Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tết xưa-Lenghiabk05

Tết nghèo hơn xưa

Bố vẫn thường nói rằng: “Ngày xưa dù rất nghèo nhưng Tết luôn ấm áp và rộn rã bởi tiếng cười của các con.

Còn bây giờ, cuộc sống đã đủ đầy, nhưng mấy năm rồi, không khi nào gia đình mình được sum vầy đông đủ. Thành ra, Tết bây giờ đối với bố mẹ thì còn nghèo hơn cả ngày xưa”.

Đã bốn năm, kể từ khi xuống thành phố học và làm việc, con thường trở về nhà đón Tết rất muộn. Lúc còn là sinh viên, chỉ vì muốn có thêm ít tiền để trang trải việc học nên con hay đi bán hàng giáp Tết, thành thử, cứ tối 30 mới về đến nhà. Suốt mấy ngày ấy, lòng con cứ nôn nao đến lạ. Nhất là mỗi lần điện về hỏi xem ở nhà đã sắm tết đủ chưa, thế nào bố cũng bảo: “Bố sắm hết rồi, chỉ chờ có các con về là đủ”. Con nghe giọng bố lạc vào giữa cái lạnh thấu sương của miền trung du Bắc Bộ mà lòng nghẹn đắng.

Con nhớ lúc mấy anh em còn bé xíu, cả năm chỉ mong sao cho nhanh nhanh đến Tết. Không phải để được nhõng nhẽo đòi mẹ mua cho quần áo mới, được đi chơi nhà này, nhà nọ, được nhận những đồng 500 lẻ đỏ chói như những đứa trẻ khác. Tết với mấy anh em con là không phải ăn cơm độn sắn, mà vẫn phải vừa ăn vừa nhòm nồi lo đói. Tết được ăn ngon hơn, có bánh chưng, thịt lợn, dù chỉ là mấy lạng thịt mỡ bèo nhèo và mấy chiếc bánh chưng không nhân đỗ nhưng mới yên vui, đầm ấm làm sao.

Có năm nhuận, Tết đến chậm hơn hàng tháng trời, mất công mấy anh em hùi hụi đợi. Chỉ có mẹ là mừng rơn, gặp ai cũng bảo: “May quá, năm nay Tết muộn, tháng sau đàn gà lớn hơn một chút, chắc là có thêm ít tiền rồi”. Nhiều lúc con bảo: “Chán mẹ ghê, Tết hay thế mà mẹ cứ mong đến chậm”. Con thấy mẹ thở dài, nhưng lúc ấy, con chưa đủ lớn để có thể hiểu được những tiếng thở dài của mẹ.

Lớn lên, khihiểu được rằng, để có mấy lạng thịt cho các con đỡ tủi thân vào ngày Tết, bố mẹ đã phải chạy ngược chạy xuôi vay mượn. Thậm chí, phải vay nặng lãi, để làm sao mua được một cái áo mới cho đứa này thì năm sau lại mua cho đứa khác diện Tết. Hoặc ba anh em cứ thay nhau mặc, đứa mặc mùng Một thì thôi mặc mùng Hai. Nên mấy ngày Tết, trong khi mọi người đi chơi thì mẹ hay ngồi một mình, bấm ngón tay tính ra, tính vào, rồi lại thở dài thườn thượt. Chỉ có mấy anh em con là cười đùa vui vẻ suốt ngày bên mấy cái kẹo xanh đỏ, bên nồi cơm trắng đầy không còn lo đói, bên cái áo mới thơm tho, dù chỉ được mặc một ngày…

Bây giờ, cuộc sống không còn khó khăn nên năm hết, Tết đến mẹ không phải ngồi bấm ngón tay nhẩm tính và thở dài thườn thượt nữa. Niềm vui được ăn một bữa cơm no như ngày xưa giờ đã không còn. Nhưng đôi lúc con rất thèm cái cảm giác háo hức và hạnh phúc của ngày thơ bé, khi cả đêm thức trông cái áo mới, chỉ sợ nhắm mắt, tỉnh dậy hóa ra mọi thứ chỉ là một giấc mơ.

Bây giờ ba anh em con đều đã trưởng thành, ai cũng có công ăn việc làm ổn định, nhưng đều công tác xa nhà, nên Tết có năm về được, năm không. Năm nay anh cả và em út đều về đón Tết thì đến lượt con phải ở lại thành phố do đặc thù công việc. Biết chắc rằng con sẽ không tránh khỏi nỗi cô đơn khi phải đón Tết xa nhà và những đợt rét kéo dài sẽ càng tái tê hơn. Hôm trước, gọi điện về nhà, không dám hỏi bố xem nhà đã sắm tết đủ chưa. Bởi con sợ phải nghe bố nói rằng: “Tết năm nay chẳng thiếu gì, chỉ thiếu mỗi con thôi

Nh

ơ

́ Tết mô

̣

t th

ơ

̀i

       Hàng năm cứ đến ngày mồng 7 Tết, bố tôi làm một mâm cổ nhỏ chỉ có cháo hoa và một ít trái cây đơn giản. Mặt ông trang  nghiêm thắp nén hương lên bàn thờ tổ tiên. Năm nào cũng thế, khi tuần hương đã tàn, ông lạy tổ tiên xong và tuyên bố: Hết Tết. Ông chỉ vào tôi rồi bảo:

       - Câu cả (tôi là con trai lớn trong nhà) múc cháo ra để mỗi người ăn một bát.

Đó là bát cháo nấu bằng gạo và muối trắng rất loãng, anh em tôi mỗi người phải ăn hết một bát. Tôi biết, dù cuộc đời có đổi thay, kinh tế gia đình ngày càng khấm khá, anh em tôi ai cũng có “bát ăn bát để” nhưng bố tôi, gia đình tôi, thế hệ chúng tôi đều sinh ra từ đói nghèo. Chúng tôi không thể quên cái nghèo. Và bát cháo hoa mà chúng tôi ăn hôm nay đã hồi tưởng về cái Tết nghèo ngày xưa.

    Nhớ lại ngày xưa gia đình tôi sống ở thị trấn, nhưng nghèo lắm!. Cái nghèo như truyền kiếp dai dẳng trong gia đình tôi năm này qua năm khác. Bố mẹ tôi làm nghề giáo viên, lương ba cọc ba đồng. Thời kỳ đó những người làm nghề dạy học là rất bần hàn. Nhiều tháng không có tiền, lương được phát bằng săm, lốp xe đạp. Gia đình tôi đông người, chúng tôi được mọi người hàng xóm gọi là “tàu há mồm”. Hằng ngày, chúng tôi phải ăn cơm độn, bảy phần khoai ba phần cơm, lúc nào được ăn cơm trắng là sung sướng lắm! Và có lẽ đó là Tết của gia đình tôi!. Tôi không thể nào quên, có lần em tôi ốm, mẹ tôi bới tung cả nồi cơm mà không tìm được một bát cơm trắng. Tôi nhìn mẹ nhìn em mà trào dâng nước mắt.

    Đất thị trấn ngày đó bỏ hoang rất nhiều, không phải chật chội như bây giờ. Có chổ đất nào trống đều xin họ thả nhờ khoai lang phòng ngày hết gạo. Mẹ tôi chuẩn bị Tết khi trời chuyển sang thu. Có một khoảng thu nhập nào là bà đều mua vải để may áo quần cho chúng tôi. Lúc thì tấm áo, khi thì cái quần… và cứ thế đến đêm 30 Tết thì 5 anh em tôi đều có áo quần mới. Nhìn các con có áo mới, cười tươi đón xuân là bố mẹ tôi vui vẻ mãn nguyện cho dù quanh năm chịu nhiều vất vả.

       Mỗi lần anh em tôi mặc áo mới, bà cười trong nước mắt: “các con bây giờ sướng hơn ngày xưa nhiều, Tết cái thời của bố mẹ chỉ mặc áo quần nhuộm lại thôi. Hồi ấy, trên bom dưới đạn, sống được là may chứ ai nghĩ đến chuyện Tết”. Bây giờ xã hội đã đổi mới, chiến tranh đã lùi xa, cái Tết dưới hầm tránh máy bay của bố mẹ tôi đã trở thành quá khứ. Nó chỉ còn đọng lại trong tâm trí bố mẹ tôi như một nỗi đau, một kỷ niệm buồn khó phai mờ. Tuổi thơ tôi và các em tôi lại đón Tết trong cảnh nghèo khổ của thời kỳ bao cấp. Ngày đó chúng tôi còn thơ dại nghĩ đến Tết là vui chứ ai biết bố mẹ tôi nẫu gan nẫu ruột vì Tết. Biết lấy gì mua sắm để chúng tôi bằng chị, bằng em?. Cứ mỗi năm khi gió mùa đông bắc se se lạnh là những nếp nhăn trên khuôn mặt mẹ tôi lại xuất hiện. Ngày Tết đang đến gần…

Chao ôi! Tôi lại rùng mình khi nghĩ đến cái thời bao cấp. Đó là thời kỳ nặng nề bao trùm cả gia đình tôi. Nghĩ lại mình thật may mắn khi đã thoát khỏi cái thời kỳ tem phiếu ấy.

       Tôi còn nhớ như in cái cảnh mẹ tôi đứng chờ mua thịt lợn ở cửa hàng thực phẩm. Ngày 28 tết, từ sáng sớm mẹ tôi làm vội bát cơm nguội để nhanh chóng đứng xếp hàng chờ mua thịt. Những cuốn sổ tem phiếu, khẩu phần chất tươicủa những gia đình công nhân viên chức được xếp cao ngất trước mặt cô bán hàng. Hàng xếp dài ngoằng, ai mà được gọi tên vào lấy thịt thì sung sướng trào nước mắt. Một số ít người thậm thụt cửa sau, nhờ vả người trong cửa hàng thì được lấy thịt trước, nhứ không thì phải đứng đợi mói cả đầu gối, chân tê cứng. Nhìn cô bán hàng thực phấm sao mà cao trọng, uy quyền và vênh váo thế!. Người nào được cô nhận là quen biết, nở nụ cười thân thiện là thấy mình hảnh diện lắm. Suốt một ngày đứng đợi mẹ tôi không mua được thịt vì bà không quen biết ai. Chiều 28 tết, cô mậu dịch viên đẩy tấm bảng “Hết Thịt” chắn ngang trước cửa. Mọi người cùng cảnh ngộ như mẹ tôi ngó vào trong, lợn vẫn chọc tiết, cạo lông. Người ta bảo thịt đó dành phần ưu tiên. Mẹ tôi trở về tay không,chờ một ngày mà vẫn không đến lượt mình. Mấy cân thịt là tiêu chuẩn của mình mà đi mua cứ giống như đi xin không hơn không kém. Bỏ thì không được vì không có thịt thì làm sao có Tết được. Còn đi mua thì mẹ tôi cực quá trời. Và thế là ngày 29 Tết mẹ tôi lại phải túc trực ở cửa hang thực phẩm để bằng mọi giá phải mua được thịt. Có thịt mới có Tết. Đứa em út của tôi gần một năm tuổi, tôi bồng mỏi cả tay, hát khàn cả tiếng thế mà không dừng khóc. Nó đang thèm sữa mẹ, còn mẹ tôi thì phải chầu chực để mua thịt lợn. Gần 11h giờ đêm, mẹ tôi mới trở về nhà. Bà sung sướng tươi cười quên cả mệt nhọc vì đã mua được thịt. Năm cân thịt cho cả nhà tôi đón Tết. Nhìn những miếng thịt nhàu nhò vì đã qua tay bao người và sự vất vả của mẹ tôi, mà nước mắt tôi cứ chảy không thể nào cầm được?. Lúc đó tôi chỉ ao ước mình có một con lợn độ 20 cân thôi để mổ thịt cho gia đình tôi đón Tết thoả thê. Năm cân thịt mẹ tôi chia làm nhiều món; chổ này dành để gói bánh chưng,miếng kia ngon mai làm cơm cúng 30 Tết, còn mấy miếng này kho Tàu thành một nồi ăn trong ba ngày Tết. Mẹ tôi bảo: “ Gia đình mình còn đỡ chứ như gia đình chú Hiền dạy cùng trường với bố tôi phải thịt con vện để làm chất tươi ngày Tết vì không mua được thịt, bác Hưng người Nghệ An gói bánh chưng mà không có nhân…”

Bố tôi năm nào cũng gói bánh chưng, dù có thế nào đi chăng nữa ngày 30 tết nhà tôi vẫn sùng sục sôi với hương vị quê hương. Bánh chưng là minh cứng duy nhất để anh em tôi phân biệt giữa ngày Tết và ngày thường khác nhau như thế nào?.

      Chuyện mua gạo, nếp ngày đó cũng vất vả như mẹ tôi mua thịt lợn vậy. Cái tem phiếu đã hành hạ bố mẹ tôi, những người làm công ăn lương khổ sở vô cùng. May nhờ có người học trò củ của bố tôi lên cái chức phó cửa hàng lương thực huyện cho nên bố tôi mua gạo đỡ vất hơn. Thế nhưng, 10 lon gạo nếp thì cũng lộn từ 1 đến 2 lon gạo tẻ. Vẫn may, có còn hơn không.

        Hồi ấy, gạo đối với gia đình tôi là chuyện hệ trọng nhất. Vì cái đói hết gạo luôn rình rập, chờ đón những gia đình đông con. Gia đình tôi tháng nào cũng thiếu gạo, chuyện vác rá khắp làng mượn gạo là việc thường ngày ở xóm nghèo chúng tôi. Bố tôi đi xin xỏ khắp nơi, kiếm được tấm phiếu mua vài yến gạo giá cao, mừng ứa nước mắt. Ra tết không còn chuyện lo đói.

       Đêm 30 Tết, sau mâm cơm đón ông bà chúng tôi quây quần bên nồi bánh chưng. Anh em chúng tôi xúng xính trong những bộ quần áo mới, mặt đỏ bừng trước ánh lữa hồng mà thấy mùa xuân đang đến bên cửa sổ. Không khí gia đình đêm 30 Tết thật là thiêng liêng, trong tâm trí anh em chúng tôi ai cũng có ước mơ của riêng mình nhưng có lẽ chung nhất là bao giờ gia đình tôi mới hết nghèo?.

… Tết năm nay, cuộc sống của gia đình tôi đã có phần đỡ hơn ngày xưa. Mẹ tôi không còn vất vả vì những miếng thịt tem phiếu, bố tôi không còn chạy vạy xin giấy mua gạo giá cao. Anh em chúng tôi đã trưởng thành, mỗi người có một nghề mưu sinh đàng hoàng trong xã hội. Thằng em tôi làm ở miền Nam , thu nhập có phần dư dật, nó bảo, lễ mồng bảy Tết này nó lo, nó sẽ mua rượu ngoại, thịt rừng về làm cho đàng hoàng. Bố tôi quát: “Mày đừng mất dạy! Tao không cần. Tao còn sống thì ngày mồng 7 Tết vẫn là cháo hoa và muối trắng. Và mãi mãi sau này vẫn thế…”. Em tôi đâu biết đây là chút níu kéo còn lại của bố tôi và gia đình tôi về một thời Tết nghèo. Tôi thầm hứa với ông, sau này con vẫn làm cháo và muối trắng thắp hương ngày mồng 7 Tết.

Tết nghèo

Ngày Tết mà mẹ toàn ngồi kể chuyện ngày xưa, những câu chuyện mẹ kể tôi đã thuộc nằm lòng như một bài tập đọc về nhà thời cấp I. Nhưng, đêm giao thừa tôi vẫn nằm im nghe mẹ kể, dẫu cái điện thoại thi thoảng lại rung lên bần bật vì lũ bạn nheo nhéo rủ ra đền hái lộc hay đi xem bắn pháo hoa. Chúng nó trêu:

- Không hiểu sao mày lại có thể ở nhà để nghe kể mấy chuyện vớ vẩn linh tinh ấy được.

Tôi chỉ cười. Tôi bảo, vì tôi đi xa cả năm, chẳng mấy khi có thời gian ở gần người thân nên trong những giây phút thiêng liêng nhất của năm tôi muốn chiều lòng mẹ. Nhưng cũng vì một phần những câu chuyện mà mẹ kể có bóng dáng tuổi thơ tôi vẫn nằm ngủ vừa êm đềm vừa nhức nhối trong vùng ký ức. 

Mẹ kể về Tết của những người nghèo khi bố bắt đầu dọn mâm cỗ cúng giao thừa có xôi, có gà và bánh chưng xanh. Hương trên ban thờ toả ra mùi thơm dìu dịu, tôi nhìn chiếc đồng hồ điện tử trên tường đếm lùi từng giây cuối cùng của năm cho đến khi tiếng chúc mừng năm mới ở khắp xóm đã vang lên tôi vẫn thấy ngỡ ngàng vì năm mới đã về. Năm nào cũng là cái cảm giác hồi hộp, thiêng liêng ấy. Mấy anh em cùng chúc Tết bố mẹ. Mẹ rưng rưng nhìn chúng tôi như thể không hiểu sao gia đình chúng tôi lại vượt qua được biết bao nhiêu khó khăn để có được ngày hôm nay no ấm, đủ đầy. Bản nhạc “Happy new year” đã vang lên nhưng trong sâu thẳm đôi mắt mẹ là Tết của vùng ký ức lại ùa về…

Mùa xuân đến rồi mà trời vẫn lạnh căm căm, nhân lúc được nghỉ học đón Tết mẹ bảo mấy anh em cởi hết quần áo ấm ra rồi ngồi trong bếp sưởi để mẹ mang đi giặt còn kịp khâu vá lại mới có cái mặc đi thăm ông bà, họ hàng vào ngày Tết. Không bao giờ chúng tôi nghĩ đến việc đòi mua quần áo mới vào ngày Tết. Dẫu sao thì ba anh em tôi cũng thấy mình còn may mắn hơn mấy đứa em nhà dì Hạnh. Chúng nó, dường như mấy Tết rồi vẫn bộ quần áo cũ, nhem nhuốc, chỗ rách từ năm trước đến năm sau lại càng rách to hơn như không ai khâu vá. Năm nào cứ đến 27 Tết là dì lại dắt các em về nhà tôi đón Tết. Nhiều lúc tôi hỏi mẹ:

- Sao dì không ở nhà dì mà ăn Tết lại cứ phải về nhà mình hả mẹ?

Mẹ ra hiệu cho tôi im lặng. Mẹ bảo vì dì muốn về đây ăn Tết có anh có em cho vui, chứ ở bên sông có một mình nên buồn lắm. Tôi tin. 

Mấy đứa em nhà dì chúng lầm lì, ít nói. Trong bữa ăn, mỗi lúc mẹ tôi gắp thức ăn cho chúng là chúng lại lấm lét nhìn mấy anh em tôi. Mẹ lúc nào cũng dặn:

- Các con phải yêu thương mấy đứa em nhà dì vì chúng không có bố. 

Tôi biết thế nhưng nhiều lúc thấy mẹ chăm sóc chu đáo cho chúng quá cũng đâm ra ghen ghét. Có lúc đi qua đi lại, rình lúc người lớn không ai để ý, tôi lại véo thằng Hà một cái, véo con Hân một cái thật đau vào đúng cái chỗ áo rách nhưng chúng chẳng bao giờ dám khóc. Vậy mà không hiểu sao mẹ biết. Có lần, mẹ gọi tôi lại bảo: “Là anh em các con phải thương yêu nhau chứ”. Tôi lại thấy buồn, nhưng ngày bé tôi chẳng bao giờ buồn lâu được.

Ngày 27 Tết năm nào bố cũng ra nghĩa trang liệt sĩ tảo mộ cho ông. Anh tôi thường lóc cóc ngồi sau xe đạp xách hoa và hương cho bố. Thằng em trai thì theo mấy chú đi mổ lợn chung trong xóm. Thi thoảng nó lại chạy về nhà dúi cho tôi lúc thì miếng lòng dồi, lúc thì miếng gan luộc vẫn còn nóng hôi hổi, đấy là chiến lợi phẩm của nó sau cuộc tranh giành với lũ trẻ con trong xóm. Thằng bé được cái rất hợp tôi nên có cái gì cũng chia đều cho cô chị hết. Tôi là con gái nên dĩ nhiên là ở nhà cọ lá dong hay ì ạch bê củi vào sân sau để chuẩn bị nấu bánh chưng. Mấy đứa em nhà dì thường ngồi thu lu trong đống rơm ở hiên nhìn mọi người làm việc. Môi chúng tái vì áo không đủ ấm. Đôi lúc, nhìn mấy đứa ngồi tụm lại ủ ấm cho nhau tôi chợt thấy thương thương. Đợi mẹ nhóm xong nồi bánh chưng, tôi kéo chúng xuống ngồi vây quanh bếp sưởi ấm. Một lúc sau, tiếng cười rinh rích đã vang lên ở sân sau. Đôi lúc con Hân ngồi bắt chấy trên đầu thằng Hà, bé út Hương thì dựa vào lưng anh trai thiu thiu ngủ.

Những ngày Tết dì Hạnh là người ủ rũ nhất. Dì chỉ quanh quẩn trong nhà ngoài vườn, làm lụng đủ thứ việc mà không đi đâu cả, kể cả ngày mồng một, mồng hai Tết. 

Mẹ tôi cũng dường như tất bật hơn, lo lắng hơn khi năm hết Tết đến. Có lần tha thẩn chơi ngoài sân, tôi nhìn vào trong thấy mẹ đang ngồi đếm từng đồng tiền lẻ cất kỹ trong cái hòm đạn. Mẹ ngẩn người ra một lúc rồi nói với bố:

- Mình ơi, có khi năm nay lại phải sang bà Khanh vay nặng lãi lấy ít tiền thôi. Rồi ra giêng bán đàn lợn đi sẽ trả. Chứ chỉ có bấy nhiêu thì làm sao lo vừa cái Tết. Cả năm nhà dì mới sang ở vài ngày Tết, chẳng nhẽ lại ăn cơm rau muối.

Tôi thấy bố thở dài, chỉ ngồi hút thuốc lào rồi nhìn mênh mông ra khoảng nắng trước nhà. Mãi một lúc sau bố mới lên tiếng, giọng bố trầm trầm:

- Phải vay thì cứ đi vay chứ biết làm sao được. Bao giờ nhà mình mới thoát khỏi cái cảnh này không biết nữa. Nhà mình cứ ốm đau quanh quẩn nên mới đến nông nỗi này, chứ làm vất vả cả năm trời… Đúng là, không ốm không đau làm giàu mấy chốc. Thôi mẹ nó cũng đừng suy nghĩ nhiều, cứ đi vay về lo cho các con, các cháu có một cái Tết đầy đủ không lũ trẻ là nó dễ tủi thân lắm.

Rồi bố lại vác cuốc đi làm, mẹ vẫn ngồi tần ngần bên xấp tiền lẻ cóp nhặt cả năm. Khi đó tôi đã mười ba tuổi.

*

Tết năm tôi mười bốn tuổi, đến chiều 30 Tết vẫn không thấy mấy mẹ con dì đi đò sang ăn Tết. Cả nhà tôi ai cũng thấy bồn chồn, đứng ngồi không yên, riêng tôi ngồi đun nồi bánh chưng mà nước cạn lúc nào cũng không biết nữa. Bố gói cho mẹ ít đồ đạc bảo sang sông xem thế nào. Mẹ tôi đi từ mờ sáng thì trưa đã thấy về. Mẹ về một mình, đầu tóc rũ rượi. Vừa đi đến đầu hiên thì mẹ ngã xuống, bám vào bố khóc vật vã. Tôi linh tính có điều gì không hay đã xảy đến với gia đình dì nên nước mắt đã lăn dài trên má. 

Chiều đó, cả nhà tôi đóng cửa sang sông. Mấy anh em tôi vừa đi vừa i ỉ khóc, thi thoảng lại nhìn nhau rồi khóc nấc lên không thành tiếng, thấy quãng đường sang nhà dì sao ngăn sông cách trở, đi mãi  vẫn không thấy đến. Con sông qua trận mưa bão lớn vẫn còn đầy nước, cây cối, nhà cửa hai bên sông đổ ngổn ngang. Có nhiều người sang sông mặt cũng buồn rười rượi, thi thoảng lại lấy vạt áo lau nước mắt. Mẹ tôi dường như đã đuối sức quá nên gục mặt xuống hai đầu gối, thi thoảng người lại run lên bần bật. Nhìn dải cát ven sông trải dài, heo hút gió, lòng tôi chợt thấy ân hận vô cùng khi ngày xưa từng bắt nạt mấy đứa em, véo nó tím tái cả thịt da đúng cái chỗ áo rách. Cảm giác tội lỗi ấy càng làm cho quãng đường xa hơn, nỗi buồn mất mát trong tôi lớn hơn.

Em Hân mất, cái đứa em vẫn thường vạch đầu bắt chấy cho anh nó những khi ngồi canh nồi bánh chưng ngày 27 Tết, và dang tay ủ ấm cho đứa em út trong đống rơm trước hiên nhà tôi. Giờ nó nằm đấy, mặt tím tái, người trương phềnh. Tôi hầu như không còn nhận ra nét gì trên khuôn mặt nó ngoài cái áo bông cũ kỹ lại bị rách chỗ dì Hạnh đã khâu năm ngoái, cái chỗ tôi mấy lần véo nó đau tím tái. Dì tôi ngồi đó không khóc nhưng đôi mắt đã dại đi. Tôi thấy dì vừa cứng cỏi vừa tội nghiệp. Tôi khóc gọi “Dì ơi”, dì ôm tôi bảo:

- Con gọi em nó đi! Gọi nó một lần cuối cùng đi con.

Rồi dì gục lên vai tôi nức nở. Mãi mãi sau này, tôi không làm sao quên đi cái hình ảnh đau buồn ấy, nó cắn vào tim tôi nhói buốt về sự buồn đau, ảm đạm của những tháng năm nghèo khó. 

Em tôi mất vì theo lũ bạn ra sông vớt củi sau trận lụt, thấy gần giữa sông có cái áo bông trôi nên bảo đứa em út đứng trên bờ rồi mang cây gậy ra vớt áo. Nhưng không ngờ dòng nước xoáy đã cuốn em tôi, khi mấy đứa trẻ con cất tiếng kêu cứu cũng là lúc người ta không còn nhìn thấy em trên dòng nước. Năm ấy không có Tết, dì Hạnh ngồi trong ngôi nhà lá trống huếch hoác của mình cứ nhìn lên ban thờ mà khóc. Tôi ngồi nghe dì khóc, hướng cái nhìn ra phía sông, gió thổi buồn hun hút…

Mồng một Tết mà không thấy trẻ con mặc áo mới ra đường, không thấy bóng cành đào nào, dù chỉ là loài đào vườn còi cọc. Thi thoảng thấy dăm ba cụ già cúi mặt đi, anh tôi bảo họ đi ra đền hái lộc cầu năm mới no ấm, tôi chẳng buồn tin điều gì nữa. Tất cả mấy anh em chúng tôi quây vào ủ ấm cho nhau. Thi thoảng thằng Hà lại khóc nấc lên ừng ực, nó dụi vào lưng tôi, nước mũi chảy đầy ra áo. Nhưng lần đầu tiên tôi không mắng nó. Con bé Hương chỉ nằm im nhắm mắt nhưng nước mắt thì cứ chảy tràn, suốt hai ngày trời nó không nói không rằng, mẹ tôi bắt nó ăn nó cũng vừa ăn vừa khóc. Tôi vuốt mái tóc bết đầy đất cát của nó mà thương. Dì tôi vẫn ngồi trông lên ban thờ nghi ngút khói.

Mẹ tôi kể ngày xưa dì tôi cũng rất đẹp. Thời thanh niên, dì theo lũ bạn đập đá thuê cho công ty xi-măng trên huyện, rồi quen chú tôi cũng là công nhân đập đá. Lấy nhau được sáu, bảy năm trời chú bắt đầu phát bệnh ho lao. Nhà thì nghèo, vừa không có tiền mua thuốc, lại phải quần quật làm việc quanh năm nên chú tôi qua đời sớm, để lại cho dì ba đứa con thơ và món nợ những ngày tháng chú ốm đau nằm liệt giường. Với cuộc sống khó khăn ăn bữa nay lo bữa mai như vậy, dì hầu như không có khả năng lo cho các con một cái Tết như bao đứa trẻ khác trong làng, nên năm nào bố mẹ tôi cũng bảo dì sang đón Tết chung. Mẹ nói trong nước mắt:

- Ngày xưa, lúc các con còn bé, nhà mình nghèo, chú dì còn khoẻ mạnh, hai vợ chồng làm ăn cũng có của ăn của để nên Tết năm nào cũng mua cho các con áo mới và bánh kẹo. Mỗi lúc các con ốm đau, dì thức cả đêm trông trên bệnh viện, khóc thương sưng húp mắt. Ai ngờ, số dì lại đâm ra khổ nhất nhà. Sau này các con lớn lên, dù giàu nghèo cũng hãy nhớ đến dì, hãy thương lấy mấy đứa em mồ côi mồ cút ấy. 

Khi mẹ tôi ngồi kể câu chuyện đời dì bên chậu than ủ gốc cây khói mịt đêm đông thì gió ngoài trời rất mạnh. Tôi chợt nghĩ về căn nhà trống huơ trống hoác của dì nằm gần triền sông hun hút gió…

Tết ấy có lẽ là cái Tết buồn bã nhất trong ký ức đời tôi.

*

Hơn mười năm trôi qua, từ ngày em Hân mất, thì Tết đến mấy mẹ con dì không còn sang sông đón Tết chung với gia đình tôi nữa. Tôi nhớ mình rất lâu mới có thể quên được cái cảm giác đứng nghe lén dì ôm các con hát câu gì nghe buồn lắm. Cũng rất lâu mới quên được hình ảnh mấy đứa em ngồi ôm nhau trên đống rơm sau nhà và ngồi bắt chấy cho nhau bên nồi bánh chưng ngày 27 Tết. 

Ngày theo bố sang sông lợp lại căn nhà lá của dì, thấy khoảng trống mênh mông trong đôi mắt hai đứa em khi nhìn ra bến sông mong manh nắng. Dì lại càng cúi mặt hơn sau một mất mát nữa của cuộc đời. Tôi thay Hân lôi mấy đứa em ra sân gội đầu cho chúng, thấy những sợi tóc tơ rơi xuống chậu nước đục màu phù sa sông mà cay cay mắt. Sau này, mỗi khi nghe một ai đó ngâm câu thơ, hát khúc hát về một dòng sông nào đó tôi lại gặp lại cái cảm giác ban đầu ấy. 

Dì tôi giờ cũng đã bước sang cái tuổi tóc hoa râm hắt nắng. Nhiều lúc thấy bóng dì hắt ra bờ sông ngong ngóng như chờ đợi một ai đó, chờ đợi một điều gì… Dường như cái bóng dáng của thuở nghèo khó vẫn chìm khuất trong dì dù cuộc sống đã đỡ vất vả hơn nhiều. Các em tôi cũng đã lớn, đứa đi học, đứa thì đi làm xa nhà, có khi cả năm cũng chỉ về nhà vào dịp năm hết Tết đến. Chúng tôi gặp nhau tránh không nói đến ký ức, đến những chuyện buồn nhưng thi thoảng dường như chúng tôi vẫn gặp nhau trong thẳm sâu ánh mắt. 

*

Đã sang ngày đầu tiên của năm mới được mấy tiếng đồng hồ. Đón giao thừa xong, nhiều nhà đã tắt đèn đi ngủ rồi mà dưới đường vẫn không ngớt xe cộ chạy thẳng ra đền thắp hương xin lộc đầu năm. Tôi nằm gần mẹ ngửi thấy mùi lá hương nhu, mùi hương hoa bưởi trái mùa trên tóc mẹ. Tôi vừa thấy ấm lòng vừa thấy buồn một nỗi buồn vu vơ. Bây giờ, Tết đến không còn phải lo làm sao có tiền mua ít thịt lợn, cái chân giò thắp hương đêm giao thừa như ngày xưa nữa. Tết bây giờ mọi người đều đã thảnh thơi lo mua sắm, lo tắm gội tất niên bằng thứ hương thơm mà mình thích, lo làm sao mua cái gì thật đẹp, thật ngon.

 Mẹ đã kết thúc câu chuyện ngày xưa từ lâu, rồi giục tôi ngủ đi mai còn sang chúc Tết ông bà nội ngoại và sang sông thăm dì với các em. Nhưng tôi thấy mẹ cũng trằn trọc mãi, thi thoảng nén tiếng thở dài nhè nhẹ. Dưới đường xe cộ vẫn ầm ầm chạy qua, thanh niên đi chơi thâu đêm giao thừa. Phải rồi, cả năm vất vả mới có ba ngày Tết, vui chơi cho thoả. Tiếng đàn chuột đã ngửi thấy mùi Tết trong các xoong nồi, tủ chạn. Tôi định dậy bật điện đuổi chúng đi nhưng mẹ bảo đã cất kỹ cả rồi, còn ít thịt mỡ vụn để trong cái âu dưới đất thì cứ để chúng ăn. Phải rồi! Tết mà!

Tôi vừa nhắm mắt lại, định ngủ một giấc thật sâu thì lại nghe thấy tiếng gió sông thổi ù ù hai bên tai, tôi thở dài. Mẹ giục:

- Ngủ đi con, ngủ đi mai còn sang sông nữa.

Tết bình dị của ngày xưa

Mỗi dịp tết, mẹ thường may quần áo mới cho 2 anh em. Cả năm đi học, mỗi lần được 10, mẹ lại thưởng cho 500 đồng bỏ lợn, cộng với tiền vốn (mừng tuổi năm trước), cuối năm mổ lợn (nhựa) cũng đủ tiền mua quần áo mới rồi.

Lâu rồi không còn cảm giác mong tết đến nữa, chắc vì lớn rồi, nên cách thể hiện tình cảm cũng thay đổi. Nhớ ngày xưa, trước tết một tháng là bắt đầu đếm từng ngày, mong cho đến tết. Rồi năm nào thiếu, không có ngày 30 thì vẫn tự nhủ 29 nhưng coi như là 30 tết. Và như thế, vẫn có chiều 30 như mọi năm.

Mỗi dịp tết đến, mẹ thường may quần áo mới cho 2 anh em. Cả năm đi học, mỗi lần được 10, mẹ lại thưởng cho 500 đồng bỏ lợn, cộng với tiền vốn (mừng tuổi năm trước), cuối năm mổ lợn (nhựa) cũng đủ tiền mua quần áo mới rồi. Vui lắm vì đó là công sức mình bỏ ra, cày cuốc cả năm.

25 tết, bố đưa hai anh em đi tảo mộ, thắp nén hương tỏ lòng thành kính tổ tiên, thăm mộ chị và mời các cụ về ăn tết cùng với gia đình. Khoảng 28 tết, nhà mình bắt đầu gói bánh chưng, mẹ chuẩn bị đỗ, gạo từ tối hôm trước, sáng ra chỉ việc gói. Bao giờ mẹ cũng gói cho 2 chiếc bánh chưng con để nếm thử khi luộc xong. Ăn bánh chưng ấy thấy rất ngon, vì vừa được luộc xong, vẫn còn thơm mùi lá dong, mùi lạt.

Chiều 30, hai anh em mang mứt tết vào lễ tết ông bà nội và bà ngoại. Quê ngoại và quê nội chỉ cách nhà 200m, nên một buổi chiều có thể đi bộ đến cả 2 quê và trở về nhà luôn.

Ngày đó vẫn còn được đốt pháo, bố chuẩn bị một tràng pháo Bình Đà và hai cây pháo hoa. Đến giao thừa, hai bố con đốt pháo hoa và không quên nhìn sang nhà bên cạnh xem có đẹp bằng nhà mình không. Sau đó là tràng pháo Bình Đà, nổ to, vang rền khắp xóm. Sáng hôm sau, xác pháo vương đầy sân, báo hiệu một năm mới may mắn, bình an.

Ngày mùng một, hai anh em bao giờ cũng dậy thật sớm, háo hức chuẩn bị để vào lễ tết ông, bà. Nhớ năm 92, ông nội tròn 69 tuổi, làm một buổi liên hoan cả gia đình vào ngày mùng một tết, mình đọc tặng ông và mọi người bài thơ: " Nhà em treo ảnh bác Hồ ". Bố mình làm bài thơ theo phong cách Tú Xương:

"Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo,

Tiền còn trong két chửa lĩnh tiêu.

Bánh đường tan gói e nồm chảy,

Chè sen hỏi giá vẫn còn kiêu.

Thôi thế thì thôi dành tết khác,

Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo..."

Tết của ngày xưa là thế đấy, bình dị nhưng mà nhớ lắm. Để mỗi khi tết đến xuân về, lại có dịp nhớ về tết của ngày xưa.

Nhớ Tết xưa

gày ấy nghèo lắm, cái nghèo không của riêng ai. Mọi người lao động tính công điểm đến xong vụ gặt mới nhận lúa. Cuộc sống thiếu thốn trăm bề, tết cũng mơ hồ như có, như không. Và, tôi nhớ ba tôi, nhớ tết nghèo thiếu thịt thiếu bánh mà tràn ngập yêu thương …

Tết tuổi thơ trong kí ức tôi chỉ có hai ngày: ba mươi và mồng một tết. Nhà nghèo, ăn khoai sắn gần như quanh năm nhưng năm nào mẹ cũng cố thả chuồng con heo ăn tết. Mẹ bảo nhà quê nuôi heo không khó nhưng ngày ấy hợp tác xã giá heo rẻ quá, chỉ nuôi heo tết thôi, hơn nữa phải đi làm lấy điểm tới mùa đong lúa ăn. Năm nào cũng vậy, từ tờ mờ sáng ba mươi tết tôi đã dậy lăng xăng phụ thổi lửa nấu nước và coi làm thịt heo. Cả nhà ai cũng vui, niềm vui không giống nhau. Tôi vui vì sẽ có những bữa thịt no nê, niềm vui chờ đợi suốt một năm dài. Anh chị tôi vui vì không phải ra đồng, lại được rong chơi cùng bạn bè. Ba mẹ vui vì niềm vui thơ trẻ của con. Lần nào cũng vậy, ba nấu nồi cháo từ nước luộc đầu heo với lon gạo để dành sẵn từ trước. Ba ngồi nhìn anh em tôi ăn mà khuôn mặt rạng rỡ nụ cười. Bát cháo ngày ấy đi vào tâm trí tôi không phải bằng vị ngon mà bằng ánh mắt ba vui vẻ nhìn đàn con được một bữa ngon.

Có một lần đang làm thịt heo, mẹ gọi một người đến mua thịt, ba bỏ dao nói: “Mẹ sắp nhỏ bán hết đi”. Tôi nhớ vẻ mặt ba không giận mà buồn lắm. Sau này mẹ bảo định kiếm mấy ngàn mua chút gì ngày tết. Ba nói cơ cực một năm rồi để dành cho con ăn, không vì mấy ngàn mà làm nhỏ đi niềm vui con trẻ. Từ đó tôi mang theo trong tâm hồn mình bữa ăn ngày làm thịt heo tết với tất cả tình thương của ba mẹ.

Ngày mồng một tết vui nhất là được ba dẫn đi thăm nhà bà con trong xóm. Tôi nhận được nhiều bánh khô lì xì đến mức ba phải cầm hộ túi ni lông đựng bánh cho tôi. Ngày xưa ấy nghèo, không có tiền mừng tuổi nên lì xì bằng bánh khô tự làm đón tết. Thế mà vui. Tết được ăn ngon, được nhiều bánh mừng tuổi và nhất là được nhiều yêu thương. Sáng mồng hai tết mẹ đã dậy thật sớm để lo cơm nước cho người lớn chuẩn bị ra đồng. Ba thường dặn tôi: Nhà mình còn tết (ý ba là còn thịt heo) con ở nhà ăn tết nhé, chiều ba về. Một cái tết qua nhanh nhưng cũng kịp để lại nhiều niềm vui.

Năm nay tết lại đến, sắp đến ngày ba mươi tết tôi lại bâng khuâng nhớ ánh mắt ba vui mừng đến rưng rưng khi nhìn đàn con quây quần bên nồi cháo, vừa trò chuyện vừa xì xụp tô cháo heo tết. Năm nay không còn nghèo đói, thiếu thốn ngày nào đã bị đẩy vào quá khứ. Ba tôi cũng đã đi về nơi xa xôi vô định nào đó để lại cho anh em tôi niềm nhớ đến bồn chồn day dứt mỗi khi tết đến xuân về. Nhất là lúc làm heo tết, nhớ ba, nhớ nồi cháo đậm đà tình thương của ba trong ngày nghèo khó.

Trần Đăng Khoa nhớ Tết xưa

Gọi "Tết xưa" nghe cứ xa lăng lắc như thời cổ tích. Nhưng không. Đó chỉ là thời còn chế độ bao cấp. Nào đã xa xôi gì mà bảo chuyện xưa! Thời gian thì chưa xa, nhưng sự việc thì đã xa lắm. Xa đến nỗi, nhiều việc bây giờ kể lại, các bạn trẻ khó mà tin được. Họ sẽ lại chép miệng: "Ôi dào, các bố chỉ bịa. Chuyện nhà văn ấy mà!".

Thật oan cho các nhà văn quá. Ông bạn tôi cũng bảo: "Bây giờ thì đến cả ông giời cũng thay đổi, ông ạ. Đấy, ông cứ ngẫm mà xem. Ngày xưa rét cắt da cắt thịt. Mặc đến ba bốn cái áo mà vẫn còn lạnh. Sáng Ba mươi Tết, vợ chồng con cái còn kéo nhau ra đầu hè ngồi sưởi nắng. Bây giờ thì cái rét nó biến đi đâu cả. Chẳng thấy lạnh gì. Ngày Tết, mặc bộ com - lê, hay chỉ khoác cái áo mỏng vẫn bình thường, thậm chí còn thấy nóng sốt nữa. Nhiều anh bây giờ chỉ thèm được rét. Đã Tết vẫn không rét. Mà không rét thì làm sao ra cái Tết. Đến cả ông giời bây giờ cũng đổi tính đổi nết rồi!"

Thực tình, ông giời đâu có tráo trở. Tết nào chả có mưa xuân bay phiêu diêu như khói cùng cái lạnh heo heo. Nhưng những năm xưa, người ta rét vì đói. Đói nên mới thấy rét. Còn bây giờ, nhờ có mấy năm đổi mới mà trông anh nào cũng béo chút chít, cứ chũm trệ như Việt Kiều yêu nước cả.

Ông bạn cùng cơ quan tôi bảo: "Bây giờ, bầu chiến sĩ thi đua, hay cá nhân tiên tiến xuất sắc, cứ thấy anh nào béo là tớ gạch đấy. Vì trông những anh béo cứ thấy có cái gì không được lương thiện". Nhưng rồi rút cuộc, ông bạn tôi vẫn chẳng gạch được ai, vì ngay cả ông bạn cũng ụt ịt như địa chủ được mùa. Đàn ông đã khổ vậy, đàn bà còn "đau đớn" hơn nữa. Đau đớn không phải vì khổ, vì cực, mà chỉ tại... béo quá.

Đàn bà thanh lịch, cánh liễu yếu đào tơ mà đi cứ ù ù như cái cối xay lúa. Nhiều chị, nhiều mợ phải chạy tập thể dục, lại còn đi tiệm thẩm mỹ hút mỡ. Rồi uống bao nhiêu thuốc. Đắp, bó bao của quý, vật lạ lên da thịt mà vẫn chẳng làm sao gày được. Trông ai cũng ụ ị như những con gấu Bắc cực. Thế thì cái rét còn biết len vào đâu? Ngày Tết thấy nực nội là phải. Không rét, lại quay trách ông giời phản bội mình!

Nhiều lúc, tôi cứ lẩn mẩn nghĩ: Không biết cái gì đã làm nên Tết nhỉ? Các cụ bảo:

"Đói ngày giỗ cha. No ba hôm Tết".

Khiếp chưa? Đến cả ngày giỗ cha mà vẫn còn đói. Cứ như ý các cụ thì chỉ có ba hôm Tết mới được ăn no. Thế nên những cái Tết xưa thường gắn với chuyện ăn uống. Các cụ còn định nghĩa cái Tết rất cụ thể: Tết là "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ - Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".

Bây giờ, thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, những thứ làm nên Tết bày ê hề trong các quán cơm bụi ở vỉa hè. Vì thế mà quanh năm Tết. Cái Tết lại hoá mất thiêng, không còn là nỗi háo hức nữa. Muốn có mâm cỗ Tết, chỉ chạy nhoàng ra phố chừng mươi phút là xong. Ngày xưa, các cụ chuẩn bị Tết kỹ lưỡng lắm. Có bộ quần áo mới nào cũng để dành đến Tết mới mặc. Con lợn nuôi cũng là nuôi để Tết thịt. Và như thế, cái Tết đã được rục rịch chuẩn bị trước đến cả hàng năm trời.

Ở thành phố thì tích phiếu thịt, phiếu đậu dành cho Tết. Ngày thường ăn thế nào xong thôi. Vì thế, dù có lòng rất mến khách, nhưng cứ trông thấy khách là sợ, vì không biết tiếp thế nào cho phải. Tiếp đúng như lòng mình thì có khi cả nhà phải nhịn ăn đến cả một tháng phiếu thực phẩm.

Nhà văn Đỗ Thị Hiền Hoà có một cái truyện thật cảm động. Bà mẹ có khách. Khách là người yêu cũ. Mâm cơm cũng chẳng có gì, chỉ tồng tềnh mỗi một đĩa trứng rán. Bà mẹ đã đe trước cậu con trai ba tuổi từ dưới bếp. Rồi trong suốt bữa ăn, bà dùng mắt "chỉ huy" cậu quý tử. Nhưng khổ nỗi, thằng bé đói, lại rất thèm trứng. Thế là cu cậu quên mất mệnh lệnh của đấng tối cao. Bà mẹ phải xông vào trận. Bà gắp trứng cho khách, rồi giục: "Bác ăn đi. Ăn nhanh lên, kẻo cháu nó hư lắm!".

Nghe mà ứa nước mắt.

Nhà văn nổi tiếng Nguyễn Minh Châu cũng có một cái truyện ngắn khá ấn tượng. Trong truyện, có một chi tiết tôi đọc mà rồi không sao quên được. Đó là việc bà mẹ dạy con cách chấm rau muống luộc làm sao cho thật kỹ thuật. Chao ôi! Việc chấm rau muống mà cũng đòi hỏi phải có kỹ thuật sao? Tưởng kỹ thuật chấm thế nào. Hoá ra cũng đơn giản. Bà yêu cầu con phải chấm

đứng

ngọn rau muống. Vì chấm

đứng

ngọn rau thì không tốn nước mắm.

Đọc những tác phẩm chân thực về một thời như thế, cô cháu gái tôi lại đâm ngờ vực: “Các bác toàn bịa. Chúng cháu cũng biết nhà văn phải hư cấu. Nhưng hư cấu thế nào cũng phải để cho người ta tin được. Đằng này, truyện các bác toàn bịa. Mà bịa quá đáng. Bịa thế thì đến cả trẻ con chúng nó cũng chẳng tin!”

Tôi còn biết nói sao bây giờ? Thời thế đã thay đổi. Đến cả ông giời còn bị mắng oan nữa là các nhà văn!/.

Thượng đế bị chửi

(VOV) - Dân mình kể cũng lạ, ở nhà cơm dẻo canh ngọt, vợ chiều chuộng không thích, lại cứ thích được ăn mắng, ăn chửi ngoài quán.

·

Blog Xíu: Ch

í Phèo cô đơn

·

Blog Xíu: Cái lưỡi không xương

Tôi, Bắc-Nam đi lại đã nhiều, tiệc tùng và cả cơm đường cháo chợ, chỉ có Tây Tàu ít bén mảng, không hiểu xứ người ra sao, chứ ở ta, ăn uống ngoài đường giờ hãi lắm. Này nhé, cái hãi đầu tiên là chuyện bị ăn... bẩn. Ngày nào, Đài, báo, mạng cũng ra rả truyền thông; bác loa phường cũng rỉ rả nhắc nhở các hộ kinh doanh phải ký cam kết, người tiêu dùng thì phải thông thái để không bị lừa, nhưng xem ra mọi sự vẫn đâu vào đấy.  

Hôm rồi mới đọc cái tít báo mạng mà đã thấy lợm cả giọng, trốn biệt mấy ngày trong nhà không dám ló ra ăn hàng. Tít là: "Kinh hoàng phở gián, bún thạch sùng...", kèm theo những tấm ảnh chớp tại các quán hàng mất vệ sinh, xem xong muốn ói. Một thông tin nữa là hơn chục cầu thủ Đà Nẵng đồng loạt hội chứng đám đông nhập viện vì ngộ độc thực phẩm. Mấy cậu cầu thủ khoẻ như vâm còn dính chưởng, huống hồ những kẻ chân yếu tay mềm. 

Mối hoạ rình rập từ các quán hàng, các khu chợ, ùa vào cả mâm cơm gia đình. Kẻ vô lương tâm có muôn phương nghìn kế để làm ẩu, làm liều, làm bừa gây nguy hại cho các thượng đế: từ công nghệ hóa chất, thạch cao, hormon... cho đến đồ giả, cách nấu nướng, bảo quản đồ ăn thức uống mất vệ sinh.  

Chuyện không chỉ dừng lại ở cái ăn vào miệng mà còn gây hãi ở thái độ phục vụ nữa. Có ai đó đã tung hô cho cái gọi là văn hoá Hà thành khi nhắc đến chuyện xếp hàng ăn phở, tôi thì thấy đó là sự ì trệ, kiểu "quan liêu bao cấp" một thời. Lại có người cho rằng nó hợp với hồn phố cổ ở cái nhịp nhẩn nha, chậm rãi, tôi lại nghĩ phố cổ không đọng trong lòng mọi người cái nếp bảo thủ đó. Phố giàu lên mà sang trọng không đi kèm. Buồn là vậy!  

Nhưng mà xếp hàng còn đỡ chứ vừa ngồi ăn vừa "ngoan ngoãn" ngồi nghe chửi thì là chuyện chỉ có ở nước mình. Nhiều người bênh vực khi lý luận rằng, quán ăn ngon thì có bị rác tai một chút cũng chẳng hề hấn gì. Tôi lại thấy đó là "cái tát mạnh" vào thương hiệu thanh lịch của người Thủ đô. 

"Tiên trách kỷ, hậu trách nhân"- Dân mình kể cũng lạ, ở nhà cơm dẻo canh ngọt, vợ chiều chuộng không thích, lại cứ thích được ăn mắng, ăn chửi ngoài quán. Chửi té chửi tát mà cứ lao đầu vào. 

Người xứ mình cẩn trọng, so đo tính toán nhiều thứ nhưng xem ra cách thức ăn uống thì lại càng ngày càng dễ dãi, thiếu tinh tế. Mỗi lần vô quán ai ai cũng lẩm bẩm câu cửa miệng: “Khuất mắt khôn coi”. Biết là sẽ phải “sực” đồ vớ vẩn nhưng tặc lưỡi thôi thì không tận mắt thấy quy trình nấu nướng thì coi như đã thắng lợi ở phép tinh thần. Rồi câu dằn lòng “Người ta ăn được, mình cũng ăn được” khiến cho sự đại khái, dễ dãi ngấm vào lúc nào không hay. Sự thỏa hiệp đó đã tiếp tay cho lối làm ăn phi đạo đức, chửi bới mắng nhiếc thực khách. 

Khẩu hiệu “Người tiêu dùng thông thái” cũng nên có thêm một vế nữa là “Người tiêu dùng khó tính”. Chỉ có sự phản kháng của một cộng đồng rộng lớn mới đẩy những kẻ táng tận lương tâm, những nhà hàng chửi, mắng thượng đế vào thế chống đỡ yếu ớt, bị tẩy chay và tiến tới đóng cửa, sập tiệm.

Ở nước ngoài, không chỉ chuyện ăn uống "đầu vào" mà ngay cả chuyện khó nói "đầu ra", người ta cũng rất coi trọng, thậm chí có khu du lịch, nhà hàng, quán ăn... còn quan tâm đến chất lượng SAO của các WC, và coi đó như một trong những điểm Cộng (+) thu hút khách... Ở ta còn lâu mới có đẳng cấp đó! 

Thượng đế chính là người góp phần "nuôi nấng" các quán hàng, "trả lương" cho các nhân viên. Ở một số nhà hàng treo ngay ngắn khẩu hiệu: "Khách hàng là người trả lương cho chúng ta". Và buộc nhân viên vào những quy định khắt khe, nhất là thái độ với khách hàng. Tuy vậy, số này đếm trên đầu ngón tay. 

Miền nào cũng có những tạp nham nhưng cung cách phục vụ không chỉ chuyện ăn uống, rõ ràng là trong Nam ổn hơn ngoài Bắc. Miền Nam từ lâu đã thích ứng với xu hướng thị trường nên sự phục vụ thường chuẩn mực hơn, chuyên nghiệp hơn. Ở phía Bắc, dường như vẫn chưa thoát hẳn khỏi cái bóng của thói quen bao cấp, tư duy xin- cho tác động phần nào đến thái độ, văn hóa bán hàng. Không ai cho ai cả, cũng chẳng ai xin ai. Anh có tiền, anh có quyền thụ hưởng dịch vụ theo nhu cầu và có nghĩa vụ chi trả. Tôi thu tiền của anh, tôi có trách nhiệm phục vụ anh. Vậy thôi mà sao khó thế. Đi đâu cũng thấy tràn lan cung cách chụp giật.  

Hồi mới làm báo, một đận công tác Sài Gòn, tôi được vinh dự dùng bữa cùng bà Võ Thị Thắng nổi tiếng với nụ cười mang tên bà, lúc đó làm Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch. Với bà, việc thưởng thức tại những nhà hàng thật VIP là chuyện nhỏ, nhưng chúng tôi đề nghị được ăn tại một nhà hàng loại trung bình như một cách để quan sát vị quan ngành dịch vụ du lịch vi hành. Trong đám đông thấy có vài người nhận ra bà. Quán ồn ào, huyên náo nhưng không hỗn loạn mà rất trật tự trong khâu phục vụ.  

Tôi thực sự ngạc nhiên trước hình ảnh một bác cao tuổi tóc bạc trắng làm bồi bàn tại khu vực chúng tôi ngồi. Bác bồi già luôn thường trực nụ cười bặt thiệp trước những đòi hỏi, những câu nói cửa miệng sặc mùi tiền của nhiều thực khách trẻ. Ông luôn khoanh tay, cúi đầu thưa khẽ: "Dạ, các anh cần gì?” để trả lời đám khách chỉ đáng tuổi con cháu mình. Sài Gòn thêm một ấn tượng với tôi sau lần đi ăn đó.  

Thế mới biết, miếng ăn ngon, manh áo đẹp không chỉ là cái vỏ vật chất mà còn chứa đựng một nền văn hoá. Nó cần bảo lưu, tiếp biến và cả sự sàng lọc, loại trừ./.

Cá đồng ngày Tết

Cập nhật lúc 14:51, Thứ Sáu, 20/01/2012 (GMT+7)

(QNg)- Cuối tháng Chạp là Tết về đến ngõ. Nhà nhà rục rịch đón Tết. "Đói cũng ngày Tết, hết cũng ngày mùa", ông bà ta nói vậy. Làm cả năm cũng để lo cho ba ngày được chu đáo. Cái gì ngon cũng để dành cho ngày Tết. Nghèo mà vui. Tết xưa là thế. Với tôi, ngày ấy, chỉ chờ qua ngày đưa ông Công, ông Táo về trời là theo cha ra đồng  tát cá đìa ăn Tết!

Ngày đó, ruộng quê tôi ăn nước trời. Mùa mưa thì sẵn nước, nhưng mùa nắng thì phải đào ao. Khoảng tháng tám, tháng chín âm lịch, mùa mưa bắt đầu. Cha tôi bỏ mớ chà (nhánh cây nhỏ) vào ao. Lũ về. Cá mừng nước ngược dòng tìm nơi sinh sản. Và những cái ao ấy, mùa nắng tưới mát ruộng đồng, thì mùa mưa là nơi trú ngụ lý tưởng của họ nhà cá.

Gàu sòng được cột lại dây. Nơm, vịt (đồ đựng cá) chuẩn bị sẵn sàng. Cả nhà ra đìa tát cá. Chiếc gàu sòng làm việc cật lực chừng nửa buổi thì những mớ chà lần lượt được gỡ ra. Nước trong đìa cạn dần. Đâu đó từ trong ngách đìa, tiếng cá quẫy rột roạt. Cha tôi lấy nơm, vạch bùn bắt cá. Những con cá trê vàng hườm, bụng căng đầy bóng mỡ; những con tràu (cá lóc) đen mun, mập tròn lần luợt được bỏ vào vịt, nhìn thôi cũng sướng con mắt. Tiếng trầm trồ, cười nói vang động một góc đồng. Vui không kể hết.

Cá đem về, con nhỏ kho ăn trước. Những con cá trê, cá tràu lớn được má tôi rộng trong lu vài ngày cho nhả bớt bùn, sạch ruột. Sau đó, đánh vảy, chà muối cho sạch nhớt. Cha tôi lấy tre nan trên giàn sấy xuống vót từng chiếc lụi. Má tôi cầm từng con, xiên vào lụi. Mỗi lụi cá vài ba con. Mỗi con cá được khoanh tròn, đuôi ngậm vào miệng, đều tăm tắp. Nồi than lửa được quạt đượm. Từng xiên cá được đặt lên. Tôi phụ má quạt lửa, trở để cá chín đều. Mùi cá nướng trên bếp than hồng quyện trong gió chiều cuối năm nghe sao mà ấm áp.

Trong ba ngày Tết, trên bàn cúng cơm ông bà của cha tôi ngày ấy không năm nào thiếu đĩa cá tát đìa. Mà kể cũng lạ. Cá đồng kho càng nhiều lửa lại càng thơm, càng ngon, xương càng mềm. Thả đũa vào vẽ con cá khoanh tròn trên đĩa rồi cho vào miệng không ai khỏi ngây ngất bởi vị ngọt của thịt cá, cái cay nồng của gừng, bùi bùi của nghệ. Ngày Tết, nhà nào có được nồi cá đồng đãi khách ăn với cơm nóng thì ngon hết biết.

Bây giờ, thời buổi công nghiệp, cách ăn Tết cũng khác xưa nhiều. Trên cánh đồng, kênh mương nội đồng đã phủ khắp. Ao đìa lấy nước ngày xưa cũng xong "sứ mệnh lịch sử" của mình. Vậy nên, mỗi độ Tết đến Xuân về, lòng tôi cứ bồi hồi, nhớ mùi cá đồng kho của cái Tết năm nao!

UÂN TRONG KỈ NIỆM

Lấp lánh những tia nắng ấm hòa trong tiết trời se lạnh, nhành mai bắt đầu đâm chồi nảy lộc, đàn én chao nghiêng trên bầu trời xanh thẳm... tất cả tạo nên một bức tranh mang sắc màu của sự sống.  Xuân lại về trên quê hương Việt Nam để lòng người thêm chứa chan bao cảm xúc..

Thời gian cứ như một mũi tên bay vô hồn và xuyên qua tất cả mọi thứ trong cuộc sống một cách vô hình. Đôi khi tôi chợt giật mình khi nhìn lại những ngày tháng mình đã đi qua. Âm thầm và vội vàng quá, tôi đã bước  qua tuổi 26 nơi xứ người trong tiết trời se lạnh...Và rồi, lòng chợt bâng khuâng khi nhận ra rằng tôi đã xa nhà suốt 5 mùa xuân....

Xuân này , tóc của mẹ đã bạc nhiều hơn và đôi mắt của ba càng thêm nhiều nét chân chim...Tôi vẫn nhớ như in những cái tết thiếu thốn của ngày ấu thơ. Những ngày xưa ấy tuy nghèo nhưng niềm vui thì không tả xiết được.

Tôi sinh ra và lớn lên trong một xóm lao động nghèo...Vi thế, lũ trẻ con thường náo nức chờ mong ngày Tết để được mặc áo mới và cắn hột dưa, ăn bánh mức cho thật thỏa thích. Cứ mỗi dịp xuân về, lòng tôi náo nức như ngày hội.

Những ngày xưa đó tuy khó khăn nhưng để lại trong tôi cả một khỏang trời thương nhớ...Tôi nhớ lắm dáng người nhỏ nhắn của bà nội. Độ giáp tết, tôi thường lon ton theo nội đi chợ Biên Hòa để mua sắm vật dụng ngày Tết. Rất cẩn thận và khéo léo, nội chọn từng trái khổ qua, từng cây củ cải để chuẩn bị thức ăn cho cả gia đình trong những ngày đầu năm.

Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày 30 là nội cặm cụi chăm chút cho nồi thịt kho thật thơm, hủ dưa kiệu trắng muốt và một món ăn đã khắc sâu trong tâm trí của tôi đến tận hôm nay, đó là canh khổ qua hầm tuy đắng ngoài mà lại rất ngọt bên trong... Nội thường nói với tôi: "Năm hết tết đến nên mình ăn cho cái khổ nó qua đi đó con."

Rồi thời gian dần trôi, tôi đón những cái tết xuân thì trong sự thay đổi của tuổi tác.Tuy nhiên, dù là  Tết sang hay Tết nghèo thì tôi vẫn không thể quên được hương vị độc đáo của nồi khổ qua hầm mà nội vẫn nấu hàng năm.

Nội tôi lớn lên ở thôn quê nên bà rất kĩ lưỡng trong việc chăm chút món ăn ngày Tết. Có thể nói, dù đi xa hay ở gần thì lòng tôi vẫn bùi ngùi khi nhắc đến canh khổ qua của bà nội. Cứ đến chiều 30  là cả nhà lại quây quần bên mâm cơm cúng tân niên với những món ăn dân dã mà đậm tình quê hương.

Tôi như lịm người đi trong hương thơm ngào ngạt của món canh khổ qua. Đắm mình dưới làn nước trong vắt là những trái khổ qua hầm vừa chín tới cùng với một chút nước mắm tươi và gia vị thích hợp, hương vị nhẫn nhẫn mà rất thanh tao của khổ qua hầm như xua tan đi bao mệt nhọc của mọi người sau một năm trời ròng rã ngược xuôi cùng dòng đời..

Rồi thời khắc giao thừa cận kề, lòng tôi rộn ràng biết bao khi tiếng pháo chào xuân mới vang lên như lời chúc mừng cho một năm an khang, hạnh phúc đang tìm đến với cuộc đời..

Có thể nói, Tết Việt Nam là mùa của tình yêu và sự sống.Tết không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình hay phố phường, mà ngày tết quê tôi còn lan tỏa khắp mọi nơi, trên mọi vùng miền của Tổ Quốc với sự sinh sôi nảy nở của muôn loài vạn vật.

Tôi chợt lặng người đi khi nhớ về những mùa xuân yêu thương được quấn quít trong vòng tay ấm áp của gia đình.Thương làm sao quê hương tươi đẹp với biết bao kỉ niệm.Và rồi đôi mắt của tôi bỗng cay xè khi những câu hát rất tình cảm và đậm chất Nam Bộ của ca sĩ Cẩm Ly cất lên: "Thương con mẹ tôi đón xuân lặng lẽ, nơi phương trời xa có nghe tiếng mẹ!?"

Ngày qua ngày, ba mẹ tôi vẫn âm thầm chịu nhiều khổ cực, bôn ba giữa dòng đời tấp nập để lo miếng ăn giấc ngủ và cả chuyện tương lai cho con cái.Ngày tôi rời Việt Nam sang Mĩ tu nghiệp, gia đình đơn chiếc chỉ còn lại ba và mẹ. Rồi thời gian trôi, sức khỏe của cả ba và mẹ không còn tốt như ngày trước nữa. Những cơn đau nhức cứ bám vào cái lưng đã chai sờn của mẹ mỗi khi đêm về, và căn bệnh tim mạch đôi khi khiến cho giấc ngủ của ba không trọn vẹn.

Dù rằng sức khỏe đã hao mòn theo thời gian nhưng  ba mẹ  luôn lạc quan và san sẻ với tôi những buồn vui tủi nhục mỗi khi tôi đối diện với biến cố của cuộc đời. Dẫu rằng đã 5 mùa xuân trôi qua, ba mẹ đón Tết trong sự đơn chiếc và lặng lẽ của cuộc đời nhưng ba mẹ vẫn vui sống vì biết rằng . .nơi phương trời xa tôi đã và đang cố gắng rất nhiều để mang về những mùa xuân yêu thương đến với ba mẹ.

Có xa quê mới cảm nhận được cái tình của người Việt mênh mông rộng lớn thế nào và hiểu rõ sự phong phú trong giá trị văn hóa của ngày tết quê hương.  Lòng chợt bồi hồi khi tôi nhớ đến câu hát mà mẹ vẫn thường ru tôi ngủ thưở ấu thơ: "Ai cách xa cội nguồn để mình ngồi nhớ lũy tre xanh dạo quanh, khung trời kỉ niệm chợt thèm rau đắng nấu canh.."

Tôi viết những dòng này khi cơn bão tuyết ở Utah vừa tan. Ngòai trời vẫn còn u ám bởi sự che phủ của những đám mây mù. Nhìn về phía trời xa giữa xứ người giá rét mà lòng nghẹn ngào và thương về quê nhà một cách lạ lùng đến nức nở.

"Xuân đang đến nghĩa là xuân sẽ qua." Tôi xin chúc cho những người đang yêu nhau sẽ sống trong sự nồng nàn của mùa xuân hạnh phúc, xin chúc cho ông bà cha mẹ sẽ đón nhận thật nhiều điều an lành tốt đẹp khi mùa xuân mới sang và chúc mọi nhà sẽ vui xuân trong cảnh sum vầy quấn quít để cuộc đời luôn được tô điểm sắc thắm của mùa xuân.

Tết nghèo nơi làng chài giữa sông Hồng

Những ngày áp Tết, giữa lòng Thủ đô, có một nơi mà cái Tết trở nên xa vời, mọi thứ vẫn còn ảm đạm dù hoa đã "bung" trên mọi nẻo đường.

Chúng tôi tìm về làng chài ở bãi giữa sông Hồng (phường Phúc Xá, quận Ba Đình, TP Hà Nội) trong những ngày giáp Tết. Trái ngược với sự sôi động, hối hả nơi phố xá, xóm chài nơi đây lặng lẽ đến lạ thường. Làn gió rét quyện với mùi hôi ám của rác bao quanh khiến không khí nơi đây, trong những ngày cận ọc bãi giữa sông Hồng, khoảng 20 con thuyền cũ kỹ trôi nổi trên sông bình lặng. Ai biết việc nhà nấy, thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng người. Dân làng chài nơi đây gồm nhiều vùng quê khác nhau tìm về đây trú ngụ. Mỗi gia đình có từ 3 đến 5 nhân khẩu.

Không chỉ sống bằng nghề đánh bắt, người dân chài còn lao động bằng nhiều nghề khác nhau, từ phụ hồ, đưa than, trồng rau, đánh bắt cá, nhặt rác, thậm chí là đi ăn xin... Quanh năm lênh đênh theo con nước của sông Hồng.

Trong cái giá lạnh những ngày cuối năm, chị Trần Thị Liệu (quê ở Hưng Yên) đang tưới nước tại ruộng rau cho biết: "Năm nay rét nên rau cũng được giá. Mai mốt thu hoạch, mang đi bán rồi mới tính đến chuyện sắm Tết. Tết năm nay, cả 5 miệng ăn nhà tôi chỉ trông chờ vào mấy luống rau này thôi chú ạ”.Tết vẫn mang mùi vị của sự nhem nhuốc, nghèo đói.

Chị Liệu dẫn chúng tôi về thăm nhà, chỉ là một chiếc thuyền cỡ trung rất cũ kỹ với những miếng gỗ và phần mái đã có dấu hiệu bị mục nát. Bên trong ngôi nhà chỉ có một phòng, được ngăn bởi những tấm bạt đã rách.

Ngày 27 Tết, trên bàn thờ nhà chị Liệu mới chỉ vẻn vẹn có một hộp bánh, theo lời chị thì đó là quà của một nhóm người tình nguyện đến tặng hôm trước. "Đội tình nguyện cho kèm theo một vài cân gạo. Bánh để thắp hương, còn gạo thì tôi vẫn đang để dành ăn mấy ngày Tết chú ạ” – chị Liệu chia sẻ.

Gia đình có năm miệng ăn, chồng chị đi đưa than tổ ong suốt từ mờ sáng cho đến nhá nhem tối mới về, 3 đứa con còn nhỏ nên chỉ có chị và anh là lao động chính. Chúng tôi thắc mắc, vì sao quê chị cũng gần Hà Nội mà lại không về ăn Tết, chị chia sẻ, về quê cũng khá tốn tiền, năm nào cũng ở lại ăn Tết để tranh thủ làm, kiếm thêm chút đỉnh.

Ngày Tết, chồng tôi đưa được nhiều than hơn, tôi bán được rau hơn chú ạ. Tết nhất cũng chỉ có vài ba ngày, lo lắm làm gì, cứ biết hôm nay đủ ăn là được rồi.” – Chị Liệu chia sẻ.

Rời nhà chị Liệu, chúng tôi gặp ông Vịnh, một người sống bằng nghề đánh bắt cá khá lâu ở khu vực này. Ông Vịnh cho biết, ông vừa đi đánh cá về nhưng cũng không được bao nhiêu: "Dạo này trời lạnh, tôm cá cũng chạy đi đâu hết, khó lắm mới bắt được vài con. Tôi đang định di chuyển sang chỗ khác xem có bắt được nhiều hơn không”, ông Vịnh nói.Khi được hỏi về việc chuẩn bị đón Tết của gia đình, ông Vịnh suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại: "Hôm nay hai mấy rồi nhỉ?" rồi bất ngờ khi biết hôm nay đã là 27 Tết, ông nói: "Nào có ai quan tâm đến ngày tháng, Tết nhất gì đâu, phải lo cho ấm cái bụng hôm nay đã, Tết cũng thế thôi”.Đang sửa sang lại con thuyền của gia đình, anh Lê Đắc Thu đã phải làm tạm chiếc lán nhỏ ở ven sông để tiện sinh sống. Chia sẻ với chúng tôi khi anh đang "cải thiện" cho gia đình một con cá vừa đánh bắt được: "Với chúng tôi, Tết vui nhất là đánh bắt được nhiều cá. Có đánh bắt được nhiều mới có thể bán được để lấy tiền sắm Tết. Làm quanh năm có tiền cho các cháu ăn học, đến Tết có được con gà, cân thịt là vui lắm rồi".

rên bãi đất được coi là trung tâm của làng chài, một tốp trẻ con vẫn đang cùng nhau chơi đùa, chúng được mặc những bộ quần áo tuy cũ nhưng khá ấm áp, hỏi ra mới biết, đó là quà của một nhóm tình nguyện mới đến trao tặng.

Hỏi chuyện một cháu nhỏ, nó nhanh nhảu đáp: "Hôm nọ, có mấy cô chú ra cho cháu mấy bộ quần áo, một ít gạo và một chiếc bánh chưng. Như thế là nhà cháu có Tết rồi. Bố mẹ cháu đi làm từ sáng sớm, mãi đến tối mịt mới về nên nhà cháu vẫn chưa có gì cả. Nhà cháu chưa bao giờ có cành đào. Bố cháu hứa nếu có tiền sẽ mua đào về để chơi Tết…”

Càng về chiều, trời càng lạnh. Qua ngày 27 âm lịch là chỉ còn một ngày nữa sẽ đến Tết. Khắp nơi, người dân đi mua sắm, trang hoàng và chuẩn bị du xuân. Nhưng tại làng chài ven sông Hồng, ngay giữa lòng Thủ đô thì cuộc sống vẫn không có gì thay đổi, bởi với họ, lo cho cái ăn của ngày hôm nay đã, Tết tính sau

Lên núi tìm tết

Ngày tết gặp ai cũng thành quen. Chuyện trò với cặp vợ chồng đưa con về dưới quê ngoại ở Hà Tây thăm bà con họ hàng. Hỏi thăm nhau đường về xuôi và đường lên Tây Bắc. Anh bàn bên động viên: “Các bác cứ yên tâm, qua đọan này lên đến Sơn La thời tiết đẹp lắm, không nhiều sương mù như ở đây đâu”. Còn tụi mình dọa: “Đi về xuôi thời tiết chán lắm, mưa sụt sịt như khóc thầm, đường ướt át, bẩn thỉu”. Uống chào nhau chén rượu xuân, tự nhiên thấy gần gũi.

Nhiều năm nay ít người thấy tết vui và có ý nghĩa. Tết như đã được lập trình theo công thức, kể cả những thú vui tao nhã hay tinh thần. Quà cáp nhiều vô kể. Đồ ăn thừa mứa. Rượu chảy như suối. Người người súng sính áo quần mới, những đồ chỉ đợi tết mới mang ra chưng diện, dù ngày thường vẫn ăn mặc đẹp như vậy. Lời chúc tụng làm thành thơ, chỉ cần chép lại và gửi đến nhiều người cùng lúc, khỏi mất công.

Hoa rực rỡ khắp ngõ phố, nhiều nơi còn đổ đi hàng thúng hoa héo úa lỡ khách mua. Những cành đào núi ngược các cung đường ngoằn ngoèo xuống phố. Người ta chặt chém cành đào ngay từ lúc nụ còn lấp ló chưa thò ra khỏi vỏ. Nhiều nụ thâm đen chả hé nở được vì cây bị bứng đi lúc còn quá non. Rồi cành đào không bán được vứt lung tung vào đêm 30, như củi ngấm nước, đun không được, để thì bừa bộn, rác rưởi. Tự nhiên thấy cảnh tàn phai, trễ nải ngay khi tết vừa mới ngấp nghé đầu ô. Tiếc cho rừng đào ở các triền núi ngày càng thưa vắng, hoang tàn. Ngày tết bỗng như nới rộng những chán nản, mệt mỏi vô cớ.

Nào là ăn uống, gặp gỡ, chúc tụng. Nào là nhắn tin cho người nọ người kia để khỏi bị chê trách là vô tâm. Vẫn là những câu quen thuộc: an lành, hạnh phúc, an khang, thịnh vượng…Vẫn biết điều đó là cần nhưng không hiểu sao mình thấy có gì gợn gạo trong đó? Sao vậy nhỉ? Chợt nhận ra, có lẽ, rất ít người để tâm đến những lời chúc mà chỉ cốt làm cho xong chuyện, làm một việc phải làm, làm để khỏi áy náy...Chao ôi là tết.

Ngày xưa tết khác nhiều lắm, vui lắm, sum vầy lắm. Dư vị ngày tết dường như đã biến khỏi đời sống. Nhưng xuân thu nhị kì sẽ lại phải có tết thôi. Chắc con người sẽ phải tìm cách ứng xử với tết như thế nào đó cho hợp với cảnh và người hôm nay? Còn không sẽ chỉ là hoài niệm, chỉ là những ngày nghỉ dài của năm…Càng ngày càng có nhiều người bỏ Hà Nội, rời ngôi nhà mình ở đủ 365 ngày trong năm để trốn tết ở đâu đó. Người có tiền thì vù ra nước ngoài. Người ít tiền hơn thì đi du lịch trong nước. Còn nhiều người thì chọn cách đi phù hợp với tạng của mình.Dân phượt coi đây là dịp được tung tẩy mà không sợ ảnh hưởng đến công việc. Mình nghiện phượt từ lâu nhưng có lẽ giờ là lúc thực hịên mơ ước? Cung thiên di rất tốt với mình mà. Nên dù bị mắng, bị ghét, bị chê trách vì bỏ qua rất nhiều thủ tục, lễ nghi trong ngày tết với người thân, bạn bè thì vẫn đành dứt áo đi khỏi Hà Nội.

Nhiều người rủ vào

Nam

tránh cái rét đất Bắc. Cơ mà tết không có rét thì không còn cảm nhận được không gian 4 chiều của tết nữa. Vũ Bằng xa rồi vẫn sụt sùi “thương nhớ mười hai” suốt đời đó thôi. Đi đâu thì vẫn phải có chút mưa phùn, có cái rét căm căm, có hoa đào, hoa mận nở rộ bên đường, báo hiệu là tết đang ngự trị, đang rong chơi chốn trần gian này. Vậy là phải ngược lên Tây Bắc, Đông Bắc rồi. Phải là Tây Bắc, Đông Bắc chứ không thể nơi nào khác. Mảnh đất ấy không biết từ bao giờ trở thành tình yêu của mình, quê hương của mình, mảnh đất tâm linh của mình… Hay tại mình mang mệnh mộc nên thích quay về nơi có nhiều đất đai? Về với núi để đắm mình vào không gian tĩnh lặng, huyền bí của rừng và trùng điệp núi non. Để mình với mình thôi, ít ra là trong tâm tưởng…

Vậy là ngày mồng 2 tết lên xe ngược hướng bắc. Sơn La. Mình đến Sơn La nhõn một lần, chớp nhoáng, chưa kịp cảm nhận gì thì đã đổ đèo về Hà Nội. Lần ấy theo thuyền của Công ty Sông Đà ngược dòng sông Đà lên thượng nguồn. Trên thuyền chỉ độc uống rượu, chơi nhởi, ngắm cảnh hai bên bờ sông. Cả ngày mới lên tới nơi. Vào thành phố Sơn La là bị bắt cóc đến một bản người Thái ở ngoại ô. Chả nhớ tên nữa, nhưng là bản văn hóa, tiếp khách đạt đến trình pro (chuyên nghịêp). Khách đến không say không về. May mà thời đó mình còn sức để mà vui thú với các em trai, em gái Thái, uống rượu tới tàn cuộc mà không sao. Vẫn còn ra múa hát được với mấy trai bản.

Mà gái Thái mời khéo lắm, không uống không được. Không uống cảm thấy như có lỗi, không yêu mến, thật lòng với họ. Tính mình lại cả nể, sợ người ta  không vui nên cứ nhắm mắt nốc bừa. Tửu lượng có khá nhưng “phép thắng lợi tinh thần” giúp mình qua được ải rượu vùng cao. Sau đêm ấy là lên xe về Hà Nội, chưa kịp ngó ngàng thành phố Sơn La dạo đó còn là thị xã, chưa kịp tan cơn rượu lơ lửng trong người. Thế nên Sơn La vẫn là nơi chưa đến, chưa cảm nhận, chưa biết. Chuyến đi này thành ra hấp dẫn, lôi cuốn và nhiều dự cảm mới lạ.

Hôm đi Hà Nội trời nặng mây. Đi qua khỏi dốc Cun (Hòa Bình) là đã quá mù ra mưa. Mỗi lúc mưa nặng hạt, sương khói mờ mịt giăng kín tầm nhìn. Ngó trời đất mà thấy nản. Không lẽ đi chơi xuân mà đội mưa nhớp nháp thế này? An ủi là còn hơn ngồi ở nhà. Lại vẫn chỉ ăn uống, chờ người đến chúc tết hay đi chúc tết, nói những câu ai cũng nói, làm những việc ai cũng làm để thấy đi thế này là vui rồi. Nghe bạn bè mách là lên đến kilômét 70 (chả biết là ở đâu, hình như trên đỉnh núi) có quán bê chao ngon lắm.

Trong đội có cậu đạo diễn trẻ tham ăn, thèm đồ lạ nghe thế là cơn đói nổi lên ầm ầm, chỉ trông cho đến đỉnh 70. Giữa trưa mà sương giăng mờ mịt, cách 10 mét đã không rõ mặt người đúng nơi đỉnh núi. Cũng tầm bữa trưa. Đúng quán bê chao bạn bè chỉ cho. Rẽ vào để an ủi dạ dày. Đông người đi chơi xuân đáo để. Nhà hàng phục vụ luôn tay mới làm hài lòng khách. Cái món bê chao cắn ngập răng, ngọt lịm, mềm ấm. Đấy là tụi thích ăn tả thế chứ mình lâu rồi ăn gì cũng như nhau, rau hay thịt… Có khi bát cơm muối vừng còn ngon hơn khi thấy hài lòng.

Ngày tết gặp ai cũng thành quen. Chuyện trò với cặp vợ chồng đưa con về dưới quê ngoại ở Hà Tây thăm bà con họ hàng. Hỏi thăm nhau đường về xuôi và đường lên Tây Bắc. Anh bàn bên động viên: “Các bác cứ yên tâm, qua đọan này lên đến Sơn La thời tiết đẹp lắm, không nhiều sương mù như ở đây đâu”. Còn tụi mình dọa: “Đi về xuôi thời tiết chán lắm, mưa sụt sịt như khóc thầm, đường ướt át, bẩn thỉu”. Uống chào nhau chén rượu xuân, tự nhiên thấy gần gũi.

Đúng là càng đi lên, từng đọan có sương mù nhưng mỗi lúc đường sá khô ráo hơn. Cao nguyên đẹp thuộc loại nhất nước đang dần hé mở ra trước mắt. Bên đường thấp thoáng đào, mận lấp ló trong sương mờ, lúc hiện, lúc ẩn như trốn tìm. Cái nao nức bắt đầu nhen lên và dồn thành niềm vui. Một niềm vui không dễ bày tỏ với người khác mà chỉ mình tự chia sẻ với mình, tự để nó an ủi những buồn đau trước đó còn hiển hiện trong tâm tưởng. Lạ thế đấy!

Qua Mai Châu là cửa ngõ Mộc Châu. Mộc Châu chả cần nói thì ai cũng biết là thiên đường của dân phượt, của kẻ thích lang thang săn tìm cái đẹp, lãng mạn. Mưa bắt đầu nặng hạt hơn. Mưa thực sự chứ không còn là quá mù ra mưa nữa. Và lạnh. Cái lạnh tê tái, căm căm của vùng sơn cước. Chắc chiều khách phương xa vượt đèo dốc, bỏ tết đô hội để lên đây với cao nguyên nên đến chiều thì ngớt mưa. Sướng như bắt được của. Bắt đầu dạo chơi ở thác Giải Yếm…

Mùa này vẫn còn nước để hình dung ra cái thác là thế nào? Nghe dân ở đây bảo, phải đầu tháng 9 thì thác mới thật là đẹp và có hội hè gì đó. Cảm giác như đang đi giữa vườn thiền. Có thác nước trắng xóa. Có dòng nước tí tách chảy. Có vũng nước xanh biếc. Có những hòn đá xếp thành lối. Và xung quanh là rừng. Rừng bạt ngàn xa xa. Mùa này có rất nhiều hoa dân gian gọi là hoa cứt lợn tím ngan ngát. Tên xấu xí nhưng nhìn xa chỉ thấy một màu mơ hồ, như làn mây tím che phủ cả triền núi. Thỉnh thoảng có cây trẩu lá vàng bơ vơ một mình giữa màu xanh bạt ngàn…

Nghe nói có Ngũ động bản Ôn nên lập tức mò đến tuy trời đã khá tối, trời mưa phùn. Đường đèo quanh co, ướt át nên dù vắng lặng xe người thì cũng không thể đi nhanh. Tới bản Ôn đã nhập nhọang tối. Hỏi đường một nhà dân ở bản thì được lời khuyên là ô tô không thể vào được mà phải đi bộ mất hai, ba kilômét. Vào đến động chắc chỉ còn xem đêm buông nên đành thoái lui.

Anh chủ nhà chỉ đường vui vẻ mời mọc vào nhà chơi. Hóa ra anh ta vốn bộ đội biên phòng, xin nghỉ hưu sớm và đưa cả nhà lên đây lập nghiệp vì trót gắn bó với nơi này. Chuyên buôn bán phân hóa học cho dân nông trường trồng chè. Có ôtô con chạy việc, nhà cửa khang trang. Chuyện trò cứ như bạn bè lâu ngày gặp, kể âm ty củ tỷ chuyện gia đình, vợ con, làng xóm. Nhiễm cái hồn nhiên, cởi mở của người miền núi nên khách phương xa bỗng thấy như đến chúc tết người quen. Thế cũng vui dù chưa đến được Ngũ động.

Hôm sau hứng chí đi tiếp lên Sơn La vì chỉ cách Mộc Châu gần 100km mà nghe nói càng đi thời tiết càng đẹp. Quả đúng vậy. Bao nhiêu nước và mây mù đã trút hết ở bên kia núi nên gần đến thành phố Sơn La thời tiết càng dễ chịu. Thung lũng bắt đầu hiện ra… Tựa như cô gái Thái tắm suối đang kín đáo trút dần bộ y phục để khoe cơ thể nõn nà của mình trong làn nước. Đố ai có thể cầm lòng không dừng xe lưng chừng đèo để đắm nhìn thung lũng bên dưới.

Ruộng bậc thang đang mùa đổ nước, dù không có ánh mặt trời nhưng vẫn đủ sáng cho thung lũng ủ ê vào đông. Nhà sàn dưới thung không đông đến tức mắt, không quá ít để thấy cô quạnh. Đủ để mình hình dung về một cuộc sống êm đềm, kín đáo, quần tụ, không bon chen của các bản làng nơi đó. Cứ việc chụp ảnh mỏi tay. Chụp như bắt được dù biết rằng nhiều ảnh sau đó chỉ để xem, mỉm cười, nhớ nhung một mình. Cảnh đẹp rưng rưng thế mà chụp xấu mới lạ.

Thị xã Sơn La trước đây thế nào mình không biết nhưng thành phố thì khá rộng. Giống bất kì thành phố ở các tỉnh, thành bây giờ. Cũng mở mang và phát triển vẻ bề ngoài. Ngày tết yên tĩnh lạ. Đi gần cả tiếng mới tìm nổi một quán phở ăn đỡ đói lòng vì chả ai chịu làm việc những ngày còn là tết này. Dân mình quả là chịu chơi. Tết nghỉ dài dằng dặc. Đói, nghèo cũng phải nghỉ ngơi đủ những ngày ấy. Giữa thành phố Sơn La là nhà tù Sơn La mà ai từ xa đến đây nếu có thời gian cũng ghé qua để biết.

Đi chơi tết vào nhà tù thì đã sao? Nhà tù nằm trên một quả đồi nhỏ. Cứ tưởng nhà tù lớn lắm, hóa ra chỉ bằng một ngôi nhà lớn nằm trong trang trại nhỏ của tiểu gia bây giờ. Đổ nát hết rồi, chỉ còn lại những bờ tường vỡ, trơ trụi. Đủ để biết ngày xưa tù nhân bị giam cầm thế nào, bác Tô Hiệu từng bị ở ngục tối nơi đâu, cả nơi bác đã trút hơi thở cuối cùng…

Chán nhất là cây đào Tô Hiệu đã từng ăn sâu trong kí ức nhiều thế hệ qua sách vở, nhỏ, còi cọc, lác đác hoa. Chẳng thà chỉ cần để lại biển hiệu đánh dấu chứ ai lại trồng một cây đào còi thay cho cây đào lịch sử nếu còn sống dễ đến cả trăm? Đã là chứng nhân lịch sử thì không cần thay thế cái khác để “dựng lại hiện trường” như vậy chăng?

Mình chui xuống ngục tối giam những tù nhân cứng đầu mà thấy nao nao, rồi bỗng dưng thấy lành lạnh…

Không biết giờ còn hương linh tù nhân nào vất vưởng nơi đây không thể siêu thóat? Họ ra đi lúc đầu xanh tuổi trẻ, nhiều tham vọng, ước muốn bị dập tắt thì còn luyến tiếc lắm… Mình con nhà Phật nên hiểu rằng những người như thế khó siêu sanh. Chỉ thầm cầu mong cho những cụ, những ông, những bác như thế hãy bỏ hết ràng buộc cõi trần cũ để hóa sinh vào kiếp sống khác mà tiếp tục hoàn thiện phát nguyện bồ tát của mình.

Bếp của nhà tù là cái nhà chòi giữa nhà tù, như tháp canh. Người ta vẫn còn để rổ rá, chảo gang củi đốt, dụng cụ nấu ăn… ở quanh đó. Ngậm ngùi không biết ngày xưa ai đã từng ăn những bữa cơm tù nơi này? Những người đó còn luẩn quẩn quanh đây chờ đến bữa như gần thế kỉ trước không? Một nỗi xót xa cho những người anh hùng đã ngã xuống những mong độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc…

Nghe cô bán phở mách, gần thành phố Sơn La có dịch vụ tắm suối khoáng ở bản Mòng của người Thái. Ngồi xe đường dài mỏi lưng, trời lạnh nghe vậy thì như được an ủi. Cách thành phố chỉ chừng gần chục cây. Đầu bản trưng đủ các biển hiệu dịch vụ. Xe ôtô đỗ dọc đường vào bản không ít. Chả dại xông vào chỗ đông người. Tìm đến một nhà gần như cuối bản để vào. Chủ nhà vui vẻ đón khách. Nước khoáng bản Mòng không nóng đỏ da như ở Thanh Thủy (Phú Thọ), chỉ đủ ấm. Có thể trời quá lạnh? Mỗi người một phòng tắm có bể ngâm. Trầm mình xuống bể nước khoáng, bỗng thấy như mất hết mọi ý niệm. Chả còn vui, buồn, khó chịu… Nằm dài để làn nước vuốt ve, vỗ về. Nhắm mắt để thấy mình là cỏ cây hoa lá. Muốn như thế mãi…

Chủ nhà đang chuẩn bị một bữa ăn theo đơn đặt hàng, những món ăn đơn giản để bớt làm khó cho chủ nhà lúc đang tết. Ông chủ là bác sỹ trạm xá xã. Cậu con trai tên Bun cũng theo chân bố đang học y Thái Bình. Cô con gái nuôi là Mai học dưới Hà Nội cũng về nhà ăn tết. Ba bố con bận rộn cho bữa cơm của khách. Mai xinh xắn, làm con nuôi của gia đình bố Ân từ khi mới đẻ. Con bé bảo bố mẹ nuôi là người sinh ra con lần thứ 2. Mẹ đẻ Mai cũng từ Hà Nội lên ăn tết cùng. Dường như có chuyện éo le nào đó về sự ra đời của Mai nhưng chả tiện tìm hiểu?

Mai yêu bản Mòng của mình nên hồi mới về Hà Nôi bức bối không chịu nổi. Bố mẹ nuôi phải động viên mãi yên tâm ở lại học. Mai kể là yêu bản, yêu tiếng Thái, yêu văn hóa Thái, yêu các bài hát, yêu làn gió phóng khoáng, tinh sạch của núi rừng… Mơ đến lúc được trai bản chọc sàn rủ đi chơi tỏ tình vì khi rời bản cô còn chưa đủ tuổi yêu. Luật người Thái nghiêm lắm. Lúc tìm hiểu yêu nhau, đến cầm tay cũng không được. Hôn nhau thì phải để dành khi đã thành vợ chồng. Lấy chồng rồi con gái mới được bới tóc thành búi giữa đỉnh đầu để phân biệt với gái trinh. Cô gái Thái có chồng đều có một búi tóc rất dày giữa đầu trông thật đẹp.

Mình thắc mắc sao tóc con gái Thái dài thế, đẹp thế? Sau mới biết có người tóc dài và đẹp thế thật. Nhưng có nhiều người về nhà chồng được mẹ chồng cho hai túm tóc để độn thêm vào. Khi con trai sắp đến tuổi lấy vợ, mẹ chồng khi chải tóc sẽ nhặt các sợi tóc rụng để sắp thành hai túm. Bao giờ chặt chẽn tay thì thôi. Họ sẽ gói hai túm tóc đó vào một vuông khăn và trao cho con dâu vào ngày cưới.Chưa tìm hiểu ý nghĩa của tập tục đó, nhưng tự nghĩ: liệu có phải bà mẹ chồng muốn trao gửi hơi ấm từ máu mủ của mình cho người sẽ  thay mặt bà chăm sóc con trai và sẽ sinh người giữ gìn huyết thống cho gia đình mình không? Bởi tóc được nuôi dưỡng từ máu huyết của người đàn bà mà. Cứ suy đoán vậy thôi…

Thú nhất là lúc tắm xong được ngồi quây bên bếp lửa ngoài sân, cùng ông chủ nướng cơm lam. Lần đầu tiên mình được tận mắt, được sờ vào ống bương cơm lam mà lát nữa sẽ ăn. Ánh lửa bập bùng xua tan cái lạnh bên ngoài, soi tỏ gương mặt quây quanh chờ ống cơm lam chín tới. Những giây phút thảnh thơi ấy chả mấy khi được tận hưởng. Rồi bữa cơm được dọn ra ngay bên bếp lửa. Mâm cơm cũng đan bằng tre theo kiểu người Thái, ghế ngồi cũng đan bằng tre thành bộ rất đẹp.

Gà bản nướng không lạ. Nhưng chấm với chẳm chéo, cái món chấm nhiều hương vị núi rừng mình mê từ lâu. Cơm thơm chỉ ăn với chẳm chéo cũng thấy bùi và thêm nhiều lần đơm. Có một món rất lạ lần đầu được ăn là món năng xổm (tiếng Thái gọi như vậy không biết nhớ có đúng không?). Làm từ da trâu nhưng chế biến sao đó mà da trâu lại trắng trong, giòn, đủ mặn, ngọt, chua, khá tốn rượu khi nhậu. Ăn đủ ngon và nhất là đong đầy sự đầm ấm của rừng núi vào bữa cơm giản dị bên nhà sàn. Thương cho những bữa tiệc đầy ắp sơn hào hải vị giữa thủ đô mà vẫn vô vị. Rồi thì bà bạn chủ nhà sang chơi. Lại chúc rượu, hát theo điệu lăm tơi…Hồn nhiên trở lại như thủa mẫu giáo.

Rồi cũng đến lúc đổ đèo quay về dù mới mồng 4 tết, ngày nghỉ còn những 4 hôm nữa. Đúng ngày về trời hửng nắng. Cái nắng hiếm hoi giữa ngày đông đẹp lạ lùng. Trời xanh cao trong vắt. Chợt nhớ bầu trời xanh của vùng Địa Trung Hải mà dịp hè mình đi qua cũng như thế này. Có nắng mới thấy rõ hoa mận, hoa đào phủ trắng hồng các triền núi, mà lúc lên không trông thấy do quá mù. Và bạt ngàn những cánh đồng cải trắng như tấm vải xanh phủ hoa. Dưới nắng màu trắng của mận, của hoa cải, màu đỏ, hồng phớt của đào bong róc ra như thể trong suốt.

Qua Loóng Luông, bản của người Mông nằm bên đường quốc lộ thì không thể vụt qua mà không lưu luyến gì. Có lẽ đó là một trong những bản người Mông còn giữ được gần như nguyên vẹn kiến trúc nhà cửa và cảnh vật nhiều chục năm nay. Đào cổ thụ còn khá nhiều. Mận trắng bao quanh bản, chen chúc với nhà cửa, lối đi. Cảm giác như vào cõi giới không có thực trên trái đất. Chợt có những “dấu lặng” để mình biết dừng lại những lãng mạn… Một bà cụ gần 100 tuổi ngồi cặm cụi thêu váy Mông cho mình. Tiếng Kinh nói không sõi lắm nhưng đủ để hiểu lời cụ nói: “Tao 100 tuổi rồi. Khổ lắm…”.

Trước đó khi dừng bên đường chụp một rừng đào phai, mình rẽ vào nhà một anh người Mông ở sâu bên trong. Làm quen với hai chị em cô bé Sênh-Sông xinh xắn hay thẹn. Thấy khách là chạy mặc dù cố gọi to xin đứng lại để mừng tuổi. Đành xộc thẳng vào nhà dù chưa được mời. Một thiếu phụ còn trẻ đang ngồi cho con bú bên bếp lửa lom dom. Biết thiếu phụ 28 tuổi, ba con, đứa cuối cùng là trai. “Thôi, mình không đẻ nữa đâu. Khổ lắm” – thiếu phụ cười khi bị hỏi có phải cố đẻ con trai không?

Nhìn quanh nhà cửa trống hoác, chả có đồ đạc gì ngoài mấy bao ngô chất gian ngoài. Anh chồng say rượu vẫn đang nằm ngủ. Nhìn bốn mẹ con quây quanh bếp lửa sưởi ấm, chợt nghĩ, đây là “nốt lặng” của tết mà mình muốn kiếm tìm.

Lúc quay ra định về thì anh chồng mới lò dò đi ra, mắt đỏ kè, mặt mũi tươi tỉnh. Hỏi chuyện bán đào… “Năm nay bán được hơn 10 triệu”. “Thế cũng khá nhỉ”. Anh chàng chỉ cười. Hỏi nữa: “Thế năm nào cũng được như vậy à?”. Lại cười: “Không. Trồng ba năm mới bán được vì chờ đào lớn”. Ra vậy. Lao động ba năm để có hơn 10 triệu cho sinh hoạt của gia đình 5 người, có hai đứa trẻ đang độ tuổi đi học, một đứa còn đang ẵm ngửa… Còn Sênh, Sông lại líu ríu ngồi bên đống củi nhen giữa trời đất để xua bớt cái lạnh từ núi thổi về, nhìn khách cười bẽn lẽn, chả nói năng gì…

Chợt như nghe tiếng hát, múa lăm vông của cổ nhân vương quốc Bồn Man xa xưa vọng về cách đây hơn 500 năm. Vương quốc ấy ngày xưa trải dài từ Tương Dương, Kỳ Sơn (Nghệ An); Quan Hoa, Quan Sơn, Mường Lát (Thanh Hóa); Hủa Phan (Lào) và phần lớn Sơn La bây giờ…

Hồi đó ở Bồn Man hoa mận có phủ trắng núi rừng, bản làng như bây giờ? Hoa đào có đãi người mỗi khi xuân về? Và tiếng hát, điệu múa xòe có lôi cuốn người mộng du như bây giờ không nhỉ?

Cái tết nghèo lay lắt của những tỷ phú "của để dành

Nằm ngay trên mỏ đá, mỏ than mà dân làng vẫn nghèo, vẫn đói. Tết vẫn đìu hiu, lạnh lẽo. Vẫn là những đứa trẻ mặt mày lấm lem, lạnh ngắt vì chẳng đủ áo quần để mặc giữa mùa đông rét mướt. Ngẫm ra âu "mọi sự cũng tại nhân".

Người ta bảo cứ đi theo vết bánh xe ôtô là đến được xóm Mỏ Ba (xã Tân Long, Đồng Hỷ, Thái Nguyên), mà đến được tận trung tâm xóm. Đứng trên cao phóng tầm mắt xuống phía dưới, xa xa kia là xóm rồi. Xóm Mỏ Ba nằm lọt thỏm, lặng thinh bên những dãy núi nham nhở, loang lổ vết đào bới của đoàn người khai thác quặng. Chốc lại có những chiếc xe tải lổm ngổm, ì ạch men theo đường núi chở quặng ra trung tâm huyện. Con đường vào với xóm nhỏ mỗi lúc một khó đi hơn. Những cơn mưa sì sụt mùa đông khiến mặt đường trở nên lầy lội, đất đá lổn nhổn, trơn trượt.

Kỷ lục buồn

Mới buổi sáng đây thôi khi chúng tôi còn ở thành phố, không khí Tết ngập tràn, ai nấy đều tất bật chuẩn bị cho cái Tết ấm lành. Ấy vậy mà, cái thời tiết se se lạnh, mưa phùn lất phất của ngày Tết lại làm cho cái xóm Mỏ Ba này trở nên buồn hơn, lạnh hơn và đói hơn. Đã mấy chục năm nay, xóm Mỏ Ba "nổi tiếng" danh hiệu "xóm siêu đẻ" của tỉnh. Không "nổi tiếng" sao được khi cả xóm chỉ có 132 hộ dân nhưng đã có xấp xỉ 1.000 nhân khẩu.

Phó thôn Triệu Phúc Bình giữ vẻ mặt đầy suy tư nhẩm tính: Ở bản tôi nhiều "của để dành” nhưng vẫn nghèo lắm! Nhà ít thì  cũng 7 người con, đông hơn thì 8-9 đứa (như cặp vợ chồng Hồng Văn Nó (1967) - Vương Thị Dàng (1968) đã có 9 con, Hoàng Đức Quân (1961) - La Thị Hoa (1966) cũng 9 con, Vương Văn Khìn (1965) - Trương Thị Lý (1965): 9 con). Nhiều hơn nữa thì từ 11-13 như ông Đào Văn Tư  (13 con), ông Hồng Văn Páo (11 con), Lý Văn Día (11 con). Nhưng đông nhất vẫn là nhà ông Ngô Văn Sùng (20 người con)".

Để giải thích cho việc sinh con tự nhiên như cây rừng ông Vương Văn (có 7 người con) hồn nhiên nói: "Ở đây chúng tôi toàn làm việc nặng nên đặt vòng ảnh hưởng sức khỏe lắm. Ai có thai là phải sinh chứ không được phá bỏ, làm thế sao được, có tội với Chúa. Không ai dám cả!"

Men theo những thửa ruộng bậc thang khô nứt nẻ, từng đợt gió bấc thổi ào khiến cho cây cỏ trở nên héo hắt. Chốc chốc lại thấy một đám trẻ con chạc tuổi nhau chơi đùa. Đứa có quần mà không có áo, đứa trần trùng trục bò bê xuống ruộng, mặt mũi nhem nhuốc. Thấy người lạ, chúng len lén nhìn rồi chợt như hoảng sợ hay vì vui đùa mà đuổi nhau ra mãi xa mang theo cả tiếng cười khanh khách. Trưởng thôn Vương Văn Lầu cười như mếu giới thiệu: "Đây là đàn con nhà ông Sùng, kia là đàn con nhà anh Páo…".

Có lẽ cả cái huyện này ai cũng biết ông Ngô Văn Sùng (dân tộc Mông) bởi cái tên người ta phong cho ông: "Quán quân đẻ". Mới chỉ 56 tuổi nhưng ông đã có tới 20 mặt con và đã lên chức cụ. 5 đứa con đầu của ông đã dựng vợ, gả chồng. Con của những người con ấy cũng lại có gia đình riêng. Phải đến lần thứ 3 chúng tôi mới có thể gặp ông, có lẽ phần vì lão ngại gặp báo chí với lý do: "Hay ho gì đâu mà gặp".

Lên chức cụ nhưng nhìn lão vẫn còn rất tráng kiện, cơ bắp lắm, rắn chắc như cây nghiến trên rừng. Gần 60 tuổi mà lão vẫn cưỡi xe máy băng băng qua những con dốc dựng ngược. Nhà Sùng nằm trên con đường chạy quanh co quanh xóm, phía sau lưng là núi trọc, trước mặt là những thửa ruộng đã khô cằn, héo úa. Khoảng gần chục đứa trẻ sàn sàn tuổi nhau chạy quanh nhà. Lão nhìn chúng tôi, cười vui vẻ: "Toàn con, cháu, chắt của tôi đấy". Dứt lời lão chỉ về phía thửa ruộng trước nhà nói: "Kia là cậu út, năm nay gần 5 tuổi thôi. Có khi đây là đứa cuối cùng".

Con cháu nhiều đến nỗi, lão cũng chẳng nhớ nổi tên tuổi mà chỉ nhớ mặt thôi. Xòe bàn tay, lão đếm, rồi nhẩm tính đến mấy lần. Vậy mà vẫn chịu. Lão không nhớ hết, chỉ áng chừng con, cháu, chắt cả thảy lên đến gần 60 chục đứa. Với hai người vợ sống thuận hòa cùng lão bao nhiêu mùa hoa đào nở, hàng năm các bà định kỳ sinh cho lão một đứa, đứa lớn nhất sinh năm 1978. Giọng lão trầm ấm mà rắn chắc như hòn đá ngoài suối: "Mà sinh nở là trời cho. Sao lại bảo lạc hậu? Có nhiều con sau này chúng nó đỡ đần chứ!". Ấy đấy, làng xã cũng tuyên truyền, nhắc lão tới biện pháp phòng tránh thai đấy. Nhưng như bao lần lão chỉ quay đi rồi cười thôi.

Bước chân của Trưởng thôn Lầu lại đưa chúng tôi tới một gia đình có một "kỷ lục" khác, không kém gì kỷ lục của ông Sùng. Đó là gia đình anh Vương Văn Páo - Lý Thị Sào, đôi vợ chồng trẻ nhưng nhiều con nhất nhì bản. Chỉ mới 33 tuổi nhưng Vương Văn Páo đã có tới 13 đứa con (2 đứa đã mất do bệnh). Căn nhà trống hoác, cậu con cả Vương Văn Dí đang lim dim ngồi bên bếp lửa đặt giữa nhà. Mới 16 tuổi nhưng em đã tỏ ra chững chạc và khá khỏe mạnh.  Dù còn nhỏ nhưng Dí đã là đứa con của núi rừng, đã biết vào rừng cưa gỗ, biết đi săn cùng bố. Vừa đặt thêm củi vào bếp Dí vừa nói: "Bố em đi săn

Những cơn mưa phùn kéo dài khiến con đường dẫn vào gia đình chị La Thị Hoa trở nên lầy lội. Khắp nhà cơ man nào quần áo cũ, mới, lớn bé bốc mùi khó chịu. Trưởng thôn Lầu cười nói: "Nhà chị đông con, đông cháu nên quần áo nhiều! Mưa gió này sao mà giặt được!". Đi qua căn nhà gỗ chính giữa, nền đất ẩm mốc, lỗ chỗ những hang chuột, vết đào bới của lũ trẻ con tới khu bếp nhỏ. Chốc lại có tiếng trẻ con khóc ré lên rồi lại cười sằng sặc.

Nghe hiệu lệnh lũ trẻ chân tay lấm lem chạy ào vào bếp, đứa dùng tay, đứa dùng đũa chỉ nhoáng cái nồi mỳ trắng hết bay. Hoàng Kin Đông (sinh năm 1986 anh cả trong gia đình) vui vẻ: "Em là anh cả của chúng nó. Nhà chỉ có mỳ trắng ăn thôi, làm gì có thịt… Chúng nó ăn nhanh lắm. Nồi còn bốc khói nhưng đã hết rồi này".

Phía sau nhà chị Hoa cùng cô con gái hí húi thái rau lợn, chị già hơn cái tuổi 50 của mình rất nhiều. Chị nói: "Không già sao được hả chú? Chục lần sinh con, rồi nuôi chúng nó. Bây giờ tôi cũng thấm thía rồi, sinh nhiều vất vả quá! Không thể nào lo được hết cho đàn con". Chị bảo, "sinh đến thằng thứ 6, đã kế hoạch rồi mà "lỡ" bị bệnh nên phải tháo vòng". Rồi đứa thứ 7, 8 và thằng út Hoàng Văn Ly (sinh năm 2006, kém anh cả tròn 20 tuổi) đã chào đời.

Tết đến lại càng thêm hiu hắt

Câu chuyện giữa tôi và chị La Thị Hoa bị phá vỡ bởi tiếng cười khoái chí của đứa con thứ 9 của chị. Chị Hoa cười nói: "Nó vừa bắt được một con sâu sắn đấy, kiểu gì nướng xong là sẽ tranh nhau ăn cho coi".

Cái Tết đã cận kề nhưng cả xóm vẫn tiêu điều, xác xơ, bản làng vắng bóng người lớn. Bọn trẻ con bảo: "Bố mẹ vào rừng mót gỗ, làm nương, săn bắn để lấy tiền mua thịt ăn Tết rồi!" Với nhà chị Hoa, anh Páo rồi cả ông Sùng, Tết là không có gì, Tết là vất vả, Tết là đói. Con đường trong bản lầy lội, lép nhép bùn đất thỉnh thoảng lại có tiếng xe máy gầm rú chở những miếng gỗ còn sót lại trong rừng ra thị trấn bán. Lúc lại có những tốp người khom lưng gùi gỗ từ rừng sâu ra nơi tập kết.

Những ngày này Vương Văn Dí, vẫn thường theo người ta vào tít tận rừng sâu để cưa, xẻ gỗ rồi gùi thuê cho họ ra ngoài bản. Mỗi lần em được trả 250.000đ. Bố của Dí, Vương Văn Páo thì đi săn thú bán cho khách ở huyện vào. Dí cười hồn nhiên khoe: "Hôm trước bố em săn được con cày vòi, bán được 1,8 triệu đồng trên thị trấn đấy. Tết này mà kiếm được con nữa thì chắc chắn anh em nhà em lại có thịt lợn ăn".

Vậy đấy, cuộc sống của họ luôn phải chờ đợi vào sự may mắn, dựa vào thiên nhiên. Không hiểu một ngày rừng hết, thú hết cuộc sống của những người dân ở bản "siêu đẻ" này sẽ ra sao? Anh Lầu trưởng thôn buồn buồn nói: "Những người đi kiếm gỗ trong rừng kia đều là những người rất nghèo. Không có gạo để ăn, họ tranh thủ vào rừng kiếm những miếng gỗ còn sót lại bán. Họ phải đi cả ngày đường rừng mới lấy được đó. Rừng người ta khai thác cạn rồi. Giờ thì mót cho bằng sạch, bằng hết. Người dân nơi đây không có việc gì để làm. Không đi cưa gỗ, vác gỗ trong rừng thì làm sao có con lợn, nồi cơm sắm cho ngày Tết. Cả bản này có 130 hộ thì tới 113 hộ vẫn thuộc diện nghèo đói. Bao nhiêu năm nay vẫn thế thôi".

Nghèo là thế, đói là thế ấy vậy mà lũ trẻ nơi đây vẫn lớn lên như cây rừng, cứ hoang dại, hết đời cha vào rừng săn bắn, kiếm củi rồi đến đời con. Ngẫm tới tương lai của con cháu lão Sùng chỉ biết ngao ngán: "Cũng chịu thôi". Lão Sùng kể: "Ngày Tết chúng nó tập trung hết ở nhà tôi ngồi chật kín. Con lợn 60kg cũng không đủ mời chúng nó một bữa. Tôi cũng cật lực, dốc sức làm mà mua lấy con lợn thịt vào ngày Tết cho chúng nó ăn. Nghèo thì đã nghèo rồi".

Càng đi, càng nghe tôi lại càng thêm buồn. Trưởng thôn trẻ tuổi bảo rằng lũ trẻ ở đây chán học, sợ học lắm. Trường tiểu học, mầm non đã xây mới ngay trên xóm này từ 2 năm nay mà vẫn bao nhiêu em mù chữ. Hết chị Hoa, ông Sùng và bao ông bô,ë bà mẹ tôi tới gặp đều nói muốn cho lũ trẻ tới trường. Nhưng như Chị Hoa: "Chúng không thích mình cũng chẳng ép được".

Thế nên nằm ngay trên mỏ đá, mỏ than mà dân làng vẫn nghèo, vẫn đói. Muốn vào làm công nhân cho công trường phải tốt nghiệp THPT, nhưng có mấy người. Dẫu vậy, đâu đó vẫn còn những điểm sáng như nhà anh Đặng Tăng Chi và Triệu Nho Tình (dân tộc Dao) có con đã hoặc đang học đại học. Những đổi thay đã bắt đầu dù mới chỉ âm thầm, lặng lẽ

Những cái tết nghèo khó quên

Bây giờ, cho dù vẫn còn nghèo song so với xưa thì đã khá lắm rồi. Cứ mỗi khi cận tết lòng lại nhói lên nhớ về những cái tết xưa… Hồi còn học cấp II, nhà thầy giáo dạy văn làm pháo để có thêm thu nhập. Cả gia đình thầy cắm cúi với pháo, nghề này lại độc hại đến nỗi người con cả của thầy cứ ốm o gầy mòn, lại vướng bệnh về phổi. Gần tết qua đò đến nhà thầy chơi, gần khuya mới về, anh Sơn- người con cả ấy lại dúi vào tay mình một phong pháo to: “cho em đó!”. Mắt mình cay cay, vì biết anh làm pháo vất vả lắm. Về nhà đã khuya, vắng tanh, nhưng xa xa vẳng lại tiếng pháo đì đùng. Mình ngồi châm từng viên pháo vứt ra sân, lòng vơi đi chút buồn phiền…

Có tết nọ thằng bạn rủ về thăm ngoại nó ở quê. Mà xa lắm, hai thằng lội bộ mười mấy cây số! Đường vắng, chẳng nhiều xe cộ như bây giờ. Nhẩn nha về quê, nói chuyện tầm phào, rồi cũng tới. Nhà ngoại nó trồng nhiều tràm, và cả cây ăn trái trong khu vườn rộng. Trước nhà có con sông nhỏ. Ngủ đêm, khuya thức dậy về, ngoại nó đã thức trước nước bánh phồng ngoài sân. Bà cho mỗi đứa một cái bánh phồng to và cho tiền về tàu. Được đi tàu đò, rất thích. Ở dưới này, tết người ta đi viếng chùa đông ơi là đông. Thắp hương, xin xăm, hái lộc. Người cứ ken dày. Chen vào, thắp được nén hương cho Phật, thấy lòng nhẹ nhàng làm sao. Chẳng có gì nhiều để kể, chỉ biết vậy thôi, bạn ạ.

Tết sần sật đến rồi.Mười bảy tháng chạp.Giờ này ngoài quê đã nghe lao xao đi chạp mả.Hết chạp nhánh mình,phái mình rồi xuống Đồng Rạ hội tổ.Ôi,tết quê nhà…

Những năm ấy,tết nghèo mà vui.Cỡ đầu tháng chạp,má mình đã chạy đi đặt nếp,trứng, đường đen, đường cát. Củi đóm đã chất lên chồ.Chỉ còn đợi thịt heo tem phiếu và…tiền. Ba má mình là giáo viên,nên những ngày cuối năm khá chật vật.Dạo những năm 77 – 80, ba mình còn tranh thủ chạy xe thồ kiếm thêm để nuôi 5 cái tàu há mồm tụi mình.Mình nhớ tết Kỷ Mùi 1979,đợi tiền lương mãi,đến chiều 29 ba xuống trường (hồi ấy ba còn dạy ở Tam Thanh) mang về được đúng 2 cọc tiền đồng,mỗi cọc đúng 10 đồng.Má mình thở dài.Lương chưa tới ba cọc (chỉ có hai) thì tâm trí đâu mà dạy tốt học tốt.

Nhưng nghèo gì thì gì,chỉ có những ngày đó,mình mới cảm nhận hết cái không khí Tết cổ truyền.Tiếng heo eng éc,tiếng cười nói râm ran,tiếng pháo tất niên nổ đì đùng.Mùi nhang trầm ngan ngát,say say.Ấm cúng chi lạ.

Mình đi giật lá chuối phơi héo,rồi giã bột,quết bột làm bánh ít lá gai,đánh trứng đổ bánh thuẫn.Đến ngày gói bánh,tham gia phụ cột lạt rồi thức đêm canh nồi bánh tét.Mùi nem má gói thơm thơm.Bập bùng quanh xóm những bếp lửa nhà ai cũng đang tíu tít.

Rồi giao thừa,đem phong pháo ra đốt,đứng chực chờ những trái pháo xịt để đem đốt lại đùng đoàng đây đó đầu năm.

Sáng mồng một xúng xính trong bộ đồ mới theo ba má về thắp nhang ông bà.Dọc dường quê bướm vàng chấp chới bên những chú bé,cô bé cũng xúng xính áo mới khoe nhau tiền lì xì.Một vài cụ khăn đóng áo dài,dép xách trên tay đi lảo đảo.Vui quá,say quá,Tết mà.

Ra trường đi làm,cái Tết đầu tiên ở miền sơn cước xa lạ.Thằng bác sĩ độc thân trong túi chỉ còn vài chục ngàn,cũng chẳng biết sắm sửa gì,bèn mua một quả dưa hấu,mấy thẻ nhang rồi đêm giao thừa cũng bày biện lên bàn,thắp nhang ngồi uống rượu khan một mình.Chưa bao giờ bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lại thấm thía,da diết với mình đến thế.Những ngày tết vác mồm đi ăn chực,say tít mù đến mồng 7 về nhà thấy quả dưa hấu lũn sụp xuống thành đống nước.

Tết miền thơ ấu

ứ gần đến tết mình lại ngồi nhớ con Hà, hơn bốn chục nắm rồi không sao quên được nó. Con Hà cùng tuổi với mình, trắng trẻo xinh xắn, cười có lúm đồng tiền chấm phẩy. Nó ở sát ngay nhà mình, chẳng biết thân nhau từ khi nào nữa.

Tết năm 1960 mình năm tuổi, con Hà cũng năm tuổi. Nó sinh tháng giêng, mình sinh tháng ba, nó nói tau hơn mi hai tháng, mi phải kêu tau bằng chị chớ, mình nói ẻ vô kêu mi bằng chị, nó nhăn răng cười, lúm đồng tiền chấm phẩy hồng tươi.

Ngày 22 vẫn chưa thấy có gì, trong nhà ngoài ngõ vẫn vắng hoe, sang đến ngày 23 bỗng rộn ràng hẳn lên, nhà nào cũng dựng cây nêu, đã nghe mùi hương khói, mùi xôi, mùi thịt cá thơm lừng. Người lớn tất bật hết chạy chợ lại nháo về nhà mua mua bán bán, có khi vừa chợ về đã vội vã nháo trở ra.

Mình với con Hà cũng đi chợ tết, đứng chôn chân gian hàng đồ chơi. Hàng to he ngày thường đã thích, ngay tết thì mê đi, bao nhiêu anh hùng hảo hán xanh xanh đỏ đỏ, đứng đứng ngồi ngồi trên tấm chiếu hoa. Con Hà nói ông Quan Công đó tề, mình nói ông Trương Phi đó tề, mình nói a a Tôn Ngộ Không, con Hà nói a a Trư Bát Giới… Hai đứa mải mê nhìn, thèm quá thích quá, nước mũi nước miếng chảy xuống tận cổ.

Ngày 23 tết hai đưa đứng ngửa cổ nhìn ba mình dựng cây nêu trước cổng. Cu kêu ba tiếng cu kêu/Trông mau tới Tết dựng NÊU ăn chè. Cây tre tươi cao vói treo lủng lẳng cái giỏ nhỏ đựng cau trầu, buộc mảnh vải vàng tươi bay phấp phới và gắn mảnh tôn sắt màu đỏ hình mũi tên trỏ về hướng đông, chỉ có vậy thôi mà ngây ngất.

Con Hà nói nhà tau cũng trồng cây nêu rồi, mình nói nêu nhà tau cao hơn, con Hà cong môi, nói nêu nhà tau cao hơn, mình nói nêu nhà tau, nó nói nêu nhà tau… rồi nhăn nhăn răng cười, túm tay mình nhảy chân sáo, vừa nhảy vừa hát Cành đa lá dứa treo kiêu (cao)/Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà./Quỷ vào thì Quỷ lại ra./Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm.

Lâu lâu hai đứa lại đứng ngửa cổ nhìn mãi mảnh vải vàng bay phấp phới. Mình nói áo cà sa của Phật đó, con Hà nói áo Phật mần chi, mình nói ba tau nói Phật mặc áo cà sa bay lượn trên không, xua đuổi ma quỉ. Con Hà chỉ cái mũi tên sắt, nói cái nớ mần chi, mình nói ngón tay Phật đó, con Hà tròn xoe mắt, nói rứa a, tay Phật mà rứa a.

Mình nói ừ, Phật chỉ tay hướng Đông, hét bớ ma quỉ cút đi cút đi, ma quỉ con mô liều mạng xông vô, Phật chỉa ngón tay nhọn hoắt đâm phát lòi mắt, đâm phát đâm trúng tim, ma quỉ chết luôn, a ha ha. Con Hà cười theo, đập tay mình kêu dzê-ê!

Mình nói ma quỉ chết hết rồi, ông bà tổ tiên mới từ trời sà xuống cây nêu, lấy cau trầu trong giỏ ăn, rồi bay xuống bàn thờ ăn tết với cả nhà. Con Hà nói ai nói ai nói, thiệt không thiệt không. Mình nói ba tau nói. Con Hà lại nhảy lên, nói a ha rứa là ông bà không chết ông bà chỉ đi xa thôi, rồi nó lại đập tay mình kêu dzê-ê!

Hai đứa cùng tụi con nít kéo nhau chạy từ nhà này sang nhà khác, tranh nhau chỉ trỏ tranh nhau khoe khoang, đứa này nói nêu nhà tao cao, đứa kia nói nêu nhà tao cũng cao, nhà tao có xôi, nhà tao cũng có xôi, nhà tao có xôi gấc có thịt gà, nhà tao cũng có thịt gà có cả cái đầu heo, nhà tao cũng có đầu heo, phét phét nhà mi không có, có có không tin thì thôi… rồi nhảy cả tẩng hét vang ôi ôi tết đến rồi sướng quá sướng quá.

Nghe tiếng lợn kêu nhà nào cả lũ ba chân bốn cẳng chạy đến nhà đó, chầu chực chờ người lớn ném cho cái bong bóng lợn, thổi phồng lên làm quả bóng, cột dây kéo chạy ù ù dọc triền sông.

Mình cầm bong bóng chạy trước, con Hà chạy sau, nói cho tau chơi với cho tau chơi với. Đuổi không kịp, nó đứng dậm chân mếu máo, nói ẻ vô chơi với mi nữa. Mình đưa bong bóng cho nó, nó cầm bóng chân chạy miêng kêu a a a …vang cả triền sông.

Chiều tối mạ mình sai bê cái chậu nhỏ đựng ba con cá chép ra thả sông, con Hà chạy theo, nó con gái không được mạ nó cho đi thả cá. Hai đứa vừa đi vừa ngắm ba con cá, con Hà nói ông Thổ công cưỡi con mô, mình nói con ni nì, nó nói ông Thổ công to nhất à, minh nói ừ to nhất. Con Hà lại hỏi ông Thổ địa cưỡi con mô, bà Thổ kỳ cưỡi con mô, mình chỉ bừa con ni con ni, thế mà nó cũng tin.

Bờ sông đầy người thả cá chép. Hai đứa bắt từng con một thả sông, miệng hát Nay mừng tứ hải đồng xuân/ Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình, mắt mơ màng ngước lên trời cao như thấy ba ông bà Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ cưỡi cá chép bay đến Thiên đình. Mình chép miệng, nói mình được cưỡi cá chép bay lên trời cái hè, con Hà gật gật, nói ừ, hai đứa ngồi một con liệng vòng vòng vèo qua nhà chào ba mạ rồi bay vút lên trời he he.

Chiều ba mươi đã háo hức áo mới, mặc vào chạy rông khắp xóm khoe, cứ đứng ngoài ngõ nhà người ta nhìn vào, muốn khoe lắm nhưng ngượng, có người khen chà, cu Lập có cái áo đẹp hè, sướng rêm, lại chạy sang nhà khác.

Tất nhiên mình chạy sang nhà con Hà đầu tiên, con Hà sờ sờ vuốt cái áo, nói áo ca rô đẹp hè đẹp hè. Mình nói anh Mỹ tau ở Liên Xô gửi về đó, nó nói Liên Xô ở mô, mình nói ở ngoài Hà Nội tề, xa lắm.

Mặc được nửa tiếng lại cởi ra cất, nói để mai mồng một mặc cho mới, nhưng được nửa tiếng lại lôi ra mặc, ngắm ngắm nghía nghía, lại cất đi, lại lôi ra mặc, loay hoay với cái áo suốt chiều ba mươi.

Năm nào cũng thế, có áo thôi quần có quần thôi áo, như thế cũng đã sướng lắm rồi, ôm cái áo ngửi ngửi mùi vải mới sướng ngây ngất. Mạ nói tắm tắm rồi mạ cho mặc áo mới, thế là nhảy cẩng lên, lạnh mấy cũng tắm. Nồi nước tắm tất niên đầy lá hương nhu lá hồi lá sả lá bưởi lá chanh… thơm điếc mũi.

Mình ngồi trong chậu tắm, con Hà chạy vòng quay lêu lêu, nói ê ê lớn rồi mà ở lỗ ( cởi truồng) xấu quá xấu quá. Đến lượt nó tắm, mình chạy vòng quanh lêu lêu, nói ê ê điệu điệu, giả đò tắm cả quần, con nít tắm cả quần điệu điệu.

Đêm trừ tịch hầu như không ngủ, mọi đêm chín mười giờ đã ngủ lăn lóc thế mà đêm ấy tỉnh như sáo, mắt mũi hoảnh, hết chạy ra sân xem mâm cúng ngoài trời lại chạy vào loang quanh bên nồi bánh chưng mạ nấu, nghe ba kể ông nội làm gì, ông ngoại làm gì. Thích nhất là chuyện cụ thần hoàng làng làm quan to nhà Lê, cụ kỵ làm lưỡng quốc lương y chữa bệnh cho cả vua ta lẫn vua tàu, lâng lâng tự hào, túm tay ba giật giật, nói cụ kỵ giỏi nhất chưa ba, ba nói giỏi nhất, thích quá nhảy cà tẩng hét dzê-ê!

Vừa lúc nghe tiếng con Hà gọi, nó không dám vào nhà chỉ đứng ngoài ngõ gọi khẽ, sợ kiêng, con gái phải quá ngọ mồng một tết mới được sang nhà người ta. Mình chạy ra ngõ, con Hà cũng diện áo mới, áo lụa tơ tằm màu mỡ gà láng coóng, nó cười hì hì, nói nhà mi nấu chín bánh chưng chưa, mình nói chưa, nó xòe bàn tay ra, nói nhà tau nấu chín rồi, năm cặp! Mình nói nhà tau nấu mười cặp tề, nó thè lè lưỡi nghẹo cổ cười, nói phét phét, nồi nhỏ rứa mà mười cặp. Rồi nó bốc cho mình một nắm cốm rang thơm phức, nói tau về đây không mạ tau giết.

Sáng mồng một háo hức chờ khách đến nhà cho tiền mừng tuổi, hồi đó tiền mừng tuổi chỉ năm xu một hào, khách sộp mới cho đến hai hào. Khách đến thì cứ giả đò chạy vô chạy ra, đến khi khách cho tiền thì giả đò ưỡn ẹo không lấy, mồm thì cháu không cháu không, mắt thì liếc nhìn mạ đợi lệnh, mạ cười nói thôi xin bác đi con, mới cầm lấy tiền chạy ù đi. Lúc lúc lại sờ vào túi lẩm nhẩm đếm tiền, thỉnh thoảng lại xổ ra cả ngồi đếm đi đếm lại, sung sướng vô cùng.

Con Hà nói mi được mấy rồi, mình nói ba đồng chín, nó nói tau được bốn đồng hai ke ke ke. Mình tức lộn ruột, nói chị Nghĩa tau còn nợ tau hai đồng, nó cười khì, nói có mốc xơ, đồ ba đồng chín xí hổ quá hi hi. Mình tức suýt khóc, nó còn lêu lêu, mình đá cho một phát bẹp đít, nó mếu máo khóc, chị Nghĩa chạy ra kêu ba ơi mạ ơi, mồng một tết thằng Lập đánh nhau đây nì. Hai đứa ù té chạy.

Làng nào cũng thế, hễ tết đến là sân đình bày hết các trò chơi, chỗ này cờ thẻ, chỗ kia chọi gà, chỗ nọ đánh đu. Sáng mồng một đi chùa hái lộc xong mọi người tập trung về đấy cả.

Vui nhất là hội bài chòi, người xúm đen xúm đỏ, trống đánh rền vang, người la kẻ hét. Xưa nghe nói hội bài chòi có dựng chín cái chòi, người chơi ở trong chín cái chòi ấy. Bây giờ thì không, chỉ thấy anh cu Tịnh đứng tên bục cao, cầm cái lọ thẻ hát hát nhảy nhảy. Người chơi ngồi xếp vòng tròn đen đặc, mỗi người có bá thẻ, hơm hớp chờ nghe xướng.

Mình với con Hà chạy tới, chầu chực mãi mới mua được ba thẻ, mình nói để tau cầm thẻ cho, con Hà vui vẻ đồng ý liền, nó sợ con gái hay xui. Anh Cu Tịnh lắc lắc ống thẻ, rút cái thẻ ra, ngó liếc cái số thẻ , rồi hát Chồng nằm chính giữa / Hai vợ hai bên / Lấy chiếu đắp lên / Gọi là ba bụng /ba bụng bụng ba / là con số ba! Con Hà nhảy lên, hét huơ đây đây. Mình với nó sướng rêm, đập tay nhau hét dzê-ê! Còn hai thẻ nữa, nếu trùng số cả ba thẻ là ăn giải. Con Hà chắp tay lạy lạy, miệng lầm bầm, còn số 1 số 9 nữa..lạy trời lạy trời!

Anh Cu Tịnh lắc lắc ống thẻ, rút cái thẻ ra, ngó liếc cái số thẻ, rồi hát Đi đâu mang sách đi hoài / Cử nhân không đậu, tú tài cũng không…con nhất trò nó vừa ra xong! Con Hà nhảy ra khỏi vòng, hét huơ làng trúng rồi! Mình với nó cầm tay nhau nhảy cà tẩng! Còn một số nữa, hồi hộp đến nghẹt thở.

Anh Cu Tịnh lắc lắc ống thẻ, rút cái thẻ, ngó liếc cái số thẻ, rồi hát, lần này đổi giọng, không biết điệu gì đó nghe thật du dương Bà con lẳng lặng mà nghe/ róc rách ống tre con gì nó ra đây/ Anh trai Ba Đồn đi bán chiếu tre/ gặp em gái bến sông Gianh/ thương ai lòng thấy bồn chồn/ đêm nằm thao thức chiều bóng anh gọi đầu/con chín nó ra rồi/ ơi bà con ơi… Mình và con Hà như muốn bắn tung lên trời, ôm nhau sung sướng đến tức thở. Không mấy khi hô ba con liên tiếp trúng cả ba. Tiếng trống thúc một hồi, mọi người ồ lên, nói may hè, may hè…

Phần thưởng chẳng có gì, chỉ có gói bánh và cái khăn mùi xoa, nhưng hai đứa sướng mê man suốt ba ngày tết. Ăn chung gói bánh, con Hà nói cái khăn để tau cất, mi cất mất liền, mình gật gật, nói ừ ừ, tụi mình là hai vợ chồng mà, nó nói đúng rồi hai vợ chồng, mình nói hai vợ chồng hay hè, nó nói ừ ừ hai vợ chồng hay hè hay hè.

Tết năm 1967 con Hà chết bom. Nhà nó sơ tán lên làng Đông cùng với nhà mình, phiên chợ 20 tết trúng bom chết mấy trăm người, tất cả các cây nêu làng Đông năm đó đều treo tang trắng. ( chuyện này mình đã kể trong Kí ức 5 hào)

Chị gái nó tên Hân đưa lại cái khăn cho mình, nói em giữ lấy, đừng có làm mất tội nghiệp con Hà. Liền mấy tết Thanh minh, năm nào mình cũng ra mộ nó, đặt lên khắn mùi xoa hai quả chuối, hai quả cam nhỏ, hai quả trứng gà, hai cái kẹo, ngồi với nó cả giờ rồi lủi thủi ra về.

Đến khi vào đại học mình còn giữ được cái khăn mùi xoa, tết năm 1976 chị Hân xuống nhà mình chơi, nói em còn giữ cái khăn mùi xoa không, mình nói có. Chị ứa nước mắt khóc nghẹn, nói con Hà nhiều lần hiện về hỏi chị cái khăn, hình như nó nhớ em…cho chị xin chị hóa cho nó.

Mình ngồi yên rưng rưng, không biết nói sao.

Số khổ

Suốt hai tuần lễ qua, chị lấy vacation về phố Bolsa, Calif. thăm người nhà, ăn uống thịt thà, tôm cá mỡ màng, nên bỗng thèm món ăn nhà quê dân dã này. Chị lái xe ngay ra chợ mua vài pound cà pháo, ăn đổi món và để giảm cân..Chị vẫn dùng cái cân ở nhà để kiểm tra trọng lượng của mình, sau chuyến đi chơi Calif, chị đã tăng 2 pounds.

Về nhà chị thực hiện như bạn chỉ, xẻ cà ra, ngâm nước muối cho ra bớt chất độc hại thâm đen. Trong khi chờ đợi cà còn ngâm trong chậu, chị Bông pha sẵn một bát nước mắm tỏi ớt đậm đà.

Món này chỉ ăn với cơm trắng cũng đủ ngon nhớ đời.

Khi chị vớt cà ra rửa lại để ngâm nước mắm thì anh Bông đi làm về đến. Nhìn thấy chậu cà pháo anh Bông kêu lên:

- Em rước cái món "Một qủa cà ba thang thuốc" này về làm gì ?

- Chẳng lẽ mua cà pháo về để nhìn chơi? Ăn đấy, ai không thích thì thôi, đừng động chạm vào ?đời tử của nhau.

- Anh mới hỏi mà em đã đanh đá rồi. Vậy mà em ước ao ở Mỹ có cuộc thi ?vợ hiền? hay ?Người phụ nữ dịu dàng? để em tham dự thi thố bản năng.

- Em có dữ như cọp cũng chưa bao giờ ăn thịt anh.

Anh Bông vội dịu giọng, lấy lòng vợ, cuộc đời anh đã từng trải qua thời đất nước chinh chiến nên bây giờ anh rất sợ ?chiến tranh? dù với mụ đàn bà, vợ anh:

- Hình như em còn thích món gì nữa nhỉ? tự dưng anh quên mất..

Thấy chồng hỏi sở thích, chị Bông vui vẻ nhanh nhẩu:

- Khô cá lù đù.

Và tiếp luôn:

- Mà phải là khô cá lù đù từ Houston nhé, do ngư dân Việt Nam đánh bắt và chế biến thành cá khô ngay trên tàu nên chất lượng còn tươi ngon. Khô cá lù đù chiên ăn cơm hay cho mấy ông nhậu lai rai với vài lon bia thì không gì bằng . Anh nhắc làm em nhớ là nhà hết rồi, cuối tuần này đi chợ mua thêm mấy paỏdự trữ.

Anh Bông chép miệng, ái ngai kết luận:

- Em quanh năm suốt tháng phải ăn đói, nhịn thèm vì sợ mập, lại chỉ thích những món ?cơ hàn?. Số em chắc là ?Số khổ??

- Số khổ !!

Chị Bông lập lại và than thở:

- Em mà không nhịn ăn thì người em mập như cái lu mái vú hứng nước mưa ở nhà quê rồi. Chỉ riêng nước Mỹ có biết bao nhiêu người số khổ như em, kể cà các tài tử diễn viên hay các cô người mẫu nổi tiếng, kiếm tiền bạc triệu, ai cũng phải ăn kiêng để giữ gìn sức khỏe và vì lý do thẩm mỹ. Họ phải ăn dĩa sà lách to, ăn trái cây, uống mấy lít nước lã và đi bộ hay tập thể dục cả giờ mỗi ngày, điều ấy có sung sướng gì đâu. Cô Vitoria Beckham đấy, tiền có thể trải thảm dưới chân, mà có dám ăn uống gì, người gầy gò như con cò hương.

- Báo chí Mỹ lịch sự lắm, trông mặt cô ta đanh đá, người thì gầy như con ma đói thế mà khen đẹp, cũng như khen bà đệ nhất phu nhân nước Mỹ Obama diện hợp thời trang, lịch lãm.

- Thì họ giàu, họ nổi tiếng nên thiếu gì người xúm vào khen, trở về chuyện ?số khổ? của em, tuy hình thức ?cơ hàn? nhưng nội dung ?qúy tộc? đấy anh. Cà pháo trắng tươi $2.99 một pound, khô cá lù đù không rẻ, ở nơi mình $7 một pound, tương đương với gía thịt bò ngon thượng hạng, nhưng hôm em ở phố Bolsa, vào chợ Việt Nam khô cá lù đù gía 8 đồng mấy một pound.

- Dù giá cả thế nào, cà pháo và cá khô vẫn là món nhà nghèo. Ðã thế thỉnh thoảng em còn thèm?khoai mì, khoai lang nữa chứ. Tội nghiệp !

- Hai món khoai quê ấy người Việt Nam nào mà không thèm! bảo đảm trong cuộc đời ai cũng đã ăn qua, cho dù là kẻ bần cố nông hay dân cao cấp, lá ngọc cành vàng.

- Nhưng sau 1975 Việt Cộng bắt toàn dân ăn độn khoai mì, khoai lang nên anh sợ cho đến hết cuộc đời luôn.

Anh Bông đi vào phòng tắm thay đồ, chị Bông vừa làm cà pháo vừa nhớ lại những ngày vừa qua ở Calif. Bố chị đang sống chung với gia đình người anh cả, rồi họ hàng chú, bác, anh chị em họ và bạn bè. Nên hai tuần vẫn chưa thấm vào đâu để chị thăm cho đủ những người thân.

Hết người nọ đến nhà kia mời đến nhà chơi, mời đi ăn nhà hàng. Khu Bolsa có nhà hàng nào ngon, nổi tiếng là chị được chiêu đãi ngay. Rồi lại tụ họp nhau ở nhà ai đó ăn uống ?Pot Luck?, mỗi người mang đến một vài món, ăn đủ thứ ngon đến ngao ngán.

Chưa hết, một chị bạn còn hớn hở mang đến tặng chị món chả gìo tôm thịt loại đặc biệt do chính tay chị sản xuất và 2 khay bánh cam lăn mè chiên ròn, góp phần làm cho chị thêm béo mập. Ăn xong hai món này chị vừa thích thú vừa ?ai oán? bạn hiền.

Chị đến thăm một chị bạn khác là chị Lan, bạn thân từ khi còn ở Việt Nam, chị Lan cũng như nhiều cư dân Bolsa Calif. khác nhất định mời chị Bông đi ăn nhà hàng cho đúng phép xã giao khi tiếp bạn bè ở xa. Chị Bông phải hết lời ?năn nỉ?:

- Mấy bữa nay tôi ngán nhà hàng lịch sự qúa trời rồi, chị chiêu đãi tôi món?cơm chỉ đi. Nghe tiếng Calif. người Việt mình có món ?cơm chỉ? mà tôi chưa được ăn bao giờ.

Chị Lan ngỡ ngàng nhìn chị Bông, tưởng đang đùa hay thử lòng dạ chị:

- Ai lại thế, bạn bè lâu mới gặp nhau chẳng lẽ để bạn ăn món bình dân bụi đời ?

Chị Bông mỉm cười, xác nhận:

- Chị tưởng tôi mát dây hay dở hơi hả? Vì tôi thích mà, để biết thế nào là Bolsa thượng vàng hạ cám.

Thế là chị Lan bất đắc dĩ phải dẫn bạn ra chợ để ?chỉ tay mua món ăn nào mình muốn. Vừa nhanh vừa rẻ tiền.

Ăn xong chị Lan pha cho chị Bông một ly nước đá chanh tươi, chanh hái ngay trong vườn nhà, chị Bông khen mùi nước chanh thơm mát, thì chị Lan nói:

- May qúa, bạn không bắt tôi dẫn ra ngồi uống cà phê giải khát ở vỉa hè, nhìn ông đi qua bà đi lại cho đủ bộ với món cơm chỉ này .

Bữa ăn ?Cơm Chỉ? bình dân lại là bữa ngon nhất trong cuộc thăm viếng Calif. của chị Bông.

Anh Bông đã tắm xong mát mẻ đi ra. Chị Bông hào hứng nhắc lại:

- Hôm đi Calif. em chỉ thích món ?cơm chỉ ? rẻ tiền. Canh bầu nấu tôm khô và đậu hũ chiên dòn chấm nước mắm tỏi ớt.

- Anh đã nói số em ?số khổ? mà. Ngoài cái chuyện ?diet? khổ cực như người ta, em còn nhiều thứ khổ khác. Này nhé, từ ngày đến Mỹ đến giờ vẫn ở căn nhà thuở đầu đời, dù trong thời buổi gía nhà cửa rẻ bèo này chúng ta có thể mua căn nhà to hơn, đẹp hơn, ra tittle company chỉ mất thời gian làm giấy tờ chưa đến 1 tiếng đồng hồ là xong ngay vì chúng ta trả bằng tiền mặt.

Chị Bông cười cười công nhận:

- Sorry làm anh ?khổ? lây, nhưng bản tính em ít khi thay đổi, với lại căn nhà cũ rích cà tàng này là kỷ niệm qúy gía trong những năm đầu tiên vợ chồng mình đến Mỹ, con mình đã lớn lên ở đây, những khổ cực vất vả, những toan tính ước mơ, ôi bao nhiêu là chuyện buồn vuỉnên em chẳng muốn rời xa. Với lại, các con đã đi học xa, chúng mình sẽ càng ngày càng gìa, mua nhà to đẹp ai ở cho hết, mất công anh? hút bụi lau nhà và làm em? sợ ma thêm chứ ích gì? được tiếng khen thì ho hen kèn cựa.

- Nhưng em cũng thích những căn nhà đẹp lắm mà? Mỗi lần đến nhà ai em đều khen và mơ ước.

- Chỉ trong phút giây cao hứng ấy thôi, về nhà mình em lại thấy căn nhà xấu của mình?đẹp nhất, vì một người bạn em đã nói ?Căn nhà đẹp nhất là căn nhà trả hết nợ?. Vậy việc gì mình phải dọn đi đâu?

- Có nghĩa là mình cứ ở căn nhà xấu này suốt đời hả em?

Chị Bông vui vẻ:.

- Miễn là lòng mình thanh thản. Bản tính chung thủy của em cũng được? một người ghi nhận rồi đấy. Cách đây vài năm khi vợ chồng mình về thăm Việt Nam, em ra chợ, nơi mà ngày xưa sáng nào em cũng xách giỏ đi mua đồ ăn, em thích hàng nào là mua kinh niên ở hàng đó luôn, thí dụ thịt heo của bà Năm, thịt bò bà Sáu, cá tôm bà Bảỵ.v?v.. còn món hành ngò, tỏi ớt, thì em chuyên mua của một con bé chừng mười mấy tuổi, hàng của nó bày trên một cái mẹt, kê trên một cái thùng không, để dễ dàng ?di tản? mỗi khi cảnh sát trật tự ra xua đuổi những kẻ bán hàng trên lòng lề đường. Khi vừa trông thấy em sau hơn 10 năm xa vắng, con bé ?hành ngò? ngày xưa, khi ấy đã là một thiếu phụ trẻ, đã nhận ra em ngay và reo lên: ? Cô này ngày xưa hay mua hành ngò của em nè?. Làm em bồi hồi cảm động như khi người ta gặp lại tình cũ.

Anh Bông cũng cảm động:

- Sao em không vào trong chợ ra mắt các bà hàng thịt, hàng tôm cá, hàng rau ria của em ngày xưa luôn thể?

- Hôm ấy em bận qúa, chỉ lướt qua ngoài chợ mà thôi.. Lần sau nếu về Việt Nam em sẽ thăm các bà ấy. Bảo đảm các bà sẽ nhận ra em vì em không bao giờ đi thẩm mỹ viện nên không thay đổi gì, ngoài chuyện tuổi đời gìa theo thời gian.

- Sẵn hôm nay em cởi mở anh liệt kê luôn một ?nỗi khổ? nữa của em là chỉ thích đi xe rẻ tiền nhất, không chịu mua xe sang hơn, đầy đủ tiện nghi hơn, dù?.

Chị ngắt lời chồng:

- Tính em đơn gỉan và nhà quê anh ơi, càng văn minh, tiện nghi càng?làm khổ những người xớn xác, ba chớp ba nhoáng như em, thí dụ như lái xe trên highway ở Mỹ mà lộn đường thì phải đi cả mile may ra mới có chỗ U turn, còn ở Việt Nam thì mình cứ tấp xe vào lề đường và quay đầu xe lại . Hay vào phi trường ở Mỹ, bao nhiêu là hãng máy bay và bao nhiêu là cổng vào, chỉ riêng hãng American Airlines với số cổng của nó cũng đủ thấm mệt rồi nếu vào lộn cổng. Còn phi trường Tân Sơn Nhất của Việt Nam cứ việc đến ngay mặt tiền và bước vào là xong ngay.

- Em chỉ cà kê, anh đang nói chuyện cái xe mà?

- Em đang đi từ xa đến gần đấy, bây giờ mới vào mục tiêu, chủ đề chính. Chuyện mua xe thì loại rẻ tiền như Toyota Corolla là đủ rồi việc gì phải mua những loại cao cấp hơn cho rắc rối. Như cái xe Honda Acura của thằng con xài nửa vời, đổi xe mới, cho anh xài đó. Cái gì cũng tự động thêm?phiền. Thà cứ để em quay kính cửa xe bằng tay còn đúng ý hơn bấm nút cái rẹt mà vẫn có lúc cao lúc thấp phải bấm tới bấm lui.

- Ở đời, người ta cũng hay đánh gía người khác qua căn nhà, và cái xẻ

- Nhưng kẻ giàu người nghèo thì đủ loại tầng lớp, biết đâu là ranh giớỉ, em ?khổ? vậy còn có kẻ khổ hơn. Ở hãng em có một chị Mỹ trắng đi làm bằng cái xe đời tám hoánh nào không biết, thỉnh thoảng lại thấy chị qúa giang ai đó đi làm vì xe hư, cho đến một ngày xe chị phải bán rẻ, bán tống táng đi vì sửa hoài tốn kém qúa. Thế là chị phải thương lượng đi nhờ người khác và trả tiền xăng cho họ trong khi chị để dành tiền mua một cái xe cũ khác.

Anh Bông gật gù:

- Nhiều người khó khăn lắm mới mua trả góp một chiếc xe cũ đấy.

- Bởi thế em chạy xe Toyota Corolla mới tinh dù là loại rẻ tiền trong họ hàng xe nhà nó cũng le lói lắm rồi. Còn những người giàu có cao sang hay người thích bề ngoài, chảnh chọe thì em không chạy theo họ được. Em chỉ sống cho chính mình nếu cảm thấy thoải mái. Cũng như vào mùa hè em không bao giờ xấy quần áo trong máy, mang ra vườn sau phơi, nắng gió làm khô nhanh và thơm tho quần áo một cách tự nhiên, khỏi cần xài giấy ?Bouncẻ đỡ tốn tiền và đỡ tốn điện..

- Nhưng em coi chừng ?gậy ông đập lưng ông? như hôm mua vé đi Calif. vừa rồi nhé. Tìm kiếm trên net hoài mới thấy giá rẻ nhất, từ phi trường DFW đến LAX gía 212 đồng, em còn?khoan khoan coi hãng American Airlines có hạ gía nữa không? Hay có bất cứ hãng nào thấp hơn không? Cho đến gần ngày đi em phải mua gía đắt gần gấp đôi gía ban đầu.

Chị Bông tiếc rẻ:

- Kinh nghiệm?đau thương thật. Mua vé máy bay mà hồi hộp như chơi sì dách ở sòng bài hay chơi stock online, gía cả lên xuống hàng phút, hàng giờ đến chóng mặt, mất tiền chư chơi, lần sau coi gía nào rẻ nhất là anh mua ngay cho em, đừng hỏi ý kiến em nữa.

- Ừ, anh biết rồi. Ðúng là ?số khổ?.

Anh trêu chọc vợ:

- Sống thì đơn giản thế, mà toàn là mơ ước cao xa chín tầng mây. Có hai đứa con đều khích lệ, cầu mong chúng học ra bác sĩ, nha sĩ. Nhưng tiếc rằng mộng không thành.

Chị Bông lại tiếc rẻ:

- Nhà mình không có duyên với ngành nghề này. Nói theo ông bà cha mẹ mình là ?nhà mình không có mả làm bác sĩ? em đành chịu. Vì làm bác sĩ, hay nha sĩ trước là sung túc cho bản thân mình và gia đình mình, sau là có cơ hội giúp đỡ những người nghèo khó. Người ta không dễ dàng móc túi ra cho người nghèo một vài trăm đô la, nhưng bác sĩ, nha sĩ có thể khám bệnh miễn phí, hay giảm gía tiền khám bệnh cho người nghèo, cũng là làm điều lành, điều phước thiện.

Anh Bông đồng tình:

- Ừ, đó là hai ngành nghề thuận tiện và có điều kiện để giúp đỡ người khác, còn làm dược sĩ, dù có thương xót cho bệnh nhân nghèo không có bảo hiểm, không đủ tiền mua thuốc thì ông dược sĩ cũng?không thể tự tiện lấy thuốc của cửa hàng mà cho không, biếu không họ được.

- Vậy mà có vài bác sĩ vô lương tâm, lòng tham không đáy, chỉ biết vơ vét tiền làm giàu chẳng cần thương xót ai. Thậm chí bệnh nhân không đáng tái khám cũng hẹn tái khám để được charge tiền hãng bảo hiểm. Ðã giàu rồi càng muốn giàu thêm.

Anh Bông phụ họa:

- Ngay cả mấy ông thợ sửa xe hơi hay sửa điện lạnh vào mùa hè cũng kiếm cớ chém đẹp đồng hương, có ít thì xít ra nhiều.

Chị Bông tiếp:

- Còn chuyện hai con mình dù không học được nghề bác sĩ, nha sĩ, nếu con làm bất cứ ngành nghề gì, thí dụ như thợ sửa xe hơi, sửa điện lạnh trong nhà, em cũng sẽ khuyên con sống cho trung thực, làm việc đúng lương tâm, lấy tiền đúng với khả năng, công sức của mình, chứ đừng gian dối, tham lam là thất đức lắm. Mình gian tham, qua mặt khách hàng, dù họ không biết nhưng trời đất biết và lương tâm mình biết.

Rồi chị Bông kết luận:

- Thôi nhé, mình chuẩn bị ăn cơm đi, người vợ ?số khổ? của anh sẽ ăn cơm với rau muống luộc, cà pháo ngâm nước mắm để ?thanh toán? 2 pounds dư thừa từ Calif. mang về. Còn anh, có món cá Thu rim mà anh ưa thích đây.

- Cám ơn em đã biết mọi ý?đồ, sở thích của anh.

Chị Bông đi ra bếp dọn cơm và nói thêm:

- Chúng ta sống ở Mỹ thì cứ ăn các món cá đánh bắt ở Mỹ cho chắc ăn anh ạ, như cá lù đù, cá nục, cá Thu v..v.. vừa tươi tốt, không độc hại như một số cá nhập khẩu từ China hay Việt Nam, vừa ủng hộ ngư dân ở Mỹ, như mình đã ăn gạo Louisiana trồng tại Mỹ để ủng hộ nhà nông Mỹ, kinh tế Mỹ.

- Hoan hô em, ăn cây nào rào cây nấy.

Chị Bông mời chào:

- Và hoan hô luôn cái số khổ của em nữa chứ. Em thích thế mà.

“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày tết”

Thứ bảy 07/01/2012 10:00

“Thưa thầy, lớp chúng em vẫn tranh luận với nhau về ý nghĩa của câu tục ngữ đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết. Tranh luận nhiều nhưng mỗi người một ý. Em có đem câu này về nhà hỏi bố mẹ thì bố em cũng chịu. Bố em còn bảo: “Ông nội của con mất đã lâu, giỗ nhiều lần rồi nhưng con cái chưa phải chịu đói bao giờ cả”.

Đây có phải là một câu nói cho vui không ạ?”. Đó là lời của bạn Trần Thu Thảo - lớp trưởng lớp Văn (2008-2011), Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội - hỏi tôi (nhân một sinh hoạt khoa học cuối năm có mời tôi làm báo cáo viên chính).

Không riêng gì bạn Trần Thu Thảo, thú thực, bản thân tôi nhiều lúc cũng không rõ nguyên do từ đâu dẫn đến câu tục ngữ này. Hầu hết các sách sưu tầm văn hoá dân gian chỉ thống kê chứ chưa giải thích kỹ câu đó (trừ một số câu khá đặc biệt). Đầu năm 2010, khi cuốn “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) xuất bản, tôi vội vã tra ngay. Mục từ này được giải thích như sau: “Hay bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào ba ngày Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)”. Cách cắt nghĩa như vậy cũng thật chưa rõ ý.

Vào ngày Tết, mọi người được nghỉ ngơi, vui chơi, chúc tụng và ăn uống no nê đủ đầy có lẽ là chuyện không phải bàn cãi. Khôn ngoan đến cửa quan mới biết / Giàu có ba mươi Tết mới hay; Số cô chẳng giàu thì nghèo / Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà; Làm như ba ngày mùa để đâu cho hết / Ăn như ba ngày Tết lấy gì mà ăn; v.v.

Người Việt Nam ta từ ngày xưa, vẫn coi cái Tết (Nguyên đán) là một thời khắc hệ trọng, thiêng liêng. Cho nên dù khó khăn, nghèo đói đến mấy thì khi Tết về, ai cũng đều phải lo sửa sang nhà cửa, tu sửa bàn thờ tổ tiên, sắm sanh nhiều thức ăn ngon... để thết đãi khách và nhất là để gia đình mình “no đủ cả năm” (theo tín ngưỡng, năm mới không được thiếu thứ gì). Thời buổi bây giờ thì khác. Người ta không đến nỗi phải chờ hết năm mới có cơ hội “đánh đụng” lợn, giã giò, gói bánh chưng, đồ xôi gấc... mà nếu muốn thì lúc nào cũng có thể “kéo Tết về nhà” bằng cách ra chợ mua đủ thứ. Song, dù thế nào, cứ đến Tết là khắp nơi, không ai bảo ai, vẫn cứ “hăng hái” mua sắm thật nhiều. Cái lệ đã thế rồi mà. Tết chẳng riêng ai, Tết mọi nhà / Quê hương, làng xóm, ông bà, tổ tiên...

Vấn đề mọi người thắc mắc là ở chỗ, chả lẽ ngày giỗ cha (thường cũng  làm cỗ bàn khá linh đình) mà lại phải chịu đói hay sao? Mà chính con cái lại là người chịu đói mới lạ chứ?

Tôi đã có dịp hỏi các cụ cao niên ở nhiều nơi tôi qua (Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc; Yên Xá, Ý Yên, Nam Định; Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình...) thì biết rõ một điều: Phong tục cũng giỗ ngày xưa (ở một số vùng Việt Nam) khá khắt khe. Giỗ song thân phụ mẫu là giỗ trọng (nhất là ba năm đầu, chưa hết tang). Vào ngày giỗ, con cháu phải theo tang chế (mặc đồ tang, con gái đội khăn xô, con trai đội nùn rơm, chống gậy), đứng trước bàn thờ cha (mẹ) từ sáng sớm. Con trai trưởng phải thường xuyên túc trực, theo dõi đèn nhang và cung kính đáp lễ mỗi khi có khách vào thắp hương tưởng nhớ người quá cố. Việc tiếp đón, mời cơm khách do người nhà gia chủ lo liệu, các con (nhất là con trai) phải nghiêm chỉnh thực hiện nghi lễ bên bàn thờ cho đến khi người khách cuối cùng (đến chia sẻ, ăn uống) chào ra về.

Tất tả chuẩn bị từ mấy ngày trước, lại phải tập trung lo lắng cho ngày chính giỗ, nên hầu như con cái  nhà có đám ít được ăn uống chu đáo. Đấy là chưa nói, còn một số nơi bắt con cái phải nhập phép “tịnh cốc” (không được ăn mặn hay các loại ngũ cốc, chỉ uống nước lã đun sôi) để tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ trong ngày này. Nhiều người con, cha mẹ mới mất, vì vẫn còn nhớ thương sầu thảm, cũng chẳng có bụng dạ nào mà ăn uống cả. Vậy thì dù là ngày giỗ cha, có mâm cao cỗ đầy thật đấy, nhưng chuyện họ phải mang bụng đói trong ngày này là điều có thực và cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu.

Quan niệm đó ngày nay đã khác. Các nghi thức cơ bản về giỗ chạp tất nhiên vẫn còn được duy trì, nhưng đã thay đổi khá nhiều cho phù hợp với điều kiện hiện tại và phải thừa nhận là càng ngày người ta càng đơn giản hơn. Tôi không rõ là còn nơi nào đó vẫn giữ phong tục cầu kì (như trên vừa nói không) chứ nói chung, chuyện hiếu hỉ bây giờ đã tiến triển theo chiều hướng “văn minh, hiện đại”. Ít có con cái phải rơi vào cảnh “bụng đói meo” trong ngày giỗ cha. Tuy nhiên, nhân Tết Nhâm Thìn đang đến, ta cùng ôn lại chuyện cũ để “nhớ lại một thời”, âu cũng là công việc cần làm để “ôn cố tri tân”.

Nhớ Tết xưa...

Cập nhật lúc :6:37 AM, 21/01/2012

(Đất Việt)

 Tết xưa ở quê tôi nghèo, cực lắm nhưng vui. Những ngày cận Tết đi đâu trên cái xứ cù lao Tân Lộc (thuộc huyện Thốt Nốt, TP. Cần Thơ) cũng thấy chuyện ngâm, xay bột bằng cối đá để quết bánh tráng, bánh phồng, đặc biệt là bánh phồng nếp tráng nếp sữa thơm dẻo lạ thường.

>> Thân thương mùi Tết Việt 

Má tôi rất thích làm mứt chuối xào gừng đậu phộng, mứt dừa ngào đường và bánh tét nhân mỡ hành. Những liếp tre phơi bánh mọc đầy các con đường làng, tiếng cối quết bánh thình thịch khá vui tai. Hầu như nhà nào ở quê tôi cũng có một cây mai lớn trước bàn ông thiên, với những đóa mai rực rỡ vào đêm giao thừa. Mọi nhà đều tận dụng những khoảng đất trống trồng một vài cây bông vạn thọ, cúc, hướng dương... để cúng trên bàn thờ tổ tiên ngày Tết. Lối hai mươi Tết là tía má cùng anh em tôi đi làm cỏ, quét nước vôi, cúng vái tảo mộ ông bà. 

Hồi ngoại tôi còn sống, đêm hai ba đưa ông táo về trời, lũ nhỏ chúng tôi thường xúm xít xung quanh nghe kể chuyện ông táo có hai bà vợ, về bẩm Ngọc Hoàng bằng cá chép rồi quay về đúng đêm ba mươi, đồ cúng phải có thèo lèo “ cứt chuột” và dưa hấu. Càng gần Tết thì công chuyện tất bật hơn, cha tôi thì chuẩn bị chặt trúc để làm cây nêu, lau chùi nhà cửa nhất là mấy cái bộ lư hương bằng đồng sáng choang, đi chợ về bao giờ cũng có mấy tờ giấy đỏ có in hình “ ông ba mươi ” ghi câu đối để dán trước cửa nhà trừ ma quỷ; chị tôi thì loay hoay để may đồ mới cho cả gia đình, chuẩn bị nồi thịt heo kho “ rịu ” ăn với dưa giá, rau sống. Chiều ba mươi Tết là anh em tôi đã đổ đầy lu gạo mới, các khạp, mái đều đầy nước sông lóng phèn, chị tôi còn cẩn thận đổ đầy các keo nước mắm, muối, đường, bột ngọt, nước màu. 

Đêm ba mươi làng quê tôi không ngủ. Thường thì phụ nữ thức canh nồi bánh tét bên ánh lửa hồng, có nơi tụm năm tụm ba đánh bài tứ sắc; cánh đàn ông thì nhâm nhi ly rượu đế để “ tống cựu nghinh tân”, ngẫm nghĩ chuyện mần ăn, thế thái nhân tình năm vừa qua; trẻ con chúng tôi thì kéo nhau ra đầu làng để coi hát bội, chơi lô tô, bầu cua cá cọp, tài xỉu, đánh bài cào... có đứa liếng mắt đốt pháo “ tiểu” ném vào đám con gái rồi bỏ chạy với cái cười đắc chí. 

Đã hơn bốn mươi năm qua, nhưng hưong vị Tết quê xưa cứ sống mãi trong tôi. Ở thị thành hiếm gặp cây “nêu” trước nhà, muốn có mai, cúc, đào chưng thì ra chợ Tết tha hồ mà lựa. Đâu còn những kẹo mứt chuối xào gừng, những cái bánh tráng, bánh phồng sữa nếp thơm lừng bởi bánh mứt làm sẵn quá dư thừa, đâu còn những đêm thức trắng để canh nồi bánh tét, quần áo thời trang “ mô đen” đủ kiểu, đủ giá nhan nhản, đâu cần phải ngồi đạp bàn máy may lách cách như chị tôi ngày xưa. 

Không còn tiếng pháo nổ đì đùng ngày xuân, không còn thấy các lò bánh nhiều như trước.Thợ may miệt vườn hầu như thất nghiệp vì xu hướng mua đồ mới may sẵn vừa tiện, nhanh, giá rẻ lại nhiều mẫu mã. Thức ăn Tết, bánh mứt các loại, phụ nữ thời nay thôi không còn phải mất thời gian chế biến vì đã bán đầy ở các trung tâm thương mại, các chợ, siêu thị. 30 Tết dọn dẹp nhà cũng chẳng sao. Thời điểm mua đồ ăn, thức uống cũng không cần vội vã, có người đến chiều 29 tết mua vẫn kịp. Cây cảnh, mai, hồng, vạn thọ... và nhiều loại khác bán đầy ở bến xe, bến tàu, các đường phố trung tâm, các chợ quận, huyện, tha hồ chọn lựa. 

Trưa 30 âm lịch bây giờ coi như chấm dứt việc mua sắm. Đường phố bắt đầu vắng, hàng quán dẹp dần, chỉ còn người lao động nghèo tranh thủ đi sắm Tết muộn. Chiều và đêm giao thừa, đàn ông thường ở nhà xem truyền hình, lai rai với bạn bè lối xóm, phụ nữ dọn dẹp nhà cửa, bếp núc, coi lại các món ăn, cúng kiếng giao thừa, trẻ con thì ra đường rong chơi, coi bắn pháo hoa, sau giao thừa mới về đến nhà. 

Tết bây giờ thật đơn giản và hiện đại. Có người quên đi viếng ông bà, người thân, thầy cô ngày Tết. Trẻ con thì lên lịch đi dã ngoại với bạn bè suốt mấy ngày xuân. Người lớn có khi không biết làm gì để giết thời gian. Trên bàn thờ đã hiếm dần những dĩa thịt kho dưa giá truyền thống, những dĩa mứt chuối, mứt gừng, những phong bánh in giấy đỏ, giấy hồng, chai rượu đế để thay vào đó những thức ăn chế biến công nghiệp, những chai rượu ngoại đắt tiền. 

Ngày xuân mênh mang cảm giác buồn man mác, tiếc nuối một thời chưa xa.

Chuối Tết

(LV) - Ngày tết, nải chuối xanh là thứ không thể thiếu trên bàn thờ. Chuối là móng, là nền, là phông cho ngôi nhà tâm linh.

Cái màu xanh như cỏ cây, như mây mặt đất bầu trời để cho bưởi, quít quất, bánh kẹo, rượu… nương tựa. Chuối nải xòe tay nguồn cội, từ đấy đi lên, rộng ra vừa bao la vừa thâu tóm. Màu xanh của chuối trong bàn thờ thấp thoáng như niềm tin bền vững, như sợi dây diều cho sắc hồng đỏ của trái cây khác bay lên.

Tổ tiên người Việt, cây lúa ngoài đồng ngày Tết về nhà bánh chưng, còn vườn tược không thứ gì hơn chuối. Chuối đầy sức sống, dù trên đồi đất đai cằn cỗi hay dưới vườn màu mỡ, chuối cứ vươn. Hiếm có loại cây nào gần gũi với con người như chuối. Chuối sau nhà, trước nhà, bên hiên, ngoài bờ ao, bờ sông, bờ suối… Đâu có đất là có người, có chuối. Qua lâu rồi thời đói kém, cao lương mĩ vị nội ngoại đủ đầy, giàu nghèo, ngày lễ tết nải chuối vẫn là chung mẫu số chung. Nhiều lúc tự hỏi, nếu một ngày kia không còn chuối, cái gì sẽ thay chuối trong những việc tâm linh?

Chuối có nhiều loại. Chuối ngốp thân to gần bằng cột cái, dẫu đã trồng tận góc vườn vẫn lừng lững một gia đình lực sĩ. Chuối ngốp ăn không ngon, thân cứng cho lợn lợn chê nhưng ở quê trước kia nhà nào cũng trồng một vài bụi. Ngày xưa, chuối ngốp cứu đói, giữ nhà. Cao quí nhất là chuối ngự (chuối tiến vua). Loại này buồng nhỏ, quả nhỏ, ăn để ngon, thưởng thức là chính.

Nhiều nhất, phổ biến nhất vẫn là chuối tiêu. Chuối tiêu dễ ăn, dễ bán, bộ phận nào trong cây cũng dễ dùng. Nó như lúa tẻ ngoài đồng, ăn cỗ đình đám có xôi thì ngon, vinh hạnh nhưng dù no xôi chán chè về nhà vẫn phải đệm bát cơm tẻ, nước rau muống mới yên tâm lên giường. Chuối tiêu cũng thế, rất gần ngay đầu hè tưởng như vô nghĩa, có buồng chín cây dựng góc nhà, thế mà đi ra đi vào, một quả hai quả… mấy ngày đã trơ cuống. Chuối tiêu chín vị ngọt nhẹ, đậm đà, lúc quyện trong khoang miệng muốn giữ thật lâu cái thơm thơm. Ăn xong rồi, nuốt nước miếng, chẹp môi vào vẫn ngon ngon. Người khỏe đi đồng về mệt, xơi ba bốn quả chả khác nào có... sâm Hàn Quốc. Người ốm, cơm ứ nước ừ, có chuối tỉnh hẳn. Chiều đông nhìn nải chuối trứng cuốc ai mà không nôn nao. Cái màu vàng, điểm hoa lấm tấm như khơi như mời, đố ông to bà lớn cầm lòng cứng rắn.

Nếu như chuối chín thức dậy mọi giác quan mãnh liệt thì chuối xanh lại có con đường đi riêng gọi tình yêu về mình. Canh chuối, chuối sào là hai món dân dã khó có thể quên. Ốc, ếch, cá không có chuối coi như không có chuyện gì.

Với con người, chuối cùng no đói, cùng buồn vui. Khi từ giã cõi tạm về nơi vĩnh hằng, chuối là thứ đầu tiên ngoài vườn bước vào…

Tết lại đến! Năm nay dặn trước bạn trong làng hai nải chuối thật đẹp. Nhà ai cũng thế không giàu thì nghèo, ngày tết nhìn cái bàn thờ thấy nải chuối là yên lòng.

Phong tục tập quán Hà Nội

Ngoảnh đi ngoảnh lại vài lần, tết đã lại sắp đến. Giờ đây, nhiều người than rằng chẳng còn không khí tết như xưa, chẳng thiết tha gì với bánh chưng, dưa hành. Và thế là người ta lại cùng nhau kể về tết xưa với những hương vị thật khó quên...

Tết nghèo thời bao cấp

Không giống bây giờ, chỉ cần chạy ào ra chợ là đã có đủ vài cặp bánh chưng, dăm cân giò, thậm chí đến cả thịt đông, chè kho cũng đều bán sẵn; ngày xưa, để chuẩn bị cho một cái tết tươm tất, người Hà Nội cũng như nhiều nơi khác phải có sự chuẩn bị từ trước đó cả tháng.

Sau tết ông Công, ông Táo các mẹ đã bắt đầu lác đác chở lá dong để chuẩn bị cho nồi bánh chưng tết. Chẳng phải đợi lâu, ngay buổi trưa hôm sau ngày ông Công ông Táo, cái máy nước công cộng đầu ngõ toàn trẻ con ngồi rửa lá. Đứa nào cũng có một cái chậu hứng nước, một cái mâm để đặt tàu lá dong lên, một cái bùi nhùi được làm bằng xơ mướp đã đập mềm, thế là những tàu lá dong xanh mướt lần lượt được đặt lên mâm, lau chùi, xả nước sạch sẽ, rồi được đặt ngay ngắn vào những chiếc sàng hay rổ to để cho ráo nước. Thường thì phải rửa cả buổi mới xong cả 100 cái lá dong ấy, tay đứa nào cũng đỏ vì nước lạnh, chân thì thâm lại vì rét. Nhưng thích lắm, thích vì tết sắp đến rồi, nhiều niềm mơ ước, nhiều hy vọng sẽ được phép nghĩ đến trong đêm giao thừa.

7 - 28 Tết lại thấy cả xóm ra ngâm gạo nếp, đỗ xanh, đãi gạo, đãi đỗ... Chỉ chờ ngày bố mẹ có được thịt là sẽ gói bánh chưng thôi. Ở Hà Nội thời đó, chẳng mấy nhà có được riêng một nồi bánh chưng vì phiếu bán gạo, bán thịt cũng chỉ có giới hạn rất ít lại còn phải san sẻ trong dịp nọ, dịp kia, vì thế, mặc dù bánh chưng là món chủ đạo trong ba ngày tết nhưng các nhà vẫn thường cùng gói một ngày, rồi cùng luộc chung trong một chiếc nồi to. Đêm luộc bánh chưng bao giờ cũng là đêm vui bất tận của trẻ con và đầm ấm của người lớn. Vui nhất chính là lúc vớt bánh, đó cũng là chạng vạng sáng rồi, nồi nước luộc bánh bốc hơi nghi ngút. Rồi từng cặp bánh vớt ra xanh mướt, thơm nức... Mùi bánh, hơi nóng của bánh, không khí bánh chưng làm cho không gian lạnh lạnh của tiết xuân trở nên ấm áp rất rất tết.

Với trẻ con, tết luôn là điều ước ao lớn nhất, bởi đơn giản vì thể nào cũng được may quần áo mới, nhất là có làm gì đó không đúng cũng không bị đánh đòn. Song, nhớ nhất vẫn là sự phấn khích được theo mẹ mang bột mì, đường dành dụm cả năm ra cái lò làm bánh quy ở đầu chợ cóc, chỗ ngã ba để làm bánh. Hà Nội những năm đầu thập kỷ 80 ấy không có nhiều lò bánh, vì thế, sau một thời gian nghỉ dài sau dịp Tết Trung thu, thời điểm bước vào tháng Chạp, chủ lò bánh lại xoay xỏa không xuể. Ngay từ sáng sớm, lò nướng bánh đã đông nghịt các mẹ, các chị đến xếp hàng đợi đến lượt, chủ lò thì giao giao nhận nhận, bận bịu, rối rít, tưng bừng...

Việc làm bánh thường phải mất cả một buổi sáng, hay chiều ngày chủ nhật song, với những đứa trẻ hồi đó, cảm giác chờ đợi, hít hà mùi thơm nức của những mẻ bánh đã ra lò thực sự rất đặc biệt. Chiếc bánh quy gai, dài dài, đen đen, mẫu mã chẳng có gì bắt mắt nhưng đã trở thành món tiếp khách lịch sự có mặt ở mỗi bàn nước cạnh ấm trà nóng của những cái tết nghèo Hà Nội thời ấy. Nhưng hương vị thơm ngọt của nó như khắc dấu vào đầu óc non thơ của trẻ nhỏ như chúng tôi thời xa xưa ấy rất lâu bền, cho dù giờ bánh Pháp, bánh Nhật thơm nức mùi bơ sữa cũng chẳng thể lấn át cái hương vị thơm tho từ lò bánh giản dị thuở xưa.

Hoa tết thời giản dị

Tết đến. Gia đình nào ở Hà Nội cũng trang hoàng lại nhà cửa, công việc này thường kết thúc khi khi nồi bánh chưng được đặt lên bếp. Tết nghèo, chẳng mấy gia đình nghĩ tới việc sắm sửa đồ mới như ngày nay, nhưng từ trẻ con tới người lớn ai cũng tâm niệm phải sắp xếp lại những đồ dùng trong nhà, sửa sang nhà cửa thật ngăn nắp. Những chiếc khăn trải bàn bằng nylon cứng, cả năm mới đem ra dùng vài bận vào những dịp quan trọng nay lại được lấy ra, lau chùi cho thẳng những nếp gấp rồi trải phẳng phiu trên chiếc bàn để giữa nhà. Những hình kẻ trám trên tấm nylon trải bàn chẳng ăn nhập gì với sắc tím tím của violet, màu hồng rực của hoa thược dược nhưng khi chúng được đặt cạnh nhau cũng đủ làm sáng bừng cả căn nhà chật.

Đối với nhiều người Hà Nội thì khi tết đến dù khó đến mấy cũng cố tậu một bình thủy tiên, cái loại hoa quý phái, cánh hoa nhỏ, cứng cáp, hoa nở từng chùm rất thanh tao ấy thường chơi được rất lâu, rất… có nhà còn chơi cả ra giêng ngày rằm nữa. Giản dị vậy thôi, nhưng bước vào nhà nào cũng thấy sự đầm ấm, sự trang trọng, sự chu đáo của chủ nhà trong cái sự kiện đón tết, đón những người thân, bạn bè đến chúc tết.

Bây giờ hầu như nhà nào ở Hà Nội ngày tết cũng chưng hoa đào mà không phải chỉ chưng cành mà rất nhiều người còn chọn cả cây đào thế để thể hiện lòng mong ước của chủ nhân căn nhà nữa. Cái tết của người Hà Nội giờ cũng đẹp hơn sung túc hơn ngày xưa nhiều lắm rồi, nhưng hương vị tết xưa thì vẫn còn mãi đó, vẹn nguyên.

Tết nghèo

Hai mươi ba âm lịch- ngày đưa ông Táo về trời, thời điểm ai cũng tất bật đi mua sắm chuẩn bị cho ngày Tết. Ba mẹ đi ghe bươn chải kiếm tiền về nuôi hai chị em con, con ở nhà ông bà nội, nhà mình không có ai để đưa ông Táo về trời. Làng quê nghèo chưa có đèn điện, chỉ có đèn dầu leo lét. Cái se lạnh của những ngày gần Tết cũng đủ để làm cho những gia đình nghèo cảm thấy trống trải vì thiếu miếng chăn, đôi vớ, nhà trống trước trống sau. Tối lạnh không ngủ được, bà nội lòm còm ngồi dậy đốt lửa sưởi ấm cho chị em con. Con lớn lên nhưng chưa cái tết nào con nhận được tiền lì xì, con nghĩ mọi người đều có lộc nhưng riêng con thì không. Con không buồn, vì còn có rất nhiều đứa con nít giống như con. Con không mơ quần áo đẹp bởi vì con biết con sẽ không bao giờ có nó, con chỉ mong ba mẹ về sớm để ăn Tết cùng gia đình nhưng năm nào cũng vậy ba mẹ đi làm đến tận hai mươi tám Tết mới về. Về đến nhà, ba mẹ lại tất bật lo quét tổ nhện, chèn lại mái nhà rách nát, đốt lại bếp lò đã lạnh từ lâu. Nhiều khi con nghĩ không biết ông Táo có còn ở chúng với chúng ta nữa hay không. Con hỏi mẹ, mẹ cười và bảo rằng: Ông Táo thương nhà ta lắm, năm nào cũng về trời xin Ngọc Hoàng ban lộc cho nhà ta. Con hỏi: vậy con có được lì xì không?. Mẹ nói: con ngoan hơn thì sẽ được lì xì.

Tết đến, nhà con có món mứt dừa đủ màu sắc do bà nội làm, con thích thú ăn vụn từng miếng một khi bà mang phơi ngoài sân. Con giúp bà lột vỏ chuối để bà ép từng quả đem phơi khô rồi ngào với đường, bỏ thêm một ít đậu phộng là thành món mứt chuối ngon lành. Bà còn chuẩn bị bột để tráng bánh, lúc nào con cũng ngồi cạnh bên để được bà cho một miếng bánh ướt nóng hổi còn thơm phức mùi nước cốt dừa, béo ngậy. Mẹ thì đi mua từng cây cải về làm dưa, món dưa cải xào với trứng vịt là món con ưa thích nhất nhưng mỗi năm con chỉ được ăn một lần. Tết đến, theo tục lệ quê con thì nhà nào cũng có món thịt heo kho rệu với nước dừa, khách đến nhà được đãi thịt heo kho rệu được xem là khách quý. Nhà con nghèo nên con chỉ được ăn cơm rang với trứng và món dưa cải xào. Không biết có phải là thói quen từ lúc nhỏ hay không mà cho đến sau này con vẫn rất thích ăn món cơm rang ấy. Năm nay, ba và mẹ đi làm về sớm hơn mọi năm. Mẹ còn mua cho con và em con quần áo mới, con vui mừng đi khoe khắp xóm.

Năm nay, làng con được kéo điện về nhưng đến ngày 30 Tết mới có điện thắp. Không chỉ có gia đình con mà cả xóm con đều mong chờ ngày cả xóm có điện, nhà nhà có điện. Con nói: Mẹ ơi vậy là mình không sợ phải hết dầu thắp nữa phải không mẹ. Mẹ cười thoáng buồn nhưng con đâu biết thắp điện vẫn phải trả tiền. Ngày 30 tết mẹ đi chợ mua về một ký thịt heo, cha thì ra vườn hái dừa để kho thịt, mùi thịt kho xông lên mũi thơm nức. Năm nay, nhà mình ăn Tết thịnh soạn. Tối 30, cả nhà bật đèn sẵn hồi họp chờ giây phút đèn điện bật sáng. Đúng 7 giờ tối toàn bộ xóm nghèo bừng sáng với những ánh đèn điện đẹp lung linh, cả xóm reo hò vui mừng. Năm nay, mẹ cho con thức đón giao thừa ăn mừng xóm mình có điện. Ngày mùng một Tết mẹ gọi hai chị em lên cho mỗi đứa một bao xinh xinh màu đỏ. Mẹ bảo mẹ lì xì cho hai chị em con. Con mừng lắm, bởi vì con đã ngoan hơn.

Ký ức Tết xưa ở quê tôi!

Một năm mới lại sắp về nữa rồi. Ngày cận Tết, ở Sài Gòn này ra đường lúc nào cũng đông hết, người ta đi mua sắm, đi dạo phố. Gần Tết, khiến mình càng nhớ quê nhiều hơn, mặc dù hôm Tết tây mình có về quê chơi hai ngày.

Ở quê, sắp Tết là có gió chướng, không khí lành lạnh. Khác với ở Sài Gòn này, Tết là người ta mua nô nức đi mua sắm, vì cũng là mùa hàng khuyến mãi và giảm giá mà.

Mình ở Sài Gòn này cũng được 8 năm rồi, từ lúc là một cô bé mới tốt nghiệp cấp 3, bước vào Đại học, nhìn Sài Gòn lạ lẫm… cho tới bây giờ, mình đã ra trường, đi làm và chuẩn bị có gia đình.

Đi

ra ngoài đường, nhìn những ông bố, bà mẹ đưa con nhỏ đi mua sắm, mình chạnh lòng nhớ tới cha mẹ ở quê vô cùng.

Nhà

mình chỉ có hai chị em thôi, nhớ những lúc còn học ở quê, học trò được nghỉ học sớm lắm cơ, khoảng 23 âm lịch là nghỉ rồi, nghỉ học là thế nào mình với em cũng phụ mẹ tráng bánh tráng (tết thì dường như nhà nào cũng hay tráng một ít bánh để tết nướng lên ăn). Ở quê mình tráng bánh tráng có nước cốt dừa nữa nên rất ngon, bánh tráng mà mới vừa hấp xong, còn ướt chưa phơi (gần giống bánh ướt ở Sài  Gòn nè) thì chị em mình tranh nhau ăn cho đến khi no căng bụng mới thôi, nhiều khi ăn nhiều quá thành ra no, trưa không ăn cơm được bị cha mắng cho một trận, hai chị em ngồi mặt mũi ỉu xỉu, mẹ thì nói “thôi mà anh..”

Tối 23 là đưa ông táo về trời, năm nào trên ti vi cũng có chương trình hài về các ông táo lên thiên đình tâu cáo chuyện nhân gian. Một chương trình cũng mang tính giáo dục, nên cha mẹ lúc nào cũng xem với hai chị em mình, thế là tối 23, ăn cơm sớm, cha mẹ cúng xong thì cả nhà quay quần bên tivi, xem và bình luận, chờ tàn nhang, cúng xong, mình hối cha mẹ lấy bánh, lấy kẹo xuống, vừa ăn và vừa xem tivi.. ôi nhớ biết bao..

Qua ngày 24, 25 âm lịch là tảo mộ, tảo mộ ở nhà, tảo mộ bên nội, bên ngoại, hai chị em lúc nào cũng đi chung, hì hục xách thùng nước kì cọ, thường khi chị em mình đi với cha, còn mẹ ở nhà lo nấu nướng để cúng.. ôi nhớ quá…

Các ngày còn lại là dọn dẹp nhà cửa đón tết, rồi được mẹ chở đi chợ mua sắm bánh, kẹo mứt, hai chị em mình thích lắm, thích ăn kẹo mứt, mà hồi xưa ở quê chỉ có tết mới có kẹo mứt nhiều thôi, còn ngày thường không có mứt, chỉ có kẹo dừa, kẹo the.. hồi xưa ở quê con nít không được ăn quà bánh nhiều như bây giờ đâu.

Ngày

30 là cúng tất niên, là thấy không khí tết rồi đó, tối 30 mẹ làm hết những việc như rửa chén, giặt đồ, quét nhà, quét sân, vì mẹ nói mùng 1 là đầu năm, không được làm gì cả, nếu làm ngày đầu năm thì nguyên cả năm cũng quần quật như thế. Mình thương mẹ lắm, mẹ nói thế thôi, mặc dù ngày mùng 1 năm nào mẹ cũng không làm, nhưng cả năm đâu có ngày nào mẹ nghỉ ngơi.. thương mẹ quá…

Ngày mùng 1 tết, mẹ kêu hai chị em mặc quần áo đẹp, rồi đưa đi viếng ông bà, và nhận lì xì, mình vui nhất là khoản này, tiền lì xì hồi đó tụi mình quý lắm, dù ít dù nhiều cũng cám ơn rối rít và nâng niu cẩn thận, không như trẻ con bây giờ đâu, lì xì ít là nó bỉu môi chê, thật quá đáng.

Đối với trẻ con bọn mình ngày đó, niềm vui ngày Tết rất đơn giản là được ăn ngon ,mặc đẹp, được lì xì, được nghỉ học để đi chơi, hồn nhiên biết bao.

Sau này lớn lên, đi làm ở thành phố tới ngày 28 âm lịch mới về quê được, đi mua sắm với mẹ rồi loay hoay phụ mẹ nấu nướng cúng tất niên, càng ngày mình sẽ ăn Tết với gia đình ít đi, nghĩ tới mình thấy chạnh lòng lắm. Rồi sau này có gia đình nữa, mình sợ thời gian vui Tết với cha mẹ sẽ ít đi nữa. 

 Năm nay thì chưa, năm nay mình ở nhà ăn tết với cha mẹ tới mùng 2, qua mùng 3 mình mới lên nhà ông xã tương lai của mình. Ý anh cũng muốn mình lên ăn Tết nhà anh ấy, rồi sang mùng, anh ấy sẽ xuống nhà mình (vì nhà tụi mình ở xa nhau lắm, khoảng 600 km cơ), nhưng mình nghĩ tới cha mẹ đón Tết không có mình ở nhà, rồi ai là người quét dọn, nấu nướng ngày tất niên, cha mẹ đều già cả rồi, tự nhiên mắt mình lại cay cay, nên năm nay mình nói mùng 3 mình mới lên được. Nhưng sau này khi cưới nhau, chắc cũng phải một năm ăn tết ở nhà mình, một năm ở nhà ông xã chứ.

Chỉ

còn 3 tuần nữa là một cái Tết mới lại đến rồi, Càng ngày càng lớn lên, thì mình cũng trưởng thành, tết không còn vui như hồi còn trẻ con nữa, mà kéo thêm nhiều lo âu bạn nhỉ? Lo tết năm nay không biết cơ quan thưởng được bao nhiêu, về quê cho cha mẹ tiền ăn tết, Tết  thì mọi thứ kéo nhau ùn ùn tăng giá ... Nhưng gác lại tất cả, để hòa vào niềm vui chung ngày Tết - là bắt đầu một năm mới cho tất cả những điều mới sẽ đến với chúng ta.

Gió heo may thổi dọc phố dài. Trời khô ráo và sạch sẽ. Nhà ai đốt hương trầm, mùi thơm bay ra hòa tan trong không khí se lạnh. Các cửa hàng hai bên đường như sáng lên bởi các tấm áp phích sặc sỡ. Tết lại đến rồi đây!

Những cảm xúc tưởng chừng đã ngủ quên giờ như bừng tỉnh khiến xao động cả một vùng ký ức. Trong lòng bỗng dưng trào lên nỗi nhớ, nhớ nhà, nhớ quê và đặc biệt nhớ cái hương vị Tết của những ngày thơ ấu.

Cả năm chắt chiu, dành dụm chỉ để cho cái Tết được tươm tất nên Tết trước đây là thứ gì đó rất xa xỉ, rất linh thiêng. Tết có quá nhiều thứ để chuẩn bị, mua sắm. Cũng vì quá nhiều lo lắng nên dễ làm thiếu mất cái nọ, cái kia… nhưng bánh chưng thì chưa thấy có ai quên bao giờ.

Chị Nguyễn Thu Anh, quê An Lão, Hải Phòng nhớ lại: "Tết là thời gian mà gia đình tôi được sum vầy đầm ấm nhất. Tết, tôi thích nhất là được theo mẹ đi chợ. Chợ quê dịp Tết dường như đông đúc hơn, nhộn nhịp hơn. Bao nhiêu hàng hóa từ chợ huyện mang về nhưng cũng không ít những thức hàng của quê nhà: Nào bánh gai, nào mớ đậu, bó lá dong, bó lạt, mớ hành…"

Bắt đầu từ khoảng 26 Tết, ra đường là bắt gặp ngay những nồi bánh chưng kê trên vỉa hè trước cửa nhà, củi lửa nghi ngút, nhà nào cứ có mặt bằng đặt đủ 3 viên gạch làm bếp đặt nồi là gói bánh. Ít thì dăm bảy, nhiều thì hai chục bánh, có khi còn hơn vì gói hộ cho cả anh em họ hàng không có chỗ đặt bếp đun. Các cô, các bà, các chị tíu tít vo gạo, rửa lá, đãi đậu, bổ củi chuẩn bị cho nồi bánh. Bận nhưng vui.

Còn chị Đoàn Minh Trang cũng nao nao không kém: "Nấu bánh luôn là thời gian mà tôi trông chờ nhất, bố chọn những cây củi to nhất, kê mấy viên gạch lên cao ngay giữa nhà bếp để bắc nồi. Mẹ thì khéo léo sắp bánh vào cái nồi thật to rồi đổ ngập nước. Đêm, khi ngoài trời mưa rả rích cùng cái rét căm người, cả nhà quây quần bên nồi bánh, ấm cúng biết bao! Bên bếp lửa hồng, có câu chuyện Tết từ thời xa xưa bà kể, có chuyện chợ búa sáng nay của mẹ, có chuyện xa xôi nơi chiến trường ác liệt của bố. Khi nồi bánh chín được vớt ra, thế nào chị em tôi cũng được một cắp bánh ít ăn trước."

Thường ở quê, cứ chiều 27, 28 Tết là cứ vài nhà chung nhau một con lợn mổ lấy thịt (gọi là đụng lợn). Mổ xong, mỗi nhà mang một thúng đến lấy thịt đem về, hôm đó thế nào những gia đình này cũng được một bữa lòng lợn, tiết canh no nê.

Hiện nay người ta gói giò bằng máy hoặc mua 1-2kg là xong chứ ngày đó cứ đụng lợn xong là nhà nào cũng phải giã giò. Ai đi xa về đến đầu làng đã nghe thấy tiếng chày, cối lách cách, vui tai và rộn ràng lắm.

Tết ở quê, không thể không kể đến các phiên chợ Tết thường rất đông người. Người từ các nơi đổ về đông đến nỗi muốn đi qua chợ phải lách, phải gạt nhau ra mới đi nổi. Trẻ em vòi vĩnh mẹ mua câu đối Tết hay mấy bức tranh cá chép, tranh Lê Lợi, Quang Trung cưỡi voi đánh giặc hoặc tranh nhau xem múa rối nước, rối que. Trẻ em cũng được mẹ mua quần áo mới và được quyền nhõng nhẽo đòi bánh kẹo, đòi mấy con tò he, mấy băng pháo tép. Đi chợ về lại tụ tập với đám trẻ con trong xóm, đứa nào cũng khoe những thứ mới mua được và đem ra chơi cùng nhau.

Có lẽ khi ở tuổi trưởng thành, mấy ai mà không hình dung lại cảnh người mẹ nghèo lo mua quần áo, quà bánh, rượu, thuốc cho chồng, con nhưng lại rất ít chú ý mua sắm cho mình. Mẹ mua hương hoa, giấy tiền cho người đã khuất, mua lá dong, đỗ xanh, gạo nếp rồi nhẩm tính Tết này gói mấy đồng bánh chưng và đi Tết những đâu, sao cho không thua chị kém em.

Chợ Tết quê là sự giao thoa giữa sắc màu của một vùng với đủ các sản phẩm do con người một nắng hai sương làm ra. Từ các loại gạo nếp, gạo tẻ, gạo tám thơm, đến rau xanh, quả gấc chín đỏ để đồ xôi, những phên đường mía, mật mía cho tới quả cam chín hồng, những quả bưởi vàng mơ.

Những quả cau nho nhỏ, những lá trầu xanh tới những con gà, con vịt, những mớ lá dong, những thúng đỗ xanh cho tới măng rừng, cá biển cũng hiện diện đầy đủ trong phiên chợ Tết, kẻ bán người mua tấp nập, ồn ào.

Gần đây, kinh tế đất nước đang trên đà đổi mới, các chợ quê đã đổi thay nhiều. Những gian hàng được xây kiên cố và được chia thành nhiều quầy bán đủ các loại hàng hóa nội, ngoại, từ vải vóc, đồ dùng sinh hoạt, các món ăn chín, sống đến xe máy, tivi, tủ lạnh và quà tặng ngày xuân. Điều này chứng tỏ cuộc sống, kinh tế ở nông thôn Việt Nam đang thay da đổi thịt, đời sống được nâng cao cả tinh thần lẫn vật chất không thua kém gì thành phố, thị xã.

Quan niệm về Tết cũng đã có nhiều thay đổi. Bây giờ người ta thường nói “nghỉ Tết” chứ ít người nói “ăn Tết”. Tết hiện đại, người ta thích nghỉ ngơi thoải mái, đi chơi, du lịch. Theo số liệu của các công ty du lịch, cứ vào dịp Tết hàng năm có khoảng hơn 10.000 người đăng ký các tour du lịch nước ngoài. Còn số lượng đi du lịch nội địa cũng rất đông.

Từ khoảng mùng 2 Tết trở ra, các khu du lịch nổi tiếng như Đà Lạt, Mũi Né, Vũng Tàu, Nha Trang đông chặt khách du lịch. Điều đó cho thấy quan niệm về Tết nay là nghỉ ngơi, vui chơi nhiều hơn nên bây giờ người ta thích gọi là “nghỉ Tết” hơn là “ăn Tết”.

Khái niệm “ăn Tết” bây giờ cũng khác. “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”, mới đọc lên đã thấy hương vị Tết. Nhưng giờ đây người ta sợ thịt mỡ, sợ cả thịt. Nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên, được đáp ứng ngay khi có tiền, chứ không đợi đến Tết.

Bánh trưng cũng vậy, giờ người ta không quá coi trọng việc gói bánh, miễn sao có để “thắp hương” là được. Bánh bán đầy ngoài chợ, vào cả siêu thị, có cả loại bánh bọc túi hút chân không khỏi lo vấn đề vệ sinh. Mục đích “gói để ăn” không còn nhiều, nhưng Hà Nội vẫn còn những gia đình gói bánh vì luyến tiếc cái không khí tất bật, náo nức bên nồi bánh chưng đang chờ chín.

Một nhà nghiên cứu về văn hóa cho rằng, về cơ bản Tết cổ truyền vẫn chưa có sự thay đổi rõ nét. Tết vẫn là dịp để gia đình đoàn tụ, để người thân thăm viếng lẫn nhau. Tết cổ truyền vẫn là một sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam nhưng quan niệm đó sẽ phụ thuộc theo từng suy nghĩ và nhận thức của mỗi chúng ta.

Nhưng dù sao trong lòng chúng ta vẫn thấy nhơ nhớ một cái gì đó của những phiên chợ Tết quê ngày xưa, của tiếng giã giò... và nhớ cả sự chuẩn bị tất bật, rộn rạo mấy ngày cho Tết, vất vả nhưng lại rất vui./.

Tết xưa trong ký ức một người Hà Nội gốc

Năm nay, ông Thái An đã bước sang tuổi ngoài 60. Ngôi nhà 72 Hàng Đào của ông vẫn nguyên vẹn như ban đầu, từ thời ông nội ông, rồi đến bố mẹ ông…, cho đến bây giờ, ông cũng đã có mấy đứa cháu nội ngoại đề huề xung quanh… Giữa lúc Hà thành rộn ràng vào Tết, ký ức của ông về những ngày Tết thuở xa xưa, dường như vẫn còn nguyên vẹn…

Tết xưa, “chơi Tết” chứ không phải “ăn Tết”…

Không khí mùa xuân bắt đầu tràn vào Hà Nội, tràn vào 36 phố phường cổ kính… bắt đầu bằng sự xuất hiện của những quầy bán tranh Tết rạo rực trên phố Hàng Bồ từ trước đó vài ba tháng, chứ không phải cho đến tận áp Tết, khi đào Nhật Tân bắt đầu nở rộ dưới nắng xuân ấm áp, hay có sự xuất hiện của mai vàng Sài Gòn vượt qua chặng đường vài ngàn cây số ra đất Bắc như bây giờ…

hi ấy, ông Thái An vẫn còn là một cậu bé, tiền ăn quà sáng cậu mợ cho, cậu bé để dành cũng đủ mua một bức tranh gà, tranh lợn của làng tranh Đông Hồ từ Thuận Thành mang sang, hay một bức tranh Tàu bốn mùa vẽ theo lối sơn thuỷ.

Trong trí nhớ của ông Thái An, cả phố Hàng Bồ tràn ngập những ông đồ áo the khăn xếp, râu dài… ngồi nghiêm trang trên chiếc chiếu hoa trải trên vỉa hè. Những bức tranh giấy dó được treo trên những sợi dây chăng sát mép tường, được kẹp bằng những kẹp sắt. Những bức tranh màu tươi, sặc sỡ có sức hấp dẫn rất lớn đối với những đứa trẻ như ông, và hầu hết, tụi trẻ con cùng lứa tuổi ông thời đó, đều có thể ngồi chầu cả ngày để xem ông đồ thảo chữ, viết câu đối, hay ngắm những bức tranh sáng bừng dưới nắng.

Tết Nguyên đán được cậu mợ (bố mẹ) ông Thái An chuẩn bị rất chu đáo. Gia đình ông Thái An có hiệu Thái An chuyên hàng tơ lụa, vải sợi may mặc. Phố Hàng Đào khi đó là khu phố chuyên về hàng tơ lụa, gồm khoảng gần 100 cửa hiệu chạy dọc con phố. Tất cả các cửa hiệu, như đã được quy ước sẵn, đều đóng cửa vào đúng ngày 23 tháng chạp, ngày ông Táo lên trời. Công việc mua sắm, chuẩn bị cho Tết cổ truyền được bắt đầu từ ngày đó.

Mợ ông là một người phụ nữ tháo vát, đảm đang. Bà tự tay mua sắm chuẩn bị Tết chứ không mượn đến vú già, con sen người ở trong nhà. Thực phẩm cho Tết chủ yếu là các thức hàng khô, như miến dong, mộc nhĩ… được mua với số lượng đủ cho mười ngày Tết. Vài đôi gà mua thả nhốt trong chuồng, ăn đến đâu mới làm thịt đến đó.

Ngày mồng một Tết, trong lúc tụi trẻ con xúng xính quần áo mới, cậu mợ ông Thái An tất bật chuẩn bị cho mâm cúng đầu năm. Nhà ông có bảy người làm, mỗi người một việc. U già đồ xôi, con sen dọn dẹp, quét dọn ban thờ từ hôm trong năm. Việc bày lễ lên bàn thờ, trực tiếp cậu mợ ông Thái An làm chứ tịnh không cho con sen, người ở được nhúng tay vào. Khi ấy, ông Thái An còn là cậu bé chưa đầy 10 tuổi, nhưng ông đã cảm nhận được sự thiêng liêng trong sự tất bật của cậu mợ mình.

Cậu mợ dặn mấy anh chị Thái An, trong ba ngày Tết, không được nói tục, không được to tiếng, cãi vã hay chảnh choẹ nhau, không được làm đổ vỡ các đồ đạc trong nhà, vì nếu làm những điều ấy, cả năm mới sẽ bị “dông”, và sẽ không học hành giỏi giang được…

Tôi nhớ, trong ba ngày Tết, cậu mợ tôi làm sẵn rất nhiều mâm cỗ, được đậy kín bằng lồng bàn tre… Mỗi khi có khách đến, một mâm cỗ sẽ được hạ xuống để mời khách ăn lấy khước. Khoảng gần 10h trưa, một người đến xông đất cho gia đình (người này thường đã được hẹn trước từ hôm trong năm). Mợ tôi là người kỹ tính, nên lựa người xông đất rất cẩn thận.

Người được chọn thường là những người có đạo đức, có uy tín trong dòng họ. Sáng mồng một, khi người xông đất chưa đến, tụi trẻ con không được phép đi ra khỏi cửa. Đương phố khi ấy vắng lặng, không một bóng người. Cho nên, thời gian chờ đợi lúc ấy thật dài. Mấy chị em chúng tôi háo hức và bồn chồn nhìn qua khe cửa gỗ có tay nắm, đợi người xông đất đến…”.

Người xông đất cho gia đình ông Thái An những ngày Tết xa xưa là cụ trưởng Xi – trưởng tộc của dòng họ Nguyễn Thái, Hàng Đào. Cụ trưởng Xi là người cao đạo, am hiểu nhiều lĩnh vực, và có uy tín nhất trong dòng họ. Khi tiếng cụ trưởng Xi bắt đầu sang sảng ngoài cổng: “Năm mới chúc ông bà làm ăn bằng năm bằng mười, chúc các cháu học hành tiến bộ…”, cậu tôi đã chuẩn bị sẵn một bánh pháo dài châm lửa khai cuộc. Mâm cỗ trên bàn thờ được hạ xuống, cả gia đình cùng người xông đất ăn lấy khước. Ăn xong, tụi trẻ đứng xếp hàng chờ cụ trưởng Xi mừng tuổi…”.

Khi những thủ tục của ngày mồng một đã xong, qua trưa, cả gia đình ông Thái An gọi năm chiếc xe xích lô kéo tay để đi chúc Tết ông bà nội, ngoại. “Cậu tôi ngồi một xe, mợ ngồi một xe, kèm theo một đứa trẻ. Tôi nhớ khi ấy, nhà ông Cai Mơ ở 58 Hàng Đào mở dịch vụ kinh doanh xe kéo phục vụ nhu cầu đi lại ngày Tết. Ông Cai Mơ có gần 100 chiếc xe kéo. Mỗi lần đi, một xe mợ tôi trả 5-10 đồng bạc Đông Dương!”.

Nhà ông bà ngoại ông Thái An ở làng Quỳnh Lôi. Hà Nội xưa chỉ bó hẹp trong 36 phố phường, ra đến mạn Bạch Mai, Quỳnh Lôi, Khâm Thiên… đã là ngoại thành. Cho nên, một cuốc xe kéo đi vòng hết 36 phố, cũng chỉ là một quãng đường rất ngắn.

Tết nay, trẻ con thiệt thòi nhiều!

Ông Thái An năm nay đã bước sang tuổi ngoài 60. Cửa hiệu Thái An chuyên đồ tơ tằm, đồ lụa, và may mặc ngày xưa của gia đình ông gia truyền từ nhiều đời. Trước, thời gian thịnh vượng nhất, cả làng Cổ Nhuế trở thành nơi cung cấp hàng cho cửa hiệu nhà ông. Có cả khách Lào, khách Thái Lan sang đặt mối.

Dọc phố Hàng Đào khi ấy, theo trí nhớ của ông, có cả những người buôn vải vóc, tơ lụa Ấn Độ. Ngày Tết cổ truyền của Việt Nam, những người ngoại quốc này cũng đóng cửa hàng, khép kín cửa và hoà nhập với Tết cổ truyền của người bản địa. Họ cũng sang các nhà bạn hàng chúc mừng năm mới, và cầu chúc những điều tốt lành…

“Ngày xưa, tôi nhớ các anh chị nam thanh, nữ tú chơi Tết khác với bây giờ. Con gái mặc áo tân thời, áo dài, bên ngoài là một chiếc áo véc nhung để tránh lạnh. Các anh thanh niên mặc đồ Tây, quần áo vét, đi giày đơculơ (giày 2 màu, mõm giày có một miếng da màu vàng), đó là mốt thịnh hành ngày ấy.

Những ngày đầu năm, người dân Hà Nội đi lễ chùa, trước khi đến chúc Tết họ hàng. Đấy là một nét riêng của Hà Nội. Đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ chật cứng người, chủ yếu là người đi bộ. Các bà, các chị ở xa thì đi xe kéo. Các hàng quán đều đóng cửa trong ba ngày Tết. Không ai bán hàng thời điểm này, vì nhà nào mở cửa, không có khách mau lại bị người ta khinh khi là kẻ tham công tiếc việc.

Chơi Tết kéo dài đến tận rằm tháng giêng, các bà, các chị hành hương đi lễ chùa. Cậu tôi cùng bạn bè của ông thì chơi tổ tôm, hay đi hát ả đào ở Khâm Thiên, Cự Đà bên dòng sông Nhuệ. Tôi nhớ ngày ấy, các anh chị thanh niên hẹn hò, thường rủ nhau vào các quán cà phê ven hồ Gươm: cà phê Giảng (Cầu Gỗ), café Lâm treo rất nhiều tranh Bùi Xuân Phái… Trẻ con đi qua đó, không được phép vào. Tôi hay nhìn thấy các cụ Đoàn Chuẩn, Đỗ Liên, cụ Phái ngồi đó thư thả uống café và nói chuyện.

Đầu năm, có một bà cụ gánh nước đến, tự động đổ đầy các khạp nước của các gia đình. Bà cụ không đòi giá, chủ nhà muốn đưa bao nhiêu cũng được. Không ai kỳ kèo mặc cả, mà đều vui vẻ tiếp nhận, như một thông điệp cho một năm tốt lành, tài lộc vào nhà nhiều như nước. Bà cụ ấy, tôi nhớ mợ tôi gọi là bà cụ Thân, nhà ở ngoại thành vào trong phố gánh nước bán lấy khước đầu năm.

Khi ba ngày Tết đã hết, những hàng quán đã bắt đầu lác đác trở lại. Sáng mồng bốn Tết, tôi thường bị tiếng rao “Lồ mế phàn” của ông già người Tàu đánh thức. Không cần chạy ra nhìn, tôi cũng biết, đấy là ông lão bán xôi lạp xườn rất thơm ngon trên chiếc xe gỗ đẩy có ba bánh. Trong tủ kính nghi ngút khói của ông già người Tàu, lạp xườn để một bên, một bên là chõ xôi nóng hổi vì bên dưới là một chiếc bếp than lúc nào cũng đỏ lửa… Mợ tôi từ nhà dưới gọi vọng lên, đánh thức mấy chị em dậy để ăn quà sáng…

Ông Thái An rủ rỉ như người đang bước ra từ cõi mộng. Những ký ức miên man của ông dường như bị ngắt quãng, khi đưa cháu nội của ông từ nhà trong chạy ra vòi ông nội. “Đấy, khi ấy tôi cũng chỉ nhấp nhỉnh bằng tuổi thằng cháu 5 tuổi của tôi. Ngẫm ra, lũ trẻ ngày nay, thiệt thòi hơn chúng tôi ngày xưa nhiều lắm. Ngày xưa, tụi trẻ con chúng tôi được chơi Tết, chứ không phải ăn Tết. Mà thấm thoắt, cũng 5-6 chục năm rồi chứ ít ỏi gì…”.

Ký ức Tết xưa: Lời chúc tối giản

Thứ ba 01/02/2011 07:00

Mùa đông 1989, NSND Đặng Thái Sơn từ nước ngoài gửi một thùng quà về biếu bố - nhà thơ Đặng Đình Hưng - gồm mấy bộ quần áo rét, rất nhiều túi xàphòng bột, mấy tấm toan vẽ đã căng sẵn các cỡ khác nhau và vài chục tuýp sơn dầu đều là hàng Liên Xô xịn.

Bác Hưng nhờ tôi: “Của ít lòng nhiều, cháu mang đến tặng bác Dương Tường và bác Trần Lưu Hậu mỗi người 1 cân xàphòng”. Xong việc, bác Hưng gọi tôi sang thưởng cho một miếng toan, cỡ chừng 50x70cm, loại toan đã lót sẵn.

Sinh viên hồi đó toàn vẽ sơn dầu trên bao tải hoặc gỗ ép, nên được tấm toan thuộc loại hàng hiệu như thế đâm ra lại không dám vẽ. Tôi kiếm mấy thanh giát giường cũ đóng khung, căng toan, treo lên tường ngắm. Được ngắm tấm toan trắng đã sướng tỉnh cả người. Thực ra không phải không dám vẽ gì mà muốn để dành, định bụng chọn một phác thảo nào ưng ý hơn cả vẽ cho bõ, cho xứng với miếng toan quý. Cuối cùng thì tôi cũng tìm được một cái ý hay…

Bây giờ ngoảnh đi, ngoảnh lại đã Tết. Ngày trước sao một năm dài thế có lẽ vì ngày nào cũng như ngày nào, chả có sự kiện gì, người nào cũng như người nào, không có gì đáng nhớ, không có gì đặc biệt, không ai đặc biệt, tất cả đều giống nhau từ áo quần, cười nói, suy nghĩ và cũng một phần nữa là chẳng có việc gì làm nên thời gian cứ dài ra. Đợi mãi chẳng đến Tết để khác đi một tí.

Tấm toan trắng treo trên tường đã được gần 3 tháng. Sốt ruột nhưng cũng thích, giống như có cái áo mới, để dành Tết mới mặc vậy thôi. Bữa đó còn mấy ngày thì Tết, tôi đạp xe, đeo túi lỉnh kỉnh giấy, hộp màu nước, bút, bảng vẽ, từ Giảng Võ đi một vòng quanh hồ Tây, Yên Phụ, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá, Bưởi; tôi ghi chép, ký hoạ để làm tài liệu mấy cái làng đó, cảnh mua mua bán bán, hoa quả, xanh đỏ, nói cười, chủ yếu là cảnh mua hoa, bán hoa, vườn hoa, chợ hoa, ruộng đào, ruộng quất…

Loanh quanh cũng mất hai ngày, đêm ngủ lại ở Nhật Tân. Từ Giảng Võ đi một vòng hồ Tây mà sao xa thế. Hà Nội ngày trước nhỏ nhưng thấy rộng (và đẹp nữa).

Chiều tối 30 Tết, tôi bày đống tài liệu ra nền nhà, hạ bức toan trắng xuống vẽ một tranh phố phường Hà Nội đón Tết, có nhiều người; đào quất, layơn, viôlét, nhiều hoa, nhiều màu sặc sỡ, hậu cảnh là nhà cửa lô xô. Tấm toan bé, tôi vẽ nhiều cảnh, toàn cảnh, nhiều người, nhiều màu, chật chội, đông đúc, chi chít. Tham chi tiết nhưng nó cũng toát ra được cái không khí của Tết. Hình như tôi hài lòng. Đón Tết, đón Xuân mới bằng một bức tranh mới.

Mùa đông năm đó lạnh lắm, Tết cũng lạnh. Gió mùa đông bắc về hết đợt này đến đợt khác. Hà Nội ngày trước lạnh hơn bây giờ? Mưa nữa, mưa nhiều hơn, mưa bụi thôi, càng lạnh.

Sáng mùng Một, bác Hưng gõ cửa xông nhà, chắc là tình cờ vì là hàng xóm, cùng trong khu tập thể Giảng Võ. Bác mặc cái áo bông chần dài chấm gối, đội mũ bông có hai tai và dây buộc ở cằm. Bác vẫn ngồi ghé ở đầu cái phản thấp ngay cửa ra vào, hút vài hơi thuốc lào, vẫn như mọi ngày, uống chậm, uống kiểu “quên cả cái chén trên tay” (câu này của bác Hưng); chỉ có bác uống như vậy vì bác uống cả ngày. Chuyện trò là chính.

Tôi khoe với bác Hưng bức tranh mới vẽ đêm trước trên cái toan bác cho. Bác lại gần, xem kỹ, có vẻ thoáng vui nhưng ngập ngừng không nói gì, lại uống, chầm chậm. Im lặng hồi lâu, bác bảo: “Cháu mang màu, bút ra đây, có vài chỗ cần sửa lại”. Đầu tiên bác muốn tôi xoá bớt mấy người bán hoa ở bên trái tranh, sau đó bỏ hết mấy cái nhà ở đằng sau đi, bỏ cái cây ở góc đường. Tôi giải thích, cố bảo vệ nhưng bác thuyết phục, tôi nghe theo, hơi miễn cưỡng. Làm xong, ngắm kỹ, quả thực là bức tranh đẹp hơn, thoáng hơn hẳn. Tôi dọn dẹp màu, bút.

Những năm cuối đời, bác Hưng rất thích vẽ, vẽ theo kiểu của bác, những vạch, nét, chấm, phẩy gì đó như một thứ ký tự riêng, những vui buồn gì đó được ký hiệu hoá và đưa lên giấy, lên toan. Xét vẽ theo nghĩa đen thì bác Hưng không quan tâm và có thể nói là không biết vẽ. Mỗi lần bác vẽ, tôi thường sửa soạn màu, bút cho bác, pha màu theo ý của bác. Tôi thì đã sắp tốt nghiệp khoa Mỹ thuật trường Sân khấu Điện ảnh, có vẻ thuộc các thao tác vẽ nhưng kỳ thực là chưa biết vẽ gì, chưa biết vẽ. Bác Hưng biết và băn khoăn về điều này. Tôi cũng lờ mờ biết vậy. Chính vì vậy mà bác thuyết phục tôi và tôi đã nghe được sự thuyết phục đó để xoá bớt các chi tiết thừa trong bức tranh.

Đã chia tay, chúc tụng, ra đến hành lang, bỗng bác Hưng quay lại, bác bảo: “Cháu xoá nữa đi, vẫn thừa nhiều quá, không cần mang màu, bút ra nữa, hạ tranh xuống, để cho nhanh, cháu cho bác tờ giấy”.

Bác xé vội tờ giấy thành mấy hình khác nhau, ướm thử, rồi dán đè lên tranh, che bớt mấy hàng hoa còn lại, che bớt đôi vợ chồng trẻ đang hí hửng mua được cây quất đẹp ở giữa tranh, che bớt đám mây, che bớt anh xe thồ chở đào, che bớt cột điện đầu ngõ v.v… Che bớt, bỏ bớt, xoá bớt gần hết. Mọi sự diễn ra rất nhanh, tôi chỉ đứng cạnh xem, bất động, chân tay đông cứng, người nóng ran. Tôi không nhớ lúc đó tôi nghĩ gì. Đã hơn 20 năm rồi! Bức tranh chỉ còn lại mênh mông, phẳng lặng và yên tĩnh, chỉ còn những khoảng trống không nói gì. Chỉ còn không. Chỉ còn một con đường.

Nhà thơ Đặng Đình Hưng mất vào tháng 12 năm 1990. Tết đó là Tết cuối cùng của ông, được ông sang xông nhà, chúc Tết. Ông đã nhìn thấy tạng tối giản trong tôi và muốn tôi bỏ “chủ nghĩa tối đa” đi để quay về với mình, quay về quan niệm nghệ thuật tối giản.

Con đường tối giản là món quà mừng tuổi, mừng năm mới, là lời chúc cuối cùng của ông dành tặng cho tôi, sự mong muốn của ông nơi tôi, lời chúc ngắn ngủi nhưng gian nan mà tôi vẫn đang theo đuổi đến hôm nay.

Ký ức Tết xưa

(BCTT) Ai cũng bảo Tết càng ngày càng buồn. Cũng có nhiều lý do để khẳng định rằng Tết buồn và cái câu “Vui như Tết” xem ra không còn được thịnh hành nữa.

Và tôi, xin được tự gọi mình là con nhóc chưa kịp lớn, cũng không trông mong ngày Tết như cái hồi còn be bé vì có nhiều lý do lắm lắm, để mỗi khi Xuân về chỉ kịp nhớ những cái Tết của ngày xưa!

Mới đầu tháng Chạp, khi má bắt đầu thở dài, nói ngắn “Tết nhứt đến nơi rồi” thì cũng là lúc tôi háo hức đếm ngược từng ngày. 29, 28, 27…sao mà lâu đến 3, 2, 1 quá! Sốt ruột nhưng cũng phải đếm. 330 ngày thì nhanh mà còn có mấy ngày đếm hoài không hết?!

Tết được gì nhỉ? Sao lại mong Tết nhường ấy?..

ừ giữa tháng 11 âm lịch, má đã mua chừng vài thước vải may cho hai đứa con gái (là tôi và em gái tôi) một bộ cánh mới (ở quê vẫn thường quen gọi là đồ bộ). Vải xà-nu, mốt-xi-lin (phiên âm theo tiếng của phường bán vải)…và trong trí nhớ chưa đến nỗi của tôi thì chị em tôi chưa bao giờ có một bộ cánh vải gấm, vải hoa cho đúng nghĩa vuông tròn như con bé Hai cạnh nhà.

Hai chị em dẫn nhau đến thợ may rồi lại đếm ngược từng ngày để được ướm thử bộ cánh. Lấy được bộ đồ bộ mới cóng về nhà thì má đem cất vào tủ, hai chị em cứ đợi đến khi bố mẹ đi làm lại lấy ra mặc, săm soi nhìn mình hoài trước gương. (không ngờ ngày đó mình điệu thế!).

Được bộ cánh mới rồi lại đợi đến ngày được má chỉnh chu cho bộ móng vuốt. Lọ nước sơn móng chừng 3.000 vietnamdong xài cả năm trời, đến khi nào khô bôi không ra màu mới vứt, được đem ra làm dụng cụ tân trang.

Trước Tết vài ngày, chị em tôi rửa tay thật sạch, sạch lắm, sạch đến nỗi mãi đến tận bây giờ tôi cũng chưa nghĩ là mình có thể rửa tay sạch như hồi đó, để má sơn lên đó những màu đỏ đỏ, bầm bầm. Sơn được bộ móng lại lóng ngóng chừng vài ngày. Luôn luôn vểnh những móng tay màu tiết canh một cách quá mức, rồi suốt những ngày sau đó chị em tôi không dám làm gì vì sợ bị sướt màu móng!

Du xuân ngày còn bé cũng thật hoành tráng. Nhà không có xe máy nên ba má không thể đèo bòng các con đi theo trên xe đạp cũ kỹ, thế nên tụi con muốn “du xuân” ở đâu cũng được. Lựa chọn duy nhất là về thăm ngoại, viếng nội. Nhà tôi cả thảy năm anh em, sáng mùng Một kéo nhau đi rồng rắn đến là thương thương.

Lì xì năm mới cũng hết sức giản dị. Không có phong bao chỏ chóe hay vàng khè như bây giờ, cũng không phải chen chân đến ngân hàng đổi tiền mới thẳng cóng như người ta vẫn làm hiện nay mà là những đồng bạc lẻ, đôi khi lẻ đến không ngờ nhưng con cháu vẫn mừng tíu tít, hân hoan vì được tiền mừng tuổi đầu năm…

Giờ lại tự nhiên hết thích Tết. Áo quần đẹp hơn, phương tiện đi lại cũng đàng hoàng hơn, ăn uống có cả thịt hầm, pepsi, cô ca, bia nhậu mệt nghỉ, rượu uống nó say, chè chén bù khú…vậy mà lại chán. Mấy năm học ở Sài Gòn tự mua áo quần, tự sắm một vài thứ linh tinh mà mình thích, mua những hộp bánh “from Sai Gon city” về thắp nhang cho ông bà ngoại, nội.

Con bạn cùng lớp hồi cấp hai mở tiệm cắt, uốn, sấy, gội, nhuộm thế là đi đến vừa cắt tỉa đầu tóc, lại có cơ hội được buôn dưa lê, mang tiếng ủng hộ quán sá bạn cuối năm mà lại được khuyến mãi giữa lúc giá cả đắt đỏ vì Tết. Anh Hai, anh Ba có gia đình riêng, mình cũng có phong bao đỏ chóe lì xì cho hai cháu…anh Hai, anh Ba không rồng rắn với mấy đứa em đi thăm nội, viếng ngoại vì phải bận nhiều việc.

Giao thừa ngồi xem tivi, cắn hạt dưa trong tiết trời càng ngày càng rét run…

Tết buồn vì mình đã lớn ư?

TẾT XƯA

POSTED BY

ADMIN

ON JAN 28, 2012 |

LEAVE A COMMENT

Với nhiều người, Tết xưa dường như vẫn còn phảng phất trong tâm thức mỗi khi mưa xuân bao phủ hiên nhà. Cùng hoài niệm về cái Tết của người Hà Nội đang được lưu giữ trong ký ức của nhiều thế hệ tiếp nối nhau…

Những năm tôi còn thơ ấu, Tết bắt đầu bằng việc mang đồ thờ, đỉnh đồng, đèn đồng ra đánh sáng choang, và thầy tôi mang câu đối ra treo. Ngày thường, nhà vẫn treo câu đối gỗ, nhưng những đối trướng mừng thọ bà nội, bằng gấm, bằng nỉ đỏ thêu kim tuyến hình những ông tiên, ông thọ, thủy ba, vân cuốn thủy rồi chim muông, hoa lá, thì Tết mới lại mang ra treo. Treo kín những bức tường, đỏ rực cả không gian. Vui nhất là ngày treo câu đối. Thế là Tết đã đến rồi…

Sau đó là bác tôi từ Hà Nội về mang theo vô số thứ, giò lụa, giò gà, bánh chưng, rượu mùi, rồi bát hoa thủy tiên lạ mắt… nhưng tôi sướng nhất là có bánh pháo cuộn tròn to như cái nón. Chỉ chờ người lớn không để ý, rón rén mở ra ngó một cái là đã sướng mê mẩn, rồi chạy vội đến nhà cu Chệu, bạn tôi để khoe”.

Cụ Phan Lạc Đa, năm nay đã 88 tuổi, ở 65 Châu Long, Hà Nội nhớ những ngày Tết xưa ở quê với những ký ức còn tươi rói như thế.

“Là con trai lớn trong nhà nên khi 9 – 10 tuổi, tôi luôn ôm tráp theo thầy tôi đi lễ Tết. Tráp là cái hộp gỗ sơn then hình chữ nhật, cao và rộng chừng 30 phân, rộng 40 phân, mở ra có vẽ trúc mai ở mặt trong của nắp hộp. Tôi cũng mặc áo the dài, quần trắng và đầu phải quấn khăn nhiễu tím, giầy Chí Long thật trịnh trọng. Cái tráp ấy đựng bánh mứt, cau trầu và hương. Đầu tiên, là đến nhà bác Tú, lễ cụ Giải nguyên rồi sang bên ngoại, hai chỗ này tôi đã được giao mang lễ đến từ chiều 30 Tết.

Sau hai chỗ ấy, hai cha con đến lễ Tết cụ Thiếu bảo Đại học sĩ, vị Thượng thư hồi hưu mà thầy tôi gọi là cậu ruột. Dù là con cháu trong nhà nhưng đến đó lúc nào tôi cũng thấy rất trịnh trọng. Trông thấy cha con tôi đến là cụ vui lắm, vui vẻ mời ngồi uống trà, tôi thì vội theo cha chắp tay “Lạy ông lớn ạ” rồi ra thắp hương, lễ trước bàn thờ, sau đó mới ngồi xuống tràng kỷ, hầu trà cụ.

Cụ Thượng mặc áo gấm đỏ, trên gương mặt đôn hậu có những chấm đồi mồi. Sau những lời chúc tụng, cụ thường mừng tuổi cho tôi một đồng 2 xu dày. Hai xu bằng bốn chinh, có thể mua được cái bánh chưng, nhưng đồng 2 xu dày này còn quý ở chỗ đánh đáo thích lắm. Tôi để đồng tiền trong túi áo mà thỉnh thoảng lại nắn xem nó có ở yên đó không…Mỗi dịp Tết như thế, phải đi lễ Tết rất nhiều, trước hết là những gia đình quan hệ thân tộc nội ngoại, thông gia, hàng xóm gần gũi, rồi những gia đình mà nhà mình có mồ mả ở ruộng nhà họ. Những gia đình đó thì không chỉ thẻ hương, quả cau mà có bánh, mứt nữa.

Đi lễ Tết rất mỏi chân, nhưng thật là vui vì có nhiều tiền mừng tuổi. Nhà cô nghèo thì cho một chinh, nhưng đến nhà ông Cả Hữu, một thương gia từ Nam Định về ăn Tết thì năm nào tôi cũng được mừng tuổi 1 hào… 1 hào đó là cả gia tài của tuổi thơ. Dọc đường làng, người đi lại tấp nập, ai cũng mặc đẹp, nhất là những người đi làm ăn, buôn bán các nơi, các vị quan chức về quê ăn Tết. Các cụ gặp nhau đều vái chào và chúc tụng, cười nói râm ran, trên đường đầy xác pháo như những bông hoa”.

Xếp hàng mua hàng Tết

Bà Phan Thị Nhiệm, 61 tuổi ở ngõ 29 Thụy Khuê, Hà Nội không khỏi bật cười nhớ lại việc chuẩn bị đón Tết trong những năm tháng bao cấp. Hồi đó, người Hà Nội đều có tem phiếu, phiếu mua thực phẩm, phiếu mua chất đốt, phiếu mua vải và sổ gạo. Ngày Tết, mỗi gia đình được mua một số hàng hóa bao gồm vài cân thịt, dăm cân gạo nếp, một ít đỗ xanh, miến, bóng bì, hai bao thuốc lá, hai gói chè Ba Đình, chai rượu cam, vài cân bột mỳ, một chai nước mắm, ít lá dong, rồi củi đun bánh chưng, một bánh pháo tép… Tất cả đều phải có phiếu và đương nhiên đều phải xếp hàng.

Bà Nhiệm kể: Mua hàng Tết là vất vả lắm và phải chịu khó mới được. Nhiều khi phải xếp hàng từ 12 giờ đêm, để sáng sớm họ mở cửa hàng là mình đứng gần đầu ngay. Ai lười, chậm chân một chút thì có khi đến lượt là hết hàng, phải chờ buổi sau hoặc có còn thì cũng là những thứ đầu thừa đuôi thẹo.

Hồi đó mua thịt ai cũng thích mua được thịt thủ, vì được mua nhiều gấp đôi thịt mông, thịt dọi (ba chỉ), nên muốn mua được thịt thủ thì phải đi xếp hàng sớm. Người nọ gọi người kia, như đi xem phim bãi. Ra đó, vừa kê ghế ngồi giữ chỗ vừa nói chuyện râm ran cho đỡ buồn ngủ. Chưa kể, một dãy quầy hàng, không biết họ sẽ bán ở quầy nào, thế là phải liên kết với nhau, hai người xếp hàng hai dãy, cầm thêm cái nón mê hay hòn gạch giữ chỗ hộ người kia. Nếu không phối hợp thế thì có khi công cốc.

Thông thường, để mua đủ số hàng Tết đó, phải mất nhiều buổi trong cả tuần, mà như bây giờ số thực phẩm đó không đủ một bữa liên hoan. Mua xong hàng Tết thì con gái trong nhà lo việc đi làm bánh quy gai, quy xốp. Khi đó Hà Nội có vô số nhà mở lò làm quy gai, quy xốp, đến nỗi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lần đầu tiên ra Hà Nội ngạc nhiên hỏi: “Ông Quy xốp” là ai mà nổi tiếng thế?!”. Vài cô bạn thân lại rủ nhau cùng đi làm bánh. Họ đưa cho mình cái chậu nhôm và cái dụng cụ khuấy, thế là đường, trứng, bột mỳ của mình cho vào đấy, đánh đều lên, càng đánh kỹ càng tốt.

Sau đó họ mới dùng khuôn để làm bánh quy gai, là những thỏi dài chừng 10cm có những cái gai lốm đốm, hay bánh quy tròn, quy vuông có răng cưa chạy quanh và đưa vào lò. Làm xong mẻ bánh cũng hết nửa ngày.

ong hết những việc đó thì những phụ nữ khéo tay tranh thủ làm thêm chút mứt gừng, mứt quất để thể hiện tài nữ công gia chánh của con gái Hà thành. Phải nói, hồi đó cái gì cũng hiếm, một trong những thứ quý hiếm nhất là đường.

Bà Nhiệm bật cười kể: Nhà một cô bạn tôi trong xóm, quanh năm không dám uống một thìa nước đường, tất cả số đường mua được, chỉ tiêu 2 lạng/người/tháng, ông bố cô ấy đem tích vào một cái bình thủy tinh, bày trang trọng giữa nhà, khiến ai đến chơi cũng choáng ngợp. Lọ đường kính như thể hiện đẳng cấp phong lưu của gia chủ.

Đường đã thế, mỳ chính còn quý bội phần. Vì thế, cái gì hiếm thì người ta ví “như mỳ chính cánh” . Hồi đó, phở mậu dịch thường nhạt nhẽo, ít thịt nhiều bánh, nên có một số người thường chứng tỏ sự giàu sang của mình bằng cách, trước khi ăn, họ lấy trong túi ra cái lọ penixilin đựng mỳ chính, rồi trịnh trọng lấy cái tăm chấm một cái và hòa vào bát phở, trong sự ngưỡng mộ của những người xung quanh.

Có điều là hồi đó khó khăn, thiếu thốn, cái gì cũng phải xếp hàng nhưng không ai thấy sốt ruột như bây giờ, ai cũng thong thả, vui vẻ với cái công việc xếp hàng và chờ đợi như thế…

Chợ Tết Sài thành 70 năm trước

“Hễ gần đến Tết thì chợ Bến Thành lại một phen rộn rịp, tưng bừng. Từ 23 tháng Chạp, người ta đã làm thành những dãy quán lá để bán hàng Tết mấy hôm chợ đêm. Người ta phải giành chỗ trước từ đầu tháng Chạp. Nhận chỗ ngày nào phải đóng thuế chợ ngày ấy. Đến hai mươi ba thì các gian hàng đều làm xong hết, hàng Tết đã bày la liệt. Chiều đến, người ta đi mua bán đã rộn ràng.

Nhưng vui nhất chỉ có ba hôm chợ đêm: 27, 28, 29. Ba hôm đó trong chợ, ngoài chợ, hàng bán suốt sáng. Mấy người bán hàng thay đổi nhau thức để bán, mỗi hàng 5 – 7 người: Người cân, người gói, người đếm tiền, không lúc nào được rảnh tay. Mấy gian hàng báo chí đã thấy treo đầy những sách báo mùa xuân. Mấy cụ đồ nghiêm trang trong bộ quần áo mới tề chỉnh đang cố nắn nót những nét chữ mềm mại và mạnh mẽ trên những tờ giấy đỏ chói, nào là tài lộc, phú quý, thọ khang…

Chỗ này mấy gian hàng cây cảnh, xếp từng dãy chậu; Nào là hồng, cúc, vạn thọ, mào gà, cam quất, lại còn cành mai trắng cùng những bó hoa Đà Lạt xinh tươi rực rỡ muôn hồng nghìn tía như thi sắc đẹp với khách đi chơi chợ Tết.

Đằng kia san sát những gian hàng nào rượu, pháo, bánh mứt, kẹo, hạt dưa, nào cam, quít, bưởi, dưa hấu, thanh trà… nhiều không xiết kể. Lại xen thêm cả mấy bó hoa giấy xanh đỏ trắng vàng… Dưa hấu, bưởi đỏ là món đặc biệt của Tết Sài Gòn, thiếu hai món đó là thiếu mất hương vị ngày Tết”.

“Giờ mình cũng lưu luyến”!

Ông Lương Văn Quýnh (60 tuổi, người dân tộc Thái ở bản Xốp Chạng, xã Yên Hòa, huyện Tương Dương, Nghệ An):Tết của người Thái xưa khác so với bây giờ rất nhiều. Người đàn ông Thái có mái tóc trắng, luôn nở nụ cười nhớ lại: Mỗi lúc đến Tết, con cái dù đi đâu cũng về quây quần ở nhà. Tối 30 Tết, cả nhà ngồi gói bánh chưng và thức nấu bên bếp củi rực lửa. Lúc ấy cái giá lạnh của miền sương núi tan mất, chỉ còn lại là tiếng cười khúc khích, tiếng chuyện trò rôm rả. Đây cũng là thời điểm mà tôi chọn con gà to, đẹp làm thịt để cúng tổ tiên (gà trống, gà mái đều được nhưng không được gà màu trắng vì theo người Thái thì như thế là kiêng). Mồng 1 Tết, nhà nào có lợn thì làm thịt lợn rồi tiếp tục cúng một lần cuối cùng. Đến khi ăn Tết thì hàng xóm chia nhau “ăn ké”. Buổi sáng thì nhà tôi mời hàng xóm sang ăn Tết, trưa, tối lại ngược lại. Cứ thế mấy ngày Tết cả xóm, cả bản ăn uống giao lưu. Đặc biệt, Tết của người Thái xưa không thể thiếu bình rượu cần, cùng uống rượu rồi nhảy sạp, ném còn, quạnh lòng (tiếng chày đâm vào lòng gỗ tạo nên tiếng kêu) và tiếng cồng chiêng dội vang bản làng… Giờ không còn nữa mô (đâu). Tết giờ bỏ hết rồi. Giờ mình cũng lưu luyến, cũng thích cái Tết xưa lắm. Nghe tiếng cồng chiêng là thấy Tết thôi. Giờ không còn nghe nữa đâu”. Trọng Đức (ghi)

Nhớ lắm, Tết xưa!

Ông Cao Xuân Thái (63 tuổi, tổ 15, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, Đà Nẵng):Tôi vẫn nhớ như in những cái Tết từng trải qua trong thời bom rơi đạn nổ, nhất là cái Tết năm 1963. Đêm 30 Tết gia đình tôi đang nấu bánh chưng. Khi nồi bánh chưng chín, chưa kịp đưa lên bàn thờ thì bất chợt có người gõ cửa. Trong tâm thức của cậu con trai 14 tuổi, tôi vẫn nhớ những khuôn mặt đàn ông đã bước vào nhà tôi lúc đó. Khi những vị khách đã vào nhà và cửa đã đóng, then đã cài, bố mẹ tôi vớt bánh chưng ra cho các vị khách ăn. Tôi thắc mắc thì bố tôi lúc đó chỉ lắc đầu ra hiệu im lặng. Sau này tôi mới biết những vị khách đặc biệt kia là những chiến sĩ cộng sản. Ăn xong bánh bố mẹ tôi còn đùm mấy đòn bánh chưng để dành cho những vị khách mang đi. Bỗng tiếng chó sủa dồn. Các vị khách nhanh chóng ẩn khuất trong bóng đêm 30 Tết bằng cửa sau. Một toán lính dân vệ địa phương ập vào cửa trước tra khảo đủ điều. Sáng mồng 1 Tết còn “mời” bố mẹ tôi lên trụ sở xã làm việc… Tết ngày xưa thiếu thốn là thế nhưng sao vẫn rất đầm ấm và hạnh phúc. Cái hương bánh chưng mà cả nhà cùng quây quần đêm 30 Tết ngày ấy cứ theo mãi tôi đến tận bây giờ. Dù mọi thứ của Tết nay đều có thể mua ở chợ, nhưng sao tôi vẫn thèm đến lạ cái hương bánh chưng Tết ngày xưa. Ngọc Duyên (ghi)

Mâm cỗ 6 bát 8 đĩa

Cụ Nguyễn Thị Định (85 tuổi, 147A Phố Huế, Hà Nội):Tết vui lắm! Từ khoảng ngoài 20 tháng Chạp là đã háo hức chuẩn bị sắm sửa thực phẩm chuẩn bị cho mâm cỗ cúng gia tiên ngày Tết rồi. Một mâm cỗ nhất thiết phải có ít nhất là 6 bát 8 đĩa. 6 bát có thể kể ra là bóng, cá thủ, nấm, mực, măng, long tu; 8 đĩa gồm gà luộc, gà quay, xôi vò, xào đỉa bể, nấm thập cẩm, chả quế, giò lụa, hạnh nhân. Trong đó món hạnh nhân gồm 10 vị như su hào, cà rốt, nấm, thịt, củ đậu, đậu hà lan, tôm nõn thái nhỏ… xào chín, thêm giấm và chút bột sánh, rắc hạnh nhân lên trên. Sau khi tập trung làm mâm cỗ cúng gia tiên trong không khí quây quần, đầm ấm, cả nhà lần lượt đứng lễ trước ban thờ. Không khí thật thiêng liêng, ấm cúng.

Không còn háo hức như Tết xưa. 

Ông Nguyễn Công Tiến(người chứng kiến hơn 60 cái Tết tại số nhà 51 Hàng Chiếu, Hà Nội):Có lẽ vì bây giờ mọi thứ đều quá dư thừa, từ thực phẩm, hay quần áo mới, nên cái háo hức đón chờ ngày Tết không còn được như xưa, nhất là đối với trẻ em. Người lớn thì cũng vì quanh năm quá bận rộn nên chỉ mong Tết đến để được xả hơi, được nghỉ đi chơi… Dù có nhiều thay đổi nhưng Tết nay vẫn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống, nhất là không khí nhộn nhịp của chợ hoa, cây cảnh. Tết đến nhà nào cũng phải có được cành đào, cây quất, chậu hoa hay lọ hoa tươi thể hiện văn hóa quan tâm đến đời sống tinh thần. Ngoài ra, việc sum họp gia đình, cúng lễ tổ tiên là những việc có ý nghĩa quan trọng nhất trong ngày Tết cũng không bị phôi pha.

Nhớ mùi của TếtBà Vũ Thị Phụng (72 tuổi, 13 Nguyễn Khắc Cần, Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội): Mẹ tôi thường mua lá, đãi đỗ, ướp thịt rất nhiều và tự gói bánh rồi luộc bằng thùng phi. Củi mua của những người ở quê gánh lên bán. Nồi bánh được đặt ở giữa sân rồi cả gia đình tụ tập sau bữa cơm chiều để bắt đầu luộc đến tận sáng hôm sau. Đến bây giờ không còn luộc bánh chưng nữa, nhưng mỗi khi ăn miếng bánh chưng ngày Tết tôi vẫn như thấy mùi khói bếp, tiếng nồi bánh sùng sục sôi và mùi hơi bánh bốc lên thoang thoảng. Lúc đó tôi mới hơn 10 tuổi, thường tự tay gói những chiếc bánh nhỏ xíu để nửa đêm khi mọi người đói thì những chiếc bánh nhỏ đó chín trước và có thể vớt ra ăn. Háo hức nhất là khi bánh đã chín, được vớt ra, đem xếp bằng và đặt một tấm gỗ lên trên rồi nén lại bằng cối, gạch và tất cả những vật nặng mà lũ trẻ chúng tôi lấy được”. L.N(ghi)

Tết tuổi thơ trong ký ức cư dân mạng

22-01-2012 | 

12:12

(Nguoiduatin.vn) - Dù ít dù nhiều, trong ký ức mỗi người vẫn luôn ghi nhớ những kỷ niệm về cái Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Trong không khí đón Tết náo nức, những kỷ niệm thời thơ ấu lại trở về và trở thành chủ đề quen thuộc bên mỗi ly café, tách trà. Các cư dân mạng cũng có những cách riêng để chia sẻ câu chuyện của mình.

Trên các diễn đàn mạng, chủ đề về Tết cổ truyền thu hút sự quan tâm của rất nhiều thành viên. Mỗi người một câu chuyện, mỗi người một cảm xúc khác nhau khiến không khí tết trên mạng càng trở nên rạo rực.

Một số bạn chia sẻ thích tết vì được nghỉ ngơi, tự tay nấu những món ngon mang hương vị ngày tết. Một số bạn lại chia sẻ không thích hương vị ngày tết bằng thời thơ ấu vì cuộc sống hiện đại có nhiều thay đổi, con người bận rộn hơn nên không còn những đêm nấu bánh chưng như thuở nào, không còn ngửi mùi khói pháo, không còn tập trung mọi người nấu nướng chuẩn bị đón tất niên mà đặt cỗ cho nhanh... Đa phần các bạn đều đồng ý rằng cái Tết ngày xưa trong tâm thức thiếu thốn hơn nhưng cảm giác vui hơn, háo hức hơn.

“Mình là 8x đời cuối, nhưng không vì thế mà mình quên những kí ức về tết ngày xưa. Mình còn nhớ cứ mỗi khi Tết đến, bố mình lại mua về 3 loại pháo: 1 là các băng pháo đùng to bằng cục pin, 2 là pháo tép, mỗi viên băng bé xíu và cuối cùng là pháo cây, mỗi khi bóp vào đầu và châm lửa là nó phụt phụt ra. Ngày tết, trước cửa mỗi nhà đều căng 1 sợi dây để treo pháo. Nhà mình ở trong ngõ nhỏ, nên người ta căng dây cho cả ngõ luôn. Trước cửa mỗi nhà đều có 1 dây pháo đùng. Còn pháo tép cho trẻ con đốt nghịch thôi. Không khí tết ngày xưa nó đúng là Tết hơn. Trẻ con ai cũng háo hức, và đúng là càng lớn thì cảm giác về Tết càng phai nhạt dần.

Có duy một điều mình thấy vẫn thế đó là, Tết thì ở Hà Nội vắng vẻ đi nhiều, và lúc đó mới thấy Hà Nội đẹp đẹp, không xô bồ, ồn ã như ngày thường. Lúc đấy mới thấy Hà Nội là của mình” -Vietnguyenduc162

.

“Ôi, thế là lại sắp đến tết, lại cái cảm giác đấy, nhớ năm ngoái đi xem pháo hoa còn chả vui được trọn vẹn, cứ lẩm nhẩm nhỡ năm sau không đỗ đại học có phải là mình buồn lắm không, giờ thì khác rồi.

Thích nhất ở tết, đó là những người ở xa đáp máy bay về Việt Nam ăn tết, thấy vui lắm lắm lắm. Thích lắm những khi nghe câu nói: "Tết này bác về con ạ"... "Có, anh sẽ tranh thủ về mấy ngày hưởng cái tết Hà Nội"...

Tết đến mình lại lục đục cắt cắt dán dán, hình như mỗi năm mình làm cho một người, năm nay cũng thế. Mình có thói quen viết những cái gì chưa đạt được ở năm cũ, cái gì mình không thích ở năm cũ vào giấy, rồi đến gần giao thừa thì đốt đi cho nó xả giận vì chưa làm trọn vẹn được việc gì”, bạn

Jennie

viết.

28-29 tết, khoảnh khắc chuyển giao này tự nhiên lại thấy lòng xốn xang. Giờ này năm ngoái còn lang thang ngoài chợ hoa, giờ này đắm mình trong đống số liệu. 8 giờ tối về đến nhà. Mẹ cười "về sớm vậy con, đi chợ không?". Té ra chỉ cần về sớm hơn ngày thường 2 tiếng. Đi chợ, nghe thoang thoảng đâu đây mùi trầm, mùi hoa, mùi bánh, hình như cũng không phải nữa, nhưng nó cứ làm mình nôn nao. Trước mùi của tết, ai cũng thấy mình như nhỏ lại, lòng thanh thản và đằm thắm ra. Mệt mỏi của hôm qua cũng gác qua, chán chường của hôm qua cũng chỉ còn là một chút dư âm xa xôi, tôi tự cho mình cái quyền được mơ ước, được cầu mong cho một năm mới đầy những tốt lành” –Nguyenvoha

Bạn

Minhtrietarch

nhớ lại: “Cái tết ngày xưa vang lên bởi tiếng pháo, âm ỉ một niềm vui bởi không khí gói bánh, bắc bếp luộc bánh ròi vớt bánh, càng đặc biệt hơn khi thời tiết lạnh, mấy anh em cùng papa mama quây quanh bếp, đứa thì vùi khoai đứa chăm chăm chiếc bánh trưng bé mama gói riêng, papa thì lo châm nước, rồi hương lá mùi tắm để đón giao thừa. Thời khắc giao thừa, đứng dưới mưa xuân nhìn ngược lên ánh đèn đường, le lói lên là những búp non đầu cành ...

Lớn lên một chút là những năm học cấp 3, rồi đại học, tưởng chừng như  không khí tết đã nguội dần vì không còn cái thú ngồi bên bếp luộc bánh, không còn vang lên tiếng pháo, lá mùi chả buồn tắm... Bây giờ thì khác rồi, không khí tết đã dần trở lại trong tôi, khi mà cái tết dần dần là trách nhiệm của mình, lo tiền sắm tết, mua đồ cho tết, dọn nhà đón tết, mama có tuổi rồi nhưng vẫn luộc bánh đón tết, cái không khí chuẩn bị cho tết thực sự mệt hơn xưa nhưng lại có ý nghĩa hơn xưa.

Chúng ta là thanh niên thế hệ mới, tùy từng giai đoạn của cuộc đời nhưng hãy chung tay giữ gìn phong tục tết cổ truyền đất bắc nha!!!

Trên diễn đànWebtretho

, rất nhiều topic với chủ đề hồi tưởng về tết cũng rất “xôm tụ”.

Hồi nhỏ ở dưới quê mỗi lần Tết đến là mình mừng lắm, không khí thật vui, gió chướng thổi mát rượi, nhà ai cũng được dọn dẹp sạch sẻ, mùng chiếu, áo quần, chén bát phải sạch sẽ hoàn tất như trút hết những ưu phiền, lo âu mệt nhọc của năm cũ, bắt đầu năm mới với những thuận lợi, phát tài, vui sướng, không còn lo toan... Chiều 30 Tết tất cả phải xong đâu vào đấy! Mùng 1 Tết chỉ việc ăn chơi, không phải bắt tay vào làm việc gì, để sang năm mới không phải cực khổ, không quét nhà đến hết ngày mùng 3 Tết. Con nít chiều 30 Tết được tắm gội sạch sẽ, mặt bộ quần áo mới may, còn thơm mùi vãi mới, trong lòng cứ nôn nao, vui sướng... Hồi ấy dưới quê mình chưa có tục lì xì nhiều như thời gian này” – nickname

Thúy Kiều

nhớ lại.

Còn với bạn

Ánh Dương

, mỗi lần tết đến, thành viên này lại nhớ đến người cha đã mất: “Mình thích ngày tết xưa: bố mình chẻ lạt, mẹ gói bánh, chị em mình chỉ cắt lá theo chỉ dẫn của mẹ, bố siết lạt và xếp vào nồi luộc, ép. Tuy bận rộn và mệt nhưng rất vui. Cả nhà xúm xít bên nhau chờ nồi bánh và nghe bài

Xuân này con không về

; mẹ mình lại chấm nước mắt vì anh trai học ở Hà Nội không về được. Cái mùi pháo, cái không khí của các hàng dưa hấu ở công viên đối diện nhà mới nhộn nhịp làm sao. Rồi cùng mẹ đi mua mai ở đường Châu Văn Liêm. ...

Tất cả đã là quá khứ, nhớ tới đấy là mình nhớ tới bố mình, sau khi bố mất mình phát hiện ra mình yêu quý bố hơn mình nghĩ”.

Bạn T.Cúc, sinh viên trường ĐH Bách Khoa Hà Nội cũng rất háo hức với cái tết đầu tiên của một tân sinh viên: “Xa nhà, xa quê 5 tháng, Tết là dịp để đoàn tụ với gia đình, bạn bè tôi ai cũng hào hứng, mong mỏi, đợi chờ. Có những bạn 1 năm về quê 2 lần vì phương tiện giao thông, đường xá xa xôi, mọi người ai háo hức lắm chứ! năm nay sang tuổi 19, đặc biệt đây là năm đánh dấu tôi đã lớn, chính thức sống độc lập chứng tỏ bản lĩnh của mình tôi lại mong ngày ấy tới gần hơn. Ngày Tết tới gần, lòng tôi lại háo hức hơn, khắp nẻo đường nào đào, quất nở nụ cười khoe sắc thắm. Trên đường đã xuất hiện cơn mưa phùn, mùa xuân đã đến. Mùa xuân đến đánh thức trong ta những âm thanh vang động, những màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào, gieo vào lòng ta những thoáng dao động mơ màng gợi cho ta những suy ngẫm về cuộc sống, về ngày Tết cổ truyền của dân tộc.

Với sinh viên, sau những giờ học căng thẳng của cuộc sống giảng đường, nay trở về nhà ăn Tết, được quây quần cùng gia đình, được vui chơi cùng bạn bè là một cách thư thái tốt nhất. Để rồi sau khi ra Tết lại bắt đầu những dự định mới, những hoài bão mới cho tương lai của chính họ và cho đất nước.”

Những kỉ niệm ngày Tết gắn liền với tình cảm gia đình, với những người thân, tràn ngập tình yêu thương. Vì thế, đó là những kỉ niệm hạnh phúc và khó quên nhất. Dòng cảm xúc về tết của các cư dân mạng càng kéo dài hơn trong không khí chuyển giao giữa năm cũ và năm mới.

Đón Xuân này… Nhớ Tết xưa!

Xuân, Hạ, Thu, Đông… Rồi lại Xuân!”...

Tết là khởi đầu của mùa Xuân vì đó là dấu mốc thời gian đi qua trong một Đời người. Chớp mắt, mùa Xuân rồi cũng đến như quy luật của muôn Đời! Đất trời vào xuân mang hơi thở rất lạ, có chút gì đó nồng nàn, tâm hồn con người rộng mở, một chút khoan thai dễ làm lòng người chìm trong thứ men say ngất ngây, lòng người dường như bao dung với Xuân, với cuộc Đời. Hòa mình trong điệu Valse chậm và trữ tình “…Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về , mùa bình thường mùa vui nay đã về …” ( Mùa xuân đầu tiên-Văn Cao). Thổn thức xuân, bồi hồi xao xuyến trong ký ức nhớ Tết ngày xưa. viết một Entry tản mạn cuối năm 2011.

Nhớ Tết ngày xưa…

Nhớ lại ký ức Tết ngày xưa, lòng tôi lại rạo rực bởi một cảm xúc thật lạ có cả buồn vui như “Một cơ chế tổng hợp cảm xúc”. Một thứ hạnh phúc ngọt ngào có thể ám ảnh suốt cuộc đời.

Xuân yêu thương-1980:

Còn nhớ những năm 1980 - Những năm thời bao cấp - Tôi và lũ trẻ rất trông mong đến ngày Tết. Với suy nghĩ giản đơn khi đó: Tết là được ăn no, được nhận tiền lì xì từ người thân, được khoe những bộ quần áo đẹp, được ăn bánh kẹo, được đi chơi thỏa thích… Nghĩ lại thấy buồn cười. Đã có một thời như thế, với con trẻ đợi Tết cũng là một hạnh phúc. Một hạnh phúc ngọt ngào nhất! Còn nhớ ngày nào vẫn thường đếm ngược thời gian trên ngón tay để mong Tết, tính từng ngày trong sự hân hoan và sung sướng. Một cái cảm giác ngóng trông chờ đợi cho thời gian trôi qua mau đến ngày tết để được “ Ăn ngon, mặc đẹp”, được trở về với yêu thương.

Lăn tăn trong ký ức, có lần tôi lau nhao hỏi Mẹ: "- Mẹ ơi! còn mấy ngày nữa là đến Tết? " Mẹ cười, mắng yêu bằng chất giọng xứ Nghệ trọ trẹ: “ - Cha nhà anh, không trông mong cái gì lại mong đến Tết”. Dường như những khó khăn cuộc sống trong thời bao cấp không làm lũ chúng tôi bận tâm lắm mà ngược lại cảm thấy hân hoan, rạo rực hơn khi mỗi độ Xuân về.

Bố mẹ đã lo chuẩn bị cả vài tháng để đón Tết, chỉ riêng những”Tấm áo mới” cho một tiểu đội lóc nhóc ngũ quỹ đã là cả một “Vấn đề nghị sự” quan trọng. Năm nào cũng vậy dù khó khăn đến mấy, Mẹ tôi cũng dành dụm tiền để sắm quần áo cho con cái trong nhà. Nhận được vải theo tiêu chuẩn tem phiếu, Mẹ dẫn anh em tôi đến một nhà may trong thị xã, câu đầu tiên Mẹ nói với họ: “- Bác may rộng rãi vào nhé, cháu đang tuổi lớn…”. Anh em chúng tôi trong những cái quần rộng phết đất, những cái áo rộng thùng thình đến độ không gì còn rộng hơn thế. Khi mặc vừa vặn nhất thì tất thảy đều rách nát hay bạc cả màu.

Cách Tết gần một tháng, Mẹ đã hối thúc con cái dọn dẹp, lau chùi nhà cửa, bàn thờ Ông bà tổ tiên. Tranh thủ dọn dẹp nhà cửa xong rồi xúm lại quanh Mẹ xem làm bánh thuẩn để chuẩn bị Tết. Mẹ cười: “- Bánh đẹp để dành Tết cúng Ông bà”. Lũ chúng tôi cười vui sướng khi được Mẹ chia cho những cái “Bánh Thuẩn đầu trọc” ( Bánh bị Hư). Ôi chao là kỷ niệm! Có lẽ tâm lý chờ đợi và cảm giác lâng lâng của những ngày giáp Tết là cảm giác hạnh phúc nhất của Tết ngày xưa. Sung sướng nhất những ngày 27, 28 và 30 giáp Tết... nghe tiếng pháo nổ đì đùng trong những ngày tất niên cuối năm chợt thấy lòng người rạo rực đến kỳ lạ. Tết xưa với những tràng pháo rộn ràng nao nao, thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh, bánh thuẩn, bánh in…. Nay còn đâu ?

Chiều 30 tết, trong khi Bố lo cúng tất niên thì Mẹ hối hả gói bánh chưng và giục anh em chúng tôi đi tắm. Công việc đó được coi như một nghi lễ của ngày cuối năm để gột rửa bụi trần, gột rửa mọi nỗi ưu tư và tẩy trần sạch sẽ đón chào năm mới. Tôi vẫn nhớ cái mùi thơm của hương bưởi, của những trái bồ kết, thoang thoảng cả mùi lá xả, lá chanh mà Mẹ dùng để đun nước gội đầu và nước tắm cho chúng tôi. Để chuẩn bị cho cái Tết Mẹ tôi chuẩn bị trước đó cả vài tháng, riêng thực phẩm đủ ăn trong vòng ba ngày: Nào thịt, nào gà, nào bánh chưng…, những thứ không thể thiếu của ngày Tết.

Đêm 30 Tết, cả nhà quây quần, sum họp bên nồi bánh chưng xanh, cảm giác được đoàn tụ bên người thân thật là ấm áp và hạnh phúc. Đêm giao thừa, thời khắc quan trọng nhất của năm cũ và năm mới. Mọi người đổ ra đường nghe tiếng pháo giao thừa. Pháo nổ dồn dập, đì đùng khắp mọi nơi. Những giây phút ấy như đánh dấu cho một sự đổi mới với bao hoài bão, mong ước cho năm mới. Chúng tôi vòi vĩnh tiếc nuối: “- Nhà mình chẳng năm nào đốt pháo”. Bố tôi buồn nhưng vẫn cười đùa vui : “- Bà con xung quanh xóm đốt pháo nhà mình nghe cũng được con ”. Vào cái giây phút thiêng liêng ấy, mọi người ai cũng muốn rũ bỏ những cái gì đó không may mắn của năm cũ, gạt bỏ những phiền muộn hay những ti tiện đớn hèn…để đón nhận những điều tốt đẹp của năm mới.

Sáng mồng một Tết xác pháo rơi đỏ hồng mặt đất làm ửng hồng những đôi mắt trẻ thơ, Mẹ hối thúc con cái mặc quần áo đẹp, lì xì cho sáu đứa con trong nhà với lời chúc tốt đẹp nhất: "Mau lớn, học giỏi, ngoan..." Những lời chúc đầu năm và kỳ vọng thật thiêng liêng trong thời khắc đầu năm mới. Dù ngày thường hay nghịch ngợm nhưng sáng mồng một Tết nghe lời Mẹ dặn lũ chúng tôi chẳng dám bước vào nhà ai. Bố Mẹ rạng ngời hạnh phúc và sung sướng ngắm nhìn con cái xúng xính trong những tà áo mới tung tăng nhặt những viên pháo bị lép, nghịch ngợm đốt pháo rồi cười khoái chí. Nhớ Tết ngày xưa gian nan và nghèo khó trong thời buổi bao cấp nhưng ấm áp và hạnh phúc đơn sơ nhưng luôn là một cái Tết ấm áp và mang đậm tính cổ truyền.

Xuân chia ly-1984:

Nhớ Tết xưa, đón Tết cả nhà buồn hiu, kinh tế gia đình khó khăn trong thời bao cấp, có đứa đi học CĐ-ĐH xa nhà làm bố mẹ càng vất vả nhiều hơn. Nhìn mái tóc nhuốm bạc của Bố mẹ theo dòng thời gian vì những lo toan, muộn phiền trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn vì con cái. Cho đến mãi sau này chúng tôi càng thương bố mẹ nhiều hơn, càng nghĩ nhiều hơn về đấng sinh thành của mình với khoảng đời cơ cực và gian nan đã qua với gánh nặng cơm áo, gạo tiền đè nặng lên đôi vai gầy guộc của mẹ. Đêm giao thừa văng vẳng nhà bên một bài hát Bolero:

                  “…Con biết bây giờ mẹ chờ em trông

                       Nhưng nếu con về bạn bè thương mong

                       Bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường

                        Không lẽ riêng mình êm ấm

                        Mẹ ơi con xuân này vắng nhà…”

                                                         (Xuân Này con không về)

Mẹ tôi lặng lẽ khóc vì Tết không được sum họp, đón năm Mùa Xuân… nước mắt Mẹ chảy ngược vào trong. Bố tôi lục tìm đọc lại những bức thư và cả ảnh từ chiến trường K khốc liệt của hai người anh tôi làm chiến sĩ quân tình nguyện ở chiến trường Campuchia gửi về. Mọi người buồn vì nhiều năm liền hai anh tôi không đoàn tụ bên mái ấm gia đình. Cả nhà buồn hiu dù Xuân đã về trước ngõ… Chạnh buồn. Này xuân! buồn lắm Xuân ơi.

Xuân đoàn viên- 1989:

May mắn thay, sau bao năm lăn lộn ở chiến trường K khốc liệt, rất nhiều đồng đội của hai anh tôi vĩnh viễn đã phải nằm lại ở chiến trường với những ước vọng mùa Xuân mãi còn dang dỡ, trong đội hình Binh đoàn 52 rút quân về nước hai anh tôi đều nguyên vẹn trở về nhà với nước da tái xanh vì những trận sốt rét triền miên và gương mặt sạm đen. Mẹ thầm thì" Ông bà phù hộ độ trì cho gia đình !".Cả nhà mừng vui khôn xiết.

Đó là năm gia đình tôi ăn Tết “To nhất ” Bố tôi vật cả con ủn ỉn (Lợn) để ăn Tết và bồi dưỡng cho hai anh cùng lũ chúng tôi, Bố còn “Hào phóng” mua luôn cả hai dây pháo dài loằng ngoằng để đón Xuân. Mẹ càu nhàu “Lãng phí thế còn gì!” Còn gì ấm áp và hạnh phúc hơn là được quây quần bên bữa cơm tất niên trong tiết trời se lạnh của mùa Xuân cùng hàn huyên tâm sự, được nghe anh kể chuyện vui chuyện buồn đời lính trong những Xuân qua. Tôi nhìn hai anh tôi đầy ngưỡng mộ.

Thời khắc giao thừa pháo nổ giòn tan, Mẹ cười vui: “- Năm nay nhà ta làm ăn phát tài.” Cả nhà đều vui vì Tết đoàn viên.

Xuân Buồn -2010:

Ngày giáp Tết, tôi đưa Mẹ từ bệnh viện ung bướu TP HCM trở về nhà đón Tết sau một năm điều trị bệnh ung thư vòm họng. Chiếc xe chạy hối hả xuyên đêm để kịp về nhà trong những ngày giáp Tết. Nước mắt tôi ứa ra khi nghĩ về Mẹ. Đó là cái Tết ảm đạm nhất không chỉ vì lo cho Mẹ, mà vì thiếu cả tiếng pháo đêm giao thừa. Tự dưng thấy cái Tết cứ nhàn nhạt…

May mắn, Bệnh Mẹ dần thuyên giảm. Mẹ đã khỏe nhiều hơn trước, tóc mẹ đã mọc lại dày hơn. Mẹ tôi như người từ cõi chết trở về. Thật kỳ diệu! Mọi người mừng vui không kể xiết. Anh em tôi đều bất ngờ và kinh ngạc đến tột cùng. Chẳng lý giải được vì sao ? “ - Trời, Phật, Tổ tiên, Ông Bà phù hộ con ơi ! Ở hiền rồi sẽ gặp lành mà, ông bà xưa nói có sai đâu…”- Mẹ luôn nói với chúng tôi và mẹ tin cuộc đời nhân quả sẽ như thế.- Mẹ nói giọng xứ Nghệ.

Thời gian trôi nhanh thật. Mẹ như cây mai già cỗi kia thôi, khi nào ông Trời gọi thì mẹ đi về gặp Bố con và Ông bà tổ tiên. Thế thôi…số mạng hết cả thôi con ạ. - Mẹ cười mãn nguyện và chỉ cây mai vàng trước ngõ. Tôi nhìn ánh mắt lấp lánh niềm vui của mẹ mà cảm thấy ấm áp trong lòng. Ngoài sân, một cây mai già cỗi sừng sững như một tượng đài của mùa xuân. Cây mai nay đã quá già cỗi. Nó đã chứng kiến những biến cố trong gia đình chúng tôi và gắn bó biết bao kỷ niệm vui buồn trong cuộc đời với mọi người trong nhà. Xuân này cây mai không còn trổ bông như những mùa xuân trước. Nó đã quá già cỗi, nhưng từ trong những vỏ cây sần sì và những cành cây khẳng khiu đó như một sức sống mãnh liệt trường tồn, một nguồn nhựa vẫn lặng thầm chảy lặng lẽ. Từ những nguồn nhựa đó một vài bông mai vàng hé nở khoe sắc thắm, những chồi non nhú lên xanh mơn mởn mang lộc xuân đến làm đẹp cho đời. Cảm ơn cuộc đời ! Cảm ơn Mẹ ! Một mùa Xuân nữa lại về với Mẹ...

Nghe tiếng cầu nguyện, nhớ Tết xưa

Cái cảm giác Tết thật đặc biệt, thật khó để diễn tả nó như thế nào. Trong lòng cảm thấy thật ấm áp và vui sướng trong không khí ngày Tết, được cùng gia đình dọn dẹp nhà cửa, mua sắm đồ dùng. (Văn Thông, Indonesia)

Đã hai mươi mấy mùa xuân trôi qua, và cũng bấy nhiêu cái Tết tôi được thưởng thức cùng gia đình, bạn bè, người thân ở một ngôi làng nhỏ tươi đẹp và thanh bình.Mỗi khi mùa xuân đến, trăm hoa đua nở, người người nô nức đón chờ một cái Tết nữa lại đến. Với tôi, mặc dù khi lớn lên, học tập tại TP HCM, cách nhà hơn 2.000 km, nhưng hằng năm mỗi dịp Tết đến xuân về tôi đều cố gắng sắp xếp thời gian làm sao có thể trở về nhà sớm nhất, để cùng gia đình chuẩn bị đón Tết.

Từ khi tôi còn nhỏ tới khi trưởng thành, cái cảm giác Tết thật đặc biệt, thật khó để diễn tả nó như thế nào. Trong lòng cảm thấy thật ấm áp và vui sướng trong không khí ngày Tết, được cùng gia đình dọn dẹp nhà cửa, mua sắm đồ dùng ngày Tết, được đi chợ hoa để sắm cho mình những cành đào, cây mai, cây quất, được tự tay gói những chiếc bánh chưng rất đặc biệt, được thưởng thức những món ăn đặc trưng ngày Tết miền Bắc: thịt đông, dưa hành. Và rồi được ngồi cùng với ông bà, cô dì, chú bác, bạn bè trong những mâm cơm ấm cúng ngày xuân. Được thăm lại thầy cô, những người đã để lại trong tôi những kỷ niệm hết sức sâu sắc khi tôi còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường. Không khí se lạnh của mùa xuân, trời mưa phùn lất phất của ngày Tết làm tôi thực sự cảm thấy vui và sung sướng khi hồi tưởng lại những cái Tết đã qua.

Những năm trước, tôi không có thời gian để hồi tưởng về những ký ức ngày Tết, bởi vì tôi được ăn Tết tại gia đình, tại quê hương Việt Nam yêu dấu. Còn năm nay, lần đầu tiên tôi phải ăn một cái Tết xa nhà, không chỉ có xa nhà thôi, mà còn xa cả Việt Nam nữa. Tết năm nay, tôi chỉ có thể thưởng thức cái Tết cùng với những người bạn cùng cảnh ngộ với tôi.

Hằng ngày, sau thời gian tới trường, thói quen thường nhật của tôi là mở máy tính và vào

VnExpress

đọc tin tức ở Việt Nam trước. Càng về những ngày giáp Tết này, các trang báo đều đồng loạt đăng tải không khí chuẩn bị Tết của người dân khắp mọi miền Việt Nam. Đọc những bài báo hay xem những hình ảnh về ngày xuân đó, trong tôi cảm thấy “chạnh lòng”.

Tôi muốn được về Việt Nam để hòa mình vào không khí ngày xuân đó, tôi muốn được ăn Tết cùng gia đình, bạn bè, người thân của tôi như bao năm đã qua. Mặc dù đã nhiều lần tự nhủ rằng sẽ vùi đầu vào công việc học hành, hay là đi đâu đó thật xa ở đất nước vạn đảo này để quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ bố mẹ, quê hương trong dịp Tết. Nhưng mỗi khi đêm về, nằm một mình trong căn phòng với bốn bức tường, chỉ nghe thấy tiếng Sholat (cầu nguyện) của những người theo đạo Hồi thì những ký ức ngày Tết trong tôi lại xuất hiện.

ôi nhớ lại những cái Tết khi tôi còn nhỏ, chúng thật đẹp và có lẽ là tôi sẽ không bao giờ có thể quên được. Khi mùa thu qua đi, mùa đông tới tôi rất vui, bởi vì lại một cái Tết nữa tới. Tôi vui bởi vì chỉ gần đến ngày Tết, tôi mới được bố mẹ dẫn ra chợ hay những cửa hàng quần áo mua cho những bộ quần áo ấm mới toanh. Cũng giống như bao đứa trẻ khác, tôi rất sung sướng khi được mặc những bộ quần áo ấm mới, những đôi giày, đôi tất tay, chiếc khăn quàng mới. Tôi diện những thứ đó cả ngày, và mang đi khoe với những đứa trẻ khác ở cùng xóm, cùng trường với một vẻ mặt rất hãnh diện và hạnh phúc.

Rồi những ngày 25, 26 tháng Chạp cũng tới, thời gian này nhà tôi cùng nhau gói bánh chưng để đi Tết họ hàng, người thân cũng như để thưởng thức trong dịp Tết. Cả nhà nô nức chuẩn bị dụng cụ và nguyên liệu làm bánh chưng. Bố và ông tôi là những người chịu trách nhiệm gói bánh; mẹ, các chị và tôi thì cùng nhau rửa lá, cắt lá, luộc đỗ và những nguyên liệu khác cho việc gói bánh. Nhìn những động tác gói bánh của ông và bố thật vui sướng, chỉ mất có mấy phút, từng chiếc bánh lần lượt ra đời, nhìn thật vuông chắc và đẹp. Và tôi cũng không chịu ngồi yên, tôi cũng tự gói cho mình những cái bánh, mà ở quê tôi gọi là bánh cù (nhỏ hơn bánh chưng). Tôi cảm thấy rất tự hào về điều này. Khi đưa bánh đi luộc, tôi canh chừng rất kỹ những tấm bánh cù mà tự tay tôi gói, tôi sợ ai đó lấy mất bánh của tôi. Mặc dù hình thù cái bánh đó chẳng giống ai, nhưng tôi vẫn sợ.

Thường sau khi gói bánh xong là buổi chiều tối, sau đó là công việc luộc bánh chưng. Cả nhà tôi sẽ quây quần bên bếp lò luộc bánh chưng, vừa canh bánh, vừa nhâm nhi những chén trà, chén rượu cho ấm bụng. Và mọi người cùng nhau ôn lại những cái Tết đã qua, những công việc trong năm. Ai cũng muốn trút bỏ hết cái cũ không may mắn để sang năm mới này gặp được nhiều may mắn hơn nữa.

Những ngày hôm sau có lẽ là vui nhất đối với tôi. Tôi được bố mẹ sắm sính lễ là những tấm bánh chưng của nhà gói, những tấm bánh khảo, cân đường, cân quả... để đi biếu họ hàng trong dịp Tết. Bởi vì là con út, và các chị tôi đã lớn nên việc đi Tết họ hàng đều do tôi đảm trách. Cả hai bên nội ngoại, khá đông họ hàng, vì thế phải đi trong mấy ngày mới hết được. Mặc cho mưa gió, rét mướt, mệt mỏi, tôi cũng cảm thấy rất sung sướng. Sung sướng bởi vì việc đi Tết như thế này, tôi được họ hàng, người thân mừng tuổi cho rất nhiều. Mặc dù chỉ là những chiếc bánh, chiếc kẹo cho đến những đồng tiền rất nhỏ, nhưng tôi thực sự cảm thấy rất vui vì những đồng tiền mừng tuổi đó. Cái câu “nhân dịp năm mới đến, bố mẹ cháu biếu ông bà tấm bánh (cân đường, cân quả)” đã thấm nhuẫn trong lòng tôi biết bao nhiêu cái Tết. Được họ hàng, người thân nhận những tấm bánh, cân đường đó làm tôi vui mừng và khấn khởi hơn bao giờ hết.

Và rồi đêm giao thừa cũng tới, sau bữa cơm tất niên vào buổi tối. Tôi lại cùng với gia đình vào nhà thờ để đón chào năm mới (ở quê tôi, gần như 100% người dân theo đạo Thiên chúa). Trong nhà thờ, các anh chị thanh niên đã chuẩn bị chương trình văn nghệ ngày xuân rất hoành tráng và chu đáo. Mọi người cùng thưởng thức, sau đó vào nhà thờ cầu nguyện chúc tuổi ông Thánh (vị quan thầy bổn mạng của từng nhà thờ). Thời khắc giao thừa đã tới, mọi người cùng nhau chúc mừng nhau những lời chúc năm mới đầy may mắn. Sau đó, đám trẻ chúng tôi chuẩn bị vào “xông nhà”. Chúng tôi đi khắp làng, vào từng nhà một để xông nhà, và chúc mừng chủ nhà những lời chúc tốt đẹp nhân dịp đầu năm mới.

Ngày mùng một, buổi sáng là gia đình cùng tất cả cô, chú, bác tập trung ở nhà ông bà nội tôi ăn tân niên. Có lẽ đây là ngày vui nhất trong năm, bởi vì sáng ngày mùng 1, tất cả mọi người đều có mặt đông đủ tại nhà ông bà nội, chúc tuổi ông bà. Chỉ có ngày này, duy nhất ngày mùng 1 này là tôi có dịp gặp được tất cả các cô, chú, bác, an em họ hàng của tôi. Mọi người hỏi han sức khỏe, dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp và cùng nhau dùng bữa cơm tân niên đầu năm hết sức ấm cúng và chan hòa tình thân.

Những ngày tiếp theo của năm mới, mọi người trong gia đình tôi thường tới nhà họ hàng chúc tết và ăn tân niên cùng gia đình. Nghĩ lại những miếng thịt đông, những củ dưa hành ngày Tết mà tôi thực sự cảm thấy “thèm thuồng”.

Sau này, khi đã lớn và bước chân vào giảng đường đại học, những thói quen tự gói bánh cù, đi Tết người thân... không còn nữa. Thay vào đó là những công việc lớn hơn như tôi có thể gói được những tấm bánh chưng như của ông, của bố. Tự tay tôi quét lại sơn nhà, hoặc ra khu chợ hoa mua về cho gia đình những cây quất, cành đào và tự trang trí chúng thay bố tôi.

Thói quen ngày Tết khi tôi đã trưởng thành là gặp lại những người bạn cấp 1, cấp 2, cấp 3, cùng làng của tôi trong dịp Tết. Giờ đây, ai cũng đã trưởng thành, mỗi người một nơi, một công việc khác nhau. Vì thế ngày thường rất khó để gặp nhau, chỉ có những ngày Tết như thế này, mới có cơ hội gặp nhau, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm cũ thời học trò đã qua.

“Mùng 1 tết cha, mùng 3 tết thầy”, khi đã trưởng thành tôi cũng không bao giờ quên điều đó. Mặc dù ngày Tết bận rộn, nhưng ngày mùng 3 Tết, tôi và đám bạn đều cùng nhau đến chúc tết thầy cô cũ của mình. Thầy trò cùng nhau trò chuyện và ôn lại những kỷ niệm mà không ai trong chúng tôi có thể quên được.

Cứ thế, những ngày Tết tôi được hưởng cái không khí rộn ràng, vui tươi của ngày xuân. Nhìn trăm hoa đua nở, cây cối xanh tươi lòng tôi cảm thấy bồi hồi. Tôi ước muốn rằng, ước chi ngày nào trong năm cũng là ngày Tết, tôi ước muốn rằng ngày Tết đừng nhanh chóng qua đi để tôi có thể được ở cùng gia đình, được găp bạn bè, thầy cô. Được ăn những món ăn đặc trưng ngày Tết, được tự mình trồng cây nhân dịp đầu năm...

Những người mang trong mình dòng máu Việt Nam anh hùng, ai ai cũng có cho mình những kỷ niệm ngày Tết thật sâu sắc. Những cái Tết năm trước, tôi được hòa mình vào không khí Tết, vì vậy dường như tôi không còn có thời gian để suy nghĩ là hồi niệm lại những ký ức ngày Tết đã qua. Chỉ năm nay, lần đầu tiên ăn Tết xa nhà, xa Việt Nam, và điều này dường như đã thôi thúc tôi nhớ lại những cái Tết vui tươi đã qua. Và tôi tự nhủ với lòng mình rằng, chỉ năm nay thôi, nhất định chỉ năm nay thôi, những cái Tết năm sau tôi nhất định, nhất định sẽ như thế, tôi sẽ về quê, về Việt Nam ăn Tết.

Ngày đó làng tôi còn nghèo lắm. Đường làng hẹp, sau những ngày đông giá rét mọi ngã đường đều nhão nhoẹt với vô số những dấu xe đạp, xe bò, dấu dày dép tông ... Nhà tôi gần đường cái, cứ gần tết cả nhà lại tổng động viên rải cát làm lối đi, rồi cả lảng cũng thế không ai bảo ai nhà nào cũng dọn dẹp lối đi lại cho sạch sẽ, tươm tất....

Cả tháng trước tết mẹ tôi chạy đôn chạy đáo để chuẩn bị một ít tiền “tiêu tết”, việc đầu tiên là bán chè. Chè nhà tôi tốt và ngon nổi tiếng nhưng mỗi sáng tất tưởi trở về sau khi đã gánh một gánh đầy chè lên chợ huyện cũng chỉ được vài ngàn đồng. Rồi mẹ lại sai tôi trèo hái cau rồi cam, chanh, ổi ... tất tần tật thành hàng hóa để làm sao cho tết hơn ngày thường một tý. Chị tôi ngoài giờ làm gom những mảnh vài thừa từ xí nghiệp về tự thiết kế chắp lại để may thành những tấm ri đô đủ màu sắc, rồi áo quần trẻ em đem đi các chợ bán phụ cha mẹ tôi lo toan dịp tết. Cha tôi giáo viên, nhưng kiêm nghề thợ may, gần tết được nghỉ là ông bắt tay vào việc chuẩn bị áo quần tết cho anh em chúng tôi. Ngày đó vải đắt và hiếm, vì thế bắt đầu từ việc chuẩn bị áo quần mới là cả một công đoạn tính toán “chuyên nghiệp” của ông để “cải tạo” sản phẩm. Chiếc quần của chị gái đầu được sửa lại cho chị gái thứ hai. Chiếc quần của chị gái thứ hai lại được “nhường” lại cho tôi. Phải nói cha tôi rất khéo tay mỗi chiếc quần được biến hóa “trở trên xuống dưới” “trở trong ra ngoài” đều như mới, cả mấy chị em đều hài lòng. Ngày đó có được quần áo mới như chúng tôi cũng là một niềm vui mà lũ bạn đồng trang lứa đều mơ ước. Còn nhớ anh trai đầu chúng tôi đã học đại học nên được cả nhà ưu tiên cho may quần áo mới, và tết nào tôi cũng dỗi hờn vị sự ưu ái này của bố mẹ dành cho anh tôi.

Làng tôi ngày đó chưa có điện (mãi tới năm 1990 mới có), giáp tết cha tôi cho khêu thêm chiếc đèn đại cháy bấc to để cả nhà chuẩn bị. Mẹ tôi lo gạo nếp, lá dong, đậu lạc, hương đèn .... các chị tôi miệt mài bên những sợi giấy màu để làm những con rô xâu chuỗi để trang trí trong nhà. Rồi các dải dây đăng ten được dán lại treo chéo góc ở nhà ngoài, các mành con rô đủ màu sắc cũng được treo lên trước bàn thờ. Tôi thì tối nào cùng chạy sang nhà hàng xóm để xem cuốn pháo, đó là thứ mà tôi thích nhất cho đến tận bây giờ. Anh tôi về tết cũng ngồi bên cây đèn hỳ hục viết câu đối bằng mực tàu, ngày đó câu đối bày bán rất nhiều nhưng cha tôi lại thích anh viết thế. Đó là thứ ông sẽ “khoe” với mọi người cùng với thư khen của nhà trường về thành tích học tập của anh tôi được cài trang trọng trên cành đào tết.

Những ngày giáp tết tiếng pháo đì đùng khắp làng, thỉnh thoảng lại có nhà ai đốt thử một tràng pháo, tiếng pháo cứ dần nhiều thêm, rộn ràng. Nhà tôi năm nào cũng đốt pháo, tối 30 đốt một tràng và sáng mồng 1 đốt thêm một tràng nữa. Cha tôi bảo nếu pháo đốt kêu, nổ liền một dây không đứt đoạn, không có pháo xịt thì năm đó làm ăn sẻ phát đạt. Ông giao việc đó cho anh tôi cùng với việc chuẩn bị củi nấu tết và nấu bánh chưng. Năm nào cũng thế anh tôi bỏ pháo vào giấy xi măng, gác lên dàn bếp cẩn thận, anh bảo có như thế pháo mới không bị ỉu, sẽ nỗ giòn ....

Vui nhất vẫn là được đi chợ tết. Chợ tết người từ các xã kéo về huyện đông đúc, chợ bày bán đủ mọi thứ hàng hóa từ sản vật cây trái đến câu đối, hoành phi. Năm nào chị tôi cũng chở tôi đi mua sắm, cũng chẳng có gì nhiều và thay đổi chỉ là một bộ cốc uống nước, một vài bóng bay, kẹo bánh.... Năm nào có thêm tiền chi tôi mua cho tôi một chiếc mũ len hay một chiếc áo mới.

Tết của chúng tôi là những niềm vui, háo hức thơ ngây, nhưng tết của cha mẹ tôi là trăm ngàn lo lắng. Những ngày giáp tết, trời rét ngọt, mẹ tôi vẫn tranh thủ đi dắm lúa, cắt cỏ dành cho trâu trong những ngày cả nhà không ra đồng. Cha tôi tính lui tính tới cho việc họ hàng, mừng thọ rồi đến tiền cho anh trai ra Hà Nội khi ăn tết xong...

Chiều 30, nhà tôi làm cỗ cúng tất niên, gọi là cỗ nhưng cũng chỉ có xôi gà và những món đạm bạc. Năm nào cũng thế cậu mự, dì dượng và các anh em trong nhà đều tập trung về nhà tôi ăn tất niên, rồi lại về nhà cậu, nhà dượng cứ như thế cho đến chiều tối. Tối ba mươi, cả nhà rộn rịp, tất bật cho giao thừa. Mẹ tôi lo mâm cỗ để cúng sang canh. Bố tôi chuẩn bị bàn thờ, châm đèn chạm hương. Các chị tôi cũng tất bật với việc dọn dẹp lại lần cuối, đảo thêm vài mẻ cốm trộn đường – món mà những ngày đầu năm sẽ làm quà cho khách đến chơi. Sau cùng cả nhà ngồi quây quần bên nồi bánh chờ bánh chín. Bánh chín, bố tôi đưa đi ép, tôi và anh tôi chuẩn bị đun nước để cả nhà tắm “sang canh”. Năm nào cũng thế cha tôi đều bắt mọi người phải tắm sạch sẽ để đón giao thừa.

Gần giao thừa pháo nổ càng dày, tiếng pháo rộn ràng, thỉnh thoảng lại có một ánh pháo sáng xẹt lên bầu trời hay một tiếng mìn dội lại. Tiếng chiêng, trống bắt đầu điểm, giao thừa tới, cả nhà ngồi bên chiếc radio cũ của cha tôi nghe đọc thư chúc tết. Cha tôi thắp hương cúng cầu mong cho cả gia đình một năm mới bình an ...Lì xì sau giao thừa của cha tôi cho anh em tôi là mỗi người một cuốn sổ, năm nào cũng thế ông bắt chúng tôi ghi vào đó một vài dòng cảm xúc mà ông gọi là “khai bút đầu xuân” để học hành thành đạt....

Sáng mồng một cha và anh tôi đi nhà thờ họ, mẹ tôi ở nhà chờ đợi người “đập đất” và tiếp khách, chị tôi đi theo bạn bè trang lứa đi chúc tết quanh làng. Tôi bị mẹ giữ ở nhà tới tận quá trưa mới cho ra khỏi nhà vì sợ xông nhà năm mới, được tự do tôi cùng lũ bạn chạy dọc đường làng. Đường làng đầy xác pháo, đủ các loại màu giấy đỏ trắng rải đầy lên nền đất đỏ ẩm ướt, lũ trẻ chúng tôi cứ thế đi khắp làng, hễ pháo nổ ở nhà nào là chạy đến, tranh nhau từng quả pháo xì....

Tôi cũng lớn dần lên theo từng cái tết. Cha tôi mất. Anh chị tôi lập gia đình. Tôi đi học đại học, giáp tết nào mẹ tôi cũng mong tôi về. Anh chị tôi sửa lại nhà, sắm nhiều đồ đạc, cứ mỗi tết lại thêm nhiều thứ sung túc hơn. Rồi nhiều giao thừa đã có điện, có ti vi nhưng không còn tiếng pháo, cũng chỉ có tôi và mẹ đón giao thừa. Nhiều cái tết mới lại thành tết cũ, tôi đi làm, lập gia đình ở thành phố, tôi không còn đón giao thừa ở quê. Mẹ tôi cũng theo anh tôi và tôi ra thành phố, gần tết cả nhà lại về quê dọn dẹp nhà rồi lại tất bật cho cái tết riêng ở gia đình mình....

Làng tôi đổi khác từng ngày, những lối đi, những con đường tắt cả những tiếng phào đì đùng đã không còn nữa. Đường đi đã bê tông hóa, nhà nào cũng xây khang trang, ngõ nào cũng có ánh điện, tiếng nhạc xập xình, đèn hoa rực rỡ. Trẻ em ở làng chưng áo mới, không còn phải lội bì bõm trên nhũng con đường đất đỏ lầy lội, cũng không còn tranh nhau nhặt pháo đầu ngõ, chia nhau từng chiếc kẹo mềm. Trong túi áo của chúng không còn là những xác pháo xì, những chiếc bong bóng mà thay vào đó là những tờ tiền mới, những phong bì lì xì hồng tươi, đủ cỡ ....

Năm này, con gái đầu của tôi lại đòi về quê ăn tết, tôi thu xếp đưa cả nhà về quê, mẹ tôi mừng lắm. Tết năm lạnh hơn, đào trong xóm đều nở muộn. Tôi dắt con đi dọc đường làng, nó chạy vọt lên phía trước reo vang khi nhìn thấy cánh đồng. Tôi nhìn theo cảm giác như thiếu vắng một thứ gì đó lại vừa tràn ngập, mênh mông dâng lên trong lòng ...... Tết này trời vẫn mưa phùn.

Tết của ngoại thời bao cấp

Chiều 30 tết, trong khi tôi xếp hàng chờ được chia 2 lạng thịt nhờ tem phiếu của bác tôi thì bà ngoại sai các con rể làm thịt con lợn lang đen nuôi từ giữa năm. Tết của ngoại ngày đó xen lẫn cả nghèo khó và sung sướng, là một trong những ký ức tuổi thơ đẹp nhất của tôi.

au này lớn lên, tôi chưa thấy chiều 30 tết nào rộn ràng niềm vui như những chiều 30 tết ở nhà bà ngoại. Mẹ tôi sinh liền ba đứa, lại phải làm ca đêm, trong khi bố tôi sau khi đi du học về phải đi nghĩa vụ quân sự, nên bố mẹ phải gửi ba chị em về bà ngoại.

Bác ruột tôi không lấy chồng, ở chung với bà ngoại, làm nghề giáo viên, cho nên tôi mới có dịp hiểu thế nào là tem phiếu của thời bao cấp. Hai hình ảnh ấn tượng nhất về thời bao cấp của tôi lúc 7 tuổi là đứng chờ đem về 2 lạng thịt phân phối ngày tết và vài chục mét chỉ khâu, hình như có một ít vải may đủ một chiếc quần hay một chiếc áo nữa.

Ông ngoại tôi làm thuốc bắc nổi tiếng một vùng nên bà ngoại không cần phải làm ruộng mà vẫn có tiền tiêu. Bà tôi hầu như không tiết kiệm, bao giờ cũng mua đủ thứ ngon vật lạ trong vùng cho con cháu ăn. Tôi không thể quên được, mỗi khi thịt gà, bà chỉ xé cho bọn tôi ăn chứ không được chặt, vì chặt thì hàng xóm nghe thấy sẽ bảo là trưởng giả, chỉ làm họ thêm ghét. Trong làng có một cụ già, thỉnh thoảng lại ra đứng ngã ba đường chửi “tông ti họ hàng, hang hốc rễ tre đứa nào dám ăn trộm gà của bà”.

Trong bối cảnh ấy, mới thấy việc “ngả ra con lợn béo” vào chiều 30 tết mới thiêng liêng làm sao. Nhìn chung cả năm, cả họ đều ăn uống kham khổ, chỉ bọn trẻ con chúng tôi mới được ưu tiên hơn về thức ăn.

Tôi vẫn thấy văng vẳng bên tai tiếng lợn bị chọc tiết, tiếng mài dao, khua dao lẻng xẻng, tiếng các bác gọi người sai vặt. Bà ngoại tôi chuẩn bị sẵn đồ để cúng tối ba mươi và ra cổng ngóng cậu tôi đi tàu từ Nam ra, ngóng bố mẹ tôi từ xa về.

Trước tết nửa năm, bà sẽ thả vào chuồng một con lợn lang đen nhỏ xíu. Giống lợn này bây giờ rất hiếm, được coi là đặc sản, vì đó là lợn thuần chủng của Việt Nam, lưng võng, thịt rất thơm ngon nhưng năng suất kém nên sau này nhiều người không nuôi để bán, vì chắc chắn là lỗ vốn. Có vỗ béo cỡ nào thì lợn lang đen chỉ lớn tối đa khoảng 30 đến 35 cân.

Chỉ có một con lợn nhỏ thế thôi mà không khí thật tấp nập. Chỗ này một bác làm giò thủ, chỗ kia một bác làm giò nạc, giò mỡ, chỗ kia nữa một bác đang làm dồi lợn, món dồi có lá mần tưới tạo ra một vị rất khác lạ, không nơi nào có. Dồi lợn còn có nhiều miếng sụn lấy từ các phần khác nhau của con lợn, khi nhai rất thú vị.

Phần sườn non của lợn sẽ được băm nhỏ làm món sườn rang muối, rất thơm ngon và quan trọng là…ăn được lâu! Món chân giò sẽ luộc, lòng lợn dành cho các bác nhắm rượu, một phần tiết lợn để nấu cháo. Món cháo lòng cuối năm thật nhiều hương vị, nhất là trong cái lạnh đêm 30.

Bà ngoại tôi có 7 người con ở gần ở xa, và tết nào cũng về đầy đủ. Cả con cháu, dâu, rể, chiều ba mươi tết tề tựu đông đủ, tính ra cũng gần hai chục người. Niềm vui như vỡ ra, tiếng thăm hỏi và trò chuyện vang khắp ba gian nhà ngói. Không ai cảm thấy lạnh nữa, chỉ thấy tình người sưởi ấm khắp không gian.

Bố tôi sẽ hạ cái ba lô xuống, trong đó là quà tết được cơ quan tặng, có đường, sữa, mỳ chính và mứt tết. Đó là những thứ quý nhất mà bố tôi mang về tặng bà ngoại. Còn chúng tôi sẽ có quà là những bộ quần áo do chính bố tôi may bằng vải phân phối, được cắt rất đơn giản và may bằng chiếc máy khâu mà mẹ tôi mang từ Liên Xô về.

Sau này lớn lên, bà ngoại tôi mất, chẳng còn cái tết nào “ngả ra con lợn béo” và họ hàng xum họp nữa. Đôi lúc nhìn buổi chiều 30 tết ở thành phố vắng hoe và nao nao buồn. Hóa ra, cái thiếu thốn của thời bao cấp cũng có giá trị của nó. Bây giờ vật chất thừa thãi cả năm, món tết không còn thiêng liêng như xưa nữa.

LO TẾT THỜI BAO CẤP

 Ngô

Minh

 Thoát khỏi thời  “trăm thứ thứ gì cũng phân

” vô cùng khó chịu ấy là một  cuộc giải thoát vĩ đại.  Nhưng công bằng mà nói, thời kỳ gian nan ấy, những “cán bộ mậu dịch” đã làm hết sức mình để năm nào cũng lo được cho hàng triệu gia đình có một cái Tết đàng hoàng. Đó là cũng là chuyện  không thể quên… Những cái Tết thời bao cấp mới  xa cách đây hơn 20 năm thôi, còn đậm trong trí nhớ của nhiều người, nhưng đối với thế hệ , 8X, 9X thì  vô cùng lạ lùng khi nghe kể lại

..  

         Đối với người Việt Nam, Tết Nguyên Đán là lễ trọng nhất trong năm .   Dân gian  diễu thầy bói

:

Số cô không giàu thì nghèo. Ba mươi Tết có thịt treo trong nhà

. Nhưng ngẫm lại thì thầy bói đã nói rất đúng . Bởi vậy mà Tết đến, nhà nào cũng cố sắm cái Tết cho thật tươm tất dù trong lúc hàng ngày phải ăn bo bo, nước ruốc…

Trên bàn thờ phải có chai rượu, lọ hoa,

nải chuối,

bánh chưng, bánh tét. Đây không  chỉ là món ăn mà là chuyện tâm linh, hồn vía Tết.  Tết phải có đĩa bánh, mứt, kẹo để tiếp khách. Phải có cành mai, cành đào cắm trong nhà. Thời kỳ ấy tôi là cán bộ tổ chức của Công ty Thực phẩm, rồi Sở Thương mại Bình Trị Thiên ( cũ), nên các cuộc họp bàn chuyện Tết, những đợt “đi chỉ đạo Tết” tôi đều có mặt. Có  khi thức cả đêm ở lò mổ lợn Tết. Lo Tết ở đây là lo cho mấy trăm ngàn hộ gia đình cán bộ, công nhân và người ăn theo họ trong đối tượng chính sách có tem phiếu. Còn hơn 80 % nhân dân lao động ở nông thôn, thành thị tất nhiên là họ tự lo Tết …Người dân lo Tết theo cách riêng của họ, trên thị trường “nước nổi bèo nổi”.   Cuối cùng ai cũng có cái Tết đàng hoàng như xưa nay vốn dĩ.  

         Tết truyền thống người Việt là “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ.

Dây nêu tràng pháo bánh chưng xanh

” .  Nên trước Tết  cả quý, lãnh đạo tỉnh sốt sắng về làm việc với lãnh đạo các ngành Thương mại, Lương thực để tính toán khả năng khai thác nguồn hàng, cung cấp Tết được những thứ gì, khả năng dự trữ, tổ chức phân phối sao. Sau đó ngành Thương nghiệp tỉnh nào cũng đã vắt giò lên cổ mà  chạy. Tết là thước đo “chất lượng phục vụ” của cả năm. Đầu tiên là Ban cán sự Đảng , lãnh đạo ngành họp với công ty để bàn chuyện Tết. Bàn cãi tóe khói. Câu hỏi được nêu lên gay gắt là : Tết năm nay loại hàng gì đủ, nguồn ở đâu? . Hàng gì thiếu, kiếm ở đâu cho có , không kiếm được thì có thứ hàng gì  thay thế ?.  Sau đó  là phân công  cán bộ  phụ trách từng “mũi công tác” như “mũi thịt lợn”, “mũi gạo nếp”; rồi “mũi đường”, mũi trà thuốc, pháo, bánh kẹo,  củi, là dong, chuối thờ .v.v... Với quyết tâm không được để có hộ nào cán bộ không mua được “tiêu chuẩn” Tết.  Ví dụ mỗi khẩu phải có 0,5 kg thịt lợn, 0,3 kg gạo nếp, hai lạng đậu xanh, một cân bánh kẹo, năm lạng mứt, một phong pháo.v.v…rất chi tiết, không thế đùa được . Thống nhất rồi  mới tính toán và công bố “tiêu chuẩn Tết” năm nay có những thứ gì lên báo , rồi dán ở các cửa hàng thực phẩm, công nghệ phẩm, lương thực . Đã công bố công khai thì  người tiêu dùng có quyền đỏi hỏi, có quyền phán xét. Căng thẳng lắm. Các giám đốc công ty, trưởng cửa hàng luôn vò đầu bứt tai vì lo.  Mấy mặt hàng Tết không thể thiếu là : thịt lợn, gạo nếp, đậu xanh, chè gói, thuốc lá, rượu, nước mắm, hạt dưa, bánh kẹo, mứt gừng…rồi mì chính, hạt tiêu, củi, lá dong gói bánh, chuối nải để thờ.v.v.. Nghĩa là nhu cầu Tết xưa nay gồm những thứ gì đều tất tật được đưa vào kế hoạch cung cấp.

             Ở Hà Nội thời đó, đi cửa hàng Mậu dịch mua hàng Tết như “đi chiến đấu”, cũng phải xếp hàng, chen lấn, xô đẩy, có khi cả ngày mới mua được suất của mình . Phải đi từ bốn năm giờ sáng. Dù cô mậu dịch viên khuôn mặt đầy vẻ ban ơn, cáu gắt, người mua vẫn  kiên nhẫn chịu đựng. Cô cắt tem phiếu, ghi sổ, thu tiền rồi gọi tên cộc lốc, trịch thượng ném hàng cho người mua. Thế nhưng, vì một cái Tết gia đình, mọi người  hàng mấy chục năm ròng đã quen chịu đựng, chẳng ai phản ứng gì. Mấy năm đầu,  hàng Tết được bán từng mặt hàng một. Bán như thế thấy mậu dịch viên  vất vả mà người mua hàng cũng phải chầu chực ở nhiều  của hàng  rất khổ. Nên  người ta đã nghĩ ra cách đóng gói nhiều thứ hàng Tết  vào trong một cái túi. Ở Hà Nội và các thành phố lớn, người ta đóng tất cả các loại hàng Tết trong  túi  nilông ( trừ thịt, gạo nếp, đậu xanh)  in cành hoa đào hoặc hoa mai và dòng chữ “

Chúc mừng năm mới

”. Túi hàng Tết ai cũng như ai, đều có :  hộp mứt thập cẩm đựng trong cái hộp bìa thô kêch, mẫu mã xấu xí, mấy lạng măng, miến, bóng bì, ít mộc nhĩ, nấm hương, gói mì chính nho nhỏ, một túi hạt tiêu , bánh đa nem, gói chè Hồng Đào hoặc Thanh Hương, bao thuốc Điện Biên hoặc Trường Sơn bao bạc , một chai rượu cam, rượu chanh Hà Nội, một bánh pháo tép…Còn thịt, gạo nếp, đậu xanh… thì đến cửa hàng xếp hàng mua trực tiếp. Ở các tỉnh thì người có tem phiếu trực tiếp ra cửa hàng mua. Sau này học tập Hà Nội , cũng đóng thành túi “Hàng Tết” như vậy, nhưng ít thứ hơn

             Tất cả thứ đó đối với từng hộ gia đình thì ít ỏi lắm, nhìn hàng mua về ai cũng thấy loãnh loãng, không vừa lòng vì còn thiếu nhiều thứ.  Nhưng tính gộp chung cả tỉnh, cả ngành sẽ thành những con số khổng lồ. Thứ gì cũng lên đến vài trăm tấn, năm bảy chục tấn , hay vài chục vạn cái cả. Trong một cuộc họp lo Tết như thế, ông  Phan Đình Chi, Giám đốc Sở Thương mại Bình Trị Thiên cũ quát :”Không lo đủ lợn Tết thì cán bộ cả ngành ta phải nộp lợn nuôi của gia đình mình vô cho đủ”. Anh Phan Đình Chi và những cán bộ thương nghiệp vất vả năm ấy bây giờ nhiều người không còn nữa.  Nhưng hình ảnh gãi đầu vò tai vì  lo lắng của các anh thì không thể quên . Hồi đó, cán bộ thu mua nào cũng về từng thôn xã để “kiểm kê” lợn cho Tết.  Nắm đầu lợn “như công an nắm hộ khẩu” !. Họ ghi chép “hồ sơ lý lịch” con lợn nuôi từ bao giờ,  đến Tết thì được bao nhiêu ký. Rồi họp thôn, họp xã công bố công khai các hộ có lợn Tết, để họ không bán ra “thị trường tự do”. Bí thư Đảng ủy xã phải đứng lên quán triệt, dặn dò. Rồi công bố chế độ đối lưu hàng hóa ưu tiên hơn ngày thường. Những vải tốt, đạm urê, chăn màn tốt.v.v..được chuẩn bị . Chặt chẽ thế mà không phải hộ nuôi lợn nào cũng  bán lợn cho nhà nước,  vì mậu dịch thời bao cấp luôn “mua như cướp”, giá chỉ bằng hai phần ba giá đầu nậu chợ đen mua, chịu không thấu.  Người ta nuôi con lợn sáu bảy tháng ròng mà  giá thu mua một cân lợn hơi chỉ đồng sáu, hai đồng, chỉ bằng một phần ba giá bán cho thương lái, ai mà không xót ruột ! 

          Anh Phan Tấn Thanh, một thời là giám đốc Công ty thực phẩm Bình Trị Thiên, người gầy gò nhanh nhẹn,  hiện đang sống ở Huế, đi bộ sáng nào tôi cũng gặp. Gặp nhau là dừng lại nói chuyện lo Tết thời bao cấp. Vào dịp Tết là anh thức cả đêm để tính toán. Người gầy rộc đi . Thời bao cấp tem phiếu thực phẩm chia ra nhiều loại : A1, A, B, C, E... Ở tỉnh không có phiếu A. Phiếu A chỉ có ở cửa hàng Tôn Đản, Hà Nội.  Tỉnh chỉ có vài người hưởng phiếu B như Bí thư , chủ tịch tỉnh . Ở Huế có một người “dân” được hưởng phiếu thực phẩm loại B, đó  là bà Từ Cung ( Từ Cung Hoàng thái hậu, vợ vua Khải Định, tên thật là Hoàng Thị Cúc ), mẹ vua Bảo Đại . Mới hay chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hóa cũng rất trân trọng đối với những nhân vật quan trọng trong  triều đình nhà Nguyễn đang sống, dù triều Nguyễn đã sụp đổ từ năm 1945. Đến  năm 1980 bà Từ Cung mới mất.

            Anh Phan Tấn Thanh mở sổ cái to tướng theo dõi từng huyện. Cái sổ cái ấy ấy khổ lớn như giấy A3 bây giờ, đóng bìa cứng. Tôi thấy trong đó có từng cột ghi số lượng cán bộ, người ăn theo , hưởng tem phiếu gì của từng huyện thị trong tỉnh. Cẩn thận lắm. Số liệu không chỉ  năm ngoái, năm kia mà hàng chục năm về trước. Cuốn sổ cái của anh Phan Tấn Thanh xứng đáng được đưa vào bảo tàng kinh tế Việt Nam. Tiếc là bây giờ không biết nó thất lạc đi đâu. Tôi nhớ trong sổ cái ấy, anh Thanh ghi rõ số lượng cán bộ công nhân viên và hưu trí cả tỉnh  lúc đó là 600.000 người, cộng thêm các “đối tượng ăn theo” như trẻ em, người già được hưởng tem phiếu gấp ba nữa , rồi bộ đội, nên số người phải lo lên đến hơn 1,8 triệu. Bình quân các loại phiếu thực phẩm là 0,5 kg thịt một người trong tháng Tết, vị chi phải có  900 tấn thịt, công thêm  nhu cầu quân đội  và cầu giao tế của tỉnh, tổng số thịt lợn phải lo trong mỗi dịp Tết lên đến 1200 tấn. Một tạ lợn hơi khi mổ  thu được 70 ký thịt , tính ra khối lượng lợn hơi là 1600 tấn. Muốn có 1600 tấn lợn hơi, phải thu mua và nuôi dự trữ cho được hơn 3000 con lợn trong một thời gian ngắn. Thật không dễ. Dự trữ thì phải có đủ cám lợn ăn, chuồng trại, người chăm sóc. Rất tốn kém. Nên các tổ thu mua phải đi về các làng xã, nằm cả tháng trời.  Gay go nhất là  lúc mổ thịt. Vì thời đó  hầu hết gia đình cán bộ không có tủ lạnh, mà Tết chỉ trong 3 ngày, nên không thể cung cấp thịt sớm trước cả tuần được. Họ thường mua thịt cũng như các loại hàng Tết vào những ngày 28 Tết trở đi           Các công ty, cửa hàng thực phẩm, lương thực phải mở thêm hàng chục điểm “bán hàng Tết” để đưa hàng Tết đến mọi gia đình  đúng vào dịp Tết. Những đêm mổ thịt lợn Tết lãnh đạo Công ty Thực phẩm, các trưởng cửa hàng và anh em vận chuyển đều thức trắng ở Lò Mổ ở đường Huỳnh Thức Kháng Huế. 3 giờ sáng thịt lợn đã được chuyển về quầy bán lẻ…Có lần vào chiều 30 Tết tôi về Cửa hàng C ở đường Phan Đình Phùng, Huế, là nơi cung cấp thực phẩm cho các đối tượng  phiếu C, D. Biết tôi ở phòng Tổ chức Công ty, mấy em mậu dịch viên trẻ như Liệu, Tiến, Lưu… dân Đông Hà, Đồng Hới bỗng òa khóc nức nở. Tôi hỏi sao khóc. Liệu  bảo :” Bọn em không được về ăn Tết với bố mẹ rồi, phải trực đến 10 giờ đêm 30 Tết…”. Tôi ngậm ngùi an ủi  :” Nghề phục vụ phải  thế, rồi ra Tết về nghỉ dài hơn, em ạ…”. Đó là gái mậu dịch viên chưa chồng. Còn có chồng con rồi, thì chồng phải thay vợ làm dưa món, muối  kiệu, hành, đi đánh bóng bộ tam sự, ngũ sự, mua cát bỏ bát nhang, đi xếp hàng mua hàng Tết ở các quầy hàng. Chiều 30 Tết phải nấu cúng tất niên, vì vợ về đến nhà tắm rửa xong là Giao thừa… 

          Ấy là chuyện những người lo thịt cho Tết. Ngoài thịt còn bao nhiêu thứ nữa như gạo nếp, kẹo, mứt, lá dong…Muốn có mỗi gia đình vài cân gạo nếp để gói bánh chưng, nấu xôi chè ông bà trong  một cái Tết, ngành lương thực phải vô tận Đồng bằng Sông Cửu Long mua hàng trăm tấn gạo nếp. Kẹo, bánh, mứt , hạt dưa phải vô Sài Gòn mua,  chuối thờ thì lên huyện miền núi A Lưới, Hướng Hóa hoặc vô tận Đồng Nai, Bình Phước, Khánh Hòa mới mua nhiều được. Thời đó cả nước dùng tiền mặt. Mỗi cái Tết Công ty Thực phẩm phải dùng xe con chở một lúc ba bì tải tiền (  năm sáu trăm triệu ) vô miền Nam mua hàng Tết về . Huế là xứ sở có nhiều bàn thờ, trang thờ nhất nước ta. Mỗi nhà trong mỗi cái Tết phải mua ít nhất  năm bay nải chuối thờ. Có nhà mua tới  vài chục nải. Lần đầu  cung cấp chuối thờ, do vận chuyển kém nên chuối chở từ miền Nam ra bị xây xát, bầm vỏ, ba bốn xe tải  chuối thờ đành đổ đi, lỗ cả trăm triệu đồng

            Đó là là chuyện lo Tết cho toàn tỉnh. Riêng từng cơ quan còn có sự  “lo Tết” riêng. Ngoài tiêu chuẩn Tết Phòng Hành chính hoặc Công Đoàn  trước Tết thường phân công  nhau bủa về các địa phương, các nông trường , xí nghiệp  mà mình thường quan hệ  “năn nỉ” mua con lợn hay bò , ít  gạo nếp, đậu xanh, chuối thờ … đem về chia thêm cho anh em. Được thứ gì  tốt thứ đó, vì thứ gì cũng “đói “cả.  Ngày 28, 29 Tết, bếp ăn tập thể của cơ quan mổ lợn. Thịt thì chia cho từng người. Lãnh đạo cũng như  anh em đều bằng nhau, không phân biệt. Còn đầu, lòng , xương  thì nấu các món để cả cơ quan ăn “bữa cơm tất niên” trước khi  nghỉ Tết. Ăn bữa tất niên xong mọi người chia tay nhau, xe đạp treo lỉnh kỉnh túi thịt, túi gạo, nắm lá dong, nải chuối thờ …không khác gì đi chợ Đông Ba về. Ngày Tết  cơ quan dán  lịch phân công cán bộ “Trực Tết”. Cơ quan Sở Thương Nghiệp của tôi  quy định trực Tết phải cả đêm, cả ngày. Mỗi  buổi trực được cơ quan “bồi dưỡng một chiếc bánh chưng” to tướng, thứ bánh gói bằng nửa cân nếp. Trực cả ngày thì được hai chiếc bánh. Vui lắm...

Tết của thời bao cấp

GiadinhNet - Trong vô số sự kiện có thể gây sung sướng thời bao cấp, thì Tết là sự kiện sung sướng hơn cả.

Có người bảo, thời bao cấp, quanh năm là lo toan, vất vả, chỉ 3 ngày Tết là sung túc, nhàn nhã. Thế nhưng khi quá khứ đã ở lại sau lưng, trong tâm trí nhiều người bất chợt trào dâng nỗi nhớ, kỷ niệm của một thời gian khó lại ùa về...

Trong vô số sự kiện có thể gây sung sướng thời bao cấp, thì Tết là sự kiện sung sướng hơn cả. Nhà tôi, cứ đến ngày ông Công ông Táo lên chầu giời là thế nào mẹ tôi cũng háo hức hỏi bố tôi năm nay được phân bao nhiêu cân thịt.

Ngày thường, theo chế độ tem phiếu, mỗi cán bộ, công nhân được phân 3 lạng thịt/tháng. Tết đến, ngoài chế độ cao hơn (5 lạng/khẩu) thì hầu như cơ quan nào cũng mổ lợn chia cho cán bộ. Cơ quan bố tôi dịp Tết cho đến 5 - 7 cân thịt, có năm còn cho tới 15 cân. Năm đó, quê ngoại tôi cho thêm mấy con gà, vậy là nhà tôi ăn Tết to.

Khi Tết đến, nỗi lo lắng chiếm nhiều thời gian của các gia đình nhất là nồi bánh chưng, thường là do các gia đình tự gói. Nhà tôi hay gói bánh chưng vào 27 Tết. Mỗi lần đến ngày này tôi lại lăng xăng trải chiếu, đặt mâm, chọn trong đống lá dong vài chiếc lá bé xíu để tự gói cho mình một chiếc bánh. Lúc đậu đã đồ xong, thịt đã ngấm đủ hành, mắm, hạt tiêu, gạo sẵn sàng trong rá là lúc cả nhà bắt tay vào “sản xuất”.

Bố tôi gói bánh rất nhanh, lại vuông và chặt tay lắm, hơn chục cân gạo mà loáng cái đã xong. Đến khoảng 5 giờ chiều, bố tôi cho bánh vào nồi, nới rộng mấy ông đầu rau, nhét vào những thanh củi to như ống chân rồi “khai hỏa”. Có lần vừa châm lửa bố vừa vui vẻ hát bài “Nổi lửa lên em” khiến chúng tôi cười ngặt nghẽo.

Bánh chưng được luộc đun từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau, bố tôi bảo ít nhất cũng phải luộc đủ 12 tiếng bánh mới dền, không bị lại gạo. Đêm luộc bánh chưng, chị em tôi thức đến 2 – 3 giờ sáng rồi ngủ ngay trên chiếc chiếu trong bếp.

Cũng có năm nhà tôi và nhà chú thím hàng xóm luộc bánh chung. Gọi là chú thím nhưng nhà tôi và nhà chú thím ấy không có quan hệ họ hàng gì. Những năm đó, dù người tứ xứ đã bắt đầu đổ về Hà Nội nhưng chất làng xã còn rất đậm, vẫn gọi nhau bằng những danh xưng như người trong một gia đình. Mỗi khi nhà ai có việc gì là hàng xóm lăn vào giúp, coi như việc nhà mình.

Khi luộc bánh chung thì phải dùng sợi lạt đánh dấu để tránh nhầm lẫn, bởi mỗi nhà gói bánh theo một chất lượng khác nhau. Bánh nhà nào có nhiều thịt, đậu được coi là niềm tự hào của gia chủ, vì nó chứng minh cho sự khá giả.

Một thời quy gai xốp

Ngày thường, trẻ con chúng tôi chỉ quanh quẩn với kẹo lạc, kẹo vừng, chè lam, kẹo bột. Tết đến, thứ bánh không thể thiếu là quy gai xốp. Thực ra bánh quy gai và quy xốp là hai loại khác nhau, nhưng vì thường xuất hiện cạnh nhau nên người ta quen miệng gọi bánh quy gai xốp. Bánh quy gai trông như chiếc đũa cả, dài chừng 6 cm, rộng 2cm, ở một mặt bánh có những hàng gai đâm lên tua tủa. Còn bánh quy xốp có nhiều hình thù khác nhau, nhưng làm cùng chất liệu (đường, trứng, bột mì) như quy gai.

Thường thì trước Tết khoảng 15 ngày, mấy mẹ con tôi rồng rắn mang nguyên liệu ra tiệm làm bánh của hợp tác xã, để đó rồi hôm sau ra lấy bánh về. Nhưng nhiều người khác thì cẩn thận hơn, họ chờ làm xong thì lấy luôn. Có thể do người ta nghe nơi này, nơi kia bị làm “nhầm” bột hoặc thiếu đi chút ít đường, trứng nên các bà nội trợ áp dụng phương châm “cẩn tắc vô áy náy”. Bánh mang về rồi, mẹ tôi lấy giấy báo ủ kỹ, cho vào trong những chiếc thùng tôn đựng gạo. Mẹ bảo như thế bánh mới giòn.

Đến ngày 30 Tết, khi nhà cửa đã được quét dọn, bày biện tươm tất, lúc đó quy gai xốp mới được cho vào những chiếc đĩa xinh xinh trên bàn. Mẹ bảo, ăn bánh vào lúc giao thừa mới ngon, nhưng chị em tôi thì đã xơi trộm ngay từ khi mang về. Mồng một Tết, nếu có trẻ con hàng xóm sang chơi, ngoài 5 xu, 1 hào mừng tuổi, thế nào bố mẹ tôi cũng đưa kèm thêm dăm ba chiếc quy gai xốp. Dù trong mớ bánh có những chiếc nướng quá lửa, cháy đen cả cạnh, nhưng ăn sao vẫn thấy ngon thế, thơm thế.

Mỗi năm Tết về là chị em tôi lại tất bật với quần áo, giày dép. Theo tiêu chuẩn, bố và bà nội tôi được 10 mét vải xanh chéo/năm, mẹ thường dùng vải này may quần cho chúng tôi mặc đi học. Còn đến Tết, mẹ mua vải ngoài thị trường, mịn và đẹp hơn để may cho chị em tôi những bộ cánh mới. Sau những năm 1980, bố tôi hay phải đi công tác miền Nam nên Tết đến chị em tôi còn được bố mua cho quần bò Levis, dép sa – pô, những thứ trong mơ.

Khi trăm thứ bà rằn cho một cái Tết hoàn tất, cả nhà háo hức trong bữa cơm chiều 30 Tết. Còn đến lúc ba chiếc kim đồng hồ chuẩn bị chập vào con số 12, chị em tôi vừa xem mẹ cúng giao thừa vừa nóng lòng chờ bố về xông đất. Khi đã lớn hơn, cũng có năm giao thừa tôi đi chơi cùng đám bạn. Ngày đó quán xá rất ít nên mọi cuộc đi chơi đều dẫn đến Hồ Gươm. Tại đây chúng tôi chụp ảnh, xong rồi làm vài con mực với món tương ớt cay xé lưỡi.

Mồng một Tết, chị em tôi dậy từ rất sớm để nhận tiền mừng tuổi từ bố mẹ và chờ... khách đến. Tuy nhiên, khi có khách, chúng tôi biết ý “đi chỗ khác chơi”, chỉ lúc các cô, chú gọi mới bẽn lẽn lại gần, dù đã như mở cờ trong bụng. Ngày ấy, cha mẹ rèn con nghiêm lắm, cha mẹ chưa cho phép, cấm có dám cầm thứ gì của ai.

Hết 3 ngày Tết, mọi thứ nhanh chóng quay trở lại nhịp sống thường ngày, người lớn đi làm, trẻ con đi học, ra đường lại thấy quần xanh chéo, xe đạp, cặp lồng tung tăng khắp phố, trong ngõ xóm cơm rang lại nhảy lách tách trong chảo, tất cả lại cần mẫn trong suốt một năm để đón đợi cái Tết năm sau, với bánh chưng, thịt mỡ dưa hành, túi quà Tết, quy gai xốp theo tiêu chuẩn nhà nước.

Năm 1986 – năm đầu tiên chấm dứt thời kỳ bao cấp, dường như đã có không ít người bỡ ngỡ. Mấy chục năm ăn có nhà nước lo, Tết có nhà nước chu cấp đã trở thành một thói quen, không dễ gì từ bỏ ngay được. Thế nhưng sự chống chếnh ấy cũng nhanh chóng qua đi, giờ đây nếu nói đến cảnh xếp hàng từ nửa đêm sắm đồ Tết hẳn nhiều người sẽ thấy rất khôi hài. Tất cả những câu chuyện đó đã trở thành quá vãng, thành kỉ niệm mang nhiều sắc thái, chua xót lẫn ngọt ngào, mừng vui hòa tiếc nuối.

Một mùa xuân lại về, tôi nhớ cái cảm giác se lạnh, mưa phùn giăng giăng ngoài sân, da thịt tôi cảm nhận được hơi ấm từ ngọn lửa, từ nồi bánh chưng đang sôi lục bục và dường như từ cả những câu chuyện mà bố mẹ tôi nói với nhau. Giờ bố tôi đã đi xa, nhà không gói bánh chưng mỗi dịp Tết đến, tôi cũng không còn được ngủ bên cạnh hơi ấm của ngọn lửa. Có lẽ đó là những giấc ngủ mà chỉ tuổi thơ mới có được.

Đối với tôi, cái Tết thời bao cấp lại là những cái Tết đáng nhớ nhất trong đời, dù lúc ấy cái gì cũng thiếu, muốn mua đều cần tem phiếu, duy chỉ có một thứ là lúc nào cũng sẵn, ai cũng có thể sẻ chia, đó là tình người.

Tôi nhớ đó là mùa đông năm 1980, khi vừa từ CHDC Đức về nước tám tháng thì được cử phụ giúp ông tổ trưởng công đoàn đi liên hệ với một nông trường ở Lương

Sơn,

Hòa Bình để mua đôi lợn cho tập thể. Thú thật, tôi rất lo vì chẳng biết bắt đầu từ đâu.

 Nhưng  ông tổ trưởng công đoàn thì cứ tỉnh khô và bảo: “Yên chí, chỗ anh em quen biết cả, họ nhiệt tình lắm. Lát nữa, trên đường đi mình rẽ vào nhà máy thuốc lá mua mấy chục cân thuốc vụn biếu họ”. Tôi ngạc nhiên vô cùng vì lúc đó thuốc lá điếu phải phân phối từng bao mà ông tổ trưởng của tôi đòi mua cả mấy chục cân thì quả thực là đáng nể quá! Khi đến nhà máy thuốc lá tôi mới ngã ngửa khi ông bảo tôi cùng với mấy chị công nhân vào quét những mẩu vụn sợi thuốc được vun lại thành đống dưới nền nhà. Sau khi lèn chặt hai bao tải to vụn thuốc, ông tổ trưởng nói với ông cán bộ cung tiêu của nhà máy thuốc lá cho thêm năm cân “ruột mèo”. Tôi trố mắt hỏi ông: “Sao lại ruột mèo hở anh”? Ông bảo cứ đi theo họ đi, rồi sẽ hiểu. Thì ra đó là loại giấy cuốn thuốc lá bị rối khi cuốn bằng máy họ thải ra, nó quăn như ruột mèo thật. Ấy thế mà khi lên đến nông trường thì cánh đàn ông từ đằng xa đã chạy lại và hỏi ngay: “Có thuốc lá không ông anh?”. Ông tổ trưởng của tôi vui như Tết pha một chút đắc thắng:

“Không có thì lên đây làm gì”. Nói rồi ông bảo tôi bê từ thùng xe Mô-nô (một loại xe tải một cầu của Liên xô) hai bao tải vụn thuốc lá xuống cùng với đống ruột mèo, giao cho anh em ở nông trường làm quà. Sau khi ăn trưa, chúng tôi lên xe về Hà Nội với hai chú lợn của nông trường.

Trên đường về ông tổ trưởng bảo tôi: “Cậu thấy không, cứ trông vào tem phiếu thì có mà… treo niêu ngày Tết. Công việc tối mặt, thời gian đâu mà đi xếp hàng từ bốn năm giờ sáng. Mình chịu vất vả một chút thì anh em được nhờ, lại còn có phần để đi đối ngoại nữa chứ”. Nói chưa hết câu đã nghe ông ngáy như sấm, làm hai con lợn cũng phải giật mình.

Chiều tối, cả cơ quan vẫn háo hức chờ. Khi xe vừa lùi vào đến sân, mọi người đổ xô ra, mỗi người một việc, loáng một cái đã thấy hai chú lợn phân thân thành nhiều phần nhỏ, đều nhau tăm tắp, phần nào cũng có đủ thịt mông, thịt vai, chân giò, thịt thủ, gan , lòng vv… Nhớ lại hình ảnh ông tổ trưởng cắt đặt công việc thật hợp lý, lại tay năm tay mười pha các loại thịt cho từng phần rất thành thạo, rồi hướng dẫn đám thanh niên làm lòng, đánh tiết canh, tôi thực sự ngưỡng mộ ông. Không biết thời nay có bao nhiêu tổ trưởng công đoàn được như ông, không phải vìcái tài pha thịt như ông Mỡi trong

“Việc làng”của cụ Ngô Tất Tố, mà ở sự hết lòng với công việc, hết lòng với đồng nghiệp. Và ông cũng chỉ nhận một gói thịt như mọi người trong cơ quan mà không hề một lần kể công của nình.

Đêm ấy, số anh em ở tập thể trong cơ quan tổ chức gói bánh chưng và luộc chung ở sân khu tập thể. Tôi được phân công đi mượn nồi của một anh ở Ủy ban

Kế hoạch

Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và

Đầu tư). Đến nơi thì một mẻ bánh mới được vớt ra, cái nồi còn nóng bỏng. Đó là một cái nồi nhôm rất dày, thường gọi là nồi quân dụng. Tôi buộc cái nồi lên chiếc mô-kích màu đỏ ớt và phóng về cơ quan trong cái rét cắt da. Lửa được nhóm lên, bánh được xếp vào nồi và thế là một đêm nữa không ngủ. Cánh đàn ông ngồi quanh bếp lửa vừa uống chè mạn, vừa đánh tu-lơ-khơ, thỉnh thoảng lại rắc trấu vào bếp. Tết năm ấy sẽ là một cái Tết đầy ắp tiếng cười, nếu không có sự cố khá hy hữu xảy ra…

Số là, sau khi bánh chín thì phải vớt ra và ngâm vào nước lã, rửa sạch để có thể dùng được lâu không lên mốc ở bên ngoài, rồi chia cho các nhà. Nhưng năm ấy nấu chung, mới rửa hết nửa nồi bánh thì chậu nước rửa đã nóng bỏng, phải thay chậu khác. Mọi người chỉ chú

ý vào nồi bánh mà không để ý gì đến chậu nước rửa đang bốc hơi nghi ngút ở gần đấy. Mấy đứa trẻ trong khu tập thể đã dậy và xúm xít quanh nồi bánh chưng. Những đôi mắt trước đó còn ngái ngủ, bỗng chốc sáng lên khi nhìn những chiếc bánh nóng hổi cứ nối tiếp nhau được vớt ra rồi lại ngâm vào chậu nước. Lũ nhóc đứa nào cũng muốn chen vào gần để xem cho rõ hơn. Và tai nạn đã xảy ra khi thằng bé con một cán bộ phòng kế hoạch bị ngã ngồi vào chậu nước rửa bánh nóng bỏng. Thằng bé khóc ré lên! Mẹ nó là người đầu tiên chạy lại, bế thốc nó ra khỏi chậu nước, mặt cắt không còn giọt máu. Lên tiếng đầu tiên là ông tổ trưởng công đoàn, ông nói như quát :“Lấy ngay chậu nước lạnh ra đây”. Không ai hiểu

ý ông nên cứ đứng như phỗng. “Điếc à? Thằng Đông đâu rồi”. Bấy giờ, bố đứa bé mới hấp tấp bê chậu nước đến. Ông giằng lấy thằng bé đang khóc lặng trên tay mẹ, và thật bất ngờ ông đặt nó ngồi vào chậu nước lạnh buốt, từ từ cởi quần nó ra, miệng liên tục dỗ dành, an ủi:

“Một phút thôi, giỏi nào, rét một tý nhưng giữ được của quý cháu ạ”. Rồi quay sang mẹ thằng bé, ông lại quát: “Lấy cái khăn bông”. Ông khéo léo như một người mẹ thực sự ủ đứa trẻ vào khăn bông và bế nó vào nhà. Nước lạnh làm môi nó tái nhợt, nhưng nó không khóc nữa, chắc nó đã đỡ đau rát, hai tay nó ôm lấy cổ ông và ngả đầu vào ngực ông. Tất cả chỉ diễn ra trong mấy phút đồng hồ mà tôi thấy căng thẳng, hồi hộp như vừa xem xong một trận chung kết bóng đá.

Sau khi bố mẹ thằng bé đưa nó đi bệnh viện, mọi người tiếp tục rửa bánh và giao cho từng nhà. Ông tổ trưởng công đoàn phân công thu dọn dần cái sân khu tập thể và làm vệ sinh các khu vực còn lại để đón năm mới. Xong xuôi mọi việc, ngồi uống nước chè ông mới tủm tỉm với mấy bà phụ nữ: “Nhà thằng Đông nó cậy có những hai cái của quý nên chả chịu để ý đến con cái. Cứ lúng ta lúng túng như thợ vụng mất kim. Không ngâm ngay vào nước lạnh có mà…

rụng mất của quý rồi còn gì. Của quý do công đoàn quản lý, đúng không nào?”. Mấy bà phụ nữ vừa cười rũ rượi, vừa đấm thùm thụp vào lưng ông…

Năm Tân Mão sắp qua rồi. Không biết giờ này ông tổ trưởng công đoàn của tôi đang làm gì khi đã vượt cái tuổi thất thập cổ lai hy. Cầu xin giời đất cho ông sống khỏe mạnh, cứ đặt lưng xuống là lại ngáy vang như sấm, hệt như khi đi bắt lợn năm nào.

Chuyện thời bao cấp

1.

 Hôm nay thằng Sấm õng ẹo không thích ăn cá, bố nó bảo: con không ăn 20 năm nữa chả có cá mà ăn, nó rú lên sung sướng: con chỉ thích bây giờ là 20 năm nữa.

Rồi nó hỏi hồi bé bố thích ăn gì nhất? Mẹ thích ăn gì nhất?

Hồi bằng tuổi nó, mình thèm nhất cái bánh mì. Mình nhớ mẹ mình đổi 1kg gạo được 6 cái bánh mì, vứt vào trong thùng gạo ăn cả tuần, cảm giác ngon, thèm khát đến mức bây giờ chưa có một sơn hào hải vị nào có thể mang đến sự thèm khát ngon miệng đến thế. Mình nhớ bánh mì có tiêu chuẩn nên mình hay mở thùng gạo ra để ngửi cho nó đỡ thèm. Nếu hôm nào đổi bún, 1kg gạo được gần 2kg bún, đấy chỉ có thể là buổi sáng chủ nhật. Nhà mình hoặc nhà hàng xóm sẽ nấu bún thơm lừng (lệch pha nhé) và mang cho nhau 1 tô to tướng, trẻ con hít hà sướng điên và nhà hàng xóm bao giờ cũng nấu ngon hơn nhà mình!!

Sấm thì không thể hiểu nổi tại sao mình lại thích bánh mì, tại sao không thích thịt Cừu, thịt Bò. Thời đó từ Thịt Cừu khéo còn chưa có trong từ điển. Mình chỉ biết đến thịt gà khi về quê ăn tết với ông bà hoặc thịt lợn khi bố mẹ xếp hàng mua mỗi tháng được vài lạng, vài lạng thịt nhưng đâu được toàn thịt, cả bì, cả mỡ, cả xương… mà vẫn thấy may vì không phải ăn lòng. Các chị mậu dịch viên hồi đó chả khác gì thánh, ban phước cho ai cái gì nấy dạ, bố bảo dám cãi.

Chưa đến 10 tuổi đầu mình được giao nhiệm vụ đi xếp hàng mua thịt, gạo. Mình nhớ là khu tập thể Dệt Nhuộm thì không có điểm mậu dịch nào mà mình phải sang bên khu Gạo xưởng than (gần X20 phá lưới) để xếp hàng. Mình đứng đến khuỷu tay mọi người (nói giảm nói tránh chứ đúng đến cạp quần mọi người), đám đông nhốn nháo, chen chật cứng, hở cái là có người chen ngang, cãi nhau chí chóe, mình cứ lặng lẽ đợi đến lượt rồi mỗi lần mua được đồ, mừng hơn nhặt được của.

Cái ô cửa sổ của các cô mậu dịch bao giờ cũng cao hơn mình, tha hồ dướn cho chóng lớn. Cái cân của các cô đen nhánh, cáu két những mỡ, bên cạnh là đống quả cân các cỡ mà đến phiên ai thì các cô thoăn thoắt hơn ảo thuật, chả biết có đủ thịt không nữa.

Về nhà mẹ sẽ thái thịt mỏng dính ra, đảo với mắm muối mặn chát để ăn được vài hôm, một bữa cơm 2 miếng không hơn, tuy rằng hai chị em vẫn mè nheo thêm tí. Mẹ và bố thì chả bao giờ ăn thịt, người lớn không cần ăn thịt. Mắm hồi đó cứ mang về là đun sôi sùng sục rồi mới đổ vào chai dùng dần. Mình không hiểu tại sao mắm hâm

 lại là câu chuyện cười chứ mình thấy khu mình nhà ai cũng hâm mắm thơm hoắc (cái mắm mậu dịch mặn chát và chả có mùi thơm như bây giờ).

Chồng nghe tả hãi quá bảo giá như hồi ấy anh biết em sớm anh sẽ gửi cho em cả bánh mì lẫn thịt cừu, đi đâu mà thiệt, gửi cho vợ tương lai, ha ha, chết cười, đang kể chuyện đến đoạn xúc động định rơm rớm nước mắt…

2.

 Hồi đó, mọi người không có nhiều thời gian để mắt đến con cái như bây giờ, bố mẹ mình hay gửi mình ở trường Y, trong đó có khu tập thể lắp ghép 2 tầng mà nhà bác mình uy nghi đầu hồi tầng 2 (hồi đó oai thì được ở tầng trên). Trường Y khi đó rộng khủng khiếp, tụi mình cứ đi bộ là cà cả ngày không hết chỗ chơi. Trong đầu mình vẫn còn nhớ như in chỗ nào hái hoa, chỗ nào vớt cá, chỗ nào bãi đá bãi sỏi, đúng là mênh mông ngút tầm mắt… và khi đó mình gọi các anh sinh viên bằng chú!

Một trò chơi ngu dại nhất mà tụi mình hay chơi đó là vào cái khu thổi ống thủy tinh trong trường, rác thủy tinh là món quà tuyệt vời cho mấy đứa mình. Cả hội ngồi đợi tiếng xoảng của người đi đổ thủy tinh, đứa nào đứa đấy cắp dép vào nách, chân trần lao vào đống rác thủy tinh cố tìm ra 1 ống dài nhất, vỡ đẹp nhất để làm súng. Đôi khi cũng bị đứt chân nhưng đứt chân chân lại lành, đứt dép thì toi, dép không tự lành mà còn no đòn nữa. Có súng rồi thì cả hội sẽ về xé vở nhai giấy thật nhuyễn rồi vo tròn nhét vào ống thủy tinh thổi đến phụp 1 cái, kiểu gì cũng có tiếng oái bởi vì ngày nào cả bọn chả luyện.

Chán trò thổi thì tụi mình sẽ biến súng thành kiếm, đập chát chát chát chát mấy phát kiếm vỡ tan tành, cả hội sẽ chuyển sang trò vớt cá. Đằng sau khu nhà lắp ghép 2 tầng đó là khu tăng gia, nuôi lợn, trồng rau. Có một cái ao rau muống cơ man cá Săn sắt và cá rô con. Rổ rá xong nồi của mọi nhà đều được mang ra đây dìm, cả ngày kiểu gì chả quây được vài con, đứa ”người lớn” hơn thì câu cá, đứa không hớt không câu được thì cũng vẫn xin được vài con, phuy nước nhà ai cũng được thả vài con cá. Ngày đó nước hiếm, đi hứng từ 4 giờ sáng để về đổ vào thùng phuy trữ (vì còn hay mất nước nữa), bẵng đi vài ngày lại thấy cá chết nổi phềnh phềnh trắng phuy. Phụ huynh điên tiết nện cho 1 trận, cả khu mang đèn ra soi xem nhà mình có cá không còn thanh trùng phuy nước, ấy thế mà vài bữa lại lặng lẽ thả cá, có khi còn vớt giun thả vào cho cá ăn nữa…

Buổi tối thì xách đèn dầu đi sờ ve dưới gốc cây Xà Cừ, sao mà nhiều ve đến thế, hôm nào ăn cơm muộn chúng nó kịp lột xác xong rồi chỉ sờ được cái xác thì hôm đó tha hồ mà hậm hực. Bọn trẻ con hôm sau đứa nào đứa nấy khoe Ve cánh dài ngoằng và cong queo vì lột xác trong bao diêm, kêu è è rõ chán, thế mà cũng là niềm tự hào mỗi khi túm được. Giờ hè qua công viên Thành Công xác ve đầy ra đấy, trẻ con bố bảo dám lượn đi sờ ve buổi đêm sợ sờ nhầm cái gì khác…

Mình vẫn nhớ in những khuôn mặt trẻ con ngày đó trong trường Y, cái Liên, cái Hạnh, tay Quang, Châm, Phương, cái Hằng… cách đây chục năm nghe chuyện đứa nọ đứa kia lấy chồng mà mình quên mất rằng chúng nó đã lớn, cứ tưởng vẫn váy xanh quần xi líp trắng như ngày nào.

3. Đi học:

từ nhà đi bộ đến trường cũng hơn cây số, ngày ấy hầu như tuần nào đường tàu cũng có tai nạn chết người, ấy thế mà trẻ con cứ chạy rầm rập trên đường tàu, nhảy nhót giữa các thanh đường ray làm cho mình nhanh về nhà hơn.

Rồi khi lên lớp 7, hầu như mỗi đứa đều được mua cho 1 con mini, riêng mình thì phải đi 1 cái xe bố tự thửa (tự mua phụ tùng rồi lắp ráp dần dần) chả ra xe đực cũng không giống xe cái, cái ghi đông nó to kềnh càng chưa từng thấy, yên thì ngồi lên chân không với hết bàn đạp chứ chả nói chạm đất, thế là cứ đạp thật mạnh cái bàn đạp bên phải rồi giơ chân bên trái ra đón cái bàn đạp kia, xe đó không có phanh ở tay mà phanh chân, đạp ngược lại là phanh, thế mà chỉ vài tuần đi xe ti toe thả hai tay phóng như bay ngoài đường, đi thi với bọn con trai cùng khu thì đi thẳng đứa nào cũng như nhau nhưng ngoài mình ra chả có thằng nào đi qua đường tầu mà thả được 2 tay cả (ôi, bảo sao sau này mình ế)

4. Tình yêu:

Tình yêu thưở bé hàm chứa đầy bạo lực, tức là nếu giai thích con nào giai sẽ hoặc dứt tóc, hoặc lấy thước quật cho mấy phát. Tình yêu của mình thì giật cặp sách. Không ngày nào ra khỏi lớp mình không bị ”thằng chó” ấy nó giật cặp. Mình chiến rất quyết liệt, đằng nào nhà nó cũng trên đường đi học về, mình lẵng nhẵng theo nó, đúng đến cửa nhà nó mình bắt đầu gào tổ sư thằng chó… (tên nó + bố nó). Giờ trưa là giờ mẹ nó ra đường hóng nó tiện thể cũng phơi cái áo cái quần luôn, mỗi lần nhìn thấy mình bả đứng như giời trồng, ú ớ nói không ra hơi, mình thì vênh mặt lên giật lại cái cặp sở hữu của mình, nghênh nghênh bước đi nhưng tai vẫn để sau gáy, lúc nào cũng là 1 tiếng rít và tiếng phát bồm bộp vào thằng kia, ha ha, thế mà hôm sau tình yêu vẫn diễn lại bài giật cặp

5. Chuồng xí 

tập thể:

Giữa khu tập thể Dệt Kim, Dệt Nhuộm và Tạp Phẩm có chung nhau 1 dãy gồm 8 nhà xí. Khoảng 400 con người sống trong 3 khu tập thể mà chỉ có 8 cái nhà xí, tức là nếu mỗi người đái 3 lần ị 1 lần/ngày thì 1 nhà xí chịu 200 lần ghé thăm, trước giờ đi làm là giờ cao điểm của khu tập thể, người người nhà nhà vừa đi vừa vò giấy, nói chuyện í ới, ấy thế mà phàm cứ gần đến khu này thì ai nấy in lặng như chả quen nhau bao giờ, xếp hàng lặng lẽ như đang làm việc gì xấu hổ lắm í. Khu Dệt kim có 2 chị em sinh đôi P.A, P.M (giờ là hai gái xinh đẹp dịu hiền lắm) được mệnh danh là phù thủy, ai đi vào trước giờ phù thủy đi thì cứ gọi là tha hồi run vì chúng nó ko có tí kiên nhẫn nào, chúng nó đứng đợi 1 phút và sẽ hét lên ai ở trong đấy, bố ai dám nhận là ai, chỉ vò giấy sột soạt đáp lại (í là tao sắp xong rồi, tao đang vò giấy đây này), hai chị em này không bao giờ thỏa mãn với kiểu trả lời bằng giấy, nó sẽ cầm ngay mấy viên gạch ném vào cái cửa sắt gỉ vốn đã rất mong manh: choang, ối… chả ai bị thương nhưng đúng là không ai còn hồn vía mà cố thủ. Mình thì hay tránh giờ cao điểm nên đi vào buổi tối, buổi tối thì thấy bảo lắm ma, lắm ma thì phải hát cho ma nó sợ (đúng thật), thế là vừa x vừa hát 

Những ánh sao đêm

, có hôm đi học thằng ngồi sau nó bảo: tối qua mày hát sai mấy đoạn liền (cùng khu tập thể thì hay học cùng lớp luôn, thế mới đau)

Sau này xây nhà, 4 cái toilet, mình tự hỏi, không hiểu sao người ta có thể dùng chung cả trăm người như vậy, thế mà vẫn sống ổn ra phết, bằng chứng là chửa bao giờ nghe thấy ai nói là tôi thấy chán cuộc sống này, sống kiểu x gì mà đi ị cũng phải xếp hàng…hay những điều tương tự như vậy

6. Tẩy giun:

Thỉnh thoảng bọn trẻ con lại ra ao rau muống hái về mớ tướng, lấy trộm ít gạo ở nhà, tìm đâu cái lon sữa bò, ít giấy học sinh, ít lá ít que đun khói mù mịt, rau thái nhỏ, nấu sống xít không bằng cám lợn nhưng tự nấu nên tự khen ngon, chia nhau 5-7 đứa kiểu gì cũng hết. Hàng năm cơ quan được phát thuốc tẩy giun dạng nước, uống rất là tởm (sau này tiến bộ hơn có thuốc giun quả núi xanh đỏ và ngọt ngọt thì là niềm mơ ước, chả khác gì một loại kẹo hấp dẫn, trẻ con ước ngày nào cũng được tẩy giun) . Thuốc giun ngày đấy không có chức năng tự tiêu như bây giờ nên công dụng của thuốc bao giờ cũng được thực tế chứng minh. Con cô The cứ không tẩy thì thôi, tẩy thì 3 ngày chỉ rặt giun, không tạp chất…

Thuốc giun bây giờ văn minh quá, những đứa sinh thời bao cấp có khi lại nghi ngờ tác dụng thực!!

7. Nhà cửa:

Nhà tập thể hồi đó là 1 nhà dài, xây 4 cái tường, trong chia ngăn bằng cót ép, chỉ cót ép thôi nhé nên hàng xóm thở mạnh cũng nghe thấy. Mỗi nhà có duy nhất 1 cái tường chính là lối vào của nhà. Nhà rộng 9m2, 4 người ở mà cũng chả thấy chật mấy. Cả nhà nằm chung trên 1 tấm gỗ lớn ghép lại, 1 cái bàn to đặt được 1 cái tủ lên trên và 1 cái máy Dệt nữa. Trong nhà chỉ có 1 cái xe đạp với 1 cái bếp dầu, thế mà đi đâu cũng phải khóa cửa, đeo chìa khóa ở cổ. Mình nhớ có lần đi chơi về thấy cửa mở, mình thất thanh gọi hàng xóm tới ứng cứu. Hàng xóm gọi thêm mấy hàng xóm mang đòn gánh đến ”quây”, xong vào nhà thì nhõn có cái gầm giường để kiểm tra, chả có ai cả nên các chú kết luận có thể trộm đã xong rồi, kiểm tra xem có mất thùng gạo không . Nhà mình không mất gì (sau mình nghĩ có thể mải chơi chạy ra khỏi nhà quên không khóa)!

Sau này năm 86 thì phải, cơ quan bố phân cho một miếng đất rộng đến trăm m2, nhưng mà nhà chả máu, ở chỗ to thế buồn chết, đang ở nhà dài tự dưng chuyển ra ở riêng, xa mọi người đến cả trăm mét đường bộ, chả ai thích tí nào. Sau gần năm thì bố mới chịu chuyển về khi có gia đình chú thợ điện cũng chuyển về đó. Nhà lúc này ở cạnh bể nước công cộng, sau lưng nhà có 1 bụi tre, đêm kẽo kẹt phát khiếp, sau bụi tre là cái ao rau muống to đùng rồi đến cái lô cốt rồi là sông tô lịch, khu này ngày đấy hoang vắng đến nỗi cái ao thành chỗ đổ rác cho cả khu, rác thải hồi đó thực ra cũng ko giống bây giờ, không có túi nilong và cũng chỉ vài thứ rau cỏ sạch sẽ.

Cứ Chủ Nhật đến, cả khu tập thể mang chăn chiếu ra bể nước giặt, nói đủ chuyện trên đời (chủ yếu là nói xấu người chưa đi giặt). Mình ở nhà buồn nên ghé cửa sổ hóng chuyện, biết ối chuyện kể lại mẹ giật mình. Từ đấy cấm chỉ thập thò chỗ cửa sổ ngày Chủ Nhật.

Chuyển sang nhà này được vài tháng thì mình quen bạn Hà, hai đứa ra bờ đê trồng rau muống, nắng vỡ đầu 2 đứa cũng đi nhổ cỏ, mưa vẫn mang gáo dừa ra múc nước ở sông Tô Lịch lên tưới, rau lên xanh um, bán được 3 mớ cho mẹ (không đòi được tiền) thì bà hàng xóm sang bảo đất đấy bà ấy khai hoang cách đây mấy năm, giờ rau mình trồng tốt tươi bà ấy đòi lại, khổ hai đứa cày quốc rõ vất vả, luống rau mơn mởn giờ rơi vào tay.. kẻ khác! Mình trắng tay còn bạn Hà hình như đòi được mẹ bạn ấy ba chục đồng tiền rau.

ẨM THỰC THỜI BAO CẤP

POSTED BY

ADMIN2

ON MAR 17, 2012 |

LEAVE A COMMENT

Tem phiếu, gạo mậu dịch, cá biển ươn, thịt bạc nhạc, mắm thum thủm… là những ký ức có lẽ không bao giờ quên đối với mỗi người từng đi qua một thời có tên là bao cấp.

Nhà tôi 4 người, bố bộ đội, mẹ giáo viên, hai anh em đều được ăn theo. Thế tức là, tiêu chuẩn gạo một tháng của cả nhà lên tới 65kg, tạm đủ cho vấn đề lương thực. Đó còn chưa kể, gạo mậu dịch vốn nấu rất nở (trừ khi đong phải gạo tấm dính)!

Thức ăn mới là vấn đề. Một tháng 1,8kg thịt được mua theo tiêu chuẩn tem phiếu chưa bao giờ đủ cho gia đình. Để có thêm chút thức ăn cho hai đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, mẹ cũng cố gắng tần tảo chạy chợ sau giờ đi dạy học. Thế nhưng, chẳng được bao lâu lại nghỉ vì giáo viên và “con buôn” là hai thực thể độc lập mà những “chuẩn mực” của xã hội không cho phép nhập thành một.

Thiếu thức ăn, mẹ xoay xở đủ cách. Hàng sáng tinh mơ, ba mẹ con, hai cái xe đạp đã ra khỏi nhà. Mẹ ôm hai chục cái vó tôm. Hai anh em tôi mỗi đứa một cái cần câu. Ba mẹ con đạp xe chừng 5 cây số, ra mấy cái đầm ở vùng ven đô. Mẹ cất vó tôm. Hai anh em tôi câu cá.

Ngày ấy, cá tôm còn nhiều, chỉ chừng 2 giờ buổi sáng, ba mẹ con đã kiếm được nửa cân tôm, một cân cá. Mang về, mẹ đảo qua tôm, rồi đem phơi. Còn cá, chủ yếu là cá diếc, mẹ cũng đảo qua với muối rồi phơi. Cá khô và tôm khô là hai thứ thức ăn dự trữ “chiến lược” cho những ngày đông rét mướt không kiếm chác được gì.

Những ngày ấy, chỉ cần thêm chút nước mắm, cả nhà tôi đã có món tôm hoặc cá rang khô ngon tuyệt. Cơm hết cả nồi to.

Những lúc thức ăn khan hiếm, hai anh em tôi nghĩ ra đủ trò. Bố mẹ đi làm, trưa chỉ còn hai anh em, thức ăn dù có dè sẻn thì cũng chỉ đủ hai lưng. Bí quá, anh tôi mang chút nước mắm ra đun đến lúc khô cong, chuyển sang màu trắng vàng, thơm thơm khác hẳn mùi nước nguyên gốc. Mỗi chấm đầu đũa là một miếng cơm to. Thơm, ngọt lạ thường. Thêm đôi bát cơm cho ấm bụng!

Một món nữa độc đáo hơn nhiều là ớt. Thuở ấy, đất trống ở Thủ đô còn nhiều, nhà tôi tạm chiếm dụng được một mảnh để làm vườn. Chẳng hiểu chất đất thế nào mà thứ cây trồng hiệu quả nhất lại là ớt. Đủ loại, ớt chùm, ớt chỉ thiên, ớt vàng, ớt đỏ. Cho, biếu chẳng hết, đành phơi khô làm ớt bột và ngâm giấm. Được ngâm trong giấm chua lâu ngày, chất cay của ớt đã giảm nhiều và chuyển sang chiều dìu dịu. Cộng thêm vị mặn của nước mắm, ớt ngâm giấm trở thành thứ đưa cơm đáng nhớ. Còn món ớt bột thì đơn giản hơn nhiều. Trộn đại với ít muối, cộng thêm quả chanh bứt ở vườn nhà, cho ra một món chẳng lấy gì làm ngon lành nhưng cũng đủ để tạm qua bữa.

Trẻ con thời bao cấp thèm đủ thứ. Một cái kẹo hoa hồng Hải Hà chỉ để ngậm cho tan dần trong miệng chứ không bao giờ dám nhai. Sợ nhanh hết! Thế nhưng, bánh kẹo là đồ “xa xỉ”, chỉ được ăn trong dịp Tết hay đám cưới.

Mỗi tháng, theo tiêu chuẩn tem phiếu, nhà tôi được mua 8 lạng đường. Mẹ dùng tiết kiệm lắm. Phòng lúc ốm đau còn có thứ mà pha. Nhưng trẻ con biết gì, thèm là lôi ra. Đường được cho vào nồi đun chảy vừa độ. Đơn giản thì để nguội là thành một thứ kẹo giòn tan, ngọt lịm, nhai rôm rốp. Cầu kỳ hơn thì đem trộn với ngô rang, thành món kẹo ngô. Ngô thời bao cấp đầy dấu mọt đục, nhưng nhờ vị ngọt của đường, vẫn vô cùng hấp dẫn.

Nhà khó là thế, nhưng thi thoảng, mẹ vẫn cố làm bữa tươi. Nhớ nhất là món canh bún. Rau muống tự trồng, cua bắt ngoài đồng, chỉ có bún là phải mua. Sợi bún ngày ấy to gấp đôi, gấp ba so với sợi bún bây giờ, lại trắng đục màu gạo.

Bát canh bún mẹ làm gồm có rau muống, bún, canh cua rồi thêm hành khô, tóp mỡ phi thơm. Bát bún nhiều màu sắc, màu xanh của rau được giấu dưới lớp bún trắng. Phía trên là màu vàng của hành phi, tóp mỡ. Màu đỏ của cà chua, màu nâu của gạch cua… Thời ấu thơ, bát canh bún quả là thiên đường!

nhớ lại  thời con gái ,dang học tại trường quân dội, môi lần nhận quân trãng  xong chị em lại hi hục chưa cho vừa. Họp dại dội tuần đó,dược d/c chính trị viên phê bình Đangcấp cho các d/c quân dai áo rộng tại sao các d/c lại chưa đi.Ca bọn vừa sợ vưà ngạc nhiên, có ca rớm nước mắt         

Chi có 6 cô gái học viên, mà tới hàng trăm anh em,tô chức qui định không dươc yêu ,đê học cho tôt.Thế là chi em dược phân công gác dầu giờ hoặc  cuối giờ  (ca 5giờ đến 6giờ sáng)ai được gác với cán  bộ trung đội hoăc tiêu dội là sướng lắm vì dược Dang quan tâm.Tuy v ậy 40 năm nhìn lại sắp dến 22/12 tự lớp tô chứ c gặp nhau,vui  v e lắm,vân thương nhau  lắm,không bi ngượng ngiụ kho xư vi cac mối tình dang dơ ngày xưa.Chi tội đại dội cua bon mình càng ngày càng có nhiều bạn bị tai biến mạch máu nao giông minh.Tất nhiên là cung nhiều bệnh khác nưa.Năm năm s ống với nhau ơ đại hoc KTQS, sau mấy chục năm công tác tại cac QK,QD<QBC,các măt trân nay về già gặp nhau mà vân như ngày nào cùng học với nhau.                 

 Lúc đầu học ơ H ưngyên,dùng ghế băng cua nhà trường làm bàn,mượn ghế con cua dân làm ghế.Dến lúc lên Tuyên quang,phai đi khai thác tre nứa vê làm nhà ơ làm lớp học,làm bàn ghế,sức thanh niên đói lắm, mà hồi dó phai ăn bánh bao tự làm không có bôt nơ,đang khai thac nứa ơ trên rừng mà nghi ăn cơm,chăng may bánh bao cứng lăn xuống núi thì ca bọn đeucố lao theo nhặt lên thôi phù,lạ lại ăn ngon lành.

Tôi thỉ ăn bánh bao đậu (đỗ) đen. Đó là vào đầu năm 1979. Đang mùa khô, không hiểu sao cái rừng Bổ Túc, Tây Ninh lắm ruồi đến thế, con nào con đó to hơn đầu đủa. Anh nuổi nắm bột mì từng nắm, đập bẹp rồi thả vàp chảo nước sôi luộc, vớt ra thì rải lên mấy cái thúng đen thủi. Mấy miếng bột vừa nguội thì ruồi đâu từng đàn kéo đến, bu vào đen kịt cả. Đại đội sợ bệnh tả nên kiếm vải mùng phủ lên, phủ thì phủ, ruồi cứ bu đen nên tụi tôi gọi là bánh bao đậu đen.

Ruồi là thế mà nước cũng hiếm. Mổi tuần chỉ tắm đôi lần vì chỉ cần kéo vài gàu là giếng cạn. Suốt cả mùa khô chịu trận nhưng thật may không ai bị các bệnh đường ruột nặng, không thành dịch.

Mì sợi các năm 70 đã có. Mì sợi nhà nước trắng mốc, hôi và bở. Mì sợi "gia công" do nhà nước giao bột cho các cơ sở tư nhân cán dai, có phần thơm hơn nên nhiều hộ chuộng.

Tỷ ăn độn mì hồi đó là 50 gạo,50 phần mì. Cách nấu : Cơm gần cạn, mở vung bóp mỳ vào nồi, ghế đều lên. Nồi cơm độn chín gạo lẫn mì như món trộn. Thức ăn ăn kèm có rau muống mậu dịch 2 hào 5 bó tướng. ăn được cả tuần; đậu phụ do lấy nhiều bã nên cứng, chua...ném bươu đầu. Nước mắm 1,1 đ/l loại 2, 1,5đ/l loại 1. Một tháng tiêu chuẩn phiếu nhân dân được mua 2.5 lạng thịt. Mua thì cô mậu dịch viên cắt ô phiếu đó, coi như hết tc.

Dân thành thị đun bếp dầu hoả, cũng bán bằng phiếu...

Tuy cơm độn mì là " standard" lúc đó, nhưng không phải lúc nào cũng có mì với gạo mà "độn", thế là các nhà cán bộ ở thành thị thường xuyên tìm mua - nhưng thường là được hỗ trợ từ bố mẹ, họ hàng ở nông thôn một mặt hàng chiến lược : Khoai! Thế là cạnh cơm độn mì còn có cơm độn khoai, trong bếp, bên cạnh dãy thùng gạo và thùng mì san sát ( vỏ thùng lương khô TQ ), là khoai lang, khoai tây để đầy gầm chạn

Thức ăn thì như Bác Trungsi nói rồi, ngoài ra em còn nhớ có thêm loại bột cá - không biết là cá gì, xay thành bột, màu nâu xỉn, hôi hôi, nhưng đến bữa, bắc lên bếp rang lên, thơm đáo để

Một món quốc hồn quốc túy hồi đó mà đến giờ em vẫn mê mẩn, vẫn xuất hiện trong bữa ăn của nhà em- mà hồi đó cũng chả có nhiều - đến bữa ăn bố mẹ vẫn thường nhường cho con, ấy là Tóp mỡ! Chẹp! Nồi canh thấp thoáng mấy bóng tóp,mấy đứa con tranh nhau thò đũa khoắng sạch, giờ nghĩ lại , thương bố mẹ vô cùng! Bữa nào ăn tươi, cơm rang mới có mỡ nhiều chút và có tóp, có tỏi ... thịnh soạn rồi nhá  :P

Thế rồi bố mẹ đi làm, một bầy trẻ con thả rông, đeo tòn ten cái chìa khóa cửa ở cổ, quây quần chơi cùng nhau, cạnh cửa nhà của mấy đứa bị bố mẹ nhốt, thế rồi là đứa nào bạo phổi,  len lén xúc ít gạo đem đổi bún, đổi bánh cuốn mà ăn ngấu nghiến ....

Chẹp! Sắp đến Tết rồi, bao kỷ niệm thơ ấu lại ùa về .....

Vâng, bác TS1 khơi lại nguồn mạch thời bao cấp. Tôi xin bổ xung một tí.

Tỷ lệ " ăn độn " có lúc lên tới 70/30 chứ không chỉ 50/50 như bình thường. Độn mỳ, độn khoai tây ( củ khoai rất to... to bằng trứng chim cút ). Gạo mốc, mỳ hôi là chuyện thường ngày ở huyện. Mỗi khi vo gạo nấu cơm, tôi cứ phải cho thêm nắm muối vào để sát cho bớt mùi ...cứt Gián. Ngày ấy, có đợt nhà nước bán gạo " dẻo dính ", thứ gạo hạt tròn ăn rất ngon miệng nhưng tốn vì hạt gạo nấu lên không nở. Mẹ tôi làm ở ngành lương thực nên khi đi mua gạo, các cô bán hành thường chọn cho bao gạo " ngon " để mang về. Nhưng Mẹ tôi thường bắt tôi ra đổi lại lấy gạo " xấu " vì ăn gạo ngon rất hao, nấu không nở.

Lính tráng hồi đó không phải ăn " nắp hầm " mới là chuyện lạ. Sau này hết bột mỳ, lính phải ăn bo bo.

Ngày xưa , các bác , nhất là mấy chú bộ đội lơ ngơ mua hàng trong chợ giời , toàn mua phải hàng rởm . Dân buôn bán trong chợ Giời sống chủ yếu bằng hàng rởm .   Không phải tự hào , quần áo bộ đội , mũ cối , dép đúc , em nhìn cái phân biệt được ngay , đồ nào thật , đồ nào rởm . Các bác có nhớ không , ga tầu ( TQ may ) khác ga chiến thắng ( VN may ) , dép đúc thì có đúc Tầu và đúc Quốc phòng , mũ cối thì có cối tầu và cối Hải Phòng ... Bạn bè em toàn dân chợ Giời , sống ở đấy có , dân buôn cũng có . Những năm 81 , 82 ngày nào em cũng tụ tập ở dưới đấy . Vậy mà năm 83 , đợt đảo ngũ về thăm nhà , ra chợ mua cái quần Ka Ki Liên Xô . Rõ ràng đã xem kỹ , đúng quần "Quốc Phòng " , thế mà lúc mang về nhà , mặc vào bó chẽn , đúng quần rởm , hóa ra nó đã tráo mà mình không biết . Ra tìm mãi không thấy thằng bán đâu cả , sau để lại cho mấy thằng bạn đổi hộ . Mấy hôm sau , mấy thằng bạn đưa lại cái quần " Quốc Phòng " xịn cộng thêm 1 đôi dép nhựa trắng  Hà Nội  "khuyến mại " thêm . Dân buôn ở chợ Giời lừa ai thì lừa nhưng  "ngại " nhất là thổ dân ở đấy .

  Cái thời bao cấp còn mấy câu này , các bác nhớ không : Công nhân viên chức thì " ở nhà to ( tập thể ) , ăn bếp to và đi xe to . Hoặc " bắt ở trần , phải ở trần . Cho may ô mới được phần may ô . Năm 80 Ở đầu phố Quang Trung ( hồ A Le ) , có ai đó dán mấy tờ giấy ở đấy , 1 tờ vẽ 1 ông gày nhom ngồi trên cái xe đạp mà 2 lốp buộc kín dây cao su , giỏ xe đằng trước đựng 1 mớ rau muống với chú thích " cho ngày nay " , tay cầm 1 mớ với chú thích " cho ngày mai ", đằng sau " Bóp ba ga " có 2 mớ và " cho 2 ngày sau "  .

  Còn tờ giấy kia là 1 lá đơn tố cáo 1 gia đình công nhân viên chức nhà nước . Đại thể là : Gia đình này gồm 2 vợ chồng và 2 đứa con đang còn đi học , tổng thu nhập ( luơng công nhân viên chức ) là như vậy ... Mà lại dám ngày nào cũng ăn rau muống ( hồi này không thấy mậu dịch bán rau muống  nữa, toàn phải mua ngoài ) .thỉnh thoảng lại còn " Dám " xào nữa . Nói chung là luơng 2 vợ chồng cộng lại bị thiếu , thế cho nên nhất định là không ăn cắp , tham ô thì cũng buôn gian bán lậu ...

  Sau đó thì CA mang theo cả chó ra giải tán dân và chăng dây không cho ai vào xem nữa .

KHÁM PHÁ ẨM THỰC VIỆT NAM THỜI BAO CẤP

Những món ăn có thể là một hoài niệm đối với những ai đã từng sống ở thời bao cấp và cũng có thể là một sự sẻ chia, giúp những thế hệ trẻ hiểu hơn về ngày hôm qua để cảm nhận được hết giá trị của ngày hôm nay.

Có thể nói, thời bao cấp chỉ còn sống trong ký ức của những người sinh trước thập niên 70 và chẳng còn chút dấu ấn nào với những ai sinh ra từ năm 1986 trở lại đây. Không có sự hiểu biết rõ ràng về một thời gian khó của cha anh thì sẽ không thể hiểu thấu đáo giá trị của công cuộc đổi mới hôm nay.

Một mâm cơm thời bao cấp với bánh bo bo, cơm độn khoai lang, trạch trấu om trám của quán Ngoại ô ở Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội... có thể sẽ phần nào tái hiện lại một góc của cái gọi là "thời bao cấp" ấy.

Những món ăn có thể là một hoài niệm đối với những ai đã từng sống ở thời bao cấp và cũng có thể là một sự sẻ chia, giúp những thế hệ trẻ hiểu hơn về ngày hôm qua để cảm nhận được hết giá trị của ngày hôm nay.

Lắng lại trong cái se lạnh cuối thu, giữa không gian gợi nhớ những miền ngoại ô đầy kỷ niệm, thật ý nghĩa khi cùng bạn bè thưởng thức lại những món ăn của một thời gian khó, một thuở hàn vi.

Nguyên lý chế biến thức ăn thời bao cấp là tận dụng mọi thực phẩm dân dã có được, thêm những gia vị quanh vườn nhà, qua bàn tay tài tình và yêu thương của mẹ, của chị trở thành những món ăn đầy sáng tạo như cá thầu dầu nấu dưa, bì trâu xào rau muống, hoa chuối nấu trai, dưa xào tóp mỡ… Đến “Ngoại ô” để hoài niệm với những món ăn thời bao cấp cũng là một cách để hiểu thêm những ngày xưa gian khó mà thấy rằng hạnh phúc phải bắt đầu từ ngay hôm nay.

Đó là món nộm hoa chuối để khai vị theo phong cách phối trộn chua, cay, mặn, ngọt đủ cả ngũ hành của người phương Đông. Rồi những con ốc bươu gợi nhớ thuở thiếu thời sơ tán ai đã lặn lội ruộng sâu cho mấy đứa em có bữa chiều cải thiện. Nay thì dưới bàn tay khéo léo và cách chế biến cầu kỳ của đầu bếp, băm nhuyễn với gia vị, rán cho dậy mùi, rồi lại cuộn trong giấy bạc rán lại một lần nữa - chúng đã trở thành món chả ốc độc đáo, ngon miệng.

Chạch trấu om trám thì đích thị là một sáng tạo đầy tinh tế của các bà nội trợ Việt Nam. Cái chua, chát của quả trám với vị béo, bùi của cá chạch trấu hòa quyện, ngấm vào nhau làm thành món đưa cơm bậc nhất.

Đại diện cho thời bao cấp với tem phiếu, gạo mậu dịch là các món cơm độn: cơm độn khoai, độn sắn, độn mì sợi. Trong lúc đợi cơm độn khoai lang chín, có thể tranh thủ chiên vài chiếc bánh bo bo ăn cho vui miệng.

Bo bo nguyên là những hạt cao lương, lúa mạch. Xưa dân mình thường chỉ luộc lên, hoặc bung như ngô để rồi trệu trạo ăn độn cho no bụng. Nay thì thêm bột mì thơm, đường, trứng, sữa tươi rồi chiên vàng lên là đã thành một món thú vị. Khi rán xong bo bo cũng là lúc Chè khoai mỡ tráng miệng cũng đã xong. Cuối cùng, mâm cơm được dọn ra thật đẹp mắt trong một không gian tre trúc bài trí tự nhiên và ấn tượng, với nhạc dân gian, áo tứ thân.

Nếu bạn là người hoài cổ, muốn cùng gia đình hay bạn bè ôn lại kỷ niệm xưa thì không gian Ngoại ô có lẽ là nơi hữu cảnh” để “sinh tình”

BỘT MỲ NGA Ở HÀ NỘI

Khi bàn về nghệ thuật ăn uống Việt, nghệ thuật ăn uống của người Hà Nội, nhiều người cho rằng ăn uống của người Hà Nội, của người Việt Nam ngoài cái vốn có của người Việt, đó còn là sự pha trộn giữa văn hóa ăn uống Việt Nam+ Trung Hoa+ Pháp. Thực tế cho thấy người Việt chúng ta đã không phủ nhận những giá trị văn hóa của các dân tộc khác. Với đặc tính khoan dung trong bản sắc văn hóa của người Việt, chúng ta đã không từ chối mà còn sẵn sàng tiếp thu những tinh hoa của nghệ thuật ăn uống Trung Hoa và nghệ thuật ăn uống Pháp, hai đỉnh cao trong văn hóa ăn uống của nhân loại. Người Việt còn tiếp nhận cả những giá trị văn hóa ẩm thực của nhiều dân tộc  khác.

Ảnh hưởng của văn hóa ăn uống Trung Hoa với Việt Nam rất rõ ràng. Với vị trí địa lý núi liền núi, sông liền sông, và những quan hệ thăng trầm trong lịch sử, chúng ta đã trực tiếp học hỏi tiếp thu được các giá trị văn hóa ẩm thực Trung Hoa. Mặt khác văn hóa ẩm thực Việt Nam cũng đã đóng góp nhiều giá trị đáng kể cho nghệ thuật ăn uống Trung Hoa. Vị thế địa lý của Việt Nam cho phép sản sinh ra những sản vật ẩm thực độc đáo và những cách chế biến bảo quản thực phẩm tuyệt vời mà Trung Quốc có thể tiếp nhận từ văn hóa ẩm thực Việt.

Với 100 năm trực tiếp ảnh hưởng của văn hóa Pháp thời thuộc địa, văn hóa ăn uống Pháp cũng đã có những ảnh hưởng nhất định trong một bộ phận cư dân Việt Nam và để lại những dấu ấn sâu đậm.

Kể từ hơn nửa sau của thế kỉ 20, văn hóa Nga đã trở thành một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần và vật chất của người Việt trên một bộ phận lớn của đất nước ta. Văn hóa Nga đã được truyền bá mạnh mẽ trong chính trị, khoa học, văn hóa và nghệ thuật nhưng ẩm thực Nga có ảnh hưởng gì đến bếp ăn của người Việt? đến thực đơn của người Hà Nội?

Quả thực nếu bạn vào bất cứ nhà hàng nào hay tham dự những bữa cỗ gia đình ở Hà Nội hay ở Việt Nam, các món ăn Nga hình như còn quá khiêm tốn. Hầu như chỉ có một vài món như Salát kiểu Nga, rượu VốtKa Nga hoặc đôi khi có món trứng cá đen, cá muối kiểu Nga trong một vài nhà hàng cao cấp. Số nhà hàng Nga ở Hà Nội và các thành phố lớn cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thật đáng tiếc.

Vì sao vậy?

Trước hết, có thể vì giữa hai dân tộc Việt Nam và Nga có những rào cản về địa lí và truyền thống văn hóa ẩm thực.Nước Nga xứ lạnh ở tận phương Bắc xa xôi và thuộc nhóm lấy cây lúa mì làm nguồn lương thực chính. Thịt, sữa và cá cũng là những thức ăn thường xuyên của người Nga. Người Việt là nhóm cư dân sống trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, thuộc nền văn minh lúa nước, lấy cây lúa làm nguồn lương thực chính và thức ăn chủ yếu là rau và cá. Sữa không phải là thực phẩm truyền thống. Hai hệ sinh thái xa nhau đã khiến hai dân tộc có những điểm khác biệt rõ rệt trong văn hóa ăn uống. Có người đặt câu hỏi: Tại sao nước Pháp ở tận châu Âu xa xôi nhưng vẫn có những ảnh hưởng về ăn uống tới người Việt? Cần nhớ rằng miền Nam nước Pháp cũng có những khu vực nóng không khác gì khí hậu nước ta. Nhiều người Pháp sống ở Việt Nam vốn là dân ở vùng nóng của phương Nam và cũng rất dễ thích nghi với các món ăn Việt. Có những ông Tây sống lâu trên đất Việt có thể ăn nước mắm, mắm tôm và thịt chó như một người Việt sành ăn. Đồng thời, bánh Tây kiểu Pháp, pa tê Pháp, pho mát Pháp và rượu vang, cà phê Pháp cùng nhiều thức ăn, đồ uống Pháp qua con đường đó dễ dàng xâm nhập vào đời sống của một tầng lớp trung lưu công chức người Việt và một bộ phận binh lính trong đội quân thuộc địa.

Trong mấy chục năm qua, người Nga ở Việt Nam không nhiều và thường sống tập trung trong những cư xá tách biệt. Người Việt sang học tập, công tác và lao động ở Nga rất đông và cũng như người Việt ở nhiều nước khác, khi sống ở nước ngoài, các nhóm người Việt thường duy trì lối sống cộng đồng và một trong những sinh hoạt cộng đồng quan trọng của người Việt ở nước ngoài chính là tụ tập nhau lại trong những dịp lễ tết hay những ngày nghỉ để cùng nhau nấu cơm Việt và cùng nhau nhớ về cội nguồn. Có lẽ vì vậy mà cộng đồng người Việt ở Nga khi trở về nước cũng không mấy người đem theo về những món Nga để truyền bá cho cộng đồng. Hơn nữa, các nguyên liệu để chế biến những món ăn kiểu Nga cũng không phổ biến lắm ở Việt Nam.

Cho tới nay, hầu như chưa có ai chú ý tìm hiểu ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa ẩm thực Nga-Việt và Việt-Nga.Chúng tôi mong rằng sẽ có những nghiên cứu đầy đủ về phương diện này nhằm thúc đẩy giao lưu mạnh mẽ giữa văn hóa ẩm thực của hai dân tộc. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ muốn nhắc lại một vài kỉ niệm đẹp từ mấy chục năm qua, trong những năm tháng khốn khó của chiến tranh và chế độ quan liêu bao cấp ở Việt Nam

Thời ấy, gạo là thứ luôn luôn thiếu và cả nước phải gồng mình để có đủ lương thực cho quân và dân đánh Mỹ. Vào lúc này, bột mì Nga là một nguồn viện trợ quan trọng giúp cho chúng ta đứng vững trong những năm tháng khốn khó.

Suốt cả trăm năm đô hộ của thực dân Pháp, bột mỳ và bánh mỳ vẫn là một thứ xa xỉ không phổ biến ở hầu hết nông thôn và thành thị Việt Nam. Hầu hết nông dân miền Bắc vẫn phải ăn cơm độn ngô, khoai, sắn. Lúc ấy bột mỳ và bánh mỳ chủ yếu chỉ dành cho người Pháp và một bộ phận nhỏ dân thành thị. Bánh mì chỉ là một thứ quà ăn sáng hoặc để dùng trong những bữa cơm Tây của một bộ phận người giàu, của tầng lớp trung lưu đô thị.

Trong chiến tranh chống Mỹ, một lượng lớn bột mỳ Nga đã được viện trợ vào Việt Nam.Những người được hưởng chế độ tem phiếu và bộ đội đã đưa vào khẩu phần của mình thêm những sản phẩm làm từ bột mỳ. Thoạt đầu, các bếp ăn tập thể chỉ quen nấu cơm chứ không có kinh nghiệm chế biến bột mỳ. Người ta đã nặn bột thành những nắm tròn và bóp dẹt lại rồi đem luộc trong những chảo gang lớn của bếp tập thể. Cái chảo vừa để nấu cơm, nấu canh giờ lại thêm chức năng luộc bánh bột mỳ. Khi nhận xuất ăn, ngoài bát cơm, mỗi người lại có thêm một cục bột luộc mà người ta gọi đùa là bánh nắp hầm cùng với bát canh rau muống lõng bõng có chút váng mỡ kèm theo mấy viên lạc rang với muối. Trông chiếc bánh bột luộc hình thù tựa như cái nắp hầm trú ẩn bằng xi măng trộn xỉ than nên người ta gọi là bánh nắp hầm, có người còn nói đùa là cái bánh ném chó chó chết vì nó cứng như đá. Đói thì có bột mà ăn là tốt rồi. Khó nuốt nhưng cũng phải cố trệu trạo cho qua bữa. Sau này, có người nghĩ ra cách hoà bột với nước thành những cục bột dẻo, đặt lên mâm nhôm hay trên bàn gỗ rồi lấy chai thủy tinh cán mỏng, cắt ra thành sợi đem nấu với rau, rắc vào vài cánh mì chính cũng thành một bát mỳ sền sệt cho dễ nuốt. Sau này, cải tiến, người ta làm máy cán mỳ thành mì sợi. Ngày ấy có những hợp tác xã chuyên gia công mỳ sợi để bán cho các tiêu chuẩn tem phiếu. Các gia đình, bếp ăn đem mì sợi ghế độn vào nồi cơm. Bưng bát cơm có những sợi mì đen đen trộn lẫn vào mọi người đều ăn như thế suốt một thời gian dài.

Gạo thiếu và đương nhiên lúc ấy thịt, cá cũng là những món ăn xa xỉ. Đã có những phòng thí nghiệm dùng bột mì chiết lọc lấy chất đạm trong bột để làm giò chả từ bột.Nghe nói đề tài nghiên cứu thành công nhưng cũng không thấy xuất hiện trên thị trường. Một số phòng thí nghiệm cũng đưa ra một số bột nở vi sinh hay hóa chất để các bếp ăn chế biến thành bánh bao. Do không nắm vững kỹ thuật ủ men và giữ giống men nên bánh khi nở khi không. Khi thì rắn đanh lại, khi thì chua loét. Có khi còn hăng hắc mùi a mô ni ắc khai khai rất khó nuốt.

Sau này, ở Nghĩa Đô - Hà Nội với viện trợ Nga, người ta đã xây một nhà máy làm bánh mỳ kiểu Nga. Chiếc bánh trông dầy dặn nhưng vỏ ngoài trơn nhẵn và không giòn như bánh mỳ kiểu Pháp nên người thành phố đã quen ăn bánh mỳ kiểu Pháp cũng không chuộng lắm. Xếp hàng dài để chờ mua được mấy cái bánh mỳ và mỗi chiếc phải trả tiền kèm theo tem lương thực 250 gr cho mỗi chiếc mà cũng không dễ mua.

Nhà có đám cưới, hay cận tết người ta tích trữ tiêu chuẩn bột, tiêu chuẩn đường ít ỏi bán theo tem phiếu để rồi đến các cho các cửa hàng gia công làm bánh quy gai quy xốp. Xếp hàng chầu chực cả ngày. Người đi thuê gia công xếp hàng đến lượt thì phải giao bột, giao đường cho chủ lò cân rồi tự ngồi đập trứng và đánh trứng vào cái chậu thau hoà đường kính đến sái cả tay để sau đó chủ lò pha trộn, cán ép đóng khuôn, bỏ lò và túc trực cho đến khi mẻ bánh chín, chờ cho nguội mới trút vào túi đem về.

Bột mỳ Nga đã xâm nhập vào đời sống của người Việt và nó được biến hóa theo cách lần mò sáng tạo của người Việt sao cho thích ứng với lối ăn truyền thống cố hữu từ ngàn xưa. Lúc đầu thì khó ăn nhưng rồi tìm mọi cách cải tiến cho phù hợp. Rốt cuộc, ăn mãi nó cũng quen đi.

Từ sau đổi mới, bát cơm độn mỳ bỗng nhiên biến mất, đến bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức của những người đứng tuổi. Bột mỳ, bánh mỳ và các loại bánh ngọt sang trọng đủ loại, các loại mỳ sợi, mỳ ăn liền cao cấp với muôn loại mẫu mã, mùi vị ngày nay đã trở thành món ăn phổ biến từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến hải đảo. Có những công ty lớn của người Việt đã mở nhiều chi nhánh sản xuất, cửa hàng đại lý tiêu thụ mỳ ăn liền thương hiệu Việt ngay giữa thủ đô của nước Nga và làm ăn rất phát đạt.

Mấy ai còn nghĩ đến những cân bột mì, chiếc bánh nắp hầm, bát cơm độn mỳ sợi, chiếc bánh mỳ kiểu Nga…hầu hết đều từ bột mỳ viện trợ của Nga được mua theo tiêu chuẩn tem phiếu lương thực năm nào. Cuộc sống đổi thay đến chóng mặt. Người ta dễ dàng bỏ quên quá khứ để vươn tới giàu sang phú quý, thành đạt và xa xỉ. Thế hệ thanh niên và trung niên bây giờ hầu như không ai biết đến những tháng năm khốn khó gian khổ của cha ông đã từng phải sống, phải chịu đựng đằng đẵng suốt những tháng năm dài gian khổ và thiếu thốn.

Người Việt thường có câu “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Có ai còn nghĩ đến những cân bột mỳ Nga tình nghĩa thuở ấy không?  

MÓN ĂN HÀ NỘI THỜI "BAO CẤP"

Đã qua rồi cái thời mang tên “bao cấp”. Lớp trẻ hiện nay khó có thể hình dung cái thời ấy như thế nào. Họ chỉ hiểu một cách tương đối rằng đó là lúc đất nước khó khăn bộn bề. Còn trong ký ức những người đã trải qua những năm tháng dài tưởng như không dứt, bao nhọc nhằn, vất vả vẫn còn đậm nét. Lúc gặp người cùng thời hoặc khi trà dư tửu hậu, họ thường ôn lại những chuỗi ngày chạy vạy lo toan cho từng bữa. Những món ăn thời đó là đề tài không thể thiếu trong câu chuyện.

Đầu tiên phải kể đến thực phẩm chính, đó là món cơm độn. Lương thực thiếu, phải phân phối theo tiêu chuẩn, nghĩa là phân loại các thành phần xã hội, sau đó tùy theo thành phần mà cung cấp. Mỗi người được khoảng hơn chục cân lương thực một tháng, trong đó gạo chiếm 70%, đôi khi chỉ còn 50%. Thay thế phần còn lại là các loại ngũ cốc khác, khi ngô, lúc mì sợi, lúc bột mì và cả bánh mì.

Cơm độn là cơm nấu như bình thường, sau đó nấu độn thêm những thứ khác cho đầy nồi. Kinh khủng nhất là độn bo bo, một loại hạt rất lâu chín, trong khi chất đốt vừa thiếu lại vừa đắt. Nếu không ngâm từ hôm trước thì đến lúc ăn, cơm đã chín mủn mà bo bo vẫn cứ lổn nhà lổn nhổn trong miệng, rất khó chịu. Độn mì sợi thì tương đối dễ ăn hơn nếu không gặp phải mì kém phẩm chất, nát nhoét hoặc để quá lâu trong kho, bốc mùihôi rình…

Bánh mì được các xí nghiệp của nhà nước sản xuất và coi như lương thực chính. Bánh để trong những xe đẩy lưu động kín mít và được các nhân viên cửa hàng lương thực đẩy đến từng cụm dân cư. Ruột bánh đặc, nặng khoảng 250 gr. Mọi người mang sổ lương thực đi lĩnh bánh mì. Cứ môt kilo lương thực quy đổi được bốn chiếc. Hôm thì bánh ngon, hôm thì bánh vẫn còn nguyên bột. Thỉnh thoảng mang bánh mì về quê làm quà, quý vô cùng. Bánh mì bây giờ chỉ thấy có vỏ.

Tiếp đến là những thứ thường dùng để ăn vào buổi sáng. Phổ biến nhất là cơm rang. Cơm bữa chiều hôm trước thường được nấu dư ra một chút, sáng sớm hôm sau rang lại với mỡ, muối hoặc nước mắm, cuối cùng rắc hành hoa. Thế là đã có bữa sáng thơm phức, lại không phải tốn tiền. Cơm rang Quảng Đông, Tứ Xuyên giờ thua xa vì hồi đó, hầu như ai cũng đói.

Phở, món quốc hồn quốc túy của Việt Nam về vị thì không mấy thay đổi, nhưng về chất thì có lẽ hơi khác. Miếng thịt cả gà lẫn bò ngày ấy được thái mỏng đến mức nghệ thuật, mỏng như cánh hoa. Và nước dùng không cho quá nhiều mì chính. Mì chính hiếm và không rẻ chút nào. Bởi thế mới có câu: “Hiếm như mì chính cánh”.

Đặc biệt, có loại phở chỉ tồn tại vào thời đó, giờ biến mất không còn dấu vết: Phở không người lái. Phở này chỉ có bánh phở và nước dùng, hoàn toàn không có thịt. Nhưng nó không phải là phở chay vì nước dùng có mỡ bò. Đôi nơi còn thay bánh phở bằng những loại mì sợi được các nước Đông Âu cũ viện trợ như mì trứng Hungary, mì ép Ba Lan…Phở thịt lợn cùng chung số phận, chẳng còn thấy tăm hơi. Ngẫm cũng phải, thịt lợn khó ăn nhập với phở.

Nhưng, bún riêu cua thì tuyệt ngon, đúng là bún riêu cua! Ăn bát bún, thấy đậm đà hương vị của cua đồng. Không thịt bò trần tái, không đậu phụ rán phồng, không giò bò, không giò tai, không trứng…như hiện tại. Nhất là gạch, đúng là loại gạch được khều ra tứ mai con cua, không phải đậu phụ nấu giả …

Các loại bánh trái như bánh cắt, bánh sừng bò… không còn xuất hiện nữa. Bánh sừng bò có hình sừng, ăn giống bánh mì ngọt. Bánh cắt là một biến thể của bánh nướng nhưng nhân không phải là hạt sen, thịt mỡ, đậu xanh…mà chỉ là khoai lang và lá chanh thái chỉ. Bánh sừng bò trong hiệu Bảo Ngọc so với bánh thời “bao cấp” quả là một trời một vực về cả chất lượng lẫn hình thức, bánh Bảo Ngọc quá cao cấp và vị thì khác hẳn. Giống mỗi cái tên.

Và một món đặc biệt khoái khẩu của trẻ con, mì sợi rang đường. Cách làm rất đơn giản. Chỉ là mì sợi bỏ vào nồi hay chảo rang lên, rắc đường, thấy mì vàng sậm lại là được. Ăn ngọt sắc, giòn tan…

Ở phố Lý Quốc Sư có một hàng bánh gối tương đối nổi tiếng. Bạn đã nếm thử chưa? Còn tôi, tôi đã thử. Bánh ngon, dưa góp ngon,..mọi thứ đều ổn. Nhưng riêng tôi, như ăn một thứ bánh khác. Bánh gối trong tôi là một loại bánh vỏ mỏng, phồng căng, vàng rộm và chỉ có một chút xíu nhân. Bánh chỉ là vật chứa, quan trọng nhất là cái bên trong. Không phải là nhân mà là một thứ nước chấm người bán chỉ bơm vào khi có người mua. Nước chấm đó được đựng bằng một cái chai có đầu nhọn. Khi ăn, xọc đầu nhọn vào bánh và nước chấm theo đó chảy vào bên trong. Gọi là ăn thì không được chuẩn xác lắm nhưng không lẽ gọi là uống bánh. Hết thì người bán lại cho thêm. Cái thứ nước chấm làm người ta không thể quên được pha chế như thế nào thì chỉ có người bán biết… Nghĩ đến là tứa nước miếng. Tiếc là hiện nay, không đâu còn bán loại bánh gối đó nữa…

…Còn nữa, bánh quy gai, quy xốp. Hồi đó chưa có Hải Hà Kotobuki, chưa có nhiều bánh Tầu, táo Mỹ, nho Pháp… đầy rẫy trong các cửa hàng lớn nhỏ như bây giờ. Cứ giáp Tết là mọi người lại tự mang nguyên vật liệu đến các lò nướng bánh trong thành phố để nướng. Nguyên vật liệu là trứng, đường, bột mì, mỡ và chút bơ. Đến nơi, phải tự tay đánh trứng, nhào bột.., người nướng bánh chỉ việc cho bột vào khuôn, tạo nên những chiếc bánh quy gai dài nhằng nhằng hay quy xốp hình hoa, vuông, tròn… rồi cho vào lò nướng. Thích nhất là đến lượt mình nhận bánh, mang về nhà vẫn còn nóng sực..

Có ai còn nhớ món “chín tầng mây” không nhỉ? Thực sự không biết gọi nó là bánh, kẹo hay thạch…Cái món lờ lợ ngọt, nhiều tầng, màu sắc xanh đỏ lòe loẹt ấy đâu có ngon lành gì. Vậy mà cứ giờ tan trường là học sinh xúm đông xúm đỏ. Bí quyết chính là cách bán. Một chiếc máy bay Mic bằng nhựa màu xám được bố trí như chiếc kim chỉ số điểm trong mâm quay của chương trình “Chiếc nón kỳ diệu”. Ô nào cũng có thưởng. Thấp nhất là một “tầng”, nhiều nhất là chín “tầng”. Thế mới thành tên món…

Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay. Những khúc sắn củ khoai xưa giúp ta qua cơn đói lòng giờ trở thành những món quà đêm trong những tủ kính đèn nhạc sáng choang. Bỏng ngô được mang tên mới, bắp chiên bơ thơm lừng. Chỉ còn cơm nắm muối vừng là vẫn vậy, mộc mạc, dân dã. Khác chăng là nắm cơm nhỏ xinh hơn, gạo nấu cơm thơm ngon hơn. Cơm nắm đã trở thành một thứ quà cho những ai hay nhớ về quá khứ...

Ngày xưa, cơm mùi dầu hỏa...

Ngày xưa, cách đây khoảng hơn 45 năm, những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Hoa Kỳ, trẻ em phải đi sơ tán khỏi đô thị và khu công nghiệp, về vùng nông thôn. Mình cũng là trẻ em, cùng những đứa khác, phải xa cha mẹ, ở trong trại sơ tán do cơ quan của cha tổ chức.

Ngày đấy, các cô bảo mẫu (cô Oanh – Trại trưởng; bà cụ Nhật, cô Bốn, cô Hải, cô Tơ, cô Ngọ…) phải đi lo xếp hàng mua gạo, mỳ sợi, rau bí thịt đậu… về nấu cho tụi mình

chén… Phải nói rằng Nhà nước lo rất giỏi… Dù bị đánh bom các tuyến đường, các cầu trọng điểm, các kho dự trữ chiến lược, bị thả ngư lôi, thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng, nhưng nhân dân hậu phương đã không bị đói mà vẫn “thóc không thiếu một cân-quân không thiếu một người” cho tiền tuyến...

Chỉ có điều, những người đô thị sơ tán (ăn theo phân phối tem phiếu) không được ăn gạo mùa mới, mà toàn ăn gạo cũ, mốc (thậm chí không biết vì sao hôi mùi dầu hỏa rất nhiều lần, kéo dài nhiều năm, ở nhiều nơi). Người lớn nói rằng, nếu (người ăn tem phiếu) mà được ăn gạo mới, thì chuẩn bị

đói

to, vì đã phải ăn đến cả gạo mới nhập kho, có nghĩa là gạo dự trữ không còn. May mà, còn có gạo ăn, tuy là gạo mốc, hôi mùi dầu hỏa; nhưng phải độn (ghé), trong gạo nấu cơm có: ngô xay hoặc bột mỳ hấp (giống nắp hầm trú ẩn cá nhân), phải có “tiêu chuẩn thật xịn” mới được ăn độn mỳ sợi. Các cô bảo mẫu cũng rất giỏi, đi hợp tác xã Mua bán để mua thịt, cá, đậu (theo tem phiếu), đi chợ Vạng để mua rau quả (mua tự do), có bữa phải đi thật sớm, lên tận huyện (Trạm Trôi; cách 10 cây số) để mua thịt tươi… Dù sao, những đứa nhỏ tụi mình hồi đó (tròm trèm đã hơn 45 năm rồi) còn sướng chán…

Đến ngày về Hà Nội, cũng vẫn còn sướng, nhờ chế độ bao cấp thời chiến và viện trợ của các "tồng chí" Nga Xô, Trung Tàu, chỉ mỗi tội

phải tự đi

xếp hàng (mua gạo, mỳ sợi, bánh mỳ, rau muống, ca-la-thầu, thịt chín…), chen lấn với những đứa cùng trương lứa, đánh đấm nhau giành chỗ om xòm. Đến ngày Thống nhất đất nước, đáng lẽ phải sướng hơn nhưng hóa ra lại đói thê thảm. Tụi mình học đại học, ở Xuân Hòa – “thủ đô mới”, ngay bên “đại lộ Bùi Quang Tạo” – ăn bo bo, bột mỳ hấp (lúc này lại gọi là “bánh xe lịch sử”) mà cũng không có mà 

ních

cho “lòi kèn”. Năm sáu đứa một “mâm”, đổ hết bo bo chung với nước “kho” có tý chất mỡ vào một xoong, sang thì mỗi đứa mộtthìa

hèn

thì tất cả chung một thìa, đứa này xúc đút vô miệng xong thì chuyển thìa cho đứa khác… Nhưng, phân công mấy thằng đẹp giai hoặc “chai mặt”, đến làm quen các em cấp dưỡng (có em Hải rất xinh), để… xin cháy, dù là cháy bo bo… nên cũng đỡ "đói nòng”

Ngày mình chuyển vô “Sài ghềnh”, sống giữa vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long mà vẫn đói, cũng phải bo bo với “bánh xe lịch sử”. Gia đình kiếm chút gạo quê, nhờ xe cơ quan đi công tác, gửi vào (chứ đi xe “đò” thì bị các trạm “ngăn sông cấm chợ” của xã-huyện-tỉnh bắt thu liền, dù chỉ 5 ký), cũng đỡ đói hơn nhiều...

………………………………………………………

Đến nay, đất nước đã “đổi mới”, kinh tế đã “thị trường”, bang giao đã “hội nhập” trên 20 năm… Thế mà, xem này: Các cháu học sinh nội trú ở Lũng Cú, Hà Giang còn phải ăn mèn mén (bánh bột ngô), tội quá!

TUỔI ẤU THƠ

(8) .

 TÀI NĂNG !

Khi đó mẹ 7 tuổi. Nhà đã có 4 chị em. Dì Liên còn bé nên được ưu tiên nhất nhà. 

Bà ngoại lúc đó đan len cho mậu dịch nên rất bận. Ông Hùng và Bà Hợi thì ở cùng nhà mình để đi học. Ông Ngoại thì đi làm theo cơ quan chỉ tối thứ 7 mới về nhà. 

Cuộc sống khi đó khổ lắm gạo rất hiếm chỉ đủ để ăn vào ngày chủ nhật khi Ông về. Hàng ngày toàn ăn bánh đúc Ngô hoặc cơm độn tới 70% mì sợi. Mì sợi được làm từ bột mì nhào cho mềm, dùng cái chai cán mỏng sau đó cắt thành sợi và đem rải lên cái nia phơi cho khô. 

Nấu cơm độn mì sợi cũng phải rất kỹ thuật. Thường thì phải để cho cơm sôi gần chín mới cho mì sợi vào khẽ tay đánh đều rồi vần cho cơm chín. Nhà mình khi đó nấu cơm bằng bếp kiềng đun rạ. 

Nếu nấu bánh đúc ngô cũng phải kỳ công. Đầu tiên là ngâm cho ngô ngấm nước. Ngô đã được say vỡ nên sau vài giờ đã trương lên Đem vo sạch rồi cho nước vào nấu đến chín. Điều khó là cho vừa đủ nước để bánh đúc khô và phải vừa nấu vừa quấy để ngô không bị khê bén nồi. Khi ngô đã chín thì múc ra một cái mẹt đã trải sẵn lá chuối rửa sạch. Ngô được dàn đều thành một cái bánh to. Khi ăn cắt thành từng miếng chấm với muối vừng.

Thức ăn khi đó là thứ xa xỉ phẩm: Xịn nhất là thỉnh thoảng có vài lạng thịt mua từ tem phiếu về. Xịn nhì là ông Hùng đi bắt được một ít con chẫu chàng (cái con mà đêm mưa nó cứ kêu: chuộc, chuộc...). Xịn ba là có tép rang hoặc canh cua và cuối cùng là nước mắm thả hành khô phi thơm lừng.

Mỗi tuần một, hai lần vào sáng sớm khoảng 5 giờ mẹ bị Bà Hợi đánh thức dậy để đi kéo te với bà - Te là một loại vó nhỏ được thả ở ruộng chỉ để bắt tép. Ngày xưa không có thuốc trừ sâu nên tép trong ruộng nhiều lắm.

Để kéo te bắt được nhiều tép cũng phải có chiến thuật đàng hoàng: 

1. Phải nấu một nồi cháo thật nhuyễn từ sáng hôm trước. Để tăng độ tanh thì cho thêm vào nồi cháo nguội một ít cua đã giã nhuyễn.

2. Dùng hỗn hợp trên đem quết vào 2 góc đối diện của vó te.

3 Đem vó te phơi thật khô để khi xuống nước hồ cháo không bị tan ra nước.

4. Rang thính, Thính rang xong trước khi ném xuống nước phải trộn cho ẩm để thính không bị bay và nước cuốn đi.

Khoảng 4,5h sáng bọn tép đói bụng bắt đầu đi kiếm ăn. Thế nên mới có câu "Tôm chạng vạng, tép rạng đông" ! Hai Dì cháu lò dò vác te đi ra ruộng lúa. Những cái te được bà Hợi chọn chỗ để thả xuống. Mẹ theo sau ném vào chính giữa vó te một cục thính bằng hạt ngô. 

Nhà ta khi đó có bộ vó te 15 cái. Khung vó được làm bằng tre còn vó thì làm bằng cái màn rách. Cái màn có hơi người nên phải đem ngâm bùn vài ngày sau đó mới lấy lên giặt sạch đem phơi cất thành những miếng 40 x 40 khâu vắt xung quanh và buộc vào khung vó.

Thường thì thả xong 15 cái te. Phải chờ khoảng 15 phút cho bọn tép mò đến chui vào đánh chén thì mới kéo lên. Hai dì cháu kéo đến 7h thì vó hết hồ và cũng hết tép. Lúc này đã được khoảng 1 đến 2 cân tép. Hôm nào nhiều có thể được đến 3 cân. 

Ruộng thường là tép gao nên về rang lên con tép béo ngậy, trắng toát ăn thơm ngon và bùi có thể bay 2 bát cơm độn như chơi.

Chạng vạng tối Ông Hùng cầm đèn pin đi soi chẫu chàng. Bọn ngốc này thường ngồi trên các cành cây bên bờ ruộng hoặc ao kêu ầm ĩ . Có điều là khi có đèn soi vào nó thì nó giưưng mắt lên nhìn và ngồi yên . Thế là cứ việc tóm lấy cậu chàng cho vào giỏ.

Chẫu chàng không béo bằng ếch nhưng xương thì mềm hơn. Thường thì chặt bỏ đầu, lột da, bỏ nội tạng sau đó băm nhỏ xào với hành khô và muối để làm nhân bánh bột mì. Muốn biến thành bánh khúc thì mẹ và các dì chỉ việc ra ruộng mạ hái một ít rau khúc về giã nhỏ trộn vào bột là xong.

Ăn khổ như thế đương nhiên là dì Liên không ăn được vì mới gần 2 tuổi. Bà thường dành thịt nạc làm cho dì một ít ruốc và nồi cơm độn thì để lại một góc không trộn mì. Mẹ thường xin Bà xúc cơm cho em. Nó chỉ ăn được cơm nhai. Trời ơi nhai miếng cơm không độn với ruốc thịt thì ngon không sao tả xiết. Không biết mẹ tài tình thế nào mà hôm nào nhai cho em ăn cũng hết 3 bát. 

Cả nhà ai cũng bảo mẹ rất tài năng!

Mối tình cơm cháy

Ngày đó tôi và đám bạn đồng hương đang ở Ban Mê Thuột. Chúng tôi đang “hoc nghề” trong ngôi trường Công nhân Kĩ thuật Xây Dựng Daklak. Chúng tôi hầu hết là dân ở xa đến (chủ yếu là dân Quảng Ngãi, là quê của ông hiệu phó Đoàn và Hà Tĩnh, là quê của ông hiệu trưởng Đoản) cho nên chúng tôi ăn và ở tại chổ …

Nhà ở thì …khỏi phải nói vì nó “tệ hơn vợ thằng Đậu” … Cái nhà ăn của chúng tôi là một căn nhà tôn, nền đất. Có khoảng vài chục chiếc bàn hình vuông mỗi bề chừng một mét nhưng hoàn toàn không có ghế. Chúng tôi đứng ăn, có lẽ để cho dễ dàng di chuyển và có thể ăn nhanh hơn vì không bị cấn cái bụng. Khẩu phần của chúng tôi được dựa trên 13 cân gạo mỗi đứa một tháng và một tí xíu tiền ăn. Mấy cô “chị nuôi” toàn dân Hà Tĩnh, cô nào cô ấy “xấu huỷnh” lại “chảnh” không chịu nỗi. Có điều mấy cô cũng nhiệt tình đi chợ và cũng vén khéo nên chúng tôi cũng có cái mắm, cái rau không đến nỗi quá tệ so với số tiền quá ít ỏi

13 kí gạo mỗi tháng không phải là ít, nếu như bây giờ thì tui ăn giỏi lắm chừng tám chín kí mỗi tháng thôi. Thế nhưng cái ngày đó, gạo là “chủ lưc” chứ ngoài ra đâu có lấy chút năng lượng nào nữa nên 13 kí gạo trở nên quá thiếu cho cái tuổi đang lớn của chúng tôi toàn từ 18 đến 20 tuổi. Vậy là chúng tôi đói. Cái đói dai dẳng cứ dồn ngày này qua ngày khác thành ra đứa nào cũng thèm ăn và ăn tất tần tật những gì có thể ăn được. Chúng tôi hái mít, chuối non của những nhà dân chung quanh về luộc, hay có khi bưng trộm chuối cúng rằm ở những cái “trang” ngoài sân.

Trong bữa ăn, mỗi bàn ăn là sáu xuất cơm đựng trong một cái xoong to và bên cạnh là một cái xoong canh hay rau… nhỏ hơn. Cứ sáu đứa bu quanh một cái bàn ăn, chén đũa đứa nào tự giữ, tự ăn và tự rửa … Vậy là đứa nào ăn chậm đành chịu đói. Ban đầu thì vậy nhưng chỉ vài ngày thôi, tôi phát hiện ra rằng tất cả bọn chúng đều dùng …B52 (là những cái chén khổng lồ, những cái chén mà tôi chưa bao giờ được thấy trước đó!). Và hơn thế nữa, lúc đầu bọn chúng xúc cơm rất lịch sự chỉ cạn cạn trong chén thôi và ăn rất mau, đến khi nồi cơm gần hết là những chiếc B52 mới ra sức chở nặng, chừng cỡ ba chiếc B52 như thế trong một tổ sáu người là ba thằng còn lại chỉ có …gõ đàn bầu suốt đêm. Tui chưa biết cách nào để thoát khỏi cái cảnh đói … xanh xương này thì rất may có thần nhân hộ mạng.

Dân Quảng Ngãi tui có một gã tên là Kh. Hắn nhỏ con nhưng nhanh nhạy lắm, hắn thương tui vì biết rằng tui cũng đói như hắn, thậm chí đói hơn vì tui to con hơn mà làm việc cũng khoẻ nữa. Hôm đó tui vừa ở xưởng về chuẩn bị xuống suối tắm để sau đó đi ăn tối thì hắn kêu tui vô nói nhỏ:

-Ăn cơm cháy không?

-Ăn chứ sao không! Tui đang đói bụng nghe lời mời hấp dẫn quá nên làm sao từ chối

Vậy là hắn đưa tui một miếng cơm cháy dày cộm. Ờ mà cơm cháy nấu bằng chảo bự, nó dày mà dòn rụm, lại thơm một cái mùi quyến rũ làm sao nhất là lúc đang đói…

Tui chơi liền một miếng to, đã cái gì đâu. Xong tui hỏi hắn:

-Ở đâu mày có cơm cháy bá chấy vậy?

-Thì nhà bếp chứ đâu! Hắn cười. Nhưng tui thì chưa chịu tha, vì tui biết mấy cái cô “chị nuôi” xấu người xấu luôn cả nết này, đố mà thằng nào lọt qua được cái cửa bếp của mấy cổ

-Mầy nói sao chứ dễ gì mà mấy bà dịch vật đó cho mầy vô lấy cơm cháy?

-Thôi, biết vậy được rồi, hỏi hoài cha nội!

Hắn tìm cách tránh. Thế nhưng đến khi tôi hỏi đến ba bốn lần hắn đành thú thiệt:

-Tao “tán” con Tám nên nó cho tao vô nhà bếp. Tao canh tụi nó vừa dỡ cơm là tao lấy xẻng cạo… Chứ chậm là con Chín, con Mười nó đổ nước cơm vô … hết ăn.

Tui nghe vậy cũng khoái quá nên tán thành:

- Tao thấy con Tám cũng được đấy chứ hổng đến nỗi tệ. Mầy tán được nó là được cả hai thứ, vừa no, vừa ….

Hắn càu nhàu:

- Cha nội bộ muốn đem tui làm mỹ nhân kế hả?

Thế là từ đó ngày nào tui cũng có cơm cháy ăn ké. Hắn mập lên trông thấy và cả tui cũng vậy. Đêm đêm hắn thường về phòng rất khuya… và huýt sáo làm tui giật mình hoài. Còn cái cô chị nuôi kia thì trở nên vui vẻ với tụi tui hơn nhiều, thỉnh thoảng đích thân tui cũng mò vô bếp để cạo cơm cháy. Tui chỉ cần nói: “Thằng Kh. mắc làm cái này, bận làm cái kia, tui cạo đem về cho nó …” thì OK ngay…

Mấy ngày hôm nay thằng Kh. bổng dưng biến mất. Thằng này có một người bà con trên phố Ban Mê Thuột nên lâu lâu nó cũng biến về đó …kiếm ăn. Chiều hôm nay tui ở xưởng mộc về sớm, đói bụng quá theo thói quen tui cũng mò vô bếp tính kiếm miếng cơm cháy. Chung quanh tui, ba cô chị nuôi cô nào mặt mày cũng như những miếng cơm cháy. Chờ họ dỡ xong cơm ra dãy xoong nhôm để sẳn đó, tui nhào vô cầm cái xẻng tính cạo một miếng cháy thì “xèo” một cái, một thùng nước vo gạo đục ngầu để sẳn trên thành chảo đổ xoà hết vô cái chảo cơm. Vĩnh biệt nồi cơm cháy, bởi vì cơm cháy của trường được dùng để nuôi heo. Cô chín la thật to:“mấy ông mà ăn hết thì heo nó nhịn đói hả?”. Tui ngờ ngợ có chuyện gì đó xảy ra nhưng cũng chỉ ấm ức ra về…

Chiều nay cả trường xầm xì xầm xịt về cái bụng cô Tám. Bây giờ thì tui mới có dịp nhìn kĩ cô ấy. Tui biết liền là chuyện gì đã xãy ra. Lỗi là tại vì cái thời của tụi tui nó không có cái bao cao su như cái thời bây giờ… Thằng Kh. thì biến mất, cứ như mấy đứa trước lần lượt bỏ cái trường mắc dịch này ra đi mà chẳng nói lời nào… Thế là tui đành mất một thằng bạn và cũng vĩnh biệt luôn cái mối tình cơm cháy của hắn…

Ẩm thực Việt Nam thời bao cấp

Có thể nói, thời bao cấp chỉ còn sống trong ký ức của những người sinh trước thập niên 70 và chẳng còn chút dấu ấn nào với những ai sinh ra từ năm 1986 trở lại đây. Không có sự hiểu biết rõ ràng về một thời gian khó của cha anh thì sẽ không thể hiểu thấu đáo giá trị của công cuộc đổi mới hôm nay.

Một mâm cơm thời bao cấp với bánh bo bo, cơm độn khoai lang, trạch trấu om trám của quán Ngoại ô ở Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội... có thể sẽ phần nào tái hiện lại một góc của cái gọi là "thời bao cấp" ấy.

Những món ăn có thể là một hoài niệm đối với những ai đã từng sống ở thời bao cấp và cũng có thể là một sự sẻ chia, giúp những thế hệ trẻ hiểu hơn về ngày hôm qua để cảm nhận được hết giá trị của ngày hôm nay.

Lắng lại trong cái se lạnh cuối thu, giữa không gian gợi nhớ những miền ngoại ô đầy kỷ niệm, thật ý nghĩa khi cùng bạn bè thưởng thức lại những món ăn của một thời gian khó, một thuở hàn vi.

Nguyên lý chế biến thức ăn thời bao cấp là tận dụng mọi thực phẩm dân dã có được, thêm những gia vị quanh vườn nhà, qua bàn tay tài tình và yêu thương của mẹ, của chị trở thành những món ăn đầy sáng tạo như cá thầu dầu nấu dưa, bì trâu xào rau muống, hoa chuối nấu trai, dưa xào tóp mỡ… Đến “Ngoại ô” để hoài niệm với những món ăn thời bao cấp cũng là một cách để hiểu thêm những ngày xưa gian khó mà thấy rằng hạnh phúc phải bắt đầu từ ngay hôm nay.

Đó là món nộm hoa chuối để khai vị theo phong cách phối trộn chua, cay, mặn, ngọt đủ cả ngũ hành của người phương Đông. Rồi những con ốc bươu gợi nhớ thuở thiếu thời sơ tán ai đã lặn lội ruộng sâu cho mấy đứa em có bữa chiều cải thiện. Nay thì dưới bàn tay khéo léo và cách chế biến cầu kỳ của đầu bếp, băm nhuyễn với gia vị, rán cho dậy mùi, rồi lại cuộn trong giấy bạc rán lại một lần nữa - chúng đã trở thành món chả ốc độc đáo, ngon miệng.

Chạch trấu om trám thì đích thị là một sáng tạo đầy tinh tế của các bà nội trợ Việt Nam. Cái chua, chát của quả trám với vị béo, bùi của cá chạch trấu hòa quyện, ngấm vào nhau làm thành món đưa cơm bậc nhất.

Đại diện cho thời bao cấp với tem phiếu, gạo mậu dịch là các món cơm độn: cơm độn khoai, độn sắn, độn mì sợi. Trong lúc đợi cơm độn khoai lang chín, có thể tranh thủ chiên vài chiếc bánh bo bo ăn cho vui miệng.

Bo bo nguyên là những hạt cao lương, lúa mạch. Xưa dân mình thường chỉ luộc lên, hoặc bung như ngô để rồi trệu trạo ăn độn cho no bụng. Nay thì thêm bột mì thơm, đường, trứng, sữa tươi rồi chiên vàng lên là đã thành một món thú vị. Khi rán xong bo bo cũng là lúc Chè khoai mỡ tráng miệng cũng đã xong. Cuối cùng, mâm cơm được dọn ra thật đẹp mắt trong một không gian tre trúc bài trí tự nhiên và ấn tượng, với nhạc dân gian, áo tứ thân.

Nếu bạn là người hoài cổ, muốn cùng gia đình hay bạn bè ôn lại kỷ niệm xưa thì không gian Ngoại ô có lẽ là nơi hữu cảnh” để “sinh tình”.

Nghèo đến bao giờ!

HKC

:Nghèo không phải là một cái tội, nhưng những kẻ tạo ra cái nghèo, từ khâu quản lý yếu kém, tệ nạn tham ô, tham nhũng, cửa quyền... tạo ra phân cấp xã hội, vơ vét cho đầy túi tham, đẩy mọi cái khó, cái khổ lên đầu dân kiểu như "trăm dâu đổ đầu tằm" để rồi hàng năm báo cáo láo rằng đất nước vẫn đang tăng trưởng, đã thoát khỏi nghèo đói... chính là những kẻ có tội rất lớn với dân nghèo!

(Dân trí)

- Bữa ăn của các bé chỉ duy nhất một món ăn, không canh, không rau, chỉ một ít kiến xào hành, vài con nhái, hay “sang” hơn là vài miếng cá, thịt… nhưng các bé đều ăn ngon lành không còn một hạt cơm. Nhìn các bé ăn chúng tôi không khỏi chạnh lòng.

Quan sát khắp các khẩu phần ăn của các bé, PV không thấy bất kì một cọng rau hay ít canh nào. Cơm để từ sáng đến trưa nên cũng không còn nóng, mỗi bé chỉ có duy nhất một loại thức ăn, không có món nào giống món nào. Bé nào “sang” thì có thịt gà, trứng, thịt heo, cá kho. Một số bé có thức ăn là... nhái, do thời tiết Kon Tum mới mưa nên buổi tối cha mẹ đã tranh thủ đi bắt nhái, ảnh ương về làm món ăn cho con mình. Khẩu phần ăn hôm nay của một số bé thậm chí là những con kiến càng đen sọm được xào với hành.

Nhưng dù là món ăn gì đối với các bé đều không quan trọng, sau một buổi sáng học hành và vui chơi, bụng của các bé đều đã kêu đói ọp ẹp. Không cần cha mẹ hay các cô nhắc nhở, các bé đều nhanh tay xúc cơm ăn một cách ngon lành. Các thức ăn dù nhiều xương nhưng cũng được các bé gỡ một cách cẩn thận mà không bé nào bị hóc xương. Những bàn tay nhỏ thó, còn yếu ớt xúc từng muỗng cơm ăn nhưng không hề rơi vãi xuống đất, bé nào cũng chăm chú ăn mà không đùa nghịch, nói chuyện.

Chỉ chừng 20 phút sau, hầu hết các bé đã ăn xong, các cặp lồng dù nhiều hay ít cũng đều hết sạch. Sau khi cô giáo múc ra một chậu nước sạch, chẳng cần phải chờ cô nhắc nhở, các bé tự giác lại rửa tay bằng xà bông, rồi đi vệ sinh.

Nhớ thuở nào cơm nắm muối vừng

Những gánh hàng cơm nắm muối vừng ngày ngày vẫn rong ruổi khắp ngõ xóm Hà Nội. Món ăn dân dã ngày xưa nay đã đi vào tiềm thức của người dân Việt.

Ngày xửa ngày xưa, khi nước ta còn nghèo đói, cơm nắm đã trở thành món ăn thường nhật của những người dân Việt. Người nông dân đi làm đồng xa, cơm nắm trở thành bữa trưa ngon lành giúp lấy lại sức lực cho công việc khi chiều đến. Những người làm nghề buôn bán hay có việc phải đi xa xa một chút, không thể trở về vào đúng bữa, cơm nắm là người bạn đường thân thiết, lót dạ khi đói lòng. Cơm nắm không biết đã xuất hiện từ bao giờ, có lẽ phải từ lâu lắm rồi vì từ thời ông, thời bà, thời cụ, thời kị đã có món ăn dân dã này.

Ngày nay, cơm nắm vẫn xuất hiện hàng ngày trên những con phố Hà Nội. Cơm nắm không còn là sự hiện diện của cái nghèo, cái khổ của cả dân tộc nữa. Cơm nắm nay đã trở thành một thứ quà quê rẻ tiền nhưng ngon miệng. Khi đã chán ngấy những loại thức ăn nhiều chất như bún, phở, người ta tìm đến một thứ đồ ăn sáng thanh đạm nhưng chắc dạ: cơm nắm muối vừng. Chiều chiều, khi chưa đến bữa cơm tối, bụng hơi cồn cào vì bữa trưa ít ỏi, người ta lại tìm một hàng cơm nắm mua một vắt, ngồi nhẩn nha thưởng thức từng miếng nhỏ.

Quan ni

m

m th

c c

a ng

ườ

i Vi

t

Ăn uống có vai trò và vị trí hết sức quan trọng đối với đời sống con người. Chính vì vậy người xưa có nói: “Dân dĩ thực vi tiên.” Mặc dù, người xưa rõ biết, không ăn uống thì không thể tồn tại, có thực mới vực được đạo, nhưng không vì thế mà tổ tiên ta đã tuyệt đối hóa ăn uống, coi ăn uống là trên hết, là mục đích duy nhất của cuộc sống này.

Giá trị vật chất mà ăn uống đem lại thì ai cũng có thể nhận thấy. Ăn uống là cách cung cấp năng lượng cho cơ thể mà chúng ta đã làm hao tổn do lao động. Do sống gắn liền với lao động nên con người rất quan tâm đến chất lượng của ăn uống. Khi đời sống người dân còn thấp thì việc “ăn lấy no” được mọi người quan tâm hàng đầu, chưa ai nghĩ đến nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp” vì điều kiện thực tế chưa cho phép. Lúc mà con người làm việc “đầu tắt mặt tối”,  “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, “ăn bữa sáng, lo bữa tối”, “bụng đói cật rét”, “mặt xanh nanh vàng”,… thì họ chỉ có thể mong muốn được “ăn no mặc ấm”, hay “có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít”, cốt để sống. Nhưng khi xã hội ngày càng phát triển, con người không chỉ mong được “ăn no mặc ấm” mà  chuyển sang “ăn ngon mặc đẹp”. Ăn uống giờ đây không chỉ mang giá trị vật chất mà còn mang giá trị tinh thần. Món ăn trong gia đình không những phải đủ chất mà còn phải hợp khẩu vị của mọi thành viên, phải nhìn “ngon mắt” nữa. Điều này thể hiện ở hình thức trang trí màu sắc, kiểu dáng của món ăn và ý nghĩa của sự trang trí đó.

Cũng vì vậy mà con người ngày càng tìm tòi, sáng tạo ra nhiều món ăn ngon. Và xét đến cùng thì xu hướng chung của tất cả con người dù lao động hay không lao động cũng là hướng tới sự ăn ngon và sung sướng.

Trong điều kiện nghèo đói, con người sáng tạo ra những món ăn ngon từ những nguyên liệu bình thường nhất. Khi có điều kiện thuận lợi, con người càng có thời gian và nguyên liệu để làm các món ăn mà mình yêu thích. Dù là những món phức tạp, khó tìm,… con người cũng muốn “ăn cho biết”, ăn để thưởng thức…

Ca dao nói rất nhiều đến điều này :

Rượu răm, thịt chó, lá vàng

Mời đi đánh chén, cách làng cũng đi.

Hoặc:

Sống thì cua nướng, ốc lùi

Chết cũng nên đời, ăn những miếng ngon.

Mặt khác thông qua những bữa ăn hàng ngày của người dân, ta thấy được mức sống của nhân dân ta nói chung, từng vùng, miền, địa phương nói riêng, và những phong tục, tập quán, khẩu vị và thói quen của họ.

Tuy nhiên, ngoài bữa ăn ngày thường, chúng ta phải kể đến bữa ăn trong những ngày lễ. Như vậy, chúng ta mới thấy được đầy đủ, xác thực và sinh động nhất truyền thống văn hóa ăn uống của con người Việt Nam. Đặc biệt, những bữa ăn ngày lễ không chỉ cho ta thấy sự phong phú đa dạng của các món ăn mà còn cho chúng ta thấy một mặt không thể thiếu trong cuộc sống của người Việt, đó là mặt tinh thần. Tại đây, chúng ta mới có thể hiểu một cách sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tình làng nghĩa xóm, mới thấm thía hơn câu nói “thương người như thể thương thân”, và mới hiểu vì sao mà “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”…. Và trong ý nghĩa sâu xa của nó chính là đạo lý của dân tộc: uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây…

Sự tinh tế và sâu sắc trong văn hóa ẩm thực của người Việt cũng được thể hiện ở trong các bữa ăn ngày lễ. Nó cũng thể hiện sự thành kính trong đời sống tâm linh của người Việt.

Chính vì vậy mà ở mỗi gia đình, dù giàu – nghèo, sang – hèn, dù trong những ngày thường có “ăn đói, mặc rét”, thiếu thốn đủ thứ nhưng đến ngày Tết, họ cũng phải cố gắng sửa soạn, lo để có được một mâm cơm tươm tất để cúng gia tiên và các vị thần linh. Sự hiện diện một cách vô hình của các vị thần linh, của ông bà tổ tiên… đã làm cho không khí ngày lễ cũng như bữa ăn ngày lễ trở nên thiêng liêng hơn. Sự tinh tế, tài hoa, trí tuệ, công phu của người Việt cũng được thể hiện ở đây.

Xin được trích một đoạn trong “cỗ tết Hà Nội xưa” (Thọ Cao – văn hóa nghệ thuật ăn uống, số 3/1/1998, trang 8):

“… Mọi thứ không mua xô bồ, mà kén chọn hoặc đặt những nơi có tiếng làm. Vại dưa hành muối từ tháng Chạp, thứ dưa Tây Hồ lá cuộn tròn, thứ hành ngọt dịu ở Đông Dư, Gia Lâm. Đồ nấu kén măng khô Phú Thọ, nấm Thái Nguyên. Gạo là gạo Mễ Trì, gạo tám thơm vừa trong vừa trắng. Xôi chọn thứ nếp cái hương vùng Cẩm Giàng, Hải Dương. Gà trống thiến Đông Cảo, cá chép Hồ Tây, nem Lạng Sơn hay nem Phùng, chả quế Làng Vẽ, giò lụa Đờ Măng (phố Phùng Hưng bây giờ), lạp xườn hiệu Tàu Tân Phúc Điền – Hàng Buôm, nước mắm Vạn Xuân hay Phú Quốc…”  Trong khi mua sắm các lễ vật cho ngày lễ, một tâm lý phổ biến của nhân dân là: các lễ vật phải đạt giá trị cao về chất lượng, và không được mặc cả tính toán đắt rẻ, so đo thiệt hơn với người bán hàng. Bởi mọi người cho rằng nếu làm như vậy là “có lỗi” với ông bà, tổ tiên.”

Cũng cần phải thấy rằng trong các bữa ăn, đặc biệt là các bữa ăn ngày lễ thì vấn đề sạch sẽ phải được đặt nên hàng đầu. Các dụng cụ nấu nướng: nồi, niêu, xoong chảo,… đến dao, thớt, chày, cối… đều phải được lau chùi kỹ lưỡng trước khi sử dụng.

Như vậy ta có thể thấy rằng ăn uống không đơn giản như lâu nay mọi người vẫn tưởng là “bỏ vào miệng nhai và nuốt”, mà nó là cả một vấn đề. Một vấn đề lớn và đầy ý nghĩa. Đó là gì nếu không phải là văn hóa – văn hóa ẩm thực của người Việt Nam?■

MIẾNG TIẾT MIẾNG GAN

align=top class=middle v:shapes="_x0000_i1029">

21/12/2011@9h59, 26 lượt xem, viết bởi:

chungcongbl

Chuyên mục:

Văn xuôi

Thuở xưa ở quê tôi, người ta bày một mâm cỗ chỉ có bốn người ăn. Thời nghèo đói, thứ gì cũng chỉ bày gọi là. Một bát canh măng hay bát miến đã rất quý vì thế người ta múc vào cái bát loa, miệng rộng nhưng thắt ở ngang, gọi là bát “chiết yêu”, trông rất đẹp mắt nhưng gắp chỉ được vài miếng là hết.

Trong mâm cỗ bao giờ cũng có đĩa lòng lợn, dưới cùng bày lòng non, bên trên bày bốn miếng “dồi”, tức là đoạn ruột già, làm sạch, nhồi tiết canh trộn lẫn thịt, lá rau thơm, luộcchín, cắt khoanh. Trên cùng, bày bốn miếng gan. Tuỳ theo con lợn to nhỏ, ít hay nhiều người ăn mà cắt dồi, gan mỏng hay dày, thường thì rất mỏng để bày cho được nhiều. Tiêu chuẩn của mỗi thực khách là một vài miếng lòng non và duy nhất một miếng dồi, một miếng gan. Khách ăn biết tiêu chuẩn của mình, không ai ăn quá một miếng. Nếu có vị khách nào tham lam, ăn quá tiêu chuẩn là ngay hôm ấy tin đồn khắp làng. Lần sau đi ăn cỗ ở đâu, không ai chịu ngồi cùng.

Chuyện của thời nghèo đói nhắc lại, lòng bỗng thêm buồn !

Bây giờ, tuy nhiều nơi còn khó khăn nhưng nói chung cả nước đã giàu lên, lo việc ăn uống không đến nỗi vất vả quá. Khách đến chơi có dùng bữa, gia chủ không tất bật như xưa. Những cái ngày xưa quý giá bây giờ chẳng còn giá trị gì, thậm chí còn bỏ đi là khác. Không những cỗ bàn không có ai bày “lòng lợn tiết canh” mà ngày thường cũng ít người ăn. Như miếng gan chẳng hạn.

Hôm vừa rồi, đi nghe nói chuyện về sức khoẻ, mới biết không nên ăn gan động vật. Vì gan là nơi chứa nhiều độc tố do con vật ăn phải hàng ngày, tích tụ lại. Những con vật khoẻ mạnh còn đỡ. Những con vật ốm yếu thì ôi thôi, trăm nghìn thứ độc hại đều chất chứa ở gan. Thành thử nếu người ăn vào, mang theo tất cả cái độc ấy vào người. Nghe đã khiếp! Hơn nữa những ai rượu bia hàng ngày thì nguy cơ mắc các bệnh về gan càng lớn. Từ viêm gan, áp xe gan  đến xơ gan, ung thư gan là một quảng đường ngắn!

Tôi nghe nói có loại sản phẩm bảo vệ gan rất tốt, được chiết xuất từ thảo mộc liền mua về dùng. Nhiều anh bạn cũng nhờ mua dùng theo. Thôi phòng còn hơn chống.

Miếng thịt là miếng... nhục!

15:11 16/03/2012

Bỗng nhiên trong khẩu phần ăn của nhiều gia đình, miếng thịt như mọc chân rồi chạy thật xa khỏi mâm cơm.

Giá cả leo thang, chi tiêu thắt chặt chỉ làm một phần, điều quan trọng là những thông tin gây sốc về loại thịt lợn siêu nạc do con lợn được chăn nuôi bằng chất cấm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của con người.

Một số báo nêu, theo kết quả khảo sát sơ bộ tại một vài tỉnh ở miền Nam, tỷ lệ thịt heo bị nhiễm các chất cấm lên tới 40%. Một có số kinh khủng dù chưa phải là kết luận cuối cùng nhưng đủ để ai định đưa miếng thịt lợn lên mồm, bất chợt phải dừng lại và… rùng mình.

Con lợn sau bao nhiêu năm là nguồn bổ sung chất đạm chính bỗng nhiên bị nghi ngờ, cho dù về bản chất, con lợn không có lỗi. Lỗi ở người chăn nuôi.

Ừ thì tạm treo thịt lợn, thế ăn gì? Thịt chó? Ngon đấy nhưng chắc chỉ vài bữa trong tháng. Thị bò? Không rẻ, chế biến cũng khó hơn. Hay thịt gà, hoặc bằng… cá? Tìm đến đậu phụ hưởng ứng phong trào ăn chay trường?

Người lớn có thể cố chịu, nhưng trẻ con bây giờ sướng quen rồi, nhất định không chịu mở mồm nếu bát cơm xanh ngắt một màu rau.

Trong tiếng Hán – Việt, nhục là… thịt. Người Hà Nội mấy chục năm trước, ai chẳng bâng khuâng tiếng rao “ngầu nhục phấn” của người bán phở rong. Giờ thì miếng thịt đúng là miếng… nhục, hiểu theo một nghĩa khác.

Sức khỏe con người là quan trọng, điều khó hiểu là chuyện không phải bây giờ mới có những cơ quan quản lý phải chờ đến khi báo chí lên tiếng mới ra tay. Vấn đề khác, uy tín của ngành chăn nuôi có nguy cơ bị tổn hại nhiều chỉ vì chữ “siêu” và nó sẽ quay lại ảnh hưởng chính người chăn nuôi.

Người xưa vẫn dạy: “Phàm làm việc gì, trước hãy nghĩ đến hậu quả của nó”. Người bây giờ thì khác, theo phương châm: “Cái gì thấy lợi thì làm”.

Có vẻ như xã hội lạm phát chữ “siêu”. Con lợn thì siêu nạc, bóng đá thì siêu giải, từ Super League mà ra. Nhưng ngay cả khi đổi về cái tên cũ là V.League thì vẫn còn đó những siêu phẩm và người ta đặt hy vọng, tìm kiếm những siêu trọng tài nhằm giảm sai sót trong các quyết định ở V.League.

Nhưng trước hết, cho đến hôm qua, người ta còn phải nhắc đến một “siêu hợp đồng” – chuyện bản quyền truyền hình có thời hạn 20 năm. Văn hoa thì nói nó là “miếng bánh” truyền hình, nhưng cũng có thể là một miếng thịt, loại siêu nạc mà người ta cảm thấy rất cần và rất ngon khi đói.

Nhân nói chuyện thịt, người yêu sân khấu cũng vừa đưa tiễn một nghệ sĩ mà vai diễn thành công, được nhắc đến nhiều: Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Từ chuyện miếng thịt, trái bóng và nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống, cái cảm giác thật thật - giả giả cứ quẩn quanh. Và nhận ra điều phải đối mặt hàng ngày: “Đâu Trương Ba, đâu hàng thị

MÓN NHÀ QUÊ

          Trong thị trường ẩm thực hôm nay ta có thể bắt gặp cơ man các món ăn khoái khẩu, lạ miệng, ngon mắt. Có những món như chim quay, ngỗng quay, gà tần, lâm sản, hải sản chế biến cầu kì chỉ dành cho người lắm tiền, cho bậc cao sang gọi là món thượng lưu. Lại có những món có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài, được nhập từ nước ngoài như bánh mì Pháp, xúc xích Đức, mì Ý hay các món của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… gọi là món Tây hay món ngoại. Cùng góp mặt vào thị trường ẩm thực còn có những món có gốc gác dân dã được gọi là món nhà quê.

Món nhà quê, ấy là vại dưa cải bắp, dưa cần mùa đông, cải củ vừa ngấu đầu mùa, dưa cà pháo giòn tan hay cà tím, cà bát muối xổi chấm với bát mắm tiêu ăn ngay. Có dịp lãng du qua các vùng thôn dã, trong bữa cơm đạm bạc ta còn được thưởng thức món dưa nhà nghèo: dưa muối sơ mít, muối hoa chuối hột, muối dọc mùng.

          Món nhà quê là bát canh cua mướp hương rau đay mùng tơi ăn với mấy quả cà muối giòn tan hay bát riêu ruột hến, ruột trai, ruột đùng đục, đầu cá quả, cá măng nấu chua, nấu dọc ăn kèm hoa chuối, thân chuối non, rau cải bao tử, rau muống chẻ hoa hay đĩa ruột ốc đá, ốc biêu, ốc nhồi xào măng, xào dứa.

          Món nhà quê ấy là niêu cá kho khế, kho măng với trái sung xanh bờ ao, nắm lá phần đen, nắm ngọn cúc tần bờ rào, bờ dậu hay đĩa cà cuống, niềng niễng, cào cào, châu chấu, tôm, tép đồng kho mặn con nào con ấy ôm muối trắng tinh, cắn săn lưỡi mà vẫn đặm đà ngon lạ vào buổi trưa hè nắng gắt hay trời nổi giông tố bão bùng.

Món nhà quê có khi là đĩa rau dền, rau muống vườn nhà, trái bầu, trái mướp bờ ao hay ngọn bí ngọn, lang ngoài ruộng luộc xanh ngăn ngắt chấm mắm cua, mắm cáy pha chút tỏi, chanh, gừng.

          Món nhà quê có khi lại chỉ là đĩa mắm tép, mắm tôm, bã cáy rim mỡ, hành hoa, giềng già, ớt chỉ thiên ăn với cơm gạo trắng không biết no vào những ngày đông mưa phùn gió bấc.

          Có món nhà quê là bát bánh trôi, bánh chay, bánh đúc ngâm nấu từ gạo, lạc, đậu xanh, nước vôi, nước tro trong, bán bày ngoài chợ hay đĩa bánh cuốn nhân hành, bánh khúc rau đồng, bánh trưng lá dong bán rong, bán dạo ngoài đường.

          Ngày nay món nhà quê không những chỉ là món quê, phục vụ người quê mà còn ra thành phố, xuât hiện trong cuốn thực đơn, có mặt trên bàn tiệc sang trọng bên các món cao cấp hay những món ngoại quốc của các nhà hàng, khách sạn người ta, người tây. Chắc hẳn ai đó đã có lần ngỡ ngàng, xen lẫn tò mò, cả bồi hồi khi có dịp cùng bạn bè đi ăn tiệc ở nhà hàng, khách sạn hai sao, ba sao lại bắt gặp món cá kho niêu đất ngậy thơm, bát canh cua hoa lý óng gạch, đĩa ngọn lang xào tỏi.

          Có những món nhà quê độc đáo đã trở thành đặc sản với những thương hiệu nổi tiếng khi nhắc đến: bánh tôm, bánh cuốn, bánh cốm… Hà thành; mì Chũ, bánh đa Kế… Bắc Giang; bún cá rô đồng, bánh đậu xanh, bánh gai Linh Giang… Hải Dương; cơm lam, cá suối nướng… miền Tây Bắc; bánh khoái, bánh bèo, tôm chấy…miền Trung; gỏi cuốn nem nướng, thịt bò bảy món…miền Nam…

Lan man món lạ Âu - Việt

22/01/2012 7:09

Roland đi cùng tôi, chỉ vào cửa bên ngoài một nhà hàng Việt Nam ở khu Hackney phía đông London hỏi họ viết gì vậy. Theo hướng anh chỉ, tôi thấy tấm bảng viết tay “Hôm nay có lòng lợn tươi”.

Nhà hàng quả rất tinh đời khi chỉ viết quảng cáo trên bằng tiếng Việt để cuốn hút Việt kiều Anh, chủ yếu là người Bắc đến đây những năm thập niên 1980 thèm lòng heo chấm mắm tôm. Nếu để thêm tiếng Anh, dân Ănglê đọc được chắc cao chạy xa bay, một đi không trở lại.

Cũng lạ, trong lịch sử người Anh vốn nổi tiếng thám hiểm thế giới, chinh phục các vùng đất xa xôi rừng thiêng nước độc mấy cũng được, nhưng về ẩm thực lại khá nhát gan, thịt ếch còn không dám ăn. Dân Pháp khoái ăn đùi ếch nên bị dân Anh chọc là “frogs” (con ếch). Dân Pháp cũng không vừa, gọi Anh là  “rosbif” (phiên âm tiếng Pháp của chữ “roast beef”, món thịt bò đút lò thường được ăn vào chủ nhật ở Anh) hàm ý chê người láng giềng ẩm thực không phong phú.

Sống ở Anh khá lâu nhưng tôi chỉ biết được vài món có thể gọi là kỳ thú ở đảo quốc này. Thứ nhất là haggis, món truyền thống Scotland (thuộc Vương quốc Anh), được làm từ phổi, tim, gan cừu băm nhỏ trộn gia vị nhồi vào bao tử cừu, dùng chỉ khâu lại rồi luộc chín. Tim gan đối với người Việt là món ăn bình thường, nhưng ở đây rất lạ đời, dân bản địa không phải ai cũng từng ăn. Theo đúng cách ăn kiểu dân gian, khi haggis được dọn lên bàn trong những bữa tiệc, cả khách lẫn chủ sẽ nhảy lên ghế, đặt một chân lên bàn rồi ngửa cổ nốc một hơi hết ly whisky, xong thảy ly ra sau lưng rồi mới ngồi xuống ăn tiệc. Không biết ngày nay truyền thống đó có còn không, nhưng hi vọng nam giới sẽ không mặc váy kilt kẻ carô của đàn ông Scotland khi dự tiệc kiểu này.

Haggis xuất thân con nhà nghèo, những ai không đủ tiền mua thịt nạc mới tận dụng nấu những thành phần bỏ đi, nhưng nay đã trở thành món quốc hồn quốc túy của vùng cao nguyên lạnh giá. Nhất là từ khi Robert Burns sáng tác

“Thơ hát tặng haggis”

(

Ode to a Haggis

, hoặc có bản ghi là

Address to a Haggis

), dưới đây là đoạn mở đầu:

Gương mặt vui tươi, chân thành của bạn đẹp làm sao

Tộc trưởng của họ nhà bánh pudding

Bạn chiếm vị thế trên tất cả ấy

Dạ dày, bao tử và ruột

Bạn xứng đáng với sự vẻ vang này

Trích đoạn trên đọc qua sẽ thấy khá ngô nghê, khó tin một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất Vương quốc Anh đã viết bài thơ này. Bài ca ngợi haggis của Burns ra đời năm 1786, trong bối cảnh Mỹ dưới sự lãnh đạo của tướng George Washington vừa giành độc lập từ Anh trước đó không lâu; Pháp đang trong thời kỳ mâu thuẫn xã hội sâu sắc dẫn đến Cách mạng Pháp ba năm sau; còn ở nội địa mối quan hệ Scotland và Anh không mấy tốt đẹp. Vì vậy có thể nói đây là hành trình tìm kiếm bản sắc dân tộc Scotland của Burns và là cách ông thể hiện tình yêu quê hương xứ sở.

Không biết có phải vì vậy mà đây trở thành bài phổ biến nhất trong số 717 tác phẩm của Robert Burns trên trang web BBC, hơn cả hai bài nổi tiếng của ông là “Tình yêu tôi như một hoa hồng đỏ” do chính thái tử Charles đích thân ngâm thơ thu radio, và bài “Auld lang syne” được hát vào mỗi dịp năm mới ở Anh.

Một món lạ nữa là black pudding, tạm dịch: bánh đen, một loại xúc xích từ huyết heo, trộn mỡ heo, hành tây, bột yến mạch và các loại gia vị, tất cả xay nhỏ nhồi vào ruột heo, tương tự món dồi VN. Cũng như haggis, đây xuất thân là món nhà nghèo nhưng đã trở nên phổ biến, nếu có dịp đến Anh ở khách sạn từ bình dân đến năm sao, bữa sáng bạn sẽ thấy black pudding ăn chung với thịt heo muối, xúc xích, nấm, cà chua chiên, bánh mì lát nướng.

Nhắc đến huyết heo, tôi nhớ cách đây bảy năm, trong lần ghé chơi Vienna, thủ đô nước Áo, chú Thomas của Daniel - bạn tôi - dẫn hai đứa tôi đi ăn nhà hàng. Có một món mà khi tôi ăn, hai người nhìn nhau cười ra vẻ bí mật lắm.  Đợi tôi ăn xong, họ mới tiết lộ gọi món xúc xích làm từ huyết heo kiểu Áo, vừa nói vừa nhìn tôi vẻ thăm dò. Tôi tỉnh bơ: “Tưởng gì, huyết heo ở Việt Nam con ăn với bún riêu hoài” làm hai chú cháu xụi lơ vì tưởng tôi sẽ la lối hoặc đấm ngực kêu trời.

Nói vậy thôi chứ tôi rất nhát gan, lớn lên ở Việt Nam nhưng cả đời chưa bao giờ ăn tiết canh vịt, còn hột vịt lộn chỉ ăn miếng màu trắng sần sật và lòng đỏ, vịt con không ăn. Những năm tôi lớn lên vào thập niên 1980, mỗi lần mua hột vịt lộn là mẹ tôi ép ăn cho bổ, có lần tôi nuốt trộng mà nước mắt nước mũi giàn giụa. Nhiều năm sau tôi mới biết hột vịt lộn luôn nằm trong danh sách mười món ghê rợn nhất thế giới đối với phương Tây!

Vì nhát gan nên cuốn du ký ẩm thực châu Âu

Bánh mì thơm, cà phê đắng

(NXB Trẻ) của tôi không có thức nào quá lạ đời, chỉ toàn mấy món “hiền khô” kiểu thịt heo nướng xiên Hi Lạp, xúp cá Thụy Điển, cá tuyết muối Bồ Đào Nha, vẹm xanh hấp rượu kèm khoai tây chiên Bỉ, bánh kem Slovenia... Có lẽ món kỳ thú nhất tôi từng ăn trong những chuyến đi xa là món thịt tuần lộc ăn ở Phần Lan. Tuần lộc (reindeer) là con vật kéo xe cho ông già Noel, có nhiều ở Scandinavia, nhất là ở vùng cực Bắc Lapland, cả chạy hoang lẫn nuôi trong các trang trại. Khi chúng tôi đi xe qua những con đường xuyên rừng bạch dương thỉnh thoảng lại thấy cả đàn chạy ngang giương mắt nhìn.

Khách sạn chúng tôi trú ngụ những ngày ở Lapland dĩ nhiên cũng có thịt tuần lộc. Có lần trong bữa sáng tôi thấy một cậu bé chừng 9 tuổi lắc đầu không chịu ăn tuần lộc, mếu máo: “Sao mình ăn thịt Rudolph vậy ba?”. Rudolph là tên chú tuần lộc được chọn kéo xe cho ông già Noel trong bài hát Rudolph, chú tuần lộc mũi đỏ/ Có một chiếc mũi bóng lưỡng/Và nếu bạn từng thấy chú/ Bạn thậm chí sẽ nói mũi chú tỏa sáng, hầu như Giáng sinh nào cũng được hát trên tivi.

Cậu bé kia là du khách nên thấy lạ, chứ trẻ em Phần Lan lớn lên với món thịt tuần lộc nhiều nạc và rất bổ nên xem như thịt bò, thịt heo. Tuần lộc ở đây được chế biến nhiều kiểu như ăn tái, đút lò, nướng, làm hamburger, xông khói, xào lăn, hầm. Tôi đã thử vài lần, thấy rất dễ ăn, sớ thịt mềm, ngon ngọt hơn thịt bò nhiều và không có mùi lạ như thịt cừu. 

Nhắc đến món chim chóc, ở Anh còn một món khá kỳ thú nữa là bánh nướng làm từ thịt cổ thiên nga, có từ nhiều thế kỷ trước. Bởi vậy nếu có ai khen bạn cổ cao ba ngấn thon thả như cổ thiên nga cũng đừng vội mừng thầm, vì thiên nga cũng như gà vịt vậy thôi. Món này dường như bây giờ đã thất truyền, lý do vì thiên nga ngày nay là tài sản của nữ hoàng Elizabeth đệ nhị nên dù bơi trên sông hồ khắp nước Anh cũng không ai được phép bắt.

Nếu bạn sợ khi nghĩ đến bánh làm từ cổ thiên nga cũng không có gì lạ, như ngạn ngữ Anh có câu “Món thịt của người này là độc dược của người khác” vậy, sống đâu quen đó. Cũng như bàn thờ gia đình cúng tất niên có con gà luộc còn nguyên đầu cả mắt mũi mào, miệng gà ngậm thêm bông hồng tỉa từ trái cà chua, ở Việt Nam thấy bình thường nhưng bạn Alastair của tôi tới Việt Nam ăn Tết nhìn thấy đã hồn xiêu phách lạc, “về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.

Món “độc” miền Tây

22/01/2012 7:08

Gần Tết có dịp về quê chơi, mấy ông anh họ giới thiệu những món ăn “độc”, mới dòm đã thất kinh nhưng ăn vô rồi lại đâm ghiền.

Nước mắm rươi

Chiều Trà Vinh cuối năm, trời se lạnh. Tắm sông lên đứa nào cũng lạnh cóng, bụng đói, chân run. Dì Hai tôi đã chuẩn bị sẵn nồi cơm nóng sốt đang bốc khói, kế bên là tô nước mắm màu mật ong dầm ớt đỏ tươi, ngó phát thèm. Dì biểu chờ luộc con gà nữa là ăn được. Nhưng vì đói quá, chúng tôi bới cơm chan nước mắm ăn đỡ, bụng bảo dạ “ăn tạm một chén thôi, chờ gà chín ăn luôn”. Nào dè nước mắm gì mà ngon quá trời, vị mằn mặn, ngòn ngọt, lại thơm thơm, cộng với ớt cay sè, cơm nóng sốt, tụi tôi làm một hơi mỗi đứa ba bốn chén no cành hông. Lúc gà chín đem lên, tụi tôi cứ gắp thịt gà chấm nước mắm “lút cạnh” rồi đưa lên miệng nhai ngồm ngoàm, cắn thêm miếng ớt cay xé mũi, trời ơi nó ngon hổng thể tả.

Thấy vậy, dì Hai tôi cười: “Tụi bay ăn giống vua Gia Long chạy giặc quá. Hồi đó ổng bị quân Tây Sơn rượt chạy qua vùng Duyên Hải này, nhịn đói mấy ngày trời. Dân thương tình dọn cơm cho ăn với nước mắm rươi nãy giờ các con ăn đó. Đang đói mà gặp nước mắm ngon, ổng xơi sạch láng. Sau về lại kinh thành Huế, năm nào ổng cũng cho ghe bầu vô chở ra ăn. Vì nước mắm vua ăn nên dân gian thường gọi là nước mắm tiến vua hoặc nước mắm ngự. Chỉ có con rươi mới làm được nước mắm ngon như vậy”.

ừ xa xưa, người dân vùng biển Thạnh Phú (Bến Tre), Duyên Hải (Trà Vinh) đã biết làm nước mắm bằng con rươi. Rươi có thân mềm, dài cỡ cây tăm, thân đỏ giống như con rít. Mỗi khi gió chướng thổi (khoảng tháng 10 tới tháng giêng), vào con nước rong rươi thường nổi lên quấn nhau cả nùi, màu đỏ lự. Người dân dùng vợt lưới mùng vớt rươi lên, cho vô lu lớn ủ với muối theo tỉ lệ 7 rươi, 3 muối. Cứ vậy mà để phơi nắng chừng 3-4 tháng là ăn được.

Chúng tôi ghé thăm cơ sở làm nước mắm rươi của anh Ngô Văn Phương, 43 tuổi, tại thị trấn Duyên Hải. Trước nhà anh là một dãy lu, khạp, kiệu đủ cỡ lớn nhỏ đang ủ nước mắm rươi. Anh nói mùa này rươi đang về cặp theo bờ biển hoặc các vuông tôm. Đặc điểm của rươi là rất kén mặt nước. Chỉ nơi nào môi trường sạch rươi mới về. Chính vì vậy mà những năm gần đây, vuông tôm nào trúng mới có rươi, thất thì chúng mất tăm. Người dân vớt rươi cũng “canh me” ở các vuông sạch hoặc bờ biển không ô nhiễm. Họ vớt thành từng thùng đem về bán, anh Phương mua trữ lại để ủ nước mắm bán dần trong năm.

Theo cách ủ cổ truyền, chỉ cần 3-4 tháng là chiết ra dùng được. Nhưng theo nhu cầu thị trường, anh Phương ủ tới sáu tháng mới chiết ra, vì nước mắm ủ càng lâu màu càng trong, ánh vàng như mật ong. Rồi anh còn cho qua bộ phận lọc, lược, dùng kỹ thuật kết tủa, loại bỏ chất cặn làm cho màu nước mắm trong suốt. Cuối cùng là vô trùng, đóng chai trong phòng kín và dán nhãn để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Không ngờ cái con nhìn như sâu, trông phát ghê mà lại hấp dẫn đến bất ngờ.

MÂM C

Ơ

M NHÀ NGHÈO.

Ph

m

n Lan

Nhìn vào mâm c

ơ

m c

a nhà nghèo th

y th

ươ

ng l

m ! (Nhà nghèo th

ườ

ng đông con, l

i cái vòng lu

n qu

n c

a s

nghèo trên đ

i này). Ch

c ch

n s

th

y đĩa tr

ng tráng hay tr

ng v

t lu

c d

m n

ướ

c m

m cho lũ con nít c

i thi

n, có thêm chút can-ci. Tr

ng v

t r

l

i d

mua, h

u nh

ư

mùa nào cũng có. Năm ngóai năm kia d

ch H5N1, ch

lũ tr

nhà nghèo là thi

t, đ

ế

n món tr

ng chiên cũng ch

ng có đ

ăn. Còn thì m

y món rau trái thông th

ườ

ng, ch

ế

bi

ế

n qua l

i, rau mu

ng lu

c, rau lang n

u canh, c

i mu

i x

i (món này d

đ

ư

a

c

ơ

m, khá ngon mi

ng), r

i b

u, bí, trái thì xào, trái n

u canh. Th

t cá năm thì m

ườ

i h

a m

i hi

n di

n trong mâm c

ơ

m nhà nghèo. Trong Nam, ngày tôi còn h

c đ

i h

c, ngay t

i thành ph

hoa l

là Sài gòn, món chao, xì d

u c

a m

y chú khách trú Ch

L

n khá đ

t hàng cũng là nh

đám ng

ườ

i nghèo. Khi ti

n r

ng túi, đành ăn chay v

y thôi ch

bi

ế

t làm th

ế

nào ! Nhà nghèo

Trung quanh năm th

h

m

m d

ư

a, m

m ru

c. Ch

ng con ăn xong trên mâm h

u nh

ư

ch

ng còn th

t cá, ng

ườ

i ph

n

trong nhà ch

vi

c c

t thêm trái c

à, trái d

ư

a ch

m m

m ru

c

t t

i và vài chén c

ơ

m qua b

a. Nhìn m

nhai ngon lành đ

ế

n n

i, đ

a con dù đã no ph

nh b

ng cũng vòi m

đút cho thêm m

t mi

ế

ng. Cay quá, hít hà, con còn nh

đâu bi

ế

t m

mình l

y trái

t đ

đánh l

a cái l

ưỡ

i.

Nh

ng năm chi

ế

n tranh,

ng

ườ

i

quê ch

y gi

c ra thành ph

s

ng nh

. Có nh

ng gia đình nh

ư

nhà ông Lon, ngày x

ư

a làm công cho nhà tôi, ch

ăn đ

c m

i m

t món cá v

n n

u v

i b

t ngh

, th

nh th

ang m

i c

i thi

n b

a lòng heo cũng xào v

i b

t ngh

c nh

t món gia v

y !). V

y mà

ng

ườ

i cha m

nh cùi c

i nh

ư

con trâu, ch

t

i hai đ

a con trai

m cho

c, n

ướ

c da xanh mét.

Ng

ườ

i nghèo đ

ế

n cách ng

i ăn cũng th

y t

i. Ch

Hai làm m

ướ

n cho hàng bán mì qu

ng cá lóc c

nh nhà tôi th

ườ

ng c

m bát c

ơ

m ng

i chò h

ngòai h

m ăn. B

x

ươ

ng cá xu

ng

đ

t, con chó đ

ế

n c

nh, h

h

cùng ăn x

ươ

ng v

i ch

. Chi

u t

i có d

p đi ra đ

u h

m, nhìn ch

Hai ng

i ăn tôi th

y t

i t

i sao

y. N

ế

u là

bên chái nhà tranh l

p x

p trong quê, ch

ng

i ăn nh

ư

v

y th

y không sao, nh

ư

ng đây là ph

, nhà l

u xe h

ơ

i, đèn xanh

đèn đ

l

p lánh, ki

u ng

i

y, cách ăn

y làm ch

nh lòng ng

ườ

i vô k

.

Sau b

y lăm, mi

n Nam đ

ượ

c gi

i phóng, đ

c l

p t

do thì đã th

y ph

i ph

i r

i đ

y nh

ư

ng cái nghèo v

n n

m khèo trên mâm c

ơ

m m

i gia đình. H

i

y, m

y năm liên ti

ế

p m

t mùa, cho dù nhà

nhà ph

n kh

i tăng gia s

n xu

t, nh

ư

ng lúa ngòai đ

ng g

t v

không th

y h

t. B

n M

thua cu

c, phong t

a kinh t

ế

n

ứơ

c mình thì không nói làm gì, ng

ườ

i anh em Trung qu

c núi li

n núi sông li

n sông sao đành cúp ngang vi

n tr

, gây chi

ế

n

phía B

c, mi

n Nam

l

i ph

i đ

ươ

ng đ

u v

i b

n Pôn p

t, khi

ế

n dân tình càng thêm kh

n đ

n. Đà N

ng h

i

y may sao l

i đ

ượ

c mùa cá. Cá l

m ! Chao

ơ

i, đ

ế

n cái tên con cá nghe cũng khá ng

m ngùi. L

ai cá này mình tròn nh

ư

con cá n

c chu

i, th

t r

t th

ơ

m nh

ư

ng nhi

u x

ươ

ng hom. N

gày đó ng

ườ

i ta hay g

i đùa là cá lôi h

ng. Có nh

ng ngày trúng đ

m, trong ch

ngòai ch

đ

y cá. Đ

ế

n quá tr

ư

a, v

n còn lũ l

ượ

t ng

ườ

i gánh cá l

m, tong t

rao bán kh

p ph

. Mua m

t ch

c cá vài ngàn b

c, cái thì chiên, cái kho, c

nhà ăn cũng qua m

t b

a.

T

h

i đ

t n

ướ

c m

c

a t

i gi

, th

c ăn th

c u

ng ê h

, đ

c bi

t có món mì gói nhi

u đ

n giúp k

nghèo khó no lòng. (L

, đ

t n

ướ

c càng giàu lên s

ng

ườ

i nghèo không gi

m mà ng

ượ

c l

i, càng đông !).Tô mì gói nghi ngút khói làm canh, thêm ít c

ơ

m ngu

i cũng r

i

m

t b

a.

Khéo ăn thì no, khéo co thì

m, ông bà mình đã nói v

y, nên cho dù ch

là rau mu

ng lu

c ch

m t

ươ

ng, ng

ườ

i m

nghèo mi

n B

c d

n lên mâm c

ơ

m đ

a con nhìn đã mu

n ăn. Dĩa rau xanh m

ướ

t, tô n

ướ

c trong veo d

m thêm trái cà, trái s

u.

Hu

ế

, m

làm m

ón b

p chu

i tr

n g

i ăn đ

n thay c

ơ

m là chuy

n th

ườ

ng. Bây gi

trong nhà hàng, món g

i b

p chu

i ăn đ

n thu

nào tr

thành cao l

ươ

ng m

v

, đ

a con khi dùng món khai v

này có nh

đ

ế

n ng

ườ

i m

nghèo thu

x

ư

a ?

Ẩm thực thời suy thoái: Cơm “nhà nghèo” đắt khách...

Đủ món bình dân

Ở đầu hẻm 18 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, có một quán cơm không tên, không bảng hiệu, mọi người vẫn thường gọi là quán cơm “ông Sìl”. Những người dân sống gần đó kể lại: Quán cơm này đã tồn tại khoảng hai chục năm, khi ấy ông Sìl – cha của mấy đứa nhỏ bây giờ còn sống và đứng bán, mỗi dĩa cơm chỉ 500-1.000đ nên khách đến đông lắm, đa phần là dân lao động nghèo khó. Bây giờ, ông ấy mất, đến lượt mấy đứa con ông đứng bán, vẫn tiếp nối truyền thống cũ: Bán cơm bình dân...”

Quán không lớn lắm, chỉ đủ kê khoảng 5,6 chiếc bàn nhỏ cho hơn 10 người, ngày cuối tuần thường chật ních thực khách. Trên vách tường có treo một bảng: “Cơm bì – 7.000đ, sườn bì – 10.000đ...”. Anh Bình, làm phụ hồ ở một công trình xây dựng cho biết, nhà anh ở khu Nam Cần Thơ, buổi trưa ít về nhà, nên thường tìm một quán nào đó “làm” dĩa cơm cho chắc bụng, để đầu giờ chiều đi làm tiếp.

Theo anh, nơi đây nhiều món, thích gì kêu đó, vừa ngon lại vừa rẻ. Bây giờ, quán ăn bình dân kiểu này khó kiếm. Chú Tư – chạy xe ôm ở khu vực cầu Hưng Lợi cũng cho biết: “Hôm nào chở khách về trễ, hoặc mệt quá, “làm biếng” nấu cơm là tôi ra đây ăn. Giá “mềm”, có canh, rau hẳn hoi, mà tốn chỉ 10.000đ”... Cán bộ, nhân viên cơ quan dạo này cũng thường ghé đây mua cơm về nhà ăn, vì mấy chỗ khác giá đắt đỏ quá!...

Dành cho giới bình dân không chỉ có cơm mà còn có hủ tiếu, bún riêu... Tại một xe hủ tiếu gõ, nằm cặp trên quốc lộ 91B, một bạn sinh viên năm thứ ba, khoa sư phạm – ĐH Cần Thơ chia sẻ: “Hàng ngày, tụi em mua một gói mì cũng hết 3 - 4.000đ, nên mức giá 6.000đ trên một tô hủ tiếu là phù hợp, có thể ăn không no, nhưng cũng đủ lót dạ, quan trọng là nó bình dân, và phù hợp với túi tiền học trò nghèo”.

Kinh doanh theo khẩu vị nghèo

Hầu hết những người theo đuổi nghiệp kinh doanh ẩm thực bình dân xuất thân cũng từ tầng lớp lao động nghèo khó nơi thành thị. Có lẽ vì vậy, nên tâm lý “no, bổ, rẻ” hằn sâu trong đời sống hàng ngày. Làm thế nào cho ăn no, hợp khẩu vị, và vừa tầm với hầu bao còm cõi của giới lao động thu nhập thấp... thật sự chỉ thấu hiểu với nhau ở những người đồng cảnh.

Tìm đâu ra quán bình dân ở thời “gạo châu cũi quế” này? Xin thưa rằng, không dễ, nếu không cùng “tần số”. Cũng có nhiều quán, bàn ghế xập xệ, không gian chật hẹp, nhìn thoáng qua cũng có đẳng cấp... bình dân lắm, nhưng giá cả lại thuộc mức... nhà nghèo không dám tới: 15.000 đến 20.000 đồng một dĩa cơm hay một tô bún. Lỡ kéo ghế ngồi và kêu món ăn rồi, khi tính tiền chỉ biết “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Thấy khách lựng xựng, chủ quán liền buông một nụ cười thân thiện: Giá xăng bi giờ cao quá, nên đồ ăn cũng... bay theo. Mà xăng thì có liên quan gì đến cái tô bún ít thịt, nhiều nước kia? Hóa ra, chỉ là cuộc ăn theo thời “bão giá”, ăn theo cái đẳng cấp bình dân của người nghèo. Thiệt tình!

Cuối cùng, người bình dân tìm quán bình dân là hợp lẽ. Thời “bão giá”, sự hiện diện của các quán bình dân càng quý đối với dân đong ăn từng bữa. Nơi đây, người mua, kẻ bán gặp nhau cùng sẻ chia để vượt qua thời suy thoái. Cái sự đồng bệnh tương lân giữa lúc này cảm động và đáng quý biết bao.

Trần Lưu

Cơm nhà nghèo

Cô bạn đồng nghiệp than: “Ði chợ riết rồi không biết mua gì, cho nhà ăn gì". Tôi bổng nhớ đến những "bữa cơm nghèo" đầm ấm cùng vợ con.

Vợ tôi là con gái thành thị, nhưng hình như hơi bị hơi hướm nhà quê. Cô ấy hay cho cả nhà ăn những món rất bình dân. Trứng vịt dầm nước mắm, rau luộc chấm tương hột, cà tím nướng mỡ hành, đậu hũ kho, có hôm cô đãi cả nhà nồi cháo đậu đỏ dưa mắm, có khi chỉ là khô cá kho quẹt, nhưng bao giờ cũng bắt cơm. Các con tôi cũng rất dễ ăn, một hũ cải chua lâu lâu vớt ra, xắt nhuyễn xào trứng, đậu bắp hấp chao…

Tôi là con út trong nhà, và xa xưa tôi có một tuổi thơ êm đềm. Cha tôi làm có tiền, ông hay đi xa về với những túi giấy đỏ, trong là táo, hồng, gà, vịt, thịt quay. Sau này cha tôi không còn đi làm, những túi giấy đỏ cũng không còn nữa, ông bỗng thành như người thừa, cơm hàng cháo chợ vì không ai muốn ngó tới người "vô dụng" như ông cả. Ông mất khi hôm trước còn nói với tôi: "Cha thèm món đậu que luộc chấm chao, hỏi mấy chỗ cơm không có bán…”. Mỗi khi tôi thèm ăn lại món ấy, chợt nhớ về cha tôi đến quay quắt. Tôi vẫn ân hận vì khi ấy mình nghèo quá, không đãi được cha một bữa cơm tinh tươm.

Cơn sốt nhà đất xộc vào nhà tôi với tất cả sự lạnh lùng của nó, và tôi rất buồn khi căn nhà, nơi cha tôi làm lụng vất vả tạo dựng ra lại được mẹ tôi và các anh chị bàn chuyện bán đi một cách thản nhiên. Lý do mẹ và các anh chị cho là phải bán vì: “Ở thì không ra tiền, nhà cũ nát rồi. Tội gì ngồi trên đống tiền mà không biết hưởng chứ”. Tôi phản đối thì mẹ tôi cho rằng tôi sách động để đòi phần hơn. Sau đó thì tôi tay không bước ra khỏi nhà, bình tro của ba tôi mang vào chùa… Rồi tôi cưới vợ, mua căn nhà nhỏ, mấy năm sau thì mẹ tôi dọn về ở với tôi, món tiền bán nhà đã nhanh chóng hết veo, nghe nói các anh chị tôi sau đó cũng phải đi ăn nhờ ở đậu vì xài lớn, tiền hết lúc nào không biết.

Mẹ tôi về ở chung, bắt đầu từ đó có một mức sống mà tôi hay nói đùa: “Một nền kinh tế hai chế độ”. Gạo mua hai thứ, má tôi ăn gạo hạng nhất, chúng tôi ăn cơm gạo thường. Ði chợ về nấu hai mâm, má tôi thích gì cứ ăn, chúng tôi ăn gì cũng thích. Tôi vẫn có thói quen thích ăn bánh gói lá như bánh ít, bánh ú vì gần cây xăng nơi tôi đi làm có một chị ngồi bán, thấy tôi mua một lần bốn cái chị mừng lắm, cứ hít hà "bây giờ hổng ai ăn bánh nhà quê này hết em à". Vợ tôi trước vẫn hay đi chợ mua quà cho các con bằng mấy cái bánh quy, bánh gai, bánh ú lá tre. Bây giờ nghe nói "vệ sinh thực phẩm" bèn tự thân vận động, mua bột, đậu, thịt, nấm mèo, tôm về xay, xắt hì hục trình nhà món bánh ít trần , rồi bánh tráng nướng xúc chem chép… Cái kho thực đơn cơm dân gian nhà tôi hình như chưa bao giờ bị bỏ quên.

Trên đường đi làm về tôi nhớ đến cô con gái hứa sẽ trổ tài nấu một nồi canh củ cải, có thêm đĩa bông bí xào. Hũ dưa chuột vợ tôi trộn hổm nay chắc thấm chua ngọt giòn tan, tôi muốn mau mau về nhà ăn cơm tối. Tôi cười một mình, hạnh phúc có khi chỉ đơn giản là một bữa cơm nhà nghèo. Và tôi hài lòng với các chất dân giã trong khẩu vị hoà hợp của gia đình.

Nhà nghèo vốn là “sự sĩ diện” của bao người VN thời trước mở cửa.  Nhớ bố kể lại hồi xưa ở quê khi cần điển giấy tờ để làm thủ tục hành chính, chẳng ai cần quan tâm cha mẹ làm gì, xuất thân thực sự thế nào thì  cột điền “thành phần hay xuất thân gia đình” bao giờ cũng được  điền hai chữ “Bần nông” và coi đó như là niềm tự hào, một minh chứng đảm bảo chắc chắn về tư cách cao cả của người thuộc giai cấp vô sản. Mà đúng quá, đã Bần nông thì làm sao mà Tư sản được.

Không chỉ vậy, sau này đến thời mình đi học, mình nhớ như in rằng trong các bảng biểu giấy tờ còn có cột “Tôn Giáo” . Và đây cũng là chỗ được coi là khá nhậy cảm đối với người dân. Cái nếp nghĩ “Bần Nông” và Không Tôn giáo” kéo dài không biết bao thế hệ. Chẳng thế dù tới khi những năm 90 sắp qua mà cô bạn người HD của mình, một con chiên ngoan Đạo, vẫn điền chữ “Không”  vào cột Tôn Giáo trên mọi giấy tớ nhập học của trường NT.

Cơn bão kinh tế thị trường tới và thổi tung các nếp sống và suy nghĩ bị coi là xưa cũ, ấu trĩ. Vậy nên “NGHÈO” không còn là sự tự hào của bất kì một ai nữa. Ngày càng nhiều người vì thoát khỏi các mác Nghèo mà vùng vẫy lăn lộn đủ đường. Dần dần, “Nghèo” bị coi là sự sỉ nhục tới trình độ, tài năng và trí tuệ của con người. Cũng chẳng hiểu có phải vì thế không mà lâu lắm rồi mình không dám nhận là ”Nghèo” nữa. Và cái sĩ diện, niềm tự hào được nhận là con nhà nghèo xưa kia đã bị vùi lấp tự bao giờ, hichic.

Luyên thuyên vậy cũng chỉ tại tối qua  khi nhìn mấy món ăn trên bàn làm mình nhớ nhà lạ kì, không chỉ nhớ nhà vì đang ở nơi xa, mà còn nhớ nhà bởi ở đấy chứa đựng một tuổi thơ nhiều dấu ấn -một thuở tụi trẻ con vẫn còn biết Sĩ diện với cái Nghèo. Nhớ cái thời khi mà gas đun bếp còn là thứ vô cùng xa vời, cả nhà quây quần quanh mâm cơm trên chiếc chiếu cói, bên cạnh là nồi cơm đun bếp củi đen xì đặt trên chiếc rế mây. Trên mâm thường thấy ngoài đĩa lạc rang, đậu phụ Mẹ nấu thêm một bát tô canh rau các loại, mà phải cách nhật mới có đĩa thịt ba chỉ xào mặn vừa đủ chín (mỗi lần con bé con là mình quá tay rang xém cạnh là mẹ lại phê bình vì… ”ăn vậy tốn lắm con”).

Và rồi những tháng ngày mẹ phải đi chợ chạy ăn từng bữa, những tháng ngày riêng nguyên liệu để nấu nướng còn là vấn để phải giải quyết trước tiên thì khó có điều kiện ăn ngon, ăn bổ dưỡng được…. cũng dần dần qua đi. Lương nhà báocủa Bố cũng phần nào tăng lên đủ để trang trải cho nghiệp văn chương của Bố, và mấy chị em tụi mình cũng dần dần quên đi cái cảnh nồi cơm đun bếp than ấy, quên cái cảnh mâm cơm con nhà Nghèo ấy. 

Món ăn "con nhà nghèo"

Bạn đã từng được thưởng thức những món này chưa?

-Cơm trộn nước cơm:Nấu cơm cho nhiều nước hơn bình thường khi cơm sủi chắt nước ra bát cho muối mì chính vào khuấy đều để lên chạn.chờ chí cơm lấy nước đó chan cơm ăn.

-Cơm mắm mỡ:rót mắm ra bát xêu một ít mỡ vào(trước nhà nghèo mỡ nước ăn dè)hấp vào nòi cơm nóng.một lúc sau bắc nồi cơm ra bỏ bát mắm mỡ ra mâm rưới mắm mỡ vào bát cơm trộn lên lèn nhẹ xúc ăn.

-Cơm nguội với đường phên.Đường phên là đường đóng phên màu đen hoặc hơi vàng.tầm ngang chiều bụng đói vào buồng cắn một cục đường xuống bếp cầm một vầng cơm nguội.tay cầm đường tay cầm cơm ăn miếng cơm miếng đường.

-Cơm nguội chuối tiêu:Cũng chiều đến đói bụng vào nhà ngang có buồng chuối chín chống góc nhà bẻ một quả vào bếp làm vầng cơm nguội tay cầm cơm tay cầm chuối miếng cơm miếng chuối.

-Muối lạc trộn mỡ nước:Rang lạc giã nhộm rang muối trắng giã nhỏ.trộn lạc đó với muối thành muối lac.sau đó trộn muối lạc với mỡ nước ăn mí cơm nóng.

-Mắm cà cuống.Mùa nóng đi đòng bắt được một hai con cà cuống(cà cuống chết đến đít còn cay)đem về nướng sau đó dằm bát mắm rưới cơm ăn.vị cay cay nồng nồng ngái ngái.

-Ngon gai nhậy:đi chơi cùng đám trẻ loanh quanh nhà nào có rặng rào gai nhậy bẻ ngọn ăn,kẻ cả quả non và hoa.

-Nhộng ong nuôt trửng:cùng bọn trẻ dật được tổ ong vang bóc lấy con nhộng ngửa mồm lên thả vào cổ họng nuốt trửng.

-Sắn nướng phân trâu khô:mùa khô đi thả trâu bò ở đồi sắn nhặt những tảng phân khô(phân bón sắn kết thành tảng nhỏ tầm bàn tay khi người ta quốc sắn những tảng phân này phơi lên mặt đất)chất thành đống nhóm lửa vùi sắn vào chờ cho sắn chín bỏ ra ăn.ăn xong mồm tay nhọ nhem cả.

-Muỗm nướng:ở quê mỗi ruộng lúa tầm năm bảy thước(mỗi thước 24m2) khi người lớn cắt gần xong trẻ con vây xung quanh bắt những con muỗm xâu vào bông cỏ may đem về nướng ăn.món này là tuyệt vời nhất đó.

.................

Mình bận rồi chỉ chia sẻ đến đây thôi nếu các bạn hưởng ứng mình kể tiếp.các bạn có món gì không chia sẻ nha!

Nhịn ăn 

Từ năm học 2008-2009 đến nay, khi triển khai dạy học cả ngày theo chủ trương ngành giáo dục, tại điểm trường thôn 5, trường Tiểu học Lê Văn Tám xã Trà Giang (Bắc Trà My, cách trung tâm huyện khoảng 1km), mỗi ngày có hơn 20 học sinh nhà ở xa nên phải nghỉ trưa tại trường để học buổi chiều. 

Học xong buổi sáng, các em thu dọn sách vở cho vào hộc bàn và bắt đầu ăn trưa, nghỉ trưa tại chỗ. Nhiều em nhịn ăn vì không mang theo cơm. Một vài em mang theo cơm cũng chỉ là một nắm cơm nguội, không có thức ăn. Có em may mắn hơn thì được cha mẹ hoặc thầy cô cho 2 nghìn đồng mua một gói mì ăn liền và ăn khô vì không có nước đun sôi, không có chén bát; gói muối mì ăn liền không dùng đến thì cho các bạn ăn cơm. “Nhà em nghèo lắm, buổi sáng ai cũng nhịn ăn hết. Buổi trưa thì mẹ có làm cho em một nắm cơm mang theo để ăn. Thức ăn thì không có gì, chỉ ăn cơm không thôi. Khi có bạn cho gói muối mì tôm thì ăn ngon lắm!”, em Nguyễn Thị Bích Sương - dân tộc Ca Dong học sinh lớp 3/3 nói

Em Lê Đình Nghĩa, học sinh lớp 5/2 kể: “Buổi sáng em phải dậy sớm, đi bộ gần một giờ đồng hồ mới tới trường để kịp giờ vào lớp. Buổi sáng em ăn rồi, mỗi ngày chỉ ăn hai bữa sáng và tối. Bố mẹ không có tiền và gạo để cho ăn trưa nên bữa trưa em thường nhịn. Thấy mấy bạn ăn em thèm lắm nhưng nhịn miết quen rồi”. Nghe các bạn nói, em Nông Thị Hồng Thắm - dân tộc Nùng, học sinh lớp 3/3 rớm nước mắt, sụt sịt: “Mẹ em chết sớm, nhà nghèo và đông anh em. Bữa sáng em thường nhịn ăn vì bố không nấu cơm, bữa trưa cũng không có gì ăn nên em cũng nhịn luôn. Có bữa cô giáo thương, cho 2 nghìn đồng, em mua gói mì tôm ăn để học buổi chiều”. Sẵn có một đường ống dẫn nước tự chảy  cạnh trường học, ăn trưa xong, các em kéo nhau ra uống nước “vô tư”. Cô Nguyễn Thị Bích Lộc, giáo viên dạy lớp 3/2 tâm sự: “Thấy các em nghỉ lại và ăn trưa, thương quá. Thỉnh thoảng cho các em tiền để mua mì gói ăn cho đỡ đói, chiều còn có sức cầm cự mà học tiếp, nếu không sợ những em này sẽ bị ngất xỉu vì đói. Lãnh đạo nhà trường biết rõ thực tế này nhưng đành chịu vì không có cơ chế giải quyết. Giáo viên tại đây hiện cũng rất khó khăn nên giúp đỡ các em cũng chỉ là giải quyết tình thế mà thôi”. 

Không bỏ học

Theo chỉ dẫn của các em, chúng tôi đi bộ hơn 30 phút mới đến được nhà của một số học sinh gần trường tại làng Ồ Ồ (thôn 5, Trà Giang). Đồng bào ở đây là người dân tộc thiểu số nghèo, sinh con đông, ở nhà tạm bợ. Tập quán sản xuất lạc hậu, thiếu kiến thức, suốt ngày chỉ lo việc nương rẫy nhưng vẫn không đủ ăn; còn việc học hành, ăn uống của con cái hầu như không quan tâm. Chị Nguyễn Thị Kiều, dân tộc Ca Dong (mẹ của em Nguyễn Thị Bích Sương) năm nay chưa đầy 35 tuổi nhưng đã có tới 5 đứa con, nói: “Nhà tui nghèo, phải đi rừng, đi rẫy để có cái ăn. Sáng dậy sớm, nấu cơm gói cho hắn một nắm, buổi trưa ăn như vậy là được rồi. Đi làm rẫy cũng ăn như rứa thôi, có đứa còn không có mà ăn ấy chứ”. Ông Nông Văn Dung - dân tộc Nùng (cha em Nông Thị Hồng Thắm) quả quyết: “Ở đây mọi người đều đói khổ hết. Cái ăn lo chưa xong nói chi đến chuyện học hành. Đứa mô muốn đi học thì cứ đi, ở lại trường bữa trưa nếu đói thì phải ráng mà chịu thôi”. 

Điều đáng mừng là tất cả các em đều quyết tâm bám lớp, không bỏ học, một số em còn vươn lên học khá giỏi. Năm học vừa rồi, có trên 20% học sinh thuộc diện này đạt học lực khá, giỏi. Dường như các em đã nhận thức được rằng, chỉ có đi học mới có thể thoát khỏi đói nghèo, thoát khỏi cảnh nhịn ăn bây giờ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: