hối tiếc âm thầm đau khổ một mình trong thâm cung suốt cuộc đời tàn.

Ngày tháng thoi đưa, Khang Hi hoàng đế dần dần lớn lên.

Ngài quả là một nhân vật khôi ngô cường tráng. Vào thời Thuận Trị, Mãn quân đã lần lượt đánh bại Minh tướng Sử Kha Pháp, tiêu diệt bọn con cháu nhà Minh là Phúc Minh hương, Lộ Vương, lại đuổi chạy Vĩnh Minh Vương, đập tan quân của Trịnh Thành Công, thu phục hải đảo Đài Loan. Về sau bọn Bình Tây vương Ngô Tam Quế, Bình nam vương Thiện Chi Tín Thanh, Nam vương Canh Tinh Trung làm phản, Bát Kỳ binh mã cũng đánh cho tan luôn. Bởi vậy, đến thời Khang Hi, quốc nội hết sức thái bình. Lúc đó, Thái hậu mời cho nhà vua hai vị sự phó: một vị người tỉnh Hà Nam, tên gọi Thanh Bàn, còn một vị tên Nguỵ Duệ Giới. Hai vị học sĩ này ngày ngày giảng giải kinh sư cho nhà vua ở Doanh đài. Thái hậu còn mời cả Thi giảng học sĩ Cao Sĩ Kỳ để giảng giải về Tống học. Khang Hi hoàng đế là người hiếu học, ngày ngày giảng luận với các vị học sĩ không biết mệt. Khi về cung ngài lại còn giảng lại cho bọn cung nhân nghe. Bọn này nghe mà chẳng hiểu rõ được ý nghĩa cao diệu, nhưng may được bà thái công chúa chỉ dẫn thêm cho nên họ cũng dần dần hiểu biết thêm ra.

Bà thái công chúa là ai vậy? Bà này chính là cô con gái nhỏ tuổi nhất của Thái Tông hoàng đế, em ruột của Thế Tông hoàng đế (Thuận Trị) và cũng là cô ruột của Khang Hi hoang đế. Chỉ vì bà quá đẹp, tuổi lại nhó, chỉ hơn Khang Hi có sáu tuổi, nên Thái hậu không muốn cho bà ra khỏi cung. Mãi tới năm hai mươi hai tuổi mà bà vẫn chưa từng kén phò mã. Khang Hi hoàng đế đối với bà cô này lại rất thân. Ngay từ lúc còn nhỏ, hai cô cháu đã từng ôm nhau nằm ngủ chung một giường. Nhũ mẫu, bảo mấu, cung nữ, kẻ hầu người hạ chung quanh nhưng ngài chẳng để ý tới ai, chẳng cần đến ai. Mỗi khi tiến cung ngài bèn tìm ngay cô ruột để vui đùa với nhau, đến khi đi học ngài nghe giảng ở thư phòng xong trở về cung thì cũng lại tìm ngay bà cô này để giảng lại. Bà thái công chúa này bụng vốn đầy ắp thi thư. Hai cô cháu thường ngày đàm luận sách vở với nhau, không bao giờ tỏ vẻ mệt mỏi.

Nhân đó, Khang Hi hoàng đế cùng bà thái công chúa này giao tình càng ngày càng thâm hậu. Những lúc vắng người họ thường hay dốc bầu tâm sự cho nhau nghe. Thành thử tuy phận là cô cháu nhưng cả hai hình như quên đi cả luân lý lễ nghi. Rồi đến khi Khang Hi hoàng đế lên mười bảy tuổi ngài cũng cùng cô ruột bầu bạn bên nhau, nhiều lúc đã thấy bộc lộ một cách rõ rệt tình yêu trai gái giữa đôi người. Thái hậu công chúa lúc đó hai mươi hai tuổi thì Khang Hi hoàng đế đã mười bảy. Tuổi đó chính là tuổi của người con gái đang độ tưởng mơ tình dục.

Chẳng ngờ Khang Hi hoàng đế chăm đọc sách quá đó bỗng sinh bệnh thổ huyết. Thái hoàng Thái hậu được tin lấy làm lo buồn hết sức. Bà liền sai mời ngự y tới điều trị. Viện ngự y khuyên nên tĩnh tâm điều dưỡng. Thái hoàng Thái hậu ý muốn nhà vua về cung Ninh Thọ để tự mình săn sóc cho cháu nhưng bà Thái hậu Đổng Giai lại muốn mang ngài về cung để thuốc thang chạy chữa cho con. Khang Hi hoàng đế chẳng nghe theo lời bà mà cũng không nghe theo lời mẹ. Ngài cứ ở lại cung Vĩnh Lạc, ý muốn duy nhất là cô ruột thái công chúa bầu bạn bên mình. Khang Hi còn cấm luôn cả bọn cung nữ, bảo mẫu không được tự tiện vào phòng, bà Thái hoàng thái hậu cho nhà vua nhỏ tuổi còn tính trẻ con nên cũng không ép. Thái công chúa suốt ngày quanh quấn bên giường bệnh. Vua tôi cô cháu kề đùi sát vế, trò chuyện tình tứ cùng nhau. Khang Hi lúc đó con trai đang sức, trông lại có vẻ bảnh bao khêu gợi. Thành thử, lâu ngày sống bên nhau hai người thân mật rồi một buổi đẹp trời, cùng nhau du dương vào cảnh mộng…

Khang Hi hoàng đế hôm đó được thoả thuê nguyện vọng, bệnh của ngài tự nhiên biến mất. Đó là về phía con trai chứ về phía con gái lại khác. Thái công chúa có tật giật mình, trong lòng có vẻ lo sợ, bèn đem chuyện tò tí của mình kể thầm với mẹ. Bà Thái hoàng thái hậu nghe xong, giật mình đánh thót.

Bà vội cho gọi hoàng đế tới trách. Không ngờ Khang Hi hoàng đế, trẻ tuổi hay bạt mạng, định ý phong cho cô ruột làm phi nữ. Ngài bảo với bà nội là nếu không theo lời, ngài chẳng thèm làm hoàng đế nữa.

Thái hoàng thái hậu sợ chuyện xảy ra to, đành phải lặng thinh chiều ý, mặc kệ ngài làm sao thì làm. Về sau khi bà nội mất rồi, Khang Hi hoàng đế bèn hạ một đạo chỉ dụ phong ngay cô ruột làm Thục phi. Khắp triều văn võ thấy thế ai cũng đêu lấy làm quái lạ. Do đó, mới có chuyện một vị quan ngự sử dâng sớ khuyên ngài thu hồi thánh chỉ đem công chúa kén phò mã. Khang Hi hoàng đế xem sớ xong tức giận đến lòi cả con ngươi ra. Ngài nghiến răng nói:

- Cô mẫu đã chẳng phải mẹ của trẫm lại chẳng phải con gái của trẫm, cũng không phải là anh chị em ruột thịt gì của trẫm. Nay phong làm phi tử, để bà khỏi phải xuất cung chịu cảnh khổ cực, có gì mà chẳng được?

Thế rồi từ đỏ, ngài chẳng cần kiêng dè gì nữa, tha hồ phóng túng bạt mạng. Ngài chọn trong đám cung nữ có cô nào đẹp là bày trò mây mưa. Bắt gặp bất cứ cô nào ngài cũng làm hết khỏi nói chuyện xấu hổ mắc cỡ. Cô nào đã bị "sủng hạnh" qua rồi thì tức khắc được phong làm phi tử. Người ta kể không đầy một năm mà số phi tử trong cung đã lên tới bốn mười sáu bà. Đại thần hay tiểu thần có khuyên can ngài bất chấp.

Lúc đó, có một tên thái giám tên gọi Tiểu Như Ý tính tình hết sức khôn khéo giảo hoạt. Hắn ra ngoài phố kiếm mua khá nhiều loại dâm thư ngầm đưa vào cung dâng cho ngài. Bình nhật ngài chỉ nghe Thi Độc học sĩ giảng giải nào kinh, nào sử, chưa từng được xem những loại sách thú vị này, cho nên ngài lấy làm khoái, bỏ cả kinh sử, chỉ vùi đầu vào việc nghiên cứu loại sách này đến hết ngày, sáng đêm. Ngài mê đến nỗi cơm chẳng thiết ăn, đêm chẳng thiết ngủ. Rồi cao hứng, ngài đem bọn phi tử đông đảo kia ra chiếu phép tắc trong sách mà thực hành để thí nghiệm.

Một hôm, hoàng đế ngồi chơi trên phiến đá nơi hòn non bộ trong hồ xem sách. Tên thái giám Tiểu Như Ý đứng hầu bên cạnh. Bỗng một con cung nữ từ xa đi tới. Ngài ngẩng lên, nhìn thấy. Ngài bỗng nảy một ý lạ. Thế rồi ngài đứng dậy len lén chui vào một cái hang trong chiếc giả sơn… Ngài dặn Tiểu Như Ý cứ làm như vậy như vậy… Khi con cung nữ vừa bước tới nơi, Tiểu Như Ý liền nhào ra, rồi chẳng nói chẳng rằng, hắn đưa tay túm chặt lấy đấy vào trong hang Con cung nữ hoảng sợ kêu la inh ỏi, giãy giụa hòng thoát nhưng một cánh tay nào đó đã ôm ghì lấy toàn thân, hết kế trốn chạy. Một lát sau, người ta chỉ còn nghe văng vẳng tiếng rên rỉ lẫn tiếng khóc từ trong hang vọng ra mà thôi.

Con cung nữ đã bị hoàng đế cho ăn xong hối hối hả hả chạy vụt ra ngoài không dám ngoảnh cổ lại nữa. Một con cung nữ khác tới, Tiểu Như Ý lại theo dùng sách cũ mà hành sự giúp nhà vua. Tinh ra hôm đó hoàng đế nhà ta đã ngự đến bốn con cung nữ. Ngài cảm thấy sướng khoái đến phát điên. Tiểu Như Ý lại còn phỉnh nịnh Khang Hi hoàng đế bằng cách mô tả bọn Hán nữ con gái Tàu, nõn nường như thế nào, mềm mại hấp đẫn ra sao. Thôi thì đủ thứ kỳ lạ diễn ra. Hoàng đế nghe xong liền ghi nhớ như sách trong lòng nguyện với mình rằng thế nào cũng phải tim ra để thưởng thức cho bằng được. Có lấn Khang Hi hoàng đế nghe nói trong nhà văn hoạ đại học sĩ Trương Anh và thượng thư Diêu Giang có khá nhiều gái đẹp. Trương và Diêu vốn sui gia với nhau. Mỗi người lấy bảy, tám bà phu nhân, bà nào cũng nõn nà khêu gợi mũm mĩm tình tứ. Vùng Bắc Kinh, có người đã phải nối hứng đặt vè:

Nếu nói gái đẹp.

Phải kể Diêu, Trương.

Mày có nàng Dương (quý phi).

Tao có nàng Tây (Tây Thi).

Hễ thấy là say.

Hồn bay muôn dặm.

Tiểu Như Ý học thuộc bài rồi về cung kể lại cho Khang Hi hoàng đế nghe. Thế là từ đó ngài đâm ra mơ tưởng bọn gái đẹp của hai nhà đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn.

Nói đẹp thì phải kể cô tiểu thơ thứ tư của Diêu Giang mới là tuyệt Biết vậy, Trương Anh tới cầu hôn cho con trai thứ hai của mình. Nhị công tử họ Trương lúc đó làm quan đã tới chức Kinh khanh. Lấy được con gái họ Diêu, anh chàng nhị công tử này hí hửng như bắt được vàng. Thôi thì hương, thôi thì hoa, ngày nào cũng như ngày nấy, nhị công tử cung phụng người đẹp thật là muôn phần chu đáo. Chàng và nàng tha thiết quyến luyến nhau, một bước cũng không rời, cả ngày chỉ ở quanh quẩn trong phòng.

Có lần, hôm đó là ngày vạn thọ của bà hoàng Thái hậu. Một đạo thượng dụ ban xuống trước đó mấy bữa buộc các bà mệnh phụ của bọn Hán quan đều phải theo người Mãn nhất loạt vào cung chúc thọ. Thế là đám phụ nữ của hai nhà Diêu, Trương vốn thích xem phong cảnh nơi cung đình, cho rằng chồng mình cũng làm quan tại triều, bèn chiếu theo phẩm trật ăn mặc đàng hoàng rồi vào cung chúc thọ. Hai cô nàng dâu của Trương học sĩ cũng có mặt trong đám đó.

Khi đoàn người vào cung, theo từng ban chúc thọ xong thì Thái hậu truyền dụ ban yến ngay tại nội đình, tiệc xong. lại được qua vườn thượng uyển du ngoạn. Thật là một ngày vui hiếm có! Suốt từ sáng tới lúc lên đèn mọi người mới nhất tề lui ra khỏi cung rồi lên kiệu về nhà. Nhóm đàn bà họ Trương đều nghỉ trên chiếc kiệu sáu người khiêng. Khi về tới nhà, mọi người xuống kiệu, xem lại mới biết thiếu mất Nhị thiếu thái thái, vợ chàng nhị công tử mà lại thừa hẳn ra một cô gái lạ nào đó. Đệ tứ tiểu thơ của nhà họ Diêu bỗng không cánh mà bay? Hỏi tới cô gái lạ kia, thì nàng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả! Ông quan Kinh khanh được tin chạy tới xem, mới biết em vợ cưng của mình đã bị tráo đổi từ trong cung mất rồi. Tình cảnh đó, thử hỏi ông quan trẻ này làm sao mà chẳng giận, ông bèn quát hỏi cô gái kia om sòm. Trương học sĩ hay chuyện vội chạy tới ngăn con rồi bảo:

- Con chớ có làm om lên! Trong cung mà biết được thì cả nhà này chết sạch đó con ạ?

Ông quan con nghe ông quan bố cảnh cáo hoảng hồn bạt vía, đành câm mồm nuốt giận, lượm đỡ cô gái lạ kia vào trong cho đỡ thiệt. Ít hôm sau người ta thấy hoàng Thái hậu hạ một đạo ý chỉ mà đám mệnh phụ của bọn Hán quan triều đình đọc ý chỉ này chẳng hiểu sao cả, duy chỉ có cha con Trương học sĩ hiểu rõ tự sự nhưng trong lòng chua chát khôn tả nên lời.

Từ khi Khang Hi hoàng đế được thưởng thức cái suối mát của gái Hán rồi thì cái đám tỳ nữ kia (gái Mãn) coi như đồ bỏ đối với ngài. Chẳng được bao lâu, ngài lại cảm thấy buồn chán cảnh cung đình. Ngài bàn tính với tên thái giám Tiểu Như Ý tìm cách cho ngài đi lén ra ngoài cung du ngoạn.

Lúc đầu tên Tiểu Như Ý không dám phụng chi. Nhưng Khang Hi hoàng đế vốn tính ương ngạnh muốn sao là phải được vậy Tiểu Như Ý chẳng vâng chỉ cũng chẳng được nào!

Thế là vua tôi thay đồi quần áo, cải trang thành đôi chủ tớ lẳng lặng lén ra khỏi cung, đi hết đường này đến phố kia để du ngoạn. Hoàng đế bị nhốt trong cung cấm đã mười mấy năm, buồn chán vô vị, nay được chạy nhảy tung tăng giữa kinh thành như con chim số lồng, con cá sút câu, tưỏng không còn gì sướng khoái cho bằng. Ngài đi khắp nơi, khi thi vào quán cơm nhậu nhẹt, khi thi vào tố quỉ tìm hoa. Mỗi lần dạo chơi như vậy cứ tới tối mới rút về cung.

Không ngờ chỉ được mấy bận, bỗng một chuyện khá thú vị xảy ra. Số là hôm đó, Khang Hi hoàng đế cùng Tiểu Nhi Y đang lững thững bước trên con đường Lư Mã Đại bỗng thấy một chiếc xe lừa từ phía trước mặt chạy tới, trong xe có một người đàn bà rất xinh đẹp. Hoàng đế bất giác ngây người đứng ngắm đến nổi bánh xe suýt chạm vào người mà ngài vẫn không hay biết. Người đàn bà trong xe đôi mắt lóng lánh như mặt nước hồ thuỷ nhìn thấy mặt hoàng đế thộn ra như anh ngốc, bất giác cười lên khanh khách. Cái cười giòn dã ấy của nàng lại càng làm cho nhà vua mặt đã thộn lại càng thộn thêm.

Chiếc xe lừa lướt qua rồi tiến ra phía trước. Khang Hi hoàng đế vội đuổi theo sau. Chiếc xe chạy một lát tới cửa Tây Trực môn, trước một căn nhà thì đỗ lại. Hoàng đế cũng đuổi tới kịp nhưng mồ hôi nhễ nhại miệng thở hổn hển. Ngài đã biết nơi ở của người đẹp. Ngài chỉ còn việc bảo Tiểu Như Ý tìm kế sách nào để đem cho kỳ được người đẹp vào cung ngay đêm đó cho ngài. Ngài lững thững trở về cung đợi chờ…

Hồi 50

KHANG HI CUỚP VỢ NGUỜI

Tên thái giám Tiểu Như Ý vâng ý chỉ của Khang Hi hoàng đế đi thẳng tới cổng nhà người đàn bà vừa để chờ đợi cũng vừa để điều tra. Hắn được biết chồng nàng họ Vệ, có mở một tiệm vải tại đường lộ lớn Lư Mã Đại Nhai. Hôm đó nàng về quê thăm mẹ. Người chồng vốn rất yêu vợ nên có dặn thế nào tôi cũng phải về nhà. Biết được vậy rồi, Tiểu Như Ý bèn bỏ tiền ra mua chuộc tên phu xe, còn hứa thêm là nhất định kiếm cho một chức quan sai vặt trong cung. Tên phu xe sung sướng đến điên người, vội vàng gật đầu đồng ý tiếp tay. Đến giờ, người đàn bà từ biệt mẹ ra cửa lên xe đi. Tiểu Như Ý cũng đẩy một chiếc xe lặng lẽ theo sau. Hai chiếc một trước một sau chạy thẳng vào cung đến mãi công sau Vườn Ngự uyển mới ngừng.

Người đàn bà xuống xe, nhìn thấy phong cành nơi đây đồ sộ nguỵ nga khác hẳn mọi nơi, bất giác giạt nẩy mình. Tên thái giám tiến ngay lại trước mặt và nói cho nàng biết duyên cớ. Hắn còn nói thêm nếu được nhà vua sủng hạnh, thì đến ngay chồng nàng cũng được hương giàu sang phú quý nữa. Người đàn bà này vốn chẳng phải loại trinh tiết đáng trọng gì nên khi nghe nói tới chuyện hoàng đế sủng hạnh, nàng sung sướng đến nhảy lên được. Thế là nàng chịu ngay, và hý hừng bước theo Tiểu Như Ý tiến thẳng vào vườn Ngự uyển bái kiến Khang Hi hoàng đế ở Giáng Tuyết trại.

Nhà vua vừa thấy người đàn bà bước vào, vui mừng không tả xiết vội chạy tới cầm tay và kéo nàng vào lòng mình. Tên thái giám Tiểu Như Ý thấy vậy vội tránh đi nơi khác.

Đêm hôm đó Khang Hi hoàng đế lưu hành ngay tại Giáng Tuyết trại. Ngài chiếu cố tới người đẹp luôn một lèo đến mười hôm, không thèm ra khỏi trại môn nữa. Rồi một đạo Thánh chỉ hạ xuống, phong ngay người đẹp làm Vệ phi. Ngài cũng cho vời chồng của người đẹp vào cung thưởng cho chức ngự tiền thị vệ quan. Vợ chồng nhà này thường qua mặt hoàng đế ngấm ngầm thì thụt với nhau. Vệ phi có điểm đặc biệt là trong người nàng luôn luôn tiết ra một mùi thơm phức ai ngửi thấy cũng phải khoái thích mê luyến. Những nơi nàng đi qua thường phảng phất mùi hương không tan, người ở xa cũng có thể ngửi thấy. Những áo lót của nàng quyện mùi hương hết sức nồng nàn, giặt đến mấy cũng không hết. Mỗi khi nàng tắm, nước tắm còn lại phát ra một mùi thơm ngát, đến nỗi bọn cung nữ không muốn đổ đi nữa.

Nhân đó hoàng đế sủng ái thật hết sức đặc biệt. Ngài thường gọi nàng là Hương mỹ nhân. Không ngờ Vệ phi mới vào cung có bảy tháng đã sanh hạ một thằng bé mập mạp kháu khỉnh tiếng khóc giòn đã to lớn. Hoàng đế ngài lấy làm yêu quý vô ngần. Bởi yêu mẹ nên ngay từ lúc thằng bé mới sinh hoàng đế đã có ý muốn lập làm thái tử. Ngài đặt tên thằng bé là Dân Trinh. Về sau, nó này trở thành Ung Chính hoàng đế.

Thời đó, bọn cung nữ được Khang Hi hoàng đế lâm hạnh nhiều lắm, và cũng khá nhiều cô sinh con. Vệ phi sợ đám anh em đông đảo này tranh nhau, nhất là con nàng lại đích thị là con của người chồng cũ, thảng hoặc có kẻ điều tra ra, thì khó lòng làm được thái tử cho nên nàng thường khẩn cầu với hoàng đế về vụ này. Khang Hi hoàng đế vị nể nên cung vui lòng đáp ứng, nhưng Dân Trinh còn nhỏ tuổi quá, bởi vậy việc lập thái tử tạm đình lại, ít năm nửa sẽ xét.

Nhưng trong số ít năm đợi chờ đó, nhà vua còn sáng tạo ra biết bao chuyện phong lưu kỳ thú nữa. Bao nhiêu việc lớn của triều đình ngài phó thác cho vài vị cô mệnh đại thần trong số này có một vị tên Ngao Bái, tính tình hết sức gian ác độc địa. Bái ỷ thế mình là lão thần của tiên hoàng nên quát tháo doạ nạt cả hoàng đế. Khang Hi có khuyên y từ từ bàn tính thì y cũng bất chấp, lại còn doạ cáo quan. Y ngấm ngâm kết bè lập đáng nhân hối lộ, tập trung quyền hành vào tay mình.

Một hôm Ngao Bái cưỡng bức nhà vua phái phong cho ông nội y làm Trần quốc công nhưng nhà vua không chịu. Bái lấy làm giận lắm, mặt hâm hầm nói:

- Thần chịu trọng trách cố mạng, thế mà xin có một việc nhỏ cũng không được, vậy làm đại thần mà làm gì?

Nói xong Bái đập mạnh xuống bàn một cái thị oai rồi hằn học tính bước ra khỏi điện. Lúc đó, đứng cạnh có một vị lão thần tên gọi Mã Ni Cáp Đặc cười nhạt nói:

- Còn quý đại thần mở miệng nói cố mạng, đóng miệng nói cố mạng, vậy xin hỏi ngài có thủ chiếu của Tiên đế không đã?

Ngao Bái nghe nói liền quay lại hỏi ngược lại vị đại thần kia:

- Quý đại thần có thủ chiếu của tiên đế không mà dám hỏi câu đó?

Mã Ni Cáp Đặc nghe hỏi gật đầu rồi thanh thả rút tờ thủ chiếu trong tay áo ra. Khang Hi hoàng đế xem tờ thủ chiếu mới biết là thủ chiếu của tiên đế, phía trong còn có ngự ấn đóng son đỏ chói và ghi tên "cố mệnh đại thần" duy chỉ có mình Mã Ni Cáp Đặc mà thôi. Thế là Khang Hi hoàng đế nổi cơn hung, quát bảo Ngự tiên thị vệ bắt trói Ngao Bái tức khắc, giao cho Hình bộ thấm vấn kết tội mạo xưng cố mạng đại thần, hỗn xược khi quân.

Thấy hoàng đế bắt tội tên gian ác, bọn ngự sử cũng dâng lên một tờ sờ nói Bái phạm có đến hai mươi tội lớn. Tức thì hoàng đế hạ chỉ, sai đem Bái ra ngoài chợ chặt đầu chính pháp.

Sau khi giết Ngao Bái, Khang Hi hoàng đế bèn nghĩ tới việc lập thái tử để về sau khỏi bị bọn đại thần quây phá lôi thôi. Rồi cũng vì việc lập thái tử này ngài nhớ lại lời khẩn cầu của Vệ phi. Nhưng ngài lại nghĩ rằng mình có đến ba mươi lăm hoàng tử cả thảy, nếu lấy đệ tứ hoàng tử Dân Trinh, e rằng bọn này không phục chăng. Theo lý ra Dân Nhung tuổi lớn hơn cả, tự nhiên được lập làm thái tử. Nhưng Vệ phi lại là người được sủng ái nhất, chẳng lẽ lại làm cho nàng phật ý. Vừa đi vừa nghĩ bất giác ngài đã tới cung Thuý Hoa. Vệ phi chạy ra tiếp giá, đón vào nội viện. Khi vào bên trong ngài thấy hai chiếc lồng bên trong có rất nhiều chuột bạch, mỗi lồng ước tới hai trăm con. Ngài bèn hỏi thì Vệ phi tâu nói là nước Xiêm La vừa đem triều cống nên để đó.

Khang Hi hoàng đế nhìn hai lồng chuột, sực nhớ lại chuyện mình vừa tính, bèn sai người cho gọi đệ nhị hoàng tử và đệ tứ hoàng tử vào cung. Một lát sau, nhị hoàng tử là Dân Nhung, tứ hoàng tử là Dân Trinh vâng chiếu có mặt. Muốn thử xem tâm địa của hai hoàng tử, nhà vua bèn thưởng hai lồng chuột cho hai người. Hai vị hoàng tử bưng lồng chuột tạ ơn rồi ra về.

Qua ngày hôm sau, ngài cho mấy tên nội giám thân tín ngầm tới cung hai vị hoàng tử để dò xét nghe ngóng. Khi trò về, bọn nội giám tâu rằng:

- Nhị hoàng tử khi về tới cung liền tha cả lồng chuột, còn bảo nhốt chung tội nghiệp mất hết tự do chi bằng thá quách.

Tứ hoàng tử lại khác. Khi về tới cung, tứ hoàng tử bèn đem hai trăm chuột chia làm ba đội dạy chúng đánh lộn. Con nào không nghe theo lệnh tức thì đập chết. Chơi kiểu đó, mới được một ngày, hai trăm chuột bị đập chết không còn một mống.

Khang Hi hoàng đế nghe tâu xong, bỗng nhiên sinh lòng chán ghét Dân Trinh vô hạn. Do đó, bèn có ý muôn lập Dân Nhung làm thái tử. Ngài bèn ngầm sai người gọi Đại học sĩ Minh Châu tới để thương lượng. Minh Châu cũng hết sức đề cử nhị hoàng tử. Thế là Khang Hi hoàng đế quyết định xong.

Cách ít hôm, mọi người thấy một đạo Thượng dụ hạ xuống lập Dân Nhung làm thái tử, một mặt đưa Dân Nhung vào ở trong Đông cung. Bá quan văn võ đều dâng sớ chúc mừng. Hoàng đế ban yến ngay điện Sùng Chính. Bên Đông cung thì thật là vô cùng náo nhiệt, trái lên bên Thuý Hoa cung thì lại hoang vắng lạnh lẽo hết sức. Hai mẹ con Vệ phi ngầm sai người gọi quan thị vệ vào cung bàn tính. Thị vệ quan bảo Vệ Phi:

- Xưa kia, vợ chồng ta hoà thuận sung sướng biết dường nào. Thế rồi bà bị tên hôn quân này cướp đem vào cung. Lúc đó, ta nghĩ tới chuyện giết hắn. Nhưng chỉ vì trong bụng bà còn có cái bào thai năm tháng cho nên ta nghĩ một khi hạ sanh trai tất ngày kia nó phải được nối ngôi làm vua, và ta trở thành vua cha. Nay con ta không được làm vua nữa, điều đó cũng chẳng sao bởi vì ta đã có chủ ý. Thế nào nó cũng được làm vua ta mới nghe.

Nói quyết vậy xong, họ Vệ còn bàn tính với Vệ phi một lúc lâu nữa mới ra về. Vệ phi lại cho gọi Dân Trinh tới, bảo theo họ Vệ xuất cung du ngoạn. Họ Vệ đem Dân Trinh về nhà mình rồi ngầm sai người mời một nhà sư Lạt Ma tới truyền thụ bản lãnh bùa chú luyện khí cho Dân Trinh.

Họ Vệ lại còn mời rất nhiều võ sĩ vê nhà để luyện võ cho Dân Trinh, nào múa đao đánh thương, nào dương cung bắn tên, nào là đủ lối đánh quyền nội ngũ hành, ngoại ngũ hành gì gì nhiều lắm. Dân Trinh vốn tính trẻ con, hiếu động ham chơi, bởi thế rất khoái các ngón đấm đá. Hằng ngày, Trinh lẻn ra khỏi cung để luyện tập võ nghệ làm vui. Hơn nữa, Dân Nhung được phong lam thái tử, Dân Trinh tỏ ý bất phục. Trinh càng cố gắng luyện võ cho có bản lĩnh rồi sẽ tìm cách cướp ngôi hoàng đế của anh. Trinh ở trong cung đem ý này nói với bọn anh em Dân Đế tám người. Bọn này cũng vốn ghét Dân Nhung, nên khi nghe Dân Trinh nói vây thì khoa chân múa tay, lấy làm khoái chí lắm, rồi cùng theo Trinh ra ngoài luyện võ chuẩn bị để đâm chém một keo. Bọn Dân Trinh, Dân Đế, Dân Ngay, Dân Đường còn lập một cơ quan, ngầm sai người đi mời các Tiêu sư ở các Tiêu cục về truyền thụ võ nghé. Tin tức đó loan ra, tức thì những tay hảo hán giang hồ ùn ùn kéo tới. Dân Trinh nhờ được mẹ là Vệ phi giúp đớ, bèn lấy tiền của trong Đại nội ra để chu liệu. Nhờ đó, Trinh mời được rất nhiều tay hảo hán nổi danh đương thời: nào là Độc tý Kim Cương Thiết Toái Lý, nào là Lãm Hai Giao, Điên hoà thượng, tên nào tên nấy đều kỳ quái, ghê khiếp cả.

Bên ngoài, bọn này làm cho thiên hạ một phen náo loạn cả lên, thế mà trong cung Khang Hi hoàng đế và thái tử Dân Nhung y như người nằm trong trõng chẳng nghe biết tý gì.

Hồi đó, Khang Hi hoàng đế có mời một nhà sư gọi là Diệu Giác hoà thượng. Nhà sư này rất thông thạo kinh điển, lại giỏi thuyết pháp. Ngài đưa vào ở trong lĩnh thất Doanh đài để ngày ngày thuyết pháp. Nghe nhiều, ngài cũng có đôi phần lãnh ngộ.

Thái tử Dân Nhung thì theo Đại học sĩ Minh Châu nghe giảng giải văn học. Minh Châu vốn bà con thân thích với hoàng đế, tuy làm đến tướng quốc, nhưng Minh Châu dốt bất thòng vặn mặc, chỉ nhờ tính giảo hoạt khôn khéo, đã từ chức nhỏ Bộ tào leo lên tới chức Đại học sĩ. Y biết nhà vua và thái tử chú trọng về thơ phú, bèn gọi một số đông văn nhân về cung đốn đầy đù để cho họ làm thơ, làm văn rồi nhận lấy là của minh đem dâng vào cung. Nhà vua và thái tử rất lấy làm khen. Nhân dịp. Chảu liền khuyên nhà vua cố gắng sáng tạo một sự nghiệp văn học để làm cái kế lưu danh muôn thuở. Bọn văn sĩ đại thần như Trưong Anh, Nguy Duệ Giới thấy vậy, cũng hùa theo:

- Xin nhà vua thiết lập Tu thư quán. Bọn này với Minh Châu vốn đã thông đồng với nhau từ trước, bởi vậy trước mặt Khang Hi hoàng đế, họ hùa nhau khải tấu để thực hiện cho kỳ được.

Thế là hoàng đế hạ chỉ, thiết lập Tu thư quán, triệu thỉnh văn nhân bốn phương, biên soạn các sách Khang Hi tự điển, Tử sinh tinh hoa, Bội văn vận phủ.

Con trai của Minh Châu tên gọi Nạp Lan Dung Nhược thường đến Tu thư quan, hề thấy ai có tài thì biếu tiền, tặng vàng, mời về phù sáng tác văn chương thay cho cha mình.

Có một hôm Minh Châu tướng quốc ngồi hầu chuyện hoàng đế ở Tây thư phòng. Khi nói tới một đoạn chuyện cũ trong sách Trang Tử Nam hoa kính, hoàng đế bèn cho gọi một tên nội giám đi lấy cuốn sách này. Tên thái giám đi lấy, nhưng không lấy cuốn Trang Tử Nam hoa kính mà lại lấy nhầm cuốn Lão Tử Đạo đức kinh, hoàng đế bực mình, giậm chân chửi tên thái giám là "đồ ngu" rồi quay sang bảo Minh Châu:

- Cái lũ ngu này, thật là chán. Xưa nay thường nói "tay ngọc thêm hương đọc sách khuya" thì không biết cảnh tượng đó tuyệt biết dường nào! Trẫm nghĩ rằng người con gái tay ngọc thêm hương ấy hắn chẳng thô lỗ như bọn này. Trẫm tính tuyển mấy đứa con gái nhà tử tế, không hiểu thi thư đưa vào cung làm nữ quan, trông coi thư phòng cho trẫm, há có nên chăng?

Minh Châu nghe ý kiến đó, về nhà lập tức sai người tới vùng Tô, Hàng chọn mua một số gái đẹp, mặt mày xinh xẻo, chưa có bó chân của các gia đình nghèo đem về nuôi trong biệt thự của mình rồi mời thầy dạy học đủ thơ phú văn chương.

Bọn gái đều vào tuổi mười ba, mười bốn; được cái trời cho thông minh, nên chưa đầy bốn, năm năm, mà thi ca, từ khúc múa hát, đàn địch, thảy đều thông thạo. Lúc đó, chúng đã lên mười bảy, mười tám cả. Đứa nào đứa nấy đều xinh đẹp quyến rũ. Trong số đẹp nhất phải kể Kiều Hạnh, Tân Mai, Thanh Đào, Lệ Phương. Bốn đứa này quả thiệt quốc sắc thiêu hương, nghiêng thành đổ nước. Tướng quốc Minh Châu khoan khoái trong lòng cho rằng chuyến này có thể làm đẹp lòng được vị hoàng đế khả kính của mình. Thế rồi Châu sửa soạn để đưa bốn trang tuyệt sắc mỹ nhân này vào cung.

Hồi 51

KHANG HI HOÀNG ĐẾ TUẦN DU PHUƠNG NAM

Tướng quốc Minh Châu tính đưa bọn gái đẹp vào cung cho Khang Hi hoàng đế. Không ngờ có kẻ nào đó đến mách với tướng quốc phu nhân, bảo quan ông lấy một lúc những ba mươi sáu cô hầu thiếp hiện đang để ở biệt thự ngoài thành tây để ngày đêm thủ lạc. Bà tướng quốc vốn thuộc loại sư tử Hà Đông, vừa nghe xong, tức thì tam bành lục tặc nổi lên. Bà chẳng cần hỏi kỹ; bắt đóng xe đưa bà đi ngay tới biệt thự ngoài thành tây. Bà không thấy quan ông ở đây mà chỉ thấy một ông giáo già. Ông giáo già lật đật đem ba mươi sáu cô gái ra bái kiến. Bà tướng quốc đưa mắt nhìn một lượt thấy cô nào cô nấy như hoa như liễu. Bà chẳng nói một lời nào, chỉ bảo ông giáo già rút lui. Lúc đó, bà mới cho gọi hết các cô lại gần để quan sát và hỏi han cẩn thận. Trong bọn con gái, bà thấy có mười hai cô đẹp nhất. Bà liền cho giữ lại rồi lập tức truyền lệnh bày tiệc thiết đãi. Bọn con gái này vừa mới lớn lên nào đã biết gì, nói nói cười cười ăn uống say sưa bí tỉ. Bà tướng quốc thiết đãi xong bữa tiệc, bèn lấy xe về phu.

Mọi người thấy phu nhân đi đi về về, chẳng giận mà cũng không vui, không nói mà cũng chẳng cười đều tỏ ý kỳ lạ. Có ngờ đâu ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, người ta đã thấy mười hai cô gái tuyệt sắc được biệt đãi hôm qua đã nằm chết cong queo trên giường từ lúc nào. Tân Mai, Lê Phượng, Kiều Hạnh, Thanh Đào, bốn ả cũng chẳng thoát được vận số. Đến lúc rõ chuyện, quan ông tướng quốc chỉ còn biết thở vắn than dài, cho vác mấy cái xác đi chôn chứ còn biết làm gì được hõn nữa. Từ đó quan ông sợ quan bà đến vở vía, vội đem hai mươi bốn cô cô còn lại nhất tề cho chở về quê quán hết. Nhưng rồi cũng từ đó giữa quan ông và quan bà tình nghĩa mỗi ngày mỗi nhạt, mỗi ngày mỗi cay cú ghét bỏ. Quan tướng quốc suốt ngày chỉ uống rượu làm thơ với bọn tân khách, không thèm đặt chân tới cửa buồng the của bà nhà nữa.

Khí quan ông được lệnh Đông cung triệu vào đàm luận văn chương, quan tướng quốc lại có dịp bầu bạn với đám tao nhân mặc khách, kể cũng khuây khoả đôi phần. Thái tử vốn đối tốt với ông cho nên thường giữ ông ở lại trong cung.

Hồi đó có một vị tổng đốc Vân Quý tên gọi Phạm Thừa Động về kinh bệ kiến thấy hoàng đế và thái tử trở thành hai con mọt sách, bèn dâng lên một tờ sớ ý nói bản triều lấy việc mã thượng mà được thiên hạ, thiết tưởng con cháu không nên bỏ phế võ công. Khang Hi hoàng đế vốn trọng Phạm Thừa Động nên khi đọc xong tờ sớ lập tức truyền chỉ mở trường luyện từ cỡi ngựa bắn cung trên Liễu đê trong vườn Sương Xuân Uyên. Lúc đó thái tử cùng các hoàng tử Dân Trinh, Dân Đề, Dân Nga, Dân Đường đều đứng trước phụ hoàng đợi chỉ. Hoàng đế bèn hạ lệnh cho thái tử và bọn hoàng tử từng cặp so tài bắn cung và các loại binh khí. Trong số hoàng tử xem ra chỉ có Dân Trinh là bản lãnh cao cường hơn hết. Thái tử Dân Nhung bản chất văn nhược nên việc đao cung có chiều thua xa, thậm chí cung bắn đến ba tên mà chả có tên nào trúng đích khi đua ngựa trên Liễu đê (bờ đê có trồng liễu hai bên), thái tử lại cũng thua nữa.

Khang Hi hoàng đế thấy vậy bực tức quá, bèn cho gọi võ sư của thái tử tới quở trách ngay trước mặt. Vị võ sư vô cùng xấu hổ, đến cả thái tử cũng xấu hổ không kém. Khi về tới Đông cung, thái tử tập họp các vị sư phó lại để bàn luận.

Giữa lúc đó, có một tên nội giám vào báo cho thái tử biết bọn hoàng tử Dân Trinh, Dân Nga có lập một võ trường ở ngoại thành để ngày đêm luyện tập. Thái tử giật mình kinh sợ. Một vì sư phó đề nghị:

- Nếu vậy, chi bằng ta cho mời mấy nhà sư Lạt ma ở Tây Sơn về dạy bí pháp bùa chú, và cả những tay dũng sĩ về truyền thụ mười tám ban võ nghệ cho thái tử. Như thế tất không còn phải lo ngại gì nữa.

Thái tử nghe xong lấy làm hợp lý lắm, lập tức cho xây cất mật thất và võ trường ngay trong Đông cung rồi ngày ngày theo nhà sư Lạt ma và các võ sư tới luyện tập.

Thái tử còn sai người đi khắp nơi bỏ tiền ra để mời những tay võ sĩ hiệp khách về cùng sớm hôm giúp việc luyện võ. Cũng vì vậy nên thành Bắc Kinh hồi đó tụ tập không biết bao nhiêu là tay hảo hán. Họ thường ra phố nhậu nhẹt chán rồi gây sự. Viên quan địa phương biết mà vẫn phái làm ngơ.

Giữa lúc tình trạng đua tranh đến lúc khẩn trương thì bỗng Vệ phi chết. Khang Hi hoàng đế cố nhiên là thương xót vô cùng. Ngay cả viên quan thị vệ họ Vệ cũng bi thương không kém. Họ Vệ bèn lui ra khỏi cung bày mưu lập kế cho Dân Trinh hãm hại thái tử.

Từ khi Vệ phi mất, Khang Hi hoàng đế đâm ra chán cả mọi sự, sống trong cung điện chẳng thấy thú vị gì nữa.

Tuy trong tam cung lục viện có biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ bầu bạn bên cạnh nhưng đối với ngài thực chẳng có ai bằng được Vệ phi. Suốt ngày ngài thở vắn than dài ăn không ngon ngủ không yên. Có khi ngài nhớ tới Vệ phi lại cũng có khi ngài nhớ phụ hoàng của ngài.

Lúc đó, quan tài của Vệ phi được đưa ra quan ngoại mai táng. Khang Hi hoàng đế vẫn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ bèn lấy danh nghĩa thăm viếng Phục lang để đưa linh cữu Vệ phi tới chôn cât ở Sơn Hải quan. Chính ngài đốc suất xây lăng đắp mộ.

Công việc tang ma đã xong, nhưng Khang Hi hoàng đế không muốn trở về cung. Ngài bèn hạ chỉ Nam tuần, lấy cớ là đi quan sát tình cảnh khổ cực của dân. Ngài lại hạ chỉ sai thái tử Dân Nhung lo việc quốc giám.

Sau đó, ngài cùng với văn võ đại thần, vương công bối lặc chọn đúng ngày mồng một tháng chín niên hiệu Khang Hi thứ hai mươi ba khởi trình ra khỏi kinh đô. Quan đại học sĩ Trương Anh cùng với nội đại thần Giác La Vũ Truất Nạp, thống lĩnh khắp triều văn võ tiễn đưa xa giá Nam tuần.

Lần đi tuần du này hoàng đế hạ chỉ cho các châu huyện trên đường ngài đi qua vẫn phải làm việc như thường, không được đón rước cung đốn, nếu trái chỉ sẽ bị cách chức và hỏi tội. Ngài ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ của dân chúng lặng lẽ chèo tới chân núi Ngũ Đài sơn, ngồi kiệu lên núi rồi ngừng lại nơi chùa Thanh Lương.

Nhà sư trụ trì chùa này thấy nhà vua đến bất ngờ, sợ muốn chết, vội vội vàng vàng chạy ra tiếp giá và mời vào phương trượng. Bọn nội giám đã chuẩn bị sẵn đèn nhang, mời ngài lễ Phật. Lễ xong Khang Hi hoàng đế bèn hỏi:

- Trẫm nghe nói đã từ lâu có một vị cao tăng tu tại chùa. Vậy nay ở đâu?

Nhà sư trụ trì hồi đáp:

- Tâu bệ hạ! Vị cao tăng hiện thiền toạ trong thảo xá trên ngọn núi cao. Có nhiều đàn việt muốn qua thăm nhưng người đều từ chối.

Khang Hi hoàng đế nói:

- Trẫm nhất định phải lên yết kiến ngài bằng được.

Nói đoạn, ngài bảo bọn thị vệ và nội giám ở lại chùa, chỉ ngài với một chú tiểu sa di dẫn lộ leo ngược lên chóp núi, theo đường mòn quanh bên tả, rẽ lên hữu: vất vả lắm mới tới nơi.

Hoàng đế mồ hôi toát ra nhễ nhại, đành phải ngồi lại dưới gốc cây cổ thụ nghỉ mệt. Ngài phóng tầm mắt ra xa, thấy một toà thảo xa, bèn đứng dậy bước tới. Một chú tiểu đồng từ trong ngôi nhà đi ra hỏi, nhưng ngài không đáp, chỉ quay lại hỏi chú tiểu sa di xem vị cao tăng ở trong căn nào trong thảo xá.

Chủ tiểu chỉ vào căn bìa bên phải, ngài bèn chạy tới chỉ thấy một vị hoà thượng râu tóc bạc trắng nhắm mắt ngồi xếp bằng tròn trên một chiếc bồ đoàn.

Khang Hi hoàng đế chăm chăm nhìn vị hoà thượng một lúc lâu, rồi bỗng không nhịn được nữa, bèn chạy vụt vào miệng thốt lên một tiếng "phụ hoàng", đổi gối quỳ gập xuống mặt đất.

Vị hoàng thượng nghe gọi mở mắt ra nhìn, nhưng rồi lại từ từ nhắm mắt, không nói lời nào - Người ta chỉ biết Khang Hi hoàng đế sau đó thì thào những gì không rõ, một lúc lâu mới cáo biệt xuống núi. Đi đến giữa đường, ngài dặn dò chú tiểu chớ có phao tin ra ngoài, đồng thời trông nom vị cao tăng nọ cho chu đáo thì tương lai thế nào cũng có chỗ đẹp. Chú tiểu sa di vốn tính thông minh, bèn nói: "Tuân chỉ".

Khang Hi hoàng đế rời khỏi núi Ngũ Đài sơn bèn hướng về ngả Tế Nam tiến phát. Vì ngài có chỉ cấm hẳn địa phương đón rước cung đốn, cho nên khi ngài tới hành cung Tế Nam quan Tuần phu Sơn Đông Tiền Ngọc suất lĩnh các tỉnh văn võ quan viên lớn nhỏ tới thỉnh an chiếu lệ rồi đều trở về phủ nha làm việc như thường.

Khang Hi hoàng đế chờ cho bọn quan lại đi hết rồi, bèn cải trang thường phục rồi cùng một tên thị vệ thân tín lẻn ra cửa sau, tới một quán nhỏ uống trà để hỏi dò dân tình phong tục hành vi của quan lại mãi tới lúc trời xế chiều, ngài lại mới lẻn về hành cung.

Cơm tối xong, ngài cùng với quan tướng quốc Trương Ngọc Thư chong đèn đánh cờ. Hai người vốn là hai tay cao cờ nên gặp lúc kỳ phùng địch thủ thật không còn gì thú vị hơn nữa.

Cuộc cờ kéo dài mãi tới nửa đêm mà hai tay cờ vẫn còn hăng tiếp. Nhà vua giơ cao một con cờ, và giữa lúc đang say sưa xuất thần, bỗng ngài nghe tiếng ngựa hí người la ngoài tường. Bọn thị vệ và nội giám ai nấy mặt đều biến sắc. Hoàng đế một mặt hạ tay đặt mạnh con cờ xuống bàn, một mặt sai nội giám ra ngoài tra hỏi. Một lát, tên nội giám trở vào tâu:

- Tâu bệ hạ! Con ngựa Xích Ký của bệ hạ buộc ở hậu viên đã bị trộm lấy rồi!

Khang Hi hoàng đế nghe xong cả giận, ngẩng mặt bảo Trương Ngọc Thư:

- Con Xích Ký vốn do bộ lạc Khách Nhĩ Khác triều cống đấy! Đã bảy, tám năm nay, trẫm chưa hề xa nó một ngày. Không ngờ tới nơi này thì bị mất trộm. Tên trộm nào đó kể cũng táo gan thật, chẳng biết lão Tiền ở địa phương này đã làm được những việc gì nhỉ?

Mấy lời nói này, khi truyền tới tai Tiều tuần phủ đã khiến cho họ Tiền bạt vía kinh hồn, tưởng như trời đất sắp sụp đổ đến nơi. Sáng hôm sau, Tiền tuần phủ vội vã tới hoàng cung, tự bỏ hết mũ mãng, quỳ mọp ở ngoài cổng để đợi chỉ, một mặt nhờ nội giám vào trong cầu khẩn Trương tướng quốc thế mình xin tội trước Hoàng đế. Nhưng không ngờ sáng mai thức dậy, hoàng đế đã quên bẵng chuyện mất ngựa tối qua rồi. Báo hại quan tuần phủ Tiền Ngọc phải bỏ ra đến một ngàn lạng bạc mua một con ngựa màu vàng lúa, bộ mã khá tốt, bước đi hay lắm, để đem dâng hoàng đế. Chưa hết, ông còn phải bỏ thêm năm vạn lạng bạc hối lộ bọn nội giám thị vệ để nhờ bọn họ nói tốt cho mình trước mặt hoàng đế.

Qua ngày thứ ba, Khang Hi hoàng đế lại lên đường, hướng về tỉnh Giang Tô tiến phát. Tiền Ngọc tiễn hoàng đế ra khỏi thành xa đến mấy dặm mới trở về. Ông vừa bước vào nha môn thì đã thấy một hàng chữ viết trên tường từ lúc nào, chính giữa công đường: "Kẻ trộm ngựa của nhà vua đó là Đậu Nhị Đôn tỉnh Sơn đông!"

Tuần tiễu phủ xem hết câu, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ông tức tốc hạ lệnh đóng ngay cổng thành để ruồng bắt. Ruồng bắt đã mười ngày mà tuyệt nhiên chẳng thấy Đậu Nhĩ Đôn hình bóng nơi nào.

Đậu Nhĩ Đôn vốn một tay đại hán nổi danh tỉnh Sơn Đông.

Suốt một giải Sơn Đông, Trực Lệ, Hà Nam, Đôn hoành hành chằng coi quan quân, pháp luật ra gì. Cái khoái nhất của Đôn là gian dâm với phụ nữ. Con gái người ta đang ngủ trong phòng tới nửa đêm, Đôn dỡ ngói nhảy xuống bắt cóc. Vừa đặt chân vào phòng, hắn đã bảo ngay cô gái: "Đậu gia gia lại rồi đó, hãy ưng thuận đi nghe không?" Nếu cô gái bằng lòng ưng chịu, tức thì hắn lấy chăn quấn lại cặp nách mang đi. Hắn phi thân nhảy ra, rồi chạy một mạch về nhà tha hồ mà gian dâm. Sau khi thoả mãn, hắn lại cho vào chiếc chăn quấn chặt mang về nhà cô gái, bỏ vào phòng như cũ. Người con gái cài lại then cửa, rồi lên giường nằm ngủ như lúc đâu hôm, coi như không có chuyện gì xảy ra. Thật là người chẳng biết, quỷ không hay. Nhưng nếu cô gái giữ lòng trinh bạch không chịu. Đôn giết chết ngay, hoặc cũng có khi cướp mang về nhà rồi không bao giờ thả ra nữa. Bởi vậy, những cô gái dù có xảo quyệt tinh quái đến đâu cũng đành phải nhẵn nhục, mặc tình hắn làm gì thì làm. Tuy thế, đôi khi Đôn cũng cho những gia đình nghèo túng khá nhiều tiền bạc. Bạn hữu của Đôn rất đông ở vùng Tế Nam, thảng hoặc có kẻ giang hồ mãi võ ngang qua tỉnh thành, ắt thế nào cũng phải tới thăm viếng hắn trước. biếu xén chút ít thì lúc đó có làm ăn gì mới mong trót lọt, trái lại nếu không biết mà qua mặt thể nào hắn cũng mang huynh đệ của hắn tới đánh phá cho một phen đến tới bời hoa lá không còn cách gì làm ăn được nữa.

Bỗng một năm nọ, có một ông lão đầu lâu tóc bạc đem hai cô con gái tuyệt đẹp đến thành Tế ngay tại miếu Thái Ngạc. Hai cô gái này đều nhỏ nhắn xinh xinh, mặc một chiếc áo xanh, một chiếc quần hồng, đi đi lại lại, múa võ làm vui khiến khán già đứng xem ai cũng mê hồn lạc phách. Thế mà đến lúc xin tiền đều quái lạ nhất là khán giả ai cũng lắc đấu nghẹo cổ rồi rút lui sạch, chẳng một ai cho một đồng kẽm nào. Ông lão chưng hửng ngạc nhiên, cúi đầu buồn bực vô hạn. Giữa lúc đó bỗng có một tên đại hán lướt tới trước mặt ông lão giơ cao bàn tay to tướng y như chiếc nạng đập mạnh xuống hai ông lão rồi quát lớn.

- Thằng giặc già này! Mi có nhận ra Đậu Nhĩ Đôn đất Sơn Đông này không?

Ông lão nghe quát, liền quay đầu lại ngước mắt nhìn tên đại hán từ đầu tới chân lại từ chân tới đâu hai ba lần thấy hắn đứng ưỡn ngực liếc méo hẳn đôi mắt, một tay chống mạng vào sườn, một tay mân mê hai viên đạn sắt. Ngắm nhìn một lát để đo dò xong, ông lão trả lời với giọng khinh khi lạnh nhạt:

- Ai thèm biết đến mi là Đậu Nhĩ Đông, Đậu Tam Đôn mà làm gì? Huống hồ ta làm ăn theo nghề nghiệp của ta, biết đến mi cũng vô ích!

Câu trả lời của ông lao làm cho Đậu Nhĩ Đôn mở to mắt. trợn trừng con ngươi, những đường gân xanh ở trên mặt nổi hẳn lên như những chiếc dây thừng. Hắn chẳng để cho ông lão nói thêm, giơ thẳng cánh thoi cho một đấm vào giữa ngực ông lão như trời giáng.

Hồi 52

CẮT CHỨC VIÊN TRI HUYỆN

Ông lão đầu râu tóc bạc thấy Đậu Nhĩ Đôn giơ thắng cánh giáng quyền vào ngực mình, song ông không thèm đỡ mà cũng chẳng thèm tránh. Đậu Nhĩ Đôn càng hăng tiết, đấm luôn một hơi ba đấm. Điều kỳ quái đối với hắn là ông lão vẫn ngồi yên như chẳng có chút gì tỏ ra đau đớn hoặc sợ hãi. Bọn huynh đệ của Đôn đứng đằng sau thấy chuyện lạ, mặt ngây ra tỏ ý hoảng sợ hết sức, Đôn mắc cỡ quá vội đem bọn huynh đệ rút lui, mặt tên nào tên nấy teo lại như cái bị rách. Ông lão sau đó cũng thu lượm đồ đạc rồi quay về khách điếm an nghỉ.

Nửa đêm hôm đó, giữa lúc ông lão đang ngủ say, có một bóng người nhảy vù từ bên ngoài qua cửa sổ vào phòng. Khi vừa đặt chân vững phía trong, cái bóng đen tay cầm chắc con dao nhọn hoắt, nhè đầu ông lão chém mạnh xuống một nhát, tiếng dội lên nghe chát chúa. Có ai ngờ được cái bóng đen chém như vậy mà ông lão kia vẫn thản nhiên nằm ngủ như không có chuyện gì xảy ra, tiếng ngáy nghe như sấm. Tên thích khách bị một phen hoảng hồn, đứng thộn người ra.

Mãi một lúc sau ông lão mói dần dần tỉnh lại, mở mắt thấy Đậu Nhĩ Đôn còn đứng ngây người ở trước giường bèn nói với một giọng bình thản:

- Thằng bé nào ở đâu tới phá giấc ngủ của ông nội nó đó?

Đậu Nhĩ Đôn đến lúc này đã quá sợ, hai chân mềm ra như bún, vội quỳ phịch xuống đất miệng khấn cầu ông lão nhận hắn làm đồ đệ. Ông lão lúc đầu ngơ đi, chẳng thèm trả lời. Đôn tái tam khẩn cầu, đập đầu lia lịa dưới đất, lúc đó ông lão mới khứng chịu. Thế rồi hôm sau ông lão mang hắn đi, và từ đó, người ta còn trông thấy Đậu Nhĩ Đôn ở đất Tế Nam nữa.

Năm năm sau, lại thấy Đậu Nhĩ Đôn trở về với một cô vợ tuyệt đẹp. Người Tế Nam ai cũng nhận ra đó là cháu gái của ông lão đầu râu tóc bạc ngày nọ.

Ông lão này họ Thạch, vốn là bộ tướng của vị tướng quân nhà Minh Trương Thương Thuỷ. Người con gái đó là cháu ngoại của ông. Sau khi Trương tướng quân thua chạy, ông bèn đem hai người con gái, giả danh mãi võ để triệu tập anh hùng hào kiệt bốn phương mong khôi phục lại Minh triều. Thế rồi khi gặp Đậu Nhĩ Đôn xin nhập môn làm đồ đệ, ông bèn mang cà một kho võ nghệ truyền thụ cho Đôn. Ông còn đem cả cô cháu gái gả cho Đôn nữa, và khuyên Đôn từ nay về sau nên ăn ở sao cho trở thành người tốt. Ông cũng không quên giao cho Đôn nhiệm vụ chiêu tập bọn huynh đệ ở quê nhà để chờ cơ hội mà phục thù cho Minh triều.

Khang Hi hoàng đế Nam tuần chuyến này có qua địa phận Tế Nam. Đôn cho rằng cơ hội đã tới bèn đưa vợ con vào ẩn tạm trong rừng sâu rồi ngay đêm hôm đó, dùng khinh công dạ hành nhảy vào hành cung định hành thích vua Thanh.

Trong khi rình mò, Đôn thấy phía sau viện có con ngựa Xích Ký tốt quá. Đôn vốn tính thích ngựa coi ngựa tốt như mạng mình nên khi thấy đã bèn tính đánh trộm trước đã rồi sau sẽ hay. Con ngựa thấy có người tới trộm giật mình hí vang trời và cấp đá tứ tung. Bọn thị về vội vã chạy ra xem thì chỉ kịp thấy Đôn đã nhảy lên lưng phóng nước đại như bay, thoắt một cái đã xa đến mấy dặm rồi. Đôn đem ngựa vào giấu mãi tận trong rừng sâu xong mới ra ngoài thành lần nữa, nhưng Khang Hi hoàng đế đã đăng trình về phía Tô Châu rồi.

Thuyền của nhà vua qua Đan Dương, Thường Châu, Vô Tích, đều không đậu bến nào. Đúng ngày hai mươi sáu tháng mười thì Khang Hi hoàng đế tới Hữ Dã quan tỉnh Tô Châu. Quan tuần phủ Giang Tô là Thang Bân đem tất cả nha lại ra tiếp giá. Khang Hi hoàng đế cưỡi ngựa đi qua cửa thành, dân chúng trăm họ quỳ hai bên đường phố nghênh đón. Nha vua truyền lệnh bảo dân chúng đứng lên. Khi thấy ông già bà cả, trẻ nít con côi, nhà vua nhảy xuống ngựa, lại gần hỏi han. Ngài đi bộ tới cầu tiếp giá, trước chùa Thuỵ Quang, ngồi nghỉ chốc lát, rồi có quan tuần phú dẫn lộ vào xem một xưởng dệt.

Hồi đó có một vị tên gọi Tổng Mục Trọng đã từng làm phủ đài tỉnh Giang Tô, nay đã cáo lão về vườn hiện ẩn cư tai thành Tô Châu. Nhà vua bỗng nhớ tới ông, vội cho người đi kiếm ông tới hành cung để trò chuyện giai khuây. Qua ngày hôm sau, nhà vua sai bọn nội giám đưa biếu họ Tống bốn con dê sống, tám con gà trống thiến, tám cái đuôi hương lộc, hai mươi bốn bao thịt nai khô và bốn bao cá khô. Ngài lại còn truyền chỉ bảo họ Tống cách nấu đậu hũ để cho ông lúc về già lấy kế sinh nhai.

Qua ngày thứ ba, quan tuần phủ tới hành cung thỉnh an nhưng từ phía trong truyền ra bảo thánh cung không được khoẻ , nhất thiết quan nha miễn vào bái kiến. Thực ra đó chỉ là lời thoái thác, chứ hoàng đế có đau yếu gì đâu. Ngài đã từ sáng sớm đi cùng tên thị vệ thân tín lẻn xuống một chiếc thuyền con vào trong các thôn xóm hoặc thị trấn du ngoạn rồi.

Có một hôm, thuyền của nhà vua cập bến cầu Thất Lý, trong vòng thành huyện Hoa Đình. Khang Hi hoàng đế bước lên bờ thấy một quán rượu cất ngay bên cạnh cầu, tên tiểu nhị đang đứng bên quầy hàng. Ngài bèn thả bộ vào quán.

Tiểu nhị chạy lại hỏi khách. Ngài bảo lấy ba xị rượu rồi ngồi một mình độc ẩm. Một lúc sau, thấy khách trong quán đã lui hết, ngài bèn gọi tiểu nhị lại ngồi cạnh hầu chuyện. Ngài hỏi tên tiểu nhị:

- Người làm ăn vất vả cả ngày như vậy, tiền công được bao nhiêu?

Tên tiểu nhị đáp:

- Công xá của bọn tôi ít ỏi lắm. Bọn tôi chỉ nhờ vào chút tiền thưởng khi bán rượu mới đủ sống. Thực ra số tiền thưởng này góp nhóp lại kể cũng khá. Nhưng từ khi Kim đại lão gia đáo nhiệm tới nay thì ngài quyên thu hết, khiến bọn tôi chẳng còn được một cắc tiền thưởng nào nữa. Hiện nay bọn tôi chỉ còn nhờ vào số tiền công mạt rệp này nên không biết lấy gì độ nhật đây.

Nói xong, tiểu nhị thở dài, tỏ vẻ chán nản. Hoàng đế cúi đầu để suy nghĩ điều gì đó. Lát sau bỗng ngài hỏi tiểu nhị.

- Trong thành này, có vị quan nào lớn hơn viên quan huyện không?

Tiểu nhị đáp:

- Mấy hôm nay nghe nói có đức vạn tuế ngài tới, nên tỉnh phái một vị đề đốc đại nhân đem quân đến đây để bảo vệ.

Khang Hi hoàng đế biết vậy, liền bảo tiểu nhị lấy bút đem lại Ngài viết mấy chử xong đóng cái dấu nhỏ rồi bỏ vào bao thơ dán kín. Ngài gọi tiểu nhị bảo:

- Người đem bao thơ này tới nha môn của quan đề đốc. Ta với quan đề đốc vốn chỗ bạn thân. Một khi bao thơ này đến tay ngài, ta tin chắc bọn ngươi khỏi phải đóng tiền quyên nữa.

Tiểu nhị nghe bảo, nhưng đời nào dám làm theo. Về sau viên chưởng quỹ thay hắn liều mạng ra đi. Đặt chấn tới cổng nha môn của quan đề đốc, viên chưởng quỹ thấy bọn sai nha tàn ác dữ tợn mà phát hoảng. Y còn hoảng sợ hơn khi chúng hỏi y tới có việc gì. Viên chưởng quỹ lật đật thò tay vào trong bọc, rút bao thơ ra, tay run run đưa cho chúng. Bọn nha lại thấy chỉ là một bao thơ thường nên nhận xong rồi ném đại vào trong phòng. Viên chưởng quỹ thấy bọn chúng xem thường vội bảo người khách đưa thơ cần hồi âm ngay. Bọn sai nha vẫn bất chấp, chẳng thèm để ý. Tên Chưởng quỹ vật nài, ba bốn lần nữa thì vừa may một vị nhị gia từ bên trong bước ra. Bọn sai nha bèn đưa bao thơ cho vị này để đưa vào cho quan đề đốc.

Bao thơ đưa vào trong, chỉ một lát sau bỗng mọi người nghe ba tiếng pháo nổ vang trời. Tức thì cửa chánh môn mở toang.

Đề đốc đại nhân đích thân le te chạy ra tiếp đón viên chưởng quỹ vào trong một cách vô cùng trịnh trọng. Bọn sai dịch lúc nãy đứng hai bên mặt mày ngơ ngác, miệng há hốc chẳng hiểu sự thể ra sao. Quan đề đốc vội vàng đốt đèn nhang sáng rực cả công đường. Ông đặt bao thơ lên trên hương án, rồi đứng ngay ngắn phía trước làm lễ Tam quy cứu khấu. Lễ xong, ông quay lại chắp tay trịnh trọng lạy viên chưởng quỹ ba lạy. Viên chưởng quỹ chẳng hiểu ra sao, vội quỳ xuống đáp lễ mãi không thôi. Quan đề đốc, sau đó cho người đi gọi ngay viên tri huyện Hoa Đình. Viên tri huyện chẳng biết chuyện gì vội vàng đội nón mặc áo, leo lên kiệu, tức tốc ra đi. Quan đề đốc vừa thấy mặt Kim tri huyện bỗng sa sầm nét mặt, hét một tiếng "Quỳ xuống nghe chỉ". Kim tri huyện hoảng hồn bạt vía, vội nằm bò xuống đất không dám động cựa.

Quan đề đốc bước tới vài bước, cầm bao thơ mở ra tuyên đọc:

"Tri huyện Hoa Đình Kim Vũ, hối lộ tham nhũng khiến dân hết đường sinh sống, nên Trẫm giao cho quan đề đốc bối xích lại ngay và đợi chỉ. Khâm thử".

Kim tri huyện chưa nghe hết, mặt hắn đã xám ngoét như cục đất thó. Bọn sai nha được lệnh, trước hết lột mũ, rồi sau mới còng tay và đẩy tắp vào nhà lao.

Hạ ngục viên tri huyện xong quan đề đốc bắt đem kiệu tới, leo lên ngồi trên, cho cả viên chưởng quỹ cùng ngồi, chạy như bay tới cầu Thất Lý. Nhưng khi quan đề đốc bước vào tửu điếm thì hoàng đế đã ra đi từ lâu. Quan đề đốc vội truyền lệnh cho các pháo thuyền khắp nơi đều phải đuổi gấp để bảo vệ nhà vua. Ngự thuyền chỉ là một chiếc thuyền nhỏ, mà pháo thuyền lại thuộc loại lớn kềnh càng đồ sộ cho nên quan đề đốc tìm kiếm mất mấy ngày phí công mà vẫn chẳng thấy, trái lại, chỉ làm cho địa phương này náo động lên một phen mà thôi.

Khi Khang Hi hoàng đế đến Tô Châu, bọn quan lại ở đây mới biết rằng ngài vừa mới du hành ra ngoài, ông nào ông nấy lũn cũn chạy tới hành cung thỉnh an. Ở lại ít hôm, hoàng đế lúc đó mới trở gót về kinh, khi đi qua Giang Minh, ngài bỗng sực nhớ tới quan chức Tào Dần, bèn truyền dụ cho Dần tới tiếp giá. Dần đưa ngài về Nha môn Chức tạo. Dần vốn là một quan viên sai khiến của nhà vua, điều lý các việc. Hoàng đế đãi ngộ Dần như một vị thân thần. Mẹ của Dần là Tôn thị, lúc trẻ cũng có vào cung.

Sau khi tiếp giá, Tào Dần và hoàng đế trò chuyện vui đùa y như người trong nhà. Hoàng đế lại còn triệu bà Tôn thị ra mắt ngài, rồi cả đến bọn cháu chắt thảy đều được ban thưởng rất nhiều tài vật. Ngài lại viết ba chữ "Huyện thuỵ đường" để thưởng cho Dần.

Dần có cái vườn hoa rất lớn. Hoàng đế ở lại đây vài hôm nữa rồi xa giá mới thẳng về Bắc Kinh.

Trong khi vua cha Khang Hi Nam tuần thì thái tử Dân Nhung ở nhà Giám quốc được yên ổn, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vốn là một "con mọt sách", suốt ngày chúi mũi vào đống sách, cho nên việc triều chính thẩy đều phó mặc bọn đại thần, thân vương bối lặc lo liệu, duy chỉ có hoàng tử Dân Trinh, vì thấy vua cha tuần du khỏi kinh thành, càng ngày càng tỏ ra phóng túng bạt mạng, chẳng đếm xia gì tới luật pháp. Bỗng một hôm, thái tử Dân Nhung ra Nam Uyển đi săn, ngẫu nhiên thấy một đội thị vệ cưỡi ngựa từ phía Nam chạy tới, hộ tống một chiếc xe, phía trước có rất nhiều nghi trượng lại có cả bọn sư Lạt ma cầm pháp khí đi trước dẫn đường. Thái tử tưởng lầm là Khang Hi hoàng đế đã trở về, vội chạy lại đón giá. Chẳng ngờ người ngồi trên xe chỉ là tứ hoàng tử Dân Trinh. Nhung lấy làm bực lắm, song lại nghĩ tới tình nghĩa anh em nên đành tránh ra bên cho đoàn xe ngựa của Trinh đi qua.

Đợi đến Khanh Hi hoàng đế về triều, thái tử Nhung diện kiến vua cha mới đem việc tứ hoàng tử mạo dung nghi trượng hoàng đế tâu lên. Hoàng đế nghe xong tức giận lắm, liền phái người tới thu hết đồ nghi tượng, lại còn gọi Dân Trinh vào cung, chửi mắng cho một trận nên thân.

Bị một mẻ chua cay tứ hoàng tử Dân Trinh hậm hực oán hận lắm, về nhà thu xếp hành lý, đem thêm mấy tay võ sư, ra khỏi kinh thành, chạy thẳng về hướng Tây Nam.

Trong lúc đi đường Trinh bảo với bộ hạ là cả bọn quyết đi đất chạy bộ chứ nhất định không dùng xe dùng ngựa, như thế một là để tập luyện gân cốt, hai là để tìm kiếm anh hùng hảo hán ở dọc đường. Trinh cùng bộ hạ đi đến chân núi Trung Sơn vào trọ trong lữ điếm thì lúc đó trời cũng vừa tối. Bọn võ sư cùng bọn thị vệ thấy trăng trong gió mát nên ngồi cả trước thềm để vừa ngắm trăng vừa nói chuyện vãn với nhau, Trinh một mình ở trong phòng buôn quá, bèn lẻn ra ngoài tản bộ.

Về phía đông lữ điếm có một khu rừng tùng, trăng chiếu ánh lung linh. Dưới mặt đất, bóng trăng không chiếu tới được nên hình ảnh mập mờ. Trinh khoanh tay, từ từ bước tới cạnh khu rừng. Bỗng tai Trinh nghe có tiếng gió lộng vù vù. Trinh gấp rút đi tới và vòng một vòng ra trước thì thấy trên một khoảng đất trống về mé đông khu rừng có một nhà sư tay cầm thiền trượng đang múa tít loang loáng dưới trăng.

Trinh xem nhà sư múa một lát cảm thấy chân tay ngứa ngáy nên liền tuốt yêu đao, xông vào vòng chiến. Nhà sư thấy có người đánh trả mình bèn múa cây thiền trượng vèo vèo lúc ẩn lúc hiện như một con rắn vây bọc lấy đối thủ. Trinh đem hết tài nghệ luyện tập lâu nay ra ứng phó, nhưng đánh đã một lúc lâu mà vẫn không tìm được cách nào để hạ thủ.

Rồi thủ pháp của Trinh mỗi lúc thêm bấn loạn, tay chân Trinh đã có phần tên mỏi rã rời, trong lúc đó cây thiền trượng của nhà sư càng lúc càng nhanh, càng lúc càng bám sát lấy Trinh. Trinh thấy thế giật mình biết nhà sư này chẳng phải tay vừa.

Trong lúc Trinh còn đang suy nghĩ để so đo đánh giá thì cây thiền trượng đã như một trái núi Thái Sơn từ trên cao vụt tới chỉ cần nghe tiếng gió cũng đã nghe ghê hồn rồi.

Trinh hoảng quá, vội nhảy lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng quỳ xuống đất miệng kêu: "Xin sư phụ tha mạng". Nhà sư thu cây thiền trượng, hồ hố cười lớn đoạn quay mình tới gốc cây tùng lượm gói đồ lên, co chân phóng đi. Trinh đời nào chịu bỏ, vội đuổi theo. Khi tới gần, Trinh vội ôm cánh tay nhà sư, khẩn khoản xin nhà sư cho làm đệ tử. Nhà sư nghe lời Trinh có vẻ thực thà, liền nhìn Trinh từ đầu tới cuối rồi gật đầu ưng chịu.

Trinh như mở cờ trong bụng, vội quay về khách điếm kể lại cho bọn tuỳ tùng nghe mọi việc vừa xảy ra rồi bảo chúng quay trở về kinh chờ đợi. Còn Trinh thì theo chân nhà sư ra đi. Hai thầy trò ngày đi đêm nghỉ, trèo núi vượt đèo, trải qua không biết bao nhiêu đường đất. Bình sinh Trinh đâu phải nếm cảnh gian lao khố cực như thế này nhưng vì muốn học tập bản lãnh, cho nên đành phải nhẫn nại chịu đựng. Hai người đi như vậy đã nhiều ngày bỗng một hôm tới một ngọn núi cao. Thầy trò cùng trèo lên. Khi tới được đỉnh núi thì Trinh đã mệt nhoài, mồ hôi ra như tắm. Nhà sư co chân bước những bước vừa cao vừa dài tới một chóp núi. Một toà miếu lớn hiện ra, mé trên cửa treo tấm biển viết ba chữ lớn: "THIẾU LÂM TỰ". Mãi lúc đó Trinh mới rõ sự thể, và từ đó về sau Trinh theo sư phụ, cùng bọn sư huynh sư đệ ngày ngày luyện tập.

Trinh sống với bọn đồng môn nơi đây mười phần hoà thuận. Có kẻ hỏi Trinh lai lịch quê quán thì Trinh chỉ bảo mình quê ở Bảo Định Phú còn câu chuyện hoàng tử, hoàng cung Trinh tuyệt đối giữ kín không cho ai hay. Trinh có tật xấu là ăn quá nhiều khiến bọn đồng môn ai cũng cười Trinh và đem sánh với vị sư phó trước đây.

Vị sư phó của họ tên gọi Chính Giác. Lúc mới tới chùa, Chính Giác chỉ là một nhà sư nấu bếp. Chính Giác ăn quá nhiều. Mỗi lần cùng ăn cơm với bọn đồng môn, Chính Giác ăn không được no, chỉ lưng lửng phần nào, miệng còn chép chép muốn ăn thêm. Bởi vậy, Chính Giác tính chuyện trộm đồ ăn thừa còn lại trong bếp đem giấu trong một khẩu chuông cổ bỏ đã lâu đời đằng sau viện, để lúc vắng người ra đó ăn thêm. Khẩu chuông cổ này bằng đầu người, nặng có tới ngàn cân, vứt ở trong xó viện đã từ lâu lắm, không ai có thể xê dịch nó nổi. Chính Giác trời sinh có một sức mạnh như thần. Ông nâng lên đặt xuống khẩu chuông như cầm bát cơm vậy. Về sau, nhà sư trông coi việc bếp nước thấy hôm nào cũng mất đồ ăn, bèn len lén điều tra. Nhà sư này theo dõi Chính Giác tới sau viện thì bắt được quả tang Chính Giác đang nhấc bổng khẩu chuông lên để đặt gói đồ ăn trộm ở nhà bếp vào trong. Thế là chuyện vỡ lớ. Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên. Vị hoà thượng trụ trì cho gọi Chính Giác tới, khuyên không nên lấy trộm cơm nữa, và hứa cho ăn thả cửa, thật no đủ thì thôi. Hoà thượng trụ trì lại hỏi Chính Giác có một thần lực như vậy, tại sao không đi đầu quân phò vua giúp nước thì Chính Giác đáp:

- Đệ tử nghe nói trên núi Nga Mi có một vị Thái sư phó tinh thông quyền thuật. Môn bách bác thần quyền của ngài được coi vô địch. Nhưng ngài chỉ chuyên truyền thụ cho đệ tử Phật môn mà thôi. Đệ tử không có vị hoà thượng trụ trì tên tuổi nào giới thiệu cho nên ngài chẳng chịu thu nhận. Nay sư phó cấp cho đệ tử một phong thư giới thiệu giúp đệ tử tới núi Nga Mi học thành tài trở về, đệ tử không bao giờ dám quên đại đức của sư phó.

Vị hoà thượng trụ trì thấy Chính Giác thành tâm cầu học, nên viết ngay bức thư giới thiệu. Chính Giác cầm thơ đi thẳng tới núi Nga Mi, mãi tám năm sau mới về thì vị trụ trì đã mất. Thế là toàn thể tăng ni trong chùa tôn Chính Giác lên làm trụ trì.

Nhà sư Chính Giác, quyền pháp quả thực cao cường, thiên hạ đều biết tiếng. Số môn đệ tới Chùa xin lãnh giáo, tăng có, tục có lên tới hơn một ngàn người, người nào người nấy đều được Chinh Giác hoà thượng tận tâm chỉ bảo. Hoàng tử Dân Trinh hồi đó cũng theo bọn môn đệ cố công luyện tập. Tạo luyện hơn một năm ròng rã, Trinh đã lãnh hội được môn bách bát thần quyền. Trinh bèn xin sư phó trở về nhà.

Sư phó Chính Giác gật đầu, và sau đó cho gọi 108 nhà sư môn đệ vây Trinh vào giữa để hai bên tỷ đấu quyền thuật.

Đứng trước 108 địch thủ Trinh không hề có chút sợ hãi. Trinh phải lần lượt đấu hết người này tới kẻ kia. Bọn địch thủ đấu càng về sau càng hung dữ khiến Trinh phải đem hết công lực và tài nghệ chống đỡ mới thoát hiểm. Cuối cùng Trinh đã đánh lui được đủ 108 người sát hạch mình.

Theo quy lệ của chùa Thiếu Lâm thì hễ ai nhập môn vào chùa đều phải có lệ nghinh tống (đón rước và tiễn đưa): khi vào chùa, được học nghề, phải bốc nổi cái chuông đã đặt ở ngay trước cổng rồi cố sức mang được vào bên trong thì lúc đó mới được thu lưu. Kẻ nào không làm nổi thì nhà chùa nhất định không nhận. Rồi đến khi học đã thành tài muốn ra khỏi chùa để hạ sơn, bắt buộc phải qua ba từng cổng. Cống thứ nhứt có tám vị hoà thượng tay cầm dao chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ nhất mới tới cổng thứ hai. Cổng này có tám vị hoà thượng tay cầm gậy chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ hai rồi lại còn cái cổng chót, là cống thứ ba. Cổng thứ ba có tám vị hoà thượng đứng chờ, không có binh khí, nhưng dùng quyền cước tấn công, tám vị hoà thượng này đều là những tay võ có bản lĩnh cao cường, quyền pháp tinh thông, thoát khỏi được không phải là chuyện dễ. Người muốn ra phải theo ngưỡng cửa mà ra. Bởi vậy, Dân Trinh đã muốn hạ san, ắt không thể nào không theo qui củ của nhà chùa. Trinh bèn tung mình qua từng cửa thứ nhất, may sao tránh được đao của bọn hoà thượng. Qua từng cửa thứ hai Trinh đang tìm cách thoát đi, thì vừa lúc ngoài sơn môn chạy tới một đám đông thị vệ và nội giám. Bọn người này chính là bọn thủ hạ của Trinh trở lại tìm chủ. Đến lúc đó, cả bọn tăng tiểu trong chùa mới biết Trinh là một vị hoàng tử. Nhà sư trụ trì bèn quát bảo mọi người lui ra rồi đích thân đưa Trinh ra khỏi chùa.

Theo ý của Dân Trinh thì nhất định phải đánh phá cho kỳ được ba từng cửa mới ra. Nhưng hoà thượng Chính Giác không cho, còn nói:

- Đường đường một vị hoàng tử, con không nên quá cố chấp và liều lĩnh.

Khi tạm biệt, hoà thượng Chính Giác tặng Trinh một cây thiền trượng bằng sắt, bảo để dùng làm kỷ vật về sau. Lại nói:

- Bản lãnh của hoàng tử đã có thể tung hoành thiên hạ. Nhưng nếu gặp nữ nhân, nên đặc biệt cẩn thận đề phòng.

Dân Trinh nhất nhất lĩnh hội, rồi cáo biệt xuống núi. Khi về tới vùng Sơn Tây ngụ tạm trong khách điếm, bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm bên ngoài. Trinh cho người chạy ra hỏi xem, mới biết một tên đại hán đang muốn đánh chết một người nào đó, trong khi khách qua đường xúm lại cố khuyên hắn bớt giận. Tên đại hán ấy chẳng những không nghe ai mà còn quát lớn:

- Ta vốn là võ sư của đương kim điện hạ. Nếu ta có gây ra án mạng thì đã có điện hạ của ta lo liệu chứ ta đâu có sợ gì.

Lời nói hách dịch đó quả đã khiến Dân Trinh cả giận. Trinh cầm cây thiết trượng chạy tới, thì một cảnh tượng vừa thương tâm vừa đáng giận hiện ra trước mắt. Trên mặt đất, Trinh thấy một người nằm cong queo giữa đường, đầu vỡ máu chảy lênh làng, chết tự bao giờ. Đứng phía trước là một tên đại hán, một tay chống nạnh, tay kia chỉ vào thây người chết, mặt hầm hầm giận dữ, miệng bô bô chửi rủa. Chung quanh, một số đông khách qua đường xúm lại tạo thành một cảnh vô cùng huyên náo.

Hoàng tử Dân Trinh đẩy đám đông lách vào trong rồi tiến lên hỏi tên đại hán. Không ngờ, hắn càng làm tàng, gân cổ nói phách:

- Lão gia đây muốn đập chết đứa nào thì cứ đập. Lão gia đang chờ đứa nào tới vuốt râu cọp. Mi liệu có ba đầu sáu tay không mà dám nhảy vào hỏi lão gia?

Dân Trinh chưa nghe tên đại hán nói hết câu, máu hoả đã bốc cao ngút, liền cất cao cây thiền trượng múa một vòng rồi đập mạnh vào sọ hắn. Một tiếng "bốp" vang lên, tức thì tên đại hán ngã quay đơ ra đất, đầu vỡ, máu vọt ra có vòi, nằm ngất lịm như kẻ chết rồi.

Cảnh tượng xảy ra quá đột ngột khiến bọn chưởng quỹ, tiểu bảo trong khách điếm sợ hãi cuống cuồng, ùa nhau chạy tới nắm lấy áo Dân Trinh không chịu buông. Trinh bèn cho một tên thị vệ theo bọn tiểu bảo tới huyện nha thụ lý bản án, còn mình thì rời khỏi địa phận Sơn Tây trở về Bắc Kinh.

Khi về tới nhà, Dân Trinh thấy có một số đông kiếm khách và Lạt ma tăng tới thăm hỏi. Nhân lúc vui tiệc, Trinh cho mọi người nghe chuyện mình đánh chết tên võ sư như thế nào. Bỗng một vị Lạt tăng trong cử toạ lên tiếng nói:

- Không xong rồi! Võ sư đó vốn là một tên tâm phúc của thái tử. Gia đình hắn có chuyện nên xin thái tử về quê ở Sơn Tây. Nay hắn bị chủ tử đập chết, thái tử đời nào lại chịu bỏ qua mà không can thiệp chứ?

Dân Trinh nghe xong, chẳng thèm để ý, liền quát bảo lấy thêm rượu. Hôm đó uống quá nhiều, Trinh say bí tỉ. Bọn thị vệ phải xúm lại khiêng vào phòng trong. Ngủ một giấc mãi tới nửa đêm Trinh mới tỉnh lại, miệng khát đòi nước.

Tên thị vệ vội dâng chén nước sâm. Trinh đang định giơ tay đỡ lấy thì bỗng thấy từ ngoài cửa sổ một đạo bạch quang bay vụt vào chạm ngay giữa song cửa đánh rầm một tiếng, rồi lại quay vút ra ngoài. Trinh vội tuốt lẹ cây bảo kiếm đeo bên hông tên thị vệ. Vừa định chạy ra, bỗng thấy một vị Lạt ma hối hả chạy vào, tay lắc lắc ra dấu, miệng thầm bảo Trinh:

- Bên ngoài đang kịch chiến ác liệt, hoàng tử hãy coi chừng.

Trinh vội lôi tên thích khách từ đâu tới thì vị Lạt ma tăng lắp bắp nói được hai tiếng: "Thái tử", rồi im bặt. Một đạo bạch quang lóe sáng như điện chớp lại từ bên ngoài cửa sồ bay vút vào, tạo thành một chuỗi âm thanh ghê rợn. Một tiếng "phập" chát chúa vang lên. Trinh vội nhìn vào chỗ phát ra âm thanh thì đó là một cây bảo kiếm bị ném đã cắm sâu vào thành giường cán còn lắc lư rung động, lưỡi kiếm phát ra những luồng sáng xanh lóe đến lạnh người. Vị Lạt ma tăng vội nắm áo Trinh kéo sang một bên, đồng thời thổi tắt hết đèn đóm trong phòng.

Bên ngoài, gần khắp cả khuôn viên, tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng chứng tỏ cuộc so gươm đấu chưởng kinh hồn đang diễn ra. Một lúc lâu sau người ta mới thấy tiếng binh khí xa đi và mất dần.

Lúc này trời đã sáng và Trinh cũng đã tỉnh rượu. Trinh bèn mở cửa viện ra xem thì thấy cây cối trong vườn bị kiếm chém rụng hết, cành lá trơ trọi chẳng khác gì những cái cán cờ dựng đứng lên trời. Trên mặt đất nằm la liệt những tử thi.

Trinh quan sát cẩn thận mới hay đó là xác đám tay chân thái tử, ngoài ra cũng có xác một số kiếm khách của Trinh nữa.

Hoàng tử Dân Trinh thấy tình hình như vậy, lấy làm căm phẫn lắm, lập tức triệu tập bọn kiếm khách và võ, sư lại để bàn tính trả thù. Vốn là những tay cao thủ võ lâm, cả bọn đều hăng hái quyết tử, đồng thanh nói:

- Xin cho phép bọn tôi đêm nay tới Đông cung, quyết lấy cho kỳ được đầu thái tử về nạp cho chủ tử.

Trình bèn sai dọn tiệc. Cả bọn cơm no rượu say rồi kẻ nào kẻ nấy giắt dao, xách kiếm lên đường. Thế rồi cả đêm hôm đó, đám bách tính có nhà ở gần hoàng thành chỉ nghe thấy tiếng đao kiếm rộn ràng, ào ạt như tiếng gió gào, tiếng mưa thét làm vang động cả một góc trời.

Qua ngày thứ hai, người ta chỉ thấy bọn nội giám trong Đông cung tất tưởi ra ngoài phố mua tới hơn chục cổ quan tài đem về. Bên Đông cung đã thế thì bên phủ của Dân Trinh cũng chẳng thua gì. Ở đây, người ta cũng thấy bọn thị vệ hối hả ra chợ mua khá nhiều áo quan khiêng về phủ.

Nguyên lai chuyện ác chiến hôm đó, thái tử đã sớm dò được tin tức, cho nên một mặt ẩn trốn vào nơi kín đáo, một mặt đặt bọn kiếm khách phục sẵn khắp trong Đông cung..

Cuộc ác đấu này đã lượm hết mỗi bên hơn mười mạng. Từ đó, mối thù giữa thái tử và Ung vương càng ngày càng thắt, khó lòng gỡ nổi.

Thái tử Dân Nhung biết chẳng chóng thì chầy hoàng tử Dân Trinh cũng sẽ trả thù. Bởi vậy, Nhung cho người mang theo vàng bạc ra khỏi kinh thành, tới các miền như Sơn Tây, Hà Nam, Sơn Đông, mời các vị cao thủ võ lâm về để bảo hộ cho mình. Ung vương được tin đó, bèn thảo luận với bọn thủ hạ kiếm khách, cũng đi mời các tay võ hiệp bản lãnh cao cường về để so tài cao thấp với phe Đông cung. Trong bọn có một vị Lạt ma tăng khuyên Dân Trinh nên đích thân xuất kinh phỏng tầm, một là để tránh tai mắt Đông cung, hai là để kết liên với bọn giang hồ hành hiệp. Ung vương nghe lời nói có lý, bèn đem theo vài tên thị vệ võ sư lại ngầm lén ra đi.

Trên đường đi, Ung vương Dân Trinh chú ý tới hành vi của những anh hùng hảo hán, và cũng gặp được một vài tay.

Trong bọn này, có một người tên gọi là Bạch Long đạo nhân, rất lợi hại về môn phóng phi đao, có thể lấy thủ cấp người đứng xa trăm bước như chơi. Trinh bèn xin Bạch Long đạo nhân truyền thụ ngón võ tuyệt luân này lại cho mình thì vị đạo nhân trả lời:

- Võ công này của bần đạo chỉ dành riêng cho mình, chứ không thể truyền cho người khác. Nếu chủ tử muốn học thì phải học sư phụ của bần đạo tên là Cam Phượng Trì, một đại hiệp vùng Giang Nam mới được.

Ung vương vốn mộ tiếng Cam Phượng Trì đã lâu, nên nay nghe Bạch Long đạo nhân nói vậy, bèn theo gót tới Giang Nam phỏng tầm. Khi tới đất Kim Lăng, Ung vương được tin hiệp sĩ họ Cam đang ở trong nhà một vi thân sĩ họ Kim. Vương bèn theo Bạch Long đạo nhân tới nhà họ Kim để bái kiến…

Cam Phượng Trì hiệu xưng là Giang Nam đệ nhất hiệp. Quyền pháp của họ Cam có đủ bí quyết của lương gia nội ngoại. Suốt cả hai miền Đại Giang nam bắc không ai có thể thắng nối họ Cam. Cam Phượng Trì hay can thiệp những chuyện bất bình. Bởi vậy, các bậc thân sĩ miền Giang Nam thường luân phiên mời ông ta về nhà, bầy rượu ngon, tiệc hậu cung đón Cam Phượng Trì nhậu say, đến lúc cao hứng, bèn trổ tài, cho chủ nhân khai tâm chút bản lãnh của mình. Có một hôm nhà họ Kim mời khá đông quý khách tới chè chén tại Hoa sanh. Chủ nhân mời Cam Phượng Trì ngồi ghế trên nhất.

Khi rượu được nửa cuộc, họ Cam bỗng lên tiếng một cách trịnh trọng:

- Ngoài cửa sổ, hoa mai đương độ nở tươi, đáng lý bọn ta phải vừa thưởng hoa vừa uống rượu mới phải! Thế mà nay cứ đóng cửa im ỉm như thế này, há chẳng phải là vô tình với cảnh tạo hoá hay sao?

Nói đoạn, Cam Phượng Trì vận khí thổi phù, khiến tám tấm cửa sổ phía nam bật ra, tiếng gió rung lên phần phật.

Mùi thơm của hoa mai ùa vào phòng. Đám tân khách kẻ nào cũng vỗ tay đôm đốp, miệng thì khen lấy khen để. Một vị khách trong bọn nói:

- Nghe đại hiệp rất cao thủ đoạn, có thể bắn trúng ngoài trăm bước, trăm phát chắc trăm. Rất mong đại hiệp cho cả toạ thưởng chút ít tài nghệ hôm nay.

Cam Phượng Trì đang cao hứng liền cho người cầm bút ra cây mai đánh dấu trước những đoá hoa và chỉ cần cho biết rõ đoá hoa thứ mấy cũng như cành thứ mấy là đủ. Đoạn họ Cam vo tròn một miếng giấy rồi búng vút ra của sổ, bắn vào cây mai. Mọi người chỉ thấy hoa mai, hết đoá này tới đoá kia, rơi xuống mặt đất lả tà. Xem kỹ lại thì ra đó toàn là nhưng đoá hoa mai đã được đánh dấu từ trước. Cử toạ đến lúc đó thảy đều giật mình. ai cũng phải cho là kỳ dị.

Tiệc tan, chủ nhân mời khách tới Tây trang du ngoạn. Tây trang vốn là trang trại của chủ nhân. Vài nếp nhà tranh, đôi nóc lều nát điểm xuyết cho cảnh đồng quê thêm phần thanh tịnh hữu tình, càng làm cho khách thích thú. Nhưng giữa lúc đang ngắm cảnh, bỗng một chú mục đồng vừa khóc vừa chạy lại nói với Kim chủ nhân:

- Ông ơi! Hai con trâu húc nhau từ trưa tới giờ vẫn chưa thôi ông ạ!

Cả bọn theo chú bé chăn trâu ra sau trại xem, quả nhiên thấy hai con trâu mộng đang dùng sừng kìm nhau, nhất định không bên nào chịu buông. Cam Phượng Trì bước tới dùng tay gạt đôi cặp sừng ra, rồi thuận thế nắm lấy, đẩy mạnh một cái khiến hai con trâu bị xô sang hai bên khu ruộng. Người ta chi thấy mấy cặp giò của đôi trâu cắm ngập vào lòng đất bùn, cố rút mãi mà vẫn không lên được. Khách đứng xem thẩy đều cảm phục. Cam Phượng Trì sau đó tiến tới đưa hai cánh tay sắt ra nâng hai con trâu lên nhẹ nhàng như ta nâng cái ghế gỗ, giúp chúng thoát khỏi ruộng sình.

Chính giữa lúc họ Cam đang biểu diễn vài ngón võ mọn thì người nhà chạy tới báo có Bạch Long đạo nhân từ trên Kinh xuống cầu kiến. Cam Phượng Trì nghe nói đồ đệ tới, trong lòng rất lấy làm vui mừng, bèn nhờ ngay căn nhà khách của họ Kim để tương kiến.

Hoàng tử Dân Trinh yết kiến Cam Phượng Trì, rồi thác rằng mình là họ Lý. Bạch Long đạo nhân cũng nói thêm vào rằng họ Lý, nghe danh của sư phụ đã lâu nên tới bái phòng.

Bạch Long đạo nhân xin sư phụ tiến kinh một thể với mình, đồng thời cũng không quên ca tụng Dân Trinh nào là khảng khái ham điều nghĩa, nào là bản lãnh cao cường…

Cam Phượng Trì nghe xong, chẳng nói năng gì, dẫn cả hai vào tương kiến với Kim chủ nhân. Tối hôm đó Kim bày tiệc đãi Dân Trinh. Rượu đến nửa cuộc, Cam Phượng Trì có ý muốn thỉnh giáo bản lãnh. Trinh không từ chối, bèn dùng phép vận khí của phái Thiếu Lâm tựa sát lưng vào chân tường rồi đẩy nội lực tung người lên cao, vượt hẳn ngọn tường, sau đó lại từ từ rơi xuống như chiếc lá thu rơi. Cam Phượng Trì miệng nở nụ cười tinh quái, thong thả đứng lên, rồi cũng bước lại đứng phía chân tường, bảo Dân Trinh vận hết sức bình sinh mà đấm. Trinh cũng muốn thử xem bản lĩnh của họ Cam, cho nên vận nội lực vào cánh tay tống một quyền như trời giáng vào bụng. Chỉ thấy Cam Phượng Trì thót bụng một cái, khiến cả cái bụng bự lúc trước chỉ còn mỏng như tờ giấy.

Nắm đấm của Trinh khi tới bụng họ Cam thì chẳng khác gì đấm vào chính bức tường. Trinh vội rút ra nhưng lạ thay, nắm đấm của mình đã bị cái lỗ rốn của họ Cam hút chặt vào, không cách gì kéo ra được. Lát sau, Cam Phượng Trì cười lên kha khá rồi "buông" bụng ra, lúc đó Trinh mới thu được quyền về.

Sau khi tiệc tan bọn Bạch Long đạo nhân cùng vào ngủ chung một phòng với Cam Phượng Trì. Thấy không có ai, Bạch Long đạo nhân bèn thì thầm kể cho Cam Phượng Trì biết Dân Trinh chính là đương kim tứ hoàng tử, đối đầu với thái tử có ý tranh đoạt địa vị, nên tới mời sư phụ tiến kinh.

Cam Phượng Trì nghe đoạn, xua tay mấy cái liền rồi bảo:

- Không được đâu! Ta chẳng đi đâu!

Bạch Long đạo nhân cầu khẩn ba, bốn lần nhưng Cam Phượng Trì vẫn lắc đầu nguầy nguậy khiến hoàng tử Ung Vương nằm gần bèn nổi đoá, đứng vụt dậy chộp lấy tà áo Cam Phượng Trì. Họ Cam lập tức khoát tay một cái, quay mình nhanh như chớp vút đi, không thấy bóng dáng đâu nữa. Bạch Long đạo nhân chạy khắp cả trong ngoài căn nhà để tìm kiếm nhưng vẫn bặt tham hơi. Rồi bỗng Dân Trinh nhác thấy có đôi bàn chân thò ra ở sau cái quầy áo. Hai người vội chạy lại khiêng quầy áo ra thì thấy Cam Phượng Trì đang đứng sau đó, thân hình dán sát vào vách tường y như một tờ giấy mỏng.

Bạch Long đạo nhân chắp tay lạy mấy lạy rồi mời Cam Phượng Trì bước xuống cho nhưng họ Cam vẫn đứng nguyên vậy Dân Trinh chạy tới kéo mạnh xuống nhưng Cam vẫn cứ trơ trơ như đá, không một mảy may nhúc nhích. Dân Trinh đem bài thần chú Lạt ma ra niệm, Cam vẫn không hề lung lay. Dân Trinh lúc đó đã nổi đoá, tự nhủ: "Con người bản lãnh cao cường như vầy nếu không về với ta để sau này thái tử mời được rồi chống lại ta thì thật nguy hiểm. Chi bằng nhân lúc này ta kết quả luôn tính mạng của hắn đi cho xong". Nghĩ vậy, Trinh rút lẹ cây chuỳ thủ, dùng tận lực bình sinh đâm thốc vào Cam Phượng Trì nghe đến phập một tiếng ghê người.

Cùng lúc tay này đâm tới thì tay kia Trinh nắm lấy Bạch Long đạo nhân kéo chạy đi. Hai ngươi ra tới bờ sông, nhảy đại xuống thuyền, hối thúc chèo lẹ về hướng Bắc.

Trong phòng, Cam Phượng Trì khi thấy Dân Trinh và Bạch Long đạo nhân trốn đi rồi, bỗng phá lên cười sằng sặc. Mọi người chung quanh vội chạy tới hỏi han, mới biết Cam Phượng Trì chẳng hề hấn gì cả, thật là tài tình và đáng sợ. Kim chủ nhân bèn hỏi họ Cam lý do không chịu đi với Tứ hoàng tử vào kinh thì ông đáp:

- Vì Tứ hoàng tử này có cái tướng đế vương thật đấy, nhưng vì xương gò má phía ngoài quá độ nên nhất định sẽ là kẻ vong ân bội nghĩa, tại hạ không đi theo y là vì vậy.

Cả bọn nghe Cam Phượng Trì nói, tỏ ý rất bội phục.

Khi Dân Trinh về tới Bắc Kinh thì cũng là lúc Khang Hi hoàng đế tuần hành Tô Châu lần thứ ba vừa về tới. Nhân dân khắp thành ai cũng bàn tán về chuyện hoàng đế bị ám sát hụt ở Thái Hồ. Trinh được tin vội chạy vào cung thỉnh an.

Lúc đó có một vị vua Mông Cổ tên gọi Tắc Ngác Ngạch đứng bên, bèn thuật lại sự thể cho Dân Trinh nghe:

- Hoàng thượng gặp thích khách ở Thái Hồ, đó là chuyện có thực. Tân vương tối hôm đó cũng có mặt tùng giá trong đoàn. Vượt khỏi Kim Sơn tới Tô Châu, cả đoàn người nán lại đây ba ngày rồi sau mới đi Thái Hồ. Hoàng thượng thấy bốn mặt hồ có đến bảy mươi hai ngọn núi chọc trời, ngọn gần ngọn xa tất cả tạo thành một cảnh trí vô cùng ngoạn mục. Bởi vậy, ngài lấy làm thích thú, bèn ngồi trước mũi thuyền để vừa ngắm cảnh vừa lưới cá. Thuyền ngài bắt được hai con cá chép, ngài lại càng thích thú hơn nữa. Ngài bảo tuỳ tùng lấy hai đỉnh vàng y ra thưởng cho bọn dân chài. Giữa lúc tất cả đương vui thích cười nói thì bỗng một tên đại hán chạy như bay trên mặt nước rồi nhảy phóc vào ngự thuyền. Trong nháy mắt, người ta chi thấy cây bảo kiếm trong tay tên đại hán vung lên như một làn chớp nhè ngay mặt hoàng đế chém tới. Ấy cũng may hoàng thượng quả có phúc lớn bằng trời khiến ngài vội né sang bên tránh thoát được mũi kiếm. Một đạo hào quang vụt nhanh về phía sau, tức thì tên thái giám trúng kiếm chết ngay, trong khi dư âm "nguy rồi" của hoàng đế còn vang trong không trung. Bọn thị vệ miệng vừa la "Có thích khách" tay vừa tuốt đao khỏi vỏ nhất tề xông tới nghinh địch. Lúc đó, tiểu vương tôi đang ở phía sau, nghe phía trước la hét om sòm, vội chạy tới, thấy tên đại hán đang xông vào khoang cố giết hoàng đế cho bằng được. Tiểu vương tôi liền dùng hết sức bình sinh đánh bật địch thủ ra phía ngoài khoang. Tên thích khách thấy tiểu vương tôi sức quá mạnh, biết khó có bề thủ thắng, bèn quay mình nhảy ùm xuống nước mất dạng, chẳng biết bơi về phương nào.

Khang Hi bị một phen chết hoảng, lấy làm giận lắm, bèn cho gọi Lưỡng Gia tổng đốc là Trương Bằng Phiên và Giang Tô tuần phủ là Tống Lạc tới mắng nhiếc khiến bọn Tống, Trương chỉ còn biết quỳ mọp trên đất, dập đầu cầu xin tha tội. Được tha về, bọn Trương, Tống hú vía, vội phát cáo thị khắp ba huyện Trường, Nguyên, Ngô cấp thời bắt giặc, mặt khác, triệu thỉnh các tay hảo hán tới bảo hộ thánh giá.

Lúc đó, có hai vị anh hùng, hưởng ứng lời triệu, tìm đến. Một người tên gọi Bạch Thái Quan còn một người không tên tuổi. Khi Trương tổng đốc đưa vị anh hùng không tên tuổi này tới yết kiến hoàng thượng thì ngài thấy ông ta mình chỉ mặc có một chiếc áo bằng da cá và nhân đó, ông ta xin ngài đặt cho một cái tên. Khang Hi hoàng đế liền gọi luôn là Ngư Xác (có nghĩa là xác cá). Ngài hỏi Ngư Xác có bản lãnh gì thì Xác tâu:

- Tiểu nhân có thể đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, lại cũng có thể nằm chìm hẳn trong nước được ba ngày ba đêm liền. Tiểu nhân còn có một cái dây lưng quần có thể địch nổi muôn quân ngàn ngựa.

Nói đoạn, Ngư Xác thò tay cởi ngay chiếc dây lưng ra. Chiếc dây lưng này vốn làm bằng thép luyện. Khi buộc vào, nó chẳng khác gì một chiếc dây lưng bằng tơ còn khi cầm trên tay múa tít, nó bắn ra tứ phía một đạo hào quang lạnh người. Hoàng đế bảo bốn mươi tên thị vệ, kẻ nào cũng lăm lăm kiếm, xông lên tấn công Xác thử xem. Đánh một lúc lâu, bọn thị vệ không có cách nào lại gần được Xác. Hoàng đế xem trận đấu, tán thán luôn mồm. Thế là ngài giữ Xác lại cạnh mình, cho sung chức Thị tùng võ quan.

Còn nói đến Bạch Thái Quan, thì trước hết phải kể ngay rằng hắn là đứa vô loại. Lúc thiếu thời, hắn chỉ thích gian dâm phụ nữ. Hắn tung mình nhảy một cái, có thể qua bức tường cao vài chục trượng. Dù cô gái có là một tiểu thư khuê các, một khi đã lọt vào mắt hắn. Có một hôm, Quan nghe nói nhà họ Thanh ở Dương Châu có một cặp chị dâu, em chồng, hai người đều xinh đẹp đến mê hồn, nên hắn mò tới, dò xét kỹ rồi mới nhảy qua tường vào nhà. Giữa lúc định cưỡng hiếp, hắn bỗng bị một chiếc côn lớn phang vào sau ót, đến nỗi ngất lịm ngay đi. Đến khi tỉnh lại, hắn thấy mình đã bị trói chặt, phía trước một ông lão ngồi ngất ngưởng đang sai bảo gia nhân ôm củi, gánh rơm tới để thiêu sống hắn. Quan biết ngày tàn đã đến nên dùng hết sức bình sinh giãy đạp lăn lộn khắp phòng.

Chỉ trong nháy mắt bao nhiêu đồ đạc trong nhà, nào ghế nào bàn đều đổ gãy ngổn ngang hết. Sức của hắn mỗi lúc mỗi hăng, dữ tợn đến không ai chống nổi, khiến đèn đóm rớt đổ lung tung. Lửa bốc cháy, căn nhà sáng rực lên như ban ngày.

Bọn người nhà vội hò nhau cứu hoả, không còn thì giờ nghĩ tới Bạch Thái Quan nữa. Hắn bèn nhân cơ hội đó, cởi bỏ được dây trói, trốn chạy một mạch, nhiều năm không dám quay về quê nữa… Mãi lâu lắm, hắn mới ngầm lẻn về cho vơi nỗi nhớ.

Lúc vừa về tới cổng nhà, hắn thấy phía xa có một đứa bé đang chạy chơi trước cửa miếu Quan đế. Đứa bé giơ thẳng tay cứ nhè con sư tử đá đấm mãi, đến nỗi đá cũng phải tóe lửa ra.

Bạch Thái Quan xem một lúc, cho là quái dị. Hắn tự nhủ: "Thằng bé này có một bản lĩnh phi thường như vậy, một khi lớn lên, nó sẽ ăn đứt cả mình". Nghĩ vậy, trong lúc thảng thốt hắn vụt sinh lòng đố kỵ, liền xông tới đánh thằng bé. Nó đau quá, miệng vừa khóc vừa doạ:

- Lão kia, nỡ ăn hiếp một thằng bé ư? Rồi đây cha ta là Bạch Thái Quan sẽ về đây báo thù cho ta.

Nói xong, thằng bé trào máu miệng chết luôn. Bạch Thái Quan lúc đó mới biết rằng mình đã tự tay đánh chết con mình, lòng hối hận quá, nhưng đã muộn. Hắn quay mình bỏ đi rồi từ đó, hối cải lỗi xưa, chuyên can thiệp chuyện bất bằng để cứu người.

Có một hôm, Bạch Thái Quan tới miếu nghi đình tỉnh Tô Châu, vào ngủ trọ trong một khách điếm. Nửa đêm, hắn bỗng nghe tiếng đàn bà rên rỉ khóc lóc phía ngoài tường. Hắn vội tung người vọt lên nóc nhà xem, định thần nhìn kỹ, thì thấy một cảnh tượng vừa kỳ quái vừa ghê tởm. Một cô con gái đang độ xuân bị lột truồng như nhộng nằm ngửa trên giường, phía trước đặt một thau nước nóng. Một nhà sư vừa đen vừa xấu cầm chiếc khăn tay dúng nước bốc hơi nghi ngút, đang kỳ cọ khắp bụng cô ta. Trong khi lang bạt giang hồ Quan đã được nghe nói có một ác tăng từ Tây Tạng tới chuyên gian dâm phụ nữ, lại còn phá bào thai trẻ con trong bụng mẹ. Mỗi khi bắt gặp đàn bà chửa, tên ác tăng bèn rửa sạch cái bầu rồi lấy bào thai đem luộc chín trong nước sôi. Không ngờ tin đồn đó nay lại là chuyện có thực. Bởi vậy, Bạch Thái Quan đùng đùng nổi giận. Hắn phóng mình xẹt tới như một luồng điện. Lúc đó tên ác tăng Tây Tạng, ngồi quay lưng ra phía ngoài. Chủ ý của Quan là mượn tạm cái "bộ tam sự" của hắn nhưng không ngờ hắn biết được, quay ngoắt lại phóng một cước trúng vào mặt Quan. Quan lẹ như chớp nắm ngay được chân phải hắn.

Tên ác tăng vội phóng luôn chân trái, thế đá đó gọi là "uyên ương song phi" vốn nổi tiếng lợi hại trong chốn giang hồ. Nhưng đối với ai kia, chứ với Bạch Thái Quan thì cái phép hoá giải có gì khó. Thế là Quan xuất luôn tay hữu chộp luôn nốt chân này rồi thuận thế lăng mạnh phía trước. Tên ác tăng Tây Tạng bị một cái đẩy quá mạnh đâm thủng cả vách ván lọt ra ngoài rơi bịch xuống đất như một cái bị, đầu bể tan, óc vọt ra tứ phía, chết không kịp ngáp.

Hồi 53

MỘT CÁI ÁN VĂN TỰ ĐỜI THANH

Cuộc ác chiến tuy ngắn nhưng cũng đủ cho mọi người xóm giềng chung quanh biết được, họ đổ xô tới xem. Người chồng cớ cô vợ vừa được cứu thoát vội quỳ xuống trước Bạch Thái Quan dập đầu tạ ơn. Thế rồi, bọn dân xóm cũng đều bước tới chắp tay lạy chào và nói với Quan:

- Tên ác tăng này tới đây đã lâu, chuyên hãm hiếp đàn bả con gái, gây sóng gió khắp vùng. Có người báo tới nha môn, quan tri huyện phái quân tới lùng bắt, nhưng đều bị hắn đánh cho tơi bời câ. Bọn quan quân hoảng qua, bò trốn về thành hết, không còn dám bén mảng tới nữa. Nay hắn đã bị đền tội, háo hán thực là vị ân nhân của dân chúng vùng này vậy.

Nói đoạn, họ níu kéo, mời mọc cho kỳ đưọc Bạch Thái Quan về nhà một vị thân sĩ trong làng, dọn rượu thết đãi. Qua ngày hôm sau, quan tri huyện được tin, vội cho người mang kiệu tới đón Quan về nha. Đó chính là lúc Khang Hi hoàng đế gặp thích khách ở Thái Hồ, rồi chiêu thỉnh hảo hán bốn phương cho nên viên tri huyện bèn bảo cử Bạch Thái Quan ra cho quan tuần phủ sau đó lại báo tiếp lên cho quan tổng đốc. Vị quan tổng đốc bèn đem Bạch Thái Quan và Ngư Xác cùng mười mấy vị hảo hán khác tới bệ kiến hoàng đế. Khang Hi thấy Quan bản lĩnh cao cường bèn cho sung chức Thị tùng võ quan. Ngoài ra, các tay hảo hán khác cũng đều được sung vào chân thị vệ, nhất tề đưa cả về kinh.

Ung vương nghe Tái Lăng Ngạch kể lại một lượt câu chuyện xảy ra, trong lòng vừa lấy làm kỳ lạ vừa ghen tức. Vương tự nghĩ:

- Thiên hạ sao lại có kẻ bản lĩnh cao cường đến thế nhỉ? Tiếc thay họ lại không ở trong phủ ta cho!

Đứng nghe chuyện còn có cả một bọn đông anh em như Dân Đệ, Dân Nhung, Dân Dị, Dân Đường, Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Ngà, Dân Tường, Dân Đề, cho nên Vương không tiện nói ra điều gì, đành lặng thinh. Vương vốn ăn ý với đại ca Dân Đệ, hai anh em bèn quay về nhà riêng bàn tính đại sự. Vương còn dò được tin hoàng thượng đã phái Ngư Xác tới đông cung để bảo hộ thái tử, mặc khác sai Bạch Thái Quan tới Tô Châu giúp quan địa phương lùng bắt tên thích khách ở Thái Hồ.

Tên thích khách ở Thái Hồ là Kim Phi, nguyên là một tên đại đạo nổi danh suốt dọc Cam Túc, Thiểm Tây. Những tay hảo hán giang hồ thường gọi hắn là Kim gia gia. Vì Kim chỉ thường xuất hiện ở mấy tỉnh Thiềm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, cho nên một giải Giang Chiết đều không ai hay biết hành tung của hắn. Bản lĩnh của hắn còn cao hơn Bạch Thái Quan một bậc. Tại vùng Tứ Xuyên, hắn chuyên ẩn nấp ở những nơi đèo non thác nước, chờ dịp cướp bóc. Hắn thường mặc một bộ y phục màu anh lục, bơi lội trong nước y như cá khi thấy có thuyền đỗ bến, tức thì nhảy lên cướp của giật đồ. Tuy nhiên, hắn không bao giờ hại người. Tên tuổi hắn càng ngày càng lớn Những tay hảo hán suốt giải Tràng Giang đều qui phục hắn, cộng có tới hơn ngàn. Hắn bèn chiếm cứ một ngọn núi trên con đường Nghi Xương. Nhiều tay hảo hán đem vợ con quyến thuộc tới chân núi dựng nhà mở phố. Dần dần, cả một khu đất rộng ở chân núi đã trở thành một thôn phường, trong đó trai gái già trẻ đều là huynh đệ của hắn.

Phen này, Kim Phi do sự phó thác của Thạch Bá Tổng, bộ hạ của di thần nhà Minh là Trương Thương Thuỷ do thám được tin Khang Hi hoàng đế Nam tuần, bèn tới Tô Châu để hành thích. Phi rời khỏi Kim Sơn thẳng tới Thái Hồ, chém Khang Hi một kiếm không trúng bèn quay về chốn cũ.

Đến khi thánh chỉ hạ xuống bắt các phủ huyện lùng kiếm thích khách, và khi bọn chức sắc Ngô huyện điều tra ra lý lịch của tên Kim Phi thì chẳng kẻ nào dám tới Nghi Xương bắt hắn cả. Đúng lúc đó, hoàng thượng phái Bạch Thái Quan đi do thám trên ngọn núi, mới biết núi đó gọi Độc Long Cương và thôn phường phía dưới gọi là Độc Long Thôn. Bạch Thái Quan kéo toàn ban bộ khoái tới Nghi Xương, lên bờ, mướn một chiếc xe lớn gấp rút lên đường. Đi được vài ngày, cả bọn thấy một toà núi đá tai mèo, bốn mặt toàn những mỏm đá cheo leo vây quanh, phía dưới cây cối um tùm, bóng tối âm u, trông thật đáng sợ.

Cỗ xe lớn của bọn Quan đang chạy lẹ trên đường, bỗng thấy phía trước cũng có một cỗ xe từ từ đi tới, trên xe có một cô gái tuyệt đẹp và một đứa bé độ mười ba tuổi, ngồi trên.

Cỗ xe của bọn Quan chạy lẹ nên chẳng mấy chốc đã tới gần, chỉ nghe cô con gái ngồi trên xe cất tiếng bảo đứa bé:

- Bạch Thái Gia tới đấy! Mau nhường đường cho ngài đi, nghe không?

Bạch Thái Quan nghe đoạn, lòng lấy làm lạ. Nhìn mặt người con gái thì quả là không quen biết, cũng không thề nhận ra là ai. Đứa bé nhảy phắt khỏi cỗ xe đã nép cạnh đường, bước tới. Thấy đứa bé tỏ ra nhanh, nhẹn, có sức mạnh, lòng Quan đã nản lắm. Tới chân núi, cả bọn bèn tìm một khách điếm trọ lại.

Sáng ngày hôm sau trở dậy, Bạch Thái Quan ra quầy trả tiền, thấy cô gái ngồi quay đích thị là cô gái ngồi trên xe gặp trên đường hôm qua. Quan muốn thử xem bản lĩnh, bèn ném từng đồng một hết số tiền vào mặt quầy phía trong, trước mặt cô gái. Cô ta thấy cử chỉ của Quan, miệng nở một nụ cười, giơ tay vỗ nhẹ lên mặt quầy, tức thì tất cá số tiền của Quan vừa ném vào bỗng vọt bắn lên cao, tung ra ngoài hết.

Bị trả đũa lại. Bạch Thái Quan tự nhủ thôn dân làng này hẳn đều là những tay có bản lĩnh, trong lòng càng nản nhiều hơn. Giữa lúc do dự, Quan thấy một đại hán chạy từ ngoài cửa vào. Khi thấy Quan, y liền cúi đầu chào:

- Tiểu chủ của tại hạ được biết Bạch Thái Gia đã tới, nên bảo tại hạ tới mời một mình ngài lên núi. Bạch Thái Quan hỏi sơn chúa là ai thì đại hán đáp:

- Sơn chúa chính là Kim gia gia đó!

Bạch Thái Quan tới lúc này chẳng thể do dự được nữa, bèn dặn bảo bọn bô khoái ở lại khách điểm chờ đợi rồi một mình theo đại hán lên núi.

Ngọn núi Độc Long này khá cao, đại hán nhảy từ mỏm đá này tới mỏm đá kia đi vun vút. Bản lĩnh phi hành của Quan cũng chẳng kém. Chỉ mấy chục lần nhảy, quanh theo vài eo núi, hai người đã tới lưng chừng núi. Kim Phi đứng đó tự bao giờ, khi thấy Bạch Thái Quan, liền đón tiếp lên núi, tự giới thiệu tên tuổi của mình. Bốn, năm chục tay hảo hán đứng phía sau cũng đều tiến lên, nhất nhất giới thiệu. Xong xuôi, cả bọn đưa Quan vào đại sảnh.

Trang viên nơi đây quả là lớn, sảnh đường cũng rộng rãi hết sức. Giữa đại sảnh, đã thấy một chiếu rượu sửa soạn tươm tất. Kim Phi mời Bạch Thái Quan ngồi vào ghế nhất. Bọn hảo hán cũng nhất tề ngồi xuống. Trước mặt mọi người, đũa không thấy, chỉ có vài con dao nhọn sắc. Trước mặt Quan cũng vậy, đến ngay dao cũng không. Trên bàn, nào gà, nào vịt đủ món nhưng chưa ai biết làm cách nào mà ăn. Một lát sau, chủ nhân lên tiếng nhắc bọn huynh đệ kính khách. Bọn hảo hán tay cầm dao nhọn xóc luôn những miếng cá bự chĩa thẳng vào miệng Bạch Thái Quan. Họ Bạch cũng muốn nhân dịp này cho đối thủ biết rõ ban lĩnh của mình. Khi thấy ngọn dao sắc đâm gần tới, Quan liền há miệng đớp ngay lấy, hai hàm răng cắn chặt lại. Một tiếng rắc nổi lên khô khan trong miệng Quan: lưỡi dao đã gãy, miếng cá bự trôi qua cổ họng xuống bụng trong nháy mắt.

Các hảo hán lần lượt hết người này đến người kia đều tiến lên kính khách theo kiểu đó. Quan thảy đều thong dong ăn uống, miệng không một chút nào sây sát. Thành thử bao nhiêu dao để trên bàn khi nãy đều bị Quan cắn cụt hết. Trước mặt Quan, chỉ thấy một đống lưỡi dao to sụ. Cử toạ đều lớn tiếng khen ngợi.

Sau đó, một tay đại hán bưng mâm bánh bao tới, khói bốc lên nghi ngút. Bạch Thái Quan cầm ngay lấy một chiếc bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Trong bánh có đến hơn chục cái đinh sắt. Nhưng Quan vẫn nhai một cách tự nhiên, chẳng mấy chốc Quan ngậm nắm đinh sắt hướng vào bức tường phía trước, thổi phù một cái. Nắm đinh sắt vút ra cắm phập vào tường, y như chúng đã được đóng chắc từ thuở nào.

Kim Phi thấy vậy bất giác cũng phải thốt lời khen! Phi đứng dậy tiễn khách, Bạch Thái Quan tự nhận đông quá khó địch, lại thấy thủ hạ của Kim nhiều tay ban lĩnh cao cường, thành thử khối hào khí chứa chất trong lòng lâu nay bỗng tan biến như tuyết rơi băng rã. Quan ra tới cống ngoài, thấy cánh cửa đóng kín. Từ bên cạnh cổng, một chú bé chạy ra, khẽ nâng cánh cửa để lấy lối cho khách qua. Quan nhìn tấm cửa, ước lượng ít ra cũng phải ngàn cân. Quan đến lúc đó quả đã thảy chết mất quá nửa nhuệ khí. Khi xuống tới chân núi, Quan xấu hổ, chẳng dám tới gặp lại bọn bộ khoái thủ hạ của mình và lẹ như một làn khói. Quan mất hút luôn trong đám sương mờ bên đèo.

Lại nói Khang Hi hoàng đế ỷ có Ngư Xác bảo hộ nên lại sửa soạn cuộc tuần du Giang Nam lần thứ tư, lần tuần du này quả thật khác xa mấy lần trước. Hoàng đế đem theo một đại đội ngự lâm quân, dọc đường còn có quân lính địa phương yểm trợ.

Khi đi đường, Khang Hi hoàng đế dò biết được còn có rất nhiều văn nhân có ý không phục nhà Thanh, thường sáng tác thơ văn phỉ báng triều đình. Ngài bèn hạ một đạo mật dụ cho các tuần phủ, tư đạo nơi ngoại tỉnh bảo họ tra xét khắp nơi, hễ thấy có bài văn thơ nào phỉ báng bản triều thì phải báo ngay không được dấu giếm hoặc chậm trễ. Không ngờ đạo mật dụ đó vừa mới xuống được ít hôm thì một cái án văn tự lớn lao xảy ra làm chấn động cả miền Triết Giang và Hồ Châu.

Số là miền này có một phú ông họ Trang tên Đình Lũng, đọc sách không bao nhiêu nhưng lại háo danh, chỉ thích có tác phẩm lưu lại nhân thế, tạc vào nơi danh sơn. Bởi vậy, ông ta mới ngày ngày vác bút đề thơ. Ông ta vừa ngâm vừa viết, chẳng biết đã viết những gì. Viết vậy suốt một năm rưỡi trời mà chưa ra được một cuốn sách nào. Bỗng một hôm, ông ta nghĩ ra được một diệu kế. Vốn sẵn tiền, ông ta liền vác tiền đi mua văn của bọn văn nhân cùng quẫn, lấy những bản thảo của họ làm của mình. Không biết ông ta mua ở đáu về được một tập bản thảo - bộ "Ô Trình Chu thị minh sử". Ông ta lấy làm khoái lắm, bèn góp nhặt những sự thực thời vua Sùng Trinh rồi đổi tên tác giả sang tên mình. Ông ta lại còn mời mấy cụ đồ nổi danh, nào là họ Lục, họ Tra, nào là họ Phạm giúp ông làm mấy bài bạt vào cuốn sách, rồi cho khắc và đem in. Ông ta tưởng đó là một tác phẩm trứ danh, cho rằng xưa kia Khổng Tử làm Kinh Xuân thu, Tư Mã Thiên làm bộ Sử ký bất quá cũng chỉ như vậy mà thôi. Ông còn cao hứng đến cái độ cho sách của mình có thể tạo thành thế chân vạc với hai bộ sách Sử ký và Xuân thu. Ông ta có ngờ đâu vui lắm thì khổ nhiều! Thời kỳ đó chính là hồi bọn quan địa phương đang ngấm ngầm điều tra những trước tác phỉ báng triều đình.

Khi tra ra bộ minh sử này, viên tri phủ Hồ Châu cho là hệ trọng bèn đích thân tiến kinh để cáo mật. Quan thượng thư bộ hình vội vào tâu hoàng đế. Thế là một đạo thánh chỉ ha xuống, bắt phải tra xét nghiêm ngặt. Tin tức truyền đi nhanh như chớp. Trang Đình Lũng biết việc nguy rồi, bèn uống thuốc độc tự vẫn. Khi thánh chỉ tới nơi thì Trang Đình Lũng đã chết.

Triều đình bèn cho quật mồ băm thây, đồng thời cho bắt tất cả bọn nhà in đem chém chết. Ba cụ đồ họ Phạm, họ Tra, họ Lục cũng được tin nhanh lắm. Các cụ đã dự tính trước, thanh minh rằng những bài bạt của sách đó là do Lũng giả tạo chứ không phải các cụ làm. Nội vụ xong xuôi, cả ba cụ được miễn tội nhưng đều khuynh gia bại sản.

Tử đó về sau, bọn văn nhân hoảng hồn bạt vía, đều rụt cô lại như cổ rùa, chẳng còn dám viết lách lấy một chữ: Khang Hi hoàng đế quả đã mười phần khoái trí. Ngài du ngoạn bên ngoài một thời gian lâu rồi mới trở về kinh. Nhưng ngài không ngờ, ngay tại kinh, thái tử cùng bọn Trực vương, Ung vương lại gây ra một chuyện lớn khác…

Hồi 54

CÁC HOÀNG TỬ TRANH NHAU NGÔI THÁI TỬ

Trong cuộc Nam tuần lần thứ tư này, Khang Hi hoàng đế lại giao cho hoàng thái tử Dân Nhung giám quốc như cũ.

Trực Quận vương Dân Đê, Ung Quận vương Dân Trinh trong lòng rất lấy làm ghét thái tử. Hai người ngầm khiển tướng điều binh đến hành thích thái tử kể đã khá nhiều lân, nhưng Đông cung có đông người bảo vệ nên chưa từng bị độc thủ của họ. Duy chỉ có mỗi lẩn đại chiến thi hai bên lại hết mất vài ba tay hảo hán.

Dân Nhung căm giận Dân Trinh đến cốt tuỷ. Nhung bèn đem trọng lễ ra bên ngoài, mời rất nhiều vị đạo nhân tới Đông cung làm phép để thu hồn nhiếp phách xác của Trinh. Trong vương phủ của Dân Trinh, những tay pháp sĩ mới về cũng không ít. Mỗi lần bên Đông cung thi hành pháp thuật là mỗi lần bị bên Ung vương phủ phá giải tiêu hết. Về sau, thái tử Dân Nhung mời được một vị Thiết quan đạo sĩ (đạo sĩ đầu đội mũ sắt) từ Giang Tây tới. Vị đạo sĩ này có một pháp thuật hết sức kỳ lạ. Pháp khí của ông ta tên là Huyết trích tử. Đây là một cái mũ bằng sắt. Khi Thiết quan đạo nhân niệm thần chú, Huyết trích tử liền bay lên trên không, lén vào nhà kẻ thù, chụp vào đầu, lập tức cắt đứt đầu địch nhân rồi lại bay lên không trở về. Người bị cụt đầu không chảy một giọt máu nào nơi cổ, bởi vậy nó mới có cái tên là Huyết trích. Khi nó tới thì dù ở giữa đám ngàn quân vạn ngựa đi nữa cũng vẫn bị cắt đầu ngọt xớt. Pháp khí lặng lẽ tới cũng như lặng lẽ đi, vừa nhanh lại vừa không có tiếng động, chỉ nháy mắt là đầu đã mất tiêu từ lúc nào, khiến đối phương có lưu ý đề phòng tới đâu cũng vô hiệu.

Ung vương dò biết được tin này, trong lòng rất lấy làm lo sợ Vương bèn củng mấy vị sư Lạt Ma thương nghị. Trong bọn, có người đứng lên nói:

- Trừ phi mời được vị Đại Lạt Ma của tại hạ tới, chứ còn không ai trừ được tên đạo sĩ mũ sắt này đâu.

Ung vương nghe đoạn, bèn đích thân tới Ung Hoà cung, mời nhà sư Đại Lạt Ma. Lúc đầu Đại Lạt Ma không chịu, nhưng về sau, khi vương hứa hê việc thành thì sẽ có thưởng hậu, Đại Lạt Ma mới vui lòng mang pháp khí tới Vương phủ.

Nhà sư Đại Lạt Ma trước hết lấy một cuộn kinh Phật, bảo Ung vương đội lên đầu, phía trên dùng mũ chụp lên. Cuốn kinh Phật có một pháp lực vô biên, có thể chống lại được với Huyết trích tử. Đại Lạt Ma còn lấy một căn tinh thất phía ngoài phòng ngủ của Ung vương, ngày đêm ngồi đó để phòng vệ Ung vương vốn có bốn vị phi tử. Nguyên phi tên Nữu Cô Lộc với Ung,vương, hai người ân ái hết sức mặn nồng. Nay thấy chồng có nạn, bà bèn hầu hạ ngày đêm bên cạnh.

Một hôm, vào giữa lúc đêm khuya canh vắng, bà Nữu Cô Lộc cùng Ung vương đang nằm trên giường chung gối trò chuyện, bỗng thấy từ ngoài cửa một vật gì tròn tròn đen đen bay vút vào chạm vào đầu. Ung vương nghe chát một tiếng. May cho Ung vương trên đầu có cuộn kinh Phật sớm tối không rời nên pháp khí kia không thể hại được tính mạng của vương. Bà Nữu Cô Lộc nằm bên cạnh sợ quá, la rầm lên. Phía ngoài, nhà sư Đại Lạt Ma, vội nhảy ra khỏi tĩnh thất quan sát, chỉ thấy cái pháp khí nọ đang bay từ trong phòng Ung vương ra. Nhà sư Đại Lạt Ma lẹ tay vội cởi tuột chiếc áo cà sa trên mình, vung lên như một cái ltới, chụp lấy pháp khí.

Khi pháp khí nọ bị chiếc cà sa chụp thì người trong phủ nghe tin, vội chạy tới thỉnh an. Ung vương bị pháp khí đập mạnh vào trán gây thương tích, đau nhưng cũng cố gượng ngồi dậy. Nhà sư Đại Lạt Ma lấy Huyết trích tử từ trong chiếc áo cà sa ra đưa cho Ung vương, miệng nói:

- Đây là một lợi khí sát nhân độc nhất vô nhị, vương gia hãy giữ lấy, về sau nhờ nó có thể chế phục được thiên hạ đấy!

Ung Vương tiếp lấy xem qua, thấy Huyết trích tử vốn là một chiếc mũ sắt đen thui, ánh sáng lạnh bắn ra bốn phía khiến ai trông thấy cũng phải mất vía bạt hồn.

Qua ngày hôm sau, Trực vương Dân Đê được tin, vội chạy lại xem. Trinh bèn đem tình hình nội vụ ra kể hết. Đê thấy lúc đó không có ai, bèn cầm tay Trinh kéo vào một căn mật thất, thì thào bảo Trinh:

- Ta hiện mời được một vị Đại Lạt Ma tên gọi Ba Hán Cách Long từ Mông Cổ tới. Đạo thuật của ông này rất cao. Ông ta có thư phù niệm chú, trấn ém được hồn người. Bọn ta chỉ cần dò hỏi niên can tám chữ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) của thái tử rồi viết lên tờ giấy, đút vào bụng hình nộm, một mặt mời Ba Hán Canh Long lập pháp bùa, niệm thần chú bảy ngày bảy đêm thì thái tử bên Đông cung thế nào cũng phát điên, không còn hay biết gì nữa. Đến lúc Dân Nhung không còn làm Thái tử được nữa thì bọn ta hai đứa sẽ tính toán với nhau sau.

Trinh nghe đoạn bỗng nghĩ ra một kế, bèn nói ngay cho Đê nghe. Xong đâu đấy, bọn Đê, Trinh liền cho mời nhà sư Đại Lạt Ma tới, đưa cho hai ngàn lạng bạc và nhờ nhà sư cứ như thế như thế hành sự.

Lại nói thái tử Dân Nhung thấy Thiết quan đạo nhân không thành công, trong lòng hết sức buồn bã. Ít hôm sau, thái tử bỗng tự nhiên mê mê man man, nhuốm bệnh nặng. Ban đầu, lúc thì nóng, lúc thì lạnh nhưng về sau bệnh càng ngày càng trầm trọng, cuối cùng thái tử đâm ra điên cuồng, miệng nói huyên thuyên, đôi má đỏ như lửa, hễ thấy người là đánh. Bên Đông cung, từ dưới lẽn trên, ai cũng đâm hoảng.

Tướng quốc Trương Anh mời ngự y lại trị bệnh cho thái tử. Nhưng có ngờ đâu vị ngự y đã nhận bạc hối lộ của Đại Lạt Ma, bèn lấy hai viên A Cô Ma hoàn cho thái tử uống. Thái tử ngủ một đêm dậy, quả nhiên bệnh tình giảm nhẹ đi nhiều, nhưng lại bị cái chứng "dâm" kinh khủng. Suốt ngày, thái tử chỉ cùng bọn phi tần mây mưa trăng gió. Thế mà vẫn chưa đã thái tử hễ thấy con cung nữ nào là lôi lên giường con ấy.

Đê và Trinh hai vương được tin đó, đều đem các phúc tấn đến Đông cung vấn an. Chẳng ngờ thái tử thấy anh em hai người này tới, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trợn mắt nhìn chằm chặp vào mặt bà chị dâu là Tố Luân phi tử và cô em dâu là Nữa Cô Lộc phi tử. Nhìn đến lúc xuất thần, thái tử bỗng nhảy chồm tới, giơ hai tay ra ôm chầm lấy Nữa Cô Lộc. Bà Nữa nhanh chân né, kịp tránh thoát. Thấy hụt bà Nữa, thái tử quay sang bà chị Tố Luân. Bà bị thái tử hai tay ôm quàng lấy eo ếch rồi siết chặt, mặc cho bà vùng vẫy giãy giụa cách nào cũng không thoát ra được.

Dân Đê trông thấy, bất giác cả giận, vội chạy tới đẩy mạnh khen thái tử bật ra, té ngửa trên mặt đất. Đê hầm hầm tức giận, kéo tay vợ chạy khỏi cung. Đê tính tới tâu ngay việc này cho phụ hoàng rõ, nhưng bà Tố Luân phi tử cố can:

- Phụ hoàng vừa ở Giang Nam về chưa được bao ngày. Ta hãy cố nhịn vài hôm đợi khi phụ hoàng nhàn rảnh, lúc đó tấu minh cũng chẳng muộn.

Đê nghe lời vợ, tạm thời nín nhịn lòng giận tức.

Giữa lúc đó bỗng từ quan ngoại có tin quân báo về việc người Nga La Tư đem đại binh mã tiến đánh Mông Cổ. Khang Hi hoàng đế bèn hạ dụ sai bọn Đô thống Bành Công Xuân đốc lính tới miền ái Quân, hợp với quân của Tát Bố Tố đánh thốc tới Nhã Khắc Tát. Phá tan được thành Nhã Khắc Tát, Thanh quân mới cùng người Nga đính ước giảng hoà.

Chẳng bao lâu sau quân thám lại báo tin về bộ lạc Cát Nhĩ Đan xứ Mông Cổ liên hiệp với người Nga La Tư tạo phản.

Khang Hi hoàng đế bèn phong Dụ Thân Vương Phúc Toàn làm Phủ viễn đại tướng quân cùng với hoàng tử Dân Đê đem quân xuất cửa Cổ Bắc, đồng thời phong Cung Thân Vương Thường Ninh làm An Bắc đại tướng quân cùng với Giản Thân Vương Nhã Bố đem quân xuất cửa Hỉ Phong nghênh địch.

Ai ngờ quân Cát Nhĩ Đan mười phần kiêu dũng, vừa công phá quân Mông Cổ của A Lạp Ni lại vừa đánh vào Ô Châu Mục, Trấn, thẳng tới đánh tan quân của Cung Thân Vương, sau đó tiến sâu vào miền đông bắc Đa Luân của O Lan Bố Thông.

Phía Thanh binh may được Dụ Thân Vương dùng hoả pháo đánh được Đà Thành (dùng lạc đà làm thành để vây địch) của Cát Nhĩ Đan, khiến bộ lạc này đại bại, phải lui về miền Y Lạp Cổ Khắc Tam Hồ Khắc Đồ.

Dụ vương đang định xua quân xông thẳng vào miền này thì bỗng được tin Khang Hi hoàng đế nhuốm bệnh nặng tại thành Bắc lạc, đành ban sư trở về bắc Kinh.

Hồi đó, thái tử Dân Nhung bệnh càng ngày càng nặng. Cơn điên làm cho thái tử chẳng khác gì con loài thú, thấy người là đánh, thấy vật là phá. Đám phi tử nơi Đông cung ngày đêm chỉ khóc ròng. Bệnh của Thái tử quả đã đến lúc vô phương cứu chữa. Khang Hi hoàng đế mới về nên hoàng hậu có ý muốn giấu chuyện này đi, bởi vì ngài đang bệnh, lại vừa chịu cảnh chiến tranh quá vất vả gian lao.

Qua năm sau, bộ lạc Cát Nhĩ Đan lại đem ba vạn kỵ binh, tiến dọc theo sông Lục Liễu xuống đánh phá Khách Nhĩ Khách rồi tiến luôn tới đánh Ban Nhan Ô Lan.

Lúc đó Khang Hi hoàng đế sức khỏe đã hồi phục, bèn quyết ý ngự giá thân chính đem mười vạn đại quân chia làm ba lộ

Đông, Trung và Tây. Đại nguyên soái Đông lộ là Hắc long giang tướng quân Tát Bô Tố, Đại nguyên soái Tây lộ là đại tướng quân Phi Dương Cố đem đội cường binh Cam Thiểm từ Ninh Hạ vượt sa mạc dọc theo sông Thổ Lạp, đánh thốc vào mặt sau của địch. Còn Trung lộ thì hoàng đế đảm nhận trọng trách chỉ huy. Ngài xua quân theo cửa Độc Thạch tới Đa Luân Bạc, rồi hướng về phía tây sa mạc, lại theo đường Khoa Bố Đa dọc hữu ngạn sông Lục Liên, qua núi Ngách Nhĩ Đức Ni Đà La Hải Sơn.

Quân Cát Nhĩ Đan thấy lều vàng, cờ long độc của Khang Hi hoàng đế, hoảng hồn bạt vía, vội theo đường núi Đà Nặc Sơn chạy trốn. Hoàng đế xua quân đuổi tới Tháp Mễ Nhĩ thì kịp. Hai quân liều chết chiến đấu. Cát Nhĩ Đan lại đại bại. Tây lộ, Đông lộ hai chi quân mã lúc đó cũng đã hướng về phía hông bao vây địch, khiến chúa Cát Nhĩ Đan không đường trốn chạy. Khang Hi hoàng đế khuyên hàng nhưng Cát Nhĩ Đan đã uống thuốc độc chết trong Ô doanh. Hàng binh đem thây Cát Nhĩ Đan dâng vào trung quân. Từ đó các bộ lạc miền Khách Nhi Khách đều qui hàng Thanh triều. Khang Hi hoàng đế ban sư về kinh trong lòng hết sức hân hoan.

Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế mới nhớ tới thái tử, bèn triệu sư phó của thái tử là Hùng Tử Lý vào cung tương kiến.

Bọn nội đại thần Sách Ngạch Đồ biết dấu giếm không xong bèn cho đưa thái tử vào theo. Bọn hoàng tử Dân Đê, Dân Chỉ, Dân Trinh, Dân Dị, Dân Đường, Dân Tường, Dân Đề tất cả anh em hơn mườì người đều đứng cả một bên. Thái tử Dân Nhung thấy vua cha mà cũng chẳng biết hành lễ thinh an, chỉ một mực chân nhảy miệng kêu cuồng loạn. Khang Hi hoàng đế thấy thế rất lấy làm lạ, vội hỏi, mới biết thái tử bị bệnh quá lâu, vô phương cứu chữa. Ngài lập tức toạ triều, hỏi các đại thần văn võ xử tại cách nào đối với thái tử, thì từ đại học sĩ Trương Anh, Trương Đình Ngọc, bối lặc Long Khoa Đa đến đại tướng Miên Canh nghiêu, các lão Trần Thế Quan, vốn thuộc phe Ung vương, tất cả đều một giọng tâu xin truất phế thái tử. Hoàng đế cũng biết Dân Nhung bệnh đã đến mức đó thì không còn có thể làm thái tử được nữa nên hạ một đạo chỉ dụ phế thái tử làm thứ nhân (người dân thường), phải dọn ra khỏi Đông cung.

Tin này truyền tới tai các hoàng tử, ông nào ông nấy tỏ vẻ vui mừng khôn tả. Ông nào cũng hy vọng mình được ngồi vào ngôi vị đó. Trong số này, phải nói ông hoàng Bát A Kha Dân Dị lòng tối thâm hiểm, lúc nào cũng rắp tâm mưu đồ cái địa vị ấy. Ông ta ngầm bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mua chuộc bọn đại thần A Linh A, Tán trận đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thư Vương Hồng Tự, Thị lang Khuê Tự. Khéo thay lúc đó hoàng đế lại có thánh chỉ xuống sai bọn Đạt Nhĩ Hán Thân Vương là Ngạch Luân Đại hội họp đủ các đại thần Mãn Hán cùng bàn việc kế lập thái tử.

Thế là bọn nội đại thần A Linh A, bèn ngầm viết ba chữ Bát A Kha rồi đưa vào cung. Ngờ đâu Khang Hi hoàng đế lại rất ghét Bát A Kha, ghét vào bực nhất trong số các hoàng tử.

Bát A Kha không những mặt mũi đã xấu mà phẩm hạnh lại quá tệ Hoàng đế đoán biết bên trong hẳn còn tệ đoan gì đây, bèn nhân lúc ngồi toạ triều, truy vấn về chuyện này.

Hồi 55 & 56

ĐỔI GÁI LẤY TRAI

Khang Hi hoàng đế thanh sắc đều oai tợn khiến Mãn triều văn võ đại thần kẻ nào cũng sợ hãi. Đại học sĩ Trương Ngọc Thư bèn đem việc giao hảo giữa Bát A Kha với bọn đại thần A linh A như thế nào và tự ý lập đảng ra sao, nhất nhất tâu rõ, Khang Hi hoàng đế nghe tâu, nổi trận lôi đình, lập tức hạ chỉ bắt cả bọn đại thần này giao cho Khang Thân vương Xuân Thái thẩm vấn định tội. Cùng với việc này, việc hoàng tử Dân Đê mời nhà sư Đại Lạt Ma vào phủ dùng pháp thuật trấn ếm hồn phách của thái tử cũng bị bại lộ tùm lum…

Sở dĩ việc hoàng tử Dân Đê mượn người ếm thái tử đến phát điên bị hại lộ chỉ tại tên nội giám Vy Phượng tố giác. Vy Phượng vốn là nội giám bên Đông cung, nhưng lúc đó được điều động sang phủ Trực Quận vương làm sai dịch. Khi tên tiểu thái giám vừa cho hắn biết chuyện, hắn tức khắc ngầm vào đại nội cáo biến.

Khang Hi hoàng đế nghe được tin động trời này, lập tức hạ lệnh cho viên Nội đại thần đem theo viên quan thị vệ, xông thẳng vào phủ Trực Quận vương, quỷ không hay người không biết. Quả nhiên trong vườn hoa phía sau, họ đào lên được một thằng bù nhìn bằng cỏ, trong ruột có viết chữ tên tuổi ngày sinh tháng đẻ của thái tử và ở giữa ngực có cắm sâu một chiếc đinh sắt, trên mặt thì bôi máu chó cùng khắp. Ngoài ra, lại có năm cái thân hình quỷ quái cắt băng giấy cùng chôn một chỗ trong đám đất bùn.

Khang Hi hoàng đế nhìn thấy những dụng cụ trấn ếm, tức giận đến điên người, giậm chân chửi bới om sòm. Ngài bèn hạ lệnh bắt cả số can phạm giao cho Tôn nhân phủ thẩm vấn.

Ngài còn hạ chỉ cách hết chức tước của Bát A Kha Trực Quận vương, cấm cố vương ngay trong vương phủ, đem tất cả đám nô bộc của vương thưởng cho hoàng tử thứ mười bốn là Dân Đề và đem Đại Lạt ma Ba Hán Cách Long trục hồi Mông Cổ.

Mọi việc vừa xong thì bệnh tình của thái tử Dân Nhung cũng vừa hết. Tư cách đúng mực ngày trước lại trở về. Bởi thế, hoàng đế vẫn lập Nhung làm thái tử và vẫn để ở trong Đông cung như trước. Ngài lại giao triều chính cho thái tử giám quốc để ngài lại đem một ban đại thần thân tín tuần du miền Giang Nam lần thứ sáu.

Bọn hoàng tử thấy Dân Nhung lại được làm thái tử như cũ, kẻ nào cũng lấy làm ghen tức, nhưng chẳng làm gì được lúc này. Tứ hoàng tử Dân Trinh vẫn theo kế hoạch cũ, kết thân với bọn đại thần, cung dưỡng bọn hiệp khách. Trong số đại thần phải kể đến Miên Canh Nghiêu, Các lão Trần Thế Quan là hai người giao tình rất mật thiết với Trinh. Hai vị Miên, Trần thường vào trong vương phủ. Bà phi tử Nữu Cô Lộc cũng mười phần thân mật với Miên, Trần. Đôi khi bà phi Nữu cũng tới chơi nhà hai vị này nữa.

Họ Miên có một cô vợ bé tên Tiểu Bình, rất xinh đẹp, tính tình lại nhu thuận. Vương phi trông lấy làm yêu, lúc về nhà, bà kể lại cho Ung vương nghe. Vương vốn hiếu sắc, nghe vương phi nói, giận không có cách gì gọi Tiểu Bình tới phủ để xem mặt. Rồi lúc đó gặp Miên đại tướng, vương bèn hỏi ngay chuyện Tiểu Bình, thêm vào khá nhiều điều ngưỡng mộ ca tụng. Miên đại tướng quân lại cũng là tay hảo hán, mười phần khẳng khái.

Bởi vậy, qua ngày hôm sau, người ta đã thấy một chiếc xe đưa Tiểu Bình vào phủ để hầu vương. Chỉ một việc này đủ làm cho Ung vương cảm kích tấm lòng quý hoá của Miên đại tướng. Từ đó, hai người giao tình càng ngày càng mật thiết thâm hậu.

Một trong những mỹ nhân tuyệt thế như vậy mà tại sao Miên đại tướng quân lại chịu buông nhẹ vào tay kẻ khác?

Trong việc này quả thực có một duyên cớ đặc biệt. Nguyên lai Miên đại tướng quân rất ghét loại gái trông thì đẹp nhưng xài không khoái. Đại tướng họ Miên người chẳng những cao lớn lại còn to mập mỗi ngày nếu không có năm cô gái vạm vỡ hầu hạ thì không thể nào ngủ được. Do đó, bọn giai nhân mỹ mạo đối với họ Miên bất quá chỉ để ngắm như nhìn một bức hoạ, chứ thực ra ông ta không cần. Trong phủ, có nuôi mười cô thôn nữ Sơn Đông luân phiên hầu hạ ông. Tiểu Bình tuy gọi là vợ bé nhưng đối với Miên đại tướng thì chẳng ăn nhằm gì, nên ông ta khẳng khái trao tặng cho Ung vương.

Ung vương từ khi được người đẹp Tiểu Bình chẳng khác gì được trân châu bảo ngọc. Vương một niềm sủng ái, ôm ấp ngày đêm, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Vương phi Nữu Cô Lộc lúc đó lại có bầu, vương gia tha hồ rỗi rảnh để phục vụ mỹ nhân, Ung vương tuổi chẳng còn nhỏ gì mà con cái vẫn chưa có đứa nào, bởi thế ngày đêm mong mỏi bà Nữu Cô Lộc sinh cho một cậu con trai. Lúc đó bà Trần Các Lão cung có bầu đồng thời với vương phi, nên hai người mỗi khi gặp nhau thường cười nói trò chuyện. Vương phi còn hứa hẹn nếu hai người sanh trai cả thì chẳng nói làm chi, nhưng nếu sinh một trai một gái thì thế nào cũng thành sui gia với nhau.

Bà Các lão Trần Thế Quan nghe câu chuyện này vội nói với vương phi:

- Thật chẳng dám! Bọn tôi chỉ là loại cỏ nội hoa hèn, đâu có dám sánh với dòng giống thiên thần của hoàng gia.

Câu chuyện trên đây bất quá chỉ là chuyện vui giữa bọn đàn bà với nhau không ngờ kẻ nói thì vô tâm, nhưng người nghe lại hữu ý. Bà Trần Các lão cáo từ lui ra khỏi phủ thì vương phi cũng chạy vào nội thất. Mụ quản gia của vương phi thấy không có ai trong phòng, vội nói nhỏ với vương phi:

- Vương gia há chẳng thường oán nương nương không có con trai đó sao? Ngài thấy nương nương chưa từng sinh được một trai nào nên ngài đâm ra buồn chán, mặc sức thăm hoa hái cỏ bên ngoài. Già này có một kế xin hiến cho nương nương. Nếu phen này nương nương may mà sinh trai thì khỏi phải nói, nhưng nếu sinh gái thì thiết tưởng nương nương lên làm như vậy như vậy… Có thế mới không lo hỏng việc.

Bà vương phi nghe kể, gật đầu lia lịa khen hay. Tớ thầy hai người từ đó tâm đầu ý hợp, chỉ còn đợi lúc thuận lợi thi hành.

Lại nói Ung vương chỉ mưu đoạt ngôi thái tử, cho nên bên ngoài thì chiêu mộ rất nhiều những tay anh hùng hảo hán, còn bên trong triều đình thì kết giao với những viên quan cao cấp như Trương Đình Ngọc, Long Khoa Đa, Miên Canh Nghiêu, Trương Anh, Trần Thế Quan. Những vị này đều là bè đảng của vương, mỗi khi lui trào trở về đều tụ tập tại Ung vương phủ, thương nghị cơ mật đại sự.

Có một lần, Trần Thế Quan luôn ba ngày không tới khiến Ung vương bối rối không biết đường nào mà rờ. Nguyên lai Trần Thế Quan làm đến chức Các lão, tay nắm đại quyền của triều đình, cho nên mọi việc Ung vương đều cần phải thảo luận với ông ta. Mãi tới ngày thứ tư, Trần Các lão mới tới. Ung vương hỏi xem trong nhà có việc gì xảy ra thì ông ta vừa cười vừa nói:

- Chẳng dám giấu quý vị. Hạ quan đã ngũ tuần mà dưới gối vẫn còn không có trẻ làm vui. Hôm trước đây, nội nhân của hạ quan đã nằm nôi. Nhờ hồng phúc của vương gia, nội nhân sinh hạ được đứa con trai, bỏi vậy hạ quan phải ở nhà để lo liệu mọi việc, thành thử bỏ bê bao nhiêu công vụ.

Mọi người nghe đoạn, ai cũng quay mặt về phía Các lão chúc mừng. Sau đó, cả bọn ráp lại bàn bạc. Miên Canh Nghiêu lên tiếng trước.

- Hôm qua, vừa có tin báo từ biên phòng cho biết binh mã của bạo Chúa Cát Nhĩ Đan đã tiến tới miền Ô Chu Mục Tần. Hoàng đế xuất quan lần này chính là một cơ hội ngàn năm một thuở, thiết tưởng không nên bỏ lỡ.

Hội nghị tiếp tục bàn tính thêm vài việc đại sự nữa rồi mới giải tân ra về. Khi Ung vương lui vào nội thất thì vương phi Nữu Cô Lộc cũng từ trong phòng bước ra đón rước. Vương thấy bà mang một cái bụng chình ình, bỗng nhớ đến câu chuyện của Trần Thế Quan, liền đem việc sinh trai của bà Trần ra nói cho vương phi nghe.

Vương phi nghe đoạn, trong lòng hết sức lo lắng. Bà nghĩ tới cái bầu của mình, chẳng biết sau này sinh trai hay gái.

Càng nghĩ, bà càng thấy lòng nóng ran như lửa đột. Bà ngầm đưa mắt cho mụ quản gia. Mụ này sẽ gật đầu mỉm cười. Sau đấy không đầy ba hôm, Vương phi nằm nôi, vương gia biết chuyện, vội cho người hỏi xem trai hay gái thì bên trong báo ra bảo:

- Thật đáng mừng cho vương gia! Lại thêm một vị tiểu vương gia nữa rồi!

Ung vương nghe đoạn, mười phần vui vẻ. Các văn võ quan viên cung tới chúc mừng. Qua ngày thứ ba, trong phủ vương gia có đặt tiệc, nhộn nhịp đến bảy ngày mới hết. Trong dịp này, tất nhiên, các bà mệnh quan nhất tề tới vương phủ để thỉnh an vương phi… Theo tục kiêng cữ của vương phi, khi đứa bé ra đời chưa đầy một tháng, không cho ai được thấy mặt, bởi vậy các bà quan tới thăm đều không biết mặt ngang mũi dọc thằng bé thế nào.

Vương phi Nữu Cô Lộc sợ không thể tin cậy được người khác, nên mọi việc đều phó thác cho mụ quản gia. Mụ này vốn tính khôn hơn người hơn nữa trong nhà lại chỉ có một mình mụ ta với ngươi nhũ mẫu trông nom mọi việc tã lót, vú sữa cho đứa bé nên câu chuyện hoàn toàn được giữ kín. Trong phủ tuy có đến tám cung nữ hầu hạ vương phi nhưng chúng chỉ được ở trong phòng chầu chực. Vương phi có vị đại phu tới coi mạch hốt thuốc điều dưỡng. Hàng ngày lại có các bà quan tới nói chuyện giải buồn. Trong số các bà quan thì bà Trần Các lão thân với vương phi nhất. Nhưng lúc đó, bà Trần sinh chưa đầy tháng nên không thể tới vương phủ. Vương phi sốt ruột, mỗi ngày ít ra cũng nhắc tới bà Trần ba, bốn lần.

Vương phi chờ đã chán chê mới đủ tháng thì không may bà Trần lại nhuốm bệnh nặng, không ra được khỏi cửa. Tin này càng làm cho vương phi nóng lòng sốt ruột đến muốn phát điên lên, nhưng đành vậy, chẳng còn cách nào khác. Thế rồi đến lúc đầy tháng, chính vương phi phải tự mình lên xe tới phủ Các lão để thăm bà Trần. Bà Trần thấy Vương phi tới thăm mình bèn cho bế cậu bé ra cho xem. Thật là một đứa bé mặt mũi đầy đặn, da thịt trơn trắng. Vương phi lấy làm mừng lắm, ôm vào lòng coi như một bửu bối độc nhất vô nhị. Vương phi thương lượng với bà Trần cho các cơ thiếp xem qua. Bà Trần trong lòng tuy không vui nhưng lại nể mặt Vương phi, đành phải gật đầu. Thế là cậu bé được sửa soạn ăn mặc đàng hoàng.

Bà Trần cho người nhũ mẫu của con mình bế lấy, rồi lên xe, theo vương phi tiến vào phủ.

Nhũ mẫu bế cậu bé bước vào nội viên, tức thì có mụ quản gia trong vương phủ chạy ra đón lấy, bế lên nhà trên, còn dặn với nhũ mẫu ở nhà dưới chờ đợi. Nơi nhà dưới, có khá nhiều các bà, các mụ, các thị nữ. Họ vây lấy người nhũ mẫu, chuyên dài chuyện ngắn huyên thiên. Họ còn đem rượu thịt mời mọc ăn uống. Mãi tới chiều, nhũ mẫu đã chếnh choáng say. Rồi mụ quản gia bế cậu bé trở ra, trên mặt phủ chiếc khăn vàng có thêu đôi rồng bằng gấm. Nhũ mẫu giơ tay đón lấy cậu bé ẵm vào lòng, định giở tấm khăn vàng lên xem nhưng mụ quàn gia vội ngăn lại, bảo tiểu quan nhân đã ngủ say và giục bế ngay về nhà. Một thị nữ bưng ra một cái tráp nhỏ và một gói bạc bảo để thưởng cho nhũ mẫu. Cái tráp đó do vương phi tặng cho cậu bé làm lễ kiến diện. Nhũ mẫu được bạc rồi, trong lòng vô cùng sung sướng, lên xe trở về.

Khi cậu bé về tới nhà, bà Trần Các lão thấy con mình ngủ say, vội đỡ lấy để nhẹ xuống giường. Bà mở cái tráp nhỏ ra xem, bỗng giật mình sợ hãi, vì thấy bên trong có mười hạt Đông Châu lớn bằng hạt nhãn, sáu viên hột xoàn, rồi nào là hổ phách, nào là ngọc mắt mèo, nào là xuyến, nào là vòng bảo thạch. Tất cả những thứ này đều là bảo vật cực quý trong đại nội. Nhưng đáng chú ý hơn cả là một cành trâm pha lê thuý, một cành trâm nữa bằng dương hi bạch ngọc và còn đến hai chục đôi vòng tai bằng chân tứ phi thuý bảo thạch. Lễ kiến diện như vậy kể sơ cũng phải tới trăm vạn lạng bạc.

Bà Trần Các lão xem xong rồi nói:

- Bà vương phi cho chú bé nhà mình là con gái hay sao mà thưởng trâm và vòng như thế kia? Chẳng lẽ chú bé nhà mình chải tóc kỳ đầu lại đeo vòng tai? Quả thực buồn cười nhỉ?

Nhũ mẫu nói tiếp:

- Cỏ lẽ vương phi kỹ lưỡng quá cho nên trâm vòng để sau này cậu bé nhà mình lớn lên lấy vợ dùng làm sính lễ hẳn?

Giữa lúc hai người đang hí hửng cười nói với nhau, thì cậu bé trên giường tỉnh dậy khóc vang lên. Nhũ mẫu vội chạy lại bế, chợt nghe miệng mụ ta la lên một tiếng: "Ối chao!" hoảng hốt. Bà Trần giật nẩy mình, vội chạy ra xem, cũng kêu lớn một tiếng: "Kỳ quái" và khóc rống lên:

- Con tôi đâu mất rồi? Trời ơi là trời!

Tiếng kêu khóc của bà Trần chẳng mấy lúc đã làm hoảng hết cả mọi người trong phủ. Họ vội chạy tới thăm hỏi. Các lão Trần Thế Quan lúc đó đang tiếp khách tại nhà trên, bỗng thấy đứa tiểu đồng hối hả xông vào sảnh, bất chấp cả khách, miệng thở hổn hển nói bà có việc xin mời ông vào nhà trong.

Trần Thế Quan trừng mắt nhìn đứa tiểu đồng. Khách thấy thế cáo từ ra về. Các lão đứng lên tiễn khách xong, mới quay vào nhà trong vừa chạy vội vừa hỏi:

- Xảy ra chuyện gì mà hối hả quá vậy?

Hồi 56

VUA KHANG HI GẠT LỆ PHẾ THÁI TỬ

Trần các lão, miệng thì hỏi tên tiểu đồng, chân thì tông mạnh cánh cửa phòng để vào trong. Ông nhìn thấy phu nhân nước mắt đầy mặt, tay vỗ bàn, miệng kêu om sòm:

- Trời ơi! Thằng bé nhà ta rõ là con trai, thế mà vào vương phủ có một buổi bỗng biến thành con gái, ông ạ!

Trần Thế Quan nghe đoạn, đã hiểu cớ sự, vội xua tay nói:

- Đừng có làm om sòm lên!

Nói xong, ông đuổi hết mọi người trong phòng ra, đóng cửa lại, rồi mới gọi nhũ mẫu lại gần bên mà cật vấn. Nhũ mẫu gạt lệ, đem chuyện tới vương phủ như thế nào, mụ quản gia bế cậu bé vào trong chuyện mãi tới chiều mới bế trả lại ra sao, không cho lật cái khăn phủ mặt cậu bé thế nào và khi về tới nhà cậu bé hoá thành cô bé ra sao, từ đầu chí cuối kể lại một lượt rành mạch không sót một chi tiết nhỏ nào, chỉ bỏ quên có một việc là y thị quá chén say chếnh choáng trong vương phủ mà thôi.

Trần Các lão nghe xong câu chuyện càng hiểu rõ thêm, bèn bảo nhũ mẫu:

- Trai hay gái chẳng kể gì! Trẻ nào cũng cần cho ăn no ngủ kỹ là được rồi, còn chuyện tới vương phủ từ nay cấm không được nhắc tới nghe không? Nếu người lắc lém cái mồm thì trước hết ta lấy đầu ngươi đó, nhớ chưa?

Nói xong, ông quát bảo nhũ mẫu ra ngoài ngay. Nhũ mẫu hoảng hồn bạt vía, vội bế cô bé rút êm theo cửa hậu. Lúc đó Trần Thế Quan mới bảo vợ:

- Này bà! Việc không có gì khó hiểu cả. Vương phi sinh hạ một tiểu công chúa nhưng vì bà ta chót nói dối vương gia là một tiểu vương gia, nên mới bảo đem thằng bé nhà mình vào cung rồi thừa dịp đánh đổi. Bây giờ, việc chạy vào vương phủ để đòi con về hẳn không được rồi. Ngay cả nếu tùm lum lên thì chẳng những mạng thằng bé khó toàn mà toàn gia đình mình cũng hết sống nổi nữa. Thôi, bà ơi! Già này xin bà từ nay chớ nhắc tới chuyện đó. Số vợ chồng mình mà có con trai thì rồi thế nào chả có. Bà đã sinh một đứa trai thì lo gì lại chả sinh đứa thứ thứ ba.

Trần phu nhân nghe chồng nói đầy đủ góc cạnh của câu chuyện mới vỡ lẽ, hết mọi nghi ngờ. Toàn gia Trần Các lão hình như không ai hay biết có chuyện đó xảy ra.

Tính đủ hai tháng vương phi mới bế cậu bé ra cho Ung vương nhìn mặt. Vương vừa nhìn qua thấy cậu bé mũm mĩm trắng trẻo, hơn nữa lại là con của phi tử Nữa Cô Lộc, thì lấy làm yêu quý lắm. Người trong phủ đều gọi cậu bé là Từ vương gia.

Trần Thế Quan rất sợ việc đổi con này bị bại lộ, liên luỵ tới mình nên ông dâng sớ xin Khang Hi cho trở về quê vui thú điền viên. Hoàng đế cố giữ lại mà không được, đành phải ưng thuận. Ung vương thấy mất một tay thân tín thì lòng buồn khôn xiết. May cho vương còn có Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc hai người đem hết tâm lực để phò trợ nên chẳng bao lâu phần nửa các hoàng tử đều trở thành tâm phúc của vương.

Trong số các hoàng tử, có Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Hựu, Dân Nga, Dân Đường, Dân Đào, Dân Đê tự lập môn phái riêng, nhất định không chịu đi cùng một đường với Ung vương. Bọn này một mặt thực hiện âm mưu của mình một cách kín đáo một mặt tìm cách lấy lòng vua cha. Khang Hi hoàng đế bèn phong Dân Chỉ, Dân Kỳ, làm Thân vương; Dân Hựu, Dân Nga làm Quận vương; Dân Đường, Dân Đê làm bối tử.

Ung vương được tin này, càng lấy làm giận. Trong bọn hoàng tử vừa kể trên phải nói Dân Dị, Dân Đường là hai đối thủ đáng ngại nhất của vương. Thâm tâm bọn này là hoạt động ngấm ngầm để mưu đoạt ngôi thái tử cho bằng được. Họ chẳng cần luyện tập võ nghệ, chẳng cần bầu bạn các tay hảo hán, chỉ thông đồng với mấy tên thái giám rồi nhờ đó giao kết với bọn phi tần, ngày ngày đem chuyện tồi bại của thái tử ra nói với nhà vua. Chuyện nói xấu càng ngày càng nhiều. Có kẻ nói thái tử nhiều lúc vào cung đùa cợt với cả phi tần. Cung có kẻ nói thái tử kết ngầm bọn hư đảng mưu sát hoàng đế, bao chuyện động trời như vậy, dù là gan đồng dạ sắt cũng phải nổi đoá, huống hồ một người như Khang Hi hoàng đế. Hơn nữa, những chuyện kể đây lại đều từ miệng mấy bà phi cưng quý nhất thì làm sao Khang Hi lại không tin. Thế là ngài truyền lệnh cho Tôn Nhân phủ, phế ngay thái tử. Nhưng Cố Luân công chúa cố tâm khuyên can đôi ba lần. Bà nói:

- Hoàng thượng hãy bớt giận. Phế lập thái tử là một đại sự chứ không phải việc thường. Ngài nên bàn tính cẩn thận với các vị đại thần trước đã.

Qua ngày hôm sau, biên viễn có tin cấp báo, nói bộ lạc Cát Nhĩ Đan làm phản, hết sức ngang ngược. Các bộ lạc Xa Thần, Trát Tát Khắc bị chiếm cứ, đều cho người chạy tới kinh đô cáo cấp năm lần, bảy lượt. Khang Hi hoàng đế được tin lập tức toạ trào, cùng các vị đại thần thương nghị, rồi xuống luôn mấy đạo thánh chỉ. Đạo thứ nhất phong Dụ Thân Vương Toàn Phúc làm Phủ Viễn đại tướng quân, Dân Đê làm Phủ Viên phó tướng quân, đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Bắc Cổ Khẩu. Đạo thứ nhì phong Cung Thân vương Thượng Ninh làm An Bắc đại tướng quân, Giản Thân vương Nhã Bố Hoà và Tín Quân Vương Ngạc Lễ làm phó tướng quân đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Hi Phong khẩu. Đạo thứ ba khiến bọn Nội đại thần là Đông Quốc Cương, Đông Quốc Suy, bọn đại thần là Sách Ngạc, Đồ Minh Châu, bọn A Mật Đạt đô thống là Tô Noa Lạt Khắc Trì, Chương Xuân A, Tịch Đát Nặc Mại, bọn Hộ quân thống lĩnh là Miêu Tề Nạp, Dương Dại, bọn Tiền phong thống lĩnh là Ban Đạt Nhĩ, Sa Mai Đồ Đô tuỳ doanh tham tán quân vụ, đem tất cả mười vạn đại binh rầm rầm rộ rõ kéo thốc ra quan ngoại.

Không ngờ, một lực lượng hùng hậu như vậy mà suốt một năm trời từ mùa thu xuất quân tới mãi mùa hạ năm sau vẫn chưa đẩy lùi được bọn Cát Nhĩ Đan. Khang Hi hoàng đế trong lòng càng thêm nóng nảy bực dọc. Ngài bèn tự mình điều động ngự lâm quân mã kéo tới miền Bác Lạc Hà để đốc chiến. Đồng thời ngài hạ lệnh thái tử Dân Nhung ở lại kinh đô giám quốc.

Khi Khang Hi hoàng đế vừa ra tới quan ngoại thì không ngờ cáo trạng tội ác của thái tử cũng bay theo ra như bươm bướm. Có tờ tố cáo thái tử khi lăng tôn thất, có tờ tố cáo nhiễu hại bách tính, có tờ tố cáo tự tiện cướp đoạt cống vật, có tờ tố cáo làm loạn cung đình, có tờ khủng khiếp hơn, tố cáo âm mưu thí nghịch phụ hoàng. Hoàng đế xem rồi lòng giận tức xưa lại nổi dậy, gần như phát điên lên. Ngài lập tức hạ một đạo thánh chỉ, cho người về ngay kinh triệu thái tử ra quan ngoại.

Mấy ngày sau, thái tử Dân Nhung đã tới hành dinh. Nhung vào trướng quỳ trước mặt phụ hoàng. Khang Hi hoàng đế nghe Nhung nói khùng khùng điên điên thì bực tức đến cùng độ. Ngài tuốt cây bội đao, vung lên chém Nhung một nhát. May thay lúc đó có ông cậu Đông Quốc Duy đứng bên cạnh đỡ kịp. nên không việc gì. Hoàng đế vỗ bàn quát mắng um xùm, rồi nhỏ lệ ròng ròng xuống đôi má. Ngài rủa thái tử hành động bậy bạ. Chỉ vì nể mặt người mẹ mà ngài nín nhịn hai mươi năm trời và tha tội cho thái tử đó thôi. Bây giờ, tội ác càng ngày càng nhiều, thái tử lại dám tự ý kết đảng, làm nhục đại thần, sinh tính hung ác, mưu hại anh em, thậm chí nhiễu loạn cả cung đình, mưu thí cả vua cha. Người như thế quả đã cuồng vọng, bội nghịch đến quá mức, thử hỏi ngài còn muốn để lại trên đời này mà làm gì?

Khang Hi hoàng đế chửi rủa đến nỗi ngất xỉu luôn. Lúc tỉnh dậy, ngài vẫn thấy thái tử quỳ trước mặt, bèn nhảy tới phía trước, giơ thẳng cánh tát hai cái vào mặt thái tử rồi quát lớn:

- Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!

Hôm sau, mọi người thấy một đạo thánh chỉ hạ xuống, phế bỏ thái tử, giao binh quyền lại cho Khang Thân vương, rồi bãi giá hồi kinh. Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế sai cầm tù Dân Nhung, rồi triệu tập đại thần bàn chuyện lập thái tử mới. Bọn đại thần anh nào cũng vì sự biệt đãi của hoàng tử mình phò trợ, nhân dịp này hết sức hết lòng đề cử chủ mình.

Hồi đó, Bát hoàng tử Dân Dị đã ngầm biếu xén rất nhiều châu báu vàng ngọc cho quốc cữu Đinh Quốc Duy và đại học sĩ Mã Tề để họ ngầm sai bọn Nội đại thần A Linh A; Tán trật đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thi Vương Hồng Tư, Thị lang Khuê Tự và cả Ba Hỗn Đại, làm tờ sớ tâu lên nói Bát A Ca (Dân Dị) có thể kế vị.

Khang Hi hoàng đế xem xong tờ sớ, chẳng ngờ nổi trận lôi đình, quát:

- Bát A Ca ít khi chăm lo đến công việc. Huống hồ trước đây, hắn còn bị nghi là mưu hại thái tử. Mẹ hắn lại xuất thân nơi bần tiện thì làm sao lập hắn được?

Ngài phái người bí mật điều tra, quả nhiên tra ra việc Dân Dị tư thông với bọn đại thần. Qua ngày thứ hai, hoàng đế lên điện, lớn tiếng quát hỏi. Ba Hỗn Đại giật mình kinh hoảng, mồ hôi toát ra như tắm, vội quỳ xuống đất, đem chuyện Đông Quốc Duy cùng Mã Tề hai người chi vẽ bọn y bảo tấu cho Bát A Ca như thế nào kể lại một lượt. Khang Hi hoàng đế nghe xong, long nhan càng giận dữ. Ngài lập tức cách chức tất cả bọn quan lớn nhỏ; lại cách luôn cả tước vị Thân vương của Dân Dị. Đông Quốc Duy nhờ được cái thế quốc cữu nên chỉ bị quở trách vài câu rồi đuổi ra khỏi kinh sư, vĩnh viễn không được vào cung. Đại học sĩ Mã Tề bị kết án ly gián tình cốt nhục trong hoàng gia, tội rất nặng, hạ chỉ giao hình bộ chém đầu. Các quan văn võ Mãn triều cực lực tâu xin miễn tội, lúc đó hoàng đế mới khoan hồng, chỉ cách tước danh. Dân Dị cũng bị giao về hình bộ nghiêm hành quản thúc.

Sau khi xảy ra việc động trời này, bá quan văn võ miệng đều câm lại như hến, chẳng còn kẻ nào dám ho he xin xỏ cho ai. Ngay cả hoàng đế cũng chẳng thèm nói tới việc lập thái tử.

Mãi về sau, khi thấy hoàng đế bớt giận rồi thì hoàng hậu mới lên tiếng khuyên nhủ:

- Lập thái tử vốn là việc quốc gia đại sự. Bệ hạ hiện có một số đông hoàng tử, ngài không thể không lập người kế ngôi. vì có thế mới tránh khỏi chuyện biến loạn trong tương lai được.

Hoàng đế thấy hoàng hậu nói phải, liền bàn tính với bà, hỏi xem hoàng tử nào xứng đáng, thì bà nói:

- Thập tứ hoàng tử Dân Đường, tính vốn hiên hậu, có thề lập làm tự quân được.

Câu nói này của hoàng hậu thật rất hợp ý hoàng đế. Song, thập tứ hoàng tử hiện còn nhỏ tuổi, nếu đem công bố thánh chỉ ra, e rằng có kẻ mưu hại mất. Nghĩ tới chỗ này, bỗng ngài nhớ tới Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc. Hoàng hậu cùng hùa thêm, nói hai người này vốn có bụng trung thành có thể ký thác được, thánh chỉ liền hạ xuống, truyền Trương, Ngọc hai người vào cung gấp để bàn tính việc lớn.

Được hỏi về chuyện lập thập tứ hoàng tử lên làm thái tử, Ngạc Nhĩ Thái bỗng nghĩ ra một kế bèn đề nghị với Khang Hi hoàng đế:

- Xin thánh thượng tự tay viết chiếu truyền ngôi rồi bí mật đem giấu tại mặt sau tấm biển lớn của điện Chính Đại Quang Minh. Đợi khi nào thánh thượng trăm tuổi, lúc đó Cố mệnh đại thần sẽ tới lấy chiếu thư tuyên đọc. Các hoàng tử thấy thủ bút của thánh thượng, tất nhiên không còn ai có thể tranh vào vào đâu được nữa.

Khang Hi hoàng đế gật đầu khen hay. Ngài nhớ tới quốc cữu Long Khoa Đa, liền cho triệu về cung, mặt khác và tự tay mình thảo tờ chiếu. Chiếu như sau:

"Dân Nhung nhuốm chứng tật khó dạy bảo, đã bị truất phế. Sau khi yến giá, trẫm truyền ngôi lại cho thập tứ hoàng tử Long Khoa Đa vốn là nguyên cữu (quốc cữu đầu tiên), Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc đâ từng chịu cái ơn tri ngộ đặc biệt của Trẫm: các ngươi phải đồng tâm hợp lực phò trợ tự quân, làm sáng tỏ lẽ trời, chớ có bạc ơn mà hỏng trọng trách khiến phụ ý trẫm, Khâm thử".

Ba vị đại thần chịu cố mệnh của hoàng đế, đem tờ chiếu giấu kín vào sau tấm biển lớn tại điện Chính Đại Quang Minh. Xong đâu đấy họ rút êm ra khói cung, ai về nhà nấy.

Cách lập đi chiếu này của Thánh tổ còn được dùng liên tiếp bảy đời về sau, suốt từ Ung Chính, Càn Long, Gia Khanh. Đạo Quang cho tới mãi Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự. Sau đó cũng là việc về sau, chưa cần nói tới. Lại nói chuyện quốc cữu Long Khoa Đa vừa đặt chân tới phủ đã thấy tên nội giám của Ung quán vương ngồi đợi đó từ lâu. Hai bên thì thầm. Đa bảo tên nội giám hẹn gặp Ung vương tối hôm đó, vào canh ba bốn khắc. Tên nội giám vội quay về vương phù hồi bẩm.

Trời đêm qua canh ba, Long Khoa Đa lặng lẽ bước ra cửa sau rồi tới cống hậu cung Ung vương, lẻn vào bên trong. Khi tới một mật thất, ông đã thấy đại học sĩ Trương Đinh Ngọc, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái đều đã có mặt tại đây. Ngoài ra còn có vài vị quân sư, một đám đông kiếm khách. Lát sau, Ung vương bước vào mật thất. Cả bọn thì thào bàn tán với nhau suốt tới sáng mới nghỉ ăn cháo yến rồi giải tán. Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc lại thượng triều như cũ. Hoàng đế thăng điện, nhưng lúc này ngài không lớn tiếng, nặng mặt như hôm qua nữa.

Quan Binh bộ thượng thư xuất ban tâu:

- Muôn tâu thánh thượng! Văn thư cáo tiệp của Khang Thân vương từ tám trăm dặm vừa mới về tới, nói bộ chúa Cát Nhĩ Đan đã đại bại ở Đại Tích sơn, chạy trốn suốt đêm tới Cương A Não Nhĩ. Hiện nay quân ta đã thu phục toàn bộ Cát Nhĩ Đan, bộ chúa đã đích thân tới đại doanh của ta nộp khoản đầu hàng Khang thân vương bất nhật ban sư về kinh.

Khang Hi hoàng đế nghe tin này, lòng vô cùng hoan hỉ, liền truyền chỉ khen thưởng, chuẩn bị tiệc mừng chiến thắng, đợi khi Khang thân vương về là đích thân xa giá tới để khao thưởng. Chẳng bao lâu, Khang thân vương thống lĩnh đại binh về tới kinh. Hoàng đế ngự giá ra khỏi thành đón rước. Mười vạn đại quân vừa nhìn thấy hoàng đế nhất tề tung hô vạn tuế. Ngài ngồi ngay trên ngựa, ban thưởng rượu mừng.

Qua ngày hôm sau, Khang thân vương đem theo cả bọn quan viên tướng tá tùng chinh vào triều tạ ơn, hoàng đế ban yến ngay tại Sùng Chính điện, hạ thánh chỉ thăng cấp cho mọi người, ban thưởng cho Khang Thân vương chức Tử cấm thành kỵ mã.

Lúc này, trong nước thái bình, bốn bề thịnh trị, Hoàng đế lại Nam tuần lần thứ sáu. Nội đại thần sớm đã tống đạt văn thư đi khắp các tỉnh miền Giang Nam phải chờ chực tiếp giá suốt lộ trình.

Đã năm lần Nam tuần, hoàng đế lần nào cũng tới miền Tô Châu du ngoạn. Đất này có một vị thân sĩ giàu có vào bậc nhất, họ Uổng tên Uyển. Mỗi lần xa giá tới, vị Uổng thân sĩ này đều đem bọn sĩ phu toàn thành ra đón. Trong trang viên của họ Uổng có một khu vườn bài trí rất đẹp gọi là Sư tử lâm.

Nơi đây được coi là một trong nhưng thắng cảnh nổi danh nhất miền Giang Nam. Lần Nam tuần đầu tiên vào năm thứ hai mươi ba niên hiệu Khang Hi, hoàng đế đã có tới Sư tử lâm một lần. Ngài đối với Uổng Uyển rất thân tình. Lúc lâm biệt, ngài có thưởng cho Uổng Uyển một cuốn sổ trong có thủ bút của ngài. Cuốn sổ này tất nhiên truyền tới tay con trai Uyển, lúc đó mới có tám tuổi, tên gọi Uổng Nguyên. Quang cảnh tiếp giá của cha xưa thế nào, Nguyên đều nhớ rành rọt trong đầu.

Khi Thánh Tổ trở về kinh, những đồ ngự dụng đều được cất giấu và niêm phong cẩn thận. Lần Nam tuần thứ sáu này tính ra cách lần đầu có hơn hai mươi năm.

Thế rồi công văn hoả tốc tới Tô Châu. Đám thân sĩ lại một phen cuống quýt cả lên. Viên tuần phủ Tô Châu ngày đêm chỉ có một việc bàn tính với đám thân sĩ về việc tiếp giá. Trong bọn thân sĩ, tuy có kẻ đã tiếp giá lần trước nhưng ngoài hai mươi năm rồi, họ đã già lẫn cả, không còn làm được việc gì.

Còn mấy kẻ hậu bối chưa từng được thấy quang cảnh vĩ đại này, thử hỏi có dám ra đảm nhiệm trọng trách tiếp giá? Tuần phủ Tô Châu bèn đưa ra ý rằng, lại để gia đình họ Uổng nhận lĩnh việc này, lấy cớ rằng hoa viên nhà họ Uổng rộng lớn, gia tài lại sung túc, bao nhiêu những đồ ngự đụng ngày trước vẫn còn nguyên cả.

Uổng Nguyên thấy mọi người chứng khẩu đồng từ, cũng chẳng cần thoái thác làm gì nữa, liền nhận lĩnh trách nhiệm.

Gia đình họ Uổng có hai vị tiểu thư, nàng lớn tên Liên, nàng nhỏ tên Dung. Cả hai nàng đều mặt tươi như hoa phù dung, thân hình lả lướt như cành dương liễu. Cô chị mười bảy, còn cô em mười sáu - cái tuổi của xuân tình đương độ.

Thành Tô Châu khắp ba hạng người, từ thượng lưu, trung lưu cho tới hạ tiện, ai chẳng nghe danh hai người đẹp của nhà họ Uổng. Biết bao nhiêu quan gia quý tộc đã tới cầu hồn, nhưng Uổng Nguyên đều một mực từ chối, chỉ vì y không muốn xa hai cô con gái quý của mình. Liên và Dung đang ở trong hoạ viên, nhưng vì việc hoàng đế sắp tới nên phải đi vào nội viên, chẳng mấy chốc ngày mồng một tháng hai đã tới. Hôm đó người ta thấy hai tên nội giám đem mật dụ của hoàng đế tới Tô Châu, xông thẳng vào nha môn phủ đài. Viên phủ đài Tô Châu vội mở ra xem mật dụ, bèn cho quan lại, thân sĩ Tô Châu tới Trấn Giang đón rước. Hai tên nội giám còn nói thêm:

- Thánh chỉ của hoàng thượng còn bảo bọn tôi tới Tô Châu kiếm cho kỳ được một trăm cô gái con nhà lương gia sẵn sàng để đợi lệnh. Vậy xin cố lo cho đủ số trăm người trong ba ngày để bọn tôi mang đi.

Phủ đài nghe tới chuyện này, tuy thấy chẳng ra thể thống gì cả nhưng không thể bác bỏ, ngay đêm hôm đó, triệu tập thân sĩ trong vùng lại để hàn tính. Một vị thân sĩ đứng lên nói:

- Việc này dễ quá mà! Xứ Tô Châu nhà mình có thiếu gì cô đào con hát. Ta chỉ cần chọn đúng một trăm đứa xinh đẹp, ăn mặc lịch sự rồi đưa đi là xong.

Viên phủ đài nghe ra, vỗ tay khen hay, rồi tức khắc cho sai nha đi lùng khắp nơi, bắt tất cả cô đào, con hát, đĩ điếm về nhà, đích thân chọn lựa đúng một trăm đứa, giao cho hai tên nội giám mang đi. Đồng thời, ông tập họp tất cả văn quan võ tướng, cùng thân sĩ toàn tinh tới Trấn Giang đón giá.

Cách đó vài hôm, hoàng đế ngồi thuyền tới Hữ Dả quan rồi lên bờ. Mười sáu tên thái giám khiêng một cỗ kiệu chạm rồng, chạy thẳng vào hoa viên của Uổng thân sĩ mới hạ xuống. Uổng Nguyên thấy hoàng đế giáng lâm nhà mình, lấy làm vinh hạnh đến tột bực, suốt ngày chờ chực ngoài cổng. Hoàng đế ngự trong hoa viên, ngày đêm vui đùa với bọn cô đào, con hát, nào gối dài, nào chan ấm, phè phỡn hành lạc. Phía ngoài. phu đài cho tập hợp hết bọn quan chức đứng đợi lệnh. Bọn thái giám canh cửa không cho một kẻ nào vào trong. Đám quan lại đành phải hùn nhau kiếm một số tiền là mười vạn lạng bạc "hiếu kính" lũ thái giám, lúc đó chúng mới chịu vào thông báo giùm. Hoàng đế nhất nhất truyền kiến. Người cuối cùng là Uổng Nguyên, được vào trò chuyện mãi tới canh hai mới lui gót trở ra.

Từ hôm đó, hoàng đế ngày nào cũng truyền gọi Nguyên vào hầu chuyện. Nguyên cũng chuẩn bị rất nhiều những món ăn đồ chơi đặc biệt để dâng lên ngài. Quan hệ giữa hai người thành ra hết sức mật thiết. Hoàng đế bảo Nguyên:

- Ngày xưa, nhiều vị vua có thiếu gì bạn áo vải. Nay trẫm muốn cùng khanh kết nghĩa anh em có được không?

Nguyên nghe xong, giật mình hoảng sợ, vội bò sát xuống đất, dập đầu lia lịa, tâu:

- Kẻ vi thần thực không dám thu mệnh!

Hoàng đế đích thân bước tới nâng Nguyên dậy mà bảo:

- Xin cho mời phu nhân và tiểu thư ra đây cho Trẫm được gặp một lần và nhận làm chỗ người nhà.

Lệnh của hoàng đế ban ra, thử hỏi Nguyên làm sao dám trái lời. Nguyên chạy đi gọi vợ là Phương thị và hai con gái là Uổng Liên, Uổng Dung ra hoa viên. Được ra chầu vua, hai cô Liên, Dung trang điểm lộng lẫy, vàng ngọc châu báu gắn đầy người, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, xinh đẹp không để đâu cho hết.

Hoàng đế vừa nhìn thấy bóng hai nàng đã hết lời khen ngợi. Ngài hạ lệnh đặt tiệc, tự tay chuốc chén, bồi tiếp ba mẹ con. Tiệc vui kéo dài mãi tới lúc trăng lên đèn mở, thế mà ba mẹ con vẫn chưa thấy ra cho. Nguyên trong lòng lo lắng cuống quýt cả lên nhưng biết làm sao được kia chứ? Nguyên đứng phía ngoài cống, lăng xăng chạy đi chạy lại, hòng có tí tin tức gì lọt ra. Nhưng buồn thay, tịnh vô âm tín! Mong mãi Nguyên mới thấy vợ bước ra, hỏi tới con gái, thì thị chỉ thở dài và lắc đầu nói:

- Hoàng thượng lưu chúng lại trong phòng rồi?

Nguyên nghe xong như bị ai nện cho một cùi vào đầu, chỉ còn biết tròn xoe đôi mắt và giậm chân xuống đất thình thịch, nhưng rồi cũng đành chịu chứ làm gì hơn được nữa.

Luôn một hơi ba ngày ba đêm, hoàng đế chẳng truyền ai cả. Qua ngày thứ tư, tên thái giám canh cửa bỗng truyền lệnh, nói hoàng thượng muốn hồi kinh. Bọn văn quan võ tướng Tô Châu lại một phen chạy vạy đến bở hơi tai. Họ rối rít, nào nghị trình này nọ để tống tiễn bọn thái giám, nào lo liệu mười sáu chiếc quan thuyền để đưa hoàng đế xuống ngự.

Uổng Nguyên cũng theo sau đoàn người tiễn đưa. Chính mắt Nguyên nhìn thấy hai cô con gái cưng được đưa xuống thuyền. Rồi một tiếng thanh la vang dậy, long kỳ kéo lên, ngự thuyền rời bến và xa dần.

Uổng Nguyên tiễn đưa thánh giá xong, cúi đầu buồn bã trở về. Vừa về tới nhà Nguyên đã thấy rất đông thân hữu kéo tới để chúc mừng. Ai cũng nói chẳng bao lâu nữa y sẽ trở thành quốc trượng.

Qua ngày thứ ba, bỗng từ nơi phủ đài một viên võ tuần bộ chạy tơi bảo:

- Hôm nay, phủ đài vừa mới tiếp được một công văn rất khẩn yếu, xin mời ngài tới gấp nha môn để thương nghị.

Uổng Nguyên nghe xong chẳng hiểu sự thể ra sao, đành phải leo lên kiệu đi ngay tức khắc. Khi tới phủ nha, Nguyên thấy vị phủ đài cùng khá đông quan lại, thân sĩ ngồi trong, vẻ mặt người nào cũng hớt hơ hớt hải, lấm lét nhìn vào chiếc án thư phía trên có đặt một bức công văn. Bọn này thấy Uổng Nguyên vào liền cầm đưa cho Nguyên xem, thì ra đó là bức công văn từ Hoài Ân phủ gửi tới, nội dung nói thánh giá qua địa phận vào ngày mai mười bốn tháng hai và tính ra thì ngày hai mươi sáu sẽ tới Tô Châu.

Mọi người có vẻ lo sợ, vì lúc này họ mới biết rõ hoàng đế hôm trước là hoàng đế giả, còn người sắp tới đây mới chính là Khang Hi hoàng đế. Kẻ nào nhìn thấy bức công văn đó còn được, chứ với Uổng thân sĩ thì thật là cả một chuyện trời sập trước mắt ông. Ông giậm chân thình thịch xuống đất, miệng lắp bắp nói:

- Hỏng… bét! Hỏng… bét rồi! Tội nghiệp cho hai con gái tôi! Trời ơi!

Uổng Nguyên còn chưa nói hết câu thì hai dòng lệ đã tràn xuống đôi gò má xám ngoét. Bọn quan lại đứng chung quanh, kẻ dỗ người khuyên. Có kẻ an ủi:

- Đứa nào cả gan giả dạng hoàng đế, bọn tôi thế nào cũng tầm nã được, đem về kêu án tử hình. Lúc đó hai vị thiên kim tiểu thư sẽ lại "châu về hợp phố" thôi.

Phủ đài cũng lên tiếng:

- Câu chuyện nầy xảy ra tất cả bọn ta đều liên can. Vậy xin chư vị nhân huynh tuyệt đối giữ kín, chớ có tiết lộ cho bất cứ kẻ nào khác hay được. Thử hỏi chư vị còn muốn sống nữa hay không?

Lời nói nửa như nhắn nhủ nửa như doạ nạt này quả đã làm cho bao nhiêu cái mồm câm lại như hến. Rồi không ai bảo ai, tự biết phận mình tất cả lặng lẽ rút để mai đây lại phải lo liệu chương trình tiếp giá lần nữa.

Tháng hai ngày hai mươi sáu, hoàng đế giá lâm Hồ Khẩu, rồi ba mươi, lên chơi Đặng uý sơn. Lão hoà thượng Tế Chí chùa Thánh Ân năm xưa tiếp giá thì còn trẻ, nay đã bảy mươi ba tuổi, đầu tóc bạc phơ, quỳ mọp ngoài sơn môn đón giá. Khang Hi hoàng đế sai thái giám ban thưởng cho nhà sư già hai cân nhân sâm và không biết bao nhiêu là hoa trái, dưa cáp mật, quả phiên bà, trái nho, trái tùng… Thánh tổ giơ tay ra vuốt mớ râu tóc bạc phơ của hoà thượng Tế Chí rồi nói:

- Hoà thượng già rồi. Đến ngày mười hai tháng ba, hoà thượng nên tới Ký Sương Viên núi Huệ Sơn vùng Vô Tích mà ở.

Ký Sương Viên là khu vườn trong đó có cây cổ thụ, thân cây có tới ba người ôm mới xuể. Thánh tổ thường đi bách bộ dưới bóng cây này. Sau đó, khi về kinh rồi, ngài thường có thư hỏi xem cây cổ thụ còn không. Hồi đó, có một vị thân sĩ tên gọi Tra Thận Hành, có làm một bài thơ nói cây được binh an gởi trình hoàng đế. Bài thơ như sau:

Cao tận mây xanh khoát mấy ôm.

Khum khum cành lá hỏm nên vòm

Bình an xin báo thiên nhan rõ.

Danh mộc Giang Nam chỉ một chòm

Sau khi gặp hoà thượng Tế Chỉ ở Hoa Sơn, hoàng đế về tới kinh, trong lòng thường nhắc nhở tới. Về sau, khi thánh tổ sáu mươi chín tuổi thì hoà thượng Tế Chí đã tám mươi tám thế mà vẫn còn khang kiện. Ngài bèn sai một viên quan tới Vô Tích đón hoà thượng về kinh, cử hành Thiên Tẩu Yến. Thiên Tẩu Yến là gì? Đó là yến tiệc do nhà vua thết một ngàn ông lão từ sáu mươi lăm tuổi trở lên, bất luận là Mãn hay Hán.

Các vị bô lão này được đưa tới đây bằng noãn kiệu, dự yến liên tiếp trong ba ngày. Hoà thượng Tế Chí được mời lên ghế chủ toạ trong buổi tiệc. Ngoài ra, hoàng đế còn bày một chiếu rượu đặc biệt toàn tế tửu để thưởng cho Tế Chí hoà thượng.

Ngài ngồi cạnh để chuốc chén, lòng đầy vui vẻ. Ba ngày sau tiệc mới tan. Hoàng đế ban thưỏng cho mỗi người một bức tự hoạ đem về nhà. Suốt cả năm đó, thánh tổ hết sức hứng khoái tháng giêng tháng hai, ngài tuần hạch Cơ Điện. Từ tháng tư đến tháng chín, ngài tuần hạch Nhiệt Hà. Qua tháng mười, ngài tuần hạch Nam Uyển, tổ chức cuộc săn bắn. Ngài cưỡi ngựa bắn cung còn rất mạnh. Nhưng đến tháng mươi một, có một hôm, ngài bỗng nhuốm lại bệnh, chẳng mấy bệnh đã trở thành trầm trọng. Ngài bèn hạ lệnh cho rời giá từ Nam Viên qua Sướng Xuân Viên để về dưỡng bệnh tại Ly cung.

Hồi 57

SỬA DI CHIẾU, UNG VưƠNG CưỚP NGAI VÀNG

Tin Khang Hi hoàng đế dưỡng bệnh ở Sướng Xuân Viên bay tới tai Ung quận vương Dân Trinh, tức thì vương chạy đến thỉnh an. Không ngờ bệnh tình của hoàng đế đã quá trầm trọng, trong lòng lại phiền bực trăm phần nên ngài không muốn gặp mặt họ hàng thân thích.

Dân Trinh đành phải lui ra ngoài, bí mật dò la tin tức.

Hầu hạ bên cạnh hoàng đế lúc đó, ngoài vài tên nội giám thân cận và cung nữ ra, chỉ có ba vị đại thần là quốc cữu Long Khoa Đa, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, đại học sĩ Trương Đinh Ngọc cùng ba vị ngự y lo liệu thuốc thang mà thôi.

Ba vị đại thần này vốn thuộc cánh của Ung vương, điểu đó khỏi cần nói. Ngay cả bọn thái giám và cung nữ thường ngày cũng được vương biệt đãi. Cho nên nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất ngữ của hoàng đế đều được chúng mật báo cho vương hay.

Trong đám cung nữ hầu cận, có một nàng vốn là con gái của Quý Tá Lĩnh. Nàng vào cung đã được bốn năm, tính tình lanh lẹ mà thân hình lại đẹp đẽ. Nhờ đó, nàng được phái tới Sướng Xuân Viên, chuyên hầu hạ những khi hoàng đế đến đây lâm hạnh với hoàng hậu. Nàng thấy Ung vương tướng mạo rất oai dũng, biết thế nào vương cũng có ngày phát đạt, bởi thế khi thấy vắng người, nàng bèn lẻn vào phòng cạnh chỗ Ung vương chờ chực để chu liệu đầy đủ trà nước, cơm rượu cho vương. Ung vương ở một mình trong phòng, bỗng nhiên có người tri kỷ thử hỏi còn gì sung sướng hơn. Thế rồi lửa gần rơm, phát hoả. Trong lúc mùi mẫn, Ung vương hứa với nàng, khi nào lên ngôi hoàng đế, sẽ phong cho nàng làm quý phi. Nàng cung nữ họ Quý nghe nói càng cảm kích bội phần, từ đó đem hết lòng phụng sự.

Ung vương cùng Long Khoa Đa bàn tính, giả tạo chỉ ý của hoàng đế, tuyên cáo ra ngoài, nói hoàng đế trong lúc bệnh hoạn, buồn phiền, bất luận nội ngoại thân thích, cấm không được ai bước vào vườn. Tội nghiệp cho bọn phi tần, quận vương, công chúa, cả những thân thuộc quý tộc, thảy đều bị chặn lại ngoài cổng. Ngay cả hoàng hậu cũng chỉ được đứng ngoài khấu đầu thỉnh an mà thôi. Bên trong, Ung vương một mình tha hồ thao túng, muốn làm trời làm đất gì cũng chẳng ai biết, ai hay.

Bệnh tình Khang Hi hoàng đế càng ngày càng nặng. Đám ngự y đủ mặt, anh, nào anh nấy khoanh tay vô sách, chỉ biết ngày đêm hầu hạ bên giường, đổ nước sâm cho hoàng đế cầm hơi mà thôi.

Chẳng bao lâu đã tới cuối ngày cuối tháng một mùa đông. Trời lạnh thấu xương. Khang Hi hoàng đế nằm trên long sàng, hơi thở đã có phần khó khăn. Ngài tự biết mình không còn sống được bao lâu nữa, lào thào bảo Long Khoa Đa cho gọi thập tứ hoàng tử tới, nhưng Đa đã mưu tính trước, vâng lệnh hoàng đế trở ra, bèn gọi ngay Ung vương vào phòng, Hoàng đế lúc đó hơi thở đã gần tàn.

Long Khoa Đa chạy ra khỏi vườn, thấy nào phi tần, nào hoàng tử, đông đến cả trăm đang chờ chực ngoài cổng vườn, liền cố ý lớn tiếng bảo:

- Hoàng thượng có chỉ, các vị hoàng tử tới thăm bất tất phải vào trong. Ngài có lệnh chỉ triệu có mỗi mình Tứ hoàng tử vào kiến giá mà thôi.

Nói đoạn, Đa gọi kẻ thân tuỳ dắt ngựa lại, nói đi tìm Tứ hoàng tử. Đa giơ roi quất ngựa. Ngựa lồng bốn vó phi như bay, vút cái đã ra khỏi cửa cung. Chạy tới điện Chính Đại Quang Minh, Đa sai tên thái giám tâm phúc lẻn vào trong lấy tờ di chiếu của Khang Hi hoàng đế cất giấu ở phía sau tấm biển lớn Đa cầm lấy di chiếu mở ra rồi sửa chữ "thập" (mười) ra chữ vu (cho) trong câu: "Truyền ngôi cho hoàng tử thứ mười bốn" thành câu: "Truyền ngôi cho hoàng tử thứ tư (đổi câu "Truyền vị thập tứ hoàng tử" ra "Truyền vị vu tứ hoàng tử").

Sửa xong, Đa lại đặt tờ di chiếu vào chỗ cũ, lẻn ra khỏi cửa điện, phóng như bay về vườn Sướng Xuân.

Hôm đó, Khang Hi hoàng đế ngất đi đến mấy lần. Mãi tới chiều hôm ngài mới dần dần tỉnh lại. Ngài mở mắt nhìn, thấy bên cạnh giường có một người đang quỳ, tay bưng bát nước sâm giơ cao lên, miệng luôn luôn gọi "phụ hoàng, phụ hoàng".

Khang Hi hoàng đế mơ mơ màng mang, tưởng đó là thập tứ hoàng tử, bèn giơ tay ra sờ vào mặt. Ung vương, thừa cơ hội đó, ghé sát lại bên, hoàng đế mở to mắt nhìn kỹ một hồi, mới nhận ra là tứ hoàng tử Dân Trinh, bất giác khí uất nổi lên, chỉ còn gầm được một tiếng: "Mày ư?" rồi im luôn. Miệng ngậm một lúc lâu mà không còn mấp máy nữa. Thì ra ngài đà chết sau khi nói xong tiếng "Mày ư?".

Dân Trinh thấy vậy, bèn giả bộ bi thương đau khổ, khóc rống lên. Bọn thái giám đứng phía ngoài nghe tiếng khóc, vội chạy vào tay chân bấn loạn, kẻ chạy đi lấy nước, kẻ chạy đi lấy áo để tắm rửa và thay đối y phục cho hoàng đế.

Long Khoa Đa lúc đó cũng đã có mặt tại bên trong, vội nâng Ung vương dậy. Vương ghé vai Đa hỏi nhỏ:

- Đại sự xong rồi chứ?

Đa chỉ gật đầu, không nói năng gì. Một lát sau, tin buồn đã bay ra tới cửa cung. Bọn phi tần, hoàng tử tông cửa ùa vào. Lúc đó, ngoài hoàng tử Dân Nhung bệnh hoạn, Dân Đê, Dân Dị bị giam cầm, Dân Đề xuất chinh nơi quan ngoại thì có tam hoàng tử Dân Chỉ, thất hoàng tử Dân Hựu, cửu hoàng tử Dân Đường, thập hoàng tử Dân Nga, thập tam hoàng tử Dân Tường, và các hoàng tử Dân Kỳ, Dân Tư, Dân Ngẫu, Dân Lộc, Dân Lễ, Dân Hi, Dân Vi, Dân Cổ, Dân Kỳ, Dân Bí - cả thảy là mười sáu vị. Bọn phi tần trong tam cung lục viện theo chân mười sáu vị hoàng tử chạy tới bên ngự sàng, bò mọp xuống đất, cất tiếng khóc om sòm. Hồi lâu Long Khoa Đa mới bước tới khuyên thôi và lớn tiếng nói:

- Nước không thể một ngày không vua, dân không thể một ngày không chúa. Nay Đại hành hoàng đế đã xa giá về trời. Bản đại thần chịu sự ký thác của tiên đế. Xin mời chư vị quận vương mau tới điện Chính Đại Quang Minh để nghe bản đại thần tuyên đọc di chiếu.

Các vị hoàng tử nghe nói vua cha có di chiếu, kẻ nào cũng nghi nghi hoặc hoặc, chẳng biết ai sẽ là người thừa kế vị. Trong bọn, Dân Đường, Dân Nga là tỏ ý lo lắng bôn chồn nhất - hai anh em nhà này chỉ sợ kẻ khác cướp mất cái ngai vàng mơ ước bấy lâu, liền ba chân bốn cẳng chạy một mạch tới điện Chính Đại Quang Minh chờ đợi trước.

Một lát sau, khắp triều văn võ đều tới đông đủ. Dưới thềm, ba ngàn quân ngự lâm xếp thành hàng, đông như kiến. Trong ngoài im phăng phắc. Bỗng người ta thấy Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc, ba người chạy thẳng lên điện.

Trên điện đã bày một hương án. Ba người nhìn lên không, hành lễ xong bèn tiến về phía sau tấm biển lớn để thỉnh di chiếu.

Long Khoa Đa đứng ra ngay giữa điện, lớn tiếng tuyên đọc.

Khi đọc tới câu "Truyền ngôi cho tứ hoàng tử…" từ phía dưới thềm bỗng nổi lên tiếng ồn ào ầm ĩ. Đại thần trực điện nhảy lên quát im, lúc đó mới đọc nốt được tờ di chiếu.

Từ nãy đến giờ, tứ hoàng tử Dân Trinh cũng cùng với mọi người quỳ dưới thềm nghe chỉ. Di chiếu vừa đọc xong, toàn ban thị vệ xúm lại rước Dân Trinh lên điện. Tứ hoàng tử Dân Trinh chẳng khiêm nhường khách khí gì, bận ngay mũ áo hia đai hoàng đế vào. Vương từ từ bước lên ngai báu. Dưới điện, ba ngàn ngự lâm quân tung hô vạn tuế. Văn võ bá quan lần lượt tiến lên triều kiến.

Đại lễ xong tân hoàng đế xuất lĩnh các vị quân vương, bối tử, thân vương đại thần, quay về vườn Sướng Xuân, thiết lĩnh tế lễ, theo chế thành phục.

Hồi 58

ĐOẠT NGAI VÀNG, UNG CHÍNH TRẢ THÙ

Khang Hi hoàng đế băng hà. Dân Trinh âm mưu với bọn đại thần cướp được ngôi báu. Lễ đăng quang thật chớp nhoáng giữa một cuộc hỗn độn trong đám hoàng tử và triều thần đông đảo, sau khi đọc tờ di chiếu đã bị sửa chữa một cách tài tình.

Hàng ngàn ngự lâm quân, sau khi nghe đọc tờ di chiếu, liền chạy xô lại, công kênh hoàng tử Dân Trinh lên ngai vàng và toàn thể triều đình quỳ mọp xuống đất, tung hô vạn tuế.

Đây là vị vua thứ năm của Thanh triều, vị vua mà người Trung Quốc khi nói tới, ai cũng phải rùng mình. Lễ đăng vị đã xong, Dân Trinh tất nhiên phải lo ngay đến việc tang lễ cho cha và bắt đầu củng cố ngai vàng của mình, nhất là đối phó với một số đông anh em đã từ lâu cũng nhằm nhè ngôi báu như mình và coi mình như kẻ thù bất cộng đái thiên.

Qua ngày hôm sau tất cả triều thần đưa di thể của tiên hoàng tớì đại nội Bạch Hổ điện để khâm liệm nhập quan. Tân hoàng đế hạ thánh chỉ cải niên hiệu gọi Ung Chính nguyên niên. Vị hoàng đế Ung Chính này nổi tiếng là người thâm độc bạo tàn nhất trong lịch sử nhà Thanh.

Khi còn quỳ dưới đất nghe đọc di chiếu, kẻ nào ở phía dưới làm ầm ĩ om sòm, ngài đều để ý và nhớ kỹ. Thế rồi sau khi đăng vị, đạo thánh chỉ đầu tiên của ngài là cách tuột tước vị của Dân Đường, Dân Nga, bảo rằng hai vị hoàng tử này nhiễu loạn cung đình phạm tội đại bất kính, lập tức bắt ngay, giao cho Tôn nhân phủ thẩm vân.

Dân Đường chịu không nối nghiêm hình, đành nhận tội và khai cùng với Dân Dị ở bên ngoài kết bè lập đảng ra sao để mưu hại Dân Nhung. Về sau thấy Nhung bị bệnh điên, trở thành vô dụng rồi thì quay ra mưu hại Dân Trinh. Nhưng không ngờ Trinh có nhiều tay hảo hán dưới trướng khiến bọn Đường thúc thủ vô sách. Bởi vậy, khi thấy Trinh được làm vua, khí uất nổi dậy trong lòng, họ mới gây huyên náo tại điện Chính Đại Quang Minh là như thế. Tôn nhân phủ ghi chép đầy đủ khẩu cung, tâu lên Ung Chính hoàng đế. Ung Chính bèn cho điệu Dân Dị từ trong lao ra để tự mình thẩm vấn, Dân Dị thấy Dân Đường đã cung nhận hết tội lỗi, biết không thể che giấu gì được nữa, đành chỉ còn nước cầu xin Ung Chính mở lượng khoan hồng tha mạng. Một đạo thánh chỉ hạ xuống giao bọn Đường cho Tôn nhân phủ giam cấm trong lao, bắt gọi Dị là "A kỳ" (nghĩa là con heo), còn Đường là "Tắc tư hắc" (nghĩa là chó).

Qua ngày hôm sau Ung Chính lại đem Dân Nga ra thẩm vấn. Nga quả xứng đáng là một quân vương, đệ tử chính truyền của phái Thiếu Lâm, không một hoàng tử nào có thể sánh kịp. Nga có bản lĩnh cùng mình, bay trên mái nhà như tên bắn, chạy trên đầu tường như vượn núi, tay cứng như sắt, quyền chắc như đồng, ba, bốn chục người đừng hòng đến gần được bên. Chính Ung Chính khi còn là quân vương đã nhiều lần bị Nga đánh ngã. Bởi vậy ngài thấy y là sợ và rồi cũng vì vậy, ngài đâm ra thù hận, coi y như cái đinh trong mắt. Hôm nay, ngài đã lên ngôi hoàng đế, nhất định phải báo thù xưa.

Dân Nga lúc đó bị Tôn nhân phủ bắt trói điệu tới. Đến lúc đem thẩm vấn, Nga chẳng thèm mở miệng khai báo một lời. Quan phủ doãn nổi giận bèn cho gọi binh sĩ dùng hình tra tấn nhưng mọi người giật mình vì chỉ thấy Dân Nga há mồm cười lên sằng sặc như chàng thèm coi ai ra gì, kế cả Ung Chính… Rồi bỗng nghe vút một tiếng, Nga đã tung mình bay lên nóc nhà như một con chim én, chẳng còn thấy hình bóng đâu nữa. Phủ doãn hoảng hốt chạy tới tâu rõ với Ung Chính nhưng Ung Chính cũng đành chịu vậy chứ còn biết làm sao.

Ung Chính hoàng đế sực nghĩ ra điều gì liền cho đi mời nhà sư Lạt Ma tới đùng pháp thuật để giết Nga, nhưng nhà sư lắc đầu nói:

- Hắn có trong mình đạo Kim phù đệ nhất Đạt lạc thì những kẻ phù chú tầm thường làm sao lại gần được hắn.

Ung Chính hỏi nhà sư:

- Có thể cướp được đạo Kim phù đó chăng.

Nhà sư lại nói:

- Lúc bình thường thì chả có cách gì hạ thủ được hắn đâu. Chỉ khi nào hắn giao cấu với đàn bà thì mới mong cướp được đạo Kim phù đó thôi.

Ung Chính nhớ kỹ lời nhà sư Lạt Ma, bèn dặn dò tên thái giám tâm phúc bố trí kế hoạch lừa Nga.

Lại nói Dân Nga sau khi trốn thoát khỏi Tôn phủ, đâm ra cuồng vọng phóng túng, chẳng kiêng dè ngán sợ một ai.

Nga khoái nhất là uống rượu. Tửu điếm lớn nhỏ khắp kinh thành, chẳng chỗ nào là không có gót chân y lui tới. Nga ăn vận theo kiểu bình dân, cho nên chẳng ai ngờ được y là hoàng tử. Mỗi khi tới một tửu điếm nào, Nga thường gọi điếm tiểu nhị lại cùng uống rượu. Ngoài cửa Đông hoa có một tửu điếm tên gọi Thái Bạch lâu cất được một thứ rượu hảo hạng. Điếm tiểu nhị tên là Dư Tam, tính tình hoà nhã. Nga rất khoái tên tiểu nhị này, thường tới đây uống rượu. Nga kéo Dư Tam ngồi vào đối ẩm rồi tán gẫu hết chuyên kinh đến chuyện phường, hết chuyện to đến chuyện nhỏ. Tam cũng một tay tửu lượng rất cừ. Thường hai người đối ẩm với nhau tới khuya mà vẫn không chán.

Hai người rỉ rả với nhau cả những chuyện nơi ngõ liễu hoa tường, chốn nương dâu bãi bộc. Những chuyện phong lưu tình tứ này đối với Nga hình như còn xa lạ lắm, nhưng với con người lòng đầy buồn chán, đang tìm cách giải khuây thì có gì mà chẳng được chẳng hay. Ngờ đâu, nay nói một chuyện, mai nói một chuyện, nói riết rồi tự nhiên Nga cũng cảm thấy thèm muốn. Thấy Nga đã đến lúc khoái thích, Tam lại kể ra nhưng chỗ nào có chị em xinh đẹp, hấp dẫn khiến Nga đâm ra ngứa ngáy, thèm muốn khắp mình.

Hôm nay cũng vậy, giữa lúc muốn điên lên ấy, Nga bỗng thấy một cô gái hết sức tình tứ xuất hiện bên cạnh vò rượu của mình. Nàng khẽ nghiêng chiếc vai tròn trĩnh, cúi thấp cặp má đào điểm nhạt lượt phấn mỏng và ngồi xuống ghế phía trước chàng. Chốc chốc nàng lại liếc cặp mắt đa tình sắc như dao về phía Nga, khiến hồn phách Nga như bị nàng thu mất sạch. Nga như người say, bất giác vỗ bàn khen tuyệt, nhưng vì trong quán còn đông khách, chưa tiện nhảy chồm lên mà kéo người đẹp vào lòng.

Khách mỗi lúc một thưa, rồi kẻ cuối cùng cũng biến nốt trước ngọn đèn mờ tỏ. Nga nhìn người đẹp càng thấy nàng đẹp thêm. Cặp má hồng của nàng càng tươi thêm, càng mịn thêm. Đã đến lúc chịu không nổi nữa. Nga bèn khẽ gọi nàng một tiếng, bỗng nàng hé đôi môi son thắm mỉm cười rồi quay sang nhìn phương khác. Nỗi lòng của Nga, Dư Tam hiểu rõ cả. Hắn khà khà cười lớn rồi nói:

- Tương Như mua rượu, có gái Trác đốt lò hương. Tam muội nhà ta hôm nay được quý nhân thưởng thức, quả thực đã có cái may duyên ngộ ba sinh.

Nói đoạn, Tam lấy tay vẫy cô con gái và nói:

- Muội hãy lại hầu thiếu gia mấy chung rượu, có hề gì!

Cô gái nghe đoạn, bèn đứng dậy, miệng cười chúm chím, chạy tới ngồi kề vai Nga, nhưng chỉ thấy nàng cúi đầu mà chẳng nói câu nào. Nga nhìn người đẹp kỹ hơn, càng nhìn càng thấy nàng đẹp hơn bội phần.

Nga thấy người rạo rực đến cùng độ rồi không giữ nổi nữa, Nga nắm lấy ngón tay búp măng của người đẹp, còn tay kia nâng một lỵ rượu lên mời. Người con gái tươi cười uống cạn chung rượu trong tay Nga. Nga luôn miệng khen hay, đến khi nhìn lên thì điếm tiểu nhị Dư Tam đã tránh mặt đi từ lúc nào, Trong phòng vắng chỉ còn lại hai người. Thế rồi những tiếng thì thào êm ái được dịp tuôn mãi ra không ngớt càng, làm cho đôi trai tài gái sắc thêm phần thèm muốn, khát khao…

Hồi 59

TRỪ ĐỐI THỦ UNG CHÍNH DÙNG KẾ ĐỘC

Đêm càng khuya canh càng vắng. Người con gái lấy tay kéo vạt áo Nga đứng dậy bước đi. Không hiểu tại sao, Nga đứng dậy ngoan ngoãn bước theo. Hai người một trước một sau, bước vào gian phòng có màn lụa trướng thêu, có kính quý lược ngà, có gối êm nệm ấm, khiến kẻ gan lim dạ sắt cũng phải lạc phách tiêu hồn.

Người con gái tỏ ra vô cùng tình tứ. Nàng giúp Nga cởi bỏ áo ngoài rồi đưa chàng lên giường nằm nghỉ. Nàng cũng tự thay bộ quần áo ngủ mỏng tanh, chui vào chăn, kề đầu mặt má bên cạnh chàng, để mùi thơm phưng phức xông vào mũi chàng. Không còn cầm lòng được nữa, Nga quay mình ôm ghì người con gái vào lòng…

Giữa lúc chàng đang mê đắm tận hưởng khoái lạc, bỗng có một tiếng xẹt ngoài cửa sổ rồi một đại hán nhảy vụt vào phòng. Hắn trước hết giơ tay cướp lẹ chiếc áo dài có đeo đạo kim phù của Dân Nga rồi mới quay mình lại, tay cầm cây cường đao sáng quắc đâm thẳng về phía hai người. Nga vội đẩy mạnh người con gái đang ôm trong lòng bật văng ra xa, quát lên một tiếng: "Mau!". Bỗng từ trong miệng chàng, không biết bao nhiêu là "kim xà"(1) bay vun vút về phía tên đại hán.

Từ ngoài cửa sổ, bốn, năm tên đại hán khác, tay đều cầm bảo kiếm, nhảy vào vây lấy chiếc giường buồng màn gấm, tấn công ráo riết. Chẳng ngờ kim xà bắn ra hết sức lợi hại, khiến đao kiếm của bọn đại hán gần như trở thành vô dụng. Bọn sát thủ thấy đánh mãi khó bề thắng nổi bèn phát lên một tiếng "Rút!", tức thì cả bọn nhảy vù ra, chạy trốn mất dạng.

Bọn chúng về cung tâu Ung Chính hoàng đế. Ung nghe nói lấy làm lạ vội hỏi vị quốc sư, quốc sư nói:

- Đó là Linh Xà trận của Bà La Môn giáo. Bệ hạ yên tâm. Phàm học môn Linh Xà trận này, phải thề với đất trời là không được tham phú quý cõi nhân gian. Xét ra Dân Nga quyết không có ý phản nghịch đâu mà ngài lo.

Ung Chính nghe lời vị quốc sư nửa tin nửa ngờ. Mãi về sau, nhân lúc Nga bị bạo bệnh, mất hết nội lực, ngài cho đi bắt về giam trong lao, dùng độc kiếm hạ thủ. Trước khi chết Nga còn đấu với bọn lực sĩ ba ngày liền, giết luôn một hồi ba tay kiếm khách của Ung Chính.

Nhổ được cái đinh trong mắt rồi, từ đó Ung Chính mới thấy lòng khoan khoái. Chẳng ngờ chưa được mấy hôm ngài lại được tin cấp báo từ biên cảnh về, nói La Bốc Tàng Đan Luật miền Thanh Hải dẫn dụ Đại Lạt ma Sát Hãn Nặc Môn, nhè giữa lúc thế tôn mới đăng vị, nơi cung đình có nhiều biến cố, thừa cơ tạo phản. Trước hết La Bốc sai người tới khuyên Quận vương Nhan Nhĩ Đức Ni và Thân vương Sát Hãn Đan Luật, để hai người cùng cất binh đánh thốc vào quan nội nhưng hai vị vương này không nghe. La Bốc nổi đoá, liền điều động binh mã tới cưỡng ép hai vị vương phải xua quân đánh Thanh triều. Thấy tiến thoái vô lộ, hai vị vương chỉ còn cách viết văn thư cáo cấp về Bắc Kinh.

Ung Chính hoàng đế xem văn thư, lòng do dự chưa quyết, bỗng viên nội thị chạy tới báo có quốc cữu Long Khoa Đa xin vào bệ kiến. Hoàng đế nói luôn mấy tiếng.

- Xin mời vào.

Khi hai người gặp nhau, Ung Chính nói:

- Quốc cữu tới thật đúng lúc quá!

Nói đoạn, ngài bèn cầm tờ văn thơ cáo cấp nơi quan ngoại đưa cho Đa. Đa xem xong liền nói:

- Thần cũng vì việc này mà tới. Bệ hạ há chẳng thường nói đến công lao phò trợ của Miên Canh Nghiêu mà chưa từng báo lại, chẳng thường bảo Dân Đê chinh chiến bao lâu, rất được ai nấy quan tâm, đáng nên lo ngại đó sao? Hơn nữa, khi còn làm quận vương, bệ hạ chiêu nạp rất nhiều hảo hán, nuôi họ trong phủ, nay việc lớn đã thành, bọn họ cậy mình có công thường hoành hành bất pháp chốn kinh thành, chẳng ra thể thống gì cả. Nhân dịp biên quan có biến, chi bằng hệ hạ xuống một đạo chỉ dụ phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, còn bọn anh hùng hảo hán chiêu nạp trước đây, cũng đều phong cho họ làm quan võ rồi giao cho Miên Canh Nghiêu đem theo ra Thanh Hải, như thế tất tránh được chuyện gây rối làm bậy nơi kinh kỳ.

Ung Chính hoàng đế nghe xong, bèn nói:

- Kế tuy hay đấy nhưng hiềm nỗi lão Miên kia đã từng gian khổ bao năm mà chỉ cho y làm phó tướng, e rằng bẽ mặt y quá Lại nữa, cho Dân Đê làm đại tướng quân, sợ rằng thế lực hắn thêm lớn, khó có thể chế phục được sau này. Còn bọn anh hùng hảo hán cũng chẳng chắc gì giữ nổi họ được mãi nơi Thanh Hải, rồi đến một ngày nào đó trở về họ vẫn tính nào tật ấy, tình trạng đâu có hơn gì ngày trước.

Long Khoa Đa nghe xong, cười nói:

- Bệ hạ khỏi lo. Thần đã có dụng ý ở chỗ này…

Sau đó, Đa ghé sát tai Ung Chính thì thầm nói về dụng ý của mình. Ung Chính bất giác vỗ tay đánh đét khen hay và gật đầu lia lịa tỏ ý phục Đa.

Qua ngày sau, Ung Chính hoàng đế toạ trào, phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, đi chinh tiễu quan ngoại. Mặt khác ngài cho gọi Ngạc Nhĩ Thái cất mật dụ trong tay áo, tới gặp Miên Canh Nghiêu dặn Nghiêu y kế thi hành như vậy… như vậy…

Miêu Canh Nghiêu nhận mật dụ, suốt mấy ngày liền tập hợp bọn giang hồ hảo hán, cắt cử họ, kẻ thì làm phó tướng, kẻ thì làm tham tán, kẻ thì đô thống, đô đồng, thiên tổng, bá tổng, đủ cấp quan lớn quan nhỏ trong quân ngũ.

Bọn hảo hán được làm quan, anh nào anh nấy khoái trí lắm, diễu võ dương oai, vác kiếm vác đao đi. Khi tám vạn đại binh đã đủ số, Ung Chinh hoàng đế truyền lệnh cho phó tướng đem quân mã đi trước. Đến hôm xuất quân, nhổ lều trại lên đường, đấng thiên tử đích thân ra khỏi thành tiễn đưa. Thế rồi ba tháng hành quân liên miên không ngừng, đại binh đã tới biên cảnh Tứ Xuyên, hợp nhất với bốn vạn quân nữa của phó tướng Nhạc Chung Kỳ, rồi mới ùn ùn kéo thẳng ra Thanh Hải cự địch.

Hai tháng sau, khi tướng Nghiêu đã vạn dặm nơi sa trường rồi, Ung Chính hoàng đế mới cho Dân Đê xuất binh, mang ấn tướng đại soái, đem theo một trăm thân binh, mặc áo thường, bỏ bớt đồ nhu tòng, gấp rút lên đường. Đê tới Tứ Xuyên, được tin Nghiêu đã xua quân ra quan ngoại, trong lòng rất lấy làm nghi hoặc, tự nghĩ sao phó tướng không đợi quân lệnh của đại tướng mà lại tự ý xuất binh. Giữa lúc phân vân buồn bã, Đê bỗng được báo có thánh chỉ tới. Đê vội bày hương án đón nhận.

Một thái giám tuyên đọc.

"Phủ viễn đại tướng quân, lập tức miễn chức, Ấn thụ đại tướng giao lại cho Miên Canh Nghiêu, được phong làm Phủ viễn đại tướng quân, Nhạc Chung Kỳ làm tham tán".

Dân Đê nghe thánh chỉ xong, quay đầu lại sau, thì đã thấy ông tướng Miêu Canh Nghiêu quỳ cạnh mình từ lúc nào để tiếp chỉ. Đến lúc đó, Đê mới rõ hoàng đế đã dùng kế điệu hổ ly sơn để diệt trừ đối thủ. Quân đội hiện không còn ở bên mình, binh quyền lại đã mất vào tay kẻ khác, thử hỏi Đê còn biết làm cách nào hơn mà không, trao trả ấn tín, phất tay áo ra đi? Đê đã trở thành người không quyền không thế, do đó hành tung của Đê chẳng ai thèm để ý tra hỏi tới nữa.

Sau chuyện này ít lâu, người ta thấy ở thành Quảng Đông tại chợ Châu có một ngôi hàng buôn bán của chủ nhân người họ Lương lâu nay buôn thua bán lỗ, vốn liếng gần tới chỗ khánh kiệt. Từ ông chủ tiệm cho tới bọn làm công, cả nhà đều buồn rười rượi, ngồi so ro suốt ngày trong tiệm, chẳng biết làm cách nào hơn. Năm hết tết đến chủ nợ kéo tới đòi tiền gây gổ om sòm. Ông chủ họ Lương suốt ngày thở vắn than dài, Buồn quá, ông bèn bảo tên gia nhân ra bờ sông chiêu thần tài cầu may.

Nguyên lai, theo tục lệ của bọn con buôn tỉnh Quảng Đông thì mỗi khi buôn bán thua lỗ, họ ra bờ sông trồng một cây cờ phan, trên ngọn treo một chiếc đèn đỏ gọi chiêu thần tài.

Gia nhân nhà họ Lương vừa mới trồng cây cờ phan ngoài bờ sông và chưa treo xong chiếc đèn đỏ thì đã thấy một chiếc thuyền hàng lớn ghé vào đỗ lại. Từ trên mũi thuyền, một người ăn mặc kiểu nô bộc, mũi lớn như mũi trâu, nói tiếng Bắc Kinh, bước xuống tìm hỏi ông chủ quán có nhà không. Ông chủ họ Lương vội vàng chạy ra, kế đó lếch thếch theo lên chiếc thuyền hàng vừa mới đô bến. Ông chủ họ Lương thấy một người đàn ông vào trạc trung niên, mặt mũi khôi ngô, cử chỉ đàng hoàng, tự xưng là họ Kim, cất tiếng nói:

- Chuyến này tôi có đem theo rất nhiều trà, quả, hàng hoá từ Bắc Kinh tới Quảng Đông để bán nhưng tìm mãi mà chẳng ra nhà quen. Nay thấy cửa hàng ông treo đèn đỏ cầu thần tài nên tôi vội tới để nhờ ông giúp cho một việc.

Ông chủ họ Lương thấy thuyền của vị khách thương họ Kim chất hàng cao như núi, trị giá ra cũng bốn năm chục vạn lạng bạc thì đâu có dám tính đến chuyện mua bán. Thành Quảng Đông hồi đó thiếu nhiều hàng miền bắc cho nên ông ta nghì nếu mua được thuyền hàng này thì nhất định đại phát tài.

Nhưng ông tự nghĩ minh làm gì có tiền mà mơ ước. Nỗi băn khoăn tiếc nuối hiện rõ trên nét mặt ông. Người khách thương họ Kim đoán biết niềm tâm sự của ông bèn nói:

- Tôn ông không có vốn, chuyện đó cần gì. Trong thuyên tôi hiện có tới bốn mươi vạn lạng bạc hàng. Tôi tạm gửi ông, để nhờ ông bán dần cho. Tôi không cần ông trả nửa đồng kẽm nào bây giờ đâu. Tôi đợi tới ngày này năm sau sẽ kết sổ tiền hàng cũng chẳng muộn!

Lương chủ nhân nghe ông khách nói vậy, sung sướng đến phát điên lên. Ông chắp tay vái dài, miệng cảm tạ rối rít, cho dọn một bữa rượu thịnh soạn để khoản đãi khách quý, đồng thời thuê phu bốc hàng về nhà. Ông khách họ Kim ăn xong nói gọn một câu: "Chẳng dám phiền", rồi bước lên thuyền đi luôn.

Thế là từ đó, ông chủ tiệm họ Lương trở thành người bán giùm hàng cho vị khách thương phương bắc. Không đầy nửa năm, tất cả hàng hoá đều bán hết sạch, lời lãi lên tới mười vạn lạng bạc. Ông đem một ít lời ra làm vốn mở phố sinh lợi, còn bao nhiêu thì đợi ông khách quý trở lại thanh toán. Ngày tháng qua mau năm lại sắp hết. Ông chủ tiệm họ Lương cho quét dọn nhà trên nhà dưới, sửa soạn tiệc rượu. Hôm đó ông khăn đóng áo dài, đợi khách.

Đêm hôm đó, quả nhiên ông khách quý tới nơi, mười chiến thuyền lớn đậu thành hàng ngoài bến trước tiệm, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp đủ thứ hàng nam, hàng bắc, lại còn cả sâm, quế, nhung, yến, không thiếu vị nào. Người khách bước lên bờ, vừa trông thấy ông Lương là tay bắt mặt mừng, tươi cười vồn vã, cất giọng nói:

- Lần này, tôn ông nhất định phải bận lắm rồi đấy. Thuyền của bọn tôi hiện có đến bốn trăm vạn lạng bạc hàng. Tôn ông phải nghĩ cách bốc ngay hàng về kho đi.

Lương chủ nhân một mặt đon đả mời ông khách quý đánh chén, một mặt triệu tập hết bọn thương gia toàn thành lại để bàn tính việc bốc và chứa hàng. Thế rồi trong chốc lát, năm bảy trăm phu khuân vác đã tề tựu đông đủ. Tiếng "dô ta", tiếng hò hát vang động khắp mấy khu phố.

Ông Lương ngồi hầu rượu khách quý, đến lúc cơm no rượu say rồi mới khệnh khạng bưng một chồng sổ sách ra để mời khách kết toán. Ông khách đẩy chồng sổ sách sang bên, bảo Lương:

- Thôi, tôn ông tính đúng rồi, hà tất phải xem lại, hãy để đó bán sau.

Nói đoạn, ông khách đứng dậy, cáo từ rồi đi luôn. Lúc từ biệt, ông khách còn dặn thêm:

- Chuyến này, xin hẹn ba năm sau, tôi sẽ lại tính toán sổ sách tiền nong với tôn ông. Bây giờ chẳng gấp gì!

Nói vừa dứt, ông khách nhẩy lên thuyền, nhổ neo giong buồm, thuận gió như bay, chẳng bao lâu đã mất dạng.

Ông chủ tiệm họ Lương sau khi tiễn đưa ông khách kỳ lạ lên đường rồi, đem hết tài ba ra kinh doanh. Tiệm ông càng ngày càng phát đạt. Không đầy ba năm, mười chiếc thuyền hàng lại đã bán xong, ông lại khăn đóng áo dài ngồi đợi khách.

Rồi một hôm, vào đêm trừ tịch, ông khách kỳ lạ kia lại tới. Vừa thấy chủ nhân, ông khách đã tươi cười chào hỏi. Ông Lương cho dọn rượu và trình bày với khách việc mình buôn bán hàng hoá thế nào.

- Số hàng của tôn ông đã bán xong, hiện được lời trên sáu trăm vạn lạng bạc. Số tiền đó hiện gửi tại các ngân hàng tỉnh Quảng Châu. Vậy xin tôn ông cho biết tôn kiến ra sao.

Người khách nghe xong, liền nói:

- Hãy đem số tiền chia đôi: một nửa gửi vào ngân hàng Đức Dụ tại Hán Khẩu, còn một nửa vẫn để lại Quảng Châu, sau này sẽ tính.

Lương chủ nhân được lệnh của ông khách lập tức tới các ngân hàng để lo liệu mọi việc cho xong.

Chẳng mấy ngày lại đã mồng năm tháng giêng. Ông khách lần này ở lại tiệm ông Lương, bên cạnh chỉ có một tên gia nhân. Tuy ngày nào cũng như ngày nấy khách được chủ nhận cung phụng nào cơm ngon canh ngọt, nào rượu nồng dê béo, nào cao lương mỹ vị nhưng khách vẫn cảm thấy nỗi cô đơn lạnh lẽo trong những đêm trường vắng lặng nơi đất khách quê người.

Chú thích:

(1) Tên gọi một loại vũ khí rất nhọn và cực độc

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: