TẠP VĂN-Lenghiabk05
Ký ức cá rô đồng
14/06/2011 9:00
(TNTS) Thật kỳ lạ, đã trải qua hơn 20 năm, nhưng cái mùi thơm nức mũi khi thím tôi nướng những chú cá rô đồng vẫn còn đọng lại trong chị em tôi, chưa bao giờ phai nhạt…
Đó là những năm tôi học cấp 2. Mùa hè, ba má thường cho chị em tôi về quê, gọi là thưởng sau 9 tháng trời học hành căng thẳng. Và đó luôn là quãng thời gian đẹp nhất đối với chị em tôi.
Tôi còn nhớ, thằng em con chú vốn quen việc đồng áng, da đen nhẻm, tóc vàng hoe vì cháy nắng, rủ chị em tôi trốn ngủ trưa ra đồng bắt cá. Đó là một cái ao nhỏ xíu, nằm ngay bên những cánh đồng đang mùa chín tới. Ao cạn nước, bên dưới đầy bùn. Thằng em nhanh chóng nhảy xuống, dùng gầu mang theo tát nước thật nhanh. Sau đó, nó nhanh nhảu dùng vợt, rồi dùng cả tay tống bay lên trời những chú cá to bằng bàn tay. Những chú cá bay lên không trung rồi đáp lên bãi cỏ ngay bên cạnh ao, nằm quẫy trong tuyệt vọng. Mất gần 2 tiếng đồng hồ vật lộn dưới ao, chúng tôi đã thu được thành quả với hơn 50 chú cá rô béo ú. Tất cả được bỏ vào chiếc xô mang theo, đem về giao cho thím tôi.
Thằng em nháy mắt: “Mọi hôm má đem bán bớt, chỉ cho ăn 4-5 con, hôm nay có anh chị chắc được ăn tất cả đây!”. Quả vậy, thím tôi mang toàn bộ cá ra, rửa sạch sẽ và bắt đầu nhen than. Những chú cá được đưa lên lò than cháy rực. Thêm một chút dầu phụng được tẩm lên, thơm nức mũi khiến mấy đứa tôi cứ nhấp nhổm không yên.
Chưa hết, thím bắt đầu phi hành, thả những con cá rô vào chiên, sau đó đi làm mắm ớt, tỏi. Bữa cơm hôm ấy, tôi chưa bao giờ thấy ngon như vậy. Gắp một miếng thịt cá rô béo nhẫy, thơm phưng phức, chấm vào chén mắm ớt tỏi, chẳng thể cao lương mỹ vị nào sánh bằng. Thằng em trai tôi vốn kén ăn mà làm một lèo hết bốn chén cơm ụ. Kết thúc bữa ăn rồi mà đứa nào cũng thòm thèm. Thằng con chú thì thào: “Mai em dẫn đi bắt cá nữa hỉ!” làm chúng tôi sướng rơn.
Nhưng rồi thằng em con chú không thực hiện được lời hứa đó, vì nhà có việc nên ba má đưa chị em tôi về quê ngay sáng hôm sau. Sau này, nghe chị em tôi nhắc mãi món cá rô đồng của thím, má tôi cũng mua cá rô về. Công đoạn không hề khác, nhưng chị em tôi ăn không thấy ngon như cá rô tự tay bắt tận ngoài đồng...
Tặng vật của biển
22/04/2011 15:28
(TNTS) 1. Chưa đầy sáu tuổi tôi đã ở đất Bắc. Chính xác hơn, gần như cả tuổi thơ của tôi là ở Hà Nội. Theo nhận xét của tôi, người Hà Nội không mặn mà với cá biển. Nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, người ta khai thác triệt để sản phẩm của vùng trồng lúa nước và mầu.
Tương, mắm tôm, mắm tép, mắm cáy… là những thứ quen thuộc thường dùng chứ không mấy ai dùng mắm cái, mắm ruốc, thậm chí nước mắm cũng là thứ không được quan tâm như trong Nam. Hơn nữa, những ngày ấy cá biển cửa hàng mậu dịch bày bán đã ươn, đã hư hỏng tới mức chỉ đáng cho heo ăn, làm sao người ta thích được? Vậy nên ngay từ nhỏ tôi đã không ưa cá biển. “Chim, thu, nụ, đé” - những con cá được “xếp hạng” của đại dương cũng không chinh phục được cái miệng của tôi!
Thế rồi số phận đưa đẩy, tôi sống và làm việc tại một thành phố biển. Thỉnh thoảng vợ đi vắng, con cái thì ở xa, tôi thử dạo chợ. Loanh quanh đầu chợ cuối chợ, đậu phụ, nhộng, thịt gà, thịt vịt, thịt bò, thịt heo, các loại rau… không thiếu thứ gì.
Nhiều nhất vẫn là cá, đa phần là cá biển. Cũng có cá đồng, cá sông nhưng những thứ cá này có mặt chỉ để tránh mang tiếng nghèo cho chợ mà thôi! Như đã nói, tôi không thích cá biển cũng như cá nói chung, nhưng những lát cá thu, cá ngừ to như cái miệng chén tươi roi rói thì thu hút các bà nội trợ ghê lắm.
Theo như dinh dưỡng hiện đại thì cá rất tốt cho sức khỏe. Biết vậy, nhưng cái miệng mình nó từ chối thì mình có cố cũng bằng thừa. Vợ tôi là người biết chăm lo cho chồng. Thấy tôi ít ăn cá cô ấy thường xuyên mua những viên dầu cá có tên Omega 3 của Mỹ, của Úc rồi nhắc tôi uống hằng ngày. Nghe nói những viên thuốc hay đúng hơn là thực phẩm chức năng này được đặc chế từ mỡ cá vùng Alaska quanh năm lạnh giá, chất lượng cực tốt.
Từ khi có những viên Omega tôi càng xa lánh món cá - cá hấp, cá nướng, cá kho, cá chưng tương, cá nấu chua… chi chi cũng vậy!
Có lần bạn tôi rủ ra ngoài bè cá. Chúng tôi xuất trình chứng minh thư cho bộ đội biên phòng, trước khi đặt chân lên một con tàu nhỏ. Bè cá cách bờ không xa, nhưng mình vẫn có cảm giác chơi vơi. Cá cam, tôm hùm bơi lội tung tăng - muốn con nào thì chỉ.
Chúng tôi ăn cá cam sống, ăn tôm hùm hoa chấm sốt. Phải công nhận rất ngon và… rất đắt! Giá một con tôm hùm hoa cả triệu bạc, đắt hơn cả cua gạch Hội An hay hàu sống Lăng Cô. Là thưởng thức cho biết, là thứ không dành cho bữa cơm gia đình…
2. Dành cho gia đình, hằng ngày cho tất cả mọi người Việt, là nước mắm. Thật khó hình dung một ngày thiếu nước mắm. Nhắc đến Phú Quốc, người ta nghĩ ngay tới nước mắm. Nhắc tới nước mắm Nha Trang, người ta tơ tưởng mùi thơm đặc trưng của nước mắm nơi đây. Con cơm thang cơm bạc tới mùa ăm ắp thuyền - nhiều và rẻ.
Những lít nước mắm đủ mọi nhãn hiệu không bao giờ vắng bóng - rẻ và nhiều. Thực lòng tôi không biết nước mắm là gia vị hay thức ăn? Hình như nó là cả hai tùy từng trường hợp. Chén nước mắm không thể thiếu trên mâm cơm gia đình. Chén nước mắm pha cách này cách kia làm thành một cuộc hôn nhân trong rất nhiều món quà - với phở, chả cá, bánh gói, bánh cuốn… Nước mắm không thể không có trong hầu hết các món ăn, làm nên cái hồn của món ăn Việt. Và đối với người Việt, nước mắm là quà tặng vĩ đại của biển cả.
Mẹ tôi thường nói “Nước mắm không ngon con bà hết khéo”!
Rau muống đầu mùa
30/03/2011 12:55
(TNTS) 1. Hồi còn là sinh viên ở nước ngoài, chúng tôi đau đáu rau muống. Rau dền dại chen nhau trên những bãi đất trống, có vẻ không ngon như rau dền quê nhà nhưng dù sao cũng làm vơi đi nỗi nhớ. Những con trai to bằng bàn tay lổm ngổm dưới đáy hồ, lặn một hơi đã bắt được vài ba con. Cháo trai, lại cũng vơi đi nỗi nhớ hương vị quê nhà…
Nhưng rau muống thì dứt khoát không tồn tại trên mặt đất châu Âu. Chẳng có… Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai, chỉ thuần túy nhớ ngọn rau muống cạn, mớ rau muống bè. Nhắm mắt nằm mơ đĩa rau muống luộc, mở mắt tơ tưởng đĩa rau muống xào. Lại đĩa rau sống thật nhiều rau muống chẻ. Thế rồi rau muống khởi nguồn nhớ - bát bún riêu, tô mì Quảng, gắp chả, cá nục kho cuốn ngọn rau muống… Cậu bạn quê Nam Bộ trợn mắt bảo rau muống quê anh to bằng cổ tay, lại béo nên trước khi luộc phải ngâm trong bỗng rượu. Thế mà chẳng ai cãi, chẳng ai bác bỏ, cả bọn nuốt nước miếng ừng ực. Chỉ có cô bạn quê Bắc tủm tỉm cười, khoe cái răng khểnh để thương để nhớ cho bao chàng trai sau này…
Là vì cô bạn quê Bắc nhớ ngọn rau muống đầu mùa. Rau muống quanh năm suốt tháng, nhưng kể từ tháng chín “nàng dâu nhịn cho mẹ chồng” thì rau muống chừng như chát và dai nhanh nhách trong miệng. Đợi… chờ… khi cái rét buốt da buốt thịt nhường chỗ cho ánh nắng ấm áp của một ngày cuối xuân, những gốc rau muống đâm chồi. Chỉ qua một đêm, hai đêm, những cái mầm đã trở thành rau. Thứ rau muống ấy, ăn sống hay luộc, xào cũng đều ngon hết chỗ nói. Sự thể giống như cây chè, phải qua một mùa đông khắc nghiệt mới cho những búp chè tràn nhựa, mới có ấm trà xuân ngon nhất trong năm.
2. Thời buổi giá cả vùn vụt, bước chân ra chợ đã thấy giá hôm nay khác giá hôm qua, thì rau muống đầu mùa là một sự lựa chọn hợp lý. Đã đành giá cá, giá thịt, giá gas, giá điện kéo giá rau lên theo. Nhưng gì thì gì, rau củ trong đa số các trường hợp bao giờ cũng rẻ hơn các thứ khác. Và còn một lý do quan trọng hơn giá cả, là cái miệng người Việt không bao giờ chê rau muống. Hôm nay luộc lấy nước rau dầm sấu hay vắt chanh, ngày mai xào tỏi, ngày mốt nấu canh tôm…
Rau muống không nhiều món, quay đi quay lại chừng ấy, nhưng luôn làm ngon miệng. Nghe chuyện ngày xưa ông Ngô Đình Thục thích món rau muống muối dưa. Lại chuyện người Tàu dùng que xuyên thủng cọng rau muống - khổng tâm thái, rau rỗng ruột - nhồi thịt rồi hấp. Rau muống quê mùa, dân dã, gắn bó với đồng quê, với bao thế hệ con Lạc cháu Hồng, đâu có cầu kỳ rắc rối đến vậy!
Một miền ẩm thực
30/03/2011 12:40
(TNTS) Vùng đất Phú Yên phì nhiêu, bạt ngàn nằm giữa khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Nơi đây có nhiều món ăn độc đáo, đi vào đời sống văn hóa ẩm thực với dấu ấn riêng.
Những món “cây nhà lá vườn”
Làng nghề bánh tráng Hòa Đa (xã An Mỹ, huyện Tuy An) hình thành khá lâu đời. Nơi đây có khoảng 30% hộ gia đình sống bằng nghề làm bánh tráng, được làm từ bột gạo. Bánh ngon là loại bánh dày vừa, đều khổ, tốt nắng, nướng ăn thơm, nhúng nước không dính. Bánh tráng Hòa Đa ăn với thịt heo, cháo lòng, bánh hỏi đã trở thành món ngon hấp dẫn níu chân nhiều du khách.
Có nhiều món ngon nhưng món bánh tráng cuốn thịt heo kèm rau sống hái từ cánh đồng la ghim Hòa Đa, chấm nước mắm nhỉ sóng sánh thơm ngon được ướp từ cá biển Đông với bàn tay của ngư dân làng Yến kèm đĩa ớt xanh rừng được coi là tuyệt đỉnh. Bánh tráng Hòa Đa được coi như một món quà dân dã. Người quê bọc gói cẩn thận làm quà biếu, tặng cho người thân, đơn giản thế nhưng lại nặng nghĩa tình.
Về các xã miền núi của huyện Tuy An, Sơn Hòa, lại được thưởng thức món canh chua lá dít độc đáo chỉ có ở Phú Yên. Lá dít nấu canh chua hợp với nhiều loại hải sản như cá cua hoặc các loại chim rừng, nhưng ngon nhất phải nấu với thịt gà tươi sống. Thịt gà nấu lá dít là món đặc sản. Sướng nhất là ăn món này kèm theo một chén muối ớt rừng giã nhỏ, uống ly rượu nồng. Khi đó mùi thơm, vị chua của lá dít hòa cùng chất béo, ngọt của thịt gà cộng với vị vừa chua vừa cay của ớt trên đầu lưỡi cho ta một bữa ăn thật ưng ý.
Ở xã An Định, huyện Tuy An có một món bình dân ngon lạ, đó là xôi bồ câu ra ràng. Bồ câu ra ràng được chế biến thành nhiều món độc đáo như hầm thuốc bắc, chưng cách thủy, nấu cháo đậu xanh và xáo xôi. Chỉ là gạo nếp bình thường của nhà nông nhưng khi xáo với thịt bồ câu ra ràng ta sẽ có một nồi xôi đầy hương vị. Xôi bồ câu ra ràng được xem là một trong nhiều món ngon hiếm lạ, thơm ngon bổ khỏe.
Độc đáo hải sản tươi
Đầm Ô Loan là một trong nhiều thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Phú Yên. Đầm có nhiều loại hải sản quý hiếm như: tôm, cua, sò huyết, ghẹ, cá vượt, hàu…
Trong các loại hải sản trên, hàu là một loại hải sản đặc biệt của vùng sông nước Ô Loan. Hầu như con hàu được người dân ở đây lặn bắt quanh năm, nhưng ngon nhất có lẽ vào khoảng thời gian cuối xuân đầu hạ. Thời điểm này hàu nhiều nhưng không dễ khai thác. Hàu bám vào các rạn san hô, thành cầu, bờ đá dưới mặt đầm… Nhìn bề ngoài con hàu xấu xí như một cục đá nhưng phần thịt hàu bên trong thật tuyệt vời. Hàu được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau: nhúng giấm ăn liền, om chuối cây. Đặc biệt nhất là món cháo nấu với gạo đỏ và một số gia vị thông thường. Cũng nấu như các loại cháo khác nhưng món cháo hàu khi nêm gia vị vào lại có mùi thơm độc đáo, hương vị riêng. Cháo hàu có thể ăn vào bất cứ thời điểm nào trong ngày: điểm tâm sáng, ăn trưa hay kèm với một vài món khác trên bàn nhậu vào lúc chiều tà để “chữa cháy”.
Vào mùa, hàu Ô Loan được đưa đi tiêu thụ khắp nơi trong cả nước. Mặc dù chưa có thương hiệu riêng nhưng món cháo hàu Ô Loan đã trở thành món ăn không thể không nhắc đến của người dân Phú Yên.
Ngoài ra, đầm Ô Loan còn có loại cá mai xuất hiện nhiều từ tháng 2 âm lịch đến mùa hè. Ngư dân đánh bắt, chế biến nhiều món ngon nhưng độc đáo nhất là món gỏi. Cá đưa từ đầm về, còn tươi sống. Người chế biến dùng kéo cắt bỏ phần bụng và đầu, chỉ còn lại phần thân mình, thịt nhiều, mập ú, trong veo. Sau khi làm sạch, cho cá vào ngâm nước muối vài phút cho săn chắc và giữ được màu trắng trong. Gia vị ăn kèm với gỏi cá gồm có một tô nước chanh vắt sẵn, khoảng 300g đậu phộng rang và rau thơm nhiều loại như húng, tía tô, ngổ, ngò gai, bắp chuối thái nhỏ, cà chua sống, chuối chát, khế…
Phú Yên là “thủ phủ” cá ngừ đại dương, loại hải sản đặc biệt thơm ngon, bổ dưỡng. Thịt cá được chế biến thành nhiều món ăn ngon như: nướng, chấm mù tạt, mắt chưng cách thủy, lườn cá xào sả ớt. Đây là món mới, lạ miệng và có hương vị riêng. Ăn món lườn cá ngừ xào ta sẽ thấy được sự tổng hợp của độ dai, giòn, béo thơm ngọt của loài cá được ngư dân câu từ khơi xa.
Về lại với cánh đồng lúa Tuy Hòa bạt ngàn. Ở đây có loài cá chẽm sống trong các hang đá, thích nghi với vùng nước lợ, cửa sông, các kênh rạch, đầm phá và nhất là trong các đầm nuôi tôm. Cá chẽm hấp hành thịt thơm ngon dai dẻo và rất bổ dưỡng. Cá ướp gia vị, để trên bếp mi-ni, bật lửa đợi sôi, bỏ bún, hành và rau cần lên, thưởng thức nóng. Ngon hơn phải dùng bánh tráng nhúng nước cuốn cá hấp và rau sống tươi. Ở miền Trung cá chẽm có khắp nơi, nhưng tiếng tăm vang xa nhất là cá chẽm hấp hành ở vùng Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.
Quẩy nóng vỉa hè
19/03/2011 10:45
Giờ đây, những đĩa quẩy nóng vàng rộm, phồng xốp bên cạnh bát nước chấm bắt mắt có vẻ lép vế bên cạnh những món quà vương giả, nhưng nó vẫn còn trong nỗi nhớ của không ít người.
Thường tọa lạc ở một góc ven đường tại Hà Nội, quán quẩy nóng thu mình nhỏ bé giữa đường phố đông đúc người qua lại, rất khó nhận ra, nhưng nơi đây lại là điểm đến thường xuyên của những thực khách nghiện quẩy. Một chiếc bàn gỗ làm bánh, một chảo dầu tròn liu riu sôi, vài ba chiếc ghế nhựa, thế là đủ cho một quán quẩy vỉa hè.
Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, hàng quẩy mọc lên rất nhiều, đặc biệt là quanh các khu chợ. Thời đó, vỉa hè còn rộng. Vì thế mà các hàng quẩy có quy mô lớn hơn ngày nay, bàn ghế ăn thường làm bằng gỗ. Chảo dùng để rán quẩy cũng rất to, và người ta thường dùng mỡ để rán. Vị bánh quẩy khi rán bằng mỡ lợn khác hẳn với khi rán bằng dầu thực vật, quẩy giòn, xốp và ngậy hơn.
Làm quẩy cũng khá vất vả. Để cho ra được quẩy, người làm bánh cần thực hiện ba khâu. Khâu thứ nhất là chuẩn bị bột, thứ hai là cán bột và cuối cùng là rán. Anh Thông, người đã trải qua 20 năm “chìm nổi” cùng quẩy chia sẻ: “Quẩy ngon do nhiều yếu tố nhưng khâu khó nhất là chuẩn bị bột. Phải nhào nặn bột sao cho bột không bị vón cục, làm sao để các gia vị có thể tan trong nhau để tạo cho món quẩy vị ngon và đậm đà”.
Quẩy nóng được ăn cùng với nước chấm. Nước chấm quẩy làm không cầu kỳ, nhưng để làm được nước chấm ngon không phải là dễ. Thành phần chủ yếu của nước chấm là nước mắm, giấm, đu đủ xanh thái lát, đường, có thể cho thêm cà rốt để tăng vị giác và thị giác, hấp dẫn và kéo cái thèm thuồng của những khách sành ăn.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các hàng quẩy dần dần mất đi, thay vào đó là các quán đồ ăn nhanh của nước ngoài, hay ngao ốc, nầm bò… Những món đồ đó dễ làm hơn, kiếm lãi cũng dễ hơn. Nhưng việc biến mất dần các hàng quẩy không khiến quẩy trở nên xa lạ đối với mọi người bởi chúng vẫn hiện diện trong cuộc sống thường ngày, đó là trong những tô phở nóng hay bát cháo ngao thơm phức… Quẩy trở thành đồ ăn đi kèm.
Nếu muốn thưởng thức món quẩy nóng một cách đúng nghĩa thì thực khách cần chịu khó đi tìm. Hàng Bông, Cửa Nam, Quán Thánh, Mai Hắc Đế, Đường Thành… là những con phố có hàng bán quẩy. Các hàng này thường rất bé, chỉ vài ba bộ bàn ghế nhựa con con được xếp tại một góc vỉa hè.
Bởi là quán ăn vỉa hè nên các hàng quẩy hay mở vào buổi chiều, thường là 15 giờ. Các quán quẩy thường rất đông thực khách, đặc biệt là trong mùa rét, nhưng thời gian mở cửa của quán nhiều nhất chỉ là 6 tiếng. Chị Nhung, chủ cửa hàng quẩy tại Hàng Bông chia sẻ: “Mình cũng muốn bán nhiều lắm, nhưng không cố được. Làm quẩy phải luôn tay và ngồi cố định một chỗ nên người lúc nào cũng mỏi nhừ, đành phải dọn hàng sớm”.
Bất chấp “bão giá”, một đĩa quẩy 12 chiếc chỉ tốn 10.000 đồng. Thực khách có thể ăn thoải mái cùng bạn bè mà chỉ tốn vài chục ngàn, một mức giá khá rẻ trong thời buổi hiện nay. “Lấy công bù lãi ý mà!” - chị Liên, chủ quán quẩy tại Đường Thành tâm sự.
17 giờ chiều, quán quẩy của chị Liên đã đông nghịt khách. Vài chiếc ghế nhựa đã kín chỗ, nhiều người phải xếp hàng chờ mua về. Ba mẹ con chị Hương dừng lại trước cửa quán. Trên tay bé Linh là cu Tít đang ngủ gà gật, thấy chị Linh trêu: “quẩy này!”, cu cậu liền bật dậy, mắt sáng trưng: “quẩy quẩy!” và nhõng nhẽo đòi mẹ mua cả bịch quẩy về.
Rau chùm bao “cặp kè” cá rô đồng
24/08/2010 8:55
Gần đây, một số loại rau “nhà nghèo” như rau chùm bao lại xuất hiện nhiều ngoài chợ, thậm chí còn có trên thực đơn ở những nhà hàng sang trọng. Bởi thứ rau này là loại thực phẩm sạch mang đến sự ngon miệng cho người thưởng thức, xua tan nỗi e ngại về rau tăng trưởng.
Chùm bao còn gọi là lạc tiên, tóc tiên hay nhãn lồng, là cây mọc hoang thuộc loại thân thảo, có dây leo và tua cuốn. Nhờ tính an thần của chùm bao mà người ta dùng chúng như một loại trà thảo mộc trị chứng mất ngủ. Đông y Trung Quốc cho rằng chùm bao được sử dụng để trị ho và một số bệnh về da.
Nhờ vào tính mát đặc trưng, chùm bao đã hỗ trợ đắc lực cho việc chữa trị các chứng bệnh về gan mạn tính thường gặp như siêu vi, xơ gan…
Tận dụng tối đa sản vật thiên nhiên ban tặng, ngoài việc dùng dây lá già làm trà, đọt và lá non chùm bao được dùng chế biến thành món luộc, xào, nấu canh cũng không kém phần hấp dẫn. Đó là bát canh chùm bao nấu cá rô đồng. Dùng khoảng 100gr chùm bao dây, lá, đọt non, rửa sạch để ráo nước. Chuẩn bị 100gr cá rô làm sạch, đem hấp rồi gỡ lấy phần thịt. Cá rô đồng ướp một chút muối tiêu +củ hành tím băm nhuyễn. Sau đó làm nóng chảo cho dầu ăn vào xào cá (nhẹ tay để cá thấm gia vị nhưng không bị nát) rồi để riêng.
Phi thơm một muỗng xúp dầu ăn cùng củ hành tím xắt nhỏ, châm 1 tô nước dùng, thêm chút muối và hạt nêm. Nước sôi thả rau và cá vào đảo đều tay, để nước sôi khoảng 2-3 phút nêm lại lần cuối.
Chùm bao kết hợp cùng cá rô đồng béo ngọt thật dân dã nhưng gợi cho người thưởng thức bao ký ức ấu thơ thương nhớ.
Mê ly món nướng “nhà nghèo”
29/07/2010 9:06
(TNO) Tan tầm, chợt trời Sài Gòn trở lạnh. Những món nướng như có ma lực, cuốn hút bao tâm hồn ăn uống tứ xứ quây quần bên bếp than hồng, chuyện trò rôm rả.
Nướng cũng có nhiều “gu”, người viết chỉ dám lạm bàn kiểu nướng “nhà nghèo” - rất ít dầu mỡ, đặc biệt nguyên liệu phải thật tươi.
No mắt, nở mũi...
Linh hồn của các món nướng chân quê là cái bếp than rực đỏ. Than củi tre, củi ổi, củi đước được nhiều người chuộng. Trong đó, than củi đước khi gặp gió lùa sẽ phát ra những tia lửa nhỏ tựa pháo hoa và nổ tí tách thật vui tai.
Hơi ấm của than sẽ lan tỏa, giúp những người đang vây quanh “cuộc nướng” thêm ấm áp, tươi tỉnh hơn. Nhờ vậy những câu chuyện tiếu lâm kiểu bác Ba Phi cũng nở rộ như bắp rang. Đời lại vui!
Lửa còn gợi cho người ta nhớ về biết bao kỷ niệm thời xa xưa, nhất là những ai giàu vốn sống đồng quê.
Nhà văn Phan Trung Nghĩa, ở Bạc Liêu, thường nhìn bếp than trong quán nướng sân vườn mà bùi ngùi nhớ lại những ánh lửa rơm đỏ “phừng phừng” nướng trui con cá lóc, mớ ốc lác... Rồi anh Nghĩa lại nhớ đến những vệt khói đốt đồng sau những mùa lúa “lưa thưa bông trái”, nghe rưng rưng buồn...
Chợt tiếng xèo xèo của mỡ cá kèo, cá lóc trỗi lên làm lay động lòng người. Mùi thơm thanh khiết “dậy làng” cứ tung tăng quanh mũi thực khách. Có người mắt “sáng rỡ”, nuốt nước bọt khan vì “xin lỗi chịu không nổi!”.
Nướng ngon nơi nào?
Anh Nguyễn Hoàng Hải, chủ nhà hàng ở Q.3, TP.HCM góp thêm: “Cái gì cũng phải có công phu, kể cả nướng mộc mạc”.
Chưa kể, phía “thượng đế” không chỉ tốn “công cán” đi ăn mà còn bị mỏng ví. Vậy có thể nói, người mua “cực” gấp đôi người bán. Thế mà vẫn có khối người chịu khổ!
Và tác giả bài này cũng không ngoại lệ, nên đã sưu tầm được một số nơi có bán những món nướng ngon ở TP.HCM.
Muốn cận cảnh đồng quê, bạn có thể chạy ra quán Xuân Anh, đường lên cầu Thầy Cai, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi. Hoàng hôn ở đây dường như xuống chậm hơn Sài Gòn. Mưa lất phất, có 5 - 7 người đội mưa quăng câu rê, câu nhấp.
Đồng hành, mấy con gà ta, cá lóc đồng đang cong mình trên một bếp than lớn. Rồi những vệt khói mỏng mịn như tơ tỏa lên mang theo một mùi thơm quyến rũ.
Gà ta thì được “tắm” muối ớt và ít dầu ăn. Chỗ dụng công của người thợ nướng ở đây là dùng dao sắc rạch da, thịt gà trước khi ướp gia vị. Trong lúc nướng, thỉnh thoảng gà còn được phết thêm gia vị. Nhờ vậy, lượng gia vị đủ sức thấm từ lớp da trắng hồng đến những sớ thịt gà trắng tươi, thật vừa ăn.
Còn đám cá lóc đồng thịt chắc nịch thì “ở trần” nướng trui...
Về đến cầu Tham Lương, bạn cũng có thể rẽ qua đường Nguyễn Văn Hóa vào quán Cường 2, gần ngã tư Cây Sộp, Q.12. Con đường đất đỏ dẫn vào quán này còn xù xì. Thêm mấy rặng tre rũ bóng, nó cũng có chút duyên quê.
Món đặc sắc ở đây là thịt đùi bò cỏ tơ Tây Ninh (một giống bò địa phương nhỏ con, dễ nuôi, cho thịt thơm ngọt hết ý) nướng muối ớt. Thịt bò mềm dẻo, ngọt đậm, lớp da giòn sừn sựt đi kèm với mớ rau bưng: đọt rau nhái, đọt lụa, quế vị..., chủ vị chua chua và chan chát lẫn nồng the. Thêm chén nước chấm chao khoai môn pha ít sả bào, ớt hiểm dầm, đường... Bộ ba thịt - rau - nước chấm này dư sức “ru” người ăn vào miền... lâng lâng khoái cảm.
Hoặc thèm hải sản tươi nướng, bạn chịu khó qua cầu Nguyễn Văn Cừ về "Xa Lộ Nướng" trên đường Nguyễn Văn Linh, gần cầu Ông Bé, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh.
Không ít nhà hàng hải sản lớn gần trung tâm TP.HCM có cá còn bơi, tôm búng, lươn chuồi..., nhưng món nướng không được chăm chút tận tâm.
Quán này thì khác, đầu bếp “đi” gia vị thật điệu nghệ. Ớt được phối hợp từ hai loại: ớt hiểm xanh (cho thơm) và ớt hiểm chín (khử tanh). Thêm một ít mật ong để nước da con tôm, miếng cá ngã màu hổ phách thật đẹp mắt khi được “trăn trở” trên lửa than. Quan trọng hơn, sớ thịt thực phẩm nướng sẽ “mướt mượt, không bị khô, lại tỏa mùi thơm hấp dẫn”, theo tiết lộ của đầu bếp Nguyễn Xuân Vinh, bếp trưởng của hệ thống quán này.
Còn một chút sa tế trội vị sả nhằm trợ tiêu cho thực khách với những món hải sản giàu đạm. Chưa kể lò nướng ở đây được thiết kế riêng và đặt làm thủ công từ làng gốm Chăm Ninh Thuận. Nhờ vậy, lò giữ nhiệt lâu hơn nhưng không tỏa hơi “nóng hỗn” vào người ăn.
Sau cùng, giá những món vừa nêu từ rẻ đến vừa phải.
Con tôm tình nghĩa
24/07/2010 4:05
Ảnh: Đào Ngọc Thạch
(TNTS) Con người ta trong bất cứ hoàn cảnh nào, không ai không nghĩ tới cái ăn. Những người bị cái đói giày vò mơ một chén cơm, thậm chí một cọng rau, một mẩu sắn, mẩu khoai. Những người no đủ ngày ba bữa, lại nhớ một bữa ăn, một món ăn nào đấy, nhớ tới người ngồi ăn với mình nay chỉ còn là bóng là hình. Nói một cách tóm tắt thì cái ăn có thể là cái chi phối ám ảnh con người nhiều nhất, bao trùm nhân loại đời này qua đời khác, từ thuở khai sinh lập địa tới ngày nay và tới cả mai sau…
Ngày thầy Nguyễn Văn Xuân còn trên cỡi đời này, thi thoảng tôi vẫn có dịp ngồi bên chén rượu ly bia với thầy, hoặc nghe kể chuyện vui về thầy. Nhà văn - nhà báo Vĩnh Quyền kể chuyện rủ “ông già” đi uống bia ôm. Hỏi uống mấy chai thì được ôm, phải mười chai cơ à? Lại hỏi giá bia, rồi lẩm nhẩm tính giá bán trừ đi giá gốc mỗi chai chênh lệch năm nghìn, mười chai vị chi năm chục nghìn. “Ông già” rút năm chục nghìn đưa bà chủ quán, bảo kêu một cô xinh xinh ra, quán vẫn còn bia tui đỡ tốn tiền!...
Xin mở một ngoặc đơn: tôi tin Vĩnh Quyền. Nhưng lại phải nói rõ “ông già” là người ham chơi, ham vui hoặc giả chính xác hơn thì nghịch cho vui thế thôi, chớ “nói vậy mà không phải vậy”!
Lần ngồi uống bia với thầy, có nhà văn, họa sĩ, lại có cả người đẹp. Có những người từng là học trò của thầy. Có những người như tôi chưa một lần ngồi trong lớp học của thầy nhưng luôn đặt mình vào vị thế một người học trò nhỏ của thầy. Tôi kéo đĩa cánh gà chiên nước mắm về phía mình (những chiếc cánh gà cứng dành cho những hàm răng còn chắc như răng tôi), đặt đĩa giò lụa trước mặt thầy (những miếng giò mềm mại cho hàm răng đã không còn mấy chiếc của thầy). Nhưng thầy với tay lấy một chiếc cánh gà, ngắm nghía rồi thở dài. Sau tiếng thở dài tiếc nuối nhớ lại thời đầu xanh tuổi trẻ, thầy cười “Còn trẻ ham hương ham hoa/ Sồn sồn ham đ… già già ham ăn”. Lại chỉ tay vào tôi, chỉ tay vào người đẹp, cười rổn rảng bảo các chú, và cô, đều đang sồn sồn đều đang ham… cả đấy!
Lần bế mạc triển lãm của họa sĩ thủy mặc nổi tiếng Trương Hán Minh, thầy Xuân ngồi đối diện với tôi. Nhà hàng dọn ra món tôm nướng, mỗi người một con. Tôi vốn ít khi thích tôm, không phải vì mê tín bởi con tôm hay nhảy giật lùi mà vì tôm giàu chất đạm, một khi đã ăn nó thì những món sau kém ngon miệng. Nhưng bữa ấy nhìn con tôm nướng vàng sậm bên đĩa muối tiêu, nghe mùi tôm nướng ngào ngạt, tôi bỗng dưng thèm tôm như chưa bao giờ được ăn! Tay đã cầm con tôm trên đĩa, bỗng nhiên linh cảm xui khiến mắt tôi nhìn qua phía đối diện. Tôi thấy thầy Xuân lấy miếng giấy lau gói con tôm, lại lấy miếng giấy khác gói chút muối tiêu rồi bỏ cả hai gói vào túi áo. Rồi những ngón tay đã nhăn nheo cẩn thận sờ lên ngực, yên tâm con tôm ở đó, gói muối tiêu ở đó! Nhìn quanh thấy không ai để ý, thầy lấy đôi đũa gạt bớt vỏ tôm của người bên cạnh về phía mình. Tôi ngạc nhiên, không hiểu lý do vì sao ông thầy của mình làm như vậy. Cũng lựa khi không ai để ý, tôi chạy sang ghé tai thầy Xuân hỏi nhỏ. “Ông già” quay lại nói, cũng rất nhỏ vừa đủ cho mình tôi nghe, rằng để dành cho bả, đem về cho bả!...
Tôi sực nhớ vợ thầy bịnh đã bao năm, sực nhớ câu tục ngữ của ông bà “Con thương cha không bằng bà thương ông”. Trong đời mình, tôm hùm, tôm sú, tôm càng, tôm he, tôm sông, tôm biển, tôm hấp, tôm nướng, tôm chua, tôm rang...
không con tôm nào tôi chưa từng nếm. Nhưng con tôm bữa ấy của thầy Xuân, là lần đầu tôi biết.
Cháo đùm Bàu He
30/06/2011 16:57
Thực ra, quán cháo đùm này của chị Trần Thị Hòa chẳng có biển hiệu đâu, khách “ghiền” món cháo đùm nên đặt “chết” tên, gọi riết thành quen vậy thôi. Qua Bàu He ở P.Nghĩa Chánh, TP Quảng Ngãi một quãng, hỏi bất cứ ai về quán cháo này cũng đều biết.
Sao gọi là “đùm”? Vì trong nồi cháo của chị Hòa, bao giờ cũng có... 100 cái đùm. Lá chuối chát được hơ qua lửa cho mềm oặt lại để khi gói khỏi rách, xong bỏ tiết lợn có thêm phụ gia vào, cột lại bằng hai nuột lạt, cũng bằng lá chuối, xong một “đùm”. Trước khi bỏ đùm vào nồi cháo, chị Hòa phải làm một loạt công đoạn mà công đoạn nào cũng thành bí quyết để nồi cháo của chị luôn luôn khác lạ với thực khách. Chẳng hạn như cách ướp tiết lợn với món nghệ và củ nén là cả một kỳ công. Chị bảo: “Cháo đùm này ngon nhờ cách ướp với món nghệ và nén ấy đấy”.
TP Quảng Ngãi có đến vài trăm quán cháo lòng. Ấy thế mà chỉ có quán cháo đùm của chị Hòa này là độc đáo nhất. Từ cách chọn nguyên liệu đến cách chế biến, tất tật đều phải tinh. Chẳng hạn như chỉ có loại heo cỏ (heo nuôi ở quê, ăn rau và cám xay từ lúa chứ không dùng thức ăn công nghiệp) mới được chị chọn để lấy bộ lòng. Thứ heo cỏ này, năng suất thấp nhưng thịt của nó luôn khô vì ít mỡ nên lòng cũng rất thơm ngon. Lòng được luộc lấy nước nấu cháo. 20 kg lòng được luộc lấy nước để nấu cho 2 kg gạo cháo, hèn chi rất ngọt! Còn đùm thì gói trong lá chuối, bỏ vào nồi cháo nên chín bằng hơi chứ không bị ngấm nước cháo vào. Mùi nghệ, mùi nén lẫn với mùi lòng thơm ngào ngạt, một mùi thơm nguyên chất.
Thực khách gọi món cháo đùm, được kèm theo một đĩa lòng, rắc lớp rau húng quế trông thật bắt mắt. Nếu chỉ dùng riêng món cháo, vẫn được, dĩ nhiên là giá chỉ một nửa (hiện nay giá mỗi tô cháo đùm là 20.000 đồng, chưa tính đĩa lòng). Một điều thú vị ở quán cháo đùm chị Hòa này nữa là, mỗi ngày chị chỉ nấu đúng 100 cái đùm, tương ứng với 100 tô cháo. Bất luận mưa hay nắng, đúng 7 giờ 30 mỗi ngày, chị gánh từ nhà ra quán (quán thuê), bán đến 9 giờ là xong. Ai đến sớm hơn thì ngồi quán cà phê cạnh đó chờ, ai đến muộn thì... hẹn hôm sau vậy. Hỏi chị sao không thêm 100 đùm nữa, chị nói: “Ăn thòm thèm vậy mới nhớ lâu”. Chị Hòa “kế tục sự nghiệp cháo lòng” từ người mẹ nhưng đến đời chị, món “đùm” này mới được nâng cấp thành đặc sản của riêng quán chị.
Khách về Quảng Ngãi, nếu có ghé Thu Xà thăm chùa Ông và quê của thi sĩ Bích Khê, trên đường đi, quá cầu Bà He một quãng, đúng 7 giờ 30 mỗi ngày, nhìn bên tay trái cạnh quán cà phê Lung Linh, món cháo đùm chị Hòa sẽ đợi bạn. Nếu sau 9 giờ mới ghé quán, phải mất một ngày nữa mới biết thế nào là “đùm” trong cháo!
Lên Đông Giang ăn món chuột rừng lam
07/02/2011 8:00
PNO - Khi xuân đến Tết về, người Cơ Tu hay nấu các món ăn trong ống nứa tươi, rồi nướng chín, gọi là lam. Không chỉ có cơm lam, chim lam hay cá lam mà món chuột lam (amó horzất) cũng có hương vị rất đặc trưng, hấp dẫn.
Trước Tết khoảng hơn 1 tháng, người Cơ Tu mang theo sắn khô lên rừng, chọn những vị trí thuận tiện để vãi xuống mặt đất nhằm thu hút chuột kéo về ăn ngày càng nhiều và béo mập. Trước Tết khoảng 10 ngày, họ mang bẫy kẹp lên vị trí này để gài bẫy bắt chuột rừng về dự trữ ăn Tết. Trung bình, mỗi người gài khoảng vài trăm bẫy. Sau đó, mỗi ngày từ sáng họ lên rừng để thu hoạch chuột mắc bẫy. Có người bắt được tới vài chục con chuột một lần đi thăm bẫy. Chuột mang về, phụ nữ Cơ Tu đốt lửa để thui làm lông, rửa sạch và đặt trong cái nia nhỏ xông trên giàn bếp cho khô dần để chế biến các món ăn trong ngày Tết hoặc đãi khách quý.
Nhày giáp Tết, ông Alăng Mơ, thôn Bốn (xã Ba - Đông Giang) đãi chúng tôi món chuột rừng nướng ống nứa tươi. Ông làm sạch hai con chuột và nhét chuột vào ống nứa tươi, sau đó lấy rau môn dóc (a zóc - là loại rau dại mọc rải rác trong rừng, trông gần giống các loại khoai môn nhưng lá dài và nhỏ hơn) cuộn lại và nhét sâu vào ống để bịt miệng lại nhằm tạo thêm hương vị thơm tho cho món ăn, ông cũng cho ít muối vào ống. Sau đấy, ông bảo hai đứa con gái ngồi bên bếp lửa cầm ống nứa trở qua trở lại để nướng, chỉ lát sau hai ống nứa bắt đầu nám đen.
Sau khi biết chắc chuột đã chín, ông Mơ dùng dao tách hai ống nứa để lấy chuột và rau ra. Mùi chuột nướng hòa quyện với rau môn dóc thơm ngào ngạt. Sau khi bỏ thịt chuột đã nướng ra đĩa, ông mang rượu và mời chúng tôi thưởng thức món chuột nướng chấm với muối tiêu rừng (a mất). Lúc đầu chúng tôi ngó qua ngó lại vì hơi ngần ngại. Tuy nhiên khi đã nếm rồi, thì cảm thấy rất ngon và thú vị vì thịt có mùi thơm đặc trưng, vị ngọt, xương dòn, nhắm với rượu rất "bắt".Ngày Tết, đồng bào Cơ Tu có thể chế biến nhiều món ăn từ chuột rừng như: chuột hầm đu đủ, chuột xào măng, chuột nấu "giả cầy", chuột nướng trực tiếp trên than hoa, chuột kho mặn dậy mùi thơm quyến rũ…
Cá tràu kho lá gừng non ngày Tết
05/02/2011 7:00
PNO - Mùng ba Tết là ngày đi chợ mở hàng đầu năm ở quê tôi. Dù trong nhà vẫn còn nhiều thức ăn, nhưng vào ngày này, tất cả các bà nội trợ ở quê tôi đều dậy thật sớm, đi chợ đầu năm, mua mớ rau tươi, gói muối hạt, và đặc biệt, không thể thiếu vài chú cá tràu.
Chợ quê ngày mùng ba Tết bán cá tràu nhiều vô kể. Theo quan niệm của người quê tôi, cá tràu khỏe, có sức chịu đựng dẻo dai và sức sống bền, nên mọi gia đình đều mua loại cá này với hy vọng sẽ có một năm mới bình an, sức khỏe dồi dào, công việc làm ăn sẽ trôi chảy và phát đạt.
Cá tràu có thể chế biến thành những món ăn ngon như: hấp, nấu canh chua, cá tràu um chuối non… món nào cũng ngon. Nhưng trong mâm cỗ cúng gia tiên, tiễn đưa ông bà ngày mùng ba Tết ở quê tôi không thể thiếu món cá tràu kho lá gừng non. Bởi đây là món ăn truyền thống, gắn bó bao đời nay với những thế hệ người quê tôi và trở thành một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của người dân xứ Quảng.
Cá tràu mua về vẫn còn quẫy vùng trong thau nước, mẹ tôi đánh vảy, làm mang, rửa sạch, cắt lát vừa ăn (nếu cá lớn), để ráo rồi nướng trên bếp than hồng cho thịt cá săn lại và hết chất nhớt bám trên mình cá. Khi vỉ cá trên bếp chuyển sang màu vàng và gian bếp ấm cúng dậy lên mùi hương quyến rũ là khâu nướng cá đã hoàn thành.Trước khi kho phải ướp cá với nước mắm ngon, dầu phụng, bột ngọt, tiêu bột và các gia vị khác chừng nửa giờ cho cá thấm đều.
Năm nào, ngày mùng ba Tết, mẹ cũng nhờ tôi ra vườn hái một nắm lá gừng non, rửa sạch. Còn mẹ thì đào vài củ nghệ tươi, rửa sạch, giã nhỏ. Mẹ bảo nếu thiếu hai loại gia vị này thì món cá kho không thể ngon, đậm đà và giàu ý vị được.
Mẹ xếp một lớp lá gừng dày dưới đáy nồi, những lát cá nằm ngay ngắn bên trên, thêm một ít thịt heo ba chỉ, nghệ tươi và ớt chín thái sợi trên mặt cá.
Kho cá tràu cũng như kho các loại cá đồng khác, phải để lửa liu riu cho cá thấm gia vị. Kho khoảng mười phút rồi tắt bếp. Sau khi cá nguội, cho thêm ít nước vào kho lại đến khi nào nước còn sền sệt, nồi cá kho tỏa hương thơm ngát là món cá kho đã hoàn thành.
Mâm cơm ngày mùng ba Tết trong không khí gia đình đầm ấm dường như ngon hẳn lên với món cá tràu kho đặc sắc của quê nhà. Những người con của quê hương xứ Quảng đi làm ăn trên khắp mọi miền đất nước, nhưng hương vị đậm đà của món cá kho ấy vẫn còn mãi trong ký ức mỗi người và thường gợi nhớ mỗi khi Tết đến, xuân về.
Nhớ quán súp cua của mẹ
02/11/2010 8:00
PNO - Quán súp cua ra đời ở vỉa hè cạnh nhà, đó là tất cả vốn liếng mà mẹ đã dành dụm được. Khi không đành lòng nhìn mấy đứa con nheo nhóc ở nhà tự lo lắng cho nhau, mẹ quyết định bán hàng ở ngay cạnh nhà.
Gọi là quán cho sang, chứ quán chỉ có mấy bộ bàn ghế bằng tre kê tạm trước hiên nhà. Thời gian đầu vắng khách, súp cua nấu ra bán không hết, mẹ lo lắng lắm, còn mấy chị em tôi thì ...mừng vì được dịp tranh nhau húp xì xụp, thay cơm… Súp cua ngày đầu chỉ có chút trứng gà, một ít cua vụn, ít bột năng, thêm vài cọng ngò tươi và tiêu mà ngon ngọt mát lòng. Có lẽ đó là vị ngọt của tình thương, sự khó nhọc của mẹ trong đó nên lũ trẻ chúng tôi ăn ngon lành đến thế.
Quán mở ra ngay tại nhà nên khách là những người quen trong xóm. Mỗi khi có dịp, họ dừng chân vừa để thăm hỏi sức khỏe, vừa mua giúp mẹ… Mẹ hay hỏi ý kiến của khách để món súp mỗi ngày một cải tiến. Dần dần món súp của mẹ trở nên ngon lạ, khác với những loại súp cua thông thường mà tôi vẫn thấy người ta bán ngoài chợ hay trên phố… Nước súp mẹ ninh bằng xương ống, thêm vào đó là nấm rơm xào thơm, cà rốt xắt hạt lựu cho tươi mắt, điểm tô những sợi thịt cua trắng mềm, sợi trứng vàng ươm…Để chén súp hấp dẫn hơn, mẹ cho thêm trứng cút, vài giọt dầu mè, ớt sa tế, rau thơm các loại. Khi ăn quậy đều lên, màu sắc trong chén súp sánh vàng...trông thật hấp dẫn. Nước súp ngọt lành, thịt cua mềm, thơm mùi tiêu, sa tế cay nồng…khiến nhiều người khi đã ăn súp của mẹ rồi đều ghiền.
Tuổi thơ chúng tôi đã êm đềm lớn lên theo hương vị ngọt ngào nơi quán súp cua của mẹ. Không biết tự lúc nào, tên gọi “Bà Dự súp cua” đã trở nên quen thuộc và thân thương trong xóm tôi, với lũ trẻ con trên đường tới lớp...
Chúng tôi bây giờ đã lớn, đi học đi làm nhiều nơi nhưng mỗi khi có dịp về nhà lại năn nỉ mẹ nấu một nồi súp thật to để thưởng thức món ăn ngày thơ, nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào nơi miền quê nghèo khó ngày nào…
Kèo nèo - rau ngon vùng sông nước
15/10/2010 10:10
PNO - Trong vô số loài rau mà đất trời ban tặng cho vùng sông nước Nam bộ, không thể không nhắc đến kèo nèo, loài cây cỏ tên nghe yếu ớt, nhưng lại có một sức sống mãnh liệt.
Loài cây được coi như một thứ rau dại ấy đã trở thành một nét đặc biệt trong văn hóa ẩm thực của miền Tây Nam bộ.
Mùa nước lên, hay khi lũ tràn về, mặc cho những loài cây cỏ khác bị trôi dạt tứ phương, kèo nèo vẫn bám trụ lại, từ dưới đáy bùn vươn cao mơn mởn, màu xanh biếc. Người dân miệt vườn hái thứ cây này về ăn cho qua những bữa cơm bình dân hàng ngày. Và cứ thế, kèo nèo đã trở thành một món quà quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho người dân Nam bộ.
Chế biến kèo nèo theo kiểu người miền Tây cũng đơn giản, mộc mạc. Đầu tiên phải kể đến món kèo nèo luộc. Kèo nèo rửa sạch, cắt khúc, luộc sơ với nước sôi, vớt ra. Kèo nèo luộc chấm với kho quẹt hay nước cá kho đều ngon. Những cọng kèo nèo giòn giòn kết hợp với vị đậm đà ngọt bùi của nước chấm tạo nên một món ăn tuy đơn giản, dân dã, nhưng lại rất lạ miệng.
Cầu kì hơn một chút có thể làm món kèo nèo muối chua. Kèo nèo muối chua có vị chua chua mặn mặn, có thể để được vài ngày, và thường dùng ăn với các món chính như thịt kho, cá chiên… để món ăn đỡ ngấy.
Kèo nèo còn luôn xuất hiện trong những món lẩu của người Nam bộ. Món lẩu mắm dù đã có nhiều loại trái và rau như: cà tím, hoa súng, rau đắng, rau muống… nhưng sẽ mất ngon nếu thiếu kèo nèo xanh mơn mởn. Ăn với kèo nèo, món lẩu mắm như đậm đà hơn, đặc sắc hơn.
Không chỉ có lẩu mắm, mà trong canh chua của người miền Tây, kèo nèo trở thành thứ rau gia vị không thể thiếu. Người ta thường nấu canh chua cá bông lau chung với lá giang và kèo nèo. Cách thực hiện món ăn cũng dễ: Nấu sôi nước, sau đó cho cá bông lau vào, rồi tiếp tục cho lá giang vào để tạo độ chua cho nồi canh. Khi canh sôi, cho kèo nèo vào rồi tắt bếp. Phi tỏi vàng thơm trút vào nồi canh. Rắc rau om, ngò gai, hành lá, ớt xắt lên. Có thể thay cá bông lau bằng các loại cá khác hoặc thay bằng thịt gà, thịt ếch… Cái vị chua chua ngọt ngọt của nước canh ngấm trong từng cọng kèo nèo khiến ai cũng mê mẩn. Có ăn thử mới biết tại sao người miền Tây “kết” loài rau bình dị này đến vậy.
Nhái cơm chiên giòn
25/09/2010 8:25
PNO - Hàng năm, vào mùa mưa, khi nước trên đồng đã ngập xâm xấp mắt cá chân thì các loài ếch, nhái, cua, cá, ốc… lại xuất đầu lộ diện tìm mồi và duy trì nòi giống.
Thời điểm này, người dân quê tôi (Thới Bình, Cần Thơ) rủ nhau đi soi nhái cơm (giống như con ếch nhưng trọng lượng nhỏ).
Vào những chiều mưa, từng tốp thanh niên tay cầm đèn pin (có khi đeo đèn trên đầu), giỏ (túi) buộc ngang hông đi trên bờ vườn nhà hay bờ ruộng để soi nhái. Họ đi trong mưa, tai luôn phải chú ý lắng nghe giàn hợp xướng của các “nhạc sĩ miền quê” để đoán nơi tụ hội của nhái. Dùng ánh sáng đèn pin lướt qua, các “chú, thím nhái” nhà ta sẽ bị lóa mắt ngồi chết trân. Thế là, chỉ cần một động tác gọn, nhẹ là “chộp” chúng cho vào giỏ, đôi lúc cũng “dính” nhầm được “chị” ếch bà (già) nữa.Trong vài tiếng, nếu may mắn và là người có kinh nghiệm, có thể bắt được cả ký lô nhái trở lên. Giá nhái cơm làm sẵn ở thị trường Cần Thơ hiện nay khoảng: 40- 50.000đồng/kg...
Nói về nhái cơm, ký ức tuổi thơ của tôi còn nhớ nhất là món nhái cơm nướng mọi. Sau khi soi nhái về, bọn chúng tôi thường hùn những “chiến lợi phẩm”, rút rơm bên bờ ruộng đốt lửa lên rồi thả những con nhái cơm cho vào rơm nướng chín. Chờ rơm tàn, dùng que tre khều nhái ra lột bỏ da, bộ đồ lòng, chân cẳng…. Phần thịt nhái nướng chấm với muối ớt ăn thật ngon, ngọt.
Nhái là món ăn dân dã chế biến món nào cũng ngon. Ngoài những món thông thường như: bằm nhừ nấu cháo, xào cà ri - xả ớt, lăn bột chiên…., có một món đơn giản, nhanh gọn, dễ làm mà các “ông xã” thích lai rai rất khoái là: Nhái cơm chiên giòn.
Nhái bắt được (hay mua ở chợ) về cắt đầu, lột da, bỏ toàn bộ ruột, rửa nước lạnh vài lần cho sạch, để ráo. Đổ nhái vào tô ướp muối, bột ngọt, tiêu (hoặc ớt, tùy khẩu vị) khoảng 15 phút cho ngấm. Cho chảo lên bếp, phi dầu, tỏi cho thơm (nhớ bỏ dầu nhiều), chờ dầu sôi, thả nhái vào chiên vàng. Lưu ý: Phải chiên thật vàng để khi ăn có thể nhai luôn cả xương mới ngon.
Bạn chỉ cần gắp nhái ra dĩa ăn với cơm hoặc ăn kèm với rau thơm, chuối chát, dưa leo. Thịt nhái dai dai, ngọt, béo, xương nhái giòn rụm… tan trong miệng, càng ăn càng “ghiền”...
Canh bồng nấu don
15/08/2010 16:02
Ngày nghỉ cuối tuần, chạy xe trên con đường làng lầy lội sau cơn mưa chiều hạ, tôi về thăm ngoại. Con đường in dấu những kỷ niệm tuổi thơ êm đẹp nằm bên dòng sông hiền hòa, đôi bờ xanh mát dãy khoai ngứa đang mơn mởn bồng non vươn ra đón ánh sáng mặt trời.
Vẫn con đường ấy, vẫn dòng sông ấy và cả cuộc sống thanh bình như xưa. Chỉ khác tôi đang dần lớn lên, ngoại ngày một già yếu và không còn những ngày tôi lon ton chạy dọc bờ sông theo ngoại lần từng gốc khoai ngứa lấy bồng non.
Ngày còn nhỏ gia đình tôi nghèo lắm, bố mẹ phải đi làm xa, tôi ở nhà với ngoại. Ngoại nuôi tôi khôn lớn với những món ăn “đặc sản” được ngoại chế biến từ cây nhà lá vườn và với tất cả sự thương yêu của ngoại dành cho đứa cháu nhỏ dại. Phải chăng chính sự nghèo khó ấy mà vô hình bát canh bồng khoai nấu don của ngoại đã gắn kết với tôi cho tới tận bây giờ.
Nhà ngoại ở đầu làng nên dọc nửa bờ sông bên này ngoại tận dụng đất trồng khoai ngứa để cắt về nuôi đàn lợn nhà. Rau khoai ngứa không ăn được nhưng bồng khoai (ngó khoai) mà nấu canh don thì với tôi có lẽ không cao lương mỹ vị nào bằng.
Sau những trận mưa to, bồng non tua tủa ngoi ra núp dưới tán lá xanh to mơn mởn còn đọng mưa rơi. Trong lúc tôi mải mê với cái trò đi gom nước, rót từ lá này sang lá kia thì ngoại lom khom lần dưới gốc cây chọn những ngọn non, mập mạp, thân trắng nõn. Ngoại nhặt từng nắm, từng nắm rồi đưa lên bờ cho tôi xếp ngay ngắn buộc thành từng bó lớn hơn để sớm mai mang ra chợ bán, lấy tiền mua thêm don về nấu chung với ngọn bồng.
áng ngoại đi chợ, tôi ở nhà tước bồng để trưa ngoại về nấu canh cho hai bà cháu. Tôi còn nhớ ngoại dặn phải dùng tay chứ không được dùng dao để tước bỏ lớp xơ, lớp vỏ mỏng bao ngoài. Tước đến đâu thì ngâm ngay vào chậu nước lạnh có pha chút muối đến đó, tránh bị thâm ngọn và giảm cái lăn tăn ngứa nơi cổ họng khi ăn.
Tước xong, tôi thường ngồi chơi trông nhà và chờ quà vặt ngoại đi chợ về. Vừa thấy bóng ngoại, tôi nhanh chân chạy, miệng hét lớn thay... lời chào và nhìn vào làn xách xem ngoại có mua bánh rán cho tôi không, sau đó mới tới don để nấu canh bồng.
Ngày ấy tôi còn nhỏ nên không biết đãi don làm canh mà cứ quấn quýt bên cạnh xem ngoại làm. Don được đãi lấy hết ruột đem phi thơm với hành tỏi băm nhỏ. Nước luộc don rất ngọt nên không đổ đi mà dùng để nấu canh nhưng cần phải lọc bỏ cấn.
Bồng khoai trước khi nấu phải đem luộc sơ với nước muối. Ngoại bảo làm thế sẽ bớt đi vị chát và cả cái râm ran mà tôi hay "kêu" mỗi khi ăn món canh này. Một bí quyết nữa là nấu canh bồng phải ninh thật nhừ nhưng tuyệt đối không được dùng đũa khuấy trong khi nấu, nếu không sẽ rất ngứa khó ăn.
Lúc bồng được ninh nhừ thì trút don đã phi thơm vào đun cùng. Nấu canh bồng khoai không thể thiếu đi vị nồng của mắm tôm và hương thơm của rau ngổ mọc bên góc ao nhà ngoại. Chẳng cần cơm thịt, cơm cá, chỉ cần độc món canh bồng nấu don “để vào môi trôi vào ruột” của ngoại tôi cũng có thể đánh bay cả nồi cơm, vét sạch sành sanh không còn hạt nào.
Giờ đây tôi đã lớn khôn và chuyển lên thành phố ở cùng bố mẹ. Nhưng tất cả hình ảnh, kỷ niệm với làng quê nơi đây, với tình yêu ngoại dành cho tôi cũng như bát canh thơm mát sền sệt ngoại nấu năm nào mãi mãi không thể nào quên được.
Theo dấu mít nài
16/08/2010 11:30
Tôi vừa cột trâu ở gốc cây xộp bước vô nhà, má đã kêu: “Đưa nón đây coi!” Tôi ngửa chiếc nón cời ra. Má đổ xoà một cái. Ôi má ơi, mít nài rang! Không kịp rửa tay, tôi ngồi trên thềm đất bóc hạt nhai rào rào như tằm ăn rỗi.
Những hạt mít nài to bằng cái trứng thằn lằn, cháy vàng vàng thơm tận óc. Mặt trời đã lặn từ lâu trên đỉnh núi trước nhà. Một mùa hè nữa sắp trôi qua. Tôi từ lớp sáu lên lớp bảy, tự coi như chàng trai trẻ đã trưởng thành, một mình thả trâu vô núi theo dấu mít nài và bắt chim chèo bẻo.
Nhà tôi ở xứ cận sơn, vườn toàn trồng mít. Những buổi trưa êm, tôi ra vườn thăm mít, trèo lên cây vỗ trái nào kêu bịch bịch mắt liền sáng lên. Cây nào mít nghệ, mít dừa, mít mật, mít ướt… nhìn nước da biết liền. Khi mít vườn chín, trên núi xa mít nài cũng chín. Thằng Thương, thằng Thanh Bắc, anh Soạn và tôi cho trâu ăn ở Hóc Trao. Nửa buổi sáng cả bọn bỏ trâu theo dấu mít nài mọc ở rừng sâu. Những cánh rừng nhiệt đới ẩm ướt, nhiều dây leo, chui dưới tán cả ngày cũng không biết trên đầu mình cây gì. Chỉ tới mùa mít chín, rúc vô rừng ngửi mùi thơm ở đâu thì mò tới đó.
Cảm ơn đàn chồn dơi ở Hóc Trao ban đêm mắt xanh lè như lũ quỷ bay từ cây nọ tới cây kia ăn trái mít nài. Những trái chín bị chồn ăn dở rụng xuống đất thơm không giấu nổi. Nhờ chồn, chúng tôi tìm ra những cây mít nài mới để mùa sau cứ nhắm mắt đi tới tận gốc. Chúng tôi bứt mấy sợi dây mấu bện thành cái nài hình số tám, móc vô hai bàn chân trèo lên thoăn thoắt. Mít nài thường chín rộ, trái già đều bị hái sạch sành sanh. Mỗi đứa cởi áo đùm một bịch, đem ra bìa rừng bẻ lá sầu đông ủ thành một ụ chung.
Trái mít nài lớn hơn nắm tay, ủ trong lá ba bốn ngày thì chín bủn. Múi mít nhỉnh hơn ngón tay trỏ, mùi thơm lạ lùng; mỗi đứa ăn nửa trái đã nghe đầu ong ong. Múi mít nài ăn nhiều nó say còn hơn say rượu. Ngon nhứt vẫn là hạt mít. Chúng tôi chặt giang, bện thành cái rổ, đem cả đống mít nài xuống suối bỏ vô rổ đạp nát nhừ ngay dòng nước chảy xiết. Múi mít tan trôi đi, chỉ còn hạt. Hạt mít nài đem phơi hai nắng, đổ cát vào nồi khuấy đều rang lên. Những người dè sẻn, đem hạt mít nài bỏ trên giàn bếp. Đêm đông lạnh, lấy hạt từ giàn bếp ra rang ngồi nhìn nước lụt, nỗi cô đơn bỗng thơm ngát.
Tôi vào lớp bảy trường Cây Phượng, thằng Qua từ xã trên chuyển về ngồi bên. Nhà Qua nghèo thê thảm nhưng… xa xỉ. Mỗi bữa đi học nó mang theo một bụm mít nài rang, chia cho tôi một nửa. Sau này mới biết, nhà nó không ruộng không trâu, tới mùa nào vô rừng hái thứ ấy đem về bán ngoài chợ phiên. Đêm hè lớp bảy, nó đi mãi không về. Ba nó kêu mấy người hàng xóm thắp đuốc đi tìm. Sáng ra người ta thấy xác nó tím bầm nằm dưới gốc mít nài ở Hóc Trao. Nó chết vì bị một con rắn hổ mây xanh lục nấp trên cây mít nài cắn và rơi xuống đất. Chỉ mấy đứa trẻ cùng lớp với nhau đi đưa tang. Lũ trẻ khóc không ra khóc cười chẳng ra cười.
Năm đó tôi mười hai tuổi và đã biết cuộc đời chưa chắc vui. Buổi sáng tôi đi giữ trâu, buổi chiều đi học. Mùa hè cả ngày thả trâu, cả bọn vô Hóc Trao theo dấu mít nài, bắt ổ chim chèo bẻo. Thỉnh thoảng ba tôi vô núi, mang về một gùi hạt mít. Những đêm vừa ngủ vừa ăn, mùi thơm lan tới cả giấc mơ. Tỉnh dậy mới biết bàn tay phải còn nắm cả một mớ hạt…
Mít nài, tên khoa học là Artocarpus rigidus, thuộc họ dâu tằm Moraceae có nhiều ở miền Đông Nam bộ và Quảng Nam. Tuổi thơ ở xứ Quảng mùa hè lớn lên trong mùi thơm của nó. Sau này tôi có quen một thiền sư, ông nói mít, tiếng Phạn cổ có nghĩa là Phật. Tôi không biết có chính xác hay không vì chỉ thấy người ta lấy lõi cây này về nhuộm áo cà sa và làm tượng Phật trong chùa. Nếu quả thật đó là cây Phật, tôi cầu xin cho linh hồn người bạn xấu số của tôi mãi mãi ẩn náu dưới bóng từ bi, bốn mùa toả hương thơm ngát.
Nhông đất ngày xưa
29/06/2010 11:20
PNO - Khi cơn mưa giông đầu hạ trút xuống những vùng đất cát khô cằn của xứ sở miền Trung, cũng là lúc vào mùa bắt nhông đất của người dân quê tôi.
Nhông đất thường sống chủ yếu ở những vùng cát ẩm ven sông, ven biển, đào hang sâu dưới lòng đất để trú ẩn. Nhông đất rất nhanh nhẹn, hễ thấy bóng người là chạy trốn ngay vào hang, muốn bắt được chúng phải dùng bẫy. Bẫy làm bằng tre đan thành một ống rỗng, có đầu chui vào được mà không có đầu đi ra. Trên những dải đất nghi là có nhông ở dưới, người ta sẽ tìm miệng hang, sau đó đặt bẫy. Thức ăn của nhông đất là những loại hoa, cỏ thân mềm hoặc dế, cào cào, châu chấu... Khi nhông chui lên, thấy mồi sẽ lần mò vào kiếm ăn và sập bẫy.
Nhớ ngày xưa, vào những buổi sáng rảnh rỗi, ba tôi thường dẫn tôi đi tìm hang nhông để đặt bẫy, đến giữa trưa thế nào cũng thu hoạch được cả xâu hàng chục con. Thịt nhông đất rất ngon, có thể chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn.
Nhông bắt được, ba tôi đem chặt bỏ đầu, chân, lột da rồi mổ bụng bỏ hết phần nội tạng. Lúc này, mẹ tôi mới bắt đầu chế biến thành các món ăn. Món nhông xào sả ớt chỉ cần băm nhuyễn nhông, ướp gia vị rồi xào. Mùi thơm quyến rũ của nhông và sả ớt bay khắp nhà khiến ai cũng thòm thèm. Mỗi lần có món này là tôi ăn vèo được hết mấy bát (chén) cơm đầy, có lẽ vì vừa ngon lại vừa đói sau một buổi lẽo đẽo theo ba trên những đồi cát.
Món thú vị và hấp dẫn nhất có lẽ là món nhông nướng. Nhông sau khi làm sạch để nguyên con ướp với ớt, thật nhiều củ nén (hành tăm) bởi thịt nhông rất hợp với loại củ này, thiếu nó coi như thịt nhông nướng mất đi rất nhiều hương vị. Bọc lá chuối hay lá lốt bên ngoài con nhông, kẹp vào vỉ, cho lên lò than đỏ lửa, trở đều hai mặt, chỉ khỏang vài phút là mùi thịt nhông nướng đã lan tỏa thơm lừng, ai ngửi được cũng thấy thòm thèm.
Nướng nhông phải có kinh nghiệm, nếu tái hay chín kĩ quá ăn sẽ mất ngon, vì nhông vừa dai vừa bị đăng đắng. Nhông nướng vừa chín tới lột bỏ lớp lá bọc bên ngoài, lộ ra thịt nhông vàng thẫm, thơm lừng. Thịt nhông xé nhỏ chấm với muối tiêu chanh là ngon "ngất trời", như cách ba tôi thường nói.
Ngoài món nướng, xào sả ớt, món cháo nhông cũng ngon không kém. Thịt nhông băm nhỏ ướp gia vị mắm muối, hành, tiêu, ớt,… cho hết vào chảo dầu, xào đến khi thịt săn lại rồi trút vào nồi cháo đang sôi. Đơn giản vậy thôi là đã có được nồi cháo thật thơm ngọt.
Món cò quê
21/06/2010 9:20
PNO - Vào khoảng tháng 3 và tháng 8 Âm lịch, khi những cánh đồng lúa quê tôi trổ đòng, bát ngát một màu xanh thì cũng là mùa cò về. Vào những ngày giáp hạt, khan hiếm thức ăn, người quê tôi thường bẫy cò để chế biến thành những món ăn ngon.
Cò thường đi theo đàn, nên những người bẫy cò cũng phải có chiêu dụ cò riêng. Thường người ta phải ngồi trong lùm tre được kết lại thành mái vòm uốn cong, gọi là vòng cò. Vòng cò càng kín bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để cò không phát hiện ra người. Có những vòng cò từ mùa cò này sang mùa cò khác, tre mọc kín mít, ngồi trong đó gặp hôm trời mưa thậm chí chẳng ướt người.
Bẫy cò chỉ cần mồi nhử là những con cò còn sống, được nuôi từ vụ trước, buộc chân lại, cho đậu trên vòng cò. Người bẫy khi nhìn lên trời thấy cò về thì giật dây thật mạnh để cò kêu lên và vỗ cánh bay. Quanh khu vực gần vòng cò còn có thêm những con cò làm bằng gỗ. Xen giữa cò gỗ là những thẻ tre được phết đầy nhựa cây, để khi cò sà xuống, bị dính, sẽ không bay lên được nữa. Cò đang bay nghe tiếng kêu, từ trên cao trông xuống tưởng có đàn cò thật đang đậu trên đồng, nên thi nhau sà xuống và dính bẫy.
Làm cò cũng phải biết cách thịt mới không bị tanh. Vặt lông cò thật sạch, sau đó thui cò trên ngọn lửa rơm mới sạch hết những lông tơ còn sót lại, thịt cò cũng sẽ thơm ngon hơn.
Thui cò xong, dùng một tấm giẻ khô lau sạch thân cò, tuyệt đối không được dùng nước, nếu đụng nước, thịt cò sẽ rất tanh. Mổ bụng, bỏ hết nội tạng, chỉ giữ lại phần tim gan, dạ dày và mỡ. Dùng dao lọc tách lấy hai khối thịt bên ức cò, róc cánh lấy nạc, thái nhỏ. Phần xương thì bằm thật nhỏ. Gia vị để nấu thịt cò không thể thiếu là gừng, lá lốt, mẻ, mắm tôm, bánh tráng vừng. Thịt cò phải được ướp với mẻ, gừng, hành, lá lốt bằm nhỏ, để khoảng 30 phút cho thấm gia vị. Bánh tráng bẻ miếng vừa ăn, nhúng qua nước lạnh cho mềm, vớt ra để ráo nước.
Phi thơm hành với mỡ cò, cho thịt vào xào trước, thịt săn lại thì cho phần xương vào xào tiếp, nêm chút nước mắm, bột ngọt cho vừa miệng. Khi thịt chín, trút ra đĩa để riêng. Phi thơm hành, cho bánh tráng vào xào, thấy bánh tráng đổi màu từ trắng đục sang trắng trong là bánh đã chín, trút thịt cò vào xào tiếp, sau đó mới cho mắm tôm vào. Cuối cùng là rắc thêm chút lá lốt cho thơm
Múc thịt cò ra dĩa, ăn khi còn nóng. Mùi thơm của lá lốt gừng, vị chua của mẻ, vị dai của bánh, vị béo của thịt cò, nồng của mắm tôm… tất cả hòa quyện vào nhau làm nên một vị ngon chẳng thể lẫn vào đâu đượ
Ốc len miệt vườn
05/04/2010 5:00
PN - Quê tôi ở xứ dừa, dừa bạt ngàn. Mương, rạch ngang dọc khắp miệt vườn.
Dọc hai bên con rạch, người ta thường trồng dừa nước để chống lở bờ. Dừa nước lớn lên, gốc dừa to đùng, bẹ lá có khi nằm sâu dưới nước. Nước lớn, ốc len theo con nước ăn rong rêu, bùn đất bám quanh gốc dừa rồi leo dần lên bẹ, bò đủng đỉnh. Mùa mưa, trời mát, ốc sinh sản nhiều vô kể.
Khi còn nhỏ, hè nào tôi cũng được ba má cho về quê ngoại nghỉ hè. Người theo chăm sóc tôi suốt thời gian ở quê là dì Sáu. Lúc đó dì chưa có gia đình, nên hai dì cháu rất thân nhau. Biết tôi thích ăn ốc len, dì thường mượn chiếc ghe nhỏ chèo đi bắt ốc. Hai dì cháu luồn lách trong những mương rạch. Trời mưa lâm thâm. Sợ tôi bệnh dì bắt tôi nằm xuống ghe, úp cái mo cau lớn lên người tôi để che mưa, còn dì đội nón lá, chèo xuồng chầm chậm. Không chú ốc len nào trong đám dừa nước thoát được đôi mắt tinh tường của dì.
Muốn ngon, phải ngâm ốc trong nước vo gạo một, hai tiếng đồng hồ cho nhả hết nhớt rồi rửa sạch. Giờ mua ốc ở chợ, người bán có cái kềm bấm hết đuôi mớ ốc cho người mua, nhưng hồi đó, dì tôi phải để ốc lên thớt chặt múm đuôi từng con. Chặt xong, dì rửa sạch để đó, rồi lựa một trái dừa nhỏ mà dày cơm để nạo lấy nước cốt. Phần tôi chạy ra vườn kiếm mớ rau răm với vài trái ớt hiểm. Chuẩn bị đâu đó xong xuôi, dì đổ mớ ốc len vào chảo, đảo đều. Ốc vừa chín, dì chế nước cốt dừa vào, nêm nếm, nước vừa sôi lại là tắt lửa, bỏ rau răm, ớt hiểm vào trộn đều, nhắc xuống liền. Nước cốt dừa lấp xấp trắng mỡ màng, hơi nóng bốc lên mùi thơm rau răm ngào ngạt. Cầm một con ốc len đưa lên miệng hút cái rột, bao nhiêu ngon ngọt, béo ngậy từ thịt ốc chui tọt vào miệng, thật đã!
Vài chục năm đã qua, dì Sáu tôi nay đã xa khuất. Quê tôi cũng không còn nhiều những con ốc len đeo bẹ dừa nước như ngày trước, vì bị tận diệt và mương rạch cứ bị lấp dần. Ngoài chợ, ốc len được bán rất nhiều, nhưng hình như chúng không có được hương vị phù sa, mùi đất, mùi dừa như ốc len quê tôi ngày xưa.
Cơm cháy ngày xưa
29/03/2010 5:00
PN - Hồi còn bé, mẹ tôi thường bảo "ăn cơm cháy vét nồi thì học dốt", "con trai mà ăn cơm cháy nó u mê”.
Trong bữa ăn, phụ nữ Huế bao giờ cũng ngồi bên nồi cơm để xới cơm cho mọi người, nên mẹ không bao giờ xới cho tôi cơm cháy. Sau này tôi mới biết thời bao cấp, nhà nhà phải ăn độn sắn khoai, nhưng mẹ vẫn dành cho tôi những bát cơm trắng tinh tươm nhất. Phần mẹ là khoai, sắn và bát cơm cháy ăn với tép riu hay cà niễng kho khô... Thế nhưng, cái món cơm cháy của mẹ, nếu vào thời điểm này, lại thành đặc sản!
Mỗi bữa, mẹ nấu cơm trong cái nồi bằng đồng, vì nồi nấu đủ ba lon gạo nên gọi là nồi ba. Bếp ăn toàn đun bằng rơm rạ, củi khô nhặt nhạnh trong vườn nên nồi cơm bao giờ cũng có một lớp cháy vàng rộm. Khi cơm chín tới, mẹ ủ trên nắp vung một lớp than hồng đỏ rực, vì thế, rất dễ lóc cháy. Sau khi đã xới cơm trắng ra chạn, mẹ đậy nắp nồi thật kín để vừa giữ ấm, vừa để lớp cơm cháy dưới đáy nồi tự bong ra. Ngon nhất là món cơm cháy cà niễng của mẹ, giờ nhớ đến còn thèm!
Vùng đồng trũng quê tôi có nhiều cỏ năn, cỏ lác, là nơi cư trú của nhiều loại "đặc sản" đồng quê, trong đó có con cà niễng (có nơi gọi là niềng niễng).
Cà niễng có vị cay cay, đăng đắng tương tự như con cà cuống phía Bắc. Cà niễng nhỏ bằng đầu ngón tay út, cánh đen, hơi cứng, ăn rong rêu. Chỉ cần thả vuông lưới nhỏ như cái te xúc tép xuống là xúc được vô số cà niễng. Loại này ra giêng thường béo tròn trùng trục. Khéo chế biến, cà niễng là một món ăn độc đáo. Một mớ cà niễng cỡ cái bát to, vặt hết chân, bỏ cánh; có người cẩn thận hơn, moi bụng, rồi rửa sạch, để cho khô nước, rang lên - như rang tép – thêm chút nước mắm nhỉ, ớt tỏi rưới lên là thành một món ăn đồng quê đặc sắc.
Ngon không kém là món cà niễng chiên giòn. Thứ cà niễng rang hay chiên ấy rải đều lên mặt lớp cơm cháy vàng rộm rồi cuốn tròn lại, xắt thành từng lát như miếng "ram" ở Huế, ăn bao nhiêu cũng không ngán. Mùi vị cay cay, đăng đắng của con cà niễng cộng với vị bùi của dầu lạc, cơm cháy, chưa ăn đã bắt thèm...
Giờ mỗi lần đi ăn cơm niêu, cơm cháy tôi lại nhớ quê, nhớ mẹ. Mẹ tôi đã đi xa. Giống cà niễng hẳn cũng tuyệt chủng vì ruộng đồng tràn đầy thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu... Biết tìm đâu món cơm cháy ngày xưa?
Mắm... Anh Hai
08/03/2010 5:00
PN - Anh Hai tôi vốn dân Sài Gòn, sau ngày giải phóng, anh đi TNXP rồi về Bạc Liêu làm rể.
Vì thế, mỗi khi anh về, là nhà tôi lại có... mắm. Năm thì anh mua mắm cá lóc, mắm cá sặt, năm lại là mắm còng, ba khía... Nhưng ấn tượng nhất với tôi chính là những hũ mắm chua - một loại mắm Bạc Liêu không lẫn với mắm xứ nào.
Cũng là mắm, nhưng mắm chua toàn những loại cá con như: cá chốt, cá sặt, cá rô, cá lóc... Sau khi "thao tác", mắm sẽ có vị chua chua, ngọt ngọt, dịu đến lạ lùng. Nếu trộn thêm chút khóm tươi bằm nhỏ, tỏi ớt giã nhuyễn, kẹp rau thơm, thêm miếng thịt ba chỉ luộc thái mỏng... ăn vào là nhớ suốt đời! Dù ăn giữa mùa hè nóng bức hoặc trong gió đông rét buốt, thì vị nồng nàn của mắm chua cũng quyến rũ lạ thường.
Tiếng là mắm nguyên con, nhưng ăn vào bạn sẽ chẳng bao giờ bị mắc xương, bởi toàn bộ xương đã thấu. Anh Hai tôi nói, bí quyết để có món mắm thấu xương này chính là ở men của mắm. Mà phải là men Miên, loại men được tán mịn, chỉ có thể mua được ở mấy chợ miền Tây hoặc ở Cà Mau, Bạc Liêu. Để có được mắm ngon, phải làm sạch cá con, ngâm trong nước vo gạo, sau hai tiếng, vớt ra rổ, phơi nắng cho ráo. Củ riềng tươi, xắt chỉ, trộn với năm muỗng cà phê muối. Gạo rang vàng, giã nhỏ, trộn với một viên men tán mịn. Băm thêm nửa chén tỏi, ớt. Trộn hết hỗn hợp này vào muối cá, đổ một ly rượu nếp thật ngon vào, đậy kín nắp, sau đó mang ra nắng phơi khoảng bốn, năm ngày là "trên cả tuyệt vời". Mắm chua có màu xanh, mở nắp ra bốc mùi thơm lựng...
Anh Hai tôi nói mắm chua xuất xứ từ xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu từ rất lâu rồi... Cuốn bánh tráng, rau sống, dưa leo, chuối chát chấm mắm, cái vị chua cay, thơm nồng sẽ thấm đẫm tận chân răng. Vì thế, mỗi năm cả nhà cứ chờ, cứ chờ anh Hai về thăm nhà để có vài hũ mắm chua. Và cả nhà gọi loại mắm chua này là: Mắm Anh Hai!
Xót lòng bữa cơm sinh viên thời bão giá
– Mì tôm trở thành món xa xỉ, thịt cá, rau xanh đua nhau tăng giá, cơm bình dân đắt gấp đôi, gấp ba bình thường… Ăn gì trong mùa bão giá? Một câu hỏi quá khó đối với sinh viên, những người chưa có thu nhập, mọi chi tiêu vẫn còn phụ thuộc vào sự cung cấp có hạn của gia đình.
– Mì tôm vốn được coi như là món bình dân không thể thiếu đối với sinh viên, đó được coi như “vũ khí” hiệu quả để chiến đấu với “giặc đói” trong những ngày tháng học hành vất vả. Lúc bình thường, một gói mì tôm chỉ 1.500 - 2.000 ngàn đồng/1 gói, rất hợp với túi tiền của sinh viên. Vậy mà nay, "bão giá" đã đẩy mì tôm tăng lên 3.500 – 5.000 ngàn đồng/ 1 gói, sinh viên ít mua được mì tôm, còn mì tôm thì ngày càng trở nên xa xỉ đối với sinh viên.
Bạn Hoàng Văn Quyết (SV năm thứ 3, Học viện Quản lý giáo dục) chia sẻ: “Hồi năm đầu, ngày nào mình cũng mì tôm, sáng đi học ăn mì, tối cũng vậy, học bài xong là cả phòng rủ nhau cùng ăn, mì tôm trở thành thói quen với cả phòng mình. Giờ mì tôm lên giá quá, thôi đành nhịn ăn sáng, bỏ thói quen ăn mì buổi tối!”.
– Mấy tháng nay, bạn Nguyễn Thanh Hoài (Đại học Quốc gia Hà Nội) không hề nghĩ đến chuyện ăn thịt, cá. Bữa cơm hàng ngày cũng chỉ là rau, đậu phụ và sang hơn là trứng rán… Gia đình làm nông nghiệp, gắng lắm thì mới gửi cho Hoài mỗi tháng được 1 triệu, tiền nhà trọ đã chiếm hơn nửa, số còn lại còn bao nhiêu việc phải chi. “Ra chợ mua thức ăn là lúc em phải tính toán đến đau đầu” – Hoài than thở.
Đối với những sinh viên ở trong ký túc xá, bị cấm nấu ăn nên thường xuyên phải ăn cơm bụi, chẳng phải đi chợ, nhưng cũng đau đầu với bài toán, hôm nay ăn gì? Bạn Phạm Văn Lâm (SV Học viện Báo chí và Tuyên truyền) cho biết: “Hồi vào trường, suất cơm 5 -7 nghìn đồng là ăn đủ no, bây giờ thì suất cơm 15 nghìn đồng, ăn xong rồi, muốn ăn thêm suất nữa. Dạo trước, ăn sáng là một gói xôi, nhưng giờ xôi cũng đắt, mình bỏ không ăn sáng nữa, ngủ đến trưa cho quên đói rồi đi ăn luôn thể”.
– Cùng bạn Lâm đi ăn trưa ở nhà ăn của ký túc xá, chúng tôi thấy suất cơm giá 15 nghìn của bạn có 2 món rau, 1 nửa quả trứng luộc nhưng không còn nguyên vẹn, bát canh toàn nước, có chăng chỉ vài cọng rau nằm tận dưới đáy. “Ký túc xá em có nhà ăn như thế này là còn có thể ăn suất cơm 15 nghìn đấy, chứ nhiều nơi bây giờ, 15 nghìn không thể mua được một suất cơm!” – Lâm vừa vừa nói.
Để chống lại cái đói, nhiều sinh viên ở ký túc xá đã “liều mình” nấu trộm cơm. Cứ 3,4 người chung nhau một nồi cơm, trong một phòng chật hẹp có tới 2 – 3 cái. Không có bếp, các bạn dùng luôn cả nồi cơm để luộc rau, rán trứng… Cứ đến trưa hay chiều tối, là cả ký túc xá thơm lừng mùi thức ăn. “Quản lý ký túc xá biết thế cũng tăng cường kiểm tra, lập biên bản rồi thu giữ nồi cơm, nhưng mấy hôm sau, bọn em lại góp tiền mua nồi mới, nấu tiếp” - Bạn Đỗ Đức Trọng (SV Học viện Báo chí và Tuyên truyền) nói. “Dạo trước trung bình em tiêu hết 1 triệu, nhưng nay, mỗi tháng em phải xin ở nhà 1 triệu rưỡi thì mới đủ tiêu, ăn uống đắt đỏ, hết nhiều tiền mà lúc nào cũng đói” – Trọng cho hay. Trong thời điểm này, rau xanh, dù lên giá nhưng đây là sự lựa chọn của sinh viên. “Mình ở gần chợ thực phẩm Dịch Vọng, nên hay tranh thủ dậy sớm, ra đó mua rau cho rẻ. Thịt cá thì chả dám mua, thỉnh thoảng về nhà mang gạo rồi mua ít cá khô lên cải thiện thôi, chủ yếu bọn mình ăn rau, chịu khó ăn cho qua bữa” – Bạn Nguyễn Thị Thanh (SV Đại học Thương mại) cho biết.
Hôm nay ăn gì? Một bài toán thực sự nan giản đối với sinh viên trong mùa bão giá, để giải bài toàn đó, hàng ngày, sinh viên phải vắt óc lên suy nghĩ, tính toán, tìm đủ mọi cách để tiết kiệm… Và có thể, “ăn rau” sẽ tạm thời là một đáp án.
"Hot boy" thời bao cấp
– Tuổi lấy chồng của con gái ngày mỗi cao, xưa quá hai mươi đã sợ ế chồng lo sốt vó, nay nhiều cô ba mươi tuổi vẫn nhởn nhơ như tuổi đang xuân, chưa đến bốn mươi chưa lo ế. Sở dĩ như vậy vì ngày xưa việc chồng con có cha mẹ lo, cứ đến tuần cập kê là cha mẹ đã sắp đặt cho một tấm chồng, may nhờ rủi chịu, khỏi phải lo lắng gì.
Ngày nay cha mẹ thả cho tự do chọn lựa, tưởng thế là sướng hoá ra gay cấn vô cùng, thằng mình ưa thì nó không ưa, đứa không ưa thì nó lại ưa. Vả, cô nào cô nấy đều ham trai thời thượng, nay gọi là hot boy xưa thì gọi là người yêu lý tưởng. Người yêu lý tưởng có một nhúm, con gái có cả đàn, phân phối làm sao cho đủ.
Người yêu lý tưởng cũng tuỳ theo thời thế mà đổi thay, thời này anh là hot boy thời sau anh chỉ là hàng tồn kho, chả ai thèm. Ở đâu không biết chứ ở ta thời này chuyển sang thời kia nhanh như chớp mắt, không thể lường trước được.
Những từ năm 60-70 thế kỉ trước người yêu lý tưởng là anh bộ đội. Có lẽ thời loạn, anh bộ đội nổi lên như mẫu người hùng, được xã hội yêu quí ngưỡng mộ. Thoạt kì thuỷ con gái hễ cứ thấy anh bộ đội là mê, sau biết phân biệt lính bộ binh, lính phòng không, lính hải quân, không quân, thiết giáp…Không quân là số 1, hải quân là số 2, bộ binh bị xếp vào hàng bét dem.
Phải cái các chị không biết phân biệt quân hàm quân hiệu. Trừ lính hải quân, còn lại thấy lính nào cũng giống lính nào. Ra đường gặp các anh bộ đội chọc ghẹo, mặt cứ hất lên ra vẻ lắm, nhưng vừa đi qua là lập tức túm lấy con nít tụi mình hỏi rối rít, nói răng răng, quân chi quân chi.
– Mê quân này quân kia chán, các chị mới để ý đến chức vụ. Ai sống thời này đều nhớ như in câu hát em yêu anh trung uý, không yêu anh binh nhì một tháng năm đồng...Lương trung uý 75 đồng, thời mà cán bộ viên chức chỉ có 39 đồng năm hào thì 75 đồng là một đồng lương mơ ước. Sĩ quan thường mặc áo đại cán bốn túi, miền trung gọi là bâu, thế nên mới có câu: râu thì râu bốn bâu em cũng lấy.
Chị em nhìn quân hàm cứ mù mịt, chẳng biết chức gì ra chức gì, cứ tưởng nhiều sao là chức to, lắm khi bị hố điếng người. Một chị thấy anh đeo quân hàm ba sao đến chơi, mừng húm. Người nhà đi hỏi, ưa liền. Sau có người nói đồ gạch vải, không phải gạch đồng. Chị hoảng lên hỏi răng răng. Người này nói ba sao một gạch vải là thượng sĩ thôi, ba sao một gạch đồng mới là thượng uý, chị ngồi khóc sưng mắt. Lần sau có cô bạn nào sắp có chồng bộ đội chị đều nhắc gạch vải ẻ vô nha, nhiều sao cũng ẻ vô!
Một chị tiếp anh chuẩn uý ở phòng khách. Mạ chị đi chợ về, thấy quân hàm trọc lóc một gạch, bà đi qua lờ không chào, kéo chị vào phòng trong nghiến răng nói nhỏ răng ngu rứa con, hắn có sao đom mô mà yêu với đương, ngu ngu!
Chị nói mạ tề, một gạch đồng là chuẩn uý của người ta đó. Mắt bà sáng lên nói rứa a rứa a, quăng cái rổ chạy ra túm lấy tay anh chuẩn uý cười xoe xoe, nói con tới chơi đa con! Chuyến ni dứt khoát phải ở lại ăn cơm với nhà bác, không bác giận đó.
Một chị có anh thiêú tá đến chơi, chị cứ ngồi hất mặt lên, trả lời nhát gừng. Ba mạ chị cũng ngồi trong bếp không thèm ra chào. Chán, anh này bỏ về. Có người hỏi răng chị chê anh nớ. Chị trề môi nói đồ một sao quẹt quẹt. Sau biết một sao nhưng có hai gạch đồng là thiếu tá chị sững sờ, đập hai tay vào má kêu to: ui chao tui lại ngu rồi!
Kịp đến thời người yêu lý tưởng là lái xe. Đấy là những năm 70-80, thời này đói kinh hồn. Hậu chiến đói kém là phải, nhưng đói thế này chủ yếu là hậu quả của chế độ bao cấp, “cái gì cũng phân mà phân thì như c***”, lại thêm ngăn sông cấm chợ khắp nơi. Phàm là hàng hoá không phải hàng quốc doanh đều bị coi là hàng lậu, cách nhau chừng vài trăm cây số giá cả có thể cách nhau chừng 4, 5 lần là chuyện thường.
Thành ra béo nhất là mấy anh lái xe, hễ ai cầm được cái xe nhà nước là coi như cầm được sự sống của cả nhà rồi. Cánh lái xe sống nhờ vào dân buôn lậu, ấm no cũng nhờ đấy mà ra. Càng ngăn sông cấm chợ thì dân buôn lậu và cánh lái xe càng béo. “ Ai ơi yêu lấy anh tài/ vào trong thịt cá ra ngoài bảnh bao”.
Hễ tài xế xuất hiện là dân tình đã lác mắt. “Quần ximili vừa đi vừa ngắm, dép tông Lào áo trắng thảnh thơi”. Mùa hè xe đỗ đường cái, con gái đi chơi từng tốp, lái xe bật đèn pha, các cô tay che mắt liếc, dẩu môi nói chi mà vô duyên rứa hè, cười cái, ngoảy đít cái, chạy. Qua khỏi bóng đèn thì túm tụm nhón chân nhìn qua cabin ngắm trộm lái xe, thì thầm trẻ hè trẻ hè.
Có cô nào được lái xe mời ngồi cabin, bụng hí hửng lắm, nhưng mặt làm bộ tỉnh bơ nhìn thẳng, cái cổ cứng ngắc, tay gác cửa xe. Thấy bạn quen thì thò cổ ra, kêu: nời, đi mô đó. Mấy bạn cô ngửa cổ nhìn cô đầy ngưỡng mộ, nói sướng hè sướng hè. Xe đi qua thì nhếch mép cười nhạt, người này nói đồ mặt như mặt mo mà cũng lấy được lái xe hà bay, người kia nói ừ đo, đúng là may hơn khôn, to l. hơn đẹp mặt.
Con gái trong xóm làm gì thì làm, không thể không đi qua ngõ nhà có xe tải đỗ một lần, mắt hất lên ra cái điều không thèm nhìn vào, mắt thì liếc xéo vào nhà, thấy cô con gái đang ti toe với anh lái xe thì mím môi bịp một cái như cái rắm, nói chà, báu lắm đó mà vênh! Thế nhưng hễ lái xe gọi một tiếng em ơi là lập tức mặt đỏ rực, cười tít, liếc một cái, rồi giả đò bỏ chạy, vừa chạy vừa ngoảnh lại, sung sướng ra mặt.
Cánh lái xe vào quán được coi là dân thượng lưu, được trọng vọng hơn cả lãnh đạo huyện. Trong làng có cô nào cưới được chồng lái xe, làng xóm bàn tán mê man cả tháng, chẳng khác gì con gái xưa vớ phải trạng nguyên.
Cùng thời này có một người yêu lý tưởng nữa là phó tiến sĩ đi tây về. Món phun thuốc sâu này ngày xưa là thứ bằng cấp quí hiếm, cao sang cực kì. Thời buổi Một yêu anh có may ô/ hai yêu anh có cá khô để dành thì cái bàn là, chiếc xe đạp cuốc, cái quạt tai voi…là cả một gia tài lớn, làm loá mắt các cô gái đẹp. Nếu trong nhà có ti vi neptune, tủ lạnh Saratop thì có thể cưới được hoa hậu. Ở Hà Nội hồi này cứ chiều chiều các đồng chí phun thuốc sâu mặc quần zin Thái, áo bay Liên xô, đeo đồng hồ ponzot, cưỡi xe đạp cuốc lượn vè vè quanh Bờ Hồ, thỉnh thoảng nhả ra mấy câu tiếng Nga. Mỹ nhân Hà thành không cô nào không dán mắt vào gáy họ.
Nhà nào có được chàng rể là phun thuốc sâu ở Tây về đều lấy làm hãnh diện lắm. Khách đến nhà thấy cái tủ lạnh Saratop đặt giữa phòng khách, trên có bình hoa tươi; góc phòng còn có cái ti vi Peko, phủ tấm voan trắng; cạnh bàn uống nước đặt cái ấm điện mới coóng sáng loá; trên vách treo ảnh chàng rể đứng ở xứ tây, nụ cười rạng rỡ… ai nấy đều trầm trồ, nói nhà bác thật tốt phúc quá. Chủ nhà mỉm cười vẻ khiêm tốn, nói cháu nó nghiên cứu sinh ở Nga về, mình chẳng ham gì, chỉ ham ba cái chữ thôi bác. Ba tiếng nghiên cứu sinh hồi đó vang lên sao mà nghe sang quá đi mất.
Nhưng rồi phun thuốc sâu cũng chỉ tồn tại chưa đầy chục năm, những năm 80- 90 là thời kì của người yêu lý tưởng tàu viễn dương. Nhà nào có người được một suất đi tàu viễn dương thì cả phố cả huyện đều biết, nhà đó được tôn lên bậc vương giả.
Ở nhà mái bằng hai ba tầng, xài ti vi màu, đầu băng Nhật, đi hon đa cup 50, cup 70, cup 82 kim vàng giọt lệ… đều là của mấy nhà có người đi tàu viễn dương, tuyệt không có ai. Mấy hot boy lái xe, phó tiến sĩ cứ phải xách dép chạy dài.
Nhìn thấy cô nào tay đeo vòng vàng, đồng hồ Senko, cổ quàng dây chuyền vàng hạt ngọc, đi cup 82 kim vàng giọt lệ chạy thong dong trên phố thì cầm chắc đó là vợ con mấy bác tàu viễn dương. Mấy cô xách làn vào chợ, thong thả nhặt của ngon vật lạ chất đầy làn không thèm mặc cả, dưới cái nhìn thèm khát bốc cháy của không biết bao nhiêu ánh mắt đàn bà.
Cô lại xách làn thong dong đi ra, nhất định có người gọi, nói nời… chồng mới về à? Thể nào cô cũng dừng lại khẽ gật đầu, nói về đựơc vài ngày rồi lại đi, suốt đời lênh đênh trên biển vất vả lắm. Miệng nói thế nhưng mắt long lanh rạng ngời hạnh phúc.
CƠM SINH VIÊN THỜI BAO CẤP
phamngochien.com - Thứ 2 ngày 04/01/2010 - 16 giờ:17 phút
Ai đã từng là sinh viên thời bao cấp đều không thể nào quên cảnh "canh toàn quốc, nước mắm đại dương". Tùy vào mỗi trường Đại học, Trung cấp mà cách ăn uống cũng có khác nhau chút đỉnh, nhưng về cơ bản, tất cả sinh viên đều kham khổ. Sau đây là chuyện bữa ăn tập thể của sinh viên một trường Đại học ở miền Trung.
Trong các món ăn, trước hết phải kể đến cơm, vì đây là thành phần cơ bản của bữa ăn. Đầu thập niên 80, sinh viên phải ăn cơm ghé sắn hoặc hạt bo bo, sau đó, chỉ còn lại cơm nhưng phải ăn loại gạo tồn kho lâu ngày. Loại gạo này bán không ai mua, phát không ai nhận, nên chuyển sang cho giới sinh viên ăn vì đây là loài dễ nuôi nhất trong tất cả các loài. Người ta tưởng ăn loại gạo thiếu chất dinh dưỡng này thì sinh viên sẽ gầy ốm. Nhưng xin thưa, họ đã lầm hoàn toàn. Càng ăn, sinh viên càng..."mập", ấn móng tay vào da thịt không biết đau, mà để lại một chỗ lõm... Họ đã mắc chứng phù thũng.
Thức ăn thứ hai là cá, các bà ở chợ thường gọi là cá heo. Xin đừng tưởng nhầm sinh viên thời đó ăn sang. Thực ra, đây chỉ là loại cá nhỏ tạp nhạp đủ chủng loại, không tên không tuổi, được nhiều gia đình mua về nấu cho heo ăn mau lớn. Các trí thức của loài người cũng ăn loại cá này suốt 4 - 5 năm Đại học. Món này được sinh viên xem là món cao cấp nhất của bữa ăn nên chỉ vài phút là sạch sành sanh.
Tiếp theo là mắm, còn gọi là nước mắm đại dương. Xin đừng hiểu nhầm đây loại loại nước mắm nổi tiếng với thương hiệu "Đại dương". Thực ra đây chỉ là nước muối, người ta cho thêm màu vào (nghe đâu là nước cơm cháy). Cho nên, tuy gọi là mắm cho sang trọng nhưng không phải là mắm.
Món cuối cùng là canh, còn gọi là canh toàn quốc. Xin đừng tưởng lầm là sản phẩm nổi tiếng toàn quốc, mà thực ra là "canh toàn nước", chỉ lèo tèo vài cọng rau. Tất nhiên, là loại rau rẻ tiền hoặc không tốn tiền như rau muống, mồng tơi, lá giang, rau dền (khiến nhiều sinh viên chạnh lòng nhớ lúc còn ở nhà cắp rổ đi hái rau dền cho heo)... Còn về thịt thì có bói cũng không tìm ra miếng nào. Nếu dùng kính hiển vi thì may ra mới phát hiện vài nguyên tố Lipid trôi nổi trong Thái bình dương. Đôi lúc, các sinh viên nhà ta còn bắt gặp trong thau canh những vị khách không mời mà đến như rơm rác, lá tre, cọng tóc, giẻ rách... Thậm chí có khi còn bắt gặp một chú chuột con còn chưa mở mắt. Thôi thì rợn hết chỗ nói...
Thời bao cấp, xung quanh các trường thường không có quán xá gì nên căn tin là nơi ăn uống chính. Hình ảnh của căn tin, mùi của căn tin, âm thanh của căn tin thường chập chờn trong giấc ngủ của sinh viên những đêm đói bụng. Căn tin đã đi vào thơ văn, nhật ký, lưu bút... Và nó cũng ghi dấu ấn không thể phai mờ trong ký ức của những sinh viên đã đi qua thời bao cấp.
Đời sống giáo viên trong thời bao cấp
Tình cờ gặp chú Q, một người quê ở Sóc Trăng lên thành phố Hồ Chí Minh thăm các con, tôi đã làm quen và hỏi chú chuyện thời Bao cấp. Biết được ngày xưa chú là giáo viên, tôi thực sự cảm thấy rất mừng. Từ trước tới giờ tôi chưa từng được nghe một giáo viên nào kể chuyện thời Bao cấp. Và tôi cũng không biết một giáo viên sống trong thời gian đó ra sao?
Nhắc đến thời Bao cấp, lúc đầu chú Q chỉ cười. Chú nói cái thời đó muốn bắt xe đi đâu chắc phải mất một ngày, cả đi mua hàng cũng vậy, nói chung là lúc nào cũng phải chờ đợi chứ đâu có nhanh chóng như bây giờ. Khi nói chuyện nhiều hơn một chút về cuộc sống người giáo viên trong thời Bao cấp, chú cho biết hồi đó người làm nghề nhà giáo rất khổ. Ngày còn trong thời kì Bao cấp cứ khi nào nói về nghề nghiệp một số người vẫn nói đùa với nhau câu thơ:
Muốn sang thì lấy thợ điện
Muốn diện thì lấy thợ may
Ăn mày thì lấy thầy giáo.
Theo lời chú kể, ngày đó nghề giáo rất khổ. Lương nhà nước cấp không bao giờ đủ sống mà thường là phải xin thêm tiền ở nhà. Khi vừa tốt nghiệp ra trường, chú Q được phân công dạy học ở huyện Thốt Nốt. Xa nhà, chú sống cùng với các giáo viên khác tại một căn nhà tập thể. Chú nói, gọi là nhà tập thể thôi chứ nhà tập thể ở mỗi trường, mỗi nơi nó lại khác. Ở chỗ chú, nhà tập thể chỉ là một phòng học cấp bốn, nói cấp bốn là còn đỡ chứ thực ra nó còn chưa được cấp bốn. Căn phòng đó được ngăn đôi ra, một bên nam, một bên nữ. Căn nhà tập thể đó tuy nghèo nàn nhưng đã trở thành mái nhà chung của anh chị em giáo viên nghèo. Chú Q kể, nhiều khi không có tiền sống, mấy anh em trong nhà tập thể cùng góp tiền để một người nào đó có thể về quê xin tiền ở nhà mang lên. Thường thì người đó sẽ về nhà của mình khoảng chừng ba ngày, khi trở lại thường là mang theo một khoản tiền nào đó. Số tiền tuy không nhiều nhưng cũng để mọi người cùng trang trải cho cuộc sống. Hôm nào, có anh đi quá ba ngày là mọi người ở lại biết ngày thứ tư chỉ có chết đói. Mà một người nào đó về được nhà mình, có muốn mang lên cái gì cho anh em đỡ tiền mua cũng không phải là chuyện dễ dàng. Chú Q kể, mỗi lần về nhà, gia đình chú thường chuẩn bị gạo cho chú mang theo. Chỉ có khoảng 10-20 kg gạo mà mỗi lần muốn mang đi là mỗi lần khó vô cùng. Muốn không bị bắt lại ở các trạm kiểm soát phải đi xin giấy phép, mà giấy phép thì không phải chỉ xin một lần ở một nơi là được. Chú nói phải đi xin từ dưới lên trên, làm sao phải được cái mộc đỏ thì mới “ăn tiền”. Chú Q còn nói mình mang có một ít gạo mà cũng bị nghi ngờ này nọ. Có lẽ người ta nghĩ mình đi buôn, mà đi buôn phải buôn nhiều chứ chỉ có ít gạo như mình thì ăn cũng không có chứ lấy gì để buôn.
Đời sống kinh tế thời đó dường như chi phối tất cả mọi thứ. Người giáo viên cũng bị cuốn vào cái vòng xoáy của cơm áo gạo tiền. Thời Bao cấp mọi cái đều khó khăn từ chuyện ăn uống, quần áo cho đến giải trí này nọ. Chú Q nói hồi đó anh em ở trong nhà tập thể chỉ là ở để sống tạm qua ngày chứ cũng không có chế độ của nhà giáo gì. Muốn giải trí thì cũng phải tự mình tìm mấy cái phim trắng đen để xem. Chú nói hồi đó có phim trắng đen để xem là đỡ lắm rồi còn muốn xem phim có màu thì rất khó. Người nào làm quen được với mấy anh trưởng phòng nông nghiệp này nọ thì mới được xem ké một chút phim có màu. Chuyện giải trí lúc đó chỉ là chuyện hy hữu vì việc lo cho cái ăn còn khó. Hồi đó, người ta phát cơm theo xuất.
Chú kể cho tôi nghe đúng cái từ mà người dân lúc đó dùng khi nói về hạt cơm, bát canh. Hạt cơm lúc ấy nhìn hạt nào hạt ấy như con dòi. Chú nói nhìn hạt cơm to như con dòi là biết nó nở như thế nào. Người ta không nấu bình thường như bây giờ mà cho vào cái chõ để hấp. Họ hấp cho đến khi nào hạt cơm to ra bằng con dòi mới lấy ra, đến khi lấy cơm, múc một chén nhìn thì đầy mà chẳng được bao nhiêu. Còn canh thì nhìn không thấy một “ông sao” nào. Chú giải thích là vì bình thường mình thấy canh có chút váng dầu mỡ, để dưới nắng thường thấy váng mỡ như những “ông sao”. Canh Bao cấp nấu chỉ với nước lã, chẳng có chút dầu mỡ, thịt thà gì nên nói nhìn bát canh Bao cấp không thấy “ngôi sao” nào là vậy. Người ta thường gọi canh hồi đó là “canh toàn quốc” tức là canh toàn nước hoặc có rau thì cũng chỉ là mấy cọng rau dền dại. Có mấy người nói đùa còn chế thơ của Nguyễn Khuyến:
Tô canh lạnh lẽo nước trong veo
Một miếng thịt heo bé tẻo teo.
Hạt cơm, bát canh là vậy, còn cà phê thì chỉ được uống cà phê ngó.
Khi tôi hỏi chú Q về điều gì làm chú nhớ nhất về thời Bao cấp, chú cho tôi biết hồi đi dạy người ta thường có sự phân biệt chú không phải là người Việt như họ. Chú Q vốn là người miền Bắc di cư vào nam năm 1954, giọng nói của chú so với người miền Nam khá khác. Đối với học sinh, các em rất thích vì giọng nói của chú khá chuẩn còn với phụ huynh thì ngược lại. Chú Q nói, ngày đó trình độ dân trí còn thấp, lại trải qua một thời kì dài với sự chia cắt ba miền Bắc, Trung, Nam nên người ta vẫn còn giữ đầu óc phân biệt. Hồi đầu, chú thấy mình hơi gặp khó khăn với thành kiến của phụ huynh. Đa số họ là những người gốc Nam theo đạo Cao Đài, khi nghe giọng nói của chú Q, họ cho rằng chú là người Huế. Theo họ nghĩ người Huế thì khác với người Việt. Các phụ huynh ấy cứ nghĩ ai nói cùng giọng với họ mới là người Việt còn ai khác họ thì không phải là người Việt. Chú Q kể không phải giọng nói mà cả cái văn hóa, tôn giáo họ cũng đem ra phân biệt. Điều đó làm chú cảm thấy khó khăn nhiều trong việc tiếp xúc với người dân ở đây, đặc biệt trong thời gian chú phải xa nhà. Chú nói mình cũng là người Việt mà không được xem là người Việt. Cái cảm giác lúc đó rất lạc lõng nhưng chú cũng biết rằng không phải là họ cố ý muốn phân biệt mà là do họ không biết. Dân trí lúc đó thật sự là rất thấp.
Về việc dạy học của chú Q, chú cho biết do điều kiện đất nước lúc đó còn khó khăn, giáo dục không được đầu tư nhiều. Cơ sở vật chất lúc đó rất kém, phòng ốc rất thiếu thốn. Để khắc phục tình trạng này, nhà trường chia giáo viên dạy theo ca. Vì số lượng học sinh đông mà phòng ốc lại thiếu nên ngày nào cũng phải dạy ba ca: sáng, chiều, tối. Về chất lượng giáo dục, theo chú Q nhận xét, so với trước đây chất lượng bây giờ cao hơn nhiều. Tuy nhiên có một căn bệnh mà giáo dục bị nhiễm từ thời Bao cấp mà cho đến bây giờ vẫn không chữa khỏi đó là bệnh thành tích. Chú nói, hồi đó chất lượng giáo dục không được quan tâm bao nhiêu còn thành tích thì lại được chú ý rất nhiều. Hầu như lúc nào người ta cũng đề ra chỉ tiêu và cố gắng thu được những thành tích nào đó.
Ký ức thời bao cấp: Một thời rất thương - Kỳ 1
12:00 kuxh Bình luận
Đối với nhiều người, thời bao cấp có thể là ký ức buồn, đầy trăn trở, ưu tư nhưng đối với tôi thì không thế. Bởi vì đó là những năm tháng gắn bó với tuổi trẻ - một tuổi trẻ đầy biến động. Người ta chỉ lo sống, sống theo “cái mới” thôi, không có thời gian hay điều kiện để “buồn” hay “trăn trở, ưu tư”. Và giờ đây, thời trai trẻ ấy đã qua lâu rồi nhưng tất cả vẫn còn in đậm trong tiềm thức tôi. Với tôi, tháng ngày ấy là những gì rất “thiêng”, rất “thương”, rất đáng trân trọng.
Sau ngày giải phóng đất nước năm 1975, tôi là giáo viên “lưu dung”[1]. Chỉ riêng cái mác “lưu dung” thôi cũng chan chứa bao nỗi niềm! Tôi vừa mang một ít mặc cảm tội lỗi, rằng lý lịch nghề nghiệp của mình không được “trong sáng” như các bạn giáo viên mới vào nghề sau năm 1975; lại vừa có một chút tự hào rằng xét “năng lực, đạo đức” mình cũng đã hơn nhiều người khác không được “lưu dung”.
Cái “khâu” tư tưởng này thực ra nó chỉ hiện diện trong tư tưởng thôi, không ai thấy được. Với tôi, điều thực sự đáng sợ là những dịp học chính trị trong hè. Hồi đó, mỗi năm giáo viên phải tập trung (vài ba huyện) học chính trị một tháng. (Sau này, các đợt học này được rút ngắn dần: còn nửa tháng, rồi một tuần, giờ thì chỉ còn một ngày). Trong các bài học, buổi học là phải có thảo luận ở tổ, rồi ghi biên bản: Ai phát biểu? Phát biểu bao nhiêu lần? Nội dung phát biểu?… để cuối khóa học là đánh giá xếp loại (mà là xếp loại “tư tưởng, nhận thức” chính trị nữa mới ghê!)
Bản tính tôi là người rụt rè, nhút nhát, lại thêm thảo luận gì mà cứ lật vở ghi ra rồi đọc y chang một đoạn tài liệu nào có ghi trong vở để trả lời câu hỏi thảo luận! Cứ thế, ai cũng ráng để có ít nhất là một lần phát biểu trong buổi thảo luận hôm đó, để khỏi bị đánh giá là “lập trường, quan điểm” còn yếu kém. Lần nào tôi cũng cố “gồng" mình lên để đọc một đoạn nào đó cho xong (sau khi đã “bị” hoặc ‘được” bạn bè chung quanh nhắc nhở). Phải hiểu rằng hồi đó đối với loại 24, 25 tuổi mà mở miệng ra nói “chính trị” là đứa nào cũng cảm thấy là lạ, dì dị, mắc cỡ miệng, không dám nói (chứ không được mạnh mẽ, tự tin như các em trẻ ngày nay).
Năm học 1975-1976, tôi từ thành phố Quy Nhơn chuyển về dạy ở huyện Hoài Nhơn. Nhưng có lẽ phải đến năm học sau (1976 - 1977), tôi về dạy ở một trường ở cuối huyện - trường PTCS Hoài Sơn, một trong những cái nôi “cách mạng” của huyện, thì cuộc đời giáo viên của tôi mới thực sự có nhiều đổi thay, đáng nhớ.
Trước hết là đổi thay về hình thức. Những chiếc áo sơ mi mặc với quần tây (dù đã được chọn lọc, tinh giản lắm rồi) cũng được xếp kĩ. Tôi chuẩn bị “vào cứ” với mấy bộ quần áo bà ba để mặc lên lớp hoặc đến nhà phụ huynh cho mình thực sự “gần gũi với giai cấp”. Các bạn giáo viên nữ từ nơi khác đến cũng thế. Ai cũng cố “bần cùng hóa” mình cho khỏi bị đánh giá là “xa rời quần chúng”!
Ngày chúng tôi về trường thì trường chưa cất xong. Đám học sinh thì lo khiêng đất, nhào đất trét vách, đầm nền. Tôi thấy có năm, sáu anh lớn lớn, tôi nghĩ chắc đó là các anh trên xã đoàn xuống phụ với các em. Đến hôm học chính thức, bước vào lớp, tôi mới ngẩn người ra khi phát hiện “mấy anh” hôm trước lại chính là học trò của mình! Sau này gần gũi với các em, chúng tôi mới hiểu là do hoàn cảnh chiến tranh, bản thân các em phải tham gia du kích, rồi học hành gián đoạn, phải đi học nhờ ở xã bên, học ban đêm dưới hầm,… Có em chỉ kém chúng tôi một, hai tuổi thôi.
Phải hiểu rằng đây là lần đầu tiên quê các em có ngôi trường cấp hai. Các em có thầy cô, các em được ung dung cắp sách đi học giữa ban ngày, ngay trên chính quê hương mình.Có thế thì mới hiểu được niềm vui cũng như tình cảm mà các em dành cho chúng tôi lớn đến mức nào! Và chúng tôi hồi ấy (có sáu giáo viên) cũng tự hào vì mình là thế hệ giáo viên đầu tiên của xã. Nơi đây có ngôi trường “cách mạng” đầu tiên để chúng tôi rèn luyện mình. Thế nên thầy trò đều háo hức như nhau.
Vì đã lớn lên trong chiến tranh ác liệt nên các em ấy cũng rất già dặn trong tình cảm, suy nghĩ, trong việc làm. Đó là những đợt đi lao động chặt củi, trồng mì,…trên núi. Mấy cô giáo chúng tôi làm gì mà gánh, mà khiêng cho được những bó củi, những bao mì. Thế là đám học trò nhỏ ấy xung phong “rước” hết cho thầy cô! Những “nông dân cày đường nhựa” như chúng tôi cũng không dám giao hết cho học trò vì sợ bị đánh giá là “thiếu tính giai cấp”, là “tư sản”, nên cũng cố “cõng” cùng các em.
Đến mùa hè, các em đi núi có sim, có chà là hoặc nhà làm mía (nấu đường) là các em lại mang đến nhà tập thể biếu thầy cô bằng một cách hết sức dễ thương: Các em len lén lúc không có thầy cô, nhẹ nhàng để ở bàn rồi vụt chạy nhanh ra khỏi nhà, như thể sợ chúng tôi bắt gặp các em sẽ xấu hổ!
Ký ức thời bao cấp: Một thời rất thương - Kỳ 2
12:00 kuxh Bình luận
Thời ấy, tập thể giáo viên chúng tôi (lúc này đã trên mười người) hầu hết chưa có gia đình cho nên chúng tôi có điều kiện để toàn tâm toàn ý với đám học trò của mình. Những buồn vui của chúng tôi đều đến từ học trò. Nhưng có lẽ buồn hơn cả là những đợt giao quân đi nghĩa vụ. Vì là một xã anh hùng nên các em lại tiếp bước các anh để đi vào chiến trường Tây Nam hay biên giới phía Bắc đang hồi ác liệt.
Đám giáo viên nữ chúng tôi sợ đến nỗi không dám có mặt trong các buổi lễ ấy. Có lần đến dự, chúng tôi không cầm nổi nước mắt khi các em đưa tay vẫy chúng tôi rồi bước lên xe. Cứ hình dung mới hôm qua đây thôi, các em còn đứng trước lớp, trước bảng để trả lời bài, hôm nay đã phải mang súng ra chiến trường… Hôm đó về nhà tập thể, chúng tôi bị “kiểm điểm” vì đã khóc. Ai lại đưa chiến sĩ lên đường mà thiếu “khí thế” như vậy, “rõ là mất quan điểm!”.
Tôi luôn nghĩ, chính những năm tháng ở đây đã cho tôi hiểu thế nào là tình thầy trò, thế nào là những kỷ niệm đáng nhớ trong đời một nhà giáo. Bạn có tin không, hồi đó chỉ cần thay chủ nhiệm từ lớp này sang lớp khác (giữa năm học) là cả thầy lẫn trò đều khóc. Mãi sau này, trong sự nghiệp giảng dạy của mình, cũng nhiều lần thay đổi lớp chủ nhiệm như thế nhưng tôi thấy tình thầy trò không còn được sâu đậm như trước nữa.
Đó là một chuỗi ngày thật vô tư, thật đẹp, chưa có bóng dáng của “cơm áo gạo tiền”! Tháng tháng chúng tôi đã có 13 cân vừa gạo vừa mì lát với 50 đồng bạc. Bọn độc thân chúng tôi cũng chẳng biết có nhu cầu nào khác. Chỉ có điều hơi vất vả vào mùa mưa vì phải đi mua gạo cho tập thể. Hai người dậy lúc ba, bốn giờ sáng, đạp 20 cây số, đến nơi để xếp sổ cho sớm. Rồi 20 cây số đạp về với mấy trăm ký gạo, mì. Trời mưa to, qua hai cánh đồng trống, gió giật mạnh đến nỗi dắt xe mà sợ gió “bốc” luôn cả người lẫn xe gạo đi. Về đến trường khoảng hai, ba giờ chiều, đói, mệt là điều đương nhiên. Bây giờ thỉnh thoảng vẫn có ai đó ví von “Mầy làm gì mà mặt mầy như đồ mất sổ gạo vậy?”. Không biết các bạn trẻ có hình dung ra được cái “nhu cầu sống” duy nhất của chúng tôi là gì chưa?
Đến những năm say này, khi đã có gia đình thì phương tiện đi lại của chúng tôi vẫn là chiếc xe đạp. Chiếc xe đạp chở bốn: chồng đèo vợ phía sau bồng đứa nhỏ, đứa lớn thì ngồi ở một cái yên sắt móc ở ghi đông phía trước. Còn vỏ ruột xe thì khỏi phải nói, cả năm mới được phân phối một chiếc. Nhưng không phải lúc nào cũng mua được, có khi lại “nhường” cho bạn để có thêm vài đồng, trong khi vỏ xe của mình thì đang “quấn” tạm bằng một lớp cao su khác, chờ ngày nó “đình công” rồi hãy tính sau.
Tôi còn nhớ hồi năm 1976-1977, lương Cao đẳng Sư phạm ra trường là 38 đồng 4 hào. Lương “lưu dung” của tôi là 42 đồng. Mỗi tháng được 300 gram thịt tem phiếu. Thông thường, chúng tôi có ba cách sử dụng tiêu chuẩn ba lạng thịt ấy như sau: Người thì mua hẳn ba lạng mỡ về rán lấy nước mỡ, để dành xào rau muống cho “sang”; người khác (như tôi) thì gom lại để dành lúc giỗ, tết để có được hai, ba ký thịt đủ làm cỗ. Thế nên, với ba lạng thịt mỗi tháng, hầu như không còn ai biết đến nhu cầu “ăn thịt” là gì!
Đó là ăn, còn mặc thì tôi không còn nhớ rõ là tiêu chuẩn mỗi năm được mấy mét vải. Chỉ biết hồi đó sang nhất là vải “xi-mi-li” (của Liên Xô hay Trung Quốc gì đó). Tiêu chuẩn này chỉ phân cho cán bộ lãnh đạo thôi, còn giáo viên "trơn" như chúng tôi thì không. Đó là loại vải cứng, hơi bóng mặt, dùng để may quần Tây (hồi đó gọi là quần Âu). Có được chiếc quần loại này là sang hết chỗ nói! Diện bộ này, rồi cưỡi một chiếc xe đạp “Phượng hoàng”, vai đeo một cái đài nhỏ (radio), thế là cực kỳ hoành tráng. Cũng từ đó mà trong dân gian đã có câu: “Một người làm việc bằng hai, để cho cán bộ có đài, có xe”.
Những gia đình trẻ như chúng tôi cũng có cách để “diện Tết” riêng. Mỗi năm may một chếc quần Tây thì hai vợ chồng phải mua một loại vải giống nhau để khi cắt may nó sẽ dư ra đủ một cái quần nhỏ cho con (khoảng năm, sáu tuổi). Thế là vợ chồng con cái đồng bộ.
Nhìn chung, trong mắt những công nhân viên chức như chúng tôi hồi đó (kể cả nhân dân) thì các mậu dịch viên ở các cửa hàng là “oách” nhất, “sang” nhất. Với đám người hàng ngày xếp hàng chen lấn, cãi cọ nhau từ hai, ba giờ sáng để chờ được mua vài lạng thịt, chai dầu, lít mắm,… thì quả thật những người được nắm quyền “sanh sát” kia được chúng tôi nhìn ngắm một cách đầy thèm muốn, ước ao. Hàng tháng khỏi phải chen lấn, chầu chực mà lại được hưởng các tiêu chuẩn tốt hơn. Bởi thế mới có câu: “Thủ kho to hơn thủ trưởng”.
Trên đây vừa là chuyện của một người, cũng là chuyện của nhiều người. Cái thời mà xét ở tầm khái quát hơn, có lẽ Báo “Ong đất” của Bungary đã “vẽ” lại một cách đúng đắn nhất, trung thực nhất, khiến mỗi chúng ta không thể không gật đầu và suy ngẫm.
“Ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc
Ai cũng không làm việc nhưng ai cũng có lương
Ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống
Ai cũng không đủ sống nhưng ai cũng sống
Ai cũng sống nhưng ai cũng không hài lòng
Ai cũng không hài lòng nhưng ai cũng giơ tay “nhất trí”!
Trở lại với bản thân tôi, có lẽ các bạn, nhất là những người cùng thế hệ, các bạn đã phần nào “mỉm cười” và chia sẻ với tôi quá khứ một thời mà tôi đã cho là rất “thiêng”, rất “thương” và rất đáng trân trọng. Còn với các bạn trẻ, các bạn sẽ nghĩ đó là những câu chuyện cổ tích. Nhưng vẫn là những câu chuyện cổ tích hết sức thú vị, bởi các nhân vật trong đó là có thật và cũng đang sống quanh ta. Mong rằng những câu chuyện “cổ tích” ấy sẽ sống mãi, sẽ được kể cho nhau nghe, để cùng tìm thấy bóng dáng của con người Việt Nam, của đất nước Việt Nam, của một thời khó quên.
Thời bao cấp: Chuyện của anh kỹ sư Nông nghiệp
10:24 xuananh Bình luận
Nếu không viết lại đôi điều, có thể nhiều bạn trẻ không hình dung nổi thời Bao cấp như thế nào? Ông bà cha mẹ mình đã sống ra sao?
Thời kỳ ấy chủ yếu diễn ra ở miền Bắc và tác động sâu sắc đến đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống người làm công ăn lương.
Hãy lấy hình ảnh đời sống một gia đình anh kỹ sư nông nghiệp nọ để tìm hiểu những gian khổ ngày ấy… Đó là giai đoạn khoảng năm 1970 đến 1980, anh công tác ở Bộ Nông nghiệp Hà Nội, vợ dạy học ở Hải Dương. Thời kỳ này lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, phương tiện đi lại, dụng cụ học tập không được bán tự do, tất cả phải mua bằng tem phiếu, số lượng nhiều ít tùy thuộc vào mức lương. Ví dụ một người lương trung bình một tháng được mua 13 kg gạo, 2 lạng rưỡi thịt, 10 quả trứng, nửa ký đậu phụ… Số lượng này được in thành tem và phát tại cơ quan làm việc. Không ai được phép bán các mặt hàng này ngoài thị trường. Nếu bắt được, bị đưa lên đồn công an giải quyết… Anh kỹ sư kia phải để dành các thứ phiếu ấy, không dám ăn nhiều. Rồi thứ bảy cuối tuần anh đem phiếu ra cửa hàng mua thực phẩm, mang về cho vợ con. Anh phải đi rất sớm để xếp hàng. Vì tại nơi bán, người ta đã xếp rổ, rá, cục gạch, miếng gỗ… dài tít để chờ đến lượt vào mua. Mua được thực phẩm bằng tem phiếu rồi, anh phải quay về cơ quan làm việc. Đến năm giờ chiều, anh mang gói hàng quý kia ra bến ô tô, lại xếp hàng để mua vé về quê. Ở đây người ta xếp hàng còn dài gấp mười lần chỗ mua thực phẩm. Nhiều hôm không mua được vé, anh lại ôm gói hàng về nhà ngủ, để sáng sớm hôm sau lại ra bến ô tô xếp hàng, mang gói hàng về cho vợ con. Niềm vui lớn nhất là tết đến cơ quan chạy mua được gà, phân phối cho mỗi người được một con. Anh vui mừng ôm con gà công nghiệp ra bến, chen chúc giữa dòng người đang xô đẩy, hung dữ để mua vé lên ô tô về gia đình.
hời ấy xe đạp, kể cả phụ tùng xe không bán tự do, phải mua tại cơ quan. Ví dụ cơ quan khoảng 100 người thì một năm được phân phối hai chiếc xe đạp, mười bộ xăm lốp, xích líp… Vì thế phải họp bình xét từng năm một xem ai được mua (mỗi người chỉ được mua một thứ, nếu lấy xích líp thì khỏi xăm lốp!). Có người cả mười năm mới đến lượt. Nếu mãi không đến lượt thì coi như đi xe “căng hải” cả đời! Trong cơ quan, anh nào có xe đạp coi như giàu có “oách nhất”.
Bạn anh, một kỹ sư xây dựng kể lại: “Hồi ấy xung phong đi chiến trường Lào, anh được phân phối hai kg đường. Anh không dám ăn để ngày chủ nhật mang về cho vợ. Không may khi về nhà, vợ con lại đi sơ tán khóa cửa, anh đành bọc kỹ hai kg đường vào ba lô, tiếp tục lên đường sang Lào công tác. Hàng tháng, anh leo đèo lội suối, lăn lóc ở rừng, vẫn không dám đụng đến một hạt đường, để mấy tháng sau được về nhà, lại mang hai kg đường ấy về cho vợ con!”.
Lại nói đến sữa, thời ấy chỉ những người có con nhỏ mới sinh mới được mua hai, ba hộp sữa theo tem phiếu, trẻ em thiếu sữa thường xuyên! Còn để nấu ăn, chất đốt cũng được mua bằng tem! Vợ chồng anh kỹ sư mua than bằng tem, hàng tháng ra hồ lấy bùn về trộn với than cám, nhào nặn thành từng cục bằng nắm tay, mỗi bữa cho vào lò tôn một đến hai cục nấu ăn. Xỉ than thải ra không bỏ đi, anh để dồn một đống, chủ nhật về nghỉ, anh vớt bùn dưới hồ lên, nhào trộn với xỉ, đóng thành những viên gạch không nung, phơi ngay trước hè nhà. Sau một năm, anh dùng gạch đó tự xây nhà cấp bốn, rộng 20 mét vuông, mái lợp lá cho bố mẹ, vợ con ở.
Nói đến gian khổ của thời kỳ bao cấp, không bút nào tả hết. Song có một điều kỳ lạ là vợ chồng anh sống rất khỏe, ít ốm đau bệnh tật, lại rất lạc quan yêu đời. Ai cũng đạt thành tích cao trong công việc, được mọi người yêu mến, tín nhiệm. Như bao người Việt thời kỳ ấy, anh chị tháo vát, có nhiều sáng kiến khi gặp khó khăn. Hai từ bi quan, chán nản hầu như không tồn tại.
200 ngày đêm mất tự do
27 tháng 9 năm 1949: Hơn 100 tù binh, trong đó có anh Quyền, tôi, anh Thìn, anh Sơn... bị giải về Phú Lâm. Nguyên đó là cái đồn, xây dựng từ thời Pháp mới chiếm nước ta. Bây giờ, đồn được phủ đất lên trên nóc, xây lô cốt, chòi canh. Tù binh thì nhốt dưới đồn. Chúng tôi thật sự lọt vào một cái hang giữa lòng đất. ảm giác đầu tiên của tôi là ngộp thở. Bốn phía bít bùng, ánh sáng lờ mờ. Một địa huyệt. Xung quanh đồn có hàng rào kẽm, có bãi lựu đạn, có hào rộng. Ngoài đồn là một cánh đồng rộng, cách xóm phía tây và nam gần ba cây số. Ở xóm, theo anh em cho biết, là bàn đạp của kháng chiến. Phía đông và bắc của đồn giáp chợ Phú Lâm và đường quốc lộ.
Tới nơi, tôi hỏi han về tình hình ở đây. Anh em cho biết: Trước đây, quân ta tấn công khám này để mong giải thoát cho tù, nhưng không thành công. Gần đây, có một vụ vượt ngục qui mô, đến 200 người thoát, nhờ sự đồng tình của lính Bắc Phi.
Mới 5 giờ sáng, đã có chuông báo thức. Tất cả tù tập hợp trên nóc đồn để lãnh việc. Một số ít người đau, yếu, ở hẳn lại lo vệ sinh trong khám, còn tất cả phải đi làm phu các cơ sở nhà binh.
Tôi đi làm ở thành Lê Dương. Khuân, vác, cưa, đục, nhổ cỏ... Trưa, tù ăn tại chỗ làm, chiều tối mới về. Ăn cơm gạo lức, khô mục.
21 tháng 10: 100 tù ở khám Phú Lâm được lệnh chuyển xuống căng ở Mỹ Tho, trong đó có tôi. Anh Quyền, ông Nhượng ở lại.
22 tháng 10: Cái lò gạch cũ bên bờ một con rạch tại Châu Thành (Mỹ Tho) được dùng làm trại giam tù binh. Đồng bào gọi đó là khám số 7. Giám đốc trại giam là ách Tuyết. Nhưng, cai sếp Baranger, người Pháp, mới thật sự là giám đốc. Ký là tay chân cật ruột của Baranger. Ký bố trí một lưới gián điệp sâu, rộng trong hai trại nam, nữ ở khám số 7.
Bọn gián điệp theo dõi lời ăn tiếng nói của từng tù binh, hễ ai phản đối Tây là bị hãm hại liền. Cứ vài hôm, một tù binh nửa đêm bị đem đi thủ tiêu. Hành vi giết người đó cứ tiếp tục mãi, từ ngày lập khám số 7 đến giờ. Tù binh còn bị thủ tiêu trắng trợn hơn: Baranger bắn chết tù binh giữa ban ngày với lời kết luận đơn giản: toan vượt ngục.
500 con người sống chung đụng mà tuyệt đối không ai nói chuyện riêng với nhau. Ban đêm, gián điệp đi rình, nghe có ai rù rì không. Hễ ai bị bọn gián điệp mách là “hội nghị” thì nếu không bị chết cũng bị ngủ xà lim cả tháng.
Không khí chẳng khác gì Catinat, nhưng nó còn gớm ghiếc hơn Catinat nữa. Ngoài những âm mưu ám hại tù binh lẻ tẻ, Tây thực hiện thủ đoạn hoàn toàn trái với công pháp tù binh quốc tế: buộc tù binh đi trước trong các trận càn quét. Tôi là một trong những nạn nhân của thủ đoạn đó, sau một lúc vào khám.
Nhưng sự hãi hùng ở khám số 7 không phải chỉ có bấy nhiêu. Sanh mạng tù binh do ách Tuyết, cai sếp Baranger và cai tù Ký định đoạt. Sanh mạng tù binh lại do chiến cuộc định đoạt. Lúc ở Catinat, tôi nghĩ rằng đi căng là thoát.
Bây giờ, tôi mới hiểu căng chính là lò sát sanh qui mô mà mạng của tù binh mỏng manh như sợi chỉ. Không đêm nào tù ở khám số 7 yên giấc. Nghe tiếng giày sột soạt, tất cả đều bừng dậy. Nhưng không ai dám trở mình, chỉ mở mắt ngó nhau. Ai sẽ chết đây?
Tất nhiên, tù binh muốn trốn lắm. Làm sao trốn đây? Bốn bề canh tuần chặt chẽ, không thể nào lọt qua nổi.
Ban giải phóng tù binh và “bản tuyên bố”
2 tháng 11: Ách Tuyết cho hay một giờ trưa nay, 100 tù sẽ chuyển xuống Gò Công. Tôi ở trong số đó. Xe vừa dừng ngang cửa khám Gò Công, chúng tôi chưa kịp xuống thì từ sau, roi vụt tới tấp. Chúng tôi phải nhảy đại, nhiều anh em trầy tay, lác đầu gối…
Tây lùa chúng tôi vào khám. Lúc đó đã chiều. Thế mà sau khi điểm danh xong, 100 tù mới phải ra mắt chúa ngục Gò Công bằng một công việc đặc biệt: móc dãy ống cống chung quanh khám. Bọn chúa ngục triệt để “hợp lý hóa” sử dụng lao động!
4 tháng 11: Sáng ra, chúa ngục cho hay cần 50 người tình nguyện đi Đồng Sơn.
Tôi xin đi. Số tù cũ e ngại. Sau này, tôi mới rõ là Đồng Sơn nổi tiếng thủ tiêu tù. Nhưng, Đồng Sơn lại gần vùng tự do, có khả năng tìm đường vượt ngục.
Xe chở chúng tôi trở lại đường về Mỹ Tho rồi rẽ qua Đồng Sơn, ngừng trước cửa một lâu đài to lớn, nhà của một viên hội đồng tên tuổi lừng lẫy ở Gò Công.
6 đến 7 tháng 11: Làm cái lô cốt này đến cái lô cốt khác. Nhiều anh em đã nhuốm bệnh. Tương lai mù mịt.
Theo tin nghe được, chúng tôi phải làm 50 cái lô cốt. Và, đã xảy ra một số cuộc chạm súng quanh vùng giữa du kích và bọn Pháp, bọn ngụy. Như tên đại úy chỉ huy trưởng Đồng Sơn cảnh cáo, chưa biết hôm nào chúng tôi bị bắt. Lính Việt cho biết bốn trong tám anh em bị giữ ở Đồng Sơn đã chết “thường mạng” cho hai thằng lính Tây.
Nhiều anh em muốn trốn. Tôi khuyên anh em: Đừng trốn lẻ tẻ; một người trốn thì một người trong anh em bị bắn. Tôi đã nghĩ cách cho toàn thể khám có thể vượt ngục.
Ngày giờ đã có thể chọn: Đêm 11 tháng 11 - Lễ chiến thắng Đức 1918 của Pháp (Fête de la Victoire). Ngày 11 tháng 11 hằng năm, Pháp đều tổ chức duyệt binh, chè chén, sự canh phòng nhất định sơ hở. Tuy có một chút bất tiện, ngày đó trăng mọc hơi sớm. Nhưng, không còn ngày nào tốt hơn.
Tôi đã định hướng được nơi chúng tôi phải đến.
Còn một khó khăn: chúng tôi thiếu dụng cụ đục tường. Tôi dặn anh em tìm xà beng hoặc dao, hoặc thứ gì có thể cạo lớp ximăng, kín đáo mang vào khám.
Tôi giao anh Sơn cùng một tổ nghiên cứu kỹ rào, bãi kẽm gai, chỗ gài lựu đạn và họ phải tìm cách gỡ lựu đạn, cắt rào. Những người trong tổ nguyên là lính trinh sát.
8 tháng 11: Tối nay, tôi họp từng nhóm nhỏ anh em, định kế hoạch vượt ngục. Kế hoạch đại cương đã định xong và một ban giải phóng tù binh được thành lập, tôi làm chủ tịch.
11 tháng 11: Chúng tôi định 11 giờ sẽ ra. Tôi thảo một “bản tuyên bố” để lại. Dưới ánh đèn cầy, tôi viết trên một tờ giấy trắng mấy dòng. Đại khái, chúng tôi cho biết vì chế độ nhà tù hà khắc và vì bổn phận chúng tôi còn phải tiếp tục chiến đấu, nên chúng tôi vượt ngục.
Chúng tôi cám ơn anh em binh sĩ người Việt và “hẹn gặp bọn Tây ở chiến trường”! “Tuyên bố” mang chữ ký của tôi với danh xưng: Chủ tịch Ủy ban giải thoát tù binh khám Vĩnh Lợi.
Gần 11 giờ, tường đã thủng một lỗ nhỏ. Gió mát lùa vào. Ngó ra ngoài, tôi thấy một vòm trời đen đục. Tim chúng tôi đánh mạnh. Trong gang tấc hoặc chết, hoặc tự do. Bỗng có tiếng giày. Anh em giả như ngủ say. Đèn pin bấm vào khám như thường lệ và tiếng giày xa dần rồi im hẳn.
Ngày quang đãng
11 giờ, toán xung kích ra đầu. Toán này có trách nhiệm vẹt rào, cắt kẽm gai, gỡ lựu đạn, dọn đường cho anh em. Mỗi người cột áo lên cổ, nhận nhau qua khẩu hiệu “Ai? Áo cột cổ”. C. và ông già ra tốp đầu. Tôi ra gần sau cùng.
Cái lỗ hơi nhỏ, bụng và lưng tôi trầy trụa. Chúng tôi leo qua công sự, tụt xuống hào nước. Lỗ châu mai đen ngòm của hai lô cốt như chăm chỉ ngó tôi. Tôi hơi ngán. Lúc đó, trăng sắp mọc.
Lối 12 giờ, 42 tù nhân khám Vĩnh Lợi tập họp nghỉ trên bờ tre, cách đồn chừng hai cây số. Tới đây, chúng tôi hoàn toàn tin chắc mình đã thoát. Nhiều anh em ôm tôi, khóc mướt. Tôi tựa lưng vào một gốc cây, rút điếu Golden Club, hút một hơi. Điếu thuốc ngon kỳ lạ. Tôi ra khỏi khám chỉ với cái quần ngắn, áo thun quấn gói thuốc và hộp quẹt cho khỏi ướt khi lặn qua hào nước.
Gà gáy sáng. Chân trời đỏ rực, báo một ngày quang đãng. Tiếng trống vang lên ở đầu xóm: ngày lễ kỷ niệm Liên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới.
Chúng tôi không ở Bình Phục Nhứt, đề phòng địch truy kích, mà sang Quơn Long. Và tại đây, mỗi người chọn hướng về đơn vị của mình.
Mấy hôm sau, tôi về đến Tỉnh ủy Mỹ Tho và sau đó về Xứ ủy. Đồng chí Ung Văn Khiêm báo với tôi: Đài Pháp Á đọc “Bản tuyên bố” của chúng tôi.
8 tháng 4 đến 10 tháng 11: Bảy tháng lẻ hai ngày. Từ Vạn Giả, ải địa đầu tiên đến Vĩnh Lợi, chặng chót, tôi đã sống hơn 200 ngày đêm mất tự do.
Tôi ghi vội những trang này khi về đến vùng tự do khu 9. Cách đây mấy hôm, Thường vụ Xứ ủy mừng tôi: đồng chí Lê Duẩn, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Cúc… tại trụ sở Xứ ủy đóng ở Đường Sân (Chắc Băng) thuộc huyện Hồng Dân. Tôi biết, trước mặt tôi, những người anh không chỉ bị tù có 200 ngày.
Và, dù sao tôi vẫn còn sống. Tôi không nhớ bao nhiêu người cùng ở tù với tôi và mãi mãi không về…
Chuyện làm ăn thời bao cấp
12:00 kuxh Bình luận
Nói đến chuyện làm ăn thời bao cấp, người ta hay nhắc đến ba từ “hợp tác xã”. Chú T nói ngày đó, muốn làm ăn phải vào hợp tác xã để cùng góp vốn làm tập thể chứ không được phép làm với hình thức tư nhân. Nhỏ nhất là tổ hợp từ 5-10 người, lớn hơn nữa là hợp tác xã từ 10-50 người. Tuy nhiên cũng có một số hợp tác xã rất lớn, số lượng người có khi lên tới hàng trăm người. Dưới mô hình hợp tác xã, nền kinh tế lúc bấy giờ có hai loại hình chính là loại hình kinh tế quốc doanh và loại hình kinh tế tập thể.
Theo đánh giá của chú T, loại hình kinh tế quốc doanh, mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi hơn (do nhà nước đầu tư, có thể vay vốn từ ngân hàng) nhưng hiệu quả kinh tế thường rất thấp nếu không muốn nói là thường xuyên thua lỗ. Ngược lại, làm ăn theo dạng kinh tế tập thể tuy có khó khăn hơn vì nguồn vốn phải do tự lực các cá nhân góp vào, nhưng có vẻ khấm khá hơn. Nguyên nhân của tình trạng này có thể có nhiều, nhưng theo chú T nguyên nhân chủ yếu có thể là do cách thức tổ chức và quản lí của hai loại hình này khác nhau.
Loại hình kinh tế quốc doanh là loại hình có vốn đầu tư 100% là của nhà nước. Ở loại hình này, nhà nước chỉ định những người sẽ đứng ra lãnh đạo quá trình sản xuất. Vì là sự chỉ định nên nhiều khi không nhận được sự đồng tình của tập thể. Điều này dẫn đến khả năng gây mất đoàn kết trong nội bộ vì các cá nhân không nể phục người lãnh đạo của mình. Trái lại, ở loại hình kinh tế tập thể, các cá nhân tự góp vốn làm ăn với nhau và họ cũng có quyền bầu lên những người mà họ tin tưởng. Những người này thường được đánh giá là giỏi quản lí, có năng lực, biết cách làm ăn. Họ được chính các cá nhân trong tập thể đó bầu lên và thành lập ban điều hành. Thông thường, ban điều hành gồm có một chủ nhiệm, một phó chủ nhiệm, một thư kí, một kế toán. Ở nhiều tập thể, người ta cũng lập cả ban kiểm sát để theo dõi quá trình sản xuất của tập thể. Vả lại, khi cùng góp vốn với nhau, cùng lời ăn lỗ chịu nên những thành viên trong tập thể cũng cố gắng để làm việc chứ không ỷ lại như khi có nhà nước bao cấp. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế của các tập thể lúc bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn. Chú T nói những tập thể nào biết nắm bắt nhu cầu của xã hội và có một khả năng đặc biệt nào đó thì còn “sống” chứ không thì cũng làm “trầy da tróc vảy” chứ chẳng dễ gì.
Ở nông thôn, việc làm ăn theo mô hình tập thể dưới sự quản lí của nhà nước lúc bấy giờ có vẻ như không mấy hiệu quả. Nếu lấy mục tiêu và cách thức để phát triển nông nghiệp của hai thời kì trước và sau đổi mới ra so sánh thì có thể người ta sẽ thấy hai chính sách này khác nhau khá nhiều. Nếu như bây giờ nhà nước chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ trong việc phát triển nông nghiệp thì trước đây nhà nước lại tham gia vào quá trình này như một người quản lí và luôn luôn quán xuyến, bao quát tất cả tình hình. Chú T nói kinh tế ngày xưa là kinh tế hoạch định cứng rắn chứ không phải là kinh tế hoạch định mềm dẻo như bây giờ. Người ta làm theo giờ, đến giờ thì đi làm, hết giờ lại về. Thời bao cấp cái gì cũng giả, giả làm, giả trả lương. Nhà nước giả trả lương thì người dân cũng giả làm. Giả làm, giả trả lương ở đây có nghĩa là cái gì cũng có nhưng lại không có thật. Nhà nước trả công người dân với mức lương như thể không trả còn người dân thì làm như thể chẳng làm gì. Từ những cái trông thật mà giả đó kéo lê nền kinh tế Việt Nam trong sự trì trệ. Người ta nhìn cuộc sống bây giờ lại nghĩ về trước đó. Tại sao cũng từng đó ruộng đất mà ngày xưa thì đói kém mà bây giờ lại có thể xuất khẩu gạo?
Trước đó, ruộng là của người nông dân, đến thời bao cấp thì ruộng đất cũng như con người được đưa vào hợp tác xã hết. Hồi đó, khi ruộng là của từng hộ gia đình, người ta tự chăm sóc cho tài sản của mình. Họ tìm phân bón, làm ngày làm đêm để mong thu được lợi nhuận cao. Còn vào thời bao cấp, khi người ta đem tất cả ruộng đất vào của chung thì lại nảy sinh ra tình trạng “cha chung không ai khóc”. Chú T nói cái gì chứ nông nghiệp mà làm như vậy thì “thua”. Làm nông nghiệp phải canh theo con nước, người nông dân dựa vào con nước lên xuống thế nào để còn biết cấy lúa hay sạ lúa. Còn khi làm theo kế hoạch của nhà nước thì cứ làm theo giờ, hết giờ thì về. Sự cứng nhắc về giờ giấc đó làm mất đi sự linh hoạt trong cách gieo trồng dựa trên kinh nghiệm của người nông dân. Hồi đó, thay vì một miếng ruộng của một gia đình chỉ có hai đến ba người làm vẫn có hiệu quả thì bây giờ, khi cho vào hợp tác xã có đến cả trăm người làm mà cũng không xong. Cách làm này không những mang lại hiệu quả sản xuất không cao mà còn uổng phí nguồn lao động.
Đó là chuyện ở những vùng có ruộng. Ở thành phố và một số nơi không có ruộng, người ta tham gia vào một số hoạt động sản xuất khác. Tuy nhiên, dù là hoạt động nào thì vẫn dưới hình thức tổ hợp hay hợp tác xã. Thông thường, các tập thể và nhà nước liên kết với nhau thông qua các hợp đồng. Nhưng việc kí được hợp đồng cũng không phải dễ dàng. Chú T nói một số tập thể “mánh mung” được thì có thể kí hợp đồng để làm gia công cho nhà nước. Giữa hai bên nhà nước và tập thể nếu thấy thuận lợi thì kí hợp đồng giá cả với nhau. Thường thì cái nào nhà nước không làm được sẽ chuyển qua cho tập thể làm. Hàng hóa do tập thể làm chủ yếu là hàng gia công cho nhà nước. Các tập thể nhận nguyên liệu của nhà nước làm thành sản phẩm rồi lại trả hàng hóa về cho nhà nước chứ không được bán tự do ra thị trường bên ngoài. Ví dụ như nhà nước cung cấp bột mì còn tập thể thì tổ chức thành những tổ hợp hay hợp tác xã để làm thành mì sợi. Sau đó, số mì sợi này lại được trả về cho nhà nước rồi từ nhà nước lại phân phối cho dân.
Chuyện kể về gia đình tôi thời bao cấp - Kỳ 1
12:00 kuxh Bình luận
Hưởng ứng cuộc vận động của trang web baotang.kyucxahoi.com viết những câu chuyện về thời bao cấp, tôi thấy mình phải có trách nhiệm tham gia. Bởi vì, chỉ có những người được sinh ra và được sống với thời đó, mới chứng kiến đầy đủ nhất và trung thực nhất. Có thể những câu chuyện của tôi, của bạn cùng một nội dung, nhưng chỉ khác nhau ở từng gia đình thì sự việc nó cũng khác nhau rồi. Tuy nhiên, nó đều phản ảnh đúng được sự thực của một thời Bao cấp, những khó khăn mà gia đình nào cũng phải gánh chịu, cả những nhà giầu lẫn nhà nghèo, từ nông thôn đến thành thị. Nó đã kéo lùi sự phát triển của đất nước ta hàng mấy thập kỉ.
Tôi được sinh ra và lớn lên trọn vẹn một thời bao cấp, được chứng kiến rất nhiều những sự việc của xã hội xảy ra lúc bây giờ. Có những điều kể lại cho bọn trẻ nghe bây giờ, như là chuyện cổ tích. Thật là nhiều chuyện, có những chuyện còn nhớ như in như ngày hôm qua; có những chuyện nửa nhớ, nửa quên chẳng biết bắt đầu từ đâu. Có lẽ tôi cứ viết, viết theo dòng suy nghĩ của mình, những dòng kí ức của mình hiện ra đến đâu thì viết đến đó.
Đầu tiên tôi phải giới thiệu với độc giả về thân thế, sự nghiệp của tôi và những người xung quanh tôi. Tôi được sinh ra trong một gia đình quan chức nông thôn thuần túy ở miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Tôi được học hành đầy đủ, sau đó lên đường tòng quân nhập ngũ bảo vệ đất nước. Cả cuộc đời của tôi là một người lính, đến nay đã nghỉ hưu.
Bố tôi ông là Đảng viên Cộng sản từ năm 1960. Ông là cán bộ ở địa phương từ năm 1955 với các cương vị từ kế toán trưởng Hợp tác xã, rồi đến chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp 13 năm liền, sau đó liên tục giữ các chức vụ Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã và Bí thư Đảng ủy xã. Cho đến năm 1990, do bị bệnh hiểm nghèo nên ông đã qua đời và thọ 55 tuổi. Ông đã cống hiến trọn đời của mình cho quê hương.
Ông sinh ra trong một gia đình khá giả thời phong kiến. Ông nội tôi là cụ phó bá (Phó tổng). Tổng ngày xưa tương đương với cấp xã nhưng Tổng to lắm, khoảng bằng ba xã bây giờ. Ông nội tôi có ba vợ. Bố tôi là con bà thứ ba và là con thứ 11 trong 13 người con của ông, (tám trai và năm gái). Nếu tính con trai thì ông là người thứ bảy.
Ông nội tôi mất năm nào thì tôi cũng không biết, còn Bà nội tôi thì mất vào đợt dịch tả năm 1945. Ông và bà cùng mất một ngày, một tháng nhưng khác năm. Giỗ hàng năm vào ngày 25 tháng 10 âm lịch. Tuy ông được sinh ra trong gia đình quý tộc địa phương, nhưng bố mẹ mất khi ông mới 10 tuổi, phải nương tựa vào các anh (các bác của tôi). Tôi không được biết nhưng mẹ tôi kể lại là ông không được đối đãi tử tế gì cho lắm. Tuy được ở với anh ruột mình nhưng ông vẫn bị đối xử như kẻ ăn người ở. (Ông ở với nhà ông bác thứ ba của tôi sau này bị quy là địa chủ).
Thực tế thì tôi không trách gì các bác của tôi, vì cái xã hội phong kiến lúc bây giờ nó như vậy. Tôi có bảy ông bác. Tại sao bố tôi là thứ bảy rồi lại có bảy ông bác? Là vì ông thứ tám dưới bố tôi, nhưng con của bà thứ hai nên bố tôi vẫn là em. Hai bác hiện còn sống là ông thứ sáu và ông thứ tám. Trong các ông bác của tôi thì bác cả đi lính cho Pháp (theo thời cuộc lúc bây giờ), được làm đến cấp Cai thì về và ốm chết. Mọi người cứ gọi là ông Cai Năng. Ba bác đi bộ đội chống Pháp, trong đó có bác thứ năm hy sinh (Bác Đặng). Bác thứ sáu tham gia chiến dịch Điện Biên bị thương (bác Sáu). Bác là thương binh chống Pháp hiện còn sống. Bác thứ ba (bác Thiệu) đi bộ đội địa phương năm 1948. Bác về năm nào thì tôi không biết, chỉ biết đến khi cải cách ruộng đất, bị quy là địa chủ, sau đó bị tố bắt đưa đi cải tạo và đã ốm chết trong nhà giam. Theo người nhà kể lại thì bác bị đánh chết.
Bác thứ hai (bác Bàng hay cụ Lí Đúc) thì làm Lí trưởng 10 năm (từ năm 1935 đến năm 1945). Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông thực sự là nhà cách mạng lão thành, trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Với cái vỏ bọc là Lí trưởng, ông đã nuôi giấu rất nhiều chiến sĩ cách mạng lão thành. Được nhà nước thưởng bằng “Gia đình có công với nước”. Ông đã nuôi giấu những cụ sau đây: cụ Nguyễn Lương Bằng, cụ Đỗ Mười, cụ Văn Tiến Dũng và một số cụ nữa mà tôi không nhớ. Sinh thời tôi đều được gặp các cụ. Lúc bác tôi còn sống (cụ mất năm 1967), các cụ thường về thăm. Ngôi nhà của bác tôi lúc bấy giờ hiện nay nhà tôi đang sở hữu. Nó được xây dựng năm 1941, bị giặc Pháp tái chiếm và đốt mất khoảng năm 1953 thì phải. Nhưng mặt tiền hiện nay thì vẫn còn gần như nguyên vẹn (xem ảnh). Điều đáng nói trên tấm ảnh này là, có một cây xương rồng được trồng trên bồn hoa mà suốt 70 năm vẫn còn sống. Không ai tưới tắm và chăm bón gì. Nó cũng không lớn lên và cũng không chết đi, ít nhất là từ khi tôi biết. 54 năm nay rồi, nó vẫn vậy. Đó là một điều khá kì diệu tôi muốn chia sẻ.
Bố tôi có tiếng là ông chủ nhiệm Hợp tác xã thời Bao cấp, nhưng nhà tôi lúc bấy giờ thì nghèo lắm. Bởi vì thời Bao cấp thì ăn chia sản phẩm theo công điểm. Nhà tôi thì neo người, chúng tôi thì còn nhỏ, lao động chính trong nhà chỉ có mình mẹ tôi thì lấy đâu ra công điểm mà có thóc. Bố tôi lúc đó vừa làm chủ nhiệm Hợp tác xã, vừa đi học lớp trung cấp nông nghiệp khóa một của tỉnh ba năm (1964-1967). Ông học rất giỏi. Tôi được xem học bạ của ông, toàn là điểm 5, thi thoảng mới có điểm 4. (Điểm 5 lúc bấy giờ là cao nhất). Đáng lẽ ông được giữ lại nhà trường làm giáo viên, nhưng vì ông là học sinh cán bộ địa phương gửi đi học, nên huyện lại làm công văn gửi nhà trường đòi ông về. Thế là cả cuộc đời ông lăn lộn với địa phương, cho đến khi ông qua đời mà vẫn không được hưởng bất kì một chế độ gì.
Những bữa ăn thời Bao cấp của gia đình tôi, tôi không bao giờ quên được. Buổi sáng đi học thì thường xuyên nhịn đói, nếu có thì thỉnh thoảng được củ khoai lang hoặc củ dong riềng (củ này người ta trồng để làm miến dong) để ăn. Được như vậy là do bữa tối hôm trước phần bố tôi nhưng bố tôi không ăn nên còn lại.
Ngày xưa thời Bao cấp là không có bữa sáng, ngày chỉ có hai bữa trưa và tối thôi. Hai bữa đều phải ăn độn, nghĩa là trong nồi cơm chỉ có ít gạo thôi, chủ yếu là khoai, sắn và ngô…Bát cơm chỉ được dính mấy hạt cơm thôi, còn chủ yếu là thứ độn vào. Cơm phải để giành cho người già và em bé. Thức ăn thì chủ yếu là rau và tương, chứ làm gì có nước mắm như bây giờ. Đôi khi tương cũng hết. Hết tương thì dùng nước chấm với muối trắng pha lẫn nước sôi để nguội. Mì chính và mỡ lợn lúc bấy giờ là hàng xa xỉ rồi.
Tôi còn nhớ rất rõ bố tôi là cán bộ xã, thỉnh thoảng ông được phân phối mấy gam mì chính bột. Mẹ tôi thường giấu kĩ lắm, bà cho vào cái lọ to bằng ngón chân cái (vỏ lọ thuốc penixilil), khi nào có khách thì mới được lôi ra. Bà thường lấy chiếc tăm chấm vào lọ mì chính và khuấy vào bát canh sau đó cất đi luôn không bao giờ cho chúng tôi tự cho đâu. Tôi mà cho thường là chấm hai lần, bị bà quát mắng luôn là "đồ phá sản, cho thế thì mấy mà hết". Thời bao cấp còn nghe thấy cụm từ “đắt như mì chính cánh”. Những gì quý giá, đắt đỏ đều được gọi như vậy. Thế đấy, mọi người hãy nghĩ xem, mì chính quý tới mức nào.
Chuyện kể về gia đình tôi thời bao cấp - Kỳ 2
12:00 kuxh Bình luận
Lại nói về mỡ lợn, mỡ quý không kém gì mì chính. Mỡ lợn mua về đem rán lên lấy mỡ để nguội, sau đó chắt vào trong một cái chai cổ nhỏ. Còn tóp mỡ thì phải cất đi để xào với rau hoặc kho với tương để ăn dần. Mục đính của việc cho mỡ vào chai cổ nhỏ là, không để cho một thứ gì thò vào lấy mỡ ra được. Mà muốn lấy phải hơ cái chai lên lửa, mỡ nóng lên, chảy ra từ từ và rót tí một vào chảo rán, sau đó được nút lại và cất đi ngay. Chỉ được rán trứng thôi, nếu nấu canh thì chỉ cho mấy giọt mỡ để có một lớp váng mỡ trên mặt bát canh, đấy là khi có khách. Còn bình thường thì nấu “canh suông”, có nghĩa là không mỡ, không mì chính. Mỗi khi có khách đến nhà, tôi thường phải "vác" bát đi dọc xóm để xin mỡ về rán trứng đãi khách, có hôm thì xin được, hôm thì không. Nói là hàng xóm thôi chứ toàn là anh em, chú bác nhà tôi ở quanh đấy cả. Không xin được mỡ không phải người ta không cho, mà là vì nhà họ cũng hết, nhà còn thì mẹ đi vắng. Mỡ được cất vào trong hòm đựng những đồ quý, mà chỉ có người mẹ mới được giữ chìa khóa. Thực ra cất kĩ như vậy không phải vì sợ mất, mà là vì sợ con cái ăn vụng hết. (Cái đói, cái khổ thời bao cấp thường sinh ra những tật như vậy đấy). Những hôm như thế chỉ còn biết cho trứng vào nồi để luộc lên, sau đó bóc ra dầm vào nước tương để đãi khách. Nếu khách mà biếng ăn thì anh em tôi còn được miếng. Vì nhiều khách, nên nhà tôi phải nuôi 10 con vịt đẻ trứng để phục vụ khách.
Nhà tôi nghèo đi cũng vì nhiều khách. Những khoản chi phí cho khách ăn không được Hợp tác xã thanh toán. Vì nguyên tắc, cán bộ đi cơ sở là phải mang tiền ăn và tem gạo đi theo, ăn nhà nào thì nộp tiền và tem phiếu vào nhà đó. Bố mẹ tôi thì không lấy của một ai cả, kể cả những người ăn ở nhà tôi cả tháng để chỉ đạo phong trào. Thi thoảng thì được Hợp tác xã hỗ trợ cân thịt, cân cá vào dịp xã có hội nghị.
Tôi nhớ nhất là mỗi khi bác tôi về vào chiều thứ bảy. Ông công tác ở một trại chăn nuôi giống lợn của Trung ương, nên ông thường có thịt mang về. Về nhà, bác gái tôi lại thái miếng ra để kho với tương. Sau đó đem cho nhà tôi một bát con (bát ăn cơm bây giờ), trong đó có hai ba miếng thịt mỡ nổi lên. Về đến nhà tôi, tôi lại phải cho thêm tương vào kho lại để đủ cả nhà ăn. Thịt thì được cắt nhỏ ra cho đủ để anh em tôi mỗi người được một miếng. Lúc đó nhà tôi có năm anh em, tôi là lớn nhất. Những hôm như vậy, tôi luôn nghĩ không có gì để sướng hơn được nữa, vì nếu không được ăn thịt thì cũng được rưới nước tương kho thịt. Cuộc sống như vậy nó cứ dai dẳng theo nhà tôi suốt thời kì bao cấp.
Đấy là ăn, còn mặc thì sao? Cái ăn và mặc nó thường đi liền với nhau. (Mày ăn mặc thế à?). Ăn đã không có thì lấy gì mà mặc. Đối với tôi, hầu hết những năm học phổ thông đều phải mặc quần rách và mặc lại quần áo của ông cậu tôi. Ước mơ của tôi trong suốt thời gian đi học là được một chiếc quần vải kaki Liên Xô mà cũng không thành. Quần vải kaki Liên Xô vừa dày lại vừa bóng, không nhăn, bền màu và lâu rách. Quần vải thường toàn sợi bông (vải xanh chéo) nhanh phai màu và hay rách chỗ đầu gối và hai mông đít. Thông thường rách thì được vá bằng miếng vải của những quần áo cũ, rách nát cùng màu, không mặc được nữa. Quần rách được vá như vá săm lốp bây giờ. Nhà nào có điều kiện thì mang ra hiệu may bích kê, tức là lót một miếng vải cùng màu vào bên trong chỗ rách. Sau đó dùng máy khâu may những đường chỉ song song cách nhau khoảng 1,5-2cm từ trong ra ngoài theo hình miếng vá, có thể là vuông, chữ nhật, tròn hoặc là ê líp,… tùy theo tay nghề của ông thợ và kích thước của miếng vá. Bộ thời trang lúc bấy giờ có lẽ rất hợp với những bạn trẻ thời 8x, 9x ngày nay.
Có một chuyện mất cắp hi hữu xảy ra (tức là cứ hỏi đến cái gì thì mất cái đó) và nó cũng đã liên quan đến chuyện ăn mặc của tôi. Đó là vào dịp hè năm 1976, khi đó tôi đang học lớp 10 phổ thông hệ 10/10 và chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông. Tôi phải ở trọ xa nhà 20km để đi học. Khi về nghỉ hè mấy hôm để giúp gia đình gặt lúa, tôi mang tất cả quần áo và sách vở về nhà. Quần áo sách vở của tôi được đựng trong một chiếc hòm bằng gỗ. Hôm đó, nhà tôi bừa rơm, tức là lúa gặt được lượm thành từng bó nhỏ, mang về sân kho Hợp tác xã, đập vào chiếc cối bằng đá xanh (đá vôi) còn lại rơm thì chia cho xã viên, theo khẩu hoặc theo công điểm. Rơm được trở về nhà, dùng trâu hoặc bò bừa lại để lấy thóc còn bám ở trên bó rơm mà xã viên đập ra chưa hết. Tôi không nhớ rõ hôm đó bừa mấy mẻ, nhưng đến khoảng hai ba giờ sáng mới xong. Mệt quá thế là cả nhà đi ngủ.
Sáng ra, mẹ tôi là người dậy sớm nhất. Bà tìm chiếc càng để phơi rơm ra. Không thấy càng, bà mới gọi chúng tôi dậy để tìm nhưng cũng không thấy. Đó là cái bị mất đầu tiên khi tìm đến. Bà sai cô em gái tôi đi nấu cơm, nó vào buồng tìm gạo mãi không thấy. Bà lại chửi nó là "gạo vừa được xay, giã hôm qua để trong nhà mà lại tìm không thấy, mắt mày mù à". Khi bà vào thì thúng gạo cũng không cánh mà bay. Đó là cái thứ hai bị mất khi tìm đến. Tôi đang ngồi ở hè, bỗng thấy người hơi lạnh vì tôi ở trần không mặc áo, nên tôi vào trong nhà lấy áo mặc. Tôi phát hiện toàn bộ quần áo của tôi cũng mất luôn, không còn một cái nào, thế là cái thứ ba bị mất khi sờ đến nó. Bọn kẻ trộm thì nó lấy sách vở làm gì. Thực ra, quần áo tôi có bộ nào ra hồn đâu. Tất cả quần áo mặc năm lớp 10 là quần áo bộ đội cũ của ông cậu tôi cho, có hai bộ thôi. Đúng là “chó cắn áo rách” và thế là ước mơ của tôi đã thành sự thực. Không còn lí do nào để từ chối nữa, cho nên tôi được bố tôi may cho liền một lúc hai bộ quần áo, hai cái áo sơ mi trắng và hai chiếc quần kaki Liên Xô. Lần đầu tiên tôi được mặc đồng bộ, cả quần lẫn áo đều mới, không những một bộ mà tận hai bộ.
Nhưng niềm vui đó cũng chỉ được mấy tháng. Đến tháng tám năm ấy, sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi phải lên đường nhập ngũ. Thế là hai bộ quần áo đó được chuyển lại cho chú em của tôi sở hữu. Thế đấy, chuyện ăn mặ
c thời bao cấp nó khó khăn như vậy đó. Thực ra nếu so sánh mức sống thời bao cấp của nhà tôi với mặt bằng chung của xã hội lúc bấy giờ thì chưa phải là nhà khó khăn lắm. Đấy cũng là mức sống chung của xã hội lúc bấy giờ thôi. Anh em tôi tuy có đói một tý, ăn không được ngon, mặc không được lành lặn, nhưng vẫn hơn nhiều gia đình khác: ăn không được no, con cái không được học hành gì,…
Thời bao cấp đến công sở gặp các sếp (thủ trưởng) việc đầu tiên phải là... chìa ra gói thuốc lá mời hút rồi mới đặt vấn đề công việc xin chữ ký. Lúc ra về, nhớ là phải... quên cả bao thuốc trên bàn (hay ngăn kéo) thủ trưởng nếu muốn được việc.
Tùy theo giá trị bao thuốc (kể cả giá tiền và mốt xài) mà có thể đoán định được kết quả công việc phải cầu cạnh đến sếp. Thứ tự giá trị cao dần với các tên Trường Sơn, Tam Đảo, Sông Cầu, Điện Biên,... Samit, 555 (còn gọi là Ba Số).
Do vậy trong dân “chạy việc” có người đã sáng tác ra mấy câu thành ngữ mà đến nay có thể... thất truyền. Đó là mấy câu “Sông Cầu nói đâu bỏ đấy”, “Samit nói ít hiểu nhiều”, “Ba Con Năm (555) vừa nằm vừa ký”.
TTC - Thời bao cấp, mọi chi tiêu trong gia đình chỉ trông chờ vào đồng lương. Do đó, lo 2 bữa hàng ngày là công việc đau đầu nhất của các bà nội trợ.
Họ chỉ thực sự yên tâm khi trong nhà đã đong được thùng gạo đầy, mua được mấy chai nước mắm và 1 lọ mỡ tương đối.
Hàng ngày, chúng tôi phải đảo qua cửa hàng gạo, nếu thấy bán gạo ngon, độn mì sợi trắng thì lập tức về thông báo cho bố mẹ và tự động ra xếp lốt (những hôm như vậy thì rất nhiều nhà đong gạo). Khổ nhất là phải ăn độn bột mì.
Các bà nội trợ phải trổ tài chế biến thành nhiều món để ăn cho đỡ ngán, như bánh bao nhân su hào xào, bánh trôi nhân đường phên mật mía. Nhưng đó cũng vẫn là những món không phải nhà nào cũng có khả năng thực hiện. Đa số vẫn là nặn viên luộc, hoặc dàn đều bột đã nhào kỹ lên nắp nồi gang dày, rồi đặt trên bếp than để nướng, gọi là bánh nắp hầm (vì giống cái nắp hầm tăng-xê).
Buổi sáng, bọn tôi ra đầu phố ngóng xe rau của mậu dịch. Rau mậu dịch tuy già, nhưng 1 hào có thể mua được 4 - 5 mớ. Vừa nhặt vừa vứt cũng vẫn rẻ chán so với mua rau ngoài chợ. Cuống rau thì để nuôi ngan, gà hoặc lợn. Và chỉ những hôm như vậy mới được ăn một bữa rau xào thỏa thích. Mà nghệ thuật xào rau của các bà nội trợ thời bấy giờ cao siêu lắm! Trong lọ mỡ bao giờ cũng có 1 que đũa quấn miếng vải sạch.
Nhúng que đũa vào lọ mỡ, rồi quét 1 lớp mỡ mỏng tang lên đáy chảo. Thế là có thể bắt đầu công việc xào, rán. Có bà còn khoe với nhau: “Hôm rồi tôi xào rau không cần mỡ mà cũng ngon đáo để!”. Các đầu bếp khách sạn 5 sao bây giờ chưa chắc làm được điều đó. Thời đó, thịt là một xa xí phẩm. Phiếu nhân dân chỉ được 3 lạng thịt/tháng, chủ yếu để dành mua mỡ. Cũng may, hồi đó chưa có giống lợn cao nạc nên thịt mỡ nhiều, đủ đáp ứng nguyện vọng của mọi người. Tóp mỡ thì được dùng để kho với chuối xanh, cao cấp hơn thì chấm với nước mắm cũng được một bữa tươi!
Hôm nào mậu dịch bán cá biển ướp muối thì cả xóm sôi nổi như ngày hội, vì đó là tiêu chuẩn bán thêm, cắt ô phiếu phụ. Cá tuy đã được ướp muối, nhưng khi kho vẫn phải cõng thêm nhiều muối nữa, không thì tốn lắm với những cái bụng ăn không biết cảm giác no của lũ trẻ mới lớn chúng tôi.
Những hôm mưa dầm gió bấc, không đi chợ được, thì hành mỡ phi thơm lừng, rồi cho muối vào rang (muối mỏ hạt to như hạt ngô) làm thức ăn, cũng xong một bữa. Bây giờ, nhiều khi ngắm trời mưa lai rai, nhớ lại cảm giác cơm ăn với muối rang mỡ, cũng muốn thực hiện món này nhưng lại sợ mọi người cho là chập mát nên lại thôi.
Tôi nhớ lại thời kỳ này với nỗi thương yêu và sự khâm phục cha mẹ tôi và những người lớn cùng thời của họ. Khó khăn là thế, thiếu từ những cái nhỏ nhất, vậy mà họ vẫn vượt qua, vẫn sống trong sạch và điều vĩ đại nhất họ vẫn nuôi dạy chúng tôi nên người. Sống trong thời đại ngày nay, với điều kiện kinh tế tương đối tốt, và nhất là khi đã có gia đình và làm cha làm mẹ, tôi mới cảm nhận hết những gì cha mẹ tôi đã vượt qua trong thời bao cấp xa xôi ấy.
Hẳn các bạn còn nhớ câu: Buồn như mất sổ gạo. Tôi thì còn cảm nhận được nó một cách trung thực nhất sống động nhất. Hôm ấy, mẹ tôi dậy sớm để đi xếp hàng mua thực phẩm. Trời mùa hè, nắng và oi bức, mãi gần 12 giờ trưa bố con tôi vẫn chưa thấy mẹ về. Cả nhà sốt ruột vì đã đến giờ cơn trưa. Rồi tôi nhìn thấy mẹ, thẫn thờ, mặt trắng bệch, dắt xe đạp đi vào nhà. Tôi không bao giờ quên khuôn mặt mẹ tôi lúc ấy: Nước mắt còn đọng trên mi, khuôn mặt ngơ ngác và thất thần. Mẹ chỉ nói được câu: Mất hết rồi... rồi oà lên khóc. Khi mẹ đã bình tâm lại, cả nhà mới biết, khi mẹ xếp hàng mua thịt thì bị rạch túi và kẻ gian đã lấy sạch tem phiếu và tiền. Ngày ấy, mất hết tem phiếu là cả nhà nhịn ăn nhịn mặc cả tháng. Mẹ tiếc của quá không đi nổi xe đạp về nhà, cứ vừa dắt xe về vừa khóc.
Thế đấy, cho dù giờ đây, hai chữ bao cấp như một ký ức xa xôi của mỗi người đã sống qua thời kỳ đó, tôi vẫn nhớ đến nó. Và tôi khâm phục tất cả những ai đã sống vượt qua thời kỳ đó trong đó có cha mẹ tôi.
Đây không phải là phong cách phục vụ đặc trưng của người Việt Nam, có gì đó hơi kênh kiệu, tự mãn "kiểu vĩ nhân ngủ quên", tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đến đấy ăn (tôi mà đến đấy chắc trời có giông bão), mà chỉ nghe người quen nói về nó. Với phong cách ấy chỉ cần 1 quán ăn ở gần ngon khoảng = 80% thôi, thì tôi dám chắc rằng chẳng ma nào sẽ đến những quán đó nữa. Cha ông ta thường mỉa mai những người chết vì miếng ăn (bởi có những con người này mới tạo ra những con người kia); bởi vậy, suy cho cùng "lời chào cao hơn mâm cỗ" đấy.
Phong cách phục vụ ở các quán ăn tại Hà Nội bây giờ vẫn chẳng khác 10 hay 20 năm trước. Tôi đã sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, mới chuyển vào Nam mấy năm nay. Thỉnh thoảng tôi cũng ra Hà Nội để thăm họ hàng và thưởng thức các món ăn quê. Nhưng điều làm tôi bức xúc trước tiên là cách phục vụ. Đến những nơi được truyền miệng là món ăn ngon nổi tiếng kiểu "gia truyền", nhưng người bán thì hách dịch, chả mấy khi có được nụ cười, người đến ăn, phải trả tiền thì khúm núm, kiên nhẫn chờ đợi. Tôi cũng đã đến ăn phở Bát Đàn, nhưng quả thực mệt mỏi vì phải tìm từ chỗ để xe, rồi nghiêng ngó sợ mất, chủ quán và người phục vụ lầm lì... mà đến lúc ăn tôi cũng thấy chẳng có gì ngon lắm. Chỉ gọi là tạm được, tôi thật sự thắc mắc vì sao mọi người phải đổ xô đến đây để ăn phở? Có phải vì thói quen truyền miệng lâu năm, thành ra người ăn cũng cứ phải cố đến đây để tỏ ra mình sành điệu.
Rồi như kem Tràng Tiền lúc nào cũng tấp nập khách, đuổi đi không hết. Kem Tràng Tiền quả có hương vị riêng, nhưng các cô bán hàng vẫn giữ kiểu thời bao cấp. Mặt các cô vênh lên, toàn hỏi trống không "loại nào, bao nhiêu cái?" Trong khi người nào mua cũng líu ríu vâng dạ, nhiều người còn cố gắng nói lễ phép để mong được mua cho nhanh, giống y như mình đến các cơ quan nhà nước để xin giấy tờ vậy.
Hà Nội là thủ đô của cả nước, vậy mà không biết đến bao giờ phong cách phục vụ chuyên nghiệp, văn minh lịch sự mới xuất hiện.
Giai thoại, hò vè nở như ngô rang
Xe “Lơ” tức Pơ-giô được chú thích như sau tại triển lãm “Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp” (1975 - 1986) đang thu hút đông đảo người dân Hà Nội những ngày nóng nực này tìm đến Bảo tàng Dân tộc học: “Tài sản cá nhân quí hiếm và niềm mơ ước khó thực hiện của đại đa số gia đình, chuẩn mực của giàu sang”.
Pơ-giô có mấy màu phổ biến: Đỏ ớt, xanh cô-ban, cá vàng. Nhìn tổng thể đẹp nhã nhặn. Thế nên chủ nhân của nó guồng xe trên đường, cứ là lên “mấy chân kính” trong mắt đối tượng.
“Đẹp trai lai Pháp, hiếm có khó tìm” mà “đi xe của Bộ” tức đi bộ, hoặc đi xe xấu, xe nội thì vét đĩa. (Từ “vét đĩa” thông dụng như “kém tắm” bây giờ).
Về sau xuất hiện xe máy thì: “Mặt rỗ đi Lơ không bằng lưng gù đi Cúp” “Lưng gù đi Cúp không bằng con cóc ngồi sập gụ” (cóc: chỉ đối tượng cao tuổi). Sập gụ, tủ chè cũng một niềm mơ mộng ngất ngây của nhà khó.
Bà Nguyễn Thị Bạn 74 tuổi, chia sẻ trong triển lãm: “Tôi tiết kiệm mãi mới mua được chiếc Pơ-giô. Một hôm thằng cháu lấy tập, bị ngã xước hết sơn. Tiếc không ăn được cơm. Hôm sau, đóng hộp cất luôn nên giờ vẫn mới”.
Họ xa của gia đình tôi có một người quắc thước đường bệ, dáng đi xe rất đẹp. Ông được cơ quan phân phối chiếc xe Thống Nhất. Mỗi lần đến chơi, xe để ngay cửa vẫn ý nhị chìa nửa lốp chắn ngang. Ngồi chuyện trong nhà, mắt cứ chăm chăm nhìn ra sợ kẻ trộm nẫng mất.
Là cán bộ cỡ nhỏ, ông dành dụm mua được chiếc Pơ-giô đẳng cấp. Chưa bao giờ tôi thấy nó hạ thổ, lúc nào cũng lơ lửng giữa nhà, mình mẩy băng bó bằng vải trăng trắng. Hình như tận cuối đời ông chủ vẫn không nỡ ngồi lên xe, thôi coi như lưu lại kỉ niệm sâu sắc một thời.
Hàng xóm thì có nữ y tá công tác ở bệnh viện Saint Paul, ngoài niềm tự hào về nhan sắc - “thời con gái xinh nhì phố Hàng Than, chỉ thua Phương Thanh (diễn viên điện ảnh)” còn là: chiếc xe Mi-pha của Đức mà ngày ngày, nhan sắc vẫn “thân” bế bồng lên lên xuống xuống mấy tầng gác, như bế cục cưng.
Sau bài “ Truân chuyên những người đẹp phố Huế ”, ca sĩ người gốc phố Huế - Ái Vân phản hồi: “Chồng Vân là dân Sài Gòn sang Mỹ, anh ấy không thể tưởng tượng được tại sao đẹp trai đi bộ lại không bằng mặt rỗ đi Lơ, rằng một chiếc xe đạp dù của Pháp lại giá trị đến thế”.
Chiếc xe máy Pơ-giô 103 Ái Vân từng sở hữu mới gọi là đỉnh! Vân bèn bổ túc cho ông xã một ít kiến thức: Một yêu anh có Sen-kô/ Hai yêu anh có Pơ-giô cá vàng/ Ba yêu nhà cửa đàng hoàng/ Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng Thủ đô...
Đây còn là tiêu chuẩn của thời khá, chứ cao điểm khó khăn, cả Hà Nội ăn bo bo thì: Một yêu anh có may-ô/Hai yêu anh có cá khô ăn dần/ Ba yêu rửa mặt bằng khăn/Bốn yêu anh có chiếc quần đùi hoa...
Giai thoại chiếc quần đùi: Anh nọ đến bệnh viện tiêm đùi, bác sĩ yêu cầu “thoát” quần dài. Anh nhăn nhó, e thẹn. “Ơ cái anh này lạ nhỉ, đàn ông với nhau ngại gì” “Nhưng em không có quần đùi” “Ơ cái anh này lạ nhỉ, thế anh tưởng tôi có chắc!” Bắt phanh trần phải phanh trần/Cho may-ô mới được phần may-ô hẳn cũng được chế tác giai đoạn này...
Sinh viên dĩ nhiên ăn khổ, bát canh toàn quốc nước chấm đại dương, nên mới có chuyện: Căng tin có bữa dọn món cá hẳn hoi, các trí thức tương lai ngắm đĩa thức ăn, than: Khổ thân mày cá ơi, đầu mày đây mà mình mày đâu.
30 tuổi, một vị khách tham quan Bảo tàng ghi sổ cảm tưởng: “Chỉ đến tết mới được ăn mứt, tôi thích nhất mứt lạc, những hạt mứt tròn tròn, giòn tan, xinh xinh như trứng chim...”
Phở, ngon tuyệt, cũng ám ảnh những đứa trẻ ở phố. Ốm mới được ăn, nên hay đập bệnh, lừa bố mẹ rằng khó ở. Người lớn cũng có tiêu chuẩn riêng của người lớn.
Một trong những điểm độc đáo của hàng phở phố Bà Triệu đoạn cắt Lý Thường Kiệt là tên các thành viên trong gia đình: Hoàn, Toàn, Phấn, Khởi, Tiến, Bộ, Tươi. Điểm nữa: Con dâu nhà này - Tuyết Hằng, xinh tuyệt với da mịn, lúm đồng tiền duyên dáng, mũi dọc dừa.
Hằng là danh ca đội Hoạ Mi - Cung thiếu nhi HN, hát “Em đi giữa biển vàng” trên Đài, trên ti vi thì hay ngang Hải Vân của đội Sơn Ca Đài Tiếng nói VN nhưng xinh hơn. Một bạn gái xinh đẹp khác của tôi cũng suýt đầu quân vào nhà này, yêu chàng út da trắng môi đỏ tên Tươi!
Phở cho đến giờ luôn hấp dẫn, đầy phong vị, chả thế có người ăn thay cơm, còn chuyện phở kể cả ngày được, ngào ngạt hương vị đời thường. Như chuyện tác giả của những ca khúc trữ tình và nhạc phim nổi tiếng nọ, ngày xưa cũng nổi tiếng luôn với lập ngôn: “Đọc hết tổng phổ rồi”. Nguyên do anh hay khoe chuyện rất dễ dàng cưa đổ các em, với “bài” tán: Rủ đi chơi, đêm về có bồi dưỡng phở! Chỉ phở mà đọc hết tổng phổ của người ta ư?
Chiếc đài Ri-gôn-đa tổ bố, ti vi đen trắng Nép-tuyn, ti vi Sa-tuyn Liên-xô, quạt Tai Voi... là những vật dụng sang trọng trong ngôi nhà khá giả, do thành viên đi nước ngoài học tập công tác sắm.
Áo lông Đức cũng từng biểu tượng. Có chiếc như thế bày trang trọng Bảo tàng, khiến hoài niệm hình ảnh lung linh của các chàng khoa Lý, hàng xóm khoa Văn Tổng hợp chúng tôi- giữa thập kỉ 80. Cả khóa 30 bọn họ diện áo lông Đức màu cỏ úa, màu bộ đội... nom ngời ngời, đi đến đâu nữ sinh nhất là dân ngoại tỉnh ngoái sái cổ.
Trào lưu “cứu nước cứu nhà” - xuất khẩu lao động bắt đầu nổi từ cuối 80. Đội đi Liên - xô sáng tác vè rất hay ho thống thiết phỏng theo Hịch... về những dây may so, bàn là, áo phông cành mai...
Một trong bọn họ mà tôi quen, quyết chí đi Liên-xô mang sức trẻ đổi lấy bàn là, nồi áp suất... Được ít lâu đã thấy tò tò về, chưa kịp sắm sửa đã về, bởi trót mang bầu. Thằng bé đẻ ra được cả nhà gọi “Xaratốp không ra đá” (Xaratốp: tủ lạnh Liên-xô, cũng một đỉnh cao mơ ước).
Cưới xin thời bao cấp
Bạn bè cùng lứa với mình, bây giờ đứa nào cũng đến lúc phải cưới vợ gả chồng cho con cái. Có ngày mình phải chạy xô ba đám cưới, mệt bã người. Đám nào cũng hăm hở bỏ phông bao, loanh quanh cho gia chủ thấy mặt mình, rồi chuồn. Chẳng biết người khác thế nào chứ mình sợ nhất phải ăn cỗ cưới và cỗ đám ma. Cứ sáu người một mâm, chẳng ai quen ai, nói cười nhàn nhạt, chán mớ đời. Đám ma bây giờ ít ai bày biện ăn uống, chỉ cần đến viếng xong là về. Nhưng đám cưới vẫn phải ăn. Chẳng hiểu từ khi nào lễ cưới được gọi là ăn cưới, hễ cưới là ăn, không ăn không xong. Ngay bây giờ tại Hà Nội, làng gì đó quên mất tên rất gần Ngã Tư Sở, ăn cưới phải đủ 3 ngày 3 đêm, lệ làng xưa nay vẫn vậy, đám cưới nào cũng phải đủ trăm gà ba heo. Kinh. Nói vậy thôi, cưới xin bây giờ không là vấn đề lớn, chỉ mệt người thôi chứ tiền nong cũng chẳng phải lo lắm. Tiền mừng thường vẫn nhiều hơn tiền bỏ ra làm đám cưới. Ngày xưa khác, ít người mừng tiền, giả có mừng tiền cũng vài đồng chiếu lệ. Đa số chỉ tặng quà, sang thì phích Trung Quốc, chậu nhôm Liên Xô, hèn thì cuốn sổ tay, cuốn lịch, tấm tranh, thế thôi. Thành thử đa phần tiền đám cưới bỏ ra đều không thu về được. Làm cái nhà tốn kém vài chục ngàn, đám cưới cũng tốn cỡ đó, có khi hơn.
Ba mạ mình có 8 đứa con, 6 trai 2 gái, lo cho xong 8 đám cưới cũng đủ sạt nghiệp. Cứ xong một đám cưới cho con, ba mạ mình lại ôm một cục nợ. Ba mình nợ nần suốt đời, trước khi mất chừng một năm ông mới trả xong nợ. Mình nhớ hôm tuyên bố hết nợ ông vui lắm, nói cười suốt ngày. Ông làm một con gà ăn mừng. Làm xong gà thì sực nhớ trong nhà không còn gì cả. Ông chạy sang nhà hàng xóm vay tạm mấy đồng cho mạ mình đi chợ. Ra đến cổng ông đứng sững lại rồi đi vào, nói luộc gà chấm muối, không nợ, kiên quyết không nợ. Lần đầu tiên trong đời ông rót rượu mời mình, chạm cốc với mình, thúc dục mình uống. Trước đó thì đừng hòng, ông luôn hằm hè chuyện rượu, thuốc của mình. Ông chạm cốc cái cạch, ngửa cổ cạn chén rượu, khà một tiếng khoan khoái, nói tám đứa con đã có gia đình, ba mạ trả hết nợ, rứa là ba chết được rồi con ạ. Tưởng ông nói cho vui, ai ngờ mấy tháng sau thì ông mất.
Kể vậy để nói ngày xưa chuyện cưới xin là cả một vấn đề. Ba mình còn vay nợ được chứ nhiều người chẳng cho ai cho vay, vay được cũng chẳng biết lấy gì mà trả. Chuyện trai ế vợ vì nhà nghèo không có tiền cưới xin ngày xưa thì nhiều lắm. Mình có thằng bạn học cấp 2, 35 tuổi rồi vẫn chưa vợ. Nó yêu ba bốn cô, cô nào đến đoạn cưới xin đều tắc tịt. Một hôm nó ngồi với mình, nhắc đến chuyện vợ con nó thở hắt ra, nói è he, ẻ vô vợ con mần chi cho nhọc. Mình hỏi răng rứa, nó nói tao đã chọn mấy con xâu đui, ế câm ế cảy, rứa mà vẫn không lấy được. Mình lại hỏi răng rứa, nó lại thở hắt ra, nói è he, tiền để mần một mâm cau trầu ăn hỏi cũng nỏ có, nói chi chuyện cưới xin.
Năm sau mình về làng, nó rủ đi xem mặt một cô đẹp cực. Mình nói mấy con xấu đui còn không lấy được, răng mi đòi lấy con ni. Nó ngồi đực mặt, nói trời bắt tao lấy, tao chết héo vì yêu nó mi ơi. Nó ngồi im hồi lâu, nhìn xa ra bãi cát sau làng, nói con ni mà tao không lấy được thì tao tự tử. Nhìn mặt nó biết nó nói rât thật mình đâm lo. Lâu lâu lại viết thư về mấy đứa bạn cùng làng, hỏi xem nó đã chết chưa. Chẳng dè cuối năm về, nó tới nhà đưa thiếp tết mời đám cưới. Mình quá ngạc nhiên, nói răng mi có tiền cưới vợ, tài rứa. Nó cười he he he, nói trời bắt tao cưới vợ thì trời phải cho tao tiền chớ. Nó kể đêm đó đem nàng ra bãi cát mần một trận đã đời, đưa nàng về nhà xong, lội bộ bãi cát về nhà lòng buồn như chấu cắn vì biết chắc rồi sẽ không cưới được nàng. Khi bên nàng thì ba hoa xịt bộp, nói anh sẽ anh sẽ anh sẽ, rời khỏi nảng mới sực nhớ nhưng nhà nghèo rớt mồng tơi, biết lấy gì để mà sẽ. Nó đứng tựa gốc phi lao đứng đái, bỗng lòi ra cái gì sang sáng, cầm lên hoá ra một cái nhẫn vàng hai chỉ. Rõ là trời cho, may quá là may. Hai chỉ vàng đủ làm một đám cưới to, xôm trò ra phết, cái thằng thế mà tốt phúc.
Thời bao cấp đám cưới nào cũng giống nhau. Phông chính giữa hôn trường cắt dán đôi bồ câu cắn mỏ nhau bay trên chữ phúc to đùng, bên kia là tên cô dâu chú rể lồng nhau treo dưới cái đèn lồng. Luôn luôn có hai khẩu hiệu, một là Vui duyên mới không quên nhiệm vụ. Câu này không thể thiếu ở bất kì đám cưới nào, thường được treo ở phông chính như một huấn thị của cấp trên. Chẳng biết nhiệm vụ gì, cứ phải không được quên, hi hi. Câu thứ hai là Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn. Câu này đám có đám không, thường treo bên nách hoặc ở cuối hôn trường.
Lễ cưới thời bao cấp nửa họp nửa mét tinh, thường có năm mục. Thứ nhất MC giới thiệu cô dâu chú rể và lý do có đám cưới, đại loại được sự nhất trí của các cấp chính quyền và gia đình hai bên, trong không khí vui tươi phấn khởi đón chào Đất nước vào xuân… Bất kì cưới mùa nào thì ông MC cũng nói Đất nước vào xuân. Kế đến là lãnh đạo lên phát biểu ý kiến, giao nhiệm vụ cho cô dâu chú rể. Sau đó là cô dâu chú rể lên hứa xây dựng hạnh phúc gia đình. Tiếp theo là đại diện họ nhà trai lên cảm ơn lãnh đạo và bà con hai họ. Cuối cùng là liên hoan văn nghệ.
Đầu tiên ông MC ra miệng nói tay khua, nói năng như tép nhảy, hết đọc ca dao đến đọc thơ, đám nào ông cũng chừng đó câu thơ, chừng đó câu ca dao, rồi ghép tên cô dâu chú rể vào, bất kể thất vần trật âm cũng cố ghép cho bằng được. Mình nhớ đám cưới cái Tâm bạn mình, nó cưới anh Địch bộ đội phục viên ở xóm dưới. Cái vần ịch rất kẹt vì dân Quảng Bình thường nói âm ịch ra âm ịt, vì thế chưa bao giờ mình nói quân địch, khi cần phải nói thì nói quân thù, hi hi. Hôm đó ông MC tay khua miệng nói, ngâm nga câu ca Ôi hạnh phúc có khi nhiều khi ít/ Tâm xinh tươi cùng Địch đẹp trai, mọi người cười ầm ầm.
Thỉnh thoảng mình gặp cái Tâm lại trêu nó, nói “cùng địch đẹp trai”, thích nhỉ. Nó cười he he he đấm mình, nói tao bắt lão đổi tên Đích rồi, tên Địch nhiều khi bị hiểu lầm, tức lắm. Nó kể cưới xong nó ra Phủ Lý học trường Trung cấp truyền thanh. Một hôm vào phòng giáo vụ khai báo chuyện gì đó. Ông giáo vụ hỏi chồng cô tên gì, nó nói dạ Địch. Ông này trợn mắt đập bàn, nói tôi hỏi chồng cô tên gì chứ không hỏi cô cưới chồng để làm gì, rõ chưa!
Lãnh đạo càng to đến dự thì đám cưới càng sang. Thời này chắc cũng thế nhưng người ta chỉ đến dự thôi chứ chẳng phải nói năng gì. Thời bao cấp lãnh đạo đến để phát biểu và giao nhiệm vụ, dứt khoát phải như vậy. Thường thì bí thư chi bộ lên phát biểu là oách rồi, được bí thư Đảng uỷ xã đến phát biểu ý kiến là mơ ước của bất kì gia đình nào có đám cưới.
Hồi mình ở làng Đông, đám cưới chị Hoa là con gái của một ông đội trưởng. Cả làng xôn xao về việc nhà chị Hoa mời được Bí thư Đảng uỷ xã đến dự. Nhà chị Hoa đứng bồn chồn trước ngõ ngóng ông, mặt mày ai nấy vô cùng nghiêm trọng, chỉ lo ngộ nhỡ có chuyện gì ông không đến được. Giấy mời đám cưới lúc 8 giờ sáng, chừng 10 giờ trưa ông đến, khi đó đám cưới mới bắt đầu. Hôn trường đang ồn ào náo nhiệt, ông bước vào cái là im phăng phắc, tất cả ngoảnh mặt nghiêm trang nghe ông nói. Ông này có tật nói dai kinh khủng. Mới đầu thì bảo tôi xin phát biểu đôi câu nhưng rồi ông nói cả đôi trăm câu. Vừa nói điểm thứ hai, xong rồi lại điểm thứ hai, rồi lại điểm thứ hai, cứ điểm thứ hai liên tù tì cả giờ chưa dứt.
Đang nói ông bỗng dừng lại ngoảnh mặt xuống hôn trường, nói hạnh phúc là chi bà con. Mọi người im thin thít, không ai dám ho he. Ông cười cười nói câu hỏi đơn giản rứa mà không ai trả lời được là răng hè. Rồi ông mạnh tay chém gió, nói hạnh phúc là vô cùng sung sướng, rứa thôi, đơn giản rứa thôi. Ông ngửa cổ cười khe khe khe, chẳng ai cười cả, chỉ mình ông cười khe khe khe. Đến khổ, hi hi.
Yêu và ăn- Ác giả ác báo
hừa nhận hồi trẻ mình được nhiều con gái thích. Tính mình vui vẻ, hay nói cười đùa cợt chọc ghẹo, lại thêm tí tài văn nghệ văn gừng nên được các nàng hay để ý. Thời đó đều đói nghèo như nhau cả, giàu nghèo chỉ phân biệt áo rách hay áo lành, đủ bữa hay đứt bữa vậy thôi. Hơn nữa đang còn con nít cũng ít đứa quan tâm đến chuyện giàu nghèo. Thời phổ thông, hot boy là đẹp trai học giỏi. Lên đến đại học mới bổ sung vào tiêu chuẩn hot boy là đẹp trai học giỏi con nhà giàu. Nói chung chẳng cần nhà giàu, cũng chả cần học giỏi, chỉ cần đẹp trai là thành hot boy.
Một buổi tối hồi học lớp 10, thằng Hiển đạp xe đến tận nhà trọ của mình, mặt mày quan trọng gọi mình ra, nói tao nghe mấy em bình bầu, khối 10 đẹp trai nhất là thằng Ngô Phi Hải, thứ nhì là mày. Mình sướng rêm. Từ bé đến lúc đó chưa bao giờ nghĩ là mình đẹp trai, cũng chưa có ai khen mình đẹp trai. Thấy con gái hay cảm tình thì cũng chỉ nghĩ chắc chúng nó muốn làm thân để hỏi bài, thế thôi. Lần đầu nghe thằng Hiển thông báo mới biết chẳng những mình đẹp trai mà còn đẹp trai thứ nhì, sướng muốn chết, cả đêm lâng lâng lăn qua lăn lại không ngủ được, vừa bảnh mắt đã nhảy ra cái chum nước soi mặt ngay, thấy cái mặt mình sao mà đẹp thế không biết. He he.
Bây giờ mới để ý đến vì sao con gái thích mình. Thời học trò thì chỉ ý đến nhau, thích nhau chứ chả yêu đương gì đâu, thế cũng sướng củ tỉ rồi. Một hôm mình ngồi nói chuyện ăn với bọn con trai, nói mình thích nhất món cơm rượu ( chả biết món này nơi khác gọi là gì, chỉ biết đó là món cơm nguội ủ men rượu, ăn ngòn ngọt cay cay chua chua rất ngon, quê mình gọi là cơm rượu). Sáng sau có ba nàng trong lớp gọi mình ra riêng, nàng nào cũng dúi cho mình một gói cơm rượu. Hôm đó mình được bữa no cơm rượu còn ba nàng thì cãi nhau, vì nàng này thấy nàng kia lén cho mình cơm rượu, các nàng hằm hè nhau suốt học kì, hi hi.
Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch hồi đó khoá nào cũng có nhiều nàng rất xinh, khóa mình có nàng Th. xinh nổi tiếng. Các chú bộ đội hồi đó kháo nhau, nói về Quảng Bình mà không thấy con Th. coi như chưa về Quảng Bình. Nàng Th. học lớp 10 E, mình cũng không để ý lắm, đánh đu với mấy nàng lớp 10B cũng đủ mệt rồi, chả thiết tha gì đến nàng. Hơn nữa thấy nàng nào mới nứt mắt đã phong nhũ phì đồn thì chê là xấu, không thích. Nhưng nàng Th. lại để ý đến mình, chào cờ sáng thứ hai nào hễ tập trung toàn trường là nàng cũng cố tình va vào mình, va xong thì kêu ui, lườm cái cười cái, nói vô duyên chưa tề, rồi ngoảy đít bỏ chạy. Bây giờ nhớ lại mới biết như thế là người ta thích mình nhưng hồi đó chả biết gì, cũng chả quan tâm.
Thằng Hiển khôn sớm, tí tuổi đầu đã biết làm đỏm, thấy con gái đẹp là mê tít, nó rỉ tai mình, nói con Th. nó thích mày đấy. Mình chả tin, té ra thật, nàng tìm đến nhà trọ của mình xin ở trọ, quá ngạc nhiên. Mình ở trọ với thằng Trung, thấy con gái đến ở chung mừng lắm, đỡ phải nấu cơm rửa bát giặt áo quần. Nhưng nàng Th. chỉ rửa bát giặt áo quần cho mình thôi, không bao giờ làm việc đó với thằng Trung. Khi nàng nấu cơm bao giờ cũng gọi thằng Trung sai vặt. Thằng Trung tức điên, nói răng mi không sai thằng Lập, toàn sai tau? Hi hi nó còn rủ thằng Khoa núp chuồng lợn rình xem mình với nàng có làm gì không. Khổ, làm gì, biết gì mà làm, cầm cái tay cũng chẳng dám còn bảo làm gì.
Khổ thân gái đẹp, nàng Th. chẳng học hành gì được, suốt ngày lo trốn bộ đội với các thầy đến cưa cẩm. Mình và thằng Trung thích lắm, vì bao giờ các đồng chí tán gái đến chơi cũng có quà khi thì bánh ngọt khi thì hoa quả. Nàng không bao giờ đụng đến mấy thứ đó, chỉ béo mình với thằng Trung, chỉ cần chờ các đồng chí ra về là hai thằng tranh nhau ăn no. Có hôm đói bụng, hai thằng nằm gác chân lên nhau thở vào thở ra, nói răng bữa ni không có đồng chí mô đến thăm em Th. rứa hè. Nàng Th. nghe thế thì chạy xộc đến mắt trợn tay chỉ, nói này, đừng có điên nha đừng có điên nha. Hai thằng cười, trêu nàng. Điên tiết nàng vác đòn gánh đuổi hai thằng chạy chí chết.
Th. vốn hiền lành nhu mì, chỉ vì người ta đến cưa cẩm đông quá đâm kiêu, coi đàn ông như rác, mấy thầy hay cưa nàng cũng coi như rác.Trong trường có thầy M. dạy toán mới ra trường thích nàng lắm, đến thăm nàng luôn luôn. Cứ khi nào thầy M. đến chơi là nàng trốn. Một hôm nàng quên cái nón ở lớp, thầy M. cầm nón đến nhà, trong nón đầy ổi chín với khế ngọt. Thằng Trung mừng húm lăng xăng chạy ra đỡ lấy nón, thầy không cho, nói chúng mày bảo cái Th. ra lấy nón. Mình chạy vào buồng năn nỉ với nàng, nói mãi rồi nàng cũng ra, nàng vừa đỡ lấy nón, vừa cảm ơn thầy, chợt thấy cái thư thầy lót dưới mấy quả ổi, điên lên nó hắt cả nón ra sân, bỏ chạy. Thầy M. cũng giận bỏ về. Hai thằng thi nhau lúi húi nhặt ổi khế vương vãi, vừa nhặt vừa ăn nhuồm nhoàm, đã đời. Lại còn bóc cái thư ra đọc, ngâm nga như ca cải lương, ôi Th. ơi… thầy thương em nắm nắm… em là tất cả của ơ ơ ơ… thầy… ầy! Nàng Th. lại vác đòn gánh đuổi hai thằng chạy chí chết, hi hi.
Thầy M. vẫn kiên trì tán tỉnh nàng Th. Một hôm thầy nhờ mình đưa cái thư cho nàng. Mình cầm về đưa cho nàng. Nàng giật cái thư ném đi, nhìn mình cái nhìn dỗi hờn, nói ngu lắm. Mình nói răng ngu. Nàng vừa đấm ngực mình vừa nói ngu ngu ngu ngu. Rồi nàng ôm cây cau đứng khóc. Mình chẳng hiểu gì, cứ đứng trương mắt nhìn, hi hi ngu thế không biết, nhiều khi nhớ đến chuyện đó cứ tiếc rẻ mãi.
Vào đến Bách Khoa thì hết ngu, lại được mấy anh Hà Nội bồi dưỡng “ Nâng cao nghiệp vụ tán gái”, mình đánh đu với các em xinh đẹp không biết mệt mỏi. Không biết thời này thế nào chứ thời đó trai Bách Khoa rất được ưa chuộng. Đã trai Bách Khoa lại Khoa vô tuyến điện thì hết chê, càng được ưa chuộng, hầu như đánh đâu thắng đó. Gái Bách Khoa được có một nhúm, ở chưa hết gác 1 nhà B3, “quỉ Bác Khoa ma Tổng Hợp” mình chẳng màng, cứ xông thẳng đến trường Y trường Sư Phạm, hai nơi đó nguồn gái đẹp vô biên. Mình đã có một em dấm sẵn rồi, gọi là nàng Sơn Tây, nàng bán căntin ở trường Sĩ quan phòng không, nhưng hễ thấy gái đẹp là lập tức mắt sáng lên hình viên đạn, kiên quyết tiêu diệt đến cùng, hi hi. Cứ chiều thứ 7 mình nhảy xe ca lên Sơn Tây, cơm no bò cưỡi đến chiều chủ nhật mò về. Mỗi lần ra về nàng Sơn Tây đều gói cho bốn tút thuốc Tam Đảo, về đến Hà Nội là mình bán liền, chấp nhận hút thuốc lá cuộn, dành tiền cho “ công cuộc tán gái đi đến thắng lợi cuối cùng”.
Xe đạp mượn thằng Đông, dép nhựa Tiền Phong mượn anh Thu, thiếu tiền thì nhảy sang khoa Kĩ sư kinh tế mượn thằng Viết. Thằng Viết này hay lắm. Con trai đa phần chỉ ghét con gái hồi cấp 2, sang đến cấp 3 thì mê tít, nó lên tận đại học rồi vẫn còn ghét con gái. Mình đi chơi với thằng Viết, thấy em nào đẹp là mình tay chỉ miệng nói em này ngon cực, em kia ngon cực. Lần nào cũng vậy, mặt nó hất lên, nói vô nghĩa. Đến năm cuối đại học rồi mà gặp gái đẹp mặt nó vẫn hất lên, nói vô nghĩa. Hi hi.
Hồi đó tán gái chỉ một bài, gặp gái đẹp là làm thơ đọc thơ tặng thơ. Phòng nữ sinh viên có đến mười hai cô, mình mặt trơ cứ sà vào chỗ nàng mình ưa đọc thơ liên tù tì hết bài này sang bài khác, mặc kệ các cô khác. Có cô mải học bài, nghe mình đọc thơ khó chịu lắm, mình cũng mặc. Hi hi thế mới gọi là nhất đẹp trai nhì chai mặt. Thỉnh thoảng có bài đăng báo thì làm như vô tình để lộ ra cho nàng biết, nàng tròn xoe mắt nhìn mình, vô cùng ngưỡng mộ, he he. Mấy bài thơ vừa dở vừa sến đó thôi mà thu hoạch cũng kha khá, đi tàu xe hễ ngồi gần gái đẹp là mình đều dở cái bài tán thơ ra, nghĩ lại xấu hổ chết được, sao hồi đó hâm thế không biết.
Cô nàng Sơn Tây của mình bắt được quả tang mình đang ôm gái đẹp mấy lần, lần nào mình cũng năn nỉ nói dối như hát hay, khất khổ mãi rồi cũng qua. Nhưng rồi mưa dầm thấm đất, cuộc tình 6 năm của mình rồi cũng tan. Vào lúc mình ra trường, háo hức chuẩn bị cưới nàng, quyết định cắt hết đuôi hết vệ tinh để làm một “chàng trai chân chính” với nàng thì nàng bỏ mình theo một ông Phun thuốc sâu ( Phó tiến sĩ) ở Hung về. Nhớ mãi cái đêm mình đứng chờ nàng ở cổng trường đến 11h đêm thì thấy nàng đang ngồi sau xe ông Phun thuốc sâu, hai tay nàng ôm chặt eo ông, xong om!
Bạn bè ai biết chuyện cũng tìm đến chia sẻ động viên, chỉ có anh Đạt là không. Anh nhấc điếu cày rít một hơi, ngửa cổ nhả khói, cười khờ khờ khờ, nói đáng kiếp cái thân mày, ác giả ác báo.
Ăn và yêu- Cơm Bách Khoa
Nghĩ lại ngày xưa đi học đại học sướng hơn bây giờ. Con cái vào được đại học, bố mẹ chỉ lo giấy bút và tiền tiêu vặt thôi, còn lại Nhà nước lo tất. Mấy đứa con em miền Nam tập kết còn được học bổng mỗi tháng 22 đồng, dân Quảng Bình- Vĩnh Linh tụi mình cũng được 4 đồng một tháng. Vì thế mà con nhà nghèo rớt mồng tơi như mình mới được học hành tử tế. Đặt hoàn cảnh của mình rơi vào ngay nay thì tốt nghiệp phổ thông xong là chấm hết, chẳng mơ chi đại học với đại heo, tiền đâu mà đi học?
Tiêu chuẩn sinh viên các trường Đại học đều như nhau nhưng không hiểu vì sao sinh viên Bách Khoa ăn ở vẫn tốt hơn, có lẽ công tác quản lý ở trường này tốt hơn. Sinh viên các trường khác nhìn vào trường Bách Khoa đều lác mắt. Khu giảng đường do Liên Xô xây dựng rất hoành tráng, bốn nhà ăn Bách Khoa thuộc loại sạch đẹp nhất Bộ đại học. Sinh viên Bách Khoa được ăn ngày ba bữa. Buổi sáng được phát một cái bánh mì ngọt, hai bữa trưa chiều chỉ việc xách miệng đi ăn, không phải mang theo bát đũa gì. Đến nhà ăn cứ bốn thằng một mâm, chìa phiếu ra lấy cơm ăn, ăn xong cứ thả mâm bát đấy ra về, mọi việc có nhân viên nhà ăn lo hết. Giống y chang sinh viên Liên Xô hi hi.
Mình đã đi chơi các trường khác rồi, chỉ có trường Kinh Tế là kha khá một chút, còn lại đều rất tệ, tệ nhất là trường Xây Dựng, sinh viên kêu la rầm trời. Trường Sư Phạm khu nội trú còn ở nhà lá, có năm chập điện cháy trụi cả khu nội trú. Trường Tổng Hợp bị nạn thiếu nước trầm trọng, các vòi nước ở các khu nội trú chảy như nước đái thằn lằn, rất khổ. Vì thế nên các anh chị ở các trường khác khi làm tốt nghiệp thường sang cư trú ở Bách Khoa để có chỗ ăn ở tốt hơn, thư viện, phòng thí nghiệm cũng tốt hơn.
Các chị phục vụ nhà ăn Bách Khoa đối đãi với sinh viên rất vui vẻ, thân thiện, ngược hẳn với các đồng chí mậu dịch viên ở các cửa hàng ăn uống Nhà nước. Các đồng chí mậu dịch viên này thì kinh lắm, cứ làm như khách hàng đến ăn không của nhà họ, mặt mày ai nấy như đâm lê, đố thấy có nụ cười trên môi họ. Bảo đảm khi họ mỉm cười với khách hàng thì trời sập cái đoàng ngay tức khắc, thật đấy.
Bất kì khi nào mình đến cửa hàng ăn uống mậu dịch mình cũng gặp một điều khó chịu, chuyện khách hàng cãi nhau với nhân viên xảy ra như cơm bữa, trong khi suốt 5 năm Bách Khoa mình chưa gặp bất kì một điều khó chịu nào, cũng chưa khi nào thấy sinh viên cãi cọ với nhân viên hay nhân viên quát nạt sinh viên. Thực là như vậy. Cũng có thể có mà mình không biết, riêng mình thấy nhân viên nhà ăn Bách Khoa thật tuyệt vời. Rất nhiều lần mình đến nhà ăn muộn, vào lúc nhà ăn đã dọn dẹp chùi rửa, vẫn được ăn uống như thường. Chỉ cần cửa chưa đóng, nếu lọt vào được thế nào cũng được ăn. Lúc đầu các chị nói hết giờ lâu rồi em ơi, nhưng mình vờ nhăn nhó gãi đầu bứt tai nói vì thế này vì thế kia thì rốt cuộc các chị đều cho ăn cả, đôi khi còn được một mình ăn trọn cả mâm bốn người. Mình nhớ một lần mình đi ăn muộn, nhà ăn hết sạch cơm canh, mình ra về thì chị M. cầm cái bánh mì kẹp thịt lật đật chạy đuổi theo dúi vào tay mình, nói thôi ăn tạm, lần sau đừng có đi muộn quá nha em. Thật cảm động, chị có quen biết thân thiết gì mình đâu. Thế mà có thằng còn viết trên bảng tin nhà ăn một dòng to đùng: Đề nghị đuổi chị M. ra khỏi nhà ăn số 4 vì xấu quá. Khổ thân, nghe nói chị M. khóc suốt một tuần.
Bữa cơm Bách Khoa hồi đó chẳng có gì, mỗi bữa chỉ được hai bát cơm một nửa cái bánh mì, một hai miếng thịt hoặc đậu phụ và vài ba muỗng canh, thế thôi. Chỉ có điều sạch sẽ và ngon chứ không như các trường khác, cơm khi khê khi cháy, canh khi mặn khi nhạt, dở òm. Cũng lạ cái thời cả nước phải ăn độn sắn ngô khoai bo bo thì sinh viên Bách Khoa vẫn được ăn cơm không độn. Mình không biết có trường nào phải ăn độn không chứ Bách Khoa thì hoàn toàn không. Thời kì đau khổ nhất là người ta thay hai ổ bánh mì nưóng bằng hai nắm bánh mì hấp, chứ không hề độn khoai sắn hay bo bo như dân ăn gạo đong cả nước. Chỉ vậy thôi mà sinh viên Bách Khoa đã kêu ca như cha chết, có đứa còn làm Văn tế mì ổ rất vui.: Nhớ linh xưa… mì ổ nóng dòn, thịt kho đậu phụ, canh cá mè nấu chua ngon thật là ngon… lâu ngày quá không nhớ nữa.
Mình ở quê quanh năm ăn đói, bữa cơm Bách Khoa đối với mình như thế là no đủ lắm rồi. Nhưng nhiều đứa khoẻ ăn thì đói lắm. Ngồi cùng mâm với mấy thằng khoẻ ăn, ăn tham được coi như một đại hoạ. Thấy nó xới cơm mới kinh, xới lên môi nào là dặt dặt nén nén môi đó, cố ních cho chặt bát cơm, một bát cơm của nó bằng hai bát người khác. Đã thế nó còn ăn nhanh kinh hoàng, mình vừa ăn dăm ba miếng nó đã lùa sạch bát cơm. Lại xới bát khác, lại dặt dặt nén nén… sợ kinh.
Tụi mình gọi mấy đứa ăn khoẻ ăn tham này là bè lũ Đế quốc thực dân, gặp một lần là khiếp đến già, chẳng bao giờ dám ngồi chung mâm với chúng nó. Gặp khi nó gọi góp phiếu ăn chung mâm đều tìm cách chối, nói cậu ăn trước đi, mình còn chờ mấy đứa bạn. Nói rồi lặn mất tăm, không để nó cầm tay kéo vào. Mình đã làm Hịch chọn bạn cùng mâm đọc oang oang giữa nhà ăn: Hỡi đồng bào! Giờ ăn muộn có thể kéo dài năm phút mười phút hoặc lâu hơn nữa. Nhà ăn số 1, nhà ăn số 2 và một số nhà ăn khác có thể bị đóng cửa. Nhưng nhân dân ta quyết không sợ, quyết không chịu làm nô lệ cho bè lũ Đế quốc thực dân, dù chết cũng không chung mâm đụng đũa với chúng. He he.
Nhớ Cơm Bách Khoa thì trăm thằng nhớ đến việc sửa phiếu ăn cả trăm, chẳng đứa nào quên, vì tuồng như đứa nào cũng ít nhất một lần làm việc này. Phiếu ăn in ronéo, đóng dấu đỏ, trong đó đề bữa ăn ngày ăn. Sửa chữ khó, dễ lộ, chỉ sửa ngày ăn là dễ nhất. Đứa nào làm mất phiếu ăn hoặc có bạn đến chơi muốn mời nó đi ăn đều phải lấy phiếu cũ hoặc phiếu ăn ngày sau sửa lại cho đúng ngày đó. Chỉ cần lấy lưỡi lam cạo con số đi rồi lấy mực nho hoặc bút chì kĩ thuật viết đè lên thế là xong. Mấy đứa khoa Chế tạo Máy, khoa Đông Lực sửa phiếu ăn kì tài. Chúng nó đa phần khéo tay, lại vẽ kĩ thuật thường xuyên nên làm mấy cái trò này dễ như trở bàn tay. Chẳng những sửa số, chữ nghĩa trên đó nếu cần chúng nó cũng làm bay. Mình vốn tay chân hậu đậu, khi nào cần sửa phiếu ăn đều phải chạy sang nhờ thằng Nghĩa khoa Chế Tạo Máy hay thằng Đức khoa Đông Lực nhờ chúng nó sửa cho.
Có phiếu ăn sửa rồi nhưng phải khéo đưa mới lọt được, vì các chị nhà ăn đã quá quen cái trò tháu cáy này của sinh viên, rất khó lọt qua mắt các chị. Chỉ cần thấm nước vào số ngày, nếu chữ số bị nhoè là biết ngay phiếu dỏm. Thường khi phát hiện ra phiếu dỏm các chị cũng chẳng mắng mỏ gì, chỉ lườm cái rồi trả lại phiếu. Muốn đưa phiếu dỏm trót lọt phải chọn khi đông người, lại đặt cái phiếu dỏm thứ 3 trong bốn phiếu, hoặc đưa một lúc ba bốn mâm ( từ 12- 16 phiếu), các chị lo kiểm số phiếu không để ý. Lại chọn thằng đẹp trai, chưa có “ tiền án tiền sự”, vừa đưa phiếu vừa tán lia xia, nói giời ơi chị mới làm tóc à, xinh thế, trẻ ra bao nhiêu- Chị ơi chị có em gái không cho em ở rể- Bữa nay trông mắt chị long lanh dễ sợ, vừa được yêu phải không…. Đại loại thế, làm cho các chị mất tập trung, hoặc thấy phiếu dỏm cũng lờ đi cho. Trường hợp các chị phát hiện ra phiếu dỏm, dúi phiếu trở lại thì nhăn nhó gãi đầu bứt tai, nói chị ơi thương em đi, bữa nay em có khách, em biết chị thương em mà. Các chị cười cái lườm cái, nói cậu này mồm miệng ghê lắm, chỉ lần này thôi nha. Lập tức cười toe toét, nói ôi cảm ơn chị quá, em yêu chị vô cùng. Hi hi thế là xuôi chèo mát mái.
Cơm Bách Khoa rất nổi tiếng trong giới sinh viên Hà Nội, bạn bè đến chơi nếu mời đi ăn là chúng nó đi liền. Mình có vài thằng bạn ở các trường khác chiều thứ bảy nào cũng đến “thăm” mình để kiếm bữa cơm Bách Khoa, thành thử thứ bảy nào mình cũng phải lo một vài ba phiếu dỏm. Cho chúng nó ăn uống no nê, chẳng được khen lại còn bị ghen tị, nói è he, tao mà được ăn cơm Bách Khoa thì tao học giỏi bằng mười mày. He he có lý.
Nhớ thời sinh viên-1. Nhà quê ra tỉnh
Hôm qua mình cùng Tâm Chánh đi nhậu ở nhà Võ Đắc Danh. Nhân nói chuyện các nhà văn xưa đa phần đều không có bằng đại học, Tâm Chánh hỏi rất chân thành, nói anh Lập có đi học đại học không. Tự nhiên nhớ cái thời sinh viên, cái thời khốn khó nhưng vui cực. Ngẫm lại chẳng có thời nào vui như thời này.
Mình và thằng Viết ( Nguyễn Xô Viết) có giấy báo trúng tuyển Bách Khoa Hà Nội cùng một ngày. Mình nhớ khi đó mình đang đi nhặt phân bò ngoài đồng, con Vị hàng xóm tất tả chạy ra đồng hai tay vẫy vẫy, nói vơ anh Lập nời, anh trúng Đại học rồi. Mình vất cả gánh phân bò chạy về nhà. Con Vị chạy theo mình vừa thở vừa hỏi, nói Bách Khoa là răng, là trăm khoa à, anh phải học hết cả trăm khoa à. Mình chẳng biết trả lời sao, nào có biết Bách Khoa là gì, thấy bạn bè tranh nhau thi vào Bách Khoa mình cũng thi, đứa nào cũng đăng kí Khoa vô tuyến điện mình cũng đăng kí, cũng chả biết vô tuyến điện là cái gì.
Chiều đó mạ mình chạy ra chợ mua 2 đồng mực tươi, loại mực cơm nhỏ bằng ngón tay cái. Món này mình rất thích, bây giờ vẫn thích, đây là món duy nhất mình ăn không biết chán. Suốt bữa cơm bà cứ gắp hết con này đến con khác cho mình, nói ăn đi con, ra Hà Nội không có mực tươi mô con. Rồi bà khóc tủi, chắc là bà cảm phận nghèo mà khóc, con cái đỗ vào đại học mà không thể làm mâm cỗ để ăn mừng. Ba mình đi vay hàng xóm được ba chục đồng cho mình, anh chị em bà con kẻ cho ba đồng người cho năm đồng, cộng lại đúng 108 đồng, đó là món tiền duy nhất mình nhận được từ gia đình. Từ đó cho đến khi ra trường mình đều tự kiếm sống lấy, không phải xin gia đình nữa, vì nếu có hỏi xin thì ba mình cũng chỉ có một cách duy nhất là chạy đi vay mượn.
Nhà thằng Viết làm thợ may, khá hơn nhà mình nhiều, nghĩa là không bao giờ bị đứt bữa. Ba mạ nó còn mổ gà làm mâm cỗ ăn mừng, cho nó 200 đồng, bà con tới mừng thêm 100 đồng là 300 đồng. Thấy nó khoe có ba trăm đồng, mình lác mắt. Thằng Viết ra Hà Nội năm đầu chẳng biết tiêu gì còn gửi tiền về cho nhà, có lẽ cả nước chẳng có đứa nào đi học lại gửi tiền về nhà như nó. Đa phần chưa hết tháng đã tiêu sạch bách, viết thư về nhà chữ nghĩa du dương lắm, con thương con nhớ con yêu… Quan trọng nhất vẫn là tái bút với nhân tiện, à quên… là cái đoạn xin tiền, hi hi.
Buồn cười bà con đến thăm chẳng có ai dặn dò phấn đấu, tu dưỡng, học giỏi như thời này, toàn dặn dò đề phòng bị ăn cắp, bị trấn lột. Tâm lý nhà quê cứ ra phố là sợ, nhất là phố Hà Nội lại càng sợ. Chẳng ai ở Hà Nội cả, thậm chí có người chẳng biết Hà Nội ở hướng nào, nhưng kể chuyện trộm cắp ở Hà Nội cứ vanh vách, nói oa chà, Hà Nội trộm cắp như rươi, một mét vuông tám thằng ăn cắp. Ai nấy nghe thế thì hết hồn. Có một nhúm tiền mà mạ mình may cái túi nhỏ phía trong lưng quần, găm ba bốn cái kim băng, dặn đi dặn lại cách thức lấy tiền, giữ tiền cứ y như đang mang theo bảo bối.
Hai thằng đi nhờ xe tải ra Vinh, từ đó nhảy lên tàu chợ ra Hà Nội. Tàu chợ chật như nêm, hôi rình, ghế chẳng có, phải trải nilon giữa sàn tàu mà ngồi, thế mà hai thằng sướng rêm. Suốt đêm hai thằng nằm áp tai xuống sàn tàu nghe tàu chạy say sưa. Thủa bé đến lúc đó có biết tàu hoả là gì đâu, xem phim, mà chỉ phim Liên Xô mới có, thấy nó dài loằng ngoằng lao sầm sập thật đã quá trời, nghĩ bụng tàu bè máy bay chỉ là thứ để ngắm chứ không bao giờ được hưởng, chẳng ngờ có ngày được ngồi tàu, thật sướng củ tỉ. Tiếng xình xịch của tàu nghe cũng đã, tiếng còi tàu thỉnh thoảng hú lên, nghe sao mà sang trọng thế không biết, hi hi.
Ấn tượng đầu tiên bước chân đến Hà Nội là người và xe nườm nượp, đông hơn cả ở quê khi có hội hè. Thằng Viết cứ túm áo mình nhìn ra đường phố ngơ ngơ ngác ngác, nói oa chà họ đi mô rứa hè, họ đi mô rứa hè. Suốt cả ngày hôm đó hai thằng nghĩ mãi không ra người ta ra đường làm gì mà đông đến thế. Đến khi đến trường mới choáng, cả mấy ngàn chiếc xe đạp xếp đầy bãi giữ xe. Ở quê vào phiên chợ, nhiều lắm cũng chỉ có vài chục chiếc, còn ở đây cả mấy ngàn chiếc, lại toàn xe sang, xe Phượng hoàng, xe Favorite, xe Diamond… đủ cả. Hai đứa há hốc mồm trước sự giàu sang của học trò Hà Nội.
Lần đầu tiên biết thế nào là cầu thang, là lan can. Đứng ở tầng 4 nhà C1 nhìn xuống sân trường thấy ngờm ngợp. Không dám tựa lan can, sợ chẳng may lan can gãy một phát ngã lộn cổ xuống đất thì tan xương nát thịt. Vào toilet khu giảng đường mới kinh hoàng, gạch men láng coóng, vòi hoa sen I nôx sáng choang, nhìn cứ ngất ngây. Thằng Viết lần đầu vào toilet đi ngoài, đi xong nó chạy ra mắt trợn mồm há, nói ua chầu chầu lập ơi, hố xí sạch đẹp vô cùng, ngồi ăn cơm trong nớ cũng được. Không bằng mình, toilet ở phòng thí nghiệm có xí bệt không phải xí ngồi, có lẽ thời này chỉ có phòng thí nghiệm mới có xí bệt thôi chứ chẳng nơi nào có. Mình đau bụng nhảy vào, thấy cái xí bệt cứ ngơ ra, không biết đặt hai chân vào đâu, loay hoay mãi không biết làm thế nào trong khi đau bụng quăn quại. Mình chạy ra gọi thằng Lân, nó vào toilet thấy xí bệt thì ôm bụng cười rũ. Mình tức, nói mày chỉ mau lên không tao tương ra cả quần bây giờ. Nó bảo tụt quần ra đặt đít vào, thế thôi, ngu! Bây giờ nhớ lại cứ cười mãi, đúng là ngu thật.
Mình nhớ lần đầu nhập phòng nội trú vừa lúc mất điện, anh Tước bảo với mình, nói Lập Lập, cậu kiểm tra cái cầu chì xem thế nào. Mình cứ đứng trơ ra, đực mặt như ngỗng ỉa. Ở quê có điện đâu mà biết cầu chì, học vật lý điểm 9 điểm 10 đỏ choét, bảo vẽ kí hiệu cầu chì thì nửa giây là xong ngay nhưng cái cầu chì tròn méo thế nào thì chịu. Mang tiếng sinh viên khoa vô tuyến điện mà cái cầu chì lại không biết, đến nhục. Nhục nhất vào văn phòng khoa, có điện thoại mình nhấc lên, bên kia đầu dây nói cho tôi gặp cô Dung, mình dạ rồi đặt ống nghe vào tổ hợp. Cô Dung chạy lại đã thấy điện thoại đặt vào tổ hợp mất rồi. Cô nhìn mình như nhìn người ngoài hành tinh, nói em sinh viên năm mấy rồi mà điện thoại không biết dùng. Xấu hổ chết được.
Đám học trò ở quê ra như mình với thằng Viết ngày mới đến trường đều đứng ngồi khép nép, nhìn đám học trò Hà Nội đi lại ngênh ngang nói cười tự nhiên như chỗ không người thì phục lắm, sợ nữa. Đứa nào mình cũng gọi anh xưng em, không dám ho he gì với chúng nó cả. Nghe chúng nó xổ ra mấy câu tiếng Nga lại càng sợ , lo ngay ngáy không biết mình có học hành theo kịp chúng nó không. Con gái Hà Nội thì mê li, rất ngưỡng mộ. Hầu hết đều biết ăn diện, biết đánh phấn bôi son, các nàng lướt qua khi nào cũng nghe thơm nức. Lại gọi nhau tíu tít, nói ấy ơi, gì ơi, mình ơi… nghe ngọt lịm sườn. Nghe các nàng nói, thấy điệu bộ các nàng, cái cách ăn mặc của các nàng tự nhiên thấy mình quê một cục.
Mình với thằng Viết mới cố tẩy rửa quê mùa đi cho ra vẻ người Hà Nội. Đầu tiên là tập tọng nói giọng Bắc, giọng Bắc chả nói được cứ cố vặn lưỡi ra nói cái giọng Bác ngọng, nói chời ôi, xao thế nhẩy, xung xướng nắm thay… chết cười. Nói thế nào cũng lòi ra cái ông bọ, thấy cái nhà đẹp thì đua nhau nói ôi giời nhà đẹp nhỉ, hè? Đấy kìa, nhà đầu kia, tề! Nhỉ, hè!
Mình với thằng Viết đi qua quán bia hơi, thấy thanh niên ngồi vắt chân chữ ngũ rung đùi bên vại bia, nhấm nháp lạc rang, thỉnh thoảng nhấp ngụm bia rất là tay chơi. Thằng Viết hăng hái sắp hàng mua hai vại bia làm tay chơi. Hai thằng cũng vắt chân chữ ngũ cũng rung đùi ra vẻ đây dân phố. Nhưng khi nhấp vào một ngụm bia, hai thằng lập tức bụm mồm, mặt nhăn như bị, nói đ. Mạ, như nước đái bò. Không dám nhổ toẹt, sợ bị chê là quê, cố nuốt cho trôi. Bỏ hai vại bia không uống thì sợ bị chê là quê, hai thằng bèn mua bánh ngọt nhai đầy mồm rồi rót bia vào mồm, cố nuốt trôi hai vại nước đái bò, hi hi đến khổ.
Thằng Viết bây giờ làm giám đốc sở điện, vừa được điều đi chỉ huy một dự án điện lực Miền Trung rất to, chả biết tiền bạc có kiếm được không nhưng rượu bia thì bảo đảm bét nhè. Không biết nó có nhớ hai vại nước đái bò thủa mới từ nhà quê ra tỉnh nữa không, hi hi.
Chuyện trai gái thời bao cấp
Bây giờ trai gái yêu đương ôm vai hót cổ thoải mái, hôn hít ngay giữa đường giữa chợ cũng không ai lấy đó làm điều. Ngay việc quan hệ tình dục cũng không còn là vấn đề gì nếu là trai chưa vợ gái chưa chồng. Ngày xưa thì khiếp lắm, cấm kị đủ đường. Là nói cái thời bao cấp thôi, chứ trước đó nữa lại càng kinh khủng khiếp. Cái thời mà trai gái yêu nhau chỉ được đánh mắt đưa mày, muốn cầm tay cầm chân, ôm vai hót cổ phải vào nơi kín đáo, nếu để cho người khác nhìn thấy thì bị coi là yêu đương không đứng đắn. Chàng đạp xe đạp chở nàng trên đường, nàng chỉ có việc hai tay nhét đùi ngồi yên như khúc gỗ. Cô nào bạo lắm cũng chỉ nắm hờ ngang thắt lưng, chẳng có cô nào ôm eo áp ngực chàng như các cô gái thời nay. Những chiều mùa hạ, trai gái hẹn hò nhau ra bờ đê ngồi, chỗ này một cặp, chỗ kia một cặp rủ rỉ tâm tình. Nàng nhổ cỏ chàng bẻ ngón tay, nói chuyện chán thì về, chẳng dám làm gì.Hôn hít thời này bị liệt vào hành vì giao cấu, rất xấu xa. Đừng nói ngày xưa, ngay bây giờ vẫn còn quan niệm như thế. Năm ngoái Nguyễn Quang Thiều chả kêu ầm lên về dự luật cấm hôn nơi công cộng, may có ông Thiều kêu, báo chí làm ầm ầm người ta mới dẹp đi, nếu không thế nào luật cấm ấy cũng lọt vào top ten những luật cấm hài hước.Thời bao cấp những chuyện cụ thể chẳng có luật lệ gì, đa phần làm theo chỉ thị khi thì bằng văn bản khi thì chỉ thị mồm. Đôi khi một xếp nào đó ngồi nhậu chợt nhớ chuyện gì đó nhắc khẽ một câu, thế là thành chỉ thị. Chuyện trai gái yêu đương các xếp cũng nhắc nhở nhẹ nhàng thôi nhưng xuống cơ sở thành ra chuyện rất nghiêm trọng. Chuyện hôn hít cũng vậy, không chỉ cấm nơi công cộng mà cấm khắp nơi, sách báo phim ảnh tuyệt cấm kị. Nếp sống thời này cho đó là hành vi thiếu đứng đắn, không lịch sự. Cầm tay nhau cũng đã quá đáng lắm rồi, hi hi.
Mình nhớ xem phim, khi nào trai gái nhìn nhau đắm đuối, “mắt trong mắt tay trong tay âu yếm”, thì cả rạp lặng ngắt, nín thở chờ. Nhưng rồi đến khi môi này sắp dính môi kia là màn hình tối mò. Người chiếu phim đã che ống kính. Anh naò ngứa mồm la làng, nói thả tay ra cho người ta xem, lập tức có năm bảy người khác mắng cho là vô văn hoá. Sau đó thế nào cũng có người báo về cơ quan, đoàn thế, thế nào anh ta cũng bị “ cạo” cho một mẻ. Suốt cả năm đó chuyện anh ta luôn được đem ra làm ví dụ một khi các xếp nói về nếp sống mới, nói có đồng chí còn dám yêu cầu chiếu phim thả tay ra để xem cảnh hôn hít, rất đáng xấu hổ. Một câu đó thôi xếp có thể đem ra “ ví dụ” cả trăm lần. Khốn khổ thế đó.
Thành thử cái gì cũng lén lút, đọc sách xem phim ảnh cũng phải lén lút. Nơi mình học là trường cấp 3 Bắc Quảng trạch, một trường tiên tiến, nhiều năm liền là lá cờ đầu giáo dục tỉnh Quảng Bình, những năm 1969- 1970 bỗng đâu xuất hiện cuốn sách Bí mật thành Paris. Truyện chẳng có gì, chỉ kể chuyện anh chàng cắt móng tay yêu đương mấy mụ nạ dòng giàu sang phú quí. Mấy màn yêu đương chỉ tả sơ sịa, thế mà học trò đua nhau bí mật chép tay lại cả cuốn, bí mật truyền tay nhau thì thà thì thầm vô cùng nghiêm trọng. Nhà trường ra sức truy bắt, may không bắt được ai, nếu thầy cô túm được cuốn sách trong cặp đứa nào thì đứa đó bị đuổi học là cái chắc. Anh Thắng, anh trai của mình, hồi đó nổi lên như một thanh niên xuất sắc, mới lớp 10 đã được kết nạp Đảng, làm đến chức phó bí thư đoàn trường, uy danh lừng lẫy. Anh yêu chị L.A đẹp nhất trường. Nói thật từ bé đến giờ mình chưa thấy ai đẹp như chị L.A. Mình đang học lớp 7, mới bé tí nhưng toàn sưu tầm mấy chuyện “ bậy bạ” lén lút đọc say sưa. Đa phần sách đó đều là sách chép tay, chị L.A cho mượn. Một hôm anh Thắng tóm cổ được mình đang nằm tùm hum trùm chăn đọc cuốn Bí mật thành Paris. Anh hỏi sách của ai, mình khai của chị L.A cho mượn. Tưởng khai thế thì anh Thắng sẽ cho qua, ai dè anh tịt thu luôn cuốn sách. Anh không đưa chị L.A anh ra chi đoàn kiểm điểm nhưng gọi chị L.A ra riêng “xạc” cho một trận và cắt đứt chị luôn. Hi hi ngu thế không biết.
Sau này chị L.A yêu anh H rất đẹp trai. Đêm trăng hai người rủ nhau ra bãi cát chơi, hai người nằm hai góc, lăn qua lăn lại, ném cát đùa nhau, chỉ thế thôi chứ chẳng có gì bậy bạ cả. Chẳng ngờ ông nông dân xách quần ra bãi cát đi ngoài, bắt được hai người, liền báo cho nhà trường. Từ đó anh H và chị L.A được Nhà trường mô tả như cặp học sinh sa đoạ, đàng điếm nhất trong lịch sử của Nhà trường. Kinh. Hi hi.
Trai gái muốn yêu nhau đàng hoàng thì phải báo cáo tổ chức, gia đình muốn báo thì báo chả báo thì thôi nhưng tổ chức thì phải báo cáo, nếu không thì bị coi là yêu đương bất chính. Dù yêu đương đàng hoàng, cả tổ chức lẫn gia đình đều biết vẫn hết sức ý tứ, vì biết đằng sau lưng mình luôn có người theo dõi. Ngồi nói chuyện bình thường thì không sao, chẳng có ai sau lưng mình hết. Máu lên ngồi dịch lại sát nhau cũng không sao, máu nữa mà quàng vài nàng kéo nàng vào lòng là lập tức có tiếng đằng hắng phía sau cảnh cáo. Nếu không biết hoặc bất chấp cái đằng hắng cảnh cáo kia, cứ ẩn nàng nằm xuống vệ cỏ rồi hôn hít sờ soạng thì chỉ một phút sau đã thấy ba bốn người đứng vây quanh, nói yêu cầu hai người về uỷ ban giải quyết.
Hồi đầu mình không hiểu ở đâu ra lực lượng này. Chính quyền không hề tổ chức, đoàn thể cũng không. Trừ một vài người có “ lối sống bê tha”, “ chậm tiến” họ cần phải theo dõi để “giúp đỡ”, còn lại chẳng ai hơi sức đâu đi theo dõi hết lượt trai gái yêu nhau. Về sau mới biết ở đâu cũng có những người rất nhiệt tình làm việc này, họ tự thấy trách nhiệm cuả mình ở khắp mọi nơi, đặc biệt việc giữ gìn nếp sống mới thì họ nhiệt tình lắm, hăng hái lắm.
Mình có ông thầy dạy thể dục cấp 3 rất hăng say làm chuyện này. Nhà trường không hề giao nhiệm vụ cho thầy, tự thầy tập hợp một số học sinh lập thành một đội gọi là Đội săn bắt hủ hoá. Tối nào cũng vậy, thầy dắt cả đội đi đi bò bò vào rừng trâm bầu, cồn hoang, bãi cát, bờ đê… săn lùng các “cặp đối tượng”. Từ năm 1965 đến 1975, trong vòng mười năm hàng trăm “ cặp đối tượng” bị Đội săn bắt hủ hoá của thầy hoặc tóm gọn hoặc đuổi chạy bán sống bán chết. Có lần mình rủ thằng Thuỷ, con cậu ruột của mình, lừa Đội Săn bắt hủ hoá cái chơi. Trong nhà mình có mấy đứa con gái ở trọ, mình lấy áo quần chúng nó mặc vào, lấy giẻ độn ngực rồi đeo cooc sê vào, đội nói lên để che cái đầu trọc. Tối đó trăng sáng, mình khoác tay thằng Thuỷ đi ra rặng trâm bầu. Vừa vào rặng trâm bầu đã thấy vài cái bóng bám theo sau lưng. Mình và thằng Thuỷ cứ đi sâu vào rặng trâm bầu, rồi chui vào bụi rậm. Hai đứa ôm nhau vờ rên rỉ giọng Bắc, nói anh ơi xướng xướng, em ơi xướng xướng. Thầy và mấy đứa học trò nhảy đại đến bụi cây, lên đạn đánh rốp, nói yêu cầu anh chị ra khỏi bụi ngay. Mình giả giọng con gái Bắc, nói em xợ nắm, xin nhà chường tha cho em. Thầy hét lên, nói các đồng chí, bắt sống khẩn trương bọn dâm ô truỵ lạc. Mấy đứa học trò lôi cổ mình và thằng Thuỷ ra. Có thằng còn tranh thủ bóp hai nùi giẻ trên ngực mình mấy bóp. Biết bị mắc lừa thầy tức lắm, nói học sinh mất dạy, dám lừa cả thầy. Nói rồi thầy phủi đít quần đi một mạch về nhà. Từ đó cho đến khi mình rời trường cấp 3 thầy không bao giờ nhìn sửa mặt mình, hi hi.
Bây giờ thầy già rồi, mỗi lần gặp thầy mình đều nhắc lại chuyện đó trêu thầy. Thầy nhăn răng cười, nói thừa nhận tui ngu, có ai yêu đương chỉ bằng nước bọt không đâu, sao lại bắt người ta mấy chuyện đó chớ. Mình nói giả sử cấp trên bảo thầy đi bắt thì cũng không sao, đằng này thầy tự nguyện tự giác đi làm mấy chuyện đó mới tức cười. Thầy cười cái hậc, nói rứa mới ngu, tui nghèo khó từ hồi đó đến giờ cũng vì mấy cái ngu đó thôi, suốt đời ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng, ngu chi ngu tàn bạo.
Hot girl thời bao cấp
hời bao cấp trai gái thời thượng không ai gọi là hot boy, hot girl. Không biết miền Nam gọi là gì chứ ở miền Bắc trai gái thời thượng đều gọi là người yêu lý tưởng. Ngay cả cái từ hot hình như cũng chỉ được dùng hơn chục năm trở lại đây thôi, nó bắt đầu từ ngôn ngữ chat chít của lớp trẻ. Mình đã viết hot boy thời bao cấp rồi, giờ kể thêm hot girl cho vui.
Khác với hot boy có dăm bảy loại, thời bao cấp hot girl chỉ có một loại thôi, ấy là những cô gái mậu dịch viên. Tất nhiên thời nào gái đẹp, gái nổi tiếng đều hot cả, thời bao cấp cũng thế, nhưng thời này gái mậu dịch được trọng vọng nhất, hầu như họ không có đối thủ trong tình trường. Cái thời dân chủ yếu sống bằng tem phiếu, đường sữa mắm muối vải vóc.. nhất nhất đều phải dựa vào tem phiếu, đồng lương cán bộ chỉ có thể sống được nhờ các cửa hàng cung cấp, không thể sống nhờ chợ búa được thì ai đứng cửa hàng kể như cầm mạng sống của cả nhà.
Các cửa hàng luôn ở tình trạng thiếu hàng, mọi người xếp hàng chầu chực chờ hàng về để được mua đầu tiên. Chỉ cần chậm chân một chút hoặc là xách túi về không, hoặc là phải lấy mấy thứ đầu thừa đuôi thẹo. Mình nhớ ngày đó ba mình cất phiếu thịt chờ con cái đi học, đi làm ở xa lâu ngày về thăm, ông mới đem phiếu ra cửa hàng thịt. Ông dậy từ 4 giờ sáng ra cửa hàng đứng xếp hàng chờ đến 7 giờ cửa hàng mở cửa. Thế mà nhiều khi ông phải xếp thứ mấy chục. Chưa khi nào ông mua được cân thịt ngon. Thịt ngon đều để dành cho cấp trên, người nhà, người quen, người trong cửa hàng trong công ty của mậu dịch viên. Mua được cân thịt là may rồi, chẳng ai dám mơ có được cân thịt ngon. Ba mình xách cân thịt về, mồ hôi muối trắng lưng áo, nói cười hể hả như là nhặt được cân thịt ở đâu về chứ không phải đi mua thịt tiêu chuẩn. Lúc nào ông cũng khoe mình đã gặp may. Khi thì khoe đứa học trò nó nhường cho mua trước. Khi thì khoe đến lượt ông mua xong là hết sạch thịt chỉ còn lòng. Khi thì khoe hết thịt rồi nhưng cô bán thịt nhận ra người quen, cô linh động bán cho phần thịt cô để dành cho người nhà. Cả nhà nghe ông kể ai nấy mừng húm, nói may hè may hè.
Khổ thân, tiêu chuẩn của mình mà mỗi khi mua được thì mừng hơn cha chết sống lại. Một cân thịt có khi về nhà cân lại chỉ còn tám lạng vẫn mừng, có tám lạng còn hơn không có lạng nào. Chả ai ngu xách cân thịt ra cửa hàng yêu cầu cân lại. Người sắp hàng mua rất đông, chẳng ai cho mình chen ngang để kiện cáo. Nếu chen vào được, nói chị ơi tôi cân lại chỉ có tám lạng thôi. Cô mậu dịch một là không thèm trả lời; hai là lườm cái, nói thừa thiếu phải nói ngay tại quầy, bác đã đem thịt ra khỏi quầy còn đem lại đây bảo thiếu a; ba là cô cầm tám lạng thịt ném vào thớt, nói bác chê thiếu thì để người khác mua. Lập tức có cả chục người nói đây đây tôi mua tôi mua, tám lạng thì tám lạng. Xong om. Kể qua vậy để nói quyền thế của cô mậu dịch viên lớn lắm. Bán ai trước, bán đúng cân hay thiếu cân, hàng nguyên chất hay đầu thừa đuôi thẹo đều thuộc quyền cô cả. Nếu ai thấy cô cân thiếu yêu cầu cân lại, hoặc muốn đổi hàng chất lượng cao hơn cũng không được. Mình chưa nói xong câu thì cả chục người đứng sau réo ầm ầm, nói ông kia mua nhanh cho người khác mua. Mua được hàng là tốt rồi còn đổi chác, ngu thế, tham thế. Nếu mình còn chần chừ nhất địch bị đám đông đứng sau đánh bật mình ra khỏi hàng khi nào không biết.
Muốn mua hàng nhanh, đạt chất lượng chỉ có cách quen biết mậu dịch viên, hoặc cửa hàng trưởng, không còn cách nào khác. Quen được họ rồi thì là được mua đầu tiên, hàng đã không thiếu lại ngon lành. Sáng sớm đi làm gửi phiếu gửi sổ mua hàng cho họ, đến trưa thì viếng qua cửa hàng lấy, khoẻ re. Nếu không cứ đến thẳng cửa hàng, cố dơ mặt ra cho người ta thấy, búng ngón tay cái tách ra hiệu. Cô Mậu dịch thấy rồi, vờ gọi tên hai ba người là đến tên mình ngay. Ai thắc mắc, nói anh này mới đến sao mua nhanh thế thì vờ cau mặt cười nhạt, nói bác đến sau biết gì, tôi sắp hàng từ ba giờ sáng, giờ mới đến lượt đây. Hi hi.
Các cô mậu dịch viên chẳng những có quyền thế lại được hưởng lộc từ các trò cân thiếu, đánh tráo chất lượng hàng, thậm chí còn đánh tráo cả tem phiếu mua rồi thành tem phiếu chưa mua, thành thử thời này tất cả các mậu dịch viên nếu không giàu có cũng không khi nào túng thiếu. Lấy được mấy cô này khác gì chuột sa chĩnh gạo. Nhà nào kiếm được cô dâu là mậu dịch viên thật mừng hết lớn. Cả họ mừng chứ không riêng gì nhà đó mừng.
Mình chưa tán được cô nào là mậu dịch viên cả, mặc dù rắp ranh rất nhiều lần, lần nào cũng thất bại. Hễ cô nào là mậu dịch viên thì nhất định gia đình mấy người quyền thế đều thửa trước. Nếu không thì mấy ông hot boy thời này cũng cua ngay, chẳng cô nào “vườn không nhà trống” cả, rất khó tán. Mậu dịch viên thường mặt mày không đến nỗi, đa số đều sạch nước cản. Cũng có cô xấu, xấu mấy thì xấu, dù xấu ngang tầm Thị Nở cũng không đến lượt mình.
Chẳng phải cưa đổ tán được, anh nào quen được mấy cô cũng đã vinh dự lắm rồi. Quen được một cô mậu dịch là giá mình lên hẳn, từ gia đình, bà con đến thầy cô, bạn bè ai ai cũng nể trọng, ra sức chiều nịnh để nhờ cậy. Vì thế quen được cô mậu dich viên còn phấn khởi gấp mấy lần đ
ược thăng chức lên lương ( Tất nhiên là lương nhỏ chức quèn).Mình nhớ hồi ở Huế, mình làm việc cùng phòng với thằng T. Thằng này thiên tài về quan hệ, thích quen ai là nó quen được liền. Một hôm có cô mậu dịch tìm đến phòng mình tìm nó. Nó kéo cô vào phòng, nói đây là cô A. ở cửa hàng B. Cả phòng bỗng ngẩng phắt lên mặt mày sáng trưng, không ai bảo ai tất cả đều xúm đến rồi rít hỏi han mời mọc. Thằng T. vắt chân chữ ngũ, mặt vênh lên y chang nó vừa quen được ông thủ tướng. Anh M. là con ông phó chủ tịch huyện. Anh đi bộ đội lên đến hàm đại uý, hàm ấy gọi là siêu, cũng là “đồ quí hiếm”. Ở nhà bố anh dấm sẵn cho một cô mậu dịch viên. Khi anh về phép bố anh dẫn đến xem mặt. Anh chê xấu. Bố anh trừng mắt lên, nói ngu lắm, vàng đó con ơi, tao quyền thế lắm mới kiếm được cho mày đấy, đừng có tưởng bở. Anh vẫn chê. Cô này biết được, cười cái xoẹt, nói đó chê thì đây cũng nỏ thèm, tưởng đại uý là to à. Chỉ trong tuần lễ cô cưới ngay một ông thiếu tá trước mặt anh, ông này còn đẹp trai hơn cả anh nữa.
Thời mình đi lính chơi thân với thằng Q. Thằng này cực đẹp trai lại hát hay đàn giỏi, đi đâu gái chạy theo cả đàn. Chị nó ở nhà viết thư cho nó, nói chị đã dấm cho em một cô rất xinh xắn, khoẻ mạnh, nết na. Mày đồng ý thì để chị nói chuyện với nó. Thằng Q. làm chảnh, viết thư nói chị cứ từ từ, để em về xem có đồng điệu tâm hồn không đã. Thư sau chị nó dục, nói em quyết nhanh lên, ba mạ chờ ý kiến em để làm lễ bỏ trầu. Thẳng Q. vẫn thờ ơ, viết thư nói chị ơi em làm sao quyết được khi chưa biết tâm hồn người ta có đồng điệu hay không. Chị nó lại viết thư, lần này kể chuyện kĩ hơn, nói con bé hiện bán ở cửa hàng tổng hợp huyện em ạ. Thằng Q. đọc thư đến câu này, vội vàng tót ra bưu điện đánh điện khẩn về, nói em đồng ý, chị nói ba mạ làm lễ bỏ trầu cho em. He he.
Nhớ thời bao cấp
Đã có vài ba phim truyền hình kể về thời bao cấp rồi nhưng chưa có phim nào ghi lại thật đúng thời ấy cả. Mình rất muốn làm một phim về thời bao cấp, làm thật chuẩn để mọi người nhớ lại cái thời đã qua. Nhiều chuyện bây giờ kể lại cho trẻ con chúng nó không tin, chỉ có phim kể lại may ra chúng nó mới tin. Cái thời bao cấp cái gì cũng ngược đời, giá cả không đi kèm với giá trị. Một bát phở 5 hào trong khi một ngọn thuốc lá có lúc lên đến 1 đồng. Một chỉ vàng là 80 đồng, nếu biết kinh doanh thì chỉ cần một vườn thuốc cũng đã có vài chục cây vàng như chơi. Nhưng hồi đó không ai tính chuyện kinh doanh, kinh doanh là buôn bán, con người mới ai lại đi buôn bán. Ai nghĩ đến kinh doanh thì tự mình cũng thấy xấu hổ, chưa cần đến người khác chê cười.
Cái thời ấu trĩ kinh khủng khiếp. Nhà cửa chật chội bê tha nhưng ai cũng bám lấy cái nhà Nhà nước phân cho, ít ai nghĩ chuyện mua bán đổi chác nhà đất. Hồi ở Huế, mình mới về Sở văn hoá, được phân một cái gọi là “căn hộ” 12 mét vuông, vợ chồng con cái cứ yên tâm ở vậy cho đến khi chia tỉnh. Trong khi đó một căn hộ 28 mét vuông chỉ 1,4 cây, một cái nhà vườn cách trung tâm 3, 4 km cũng chỉ giá ấy. Đồ hàng vợ mình đi Nga về nếu bán cũng được 2 cây nhưng cả vợ lẫn chồng không hề nghĩ bán đi để mua nhà, cứ ở vậy chờ Nhà nước phân nhà mới, thế thôi.
Giải phóng miền Nam, ông bác mình xin được suất di cư sang Pháp ở. Ông bác gọi ba mình vào cho cái nhà bốn lầu ở Q.1 ( tp HCM). Ba mình chẳng những không lấy lại còn trách ông bác, nói cho gì lại cho nhà, ai vô đó mà ở. Ba mình là một cán bộ cách mạng, không đời nào ông nghĩ đến lấy cái nhà đó rồi bán đi. Mua bán nhà là một cái gì rất xa lạ với ông. Đến khi ông bác bàn giao cái nhà cho Chính quyền, cho ba mình lấy đồ đạc trong nhà thì ông lại mừng húm, hí hửng khiêng khiêng dọn dọn mấy ngày mới xong, mừng như cha chết sống lại.
Mình cũng thế thôi, ngày ở lính, cả tiểu đội phát hiện một cái hang chứa đầy đồ quân trang lính Mỹ. Áo quần vải vóc hồi đó khan hiếm vô cùng, nếu khôn ngoan như bây giờ thì cái kho ấy đem bán hết cũng kiếm được cả trăm cây vàng chứ không ít. Nhưng chẳng ai nghĩ thu gom áo quần Mỹ làm gì, chỉ tranh nhau cắt dây dù đem về buộc võng. Xe hon đa 67 lính cộng hoà bỏ chạy vứt đầy sân trung đoàn, ai biết đi thì lấy đi, đi xong rồi vứt đấy, chẳng ai thèm ngó ngàng, trong khi tiền để mua một chiếc xe đạp thì nằm mơ cũng không có.
Thời này kẻ giàu có thường bị khinh rẻ, coi thường. Mình nhớ hồi học lớp 5 mình ngồi gần con B., mẹ nó là mậu dịch viên ( mậu dịch viên là hot girl thời bao cấp, số sau mình sẽ kể) . Con B. ăn trắng mặc trơn, rõ là đồ tiểu tư sản, trong lớp đứa nào cũng ghét. Mới tí tuổi đầu mà đi học lúc nào cũng xức nước hoa thơm lừng. Sau này mình mới biết nó thích mình, ăn cắp nước hoa cuả mẹ nó để xức. Mình đã ngồi dịch ra, nó cứ lấn tới, điên tiết mình vùng đứng dậy, nói thưa cô cho em ngồi chỗ khác. Cô hỏi sao, mình nói thưa cô bạn B. xức nước hoa khai mù em chịu không nổi. Vì chuyện đó mà từ đó cho đến lớp 10 con B. nhìn mình bằng nửa con măt, hi hi.
Chuyện đó không ngờ đến tai thầy hiệu trưởng. Hồi đó mình tương đối nổi tiếng trong trường, không phải phải vì học giỏi mà vì “con thầy Đạng”, ba mình là thầy của rất nhiều lãnh đạo to nhỏ trong tỉnh, cũng là thầy của thầy hiệu trưởng. Chào cờ sáng thứ hai hàng tuần, thầy hiệu trưởng nói có một số học sinh còn nhỏ tuổi đã mang tư tưởng tiểu tư sản, áo quần là lượt, chải chuốt xức nước hoa rất kinh. Nước hoa là gì các em có biết không, đó là thứ của bọn ăn trên ngồi tróc chuyên đem ra để lừa bịp giai cấp công nông. Mình liếc sang con B., mặt nó cúi gằm, vô cùng sợ hãi.
Thầy hiệu trưởng còn đến nhà mình khoe với ba mình, nói thưa thầy em đã chuyển thằng Lập sang bàn khác. Ba mình hỏi sao. Thầy nói nó ngồi gần con bé hôm nào cũng xức nước hoa khai mù. Ba mình trợn mắt há mồm, nói thế à? Chà chà… nguy hiểm quá! Anh chuyển đi là phải. Năm lớp 7 mình đạt giải cả văn lẫn toán học sinh giỏi tỉnh, ba mình mừng lắm, ôm lấy thầy hiệu trưởng, nói công anh lớn quá, gia đình tôi ơn anh lắm lắm. Thầy hiệu trưởng mới khiêm tốn nói thưa thầy, nhờ thầy rèn cặp em Lập đó. Ba mình lắc đầu xua tay, nói không không, nếu anh không chuyển thằng Lập tránh xa con bé tiểu tư sản kia thì làm sao nó có thành tích như thế được. Hi hi chết cười.
Cái thời gíàu có là xấu xa nhiều chuyện cười ra nước mắt. Ai cũng thích giàu nhưng hết thảy đều ra vẻ coi khinh lũ giàu có. Nhà nào kha khá một chút đều chẳng dám phô ra ngoài, đặc biệt nhà cán bộ có chức có quyền một chút thì phải hết sức giữ gìn, làm con gà ăn cũng phải lén lút, giấu tiếng bịt hơi, sợ nhỡ may hàng xóm biết được thì bỏ mẹ. Người nghèo nếu có mổ heo cũng chả việc gì nhưng nếu là cán bộ có chức có quyền thì chỉ một bữa cá rán cũng đã thành vấn đề. Mình nhớ hồi mình học lớp 2, ba mình có khách trong tỉnh ra chơi, ông mổ gà đãi bạn. Ông sai mình ra ngoài ngõ đứng canh, rồi nhét con gà vào bao tải nhúng nước cho đến chết, không dám cắt tiết, sợ nó kêu. Khi ông luộc hay rán gà, mình phải chạy quanh vườn ngửi xem mùi có bay ra ngoài không. Khi ngửi thấy mùi thơm thì lật đật chạy vào, nói ba ơi thơm rồi thơm rồi. Ba mình lập tức lấy cái chăn trùm kín nồi. Đến khổ.
Cán bộ đi làm chủ yếu dựa vào đồng lương, ai muốn kiếm thêm cũng phải giấu diếm, nếu lộ ra nhất định sẽ bị kiểm điểm lập trường không vững vàng, tư tưởng không ổn định, chân trong chân ngoài. Ít ai sống đủ bằng lương, thường thì đến nửa tháng là sạch bách. Khi đó phải tính chuyện bán cái gì đó để sống tiếp nửa tháng còn lại, đa phần chẳng biết bán gì ngoài việc đem tem phiếu tiêu chuẩn đi bán. Phiếu vải đem bán đầu tiên, sau đến phiếu thực phẩm. Chỉ cần có đủ gạo ngày hai bữa là xong, ăn gì chẳng được, mặc gì chả xong. Thời đó nhiều người chỉ có một bộ áo quần tươm tất, gọi là áo quần đi làm, ngày mặc đi làm, tối về giặt là phơi khô ngày mai lại mặc đi làm tiếp.
Mình ở khu chung cư 24 Lê Lợi- Huế, cạnh nhà thằng Thịnh (Nguyễn Thế Thịnh) và anh T. Anh T. làm cùng sở với mình, anh hiền lành nhu mì, suốt ngay có khi không nói được một tiếng. Anh ở với thằng con trai trong cái phòng nhỏ hẹp như phòng mình. Cứ mỗi kì lĩnh lương, anh chia lương ra 30 phần bằng nhau, lấy dây chun cột thành 30 “bó” nhỏ, cất kín vào tủ. Mỗi ngày anh đem một “ bó” tiền ra tiêu, chỉ tiêu đúng “ bó” ấy thôi, thiếu thì nhịn, kiên quyết không chi lạm sang “ bó” khác. Ngày nào có khách, anh buộc phải chi thêm “ bó” khác thì ngày sau hoặc anh xách xe đi “ thăm” nhà bà con, bạn bè kiếm bữa cơm, họăc anh nằm co nghiến răng nhịn đói.
Năm 1988, Đảng phát động công cuộc Đổi mới, anh em họp chi bộ phê phán cơ chế bao cấp rất hăng, anh T. vẫn ngồi yên không nói gì. Đến khi anh em tranh nhau phê phán hăng quá, anh dơ tay, nói tui có ý kiến. Anh đứng dậy mếu máo, nói các đồng chí nói chi thì nói, không được nói xấu chế độ. Nói xong anh đứng khóc oà như trẻ nhỏ. He he
Chuyện bắt phi công
Hồi chiến tranh dân Quảng Bình mê nhất hai thứ, một là đi kiếm dù, hai là bắt phi công. Dù có hai loại, dù pháo sáng là dù trắng và dù phi công là dù đỏ. Dù pháo sáng là chủ yếu, không đêm nào máy bay Mỹ không thả pháo sáng, vì thế không đêm nào dân Quảng Bình không nhặt được dù. Thỉnh thoảng vẫn nhặt được dù phi công, dù này quí hiếm vô cùng, ai nhặt được dù này còn mừng hơn bắt được vàng. Thật là như thế, một chỉ vàng hồi này chỉ 80 đồng, trong khi một cái dù đỏ phi công có thể bán 300 đồng, có khi lên tới 500 đồng. Dù là thứ vải rất bền và đắc dụng, làm vỏ chăn cũng tốt, may áo quần cũng hay, đặc biệt làm rèm che, làm phông màn thì quá đẹp. Đám cưới nào có ba bốn cái dù vừa làm mái che rạp vừa làm phông màn gọi là đám cưới sang. Thà rằng cắt tóc đi tu/ cưới xin không có tấm dù ra chi. Những chiếc dù trọn vẹn rất hiếm, thường khi có một chiếc dù rơi xuống thì cả mấy trăm người tay dao tay câu liêm nhào tới xâu xé, may lắm mới kiếm được một rẻo. Có khi chẳng kiếm được rẻo nào, còn đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Những chiếc dù trọn vẹn thường nhặt nơi rừng rú xa xôi, hoặc vận đỏ rơi trúng đầu, nửa đêm khuya khoắt thiên hạ ngủ cả, chiếc dù rơi trúng nhà mình.
Bắt phi công không được dân chúng hồ hởi phấn khởi như đi kiếm dù nhưng cũng rất hấp dẫn. Ai bắt được phi công sẽ được huyện đội thưởng một con bò, lại được giấy khen bằng khen, được đi báo cáo thành tích, được báo tỉnh chụp ảnh đưa tin rất oách. Mình nhớ anh cu Cá ở Ba Đồn ở quê mình là người dân đầu tiên của tỉnh Quảng Bình bắt được phi công. Thường khi máy bay cháy, phi công Mỹ nhảy dù thì dân quân, bộ đội đã bố trí sẵn để chụp cổ chúng rồi, dân khó lòng “ tranh phần” với dân quân, bộ đội.
Nhưng thỉnh thoảng phi công nhảy dù trong đêm không ai nhìn thấy, hoặc gió thổi dù bay lạc hướng phán đoán của dân quân, bộ đội thì khi đó dân mới bắt được. Anh cu Cá do đoán được hướng dù rơi mà bắt được phi công. Chuyện anh cu Cá bắt phi công mình đã kể rồi, không kể nữa.
Mình nhớ năm 1967, ở làng Thuận Bài có một anh chuyên nghề mò cua bắt cá ở Sông Gianh, tên gì không nhớ nữa. Nhà anh nghèo, vì nghèo quá mà không sao cưới được vợ. Yêu nhau ba bốn năm rồi nhưng hễ đặt vấn đề cưới xin là tắc tị. Đừng nói mổ heo mổ bò, chỉ cần sắm cái giường cưới cho tử tế nhà anh cũng không có khả năng. Anh chầu chực bắt phi công để kiếm một con bò cưới vợ nhưng hai ba năm trời không cách sao bắt được. Một hôm bộ đội pháo cao xạ bảo vệ cảng Gianh bắn cháy một chiếc F4H, thằng phi công nhảy dù rơi tõm xuống giữa sông Gianh. Một cuộc tranh giành phi công giữa bộ đội, dân quân với máy bay Mỹ xảy ra rất ác liệt suốt cả buổi chiều. Máy bay Mỹ mười mấy chiếc thi nhau quần nát một vùng rộng lớn bốn xung quanh sông Gianh, rồi đem máy bay trực thăng từ Hạm đội 7 bay vào nhằm trục vớt thằng phi công. Trực thăng bay thấp thế nhưng không ai làm gì được vì quanh nó có cả đàn phản lực vừa bắn rốc két vừa thả bom bảo vệ.
Không phải một chiếc trực thăng mà ba chiếc, một chiếc trục vớt phi công, hai chiếc bay kèm hai bên, hễ thấy ai đưa thuyền hay bơi ra sông là chúng bắn như như vãi đạn. Mọi người tính bó tay, để mặc cho thằng phi công được cứu thoát. Khi đó anh ở trong làng Thuận Bài vừa bò vừa chạy ra, nhảy xuống sông, lặn chừng ba hơi thì đến giữa dòng. Khi chiếc trực thăng thả thang dây xuống, thằng phi công vừa túm lấy thì anh này cũng vừa nhô lên, túm lưng quần thằng phi công kéo xuống.
Anh vừa bơi vừa kéo thằng phi công vào bờ. Mấy chiếc trực thăng đều thấy cả nhưng không dám bắn, bắn thì chết luôn thằng phi công. Anh bắt thằng phi công giải đi, còn tụt quần vỗ đít chĩa về phía mấy chiếc trực thăng, nói vơ Đế quốc Mỹ…khu ( đít) tau đây nời. Nghe nói huyện đội xét anh này có công lớn, thưởng cho anh hai con bò với ba trăm đồng, chẳng những đủ tiền cưới vợ mà còn làm được mái nhà tranh. Nhà báo tìm đến hỏi anh, nói vì sao đồng chí vượt qua lửa đạn để bắt phi công Mỹ. Anh nói bá cáo vì tui cần tiền cưới vợ. Nhà báo “ mớm cung”, nói khi đó lòng căm của đồng chí rực cháy phải không. Anh nhăn răng cười, nói bá cáo tui quen biết chi hắn mà căm thù.
Hồi sơ tán ở làng Đông, nhà mình ở đầu làng, từ đấy cứ đi ngược lên phía Tây Bắc, băng qua rặng trâm bầu là gặp một cái bàu sen cực rộng, rộng đến nỗi đứng bên này bờ cứ tưởng mặt trời chui lên từ bờ bên kia. Bên kia bàu là một xóm nhỏ, có mấy túp lều tranh cất tạm, núp dưới rặng trâm bầu, xưa gọi là Xóm Bàu, bây giờ ai cũng gọi là Xóm gái hoang. Ba người đàn bà ở đấy không phải gái chửa hoang, họ là những người đàn bà ế chồng. Một chị tên là Đóc Xấu, cao quá không ai lấy. Một chị tên Mai bị thương ở cổ, tụt lưỡi không nói được, nói gì cũng dá da da… dá da da, thành thử đàn ông ai cũng chê. Một chị tên Cà bị tây hiếp, chán đời không thèm lấy ai nữa, chị là người lớn tuổi nhất, năm 1968 đã hơn bốn mươi tuổi, vẫn gọi là Mụ Cà. Cả ba kéo nhau ra đây dựng nhà lập trại ăn ở với nhau như chị em, vô cùng thân thiết. Một đêm, bộ đội dưới cảng Gianh bắn trúng máy bay, chiếc F105 cháy rùng rùng, đâm đầu xuống chân núi sau làng Trung Thuần, dân các làng sung sướng reo vang. Ba chị cùng nhảy cà tẩng, lấy soong nồi gõ ầm ĩ. Chợt nghe cái bụp phía bàu sen, ngó ra thì thấy một cái dù đỏ xoè rộng trên bàu. Ba chị sướng rêm, lội ra ngay. May tối hôm đó hình như mọi người mải xem máy bay cháy, không để ý, chẳng thấy có ai chạy ra, ba chị lần đầu được một cái dù trọn vẹn, lại dù đỏ, sướng ngây ngất. Cuốn xong dù thì thấy một cái đầu nhô lên, ba chị rú lên chực bỏ chạy. Cái đầu nói rốp rít xốp xít, ba chị nhìn lại, hoá ra là thằng phi công Mỹ, họ cứ đứng trơ nhìn nhau.
Mụ Cà sực tỉnh chĩa dao vào thằng Mỹ, nói dơ tay lên. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà dơ dao đe, nói cha tổ mi, tau nói mi dơ tay lên. Thằng Mỹ cứ đứng trơ, nói rốp rít xốp xít. Chị Đóc Xấu nói bộ đội dặn khi mô bắt phi công Mỹ phải nói bút dò nó mới dơ tay lên. Thực ra bộ đội dặn phải nói put your hands up nhưng chị Đóc Xấu quên, hi hi. Mụ Cà nói mi nói đi, chị Đóc Xấu hô to bút dò bút dò! Mặt thằng Mỹ đực như ngỗng ỉa. Chị Mai thấy thế liền vung hai tay lên, nói dá da da… dá da da! Thằng Mỹ dơ hai tay lên liền. Mụ Cà, chị Đóc Xấu trố mắt ngạc nhiên, nói con Mai nói chi mình cũng không hiểu mà thằng Mỹ hiểu liền. Mụ Cà chỉ tay vào xóm, trợn mắt với thằng Mỹ, quát dá da da … dá da da! Thằng Mỹ vội vàng đi vào xóm liền. Mụ Cà cười he he he, nói tưởng răng, tiếng Mỹ dễ òm!
Ba chị được huyện đội thưởng một con bò, họ dắt về làng mổ bò khao cả làng. Làng xóm xúm lại khen ngợi, nói giỏi hè giỏi hè. Mụ Cà vênh mặt lên, nói phải biết tiếng Mỹ mới bắt được phi công, nỏ phải chuyện chơi. Làng xóm xúm lại hỏi, nói tiếng Mỹ ra răng nói nghe coi. Mụ Cà nói è he dễ òm, dá da da… dá da da. He he.
Ma ám
Chả hiểu sao đàn bà từ tuổi năm mươi trở lên cứ mười người thì có bảy tám người hồn vía bỗng dưng treo ngược cành cây, say mê bói toán đồng bóng, đạo nọ đạo kia, nhiều người đắm chìm trong mê muội không cách sao dứt ra được, y chang như ma ám vậy.
Nếu là đàn bà chân quê, ít học hành, ai bảo gì nghe nấy, gặp phải đám chim mồi cao thủ chưa bịp đã tin thì không nói làm gì. Nhiều bà học cao hiểu rộng, danh phận được nhiều người nể trọng, vợ con ông to bà lớn, nhà nọ nhà kia cũng tin vào mấy thứ vớ vẩn vu vơ viễn vông, thế mới lạ.
Mình quen một cô nổi tiếng xinh tươi, làm báo có tiếng hẳn hoi, lấy chồng giàu có cự vạn, hạnh phúc gọi là ngon lành, suốt ngày mặt mày tươi rói, nói cười phe phé. Năm ngoái nghe nói cô bỏ báo, bỏ chồng theo cái đạo nào đó rồi, ai biết cũng vô cùng ngạc nhiên.
Tết vừa rồi mình đến chơi nhà, cô sống một mình lạnh lẽo trong một căn hộ nhỏ xíu tồi tàn, cả mấy đứa con cũng theo bố, chẳng đứa nào chịu ở với cô. Tưởng cô buồn lắm, ận hận lắm, té ra không, cô vẫn mặt mày tươi rói, vẫn nói cười phe phé. Cô nói đạo của cô hay lắm, mấy cái đạo khác là đạo tào lao, chỉ có đạo của cô là nhất.
Mình nói theo đạo là để có nhiều phúc lộc, nhưng em theo đạo này phúc cũng mất lộc cũng tiêu, có được cái gì đâu. Cô liền dẩu môi vênh mặt lên, nói ai theo đạo này phải biết hy sinh bản thân mình để ban phước lành cho người khác. Mình cười khì khì, nói anh đang què đây này, em ban phước cho anh được lành lặn đi, ban luôn cho anh vài tỉ để anh mua một căn hộ, ok? Cô lắc đầu thở dài, nói các anh là đồ vô đạo, không hiểu gì.
Nhìn cô ngồi bó gối, mặt mày nhơn nhơn sở đắc về cái đạo của cô đang theo mà buồn. Chợt nhớ em gái vợ nhà văn X. lại càng buồn hơn. Mình quen cô này từ lâu nhưng không hề biết cô là em gái của nhà văn X., dù anh chơi thân với mình hơn hai chục năm. Cô này chẳng theo đạo nào, chỉ theo hội đồng bóng mà sạt nghiệp.
Cô là chủ doanh nghiệp giàu nứt đất đổ vách, đến nhập hội đồng bóng, nghe Đồng phán ta là Huyền Trân Công Chúa, hồn ta phiêu du bốn phương trời nhưng xác ta ở ngay trong vườn cháu gái của ta. Chủ hội mới quì sụp vái, nói lạy bà Huyền Trân Công Chúa, xin bà cho biết địa chỉ cụ thể. Đồng rùng mình mấy phát, nhảy nhảy múa múa, nói ta đã nói ta ở với cháu gái ta, giúp cháu gái ta gây dựng sự nghiệp, việc gì các người lại hỏi. Chủ hội lại quì sụp vái, nói lạy bà, chúng con cần biết để thờ phụng. Đồng ngúng nguẩy năm bảy lần, chủ hội van lạy chín mười lần, khi đó Đồng mới nói ta ở chỗ nọ chỗ kia, trúng ngay nhà cô này. Cô liền quì sụp lạy như tế sao, khóc oà lên, nói cô ơi cô ơi, cháu gái của cô đây.
Từ đó cô ra sức cống nộp kinh phí, họ muốn bao nhiêu cô chồng đủ bấy nhiêu, quanh năm suốt tháng cô theo Hội đi cầu đồng, khi đi Yên Tử cầu thánh Trần Hưng Đạo, khi thì tới Cổng trời cầu thánh Lý Thường Kiệt. Công ty bỏ bê, khách hàng bỏ chạy cả, chỉ một năm gia tài đồ sộ cuả cô Khánh kiệt.
Mình đến thăm cô, cũng cái dáng ngồi bó gối, mặt mày nhơn nhơn sở đắc những gì chiêm nghiệm được, cô nói em tự hào là cháu Huyền Trần Công Chúa, con gái Trần Thủ Độ. Mình cười phì, nói em tin thật thế a. Cô cười nhạt, nói các anh là đồ vô thần, chẳng hiểu gì hết.
Rồi cô dắt vào buồng ngủ của cô, ở đó có tượng gỗ toàn thân một người đàn ông mặc đồ quan võ, chân đi hài, mặt đỏ như gấc, râu dài quá ngực. Mình nói thờ ông nào lại đem vào buồng ngủ thế này, mắt cô long lanh miệng cười tủm tỉm , nói chồng em đấy, đây mới thực chồng em, còn cái ông vừa li dị với em là thứ chồng tạm.
Cô lại tung tăng dắt mình sang phòng khác, ở đó có hai tượng gỗ toàn thân trẻ em, một trai một gái. Mình nói đây là hai con em phải không? Cô thản nhiên gật đầu cái rụp, nói đúng rồi, hai con em đấy. Mình nói còn ba đứa con em đẻ ra cũng chỉ là con tạm phải không? Cô trố mắt nhìn mình, nói chả nhẽ điều đó không đúng sao, kiếp này chỉ là kiếp tạm thôi mà.
Mình nói thế bố mẹ em đẻ ra em cũng là bố mẹ tạm thôi à. Cô thở hắt ra, nói thì biết làm thế nào. Bố thực của em là Trần Thủ Độ, mẹ thực của em là Trần Thị Dung. Mình cười ha ha ha, nói thế này thì bó tay chấm com, đến quỉ thần cũng chịu thua em, đừng nói là anh.
Cô tái mặt, chạy đến bàn thờ, nơi thờ Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung, ngước lên bàn thờ lạy như thế tế sao, nói lạy cha mẹ tha tội cho ông này là nhà văn Nguyễn Quang Lập, ông này mông muội đã thất lễ với cha mẹ. Mình cười rũ. Cô tức giận đuổi mình ra khỏi nhà. Mình chả giận cô, chỉ tức cười thôi, thỉnh thoảng nhớ đến lại cười phì.
Mình kể chuyện này cho anh X., anh đập đùi kêu to, nói thôi bỏ mẹ rồi, cô em vợ tao đấy, mày đến đó làm cái gì. Mình hỏi sao, anh ngồi im hồi lâu, nhìn mắt mình chăm chăm, nói mày biết vì sao tao lâu nay vẫn ăn ngủ ở cơ quan không. Mình lắc đầu nói không, anh thở dài thườn thượt, nói con vợ tao ăn phải bùa mê thuốc lú con em gái nó, tôn em gái nó bằng thầy, mỗi lần em gái nó đến là nó một thầy hai thầy vô cùng cung kính. Mình trợn mắt há mồm, nói có chuyện đó sao. Anh cười như khóc, nói tao nói phét mày làm gì.
Mình thất kinh. Vợ anh X. đi học tây tàu đàng hoàng, vốn là người đàn bà hiền thục đảm đang chỉ sau hai tháng nhập hội đồng bóng đã trở thành một người khác, suốt ngày nói chuyện thần thánh, bàn thờ gia tiên bỗng biến thành bàn thờ đủ loại chư vị, cứ một đôi ngày hội đồng bóng lại kéo về nhà lên đồng nghe chư vị phán truyền.
Anh X. đã làm đủ cách, giải thích có, doạ nạt có, nhờ bố mẹ anh em họ hàng khuyên ngăn có, tất cả đều không được. Chán quá anh trốn biệt ở cơ quan, mặc kệ bà vợ muốn làm gì thì làm. Mình hỏi thế bà chị đã nói chồng âm của bà chị chưa? Anh X. cười như mếu, nói chưa, nhưng nhất định có ngày nó cũng tóng cổ bố con tao ra khỏi nhà để sống với chồng con người âm của nó. Con em gái nó làm gì, nó tất phải làm theo như thế.
Mấy hôm sau anh X gặp mình, anh hớt hải kéo mình ra một góc, nói có tin quan trọng, vợ tao hỏi tao số máy của vợ mày. Mình tái mặt, nói anh có cho không? Anh nói tất nhiên tao không cho nhưng nhà mày thì vợ tao có lạ gì, thế nào nó cũng mò đến. Kiểu này có khi mày phải bốc vợ con mày đi nơi khác, nếu không thì thậm nguy.
Mình đứng trơ không biết nói gì.
Chuyện củ khoai khổng lồ
Mấy hôm nay đi đâu cũng nghe nói chuyện Ngô Bảo Châu, dân tình nô nức bàn tán, không ai không mừng vui. Mừng là đương nhiên, mấy trăm năm mới có một tài năng tóan học được như Ngô Bảo Châu còn mừng hơn bắt được vàng. không mừng mới là chuyện lạ. Lại nghe tin Nhà nước quyết định đầu tư sáu bảy trăm tỉ để nâng cấp ngành toán, đặng đến năm 2020 toán học nước ta xếp thứ 40 thế giới. Tự nhiên nhớ chuyện củ khoai khổng lồ ở quê mình cách đây gần năm chục năm.
Đó là năm 1965- 1966 chi đó, Thị trấn Ba Đồn quê mình bị bom Mỹ san phẳng, có thể nói là phẳng lì, không có một bức tường nào nhô lên khỏi mặt đất. Mọi người kéo nhau chạy ra bãi cát phía sau Thị trấn trú ngụ ở đó. Nhà mình ở gần nhà ông cu Khoai. Ông tên gì lâu quá rồi không nhớ nữa, chỉ biết con trai ông tên là Khoai nên mọi người gọi ông là ông cu Khoai.
Anh Khoai là con một nhưng nhất quyết xung phong đi bộ đội, viết đơn bằng mực không được đi anh viết đơn bằng máu. Ông cu Khoai sợ lắm, chắp tay lạy anh Khoai, nói con ơi bọ lạy con, khoai không đọ được với súng đạn mô con. Anh Khoai không nghe, vẫn một hai nằng nặc xin đi bộ đội cho bằng được. Hồi đó thanh niên náo nức đi bộ đội lắm. Anh Thắng mình có giấy gọi đi học nước ngoài nhưng anh giấu ba mình, năn nỉ ba mình lên huyện đội xin nhập ngũ. Kể vậy để biết thời chiến người lính là mẫu người hùng, hấp dẫn thanh niên kinh khủng.
Ngày anh Khoai có giấy gọi nhập ngũ, ông cu Khoai mổ con heo ba chục cân mời cả xóm. Bữa đó ông không ăn miếng nào, cứ chạy đi chạy lại hết mời người này sang mời người khác chứ không ăn. Lúc lúc ông chạy ra sau hồi khóc oà một tiếng, nói con ơi, rồi quệt nước mắt lật đật chạy vào nhà chào mời bà con. Hôm tiễn anh Khoai lên đường, ông cu Khoai được mời lên phát biểu, ông nói thưa bà con, thằng Khoai nhà tui lên đường cứu nước, gia đình tui vô cùng vinh dự. Vừa nói đến tiếng vinh ông cu Khoai lăn đùng ra ngất xỉu.
Anh Khoai đi rồi, ông cu Khoai ôm về một ôm dây khoai giống, châm kín cả hai mái hầm trú ẩn. Mọi người vẫn trồng khoai lên hầm vừa để giữ cát vừa để nguỵ trang. Nhưng ông Khoai khác, ông coi khoai là con ông, ông trồng lên để biết số phận của con ông như thế nào. Châm xong ôm dây khoai, ông thắp hương đứng trước hầm vái ba vái, nói xin ông bà phù hộ độ trì cho con tui tai qua nạn khỏi, làm gì trúng nấy, đánh mô thắng đó. Rồi ông hét lên bơ Khoai, chân cứng đá mềm nghe con.
Mình học lớp hai ngày nào cũng sang nhà ông cu Khoai chơi. Ông suốt ngày tha thẩn trên hầm xem xét dây khoai, thấy vài lá vàng ông nói thằng Khoai bị cảm rồi, gặp dây khoai héo ông nói chết cha, thằng con tui sốt rét. Mình đừng nhăn răng cười, nghĩ bụng ông thương con quá hoá cuồng chứ anh Khoai chẳng liên quan gì đến đám dây khoai ông trồng trên hầm cả. Té ra không.
Một hôm mình thấy ông cu Khoai lúi húi trên hầm, vẻ săm soi, mặt mày nghiêm trọng. Mình hỏi chi rứa ông, ông vẫy vẫy tay, nói lên đây lên đây. Mình chạy lên hầm, ông bới cát cho mình xem một củ khoai to bằng nắm đấm. Mình nói rứa là răng ông. Ông cười hỉ hả, nói rứa là anh Khoai mi lên chức rồi, tiểu đội trưởng. Mình há mồm ngạc nhiên, nói rứa a ông. ông nói ừ, bí mật nghe con, tuyệt đối không được nói với ai hết.
Rất lạ cả hầm khoai của ông chỉ độc một củ khoai, nó lớn cực nhanh. Vài tuần sau nó đã to bằng bắp chân, ông cu Khoai rung đùi nói thằng Khoai vượt cấp lên đại đội trưởng rồi. Tháng sau củ khoai to bằng quả dưa hấu, ông cu Khoai rỉ tai mình nói trung đoàn trưởng nghe con. Mình chả tin anh Khoai lên chức lên quyền nhưng quá ngạc nhiên thấy củ khoai lớn như thổi. Chỉ tháng sau nó trồi lên cát, nằm chềnh ềnh to như con lợn con.
Khi đó ai ai cũng biết, đạp nhau đến xem đông nghìn nghịt. ông cu Khoai sợ lắm, không cho ai xem, lấy cây rấp lại, đứng canh như canh báu vật. Ông sợ có kẻ tham ăn cắp củ khoai nhưng chủ yếu ông sợ người ta quở nhiều quá anh Khoai sinh đau ốm. Cho đến một ngày dây khoai đứt, củ Khoai cứ thế lăn từ hầm vào nhà ông. Ông ôm củ Khoai giấu biến, chỉ thỉnh thoảng lôi ra cho mình xem. Ông đo củ khoai, đường kính đầu lớn 37cm, đầu bé 20 cm, dài 46 cm, cân đúng 6 cân. Kinh khủng. Khoai này không hàng đầu cũng hàng 40 thế giới, hi hi.
Đêm đêm ông ôm củ khoai vuốt ve, nói thằng con tui giỏi hè, mới đi bộ đội đã lên sư đoàn trưởng, cả tổng cả huyện không có ai như con mô. Nhất con đó. Cứ tưởng ông cu Khoai nói chơi té ra thật. Năm 1975 một chiếc xe con đỗ xịch trước nhà ông cu Khoai, một anh thiếu tá bước ra, đó là anh Khoai. Khi đó anh mới nhậm chức trung đoàn trưởng, phải bảy năm sau anh mới lên đại tá sư trưởng, nhưng như thế cũng đã kinh lắm rồi. Mình không thể ngờ những lời mộng mị của ông cu Khóai lại đúng đến như vậy.
Anh Khoai cưới chị Cúc đẹp nhất xóm Long Hoà, vợ chồng con cái đề huề, của ăn của để dư dả, ông cu Khoai sướng ngây ngất. Chuyện anh Khoai đến đó là xong. Số phận củ khoai còn vui hơn. Chuyện này mình hồi đó còn nhỏ không biết, chỉ nghe kể lại.
Ông cu Khoai không giấu được củ khoai, một đồn mười, mười đồn trăm, tiếng đồn lan ra khắp huyện. Người ta đồn củ khoai to bằng cái thùng phuy, Liên xô đòi mua cả triệu rúp nhưng ông cu Khoai không bán vì củ khoai là con ông, bán đi hoá ra ông bán con ông à. Kì thực củ khoai đã được đưa lên phòng nông nghiệp huyện nghiên cứu, rồi đi triễn lãm hết cuộc này sang cuộc khác, nghe nói còn đem lên tỉnh lên trung ương triển lãm nữa. Ông cu Khoai được đưa đi báo cáo thành tích, ông chẳng biết báo cáo gì thì đã có người viết sẵn cho ông, cứ thế mà đọc. Thời này báo cáo chỉ toàn sáo ngữ, dưới sự chỉ đạo, trong không khí thi đua, phấn khởi tự hào… Nói đi nói lại mỏi mồm, ông cu Khoai chán quá ôm củ Khoai đòi về. Người ta cho ông về nhưng củ khoai thì bị giữ lại.
Phong trào trồng khoai khổng lồ đựơc phát động, nhân giống từ củ khoai của ông cu Khoai. Người ta nói ông cu Khoai kỹ thuật còn non, nếu biết trồng cho có khoa học thì nhất định củ khoai sẽ to bằng cái bồ, chí ít cũng bằng thùng đựng nước. Dự án trồng khoai không lồ được duyệt, kinh phí không biết bao nhiêu chỉ nghe nói nhiều lắm. Rồi thì tìm đất nhân giống, rồi thì tập huấn kĩ thuật trồng khoai, rồi thì phát động thi đua ầm ầm ào ào, vui hơn tết.
Chỉ riêng phân chuồng để trồng khoai khổng lồ cũng phải chuẩn bị rất chu đáo. Người ta huy động hơn một trăm trâu bò khoẻ mạnh nhằm lấy phân tốt, lập thành một trại gọi là trại phân chuồng chất lượng cao. Bao nhiêu bác sĩ thú y về ăn nằm tại chỗ chăm sóc cái trại này. Phân của đám trâu bò cũng được nghiên cứu kĩ lưỡng, phân nhão bị loại ngay lập tức. Con trâu bò nào vừa cho ra phân nhão liền được cho ra ở riêng, điều trị kịp thời.
Hơn trăm kĩ sư, trung cấp, sơ cấp kỹ thuật canh nông được điều về để trồng trọt, chăm sóc hơn một mẫu đất trồng khoai khổng lồ. Báo cáo hàng ngày hàng tuần hàng tháng được gửi lên huyện nghiêm ngắn vô cùng. Tất nhiên là báo cáo bịa, cái thời nó thế, cứ báo cáo thật thì chẳng ai tin. Thỉnh thoảng có những đoàn xe con từ trên về, mấy ông to chắp tay sau đít đi đi lại lại, ngắm ngắm nghía nghía, gật gật gù gù… ra chiều đắc ý lắm.
Đến ngày thu hoạch người ta chuẩn bị băng rôn khẩu hiệu cờ quạt, làm cả sân khấu to đùng sát vườn khoai. Dân chúng náo nức lắm, đoàn đoàn lũ lũ đến xem. Đến nơi thấy vắng hoe, cờ quạt cũng đã thu gom đâu cả, sân khấu chỏng chơ mấy cái cột gỗ. Có người nói hoãn mét tinh chào mừng khoai khổng lồ rồi. Hỏi sao thì người ta bảo đêm trước có người ra bới thử, toàn khoai đụt, chán, người ta bỏ về hết cả. Mọi người tranh nhau ra bới, đúng là toàn khoai đụt.
Nhậu nhẹt ba miền
Dân viết lách thường hay tụ bạ nhậu nhẹt, phần vì ham vui, rời khỏi bàn làm việc, sau khi một mình chống chọi với “ pháp trường trắng”, đa phần đều muốn tìm kiếm bạn bè giải stress; phần vì nhu cầu tìm kiếm thông tin, nhặt nhạnh tư liệu sống quanh bàn nhậu. Đôi khi nghe lỏm được nhiều ý tưởng cực hay, nhiều đề tài hấp dẫn bạn bè buột miệng nói ra. Bây giờ nhậu nhẹt ba miền na ná nhau, ngày xưa khác nhau lắm. Sài Gòn sôi động, đời sống chảy xiết, dân nhậu Sài Gòn, là nói cánh viết lách, sáng dậy sớm hẹn nhau đi ăn sáng uống cà phê nói chuyện công việc, rồi cắm cổ làm việc cho đến chiều tối xong việc mới nhậu nhẹt tới số, có khi kéo dài tới khuya.
Nhậu nhẹt ra nhậu nhẹt, mọi người quẳng hết việc hát hò chọc quê chơi vui, đúng là dân nhậu chuyên nghiệp. Anh nào gọi đi nhậu anh đó trả tiền, luật bất thanh văn từ xưa đến nay. Không như dân Bắc cứ gọi nhau đi, nhậu xong ai có tiền thì trả, thành thử đến giờ thanh toán cứ nhìn nhau nói cười nhàn nhạt, nhiều anh cứ đúng giờ đó thì nhìn đồng hồ đứng dậy, nói mình có việc phải về sớm, bí quá thì nhảy đại nhảy vào toilet, hi hi.
Sài Gòn mỗi trận nhậu thường chia thành ba hiệp, hiệp một bia hơi, uống mồi chừng dăm bảy vại là kéo nhau đi Karaoke, hội hát bằng mồm hội hát bằng tay. Cuối cùng thì nháy nhau đi massage, kẻ massage sấp người massage ngửa. Sau đó thì biệt tăm, có khi nửa năm chẳng gặp nhau.
Sài Gòn lắm việc, bạn bè từ xa đến, sơ thì mời nhau cà phê ăn sáng, thân thì nhậu một trận tơi bời rồi lặn mất tiêu, ít ai mời bạn về nhà. Nhiều người mới vào vào Sài Gòn hay bị sốc. Đã quen thói ở miền Trung miền Bắc, hễ có bạn tới là đánh đu với bạn suốt ngày, nay thấy bạn lặn mất tiêu suốt kì mình ở chơi, đến ngày về gọi điện chào cũng chỉ nói đi mạnh giỏi nghen, chẳng thấy tiễn tiếc gì thì ngạc nhiên lắm, đôi khi tủi thân, bực mình nữa.
Ngược lại dân Sài Gòn lần đầu ra Bắc cũng hay bị sốc. Sáng mấy anh quen gọi đi nhậu, chiều cũng mấy anh đó đón đi, ngay mai ngày kia vẫn mấy anh đó, đến ngày ra đi cũng mấy anh đó. Nhiều người cứ băn khoăn không hiểu sao người ta mất quá nhiều thời giờ vì mình, đâu biết thời đó cánh viết lách xứ Bắc chỉ có một món tiêu xài thoải mái, đó là thời gian.
Dân Hà Nội cà phê không ham, công việc cũng chẳng nhiều, ngủ dậy muộn, ăn sáng xong làm mấy chén chè chén mới túc tắc đến công sở. Vật vờ vào ra cho đến trưa, giờ cơm trưa cũng là giờ đàn đúm, đến chiều tối lo về với vợ. Phàm đã chui vào chuồng lập tức nội bất xuất ngoại bất nhập, cố gắng làm anh chồng ngoan cho đến sáng hôm sau. Nhậu nhẹt nhiều khi như họp, bàn đủ chuyện trên trời dưới đất, cãi nhau ỏm tỏi.
Thi thoảng mới có cuộc nhậu chia làm ba hiệp, hiệp một nhậu say chí tử, hiệp hai mới kéo nhau đi hát hay massage. Nhưng quân số hiệp hai thường mất đi một nửa, đủ thứ lý do để bỏ cuộc, người sợ vợ, kẻ sợ quan trên nhìn xuống người ta trông vào.
Dân nhậu Hà Nội quan tâm đến cái view, thoáng đãng yên tĩnh càng tốt vì họ cần nói chuyện, cuộc nhậu nào cũng có người nêu vấn đề mọi người góp bàn hoặc tranh cãi, gọi là nhậu vấn đề. Cánh viết lách Hà Nội ngồi với nhau mỗi ông là một ông trời con, không việc gì không phán được, ông nào ông nấy phát ngôn tầm cỡ uỷ viên trung ương, rất ghê. Hết nhậu về công sở lại bóp miệng vật vờ vào ra vô cùng khiêm tốn, hi hi.
Dân viết lách miền Trung thường nhậu nhẹt bất tử, bất kể giờ nào miễn có tiền. Việc vàn chẳng có bao lăm, thời gian không thành vấn đề, chỉ cần cái cớ là kéo nhau vào quán. Bạn bè ở Nam ra, ở Bắc vào là cái cớ tuyệt vời để khai báo với vợ, có thể đi thâu đêm suốt sáng.
Miền Trung vẫn giữ được thói quê, bạn bè từ xa đến không thể không mời về nhà, làm mâm cơm đãi bạn, nhậu nhẹt ở nhà chán chê rồi mới đi ra quán. Khách khứa nhiều người chạy sô ăn cơm nhà bạn cũng đủ chết xác nhưng không thể từ chối, bữa cơm nhà như là chứng chỉ của tình thân sự quí trọng, thiếu nó lắm người rất áy náy.
Không có khách khứa thì tụ bạ quán cà phê ngồi chán thế nào cũng có người kéo đi quán, nhậu hết cuộc này sang cuộc khác, tối vừa về nhà có người gọi lại vọt, các bà vợ chỉ nguýt lườm ít ai dám nói. Ngày nào cũng nhậu, ít ai có khả năng bao sân, thành ra có kiểu nhậu nối dài. Anh đến sau bảo kể từ đây là phần của tôi nhé, một anh khác đến lại bảo kể từ đây là phần của tôi nhé, mỗi anh chịu thanh toán một khúc, cứ thế nối dài ra mãi.
Về sau cánh nhà báo có kiểu nhậu bắt Fulro, gọi người ra trả tiền hộ. Nhậu giữa chừng thì gọi ai đó, thường là các ông chủ doanh nghiệp, các quan chức trong tỉnh mời họ ra nhậu chơi. Mấy ông này lập tức hiểu ý, vọt ra làm đôi ba chén, góp vui đôi ba câu rồi giành lấy bill thanh toán cái rẹt. Không phải ai cũng thích kiểu nhậu bắt Fulro, vì nó luỵ đến đạo đức nghề nghiệp, nhưng tỉnh nào cũng có một anh bắt Fulrro cực tài, rất đáng sợ.
Ngày nay văn hoá nhậu ba miền đã có nhiều điểm tương đồng. Dân nhậu Bắc, Trung đã chuyên nghiệp tựa dân nhậu Nam. Cánh viết lách Hà Nội không chỉ nhậu vấn đề, nhậu đờn ca cũng rất phê. Cánh viết lách Sài Gòn không chỉ nhậu đàn ca mà nhậu vấn đề cũng rất nổ. Cánh viết lách miền Trung đã có nhiều việc làm hơn, anh nào cũng cộng tác với vài ba tờ báo ở Hà Nội, Sài Gòn, nhậu nhẹt đã có giờ, không còn triền miên như ngày xưa nữa. Cả ba miền bây giờ chỉ nhậu hết hiệp một là về, ít ai sa đà sang hiệp hai hiệp ba tốn tiền mất thời giờ phí sức.
Phục vụ nhà hàng ba miền cũng có nhiều đổi khác. Miền Bắc, miền Trung học miền Nam đã thực bụng coi khách hàng là thượng đế. Nhân viên nhà hàng Hà Nội biết mềm mỏng lịch lãm nhiệt tình, đã mất đi khá nhiều các bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh, di chứng thời bao cấp. Nhân viên nhà hàng miền Trung cũng tiến bộ rất nhanh, không còn nhiều nhà hàng cho nhân viên ra tranh giành nhau chặn bắt khách hàng, bắt được rồi gọi gì cũng dạ, dạ riết mà chẳng thấy đưa món ra. Hỏi vì sao chưa đưa món ra, lại dạ. Nói tôi hỏi vì sao chưa đưa món ra dạ dạ cái gì, vẫn cúi đầu lễ phép dạ dạ, tức phát điên. Việc ấy bây giờ tuồng như đã chấm dứt. Có lẽ văn hoá dịch vụ thời bao cấp sắp chết thật rồi chăng?
Hot boy… hot beo
Tuổi lấy chồng của con gái ngày mỗi cao, xưa quá hai mươi đã sợ ế chồng lo sốt vó, nay nhiều cô ba mươi tuổi vẫn nhởn nhơ như tuổi đang xuân, chưa đến bốn mươi chưa lo ế. Sở dĩ như vậy vì ngày xưa việc chồng con có cha mẹ lo, cứ đến tuần cập kê là cha mẹ đã sắp đặt cho một tấm chồng, may nhờ rủi chịu, khỏi phải lo lắng gì.
Ngày nay cha mẹ thả cho tự do chọn lựa, tưởng thế là sướng hoá ra gay cấn vô cùng, thằng mình ưa thì nó không ưa, đứa không ưa thì nó lại ưa. Vả, cô nào cô nấy đều ham trai thời thượng, nay gọi là hot boy xưa thì gọi là người yêu lý tưởng. Người yêu lý tưởng có một nhúm, con gái có cả đàn, phân phối làm sao cho đủ.
Người yêu lý tưởng cũng tuỳ theo thời thế mà đổi thay, thời này anh là hot boy thời sau anh chỉ là hàng tồn kho, chả ai thèm. Ở đâu không biết chứ ở ta thời này chuyển sang thời kia nhanh như chớp mắt, không thể lường trước được.
Những từ năm 60-70 thế kỉ trước người yêu lý tưởng là anh bộ đội. Có lẽ thời loạn, anh bộ đội nổi lên như mẫu người hùng, được xã hội yêu quí ngưỡng mộ. Thoạt kì thuỷ con gái hễ cứ thấy anh bộ đội là mê, sau biết phân biệt lính bộ binh, lính phòng không, lính hải quân, không quân, thiết giáp…Không quân là số 1, hải quân là số 2, bộ binh bị xếp vào hàng bét dem.
Phải cái các chị không biết phân biệt quân hàm quân hiệu. Trừ lính hải quân, còn lại thấy lính nào cũng giống lính nào. Ra đường gặp các anh bộ đội chọc ghẹo, mặt cứ hất lên ra vẻ lắm, nhưng vừa đi qua là lập tức túm lấy con nít tụi mình hỏi rối rít, nói răng răng, quân chi quân chi.
Mê quân này quân kia chán, các chị mới để ý đến chức vụ. Ai sống thời này đều nhớ như in câu hát em yêu anh trung uý, không yêu anh binh nhì một tháng năm đồng...Lương trung uý 75 đồng, thời mà cán bộ viên chức chỉ có 39 đồng năm hào thì 75 đồng là một đồng lương mơ ước. Sĩ quan thường mặc áo đại cán bốn túi, miền trung gọi là bâu, thế nên mới có câu: râu thì râu bốn bâu em cũng lấy.
Chị em nhìn quân hàm cứ mù mịt, chẳng biết chức gì ra chức gì, cứ tưởng nhiều sao là chức to, lắm khi bị hố điếng người. Một chị thấy anh đeo quân hàm ba sao đến chơi, mừng húm. Người nhà đi hỏi, ưa liền. Sau có người nói đồ gạch vải, không phải gạch đồng. Chị hoảng lên hỏi răng răng. Người này nói ba sao một gạch vải là thượng sĩ thôi, ba sao một gạch đồng mới là thượng uý, chị ngồi khóc sưng mắt. Lần sau có cô bạn nào sắp có chồng bộ đội chị đều nhắc gạch vải ẻ vô nha, nhiều sao cũng ẻ vô!
Một chị tiếp anh chuẩn uý ở phòng khách. Mạ chị đi chợ về, thấy quân hàm trọc lóc một gạch, bà đi qua lờ không chào, kéo chị vào phòng trong nghiến răng nói nhỏ răng ngu rứa con, hắn có sao đom mô mà yêu với đương, ngu ngu!
Chị nói mạ tề, một gạch đồng là chuẩn uý của người ta đó. Mắt bà sáng lên nói rứa a rứa a, quăng cái rổ chạy ra túm lấy tay anh chuẩn uý cười xoe xoe, nói con tới chơi đa con! Chuyến ni dứt khoát phải ở lại ăn cơm với nhà bác, không bác giận đó.
Một chị có anh thiêú tá đến chơi, chị cứ ngồi hất mặt lên, trả lời nhát gừng. Ba mạ chị cũng ngồi trong bếp không thèm ra chào. Chán, anh này bỏ về. Có người hỏi răng chị chê anh nớ. Chị trề môi nói đồ một sao quẹt quẹt. Sau biết một sao nhưng có hai gạch đồng là thiếu tá chị sững sờ, đập hai tay vào má kêu to: ui chao tui lại ngu rồi!
Kịp đến thời người yêu lý tưởng là lái xe. Đấy là những năm 70-80, thời này đói kinh hồn. Hậu chiến đói kém là phải, nhưng đói thế này chủ yếu là hậu quả của chế độ bao cấp, “cái gì cũng phân mà phân thì như cứt”, lại thêm ngăn sông cấm chợ khắp nơi. Phàm là hàng hoá không phải hàng quốc doanh đều bị coi là hàng lậu, cách nhau chừng vài trăm cây số giá cả có thể cách nhau chừng 4, 5 lần là chuyện thường.
Thành ra béo nhất là mấy anh lái xe, hễ ai cầm được cái xe nhà nước là coi như cầm được sự sống của cả nhà rồi. Cánh lái xe sống nhờ vào dân buôn lậu, ấm no cũng nhờ đấy mà ra. Càng ngăn sông cấm chợ thì dân buôn lậu và cánh lái xe càng béo. “ Ai ơi yêu lấy anh tài/ vào trong thịt cá ra ngoài bảnh bao”.
Hễ tài xế xuất hiện là dân tình đã lác mắt. “Quần ximili vừa đi vừa ngắm, dép tông Lào áo trắng thảnh thơi”. Mùa hè xe đỗ đường cái, con gái đi chơi từng tốp, lái xe bật đèn pha, các cô tay che mắt liếc, dẩu môi nói chi mà vô duyên rứa hè, cười cái, ngoảy đít cái, chạy. Qua khỏi bóng đèn thì túm tụm nhón chân nhìn qua cabin ngắm trộm lái xe, thì thầm trẻ hè trẻ hè.
Có cô nào được lái xe mời ngồi cabin, bụng hí hửng lắm, nhưng mặt làm bộ tỉnh bơ nhìn thẳng, cái cổ cứng ngắc, tay gác cửa xe. Thấy bạn quen thì thò cổ ra, kêu: nời, đi mô đó. Mấy bạn cô ngửa cổ nhìn cô đầy ngưỡng mộ, nói sướng hè sướng hè. Xe đi qua thì nhếch mép cười nhạt, người này nói đồ mặt như mặt mo mà cũng lấy được lái xe hà bay, người kia nói ừ đo, đúng là may hơn khôn, to l. hơn đẹp mặt.
Con gái trong xóm làm gì thì làm, không thể không đi qua ngõ nhà có xe tải đỗ một lần, mắt hất lên ra cái điều không thèm nhìn vào, mắt thì liếc xéo vào nhà, thấy cô con gái đang ti toe với anh lái xe thì mím môi bịp một cái như cái rắm, nói chà, báu lắm đó mà vênh! Thế nhưng hễ lái xe gọi một tiếng em ơi là lập tức mặt đỏ rực, cười tít, liếc một cái, rồi giả đò bỏ chạy, vừa chạy vừa ngoảnh lại, sung sướng ra mặt.
Cánh lái xe vào quán được coi là dân thượng lưu, được trọng vọng hơn cả lãnh đạo huyện. Trong làng có cô nào cưới được chồng lái xe, làng xóm bàn tán mê man cả tháng, chẳng khác gì con gái xưa vớ phải trạng nguyên.
Cùng thời này có một người yêu lý tưởng nữa là phó tiến sĩ đi tây về. Món phun thuốc sâu này ngày xưa là thứ bằng cấp quí hiếm, cao sang cực kì. Thời buổi Một yêu anh có may ô/ hai yêu anh có cá khô để dành thì cái bàn là, chiếc xe đạp cuốc, cái quạt tai voi…là cả một gia tài lớn, làm loá mắt các cô gái đẹp. Nếu trong nhà có ti vi neptune, tủ lạnh Saratop thì có thể cưới được hoa hậu.
Ở Hà Nội hồi này cứ chiều chiều các đồng chí phun thuốc sâu mặc quần zin Thái, áo bay Liên xô, đeo đồng hồ ponzot, cưỡi xe đạp cuốc lượn vè vè quanh Bờ Hồ, thỉnh thoảng nhả ra mấy câu tiếng Nga. Mỹ nhân Hà thành không cô nào không dán mắt vào gáy họ.
Nhà nào có được chàng rể là phun thuốc sâu ở Tây về đều lấy làm hãnh diện lắm. Khách đến nhà thấy cái tủ lạnh Saratop đặt giữa phòng khách, trên có bình hoa tươi; góc phòng còn có cái ti vi Peko, phủ tấm voan trắng; cạnh bàn uống nước đặt cái ấm điện mới coóng sáng loá; trên vách treo ảnh chàng rể đứng ở xứ tây, nụ cười rạng rỡ… ai nấy đều trầm trồ, nói nhà bác thật tốt phúc quá. Chủ nhà mỉm cười vẻ khiêm tốn, nói cháu nó nghiên cứu sinh ở Nga về, mình chẳng ham gì, chỉ ham ba cái chữ thôi bác. Ba tiếng nghiên cứu sinh hồi đó vang lên sao mà nghe sang quá đi mất.
Nhưng rồi phun thuốc sâu cũng chỉ tồn tại chưa đầy chục năm, những năm 80- 90 là thời kì của người yêu lý tưởng tàu viễn dương. Nhà nào có người được một suất đi tàu viễn dương thì cả phố cả huyện đều biết, nhà đó được tôn lên bậc vương giả.
Ở nhà mái bằng hai ba tầng, xài ti vi màu, đầu băng Nhật, đi hon đa cup 50, cup 70, cup 82 kim vàng giọt lệ… đều là của mấy nhà có người đi tàu viễn dương, tuyệt không có ai. Mấy hot boy lái xe, phó tiến sĩ cứ phải xách dép chạy dài.
Nhìn thấy cô nào tay đeo vòng vàng, đồng hồ Senko, cổ quàng dây chuyền vàng hạt ngọc, đi cup 82 kim vàng giọt lệ chạy thong dong trên phố thì cầm chắc đó là vợ con mấy bác tàu viễn dương. Mấy cô xách làn vào chợ, thong thả nhặt của ngon vật lạ chất đầy làn không thèm mặc cả, dưới cái nhìn thèm khát bốc cháy của không biết bao nhiêu ánh mắt đàn bà.
Cô lại xách làn thong dong đi ra, nhất định có người gọi, nói nời… chồng mới về à? Thể nào cô cũng dừng lại khẽ gật đầu, nói về đựơc vài ngày rồi lại đi, suốt đời lênh đênh trên biển vất vả lắm. Miệng nói thế nhưng mắt long lanh rạng ngời hạnh phúc.
Có lẽ đến người yêu lý tưởng tàu viễn dương là kết thúc các loại hot boy thời bao cấp, chuyển sang thời kinh tế thị trường là các doanh nghiệp trẻ, buôn lậu trẻ, quan lại trẻ, tham nhũng trẻ. Nhưng mấy hot boy này không được hot cho lắm.
Cuộc sống đã đổi thay, trí khôn đàn bà cũng đã thay đổi, họ biết lấy mấy ông giàu có nhờ trốn thuế nhờ tham nhũng phúc chưa kịp hưởng hoạ đã gần kề, hãi lắm. Nhưng không biết lấy họ thì chẳng biết lấy ai, kiếm đâu ra mấy anh ca sĩ, mấy chú đá bóng, mấy ông cai thầu, mấy bác đầu nậu, khó lắm.
Có lẽ vì thế mà tuổi lấy chồng ngày nay cứ tăng vọt chóng mặt, gái không chồng mà có con ngày một thêm nhiều. Thôi thì thà kiếm lấy đứa con ngoài giá thú nuôi lấy sau này còn nhờ cậy, hot boy hot beo, lý tưởng lý teo, mệt lắm.
Khi đàn ông ghen
Xưa nay đàn ông mới lắm bồ bịch chứ không phải đàn bà. Đàn bà cô nào máu lắm cũng chỉ yêu được một lúc năm bảy anh là cùng, đa số chỉ chăm chỉ về nhà ăn cơm, thi thoảng mới tạt ngang kiếm bát phở rồi lại ba chân bốn cẳng chạy về nhà ăn cơm hay cho cơm ăn. Thế thôi.
Đàn ông khác, một ngàn ông thì may ra kiếm được một ông như bác Đức Trung Nhà hát kịch Tuổi trẻ cả đời chỉ biết một cái, đa phần đều có năm bảy bồ trở lên cả, ông nào không bồ bịch được coi là đù, là cú đỉnh.
Bây giờ mode sắm bồ đang thịnh hành, đặc biệt trong khu vực công chức Nhà nước. Cùng với công cuộc tham nhũng đang thành công rực rỡ, bây giờ ra đường thấy ông nào lắm bồ biết ngay ông này quan trọng, không to quyền cũng lắm tiền.
Ở nước ta nhiều bồ như ông Xu Qiuyao cục trưởng cục xây dựng Trung Quốc có tới 146 bồ có lẽ không có, chứ năm bảy chục bồ thì cầm chắc phải dăm bảy anh. Trung Quốc bây giờ đã có dự luật cấm công chức sắm bồ, nước ta rồi thì cũng thế.
Dự luật cấm sắm bồ chỉ nhắm vào đàn ông thôi, đàn bà coi như cho qua, cho thấy nạn ngoại tình do đàn ông gây ra là chủ yếu, thế mà ghen tuông ghê gớm nhất lại chính là đàn ông, thế mới kì.
Đàn ông ghen vì yêu vợ cũng có, không nhiều nhưng không thể nói là không có. Yêu vợ như ông nhà văn T. cũng gọi là xưa nay hiếm. Lấy nhau đã gần ba chục năm mà mỗi lần nhìn vợ mắt ông cứ đắm đuối như thôi miên thì phục quá.
Vợ ông là bác sĩ, thường phải đi trực đêm hôm, tất nhiên trong bụng cũng nghi nghi nhưng không dám nói ra. Để chấm dứt cái việc ghen vớ ghen vẩn, chiều tối nào vợ đi trực là ông nốc bia cho cực say, ngủ một giấc cho đến sáng, khỏi phải tưởng tượng tầm bậy.
Có lẽ ông bị tiểu đường, gan nhiễm mỡ cũng vì yêu vợ quá. Thế còn hơn là ông nhà văn X chẳng biết ghen tuông là gì, vợ đi đông đi tây cũng mặc kệ, ai bảo vợ ông thế này vợ ông thế kia cũng chỉ cười nhạt cái, nói thế à, rồi đánh trống lãng sang chuyện khác.
Ông này không yêu vợ, cũng chẳng coi vợ là tài sản quí báu gì, vợ chỉ là cô Osin giúp việc, thỉnh thoảng ngứa máu bò vào phất một phát rồi kéo quần đi ra, dửng dưng như không.
Một hôm cô vợ ông này mừng rỡ chạy đến nhà khoe vợ tôi, nói Hồng ơi Hồng ơi anh X. biết ghen nhé, vừa ghen chị nhé. Hai chị em thì thầm thì thầm cười rích rích, coi bộ sung sướng lắm. Thấy chồng ghen mà mừng cũng là sự xưa nay hiếm.
Tôi hỏi ông này, nói ông ghen vợ à, ông cười cái hậc, nói ghen tuông cái gì, thỉnh thoảng giả đò ghen một phát cho vợ nó mừng, thế thôi. Nghĩ mà thương phận đàn bà, bị ghen tất nhiên là khổ rồi, không được chồng ghen tuông có khi còn tủi nhục hơn.
Nói vậy thôi, đàn ông mười ông thì có đến chín ông rưỡi ghen vợ. Cái sự ghen thường nhân danh tình yêu, nhưng đa phần chỉ vì ích kỉ hẹp hòi mà thôi. Đã đành vợ là cơm nguội- vợ là cơm nguội nhà ta. Nhưng là phở tái thằng cha láng giềng- cơm nguội để dành mấy chục năm chán lắm, ăn thì chả ăn nhưng hễ ai động đến thì lồng lên như sói.
Tất nhiên vợ mình bồ mình không ghen thì ghen ai, nhưng mà ghen tuông không phải lối dễ tan cửa nát nhà, đôi khi xảy ra án mạng không phải chuyện đơn giản.
Con gái nhà văn Tô Nhuận Vĩ xinh đẹp tuyệt trần, giỏi giang hết bậc, bị ông bồ hắt cả lọ a xít vào mặt chỉ vì ghen vớ ghen vẩn. Một phút không suy nghĩ đã làm tan nát cả đời một mỹ nhân, thật là tàn ác.
Rồi thì dao phay chọc bụng, đốt cửa đốt nhà. Rồi thì đánh đập triền miên, hành vợ không khác gì hành giống trâu chó. Chuyện này nhiều vô kể, thôi không nói nữa.
Trong giới trí thức ít ai ghen kiểu côn đồ. Trường hợp đánh vợ giết vợ cũng có nhưng hiếm, đa phần ghen theo lối mật ngọt chết ruồi, kiểu ghen của Hoạn Thư.
Một ông phó giáo sư hẳn hoi, thấy vợ ngoại tình không làm gì để ngăn chặn, cứ nói cười như không, rình chụp cho được mấy pô ảnh trong tình trạng cô vợ tay ấp miệng kề với ông hàng xóm. Cứ đến giờ đi ngủ lại treo lên, bật đèn sáng choang. Lâu ngày cô vợ phát điên.
Một ông họa sĩ ghi âm vợ nói chuyện với bồ, cứ đến giờ cơm lại bắt con cái bật lên cả nhà nghe cho vui. Cô vợ ăn không được, ngủ không được, hộc máu mồm suýt chết.
Đừng nói đâu xa, một ông đạo diễn phim ghen vợ hóa rồ, chỉ trông thấy vợ ôm eo một ông, chẳng biết có phải bồ bịch hay không nhưng từ đó cấm cửa vợ. Ông nhổ bãi nước, nói cô không được đi quá bán kính 12 mét kể từ bãi nước bọt này. Thất kinh.
Kinh nghiệm cho hay, ông nào lắm tiền nhiều của, có bao bì ngon lành, ra đường cua gái nhanh như chớp mắt thì về nhà càng ghen vợ dữ tợn. Suy bụng ta ra bụng vợ, mình tán gái dễ quá thì người ta tán vợ mình cũng dễ, suốt ngày chẳng làm ăn gì, chỉ nghĩ mưu canh vợ cũng đủ mệt.
Có ông giám đốc sở ngoại vụ tỉnh Y. tiền nhiều như quân nguyên, gái theo như chuồn chuồn sắp mưa, thế mà canh vợ điên cuồng như canh chừng bọn khủng bố. Cô vợ xinh đẹp, diễn viên tài hoa không cách gì rời ông chồng được nửa bước.
Chị diễn trên sân khấu ông ngồi dưới, chị thay phục trang ông đứng canh cửa, ăn sáng uống cà phê họp hành đi dạo… lúc nào cũng thấy ông rình rập sau lưng. Không chịu được chị đành bỏ. Bỏ rồi vẫn không yên với anh, ở đâu cũng thấy mắt anh sau gáy, chị đành mang tiếng vượt biên chuồn ra khỏi nước.
Khổ thế đấy. Đàn ông ai cũng cố tỏ ra ta đây là quân tử, nhưng trong việc ghen tuông nhiều ông hèn quá là hèn, hành xử với vợ con hoặc là như lang sói hoặc giống bọn thất phu, tệ hơn đám đàn bà đái không qua ngọn cỏ.
Hot boy 1
Không biết trước năm 1960 thế nào, mình còn quá nhỏ không nhớ, nhưng từ năm 1960 đến 1970, hot boy là anh bộ đội. Có lẽ thời loạn, anh bộ đội nổi lên như mẫu người hùng, được xã hội yêu quí ngưỡng mộ.
Thoạt kì thuỷ con gái hễ cứ thấy anh bộ đội là mê, sau biết phân biệt lính bộ binh, lính phòng không, lính hải quân..v,v
Phải cái các chị không biết phân biệt quân hàm quân hiệu. Trừ lính hải quân, còn lại thấy lính nào cũng giống lính nào. Ra đường gặp các anh bộ đội chọc ghẹo, mặt cứ hất lên ra vẻ lắm, nhưng vừa đi qua là lập tức túm lấy con nít tụi mình hỏi rối rít răng răng, quân chi quân chi. Cái giống một cái xoong hai que đũa là quân chi, cái giống hai con cu ngoắc nhau là quân chi…
Trong số lính tráng lượn qua lượn lại Thị trấn quê mình, lính bộ binh thấp giá nhất, cao giá nhất là lính hải quân. Lính hải quân hồi này được tuyển chọn khá cẩn thận, đa số đều cao ráo đẹp trai, lại có bộ quân phục “sặc sỡ”, mũ két bi ba dây, yếm trắng ba sọc đẹp như văn công, không có cô nào không mê.
Chị Nghĩa của mình có yêu một anh hải quân. Mấy chị hàng xóm ngồi túm túm nhìn hai người nắm tay nhau đi trên đường, mắt thì rực lên thèm khát, ghen tị, mồm thì nói chà đồ hải quân là cái chi mà. Mấy chị khác nghe nói thì hùa theo, nói ừ đo ừ đo.
Tất nhiên lính không quân là mê nhất, vì các anh đều to cao đẹp trai, lại lái máy bay, dân tình vô cùng ngưỡng mộ, đừng nói các cô gái trẻ.
Mình nhớ có anh Quốc vừa khám trúng phi công lập tức cả Thị Trấn đều biết, bàn tán xôn xao. Mấy tối trước ngày anh đi, các chị lượn qua lượn lại trước ngõ nhà anh, đấm lưng nhau, đùn đẩy nhau, nói mi vô đi mi vô đi, rồi cười ré, ngoắt đít chạy ào ào qua nhà anh, chỉ mong anh ới một tiếng, mời vô nhà chơi.
Sau, gia đình anh Quốc hỏi vội chị Hà cho anh, coi như dấm sẵn. Cả nhà chị Hà sướng quá, mổ heo đón nhà trai, đám hỏi mà mổ một con heo 50 cân là chuyện xưa nay hiếm.
Mạ mình chạy sang nhà chị Hà nói ui chao nhà anh chị may hè, có con rể phi công. Mạ chị Hà làm bộ nói chà phi công phi keo chi hè, quan trọng là cái đức chị ơi. Ba chị Hà nói đúng đo đúng đo, nhà tui kén rể là kén cái tâm hồn.
Chị Hà ngoài mặt coi như không, đi đâu cũng kể anh Quốc cưa mình mấy năm mấy năm, tặng thơ bài này bài kia, vật vã mãi chị mới duyệt cho, kì thực mới nghe mẹ anh Quốc đánh tiếng đã sướng cuống cà kê lên rồi, mồm thì nói con không biết, ba mạ đặt đâu con ngồi đó, bụng thì thon thót sợ nhà anh Quốc đổi ý.
Sau đám hỏi chị Hà cắp tay anh Quốc lượn khắp thị trấn, không có ai quen thì thôi, hễ gặp người quen là chị ra cái vẻ bà chủ nói anh Quốc lấy cho em cái này, anh Quốc làm cho em cái kia.
Các chị cũng trẻ cũng xinh như chị Hà ngoài mặt thì ôm lưng hót cổ chị Hà nói mừng nha mừng nha, nhất mi đó. Sau lưng thì nói chà, hay ho chi phi công. Xe cộ hỏng hóc còn dừng lại sửa được, máy bay hỏng hóc là chết liền! Mấy chị nghe nói thì hùa theo, nói ừ đo ừ đo.
Mê quân này quân kia chán, các chị mới để ý đến chức vụ. Ai sống thời này đều nhớ như in câu hát em yêu anh trung uý, không yêu anh binh nhì một tháng năm đồng...Lương trung uý 75 đồng, thời mà cán bộ viên chức chỉ có 39 đồng năm hào thì 75 đồng là một đồng lương mơ ước. Sĩ quan thường mặc áo đại cán bốn túi, quê mình gọi là bâu, thế nên mới có câu: râu thì râu bốn bâu em cũng lấy.
Chị em nhìn quân hàm cứ mù mịt, chẳng biết chức gì ra chức gì, cứ tưởng nhiều sao là chức to, lắm khi bị hố điếng người.
Nhà chị Loan thấy anh đeo quân hàm ba sao đến chơi, mừng húm. Người nhà đi hỏi, ưa liền. Sau có người nói đồ gạch vải, không phải gạch đồng. Chị hoảng lên hỏi răng răng. Người này nói ba sao một gạch vải là thượng sĩ thôi, ba sao một gạch đồng mới là thượng uý, chị ngồi khóc sưng mắt. Lần sau có cô bạn nào sắp có chồng bộ đội chị đều nhắc gạch vải ẻ vô nha, nhiều sao cũng ẻ vô!
Chị Huệ tiếp anh chuẩn uý ở phòng khách. Mạ chị đi chợ về, thấy quân hàm trọc lóc một gạch, bà đi qua lờ không chào, kéo chị vào phòng trong nghiến răng nói nhỏ răng ngu rứa con, hắn có sao đom mô mà yêu với đương, ngu ngu!
Chị Huệ nói mạ tề, một gạch đồng là chuẩn uý của người ta đó. Mắt bà sáng lên nói rứa a rứa a, quăng cái rổ chạy ra túm lấy tay anh chuẩn uý cười xoe xoe, nói con tới chơi đa con! Chuyến ni dứt khoát phải ở lại ăn cơm với nhà bác, không bác giận đó.
Chị Lan Anh đẹp nhất xóm Long Hoà, chị ở gần nhà mình, không ngày nào mình không thấy bộ đội vào nhà chị. Có anh thiêú tá đến chơi, chị cứ ngồi hất mặt lên, trả lời nhát gừng. Ba mạ chị cũng ngồi trong bếp không thèm ra chào.
Chán, anh này bỏ về. Mình hỏi chị Lan Anh răng chị chê anh nớ. Chị trề môi nói đồ một sao quẹt quẹt. Mình nói một sao nhưng có hai gạch đồng là thiếu tá đó. Chị sững sờ, đập hai tay vào má kêu to: ui chao tui lại ngu rồi!
Ba mạ chị Lan Anh từ bếp lao ra nói răng răng thiếu tá à thiếu tá à. Mình nói một gạch là uý, hai gạch là tá. Mạ chị thở vô thở ra, nói mần răng mà kêu nó lại chớ một gạch là một đống của đó con ơi.
Cuối cùng chị Lan Anh cũng cưới được anh thiếu tá. Hôm đám cưới ba chị cầm mocro thổi phù phù a lô a lô… thưa bà con tôi mừng là gia đình con rể có thành phần cơ bản, mừng hơn nữa là con gái tôi có lập trường kiên định, biết người lính vào sống ra chết vẫn cứ yêu thương, chung thuỷ đợi chờ.
Mọi người nói ua chầu chầu Lan Anh giỏi hè giỏi hè, rồi vỗ tay rầm rầm.
Kịp đến thời hot boy là lái xe, nhưng bọ buồn ngủ quá rồi.
hot boy 2
Kịp đến thời hot boy là lái xe. Đấy là những năm 1975-1985, cộng trừ trước sau chừng vài năm, thời này đói kinh hồn, từ khi mình lớn lên đến giờ chưa thấy thời nào đói như thời này.
Giải phóng Miền Nam xong mọi người sướng mê man. Anh cu Đe chủ tịch Thị trấn nói hoà bình thống nhất rồi, mình vọt một phát lên CNXH. rứa là khe khe khe… Anh còn nói cấp trên hứa rồi, sắp tới sẽ cấp cho mỗi nhà một cái ti vi, xem phim nghe hát cả ngày, rứa là khe khe khe…
Chẳng ai biết ti vi là cái gì, cứ sướng cái đã. Anh cu Đe vào Nam thăm bà con, mọi người hỏi ngoài Bắc có ti vi không, anh liền cười phát nói è he tưởng chi, ti vi chi cũng có. Mọi người hỏi có ti vi màu không, anh cười thêm phát nữa, nói è he màu chi cũng có.
Vẫn sung sướng tự hào, ca hát ngây ngất nhưng mà đói, đói vàng mắt. Mình đang tuổi lớn, tối nào cũng không ngủ được vì đói, nằm chiêm bao toàn thấy đồ ăn.
Hậu chiến đói kém là phải, nhưng đói thế này chủ yếu là hậu quả của chế độ bao cấp, “cái gì cũng phân mà phân thì như cứt”, lại thêm ngăn sông cấm chợ khắp nơi. Phàm là hàng hoá không phải hàng quốc doanh đều bị coi là hàng lậu, cách nhau chừng vài trăm cây số giá cả có thể cách nhau chừng 4, 5 lần là chuyện thường.
Thành ra béo nhất là mấy anh lái xe, hễ ai cầm được cái xe nhà nước là coi như cầm được sự sống của cả nhà rồi. Không kể việc bớt xén hàng hoá, xăng dầu của nhà nước, chỉ cần cho vài chục người ngồi sau thùng xe tải, chở đi chừng trăm cây là bỏ túi vài trăm bạc ngon ơ rồi.
Nhưng chủ yếu cánh lái xe sống nhờ vào dân buôn lậu, ấm no cũng nhờ đấy mà ra. Càng ngăn sông cấm chợ thì dân buôn lậu và cánh lái xe càng béo. Thà sống lậu hơn chết ngay, người ta nói một vốn bốn lời, thoát qua các trạm thuế, có khi một vốn bốn chục lời, không thèm nói ngoa.
Kể qua vậy để các bạn trẻ hiểu vì sao lái xe thời này lại trở thành hot boy.
Thực ra nói lái xe là hot boy cũng không chính xác, phải nói hot boy là cánh “giặc lái” mới đúng. “Số một là lái máy bay, số hai tàu hoả no say suốt đời/ số ba tàu thủy ngoài khơi/ ca nô trong bến đã đời tiền nong/ số bốn xe buýt lòng vòng/ số năm xe tải vào trong ra ngoài/ ai ơi yêu lấy anh tài/ vào trong thịt cá ra ngoài bảnh bao”.
Chỉ cần nhìn anh số 5 thôi, dân tình đã lác mắt. “Quần ximili vừa đi vừa ngắm, dép tông Lào áo trắng thảnh thơi”. Mùa hè xe đỗ đường cái, con gái đi chơi từng tốp, lái xe bật đèn pha, các cô tay che mắt liếc, dẩu môi nói chi mà vô duyên rứa hè, cười cái, ngoảy đít cái, chạy. Qua khỏi bóng đèn thì túm tụm nhón chân nhìn qua cabin ngắm trộm lái xe, thì thầm trẻ hè trẻ hè.
Có cô nào được lái xe mời ngồi cabin, bụng hí hửng lắm, nhưng mặt làm bộ tỉnh bơ nhìn thẳng, cái cổ cứng ngắc, tay gác cửa xe. Thấy bạn quen thì thò cổ ra, kêu: nời, đi mô đó. Mấy bạn cô ngửa cổ nhìn cô đầy ngưỡng mộ, nói sướng hè sướng hè. Xe đi qua thì nhếch mép cười nhạt, người này nói đồ mặt như mặt mo mà cũng lấy được lái xe hà bay, người kia nói ừ đo, đúng là may hơn khôn, to l. hơn đẹp mặt.
Mình kể cho anh cu Đe nghe. Anh cu Đe cười cái khẹc, nói mấy con đó nói rứa chơ tối về là tụt quần ngắm cái của mình cả đo. Vợ anh lườm, nói đúng rồi, tui trước khi lấy anh không tụt quần ngắm nên mới cực ri đây. Anh cu Đe lại cười cái khẹc nói đúng là không cãi nhau được với mấy đứa l. trâu.
Trước nhà mình có con Na bằng tuổi mình, xinh, thích mình lắm, mình cũng thích nó. Mình ngồi ngạch cửa nhìn sang, nó ngồi cửa sổ ngó lại. Cứ ngồi cả ngày ngắm nhau không biết chán. Thỉnh thoảng gặp nhau đầu ngõ, làm như vô tình chạm nhau cái, sướng râm ran, bụng nghĩ sao rồi mình cũng cưới con này làm vợ.
Chẳng ngờ có anh lái xe tên Hoá, người Quảng Thanh tăm được con Na, tháng này qua nhà ném xuống bao gạo, tháng sau qua nhà ném xuống bao gạo. Chưa đầy chục bao, con Na đã là vợ anh Hoá rồi.
Anh cu Đe họp thanh niên Thị trấn, nói các đồng chí thanh niên thời đại mới mà lạc hậu quá, kĩ sư bác sĩ không mê lại đi mê mấy thằng lái xe. Tụi nó rặp khắp đông vòng tây rồi về rặp các đồng chí đó.Vinh dự cái gì mà đi cưới mấy thằng xe tải.
Con Na lúc này đã có chồng xe tải, mặt vênh vênh, bụng lùm lùm, đứng lên nói báo cáo đồng chí chủ tịch, chúng tôi cưới chồng chứ không cưới vinh dự. Anh cu Đe tịt, đứng trơ.
Anh cu Đe nói gì mặc kệ, hễ có chiếc xe tải nào rẽ vào lối xóm là cả xóm nhớn nhác hỏi nhau ai rứa ai rứa, vô nhà ai rứa vô nhà ai rứa. Nhà ai không biết nhưng chắc chắn nhà đó có con gái đẹp.
Con gái trong xóm làm gì thì làm, không thể không đi qua ngõ nhà có xe tải đỗ một lần, mắt hất lên ra cái điều không thèm nhìn vào, mắt thì liếc xéo vào nhà, thấy cô con gái đang ti toe với anh lái xe thì mím môi bịp một cái như cái rắm, nói chà, báu lắm đó mà vênh!
Cánh lái xe vào quán được coi là dân thượng lưu, được trọng vọng hơn cả lãnh đạo huyện.Mình hay ngồi quán vợ anh cu Đe. Hễ xe vừa trờ tới, bất kể lạ quen, lái xe chưa kịp tắt máy vợ anh cu Đe liền te tái chạy ra cười cái xoẹt kêu ui chao ôi đi mô mà lâu rứa.
Mấy cô phục vụ cũng chạy ra vừa đấm vừa vuốt bắt đền anh đo bắt đền anh đo, ghét chi ghét lạ. Rồi thau rửa mặt, rồi bàn ghế chùi, vừa nói vừa liếc vừa cười tíu ta tiú tít. Lái xe ngồi gác cả hai chân lên bàn, rút điếu thuốc Jet thổ thổ, búng ngón tay cái tách nói cho mấy chai chị ơi, vợ anh cu Đe rối rít dạ dạ dạ!
Có hôm anh cu Đe ngồi uống với mình, thấy thế ngứa mắt, nói thời buổi đổi thay, chủ tịch Thị trấn chưa khi mô vô quán được trọng vọng như rứa, dân toàn nể trọng mấy thằng buôn lậu.Vợ cu Đe lườm cái, nói anh ni nói hay, dân nể trọng tiền bạc, ai ngu nể trọng lỗ mồm.
Chị Lê lấy chồng lái xe, được một con thì phát hiện ra anh đã có vợ ở Đà Nẵng, chạy vào Đà Nẵng thì chị vợ Đà Nẵng phát hiện ra anh chồng có vợ ở Thanh Hoá. Hai bà chạy ra Thanh Hoá thì chị vợ Thanh Hoá phát hiện anh đã có vợ Hà Tĩnh. Cả ba bà chạy vào Hà Tĩnh, hợp tác với chị vợ Hà Tĩnh cấu xé chửi mắng anh. Anh trợn mắt quát tui rứa đo, lấy thì lấy không thì thôi. Cả bốn bà thè lưỡi rụt cổ, con cón ai về nhà nấy.
Năm 1980 mình tốt nghiệp Bách Khoa, chuẩn bị đi bộ đội, mạ mình làm mâm cơm mời bà con láng giềng. Anh cu Đe cũng tới. Mạ mình nói cu Đe có ba đứa con gái, không phần cho thằng Lập một con. Cu Đe nói cho lấy lái xe cả rồi chị.
Mạ mình tròn mắt kêu ua chao, răng tài rứa, con gái toàn lấy lái xe. Cu Đe cười, nói è he, có chi chị. Mình thích thằng lái xe mô thì mời nó về nhà ăn cơm, rồi gửi con gái đi nhờ chỗ nọ chỗ kia. Nó đè con gái mình, mình đè cổ nó bắt cưới, rứa là xong thôi.
Cả mâm rượu gật gù, nói ua chầu chầu, cu Đe giỏi giỏi. Anh cu Đe nói, tui mần chủ tịch Thị trấn 5 năm mua được đúng cái giường hộp. Ba thằng con rể xây cho tui cả cái nhà lầu, thiệt đo, đừng nói tui tham ô. Mọi người nói phải phải.
Cu Đe nói tui học tập nhiều chủ trương, chưa thấy chủ trương mô đúng đắn như chủ trương vợ tui. Dân mình bây giờ, con trai cho học lấy xe, con gái cho lấy lái xe, rứa là khe khe khe
Góc làng 1+2+3
Góc làng nhắc đến phong tục xưa để nói đến những chuyện chướng tai gai mắt ngày nay, nhằm góp một tiếng nói xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông thôn. Bắt đầu từ trong gia tộc đến làng xóm và xã hội.
Ngày nay ra đường nghe thiên hạ nói luyên thuyên về giữ gìn bản sắc dân tộc, đua nhau bàn về văn hóa làng, phong tục Việt… bọ cũng a dua bàn theo, trúng đâu thì trúng, he he
1. Sinh nở chết dở tục quê
Xưa nay chị em sợ nhất kì sinh nở, mang nặng đẻ đau vất vả khổ cực đã đành, sợ nhất trong tháng đẻ với đủ thứ kiêng khem.
Ngày nay nhiều chị em sinh xong chẳng thấy kiêng khem gì, vừa sinh đã ra gió, ăn uống lung tung, tắm rửa cũng giống người thường. Như thế cũng chẳng hay. Nhất thời thì thấy tiện lợi, khỏe khoắn nhưng về lâu dài có thể đó là mối họa khôn lường. Người ta nói chị em ngày nay sinh nở vài lứa đã thấy già khú, mau hư người cũng duyên do không chịu giữ gìn các kì vượt cạn.
Sinh nở không thể không kiêng khem nhưng kiêng khem như nhiều nơi thì thật đáng sợ.
Nhà có người ở cữ kín như bưng, tối thui. Cái buồng nằm chỗ che chắn không còn một khe hở nào, mẹ con bị nhốt y chang cái xà lim, thiếu sáng thiếu khí. Lại thêm cái tục nằm than, xông muối. Suốt tháng ở cữ, dưới gầm giường luôn có nồi than to, quạt lửa đỏ rực. Mùa đông đã nóng bức, mùa hè còn chịu sao nổi. Nhiều nhà than bốc lên cháy sém cả chiếu vẫn bắt mẹ đẻ cứ thế nằm cho trọn tháng.
Ngày nào cũng một lần xông muối, hơi nước nóng cộng hơi muối bốc lên ngột ngạt vô cùng. Người trong chịu không nổi vừa nhấc đầu lên, kẻ ngoài đã vội vàng dúi đầu xuống. Nhiều mẹ đẻ sức yếu chịu không nỗi ngất luôn.
Sinh nở cũng phải xông hơ nhưng chớ đem mẹ đẻ nướng thịt hun khói kiểu vậy có ngày mất mạng chứ chẳng chơi.
Ăn uống cũng ghê răng. Mới sinh cứ nhè cơm chấm muối mà nhai, đôi khi được chấm tí nước mắm, tuyệt không có gì hơn. Mẹ đẻ ăn uống chẳng khác tù thực dân đế quốc ngày xưa, thật đáng sợ.
Được một tuần thì cho ăn thịt cá, ròng một thứ cá bống, thịt heo kho rim mặn đắng. Nhiều nhà bắt mẹ đẻ ăn cá bống kho rim ròng rã một tháng trời, đến mồm miệng lưỡi, cổ họng cũng bỏng rộp đừng nói ruột gan.
Có nhà ngày nào cũng ép cho mẹ đẻ ăn chân giò cho tốt sữa, sáng ăn trưa ăn chiều ăn, chỉ ngửi cái mùi thịt mỡ đã muốn ọe, thế mà cứ phải nhắm mắt nhắm mũi nuốt cho bằng hết. Kinh hồn.
Cho nên việc gì cũng thế, cứ nghiêm trọng hóa, phóng đại cái sự kiêng khem…thì lợi chẳng thấy đâu mà hại đã nhỡn tiền. Nhiều mẹ đẻ thoát khỏi tháng ở cữ không khác gì thoát khỏi địa ngục trần gian, sợ lắm thay.
2.Cúng mụ chén chú chén anh
Xưa mới sinh con ba ngày người ta đã tắm rửa cho con rồi làm cái lễ cúng, đầy tháng làm cái lễ nữa, đến trăm ngày lại làm lễ. Bây giờ tục ấy không còn, chỉ đầy tháng mới làm lễ cúng thôi, may.
Lễ cúng mụ xưa cũng đơn giản. Người ta bày mâm cỗ, trên đó có 12 đôi hài giấy, 12 miếng trầu, 12 con cua đồng, 12 con ốc, 12 miếng bánh đúc để cúng 12 bà mụ.
Tục này hay, nó không những chứng tỏ lòng thành biết ơn trời đất đã sinh thành đứa con cho gia đình, mà còn là cái lễ xác nhận từ nay đứa bé là thành viên của gia đình, bà con chòm xóm.
Lúc này đứa bé được đem từ buồng sinh ra nhà ngoài. Khách khứa đến thăm, mừng đứa bé những đồ vật nho nhỏ, đồ chơi và áo quần, coi như lần đầu tiên trong đời đứa bé có của nả riêng. Ai nấy lắm dấu trên trán đứa bé cho nó nhớ mặt mình, nói mấy lời chúc phúc, vui vẻ cảm động lắm.
Về sau người ta cho là cúng bà mụ thì cũng phải cúng gia tiên, xin ông bà phù hộ độ trì cháu con được khỏe mạnh. Thế là phải biện vài ba mâm cỗ, mời bà con nội thích đến ăn mừng con cháu.
Nhưng nội thích mời mà ngoại thích không, bà con xóm giềng không thì cũng không đành, lại phải làm thêm năm mười mâm nữa. Cứ thế có nhà phải biện tới vài chục mâm, tốn kém vô cùng.
Ngày nay nhiều nhà đầy tháng con không thấy cúng bà mụ, cũng chẳng thấy cúng gia tiên, cứ bày cỗ ra chén. Đôi khi bà con nội thích không thấy mời, toàn mời bạn bè, dồng môn, đồng lứa, đồng cơ quan… cứ thế là chén.
Người đến chén cũng chỉ biết đến chén thôi, chẳng biết mặt mũi vợ con người ta ra sao, nhậu say rồi về, lễ cúng mụ y chang một bữa nhậu nhẹt bùi khú ngày thường.
Nhiều nhà lấy lễ cúng mụ làm cái ngày tăng thêm thu nhập. Khách đến mừng toàn phông bì, bố mẹ nhận bố mẹ tiêu, đứa bé là nhân vật chính bỗng nhiên bị ra rìa.
Rồi thì lễ cúng mụ biến hóa thành lễ khoe giàu, nhà người ta mổ lợn, nhà mình phải mổ bò; nhà người ta ba chục mâm, nhà mình phải trăm mâm. Nhiều nhà con vừa ra đời đã phải lo chạy vạy nợ nần tướt bơ để làm cái lễ đầy tháng, khốn khổ vô cùng.
Hài hước nhất là lễ cúng mụ là cái lễ bắt cấp dưới cống nộp. Kẻ nghèo thì nộp tiền việt, người khá nộp tiền đô. Rồi xe máy, ô tô, vàng ngọc châu báu có cả.
Thành ra mới có chuyện có nhà một năm làm lễ cúng mụ mười hai lần là vì thế. Ôi chao là buồn.
3. Nuôi con thơ… khù khờ thì hỏng
Xưa nay ở quê chuyện nuôi trẻ sơ sinh thật lắm chuyện nhiêu khê. Mẹ trẻ thì thiếu kinh nghiệm, khi thai nghén ít chịu khó sưu tầm sách vở đọc, nhà quê xa xôi ít ai về đấy tuyên truyền giáo dục. Mẹ già sinh nở lâu ngày cũng quên. Hễ con đau ốm, ai bày cái gì làm cái đó, lắm nơi dựa vào những cái tục rất buồn cười, thậm chí nguy hiểm, thế mà nhiều người cũng tin theo.
Vẫn biết dân gian có những bài thuốc chữa bệnh con nít rất hay. Ví dụ khi con đầy bụng, bắt một con gián, nướng hoặc rang rồi giã bột, hòa với dầu hỏa bôi rốn con, bụng trẻ xẹp liền. Hay con nít tưa miệng thì lấy lá cây hoa cúc đất rửa sạch giã lấy nước, lấy chút hàn the cho lên thìa cà phê nướng chảy hòa với nước hoa lá hoa cúc đất. Lấy cái lông gà đã tiệt trùng, chấm nước đó quét miệng con, vài ba lần sạch biến. Hay lắm.
Nhưng biết bao bài chữa mẹo vô lý đùng đùng vẫn được dân quê ta hồn nhiên sử dụng, lắm khi nguy hiểm chết người mà không biết.
Con nít nổi mận ngứa, tây y thì bảo là dị ứng, dân ta thì gọi là mề đay, hay mận tịt. Cái này dễ chữa không, nhưng nghe người ta bày lấy cái nón mê đặt bảy hay chín miếng trầu đặt ngã ba đường cúng ông Cầu bà Quán. Trong nhà con ngứa khóc, ngoài đường mẹ sì sụp cúng vái. Cúng mãi chẳng thấy lành vẫn cứ cúng. Đã thế thấy con ai nổi mận lại hăng hái bày cho người ta cúng nữa. Lâu ngày thành cái lệ cúng ông Cầu bà Quán không ra làm sao.
Con nít khóc dạ đề thì nhất định nó có vấn đề gì đấy, cần đến bệnh viện khám xem sao, đừng có nghe người ta nói cứ để nó khóc hết ba tháng mười ngày là hết khóc rồi cứ để nguyên đấy, không làm gì, nguy hiểm vô cùng. Cũng đừng nghe người ta bày lấy cái cọc chuồng lợn ném xuống gầm giường thì con thôi khóc. Hoang đường. Làm thế con khóc cứ khóc, chuồng lợn hỏng cứ hỏng. Ấy là chưa kể chuyện hôi hám, bẩn thỉu.
Con trẻ ngộ độc thức ăn, rối loạn tiêu hóa, đau bụng khóc ngặt nghẽo không lo đưa đi trạm y tế, cứ tin cách chữa mẹo- mượn người nhổ bão, nhổ cục tóc trên đầu mẹ là khỏi- Làm thế thì có nhổ trọc đầu mẹ con cũng chẳng khỏi đâu.
Nhiều nơi có cách chữa bệnh mất vệ sinh kinh hồn. Trẻ con hay trớ là do cách cho con ăn không đúng, hoặc con có vấn đề về đường hô hấp, chuyện đơn giản thế không lo đi gặp bác sĩ người ta bày cho, nghe người ta xui ra múc nước lòng đò cho con uống. Ôi thôi, làm thế con không chết cũng mắc bệnh truyền nhiễm, oặt oẹo suốt đời.
Cho nên đừng nói con cái sống chết có số, tại trời không cho nuôi, tại mình khù khờ đi tin mấy chuyện xàng bậy cả mà thôi.
Hố xí hai ngăn
Bọ định cho ra tập truyện ngắn viết theo lối khẩu văn. Vì thế bọ sẽ lần lượt post lên các truyện ngắn loại này để bà con bình luận, góp ý. Sau đó sửa sang lại một lần nữa rồi đưa in. Rất mong nhận được góp ý của bà con, cứ phang thẳng cánh vào đừng sợ bọ tự ái. 1. Năm 1965 nhà mình sơ tán lên làng Đông, Hợp tác phân cho mấy sào đất cát đầu làng, mấy anh em thi nhau ăn cắp đất cày tôn cái vườn lên cao gần một mét, ba mình lại khéo trồng cây, chỉ một năm sau nhà mình có khu vườn đẹp nhất xóm.
Xóm có bốn nhà. Phía trước là nhà anh Cu Chành, đội phó đội 1. Anh cu Chành oai nhất xóm, có xe đạp Phượng Hoàng, cười có răng vàng, có cái đài Orionton. Chiều chiều anh đạp xe đạp Phượng Hoàng, đeo cái đài to bằng cuốn từ điển Việt – Anh bên hông, ngậm cái tăm, mở to đài, đạp xe đi từ đầu làng đến cuối xóm. Anh đi đến đâu đài kêu oang oang tới đó, con nít rật rật chạy theo xe anh .
Thỉnh thoảng đi họp trên xã trên huyện về, tối anh xách đèn bão ra nhà kho hợp tác nói chuyện thời sự. Anh nói các anh trên trung ương phổ biến thế này thế kia, anh Lê Duẩn có ý kiến chỉ đạo thế này thế kia, anh Võ Nguyên Giáp động viên thế này thế kia, toàn anh không thôi, dân tình lác mắt.
Anh Cu Chành nói mấy anh trên trung ương nói cứ lo chiến đấu đi, đánh thắng Mỹ rồi tha hồ giàu. Chỉ riêng dầu mỏ cũng đủ no. Dầu mỏ nước ta như cái mâm, dầu mỏ đế quốc Mỹ như con ruồi đậu trên cái mâm, Mỹ không nhằm nhò chi với nước mình mô. Bà con vui vẻ nói ua chầu chầu sướng hè sướng hè.
Anh cu Chành nói mấy anh trên trung ương phê phán việc đuổi chim ra khỏi thành phố của nước đồng chí bạn là sai. Cứ xây dựng CNXH thành công, nhà cao cửa rộng, điện đóm giăng đầy, tự khắc chim chóc cút cả, việc chi phải đuổi.
Mấy người hỏi nước mô mà dại rứa hè. Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương dặn cứ nói nước đồng chí bạn, không được lộ ra nước nào. Nhưng tui nói nhỏ, bà con nghe đâu bỏ đó nghe chưa, đó là nước Trung Quốc. Bà con xôn xao nói ua chầu chầu nước đồng chí bạn dại hè, đế quốc Mỹ không đuổi lại đi đuổi chim.
Mọi người phục anh Cu Chành lắm, nói Cu Chành học chưa hết lớp 5 mà chuyện trên trời dưới biển biết cả là nhờ gần trung ương. Có ai biết anh Cu Chành nhờ gần cái đài Orionton.
Chỉ có mệ Hó là không phục. Một hôm anh Cu Chành nói mấy anh trên trung ương căn dặn bà con mình phải đoàn kết. Làm được thì làm, không làm được thì thôi nhưng phải đoàn kết. Anh Cu Chành nói tui nghiên cứu hết sách vở rồi, sở dĩ dân mình hay chửi nhau là vì phong kiến tư bản nó còn rơi rót. Mình muốn mau lên CNXH thì đừng có chửi nhau.
Mệ Hó đứng dậy phủi đít quần phành phạch, nói Cu Chành nói hay rứa răng toàn đi ỉa vứt. Anh Cu Chành trừng mắt nghiêm giọng, nói họp hành không được nói cu, đồng chí Hó phát ngôn bừa bãi. Mệ Hó cười cái hấc, nói mi đi họp răng không bỏ cu ở nhà, mang cu đi thì tau nói cu chơ răng. Anh Cu Chành đập bàn cái rầm, nói yêu cầu đồng chí Hó nói năng cẩn thận, đây không phải cái chợ.
Mệ Hó không sợ nhưng xuống giọng, nói đồng chí Cu Chành nói hay rứa răng toàn đi ỉa vứt. Anh Cu Chành nhăn mặt, nói chuyện ỉa đái không được nói nơi hội nghị, phát ngôn bừa bãi. Mệ Hó tịt, ngồi xuống nói ôi trời, l. trám được chơ tai không biết răng mà trám.
Mệ Hó ở ngay bên phải nhà mình, gọi là mệ chứ chỉ trên năm mươi chút thôi, mông vú còn nẩy lắm. Không thấy chồng con mệ đâu, chỉ thấy mệ ở với đứa cháu gái 11 tuổi, bằng tuổi mình. Mệ ngoa nhất xóm, động bất kì chuyện gì mệ cũng chửi. Mệ tức anh Cu Chành chuyên môn nhảy hàng rào sang ỉa hố xí nhà mệ, ỉa xong không đổ tro, không đậy nắp, bẻ tranh tre quẹt đít, tan cả mái lợp. Chỉ chuyện anh Cu Chành đi ỉa hố xí nhà mệ mà mệ chửi anh quanh năm suốt tháng.
Hồi này có phong trào làm hố xí hai ngăn. Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương nói đây là phát minh khoa học của Việt Nam, Nhật Bản thừa nhận đây là một trong 7 công trình khoa học vĩ đại nhất của thế kỉ 20. Anh Cu Chành nói hố xí hai ngăn là thành quả CNXH. Ngăn này ỉa, ngăn kia ủ phân rất chi là khoa học, vệ sinh cực kì. Bọn tư bản chúng nó ở nhà cao tầng, không làm hố xí hai ngăn, phân chảy ra đường ống trôi ra sông, rồi lại múc nước sông nấu ăn, có tởm không bà con. Bà con nói ua chầu chầu tư bản ngu chi ngu lạ.
Nói thế nhưng anh Cu Chành không làm hố xí hai ngăn, nhà nào cũng làm nhưng anh không làm, toàn xách đít nhảy hàng rào sang nhà mệ Hó ỉa. Anh Cu Chành ngồi trong hố xí, mệ Hó nhảy chồm chồm ở ngoài chửi ầm lên, nói cha tổ Cu Chành, ỉa đâu không ỉa răng ỉa nhà tao! Anh Cu Chành nhóng cổ ra, nói đồng chí Hó để yên cho tôi ỉa xong đã rồi có ý kiến, đừng phát ngôn bừa bãi.
Mệ Hó nén giận, ngồi bó gối trước cửa hố xí chờ anh Cu Chành ỉa xong để chửi. Anh Cu Chành lại nhóng cổ ra, nói đồng chí Hó cho tôi xin mấy que quẹt khu (đít). Mệ Hó laị nhảy chồm chồm chửi, nói vơ làng xóm nời… có ai như thằng Cu Chành không, nó ỉa vất nhà tui còn bắt tui quẹt khu cho hắn đây nời!
Anh Chành lại nhóng cổ ra, nói đồng chí Hó không kiếm que cho tui chùi khu thì tui bẻ tranh tre hố xí đồng chí. Mệ Hó tức uất rú lên nhưng vẫn phải kiếm que cho anh Cu Chành. Mệ dúi que vào cho anh, mắt trợn miệng hét, nói que đây que đây, chùi xong rồi ăn luôn nghe Cu Chành!
Anh Cu Chành ra khỏi hố xí, nhảy hàng rào về nhà . Mệ Hó nhảy sang nhà anh nhảy chồm chồm, ra sức chửi. Anh Cu Chành bật cái đài Orionton, vặn volume hết nấc. Mệ Hó cố gào lên cho át tiếng đài, mệt quá thở hồng hộc. Mệ hét lên, nói cha tổ mi Chành nời, mi nói hay rứa răng cứ đi ỉa vứt!
Anh Cu Chành chỉ tay quát, nói này, đài đang phổ biến chủ trương đường lối, đồng chí Hó lại đem chuyện ỉa đái ra đây là có ý gì. Câm họng không tui kêu dân quân trói cổ liền. Mệ Hó tịt, quắp đít đi về, vừa đi vừa chửi, nói vơ cu Chành nời, tao thua cái đài chớ không thua mi mô nha!
2.Còn nhà thứ tư là nhà ông Mẹt Lạm ở sát sau nhà mệ Hó, cũng ở bên phải nhà mình. Ông chết vợ, có một đứa con trai là thằng cu Đán. Thằng này đánh cờ tướng cực giỏi, mình học đến lớp 5, nó mới học lớp 2, nó chấp mình một xe mà 10 ván mình cũng chỉ thắng nó được 2,3 ván.
Cu Đán nói anh đánh cờ dở như bọ tui đi ỉa. Lúc đầu mình không để ý, nhưng sau thấy lạ, hễ đau bụng là ông Mẹt Lạm lại nhảy sang hàng rào, vào hố xí mệ Hó, dù nhà ông cũng có hố xí. Sau lại thấy hễ mệ Hó đi ra hố xí là ông Mẹt Lạm kêu đau bụng liền. Mình hỏi cu Đán, nói răng thấy mệ Hó ra hố xí là bọ mi đau bụng? Cu Đán cười cái hì, nói bọ tui đau cu không phải đau bụng.
Mình không hiểu, nói hố xí vừa chật vừa thối inh, mần chi được ở đó. Cu Đán nhăn răng cười, nói tui thấy bọ tui lẹo chắc với mệ Hó rồi, hay lắm. Nó chồm lên bụng mình dập dập nói ri nì ri nì, Hó ơi Hó ơi anh yêu Hó, Hó ơi Hó ơi anh yêu Hó.
Mình tròn mắt, nói lẹo chắc ở hố xí à. Nó gật rồi lắc, nói không phải, hố xí chỉ tâm sự thôi, rồi bọ tui bưng mệ Hó vô nhà. Mình nói vừa ỉa vừa tâm sự à? Cu Đán nói ừ, nói đi nói lại chỉ có câu Hó nhớ Lạm không, Lạm nhớ Hó không, rứa mà nói cả buổi, ỉa hết cứt rồi vẫn cứ nói.
Mình nhăn răng cười, nói hay hè hay hè. Cu Đán cũng nhăn răng cười, nói ừ, hay lắm hay lắm. Nó kéo tai mình thì thầm, nói tâm sự chỗ khác thì anh Cu Chành phát hiện, kêu dân quân bắt liền. Mình nói hèn chi mệ Hó không cho anh cu Chành vào ỉa hố xí mệ. Cu Đán nói anh cu Chành cũng muốn tâm sự với mệ Hó nhưng mệ ghét, không cho.
Mình nói mi đã biết thì anh Cu Chành cũng biết. Cu Đán nói lúc đầu bọ tui với mệ Hó sợ anh Cu Chành thì ra hố xí tâm sự, sau đổ lì không sợ. Bây giờ quen rồi, hễ muốn tâm sự là buồn ỉa liền. Mình cười, nói tao không tin. Cu Đán nói thiệt đó, anh không tin thì thôi. Bọ tui nói vừa ỉa vừa tâm sự thích lắm, quan trọng là mình ỉa đừng có tiếng kêu, kêu thì mất lịch sự, rứa thôi.
Làng Đông hồi đó làm hố xí hai ngăn, ngăn ỉa ngăn ủ nghiêm túc lắm, sau rồi tùm lum cả. Đang đau bụng có người ngồi rồi, không nhịn được liền nhảy sang ngăn kia, ủ chẳng ủ thì thôi, ỉa cái đã. Dần dần hố xí hai ngăn thành ra hai hố xí. Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương nói dân mình lạc hậu, chỉ mỗi việc ỉa cho có khoa học mà cũng không hoàn thành nhiệm vụ. Mệ Hó cười cái hấc, nói chào ôi, không thấy trung ương giao nhiệm vụ ăn, toàn giao nhiệm vụ ỉa thôi.
Nhưng anh Cu Chành không mắng mệ Hó phát ngôn bừa bãi nữa, chỉ nói đồng chí Hó có thắc mắc chi nói sau. Cuối buổi anh Cu Chành nói đồng chí Hó ở lại tôi giải thích. Chẳng biết anh Chành giải thích thế nào, tối hôm đó mẹ Hó nhảy chồm chồm, chửi ông Mẹt Lạm rung làng chuyển xóm cả đêm. Mệ Hó vén quần vỗ bem bép, hét vơ Mẹt Lạm nời, tau nói cho mà biết nha, từ ni a… cặc mi có bá ( dát) vàng tau cũng không thèm nha.
Chuyện hủ hoá mệ Hó và ông Mẹt Lạm tự nhiên cả làng ai cũng biết. Đi đâu nghe ai khích một câu là mệ Hó lại nhảy sang nhà ông Mẹt Lạm chửi liền, vừa chửi vừa vỗ bem bép, hét vơ Mẹt Lạm nời, tao thà để l. cho chó ăn, không cho mi liếm mô nha !
Mình hỏi cu Đán răng rứa. Cu Đán ngồi đực mắt, rất lâu sau mới nói không biết ai nói bọ tui khoe mệ Hó thuê bọ tui lẹo mệ, một phát 5 hào, đến giờ mệ nợ cả trăm đồng không chịu trả. Mình nói thiệt không, cu Đán nói biết mô, nghe người ta nói rứa.
Một hôm mình với cu Đán đang đánh cờ, ông Mẹt Lạm đi đâu về, mặt mày hằm hằm nói cha tổ con l. trâu, cha tổ con l. trâu. Ông lôi cái cuốc xông sang vườn mệ Hó đập tan cái hố xí hai ngăn, lại còn xúc cứt vứt ra đầy vườn.
Mình hỏi cu Đán răng rứa. Thắng Đán nói không biết ai nói mệ Hó khoe bọ tui hẹn mệ đi ỉa, rồi liếm khô khu cho mệ, mệ mới cho lẹo. Mình nói tởm tởm, thịêt không thiệt không. Cu Đán nói biết mô, nghe người ta nói rứa. Nói xong thì ngồi buồn thiu.
Từ đó Mệ Hó với ông Mẹt Lạm đánh chửi nhau suốt ngày. Mệ Hó nhảy chồm chồm, vừa chửi vừa xúc cứt hất sang nhà cu Đán, nói vơ Mẹt Lạm nời, trả cứt cho mi đây nời. Ông Mẹt Lạm lại xúc cứt hất sang nhà mệ Hó, vừa hất vừa hét cha tổ con l. trâu, cha tổ con l, trâu! Xúc đi xúc lại hết phân, cả hai ỉa cứt mới, gói lại ném vào nhà nhau, ngày nào cũng chửi nhau đánh nhau rung làng chuyển xóm.
Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương nói thấy dân minh mất đoàn kết, các anh rất đau lòng. Để cho đồng chí Hó, đồng chí Lạm đánh chửi nhau tui có khuyết điểm với trung ương, có tội với bà con. Nói xong thì anh Cu Chành nghẹn lại, nấc nấc.
Bà con nói đồng chí Cu Chành tội hè. Anh Cu Chành nói đã coi nhau như kẻ thù thì sống gần nhau càng thêm tan cửa nát nhà, tui nói rứa có phải không bà con? Bà con nói đồng chí cu Chành nói phải quá phải quá
Tháng sau cả mệ Hó, cả ông Mẹt Lạm đều đi kinh tế mới, hai cái vườn gửi lại cho Cu Chành coi sóc. Anh Cu Chành nói đồng chí Hó đồng chí Lạm ra đi xóm làng tiếc lắm, nói xong thì nghẹn lại, nấc nấc. Mệ Hó và ông Mẹt Lạm đều khóc, cả hai đều xin lỗi bà con láng giềng. Bà con nói ua chầu chầu, đồng chí Cu Chành đoàn kết giỏi hung.
Mệ Hó, ông Mẹt Lạm đi cả chục năm không về, nghe nói ở đâu tận khu kinh tế mới tỉnh Phan Thiết, gần nhà mụ Lâm Cúc ông Đinh Chiến. Họ muốn về quê lắm nhưng không có tiền về, hai cái vườn mặc nhiên thành vườn anh Cu Chành.
Hè này mình về quê, lên làng Đông chơi, khu vườn 16 sào đất của anh Cu Chành nhà cửa, cây cối đẹp ngây ngất. Mình gặp anh Cu Chành, nói mệ Hó ông Mẹt Lạm có về không anh. Anh Cu Chành cười cái xoẹt, nói è he, không chết là may còn đòi về.
NGÀY XỬA NGÀY XƯA
Rốt cuộc ông đã bật nẩy được hai hòn đá lớn, một vuông một tròn, nằm kẹp chặt cái hũ gạo nhỏ như quả bầu khô đã hơn hai năm nay.
Khi hòn đá thứ hai vừa chớm nảy lên, cái đòn bẩy kêu răng rắc, ông cảm thấy xương vai ông rạn vỡ, nó cũng kêu răng rắc. Ông sùi bọt mép, nghiến răng rướn lên, rướn lên… “Một, hờ – hai!”. Bây giờ đến lượt tám vạn con đom đóm, có khi hơn, từ hai hố mắt u tối của ông nhất loạt bay vụt, ra. “Một, hờ – hai!”, ông nghiến răng rướn lên, rướn lên…
Hoặc máu hoặc nước mắt hoặc xác tám vạn con đom đóm chảy thành dòng trên mặt ông. “Thì đây này!…“, ông gầm lên. Thốt nhiên ông thấy ớn lạnh, rồi nóng rực, rồi chẳng thấy đau đớn nặng nhọc gì nữa hết. “Rầm!” A ha, hòn đá thua ông, nó nặng gấp chín chục lần thân xác ông mà thua ông
Ông không nhớ vào những tích tắc hòn đá chịu thua ông trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa ông và nó ròng rã một năm trời kể từ ngày ông phát hiện ra cái hũ gạo dưới xác nó, ông đã bay lên theo đòn bẩy hay nằm vật xuống bên hũ gạo. Mãi đến sáng hôm sau ông mới tỉnh dậy và kinh ngạc thấy ba mươi chín lon rưỡi gạo đang tràn trề trên bộ ngực dính đầy máu của mình.
Ông vốc một nắm gạo lên ngắm, ông ngắm say sưa tuy chẳng thấy gì cả. Ông bị mù. Hai tròng mắt đã bật khỏi hố mắt của ông năm 1968 do một quả rốc-két “không lực Hoa Kỳ” phóng thẳng xuống suýt nữa đã làm ông tan xác. Năm đó ông bốn mươi tuổi.
Người làng Mùi nhất loạt gọi ông bằng “anh” vì ông là người độc nhất trong làng đến tuổi này vẫn không vợ. Đúng hơn. ông có số “sát vợ”. Thật kinh khủng, ba người đàn bà đều bỏ mạng sau khi lấy ông được ít lâu.
Người thứ nhất ăn ở với ông được mươi ngày, vào rừng lấy củi bị rắn độc cắn chết. Người thứ hai được ba tháng sẩy thai băng huyết, lặng lẽ nhắm mắt trong khi ông chạy băng qua mười chín quả đồi về một xóm giáp đồng bằng mời thầy thuốc. Người thứ ba run rẩy sà vào vòng tay của ông, sống ru rú bốn tháng ròng rã trong nhà, cuối cùng vẫn không tránh được tai họa: chị đã chết ngồi bên bếp lửa, không rõ vì bệnh gì.
Từ đó, không có người đàn bà nào dám bén mảng đến với ông nữa, dù ông nổi tiếng là người hiền lành và khỏe mạnh. Từ ngày ông bị “Mỹ đánh mù mắt”, ngày nào cũng giống ngày nào, ông ngồi ở bậc cửa ngóng ra đường để tìm kiếm một cái gì đó, một người nào đó, một con gì đó…
Đấy là người làng Mùi đoán vậy. Thực ra ông chẳng tìm kiếm gì hết, ông ngồi vậy để hoài nhớ về cái thời mắt ông còn sáng, một cuộc tổng kiểm kê ký ức kéo dài hàng năm trời.
Ông nhớ cái thung lũng nằm kẹp giữa hai đỉnh núi lớn nơi làng Mùi đang sống, là do một người tên Mùi tìm ra vào năm 1944 – năm đói rách nhất của đất nước ta. Đầu tiên là một người, sau hai tháng là chín người, sau bảy tháng là hai mươi chín người. Người thứ hai mươi chín là ông.
Năm đó ông mười sáu tuổi. Hai mươi chín người tha phương cầu thực, bỗng vớ được một miếng đất tốt chưa ai biết, chưa có trong “lục sao địa bạ” của chính quyền. Họ mừng rơn, rủ nhau lập làng sinh sống. Rồi lấy nhau. Rồi sinh con đẻ cái. Lớp con cái lớn lên lại yêu nhau, lại sinh con đẻ cái. Cứ thế, cứ thế… cho đến bây giờ.
Chỉ có ông là bị đẩy ra ngoài cái vòng quay sinh tồn ấy. Khi tất thảy dân làng Mùi đang ra sức chống cự với cuộc chiến tranh từ trên trời rơi xuống để bảo vệ giống nòi thì ông ngồi ở bậc cửa lặng lẽ ngóng ra đường, âm thầm tìm kiếm từng mảnh vụn ký ức bốn mươi năm từ khi ông có mặt trên đời.
Chiến tranh đã rơi xuống hết thảy các cánh rừng. Hết cánh rừng này bốc cháy, lại cánh rừng khác... khi làng Mùi bị bốc hết lớp “ngụy trang” cuối cùng, trơ ra như một miếng thịt mỡ giữa cái mâm nhẵn thín thức ăn thì hy vọng “được sống đến ngày mai” coi như chấm dứt.
Thời gian sống của họ đầu tiên được tính bằng tháng này tháng kia… sau, tuần này tuần kia… sau, ngay này ngày kia… cuối cùng là sáng, trưa, chiều, tối.
Phải đến lúc này mới có người đàn bà thứ tư tìm đến ông, tìm đến ông chứ không phải ngược lại. Chị là người đàn bà táo tợn và ngoa ngoắt có một không hai ở làng Mùi. Khi nổi xung, chị sẵn sàng dí “vật hy sinh” của mình vào mặt bất cứ ai. Vì thế chị chưa có chồng, và chắc sẽ không bao giờ có chồng, nếu không đùng đùng đến gõ cửa nhà ông tối hôm ấy.
Tối hôm ấy là tối thứ chín mươi sáu làng Mùi có người chết. Mỗi trận bom quyết liệt từ bốn giờ chiều đến bảy giờ tối đã đưa con số tử vong dân làng Mùi lên tới một trăm mười tám người. Như vậy, chỉ: còn chín mươi ba người nữa.
Không có cách gì thoát được cái chết – đó là nỗi bất hạnh khủng khiếp nhất mà tất cả phải nhận lãnh. Đã nhiều lần, nhiều người tìm cách thoát ra khỏi “tọa độ máu” này bằng cách chạy tới một vùng khác nhưng tất thảy đều không thành: hoặc gục chết trên đường bỏ chạy, hoặc không sao vượt qua vành đai đạn lửa bao bọc quanh làng, buộc phải quay lui.
Cuối cùng người ta cay đắng nhận ra: làng Mùi là nơi an toàn nhất giữa một vùng đất trắng, tại đây con người có hy vọng kéo dài thời gian sống của mình được lâu nhất so với những nơi khác. Thế là không ai bỏ chạy nữa. Họ ở lại, và mỗi người đều thấp thỏm cầu mong mình được đứng cuối danh sách chín mươi ba người do thần chết điểm danh. Họ coi đó là hạnh phúc cuối cùng của đời họ.
Chỉ có ông là không thèm đếm xỉa đến cái danh sách khủng khiếp kia. Ông vẫn ngồi ở bậc cửa ngóng ra đường, âm thầm hoài nhớ những ký ức xa vời về cái thời trông – thấy – được của ông. Đã từ lâu ông mắc bệnh bất mãn trầm trọng đối với cuộc sống.
”Bác Thiệt!” – Chị kêu khe khẽ và thốt nhiên hai tai chị nóng bừng. “Cái gì?” – Ông hỏi, mắt vẫn ngóng ra ngoài đường. Chị run lên, mặt mày đỏ chín và vùng té chạy. Chị bứt ra khỏi nhà ông với tâm trạng không thể phân tích rành mạch được. Vừa xấu hổ cho mình là kẻ vô duyên, không dưng lại đến gạ lấy thằng mù; vừa ân hận nghĩ mình là con hèn, hắn ta đã làm gì mình đâu mà bỏ chạy? Vừa cay đắng cho thân phận của mình, chưa bao giờ nghe bọn đực tán tỉnh lấy một câu để đến giờ phải đến biếu không cho thằng sát vợ.
Chị chửi rủa mình. Lần đầu tiên chị chửi chị. Xưa nay chị chỉ chửi người ta, chửi hết lượt, nhưng chẳng ai sợ. Người ta cũng chẳng thù ghét gì. Hình như mọi người đều hiểu đó là sự trấn áp nỗi sợ hãi của chính chị khi đã gần bốn mươi tuổi vẫn “thân cô thế cô”. Chị chạy rối mù trong đêm tối cho tới khi tiếng khóc lóc thảm thiết của mười sáu gia đình có người thân chết vì trận bom ban chiều bỗng vang lên rền rĩ một góc làng khiến chị đứng sững lại.
Cái chết! Chị rùng mình, đứng ngơ ngẩn giữa đường làng. “Đồ ngu!” - Chị kêu lên. “Đồ ngu!” – Chị lại kêu lên và quay gót. Chị chạy vù về nhà ông. Chị đứng bên bậc cửa nói liên miên như mê sảng.
Chị chẳng hiểu chị nói gì nhưng ông dần dần hiểu ra. Ông kinh ngạc “nhìn” chị, “nhìn” mãi cho đến lúc chị đột nhiên im bặt, trân trố nhìn ông thì ông khẽ thở dài, lẳng lặng tiến về phía chị.
Họ đứng áp ngực vào nhau trong đêm tối. Bốn xung quanh là những con đom đóm lập lòe, xa hơn là những đám lửa cháy rừng kéo dài ngoằn ngoèo như những con rồng lửa. Họ tỳ vào nhau giống hai thân cây còi cọc bị bật rễ qua một trận bão lớn. Không ai nói với ai, không ai nhìn ai… cuối cùng là những giọt nước mắt của ông, một kẻ sát vợ, rơi xuống cổ chị từng giọt một cho tới khuya…
Sau đó những cuộc giao hoan ngút trời của họ làm rung chuyển làng Mùi mấy tháng liền, bất chấp những trận bom ném xuống làng ngày một dữ dội.
*
* *
Lẹ tên của chị – người đàn bà thứ tư cuối cùng cũng bỏ ông mà đi. Bỏ đi chứ không chết như ba người đàn bà trước, sau khi sống với ông trọn vẹn được hai năm. Nhưng ông không biết điều này cho đến bây giờ ông vẫn tin chị đã chết.
Đó là buổi chiều vào cuối năm l972 ông xách vài chục cái trúm (một dụng cụ bẫy lươn) lần mò xuống một con suối nhỏ nằm xéo về phía tây làng Mùi.
Từ ngày ông bị mù, đây là công việc duy nhất ông thực hiện được có hiệu quả kinh tế cao. Mỗi đêm ông bắt được vài chục con lươn, ăn uống thỏa thuê còn bán được dăm đồng. Khoảng ba giờ chiều ông xách trúm đi, sáu giờ chiều ông mò tới bờ suối, đặt xong trúm khoảng chín giờ đêm, mò về tới nhà vừa đúng nửa đêm.
“Lươn là lươn to này…, (i a)… lươn là lươn dài này… (i a)… ta bỏ vào trúm… (i a)… xách về cho vợ ta nhai… A ha ha ha!…”
Ông hát say sưa bài hát do ông bịa ra cho chính nghề của ông. Không có nhạc sĩ nào dư sức lại sáng tác cho cái nghề bẫy lươn của ông. Vậy thì ông tự sáng lác lấy, a ha, hay ra phết, càng hát càng thấy hay.
Buổi chiều hôm ấy ông cũng hát như vậy trong khi lần dò tới bờ suối. Vừa đặt xong được cái trúm đầu tiên thì làng Mùi ầm ầm liếng bom nổ. Ông dỏng tai nghe, nghĩ thầm: “Lần này không biết đến lượt ai?”‘ông khẽ thở dài, đưa tay giụi mắt. Mỗi lần đau đớn một điều gì ông thường làm vậy.
Sau cái giụi mắt, nước mắt ông tứa ra lấp đầy hai hố mắt, ông đưa lưỡi liếm cẩn thận từng giọt nước mắt chảy xuống, đau đớn ngóng về làng Mùi: “Lần này không biết đến lượt ai?” Làng Mùi chỉ còn bảy mươi mốt người nữa, sau trận bom này sẽ còn lại bao nhiêu?
Tiếng bom kéo rê quanh làng, đột ngột im lặng, rồi bỗng vang lên chấn động cả một vùng. Hơn một giờ sau, tiếng bom tắt hẳn, chỉ còn lửa cháy sáng rực. Rất nhiều nhà bị cháy, kể cả nhà ông, từng quầng lửa tung lên trời, hết lớp này đến lớp khác.
Không nom thấy ngọn lửa đang thiêu cháy làng Mùi, ông cho là yên bình trở lại. “Không biết bây giờ đến lượt ai?” – ông lắc đầu. “Thôi thì đến lượt ai cũng vậy… biết làm sao?” ông tiếp tục đặt trúm dọc con suối. Ông hát, hát say sưa, thỉnh thoảng ngửa cổ lên cười một chập rồi lại hát. “Rốt cuộc cũng đến lượt ta thôi. Rốt cuộc “sẽ gặp nhau dưới âm phủ tất!” – ông ngửa cổ cười ha ha, giụi mắt một cái lại cười ha ha ha… .
“Lươn là lươn to này… (i a)… lươn là lươn dài này, (i a)… Ta bỏ vào trúm… (i a)… xách về cho vợ ta nhai… A ha ha ha!…
Ông quay về làng, vừa đi vừa hát. Ông thấy khét khét quá, càng lùi sâu vào làng càng thấy khét. Đầu tiên là mùi khét bom, sau là mùi khét nhà cháy, sau nữa là mùi khét của xác chết… Hình như vậy.
- Lẹ ơi ?
Ông kêu to, không một tiếng đáp. Ông lao nhanh vào nhà và ngã sấp bởi một thanh gỗ cháy dở ngáng ngang lối đi, hai tay giúi vào một đống tro nóng rực.
- Lẹ ơi!
Ông chạy đi chạy lại, chạy đi chạy lại, run rẩy quờ quạng khắp nơi. Nhà ông bị cháy và Lẹ không lên tiếng. “Thế là đến lượt cô ấy”…
- Chết… tất cả… rồi?.
Ông gục mặt xuống vệ cỏ đường làng, ôm mặt khóc rưng rức. Một tiếng cú đột ngột vang lên. Lại một tiếng cú. Một tiếng cú nữa. Ông gào lên thảm thiết, hai tay chới với giữa trời. Tiếng cú vẫn vang lên như tiếng chuông cầu nguyện của rừng…
…Lẹ không chết. Bảy mươi mốt người còn lại của làng Mùi không ai chết. Họ đã được bộ đội cứu thoát và đưa đi trên hai chiếc xe giải phóng.
Khi đó ông đang đứng bên bờ suối cùng với những cái trúm bẫy lươn. Bộ đội từ đường 15 đã phát hiện có một xóm nhỏ nằm giữa thung lũng hẹp đang bị bom vùi. Họ lao vào lôi từng người một ra khỏi đám cháy. Lẹ được một người lính bế xốc lên vai, chạy. Chị bị thương ở ngực và đùi, máu phun ngược từng tia lớn.
Bảy mươi mốt người được dồn lên thùng xe. “Còn ai nữa không?” – Một người hỏi. “Hết.” – Một người trả lời. “Chạy ! ” – Một người ra lệnh. Hai chiếc xe Giải phóng lao ầm ầm xuống dốc. Làng Mùi trước mặt mọi người là những ngọn lửa cao vút lên trời. Lẹ tỉnh dậy sau ba giờ xe chạy, chị lờ mờ nhớ ra… “Chồng tôi đâu?” – Chị kêu to – “Chồng tôi hả? Chồng… tôi…” Không ai trả lời, hoặc có người trả lời mà chị không nghe thấy.
Chị lịm đi, chỉ còn nhớ mình khát quá, khát không thể nào chịu được. Chị chợt thấy có một con suối trong veo, tràn qua ngực mình. Con suối nhiều nước quá, nước ngập tràn, ào ào chảy vào những cái trúm đầy lươn cứ dập dềnh, dập dềnh…
Vào lúc đó, chồng chị đang lê lết khắp làng, ôm mặt khóc rưng rức.
*
* *
Ba mươi chín lon rưỡi gạo, mỗi ngày ăn nửa lon, vậy là ông sẽ sống ít nhất bảy mươi lăm ngày nữa. Ông mỉm cười. Bây giờ trăng đang lên, ông nhận thấy bằng cảm giác rân rân, máy lạnh ở hai thái dương. Những lúc lòng ông yên tĩnh nhất, hai thái dương còn cho ông biết mặt trăng đang nằm ở hướng nào, méo hay tròn.
Vậy là ông cảm được ngày và đêm, ngày và đêm, lại ngày và đêm… ông sống đơn độc giữa thung lũng này. Cứ qua mười ngày, ông lại tìm một cái cọc cắm sâu giữa sân nhà. Đã bảy mươi chín cái cọc được cắm xuống, vậy mà không có ai tìm đến ông, dắt ông ra khỏi vùng rừng hoang vắng này.
Tám mươi chín cái cọc, nghĩa là thiếu vài cái cọc nữa sẽ chẵn hai năm. Ôi chao, hai năm! Ông đã trụ được hai năm! Trên thế gian này hỏi có ai như ông? Không có! Không thằng đếch nào được như ông hết! Ông ngửa mặt cười ha hả…
Ông nhớ nhất cái cọc đầu tiên được cắm xuống. Đó là mười ngày lạ lùng của đời ông. Ngày thứ nhất, ông ngồi ôm mặt khóc cả ngày, lúc lúc ông bật dậy chạy như điên, hét vang rừng.
Ngày thứ hai, ông im lặng chờ chết. Sống không có người hỏi sống có tích sự gì nữa? Ông ngồi lên một tảng đá cao, chờ máy bay tới. Coi như xong một đời người, coi như xóa tên năm dòng họ giữa thung lũng này.
Ông là người chứng kiến tất cả cái chết người làng Mùi, giờ đến lượt ông. “Bố mày đến lượt đây này, bớ Đế quốc Mỹ!” – Ông gầm lên. Nhưng máy bay không tới, hôm đó là ngày yên tĩnh – Không có tiếng máy bay, cả tiếng ôtô bộ đội chạy trên đường 15 cũng không có.
”Mẹ khỉ? Cái gì muốn đều đếch được.” – ông cười gằn. Ngày thứ ba, ông quyết định sống. Chưa nghĩ ra lý do sống để làm gì nhưng ông quả quyết chờ chết là kiểu chờ đợi ngu nhất.
”Thôi bỏ mẹ tôi rồi suýt nữa bỏ mạng!”- Ông hét toáng lên và tung tăng đi mò gạo nấu cơm. Nhà ông bị cháy, hãy còn hũ gạo mời hai lon chôn dưới gốc đào. Ông moi lên, nấu đầy một xoong to, và ăn ông ăn cả ngày, vừa nhẩn nha nhai cơm với muối rang vừa nghĩ ngợi lung tung, chưa ra đầu cua tai nheo gì hết. Cuối cùng ông quyết định: sống, nghiến răng mà sống, chờ người đến đưa về đồng bằng. Đường 15 không xa, nhất định bộ đội sẽ phát hiện ra ông.
Ngày thứ tư, ông lò dò tìm đến từng nhà trong làng, gom từng lon gạo rơi vãi. Ông nhận định: sẽ còn lâu bộ đội mới tìm ra ông, vậy phải “dự trữ chiến lược”. Bốn ngày sau đó, ông liên tục đi tìm gạo, muối và tất cả những gì có thể nhai được về chất đống trong túp lều của ông vừa mới dựng tạm, để “bò vào bò ra” bằng các mảnh tranh, tre sót lại sau đám cháy.
Ngày thứ chín, ông chợt nhận ra hình như máy bay không còn oanh tạc nữa, hình như đã bốn ngày nay không có tiếng máy bay, có lẽ vì mải tìm nguồn “dự trữ chiến lược” mà ông không để ý. “Ờ nhỉ, ngay cả tiếng ôtô trên đường 15 cũng thưa thớt hẳn”. – Ông nghĩ thầm, hồi hộp chờ đợi…
Ngày thứ mười… chao ôi, cái ngày thật đáng nhớ. Buổi sáng, ông trở dậy, đi ra ngõ dỏng tai lên nghe. Ông đứng im phắc hàng giờ liền, chờ đợi… không có tiếng máy bay, vẫn không có tiếng máy bay! “Hay là hết chiến tranh?” – ông run lên. “Có thể lắm chứ!” trống ngực ông đập thình thịch, mồ hôi chảy đầm đề ngực áo. Ông sợ cái điều vừa phát hịên bỗng chốc biến mất.
Kiên nhẫn nắng nghe thêm vài giờ nữa, khi đã hết mức chịu đựng, ông hét lên: “Hoà bình! Hoà bình! Ối cha mẹ ơi!…” Ông vừa chạy vừa hét: “Hoà bình rồi, bà con ơi, Lẹ ơi…. Sao không ai gắng sống thêm mười ngày nữa…”- ông ngồi khóc tu tu.
Đến sẩm tối, ông bàng hoàng nhận ra chính mình đang gặp phải bất hạnh mới. Ờ nhỉ, nếu hoà bình thì…gay! Gay to rồi! Đường 15 sẽ không có ai lên và chẳng ai đến thung lũng này làm gì nữa, tất cả sẽ nhào về đồng bằng để kiếm sống. Vậy là chỉ mình ông thôi, mình ông sống vật vời ở đây cho tới ngày hết số lương thực “dự trữ chiến lựơc”.
- Bỏ mẹ tôi rồi” – Ông kêu lên đau đớn…
Quả đúng như vậy. Đã hai năm ròi vẫn không có ai lên. Số lương thực “dự trữ chiến lược” đã cạn. Thần chết đang đuổi bắt ông từng ngày một. Làng Mùi đã biến dạng không còn làng nữa, chỉ là vùng đất bằng đầy cỏ tranh và những cây dẻ non mọc rậm rịt.
Những con thú nhỏ đã tìm về sinh sống. Đôi khi có những bày lợ rừng ké nhau qua mặt ông, đôi khi có vài con rắn trườn qua bụng ông vào những giờ ông ngủ…
Đã nghe tiếng mang tác mỗi ngày mỗi gần. Và sau đó là tiếng hổ, thỉnh thoảng có tiếng hổ gầm lên ghê rợn ở phía sau con suối năm xéo phía tây làng Mùi.
Nhưng mọi sự hăm doạ của súc vật không làm ông sợ hãi bằng nõi cô đơn khủng khiếp mà ông đang chịu đựng. Ông nhớ đời sống làng Mùi, nhớ phát điên lên được. Nhớ ông Sạc sứt môi hay ca vọng cổ, chị Tím tâm thần hay đứng nói một mình, thằng Hi hay ăn trộm gà hàng xóm, mụ Xanh chúa chửa hoang… và Lẹ, người đàn bà táo tợn, ngoa ngoắt có một không hai ở làng Mùi. Khi nổi xung, Lẹ sẵn sàng dí “vật hi sinh” của mình vào mặt bất cứ ai. Thế mà ông đã yêu chị, yêu đến phát cuồng mỗi bận bế xốc tấm thân nóng rực ấy nên mà hôn mà cắn mà run bắn,…
Tất cả đã chết, làng mùi đã chết, chỉ còn ông. Bảy mươi chín cái cọc đã cắm lên ghi dấu sức chịu đựng chịu đựng về nỗi cô đơn của ông.
Một đêm, ông nằm mơ thấy có hàng vạn người chạy ào ào từ đồng bằng lên đây tìm mình. Họ vừa chạy vừa đồng thanh hô lớn: “Cứu lấy ông Thiệt! Cứu lấy ông Thiệt! Cứu lấy ông Thiệt! Cứu! Cứu! Cứu! …..” Trong đó có Lẹ, nước mắt chảy đầm đìa, chị chạy như điên về phía ông.
Ông choàng tỉnh, ngay lập tức tìm cái cọc dài chạy đến hai hòn đá lớn, một vuông một tròn nằm kẹp chặt cái hũ gạo như quả bầu khô đã hơn hai năm nay, nhiều lần ông cố sức bật nảy hai hòn đá ấy nên nhưng không được. Lần này thì phải được, nhất định được, bởi vì ông nhớ người quá. Phải về đồng bằng… về với mọi người… Một, hờ… hai” – ông rướn lên… A, ha ha, hòn đá đã thua ông, nó nặng gấp chín chục lần thân xác ông mà thua ông….
Đổ ba mươi chín lon rưỡigạo đã rang chín vào ống quần dài, quàng lên cổ, một tay cầm con dao phay đã quá cùn, một tay cầm gậy chống. Ông hăm hở lên đường. “Về xuôi, phải về xuôi, về với mọi người!” – Ông nhắc đi nhắc lại hàng vạn lần trong quá trình hành tiến về với loài người, Ông là người thì phải sống với người, hoạ là thằng ngu mới cam chịu sống với súc vật.
Đồng bằng ở hướng mặt trời mọc. ở hướng mặt trời mọc mọi người đang sống. Thế thì ông phải đi. Chết cũng phải đi. Có cái gì nhai được nữa đâu mà không chết? Vậy thì liều mạng rời bỏ “xã hội xúc vật” là đúng. Nếu chẳng may không về được với loài người thì ông buộc chấp nhận cái chết, tốt thôi.
Nhờ hai thái dương như cái địa bàn, ông định hướng mặt trời mọc. Không cần đường sá, ông vừa đi vừa bò vừa chui… cứ hướng mặt trời mọc mà ông tiến, đếch sợ!
Ngày đi, đêm nghỉ vì ban đêm hai thái dương không hoạt động được, ông sợ mất phương hướng. Vài ngày đầu ông hơi mệt, mệt và nhừ chân. Sau quen dần, ông thấy cái việc hành quân này còn sướng hơn gấp mấy ngồi co ro ở thung lung lung kia mà nghe chim kêu vượn hót.
“Về xuôi, về với mọi người”. Ông lầm bầm đọc thần chú, cắm cổ bước. Ông tưởng tượng mọi người đổ xô ra đón ông như thế nào. Họ từ bốn phương tám hướng chạy đến, kẻ ôm xốc ông, kẻ reo hò, kẻ đứng ôm mặt khóc.
Chứ sao, có ai như ông không nào? Trên thế gian không có thằng đếch nào cả gan sống với thú vật hai năm trời như ông! “Tội nghiệp” – Mọi người nói. “Một người dũng cảm! – Mọi người lại nói “Một người anh hùng!” – Mọi người đồng thanh hô lớn và deo hò. Và tung hê ông lên trời.
Ông ngửa cổ cười lớn mỗi khi nghĩ đến cái giây phút thần tiên đó. Ông hăng lên, bước bước bước, rồi bò, rồi chui… liên miền ngày này qua ngày khác…
Hơn hai tháng sau, ông gặp được đồng bằng, thật không ngờ, vừa chạm phải cửa rừng ông đã chạy vù vù. “Đồng bằng! – Ông hét lên – “Trời phù hộ tôi!” Vứt hết dao, gậy gạo, ông chạy. Ông bước hụt xuống một thửa ruộng sau. Lúa! Lúa! “Mọi người! – Ông kêu váng và ráng sức chạy băng qua hết thửa ruộng này đến thửa ruộng khác.
Khi đã kiệt sức. Ông đứng lại thở, vừa thở ra cười : “Gắng lên? Chỉ vài tích tắc nữa là gặp mọi người thôi mà, gắng lên !…” – Ông thở hồng hộc, cắn răng bước từng bước nặng nhọc. Rồi ông bò, bò như một con bò bị thương lê lết qua từng thửa ruộng. Cho tới khi ngất xỉu…
Bây giờ một mình ông, lại vẫn một mình ông, ngồi tựa vào một vách lều hát nghêu ngao giữa chợ thị trấn Đ. đã tàn khách ông đã về với mọi người và những đám đông ông tìm đến là những cái chợ. Phút gặp gỡ đầu tiên của ông với mọi người cũng là một’cái chợ nằm trên cồn đất nhỏ giữa cánh đồng.
Người ta lôi cái xác mềm nhũn, bê bết bùn đất của ông lên giữa chợ. Bao nhiêu người lớp trong vòng ngoài vây quanh ông. Ông tỉnh dậy vừa lúc chợ sắp tàn: ông nghe tiếng người, bao nhiêu là tiếng người lao xao, lao xao…
- Mọi người ? – Ông vùng dậy kêu vang.
Rồi ông quờ tay: chân người. Ối cha mẹ ơi, chân người! Ông òa khóc. Tất cả những ai sót lại trong cái chợ sắp tàn đều chạy đến chỗ ông.
- Bà con ơi, tôi là Thiệt đây!… Tôi ở rừng, hu hu…
Người ta chen nhau vào nom cho được cái người tên là Thiệt đang bù lu bù loa về một chuyện gì đó mà chẳng ai hiểu gì cả. Còn ông thì hết ôm chân người này lại quay sang người khác, khóc nức nở. Một vài người đàn bà hét toáng lên. Chân giãy mạnh khi ông ôm chầm lấy… Họ cười, ôm bụng mà cười. Ông khóc dữ hơn. Vật vã giữa những bàn chân người. Cuối cùng mọi người cũng đã hiểu ra.
- Bây giờ bác tính về đâu? – Một người hỏi. .
- Tôi về với mọi người. – Ông mếu máo.
- Bác tìm ai? Tức là người đó ở đâu? tên gì?
- Một người khác hỏi.
- Tôi về với mọi người: – Ông vẫn mếu máo.
Nhiều người bịt miệng cười, bỏ đi. Một người đàn ông bực dọc khi nghe ông cứ trả lời như một thằng điên, liền quát:
- Về với ai thì cứ nói đi, người ta chỉ cho. Mọi người là cái đéo gì?
Cổ họng nghẹn đắng, một lát sau ông gầm lên:
- Tôi không hỏi ai hết? Tôi về với mọi người!
- Ô hô hô….
Tất cả cười vang, giải tán. Ông chạy quanh, hai tay quờ quạng. Những bàn chân người đã biến mất, chỉ còn gió và những tiếng cú kêu chập chờn trong hoàng hôn. Ông rũ xuống nức nở khóc mãi.
Đến khuya ông trấn tĩnh trở lại. Ngồi một mình giữa chợ hoang vắng, ông mới ngớ ra: Ờ nhỉ, ông về xuôi để tìm ai mới được chứ? Ngu! Ông ngu quá! Bất chợt ông ngửa cổ lên trời cười ha hả.
Ông tìm về một chợ khác, lại một chợ khác một chợ khác nữa. Bây giờ một mình ông, lại vẫn một mình ông giữa chợ thị trấn Đ. đã tàn khách. Ông ngồi tựa vào một vách lều hát nghêu ngao. Vẫn bài hát đi bẫy lươn ngày nào ông đã hát dọc con suối nằm xéo phía tây làng Mùi.
Làng Mùi đã chết, chỉ mỗi mình ông cô đơn giữa cái chợ đã tàn khách. Ông nhớ làng Mùi, nhớ kinh khủng. Nhớ ông Sạc sứt môi hay ca vọng cổ, chị Tím tâm thần hay đứng nói một mình, thằng Hi hay ăn trộm gà hàng xóm, mụ Xanh chúa chửa hoang… Tất cả đã chết. Ông cũng đã chết theo họ, ông không có mặt trong đời sống bây giờ, bởi vì ông chỉ là cái bóng giữa chợ đông người.
Người ta coi ông như một kẻ ăn xin. Nhiều người thương ông, giúi vào tay ông một củ khoai luộc, một tấm bánh chưng, môi khúc thịt luộc… ông ăn, đói quá thì ông ăn nhưng ông luôn mồm nói với mọi người rằng ông không phải là kẻ ăn xin. Không phải: ông chết rồi: chết rồi cùng với Lẹ, người đàn bà thứ tư và toàn thể dân làng Mùi… Bây giờ ông đang trôi nổi giữa đời sống dân làng Mùi, một đời sống chập chờn lúc ẩn lúc hiện…
Lươn là lươn to này… (i a) … Lươn là lươn dài này… (i a) … Bài hát của ông trôi nổi giữa hoang vắng trong đêm tối. Phơ phất những ngọn lá mía khô trên mái lều, ngớ ngẩn tiếng chó sủa hờ, vênh váo tiếng ôtô trên đường cái quân… chừng như muốn bẻ vụn bài hát của ông.
Đôi khi ông chợt nghe tiếng bước chân rất khẽ đi quanh ông. “Ai đó?” – Ông ngừng hát hỏi. Chẳng có ai trả lời, tiếng bước chân cũng tắt ngấm. Lại vẫn tiếng hát của ông trôi nổi giữa hoang vắng. Ông hát để tự ru mình: “Ngủ đi, ngủ đi mày, cái thằng ngu…” Và ông ngủ say sưa cho tới sáng.
Đêm nay cũng vậy, ông đang tự ru mình. Lại có tiếng bước chân. Chắc là người nào đang nghè trộm bài hát của ông. “Mặc bố nó!” – ông vẫn hát, không thèm dừng lại hỏi: “Ai đó?” như mọi khi. Làng Mùi đã chết, chỉ còn ông. Trong ông, tất cả đã chết. Chỉ còn làng Mùi. Tiếng hát ông chìm dần. chìm dưới đáy con suối nằm xéo phía tây làng Mùi đang chảy róc rách qua ngực ông.
Chợt có tiếng động khẽ, rất khẽ. Ông ngừng hát, đầu nghếch sang trái. Một bàn tay bất chợ giúi vào tay ông một “nắm tiền” vừa chạm phải ông đã biết đó là một khoản tiền lớn.
- Ai? Ai cho tôi tiền đây.. – Ông chộp lấy tay người đưa tiền giữ chặt. Đấy là tay một người đàn bà, ông run lên.
Ai đây? – ông hỏi và lập tức ôm quàng lấy chân người đàn bà đang cố bứt ra khỏi tay ông. Một cái quẫy mạnh. Ông ngã ngửa. Người đàn bà bỏ chạy. Ông vùng dậy đuổi theo. Lập tức trống ngực ông đập thình thình:
- Lẹ! Có phải Lẹ không?
Người đàn bà đã chạy khá xa. Ông vừa chạy vừa ngã giúi giụi.
- Lẹ! Lẹ ơi ! Lẹ?
Ông hét vang vang, lồng ngực ông muốn vỡ tung, ông chạy, cứ chạy. chạy mãi và rơi vào một cái hố sâu có lẽ là một hố bom. Ông ôm mặt khóc rưng rức…
Lẹ – người đàn bà thứ tư đã bỏ ông mà đi, bỏ đi chứ không phải chết như ba người đàn bà trước. Bây giờ chị có một tên khác, một nghề khác, một lý lịch khác để lấy một người chồng khác ở ngay thị trấn Đ này. Chẳng hiểu vì sao vậy. Chỉ biết chị đương chạy trốn ông, vừa chạy vừa khóc. Tiếng ông gọi tên chị vang vang. Chị lập tức biến vào đêm tối của mọi người.
Ông bò lên khỏi hố bom lập cập mò về chợ. “Lẹ, đúng là Lẹ rồi” – ông rền rĩ: Đã hai năm ôm ấp nhau lẽ nào ông không nhận ra...
- Lẹ ơi, sao lại thế?… – ông kêu gào thảm thiết.
Nhớ đến nắm tiền hãy còn trong tay mình. Ông giơ nó lên cao – “Lẹ ơi sao lại thế này?…” .
Ông khóc mãi. khuya lắm ông mới ngừng khóc, ngồi tựa vào vách lều ngửa cổ cười gằn. Ông giơ nắm tiền lên cười miết – “Cái này đây để tao về với mọi người à? Tiên sư bố nó”.
Ông rút bao diêm thủ kín trong ngực áo ra. Xòe lửa. Cháy! Tiên sư bố nó! ông tung nắm lửa trên trời, đứng cười ha hả. Nắm lửa rơi xuống túp lều thứ nhất. cháy! Rồi túp lều thứ hai bắt lửa cháy! Cháy? Cháy! Ông hoảng lên, cố thoái ra khỏi đám cháy.
- Chợ cháy? – Ông kêu to – Bà con ơi. Chợ cháy!
Keng keng! Keng!
Tiếng kẻng báo động, liếng la hét, tiếng kêu cứu, tiếng chân người ào ào ào… lao về chợ. Dập ngay
- Phía này! Cát đâu? Nước?
- Nước! Nước!
- Cứu!
- Keng ! Keng ! Keng!
- Thằng nào đốt chợ?
- Thằng nào đất chợ?
- Thằng nào đốt chợ?
Ông nghe rõ tất cả, mồ hôi chảy đầm đìa. Ông bỏ chạy, cắm cổ chạy sấp ngửa trong đêm lối. Sau gáy ông vẫn vang vang tiếng người quát, tháo: “Thằng nào đốt chợ”‘ ông chạy vù vù.
Ngày hôm sau người ta không thấy ông ở chợ nữa. Người thì nói ông đã bỏ trốn, người thì nói ông đã bị cháy thành tro cùng với hàng trăm túp lều lá mía.
Mãi đến chín năm sau, mùa hạ 1983, tôi đi theo đoàn địa chất đi khảo sát quặng sắt ở miền tây Quảng Bình, có gặp một cái dốc ngắn, nhiều đá tai mèo gọi là ‘Dốc vượn mù’. Một người trong đoàn kể rằng: Có một con vượn mù ngồi trên chạc ba cây dẻ ở đỉnh dốc ngửa cổ cười suốt ngày. Cười đến ngày thứ một trăm thì rơi xuống chân dốc chết đáng thương như một con người
Thằng Dư
Đó là thằng Dư, ở sát ngay sau hồi nhà mình. Cái xóm nhà mình ngày xưa giống y chang cái nồi lẩu đủ món sang hèn. Một nhà ăn mày, một nhà giáo viên, một nhà bí thư tỉnh uỷ, một nhà cướp giật, một nhà đĩ điểm, một nhà giáo sư, một nhà buôn lậu. Nhưng là cái xóm hoà thuận nhất Thị trấn vì không nhà nào thèm giây với nhà nào.
Nhà thằng Dư có ba mẹ con, mạ nó hành nghề đĩ điếm đẻ ra hai đứa, nó là Dư, em gái nó là Thừa, chắc mạ nó nghĩ giá không đẻ đứa nào thì mới đủ.
Nhà nó về ở sau nhà mình khi nó 12 tuổi, em nó 2 tuổi. Mạ nó tên gì mình không nhớ nữa, chỉ nhớ như in sáng nào mạ nó rời nhà vào Đồng Hới hành nghề thì cả xóm đều biết.
Không hiểu sao cứ ra khỏi nhà mười bước thì bà mới quay lại gọi Dư ơi! Rồi dặn thằng Dư nấu cái này nấu cái kia, thằng Dư dạ, bà đi thêm mười bước nữa lại Dư ơi, lại dặn lấy cái này lấy cái kia, thằng Dư dạ, bà đi thêm mười bước lại Dư ơi, lại dặn mua cái này mua cái kia, thằng Dư dạ, bà đi thêm mười bước nữa bà lại Dư ơi, lại dặn trông em thế này cho em ăn thế kia… có chục lần như vậy rồi bà mới đi hẳn. Cả trăm buổi sáng như một.
Thằng Dư hơn mình 2 tuổi nhưng khi nào nó cũng gọi mình bằng anh, xưng em. Tóm lại con cái trong xóm bất kể lớn bé nó đều gọi anh chị, xưng em, chẳng phải riêng mình.
Nó bị dị dạng từ khi mới lọt lòng. Chân phải bình thường, chân trái có hai đầu gối, một đầu gối bình thường và một đầu gối mọc thêm ở giữa cẳng chân, có xương bánh chè đàng hoàng, không phải khối u, giồng hệt cái đầu gối thật.
Vì thế nó đi rất khó khăn, mỗi bước đi đều khuỵ xuống hai lần, y như người ta nhún vậy. Nó đi từ nhà ra chợ rồi quay về, tổng cộng 3 cây, trọn vẹn một buổi sáng.
Mạ mình nói mày muốn mua gì bác mua giùm cho, nó nói không, cứ thế lưng cõng em, mỗi bước đi nhún hai nhún cứ thế lết ra chợ rồi lết về, ngày nào cũng thế.
Nhiều khi đi cùng đường, mình nói đem tao cõng em cho đi cho nhanh, nó nói không, cứ thế lầm lì đi đi nhún nhún. Có hôm mưa to quá, mình nói đem tao cõng em cho về mau không ướt hết, nó nói không, cứ thế nhún nhún đi đi trong mưa.
Hình như óc nó không có khái niệm giúp đỡ hay nhờ vả, chưa thấy nó sang nhà ai bao giờ, kể cả 3 ngày tết. Mình vẫn hay lân la sang nhà nó, hỏi cái gì nó cũng trả lời nhát một, ít khi nói quá 3 từ.
Mặt nó trông sợ lắm. Mắt trái bình thường nhưng mí mắt phải là một khối thịt lớn trùm xuống đến tận cằm. Ai chưa quen, nhìn mắt nói ghê lắm, về không ăn được. Mình đã lật cái mí mắt phải nó lên, trong đó là một miếng thịt hồng tươi, nhầy nhụa máu.
Vì thế mỗi khi nó khóc, mắt trái chảy ra nước mắt, mắt phải chảy ra máu. Sợ chết đi được. Nó ăn cơm, cúi gằm mặt và cơm, mí mắt phải nhúng cả vào bát, nó cũng mặc kệ. Mình hỏi nó sao mày không vào viện cắt đi cho khỏi vướng. Nó cươì nói không. Mình hỏi sao, nó nói trời cho.
Mạ nó đi từ sáng, khuya mới về, mình nó ở nhà trông em. Em khóc, nó chỉ ôm em lắc lắc, không nói không hát, chỉ ngồi lắc lắc vậy thôi.
Mình 17 tuổi, to cao như người lớn, nó vẫn bé vậy, không lớn thêm được chút nào, 19 tuổi đầu vẫn bé tí, em gái nó còn lớn hơn cả nó.
Chiều hôm đó, mùa hè năm 1974, mình đi thi đại học về gặp nó cõng em vừa đi vừa nhún trên đường cái quan, giữa nắng chang chang.
Không phải cõng, nó khuân em như khuân một bao tải nặng trịch trên lưng. Em nó nằm sấp sau lưng nó, hai chân quệt đất, cứ thế để cho nó kéo đi.
Mình hỏi em mày sao, nó nói nóng. Mình nói đem tao cõng xuống viện cho, nó nói không, cứ thế nhún nhún đi đi.. Mình giật lấy em nó đòi cõng thì thấy em nó lạnh ngắt, cứng queo từ lúc nào.
Mình nói em mày chết rồi. Nó nói không, lầm lì kéo em đi, vừa đi vừa khóc, mắt trái dầm dề nứớc mắt, mắt phải dần dề máu.
Nhiều lần muốn làm phim về nó quá nhưng sợ các xếp phê bình đen tối, lại thôi.
Ký ức 5 hào
Thủa bé đi học không sợ gì chỉ sợ đến ngày nộp học phí.
Lương ba hình như 105 đồng, gọi là lương cao, nhưng 7,8 miệng ăn, chưa đến nửa tháng đã hết tiền. Suốt cả thời kì ấu thơ của mình, nhà mình khi nào cũng khốn đốn chuyện nợ nần.
Có 8 hào học phí, mua được 16 cái kẹo văn, mà lần nào về xin học phí mạ cũng gắt um lên: Đi học sau này có làm vương làm tướng chi không mà tháng nào cũng đòi tiền tao.
Mình ngồi khóc ri rỉ từ sáng đến chiều, cuối cùng mạ cũng cho. Mừng hết lớn.
Nhưng tháng sau lại lặp lại y xì tháng trước, khốn khổ vô cùng.
Có lần cô giáo nói: Nhà thầy Đạng mà không có 8 hào học phí à, vô lý. Nhục quá đã tính tự tử.
Cho nên khi được giải học sinh giỏi lớp 4 của huyện, hình như giải 2, giải 3 gì đó cả văn lẫn toán, được thưởng 8 đồng, mừng muốn ngất, trông các thầy các cô nói cho nhanh xong buổi lễ mừng công để chạy ù về đưa tiền cho mạ.
Mạ cười xoa đầu nói giỏi rồi rút ra cho mình 5 hào.
Sau này đã có lúc làm đến vài trăm triệu nhưng chưa bao giờ có được cảm giác hân hoan như khi cầm 5 hào mạ cho ngày ấy.
Bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy rưng rưng.
Mình cầm 5 hào chạy ù xuống nhà con Hà khoe: tao có 5 hào!
Tưởng nó phục lắm, hoá ra nó vặn lưng quần chìa ra một tờ 5
hào, cười he he he.
Mình vừa ngượng vừa tức, cứ xử nó tiêu hết 5 hào đi để mình
nhiều tiền hơn nó nhưng nó kiên quyết không.
Hồi này làng Đông Dương chẳng có quán xá gì. Mọi thứ chỉ chờ
đến sáng có phiên chợ thì mua. Chợ họp nhanh, mặt trời chưa quá con sào đã tan, sợ máy bay bắn. Mình thì học buổi sáng, thành ra suốt tuần chẳng mua được gì.
Cứ mong đến ngày chủ nhật, nhất định mua 2 cái bánh tráng với 2 lát bánh đúc ăn một bữa cho đã. Còn lẩm nhẩm tính cho đứa nào, không cho đứa nào.
Con Hà thì nhất định cho nó rồi. Sáng nào đi học nhờ nó mà mình không bị đói.
Có bất kì cái gì nó cũng để phần cho mình, kể cả mấy lát khoai deo. Em nó đòi nó không cho, kiên quyết để dành cho mình.
Con Hà dong dỏng cao, trắng trẻo, tóc dài ( giống Thu Hà báo Tuổi trẻ he he). Nhà nó 5 chị em gái, ai cũng xinh.
Mới 11 tuổi ngực nó đã nhú trái cau. Thỉnh thoảng nó lại vén áo cho mình xem đôi núm vú bé xíu của nó. Mình lấy ngón tay ấn ấn hỏi đau không, nó nói mới mọc hơi đau đau giờ hết rồi.
Mình nhìn đôi núm vú say sưa, nói hay hè. Nó nói rồi to bằng người lớn tề. Mình nói tởm hè. Nó lườm nói tởm răng mà tởm, phải to bằng người lớn để cho con bú chớ. Minh nhăn răng cười, nói tởm.
5 hào mình để trong túi, thỉnh thoảng giật mình mò vào túi, vẫn còn, thở phào nhẹ nhõm. Sau sợ mạ hay lấy áo giặt bất thình lình làm nát tiền, mình kẹp vào chính giữa cuốn vở bài tập toán.
Thế mà mất. Sáng thứ 7 mình soạn vở đi học, mở cuốn bài tập toán ra xem: 5 hào không còn nữa. Đêm qua trước khi ngủ kiểm tra vẫn còn, sáng dậy đã mất.
Mình ngồi lặng ngắt, mồ hôi trán ướt đầm, nước mắt cứ thế chảy dàn dụa.
Nghi nhất anh Thắng, anh Tường nhưng không bắt được tay vay được cánh đành chịu.
Mình đến lớp ngồi im. Con Hà đưa cho củ khoai nướng không ăn, hỏi gì không nói. Mãi sau nó không hỏi nữa thì lại nói: tao mất 5 hào rồi. Nó giật cuốn vở bài tập toán lật lật mấy trang rồi chìa ra tờ 5 hào, nói đây nì!
Mình nhảy cẩng lên, sung sướng quay cuồng. Mười năm sau mới biết đó là 5 hào của con Hà, nó làm vậy cho mình vui, chứ khi đó thì hoàn toàn không biết.
Nó nói để tao cất cho, mi cất mấy anh lấy mất. Mình nói mai mi đi chợ mua ăn hết luôn. Nó nói mua chi, mình nói bánh tráng bánh đúc, chỉ hai đứa mình ăn thôi, không cho đứa mô hết. Nó nói ừ không cho đứa mô hết. Mình nói ừ không cho đứa mô ăn hết. Hai đứa vừa tranh nhau nói vừa nuốt nước bọt ừng ực.
Sáng chủ nhật ngủ dưới hầm, ngủ chán mắt thì thôi, nghe bom nổ ầm ầm cũng không thèm dậy. Đến khi chui ra khỏi hầm thấy mạ đứng nói với mấy người hàng xóm bom thả trúng chợ chết hết rồi.
Lúc đầu cũng chỉ ngồi nghe thế thôi, sau sực nhớ sáng nay con Hà đi chợ, mình ù té chạy xuống chợ.
Chợ ở đầu làng, nằm dưới rặng trâm bầu. Mình chạy xuống chẳng còn ai, chỉ có mấy anh dân quân đang dọn dẹp.
Bốn quả bom thả trúng chợ, nát bét hết, nước mắm, muối, bún, bánh đa, bánh đúc, thịt cá lẫn trong máu, cát và thịt người.
Mấy anh dân quân đuổi mình đi, nói chạy mau lên không máy bay quành trở lại đó.
Mình chạy về nhà con Hà.
Nhà nó chật kín người, cả nhà nó đang khóc rú.
Mình chen vào.
Con Hà nằm trên tấm chiếu hoa trải giữa sân, phủ một tấm vải trắng trùm kín đầu. Không thấy gì hết, chỉ thấy bàn tay nhỏ xíu của nó chuồi ra khỏi tấm phủ đang nắm chặt khư 5 hào.
Mình không khóc, mình nhớ như in khi đó mình không khóc.
Xóm gái hoang
1.Hồi sơ tán ở làng Đông, nhà mình ở đầu làng, từ đấy cứ đi ngược lên phía Tây Bắc, băng qua rặng trâm bầu là gặp một cái bàu sen cực rộng, rộng đến nỗi đứng bên này bờ cứ tưởng mặt trời chui lên từ bờ bên kia.
Bàu sen nước đen ngòm, sen và súng mọc tràn lan, chẳng ai chăm sóc. Không mấy khi thấy hoa sen, hễ có cái hoa nào mới nở là con nít vặt liền, đài sen cũng không thấy, chỉ thấy mỗi lá không thôi. Con nít ra đây không phải hái hoa sen, chủ yếu là bắt cá lia thia.
Cá lia thia ở đây rất đẹp, to, khoẻ, chọi nhau rất hay. Mình cũng hay ra đây, lọ mọ suốt ngày phục bắt cá lía thia về chọi nhau với cá tụi bạn.
Bên kia bàu là một xóm nhỏ, có mấy túp lều tranh cất tạm, núp dưới rặng trâm bầu, xưa gọi là Xóm Bàu, bây giờ ai cũng gọi là Xóm gái hoang. Ba người đàn bà ở đấy không phải gái chửa hoang, đấy là những người đàn bà bất trị.
Người nhiều tuổi nhất là mụ Cà, năm 1967 mụ chỉ hơn bốn chục tuổi.
Mụ Cà lấy chồng lúc 16 tuổi nhưng mãi không có con, chồng mụ chán đời uống rượu say, té xuống ao, chết. Khi đó vào năm 1953, mụ mới 31 tuổi, tham gia đội du kích rất tích cực.
Đội trưởng du kích khi đó là cu Miễn, rất khen ngợi mụ, họp đội du kích nói đồng chí Cà nợ nước thù nhà, chiến đấu rất hăng say.
Mụ Cà đứng lên nói bá cáo tui chỉ nợ nước thôi, không có thù nhà. Cu Miễn nói Đế quốc Pháp lừa bịp dân ta, cho uống rượu say, nhiều người chết, trong đó có chồng đồng Cà, thù nhà của đồng chí Cà là ở chỗ đó đo.
Mụ Cà cười nói oa rứa a, oa rứa a.
Cuối năm 1953 Pháp từ Ba Đồn càn lên làng Đông, dân làng bỏ chạy cả, chỉ còn đội dân quân vẫn ở lại giữ làng. Mụ Cà mải bắn địch một hướng, không biết Pháp vào làng theo hướng khác, anh em du kích bỏ chạy cả mụ vẫn không biết, bị một thằng Pháp xông đến đè cổ mụ trên cát, hiếp.
Mụ Cà chống cự quyết liệt, liên tục hô đả đảo đế quốc Pháp, đả đảo đế quốc pháp. Thằng Pháp khoẻ hơn, đè riết không cho mụ động cựa. Mụ vẫn không sợ, miệng vẫn hô vang đả đảo đế quốc Pháp.
Lúc đầu mụ còn hô to, đầy đủ cả câu đả đảo đế quốc Pháp, sau nhỏ dần hụt hơi hơi dần, đã đảo đế quốc… rồi đả đảo đế… rồi đả đảo…Cuối cùng chỉ còn mỗi đả ả ả ả…Xong om.
Chuyện mụ Cà bị một lính Tây hiếp cả làng ai cũng biết, bàn tán xôn xao. Cu Miễn họp đội du kích phát động căm thù. Cu Miễn nói đồng chí Cà kể lại cho anh em nghe. Mụ Cà nói kể cái chi? Cu Miễn nói kể việc đồng chí bị giặc Pháp hiếp ra răng. Mụ Cà nói thì cũng giống như lẹo chắc, nhưng đây là hiếp rứa thôi, chi mà kể. Đồng chí Cu Miễn không biết lẹo chắc à?
Cu Miễn nói đồng chí Cà nghiêm túc vào, hiếp khác với lẹo chắc. Mụ Cà nói nhưng tui không biết kể chi hết. Cu Miễn nói ví dụ giặc Pháp đè đồng chí xuống, xé áo quần đồng chí rất dã man. Mụ Cà nói đúng rồi rất dã man. Tui chống cự rất quyết liệt, vừa chống cự vừa hô đả đảo đế quốc Pháp.
Cu Miễn mừng rỡ nói rứa đo rứa đo, đồng chí kể tiếp đi. Mụ Cà nói chỉ rứa thôi, biết kể chi nữa.
Cu Miễn nói lúc đầu răng, cuối cùng ra ra răng cứ rứa mà kể. Mụ Cà hỏi kể thiệt a? Cu Miễn nói có răng đồng chí cứ kể rứa.
Mụ Cà nói bá cáo các đồng chí lúc đầu hắn đâm một phát tui chửi rất hăng, sau hắn đâm nhiều quá, sướng rồi hết chửi.
Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.
Cu Miễn tức, đập bàn chỉ tay mụ Cà quát phản động, bắt mụ ni trói lại cho tui. Mọi người ngơ ngác không hiểu sao.
Cu Miễn nói, mụ ni hợp tác hủ hoá với giặc Pháp, rứa mà các đồng chí không hiểu, còn vỗ tay hoan hô. Mất lập trường rồi các đồng chí ơi!
Mụ Cà nói đồng chí Cu Miễn nói rứa oan tui. Cu Miễn nói mụ Cà kia, tui không đồng chí với mụ.
Mọi người nói ua chầu chầu đồng chí cu Miễn nóng quá.
Cu Miễn hô cả trung đội đứng dậy, nghiêm! Tôi quyết định đuổi mụ Cà ra khỏi trung đội dân quân. Từ nay không được ai kêu mụ Cà là đồng chí, rõ chưa. Cả trung đội đập chân ưỡn ngực hô rõ.
Đáng lẽ mụ Cà im lặng không kiện cáo gì thì mọi chuyện cũng qua. Nhưng mụ tức, mụ gặp xã đội trưởng kiện đi kiện lại, nói tui không hủ hoá, giặc Pháp hiếp tui thiệt.
Xã đội trưởng nói bị giặc Pháp hiếp, đồng chí có căm thù không? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng có căm thù. Xã đội trưởng nói căm thù răng lại nói sướng? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui không sướng.
Cu Miễn nói mụ đừng có chối, mụ nói sướng, cả trung đội nghe rõ ràng. Mụ Cà nói tui không sướng.
Cu Miễn hỏi: mụ có nói sướng không, mụ Cà nói có. Cu Miễn nói đó, mụ công nhận rồi đó, hết kêu oan nghe.
Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui vẫn oan. Xã đội trưởng nói đồng chí Cà nói hay,vừa kêu sướng vừa kêu oan là răng?
Mụ Cà nói tui căm thù giặc Pháp, nó hiếp tui, tui không sướng, tại cái bướm tui sướng chứ tui không sướng.
Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.
Xã đội trưởng tức, đập bàn quát, bậy bạ, dung tục, phản động! Rứa mà các đồng chí còn cười được à. Mất lập trường!
Mụ Cà khóc nói báo cáo xã đội trưởng oan tui quá. Xã đội trưởng nói oan răng mà oan! Mụ Cà khóc rống lên, nói oan oan, các đồng chí toàn cu, không ai hiểu được bướm…
Xã đội trưởng đập bàn quát câm mồm! Xã không có trách nhiệm hiểu cái bướm của mụ!
Mụ Cà phủi đít quần, nói ẻ vô nói với các đồng chí nữa, rồi về. Mấy thắng sau đi đâu cũng bị làng xóm chê cười, mụ Cà nói ẻ vô ở làng ni nữa, rồi bỏ ra xóm Bàu ở.
Đó là người thứ nhất ra xóm Bàu, à quên, Xóm gái hoang
2. Người thứ hai là chị đóc Xấu, mặt chị đẹp như mặt Đức Mẹ, phải cái chị cao quá, gần mét tám, hồi này là có thể thi hoa hậu nhưng ngày đó thì bị người ta coi là dị dạng.
Bố mẹ chị nhiều năm hục hặc cũng vì chị càng ngày càng cao, mới 13 tuổi đã cao hơn hẳn đám trai làng, nhiều người nói è he đóc Xấu con tây, không phải con Mẹt Huỳnh mô.
Bố chị nghi mẹ chị lấy Tây hoặc bị tây hiếp như mụ Cà. May chị càng lớn càng có nhiều nét giống bố, nên thôi.
Chị đi đâu, tụi con trai lén đi sau lưng, nhảy nhảy lên cho cao bằng chị, rồi bịt miệng cười với nhau, chị biết, không thèm ngoái lại, mặt vênh lên vẻ bất cần. Nhưng tối về thì ra giếng ngồi bưng mặt khóc.
Có lần chị về chợ Ba Đồn, chợ phiên sáu đông nghịt, thế mà chị đi đâu ai cũng thấy, cái đầu chị vượt lên cả ngàn người, chuyển động từ đầu chợ đến cuối chợ, ai nhìn cũng tức cười.
Con trai Ba Đồn chạy rật rật theo chị, trầm trồ oa chà ăn chi cao rứa hè, con ni e lấy voi. Có người vẽ cái bướm dài ba gang trên cột điện, đề: Đây là l. đóc Xấu.
26 tuổi rồi chẳng ai dám mang cau trầu đến hỏi. Tuổi đó bị coi là ế chồng. Bố mẹ chị lo lắng vô cùng, bữa cơm nào cũng càm ràm răng con tui ế câm ế cảy ri hè. Chị nghe nói thế thì bỏ bát ra giếng ngồi khóc.
Bố mẹ chị đánh tiếng ai muốn lấy đóc Xấu tụi tui cho không, không cần cưới hỏi chi hết, nhắn nhe từ đầu làng đến cuối xóm cũng chẳng ai thèm.
Vừa lúc chiến tranh phá hoại miền Bắc, bom rơi đạn nổ khắp nơi. Hễ có máy bay, mọi người ba chân bốn cẳng chạy vào hầm, chị đóc Xấu không chạy, ngồi bó gối giữa sân. Bố mẹ chị dục xuống hầm, chị nói để con chết bom cho xong, nhục lắm.
Nhà ông Quắn ở Quảng Thuận lên sơ tán, chuyên nghề đúc soong nồi từ vật liệu máy bay. Nhà này rất giàu, làng Đông hồi đó nhà nào có vài nghìn đồng, dăm mười cây vàng gọi là giàu sụ, nhà ông Quắn còn nhiều hơn thế.
Vợ chồng ông Quắn có đứa con trai tên Hào cao 2m, trắng trẻo đẹp trai, phải cái bị ngất ngơ, hình như bị down, suốt ngày ngồi ngạch cửa nhìn ra đường, thỉnh thoảng cười hậc cái, nói hay hè. Chẳng có gì cũng cười hậc cái, nói hay hè.
Dòng họ ông Quắn chỉ mình ông là con trai, đẻ ra thằng con ngất ngơ, vợ chồng ông lo lắm, sợ tiệt giống. Biết chị đóc Xấu ế chồng, họ mừng húm, mang cau trầu đến hỏi liền.
Lúc đầu chị đóc Xấu cự nự không chịu, sau cả vợ chồng ông Quắn, cả bố mẹ chị quì lạy như tế sao, chị tắc lưỡi nói lấy thì lấy.
Đám cưới chị đóc Xấu 1 bò hai lợn, to nhất lịch sử làng Đông. Cu Miễn bây giờ là chủ nhịêm HTX, làm chủ hôn, như kiểu MC bây giờ, nói alô alô trăng trên trời có khi tròn khi méo/ Xấu yêu Hào thật khéo lắm thay.
Chị đóc Xấu lần đầu son phấn, mặt cúi gầm không dám nhìn ai. Anh Hào ngồi cạnh chị , ngơ ngác nhìn mọi người, cười hậc cái, nói hay hè
Cu Miễn nói a lô a lô vui duyên mới không quên nhiệm vụ/ Xấu và Hào ưu tú cả hai/ người quốc sắc kẻ thiên tài/ tình trong hợp tác thuận, mặt ngoài hai họ ưa. Ông Quắc vỗ tay đôm đốp nói đụ mạ Cu Miễn nói hay.
Rước dâu từ sân kho hợp tác, cô dâu chú rể cao lêu đêu nổi bật giữa đám rước. Mọi người nói ua chầu chầu giống tây giống tây. Chị đóc Xấu vấp cục đá, ngã quị. Anh Hào đứng trố mắt nhìn. Mọi người nói kéo vợ lên tề, Hào tề! Anh cứ đứng ngơ, cười hậc cái, nói hay hè.
Đêm động phòng bà Quắc kéo chị đóc Xấu ra sau hồi, nói có khi chồng con không biêt mần chi mô, con phải bày cho hắn nghe con. Chị đóc Xấu nói bày chị mạ. Bà Quắc làm động tác, nói đầu tiền mần ri nì ri nì, sau nó chịu rồi thì ri nì ri nì, rồi ri nì ri nì, nghe chưa. Chị đóc xấu ngượng nói dạ, bà Quắc nói cố lên con, đầu tiên ngượng chút thôi, sau sướng mê man luôn, khe khe khe.
Vợ chồng ông Quắc nằm phòng bên nín thở nghe động tĩnh. Bà Quắc nói không biết con mình có làm ăn chi được không. Ông Quắc nói è he lo chi hè, chó mèo còn làm được nữa là người.
Trong buồng, chị đóc Xấu nằm ngửa chờ đợi, anh Hào ngồi bó gối nhìn chị lom lom, cười hậc cái, nói hay hè. Chị đóc Xấu chờ mãi không được, bèn trật vú ra nói đây nì đay nì. Anh Hào đặt tay lên vú, cười hậc cái , nói hay hè. Chị đóc Xấu trật bướm ra nói đây nì đây nì, anh Hào đặt tay lên bướm, cười hậc cái, nói hay hè.
Cứ để nguyên tay vú tay bướm, anh Hào ngồi nhìn lom lom, cười hậc cái , nói hay hè, rồi lăn ra ngủ như chết.
Cả tháng trời sáng nào bà Quắc cũng kéo chị đóc Xấu ra sau hồi nói răng rồi răng rồi, chị đọc Xấu ứa nước mắt nói không răng cả mạ ơi. Bà Quắc lại làm động tác, nói đầu tiền mần ri nì ri nì, sau nó chịu rồi thì ri nì ri nì, rồi ri nì ri nì, tóm lại vẫn không ăn thua. Chị đóc Xấu ôm mặt khóc, nói mạ ơi cho con về nhà.
Không biết vợ chồng ông Quắc bàn bạc ra sao, tối đó ông Quắc vào buồng, nói với chị đóc Xấu: thôi, con chịu khó để ba mần ví dụ cho chồng con coi, lập tức ông bị ăn một cái tát rụng mất cái răng cửa.
Ông Quắc nói hay để ba thuê đứa mô mần ví dụ, ông lại ăn thêm một cái tát, rụng mất cái răng cửa nữa. Anh Hào nhin cái mồm đầy máu của ông Quắc, cười hậc cái, nói hay hè.
Chị đóc Xấu đùng đùng xách áo quần ra về, hai vợ chồng ông Quắc qùi xuống ôm chân chị khóc nói khoan khoan, còn nước còn tát con ơi!
Cu Miễn nói với ông Quắc: chúng tôi coi gia đình bác là người của hợp tác, cháu Hào chưa biết làm chồng thì hợp tác phải có trách nhiệm.
Ông Quắc nói phải phải, hợp tác yêu cầu chi vợ chồng tui chấp hành liền. Cu Miễn nói chủ nhiệm HTX mần ví dụ nhất định đóc Xấu phải chấp hành. Ông Quắc nói phải phải.
Tối đó Cu Miễn vào buồng chị đóc Xấu, nóí đồng chí đóc Xấu, tui được hợp tác giao nhiệm vụ mần ví dụ cho đồng chí Hào coi, đồng chí cứ coi tui như đồng chí Hào, mần như thiệt nghe không?
Cu Miễn nói chưa xong đã ăn một cái tát, rụng liền hai cái răng cửa. Cu Miễn tức, nhảy ra sân thổi còi gọi dân quân tới. Vợ chồng ông Quắc lạy lục Cu Miễn, đền một trăm đồng Cu Miễn mới chịu thôi, vụ án mần ví dụ tạm thời khép lại.
Cu Miễn nói đóc Xấu vô cớ đánh chủ nhiệm hợp tác, đuổi cổ nó ra khỏi đoàn đội. Chị đóc Xấu nói không cần đuổi mất công, tui cút khỏi làng giờ.
Chị ôm anh Hào khóc, nói ôi chồng ơi chồng ơi, chó mèo còn biết làm răng chồng không biết. Anh Hào cười hậc cái , nói hay hè.
Chị đóc Xấu lạy ông bà Quắc, lạy bố mẹ mình đi thẳng ra xóm Bàu. Đó là người thứ hai trong Xóm gái hoang.
3.Người thứ 3 là chị Mai. Chị hơi thấp, múp máp, da trắng ngần, đặc biệt chị hát và ngâm thơ đều hay cả. Người thì gọi chị là Châu Loan xóm, người thì gọi Tường Vi xóm.
Họp đội, họp xóm, họp đoàn, đám cưới đám hỏi nhất nhất phải có chị hát mới xong. Mọi người nói Châu Loan mô rồi hè? Chị đứng lên liền, nói đây đây. Người nóí ngâm bài rứa là hết đi, người nói không không ẻ vô bài nớ, ngâm bài chào sáu mốt đỉnh cao tề.
Chị thuộc toàn thơ Tố Hữu thôi, mấy bài trong sách giáo khoa chị thuộc sạch. Hỏi nước mình có ai là nhà thơ, chị nói Trần Đăng Khoa với Tố Hữu, hỏi còn ai nữa không, chị nói từng nớ ngâm đã rã họng ra rồi, nhiều chi lắm.
Đầu buổi ngâm thơ cuối buổi hát, hoặc ngược lại, khi nào cũng vậy ở đâu cũng vậy. Mọi người nói Tường Vi mô rồi hè, chị đứng lên liền, nói đây đây. Người nói hát bài Noọng ơi trăm ngàn nở hoa đi, người nói dở dở quẹt quẹt, hát nắng toả chiều nay tề.
Chị hát say sưa, miệng hát ngực rung hấp dẫn vô cùng.
Có hai người mê chị, một là anh Toả bí thư chi đoàn, hai là Cu Mèo con trai cu Miễn. Mỗi lần chị Mai hát, anh Toả nhìn miệng chị không chớp, miệng mấp máy, người đu đưa, nói hay hè hay hè; cu Mèo nhóng cổ nhìn ngực chị rung rung, thè lưỡi liếm một vòng, nói đụ mạ hát rứa mới hát chơ, lại thè lưỡi liếm một vòng.
Nhưng chị Mai ghét Cu Mèo, yêu anh Toả. Cu Mèo tức lắm, đứng dạng háng chặn đường chị Mai hỏi tui thua cu Toả cái chi? Chị nói không, bỏ đi. Cu Mèo vượt lên nói tui tên Mèo, xấu phải không? Chị nói không, lại bỏ đi.
Tối cu Mèo trèo lên cây xoan sau hồi nhà chị Mai, dóng mồm xuống cửa sổ nhà chị kêu vơ Mai nời… tui ưng Mai rồi vơ Mai! Vơ Mai nời… cu Toả không bằng bãi cứt trâu, ưng hắn mần chi. Chị Mai đóng cửa sổ, cu Mèo hát hờn căm bao lũ tham tàn… cu Toả! Rồi lại hét Mờ eo meo huyền Mai! Mờ ai mai huyền Mèo. Tôi nào cũng ầm ĩ, không cho ai ngủ ngáy gì cả.
Buổi trưa nắng nóng chị Mai gánh lúa về, cu Mèo chặn đường, dạng háng nói ưng tôi đi, mai mốt tui làm lái xe. Chị Mai đang gánh lúa, mệt, nói ẻ vô, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên trước, đứng dạng háng, nói ưng tui đi, mai mốt bọ tui lên xã, tui làm chủ nhiệm. Chị Mai đánh môi cái bịp nói ẻ vô, bỏ đi.
Cu Mèo vẫn không chịu, lại vượt lên, đứng dạng háng, tụt quần nói, cặc tui ri nì, Mai ưng không? Chị Mai vứt gánh lúa, chồm tới túm chim cu Mèo nghiến răng vặn, nói khoe cái cố tổ mi, khoe cái cố tổ mi.
Cu Mèo kêu như cha chết, nhưng đi đâu cũng khoe em Mai cầm chim tau rồi, khen chim tau đại chang, khe khe khe… bằng mười chim cu Tỏa, khe khe khe..
Tết năm 1967, làng làm hội diễn văn nghệ ở đình làng. anh Toả chị Mai hát song ca bài Trước ngày hội bắn, chị Mai mặc váy, cầm cái ô xoay xoay e thẹn, bắp chân trần trắng muốt, liếc cái, hát ai tin anh nói… anh Toả mặc áo quần bộ đội, đội mũ tai bèo, liếc cái, hát vì sao em nói nghe nào…
Bà con nói ua chầu hầu hay hè hay hè. Cu Mèo đứng dậy nói hay cái l. mạ bay! Bà con nói ua chầu chầu cu Mèo nói bậy quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết cái chi! Rồi hát rống lên hờn căm bao lũ tham tàn… Mai Toả!
Mọi người nói ua châù chầu cu Mèo ỷ thế con chủ nhiệm mất trật tự quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết cái chi! Rồi lại hát cu cu Toả ơi, cu cu Toả ơi.. chim mi mô rồi, chim mi mô rồi… đọ tau cái coi.
Bà con đòi đưa cu Mèo ra kiểm điểm, cu Miễn nói đồng chí cu Mèo nóng tính, có nói bậy nhưng xuất phát từ tấm lòng yêu thương xã viên nghèo như đồng chí Mai. Rứa là tốt. Quan trọng là tấm lòng, không quan trọng cái lỗ mồm. Người nói tốt rứa a tốt rứa a, người không nói gì, người nói tốt rứa đo tốt rứa đo.
Anh Toả nói đồng chí Cu Miễn sai rồi, nguỵ biện bao che con cái. Cu Miễn nói chính đồng chí cu Toả mới nguỵ biện. Anh Tỏa hỏi răng, cu Miễn nói đồng chí là bí thư chi đoàn, mồm nói căm thù giặc sâu sắc, yêu Tổ quốc nồng nàn lại không chịu gương mẫu xung phong đi bộ đội. Cu Toả nói khó chi, tui đi ngay!
Ra tết anh Toả đi bộ đội, cu Miễn nói rất hoan nghênh tinh thân dám nghĩ dám làm của đồng chí cu Toả, rồì tổ chức cho làng Đông học tập tinh thần đồng chí cu Toả. Cu Miễn đề nghị chị Mai làm bí thư chi đoàn, gánh vác cho người đi xa. Chị Mai nghe nói vậy thì nhận, cu Miễn nói rứa mới thấy hậu phương yêu thương tiền tuyến chơ, khe khe khe.
Cu Mèo nói tui muốn lấy con Mai, làm răng bọ? Cu Miễn nói mồm mi thối lắm, được con cặc là kiên cường, tận dụng thế mạnh đi con. Rồi nói với chị Mai đồng chí cu Mèo chậm tiến, đồng chí nên gặp riêng nhắc nhở.
Tối, chị Mai họp chi đoàn ở kho hợp tác, hết họp thì bảo cu Mèo ở lại nhắc nhở, cu Mèo đè chị ra hiếp liền. Chị Mai xấu hổ không dám nói ai, đi một mạch xuống Quảng Thanh, ngồi đợi máy bay tới thả bom thì lao vào. Chị không chết, bị một mảnh bom đâm đúng cuống họng, không nói được, nói gì cũng cứ dá da da da.
Cu Mèo nói tui cần mồm dưới, không cần mồm trên, Mai lấy tui đi. Chị Mai trợn mắt đạp vào hạ bộ cu Mèo một phát, nói dá da da da… dá da da da!
Cu Miễn nói hoàn cảnh đồng chí rất khó khăn, đồng chí về làm dâu nhà tôi, chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ đồng chí. Chị Mai trợn mắt đập vào mồm cu Miễn một phát, nói dá da da da… dá da da da, rồi xách áo quần ra thẳng xóm gái hoang.
4. Xóm chỉ có 3 nhà, về sau thì có cả trăm nhà nhưng năm 1967-1968 chỉ có ba nhà thôi. Mụ Cà nói tao trưởng xóm, hai đứa bay xóm viên, khỏi bầu bán chi mệt. Chị đóc Xấu nói cho em xóm phó cho oách, con Mai nhỏ tuổi nhất làm xóm viên, đồng ý không? Chị Mai cười, nói dá da da da.
Phần vì xóm quá xa các làng, phần vì đồn đại, thêu dệt ba người đàn bà Xóm gái hoang rất ghê rợn, nhiều người sợ cấm con cái không được ra đó. Người ta đồn hễ ai ra Xóm gái hoang về thì không cháy nhà cũng mất của, chết bất đắc kì tử không chừng. Xóm không có ai vãng lai, cái xóm nhỏ ba ngôi nhà như một vương quốc riêng
Bàu sen mênh mông cho họ đủ thứ ăn, lại còn thừa mang bán. Tôm cá ê hề, ngó sen đài sen hoa sen thu nhập cũng khá, họ còn thả rau muống dây, mỗi tuần xuống chợ gánh rau muống, gánh cá, gánh sen, ăn uống thoả thuê còn thừa cả nghìn đồng một tháng.
Chị đóc Xấu nói ua chà, răng sướng ri hè, biết rứa em bỏ hợp tác từ khi mới đẻ. Mụ Cà nói hợp tác với hợp teo, cu Miễn mưu mô cả năm không bằng tau ngâm l. bàu sen một buổi. Chị Mai cưòi nói dá da da da.. dá da da da.
Nhưng buồn. Ngày mải làm,quên, tối buồn rũ ra. Buổi tối, ba ngườì ăn cơm chung, ăn xong mụ Cà buông bát nằm dài ra, nói bây chừ mần chi hè? Chị đóc Xấu cũng buông bát nằm dài ra, nói mần chi hè? Chị Mai nằm dài ra theo, nói dá da da?
Mụ Cà bày rượu ra uống, một bát uống vòng, uống được ba bát thì say, như lũ cuồng đập phá lung tung. Mụ Cà nhảy lên hòn đá, vỗ bướm bôm bốp nói vơ đàn ông… đây nời đây nời! Chị đóc Xấu chổng mông vỗ bem bép, nói đây nời đây nời! Chị Mai tụt quần, cầm quần khua khua chạy quanh sân, nói dá da da…. dá da da!
Cả ba nằm vật ra, không ai nói với ai, thở vào thở ra, miệng chóp chép. Mụ Cà nói đàn ông ngu chi ngu lạ, chị đóc Xấu nói ừ đo, ngu chi ngu lạ! Chị Mai nói dá da da! Rồi ba chị ngồi ôm nhau khóc, khóc đến dã rượu thì ngủ lịm.
Ba chị ra chợ, thấy có người đứng ôm cái đài orionton đòi bán, họ mua ngay, 700 đồng cũng mua, về nhà tranh nhau mở. Đài phát tin chiến thắng, mụ Cà vỗ đùi đánh bốp, nói thấy chưa, tau nói đúng chưa, chết cha Mỹ Diệm chưa! Chị đóc Xấu nằm vật ngửa ra, chổng chân lên trời, nói oa làng ơi sướng! oa làng ơi sướng ! Chị Mai cười toét nhảy chồm lên chị đóc Xấu dập dập nói dá da… dá da… dá da.
Nhưng nghe mãi cũng chán, quanh đi quẩn lại cũng chỉ tin chiến thắng, hết chỗ này thắng lợi đến chỗ kia thắng lợi, Mụ Cà thở ra, nói răng thắng hoài thắng huỷ rứa mà chưa thấy hoà bình chi cả hè. Chị đóc Xấu nói ừ đo… ừ đo, chị Mai nói dá da… dá da.
Đài vẫn phát tin thời sự, miền Nam thắng lớn nơi này nơi kia, miền Bắc sản xuất thắng lợi nơi này nơi kia, lãnh đạo thăm hỏi nơi này nơi kia, mụ Cà nốp ruột kêu vơ đài nời, hát đi với, nói chi nói lắm.
Nằm dài vuốt bụng chán thì vùng dậy lấy soong nồi gõ ầm ĩ, lại còn múa hát. Mụ Cà nói lối như ta đây là Lê Thị Cà, một lần tây hiếp đến già không quên, rồi gõ cái choeng! Chị đóc Xấu, chị Mai nhảy nhảy gõ gõ choeng choeng!
Mụ Cà hát này này ơi chị em ơi, Chị đóc Xấu nói ơi, Chị Mai nói dá da. Mụ Cà hát lũ đế quốc vô cùng tàn ác, sức đã dai mà cặc lại to, thế nên ta phải căm thù, choeng! Chị Mai, chị đóc Xấu nhảy nhảy gõ gõ choeng choeng!
Hát hò chán lại nằm vật ra, ba người ba góc, không ai nói với ai.
Máy bay xoẹt qua, mụ Cà nhảy lên hét vơ Đế quốc Mỹ nời, răng không thả phi công, toàn thả bom, ngu rứa ác rứa. Chị đóc Xấu cũng nhảy lên, hét ngu ngu!… ác ác! Chị Mai nhảy chồm chồm, hét dá da… dá da!
Mơ được ước thấy, phi công nhảy xuống bàu sen thật.
Một đêm, bộ đội dưới cảng Gianh bắn trúng máy bay, chiếc F4H cháy rùng rùng, đâm đầu xuống chân núi sau làng Trung Thuần, dân các làng sung sướng reo vang. Ba chị cùng nhảy cà tẩng, lấy soong nồi gõ ầm ĩ.
Chợt nghe cái bụp phía bàu sen, ngó ra thì thấy một cái dù đỏ xoè rộng trên bàu. Ba chị sướng rêm, lội ra ngay.
Hồi này dù là một chiến lợi phẩm dân chúng rất mê. Hễ có một cái dù pháo sáng, dù phi công nào rơi là từ dân chúng từ bốn phương tám hướng nhào ra, tay lăm lăm dao kéo, mạnh ai nấy xẻo. Nhiều khi tranh giành đập đánh nhau chí tử.
Ba chị cùng tay dao tay kéo lao ra. May tối hôm đó hình như mọi người mải xem máy bay cháy, không để ý, chẳng thấy có ai chạy ra, ba chị lân đầu được một cái dù trọn vẹn, lại dù đỏ, sướng ngây ngất.
Cuốn xong dù thì thấy một cái đầu nhô lên, ba chị rú lên chực bỏ chạy, cái đầu nói rốp rít xốp xít, ba chị nhìn lại, hoá ra là một phi công Mỹ, họ cứ đứng trơ nhìn nhau.
Mụ Cà sực tỉnh chĩa dao vào thằng Mỹ, nói dơ tay lên. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà dơ dao đe, nói đụ mạ tau nói mi dơ tay lên. Thằng Mỹ cứ đứng trơ, nói rốp rít xốp xít. Chị đóc Xấu nói Đế quốc Mỹ ngu chi ngu lạ.
Chị Mai vung hai tay lên, nói dá da da, thằng Mỹ dơ hai tay lên liền. Mụ Cà, chị đóc Xấu trố mắt ngạc nhiên, nói con Mai nói chi mình không hiểu mà thằng Mỹ hiểu liền.
Mụ Cà chỉ tay vào xóm, trợn mắt với thằng Mỹ, quát dá da da da! Thằng Mỹ vội vàng đi vào xóm liền. Mụ Cà cười, nói è he, tưởng răng, tiếng Mỹ dễ òm!
5.Mụ Cà nói giải nó lên huyện đội ngay, chị đóc Xấu nói cho nó tắm rửa ăn uống đã chị, tội. Chị Mai gật gật đầu nói dá da.
Mụ Cà dắt thằng Mỹ đến cái giếng đất rộng bằng cái nong, sâu chừng một mét, chỉ cái gàu nói dá da da, thằng Mỹ gật đầu nói rốp rít xốp xít, rồi nhảy bùm xuống giếng, có lẽ nó tưởng cái bồn tắm.
Mụ Cà tức giận nhảy chồm chồm, nói, dá da da da, ngu ngu. Thằng Mỹ nhăn răng cười nói rốp rít xốp xít. Chị đóc Xấu nói chị nói rứa nó không hiểu mô. Mụ Cà hỏi nói răng thì hiểu, chị đóc Xấu nói chị không nghe đài diễn kịch à, tụi Mỹ toàn nói không có dấu.
Mụ Cà chõ mồm xuống giếng nói thang My kia may ngu qua, giêng an sao may nhay xuông tam, thằng Mỹ lại nhăn răng cười nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà tức, nói rốp rốp cái mả cha mi, ngu chi ngu lạ.
Thằng Mỹ ăn cơm, chị đóc Xấu nói cơm, thằng Mỹ nói cóm, chị đóc Xấu nói cơm ngon, thằng Mỹ nói cóm ngón. Chị đóc Xấu nói canh, thằng Mỹ nói cắng. Chị đóc Xấu nói canh ngon, thằng Mỹ nói cắng ngón.
Mụ Cà gật đầu khen thằng Mỹ, nói giỏi giỏi! Thằng Mỹ nói dòi dòi, mụ Cà nói dòi dòi cái l. mạ mi, thằng Mỹ nói lón má ngón? Ba chị cườì nghiêng ngã.
Chị đóc Xấu nói hay để nó ở đây vài buổi cho vui, mình nuôi nó như nuôi con chó béc giê, có chi mô mà. Mụ Cà nói ý con Mai răng. Chị Mai gật đầu nói dá da.
Chỉ có giường chị đóc Xấu thằng Mỹ mới nằm vừa, chị để nhà cho thằng Mỹ ở, sang ngủ với mụ Cà. Nửa đêm chị đóc Xấu trằn trọc không ngủ được. Mụ Cà hỏi răng không ngủ, chị đóc Xấu nói nằm giường chị đau lưng lắm.
Mụ Cà nói hay cho mi sang ngủ với thằng Mỹ? Chị đóc Xấu cười rúc rích, ôm lưng Mụ Cà hỏi tây hiếp chị ra răng, Mụ Cà nói sướng chơ răng. Chị đóc Xấu nói sướng răng sướng răng, kể đi kể đi.
Vừa lúc chị Mai nhảy xổ vào nhà khua chân múa tay nói dá da dá da. Cả ba chạy ra thì thấy thằng Mỹ quỳ giữa sân làm dấu thánh, vừa khóc vừa nói rốp rít xốp xít.
Chị đóc Xấu nói nó cầu chúa đó, mụ Cà nói Đế quốc Mỹ cũng có chúa à, chị đóc Xấu nói có chơ, chúa che chở hết mà. Mụ Cà nói chúa thần kinh, che chở tầm bậy tầm bạ, chị Mai lắc đầu nói dá da da da. Chị đóc Xấu nói chà, còn hơn che chở cu Miễn cu Mèo.
Mụ Cà nói ngó bộ tui bay thương thằng Mỹ rồi đó, lộn xộn là tau giết nghe chưa. Chị đóc Xấu nói mô có mô có, chị Mai nói dá da.. dá da! Mụ Cà nói chà còn chối, thấy thằng cao to đẹp trai, bướm đứa mô đứa nấy nhóp nhép như mang cá mè, tau lạ chi . Chị đóc Xấu nói mô có mô có, chị Mai nói dá da dá da
Sáng mai ba chị bắt thằng Mỹ tát giếng, đào lại giếng. Chị đóc Xấu, chị Mai phụ với nó. Thằng Mỹ đưa thùng nước lên, chị Mai đón lấy, cười cái, liếc cái. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Chị Mai cười cái, liếc cái, dẩu mồm nói dá da. Thằng Mỹ cười khư khư khư
Chị đóc Xấu tát nước, thỉnh thoảng hích thằng Mỹ, liếc cái. Thằng Mỹ cũng hích lại, liếc cái. Chị đóc Xấu lườm yêu, đập phát vào lưng trần thằng Mỹ, cười hi hi hi. Thằng Mỹ vuốt vuốt mông chị, cười khư khư khư.
Chị Mai đứng trên bờ nhìn thấy, tức, chạy tìm mụ Cà, lôi ra giếng, hết chỉ thằng Mỹ, nói dá da, lại chỉ chị đóc Xấu, nói dá da, hai tay chị đập đập xoa xoa, nói dá da… dá da. Mụ Cà chỉ mặt chị đóc Xấu nói tao cảnh cáo mi nghe chưa, giai cấp mô có con cu của giai cấp đó, đừng có lộn xộn.
Chị đóc Xấu xịu mặt nói chị nói rứa oan em, em căm thù Đế quốc Mỹ mà. Mụ Cà nói mi căm thù chớ bướm mi không có mắt, biết ai mà căm thù, ngu lắm!
Mụ Cà thở ra nói, ua chao ôi, đế quốc thực dân toàn bọn to con đẹp trai, tức chi tức lạ.
Đêm, mụ Cà kèm chặt chị đóc Xấu, nói đừng có lộn xộn em à, lộn xộn là tao đem nó đi nộp huyện đội liền, chị đóc Xấu nói răng chị không nghi con Mai, toàn nghi em.
Mụ Cà nghe nói thế thì giật mình, chạy sang tìm, cả thằng Mỹ cả chị Mai đều không có. Hai chị chạy tìm khắp nơi thì thấy thằng Mỹ đang đứng dựa gốc cây, bế xốc chị Mai lên hôn.
Mụ Cà nấp rình với chị đóc Xấu, thấy hôn môi, lạ quá, hỏi yêu là hun rứa à, chị đóc Xấu nói yêu là hun môi, chị không biết à. Mụ Cà nói tụi choa lớp trước, thích thì tụt quần mần đến mần đại, biết hun hít chi mô.
Đến đoạn thằng Mỹ kéo quần chị Mai thì mụ Cà xông tới, giằng chị Mai ra, đạp phát vào hạ bộ thằng Mỹ, tát một tát vào mặt chị Mai, nói á a cái con ni gan trời, dám yêu Đế quốc Mỹ.
Chị Mai ôm chân chị Cà khóc nói dá da dá a.. Mụ Cà lại cho thêm một tát nữa, nói mi là con phản động. Chị Mai lại ôm chân mụ Cà khóc rú lên, nói dá da… dá da da.
Mụ Cà ôm đầu ngửa mặt kêu, ôi chúa ơi chúa ơi, chúa cho đàn ông nước con to con đẹp trai đi chúa, không đàn bà con gái phản động hết!Dứt lời mụ Cà cắp nón đi liền, nói tau lên huyện đội báo người ta lôi cổ nó đi cho rồi, ngồi canh bướm tui bay nhọc lắm.
Mụ Cà gặp Cu Miễn đạp xe đạp dọc đường, Cu Miễn hỏi đi mô, mụ Cà nói bắt được phi công, Cu Miễn nói để tui lên báo cho, tui có xe đạp. Mụ Cà nói tui lên báo công để lấy bò chơ.
Cu Miễn nói bò mô trên huyện đội, người ta thưởng mồm thôi, bắt hợp tác chi bò chơ ai chi. Mụ Cà nói thiệt không, Cu Miễn nói răng không. Mụ Cà nói rứa Cu Miễn có thưởng bò tui không, cu Miễn nói răng không.
Mụ Cà quay về, đến gần nhà thì chị Mai ra khoa chân múa tay, mặt mày tái mét, nói dá da da da…. dá da da da. Mụ Cà lật đật chạy vào nhà, vừa lúc thằng Mỹ và chị đóc Xấu kéo quần lên.
Mụ Cà xông tới tát thằng Mỹ tới tấp, nói cha tổ Đế quốc Mỹ cha tổ Đế quốc Mỹ, bướm nước choa đã đau thương bọn bay còn hành hạ. Chị Mai nhảy chồm chồm trước mặt thằng Mỹ, hai tay xỉa xỉa, nói dá da… dá da… dá da!
Mụ Cà quay lại xốc cổ áo chị đóc Xấu, quát mi nói răng nói lại tau nghe. Chị đóc Xấu ôm lấy Mụ Cà khóc nói em chừa rồi em chừa rồi, đau lắm đau lắm, từ nay em ẻ vô Đế quốc Mỹ.
Cu Mèo đem đội dân quân xông vào, chĩa súng vào thằng Mỹ nói dơ tay lên. Mụ Cà giật tay cu Mèo, nói mi về nói hợp tác đưa bò cho tau, tau giao thằng Mỹ liền. Cu Mèo quát câm mồm, tội các chị dấu thằng Mỹ tui chưa đem ra toà, còn dám đòi bò!
Nói xong cu Mèo áp giải thằng Mỹ đi. Mụ Cà nói Đế quốc Mỹ mình không thua, chỉ thua cu Mèo cu Miễn thôi.
Tại hội nghị báo công, cu Miễn nói Đội du kích làng Đông đã mưu trí dũng cảm tóm gọn tên phi công Mỹ, giải thoát cho ba phụ nữ đang bị nó làm nhục.
Hội nghị ồ lên, người nói giỏi giỏi, người nói tài tài, người nói phục phục.
–
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro