Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tctc

PHẦN 1.khủng hoang kinh tế thế giới

Trong lĩnh vực kinh tế, sự kiện được nhắc đến nhiều nhất trong năm, hay nói chính

xác hơn là ở vào nửa cuối 2008, là cuộc khủng hoảng tài chính khởi động từ nước

Mỹ và đã lan sang đến khắp cả thế giới. Cuộc khủng hoảng này đã kéo kinh tế

toàn cầu đi xuống. Cuộc khủng hoảng này được “châm ngòi” bằng hoạt động cho

vay thế chấp dưới chuẩn (sub-prime mortgage) dễ dãi và thiếu kiểm soát ở Mỹ.

Số lượng các khoản vay loại này phát triển bùng nổ trong thời kỳ hình thành bong

bóng trên thị trường địa ốc ở Mỹ, do người đi vay đặt nhiều hy vọng vào việc mua

nhà để bán kiếm lời, còn các ngân hàng thì nhận thấy những khoản lợi nhuận quá

béo bở.

1 Nguyên nhân dẫn đễn cuộc khủng hoảng

Một câu hỏi đặt ra là tại sao cuộc khủng hoảng nổ ra ở Mỹ và lại có dư chấn lớn

đến như vậy. Có 3 nhóm nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình thành của cuộc

khủng hoảng, đó là:

-Nguyên nhân thứ 1

Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất là gia tăng nguồn vốn tài trợ để mua

bán nhà ở thông qua kỹ thuật “ chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi

hệ thống kiểm soát không theo kịp là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng. Trước

đây ở Mỹ, nguồn vốn cho vay mua bất động sản chủ yếu do ngân hàng cung cấp.

vì vậy lượng tiền gửi của người dân và những hạn chế về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ

lệ dự trữ bắt buộc của Chính phủ đối với ngân hàng..Năm 1980 chính phủ Mỹ ban

hành Luật Giao dịch Thế chấp Tương đương,nới rộng những quy tắc cho vay và

khuyến khích những kênh tài trợ khác phi ngân hàng.Đạo luật này đã góp phần cho

ra đời của nhiều công ty cho vay thế chấp và không bị rang buộc bởi các luật lệ của

ngân hàng.Ngay cả những ngân hàng cũng thành lập hoặc liên kết vỡi các công ty

cho vay thế chấp làm bùng nổ các kênh cung cấp vốn thị trường bất động sản.

Đồng thời, để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập hiệp

hội quốc gia tài trợ bất động sản ( Federal National Mortgage Assocation gọi tắt là

Fannie Mae) và tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal Home Loan Mortgage

Corporation- gọi tắt là Fređie Mac). Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie

Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệc là các

khoản vay thế chấp “ dưới chuẩn” của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế

chấp để phát hành “ trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-bached Securities-MBS)

bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng.Như vậy

những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài chính thông

dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ.Nói đơn giản hơn MBS là một

loại chứng khoán mà Fannie Mae,hoặc là một công ty tài chính khác như Lehman

Brothers, bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế chấp từ các ngân hàng thương

mại, tập trung chúng thành từng lọai khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho

các nhà đầu tư.

Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các laọi MBS cho nên các công ty

bảo hiểm và thẩm đinh rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm

cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được gọi là creditdefault swap (CDS),

với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người

vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi

thường. Trong thời kì hoàng kim,việc kinh doanh bảo hiểm CDS đã đem lại cho

AIG nhiều món nợ khổng lồ.Tuy nhiên, chúng trở thành rắc rối chính của người

khổng lồ này khi thị trường bất động sản đi xuống và rủi ro tín dụng vùn vụt tăng.

-Nguyên nhân thứ hai

là việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “ dưới chuẩn” nhưng thiếu cơ chế kiểm

soát

Thông thường muốn vay ngân hàng để mua nhà trả góp ở Mỹ, người vay phải

đảm bảo “chuẩn” gồm 3 điều kiện cơ bản là: có tiền đặt cọc ít nhất bằng 10% số

tiền mua nhà, chứng minh có thu nhập ổn định sao cho số tiền trả góp hàng tháng

không quá 28% thu nhập và có điểm tín nhiệm vay trả sòng phẳng.Mặt khác, ngân

hàng cũng chỉ được phép cho vay tùy thuộc vào lượng tiền gửi của người dân và

những hạn chế về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Chính phủ đối

với ngân hàng

Tuy nhiên, để hổ trợ các gia đình có thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn có

điều kiện sở hữu nhà ở,Chính phủ Mỹ có chương trình “ cho vay dưới chuẩn” .Các

ngân hàng thương mại khi cho đối tượng này vay thì được hai tổ chức Fannie Mae

và Freddie Mac mua lại các khoản vay này. Khi thị trường bất động sản suy thoái,

những người thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn không có điều kiện trả nợ.

Việc cho vay dưới chuẩn là không xét khả năng chi trả và điểm tín dụng theo

quy định, nhưng đổi lại người vay phải trả lãi suất cao hơn từ 1 đến 2%. Ngoài

ra việc cho vay dưới chuẩn còn thể hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất

động sản thế chấp ,người mua chỉ cần đóng góp 15%. Nghĩa là người dân chỉ cần

có 150.000 USD là có thể được vay 850.000 USD đểd mua căn nhà 1 triệu USD.

Nhiều công ty cho vay thế chấp hoặc ngân hàng còn cạnh tranh thu hút khách hàng

bằng các gói tín dụng hấp dẫn khác.

Đây là cơ hội cho các nhà đầu cơ bất động sản vì khi thi trường bất động sản đang

lên, chỉ cần có một ít tiền là có thể đặt cọc mua nhà, vài thánh sau giá nhà lên bán

lấy lãi.

Ngoài ra, việc cho vay dễ dãi “dưới chuẩn” còn do tiền cho vay được thu về

thông qua “ chứng khoán hóa”, thông quan phát hành “trái phiếu tái thế chấp” bất

động sản thế chấp. Dưới hình thức này người cho vay và người vay không biết

nhay, ngân hàng chỉ còn là đơn vị trung gian cho vay sau đó chuyển nhượng khoản

vay cho công ty cho vay thế chấp để công ty phát hành “trái phiếu tái thế chấp”

chuyển nhượng trên thị trường là xong. Đây là khuyết tật nghiêm trọng của việc

chứng khoán hóa bất động sản thế chấp nhưng thiếu kiểm soát

-Nguyên nhân thứ ba

là giá bất động sản tại Mỹ tăng liên tục đã lôi kéo các nhà đầu tư và cả

người dân đổ xô vào kinh doanh bất động sản làm cung vượt quá cầu

Việc cho vay dễ dãi tạo điều kiện cho đông đảo các nhà đầu tư tham gia đầu

cơ bất động sản, tạo cầu ảo đẩy “bong bóng” bất động sản lên cao. Thị trường bất

động sản Mỹ tăng liên tục trong vòng nhiều năm. Theo thống kê của Cơ quan Tài

chính nhà ở Liên bang (OFHEO) thì nếu Chỉ số giá nhà ở (HPI) trung bình của

toàn Liên bang năm 1980 là 100 điểm, thì tới năm 1998 chỉ số giá nhà ở là 206

điểm và tới Quí 4/2007 là 387 điểm, cá biệt có những Bang như New England

là 613 điểm. Cũng theo thống kê của cơ quan này thì giá nhà ở Quí 1/2005 tăng

12,5% so với Quí 1/2004, trong khi đó giá các loại hàng hoá và dịch vụ khác chỉ

tang 3,1% cùng thời kỳ.

Chính giá nhà ở tăng liên tục đã thúc đẩy người dân đổ xô vào mua bán bất

động sản, làm cho cung cầu mất cân đối, cung vượt xa cầu. Theo thống kê của Cơ

quan Thống kê Hoa kỳ thì từ năm 1997 đến năm 2007, bình quân mỗi năm ở Mỹ

xây dựng them 1.233.000 ngôi nàh ở. Nếu bình quân mỗi ngôi nhà có diện tích

khoảng 150 m2 sàn thì hàng năm nước Mỹ xây dựng được gần 200 triệu m2 nhà ở.

Riêng năm 2007 có tới 17.958.00 ngôi nhà bỏ không, trong đó có đến 13.276.000

ngôi nhà bỏ không suốt năm. Nếu xếp số ngôi nhà bỏ hoang này vòng quanh trái

đất thì 3 vòng mới hết.

Đầu năm 2009, Tổng thống Obama lần đầu tiên đã áp dụng biện pháp tín

dụng thuế mua nhà trị giá $8,000. Tín dụng thuế- giống như một chương trình hỗ

trợ- đã hết hiệu lực và các chuyên gia tự hỏi liệu số lượng nhà được mua có tiếp

tục tăng hay không.

Nhìn vào số liệu của tháng 5, doanh thu nhà mới trong tháng đã rơi xuống mức

thấp kỷ lục đã thiết lập lần đầu tiên vào năm 1963.

2 diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế quốc tế năm 2008

Cuộc khủng hoảng ở Mỹ lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín

dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước

châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản.

* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại

chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư

lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo

bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.

* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng

đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường

cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải

nhận sự cứu trợ từ chính phủ.

* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo

đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế

chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.

* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ -

công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự

phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức

vào ngày 4/11.

* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với

nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn

ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro

Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.

* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền

gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial

sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho

vay khó đòi quá lớn.

* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4

tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát

quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.

* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.

* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn

nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là

1,36 tỷ euro.

* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan

Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.

* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản

thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản

nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.

* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng

IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ

trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11

ngày.

* 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6

tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở

thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.

* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát

hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị

trường nhà đất Mỹ.

* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán

lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.

Các nhân viên của Lehman Brothers(Ảnh: Foxbusiness)

* 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp

sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.

* 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở

cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman

Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of

America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn

nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm

cố.

Tập đoàn AIG. (Ảnh: Foxbusiness)

* 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào

các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự

đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa.Fed

công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng

Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75

tỷ USD.

* 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập

đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm

chế tình trạng bán khống.

* 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế

hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh

sạch hệ thống tài chính.

* 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân

hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân

hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.

* 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm

hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu

Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan

Stanley.

* 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục

điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ

có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.

* 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn

nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp.

Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu

và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan

Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành

ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.

Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội

đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.

WaMu - một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược

rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. (Ảnh: Foxbusiness)

* 29/9: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài

chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow

Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới

nay.

* 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ

lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm

thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ

USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ

100.000 USD lên 250.000 USD…

Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng

hoảng Mĩ

Tên

Lehman

Brothers

1

Quy mô

Tổng tài sản: 639 tỷ

đôla

Nợ ngân hàng:

Tổng vốn góp cổ

613 tỷ đôla

phần: $22490 tỷ

Nợ trái phiếu:

đôla

155 tỷ đôla

Số lượng nhân viên: Cổ phiếu mất

26200 người

giá trên 90%

Là một trong 4 ngân vào ngày 15/09/

hàng đầu tư lớn nhất 2008

của Hoa Kỳ

Thiệt hại

Giải pháp

15/09/2008: nộp đơn

phá sản theo chương 1

Luật Phá sản Mỹ

Là vụ phá sản lớn

nhất trong lịch sử Hoa

Kỳ

Tổng tài sản: 1,02 Thua lỗ quý IV/

nghìn tỷ đôla

2007: 9,83 tỷ đô

Số lượng nhân viên: Thua lỗ ròng

Bán cho ngân hàng

60.000 người

quý I/2008: 1,97

Merrill Lynch

Mỹ (BoA) với giá 50

Xếp thứ 32 trong

tỷ đôla

tỷ đôla

danh sách Global mất giá tài sản

2000 (các công ty (2007): 16,7 tỷ

lớn nhất thế giới) đôla

2

3

AIG

Tổng tài sản: 1,05

nghìn tỷ đôla

Cổ phiếu mất

Tổng vốn góp ổ

giá 60% vào

phần 78,09 tỷ đôla

ngày 16/09/

Số lượng nhân viên:

2008

116.000 người

Thua lỗ 6 tháng

Xếp thứ 6 trong

đầu năm 2008:

danh sách Global

13,2 tỷ đôla

2000 (các công ty

lớn nhất thế giới)

16/09/2008: Cục Dự

trữ Liên bang Mỹ

(FED) cấp tín dụng

80 tỷ tương đương

79,9 % cổ phần

Tổng tài sản: 211 tỷ

đôla

Là tập đoàn chiếm

20% tổng thế chấp

của Mỹ, tương

đương 3,5 GDP

Countrywide

Tổ chức tiết kiệm

Financial

và cho vay lớn thứ

3, đồng thời là ngân

hàng có tốc độ phát

triển nhanh nhất

trong lịch sử nước

Mỹ

4

Thua lỗ (2007):

2,5 tỷ đôla

01/07/2008: Bán cho

Mất giá tài sản ngân hàng Mỹ với giá

(2007): 1 tỷ

4,1 tỷ đôla

đôla

Tổng tài sản: 350,4

tỷ đôla

Thiệt haiij quý

Tổng vốn góp cổ

IV/2007: 859

phần: 66,7 tỷ đôla

30/05/2008: Bán cho

triệu đôla

Bear Stearns Số lượng nhân viên:

JP Morgan Chase với

Mất giá tài sản

15.500 người

giá 1,1 tỷ đôla

(2007): 1,9 tỷ

Là công ty chứng

đôla

khoans lớn thứ 7 thế

giới

5

6

IndyMac

Tiền gửi khách

Tổng tài sản: 32 tỷ hàng: 19 tỷ đô

đô

Chi phí 8,9 tỷ

Là tổ chức cho vay đô cho bảo hiểm 11/07/2008: Tập đoàn

và gửi tiết kiệm lớn tiền gửi

Bảo hiểm Tiền gửi

nhất ở Los Angeles. Chi phí 541

Liên bang Mỹ FDIC

Đồng thời là tổ chức triệu đô cho các tiếp quản

thế chấp lớn thứ 7 ở khoản tiền gửi

Hoa Kỳ

vượt mức bảo

hiểm

Tổng tài sản: 794,4

tỷ đôla

Tổng vốn góp cổ

phần: 26,7 tỷ đôla Thua lỗ (2007):

Số lượng nhân viên: 4,6 tỷ đôla

Freddie Mac 5.281 ngườich

Thua llox quý

Là công ty công lớn II/2008: 821

thứ 20 trên thế giới triệu đôla

là công ty tài chính

lớn thứ 2 về thế

chấp tại Mỹ

7

07/09/2008: FED kí

hợp đồng bỏ ra 1 tỷ

đô hỗ trợ cho Freddie

Mac, đổi lại giành

quyền kiểm soát các

cổ phiếu ưu đãi đặc

biệt của công ty này.

8

Fannie Mae

Tổng tài sản: 882,5

tỷ đôla

Thua lỗ (2007):

Tổng vốn góp cổ

2 tỷ đôla

07/09/2008: cùng với

phần: 44 tỷ đôla

Thua lỗ quý II/ Freddie Mac bị FED

Là tổ chức hàng đầu

2008: 2,3 tỷ

tiếp quản

trong thị trường thế

đôla

chấp dưới chuẩn

của Mỹ

Tổng thu nhập (năm

2006): 417 triệu

Cổ phiếu mất

đôla

90% giá trị

Giá bán trên thị

New Century

(tháng 03/2007) Nộp đơn phá sản theo

trường: 1,75 tỷ đôla

Financial

Giá trị thị

chương 11 Luật Phá

Số lượng ngân viên:

Corp

trường giảm

sản Mỹ

7.200 người

xuống còn 55

Là tập đoàn cho vay

triệu đôla

dưới chuẩn lớn nhất

của Mỹ

9

10

Ameri Bank

Tổng tài sản: 115

triệu đôla

Washington

Mututal Inc

11

Tiền gửi khách

hàng: 102 triệu

đôla

Chi phí 42 triệu

đôla cho quỹ

bảo hiểm tiền

gửi

Thua lỗ 53 tỷ 26/09/2008: Chính

đôla để từ tháng phủ tiếp quản và sau

6 và 17 tỷ đôla đó bán lại cho JP

trong 2 tuần gần Morgan Chase & Co

đây

với giá 1,9 tỷ đôla

19/09/2008: Tập đoàn

Bảo hiểm Tiền gửi

Liên Bang Mỹ FDIC

tiếp quản

12

Wachovia

Tổng tài sản: 307 tỷ

đôla

Washington Mutual

là ngân hàng tiết

kiệm lớn nhất Mỹ

Giá cổ phiếu

của Wachovia

Là ngân hàng lớn đã sụt giảm tới

30/09/2008: bị bán lại

thứ 6 ở Mỹ

81,6%, còn 1,84

hco Citi Group với giá

Tổng tài sản: 327,9 USD/ cổ phiếu

2,16 tỷ đôla

tỷ đôla

Thua lỗ 9,7 tỷ

đôla trong nửa

đầu năm nay

3 ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến các nước trên thế giới

Mỹ:

Trước hết là ảnh hưởng chính trị. Nhiều người tin rằng cuộc khủng hoảng

kinh tế tháng 9/2008 xẩy ra trước ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ hơn 2 tháng là

trận mưa bão biến thành trận lũ kéo phăng chế độ đảng Cộng hòa của George Bush

qua một bên lề lịch sử và đã tạo cơ hội để Hoa Kỳ có một vị tổng thống da đen đầu

tiên. Biến cố lịch sử này của nước Mỹ có thể sẽ chưa xẩy ra nếu không có cuộc

khủng hoảng kinh tế nói trên.

Hậu quả khác là các nhà kinh tế học và các chính trị gia không còn nhìn hai

nguyên tắc căn bản của kinh tế tư bản như trickle –down economics (giúp đỡ cho

các đại công ty phát triển làm ăn, tin rằng người nghèo sẽ được hưởng phúc lợi

theo) và supply-side economics (giảm thuế - nhất là giảm thuế cho những người

giàu có, những tay tư bản – để các nhà tư bản có thêm tiền đầu tư làm cho nền kinh

tế chuyển vận mang lại phúc lợi cho xã hội) như là những nguyên tắc vận hành bảo

đảm một sự phát triễn kinh tế lâu dài và bền vững.

Bài học có thể rút ra từ cuộc khủng hoảng tháng 9/2008 là nếu các khâu

kiểm soát (regulations) không được coi trọng thì những nguyên tắc quý báu trên có

thể tạo ra một khung cảnh sinh hoạt kinh tế thiếu kiểm soát đưa đến quá đáng và

lợi dụng. Thiếu kiểm soát, giới tư bản (tượng trưng là Wall Street và Main Street –

Thị trường Chứng khoán và Ngân hàng) vì nhắm lợi nhuận trước mắt, trở nên chủ

quan làm ăn thiếu nguyên tắc. Thí dụ như Ngân hàng Trung ương giảm lãi xuất

quá thấp và quá lâu, các dân biểu kiếm phiếu bằng cách khuyến khích mọi người

mua nhà dù không đủ điều kiện và làm ngơ trước mọi dấu hiệu bất ổn.

Cuộc khủng hoảng cho thấy những lỗ hổng của chủ nghĩa tư bản quá khích

và nhất là nhược điểm của nền kinh tế “tiêu thụ” của Hoa Kỳ. Khi quốc hội thảo

luận luật cho phép chi 700 tỉ mỹ kim để cứu nguy các ngân hàng, và sau đó luật

kích cầu kinh tế 787 tỉ mỹ kim, nhân dân Hoa Kỳ mới ý thức rằng tiền đó một phần

do Ngân Hàng Trung Ương in ra, phần khác là vay mượn (qua sự phát hành ngân

khố phiếu) và chủ nợ lớn nhất là Trung quốc, một nước đang tranh giành thế lực

với Hoa Kỳ trên mọi mặt.

Cuộc khủng hoảng này báo hiệu rằng Hoa Kỳ trong thế kỷ 21 có thể không

còn là siêu cường duy nhất, và Hoa Kỳ cũng không còn các ưu thế kinh tế cũng

như quân sự như đã có trong suốt thế kỷ 20 vừa qua.

Trung Quốc:

Riêng Trung Quốc, kinh tế tăng trưởng mạnh và trở thành nền kinh tế lớn

thứ tư thế giới, sau Mỹ, Nhật Bản và Đức, thu nhập bình quân theo đầu người

tăng vọt lên gần 19.000 nhân dân tệ (2.760USD) năm 2007, so với 380 nhân dân

tệ năm 1978. Sự tôn vinh giàu có và thịnh vượng của Trung Quốc đã được minh

chứng - các biển hiệu rực rỡ ánh đèn khắp Thượng Hải, đường cao tốc rộng lớn ở

Bắc Kinh, sân vận động phục vụ Olympic hoành tráng, những khu công nghiệp và

biệt thự cao cấp mọc lên như nấm ở vùng ngoại ô thành phố... Đường phố Thượng

Hải giờ đây nhộn nhịp tới đêm khuya, những cửa hiệu mỳ địa phương thì cố cạnh

tranh với McDonald để giành khách hàng lúc tờ mờ sáng. Trung Quốc nay là thành

nước "vai vế" trong giao dịch thương mại quốc tế, một quốc gia đóng vai trò quan

trọng trong đời sống ngoại giao thế giới.

Tuy nhiên, dù giàu có lương thực thực phẩm và nguyên liệu, Trung Quốc

vẫn là nước đang phát triển. Theo ước tính mới nhất của Ngân hàng Thế giới, hơn

100 triệu trong số 1,3 tỉ dân Trung Quốc sống ở mức dưới 1 USD/ngày. Con số

này đã giảm so với mức 800 triệu người ba thập niên trước, nhưng số người sống

ở mức 1-2 USD/ngày lại nhiều hơn. Ông Phúc Lâm, Giám đốc điều hành Học viện

Nghiên cứu cải cách và phát triển Trung Quốc cho hay, cải cách và mở cửa là lựa

chọn tự nhiên của Trung Quốc để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới

hiện nay. Tờ "Nhân dân Nhật báo" đã chạy hàng title lớn trên trang nhất rằng: "Cơ

hội lịch sử chờ đợi chúng ta", tờ báo nhấn mạnh "thời gian yêu cầu chúng ta phải

thúc đẩy cải cách và mở cửa". Theo ông Phúc Lâm, cuộc khủng hoảng tài chính thế

giới đã tạo ra áp lực to lớn trong tiến trình cải cách và phát triển của Trung Quốc.

Trong tháng 11, lần đầu tiên trong bảy năm, tăng trưởng xuất khẩu Trung Quốc đạt

con số âm. Tăng trưởng kinh tế trung bình 9,8% một năm, kim ngạch thương mại

tăng 107 lần, trở thành cường quốc vũ trụ thứ 3 trên thế giới... tất cả đều phản ánh

nỗ lực vươn dậy rất ấn tượng của Trung Quốc sau 30 năm cải cách và mở cửa.

Theo đánh giá của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế toàn cầu, thuộc Ngân hàng

Đầu tư Mỹ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay, Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật,

trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới vào năm 2015 và ở vị trí thứ nhất

vào năm 2040. Hơn thế, các chuyên gia kinh tế Trung Quốc dự báo, GDP của nước

này sẽ đạt 4.000 tỷ USD năm 2020, chiếm 22% GDP của thế giới và thu nhập bình

quân đầu người đạt 3.500 USD.Đánh giá về thành tựu kinh tế của Trung Quốc,

ông Calla Wiemer, học giả nghiên cứu các vấn đề Trung Quốc, Đại học California

(Mỹ) cho biết: “Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng ngưỡng mộ. Quốc

gia này đã chiến thắng những thách thức của dịch bệnh, thiên tai, ứng phó thành

công với suy thoái kinh tế thế giới, và không ngừng phát triển”. Bà Giang Tiểu

Quyên, Vụ phó Vụ Nghiên cứu của Quốc vụ viện Trung Quốc nói: “Bằng việc

chú trọng tiếp thu công nghệ, đào tạo mới nguồn nhân lực và học tập kinh nghiệm

quản lý của các công ty nước ngoài, Trung Quốc đạt được tiến bộ rõ rệt trên lĩnh

vực khoa học kỹ thuật công nghệ; được xem là một trong những “nhà máy sản xuất

chất xám” chính của thế giới”.

Nga:

Ở Nước Nga, với sự nỗ lực của Chính phủ, mấy năm gần đây, nước

này đã thoát khỏi cuộc bao vây, cương toả về mọi mặt của Mỹ và EU, nền kinh tế

Nga trong những năm gần đây có sự tăng trưởng bình quân hàng năm 6,4%. Trong

báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới”, IMF cho rằng kinh tế Nga tăng trưởng 7%

năm 2007, cao hơn dự báo trước 0,6%. Bộ Thương mại và Phát triển kinh tế Nga

cho biết, GDP của nước này có thể tăng trưởng ở mức cao từ 6,5% đến 7%/năm

cho tới năm 2020. Các nhà kinh tế thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga dự báo GDP

của Nga sẽ tăng khoảng 8% từ nay cho tới năm 2030. Giám đốc Viện dự báo kinh

tế Nga, ông Viktor Ivantrev đưa ra có 3 nguyên nhân thúc đẩy kinh tế nước này

tăng trưởng cao. Thứ nhất, LB Nga đã khắc phục đựợc hậu quả của tình trạng gián

đoạn quan hệ kinh tế với các nước thuộc Cộng hoà Xô Viết cũ từ năm 1992. Thứ

hai, kinh tế Nga phát triển mạnh theo hướng kinh tế thị trường có sự quản lý của

nhà nước, hoạt động có hiệu quả. Thứ ba, Chính phủ Nga đã có các cơ chế điều

chỉnh phù hợp đưa nền kinh tế vượt qua nhiều trở ngại. Nga là một quốc gia có

nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhất là dầu mỏ, khí tự nhiên, kim loại

quý, than đá và gỗ. Trữ lượng tài nguyên đã thăm dò chiếm 21% của thế giới với

tổng giá trị 30.000 tỷ USD, gấp 3 lần so với Mỹ. Sở dĩ nền kinh tế Nga tăng trưởng

nhanh là vì nước này đang chiếm tới 13% tổng trữ lượng dầu mỏ, sản lượng khai

thác đạt 9,3 triệu thùng/ngày; chiếm 34% trữ lượng khí đốt của thế giới. Nga đứng

đầu thế giới về xuất khẩu khí đốt và xuất khẩu dầu thô đứng thứ 2.Sản lượng điện

chiếm 12% tổng sản lượng điện toàn cầu. Tổ hợp nhiên liệu - năng lượng Nga phát

triển nhanh nhất, chiếm khoảng 1/4 GDP, chiếm 1/3 sản lượng công nghiệp và 1/2

nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.Nga đã tăng cường sự có mặt về năng lượng tại

các phần lãnh thổ thuộc Liên Xô trước đây và Liên minh châu Âu (EU). Hiện nay

EU chiếm tới 93% lượng dầu xuất khẩu của Nga, chiếm tới 40% nhu cầu tiêu dùng

khí đốt trong nội khối. Theo Hội đồng năng lượng thế giới (WEC), những năm tới

Nga vẫn là nước cung ứng năng lượng quan trọng nhất cho châu Âu. Thế nhưng,

giá dầu sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng

nghiêm trọng tới hai mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim

loại, góp phần khiến nền kinh tế đứng thứ tư thế giới có nguy cơ rơi vào suy thoái.

Nếu như, hồi tháng 6, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Nga kết luận “không

có tác động tiêu cực nào từ khủng hoảng thị trường tài chính nào toàn cầu tới thị

trường Nga”. Tuy nhiên, cú sốc lớn đầu tiên đối với thị trường chứng khoán Nga

xuất hiện vào cuối tháng 7, sau khi Thủ tướng Putin bất ngờ công khai chỉ trích

công ty thép hàng đầu nước này là Mechel vì hành vi lừa bịp giá cả và trốn thuế.

Trước vụ Mechel là vụ tranh chấp gay gắt kéo dài nhiều tháng nhằm giành quyền

kiểm soát công ty dầu TNK-BP giữa hãng BP của Anh và các đối tác Nga.Sau

cuộc chiến tại Gruzia, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đẩy mạnh rút vốn mạnh

khỏi thị trường Nga. Tiếp đó, nỗi sợ hãi lan sang các nhà đầu tư trong nước do khả

năng mất giá xa hơn của đồng Rúp. Giới quan sát nhận định, đối với nước Nga, nỗi

sợ hãi lớn nhất lúc này là cuộc khủng hoảng ở Phố Wall sẽ khiến kinh tế toàn cầu

giảm tốc mạnh, khiến giá dầu - mặt hàng xuất khẩu số một của nước này - giảm

mạnh hơn. Hiện giá dầu đã giảm khoảng 35% so với mức đỉnh trên 147 USD/thùng

hồi tháng 7/2008.

Trước tình trạng nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, Tổng thống Nga

Medvedev trong ngày 15/9/2008 lên tiếng trấn an giới đầu tư rằng, không xảy ra

khủng hoảng tài chính ở Nga, đồng thời khẳng định cam kết của Chính phủ Nga

đối với cải cách kinh tế. Ông cũng hứa sẽ tăng cường thanh khoản cho hệ thống tài

chính. Mặc dù vậy, những người có quan điểm thận trọng thì cho rằng, những vấn

đề cốt lõi của nền tài chính Nga mới là điều đáng ngại. Tiết kiệm dài hạn của người

Nga gần như là con số không tròn trĩnh. Đa số dân Nga đều trông chờ vào đồng

lương hưu từ phía nhà nước, ít người mua bảo hiểm. Không có những nguồn vốn

dài hạn trong nước, Nga phải dựa vào những nguồn vốn đến từ bên ngoài.Thêm

nữa, trong điều kiện khủng hoảng hiện nay, sự “thèm muốn” của giới đầu tư quốc

tế đối với các thị trường mới nổi lên nhiều rủi ro như Nga đã giảm mạnh, trong khi

đó giá dầu thế giới lại giảm mịnh khiến kinh tế Nga vốn đã khó khăn nay càng khó

khăn hơn.

Tại châu Á

kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng won mất giá hơn 40% kể từ

đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997.

Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi

suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Trước tình hình trên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế

(IMF) đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào Iceland, Hungary, và Ukraine để

ngăn chặn những kết cục tồi tệ hơn có thể xảy ra. Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu

từ Nhật, và EU tuyên bố rơi vào suy thoái.Mỹ, lần đầu tiên sau 8 năm, chính thức

thừa nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Tại Singapore, khi đầu năm

2009 họ tính toán lại, có hơn 50 tỷ đô la Singapore đã đi theo những sụp đổ các tổ

chức tín dụng Mỹ.

Châu Âu

Ccũng không khá hơn gì khi đồng Euro tăng giá từ 1 Euro ăn chỉ 0.9USD

thì sau đó chỉ vài tháng 1 Euro ăn đến hơn 1.4USD. Mọi xuất khẩu của châu Âu

ngưng trệ, du lịch đi vào thời kỳ đình đốn. Mọi chống đỡ của châu Âu không thể

cứu vãn những thành viên nghèo nhất như Iceland và Hy Lạp mới đây, tương lai

còn Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đang chờ ngày hấp hối. Cú tung tiền của người

Đức cứu Hy Lạp là muốn chứng tỏ đầu tàu châu Âu. Nó đã là miếng mồi ngon cho

những cái mũi rất thính ở phố Wall làm mưa làm gió trên giá vàng, trên cuộc chiến

tiền tệ đã được lắp kíp nổ chờ ngày khai hỏa.

Tại Việt Nam nói riêng:

Với một độ mở rất cao nên ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế

tới nền kinh tế Việt Nam là không thể tránh khỏi.Biến cố kinh tế thế giới tác động

rõ nét tới độ ổn định và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2008 đã

đi qua với lãi suất cao và vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, sụt giảm của

TTCK đang tiếp diễn,những cơn sốt giá lương thực và năng lượng....

Tóm lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng rất

nghiêm trọng tới không chỉ nền kinh tế của riêng từng quốc gia mà còn tới nền

kinh tế chung của toàn thế giới, hậu quả của nó là vô cùng nặng nề, phải mất rất

nhiều, nhiều năm sau nữa nhân loại mới có thể khôi phục được lại hoàn toàn.

Nhưng suy cho cùng thì chỉ có Mỹ và Trung Quốc lại được lợi trong cuộc khủng

hoảng này. Các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thực chất là khủng hoảng thừa

do lòng tham con người lợi dụng kẽ hở quản lý. Khủng hoảnh kinh tế toàn cầu

là hiểm họa mà cũng là thời cơ.Quốc gia nào biết lợi dụng nó thì sẽ được lợi, và

ngược lại. Đó là hai bài học rút ra trong

cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vô tiền khoáng hậu 2007-2009.

PHẦN 2:Những tác động cúa khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam

1.Những tác động đến thị trường chứng khoán

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những

tác động lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ

sở của những kết luận trên là tính liên thông và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam

với nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu xem xét

một cách thấu đáo có thể thấy rằng mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng

TTCK Việt Nam cũng đã chịu sự tác động nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các phương diện sau đây:

Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến

các quốc gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm

yết như Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính

làm sức mua của các thị trường trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến

kế hoạch doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu

của các doanh nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.

Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán

ròng cổ phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà

đầu tư nước ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng

và khoảng 13,5 ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu[9]. Với giá trị bán ra khổng lồ này

đã góp phần không nhỏ vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời

gian qua. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn an” các nhà đầu tư là sẽ không có chuyện

các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

là các quỹ đóng. Tôi cho rằng, ý kiến trên là không thuyết phục. Vì xét về bản chất

thì các quỹ đóng không mua lại chứng chỉ đã phát hành cho nhà đầu tư nhưng họ

hoàn toàn có thể thực hiện tái cấu trúc danh mục đầu tư của mình, trong đó có việc

bán chứng khoán ở thời điểm này để mua vào thời điểm khác hoặc bán ở thị trường

này để đầu tư vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị trường ngoại hối. Thực tế

cho thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã mất

giá so với đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự giảm giá của đồng Việt Nam

so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là không đáng kể. Khả năng nhà đầu

tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam sẽ tiếp tục mất giá cũng như các

đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để mua ngoại tệ nhằm kiếm lời là rất có

thể. Nếu kịch bản diễn ra đúng như họ dự đoán thì khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp

tục đầu tư vào chứng khoán.

Các mốc thời gian quan trọng của thị trường cổ phiếu đến 2008

Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

đến TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở

quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành.

Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân

đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua không được, ngược lại khi giá rớt

thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có hiện tượng này là do phần

nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh

nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi trường thông

tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một lúc

và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định

chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu

mỡ cho các hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi.

Tâm lý mua bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm

phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản

hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ TTCK.

Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố dẫn dắt thị

trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá chứng khoán

tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin tốt

về nền kinh tế được phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số

giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực nào từ

thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều

giảm. Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các

thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình

hình giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư

tương tự. Thời gian gần đây, diễn biến của các chỉ số chứng khoán Việt Nam luôn

cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư

theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài

nước”[10]. Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính

phủ nhằm vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính

có biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ

liên thông lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm

ngoài quy luật đó[11].

Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản

ánh “sức khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi,

giá chứng khoán xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người

mua cũng sẽ không dám mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa.

Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin” thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng

hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về tính thanh khoản.

Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn đề khác

mà trong phạm vi bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể như

các vấn đề về khung pháp lý, vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh

bạch của thị trường…

Thực tế, việc bơm tín dụng thời gian trước trên TTCK là nhắm vào các hoạt

động hỗ trợ giao dịch chứng khoán, là một dạng sử dụng đòn bẩy tương tự như các

tài khoản bảo chứng (margin account) để mua bán kiếm lời, chủ yếu nhắm vào các

hoạt động trên thị trường thứ cấp. Nguồn tín dụng này có thể tạo thêm thanh khoản

cho thị trường, nhưng nó cũng góp phần biến một số lượng NĐT trên TTCK trở

thành các quỹ đầu cơ tự tạo với đòn bẩy tài chính lớn và do đó đẩy thị trường tới

trước rủi ro bị đột ngột “cắt cụt” thanh khoản nguồn tài trợ. Điều đó khiến thanh

khoản toàn thị trường phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn vay này và một sự hãm

phanh đột ngột của chính sách tiền tệ làm cho thanh khoản nguồn tài trợ cạn kiệt,

dẫn đến giá chứng khoán và thanh khoản thị trường giảm mạnh.

Rõ ràng, duy trì một thị trường mà thanh khoản phụ thuộc quá lớn vào tín

dụng là một điều cần phải tránh trong tương lai. Một TTCK lành mạnh phải có

thanh khoản duy trì bởi dòng tiền dài hạn và cam kết lâu dài vào chứng khoán, chứ

không phải từ những dòng tiền đến và đi dễ dàng với những thay đổi nhỏ trong

dòng tín dụng ngắn hạn của chính sách tiền tệ hay dòng vốn nóng nước ngoài.

Mặt khác, tín dụng chứng khoán không phải là một sự đóng góp đáng hoan

nghênh cho thị trường vốn sơ cấp. Nếu các NĐT vay tiền từ ngân hàng để mua cổ

phiếu mới phát hành và nắm giữ lâu dài, nghĩa là chúng ta đang “nợ hóa” dòng

vốn tài trợ dài hạn cho các DN và tạo điều kiện cho những hoạt động đẩy giá ngắn

hạn trong những đợt phát hành mới. Thay vì như vậy, tập trung phát triển một thị

trường trái phiếu DN lành mạnh sẽ có ích hơn.

TTCK phải đứng được trên chân của mình: tính thanh khoản, sự thành công

của các đợt huy động vốn phải duy trì bằng nguồn vốn ổn định; NĐT chuyên tâm

đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu. Nguồn vốn cho TTCK không phải từ những

nguồn vốn “đánh du kích” từ thị trường bất động sản, vàng và ngoại tệ chuyển

sang, càng không phải từ vốn vay ngân hàng hay vốn ngắn hạn nước ngoài có thể

bị “cắt cụt”

Diễn biến thị trường chứng khoán trong thời gian đỉnh điểm năm 2008

a. Thị trường vốn (cổ phiếu & chứng chỉ quỹ)

Các biện pháp mạnh tay của Chính phủ các nước phát triển đã tỏ ra có hiệu

quả và lấy lại được niềm tin của giới đầu tư. Thị trường chứng khoán thế giới đã

ngưng rơi tự do và chuyển qua trạng thái đi ngang từ giữa tháng 10 tới nay.

Chung tay với Chính phủ các nước trên thế giới nhằm ngăn đà suy thoái

kinh tế. NHNN cũng đã liên tục 5 lần cắt giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm còn

8.5% vào chiều ngày 22/12/2008, và dự kiến lãi suất cơ bản có thể sẽ tiếp tục giảm

còn 7%/năm.

Ngoài ra, Chính phủ còn tung ra gói kích cầu trị giá 1 tỷ USD vào giữa

tháng 12 nhằm giữ vững tốc độ tăng trưởng cho năm 2009 sau khi xuất hiện những

yếu tố cho thấy có nguy cơ suy giảm kinh tế, liền sau đó khoảng 1 tuần gói kích

cầu này đã tăng lên 6 tỷ USD (102,000 tỷ đồng, tương đương 6.8% GDP năm

2008).

Tuy nhiên các chính sách kinh tế luôn có độ trễ trong việc tác động tới các

thực thể trong nền kinh tế. Vì thế cần phải chờ thời gian mới biết được kết quả các

giải pháp của Chính phủ tác động ra sao.

Và trong giai đoạn này thị trường sẽ có xu hướng đi ngang, do nhiều mã

chứng khoán niêm yết có giá thị trường thấp hơn giá sổ sách đáng kể và hầu như

đã tới ngưỡng mà nhiều nhà đầu tư cho rằng “không thể rớt thêm được nữa”, nên

những người đang nắm giữ cổ phiếu sẽ hạn chế bán ra. Trong khi đó những người

đang có tiền trong tay lại thận trọng mua vào, chờ tín hiệu hồi phục rõ ràng hơn từ

nền kinh tế thế giới và trong nước.

b. Tình hình IPO năm 2008

Dự tính thì nhiều nhưng diễn biến bất ngờ từ cuộc khủng hoảng tài chính

thế giới đã tác động đáng kể tới Việt Nam. Nếu như trong năm 2006 và 2007, thị

trường tăng trưởng nóng thì việc IPO hết sức thuận lợi, khi đó hầu hết các doanh

nghiệp IPO đều thành công, thì bước sang năm 2008, thị trường niêm yết chính

thức lâm nguy thì thị trường OTC cũng bị đóng băng theo, khiến kế hoạch IPO

diễn ra không như mong muốn của các nhà hoạch định thị trường, mặc cho chất

lượng cổ phiếu của các đợt IPO là khá tốt.

Tổng hợp thực tế IPO 2008

Quan tổng hợp trên và thực tế 2008 cho thấy tâm lý nhà đầu tư đã không còn

ưa chuộng hàng hóa IPO nữa.

Nếu như trong năm 2006 và 2007, các doanh nghiệp khi IPO chỉ chú trọng

đến việc làm thế nào bán được với giá cao nhất, còn với nhà đầu tư chỉ cần mua

là có lợi nhuận, thì trong năm 2008, để có thể IPO thành công, doanh nghiệp phải

chứng minh được tiềm năng tăng trưởng cao, năng lực quản trị doanh nghiệp tốt,

sản phẩm – dịch vụ có chỗ đứng trên thị trường, thôn gtin công bố phải chính xác,

minh bạch; đặc biệt mức giá khởi điểm phải hợp lý để hấp dẫn nhà đầu tư trong

mối tương quan cạnh tranh với giá cổ phiếu của các doanh nghiệp đã niêm yết sẵn

trên thị trường.

c. Thị trường OTC

Cùng với sự đi xuống của thị trường niêm yết chính thức, năm 2008 là năm

ngủ đông của thị trường OTC. Thời của cổ phiếu OTC làm mưa làm gió trên thị

trường đã chấm dứt. Với rất nhiều bất cập về cổ phiếu OTC như không có bản báo

cáo tài chính hằng quý và hàng năm của các công ty, thông tin về hoạt động của

công ty không rõ ràng, những người môi giới OTC thường gọi là “cò” thường rỉ tai

những tin đồn khiến nhà đầu tư không biết đúng hay sai, thậm chí còn có chuyện

nhà đầu tư bị lừa mua cổ phiếu với sổ cổ đông bị làm giả. Từ đó khiến niềm tin vào

thị trường này ngày càng yếu đi, và khi không còn niềm tin thì giao dịch mua bán

cùng vì thế mà chấm dứt.

Tuy nhiên thị trường OTC năm 2008 vẫn còn những cổ phiếu được nhà đầu

tư giao dịch như cổ phiếu khối ngân hàng : Eximbank, Đông Á, Quân Đội –MB,

Vietcombank và vài cổ phiếu của ngành bất động sản như: Hoàng Anh Gia Lai,

BCCI, Quốc Cường Gia Lai.

d. Thị trường trái phiếu năm 2008

Giao dịch trên thị trường trái phiếu Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao

nhất trong khu vực Đông Á. Cụ thể năm 2007 tăng 98.11% so với mức trung

bình21.1% của khu vực. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức tài

chính chuyên nghiệp, thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn được coi là thị

trường chưa phát triển

Đến 2008, Cùng với sự đi xuống của thị trường chứng khoán, trong năm

2008, thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp, cũng trải qua

thời kỳ “ảm đạm” Thị trường trái phiếu Việt Nam chủ yếu giao dịch trái phiếu

do Chính phủ phát hành, còn trái phiếu doanh nghiệp hầu như vắng bóng trên thị

trường

2. Những tác động đến hệ thống ngân hàng

Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

xuất phát từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng định là cuộc khủng hoảng

này sẽ không có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, bởi lẽ:

Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ

thống ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới

chưa sâu. Các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch

vụ thanh toán, bảo lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu.

Bên cạnh đó, lượng vốn của các ngân hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế là

không lớn nên có thể loại trừ khả năng xuất hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi

ro về thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam không sở hữu các

MBS của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do công cụ

này giảm giá. Mặt khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá đơn

giản, các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chưa có sự liên thông ở

mức tinh vi giữa TTBĐS và TTCK thông qua các công cụ phái sinh tương tự như

MBS của Mỹ. Các ngân hàng Việt Nam đầu tư vào bất động sản chủ yếu thông qua

hình thức trực tiếp là cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc bằng chính bất động

sản hình thành từ vốn vay nên khả năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất

động sản giảm giá là rất khó xảy ra.

Tuy nhiên, theochúng tôi, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu

ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra nhưng không phải

là không có vấn đề. Những vấn đề mà hệ thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát

sinh từ những yếu tố nội tại.

Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng. Theo Khoản 2, Điều

20 của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành năm 1997 và được sửa

đổi, bổ sung năm 2004 thì các loại hình ngân hàng ở Việt Nam bao gồm: ngân

hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,

ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Nhưng dưới gốc độ lập pháp

thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng về chức năng của từng

loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản pháp quy nào được ban hành để

điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và NHĐT – là những hoạt động

kinh doanh ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã tạo điều kiện

cho các NHTM, các CTTC “lấn sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM và các CTTC

đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không

ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm

phát thời gian qua.

Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi

ngân hàng, đặc biệt là các CTTC. Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta đã có trên

80 ngân hàng thương mại[6] và trên 20 công ty tài chính. Phần lớn các CTTC đều

có nguồn góc vốn góp từ các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn. Với

vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập đoàn, tổng công ty,

cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực cần thiết của hoạt động tín dụng

trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự án của tập đoàn và tổng công ty.

Điều này không những làm cho rủi ro tín dụng tăng lên mà còn làm tăng nguy

cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh chính

của tập đoàn, tổng công ty có biến động mạnh[7]. Việc có quá nhiều ngân hàng

(trong đó, có khoản 25% ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC

sẽ dẫn đến hai nguy cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định

và khả năng quản trị ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.

Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng

khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Theo số

liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất

động sản hiện nay khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ

thống. Riêng năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt

Nam năm 2007 là 53% – một con số khá cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư

nợ được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong những tháng

cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất động sản trước đây lúc thị trường

này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình hình TTBĐS vẫn chưa có dấu hiệu khởi

sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi. Tại Đại

hội đồng cổ đông bất thường của Ngân hàng Eximbank đã công bố nợ quá hạn của

ngân hàng này là 1.361 tỷ đồng, chiếm 6,09% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu là 619

tỷ đồng và khoản nợ có khả năng bị mất là 200 tỷ đồng. Theo lãnh đạo Eximbank,

nợ xấu của ngân hàng này chủ yếu là các khoản cho vay bất động sản. Hiện nay,

dư nợ cho vay bất động sản của Eximbank là 4.000 tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng dư

nợ của ngân hàng[8].

(http://vef.vn)

Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn

đang còn tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm

chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua bốn đợt cắt

giảm trong một thời gian ngắn đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc

cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm theo việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi

suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết khấu giấy tờ có cũng giảm khá

mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín phiếu bắt buộc phát hành cho các ngân

hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng. Những động thái trên là dấu

hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng

tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất

cho vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích sản

xuất chống lại nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế.

Nhưng khi, lượng tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng

kể lãi suất cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp lại

tỏ ra không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do ảnh hưởng

của đợt lạm phát trong nước vừa qua và của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu

đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường các nước vốn là nơi tiêu

thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh.

Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức mới. Đó là

tìm đầu ra cho những đồng vốn của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng” và

TTCK liên tục tuột dốc thì rõ ràng đây thật sự là một bài toán khó.

Hành đọng cụ thể của Ngân Hàng Nhà Nước (Năm 2008)

1.16/01/2008:

Quyết định 187/2008/QD-NHNN tăng 1% tỷ lệ dự trữ bắt

buộc đối với các loại tiền gửi tại các ngân hàng thương mại. Quyết định có hiệu

lực kể từ đầu tháng 2/2008.

2.10/02/2008: NHNN thông báo các NHTM bắt buộc phải mua vào 20.3 nghìn tỷ

đồng tín phiếu Chính phủ kỳ hạn 1 năm với lãi suất 7.8%. Ngày 17/03 Các

NHTMCP đã hoàn thành việc mua khối lượng tín phiếu bắt buộc trên.

3. 26/02/2008: NHNN đã yêu cầu các NHTMCP đưa lãi suất huy động VND về

mức trần 12%. Thị trường tiền tệ chứng kiến cuộc đua lãi suất huy động tiền

đồng của các NHTMCP

3. hoạt động xuất khẩu

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến hoạt động xuất khẩu

ở Việt Nam chủ yếu trong các lĩnh vực:

- Hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu

Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản

phẩm dầu thô xuất khẩu chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001 –

2006 sau đó giảm dần. Sự sụt giảm là do các mỏ dầu đã cạn kiệt trong khi việc

thăm dò và mua các mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển khi xảy

ra suy thoái.

Nhiều nền kinh tế lớn bắt đầu từ Nhật, Nga, EU lâm vào tình trạng suy thoái, Mỹ

chính thức lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 thì giá dầu thô sụt giảm mạnh cùng

với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng tới mặt hàng dầu của Việt Nam,

đang từ ngưỡng cao xuống còn 50 USD/thùng. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn

suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh, giá dầu giảm tác động đến nguồn thu từ dầu

mỏ Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị trường nhưng chịu ảnh hưởng

về giá. Kim ngạch xuất khẩu nhóm này trong năm 2008 đạt gần 5 tỷ USD giảm

40,1% tương đương 3,35 tỷ USD, trong đó giảm do giá giảm 4,83 tỷ USD và tăng

do lượng khoảng 1,48 tỷ USD. Lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14,5 triệu

tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 12 triệu tấn, năm 2010 còn 11 triệu tấn

tương đương với việc làm giảm kim ngạch từ 11,3 tỷ USD năm 2008 xuống còn

7,2 tỷ USD năm 2009, 6,6 tỷ USD năm 2010. Mức giá dự tính dự tính sẽ giao động

ở mức trung bình khoảng 70 – 80 USD/thùng, thấp hơn 22 USD/ thùng so với giá

bình quân xuất khẩu năm 2008.

Về than đá, cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu tài

nguyên, mức xuất khẩu than duy trì 23 triệu tấn năm 2008 xuống mức 20 triệu tấn

năm 2009 và 18 triệu tấn năm 2010. Dự kiến kim ngạch năm 2010 đạt 1,5 t

- Hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản

Do kinh tế Việt Nam đã mở cửa hội nhập khá sâu vào nền kinh tế khu vực

và thế giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Hoa

Kỳ , EU, Trung Quốc là những thị trường quan trọng, có sức tiêu thụ lớn hàng

nông, lâm, thủy sản Việt Nam.

Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày

càng khốc liệt bởi hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, hơn nữa khả năng

sản xuất mặt hàng nông, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, còn vấp phải nhiều rào cản

thương mại quốc tế và mức tăng tỷ giá trong những tháng đầu năm 2009 đã làm

cho khả năng xuất khẩu năm giảm hơn so với năm 2008.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chính của Việt

Nam sang Hoa Kỳ tăng lên từ 619 triệu USD (năm 2001) đến 1,8 tỷ USD trong 9

tháng đầu năm 2008. Khi khủng hoảng tài chính, tín dụng xảy ra, kinh tế Mỹ và

các nước EU gặp khó khăn sức tiêu dùng giảm nên hàng Việt Nam xuất khẩu vào

thị trường lớn này gặp khó khăn. Những tác động này đã bắt đầu bộc lộ từ giữa

tháng 9 năm 2008, xuất khẩu chững lại giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản đều

giảm so với các tháng trước, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng

9/2008 đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,6% so với tháng 9/2007 và giảm 11% so với tháng

8/2008.

-Nhóm hàng công nghiệp chế biến

Năm 2008, do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên hoạt động

xuất khẩu diễn biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp

thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên

đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những tháng cuối năm.

Nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng xuất khẩu dệt may,

đồ gỗ vào Mỹ và EU đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu.

Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không

giảm thậm chí còn tăng cao. Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64,8

tỷ USD, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và

khoáng sản, 45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là

hàng nông, lâm, thuỷ sản.

Nhóm hàng công nghiệp chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chịu

ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu do nhu cầu của

các mặt hàng này giảm mạnh. Trong những tháng đầu năm 2009, xuất khẩu các

mặt hàng dệt may, da giày, đồ gỗ đều gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ bị thu

hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, giày dép vào Mỹ và EU đều giảm,

nhiều hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước được

dựng lên. Chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng cao như lương công nhân

và lãi suất ngân hàng. Tuy nhiên đến tháng 5, tháng 6/2009 kinh tế thế giới đã bắt

đầu phục hồi kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 20,2 tỷ USD giảm

47% so với năm 2008. Lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đạt 9,06 tỷ USD

giảm 0,6% so với năm 2008, da giày đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với

nhiều nỗ lực đạt khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2009.

Nhập khẩu nguyên liệu giảm

Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản

xuất trong nước đều tăng so với năm 2007.

Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất những tháng cuối năm có xu

hướng giảm nhiều, đây là một trong những dấu hiệu của sự chững lại trong đầu tư

và sản xuất.

Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng đang có xu hướng tăng

vào các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn

lên hàng tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước.

Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô

nguyên chiếc đạt 1 tỷ USD với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dưới 12 chỗ ngồi 27,5 nghìn

chiếc, tương đương 380 triệu USD).

Nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy tính, điện tử)

ước tính đạt 13,7 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu xăng dầu đạt

12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm trước, tương ứng với kim ngạch 10,9 tỷ USD,

tăng 41,2%. Sắt thép đạt 6,6 tỷ USD, tăng 28,5%.

Vải và nguyên phụ liệu dệt may là những mặt hàng phục vụ chủ yếu cho sản

xuất hàng xuất khẩu vẫn đạt kim ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm

2007.

Hàng điện tử máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm

trước, đây là nhóm hàng không chỉ gắn với tiêu dùng trong nước mà còn liên quan

Gia công lắp ráp và xuất khẩu

Nhập khẩu từ Trung Quốc lên tới 15,4 tỷ, tăng 23,2%. Trong các thị trường

nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu từ khu vực

ASEAN, ước tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007. Trung Quốc 15,4 tỷ

USD, tăng 23,2%. Thị trường EU 5,2 tỷ USD, tăng 1,7%. Đài Loan 8,4 tỷ USD,

tăng 21,8%. Nhật Bản 8,3 tỷ USD, tăng 37,7%. Nhập siêu năm 2008 ước tính 17,5

tỷ USD, tăng 24,1% so với năm 2007, bằng 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy

nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo nhưng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao,

trong đó Châu Á có mức nhập siêu lớn nhất, đứng đầu là thị trường Trung Quốc

với 10,8 tỷ USD,cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm 2007.

4.Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

Năm 2008

Đây là thời kì những siêu dự án, những kỷ lục về quy mô vốn liên tục được phá.

Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nếu chỉ nhìn nhận trên các

con số có thể nói FDI đã tạo nên một góc “ sáng” đầy tiềm lực. Mặc dù tổng thể

nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và thách thức nhưng nguồn vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài vào Việt Nam vẫn có bước tăng trưởng rất khả quan.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục đạt kết quả cao. Chỉ tính riêng

tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới với

tổng số vốn đăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp phép từ đầu năm đến

19/12/2008 lên 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 64,011 tỷ USD. Như vậy giảm

24,2% về số dự án chờ được cấp phép nhưng gấp 3lần về vốn đăng ký so với năm

2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm nay đạt 54,65 triệu USD, tăng

42 triệu USD so với mức bình quân 13,8 triệu USD/dự án của năm 2007, một con

số vô cùng ấn tượng. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các

dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và

51,7% về vốn đăng ký. Trong năm có 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311

dự án được cấp phép từ các năm trước, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,75% so với

năm 2007.

Trong các dự án được cấp giấy phép mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công

nghiệp. Cụ thể: công nghiệp chế biến có 28,92 tỷ USD, chiếm 45,15% tổng vốn

đăng ký; các hoạt động liên quan đến tài sản và dịch vụ tư vấn đạt 23,7 tỷ USD

chiếm 37,03%; sau đó đến vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; khách sạn nhà

hành lần lượt chiếm 2,9% và 2, 03 % nông, lâm nghiệp và thủy sản 235 triệu

USD, chiếm 0,368%.

Cả nước có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án được cấp phép mới,

trong đó Ninh Thuận có số vốn đăng ký dẫn đầu với 9,8 tỷ USD, chiếm 15,3%

tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 9,37 tỷ USD, chiếm 14,6%; thành

phố Hồ Chí Minh 9,07 tỷ USD, chiếm 14,1%; Hà Tĩnh 7,88 tỷ USD, chiếm 12,3%;

Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 9,7%; Phú Yên 4,35 tỷ USD, chiếm 6,7%; Hà Nội

3,15 tỷ USD, chiếm 5%.

Có 39 Quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Ma-lai-xi-a là nhà đầu tư

lớn nhất với 14,97 tỷ số USD, chiếm 23,38% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Đài

Loan 8,85 tỷ USD, chiếm 13,8%; Nhật Bản 7,58 tỷ USD, chiếm 11,84%; Xin-ga-

po 4,5 tỷ USD, chiếm 7,03%; Bru-nây 4,4 tỷ USD, chiếm 6,8%; Ca-na-đa 4,2 tỷ

USD, chiếm 7%.

Có thể nói tính tới thời điểm hiện tại thì 2008 là năm nước ta đạt được thành tựu to

lớn nhất trong công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam về

cả số lượng cũng như chất lượng nguồn vốn thực hiện nhất là khi năm 2008 là năm

trực tiếp chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Sở dĩ chúng ta thu hút

được số lượng lớn các dự án dăng kí đầu tư cùng với lượng vốn lớn như vậy một

mặt do việc đăng kí vốn vào nước ta được thực hiện trước khi khủng hoảng kinh

tế tác động tới nhưng việc đưa nguồn vốn đó vào thực hiện trong điều kiện khủng

hoảng đạt 11,5 tỉ USD thì đó lại là thành tựu chứng tỏ vai trò quan trọng của nhà

nước và nhân dân ta.

Năm 2009

Năm 2009 chứng kiến sự giảm mạnh về vốn đăng ký cấp mới, tới 70%. Nhưng,

lượng vốn tăng thêm từ các dự án FDI đầu tư giai đoạn trước giảm không nhiều,

chỉ 13%. Cụ thể, trong năm 2009 Việt Nam đã thu hút được 1054 dự án FDI đăng

ký mới với tổng vốn đầu tư đạt 21,842 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008.Việc

các dự án FDI mở rộng đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài đã có cái nhìn lạc

quan hơn đối với triển vọng đầu tư tại Việt Nam.Từ phía các doanh nghiệp FDI,

Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết lượng vốn FDI giải ngân trong năm khoảng

10 tỷ USD, bằng 87% so với cùng kỳ năm ngoái (năm 2008 giải ngân đạt khoảng

11,5 tỷ USD).

Theo lĩnh vực đầu tư: Dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan

tâm lớn nhất với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp

mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là

3,8 tỷ USD.Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới

và tăng thêm. Trong đó có một số dự án có quy mô lớn được cấp phép trong năm

như Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam do hai tập đoàn của Mỹ là

Công ty Tano Capital, LLC và Global C&D, INC đầu tư, dự án Công ty TNHH

thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya- một liên doanh giữa Berjaya Leisure Cayman

và một công ty trong nước tại Đồng Naivà dự án Công ty TNHH một thành viên

Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư lần lượt là 4,15 tỷ USD,

2 tỷ USD và 1,68 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn

đăng ký lớn thứ ba với 2,97 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 2,22 tỷ USD đăng ký

mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm

Có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư lớn

nhất lần lượt là Hoa Kỳ với 70 dự án, tổng vốn đăng ký là 9945,1triệu USD; quần

đảo Cayman đứng thứ 2 với 5 dự án, tổng vốn đăng ký 2203,4triệu USD; đứng thứ

3 là Hàn Quốc với 35 dự án, tổng vốn đăng ký 1911,5 triệu USD…

Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn FDI lớn nhất, với 6,73 tỷ USD

vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai

và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ

USD và 1,7 tỷ USD

Năm 2010

Năm 2010, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 11 tỷ USD,

tăng 10% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, giải ngân của các nhà đầu tư nước

ngoài ước đạt 8 tỷ USD. Các dự án đầu tư nước ngoài triển khai trong năm 2010

đạt được mục tiêu giải ngân đề ra. Tính đến ngày 21 tháng 12 năm 2010 cả nước

có 969 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 17,23 tỷ USD, tăng

2,5% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn các nhà đầu

tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 18,59 tỷ USD, bằng 86,8% so với

năm2009. Trong đó có1 dự án kinh doanh bất động sản có quy mô vốn 4 tỷ USD

được cấp vào tháng 12, lĩnh vực kinh doanh bất động sản vươn lên đứng thứ nhất

về thu hút đầu tư. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo cũng là một lĩnh vực thế

mạnh và là lĩnh vực thu hút được sự quan tâm lớn nhất của nhà đầu tư nước ngoài

luôn dược duy trì ở vị trí cao. Lĩnh vực này dẫn đầu về số lượt dự án đăng ký cấp

mới và dự án tăng vốn đầu tư trong năm 2010. Có 385 dự án cấp mới với tổng vốn

đầu tư trên 4 tỷ USD và 199 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 1 tỷ USD,

tổng vốn đầu tư đăng ký mới và tăng thêm là 5,1 tỷ, chiếm 27,3% tổng vốn đầu tư

đăng ký.Đứng thứ 3 là lĩnh vực sản xuất phân phối điện, khí nước, điều hòa với 6

dự án đầu tư có tổng vốn đầu tư đăng ký mới và tăng thêm là 2,95 tỷ USD, chiếm

15,9% tổng vốn đầu tư đăng ký

Tại năm này có 55 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam.

Singapore dẫu đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 4,43 tỷ

USD chiếm 23,8 % tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hà Lan đứng thứ 2 với tổng

vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm trên 2,37 tỷ USD, chiếm 12,7% tổng

vốn đầu tư tại Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký cấp mới và

tăng thêm là 2,36 tỷ USD, chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

Theo địa bàn đầu tư: Quảng Nam là địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất với

4,2 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Bà Rịa – Vũng Tàu,

Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Nghệ An với quy mô vốn đăng ký lần lượt

là 2,56 tỷ USD; 2,2 tỷ USD USD, 2 tỷ USD và 1,3 tỷ USD.

Tổng kết về tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của nền kinh tế Việt Nam

Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép giai đoạn 2008-2010

Năm

2008

2009

2010

Nhìn chung trong suốt thời gian kể trên xu hướng của dòng chảy FDI vẫn không có

thay đổi đáng kể, phân phối không đồng đều kể cả là theo tiêu thức địa bàn đầu tư

hay lĩnh vực đầu tư. Nếu theo địa bàn đầu tư thì trọng điểm của nguồn vốn này là

khu vực Đông Nam Bộ với Bà Rịa Vũng Tàu, với Bình Dương; là khu vực Duyên

Hải Nam trung bộ với Ninh Thuận, Quảng Nam; là Đồng Bằng song Hồng với

Thủ đô hà Nội với thành phố Hải Phòng. Còn nếu nhìn dưới góc độ của một nhà

đầu tư phân theo lĩnh vực đầu tư thì nguồn vốn này lại chủ yếu tập chung vào công

nghiệp và xây dựng, khách sạn- du lịch, bất động sản trong khi khối lượng nguồn

vốn đổ vào khối ngành nông- lâm- ngư nghiệp lại vô cùng khiêm tốn mặc dù đã có

sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước.

Số dự

án

1557

1054

969

Tổng số vốn đăng kí

(triệu USD)

71726,0

21482,0

18590,0

Tổng số vốn thực hiện

(triệu USD)

11500,0

10000,0

11000,0

Từ khi mở cửa hội nhập trải qua nhiều biến cố, có thuận lợi nhưng cũng gặp không

ít khó khăn, kết thúc thập niên đầu của thế kỉ 21chúng ta đã gặt hái được nhiều

thành công trong hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Thời kì 2008-

2010, từ khi chịu tác động và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, số

lượng dự án cũng như lượng vốn đăng kí đầu tư giảm mạnh. Số lượng vốn đăng

kí từ 71,72 tỉ USD trượt xuống còn 18,59 tỉ USD tương ứng với giảm 74,1%. Tuy

nhiên tổng số vốn đi vào thực hiện có sự sụt giảm nhẹ và đang dần phục hồi chở

lại năm 2010 đạt khoảng 11 tỉ USD chỉ còn kém thời kì cao nhất năm 2008 là 0,5 tỉ

USD . Đây là một tín hiệu đáng mừng và khá khả quan nhất là khi tình hình kinh tế

và chính trị trên toàn thế giới đang có nhiều biến động khó lường như hiện nay.

Phần III. Giải pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế 2008

1. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ các giải pháp khắc phục khủng

hoảng của các nước trên Thế Giới.

Đối mặt với cuộc khủng hoảng chưa từng có, nhiều nước đã công bố các kế

hoajchkisch thích kinh tế có quy mô từ mức 1-2 tỷ USD đến gói lên tới 787 tỷ

USD của Mỹ. Ngoài chính sách tài chính, các chính phủ cũng đã tận dụng tốt hơn

các chính sách tiền tệ. Cát giảm lãi suất là một trong những công cụ được sử dụng

thường xuyên nhất để can thiệp vào nền kinh tế. Mục tiêu chính cảu các gói kích

cầu đều hướng đến tăng tổng cầu nền kinh tế, tạo công ăn việc làm, đảm bảo an

sinh xã hội. Bên cạnh đó, do trong bối cảnh có tính chất bất ổn cao và dự báo về

cuộc khủng hoảng còn nhiều mấu thuẫn nên các gói kích cầu của các nước đều

được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, có bổ sung, điều chỉnh và giám sát.

Các biện pháp kích cầu có thể được chia thành:

Nhóm biện pháp kích thích tiêu dùng đối với người dân

Nhóm biện pháp kích thích đầu tư đối với doanh nghiệp

Nhóm biện pháp kích thích thông qua đầu tư công

Ngoài những bài học kinh nghiệm về chống khủng hoảng của các nước trên thế

giới , Việt Nam cần lưu ý đến một số gợi ý trong việc thực hiện chính sách kích

cầu phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.

Có một số đặc thù, bao gồm cả thuận lợi và bất lợi cần trú trọng để đảm bảo hiệu

quả của gói kích cầu của Việt Nam:

-

Thứ nhất, nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và BĐS còn rất lớn và đây là

điểm thuận lợi đối với một gói kích cầu dựa vào đầu tư công khá phổ biến. Tuy tỉ

lệ đầu tư công ở Việt Nam hiện ở mức cao so với thế giới và gây ra một số quan

ngại về dài hạn, song đây lại là điểm cần khai thác khi thực hiện kích thích chống

suy giảm kinh tế trong ngắn hạn.

-

Thứ hai, khác với Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á khác, các nước

này duy trì được thặng dư ngân sách và thặng dư thương mại trong nhiều năm. Tuy

nhiên , Việt Nam sẽ bị hạn chế trong nguồn ngân sách sử dụng cho kích cầu do

tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở mức cao ,kéo dài.

-

Thứ ba, lạm phát ở Việt nam trong 2nawm qua ở mức cao, gây tác động bất

lợi cho mặt tâm lý,nên có thể gây khó khăn khi thực hiện kích cầu và phải chuẩn bị

với khả năng lạm phát quay trở lại.

-

Thứ tư, việc kích cầu được thực hiện trong môi trường đang bất ổn, hiệu

quả của các gói kích cầu còn tồn tại nhiều hoài nghi, mâu thuẫn và nhứng ý kiến

trái chiều. Tuy nhiên vẫn phải “kích”, nhưng thay đổi giải pháp “kích” vì bản than

nội tại các doanh nghiệp và sức khỏe của nền kinh tế vẫn trong tình trạng “mới ốm

dậy”, dễ bị tổn thương khi có nhưng biến đổi bất thường.

-

Thứ năm, hậu suy giảm sẽ là cơ hội đầu tư phục hồi phát triển và đầu tư

đón đầu, nên hoạt động thị trường tài chính ngân hàng sẽ có nhiều khởi sắc và

dễ phát triển nóng. Lãi suất cơ bản với áp lực xuống nhanh lại đối đầu với…lên

nhanh. Đây chính là giai đoạn “linh hoạt” sẽ phát huy hiệu quả chính sách tiền tệ

nhưng phải trên cơ sở tôn trọng các yếu tố:

+ Quy luật thị trường

+ Điều hành bằng công cụ là chính, hành chính là phụ

+ Dựa trên nguồn lực thực tế, tránh tình trạng cố giữ thị trường, nhưng”lực bất

tòng tâm” sẽ xảy ra tình trạng hiệu quả ra đi, hậu quả ập tới.

2 Định hướng giải pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế.

Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I

năm 2008 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng

ngừa những hậu quả khôn lường của “Cơn bão tài chính”. Rất may cho Việt Nam

là đã phải chống từ đầu năm. Trận bão vào quý I năm 2008 đã khiến Việt Nam

kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để phòng vệ. Các biện pháp ổn định kinh

tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân

hàng được tăng cường, thanh khoản của thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân

thương mại, tăng cường ngân sách nhà nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ

ngoại tệ. Sự chao đảo của thị trường thế giới khiến giá nguyên liệu giảm dẫn đến

làm giảm gánh nặng trợ cấp giá nguyên liệu của ngân sách nhà nước.Các ngân

hàng thương mại cũng được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp của Ngân hàng nhà nước.

Đến tháng 11 năm 2008 CPI tăng 20,71%, các chuyên gia nhận định CPI

năm 2008 không thể vượt quá 24% và năm 2009 sẽ chỉ ở mức 10 -12%. Tuy nhiên,

tiềm ẩn nguy cơ của khủng hoảng tài chính là rất lớn, cơn bão tài chính toàn cầu

chưa có hồi kết, vì vậy việc tiếp tục thực hiện các biện pháp để ổn định kinh tế vĩ

mô, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu… cần phải được quan

tâm chỉ đạo quyết liệt. Cụ thể:

- Tiếp tục thực hiện 08 nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh

tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.

Tuy nhiên, 08 nhóm giải pháp nói trên được Chính phủ đưa ra từ tháng 4

năm 2008 đến nay tình hình đã khác nhiều, vì vậy việc thực hiện các giải pháp này

trong thời gian tới phải có những đối sách phù hợp. Theo chúng tôi cần tập trung

vào một số giải pháp sau đây:

Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá:

+ Năm 2009 ,áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, kích thích đầu tư.

Để góp phần tháo gỡ khó khăn hiện nay cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp

nhỏ và vừa, các ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp như khoanh nợ, giãn nợ,

giảm lãi suất cho vay.Cùng với đó, chính sách tài khoá cũng được xem xét miễn

giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu.

Chọn thời điểm để nới rộng biên độ tỷ giá, hiện nay là 3%, trường hợp cần thiết

nới lên 5%.

+ Quản lý chặt chẽ thị trường giao dịch ngoại tệ tự do để tránh hiện tượng đầu cơ

dẫn đến xu hướng nhà đầu tư trong nước rút tiền chuyển thành ngoại tệ, gây sức ép

lên vấn đề tỷ giá và dự trữ ngoại tệ.

+ Thường xuyên rà soát đánh giá lại các khoản vay nợ ngắn hạn nước ngoài của

Chính phủ, ngân hàng, doanh nghiệp (kể cả khoản LC trả chậm) và danh mục đầu

tư gián tiếp nước ngoài.

+ Nâng cao khả năng tài chính cho các ngân hàng để giữ chân luồng vốn nước

ngoài.

+ Chính phủ cần nghiên cứu xem xét về cấp hạn ngạch cho việc mua trái phiếu

của nhà đầu tư nước ngoài để đảm bảo tỷ lệ kiểm soát, phòng khi nhà đầu tư nước

ngoài ồ ạt rút vốn bằng bán trái phiếu.

+ Tiếp tục thắt chặt chi tiêu công nhất là những dự án kém hiệu quả và chưa cần

thiết.

Khuyến khích đầu tư và xuất khẩu:

Tìm mọi cách để hỗ trợ xuất khẩu bao gồm: vốn, lãi suất, thuế, thủ tục mở rộng

thị trường. Bây giờ là thời điểm để thực hiện việc kích cầu đầu tư, đặc biệt đối với

đầu tư vào hạ tầng, kích thích đầu tư vào các dự án có hiệu quả không những bằng

nguồn vốn ngân sách, trái phiếu Chính phủ mà bằng cả sự tham gia của doanh

nghiệp, của tư nhân, của các thành phần kinh tế khác trong và ngoài nước. Cùng

với kích cầu đầu tư cần phải tính ngay đến giải pháp kích cầu tiêu dùng bằng biện

pháp hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, giảm thuế, miễn thuế… Điều này sẽ

giải quyết được bài toán tồn đọng vốn tại ngân hàng và giảm áp lực về chỉ tiêu tăng

trưởng xuất khẩu và thị trường nội địa sẽ được kích cầu.

Cụ thể là trong năm 2009, chính phủ Việt Nam đã thực hiện biện pháp kích cầu

thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với các doanh nghiệp, các chương trình

miễn, giảm và giãn thuế, bảo lãnh cho các DN vay vốn tại các Ngân hàng thương

mại, … Cụ thể như sau:

Gói hỗ trợ lãi suất 4% thuộc về nhóm biện pháp kích thích chi đầu tư đối với doanh

nghiệp. Có 3 loại hình hỗ trợ lãi suất vốn vay chính: cho vay ngắn hạn, cho vay

trung & dài hạn, và cho vay phục vụ nông nghiệp & làm nhà ở. Đối tượng cho vay

phải không nằm trong danh sách 13 ngành, lĩnh vực.

Chương trình giảm, giãn thuế bao gồm: giảm, gia hạn nộp thuếthu nhập và giảm

thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa, dịch vụ.

Ngày 12/5/2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố chính thức về gói kích cầu có

giá trị 143.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD) của Chính phủ, sau đó tăng lên

160 nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD). Theo đó, gói kích cầu tương đương 8

tỷ USD được chia thành 8 phần có các giá trị khác nhau. Cụ thể các phần của gói

kích cầu này bao gồm:

- Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng.

- Tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng.

- Ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp bách khoảng

37.200 tỷ đồng.

- Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200 tỷ

đồng.

- Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng.

- Thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng.

- Tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ đồng.

- Các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh

xã hội khoảng 7.200 tỷ đồng.

Đảm bảo an sinh xã hội:

Thực hiện bằng nhiều biện pháp: Bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ nông nghiệp, trồng

trọt, chăn nuôi, bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất khẩu và hỗ trợ trực tiếp

cho các đối tượng dễ bị tổn thương qua cơn bão tài chính.

- Thường xuyên nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của

các doanh nghiệp Nhà nước, DNNVV, công ty cổ phần, công ty niêm yết, doanh

nghiệp tư nhân… để có những giải pháp xử lý phù hợp.

- Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào

những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định.Việt Namđang có lợi thế

này và vì vậy cần tận dụng tốt cơ hội này.

- Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu: Tập trung vào xuất

khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế. Chuyển việc xuất khẩu các mặt hàng

của Việt Nam sang các thị trường khác có lợi thế (Đông Nam Á, Châu Phi, Châu

Mỹ La tinh)

- Chọn lọc nhập khẩu: Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tranh thủ nhập khẩu các

mặt hàng, công nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi do kinh tế của họ

khó khăn.

- Nâng cao năng lực công tác dự báo, đảm bảo theo dõi kịp thời diễn biến khủng

hoảng tài chính ở Mỹ và toàn cầu để đánh giá đúng và đưa ra những giải pháp phù

hợp.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đặc biệt là giám sát hoạt động của các

Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng.

- Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế bằng nhiều giải pháp như kích cầu đầu tư,

kích cầu tiêu dùng, thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa…

- Khủng hoảng tài chính tuy có những tác động nhất định đến nền kinh tế Việt

Nam trong ngắn hạn. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam có thể thay đổi

chính sách, rà soát lại các chính sách chưa phù hợp nhằm đưa ra các chính sách

phù hợp hơn như: chính sách về xuất khẩu, tỷ giá, tiền tệ, tài khoá…

3. Đánh giá kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế

Trong báo cáo tình hình kinh tế Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) công

bố khẳng định: Việt Nam đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tốt hơn

nhiều nước khác.

Cũng như trong những năm trước, Việt Nam không xảy ra khủng hoảng ngân hàng,

cho dù vẫn còn nhiều bất ổn kinh tế vĩ mô.

WB cho rằng, đạt được những kết quả tích cực này chủ yếu là nhờ Chính phủ Việt

Nam đã quyết tâm phản ứng kịp thời trước tình hình kinh tế thay đổi.

Trong vòng chưa đầy ba năm, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển từ tình trạng tăng

trưởng đều đặn sang phát triển quá nóng, rồi ổn định hóa, đến kích cầu và cuối

cùng là tái cân bằng nền kinh tế.

Chính phủ Việt Nam đã không mất nhiều thời gian để điều chỉnh chính sách. Gần

đây, gói kích cầu lớn, kết hợp chương trình miễn giảm thuế với tăng chi tiêu chính

phủ và tăng trưởng tín dụng nhanh đã thành công trong việc kích thích cầu nội địa

và duy trì tăng trưởng kinh tế.

Đặc biệt, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vẫn chiếm khoảng 67% GDP ngay khi bị

cuộc khủng hoảng tấn công trong năm 2009.

Tuy nhiên, bản báo cáo cũng cho rằng, Việt Nam còn có thể làm được tốt hơn thế

nếu thông tin được công bố và trao đổi tốt hơn. Vì thị trường không biết chắc có

hiểu rõ những gì mà Chính phủ theo đuổi hay không nên thị trường muốn thấy

hành động rất mạnh mẽ để được thuyết phục rằng Chính phủ đang tiến hành một

chuỗi hành động hợp lý. Do đó, Việt Nam cần một sự chuyển dịch nhanh quan

điểm chính sách khi tình hình thay đổi.

+ Giá trị sản xuất công nghiệp quý 1 tăng 2.1% , tháng 4 tiếp tục tăng 5.4% và tính

chung 4 tháng đầu năm 2009 tăng 3.3% so với cùng kì năm 2008.

+ GDP tăng 5,3% trong năm 2009 trong đó quý IV đã đạt mức 6,9%. Tăng trưởng

GDP quý 1/2010 đạt 5,84%, nhưng đến quý 2 đã tăng 6,44%, quý 3 tăng 7,18% và

quý 4 tăng 7,34% vậy ăng trưởng GDP năm 2010 đạt 6,78% vượt so với chỉ tiêu

đạt ra là 6.5%.

+ Thị trường trong nước tiếp tục được mở rộng, tổng mức lưu chuyển hàng

hóa(2009) tăng 21.5% so với cùng kì năm trước.

+ Xuất khẩu năm 2009 giảm, lần đầu tiên kể từ khi tiến hành đổi mới kinh tế,

nhưng mức suy giảm vẫn thấp hơn nhiều nước khác trong khu vực. Đến nay, tăng

trưởng xuất khẩu đã phục hồi bằng khoảng 30% tốc độ tăng trưởng hàng năm của

giai đoạn trước khủng hoảng.

+ Lạm phát đã giảm từ 19,9% năm 2008 xuống còn 6,5% năm 2009. Cho tới nay,

mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng tháng vẫn dừng ở mức vừa phải.

+ Thị trường chứng khoán và BĐS đang có dấu hiệu hồi phục

+ Đầu tư trong nước đạt kết quả khả quan, giải ngân vốn ngân sách Nhà nước đạt

trên 30% kế hoạch cả năm 2009, vốn trái phiếu Chính phủ đạt trên 46% kế hoạch.

+ Đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng, trong 4 tháng đầu năm 2009, tổng vốn đăng kí

cấp mới và tăng them đạt 6.4 tỷ USD, trong đó vốn tăng them của các dự án đang

thực hiện là 3.9 tỷ USD ( tăng 28.6% so với cùng kì năm 2008).

Phần 4.Kết luận

Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009 đã gây ra những tác động gay

gắt về kinh tế, xã hội và chính trị. Cuộc khủng hoảng kéo theo suy thoái kinh tế

đã làm cản trở sự phát triển của các quốc gia trên nhiều phương diện. Đồng thời

cũng làm lộ rõ những mất cân đối mang tính hệ thống trong một thời gian dài và

tính mong manh của hệ thống tài chính hiện tại, dẫn đến những đòi hỏi cấp bách

phải có những nỗ lực cải cách hệ thống và cấu trúc tài chính trên tầm quốc tế nhằm

tránh được những khủng hoảng tương tự trong tương lai. Chính vì vậy, việc tổng

kết về mặt lý luận và thực tiễn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua là

một việc làm có ý nghĩa hết sức thiết thực để rút ra những bài học bổ ích cho Việt

Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro