Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Part 6

Kim Dung

Thần Điêu Đại Hiệp

Hồi 13

Mộ đài Hoạt Tử Nhân

Tiếng ngân o ! o ! o ! của bà lão hoà với tiếng vo vo từ đằng xa vọng lại. Doãn-chí-Bình thất sắc ra lệnh cho cá đạo sĩ :

- Toàn thể hãy rút lui lập tức .

Mọi người nghe hiệu lệnh ngẩn người ra , không hiểu tại sao bọn chúng đang thắng thế , bà già kia chỉ ngân mấy tiếng o ! o 1 o 1 mà phải rút lui , sợ sệt .

Thì ra , một bầy ong trắng nhấp nhó trong ánh trắng đang tiến đến vun vút . Chỉ phút chốc , bầy ong đã bủa vây trên đầu các đạo sĩ .

các đạo sĩ đã chính mắt trônt thấy Triệu-chí-Kính bị ong cắn đau đớn thế nào rồi nên lúc thấy bầy ong , ai nấy thất sắc , cắm đầu chạy không dám ngoảnh cổ lại .

Đàn ong trắng cố sức bay nhanh đuổi theo.

THấy các đạo sĩ không thể nào tránh nổi ong độc đốt , bà lão mỉm cười sung sướng .

Giữa lúc nguy biến đó , bỗng phía trùng-Dương cũng xuất hiện một đạo nhân râu tóc bạc , hình dung quắc thước , tay cầm một cây đuốc , lửa cháy ngùn khói toả um tùm . chạy đến nung vào bầy ong đốt

, Bầy ong trắng bị khói lửa liền bay tứ tán vào rừng hết . bà lão trông thấy ngạc nhiên , cất tiếngh ỏi lớn ;

- lão đạo sĩ kia là ai mà dám cả gan phá hoại bầy ong của ta ?

Vị đsạo sĩ ấy , sau khi xua đuổi bầyong , bước đến trước mặt bà lão , vừa cười vừa nó :

- Bần đạo chính là Xích-đại-Thông , kính chào Tôn bà đó .

Tôn bà xưa nay không tiếp xúc với người trong phái võ lâm song vì ở gần Trùng-Dương cung nên có nghe danh Xích-đại-Thông là một tay trong bảy cao sư đại đệ tử của Vương-trùng-Dương , czo thủ trong Toàn-Chân phái .

Thấy Xích-đại-Thông uy dũng như thế , Tôn bà liên tưiứng đến Doãn-chí-bình và các đạo sĩ đồng hạng khác không phải là những tay tầm thưoừng .

trong lúc đó , đằng sau Xích-đại-Thông có một đạo sĩ nói lớn :

- Khưu , Vương sư huynh ! Chúng ta có thể dừng chân nơi đây mà không sợ bị ong đốt nữa đâu . Xích-đại-Thông quay lại nhìn thì thấy Khưũ-ứ-Cơ cà Vương- xứ-NHất , hai người này quần áo còn vương nté bụi đường chưa phai , liền hỏi :

- ủa ! Sư huyenh Khưu , vương đã về đến rồi sao . Cuộc du hành có gì lạ không ?


KHông đợi Vương xứ Cơ và vương xứ nhất đáp lời , Xích đại Thông quay lại nhìn Tôn bà thì bấy giờ Tôn Bà đá mất dạng .mọi người chỉ nghe trong phía rừng sâu có tiếng cười the thé của bà lão . Doãn chí Bình nói :

- Xích sư thúc ! Chúng ta có đuổi theo chăng ? Xích đại Thông lắc đầu đáp :

- khôn nên ! Tổ sư chúng ta đã căn dặn không ai được rừng . Chúng ta nên trở lại võ điện hội kiến rồi lo liệu .

Lúc đó Tôn Bà đã bồng Dương Qua trở lại Hoạt tử Nhân mộ đài .

Qua một cơn biến cố , hai bà cháu càng quyến luyến nhau hơn trước . Dươmng Qua lòng hồi hopọp , không biết Tiểu long Nữ có bằng lòng cho mình lưu trú chăng nên nét mặt dàu dàu .

- Không sao ! Cháu cứ yên tâm , bà sẽ tìm cách nói thế nào cho cô nương phải chấp nhận.

kế đó , bà lão dặn Dương Qua ngồi ở phòng ngoài , còn bà vào một mình để bàn bạc với Tiểu long Nữ .

Một lúc sau , Dương Qua chờ mãi không thấy bà lão ra , lòng nó nghĩ mniên man , hết chuyện nọ sang chuyện kia , bụng bảo da j :

- Thế này chắc là Long cô nương không bằng lòng nhận mình ở lại đây rồi . Nếu để Tôn bà cứ ép cô nương tức là mình đã làm phiền lòng luôn cả hai người . Như vậy đâu phải mình báo ân họ .

Nghĩ vậy , dương Qua quyết rời khỏi mộ đài . Nó đứng dậy đi ra . vừa ra đến cửa thì Tôn Bà đã hơ hãi chạy đến hỏi nó :

- Cháu đi đâu thế ? Phải cháu tìm ta chăng ? Dương Qua rơm rớm nước mắt nói :

- Thưa Tôn bà , cháu đi đây ! Cháu đã lớn rồi chẳng lẽ cứ làm phiền đến Tôn bà mãi sao ? Tôn bà nói :

- Không 1 Ta phải đưa cháu đến gửi một nơi nào và phải làm thế nào để họ thành tân dạy dỗ cháy mai sau trở nên ngwoif .

Nghe Tôn bà nói vậy , Dương Qua biết Tiểu long nữ không muốn cho nó trú tại mộ đài , lòng nó se thắt , một nỗi buồn vô hạn từ đâu đột nhập vào người nó . Nó cúi đầu nói :

- Cũng chẳng sao ạ ? Chãu là một đứa bé hư hỏng thì dầu đến đâu cũng chẳng ai ưa cháu . Dám xin Tôn bà đừng vì tình thương cháu mà phí công .

Lời nói như hờn dỗi ấy đã làm cho lòng bã lão đau đớn .

Bà lão vốn là người nhanh chân nhẹ miệng dễ vui mà cũng dễ cảm động . Sau khi thuyết phục Tiểu long Nữ mà nang cứ nhất định không cho Dương Qua ở lại , bà lão đã có ý giận hờn , bây giờ nghe Dương Qua nói , bà lão gắt lên :

- Thôi được , bà cháu ta cùng ra đi . Cháu ở chốn nào ta ở chốn nấy , miễn bà cháu ta được gần gũi


nhau .

Thật ra , tánh tình một bà già có khác . Do cái bất thường ấy mà người đời có câu " già trẻ đồng nhau " .

Dương Qua mừng rỗ , trố mắt nhìn bà lão tươi cười hỏi :

- Bà thương cháu đến thế sao ? Nếu bà đi theo cháu rồi bỏ cô nương cho ai ? Bà lão nói :

- Ta nuôi cô nương từ lúc nhỏ đến giờ . Nay cô nương đã lớn rồi , không cần đến bà cũng được . Còn cháu , cháu quá nhỏ dại , nếu để cháu ra đi một mình tất bị cúng hà hiếp .

Giọng nói của Tôn bà run lên vì cảm động .

Hai bà cháu dắt nhau ra cửa mộ . Trong lúc bực tức , bà lão không đem theo gì cả . Bỗng sực nhớ đến Triệu chí Kính bị thương vì nọc độc , bà lão lẩm bẩm :

- Hắn ta là người ác song cũng chưa đáng tội chết . Nếu không đưa một ít mật ong để cứu hắn thì không thoát khỏi tay tử thần .

bà lão quay vào lấy ra một hũ mật rồi dăt tay Dương Qua tiến bước về Trùng Dương cung .

Bây giờ , Trùng Dương cung tuy đã sửa sang lại rồi song so với lúc trước thì khoong qui mô bằng . Các vách tường , các mái ngói đều kém vẻ uy nghi .

Thấy Tôn bà cứ hướng về phía Trùng Dương cung mà đi , Dương Qua nắm tay bà nói :

- Thưa Tôn bà , tại sao Tôn bà lại đến đó . Tôn bà nói :

- Ta đến để cho họ một ít thuốc .

Dương Qua tin ở lòng tốt của Tôn bà nên khong có ý nghĩ gì , ngoan ngoãn bước theo .

Chỉ chốc lát , hai bà cháu đến trước một ngôi võ điện , Tôn bà nhảy qua tường nơi chánh điện mà vào .

Bỗng một hồi chuông rung lên làm chuyển động cả núi rừng , Hồi chuống đó là hồi chuông báo động

.

Tức thì xa gần có tiếng người lao xao , bầu không khí tĩnh mịch trở nên náo loạn . Tôn bà tuy là người võ nghệ cao cường đảm lược có dư cũng không khỏi rợn người .

Cũng nên biết rằng Toàn Chân môn phái là một môn phái lớn trong võ lâm . Ngày thường lối canh phònh cẩn mật rồi , những ngày gần đây có nhiều biến cố xảy ra nên việc canh phòng lại còn thận tỷọng hơn gấp bội . Bốn bề tmá hướng đều có người canh gác . Hễ trông thấy một bóng người nào bén mảng là lập tức báo động không những ở phía trong các đạo sĩ phân công rõ ràng nghênh địch mà phía ngoài một số đạo sĩ đã bố trí sẵn sàng để bao vây .

Tôn abf thấy sự thế như vậy , lòng bị dao động song vẫn lớn tiếng nói :

- Triệu chí Kính đâu rồi ? Mau ra ngay ! Ta có chuyện nói vơi ngươi .


Trên nóc đại điện có một đạo sĩ tuổi đã trũng niên ứng khẩu đáp :

- kính thưa tiền bối ! Chẳng hay đêm khuya tiền bối có điều gì đến đây chỉ giáo . Bà lão giơ chiếc bình mật ong ra trước mặt nói :

- Đây là thuốc trị nọc độc ong . Hãy mầm lấy mà mang vào cho Triệu chí Kính . Dứt lời , bà lão ném chiếc bình mật ong đến cho đạo sĩ đó .

Đạo sĩ đưa tay bắt lấy nhưng lòng bán tín bán nghi tự hỏi :

- Lại cho thuốc ư ? sao bà ta lại tốt như thế nhỉ ? Rồi sang sảng nói :

- Thưa tiền bối ! Thuốc này là thuốc gì vậy ? Bà lão nói :

- Hỏi làm chi cho nhiều lời , cứ đem vào cho hắn uống tự nhiên sẽ biết . Lời nói của Tôn bà khiến cho đạo sĩ kia thêm nghi . Hắn nói :

- Tôi chẳng biêt đây là lòng tốt hay ý độc . FFây là thuốc giải hay thuốc ddoocj .triệu sư huynh tôi đối với Tôn bà không được xúng ý mấy , lẽ nào có thể nhận được tấm lòng Bồ tát của Tôn bà ?

Tôpn bà vốn tính thẳng , đã đem thuốc giúp người mà bị người ta nghi kỵ lấy làm tức , không kiềm nổi giận dữ , bỏ Dương Qua nhảy lên phía trước giành lấy bình mật ong , quay sang bào Dương QUa

:

- Cầm lấy , mở ra !

Dương Qua chẳng hiểu dụng ý của Tôn bà , hể bảo đâu làm đó , nó mở nút bình . Tôn bà dốc cả bình mật ong vào môm Dương Qua và nói :

- Càng tốt phải không cháu ? Bị người ta nghi ngờ là độc dược thì thôi , mình uống hết đi có sao ? Dứt lời , bà cầm tay dương Qua dắt ra phía ngoài tường .

đạo sĩ kia thấy Tôn bà lấy lại bình thuốc cho dương Qua uông biết không phải là thuốc độc nhưng đã trễ . đạo sĩ lại nghĩ đến bệnh tình của Triệu chí Kính nếu khômng có thứ thuốc kia thì khó mà khỏi đưọc , liền phóng đến đón Tôn bà lại , nói :

- Thưa Tôn bà , có gì mà Tôn bà phải giận dữ đến thế ? Tôi buộc mồm nói một câu vô lễ xin Tôn bà miến chấp mà ban cho bình thuốc giải độc kia .

Tôn bà nghe giọng nói cuả đạo sỹ càng thêm chán ghét , cười nhạt nói :

- Ta chỉ có một bình thuốc mà thôi , dâu có nhiều mà cho nưqã . nếu Triowuj chí Kính có mệnh hệ nào thì là lỗi ở ngươi tất cả đó .

Dứt lời , bà lão dùng mu bàn tát vào mặt đạo sĩ một cái mắng :

- Ngươi không biết kính trọng bậc tiền bối ! Ai dạy ngươi những cử chỉ vô lễ thế ?

Cái tát cấy quá mạnh và quá nhanh , đạo sĩ kia không tránh được , để trúng vào phía thái dương đau nhói . Đạo sĩ ngã quỵ xuống đất kêu cứu .


Hai đạo sĩ đứng ngoài nghe tiếng kêu thất thanh biến sắc lẩm bẩm :

- Lại gây rắc rối với vị tiền bối rồi .

Đoạn hai người tiến vào , một người bên mặt , một người bên trái tấn công bà lão .

Tôn bà thấy hai ngườ xuất thủ , biết ngay họ dùng thế trận Bắc đẩu vô cùng lợi hại nên chẳng muốn nghênh chiến , vội cắp Dương Qua nhảy thoát lên tường .

Nhìn về phía chân tường không thấy bóng người , bà lão toan nhảy xuống thì bỗng có một giọng quát lớn :

- Xuống ngay .

Tiếng hét vừa dứt thì bõng một đạo nhân xuất hiện . Hanứ chuyển khí và giơ cả hai tay ra , trong lúc Tôn Bà còn lơ lửng trên không , nhảy chưa xuống đất , tay mắc cặp Dương Qua chân không chỗ dựa để đối phó với đòn chưởng ấy .

Tuy vậy Tôn bà vẫn lách người đi tránh được sức mạnh của đối phương .

Khi Tôn bà xuống đến mặt đất thì lại bị sức công của bày đạo sĩ đánh một lượt , bà lão chỉ còn có cách luig lại để tránh .

Mấy người này dồn cả nội khí ra ép bà lão vào góc tường .các đạo sĩ này thuộc vàop hàng đệ tam đại đệ tử là những tay cự phách , giữ nhiệm vụ đứng phònh thỉ bên ngoài võ điện .

Qua một lúc giao đấu , có lúc tiến , có lúc thoái , bà lão vẫnk hông nao núng . Các đạo sĩ sở dĩ dồn vào được tận góc tường là vì bà lão một tay mắc bồng Dương Qua còn một tay ddể đối phó . Nếu không , bảy đạo sĩ kia không làm sao địch nổi bà .

Qua mười hiệp đấu , người chỉ huy phòng thủ là Trướng chí Quang được biết đối phương không thể nào làm gì hơn được , bèn ra lệnh đốt đèn lên để vây hãm bà lão .

CHỉ mười chiéc lồng đèn ánh sáng đủ làm rực rỡ một phía góc tường .

Bây giờ nét mặt xấu xí của bà lão đượm vẻ buồn lành lạnh làm cho ai troiong thấy cũng phải khiếp sợ .

Trương chí Quang ra lệnh cho các đạo sĩ khép chặt vòng vây chỉ giữ bà lão không cho thoát chứ không tấn công nữa .

Các đạo sĩ được lệnh liền nhảy lùi lại , rút tay về trước ngực để nhận điện lực của mình quy hồi nội thân , đứng giữ thế thủ .

Tôn bà thấy vậy cười nhạt nói :

- Toàn Câhn môn phái vang danh tron thiên hạ , thật chẳng lưu truyền . Mây thanh niên vây đánh một bà già và một đứa con nít , cử chỉ bắt nạt như thế có anh hùng chăng ?

Trương chí Quang mặt mày đỏ lên vì hổ thẹn , gượng gạo nói :

- Chúng tôi có nhiệm vụ canh gác nơi võ điện này , bất kỳ kẻ lạ mặt nào đến đều phải bị giữ lại . Bà đã ngang nhiên vào thì phải cúi đầu mà ra .


Tôn bà cười ha hả nói :

- Thế nào ? Ngươi bảo ta phải cúi đầu mà ra ư ?

Dứt lời , bà lão xông tới đánh vào mặt Trương chí Quang một chuỳ đau nhói lên . Trương chí Quang không kịp né tránh cú đánh bất ngờ ấy , vận nội công chịu đựng . Đợi cho hết đau , Trương chí Quang tiến tới một bước nói :

- Có khó khăn gì đâu mà bà phải giận dưqx . Nếu bà làm đúng ba điều kiện này chuíng tôi sẽ mở rộng vòng vây cho bà trở về mộ đài .

Bà lão hỏi :

- Ba điều kiện gì vậy ? Trương chí Quang nói :

- Điều thứ nhất bà phải đưa chai thuốc giải độc để cứu chữa cho Triệu chí Kính . Điều thứ hai bà phải hoàn trả đứa bé kia cho môn phái Toàn Câhn vì nó là đệ tử của môn phái Toàn Câhn , chỉ có những người trong môn pháiToàn Chân mới có quyền định đoạt số phận của nó . Điều thứ ba là bà đã đương nhiên đột nhập vào Trùng Dương Cung mà quỳ gối tạ tộ .

Tôn bà cất tiếng cười hề hề , nói :

- ta cũng phải về báo cho Tiểu long Nữ cô nương rằng các đạo sĩ Toàn Chân không có ai lầm lỗi chi cả chỉ có già này lầm lỗi mà thôi . Thôi lại đây , ta xin cúi đầu đền tội với ngươi .

Dứt lời , bà lão quỳ gối xuống đất làm cho Trương chí Quang không ngờ ngỡ rằng bà đã nhậ lỗi . Bỗng nhiên từ phía sau lưng Tôn Bà , một mũi tên bắn ra trúng vào hàm bên trái của Trương chí Quang . Tên bắn nhanh quá sức , Trương chí Quang không tránh kịp chỉ biết kêu lên một tiếng " ối trời ".

Thứ khí giới bí ấy làm cho mọi người xôn xao , sửng sốt , không ai hiểu ra sao cả .

Thực ra Tôn bà đã để sẵn một chiếc cung trong lưng áo , lúc cúi xuôpngs cánh cung bị hai vai ấn xuống , dẩy dây cung bất lên , tên chọc qua khỏi lằn vải mà bắn tra . Cái khó là làm sao xử dụng được hai vai ấn trúng cánh cung không động đến giây cung và làm sao cúi xuống vừa tầm để nhắm trung kẻ địch . Tôn bà trong bụng muốn bắn vào cổ họng Trương chí Quang nhưng đã nhắm sai bắn trúng lên quai hàm.

Lúc đó, các đạo sĩ đều cung kiếm một lên lượt. ánh kiếm loang loáng khắp nơi. Tôn bà dựa vào tường để giữ thế thủ, và mỉm cười đoán biết câu chuyện ngày hôm nay còn dây dưa rắc rối hơn thế nữa. Bẩm tính của bà lão vốn chẳng bao giờ chùn chân trước khó khăn, và khuất phục trước uy vũ, cho nên bà lão quay sang nói với Dương-Qua:

- Cháu có sợ chăng?


Dương-Qua lúc đó thấy bọn đạo sĩ tuốt kiếm ra, phủ vây bốn phía, nghĩ thầm:

- Nếu chú Quách-Tỉnh mà gặp trường hợp nầy thì bọn đạo sĩ khốn kiếp kia phải tan xương nát thịt tức thì. Còn Tôn bà tuổi tác quá già nua, chẳng biết có đối phó với chúng được không?

Nghe Tôn bà hỏi, Dương-Qua dõng dạc đáp:

- Dám thưa Tôn bà, xin Tôn bà để cho cháu xông ra, dẫu chúng có giết cháu cũng được, cháu chẳng bao giờ sợ chết.

Tôn bà thấy thằng bé can đảm khác thường, vì mình mà nó liều chết, lòng lại thấy thương yêu hơn nữa.

Bà lão nói:

- Bà đâu có để cháu chết nơi chốn nầy để chúng hả lòng hả dạ?

Đột nhiên, bà lão quát lớn lên một tiếng, tức thì hai thanh kiếm của đối phương lọt vào tay bà. Bà lão lại tung mình tới dùng chân đá vào một huyệt ở cổ tay một đạo sĩ làm cho đạo sĩ ấy bủn rủn phải buông kiếm ra. Nhanh như chớp, bà lão đoạt thanh kiếm giắt vào mình, rồi lại tung người sang phía khác nắm lấy cổ tay một đạo sĩ nữa. Tay bà vừa rờ đến thì thanh kiếm của đạo sĩ ấy không còn hiệu lực, phải rời ra khỏi bàn tay lập tức.

Chỉ loáng mắt, bà lão đã đoạt bốn thanh kiếm của bốn đạo sĩ như chơi.

Các đạo sĩ thấy lối thoát của bà lão vô cùng lợi hại, đều trố mắt nhìn, lấy làm kinh ngạc. Tôn bà trao cho Dương-Qua một thanh kiếm và nói:

- Cháu có dám ra tay với những tên đạo sĩ hèn hạ này chăng?

Dương-Qua thưa:

- Thưa Tôn bà, họ là kẻ hèn hạ, cháu dẫu là đứa trẻ thơ vẫn không sợ họ bao giờ. Nhưng cháu chỉ


tiếc thiếu mặt một người... Bà lão hỏi:

- Người nào? Người ấy là ai?

Dương-Qua nói:

- Người ấy là một kẻ biết sỉ nhục, rõ được lẽ phải trái. Người ấy sẽ chứng kiến cái uy dũng của phái Toàn-Chân ngày hôm nay ra tài để uy hiếp một bà lão và một trẻ thơ.

Dương-Qua tuy còn bé song nó lanh lợi lắm. Qua một hồi nghe Tôn bà và Trương-chí-Quang đối đáp, nó khai thác được chỗ yếu của đối phương. Vì vậy nó đã đánh một đòn tâm lý vào các đạo sĩ trước mặt nó.

Quả nhiên danh dự của các đạo sĩ bị chạm! Câu nói của nó đã làm cho các đạo sĩ Trùng-Dương cung nổi lên lòng tự ái. Họ nhìn nhau bàn tán:

- Hay là chúng ta vào trình với sư trưởng quyết định.

Trương-chí-Quang từ lúc bị trúng tên đau buốt, đau mỗi lúc một tăng, lòng lại sợ bà lão dùng tên độc thì bỏ mạng nên hắn cố bắt sống bà lão cho được để đổi thuốc giải độc.

Hắn nói:

- Chúng ta cứ bắt sống cho được bà lão trước đã, rồi sẽ trình cùng sư trương cũng chẳng muộn. ấy chỉ vì Trương-chí-Quang nghĩ sai lầm mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc.

Hơn nữa, lúc bấy giờ Mã-Ngọc, người điều khiển nơi Trùng-Dương cung lại mắc đi ra ngoài mười dặm để tu tỉnh, việc trong Trùng-Dương điện giao cho Doãn-chí-Bình định đoạt. Nếu Mã-Ngọc hay được chuyện ấy hắn đã tìm cách dàn xếp, không dám vô lễ với Tôn bà.

Tiếc thay! Mã-Ngọc không có ở đây, Trương-chí-Quang vì sợ chết quên các nghĩa nhân, còn Xích-


đại-Thông thì tánh tình nóng nảy, không suy trước tính sau.

Trận Bắc đẩu lần lần thu hẹp lại. Tuy vậy, Tôn bà cũng bị bó tay vì vướng Dương-Qua. ấy thế mà các đạo sĩ kia không thể tiến quá ba thước sát bà, vì bà đã thủ một thế rất lợi hại.

Nếu trận đấu đó chính Trương-chí-Quang điều khiển thì thế trận sẽ biến hóa vô cùng lợi hại. Đằng này Trương-chí-Quang bị thương, lòng nơm nớp lo sợ, vết thương mỗi lúc một đau, máu cứ rơm rớm chảy mãi, nên Trương-chí-Quang không dám ra trước trận tiền, chỉ đứng một chỗ hô hoán. Do đó uy thế Thiên cang Bắc đẩu trận bị sút giảm đi nhiều.

Phần khác, các đạo sĩ đánh mãi không thắng, lòng rất hoang mang.

Bà lão lợi dụng cơ hội ấy, hét lên một tiếng, buông thanh trường kiếm xuống, xông vào giữa rừng gươm thộp cổ một đạo sĩ ít tuổi lôi ra khỏi vòng vây, và nói:

- Nhãi con khốn kiếp! Bây giờ là lúc chúng bay phải nhường đường cho ta đi.

Thế trận bị rối loạn. Tôn bà toan phi thân nhảy ra ngoài vòng chiến thì đàng sau bỗng có một người xuất hiện, nắm lấy cổ tay bà lão, làm cho bà lão đau buốt phải buông đạo sĩ kia ra để tự vệ.

Nhanh như chớp, Tôn bà tấn công vào kẻ mới đến một đá. Người mới đến đưa tay chận được đòn cước của ba lão rồi đánh trả lại một đòn.

Khí lực hai bên chạm nhau làm cho mỗi người phải dang ra mấy bước. Tôn bà nhìn đối phương nghĩ thầm:

- Chà! Tay nầy cũng cừ khôi lắm!

Người kia, sau khi lùi lại mấy bước đã vận dụng nội công kịp liền tấn công vào bà lão một đòn thứ hai. Bà lão đưa hai bàn tay ra trả miếng lại, nhưng lần nầy bà lão phải lùi thêm hai bước. Đối phương tiến tới và vận dụng sức lực đánh ngón đòn thứ ba. Ngón đòn nầy còn nặng hơn gấp mấy lần hai ngón đòn trước. Bà lão bị ép vào chân tường, tâm thần không còn được thư thái nữa.

Thấy đối phương hung hăng và lợi hại, bà lão liếc nhìn dung mạo thấy đó là một đạo sĩ tóc bạc râu dài, thân hình quắc thước, chính là đạo sĩ đã dùng đuốc để xua đuổi bầy ong bạch, tên hắn là Xích- đại-Thông vậy.

Nội công của Xích-đại-Thông rất thâm hậu, nổi tiếng trong phái Toàn-Chân, còn bà lão tuy võ nghệ cao cường song tuổi tác già nua làm sao địch lại. Nếu Xích-đại-Thông vận dụng hết nội công thì Tôn bà lùi bước là phải.

Tuy nhiên, Tôn bà bổn tính cương ngạnh, thà chết chứ chẳng khuất phục ai, bà nói lớn:

- Ta nhất định giữ đứa bé nầy. Nếu ngươi muốn bắt nó lại thì hãy giết ta trước đã.

Xích-đại-Thông biết Tôn bà đối với Tổ sư Vương-trùng-Dương trước kia ân nghĩa thật sâu xa, nên chẳng dám đem hết sức mình làm cho bà lão bị tổn thương, liền ôn tồn nói:


- Chúng ta từ mấy chục năm nay là chỗ lân cư, lẽ đâu chỉ vì một đứa bé dại khờ kia mà để mất hòa khí?

Tôn bà cười nhạt, nói:

- Ta đến đây với tất cả thịnh tình giao hảo nên mang theo thuốc giải độc để cứu Triệu-chí-Kính. Ngươi hỏi lại tên đệ tử của ngươi ăn nói với ta như thế nào?

Xích-đại-Thông chưa kịp đáp lời thì bà lão đã tung người lên, dùng chân đá vào bụng dưới Xích-đại- Thông một đòn rất mạnh.

Ngón cước ấy nhanh như điện, lẹ làng đến nỗi chân đá mà kiếm không kịp tung lên. Ngón đá ấy bà lão đã dày công tu luyện được mệnh danh là ngón "Quần lý thối" nghĩa là đã ngầm trong mộng.

Ngọn đá trúng vào bụng dưới Xích-đại-Thông đánh nhói một cái. Xích-đại-Thông hứng chịu, không kịp lùi lại để làm giảm bớt sức mạnh.

Tuy nhiên, là một đệ tử cao thủ của Vương-trùng-Dương, đã nhiều kinh nghiệm giao đấu với các bậc anh hùng trong thiên hạ, Xích-đại-Thông dù có bị đau cũng đã quen chịu. Vả lại sức nội công của Xích-đại-Thông rất mực uyên thâm nên không làm cho hắn giảm mất nhuệ khí.

Cơn nóng giận phừng phừng, Xích-đại-Thông vận hết sức lực mình dồn vào hai tay, miệng hét lên một tiếng, đánh tạt về phía Tôn bà. Sức gió và áp lực nội công của Xích-đại-Thông quá mạnh, đẩy bà lão đánh huỵch vào tường.

Tường bị rung chuyển, gạch ngói rơi xuống, và bà lão bị hộc máu ra, té xỉu xuống. Dương-Qua thấy thế kinh sợ, nhảy tới án ngữ trước mặt Tôn bà, và nói lớn:

- Các người là quân sát nhân! Sao không giết ta lại giết Tôn bà? Tôn bà mở mắt khe khẽ mỉm cười, nói:

- Cháu ơi! Có lẽ ta phải chết ở chốn nầy chăng?

Dương-Qua đau lòng, hai tay ôm Tôn bà, quay mặt về phía đạo sĩ, quên rằng mình đang ở trong tình thế hiểm nghèo, nói lớn:

- Hãy giết ta đi! Hãy giết ta nữa đi! Ta quyết chết theo Tôn bà.

Lúc đó Xích-đại-Thông thấy lòng hối hận, tiến bước về phía Tôn bà để xem xét thương thế Tôn bà ra sao. Nhưng Dương-Qua chắn lối, không để ai động đến Tôn bà cả.

Xích-đại-Thông hét:

- Dương-Qua, hãy tránh ra để ta xem Tôn bà ra thế nào.

Dương-Qua không tin lòng tử tế của ai cả, hai bàn tay nó cứ ôm chặt lấy Tôn bà.

Nói mãi, Dương-Qua vẫn chẳng nghe lời. Xích-đại-Thông liền gỡ tay nó ra, hất mạnh nó một cái làm cho nó té sang một bên.

Nó tức giận, hét:

- Đạo sĩ khốn nạn! Ta không bao giờ để chúng bây hãm hại Tôn bà.


Đang lúc Xích-đại-Thông dằng co với Dương-Qua thì đằng sau bỗng nhiên nổi lên một giọng nói lạnh lùng:

- Bắt nạt bà già trẻ con như thế có đáng một anh hùng chăng?

Giọng nói lạnh như băng tuyết ấy làm cho mọi người kinh ngạc. Xích-đại-Thông quay đầu lại thì thấy một thiếu nữ nhan sắc diễm ảo đã đứng sững trước điện đài từ bao giờ.

Nàng nõn nà trong bộ xiêm y màu trắng, thần sắc lạ lùng không biết lấy gì để so sánh. ánh mắt sáng ngời nhưng lạnh lùng của nàng như có mãnh lực trấn áp, chế ngự mọi người khác.

Bấy giờ, nơi Trùng-Dương cung tiếng chuông báo động cho môn đệ xa gần trong phạm vi mười dặm phải cẩn mật canh phòng thế mà nàng lọt vài đại điện chẳng một ai hay biết.

Xích-đại-Thông có cảm giác rờn rợn trước cái uy nghi của thiếu nữ. Ông ta cất tiếng hỏi:

- Cô nương là ai? Đến đây có điều chi chỉ giáo? Thiếu nữ không đáp, tiến về phía Tôn bà.

Dương-Qua ngẩng đầu lên trông thấy buồn rầu nói:

- Kính thưa Long cô nương, người đạo sĩ độc ác kia đã đánh chết Tôn bà rồi. Người thiếu nữ y phục màu trắng đó chính là Tiểu-long-Nữ.

Nàng có ngờ đâu Tôn bà cõng Dương-Qua rời khỏi mộ đài, vào Trùng-Dương cung, vì thế bách phải giao đấu, đến nỗi bị Xích-đại-Thông đánh trọng thương.

Khi thấy Dương-Qua lấy thân mình che chở cho Tôn bà, Tiểu-long-Nữ nghĩ bụng:

- Thằng bé nầy có bản tính thế nhân, đa tình, đa cảm.

Đến khi thấy Dương-Qua ôm Tôn bà khóc nức nở. Tiểu-long-Nữ nói:

- Việc gì phải thế? Ai lại khỏi chết được?

Tôn bà là người nuôi nấng Tiểu-long-Nữ từ tấm bé, ơn sâu nghĩa nặng chẳng khác tình mẹ con, Tiểu- long-Nữ há chẳng biết lẽ ấy sao? Chẳng qua bẩm tính của nàng trầm tĩnh, lại đã luyện nội công từ ngày thơ ấu. Trong phép luyện nội công thì iệc trừ thất tính: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục là điều cần thiết. Bởi vậy, dầu việc gì đau đớn bi thương, hờn giận đến đâu nàng cũng vẫn lạnh lùng như băng tuyết.

Tình cảm của nàng có lẽ cũng vì cuộc sống mà khác hơn người thường chăng?

Xích-đại-Thông thoáng thấy Tiểu-long-Nữ hơn buồn một chút rồi vẻ mặt lại thản nhiên không hề đổi sắc.

Nàng ung dung đưa mắt nhìn các đạo sĩ qua một loạt. Các đạo sĩ gặp phải thái độ lạnh lùng của nàng, ai nấy đều rợn người như chạm phải băng tuyết, chỉ trừ Xích-đại-Thông sức nội công đã uyên thâm nên tâm vẫn định.

Tiểu-long-Nữ cúi xuống hỏi bà:

- Tôn bà bị đả thương vào đâu thế? Tôn bà thở dài nói:


- Cô nương! Từ trước đến nay tôi chẳng hề dám phiền đến cô nương, nay có việc cần cô nương giúp đỡ, chẳng biết cô nương có vui lòng chăng?

Tiểu-long-Nữ linh cảm rất thông, nghe Tôn bà nói nàng đã đoán biết ý định phần nào, liền hỏi:

- Tôn bà có điều gì sai bảo con đây?

Tôn bà khẽ gật đầu, lấy tay chỉ vào Dương-Qua. Rồi bà ngất xỉu đi, không nói nên lời nữa.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà muốn dặn con coi sóc nó phải không? Tôn bà vận dụng hết tàn lực phều phào nói:

- Cô nương, lo liệu, săn sóc, dạy dỗ cho nó nên người, không thể gởi gắm nó vào tay ai được. Tiểu-long-Nữ chần chờ nói:

- Lo liệu cuộc đời cho nó ư?

Tôn bà với giọng nói đã hết sinh lực, nhưng vẫn cố gắng nhếch mồm, ú ớ:

- Này cô nương! Nếu già nầy chưa chết thì vẫn còn săn sóc cô nương. Lúc còn nhỏ, già đã chăm nom cô nương từng miếng ăn miếng trông... bây giờ cô nương báo đền cho già như thế sao?

Tiểu-long-Nữ thở dài, cắn môi nói:

- Được! Con xin tuân lời Tôn bà.

Trên nét mặt xấu xí của Tôn bà hiện lên một nét vui. Bà mỉm cười, mắt nhìn sang phía Dương-Qua như muốn nói điều gì, nhưng không còn nói được nữa.

Dương-Qua biết ý, ghé sát vào mặt bà lão, khe khẽ thưa:

- Thưa Tôn bà, Tôn bà muốn bảo cháu điều gì? Bà lão nói trong hơi thở:

- Cháu hãy ghé vào nữa, ghé vào mồm ta...

Dương-Qua ghé tai sát bên mồm. Tôn bà chỉ còn nói được mấy tiếng:

- Cháu cởi áo bông ngoài của ta, áo này...

Tôn bà không còn hơi nữa. Huyết từ trong miệng chảy ồng ộc. Bà thở dốc lên, trợn mắt rồi nhắm nghiền lại.

Dương-Qua kêu thất thanh:

- Tôn bà! Tôn bà ơi!

Rồi hắn ôm Tôn bà khóc không ngó.

Người đàn bà xấu xí nhất đời lại có tấm lòng vàng ngọc kia không còn nữa. Bà đã chết trong lúc bà mang thuốc đến để cứu kẻ địch thật đáng quí hóa cho lòng từ tâm của bà.

Những tiếng khóc thảm thiết của Dương-Qua thốt ra tự lòng chân thành, thương tiếc một người đã chết vì nghĩa làm cho các đạo sĩ không khỏi áy náy.


Xích-đại-Thông bước đến bên xác Tôn bà, cúi đầu hành lễ, lẩm bẩm:

- Thưa Tôn bà, tôi lỡ tay đánh Tôn bà đến mạng vong, thật tôi có tội với kẻ tiền bối. Tuy nhiên đó là chuyện rủi ro, thực tình tôi không cố ý, xin vong linh Tôn bà xét cho.

Tiểu-long-Nữ đứng gần đó, nét mặt vẫn bình thản như mặt nước hồ thu. Nàng liếc nhìn Xích-đại- Thông trong lúc ấy Xích-đại-Thông cũng đưa mắt nhìn Tiểu-long-Nữ để dò xét ý tứ.

Qua một lúc, Tiểu-long-Nữ nhíu đôi mày, trừng mắt nói với Xích-đại-Thông:

- Sao? Nhà người không chịu hủy diệt để đền tội còn đợi chừng nào?

Xích-đại-Thông là kẻ võ nghệ cao cường, tâm đạo khá cao, thế mà khi nghe câu nói đầy vẻ uy phong của Tiểu-long-Nữ cũng phải rởn ốc.

Xích-đại-Thông ú ớ:

- Sao? Sao...?

- Giết người phải đền mạng. Nếu ngươi biết điều tự xử lấy thì ta có thể dung tha cho tất cả các đạo sĩ ở Trùng-Dương cung nầy.

Xích-đại-Thông đứng lặng người đi một lúc. Trong khi ấy các đạo sĩ kia nhao nhao lên vì sợ sệt cũng có, vì tức giận cũng có.

Sau phút giận dữ vì chạm lòng tự ái, Xích-đại-Thông trở lại trầm tĩnh, kêu Tiểu-long-Nữ nói:

- Tiểu cô nương mau lùi bước. Tuy lời nói của cô nương có xúc phạm đến danh dự của môn phái ta, song cô nương là một cô gái bé bỏng chúng ta không trách móc làm gì.

Tiểu-long-Nữ không nói gì cả, thong thả lấy ra hai cuộn dây trắng toát như hai vuông lụa, dùng tay mặt quấn lấy đầu dây.

Các đạo sĩ đứng xung quanh lấy làm lạ, không biết nàng lấy cuộn dây để làm gì, và tác dụng cuộn dây ấy ra sao.

Tiểu-long-Nữ nhìn Xích-đại-Thông ung dung nói:

- Lão đạo sĩ kia, ngươi đã ham sống sợ chết không chịu tự vẫn thì hãy rút kiếm ra để ứng chiến. Xích-đại-Thông rầu rầu nói:

- Bần đạo đây lỡ tay làm bà lão bị tử thương, thực ra không muốn có sự xích mích như thế. Vậy cô nương liệu bề cõng Dương-Qua ra khỏi điện này thì tốt hơn.

Nói như thế, Xích-đại-Thông nghĩ rằng, Tiểu-long-Nữ còn nhỏ tuổi dẫu võ nghệ cao cường đến đâu nữa cũng chẳng qua như Tôn bà là cùng. Nay Xích-đại-Thông đã nhân nhượng lắm rồi.

Nhưng Xích-đại-Thông có ngờ đâu lời nói của hắn chỉ là một cơn gió thoảng, không lọt vào tai Tiểu- long-Nữ.

Nàng vung tay trái lên một cái thì một dải lụa trắng được phóng ra đụng vào mặt Xích-đại-Thông; sự xảy đến thực không ngờ được.

Dưới ánh sáng của những cây nến, dải lụa lóng lánh ở ngoài đầu một vật tròn như một quả cầu bằng


kim khí.

Xích-đại-Thông thấy nàng xuất thủ mãnh liệt và nhanh như chớp, êm như ru, lại sử dụng một thứ vũ khí quái dị, chưa tìm ra cách nào để ứng phó.

Xích-đại-Thông là người đã lớn tuổi, giàu kinh nghiệm chiến đấu trên bước giang hồ, nên việc gì dẫu lớn nhỏ cũng đều dè dặt.

Vì vậy, thấy Tiểu-long-Nữ xuất thủ, hắn chỉ né tránh để xem chừng sức lực và tài nghệ của đối phương.

Dải lụa của Tiểu-long-Nữ có thể tự động sai khiến quả cầu quay tít trên không nhắm vào đối phương tấn công như vũ bão.

Ba tiếng "tinh! tinh! tinh" ngân dài, quả cầu nhanh như chớp nhảy lên nhảy xuống ba lần điểm vào ba huyệt đạo: tử bạch, hạ quan và địa thương không sai một mảy.

Xích-đại-Thông là người đã giàu kinh nghiệm, trông xa thấy rộng, nên khi nghe tiếng "tinh, tinh, tinh" của quả cầu biết ngay địch thủ dùng ngón độc liền ngả người về phía sau dùng thế "thiết băn kiều" để tránh. Xích-đại-Thông để cho quả cầu xoay qua khỏi mũi mình rồi lần lần đưa tay đẩy sang một bên.

Ngón "Thiết băn kiều" có nghĩa là tấm cầu bằng sắt. Ngón nầy Xích-đại-Thông đã dày công rèn luyện mấy mươi năm trời, nhờ sức nội công uyên thâm mới có thể luyện nổi...

Thật vậy, thế ấy đã cứu nguy cho Xích-đại-Thông trước làn kinh cầu của Tiểu-long-Nữ. Sau khi quả kim cầu bị mất hiệu lực, Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:

- Ta dùng quả cầu điểm huyệt đối phương cả trăm lần chưa sai một, thế mà tên đạo sĩ nầy tự giải cứu được, kể ra hắn cũng thuộc vào bậc nhất trong thiên hạ rồi.

Tuy Xích-đại-Thông vận nội công dùng miếng võ điêu luyện để phản nguy, song không vì thế mà tránh khỏi ảnh hưởng về điện lực. Sức quả cầu quá mạnh, làm cho Xích-đại-Thông phải dùng hết sức mình. Mặt ông ta bỗng tái nhợt đi, rồi đờ người ra.

Các đạo sĩ đứng xung quanh tuy không phải là học trò của Xích-đại-Thông, song thấy Xích-đại- Thông như thế đều nóng lòng nhảy vào tiếp cứu.

Bốn vị đạo sĩ thuộc vào hạng khá, vung trường kiếm xốc vào. Tiểu-long-Nữ hét:

- Này, hãy chuẩn bị binh khí chống đỡ đi.

Dứt lời, nàng múa hai tay lên, hai dải lụa trắng như hai con rắn uốn khúc trên không. "Tinh! tinh!" hai tiếng, rồi "Tinh! tinh!" hai tiếng nữa, huyệt "đại uyên" ở cổ tay các đạo sĩ đều bị quả cầu bằng kim khí điểm vào, bốn thanh trường kiếm rơi xuống đất.

Các đạo sĩ tái mặt kẻ ôm đầu người rút cổ bỏ chạy ra khỏi vòng chiến đấu.

Xích-đại-Thông lúc đầu gặp Tiểu-long-Nữ không ngờ nàng có một sức nội công mãnh liệt như thế


nên thiếu đề phòng. Bây giờ hắn đã lấy lại được uy mãnh, bước đến giật một thanh trường kiếm trong tay một đạo sĩ gần đây, và nói với Tiểu-long-Nữ:

- Long cô nương tài nghệ đến mức tuyệt luân. Bần đạo không còn dám khinh xuất trước cô nương nữa, mong cô nương chỉ giáo cho bần đạo một ngón cao cường hơn.

Tiểu-long-Nữ gật đầu một cái. Tức thì hai tiếng "Tinh! tinh!" phát ra, dải lụa trắng từ tay trái sang tay phải vút ngang mặt Xích-đại-Thông rồi lại thu về.

Xích-đại-Thông ngả người ra tránh và so tài mình với Tiểu-long-Nữ thấy còn thua nàng một bực.

Để tỏ lòng tôn kính bậc lớn tuổi hơn mình, Tiểu-long-Nữ nhường cho Xích-đại-Thông đánh trước ba ngọn.

Xích-đại-Thông vung kiếm tấn công ba hiệp liên tiếp, nhưng Tiểu-long-Nữ như một vị nữ thần không hề nao núng. Nàng chỉ tung dải lụa kia ra làm vũ khí của Xích-đại-Thông trở nên yếu hèn vô dụng.

Xích-đại-Thông nghĩ bụng:

- Người con gái nầy có nhiều ngón võ độc đáo, được rèn luyện rất công phu, nếu nàng được nhiều kinh nghiệm giao đấu nữa thì chắc trong thiên hạ không ai bì kịp.

Nghĩ như vậy, Xích-đại-Thông cố dùng hết cái uyên thâm về kiếm thuật trong phái Toàn-Chân để đối phó với thuật dùng kim cầu của Tiểu-long-Nữ.

Kiếm pháp phái Toàn-Chân quả thật mãnh liệt, Xích-đại-Thông cố gắng biểu diễn hết những nét độc đáo trong nghề, mong áp đảo hai quả kim cầu kia.

Các đạo sĩ đứng xung quanh đều nín hơi xem đấu. Dưới ánh đèn lồng, thấp thoáng bóng một thiếu nữ xiêm y màu trắng uyển chuyển như một cành mai, sắc đẹp như một nữ thần và một lão đạo sĩ da hồng, râu tóc phất phơ, áo quần màu tro, chít khăn vàng, đang so tài thử sức mỗi lúc một kịch liệt. Với mười năm khổ công rèn luyện, Xích-đại-Thông là một tay kiếm lợi hại trong hạng ba bốn người tài cao của phái Toàn-Chân thế mà khi đem so với Tiểu-long-Nữ trong ít chục hiệp, người ta thấy đường kiếm của Xích-đại-Thông mỗi lúc một bối rối thêm.

Tiểu-long-Nữ thì vận dụng hết tinh lực của hai quả cầu, xử dụng bằng hai dải lụa, uốn khúc như rồng bay phượng múa, thỉnh thoảng phát ra những tiếng "Tinh! Tinh" làm cho đối phương phải hồn xiêu phách lạc.

Đánh lâu mà không sao áp đảo được đối phương. Xích-đại-Thông tự hổ thẹn cho tài nghệ mình, lòng bối rối, khiến cho sức nội công vì thế mà suy giảm. Đường kiếm bám sát vào dải lụa không cho kim cầu tự do hoạt động, bây giờ chỉ đủ sức ngăn cản kim cầu không còn áp đảo được sức vùng vẫy của hai dải lụa nữa.

Đánh thêm ít hiệp nữa, sức vùng vẫy của hai dải lụa đã điều khiển hai kim cầu một cách mạnh mẽ chạm vào lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông nghe lẻng kẻng.


Xích-đại-Thông kinh hãi, liền vận dụng sức nội công uyên thâm của mình mong đánh đội hai quả kim cầu trở lại. Mũi kiếm được nội công tiếp sức tấn công như vũ bão.

Các đạo sĩ đứng xem hoan hô cổ võ khi thấy Xích-đại-Thông phóng mũi kiếm quấn vào dải lụa chuyển về phía tay Tiểu-long-Nữ. Nếu Tiểu-long-Nữ không buông dải lụa tất mũi kiếm đâm lủng tay.

Nào ngờ, Tiểu-long-Nữ mặt lạnh như đồng, chẳng hề đổi sắc dùng tay phải chận thanh kiếm rồi hãm khí phóng ra. Thanh kiếm bị gãy làm đôi nơi giữa lưỡi.

Thấy thế các đạo sĩ la thất thanh, và kinh ngạc.

Xích-đại-Thông chạy đến tay run run lượm thanh kiếm gãy, mặt tái đi vì hổ thẹn, nghĩ bụng:

- Công phu ta tập luyện mấy mươi năm trời, nay đánh không lại một đứa con gái nhỏ thế nầy, còn gì là uy danh nữa.

Đoạn Xích-đại-Thông cất giọng nói với Tiểu-long-Nữ:

- Bần đạo xin khuất phục tài nghệ cô nương. Vậy cô nương có quyền đem Dương-Qua về dạy dỗ. Chúng tôi xin nhường hắn cho cô nương đó.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:

- Ngươi đánh chết Tôn bà rồi chịu nhường đệ tử và thú nhận cái bất lực của ngươi như thế là xong chuyện ư?

Xích-đại-Thông ngẩng mặt lên trời cười ngạo nghễ nói:

- Nếu biết ta là một đạo sĩ biết trọng danh dự, ngươi chớ quá hồ đồ. Dứt lời Xích-đại-Thông đưa lưỡi kiếm gãy vào cổ toan quyên sinh.

Ngay lúc đó, bỗng một tiếng "keng" nổi lên làm đội lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông ra, rơi xuống đất. Xích-đạo-Thông ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Ai đã dùng thủ đoạn nầy để cản trở ta? Kẻ nào đây nhỉ? Hắn quay lại nhìn, không thấy bóng người nào cả.

Nghĩ một lúc Xích-đại-Thông lẩm bẩm:

- Chỉ có Khưu-xứ-Cơ mới sử dụng được ngón bí quyết này. Nghĩ như vậy Xích-đại-Thông nói lớn:

- Thưa sư huynh, đệ tử là kẻ bất tài đã làm nhục cho môn phái xin sư huynh xét lại. Dứt lời, Xích-đại-Thông lại cúi xuống nhặt thanh kiếm gãy lên.

Bỗng từ ngoài võ điện, một tràng cười nổi lên, tiếp theo giọng nói:

- Sư đệ Xích-đại-Thông ơi! Thua được là chuyện thường. Đây là một dịp thúc đẩy chúng ta phải tập luyện nhiều hơn nữa. Đã có mười tám người nữa rửa nhục cho sư đệ.

Rồi theo tiếng nói đó, một đạo sĩ râu tóc bạc phơ, tay cầm trường kiếm nhảy qua bức tường mà nói. Đạo sĩ ấy chính là Khưu-xứ-Cơ. Bẩm tính Khưu-xứ-Cơ ít ưa chuyện dài dòng khách sáo, nên vừa


chạm mặt Tiểu-long-Nữ là ông ta vung trường kiếm đâm thẳng tới, và nói:

- Bần đạo là Trường-Xuân Khưu-xứ-Cơ xin lãnh giáo vài đường với người láng giềng tài cao. Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ngươi chắc thừa hiểu tài năng ta cũng chẳng có gì.

Đoạn nàng đưa tay bắt lấy thanh trường kiếm của Khưu-xứ-Cơ. Xích-đại-Thông đứng bên ngoài trông thấy kêu thất thanh:

- Sư huynh! Sư huynh! coi chừng.

Nhưng câu nói Xích-đại-Thông đã trễ. Hai người đang vận nội công giành nhau thanh kiếm.

Một tiếng "rắc" thanh trường kiếm gãy làm đôi. Khưu-xứ-Cơ thất kinh. Còn Tiểu-long-Nữ lần nầy cảm thấy tay nàng đau buốt và ngực hơi thiếu thở.

Nàng nghĩ thầm:

- Lão nầy hơn Xích-đại-Thông một bực. Ta chưa luyện xong Ngọc nữ tâm kinh chưa chắc nắm phần thắng được.

Nghĩ như vậy Tiểu-long-Nữ một tay bồng xác Tôn bà một tay ôm Dương-Qua khinh thân qua khỏi vách tường biến dạng.

Khưu-xứ-Cơ và Xích-đại-Thông đã giao đấu với Tiểu-long-Nữ đoán biết tài vũ công của nàng cũng chẳng hơn họ bao nhiêu, song với lối khinh thân thần tốc của nàng làm cho mọi người không ngớt kinh dị. Tài khinh thân ấy không có một ai so sánh nổi.

Xích-đại-Thông nhìn Khưu-xứ-Cơ, nói:

- Thật là quá đỗi! Ôi thôi! Khưu-xứ-Cơ nói:

- Xích sư đệ, chúng ta uổng công tập luyện mấy mươi năm trường, há chẳng chiêm nghiệm cuộc thua trận nhục nhã này sao? Nhưng thôi, chuyện nầy chưa vội, bây giờ một số trong chúng ta phải đi Sơn Tây gấp đã.

Xích-đại-Thông ngạc nhiên hỏi:

- Lại có việc gì gây rối sao? Có ai bị thương đó? Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chuyện nầy kể ra còn dài dòng. Hiện giờ Mã-Ngọc sư huynh đã lên đường rồi. Chúng ta tiếp tục nối gót.

Kim Dung

Thần Điêu Đại Hiệp

Hồi 14


Năm cỗ quan tài

Đến đây, chúng ta cũng cần biết nguyên nhân nào đã thúc đẩy các đồ đệ của môn phái Toàn-Chân phải đấu bước giang hồ.

Số là, Xích-Luyện Tiên tử Lý Mạc Thu từ khi đả thương một số người ở miền Giang-Nam, Hồ-Châu, tự thấy mình kết oán, gây thù sâu sắc, nên chuyển bước sang đất Sơn Tây. Tại đây, Lý Mạc Thu vẫn không bỏ tánh háo chiến. Nàng đả thương một số anh hùng hào kiệt ở Tấn Bắc, làm cho các thủ lãnh trong giới giang hồ đều căm phẫn. Họ kêu gọi các môn phái hợp tác nhau để khử trừ cho được Lý Mạc Thu.

Toàn-Chân là một môn phái có hạng trong thiên hạ, bấy giờ do Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ lãnh đạo. Hai vị nầy thấy Lý Mạc Thu lắm điều tội lỗi, song khổ nỗi nàng lại ở trong môn đồ của Vương-trùng- Dương vị Tổ sư của họ, nên chẳng biết làm thế nào hơn là đóng vai trò trung gian hòa giải, tìm cách cho Lý Mạc Thu cải tà quy chánh.

Bây giờ, Lưu-xứ-Huyền và Tòa-bất-Nhị liên hiệp nhau ở phía Bắc. Lý Mạc Thu chẳng kể ai vào đâu cả, coi đời bằng khóe mắt, nghe tin họ liên hiệp để chống lại mình, liền mò đến đánh. Trước sau Lý Mạc Thu đã hạ Lưu và Tôn hai trận liên tiếp.

Sau này Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất, hai tay cao cường trong Toàn-Chân phải đến ứng chiến. Lý Mạc Thu khôn ngoan tự thấy một mình không thể đánh nổi số đông, liền dùng lời lẽ ôn tồn làm cho Khưu và Vương bị khích động không thể tham chiến. Nàng hẹn với Khưu và Vương sẽ tỉ thí với nàng ở một nơi khác.

Ngày thứ nhất, tỉ thí với Tôn-bất-Nhị, Lý Mạc Thu

đã dùng kim độc phóng vào huyệt "thân thượng" của đối phương. Sau đó nàng lại cho người mang thuốc đến giải trừ.

Hành động ấy khiến cho Khưu-Vương hai người không rõ tâm tánh của Lý Mạc Thu ra sao cả. Phàm trong nguyên tắc võ lâm, kẻ đã cứu đối thủ không thể coi như kẻ thù được.

ấy vậy các tay thủ lãnh đến hợp tác với Tôn-bất-Nhị thấy vậy đều mỉm cười chua chát rồi rút lui không tham chiến nữa.

Cũng may, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất tự thấy mình chưa phải là lúc ứng chiến với Lý Mạc Thu nên mới trở về kịp Trùng-Dương-cung cứu nguy cho Xích-đại-Thông.

Nhắc lại, Tiểu-long-Nữ lúc ra khỏi Trùng-Dương điện, một tay bồng xác Tôn bà một tay bồng Vương-Qua, khinh thân thẳng về Hoạt-tử-Nhân mộ đài một mạch.

Nàng đặt xác Tôn bà lên giường nàng ngủ thường ngày, còn nàng thì ở trên ghế trường kỷ chống tay thẫn thờ suy nghĩ.

Dương-Qua ôm xác Tôn bà khóc sướt mướt không thôi. Một lúc lâu Tiểu-long-Nữ mới nói:


- Đàng nào Tôn bà cũng đã chết, khóc mãi chẳng ích gì? Bây giờ mi khóc Tôn bà như thế, ngày mai mi chết có ai khóc cho mi chăng?

Nghe Tiểu-long-Nữ nói những câu lạnh nhạt như vậy, Dương-Qua không hiểu gì cả buồn rầu hơn, và càng khóc to hơn nữa!

Tiểu-long-Nữ nói:

- Thôi ta đi an táng Tôn bà đây. Mi hãy theo ta.

Nói dứt lời, nàng bước đến bồng xác Tôn bà đi về phía Tây. Dương-Qua lấy vạt áo chùi nước mắt bước theo.

Đường trong mộ đài tối lờ mờ, ánh sáng bên ngoài rọi vào yếu ớt. Dương-Qua phải chú mục vào màu trắng của xiêm y Tiểu-long-Nữ để nối gót.

Hai người đi quanh co một lúc thì đến một con đường hầm tối đen như mực. Con đường hầm đó dẫn đến một cánh cửa bằng đá Tiểu-long-Nữ đưa tay đẩy cánh cửa thì bên trong lộ ra một căn phòng cũng bằng đá, và tối om. Nàng rút trong bọc ra lấy một viên đá lửa đập vào một tảng đá. Bùi nhùi nàng đã chuẩ bị sẵn. Lửa bén vào, cháy bùi nhùi tỏa ánh sáng tạo thành một màu kinh dị.

Tiểu-long-Nữ thắp một ngọn đèn dầu đặt giữa căn phòng. Nhìn bốn phía Dương-Qua cảm thấy trong người ớn lạnh.

Đó là một căn phòng rộng, trống rỗng, trơ trọi có năm cái quan tài bằng đá.

Nó nín hơi lấy can đảm đưa mắt nhìn về năm cỗ quan tài ấy thì thấy hai cái đã có nắp đậy kín, còn ba cái nắp đậy hở.

Nó ngơ ngẩn tự hỏi:

- Chẳng biết trong ba cỗ quan nắp hở nầy đã có xác người chết hay chưa. Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ chiếc quan tài bên trái nói:

- Sư phụ phu nhân an giấc ở chỗ này.

Rồi nàng lại chỉ vào cái quan tài bằng đá thứ hai, nói:

- Còn sư phụ an giấc ngàn thu ở chỗ này đây.

Tiếp đó, nàng lại đưa tay chỉ vào chiếc quan tài thứ ba.

Dương-Qua lòng ngờ ngợ, chẳng biết Tiểu-long-Nữ sẽ bảo ai an giấc trong đó. Nhìn nắp quan tài chưa đậy, nó chẳng biết có xác chết nào trong đó chưa.

Bỗng nghe Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà an giấc trong cỗ quan tài nầy.

Nó đánh thót người nhẹ nhõm và tìm hiểu rằng: "những chiếc quan tài chưa đậy nắp là chưa có người chết".

Trí tò mò của nó lại nổi dậy, nó nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Thưa cô nương, còn hai cỗ quan tài không kia nữa.


Tiểu-long-Nữ thản nhiên đáp:

- Một cái dành cho sư tỉ của ta là Xích-Luyện tiên tử Lý Mạc Thu. Dương-Qua ngẩn người hỏi:

- Lý cô nương cũng lại về đây an giấc sao? Tiểu-long-Nữ đáp:

- Sư mẫu ta đã dự liệt trước, sư tỉ rồi thế nào cũng phải về. Dương-Qua lại hỏi:

- Còn một cỗ quan tài nữa? Tiểu-long-Nữ nói:

- Cỗ quan tài đó dành cho ta. ở đây còn thiếu một cỗ quan tài nữa chỉ vì sư mẫu ta không dự liệu được rằng mi sẽ đến đây.

Nghe nói vậy, Dương-Qua giật mình. Tự nhiên bản tính "uý tử cầu sinh" nổi dậy, nó hoảng hốt đáp:

- Cô nương ơi! Tôi không chết nơi đây đâu! Tôi không muốn chết! Tiểu-long-Nữ nghiêm nét mặt nói:

- Ta nhớ lời dặn của Tôn bà là sẽ chăm lo săn sóc đến mi trọn đời. Lời hứa ấy ta chẳng dám sai. Dương-Qua lạnh toát cả mình, nhất là trước căn phòng âm u với năm cỗ quan tài ấy, làm cho nó ám ảnh một mối buồn rùng rợn.

Nó nói rối rít:

- Nếu cô nương không bằng lòng để tôi đi thì lúc cô nương chết rồi tôi cũng tìm cách ra khỏi chốn nầy.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã bảo theo lời trăn trối của Tôn bà, ta phải lo liệu cho mi trọn đời, thì có bao giờ ta để cho mi chết sau ta?

Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Tại sao vậy? Cô nương nhiều tuổi hơn tôi mà! Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:

- Chết sống không cần phải ít hay nhiều tuổi. Phỏng sử ta có chết trước mi ta cũng tìm cách cho mi được chết theo.

Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song tâm cơ đã có nhiều mưu trí. Mặc dù vậy, những mưu trí có hay đến đâu cũng chỉ là mưu trí của trẻ con.

Khi nghe Tiểu-long-Nữ nói như vậy, tâm trạng chống đối lại âm thầm nổi đậy trong đầu óc nó. Nó nghĩ thầm:

- Tại sao lại buộc ta phải chết, mà phải chết nơi đây? Nhưng cái chết cái sống hãy còn xa vời, ta có đủ thì giờ để đối phó.


Tiểu-long-Nữ thấy nó thẫn thờ suy nghĩ hiểu ngay tâm trạng của nó, liền bước đến giờ nắp quan tài, đặt xác Tôn bà vào trong.

Dương-Qua chợt nhớ đến lời trăn trối của Tôn bà: "Mi hãy lấy chiếc áo bông phủ ngoài của ta. áo này..."

Nó vùng đứng dậy, chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, nói:

- Thưa cô nương! Theo lời trăn trối xin cô nương cho tôi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà.

Tiểu-long-Nữ không muốn cho người bên mình phải buồn phiền, lại thấy Dương-Qua với Tôn bà quen biết mới trong ngày mà tình quyến luyến đã sâu đậm, nên cởi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà trao cho Dương-Qua.

Dương-Qua cầm lấy chiếc áo khóc nức nở, nghĩ đến lời trăn trối của Tôn bà, mặt mày nó đau đớn như mất một người thân.

Tiểu-long-Nữ thừa lúc nó gục mặt xuống khóc, lấy tay kéo nắp quan tài đậy kín lại khít rịt, không khí không còn ra vào được nữa.

Tiểu-long-Nữ sợ Dương-Qua lại khóc nữa, liếc mắt nhìn nó một chút, rồi nhìn lãng sang chỗ khác nói:

- Thôi! Hãy theo ta ra ngoài.

Dứt lời, nàng lấy vạt áo quạt một cái, ngọn đèn dầu tắt, căn phòng rộng lớn bao la bỗng trở nên tối đen như mực.

Dương-Qua sợ nàng bỏ rơi nó lại trong căn phòng mộ địa này vội vàng vớ chiếc áo bông của Tôn bà mà theo luôn Tiểu-long-Nữ bước ra.

Trong mộ đài, ngày cũng như đêm bóng tối đen ngòm.

Vì hai người đã hoạt động hơn nửa ngày, nên ai cũng có cảm giác mệt mỏi. Tiểu-long-Nữ ra lệnh cho Dương-Qua ngủ ở căn phòng mà bình sinh Tôn bà dùng làm chỗ nghỉ ngơi.

Dương-Qua từ tấm bé, tuy đã trải qua những lúc quạnh hiu cô độc, đã từng ngủ ở đầu hè, xó chợ, đã từng ngủ nơi núi rậm, rừng sâu, song đối với mộ đài nầy như cái gì rùng rợn oai nghiêm làm cho nó muốn rỡn óc. Nó không dám tuân lời của Tiểu-long-Nữ.

Thấy như nó không để ý đến lời mình, Tiểu-long-Nữ nhìn nó hỏi:

- Mi không nghe ta nói gì sao? Dương-Qua thưa:

- Thưa cô nương, tôi sợ... Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sợ cái gì?

Dương-Qua thở dài đáp:

- Tôi cũng không hiểu nữa... Tôi không dám ngủ một mình.


Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:

- "Tuổi nó hãy còn nhỏ, nó sợ sệt cũng phải". Nàng suy nghĩ một lúc rồi thở dài, khẽ nói:

- Được, cứ theo ta vào đây mà ngủ.

Rồi nàng dẫn Dương-Qua vào phòng nàng. Nàng thường có thói quen không thắp đèn, nhưng nay có Dương-Qua, nàng thắp lên một ngọn đèn dầu nhỏ.

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dung mạo mỹ miều, không gì sánh kịp, trong bộ y phục trắng như tuyết không vướng chút bụi trần, ngỡ rằng khuê phòng nàng hẳn trần thiết cực kỳ diễm ảo. Nào ngờ lúc bước vào phòng thì thực là thất vọng. Phòng xây bằng đá trống rỗng, không có gì cả, chẳng khác gì căn phòng có năm cỗ quan tài kia. Giường nàng là một phiến đá xanh dài có trải thảm bằng cỏ, trên phủ một lần vải thô. Ngoài mấy thứ ấy ra, căn phòng chẳng còn có gì khác.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Chẳng biết nàng cho mình nghỉ ở đâu nhỉ! Có lẽ nàng bắt mình nằm dưới đất là phải. Đang lúc nó phân vân chưa kịp hỏi thì Tiểu-long-Nữ cất tiếng bảo:

- Mi leo lên giường nằm ngủ đi. Dương-Qua hỏi:

- Thế thì cô nương ngủ ở đâu? Tiểu-long-Nữ nghiêm nghị nói:

- Ta đã có chỗ khác, mi khỏi phải lo. Dương-Qua nói:

- Ngủ trên giường bất tiện, xin cô nương cho tôi ngủ dưới đất cũng được. Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt nói:

- Ta là bậc sư phụ mi, ta nói gì mi cũng phải nghe. Mi đừng quen thói đánh lại sư phụ như ở bên Trùng-Dương cung mà mất mạng đó.

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dùng lời gay gắt, vội nói:

- Xin cô nương đừng giận dữ như thế. Tôi chỉ cần vâng theo lời cô nương là được chứ gì?

Tiểu-long-Nữ thấy giọng nói của Dương-Qua có vẻ không tôn kính mình nên không vừa ý, nói:

- Mày bướng bỉnh phải không?

Dương-Qua thấy nàng còn ít tuổi lại đẹp đẽ mỹ miều, không có vẻ gì đang bậc sư phụ mình, nên nó chép miệng một cái, rồi nói:

- Tôi đâu dám chẳng tuân lời...

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua chép miệng, đoán được ý nó, hét:

- Tại sao mi có cử chỉ khinh thường ấy. Mi không phục ta phải không?

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ làm dữ, không dám nói nữa vội tuột hài, nhảy phóc lên giường nằm.


Nằm được một lúc, nó cảm thấy lạnh buốt xương, vội chồm dậy, tụt xuống đất la lớn:

- Lạnh quá! Lạnh chết đi thôi!

Tiểu-long-Nữ không nhịn được cười, chạy đến phía sau vách lấy chiếc phất trần chỉ vào mặt nó:

- Ta bảo mi phải nằm lên đó, và ngủ đi. Nếu còn rên rỉ than lạnh ta đánh cho mười roi nầy.

Dương-Qua thất kinh, vội leo lên giường nằm nữa, lần nầy nó cố chịu đựng, nhưng lạ thay, sức lạnh từ đâu xông vào người nó, làm cho nó tê cứng cả người, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập.

Tiểu-long-Nữ lấy chiếc áo bông của Tôn bà để vào một nơi khiến Dương-Qua không rờ tới. Lạnh quá, nhưng Dương-Qua sợ đánh đòn không dám tuột xuống như lần trước nữa, ré lên:

- Ôi chao! Cô nương ơi! Tiểu-long-Nữ mỉm cười hỏi:

- Cái gì thế? Dương-Qua nói:

- Ôi chao! Chiếc giường nầy như có gì kỳ lạ! Tôi không thể nằm được lâu.

Rồi nhìn thấy nét mặt tươi cười của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cho rằng nàng đã sung sướng trước cái đau khổ của nó, nó nổi giận nói:

- Tôi không muốn nằm nơi đây nữa đâu. Cô nương cho tôi nằm dưới đất mà thôi. Tiểu-long-Nữ giơ chiếc phất trần trước mặt nó nói:

- Hãy nằm im và ngủ. Trái lời, mi đừng trách ta độc ác.

Dứt lời, nàng rút hai sợi dây cột vào kẹt đá, leo nằm lên hai sợi dây đó, rồi lấy tay vẫy một cái, ngọn đèn phụt tắt.

Trong phòng tối mịt, Dương-Qua lấy làm lạ:

"Tại sao nàng lại có thể nằm ngủ lơ lửng trên hai sợi dây như thế nhỉ?" Nó bắt đầu khâm phục tài nghệ của Tiểu-long-Nữ, và hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương có thể dạy tôi nằm ngủ như thế chăng?

Bản tính con nít dễ giận mà cũng dễ làm thân. Nó vừa có ác cảm với Tiểu-long-Nữ, bây giờ thấy Tiểu-long-Nữ vui vẻ, nó lại cảm mến ngay.

Tiểu-long-Nữ thấy tánh nết trẻ con của nó cũng tức cười. Nàng nói:

- Dạy mi nằm ngủ như thế nầy để làm gì? Ta còn lắm điều phải chỉ dạy cho mi.

Câu nói ấy làm cho Dương-Qua đoán biết Tiểu-long-Nữ không có ác ý với nó, mà chỉ muốn dạy dỗ nó thôi. Nó hối hận cất tiếng nói:

- Thưa cô nương! Cô nương có thể cho tôi biết những điều mà cô nương sắp dạy bảo tôi chăng? Lúc nãy tôi có lỗi với cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta biết rồi! Tự nhiên mi oán ta! Điều đó có gì lạ!


Dương-Qua vội nói:

- Không, không! Tôi đâu dám oán giận cô nương. Lúc nãy tôi cứ tưởng cô nương cũng như sư phụ trước của tôi, cứ hành hạ tôi mà không truyền dạy cho tôi gì cả.

Tiểu-long-Nữ cười lạt nói:

- Mi trách sư phụ trước của mi không dạy dỗ cho nên mi oán hận. Bây giờ ta dạy dỗ sao mi cũng oán hận?

Dương-Qua nói:

- Chỉ vì cô nương cũng hành hạ tôi, bắt tôi nằm trên chiếc giường giá lạnh này. Tiểu-long-Nữ nói:

- à ra mi cho thế là ta đã hành hạ mi ư? Ta thiết tưởng suốt đời mi nên tìm cái cực nhỏ như vậy để nên người.

Dương-Qua trố mắt nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Thế thì sống để chịu cực hình sao? Tiểu-long-Nữ nói:

- Các cực hình ấy sẽ đem lại cho mi biết bao điều hay! Dương-Qua mới hiểu ra, hỏi:

- Thưa cô nương, chiếc giường lạnh nầy có gì bí quyết ư? Tiểu-long-Nữ nói:

- Những tay võ nghệ cừ khôi trong thiên hạ chưa chắc đã nằm nổi trên chiếc giường này. Nhưng thôi, việc đó mi sẽ hiểu sau, bây giờ mi phải nhắm mắt ngủ đi, không được nói nữa.

Trong căn phòng tối om, Dương-Qua chỉ nghe giọng kêu cót két của hai sợi dây mà Tiểu-long-Nữ dùng làm võng.

Sau câu nói như ra lệnh của nàng, Dương-Qua không dám hỏi nữa, song nó không làm sao ngủ được. Chốc chốc nó lại xuýt xoa vì lạnh.

Một lúc lâu nó cất tiếng khẽ nói:

- Cô nương ơi! Tôi không chịu nổi sự lạnh nầy nữa.

Không nghe tiếng Tiểu-long-Nữ đáp lại, nó lắng tai nghe thì thấy hơi thở của nàng đều đều và chậm lại.

Nó đoán chừng Tiểu-long-Nữ đã ngủ, nó nghĩ bụng:

- Cô nương đã an giấc, vậy ta xuống đất một chút cho đỡ lạnh cũng chẳng sao. Nghĩ vậy nó rón rén tụt xuống giường, không dám thở mạnh.

Nào ngờ nó vừa bước chân xuống đất thì một tiếng đàn cầm vang lên. Tiểu-long-Nữ từ trên dây nhảy xuống một tay vớ cây phất trần, một tay thộp vào cổ nó, quất mấy cái vùn vụt nói:

- Mi dám trái lời ta sao! nếu còn lừa dối ta sẽ đánh đến chết.


Nàng đánh đủ mười roi khiến Dương-Qua đau tím ruột. Nó lồm cồm lên giường nằm trở lại không dám động đậy.

Tiểu-long-Nữ ngỡ là sau trận đòn thế nào Dương-Qua cũng khóc và oán trách nàng. Nhưng thấy nó nằm im thin thít không hề than thở gì cả. Tiểu-long-Nữ lấy làm lạ gọi nó hỏi:

- Dương-Qua tại sao mi nằm im thế? Dương-Qua thỏ thẻ:

- Cô nương bảo sao làm vậy. Cô nương bắt nằm là phải nằm, bảo đánh thì đánh, thế thì khóc lóc ích gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- A! Thế ra mi nằm im để hờn dỗi ta phải không? Dương-Qua nói:

- Tôi chẳng bao giờ hờn cô nương. Tôi đã thấy lòng cô nương thương mến tôi rồi. Tiểu-long-Nữ nói:

- Ai bảo mi thế? Dương-Qua nói:

- Cô nương đánh tôi, nhưng thực ra cô nương không đánh mạnh. Như vậy không phải vì cô nương sợ tôi đau sao.

Thật vậy, Tiểu-long-Nữ đánh Dương-Qua là để bắt nó thi hành theo lệnh mình. Vì vậy nàng chỉ đánh mạnh hai roi đầu, còn mấy roi sau chỉ đánh cho đủ số.

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua ranh mãnh, tìm hiểu được dụng ý của mình, liền hét lớn:

- Đừng tưởng lầm! Nếu lần sau mi còn trái lệnh ta sẽ đánh đến thối thịt đó. Dương-Qua thấy lời nói nàng tuy hăm dọa nhưng có âu yếm, lòng hớn hở nói:

- Dù cô nương có đánh đến tan xương nát thịt tôi vẫn vui lòng. Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta chỉ sợ rồi đây với tánh ương ngạnh, rắn mắc của ngươi, ngày nào cũng bị đòn là khác. Dương-Qua nói:

- Tôi chỉ ghét và thù hằn những người đánh tôi với ác ý. Còn như cô nương vì thương tôi mà đánh, tôi đã không giận mà lại còn sung sướng hơn nữa. Cô nương thuộc vào những người tôi thương. Tiểu-long-Nữ nghe nó nói, mỉm cười, hỏi:

- Mi thử kể ta nghe ai là người mi ghét? Ai là người mi thương. Dương-Qua nói:

Những người tôi ghét tôi không thèm nhớ đến làm chi. Còn những người tôi thương như mẹ tôi thì đã chết mất rồi. Âu-dương-Phong là cha nuôi tôi, rồi đến Quách-Tỉnh và sau nữa là Tôn bà và cô nương.


Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã làm gì mà mi thương ta? Dương-Qua nói:

- Vì cô nương đã thương tôi. Tiểu-long-Nữ nói:

- Chưa chắc ta đã thương mi. Chỉ vì Tôn bà dặn ta săn sóc mi thì ta phải làm tròn lời hứa. Còn việc ta thương mi, mi chớ vọng tưởng.

Câu nói của Tiểu-long-Nữ như một gáo nước lạnh tưới vào mình Dương-Qua. Nó đang lạnh lại cảm thấy còn lạnh hơn. Nó nói như trách móc:

- Thưa cô nương! Chắc tôi có điều gì không tốt nên cô nương ghét tôi. Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi tốt hay không, không quan hệ đến ta. Ta chưa hề biết ghét thương ai cả, suốt đời ta chỉ biết ngôi mộ đài nầy.

Dương-Qua hỏi:

- Thế ra từ lúc nhỏ đến giờ cô nương chẳng hề có một lần du ngoạn sao? Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta chưa hề ra khỏi Chung-Nam sơn nầy. Dương-Qua vỗ tay lớn tiếng nói:

- Ôi chao! Thế thì uổng lắm! Cô nương không được thưởng thức bao nhiêu cảnh đẹp bên ngoài. Tiểu-long-Nữ nói:

- ở ngoài bất quá cũng là rừng núi, trăng thanh, gió mát là cùng. Những cái đẹp đó nơi đây cũng có. Dương-Qua nói:

- Nào phải có thế thôi! ở mộ đài tuy đẹp, song nhìn mãi cũng chán mắt. Còn cảnh đẹp bên ngoài biến ảo không cùng, mỗi nơi có cái đẹp mỗi khác, chẳng bao giờ làm cho ta chán được.

Rồi ngay lúc đó, Dương-Qua thuật lại cho Tiểu-long-Nữ nghe những chuyện xảy ra trong cuộc đời nó từ tấm bé, và những cảnh đẹp đó đây, mà vì hoàn cảnh nó đã trải qua.

Với tài ăn nói của nó, nó thêu dệt nhiều chỗ làm cho câu chuyện trở nên kỳ thú, lạ lùng.

Đối với Tiểu-long-Nữ, một cô gái từ tấm bé đến giờ chưa bước ra khỏi ngôi mộ, nào có hiểu đời là gì, nên dầu Dương-Qua có thêu dệt thế nào nàng cũng cho là sự thực.

Nghe Dương-Qua kể một lúc, nàng buông tiếng thở dài. Dương-Qua nói:

- Thưa cô nương! Tôi muốn dẫn cô nương đi du ngoạn, cô nương có bằng lòng chăng? Tiểu-long-Nữ có vẻ giận dữ, mắng:

- Mi đừng nói nhảm! Lời di huấn của tổ sư để lại rằng:


"Phàm người nào đã sống ở Hoạt-tử-Nhân mộ đài thì không được ra khỏi Chung-Nam sơn nửa bước".

Dương-Qua giật mình hỏi:

- Thế tôi cũng không được ra ngoài nửa bước sao? Tiểu-long-Nữ đáp:

- Dĩ nhiên là thế.

Dương-Qua nghe nàng nói như vậy, nghĩ bụng:

- Té ra mình không thích cảnh tù túng ở đảo Đào-hoa, đem thân đến đây để bị giam hãm thì đời sống còn gì là vui nữa. Chẳng lẽ thân ta sống để chôn vùi trong mộ đài nầy sao?

Tuy nghĩ thế, song gần Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cũng cảm thấy không còn cô độc nữa. Dẫu có ở mãi trong mộ đài nó thấy cũng vui.

Trong lúc chuyện trò với Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua quên cả lạnh. Đến khi Tiểu-long-Nữ không nói chuyện nữa, nó cảm thấy rét buốt tràn trề, liền nói:

- Cô nương có thể tha cho tôi khỏi nằm nơi giường đá nầy chăng? Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi có muốn cho các đệ tử môn phái Toàn-Chân tha cho mi đừng đánh mi nữa chăng? Dương-Qua nói:

- Họ là những kẻ thù của tôi! Nếu họ giết tôi, tôi cũng không khi nào xin tha cả. Tiểu-long-Nữ nói:

- Như vậy sao mi nằm trên giường nầy lại than vãn. Dương-Qua nói:

- Vì cô nương tốt với tôi! Cô nương không muốn cho tôi phải khổ cho nên tôi mới than vãn.

Tiểu-long-Nữ từ nhỏ nhờ ơn sư mẫu và Tôn bà nuôi nấng dạy dỗ, đã hai mươi năm trời chỉ biết sống gần hai người cao tuổi ấy mà thôi. Hai người nầy tuy đối với nàng thực là tốt, nhưng từ buổi nàng lúc còn nhỏ họ đã dụng ý đào luyện nàng thành một người mất cả thất tình: "hỉ, nộ, ái, ố, dục" để có thể nối dõi rèn luyện môn "Ngọc nữ tâm kinh" là ngón võ duy nhất và lợi hại nhất của Cổ Mộ đài.

Bởi vì muốn luyện "Ngọc nữ tâm kinh", điều căn bản trước tiên là phải cởi bỏ thất tình đi đã.

Ngày nay, Dương-Qua tới chốn này, mang vào đây những tình cảm nồng nhiệt của một thường nhân thật là trái mong muốn của các bậc tiền nhân trong mộ đài vậy.

Tiểu-long-Nữ từ khi thừa tiếp Dương-Qua đã rõ lẽ đó, song vì có lời Tôn bà, không dám làm khác hơn.

Dương-Qua thấy bề ngoài Tiểu-long-Nữ vẫn với thái độ lạnh lùng song bên trong không khỏi có tình cảm với nó. Nó nói:

- Ôi chao! Cô nương bắt tôi nằm đây lạnh quá có lẽ tôi hông còn chịu nổi nữa.


Thực ra, chiếc giường ấy lạnh lắm, song không đến nỗi làm cho Dương-Qua lồng lộn lên như thế. Một phần nào nó giả vờ để thử lòng Tiểu-long-Nữ đối với nó.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi đừng than vãn gì cả. Ta sẽ cho mi nghe sự ích lợi của chiếc giường nầy. Dương-Qua nghe nói mừng quýnh hỏi vội:

- Hay lắm! Xin cô nương vui lòng cho tôi biết một chút. Vì đâu nó lại lạ lùng? Tiểu-long-Nữ nói:

- Lúc nãy ta nói với mi là những khách anh hùng trong thiên hạ vị tất đã hiểu được cái huyền diệu của chiếc giường nầy. Tổ sư phu nhân ta đã phải mất bảy năm công trình lao tâm lao lực đến mãi tận miền băng tuyết đào hàng trăm trượng dưới đất sâu mới lấy được thứ ngọc lạnh nầy đem về luyện nội công. Nằm trên giường ngọc nầy luyện nội công trong một năm thì hiệu quả bằng mười năm. Dương-Qua kinh ngạc nói:

- à ra lai lịch chiếc giường nầy là thế? Chiếc giường bằng ngọc mà tôi không biết cứ ngỡ là đá! Tiểu-long-Nữ nói tiếp:

- Lúc đầu mi ngủ trên giường nầy thấy lạnh buốt không chịu nổi, phải vận dụng hết sức để kháng cự lại sức lạnh đó. Nhưng lâu ngày thành thói quen tự nhiên ngủ được. Ngay trong giấc ngủ, tự nhiên cơ năng vẫn vận dụng tình lúc để đề kháng. Như vậy là cơ năng suốt ngày đêm luyện tập không lúc nào nghỉ.

Theo người thường khi luyện nội công chỉ luyện lúc thức mà thôi, đến khi ngủ thì cơ năng trở lại bình thường. ấy vậy, họ tập được bao nhiêu thì phải phí đi một ít trong lúc nghỉ ngơi. Đằng nầy, chúng ta nhờ chiếc giường có thể luyện từ ban đêm, từ trong giấc ngủ. Suốt ngày đêm cơ năng luôn luôn tiến tới để chiếm đoạt sức đề kháng bên ngoài. Do đó nội công tiến bộ phi thường.

Dương-Qua vốn thông minh và lanh lợi nghe nàng nói đến đâu là lãnh hội đến đó. Nó hỏi:

- Nhưng tại sao lại phải nằm trên chiếc giường lạnh buốt nầy? Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta đã bảo rằng muốn luyện nội công tất cơ năng con người phải vượt qua sức uy hiếp của mãnh lực bên ngoài. Nằm trên giường tức là luyện cho sức nóng chống lại với lạnh. Lạnh mạnh quá, sức nóng phải thua chạy vào trong trở vào tiềm phục trong huyệt đạo của nó. Dần dần quen, thân thể người luyện tập hóa thành nước. Tiến hơn lên bước nữa, nước hoá thành băng tuyết so với sức lạnh của hòn ngọc chỉ mới một phần mười. Đại phàm tập luyện nội công là phải hàm súc chân hỏa không bao giờ để nó thoát ra ngoài sào huyệt của nó. Hàn ngọc là một vật chí âm. Lạnh nhiều tức cũng là hàm dưỡng sức nóng. Sức nóng đã được tập trung đến cực độ thì đến lúc vận dụng chân hỏa chúng ta sẽ đạt được một sức mạnh phi thường không gì sánh kịp.


Dương-Qua hiểu ra, sung sướng nói:

- Thưa cô nương, cô nương đối với tôi thật chí tình. Tôi đã được nằm trên giường nầy rồi chắc sau nầy không còn phải sợ một ai trong võ lâm nữa. Ngay như Quách, Hoàng tôi cũng chẳng sợ. Còn như Triệu-chí-Kính với sức nội công ấy chắc tôi sẽ đuổi kịp.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:

- Di huấn của Tổ sư phủ nhận chẳng cho một ai trong mộ đài này có tính hiềm khích. Muốn tập luyện mi phải bỏ hết thú hắn và ý nghĩ ganh đua mới được.

Dương-Qua nói:

- Tôi xin vâng lời cô nương. Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu vì đâu bọn họ lại khi dễ tôi, ghen ghét tôi, họ lại dám đánh chết Tôn bà người tôi yêu quí. Cái chết của Tôn bà, cô nương cũng không cho phép tôi được thù hận họ sao.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ai là người chẳng phải chết? Vì dù Tôn bà chẳng chết vì Xích-đại-Thông thì vài ba năm nữa cũng phải chết vì duyên cớ khác. Sống thêm ít năm hay chết trước ít năm nào có nghĩa lý gì. Ta không muốn rằng từ nay trở đi mi còn nói đến chuyện oán hận, phục thù...

Dương-Qua xem chừng lời nói ấy có lý lắm, song nó vẫn không khỏi thắc mắc trước hoàn cảnh của nó đã trải qua.

Tiểu-long-Nữ dò hỏi xem cha nuôi của nó là Âu-dương-Phong dạy nội công cho nó như thế nào.

Nó lần lượt kể lại sự thật tất cả. Tiểu-long-Nữ bảo nó áp dụng nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy, xem có hiệu quả gì chăng.

Nó lấy gân suốt từ đầu đến chân nằm thẳng đờ trên giường đá lạnh buốt. Khí lực chuyển khắp nơi trong mình nó. Nó thấy khắp người nóng ran. Nó nằm nghiêng một phía mắt nhắm lại, cố mơ màng để ngủ.

Nhưng nó ngủ được một khoảng ngắn thì khí nóng trong người nó lại tiêu tan đâu mất. Cả người nó lạnh buốt như cũ.

Nó lại vận gân cốt nữa. Rồi cứ thế, ngủ và thức, nóng và lạnh cứ tiếp diễn mãi suốt đêm.

Tuy nhiên, đến sáng trong mình nó không chút mệt nhọc. Nó cảm thấy tinh thần thanh sảng vô cùng. Tiểu-long-Nữ sờ trán nó, thấy nhiệt độ điều hòa lấy làm lạ tỉ tê hỏi nó.

Nó đem việc áp dụng phương pháp nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy kể lại. Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:

- Mỗi người có một lối tập luyện và phương pháp nào cũng lợi cả.

Nàng nghiền ngẫm lối nội công của thân mẫu Dương-Qua và lối nội công của Âu-dương-Phong rồi đem so sánh với lối tập luyện của nàng. Bấy giờ nàng không còn có ý khinh thường các môn phái khác nữa.


Sáng hôm ấy, hai người dùng cơm xong, Dương-Qua xuống dưới bếp rửa chén, và làm những việc thay thế Tôn bà.

Khi Dương-Qua trở lại phòng lớn, Tiểu-long-Nữ bảo nó:

- Ta có một điều cần hỏi mi. Vậy mi phải suy nghĩ kỹ càng trước khi trả lời mới được. Dương-Qua thưa:

- Việc gì xin cô nương cứ dạy. Tiểu-long-Nữ nói:

Mi muốn nhận ta làm thầy mi chăng? Và suốt đời mi có chịu nghe ta chỉ dạy chăng? Dương-Qua không ngần ngừ đáp:

- Sao cô nương lại nói thế. Tôi nguyện sống với cô nương, nhờ cô nương, chỉ bảo mà. Tiểu-long-Nữ nói:

- Nếu mi không nhận ta làm thầy mà ta chỉ dạy cho mi sau nầy thế nào mi cũng bỏ ngôi mộ nầy mà đi.

Dương-Qua nói:

- Tôi xin nhận cô nương làm thầy. Dù cô nương không truyền cho tôi chút võ nghệ nào tôi vẫn coi cô nương như bậc sư phụ, lúc nào tôi cũng vâng theo lời cô nương không chút trái ý.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Tại sao ta không truyền võ nghệ cho ngươi mà ngươi vẫn kính ta là thầy? Dương-Qua nói:

- Thưa cô nương, lòng cô nương đối đãi với tôi như vậy lẽ nào tôi không biết. Tiểu-long-Nữ tươi hẳn nét mặt, nói:

- Được, ta sẽ xem mi có thành thực với ta chăng? Mi có chịu nghe lời ta chăng? Mi đã nhận ta làm thầy vậy phải ra đằng sau làm lễ.

Dứt lời nàng bước ra phía phòng sau. Dương-Qua vội vã nối gót theo.

Đó là một căn phòng không trần thiết vật gì cả, ngoài hai bức chân dung treo ở vách tường.

Vách tường phía Tây treo một bức họa, vẽ hình hai thiếu nữ một người trạc độ hai mươi lăm tuổi, đang đứng trước gương chải đầu và sửa sang quần áo. Một người trạc độ mười sáu tuổi một tay đang cầm một cái bồn đứng hầu bên cạnh.

Người thiếu nữ nhiều tuổi lông mi dài đẹp, đôi mắt như có ẩn sát khí căm hờn. Dương-Qua nhìn hai bức chân dung không hiểu gì cả.

Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chân dung người thiếu nữ lớn tuổi nói:

- Đây là di ảnh sư tổ phu nhân. Mi phải quỳ xuống ra mắt. Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Người ấy là sư tổ phu nhân sao? Tại sao lại ít tuổi như thế? Thưa cô nương.


Tiểu-long-Nữ nói:

- Bức di họa đó về lúc sư tổ còn trẻ tuổi.

Dương-Qua nghe Tiểu-long-Nữ nói thế, lòng suy tư lẩm bẩm:

- Lúc còn trẻ... và sẽ già đi...

Nó ngắm bức tranh một hồi, chẳng biết nghĩ sao, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn nó, đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa.

Tiểu-long-Nữ vô tình, không làm sao hiểu được mối cảm xúc của nó, lại chỉ vào bức chân dung thứ hai, nói:

- Đây là ảnh sư mẫu ta, mi phải quỳ xuống làm lễ. Dương-Qua sụp lạy, nghĩ thầm:

- Sư tổ, sư mẫu đều ít tuổi cả, và ai cũng có sắc đẹp phi phàm. Chẳng hiểu đến lúc già, sắc đẹp họ ra sao nhỉ?

Tiểu-long-Nữ đợi Dương-Qua bái kiến xong, mới chỉ sang bức tường phía đông, nơi có treo một bức ảnh, nói:

- Mi hãy khạc nhổ vào hình đạo nhân này.

Dương-Qua liếc mắt nhìn thấy người đạo sĩ trong tranh dáng điệu cao lớn, lưng giắt thanh trường kiếm, tay phải đang chỉ về hướng đông bắc, lưng xây ra ngoài nên không trông rõ mặt.

Nó ngạc nhiên hỏi:

- Người ấy là ai? Vì sao phải khạc nhổ? Tiểu-long-Nữ đáp:

- Đó là giáo chủ của môn phái Toàn-Chân tên Vương-trùng-Dương. ở đây đã có lệ, hễ làm lễ trước Tổ sư phu nhân xong rồi thì phải quay sang khạc nhổ vào bức hình đó.

Dương-Qua đã sẵn có thành kiến ghét môn phái Toàn-Chân, nên khi nghe nàng bảo, không ngần ngừ gì cả, liền khạc nhổ vào bức họa Vương-trùng-Dương một bãi rất lớn.

Đoạn nó hỏi:

- Thưa cô nương. Tổ sư phu nhân có gì oán hận Vương-trùng-Dương sao? Tiểu-long-Nữ nói:

- Đúng vậy. Dương-Qua nói:

- Thế sao không đem bức ảnh của hắn liệng quách ra ngoài rừng còn treo nơi đây làm gì? Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta cũng chẳng hiểu nữa, chỉ nghe thấy sư mẫu và Tôn bà bảo là những người đàn ông trong thiên hạ không ai tốt cả.


Nói đến đấy đột nhiên nàng nghiêm sắc mặt, quay nhìn Dương-Qua:

- Mai này lúc lớn lên, nếu mi có những điều xấu xa mi sẽ coi ta có tha thứ cho mi chăng? Dương-Qua nói:

- Tuy nhiên cô nương sẽ tha thứ cho tôi.

Câu nói bất ngờ và đột ngột ấy của Dương-Qua làm cho Tiểu-long-Nữ chột dạ. Nàng vốn có tánh uy hách, muốn cảnh cáo Dương-Qua không ngờ Dương-Qua lại nói thế.

Nàng trừng trừng nhìn Dương-Qua bảo:

- Hãy quỳ xuống lạy sư mẫu của mi đi. Dương-Qua nói:

Thưa cô nương! Việc quỳ lạy sư mẫu là việc dĩ nhiên rồi, tôi không thể nào từ chối. Song xin cô nương nhận cho đệ tử này một điều kiện đã.

Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:

- Xưa nay chỉ có bậc sư phụ mới buộc đệ tử điều kiện này điều kiện nọ chứ làm gì có chuyện môn đồ buộc sư phụ phải theo điều kiện.

Tuy nhiên, nàng vẫn trầm tĩnh muốn tìm hiểu ý muốn của hắn thế nào. Nàng hỏi:

- Được. Mi muốn gì cứ nói, ta sẽ xét nghĩ cho. Dương-Qua nói:

- Lòng tôi kính cô nương như sư mẫu. Cô nương dạy bảo tôi cũng nghe, không dám sai lời. Song cô nương cho phép tôi gọi bằng cô nương, không gọi bằng sư mẫu có được chăng?

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Như thế nghĩa là thế nào? Dương-Qua thưa:

- Tôi đã có những người từng làm sư phụ tôi. Những người đó đều không tốt đối với tôi, nên lòng tôi oán hận lắm. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng nguyền rủa sư phụ tôi. Chẳng lẽ bây giờ tôi gọi cô nương bằng sư mẫu, cũng là bậc sư phụ, thì thế nào cũng sẽ lẫn lộn giữa người thương và kẻ ghét. Xin cô nương chăm chước cho tôi điều đó.

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua có ý nghĩ ngộ nghĩnh, mỉm cười, hỏi:

- Thế ra mi chỉ kính ta trong lòng thôi sao? Dương-Qua nói:

- Không phải! Tôi kính cô nương cả trong lòng, ngoài mặt, và suốt đời, song chỉ không gọi là sư mẫu mà thôi.

Tiểu-long-Nữ vốn còn trẻ tuổi cũng chẳng cần tiếng gọi sư mẫu sớm, nàng gật đầu nói:

- Được, ta bằng lòng đó.


Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:

- Được, ta bằng lòng đó.

Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:

- Đệ tử Dương-Qua, tôi từ nay trở đi kính bái Tiểu-long-Nữ cô nương làm thầy. Kể từ đây tôi vĩnh viễn nghe lời cô nương. Nếu cô nương gặp điều gì hiểm nghèo cùng quẫn tôi sẽ đem cả tính mệnh ra để bảo vệ cô nương. Nếu có người nào làm nhục cô nương tôi quyết tâm giết hắn.

Thực ra, lúc đó Dương-Qua cũng chưa biết Tiểu-long-Nữ võ nghệ đến bực nào. Nó chỉ thấy Tiểu- long-Nữ là người trang nhã, kiều mị, khả ái, nên nó đem lòng kính mến, muốn được con người đẹp như thế bảo vệ cho mình, và nguyện đem thân để phụng sự người đẹp mà thôi. Đó cũng là bản tính tự nhiên của những chàng trai đối với phái nữ lưu vậy.

Lời nói của nó mỗi lúc một khẳng khái hơn, bộc lộ sự thành khẩn, làm cho Tiểu-long-Nữ không khỏi động tâm.

Dương-Qua vập đầu làm lễ xong, đứng dậy với nét mặt vui mừng hớn hở. Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi quá nhiều thiện chí đối với ta. Ta chỉ sợ tài nghệ của ta không đủ cho lòng ngưỡng mộ của ngươi, không chắc đã thắng các vị lão thành trong môn phái Toàn-Chân và chưa chắc đã thắng nổi Quách-Tỉnh, sư bá của mi.

Dương-Qua nói:

- Những người ấy chẳng can hệ gì đến tôi. Họ có giỏi họ cũng chẳng truyền dạy cho tôi được chút nào. Xin cô nương cứ thương tình truyền dạy cho đệ tử là được.

Tiểu-long-Nữ thở dài nói:

- Dẫu ta có cố gắng truyền dạy cho mi thành tài thì cũng chẳng ích gì, vì suốt đời mi không được ra khỏi chốn nầy. Và ở nơi mộ đài nầy thực là vô sự.

Dương-Qua hỏi:

- Nếu học hành mà không đem tài năng thi thố với anh hùng thiên hạ thì chẳng uổng công tập luyện lắm sao?

Tiểu-long-Nữ trầm lặng, mắt mơ màng như nghĩ đến điều gì xa xăm, nàng nói:

- Ta dạy mi để mi trông coi mộ đài, để ta rảnh rang có dịp phải đi xuất du một lần.

Dương-Qua nghe nói đến việc phải ở trong mộ đài một mình, đâm ra lo sợ, nói như mơn trớn:

- Này cô nương! Hay là cả tôi lẫn cô nương, hai ta cùng đi nhé. Tiểu-long-Nữ gườm vào mặt nó, nói:

- Mi đã thề vĩnh viễn nghe theo lời ta, sao mới đó đã trái ý? Dương-Qua thở dài nói:

- Tôi sợ... lắm!


Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt bảo:

- Là tu mi nam tử, muốn trở thành bậc trượng phu mà lại sợ thì còn làm nên trò trống gì. Thế mà mi nói vì ta mi đánh những kẻ toan làm hại...

Câu nói ấy chạm vào lòng tự ái của đứa bé đã quyết tâm. Nó suy nghĩ một lúc rồi hăm hở bảo:

- Được! Tôi sẽ ở lại một mình. Nhưng thế nào cô nương cũng mau trở về nhé.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng như không mấy để ý đến lời nói của Dương-Qua, nàng nói trong ngớ ngẩn:

- Chẳng thể định trước được! Còn phải xem có làm được xong công việc khi xuất mộ đài không đã! Phải bắt...

Nói đến đó, nàng lặng thinh. Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- Làm được việc gì? Cô nương định bắt ai?

Tiểu-long-Nữ như sực tỉnh, nhìn Dương-Qua không đáp, bỏ ra ngoài.

Nàng đi khỏi, không khí trong phòng trở nên lặng lẽ phi thường. Không một tiếng động, dù là tiếng động trong không gian.

Dương-Qua phân vân chẳng biết nàng xuất mộ đài để làm gì? Để bắt ai? Chẳng biết nàng có phải qua Chung-Nam sơn để bắt bọn đạo sĩ Toàn-Chân chăng?

Nó nghĩ quanh quất một hồi rồi ung dung ra khỏi căn phòng lớn, rảo bước về phía tây. Đi chừng mười lăm bước, nó thấy tối om. Một con đường hầm bằng đá sâu ngòm chẳng biết ăn thông vào đâu. Nó lần mò theo đường hầm. Bóng tối mỗi lúc mỗi đen đặc. Nó không còn trông thấy đường nữa, phải đưa tay mò mẫm vào các tường đá để đi.

Đi mãi không tìm ra ánh sáng, nó thất kinh, quay lưng trở lại, định trở về đại sảnh.

Nhưng tìm mãi không thấy đại-sảnh đâu nữa. Những con đường hầm ngoằn ngoèo cứ dẫn nó càng đi càng tiến sâu vào bóng tôi.

Thực sự, nó đã lạc đường rồi. Nó la hoảng:

- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Cứu tôi với!

Nó chỉ nghe tiếng kêu của nó vọng lại đáp lời. Nó hoảng vía băng mình vụt chạy về phía trước.

Chạy được một lúc, nó cảm thấy chân nó bỗng nhiên nong nóng khác thường, và dưới đường có bùn. Nó đoán biết nó chẳng còn ở trong mộ đài nữa. Đó là đường mộ đài ăn thông ra hang núi này.

Nó càng sợ sệt hơn, nghĩ thầm:

- Bây giờ mình đã ra khỏi mộ đài thì làm sao cô nương trông thấy để cứu mình được. Hơn nữa, nếu cô nương bắt gặp mình bỏ trốn thì còn nguy hiểm hơn nữa.

Sờ thấy một phiến đá, nó bấu tay trèo lên, ngồi thừ ra, mặt lo lắng không ngớt. Bỗng đàng sau nó có tiếng gọi:

- Dương-Qua! Dương-Qua!


Nghe giọng kêu, nó mừng quýnh nhận ra đó là tiếng kêu của Tiểu-long-Nữ. Nó nhảy xuống chạy về phía đó, gọi lớn:

- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Tôi ở chốn này.

Tiếng kêu ấy lại im bặt không đáp lại. Bốn bề vẫn lặng ngắt. Nó càng sợ hơn, phân vân chẳng biết tiếng gọi vừa qua là tiếng gọi của Tiểu-long-Nữ hay của ma quái.

Bỗng nhiên, tai nó đau nhói. Một bàn tay véo vào tai nó. Nó giật mình kinh sợ, quay lại, thì đó là Tiểu-long-Nữ.

Nó mừng quýnh reo lên:

- Cô nương ơi! Cô nương đến lúc nào mà tôi chẳng biết? Tiểu-long-Nữ sừng sộ hỏi:

- Mi đến chốn này để làm gì? Dương-Qua đáp:

- Tôi bị lạc đường.

Tiểu-long-Nữ tu mồm "suỵt" một tiếng rồi đưa tay nắm lấy nó dắt về phía đường hầm.

Trong đường hầm tối nghịt, chằn chịt như màn nhện, thế mà Tiểu-long-Nữ bước đi thoăn thoắt, lúc rẽ bên này, lúc sang lối nọ như đi giữa chốn ban ngày.

Dương-Qua khâm phục quá thốt ra miệng:

- ồ! Sao cô nương lại trông thấy nhỉ! Tôi mù mịt chẳng biết đâu là đâu cả. Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta từ nhỏ sống trong chốn tối tăm nầy đã quen, chẳng cần đến ánh sáng. Dương-Qua nói:

- Thế thì tôi có thể quen đi được như cô nương chăng? Tiểu-long-Nữ nói:

- Dĩ nhiên, nếu mi là người của cổ mộ đài.

Chỉ chốc lát Tiểu-long-Nữ dắt Dương-Qua về đến đại sảnh. Dương-Qua vừa mừng vừa sợ, thở dài nói:

- Cô nương ơi! Tôi khâm phục cô nương quá! Nhưng tôi sợ... Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sợ cái gì? Ta đã đến cứu mi dẫn về còn sợ gì nữa? Dương-Qua nói:

- Không, tôi chẳng sợ những việc đó nữa. Tôi chỉ sợ cô lại cho rằng tôi trốn đi thì buồn quá. Tiểu-long-Nữ nói:

- Nếu mi trốn đi thì ta chẳng còn giữ lời trối trăn của Tôn bà và chẳng biết ta sẽ phải đối xử với mi thế nào đây?


Dương-Qua thì vẫn còn giữ tính tình của con người thường với đầu đen máu đỏ, còn Tiểu-long-Nữ thì từ tấm bé luyện nội công đã dứt hẳn được thất tình, nên lúc nào nàng cũng lạnh nhạt, chẳng chút bợn lòng.

Tâm lý hai người đã không giống nhau thì sự suy tư nào có giống nhau được. Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương để tôi đi bắt, được chăng? Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã bắt rồi. Dương-Qua hỏi:

- Cô nương làm thế nào mà bắt được hắn? Và bắt hắn để làm gì? Tiểu-long-Nữ nói:

- Bắt hắn để về luyện tập võ nghệ cho mi. Mi hãy theo ta ra ngoài nầy. Dương-Qua bước theo Tiểu-long-Nữ, nhưng lòng phân vân tự hỏi:

- Cô phải nàng đã bắt một người trong phái Toàn-Chân chăng?

Nếu nàng bắt một người trong phái Toàn-Chân đem về luyện võ nghệ cho mình thì còn gì thú vị nữa. Tuy phân vân, song không dám hỏi, Dương-Qua lặng lẽ lẽo đẽo theo chân Tiểu-long-Nữ.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro