TEXT 1 - THUỐC CỦA THẾ KỶ XX
Vào tk 20 đã có rất nhiều căn bệnh truyền nhiễm được ngăn chặn thông qua vắc-xin, thuốc kháng sinh và việc cải thiện đk sống. Tuy ung thư trở nên ngày càng phổ biến nhưng các biện pháp điều trị cũng đã phát triển và chống lại hiệu quả một số dạng của ung thư. Tk 20 cũng là lúc ra đời những nghiên cứu bước đầu về cơ thể sống. Đã có những khám phá quan trọng được tạo ra trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là cơ sở truyền lại của các đặc tính di truyền và các cơ chế lý, hóa học của não bộ.
Phẫu thuật Vào nửa cuối tk 20, ng ta đã tiến hành những cuộc phẫu thuật mà trước đó tưởng như k thể làm được. Năm 1962, lần đầu tiên một cánh tay đứt lìa khỏi khớp vai được nối lại rất thành công. Những quy trình phẫu thuật tuy ít ngoạn mục hơn nhưng rất phổ biến gồm có việc nối lại các ngón tay, ngón chân k may bị đứt rời. Loại hình phẫu thuật này trở nên khả thi nhờ có kính vi phẫu, nhờ đó các bác sĩ phẫu thuật có thể nhìn thấy những dây thần kinh rất nhỏ và mao mạch cần phải được nối lại giúp cho bộ phận đứt rời trở lại hoạt động bình thường. Thay thế trong phẫu thuật chỉnh hình đã mang lại những tiến bộ y học mới như cánh tay giả hoạt động bằng pin hay việc ghép nối khớp háng giúp cho những ng bị liệt do viêm khớp có thể đi lại. Chứng suy thận trước đây là căn bệnh chết ng, ngày nay lại có thể được chữa trị phổ biến bằng cách cấy ghép thận hoặc điều trị lâu dài thông qua chạy thận nhân tạo. Năm 1975, một cuộc thử nghiệm lớn đã cho thấy bệnh nhân tiểu đường bị tổn thương nhãn mạch thường có thể tránh khỏi việc bị mù bằng điều trị với tia laze. Một số trường hợp nặng của chứng động kinh ngày nay có thể chữa được bằng cách tìm ra, và phá hủy, điểm tổn thương trong não gây ra cơn co giật bằng que dò được làm lạnh bằng khí ni-tơ lỏng.
Các bệnh nhiễm khuẩn Vào tk 20 đã có rất nhiều căn bệnh truyền nhiễm được ngăn chặn thông qua việc cải thiện đk vệ sinh, thuốc kháng sinh và vắc-xin. Tuy nhiên, vì chưa tìm ra thuốc kháng sinh chữa các bệnh do virus nên vắc xin đã trở thành thuốc điều trị chủ chốt. Một số thể vắc xin ra đời sớm nhất gồm có vắc xin phòng bệnh đậu mùa, phát triển bởi Edward Jenner năm 1796; vắc xin phòng sốt thương hàn, phát triển bởi nhà vi khuẩn học ng Anh Almroth Wright năm 1897; vắc xin phòng bạch hầu năm 1923 và vắc xin phòng uốn ván ra đời những năm 1930.
Những năm 1930 đánh dấu một tiến bộ lớn trong việc điều chế ra vắc xin phòng chống virus, khi 2 nhà vi sinh học ng Mỹ là John Franklin Enders và Frederick Chapman Robbins đã phát triển ra cách nuôi cấy virus trong môi trường mô. Phát hiện này nhanh chóng dẫn tới sự ra đời của vắc xin phòng bệnh sốt vàng da, bệnh bại liệt, bệnh sởi, quai bị và rubella (1 dạng bệnh sởi Đức). Đầu những năm 1980, công nghệ gen đã tạo ra sự phát triển các loại vắc xin chống bệnh viêm gan B, bệnh cúm, giộp da k đau và thủy đậu; đồng thời vắc xin phòng sốt rét cũng được thử nghiệm.
Chức năng não bộ Não bộ là 1 trong những bộ phận cuối cùng trên cơ thể ng được khoa học khám phá. Trong suốt đầu tk 20, nhà giải phẫu thần kinh ng Mỹ Wilder Graves Penfield đã thực hiện kích thích nhiều phần trên não bộ của bệnh nhân trong khi phẫu thuật, ông cho biết rằng vô vàn phần chức năng vận động và cảm xúc nằm ở những trung khu riêng biệt trên bộ não con ng.
X quang Các phương thức tiên tiến giúp nội soi cơ thể ng được phát triển vào nửa sau của tk 20. Thập kỷ 70 chứng kiến sự ra đời của chiếc máy quay đặc biệt nhạy cảm với bức xạ tia gamma cho phép định vị 1 số loại ung thư nhất định. Việc chẩn đoán chấn thương sọ não được hỗ trợ rất nhiều bởi 1 phát minh vào năm 1975; đó là thiết bị chụp X quang hỗ trợ bởi máy tính, có tên là thiết bị chụp cắt lớp CAT. Những sóng âm cao tần (sóng siêu âm) vẫn được sử dụng cho phương pháp này trong nhiều năm.
Bệnh tâm thần Ngay cả ở đầu tk 20, bệnh tâm thần được xem như một án tử hình; những bệnh nhân tâm thần vẫn bị giam cầm một cách tàn nhẫn và nhận được rất ít sự giúp đỡ. Việc điều trị thành công cho một số chứng bệnh tâm thần đã nâng cao đáng kể việc chẩn đoán loại bệnh này và giúp loại bỏ phần nào sự kì thị. Những lý thuyết do Sigmund Freud đề ra là một trong số các nỗ lực đầu tiên của con ng nhằm tìm hiểu về chứng rối loạn thần kinh, tuy nhiên các biện pháp phân tâm học do Freud đề xướng và được những ng kế nhiệm ông chỉnh sửa đã tỏ ra k hiệu quả trong việc chữa trị một số chứng bệnh tâm thần nặng nhất định.
Bệnh tim mạch Các bệnh về tim mạch luôn là nguyên nhân chủ yếu gây ra tử vong tại các nước phương tây. Tuy nhiên cũng đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh. Việc chẩn đoán được cải thiện bằng kỹ thuật đặt ống thông tim cho phép đo huyết áp ở các ngăn tim khác nhau cũng như trên các động mạch chủ; và công nghệ chụp X mạch – một quy trình chiếu tia X để quan sát các khu vực này.
Vitamin và hooc môn Kể từ khi thuật ngữ “Vitamin” được nhà hóa sinh học ng Ba Lan Casimir Funk giới thiệu ra năm 1912, một khối lượng lớn vitamin đã được phân tách và định rõ chức năng dinh dưỡng, nhờ đó có phương pháp cứu chữa các bệnh nứt da, tê phù, chứng còi xương và nhiều bệnh do thiếu chất khác. Vào năm 1926, 2 dược sĩ ng Mĩ là George Richards Minot và William Parry Murphy đã phát hiện ra trong gan một chất kiểm soát hiệu quả bệnh thiếu máu ác tính. Đến năm 1948, họ đã phân tách thành công vitamin B12.
Ung thư Tỷ trọng ng lớn tuổi trong cơ cấu dân số ngày càng đông là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tỷ lệ tử vong do ung thư ở Mĩ tăng từ 4% trong năm 1990 tới 20% vào đầu những năm 1980. Thời kỳ đầu việc điều trị phải dựa vào xạ trị, nhưng đến những năm 60 việc điều trị bằng thuốc đã đưa vào ứng dụng. Tới nay, phương pháp điều trị mới này có thể chữa khỏi nhiều chứng ung thư như: ung thư vú, ung thư tinh hoàn và một vài loại ung thư máu, đặc biệt là cho trẻ nhỏ. Các nhà khoa học cũng đã phát hiện ra rằng chất in-tơ-phe-ron có trong tự nhiên là một loại thuốc chống ung thư hiệu quả.
Các vấn đề đạo đức Ở Mĩ, chi phí và quy mô của việc điều trị bệnh ngày một tăng lên đã đặt ra nhiều câu hỏi về việc áp dụng các liệu pháp y khoa. Vào năm 1973, chính phủ Mĩ đứng ra đảm nhận cho tất cả bệnh nhân suy thận được thực hiện phép thẩm tách. Tính đến năm 1981, việc điều trị này đã tốn của chính phủ Mĩ hơn 1 tỷ đô-la mỗi năm. Một vấn đề liên quan là việc k cho ra đời những đứa trẻ quái thai (thông qua nạo phá thai). Các gia đình có thể lựa chọn chỉ cho ra đời những đứa trẻ khỏe mạnh nhờ vào tiến bộ trong khả năng chẩn đoán dị dạng thai nhi từ trong bụng mẹ. Cho đến nay, tòa án k nghiêm cấm việc nạo phá các thai dị dạng nghiêm trọng, mặc dù vẫn có những chuyên gia nghiên cứu đạo đức coi đó là hành động cướp đi sinh mạng con ng.
Mang thai và sinh sản
Đã có những bước tiến vượt bậc trong kiểm soát sinh sản nhờ vào việc cải tiến thiết bị vòng tránh thai năm 1950 và thuốc tránh thai do nhà sinh học ng Mĩ Gregory Pincus phát triển năm 1960. Công nghệ thụ tinh nhân tạo cũng đạt được những tiến bộ to lớn. Vào đầu thập kỷ 80, rất nhiều cặp vợ chồng muốn có con đã tìm tới các phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm hoặc phương pháp cấy ghép trứng đã được thụ tinh từ tử cung này sang tử cung khác.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro