Tau tuan duong lop Alaska
Loại tàu:Tàu tuần dương lớn[A 1]
Xưởng đóng tàu:New York Shipbuilding Corporation[1][2][3]
Thời gian chế tạo:1941 - 1944
Thời gian hoạt động:17 tháng 6 năm 1944 - 17 tháng 2 năm 1947
Số tàu đặt hàng:6
Số tàu hoàn tất:2
Số tàu hủy bỏ:4[A 2]
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước:29.771 tấn (tiêu chuẩn)34.253 tấn (đầy tải)[4]
Chiều dài: 246,4 m (808 ft 6 in) [4]
Mạn thuyền:28 m (91 ft 9 in) [4]
Tầm nước: 8,26 m (27 ft 1 in) (trung bình)[1]9,7 m (31 ft 9 in) (tối đa)[4]
Lực đẩy:4 × Turbine hơi nước General Electric [5]8 × nồi hơi Babcock & Wilcox [6]4 × trục công suất 150.000 mã lực (112 MW) [4]
Tốc độ:58 km/h (31,4 knot)[2] - 61 km/h (33 knot) [6][7] [8]
Tầm xa:22.000 km ở tốc độ 28 km/h(12.000 hải lý ở tốc độ 15 knot) [4]
Quân số:1.517[6][8]-1.799[9]-2.251[1][2][A 3]
Vũ khí:9 × pháo 305 mm (12 inch)/50 Mark 8[4] (3×3)12 × pháo 127 mm (5 inch)/38 đa dụng[5][4] (6×2)[5]56 × pháo phòng không Bofors 40 mm (1,57 inch)[4] (14×4)[5]34 × pháo phòng không Oerlikon 20 mm (34×1)[4][5]Vỏ giáp:Đai giáp hông chính: 127-229 mm (5-9 inch) [6]Sàn bọc thép: 97-101 mm (3,8-4,0 inch)[6]Sàn tàu chính: 36 mm (1,40 inch)[4][6]Sàn thứ ba: 16 mm (0,625 inch)[6]Tháp súng nhỏ: 279-330 mm (11-13 inch)[6]Tháp pháo: trước mặt 325 mm (12,8 inch), trần 127 mm (5 inch), hông 133-152 mm (5,25-6 inch) và phía sau 133 mm (5,25 inch).[6]Tháp chỉ huy:269 mm (10,6 inch) với nóc 127 mm (5 inch)[6][8]
Máy bay:4 × OS2U Kingfisher hoặc SC Seahawk[10][A 4]Hầm chứa máy bay kín giữa tàu[6][11]
Lớp tàu tuần dương Alaska là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi là tàu chiến-tuần dương, Hải quân Mỹ chính thức xếp hạng chúng là những tàu tuần dương lớn với ký hiệu lườn CB. Bản chất trung gian của chúng được thể hiện qua tên mà chúng được đặt so với thông lệ đặt tên cho thiết giáp hạm và tàu tuần dương vào lúc đó,[A 5] tất cả đều được đặt tên theo "lãnh thổ hoặc vùng quốc hải" của Hoa Kỳ.[A 6] Trong số sáu chiếc được vạch kế hoạch, có ba chiếc được đặt lườn, và chỉ có hai chiếc được hoàn tất. Việc chế tạo chiếc thứ ba bị ngưng lại vào ngày 16 tháng 4 năm 1945 khi nó đã hoàn tất được 84%. Hai chiếc được hoàn tất, USS Alaska (CB-1) và USS Guam (CB-2) đã phục vụ trong hai năm sau cùng của Thế chiến II trong vai trò bắn phá bờ biển và hộ tống các tàu sân bay nhanh. Cả hai chiếc đều được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 chỉ sau khi phục vụ được 32 và 29 tháng tương ứng.Ý tưởng về một lớp tàu tuần dương lớn khởi sự vào đầu những năm 1930, khi Hải quân Mỹ muốn đối phó lại những chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" thuộc lớp Deutschland được Đức cho hạ thủy và đưa vào hoạt động. Cho dù không có một kết quả cụ thể nào ngay lập tức, kế hoạch về những chiếc tàu sau đó tiến triển thành lớp Alaska vào cuối những năm 1930 sau khi Đức đưa vào hoạt động lớp Scharnhorst cùng những lời đồn đại rằng Nhật Bản đang chế tạo một lớp tàu chiến-tuần dương mới.[7][A 7] Lớp Alaska được dự định để hoạt động như những "tàu diệt tàu tuần dương", có khả năng truy tìm và tiêu diệt các tàu tuần dương hạng nặng "sau Hiệp ước". Để đạt được những mục tiêu đó, lớp tàu được trang bị súng có cỡ nòng lớn hơn trên một thiết kế mới và đắt tiền, lớp vỏ giáp giới hạn ở mức chống chọi được đạn pháo 305 mm (12 inch), và hệ thống động lực có thể đạt tốc độ tối đa khoảng 58-61 km/h (31-33 knot).
Bối cảnh
Việc phát triển kiểu tàu tuần dương hạng nặng được tiến triển đều đặn giữa Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington và những hiệp định tiếp theo sau. Trong Hiệp ước này, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italy đồng ý giới hạn trọng lượng rẽ nước của tàu tuần dương hạng nặng ở mức 10.000 tấn và hải pháo cỡ nòng 203 mm (8 inch). Cho đến lớp Alaska, các tàu tuần dương Mỹ được thiết kế giữa hai cuộc thế chiến đều tuân thủ theo hạn ngạch này.[12]Sự thúc đẩy ban đầu cho việc thiết kế lớp Alaska đến từ việc đưa ra hoạt động những tàu tuần dương thuộc lớp Deutschland vốn còn được gọi là những thiết giáp hạm bỏ túi vào đầu những năm 1930. Cho dù không có hành động nào được tiến hành ngay lập tức, các kế hoạch được xem xét lại vào cuối những năm 1930 sau khi các báo cáo tình báo cho rằng Nhật Bản đang vạch kế hoạch hoặc đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn nhiều so với các tàu tuần dương Mỹ hạng nặng.[3][6][11][13][A 8] Hải quân Mỹ phản ứng lại vào năm 1938, khi Ban chỉ huy Hải quân Mỹ gửi một yêu cầu đến Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa về một "nghiên cứu toàn diện về mọi loại tàu hải quân để cân nhắc về một chương trình chế tạo mới mở rộng".[14] Tổng thống Mỹ vào lúc đó, Franklin Delano Roosevelt, có thể đã đóng vai trò chính trong việc phát triển lớp tàu này bởi mong ước của ông có thể đáp trả khả năng tấn công của các tàu tuần dương Nhật và thiết giáp hạm bỏ túi Đức,[15] vốn đã khiến cho chúng được gọi là một sự "động viên chính trị",[16] nhưng những nhận xét như vậy thật khó mà làm rõ được.[6][17]
Thiết kế
Một sử gia đã mô tả quá trình thiết kế lớp Alaska là một sự "dày vò đau khổ" do nhiều thay đổi và cải biến trên thiết kế của con tàu bởi nhiều cá nhân và bộ phận.[7] Thực ra, kế hoạch đưa đến ít nhất chín thiết kế khác nhau,[18] trải từ thiết kế như kiểu tàu tuần dương phòng không 6.000 tấn thuộc lớp Atlanta[19] cho đến các kiểu tàu tuần dương hạng nặng "phình to"[7] và một kiểu thiết giáp hạm tí hon tải trọng 38.000 tấn trang bị 12 pháo 305 mm (12 inch) và 16 pháo 127 mm (5 inch).[19] Nhằm mục đích giữ cho tải trọng con tàu dưới mức 25.000 tấn, Ban chỉ huy Hải quân đã cho phép các thiết kế chỉ có sự bảo vệ hạn chế bên dưới mực ngấn nước. Kết quả là khi chế tạo, lớp Alaska khá mong manh trước ngư lôi và đạn pháo rơi trước con tàu.[20] Thiết kế cuối cùng được chọn là một phiên bản mở rộng của lớp tàu tuần dương hạng nặng Baltimore có hệ thống động lực giống như của lớp tàu sân bay Essex. Con tàu này kết hợp dàn pháo chính gồm chín khẩu 305 mm (12 inch) cùng vỏ giáp bảo vệ đủ để chống lại đạn pháo 254 mm (10 inch) trong một thân tàu có khả năng di chuyển 61 km/h (33 knot).[13]Lớp tàu mới được chính thức đặt hàng vào tháng 9 năm 1940 cùng với một số lượng lớn đến mức thừa thải các tàu chiến khác như một phần của Đạo luật Hải quân hai đại dương.[11][21][A 9] Vai trò của chiếc tàu chiến mới cũng thay đổi đôi chút; ngoài vai trò đối chiến trên mặt biển, chúng còn được sử dụng để bảo vệ các tàu sân bay. Vì có được cỡ pháo lớn hơn, tích thước lớn và tốc độ cao, chúng có giá trị hơn trong vai trò này hơn các tàu tuần dương hạng nặng, và chúng cũng là đảm bảo cho các báo cáo tình báo rằng Nhật Bản đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn các tàu tuần dương Mỹ.[11]
Vũ khí
Dàn pháo chính
Vào lúc chế tạo, lớp Alaska có chín khẩu hải pháo 305 mm (12 inch)/50 caliber Mark 8 bố trí trên ba tháp pháo ba nòng,[22] với hai tháp pháo hướng ra trước và một ra phía sau, một cấu hình thường được gọi là "2-A-1". Thế hệ hải pháo 305 mm (12 inch) được sản xuất cho Hải quân Mỹ trước đây là phiên bản Mark 7, vốn được thiết kế vào năm 1912 và được trang bị cho lớp Wyoming. Thế hệ Mark 8 có chất lượng cao hơn; trong thực tế, từng được đánh giá "là vũ khí mạnh mẻ nhất ở cỡ nòng của nó từng được đưa vào sử dụng".[23] Được thiết kế vào năm 1939, nó cân nặng 55,3 tấn (121.856 lb) kể cả khóa nòng, và có thể chịu được tốc độ bắn trung bình 2,4-3 phát mỗi phút. Nó có thể bắn một đầu đạn Mark 18 xuyên thép nặng 517 kg (1.140 lb) đi xa 35.271 m (38.573 yard) ở góc nâng 45°, trong khi nòng súng có tuổi thọ 344 phát[22] (so sánh với kiểu pháo 406 mm (16 inch)/50 caliber Mark 7 của lớp Iowa, những chiếc Alaska có thể bắn nhiều hơn 54 phát).[24]Các tháp pháo của chúng rất giống như những chiếc trên lớp thiết giáp hạm Iowa, nhưng có những khác biệt ở nhiều điểm; ví dụ, lớp Alaska có một thang nâng thuốc đạn hai tầng, thay vì chỉ có một tầng như trên lớp Iowa. Sự khác biệt này giúp cho việc sử dụng khẩu pháo an toàn hơn và gia tăng tốc độ bắn. Ngoài ra, một "que thông đầu đạn" được bổ sung cho Alaska và Guam. Thiết bị này chuyển đầu đạn từ kho chứa đến vòng xoay để có thể nạp vào các khẩu pháo. Tuy nhiên, đặc tính này tỏ ra không thật hiệu quả, nên đã không dự định trang bị cho Hawaii hay mọi tàu khác sau đó.[22]Vì Alaska và Guam là duy nhất hai tàu chiến được trang bị kiểu pháo này, chỉ có mười tháp pháo được chế tạo trong suốt cuộc chiến tranh (ba chiếc cho mỗi con tàu kể cả Hawaii và một chiếc dự phòng).Chúng có phí tổn đối với Hải quân lên đến 1.550.000 Đô-la mỗi chiếc, và là những tháp pháo hạng nặng đắt tiền nhất mà Hải quân Mỹ từng mua trong Thế Chiến II.[17]
Dàn pháo hạng hai
Dàn pháo hạng hai của lớp Alaska bao gồm 12 khẩu pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber mục đích kép (chống tàu và phòng không) trên những tháp pháo nòng đôi, một ở mỗi góc của cấu trúc thượng tầng và một trước và sau trục dọc con tàu. Pháo 127 mm (5 inch)/38 ban đầu được dự định chỉ để sử dụng trên các tàu khu trục được chế tạo trong 1930, nhưng từ năm 1934 và cho đến tận Thế Chiến II chúng được trang bị trên hầu hết tàu chiến của Hải quân Mỹ, bao gồm tàu sân bay, thiết giáp hạm, tàu khu trục hạng nặng và hạng nhẹ.[25]
Hỏa lực phòng không
Nhằm mục đích phòng không, lớp Alaska mang theo 56 khẩu 40 mm và 34 khẩu 20 mm.Những con số này có thể so sánh với 48 khẩu 40 mm và 24 khẩu 20 mm trên lớp tàu tuần dương hạng nặng Baltimore nhỏ hơn; hoặc với 80 khẩu 40 mm và 49 khẩu 20 mm trên lớp thiết giáp hạm Iowa lớn hơn.[1][26] [27]Được cho là vũ khí phòng không hạng nhẹ hiệu quả nhất trong Thế Chiến II, pháo Bofors 40 mm được sử dụng trên hầu hết các tàu chiến chủ lực của các hạm đội Anh-Mỹ từ năm 1943 đến năm 1945. Cho dù chúng là hậu duệ của các thiết kế Đức và Thụy Điển, các khẩu Bofors được Hải quân Mỹ sử dụng trong Thế Chiến II đã được "Mỹ hóa" đáng kể, nâng kiểu vũ khí này lên đủ tiêu chuẩn của Hải quân Mỹ. Tiêu chuẩn mới này đưa đến một hệ thống súng đạn theo tiêu chuẩn Anh (mà ngày nay Hoa Kỳ gọi là Hệ thống Tiêu Chuẩn) với đạn dược có thể thay đổi lẫn nhau được nhằm đơn giản hóa vấn đề tiếp liệu trong Thế Chiến II. Khi được ghép với hệ thống vận hành thủy lực nhằm giảm thiểu việc nhiễm muối mặn, và bộ ngắm Mark 51 để cải thiện độ chính xác, pháo Bofors 40 mm trở thành một kẻ thù đáng sợ, với thành tích tiêu diệt gần phân nữa tổng số máy bay Nhật Bản bị bắn rơi từ ngày 1 tháng 10 năm 1944 đến ngày 1 tháng 2 năm 1945.[28]Kiểu pháo phòng không Oerlikon 20 mm là một trong những vũ khí phòng không được sử dụng rộng rãi nhất trong Thế Chiến II; riêng người Mỹ đã sản xuất tổng cộng 124.735 khẩu. Khi được giới thiệu vào năm 1941, chúng thay thế cho súng máy M2 Browning 0,50 inch trên căn bản một-đổi-một. Pháo Oerlikon là vũ khí phòng không hàng đầu của Hải quân Mỹ cho đến khi Bofors 40 mm được giới thiệu vào năm 1943.[29]
Khả năng cải biến thành tàu sân bay
Còn có thêm một thay đổi lớn khác được cân nhắc đến trong giai đoạn "khủng hoảng tàu sân bay" vào đầu năm 1942. Ở thời điểm này, khi chiếc Saratoga bị loại khỏi vòng chiến ít nhất cho đến tháng 5 sau khi bị hư hại do ngư lôi và Lexington bị mất trong trận chiến biển Coral, Hải quân và Tổng thống nhận ra rằng Hoa Kỳ cần có thêm tàu sân bay càng nhanh càng tốt. Kết quả là, Văn phòng Tàu chiến quyết định cải biến một số lườn tàu vốn đang được chế tạo thành tàu sân bay. Vào nhiều dịp khác nhau trong năm 1942, họ từng cân nhắc việc cải biến một phần hay tất cả các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland, tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Baltimore, lớp Alaska, hoặc ngay cả một thiết giáp hạm lớp Iowa; cuối cùng họ đã chọn Cleveland.[30]Ý tưởng cải biến các tàu tuần dương lớp Alaska thành những tàu sân bay tỏ ra "đặc biệt hứa hẹn"[30] vì nhiều điểm tương đồng trong thiết kế của lớp tàu sân bay Essex và của lớp Alaska, kể cả việc cùng có một hệ thống động lực.[31] Tuy nhiên, khi so sánh các tàu tuần dương Alaska với các tàu sân bay Essex, chiếc tàu tuần dương cải biến sẽ có một sàn đáp ngắn hơn nên chỉ mang theo được 90% số máy bay,[30] thấp hơn 3,4 m (11 ft) trên mặt nước, và hành trình đi được sẽ ít hơn 13.000 km (8.000 dặm) ở tốc độ 28 km/h (15 knot). Hơn nữa, thiết kế của tàu tuần dương lớn không bao gồm một sự bảo vệ dưới mặt nước thỏa đáng như trên các tàu sân bay thông thường do phải dành trọng lượng vỏ giáp cho việc chống đỡ đạn pháo. Cuối cùng, việc cải biến một chiếc Alaska không đáp ứng mục đích của Hải quân có được tàu sân bay một cách nhanh chóng, vì những công việc cần làm để cải biến chúng thành tàu sân bay đưa đến những sự trì hoãn. Với tất cả những vấn đề đó, mọi kế hoạch cải biến lớp Alaska đều chấm dứt vào ngày 7 tháng 1 năm 1942.[32]
Chế tạo
Trong số sáu chiếc lớp Alaska được vạch kế hoạch, chỉ có ba chiếc được đặt lườn, và chỉ có hai chiếc đầu tiên, Alaska và Guam, được hoàn tất. Việc chế tạo chiếc thứ ba Hawaii bị ngưng lại vào ngày 16 tháng 4 năm 1947 khi nó hoàn tất được 84%.[3][14] Ba chiếc cuối cùng, Philippines, Puerto Rico và Samoa bị trì hoãn do mọi nguồn tài nguyên về nguyên liệu và ụ đóng tàu được dành cho những con tàu có độ ưu tiên cao hơn, như tàu sân bay, tàu khu trục và tàu ngầm. Công việc chế tạo vẫn chưa được bắt đầu khi thép trở nên hiếm hoi, [33] và khi nhận thức rằng những con tàu "diệt tàu tuần dương" này không còn mục tiêu để săn đuổi, khi mà hạm đội tàu tuần dương Nhật Bản đã bị đánh bại bởi máy bay và tàu ngầm, làm cho Alaska trở thành những con "bạch tượng".[6] Kết quả là, việc chế tạo ba chiếc cuối cùng của lớp Alaska không bao giờ được bắt đầu, và chúng bị chính thức hủy bỏ vào ngày 24 tháng 6 năm 1943.[34][35][36]
Lịch sử hoạt động
Alaska và Guam phục vụ cùng Hải quân Mỹ trong những năm cuối cùng của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tương tự như những thiết giáp hạm nhanh thuộc lớp Iowa, tốc độ nhanh của chúng tỏ ra hữu ích trong vai trò bắn phá bờ biển và hộ tống các tàu sân bay nhanh.Cả hai đã bảo vệ cho tàu sân bay Franklin khi chiếc này rút lui về Guam để sửa chữa sau khi bị Nhật đánh trúng hai quả bom. Sau đó, Alaska hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa, trong khi Guam đi đến vịnh San Pedro trở thành soái hạm của một lực lượng đặc nhiệm mới, Lực lượng Đặc nhiệm Tuần dương 95. Được tháp tùng bởi Alaska, bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, Guam dẫn đầu đội đặc nhiệm tiến vào biển Đông Trung Quốc và Hoàng Hải truy tìm và tiêu diệt tàu bè đối phương, nhưng chỉ bắt gặp những thuyền buồm Trung Quốc.[1][2] Khi chiến tranh kết thúc, chúng đang đảm trách vai trò hộ tống các tàu sân bay.[8]Sau chiến tranh, cả hai con tàu được cho ngừng hoạt động và đưa về Hạm đội dự bị vào năm 1947[1][2] chỉ sau khi phục vụ được 32 và 29 tháng tương ứng.[19] Vào năm 1958, Văn phòng Tàu chiến chuẩn bị hai nghiên cứu khả thi nhằm khảo sát khả năng có thể cải biến phù hợp Alaska và Guam thành những tàu tuần dương trang bị tên lửa điều khiển. Nghiên cứu thứ nhất bao gồm việc tháo dỡ toàn bộ các khẩu pháo để trang bị bốn hệ thống tên lửa khác nhau; nhưng với chi phí lên đến 160 triệu Đô-la, đề nghị này hoàn toàn không khả thi, nên một nghiên cứu thứ hai được tiến hành.Phương án này để lại toàn bộ các tháp pháo phía trước (hai tháp pháo 305 mm ba nòng và ba tháp pháo 127 mm nòng đôi), và bổ sung các hệ thống tên lửa đã được cắt giảm phía đuôi tàu.Cho dù đề nghị này chỉ tốn khoảng phân nữa so với kế hoạch trước (82 triệu Đô-la), nó vẫn bị xem là quá đắt.[37] Kết quả là cả hai con tàu đều bị rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1960. Alaska bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 6 năm 1960, và Guam vào ngày 24 tháng 5 năm 1961[1][2]Trước đó, con tàu thứ ba trong lớp chưa được hoàn tất Hawaii từng được cân nhắc để cải biến thành chiếc tàu tuần dương đầu tiên của Hải quân trang bị tên lửa điều khiển;[A 10] và việc này kéo dài cho đến ngày 26 tháng 2 năm 1952, khi một phương án cải biến khác được đề nghị nhằm biến nó thành một tàu chỉ huy lớn. Nhắm trước cho việc cải biến, ký hiệu lườn của con tàu được thay đổi từ CB-3 thành CBC-1. Điều này sẽ biến nó thành "tàu chị em lớn" với chiếc Northampton (CLC-1);[6] nhưng một năm rưỡi sau đó, ngày 9 tháng 10 năm 1954, nó quay trở lại ký hiệu CB-3. Hawaii được rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 9 tháng 6 năm 1958 và được bán để tháo dỡ vào năm 1959.[3]
"Tàu tuần dương lớn" hay "tàu chiến-tuần dương"?
Vào lúc bắt đầu của việc phát triển, lớp tàu này sử dụng ký hiệu lườn CC, nhấn mạnh rằng chúng sẽ là những tàu chiến-tuần dương theo truyền thống của lớp Lexington;[A 11] tuy nhiên, ký hiệu này sau đó được đổi thành CB để thể hiện tên mới của chúng, "tàu tuần dương lớn", và mọi khái niệm liên hệ chúng như là những tàu chiến-tuần dương đều bị chính thức phủ nhận.[17] Sau đó Hải quân Mỹ đặt tên mỗi con tàu theo tên các vùng lãnh thổ thuộc Hoa Kỳ hơn là tên các tiểu bang (theo truyền thống dành cho thiết giáp hạm) hoặc thành phố (dành cho các tàu tuần dương), để biểu trưng hóa sự tin tưởng rằng những con tàu này sẽ dự định có một vai trò trung gian giữa tàu tuần dương hạng nặng và thiết giáp hạm.[7]Chúng giống như những thiết giáp hạm đương thời về hình dáng, trọng lượng rẽ nước chỉ ít hơn 5.000 tấn, bố trí dàn pháo chính theo cấu hình quen thuộc 2-A-1,[A 12] chia sẻ cùng một kiểu cột ăn-ten dạng cột lớn, và mang các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber đa dụng dọc hai bên của cấu trúc thượng tầng, cho dù các thiết giáp hạm có tám (lớp tàu cũ đươc tái trang bị) hoặc mười (sau lớp South Dakota) khẩu đội 127 mm (5 inch)/38 nòng đôi hai bên lườn trong khi các tàu tuần dương Alaska chỉ có sáu khẩu đội: một ở mỗi góc của cấu trúc thượng tầng và một trước và sau trục dọc con tàu.[38][39]Có hai điểm tranh luận chính để có thể xem lớp Alaska như những "tàu tuần dương lớn".Trước tiên là lớp vỏ giáp; trong khi chúng chịu đựng được nhiều hỏa lực pháo hơn bất kỳ chiếc tàu tuần dương nào, Alaska hầu như không thể tự vệ trước ngư lôi vì chúng hoàn toàn không có các ngăn kín nước trong lườn tàu và không có đai giáp chống ngư lôi.Việc thiếu sót một sự bảo vệ dưới mực ngấn nước cũng làm cho chúng mong manh trước các quả đạn pháo rơi ngay trước mục tiêu và tiếp tục hành trình dưới nước trước khi đánh trúng lườn tàu.[7] Thêm vào đó, lớp vỏ giáp của chúng đã tới sát giới hạn có thể ngăn chặn đạn pháo 305 mm (12 inch);[40] Chúng mong manh trước hỏa lực của thiết giáp hạm cỡ 355-406 mm (14-16 inch) ở mọi khoảng cách.[41] Lập luận thứ hai hoàn toàn dựa trên thiết kế của chúng. Việc chế tạo lớp Alaska ngay từ lúc đặt lườn là một phiên bản mở rộng của một tàu tuần dương hạng nặng theo hiệp ước, mà cuối cùng được giải tỏa không bị ràng buộc bởi các hiệp ước hải quân Washington, London và London thứ hai.[6] Ngoài ra, cho dù lớn hơn nhiều so với lớp Baltimore, dàn pháo hạng hai của các "tàu tuần dương lớn" chỉ hơi nhỉnh hơn. Trong khi Alaska mang 12 khẩu 127 mm (5 inch)/38, 56 khẩu 40 mm và 34 khẩu 20 mm, lớp Baltimore có cùng số lượng pháo 127 mm (5 inch)/38 và chỉ ít hơn 8 khẩu 40 mm và 10 khẩu 20 mm.[6] Thêm vào tất cả những điều đó, tác giả Richard Worth nhấn mạnh rằng khi cuối cùng được hạ thủy, hoàn tất và đưa vào sử dụng, chúng "có kích cỡ của một thiết giáp hạm nhưng có khả năng của một tàu tuần dương".[7]Bất chấp những đặc tính giống như tàu tuần dương và sự khẳng định của Hải quân Mỹ về tình trạng của chúng, lớp Alaska vẫn thường được mô tả như những tàu chiến-tuần dương vào thời đó.[42] Một số sử gia hiện đại cũng có quan điểm cho rằng đây là cách xếp lớp chính xác hơn, vì họ tin rằng đây là "những tàu chiến-tuần dương thực sự, theo mọi khía cạnh của từ ngữ", với mọi sự mong manh vốn có của kiểu tàu này.[9] Khái niệm tàu chiến-tuần dương theo truyền thống Anh-Mỹ luôn luôn hy sinh sự bảo vệ để đổi lấy tốc độ và hỏa lực, có nghĩa là chúng không dự định để chịu đựng cỡ pháo mà bản thân chúng mang theo.[43][41] Lớp Alaska có tỉ lệ trọng lượng vỏ giáp chiếm 28,4%, hơi ít hơn so với các kiểu tàu chiến-tuần dương và thiết giáp hạm nhanh đương thời, khi lớp thiết giáp hạm King George V, tàu chiến-tuần dương Hood và lớp thiết giáp hạm Iowa có tỉ lệ trọng lượng vỏ giáp giữa 32 và 33%. Trong thực tế, các tàu chiến-tuần dương cũ, như là lớp Invincible, có tỉ lệ trọng lượng vỏ giáp ít hơn đáng kể (19,9%).[44] Ở khía cạnh trọng lượng rẽ nước, lớp Alaska nặng gần gấp đôi những chiếc tàu tuần dương mới nhất (lớp Baltimore).[42] Thêm vào đó, chúng có cỡ pháo chính lớn hơn rất nhiều; trong khi lớp Alaska mang chín khẩu pháo 305 mm (12 inch)/50, vốn có khả năng tương đương nếu không nói là tốt hơn pháo 355 mm (14 inch)/50 kiểu cũ được sử dụng trên các thiết giáp hạm Mỹ trước hiệp ước,[22] lớp Baltimore chỉ có số lượng tương đương pháo 203 mm (8 inch)/55 Mark 12 hoặc 15.[45]
Những chiếc trong lớp
USS Alaska (CB-1) được đưa vào hoạt động ngày 17 tháng 6 năm 1944. Nó phục vụ tại Thái Bình Dương, hộ tống các tàu sân bay và bắn pháo hỗ trợ xuống Okinawa trước khi hoạt động tiêu diệt tàu bè đối phương trong biển Đông Trung Quốc. Alaska được cho ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947 sau khi hoạt động không đầy ba năm, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 6 năm 1960.[1]USS Guam (CB-2) được đưa vào hoạt động ngày 17 tháng 9 năm 1944. Nó phục vụ tại Thái Bình Dương cùng chung với Alaska trong hầu hết các hoạt động; rồi cùng với Alaska, nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 6 năm 1961.[2]USS Hawaii (CB-3) được dự định là chiếc thứ ba trong lớp, nhưng nó chưa bao giờ được hoàn tất. Nhiều kế hoạch dự định cải biến nó thành tàu tuần dương trang bị tên lửa điều khiển hay tàu chỉ huy lớn trong những năm sau chiến tranh đều không khả thi, và nó bị tháo dỡ vào năm 1959.[3]USS Philippines (CB-4) được dự định là chiếc thứ tư trong lớp. Nó được dự tính sẽ chế tạo tại Camden, New Jersey, nhưng bị hủy bỏ trước khi bắt đầu.[34]USS Puerto Rico (CB-5) được dự định là chiếc thứ năm trong lớp. Nó được dự tính sẽ chế tạo tại Camden, New Jersey, nhưng bị hủy bỏ trước khi bắt đầu. [35]USS Samoa (CB-6) được dự định là chiếc thứ sáu trong lớp. Nó được dự tính sẽ chế tạo tại Camden, New Jersey, nhưng bị hủy bỏ trước khi bắt đầu
Đặt hàng:9 tháng 9 năm 1940
Lớp tàu:Lớp tàu tuần dương Alaska[A 1]
Xưởng đóng tàu:New York Shipbuilding Corporation [1]
Đặt lườn:17 tháng 12 năm 1941
Hạ thủy:15 tháng 8 năm 1943
Đỡ đầu:Ernest Gruening
Hoạt động: 17 tháng 6 năm 1944
Bị mất:Bị bán để tháo dỡ ngày 30 tháng 6 năm 1960
Ngừng hoạt động:17 tháng 2 năm 1947
Xóa đăng bạ:1 tháng 6 năm 1960
Tặng thưởng:3 Ngôi sao Chiến đấu
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước:29.779 tấn (tiêu chuẩn)34.253 tấn (đầy tải)[2]
Chiều dài: 246,4 m (808 ft 6 in) [2]
Mạn thuyền:28 m (91 ft 9 in) [2]
Tầm nước: 8,26 m (27 ft 1 in)[1]9,7 m (31 ft 9 in) (tối đa)[2]
Lực đẩy:4 × Turbine hơi nước General Electric [3]8 × nồi hơi Babcock & Wilcox [4]4 × trục công suất 150.000 mã lực (112 MW) [2]
Tốc độ:58 km/h (31,4 knot)[5]
Tầm xa:22.000 km ở tốc độ 28 km/h(12.000 hải lý ở tốc độ 15 knot) [2]
Quân số:1,517[4][6] - 1.799[7] -2.251[1][5][A 2]
Vũ khí:9 × pháo 305 mm (12 inch)/50 Mark 8[2] (3×3)12 × pháo 127 mm (5 inch)/38 đa dụng[3][2] (6×2)[3]56 × pháo phòng không Bofors 40 mm (1,57 inch)[2] (14×4)34 × pháo phòng không Oerlikon 20 mm (34×1)[2][3]
Vỏ giáp:Đai giáp hông chính: 127-229 mm (5-9 inch) [4]Sàn bọc thép: 97-101 mm (3,8-4,0 inch)[4]Sàn tàu chính: 36 mm (1,40 inch)[2][4]Sàn thứ ba: 16 mm (0,625 inch)[4]Tháp súng nhỏ: 279-330 mm (11-13 inch)[4]Tháp pháo: trước mặt 325 mm (12,8 inch), trần 127 mm (5 inch), hông 133-152 mm (5,25-6 inch) và phía sau 133 mm (5,25 inch).[4]Tháp chỉ huy:269 mm (10,6 inch) với nóc 127 mm (5 inch)[4][6]
Máy bay:4× OS2U Kingfisher hoặc SC Seahawk[8][A 3] Hầm máy bay kín[4] giữa tàu[9]
USS Alaska (CB-1), chiếc tàu thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo vùng quốc hải lúc đó và tiểu bang hiện nay, là chiếc dẫn đầu của lớp Alaska vốn dự tính bao gồm sáu tàu tuần dương lớn.[10][A 4] Không giống thông lệ đang có trong việc đặt tên thiết giáp hạm hay tàu tuần dương của Mỹ,[A 5] tất cả những chiếc trong lớp, kể cả Alaska, đều được đặt tên theo "lãnh thổ hoặc vùng quốc hải" của Hoa Kỳ nhằm nhấn mạnh vai trò trung gian của chúng giữa thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng hay hạng nhẹ thông thường.[11][A 6]Khi lớp tàu của nó được đặt hàng vào ngày 9 tháng 9 năm 1940, nó đưa đến sự ngạc nhiên cho nhiều người vì Hải quân Mỹ chưa bao giờ hoàn tất một tàu chiến-tuần dương trong suốt lịch sử của nó, ngay cả vào giai đoạn cực thịnh của kiểu tàu này trong những năm 1906- 1916.[6][A 7] Tuy nhiên, việc chế tạo được xúc tiến, và ba chiếc đầu tiên của lớp là Alaska, Guam và Hawaii lần lượt được đặt lườn tại hãng New York Shipbuilding Corporation thuộc Camden, New Jersey vào các ngày 17 tháng 12 năm 1941, 2 tháng 2 năm 1942 và 20 tháng 12 năm 1943.Alaska được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8 năm 1943, và được đưa ra hoạt động 11 tháng sau đó vào ngày 17 tháng 6 năm 1944. Sau nhiều lần chạy thử và một vài thay đổi, nó đi sang khu vực mặt trận Thái Bình Dương vào tháng 12 năm đó, đến San Diego ngày 12 tháng 12. Tiếp tục lên đường hướng sang Tây Thái Bình Dương, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58 tại Ulithi vào ngày 10 tháng 2 năm 1945, và toàn bộ lực lượng này tấn công các đảo chính quốc Nhật Bản. Alaska thực hiện việc hộ tống cho lực lượng này, đặc biệt là các tàu sân bay, trong suốt tháng tiếp theo; nhưng vào ngày 19 tháng 3, sau khi tàu sân bay Franklin bị đánh trúng hai quả bom và bị buộc phải rút lui, một lực lượng hộ tống được hình thành bao gồm cả Alaska lẫn con tàu chị em Guam được hình thành để dẫn dắt con tàu sân bay hư hỏng quay trở lại Guam. Alaska tách khỏi lực lượng này vào ngày 22 tháng 3, tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ các tàu sân bay khi chúng đang tung ra các cuộc không kích nhắm vào Okinawa. Sau khi nả pháo xuống một hòn đảo nhỏ, nó lại lên đường hướng đến Ulithi, nơi nó gia nhập Đệ Tam hạm đội.Trong hai tuần tiếp theo, nó bảo vệ các tàu sân bay của Đệ Tam hạm đội, sau đó Alaska cùng với tàu chị em Guam hướng đến Đông Hải tấn công các tàu bè Nhật Bản, và tiếp tục công việc này cho đến khi chiến tranh kết thúc. Sau khi thực hiện việc biểu dương lực lượng tại một số cảng, nó hỗ trợ cho việc đổ bộ lên miền Bắc Trung Quốc. Sau đó nó lên đường quay về Xưởng hải quân Boston, đến nơi vào ngày 18 tháng 12. Được chuẩn bị để cho ngừng hoạt động, nó được bố trí một chỗ neo đậu vĩnh viễn tại Bayonne, New Jersey; và vào ngày 13 tháng 8 năm 1946 nó được đưa vào lực lượng dự bị. Alaska chính thức ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947.Cho dù có những đề nghị nhằm cải biến Alaska và tàu chị em với nó Guam thành những tàu tuần dương trang bị tên lửa điều khiển, Alaska vẫn bị rút khỏi Danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1960 và được bán vào ngày 30 tháng 6 năm 1960 cho chi nhánh Lipsett của hãng Luria Brothers tại New York và được tháo dỡ sau đó.
Thiết kế và chế tạo
Bối cảnh
Việc phát triển kiểu tàu tuần dương hạng nặng được tiến triển đều đặn giữa Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington và những hiệp định tiếp theo sau. Trong Hiệp ước này, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italy đồng ý giới hạn trọng lượng rẽ nước của tàu tuần dương hạng nặng ở mức 10.000 tấn và hải pháo cỡ nòng 203 mm (8 inch). Vì vậy, các tàu tuần dương Mỹ được thiết kế giữa hai cuộc thế chiến đều tuân thủ theo hạn ngạch này. Sau khi Hiệp ước bị mất hiệu lực vào năm 1939, thiết kế được mở rộng đôi chút thành lớp Baltimore.Ý tưởng về một lớp tàu chiến-tuần dương Mỹ bắt đầu vào đầu những năm 1930, khi Hải quân Mỹ muốn đối phó lại cả những chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" thuộc lớp Deutschland của Đức lẫn một lớp tàu chiến-tuần dương mới [10] mà người ta tưởng tượng rằng Nhật Bản đang chế tạo.[13][A 8] Lớp Alaska được dự định để hoạt động như những "tàu diệt tàu tuần dương", có khả năng truy tìm và tiêu diệt các tàu tuần dương hạng nặng "sau Hiệp ước".Để đạt được những mục tiêu đó, lớp tàu được trang bị súng có cỡ nòng lớn hơn trên một thiết kế mới và đắt tiền, lớp vỏ giáp giới hạn ở mức chống chọi được đạn pháo 305 mm (12 inch), và hệ thống động lực có thể đạt tốc độ tối đa khoảng 58-61 km/h (31-33 knot).Công việc thiết kế lớp Alaska được thúc đẩy nhanh vào cuối những năm 1930 sau khi các báo cáo tình báo cho rằng Nhật Bản đang vạch kế hoạch hoặc đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn nhiều so với các tàu tuần dương Mỹ hạng nặng.Hải quân Mỹ phản ứng lại vào năm 1938, khi Ban chỉ huy Hải quân Mỹ gửi một yêu cầu đến Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa về một "nghiên cứu toàn diện về mọi loại tàu hải quân để cân nhắc về một chương trình chế tạo mới mở rộng".[16] Tổng thống Mỹ vào lúc đó, Franklin Delano Roosevelt, có thể đã đóng vai trò chính trong việc phát triển lớp tàu này[17] bởi mong ước của ông có thể đáp trả khả năng tấn công của các tàu tuần dương Nhật và thiết giáp hạm bỏ túi Đức,[18] vốn đã khiến cho chúng được gọi là một sự "động viên chính trị",[19] nhưng những nhận xét như vậy thật khó mà làm rõ được.[4][17]
Thiết kế
Một sử gia đã mô tả quá trình thiết kế lớp Alaska là một sự "dày vò đau khổ" do nhiều thay đổi và cải biến trên thiết kế của con tàu bởi nhiều cá nhân và bộ phận.[13] Thực ra, kế hoạch đưa đến ít nhất chín thiết kế khác nhau,[20] trải từ thiết kế như kiểu tàu tuần dương phòng không 6.000 tấn thuộc lớp Atlanta[21] cho đến các kiểu tàu tuần dương hạng nặng "phình to"[13] và một kiểu thiết giáp hạm tí hon tải trọng 38.000 tấn trang bị 12 pháo 305 mm (12 inch) và 16 pháo 127 mm (5 inch).[21] Nhằm mục đích giữ cho tải trọng con tàu dưới mức 25.000 tấn, Ban chỉ huy Hải quân đã cho phép các thiết kế chỉ có sự bảo vệ hạn chế bên dưới mực ngấn nước. Kết quả là khi chế tạo, lớp Alaska khá mong manh trước ngư lôi và đạn pháo rơi trước con tàu.[22] Thiết kế cuối cùng được chọn là một phiên bản mở rộng của lớp tàu tuần dương hạng nặng Baltimore có hệ thống động lực giống như của lớp tàu sân bay Essex. Con tàu này kết hợp dàn pháo chính gồm chín khẩu 305 mm (12 inch) cùng vỏ giáp bảo vệ đủ để chống lại đạn pháo 254 mm (10 inch) trong một thân tàu có khả năng di chuyển 61 km/h (33 knot).[15] Vào lúc bắt đầu của việc phát triển, lớp tàu này sử dụng ký hiệu lườn CC, nhấn mạnh rằng chúng sẽ là những tàu chiến-tuần dương theo truyền thống của lớp Lexington;[A 10] tuy nhiên, ký hiệu này sau đó được đổi thành CB để thể hiện tên mới của chúng, "tàu tuần dương lớn", và mọi khái niện liên hệ chúng như là những tàu chiến-tuần dương đều bị chính thức phủ nhận.Lớp tàu mới được chính thức đặt hàng vào tháng 9 năm 1940 cùng với một số lượng lớn đến mức thừa thãi các tàu chiến khác như một phần của Đạo luật Hải quân hai đại dương.[9][23][A 11] Vai trò của chiếc tàu chiến mới cũng thay đổi đôi chút; ngoài vai trò đối chiến trên mặt biển, chúng còn được sử dụng để bảo vệ các tàu sân bay. Vì có được cỡ pháo lớn hơn, tích thước lớn và tốc độ cao, chúng có giá trị hơn trong vai trò này hơn các tàu tuần dương hạng nặng, và chúng cũng là đảm bảo cho các báo cáo tình báo rằng Nhật Bản đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn các tàu tuần dương Mỹ.[9]
Cải biến thành tàu sân bay
Còn có thêm một thay đổi lớn khác được cân nhắc đến trong giai đoạn "khủng hoảng tàu sân bay" vào đầu năm 1942, khi Hải quân và Tổng thống nhận ra rằng những chiếc tàu sân bay hạm đội mới, lớp Essex, không thể đưa ra hoạt động trước năm 1944,[A 12]đã quyết định cải biến một số lườn tàu vốn đang được chế tạo thành tàu sân bay. Vào nhiều dịp khác nhau trong năm 1942, họ từng cân nhắc việc cải biến một phần hay tất cả các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland, tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Baltimore, lớp Alaska, hoặc ngay cả một thiết giáp hạm lớp Iowa; cuối cùng họ đã chọn Cleveland.[24] Ý tưởng cải biến các tàu tuần dương lớp Alaska thành những tàu sân bay tỏ ra "đặc biệt hứa hẹn"[24] vì nhiều điểm tương đồng trong thiết kế của lớp tàu sân bay Essex và của lớp Alaska, kể cả việc cùng có một hệ thống động lực.[10] Tuy nhiên, khi so sánh các tàu tuần dương Alaska với các tàu sân bay Essex, chiếc tàu tuần dương cải biến sẽ có một sàn đáp ngắn hơn nên chỉ mang theo được 90% số máy bay,[24] thấp hơn 3,4 m (11 ft) trên mặt nước, và hành trình đi được sẽ ít hơn 13.000 km (8.000 dặm) ở tốc độ 28 km/h (15 knot). Hơn nữa, thiết kế của tàu tuần dương lớn không bao gồm một sự bảo vệ dưới mặt nước thỏa đáng như trên các tàu sân bay thông thường do phải dành trọng lượng vỏ giáp cho việc chống đỡ đạn pháo. Cuối cùng, lớp Cleveland được chọn vì yếu tố lớn nhất là "tốc độ chế tạo", chỉ tìm thấy trên lớp Cleveland mà không có trên bất cứ lớp nào khác.[25] Chín chiếc Cleveland được cải biến thành lớp tàu sân bay hạng nhẹ Independence, và việc chế tạo lớp Essex được đẩy nhanh đến mức có bảy chiếc được đưa ra hoạt động trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1942 đến tháng 11 năm 1943, sớm hơn nhiều so với mục tiêu 1944 đặt ra ban đầu. Kế hoạch cải biến Alaska bị hủy bỏ.
Chế tạo
Alaska được đặt lườn vào ngày 17 tháng 12 năm 1941 tại Camden, New Jersey bởi hãng đóng tàu New York Shipbuilding Corporation. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8 năm 1943; được đỡ đầu bởi Ernest Gruening, và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 17 tháng 6 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Peter K. Fischler.[1]
Lịch sử hoạt động
Sau khi được trang bị hoàn tất tại Xưởng hải quân Philadelphia, Alaska di chuyển dọc theo sông Delaware vào ngày 6 tháng 8 năm 1944 hướng đến Hampton Roads, được hộ tống bởi các tàu khu trục Simpson và Broome. Sau đó nó tiến hành một chuyến chạy thử máy "tích cực", bắt đầu từ vịnh Chesapeake di chuyển đến vịnh Paria ngoài khơi Trinidad ở Tây Ấn thuộc Anh, lần này được hộ tống bởi các tàu khu trục Bainbridge và Decatur. Sau tất cả các thử nghiệm trên, nó hướng đến Xưởng hải quân Philadelphia ngang qua Annapolis, Maryland và Norfolk để thực hiện các hiệu chỉnh và thay đổi cho hệ thống kiểm soát hỏa lực, trang bị bốn bộ hướng dẫn hỏa lực Mk. 57 cho dàn pháo 127 mm (5 inch).Alaska khởi hành từ Philadelphia vào ngày 12 tháng 11 năm 1944 hướng đến khu vực Caribbe cùng với tàu khu trục Thomas E. Fraser, và sau hai tuần chạy thử máy để tiêu chuẩn hóa ngoài khơi vịnh Guantanamo tại Cuba, nó lên đường hướng sang Thái Bình Dương vào ngày 2 tháng 12. Nó hoàn tất chuyến đi vượt kênh đào Panama ngày 4 tháng 12 và đến San Diego ngày 12 tháng 12. Từ đó, chiếc "tàu tuần dương lớn" thực hành bắn pháo bờ biển và tác xạ phòng không tại khu vực ngoài khơi San Diego.[1]
Tây Thái Bình Dương
Ngày 8 tháng 1 năm 1945, Alaska khởi hành đi Hawaii, đến Trân Châu Cảng vào ngày 13 tháng 1, nơi mà vào ngày 27 tháng 1 quyền chỉ huy con tàu được Đại tá Kenneth H. Noble thay thế cho Thuyền trưởng Fischler, vốn được thăng lên Chuẩn Đô đốc. Trong những ngày tiếp theo sau, Alaska tiến hành thêm các cuộc huấn luyện trước khi lên đường như một đơn vị của Đội Đặc nhiệm 12.2 hướng sang khu vực Tây Thái Bình Dương vào ngày 29 tháng 1. Nó đến Ulithi, nơi thả neo của hạm đội thuộc quần đảo Caroline, vào ngày 6 tháng 2, rồi sau đó gia nhập Đội Đặc nhiệm 58.5, một đơn vị thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 58 "nổi tiếng", tức lực lượng các tàu sân bay nhanh
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro