Tập truyện văn nghệ quân đội-Lenghiabk05
BỢM NHẬU BÌNH DÂN
NGUYỄN KIM
Nhậu luôn là đề tài hiện hữu muôn thuở của đa số cánh đàn ông. Tết nhất, tiệc tùng, lễ lộc, giỗ chạp, cưới hỏi, tang ma, đầy tháng, thôi nôi… mừng vui tá lả, rầu buồn rơi lệ hoặc chẳng có lý do gì cũng thoải mái bày cuộc nhậu. Hậu quả để lại tốt có, xấu có, nhưng thường thì lành ít dữ nhiều. Theo thống kê, hàng năm có tới hơn 70% số vụ tai nạn giao thông là do người điều khiển phương tiện có uống bia rượu. Nhưng các bợm nhậu hay có kiểu tự trấn an, vờ lạc quan khi thông tin cho nhau về các “chiến hữu” không gặp may:
- Thằng Ba Ngù đi đám giỗ về tối, đang phom phom xe trên đường theo quán tính… chữ chi, bất ngờ lạc tay lái cúp trái bị xe tải “bụp thẳng cẳng”. Tao đã nói rồi, tay lái của nó yếu hơn tụi mình nhiều. Thà đi bộ, vừa an toàn vừa tập… dưỡng sinh luôn!
- Báo cáo quí huynh! Thằng Tư Xị xơ gan cổ trướng bác sĩ chê mới chuyển về nhà chờ làm lính Diêm vương. Tụi mình sắp được gầy độ cháo khuya rồi. Nó dở, nhậu không ăn mồi thì chết chắc. Đồng ý rượu được chưng cất từ gạo nếp, xét về mặt bổ dưỡng thì uống vô cũng như… ăn cơm bốc hơi vậy thôi. Nhưng theo ngu ý của đệ, nhậu cứ nhậu nhưng đôi ngày phải dằn bao tử một hai chén cháo mới… thọ!
Chỉ cần để ý một chút quanh khu vực mình ở sẽ thấy ngay tình trạng nhậu nhẹt phát triển, lây lan rất hệ thống, tốc độ. Năm Ký, bạn hàng xóm của tôi sau khoảng 10 năm khổ luyện, phấn đấu trong làng ve chai, nay đã được tôn lên hàng trưởng lão. Mặt trời chưa lên, chí cốt đã tới đối ẩm với chút mồi nhắm gọi là tượng trưng: hai trái cóc xanh, con khô cá hố hay một khoanh đu đủ cắt nửa vầng trăng, dư sức túy lúy qua cầu… khỉ. Vừa tạm biệt bạn hiền, còn đang ngồi gù gật lại có khách vãng lai, không thèm chạy độ mà tiếp tục nâng ly cho đời ngây ngất. Tiền rượu là ưu tiên số một, đắng miệng thì hớp ngụm trà đá mới thật xứng đệ tử ruột Lưu Linh. Vợ con ban đầu còn khuyên răn, cằn nhằn riết hao hơi mỏi miệng, đành bưng tai bịt mắt ngó lơ cho yên nhà cửa. Bạn nhậu anh ta có đến hàng tá, đến hẹn lại lên, lịch ngày kín chỗ, sớm tối lè nhè đôi ba tập. Chuyện gia đình làm ăn, bổn phận làm chồng, làm cha chưa qua chai đế. Quân số của cái tổ hợp rượu này cũng hao hụt tới tới bởi thỉnh thoảng có anh lực bất tòng tâm, nằm nhà thoi thóp hoặc ra nghĩa địa an dưỡng vĩnh viễn thì cũng sớm được câu móc, giới thiệu bổ sung đúng tiêu chuẩn “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, “Biết lội hổng cần bập dừa”. Chẳng làm thầy bói sờ mu rùa cũng biết chắc hậu vận thê thảm tất yếu của cái bang hội nghiện rượu thâm niên này!
Hàng quán ăn nhậu phục vụ nhu cầu cho giới bình dân bây giờ mọc rộ khắp nơi, ai ai đều thấy. Khoảng từ 3 giờ chiều, các quán lưu động bày bàn nơi vĩa hè, góc đường ít xe qua lại, có khi ngay trên nắp cống. Lòng heo, gỏi cuốn, khô đuối mắm me, xoài xanh, cóc ổi… phù hợp túi tiền, mồi đưa cay sá gì ngon dở!
Rượu có màu, gọi chung là rượu thuốc (đố ai biết là thuốc gì!), chủ quán đặt mối cung cấp với yêu cầu nặng độ, giá rẻ, chẳng cần tìm hiểu rượu nấu với men Bắc, men Tàu hay thêm vào hóa chất… chi cho mệt. Vấn đề an toàn thực phẩm chưa nói đến, riêng việc vệ sinh trước mắt đã thấy không ổn. Quán tại gia còn đỡ, quán thuộc dạng chiều dọn khuya rút, tránh sao khỏi bừa bãi. Nước rửa một vài thau, thùng, sử dụng suốt thời gian phục vụ thượng đế ăn nhậu. Chuyện thiên hạ cho là nhỏ như cái giẻ lau, suốt buổi bán dùng lau thớt, lau dao và có thể cả… lau tay, nhưng được mấy lần thay đổi! Vài anh phụ hồ, xích lô, bốc xếp… sau ngày lao động vất vả, góp nhau người cỡ mượi ngàn là đủ hâm nóng máy bù khú chuyện đông tay kim cổ. Rượu vào thì lòng dễ hào sảng, xúc động, láng lai tình cảm, hễ bắt mắt bất kể lạ quen cũng anh anh, em em, tình thương mến thương mời một “long chỉ” cho kỳ được. Nhưng khi nhểu nhão quắc cần câu thì chuyện cà khịa bắt lỗi, sừng sộ mày tao, xô bồ tóc xanh tóc trắng choảng nhau u đầu mẻ trán là sự thường tình. Chưa kể tới chuyện nóng máy về nhà quậy quạng, phát tiết hũ hèm cho hàng xóm gánh chịu. Ngoài ra, bản thân người uống rượu từ thói quen mỗi ngày thành nghiện sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến thần kinh, não bộ, tim mạch, tăng huyết áp, mất nhận thức, xơ gan, loét bao tử… Và hàng ngày trên báo, đài vẫn nhan nhản những thông tin lạnh gáy về các tai nạn giao thông thảm khốc, phần nhiều từ người đã có uống rượu bia. Sự nhắc nhở, cảnh báo rất cụ thể và thường xuyên, nhưng rất tiếc là các ma men cao thủ thường chẳng hiểu hoặc chẳng cần hiểu những điều này mà cứ cho rằng “giày dép có số, con người cũng có số, hồn ai nấy giữ!”. Những quán nhậu bình dân phân bố đều khắp mọi nơi đã góp phần rất lớn cho tình trạng nguy hại trên…
Cá biệt có địa phương vùng sâu, vùng xa, phụ nữ cũng ưa lai rai ba xị ngang tầm cánh mày râu. Nhậu nhẹt để vui theo “phong trào”, để tạm quên cái nghèo triền miên hay để lấp đầy trống vằng? Rất nhiều lý do. Nhiều năm trước, tôi qua một ấp cù lao thấy vài chị đang hồ hởi phơi mấy hũ mắm cua nguyên con trông rất ngon lành. Chưa kịp hỏi thì một chị cười ngất: “Tụi tui làm để dành lâu lâu bày nhậu, ca vọng cổ cùng nhau cho vui!”. Bây giờ, vùng đất ấy đời sống khá hơn trước và tôi không còn thấy hình ảnh hơi bị lạ như trên nữa. Rồi có lần dự đám giỗ ở một xã thuộc huyện N,T (Đồng Nai), tôi chứng kiến nhóm đàn bà ngồi bàn riêng cười nói vui vẻ, cụng ly “vô… vô” chẳng thua sút ai. Một chị sồn sồn, phốp pháp hiên ngang đứng ra cứu nguy cho ông chồng gầy nhom, tửu lượng yếu ngồi bàn bên, bằng cách hạ ngất ngư tại bàn hai vị đàn ông với ba tua rượu đế thách thức “cào đôi”. Tan tiệc, chị còn đủ sức lừng lẫy xốc nách ông chồng yếu pin tội nghiệp băng rẫy về nhà, thật đáng bái phục! Cũng chính chị ấy, khi về thăm quê chồng ở huyện G.C.Đ (Tiền Giang) cùng bốn bà bạn, đã bày chiếu rượu mời vài quý ông hàng xóm chung vui. Nhìn con dâu điệu nghệ nâng ly, bà mẹ chồng tìm lời bênh vực: “Vợ chồng nó làm rẫy xa xôi, cực nhọc năm này qua tháng nọ chẳng có chi vui thú. Thành ra nó bắt chước chồng riết quen, đỡ cái là hồi nào tới giờ hổng có lộn xộn gì hết!”. Chuyện thật, mà kể ra chắc ít người tin.
Nhắc lại chuyện xảy ra nhiều năm về trước tại thị xã G.C (Tiền Giang). Anh N.V.Đ. (35 tuổi) sống như vợ chồng cùng V.T.C. (37 tuổi). Cả hai làm thuê vặt vãnh, cuộc sống khó khăn, nhưng rất hợp ý về khoản uống rượu mỗi chiều. Mồi mỡ tất nhiên dạng bình dân: đôi cái bánh xèo, vài trứng vịt ung hoặc dĩa ốc luộc…, chủ yếu chai đế phải đầy. Mới vào cuộc thì khá đề huề, khi mắt đã lộn thinh như trâu trợn lại gây gổ, xách gậy đánh đuổi nhau loạn cả khu phố. Hàng xóm chỉ biết lắc đầu làm thinh, chẳng ai dám can thiệp. Ngày định mệnh ấy, lúc Đ. Và C. đang ngồi uống rượu như lệ thường thì N.V.T. (40 tuổi) là chỗ quen biết ghé vào. Thấy T. sặc mùi rượu, C. càu nhàu không tiếp và nặng lời đuổi ra khỏi nhà. Nóng nảy, T. tặng cô vợ bạn mình một tát tay xiểng liểng. Bênh vợ, Đ. đứng lên đáp lễ bằng cú đấm thẳng khiến môi T. dập tóe màu. Bất ngờ, T. rút con dao Thái lan trong người ra xỉa một nhát vào bụng dưới Đ. Được đưa cấp cứu ngay, nhưng D. đã chết khi vừa đến bệnh viện. Bản án 18 năm tù giam của TAND tình tuyên phạt N.V.T. là bài học đắt giá cho thói sa đà vào men rượu, không làm chủ bản thân dẫn đến hành vi phạm tội.
Sự chủ quan, thiếu kiềm chế trong việc uống rượu có lẽ là nguyên nhân chính gây tác hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Rượu vào lời ra, khơi gợi hiềm khích, cố chấp bắt bẻ, chẳng phân biệt phải trái… vẫn thường xảy ra trong các bàn nhậu nhẹt không có điểm dừng. Những điều này chắc rằng ai cũng biêt, nhưng thử hỏi trong hằng hà sa số bợm nhậu bình dân, được bao người tỉnh tâm chiêm nghiệm?
MẢNH VƯỜN QUÊ
NGUYỄN KIM
Sau năm 1975, gia đình tôi gặp nhiều khó khăn như biết bao người khác, cho nên khi được ông bác hào phóng nhường cho miếng đất ở quê, ba tôi mừng lắm. Mừng, vì tính người thích sống nơi thôn dã, ở chợ khó mà tìm được nơi thoáng đãng, tự nhiên. Việc trước hết là cất một căn nhà lá nhỏ đủ để sinh hoạt, sau đó ba tôi chuyển ít vật dụng cần thiết lên rồi ngày ngày dọn dẹp, đốn bỏ những cây tạp, gai góc chung quanh. Việc này cũng chẵng dễ dàng gì bởi hơn hai mươi năm trong quân đội rồi giải ngũ sống bằng lương hưu, ba tôi chưa quen công việc đời thường. Mấy anh em chúng tôi dù không thường xuyên cũng tranh thủ tuần lễ đôi ngày lên phụ giúp vét ao, bang đất. Những bụi lức, dây mây… um tùm dần được chặt bứng cho trống trải. Ba tôi đặt dừa cách khoảng dọc theo ranh đất, đánh mương giữ nước và ngăn rễ ăn sâu vào trong. Vuông đất bằng phẳng, người trồng bắp, mía, đu đủ, chuối… mỗi loại một ít, chủ yếu cho con cháu lên thăm có cái để ăn chơi vui. Cặp bên hông nhà, má tôi dùng lá dừa xé đôi ken lại làm một cái bồ đổ đất trồng rau. Đó vừa là niềm vui tinh thần, vừa là lợi ích thiết thực trong bữa cơm quê…
Đất trong bồ là lá lợp nhà nát mục trộn cùng phân hố ủ, màu đen xốp, rất tốt. Má tôi trồng rất nhiều thứ, nào là bạc hà, rau thơm, hành lá, vài cây ớt, bụi gừng, bụi sả… Hàng ngày má tưới nước, vun gốc, chăm sóc từng cây, từng gốc một. Tôi hiểu đó là sự thanh thản, niềm vui trong lao động của người già. “Vườn rau” của má ngày thêm xanh tốt nhờ sự cần mẫn đó. Cải trời, rau dền… mọc lưa thưa, má chịu khó bứng trồng gom một chỗ, bảo: “Rau thiên nhiên bổ dưỡng có lúc cần, bỏ đi uổng lắm!”. Thấy hàng rào tre, má cũng nghĩ ra chuyện tìm dây lá sâm, hột mồng tơi ươm trồng. Chừng đôi tháng có lá mồng tơi nấu canh cua ăn mát miệng. Bọn tôi hái lá sâm vò lược lấy nước đông đặc cả thau, ba nói đùa là món “hương đào” tức… hao đường. Má ưa bông điệp, trồng được một cây cao gần bằng đầu người, bông trổ quanh năm. Lại đặt cây chanh sau vài năm rất sai quả, hàng xóm cần qua nói một tiếng thì cứ hái quả, cắt rau mà không ai ngại. Má nói: “Cây trồng có cực khổ gì đâu, cũng bà con mình dùng chớ ai vô đó!”. Tôi nhớ sát vách nhà có cây ớt hiểm mọc hoang, để riết cao lớn đến kinh ngạc, trái chi chít đầy cành, lả ngọn phủ lên mái lá, ai thấy cũng trầm trồ. Hồi chưa đấp đập, sau nhà có con rạch mát bóng hai hàng bần cao vút. Ba tôi làm ít vó cua, giăng mươi thước lưới bén… vậy mà có thức ăn hàng ngày, không thiếu. Anh em tôi hay ra rạch tắm thỏa thê rồi qua bên kia ruộng mô để bắt còng, nghe động còng lửa chạy rạng đất. Bắt nhiều đem về, má làm sạch rồi ra mé ao hái rau muống nấu canh chua với lá me non hoặc bần chín, rang mặn sả ớt, rau thơm vườn nhà có sẵn khỏi mua. Bờ ao ẩm ướt, má tận dụng trồng vài gốc lá dứa thơm, sau này cây chị cây em thi nhau mọc sum suê, xanh mướt. Giã nhuyễn lá dứa lấy nước trộn bột làm bánh đúc, bánh lọt, để vào nồi cơm cho thơm… dùng hoài không hết, má nhổ bớt cho những nhà gần bên trồng. Cặp quanh bồ rau, má cặm cụi đào lổ trồng khoai môn loại củ nhỏ. Chừng mùa nắng, chiều chiều má đào lấy củ nấu chè cho cả nhà ăn. Củ khoai môn không lớn, nhưng ăn rất thơm, bùi, khác xa củ môn to bằng trái cam bán ở chợ, ăn thấy nhàn nhạt làm sao…
Trưa trưa nằm võng chái hè nhà, nhìn tàu lá dừa đong đưa, cây chanh vươn tán lá rộng, cành bông điệp màu vàng cam tươi tắn… để ngẫm nghĩ về hai chữ hương quê. Chiều chiều ngồi cạnh má nhổ cỏ, bắt sâu ở mảnh vườn nho nhỏ mà lòng thấy đầy ắp những tình cảm. Má già yếu, thời gian gần gũi các con tới ngày xế bóng, buồn đau đáu hỏi được bao lâu? Vườn rau của má bây giờ còn đây, mai này sẽ ra sao?. Thôi thì hãy chắt lọc tận hưởng hạnh phúc gia đình, ấp ủ thương yêu bên vườn rau của má…
CẢNH ĐỜI ÔNG CỐNG
NGUYỄN KIM
Ông Tư Cống tay xách giỏ, nhón đôi dép mòn lẳng đi vào khu chợ cá nhớp nhúa nước bẩn. Bữa nay nhằm con nước kém nên dãy sạp hàng thưa thớt hẳn. Ngang vựa thu mua cá đồng thấy thau cá rô mề mập tròn tươi roi rói, ông buột miệng hỏi:
- Chà… cá rô tát đìa đây! Bao nhiêu một ký lô vậy cô?
Người đàn bà vén nón lá lên, nói cộc lốc:
- Cá rô loại một, giá đắt lắm… ông già ơi! Ủa, ai như chú Tư?
Nhận ra người quen cũ, ông Cống hơi lúng túng gật đầu:
- Ừ… tôi hỏi chơi cho biết thôi, tiền đâu mà mua. Lúc rày bán khá hông cô Bảy?
- Dạ… cũng đỡ hơn hồi chú còn làm ban quản lý chợ. Xin lỗi chú nghen, cá này chờ lái vô cân đem lên nhà hàng thành phố, chú muốn ăn cũng không được. Ờ quên, chú giờ… công tác cơ quan nào? Lên được chức gì rồi?
Liếc qua mấy bà cô rỗi việc ngồi túm tụm quanh đó đang ngó mình với ánh mắt tò mò, ông Cống gượng gạo nở nụ cười méo xệch trên cái miệng móm xọm:
- Gần bảy mươi rồi, công tác gì nữa cô? Thôi, tôi đi!
Vòng ra cuối chợ chồm hổm mua chén tép, bịch dưa mắm xong, ông lửng thửng về nhà. Chân mỏi, lưng đau, vừa đi ông Cống vừa lẩm bẩm oán trách cái số mình hậu vận không tốt. Hai bà vợ, chín đứa con mà gần xuống lổ lại thui thủi một mình, tự lo cơm nước, nghĩ chán mớ đời! Mười mấy năm về trước, lúc ông còn chức trợ lý trưởng ban quản lý chợ, oai phong ra phết chứ có đâu rụt rè, ngượng nghịu như lúc nãy. Mỗi khi “vi hành”, sau lưng ông là hai anh trật tự viên lực lưỡng, tay mang pa-sa, mặt lên gân quạu đeo. Rồi thì cá to, tôm lớn, cua gạch… thường được biếu không cho ông, tặng thêm nụ cười khô cứng, câu nói lấy lòng của những người biết điều. Còn việc bánh sáp đi, bánh quy lại là lẽ tất nhiên. Bằng quyền hạn của mình, ông Cống dành chỗ buôn bán tốt, bỏ qua việc lùi lậu, gian lận cho họ khá dễ dàng. Cứ tưởng thời gian lều bều như lục bình trôi xuôi gió thuận dòng, ngờ đâu trong dịp bầu lại thành phần ban quản lý chợ, ông rớt chức trợ lý thật thảm hại với chín phiếu chống, chỉ một phiếu ủng hộ của mình ông; cuộc lật đổ chóng vánh. Chẳng lẽ lại xuống làm anh trật tự viên để hò hét, xô đẩy, đôi co với mấy mụ già mồm, nanh nọc, cân già cân non, chuyên lấn chiếm lòng lề đường? Làm nư hai tháng, ai cũng làm lơ. ông đành hậm hực nộp đơn xin nghỉ việc, về với ao cá, ruộng vườn cho khỏe xác!
Bà Hai, bà Ba được ông chia đều cơ ngơi từ trước để tự túc làm ăn sinh sống. Riêng ông vẫn ở cái nhà hương hỏa lợp ngói âm dương đã xuống cấp, đêm nằm nghe tiếng mối mọt tỉ tê. Không bà nào, kể cả những đứa con chịu về cùng ông chia sớt nỗi buồn cô độc…
Lật quyển sổ tiết kiệm xem lại số tiền dư ít ỏi, ông Cống thở dài ngao ngán. Buổi trưa vắng lặng, nghe rõ tiếng tàu lá dừa khua rọt rẹt trên mái nhà. Việc chi tiêu ông rất dè xẻn, nhưng tốn hao quá nhiều với mười một cái “khẩu” lớn nhỏ kia. Bình thường nào thấy mặt ai, khi hữu sự thì tới kêu réo, tiền dựng vợ gả chống mấy đứa lớn, hai bà thay nhau lên ca cẩm, rỉa rói ông và chỉ chịu rút lui khi đã được đáp ứng yêu cầu. Phận làm chồng, làm cha, ông Cống đành bấm bụng chạy lo kẻo thiên hạ nghe được rồi cười. Tính ông lại sĩ diện nên cố bảo vệ sự đề huề gia đình bằng các lần đến ngân hàng rút dần số tiền dành dụm. Định mua cái thọ dưỡng sanh từ ba năm trước, tới giờ cũng chưa thực hiện được. Nghe xúi, ông làm thủ tục xin vào hội Nông dân, hy vọng lúc chết may mắn được cái hòm xi măng cũng ổn. Ngữ này có lẽ phải thế chấp nhà đất rồi tính sau!
Quẳng cái nón lá lên bàn đánh xoạch, bà Hai kéo chéo khăn lau mồ hôi trán, giọng bực dọc:
- Ông lên xã làm giấy cam kết bảo lãnh cho thằng Quý chưa?
Ông Cống phe phẩy quạt, chậm rãi đáp:
- Rồi… đóng phạt hết một trăm ngàn, ý là họ tha bớt. Bà nói với nó là còn rượu chè quậy quạng lần nữa là đi cải tạo đó. À… vụ con Nết bà tới gia đình thằng “tác giả” giải quyết ra sao? Để lâu lâu… bụng vượt mặt giấu ai được nữa đây?
- Thằng bồ ruột con Nết chối phắt trách nhiệm, cả nhà nó lại về hùa gây gỗ với tôi om sòm. Họ quả quyết con gái mình quan hệ nhiều đứa, có bằng chứng hẳn hoi nên không chịu nhìn nhận, nói gì tới cưới hỏi. Kẹt cái là họ… nói đúng!
Ngẫm nghĩ một lúc bí thế, ông cau mày:
- Bà liệu đưa nó lại bệnh viện khắc phục hậu quả được không?
Bà Hai trừng mắt:
- Tháng thứ tư rồi, làm liều rất nguy hiểm, đành vậy thôi. Con gái nhờ đức cha mà ông thì đèo bồng, ham hố…
- Chuyện xưa như trái đất, bà xếp lại cho tôi nhờ. Biểu thắng Phúc hay thằng Sang tới đây đưa tôi đi khám bệnh. Cả bầy con chẳng nhờ cậy được đứa nào sao… hở trời? Hổm rày mất ngủ, bụng lại đau âm ỉ, trong người khó chịu quá. Có người cho là tôi bị ruột dư hay biến chứng gan, hổng lo trị sớm e rằng…
Chỉ tay vào gói giấy dưới chân bàn, bà Hai đứng lên lắc đầu từ chối:
- Tụi nó bận làm thuê, làm mướn kiếm ăn, đâu ai rảnh mà qua đây phục vụ. Ông uống đỡ gói thuốc Nam tôi mới thỉnh trên chùa, giải nhiệt tốt lắm. Trời nóng nực nên vậy chớ quan trọng chi đâu!
Ông Cống im lặng ngó theo bà vợ lớn ra tới cửa còn quay lại nói thêm một câu làm ông thót ruột:
- Ráng lo cho tôi chừng triệu bạc bắt cặp heo giống bên nhà cô Chín. Mùng mười người ta rã bầy, tôi sai con Nết qua lấy tiền nghen!
… Run run mở nồi cơm nguội ra, ông Cống ngửi ngửi, ngần ngừ rồi đậy lại. Trong người ông bần thần, miệng đắng ngắt thì nuốt làm sao vô? Bỗng dưng ông nghe thèm chén cháo trắng hành lá nhấm nháp với cá kho tiêu. Mong muốn tuy nhỏ nhoi mà xa vời quá, ít ra là trong lúc này. Vợ con… có thừa mà khi bệnh hoạn cần bàn tay chăm sóc thì ai cũng lánh xa. Mối tị hiềm ngấm ngầm giữa hai bà với nhau đẩy cái nghĩa tình ngày càng lạt lẻo. Ba ngày nay ông Cống uể oãi nằm vùi không bước chân ra cửa lấy một lần, đắm mình trong cay đắng âm thầm…
Bà Ba tay dắt đứa con gái nhỏ bước vào, hỏi chiếu lệ với nét mặt dửng dưng:
- Ông khỏe chưa? Già cà thì thường cảm mạo sơ sơ vài bữa là… tự khỏi chớ gì!
Ông Cống không trả lời, ngồi tựa lưng bên vách ngoắc đứa nhỏ đứng xớ rớ cạnh mẹ:
- Giàu… lại đây con! Cha cho tiền ăn bánh nè!
Con bé tóc ngắn củn cởn, đôi mắt e dè, ngập ngừng bước gần ông nhận tờ giấy bạc nhét vội vào túi. Ông đưa tay định làm một cử chỉ âu yếm, nó đã vụt lùi nhanh ra khiến bàn tay ông hụt hẫng dừng ở khoảng không, đôi mắt ưu tư mệt mỏi. Câu chuyện rời rạc giữa ông với bà vợ một thời khắn khít sớm kết thúc. Bà Ba đưa con ra cửa và nhẹ giọng:
- Ông đừng trách tôi, việc con Tình lên thành phố phụ bán cà phê là bất đắc dĩ, hư hay nên nhờ trời! Nó còn hai đứa em đang học hành, tốn kém đủ thứ. Đám ruộng lại bị chuột cắn phá dữ dội, mùa này kể như mất trắng. Ông ráng giúp tôi phần nào cho bớt khổ!
Nằm co quắp trên chiếc sạp tre, ông Cống rên nhỏ mấy tiếng như để vơi bớt nỗi đau từ thể xác đến tâm hồn. Nắng chiều xuyên qua kẻ vách rọi ngay mái đầu bạc trắng, rũ rượi của ông…
… Anh hàng xóm nhìn mặt trời lên khá cao rồi ái ngại nhìn cửa nhà ông Cống còn đóng kín. Đẩy cánh cửa liếp, anh gọi to:
- Bác Tư ơi! có đoàn y tế huyện xuống xã khám bệnh miễn phí. Cháu tới đưa bác đi nè… bác Tư ơi!
Không nghe lời đáp, anh sốt ruột bước lại chiếc sạp kéo tấm màn che. Ông Cống nằm mở mắt trừng trừng, hai tay nắm chặt trước bụng, xem ra đã chết từ lâu. Tờ giấy nợ quá hạn của ngân hàng rơi xuống đất cạnh quyển sổ tiết kiệm nhầu nát. Anh hàng xóm rùng mình kinh hãi nhảy ba bước ra ngoài sân, gào đến lạc giọng:
- Bớ… bà con làng xóm ơi! ông Cống chết rồi… Bớ bà con… ông Cống hui nhị tì rồi!
CHUYỆN PHIẾM VỀ RƯỢU
NGUYỄN KIM
Tôi tình cờ nghe được ba mẩu chuyện ở nhà hàng xóm. Nghe cũng vui vui nên ghi lại xem chơi, hoàn toàn không ẩn ý gì!
Chuyện thứ nhất:
Tiệc nhậu có bốn người đang đến hồi “bốc”. Họ ăn nói bạt mạng, nhạo báng cả Trời. Trời nghe rất giận, sai Thiên Lôi xách búa bay xuống trần gian… thi hành án. Mưa gió, sấm chớp ì ầm để hỗ trợ khí thế cho Thiên Lôi cả giờ rồi cũng phải tạnh. Thấy Thiên Lôi cầm búa bay về, mặt mày ỉu xìu, lắc đầu chán nản, Trời hét lên:
- Xong việc chưa? Sao yếu xìu vậy?
Thiên Lôi tâu:
- Bẩm trời! Đánh bọn người phạm tội vô lễ ấy không được vì có một người ngồi chung chỉ biết cắm đầu ăn, không uống rượu và chẳng nói câu nào xúc phạm Trời. Thần đánh sét vào bàn nhậu sợ chết oan người ấy!
Trời lẩm bẩm:
- Ừ… đành chịu! Nhưng ta không hiểu ở chỗ ăn nhậu say sưa, nói năng tục tằn, mình không uống rượu thì ngồi vô làm gì? Muốn ăn thì về nhà kêu vợ nấu ăn cho đã thèm! Chẳng lẽ nó ngồi đợi ba đứa kia say, ói mữa lênh láng để hốt dọn giùm?
Chuyện thứ hai:
Sò đang nằm trên bờ cát thấy Cò kiếm ăn gần đấy mới than thở rằng:
- Anh Cò ơi! anh bay đây bay đó biết trời rộng sông dài, cảnh đẹp núi non. Còn tôi suốt đời sống thui thủi…
Cò vui vẻ gợi ý:
- Khó gì! anh hé niệng gắp vào chân tôi bay ít vòng cho anh tha hồ xem…
Sò mừng lắm, ngoạm kỹ chân Cò. Bay được một vòng, Sò thích chí nghiến chặt chân Cò. Đau quá, Cò kêu lên:
- Vừa thôi! Anh cứ gắp… gắp… gắp mãi, tôi nổi xung… buông anh một phát là bỏ mạng đấy!
Chuyện thứ ba:
Một người vốn không uống rượu nhưng rất… tham ăn, cùng bạn đến chơi nhà nọ. Chủ nhà biết ý, nhưng vẫn bày cuộc nhậu. Ông biểu đứa con nhỏ xách chai mua rượu cùng gói thịt quay, ba người ngồi đợi. Đứa bé đi một lúc, khệ nệ ôm chai rượu về. Chủ nhà ngạc nhiên hỏi:
- Sao con không cầm thịt về luôn thể? Cha với hai bác nhắm mồi gì đây?
Đứa bé thản nhiên trả lời:
- Dạ… Con sợ vỡ chai rượu nên để gói thịt quay ngoài ngõ, mang rượu về trước…
Chủ nhà trừng mắt mắng con:
- Mày khờ quá! Sao không mang thịt về, để rượu ngoài ngõ? Để thịt ngoài đó, lỡ ra… chó nó ăn thì sao? Còn để rượu ngoài ngõ thì được vì… vì đâu có… con gì uống?
ĐÊM QUÊ
Nguyễn Kim
Từ khu du lịch vườn cò Bằng Lăng bước ra, trong lúc chờ Phong lấy xe, tôi thích thú ngắm từng đàn cò trắng xoãi cánh nhịp nhàng về tổ. Thiên nhiên ưu đãi, lòng người phóng khoáng đã tạo cho vùng đất này một môi trường sinh thái hài hòa, thu hút nhiều khách tham quan. Chiều xuống dần cùng những cánh cò phấp phới ca dao. Chiếc xe Honda 50 đưa tôi và Phong rời bờ đất đỏ ra đường lớn. Chậm tay ga, Phong cười khà :
- Đêm nay dám ngủ bụi không ?
Tôi hứng khởi bấm vai bạn :
- Tại sao không ? ở đâu ?
- Chỗ bác Tư của vợ mình, cũng dân xã Thới Thuận, Thốt Nốt này thôi…Bác rất thương mình và tính mến khách lắm. Năm nay ông già nhẹ thở nhờ trúng lúa, đang thu hoạch vụ mè trồng chơi mà ăn thiệt. Thêm hầm cá sắp tới lứa, hơi lo vì giá cả biến động trồi sụt thất thường…
Phong cùng quê và thân thiết với tôi từ bé. Cho tới khi cuộc mưu sinh đưa đẩy anh trôi giạt tận đây, sau đó cưới vợ ở Thơm Rơm (cái tên nghe thật mộc mạc, trữ tình !}. Phong khỏe mạnh, có kiến thức, chịu làm lụng, lại may gặp cô vợ nề nếp, siêng năng nên chỉ sau 5 năm đã mua được cuộc đất tại xã này và đang chuẩn bị ra riêng. Hai vợ chồng mới có một con trai, kinh tế gia đình ổn định thì xem như hạnh phúc trong tầm tay. Lần này Phong rảnh rỗi hẹn tôi lên đưa đi chơi vùng quê một ngày đêm để cho biết phần nào phong cảnh cùng tính cách người miền Tây…
Vòng vèo đường quê, cầu ván gần tiếng đồng hồ tới lúc mặt trời lặn mất tăm lại gặp một cây cầu khỉ chông chênh bắc qua con rạch cạn. Thấy chúng tôi tần ngần, mấy cô gái làm đồng về muộn cứ đứng nhìn rồi che miệng cười khúc khích. Một cô bạo dạn góp ý :
- Hai anh tìm nhà ai vậy ? Xe đi đường này không qua cầu được đâu, gởi nhờ hàng xóm gần đây cho tiện…
Phong gật đầu đồng ý:
- Chắc phải vậy thôi…Tụi anh định qua nhà bác tư Trí…
Cô gái dợm bước lên cầu, ngoái lại nói :
- Tưởng ai, bác Tư tụi em biết. Tối nay bác còn ở lại ruộng mè, chưa về nhà đâu anh ơi!
Nhìn các cô gái thoăn thoắt bước qua cầu trông rất dễ dàng, tôi lo tới lượt mình sẽ trượt chân rơi xuống rạch thì thật khó coi. Nhưng…chậm mà chắc, dù mướt mồ hôi tôi cũng qua được. Ghé nhà thăm bác Tư gái xong, tôi và Phong thẳng ra ruộng luôn. Đêm mùa hè sao sớm lấp lánh, mờ nhạt ánh trăng non đủ thấy đường đi. Từ xa đã thấy bập bùng ánh lửa gợi nớ những đêm cắm trại ngày còn đi học. Những thân mè xếp gọn, chất đống cao trên những tấm bạt nhựa. Nốp, đệm rải rác trên khoảng đất trống cạnh những nông cụ. Phong lăng xăng giới thiệu từng người với tôi trong không khí thân tình, cởi mở. Bác tư Trí, một lão nông quá tuổi 70, thấp người mà rắn rỏi, thân mật vỗ mạnh vai tôi:
-Thằng Phong nhắc bây hoài, riết rồi tao cũng nghe quen. Coi như người trong nhà, vậy nghen!
Tôi vui vẻ ngồi bệt xuống xem bác cắt tiết hai con gà mái vàng to béo. Liếc xoèn xoẹt con dao nhíp vào khu tộ, bác phân công:
- Thằng Cuôi nhồi đất cho dẻo vừa, đừng nhão. Hai đứa Tùng, Út ôm mớ rơm. Còn chú Bảy chờ tui khui bụng làm bộ lòng, chú lấy sả quấn nùi bánh rế để sẵn…
Mũi dao bén cắt khéo một vòng bụng dưới hai con gà. Bác xách tất cả ra con kinh một lúc rồi tất tả trở vô. Dồn bộ lòng đã làm xong vào bụng gà, bác lấy nùi sả ém kỹ, luôn vết cắt nơi cổ. Từng động tác tréo cánh, trét đất sét sát thân gà, cuối cùng vo thành khối tròn to, nhỉnh hơn trái dừa bung. Tôi chợt liên tưởng đến hai quả đạn Thần công thời xưa, loại quá cỡ. Lót tấm tôn dày bên dưới, đặt hai “tác phẩm” lên, phủ rơm kín gọn, bác Tư quay sang tôi hất hàm ra hiệu:
- Cho thằng cháu này quyền…khai hỏa đó!
Được Phong và mọi người hưởng ứng, tôi bật quẹt giáp vòng. Rơm khô, cháy bùng soi sáng một góc ruộng. Anh Cuôi dùng đoạn trúc xanh chốc chốc lại tém vun rơm vào gọn gàng. Hơi nóng tỏa ra, tôi rút lui ra phụ anh em lặt rau. Đủ loại rau vườn: răm, quế, om, cải trời, lá chanh, ớt hiểm…Phong thì cắt mấy tàu lá chuối bày sẵn chỗ đất phẳng. Thời gian chờ gà chín, mọi người chuyện trò về thời tiết, kinh nghiện sản xuất, lan man qua cả vấn đề…chất lượng nón bảo hiểm. Tôi phải công nhận rằng mọi người khá quan tâm và am hiểu về thời sự. Điều băn khoăn nhiều nhất là giá cả nông sản trên thị trường luôn bất lợi cho giới nông dân, cả khoản đóng góp cho địa phương cũng có hơi…quá tải. Tự chọn lựa, thay đổi giống cây trồng trên chính mảnh ruộng của mình, may rủi tùy thuộc vào nhu cầu thị trường; nghe rồi mới thấy thực tế quá bấp bênh. Có hướng dẫn đấy, nhưng khi thiệt hại thì ai đứng ra bù đắp đây?. Những cái nhíu mày, tặc lưỡi trên các khuôn mặt chất phác, khắc khổ bởi lao động một nắng hai sương, lòng nào mà không cùng san sẻ?. Nhưng rồi những câu đùa vui, tiếng cười lạc quan lại rộn rã như tin tưởng vào đổi thay từng bước không xa. Quấn điếu thuốc rê, bác Tư chợt hỏi qua chuyện khác :
- Con gái út chú Bảy giờ chắc ổn rồi hả ?
Chú Bảy trạc tuổi 60, tay bó gối ngập ngừng:
- Nghĩ lại mình là cha mẹ mà vì…đất đai eo hẹp nên hổng lo nổi cho con. Thương cho con nhỏ thấy gia đình quá nghèo, dại dột nghe lời người ta. May là tui chạy lên Sài Gòn thúc ép rước về kịp, có rối rắm nhưng nhờ công an giải quyết xong rồi…Giờ phải liệu cho nó học lại, thầy cô trong trường tới thăm biểu vậy !
Một anh ngó đống lửa rơm âm ỉ tro hồng, giọng lửng lơ:
- May mắn lấy được thằng chồng Đài Loan cũng đỡ khổ chớ…chú Bảy?
Bác Tư trợn mắt nạt đùa :
- Nói bậy! Nó thí cho mươi triệu bạc là xong. Còn con cháu mình sống xứ lạ quê người, phong tục, ngôn ngữ bất đồng, tình thương hổng có, bà con họ hàng thì xa lắc xa lơ…mày thấy sướng hả?. Con nhỏ đi học lại, tao mừng, có chữ nghĩa mới không thua sút người ta. Mai mốt chú Bảy qua tui bàn tính chuyện này nghen…Thôi, bỏ dứt vụ này, đừng nhắc nữa!
Mọi người yên lặng như để chuyện không may vừa qua lắng xuống. Tôi và Phong cũng rôm rả chuyện cây giống, quy hoạch này nọ khá trơn tru, có điều là nói theo… sách báo. Cái họ nghe được, cái không đồng tình, thêm những đề xuất tuy bâng quơ, táo bạo nhưng mang tính thực tế và hay nhất là không dài dòng như những bài phát biểu ngắc ngứ về nông nghiệp tôi đã nghe ở cấp xã phường địa phương mình. Đa phần sáo rỗng, hình thức bao la…
Lăn hai khối đất sét…nhân gà vào giữa tàu lá chuối, anh Cuôi chất thêm mấy gộc củi vào đống lửa cho sáng rực lên. Khéo léo gỡ từng mãng đất khô trắng, nóng bỏng, dính từng túm lông gà vất ra bờ ruộng; bác Tư xuýt xoa với hai con gà trần trụi, chín múp, tươm mỡ ướt tay…Bảy người quây quần chuyền tay chén rượu, xé thịt gà đưa cay. Trời về khuya gió se se lạnh, men rượu càng nồng nàn. Món ăn ngon tuyệt bên ánh lửa lung linh với nhửng người dân quê thật thà chân đất. Cảm giác khó tả bằng lời mà lay động, rất lay động tâm hồn. Những mẫu chuyện làng xóm, vui có, buồn có…bàng bạc nét thuần hậu. Hai anh Tùng, Út thay nhau ca các bài bản vọng cổ xưa, thời nghệ sĩ Út Trà Ôn, Phương Quang, Minh Cảnh…đệm bằng nhịp song loan giòn giã của bác Tư. Giọng ca, tiếng đàn rỉ rả vấn vương, tôi nghe thấm thía hơn hẵn những “sao” mượt mà, uốn éo, chán ngắt trên tivi. Tiếng ếch nhái vang rân trong thanh vắng nhắc chúng tôi rằng đã nửa đêm về sáng…
Nằm trên đệm rơm, cuộn mình trong nóp tôi còn thao thức cạnh đống un xua muỗi, tâm trí miên man nghĩ về cuộc sống nông thôn và thành thị. Tuy đời sống vật chất còn quá cách biệt, nhưng tôi chắc một điều nếu giới nông dân được quan tâm, thật sự quan tâm thì về tinh thần, nền tảng đạo đức, cội nguồn sẽ mãi là giá trị mẫu mực cho đời sau. Tôi yêu những đêm như đêm nay…
THÚ MÓC CUA VÀ MÓN ĂN TỪ CUA
Vùng nước mặn Gò Công (Tiền Giang) có khá nhiều sông rạch, bờ bãi nên chuyện đi móc cua biển khá phổ biến bời vừa là cái thú vừa đưọc món ăn ngon. Dụng cụ móc cua thật đơn giản: một thanh sắt đường kính cỡ 4 tới 6 mm, dài non 1 mét, bẻ cong như lưỡi câu cả hai đầu và một giỏ đựng là đủ bộ. Khi con nước lớn, cua theo dòng lên bờ ruộng, mé rạch kiếm ăn hoặc đào hang để ở. Muốn bắt cua thì đợi khi thủy triều xuống thấp, đi tìm miệng hang. Người có kinh nghiệm nhận biết cua còn trong hang hay đã ra ngoài bằng cách xem kỹ các dấu chân ngoằn ngoèo cua còn để lại trên mặt bùn. Giống cua cũng khéo chọn nơi trú ngụ có địa hình phức tạp, gai góc như bọng cây, lùm cốc kèn, ô rô,,, . Tìm được hang, dùng cây móc sắt nhẹ nhàng thăm dò, nghe chạm mai cua kêu lộp cộp thì xoay xoay móc kéo dần ra. Cảm giác hồi hộp lẫn thích thú lúc lôi con cua ra khỏi hang thật là khó tả. Cua vướng càng, ngoe và bị móc ngang thân nên khó thoát. Dùng dây lạt cột chặt, tiếp tục đưa móc vào hang, có khi tóm được cả cặp cũng nên. Con nước lớn, cua cái thường có gạch son và cuối tháng âm lịch cua lột nên thời điểm này người ta đi móc cua nhiều hơn. Chịu khó lùng sục chừng đôi giờ đồng hồ là nặng giỏ cua…
Cua biển chế biến được nhiều món ăn ngon như: rang muối, rang me, xào mặn, xào chua, nấu bánh canh, nướng, luộc nước dừa…Gạch son là nguồn dự trử năng lượng nuôi cơ thể cua trong thời kỳ sắp lột vỏ, rất béo bổ, thơm ngon. Cua “hai da” là cua sắp lột, khi luộc hoặc nướng chín dễ dàng bóc lớp vỏ cứng, phần gạch và thịt dẽ ngọt. Cua lột thì chỉ rửa sạch, bỏ yếm, nhúng bột chiên vàng ăn rất khoái khẩu. Về món nham cua gạch son, ở quê làm khá đơn giản: cua cái luộc chín, gỡ lấy gạch, thịt rồi trộn với rau càng cua bóp dấm, đường…chấm nước mắm ngon. Chế biến món nham ở các nhà hàng đặc sản thì cầu kỳ hơn: cua hấp chín gỡ lấy thịt, luộc thịt heo ba rọi thái sợi nhỏ trộn chung với khế, chuối xanh xắt mỏng cùng rau dấp cá rồi sắp ra dĩa. Gạch son cua làm xốt rưới lên trên, nêm chút nước mắm ngon. Thường dùng món nham với bánh phồng tôm chấm nước mắm tỏi ớt, hương vị thơm ngon đặc biệt. Từ một món ăn đặc trưng địa phương, hiện nay trong các nhà hàng, món “nham Gò Công” đã được nhiều thực khách sành ăn biết đến…
KIẾM SỐNG TRÊN RUỘNG ĐỒNG
Nguyễn Kim
Trong việc kiếm sống, kiếm ăn của bà con vùng nông thôn từ kinh nghiệm tích lũy bao đời đã sáng tạo, cải tiến rất nhiều cách thức, phương tiện đánh bắt cá tôm, sản vật sao cho thích nghi với địa hình sông rạch phức tạp. Tận dụng những vật liệu thiên nhiên có sẵn như: tre, trúc, lau, sậy, lạt dừa, sống dừa…họ đã làm ra nhiểu sản phẩm tiện ích: gàu, đăng, đó, lọp, lờ, nôm, rổ xúc…Nói về chuyện tát đìa tát ao khá đơn giản thường diễn ra vào lúc giáp tết, khi nước rọt và bà con thu hoạch vụ lúa mùa xong. Thời điểm ấy đồng cạn, tôm cá buộc phải rút xuống ao đìa còn nước để ẩn sinh tồn. Sáng sớm, dùng gàu sòng, gàu dai thay phiên nhau tát đến cạn. Dàn ngang bắt cá, tôm, ếch, rắn, ốc…rồi cặm chà, xổ nước ngập trở lại. Thường các sản vật lớn, ngon thì đem ra chợ bán, chỉ để lại chút ít chia nhau ăn. Với nguồn thu nhập thấp nên người nông dân phải tiện tặn lắm mới đủ chi dụng trong nhà.
Những gia đình sống gần kinh rạch nhỏ thì thường khai thác bằng nò. Lúc nước ròng chảy xiết, cá tôm lọt vào không sót con nào. Hoặc sử dụng vó, nhữ mồi bằng cám rang bắt tép, mỗi lần kéo vó được chừng lưng chén. Còn lờ, lọp chỉ đặt trên ruộng vào mùa nước, chỉ bắt được cá rô, sặt loại nhỏ. Với các mương vườn vào thời điểm nước kém (từ mùng 8-11 và 22-25 âm lịch), hợp sức đắp bờ đất chận đầu mương, quậy nổi sình lên cho các loại tôm tép, cá trắng, lòng tong, bống cát…xốn mắt nổi lờ đờ, dùng rổ vớt. Cá lóc chúi sình rất kỹ, phải mò sát tay hay dùng nôm theo dấu mà chụp bắt. Cá trê thường ở hang bọng, mỗi ổ có khi bắt tới mười mấy con lớn nhỏ. Thơ thẩn thăm đồng gặp bầy cá lòng ròng bằng đầu đũa, chúng lăng xăng trồi lên hụp xuống trông rất khoái mắt. Người lớn dùng cần tre, túm lưỡi câu dưới chân con vịt mồi để nhữ bắt cá lóc mẹ. Bị phá bầy, cá mẹ bảo vệ con rất hung tợn quẫy táp vài lần, sau cũng dính câu. Bọn trẻ thì rủ nhau lấy rổ xúc bao vây tóm gần hết bầy lòng ròng về kho lạt sả ớt cuốn bánh tráng, rau sống ăn cho khoái khẩu. Nghĩ mà tội nghiệp đàn cá chưa kịp trưởng thành để góp phần vào nguồn thức ăn thiên nhiên phong phú. Khi đồng bưng đầy nước, các loại cá nhỏ khác như: hủn hỉn, bạc đầu, bãi trầu, lia thia…sinh sôi, nảy nở nhiều. Người ta dùng rổ xúc loại to đan khít bằng trúc, đường kính có tới 1,2 mét. Đặt rổ xuống nước ngập vành, vừa đạp đám cỏ năng, lác ngã rạp, vừa bước quanh thu hẹp dần vòng tròn cho đàn cá tạp bị đánh động tập trung vào miệng rổ thì xúc cho nhanh gọn. Vào mùa xúc cá, chiều chiều có những người bưng thúng cá lia thia đậy lá chuối rảo quanh xóm rao bán. Họ đong bằng chén, giá cả rẻ vừa túi tiền người mua, cùng là hàng xóm. Bọn trẻ thích lựa những con lia thia sống xoi xói, màu sắc tươi đẹp về nuôi trong lọ thủy tinh để cáp độ đá nhau. Một trò chơi tuổi thơ rất dễ thương. Tháng nắng, những mảnh ruộng nước còn chừng hơn gang tay, cá bống kèo nổi lờ đờ. Dùng sợi lông đuôi ngựa thắt vòng, khéo tay thả tròng qua đầu giật cũng kiếm được nồi cá kho tiêu trong bữa cơm. Hoặc ra bãi sông nước ròng, chận ngách bắt cá bống sao về um nước dừa, đọt mì, ăn rất ngon miệng. Ruộng lên mô, còng làm hang lổ chổ, bọn trẻ chịu siêng bắt một lúc cũng dư kho mặn, nấu nồi canh chua chấm mắm ruốc. Mùa mưa đến, ruộng đồng nổi nước. Lại hú gọi nhau xách giỏ đụt bắt cua đồng về nấu canh rau chùm ngót, xào mặn tóp mỡ hay rang ăn chơi cùng bần chua xắt lát cũng chẳng ai chê. Người có tay nghề “nhủi” cá thì chuẩn bị loại dụng cụ khá công phu làm bằng tre. Tre vót nhẵn cỡ cây nhang, dài khoảng 1,5 mét, kết lại bằng dây gân hoặc kẽm, khe hở nhỏ đủ nước lọt qua.Khung nhủi làm bằng cây tầm vông bắt tréo, tra vào hai lổ ở miệng nhủi tấm gỗ to dày, rộng cỡ 60 cm. Cầm gọng nhủi chúc xuống, chạy lúp xúp trên ruộng nước một hơi rồi giở lên. Cá rô, cá sặt non, cua con, ốc, tép, cà cuống, bù niểng…chen lẫn rều rác, phải chịu khó lựa kỹ. Nhủi cá đòi hỏi nhiều sức lực, dầm nước móp tay mới kiếm đủ thức ăn trong nhà, may dư chút đỉnh bán xây xài. Những sinh vật thập cẩm này dùng kho tộ sả ớt, càng hâm nhiều lửa càng thơm ngon.
“Xà di bắt cá thòi lòi/Ăn lươn đặt trúm, vó mồi kiếm cua”. Đơn giản hơn thì có những ngón nghề: móc cá chạch, giật cá kèo, vét hầm cá nhảy, soi ếch, mò tôm, cá bống dừa…Câu cá cũng nhiều kiểu: câu rê, câu giăng, câu cắm, câu nhắp…với mồi nhữ riêng biệt để bắt cá rô, cá lóc, cá ngát, cá chốt…tùy thời điểm, môi trường, địa hình. Nếu có điều kiện thì chọn chỗ mé sông đáy bằng, lúc nước ròng không quá cạn để gài chà bần, tre buộc lỏng từng bó cao hơn mặt nước. Phải bảo đảm chà không bị nước cuốn trôi và để yên tĩnh cho cá tôm trú ngụ. Khi thu hoạch, canh con nước lớn giựt ròng, xổ đăng bao kín, dỡ chà bỏ lên bờ. Cho xuồng cặp mé đăng để hứng những con cá to nghe động phóng ra. Khép đăng, dùng rổ lớn xúc bắt cá tôm, đôi khi có cả cua, tôm càng, cá nâu…Vào mùa nắng. đồng khô, người ta còn tổ chức săn chuột, vừa có món ăn lạ, ngon, vừa góp phần bảo vệ mùa màng. Dùng đăng bện bao chữ V với diện tích rộng. Đặt rọ nơi đầu hẹp rồi đốt đồng, cà đàn chuột hoảng loạn chạy tháo thân để rồi cùng chui vào rọ. Chuột ăn lúa, dừa nên con nào cũng béo tròn. Thịt chuột chế biến được rất nhiều món: rô ti nước dừa, luộc hèm rượu xé trộn rau răm, ướp nướng sả ớt, nấu chua cơm mẻ, kho mắm, quay lu…và đặc biệt miệt Hậu Giang nghe nói có cả món bánh ít trần nhân thịt chuột…
Cuộc sống nông thôn dù còn nghèo, nhưng người nông dân với sự suy nghĩ, tìm tòi, tận dụng các phương tiện thô sơ, dễ tìm ở địa phương cùng đôi tay quen lao động để kiếm được nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng tạo thêm sức lực đồng áng. Bữa cơm gia đình với tô canh rau tập tàng, đọt lang, đọt bí luộc cạnh cái ơ đất tép rong, cá trắng, cá rô hột bí kho mặn…chẳng là đậm đà, đầm ấm hay sao?, Ngoài câu “Râu tôm nấu với ruột bầu/Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” mà ta vẫn thường nghe, xin thêm vào một câu đầy khẩu vị…tình cảm gia đình “Cá rô kho tộ thêm gừng/Ăn rồi còn lại xin đừng đổ đi” hoặc chơn chất, thấm thía hơn “Tay bưng dĩa muối chấm gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” !.
CON CHUỘT CỐNG VÀ CẢ T1
Chu Thụy Nguyên
Cũng đã 36 năm qua rồi còn gì, từ những ngày dân miền nam bỗng lầm than, tù ngục. Tại các trại tù mang tên mỹ miều : trại cải tạo, cái ăn đã thiếu lượng thê thảm lại còn thiếu chất trầm trọng. Gạo Trung Cộng được lôi từ các mật khu về đựng trong các bao bố chỉ xanh đều ẩm mốc. Xúc một thau nhôm đầy gạo thì hết hai phần ba thau là những chùm sâu đã kết lại với nhau cùng dính theo những hạt gạo đã mục ruỗng.Ban đầu, anh em nhà bếp còn lựa vớt sâu quăng đi, về sau thấy chẳng còn bao nhiêu, hơn nữa, đói quá ,mỗi bữa chia ra mỗi người chỉ được lưng chén cơm. Thôi thì, sâu cũng từ gạo mà ra nên nấu ăn luôn, không bổ bề ngang chắc cũng không làm teo bề dọc.
Cái đói, cái thiếu chất làm anh em toàn trại bắt đầu phù thũng rồi ghẻ lở.Ghẻ tay, ghẻ chân, rồi ghẻ toàn thân không từ chổ nào.Ngày nay, ở Thái Lan và một số quốc gia, người ta đã và đang cổ xúy cho việc ăn các loại côn trùng như một mốt thời thượng,nghe đâu côn trùng còn cho nhiều protein hơn cả động vật....Ngày ấy, những người tù chúng tôi ở khu vực quanh phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh mà Việt Cộng gọi là L3 T1 .Bản năng sinh tồn khiến con người vượt qua mọi e dè, sợ sệt, cũng từ đó mặc nhiên ra đời một quan niệm mới để sinh tồn :" Con gì nhúc nhích là ăn ".Chúng tôi đã ăn không từ con gì từ giun, dế, bò cạp, cóc, nhái, bò tọt,ểnh ương cho đến sang trọng hơn là chim, chuột...Ăn để sinh tồn !, hoặc chúng tôi vẫn thường nói với nhau : Ăn để có protein !.Chẳng mấy chốc mà nơi nào anh em tù chúng tôi đến ở thì chẳng còn một sinh vật nào có thể tồn tại.
Hằng ngày, những tên vệ binh lăm lăm những khẩu A.K dắt từng đoàn tù chúng tôi đi ''lao động''.Những con người không còn nhận ra là người nữa, chúng tôi như những bóng ma dật dờ,quần áo lôi thôi lếch thếch, chân bước liêu xiêu, nghiêng ngã.Quần áo không còn có thể nhận ra, áo may từ vải bao cát Mỹ cắt ra, quần vá trăm mảnh, nón rộng vành cũng từ vải bao cát, guốc tự đẻo từ gổ thông xà nhà hay thanh cây rừng.Gặp bất cứ con gì nhúc nhích trên đường đi lao động là chụp, bẻ vội chân hoặc ngắt đầu chúng, bỏ vào túi áo chờ lúc về nướng ăn. Tổ 4 người chúng tôi có một anh gốc người Hoa Chợ Lớn.một hôm leo lên giở mái lợp lại nhà cho bộ đội bỗng thấy 4 chú chuột mới đẻ, đỏ hỏn té xuống đất.Anh nầy mừng quá, mắt sáng lên , vội phóng xuống đất gần lọi giò.Anh ta mở nắp bình toong nước ra rửa vội từng con chột đỏ hỏn, bỏ vào miệng, bấm đuôi cho nó chạy tọt vào cổ họng.Vậy là ngày đó anh ta đã có đủ protein cho mình.
Một hôm đang giờ nghỉ trưa chờ tập họp bỗng nghe có nhiều tiếng la hét , rượt đuổi chạy rần rần trên con đường nhựa song song với phi trường.Tiếng la hét càng lúc càng lớn vì mọi người khắp nơi nghe la càng túa ra đông hơn. Chuyện gì vậy ?
Thì ra một con chuột cống vừa từ nhà bếp bộ đội chạy ra đường nhựa đã không thể thoát được tầm ngắm của những người tù.Mắt họ đã sáng quắc lên như vừa tìm gặp nguồn sống.Con chuột đã bị cả tiểu đoàn tù nhân săn đuổi, toàn chân là chân như cả đám rừng vây chặt dần. Cuối cùng, con chuột cống đã mệt đứt hơi, hết đường chạy đành đứng một chổ nạp mạng.Chiều hôm đó, tổ ăn cơm có người đã bắt được con chuột cống đã có một bữa ăn thịnh soạn với món đặc sản quý rô ti mà chúng tôi thường gọi đùa là đi ăn nhà hàng Maxim.
THẰNG CHUM XỨ CÁ
Nhà nghèo
Khiêm Cung
1947
Lúc đó thằng Chum mười tuổi. Không rõ nó xấu hấy hay sợ trùng tên với ai, Bà ngoại nó đặt tên nó là Chum. Chum theo nghĩa thông thường là cái hũ lớn để đựng nước hay tương. Có lẽ bà ngoại vô tình chọn cho nó một cái tên như vậy để gọi, chớ không quan tâm gì đến ý nghĩa của chữ Chum.
Nó sanh ra trong một gia đình nghèo. Nghe nói ông bà nội nó rất khá giả, làm nghề cá mắm, nhà có rất nhiều ghe xuồng, công nhân thường được gọi cho lịch sự là “bạn”, hàng mấy mươi người. Ông bà xài toàn là mâm thau, nồi đồng, chén kiểu. Đêm đêm đèn khí đá hoặc đèn “măng xông ” tỏa ánh sáng trắng xanh rực rỡ. Mẹ nó về với cha nó lúc bà mới mười sáu tuổi, rước dâu bằng hai chiếc tàu thủy, tức là loại tàu hai từng chạy đường sông, có ống khói lớn. Nguyên nhân là ông bà nội nó đã mướn một chiếc, bà ngoại nó không hay lại mướn thêm một chiếc khác. Sau đó, vì ông bà nội vui chơi bài bạc, gia tài bị khánh kiệt.
Cha mẹ Chum nghèo ngay từ lúc được cho ra riêng, nhưng sống với nhau rất đầm ấm, sanh con đều đều, trung bình hai năm một đứa, Chum là đứa con thứ tư. Sau Chum còn thêm hai đứa nữa. Ngày xưa người ta quan niệm “bi nhiêu thì bi”, trời sanh voi trời sanh cỏ, nhà có phước mới có con đông. Phước đâu chưa thấy, mà trước mắt là cha mẹ Chum “ nghèo rớt mồng tơi, nghèo rơi nước mắt ”, chạy ăn từng bữa, con cái thay phiên nhau bịnh, có khi hai ba đứa bịnh một lượt làm ông bà điên đầu.
Cha mẹ Chum phải làm lụng thật vất vả, mướn đất để làm rẫy ruộng, trồng lúa nổi, là giống lúa nước lên đến đâu thì lúa lên cao đến đó. Có những năm nước lên nhanh quá, lúa lên không kịp, bị lút, thất mùa. Ông bà cũng làm bánh cho chị em Chum bơi xuồng đi bán khắp đầu trên xóm dưới, kiếm tiền lo cái ăn, cái mặc cho gia đình.
Thời bấy giờ, ở thôn quê miền Tây đã có nhiều người mặc quần áo may bằng bao bố. Ai mặc vải ta, dệt bằng chỉ thô, là đẹp lắm rồi. Loại vải ta thấm mồ hôi sanh ra con rận, giống như con chí, nhưng nhỏ và trắng hơn, cắn hút máu người thì thấy thân của nó ửng đỏ màu máu. Vài ngày người ta phải đem phơi nắng quần áo và lấy ve chai cà cho rận và trứng rận bể nghe rôm rốp. Đâu có xà bông để tắm giặt, chỉ giặt quần áo bằng nước tro củi chụm.
Nói về cái ăn thì chỉ lo gạo, chớ củi là nhánh cây khô, rau đủ loại như rau sam, rau dền…v.v. không thiếu gì ở ngoài đồng. Còn cá là nguồn thực phẩm bất tận từ Biển Hồ bên Miên đổ xuống:
Biển Hồ cực lắm em ơi,
Ban đêm xẻ cá, ban ngày phơi khô.
Chị của Chum thường bắt sẵn nồi cơm lên bếp, rồi mới xách cần câu xuống đầu cầu ván ở bờ sông, trong chốc lát đã được mấy con cá rô đồng đãi đạn, đủ cho một bữa cơm gia đình. Lúc nào không có cá thì mấy chị cho gia đình ăn cơm với muối xả ớt me sống, ăn cũng được cơm lắm.
Còn mẹ của Chum thường dùng cái rổ, miệng có đường kính cả thước tây, gọi là rổ bộng, dùng tay trái nhận chìm cái rổ xuống dưới mặt nước chừng một tấc, tay phải nắm mồi, quậy xộn xộn trong lòng rổ, bất ngờ mẹ Chum nhấc cái rổ lên khỏi mặt nước, rất nhiều cá lòng tong, cá thiểu đang bu lại ăn mồi bị kẹt lại trong rổ, nhảy xoi xói.
Cha của Chum hay đi nhắp hoặc câu rê cá lóc, giăng câu, đặt lờ, đặt lọp…v.v. cho gia đình dùng, khi nào dư thì đem bán để lấy tiền mua gạo. Câu rê khác với nhắp cá lóc ở chỗ nhắp thì lấy lưỡi câu móc vào đuôi con cá nhỏ còn sống như cá linh, thả dây nhợ câu xuống nước cho con cá mồi lội, cá lóc đớp cá mồi, mắc lưỡi câu. Còn câu rê dùng mồi giả là một mảnh thiếc nhỏ uốn hơi cong gắn vào sợi nhợ, gần lưỡi câu, thả mảnh thiếc và lưỡi câu xuống nước, di chuyển mảnh thiếc qua lại cho nhanh, cá lóc thấy mành thiếc chiếu loang loáng, tưởng là cá mồi, phóng đến đớp, mắc câu.
Trước nhà Chum có trải đáy. Người ta lấy gỗ tròn, đường kính độ bốn tấc, đóng cọc chận ngang con sông nhỏ, rồi lấy đăng, tức là tre đan để vừng cho cá không lội qua được, chỉ chừa một lối nhỏ để cá lội qua. Cá qua chỗ trống nầy là chui vào một cái giỏ tre dài gọi là cái đục. Cứ khoảng nữa giờ người ta kéo đục lên để bắt cá. Cha Chum thường mua cá chạch lấu của ghe đáy để nướng trui, chiên hoặc nấu cà ri cho gia đình ăn.
Mỗi năm vào mùa nước cỏ, nước trong mà đen sậm, cá tôm bị khờ, nổi lờ đờ trên mặt nước, Chum bơi xuồng, lấy rổ xúc một lát đầy xuồng.
Đôi khi cha của Chum đi phụ người ta tát đìa, Chum thích thú đi theo để khi đìa tát xong thì chủ đìa cho mót cá còn sót lại, gọi là bắt hôi. Chum lấy cái nôm chụp xuống bùn, rồi thọc tay vào nôm quậy xem trong bùn còn con cá nào thì bắt. Bùn dính đầy người, đầy mặt, nó cười, nhìn cái miệng nó người ta mới nhận ra đó là thằng Chum.
Thằng Chum sợ chồng chổng chết trôi. Có lần nọ, nó về thăm quê ngoại ở Vĩnh Lộc. Hai người chị con cậu Chum đi lưới cá trên sông cái, rủ nó đi theo chơi. Đêm không trăng. Nhìn lên trời có vài ngôi sao lấp lánh, trên mặt nước sông có những cụm lục bình trôi lờ đờ. Chum sợ điếng hồn, nó nghi đó là thây người bị giết thả trôi sông. Lúc bấy giờ có nhiều người bị cho “mò tôm” vì tội làm Việt gian.
Sợ ma mà Chum thích nghe chú Tư hàng xóm kể chuyện ma. Đêm đêm chú ngồi trước mũi chiếc xuồng ba lá với chiếc đèn bão thắp bằng dầu cá, có kiếng sơn màu đỏ che chung quanh vừa để cản gió, vừa để giảm bớt ánh sáng. Sau lái xuồng có bánh lái. Một tay chú cầm cây dầm, một tay cầm cây vợt để vớt tôm. Chú dùng tầm vong cắm mấy cây sào dọc bờ sông, rồi căng dây nhợ có buộc những cọng dây kẽm nhọn, không có ngạnh, ghim vào những miếng cơm dừa khô thòng xuống dưới mặt nước độ một gang tay. Tôm càng bu lại ăn dừa, bị vớt. Chú Tư nói có nhiều đêm chú vớt thật nhiều, nhưng sáng ra mình tôm biến đâu mất, chỉ còn lại đầu. Chuyện thật hay giả không ai biết, nhưng Chum thì tin lời chú Tư kể là thật, rồi nó lại nhớ đến đêm đêm cái đèn đỏ của chú di chuyển chầm chậm ven song, làm cho nó nổi da gà.
Chum chưa hề buồn phiền về cái nghèo khổ, vì từ nhỏ đã sống như vậy thôi, có lúc nào nó biết được trên đời nầy có một cuộc sống sung sướng hơn để mà so sánh. Cho nên nó sống vui vẻ lắm. Nhà đông con, đứa lớn trông coi đứa nhỏ. Nó giữ em, hát ru em ngủ:
Sao vua chín cái nằm chồng,
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay.
Sao vua chín cái nằm ngang,
Anh thương em từ thuở mẹ mang trong lòng.
Sao vua chín cái nằm kề,
Anh thương em từ thuở mẹ về với cha.
Nó lại nghêu ngao nhái thơ Lục Vân Tiên:
Vân Tiên cõng mẹ đi vô,
Đụng phải cái bồ cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra,
Đụng phải cột nhà cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,…
Chị Hai nó ngắt ngang:
- Thằng khùng, mầy hát cái gì vần lân vậy hả ?
Thằng nhỏ mất hứng, cười trừ rồi nín luôn.
Người nghèo an phận, vui với cái nghèo.
SÁU LẦN CHUYỂN NHÀ
Khi chưa chuyển vào ở hẳn trong Sài Gòn, là người viết báo rồi làm phim tài liệu quân đội, hằng năm tôi vẫn có chuyến đi kéo dài cả tháng vào miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Đó là những dịp tôi được gặp lại Trần Hoài Dương và lần nào Trần Hoài Dương cũng mời tôi về nhà anh để chỉ có tôi và anh ngồi với nhau.
Căn phòng đầu tiên của gia đình Trần Hoài Dương ở Sài Gòn chính là garage ô tô của chủ ngôi nhà cũ nay là nhà xuất bản Măng Non, nơi Trần Hoài Dương làm việc. Nhà xuất bản mới thành lập, chưa có ô tô, từ giám đốc trở xuống đều đi xe đạp, đến cơ quan dựng xe góc mảnh sân rộng sau nhà. Gian nhà trệt dài cuối mảnh sân rộng là garage ô tô và nhà bếp cũ được ngăn ra làm nhà ở cho gia đình một số cán bộ biên tập.
Ngày đó gạo phiếu, củi tem, phải có tem, phiếu mới mua được gạo vàng, củi bạc theo định mức. Lính tráng chúng tôi, loại ăn no vác nặng, mỗi tháng được ăn hai mươi mốt cân gạo. Dân công chức cạo giấy nhàn nhã như Trần Hoài Dương chỉ có tiêu chuẩn mười ba cân gạo mậu dịch để kho lâu ngày, không còn mùi thơm của gạo, chỉ có mùi hôi của bao tải và mùi ẩm khét của gạo đã xuống cấp, mọt gạo bò lổm ngổm. Đến hạt muối, lít nước mắn chỉ có vị muối mặn cũng phải có phiếu mới mua được. Là lính, đến đơn vị nào làm việc, tôi đều có chỗ ăn, chỗ nghỉ tươm tất là nhà khách của đơn vị đó. Ở Sài Gòn, tôi ở nhà khách của Tổng cục Chính trị, số 8 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, rất gần 55 Nguyễn Đình Chiểu, quận Ba, nơi làm việc và cũng là nhà ở của gia đình Trần Hoài Dương, đi bộ cũng chỉ mươi phút. Buổi chiều tôi chỉ định đến ngồi với Trần Hoài Dương một lúc rồi về đơn vị ăn cơm. Nhưng Trần Hoài Dương giữ tôi ở lại ăn cơm với gia đình anh. Anh nói nhỏ nhẹ, chân tình, không thể từ chối.
Thời đó dân lao động, mặt ai cũng rầu rĩ vì lo toan và hốc hác, xanh rờn vì thiếu dinh dưỡng. Bữa cơm tiếp bạn của gia đình Trần Hoài Dương ở thời nghèo khổ, thiếu thốn đó mà không thấy bóng dáng của bữa cơm gạo phiếu, củi tem. Cũng không phải bữa cơm bày vẽ, kiểu cách ở nhà hàng mà là bữa cơm đơn giản, bình thường ở những gia đình công chức thời trước cách mạng. Bát cơm dẻo thơm mùi gạo quê, đắt gấp chục lần gạo phiếu. Canh rau ngót. Thịt gà luộc. Suốt mấy chục năm của thời sống bằng tem phiếu, không khí để thở cũng được phân chia theo chức vụ thì bữa cơm có mùi thơm của gạo quê, có vị ngọt của miếng thịt gà ta trở nên vô cùng hiếm hoi, xa lạ. Tôi đã được ăn bữa cơm hiếm hoi như vậy ở gia đình đầm ấm của Trần Hoài Dương. Trần Hoài Dương vui chuyện trong suốt bữa cơm. Chị Trinh vợ anh chăm cho cháu Quỳnh ăn vẫn không quên gắp thức ăn tiếp khách.
Lần thứ hai tôi được ăn bữa cơm đầm ấm của gia đình Trần Hoài Dương ở căn phòng trên gác hai nhìn xuống mảnh sân phía sau ngôi nhà cao tầng đường Hải Thượng Lãn Ông, quận Năm. Bữa cơm vẫn có đủ ba người của gia đình đầm ấm Trần Hoài Dương.
Lần thứ ba tôi đi ăn với gia đình Trần Hoài Dương không có cháu Quỳnh và cũng không ở Sài Gòn, mà ở Hà Nội. Một buổi chiều, nhà văn đàn anh Vũ Bão đạp xe đến tìm tôi ở xưởng Phim Quân Đội, 17 phố Lý Nam Đế, cơ quan tôi làm việc, nơi tôi có một ô chuồng riêng ngăn cách với ô chuồng hai bên bằng tấm phên lửng cót ép trong dãy nhà khung sắt, mái tôn dài đến hơn trăm mét vốn là trại lính Pháp, xây từ thời Pháp mới chiếm Hà Nội. Ô chuồng đó vừa là phòng ở, vừa là phòng làm việc của tôi, trong đó kê được chiếc giường đơn, chiếc bàn viết, chiếc bàn nhỏ bên trên có một bếp dầu, một bếp điện mai so và mấy chiếc nồi con con. Anh Vũ Bão rủ tôi đến thăm Trần Hoài Dương vừa ra Hà Nội và đang ở khách sạn đầu phố Quán Thánh, gần vườn hoa Hàng Đậu. Vườn hoa Hàng Đậu là điểm đầu của hai phố vuông góc Lý Nam Đế và Quán Thánh vì thế khách sạn Trần Hoài Dương ở rất gần chỗ tôi. Anh Vũ Bão khóa chiếc xe đạp tàng để lại cửa phòng tôi rồi cùng tôi đi bộ sang phố Quán Thánh.
Khi Trần Hoài Dương cưới chị Trinh là cưới cô giáo tiếng Nga. Bây giờ Trần Hoài Dương đi với vợ ra Hà Nội là thư kí Trần Hoài Dương đi với giám đốc Trinh. Chị Trinh đã để lại cả tuổi thơ ở phố Hàng Buồm, trước tháng hai, năm 1979, là phố của cộng đồng người Hoa với những tiệm ăn món Hoa nổi tiếng Hà Nội. Từ bé, ríu rít với những đứa bạn người Hoa, khi nói tiếng Việt, khi nói tiếng Hoa, chị Trinh trở nên rành tiếng Hoa của đủ các vùng đất Trung Hoa có mặt ở Hàng Buồm. Vào Sài Gòn, với tiếng Nga được học hành bài bản và tiếng Hoa thành thạo trong giao tiếp thực tế, chị Trinh trở thành cán bộ giỏi việc của sở Ngoại vụ thành phố. Thời kinh tế hội nhập, thị trường Việt Nam vừa mở cửa, các nhà đầu tư nước ngoài tấp nập tìm đến. Chị Trinh được một nhà đầu tư người Singapore gốc Hoa đến Việt Nam làm ăn, lập văn phòng công ty ở Sài Gòn mời về làm giám đốc văn phòng. Giám đốc văn phòng có thư kí giúp việc. Chưa tuyển được thư kí nên trong chuyến giám đốc Trinh ra miền Bắc tìm nguồn hàng cho công ty liền có ông chồng Trần Hoài Dương đi cùng với vai trò thư kí.
Những đứa con của Hà Nội thời nghèo khó mang hồn Hà Nội đi xa bây giờ trở về phải tìm đến cội nguồn của mảnh hồn Hà Nội ở âm thầm rêu phong phố cổ, ở xao động mặt nước Hồ Gươm, ở lao xao khóm lộc vừng cổ thụ, ở thân thiết phố xưa, nhà cũ và ở cả lặng lẽ hương vị món ăn chỉ Hà Nội mới có. Hà Nội lên đèn, Chị Trinh và anh Dương mời nhà văn Vũ Bão và tôi đi ăn tối món chả cá Lã Vọng. Chúng tôi chậm rãi đi bộ để những người con xa Hà Nội trở về cảm nhận cái hồn Hà Nội ở viên gạch lát đường Quán Thánh, ở thảm cỏ vườn hoa Hàng Đậu, ở vòm sấu phố Phan Đình Phùng góc phố Lý Nam Đế, ở tháp nước cổ đầu vườn hoa Hàng Đậu, ở đường ray xe điện băng qua phố Hàng Lược sang phố Hàng Gà . . . , những nơi chốn vô cùng gần gũi, quen thuộc với tôi, lại càng thân thiết, bồi hồi kỉ niệm với anh Dương, chị Trinh. Những nơi chốn này rất gần với phố cổ Đường Thành, lại càng gần hơn với phố cao lâu Hàng Buồm.
Lên chiếc cầu thang hẹp, anh Dương chọn bàn ăn bên cửa sổ nhìn xuống con phố nhỏ Chả Cá Lã Vọng. Khi vui, Trần Hoài Dương rất hay chuyện. Buổi tối hôm đó dường như chỉ có Trần Hoài Dương nói. Chị Trinh chỉ im lặng. Những lần gặp chị Trinh, tôi thường thấy chị rất kín tiếng. Nhưng dường như sự im lặng của chị Trinh tối hôm đó là sự im ắng của biển cả trước lúc biển động. Tâm hồn Trần Hoài Dương trong trẻo quá. Với anh, bầu trời lúc nào cũng xanh ngăn ngắt và anh cứ say đắm ngắm màu xanh đó mà không thấy đám mây đen đã lởn vởn ở chân trời!
Bẵng đi một thời gian khá lâu tôi mới có lại có chuyến đi vào phía Nam để tìm đến nơi ở thứ ba của gia đình Trần Hoài Dương ở Sài Gòn trong con hẻm sâu đường Lý Chính Thắng, quận Ba vào sáng chủ nhật. Cánh cổng căng lưới sắt khóa nhưng cánh cửa nhà phía trong không khóa. Có tiếng người nói nhỏ trong nhà, khi tôi bấm chuông thì tiếng nói im bặt nhưng tôi phải đứng đợi rất lâu vẫn không có người ra mở cửa. Một điều bất thường tôi chưa từng gặp khi đến nhà Trần Hoài Dương. Đợi lâu đến mức tôi đã định bỏ đi thì Trần Hoài Dương mở cửa bước ra đứng sau cánh cổng lưới sắt. Da tái nhợt, mặt ảm đạm, phờ phạc như qua nhiều đêm mất ngủ, Trần Hoài Dương cáo lỗi gia đình anh đang có việc bận, hẹn tôi hôm khác đến.
Nhưng không bao giờ tôi còn được đến thăm gia đình đầm ấm của Trần Hoài Dương ở ngôi nhà trong con hẻm đường Lý Chính Thắng nữa. Gia đình đầm ấm đó không còn và anh cũng không còn ở đó! Lần sau tôi đến thăm anh thì gia đình anh đã tan vỡ! Trần Hoài Dương ở một mình trong ngôi nhà lầu xinh xắn vợ chồng anh mới xây thời gia đình còn đầm ấm trên mảnh đất một ngàn mét vuông giữa làng hoa Gò Vấp. Trước nhà, bên bậc thềm bước lên hè có cây mít của chủ đất cũ để lại, lúc nào cũng lủng lẳng quả. Sau nhà, ở cửa sổ phòng khách nhìn ra có cây sấu non, Trần Hoài Dương mang quả sấu chín từ Hà Nội vào trồng. Vườn đất rộng rãi quanh nhà là những luống hồng. Phòng rộng nhất trong ngôi nhà ở trên lầu một là phòng sách. Sách của Trần Hoài Dương nhiều như thư viện của một cơ quan văn hóa, lại có nhiều sách quí mà nhiều thư viện của cơ quan văn hóa cũng không có được. Ngôi nhà thứ tư ở Sài Gòn của Trần Hoài Dương thực sự là một biệt thự xinh xắn, sang trọng giữa vườn hồng ngát hương, yên tĩnh và trong lành, loại biệt thự thường thấy ở những gia đình phong lưu trước năm 1945. Nhưng những năm tháng ở biệt thự sang trọng này là những năm tháng khó khăn, gieo neo, cơ cực nhất của Trần Hoài Dương.
Ngôi nhà thứ năm ở Sài Gòn của Trần Hoài Dương là nhà 30I đường Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận. Ngôi nhà thứ sáu là nhà 38 hẻm 56 cũng ở đường Thích Quảng Đức, Phú Nhuận. Trần Hoài Dương trở thành chủ những ngôi nhà trước đây như thế nào, tôi không biết. Tôi chỉ biết rõ chuyện đó từ ngôi nhà thứ năm trở đi. Nhưng thôi, tạm gác lại chuyện những ngôi nhà ở cõi tạm của Trần Hoài Dương để nhớ lại một thời khốn khó của một người hiền gặp thời nhiễu nhương, nhiều buồn đau, người hiền trở nên bơ vơ, lạc lõng!
Tân binh thời chiến
Tân binh, giai đoạn “bản lề” của những chàng trai đang quen nếp sống dân sự “xông xênh” bước vào môi trường kỉ luật quân đội nghiêm ngặt. Rèn tân binh thời bình đã “khiếp”, rèn tân binh thời chiến còn… “kinh” hơn. Gian khổ đến kiệt cùng nhưng cũng hồn nhiên lãng mạn vô cùng. Thế nên, sau 40 năm, một ông già hơn 60 tuổi là tôi lại nhớ đến nao lòng cái thời là tân binh ở F304B, Quân khu Việt Bắc với bao chuyện buồn vui.
Chuyện về tiểu đội trưởng Kinh còi
Tên là Kinh nhưng lại là người dân tộc Tày ở Lạng Sơn, Tiểu đội trưởng khung ở B1. Hắn có cái còi phải nói là kêu. Tiếng còi của Kinh vang hơn còi trọng tài bóng đá bây giờ, nó vừa thống thiết vừa thúc giục, vừa răn đe lại vừa kêu gọi. Những ngày đầu vào lính, Ngô Thịnh và anh Đỗ Kim Long vốn là giáo viên khoa điện choáng váng vì tiếng còi này. 5 giờ sáng còi: báo thức. 5 rưỡi còi: ăn cơm sáng (ăn ngô xay). 6 rưỡi còi: ra thao trường. 11 giờ còi: nghỉ tập, đi đều về. 11h30 còi: ăn cơm trưa. 11h45 còi: ngủ trưa. 1 giờ còi: báo thức. 1h30 còi: lại thao trường v.v… Ấy là chưa kể còi báo động tiểu đội, còi báo động trung đội, còi báo động đại đội, còi đi văn nghệ, còi sinh hoạt hàng tối, còi nghỉ đêm… Lính không sợ Kinh mà sợ… còi. Vì nghe còi là mất ngủ, mất chơi, thậm chí đang ăn thì mất ăn. Tân binh ban đầu cũng hãi, nhưng mãi rồi cũng quen, bảo nhau thôi thì sống chung với còi.
Ra thao trường, Kinh gióng một hồi còi rồi dõng dạc:
- Các tồng chí nên hểu lò thao trờng tổ mồ hoi coòng hon chín trờng tổ máo (Các đồng chí nên hiểu là thao trường đổ mồ hôi còn hơn chiến trường đổ máu).
Quán triệt quan điểm ấy nên Kinh rèn quân khiếp lên được.
Sáng sáng hành quân ra thao trường mỗi người mang trong ba lô mười viên gạch. Một lần, Thịnh tồ mang không đủ số lượng, Kinh phát hiện ra liền rút còi thổi đánh “choe” một phát, lập tức cả tiểu đội xếp hàng ngang đứng nghiêm đơ chờ lệnh. Kinh đứng trước hàng quân lên lớp một hồi về tinh thần chấp hành kỉ luật, ý thức rèn luyện, vai trò, chức trách của từng vị trí công tác… khiến Thịnh tồ tái mét cả mặt. Cứ tưởng sau cú ấy Thịnh tồ sẽ bị Kinh đì. Nhưng ngay tối ấy Kinh còi đã gặp Thịnh tồ:
- Tồng chí hút thúc (Đồng chí hút thuốc).
Thịnh xoè tay đón điếu Tam Đảo của cấp trên mà cảm động đến run người.
Đi ăn cơm, Kinh luôn cho tiểu đội xếp hàng bên bờ ao và nói “Các toòng chí xếp hàng mà lo mơ là ngỡ xướng ao lớ!” (Các đồng chí xếp hàng mà lơ mơ là ngã xuống ao đó), rồi rút còi thổi đánh “choét” một phát khiến cá rô phi đang ăn nổi trên mặt ao giật mình lặn rào rào. Tiểu đội hàng dọc của Kinh tăm tắp đi đều ra tận bếp. Mấy cô gái làng nhìn cảnh ấy thì bịt miệng cười nhưng mắt nhìn Kinh đầy thán phục.
Hồi ấy Ngô Thịnh và Triệu Bình hay có bạn gái ở mấy trường sư phạm và Y khoa xuống thăm. Hai thằng này sợ Kinh lắm. Đang tâm sự ngoài bờ mương mà bị Kinh gióng cho một hồi còi thì có mà chạy bỏ cả dép. Nhưng lạ, chưa bao giờ Kinh dùng còi trong những tình huống ấy. Lính ta kháo nhau, hóa ra Kinh còi sử dụng còi rất quyết liệt nhưng cũng rất… nhân văn.
Thế nhưng, giống như các trọng tài bóng đá, tiếng còi của Kinh không phải lúc nào cũng đúng.
Ngày đó đơn vị tôi được gửi sống trong nhà dân, mỗi nhà vài người. Tối ấy, đội sản xuất của xóm họp ở sân nhà có Ngô Thịnh và Triệu Bình ở nhờ. Trong khi đội trưởng sản xuất chúi mũi vào ngọn đèn tù mù nhắc nhở phân gio giống má thì cuối sân mấy thôn nữ cứ rúc rích chuyện trò với mấy anh bộ đội. Kinh đi kiểm tra, thấy vậy thì giận chiến sĩ của mình quá. Thế này thì không thể chấp nhận được. Kỉ luật đóng quân để ở đâu? Phải nhắc nhở kịp thời! Nghĩ vậy nên Kinh rút còi thổi thật mạnh. Choét! Choét! Choét! Trong đêm, tiếng còi như chưa bao giờ to đến thế. Tiếng còi làm ông già bà lão hoảng sợ đổ nghiêng trên sân, rồi sau đó là tiếng la ó của bà con. Sáng hôm sau Kinh bị lãnh đạo phê bình vì thổi còi không đúng lúc đúng chỗ. Ngô Thịnh và Triệu Bình bấm nhau cười rúc rích trong khi Kinh bần thần đứng bên bờ ao.
Ngày chúng tôi đi chiến đấu thì Kinh còi được cử đi học tiếp để làm cán bộ trung đội. Trên đường hành quân dằng dặc chúng tôi mới “thấm” ý nghĩa của việc rèn luyện sức bền. Chúng tôi nói với nhau: “Không có Kinh còi nó rèn kĩ thì bọn mình bây giờ lấy sức đâu mà vượt Trường Sơn!”.
Chuyện về chàng Giang xẻng
Giang nguyên là sinh viên Khoa Chế tạo máy Đại học Cơ điện.
Phải nói hắn là người chỉn chu kỉ luật nhất của đơn vị. Mỗi ngày đi thao trường Giang đeo cái xẻng chéo sau lưng, lặng lẽ đi đúng hàng, cặm cụi tập luyện.
Một hôm sinh hoạt đại đội, chủ đề: Lí tưởng của người chiến sĩ thể hiện cụ thể trong đời sống tân binh. Nhiều ý kiến lắm. Đại đội phần lớn là sinh viên nên phát biểu không mấy khó khăn. Nào là tôi gác tình riêng để lên đường đi chống Mỹ. Nào là dù vợ dại con thơ tôi cũng không hề nao núng. Nào là dù bố tôi ốm nặng tôi vẫn hướng về phía chiến trường... Mọi người nói vãn mới thấy Giang giơ tay.
Giang bước lên, nhìn bình thản hơn 100 anh em trật tự phía dưới rồi nói:
- Tôi vào bộ đội đã 3 tuần nay mà vẫn không có súng. Tôi chỉ được phát một cái xẻng. Tôi xác định, Đảng giao vũ khí gì tôi dùng vũ khí đó mà đánh giặc, gắn bó yêu thương nó, coi nó như vợ mình, cho dù tôi chưa có vợ. Cái xẻng tôi mang từ sáng đến chiều trên lưng và ngay cả ban đêm khi báo động nó vẫn trên lưng tôi. Đã 3 tuần nay tôi chỉ tháo ra khi đi ngủ, còn ngày chủ nhật tôi vẫn... cầm ở tay…
Cả đại đội cười rinh rích, cười hinh hích rồi cười toé lên. Trung đội trưởng thì đỏ mặt. Đại đội phó quay sang hỏi:
- Sao thiếu súng mà không báo lên C bộ?
Ngay lúc ấy Chính trị viên bước lên ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói trong xúc động:
- Thưa các đồng chí! Đây là tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Quân đội phải cám ơn mái trường XHCN đã giáo dục các đồng chí tốt như thế. Tôi mong từ nay về sau đồng chí Giang phát huy lí tưởng cao đẹp, không xa rời cái xẻng, coi cái xẻng là vũ khí chiến đấu để làm gương cho toàn đơn vị!
Đại đội vỗ tay rào rào. Giang nghiêng bên này cũng thấy rào rào, nghiêng đằng trước, đằng sau cũng thấy rào rào. Hoan hô, hoan hô...
Ngày hôm sau Giang được phát súng CKC. Nhưng còn cái xẻng? Thì trót phát biểu trước tập thể rồi, lại được thủ trưởng khen rồi, thôi gắng mà đeo. Cái xẻng đã mặc định vào Giang. Bởi thế những ngày sau đó hễ ai gặp Giang cũng chú ý nhòm sau lưng xem có cái xẻng không. Suốt cho tới ngày đi chiến đấu Giang vẫn đeo cái xẻng sau lưng một ngày dễ đến 14 tiếng. Và Giang đương nhiên được gọi là Giang xẻng. Vào chiến trường Tây Nguyên, Giang cũng vẫn là Giang xẻng.
Bây giờ Giang ở đâu? Nếu đọc được chuyện này gọi điện cho mình nhé. Số máy của mình: 0976582742.
Chuyện về những người chỉ huy đầu tiên
Đại đội trưởng của tôi người Cao Bằng, rất cá tính.
Ngày đầu tiên về đơn vị, đại đội tôi tập hợp ở sân kho hợp tác, cán bộ trực ban chỉnh đốn đội hình xong thì chạy ra đứng nghiêm, giơ tay chào:
- Báo cáo Đại đội trưởng! Đại đội có mặt đầy đủ, xin chỉ thị đồng chí!
Đại đội trưởng lừ lừ:
- Tủ cái gì mà tủ, tôi lếm nhanh tược có trăm hai. Lói dối thế thì ti chín tấu làm sao tược? (Đủ cái gì mà đủ, tôi đếm nhanh được có trăm hai. Nói dối thế thì đi chiến đấu làm sao được?)
Bị dội gáo nước lạnh, đồng chí trực ban chỉ biết ứ ứ mấy tiếng rồi im thít.
Một hôm chúng tôi tập luyện ngoài thao trường ở đầu dốc Vai, nơi có mấy cái nhà 2 tầng để học chiến đấu trong thành phố. Lính tập hợp thành vòng tròn, Đại đội trưởng hạ khoa mục. Người dân tộc vốn quen tư duy hình ảnh nên ông nói:
- Các tồng chí đừng có tởng, vào thành phố ló khó lắm chớ, chết nhơ chơi à. Xe cộ ló ti tối mắt à, dây địn ló nhiều như... (Các đồng chí đừng có tưởng, vào thành phố nó khó lắm chớ, chết như chơi à. Xe cộ nó đi tối mắt à, dây điện nó nhiều như…)
Nói đến đây, thấy cần phải có một hình ảnh để so sánh với cái sự nhiều của dây điện, nên ông ngó quanh. Chợt ông nhìn ra mấy bụi tre, mắt sáng lên:
- ... dây địn nhiều như lá tre à. (Dây điện nhiều như lá tre à).
Thế là cả đại đội cười phá lên. Tưởng đại trưởng cáu, nhưng không. Ông đỏ mặt lên rồi cũng… cười phá lên. Cười ngặt nghẽo…
Chuyện về Chính trị viên cũng vui không kém.
Trung úy Vũ Văn Mấu quê Phủ Lý, Hà Nam, năm ấy cũng đã 28 tuổi. Đã từng chiến đấu ở Lào nên ông rất hay kể chuyện về Lào. Và theo ông thì người Lào cũng giống như người Tày nên cứ ai người Tày ở đại đội là ông ấy yêu quí.
Ban đầu Chính trị viên rất thận trọng với đám lính “ngộ chữ” chúng tôi, nên buổi sinh hoạt nào ông cũng cầm chịch để nắm tư tưởng. Và chỉ một thời gian ngắn là ông đã nhìn ra lợi ích từ những chàng lính sinh viên hay chữ. Ông lệnh mỗi trung đội mỗi tháng ra một tờ báo tường. 4 trung đội 4 tờ, đẹp ơi là đẹp, đủ cả văn, thơ, nhạc, hoạ, chuyện tranh, truyện cười…, màu sắc xanh đỏ tím vàng, vui mắt lắm! Những số đầu Chính trị viên rất hài lòng với chất lượng bài vở. Nhưng mấy số sau, mỗi khi báo sắp lên khuôn ông hay ra lệnh bổ sung bài này bài nọ…
Một lần ông dò ra bài thơ Đào hầm của binh nhì Ma Văn Mát, một chiến sĩ người Tày mới được bổ sung về đại đội tôi. “Đào hầm mỗi ngày một lần/ đào hầm mệt lắm/ nhưng căm thù giặc sài lang/ mồ hôi ướt áo chẳng cần…” Ông cầm bài thơ ấy về đưa cho tôi, người làm tờ báo của trung đội 1, lệnh đăng ngay. Tới cuộc sinh hoạt đại đội sau đó, Chính trị viên gọi Ma Văn Mát lên. Ông bắt tay Mát rồi hỏi:
- Đồng chí đào hầm bằng gì?
Mát trả lời:
- Bằng cuốc chim! (Vì hắn được giao giữ chiếc cuốc chim).
Chính trị viên khen tốt lắm, thế chứ! Cuốc chim là vũ khí diệt Mỹ đấy. Cái cuốc chim của đồng chí không kém gì cái xẻng của đồng chí Giang. Đồng chí viết như thế là toát ra từ đáy lòng tinh thần căm thù giặc sâu sắc. Đồng chí phải báo tin về cho gia đình thành tích của mình và phải căm thù giặc hơn nữa, rồi động viên bố mẹ cũng căm thù giặc bằng cách trồng nhiều khoai sắn...
Tối hôm ấy tôi thấy Ma Văn Mát hí hoáy viết thư tới khuya lắm.
Chính trị viên Mấu chọn liên lạc riêng cho mình là binh nhì Lí Trọng Nghẻ. Nhưng ông cứ gọi nó là Nghé. Ông bảo gọi thế cho nó hiền lành gần gũi. Lí do ông chọn Nghẻ làm liên lạc vì nó là người dân tộc, hiền, khoẻ, thật thà. Nhưng Nghẻ có nhược điểm là nghiện thuốc lào hạng nặng. Từ ngày làm liên lạc, Nghẻ suốt ngày phải kè kè bên thủ trưởng nên thèm thuốc lắm. Một hôm, không kìm nổi cơn nghiền, Nghẻ nhào xuống bếp anh nuôi hút trộm một điếu thuốc lào to vật vã. Để bõ những ngày “đói thuốc”, Nghẻ hóp ngực rít, nuốt trọn khói vào phổi nên phê quá ngã ngửa vào bụi chuối. Đúng lúc ấy thì Chính trị Mấu đi xuống kiểm tra nhà bếp. Ông há hốc mồm nhìn chú liên lạc của mình đang nằm ngửa, mắt lờ đờ nhìn thủ trưởng một cách rất… hiền từ!
Chính trị viên đứng đợi mãi mà Nghẻ vẫn không dậy nổi. Nghẻ chỉ còn cách nằm im và… ứa nước mắt. Lính chứng kiến cảnh ấy thì lo cho Nghẻ quá. Quả này thì toi rồi Nghẻ ơi, mất chức liên lạc viên là cái chắc! Nhưng thật lạ, sau lần ấy Chính trị viên Mấu cho phép Nghẻ được hút thuốc lào tại C bộ, nhưng hạn chế mỗi ngày 4 lần chia đều ra hai buổi.
Sau lần ấy, chúng tôi kính nể Chính trị viên lắm. Cánh tân binh kính trọng Chính trị viên đã đành. Đến mấy cô ở tiểu đội nuôi quân vốn lợi thế là gái, quen “gần chùa gọi bụt bằng anh” cũng phải kính trọng tư cách của Chính trị viên.
Ngày chúng tôi đi B, cả Đại đội trưởng và Chính trị viên dẫn quân vào tận Trạm 5 Trường Sơn mới chia tay chúng tôi để quay ra Bắc. Giờ chia tay đúng vào đêm 30 Tết. Cả hai ông xuống từng võng ôm từng chiến sĩ của mình. Bốn tháng ở bên nhau với bao vất vả nhọc nhằn nhưng thấm đẫm yêu thương, giờ phải tiễn những người lính bước vào cuộc chiến đấu khốc liệt, những người chỉ huy đầu tiên của chúng tôi có một tâm trạng khó diễn đạt bằng lời. Trong đêm Trường Sơn, những giọt nước mắt của hai ông rớt xuống vai tôi nóng hổi...
Chuyện về tiểu đội nuôi quân
Hôm đầu tiên nhập ngũ, vừa về đến đơn vị đã thấy một cô ra đón, mặt tươi như hoa, cười nói rộn ràng. Xe vừa dừng dưới lũy tre cô đã ào lại “Đưa ba lô đây em xách hộ”, rồi “Nào, đưa tay em đỡ mà nhẩy xuống”. Sao lại có cô gái xinh mà thân tình đến thế!
Sáng hôm sau, bữa cơm lính đầu tiên của chúng tôi, thôi thì khỏi phải nói, có bao nhiêu nụ cười của các cô nuôi quân đều mang ra dùng hết. Hơn một trăm chàng trai, rặt những người có học, mặt mũi tinh khôi, tâm thần mộng mị đứng xếp hàng ở sân nhà ăn để các cô “điểm tâm”. Không giống như đợt quân trước đó đi từ làng quê mười bẩy mười tám tuổi mặt bấm là ra sữa, cánh lính này cao to, thư sinh, mà chú nào cũng ngoài 20. Vừa e lệ kiểu cáo già vừa ngây thơ như con sói cô đơn. Các cô thích lắm.
Tiểu đội nuôi quân có 6 người, hai nam giới luống tuổi và 4 cô gái: Tĩnh, Hà, Xuân, Phiến. Phiến là người Cao Bằng, còn ba cô đều dân Đất tổ Vua Hùng.
Vào đơn vị ngày 15/9, ngày 21/9 chúng tôi đã phải phục vụ địa phương chương trình văn nghệ tết Trung thu. Tối ấy, trăng lên vượt quá luỹ tre, hàng trăm người dân ngồi kín sân kho hợp tác nghe các chú tân binh hát múa. Đã lại sức sau một tuần thay đổi trạng thái lại đang bừng bừng nhiệt huyết nên các chú lính mới hát “hay hết xẩy”. Các nam phụ lão ấu vỗ tay rầm rầm. Cả tiểu đội chị nuôi long lanh ánh mắt. Các cô từ ngạc nhiên chuyển sang thích thú đến thẫn thờ nhìn các chú lính sinh viên. Buổi diễn kết thúc, đã thấy thằng Ngô Thịnh sán vào em Tĩnh, hai người đầu mày cuối mắt rồi mỗi người túm một đầu chiếc thang khiêng đi trả...
Từ ấn tượng tốt trong đêm văn nghệ, những cô nuôi quân đâm ra tò mò. Họ hay đặt câu hỏi về chúng tôi: Sao họ hay tranh thủ đọc sách thế? Sao họ chỉ thích chè đặc, cà phê? Sao họ ăn uống từ tốn thế?... Dần dần tìm hiểu, các cô càng yêu cánh lính sinh viên tợn. Đã có một vài mối tình tân binh lãng mạn ra trò. Một trong những cuộc tình ấy là của tôi.
Tiểu đội nuôi quân được bổ sung hai cô người Tày. Một cô tên Hoàng Thị Làn người Cao Bằng, tuổi 18, da trắng phau phau. Làn nói tiếng Kinh chưa sõi. Nhưng yêu thì cần gì phải nói. Tôi yêu cô ấy, và cô ấy cũng yêu tôi. Những tối đi sinh hoạt về, Làn thường đi theo tôi tới cổng. Hai đứa cấu nhau một cái rồi Làn chạy đường Làn tôi chạy đường tôi. Và… chỉ thế thôi!
Một chiều mùa đông nhá nhem, Làn rửa xoong nồi ngoài giếng. Tôi xoay xoay cái bát B52 giả vờ đứng bên hỏi han. Bất ngờ Làn ngẩng lên:
- Em puồn lắm!
- Sao Làn buồn?
- Anh Thì ở B1 anh ấy pảo (bảo) Làn ơi sao mày iu cái thằng ten (đen) như cột nhà chái (cháy) thế?
Trong cái lạnh mùa đông mà mặt tôi nóng ran lên, vừa buồn cười vừa tức, mà lại thương Làn. Hôm sau đi thao trường gặp thằng Thì, thấy nó nheo nheo nhìn mình vẻ khiêu khích. Sau tôi mới biết thằng Thì cũng đang tán Làn.
Trước hôm đi B độ một tuần, chừng chín giờ tối tôi nghe tiếng Làn gọi ngoài cổng. Tôi chạy ra thấy Làn bước ra từ hàng dứa tây ngõ nhà chủ dúi vào tay tôi một gói lá chuối mềm mềm và kéo vội tay tôi… cắn một cái rồi… vùng chạy. Tôi đứng nghe chó trong xóm sủa râm ran kéo dài về phía C bộ. Tôi trở vào giở gói lá chuối hơ lửa thì ra một đùm thịt lợn luộc. Nấp sau cánh cửa dưới bếp nhà chủ, tôi nhìn ra trời sương lạnh đầu đông Bắc Thái. Làn thương lính đói, thương chúng tôi sắp ra trận, hay tình yêu của trai gái thời chiến tranh đơn giản vậy thôi?
Tôi nhớ mãi cái buổi sáng tinh mơ ấy, bếp đại đội bộn bề, xoong chậu nồi niêu chồng đống không ai rửa. Tất cả tiểu đội nữ nuôi quân ôm nhau ngoài bờ ruộng nhìn vào sân kho nơi chúng tôi xếp hàng nhận mệnh lệnh vào Nam chiến đấu. Họ khóc. Khóc như mưa. Họ gọi nhau, họ chạy ra chạy vô, dúi vào tay lính những cái khăn musoa, vài viên thuốc cảm, lọ dầu…
Chúng tôi hành quân ra đồi thông Lương Sơn. Cả tiểu đội nữ nuôi quân đi theo. Hôm ấy trời lạnh, má Làn đỏ rực, cái màu má đỏ của cô gái vùng cao ám vào trong tôi từ ấy.
Đã tới nơi chia tay, đứng bên kia đồi thông, Làn gọi:
- Anh ơi… tặng em tấm ảnh… anh ơi!
Bấy giờ tôi mới nhớ chưa tặng em cái gì. Tôi lội ào qua ruộng rạ sang đưa cho em tấm ảnh bé như con tem chụp ngày đầu vào lính. Làn run rẩy đón tấm ảnh, khóc mếu máo:
- Anh đi rồi về… anh nhé...
Tôi không dám nhìn lâu vào mắt Làn, vội quay lưng chạy về hàng ngũ, sau lưng là tiếng cô Tĩnh, cô Hà, cô Xuân... và tiếng Làn nức nở gọi tên mình...
Bốn năm chiến chinh, chúng tôi không có một kiềng đóng quân cố định. Lê từ hầm này sang hầm kia, từ vùng núi này qua vùng núi nọ. Thư từ chả có điều kiện mà gửi, nhận thư vào lại càng khó. Vì thế chúng tôi đứt liên lạc với tiểu đội nữ nuôi quân.
Giải phóng, đại đội tôi đã có mấy chục người không về. Và mấy chục người mang trên mình thương tích. Tôi may mắn lành lặn sau nhiều chiến dịch, trở về là xốc lên Bắc Thái ngay. Nhưng tôi chỉ gặp một vùng đất nghèo xơ xác, bộ đội không còn đông như ngày xưa khiến xóm làng lại đìu hiu hơn. Sư đoàn 304B cũng chuyển đi, chẳng còn phiên hiệu nữa. Tiểu đội nuôi quân của tôi về đâu? Tôi đã lần hỏi nhiều năm, nhưng chưa có kết quả.
Đã bốn mươi năm rồi, các em giờ ra sao? Ai ở thị thành, ai về thôn dã? Đã nhiều đêm tôi ngồi thừ hình dung, ở một nơi xa lắm, một bà già áo chàm ngồi bần thần giở những chiếc huân chương cũ trong chiều mưa buồn trên nhà sàn xa ngái, mắt long lanh nhớ về thời tuổi trẻ. Trong hộp huân chương cũ ấy có tấm ảnh tôi ngày xưa, nhỏ xíu, ố vàng…
Bộ đội với cái ăn cái mặc thời bão giá
Dễ đã gần ba mươi năm, tôi mới gặp lại anh Phan Văn Tiên, bây giờ là Chủ nhiệm hậu cần Binh đoàn Cửu Long. Gặp nhau giữa khu tăng gia sản xuất của Sư đoàn 9, từ trong nhà chăn nuôi vọng ra tiếng heo con kêu đòi sữa, dưới ao cạnh đó đàn cá nhao lên đớp mồi rộ mặt nước, xa kia là vườn rau muống, rau cải, luống dưa leo, giàn bầu bí, tiếp đến là vườn cây ăn trái với những thân cây chuối, mít lúc lỉu quả… Có thể gọi đây là trang trại thu nhỏ cũng được. Lần đầu tiên tôi được quen chàng trung úy trẻ tuổi Tiên trong chuyến chở gạo và nước ngọt từ Puốc Xát lên cho một đơn vị của sư đoàn này đứng chân ở miền Tây nước bạn. Mùa khô ở rừng Campuchia nước hiếm, đã có nhiều chiến sỹ lạc đội hình hy sinh vì khát, vận chuyển gạo phải đi kèm nước. Sau đó, anh là trợ lý phòng sản xuất, năm nào cũng đưa chúng tôi đi trồng sắn, trồng rau. Bộ đội tới đâu, đặt ba lô xuống là tìm đất gieo hạt rau. Việc làm ấy được bộ đội cách mạng Campuchia và nhân dân làm theo, người Khmer ở phum sóc thường dùng rau dại mọc bên nương rẫy, được bộ đội tình nguyện biếu hạt giống, hướng dẫn cách gieo trồng, vườn nhà dân ở các phum sóc đã có những luống rau xanh mọc lên. “Từ đó tới nay, công việc của tôi vẫn là lo cái ăn, cái mặc cho bộ đội, nói nôm na là chăn nuôi, trồng trọt rau màu” - Anh Tiên cho tôi nắm bàn tay ấm mềm mà nói vậy. Tôi tính gợi lại chuyện thời làm nghĩa vụ quốc tế, nhưng anh kéo tôi về công việc hôm nay:
- Lo cái ăn cái mặc cho bộ đội thời bão giá này cũng vất vả lắm. Công tác quân nhu hậu cần bây giờ không phải là nhận từ trên phát xuống cho bộ đội mà phải tính đến đảm bảo hậu cần tại chỗ. Tiền ăn của bộ đội có hạn, thị trường có quy luật riêng, giá tăng đến chóng mặt, nên chúng ta phải chủ động tạo nguồn thực phẩm tại chỗ.
Cái ăn, cái mặc của bộ đội tưởng là chuyện nhỏ, nhưng khi tìm hiểu mới thấy được sự vất vả của người lính quân nhu. Là nỗi lo thường trực, không chỉ ở các đơn vị cơ sở mà của cả Cục Quân nhu, chính anh Nguyễn Xuân Hải, Phó cục trưởng và anh Lê Thành Vinh, trưởng phòng sản xuất, dẫn chúng tôi tới các đơn vị cũng rất quan tâm đến bữa ăn của bộ đội. Và, tôi rất cảm động khi các anh nắm rất rõ từng khu chăn nuôi, từng đàn gia súc, gia cầm, ao cá, khu trồng trọt tạo nguồn rau xanh của từng đơn vị trong Nam, ngoài Bắc, ở tận biên giới, hải đảo. Nuôi quân thời bình phải lo tính đủ thứ, tiền ăn của bộ đội cố định từ đầu năm, có bù giá chăng nữa cũng khó theo kịp thị trường nên người làm công tác hậu cần phải có những biện pháp cụ thể để đảm bảo bữa ăn cho bộ đội đủ chất lượng, định lượng. Anh Tiên là cán bộ hậu cần năng động, còn nhớ, những năm 1990, nhiều chiến sỹ ở binh đoàn Cửu Long bị bệnh phù nề, da thịt phồng lên, mặt sưng vù, nhẹ nhấn ngón tay đã thấy in vết lõm. Tư lệnh hỏi nguyên nhân, anh Tiên đáp: “Từ gạo mà ra, gạo xay xát, chà bóng quá kỹ, chuyển qua nhiều chặng, quá lâu nên giảm chất lượng. Binh đoàn ta nên mua thóc mới, tự xay xát là hết bệnh phù”. Thế rồi, nhà máy xay xát được dựng lên ở Ô Môn, giữa trung tâm lúa Cần Thơ. Từ đó, bộ đội được ăn gạo theo mùa, giá rất hời và bệnh phù nề không còn. Mỗi mùa thu hoạch, binh đoàn mua khoảng 2.500 tấn thóc nhập kho, cho dù giá bên ngoài biến động, cũng không còn lo ngại. Nhưng sự đời, gỡ được vướng mắc này lại phát sinh cái khó khác, hầu hết các đơn vị phải mua thức ăn ở chợ, lắm khi chiến sỹ tiếp phẩm “luộc” hết chợ vẫn không mua được hàng, rồi vấn đề an toàn thực phẩm không đảm bảo, ngay công nhân khu công nghiệp gần nơi đơn vị đứng chân cũng đã xảy ra hàng trăm người ngộ độc thực phẩm. Vậy là các đơn vị, đi đầu là Sư đoàn 9 anh hùng này thành lập khu tăng gia sản xuất. Thời gian đầu ở các tiểu đoàn, sau đó gom lại trung đoàn, mỗi trung đoàn có khu trồng rau, chăn nuôi, ao cá riêng. Hàng ngày đơn vị tự giết mổ gia súc, gia cầm, chế biến cá, làm đậu, giò lụa, cung cấp cho các bếp ăn. Từ điển hình Sư đoàn 9, các đơn vị trong binh đoàn cũng lần lượt làm theo...
Thoạt đầu, tôi cũng nghĩ công tác tăng gia sản xuất chỉ khoán cho trợ lý chuyên ngành là đủ, nhưng nhiều lần gặp Đại tá Phạm Ngọc Trạo, sư đoàn trưởng, ở ngay vườn rau, bên ao cá, cùng cán bộ chuyên ngành trực tiếp chỉ đạo chiến sỹ trồng, chăm sóc, thu hoạch rau, đánh bắt cá, thì tôi hiểu tầm quan trọng của việc nuôi quân thời bình. Anh Phạm Ngọc Trạo tâm sự:
- Chất lượng bữa ăn của bộ đội ảnh hưởng rất lớn đến công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Bộ đội thời bình nhưng không được để bất ngờ, bị động. Muốn giành thế chủ động trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống thì bộ đội phải được huấn luyện, rèn luyện kỹ. Để đáp ứng chương trình huấn luyện chính quy, bữa ăn phải đủ món, đảm bảo chất lượng và hợp khẩu vị. Lính sư đoàn phần nhiều quê ở Nam Bộ, thức ăn đậm chất đường. Chúng ta đều biết, sinh thời, mỗi khi tới thăm bộ đội, Bác Hồ thường ghé thăm điểm đầu tiên là bếp ăn, giếng nước, khu vực vệ sinh, nhà nghỉ của bộ đội. Việc làm ấy của Bác cho chúng ta hiểu tầm quan trọng của công tác nuôi quân như thế nào.
Để có được môi trường sống, bữa ăn như hôm nay là một sự nỗ lực, kiên trì của các thế hệ cán bộ, chiến sỹ sư đoàn anh hùng này. Còn nhớ, khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế về lại khu căn cứ đất đai khô cằn, doanh trại hư nát, nguồn nước ngọt thiếu, Sư đoàn 9 bắt đầu mở chiến dịch trồng cây và chỉ mấy năm sau, tràm bông vàng, sao… đã xanh um lên. Chính cây cối đã giữ nước mưa lại và tạo nên nguồn nước ngầm, nước trong các ao hồ để vườn rau quanh doanh trại tốt nhanh.
Đến khu vực tăng gia sản xuất, tôi thấy yêu và cảm phục những cán bộ, chiến sỹ được giao nhiệm vụ này. Trò chuyện với Huỳnh Văn Út, được gọi là chuyên gia chăn nuôi của đơn vị, anh kể rằng, có được đàn heo hơn sáu trăm con, gồm cả heo nái mỗi lần đẻ trên dưới chục con, heo thịt nặng cỡ vài tạ, không phải dễ. Thời mới lập trại nuôi heo, chuồng nào cũng chỉ thả heo nái, cho ăn rất đầy đủ như sách hướng dẫn, nhưng mãi mà heo không lớn, cũng chẳng động đực, chú Tiên bảo mỗi chuồng phải có một con heo đực, nhốt riêng một chuồng để lấy hơi. Quả nhiên có con heo đực, đàn nái lớn phổng phao, vào kỳ phối giống rất nhanh. Bao giờ cũng phải có âm, có dương, đó là khoa học. Rồi cách cho ăn theo từng đàn, giờ tắm cho heo, chuyển chuồng, phòng trừ dịch bệnh, cũng phải khoa học. Ngay có người lạ đến, cũng phải đi qua, quãng nước vôi, nước sát trùng. Nếu sơ sẩy, dịch tai xanh lấn tới là cả đàn heo đi đời liền.
Khi chúng tôi ngỏ ý muốn tới một đơn vị lữ đoàn hoặc trung đoàn để được chứng kiến nơi ăn chốn ở, anh Tiên liền dẫn tới Trung đoàn công binh 550.
Trung đoàn công binh 550 của Binh đoàn cũng là một đơn vị xuất sắc về công tác xây dựng đơn vị, đảm bảo hậu cần. Doanh trại hết sức khang trang, nhà ở bộ đội, đường đi được xây dựng vững chãi, đẹp mắt, có cả những khu dành để trồng cây ăn trái, cây xanh. Đứng chân giữa khu công nghiệp lớn, đất đai hẹp nhưng bộ đội vẫn dành ra đất để tăng gia sản xuất. Bộ đội công binh không có thời bình, thường xuyên tham gia tháo gỡ bom mìn, vật nổ thời chiến sót lại, tham gia mở đường lên tận biên giới, vùng sâu vùng xa, có khi cách sở chỉ huy hàng trăm cây số. Vào thời điểm cuối năm này, hơn một nửa quân số đang gấp rút hoàn thành mở con đường lớn ở cao nguyên, kịp cho nhân dân đi lại trong dịp Nguyên Đán. Tưởng như với một đơn vị luôn cơ động, rày đây mai đó, dễ sinh ra tạm bợ, nhưng không, dừng chân ở đâu là bộ đội công binh trồng rau, chăn nuôi ở đó, thời gian ngắn cũng trồng, không kịp thu hoạch thì biếu tặng cho đơn vị tiếp quản hoặc nhân dân trong vùng.
Đồng chí Lê Lương Quyền, chính ủy trung đoàn, cho hay:
- Bộ đội công binh luôn phải cơ động làm nhiệm vụ ở xa nơi đứng chân, công việc rất nặng, cho nên chất lượng bữa ăn, nơi ở phải đảm bảo. Sống tạm bợ, dẫn tới chất lượng công việc tạm bợ là rất nguy hiểm.
Công việc của bộ đội công binh thời bình, ngoài huấn luyện, làm đường, bắc cầu, khắc phục tháo gỡ bom mìn, Trung đoàn 550 còn thường xuyên tham gia cứu hộ cứu nạn. Năm 2007, bão biển tàn phá nặng vùng biển ở Bến Tre, trung đoàn đã cử hai tiểu đoàn đến sửa đường, dựng nhà cửa, trường học cho nhân dân các huyện Ba Tri, Bình Đại, Gồng Trôm, trước đó, khi một cây cầu ở Long An bị sập, trung đoàn đã nhanh chóng bắc cầu phao để thông suốt giao thông. Mỗi khi đi làm nhiệm vụ là phải lên xe nào gạo, thực phẩm, cả rau xanh dùng cho cả tuần, sau đó từ căn cứ chở tiếp đến. Vậy nên nguồn lương thực, thực phẩm luôn phải dồi dào.
Trung đoàn không chỉ lo cho đời sống cán bộ, chiến sỹ của đơn vị, hễ đến đâu họ đều tìm hiểu đời sống nhân dân để giúp đỡ. Khi làm nhiệm vụ xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên, khi thấy bà con ở xã Iamo, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, nhiều người còn nghèo, chính quyền không lo nổi, trung đoàn đã xây dựng bốn căn nhà tình nghĩa. Nguồn kinh phí ấy trích từ quĩ tăng gia, sản xuất của cán bộ chiến sỹ trung đoàn.
*
* *
Cái ăn, cái mặc thời bão giá cũng là mối quan tâm, lo lắng thường trực của ban giám hiệu các trường Quân Đội. Khi chúng tôi đến trước Trường sỹ quan Công binh ở Thủ Dầu Một, có tiếng xuýt xoa:
- Địa thế đẹp quá.
Trường đứng chân trên một khu đồi, phía xa là thành phố, một bên tiếp giáp với sông Sài Gòn. Thông thường ở vị trí đẹp như vậy rất khó tăng gia sản xuất. Khi chưa tới đây, tôi nghĩ, công tác hậu cần của nhà trường chỉ là việc nhận từ cấp trên, phát cho cấp dưới và định lượng bữa ăn của bộ đội đã được qui định rồi, còn gì phải lo nuôi trồng nữa. Nhưng khi gặp các đồng chí hậu cần nhà trường mới thấy, nếu như không chủ động khai thác tiềm năng hậu cần tại chỗ, bữa ăn học viên sẽ khó đảm bảo chất lượng. Đồng chí Đặng Văn Mạnh, Chủ nhiệm hậu, nói với chúng tôi:
- Địa thế nhà trường hết sức lý tưởng, sơn thủy hữu tình, nhưng đất đai cằn cỗi, khí hậu nơi đây cũng khắc nghiệt, nên trồng cây và chăn nuôi khó hơn những nơi khác. Tuy vậy, đã là người lính, khó mấy cũng phải làm. Đồng đội ta ở Trường Sa, giữa đảo san hô, đất, nước ngọt hiếm như vàng, vậy mà còn trồng được rau xanh, chăn nuôi được gia súc, gia cầm. Xét ra chúng tôi còn thuận lợi gấp ngàn lần họ, phải không nhà văn?
Anh cho biết, vùng Thủ Dầu Một mưa nắng thất thường. Nhưng đơn vị nào cũng có vườn rau, cuối buổi chiều cán bộ, học viên đều giành thời gian tăng gia. Đó cũng là nền nếp để các sỹ quan tương lai rèn luyện, khi về đơn vị cơ sở sẽ áp dụng. Học viên sỹ quan công binh vóc dáng to khỏe, rắn chắc, đó là kết quả của huấn luyện. Thông thường huấn luyện công binh thuộc vào loại nặng, vận chuyển lắp ghép cầu phà, xẻ núi đào hầm, bạt vách đá làm đường và luôn đối mặt với nguy hiểm, tháo ngòi nổ, hủy bom mìn thời chiến tranh còn sót lại. Sức ấy phải ăn đủ mới làm việc được.
Anh Mạnh cũng cho biết thêm, trước đây, nguồn thực phẩm chủ yếu khai thác ngoài thị trường, nhưng mấy năm gần đây, được Cục Quân Nhu đầu tư, nhà trường đã lập khu tăng gia sản xuất Tân Uyên, có hệ thống vườn giàn, trại chăn nuôi heo theo hướng hiện đại, thống nhất chính qui từng bước, gieo trồng các loại rau cao cấp, cây leo giàn, đàn heo đã có 100 con, dự tính năm tới tăng đàn lên 200 con, cơ bản đủ cung cấp sản lượng thịt cho 9 nhà bếp với hơn hai ngàn miệng ăn.
*
* *
Cái ăn đã vậy, còn cái mặc mấy năm gần đây như thế nào? Cán bộ và chiến sỹ toàn quân đã được trang bị quân phục mới từ năm trước với màu xanh truyền thống từ thời đánh Mỹ. Nghe tôi tỏ ý như vậy, đồng chí Nguyễn Văn Đạo, Phó tổng giám đốc Công ty 28 đáp:
- Trước hết, phải tính từ khi thay đổi quân phục sỹ quan K82, năm 1982, đến nay đã hơn hai mươi lăm năm, còn quân phục chiến sỹ thay đổi từ năm 2003, khi đó có chuyên gia nước ngoài giúp về mặt kỹ thuật nhuộm. Nhưng sản xuất quân trang K08 lần này hoàn toàn do kỹ sư của Tổng công ty 28 tự nghiên cứu.
Nghiên cứu dệt nhuộm cực kỳ vất vả, đòi hỏi tính kiên nhẫn cao và dễ nhiễm độc hại. Để có được chất lượng sợi vải, màu xanh ô liu quân trang, phòng kỹ thuật đã thử nghiệm qua hơn bố chục hóa chất màu, pha chế, nhuộm đi nhuộm lại, rồi trong hàng chục màu tương tự nhau, chọn lấy một màu đẹp nhất. Bước vào phòng kỹ thuật, tôi đã ngất ngây với mùi hóa chất. Vậy mà cán bộ, kỹ sư của Tổng công ty đã miệt mài ở đây hết năm này qua năm khác. Kỹ sư Nguyễn Thị Bích Uyên đã làm việc ở phòng thí nghiệm này nhiều năm, nói:
- Phòng này được giao nhiệm vụ thí nghiệm chất lượng từ bông, sợi, vải thô đến nhuộm. Đã làm nhiệm vụ này phải chấp nhận độc hại anh ạ.
Trong căn phòng thí nghiệm có máy kéo kiểm tra chất lượng từng sợi nhỏ đến khi ra thành phẩm tấm vải và rất nhiều chai lọ hóa chất, màu. Kỹ sư Uyên thường tránh nói về mình. Trong câu chuyện với tôi, chị chỉ hay nói về vị trưởng phòng - thạc sỹ Việt Hồng, người có công lớn trong việc pha trộn màu để tìm ra sắc màu ô liu cho quân phục hiện nay.
Trong tất thảy các loại đồng phục thì quân phục là phải kỹ lưỡng nhất, đòi hỏi chất lượng cao nhất, mẫu mã hoàn chỉnh nhất. Hoạt động của người lính có tính đặc thù, dầm mưa dãi nắng, thời chiến phải lặn lội trong đại ngàn, giữa bưng biền, thời bình vất vả không kém, luyện tập, lăn lê, bò toài trên thao trường, khi có thiên tai phải đối mặt với bão lũ, những lúc cháy rừng còn phải chịu sức nóng của lửa. Vậy nên sợi phải lựa chọn sản xuất ra loại sợi bền, màu sắc ít phai nhất. Mọi người, từ lãnh đạo công ty đến đội ngũ khoa học đều quyết tâm nghiên cứu sản xuất sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, chất lượng đảm bảo cạnh tranh với hàng cùng loại của các nước tiên tiến. Nếu phụ thuộc vào nước ngoài, mình chỉ gia công cho họ sẽ rất bấp bênh. Tổng công ty được giao nghiên cứu đề tài sản xuất thử nghiệm vải len polyes chất lượng cao thay thế hàng nhập khẩu. Các mẫu vải đã được tập đoàn WoolMark của Vương Quốc Anh cấp chứng chỉ đạt chất lượng châu Âu và được cấp bản quyền sử dụng. Tổng công ty cử cán bộ sang tận Tô Châu, Trung Quốc, nơi sản xuất vải tô châu, là vùng đất có truyền thống dệt nhuộm lâu đời của Trung Hoa để học cách pha chế và qui trình dệt nhuộm. Trong kỹ thuật nhuộm, nhuộm màu xanh lá cây bộ đội là khó nhất. Đầu năm 2008 khi sản xuất thử nghiệm quân trang cho các đơn vị ở vùng biển, biên giới, đồng bằng sông Cửu Long, nơi nước đậm chất phèn hoặc nước có độ mặn cao, đa số cán bộ chiến sỹ đều cho rằng, bộ quân phục mới này sắc màu phù hợp, độ bền đảm bảo. Từ đó, Bộ Quốc Phòng, trực tiếp là Đại tướng Phùng Quang Thanh đã quyết định lấy mẫu quân phục này trang bị cho toàn quân.
*
* *
Có lẽ cấp quân khu chỉ ở quân khu 7 là có công ty dệt may, không chỉ tự lực được quân trang mà còn kinh doanh rất hiệu quả. Công ty TNHH một thành viên dệt may 7 từ lâu nổi tiếng trong và ngoài quân đội với các sản phẩm là vải gabardin, vải bạt chống thấm may ba lô, nhà bạt, xicarô in loang, nói theo ngôn ngữ thông dụng là hoa rằn ri, đảm bảo độ bền, dùng cho bộ đội đặc công, Hải quân, lục quân, cảnh sát biển… được Bộ Quốc phòng đánh giá rất cao.
Trước đây, tôi vẫn nghĩ, với doanh nghiệp cấp quân khu như dệt may 7, chủ yếu là đánh du kích, bằng máy móc cũ. Nhưng khi được xem và nghe các đồng chí trong ban giám đốc thuyết trình, mới hay, công nghệ dệt, máy nhuộm cao áp, hạ áp, máy hấp vải, máy xử lý đốt lông… vào loại tiên tiến nhất ở nước ta hiện nay.
Trong ngành dệt, in hoa đòi hỏi công phu nhất, không chỉ cần sợi vải tốt mà tuyệt đối không được lỗi. Chỉ cần một vết nỗi cộm lên, toàn bộ hoa trên nên vải xọc xạch liền. Sau khi có mẫu, còn thử bằng cách phơi trên mái nhà hàng chục ngày đêm để thử độ bền của hoa văn. Sản xuất bạt không thấm nước cũng là một phát minh sáng kiến mới chỉ có ở dệt may 7.
Công ty đã và đang nhận nhiều đơn đặt hàng cung ứng vải bạt không thấm cho ban phòng chống lụt bão, thiên tai của các tỉnh trong cả nước, tương lai sẽ xuất khẩu sang các nước trong khu vực. Năng lực sản xuất của nhà máy rất lớn, nguồn hàng tiêu thụ thị trường nội địa chỉ bằng ba mươi phần trăm, còn lại phải tìm thị trường nước ngoài. Riêng năm 2011, công ty đã dệt 3,50 triệu mét vải, nhuộm 4,10 triệu mét, sản phẩm in 2,18 triệu mét, may 652,751 sản phẩm, doanh thu 335,461 tỷ, tất cả đều vượt mức kế hoạch.
*
* *
Ăn là vậy, mặc là vậy, còn đi thì sao?
Ở phía Nam, Công ty 32 là đơn vị chịu trách nhiệm sản xuất giày dép và đang sản xuất mũ bảo hiểm đưa vào phục vụ cho bộ đội bắt đầu từ năm nay.
Từ trước tới nay tôi cứ nghĩ, sản xuất giày vải, giày da không đến nỗi khó lắm, các xưởng nhỏ gia đình cũng làm ra được. Nhưng khi đến Công ty 32, trò chuyện với anh Trần Văn Toản, bí thư đảng ủy, anh Đại, Phó tổng giám đốc công ty, thì thấy nhiều điều hết sức thú vị về sản xuất giày da. Giày tốt, bền, trước hết nguyên liệu phải đảm bảo chất lượng, nhất là đế cao su phải tốt vì trọng lượng cơ thể người dùng, độ ma sát lớn, đều dồn xuống chân đế. Riêng giày cấp tướng đế pu, dày cấp tá, chiến sỹ đế cao su. Nhựa cũng phải tốt nếu không dễ bung, nhất là với người dùng là bộ đội đi trong điều kiện môi trường khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, nước nhiễm phèn, mặn… Nhựa sản xuất giày của công ty 32 nhập từ nước ngoài. Giày vải chiến sỹ dùng phải ép lưu hóa. Thông thường, hoàn thành chiếc giày phải qua các công đoạn: chặt, lạng, kiểm, may gò, rồi qua hệ thống sấy nóng, làm lạnh để kéo ổn định. Các công đoạn đều phải làm tốt, chặt chẽ từng khâu.
Công nhân giày ở đây đều có tuổi nghề hai, ba chục năm, tay nghề rất vững, có thể nói, nhiều người thao tác như nghệ nhân. Đó là anh Tân ở bộ phận gò, anh Lộc, bộ phận gò mĩa, anh Thắng, bộ phận kỹ thuật ép lưu hóa. Trong điều kiện làm việc vất vả với nồng độ hóa chất, mùi da, mùi cao su nồng nặc, họ làm việc miệt mài, khéo léo trau chuốt từng sản phẩm theo cung cách nghệ nhân thì rất đáng khâm phục.
Anh Lộc, một trong những công nhân làm việc ở đây đã hơn hai mươi năm, tay nghề cao, nói với tôi:
- Đã là người lính thì phục vụ vô điều kiện, thu nhập thấp vẫn bám máy. Bây giờ, được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại hơn, nhưng công việc vẫn phải kỹ càng, tỉ mỉ từng chiếc, không ẩu được.
Giày da, giày vải của Công ty 32 mẫu mã đẹp, trau chuốt, bền, đế chắc, chưa hề có hiện tượng gãy, nứt đế. Đó là nhận xét của cán bộ, chiến sỹ sau nhiều năm sử dụng.
Cũng như các nhà máy, xí nghiệp khác, Công ty 32 phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như giá nguyên liệu đầu vào, điện, nước, đều tăng. Nhưng giá sản phẩm hầu như được qui định khi hợp đồng ký kết, nghĩa là từ đầu năm. Tuy vậy, công ty vẫn tìm cách khắc phục. Phong trào tiết kiệm được đẩy mạnh, nổi bật là tiết kiệm điện, nước, vật tư sản xuất đã thu được 2.650 triệu đồng. Đó là khoản tiền không nhỏ.
Đầu năm nay, công ty 32 được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ sản xuất mũ bảo hiếm, theo kế hoạch đến tháng 12 này sẽ đến tay người dùng. Không ít cán bộ chiến sĩ từng làm nhiệm vụ ở biên giới, hải đảo, từng đối mặt với đám buôn hàng cấm nhưng khi về đô thị lại bị thiệt mạng bởi tai nạn giao thông. Mà phần nhiều do chấn thương sọ não vì mũ bảo hiểm kém chất lượng. Có lẽ nhận thấy điều đó và để bảo đảm tính chính qui nên Bộ quốc phòng, trực tiếp là Cục quân nhu đã chỉ đạo Công ty 32 nghiên cứu sản xuất mũ bảo hiểm cho toàn quân.
Vào những ngày cuối năm này, cán bộ, công nhân công ty dồn hết công sức để hoàn thành chỉ tiêu. Dẫn chúng tôi thăm các khâu sản xuất, Đồng chí Tạo, Tổng giám đốc công ty, cho biết:
- Mũ bảo hiểm dùng cho bộ đội khi đi xe gắn máy phải đảm bảo chất lượng. Chúng tôi đã nghiên cứu đưa ra mẫu đẹp nhất, chất lượng tốt nhất đã được thủ trưởng Bộ Quốc phòng và Cục Quân nhu chọn.
Hóa ra, dây chuyền sản xuất mũ bảo hiểm qua nhiều công đoạn. Công nghệ đúc ép xốp hiện đại, nguyên liệu PA6, Pua lua mít, vải bọc gabadin, pê pi. Mũ tốt phụ thuộc vào công đoạn làm xốp, giảm chấn và cả đinh vít phải chắc. Phần nhiều người tham gia giao thông thiệt mạng khi va chạm ngã xuống chấn thương là do vỡ xốp và bật đinh vít mũ bảo hiểm. Hy vọng, khi toàn quân đội nón bảo hiểm mang thương hiệu Công ty 32, sẽ bớt đi những sự việc đau lòng.
Cùng với Tổng công ty 28, Công ty dệt may 7, Công ty 32 đã có nhiều mặt hàng được toàn quân và người sử dụng yêu thích. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là các loại hàng quân nhu ấy, sau khi được làm ra sẽ tập kết về đâu và tới tay cán bộ chiến sĩ như thế nào? Xin được dành phần cuối của bài viết này để nói đôi lời về kho K690, một trong hai “tổng kho” lớn nhất toàn quân, trực thuộc Cục Quân nhu. Đại tá Nguyễn Đăng Quân, chủ nhiệm kho K690 đã cho đoàn nhà văn quân đội “mượn” xe của Kho để đi một loạt đơn vị, sau đó cùng “tập kết” về Kho để thấy những người lính coi kho quân nhu vất vả như thế nào. Kho có nhiệm vụ đảm bảo nguồn hàng quân nhu cho các đơn vị từ nam đèo Hải Vân trở vào, trong đó có việc cung cấp nguồn hàng cho bộ đội ngoài Trường Sa. Đến với các nhà kho của K690 mới thấy được vì sao trong suốt những năm qua Kho luôn đạt danh hiệu đơn vị vững mạnh toàn diện, duy trì tốt lượng hàng dự trữ sẵn sàng chiến đấu. Phân kho 1, phân kho 2 với những đại tá Ngọ Đình Toan, thiếu tá Nguyễn Thị Điểm, đại úy Vũ Văn Tiến… luôn là điển hình của những người lính coi kho quân nhu. Để có được nguồn hàng đảm bảo chất lượng, đúng mẫu mã, tiêu chuẩn tới tận tay cán bộ chiến sĩ, quả thật, có công sức không nhỏ của những người lính kho K690 ở phía Nam này.
Trinh tiết xóm chùa
Xóm Chùa với câu chuyện “lấy chồng ngoại” mang tính khái quát và thời sự. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, ngoại thành, đâu cũng xôn xao chuyện các cô gái Việt xinh đẹp, sẵn sàng mạo hiểm lấy chồng ngoại để đổi đời, mặc cho bao điều hiểm nguy rình rập. Những “hoàng tử” Việt ở đâu? Có phải sau khi đất đai sinh sống ngàn đời bị thu hẹp cho những sân gôn, khu đô thị mới... họ phải bắn ra thành phố làm xe ôm, cửu vạn? Trước mắt các thôn nữ chỉ thấy cụ già em nhỏ, vậy chả tìm đường xuất ngoại bán thân còn biết dùng tấm hồng nhan làm gì đây? Và cái Trinh Tiết thời đại đồng tiền mua bán ấy trở thành nỗi ê chề, xót xa cho thân phận những người phụ nữ. Mới biết mặt trái thời mở cửa còn những góc khuất đang mai một dần những giá trị truyền thống đáng trân trọng. Không thể không nghĩ ngợi...
Nhà văn ĐOÀN LÊ
Ba chữ đại tự sơn đen Triều Phục thôn vẫn được giữ y nguyên trên cổng làng tới tận giờ. Ra điều xưa kia ở đây có ối quan, phấp phới đường thôn toàn phẩm phục triều đình, chứ không phải loại quần áo giô- kề hàng thùng nhà chúng bay, nói cho mà biết! Thế nhưng con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ ngược, xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn nà, đập cửa ô tô đánh sầm, rồi điềm nhiên lắc mông đi vào làng. Cứ hệt như con Khờ nhón váy bằng hai ngón tay cong cong kiểu cách, chiếu cố bước qua vòm cổng thiêng liêng của xóm Chùa Ông. Cha con đĩ, thôn Triều Phục nó coi chẳng khác cửa hàng Karaôkê nhà nó à! Nếu ở trường hợp khác chắc cái Khờ không khỏi bị các cụ bà chửi té tát vào mặt. Còn các cụ ông sẽ khạc nhổ, rủa một câu thật hiểm: “Rõ nòi nhà mõ!”. Mõ vốn chức danh của ông nội con Khờ, người có công đẻ ra anh đánh giậm, bố nó, một thời làm chủ tịch xã rất hách. Ông ta được cái nết chưa quen tham ô, chưa mạnh tay “thiến” dân như các đời chủ tịch kế nhiệm. Bởi vậy lúc ông ta đột ngột chết, nhà cửa vẫn tuềnh toàng, mấy món tiền kếch sù sắp bí mật chia chác hóa ra tuột hết. Thôi cũng được cái tiếng trong sạch làm vui!
Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là cô Lầy Lầy. Chả biết lầy lội đẹp hơn khờ khạo ở chỗ nào, nhưng từ dạo nó bị người ta dụ dỗ đem bán tận Hồng Kông, chốn lầu xanh nó kiếm được anh Từ Hải lấy làm chồng, ai cũng mừng cho phúc phận nhà nó. Mừng hơn nữa nó biết mang cái thân xác tìm về quê quán, lại mang kèm theo hàng đống tiền, vàng, của nả... Năm ngoái nó cho mẹ tiền xây nhà ba tầng, xây lại mộ cụ mõ, xây mộ ông đánh giậm, nghênh ngang to bằng hai nhà táng ở giữa nghĩa địa xóm Chùa, rất khiêu khích. Đành rằng từ thời mở cửa, xóm Chùa Ông có thừa hơi hướng văn minh hiện đại, những nhà cao tầng mọc như nấm rơm, video mở cả hăm bốn tiếng, nhưng ngôi nhà ba tầng sang trọng hơn cả khách sạn ba sao ngoài tỉnh cùng hai ngôi mộ nói trên vẫn khiến cả làng lác mắt.
Lần này về cô Lầy Lầy lại biếu bà con họ hàng mỗi người một đồng tiền Tây làm quà mừng Tết Trung thu, trẻ con mỗi đứa mỗi gói bánh quy, kèm mấy viên kẹo Tàu. Cả làng được dịp rộ lên, kéo nhau đi nhận quà như đi nhận phát chẩn.
- Tiên nhân nó! Nó cho mỗi người một tờ tiền âm phủ đây này! - Lão Tí nghệch ra điều có con giai bên Canada thường xuyên gửi tiền về cho, lão khinh khỉnh mắng bà cụ Mạch - Bà dở hơi! Tờ một đô la chính cống của Mỹ đấy. Cái thứ tiền âm phủ cúng bái của các bà gọi là tiền hàng mã, tiền nhái.
“Ai chê cứ đưa tôi tiêu hộ”. Lão Bản chăn con bò ra khu lăng Ngài cũng nhấp nhổm không yên vì chuyện đô la. Lão gọi thằng cu Sữa, bạn chăn bò vong niên của lão mà hỏi:
- Mày đã được ăn kẹo Tàu rồi hở?
- Chả bằng kẹo dồi làng mình ông ạ. Thơm hắc.
- Hừm, không quen khéo tháo dạ bỏ bố!
Cu Sữa tên khai sinh là Chiến Thắng, em giai cu Bơ. Cu Bơ, nhân vật trong chuyện Đất xóm Chùa nay đã lớn, giờ trao lại nghề chăn bò cho thằng em út, đi lái xe ôm. Như vậy chứng tỏ đời sống đang tiến lên. Lão Bản lắm lúc nhớ Sĩ Thái sư lẫn cu Bơ đến ngơ ngẩn. Lão định bụng sang mùa đông cũng bán bò, giải nghệ.
- Này, cu Sữa, mày trông bò hộ tao, nhát tao cho “năm hìu” đánh con đề số không bảy. Đêm qua tao nằm mơ thấy rắn rồi.
- Không chơi nói dối đánh lừa trẻ con đâu đấy.
- Nứt mắt đã gớm. Ông dối bao giờ?
Lão Bản lườm nó, xong đi thẳng qua cánh đồng về xóm ba, tới nhà ông Sĩ Duệ, tức Sĩ Thái sư. Nhất định phải thăm dò xem con Khờ làm gì lắm tiền thế. Nó vung tiền khuấy động làng này cốt trêu ngươi ai? Bà Sĩ Duệ con gái họ Đào, chị em thúc bá với vợ ông đánh giậm, tất phải biết mọi chuyện.
Vào đến sân, lão Bản nhìn thấy Sĩ Thái sư ngồi ở bàn nước ngóng ra. Bà Duệ đang sàng gạo ngoài hè. Lão Bản chợt nhận xét Sĩ Thái sư tóc tai dạo này có vẻ bạc tợn, nhưng bà vợ mặc cái áo hở rộng cổ thế kia còn ngon lành ra phết. Lão Bản tủm tỉm nhớ bữa ông chồng bình phẩm vụng sau lưng vợ. Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão! Chả bù ngoài tỉnh, năm sáu chục xuân xanh vẫn nõn nà trông tựa miếng giò lụa... ồ, không, trong cái áo mốt mới thế kia chưa gọi là miếng thịt ngan già được. Lão Bản cất giọng đùa cợt:
- Gớm nhẩy. Giờ đôi chim bồ câu chỉ ngồi nhà gù nhau, ai sướng bằng? Hơn được lên tiên!
Thấy lão Bản, Sĩ Thái sư vội vớ cái ấm chuyên trà, vui ra mặt. Ngày nào lão Bản không qua lại uống trà, chuyện gẫu, Sĩ Thái sư tưởng chừng thiếu hụt điều gì, chén trà thiếu hẳn hương vị. Còn uống trà kiểu độc ẩm chẳng thà ra vục ngụm nước mưa ngoài bể. Chính ông cũng không phân biệt được mình nghiện trà hay nghiện lão Bản. Người ta nói tâm giao tri kỷ ở chỗ đó. Bà Duệ không để lão Bản kịp ngồi đã tìm cớ phân trần chuyện nhà, hy vọng lôi kéo lão vào phe đồng minh. Tay vẫn nhoay nhoáy cái sàng, bà Duệ rỉ rả khơi chuyện:
- Ngồi gù nhau thì bồ câu, bồ nông đều đói rã họng, sướng nỗi gì hở ông? Đấy, tôi mới phân tích cho thằng cháu cả, ông ạ. Nó sắm xe máy, vừa ngốn xăng, lại khi hỏng hóc chữa tốn tiền triệu, rồi mua mười, bán năm... Chả thấy nó xót ruột... Nhưng cứ nói tậu cho bố mẹ đôi bò để sinh lợi hàng ngày, nó quầy quậy tiếc của. Mất đi đâu một xu hở ông? Rõ ràng mua năm, bán mười cơ mà... Nó chơi xe, chúng tôi chơi bò, đổ đồng như nhau, hỏi ai khôn hơn ai?
Sĩ Thái sư bật cười. Ông biết ngay, thấy mặt lão Bản mụ này sẽ lại lồng lên chuyện mua bò, lấy cớ trách chồng, trách con cho xem... à, nó giàu bằng ai đã vội xấu hổ, không dám để bố mẹ chăn bò như xưa? Chăn bò là cách người già nghỉ ngơi thong dong ngoài đồng mát mẻ, làm quan làm tướng gì phải giữ mẽ? Cứ nói toẹt, chẳng qua nó sĩ với đằng con vợ ngoài tỉnh nhà nó... Sĩ Thái sư chuyên xong chén trà, mới thủng thẳng tiếp lời vợ:
- ông Bản thấy bà cháu dại chửa. Con nó cho chơi lại không muốn, cứ thích lăn ra làm. Làm đến chết a?
- Vâng, tôi xưa nay chỉ thích làm đến chết. Chăn con bò mà sợ?
Bà hơi xẵng giọng. Ông Sĩ Duệ vội cười nịnh.
- Ơi dào, thích thì bà chăn ngay tôi đây này. Tôi xin làm bò cho bà chăn, được không? Phải bò bốn chân như bò thật, tôi cũng xong. Bò tôi lại không đòi ăn cỏ rách, mưa nắng không bắt ai lặn lội, chỉ thi thoảng nhẹ nhàng mua cho đồng rượu, thế thôi...
Lão Bản vào hùa với bạn:
- Chí phải. Giàu cũng giàu rồi, mà nghèo cũng... nghèo nứt đố đổ vách ra rồi. Tôi sắp làm đơn trình lên bà nhà tôi xin bán bò, nghỉ hưu đây. Ngẫm ra chỉ tại các bà vụng đẻ. Cứ thử đẻ được đứa con gái như con Khờ, có bằng vạn con bò không nào? Ai xứng xách dép cho nó chưa? Con giai lão Tí nghệch mang tiếng Việt kiều Canada về làng mà kiệt, một đồng xu cũng không rơi vãi. Ôi chao, nếu tôi có con gái ấy a...
Lão Bản bỏ lửng. ông Sĩ Duệ cảnh giác lảng sang chuyện khác. Dù sao con Khờ cũng gọi bà Duệ bằng dì, chuyện xấu tốt mặc thây nó, ông không dây, không động chạm trước mặt vợ. Chẳng may lỡ mồm lỡ miệng, mụ họ Đào nhà ông lại gầm lên.
Năm ngoái con Khờ tức cô Lầy Lầy về thăm nhà, khi trở lại Hồng Kông mang theo tấm ảnh lẫn lý lịch cái Huệ, em họ cô, lúc ấy vừa tròn mười tám tuổi. Hai tháng sau, Lầy Lầy đón Huệ theo đường du lịch sang bên đó để làm “vòng một”. Vòng một nói nôm na là cuộc gặp gỡ giữa lão già Hồng Kông sáu mươi ba tuổi với Huệ, do Lầy Lầy môi giới. Xem xét mặt hàng, lão già thấy ưng ý thì kết thúc vòng một, lão thuê Lầy Lầy chạy giấy tờ làm thủ tục hôn thê. Cũng vừa vặn hết hạn du lịch. Huệ trở về Việt Nam thông báo chuyện cưới xin với gia đình. Bố mẹ nó liền cấp tốc tổ chức mấy mâm cỗ “diện hẹp”, để cái Huệ còn kịp quay sang Hồng Kông làm tiếp “vòng hai”. Tất cả chớp nhoáng nhưng răm rắp theo đúng trình tự, không sai một ly. Xong vòng hai, Huệ chính thức thành vợ lão già ngoại quốc, dứt hẳn với chốn quê nhà ăn xó mó niêu, đồng thời cũng từ đây chính thức trở thành mỏ vàng cho cố hương. Nào gửi tiền để bố xây nhà, sắm xe cho em, nào gửi năm ngàn đô la bước đầu giúp mẹ trả nợ mọi khoản chi phí trước khi cưới...
Lão Bản phát ghen, chửi đổng: “Con mẹ nó! Cứ như thể cái ấy của nó tạc bằng kim cương chứ không phải thường!”
Sau chuyện con Huệ, các bà mẹ xóm Chùa Ông tỉnh ngộ rằng “đầu tư chồng ngoại” cho con gái, chắc chắn lãi nhất. Trừ phi trời không cho phải chịu. Riêng lão Bản quy tội tại vợ, mắng vợ vụng đẻ. Ai đời đẻ toàn giặc nhà trời, năm thằng con giai ăn tàn phá hại. Rồi đây chúng ta phải “bứng” những của sứt môi, lồi rốn xóm Chùa, gái ế ẩm không xuất ngoại được. Lấy vợ hư vẫn có cơ rèn cặp thành ngoan. Chứ lấy vợ xấu cầm bằng nó hại mấy đời con cháu nhà mình. Giống má ép-một, ép-hai sẽ chẳng ra người, chẳng ra ngợm. Kinh nghiệm xương máu đời lão, hỏi sao không thấy? Cái mũi mỏ chim, cặp chân vòng kiềng của đám con giai lão đều thừa hưởng ở mẹ chúng đó thôi? Bởi vậy trước đây lão vẫn ngấm ngầm để ý cô con út ông Sĩ Duệ cho thằng cả. Con bé như nụ hồng hàm hiếu, xinh quá, xinh đến mức lão phấp phỏng không dám hy vọng nhiều. Bây giờ lại nổi lên chuyện chồng ngoại, còn nói gì nữa!
Nhưng xinh quá chưa chắc đã hay. Có giời mới biết bà Duệ đang tan nát cõi lòng từ hôm con Khờ trở về. Nói cho chính xác là từ buổi tối Khờ tập hợp tất cả các bà bá, bà dì, nội ngoại ruột thịt đến nhà, nói toẹt rằng:
- Cháu về lần này cũng muốn nhặt vài chị em gái, đưa sang bên ấy cho đông vây cánh làm ăn. Cứ có khả năng xuất được cháu sẽ giúp. Các bà phải xác định cho con cháu đi cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ. Quanh quẩn xóm Chùa Ông đây, dù tài, dù sắc đến mấy cũng chả có cơ hội đổi đời. Làm vợ mấy anh nhọ đít, hai tay vày lỗ miệng, phí!
- Chết chết, chị kín đáo chứ! Khéo không người ta bảo chị là mẹ mìn Tàu thì khốn!
Một bà bá lên tiếng can. Cô Lầy ngật cái cổ trắng phau cười giòn giã:
- Buồn cười chưa? Cháu làm gì phạm pháp đâu. Là cháu thương họ hàng loay hoay nghèo túng, cháu giúp, bận đến ai? Ôi dào, khối người lạy cháu chả được.
Các bà nghệt mặt nghe. Có lý quá. Chỉ một lát sau các bà tranh nhau vanh vách khai bằng hết lý lịch của con gái. Cái Khờ tuyên bố dứt khoát:
- Toàn người nhà, cho phép cháu nói thật. Em Thảo con dượng Tám, em Thủy con dì Tác Lan, em Hoa con dì Huệ, những em như thế mới lo được. Còn chị Hà con bá Thu... Cháu nói thật nhé, chị ấy ngoại hình hơi yếu đành chịu vậy. Tiêu chuẩn phải xinh xắn dễ coi, trẻ, khoẻ. Đặc biệt các chị em phải còn “xịn”, các bà hiểu chứ ạ?
Share |
Trinh tiết xóm chùa
Ngày đăng: 17/06/2011 3:49:28 CH
Xóm Chùa với câu chuyện “lấy chồng ngoại” mang tính khái quát và thời sự. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, ngoại thành, đâu cũng xôn xao chuyện các cô gái Việt xinh đẹp, sẵn sàng mạo hiểm lấy chồng ngoại để đổi đời, mặc cho bao điều hiểm nguy rình rập. Những “hoàng tử” Việt ở đâu? Có phải sau khi đất đai sinh sống ngàn đời bị thu hẹp cho những sân gôn, khu đô thị mới... họ phải bắn ra thành phố làm xe ôm, cửu vạn? Trước mắt các thôn nữ chỉ thấy cụ già em nhỏ, vậy chả tìm đường xuất ngoại bán thân còn biết dùng tấm hồng nhan làm gì đây? Và cái Trinh Tiết thời đại đồng tiền mua bán ấy trở thành nỗi ê chề, xót xa cho thân phận những người phụ nữ. Mới biết mặt trái thời mở cửa còn những góc khuất đang mai một dần những giá trị truyền thống đáng trân trọng. Không thể không nghĩ ngợi...
Nhà văn ĐOÀN LÊ
Ba chữ đại tự sơn đen Triều Phục thôn vẫn được giữ y nguyên trên cổng làng tới tận giờ. Ra điều xưa kia ở đây có ối quan, phấp phới đường thôn toàn phẩm phục triều đình, chứ không phải loại quần áo giô- kề hàng thùng nhà chúng bay, nói cho mà biết! Thế nhưng con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ ngược, xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn nà, đập cửa ô tô đánh sầm, rồi điềm nhiên lắc mông đi vào làng. Cứ hệt như con Khờ nhón váy bằng hai ngón tay cong cong kiểu cách, chiếu cố bước qua vòm cổng thiêng liêng của xóm Chùa Ông. Cha con đĩ, thôn Triều Phục nó coi chẳng khác cửa hàng Karaôkê nhà nó à! Nếu ở trường hợp khác chắc cái Khờ không khỏi bị các cụ bà chửi té tát vào mặt. Còn các cụ ông sẽ khạc nhổ, rủa một câu thật hiểm: “Rõ nòi nhà mõ!”. Mõ vốn chức danh của ông nội con Khờ, người có công đẻ ra anh đánh giậm, bố nó, một thời làm chủ tịch xã rất hách. Ông ta được cái nết chưa quen tham ô, chưa mạnh tay “thiến” dân như các đời chủ tịch kế nhiệm. Bởi vậy lúc ông ta đột ngột chết, nhà cửa vẫn tuềnh toàng, mấy món tiền kếch sù sắp bí mật chia chác hóa ra tuột hết. Thôi cũng được cái tiếng trong sạch làm vui!
Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là cô Lầy Lầy. Chả biết lầy lội đẹp hơn khờ khạo ở chỗ nào, nhưng từ dạo nó bị người ta dụ dỗ đem bán tận Hồng Kông, chốn lầu xanh nó kiếm được anh Từ Hải lấy làm chồng, ai cũng mừng cho phúc phận nhà nó. Mừng hơn nữa nó biết mang cái thân xác tìm về quê quán, lại mang kèm theo hàng đống tiền, vàng, của nả... Năm ngoái nó cho mẹ tiền xây nhà ba tầng, xây lại mộ cụ mõ, xây mộ ông đánh giậm, nghênh ngang to bằng hai nhà táng ở giữa nghĩa địa xóm Chùa, rất khiêu khích. Đành rằng từ thời mở cửa, xóm Chùa Ông có thừa hơi hướng văn minh hiện đại, những nhà cao tầng mọc như nấm rơm, video mở cả hăm bốn tiếng, nhưng ngôi nhà ba tầng sang trọng hơn cả khách sạn ba sao ngoài tỉnh cùng hai ngôi mộ nói trên vẫn khiến cả làng lác mắt.
Lần này về cô Lầy Lầy lại biếu bà con họ hàng mỗi người một đồng tiền Tây làm quà mừng Tết Trung thu, trẻ con mỗi đứa mỗi gói bánh quy, kèm mấy viên kẹo Tàu. Cả làng được dịp rộ lên, kéo nhau đi nhận quà như đi nhận phát chẩn.
- Tiên nhân nó! Nó cho mỗi người một tờ tiền âm phủ đây này! - Lão Tí nghệch ra điều có con giai bên Canada thường xuyên gửi tiền về cho, lão khinh khỉnh mắng bà cụ Mạch - Bà dở hơi! Tờ một đô la chính cống của Mỹ đấy. Cái thứ tiền âm phủ cúng bái của các bà gọi là tiền hàng mã, tiền nhái.
“Ai chê cứ đưa tôi tiêu hộ”. Lão Bản chăn con bò ra khu lăng Ngài cũng nhấp nhổm không yên vì chuyện đô la. Lão gọi thằng cu Sữa, bạn chăn bò vong niên của lão mà hỏi:
- Mày đã được ăn kẹo Tàu rồi hở?
- Chả bằng kẹo dồi làng mình ông ạ. Thơm hắc.
- Hừm, không quen khéo tháo dạ bỏ bố!
Cu Sữa tên khai sinh là Chiến Thắng, em giai cu Bơ. Cu Bơ, nhân vật trong chuyện Đất xóm Chùa nay đã lớn, giờ trao lại nghề chăn bò cho thằng em út, đi lái xe ôm. Như vậy chứng tỏ đời sống đang tiến lên. Lão Bản lắm lúc nhớ Sĩ Thái sư lẫn cu Bơ đến ngơ ngẩn. Lão định bụng sang mùa đông cũng bán bò, giải nghệ.
- Này, cu Sữa, mày trông bò hộ tao, nhát tao cho “năm hìu” đánh con đề số không bảy. Đêm qua tao nằm mơ thấy rắn rồi.
- Không chơi nói dối đánh lừa trẻ con đâu đấy.
- Nứt mắt đã gớm. Ông dối bao giờ?
Lão Bản lườm nó, xong đi thẳng qua cánh đồng về xóm ba, tới nhà ông Sĩ Duệ, tức Sĩ Thái sư. Nhất định phải thăm dò xem con Khờ làm gì lắm tiền thế. Nó vung tiền khuấy động làng này cốt trêu ngươi ai? Bà Sĩ Duệ con gái họ Đào, chị em thúc bá với vợ ông đánh giậm, tất phải biết mọi chuyện.
Vào đến sân, lão Bản nhìn thấy Sĩ Thái sư ngồi ở bàn nước ngóng ra. Bà Duệ đang sàng gạo ngoài hè. Lão Bản chợt nhận xét Sĩ Thái sư tóc tai dạo này có vẻ bạc tợn, nhưng bà vợ mặc cái áo hở rộng cổ thế kia còn ngon lành ra phết. Lão Bản tủm tỉm nhớ bữa ông chồng bình phẩm vụng sau lưng vợ. Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão! Chả bù ngoài tỉnh, năm sáu chục xuân xanh vẫn nõn nà trông tựa miếng giò lụa... ồ, không, trong cái áo mốt mới thế kia chưa gọi là miếng thịt ngan già được. Lão Bản cất giọng đùa cợt:
- Gớm nhẩy. Giờ đôi chim bồ câu chỉ ngồi nhà gù nhau, ai sướng bằng? Hơn được lên tiên!
Thấy lão Bản, Sĩ Thái sư vội vớ cái ấm chuyên trà, vui ra mặt. Ngày nào lão Bản không qua lại uống trà, chuyện gẫu, Sĩ Thái sư tưởng chừng thiếu hụt điều gì, chén trà thiếu hẳn hương vị. Còn uống trà kiểu độc ẩm chẳng thà ra vục ngụm nước mưa ngoài bể. Chính ông cũng không phân biệt được mình nghiện trà hay nghiện lão Bản. Người ta nói tâm giao tri kỷ ở chỗ đó. Bà Duệ không để lão Bản kịp ngồi đã tìm cớ phân trần chuyện nhà, hy vọng lôi kéo lão vào phe đồng minh. Tay vẫn nhoay nhoáy cái sàng, bà Duệ rỉ rả khơi chuyện:
- Ngồi gù nhau thì bồ câu, bồ nông đều đói rã họng, sướng nỗi gì hở ông? Đấy, tôi mới phân tích cho thằng cháu cả, ông ạ. Nó sắm xe máy, vừa ngốn xăng, lại khi hỏng hóc chữa tốn tiền triệu, rồi mua mười, bán năm... Chả thấy nó xót ruột... Nhưng cứ nói tậu cho bố mẹ đôi bò để sinh lợi hàng ngày, nó quầy quậy tiếc của. Mất đi đâu một xu hở ông? Rõ ràng mua năm, bán mười cơ mà... Nó chơi xe, chúng tôi chơi bò, đổ đồng như nhau, hỏi ai khôn hơn ai?
Sĩ Thái sư bật cười. Ông biết ngay, thấy mặt lão Bản mụ này sẽ lại lồng lên chuyện mua bò, lấy cớ trách chồng, trách con cho xem... à, nó giàu bằng ai đã vội xấu hổ, không dám để bố mẹ chăn bò như xưa? Chăn bò là cách người già nghỉ ngơi thong dong ngoài đồng mát mẻ, làm quan làm tướng gì phải giữ mẽ? Cứ nói toẹt, chẳng qua nó sĩ với đằng con vợ ngoài tỉnh nhà nó... Sĩ Thái sư chuyên xong chén trà, mới thủng thẳng tiếp lời vợ:
- ông Bản thấy bà cháu dại chửa. Con nó cho chơi lại không muốn, cứ thích lăn ra làm. Làm đến chết a?
- Vâng, tôi xưa nay chỉ thích làm đến chết. Chăn con bò mà sợ?
Bà hơi xẵng giọng. Ông Sĩ Duệ vội cười nịnh.
- Ơi dào, thích thì bà chăn ngay tôi đây này. Tôi xin làm bò cho bà chăn, được không? Phải bò bốn chân như bò thật, tôi cũng xong. Bò tôi lại không đòi ăn cỏ rách, mưa nắng không bắt ai lặn lội, chỉ thi thoảng nhẹ nhàng mua cho đồng rượu, thế thôi...
Lão Bản vào hùa với bạn:
- Chí phải. Giàu cũng giàu rồi, mà nghèo cũng... nghèo nứt đố đổ vách ra rồi. Tôi sắp làm đơn trình lên bà nhà tôi xin bán bò, nghỉ hưu đây. Ngẫm ra chỉ tại các bà vụng đẻ. Cứ thử đẻ được đứa con gái như con Khờ, có bằng vạn con bò không nào? Ai xứng xách dép cho nó chưa? Con giai lão Tí nghệch mang tiếng Việt kiều Canada về làng mà kiệt, một đồng xu cũng không rơi vãi. Ôi chao, nếu tôi có con gái ấy a...
Lão Bản bỏ lửng. ông Sĩ Duệ cảnh giác lảng sang chuyện khác. Dù sao con Khờ cũng gọi bà Duệ bằng dì, chuyện xấu tốt mặc thây nó, ông không dây, không động chạm trước mặt vợ. Chẳng may lỡ mồm lỡ miệng, mụ họ Đào nhà ông lại gầm lên.
Năm ngoái con Khờ tức cô Lầy Lầy về thăm nhà, khi trở lại Hồng Kông mang theo tấm ảnh lẫn lý lịch cái Huệ, em họ cô, lúc ấy vừa tròn mười tám tuổi. Hai tháng sau, Lầy Lầy đón Huệ theo đường du lịch sang bên đó để làm “vòng một”. Vòng một nói nôm na là cuộc gặp gỡ giữa lão già Hồng Kông sáu mươi ba tuổi với Huệ, do Lầy Lầy môi giới. Xem xét mặt hàng, lão già thấy ưng ý thì kết thúc vòng một, lão thuê Lầy Lầy chạy giấy tờ làm thủ tục hôn thê. Cũng vừa vặn hết hạn du lịch. Huệ trở về Việt Nam thông báo chuyện cưới xin với gia đình. Bố mẹ nó liền cấp tốc tổ chức mấy mâm cỗ “diện hẹp”, để cái Huệ còn kịp quay sang Hồng Kông làm tiếp “vòng hai”. Tất cả chớp nhoáng nhưng răm rắp theo đúng trình tự, không sai một ly. Xong vòng hai, Huệ chính thức thành vợ lão già ngoại quốc, dứt hẳn với chốn quê nhà ăn xó mó niêu, đồng thời cũng từ đây chính thức trở thành mỏ vàng cho cố hương. Nào gửi tiền để bố xây nhà, sắm xe cho em, nào gửi năm ngàn đô la bước đầu giúp mẹ trả nợ mọi khoản chi phí trước khi cưới...
Lão Bản phát ghen, chửi đổng: “Con mẹ nó! Cứ như thể cái ấy của nó tạc bằng kim cương chứ không phải thường!”
Sau chuyện con Huệ, các bà mẹ xóm Chùa Ông tỉnh ngộ rằng “đầu tư chồng ngoại” cho con gái, chắc chắn lãi nhất. Trừ phi trời không cho phải chịu. Riêng lão Bản quy tội tại vợ, mắng vợ vụng đẻ. Ai đời đẻ toàn giặc nhà trời, năm thằng con giai ăn tàn phá hại. Rồi đây chúng ta phải “bứng” những của sứt môi, lồi rốn xóm Chùa, gái ế ẩm không xuất ngoại được. Lấy vợ hư vẫn có cơ rèn cặp thành ngoan. Chứ lấy vợ xấu cầm bằng nó hại mấy đời con cháu nhà mình. Giống má ép-một, ép-hai sẽ chẳng ra người, chẳng ra ngợm. Kinh nghiệm xương máu đời lão, hỏi sao không thấy? Cái mũi mỏ chim, cặp chân vòng kiềng của đám con giai lão đều thừa hưởng ở mẹ chúng đó thôi? Bởi vậy trước đây lão vẫn ngấm ngầm để ý cô con út ông Sĩ Duệ cho thằng cả. Con bé như nụ hồng hàm hiếu, xinh quá, xinh đến mức lão phấp phỏng không dám hy vọng nhiều. Bây giờ lại nổi lên chuyện chồng ngoại, còn nói gì nữa!
Nhưng xinh quá chưa chắc đã hay. Có giời mới biết bà Duệ đang tan nát cõi lòng từ hôm con Khờ trở về. Nói cho chính xác là từ buổi tối Khờ tập hợp tất cả các bà bá, bà dì, nội ngoại ruột thịt đến nhà, nói toẹt rằng:
- Cháu về lần này cũng muốn nhặt vài chị em gái, đưa sang bên ấy cho đông vây cánh làm ăn. Cứ có khả năng xuất được cháu sẽ giúp. Các bà phải xác định cho con cháu đi cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ. Quanh quẩn xóm Chùa Ông đây, dù tài, dù sắc đến mấy cũng chả có cơ hội đổi đời. Làm vợ mấy anh nhọ đít, hai tay vày lỗ miệng, phí!
- Chết chết, chị kín đáo chứ! Khéo không người ta bảo chị là mẹ mìn Tàu thì khốn!
Một bà bá lên tiếng can. Cô Lầy ngật cái cổ trắng phau cười giòn giã:
- Buồn cười chưa? Cháu làm gì phạm pháp đâu. Là cháu thương họ hàng loay hoay nghèo túng, cháu giúp, bận đến ai? Ôi dào, khối người lạy cháu chả được.
Các bà nghệt mặt nghe. Có lý quá. Chỉ một lát sau các bà tranh nhau vanh vách khai bằng hết lý lịch của con gái. Cái Khờ tuyên bố dứt khoát:
- Toàn người nhà, cho phép cháu nói thật. Em Thảo con dượng Tám, em Thủy con dì Tác Lan, em Hoa con dì Huệ, những em như thế mới lo được. Còn chị Hà con bá Thu... Cháu nói thật nhé, chị ấy ngoại hình hơi yếu đành chịu vậy. Tiêu chuẩn phải xinh xắn dễ coi, trẻ, khoẻ. Đặc biệt các chị em phải còn “xịn”, các bà hiểu chứ ạ?
Cái Khờ giải thích cặn kẽ chuyện chị em phải còn “xịn”, cũng như các chuyện khác. Ai thắc mắc gì cứ hỏi. Càng nghe nó giải thích càng thấy nó không khờ tí nào. Cuối cùng mọi người đã thông suốt hết. Lúc ấy cái Khờ mới lôi quà cáp ra chia, người vuông khăn, kẻ tấm áo. Lại còn kính râm, cà vạt cho các bác giai; son môi, nước hoa cho các cô em ở nhà... Nhưng xôn xao nhất là những bức ảnh con Huệ gửi về gia đình. Trong ảnh không có cái nào thấy hình ông lão sáu mươi chồng nó, chỉ rặt ô tô, phòng tắm lộng lẫy, người nó lấp lánh nữ trang trông lóa mắt. Chao ôi, con bé mò cua bắt ốc ngày nào bỗng thoắt cái lột xác thành bà hoàng đây này!
Từ lúc ở nhà con Khờ về, bà Duệ đứt từng khúc ruột. Cái Huệ đã ăn nhằm gì. Con Hoa nhà bà mới thật xinh như hoa, nức tiếng hàng xã. Hoa cũng vừa mười tám, thi trượt đại học, hiện đang ôn tập, quyết chí thi cử phen nữa. Thế nhưng đầu năm nay nhà bà xuất hiện anh chàng quay phim chụp ảnh đám tang, đám cưới, có cửa hiệu ngoài phố. Cả nhà đều ngầm hiểu anh chàng ngấp nghé cô Hoa. Anh ta không đỏm trai nhưng bù lại rất mau mắn mồm miệng, thi thoảng không quên biếu Sĩ Thái sư bánh thuốc lào chính hiệu Tiên Lãng, vài lít rượu làng Vân ngon nổi tiếng để ông ngâm thuốc. Dĩ nhiên Sĩ Thái sư liền say đứ đừ, say cả rượu lẫn thuốc lào. Giả dụ anh chàng phó nháy định chim Sĩ Thái sư thì chỉ cần thế cũng đủ ông đổ kềnh, không phải cưa kéo thêm. Nhưng cô Hoa tỏ ra khôn đáo để. Bà Duệ hỏi han, cô chỉ trả lời lấp lửng:
- Dào ôi, đã biết đâu bụng dạ người ta. Mình quê mùa, chắc gì người ta ưng. Họ đùa mình đấy thôi.
Bà Duệ mừng thầm. Gái khôn mới biết vè giai. Vè, có nghĩa chỉ lượn lờ, sát đấy mà lảng ngay đấy. Con mồi không biết đường lần, lúc ngỡ mình chẳng là cái đinh gỉ, lúc lại ngỡ mình nắm chắc trái tim nàng trong lòng bàn tay. Nhưng tưởng bở, tim đâu rẻ vậy? Ngay tim lợn cũng nằm trong loại mặt hàng cao giá nhất trên phản thịt ngoài chợ kia kìa!
Đến một hôm bà Duệ ngỡ ngàng bắt gặp cô Hoa cầm sợi dây chuyền lóng lánh mặt đá đỏ, ướm lên cái cổ trắng mềm mại như ức bồ câu của cô.
- Ở đâu ra vậy, Hoa?
Hoa giấu không kịp, đành chìa sợi dây chuyền lấp lánh cho mẹ, ấp úng:
- Vàng giả đấy mẹ...
Nhưng giấu sao được bà Duệ. Đây mà là vàng giả?
- Mày định bịt mắt tao cơ à? Gớm thật! ở đâu ra thứ này, nói ngay!
- Con... nhặt được của rơi ngoài đường.
- A, thế! Thế thì tao cất thứ của rơi nhặt được này đã.
Lúc ấy Hoa mới van vỉ mẹ, nói thật hết. Của anh chàng phó nháy xú-vơ-nia nhân sinh nhật cô.
Bà Duệ im lặng nhưng mơ hồ lo lắng.
Linh cảm của bà không lầm. Một bữa bà bắt gặp Hoa đang lén ăn khế ở góc vườn. Xưa nay con bé sợ chua thế, lẽ nào... Bà bàng hoàng. Chẳng nói chẳng rằng bà túm cô gái rượu ngay dưới gốc khế, lôi thốc vào buồng. Bằng một cái giật rất phũ bà dứt tung cúc áo đứa con gái đang nhũn người ra. Giật tiếp cái xú-chiêng, bà há hốc miệng ngó sững. Đôi bầu vú trắng nõn phồng to khác thường, hai núm xinh xinh phớt hồng của nó nay cũng sẫm lại, nở gấp ba... Để không nghi ngờ gì nữa bà nắm cạp chun quần Hoa kéo xoạt xuống ngang hông. Cô gái không kịp phản ứng. Bụng nữ thần sắc đẹp chỉ hơi nhô chút đỉnh, nhưng con mắt đàn bà của bà Duệ nhận biết đích thị là Nó.
Bà Duệ ngã vật xuống giường chết ngất. Trong cơn nức nở bà tiếc công giữ ngọc gìn vàng cho con gái suốt mười tám năm, như giữ con ngươi. Vậy mà... ôi con ngươi là con ngươi ơi! Ôi thuốc lào Tiên Lãng với rượu làng Vân kia ơi! Phải người mẹ khác chắc chuyện om sòm làng nước. Nhưng đây tịnh không. Vẫn thấy bà Duệ đảo những chảo cốm thoăn thoắt, niềm nở tiếp khách ngoài chợ tỉnh vào cất hàng.
Sáng tinh mơ hôm thứ ba, bà Duệ cùng Hoa đi tỉnh sớm. Tìm tới hiệu chụp ảnh, nhưng nó đã đóng cửa. Hỏi chủ nhà mới biết thằng phó nháy vào Nam rồi, mấy tháng tiền thuê cửa hiệu nó cũng quỵt luôn. Ra ngoài đường bà Duệ rít lên:
- Thằng chết tiệt có biết mày bị không?
- Có.
- Nó nói sao?
- Bảo để lo cưới.
- Cưới cái mả mẹ nó! Thôi, về...
Tang rượu làng Vân chỉ còn vương hơi trong mấy hũ thuốc bắc khô như rắn ráo. Sĩ Thái sư không hề hay biết gia đình ông đang trải qua cơn bão lớn tương đương cơn bão Băng-la-đét. ông hồn nhiên hỏi con:
- Này Hoa, thằng phó nháy sao lâu chưa thấy đến chơi, nhẩy?
Con gái ông gằm mặt lí nhí đáp:
- Con không biết ạ.
Bà Duệ ngấm nguýt trả lời hộ:
- Nó bị kẹp xe chết rồi. Từ rày ông đừng hỏi đến nó cho tôi đỡ lộn ruột.
- Ơ hay, ruột bà lộn ngang lộn dọc mặc bà, sao tự nhiên độc mồm vậy?
- Ôi chao, nó lấy vợ, bỏ rơi con gái ông kia. Tôi nói thế đã thất hiếu hử? Rượu với thuốc sướng quá! Ông đừng bàn việc nhà cho nát thêm ra nữa.
Ông tịt. Ơ được, không cho tham gia nội chính ông càng rảnh rang. Dạo này ông đánh bạn với lão kép cải lương về già. Lão ta sống một mình ở ngôi nhà nhỏ cuối thôn bốn. Thi thoảng lão vẫn lén lút đón ca-ve non thật xinh về ngôi nhà độc thân suốt đêm, để nó hầu hạ đấm bóp tấm thân nhăn nheo một nắm xương khô cho sướng. Vợ lão chết đã lâu, không ai nỡ xét hỏi. Mà có xét, nay lão bảo cháu gái gọi vợ bằng dì, mai bảo cháu gái con ông bạn thân ngoài phố đã sao. Nhất là không phiền toái. Chờ trời tối, chạy xe máy cái vèo lên đến đầu tỉnh đã đón được “của lạ” về tận nhà. Như thế sạch sẽ hơn, như thể con hát-i-vê không dám đánh đường mò về tận nơi xóm Chùa Ông thiêng liêng. Chuyện kinh thiên động địa nhưng không ai biết cả... Chỉ cần kín đáo một chút... Lấy khăn che mặt đi em!
Ông Sĩ Duệ cũng vài lần được lão kép cải lương “đưa vào đời” tại nhà hàng tỉnh lẻ cho an toàn. Ôi chao, sự ấy không thể tả nổi. Từ đám ca-ve, hai anh già “ngộ” được nhiều điều đến thú vị. Mới hôm nọ lão kép thì thào kể cho ông Sĩ Duệ chuyện “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”, bằng giọng rất đỗi nghẹn ngào... Xin đừng hôn em. Em thề đã giữ cái hôn cho chồng em. Anh mất tiền, muốn làm gì cũng được, nhưng chỉ từ dưới cổ trở xuống. Chồng em ở đâu ư? Anh ấy đang ngồi tù. Ngồi tù vì buôn lậu nuôi mẹ con em đấy. Em sẽ đợi chồng em. Bao giờ anh ấy trở về, em không phải đi khách kiếm tiền nuôi con nữa...
Lão kép hát rớm nước mắt bảo ông:
-Thấy chưa? Ai dám bảo chữ trinh chỉ có một kiểu?
Sĩ Thái sư gật gù bán tín bán nghi. Nó giữ chữ trinh hay nó gần cái miệng thuốc lào lão già nó sợ? Cũng mặc mẹ nó. Dù sao từ dạo được “đưa vào đời” ai trông Sĩ Thái sư đều khen trẻ ra.
Bây giờ ông càng muốn phó thác gia đình cho vợ con. Dưới bàn tay mụ nữ tướng, đâu khắc vào đó.
Thì đúng đâu lại vào đó. Nhờ tài khéo léo của bà Duệ, cô Hoa sau một tuần vắng mặt, lên phố giúp việc anh chị, nay bỏ học về nhà quanh quẩn làm cốm với mẹ. Gia đình Sĩ Thái sư lại êm đềm như thường. Không ai biết giây phút nằm tênh hênh trên bàn bệnh viện, cô Hoa ngây thơ phập phồng tình yêu của xóm Chùa đã chết rồi. Giờ còn lại đây một cái xác lạnh khô, chán chường đến mức không buồn... chết nữa! Bởi vậy sáng chị Lầy Lầy sang chơi. Hoa không tươi tỉnh mặn mà lắm. Nhưng chị Lầy Lầy vừa thấy Hoa đã vồn vã xoắn xuýt:
- Ôi, lâu không gặp con bé, ai ngờ em gái chị chim sa cá lặn thế này! Dì ơi, bằng nhà dì trúng xổ số thêm áp mạn đấy.
Bà Duệ cùng Hoa nín thít, mặt chảy dài. Lầy Lầy đoán ngay có chuyện khúc mắc. Chưa kịp hỏi han, Hoa đã lỉnh xuống bếp. Bà Duệ kéo tay Lầy Lầy vào trong buồng tỉ tê mọi chuyện.
- Giời ơi, sao em con dại thế. Phí đời cho thằng phó nháy!
- Vậy đấy. Giờ chị muốn giúp em cũng chả được. Sự tình ra nông nỗi này, sang nước người ta thêm nhục. Dì nghe nói bọn đàn ông ngoại quốc phát hiện con gái không còn nguyên vẹn, nó bán luôn vào nhà chứa. Nếu không nó cũng vùi dập hơn con ở nhà nó.
- Chuyện xảy ra đến thế, đành tìm cách gỡ. Dì khổ tâm mấy cũng không kéo lại được. Bây giờ dì nghe con, nếu nhà quyết tâm để em Hoa đi, con khắc có cách. Cái Khờ ngó trước ngó sau rồi hạ giọng thì thào vào tai bà Duệ:
- Dì thu xếp cho con một khoản kha khá. Con có đường dây bí mật đưa em Hoa đi sửa sang lại.
- Chị bảo sao? - Bà Duệ sửng sốt ngó sững cái Khờ.
- Con sẽ đưa em đến một cơ sở y khoa đặc biệt, ở đấy người ta nhận vá, người ta tân trang nguyên lành như cũ... Dì phải thề giữ bí mật cho con đấy. Chuyện này nghiêm trọng lắm. Nếu hở ra chúng nó giết con, không đùa đâu dì ạ.
Bà Duệ cứ há hốc miệng. Giời ơi, có thế như thế được ư? Lại như thế thật sao? Tân trang xong, con gái đã hư cũng trở lại thành “xịn”, lại rách, lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết y khoa” ấy sao?
Trưa hôm đó, sau bao nhiêu ngày u ám Sĩ Thái sư mới thấy vợ cười nói hớn hở ra mặt. Bà dịu dàng bảo ông:
- Cái khoản tiền của họ, ông cho tôi mượn tạm ít hôm đã.
- Bà nói hay chửa. Tiền đâu của nhà mình. Đã định ngày đầu tháng tới các chú thím ấy về...
- Cứ đưa đây tôi giật tạm, lo việc trước đã. Rồi tôi nhắn thằng cả chạy sớm hoàn lại. Hai triệu nhà ông chưa to đâu!
- To nhỏ mặc tôi, không được đụng vào đấy. Mà bà làm gì cũng phải nói ra chứ. Buôn bạc giả hay sao?
Tức thì mắt bà long lên. Bà điên lắm. Muốn biết sẽ được biết! Đằng nào việc con Hoa đi Hồng Kông rồi cũng phải bàn. Đã khoẻ hoạnh hoẹ thì dỏng tai nghe cho hết những điều bà âm thầm gánh vác hộ “quả phúc” nhà ông nhá!
Sĩ Thái sư tưởng đâu sét đánh xuống đầu. Những chuyện khốn nạn đến thế chúng mày dám giấu ông? Chúng mày coi ông là thứ gì trong nhà này hả? Ông càng tức gấp đôi vì không thể quát tháo cho hả giận, càng không thể nện mẹ con nhà họ Đào một trận thừa sống thiếu chết.
Sĩ Thái sư lao ra khỏi nhà như phát rồ. Đi cho bình tĩnh. ở nhà có thể ông hộc máu mắt.
Qua khỏi ngõ, bất đồ ông chạm trán lão Bản dong bò đi thả. Lão Bản toét miệng cười trêu:
- Thiết triều hôm nay có người vạch mặt gian thần đấy ngài Thái sư ạ. Ý lão Bản nhắc khéo việc mấy ông xóm Chùa định làm đơn kiện thằng cha chủ tịch xã. Mọi bận thế nào Sĩ Thái sư cũng hồ hởi bắt chuyện, bàn bạc, to nhỏ với lão. Nhưng lạ, bữa nay mặt Sĩ Thái sư cứ hằm hè, tái dại rất khó tả. Lão Bản liền rủ:
- Rỗi, đi với tôi đi. Không trò chuyện mồm nó mốc ông ơi.
Lão cũng đang đầy ứ một bầu tâm sự cần được thổ lộ đây. Hai người lặng lẽ theo sau con bò. Cả hai đều cúi đầu mà đi, trông xa như thể họ mặc niệm trước mông con vật.
- Thằng Hợp, Phó Chủ tịch xã nói còn sai làm sao. Đi khám đợt nghĩa vụ năm nay mới chết đắng ra. Một nửa thanh niên xóm Chùa bị loại vì máu có khoản... dương tính con Hít.
Ông Sĩ Duệ trợn tròn mắt hỏi lại:
- Sao? ông nói sao? Sao lại bố láo thế được? Tôi ngỡ chỉ có con nhà Cua thôi chứ?
- Cái thằng chết tháng trước hử? Nói làm gì... Sang giai đoạn cuối bây giờ đã có ba thằng nữa rồi. Con nhà Thìn, con Tài Bân, con mụ Thích.
- Chao ôi, xóm Chùa đổ đốn thế rồi ư?
Lão Bản ngậm ngùi:
- Thôi đi. Còn đâu xóm Chùa ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu đưa ma tuý, ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền... Còn gì để nói, hở ông?
Sĩ Thái sư liếc xéo lão Bản. Cái vẻ thâm trầm mỉa mai còn phảng phất trên gương mặt lão khiến ông gai người. Lòng dạ ông như bị xát muối. Và cùng với nỗi xót thầm, ông nghe tức tưởi trỗi dậy một sự phản kháng yếu ớt. Nói cho cùng, đám con gái xóm Chùa có đánh cắp trinh tiết cũng đâu phải tội lỗi ghê gớm lắm. Chúng là nạn nhân thôi. Nạn nhân cho thói đời, cho đồng tiền theo cách chúng nó. Thời buổi mở cửa, chữ trinh dẫu đến ba vạn đường đã sao? Những thằng đàn ông nước ngoài dại dột cứ để chết bố chúng nó!
Con bò thong dong gặm cỏ. Hai lão ngồi xuống bờ tường đá khu nghĩa địa. Từ đây nhìn xuống đất xóm Chùa uốn lượn giống hình con rồng nghênh chầu mặt nguyệt. Mặt nguyệt chính là ngọn đồi. Khu nghĩa địa được xây hình tròn trên đỉnh đồi cũng tựa cái rốn của mặt nguyệt. Hướng cửa nghĩa địa quay về làng, để trừ ma quỷ cho dân con xóm Chùa Ông. Do vậy xưa nay ai cũng yên chí mình được che chở, chả sợ gì sất... “Ôi, vậy vì sao ra nông nỗi này?”. Sĩ Thái sư bải hoải ngoảnh nhìn xóm Chùa. Ơ kìa hình như dải đất uốn lượn thân thuộc ấy bỗng dưng lùi xa, lùi xa từng tí một trước mặt ông. Hay có làn sương mù nào đang giăng lên, che phủ xóm Chùa chăng? Mà lạ quá, ngay bờ tường đá dưới chân ông cũng bồng bềnh tựa hồ thụt xuống, lún xuống...
Sĩ Thái sư xây xẩm mặt mũi, ngã lăn vào lòng lão Bản. Hai tay ông vẫn chới với muốn níu giữ lấy cái gì vô hình đang vuột mất. Đúng lúc một cơn xoáy lốc ào qua, cuốn theo tiếng kêu của lão Bản về làng, rồi thả rơi từng khúc âm thanh rời rạc, nghe như tiếng ai gọi hồn...
Con mèo hoang và những câu chuyện khác...
Ngày đăng: 01/01/2012 5:00:00 SA
Khu tập thể cũ, quán cơm cũ, con mèo cũ…
Dạo này con mèo hoang hay lởn vởn quanh quán cơm của bà Toán. Con mèo hoang có màu đen tuyền từ đầu đến chân. Bà Toán xùy xùy đuổi. Nó không sợ còn quay lại trừng mắt nhìn bà. Mắt nó như hai đốm lân tinh sáng quắc ma quái.
Bà Toán rất ghét con mèo hoang vì nó hay bới thùng rác khiến mọi thứ văng ra bừa bãi bẩn thỉu. Cái Mận không biết bà Toán ghét con mèo. Thế nên có lần khách ăn thừa, cái Mận vứt một ít xương cá cho con mèo. Bà Toán trông thấy lập tức chửi nó một trận té tát. Cái Mận bảo là con mèo bắt chuột giỏi lắm, hay là bắt nó về nuôi. Có con mèo trong bếp thì lũ chuột sẽ bớt hoành hành hơn. Bà Toán trề mồm: “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang! Rước cái của nợ này về để mà tao đóng cửa quán à?”.
1. Chuyện cái Mận
Bà Toán ghét con mèo hoang còn cái Mận thì không. Có lẽ bởi vì cả nó và con mèo đều là những kẻ cô đơn. Nhà nó ở tít tận vùng quê chiêm trũng cả đời làm muối. Suốt ngày gia đình nó bám mình dưới ánh nắng chói gắt đến khi người khô quắt đen nhẻm còn chân bị nước mặn ăn đến nứt nẻ mới xong được mẻ muối. Xúc muối cho lên cái xe đạp cà tàng đạp rạc chân vài chục cây số mới đến thị xã mà bán được vài đồng. Đó là may mắn. Còn nếu như đến gần ngày thu hoạch muối mà trời mưa một trận thì coi như công sức cả nhà đổ xuống sông xuống bể.
Mẹ cái Mận mất sớm. Bố nó lấy vợ hai. Cái nghèo hình như làm con người ta dễ ác độc hơn. Bố nó, dì nó suốt ngày cau có, cãi nhau chửi nhau vì những việc đâu đâu. Rồi hai người quay ra trút giận lên đầu lũ con lít nhít. Bố nó hàng ngày vắt kiệt sức trên cánh đồng muối, về đến nhà là nằm vật ra mệt mỏi. Sau mỗi vụ muối, số tiền còm cõi đưa về chẳng thấm vào đâu so với một gia đình đông con. Dì nó cũng tốt thôi, chẳng qua nhà nheo nhóc quá. Dì lo cho mấy đứa con của dì với bố nó đã mệt mỏi lắm rồi, thời gian đâu mà chăm lo đến nó. Thế nên khi được một người hàng xóm mách, dì lập tức gửi nó lên trên này làm thuê ở quán cơm của bà Toán. Xa nhà, lạ nước lạ cái, lại chậm mồm chậm miệng nên cái Mận chẳng có ai làm bạn. Làm việc xong, nó cứ thui thủi một mình.
Con mèo hoang hình như thích được gần người. Đặc biệt những hôm trời rét, cái Mận để ý thấy con mèo cứ nhìn vào trong nhà chăm chăm thèm khát. Thình thoảng không thấy bóng dáng bà Toán, nó liền đi lại gần cái Mận. Cái Mận đưa tay ra gọi con mèo. Nhưng trong một tích tắc, bản năng phòng vệ của con mèo lên tiếng. Nó đã bị đánh đập xua đuổi quá nhiều. Nó nghi ngại rồi ngoắt người chạy mất hút. Cũng đúng thôi. Không cẩn thận là nó ăn đòn như chơi. Mấy hôm trước, thấy nó đi qua cổng quán, bà Toán ngứa mắt vác chổi ra xua đuổi. Con mèo bị đánh giật mình. Bà Toán giương chổi lên định đập một phát nữa. Bỗng nhiên nó gào lên phun phì phì dữ tợn như rắn hổ mang khiến bà Toán chút nữa thì ngã ngửa. Từ đó bà càng ngày càng ghét con mèo hoang. Con mèo cũng tỏ ra thù địch bà không kém. Cứ lúc nào thấy bóng bà là nó lại xù lông lên mắt dựng ngược.
2. Chuyện bà già nuôi mèo
Theo như những người ở khu tập thể này kể lại thì con mèo ban đầu không hẳn là mèo hoang. Nó đã sống ở cái khu tập thể này lâu lắm rồi, từ trước cả khi có quán cơm của bà Toán. Trước đây, nó là con mèo nuôi của một bà già sống ở khu tập thể. Bà già sống neo đơn cô độc trong căn hộ gác ba. Nghe nói nhà bà trước đây ở trên phố. Nhà mặt phố nhưng nhỏ hẹp. Hai thằng con lấy vợ rồi va chạm suốt ngày. Không gian sống bí bách khiến con người ta nhỏ nhen. Không đành nhìn cảnh hàng ngày hai thằng con hầm hè nhau, hai đứa con dâu chửi rủa lổng chổng, bà già bán căn nhà đi. Số tiền bán nhà, bà giữ lại một ít gửi tiết kiệm, còn lại chia cho hai đứa con. Thế là mỗi thằng con ở một nơi, không đứa nào đụng chạm đứa nào nữa, hết cả đánh chửi nhau.
Nhưng có một điều bà già không tính tới. Hai thằng con không chịu ở cùng nhau đã đành, chúng nó cũng khó chịu khi ở cùng bà. Ban đầu bà ở cùng thằng cả. Được dăm bữa nửa tháng, con vợ nó suốt ngày cằn nhằn đánh chó đuổi mèo bóng gió bảo bà ăn hại. Bà dọn đồ sang nhà thằng hai. Một lần trong bữa ăn, bà lập cập làm đổ bát nước mắm, thế là đứa con dâu nhảy lên mắng bà xơi xơi còn thằng chồng hèn nhược thì cúi đầu im thin thít. Thế là bà quyết định rút số tiền tiết kiệm ra mua căn hộ tập thể nhỏ xíu ở đây để khỏi quấy nhiễu gia đình hai thằng con. Bọn chúng nó cũng lấy lý do làm ăn bận rộn, chẳng mấy khi đến đây thăm nom bà. Cùng lắm thì ngày lễ ngày Tết, chúng nó chỉ tạt qua lấy lệ nhanh nhanh chóng chóng rồi biến mất. Bà già có con mà như không. Thỉnh thoảng bà ôm con mèo khóc.
Một hôm, con mèo kêu cả ngày không dứt. Tiếng kêu như tiếng người than vãn. Hàng xóm chạy sang gọi cửa. Không có ai trả lời. Phá cửa ra, người ta thấy bà già đang ngồi trên chiếc ghế tựa nhìn ra cửa sổ. Con mèo nằm gọn trong lòng bà kêu thê thiết. Bà già đã chết tự lúc nào. Lũ con tụ về làm đám ma cho bà cụ. Khi lũ con đang khóc than sụt sùi, bỗng nhiên con mèo nhảy qua người bà cụ khiến bà cụ bật ngồi dậy chỉ thẳng tay vào mặt lũ con như oán trách. Hai thằng con ngã vật ngửa người ra, mặt tái đi không còn một giọt máu. Còn hai đứa con dâu nanh ác thì sợ quá quỳ sụp xuống lạy quan tài tru tréo xin bà tha tội. Đó là người ta kể thế thôi. Thực ra thì khi đóng nắp quan tài, ai nấy đều khiếp hãi khi thấy con mèo đã lẻn vào nằm cuộn tròn dưới chân bà già lúc nào. Mọi người đuổi mãi nó mới chịu đi.
Dẫu sao sau khi bà cụ già qua đời, con mèo chính thức trở thành mèo hoang. Hai đứa con tống tháo nhanh chóng bán ngôi nhà đi chia nhau. Con mèo mất chỗ ở. Kể từ đó, nó cứ sống quẩn quanh ở khu tập thể này. Kể ra cũng lạ. Bao nhiêu gia đình nuôi mèo, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, nào là chăm bẵm, nào là xích, nào là chuồng, thế mà mắt trước mắt sau toàn bị bọn ăn trộm bắt mất lúc nào chẳng biết. Riêng con mèo hoang này thì cứ lặt dặt sống từ năm này qua năm khác. Có mấy thằng nghiện nghe đồn cửa hàng tiểu hổ chuộng nhất loại mèo đen, sẵn sàng mua với giá gấp ba gấp bốn lần giá thường. Bọn nó rình bắt con mèo ròng rã mấy tuần, đủ các loại bẫy khác nhau, đủ các loại mồi khác nhau, thế mà con mèo vẫn chẳng sao. Có người bảo con mèo sống lâu đã thành tinh rồi.
3. Chuyện bà Toán
Bà Toán thì chẳng tin là con mèo thành tinh. Bà chỉ nghĩ là nó sống lâu nên tinh khôn hơn lũ mèo thường. Bà cũng theo dõi xem nó ngủ ở đâu để rình bắt nhưng con mèo dường như linh tính biết nên chưa bao giờ bà Toán tìm được nơi ẩn náu của nó. Thực ra chuyện bắt con mèo đem bán lấy tiền chỉ là chuyện phụ. Điều quan trọng nhất mà bà Toán muốn con mèo biến đi bởi vì nguyên do nó hay kêu đêm.
Như đêm nay chẳng hạn. Đang tĩnh lặng. Mọi người đang ngủ. Bỗng nhiên “Ngào! Ngào! Ngào!” Con mèo bắt đầu “bản tình ca” của nó. Ban đầu nó kêu rả riết trầm bổng như tiếng hát thánh thót mời gọi. Được một lúc nó đổi giọng gừ gừ ẩm ử khản đặc chả biết vui hay buồn. Mấy người không chịu được lấy gạch ném nó. Nó chạy biến lên nóc khu tập thể rồi gào như trẻ con khóc: “Nghéo! Nghéo!” nghe sởn da gà!
Bà Toán vừa ngủ được một lúc thì giờ mắt bà đã mở trừng trừng. Cứ mỗi lần nghe tiếng mèo kêu, bà lại nhớ đến cái ả cave có dáng đi uyển chuyển như một con mèo cái. Bà bị bệnh mất ngủ từ khi lão chồng bỏ bà theo ả cave đi mất hút. Ai có thể tin được là cái lão chồng hàng ngày lù đù an phận thủ thường ấy dám bỏ bà đi? Lão hoàn toàn sống dựa vào bà. Một tay bà quán xuyến việc gia đình, một tay bà chăm lo cửa hàng cơm. Lão chỉ việc phụ giúp bà ở cửa hàng và thỉnh thoảng ngửa tay để bà thí cho vài đồng uống cà phê. Cuộc sống của lão hoàn toàn dựa vào bà. Bà cứ nghĩ rời bà ra, lão sẽ chẳng sống được vài ngày. Thế mà lão bỏ đi thật. Mà lão lại bỏ bà đi theo cái ả cave mắt xanh mỏ đỏ mới đau chứ. Bà còn nhớ khi cái con cave đấy nó vác xác đến nhà bà ăn cơm, mùi nước hoa sực nức. Cứ mỗi lần ả về là bà lại tha hồ chửi rủa rồi nghiến răng răn đe lão chồng: “Cẩn thận không nó chài cho không còn cái quần đùi mà mặc”. Lão chồng bà mỗi bận như thế lại nghênh nghênh cái đầu: “Ai thèm xớ rớ gì đến cái loại đàn bà ấy?” Ả cave hay mang theo một con mèo. Đến quán, ả ăn một miếng cơm rồi lại đút cho con mèo một miếng. Rồi ả nựng nịu con mèo như nựng con. Có mấy lần, ả xin chồng bà ít cá cho con mèo. Lão chồng bà te tái cho vào túi ni lông đưa cho ả. Rồi thế nào mà lão và ả lại bắt tình với nhau trước mũi bà mà bà không biết. Chỉ đến khi lão bỏ đi, hàng xóm đồn ầm lên, bà mới ngược xuôi chạy đến chỗ trọ của ả cave để tìm chồng. Phòng trọ hoang vắng. Con mèo của ả cave nhìn thấy bà ngóc cổ lên gọi “ngheo, ngheo” như hỏi bà chủ nó ở đâu? Hai đứa chúng nó đã bỏ đi, bỏ lại cả con mèo.
Cứ mỗi lần mất ngủ là bà lại suy nghĩ tìm lý do tại sao lão chồng khốn nạn ấy lại bỏ rơi bà? Phải chăng tại bà suốt ngày vật lộn ở cái quán cơm này? Hay là tại ngày nào xong việc người bà cũng nhễ nhại mồ hôi ướp mùi hành tỏi, hai vợ chồng có khi cả tháng chả gần gũi nhau? Hay là tại bà quen thói bán hàng chợ búa, suốt ngày quát mắng xa xả, vợ chồng chả mấy khi có được một cuộc trò chuyện ra trò chuyện? Hay là tại bà làm hết mọi việc nên lão chồng khốn nạn “nhàn cư vi bất thiện”? Bà cứ suy nghĩ tìm câu trả lời nhưng chẳng bao giờ có câu trả lời chính thức cả.
Ban đầu bà Toán tin chắc là lão chồng sẽ về. Cái lão khốn ấy đi với con yêu tinh kia đến lúc sạch túi là sẽ vác xác về. Thậm chí bà đã từng nghĩ đến kịch bản: khi lão chồng về, việc đầu tiên là bà sẽ lôi lão ra trước bàn dân thiên hạ mà chửi bới bêu riếu cho mọi người thấy rõ được cái bản mặt trăng hoa của lão. Thế rồi một thời gian sau, kịch bản có vẻ ít lửa hơn: lão sẽ về quỳ xuống ôm chân van xin bà, lúc ấy sẽ tùy theo tình hình mà bà sẽ xem xét. Thế nhưng mãi mà lão không vác mặt về. Có lẽ lão biết là van xin bà cũng nhục. Nhưng lão chịu nhục quen rồi mà? Hàng ngày giúp bà ở quán cơm, bà chẳng chửi lão xơi xơi vì tội chậm chạp, lão đều nín nhịn mà có nói lại gì đâu?
Không ngủ được, bà Toán lại nằm nghĩ miên man. Ba năm rồi, chẳng thấy tăm hơi lão chồng chết toi đâu. Lão đã trốn biệt. Chắc lão sẽ chẳng bao giờ về nữa. Bà thở dài một tiếng rồi nhìn đồng hồ. Mới ba giờ sáng. Bà Toán cứ trằn trọc trên chiếc giường êm ấm mà không thể nào ngủ lại được. Mất ngủ lăn qua lộn lại như thế này, sáng hôm sau dậy có khi còn thấy mình mệt hơn thức làm việc thâu đêm.
Bà Toán liếc sang giường bên nhìn cái Mận ngủ mà thấy ghen tức. Đúng là đang tuổi ăn tuổi lớn. Con bé ngủ ủn ỉn. Sấm động bên tai cũng không biết gì. Người đâu mà dễ ngủ thế. Con mèo vẫn tiếp tục kêu gào sầu thảm. Đợt này chắc nó đang động đực. Ngoài lý do con mèo kêu làm bà mất ngủ, bà còn ghét con mèo hoang bởi vì cái ánh nhìn của nó rất giống với con cave đã chiếm đoạt chồng bà. Bà nặng nề lăn lộn trên giường rồi lầm bầm: “Cái đồ mèo đĩ đượi! Bà mà tóm được kiểu gì bà cũng đập chết”.
4. Tiếp tục chuyện cái Mận
Sáng hôm sau, cái Mận dậy sớm dọn quán. Quán ăn của bà Toán đông nhất khu tập thể này. Ngày nào nó cũng đầu tắt mặt tối. Chuẩn bị đồ ăn, phục vụ khách ăn, khách ăn xong lại phải dọn dẹp. Nó gom hết rác rưởi vào túi ni lông rồi mang đi vứt. Bước ra cửa, nó giẫm lên một cái gì đó nhũn nhũn khiến nó ngã đánh oạch. Rác rơi tung tóe. Cái Mận nén đau chống tay dậy. Bỗng nó thét lên kinh hoàng. Cái vật nhũn nhũn mà nó giẫm lên là một con chuột cống đã bị cắn nát mất đầu máu chảy lầy bầy. Chắc con mèo hoang cắn chết con chuột ăn không hết rồi vứt xác ở đây.
Anh thợ xây ở nhà bên cạnh thấy thế liền chạy ra đỡ. Bàn tay của anh áp vào khuôn ngực mới nhú của cái Mận khiến má nó đỏ bừng. Anh thợ xây nhỏ nhẹ hỏi han xem cái Mận có làm sao không? Nó líu ríu cảm ơn. Anh thợ xây phủi phủi bụi trên áo rồi tiện tay vuốt má nó và mỉm cười. Nụ cười đẹp như tài tử xi nê. Cái Mận ngẩn cả người. Từ bữa đó, anh thợ xây hay sang quán nhà bà Toán ăn cơm bụi. Anh vui tính và hay nói chuyện với nó lắm. Thỉnh thoảng anh còn đùa cợt với nó. Cứ mỗi lần bị anh thợ xây trêu ghẹo, cái Mận lại đỏ ửng mặt hai mắt long lanh. Rồi một hôm bà Toán đi vắng, anh thợ xây ôm chầm lấy nó hôm ngấu nghiến. Nó mềm nhũn cả người…
Cái Mận thỉnh thoảng buổi đêm trốn bà Toán tranh thủ gặp anh thợ xây. Từ khi yêu anh thợ xây, nó cứ có cảm giác là con mèo hoang đang ẩn hiện ở đâu đó theo dõi nó. Cái Mận đâm ra ghét con mèo. Có lần nó đang trốn ra khỏi quán, bỗng nhiên con mèo kêu lên vang động khiến bà Toán vùng dậy. Thế là nó lại phải chui vào nhà nằm yên trên giường mà người ngứa ngáy rạo rực như bị kiến đốt. Hôm khác, nó và anh thợ xây đang cuốn xoắt xuýt vào với nhau bên góc cầu thang tối. Bỗng nhiên con mèo hoang ở góc nào đó kêu ré lên rồi nhảy vụt ra khiến cả hai giật nảy mình. Con Mận xốc lại quần áo rồi ném cho con mèo cái nhìn đầy uất hận: “Đúng là cái loại mèo hoang! Gào thét cứ như bị chọc tiết”. Anh thợ xây cười khùng khục: “Nó động đực ý mà. Chắc tại con mèo này chưa tìm ra mèo đực. Có phải ai cũng may mắn như em đâu”. Những lúc như thế cái Mận chỉ biết nép vào bên người yêu mà thỏ thẻ: “Đồ khỉ!”.
Rồi cái Mận thấy thỉnh thoảng buồn nôn. Bụng nó ngày càng to dần. Cái Mận vội báo cho anh thợ xây. Anh an ủi nó vài câu, bảo nó cứ yên tâm, có gì anh sẽ lo liệu. Nhà xây xong. Anh thợ xây bảo cái Mận là anh về nhà để xin phép bố mẹ rồi sẽ lên đón nó làm đám cưới. Thế rồi anh đi biệt. Nó chờ. Chờ mãi…
Cái Mận chờ được nhưng cái bụng của nó thì không chờ. Bụng nó to ra dần. Người nó làm gì cũng uể oải. Mấy người ở khu tập thể thấy dáng đi lạch bạch của nó nghi ngại nói với bà Toán. Bà đem chuyện đó ra hỏi con Mận. Nó chỉ bảo là mấy hôm bị ngã nước, đau bụng. Thế là bà Toán yên tâm: “Con Mận nó ở với tôi suốt ngày, việc làm không hết, lấy đâu thời gian đi với giai mà chửa hoang?”.
Rồi đột nhiên cái Mận xin bà Toán nghỉ làm ở quán ăn.
Bà Toán tiếc lắm. Con bé chăm lam chăm làm lại thật thà. Bà tìm mọi cách giữ cái Mận lại nhưng nó nhất quyết xin nghỉ. Bà ghìm lương nó không trả, nó cũng khăng khăng đi. Bà điên tiết chửi mắng nó không tiếc lời. Cái Mận chỉ im lặng ri rỉ khóc. Mấy ngày liền từ nịnh bợ đến dọa dẫm mà nó vẫn không lay chuyển. Cuối cùng bà Toán đành để nó đi. Cái Mận bảo nó vào Nam làm công nhân.
5. Đoạn kết
Mấy tháng sau, cái Mận lại vác mặt về xin bà Toán vào làm lại. Từ đận nó nghỉ, bà kiếm mãi mà không được đứa phụ việc nào ưng ý. Đứa thì nhanh nhưng đoảng. Đứa thì cẩn thận nhưng chậm. Đứa thì cả đoảng cả chậm. Chẳng mấy đứa thạo việc như cái Mận. Tuy trong lòng mừng thầm nhưng bà Toán vẫn làm bộ mặt giận: “Tao đã bảo rồi, vào Nam có mà chết đói! Mày không nghe, giờ sáng mắt ra chưa?” Cái Mận cúi đầu không nói gì, chỉ hì hụi dọn dẹp cửa hàng.
Cái Mận về buổi chiều thì đêm hôm con mèo hoang bắt đầu kêu. Tiếng kêu lúc nỉ non, lúc lại oang oang như người bị rạc họng. Bà Toán không ngủ được. Cái Mận cũng không ngủ được. Đến nửa đêm con mèo mới chịu ngậm miệng lại.
Cả hai người vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lạch xạch ngay ở phòng bếp. Bà Toán lay cái Mận dậy. Cả hai vác gậy vác đòn gánh lò dò xuống bếp. “Tách!” Đèn bật. Con mèo đã kịp cạy vung, miệng càm con cá rán đang trợn ngược mắt nhìn hai người. Cái Mận ngạc nhiên vì từ trước đến nay chỉ thấy con mèo hoang bới rác chứ chưa bao giờ thấy nó ăn vụng. Bà Toán vung đòn gánh lên: “Bốp! Bốp!” Con mèo gào lên thảm thiết rồi vùng chạy. Dáng nó chạy uể oải lệt xệt lảo đảo. Chắc nó đã bị đòn gánh đập vào chân. Bà Toán đuổi theo: “Phải tóm bằng được chứ nó cứ kêu suốt ngày thế này tao mất cả ngủ”. Cái Mận lúc cúc chạy theo sau hỏi: “Sao hôm nay nó kêu khiếp thế nhỉ?” Bà Toán trề giọng: “Lại động đực ý mà. Mấy hôm nay hôm nào nó cũng kêu gọi giai, điếc cả tai, mất cả ngủ”.
Con mèo chạy đến cái nhà kho bỏ hoang rồi nhảy vào trong đó. Bà Toán và cái Mận lại gần. Có tiếng léo nhéo. Cả hai soi đèn vào. Một lũ mèo con đang lúc nhúc rúc tí con mèo hoang. Nó đang nằm đầy vẻ mệt mỏi. Bà Toán soi nhòm vào rồi nói: “Rình mãi, giờ tao mới tìm được ổ của mày”. Thấy ánh đèn chiếu vào lũ con, ánh mắt con mèo hoang bỗng ngược lên sáng quắc hoang dại. “Ngáo!” Con mèo co mình lại như một cái lò xo, lao thẳng về phía bóng đèn quào cấu điên loạn. Bà Toán vội gạt con mèo. Tay bà đã bị nó cào xước, rươm rướm máu. Bà điên tiết vác đòn gánh phang thẳng cánh. “Bốp! Bốp! Bốp!” Con mèo bị đòn gánh đập thẳng vào đầu nằm quay đơ. Bà Toán chưa hết cơn giận vụt thêm mấy phát nữa vào người con mèo hoang. Người nó nảy lên giãy giãy rồi nằm im như cái giẻ lau. Lũ mèo con nghe thấy tiếng động mạnh ngơ ngác kêu ngheo ngheo.
Cái Mận nhìn bà Toán ngơ ngẩn: “Bọn mèo con này xử lý thế nào?” Bà Toán chống nạnh: “Mày chạy về nhà mang cái bao tải dứa ra đây”. Cái Mận lút cút chạy về theo lệnh của bà Toán. Mang cái bao tải đến nơi, bà Toán vứt xác con mèo mẹ và tóm gáy lũ mèo con lần lượt cho vào bao tải rồi nói: “Mày mang cái bao tải nay ra cái hồ nước thải vứt đi”. Cái Mận ngẩn người ra. Bà Toán giục: “Có nhanh lên không thì bảo! Vứt cái lũ khốn này đi cho nhẹ nợ! Nhớ vứt xuống nước cho cả lũ chết đi đấy nhá”.
Cái Mận cầm cái bao tải lầm lũi đi trong đêm. Mấy con mèo con chưa biết mẹ nó đã chết, vẫn hì hụi rúc tí mẹ. Được một lúc, lũ mèo con khát sữa kêu lên i ỉ. Tiếng kêu như tiếng trẻ con khóc.
Cái Mận bỗng thấy ngực mình căng sữa.
Nó nhớ tiếng khóc của đứa con nó.
Trong đầu nó là hình ảnh đứa con đỏ hỏn đã bị nó bỏ lại ở nhà hộ sinh.
Nó bỗng ứa nước mắt.
Nó không đi ra hướng bờ sông nữa mà chạy thẳng đến nhà hộ sinh.
Người da gấu năm 20xx
Ngày đăng: 28/12/2011 9:15:09 SA
Thực thở dài khi nghe tiếng róc rách sôi của dạ dày. Nhiều ngày nay hắn chưa ăn uống được một bữa cho tử tế. Hay nói đúng hơn là hắn không có điều kiện mà ăn uống cho tử tế đàng hoàng. Hắn bị đuổi việc. Nguyên nhân là hắn dám đứng lên vạch những yếu kém về chuyên môn của lãnh đạo. Thời nào cũng vậy, tôi lấn át chúa là điều không thể chấp nhận. Khi lãnh đạo quyết định kỷ luật, Thực còn cười khẩy mà rằng, tôi mà ra đi thì thiếu gì nơi nhận về. Ngày hắn đi khỏi cơ quan, trời mưa sụt sùi như thương tiếc một người có tài nhưng lận đận.
Rồi sự đời cũng chẳng như hắn nghĩ. Đi đến đâu hắn cũng được người ta nhã nhặn từ chối. Dạ thưa anh, cơ quan tôi đủ người rồi ạ, nhanh nhất thì hai năm nữa mới có người về hưu, lúc đó mời quý anh quay lại, chúng tôi xin hoan nghênh. Vâng, có người như anh thì chúng tôi như hùm mọc thêm cánh, nhưng anh thông cảm, viện chúng tôi mấy tháng nay lương còn chưa đủ giả cho cán bộ. Dễ có đến vài chục lần hắn nghe cái điệp khúc vâng vâng dạ dạ như vậy.
Thực mở ví ra, cẩn thận đếm từng đồng. Vẫn đủ cho một chuyến du lịch. Là tín đồ của thuyết Âm dương ngũ hành, Thực muốn đẩy mình vào thế cùng để có thể biến. Tức là tiêu cho đến đồng tiền cuối cùng. Rồi xem cơ sự ra sao tiếp theo.
Đoàn du lịch của Thực rồng rắn lên mây. Tập trung trước công ty từ sáng sớm. Rồi ầm ĩ kéo đi. Người hướng dẫn nói như máy khâu làm Thực sốt hết cả ruột. Hết ca ngợi cảnh đẹp đất nước đến bô lô ba la về tiềm năng của công ty du lịch. Đến chiều thì cũng ra đến biển. Cả đoàn nhẩy xuống tắm, cứ như thể đàn cá bị giam trên bờ lâu quá. Thực ngồi trên bờ. Hắn không tắm, bởi hắn không muốn tranh chức năng bơi lội với cá tôm. Hắn trèo lên ngọn núi gần đó.
Lên đến đỉnh núi, Thực thở dốc ra vì mệt. Hắn dựa lưng vào gốc cây, nhìn xuống đám người tắm biển. Hắn phát hiện ra chân lý cũ như trái đất rằng càng đứng cao càng cô đơn. Một loạt chân lý sắp sửa được nhận chân giá trị nếu không có một tiếng động lạ lùng phát ra từ cái cây bên cạnh.
Một lão già râu tóc bạc phơ, mặc chiếc áo chẳng hiểu may theo phong cách của quốc gia nào, kèm theo là một chiếc váy đũi, tay chống cây gậy đầu rồng nhe nhởn nhìn Thực cười. Thực gật đầu chào lại. Lão già ề à cất tiếng: “Chú mày đang bĩ đúng không”. Hắn gật đầu. Lão già cười: “Ta là phù thủy, thấy chú mày đang rách quá nên muốn giúp một tay”. Thực phá lên cười. “Đừng cười, nếu không chú mày hối hận đấy”.
Thực ngoảnh sang nhìn, kinh ngạc khi thấy lão già đang nằm lơ lửng không chạm đất. Thực bảo: “Tôi tin ông rồi, nói chung bây giờ tôi chỉ thèm tiền, nhưng tôi không tin ông lại giúp tôi vô điều kiện”. “Có chứ, chú mày đọc truyện cổ tích chưa?”. Thực cười: “Ông hơi bị khinh thường tôi đấy. Nhưng trong cổ tích là con quỷ, đằng này lại là phù thủy”. Lão già cười: “Phù thủy với con quỷ cũng cùng vần ủy, khác gì nhau”. Thực bảo: “Thôi, giờ ông muốn gì nói ngay đi”. “Được, tao nói luôn. Chú mày phải mặc một chiếc áo da gấu trong bẩy năm”. Thực cắt ngang: “Lâu quá, ba năm được không?”.
Lão già phá lên cười: “Chú mày giỏi, dám mặc cả với phù thủy nữa cơ đấy”. “Thì làm ăn mà”. Lão phù thủy gật đầu: “Vậy rút giữa, năm năm là được. Chú mày không được tắm rửa cắt móng tay trong suốt năm năm đó”. Thực cười lớn. Lão phù thủy ngạc nhiên nhìn. Lão đâu có biết rằng Thực cũng chả có nhu cầu về cái sự tắm rửa cho lắm. “Còn điều kiện nữa, nếu ai nhìn thấy mà bảo chú mày là thằng điên, thì tiền trong túi chú mày sẽ không cánh mà bay”. Thực cười, xã hội bây giờ thiếu gì cái điên khùng hơn mà còn được công nhận.
Việc mặc cả trao đổi diễn ra nhanh chóng giữa một chàng trai đang cần tiền và một lão phù thủy đang cần thành tích. Lâu lắm rồi chẳng ai bán linh hồn cho quỷ, bởi bán ở trần gian còn được giá hơn. Trong suốt năm năm ấy, Thực lúc nào cũng đủ tiền để xài với điều kiện là phải mặc tấm da gấu và không được làm bất cứ việc gì liên quan đến lĩnh vực make-up - cái này là do hắn thương tình mà bảo lão phù thủy tài năng nhưng rất kém về khoản update thông tin. Bởi nhỡ đâu không cắt tóc mà Thực lại đi ép tóc thì chẳng hóa ra mèo vẫn hoàn mèo à? Là người tử tế, Thực không muốn lão phù thủy bị thua thiệt. Lão phù thủy bắt tay Thực rối rít rồi nhờ Thực kiếm cho cái chổi để bay cho đúng kiểu. Lâu nay lão toàn bay bằng gậy Cái Bang. Lão đã phải đặt chổi để kiếm một suất đứng vào hàng ngũ phù thủy cao cấp.
Thực xuống núi khi cả đoàn đã bắt đầu bữa ăn tối. Bởi hắn cũng hơi ngượng. Điều này cũng đúng thôi. Trong cả quãng đường đi, Thực đã được vài cô nàng sồn sồn để mắt đến. Thực bước vào. Cả đoàn căng mắt ra nhìn. Không khí như cô đặc lại. Kiểu này không khéo có người bảo Thực là điên chứ chẳng chơi. Ngay lập tức, Thực phá tan bầu không khí ấy bằng cách gọi chủ nhà hàng đến, dõng dạc ra lệnh mang ngay những món ăn sang trọng như tôm hùm, ba ba đến. Cả đoàn vỗ tay hoan hô, tuy những cặp mắt vốn quen nhìn sang nhà hàng xóm ấy vẫn không ngừng khám phá ngoại hình của Thực.
Nhanh chóng, Thực tuyên bố lý do mời mọi người ăn uống là vì lúc lên núi, hắn bị một con gấu bao vây, nhưng rồi hắn chống cự lại, giết chết con gấu rồi lột da làm áo. Câu chuyện hoang đường ấy được mọi người vỗ tay nhiệt liệt. Hoan hô anh Thực. Vị trưởng đoàn đứng lên. Mừng anh một chén. Ngày xưa có Võ Tòng đánh hổ, ngày nay có Võ Thực đánh gấu. Từ nay chúng ta gọi anh là Võ Thực. Đã có võ lại có thực tài, làm gì mà không thành công.
Võ Thực cầm ly rượu đứng lên, hôm nay vui quá, lát nữa tôi đãi mọi người đi vũ trường mệt nghỉ. Lại vỗ tay. Một cô gái đứng lên, xuýt xoa, anh mặc áo này đẹp thật, rất hợp với phong cách của anh. Thời trang là phải độc đáo như thế. Ăn đứt cả phong cách Cosplay. Võ Thực bảo, cốt lây cốt liếc gì, toàn một lũ bắt chước nhau. Bao giờ mặc như tôi hãy nói đến phong cách. Một thanh niên ngâm nga, người phải có lông nách, sống phải có phong cách. Võ Thực phá lên cười ha hả.
Đoàn xe khởi hành. Chuyến du lịch cũng đến hồi kết thúc. Đang đi, xe bị kiểm lâm chặn lại. Họ ngửi thấy mùi động vật hoang dã, cũng như nhìn thấy bộ da gấu. Võ Thực nhanh chóng nhảy xuống. Thưa các anh, đây là gấu nhà nuôi, nó mới qua đời, tôi tiếc quá nên lấy da mặc vào để tưởng nhớ con gấu trung thành còn hơn cả con người. Mắt Võ Thực ầng ậng nước, rồi nhanh chóng giúi vào tay những nhân viên công vụ ấy xấp tiền. Người trưởng nhóm gật đầu, anh quả là người có tấm lòng, thôi để tôi làm cho cái giấy chứng nhận đây là gấu nhà nuôi, không sau này anh lại gặp rắc rối, dạo này phong trào bảo vệ động vật hoang dã đang lên cao. Võ Thực bảo không cần, anh làm giấy nói đó là da giả thì được rồi.
Về đến nhà lúc nửa đêm, Võ Thực nhìn xung quanh. Không ai nhìn thấy hắn, trừ mấy ngọn đèn đường. Hắn nằm lì trong nhà. Gọi điện cho các cửa hàng mang đồ ăn thức uống đến. Hắn vẫn còn ngượng. Ở chỗ lạ thì không sao, nhưng đây là khu phố mà ai nấy đều biết hắn là ai, như thế nào. Và nhỡ ai đó lại thốt lên rằng có thằng điên thì hóa ra công toi hay sao. Võ Thực nằm dài ra ghế, bật ti-vi lên xem. Đang phát phóng sự về phong cách Cosplay, nghĩa là các nam thanh nữ tú đi ra đường mặc quần áo giống như các nhân vật truyện tranh. Sợi mỳ từ miệng Võ Thực rơi xuống đất. Hắn phá lên cười. Chuyển sang kênh khác. Một đám nam thanh nữ tú khác ăn mặc nghèo nàn rách rưới nhẩy chồm chồm hát những câu bảo là vô nghĩa cũng được bảo là nhạt nhẽo cũng không sai Ông xã tôi năm bờ oăn năm bờ oăn đêm nằm ngủ cũng quấn khăn ô ố ô. Võ Thực bật dậy. Hắn đã tìm ra lối đi cho mình.
Mấy ngày sau, Võ Thực hẹn được nữ giám đốc của công ty có sản phẩm là bài hát Đêm nằm ngủ cũng quấn khăn. Nữ giám đốc nghẹn ngào khi nhìn thấy phong bì của Võ Thực. Vỏ phong bì mỏng như mốt áo của các thanh nữ bây giờ, tức là vẫn đủ hình dáng cái phong bì và vẫn đủ để nhìn thấy nội dung bên trong. Nữ giám đốc gật gù nhìn Thực.
Vâng, anh tuy có hơi già so với tuổi của ca sỹ bây giờ, nhưng không sao, sẽ hướng anh đến lớp khán giả là nhân viên văn phòng thành đạt. Vừa rồi có trào lưu Da nâu 1, Da nâu 2, em sẽ thuê nhạc sỹ viết cho anh bài Da gấu. Em hát thử anh nghe nhé, Gấu là động vật nuôi ứ ừ ư, da gấu mặc rất ấm ấm ấm ẩm ầm. Võ Thực vỗ tay, hay quá, rất phong cách. Nữ giám đốc cười, đó là bài thứ 2, bài thứ nhất phải lãng mạn anh ạ. Võ Thực gật đầu.
Bài thứ nhất phải có câu chuyện, vì phong cách sến đang quay trở lại. Võ Thực chăm chú nhìn vào chỗ tiếp giáp giữa cổ và áo của nữ giám đốc, rộng rãi quá. Nữ giám đốc hồ hởi. Có chị Bưởi anh Ky rồi đến chị Cốm anh Tư, giờ đặt nickname cho anh là anh Gấu để thu hút khách tuổi teen với mốt ôm gấu nhồi bông khóc ở trên giường cho nó lãng mạn. Võ Thực gật đầu, công nhận người làm ăn chuyên nghiệp có khác. Hợp đồng được ký rột roạt trên bàn cà phê.
Ký xong Võ Thực ngây ra nhìn nữ giám đốc làm nàng đỏ bừng mặt một cách có chủ ý. Em này, Võ Thực nói, nếu nhìn hình thức bề ngoài, em thấy anh đủ thu hút phụ nữ không? Dạ, rất có phong cách anh ạ, chứ đàn ông ngày nay, chỉ như tốt mã giẻ cùi thôi. Ừ há, tối nay anh mời em đi ăn nhé, lâu lắm anh không gần đàn bà. Nữ giám đốc cười, anh thật là đàn ông, chứ nhiều thằng thích bỏ mẹ lại cứ ra vẻ ta đây cóc cần. Mình đi anh nhé.
Da gấu được phát tán trên internet. Video clip đàng hoàng, được quay và dựng rất công phu. Một cô nàng yêu một anh chàng, sau đó anh chàng bị hóa thành con gấu. Cô nàng vẫn yêu, và mua gấu bông có hình anh chàng về ôm cho đỡ nhớ. Nước mắt cô chảy xuống con gấu, và con gấu hóa thành người, cầm một thỏi Chocolate hình con gấu đến tặng cô. Các công dân mạng mà đa số là do nữ giám đốc thuê nhẩy vào comment ầm ĩ, coi đó là thảm họa âm nhạc. Tên tuổi Võ Thực da gấu nổi như cồn. Hắn lên báo mạng thanh minh, rằng đó là thể nghiệm của tôi. Sang đến báo viết, hắn gân cổ lên mắng khán giả là không biết thưởng thức. Bài hát của người ta lãng mạn như thế, nhân văn như thế mà còn chê.
Da gấu được khán giả trẻ đón nhận nhiệt liệt. Nhiều cô nàng khóc nức nở khi xem video clip. Họ hỏi nhau trên mạng là kiếm đâu ra gấu và Chocolate. Ngay lập tức, chuỗi cửa hàng Da gấu được khai trương. Suốt dọc chiều dài đất nước. Chỉ bán gấu bông hình người và Chocolate hình gấu. Mà vẫn không đủ để bán. Đến lượt các chàng hâm mộ bài hát. Nhớn nhác đi tìm quần áo da gấu mặc. Lúc này, để đạt chuẩn trong mắt các nàng không phải là đi xe SH, PS hay ôtô, mà phải có quần áo da gấu chính hãng, có chữ ký của Võ Thực. Xe cộ chỉ là phương tiện, quần áo da gấu mới thể hiện sự sành điệu đích thực. Các nhà mốt Lê Nguyệt, Nam Thủy thi nhau đến ký hợp đồng độc quyền với Võ Thực. Đây là hai nhà mốt nổi tiếng nhất trong giới tuổi teen. Để tránh không cãi nhau, Võ Thực nghĩ ra một cách. Lê Nguyệt ký độc quyền áo, Nam Thủy độc quyền quần, vì áo liền quần nên lấy thắt lưng làm ranh giới.
Hát hò mãi phát chán, Võ Thực chuyển sang làm kịch. Hắn bao toàn bộ nhà hát để dựng vở Người da gấu. Nhìn thấy số tiền khổng lồ so với ngân sách hàng năm từ trên rót xuống, giám đốc nhà hát đồng ý ngay lập tức. Vâng thưa anh, Người da gấu là truyện cổ tích nổi tiếng, dựng lại rất là tốt. Thực điều kiện, tôi đóng vai chính nhé. Vâng vâng, anh đóng thì còn gì bằng nữa, hiện tại đến cả người mẫu cũng đi diễn kịch nữa là. Hứa danh dự với anh là một tháng nữa, vở kịch sẽ được công diễn. Võ Thực góp ý, cứ hai ba tháng cho chắc, với lại, tôi cũng nhiều việc.
Võ Thực chuyển sang làm diễn viên kịch nói. Báo chí lại đưa tin ầm ỹ, đa phần là chê bai. Nào là thảm họa của sân khấu nước nhà. Võ Thực là ai mà dám đóng vai Người da gấu?... Cứ hai bài đánh đập là một bài bênh vực. Võ Thực đóng Người da gấu là một sáng tạo mới. Sau thành công về âm nhạc, Võ Thực thừa thắng lấn sân sang sân khấu, hay Võ Thực, một đóa hoa nở muộn của sân khấu… Khán giả độc giả chẳng biết đường nào mà lần.
Trong khi đó, Võ Thực vẫn hăng say tập kịch. Điệu bộ của hắn vụng về, nhưng như thế mới hợp với nhân vật - đó là đạo diễn bảo thế. Hắn không có khiếu về đài từ - không sao, đạo diễn sáng tác thêm một nhân vật đi theo để thể hiện hành động của hắn thành lời nói và giao cho một diễn viên hài có tiếng đảm nhiệm. Người diễn viên hài này đương nhiên là làm rất tốt vai trò của mình.
Thế nên, việc của hắn suốt vở kịch chỉ là đi đi lại lại đứng đứng ngồi ngồi, giữa chiều dài vở hát thêm một đoạn của ca khúc Da gấu 2. Cuối mỗi buổi tập, xe của nhà hát lại đưa toàn bộ ê-kip đi ăn ở khách sạn 5 sao, ăn xong uống càphê từ tầng cao nhất của tòa nhà, uống xong mời các vị từ đạo diễn đến trợ lý, từ diễn viên đến hóa trang, từ hậu đài đến lái xe ta cùng vào sauna cho nó thư giãn, để lấy sức hôm sau còn chiến đấu với nàng sân khấu đỏng đảnh.
Võ Thực không cần sauna, mặc dù nếu hắn có sauna, thì lão phù thủy có niên đại từ năm ơ kìa ấy cũng chẳng có cớ gì mà bắt phạt bởi lão có biết sauna là gì đâu. Hơn nữa, mùi khắm khú của cơ thể Võ Thực làm sao át nổi mùi da gấu sống, trong khi mùi da gấu ấy giờ là ước mơ của bao nhiêu chàng trai. Động vật hoang dã ngày càng hiếm, họ không tài nào kiếm được bộ da gấu thật khoác lên người, đành để tóc dài bù xù, móng tay cáu bẩn để giống thần tượng của mình càng nhiều càng tốt.
Vở kịch Người da gấu công diễn buổi đầu tiên ở nhà hát to. Khán giả đội mưa mua vé. Ai cũng muốn xem thần tượng âm nhạc của mình diễn kịch ra sao. Vở kịch lại quy tụ toàn bộ sao trong thành phố, từ sao sắp tàn, sao đang sáng đến sao le lói. Võ Thực thích thế, bởi hắn không thiếu tiền. Mở màn, một toán diễn viên đội lốt gấu bước ra, vừa nhẩy vừa hát Em không xấu như con châu chấu, em thích ăn củ ấu, và yêu chàng da gấu. Khán giả vỗ tay rào rào. Rồi Võ Thực bước ra, giẫm chân hầy một tiếng. Khán giả huýt sáo ầm ĩ, hô vang Võ Thực Võ Thực. Hắn chào khán giả, rồi bắt đầu diễn.
Hắn cúi xuống vẻ suy tư. Người diễn viên hài vội vàng giải thích, chàng Da Gấu đang buồn vì nhân tình thế thái. Khán giả ngẩn mặt ra. Diễn viên hài giải thích là chàng vừa bị đuổi việc, người yêu bỏ, lại trượt mất mấy trăm điểm lô. Khán giả cười thích thú. Việc quái gì phải nói nhân tình thế thái cho nó khó hiểu, cứ nói buồn do bị trượt lô thua bóng bồ bỏ là ai cũng hiểu. Đang diễn, cái ghế ngồi không chịu nổi sức nặng của Võ Thực liền gãy ra. Võ Thực ngã xuống, đau đớn. Khán giả lại òa lên sung sướng. Diễn viên hài nhăn nhó, trời ơi ông chủ tôi đen đủi đủ đường. Đến lớp lão phù thủy ra thì khán giả không kìm nổi sự sung sướng.
Một ca sỹ đang hot đã chịu hy sinh cho nghệ thuật bằng cách đóng vai xấu, mặc dù sở trường của anh trên sân khấu ca nhạc là vai trò bạch mã hoàng tử của giới tuổi teen. Phù thủy và chàng da gấu mặc cả với nhau bằng ngôn ngữ thế kỷ 21, thỉnh thoảng chêm vào những từ khó hiểu hơn cả xõa, xoắn, như là hợp đồng này hơi ót, chú mày nhớ không được dõn nếu không ta sẽ cho người cỗn. Đó là ý đồ của Võ Thực. Hắn muốn thiên hạ phải dùng những từ do hắn nghĩ ra.
Hết buổi diễn, Võ Thực được hộ tống bởi cả một ê-kip vệ sỹ. Về đến nhà, hắn nằm dài ra chiếc ghế đắt tiền, vừa làm ghế xem phim vừa có chức năng massage lưng mua của một công ty bán hàng đa cấp nào đó, khi mua chạy ro ro nhưng giờ chỉ đóng vao trò là chiếc ghế không hơn không kém. Lão phù thủy xuất hiện, lơ lửng giữa nhà, nở một nụ cười bí ẩn. Võ Thực cười: “Lão đến kiểm tra đấy à, yên tâm đi, tôi ít khi sai hợp đồng lắm”. Lão già gật đầu: “Chú mày cũng khá đấy, biết dùng tiền lắm”. “Ờ, ông tưởng là làm tôi đau đớn khổ sở trong bộ da gấu này mà dễ à. Cả nước đang thèm được như tôi đấy”. “Chúc mừng chú em. Có điều chú em vui mừng hơi sớm”. “Lão định đi đâu, ở lại chơi với tôi vài hôm, đi ăn hút cho nó sướng”. Lão phù thủy thở dài: “Thôi, ta đi kiếm mấy linh hồn nữa”. Nói xong bay mất. Võ Thực khẽ thở dài.
Hắn thương cho lão phù thủy ngờ nghệch ngây thơ mãi chẳng có được vị trí nào trong giới phù thủy, đến cây chổi cũng không có mà bay. Hắn khoan khoái nghĩ đến cảnh chỉ còn hai ba năm nữa, hắn sẽ không phải mặc bộ đồ da gấu nữa, lại tha hồ được trang điểm ăn mặc mà đi chơi. Trong khi tiền tiêu thì vẫn đầy túi, hết lại có. Mà vài năm thì có lâu la gì, vài vở kịch bộ phim như thế này là hết năm ngay, vừa đốt thời gian lại vừa được chơi hết cấp.
Ngày hôm sau, báo chí nhất loạt ca ngợi vở diễn, ca ngợi Võ Thực. Bốc lên tận mây xanh. Nào là một diễn viên tay ngang đã cứu cả một nền sân khấu. Nào là sự kết hợp hài hòa giữa các ngôi sao sân khấu, ca nhạc và thời trang đã đem lại định nghĩa mới cho sân khấu. Nào là hỡi các nhà sân khấu, hãy mở to mắt mà nhìn. Cuối bài báo là mẩu quảng cáo của chuỗi cửa hàng Da Gấu do Võ Thực và nữ giám đốc âm nhạc cùng làm chủ.
Nữ giám đốc âm nhạc, từ ngày phát hiện ra tiềm năng kinh tế của Võ Thực, đã không để cho hắn chạy thoát. Nàng đi tập thẩm mỹ, đi căng da mặt, đi học yoga, thậm chí tải cả Tố Nữ Kinh trên mạng về để phục vụ kho tiền di động của mình. Các cô người mẫu diễn viên cứ lại gần Võ Thực thì chỉ cần nhớ câu "Ngày về Văn Điển còn xa, ngày về quê mẹ hóa ra rất gần" là đủ bình tĩnh để mà dừng lại, xì-tốp hia. Đừng đi quá xa mà hối hận.
Thỉnh thoảng nữ giám đốc lại thủ thỉ, anh ạ, em là người yêu anh chân thành, là người kề vai sát cánh bên anh từ những ngày đầu. Anh mà bỏ em, ruồng rẫy em là mang tội với trời đất. Chỉ có em là chịu đựng được mùi da gấu, mùi hôi của tóc anh, của da thịt anh một cách nồng nàn. Võ Thực cảm động lắm. Tuy em này không trẻ trung xinh đẹp như cô nàng trong cổ tích, lại còn hơn hắn những gần mười tuổi, tuy nhiên, sức sống, vẻ hừng hực của phụ nữ tứ tuần cũng làm hắn thấy thỏa mãn. Vả lại, hắn cũng suy nghĩ nhiều.
Đàn bà giờ đây chỉ thích túi tiền của hắn, chứ chắc gì đã chịu được cái mùi từ cơ thể hắn. Ngây thơ quá, tuy nhiên, chính cái ngây thơ ấy lại làm Võ Thực thấy yêu đời hơn. Hắn đâu biết rằng, với nữ giám đốc âm nhạc sành sỏi, lõi đời ấy, cái vẻ kỳ quặc của hắn lại làm cô ta thấy phấn khích hơn. Bản năng động vật trong chuyện ấy cũng không kém phần quan trọng.
Sau thành công về âm nhạc, về sân khấu, Võ Thực bắt đầu chán nản. Hắn không lấn sân sang điện ảnh, mặc dù đóng phim với hắn còn dễ hơn diễn kịch. Hắn cũng không viết tự truyện, mặc dù có nhà xuất bản đã đặt hàng - mục đích là để xin hắn ít tiền tài trợ. Hắn rủ nữ giám đốc đi chu du vài nơi, lánh xa loài người. Hắn mua một trang trại ngoài đảo, ngày ngày cùng người làm trồng cây đào ao thả cá. Hắn cho xây nhà gỗ, khôi phục lại kiến trúc cổ. Hắn cho chở đá đến để làm giả sơn. Hắn đã bắt đầu chán với những vinh quang phù phiếm.
Tuy nhiên, vì đã là người nổi tiếng, nên thỉnh thoảng vẫn có nhà báo đến tìm hắn để viết những bài đại loại như Một cõi Võ Thực, hay Võ Thực đã tìm vui với thiên nhiên, hoặc dữ dội hơn là Con gấu đã về rừng. Võ Thực vui vẻ đón tiếp, sau khi nhà báo về đều lót tay một phong bì dày cộp gọi là tiền xăng xe. Đoàn phim nào đến quay video nhạc, làm phim truyện đều được hắn đón tiếp và đãi đằng ăn uống.
Chỉ một năm sau, cái tên Võ Thực cũng chìm dần. Số người đến tìm hắn càng lúc càng ít đi. Nữ giám đốc lo lắng. Nhưng Võ Thực thì vui ra mặt. Hắn muốn mọi người quên mình đi. Để sau này hắn trở lại là người bình thường. Hắn đã chán bộ da gấu trên người đến tận cổ. Ít lâu sau, nữ giám đốc cũng nghẹn ngào xin phép hắn ra đi mặc dù miệng vẫn nói là yêu hắn đến tận cùng. Võ Thực không cản. Hắn chỉ nói nếu sau này anh trở lại thì sẽ tìm em. Nữ giám đốc gật đầu vâng dạ, trong lòng thì chỉ nghĩ đến chuyện sẽ phải tiếp tục khai thác hình ảnh Người da gấu như thế nào đây khi trở về.
Võ Thực sống một mình trong trang trại của mình suốt quãng thời gian còn lại của bản hợp đồng với lão phù thủy. Đúng ngày cuối cùng, lão già xuất hiện, cưỡi trên cái chổi lông gà mượn tạm của một gã hàng xén nào đó. Võ Thực mời lão vào trang trại, rót rượu mời lão uống. Võ Thực cười, bảo là tôi đã làm tròn hợp đồng, hôm nay ông đến phải uống mừng tôi mới được. Lão phù thủy gật đầu, uống hết ly này sang ly khác. Võ Thực bảo, từ ngày mai là tôi sẽ được trở lại làm người bình thường, tha hồ tiền tiêu rủng rỉnh. Lão phù thủy đồng ý, còn khen Võ Thực đúng là người biết giữ chữ tín. Nói rồi bay mất.
Ngày hôm sau, Võ Thực dậy thật sớm, gội đầu cắt tóc, vứt bộ da gấu thum thủm ra khỏi người, mặc một bộ quần âu áo sơ-mi là thẳng nếp, hiên ngang ngồi lên xe, nhằm hướng thành phố mà đi. Hắn thở dài khoan khoái. Từ nay, hắn đã được trở lại thành người.
Từ xa, Võ Thực thấy một đám đông tụ tập trên một khoảng sân rộng. Hắn tò mò, bảo lái xe dừng lại, rồi xuống xem. Tấm áp-phích công diễn vở Người da gấu, quy tụ nhiều ngôi sao hàng đầu. Đám đông ai cũng mặc bộ đồ da gấu may bằng đủ loại vải, đủ màu sắc. Bỗng một người quay lại nhìn hắn. Hai người nhìn. Giữa đám đông da gấu lại có một người mặc áo sơ-mi quần Tây. Một cô gái buột miệng, thằng điên. Hai ba người gật gù. Rồi một người đứng tuổi rút điện thoại gọi đến địa chỉ ngõ 467 sau khi tra đường bằng Iphone.
Một loáng sau, xe cứu thương đến, hú còi inh ỏi. Bốn năm người nhân viên, khỏe như lực sỹ bồng hắn lên xe. Võ Thực sờ tay vào túi. Không còn xu nào. Hắn nhắm mắt lại. Chiếc xe lao đi vun vút. Lão phù thủy xuất hiện, nằm lơ lửng trên nóc xe, nhăn nhở cười. Võ Thực gào lên, lão phù thủy khốn nạn, tại sao dám lừa ta. Đã hết thời hạn năm năm thì ta phải đủ tiền tiêu chứ. Lão phù thủy cười, ta đã bảo rồi, nếu chỉ cần một người gọi chú mày là thằng điên thì ngay lập tức, chú mày sẽ không còn xu nào trong túi. Võ Thực gầm lên, đấm thẳng về phía trước. Bác sỹ lắc đầu, bệnh nặng quá rồi, lại làu bàu, thế là tối nay lỡ buổi đi xem Người da gấu.
Đồi lá rụng
Ngày đăng: 12/12/2011 6:00:00 SA
Trung đội trưởng giới thiệu với chúng tôi đây là đồi 30, vì nó cao hơn mặt nước biển 30 mét. Chứ không phải đầy rẫy ông Ba Mươi sẵn sàng lao ra xé xác chúng ta. Yên tâm đi! Trung đội trưởng pha trò. Và đây sẽ là địa điểm chính của ba tháng huấn luyện tân binh. Thao trường đổ mồ hôi thì chiến trường bớt đổ máu. Rõ chưa?
Rõ. Giọng đồng thanh của đội hình thẳng tắp, quân phục còn thơm mùi hồ, khản đặc vì cái nắng mùa hè trên thao trường đang làm bốc hơi những giọt mồ hôi chưa kịp rịn ra trên người và như sắp sửa nướng chúng tôi lên thành những khúc thịt quay tươm mỡ. Chỉ lũ ve là hăng hái, ồn ào kêu suốt dưới tán những cây gáo mà chẳng cần một giọt nước nào.
Thỉnh thoảng mới có vài luồng gió hầm hập tạt qua, nóng lại càng nóng thêm.
Đồi 30 toàn cát là cát, trắng đến nhức mắt. Sức nóng của nắng mùa hè từ trên đầu tỏa xuống được hấp thụ vào cát và ngay lập tức truyền thẳng lên những đôi chân chỉ mới chập chững bước đi được vài ngày trong quân ngũ. Trung đội trưởng bảo: Chưa nếm cát đồi 30 thì chưa được công nhận là lính E1… Trung đội trưởng há miệng định nói thêm điều gì đó nhưng anh đã bụm miệng ho sặc sụa vì gió vừa quật vào miệng anh một bụm cát còn chúng tôi thì toàn thân phủ đầy bụi cát li ti như vừa chui ra từ một đống bột mì.
“Nếm cát” chính là “động tác thị phạm” đầu tiên của Trung đội trưởng biểu diễn cho lính mới chúng tôi trên đồi 30.
Bao bọc ngọn đồi là những vườn điều, rừng tre tầm vông tỏa bóng mát rượi, đây chính là nơi mà chúng tôi thèm thuồng nhất mỗi khi ra đồi vào buổi trưa. Trong những khu vườn này, tán cây đan xen nhau mát rượi, lá rụng lâu năm dày đến mức thành một tấm thảm khá êm ái, có thể ngả lưng xuống sau đó vun lá khô xung quanh phủ lên người, úp chiếc nón lên mặt ngủ một giấc. Đố ai tìm ra. Chúng tôi đều thống nhất gọi đồi lá rụng để thay cho cái tên đồi 30 vì… nghe khô khốc, toàn cát với cát.
Thực ra đồi 30 không chỉ toàn cát như ngày đầu tiên chúng tôi đặt chân lên. Thỉnh thoảng đây đó cũng có những trảng cỏ tương đối rộng. Nhiều nhất là cỏ may – loại cỏ có sở thích ghim đầy quần áo người khi đi vào giữa chúng, có đợt chúng tôi hành quân băng ngang đồi vào nửa đêm về sáng đã xuyên qua một trảng cỏ may, đến sáng mới nhận ra từ gối của mình trở xuống trông giống hệt một con nhím đang xù gai.
Ngoài cỏ may còn có những đám cỏ tranh cao lút đầu người, chúng tôi được cảnh cáo rằng: tuyệt đối không được bén mảng tới những trảng cỏ tranh đó, khu vực này trước năm 1975 vốn là Trung tâm huấn luyện quân sự của chế độ cũ và có rất nhiều bom mìn chưa được công binh tháo dỡ. Năm trước bò của người dân đi lạc vào đám cỏ tranh, chỉ sau một tiếng ầm, không còn thấy xác bò và cái hố này xuất hiện - Trung đội trưởng chỉ về phía một cái hố sâu hoắm cách địa điểm tập luyện không xa. Kể từ lần đó, chúng tôi luôn dị ứng với những đám cỏ tranh, hễ thấy chúng là như một phản xạ, hết thảy đều tránh ra xa, có đi đái thì vạch quần tưới vào thứ gì cũng được, miễn là không phải cỏ tranh.
Chẳng biết Trung đội trưởng có hù dọa chúng tôi hay không, để ngăn ngừa những anh chàng lập trường chưa vững vàng, chịu không nổi mấy tháng huấn luyện, có ý định đào ngũ vì băng ngang trảng cỏ tranh là đến ngay đường cái đón xe về nhà. Nhưng chẳng có anh lính mới nào dám chứng minh lời nói của Trung đội trưởng chỉ nhằm hù dọa những thằng yếu bóng vía.
Tuy nhiên, không băng qua được trảng cỏ tranh của đồi 30 thì tìm đường khác, doanh trại rộng mênh mông có những đoạn tường rào còn sơ sài chỉ gác tạm bằng mấy thanh tre gai. Ngay tháng đầu, trung đội DKZ của chúng tôi đã có chiến sĩ đào ngũ. Đó là Phan Thanh Ngân, dân Chợ Mới.
Đơn vị đã cử cán bộ về tận quê để tìm và động viên Ngân trở lại nhưng gia đình cho biết là từ khi nhập ngũ đến giờ Ngân chưa hề trở về nhà. Về sau, trong một đợt hành quân dã ngoại tôi có gặp Ngân ở cửa khẩu Tịnh Biên, nó đã trở thành một tay cửu vạn chuyên nghiệp, là đầu mối chuyên nhận hàng của các tay buôn lậu rồi giao cho đàn em đai hàng qua biên giới giữa Việt Nam và Cam pu chia
Chỉ biết vậy, vì thằng Ngân chỉ đứng nói chuyện với tôi có vài phút rồi lẩn vào mấy ngôi nhà gần đó, nó còn thì thào: Lần sau nếu cần tiền xài thì vượt rào đi xe ôm ra đây tao đưa, nhớ mặc đồ xơ vin vì tao có cái tật là thấy ai mặc đồ quân sự là tao ngán lắm.
Sau này khi tôi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, về địa phương được vài tháng nghe tin Phan Thanh Ngân đã bị lực lượng chống buôn lậu bắt được, trả lại đơn vị và phải ra tòa án quân sự.
Còn chuyện vượt rào đi ra ngoài vào ban đêm thì không phải là hiếm, trong đó phải kể đến lần vượt rào khó quên của thằng Quốc cùng tiểu đội 1 với tôi. Nhắc đến Quốc, tôi lại cảm thấy như chính mình là thủ phạm để dẫn đến kết cục ngày xuất ngũ một bên nó là chiếc nạng gỗ thay cho đôi chân mà khi ra đi vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi vẫn còn nhớ như in cái đêm mình được phân công trực ở vọng gác nơi có đoạn rào làm bằng mấy thanh tre, tiếp giáp với một con đường nhỏ. Phía bên kia con đường đầy cát mịn là những nhà cửa, quán xá của người dân.
Không được nhắm mắt. Không được đặt súng xuống đất. Không được mềm lòng. Trước khi gác, Trung đội trưởng đã dặn đi dặn lại. Chỉ có hai tiếng đồng hồ, hết hai tiếng sẽ có người khác thay ca. Mật khẩu đêm nay là: Hồng Hà và Quyết Tiến.
Tôi hơi ngại gác ở đoạn rào này, vì thế nào cũng làm “mất lòng chiến sĩ”. Làm căng thì chắc chắn sẽ bị gán cho vô số tai tiếng: cái thằng khó ưa, muốn lập công với thủ trưởng đơn vị, thượng đội hạ đạp… Còn cho tụi nó qua lỡ Trung đội trưởng phát hiện thì khỏi cần phải chờ lệnh, sáng hôm sau cứ tự động xách dao đi làm cỏ “cấp tiểu đoàn”. Cỏ ở sân tiểu đoàn thì bạt ngàn, có làm đến khi ra quân cũng chưa xong.
Làm thằng gác ở chỗ này đúng là trên đe dưới búa.
Tôi gác đêm ở đoạn rào này được chín lần. Cả thảy chín lần gác đều đi kèm với chín lần làm cỏ “cấp tiểu đoàn”. Lý do là tư tưởng của tôi dễ bị dao động với lời năn nỉ ỉ ôi của “tụi vượt rào” kèm theo lời hứa một bọc cà phê ở quán em Thơm.
Tôi vốn ghiền cà phê trước lúc nhập ngũ cho nên vừa nghe nhắc đến hai chữ cà phê là miệng tôi chẳng thể nào thốt ra được tiếng không với tụi vượt rào. Mà lại là cà phê ở quán em Thơm nữa. Em Thơm ở ngoài rào quyến rũ gần hết cánh lính trung đội của chúng tôi bằng mùi cà phê đặc biệt của mình, do chính gia đình em trồng và rang xay, pha chế.
Đất này không phải là đất của cà phê cho nên những cây cà phê của em luôn còi cọc và cho hạt chỉ nhỉnh hơn cứt chuột nhưng chẳng hiểu sao lại có ma lực đến vậy. Trung đội trưởng bảo: cà phê của em Thơm ngon cái khỉ khô, tụi mày ghiền cái mông đong đưa của nó lúc lom khom rang cà phê thì có.
Vậy Trung đội trưởng có ghiền không? Tao hả? – Trung đội trưởng có vẻ nghĩ ngợi, cái miệng của anh bắt đầu nhóp nhép như đang uống cà phê. Chắc ăn là miệng anh đang lạt nhách vì suốt buổi sáng nay chưa được một hớp cà phê nào. Thằng nào dám cá một ngày tưới rau trung đội?
Lần gác thứ mười này tôi quyết tâm giữ lòng mình sắt đá. Có hứa cho cả em Thơm tôi cũng không để cho thằng nào ló được cái đầu sang hàng rào, tụi bay muốn nói gì thì nói. Không thể để bị phê bình là lập trường tư tưởng không vững vàng nữa.
Còn mười phút. Đêm nay sao chẳng thấy thằng nào, có lẽ suốt ngày nay cả tiểu đoàn huấn luyện chạy vũ trang nên hết hơi hết sức. Như vậy càng khỏe, đỡ phải mất lòng ai.
Còn năm phút. Một bóng đen thậm thụt cách chỗ tôi khoảng bảy tám mét. Đứng lại. Tôi kéo quy lát khẩu tiểu liên AK. Mật khẩu: Hồng. Hà. Quyết. Tiến.
- Tao Quốc nè, đừng có ra vẻ nữa – Thằng Quốc tiến sát đến chỗ tôi nhe răng cười. Đúng là xui xẻo, sắp hết giờ lại đụng phải thằng quỷ này. Nhìn bộ dạng của nó là biết sắp sửa chui qua hàng rào để ra bên kia đường, thằng này ra ngoài chẳng cà phê cà pháo, cũng chẳng nhậu nhẹt gì cả mà nó quen được một cô em ở gần nhà em Thơm bán cà phê.
Em của nó tên Mỹ Xuyên, cha gốc Triều Châu mẹ người dân tộc Khơ me, mang hai dòng máu nên Mỹ Xuyên “đẹp dã man” – nói theo cách của thằng Quốc khi khoe về người yêu tương lai của mình. Cứ cách một hai ngày là nó mò ra hàng rào nhưng chỉ vài phút rồi lại chui vào, như vậy tức là cuộc chinh phục trái tim “người đẹp dã man” vẫn chưa đi đến đâu, Mỹ Xuyên vẫn còn là người yêu trong tương lai của nó.
- Đêm nay mày không được vượt rào, bước thêm bước nữa là tao bắn bỏ! - Tôi vẫn giương súng về phía nó.
- Khùng hả mậy? Cho tao qua đi, một lát vô liền – Thằng Quốc khựng lại, giọng chưng hửng.
- Không được – Tôi gằn giọng, quyết giữ vững lập trường sắt đá của mình.
- Cho tao qua đi, lần này là lần cuối cùng… - Thằng Quốc xuống giọng tha thiết – Qua đêm nay đến ngày mai là tao không còn dám làm phiền mày nữa; ngày mai, Mỹ Xuyên có người đi hỏi cưới rồi.
Câu cuối này hình như thằng Quốc đang nói trong nghẹn ngào.
Lúc này thì bao nhiêu sự cứng cỏi trong tôi đã biến đi đâu mất, lòng dạ tôi bỗng trở nên mềm oặt như cọng bún, nhưng trong thoáng chốc, bãi cỏ mênh mông của tiểu đoàn chợt hiện ra trước mặt.
- Không, mày có nói ngàn lần tao cũng không cho mày qua chỗ này - Tôi bóp chặt khẩu AK, sau đó lơi tay dần – Nhưng mày có thể đi vòng ra sau, băng ngang đồi, coi như tao không thấy gì cả, tao xử lý như vậy là vẹn cả đôi đường. Đừng ở đây mà cò kè trả giá gì nữa.
- Nhưng mà… - Thằng Quốc ngập ngừng.
- Nhưng nhị cái gì? Mày sợ băng ngang đồi 30 giẫm phải mìn chớ gì? Trung đội trưởng chỉ hù dọa chúng ta. Đồ chết nhát, yêu iếc gì mà vượt qua ngọn đồi cũng không dám, Mỹ Xuyên đi lấy chồng là phải!
Tôi định đem đồi 30 ra làm chướng ngại để thằng Quốc từ bỏ ý định vượt rào và tôi cũng được tiếng là xử lý linh hoạt trong mọi tình huống nhưng không ngờ nó xoay lưng đi một mạch về phía ngọn đồi. Chỉ vì câu nói khích tướng không cố ý của tôi.
Không lâu sau, một tiếng nổ chát chúa từ phía đồi 30 vọng về. Trời ơi, thằng Quốc, tôi đã giết nó rồi. Tôi chỉ kịp nghĩ đến đó rồi ngã lăn ra đất bất tỉnh nhân sự trong tiếng kẻng báo động của tiểu đoàn.
Khi tỉnh lại thì thấy mình nằm ở Đại đội quân y, Trung đội trưởng vỗ vai bảo là tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ canh gác đêm nay, không có anh nào vượt qua được đoạn rào chỗ tôi gác. Chỉ có điều chú mày nhát gan quá, nghe tiếng mìn cóc nổ ở tuốt đồi 30 cũng sợ đến ngất xỉu. Thằng Quốc đạp trúng quả mìn cóc phát nổ mà vẫn tỉnh queo, miệng còn kêu Mỹ Xuyên ơi Mỹ Xuyên à… Đúng là gan cùng mình.
Nghe Trung đội trưởng nói vậy tôi rùng mình ớn lạnh nhưng không dám hỏi gì thêm vì sợ lỡ mồm lỡ miệng nói ra mình chính là người xúi thằng Quốc băng ngang trảng cỏ tranh của đồi 30 để vượt rào thì cái án kỷ luật chắc chắn không còn là làm cỏ “cấp tiểu đoàn” nữa mà có thể là đi chăn bò ở khu chăn nuôi “cấp trung đoàn” trên lưng chừng sườn núi.
- Thằng Quốc xui mà hên! - Trung đội trưởng nói tiếp – Hên là quả mìn cóc này được gài lâu quá nên cũng “già yếu”, nhảy chỉ được tới đầu gối của thằng Quốc rồi phát nổ. Nếu nó còn “sung” mà nhảy ngang thắt lưng thì chắc ăn là thằng Quốc đổ hết ruột ra ngoài; còn xui là nó suýt phải cưa đi mất một chân.
Thằng Quốc được chuyển về Bệnh viện của quân khu để phẫu thuật cắt bỏ những phần thịt hư nơi bắp chân do quả mìn cóc phát nổ trong đêm nó băng ngang đồi 30. Mấy tháng sau xuất viện, trở lại đơn vị với một bên là chiếc nạng gỗ, mặt xanh xao nhưng cặp mắt cứ long lanh. Rõ ràng là cặp mắt của một người đang ngập tràn hạnh phúc chứ không phải vừa bị mất một chân. Tuyệt nhiên nó không nhắc gì đến chuyện tôi ép nó phải băng ngang đồi trong đêm đó.
- Tao muốn cảm ơn mày! - Thằng Quốc thì thầm vào tai tôi khi nó vừa về đến trung đội.
Thấy tôi há hốc mồm vì chẳng hiểu ất giáp gì, nó kéo tôi ngồi xuống và bắt đầu kể rõ chi tiết:
- Tao biết cái đêm đó, mày không cố ý xúi tao băng ngang trảng cỏ tranh nhưng nếu không vượt rào ra ngoài thì có lẽ đến giờ tao vẫn còn ân hận và Mỹ Xuyên đã là của người khác rồi. Mấy tháng tao nằm ở bệnh viện là mấy tháng liền Mỹ Xuyên túc trực, “ẻm” cứ ôm cái chân của tao mà khóc ròng. Gia đình “ẻm” đã hủy đám hỏi với bên kia và cũng đồng ý là sau khi tao ra quân sẽ tổ chức đám cho hai đứa… Bây giờ dẫu cái chân của tao không còn lành lặn nhưng bù lại được cả trái tim Mỹ Xuyên, không cảm ơn mày thì cảm ơn ai?
Khi tôi ra quân thì thằng Quốc phải ở lại thêm hơn ba tháng nữa để cho đủ số tháng thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định và đó cũng là mức kỷ luật nhẹ nhàng nhất mà đơn vị đã cân nhắc giữa tình và lý để dành cho nó.
Quốc – “thương binh không thẻ”, cái biệt danh đó có lẽ sẽ gắn với nó suốt đời, nhưng tôi chắc nó cũng không lấy gì làm phiền phức cho lắm khi mà nó đã có Mỹ Xuyên bên cạnh. Quốc và Mỹ Xuyên giờ đã có một gia đình hạnh phúc, họ đã trở thành chủ một trang trại nuôi bò thịt và một vườn cây ăn trái phục vụ du lịch sinh thái giáp ranh với đồi 30.
Ngọn đồi phủ đầy lá rụng của chúng tôi bây giờ vẫn cát trắng đến ngợp mắt nhưng những trảng cỏ tranh đã được phát quang trống trải, đây đó chỉ còn lơ thơ vài bụi cỏ may. Công binh đã rà phá tất cả bom mìn còn sót lại để đảm bảo an toàn tuyệt đối trong công tác huấn luyện tân binh.
Tường rào xung quanh đơn vị cũng được làm kiên cố để hạn chế những đôi chân ngứa ngáy thích leo trèo ra ngoài vì mùi cà phê ngạt ngào quyến rũ của em Thơm. Dĩ nhiên hình thức kỷ luật cũng không còn nhẹ nhàng ở mức làm cỏ “cấp tiểu đoàn” như tôi khi xưa.
Tôi vẫn nhớ rằng mình còn nợ thằng Quốc một lời xin lỗi chân thành. Chỉ còn cách kể ra đây, với một sự ích kỷ: mong mình không còn day dứt về cái chân của thằng Quốc và ngọn đồi 30 – ngọn đồi phủ đầy lá rụng, chỉ vì thói bồng bột và cả những sai lầm tuổi trẻ của cả tôi và nó. Chuyện xảy ra đã lâu rồi, nhưng sự day dứt trong tôi thì còn đó!
Nghĩa địa phố
Ngày đăng: 10/12/2011 6:00:00 SA
- Mình à, hay là ta bán miếng đất “mặt đường” ấy đi, mua cho thằng cả cái xe, cho thằng hai chút đỉnh để mở cửa tiệm trên tỉnh. Mình nghĩ ngợi gì nhiều, còn sức là còn người, mình ạ.
Đêm nào ông cũng tỉ tê. Chỉ chờ bà gật đầu đồng ý là ông kêu ngay mấy đám chiều nào cũng “chẹn” ông tại quán rượu đầu thôn để ra giá. Bọn thằng Cảo “săn” miếng đất của ông từ mấy tháng trước, chúng mua để bán lại cho mấy đại gia trên tỉnh. Nghe nói, đại gia nọ đang phất, hiềm nỗi chưa có thằng cu nối dõi. Tháng trước, vợ chồng họ sắm lễ, mời thầy gọi “người âm” lên để chỉ vẽ đường ngang, ngõ tắt.
Thầy ăn vận khác người, nhài nhại giọng mũi, tuyên bố vong đã “nhập” vào cô con gái bốn tuổi. Mặt cô bé phừng phừng, tóc hoe hoe vàng dựng ngược. Cô bé được thầy chọn một tảng đá phẳng, lưng chừng nghĩa địa và cho ngồi xếp bằng. Chừng vài tiếng, cô bé rú lên rồi ngất lịm. Thầy khà một tiếng rõ dài, khoan khoái vỗ vào bầu ngực lép kẹp của mình, dõng dạc:
- Tốt, tốt rồi. Ông cụ đã đồng ý cho mở rộng khuôn viên nhà mình, nhưng cụ có ý trách gia đình…
Người đàn ông béo tốt, ăn vận chỉn chu hốt hoảng:
- Có gì nhờ thầy chỉ giáo. Chúng con người trần mắt thịt, ngu dốt, không hiểu gì về “cõi kia”.
- Không, thầy không trách các con. Ông cụ sang hàng xóm chơi tổ tôm rồi. Con về biện lễ, ngày mai gặp cụ, nhớ phải biện lễ “khum khum” kẻo cụ trách, nghe không?
Hết thảy con cháu rối rít dạ, vâng. Mâm lễ có xôi gà, rượu, trái cây, thuốc lào, thuốc lá, xì-gà Đức, bánh kẹo, cau trầu, một dây chuyền và phong bì đựng tờ đô. Thầy gẩy gẩy mâm lễ, hào phóng kêu bọn trẻ chăn bò lại đánh chén. Thầy chỉ nhón tay cho vào túi hộp xì-gà Đức, tờ đô và sợi dây chuyền. Quay sang gia chủ, thầy thỏ thẻ:
- Ông cụ sống phong lưu lắm, đại gia lắm. Mấy thứ lễ xoàng xĩnh đó, ông không nhận. Dưới ấy, ông chơi với quý tộc, trang sức phải là kim cương, hạt xoàn… Tiền đô cũng được, ông bảo để tiêu vặt, đánh tổ tôm, nhưng mệnh giá to lên một chút. Mấy thứ của các con, thầy cất hộ… May ra, gặp cụ, thầy năn nỉ, cụ nhận cho thì tốt. Rứa hí…
Thầy lên xe bốn chỗ, lái xe chở thầy về hướng thành phố. Cả dòng tộc đại gia ngẩn người “Lạy ba mẹ, lạy tổ tiên, chúng con có lỗi…”. Họ quỳ rạp dưới lăng mộ được xây cất bề thế, uy nghi. Họ quỳ như thế rất lâu, để quên cô con gái bốn tuổi dưới trời thiêu, nắng đốt…
Ngày hôm sau, gia đình đại gia sắm lễ thật “khum”. Mấy thứ vặt vãnh, hàng xóm của ông cụ có được mời cũng “sinh quê” - như lời thầy nói, hôm nay không có trong danh sách mâm lễ. Thay thế xôi gà, bánh trái là sâm Hàn, củ có trên hai mươi năm tuổi, tổ yến lấy từ đảo Phú Quốc, nấm linh chi, gạc hươu còn lông măng, ướt rịn… đô được xếp thành bọc, và một hộp ngọc trai đựng lễ quý.
Thầy xếp bằng bên cạnh cô con gái bốn tuổi. Chưa đầy tiếng, cô con gái của gia chủ đã rú lên, nói năng lảm nhảm. Mặt thầy rờ rỡ, thầy trịnh trọng rút một chai nhỏ thơm nức, rót thứ nước trắng nhờ nhờ đó ra ly, lễ phép dâng cao hơn đầu:
- Dạ, con mời cụ. Rượu được cất từ hầm của thái tử nước Anh, uống vào trẻ ra dăm tuổi ạ.
Đại gia đình gia chủ ôm nhau sợ hãi khi cô con gái bốn tuổi sợ cay, sợ đắng thản nhiên dốc tuột ly rượu, vứt đánh xoẹt xuống hốc đá rồi khà khà, âm thanh rộn rã như mấy tay sành rượu trên tỉnh.
- Đúng là ba rồi, đúng là kiểu uống rượu của ba rồi. Ba, ba ơi! Từ nay con sẽ cúng rượu ngoại, con sẽ đặt rượu từ giới quý tộc. Ba cần gì, thiếu gì, ba nói cho con biết đi, ba!
Cô con gái trợn mắt, nói giọng khào khào không nghe rõ. Chỉ có thầy gật đầu liên tục, rồi dạ rối rít. Chừng mười lăm phút sau, cô bé ngất lịm. Thầy nói:
- Ông cụ đi rồi. Cụ nói, dưới ấy cụ cũng chẳng thiếu thứ gì, nhưng người dương muốn phát lộc, thăng quan tiến chức thì phải gửi lễ xuống để cụ tiện đường đi lại. Cụ nhắn rằng, buôn quan bán tước nhanh lãi nhất. Cụ không muốn dời đi, vì chỗ này long mạch rất tốt, nhưng, khuôn viên hơi hẹp, xây dựng cũng chỉ mới thường thường, cụ muốn nó thật hoành tráng. Nếu anh ngại, tính toán thì thôi, chẳng sao cả. Cụ nói, thời buổi bây giờ phải thật đẹp “mã”, cứ xoàng xoàng thì nói ai tin.
Anh con trai há hốc miệng, nuốt từng lời thầy. Ba bốn máy ghi âm Nhật tìm chỗ “đứng” tốt nhất, không bỏ sót một lời nào.
- Dạ, xin thầy chuyển lời giúp các cụ và ba mẹ con, rằng, đại gia tộc họ Lã sẽ xây cất “khuôn viên” to đẹp như… phố. Dạ, sáng mai thầy xuống dưới ấy, thầy hỏi rõ ý định của ba mẹ con, giúp gia tộc họ Lã chúng con cho trọn cái, trọn nước.
Thầy xoa xoa bàn tay trắng trẻo, múp máp lên chiếc hộp ngọc trai đựng lễ quý, giọng kim nghe chèo chẹo:
- Các cụ và ba mẹ của con đã là chỗ “đi về” thân tình của thầy. Mỗi lần “gặp” các cụ là vui đáo để nhé. Trộm nói, chứ người dương các con làm ăn phất lộc nên lễ lạt sang trọng, các cụ dưới ấy sống nhàn nhã, sung sướng như đế vương. Thôi, con đã nói thế thì thầy cũng không ngại khó, ngày mai biện một cái lễ nữa để thầy đi. Nghe nói dưới ấy đang chung kết giải bóng đá ngoại hạng Anh. Các cụ có nhắn là phải đặt vé máy bay đi xem bằng được. Này, cụ tị với anh đấy, đưa vợ con đi mấy lần mà không nhớ gì đến cha mẹ cả.
Các đại gia nhà họ Lã lạnh ướt sống lưng. Năm nào họ Lã cũng xuất ngoại, nước xa nước gần không sót một nơi nào. Quả thực, họ chưa bao giờ nghĩ đến chuyện cất mâm lễ để các cụ và ba mẹ được hưởng “lộc trời”. Những nơi đẹp nhất, lý tưởng nhất ở trong nước, họ đều có resort để cuối tuần đến nghỉ. Ở đó, anh Lã đã cất một phòng cao nhất để thờ cúng ba mẹ và các cụ. Nhưng, như thầy đã phán, các cụ và ba mẹ anh Lã sống phong lưu hơn quý tộc nên hàng năm cũng muốn vài chuyến xuất ngoại. Trời ạ! Trách gì chúng khui ra được cái vụ nhà chung cư năm mươi tầng. Vẫn còn may là trách nhiệm không thuộc về anh Lã, sự cố kĩ thuật thì đâu mà chẳng có! Cụ giúp, đúng là các cụ giúp. Có thế anh Lã mới leo tít lên được cái ghế cao chênh vênh.
- Lạy thầy, thầy uốn lưỡi nói hộ cho con, kẻo các cụ và ba mẹ giáng tội. Ngày mai, vợ chồng con soạn lễ… Lạy thầy…
- Ừ, thầy sẽ giúp. Nhưng, thầy dặn, lễ lạt thiệt không được xoàng. Mà ông cụ muốn xuất ngoại xem đá banh thì để cụ đi. Có giỏi thì tốn kém hơn cõi dương dăm bảy lần là nhiều, nhằm nhò gì phải không con?
Anh Lã cúi gập người, đôi vai bè to gật gật. Thầy lên xe bóng loáng vút về phía thành phố, bụi đỏ vồng bám rùi rụi lên mặt, lên tóc người qua đường…
*
* *
Làng Choi mấy tháng nay ầm ĩ về chuyện mua bán đất. Cò đất ở đâu “ tấp” về, lượn lờ như bươm bướm. Những đại gia có máu mặt làm ăn trên tỉnh, trung ương, lâu nay nhạt hương khói mồ mả tổ tiên, bỗng tìm về, nét mặt căng thẳng, lo lắng. Họ mời những thầy giỏi nhất, có khả năng ngoại cảm đặc biệt, có thể nhìn xuyên thấu lòng đất để biết được cuộc sống của những người thuộc “thế giới bên kia”. Sau đại gia họ Lã là các đại gia họ Nguyễn, họ Tôn. Ngoài mặt bình thản những gan ruột phừng phừng. Chả nhẽ cái thằng ba đời chăn vịt lại dám “chơi trội” trước mặt ông. Chả nhẽ… chả nhẽ…??? Phải về làng Choi “tiếp chiêu” mấy thằng mới “nổi” đã có ý chơi ngông, và cũng là báo hiếu tổ tiên để các cụ phù hộ độ trì…
Họ đi xe bóng loáng, nói năng nhã nhặn, tâm sáng, đức dày. Các đại gia ngồi lại với nhau, nhắc chuyện ngày xưa. Anh cả họ Tôn đói ăn nên bỏ học, suốt ngày cởi trần gầy nhóc nhách, chỉ có một manh quần vá chằng đụp. Anh cả Tôn bắt cua đồng, nướng ăn chống đói. Cua moi ra khỏi ngóc, rửa qua nước ruộng rồi bỏ vào đống rơm ngúm sẵn. Lửa to, cua cháy xèo xèo, thơm nức. Không đợi cua chín hẳn, cả Tôn đã bỏ miệng, phìu mép. Dăm bảy con cua chín táp làm cho bụng cả Tôn sôi róc ráy rồi tuôn ào ào.
Sau này nhớ lại, cả Tôn lại nôn thốc tháo và nghi ngờ bụng mình còn có sán cụ, sán cha, sán anh ngự trong ấy. Anh hai nhà họ Nguyễn giơ bàn tay trắng trẻo cười ngỏn ngoẻn. Chao, sao cái ngày xưa xa lắc đó lại rét, rét như thể cắt da, cắt thịt. Hai Nguyễn đi chăn bò thuê, miệng lẩm bẩm một điều ước. Ra, mau ra đi… Nhưng mãi đến non trưa, con trâu béo ngầu mới tương cho cậu một bãi. Ngay tắp lự, cậu hai Nguyễn thọc tay vào đống cứt trâu. Chao! Sao mà ấm… Ấm ơi là ấm.
Câu chuyện xúc động, như thể họ là một khối gắn kết. Những chuyến xe chợp về rồi lại cuốn bụi theo hướng thành phố vút đi. Chỉ khi đắp chăn ngang cổ, mở điều hoà số nhỏ nhất,vòng tay qua đầu nhỏ thon và thơm nức của cô bồ, họ mới nói thật ý nghĩ của mình. Thằng cha nhà họ Tôn nước mẹ gì mà dám giỡn mặt anh? Lại cái tay họ Đào vẩu răng, vẩu lưỡi nữa. “Cơ” đâu mà chọi, xoàng xoàng thì mẽ gì! Chuyến này “xuất” mấy anh cũng “chơi”. Mà cũng nhân tiện để tạ lễ các cụ, đường quan chức của anh chưa có tín hiệu “đỏ đèn”. Hơn nữa, con vợ anh nó mê cúng bái lắm. Bày vẽ ra chuyện này, cũng khiến bả không để ý đến chuyện bọn mình. Tha hồ mà háu! Cưng nhé!
Con đường bê tông mới làm rần rần xe cộ, xe bốn chỗ nối đuôi nhau bấm còi toe toe. Các cụ làng Choi sướng rân cả người, xách mươn ra tận rìa làng, tụ tập nhau lại coi cho “đã con mắt”. Con cháu làng Choi ra đường làm ăn khá thật, chả trách ngày đầu thế kỉ, mấy thầy địa lý qua làng không muốn bỏ đi. Long mạch vượng khí, con cháu sẽ phất to.
Sau màn “ chào hỏi” với người âm, các đại gia bắt tay vào cuộc. Họ thuê những kiến trúc sư giỏi trên thành phố quy hoạch, thiết kế khuôn viên của dòng tộc mình. Bản vẽ được dày công nghiên cứu, sau đó hoá vàng “gửi” xuống cho các cụ để các cụ “duyệt”. Nhưng, lần nào các cụ cũng gạch mực đỏ nhăm nhút, lỗi cơ bản nhất là diện tích quá hẹp, chưa có chỗ để các cụ đàm đạo văn chương, đánh tổ tôm… Ấy là chưa nói đến chuyện tiếp các quý tộc thỉnh thoảng đến nghỉ cuối tuần.
Các đại gia hoảng hồn vía, trời ạ, yêu cầu như các cụ khó bằng lên trời. Bây giờ nghĩa địa mồ mả chi chít, nhà nghèo nhất cũng cố gắng xây cho được vong mộ với dăm ba ngôi mộ giả. Nhà dư một tý thì chủ trương “bao” rộng, đổ móng và xây kiên cố. Nhà nào cũng cố gắng vươn ra mặt đường, nếu chậm chân thì chí ít phải là lối hai, lối ba. Nghĩa địa, mà là nghĩa địa lắm đại gia trên tỉnh, trung ương như ở làng Choi thì không thể bói đâu ra một chỗ trống. Họ tranh chấp nhau kể cả lối đi giữa “bao” của nhà này và nhà khác.
Đại gia họ Lã phải sinh quý tử trong năm dê vàng. Như vậy, trong vòng ba tháng, bằng mọi giá phải đủ mặt bằng để cất xây lại khuôn viên cho các cụ. Bỏ hết công việc trên tỉnh, đại gia về làng thăm bà con nội, ngoại tộc. Những món quà đắt tiền, những lời như được rút từ gan ruột làm các cụ trong làng ngân ngấn nước. Ai chứ thầy cả Phước thì làng trên xóm dưới đều mang ơn. Cái đận đói như ngả rạ, không có bát cháo nóng của thầy cả Phước thì chết cả làng. Bây giờ, thầy có chuyện, làng không giúp thầy thì giúp ai?
Ấy là tiện mồm thì nói thế, chứ nát óc, các cụ cũng không thể nghĩ ra giúp đại gia Lã bằng cách nào. Nếu nhà cửa trên dương, nói phá là phá, nhưng tổ tiên đã yên mồ mả, có dát vàng cũng không kẻ nào dám. Người ta khuyên anh Lã “xuống” thưa với các cụ, hay là đổ bằng rồi xây lên? Anh Lã lắc đầu, phương án đó anh đã tính nhưng các cụ không muốn bỏ lề thói. Các cụ chỉ muốn một khuôn viên rộng rãi.
Con cháu có thưa là đất hẹp, mồ mả nhiều, không biết còn đường để đi không? Thế mà các cụ giận, đay rằng “Thành phố mét vuông đất cả trăm triệu, bay còn có mấy mẫu! Cửa trên cửa dưới bay chui lọt, đất cát ở mô bay cũng có, rứa mà miếng đất thừa thẹo, không có người tranh chấp mà bay nói không có đường. Có chi mà không mua được bằng tiền, bằng đô. Bay cứ trì trẹo, cụ kị từ bay!”.
Gia đình đại gia Lã run bần bật. Qua lời thầy, anh Lã biết ba mẹ rất giận. Thầy phùng mang, trợn má, giọng mũi trèo trẹo. Ui chà, sợ hết chỗ biết. Nay mai rảnh, mấy con soạn lễ rồi thầy đưa xuống dưới đó chơi, biết người ta sống thế nào rồi về mà làm cho phải đạo. Cũng phải dăm ba lần xuống, xuống cho quen đường ngang, lối tắt.
Làng Choi sốt giá đất. Lên nhanh hơn cả giá vàng. Eo ơi, nghe các cụ ngồi hãm chè xanh bên chiếc mươn gỗ mun kể chuyện mới kinh nhá. Các cụ nhà đại gia Lã muốn xây cất khuôn viên mặt đường, rộng rãi và thoáng mát. Các đại gia họ Tôn, họ Nguyễn, không chịu lép, soạn lễ cho thầy xuống dưới ấy cả chục chuyến. Lần “xuất âm” nào thầy cũng mạn phép truyền đạt lại mong muốn của cụ kị, ông bà. Thằng Lã nó dám làm à? Thằng láo toét. Về nói với cậu ấm Nguyễn, nội muốn cháu phải xây bằng hai, bằng ba nhà chúng nó. Nó bỏ một, mình bỏ mười. Nội sẽ giúp, vụ thầu đầu năm cháu chạy thêm một cửa nữa rồi cụ giúp. Xi- nhê gì, cụ giúp tuốt.
Anh Lã tập hợp cò đất ấm Nguyễn, ấm Tôn cũng vội vã thuê về dăm bảy chú. Trong làng, đám thanh niên choai choai, mồm mép tép nhảy ngay lập tức gia nhập vào đội quân hùng hậu đó. Sức nóng của nó lan sang cả những người hay ngồi quán bắn vài phát thuốc lào, hoặc giả những cụ chỉ còn sức ngồi bên mươn để uống vài ngụm chè chát. Tính ra bằng giá đất mặt đường ở tỉnh rồi à? Một mét vuông mấy chục triệu cơ à? Họ trả cho cả tiền di dời nữa, tiếc gì mà không bán! Bán à, có ngu mà bán. Bọn chúng còn biết mua về cho tổ tiên chúng hưởng, mà âm suy là dương không có thịnh đâu các bác à. Ôi dào, âm dương gì, chẳng qua là lời của mấy tay thầy cúng. Cứ sống cho phải đạo, chứ chết là hết…
Làng Choi mọc lên mấy cái quán bán hàng vặt dọc theo đường làng lên khu nghĩa địa. Thuốc lá, hương thẻ, trái cây, nải chuối, cau, phong kẹo lạc, bán chạy vèo vèo. Làng như lên da non, ai nấy hồ hởi, tươi tắn. Họ mang theo câu chuyện mua đất, xây cất mồ mả trên khu nghĩa địa của các đại gia xuống ruộng, ra chợ và lên cả… giường ngủ. Chẹp! Chẹp! Không còn cơ hội nào nữa đâu. Đất vườn cắt không ai thèm mua, đất nghĩa địa đắt hơn cả đất trên phố, không bán có mà điên. Bán rồi, lấy tiền cất nhà, mua cho thằng út cái xe đạp điện, sắm mâm lễ “khum khum” cho các cụ, xin các cụ cho dời nhà lên chỗ cao, thoáng mát trên rú thông, xây xong, đặt thêm mấy cái mộ giả cho người đang sống nữa là thiệt tốt.
Cu Sang sứt môi lấy con vợ bán cà phê trên huyện là người tiên phong bán đất cho anh Lã. Mộ chí của cha mẹ Sang sứt ngay dưới chân khu mồ mả của gia tộc họ Lã. Hai ngôi mộ mòn vẹt, không được chăm sóc nên chỉ còn một cái chúp nhỏ. Sang sứt cầm cả trăm triệu bạc của đại gia Lã đưa, mừng toé con mắt. Cậu ta cứ xoa mãi hai bàn tay, nói ngọng líu ngọng lô “Bác n…o em n…ận. Tr..ó gì! Em r..up tr..o bác”. Sang sứt đưa vợ về làng, mở ngay một quán cà phê với biển hiệu kẻ đẹp như phố và tên gọi kêu hết biết: Sương Mờ Quán. Các cụ đi qua, bẻ ngón tay răng rắc. Trời ạ, sao không gọi là quán sương mờ cho dễ nghe, dễ đọc lại bày vẽ… Thế mà cái quán có tên đọc ngược như Tàu, đông khách phải biết. Mấy cụ bán được con chó con vừa mở mắt, cơm ăn dập ăn dằng, cũng tiện chân ghé vào cho biết. Mười ngàn đen, mười hai ngàn nâu. Thôi, dùng đen cho rẻ, tiết kiệm hai ngàn mua gói thuốc lào bắn chơi. Bay ơi, con vợ Sang sứt thế mà xinh, nhưng giời ạ, cà phê chi mà đắng cay, đắng dại. Phủi đít quần đứng lên, cụ còn chửi với vào trong. Biển báo gì không rõ ràng, đúng là khéo lừa tiền thiên hạ.
Sang sứt trở thành cò đất. Cu cậu lượn xe vèo vèo, về quán vắt chân trên chiếc xích đu, chấm thịt gà với lá chanh nhồm nhoàm. “Bán đi các vị ạ, nhà họ cần mới thế, chứ không à, có… chó nó mua. Nói thực nhá, đó là trời giúp mình đấy. Bán đi lấy vốn mà làm ăn. Mấy khi có dịp đổi đời”. Sang sứt trở nên quan trọng, là đầu mối giữa cò tỉnh và cụ cố ông, cố bà ở trong làng.
Gớm, mỡ xoa vào miệng có khác, nói năng không còn ngọng lô ngọng líu mà trơn truồn truột. Thằng Cảo là đệ tử ruột của Sang sứt, “bâu” lấy Sương Mờ Quán, ngày dăm bảy chuyến vèo lên khu nghĩa địa rồi tấp vào các quán rượu thịt chó, lòng lợn mới mọc lên ở trong làng. Dại gì mà đút đầu vào nhà, gặp những “nái xề” xồ ra là rách việc. Cứ chịu khó chi dăm ba cút với đĩa lòng thật “nhức” rồi vào chuyện là êm nhất. Mỗi vụ như vậy chúng cũng ôm được cả chục triệu bạc.
Sau gần một tháng, đại gia Lã, ấm Nguyễn, ấm Tôn, gom gần xong đất để xây khuôn viên mồ mả cho gia tộc. Những gia đình bán đất thực hiện việc di dời mồ mà lên chỗ sâu và cao hơn của khu nghĩa địa.Theo bản vẽ, khuôn viên phải rộng ít nhất ba ngàn mét vuông, phải trồng ngang dọc các loại cây xanh, lối đi lát đá và hai bên là cỏ rải thảm. Các đại gia kêu thợ giỏi, xây điện để thờ cúng. Mồ mả được xây cao, ốp bằng loại đá đắt tiền, sắp xếp từ trên xuống dưới theo thứ bậc.
Đến tháng thứ năm kể từ ngày cất xây, các đại gia đã phải trả cho cò đất cơ man tiền của nhưng vẫn chưa gom đủ diện tích đất để hoàn tất công việc. Thợ đưa từ thành phố về có nhiều ngày phải nằm dài chờ việc. Quán nhà Sang sứt trở thành nơi tụ tập, khách khứa vào ra đông phải biết.
Đám cò đất bàn cách đánh vào tâm lý của những gia đình còn mồ mả chưa chịu bán. Làng Choi giờ cứ độ chín giờ sáng và bốn giờ chiều là không còn người ở trong nhà. Họ làm nhanh, ăn nhanh, tụ tập ở những chỗ có người. Tiền bạc rủng rẻng vì mới bán được đất thì vào quán, uống vài li cho ấm bụng, nhai con mực khô cho thơm mồm miệng. Không có tiền thì xúm quanh mươn của các cụ, hóng hớt chuyện trên trời, dưới đất.
Sang sứt đột xuất thông minh, hiến kế cho các đại gia cho cò của mình đi buôn chuyện. Cò thầm thì vào tai các cụ thế này, thế này… Trời ơi, thầy nhắn lại thế à! Rõ khổ, tôi đã nói rồi, nhấm nhắng làm chi cho các cụ dưới ấy thêm cực! Người ta thì nhà cửa dát vàng, dát bạc, mình ở ngay đầu ngõ thì lúp chúp như ổ chuột. Có giỏi thì bán hết nhà cửa, đất đai mà lo cho các cụ để âm dương đỡ tủi. Bằng không thì bán đi, dời đi… Những lời thầm thì đầu đuôi không rõ nhưng có sức mạnh ghê gớm. Ngay chiều hôm ấy, người ta thi nhau ghé tai... thầm thì.
Ông biết, người ta đang bàn tán về vợ chồng ông. Mồ mả của cha mẹ nằm trong “quy hoạch” của nhà họ Tôn, nhưng bà vợ ông nhất quyết không chịu bán. Ông cố tình không nhìn, không nghe, nhưng những lời thì thầm đó như có sức mạnh xuyên thấu.
Những buổi chiều sau, ông đóng cửa nằm nhà. Nhưng rồi ,không chịu nổi, ông mò lên khu nghĩa địa. Ông ứa nước mắt. Họ nói đúng, những ngôi mộ của gia đình ông trông thật tủi bên khuôn viên bề thế của họ Lã. Ông quyết định dời mộ lên phía trên như hàng trăm gia đình khác. Ông cắn răng nói “mát” với bà, mong bà vì con cháu mà tha thứ cho việc ông đã làm.
*
* *
Làng Choi xìu xụp như con gà mái ấp ổ lâu ngày rồi lại đem nhốt để tách bầy con mới nở. Làng Choi rũ buồn khi các đại gia khánh thành khuôn viên lăng mộ trên khu nghĩa địa. Đám trẻ chăn bò chiều hôm đó ngơ ngẩn như kẻ thèm thuốc.
Cửa sắt với những chiếc chìa khoá to tổ bố khép lại không còn cho chúng cơ hội ngồi chồm hỗm xem thợ trét vẽ, đến xế bữa thì được ăn ké với thợ. Chưa kể đến những hôm mời thầy, lễ lạt xong không thiếu thứ gì không được nếm. Lũ trẻ háu ăn giờ ôm nhau thèo thọt nửa nằm nửa ngồi trên mô đá cuối chân nghĩa địa.
Các cụ cất mươn, quạt tre phành phạch đập trên chiếc chõng kê đầu hồi nhà. Buồn nhất là Sang sứt và đám “cò đất” mới nổi. Sương Mờ Quán giờ không có khách, dăm bảy thằng đàn ông không còn việc để làm ngồi ghếch chân chống … ế. Vợ Sang sứt pha cho mỗi thằng mỗi li, ngồi nhìn nhau cho đến khi trời chạng vạng.
Vợ chồng Sang sứt dỡ quán, kéo nhau lên huyện. Dăm bảy quán bán hàng vặt dưới chân khu nghĩa địa cũng rồng rắn tấp về, hàng hoá còn ế lại thì bán chấp bán đổi. Các đại gia không còn ghé vào làng. Năm một lần về thắp hương, họ cho xe dông thẳng lên nghĩa địa. Rồi, các đại gia cũng thưa dần việc hương khói… Nghe đâu đại gia Lã vướng vụ thầu chung cư, ấm Tôn bị “đèn đỏ” trong đợt thanh tra hồi đầu năm… Quái lạ, đã lên ti vi hết ráo mà dân làng Choi còn sợ lỡ mồm, lỡ miệng!
Nghe đồn, thầy bảo các đại gia sắm lễ, nhưng phải là lễ cho thật “khum”. Thầy nói, hôm rày thầy xuống thăm các cụ chơi, nghe các cụ đay rằng: Cái ngõ, cái lối còn có tên, huống hồ là cả một khu phố sầm uất bay mới dựng? Bay đi hết tây hết tàu mà không biết mở con mắt. Cụ kị tổ tiên từ bay có ngày…
Khu nghĩa địa vắt ngang làng với chiếc cổng thật lớn ốp bằng đá đắt tiền có tít đề: Nghĩa địa phố. Nói như cách nói của mấy cụ trong làng, câu chữ viết ngược như Tây. Ở trên huyện, Sang sứt thò chân nghéo vợ trên giường ngủ, giọng ngọng líu ngọng lô “Tr…ớ thế mà r..ỏi…Tr…ằng ấy hí, hí…”.
Ở làng, các cụ chép miệng… chẹp chẹp. Bọn trẻ cười tớ lớ. Trên “phố”, màu lân tinh nhèo nhẹt như chiếc đèn chúp ngược trong buồng ngủ của Sang sứt ngày còn Sương Mờ Quán.
Bông tuột khỏi tay
Ngày đăng: 06/12/2011 8:39:42 SA
- Ba ra rú đa thu chi trớ... Không được cất mình tung bay vào hình bóng xa xưa của quá khứ, không được mộng mị với tương lai, chỉ được sống với hiện tại - một hiện tại kỳ thú rất nửa Niết Bàn, sướng thật! Úm tô rô tô rô tất ri!.
Lão Dương chắp tay ngửa mặt lên trời vểnh hàm râu hùm bạc trắng như tiên ông Lý Thiết Quài quá hãi, rút ba que hương mới châm nghi ngút khói dắt xiên vành khăn tai, đọc làu làu câu thần chú hiểm hóc của một đạo sĩ Bà La Môn thuộc phái Pali Hinayona dòng mật giáo nam Ấn Độ truyền.
Tay lão thọc vào túi đeo hông vải điều cũ mèm bốc một nắm thóc ngào bã ngải suốt, ném xuống vạt đất cỏ ấu chỗ gốc gòn ra hiệu cho Bông ngồi canh bẫy sập bầy chim đang liệng võng trên mái chùa Khuông có tháp chín tầng đắp chỏm bông sen vươn cao.
Bẫy là cái rập chim đan lưới nhợ ny lông rộng bằng bốn chiếc chiếu đôi, hai góc đóng ghìm chặt xuống đất, hai góc buộc túm trên đầu gậy chụm chân thành cái lắt léo đổ ập xuống mỗi khi Bông giật giàm.
Ngày đầu tiên bày ra cái trò bắt chim trời kiểu dụ khị đó chẳng mấy ai tin, chòm xóm mặc kệ lão Dương. Sau thấy cha con lão mua từng vác lồ ô chẻ nan mỏng đan vô số lồng nhuổi rọ mõm bò nhốt chim rinh ra thị trấn bán thì thiên hạ ngột thở.
Năm Tộ, hàng xóm tối lửa tắt đèn tuổi lỡm chỡm, về nhà theo nghị định 41 thương tình giương ra che chắn bớt tội đồng lõa tham nhũng, đang bí ngón quậy lật làm ăn bèn lân la bắt chuyện trước học sau ăn cắp nghề hú gọi chim tài tình của lão Dương. Nghề ngỗng chi, dễ ợt mà! Lão Dương vừa đáp vừa ra ni bày Năm Tộ chừng tàn điếu thuốc là hết bài.
Hắn về nhà làm y chang, nhưng suốt cả tuần ngồi chầu hẫu ngoài nắng mà chẳng rập được con chim quèn nào. Hóa ra lão Dương xỏ lá chỉ dạy lời khấn chay mà không dạy câu thần chú. Tuy nhiên lão Dương quái quỷ biết rõ câu thần chú bí hiểm cũng chỉ là cái hướng tâm, còn cái linh nghiệm thì lão ém, có chết cũng không hé răng! Tội chi bày biểu cho cái thằng cà trật cà vụt, có đôi môi tái xám, cười mỏng dính, ba vạ. Cái bẫy rập của lão Dương thu hoạch đều đều các loại chim, cò, líu ríu... lắm khi cả rắn hổ mang, cạp nong, trăn lá, chồn cáo...
Năm Tộ thấy của tối mắt. Bằng kinh nghiệm có sạn trong đầu biết mình cần gì trong cuộc sống phải kiềm chế thèm thuồng đang réo dậy trong lòng. Và đằng sau cái bề ngoài có vẻ dửng dưng ấy, Năm Tộ đoán lão Dương giấu bí quyết. Giấu thì phải tìm cách khui mở, kể cả dùng rượu làm tửu kế. Rượu mẹo uống thả phanh sức mấy mà cạy được răng lão Dương.
Thay vì bày cách thế này thế nọ, lão nói linh tinh, hai hàm răng khít rịt. Năm Tộ căng nhức trán cũng không biết được nồng độ vòng vo lấn át mấy phần trăm cái che giấu của lão Dương, khiến lão mở miệng là y như rằng giả đò nói hàng hai, cười huề!
- Ông giải nghĩa cụ thể cái hướng tâm, cái linh nghiệm vừa nói nó là cái gì? - Năm Tộ gà.
- Chú muốn định nghĩa cái sự đồng lõa tham nhũng ăn cắp hả? - Lão Dương đi guốc trong bụng đầy ắp bất minh của Năm Tộ. Lão độp thẳng tham nhũng là ăn cắp thì cần đ... gì phải định nghĩa! Năm Tộ chạm nọc căm lắm nhưng đành nhẫn nhục chờ thời. Y ngầm hăm lão Dương chơi hiểm rồi không trước thì sau cũng sẽ bị nhấn chìm trong cạm bẫy cuộc đời.
Ngẫm chán, y lững thững đi về nhà, toàn thân toát ra một nỗi bất hòa với số phận và một nỗi thèm. Năm Tộ lầm bầm dài đường, nịnh đó rồi chửi đó. Làng xóm không lạ cái tính hai mặt sấp ngửa đã được xác định vào phận làm người bầy hầy của y. Lão Dương nhìn theo mỉa mai, hừ mày sống trong môi trường mà ta tránh, vì thế mày đừng hòng héo lánh thâm nhập vào địa hạt của ta!
Lão Dương rất tỉnh táo. Tuy không chính thức nhưng lão bị liệt vào loại chậm tiến, có hành vi lạc hậu. Lão lên rừng vào những ngày chim chóc, cầm thú đang mùa giao hợp. Lão tìm một chỗ khuất từa tựa như cái bến tình, cái nhà nghỉ... chỉ riêng lão biết để rình phục vài hạt bụi tinh dịch của chúng văng ra vương rất mỏng trên lá cây, gờ đá...
Trong khi chúng mải mê làm cái nghi thức tình dục thì lão nín thở giương sẵn một cái que dài, đầu que vê bông gòn chao nhẹ dầu rái trong, chặm chặm như vẽ bùa tưởng bâng quơ nhưng kỳ thực là cái cách tận thu các nguyên sinh hư vô rơi vãi, đoạn gạt sang cái vỏ ngao đậy lại.
Lão ngắm trời xuân hoa nở trắng rừng và những đám mây màu vắt ngang sườn núi như tấm khăn cầu vồng quàng qua vai các cô nàng nõn nường gợi tình. Lão Dương thuộc lòng các tư thế giao hợp của sinh vật do dân gian đúc kết - thú quần, rắn quấn, chim trấn, cá trừng!
Qua một kỳ phát dục rộn ràng, may mắn lắm mới thâu được một thìa tinh dịch cô lại bằng hột nhãn. Số tinh dịch quý hiếm này đem phơi găm chín nắng, tẩm ẩm chín sương, qua lửa than tán bột hòa cám nếp hương trộn lẫn thóc ba trăng... rồi vãi ra nhử chim trời cá nước đánh hơi sà đến... thế là lão Dương có cái sống!
Bí quyết gia truyền ấy chính là kinh nghiệm chỉ riêng dạy cho Bông, cô con gái nhặt được lúc hai tuổi bị cha mẹ là cái đồ gì đâu bỏ, ngồi gặm trái gòn non cạnh giếng chùa. Lớn lên Bông được lão cho học tới lớp mười thì bị xe công nông tông chấn thương sọ não, mất tiếng, bỏ học.
Bông ở nhà lùi lũi giúp lão chẻ nan đan lồng nhốt chim đem ra chợ bán. Đan nhiều, tranh thủ đan đêm không cần đèn đuốc, năm ngón tay Bông dẻo nhẹo như nghệ sĩ múa điệu hái chè bắt bướm, với nước da quê trắng nõn cách chi da phố không đẹp bằng, đã hút hồn bao chàng trai xán tới năn nỉ tùm lum và khiến họ bể mộng ào ào khi biết Bông câm!
Lão Dương thương Bông như con đẻ. Lão dạy cho con bí quyết kinh nghiệm phòng khi có trát gọi của trời còn có cái nuôi thân thể tật nguyền. Đó là dùng mùi hơi trống mái, đực cái tiết ra lúc giao hợp do tạo hóa độc quyền làm lực hấp dẫn vạn vật sinh sôi nẩy nở.
Mùi hơi ấy không phải là mùi thơm, nó là gốc gác của mùi thơm, là mùi chứa chan dẫn dắt lách trong các kẽ hở của khí trời mê hoặc, lan tỏa trong linh cảm vuốt ve da thịt, cháy bỏng trong tiềm thức gọi dục và gợi dục rất huyền vi. Nó không bị xói mòn, không đào thải, bẩm sinh như con sâu cái kiến, như hoa nhụy, rong tảo đơn bào, không cần bày dạy và không bao giờ mất.
Nhiều nền văn hóa, học thuyết khổng lồ sụp đổ, nhưng hấp lực trống mái, đực cái tồn tại vô thủy vô chung. Nó giống như Bát quái đồ thiên biến vạn hóa, ngự trị và đề cao một lẽ tín ngưỡng, một phép vận hành. Nó đơn giản như hai vạch âm dương ngắn dài không nội dung, không tư tưởng, không thứ bậc ngăn cách đa đoan...
Ấy vậy mà nó là đầu mối làm nên muôn sự trường tồn, nó có thể định được sự nghiệp, giải được mối hoài nghi trong bốn bể, là nền móng của triết học, của sự phát triển nhân quần! Giờ thì cha con lão Dương cứ yên chí dựa vào sự thiêng liêng của nó để làm một việc trần tục là kiếm cơm ngày ngày.
Lão huy động mọi lời lẽ cử chỉ có thể huy động được để truyền dạy cho Bông. Cô nhận thức được cái cách hú gọi phù thủy của cha đó là nguồn sống. Cô nghe bằng mắt, nhìn bằng tâm, ghi chép tỉ mỉ lời cha dạy vào cuốn sổ tay bỏ túi không rời.
Năm Tộ nhón chân nhìn vóng qua bờ rào. Y rình rập cha con lão Dương và biết được cái bóng của sự truyền dạy điều linh nghiệm. Y khao khát cái hình hài thực, cái bí quyết tối đen mà lấp lánh của nó. Nhất là đã sắp tới ngày rằm tháng bảy, lễ Vu Lan đang đến gần.
Bấy giờ chùa Khuông trang hoàng cờ phướn rực rỡ, cảnh thanh tịnh màu thiền hóa uy nghi gần gũi. Đông đảo khách thập phương đến lễ phật, cầu xin may mắn, mong đền đáp công ơn cha mẹ sinh thành. Họ rộng tay bố thí theo lời răn lục hạnh Ba La Mật, tai lắng nghe loa truyền thanh nhà chùa phát câu chuyện Tống Vũ Đế nhờ đức bố thí cho kẻ ăn xin hóa thân của Phật Di Vệ một bát cơm mà được cả ngôi báu!
Thiện nam tín nữ đua nhau mua chim phóng sinh thực hiện ngũ giới của Phật. Chẳng ai băn khoăn tới giá cả. Họ trao tiền và cầm lồng bước lên tam quan chùa cung kính rút hai nan đan để ngõ thả chim bằng niềm tin cứu độ. Những chú chim bị nhốt cuồng cánh liền bay vù lên trời. Vài ba con chim lẻ đôi rẽ đàn bay là là khấp khiểng trên ngọn cây, cánh chấp chới lay động nắng đầu thu và chìm mất trong bao la đơn côi. Có con yếu đuối quá đầu cắm xuống bãi lầy khó sống được, mà có sống cũng lay lắt.
Sau phút tự do hân hoan thì phần lớn chim phóng sinh tụ lại thành bầy. Rồi như kẻ bị đánh thuốc lú, chúng nhất loạt bay tới nhà lão Dương, đáp xuống nhặt thóc dưới cái bẫy rập chỗ gốc gòn cuối hạ, trái gòn nở bung đám sợi bông tua rua màu trắng xóa. Chúng sà vào mùi hôn mê đực cái, ngụp lặn chà xát trong chốn biệt cung trống mái va chạm nồng nàn... và Bông giật giàm!
Chỉ tính ba ngày trước và sau rằm tháng bảy, lão Dương thu hoạch bộn tiền theo chu kỳ giao hợp đó. Quanh năm lão gặt hái hoa lợi bằng bí quyết động đực, gầy dựng thương hiệu và hệ thống chân rết tiêu thụ các loại chim trời, các đặc sản rừng.
Lão chữa nhà, lát sân, mua ti vi, sắm tủ lạnh... nhưng người thì quắt queo, lưng còng, da đen sần, toàn râu là râu. Đêm nằm nghe chuột chạy dưới lưng, tiếng dế rả rích từng hồi ngoài vườn... lão sợ nhất giữa chừng quỵ ngã, con gái bệnh tình lại quá lứa lỡ thì biết bấu víu vào ai!
Lão Dương gượng dậy dắt Bông lên rừng. Lão bày dạy con từng ly từng lai phòng khi phải sống một mình. Và trời không nỡ phụ lòng lão, Bông đã thay cha làm được tất cả mọi việc. Cô chắt chiu theo nghị lực bản năng những điều cha dặn. Cô thuộc lòng từng cách vỗ cánh của chim sẻ rừng, sẻ đá, sẻ đồng khi chúng say sưa trấn đá yêu nhau.
Cô ám ảnh cách trườn, cắn hả hê của đôi rắn cạp nia, hai thân quấn riết chặt cứng, nảy lớp vảy lạnh bỗng nhiên rụng rời xao xác... Cô phân biệt được những gợn sương tinh dịch gom góp lại thành giọt mong manh. Tinh dịch màu xanh nhạt là của các loài chim, cò; vàng chanh là của rắn; vàng nghệ là rắn độc, trăn dữ; trắng đục là của chồn, cáo...
Bông ngồi canh chừng dơi, chuột phơi tinh dịch qua chín nắng, rà rẫm đuổi cú, két hong đẩy chín sương đêm. Cô thêm bớt hòn than đước, điều khiển ngọn lửa trong lò cháy liu riu, đảo đều tinh dịch đã phân loại thật khô, giòn, bốc mùi tanh lẫn thơm khét và dong mắt nhìn ngẩn ngơ theo làn khói lam mờ dâng từ nơi vô biên của tạo hóa ban tặng đồng đều nhịp ái ân cho loài vật, loài người!
Trăng khuya chênh chếch nhìn cảnh vật, soi trắng cánh tay trần của Bông run run đưa đầu đũa đảo tinh dịch đã biến thành ngải suốt trong nồi đất lên nếm thử. Bông nhìn quanh và nhăn mặt phun phì phì...
Ngọn lửa tàn thì Bông buồn ngủ, cô thu dọn đồ đạc và sa sẩm mặt mày trèo lên giường nằm đắp tấm chăn chiên, người nóng ran như hơ lửa. Ngải suốt ngấm ngọt ngào hóa thành luồng điện khêu gợi màu đỏ chảy dọc từ đầu xuống chân kích thích mọi điểm nhạy cảm trên cơ thể Bông.
Cô không thể tự lý giải được đó là cái gì làm cổ họng cháy bỏng, mạch máu thái dương rần rật, lưỡi tứa nước bọt ngọt lợ, chân tay run bần bật. Cô nghiến răng kẹp chặt hai bàn tay vào nách, kẹp giữa chân, xoa lên hai bầu vú căng nứt hổn hển. Có tiếng róc rách của một dòng suối trên mây tuôn xối xả lên ngực lên bụng, miết lên hai đùi Bông.
Cô thở gấp gáp và bỗng nhiên thèm một cái gì đấy lấp đầy lên nơi mải mê khiếm khuyết hổng hở, thèm được dầm mình trong nước, thèm được hôn hít vỗ về. Bông tung chăn ngồi dậy nghiêng tai lắng nghe và chạy ra sân như một linh hồn thất thần.
Trăng sáng trong, đêm thăm thẳm! Chân Bông giẫm lên vạt cỏ đẫm sương bốc hơi dưới sức cựa quậy mãnh liệt mọc cánh của đôi gót hồng trinh nữ. Năm tháng vùi đầu vào miếng ăn nhọc nhằn ngày càng khó kiếm vô hình trung trở thành nơi lẩn tránh khỏi bao nỗi khát háo dày vò. Bông không có cơ hội yêu mến tuổi trẻ của mình, cái tuổi thanh xuân bừng sáng diễm lệ đã đau đớn nhận thấy mơ hồ tuổi trẻ ấy một đi không khi nào trở lại!
Chưa bao giờ cô được yêu, được nếm trải sự dịu ngọt của trái cấm xa lạ và cuồng bạo, được dấn mình chung chạ với nghiện ngập cực khoái, chưa được thôi miên bởi chính nhạc điệu tê dại rụng rời!... Và giờ đây Bông không còn trẻ nữa, cô đối đầu với thực tế cô đơn và đợi chờ tàn tạ!
Bông buông xuôi chạy một mạch ra bến sông Yên, cởi bỏ áo quần lộ trắng phau phau, dìm thân thể nóng ran vào dòng nước thơm tho trong mát, mơn man trao cho cô cảm giác ve vuốt bồng bềnh. Bông cảm nhận có cái gì đó rất khác - Cô đang là một người đàn bà hạnh phúc không giống bất kỳ người đàn bà thiệt thòi nào!... Bông ngây ngất và hụt chân, hai mắt mở to cuống cuồng níu ánh trăng đang tụt khỏi tay, gẫy vỡ từng luồng sáng đuối sức và chìm nghỉm!
*
* *
Năm Tộ banh mắt theo dõi mọi biến động trong nhà lão Dương. Hành động của Bông không qua được mắt y. “Lúc này mà thiếu sự tự tin là thua cuộc!”. Năm Tộ tự động viên, chân lướt ra bến sông lẹ như một tên trộm. “Ta có lưu manh hóa cũng là do chúng mày!”.
Lối tính toán ngoằn ngoèo độc địa của y là điểm khởi đầu của trò băng hoại ma mãnh. Vừa nghĩ Năm Tộ vừa thò tay cầm cái áo nhuốm đặc khói rang tinh trùng của Bông. Máu đực cái linh nghiệm kích thích bốc lên, hắn trùm chiếc áo thơm nồng mùi con gái kín đầu, nhét giữa hai hàm răng nhai, mũi hít sâu tận ruột.
Năm Tộ choáng váng cố thu nắm tay đấm lên mặt gạt ý nghĩ tà dâm, thọc sâu vào túi áo Bông lấy cuốn sổ tay ghi mọi bí quyết kiếm sống và câu thần chú lận cạp quần. Y hằm hè hãy cứ biết vậy đã. Chúng mày thua cuộc chứ tao đâu có thua. Chúng mày giải thoát bằng cái chết thèm, chết đói sắp tới. Tao giải thoát khỏi cảnh nghèo, không còn lo tới cái ăn, đứng ngắm chúng mày hàng ngày gồng mình lo cái ăn, hà hà!
Năm Tộ giả đò hắng giọng la làng báo bà con trong xóm biết dưới bến có người tự vẫn. Bớ hàng xóm láng giềng ơi! Cứu, cứu!
Lão Dương ngày càng già, điếc, nằm một chỗ bán dần của nả độ nhật và chờ chết. Con gái lão ra đi trước lão. Lão thức mà mơ thấy thần phật quở phạt. Càng nghĩ càng buồn. Có cái gì gọi là nhân quả thì lão chưa hẳn là cái nhân tàn tệ đến nỗi phải chịu cái quả nặng nề vậy!
Chim muông, rắn rết không thèm đến nhà. Chúng giạt hết qua nhà Năm Tộ. Lão chờ nghe Năm Tộ xỏ xiên chửi bới. Lão cầu xin y đào mồ đào mả lão chớ có chê cười lão. Lão mong như vậy cho tới khi Năm Tộ réo gọi chửi đù mẹ thằng già ngu xuẩn keo kiệt là lão, thì lão thấy hắn trúng kế mà nhẹ bẫng cả người.
Những ngày tàn của một đời gián tiếp sát sinh khiến lão ân hận. Con chim, con rắn... cũng là một kiếp sống hà cớ chi phải lừa phỉnh giết chúng. Cứ nghĩ tới cái chết là lão sợ toát mồ hôi. Lão ngồi thu lu sưởi nắng trên sân ngửa mặt nhìn cây gòn nở từng chùm sợi tua rua trắng, trồng kỷ niệm ngày nhặt được con gái nuôi đặt tên là Bông mà xót xa.
Lão đọc đi đọc lại câu thần chú, đọc như tụng như niệm mà vạn vật chẳng đoái hoài. Mất linh nghiệm thật rồi sao? Đói ăn, đói thuốc, bệnh tật... nỗi đau ấy chẳng nhằm nhò gì so với vết đau đeo nặng và khó chữa nhất của lão là đổ vỡ niềm tin!
Lão nảy ý phóng sinh chuộc tội. Lão rình nhót được con sẻ ri của Năm Tộ, cúi nhặt trái gòn già xé vỏ lấy bông lót ổ trong túi áo cho chim nằm rồi cài ghim băng chặt. Lão chống gậy lần lên tam quan chùa Khuông.
Gió trên cao thổi mạnh báo trước một trận áp thấp và những cơn mưa trái vụ sắp tràn tới. Gió thổi bật hàng cúc áo lỏng khuy của lão Dương lộ các rẻ xương sườn dài ngoẳng xộc xệch. Lão tháo kim băng thò tay vào túi bắt chim. Con chim sẻ ri nằm im trong nắm bông. Nó không cựa quậy, co rúm người chờ đợi giây phút được trả về với mây trời.
Lão nắm chặt các ngón tay bỗng nhiên trống trơn râm rấp mồ hôi. Con sẻ ri biến mất! Lão Dương chợt tỉnh. Lão ghim băng không chặt. Con sẻ ri tinh khôn lách mình bay mất, tiếng ríu rít như lời từ biệt trên cao. Trong tay lão Dương chỉ còn nắm bông không! Cảm giác lão lẫn lộn cố lên gân tung nắm bông không thật cao và cười vang.
Cánh tay lão đau, càng lên gân càng rời rã, càng cười càng cô đơn. Không có sẻ ri thì lão phóng sinh bằng tâm tưởng. Nắm bông không nhẹ tênh rời tay lão gặp gió bốc cao. Lão Dương nhìn theo ao ước một buổi chiều tâm hồn thanh thản. Ban đầu nắm bông không xoay tròn rồi dựng thẳng theo chiều tháp chín tầng và lưỡng lự dừng lại chỗ diềm mái gốm bông sen. Về sau nó nhập vào ngọn gió tái xanh thổi thốc tới lê một cung dài trăng trắng tựa nắm ảo ảnh hoảng hốt bay đi mãi, đi mãi, rất xa.
Khi lá mùng tơi rách
Ngày đăng: 18/11/2011 1:00:00 SA
1. Nói giọng nhà thơ thì lúc ấy là hoàng hôn muộn. Nói nôm thì thời khắc xảy ra chuyện động trời ấy vào quãng xâm xẩm tối, khi gà mẹ đang táo tác gọi con lên chuồng. Nguyên nhân cũng chẳng có gì đáng nói. Các nhà báo ưa giật gân thở dài - nhạt phèo vì không có tình tiếtdích dắc. Nhà văn khoái hình sự, cốt chuyện phức tạp éo le thì chun mũi. Ghê gớm thì ghê gớm thật nhưng nếu để khái quát lên phải tự nghĩ ra, đắp vào những sự kiện, kết cấu li kì mặc dù sự xung đột của nó mang chất bi kịch ghê gớm hao hao bi kịch của Xếchpia. Vụ án mạng quả là quá đơn giản được tóm tắt như sau. Hai nhà ông Ấm và ông Tiền ở cạnh nhau ít nhất cũng hai, ba đời nay. Nghe nói đấy là đất vườn của lý trưởng Vĩnh chia quả thực cho bố mẹ hai ông. Trước đây, chỉ độ cuối năm ngoái thôi, vẫn là hai nếp nhà gianh đối diện nhau qua cái sân chung có hàng rào không hiểu tự bao giờ mọc lên cây mùng tơi lưu niên lá xanh um do đất tốt. Hàng rào này thấp đến độ bước chân qua được. Người làng Chiện bảo đó là loại hàng rào chó nhẩy, chỉ để quy định tượng trưng ranh giới. Kẻ trộm bịt mũi cười. Kề ngay hàng rào mùng tơi là cây xoan đào trước đây không ai nhận là người trồng. Cũng hồi cuối năm ngoái hắt về trước hai nhà là láng giềng tốt của nhau. Từ khi con Chén nhà Ấm đầu mày cuối mắt với thằng Vàng nhà Tiền thì hai nhà có chiều hướng thân thiết hơn. Cả hai bên đều hi vọng hai trẻ thành gia thất. Địa liền thế này tiện đủ bề. Nghe phong thanh lũ trẻ làng Chiện thì thào con Chén dạo này hay ra chợ mua khế chua ăn lắm. Ấy là triệu chứng nghén. Chúng nó còn bảo cái Chén đang giục thằng Vàng bảo bố mẹ sang nói chuyện chính thức đi không mai kia cái bụng thây lẩy lên thì có mà đeo mo vào mặt. Thằng Vàng cười hị hị: “Yên tâm đi, cuối tuần này, đầu tuần sau là cùng”. Thế mà ai ngờ. Người tính không bằng trời tính. Đúng là chẳng có gì to tát mà bỗng nhiên thành táo đụng đình vì chuyện ghê gớm xảy ra. Dạo này dân làng Chiện đua nhau phá nhà gianh mặc dù đất rộng mênh mông nhưng hết thẩy bắt chước ngoài phố xây nhà ống cao chót vót. Ao riêng lấp bằng sạch để lấy đất chia cho con cái. Hồ, ao chung thì thi nhau lấn chiếm. Ao Sen mênh mông vài chục mẫu giờ chỉ toen hoẻn như vũng trâu đầm. Dân làng Chiện đua nhau xây nhà tây vì có tiền đền bù, bán đất cho dự án làm viện chăn nuôi, rồi bán cho dân thành phố đổ ra mua. Nhà ông Ấm bán trước. Nhà ống cao ngất ngưởng nhưng vợ con nói thế nào ông này cũng vẫn chưa bỏ được cái thói uống nước vối và chẻ lạt đan rổ rá làm nền nhà lát gạch hoa trơn bóng bừa bãi vì rác. Thằng Phích anh cái Chén chê bố cổ hủ. Nhà có tiền không biết hưởng thụ. Lúc ấy ông Ấm đang hí hoáy đan rổ tre ngẩng lên bảo vợ vặn nhỏ tiếng loa để ông chuẩn bị xem thời sự. Bà Ấm mặc dù đang say Xuân Hinh nhưng nể chồng vặn nhỏ tiếng, bỗng cả hai đều giật mình nghe tiếng nhạc tây bên nhà ông Tiền rộ lên chát chúa, ầm ĩ. Ông Ấm cầm con dao chẻ lạt đi ra hàng rào gạch ngăn đôi hai nhà đang xây dở. Ông gọi đến lần thứ năm “Ông Tiền ơi, ới ông Tiền” thì nhà hàng xóm có tiếng vọng ra xếch mé “Đứa nào éo éo tiền bạc gì đấy”. Bà Ấm mỏng tai tuy đang nghe đĩa lạch bạch ra bảo chồng “Ông vào đi. Người lớn với nhau mà ăn nói như phường lục súc ấy. Tốn sức, phí nhời nói với hạng người ấy”. Bà Tiền đang trong nhà nghe thấy bà Ấm nói vậy, tức khí, đùng đùng theo chồng ra. Cuộc đối già đối giảm bùng lên dần. Ông Ấm thoạt đầu nhũn nhặn bảo “Ông vặn tiếng bé bé một tí để tôi còn nghe thời sự”. Ông Tiền ngấm vài chén nên tự ái “Đài nhà tôi tôi vặn. To nhỏ thế nào là tùy tôi, chẳng động chạm đến ai. Mới lại hôm nay mừng nhà mới chả tội gì áo gấm đi đêm”. Ông Ấm biết ông hàng xóm đã ngà ngà cố đấu dịu thì ông Tiền có hơi men lại được bà vợ kích lên càng được thể. Miên man thế nào lại ra chuyện cây xoan đào. Ông Tiền bảo cây xoan đào do bố ông gieo hạt. Bà Ấm khăng khăng. Chỉ có trên làng Mác quê bà mới có giống xoan đào. Cây này do chính tay ông ngoại thằng Phích đánh từ vườn xuống, trồng để đánh dấu ngày nó đẻ. Chẳng biết thế nào nói một lúc ông Tiền bước chân qua hàng rào gạch xây dở sang sân nhà ông Ấm để nói rằng nhà ông Ấm lấn sang đất nhà ông Tiền hàng gạch rưỡi. Quy vuông hơn bù kém phải ngót chục mét, mà một mét đất chó ỉa bây giờ là ba chục triệu. Ông Ấm giơ tay có con dao đang cầm sẵn thề có ngọn đèn điện đang tỏ rằng nhà ông từ trước đến nay đất cát cha ông để lại thế nào vẫn nguyên chứ không hà lạm của ai dù một tấc. Thấy ông Ấm giơ con dao loang loáng lên, ông Tiền giơ tay hình như để gạt. Ông Ấm vì sợ dao chạm vào người ông Tiền lùi lại, bất đồ vướng chồng gạch lổn nhổn ngã xuống, con dao nhọn vô tình chọc vào bụng. Sau tiếng “Ối” thất thanh là giọng ông Ấm run run, nhát gừng “Sao lại thế này… ông Tiền…”. Máu me phun phè phè như lợn chọc tiết rồi sau hai ba cái giãy ông nằm thẳng dẵng, bất động. Nhìn thấy máu vợ chồng nhà Tiền mặt xanh lè. Bà Ấm gào to “Ối làng xóm ơi, chúng nó giết chồng tôi rồi”. Cái Chén đang bị thằng Vàng ôm cứng ở góc vườn nghe tiếng mẹ rú lên giằng tay chạy về. Nó đứng chết lặng khi thấy bố thõng thượt trên đống gạch, mẹ dài cổ tru tréo. Thằng Vàng nhảy phót về mặt cắt không còn giọt máu nhìn xác bố vợ tương lai nằm thẳng dẵng. Mùi rượu từ mồm bố nó pha mùi máu cùng tiếng gào khóc của hai mẹ con cái Chén làm nó xây xẩm. Nó đờ ra một chặp rồi choàng dậy khi nghe bố rên rỉ vì sợ hãi, lắp bắp bảo nó chạy đến gọi chú Bạc. “Đi nhanh lên, chú mày làm công an xã biết cách giải quyết. Không có tao chết mất”
2. Bạc, em ruột ông Tiền làm công an xã Thuỵ Liên (tên đời mới của làng Chiện) hơn hai khoá rồi nên thính mọi sự động rạng bất thường trong làng. Vì thế Vàng ta mới chạy chưa hết khúc nghẹo đã bị bàn tay ông chú giữ lại:
- Thằng này định làm loạn làng loạn xóm hay sao mà chạy ghê thế.
- Kìa chú. Cháu đây mà .
- Tao biết rồi. Quay trở lại.
Thằng Vàng lẽo đẽo chạy gằn theo sau ông chú đeo xà cột, tay cầm đèn pin. Vừa đến nơi thấy đám đông chừng gần chục người đứng nhốn nháo trước cổng hai nhà Bạc liền rút còi trong túi ra rít lên một hồi, xong dõng dạc tuyên bố:
- Tất cả ai về nhà ấy. Mọi chuyện đã có nhà chức trách giải quyết.
Liền sau ba hồi còi to hơn hồi còi đầu, cùng ánh đèn pin lia loang loáng, đám người lần lượt giải tán. Đợi cho người cuối cùng rời khỏi. Bạc đi thẳng vào nhà anh trai, giọng ráo hoảnh:
- Sự việc thế nào tôi đã tường. Nói thật với anh. Nhà này cũng chẳng đông đàn dài lũ gì. Chỉ có hai anh em. Anh chị cậy là cả đuổi vợ chồng tôi ra hưởng hết. Bình thường không sao bây giờ có việc mới gọi thằng này.
- Chú cứ nói thế. Hồi ông còn sống chú đã bảo anh em kiến giải nhất phận thế nên bố mới chia cho chú chỗ đất phát hoang ở dưới đồng. Chỗ ấy rộng gấp hai lần trên này…
Tiền run rẩy giơ tay ra:
- Thôi được rồi. Qua cái hạn này rồi đâu có đó. Chú tính thế nào anh cũng chịu. Cái chính bây giờ là chú phải tìm cách gỡ cho anh…
- Gỡ. Gỡ gì bây giờ cũng phải tiền. Tôi làm luật nên tôi biết khung hình dành cho tội giết người là cao nhất. Tử hình.
- Khiếp. Chú nói tôi ghê cả người - Bà Tiền bịt tai rúm người như nắm giẻ.
- Chứ sao nữa - Bạc thủng thẳng nhìn vào mâm bát đang ngổn ngang nhếch mép - Tôi… tôi biết, biết rồi. Tiền, đúng phải có tiền. May quá nhà mới được đền bù chỗ ruộng năm phần trăm.
Cái ông này. Chỗ tiền ấy đang tính vào bao nhiêu việc…
- Thôi được rồi. Chị cứ để mà tính vào những việc ấy, còn anh tôi thì đi tù. Không chạy dựa cột là cái chắc.
- Dựa cột là bắn ý à?
- Chứ sao. Dựa cột tức đoàng, đoàng…
- Câm mồm. Đàn bà biết cái gì mà chõ mõm vào. Để yên cho chú nó tính. Chú cần bao nhiêu cứ bảo, cốt sao anh thoát được.
Bạc ngẩng mặt nhìn lên trần nhà thủng thẳng:
- Có tiền bán đất có khác. Nhà xây đẹp đây. Trần đổ thạch cao. Văn minh. Anh cần chạy đúng không?
Vừa nói Bạc vừa gật gù trước ba khuôn mặt đang trơ ra, dõi theo từng động tác của Bạc.
- Trước hết phải rịt cho êm dư luận ở xã. Khâu này cũng cần ít nhất hai chục triệu.
- Sao nhiều thế? - Vợ Tiền bật lên
- Chị không nghe bên kia đang khóc à. Đêm nay nó phục hồn còn ầm ĩ nữa.
Được rồi. Chú tính tiếp còn khâu nào nữa.
- Tiền của anh chị cũng không phải vào túi tôi. Anh em thì anh em thật nhưng cứ phải phân miêng.
- Tôi biết, tôi biết - Người anh lắp bắp nói theo
- Phải rịt cho bằng được cánh công an của tôi. Cánh du kích. Mấy ông ủy ban xã, cánh thường vụ. Nói thật, anh gây ra tội không chỉ về anh mà tôi cũng mang tiếng không kém. Cái ghế của tôi cũng chả béo bở gì đâu nhưng chúng nó nhòm lâu rồi. Kì này bịt không khéo những thằng không cùng cánh đang muốn bẩy tôi trong thường vụ sẽ bảo “làm công an xã mà anh ruột giết người thì có mà…”. Tất nhiên còn khuya tôi mới sợ. Chân rết trên huyện tôi nắm hết rồi, không lọt được đâu. Vì thế nên phần trên huyện cho im việc này ít nhất cũng tốn năm sáu chục.
- Năm, sáu chục triệu cơ á?
- Chứ sao nữa.
- Thế thì chỗ tiền đền bù đất ấy thành nước lã ra sông à - Vợ Tiền tru tréo.
- Im đi. Bà muốn giữ tiền để chồng bà đi tù, bị xử bắn hả?
- Tuỳ anh chị thôi. Nhưng còn khâu này mới quan trọng này - Bạc bỏ dở câu nói gật gù làm Tiền sốt ruột.
- Chú cứ nói, cứ nói. Bao nhiều tiền tôi cũng không ngại, cốt được việc.
- Vàng.
- Dạ. Chú gọi cháu.
- Thằng Phích có thuộc diện ăn chơi không?
- Trước kia nó cũng bình thường thôi nhưng từ ngày nhà nó bán được đất đến giờ thì không ngày nào không ra mấy quán bia hơi, một tuần lại ra Hà Nội chả biết làm gì. Cháu nghe mấy đứa bảo để Karaoke, nhẩy nhót gì đấy.
- Tức là đã nẩy nòi ăn chơi. Tốt. Bia bọt, rượu chè. Được. Thế có cờ bạc không?
- Cái này thì… để cháu nhớ xem.
Nhanh lên để chú còn tính - Thấy con ngần ngừ Tiền cuống lên giục.
- À cháu thấy thằng Vinh lợn bạn thân của nó hôm nọ rủ cháu đi tá lả cháu không đi nó sang rủ thằng Phích. Mãi tận đêm nó mới về.
- Thằng Vinh lợn ở Xóm Đông mới cai về chứ gì?
- Vâng. Cháu thấy Chén bảo thằng Phích còn đang giục bố nó mua xe máy.
- Thế là coi như ổn.
- Chú nói ổn?
- Đúng ra là tạm ổn. Chỉ cần nhà bên kia làm đơn bãi miễn là do bố nó tự ngã là xong.
- Đúng quá rồi. Chú tài thật đấy - Vợ Tiền chồm lên hí hửng.
- Muốn nó bãi miễn thì ít nhất cũng phải năm chục.
- Năm chục triệu nữa á? - Vợ Tiền lại sụp xuống.
- Chứ sao. Bố nó không phải tự nhiên lăn quay ra chết. Cái chết này có dính dáng đến anh. Nếu cứ đằng thẳng thì kiểu gì người ta cũng khép tội anh nếu như không có giấy bãi miễn của thằng Phích. Làm luật nên tôi biết
- Chú nói phải lắm. Phải có giấy miễn của nó - Tiền nhăn nhó như đang bị đau bụng.
- Muốn tờ giấy đó, không thể nước bọt mà có. Làm thế nào để nó nhận con xe máy.
- Đưa cho nó hẳn cái xe máy? - Vợ Tiền rền rĩ .
- Làm thế nào để nó cầm hả chú? - Tiền ngước mắt lên nhìn thằng em đang diễn giải.
- Muốn thế tôi phải tính nhiều mưu kế lắm để ne thằng Phích vào thế nó phải nhận. Còn anh chị tiếc tiền không đồng ý thì tuỳ.
- Mọi sự là do tôi. Tôi là chủ gia đình tôi quyết hết. Chú thương anh chú cứ lo cho. Anh chịu hết. Không có thì nguy hiểm lắm chú ơi. Tù tội đã đành. Còn nhỡ chẳng may chuyện kia thì. Trăm sự nhờ chú. Cứu anh chứ không thì…
- Không nói nhiều. Chạy ào sang nhà cái Hợi lấy cho tao bao thuốc. Loại Thăng Long hộp sắt ấy. Tiền đây.
- Không, không. Ai lại thế. Tiền. Tiền. Bà đưa cho nó tiền đi mua cho chú. Hai hộp nhé?
- Một hộp thôi. Sau đó đi với tao.
- Phải rồi, đi với chú. Chú bảo gì cứ thế mà làm con ạ. Nhớ đấy. Sao chậm thế. Con giai con đứa. Đụn quá thôi mất. Thế thì trông cậy vào đâu được.
3. Hai chú cháu lên đến sân thượng nhà mình rồi, đợi vợi bớt nhịp thở vì leo cao, Bạc vẫy thằng cháu đến gần:
- Lên đây cho kín đáo. Thím mày nghe câu được câu chăng hỏi han lằng nhằng ra... Mày nghe thấy chưa?
Nghe gì ạ?
- Cái thằng này... Tai mắt như thế mà có lần tao định đưa mày vào công an xã thì hại quá. Nhà nó đang phục hồn rồi. Đấy, đấy. Tiếng kèn tiếng trống inh ỏi lên kìa.
- Cháu nghe thấy rồi. Chú làm công an có khác. Thính thật.
- Phục hồn tức là đêm nay nhà nó sẽ thức trắng. Mà cái làng này mày biết đấy giỗ tết, hiếu hỉ đều phải có vài ba chiếu bài bạc. Ngay như ủy ban hôm nọ đón cờ xã văn hoá của Huyện còn có hai hội tổ tôm ù loạn lên. Thế mới là có việc. Vì vậy mày đến nhà thằng Vinh lợn bảo nó đến đây.
- Nhỡ nó không có nhà thì sao ạ.
- Thì tìm bằng được chứ sao nữa.
- Ngộ nhỡ nó không đến.
- Một thằng vừa cai nghiện về mà công an xã gọi không đến, tao thách nó đấy. Mày cứ bảo nó muốn ở nhà hay lại nhập kho thì tùy.
- Nó hỏi đến làm gì thì bảo sao ạ?
- Cứ bảo nó đến, tao đã tính hết rồi. Nó đến là coi như việc bố mày, anh ruột tao coi như giải quyết được một nửa.
- Thế kia á?
- Chứ sao. Vì thế việc này rất hệ trọng mày hiểu chưa. Đi ù lên cho kịp. Giờ giấc cứ phải duýt duỳn duỵt thì mới thành công được. Kìa, đi đi còn đứng giương mắt ra nhìn làm gì nữa.
4. Chuyện thằng Vinh lợn đến nhà công an xã Bạc thế nào không thấy một dòng ghi trong bất kì giấy tờ nào của Ủy ban xã Thuỵ Liên. Chỉ biết độ khoảng quá mười giờ đêm thì thằng Vinh lợn mang một chai vang Thăng Long cùng cái phong bì đến nhà ông Ấm. Đứng trước bàn thờ, Vinh lợn bảo nó là bạn thân nhất của thằng Phích vì thế không kể đêm hôm khuya khoắt nó cũng đến phúng viếng chia buồn cùng gia đình. Bà Ấm xúc động lắm càng khóc to hơn. Vinh lợn đặt lễ viếng lên bàn thờ xong nhìn thằng Phích. Phích không biết có hiểu cái nhìn của thằng Vinh lợn không, chỉ biết nó dõng dạc bảo mẹ và em nó rằng ngày mai sẽ có nhiều việc. Thứ nhất phải tiếp họ hàng, làng xóm đến phúng điếu. Thứ hai cái chết của bố không phải bình thường chắc chắn công an sẽ hỏi han. Bây giờ nó là đàn ông duy nhất trong nhà nên mẹ với cái Chén cứ đi nghỉ để nó thức trông nom mọi việc. Bà Ấm con Chén nghe thằng Phích nói xem ra tạm yên lòng vào buồng trong nằm nghỉ cho đỡ mệt. Thấy hai mẹ con bà Ấm vào rồi, Vinh lợn mới rút ra cỗ bài còn nguyên bao bọc chuyện từ tay nọ sang tay kia.
- Từ tối tao đã biết việc trong nhà mày rồi. Đêm nay thế nào mày cũng phải thức. Là con trai, đàn ông phải đứng đầu mọi việc nhưng thức suông dễ buồn ngủ. Mà nhà có đám ma, đám cưới đều phải có bài bạc.
- Dĩ nhiên rồi. Tao cũng đã tính nhưng khổ nỗi mọi việc toàn rơi vào đầu đâm lú. Không có chiếu bài bạc thì nhà có đám lạnh lẽo, thiếu không khí. May mày đến. Nhưng chỉ có hai thằng mình thì sao đủ cỗ
- Bạn bè chỉ giúp nhau lúc này thôi. Mày yên tâm đi tao đã bảo thằng Lâm nghẹo, Tín rỗ đi khua chúng nó rồi.
Ông nhạc hiếu nghe câu được câu chăng choàng dậy cao giọng: Bạn bè nào khác tao khang. Nghĩa tình đâu kể bạc vàng thiệt hơn…
- Ừ. Đông cho đỡ trống trải. Tao không ngờ... - Phích nghiến răng hất hàm sang nhà ông Tiền - Chỉ sáng mai thôi thế nào công an huyện cũng về, tao sẽ tố cho lão ta vào tù mọt gông, có khi còn bị dựa cột ấy chứ.
- Nhưng tao thấy chúng nó bảo thằng Vàng với con Chén nhà mày...
- Lúc nãy tao đã ra tuyên bố rồi. Cắt, cắt ngay không thương tiếc gì. Chẳng yêu đương, bè bạn gì hết…
- Dù sao cũng là hàng xóm với nhau.
- Hàng xóm cái con mẹ gì. Chúng nó là đồ dã man. Bố tao hiền lành như thế mà... Ông già chỉ nói nó giảm bớt cái loa cho đỡ điếc tai. Mà nhạc nhẽo nhà nó ra cái đếch gì. Bô nây 78 cũ rích tao vứt từ đời tám hoánh. Ra điều sành điệu mở rõ to. Điếc đít.
- Ra điều sành điệu - Giọng nói khàn chen ngang, làm hai thằng giật mình quay lại. Một đám con trai lố nhố đi vào. Thằng Tín rỗ thông thạo khoát tay bảo mấy đứa đi theo đang rụt rè trước cửa bước vào.
Chúng mày vái đi cho phải phép đã.
Cả bọn nhốn nháo đứng trước lĩnh cữu vái dài. Giọng thướng dẻo quẹo tuy hơi khàn lại vổng lên cùng tiếng phách tay giòn tan: Nghĩa tình là cái tỉnh tinh. Cơm no ấm cật phận mình phận ta... Nghe câu thướng Lâm ngẹo chưa hạ hết tay đã dẩu mồm gật gù khen:
- Ý nghĩa lắm. Nhưng mà này bài mới chứ. Bài cũ tao không chơi đâu.
- Mày nhìn cho kĩ đi. Chưa bóc tem nhé.
- Chúng mày sẵn hai thằng, bọn tao ba. Chia đôi thì thiếu, một thì thừa. Thôi trước mắt cứ cụm lại một đám đi, sau thêm người thì tính.
- Tao cũng nghĩ thế. Chúng mày ngồi xuống đi.
Thằng Vinh lợn cố tình nghiêng người về phía thằng Phích. Ngay lúc đó nó đưa tay nhét một vật gì đấy vào túi quần thằng này. Khi thẳng lưng nó nói to:
- Đúng vị trí chưa. Pha ấm chè đặc vào.
- Thôi cho chai rượu với mấy củ lạc lấy khí thế. Nhà có đám thiếu gì rượu.
5. Nhà có tang vào khuya chết lặng. Mấy ông trong bạn nhạc hiếu ôm đàn, trống, xênh phách ngả nghiêng thiêm thiếp, thỉnh thoảng một ông lại gật quá choàng tỉnh dậy, nhìn quanh, tay gõ vào đùi cao giọng khê nồng hát câu thướng: Trần âm ly biệt đôi đàng. Kiếp nào mới thỏa chàng nàng gặp nhau... Đám con bạc đang lì lợm nghĩ nước nghe câu thướng cũng choàng tỉnh. Thằng Tín rỗ có tiếng trong làng là hát karaoke hay nhất cũng biết gật gù:
- Giọng này mà karaoke thì có mà hết chê. Kém gì Lam Trường đâu.
Thằng Vinh lợn liếc nhanh đồng hồ trên tường, đặt cỗ bài xuống vươn vai.
- Cứ để đấy, đừng thằng nào lấy bài vội. Tao đái cái đã.
Thấy nó đứng dậy, thằng Phích đang say bài, mặt cúi, tay chỉ:
- Phòng vệ sinh kia kìa. Đang vào cầu thì dở chứng đi, nguội mẹ nó ra.
- Tao thích ra vườn. Tức bụng đái to để mẹ với em mày nghe thấy ngượng chết.
Thằng Vinh lợn ra rồi vào đựơc một lúc thì đúng vào khi ông kéo nhị bừng tỉnh và thướng một câu: Kiếp người đành phận ba sinh. Nào ai chả muốn nghĩa tình thủy chung. Ai hay dây đứt nửa chừng. Lòng tan dạ nát biết chừng nào… Câu thướng buồn rũ chưa hết thì có tiếng quát: “Tất cả ngồi im”.
Cả chiếu bạc giật mình nhìn lên thì đã thấy công an xã Bạc quần áo nghiêm chỉnh, đầu đội mũ màu cứt ngựa mềm, xà cột da đeo chéo người, tay lăm lăm đèn pin. Đằng sau gã lố nhố bốn năm du kích:
- Cờ bạc trái phép hả. Trói cả lại dẫn ra uỷ ban.
- Tại sao lại trói. Ở làng này ông lạ gì. Ma chay cưới xin nào chả có vài chiếu tổ tôm, chắn cạ. Ngay như ủy ban hôm nọ đón cờ còn có mấy đám.
- Không xuyên tạc, nói xấu ủy ban. Anh em thi hành nhiệm vụ.
Loáng một chặp năm gã đánh bạc đã bị trói gô. Ban nhạc hiếu choàng tỉnh dụi mắt nhìn ra. Giọng thướng lại ngân nga: Than ôi cùng một kiếp người. Rồng rồng, rắn rắn cũng đời phù du…
Bạc quát to:
- Im đi, hát hò gì bây giờ nữa. Anh em khám kĩ từng người một.
Gã du kích cao gầy mắt lác thọc tay vào túi sau quần của Phích lôi ra một gói giấy ni lông gói kín lại gần Bạc chìa ra:
- Báo cáo trưởng công an xã tôi bắt được gói này chả hiểu là gì trong túi thằng Phích.
Bạc bĩu mồm chậm rãi giở gói giấy ra chìa trước mặt Phích:
- Đựơc rồi, mày bảo làng này có cưới hỏi ma chay thì phải cờ bạc. Còn thứ gì đây? Thằng Vinh lợn vừa đi cai về. Mày có kinh nghiệm tao hỏi bột này là thứ gì. Nói.
Vinh lợn run run:
- Dạ dạ, ma túy ạ.
Bạc vênh mặt lên nhìn Phích:
- Bây giờ mày tính sao. Tao có thể bỏ cho mày chuyện cờ bạc vì bố mày vừa mất nhưng việc trong người tàng trữ hê rô in thì mày nói thế nào?
- Thứ ấy không phải của tôi.
- Mày nói nghe lạ. Đồng chí Vườn lác lôi từ túi quần mày ra trước mặt mọi người mà mày chối không phải của mày. Thế thì của thằng nào ở đây. Mày nói đi - Môi Bạc cong lên, đưa mắt nhìn thằng Phích rồi đảo khắp lượt cánh đánh bạc.
Cả bọn rúm người lại nhao nhao:
- Không phải của tôi, không phải…
- Của thằng Phích.
- Chú nói thế thì oan cho con tôi quá - Hai mẹ con bà Ấm không biết dậy từ bao giờ đứng khép nép ở cửa buồng nghe thủng câu chuyện vừa nói vừa khóc.
- Thì vật chứng rành rành chứ tôi có vu oan giá họa cho nó đâu.
- Không phải của tôi. Ông đừng ngậm máu phun người.
- Ái chà, mày nói ghê đấy. Rõ ràng gói này trong túi quần sau của mày. Ba mặt một nhời, bao nhiêu người làm chứng chứ có phải mình tao đâu. Ti vi nói mãi rồi, luật pháp nhà nước qui định rõ. Mua bán, tàng trữ từ một trăm gam hê rô in trở lên là tử hình. Chỗ này tao đoán cũng không dưới một trăm gam đâu.
- Chú Bạc, chú Bạc. Mong chú cứu cháu. Cháu nó còn dại. Bố nó vừa mất xong mà lại thế này thì…
- Chuyện ấy tôi sẽ tính sau. Bây giờ tôi chỉ biết cho du kích giải hết lên ủy ban đợi sáng ra đưa lên huyện.
- Nhưng mà cháu, chúng cháu chỉ đánh bạc thì… - Lâm nghẹo lắp bắp.
- Chúng mày tao xử sau. Còn để thằng Phích lại. Bố nó vừa mất. Nghĩa tử là nghĩa tận. Luật pháp cũng phải có tình.
6. Bạc rút điếu thuốc trong hộp ra mồi một điếu lặng lẽ rít. Gã thả đến làn khói thứ ba mới thủng thẳng:
- Còn mấy ông trong ban nhạc hiếu. Chuyện đâu có đó. Nếu việc này lộ ra ngoài thì từ giờ giở đi đừng có hành nghề nữa. Nhớ chưa?
- Vâng. Vâng. Anh em chúng tôi có tai như điếc, có mắt như mù. Khóc than thế nào tùy chủ. Ông cứ yên tâm.
- Tôi cấm các ông nói không phải vì thằng này mà vì danh dự của xã tôi. Xã vừa được đón cờ xã văn hoá thế mà có thằng chứa chấp hê rô in. Thế cho nên… tuy các ông là người làng trên nhưng cũng không phải xa lạ.
- Vâng, vâng bác công an cứ làm việc. Chúng tôi hiểu rồi ạ.
- Nói lời giữ lấy, trẹo khẩu đừng bảo thằng này ác - Bạc ngúc ngắc thân mình như đỡ mỏi. Rồi quay sang ba mẹ con thằng Phích đang ngơ ngác - Bà biết đấy chẳng gì tôi cùng là người làng. Con Chén tôi nghe phong thanh còn dính dáng với thằng Vàng cháu tôi.
- Giờ thì dứt khoát rồi, không yêu đương quan hệ gì hết - Phích vung đôi tay đang bị trói lên.
- Kìa con ơi ai lại nói thế.
- May có bà biết điều. Chứ tội của nó ba năm rõ mười. Cân cái chỗ này lên cũng phải một trăm gam là ít. Mà đã một trăm gam thì… còn ngót ngót cũng chung thân.
- Tôi, tôi… Đứa nào nó vu vạ, đổ oan cho tôi chứ.
- Tao có nghiệp vụ, tao sẽ điều tra sau. Còn chuyện bố mày vì vô tình ngã vào dao lúc nói chuyện với anh tao…
- Làm gì có chuyện vô tình. Bố tôi chết là do lão Tiền xô ngã.
- Thôi được rồi. Tao làm luật ở xã này hàng chục năm nay. Để tao nói cho mày nghe. Tội mày hình phạt rành rành là thế. Còn việc anh tao nếu rơi vào tình huống xấu nhất cùng lắm là ngộ sát. Tức là vì vô tình gây ra chết người. Khung hình tội này cộc đỉnh là mười năm. Gặp luật sư cãi giỏi hạ sáu bẩy năm. Cải tạo tốt ba năm được ân xá. Trong khi đó mày thì sao…
Tôi không biết. Lão Tiền giết bố tôi thì lão phải chết.
- Con ơi. Cứ để im cho chú Bạc tính. Chú nghĩ cái tình làng xóm, trong họ ngoài làng với nhau chú gỡ cho cháu.
- Thì tôi đang gỡ đây. Nhưng nó cứ bướng. Ở đây thì người làng với nhau còn nói cứng được chứ lên huyện thì người ta cứ thẳng băng xi lô. Lúc đó hối cũng không kịp.
- Vâng, vâng. Chú cứu anh cháu .
- Đấy nhé. Mẹ mày, em mày vì thương mày nên nói với tao. Tao thì hay cả nể. Mày trẻ thế này mà chết thì khổ thân mày đã đành mà bố mẹ, ông bà mày mất giống nên tao thấy rằng…. - Gã lại châm điếu thuốc hút xong ngửa cổ nhả khói. Bà Ấm nóng ruột quì xuống:
Vâng, vâng. Chú ơi. Cả họ nhà ông ấy chỉ có mình nó là đích tôn.
- Tôi ở làng tôi biết. Vậy nó muốn thoát tội hay không là do nó. Đúng là do mày đấy Phích ạ.
- Do tôi?
- Chứ sao. Mày tự quyết định số phận của mày. Chẳng những thế mày còn có lợi nữa. Mày có nghe rõ không?
- Thì ông cứ nói.
- Tao sẽ tha cho mày với điều kiện mày làm cái đơn tường thuật lại vụ việc bố mày chết. Chết như thế nào là do tao bảo cách viết xin bãi miễn. Dù sao bố mày cũng chết rồi, ngoài ra con Chén với thằng Vàng cháu tao...
- Hừ. Thế là hòa chứ gì. Ông nói dễ nghe nhỉ. Anh ông tự nhiên giết chết bố tôi.
- Mày cứ bình tĩnh. Thế mới là thương lượng dựa trên tình nghĩa người làng với nhau. Chứ đợi lên huyện. Đưa gói này vào máy phân tích ra kết quả thì tài thánh cũng chịu - Bạc ngừng một lát, hít sâu thành tiếng để lấy đà. Gã hạ giọng - Bên anh tao cũng không để mày thiệt đâu. Viết xong giấy, kí vào mày không những trắng tội mà còn được bù một cái xe máy.
- Vâng. Vâng. Mong chú tha cho cháu - Bà Ấm lại năn nỉ.
- Bà không phải xin. Do con bà hết. Thế nào thằng Phích, cho biết đi, trời sắp sáng rồi. Gói bột này là ma túy hay mì chính là do thái độ của mày.
- Xe máy cũng năm bảy đường xe máy.
- Thì một con Rim. Được chưa?
- Rim nhiều loại lắm. Rim tàu giỏi lắm 15 triệu. Bõ bèn gì.
- Thì Rim Thái. Loại ấy mới tinh cũng 45,46 rồi.
- Cộng thêm tất cả thủ tục là 50.
- Thế là mày gật đúng không? Tao sẽ chỉ dẫn mày làm đơn.
- Nhưng tôi cũng phải cầm được đồng tiền đã.
- Yên tâm. Tao là người lớn. Mày có giấy bút chưa. À đây. Tao mang sẵn đây rồi. Tao sẽ cởi trói để mày thuận tay đã. Tao sẽ sang nhà anh tao. Một lát sẽ giao đủ tiền. Được chưa?
Thằng Phích lắc lắc hai tay cho đỡ mỏi. Đôi mắt gườm gườm của nó nhìn theo tấm lưng gồ bị cắt chéo bởi đường quai túi xà cột của Bạc chìm dần vào bóng tối sắp rạng. Đúng lúc ấy có tiếng sét nổ vang, rồi mưa rũ xuống cùng tiếng gió gào quật quã. Trong tiếng gió mưa rền rĩ đó cái Chén bỗng ré lên “Bố ơi là bố. Thế là người ta bán bố rồi bố ơi”. Giọng ca chính của ban nhạc hiếu nghe tiếng cái Chén ai oán liền dập hai phách vào nhau nỉ non: Sự đời là cái chi chi. Có tiền thì chẳng việc gì không xong. Thân em phận gái má hồng. Có được tấmchồng đáng mấy đồng xu. Thầy u, xong việc thầy u. Kiếp người là mấy kiếp tu hở trời…
Ven sông
Ngày đăng: 06/11/2011 1:00:00 SA
I.
Cái xác chết trôi dạt vào ụ đá bên hông quán Chiều Mơ vào một chiều ảm đạm. Bữa đó Út không đi làm, chị Mén cũng ở nhà. Hai chị em theo đám người trong xóm rần rần kéo lên trên đê xem người ta vớt cái xác chết trôi. Bà chủ Chiều Mơ te te lại xem mặt người chết ré lên một tiếng thất thanh: “Cha mẹ ơi… con Bèo!” rồi đâm đầu chạy biến vào trong quán, từ đó đến tối cũng không thấy ló mặt ra.
Út đứng xem cứ thắc mắc rõ ràng là chị Thúy Hồng mà sao bà chủ gọi tên Bèo. Hỏi chị Mén, không thấy chị trả lời. Út dòm qua thấy mặt chị trắng bệch, mắt đỏ ngầu ầng ậc nước. Cũng phải. Chị thân với chị Hồng thế kia mà. Ngày nào đi làm chị Hồng cũng sang réo chị. Lắm lúc chị Hồng gây lộn với thằng Ki, sang ngủ nhờ, hai người cứ rúc rà rúc rích tâm tình gì đó suốt cả đêm làm Út không ngủ được, cứ lăn tới lăn lui như giường có rệp.
Út không thương cũng không ghét chị Hồng, giờ thấy chị ra nông nỗi cũng không khỏi chạnh lòng thương xót. Gương mặt chị hồng hào xinh đẹp là thế mà giờ nhợt nhạt nhăn nhúm, thấy cả mấy miếng da bong ra tím lịm bên chóp. Còn cái thân hình mướt rượt mà lắm lần Út nghe thấy đám đàn ông đầu xóm khen “thơm như múi mít” giờ phình lên, trương cứng tưởng chừng chỉ cần chọc một ngón tay vào là bục ra, xì hơi như trái bóng. Một bên khóe miệng chị ri rỉ chảy ra một dòng đỏ lét, nhớp nháp khiến cô Năm bún riêu đứng cạnh Út lấy tay che mắt thằng con trai bảy tuổi, lôi nó đi xềnh xệch: “Về! Ở đây bắt gớm, coi gì!”
Lúc hai người công an khiêng cái cáng phủ tấm ga trắng chạch đi vòng qua quán Chiều Mơ, đám khách khứa tò mò bu đen đỏ bên mấy ô cửa tre vuông vuông không hẹn mà đồng lúc nghe một cảm giác nôn ọe dâng lên ngang cổ họng.
Người chết được mang đi rồi nhưng cái mùi tanh lợm vẫn bốc lên, như đâu đó phía ngoài kia, từ sát mí con sông nước trở màu đục ngầu đỏ loét trong ánh chiều tà.
Nghe đâu bữa đó quán Chiều Mơ đổ cả mớ đồ ăn khách bỏ mứa xuống sông. Nghe đâu bà chủ bắt đám tiếp viên xịt từ đầu đến chân hết ráo mấy chai nước hoa bà mua hôm đi biên giới cũng không át nổi thứ mùi quái ác nồng nặc luồn lách lẩn quất trong bầu không khí đến cả mấy ngày.
Mấy ngày đó bà chủ Chiều Mơ nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa. Khách đến lèo tèo vài ba mống, đám tiếp viên uể oải ngồi không, xầm xì với nhau chuyện con nhỏ nhảy sông. Mấy ngày đó cũng là mấy ngày thằng Ki gườm gườm ra vô đá ghế đá bàn, mặt lừ lừ như con gấu. Đám tiếp viên vì thế lẩn như chạch. Nó ra nhà trước, cả bọn túm tụm tuốt mé sau. Nó xuống ăn cơm, đứa nào đứa nấy lẳng lặng ôm chén dạt ra sân trước. Một bữa tóm được con nhỏ đang run cầy sấy chỗ cây dừa nước nhìn ra bờ đá, nó xáng một bạt tai ná lửa chỉ vô mấy que nhang bốc khói đỏ lòe: “Gì đây? Con quỷ cái! Tụi mày dám lén ông cúng bái con đĩ chết trôi đó hả? Muốn đi theo nó đúng không!” Con nhỏ xanh lét, ngồi té bẹp trên đất, cặp đùi trắng nõn hơ hớ run rẩy sau lần váy mỏng y một cây chuối bị phạt tè ngang gốc. Thằng Ki liếm mép, lôi tắp lự con nhỏ vô cái chòi mái lá lùm xùm đổ dốc.
II.
Khuya đó Út thấy chị Mén đi làm về không được bình thường. Chị đi chân thấp chân cao, tay cầm cái bóp đầm áp chặt một bên đùi che cái gì đó. Út giả đò thở đều đều lúc chị vạch mùng thò cái đầu hăng hắc mùi nước hoa lẫn mùi bia khẽ khàng: “Ngủ rồi hả Út?”. He hé mắt ngó theo, Út thấy chị từ từ bỏ cái bóp xuống mặt bàn, chầm chậm xoay thứ chị vẫn che che giấu giấu nãy giờ dưới ánh đèn. Suýt chút nữa Út để mình bật lên tiếng kêu thảng thốt. Váy chị rách toạc một mảng dài. Phần da thịt hiện ra chi chít những vết bầm đen, vết xước móng tay kéo dài, cả những vết răng hằn tươm máu. Những vết răng còn theo đường váy rách lên cao, cao nữa…
Út nghe tiếng hai hàm răng mình trèo trẹo nghiến riệt lấy nhau. Quân độc ác. Lũ thú vật. Những đồng pôlime xanh đỏ của chúng... Tiền ư? Tiền là gì chứ?
“Tiền là tiên là phật, mày chưa nghe nói sao cưng! Tiền biến thằng ngu thành một ông hoàng, biến đứa con gái trong trắng thơ ngây thành con đĩ. Tiền giúp thằng nhỏ oe oe khát sữa như mày cùng con chị nó không chết đói ở đầu đường xó chợ, để lớn tướng được như giờ đó cưng.” - Tiếng chị Hồng lè nhè trong một cơn say lâu lắc rồi bỗng đâu trở về ong ong trong đầu Út. Cắn chặt môi, tiếng xối nước ào ào trong nhà tắm của chị Mén lẫn lộn trong tiếng nước mắt Út giọt tiếp giọt lặng lẽ rớt xuống manh chiếu cũ mèm.
Trong đêm những giọt nước sáng bật lên, trong văn vắt.
III.
Bà chủ quán Chiều Mơ rốt cuộc cũng tìm được căn nguyên của thứ mùi lạ gần cả tuần ám riết lấy quán bà. Xăm xăm đi thẳng ra đám đất rộng rinh mặt sau quán, bà chỉ tay vào một đám cỏ lách um tùm chen chúc cạnh hàng rào:
“Mày lôi mấy cái bị đen lủ khủ trỏng ra tao coi thử giống gì!”
Thằng Ki một tay bịt mũi, một tay cầm cây sào dài chọc chọc vô đám cỏ, tòng teng kéo ra một cái bịch ni lông bốc mùi tanh ói. Cây sào chọc chọc thêm vài cái nữa, cái bị toạc ra, ri rỉ xuống đất một dòng đỏ loét đỏ lơ như thứ bữa chảy ra từ miệng cái xác chết trôi.
“Gớm quá đi mày!” – Bà chủ Chiều Mơ ré lên trong lúc thằng Ki tiếp tục chọt chọt vài ba cái nữa.
“Lỡ rồi… Để coi cái gì…” – Thằng Ki mặt lạnh tanh.
Một mớ đầu cá bầy nhầy bết máu vung vãi đầy ra đất. Đám ruồi nhặng xô tới, bu đen đặc trên mấy cái miệng nhọn há hốc, mấy con mắt trắng dã lờ đờ.
“Mẹ! Con nào thằng nào chơi cái trò dơ dáy này không biết!” – Định nhổ một bãi nước bọt theo thói quen, bà chủ Chiều Mơ sực nhớ còn kẹt hai lớp khẩu trang trên miệng. Ngoay ngoảy đánh cái mông vĩ đại, bà trở vô nhà bằng mấy bước chân sầm sập nện xuống cái cầu gỗ thiết kế vòng vèo uốn lượn làm lối đi cho khách tới mấy căn nhà chói chênh chếch mép sông.
Cả khu xóm trên đê lẫn dưới đê thế là được nghe một bản giao hưởng sống động từ bà chủ Chiều Mơ ngay buổi tối ngày hôm đó. Phải công nhận giọng bà khỏe và thánh thót ngân nga được lắm cung bậc lên xuống khác nhau. Lúc rên rỉ than van làm ăn ế ẩm, phận tay yếu chân mềm nên thiên hạ lờn mặt coi thường. Lúc lanh lảnh rủa xả cả dòng cả họ đứa nào ác độc đem đầu cá tanh tưởi bỏ hàng rào độc hại quán bà bằng mùi, triệt hạ chuyện kinh doanh của bà bằng mùi. Đúng là thứ ganh ăn tức ở, thấy người ta có thì xúm vô đạp đổ cho hôi. Bà biết ra đứa nào thì không phải mình nó, mà con cái nó, cha mẹ nó bà nhận đầu xuống sông cho cá nó rỉa, cho Hà Bá kéo chân. Chửi chán, bà sai thằng Ki vác thanh thép sáng loáng dài cả thước đi vòng vòng quanh xóm. Sáng ra cột cửa ngõ nhà ai cũng hằn một vệt dài ngoằng, nhìn thấy ghê ghê.
IV
“Con mẹ Chiều Mơ dạo này trúng tà hay sao mà khuya nào cũng chửi um hết xóm!”- Ba Thợ Cạo quấy rột rột cây tăm bông trong lỗ tai, lim dim mắt trên cái ghế nệm xơ xác lòi một miếng mút to đùng.
Không ngẩng lên, Út bẻ đôi lưỡi lam bén ngót gắn vào dao cạo. Một mảng râu ria lờm xờm bong ra khỏi khuôn mặt ông khách.
“Ai biết được anh. Nghe đâu đứa nào chơi xấu liệng đầu cá vô rào nhà bả.”
“Xời. Muốn chửi đã miệng thì dựng chuyện vậy thôi. Chứ dân chòm này ai dám dây vô ổ kiến lửa đó. Ngó theo cái thân vẽ rồng vẽ rắn của thằng Ki là ai cũng rợn rồi…”
“Bởi vậy nó mới được thể. Tối qua nó xách mã tấu đánh dấu từng nhà anh thấy không? Dân chòm mình hiền nên lép nó. Em bằng được cỡ anh em chơi nó một cú biết tay.”
“Thôi thôi. Tao lạy mày lo yên ổn mà làm ăn. Ai hùng hổ gì thây kệ người ta. Nói chơi có ngày mang vạ. Lại khổ con chị mày…” – Ba Thợ Cạo chùng giọng, lom lom nhìn mặt thằng nhỏ học nghề. Mắt sáng, mày rậm, trán dồ ra cả thước. Thằng này tánh hiền hiền mà cũng ngang đến trời gầm. Lớn lên ở cái nơi cóc cắn trên đê dưới bãi này, biết nó còn được mấy ngày hiền hậu vô tư.
V.
Út theo chị Mén ra sông một đêm đứng gió. Chị đi trước, tóc thả dài đung đưa những vệt trăng đầu tháng nhạt màu. Út xách cái giỏ nhựa lẽo đẽo theo sau, nghe mùi hoa nhài thoang thoảng từ mái tóc mới gội ướt nhèm.
Út nhớ một lần lúc nhỏ nằm bên chị thật thà: “Em hổng nhớ gì về má hết. Chỉ nhớ đâu hồi đó có lần thấy má gội đầu. Tóc má thơm ơi là thơm. Thơm mùi hoa nhài đó Hai. Giờ đi đâu nghe mùi hoa nhài tự nhiên đứng lại, hít cho đã rồi đi...”. Sau bữa đó, Út thấy trong nhà tắm có thêm chai dầu gội trên nhãn để hình chùm bông nhài trắng muốt. Lần nào đi làm về chị Mén cũng gội đầu, mùi son phấn nặc nồng thay thế bằng mùi hương nhẹ nhàng, tinh khiết mà phảng phất theo giấc ngủ êm đềm của Út đến tận sớm mai. Út chỉ thích nhìn chị duy nhất mỗi sớm mai. Khi chị quấn cao mái tóc dài, cầm cây chổi quét nhà loẹt xoẹt, bộ đồ bộ chị mặc in hoa, in cả nắng lung linh.
Trăng lốm đốm mặt sông lúc chị Mén bới ra một chén cơm vung, xấp xấp lên trên ít thức ăn, đặt đôi đũa bắt ngang. Chị hướng ra mặt nước lay động bóng trăng, lầm rầm như đang nói với chính mình:
“Hồng à!... Mà không… Bèo à! Cho tao gọi mày bằng cái tên đó nghen Bèo. Xong xuôi hết nợ đời rồi, Hồng hiếc gì trả lại hết cho người ta đi mày hả. Rốt cuộc rồi Bèo cũng lại là Bèo. Bèo theo sông theo nước mà đi, để lại mình tao ngồi khóc mày như thế này sao? Mà tao đúng là điên thật. Tội gì khóc chứ hả Bèo! Ở bên kia chắc mày sung sướng hơn ở đây gấp biết nhiêu lần. Vậy nên mày mới đi. Con khờ. Đi cũng không kiếm cái áo nào đèm đẹp mặc mà đi, bữa mặc chi cái áo cũ mèm. Bọn mình có gì tốt đẹp khác ngoài mấy thứ khoác bên ngoài đó hả mậy? Vậy mà cũng không đem. Mà đã đi thì mày đi luôn đi. Theo dòng mà ra thẳng biển. Về quê mày, về với thằng chài nghèo thương mày hồi đó luôn đi. Dạt chi, neo chi lại cái chỗ khốn nạn này…”
Chị Mén quệt ngang dòng nước mắt, cúi đầu. Gió bỗng nổi. Tàn giấy đỏ âm ỉ bắt gió bùng lên rừng rực đến những mảnh cuối cùng. Rồi tao tác, tả tơi rải xuống lòng sông những mảng vụn đen đúa, còng queo.
“Về ăn với tao chén cơm đi nhé, Bèo ơi. Đúng một thất rồi. Tao đốt cho mày cả một mớ tiền, về mà lấy đem đi. Không có tiền thì ở đâu cũng bị người ta coi rẻ thôi, con khờ.”
Tiếng chị Mén vẫn rầm rì rầm lan theo gió, theo nước. Từ đám cây bụi lùm xùm phía xa xa, một hồi những tiếng lá lay động rầm rì, xạc xào đáp lại. Bỗng nhiên Út nghe cơn ớn lạnh từ đâu chạy dọc sống lưng khi những que nhang trên cát vụt đỏ bừng. Cái gương mặt phồng căng, ri rỉ máu bên khóe miệng của chị Hồng ngày càng lởn vởn qua lại dày hơn trong tâm trí.
Leo lên tới lưng chừng mấy bậc cấp dẫn lên bờ đê, một cái gì đó thoáng qua tầm mắt làm Út dừng sững lại. Rõ ràng Út vừa nhìn thấy một cái gì đó thoăn thoắt đi trên vách đê, chỗ ụ đá nhìn lên quán Chiều Mơ. Cảm giác lành lạnh sống lưng trở lại khi Út sực nhớ ra vách đê chỗ đó khá dốc, dê cừu còn leo lên leo xuống tìm lá gai ăn được, chứ con người thì… Mà ai lại mò mẫm đêm hôm làm gì ở cái chỗ vừa hôm rồi đậu một cái xác chết trôi. Cơn tò mò nổi lên át xuống cảm giác rờn rợn da thịt.
“Phải chị Hồng chắc bả cũng không nỡ nhát mình, mình với chị Hai mới cúng bả đây mà.” Tự trấn an, Út thụt lùi từng bước nhè nhẹ sau lưng chị Mén, rồi co giò chạy biến vào bóng tối dưới bờ đê.
VI.
Bà chủ quán Chiều Mơ tất tả bươn ra bãi đất sát hàng rào đã thấy thằng Ki đang dí một cái đầu đen đen xuống đất bằng đôi cánh tay hộ pháp. Cái thân hình tiếp sau đó vẫn liên tục choài đạp, vẫy vùng mãi đến lúc thằng Ki cho luôn mấy cú đá thúc mạng sườn mạnh thấu trời. Thằng xỏ lá vậy là nằm bẹp, người cong lên như con tôm, ư ử tiếng rên đau đớn. Mấy ánh đèn pin nhá lên. Bà chủ Chiều Mơ thốt một tiếng nghiến răng trèo trẹo: “Cha nó! Thằng Út em con Mén đây mà…”
Một tay ghì mặt thằng nhỏ oặt èo như cọng bún ra dưới ánh đèn, thằng Ki giơ tay còn lại táng bôm bốp vào khuôn mặt bé choắt đang tái hẳn đi.
“Thằng chó! Thằng chó! To gan cóc hả mậy? Dám đem đầu cá làm thúi quán ông hả mậy? Mày tới số rồi con.”
Thêm mấy cú thoi bằng cái nắm tay cứng như sắt trút xuống tấm thân hình gầy tong, để rớt ra mấy tiếng thều thào:
“Không… Không phải tui mà…”
“Láo! Không mày chớ ai? Tao bắt tận mặt mày đang rình rập cạnh hàng rào mà còn chối hả, thằng chó!”
Chuỗi đấm đá sắp liên tục tiếp thì một bóng người đầu tóc xấp xõa từ trong nhà lao ra, ôm chầm lấy bắp chân lông lá của thằng Ki:
“Đừng! Đừng đánh nữa. Đừng đánh nữa mà… Em xin anh… Em lạy anh…! Không phải nó đâu mà..”
Bà chủ Chiều Mơ nhảy dựng trên đôi chân ngắn ngủn, xia xỉa những móng tay đỏ chót vào trán đứa con gái đang lăn lê bò ra đất khóc ỉ ôi, bà quẳng về phía thằng Ki cái nhìn gớm chết:
“Xử sao cho được. Tùy mày.”
Buông thằng nhỏ chỉ còn là một cọng bún mềm nhũn ra đất, thằng Ki cúi xuống, nhè hàm răng vàng ệch khói thuốc nhăn nhở cười với miếng thịt mơn mởn đầm đìa nước mắt:
“Bữa một lần chưa đã. Nhớ anh dẫn xác tới nữa đúng không cưng?”.
Nó chồm xuống giật phắt mẩu áo hai dây mỏng mảnh, xé bung luôn cái váy ngắn cũn cỡn.
Bà chủ Chiều Mơ cười khẩy ngó con tiếp viên bị đè nghiến ra đất. Đồ thân lừa ưa nặng.
Ung dung, đắc ý bà quay lại trong bếp, dặn đám nấu nướng coi lại nồi ba ba hầm. Có lão khách Việt Kiều khoán trắng khoản này cả nửa tháng nay để tăng cường sinh lực.
Ngoài mé vườn vẫn hồng hộc, lồng lộn tiếng thằng Ki xen lẫn giữa những âm thanh rên xiết oằn oại đứt khúc.
Không ai biết có một đôi mắt đang hằn lên, ngầu đỏ vằn vện những đường gân máu. Và một bàn tay quắp lại thành một nắm đấm siết chặt, run run.
VII.
Chớm trưa.
Ba Thợ Cạo hớt hải dộng rầm rầm lên cánh cửa khép.
“Tiêu… tiêu rồi. Thằng Út giết người rồi cô Mén ơi!”
Một tiếng gì rơi xoảng trong nhà. Rồi cái mặt tái xanh tái xám của Mén thò ra, ngó Ba Thợ Cạo:
“Giết người… Ai?...”
“Thằng Út! Thằng Út nó đâm chết thằng Ki bên Chiều Mơ rồi. Cô lẹ qua mà…”
Không đợi nghe hết câu Mén vụt lao ra đường cái.
Trời đương nắng. Nắng chòng chành lay lắc trên mấy ngọn cây xanh mướt dưới chân đê. Dòng sông hứng nắng, miên man chở những hạt vàng lấp lánh vòng vèo uốn khúc qua một khoảng đê giờ bu đông nghẹt, lố nhố những đầu người.
Nắng túa nhòe mặt đường dưới chân Mén, trước mắt Mén cả chục mặt trời chênh chếch, chói lòa. Choáng váng, xây xẩm Mén khuỵu đầu gối xuống đất. Không đau. Chỉ nghe tê dại ong ong nhập nhoạng trong đầu những tiếng người lao xao đã dường như ở rất gần.
“Sao khổ thế này cô Mén ơi!” – Ba Thợ Cạo sụt sịt vừa đỡ vừa lôi Mén lọt qua cánh cửa chăng ngang chăng dọc những hoa hòe, điện đóm của quán Chiều Mơ.
Ba bốn đứa con gái mặt bự phấn trắng ởn, le te chạy về phía Mén, thầm thì rối rít, không ra vui cũng chẳng ra buồn:
“Công an họ tìm mày ở trỏng. Bả khai hôm qua thằng chả có đánh mày mấy bợp tai.
VIII.
Mén rời đồn công an lúc đã chạng vạng. Cố đi thật nhanh trên đôi chân còn chưa thôi lập cập, Mén băng ngang qua cổng quán Chiều Mơ, vòng xuống chân đê. Cái ghế dựa i-nox sáng loáng không thấy nhắc ra để trước quán như mọi ngày. Cũng phải. Thằng người ngồi trên nó lúc trưa đã được đắp chiếu khiêng đi rồi. Còn lâu mới có đứa thế chỗ cái thằng vừa mới chết.
Nghe một đứa trong quán kể nó chết mà mắt mở trợn trừng, cái miệng hô há hốc như con cá đang quẫy nước thình lình bị một nhát bẹp đầu. Chết mà không tin nổi mà mình lại chết. Chỉ tiếc Mén đến trễ, không được coi trên cái mặt kinh tởm của nó trong lúc vật vã đau đớn, ngớp ngớp từng làn hơi ngắn ngủn ngắm sự sống trôi tuột khỏi tầm tay, nó có nghĩ đến Bèo. Đến con nhỏ đem hết vốn liếng của một đứa gái bia ôm dâng hiến cung phụng cho thằng chồng hờ bất lực, chỉ nhăm nhăm chực đè nó ra vần vò, cấu xé rồi thượng cẳng tay hạ cẳng chân cho thỏa cơn tự ái đàn ông. Đến con nhỏ thà nhảy sông chết cũng không chịu bị chồng bán cho lão Việt Kiều già làm vật thử nghiệm thứ món ăn cường dương đại bổ gì gì đó. Con nhỏ đó chắc giờ đang đứng chờ thằng người làm nó đớn đau khốn khổ đâu đó trên con đường thế giới bên kia. Mày sẽ cười vào mặt nó hả hê vui sướng hay lại ngu ngốc mà ủ dột khóc lóc vì nó hả Bèo? Mày có vì nó mà oán giận em tao… Thằng Út tội nghiệp của tao, tao sẽ làm gì với nó bây giờ. Làm sao với cuộc đời phía trước của nó bây giờ?
Đêm sụp xuống nhanh hơn nuốt một tiếng than Mén để bật ra đầu lưỡi, nuốt luôn cái dáng hình nhỏ bé chập choạng vào con đường nhỏ vòng vèo, om om tối cạnh dốc cầu.
Cả buổi trời quay vòng với mớ câu hỏi của người cán bộ điều tra có đôi mắt như thấu suốt ruột gan kẻ đối diện, Mén cố đóng kín mọi ý nghĩ về nơi ấy - cái chuồng dê cũ ẩm thấp, mục miễu của Ba Thợ Cạo.
Nửa sau chuồng đã lẩn khuất chìm lút trong đám cây cỏ, lùm bụi lan ra rậm rịt um tùm. Nhìn từ xa chỉ còn thấy mấy cái rìa mái tôn lởm chởm chìa ra phía mặt sông. Đoạn này sông vắng vì bờ dốc, mặt nước phình to ăm ắp, mùa cạn cũng sâu lút đầu người. Mấy năm trước có đứa nhỏ học sinh theo bạn tắm sông hụt chân chết đuối đoạn này. Rồi năm sau nữa, mấy người đi kéo cá, kéo luôn một bàn chân người nhão nhớt. Khúc sông từ đó vắng tanh.
Chỉ có tiếng nước lọc xọc chảy qua những thanh sắt đóng kè ngăn lở đất vọng theo tiếng gọi Mén thầm thì trên mấy bậc thang chuồng ọp ẹp:
“Út… Út ơi… Chị nè!”
Một ánh đèn pin chợt nháng lên, rồi cái đầu bù xù của đứa em trai Mén thò ra, lớ ngớ sau cánh cửa tôn hoen rỉ:
“Hai! Sao mà Hai biết em ở đây?”
“Anh Ba nói…”
Nắm bàn tay run rẩy chìa ra của đứa em trai, Mén đu người vào hẳn trong chuồng. Leo lét dưới ánh đèn pin vẽ một vòng cung sáng tối, hai ba vỏ chai nước khoáng rỗng nằm lăn lóc, nửa ổ bánh mì ăn dở gói trong bịch ni lông, một cái áo jean bạc màu cuộn lại như cái gối. Và… Út cảm giác lùng bùng trong đầu. Một con dao Thái Lan lưỡi thép ánh lên sáng loáng.
Không kiềm được, Mén giáng thẳng tay. Một bên má đứa em trai hằn dấu năm ngón tay thẳng đuột.
“Chị…” – Tiếng gọi sửng sốt nghẹn ngào tắt ngang cổ họng. Út đứng đó. Cứng đờ lạnh toát nhìn chị mình đổ gục xuống lớp cỏ khô bục nát, nồng mùi.
“Tại sao? Tại sao em lại đến thế này hả Út? Chị nuôi em đâu phải để em giết… người!…”
Thằng Út quỳ xuống đỡ Mén. Mén ngẩng lên và đọc được những ý nghĩ trong đầu nó. Chị! Em có thể ngoảnh mặt khi nhìn người ta dày vò chị được sao? Chị có biết vì sao em bỏ học, vì sao em theo Ba Thợ Cạo học nghề? Đó là vì em muốn kiếm tiền thật nhanh, thật nhiều tiền để chị không còn tối nào cũng phấn phấn son son đến cái động quỷ của mụ Chiều Mơ đó nữa. Không một lão già nào được sờ mó, quăng tiền vào mặt chị nữa. Không một thằng ma cô nào đánh đập hành hạ chị nữa. Chị chịu đủ rồi! Mà em cũng nhịn đủ rồi. Quá đủ rồi…
“Tại sao em lại giết… người!”, vẫn câu nói lập bập trong sợ hãi đến mê sảng, Mén dồn vào đứa em.
“Em… không giết nó. Lúc em tới nó… đã chết rồi. Em không giết người… Cũng không phải em bỏ đầu cá vào hàng ranh quán mụ Chiều Mơ… Có một người đến từ cái thuyền thúng giữa sông. Em đã theo anh ta vào tận sát rào quán... Chị có tin em không?”
Mén nhìn vào đôi mắt khẩn khoản chờ đợi của em trai. Một đôi mắt còn trong veo thế này sao lại có chi những gợn sóng tủi phận, hận thù. Không. Không thể được…
“Đi thôi!”
Đứa em trai ngơ ngác nhìn người chị vụt đứng dậy trong góc chuồng ẩm tối.
“Đi đâu chị?”
Quyết liệt, bất ngờ, người chị lôi phắt em mình ra khỏi chỗ nó chui rúc ẩn náu suốt một ngày trời.
Băng băng đi ngược dòng sông đang lặng lờ trôi về phía phố, phía những ánh đèn vàng lấp lánh, hai cái bóng – một mảnh dẻ nhỏ bé, một gầy guộc lêu nghêu dắt tay nhau, cắm cúi về chân trời trước mặt.
IX.
Người ta nói có con nhỏ tiếp viên dẫn em trai bỏ đi khỏi xóm nhà lá ven sông. Ai cũng đồn chị em nó trốn đi để chạy tội giết người. Mãi tới lúc công an còng tay một người dẫn vào quán Chiều Mơ dựng lại hiện trường, cả xóm mới hay thủ phạm đâu phải là thằng Út. Người này thấp đậm, da đen bóng nom chắc nụi. Nghe đâu cũng dân chài miệt biển. Nghe đâu người cùng làng với con nhỏ tiếp viên chết trôi dạo nọ của Chiều Mơ.
Lúc bị giải ra xe người đó cố ngoái đầu, nhìn miết về phía cái ụ đá chênh chếch trông ra mặt sông cồn cào nhịp sóng. Chắc vì vậy mà quanh ụ đá bỗng đâu trào bọt trắng đục ngầu.
Chiều Mơ quán đóng cửa luôn kể từ hôm ấy. Bà chủ nhỏng nhảnh phốp pháp còn bận ngồi gỡ lịch lâu lâu.
Và cánh cửa một ngôi nhà trong xóm bờ sông cũng khép cửa đã lâu. Ba Thợ Cạo cách đôi ba bữa lại thẫn thờ dạo qua, bâng quơ câu nói một mình:
“Chị em thằng Út bộ không về đây nữa sao ta?”
Nhà từ thiện
Ngày đăng: 04/11/2011 1:00:00 SA
Từ lúc bước chân vào phòng làm việc đến giờ, giám đốc Sửu ngồi như trời trồng. Ông thấy khó chịu trong người. Mà lại không tìm ra cớ gì để giải quyết nỗi bực dọc ấy. Mọi nhân viên văn phòng làm việc răm rắp, kỷ luật. Dưới xưởng, công nhân làm việc lại càng hăng hái hơn. Ông định gọi điện về nhà mắng vợ, nhưng bà xã ông thì còn trên cả tuyệt vời. Thế cho nên ông cứ ngồi thừ người, mặt nhăn lại, mắt lồi ra. Lý do để ông cáu thoạt nghe thì tưởng hết sức đơn giản. Hóa ra, trong một buổi họp mặt bạn bè, ông bị khích là tuy ăn nên làm ra mà chả có tí tên tuổi nào. Bạn bè cùng lứa với ông ai cũng nổi nênh, được lên đài lên báo, trả lời phỏng vấn ầm trời. Ậm ạch như ông Mão cũng được lên báo với lý do là một giám đốc rất yêu văn nghệ. Bà Thìn thì tham gia hết chương trình vui khỏe có ích lại đến nhà nông đua tài. Đến như cô Dậu, người thì ngắn một mẩu, chỉ được cái chăm chỉ, từ cô thợ may hàng xuất khẩu rồi tiến dần lên nhà tạo mẫu cũng đã là nhà tư vấn cho chương trình Làm tóc cho người hói. Còn mỗi mình ông là chẳng có tiếng tăm gì.
Thôi chết. Ông đập tay vào bàn. Sao mình không hỏi thằng Tuất trợ lý. Nó nhanh nhẹn, nhiều mưu lắm mẹo. Trừ mỗi một tật là mê gái -thật ra đó không phải là tật của đàn ông, nhưng Tuất thì chỉ mê gái có chồng nên cũng có thể gọi là tật - ngoài ra, ông Sửu rất hài lòng về trợ lý của mình.
Sau khi cố nghe một cách nghiêm túc ý định cũng như hoài bão của giám đốc Sửu, Tuất gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Làm người phải có danh, Tuất bình luận, mới lại, sếp là giám đốc của một công ty lớn, không thể mãi âm thầm trong bóng tối. Hay sếp cặp với chân dài, tha hồ lên báo. Giám đốc Sửu lắc đầu, anh không thể có lỗi với bà xã được, hơn nữa, mình đường hoàng thế này mà đi ăn theo danh tiếng của đàn bà thì nhục lắm. Thế thì anh làm thơ viết văn. Giám đốc Sửu giẫy nẩy, bao năm nay anh đoạn tuyệt với sách vở rồi, chú đừng bắt anh quay lại nữa. Thế thì khó thật. Khó thì anh mới cần đến chú, giám đốc Sửu nghiêm mặt. Tuất khẽ thở dài. Đến câu này thì trợ lý Tuất biết vấn đề đã trở nên nghiêm trọng.
Bỗng Tuất chồm dậy, đi lại xung quanh phòng, nét mặt hớn hở. Giám đốc Sửu ngạc nhiên, hôm nay cậu ta tự coi mình là Ác-si-mét hay sao. Tuất ngồi xuống, thưa anh, thế mà em không nghĩ ra. Anh vốn xuất thân từ con nhà nghèo, sau này nhờ chăm chỉ mà nên sự nghiệp lớn, nay anh phải làm từ thiện, giúp đỡ những người thiệt thòi. Vừa được tiếng lại bỏ ra chi phí không đáng kể. Giám đốc Sửu cười vang, quả thật anh đã không nhầm khi chọn chú làm trợ lý. Để em vạch kế hoạch, làm cái gì ở thời buổi này cũng phải có plan, phải có subject, Tuất hào hứng. Bây giờ mình cứ tài trợ tràn lan, vừa tốn tiền vừa không hiệu quả. Phải tìm tấm gương vượt lên số phận nào mà tài trợ, mà giúp đỡ. Tấm gương ấy lại biết làm văn làm thơ hay sáng tác nhạc nữa thì hết sẩy con bà Bẩy. Công nhận chú thông minh, giám đốc Sửu gật gù. Vậy tiến hành ngay cho anh.
*
* *
Nói là làm. Tuất nằm vắt tay lên trán một đêm, nhưng thực ra chỉ khoảng một hai giờ đồng hồ, rồi hôm sau tiến hành công việc. Anh mua vài chục tờ báo, rồi đọc hàng trăm trang web. Không tìm được một nhân vật khả dĩ nào. Bởi theo anh, nếu các nhân vật đã được giới thông tấn đào xới, thì tốt nhất là nên tránh ra. Nghĩ nát óc mà không ra một nhân vật nào đạt yêu cầu, Tuất đứng dậy, đi ra quán cà phê Tị gần nhà. Tuất hay uống ở đó, vì cà phê ngon và vì bà chủ quán đang độ tuổi sung mãn nhất mà chồng lại đi xa. Đã thế lại còn hay mặc áo mỏng đi lại liên tục làm Tuất ngồi uống cà phê mà chỉ nghĩ đến cái khác.
Đầu Tuất chồng chéo hàng chục luồng suy nghĩ khác nhau. Trời ơi, giờ đây mà có những chân dung nào bi thảm mà lại có tài thì chết với anh. Kiểu gì anh cũng tìm đến, sẽ viết hàng loạt bài trên các trang web rồi gửi cho các nhà báo, nhất là những người đã từng đến công ty anh xin quảng cáo hay quay phóng sự và luôn được anh cùng giám đốc Sửu đón tiếp nhiệt tình. Đến mức mà cần bối cảnh gì họ cũng đến, và chẳng bao giờ phải thất vọng.
Bỗng Tuất giật mình vì một tiếng rao vang, gọn Kết quả đê. Nhìn sang bên đường. Chẳng mấy khó khăn để nhận ra đó là thằng Hợi, một thằng lang thang bờ bụi. Hợi và Tuất là anh em họ, tính ra có lẽ cũng gần, khoảng năm sáu đời gì đó. Thằng Hợi nhăn nhở cười, gật đầu chào ông anh họ. Chết thật, người tài ở xung quanh ta chứ ở đâu, Tuất thiếu điều nhẩy lên vì sung sướng. Còn hơn cả Columbus tìm ra châu Mỹ, bởi ông ấy tìm ra mà có được sở hữu đâu, còn Tuất tìm ra thằng Hợi thì ngang bằng tìm ra báu vật. Thằng này về độ gầy gò thì có thể sánh vai những người chết đói, lẻo mép thì không một MC nào có thể sánh được. Từ nhỏ nó đã nổi tiếng nhanh nhẹn. Nó học hết lớp 10 rồi ra đường lơ phơ kiếm sống, không hư hỏng hẳn nhưng cũng chẳng nên người. Tuất vẫy Hợi vào, gọi cho nó ly nước. Thằng Hợi tu một hơi hết sạch, ngó đầu vào gọi thêm ly sữa chua đánh đá, quẹt miệng một cái, rồi mới hỏi lý do tại sao ông anh họ hôm nay lại quan tâm đến nó như thế.
Tuất kiên nhẫn giảng giải. Được một phần ba bài thuyết trình, thằng Hợi đưa tay ngăn lại. Thưa anh, em đã hiểu. Làm trò thì là nghề của em, anh yên tâm, có kiểm chứng rồi, đàn bà mà nghe em nói thì đến chín phần mười bỏ nhà theo em. Nói vuông thêm một câu, giá em đẹp tí nữa thì khỏi phải dặt dẹo ngoài đường, đi tuyển diễn viên ở đâu người ta cũng nhận. Tuất gật gù, anh biết khả năng của chú. Giờ chú sắm cho anh một vai. Là gì, anh cứ càng cụ thể càng tốt, thằng Hợi gật đầu. Là thế này, giờ chú dứt khoát phải là một người nghèo nhưng đầy ý chí, nghị lực. Cái này dễ, thằng Hợi gật đầu. Còn phải lạc quan. Thì anh xem, đến khổ như thế này mà có bao giờ em thèm khóc đâu. Lại phải có tâm hồn văn thơ. Cái này khó, thằng Hợi gật gù, nhưng không sao, để em chôm lại ít sổ tay thư tay ngày xưa hay gửi cho bọn đàn bà, nếu không thì em tự làm cũng được. Chú biết làm thơ à. Thằng Hợi cười, một nửa nước này dùng thơ của em đấy. Là sao, Tuất ngạc nhiên. Thằng Hợi cười ha hả, em chuyên làm thơ đề, đại loại Hôm qua nước lụt trên đê, giật mình tỉnh dậy đề về ba hai, trên đầu có một cành mai, lá rung một cái sáu hai rõ ràng. Anh yên tâm đi, em tuy ít học nhưng lại không chậm hiểu lắm. Tuất vui như mở cờ, vỗ vai Hợi, coi như chú giúp anh nhé. Hợi nhăn nhó, vâng, nhưng vụ này em biết rất khó, thôi thì ngoài tiền công, anh cho em xin tiền giữ bí mật, chứ em mà khai tồng tộc ra là mất uy tín lắm đấy. Tổ sư cái thằng du côn, Tuất chửi thầm trong bụng, sao mà nó ranh thế. Miễn là chú làm được việc, anh sẽ không để chú thiệt. Anh yên tâm đi, em lang thang ngoài đời nên phải có uy tín mới tồn tại được đến ngày hôm nay. Em chỉ nhận một phần tư, bao giờ sếp anh lên đài lên báo em mới nhận tiếp. Tuất gật đầu.
*
* *
Một chiến dịch từ thiện được Tuất tiến hành rất bài bản. Đầu tiên, Tuất mạo danh một khán giả nào đó gửi thư về chương trình từ thiện. Lá thư viết tay dài đến sáu trang giấy, thỉnh thoảng lại nhòe đi một vài chỗ do Tuất lấy nước thấm vào, ngụ ý là đến đoạn đó thì người viết cầm lòng chẳng đặng. Lá thư bắt đầu bằng văn tả cảnh, ngày mồng giêng tháng ngoái tôi gặp một người thật sự là nghèo khổ, không những thế số phận lại cực kỳ hẩm hiu, rồi tạo hóa nỡ lòng nào cướp đi của anh chân trái và tay phải, tiếp đến là dù vậy, anh vẫn vui sống, vẫn mơ một ngày nắng đẹp, tất cả được anh gửi gắm trong những vần thơ, những truyện ngắn viết từ giấy một mặt nhặt từ hàng đồng nát. Câu chuyện bi thảm đến mức khi viết xong, Tuất cũng cầm lòng không được mà phải lấy tay nhúng nước vào những đoạn cao trào. Viết xong, Tuất ngẩn ngơ mà tiếc rằng sao ngày trước không học những môn xã hội mà lại chuyển sang học kinh tế. Đến thư tay mà còn cảm động thế này, không biết mình làm thơ thì còn lấy được bao nhiêu giọt nước mắt của các cô gái trẻ nữa.
Sau hai tuần thì có hồi âm của một nữ phóng viên trẻ, mà qua giọng nói Tuất biết ngay rằng cô đang cần những chương trình gây ấn tượng mạnh để có thể vững bước trên con đường truyền thông đầy cạnh tranh. Vâng, tôi là người đã viết thư này, thật sự tôi có công việc đầy đủ thu nhập tốt nên tôi rất thương người, vâng, mời chị , tôi sẽ dẫn chị đến chỗ anh Hợi, vâng, giám đốc của tôi sẽ đi cùng, anh ấy nghe tôi kể mà khóc đến suýt phải vào bệnh viện. Sau một tràng vâng vâng dạ dạ với tốc độ nhanh như MC đám cưới, Tuất hẹn được nữ phóng viên đến tìm hiểu cuộc sống của một người khổ dưới mức cho phép, nghèo quá mức quy định.
Giám đốc Sửu rất hài lòng, làm theo lời khuyên của Tuất, sẽ tài trợ cưu mang Hợi. Thậm chí còn nhận làm anh em kết nghĩa, cho đi học nếu Hợi muốn đi học, hoặc nhận Hợi làm công nhân danh dự của công ty. Nhưng nhất nhất phải đau lòng, khóc rống lên càng tốt khi gặp phóng viên. Những giọt nước mắt của một ông giám đốc trải đời sẽ làm chương trình xúc động và tôn vinh tình người. Giám đốc Sửu bảo, từ trước đến nay anh chưa bao giờ khóc, lưu lạc ngoài đời mà nhỏ nước mắt thì làm sao đứng vững được. Tuất cáu, đây là chương trình từ thiện chứ có phải giang hồ nhà anh đâu. Thôi được rồi, anh sẽ cố. Giám đốc Sửu khóc mà nghe từ xa, người ta tưởng tiếng hú của những loài chỉ có trong truyền thuyết. Thôi được rồi, Tuất xua tay, chỉ cần mặt anh buồn rầu, đầu cúi xuống, sụt sịt như phải cảm là tốt lắm rồi.
Giám đốc Sửu hài lòng. Cơ hội để người ta biết đến đây rồi. Cần gì phải cặp với các em trẻ đẹp cho phí tiền mà quan trọng là phí nốt chỗ sức lực ít ỏi còn lại. Cần gì phải gây xì căng đan. Nổi tiếng theo cách này lại càng bền.
Anh muốn bền nữa không. Tất nhiên là có, giám đốc Sửu gật gù. Bây giờ anh kêu gọi tất cả công nhân, anh em bạn bè ai có quần áo cũ, rách nát cũng được, để em tập hợp lại. Giám đốc Sửu vỗ đùi đen đét. Diệu kế. Vậy thì trong lúc chờ đợi phóng viên họ làm chương trình về Hợi, anh em mình phải đi vùng sâu vùng xa một chuyến. Em đã liên lạc được với người ta rồi. Trường này nghèo, lại nằm cheo leo bên sườn đồi. Học sinh muốn đến trường phải lội qua sông qua suối. Thầy cô giáo còn tội hơn, có cô đến giờ chưa dám lấy chồng, mà vẫn yêu nghề, vẫn bám trụ với bản làng. Đáng thương lắm anh ạ. Lần này mình lên đường theo một đoàn từ thiện, trước khi làm riêng, mình phải hòa đồng với mọi người anh ạ. Giám đốc Sửu gật đầu.
Đoàn từ thiện này đúng là độc nhất vô nhị. Hơn hai chục chiếc xe hơi đời mới nối đuôi nhau đi. Đủ thành phần. Từ công ty mỳ gói đến thức ăn gia súc, từ cửa hàng mỹ phẩm đến cháo dinh dưỡng. Xe nào xe nấy gắn đủ loại cờ, đủ loại khẩu hiệu, nhìn xa y như đám rước. Đi một lúc lại dừng chân. Người thì giở laptop ra check mail, người thì chụp ảnh bằng Iphone4. Tóm lại là vui như hội.
Các thầy cô giáo nơi bản làng chưa mấy khi gặp đoàn từ thiện đông đảo hùng hậu đến như vậy, cảm động lắm. Vui lắm. Đến phát khóc. Máy ảnh chớp lia lịa. Từng nhà từ thiện lên trao quà. Người trao bùi ngùi. Người nhận cũng bùi ngùi. Cô giám đốc công ty mỳ gói tặng mỳ để các cháu học sinh ăn sáng. Ông giám đốc thức ăn gia súc thì tặng hiện vật kèm theo bài phát biểu dài đến năm trang A4 trong đó bốn trang đầu nói về tầm quan trọng của lợn trong đời sống loài người mà phần mở đầu là dẫn luận về lợn, còn trang cuối thì dành trọng tâm cho việc phát triển chăn nuôi trong trường học vùng cao.
Đến lượt giám đốc Sửu đứng lên. Ông bắt đầu bài phát biểu bằng tiếng nấc. Tôi thương các thầy cô quá. Tôi thương các cháu học sinh quá. Mặt ông nhăn lại. Nhanh như cắt, Tuất vòng ra đằng sau, ghé tai người quay phim, anh ơi quay kỹ cho em cảnh này, nói xong dúi ngay phong bì vào túi áo, rồi chạy đi rất nhanh như chưa hề có gì xảy ra. Người quay phim chĩa thẳng ống kính vào giám đốc Sửu, tay vê ngay ống kính zoom lại gần. Tôi xin được coi các cháu học sinh như con mình. Sau này cháu nào học xong, muốn vào công ty tôi làm việc, tôi sẵn sàng nhận ngay. Giám đốc Sửu nói xong, nấc thêm tiếng nữa. Hai tay run run trao gói quà cho thầy hiệu trưởng.
Anh diễn hay quá, Tuất gật gù trên đường về. Bố khỉ, sáng ăn phải cái gì mà cứ nấc liên tục chú mày ạ, giám đốc Sửu lắc đầu. Anh cứ làm thế cho em, chương trình tới là phải diễn cực kỳ sâu. Này, mấy tay kia họ tặng mỳ gói cho trường, không biết mỳ đã mốc chưa nhỉ, giám đốc Sửu băn khoăn. Không mốc thì cũng quá hạn anh ạ, đâu được tử tế như mình, quần áo cũ không mặc được thì còn dùng làm giẻ lau bảng. Tốt chán anh nhỉ.
*
* *
Giám đốc Sửu, trợ lý Tuất, nữ phóng viên cùng ê-kíp làm phim men theo con đường ruộng để đến túp lều thằng Hợi. Nó xiêu vẹo, tồi tàn đến mức không thể thảm hại hơn. Và đủ làm cho cô phóng viên trào lên niềm thương cảm, trời ơi thời này còn có người nghèo đến thế cơ à. Đi thêm vài bước chân, nhóm từ thiện đã nghe văng vẳng tiếng ngâm thơ sang sảng của đối tượng từ thiện. Giọng nó sang sảng, ắt hẳn là như vậy, bởi rao kết quả đê ở ngoài phố thì không thể có giọng ỏn ẻn như mấy em gái sành điệu rởm được. Quay phim đi cùng với nữ phóng viên ngay lập tức mở máy ra, tác nghiệp. Một cú máy lia từ bờ ruộng, rồi dừng lại ở túp lều để nhấn mạnh, coi như mở bài trong sách hướng dẫn tập làm văn. Tiến lại gần, tất cả những người liên quan đến dự án từ thiện nghe thấy tiếng thở dài, rồi một tràng cười, tiếp theo đó là những câu mang đầy tính cảm thán của thằng Hợi. Quay phim tiến vào, ghi cận cảnh nhân vật vượt lên số phận.
Trong lều, thằng Hợi nửa ngồi nửa nằm, một tay băng kín, đầu bù xù, một chân quắp ra phía sau. Chắc hẳn các họa sỹ thiết kế cho phim phải thán phục khi nhìn thấy nội cảnh túp lều của nó. Trên vách là một vài bắp ngô, một hai mớ rau. Dưới đất, đủ các loại cuốc xẻng, lại còn thêm một chiếc nơm úp cá mà số năm tồn tại đủ lên chức ông tính theo phong tục làng xã. Trên cái giường mà hai chân là gỗ, hai chân kê bằng gạch đặc, ngổn ngang giấy, sổ tay. Một bối cảnh thê lương, ảo não. Cộng thêm bát hương nghi ngút khói càng làm cho không khí thêm cô đặc đến tái tê lòng người.
Không để phí thời gian, Tuất đỡ Hợi dậy, nhẹ nhàng đầy vẻ thông cảm. Hôm nay anh dẫn anh Sửu và các nhà báo đến thăm chú vì biết chú là người có hoàn cảnh đặc biệt nhưng vẫn biết vượt lên số phận. Nữ phóng viên đã bắt đầu sụt sịt, phần vì thương cảm, phần vì cảnh cô sụt sịt sẽ vào hình, sẽ được khán giả cả nước theo dõi. Vâng, thằng Tuất trả lời bằng giọng hiên ngang, cảm ơn các anh các chị, như mọi người thấy đấy, ông trời bất công với em khi bắt em ở hình dạng này, lại còn giáng em làm kiếp mồ côi, nhưng không bao giờ em đầu hàng số phận, rồi ngân nga Thuyền kia còn có bến bờ, cháu đây cô độc biết nhờ cậy ai, thôi thì còn có một tay, một chân một óc ngày mai sẽ giầu. Nữ phóng viên xúc động, nhờ Hợi ngâm lại để ghi hình cho rõ hơn. Thằng Hợi gật đầu, em còn nhiều thơ lắm chị ạ, cứ sau những ngày làm việc mệt nhọc là em lại làm thơ để quên đi nỗi sầu. Và em cũng ước mơ sau này tìm được một người đồng cảnh ngộ để cùng nhau đi hết chặng đường phía trước. Rồi lại ngân nga Tin vào một ngày mai, trời mưa rồi hửng sáng, ôi nỗi buồn lai láng, chẳng ngăn nổi lòng ta. Tuất ra hiệu cho giám đốc Sửu. Tức thì, ông giám đốc ôm lấy Hợi, nức nở theo kiểu riêng của mình. Em ơi, anh cũng xuất thân từ gia đình nghèo khổ nhưng trời thương còn cho anh lành lặn, nay nhìn thấy em mà anh không cầm lòng được, nay xin được kết nghĩa anh em với em để sau này lo cho em. Vừa nói vừa đưa ra một bọc tiền bọc giấy, ở ngoài đề một trăm triệu như những tấm biển tượng trưng trong các chương trình truyền hình từ thiện khác. Không, thằng Hợi lắc đầu, em chỉ nhận tình cảm của anh, chứ em tuy tật nguyền nhưng vẫn còn chân tay, mặc dù số lượng không đủ như người ta. Thôi, chú cứ nhận đi, coi như tấm lòng của anh và anh em công nhân trong công ty. Dạ, em xin nhận, số tiền này em sẽ giữ làm kỷ niệm, sau này bao giờ không lết khỏi giường mới dám dùng đến. Nữ phóng viên xúc động quá, kéo quay phim đến phỏng vấn giám đốc Sửu. Vừa nghẹn ngào giám đốc Sửu vừa nói, tôi không thể cầm lòng được. Ngoài việc đưa tiền, tôi sẽ giúp cho anh Hợi có một tương lai ổn định. Vâng cảm ơn anh, nữ phóng viên hài lòng, rồi chỉ tay cho quay phim lấy những cảnh trời mây non nước cho đủ hình và cho đúng bài giảng cô được học trong trường điện ảnh. Quay phim quả là người biết việc, lia từ mây trời đến con cò đậu bên rặng tre, để hàm ý rằng đời Hợi cũng cô đơn lẻ loi như cánh cò kia.
Họ chia tay nhau trong bùi ngùi. Và vui sướng vì ai nấy đều đạt được mục đích. Tuất dặn nữ phóng viên là thêm cho anh một dòng, mọi giúp đỡ xin gửi về số địa chỉ và số điện thoại của anh. Phòng hờ thế thôi, chứ mình cũng chẳng mong ngóng gì, thiên hạ còn ối việc phải lo. Nữ phóng viên gật đầu.
*
* *
Hơn một tuần sau, phóng sự về Hợi được phát trên truyền hình. Giám đốc Sửu xem với vẻ say mê, và đôi phút lại tự hỏi có phải mình đây không. Trên ti-vi, giám đốc Sửu oai phong, đường bệ, nhưng cũng đầy tình người với những chi tiết thật đắt. Nào là ôm chầm lấy Hợi, nào là nói trong cơn nghẹn ngào, nào là khuôn mặt đầm đìa cảm xúc. Nữ phóng viên vừa xem vừa nhận điện thoại chúc mừng của đồng nghiệp, em ơi, lâu rồi mới có một phóng sự xúc động và chân thật như thế, rồi cô chúc mừng cháu đã đặt được một chân vào con đường truyền hình. Tuất thì hài lòng ra mặt, vì chưa hết chương trình đã có người vừa gọi điện vừa sụt sùi nói tôi vừa chuyển tiền vào số tài khoản này, mong sao giúp được anh Hợi qua cơn hoạn nạn.
Gần một tháng sau, sếp giao cho nữ phóng viên làm một chương trình phỏng vấn mà ngôn ngữ bây giờ gọi là talk show về người tàn tật đầy chí ý vươn lên, đã thế lại còn biết làm thơ. Sếp còn dặn đi dặn lại là phải làm cho thật cẩn thận, vì lẽ ra anh giao cho người khác nhưng vì tin tưởng em, muốn tạo cơ hội cho em vươn lên trong nghề, nên em đừng để anh thất vọng. Khỏi phải nói nữ phóng viên vui mừng như thế nào. Hơn một năm thử việc không gây được ấn tượng gì, giờ đây cô như cá chép hóa rồng. Nhân vật của cô sẽ là anh giám đốc giàu lòng trắc ẩn và người tàn tật có tấm gương vượt khó. Để phục vụ cho chương trình, cô sẽ quay một phóng sự riêng về giám đốc Sửu, cộng thêm với phóng sự đã phát về Hợi, vậy là đủ mục phóng sự để dựng xen kẽ. Một hai tiết mục múa hát cho chương trình thêm phong phú, cái này cũng dễ. Tìm thêm một vài người để hỏi đáp, càng dễ. Vậy là coi như xong một talk show.
Vậy là nữ phóng viên lao vào cuộc. Xuống công ty làm phóng sự về giám đốc Sửu. Quay cảnh giám đốc Sửu ngồi suy tư trong phòng, Quay cảnh giám đốc Sửu xắn tay áo vào làm việc cùng công nhân. Phỏng vấn giám đốc Sửu, bối cảnh là một cánh đồng khô cạn, hàm ý là ông đang trăn trở làm sao biến ruộng đất hoang vu thành những khu công nghiệp hoành tráng. Lại thêm cảnh anh suy tư trăn trở. Thêm vào đó là cảnh ông hỏi han về tình cảnh công nhân với đôi mắt buồn xa xăm. Còn Hợi, nữ phóng viên bắt nhân vật chính phải tập ngâm thơ, thậm chí hát những bài có nội dung tươi sáng; mua cho Hợi vài bộ quần áo khác, bởi cô quan niệm đã lên hình là phải đẹp. Hợi tỏ ra là một diễn viên xuất chúng, rất ngoan ngoãn làm theo các yêu cầu của phóng viên. Đúng hơn, Hợi tỏ ra là một người biết tôn trọng luật chơi thì đúng hơn, bởi số tiền còn lại trong hợp đồng với Tuất đã nằm gọn trong túi mình từ mấy hôm trước.
Đúng ngày đúng giờ, chương trình được ghi hình. Rất cảm động. Đầy ấn tượng. Mở đầu là phóng sự về Hợi, được sửa chữa và dựng lại từ phóng sự lần trước. Đến cảnh Hợi thở hồng hộc, vứt xẻng vào góc lều rồi cắn chặt răng lại, cầm lấy cây bút, thì hai khán giả là tay trong òa lên khóc. Làm những người có mặt trong trường quay cũng khóc theo, bởi khóc cười giống như ngáp, đều rất dễ lây, nhất là trong đám đông. Rồi Hợi xuất hiện trong tiếng vỗ tay không dứt. Hợi cúi xuống chào khán giả, rồi khó nhọc ngồi vào ghế. Một người chạy ra đỡ, nhưng Hợi lắc đầu, trong mọi việc tôi đều phải cố gắng, tuy tàn tật nhưng tôi không muốn làm người bỏ đi. Lại vỗ tay. Rồi một loạt câu hỏi từ phóng viên, từ khán giả. Hợi trả lời trơn tru, đôi lúc kèm theo tiếng thở dài rồi những giọt nước mắt làm gia vị. Sau tiết mục múa hát là đến phóng sự về giám đốc Sửu. Từ một người nghèo khổ, anh đã vươn lên để có được thành công như ngày hôm nay. Cho nên anh rất thương cảm với những người thiệt thòi mà giàu ý chí. Hết phóng sự, tiếng vỗ tay rầm rộ làm vị giám đốc này cũng tưởng mình là ngôi sao, ngồi xuống rất kiểu cách, khoa chân múa tay cũng rất đúng điệu. Nữ phóng viên hỏi, anh có tiếp tục làm từ thiện nữa không? Vâng, giám đốc Sửu trả lời, tôi có quan niệm rằng hạnh phúc là mang lại hạnh phúc cho người khác, nên tôi sẽ tiếp tục. Lại vỗ tay. Xen kẽ vào là màn múa hát, lần này là hip-hop cho thay đổi không khí. Một bài hát viết riêng cho chương trình. Phía trước nhóm nhảy, một nam thanh niên mặc quần thụng áo phông đầu đội mũ len mặc dù trần của trường quay không hề dột. Vừa nhảy vừa hát Dù tôi có hoàn cảnh như thế nào tôi vẫn luôn luôn tự hào ứ ự là tôi đã cố gắng đứng lên không bao giờ nhìn về hai bên ứ hự bạn ơi ú ù u. Tặng hoa. Ôm hôn. Nữ phóng viên tự hào lắm. Người lâng lâng. Nhẹ bỗng. Cô bắt đầu mơ đến những viễn cảnh huy hoàng hơn.
*
* *
Nữ phóng viên thì đã được nhận vào biên chế, và được nhận nhiều chương trình màu mỡ hơn, quan trọng hơn. Nhiều đến nỗi chị bắt đầu nhập khẩu một đức tính được gọi là kiêu ngạo, chỉ lựa chọn những gì mình thích. Giờ đây, chị cũng được báo chí để ý đến như một hiện tượng của làng báo. Công việc cũng dễ dàng hơn, do người ta nhìn chị như nhìn một nữ nhà báo có tâm, đầy lòng trắc ẩn với con người, với cuộc đời.
Tuất đã xin nghỉ việc, ngay sau khi cầm cả một nắm tiền từ thiện được gửi vào số tài khoản của mình. Chẳng việc gì phải làm thuê cho người khác khi mình có vốn liếng, mặc cho giám đốc Sửu ra sức dỗ dành.
Còn Hợi. Hình như chàng lang thang có nghề chính là rao kết quả đê vẫn đang đi khắp nơi. Có thể lúc này, chàng đang thuyết giáo ở đâu đó về ý chí vươn lên trong cuộc đời. Chỉ có mấy người biết thật sự Hợi là ai. Nhưng chẳng lẽ lại nói ra. Được lợi gì đâu cơ chứ.
Còn giám đốc Sửu, sau khi chương trình được phát sóng, ông liên tục phải tiếp các đoàn khách đến xin ông đóng góp vào quỹ từ thiện giúp đỡ người già neo đơn, trẻ mồ côi khuyết tật… Ông buốt hết cả ruột nhưng vẫn cố méo miệng cười. Chả gì mọi người cũng đã nhìn mình như một người đức cao vọng trọng, giàu có nhưng đầy lòng nhân.
Hồn ma trên sông Sài Gòn
Ngày đăng: 25/10/2011 3:12:12 CH
1.
Bến Bạch Đằng vào một buổi hoàng hôn không có ráng hồng, chỉ có mưa rây lác đác và mịn hơn thì cũng như mưa phùn. Gió lặng nên mặt sông Sài Gòn trông phẳng lỳ, trầm mặc một màu sáng đục uy nghiêm.
Trên con tàu nhà hàng COSEVINA 2, ở tầng giữa đã thiết bày một bàn tiệc nối dài suốt cả chiều ngang của con tàu. Trong khi chờ đoàn tàu cựu chiến binh Mỹ, chúng tôi ngồi nơi mấy cái ghế rời đặt sát lan can phía ngoài sông, ngắm nhìn trời nước. Ngớt mưa, mặt sông sẫm dần. Hai bên sông, nhất là ven bờ thành phố có nhiều bến cảng, những tàu thuyền ken dày, sầm uất, tuy nhiên vào buổi cuối ngày nên thảy đều đắm chìm trong tĩnh lặng. Thỉnh thoảng, một chiếc thuyền con, mui lá, chèo qua, hoặc một chiếc tam bản nhỏ, bơi bằng dầm. Mặt nước khuấy động lên chốc lát rồi lại chìm trong sâu thẳm cùng bóng đèn điện lung linh. Tự dưng, tôi quên mình đang ở chốn phồn hoa mà có cảm giác như sống lại thời tuổi thơ trên dòng sông hoang dã ở miền quê mang tên Cái Sấu. Những thằng bạn tắm truồng của tôi, chơi “cọc cạch bắt” đến mức rong đóng đầy khoé miệng, chúng đang ngụp lặn, bơi lội táo tác tìm tôi, réo gọi vang ầm cả khúc sông mà hai bên um tùm lá dừa nước cùng bóng bần, bóng gừa, bóng dừa thật sự đúng nghĩa nhất của ngôn từ sầm uất.
- Thằng Sơn trốn đâu biệt, hay chết chìm rồi, tụi bây ơi!
Đúng là giọng thằng Thu, mới 15 tuổi đã bể tiếng, khào khào như ngỗng đực. Rồi cả bọn ré lên. Giọng ngỗng đực hét:
- Mau lên bờ, quánh mõ hồi một, kêu làng xóm cứu nó!
- Tao đây! - Sợ chúng hoảng, làm thật, náo động, tôi lên tiếng. Và một bầy con nít choai choai ào ào bơi đến gần tôi. Bỗng chúng dừng hết lại, chỉ còn thấy những cái đầu tròn vo nhô lên hụp xuống, giữa mặt sông nhập nhoạng trông rùng rợn như bầy thủy quái. Trong đó có cái đầu hớt trọc, hướng hai hố mắt sâu hóm như đầu lâu nhìn thẳng vào tôi. Tôi rùng mình nhận ra cái đầu của thằng Trư. Chính giọng nó eo éo tri hô:
- Ồ! Không phải thằng Sơn của tụi mình, bây ơi! Nếu nó, sao nó không nhào xuống nhập bọn với mình?
- Tao đây mà! Mai Sơn - khỉ núi đây mà!
- Không phải! - Giọng ngỗng đực của thằng Thu gạt phắt, - Mầy mà cũng ngồi chung trên cái nhà hàng quý tộc, thượng lưu đó ư?
- Ai có tiền mua tiên cũng được mà. Tiền là tiên là Phật, là sức bật… Nhưng tao là lần đầu tiên. Tình bạn cốt tấm lòng thương tưởng, hỗ tương, gánh vác sự nghiệp cùng nhau…
- Ôi, cái thằng rô-bốt phát băng từ những lời hoa mỹ! Khi mà bè bạn đang ngụp lặn lạnh lẽo, lo âu cứu vớt sinh mạng cho mày. Cái tên cội rễ của mày đã chìm đâu trong bùn tục lụy bả lợi danh. Thảo nào mà tụi tao tìm mày khắp cõi dương gian không gặp, nên đang đi tìm mày dưới cung thủy tề…
Tâm linh tôi bỗng giật thót, vội thanh minh rằng là… là… Nhưng lũ bạn thời tắm truồng của tôi ngày càng nhao nhao hò hét, âm vang cả dòng sông đang tĩnh lặng, làm khuếch đại lên một loại âm hình kỳ dị, gây ấn tượng rùng rợn y như thuở nhỏ tôi coi thầy pháp trừ tà, khua cồn, đọc thần chú triệu âm binh thần tướng, nghe mọc ốc rùng mình, tưởng như hàng đàn, hàng lũ hồn oan, ma đói, quỉ cụt đầu từ cõi âm kéo về kêu đòi thánh thiện công minh, kêu đòi nhân quả…
Giữa hồi hoang tưởng, tôi cố gào lên biện hộ:
- Tình xưa tao không quên, tao không quên…
- Tình - xưa - không - quên… - Giọng eo éo của thằng Trư nhại lại. - Tao đánh trận Chợ Xếp hy sinh. Mày về Cái Sấu chẳng thèm đến viếng mộ tao!
Giọng thằng Thu chuyển “gam ngỗng đực” sang giọng nam trầm nghe như người lĩnh xướng khúc bi tráng trong dàn đồng ca:
- Tài năng mồ hoang - mộng mơ cỏ xanh - bước chân người đi - thềm vinh quang…
Tôi bàng hoàng thầm nhớ chuyến về Bến Tre cùng nhà văn Nguyễn Thi và họa sĩ Huỳnh Công Thu, đến Đồng Tháp Mười tôi bị vướng mìn clây-mo nằm lại. Đến bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp, Thu bị trực thăng Mỹ bắn hy sinh, nằm lại mãi mãi…
- Nè! Mấy ông bạn Mỹ đã tới đủ rồi - Một anh bạn chợt vỗ vai tôi và dẫn vào bàn tiệc.
2.
Bữa tiệc cao sang, ngốn đô, ngốn đồng, ngốn vàng dễ sợ, trong khi thực khách thì ăn uống nhỏ nhẻ, thừa mứa phát xót! Phía những ông bạn Mỹ bảo rằng: Được ăn trong những ngày ở Việt Nam, khi trở về Mỹ có thể không cần ăn mười ngày. Phía chúng tôi, trước khi đến đây đều qua bữa chiều. Trước sự “no tới cổ”, những đồ ăn thức uống thịnh soạn được bày ra, bưng vào liên tiếp, thứ lớp, bài bản, chỉ là để “dọn cảnh cho một cuộc giao đàm”. Liên tưởng thường nhật cơm rau đơn sơ ở gia đình, đối lập với bàn tiệc “sầm uất” những lon, chai, ly, cốc, tô, thố, đĩa bàn, đĩa con, bát to, chén nhỏ, tôi bỗng có cảm giác như đôi mắt lộ của thằng Thu đang mở trừng trừng nhìn đằng sau gáy, làm những gai ốc vừa mới lặn rờn rợn nổi lên. Tôi muốn ngoái nhìn thì xuất hiện hai bàn tay trắng thò ra, nghiêng chai rượu Tây màu xanh đen rót vào cái ly thủy tinh hình hoa chuông đang yên vị trước tôi, dù rượu hãy còn. Chưa kịp liếc nhìn người hầu bàn, tôi buộc phải hướng mắt giao cảm ánh nhìn của một người Mỹ ngồi đối diện, đang đăm đăm nhìn mình tự bao giờ. Đôi mắt màu nâu sáng khép bớt vẻ u hoài, tư lự, phục thiện. Đó là nhà thơ Ehrhart, một lính thủy đánh bộ trong quân đội Mỹ từng chiến đấu ở Huế. Bắt được tần số giao cảm của tôi, anh trầm ngâm một lúc rồi dè dặt hỏi:
- Cách đây hai hôm, tôi nhớ ông đã kể chuyện thằng con ông phản ứng chúng tôi?
- Vâng! - Tôi mỉm cười - Nhưng nó đã được tôi đả thông, hết phản ứng rồi.
- Quá khứ cũng nên quên đi.
- Tự nhiên nó đưa đẩy. Vả lại hôm ấy các bạn chẳng đã gợi chúng tôi bày tỏ những ấn tượng là gì? Dù không để nó chi phối, nhưng cũng không dễ gì quên được quá khứ đầy ắp ấn tượng đau thương của từng cuộc đời và những ấn tượng bi kịch của cả dân tộc.
Ehrhart nâng ly biểu đồng tình rồi để xuống:
- Cố nhiên câu chuyện của ông hôm ấy đã gây ấn tượng đậm nét trong chúng tôi.
Bởi Ehrhart trót đã gợi, tôi xin lược chuyện. Chẳng qua chúng tôi cần tăng liều an thần, hòng giải chứng “quỉ ám” đang mắc phải…
Chuyện bắt đầu từ hôm nhận bức thư đóng dấu khẩn, làm cả nhà lo lắng nên phải công khai, hóa ra biết việc mời dự hội thảo với đoàn nhà văn cựu chiến binh Mỹ, khiến Sơn Con, thằng con nhỏ của tôi nó phản ứng. Rồi từ những viện dẫn, khai thông cho con hay đúng hơn là từ cuộc đối thoại với con, ký ức tình cảm tôi bỗng sống dậy những âm hồn…
Ngôn từ hoa mỹ, tâng bốc xã giao rồi cũng theo gió thoảng, tôi tường thuật ở buổi gọi là hội thảo bằng câu chuyện từ trong nhà mình. Trước khi… tôi muốn giãi bày nguồn cơn xui nên thằng bé nó phản ứng.
Năm ấy, anh em Văn nghệ Quân giải phóng chúng tôi gồm: nhà văn Nguyễn Thi, họa sĩ Huỳnh Công Thu và tôi, mở chuyến thâm nhập chiến trường đồng bằng mà mục tiêu hấp dẫn là Bến Tre - quê hương đồng khởi. Thương nhất là Thu vừa thoát trận sốt rừng, người gầy nhom mà phải cõng trên lưng cái ba lô “xưởng họa” nặng trịch, lại cắp theo cái giá vẽ bằng các-tông, ngoài các thứ hành trang còn vác thêm cuộn giấy to bằng trái đạn 220 ly. Có lẽ cũng nên nói về tác phẩm cuối cùng của Thu. Đó là tranh bìa tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng” số 7, vẽ người mẹ trẻ đi gài chông dưới trăng treo ngọn dừa, đằng sau là thằng nhóc chưa kịp mặc quần, ôm chông chạy theo mẹ. Nhân vật trong tranh cùng họa sĩ có tình ý. Người mẫu tranh là cô y tá Hồng Đào, vóc người thon thả, tròn căng sức sống, dù cho hằng bữa cơm rừng chỉ có măng le mắm ruốc. Tiếc thay người họa sĩ tài hoa cùng mối tình mộng mơ…
Vừa ra khỏi cửa rừng Tây Ninh, chúng tôi được “chào” một trận pháo 105 ly bắn cấp tập. Nguyễn Thi người cao to, “đô” hơn cả, xớt ngang cuộn giấy trên vai Thu giục: “Nhanh chóng vượt ra vòng pháo”. Chúng tôi đêm đi, ngày ém trụ, băng qua đồng “Chó Ngáp” xuống Đồng Tháp Mười với đôi chân sưng vù trong dép râu. Địch càn, tôi vướng mìn clây-mo, bị thương. Nguyễn Thi và Thu vất vả khiêng tôi gởi trạm cứu thương của tỉnh Kiến Tường. Hai người tiếp tục chuyến đi, đầy lưu luyến. Thu khóc, động viên tôi: “Mày nằm lại, đi sau, đừng buồn!”. Sau một tháng được chăm sóc, vết thương chưa lành hẳn, tôi chõi gậy lần theo, bấy giờ mới hay Thu đã bị trực thăng Mỹ bắn chết bên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp. Nhà văn Nguyễn Thi khóc ròng cùng anh em giao liên bơi xuồng trong đêm mưa đi chôn họa sĩ Huỳnh Công Thu ở nghĩa trang Cọp rằn Núi. Được dẫn đến nơi Thu bị trúng hỏa tiễn vỡ sọ, tôi chỉ biết nhìn cỏ mẹp còn vướng máu bầm và khóc than: “Mới hôm nào mày động viên tao nằm lại đi sau. Bây giờ đến đây thì mày nằm lại mãi mãi với đất nầy!”. Hôm ấy, vì sao tôi không tìm đến nghĩa trang Cọp rằn Núi thăm mồ Thu mà lại đi luôn về Bến Tre kia chứ? Không một lý do nào có thể bào chữa cho lòng ân hận. Mãi đến sau hòa bình, nhiều lần về quê, ngang qua Mỹ Tho, tôi cũng không hề… Thảo nào, lòng ân hận ám hồn ma bóng quế, luôn đặt tôi trước vành móng ngựa của lương tri…
“Mồ còn đất mới đã làm ngơ, huống gì tình xưa!” - Giữa không gian rực rỡ ánh điện của một phòng khách sang trọng, tôi bỗng nghe âm vang ma quái tiếng cười và giọng ngỗng ồ ề - Nhát ma mầy chi tội, tao theo mầy cốt nhìn đời chơi. Từ cõi âm nhìn cõi dương, nhìn thấu tim đen. Nực cười! Con người sợ ma mà lại ham “ma lực”. Nói trắng là quyền lực. Quyền lực hấp dẫn sinh tranh giành, ganh ăn, ti tiện, vô ơn, lừa đảo, ám hại (cốt nhục cũng không từ thì tình xưa nghĩa cũ ra gì), dấn sâu hơn, sát phạt đẫm máu, diễn biến quy mô, chiến tranh giữa các cộng đồng, thậm chí xâu xé cộng đồng… Ôi quyền lực - ma lực! Nực cười! Ấy vậy mà vẫn sợ ma! Hãy nghe thiên hạ họ rủa nhau. Đồ quỷ tha ma bắt! Rồi: Hội chứng quỉ ám. Rồi: thầy phù, thầy pháp, thầy mo, cả linh mục và nhà chiêm tinh vẫn hữu dụng trên đời. Chẳng hạn bà Mac Lean, chủ bút tờ Washington đã dám đeo viên kim cương “Hy vọng” nổi tiếng xui xẻo bởi ai đeo nó đều gặp phải bất hạnh, còn bà thì đeo nó thoải mái vì nhờ một linh mục trừ tà. Nói trừ tà, ám quỉ, thực ra các thầy một mực cầu khẩn, van vái, cúng tế rất đàng hoàng, hương đăng trà quả là lẽ thường, đòi cúng con vật, thậm chí đòi tế cả con người. Chuyện huyền thoại nói ra làm gì. Ngay anh hùng Tạ Quang Tỷ, hồi nhỏ chuyên môn đi ở đợ, dám lãnh tiền tử gởi về nuôi cha, chịu cho người ta tống quái mình ra biển khơi Rạch Giá, trên con thuyền mục nát. Có lẽ ôn binh chê gầy nên tha mạng. Tỷ tấp vào Hòn Khoai, ba tháng sau đón ghe buôn về đất liền, nhưng không dám về xứ, sợ người ta đòi tiền lại, đi theo bộ đội luôn. Năm đụng với sư đoàn “Anh cả đỏ” Mỹ tại trận Căm Xe, Tỷ động viên đơn vị chiến đấu bằng một câu trở thành chân lý: “Không đánh giặc, cuộc đời chỉ còn đi ở đợ mà thôi!”. Hồn thiêng gặp hồn thiêng. Tiếng nói miền siêu âm, con người làm sao nghe được. Quá khứ có thể quên đi hận thù, nhưng những ấn tượng đau thương thì bao giờ nguôi!...”
Lúc bấy giờ, nhìn những gương mặt của đồng nghiệp từng lăn lộn chiến trường, cùng những gương mặt hôm qua là đối phương tác nhân bao thảm họa, tôi như người lên đồng, được nhập bởi những linh hồn đồng đội. Đầu lưỡi tôi đang là lời thằng Thu:
“Nhà văn Nguyễn Thi chôn trong lòng nỗi bất hạnh, dâng hiến tâm huyết cho đời, lo hạnh phúc cho đồng đội, chính là mày đó Sơn ạ! Đêm hôn lễ của mày dầm trong mưa ngâu, dầm trong tầm đạn pháo 105 ly từ tỉnh lỵ nã sang. Trong cảnh đó, Nguyễn Thi - người chủ hôn đàng trai vừa chủ lễ - điềm nhiên ngồi cắt hình chim bồ câu, cắt chữ hoa lồng tên đôi “uyên ương” trang trí trên nền tấm phông xanh. Còn thương đứt ruột là nàng Ngọc của tao. Dù chỉ mới là lời hứa, cũng coi như một kiếp thờ chồng, nàng mang khăn tang khóc tao, giữa hạnh phúc của mày! Tao vừa lau đôi mắt đỏ mọng của nàng, vừa nâng ly rượu nồng chúc bạn. Trong mưa, trong tiếng súng, các em thiếu nhi Tân Thành Bình múa ca. Ca rằng: Xã chúng em vừa có anh hùng, vừa có nhà thơ. Anh hùng Nguyễn Văn Tư, ông tổ đạo binh ong vò vẽ. Nhà thơ Lê Anh Xuân với Hoa dừa, với Dáng đứng Việt Nam. Anh hùng hy sinh đi vào thơ. Nhà thơ hy sinh đi vào lòng người… Còn Sơn, anh đi với vợ là cô Bí thư Chi bộ xã, trong đội quân tóc dài, tuần trăng mật dã chiến dưới tầm bom đạn Mỹ. Rồi anh lên rừng, chị bám đất. “Bầu tâm sự” trải 9 tháng 10 ngày trong ác liệt chiến tranh. Ngày bé chào đời, bom dội. Mẹ bồng con đỏ xuống hầm, đưa lưng ra che đạn…”.
- Thôi, tóm đi! - Ở sau lưng tôi ai đang giục.
- Miệng lưỡi tôi bây giờ là của hồn thiêng đồng đội - tôi chống chế - Như Nguyễn Thi, nhà văn trả giá đắt cho những trang viết bằng máu. Tài năng đang độ chín, một phát hỏa tiễn từ trực thăng Mỹ nổ tung, máu đẫm trên trang đời anh đang giữa chừng. Cũng như Lê Anh Xuân, Huỳnh Công Thu và hàng bao nhiêu tài hoa nữa, những con người đáng sống ấy hẳn cùng ngồi chung với chúng ta đêm nay.
- Nhưng mà khung cảnh này nói ai nghe? Người ta đang nóng về xem ti-vi truyền trực tiếp bóng đá Mundial chín mươi!
Tôi ngậm ngùi nói gọn:
- Thằng con đầu của tôi mới hai ngày tuổi đã nếm mùi bom đạn chiến tranh, hiện đã tốt nghiệp cử nhân khoa học. Lẽ ra phản ứng cuộc gặp mặt này là nó. Nhưng trái lại là thằng em, Sơn Con - tuổi hơn mười, được sinh trong hòa bình. Không ngờ nó nhỏ mà ấn tượng rất sâu những chuyện tôi vừa kể. Với vẻ bặm trợn, giọng ấm ức nó nói: “Hồi nào người ta đánh mình gây bao đau thương tang tóc cho dân tộc mình, bây giờ mình đi bắt tay người ta!”. Tôi phải khai thông, viện dẫn Mo-ri-sơn tự thiêu bên bờ sông Pô-tô-mac phản đối chiến tranh Việt Nam; kể cả một phi công Mỹ phát điên sau khi ném bom nguyên tử xuống đất Nhật, thằng bé mới dần dần nghe ra. Và tôi nhấn mạnh:
- Đó là vì quân lệnh bắt buộc.
- Không! Chúng tôi không phải bị bắt buộc mà là tự nguyện. - Ehrhart bỗng cải chính, lôi tôi trở về cuộc đàm thoại ở con tàu nhà hàng, mà tôi cố tình lập lại hầu “bào chữa” cho cá nhân người tiếp chuyện.
Với giọng rắn rỏi, Ehrhart khẳng định:
- Chính vì tự nguyện nên chúng tôi thấy mình có lỗi. Thế thì các ông không căm thù chúng tôi sao?
Câu hỏi khó, nhưng linh cảm chân thành, tôi đáp:
- Theo số liệu của Hội cựu chiến binh Mỹ mà tôi được biết: Sau chiến tranh Việt Nam, có ít nhất sáu mươi ngàn cựu chiến binh Mỹ tự sát. Đương nhiên không hẳn hầu hết đều cùng mặc cảm tội lỗi. Riêng với các bạn hôm nay, chúng tôi biết phân biệt. Tôi cho rằng cuộc gặp này, không thuần túy là gặp mặt, mà là cuộc gặp của những tâm hồn. Là nhà văn, chúng ta cùng có thiên chức hướng con người đi đến điều thiện, sự thật, và mỹ cảm. Nếu điều tôi nói, không phản lại cảm nhận chủ quan của tôi thì tôi rất vui mừng!
- Ô kê!
Mất hẳn vẻ u uẩn ban đầu, Ehrhart nhướn mày, cụng ly cùng tôi và uống cạn. Rồi có phần hứng khởi, anh lấy trong túi xách ra bài thơ được đánh máy và photocopy, ký tên tặng tôi. Bài thơ dịch sang tiếng Việt, nhan đề: “Dạy trẻ em ngoan”. Tứ thơ hàm súc, nói về thời lính mũ nồi xanh, gieo tai họa kinh khủng, để nơi ấy bây giờ người ta lôi ra làm ông ba bị (hay ông kẹ theo dân gian Nam Bộ) hòng dọa trẻ con.
Chờ tôi xem xong bài thơ, với vẻ mặt vui, Ehrhart hỏi:
- Nếu bây giờ tôi đến nhà thăm ông, con ông có đánh tôi không?
- Chẳng những không mà còn đem rượu và trái cây mời bạn. Còn mẹ nó sẽ cười vui mà nói rằng: Đạo lý Việt Nam có câu: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”.
- Cám ơn! - Đôi mắt màu nâu sáng của Ehrhart hơi khép với vẻ xúc động, tình cảm cởi mở, anh lấy ảnh vợ con ra cho tôi và mọi người xem, đưa câu chuyện trở về cuộc sống đời thường. Sau đó là cuộc trao tặng ảnh cùng ấn phẩm của nhau.
3.
Trăng rằm vằng vặc lửng lơ treo trên không trung. Đó là “ngọn đèn trời” mà tôi và thằng Thu chọn làm thời điểm cho đêm ăn tôm “tả-pí-lù” trên dòng sông Cái Sấu (dè đâu đã trở thành kỷ niệm tuổi thơ không bao giờ phai). Từ giữa chiều, hai thằng tôi đã đi chặt một ôm cần câu bằng cây sậy, tướt cọng lá dừa làm nhợ, lượm dừa chuột khoét, cạy cơm nướng làm mồi, đem cắm dài theo hai bờ sông lúc nước vừa nhửng lớn. Năm thằng “ngũ quỉ” chúng tôi, trong đó có thằng Trư được giao mỗi đứa cụ bị đem theo: đứa thì rau sống, bánh tráng mỏng, đứa thì tương ớt, soong dấm, đứa thì hỏa lò, thang đước; thằng Thu thêm cây mandoline, tôi thêm cây sáo trúc, dưới ánh trăng treo, chúng tôi cho thuyền ngược dòng nước lớn ra vàm, chơi những bản: Con thuyền không bến, Đêm đông, Thiên Thai, Lỡ chuyến đò… Khi chúng tôi quay thuyền vào thì nước lớn, chỉ việc ngồi trên thuyền, thọc vợt xuống từng cần câu tôm đã cắm sẵn, thế là vớt tôm lên, ngắt đầu, bóc võ, nhúng dấm, cuốn bánh tráng, rau sống, chấm tương ớt. Con thuyền trôi lênh đênh theo dòng. Tôm vớt lên, ăn không kịp, thả xuống cái rộng treo cặp bên mạn thuyền. Những thằng choai choai ngày ấy chưa hề bén tới mùi rượu, chớ có ba-xị-đế hồi đó thì tuyệt.
Đất nước đang lo xóa đói giảm nghèo mà hưởng thụ quá sang: tôm càng nướng nguyên con, cụng ly whisky cùng những người Mỹ - những người của đối phương hôm qua từng gieo đau thương tang tóc cho dân tộc mình! Ấn tượng chiến tranh, ấn tượng bi kịch, dù là dĩ vãng đã lùi xa hàng thế kỷ, vẫn không thể xóa nhòa…
Miếng tôm nướng tôi đang nhai bỗng trở nên khô khan, chả chẹc như một miếng bã. Không phải vì nó thiếu đồng bộ: bánh tráng, rau sống, tương ớt. Mà vì tiếng nói từ trong đôi mắt lộ của họa sĩ Huỳnh Công Thu đang rót thẳng vào tai tôi, đang chập vào tần số tâm linh tôi. Gai ốc mọc lên, tôi vội lảng tránh cập mắt lộ thật sự đầy ma lực, nhìn ra phía ngoài sông. Một cảnh tượng đột nhiên làm tôi hãi hùng. Từ ven bờ Thủ Thiêm, những đốm lửa ma trơi vàng khè đang chạy như kéo cờ về phía hạ lưu. Tôi không tin vào mắt mình, quay nhìn về bến Bạch Đằng hòng xác định vị trí thực tại, thì cũng lại thấy những đốm đỏ, đốm vàng còn xen những đốm đỏ đốm xanh, rùng rợn như ảo giác cõi âm ty! Rợn tóc gáy, tôi véo mạnh vào đùi, vừa lúc bắt gặp một ánh nhìn của đôi mắt đen nhánh trên gương mặt người Mỹ da màu. Tiếng cô phiên dịch trong trẻo cất lên:
- Tôi muốn nói chuyện cùng ông!
- Rất vui lòng - Tôi đáp, vừa định thần nhìn anh ta. Thì ra đó là nhà thơ Yusef, người đã siết chặt tay tôi sau khi nghe tôi kể chuyện về gia đình và chuyến đi trải qua ác liệt, thương vong, hôm đêm diễn ra hội thảo.
- Tôi thực sự xúc động về câu chuyện của ông đêm hôm ấy - Yusef giọng trầm sâu, từ tốn - Tuần trăng mật của ông cũng như những ngày sinh nở của vợ ông đều bị phũ phàng dưới tầm bom đạn Mỹ - Vừa nói, Yusef vừa nâng hai bàn tay đập xuống nhiều lần - Tôi càng cảm phục và thương tiếc vô cùng những đồng nghiệp của ông bị sát hại bằng bom đạn khi mà trong tay chỉ cầm bút và cọ vẽ. Dù ngày ấy chỉ là một nhân viên thông tin, tôi vẫn luôn tự thấy mình có tội. Lần này, thêm những sự kiện làm buốt nhói tim, tôi sẽ kể lại cho đồng bào tôi cảm thông hơn, cần có những hành động gì thiết thực hơn.
Vẻ mặt Yusef sẫm tối, khắc khổ, hay chính gương mặt anh vốn lúc nào cũng thế.
- Cám ơn những lời chân thành của bạn - Tôi đáp. - Nhưng bạn cũng không nên kéo dài mặc cảm tội lỗi. Như tôi đã nói, vợ con tôi, cũng như đồng bào tôi vốn giàu lòng vị tha.
- Nhưng phải nắm thằng có tóc! Muốn cứu con cóc, phải giẫm chết con rắn độc!.
- Bạn có nghe lời người chết đang nói? Người chết đã trả giá bằng cuộc sống. Không phải một mà hàng nghìn đời mới nói được lời chân lý trả về cho cuộc sống.
Chạm cốc tôi, uống cạn, vẻ mặt Yusef càng tư lự xa xăm, giọng trầm hẳn.
- Đối với tôi, đây là một chuyến đi sám hối, hầu mong hàn gắn vết thương lòng. Tôi không có được nghĩa cử như bạn tôi: bỏ lại những huân chương của Chính phủ Mỹ tặng nơi nghĩa trang liệt sĩ Việt Nam; không như Rottman đã trao trả pho tượng Phật cho dân Hóc Môn. Tôi chỉ có tấm lòng. Tôi sẽ kể và viết những điều xúc động ở Việt Nam, một đất nước đi lên từ chiến tranh, vượt qua mọi thử thách trong tình trạng bị cấm vận của Mỹ. Tôi không có tham vọng nào khác. Biết rằng, mỗi cuốn sách viết về Việt Nam, nhà xuất bản có thể trả tiền trước, có thể nuôi sống gia đình vài năm. Nhưng thôi… gia đình tôi… Nhưng thôi, xin các ông đừng có hỏi.
Trong đôi mắt u buồn trên gương mặt da màu sẫm tối ấy, tôi nhận thấy đang bừng sáng một tâm hồn đa cảm, thánh thiện. Hy vọng cảm giác không đánh lừa mình. Rồi để khẳng định không là chiêm bao, tôi quay nhìn ra sông với một nỗi ma trơi ám ảnh. Lạ lùng, đàn ma trơi vẫn còn chạy vùn vụt. Bỗng một chiếc tàu nhà hàng khác chạy ngang qua thật nhanh. Từ bên ấy vang lên khúc nhạc sôi nổi và từng đôi nam nữ quấn quýt nhau nhịp nhàng. Tôi nhận ra thực tại nhờ ai đó vừa thốt lên: COSEVINA l đang trở về bến. Chiếc mình đang chạy lên, kìa Thanh Đa, sắp qua cầu Bình Triệu nhé! Tự nực cười mình, tôi thừ ra, lặng nhìn dòng sông Sài Gòn bảng lảng trong đêm sương. Thì ra đàn ma trơi chạy lùi về hạ lưu kia là những đèn điện. Đa cảm chi cho cõi âm hốt hồn, tôi nào hay con tàu nhà hàng quý phái tự bao giờ đã nhổ neo chạy trên dòng sông diễm lệ. Hay cũng chính từ dòng sông đô hội xui tôi trở về với dòng sông hoang dã cội nguồn. Hay ngược lại, chính dòng sông Cái Sấu đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ luôn thầm gọi tôi về, luôn thầm nhắc tôi, những thằng bạn thời tắm truồng hằng tìm kiếm. Kìa, thằng Thu đang hướng đôi mắt nồng ấm nhìn tôi. Bằng giọng trữ tình thống thiết, nó phả vào cõi tâm linh tôi một luồng âm khí dựng tóc gáy:
Đỏ lừ đàn ma trơi
Buông màn đen bí ẩn
Ảo thuật tấn trò đời
Tình xưa chôn dĩ vãng
Tri âm còn bao người
Câu thơ hồn tương tri…
Anh linh chiến trường cũ
Hội tụ nguyên khí hùng
Dựng hài cốt hàng ngũ
Trống nhịp đi hành quân…
Con tàu nhà hàng đã trở về và nhẹ nhàng cập bến tự bao giờ. Bầu trời bến Bạch Đằng vẫn đầy mây mù, nhưng không mưa, tạo nên một không gian trung hòa ánh điện, tựa như đêm trắng ở miền cực bắc bán cầu. Ký ức tôi lưu động một đêm như huyền thoại, đêm hội thuyền trên dòng sông hoang dã cùng con tàu nhà hàng Cosevina trên dòng sông phồn hoa, cùng bầy tiệc “tôm”: chất liên tưởng cùng hội cùng thuyền, không chỉ cùng trên hành tinh, từng đối đầu giữa hai trận tuyến mà còn có những con người từ hành tinh khác, cừ cõi khác: cõi âm, cõi trần thế, cõi thiên đàng. Mọi người không ai có bóng, chỉ có người này là bóng của người kia: người sống, bóng của người chết và ngược lại. Mọi người đã trở lại là bạn bè không hề vương thù hận.
Trời về khuya, đêm trắng càng tĩnh lặng. Yusef mở vòng tay lực lưỡng ôm hôn từ biệt tôi, hai con người hòa một. Không ai thốt lên lời. Song lời chân tình âm vang trong đôi mắt. Tương phản màu da tôi tối, vẻ mặt hiền lành đượm buồn, đôi mắt anh bấy giờ long lanh sáng, sâu thẳm, như đang sám hối trước những hồn đau, mong hàn gắn vết thương lòng.
Bão làng
Ngày đăng: 05/10/2011 1:00:00 SA
Trong một đêm mưa tầm tã ông lẳng lặng dặn dò vợ mấy câu rồi quầy quả xách hành lý ra đi. Vợ ông dân dấn nước mắt, này anh, hay để hôm nào tạnh ráo rồi đi, mưa gió thế này…Ông cáu cẳn, thôi để tui đi, mưa đếch gì, cho đến bão cấp 12 tui cũng phải đi, chứ ở nhà để họ ăn thịt à. Vợ ông không dám nói gì thêm, đưa tay quệt nước mắt đang chảy giàn giụa trên khuôn mặt thanh tú tuy không còn trẻ nữa với đầy vẻ lo lắng. Đó là em muốn rứa, thôi thì anh đi đi, nhớ giữ gìn sức khỏe, mà này… anh cầm thêm mấy trăm phòng thân, vợ ông vừa nói vừa dúi vào tay ông mấy đồng tiền giấy. Ông nhìn vợ, giọng nhẹ hơn, khỏi cần, tui lo được, mẹ mày để đó mà chạy chợ nuôi con, này… tui đi rồi ở nhà liệu lời mà nói với họ nhé, ai hỏi cứ bảo tui đi miền Nam nhờ người giải quyết công việc, thôi tui đi. Trong ánh chớp trời nhoáng lên như muốn xé rách màn đêm đen đặc thấy mặt vợ càng u ám hơn, ông tự rủa, chỉ vì tham, vì ngu mà mình đã làm khổ bao người.
*
* *
Nói đúng ra thì đây là cuộc chạy trốn của ông Trường. Một cuộc chạy trốn mà có lẽ từ trước đến giờ ông chưa bao giờ, chưa lúc nào nghĩ tới. Làng Thanh Hà của ông, ông thương nó biết mấy. Một làng quê vừa có núi lại có biển, có sông, có cả quốc lộ 1A chạy qua, nơi “sơn thủy hữu tình” như ông vẫn thường khoe với bạn bè gần xa. Nơi này, ông đã cất tiếng khóc chào đời trên nền cát trắng vào năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Quê ông thuộc vùng tạm chiếm, lính viễn chinh Pháp lập đồn ngoài cửa sông Linh, thanh niên trai tráng một số theo du kích Việt Minh, một số (tự nguyện hoặc bị bắt buộc) “xỏ nhầm giày” Tây. Dòng họ ông cũng không thoát khỏi sự chia đôi nghiệt ngã đó, bố ông làm thợ xây góp cơm gạo cho du kích đánh giặc còn chú ông thì cầm súng Tây truy lùng Việt Minh. Tình cảnh éo le cay đắng ấy ông chưa hiểu được vì lúc đó ông còn bé nhưng những hệ lụy giăng mắc của nó thì sau này lớn lên ông Trường cũng được chứng kiến ít nhiều. Không hiếm học sinh có bố “xỏ nhầm giày” Tây dù học giỏi đến mấy cũng không được vào đại học vì bị xã phê là lý lịch không trong sạch. Anh Hoan học giỏi nhất cấp ba huyện, đủ điểm đi nước ngoài nhưng có bố là hương lý thời Pháp nên chỉ được chiếu cố đi trung cấp cơ khí. Anh Hiến thi học sinh giỏi văn cấp 3 nhất tỉnh nhưng có bố làm y tá trong quân đội Pháp nên bị xã giấu tịt giấy báo vào khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dù có những chuyện trắc tréo như thế, nhưng tức lên thì ai đó chỉ chửi trộm mấy thằng cha con mẹ cán bộ xã, bí thư chi bộ thôn thù dai như trâu đái chứ không có người nào bỏ làng mà đi bao giờ. Huống chi là ông Trường, bố mẹ ông vẫn được tiếng làm ăn lương thiện, không thù oán ai thì hỏi sao ông không yêu hết lòng cái làng Thanh Hà đẹp đẽ này được.
Tuổi thơ ông trải qua những năm tháng hòa bình thật êm ả. Bố ông vẫn làm thợ xây, tay nghề vững, nên tuy không giàu có chi vẫn được đồng ra đồng vào. Mẹ ông làm hương cúng. Hương nhà ông cháy đều, có mùi thơm ngát nên được nhiều người mua. Ngôi nhà xây đá lợp ngói tây có những ô cửa sổ mở ra phía biển chiều về thông thống gió. Tiếng ngọn phi lao vi vút ngoài vườn vọng vào tận chỗ chú bé Trường học bài. Học xong, Trường lại chạy ra sân phụ với mẹ chẻ chu hay đem hương ướt đi phơi. Tối đến, sau bữa cơm đèn quây quần cả nhà, Trường tu vội bát nước vối ở tích rồi co cẳng chạy ra bãi cỏ đầu thôn nô đùa với lũ trẻ cùng lứa. Thường là chơi trò du kích, đám trẻ chia làm hai nhóm, áo trùm đầu, bò từ hai phía lại. Ai cũng phải căng mắt ra để phát hiện lính của phía bên kia và khi đã thấy chắc chắn rồi thì hô tên của hắn lên, kiểu như Đức, nằm ngoài cùng bên trái, chết! Nếu đúng, thì đứa bị phát hiện ra sẽ chết, nghĩa là hắn không được tham gia trò chơi nữa. Trong các cuộc đánh trận giả này, Trường ít khi là người chết trước vì cậu bò rất khéo nên phía đối phương khó phát hiện ra. Cuộc sống thanh bình kéo dài chẳng được bao lâu thì chiến tranh ập đến. Máy bay Mỹ ném bom vào làng Thanh Hà. Nhà đổ, nhà cháy, người chết, người bị thương ngày một nhiều. Những đứa trẻ cùng lứa với Trường mới ngày nào còn đánh trận giả nay đã được gọi đi đánh trận thật. Học xong lớp 7, Trường cùng với hơn chục thanh niên trong làng nhập ngũ. Buổi sáng lên đường, bố Trường vỗ vai dặn, đi mô mần chi con cũng phải nhớ làm trai cho đáng nên trai nghe. Mẹ thì chẳng nói gì chỉ ôm lấy Trường nước mắt chảy dầm dề. Chiến tranh, đạn bom chết chóc, bà còn lạ gì nữa. Bà chỉ mong thằng Trường bình an trở về lấy vợ sinh con làm thợ xây như bố nó là được.
Đợt đi bộ đội ấy, phần lớn hy sinh ở chiến trường miền Nam, chỉ có Trường và một anh bạn nữa sống sót trở về nhưng cả hai đều là thương binh. Trường chỉ là thương binh hạng nhẹ, nói chung thân thể còn nguyên vẹn, thần kinh minh mẫn. Tội nhất là Đức, bị tâm thần nặng, vốn là lính đặc công nên khi lên cơn thì cởi bỏ hết áo quần dài, mặc độc mỗi chiếc xi líp lăn lê bò trườn ngoài vườn. Có lúc, Đức còn lao vào quật ngã con chó mực của nhà nuôi mà anh cứ ngỡ là béc-giê của Mỹ. Tội thân con vật hiền lành, trong đôi bàn tay siết chặt của chủ nó chỉ còn biết giãy giụa và kêu lên ư ử. Kết thúc trận tập kích tưởng tượng, trên người anh nhiều chỗ bị xây xát rớm máu. Trường thương bạn lắm nhưng chẳng biết làm gì hơn là khi Đức lên cơn thì chạy qua trông chừng nó khỏi lao ra sông Linh gần đó.
Trường nghĩ, dù sao thì mình và Đức vẫn còn may mắn hơn tất cả những người đã không trở về sau cuộc chiến. Một nửa bạn bè Trường hy sinh nhưng chưa biết hài cốt nằm ở đáy ruộng, góc rừng nào. Khi ngã xuống họ còn rất trẻ. Trẻ lắm. Chưa hề biết tình yêu trai gái là gì. Ơn trời, sau chiến tranh Trường và Đức còn được trở về nơi mình sinh ra, được tôn vinh, được yêu, rốt cuộc cũng có một gia đình ấm áp. Hiền,vợ nhà quê nhưng cũng mỏng mày hay hạt, đáy thắt lưng ong, da bồ quân hây hẩy, bạn bè vẫn khen Trường may mắn lấy được vợ xinh ngoan… Lấy nhau mười lăm năm, hai vợ chồng gây dựng được một cơ ngơi khá bề thế trong làng. Trường là ông chủ thầu xây dựng có tiếng trong vùng, ngôi nhà hai tầng đầu tiên mọc lên trên làng Thanh Hà là của vợ chồng ông. Nó nằm bên cạnh đường quốc lộ 1A nên giá trị càng cao. Hiền trở thành bà chủ của đại lý vật liệu xây dựng. Cuộc sống của hai vợ chồng và bốn đứa con, nửa nếp, nửa tẻ đã sung túc đủ đầy… Chiều chiều, ngồi hóng mát trên ban công tầng hai, nhìn ra cửa sông Linh ông hay mường tượng tới tương lai sáng sủa của con cái mình, ba mảnh đất bám đường 1A ông sẽ xây nhà cho ba đứa kinh doanh đồ điện tử, ăn uống, nhà nghỉ, riêng đứa út sẽ ở với vợ chồng ông và sẽ thay mẹ nó giữ cái đại lý vật liệu xây dựng…
*
* *
Có lẽ, hết đời mình bà Hiền vẫn không quên được cái buổi sáng dữ dằn đó. Trời chưa sáng hẳn, bà Hiền đã nghe tiếng người láo nháo ồn ào như vỡ chợ ở ngoài cửa. Tiếp đó là tiếng đấm cửa rầm rầm. Dậy, dậy, ông Trường đâu, dậy ngay! Bà Hiền biết chuyện chẳng lành đã xảy ra, người run bắn lên nhưng không có cách nào khác đành phải lên tiếng, ai đó? có việc gì không? Không có việc thì bọn tui đến tìm ông bà làm gì? Ông Trường đâu, ra đây để bầy tui nói chuyện. Tiếng người ngoài cửa vang lên gay gắt. Dạ, bà con đợi cho một chút, tui ra ngay bây giờ, giọng bà Hiền run run.
Cửa mở. Đàn ông, đàn bà chừng ba chục người ùa vào. Bà Hiền và mấy đứa con của bà sợ sệt đứng khép nép một bên. Ông Trường đi mô mà không ra tiếp bầy tui? Một người đàn ông luống tuổi hỏi. Dạ, nhà em có công chuyện ở trong Nam đi mấy hôm nay rồi, bà Hiền thỏ thẹt. Nói láo, chồng bà lừa bọn tui giờ không dám vác mặt ra chứ gì? Nói thật đi, bà giấu ông Trường ở đâu? Mấy người nhao nhao lên tiếng. Dạ, tui đâu dám nói dối bà con, chồng tui đi vắng mấy hôm nay rồi, không tin thì mọi người… Chẳng đợi bà Hiền nói hết, một thanh niên râu quai nón sấn đến bên sừng sộ, đ. mẹ, thằng Trường có cánh cũng chẳng thoát khỏi tay bọn này đâu, vào buồng lôi hắn ra đi mấy đứa bây. Đám người trẻ hơn xồng xộc đi tìm nhưng họ có ngờ đâu ông Trường đã lường trước tình cảnh này nên lặng lẽ đội mưa bão ra đi đêm qua. Bà Hiền vừa sợ vừa mừng, may quá, nếu ông Trường nghe theo lời bà chưa đi thì chắc thế nào cũng gặp họa. Không tìm thấy ông Trường đám đông đứng thừ ra, họ chưa biết làm tiếp việc gì thì người thanh niên râu quai nón đã hét lên, tui nói cho mẹ con bà biết, hai hôm nữa nếu thằng Trường chồng bà không về thì bọn tui sẽ tịch thu cái nhà này để bán trả nợ, còn bây giờ ai muốn lấy gì thì vào lấy.
Như một phản ứng tự nhiên, người ta xô đến bên mấy chiếc ti vi, tủ lạnh, xe máy, xe đạp định khênh nó đi. Một người đàn ông trạc tuổi ông Trường từ ngoài cổng bước vào, này, bỏ đồ xuống, đừng làm liều, chuyện đâu có đó… Ông Đức! Mọi người ngạc nhiên à lên. Người thanh niên râu quai nón hậm hực, việc gì tới ông mà ông xía vào. Này, anh Tôn, anh xúi bà con vào phá nhà người ta như thế mà bảo không có việc gì à? Ông Đức nhìn trân trân vào người vừa nói. Tôn cũng trừng trừng chiếu những tia nhìn lạnh sắc vào ông Đức, ông không có việc gì thì về nhà mà sờ l. vợ cho sướng chứ đừng can thiệp vào việc của bọn tui, ông có biết ông Trường đã lừa bọn tui không? Ông Đức vung tay lên nhưng lại bỏ xuống ngay, sao tui không biết, nhưng mọi việc sẽ có pháp luật giải quyết, tui nói với anh đừng ăn hiếp đàn bà con nít như thế! Mặt Tôn đỏ rần lên, ông là cái đếch gì mà dám dạy dỗ tui như thế, kệ, ông cứ đứng đó mà can, tui lấy xe máy của ông Trường về đây. Ông Đức nắm tay Tôn, nếu mày cứ làm liều thì đừng trách tao không biết điều nhé! Tôn cố giãy giụa để rút tay ra nhưng càng ngày càng bị thít chặt. Đau quá, anh ta định co đầu gối lên thúc vào hạ bộ ông Đức thì oái, bằng một cú gạt thật gọn người lính đặc công năm nào đã cho người đứng trước mặt mình nằm lăn quay dưới đất. Đến nước này thì mọi người mới sực nhớ ra người đàn ông năm mươi lăm tuổi ấy từng là lính đặc công nổi tiếng một thời. Thôi, không thể làm liều được, hắn là bạn học, bạn chiến đấu của ông Trường. Đụng vào vợ con ông Trường, hắn điên lên cho mấy chưởng thì vẹo hông. Đến chó béc giê của Mỹ mà hắn còn bóp cổ cho lè lưỡi nữa là…
Ông Đức kéo Tôn dậy, phủi bụi cho anh, ta nói với chú mày, ở đời nên lấy cái tình làm trọng, đừng cậy đông ăn hiếp chèn ép người khác, chuyện đã xảy ra rồi, thì tìm cách giải quyết cho thỏa đáng. Ông Trường hoặc ai làm sai thì pháp luật sẽ trị ông ấy, đừng để cái sẩy nẩy cái ung, nếu lúc nãy tui không ngăn chú, chú phá phách nhà người ta thì người ra vành móng ngựa trước là chú chứ không phải ông Trường đâu nhé!
Mặt Tôn từ đỏ chuyển dần sang tái, anh ta bỗng nấc lên, nhưng gần một trăm triệu đồng vay ngân hàng thì tui biết lấy đâu mà trả cho họ.
Cả đám người bật lên khóc hu hu khi nghe Tôn nói thế, trời ơi là trời, chó cắn áo rách, biết lấy tiền đâu mà trả cho ngân hàng hả trời!
*
* *
Làng Thanh Hà hơn chục năm nay diện mạo thay đổi từng ngày. Nhà ba, bốn tầng mọc lên tơi tới. Chủ nhân của nó là những người đi làm ăn, buôn bán ở nước ngoài. Những đồng ngoại tệ từ Đức, Hàn Quốc, Đài Loan, Nga... và gần đây là Anh, Mỹ chảy về làng Thanh Hà ngày càng nhiều. Những đồng tiền được đổi bằng mồ hôi, nước mắt và máu của những người lao động xuất khẩu, buôn bán hợp pháp và không hợp pháp. Chỉ có đi ra nước ngoài làm ăn mới giàu nhanh, giàu to được. Kết luận ấy được đúc rút ra từ những tòa nhà lộng lẫy sang trọng, những chiếc xe máy thời thượng, những bộ quần áo đắt tiền của vợ con người đi làm ăn ở ngoại quốc. Cũng có người thất cơ mạt vận làm ăn chẳng ra gì, đến vé máy bay hồi hương cũng phải ngửa tay xin bạn bè nhưng nhìn chung là ăn nên làm ra. Thế là, cái làng Thanh Hà xưa nay vốn chỉ biết làm ruộng, đánh cá, buôn bán lặt vặt bỗng trỗi dậy làn sóng xuất ngoại. Các đường dây đưa người đi nước ngoài làm ăn bủa ra khắp nơi với nhiều mánh lới tinh vi khác nhau. Đi bằng đường du lịch, sang bên ấy tìm cách trốn lại để buôn bán làm ăn. Đi bằng con đường xuất khẩu lao động theo chỉ tiêu của các cơ quan, doanh nghiệp. Mỗi xuất đi được tính bằng mấy chục, mấy trăm triệu đồng Việt Nam. Ban đầu thì chỉ những gia đình có máu mặt trong làng mới đủ tiền lo lót cho con em cháu chắt của mình đi. Dần dà như một hội chứng mưu sinh cả người nghèo cũng bị cuốn vào vòng xoáy hấp dẫn của nó. Không có tiền thì đem sổ đỏ nhà đất thế chấp ngân hàng để vay tiền cho con em mình đi. Giấc mơ làm giàu bằng con đường xuất khẩu lao động ám ảnh mọi người. Ở đâu, bất kể chỗ nào, cả đám ma, đám cưới người ta cũng râm ran bàn về chuyện đó. Hệ quả của nó là những người làm đường dây, bao gồm các cơ quan làm thủ tục, các doanh nghiệp, tổ chức có chỉ tiêu xuất khẩu lao động, những người môi giới tuyển chọn đều được hưởng lợi. Người dân bị bóp chẹt ngay từ vòng đầu của cuộc chơi đen đỏ này.
Ông Trường là một người nhạy bén với thời cuộc. Không bằng lòng với những gì mình đã có, ông nhảy qua làm đường dây đưa người đi làm ăn nước ngoài. Bà Hiền lo lắng khuyên, thôi anh ạ, mình già rồi, lại cũng đã có của ăn của để làm ăn buôn bán thúc thắc như thế này cũng được rồi. Ông Trường lừ mắt, thôi là thôi thế nào, tiền bạc biết mấy là đủ, bây giờ mình giàu có nhất nhì làng nhưng ít bữa nữa thì bọn đi nước ngoài nó sẽ giàu gấp mấy lần nhà mình, nó cưỡi lên cổ mình, tôi hỏi mẹ mày chịu được không. Biết tính chồng gia trưởng, đã quyết là làm, bà Hiền im lặng, thở dài. Ông Trường tìm đầu mối làm ăn. Công an. Y tế. Hải quan. Doanh nghiệp… Cửa nào có giá cửa ấy. Ở nước ngoài có những người Việt chuyên lo cho đầu ra, mỗi xuất bao nhiêu cũng đã được thỏa thuận. Làm ăn trót lọt nhiều vụ, đường dây của ông Trường càng ngày càng có uy tín trong vùng. Hình ảnh chủ thầu Nguyễn Thế Trường bị phai mờ dần trong tâm khảm mọi người và thay vào đó là hình ảnh một người làm đường dây tử tế. Số người tin cậy đến nhờ ông làm thủ tục cho con cháu đi nước ngoài ngày càng đông, không chỉ trong làng trong xã nữa mà đã lan rộng ra huyện tỉnh. Phải nói, ông là người có tâm, không bóp chẹt quá đáng người đi, lại đối xử tử tế với họ, từ việc liên hệ cho học nghề, ăn nghỉ trong thời gian chờ bay, thăm hỏi gia đình lúc ốm đau hoạn nạn… Không ít người ra đi từ đường dây của ông đã ăn nên làm ra, gia đình trở nên giàu có. Ông hồn nhiên nghĩ rằng, một phần trong động cơ đi làm đường dây của mình là muốn làng xã có nhiều người giàu lên.
Một buổi chiều mưa to, sau khi giao hết giấy tờ cho tốp đi xuất khẩu Đài Loan, đang ngồi uống cà phê trong quầy bar ở ga Hàng không Tân Sơn Nhất, ông gặp một người trung niên có dáng người dong dỏng, mặt mỏng da trắng. Qua câu chuyện, anh ta giới thiệu tên là Tấn đang làm việc cho công ty Dương Hải ở Hà Nội. Công ty của tôi đang tuyển người đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc, Tấn bảo thế. Số lượng bao nhiêu? ông Trường hỏi. Đợt đầu tiên là một trăm xuất anh ạ, Tấn trả lời trơn tru. Một trăm xuất đi Hàn Quốc, cơ hội làm ăn lớn đây, nhưng phải kiểm tra thật kỹ lưỡng kẻo ăn phải quả lừa như chơi, ông Trường nghĩ bụng. Trước khi chia tay, Tấn đưa cho ông Trường chiếc danh thiếp khá trang nhã ghi đầy đủ địa chỉ công ty và số điện thoại của anh ta. Khi nào có điều kiện bác ra Hà Nội ghé vào chỗ em chơi nhé! Tấn cười cười dặn. Sau đó mấy ngày, ông Trường ra Hà Nội và ghé thăm Tấn thật. Tấn mừng vui ra mặt và dẫn ông vào gặp giám đốc công ty mình. Người phụ nữ được Tấn giới thiệu là giám đốc đó chưa đến bốn mươi, có vẻ đẹp đoan trang. Tôi tên là Dương, rất vui được gặp anh, giọng cô rất nhẹ. Cuộc tiếp xúc ban đầu thật dễ chịu, Dương nói sơ qua về công ty mình và chốt lại ở chuyện đưa người đi lao động nước ngoài. Tiêu chuẩn 100 xuất đi Hàn Quốc lần này là do Bộ Q. bắn qua cho công ty chúng tôi đó, Dương nhấn mạnh. Đang chuyện trò, một người mang áo quần bộ đội bước vào, quân hàm màu xanh lá cây gắn ba sao hai gạch. Thượng tá. Cán bộ cao cấp. Ông Trường giơ tay ra bắt. Tấn hồ hởi giới thiệu, đây là anh Khẩn, phu quân của chị Dương. Niềm tin của ông Trường về công ty Dương Hảo được tăng dần lên từ khi anh Khẩn bước vào. Và, chuyện gì đến nó sẽ đến, nữ giám đốc Dương và ông Trường thỏa thuận với nhau về việc đưa một trăm người người đi lao động ở Hàn Quốc với giá…
Ông Trường về quê, báo tin vui. Cả làng sôi lên trong cuộc chạy đua xuất ngoại. Ông Trường đã gom đủ trăm người. Vừa đủ hai xe ca chở ra Hà Nội. Khám sức khỏe. Ký hợp đồng. Về Hải Phòng học tiếng, học nghề. Ba tháng sau. Giáp Tết nguyên đán, công ty Dương Hải gửi giấy báo về, thông báo ngày bay và yêu cầu nộp đủ tiền trước 23 tháng Chạp âm lịch, ngày Ông Táo về trời. Làng bị xới tung lên như dính bão, nhà nào có con cháu đi Hàn Quốc đợt này phải đôn đáo ngược xuôi chạy tiền nộp. Vay ngân hàng. Vay người thân. Cầm cố thế chấp nhà cửa, đất cát, đủ cả. Tối 22 tháng Chạp ông Trường vác một bao tải tiền lên xe ra Hà Nội. Tưởng rằng mọi chuyện êm xuôi, nào ngờ qua Tết mấy tháng rồi mà số đi Hàn Quốc vẫn chưa bay được. Ông Trường đến công ty hỏi thì lại được nữ giám đốc xinh đẹp trả lời, anh yên tâm, đang bị trục trặc vài khâu về phía bạn, trước sau gì cũng được bay thôi. Ông Trường về quê cũng giải thích như thế nhưng sự nghi ngờ trong bà con ngày một tăng lên. Sốt ruột, ông lại ra Hà Nội, tìm đến công ty Dương Hải thì ôi thôi, cửa đóng rèm buông, người cho thuê nhà nói rằng họ đã bỏ đi mấy hôm nay rồi. Đi đâu? Ông Trường mặt tái xanh lắp bắp hỏi. Đi đâu à, tôi làm sao mà biết được, tiền thuê nhà của tôi bọn nó cũng chưa thanh toán hết, chủ nhà cáu cặn đáp lại. Như người mất hồn, ông ngồi sụp xuống vỉa hè. Có việc gì bác đến công an hỏi thử xem sao, tiếng ông chủ nhà váng vất bên tai. Ông Trường mơ mơ tỉnh tỉnh gọi xe ôm đi đến trụ sở công an Quận.
*
* *
Tin dữ bay về làng. Những người nộp tiền cho ông Trường điên lên. Đau đớn uất ức vì bị lừa lại lo lắng sợ hãi vì bị trả thù, không có con đường nào khác ông Trường đã phải lặng lẽ bỏ làng ra đi trong đêm mưa tầm tã ấy.
Ông đi đâu, không ai biết. Bao nhiêu tin đồn về ông. Tin lành thì ít, tin dữ thì nhiều. Người ta rỉ tai nhau: ông Trường đã đi ra biển tự tử. Người khác lại bảo: ông Trường đang giúp công an truy tìm bọn lừa đảo kia.
Bà Hiền bán dần hết đất cát, đại lý vật tư xây dựng, vàng bạc… để trả một phần tiền cho bà con. Ngôi nhà hai tầng có nguy cơ cũng phải sang chủ.
Làng Thanh Hà xao xác sau cơn bão không gió
Con Tuyết
Ngày đăng: 15/08/2011 9:58:09 SA
Bà Mơ rất nghèo. Cái gọi là ngôi nhà của bà chỉ vừa đủ chỗ kê một chiếc giường tre ọp ẹp cho bà và cô Mơ nằm vào mùa đông, còn mùa hè thì cô Mơ trải chiếu nằm dưới đất, trước bàn thờ, nơi hai mẹ con hàng ngày vẫn dọn cơm ăn. Ở vùng quê này tường nhà thường đắp bằng đất thịt, người ta gọi là trình tường. Nhưng tường nhà bà lại được xếp bằng gạch, đa phần là gạch vụn, vỡ đôi, vỡ tư. Điều ấy chứng tỏ ngày xưa nó được xây bằng gạch. Tài sản to nhất là vườn mía, kết quả chăm bẵm kỳ công từ khâu chọn ngọn, giữ giống, cách làm đất, cách trồng, bóc bẹ của hai mẹ con. Đến gần Tết, heo may về, mật cô trong từng đốt đỏ tía thì đẵn mang ra chợ bán, cộng với mấy thước ruộng khoán cũng đủ gạo cho hai mẹ con ăn dè đến vụ sau. Vì mía của bà ngọt, mềm và giòn nên nó luôn là nơi để bọn trẻ con trong xóm trổ tài nghe ngóng, trinh sát, bò toài, dùng dao nhọn tiện đứt gốc, luồn ra bờ rào toàn gai tre, xương rồng mà không được phát ra một tiếng động vì nhà bà Mơ có một con chó rất khôn, cô Mơ gọi nó là Tuyết, mặc dù nó đen tuyền từ đầu đến chân - đó cũng là tài sản đáng giá của nhà bà Mơ. Con Tuyết là con chó rất đặc biệt: chưa ai nghe tiếng nó sủa bao giờ. Chính vì thế mà nó càng đáng sợ hơn. Nhà bà Mơ không có cổng. Nếu hai mẹ con đi vắng thì chỉ lôi một cành tre chắn lại nhưng chẳng ai dám vào.
Việc quan trọng nhất của con Tuyết là trông vườn mía. Nếu phát hiện có trộm thì nó cứ để mặc, lẳng lặng lẻn ra bờ rào, chỗ người đó vừa chui vào, nằm phục. Đợi đến khi tên trộm lôi mía ra, nó mới bắt quả tang bằng cách nhảy chồm lên, đè chặt người, nhe hàm răng nhọn hoắt ra ý bảo phải nằm yên, nếu manh động sẽ ăn một cái tợp vào cổ và gừ lên mấy tiếng. Thế là bà Mơ lò dò đi ra, quát yêu con Tuyết rồi dẫn tên trộm vào nhà, nếu đêm thì đốt đèn lên, róc mía cho ăn, vừa ngồi nhìn vừa thở dài. Còn con Tuyết ngồi chầu rìa cạnh bà, hết nhìn bà lại nhìn tên trộm, đôi mắt lúc mở to, lúc hấp háy, chừng như nửa hiểu, nửa không hiểu.
Cô Mơ rất đẹp. Đẹp như quả mơ đang kỳ căng hạt. Vậy mà cô chẳng chơi với ai trừ mấy đứa trẻ mà phần lớn là nạn nhân của con Tuyết ở vườn mía. Nói đúng hơn là không ai dám làm quen, làm thân với cô, phần vì cô đẹp quá, phần vì ngại cô như người xứ lạ, không bao giờ buồn, không bao giờ cáu giận với ai, gặp ai cũng cười, nụ cười khiến nhiều người, nhất là đám trai làng giật mình. Còn một lý do nữa liên quan đến bức tường được xếp bằng gạch vỡ, đó là ngày trước, hồi còn bé, nhà cô giàu, bị quy sai rồi phá sản. Chẳng ai nghĩ trong cái ngôi nhà đơn sơ ở một miền đất chiêm trũng, quanh năm chân người không bao giờ khô, lại có thể có một người con gái đẹp đến như vậy. Nhiều người thèm khát cô nhưng lại không dám gần vì tính đố kị và ghen ghét. Họ muốn cô buồn vì quá khứ của mình mà cô thì lại lúc nào cũng tươi vui. Họ muốn cô xấu xí, nhem nhuốc mà cô thì lại xinh tươi, sạch sẽ. Họ muốn cô lăng nhăng, lười biếng thì cô lại đoan trang, chăm chỉ, nết na.
Nhưng có một người “dám” yêu cô. Tuy không ai thấy cô và người ấy gặp nhau bao giờ nhưng hai người vẫn viết thư cho nhau. Và người đưa thư chính là con Tuyết. Nhà người ấy ở xa lắm, tận ngoài bờ sông, cách làng một cánh đồng. Cũng không phải nhà mà là túp lều, đủ chỗ để người ấy nằm co qua đêm và cất một cái dậm, còn cái vó thì không cần cất. “Mua về thì cất, cất rách thì vất”. Người ấy hay bảo thế. Thực ra thì người ấy cũng có nhà có cửa khá khang trang, nhưng không hiểu vì sao kể từ khi từ trại điều dưỡng thương binh về lại bỏ nhà ra ở lều?... Mỗi khi cô Mơ gọi con Tuyết đến, cho vào miệng nó mảnh giấy đã được bọc trong miếng ni-lon thì lập tức nó long nhong chạy một mạch đến túp lều ngoài bờ sông kia, nhả bức thư vào tay cho người ấy, rồi ngồi chờ người ấy có thư trả lời, lại chạy một mạch về trao tận tay cô Mơ. Cũng có hôm bị bọn trông đồng, chăn trâu quây đuổi. Nó luồn lách rồi nhảy xuống, bơi ra trốn giữa đầm. Lá thư vẫn khô nguyên trong miệng nó.
Rồi đến dạo bỗng trong nhà bà Mơ có tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Tiếng khóc ngằn ngặt suốt đêm khiến người dửng dưng đến đâu cũng sốt ruột, thương xót cho một sinh linh mới đau đớn ra đời. Nhưng cũng có người bảo: “Đáng đời! Phen này hết kiêu kỳ. Chỉ mỗi cách là chui đầu xuống đất”. Không ai trông thấy cô Mơ chửa. Hóa ra từ cái dạo được cử ra đồng trông máy bơm, cô đã lấy dây cô-roa truyền lực thắt bụng lại, giấu cái thai cho đến tận ngày sinh. Chỉ là giấu để dân làng khỏi điều ra tiếng vào chứ cô nhất quyết giữ cái thai để đẻ.
Mấy tháng sau, thằng bé thôi khóc. Mọi người lại nghe tiếng cô Mơ cười. Tiếng cười nghe giòn hơn. Tiếng cười của người được làm mẹ. Bây giờ con Tuyết còn phải kiêm thêm một việc là ngồi chồm hổm bên cạnh chiếc nôi làm bằng chiếc sảo đựng bèo, canh chừng thằng bé mỗi khi bà Mơ, cô Mơ bận.
…Rồi có một trưa hè, người lớn ra đồng gặt lúa chạy mưa. Bỗng có tiếng người la thất thanh: “Cháy! Cháy!”. Mọi người bỏ cả lúa, nháo nhác chạy về làng. “Cháy nhà bà Mơ”!. Đầu làng có người đưa hai tay lên trời la to. Bà Mơ, cô Mơ cũng chạy về. Nhưng chỉ được mấy bước, bà Mơ ngã vật xuống, miệng thều thào: “Rõ khổ thân thằng cháu tôi”. Còn cô Mơ cắm cổ chạy băng băng qua những đám ruộng đã gặt xong và chưa gặt, nhắm hướng đám cháy, để về nhà. Bàn chân cô tóe máu vì gốc rạ, mảnh sành. Cô đã bảo bà Mơ không phải ra đồng, ở nhà trông cháu. Vậy mà bà gắt: để mẹ ra gặt trước, con lừa cho cháu ngủ rồi ra gánh ù về. Thằng bé ngủ đã có con Tuyết trông.
Đến đầu ngõ, cô Mơ đổ sụp xuống. Ngôi nhà có mấy gánh rạ là lợp đủ đã cháy vèo như đống rác, chỉ còn bốn bức tường xếp bằng gạch vỡ, trong ấy có thằng bé trước đây hay khóc đêm. Có một người đàn ông bế xốc cô Mơ đang ngất lịm, đưa cô vào trong vườn mía. Mấy người xúm lại liên tay quạt và xoa bóp cho cô. Bỗng cô chồm dậy khi nghe tiếng con Tuyết. Lần đầu tiên nó sủa. Cô nhào đến thì thấy con Tuyết đang ngồi canh chừng đứa con trai của cô!. Hoá ra, trong khoảnh khắc ngọn lửa không biết từ đâu bùng lên, sắp lan đến chỗ thằng bé đang nằm ngủ, thì con Tuyết không hiểu bằng cách nào mà lôi được cái sảo đựng bèo dùng làm nôi cho thằng bé ra tận góc vườn mía?
Mọi người chuyền tay nhau bế thằng bé còn đang ngái ngủ và ha hả cười. Chưa bao giờ làng này cười nhiều, cười to đến thế. Thấy vậy, con Tuyết cũng ngếch mõm lên trời, sủa liên hồi. Không biết cái anh chàng thương binh trong cái lều nơi mom sông kia có biết chuyện gì vô cùng trọng đại với anh vừa xảy ra không?
Con cá ước mơ
Ngày đăng: 09/07/2011 7:00:00 SA
Chạy chữa đã hai năm, nhà lâm cảnh nghèo túng cùng cực, nhưng phổi bà Lâm vợ lão Túc, vẫn ung thư tan tành. Tử thần lừng lững trước mặt, không gì ngăn được.
Lúc này, lão Túc tựa cửa nhìn ra xa. Kia, nhà ông Bảy Nhu, ông Sáu Giáp. Kìa, nhà bà Rớt, nhà ông Thính…Láng giềng cách vài đám ruộng mà lão thấy xa lắc. Phải. Họ cách xa lắm, bởi lão đã đo khoảng cách bằng đơn vị “tiền”, đã đo bằng đơn vị “hạnh phúc”. Người ta rầm rầm tiến lên, nụ cười trên môi. Lão sụp xuống vực với nước mắt.
Lão Túc quay vào nhìn vợ. Nom bà ấy như cái que khô ai đó vất lên mặt chiếu tồi tàn. Một que khô dáng hình nhân. Lão chép miệng. Cái chép miệng tự phát không kìm được. Tiếng chép miệng khô khốc, đục, ngắn ngủn và dứt khoát buồn. Tiếng chép miệng không lẫn với bất kỳ âm thanh nào, ngoại trừ tiếng chép miệng loài Lươn.
Ừ, loài Lươn trong bùn vẫn chép miệng như thế vào lúc hoàng hôn.
Lão Túc lại quay nhìn bên ngoài. Lão không dám nhìn vợ lâu hơn. Nhìn lâu, lão nhất định sẽ thấy cái que khô ấy phực cháy, bùng lên ngọn lửa xanh tím. Đã nhiều lần nhìn vợ, lão thấy ngọn lửa ấy rồi. “Lửa xanh tím – lão vẫn nghĩ – đó là lửa thần thức đang lìa khỏi xác, lửa bàn giao Thần Chết. Lửa ấy, như sư Bản nói, sẽ tiến vào không trung vô tận, đi tìm nơi ở mới, bỏ lại cái xác hư nát nằm lại”. Đột ngột, lão rít lên nho nhỏ trong cổ họng: “Đồ phản chủ. Hèn mạt. Nhà nát, mày cuốn gói đi à?”. Lão mím chặt môi, ánh mắt bắt gặp khóm hoa Mẫu Đơn. Lão chong mắt vào đoá hoa to nhất. Ngay lúc này, tiếng chuông của Hương Trì tự vang lên, ngân chật không gian. Tiếng chuông lan toả vô số vòng sóng, vút cao cả ngàn cánh bay. Ừ, đã năm giờ chiều. Sư Bản luyện kung phu xong. Trong một thoáng, lão thấy đoá Mẫu Đơn chao qua chao lại, mặc dù trời không tí gió. Hoa rung động theo tiếng chuông ư? Một sinh linh ư? Có thể lắm. Nếu không, hoa làm sao lớn lên, khoe sắc, úa tàn. Lão vẫn chong mắt vào đoá Mẫu Đơn. Lão biết sư Bản phải đánh đủ 108 tiếng chuông, bởi xâu chuỗi bồ đề của sư Bản 108 hột. Còn lâu mới hết tiếng chuông. Một tiếng chuông nữa lại vang lên, tiếp sức cho tiếng chuông vừa đuối. Trong không gian không ngớt tiếng chuông. Lạ thật, trong một thoáng lão thấy sư Bản chờn vờn trên đoá hoa. Đoá hoa lập tức nhoè đi…Lão thấy mình trò chuyện cùng sư Bản trong một màn sương. Cả hai nhấp nhô trên sóng chuông chùa. Lão nghe tiếng nói mình phát ra im lặng:
“Tại sao sư không nhổ chiếc răng xiêu vẹo ấy đi?”
Lão nghe tiếng sư Bản trả lời:
“Nhổ mà làm gì? Một sáng đẹp trời nào đấy, tôi súc miệng, nó văng ra thôi. Không có bàn tay con người là không chảy máu, không đau”.
Nói xong, sư Bản cười. Hơi gió tuôn ra làm rung rinh chiếc răng độc nhất. Một chiếc răng không bạn bè, trông quá cô đơn.
Lão Túc lại nghe tiếng mình phát ra:
“Sư sợ chết không?”
Sư Bản lại cười. Sư cười hoài. Nụ cười thoáng hư vô, ảo ảnh:
“Nhờ chết, ta mới biết sống. Sao lại sợ?”
Lão Túc nghe mình nín thinh. Lão thấy mình bé lại. Sư Bản hỏi:
“Chị nhà, dạo này ra sao?”
“Mong manh lắm.”
“Mệnh mỏng, đừng buồn.”
Lão Túc nghe mình nói thêm:
“Mỏng hơn dao lam”
Sư Bản cũng lại nói thêm:
“Ừ, nhưng ông đừng lấy lam ấy để cứa mình.”
Lão lại nghe mình nín thinh. Một tiếng chuông chùa nữa lại vang âm u trong không gian. Lão lại thấy mình dùng tay sờ nắn vết chai nơi đầu gối sư Bản. Hai vết chai dày cộm, đen đủi. Đó là dấu ấn chứng minh đức kiên trì quì gối lâu năm của sư. Lão lại nghe tiếng hỏi của mình, vang lên im lặng như ruồi bay:
“Liệu tâm sư có chai như đầu gối không?”
Tiếng trả lời của sư bản lẫn vào tiếng chuông:
“Đầu gối quì. Tâm không quì.”
Lão lại nghe mình nín thinh. Lão thấy bàn tay mình sững lại, không sờ nắn vết chai ấy nữa.
Lão dụi mắt, đóa Mẫu Đơn lại hiện ra. Một tiếng chuông nữa lại rền vang trong không gian. Lão Túc quay vào nhìn vợ nằm thiêm thiếp trên giường. Lão thấy đôi môi nhợt nhạt, khô héo của vợ vừa mỉm cười. Ồ, có lẽ bà ấy đang bồng bềnh theo tiếng chuông. Đúng là bà ấy thoi thóp sống thêm là nhờ tiếng chuông.
Tiếng chuông đã dìu bà ấy trên cánh bay mỗi ngày hai lần, đầu ngày rồi cuối ngày. Tiếng chuông đã xoa dịu bà ấy vơi đau đớn lầm than. Lại một tiếng chuông nữa vang lên, đuổi theo tiếng chuông vừa đuối. Lão thấy đôi môi vợ mình lại mỉm cười. Lão ngẩng đầu lên, không dám nhìn nữa, và mắt lão gặp tấm lưới chài treo ở góc nhà. Tấm lưới chài từ lâu vẫn treo đấy không dùng. Thình lình, từ tấm lưới chài, một ảo ảnh hiện ra. Tấm lưới chài vụt bung rộng, xoè trên không, rồi chụp xuống một giòng sông.
Lão thu chài, bắt được một con cá Sảnh to bằng bàn tay xoè. Một loại cá vợ lão rất thích. Thích đến nỗi, lúc còn khoẻ mạnh, bà ấy ăn luôn cả vảy, nhai rụm cả xương. Lão dụi mắt. Ảo ảnh biến tan. Lão cau mày. Phải có con cá ấy nấu cháo loãng, cho bà ấy húp một thìa trước khi chết chứ? Một thìa thôi, cũng mãn nguyện lắm rồi. Một tiếng chuông nữa lại rền trong không gian. Tiếng chuông nghe mạnh mẽ hẳn, tiếng chuông bay vun vút. Tiếng chuông thúc giục. Lập tức, lão đến góc nhà, gỡ tấm lưới chài, vắt lên vai, bước nhanh ra cửa, xăm xăm hướng sông tre làng, quyết tìm một con cá Sảnh, cho dù nhỏ bằng ngón tay cũng được.
Lão băng đồng, không theo con lộ ngoằn ngoèo mất thời giờ. Một tiếng chuông nữa lại vang lên, đuổi theo lão làm bạn đồng hành. Ảo ảnh lại vùng dậy. Trước mắt lão, tấm lưới chài lại bung rộng lên không trung, mặc dù nó đang nằm yên trên vai lão. Tấm lưới chài bung trắng trời, ụp xuống một giòng sông trắng sữa. Một con cá Sảnh dính vào mắt lưới giãy giụa. Từ nơi giãy giụa, nhô lên một bát cháo bốc khói. Vợ lão húp được vài thìa. Đôi môi khô héo liền dãn ra, hồng lại. Lão dụi mắt. Loạt ảo ảnh lại biến tan.
Trời đã nhá nhem tối, cảnh vật biến dạng sang những hình thù kỳ dị. Đất cày vỡ trông như bầy chó mực sắp hàng. Lũy tre, cây đa như thành, như núi. Bụi đế trong như ông “ba bị” ngồi rình. Vừa đi, lão vừa thì thầm với tấm lưới chài vắt vai: “Chú trăm mắt, hãy tìm cho lão một con Sảnh nhé?”. Ruộng đã cày khô, bầy chó mực lởm chởm, lão vấp ngã, tấm lưới văng ra, lão mò nhặt lại. Đột ngột, lão nghe re re một giọng kỳ lạ, mảnh mai mà quyền lực: “Ông là ai? Sao dám đi con đường trái tim?”. Lão nhíu mày: “Ừ, mình không cần trả lời, vì đấy là tiếng nói của im lặng. Tiếng nói của im lặng, có đủ lời đáp lại, nếu ai đó sợ nó. Ừ, nó vừa doạ mình.”
Trời đã tối hẳn. Một màn đen đã hoàn tất công việc xóa nhòa. Công việc của nó chỉ thế thôi. Tiếng chuông của Hương Trì tự cũng bỏ lão rồi. Lão cố gắng bước nhanh, cố gắng thì thầm cùng tấm lưới chài: “Chú trăm mắt, chú cố giúp lão một lần nhé?” Chân lão vẫn bước khập khiễng qua ruộng, qua bờ…Thình lình, trước mặt lão hiện ra sừng sững một bức tường đen khổng lồ. Lão đã đến sát luỹ tre mà không hay. Lão suýt nữa đi xuyên qua nó.
Mũi lão nhăn nhíu đánh hơi, lão cố hít thở thật sâu, lão đi thật chậm dọc bờ tre, căng mắt nhìn xuống bờ sông tre làng. Lão cố tìm một vùng lõm. Vùng lõm bờ sông lúc nào cũng nhiều cá. Trời quá tối. Cái tối từ trời, từ đất, từ tre, từ lão, hoà vào với cái tối từ tối, làm lão ngạt thở. Không thể tìm được một vùng lõm bờ sông. Lão quyết định quăng chài ngay chỗ đang đứng. Lão dạng chân, trùn người đứng thế trung bình tấn, hai tay nắm chặt tấm lưới chài, lưng thẳng đuỗng. Lão mím môi, nói với tấm chài, nói với sông đen: “Chỗ này được đấy. Chài ơi! Sông ơi! Cố gắng nhé.”
Lập tức, lão rùn người, xoạt chân ra sau, rồi vươn lên, quay tít tấm chài một vòng, tung xuống sông. Tấm chài đã bung ra như ý. Lão nghe ba tiếng “Bùm”, “Xào” rồi “Im lặng”. Lão xoa tay, thở phào. Có lẽ, chân chài đã đến đáy sông, lão kéo sợi dây chóp để thu chài. Bỗng lão sững người, lão lặng người. Tấm lưới chài như có Hà bá níu lại. Không kéo lên được. Lão cau mày, mím môi: “Quái, thế này là thế nào?”. Lão cố kéo dây chóp, thu chài lần nữa. Vẫn không nhúc nhích. Hà Bá chôn tấm chài xuống sông rồi. Vô phúc. Thật vô phúc.
Lúc này, lão quyết định cởi quần áo, xuống nước xem sao. Lão lặn xuống, quơ tay tìm kiếm. Lão gặp ngay tấm lưới chài của mình, đã gói trọn một bụi tre sập chìm dưới nước. Lão lặn men theo tấm lưới. Mắt lưới dính vào gốc tre, nước chảy nhét rối vào gai, vào cành, vô phương tháo gỡ. Có lẽ, chỗ này đất bờ sông bị sập, đã vùi bụi tre xuống nước. Lão nghe tiếng cá quẫy rất nhiều nơi đây. Nơi bụi tre sập này, quả là một sào huyệt cá.
Ngạt thở, lão ngoi lên, vuốt nước mặt, thở hắt ra, thở hắt vào. Lão bơi lần vào bờ, cố gắng trèo lên. Lúc này, gió rông khá mạnh. Cái lạnh luôn lạnh hơn trong đêm tối, lạnh hơn trong tuyệt vọng, như được tra thêm cả trăm mũi khoan xoáy vào da thịt. Lão run bắn như động kinh. Có tiếng chó tru văng vẳng đâu đây, dưới đất, trên cao, trong gió, uất nghẹn như một nỗi bất công thật tệ, cứ trôi nổi vô bờ…
Lão lật bật mặc quần áo, run rẩy không cài nút được. Lão trừng mắt nhìn vào đêm đen, xuyên qua ruộng đồng, xuyên qua xóm Ao, đột ngột lão thấy “cái que khô ai đó vất lên mặt chiếu tồi tàn” nơi nhà lão đã phực cháy, bùng lên ngọn lửa xanh tím. Ngọn lửa vút cao, sáng loà. Một linh tính tín hiệu làm lão giật thót. Vợ lão “ra đi” trong cô đơn, không ai bên cạnh.
Lão hốt hoảng. Lão chạy, lão té, lão vùng dậy, lão chạy, lão té…Cứ thế trong một đêm đen không biết có con người.
Đột ngột, lão Túc dừng hẳn lại. Lão không chạy nữa. Lão không chạy nữa để bị té. Lúc này, lão cẩn thận bước đi trong đêm tối,cố gắng không cho mình ngã. Lão bình tĩnh, không còn hốt hoảng. Lão không lạnh, không cô đơn, không tuyệt vọng. Tất cả những món tầm thường ấy đã rút ra khỏi người lão. Cả cái ngọn lửa xanh tím kia cũng không còn, bởi nó chưa hề có. Cả tấm lưới chài cùng bụi tre sập cũng chưa từng có. Giờ đây, chỉ một việc duy nhất có. Đó là “hậu sự”. Phải. Lão cần cái nhà hòm tươm tất, và cả y phục cho da xương bà ấy. Nhà hòm màu đỏ. Y phục màu trắng, trắng và trắng…
Gã giáo gàn
Ngày đăng: 06/07/2011 8:32:22 SA
Y cứ nghĩ mình giỏi nếu không nhận được mẩu tin vào đêm ấy…
Dĩ nhiên y không nói ra nhưng mọi động thái của y khiến ai cũng có cảm giác y luôn ngồi trên cao, cảm giác bị y coi là tầm thường, bé nhỏ. Ngay lần đầu quen biết, y cứ một chú hai chú với tôi – y chỉ thua tôi dăm tuổi – khiến tôi cứ nghĩ y chơi xỏ. Cũng đã nghe nhiều người xì xầm nên tôi cảnh giác, chỉnh ngay: Kiểu xưng hô thế còn gì anh em. “Thế là anh cho phép em đấy nhé”. Lời tưng tửng phát ra từ một người cao, gầy, vẻ mặt khắc khổ pha chút phớt đời, lãng tử, bố ai biết được có thực lòng không.
Nói chuyện riết với y rồi đâm thích, không như những cuộc chuyện trò xã giao nhạt nhẽo của tôi với mấy tay cán bộ cùng cơ quan. Tôi làm ở Phòng Văn hóa - Thông tin huyện, trực tiếp biên tập rồi phê: hằn học, cầu kỳ, rối rắm và loại bài thơ của y một cách không thương tiếc. Thế mà y cứ cảm ơn mãi. Chả là, chẳng thấy bài thơ tâm huyết của mình được đăng, y gửi báo trung ương. Nửa tháng sau y nhận được báo biếu và nhuận bút. Lần đầu y được đăng thơ cũng là lần đầu y đến cơ quan tôi, lần đầu chúng tôi gặp nhau. Xem bài thơ trên báo tôi thấy nguyên xi như bài mà tôi bỏ vào sọt rác. Tôi chúc mừng rồi bảo: “Báo trung ương đề tài rộng hơn… Mà sao cậu không ca ngợi cuộc sống, con người ở địa phương nhỉ? Cậu có bài nào gởi không? À mà cậu viết cứ như ám chỉ ai ấy… Nhẹ nhàng chút đi!”. “Chú cứ nói thế…” – Y ỡm ờ. Y ra về sau khi chấp nhận cách xưng hô anh-em.
Từ khi y chuyển về ở kế bên nhà tôi, tôi hiểu y hơn. Y dị ứng với cán bộ nhưng rất nhũn nhặn nhiệt tình với những người chân lấm tay bùn, thấp cổ bé họng. Đặc biệt y rất yêu trẻ con. Hai đứa con tôi có được chú-bạn-thân-to-xác, tôi cũng mừng. Nhưng chúng cứ luôn miệng Chú Nam bảo… nhiều lúc làm tôi phát cáu.
Về thơ, nói thật tôi không có khiếu sáng tác. Tôi rành tiếng Tàu, thơ Đường, điển tích… đến y cũng phải nể, lắm khi phải cậy nhờ. Giảng cho y xong tôi thường bảo: Núi này cao còn có núi khác cao hơn. Huyện ta nhân tài đâu chỉ một. Y cười: “Anh đúng là người tốt – chả đụng chạm đến ai, thấy cái gì an toàn mới làm, tranh thủ dạy đạo đức bất cứ lúc nào. Nhờ những người như anh mà cuộc sống luôn ổn định và… tẻ ngắt. Em không muốn phải tồn tại kiểu ấy”.
- Sao cứ thích rắc rối thế?
- Không muốn phỉnh phờ nhau mãi thôi…
- Cứ lập gia đình là ổn cả, ai cũng thế… - Tôi khuyên.
Cuối cùng đã xảy ra chuyện. Tôi chả biết kể thế nào cho lô-gic. Thôi thì cứ ghi lại từ đầu vậy.
*
* *
… Y vào ngành giáo dục khá muộn, lúc 29 tuổi, vừa giải ngũ. Những năm tháng mặc đồ lính, y là tay ghi-ta cự phách của đại đội và là một đảng viên trẻ, năng nổ. Tấm bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, sự hiểu biết về nhạc lý và khả năng sử dụng các loại nhạc cụ đã giúp y có được chân hợp đồng trong một trường trung học cơ sở: giáo viên nhạc. Công bằng mà nói, nhờ Hoan – người bạn học cũ, tổ trưởng bộ môn toán nhà trường – xin ban giám hiệu, y mới có nghề nghiệp ổn định.
Sự khốc liệt của cuộc chiến mà y đã trải qua trên chiến trường K. khiến y thêm trân trọng cuộc sống, yêu thương học sinh và cả… dè sẻn niềm vui, hạnh phúc riêng tư. Y dồn hết tâm trí vào chuyên môn, học hỏi về phương pháp sư phạm. Mỗi tiết dạy, y cố giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp của nghệ thuật, của cuộc sống và giá trị của hòa bình qua từng giai điệu lời ca và những mẩu chuyện cảm động đời lính. Rồi y được đề bạt chức tổ trưởng chuyên môn. Sau đó y đăng ký học đại học từ xa ngành ngữ văn. Năm 40 tuổi, y tốt nghiệp đại học, lập gia đình, và…. có thơ, nhạc đăng báo Trung ương. Thật là một năm đầy ý nghĩa với y, người-giáo-viên-cựu-chiến-binh.
Vậy là y- nhà giáo, nghệ sĩ tương lai - với tờ báo biếu vừa nhận nâng niu trên tay, bước vào phòng làm việc của ông trưởng phòng giáo dục theo lời “mời miệng” trong tâm trạng vô cùng thoải mái và một thái độ kiêu hãnh quá mức cần thiết. Y gõ cửa. Trời mưa như trút nước. Năm nay lũ lụt dữ đây. Y gõ mạnh tay hơn.
- Mời vào! - Giọng nữ chứ không phải nam.
Chẳng lẽ mình nhầm phòng? Y phân vân, song vẫn đẩy cửa bước vào. Ở bàn làm việc là một phụ nữ đeo kính. Cặp kính trắng gọng đen làm lúc đầu y không nhận ra người đồng nghiệp trẻ vừa được thăng chức phó trưởng phòng năm ngoái.
- Chào… c…ô! - Suýt nữa y lỡ lời nên chữ “cô” nghe không được rõ lắm. - Ông trưởng phòng…
- Đồng chí trưởng phòng xuống các trường giải quyết một số công chuyện - Bà phó phòng nói, mắt vẫn không rời tập giấy trên bàn. - Tôi sẽ làm việc với anh.
Tuần trước, y tặng cho ông trưởng phòng cuốn tạp chí đăng các sáng tác mới của y. Thế là không phải chuyện nhạc và thơ rồi. Cảm giác lâng lâng trong y bay đâu mất.
Y kéo ghế ngồi. Bà phó phòng ngước nhìn y và… không nói gì. Có lẽ tại trời mưa to. Y gài khuy áo khoác vì thấy hơi lạnh và để lấp thời gian trống.
Mãi rồi buổi làm việc cũng được mở đầu:
- Nói chung thì… - Bà phó phòng nói – Vấn đề chính là… Anh phải biết nhìn trước nhìn sau… bên cạnh đó…
Lời nói chậm nhưng quá nhỏ. Y căng tai mà câu được câu mất, không đoán được nội dung.
Bà phó phòng tiếp tục:
- Phải biết nhận thức rõ hiện tượng và bản chất, cái riêng và cái chung, cái “con” và cái “người” trong mỗi một con người. Ai cũng đã, đang và sẽ mang ơn một ai đó. Và bất cứ ai rồi cũng phạm phải một sai lầm nào đó…
Mưa bớt nặng hạt. Những câu bóng gió khó hiểu của một người áp dụng triết học, vừa được học ở các lớp quản lý, chính trị, không đúng chỗ làm câu chuyện trở nên nặng nề.
Y im lặng, đếm từng hạt mưa nhỏ xuống cửa sổ sau lưng bà phó phòng, cảm thấy buồn. Chiến tranh, sự sống và cái chết, anh hùng và tiểu nhân, vẻ hào nhoáng và sự trống rỗng, cái tốt – xấu, được – mất… tất cả nhòe trong màn mưa thời bình, chỉ còn lại nỗi đau của vết thương trên người y mỗi khi trở trời là hiện hữu.
Ờ thì một kẻ vô ơn. Y tự nguyền rủa mình. Không có bằng sư phạm mà được làm giáo viên dĩ nhiên y phải mang ơn nhiều người: Hoan - người giới thiệu; hiệu trưởng - người đồng ý nhận; phòng giáo dục tiếp nhận hồ sơ, gởi cấp trên xem xét; chủ tịch hội cựu chiến binh ủng hộ nói vào cho y; bí thư đảng ủy xã nhận xét tốt về y…
Người đầu tiên y làm mất lòng là Hoan. Sai lầm thứ nhất của y: quên bẵng sự hiện hữu của nền kinh tế thị trường.
Được phân công dạy nhạc, làm tổng phụ trách đội, ngoài giờ học chính y cho các em tham gia nhiều loại hình sinh hoạt khác. Điều này ảnh hưởng đến lịch dạy kèm của Hoan. Hoan nhiều lần nhắc riêng y: Nhiệm vụ chính của học sinh là học tập.
Y không quan tâm. Năm ấy, y quyết đưa một luồng gió mới vào trường học. Tuần nào cũng có vài buổi “vui như hội”. Hoan buộc lòng phải nói thẳng:
- Ông làm ảnh hưởng đến số lượng học sinh học kèm môn toán của tôi. Ông gián tiếp “giúp” tôi đưa kinh tế gia đình đi xuống. Thật sai lầm cho tôi …
Lúc ấy y mới vỡ lẽ. Thay vì sắp xếp lại hoặc giảm bớt thời gian ngoài giờ, y đưa vấn đề ra trước hội đồng nhà trường bàn bạc: Sinh hoạt hay học kèm? Sự việc được y vô tư trình bày làm lòi cái đuôi của Hoan ra rõ đến nỗi cả hội đồng ồ lên. Tuy vậy, Thủy - người đang giữ chức hiệu phó chuyên môn, sau này là phó trưởng phòng giáo dục - lên tiếng giảng hòa:
- Không cần phải cứng nhắc, nghiêm trọng thế. Đồng chí Nam cân đối lại thời gian, tránh ảnh hưởng chất lượng học tập của học sinh. Đồng chí Hoan làm đơn, kèm danh sách học sinh và lịch học cụ thể cho nhà trường xét duyệt mới được mở lớp.
Hiệu trưởng phát biểu tán thành ý kiến của hiệu phó và giải tán cuộc họp. Thế là số lượng bạn bè của y giảm hơn một người. Riêng Hoan, mỗi lần tình cờ gặp y là nhìn trật sang bên.
Thủy là người thứ hai, người đưa y về đúng vị trí của mình. Sai lầm thứ hai của y: không hiểu rằng bệnh-thành-tích cũng có “mặt tích cực”.
Bảy năm từ ngày y từ chiến trường K. trở về, ngành giáo dục đã có những chuyển biến lớn. Người ta đua nhau báo cáo thành tích lên cấp trên. Thành tích học tập của học sinh cũng như thành tích của nhà trường tăng đột biến. Mới năm nào tỷ lệ đỗ tốt nghiệp cấp II của nhà trường là 49%, nay đổi thành 94%. Những thành phần sau hầu hiếm trong trường, đó là: học sinh bị đuổi học, học sinh ở lại lớp, giáo viên xếp loại tay nghề khá. Điểm của học sinh không tồn tại số 0,1,2. Từ điển xếp loại tay nghề giáo viên không tồn tại chữ trung bình, yếu, kém. Y thường khoe với tôi ngôi trường y đang dạy là ngôi trường trong mơ, ở đó toàn trường cùng dìu nhau vào thế kỷ 21. Hội đồng giáo viên “đoàn kết – vị tha”, cùng phấn đấu thực hiện chỉ tiêu trên giao, cùng thong thả dạy, cùng cật lực làm thêm mọi nghề và cái chính là… cùng hưởng lương Nhà nước.
Y đọc nhiều, chịu khó tìm hiểu nền giáo dục của các nước tiên tiến. Trong hội nghị công nhân viên chức, khi Thủy giao khoán cho từng giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm để thực hiện kế hoạch năm học mới, y nói: “Chúng ta khó mà hoàn thành chỉ tiêu khoán chất lượng cao một cách vô lý thế”.
Thủy phát biểu:
- Chỉ tiêu, kế hoạch là cái giúp chúng ta không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp giáo dục, ngày càng hoàn thiện bản thân mình. Điều đơn giản như vậy mà đồng chí Nam cố tình không hiểu, lại còn lôi kéo các đồng chí khác hạ thấp chất lượng học tập của học sinh. Tôi mạnh dạn kết luận: đồng chí Nam thiếu ý thức phấn đấu, tinh thần xây dựng. Tôi đề nghị cách chức tổ trưởng chuyên môn của đồng chí Nam với hai lý do. Một là: đồng chí Nam chưa đạt chuẩn sư phạm. Hai là: chất lượng giảng dạy thua xa các đồng chí khác trong tổ. Xin đồng chí hiệu trưởng cho tôi ít phút để lấy biểu quyết của hội đồng. Ai đồng ý bãi nhiệm đồng chí Nam thì giơ tay.
Một, hai, rồi ba phút trôi qua. Vẫn chỉ có hai cánh tay giơ lên, một của Thủy và một của y.
Y thấy tội cho Thủy, đứng lên gỡ bí:
- Hai vấn đề đồng chí Thủy nêu ra là hiển nhiên, là chuyện giấy trắng mực đen không ai có thể chối cãi được. Vì thế tôi xin thôi chức tổ trưởng để về đúng vị trí của mình. Cảm ơn đồng chí Thủy vì lời góp ý thẳng thắn.
Cả hội đồng vỗ tay. Đồng nghiệp thích y nhưng ít người dám lên tiếng ủng hộ.
Hai năm sau, y tham gia hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện. Cuối năm cả trường có hai người đạt danh hiệu “giáo viên dạy giỏi cấp cơ sở” là y và Hoan. Đây cũng là thành tích của trường nên ban giám hiệu giao lại cho y chức tổ trưởng. Nghĩ mình còn làm được hơn thế nhiều, y theo lớp đại học sư phạm Văn hệ từ xa.
*
* *
Không chịu nổi sự im lặng của Nam, bà phó trưởng phòng giáo dục - đào tạo để tập tài liệu xuống bàn, đẩy về phía y:
- Anh xem đi.
Y nhìn “cô” phó phòng. Bốn mắt gặp nhau. Cặp kính đã xong việc nằm buồn thiu trên bàn, nhìn lên trần nhà.
- Tôi là người hiểu anh rõ mà. – Thủy nói, cầm tập giấy khổ A4 để lên tay y.
Y nhìn thoáng qua. Thì ra y lầm. “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam / Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc / Đơn Tố Cáo”. Y nhẩm từng tờ :1,2,3,4,5,6 . Y lật lại trang đầu.
- Tố cáo thầy Hoan… – Y nói sau khi đọc gần hết trang.
Y nhìn lên đôi mắt vô cảm của Thủy.
- Anh cứ tiếp tục! Chừng ấy năm công tác với nhau … – Thủy nói lấp lửng.
Đọc hết trang hai, y lại nói:
- Không tố cáo tôi.
Y nhìn kỹ ánh mắt dò xét của Thủy lúc này. Y phần nào hiểu được. Thủy xem đây là cuộc đấu trí. Từ khi bỏ mắt kính ra, Thủy giữ nguyên một tư thế, ngồi khoanh tay phía trước, và… nhìn y.
Y đọc lại những câu bịa đặt, vô lý, đôi chỗ đến ngớ ngẩn, vu oan giá họa Hoan – Hiệu trưởng ngôi trường mà mới năm trước thôi ba người còn chung đơn vị công tác.
Y đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng tiêu cực trong nhà trường. Lần ấy, y đã chống lại cả ban giám hiệu: Ân – hiệu trưởng, Thủy – phó hiệu trưởng chuyên môn. Hoan – phó hiệu trưởng chuyên trách hoạt động ngoài giờ. Sai lầm thứ ba của y: không xác định được trọng tâm vấn đề.
Trong cuộc họp chi bộ y đã đưa ra tất cả vấn đề nổi cộm trong trường học. Trước đấy, y thấy có nhiều sai phạm của ban giám hiệu nhà trường, song chưa đến mức báo động. Thời điểm y nêu vấn đề là khi sự cấu kết của các thành viên ban giám hiệu, sự thỏa hiệp của một số đảng viên đã rõ nét. Y biết mình sẽ gặp trở ngại lớn trong cuộc họp nhưng y vẫn quyết tâm làm đến cùng trước khi những kẻ cơ hội đó tạo ra những tiền lệ nguy hiểm, làm hoen ố sự vô tư, trong sáng của ngành giáo dục.
Cuộc họp chi bộ sáng chủ nhật hôm ấy gồm tám người: ban giám hiệu ba đảng viên, tổ chuyên môn bốn đảng viên và một đồng chí đảng viên là chủ tịch công đoàn.
Hôm ấy, y nói như chưa bao giờ được nói, như sẽ chẳng bao giờ được nói nữa. Không ai cản được y, kể cả chị chủ tịch công đoàn – người, sau này y kể lại, duy nhất đứng về phía y.
Trước hết y nói về sự mất dân chủ trong trường học, hiện tượng trù dập giáo viên của ban giám hiệu. Với Ân, y kết tội chia rẽ giáo viên để dễ điều khiển. Nói chuyện với người này Ân phàn nàn về người kia và ngược lại. Mục đích Ân muốn đạt được là sự mất đoàn kết, thiếu tin tưởng lẫn nhau trong đội ngũ giáo viên, qua đó Ân dễ dàng nhận ra người “cứng đầu” hay đang có “âm mưu” hại mình và mọi chi tiết “xấu”dù là nhỏ nhất của từng người. Nhưng quan trọng hơn cả là ai cũng tưởng mình được hiệu trưởng tin cậy, cảm thông, chia sẻ…
Tiền thừa giờ được Ân đặc biệt quan tâm. Trên dưới 100 triệu mỗi năm mà chỉ có 15 người trong trường được hưởng. Dĩ nhiên Ân được hưởng nhiều nhất. Là sếp, Ân tự phân cho mình nhiều tiết dạy rồi cứ việc nhờ những giáo-viên-tập-sự-dễ-bảo dạy thay. Vừa là cướp công, vừa che mắt thiên hạ một cách tinh vi. Những người được Ân nhờ thì ngậm bồ hòn làm ngọt. Một phần số tiền tăng tiết lại chảy vào túi của Ân bằng hình thức hối lộ.
Hoan đứng phắt dậy, ngoáy mũi, cười khẩy:
- Có làm có hưởng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Y nói :
- Hãy để mọi người đều “có làm” thế mới công bằng. Anh không biết tiết-tăng-giờ giá trị hơn tiết-chuẩn sao?
Rồi y phê phán lối cư xử trịch thượng, kẻ cả, thiếu tính sư phạm của ban giám hiệu. Không khí trong trường học thật nặng nề. Giáo viên có cảm giác của người làm thuê cho ban giám hiệu. Y lấy Thủy ra làm dẫn chứng. Thủy thường chắp tay sau lưng đi từng phòng học không phải để xem học sinh học tập thế nào mà để xem giáo viên có… ngồi không. Lời phát biểu của Thủy lúc nào cũng chung chung, mang tính đe dọa hoặc tối nghĩa: Một số đồng chí thiếu tinh thần trách nhiệm, Ai làm sai sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm, Qua sự việc trên cho chúng tôi thấy…
- Cô Thủy quan tâm đến thành tích hơn là quan tâm đến học sinh. - Y nói.
Kỳ nghỉ hè năm ấy, có hai học sinh được ba mẹ dẫn tới xin ở lại lớp mà không được; có bảy trường hợp phụ huynh đến trả lại giấy khen vì nhà trường công nhận “học sinh giỏi lớp 9” nhưng qua kỳ thi tốt nghiệp điểm thi của các em quá kém, chỉ đủ để học cấp III bán công.
- Vì sự nghiệp chung mà… – Thủy nói.
Y thẳng thừng:
- Ngụy biện.
- Thế còn những thành tích của tôi?
- Đúng thành tích là của cô và của cả ban giám hiệu nữa. Học sinh là người bị hại vì những cái phù phiếm mà các đồng chí gọi “thành tích” đó – Giọng y khá gay gắt - Cô giải thích thế nào về việc tự tiện đuổi khéo học sinh mà cô cho là tiếp thu chậm – cá biệt ra ngoài chơi mỗi khi cấp trên về dự giờ, kiểm tra? Cô sẵn sàng vi phạm quyền được học hành của trẻ em vì uy tín trường-lớp. Thật đáng nể!
Hoan bị phê phán nặng nhất.
Y nói:
- Với anh, tôi lấy làm tiếc tại sao anh không chọn nghề buôn.
Hoan nghe xong đập bàn, khạc nhổ cho trơn họng, rồi gân cổ:
- Tôi sẽ kiện… cái tội xúc phạm nhân phẩm!
Y nói:
- Ngành giáo dục mà có những giáo viên dạy giỏi như anh thì lợi ích cũng chẳng là bao. Đơn cử một điều: Đất nước ta hiện nay có được mấy người vừa là đảng viên, vừa là giáo viên giỏi, vừa là cán bộ quản lý chỉ đặc biệt dạy kèm cho con nhà giàu? Kiến thức thì không truyền thụ hết trong giờ học chính mà chỉ để dành như bửu-bối-của-lớp-học-kèm?!...Theo các đồng chí, đây là trường học hay siêu thị dành cho tầng lớp thượng lưu? Phần đông học sinh nghèo khó, vậy mà nhà trường ép nộp tiền học tăng tiết nhằm hợp thức hóa việc dạy thêm – học thêm tại trường. Phần trường, trường ép, phần thầy, mạnh ai nấy ép, các em chịu sao thấu ?!...
Y quay sang các tổ trưởng chuyên môn, nói tiếp:
- Chính sự im lặng, sợ sệt của các đồng chí đã tạo cảm giác quyền lực, gián tiếp làm hư cán bộ quản lý. Nếu không có nịnh bợ, sợ hãi thì không có khái niệm quyền lực. Tôi phê phán tư tưởng ôn hòa, ba phải của các đồng chí.
Ân là người phát biểu sau cùng:
- Tôi đề nghị thư ký ghi ý kiến của tôi: Đồng chí Nam có lòng đố kị, tự ty thái quá, ganh ghét với thành công của người khác, thiển cận khi nhìn nhận vấn đề, phát biểu thiếu căn cứ, xúc phạm danh dự người đảng viên, giáo viên. Tôi đề nghị gởi biên bản cuộc họp lên cấp trên.
Y bảo:
- Vậy thì tôi sẽ gởi đơn tố cáo đi kèm…
- …
- … Mà đã hết đâu. – Y tiếp – Khoản thu chi trong hai chính sách thể hiện tính nhân đạo là học phí đối với học sinh nghèo và kinh phí cấp cho công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục bị mấy người tính toán, tận dụng tối đa…
Hoan lại đập bàn. Lần này thì chén nước trà không chịu nổi lực tác dụng quá lớn từ bàn tay hộ pháp của Hoan tác động đột ngột lên cái mặt bàn vô tội nẩy lên, văng nước ra tứ phía, đáp xuống, trút những giọt còn lại lên cuốn sổ công tác của y. Nhưng hình như y không dừng lại được nữa:
- … Sau mỗi đợt quyết toán xong học phí, cuối năm học, ban giám hiệu lại vận động các giáo viên chủ nhiệm mở chiến dịch thu vét. Tiền mà những gia đình học sinh nghèo thắt lưng buộc bụng nộp sau, do bị thúc ép, suốt mấy năm nay nằm ở đâu khi mà nhà trường đã đưa vào danh sách thất thu? Và nữa: Tiền dạy phổ cập mà cũng được cân nhắc kỹ lưỡng xem người nào được hưởng, người nào không, báo cáo láo cách nào để trên duyệt chi nhiều nhất thì trong trắng đến thế là cùng. Những vị lãnh đạo tâm huyết, chánh trực nếu nghe được chuyện này thì á khẩu ngay…
Mọi người bỏ về, chỉ còn y và chị chủ tịch công đoàn ngồi ôm đầu. Y dừng lời, đứng chôn chân tại cái bàn có cuốn sổ dính đầy nước trà.
Suốt một tuần, y viết đơn tố cáo. Y trực tiếp gởi tận tay ông trưởng phòng giáo dục huyện. Y đã phạm sai lầm lớn: có quá nhiều vấn đề và quá nhiều người liên quan.
Thời gian sau đó, đồng nghiệp sợ liên lụy, ngày càng ít người dám tiếp xúc, nói chuyện với y. Rồi phòng giáo dục mời y lên hòa giải chuyện không lớn lắm đó.
Hết năm học, y nhận được giấy chuyển công tác về một trường miền núi trong huyện. Hai tháng sau, theo cơ cấu của trên, xét năng lực, thành tích công tác và sự đóng góp cho huyện nhà, Ân nhận chức giám đốc trung tâm hướng nghiệp của huyện; Thủy được điều động về phòng giáo dục và Hoan lên thay Ân.
Như A.Q, y tự nhủ: còn nhiều chiến trường không tiếng súng, nhiều mặt trận gian khổ cần đến những người lính dũng cảm như mình.
*
* *
- Tôi vẫn chưa hiểu… – Y nói với Thủy khi đã đọc xong lá đơn.
- Những việc thế này anh rành lắm mà…
Đoán được Thủy đang ám chỉ điều gì, y lật trang cuối xem lại.
- Đơn thư nặc danh kiện thầy Hoan. – Y nói giọng phẫn nộ – Tôi mà hèn thế ư?
- Anh về nghiên cứu lại. Tiến tới hay rút lui phụ thuộc ở anh. Nghị quyết của tôi là thế.
Theo kinh nghiệm, cứ nghe đến chữ nghị quyết mà Thủy ưa dùng một cách tùy tiện, thì có nói gì thêm cũng vô ích. Y miễn cưỡng xếp tập giấy bỏ vào túi áo và đứng lên.
Thủy tiễn y ra cửa thì gặp Hoan. Hoan tỏ vẻ xởi lởi:
- Chào cô Thủy, thầy Nam… Lâu ngày quá… Đồng chí trưởng phòng hôm nay có đây không, cô Thủy?
- Chào anh. Thầy xuống cơ sở rồi.
Hoan bắt tay y rồi xin phép đi trước.
Thủy bảo y:
- Người ta như thế còn anh …
- … làm tổng phụ trách đội – Y chêm vào rồi cáo lui.
*
* *
Từ chiều tới tối, vợ chồng y đọc không biết bao nhiêu lần lá đơn ấy.
- Em thấy sao? – Y hỏi.
- Người tố cáo bị điên anh ạ! Lá đơn toàn chuyện vu vơ.
Vợ đã lên giường còn y vẫn ngồi hút thuốc và suy ngẫm…
Rồi y nhận được tin nhắn. Nội dung:
Nực cười châu chấu đá xe. Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe… nghiêng xuống đè nát con châu chấu.
- Tìm ra rồi! – Y nhảy cẫng lên, reo hò như Ác-si-mét thuở nào.
- Ai … kiện? – Vợ y hỏi, giọng ngái ngủ.
- Em còn nhớ phép ngụy biện bỏ thuốc độc vào giếng không ?
- …
Ủa, sao lại mừng? Y giật mình tự hỏi, thừ người ra bó gối chấm com…
Mới năm ngoái gần một nửa số học sinh trong trường đến tặng hoa cho y khi y chuyển đi. Và đã có rất nhiều giọt nước mắt lưu luyến. Chẳng lẽ năm học tới cũng là hoa và lệ sao?
Đêm ấy, Nam ngủ không ngon giấc. Gần sáng, y thiếp đi. Trong mơ, y thấy mình mặc quân phục, nằm giữa đám cỏ hoa…
*
* *
Tôi viết thư kể chuyện này cho bạn thân của tôi ở Đông Hà, học giả Đinh Văn Nhân, người nổi tiếng là kiệm lời. Quả không sai. Đúng một tuần tôi nhận được lá-thư-hai-chữ: thì thế. Còn Nam đã nghỉ hè theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chiều nào đi làm về tôi cũng thấy y ngồi ngoài hè, nhìn lên ngọn cây bàng trước ngõ và… ngáp. Những lúc như thế tôi thấy anh có chút dịu dàng của phụ nữ, chút hồn nhiên của trẻ thơ. Thằng nhỏ nhà tôi thì thầm, chú Nam nghe chim hót trên lùm cây; bé lớn cãi, chú bảo là tìm xem còn giọt nắng nào ngủ quên trên vòm lá không. Tôi vừa buồn cười vừa nghe xót xót trong lòng.
Cứ ngỡ mọi chuyện sẽ qua. Không ngờ sau đợt công tác miền Đông về, tôi như bị sét đánh, chả thể tin vào tai mình khi nghe vợ bảo: Anh ấy ngáp mãi rồi đi…
Bác sĩ bảo đột quỵ.
Hàng xóm bảo bị trúng gió.
Kẻ xấu bụng bảo quả báo.
Người-ba-phải bảo bớt rắc rối.
Đồ-độc-mồm bảo đáng đời.
Đồng nghiệp của tôi bảo bị thần kinh, do vết thương tái phát.
Tôi muốn hét to: Thằng gàn dở hơi; nhưng cổ họng nghèn nghẹn… Nhớ thời gian nhận giấy chuyển công tác y đâm ra ưa lý sự. Y bảo ngáp và ngủ giúp ta hạnh phúc viên mãn. Tôi bảo ngây ngây mà y không nghe. Tính y vẫn vậy: cực đoan-bảo thủ.
Tôi điện thoại báo cho anh-bạn-học-giả tin buồn. Lần này câu trả lời thêm được một chữ: không thể thế.
Tôi cũng muốn nghĩ như vậy.
Ước gì chỉ là cơn mơ!
Thi tuyển Khùng
Ngày đăng: 30/06/2011 3:38:59 CH
Chuyện này đã có nhiều người biết nhưng nay vẫn xin được kể lại và không hề có tí chủ ý đùa cợt nào. Số là xóm Duối có một gã đàn ông tính khùng khùng điên điên hình như cũng có tên tuổi hẳn hoi nhưng không ai nhớ. Mọi người nhất loạt gọi anh ta là Khùng. Lâu dần Khùng thành tên. Khùng là con hoang-chắc thế-và bị bỏ rơi từ bé. Khùng lớn lên bằng vật vờ kiếm ăn ở chợ, ở chùa, những nơi có đình đám hoặc nơi bãi rác. Tối về Khùng chui vào căn nhà trước kia dành cho người đi làm đồng nghỉ chân, gọi là nhà cầu, nhưng từ lâu đã bỏ hoang.
Vật bất ly thân của Khùng là một cái vỏ chai rượu ti thời Pháp và một con dao luôn đút trong bao. Không vợ con, không nghề nghiệp, Khùng là kẻ chuyên gây sự. Anh ta gây sự ngay cả khi chẳng có cớ gì, với khắp làng trên xóm dưới. Việc bằng cái kim anh ta cũng thổi lên bằng cái đũa, cốt để được gây sự. Không gây sự Khùng chẳng biết làm gì. Không gây sự Khùng buồn ủ ê hoặc ấp ủ làm những việc rất dại dột, khó lường.
Cả làng không ai chấp, không ai tranh hơn kém thua thiệt với Khùng. Thế là Khùng càng được thể lên nước, tự coi mình là người ghê gớm. Và cả xóm Duối đã quen với những cơn say mềm người, những vụ cởi truồng thông lông chạy khắp cánh đồng làng dưới ánh trăng vằng vặc, những đêm hát hò không khán giả... gắn với cái tên Khùng. Tuy làm những chuyện rất nghịch mắt, nói những lời cực kỳ chối tai... nhưng Khùng chưa hề gây tội ác với ai và ở đâu. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng, Khùng chỉ loanh quanh bắt nạt người ở xóm Duối.
Thế rồi bất ngờ, vào một đêm trăng thanh gió mát, Khùng lăn đùng ra chết. Nhiều người trước đó còn nghe thấy hắn hát í a, nói lung tung về chuyện trai gái, chuyện làng xóm, rồi hết khóc lại cười. Sau đó không thấy động tĩnh gì nữa cho đến khi người ta phát hiện ra Khùng chết còng queo, thân thể tím tái và người ta nghi là hắn bị cảm lạnh.
Cũng có người thương xót cho kiếp làm người của Khùng, sinh ra đã bị lưu đày. Nhưng đa phần coi cái chết của hắn là sự giải thoát cho họ khỏi một tai ương. Thật là nhẹ cả người. Xóm Duối tổ chức chôn cất cho Khùng theo kiểu bỏ thì thương vương vào thì nợ. Quan tài dành cho Khùng được tận dụng ghép lại từ những tấm gỗ thôi. Cũng có bát cơm quả trứng, chai rượu dành cho Khùng.
Trong khi đám đàn ông coi việc chôn cất Khùng chả khác gì vùi cho khuất mắt một cái thây vô chủ để lâu thối làng, thì đám đàn bà của xóm Duối lại tỏ ra là những người rộng lượng hơn. Họ tổ chức gọi hồn, cầu siêu cho Khùng, mong Khùng xuống dưới âm ty thoát kiếp đầu đường xó chợ, có danh phận, có công ăn việc làm tử tế, có quyền chức bổng lộc để được sướng hơn trên trần; mong cho hồn Khùng không bị cảnh sát âm ty kiểm tra giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, không bị bảo vệ đang đêm xộc vào dựng dậy lên lớp cho một bài, không bị những hồn ma giả dạng là những cô gái thanh tân chặn đường quyến rũ khiến lạc vào bến mê khổ muôn kiếp; mong sao xuống đó Khùng có cửa có nhà, không le bè rượu chè, không khùng khùng điên điên mà chăm chỉ làm ăn, lo tu tỉnh để chờ ngày được đi đầu thai...
Nhiều lời khấn lắm và chúng được thể hiện khá là nghiêm trang, có làn điệu, đầy ắp cảm xúc, cực kỳ tha thiết, hay hơn bất cứ dàn đồng ca nào, kể cả trung ương hay địa phương đã từng có dịp về hát ở xóm Duối. Khi hạ quan, một bất ngờ lớn xảy ra là có tới cả chục chị em cùng xúm vào lôi Khùng ở lại. Họ cứ bám chặt lấy quan tài, dập đầu vật vã trông rất thương tâm. Bộ phận phụ trách văn hoá của xóm phải kéo từng người ra, việc chôn cất mới nhanh hoàn tất.
Cuối cùng thì Khùng cũng có mồ yên mả đẹp, cho dù nằm ở rìa bãi nghĩa địa do nhà nào cũng đã quây thành khu.
Thế là xóm Duối thoát cảnh bị Khùng hành hạ. Trẻ con ra đường không còn lo bị anh Khùng chân nam đá chân chiêu, miệng xều rớt rãi chặn lại tóm chim, dọa cho ma đói ăn. Con gái không còn phải ren rén đi qua khi gặp Khùng ngất ngưởng trên đường làng, moi quần mở toang. Sợ nhất là bỗng dưng Khùng tụt quần xuống gối rồi tiện thể vừa gãi cành cạch vừa đái vẽ rồng vẽ rắn.
Đám đàn ông trong làng thì từ nay tha hồ mà nói năng bạt mạng, cười hô hố, văng tục thỏa sức trong các bữa cỗ hoặc đình đám mà không sợ bị Khùng xuất hiện bất ngờ làm cho cụt hứng. Ra đường họ có thể tự do cợt nhả với đám đàn bà bằng những lời tục tĩu. Nếu Khùng còn sống, hắn sẽ quặm mắt, thở ra mấy câu đầy vẻ anh chị, sặc mùi sắt thép, máu me và trong cả hai trường hợp, bất cứ gã đàn ông nào cũng cắn răng bỏ qua cho dù tức nghẹn cổ.
Nhưng ăn ngon ngủ kỹ nhất lại là cánh nhà ông Hảo, có anh em toàn làm việc trong bộ máy chính quyền từ huyện xuống xã. Trước đây, khi Khùng còn sống, anh em nhà ông luôn bị Khùng cạnh khoé nhiều nhất. Đừng có mang chức vụ ra mà dọa Khùng. Cán bộ cỡ nào Khùng cũng coi chả hơn gì con tép. Khệnh khạng kiểu quan phụ mẫu là ăn đủ với Khùng. Đi ô tô về làng mà bấm còi toe toe cũng bị Khùng xỏ: Chỉ được cái to còi. Ăn mặc bảnh bao một chút mà gặp Khùng là rắc rối.
Có lần như vậy Khùng bảo: Em tao làm ngoài trung ương nhé, một bước lên máy bay nhé, ăn một bữa bằng cả làng tiêu hàng tháng, vậy mà nói năng hồ đồ tao còn chửi cho vuốt mặt không kịp, đừng có chưa chi đã lên mặt với ông mày. Nghe mà rực hết cả ruột nhưng đành cúi mặt đi qua. Trong các đám hiếu đám hỷ, anh em nhà ông Hảo đều đến và đi như ăn vụng. Cho nên không ai cảm thấy thoát món nợ đời hơn họ khi biết tin Khùng chết. Hình như có cả ăn mừng linh đình mặc dù được trá hình bằng cuộc liên hoan nhân ngày giỗ chạp cụ kỵ gì đó.
Chuyện về cuộc đời của Khùng tưởng chấm dứt ngay sau khi hắn chết. Ai hơi đâu mà để tâm ghi nhớ. Ngay cả quan lớn đại nhân, khi sống tưởng bỏ thiên hạ trong túi, mà vừa nhắm mắt đã chả ai nhớ, huống hồ một thằng khố rách, vô gia cư, con hoang, lại khùng khùng điên điên, chỉ còn thiếu ăn rơm ăn cỏ mà sống, thì đáng kể gì. Nhưng sự đời thường cứ hay oái oăm. Xóm Duối quen có Khùng lâu quá, như một thứ “đặc sản tinh thần”, ít nhiều tạo ra nét khác thường so với thiên hạ. Nay vắng Khùng, xóm Duối cũng mất luôn bản sắc riêng, chả có gì đáng kể, chả lên mặt doạ nạt, tinh tướng được với bất cứ ai.
Bỗng chốc mọi người cứ thấy thiêu thiếu, văng vắng một cái gì đó gắn với họ hàng ngày. Cuộc sống cứ nhàn nhạt thế nào ấy. Trước kia, ngày ngày nhờ có Khùng mà xóm làng luôn trong tình trạng huyên náo, căng thẳng, cũng tức là phải động não. Trước kia luôn có chuyện cho biết bao cuộc ngồi lê đôi mách, chọc ngoáy, thị phi, dèm pha… nhờ thế mà làng nước quanh năm như có công to việc lớn, thì nay cứ buồn hiu buồn hắt. Chán nhất là chả có chuyện gì đủ sức tụ hội mọi người. Thỉnh thoảng cũng có ông cán bộ tuyên truyền từ trên cử xuống để nói chuyện về nếp sống mới, thì chỉ càng khiến dân làng thêm thấy tiếc là không còn Khùng.
Không có Khùng, bọn trẻ không có người để thỉnh thoảng kéo nhau hàng đàn rồng rắn chạy ngoài đường, chạy ré lên trong nỗi sợ nhưng sau đó cùng cười như nắc nẻ. Chúng nó cũng mất luôn niềm hãnh diện mỗi khi khoe với bọn trẻ làng khác về Khùng, nhờ thế nhiều khi chúng được an toàn.
Vắng Khùng đám các cô gái mới thấy mình hoá ra rất vô duyên. Trước đây thỉnh thoảng bị Khùng khật khưỡng trêu ghẹo, các cô thấy sờ sợ nhưng gây rất nhiều tò mò về bản thân. Giờ đi cả ngày ngoài đường cũng chẳng ai đoái hoài, bởi toàn gặp một lũ đua đòi, chỉ mải ăn hút, cờ bạc, đánh võng xe máy, học mót những ngôn từ lạ tai ngoài phố, rất đáng ghét. Trước kia gặp Khùng, dù luôn sợ mất mật, nhưng các cô cũng vì thế mà hãnh diện mình là con gái phải khép nép giữ của ngàn vàng.
Với các bà thì hoá ra Khùng mất đi là một tổn thất không thể bù đắp. Khi Khùng còn sống, nhiều phen hắn khiến các bà ngượng đỏ mặt. Ngượng nhưng ai bảo không thích thì bắt y cấm khẩu đi cho rồi. Cái thứ mà Khùng sở hữu sẽ chẳng tìm thấy ở bất cứ lão chồng nào của các bà. Với những bà vợ có chồng suốt ngày vùi đầu vào chiếu bạc, đêm trở về ướt đẫm rượu, vật vợ ra vần vò, chỉ tổ khiến họ bực mình, thì đương nhiên Khùng là niềm mong ước đoan chính nhất. Đoan chính bởi bà vợ nào đó biết chắc nó chỉ là mong ước. Mà mong ước chẳng thể có tội. Giờ thì chỉ biết chong chong nhìn đêm tối, vật vã với nỗi tủi thân không thể giãi bày cùng ai.
Không còn Khùng, hoá ra cũng tạo một khoảng trống ngay cả với đám đàn ông. Họ bỗng cảm thấy mất hết cả vị thế của những kẻ cai quản đầy quyền lực. Trước kia, khi so với Khùng, họ luôn được mặc nhiên coi là những kẻ danh giá, ít nhất với vợ con. Còn bây giờ, tan việc làng, việc họ, nhấc đít khỏi chiếu bạc cũng là lúc họ chả còn gì đáng mặt.
Xóm Duối, sau khi Khùng mất, rơi vào tình trạng sau:
Trẻ con không thích tụ tập chơi trò tập thể khiến làng xóm luôn đầy ắp tiếng cười nói, thay vào đó chúng trở nên lầm lỳ như những ông cụ non.
Bọn thanh niên, những gã đàn ông cờ bạc, gia trưởng thì lên những cơn khùng rất vô cớ.
Đám các cô tuổi chanh cốm thì mắc bệnh tự kỷ giới tính, nôm na là ghét bạn trai cùng lứa vì thấy anh chàng nào cũng thuộc loại ẽo ợt. Đêm đến các cô chỉ ru rú trong nhà, nghe có bạn trai đến là xuỵt chó ra. Nhưng từ khi Khùng chết, ngay cả việc đó các cô cũng ít khi phải làm.
Đám các bà thì luôn buồn nhớ linh tinh, hết thẫn thờ lại cáu giận vô cớ hoặc tủi phận mình sinh ra là đàn bà. Lầm lũi ngày đi làm, đêm về vùi đầu xuống gối chả thiết đến chồng.
Các cụ hàng phụ lão thì không biết dùng những lời giáo huấn hay ho nhất cho dịp nào. Bởi vì các cụ chỉ cảm thấy cao trọng khi con cháu có đứa nào đó hư hỏng, hoặc có kẻ là nguyên nhân của sự hư hỏng để nhân đó trình bày kinh nghiệm làm người tử tế. Các cụ vì thế đâm cứ thấy nhạt miệng, khó ở, từ đó buồn chán ủ ê, chỉ nghĩ và nói về chuyện hậu sự.
Tình hình không thể cứ mãi kéo dài.
Thế là có hẳn cả một cuộc hội nghị của những bậc cao trọng trong làng, những người luôn lo lắng cho thế hệ tương lai của xóm Duối. Người khởi xướng là cụ Thủ chỉ, năm nay đã ngoài tám mươi tuổi, hồi trẻ làm công tác tuyên giáo. Các cụ họp bí mật nên mọi việc sau đó cũng chỉ vài cụ biết. Mở đầu cuộc hội nghị, cụ Thủ chỉ nói sơ qua về tình hình trong làng ngoài xóm kể từ khi Khùng mất, dẫn đến rất nhiều biến cố không ai lường tới.
Những biến cố đó vừa khách quan vừa là chủ quan, vừa có yếu tố bên trong vừa bị chi phối bởi bên ngoài, vừa phản ánh thực trạng chung, tức là mang tính xu thế, vừa là căn bệnh của riêng xóm Duối vân vân và vân vân. Cụ nói một hồi và chỉ dừng lại để lấy hơi hoặc đẩy hàm răng giả về đúng vị trí. Theo cụ tình trạng đã đến độ nguy hiểm và không thể để kéo dài. Kéo dài sẽ kéo theo nhiều hậu quả không ai có thể biết trước. Sau khi cụ Thủ chỉ dứt lời, lần lượt các cụ cho ý kiến và hội nghị “Diên Hồng xóm Duối” nhất trí với mấy nhận định sau:
- Xóm Duối đang có chuyện không bình thường, là có thật.
- Nguyên nhân từ biến cố cái chết của Khùng.
- Tình hình đã đến mức phải có sự can thiệp của những người còn tỉnh táo và có trách nhiệm.
Các cụ cùng nhất trí cho rằng: Một ngày xóm Duối không thể thiếu Khùng. Nhưng Khùng thì đã chết rồi. Người chết đương nhiên là không thể sống lại. Vì thế giải pháp khả dĩ nhất là xóm Duối, dưới sự chỉ đạo của các cụ, phải khẩn trương mở cuộc thi tuyển để tìm bằng được một gã khùng khác thay vào vị trí của Khùng. Việc này khó nhưng nếu quyết tâm cao, có sự đồng thuận từ trên xuống dưới, được tổ chức tốt từ trong ra ngoài thì nhất định sẽ làm được. Điều khiến các cụ vững tâm vào thắng lợi của kế hoạch là thiên hạ không thể chỉ có một Khùng.
Dự định trên của các cụ xóm Duối lập tức nhận được sự đồng tình của đa số, đặc biệt là từ bọn trẻ con và cánh các bà. Một doanh nghiệp có ông chủ là người xóm Duối, kinh doanh trong lĩnh vực môi giới việc làm, đưa người đi lao động ở nước ngoài, đề nghị được là nhà tài trợ vàng cho cuộc thi. Câu lạc bộ thơ xóm Duối có tên là “Bánh đa, bánh đúc” do một thầy giáo chủ xướng cũng nhanh chóng cho ra tờ báo tường ca ngợi cuộc sống yên bình của xóm Duối dưới bóng mát của các cụ. Trên góc trái tờ báo có ghi cáo phó Khùng với đầy đủ ngày sinh tháng đẻ, không hiểu ông giáo thông kim bác cổ moi từ đâu ra.
Thế là ngay từ hôm sau, trên lối chính ra vào xóm Duối, có tấm biển làm bằng cót, nẹp tre, phết nền xanh, trang trí rất cầu kỳ, nổi bật dòng chữ: Thi tuyển Khùng. Mọi người, cả trong làng lẫn bên ngoài trông thấy đều rất phấn khích. Xóm Duối nhộn nhịp y như có hội. Người ta đi lại, ăn nói, bàn luận, hiến kế rất rôm rả.
Share |
Thi tuyển Khùng
Ngày đăng: 30/06/2011 3:38:59 CH
Chuyện này đã có nhiều người biết nhưng nay vẫn xin được kể lại và không hề có tí chủ ý đùa cợt nào. Số là xóm Duối có một gã đàn ông tính khùng khùng điên điên hình như cũng có tên tuổi hẳn hoi nhưng không ai nhớ. Mọi người nhất loạt gọi anh ta là Khùng. Lâu dần Khùng thành tên. Khùng là con hoang-chắc thế-và bị bỏ rơi từ bé. Khùng lớn lên bằng vật vờ kiếm ăn ở chợ, ở chùa, những nơi có đình đám hoặc nơi bãi rác. Tối về Khùng chui vào căn nhà trước kia dành cho người đi làm đồng nghỉ chân, gọi là nhà cầu, nhưng từ lâu đã bỏ hoang.
Vật bất ly thân của Khùng là một cái vỏ chai rượu ti thời Pháp và một con dao luôn đút trong bao. Không vợ con, không nghề nghiệp, Khùng là kẻ chuyên gây sự. Anh ta gây sự ngay cả khi chẳng có cớ gì, với khắp làng trên xóm dưới. Việc bằng cái kim anh ta cũng thổi lên bằng cái đũa, cốt để được gây sự. Không gây sự Khùng chẳng biết làm gì. Không gây sự Khùng buồn ủ ê hoặc ấp ủ làm những việc rất dại dột, khó lường.
Cả làng không ai chấp, không ai tranh hơn kém thua thiệt với Khùng. Thế là Khùng càng được thể lên nước, tự coi mình là người ghê gớm. Và cả xóm Duối đã quen với những cơn say mềm người, những vụ cởi truồng thông lông chạy khắp cánh đồng làng dưới ánh trăng vằng vặc, những đêm hát hò không khán giả... gắn với cái tên Khùng. Tuy làm những chuyện rất nghịch mắt, nói những lời cực kỳ chối tai... nhưng Khùng chưa hề gây tội ác với ai và ở đâu. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng, Khùng chỉ loanh quanh bắt nạt người ở xóm Duối.
Thế rồi bất ngờ, vào một đêm trăng thanh gió mát, Khùng lăn đùng ra chết. Nhiều người trước đó còn nghe thấy hắn hát í a, nói lung tung về chuyện trai gái, chuyện làng xóm, rồi hết khóc lại cười. Sau đó không thấy động tĩnh gì nữa cho đến khi người ta phát hiện ra Khùng chết còng queo, thân thể tím tái và người ta nghi là hắn bị cảm lạnh.
Cũng có người thương xót cho kiếp làm người của Khùng, sinh ra đã bị lưu đày. Nhưng đa phần coi cái chết của hắn là sự giải thoát cho họ khỏi một tai ương. Thật là nhẹ cả người. Xóm Duối tổ chức chôn cất cho Khùng theo kiểu bỏ thì thương vương vào thì nợ. Quan tài dành cho Khùng được tận dụng ghép lại từ những tấm gỗ thôi. Cũng có bát cơm quả trứng, chai rượu dành cho Khùng.
Trong khi đám đàn ông coi việc chôn cất Khùng chả khác gì vùi cho khuất mắt một cái thây vô chủ để lâu thối làng, thì đám đàn bà của xóm Duối lại tỏ ra là những người rộng lượng hơn. Họ tổ chức gọi hồn, cầu siêu cho Khùng, mong Khùng xuống dưới âm ty thoát kiếp đầu đường xó chợ, có danh phận, có công ăn việc làm tử tế, có quyền chức bổng lộc để được sướng hơn trên trần; mong cho hồn Khùng không bị cảnh sát âm ty kiểm tra giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, không bị bảo vệ đang đêm xộc vào dựng dậy lên lớp cho một bài, không bị những hồn ma giả dạng là những cô gái thanh tân chặn đường quyến rũ khiến lạc vào bến mê khổ muôn kiếp; mong sao xuống đó Khùng có cửa có nhà, không le bè rượu chè, không khùng khùng điên điên mà chăm chỉ làm ăn, lo tu tỉnh để chờ ngày được đi đầu thai...
Nhiều lời khấn lắm và chúng được thể hiện khá là nghiêm trang, có làn điệu, đầy ắp cảm xúc, cực kỳ tha thiết, hay hơn bất cứ dàn đồng ca nào, kể cả trung ương hay địa phương đã từng có dịp về hát ở xóm Duối. Khi hạ quan, một bất ngờ lớn xảy ra là có tới cả chục chị em cùng xúm vào lôi Khùng ở lại. Họ cứ bám chặt lấy quan tài, dập đầu vật vã trông rất thương tâm. Bộ phận phụ trách văn hoá của xóm phải kéo từng người ra, việc chôn cất mới nhanh hoàn tất.
Cuối cùng thì Khùng cũng có mồ yên mả đẹp, cho dù nằm ở rìa bãi nghĩa địa do nhà nào cũng đã quây thành khu.
Thế là xóm Duối thoát cảnh bị Khùng hành hạ. Trẻ con ra đường không còn lo bị anh Khùng chân nam đá chân chiêu, miệng xều rớt rãi chặn lại tóm chim, dọa cho ma đói ăn. Con gái không còn phải ren rén đi qua khi gặp Khùng ngất ngưởng trên đường làng, moi quần mở toang. Sợ nhất là bỗng dưng Khùng tụt quần xuống gối rồi tiện thể vừa gãi cành cạch vừa đái vẽ rồng vẽ rắn.
Đám đàn ông trong làng thì từ nay tha hồ mà nói năng bạt mạng, cười hô hố, văng tục thỏa sức trong các bữa cỗ hoặc đình đám mà không sợ bị Khùng xuất hiện bất ngờ làm cho cụt hứng. Ra đường họ có thể tự do cợt nhả với đám đàn bà bằng những lời tục tĩu. Nếu Khùng còn sống, hắn sẽ quặm mắt, thở ra mấy câu đầy vẻ anh chị, sặc mùi sắt thép, máu me và trong cả hai trường hợp, bất cứ gã đàn ông nào cũng cắn răng bỏ qua cho dù tức nghẹn cổ.
Nhưng ăn ngon ngủ kỹ nhất lại là cánh nhà ông Hảo, có anh em toàn làm việc trong bộ máy chính quyền từ huyện xuống xã. Trước đây, khi Khùng còn sống, anh em nhà ông luôn bị Khùng cạnh khoé nhiều nhất. Đừng có mang chức vụ ra mà dọa Khùng. Cán bộ cỡ nào Khùng cũng coi chả hơn gì con tép. Khệnh khạng kiểu quan phụ mẫu là ăn đủ với Khùng. Đi ô tô về làng mà bấm còi toe toe cũng bị Khùng xỏ: Chỉ được cái to còi. Ăn mặc bảnh bao một chút mà gặp Khùng là rắc rối.
Có lần như vậy Khùng bảo: Em tao làm ngoài trung ương nhé, một bước lên máy bay nhé, ăn một bữa bằng cả làng tiêu hàng tháng, vậy mà nói năng hồ đồ tao còn chửi cho vuốt mặt không kịp, đừng có chưa chi đã lên mặt với ông mày. Nghe mà rực hết cả ruột nhưng đành cúi mặt đi qua. Trong các đám hiếu đám hỷ, anh em nhà ông Hảo đều đến và đi như ăn vụng. Cho nên không ai cảm thấy thoát món nợ đời hơn họ khi biết tin Khùng chết. Hình như có cả ăn mừng linh đình mặc dù được trá hình bằng cuộc liên hoan nhân ngày giỗ chạp cụ kỵ gì đó.
Chuyện về cuộc đời của Khùng tưởng chấm dứt ngay sau khi hắn chết. Ai hơi đâu mà để tâm ghi nhớ. Ngay cả quan lớn đại nhân, khi sống tưởng bỏ thiên hạ trong túi, mà vừa nhắm mắt đã chả ai nhớ, huống hồ một thằng khố rách, vô gia cư, con hoang, lại khùng khùng điên điên, chỉ còn thiếu ăn rơm ăn cỏ mà sống, thì đáng kể gì. Nhưng sự đời thường cứ hay oái oăm. Xóm Duối quen có Khùng lâu quá, như một thứ “đặc sản tinh thần”, ít nhiều tạo ra nét khác thường so với thiên hạ. Nay vắng Khùng, xóm Duối cũng mất luôn bản sắc riêng, chả có gì đáng kể, chả lên mặt doạ nạt, tinh tướng được với bất cứ ai.
Bỗng chốc mọi người cứ thấy thiêu thiếu, văng vắng một cái gì đó gắn với họ hàng ngày. Cuộc sống cứ nhàn nhạt thế nào ấy. Trước kia, ngày ngày nhờ có Khùng mà xóm làng luôn trong tình trạng huyên náo, căng thẳng, cũng tức là phải động não. Trước kia luôn có chuyện cho biết bao cuộc ngồi lê đôi mách, chọc ngoáy, thị phi, dèm pha… nhờ thế mà làng nước quanh năm như có công to việc lớn, thì nay cứ buồn hiu buồn hắt. Chán nhất là chả có chuyện gì đủ sức tụ hội mọi người. Thỉnh thoảng cũng có ông cán bộ tuyên truyền từ trên cử xuống để nói chuyện về nếp sống mới, thì chỉ càng khiến dân làng thêm thấy tiếc là không còn Khùng.
Không có Khùng, bọn trẻ không có người để thỉnh thoảng kéo nhau hàng đàn rồng rắn chạy ngoài đường, chạy ré lên trong nỗi sợ nhưng sau đó cùng cười như nắc nẻ. Chúng nó cũng mất luôn niềm hãnh diện mỗi khi khoe với bọn trẻ làng khác về Khùng, nhờ thế nhiều khi chúng được an toàn.
Vắng Khùng đám các cô gái mới thấy mình hoá ra rất vô duyên. Trước đây thỉnh thoảng bị Khùng khật khưỡng trêu ghẹo, các cô thấy sờ sợ nhưng gây rất nhiều tò mò về bản thân. Giờ đi cả ngày ngoài đường cũng chẳng ai đoái hoài, bởi toàn gặp một lũ đua đòi, chỉ mải ăn hút, cờ bạc, đánh võng xe máy, học mót những ngôn từ lạ tai ngoài phố, rất đáng ghét. Trước kia gặp Khùng, dù luôn sợ mất mật, nhưng các cô cũng vì thế mà hãnh diện mình là con gái phải khép nép giữ của ngàn vàng.
Với các bà thì hoá ra Khùng mất đi là một tổn thất không thể bù đắp. Khi Khùng còn sống, nhiều phen hắn khiến các bà ngượng đỏ mặt. Ngượng nhưng ai bảo không thích thì bắt y cấm khẩu đi cho rồi. Cái thứ mà Khùng sở hữu sẽ chẳng tìm thấy ở bất cứ lão chồng nào của các bà. Với những bà vợ có chồng suốt ngày vùi đầu vào chiếu bạc, đêm trở về ướt đẫm rượu, vật vợ ra vần vò, chỉ tổ khiến họ bực mình, thì đương nhiên Khùng là niềm mong ước đoan chính nhất. Đoan chính bởi bà vợ nào đó biết chắc nó chỉ là mong ước. Mà mong ước chẳng thể có tội. Giờ thì chỉ biết chong chong nhìn đêm tối, vật vã với nỗi tủi thân không thể giãi bày cùng ai.
Không còn Khùng, hoá ra cũng tạo một khoảng trống ngay cả với đám đàn ông. Họ bỗng cảm thấy mất hết cả vị thế của những kẻ cai quản đầy quyền lực. Trước kia, khi so với Khùng, họ luôn được mặc nhiên coi là những kẻ danh giá, ít nhất với vợ con. Còn bây giờ, tan việc làng, việc họ, nhấc đít khỏi chiếu bạc cũng là lúc họ chả còn gì đáng mặt.
Xóm Duối, sau khi Khùng mất, rơi vào tình trạng sau:
Trẻ con không thích tụ tập chơi trò tập thể khiến làng xóm luôn đầy ắp tiếng cười nói, thay vào đó chúng trở nên lầm lỳ như những ông cụ non.
Bọn thanh niên, những gã đàn ông cờ bạc, gia trưởng thì lên những cơn khùng rất vô cớ.
Đám các cô tuổi chanh cốm thì mắc bệnh tự kỷ giới tính, nôm na là ghét bạn trai cùng lứa vì thấy anh chàng nào cũng thuộc loại ẽo ợt. Đêm đến các cô chỉ ru rú trong nhà, nghe có bạn trai đến là xuỵt chó ra. Nhưng từ khi Khùng chết, ngay cả việc đó các cô cũng ít khi phải làm.
Đám các bà thì luôn buồn nhớ linh tinh, hết thẫn thờ lại cáu giận vô cớ hoặc tủi phận mình sinh ra là đàn bà. Lầm lũi ngày đi làm, đêm về vùi đầu xuống gối chả thiết đến chồng.
Các cụ hàng phụ lão thì không biết dùng những lời giáo huấn hay ho nhất cho dịp nào. Bởi vì các cụ chỉ cảm thấy cao trọng khi con cháu có đứa nào đó hư hỏng, hoặc có kẻ là nguyên nhân của sự hư hỏng để nhân đó trình bày kinh nghiệm làm người tử tế. Các cụ vì thế đâm cứ thấy nhạt miệng, khó ở, từ đó buồn chán ủ ê, chỉ nghĩ và nói về chuyện hậu sự.
Tình hình không thể cứ mãi kéo dài.
Thế là có hẳn cả một cuộc hội nghị của những bậc cao trọng trong làng, những người luôn lo lắng cho thế hệ tương lai của xóm Duối. Người khởi xướng là cụ Thủ chỉ, năm nay đã ngoài tám mươi tuổi, hồi trẻ làm công tác tuyên giáo. Các cụ họp bí mật nên mọi việc sau đó cũng chỉ vài cụ biết. Mở đầu cuộc hội nghị, cụ Thủ chỉ nói sơ qua về tình hình trong làng ngoài xóm kể từ khi Khùng mất, dẫn đến rất nhiều biến cố không ai lường tới.
Những biến cố đó vừa khách quan vừa là chủ quan, vừa có yếu tố bên trong vừa bị chi phối bởi bên ngoài, vừa phản ánh thực trạng chung, tức là mang tính xu thế, vừa là căn bệnh của riêng xóm Duối vân vân và vân vân. Cụ nói một hồi và chỉ dừng lại để lấy hơi hoặc đẩy hàm răng giả về đúng vị trí. Theo cụ tình trạng đã đến độ nguy hiểm và không thể để kéo dài. Kéo dài sẽ kéo theo nhiều hậu quả không ai có thể biết trước. Sau khi cụ Thủ chỉ dứt lời, lần lượt các cụ cho ý kiến và hội nghị “Diên Hồng xóm Duối” nhất trí với mấy nhận định sau:
- Xóm Duối đang có chuyện không bình thường, là có thật.
- Nguyên nhân từ biến cố cái chết của Khùng.
- Tình hình đã đến mức phải có sự can thiệp của những người còn tỉnh táo và có trách nhiệm.
Các cụ cùng nhất trí cho rằng: Một ngày xóm Duối không thể thiếu Khùng. Nhưng Khùng thì đã chết rồi. Người chết đương nhiên là không thể sống lại. Vì thế giải pháp khả dĩ nhất là xóm Duối, dưới sự chỉ đạo của các cụ, phải khẩn trương mở cuộc thi tuyển để tìm bằng được một gã khùng khác thay vào vị trí của Khùng. Việc này khó nhưng nếu quyết tâm cao, có sự đồng thuận từ trên xuống dưới, được tổ chức tốt từ trong ra ngoài thì nhất định sẽ làm được. Điều khiến các cụ vững tâm vào thắng lợi của kế hoạch là thiên hạ không thể chỉ có một Khùng.
Dự định trên của các cụ xóm Duối lập tức nhận được sự đồng tình của đa số, đặc biệt là từ bọn trẻ con và cánh các bà. Một doanh nghiệp có ông chủ là người xóm Duối, kinh doanh trong lĩnh vực môi giới việc làm, đưa người đi lao động ở nước ngoài, đề nghị được là nhà tài trợ vàng cho cuộc thi. Câu lạc bộ thơ xóm Duối có tên là “Bánh đa, bánh đúc” do một thầy giáo chủ xướng cũng nhanh chóng cho ra tờ báo tường ca ngợi cuộc sống yên bình của xóm Duối dưới bóng mát của các cụ. Trên góc trái tờ báo có ghi cáo phó Khùng với đầy đủ ngày sinh tháng đẻ, không hiểu ông giáo thông kim bác cổ moi từ đâu ra.
Thế là ngay từ hôm sau, trên lối chính ra vào xóm Duối, có tấm biển làm bằng cót, nẹp tre, phết nền xanh, trang trí rất cầu kỳ, nổi bật dòng chữ: Thi tuyển Khùng. Mọi người, cả trong làng lẫn bên ngoài trông thấy đều rất phấn khích. Xóm Duối nhộn nhịp y như có hội. Người ta đi lại, ăn nói, bàn luận, hiến kế rất rôm rả.
Người già mang lễ phục truyền thống ra mặc. Các cụ ông thì áo the hoa mầu đen, khăn xếp, ô lục soạn, giầy kiểu Gia Định. Các cụ bà thì áo lương dài thâm, bao lụa tơ tằm đủ các mầu sắc, khăn nhung vấn mỏ quạ, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Các bà thì te tái đi lại, hỏi han, nói cười rổn rảng, vỗ mông vỗ vai bôm bốp, hãnh diện khoe quần áo... y như chuẩn bị đón Khùng tái thế. Nhiều chiếu trà đã được trải ra cho đám đàn ông lấy cớ tụ tập đàm đạo, bình phẩm. Nhưng vui và náo loạn nhất vẫn là bọn trẻ con. Chúng được tự do chạy nhảy, hò hét, thi nhau khoe có họ hoặc có kỷ niệm với anh Khùng. Chúng mong xóm Duối ngày nào, tháng nào, năm nào cũng tràn ngập không khí hội hè đình đám như vậy.
Thí sinh đầu tiên xuất hiện trong sự hồi hộp của mọi người. Anh ta chính là Nhất Quất, con ông Nhất Quýt ở ngõ trên. Anh này bỏ ra phố làm cửu vạn về, mang theo khá nhiều điều lạ, từ ăn mặc, đầu tóc cho đến lời ăn tiếng nói. Tuy nghe đồn anh ta kiếm bộn tiền vì đào trúng một cái “mỏ” là bà quả phụ trẻ chồng bị chết, nhưng nhìn vào gia cảnh của Quất vẫn chả thấy khác gì khi anh ta cày sâu cuốc bẫm trên đám ruộng được chia ngoại trừ chị vợ ngày càng âu sầu.
Hồi trước còn Khùng, những hôm vắng chồng, chị thường hay qua lại căn nhà cầu, nói là mang cho Khùng mấy bắp ngô, củ khoai nhưng khi trở về thì khác hẳn. Ít ra thì nó cũng không héo rũ như từ ngày Quất từ phố trở về. Nghe tin chồng ra mặt muốn làm người thay Khùng, chị không nói một lời mà chỉ cười nhếch mép khá bí hiểm.
Thí sinh Nhất Quất trượt ngay từ vòng đầu. Anh ta hiểu sai đề bài, ra sức làm những trò mua vui, bất chấp thanh hay tục, nói năng toàn những lời có cánh mà Quất cóp được trên những tờ báo dày đặc chuyện phòng the, vụ án Quất đọc vơ đọc váo những khi ngồi chờ việc. Đã thế Quất đi lại y như phường chèo, rất không tự nhiên. Xong bài thi, nhìn vẻ mặt các cụ ngao ngán nhưng anh chàng Quất không hề linh cảm thấy điều gì, vẫn hơn hớn cười nói. Cuối cùng cụ trưởng ban phải đặt câu hỏi cho Quất:
- Anh Quất này, anh hiểu khùng khác với hề ở chỗ nào?
Quất đáp:
- Cũng cùng một giuộc, như ri như rứa cả!
Cụ ra câu hỏi lắc đầu theo đúng kiểu của một bậc giám khảo có thâm niên:
- Cảm ơn anh Quất nhưng rất tiếc là anh đã hiểu sai vai trò của hai loại người. Chúng tôi ghi nhận là anh rất khao khát chiến thắng, rất nỗ lực, rất chịu khó tìm tòi cách thể hiện... nhưng hình như anh chỉ làm hề được thôi. Làm hề khác hẳn với làm khùng. Làm hề không cần phải bày tỏ chính kiến, nhưng làm khùng thì có đấy. Làm hề có trăm cách. Cứ cười hềnh hệch là xong, là có thể gây cười. Cứ nhắm tịt mắt lại theo kiểu đầu đường xó chợ nhưng lời nói, cử chỉ như giáo sư, tiến sỹ là có thể gây cười. Cứ nghiêm trang như phỗng đá trong một trò biết chắc chắn là hề, là có thể gây cười. Cứ vung tay diễn trước mặt người khác một bài lặp đi lặp lại, thêm chút cau mày nhăn trán là có thể gây cười. Cứ nhăn nhăn nhở nhở, nhạt toẹt, nói đế, nói theo cũng có thể gây cười... nhưng làm khùng thì không gây cười mà phải khiến người ta sợ nổi gai ốc, dựng tóc gáy, sun vòi lại, cáu tiết, bực tức, điên đầu muốn chết hoặc muốn gây án nhưng cuối cùng thì lại là cảm giác thích thú. Nó phức tạp và tinh tế thế đấy anh ạ.
Quất cười hi hi:
- Tưởng gì chứ làm cho người khác sởn tóc gáy, sợ vãi đái thì Quất làm ngon. Quất chỉ cần phồng mồm trợn mắt là đến ma quỷ cũng kinh hồn chứ nói gì đến người.
Cụ ra câu hỏi lại cười rất độ lượng, lần này cụ cho thấy mình không chỉ kỳ cựu trong nghề làm giám khảo mà còn rất thâm Nho:
- Chúng tôi biết anh còn làm cả những việc kinh thiên động địa hơn nữa kia. Chả hạn khi còn làm cửu vạn ngoài phố, một tấc một cắc không có mà anh đã bán cả thửa đất ngoài... sông cho người khác, còn hơn cả bán trời không văn tự, việc đó đương nhiên không phải ai cũng đủ liều lĩnh. Đúng là chỉ có anh mới dám làm như vậy. Nhưng anh cứ ngẫm mà xem, sau khi anh làm cho mọi người kinh hồn thì liền đó họ quay sang khinh bỉ cái hành động của anh - Xin lỗi nếu tôi làm anh phật ý nhưng tôi không tìm được cách nói khác dễ hiểu hơn. Mà tiêu chí của chúng tôi là phải vừa sởn gai ốc, vừa sướng rơn người kia. Sợ mà vẫn thích được sợ nhiều nữa. Bên ngoài thì sợ nhưng bên trong lại thích. Ở gần thì sợ mà xa thì cứ thấy muốn gần. Tỏ ra mặt bằng khinh thị nhưng trong lòng ngầm kính phục vân vân và vân vân... Ô, nói ra thì nó dài dòng lắm nhưng đại loại như vậy. Khó thế chứ. Nhưng khùng là thế anh hề Quất ạ. Cảm ơn anh đã tham gia cuộc thi, giúp chúng tôi có một khởi đầu không đến nỗi tồi.
Quất đành ngậm ngùi ra về, đổ lỗi cho thằng đàn em chả liên quan gì, rằng tại nó mà mình bị mất một món không nhỏ so với thu nhập chung.
Vậy là cuộc thi tìm người thay thế Khùng vẫn phải tiếp tục. Nhưng các cụ xóm Duối và mọi người không phải chờ lâu. Cùng một lúc có mấy thí sinh từ các làng cận kề, có lẽ đã đủ thời gian để cân nhắc, cùng đến đăng ký dự thi, nằm ngoài mọi tính toán có phần bi quan của các cụ. Đang lo không có người tham gia, nay kéo đến cả đống khiến các cụ lại đâm khó trong việc chọn ai trước.
Cuối cùng các cụ cũng nghĩ ra một cách là tổ chức hai vòng - như những cuộc thi khác - sơ khảo và chung khảo. Ban sơ khảo có nhiệm vụ phân loại đối tượng theo thang ABC. A là đối tượng cần chú ý. B là đối tượng đáng quan tâm, còn C thì coi như loại. Tất nhiên chỉ có loại A và B qua vòng sơ khảo và được thi tiếp. Kết quả đúng như các cụ phỏng đoán: phần lớn họ chưa hiểu về tính chất nghiêm túc của cuộc thi tuyển, lại quá háo danh, hám lợi. Họ tưởng trò đùa các cụ rỗi hơi bày ra thì thế nào cũng được.
Thành thử trong số 5 người đăng ký thi tuyển người thay Khùng đợt hai, chỉ trụ lại một đối tượng khả dĩ, được ban sơ khảo chấm mức đáng quan tâm. Nhưng người tinh mắt (may mà các cụ trong Ban chung khảo đều bị loà) có thể thấy trước là thí sinh lọt qua sơ khảo kém xa Khùng về mọi mặt. Anh này tướng lấc láo, mặt lưỡi cày, miệng cá ngão, mắt lồi, nhiều lòng trắng, lại luôn có vằn đỏ. Ấn tượng nhất là khi anh ta nói. Nó y như chó sủa, tức là không thể nghe rõ từng lời mà chỉ thấy như tuôn ra từng tràng toang toác.
Chuyện kể rằng một lần anh ta có tên trong khoảng dăm bảy người may mắn từ dăm bảy xã, được một bậc hào phú của vùng mời đến nhà vào mỗi dịp sinh nhật cụ thân sinh ra ông ta. Khách mời, sau khi tham quan dinh cơ đồ sộ của bậc hào phú, sẽ được gia chủ mời cơm với những món sơn hào hải vị. Trước lúc khách ra về, bậc hào phú còn tặng cho mỗi người một gói quà.
Nhưng để được nhận món quà đó, khách phải vái lạy bố của ông ta một cái. Ông cụ đã ngót nghét tuổi trăm, người teo lại chỉ còn như thằng bé. Cụ không đi tiểu tiện được nữa nên lúc nào cũng phải đeo một bọc đựng nước bên sườn. Cụ ngồi như thánh sống trong khu dành riêng cho mình tại một căn phòng sơn son thiếp vàng, chỉ người hầu mới được phép vào.
Thiên hạ đồn rằng, đã nhiều năm nay cụ không ăn mà chỉ ngậm sâm. Con trai cụ cần cụ cứ ngồi đó để tạo dựng uy danh với đám có quyền lực trong vùng. Cụ còn sống thì con trai cụ còn tha hồ quẫy đạp mà vẫn được che chở. Việc năm nào lão cũng tổ chức mời khách đến nhà chính là một cách ngầm khoe khoang gia thế. Để có thể vái cụ, khách phải tập đi tập lại cách vái vài lượt.
Thoạt đầu người nhà bậc hào phú đem cho mỗi người một đôi giày vải và một bộ quần áo may theo lối đại gia trước đây. Khách đóng bộ vào rồi được dẫn vào phòng tập vái. Tại đó có một người chờ sẵn để hướng dẫn. Khách làm theo hiệu lệnh mà không được thắc mắc. Chả hạn người nhà hô: bước, khách phải bước. Người nhà hô: dừng lại, khách liền dừng lại. Người nhà hô: Quỳ xuống, khách mới được quỳ. Khi nào nghe tiếng hô: vái, khách mới được vái. Vái chưa đúng phải vái lại, bao giờ đúng mới được vào vái thật. Nhưng mà cũng bõ lắm. Chỉ phải quỳ rạp xuống một cái, áp môi tượng trưng lên vạt áo dài bằng nhiễu đỏ trùm che lấp chân người ngồi, là nhận ngay gói quà đủ cho gia đình người nghèo ăn cả tháng!
Năm ấy, anh chàng vừa được các cụ sơ khảo cuộc thi khùng cho điểm B, như đã kể, cũng có mặt và khi tập vái anh ta làm theo hiệu lệnh răm rắp. Đến phần vái thật, trong khi mọi người đang sửa sang chỗ đặt hai đầu gối, thì anh chàng tót lên trước, bế xốc ông cụ đặt xuống đùi sau khi ngồi vào chỗ của cụ. Thế là mọi người vái anh ta là chính vì thực tế ông cụ không còn khả năng nhận biết. Chuyện đương nhiên đến tai con trai cụ lập tức khiến lão tím bầm mặt.
Chưa ai dám to gan lớn mật với lão đến thế. Làm to chuyện thì lão không dại vì sợ thiên hạ biết, mang tiếng. Nhưng lão sẽ rút lại gói quà. Anh chàng bèn ghé tai lão bảo nhỏ: “Nếu không chịu đưa quà thì ông phải bảo cụ nhà bế đền tôi như tôi đã bế cụ. Cụ không làm được thì con trai cụ phải làm thay bố, lẽ đời vốn là vậy. Còn nếu con trai cụ cũng không làm được thì vợ ông ta phải làm. Và chắc là tôi sẽ thích lắm đấy, hơn đứt gói quà của ông.
Nói xong nằm kềnh ra trên sập gụ, cười lăn cười lộn.
Lão hào phú đành nuốt hận vào trong, chỉ còn biết thề sẽ có ngày rửa hận.
Tên anh ta là Bụp.
- Anh có cái tên nghe rất… mạnh và chắc - cụ trưởng ban hỏi - biệt danh hay ai đặt cho anh?
- Chịu, lớn lên thấy người ta gọi mình như vậy. Có lẽ do tính cháu thích bụp.
- Anh thích bụp, vậy cái thứ anh thích có thể gọi bằng tên khác không?
- Là uýnh. Thằng nào khiến cháu ngứa mắt là cháu bụp luôn, tức là uýnh luôn.
- Bất kể ai?
- Kể cả bố đẻ.
Bấy giờ cụ trưởng ban mới thong thả nói:
- Anh Bụp này, rất tiếc phải nói với anh chúng ta lại không có duyên với nhau. Nếu ở đâu người ta cần đầu gấu, cần người chuyên đi ăn vạ thì tôi tin họ sẽ mang võng điều đến rước anh mà không cần anh phí một lời. Nhưng chúng tôi tuyển người để thay anh Khùng chẳng may ngắn số của chúng tôi - cụ thở dài - Chúng tôi không nhận được anh là chúng tôi thất bại chứ không phải anh.
Cuộc thi tuyển thế là thất bại. Treo biển thêm một thời gian không thấy có người đến xin ứng thí, các cụ xóm Duối bèn chuyển hướng, thay vì ngồi chờ, các cụ sẽ thân chinh đi tìm. Ngay lập tức đoàn đi tìm người thay Khùng của các cụ xóm Duối gồm năm thành viên được chốt danh sách gấp. Toàn là các cụ có uy tín hàng đầu. Các cụ chuẩn bị khá chu tất cho một chuyến đi có thể sẽ kéo dài nhiều ngày và lên đường sau đó vài hôm.
Các cụ vạch trước lộ trình nên không mất nhiều công hỏi thăm. Thông thường tới một nơi nào đó, việc đầu tiên các cụ làm là vào dâng lễ vật bái yết Thành hoàng của nơi ấy, nói rõ mục đích của chuyến đi, mong Thành hoàng phù hộ. Sau đó các cụ đi gặp các bô lão đức cao vọng trọng, những người có khả năng nói ra những câu nặng hơn cả vàng. Rồi là đám chức sắc đương chức cũng như đã hồi hưu, giãi bày với họ nỗi khổ của cánh cha chú lo cho thế hệ mai sau, chỉ mong họ giúp đỡ. Vì thế đến làng nào các cụ cũng chỉ hỏi đúng một câu: Ở đây có ai bị coi là dở người không? Câu trả lời luôn khiến các cụ thất vọng. Nhưng các cụ không nản.
Tại một nơi, các cụ xóm Duối tưởng đã tìm thấy người như mình muốn thì hoá ra người đó cũng đã hết lộc trời từ lâu, chỉ còn dư âm lại chút tiếng tăm. Ở một xóm nọ, các cụ nghe phong thanh có một gã đàn ông khá giống với Khùng đã chết của xóm Duối. Nhưng khi tiếp xúc mới thấy lời đồn đại luôn xa thực tế hàng cây số. Anh ta làm Cuội thì được chứ thay Khùng thì còn thiếu quá nhiều thứ. Các cụ bèn tìm đến những nơi xa hơn, cách xóm Duối vài ngày đường.
Qua biết bao mách nước, cuối cùng các cụ cũng tìm được một người tương đối ưng ý. Anh ta cũng không rõ nguồn gốc xuất thân. Anh ta cũng không có tên tuổi chính thức, sống vật vạ hết chợ này sang chợ khác, ai sai bảo gì cũng làm nhưng đừng ai dại mà động vào. Cũng giống như Khùng của xóm Duối, anh ta chưa từng đánh người, chưa chính thức ăn cắp của ai. Khi cần chửi thì chửi chua chanh như đàn bà. Nhưng lúc cần làm trò thì lại đọc thơ vanh vách, hát cải lương, quan họ, chèo tuồng… đều mùi mẫn và đúng điệu. Xét kỹ càng thì không thể sánh với Khùng được nhưng nếu không ra khỏi cái bóng của Khùng thì sẽ chỉ ra về tay trắng. Các cụ bảo nhau thế nên quyết định chấm anh ta cho xong chuyện.
Nhưng hoá ra anh ta cũng do làng ấy kỳ công lôi từ nơi khác về, một ngày không thể thiếu nên không thể nhường lại cho bất cứ ai. Cuối cùng cả năm cụ xóm Duối đều chỉ còn biết nhắn con cháu đến đưa về vì sức các cụ đã kiệt mà đường thì xa.
Suốt thời gian khá dài về sau, mặc dù tấm bảng thông báo tuyển khùng vẫn án ngữ ngay đầu làng, nhưng cho đến khi cả năm cụ trong ban tuyển chọn đều hai năm mươi về giời, xóm Duối vẫn không sao tìm được người thay thế Khùng.
Cho đến một hôm, có lẽ khá lâu sau sự cố đã kể, người chép lại chuyện này có việc phải qua xóm Duối, đúng vào hôm ở đây đang tưng bừng như có hội hè đình đám gì to lắm. Trống giong cờ mở, băng rôn khẩu hiệu đầy đường. Mọi người tụ tập túm năm tụm ba, mặt ai nấy đều rất phấn khích. Tò mò hỏi ra thì được biết xóm Duối đang mở cuộc thi vẽ chân dung. Điều kiện bắt buộc là kích thước tranh phải đúng bằng người thật và phải vẽ bằng chất liệu có độ bền lâu.
Từ đó mới biết câu chuyện đã kể về người có tên là Khùng. Do không thể tìm được người thay thế anh ta, các cụ trong Ban tuyển chọn (tất nhiên không phải là năm cụ đã quy tiên) bèn nghĩ ra cách vẽ anh ta để treo trước cửa miếu Thành hoàng, là nơi luôn có các cuộc tập trung đông người của xóm. Khá nhiều người đăng ký tham gia, trong đó có cả những họa sĩ chuyên nghiệp từ Hà Nội về. Nghe nói cuối cùng bức tranh được chọn của một thiếu phụ nổi tiếng là đoan chính, lại giỏi giang chữ nghĩa và rất mực yêu chồng. Không giống những người khác khuôn mặt Khùng dựa vào di ảnh, bức chân dung của chị được tạo lại hoàn toàn theo trí nhớ.
Ông Quản
Ngày đăng: 15/06/2011 9:30:46 SA
Mang tiếng là thị trấn cho bằng chị, bằng em chứ dân thì không quá năm ngàn người. Không tiểu thủ công nghiệp. Một cái chợ nhỏ chỉ họp chớp nhoáng vào buổi sáng. Một con đường dài chưa đầy ba cây số là đi hết từ đầu đến cuối thị trấn. Mỗi bên chỉ vài trăm mét. Một bên có những nhánh đường ngang đều bị cụt bởi một con sông đào nhỏ. Không có cầu bắc qua. Toàn phải đi vòng. Nơi cuối của con đường là cái nghĩa trang với một người canh giữ, nhang khói. Người ta lấy cái việc của ông để gọi tên: ông Quản trang. Sau chỉ còn lại mỗi chữ Quản. Ông chẳng buồn.
Ông sống độc thân, lầm lũi, nín lặng như người câm. Có ai kêu mở cổng, quét dọn đài liệt sỹ, ông lẳng lặng làm. Không hỏi một tiếng. Những ngày tết hoặc kỷ niệm trong năm, ngoài những dòng người được tổ chức đến viếng hương hồn liệt sỹ hơi ồn ào một chút còn thì ở đây lặng lẽ lắm. Ông thường lân la trong hơn hai ngàn bia mộ. Khi thì nhổ vài cọng cỏ. Khi thì thay cát trong những lư hương. Lúc thì kính cẩn lau chùi những dòng chữ, những tấm hình được thân nhân liệt sỹ dán trước bia mộ.
Có những chiều ông ngồi trầm ngâm cả tiếng đồng hồ bên đài tưởng niệm được xây thành ba ngọn cao vút, ở trên có ngôi sao năm cánh, nghe tiếng hàng dương bao quanh nghĩa trang réo rắt khúc nhạc u hoài. Có dạo ngôi sao trên ngọn tháp một đàn ong mật về đóng tổ. Tổ ong lớn dần và vài tháng sau nó đã to như cái bánh xe tải, dày cui.
Ông không đuổi mà lâu lâu còn mang để ở cạnh cái lư đồng dưới chân đài một dĩa đường cho ong ăn. Nhiều người bảo ông thuê thợ lấy mật, chắc đến cả chục lít, nhưng ông không chịu. Ông bảo, để đó cho có bạn, có bè với các liệt sỹ!
Thế rồi, buổi trưa nọ, tranh thủ lúc ông ngủ, một cậu thiếu niên đã lén trèo lên đỉnh tháp. Nó cắt được một tảng tổ ong. Khi xuống đến chân đài, nghĩ sao chẳng biết, nó leo lên lần nữa, khi vừa lú đầu ra định cắt thêm một miếng nữa thì hàng trăm con ong lao vào đầu, vào cổ, vào mặt với những cú chích điếng người. Nó quáng quàng buông tay.
Đang ngủ, ông giật mình bởi nghe cái huỵch. Chạy ra thì than ôi, một đống bầy nhầy, máu đỏ và mật ong vàng. Người nhà đến xin xác nó về. Tổ ong sau đó mấy ngày chuyển sang ngôi sao bên cạnh. Một lần sắp nhỏ ở trường học thị trấn được người ta tổ chức cho đến thắp nhang nghĩa trang. Có đứa mon men lại gần ông. Nó hỏi:
- Ông ơi! Ngày thường tụi con vào thăm nghĩa trang được không? Mà sao lại cứ phải mấy ngày kỷ niệm mới cho… Mà ông à, người ta bảo ban đêm các liệt sỹ trong nghĩa trang vẫn sinh hoạt, vẫn tập đi một, hai có phải không?
- Ngày thường tụi con muốn vô thì vô, miễn là đừng phá là được. Còn… - Ông nhìn nó vẻ bí ẩn nhưng không trả lời câu hỏi thứ hai.
Bởi điều nó hỏi cũng chính là điều ông đang cố tình lý giải hoài mà chưa được. Hôm đó đêm rằm. Trăng không tỏ lắm, tưới một lớp trắng nhờ trên những ngọn cỏ, trên những ngôi mộ. Hàng dương vẫn thổi điệu nhạc buồn. Ông thu dọn những bịch ni lông, tàn thuốc mà mấy người và bọn nhỏ vô tình để lại. Khuya lắm rồi. Sương rơi càng dày. Ông vào nhà, một căn nhà vuông vừa dùng cho người quản trang, vừa dùng để cho thân nhân liệt sỹ từ nơi xa đến có thể nghỉ chân.
Bên trong, ở giữa là một cái bàn to dài nham nhở lớp vécni bị tróc. Một cái bàn thờ lớn sát tường ở trên có một cái lư đồng và một cái độc bình bao giờ cũng có hoa tươi do ông cắt hàng ngày từ trong nghĩa trang mỗi khi chiều xuống. Trong góc, ông kê cái giường gỗ làm chỗ ngả lưng cạnh một cái tủ cũ đựng hồ sơ, danh sách liệt sỹ luôn rên kẽo kẹt mỗi khi có người mở. Bên cạnh là một cái bàn sắt lúc nào cũng có hàng đống nhang thơm được nhiều người đem tới để tối tối ông thắp lên trên những ngôi mộ và trên ban thờ trong căn nhà. Bên dưới cái bàn và gầm tủ là lỉnh kỉnh đủ mọi thứ. Mấy đôi dép râu tụt quai, có chiếc bị đứt gần lìa hẳn ra. Hai cây súng AK, một cây nòng không còn bá, một cây nòng cong quắp. Nghe đâu chúng được lấy về cùng với mấy hài cốt được quy tập mãi đâu tận trong rừng Đồng Rùm. Ba bốn cái bình toong thủng lỗ chỗ. Mấy cái chén ăn cơm bằng sắt đã rỉ sét. Dễ cả mấy chục cái lọ thủy tinh to bằng ngón tay, rỗng không. Lại có cả một cây viết kim-tinh chỉ có hàng chữ được khắc rất đẹp và cầu kỳ: “Kỷ niệm Hải Phòng”. Ông coi giữ những thứ đó như là tài sản riêng. Vậy mà cứ lâu lâu nó lại bị bới tung lên. Rồi hao hụt nữa. Mội khi bị mất một thứ, ông buồn. Đến ngay cả kỷ vật của liệt sỹ mà cũng bị chôm thì thật hết biết luôn.
Một thứ nữa cũng không bao giờ thiếu trong căn nhà vuông, đó là rượu. Rượu đựng trong những cái can nhựa, trong những chai cocacola đủ loại. Chúng được người nhà các liệt sỹ đem đến để cúng. Sau khi nhang khói, rót một chút rượu trong ly ra quanh ngôi mộ rồi họ để nguyên như vậy ra về. Cũng có người cầm vào cho ông như để cám ơn ông ngày đêm chăm sóc nghĩa trang, trong đó có thân nhân của họ. Thường sau những lần cúng như vậy bao giờ ông cũng phải đi gom đồ. Có khi là xôi, thịt gà hẳn hoi, lại có khi toàn trái cây. Chay mặn gì ông cũng kêu mấy sắp nhỏ quanh nghĩa trang đến và chia hết cho chúng. Chỉ gom rượu về ngôi nhà vuông lúc nào cũng phảng phất mùi nhang.
Đêm rằm hôm đó, ngồi nghe mấy cây dương réo nỉ non, ông chợt thấy lạnh. Từ chiều tới giờ sao không thấy đói. Lôi chai rượu Gò Đen một lít hai lăm của mấy bà con từ Long An đến viếng để lại. Lúc đầu là một ly cho đỡ lạnh. Ông thấy trong lòng như có nỗi buồn, tự hỏi “tại sao vậy cà” mà không sao lý giải được. Thêm ly nữa. Càng uống, càng thấy lòng trống rỗng. Ông ngửa cổ làm liền mấy hơi. Cũng vậy. Hết chai Gò Đen, ông lôi cái bình rượu Truông Mít ra làm tiếp. Cho đến khi trăng đã nghiêng về phía mấy cây liễu với những chuỗi dài bông đỏ ở cổng nghĩa trang thì ông hết biết. Trong khi lịm đi ấy, ông nghe như có tiếng hô: Trung đội một tập hợp. Nghiêm! Nhìn trước thẳng…
Ông bật choàng dậy. Nghĩa trang vắng hoe, lạnh ngắt. Trăng cũng đã ẩn mình sau núi Bà, chỉ còn ngôi sao mai lấp lóe như diễu cợt người thức khuya. Kỳ quá ta, ông nghĩ. Rõ ràng là mình nghe tiếng bước chân rầm rập. Lại cả tiếng hô nữa kìa. Ông nằm úp tai xuống nền gạch men, nín thở. Không một tiếng động lạ ngoài tiếng mấy con côn trùng rên rỉ kêu đêm tìm bạn tình. Hay là tại mình sỉn quá nên ngủ mớ. Ba, bốn ngày sau, ông ăn chay, không uống rượu. Đêm nào ông cũng mang theo mấy cây nhang lớn và bó nhang nhỏ. Nhang nhỏ ông đốt rồi cắm trước những ngôi mộ được bố trí theo hình ngôi sao năm cánh rồi đến ngồi đưới chân đài chờ hết cây nhang này cháy, lại đốt cây nhang to khác. Mãi khi con gà trống tre cô đơn cất tiếng gáy lanh lảnh và phía bên kia bờ hồ Tri An đã hửng lên những ánh hồng đầu tiên ông mới về nằm chợp mắt. Cũng không thấy động tĩnh gì hết. Ông dần quên đi mọi chuyện trong cái đêm hôm đó.
Dễ đến mấy tháng sau, cũng vào một đêm trăng sáng. Lại thấy lòng trống trải. Rượu. Rượu. Rồi ông ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay.
- Ông Quản, dậy, dậy nào - Có ai đó khẽ gọi bên tai. Ông dậy trong mơ màng và thấy trước mắt mình là một người còn rất trẻ. Đầu đội nón cối. Áo Gabađin còn mới xanh. Một bên tay áo buông thõng. Người đó đưa cánh tay còn lại cho ông rồi bước đi. Ông theo sau. Đến dưới chân đài liệt sỹ thì thấy một cánh cửa mở ra từ giữa những bậc tam cấp bằng bê tông cốt thép. Ông bước vào, cánh cửa lập tức khép lại.
Rồi trước mắt ông mọi vật hiện ra từ từ, ngày càng rõ nét. Một con suối nhỏ, làn nước trong veo. Mấy con cá lòng tong trắng bạc lao vun vút khi thấy bóng người. Lội qua con suối là một tán rừng già. Tiếng ồn ã ngày càng rõ dần. Hàng trăm chiếc võng mắc dưới những gốc cây sộp, binh lính và những người lính nằm đong đưa thanh thản. Phía trên là những tấm tăng nilon. Những cây AK dựa vào nhau, nòng hướng lên trời. Tất cả đều trong tuổi mười tám đôi mươi. Nhiều lắm như một trung úy đang hút thuốc lào thở khói ra sau ót dưới gốc cây cám thì cũng chưa chắc gì đến ba mươi. Mọi người hình như đang rất vui.
Một anh nằm võng phía xa xa chợt nói:
- Đại đội trưởng ơi! Bữa nay có chuyện gì vui không? Kể cho tui em nghe đi.
Trung úy đặt cây điếu cày vào giữa hai chân trả lời:
- Chuyện “tụi con đi ngang ngang” nhé.
- Nghe gồi, tưởng gì - Một giọng rặt miền Tây chen vào.
- Vậy chuyện “đi tìm kẹp đạn” nghe chưa?
- Chưa. Chưa. Chưa nghe. Kể đi.
Trung úy tằng hắng, lấy giọng rồi kể.
“Đó là năm sáu bảy, Tư Hạnh là Trung đội trưởng bộ đội địa phương, nổi tiếng là tay bắn thịt rừng thuộc hạng siêu đẳng. Lúc đó đạn dược rất hiếm, phải tiết kiệm từng viên. Đơn vị lâu lâu lại kiểm tra. Anh nào cơ số đạn mà thiếu liền bị kỷ luật bằng hình thức đi tát suối, bắt cá cải thiện bữa ăn cho đơn vị. Để có đạn bắn thịt rừng là những con nai, con hoẵng, con heo thì chỉ có nước là chôm của nhau. Đơn vị có ba tiểu đội, dĩ nhiên là không thể lấy của đồng đội trong cùng tiểu đội. Vậy là lính của tiểu đội này căn me tiểu đội kia, hễ hở ra là mất. Tư Hạnh chính là nạn nhân. Mất một lúc ba viên. Tức lắm, phải chơi lại bọn chúng mới được. Bữa đó sau khi đưa nửa tiểu đội vào trinh sát sân bay Suối Nhím, về đến bìa rừng Hốc Bò tự dưng Tư Hạnh thấy bụng sôi ùng ục. Chắc ăn đồ hộp của Mỹ không quen. Tư Hạnh nói với anh em:
- Mấy đứa đi chậm chậm chờ tao một lát nghen.
Khi đang tính thải cái của nợ trong bụng ra thì chợi nhớ đến mấy viên đạn bị mất. Tư Hạnh khẽ cười. Sau đó là rê dài dài cái thứ lỏng loét, thum thủm, mỗi chỗ một ít. Xong chuyện, Tư Hạnh chạy gọi với theo:
- Nè, mấy đứa bay quay lại phụ tao chút coi.
- Phụ cái gì? - Có mấy tiếng hỏi ngược lại.
- Tao làm rớt mẹ nó mất kẹp đạn rồi. Phụ tao tìm, tìm tụi bay.
Nghe rớt cả một kẹp đạn ai nấy túa ra. Trời tối, không ai dám rọi đèn vì sợ địch phát hiện nên cứ dùng tay quờ quạng lần mò theo hướng và chỉ dẫn của Tư Hạnh. Phải mất một lúc khá lâu Tư Hạnh lên tiếng:
- Sao tụi bay, có thấy không?
- Dạ không anh Tư - Có tiếng đáp.
- Vậy chứ có thấy thứ gì khác không?
- Dạ, hổng có.
- Coi kỹ tay tụi bay coi.
Cho đến lúc đó thì mọi người như mới chợt nhận ra từ hồi tới giờ mình bị anh Tư gạt. Cả chục bàn tay dính tèm lem đất, cát, cỏ rác và cả cái thứ chèm nhẹp bốc mùi khó chịu. Lúc này Tư Hạnh mới nói:
- Thôi nhen, từ nay tôi cấm, không anh em nào được đi bắn thịt rừng nữa à nghen. Đây là mệnh lệnh, đã là lệnh thì phải chấp hành. Anh em về phổ biến cho toàn đơn vị, nói là Tư Hạnh biểu thế. Tụi bay biết hông, một viên đạn có thể làm chúng ta ngon miệng vài bữa, nhưng nếu hổng may đụng địch, thiếu đạn, mà lại không biết là mình thiếu đạn thì chỉ có nước đổi bằng mạng sống của chính mình đó. Tụi bay hiểu ý anh Tư nói chứ? - Giọng anh trùng xuống.
Dù đang tức, nhưng nghe Tư Hạnh bày tỏ thiệt tình mối lo cho anh em nên không ai nói gì thêm nữa. Trong lần đụng bọn biệt kích, lại có cả trực thăng hỗ trợ ở trảng Đồng Kèn, Tư Hạnh đã một mình ở lại chiến đấu chặn địch cho anh em rút vào rừng rồi hy sinh. Nghe đâu khi bọn biệt kích thấy xác anh thì cây AK đã bị đập cong nòng và không còn một viên đạn. Sau này ở đơn vị khi nhắc đến người trung đội trưởng của mình ai cũng gọi là anh Tư“ tìm kẹp đạn”.
Trung úy kể xong câu chuyện đã một lúc khá lâu mà chẳng nghe một tiếng cười. Tất cả đều lặng thinh.
Có điều rất lạ đối với ông Quản là trong số họ có rất nhiều người không lành lặn. Người thì thiếu một cánh tay, một khúc chân. Người lại mất hẳn một bên quai hàm hoặc cái gò má. Ông lại gần người vừa kể chuyện:
- Này chú em, cho tui hỏi chút… - Ông khẽ nói.
- Cứ hỏi. A mà vừa rồi ông kêu tôi bằng gì chớ? Chú em hả? Còn ông, nay nhiêu? - Trung úy vừa trả lời vừa hỏi lại ông như bắn la-phan.
- Sáu hai rồi - Ông đáp - Còn chú…
Ông chưa nói hết câu thì trung úy cướp lời:
- E, ê… ông bạn coi lại à nghen. Sáu hai hả, tuổi con cầy phải hôn, cùng tuổi, nhưng nhỏ hơn tui một con giáp đó.
- Ủa… xin lỗi, mà sao kỳ quá ta… không lẽ…- Ông ấp úng.
- Đúng vậy. Ở đây ai cũng trẻ cả. Chiến tranh là thế đó. Nó có thể giết chết người ta nhưng lại cũng làm cho người ta trẻ mãi. Không tin hả, hay không hiểu? Mà thôi. Khi quay lại trển, ông cứ thử coi lại từng bia mộ thì biết ngay à. Ngày hy sinh trừ ngày tháng năm sinh… có phải toàn lính trẻ đôi mươi không.
- Thế… thế còn cái chỗ ông nhả khói…?
Trung úy quay sau đầu lại phía ông. Một cái lỗ sâu toang hoác thông ra phía mồm. Thật kỳ quái, ông nghĩ.
- Không kỳ quái đâu - Trung úy như đọc được suy nghĩ của ông - Nè mấy cậu “xê”một, lại đây!
Từ dưới những gốc cây, mấy chục người lính, đủ và thiếu chân lướt êm ru lại phía ông.
- Giở áo ra cho ông ấy coi Bé Ba.
- Dạ!
Bé Ba chính là người đã đưa ông đến đây tiến lại gần, dùng cánh tay còn nguyên vẹn banh mấy cái nút áo ra. Trước mắt ông, cả một bên bệ sườn mất tiêu, thay vào đó là một khoảng trống. Mấy đầu xương gẫy lởm chởm, trắng nhởn. Bên trong thấy cả ruột, gan và một miếng đo đỏ bằng miệng cái tô phồng lên, xẹp xuống. Chắc là phổi - Ông đoán vậy.
- Nhưng… - Ông ngập ngừng định hỏi.
- Đừng hỏi gì hết trọi - Trung giơ tay ngăn lại - Để tôi nói luôn vì thời gian dành cho ông đến với thế giới này sắp hết rồi. Những người lính ở đây đều đã hy sinh cả, như giấy báo tử đó. Người lành lặn, nguyên vẹn là những người khi ngã xuống được đồng đội gói gém, chôn cất đàng hoàng, sau này khi quy tập không thiếu thứ gì. Còn những người thiếu bộ phận này, bộ phận khác thì do lúc bốc cốt không kỹ nên người ta gom không đủ, phần thì do trúng pháo, trúng bom, thân thể mỗi chỗ một ít, âu cũng là trở về với cát bụi cả thôi.
Thấy mấy người quanh mình đều hiền lành nên ông Quản mạnh bạo hỏi:
- Lúc nãy anh nói đây là một thế giới?
- Đúng vậy. Thế giới của những người đã hy sinh. Một thế giới hoàn toàn yên bình. Không tiếng súng, không cạnh tranh, bon chen, không mánh lới, giảo quyệt, hoàn toàn trẻ và trường tồn vĩnh cửu, biết mọi thứ của nhiều thế giới khác. Nghe lạ lắm hả? Nhưng giá như…
- Giá như sao? - Ông Quản hỏi khi nghe tiếng thở dài của trung úy.
- Giá như ai đó chịu cực đi gom lại những thứ cơ thể còn thiếu thì tụi này sẽ lành lặn như thường thôi. Thế giới này sẽ toàn mỹ hơn. Sẽ không có người mà miệng chỉ trơ ra cái lợi, không có người như tôi hút thuốc rồi nhả khói ra đằng ót, không có người chỉ đi bằng một chân, thậm chí chẳng có chân nào… Ừa mà thời buổi này ai hơi đâu mà đi lo chuyện bao đồng.
- Thế còn những điều biết được ở thế giới khác?
- Có nhiều thứ mà người sống tự cho là chỉ có riêng họ biết. Còn tụi này, biết hết. Tỷ như chuyện viếng nghĩa trang đó. Nhiều người đến rất thành tâm, nhưng cũng có người, tất nhiên là ít thôi, đến để làm oai, làm phách, để thể hiện quyền uy, để quay phim, chụp hình. Rồi chuyện mấy đứa nắm tay nhau vào nhà đá sau cái hồi đi bốc cốt, sửa chữa, nâng cấp nghĩa trang nữa. Chuyện lão Biển lấy bia, lấy quách về làm trại chăn nuôi, sau đó bụng chướng lên chà bá, vợ con cúng vái, thuốc thang đủ đường rồi mới khỏi đó. Còn ông, hồi đánh Mỹ trên lộ 26 ở ngã ba Đất Sét đó cũng thuộc tay chịu chơi lắm chớ bộ… À mà từ rày ông bạn cứ để cổng mở sẵn nghen, như thằng nhỏ bữa hổm hỏi ông bạn đó. Biết đâu mai mốt nghĩa trang còn là nơi hò hẹn của nam nữ nữa chưa biết chừng.
Nghe đến đó, ông Quản lạnh toát cả sống lưng. Trung úy kêu ông chìa bàn tay ra. Rồi viết lên đó mấy dòng chữ và bảo đó là những địa chỉ hy sinh của mấy đồng đội, nếu ông rảnh thì đến đó sẽ lấy được một vài thứ còn sót lại.
Ông Quản đưa mắt liếc nhìn vào chỗ mấy cái võng mà không có người nằm. Trung úy thấy vậy liền khều ông lại gần rồi ghé vào tai nói nhỏ điều gì đó.
- Khống?
- Chớ nghĩ vậy. Đó là mấy phần mộ mà gia đình đã di dời về quê. Chẳng hiểu về nơi chôn nhau, cắt rún có còn đông vui như ở đây không ta. Ông bạn ơi! Hết giờ rồi.
Nói xong trung úy đứng lên đi vào con đường phía sau bụi le dày kín, để lại ông đứng ngáo ngơ.
Sẹt… rẹt… đoành. Một tiếng nổ lớn làm ông Quản choàng thức. Ngoài trời mưa xối xả kèm theo những ánh chớp loằng nhoằng. Ông nhéo thử vào bắp vế. Đau, vầy là mình đâu có mơ. Xòe tay ra thấy mấy dòng chữ còn mới tinh. Thiệt là kỳ lạ. Hớp một ngụm rượu lớn để định hồn. Ông ngồi chờ trời sáng.
*****
Ông trưởng phòng thương binh châm nước bình thủy vào ấm trà. Sáng nào cũng vậy, trước khi giải quyết công việc, ông phải làm cho hết bình trà Bắc - thứ trà mà nhiều người khuyên ông nên uống để cho nó xẹp bớt cái bụng vốn quá nhiều mỡ. Vừa tợp xong ly trà đầu, ngó ra cửa cũng là lúc ông Quản bước vào.
- Có gì không? - Ông trưởng phòng hỏi trống không.
- Anh cho kêu lão Biển đến coi nghĩa trang. Tôi kẹt công chuyện phải đi gấp. Chắc tới tối mới về.
Rồi chẳng cần biết con người có cái đầu sói sọi và cái bụng ngang mặt đồng ý hay không, ông quay ra, đi thẳng.
Ông lựa cái bình toong lành, chế đầy nước, không quên để vào cái ba lô sờn, bạc thếch chai rượu một lít và một bó nhang. Ra sau hè, ông lựa một cái vá công binh còn khá mới rồi lên đường. Đến bến đò Hai Thỏ cũng là lúc chiếc ghe đã đầy khách. Toàn dân đi trồng mì mướn trong những hòn đảo, những vùng đất bán ngập trong hồ Tri An. Tiếng máy nổ giòn tan, chiếc ghe khẽ rùng mình rồi từ từ lướt êm trên làn nước. Hồ Tri An vào cuối thu xanh đến rợn người. Người ta đồn nhau là dân chài lưới ở đây vào những đêm trăng thanh tĩnh gió thường nghe được tiếng kêu than “lạnh quá… lạnh quá…” của những oan hồn chết đuối, và cả những tiếng kêu không rõ ràng khác nữa, chẳng biết đúng sai ra sao. Nhưng hàng năm ở cái hồ mênh mông mà một bên là núi đàn ông chạy dài sát mép nước, một bên là núi đàn bà lúc nào cũng có chòm mây trắng bao quanh đều có người chết. Ghe chạy được gần một tiếng đồng hồ thì ông Quản đứng lên nói với chủ ghe:
- Cho tôi xuống Bến Tăng. Chiều về nhớ ghé rước nghen bác tài.
- Sao lại xuống chỗ này? - Chủ ghe hỏi - Toàn gốc le không à, ghe đâu có tắp vào được.
- Khỏi. Để tôi lội. Nói xong ông Quản quàng cái vá ra sau lưng, tay nâng cái ba lô trên đầu rồi ào xuống, để lại phía sau lời của mấy người “ông khùng, đi đào miểng bom thì kiếm chỗ khô ráo mà đào, hà cớ gì mà lội vào chỗ khỉ ho cò gáy này cho nó cực hổng biết”.
Chiều đó người ta thấy ông về, không mang theo gì cả, ngoài cái ba lô hơi phồng lớn hơn hồi sáng mà ông cứ ôm khư khư trong lòng. Tới ngôi nhà vuông, ông lôi từ ba lô ra một một gói nhỏ bằng vải võng dù. Lấy giấy viết mấy chữ rồi thắp ba cây nhang và kính cẩn đặt cái gói lên bàn thờ. Ngày thứ hai, rồi thêm một ngày nữa, người ta thấy ông sáng nào cũng vào bến ghe Hai Thỏ, nhưng bữa thì ông đòi xuống Bến Cò, bữa lại đòi vào Bến Phuy. Chiều chủ ghe lại ghé rước ông về. Cũng chẳng ai buồn hỏi ông vào những nơi đó làm gì. Mà có hỏi chắc gì ông đã nói vì họ thấy cái mặt ông lúc nào cũng đầy vẻ trầm ngâm và căng thẳng. Rồi buổi chiều tiếp theo, khi chiếc ghe về ngang Bến Quân Y, đến ngang chỗ ông Quản xuống hồi sáng mà ông chủ ghe không thấy khách. Tắt máy rồi cất tiếng gọi:
- Ông Quản ơ…ơ…ơi! Có…ó…ó có về không….
Gọi mất mấy chặp nhưng vẫn không thấy tiếng trả lời.
*****
Người ta tìm thấy xác của ông gục bên rìa một hố bom, giữa một vùng rừng chồi ở cù lao Say. Bên cạnh là cái gàu múc nước giếng bằng nhôm, một cái vá. Trong ba lô còn nguyên chai rượu đầy, bó nhang, một vắt cơm và một nhúm muối ớt trong bịch nilon nhỏ. Ông chết vì rắn hổ chúa. Hai vết răng còn hằn tím trên mu bàn tay. Khi lôi nắm giấy tờ ông cuốn tròn đút trong một cái ống nhựa, mọi người mới giật mình. Thì ra trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông là chiến sỹ tiểu đoàn chủ lực của tỉnh.
Với chiến tích bắn cháy 4 chiếc xe tăng Mỹ nên ông đã từng được phong tặng danh hiệu “Dũng sỹ diệt xe tăng” trong trận càn lịch sử Gian-Xơn-Xi-Ti. Sau ngày thống nhất, ông về quê là một làng nghèo ven chân núi Bà, nhưng thân nhân đã chết hết trong chiến tranh. Ông xin làm chân quản trang từ ngày đó. Người ta làm lễ truy điệu và chôn ông ở nghĩa trang liệt sỹ, như ghi công ông mấy chục năm gắn bó với bia mộ, với đài liệt sỹ, với căn nhà vuông và như một người lính thực thụ.
Đưa đám ông chỉ vài chục người, không có tiếng khóc than. Khi chôn ông xong, người ta mới lấy những gói vải võng dù xuống, mở ra thì thấy có gói là một đoạn xương ống chân, có gói là hai đoạn xương cánh tay và có gói là mấy cái xương hàm cùng cả mấy chục cái răng. Tất cả chúng đều có màu ngà ngà vàng và được lau chùi rất sạch sẽ, lại có cả mùi thơm của một số loại lá cây rừng. Điều khiến mọi người kinh ngạc là những tờ giấy gấp vuông đặt trong những cái gói đó. Họ mở một tờ ra và đọc được dòng chữ: “mộ số 99, ngôi sao số 7. Nguyễn văn… Quê: Hà Nội”.
Làng Nghĩa Trụ thử hài
Ngày đăng: 11/06/2011 10:05:11 SA
Chuyện ùm lên vào một sớm mù sương đầu năm.
Số là mụ Ếm dắt trâu ra sông Nghĩa Giang cho uống nước sớm và tranh thủ giặt giũ chậu quần áo đầy có ngọn. Nước sông buổi sớm hơi lạnh nhưng tinh khiết. Mới lại trâu nhịn nước cả đêm rồi. Đang ngoan ngoãn đi đến sát mép nước thì con trâu chùn lại không chịu bước. Nó vùng vằng, khuỵch sừng vào người, mõm phì phì như hổ mang bành. Mụ Ếm gò thừng giục:
- Trâu, đi nào, tao đang vội đây!
Con trâu vẫn xuống tấn tại chỗ. Mụ Ếm vòng ra sau lấy thừng quất vào mông đen đét.
- Đi! Sao hôm nay mày đổ đốn thế!
Đáp lại vẫn là những cú khuỵch sừng hết sang phải lại sang trái. Chẳng lẽ dưới sông có ba ba thuồng luồng hay sao. Bà xuống kiểm tra, nếu không có gì thì chết với bà đấy, nghe chửa, đồ con tườu.
Mụ Ếm tụt váy áo lội bòm bõm xuống sông. Vệt nước đục cuộn lên theo bước chân. Con sông Nghĩa Giang này vào mùa xuân, người lớn có thể kiễng chân lội qua được. Về mùa nước nó cũng chỉ rộng đáng bậc cháu chắt so với sông Đuống, sông Cầu. Nhưng dân Nghĩa Trụ từ nghìn đời nay vẫn trân trọng gọi nó là sông. Nó là nguồn nước chính tưới tiêu ruộng đồng, nơi cung cấp tôm cá trai hến và là nơi tắm táp giặt giũ. Mới lại, cả vùng lúa mênh mông này toàn ngòi, rãnh làm gì có thứ nào đáng mặt so với Nghĩa Giang. Mò mẫm hồi lâu mụ Ếm chỉ tìm được một vật lạ duy nhất là chiếc giày da khá mới. Mụ ngước nhìn về phía cây cầu gỗ xộc xệch răng bà lão ước chừng, chắc là ai đó vô ý đạp phải chỗ thủng tụt mất giày rồi bị lạng về đến đây. Mụ Ếm mang giày lên dí vào mõm trâu hỏi:
- Có cái này mà sợ à. Rõ là đồ trâu bò.
Con trâu sì sì vẻ biết lỗi, rồi tự bước ra sông vục đầu uống ì ọp.
Cầm chiếc giày lạ trên tay mụ Ếm vẩn vơ nghĩ. Con trâu không nhìn thấy giày sao lại biết, lại sợ? Thế mới lạ. Việc này giông giống việc gì ấy nhỉ? Sao tự dưng chợt không nghĩ ra. À, nhớ rồi, giống việc ngựa sợ hài. Hình như cũng ở đoạn sông này. Thế này chắc là mình được trời đất run rủi chọn làm việc gì đây. Xưa vì có chuyện ngựa sợ hài mà chị em nhà Tấm (à quên, xin thánh tha tội, con xin được sửa là Đớn) và Cám được nhập cung. Còn mình thì được gì?. Phải mang ngay chiếc giày này về trình trưởng thôn mới được.
*****
Làng Nghĩa Trụ nằm lọt thỏm giữa vùng đồng trũng năm nghìn mẫu. Từ làng ra đường cái quan phải qua mấy xứ đồng. Con đường như cái cuống nhau nối bào thai làng với đất nước. Có điều cái cuống nhau này bao đời nay vẫn thuần khiết đồng đất làng nên vào ngày mưa thì trơn toẽ ngón chân, vào ngày nắng thì vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh, còn vào ngày râm thì dù ai có niệm thần chú “trời mưa tránh trắng, trời nắng tránh đen” vẫn cứ bị sa vào ổ bùn. Trước khi vào làng người ta còn bị thử thách bằng cây cầu khỉ vượt sông Nghĩa Giang. Vác xe mà lần. Mãi đến thời Hợp tác xã mới bắc được cây cầu gỗ răng bà lão để tăng năng suất lao động xã viên. Trải mấy mươi năm cầu đã lên lão dân làng chẳng quan tâm lắm vì họ quen lội sông từ ngày lập làng rồi. Vừa mát mẻ vừa không sợ tuột chân sẩy tay lăn tòm xuống nước. Thế mới có chuyện ma trêu, người Nghĩa Trụ ai cũng thuộc. Cái thời lão Ấm, cha đẻ mụ Ếm còn khoẻ, ngày nào cũng lọ mọ chài cá sớm. Cái hôm đại hàn nước buốt kim châm lão vẫn đi kiếm. Lão biết, càng giá càng nhiều chép. Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông. Vừa giăng lưới xong thì có tiếng gọi:
- Bác chài ơi giúp em qua sông với.
Lão Ấm nhìn lên cầu, thấy có cô gái trẻ mặc bộ đồ trắng toát đang gần như bò trên cầu.
- Bác cõng em qua sông, muốn trả công gì em cũng chiều.
Lão Ấm thực ra vừa “trót dại” với vợ trước khi ra sông, vốn liếng tự biết chẳng còn bao, nhưng được cô gái trẻ khuyến khích nên ra tay anh hùng giúp mỹ nhân. Do phải cõng người nên lão Ấm bị ngập nước ngang lưng, nước ngấm ướt gần hết áo. Răng giã gạo. Lên bờ, cô gái bảo:
- Nào bác làm gì thì mau mau lên kẻo trời sáng.
Lão Ấm không khách khí, nằm luôn lên người cô gái hòng tìm chút hơi ấm. Ai dè lạnh như khối băng. Của quý của lão sun vào như đỉa gặp vôi không thể “làm gì” được. Dở nhất là cảnh trên bảo dưới không nghe này. Lão thở dài đánh thượt, thò tay xoa ngực vớt vát tý chút. Nhưng giời ơi, gái trẻ sao ngực lại nhão nhoét thế này. Bất giác lão quở:
- Ngực nát như ngực ma ấy!
- Thì đây là ma mà lại.
Lão Ấm đờ mắt nhìn lại thì đớ người nhận ra mình nằm trên bộ xương, cái đầu lâu có hai hốc mắt đen ngòm. Kinh hãi quá lão Ấm ù té chạy, mồm gào “ma, ma” nhưng không phát thành tiếng. Tóc gáy dựng ngược cả lên. Chạy về đến nhà mà vẫn nghe rõ tiếng chân chạy huỳnh huỵch ngay sau lưng. Chuyện lão giấu kín, mãi đến khi đặt tên con gái là Ếm lão mới kể chuyện ma trêu mà đặt tên thì người làng mới biết. Vậy mà người làng vẫn không bỏ được thói quen lội sông.
Nhưng chuyện ma trêu ở đoạn sông này chưa thể sánh được với chuyện hoàng tử được hài, rồi mở hội thi hài kén được vợ. Chính cung hoàng hậu Thị Tấm nay vẫn được thờ làm thành hoàng của làng (xin đức thánh Thị Tấm xá tội, đáng lẽ phải gọi chệch theo lệ làng là Thị Đớn nhưng kẻ hậu sinh này sợ như thế thì người đời không hiểu cho Thị Đớn cũng là Thị Tấm.
Còn con đĩ Cám lười biếng, xảo trá, độc ác tất nhiên chẳng cần kiêng khem gì, cứ thẳng tên tục Cám mà phết). Cứ tưởng đức thánh Thị Tấm cứ đàng hoàng tĩnh toạ trong niềm tôn kính của dân làng, thì một ngày kia có kẻ láo lếu là thầy khoá hỏng thi Nghĩa Giang Phu Tử về làng không lội sông như thảo dân lại đi cầu khỉ, rồi chẳng may trượt chân ngã xuống sông, giày tuột lạng đâu mất, thế là thày khoá hỏng thi về nhà mài mực viết liền một lèo bài luận ba vạn tám ngàn chữ về việc “Thí hài kén vợ”. Thầy lớn giọng chê bai hoàng tử là kẻ thấy chân không thấy người, lấy vợ kén chân chứ không kén nhan sắc, hình dung, nết người.
Ra thế nghĩa là chê Đức thánh Thị Tấm vừa mất nết, vừa mất người à. Ấy vậy mà lũ dân đen lại thích, lại truyền tụng mới lạ chứ lị. Bấy giờ có vị Hàn lâm học sĩ hưu trí (hình như chính là người theo lệnh của Chính cung Hoàng hậu Thị Đớn chắp bút nên thiên truyện “Tấm Cám”) đọc được bài luận “Thí hài kén vợ” đã nổi máu lên liền sai người mài mực, sắp giấy hoa tiên để ngài thảo một tấu biểu dâng triều đình kết tội Nghĩa Giang Phu Tử, dụng tâm phá nát thuần phong mỹ tục. Nhân thừa giấy thừa mực, lại đang sẵn cảm hứng giữ gìn thuần phong mỹ tục ngài liền viết một hồi xong bài luận dài ba vạn chín nghìn chữ “phản biện” Nghĩa Giang Phu Tử, cho rằng thảo dân làm sao hiểu được suy nghĩ, tình cảm của đế vương, cũng như dê cừu làm sao hiểu được suy nghĩ, tình cảm của sư tử.
Tiếp được bài luận “Dê cừu bất thị sư tử” này thầy khoá Nghĩa Giang Phu Tử chỉ cười mim mỉm, đoạn viết luôn bài luận “Dê tính luận” ba vạn chín nghìn chín trăm chữ thẳng thừng chê bai kẻ hủ nho chỉ biết học để mũ cao áo dài, ám chỉ vị Hàn lâm học sĩ. Tiếc rằng Hàn lâm học sĩ tiếp nhận bài luận này thì bỗng phát bạo bệnh chưa kịp có bài luận đáp lại đã chết. Có kẻ đầy tớ phản chủ phọt ra ngoài cái tin đọc xong bài luận ngài uất quá hộc ba đấu máu tươi chỉ kịp trăng trối câu “loạn rồi” rồi chết, chứ không phải chết vì bệnh tật gì đâu.
Vị thái y triều đình về khám nghiệm cũng khẳng định ngài không có khối u, không có con hát i vê, không phải do sốc thuốc phiện, không phải trúng độc trúng phong. Ngài chết do hộc ba đấu máu tươi. Thế là Nghĩa Giang Phu Tử thu được toàn thắng. Cuộc tranh luận Nghĩa Giang Phu Tử – Hàn lâm học sĩ được kẻ sĩ thời ấy đánh giá rất cao, nào là tạo được không khí dân chủ, nào là nêu cao được tính học thuật, nào là mở ra trang mới cho văn đàn. Ba bài luận “đã thâu tóm hết chữ nghĩa thiên hạ” đáng là mẫu mực để sĩ tử đời sau học tập.
Lại nói về việc Trưởng thôn Nghĩa Trụ nhận được chiếc giày và tình tiết “trâu sợ giày” giống việc ngựa sợ hài khi trước, nhận định đây là việc tiền duyên tiền kiếp liên quan đến thành hoàng Đức Thánh Thị Đớn, nghĩa là liên quan đến vận mạng dân làng, nên liền triệu tập hội nghị Quân dân chính bất thường. Mụ Ếm được đặc cách mời dự làm nhân chứng.
Thoạt nhìn chiếc giày Bí thư đoàn đã nói:
- Giày khủng bố da mềm xi nâu, mốt thời thượng Âu-Mỹ.
Thôn đội trưởng dè dặt:
- Thám báo, Phun-rô cũng đi giày khủng bố. Phải chăng bọn “Đề Ga” tung cả người ra đây?
Trưởng công an xem xét kỹ chiếc giày rồi mới nhận xét:
- Giày mới, ngoại cỡ, mác “Made in Italian”. Có thể khẳng định người đi giày là đàn ông chân cực to, có thu nhập cao, và rất có thể là người Tây đi giày Tây chứ không phải người ta đi nhầm giày Tây. Vậy người này đến làng ta với mục đích gì mà không đi theo đường công khai có đón rước trình báo. Liệu có thể là móc nối các phần tử đi nhầm giày Tây còn nằm im chờ thời không? Hay có thể bí mật quan sát địa thế để chuẩn bị thuê đất đặt nhà máy? Hay có thể chỉ đơn giản là đi tìm “gái sạch” thôi? Tôi đề nghị mở cuộc điều tra quy mô lớn làm rõ vấn đề vì tình huống nào xảy ra cũng đều ảnh hưởng trầm trọng đến vận mệnh dân làng, đúng như đồng chí Trưởng thôn đánh giá. Là địch thì có biện pháp bảo vệ an ninh. Là bạn làm ăn thì chuẩn bị tâm thế thương thuyết giá đất và giải phóng mặt bằng. Lưu ý thêm đây là vấn đề nhạy cảm dễ thành điểm nóng, kinh nghiệm nhiều nơi từng có khiếu kiện tập thể, vượt cấp, kéo dài. Còn là kẻ chơi gái thì có biện pháp cảnh báo, giáo dục con cái và kiểm soát ngăn chặn nạn HIV-ết.
Hội trưởng người cao tuổi đề nghị:
- Nếu quả thật có chuyện trâu sợ giày giống việc ngựa sợ hài thì có nghĩa là có quý nhân đến làng. Vậy trước hết ta hãy sắm một cái lễ tươm tươm một chút cáo thánh cầu an là hơn cả.
Trưởng ban mặt trận đề xuất:
- Thực hư thế nào chưa rõ, ta nên học người xưa mở hội thử giày, và từ nay lấy đây là lễ hội truyền thống độc đáo của làng. Chẳng gì làng ta đã từng tổ chức hội thử hài để lại đậm dấu ấn trong dân gian và lại đang thờ Đức thánh Thị Đớn cả nước biết tiếng. Khôi phục được hội thử hài vừa đem lại danh tiếng cho làng, vừa nêu cao được nét bản sắc văn hoá dân tộc. Rồi đây khách thập phương, khách du lịch sẽ đổ đến tấp nập, kinh tế sẽ trỗi dậy chứ còn tìm đường nào nữa.
Ý kiến của trưởng ban mặt trận được các vị đại biểu sôi nổi thảo luận ngả theo. Trưởng thôn tóm lại:
- Lâu nay ta có vốn mà không biết phát huy, thật tiếc. Nay ta sẽ phát huy hết nội lực. Sẽ có lễ ra đình. Sẽ có hội thử hài. Hội tổ chức đúng ngày đình đám vào đầu tháng sau. Ngay từ bây giờ ta đã phải lo công tác chuẩn bị. Hội phải thật ấn tượng. Giao cho ban công an bảo quản nghiêm cẩn chiếc giày, ai nhận cũng không cho xin, phải chờ qua hội thử hài mới trả, hơn nữa, còn trao phần thưởng của làng thật trọng thể. Giao cho văn hoá thông tin lo tuyên truyền cổ động hâm nóng lễ hội ngay từ bây giờ. Giao cho nông dân… Giao cho phụ nữ… Giao cho thanh niên… Cuối cùng là việc của mụ Ếm, mụ sẽ dắt trâu từ bờ sông theo sau đội rước hài về đình. Yêu cầu cả trâu cả người phải trang điểm rực rỡ . Thế nhé!
*****
Nghe tin làng Nghĩa Trụ mở hội thử hài, dân hàng phủ nườm nượp đến xem. Ô tô, xe máy nối đuôi nhau cào bụi ở đoạn cuống nhau. Rồi dồn ứ bên cầu răng bà lão. Đội Cờ Đỏ mau mắn đóng cọc chăng thừng thành bãi gửi xe độc quyền, lấy giá vé theo mức hội Lim, hội Gióng. Chồng mụ Ếm thấy khách run rẩy qua cầu liền hạ con thuyền Nô-ê phòng lụt trên xà nhà xuống chở khách. Mấy bà tháo vát sai con cắm cọc chăng bạt bày bán quà, chè đỗ đen suốt từ bãi đỗ xe về đến tận đình làng. Trưởng thôn đi kiểm tra gật gù: kinh tế trỗi dậy từ du lịch chứ đâu xa. Mà kinh tế du lịch là công nghiệp không khói cơ đấy, ít đầu tư, ít hại môi trường mà thu lợi lớn. Khách đến với hội thử hài cũng nhẹ bước chân vì cánh văn hoá thông tin đã mắc thêm loa, lại chọn phát toàn bài ca có chủ đề giày dép nổi tiếng. Nào là “Quần lĩnh áo the mới, tay cầm nói quai thao, chân đi đôi guốc cao cao”. Nào là “Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn, đá mòn mà đôi gót không mòn”. Trưởng thôn gật gù hài lòng. Cánh văn hoá thông tin làng ta có tính chuyên nghiệp, thạo việc ra phết đấy chứ.
Đến giờ hành lễ mụ Ếm mặc áo tứ thân ngũ sắc giày thêu kim tuyến, khăn vấn hồng, yếm đào, mặt hoa da phấn phớn phở dắt con trâu khoác áo choàng tua kim tuyến theo đội rước giày, chính chiếc giày trâu và mụ phát hiện ra. Mụ có quyền phớn phở lắm chứ, vì mụ đâu chỉ phát hiện ra chiếc giày, mà phát hiện ra cả hội thử giày này đấy chứ.
Trong khi mụ Ếm phớn phở dắt trâu đi thì từ một mảnh chĩnh vỡ ở bờ tre ao Cả gần đình làng xuất hiện một làn khói trắng mỏng manh bay lên. Làn khói bay theo đoàn rước hài. Khi chiếc giày được trịnh trọng đặt lên bàn thử trên sân khấu mới dựng trước sân đình thì có ai đó gióng trống rung chuông để đội rước rước thánh ra khai hội vào việc. Làn khói lượn một vòng trên đầu mụ Ếm rồi tụ vào người mụ mất hút. Mụ Ếm rùng mình ớn lạnh, mặt ngơ ngáo, mắt long lanh đảo điên. Rồi như một diễn viên tuồng ưu tú mụ Ếm bật cười khanh khách rẽ đám đông chạy lên sân khấu cướp diễn đàn. Dải áo ngũ sắc phấp phới lượn theo như hình làn khói mỏng bay khi trước. Mụ hoa chân múa tay mấy vòng, đoạn kiểu cách hai tiến một lùi đến gần chiếc giày. Kịch hơn cả kịch. Mụ Ếm ngắm nghía soi xét, rồi ngửa mặt ngưỡng thiên cất tiếng du dương:
- Bớ người ta! Ta ra đây cũng nên xưng danh trước. Thị Cám làng Nghĩa Trụ là ta. Mấy trăm năm qua ta chìm trong oan khuất nên hồn chưa siêu thoát. Nỗi oan đời ta từ hội thử hài. Ta chờ mãi, chờ mãi đến hội thử hài lần thứ hai này mới được phép giãi bày oan khuất. Bớ người ta! Nhà ta có hai chị em, Cám ta là em, con dì ghẻ của Tấm. Ta bé bỏng lại bấy bớt, tất nhiên việc đồng áng việc nhà dồn hết lên vai mẹ ta và chị Tấm. Với ta chỉ cần biết ăn ngủ, biết coi nhà đã là ngoan. Những khi rỗi việc đồng ta theo chị Tấm đi xúc tép ngoài sông cho vui chị đâu khiến ta mang giỏ. Thỉnh thoảng chị ném cho con sinh sôi để ta nghịch cho đỡ chán. Chị bảo “Sinh sôi lớn thành chuồn chuồn bay lên trời đấy”. Ta hỏi: “Có ăn được không”. Chị bảo: “Ăn được, béo ngậy đấy”. “Ăn thế phí mất con chuồn chuồn chị nhỉ”. Ta như thế mà người ta nỡ gán cho lười làm, lại còn lừa chị đầu chị lấm chị ngụp cho sâu để trút sạch giỏ tép của chị. Cái hôm ta khệ nệ mang giỏ tép về là do hôm ấy xúc được ít, chị bảo ta mang về trước để mẹ rang ăn cơm kẻo muộn. Hôm ấy mẹ có mắng chị mấy câu vì sợ ta bị lấm bẩn và sợ nghịch tép bị dây mùi tanh. Có thế thôi mà người ta vẽ rắn thêm chân, cứ theo câu “bánh đúc không xương” mà đổ xấu cho mẹ con ta. Người đời nghe thì thương Tấm lắm, ghét mẹ con ta lắm. Khi ta hơi lớn, tuy đã tập làm đồng nhưng đâu có thể tháo vát như chị. Bù lại ta khéo may vá thêu thùa. Ta thêu đôi hài cho ta, cũng thêu cho Tấm đôi hài tương tự. Hội làng năm ấy mẹ và chị còn phải dọn dẹp nấu nướng, ta xỏ hài lỉnh đi chơi trước. Chỉ là muốn khoe hài thôi. Ta đi ra đình. Ta đi ra chùa. Ta qua chợ. Ta sang xóm trước vòng về xóm sau. Rồi ra sông. Mọi ngày đi cầu chân không trơn trượt, nay có hài chắc đỡ trơn hơn, thế là ta quyết thử xem sao. Vừa đi vừa ngắm hài mãn nguyện. Bất chợt hài mắc mấu tre làm ta trượt chân suýt ngã. Trong lúc luýnh quýnh hài bên trái tuột khỏi chân rơi xuống nước. Như con thuyền nhỏ nó lững thững trôi một đoạn rồi chìm nghỉm. Tức phát khóc lên được. Ta đành thập thễnh quay về, tính lấy hài của chị, chẳng gì cũng là hài do mình khâu được. Về đến nhà mẹ và chị đã đi rồi. May quá chị quen đi đất nên chẳng buồn xỏ hài đi hội. Hài rộng, ta phải độn thêm vải quấn vào bàn chân mới đi được. Ra đến đình đang xảy ra hội thử hài rồi. Nhận ra hài của ta, ta sấn lên xin lại. Người ta cười ầm lên bảo nhận vơ là vợ thằng nhân, nó cho ăn bún nó vần cả đêm. Ta xấu hổ quá định bỏ chạy. Đúng lúc ấy chàng đứng chắn trước mặt, cầm tay ta mời thử hài. Người ta nóng như bị sốt. Nhưng hỡi ơi, hài của ta khâu vừa khít chân ta, thế mà lúc thử lại lọt thỏm. Đó là chân ta quấn vải nên bị bó lại. Cái chính là vải làm hài ngâm nước đã mềm ra, lại bị nhiều chân to thục vào làm giãn ra. Chàng bảo: Hài này giống hài em đang đi, nhưng là hài của người lớn hơn chứ không phải của em. Em đừng buồn nhé. Người ta lại cười ầm lên hát nhạo: chân ải chân ai, lọt thỏm thế nai, cho truyền người khác. Ta chạy về khóc tức tưởi. Hài của ta sao chàng bảo của người khác. Cuối buổi ta giật mình thấy chàng đến nhà. Tưởng chàng đã chịu biết hài ấy là của ta. Hình như miệng ta đã cười tươi. Nhưng không, chàng dắt tay chị. Hoá ra chính chị đã đi vừa hài của ta. Chàng muốn chị đi cả đôi. Tất nhiên chị không thể đi vừa chiếc còn lại. Tất nhiên ta xỏ vừa như in. Ta kể cho chàng biết chuyện khâu hai đôi hài, chuyện ban sáng leo cầu tuột hài. Chàng cho đón luôn cả ta. Chị là Đông cung, ta là Tây cung. Bấy giờ ta còn bé, chị đã là thiếu nữ phổng phao nên chàng chỉ nhất yêu mình chị. Chị cũng quý yêu ta lắm. Chị luôn bảo nhờ em khéo tay thêu hài, nhờ em làm rơi hài mà hai chị em mới được sung sướng vinh hiển thế này. Ta sượng sùng chỉ bảo đó là duyên lạ, là số trời định thế. Đến ngày ta dậy thì chàng bắt đầu chú ý và năng đến Tây cung hơn. Chị hậm hực bóng gió, gặp ta là quăng thúng đá niêu. Ta sợ không dám sang gặp chị nữa. Ta tưởng chị có bầu nên thay tính đổi nết thế. Thấy bảo người có bầu thì khó ở. Rồi chàng cầm quân nam chinh. Liền đó có người tố cáo ta làm hình nhân thế mạng mưu hại chính cung hoàng hậu tranh quyền nhiếp chính. Ta bị kết tội tùng xẻo. Chị ngồi trên ngai chăm chắm nhìn ta chịu đau đớn đến chết. Chỉ đến khi ta thật chết rồi, chị mới vấn vội vành khăn trắng khóc hờ đứa em dại dột, ác độc. Hàn lâm học sĩ dựa vào đó viết nên câu chuyện ác giả ác báo do ta đáng tội chết cả trăm lần. Ta chết rồi biết cãi làm sao. Văn võ trong triều ai dám bênh ta để mà mang vạ tru di tam tộc. Ta toàn thua thiệt. Thua trong hội thử hài. Thua trong chốn hậu cung. Thua trong miệng thế dân gian. Thua cả sau khi chết không người thờ cúng. Bao năm qua ta chỉ là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre chứ đâu được là chuông khánh như người đời vẫn giễu. Bớ người ta! Nỗi oan của ta ai đã thấu hiểu chưa.
Trong khi mụ Ếm đang lên đồng thì các cụ ban khánh tiết đã rước Đức thánh Thị Đớn ra đến nơi khai hội. Mụ Ếm bỗng rú lên khủng khiếp cứ như đang bị tùng xẻo đến chết. Các cụ vén khăn che mặt tượng thánh lên, nhưng lạ lắm, khăn dính chặt như bị sơn bết lại, từ rìa khăn nhỏ ra từng giọt nước đỏ như máu!
Hội thử hài làng Nghĩa Trụ đã rã đám mà vẫn chưa tìm được chân nào xỏ vừa giày. Mụ Ếm đòi giày nhưng làng không cho.
Ăn ớt
Ngày đăng: 27/05/2011 4:17:43 CH
Nhà cô giáo Liên ai cũng ăn ớt giỏi.
Năm bố cô đi bộ đội về phục viên. Nhà bảy người, lo ăn bạc mặt, cơm không đã là ngon quá, là đặc sản gọi theo ngôn ngữ bây giờ. Thức ăn Có cái gì thì ăn cái gì! Cá mắm bà mẹ thương, bớt bơ gạo lấy năm lạng, tháng hơn tháng mua một lần. Muối giềng, bố đi rừng xách về, cạo rửa, thái giã, cho tí mì chính rang lên, thơm nức.
Bảy người ăn chỉ hai người làm công điểm. Năm bảy lạng thóc/công, tới vụ đến sân kho hợp tác xã lấy về ba tạ, chia cho bảy người, sáu tháng. Cơm không một tuần ngày mùa, bữa nào bọn trẻ cũng căng rốn, chống tay đầu gối, ì ạch đứng dậy. Thùng gạo như có ai ăn cắp, mấy ngày lại ù éc, thì thụp xay giã. Mưa liền liền, quanh ra quẩn vào lại nấu cơm. Mẹ sốt ruột, ngồi thừ; bố con vẫn chơi cờ tướng cãi nhau inh om.
Đã ba lần mẹ chui vào hòm thóc, gọi đứa út mang cái chổi, cái hót rác. Tiếng đáy hòm như tiếng đóng quan tài. Lũ trẻ vẫn bịt mắt bắt dê, xì kíu vòng quanh.
Mẹ cầm rá gạo, bố nắm hai nắm lại, bảo: Mùa còn lâu. Đói không chết. Nước mắt mẹ trào ra. Mẹ nghiêng ngó không thấy ai, lại bốc lại một nắm gạo vào rá.
Cơm chín chưa? Cứ chơi đi, sốt cả ruột. Đây hai củ khoai này chia nhau. Anh cả nhận nhiệm vụ, giơ hai củ khoai lên cao như người ta giơ cúp bóng đá bây giờ. Lũ em nhao nhao, rướn người, vòng quanh, trước sau. Đám người và khoai rầm rập từ bếp, lên nhà, ra vườn thì hạ cỗ. Anh cả xoè tay, phồng rộp, lựt lạt. Khoai chỉ còn ấm ấm. Trật tự! Anh quát vào những bàn tay lũ em đang như mũi lê xông lên. Trật tự rồi, tất cả tản ra, ăn cả vỏ.
Về ăn cơm! Tiếng mẹ gọi. Chạy, mấy cây cà bị oan, những đôi chân trần như gió. Bố chúng mày đâu?... Đây đây, có món này tuyệt vời. Bố cầm cái bát con đỏ nhức mắt vào. Ớt. Đàn con đã sang bát thứ hai. Mẹ ngồi đầu nồi, đôi đũa cái đảo đi đảo lại. Mẹ nhìn bố như cầu cứu. Bát ớt dưới mâm vẫn chỉ mình bố. Bố cầm cái thìa xúc, hắt nhẹ vào từng bát đàn con, động tác rất nhanh. Thằng cả lè lưỡi, vươn cổ nuốt. Thằng hai mặt nhăn nhó. Đứa ba, tư, năm, sáu kêu lên: Ớt! Ớt! Đứa út khóc như bị mẹ đánh. Mẹ nhìn bố: Anh ác lắm! Bố chạy lên đầu nồi, tự xới rồi đổ cả bát ớt vào. Thẳng lưng thẳng cổ, mặt không biến sắc. Bố đang làm tấm gương.
Nồi cơm tưởng thiếu hoá ra thừa. Bữa tối, lũ trẻ nem nép, lặng lẽ ngồi. Bát ớt cũng im lặng đỏ, vàng ra xung quanh.
Như thế... như thế... thì đến mùa.
Ơn giời không đứa nào ốm. Có đầu có đuôi cứ nuôi khắc lớn, hết tháng rồi sẽ thành năm. Bảy đứa giờ đều làm cán bộ. Bữa cơm sum họp ớt vẫn nhiều hơn thịt cá. Bát đỏ, bát vàng bố phải ba lần lấy. Mẹ vui trào nước mắt, kể chuyện ngày xưa có anh kia nhà đói, sang hàng xóm đúng bữa cơm được mời xã giao. Anh ngồi xuống liền, nhận bát cơm, tự so đũa. Để chống thẹn anh bảo vừa ăn cơm ở nhà thấy có ớt ăn vui một bát. Tất cả cười. Cô út sụt sịt, anh cả bĩu môi: Cả nhà nhìn cô giáo Liên kìa, hơi tí là xúc động. Liên nói trong giọng khóc: Không phải. Các anh ăn hết ớt của em rồi. Em được có ba quả. Bố cầm bát đứng lên, mang vẻ mặt buồn buồn quay lại: Hết mất rồi. Để chiều bảo mẹ ra chợ mua năm cân về ngâm.
Như thế, như thế rồi nhà lại vắng tanh. Mẹ buồn, bố bảo: Có phúc mới được hai ông bà ở nhà đấy.
*
* *
Liên về từ hôm trước. Ba đứa bé người Mông ngơ ngác cùng về. Liên bảo: Nó là học sinh lớp con, cho xuống thị trấn chơi. Mẹ hỏi tên từng đứa. Dế à! Sùng à! Mua à! Liên bảo: Mẹ đưa chúng nó tắm rửa hộ con với, còn bố sắm cho mỗi đứa một cái đèn ông sao. Bố cười: Thôi bố mẹ chuyển ngành sang làm giáo viên vậy.
Ba thằng Dế, Sùng, Mua tắm rửa xong nom nhanh nhẹn hoạt bát hẳn lên. Đèn ông sao bố cũng vừa mang về. Liên mở điện thoại bảo: Nhà ta hôm nay ăn cơm sớm cho bọn trẻ chơi trăng.
Ngon quá! Thịt nướng ngào ngạt. Canh cá thơm lựng. Món nộm ba màu tươi rói. Ai là tác giả đấy? Bố thiết kế, mẹ thi công, cô giáo chấm mấy điểm? Tám điểm. Sao cho đắt thế? Em có nhiều tiến bộ nhưng phải cố gắng nhiều hơn nữa. Liên nghiêm mặt giọng cô giáo. Cả nhà cùng cười. Ô! Các cháu ăn đi! Mẹ giật mình. Ba đứa ăn nhỏn nhẻn, và một miếng lại nhìn. Bố gắp thịt nướng, mẹ gắp món nộm cho ba thằng. Liên bảo: Mỗi đứa ăn hết ba bát thì cho chơi trăng không thì bắt đi ngủ.
Câu chuyện của ba người lớn lại tiếp tục. Mẹ kể chuyện ngày xưa, bố kể chuyện hồi ấy. Liên cười: Bố mẹ mắc bệnh già rồi đấy. Liên bảo con ở trên Hua Nậm hoá ra sướng, gió núi lồng lộng, rau cải nương ngọt lừ, thỉnh thoảng lại được miếng thịt nai thịt hoẵng phụ huynh cho. Bố bảo: Ừ, ở trên đấy cũng tốt. Mấy người đã được sống sạch, ăn sạch. Mẹ lắc đầu: Cái ông này định cho nó ế chồng trên đấy à. Liên cười sặc sụa: Bố mẹ muốn con tảo hôn như bố mẹ hay sao!
Chết rồi, sao mấy đứa cứ bưng bát thế này? Mẹ vột vạt. Bố nhìn, Liên nhìn. Thằng Dế mắt đỏ hoe, thằng Sùng mặt như khóc, thằng Mua đang sụt sịt.
- Sao vừa mới đi sáng nay mà đã nhớ nhà à?
- Khổ quá! Trẻ con nói nhẹ thôi. Nhớ chứ sao lại không nhớ.
- Toàn món ngon thế này mà...
Ba người lớn nói. Ba đứa trẻ ngồi im, nước mắt cứ thế trào ra.
- Nào để cô bón nào. Chiều mai cô trò mình lại về bản.
Liên nựng, lau nước mắt, bón cho từng đứa. Thằng Dế cố nuốt, thở hổn hển. Thằng Sùng lắc đầu quầy quậy. Không. Không ăn đâu. Thằng Mua, thìa cô vừa đưa đến là nức nở.
- Chết thật về nhà cô giáo lại không ăn thế này mang tiếng chết. Thế không ăn thịt, ăn nộm để bà chan canh nhé.
Mẹ cầm muôi chan vào bát từng đứa. Xong, mẹ đưa lên nếm thử.
- Chết thật rồi. Mình hại ba đứa trẻ rồi. Mẹ kêu toáng lên.
Bố ngơ ngác. Liên mặt tái đi.
- Cay quá. Tao còn thấy cay. Bọn trẻ ăn làm sao nổi. Thôi thôi làm món khác.
Ba người lớn đứng dậy. Liên mở tủ lạnh lấy miếng thịt ra thái. Mẹ cầm đèn pin ra vườn hái cà. Bố chạy sang quán mua ba hộp cocacola. Loáng cái, tất cả đã về mâm. Ba đứa cắm đầu ăn. Mẹ nhìn những cái má phồng phồng nhịp nhàng. Liên hồi hộp đến tận khi ba đứa buông đũa. Bố ngồi im như ân hận.
Liên đang châm nến vào đèn cho ba đứa. Mẹ bưng mâm ra vòi nước, bố đi theo. Mẹ gắt bố:
- May hôm nay tôi phát hiện ra. Không thì mang tiếng cả đời.
Bố thở dài. Có lẽ tôi mắc bệnh già rồi.
Bùa ngải quê nhà
Ngày đăng: 25/05/2011 9:41:14 SA
Tôi nghe đồn người Chăm biết bỏ ngải. Nhà tôi chỉ cần bước qua cái bụi trâm bầu bên hiên nhà đã gặp xóm Chăm nên tôi hơi sợ. Chị Tịm cười:
- Chị không biết người Chăm có bỏ ngải ai không, chớ chị bỏ ngải cho người Chăm với người Kinh xóm Cây Dương này ráo trọi rồi.
Chị nói, bún nước lèo chị bán mỗi ngày có ngải. Nó làm người ta ghiền ngầy ngật lúc nào không hay. Nó được hỗ trợ đắc lực bởi sả mới nhổ sắc nhuyễn, còn y dòng nhựa thơm nồng, bằm chung tỏi nướng. Mắm ruốc trắng khô, nướng trong lá chuối dậy mùi... Nồi bún vừa sôi trong nhà, người ngoài đường đã bị cái mùi thơm ấm nồng xộc vô mũi, lôi cơn thèm ra đầu lưỡi và nước miếng chảy tới no thôi. Bữa đứng gió, chỉ cần chị thêm vài nhánh củi me nước, lửa phừng lên, nước sôi lục ục, xa cả khúc đường hơi thở đã ngập mùi nước lèo.
Từng thớ thịt trong những đứa con nít Chăm, Kinh quanh xóm Cây Dương này được nuôi lớn từ những tô bún nước lèo của chị. Mấy nông dân như ba tôi thì chỉ cần ăn một tô bún trộn với nửa tô cơm nguội là có thể khom lưng đắp bờ cả ngày không biết đói. Những người đi xa như bác Hai tôi thì có cái để bồi hồi khi nhớ xứ nhớ quê.
Tôi thì khỏi phải nói. Sáng không ăn bún, cả ngày cũng hết muốn ăn món gì cho đàng hoàng. Mỗi lần bán bún cho tôi, chị Tịm ưu tiên lựa nhiều nhiều bắp chuối. Cho anh hai thì nhiều ớt. Còn bún cho ba tôi thì chị không để cá. Ba nói “ngọt thơm của cá tan ra nước hết rồi. Ăn suông mới thấy cái đã của nước lèo”. Chị chú ý tới từng sở thích của nhà tôi bắt đầu từ anh Hai.
Tình yêu của anh Hai và chị Tịm bắt đầu từ vụ anh không biết ăn ớt. Hồi chị mười lăm đã gánh quang bún ngang nhà tôi. Anh ăn mấy lần chê “bữa mặn bữa lợ”. Chị học hỏi đâu đó, chỉ non tháng sau, trước lúc đi học, không ăn được tô bún chị nấu là dường như ngày đó anh thấy trong mình bải oải. Mỗi lần bán bún cho anh chị Tịm cứ để đầy muỗng ớt. Anh ghét ớt, vừa vứt bỏ, vừa cằn nhằn “bữa nào cũng dặn mà sao lỳ quá không biết”. Chị cười “con trai không biết ăn ớt mai mốt có vợ bị ăn hiếp cho coi”.
Không lâu sau anh Hai ăn bún thiếu ớt là chạy cùng xóm kiếm cho bằng được. Cái nồng của từng khúc ớt ngâm nước mắm trộn với mùi ngan ngát của bún nước lèo khiến cái lưỡi anh chết lịm, cái bụng no tràn. Còn cái dáng áo bà ba gòn gọn oằn vai gánh bún, đôi gò má thắm lửa căng hồng, làm trái tim anh động đậy.
Anh Hai tôi yêu đương hiền lành như con gái. Họ đã nói gì với nhau chưa, tôi không biết. Có điều, tôi sớm đọc được ngôn ngữ tình yêu thầm kín trong lòng họ. Vậy mà thiệt bất ngờ, một hôm tôi nghe ba nói với anh Hai:
- Ba dọ ý con Tịm rồi. Nó thương con nhưng nó không có làm vợ con được đâu. Con nhỏ tội nghiệp…
Người trong xóm nói ba chê chị Tịm là tại chú Lịnh, ba chị quá hư. Ngày xưa chú Lịnh có thương một cô nào đó ở trong kinh, nhưng cô đó chê chú Lịnh nghèo hay chê tính tình cục mịch không biết nữa. Ngày cô đi lấy chồng, chú ực một hơi gần hai lít đế, bước tới cổng vu quy của cô dâu bứt tan nát mấy lá đủng đỉnh, xô ngã hai cây chuối đã được đính rồng phụng thiệt khéo bằng lá vú sữa. Rồi chú ra đường, tuột trần truồng nằm ngủ tỉnh bơ. Cô dâu vẫn được về nhà chồng nhưng nghe đâu hạnh phúc của họ xịu xạo như cái cổng vu quy ngày đó. Chú Lịnh cũng không còn được mấy phần hồn để sống. Má chị Tịm là một cô gái mồ côi, thấy cảnh chú vậy nhón mấy lời an ủi, rồi một mâm trầu và ít trái cau là có thể thành vợ thành chồng. Nhưng hạnh phúc kham khổ đó không được bao lâu thì bà mất. Chú Lịnh tiếp tục té vô hũ rượu. Bỏ mặc chị Tịm với gánh bún, chú ôm chai rượu đi sàng xê khắp xóm. Ba tôi thường hay mời chú Lịnh ghé uống trà, có con cá ngon ông làm một món gì đó rồi kêu tôi tới mời chú nhâm nhi. Là ba muốn giúp chú giải khuây. Ba hay nói “thằng chả nặng tình nhưng yếu đuối”.
Bởi họ thân nhau vậy nên khi biết ba nhứt quyết không cho anh Hai thương chị Tịm, chú Lịnh xách chai rượu tới nhà tôi, để xuống ván cái cốp:
- Tôi nhứt định phải túm cho được thằng xui gia như anh. Đừng đòi cưới vợ cho thằng Hai nghe. Đám cưới nó tôi quậy tanh bành.
Ba kêu tôi nướng mấy con khô lìm kìm phơi từ hồi nước giựt. Hai ông ngồi nhậu một hơi. Chú Lịnh say khóc như con nít. Chị Tịm bán nhẹ gánh bún, hạ nó bên cạnh gốc me nước trước nhà tôi, tới dìu chú về. Chú theo chị hay chị bước theo chú cũng không biết, chỉ thấy hai đôi chân bước nghiêng bước ngả giữa đường quê. Nhìn ống quần mềm quấn chân chị, xịu xạo bên cạnh hai chân trần mốc thếch của chú, tôi thèm khóc. Tôi hiểu lí do vì sao ba không muốn anh Hai cưới chị Tịm.
Ông bà tôi sinh được hai người con. Cả hai người đều ham học, nhưng lớn lên chỉ có bác Hai theo con đường chữ nghĩa, lập nghiệp tận Sài Gòn. Ba cưới vợ quê để tiện việc coi sóc mười mấy công đất hương hoả, dưỡng đãi tuổi già như chuối chín cây của ông bà nội. Một phần ba không thích không khí chợ búa “tối ngày nhà nào nhà nấy đóng cửa kín mít, ngột muốn chết”. Thế nhưng, mỗi lần dắt anh em tôi lên nhà bác Hai chơi, thấy hai đứa nhìn thao láo mấy nhà cao trật ót, sợ quíu cái dòng người đông gì mà đông đổ xuôi đổ ngược, mắt ba có một màng nước ướt rượt. Khi chúng tôi ghé mấy khu vui chơi, anh em tôi vừa thích thú vừa ngỡ ngàng, nét mặt ba buồn buồn. Lúc vô siêu thị, chúng tôi đứng bên thang cuốn cả buổi mà không dám bước lên, một hồi bậm gan phóng đại thì cả người chới với, la qué lên một tiếng khiến mấy người anh con của bác Hai cười muốn nghẹt thở, ba cũng cười nhưng miệng thì méo xẹo. Thành phố có những thứ mà dưới quê trăm năm sau chưa có được. Đường từ Sài Gòn về nhà, ba tôi ngồi im, vuốt đầu từng đứa.
Cho nên anh Hai phải đi con đường mà có thể mở mày cho cả một tương lai dài. Phải chi tôi là trai, có thể gánh thế anh cái tương lai dài đó…
Vậy là anh Hai lên thành phố học.
Ngày anh đi, tôi thấy anh không ăn bún sáng. Có lẽ anh bỏ cơm cả ngày. Anh đứng nép bên cửa nhìn dáng chị Tịm gánh bún chầm chậm ngang nhà tôi.
Thường thì khi chị Tịm bán tới nhà tôi thì gánh bún đã vơi quá nửa, nồi nước lèo đã xắc được mấy phần. Bữa nay gánh bún còn đầy. Thau rau ghém vun cao chừng như sắp gãy ngọn theo bước chân của chị. Bữa nay chị gánh mà không bán. Củi lửa phía dưới nồi lạnh tanh. Thau bún không được đậy kỹ bằng tấm sà bay, lớp bún trên mặt khô cứng vì nắng gió. Đường về, gánh vẫn còn oằn oại trên vai…
*
* *
Người ta đi xa, mọi thứ dù nặng dù nhẹ cũng tan mau theo thời gian. Anh Hai dễ dàng tìm được cho mình người con gái khác. Ba tôi không biết rành gốc tích nàng dâu nhưng dọ tới dọ lui thấy cũng dân chịu học nên gật đầu.
Trưa bữa nhóm họ bà con tới nhà đông đủ. Bận bịu khách khứa một hồi tự dưng ba tôi hỏi:
- Con Tịm bữa nay có bán bún không?
Có lẽ ba tôi đã đói bụng. Độ này chị đã gánh bún tới nhà tôi. Cũng có lẽ ba đang lo lắng. Tôi lắc đầu.
Ba nghĩ chắc chị không dám gánh bún ngang nhà tôi vì sợ cầm lòng không được. Tôi nói chị phải canh chừng chú Lịnh. Chú nhậu từ hồi mấy anh trong xóm cặm cây cột che rạp đầu tiên. Chị sợ chú xỉn quá tới nhà tôi quậy. Ba tôi bưng chung trà uống cạn rồi rót nhanh chung kế. Ông uống trà hay uống cảm xúc mình cũng không biết nữa:
- Kêu nó kệ ổng đi, để ổng quậy cho vui.
Ba lo cho chị hơn. Nhưng chị không sao hết. Đám cưới anh xong tôi vẫn thấy gánh bún chị đi ngang nhà khi còn lưng nồi. Làn khói chứa chan mùi nước lèo lận quận trên miệng nồi rồi trôi tuột ra sau.
Ba tôi đang ngồi uống trà chợt uống nhiều hơn. Uống gần hết bình trà, ba kêu tên tôi:
- Lấy cái tô chạy theo con Tịm mua cho ba tô bún.
Sau ngày cưới anh Hai chú Lịnh uống rượu không ngày nào nghỉ. Uống thay cơm. Uống ngày rồi uống đêm. Uống không cho tỉnh. Mấy tháng liền như vậy. Một bữa tự nhiên chú ngưng ngang. Giống như sợ rượu. Ngày nào chú cũng tới nhà tôi uống trà. Chú ốm dữ lắm. Mỗi lần gặp chú, tôi không khỏi thẫn thờ nhìn ba. Chú cười cười với tôi, mà tôi thấy như là nước mắt chú đang tràn từ từ:
- Chú nhát lắm, chịu khổ không bền. Ba con gan góc. Phải chi chú bằng một nửa ổng thì con Tịm đỡ khổ hơn. Phải chi chú chết sớm…
Đó là lúc chú bệnh nặng lắm. Không lâu sau chú qua đời. Ai cũng nói vì giận ba tôi mà chú chết sớm.
Trước và sau khi chú mất nhiều người tới hỏi cưới chị Tịm. Họ nói, “ông Lịnh hư hỏng thì thây kệ ổng, quý là quý tính cần mẫn đảm đang của con Tịm”. Chị cười, chính vì câu nói này mà chị không ưng họ. Họ không hiểu gì về chị, về ba chị. Tôi không biết chị Tịm có bị tình yêu làm mờ mắt không. Tôi không dám trách ba. Má tôi mất sớm, ba chỉ ở vậy, dành cho chúng tôi trọn đời rồi. Nhưng tôi buồn giùm chị. Ba sẽ hối hận vì bỏ lỡ một nàng dâu như chị Tịm.
Tôi bất bình cho chị rất nhiều. Nhất là mỗi lần nhìn chị thui thủi bên gánh bún. Mấy anh trai chọc ghẹo, chị vẫn lạnh tanh dù tô bún chị trụng cho họ vẫn nghi ngút khói nước lèo. Trong mắt chị không tồn tại đàn ông đàn bà, mà chỉ còn duy nhất chị, tô bún và những người ghiền bún. Tình yêu tới nhẹ nhàng, đi vội vã. Ai biết nó để lại bên trong cái dáng mảnh mai mềm nuột kia những chấn động gì? Có thấy gì đâu mà sao nhìn cứ cồn cào bụng dạ.
Chị nói:
- Chị không giận chú Út, không giận anh Hai em miếng nào đâu, em đừng để bụng.
Tôi cự:
- Chị nói dối! Nếu không giận sao chị không thương người khác, không lấy chồng?
- Theo chồng rồi bỏ gánh nước lèo cho ai?
- Vậy thì chị về nhà chồng bán bún. Bún của chị đi tới đâu người ta ghiền tới đó.
Chị lắc đầu:
- Xứ khác người ta ăn uống không có giống chỗ mình. Biểu mình nấu nướng khác đi chị thấy bụng dạ mình nó lạ hoắc lạ huơ. Buồn dữ lắm.
Chị quến ngải rồi. Chị bỏ ngải mê hoặc người nhưng chính chị lại bị nghiện. Chị ghiền nấu, ghiền nhìn khách lùa từng đũa bún, đang ăn trong miệng đã muốn lùa thêm miếng kế. Nhìn vậy mà no. Chị bán chỉ cầu cho những người ghiền bún có cái thỏa cơn ghiền. Mưa thì mặc áo mưa, che cái bếp bằng mấy tấm tole xoay tròn hình nón. Bún vẫn bốc khói dưới màn mưa tới cửa từng nhà. Nước lên thì chiếc xuồng tam bản nhỏ, nguyên cái quang gánh được đưa lên xuồng. Chị ngồi trên xuồng, nhìn người người ngồi cầu khỉ ăn bún mà no con mắt. Quanh họ nước lĩnh lãng, nước một màu, trắng sông trắng đồng. Ăn bún trên mặt nước, mùi nước lèo dường như đậm đà hơn.
Có lẽ mùa này cá nhiều, nhất là cá linh, thịt trắng ngọt thau miệng. Mùa này cá nấu chua, kho rệu, kho lạt dầm me, ăn lần một lần hai đã ngán. Chỉ có nấu bún nước lèo có thể ăn cành hông, no tới ớn luôn nhưng khi đói lại muốn trụng một tô lùa xì sụp. Cá linh mùa lũ nấu bún nước lèo có vị ngọt mùi thơm đủ sức níu chân người xa xứ.
Tôi lấy chồng xa, nhiều năm liền gần như không thể ăn sáng được vì kiếm nát nước cũng không khi nào thấy tô bún ở xóm Cây Dương. Gần xa chỗ tôi cũng có mấy bảng đề “bún cá”. Ghé vô, cũng sả nghệ ớt cắt khúc mà càng ăn càng thấy chơi vơi. Mấy miếng chả chiên, huyết luộc, tỏi phi rải trên mặt làm tô bún trở nên lạ hoắc. Ăn bún mà nhớ khát cổ những tô bún cọng nhỏ, được trụng qua ba bốn quận nước lèo của chị Tịm, từng cọng bún uống no cái mùi bay xa cả khúc đường. Như vậy mới đúng điệu bún Cây Dương. Đúng điệu mà rẻ. Mỗi lần nghĩ tới, mùi nước lèo dậy đầy mũi. Nó dậy từ trong nỗi nhớ. Mỗi lần về quê ăn bún tôi luôn húp phải cơn xốn xang của chính mình. Đó là khi bắt gặp những sợi tóc bạc của chị ngày càng dầy hơn, dáng chị ngày càng mỏng hơn so với gánh bún vẫn nặng trìu trịu trên vai.
Cưới vợ xong anh Hai ít về nhà. Mỗi lần về chơi chị Hai phải cụ bị theo nhiều thịt heo để sáng nấu miếng hủ tiếu cho chị và mấy đứa con. Ở đây gần người Chăm nên những món hủ tiếu, bánh canh giò heo bán không ai ăn, nên không ai bán. Bún nước lèo thì chị thua. Mỗi lần về cực vậy nên chị ngại về. Anh Hai nhớ ba thì lâu lâu về một mình, có khi rủ tôi cùng về. Lần nào vừa lên nhà anh cũng biểu tôi đi mua cho anh một bọc bún hai tô. Chị Tịm bán mỗi ngày hàng trăm tô bún, múc không biết bao nhiêu ớt, vậy mà mỗi lần cầm muỗng vớt ớt, rưới vô cái bọc bún no nưởng của tôi, chị lại run tay. Chị biết tôi mua cho ai. Tôi cũng thấy hơi thở mình run. Tình yêu qua những muỗng ớt, nó cay tan nát ruột gan mà chị nhớ chi nhớ miết. Quên như anh Hai có phải rảnh rang không.
Đúng là Anh Hai tôi quên được. Anh thảnh thơi, làm ăn khá giả lắm. Anh muốn ba lên sống với vợ chồng anh “giao thông thuận lợi, bệnh tật cũng dễ bề xoay trở”. Ở dưới quê còn cái gì nữa đâu mà nắm níu. Đất đai thì ba bán lần hồi lúc lo cho anh em tôi đi học, lúc mua một cái nền nhà nhỏ cho anh Hai cưới vợ... Chỉ còn gần hai công đất kế chòm mộ họ nội, ba đã bàn với tụi tôi để dành cho chị Tịm “đặng nó có cái dưỡng già”. Mồ mả ông bà ngày tết ngày thanh minh mới cần được dọn dẹp sửa sang… Vậy mà ba lắc đầu. “Đừng có biểu ba đi, để ba ở cái xóm này. Chừng nào ba hết biết gì ai đưa đi đâu cũng được”.
Ba tôi nói mình còn khỏe lắm, đừng có lo. Một lần anh Hai tình cờ về chơi cũng vừa lúc thấy ba tôi sốt ngầy ngật. Chị Tịm lính quýnh lau nước nóng lên trán, lên cổ ba. Chúng tôi biết được dạo gần đây ba thường hay bệnh. Nhưng ba không cho đứa nào biết vì sợ chúng tôi bỏ việc về nuôi. Người cơm cháo giặt giũ cho ba mấy ngày này là chị Tịm. Anh Hai vừa thương vừa giận chị Tịm:
- Sao em không cho tôi hay? Rủi ba tôi có bề gì em gánh không nổi đâu.
Chị Tịm khóc mà không nói. Anh Hai đâu biết ba tôi không cho chị báo tin. Ba sợ chúng tôi sẽ cưỡng bức ba lên thành phố trị bệnh. Lên đó thế nào ba cũng chết héo. Thà ba chết tại đây, chết cũng vui.
Ba lắc đầu nói với anh em tôi:
- Tụi bây đừng nói vậy, tội con Tịm.
Rồi ba quay sang chị nói nhỏ:
- Đứa nào nó dám trách cứ bây, tao cắt đầu từng đứa… Con à… có thằng nào hiền hiền thì ưng đi, kiếm đứa con dưỡng già. Chớ già như tao không có ai nuôi nấng, khổ lắm…
Ba tôi nói tới đó dường như hụt hơi. Chị Tịm không trả lời được, chỉ bụm miệng thở nghẹn.
Anh Hai bần thần trong mình. Tới bây giờ anh mới biết anh không hiểu chút gì về ba, về chị Tịm. Họ giống như đang sống ở một thế giới khác, vừa thân thương vừa lạ lẫm. Họ giống như đang thụt lùi cả thế kỷ tại cái miền quê tĩnh lặng này.
Lần đó anh ở lại mấy ngày cho tới khi ba khỏe hẳn. Có anh về, chị Tịm ít ghé nhưng mỗi ngày cũng đem qua hai lượt cháo cho ba, bún nước lèo cho anh. Mỗi lần chị nán lại một chút, ngồi ôm gối nhìn anh Hai cho ba uống thuốc, đắp mền cho ba. Màng nước trong mắt chị rung rung.
Bữa ba khỏe, ba biểu anh Hai về đi, bỏ việc hoài bất tiện lắm. Cả ngày đó chị ít nói, ai hỏi gì cũng trả lời không đầu không đũa. Chiều, ba tôi ăn xong rồi mà chị lượng sượng chưa muốn về.
Trời sụp tối, ba ngủ rồi, chị tới gần anh Hai, mắt nhìn xuống chân, tay vặn vẹo vạt áo:
- Anh ôm tui một lần được không? Một lần thôi.
Anh nhìn những sợi tóc khác màu chìm nổi trên đầu chị, thấy lòng mình mềm hơn bún. Người con gái đó đã lỡ dở một đời vì yêu anh, đã nếm trải gần như tất cả cái đau đớn của buồn tủi, thèm khát. Anh chỉ muốn dang đôi tay mạnh mẽ của mình bao bọc cho chị. Chị nhìn thấy mắt anh, môi cắn lại, gần như sắp bật khóc. Tay chị ghịch mạnh như đang xé vạt áo mình.
- Tui… muốn có một đứa con.
- ?
- Tui không để ảnh hưởng gì cuộc sống của anh đâu. Tui tự nuôi nó…
Anh tôi không kìm được mình nữa, kéo chị vào lòng:
- Anh sẽ lo cho em và con.
Lúc này mặt đất có sụp xuống, hay là thần chết có đứng kế bên cũng không làm chị buông bỏ. Nó nồng nàn êm ái hơn bất cứ thứ gì chị từng biết… Chị sẽ có một đứa con. Nó sẽ được chị yêu thương. Chị sẽ không làm ảnh hưởng cuộc sống ai hết. Chị sẽ rời khỏi xứ này để nuôi dưỡng nó nên người…
Không hiểu sao, trong lúc mụ mị vậy mà chị lại kinh hoàng khi hình dung mũi mình không còn phảng phất mùi không khí của xóm Cây Dương…Và xung quanh, một nơi xa lạ với những bóng cây, mùi đất, mùi những con người không thân thuộc. Bên cạnh chị là đứa con không cha. Ôi...
Chị đẩy anh Hai ra, chạy riết về nhà. Ở đó mùi nước lèo đã thấm vô từng tấm lá, từng nuột lạt trên vách, trên mái… Chị ngã vùi xuống giường quấu mười ngón tay vô cái gối quen thuộc, khóc rưng rức. Khóc như ngày xưa khi chị phải suy nghĩ mấy ngày về câu nói của ba tôi: “Thằng Hai phải lên thành phố học, rồi kiếm việc ở trển luôn, đặng con cháu sau này được ở chợ với người ta. Con nhắm bề có đi theo nó được không?”. Ngày ấy chị suy nghĩ lâu lâu, muốn bạc tóc, nhưng trả lời gọn. Chị nói không. Đơn giản lắm. Chị để bàn cân trước mặt. Ba chị, nồi nước lèo, và miền quê… Đầu kia là tình yêu. Tình yêu sao mà nhẹ xìu. Chị ôm nó đi tới phía dốc bên kia của cuộc đời rồi mà có thấy hề hấn gì đâu, nhằm nhò gì đâu…
Hôm sau, chị tiễn anh Hai đi.
- Ở trển yên tâm mần việc nghe. Tui lo cho chú Hai không thua anh đâu. Chừng nào thấy không ổn tui cho anh hay mà. Tui nể chú Hai lắm. Gà trống nuôi con. Con lớn lại cắn răng chịu đựng cảnh xa con lìa cháu. Chớ là tôi, lỡ mà có con, chắc tôi bắt nó dính cứng chỗ này. Xa con chắc tui chết, mà theo con đi xứ nào tôi cũng… chết chắc. Chú Hai biết ý tôi rành lắm.
Anh cắn môi thở như khóc. Mắt rưng rưng hết nhìn ba rồi nhìn chị Tịm. Nặng tình chi mà khổ thân vầy nè, những người thân yêu của tôi.
Những người thân yêu của chúng tôi. Họ không thể rứt mình ra khỏi miếng đất máu thịt này. Nhưng họ lại muốn những người họ yêu thương được tung cánh bốn phương trời.
Đời khất thực
Ngày đăng: 19/05/2011 8:50:37 SA
Trong lúc ruột gan chú Bảy Nén đang như lửa đốt vì đã là tháng ba âm lịch, lẽ ra đã đến mùa lấy mủ, cao su vẫn chưa thay lá, những lô cây trụi lá, trơ cành, đầu óc chú muốn vỡ tung khi nghĩ đến số tiền nợ ngân hàng đã lên tới hai tỉ, đã vậy thằng Tự còn dẫn về cô gái yêu cầu ba má tổ chức cưới gấp. Phong tục ở đây vẫn còn lưu lại tục bắt vợ từ thuở xa xưa, có lẽ khởi nguồn từ cư dân của tỉnh miền núi nào đó ở Tây Bắc mang vào đầu thế kỷ trước, trai gái yêu nhau gặp cản trở, chủ động sống với nhau, dắt về đòi bậc sinh thành cưới chạy. Nhìn đôi mắt cô gái mở to, đen như tráng lớp nước, chú Bảy biết con trai mình đã bị chết đuối trong đó rồi.
Chú Bảy Nén thở dài:
- Mày cưới vợ cũng là phải, năm nay ngoài ba mươi rồi, khốn nỗi, lóng rày lấy đâu ra cả trăm triệu cho một đám cưới?
Thằng Tự cự lại, làm gì nhiều tiền đến vậy, ba! Chú Bảy tính mắng cho nó một nách, nhưng có con dâu tương lai nên nín nhịn. Chú ôn tồn tính sơ sơ cho hai đứa cùng nghe. Quả là phải có một trăm triệu mới cưới được một người vợ. Chú Bảy Nén được coi là chủ nhiều diện tích cà phê nhất vùng này, giao thiệp rộng, cưới dâu đầu, làm sơ sài, đâu có được. Khốn nỗi đang là con nợ lớn của mấy ngân hàng, chẳng lẽ vay thêm ngân hàng trăm triệu nữa để cưới cho mày một con vợ, hay là hai đứa cho tao khất dăm tháng, bao giờ thu hoạch mủ cao su, có tiền rồi tao liệu. Nghe chú Bảy nói vậy, cái gậy lúc tuổi xế chiều của chú, lắc đầu quầy quậy:
- Không được đâu, ba phải cưới lẹ cho con.
Chú Bảy Nén buông tiếng thở dài. Vốn là người giàu nghị lực, dám đương đầu với khó khăn, hiếm khi chú hắt ra tiếng não nề như vậy. Thực ra tổ chức đám cưới không khó, nhưng điều chú lo lắng nhất lúc này là cao su vẫn chưa chịu thay lá mới, không có mủ bán làm sao có tiền trả cho ngân hàng, chi tiêu cho gia đình những mười miệng ăn, thời đồng tiền mất giá này, mỗi tháng đi đứt chục triệu bạc là ít. Cái thằng Tự mang tiếng là con trai cả nhưng đâu đã biết lo xa, nó chỉ mê trồng cao su, cưới vợ xong là thảy ra ở riêng để nó tự lập mới xong. Mải nghĩ ngợi lung tung, chú thấy mình bất lịch sự, chưa hỏi thăm cô dâu tương lai:
- Quê con ở đâu?
Cô gái cúi đầu đáp lí nhí. Thằng Tự phải trả lời thay, bạn con tên là Mai, quê ở làng Đồn Điền thuộc xứ Thanh. Đó là một trong những làng cổ với phong tục lạ ở Bắc miền Trung, miếu làng thờ thần thành hoàng ăn mày. Nhà Mai làm ruộng, học xong lớp mười hai, thi đậu đại học sư phạm, nhưng nhà quá nghèo, không có điều kiện cung cấp kinh phí cho cô học, đành phải đi làm. Nghe Tự nói đến đó, Mai tiếp lời:
- Không được học đại học, cháu đau đớn lắm, bố mẹ cháu cũng buồn, cháu tính vào đây đi làm, tích góp tiền, sau đó đi học. Nhưng…
Mai tính kể tiếp, nhưng thằng Tự đã ngắt lời:
- Tạm thời em chỉ cho ba biết vậy đã.
Chú Bảy sừng mặt, tính nộ thằng con xấc xược, nhưng nghĩ tới cô gái mới đến, đành thôi. Thằng Tự bảo người yêu:
- Em ra giếng rửa mặt cho mát rồi nấu cơm.
Nghe giọng nói như thể ra lệnh, Mai khẽ mỉm cười. Cô gái đang yêu nên không để ý đến tính gia trưởng của người chồng tương lai. Tự đưa Mai vào nhà ngang, một gian dựng những tủ, những thùng phi lớn chứa đậu phộng, đỗ xanh, hạt điều, và những bì thóc, đống khoai lang, khoai mì dưới gầm phản. Ở gian bếp rộng có một chạn nồi niêu, bát đũa, vách treo những vỉa khô cá lóc, cá ba sa, thịt nai sấy, ngó qua đã biết sự no đủ. Tự chỉ cho Mai cái chum đựng gạo tẻ, nếp. Dân cao su ham ăn xôi đậu phộng vào buổi sáng, em ạ. Anh sẽ chỉ cho em cách đồ xôi. Cơm thường nấu bằng bếp điện, thức ăn đun củi mới ngon. Tự hào hứng nói.
Ngồi bên bếp lửa củi cao su cháy phừng phừng, Mai thấy ở đây cái gì cũng như dư thừa, chẳng bù cho quê mình thiếu thốn mọi thứ. Có phải mình được đổi đời từ đây không? Mai nghĩ và liếc nhìn Tự đang bổ củi ngoài sân, tấm lưng trần màu đồng hun lấp lóa mồ hôi, cơ bắp tay cuồn cuộn. Trai rừng cao su có khác.
*
* *
Mai thấy tủi thân khi nhớ đến sự vất vả mình đã trải. Sau khi đường đến trường đại học bị chặn, ở nhà làm ruộng đâu được một năm, Mai thấy ngán quá, để có được thóc, phải cày, phải cấy, phải làm cỏ, phải thường xuyên bón phân, phun thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, trải ba tháng mới mang được thóc về. Giá thóc thấp. Nai lưng làm cả năm cũng chỉ được vài triệu bạc. Trong khi đó, bọn trẻ ra phố đánh giày, ăn xin, mỗi tháng bỏ túi vài triệu, điều nghịch lý ấy tồn tại mãi đến giờ. Một lần, Mai dò hỏi mấy đứa đi khất thực, chúng hồn nhiên cho biết cách ăn xin, nào là đóng giả người tàn tật, nào là đóng giả chú tiểu các chùa… Nghĩa là để moi được tiền từ ví của thiên hạ, chúng không từ cách làm nào.
Năm kia, cả vùng gặp trận bão kinh hoàng, lúa sắp gặt, bị bão đánh đồng chỉ trơ cuống rơm. Cả làng lâm vào nạn đói trầm trọng. Mai theo một người đàn bà vào Sài Gòn. Tất cả tiền dồn vét mua vé tàu chợ. Đi tàu chợ dễ hành nghề. Mụ nói. Mụ thảy mấy gói mì tôm Mai mang theo ra cửa Tàu, người làng Đồn Điền mà phải ăn mì ăn liền trên tàu, đần thế.
Bánh tàu nghiến đường ray một lát, người đàn bà ấy vào phòng vệ sinh, lát sau, bước ra đã là một bà già ăn mặc rách rưới, tay phải cong queo như bị tật, miệng méo xệch, nước dãi chảy xuống gò má, lê bước đi từng hàng ghế xin của bố thí. Mai không nhịn được cười. Một hồi sau, người đàn bà nọ trở lại với bộ đồ bình thường, dúi vào tay Mai một nắm tiền: “Tiền lẻ nhưng thừa sức tiêu trên tàu”. Dứt lời, mụ lăn ra ngủ.
Cầm nắm tiền trong tay, Mai bần thần, cô hiểu vì sao dân làng mình bỏ ruộng đất đi khất thực. Vào tới Sài Gòn, Mai choáng ngốt trước nhộn nhịp đến cuồng nhiệt của người, xe cộ, lắm lúc cô tưởng nghẹt thở. Mai sống với mấy người đồng hương trong một căn phòng chật chội. Những người con gái, đàn bà này đi đâu cả ngày, tối về trút từ trong bao bố ra một đống tiền lẻ rồi ngồi bệt xuống nền nhà xi măng xám lạnh, xếp lại từng xấp, sau đó mang đi đổi tiền mệnh giá chục ngàn, trăm ngàn, cho vào tài khoản.
Đêm đến, họ ăn trái cây, uống nước ngọt, bia, trò chuyện rôm rả. Kể ra, có tiền ai cũng tỏ ra hào phóng. Mai như cuốn vào những câu chuyện họ kể về làm nghề, vui đáo để. Mai muốn kiếm tiền, nhưng ở thành phố này không có tay nghề, bằng cấp, đâu dễ kiếm ra việc? Cả tháng Mai phải ăn nhờ mấy người cùng làng, ban đầu, họ vui vẻ, nhưng sau đó, họ tỏ ra xem thường cô. Lòng tự ái trong cô nổi lên, thôi thì mình cũng phải đi làm như họ.
Mấy người đàn bà nọ lần lượt dạy cô cách hóa trang thành người tàn tật và cách xem xét đối tượng để tiếp cận. Không phải ai cũng mở ví để làm từ thiện đâu, làm nghề này phải biết quan sát mặt người, có người giàu nhưng moi của chúng nó một đồng cũng khó, có kẻ nghèo nhưng rất hảo tâm. Mai đi thử, đóng vai một phụ nữ nghèo thân thể dị dạng, bế một đứa trẻ tự thuê, đứng ở cây xăng trên đường Nguyễn Đình Chiểu, lúc đầu xấu hổ, cứ cúi gằm mặt xuống, nhưng khi được mấy người bỏ vào cái nón mê lật ngửa của cô mấy tờ hai ngàn, năm ngàn, có khi mười ngàn, hai chục ngàn, cô hết sợ. Mắt cô sáng lên khi thấy khách đổ xăng thảy vào nón số tiền vừa được thối lại.
Ngày đầu lượm được hơn năm trăm ngàn. Một ngày hành khất được nửa triệu? Bằng một năm làm ruộng? Mày có số hưởng lộc thiên hạ đó, chắc thần thành hoàng làng Đồn Điền phù hộ cho mày. Mụ nói vậy. Mai như bị kích thích, cô thấy cái nghề này cũng chẳng có gì xấu, người ta cho mình, chứ đâu phải ăn trộm, ăn cắp đâu. Mà cái nghề ấy cũng phập phù, có ngày chỉ được vài chục ngàn đồng, không đủ trả tiền mướn đứa bé. Có khi còn bị khách mắng te tát vào mặt. Nhưng nhìn chung vẫn có cái ăn, của để. Cho đến khi cô gặp anh chàng Tự này.
Đó là hôm Tự đưa mẫu mủ cao su đi giám định chất lượng, khi đổ xăng xong, anh thấy người đàn bà bế con đến, thoạt đầu anh khó chịu, nhưng khi thấy đôi mắt đen, như tráng lớp nước mắt, anh sững lại, như có luồng điện chạy dọc cơ thể, anh thả vội tờ năm chục ngàn vào cái nón mê và phóng xe đi. Mấy hôm sau, khi Mai vừa về đến phòng trọ, đã thấy anh chàng khựng chiếc xe máy trước mặt.
- Người như cô mà làm nghề ấy thì lạ thiệt.
Tự nói như mắng, cái nghề cạo mủ thường xuyên ở giữa rừng cao su khiến người ta nói lớn mới đủ trao đổi với nhau. Mai không giận, bao nhiêu người đã mắng, đã chửi cô đến tàn tệ, cô đều chịu đựng được. Cô mời Tự vào nhà. Tự không thể chịu nổi căn phòng quá chật, quanh tường treo những bộ đồ áo rách, áo làm trang phục ni cô cùng những đồ nghề của dân hành nghề ăn xin. Tự thấy ghét, trên đời thiếu gì việc làm để sống mà đi xin của bố thí của thiên hạ, đấy cũng là một dạng ăn bám.
Khi đi qua khung cửa hẹp, Tự rùng mình bắt gặp hương con gái từ Mai tỏa ra. Nhưng rồi, hình ảnh cô gái có đôi mắt nháng ướt ám ảnh đến độ nhiều khi cạo mủ Tự để chệch đường rãnh, có lúc mũi dao suýt đâm vào đùi. Không thể chịu nổi, Tự lại đánh xe lên Sài Gòn. Trong buổi chiều ở quán cà phê cóc bên kinh Nhiêu Lộc, quán chỉ có hai người, bằng giọng nói trong nhẹ, Mai kể cho Tự nghe về gia đình, về mảnh làng Đồn Điền. Tự lại được gặp mùi hương con gái tinh khiết, anh nghe câu được, câu mất, anh mải ngắm đuôi mắt đen ướt.
Sau đó, chừng một tuần, Tự lại đến, không thấy Mai, ra cây xăng, vẫn không có, anh nhấp nhổm ngồi, đứng bên xe máy cả tiếng trước cửa phòng trọ. Đến lửng đêm, khi thấy Mai về, Tự nhào lấy nắm lấy tay. Hôm nay, em đi làm ở quận Tân Bình, nên về muộn. Mai nói và nhẹ nhàng gỡ tay anh. Cô đi nhanh vào phòng, khi bước ra, trên người đã là quần kaki xanh dài quá đầu gối bó sát đôi chân thon với áo phông đen. Tự sững người khi gặp cần cổ cao, trắng muốt. Cô này khiến mình ngạc nhiên hoài.
Tự nghĩ và chính đêm ấy anh đã ngỏ lời yêu cô. Chúng mình sẽ làm lễ cưới, anh đưa em về nông trường cao su, em sẽ là một người công nhân cạo mủ kiêm quản lý. Mai im lặng một hồi, rồi nói, lỡ ba anh không ưng em thì sao. Anh đã có cách. Tự quả quyết. Mai theo người yêu về, đêm ấy hai đứa ngủ ở cái chòi gác bên lô cao su, sáng hôm sau gặp ba chồng. Tục ở đây là vậy, trai gái ở chung đêm buộc gia đình phải tổ chức đám cưới chạy. Tự thầm thì bên tai người yêu thế.
*
* *
Vậy là chú Bảy Nén mướn ba cây vàng của một người bà con để cưới chạy vợ cho thằng con. Sau đám, chú dựng cho vợ chồng chúng một ngôi nhà kế bên nhà mình, cắt cho một lô cao su đã trồng được năm tuổi, sang năm nay là cạo được mủ rồi. Chừng đó đủ cho vợ chồng con cái tụi bây làm ăn sinh sống suốt đời. Chú nói thế. Một lô cao su rộng hăm lăm héc ta là tài sản lớn với một gia đình vợ chồng son, tụi mình ráng làm lụng để sau này có tiền cho con cái ăn học. Tự hào hứng nói với vợ vậy. Mai ngước cặp mắt đen nháng nước nhìn chồng.
Tự là người mê cao su, rừng cao su này anh ươm hạt, trồng chăm sóc mấy năm, khi ngắm thân cây thẳng, da xanh bợt, gân gỗ nổi lên từng đường từ gốc đến ngọn, Tự như thấy mồ hôi mình đang chảy trong từng sớ gỗ, trong từng cuống lá. Mùa khô, Tự phải lên cái chòi cao, ngồi bó gối trong chuồng cu, đảo mắt khắp vùng để canh chừng lửa. Lá cao su trải lớp dày, hễ bắt lửa là bốc cháy, gặp gió trở thành trận cuồng phong lửa, thiêu trụi cả rừng cao su trong phút chốc. Đến gần trưa, Mai phải mang cơm ra tận chòi cho chồng. Cô thấy khó chịu trong cái nắng chói gắt, gió nóng tuốt như phả lửa, da dẻ chồng cô đen cháy, mặt hốc hác.
Cao su đã thay lá, thân cây trở nên lực lưỡng, căng bóng, lá cây xanh biếc nhìn kỹ thấy những đường gân trong suốt. Một màu xanh tràn lên, chạy đến chân trời mây bạc trắng. Phải có lá quang hợp mới có mủ. Tự giải thích cho vợ vậy và hướng dẫn cách cạo mủ. Cầm dao cạo mủ học vài buổi là cạo được nhưng cạo cho có kỹ thuật cao là phải học suốt đời. Mọi nghề đều có bí quyết, gọi là cái mẹo cũng được, em ạ. Dao cạo mủ có dao đục, dao kéo, phải làm cẩn thận như thợ chạm khắc mở được miệng gọn khéo, đục không khéo miệng toét ra, mủ không chảy vào bát là hỏng hết. Mai cảm thấy cạo mủ không khó nhưng rất mệt, mới làm một hồi, lưng đã mỏi nhừ. Mà đâu phải cạo một lần, hai ba ngày phải cạo mới một lượt mủ mới ra. Rồi lại còn phải bón phân, phun thuốc, làm cỏ. Kiếm được đồng tiền về trồng cao su thật vất vả.
Đêm ở rừng cao su thật sâu, bóng tối đặc quánh, trong ngôi nhà nhỏ, Mai thủ thỉ kể cho chồng nghe về làng Đồn Điền của mình, người làng dù không là thân tộc họ hàng vẫn coi nhau như ruột thịt vì có cùng chung thần thành hoàng. Là người sinh trưởng ở xứ sở bạt ngàn rừng cao su tưởng như không có biên giới này, Tự không có khái niệm về làng xã như thế.
Nhiều lần lên thị xã Thủ Dầu Một hay thành phố Sài Gòn, Tự gặp rất nhiều dân làng ấy làm nghề đánh giày, khất thực, anh dò hỏi, nhiều kẻ quả quyết có miếu thờ thần ăn mày. Có người lại chỉ biết rất nhiều người hành nghề khất thực vào đó cúng bái nhưng không biết cái miếu đó thờ gì. Và Tự cười tự giễu mình, chuyện dân gian, điều tra làm gì, nhờ vậy mà mình có được người vợ xinh, dịu dàng là mừng lắm rồi.
Mai được chồng cưng chiều. Anh muốn bù cho những tháng ngày em vất vả. Tự âu yếm bảo vậy. Mai ngước đôi mắt ướt ngó đăm chồng như biết ơn. Tự áp bàn tay thô ráp lên má nóng rực của vợ, Mai khẽ khép mắt, hai người cuốn vào cuộc ân ái. Nhưng có những đêm, khi trời gần sáng, quờ tay sang mảnh chiếu trống, Mai mới hay chồng đã ra rừng cao su tự lúc nào rồi.
Có những bữa cơm, cô phải ăn một mình. Sống như thế này chẳng khác gì bị cầm giữa rừng cao su, giàu có để mà làm gì, mình cho người ta làm đám cưới chạy vậy có vội quá không? Cô tự dằn vặt. Cảm giác cô đơn xâm chiếm tâm hồn. Chợt Mai nhớ quay quắt đám bạn trong hội khất thực ở Sài Gòn, nhiều đêm cả bọn thức trò chuyện rì rầm, có khi hướng dẫn cho nhau về cách moi tiền từ ví khách hảo tâm.
Có đêm trời chuyển giông, tiếng sét nổ tưởng nứt vòm trời ủ mây lông thú, Mai lo sợ nép vào ngực chồng: “Em sợ”. Tự cười lớn: “Trời thì phải mưa, chuyển mưa có sấm sét, sợ gì, em”. Mai ôm chặt lấy cổ chồng, ngước đôi mắt ướt hốt hoảng. Và cô thú nhận với chồng, hồi đó, cô đã mướn đứa bé đem đi để xin ăn, bây giờ nghĩ là mình có tội. Đúng là làm vậy không nên, nhưng mình đã hối cải trời cũng tha, để rồi anh đưa em đi chùa xin Phật đại xá. Tự vuốt tóc vợ an ủi vậy.
Một sớm Tự thất thểu về nhà, quần áo lấm tro bụi:
- Đêm qua cao su nhà bác Năm Đẻn bị cháy, tụi anh chạy tới dập suốt đêm mới dẹp được lửa, cháy mất gần một nửa lô. Vợ bác ấy chủ dây hụi, chắc đứa nào đốt để trả thù.
Nói xong, Tự chuồi người ra giường ngủ. Khi thức dậy, đã quá trưa, tưởng đâu sẽ có bữa ăn vợ dọn sẵn, nhưng không, người vợ trẻ đang nói chuyện điện thoại với ai đó. Tự nghe vợ nhắc đi nhắc lại về thần thành hoàng, nghề ruột của làng.
Nán cho vợ nói xong, Tự mắng:
- Em phải biết gọi điện thoại vào giờ nào. Làm vợ mà không biết chuẩn bị bữa ăn cho chồng lúc nào thì dở ẹc.
Mai im lặng vào bếp. Đến bữa ăn, Tự còn cằn nhằn:
- Em nên biết rằng, để cháy rừng cao su là ăn mày cả đám.
Câu nói vô tình xúc phạm đến Mai, cô bật khóc:
- Tôi không ngờ anh rủa tôi, xúc phạm làng tôi đến vậy.
Tự hối hận:
- Anh lỡ lời. Tại anh lo đến cao su quá.
Mai buông bát đũa đi vào nhà tắm, lát trở ra, mắt đỏ kè. Tự và vội chén cơm, buông bát, ra cái chum ở hè súc miệng rồi đi ra chòi canh. Nhìn dáng đi như bổ chân xuống đất, Mai biết chồng chưa nguôi giận.
Sống giữa rừng, Mai cảm thấy cô đơn, nhờ có điện thoại di động mà cô liên lạc với bạn bè trong hội khất thực ở Sài Gòn. Điện thoại cũng dễ làm con người ta nghiền lắm. Rồi một buổi chiều Tự đi làm về muộn. Bóng tối từ rừng cao su phủ sẫm không gian. Bụng Tự cồn cào vì trưa ấy ở lại rừng, anh chỉ ăn tạm gói mì tôm. Thấy vợ đang nói điện thoại, Tự nói to:
- Dọn cơm ăn đi em, tối om rồi, điện đóm gì nữa.
Mai bịt tay điện thoại, nói:
- Em đang trò chuyện với bạn, anh đừng nói to như vậy.
Tự vào phòng ăn, dọn bát đũa, nhưng khi lấy nồi cơm điện thì thấy gạo trương nhẫy lên trong nước. Hóa ra, Mai đã quên bật nút điện. Máu nóng trong người bùng lên, thấy Mai đi vào, Tự phang cho hai cái tát.
Cô vợ trẻ ngó sững chồng một lát, đôi mắt đen ướt mở to:
- Tôi đâu ngờ anh vũ phu đến thế. Anh nên nhớ, dân làng Đồn Điền thà ăn mày thiên hạ nhưng không để ai làm nhục vậy đâu.
Tự cười gằn:
- Đàn bà mà nấu miếng ăn không xong, còn làm nên trò trống gì?
Thế là hai người cãi nhau. Nghe tiếng xô xát, chú Bảy Nén chạy sang:
- Vợ chồng có điều chi không phải thì nói năng nhỏ nhẹ với nhau, đừng tưởng ở giữa rừng rộng không ai biết. Người ta cười cho đó.
Mai cúi mặt, rồi nhìn ba chồng bằng đôi mắt dấp dính nước:
- Không có gì đâu, ba à. Tại con…
Mình có phước nên có con dâu biết điều thiệt. Chú Bảy nghĩ và quát con trai, mày tắm đi, từ rừng cao su về là phải gội tắm trước khi lại gần vợ, mày không nhớ lời ông bà khuyên vậy sao? Chú quay sang con dâu, làm vợ người trồng cao su phải luôn lo bữa ăn cho chồng con ạ!
*
* *
Từ hôm ấy, tính Mai trở nên lầm lì, chỉ khi Tự hỏi, cô mới nói, mà chỉ trả lời nhát gừng. Đến bữa, Mai thường để chồng ăn xong mới ăn. Người làng Đồn Điền thường vậy, vợ ăn sau chồng. Mai đáp khi chồng hỏi.
Nhiều lần, Tự đi bán mủ về, lại thấy vợ đang say sưa trò chuyện với ai đó qua di động. Trong một bữa cơm, Tự nói với giọng dịu dàng:
- Lóng rày anh thấy em đổi khác nhiều.
Mai gật đầu, mắt ngó ra rừng. Sự im lặng của vợ khiến Tự băn khoăn. Nhiều đêm, Tự thấy vợ trằn trọc hoài, khi hai người ân ái, Mai chấp nhận miễn cưỡng, chẳng bù cho hồi yêu nhau, ngày mới cưới, cô luôn chủ động, nồng nhiệt đến điên cuồng. Để anh biết người xứ Thanh thế nào, em phải cho anh hưởng hạnh phúc bất tận. Cô nói trong hơi thở hổn hển.
Trưa hôm ấy, Tự từ rừng cao su về đến nhà đã thấy vợ đang lúi húi xếp đồ áo vào túi xách lớn. Chờ cho chồng rửa ráy xong, cơm nước xong, Mai nói nhỏ nhẹ:
- Anh ạ, anh cho em lên Sài Gòn làm nghề truyền thống của làng, em không thể làm công nhân cao su được đâu?
Mai nói về nghề như là cái nghiệp cũng là số trời định, không phải mình muốn làm gì cũng được. Số em là phải hành cái nghề ấy. Dĩ nhiên em vẫn là vợ anh, thỉnh thoảng anh lên Sài Gòn chơi hoặc em sẽ về với anh dăm bữa nửa tháng. Cô ngó chồng một chặp rồi tiếp:
- Em không dùng trẻ nhỏ để làm cần câu đâu. Em có cách tiện hơn nhiều.
Tự bàng hoàng, anh tự hỏi, cô này đã bị ám ảnh bởi cái nghề khất thực mà nhiều dân làng Đồn Điền ấy coi như một thứ nghề hay là do công việc cạo mủ cao su vất vả quá?
Mai mang túi, chụp cái mũ vải lên đầu, nói với chồng, giọng như xắt ra từng tiếng:
- Em nghĩ mình phải tự lực làm ra đồng tiền, phụ thuộc vào người khác là nhục lắm. Thà xin của bố thí của thiên hạ, chứ không chịu nhục đâu. Người làng Đồn Điền là vậy đó, anh ạ.
Tự thất thần nhìn vợ đi nhanh ra ngõ. Anh định chạy theo níu cô ấy lại, nhưng biết làm vậy bây giờ là không thể được. Phải chờ thời gian. Thời gian sẽ dạy cho cô ấy hiểu mọi thứ, rồi cô ấy sẽ về đây làm nghề công nhân cao su cho xem. Dù là cưới chạy, cô ấy cũng đã là vợ mình rồi. Tự nghĩ, anh châm điếu thuốc rít một hơi thật dài, nhả khói xả xui, rồi xách dao cạo mủ ra rừng cao su.
Văn nghệ sĩ
Ngày đăng: 01/04/2011 12:00:00 SA
Khuệnh khoạng là “thương hiệu” của hắn.
Hắn mắc bệnh đi làm muộn, làm về muộn mãn tính. Chẳng có cuộc họp hay hội nghị nào mà cả cơ quan không phải đợi hắn. Gọi sôi điện thoại, nhiều khi hắn chẳng thèm bắt máy, lãnh đạo báo phải cử lái xe riêng đến tận sân đón hắn.
Đường đường là một trưởng phòng mà hắn tồn tại như một sự hư vô. Nề nếp à? Thông cảm, tớ là văn nghệ sĩ lớn! Đạo đức lối sống có vấn đề? Bỏ qua đi, nếu muốn văn nghệ sĩ phát huy được tối đa tài năng và trí tuệ! To tát làm gì, ai mà thèm để ý văn nghệ sĩ!
Hắn xuất thân là một họa sĩ. Thần tượng của hắn là bác Behrman trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn Mĩ O’Henry. Chân lý hắn có lẽ là của Behrman. Năng lực lãnh đạo thì ai cũng biết rồi, còn khả năng chuyên môn thì như hắn từng nói: Khao khát vẽ nên một kiệt tác nhưng lại chưa bao giờ bắt đầu. Hình mẫu bác Behrman như khắc vào khát vọng của hắn. Hắn giống hệt thần tượng của mình: “…uống rượu gin lu bù, và vẫn nói tới kiệt tác sắp đến…”. Khối óc, hai bàn tay sạch nhẵn. Vài năm liền, hắn chẳng có tác phẩm nào được dăm lạng, một ký ngoài vài cái minh họa vớ vẩn cho một tờ tin, ảnh cấp tỉnh, ngành. Nhưng hắn có một biệt tài là thấy trên họa báo, hay bất cứ trang sách nào có những họa phẩm đỉnh cao là hắn tìm cách cắt, chụp, tốc chép… để về “tái sáng tạo”. Hắn làm những việc ấy lén lút, thường vào giờ thứ 9, khi mà nhân viên cơ quan đã mau mải ra về. Và rồi chỉ vài ngày sau, hắn tung ra một tác phẩm mình gà, chân lợn, đầu bò. Bởi hắn cóp của mỗi người một ít, nên các tác phẩm của hắn cũng được xem như là kì quái, ít nhất cũng đáp ứng tiêu chí mới lạ(!). Cái mà bác Behrmen làm được là kiệt tác “chiếc lá thường xuân trên tường”, bình thường về nghệ thuật, nhưng lại hết sức nhân đạo, hết sức cứu tinh. Bác đánh đổi sự sống của mình cho vị Thần Viêm Phổi để lấy lại mạng sống cho cô họa sĩ trẻ - hắn líu lô bình luận. Hắn đang ấp ủ cho một kiệt tác đại loại như thế chăng?
Hắn là lãnh đạo phòng, kiêm họa sĩ thiết kế và phóng viên ảnh của tòa báo. Thỉnh thoảng hắn cũng có một tấm ảnh đẹp hơn của đồng nghiệp, bởi khi các phóng viên gửi ảnh về, hắn lập tức bắt được cái thần ở các tấm ảnh quí, và hắn ngồi tìm ra những khiếm khuyết về ánh sáng, về bố cục… rồi lập tức đến đúng địa chỉ ấy, đúng góc máy ấy, chờ cho ánh sáng đẹp nhất (theo ý hắn). Nếu không có gì mới về nội dung thì hắn vẫn yên tâm bấm máy - đã có phô-tô-sốp. Vài ba cái ô tô chạy trên đường, một nhóm người cặm cụi gặt hái trên cánh đồng hay, một đoàn du khách tham quan một di tích… đối với kỹ thuật chỉnh sửa ảnh của hắn, đều là chuyện nhỏ.
*
* *
Ở tòa soạn ấy có một gã nhà báo gàn. Gã chuyên viết phóng sự, ghi chép ở chuyên mục “Đời Sống” nên có vẻ tỉnh táo lấn át hết chất văn nghệ sĩ. Gã ghét đắng những kẻ giả danh văn nghệ sĩ, rồi khuệnh khoạng mỗi chân một hàng. Một hôm, gã tiếp nhóm “độc giả” hy hữu: Những đồng nghiệp, ở cả Phòng biên tập và Phòng phóng viên của tòa báo. Do không chịu nổi thói ăn cắp của tay họa sĩ nên tìm đến căn phòng trọ chật hẹp, ngụ trên phố Đường Đỏ, phía Đông thành phố, phàn nàn với gã về việc làm thế nào để lật tẩy hành vi của tay văn nghệ sĩ trưởng phòng.
- Phải phơi cái hành vi đê tiện ấy ra ánh sáng!
- Đúng, vạch hắn ra khỏi miếng giấy đạo đức mà hắn vẫn đắp lên mặt!
…
Gã nhà báo không nhếch mép.
- Ông là cây đề của tòa soạn, ý kiến ông là khối lượng, trọng lượng. Kỳ họp giao ban này tôi cháy chậm, ông nổ đùng, đoàng…?
Gã nhà báo có vẻ chăm chú nghe hơn, nhưng vẫn im lặng. Xem chừng nói mồm không xong, nhóm đồng nghiệp công kênh gã ra quán bia đầu phố, coi như chi dọn giọng. Gã ngồi nhâm nhi vại bia, nhìn bong bóng ga nổ lép tép:
- Thế nào, uống bia của bọn này rồi cũng phải cho một nhời chứ?
Gã nhà báo miệng như đổ bê tông. Một đồng nghiệp điên tiết:
- Khốn kiếp, hay là lão muốn làm một chân gì đó nên giữ phương đi lại? Lão mà rụt đầu, bọn này kinh tởm lão!
Kì họp giao ban tuần ấy, cả người nhận nhiệm vụ cháy đến các “khối nổ” khác đều câm lặng. Thủ trưởng cơ quan khi nhắc đến hắn, vẫn một lời rào chắn: “Hôm rồi, đoàn đại biểu văn nghệ sĩ Trung ương lên, khen tạp chí ta có hình thức đẹp. Tất cả nhờ tài thiết kế của trưởng phòng biên tập đấy, trưởng phòng ạ. Thay mặt cơ quan, xin thưởng nóng cho đồng chí hai triệu gọi là của ít lòng nhiều, mong đồng chí nhận như nhận tấm lòng biết ơn của cơ quan…”
Tan buổi họp, trong khu vực dành cho mọi người giải quyết nỗi buồn, phóng viên ban thời sự nói với đại diện ban văn hóa:
- Sao chẳng ai lên tiếng đập cho cái thằng cha khốn nạn ấy một phát nhỉ?
- Chẳng ai dại gì đâu.
- Thật là một lũ sợ chết! Tôi mà có ai nổ trước, tôi… đùng cho gã một phát liền.
Nửa tháng sau, không thấy gã nhà báo gàn đi làm. Nhóm bạn đồng nghiệp tìm đến căn nhà trọ cũ nát của gã:
- Mẹ kiếp! Chỉ vì ngại lên tiếng mà giả ốm đến nửa tháng vậy sao?
Gã nhà báo chậm rãi rút tờ báo Văn nghệ trong ngăn kéo ra, quăng lên mặt bàn. Nhóm đồng nghiệp vồ lấy:
- Truyện ngắn! Ông viết truyện ngắn cơ à? Nhưng sao ông lại kí bút danh là Vim?
Gã nhà báo không hé răng, chỉ lẳng lặng quăng tiếp ra bàn quyết định sa thải nhân viên hợp đồng của Phòng biên tập. Đoạn, gã đứng lên khoác chiếc túi bố quần áo, sách vở đi ra bến, bắt xe về quê. Bên vành tai đã chai lì và trơ chẽn, văng vẳng tiếng vợ con gã gào rít: “Đồ ăn hại! Cả đời chẳng làm nổi việc gì cho ra hồn!”
*
* *
Cuối giờ chiều hôm ấy, cơ quan sửng sốt khi nghe tin gã nhà báo gàn bị tai nạn ô tô. Phóng viên điều tra vỗ vai phóng viên môi trường:
- Tôi vẫn không hiểu vì sao gã lại ký tên là Vim trong truyện ngắn Văn nghệ sĩ?
- Gã là hóa chất tẩy rửa còn tay họa sĩ kia là vi khuẩn cứng đầu!
Chứng già
Ngày đăng: 01/04/2011 12:00:00 SA
Hôm nay ông Bảy lại dở chứng, cứ đeo thằng con hỏi liên tục về mấy đồng lương của mình.
Thằng con ngồi đục lạch cạch mấy chân ghế đẩu trước cửa nhà. Đang nằm xoa xoa cái trán hói, không biết nghĩ ngợi gì đó bỗng nhiên ông Bảy ngồi vụt dậy, hai con mắt nhìn trân trân vô tờ lịch đỏ chót rồi đi một hơi ra cửa. Ông chắp hai tay sau đít đứng phía sau thằng con, nói giọng phao phao: Tới lương chưa, mày có lãnh hông sao hổng thấy? Thằng con nhặn mặt vẻ khó chịu: Chưa tới tháng mà lãnh gì? Ông Bảy lại thắc mắc: Tao thấy lịch chỉ nay là một tây rồi mà? Thằng con ngớ ngẩn miệng cười chúm chím: Chắc mấy đứa nhỏ nó lỡ xé lố đó, chứ còn mấy ngày nữa người ta mới phát lương. Ông lầm bầm trong miệng: Sao lâu quá rồi tao hổng có đi lãnh, hổng biết anh Ba bên kia có đi lãnh chưa nữa?
Vừa nói xong, ông Bảy quay ra phía trước rồi đi thật lẹ sang nhà ông Ba. Cổng nhà ông Ba có cái mương nhỏ. Trước kia chỉ có một cây tre trơ trọi bắc qua cái mương, nhưng nay được thằng cháu nhỏ của ông Ba làm thêm cái tay vịn bằng cọng củi dừa trông chắc chắn, nên ông Bảy qua lại một cách dễ dàng.
Mấy hôm trước ông Bảy té một lần muốn thụt mạng vì cái mương này cũng do cái tánh lí lắc của thằng cháu nhỏ của ông Ba. Nó rất ghét ông Bảy có cái tật dở nồi bốc cơm nguội mỗi khi qua nhà ông nội nó. Hôm đó, nó thấy bóng ông Bảy từ xa đi tới, nó biết thế nào ông Bảy cũng qua nhà nội. Nó gài bẫy ông Bảy bằng cách kéo cái đầu cây tre meo sát mé mương. Bẫy nó giăng đúng là hiệu nghiệm, ông Bảy vừa bước mạnh thì cây tre trượt chùi xuống, ông Bảy cũng chúi nhủi theo cây tre. Lần đó ông bị trật gân không đi lại được tới mấy ngày. Chuyện thằng cháu nhỏ ông Ba gài bẫy làm ông Bảy té, đến giờ vẫn chưa ai biết. Nhưng chỉ một lần đó mà nó cảm thấy hối hận vô cùng.
Lần này thằng cháu của ông Ba đi học chưa về. Ông Ba thì đi lượm dừa mỏ ở tuốt dưới đầu vườn. Bước vào nhà trước không thấy một ai, ông Bảy te rẹt đi thẳng xuống nhà sau. Mắt ông dáo dát tìm kiếm một thứ gì đó trong khu vực bếp. Chắc không còn gì quan trọng hơn ngoài cái nồi cơm nguội của ông Ba. Nhưng rút kinh nghiệm từ mấy vụ ông Bảy khám phá nồi cơm của mình nên ông Ba cho nồi cơm vào trong một cái khạp da bò rồi đậy nắp lại. Không hỏi được chuyện lương bổng, cũng không đạo được miếng cơm nguội nào của ông Ba để cho vào bụng, ông Bảy lặng lẽ ra về với vẻ mặt buồn so.
Ông Bảy và ông Ba là hai người bạn vốn sinh tử có nhau. Từ nhỏ, hai người cùng đi chăn trâu trả nợ cho nhà bà Cả Hương. Được một thời gian thì cả hai bỏ trốn đi theo cách mạng, cùng chiến đấu ở một chiến trường và cùng tập kết ra Bắc.
Lúc còn ở trong Nam thì ông Ba chưa có vợ, nhưng khi ra Bắc được một thời gian ông có quen một cô ngoài đó. Sau ngày giải phóng, cô theo ông Ba vào Nam sống rồi trở thành bà Ba.
Còn ông Bảy đã có bà Bảy được hai năm và có một thằng con trai. Đó là thằng con đang lo cho ông hiện nay.
Nhưng khi ra ngoài Bắc, ông Bảy đột nhiên ngã bệnh và có quan hệ tình cảm với cô y tá quân y nơi ông dưỡng bệnh. Hai người trở thành chồng vợ và có với nhau một cặp gái trai.
Ở trong Nam, bà Bảy vẫn ở vậy nuôi con, chờ chồng. Một lần bà tham gia đoàn biểu tình chống lập ấp chiến lược của Mỹ - Diệm và chết bởi đạn của cảnh sát ngụy.
Cho đến ngày giải phóng, ông Bảy mới một mình lặn lội trở về Nam để tìm lại thằng con vốn sống coi cút từ cái ngày mà mẹ nó mất. Hai cha con gặp nhau và chung sống trong một gia đình nhỏ. Lương hưu của ông Bảy một phần để phụ giúp cho thằng con trong này, còn một phần dành dụm để mỗi năm ông trở ra Bắc thăm gia đình ở ngoài đó.
Mấy năm gần đây, tâm thần của ông đột nhiên rối loạn. Ông không còn nhớ nhiều về chuyện hiện tại. Và chuyện trước kia, bây giờ trong đầu ông dường như vẫn còn thấp thoáng đâu đó những chuyến đi xa.
Sức khỏe ông Bảy càng yếu đi. Đã mấy năm rồi ông không thể đi lãnh lương được, cũng không thể dành dụm tiền để ra Bắc thăm vợ con. Tiền lương hàng tháng, thằng con giữ lại để lo bồi dưỡng, thuốc thang cho ông.
Về đến nhà, ông Bảy bước lại đứng ngay trước mặt thằng con miệng ấp úng nhưng có vẻ cứng rắn: Bây giờ tao đi lãnh lương. Tao nhớ có lương rồi mà mấy bữa nay tao quên. Thằng con chợt nhớ ra một chuyện quan trọng. Thường khi nó đi lãnh lương về là đưa cho ông Bảy ít tiền bỏ túi, nhưng hôm nay nó mải mê lo làm mà quên mất chuyện đó. Thành ra ông già đâm dở chứng. Lật đật thằng con ngồi dậy đi một hơi vào buồng rồi cầm ra một sắp tiền năm bảy tờ loại năm ngàn đồng và đưa cho ông Bảy: Nè ba cất đi, hồi sáng con lãnh rồi mà quên đưa cho ba. Ông Bảy cười te tét, tay cầm sắp tiền đi thẳng vào giường nằm rồi xòe mấy tờ bạc, miệng đếm đi đếm lại: năm mươi, hai trăm, ba trăm…
Dạ khúc
Ngày đăng: 01/04/2011 12:00:00 SA
Cánh đồng lúa đang thì con gái mơn mởn, tươi xanh, nhìn không chán mắt. Cái vó bè và chiếc lều vó có ở đây đã lâu lắm rồi, từ dạo trước chiến tranh. Mà không. Nó còn có từ trước nữa kia. Hồi ấy, một người đã dựng chiếc vó bè ở đây để làm nơi liên lạc của du kích. Người dựng chiếc vó bè này chính là người đội trưởng đội du kích của xã đã từng tham gia và tổ chức đánh gần trăm trận. Lính tây, lính nguỵ đến cường hào gian ác chỉ cần nghe danh của đội du kích, nghe đến tên người đội trưởng ấy là đã sợ xanh mặt ra rồi. Thời gian trôi đi. Cuộc chiến tranh này kết thúc rồi lại đến cuộc chiến tranh khác. Đất nước hoà bình thống nhất. Chiếc lều vó và cái vó bè đã được thay đi thay lại nhiều lần nhưng người ở trong cái vó bè thì vẫn vậy. Bây giờ đã là một ông già. Người trong làng thường gọi là ông Lẩm Cẩm. Tên họ của ông khi trước hằng nổi danh là Nguyễn Cẩm. Đội trưởng đội du kích Nguyễn Cẩm. Thời gian và dâu bể cuộc đời làm tên ông trở thành Nguyễn Lẩm Cẩm. Mà ông lẩm cẩm thật rồi.
Giữa cánh đồng trong đêm vắng vẻ, ông lão lều vó cứ hát đi hát lại những câu tự ông nghĩ ra và chỉ ban đêm mới nghe ông hát. Tiếng ông âm vang trên bạt ngàn cây cỏ. Cánh đồng và dòng sông đưa tiếng hát của ông đi xa đến vô cùng:
Kẽo cà kẽo kẹt
Những mắt lưới
Như mắt người thương mến
Nhìn ta long lanh, long lanh
Ngóng đợi ta bao năm, bao năm...
Làm nhịp cho ông hát là tiếng dây chão nghiến vào gộc tre kẽo cà kẽo kẹt. Khi ông hát, con chó nằm gác mõm lên hai chân trước, mắt lim dim, tai vểnh lên. Nó lắng nghe. Và bao giờ ông cũng chỉ hát những câu ấy rồi cứ hát đi hát lại cho đến khi giọng ông rè đi vì buồn ngủ. Lúc ấy thì trời đã rạng sáng mất rồi.
Người già trong làng kể rằng, hồi đánh giặc, ông bị đạn làm đứt hẳn một chân. Khi kháng chiến thành công, đội trưởng du kích Nguyễn Cẩm được trên thưởng rất nhiều bằng khen, giấy khen, cả huân chương kháng chiến có hạng nữa. Sau đấy chẳng hiểu vì sao ông không về ở trong làng như mọi người. Ông bảo, ông quen sống với chiếc vó bè quá mất rồi. Ông không lấy vợ. Ông bảo không thích. Có ối người muốn lấy ông. Họ thương ông một mình côi cút giữa cánh đồng vắng vẻ. Những người đàn bà ấy đều ở dạng “quân giặc làm cho thành quá lứa nhỡ thì”. Quân giặc dù thế nào cũng rất dã man! Những người đàn bà ấy không lấy được ông, thế là họ bảo nhau “ở vậy”. Lâu lâu sau đó, ông Cẩm được công nhận là thương binh và được hưởng chế độ trợ cấp thương tật hàng tháng dù ông không có đòi hỏi gì. Cái vó bè đã đủ nuôi ông sống khá thoải mái. Ăn no, mặc ấm, cái lều vó chơ vơ giữa đồng nhưng đủ vững chắc để che mưa nắng cho ông, mỗi bữa thêm một chén rượu để khề khà. Với ông, thế là đủ. Số tiền trợ cấp thương tật hàng tháng ông vẫn đến xã nhận đều đều. Ông mua một cái phong bì, cho tiền vào đấy, dán lại rồi lộc cộc chống nạng xuống thôn dưới. Ở đấy có hai mẹ con côi cút, đứa con lại bị tật nguyền. Ông để cái phong bì lên chõng tre trong nhà, chỗ thằng bé nằm rồi lẳng lặng ra về. Qua quán bà Béo, ông ghé vào mua chai rượu. Bà Béo dúi chai rượu trong vắt, còn đang sủi tăm vào túi áo ông và bảo: “Vẫn thứ rượu Kim Sơn ông chuộng đấy nhá!”. Ông không nói gì chỉ gật gật đầu. Nhiều hôm, về đến lều vó trời đã nhá nhem tối mất rồi. Ông lại kéo chiếc vó bè làm nó kêu kẽo kẹt như vui mừng, như hờn dỗi. Ông đã đi cả buổi chiều! Cái vó cho ông vài con cá để ông nướng lên mà nhắm rượu. Đặt cái chén không xuống sàn tre, ném cho con chó những cái đầu cá, ông lại hát những lời cũ:
Kẽo cà kẽo kẹt
Những mắt lưới
Như mắt người thương mến...
Tiếng hát ông vang xa vọng vào tận bên trong luỹ tre làng. Người trong làng nghe tiếng hát biết ông vẫn mạnh khoẻ và họ cười với nhau: “Ông Lẩm Cẩm vẫn kẽo cà kẽo kẹt tốt, hơn ối cánh ta, nhẩy!”.
Một buổi chiều cuối năm. Gió bấc hun hút. Mưa như rây bột giăng giăng mờ trắng cả trời đất. Cái vó bè của ông vẫn kẽo cà kẽo kẹt. Những con cá gần như chết cóng trong lòng vó cứ thế trôi tuột xuống giỏ thời. Ông Lẩm Cẩm ngồi thu lu trong lều, chiếc chăn bông trùm lên tận đầu, chỉ để hở hai con mắt và một cánh tay thò ra để kéo vó. Con chó nãy giờ nằm cuộn tròn bên cạnh, lim dim ngủ chợt chồm lên sủa dồn. Ông thả lỏng chiếc dây chão quay sang hỏi con chó: “Gì thế cu?”. Con chó vẫy vẫy đuôi, không nhìn ông và lại càng sủa rộ. Tiếng sủa của con chó không hề có vẻ giận dữ. Nó có vẻ chỉ muốn báo cho ông một việc không bình thường. Ông Cẩm thấy lạ liền khoác cả cái chăn to sù ló cổ ra khỏi lều. Ngay bên ngoài, một người đàn bà còn trẻ, vai khoác chiếc túi vải, tay ôm khư khư một chiếc chăn hoa cũ mỏng trước ngực. Ông chưa hết ngạc nhiên thì người đàn bà bỗng gục xuống. Hốt hoảng, ông bò vội đến. Người đàn bà cố sức vươn tay nâng bọc chăn về phía ông. Ông đỡ lấy và chạm vào bàn tay lạnh giá của người đàn bà. Ông kịp nhìn thấy bàn tay trắng bệch, mềm mại, có những ngón thon dài, móng tay để nhọn hồng hồng như những cánh sen nhỏ xíu. Trong cái bọc chăn phát ra tiếng ọ ẹ. Ông muốn rụng rời tứ chi: “Một đứa trẻ!”. Ông vội lê vào trong lều đặt đứa bé trong cái gói chăn xuống chỗ ông vẫn nằm rồi bò ra ngoài vừa nâng, vừa kéo người đàn bà đã mềm nhũn vào trong lều vó. Lấy cái chăn bông trùm cho cả hai mẹ con. Ông đốt lửa. Đặt nồi lên bếp, cho vào đấy nắm gạo. Ông ngồi bó gối nhìn nồi cháo lúc búc sôi. Đứa trẻ trong bọc chăn lại ọ ẹ, ọ ẹ rồi khóc váng lên. Hơi ấm của bếp lửa và mùi cháo thơm đã làm người đàn bà dần hồi tỉnh. Chị chống tay cố ngồi dậy tựa lưng vào vách lều, mặt cúi gằm, những giọt nước long lanh nơi khoé mắt. Không nói gì, người đàn bà chắp hai tay lạy ông. Ông xua tay. Thằng bé vẫn đang khóc. Ông bế nó lên đặt vào tay người đàn bà, bảo: “Nó đang đói đấy!” Rồi ông ý tứ ngồi xoay lưng lại với tay nắm lấy đoạn dây chão kéo lấy kéo để. Kẽo cà kẽo kẹt. Bốn gọng vó từ từ nhấc lên khỏi mặt nước. Có tiếng cá quẫy đành đạch. Tiếng thằng bé mút vú mẹ chùn chụt. Một lúc sau lại thấy nó khóc. Hình như mẹ nó không có sữa. Ông đành quay vào gạn lấy ít nước cháo trong nồi, pha một ít đường rồi đưa cho người đàn bà. Thằng bé tóp tép, tóp tép cái miệng nhỏ như đồng xu, trông vừa tội nghiệp vừa đáng yêu. Chừng đã no, thằng bé im thin thít. Nó ngủ rồi. Ông múc cho người đàn bà bát cháo giục ăn ngay cho nóng. Có vẻ như đã lâu không ăn gì, không đợi ông Cẩm giục lần nữa, người đàn bà ăn cháo như người ta uống nước. Đêm ấy, ông Cẩm không ngủ. Cũng không nghe thấy tiếng ông hát khúc hát quen thuộc. Chỉ có cá vào vó của ông nhiều hơn những khi trước.
Người đàn bà quá yếu không thể đi khỏi lều vó của ông ngay được. Không biết nên xoay xở ra sao nhưng cuối cùng ông đành bảo chị cứ ở lại. Tối đến, ông xuống ngủ ở chiếc thuyền con. Xem ra mẹ con người đàn bà không thể chống chọi được với cái đói, cái rét khắc nghiệt của tháng cuối năm này nên ông tự làm một cái mui trên chiếc thuyền nhỏ vẫn buộc dưới mép nước. Gió hun hút thổi, hơi nước lạnh bốc lên làm ông không chịu nổi. Ông phải lên bờ vơ rạ người ta bỏ dọc bờ sông làm thành một cái ổ để nằm và đốt lửa để sưởi. Nhiều đêm, người đàn bà ôm con ngồi nhìn ra chỗ đống lửa bằng ánh mắt ái ngại nhưng chị không thể. Biết bồng con đi đâu bây giờ? Vả lại chị cũng không đủ sức để cất bước. Thôi đành phó mặc cho số phận.
Việc lều vó của ông già Lẩm Cẩm tự nhiên có thêm hai nhân mạng làm xôn xao ngôi làng bên bờ sông Vạc. Người ta công khai bàn tán ở mọi nơi, mọi lúc có thể. Người khen ông tốt số. Người thở dài thương ông quá nặng nợ với cuộc đời. Những gã đàn ông thuộc nhóm máu D thì bảo nhau với vẻ đầy sự ghen tị: “Bố già Lẩm Cẩm thế mà vớ bở. Không biết còn có làm ăn được gì không?”. Quả nhiên là người đàn bà ấy sau một tháng lạc đến nương nhờ lều vó của ông Lẩm Cẩm đã lại sức. Da dẻ hồng hào. Tóc mây mượt mà buông lửng sau vai. Chỉ có đôi mắt lá răm sắc như dao cau lúc nào cũng nhìn xuống. Ông Cẩm không để ý đến điều đó. Thi thoảng tiếng thằng cu con oe oe trong lều làm lòng ông ấm áp.
Mùa đông rồi cũng qua đi. Mùa xuân đến đem theo những tia nắng ấm đầu tiên trải vàng trên mặt sông. Lúa mới cấy trên đồng bắt đầu bén rễ. Những cơn mưa tháng ba chợt đến, chợt đi với những tiếng sấm dậy đầu mùa. Lúa trên đồng vươn lá, mơn mởn đón sấm dậy, mưa rào. Cái lều vó của ông Lẩm Cẩm giờ đã được gia cố vững chãi như một ngôi nhà nhỏ. Thằng cu đã được vài tháng. Nó hoa chân, múa tay u ơ và cười khanh khách mỗi khi ông cúi xuống bên chiếc chõng tre “nói chuyện” với nó. Thoáng thấy bóng ông, thằng bé đã u ơ như gọi. Nếu ông không nựng nó vài câu là nó khóc. Trái hẳn với thằng bé, mẹ nó gần như không nói, cũng không cười, lúc nào cũng cúi đầu im lặng. Cô ta có vẻ miễn cưỡng trả lời mỗi khi ông hỏi. Thấy vậy ông Cẩm cũng chả muốn hỏi làm gì, thành thử hai người chỉ như hai cái bóng. Nếu không có tiếng u ơ của thằng bé thì cái lều vó của ông Cẩm chẳng có gì thay đổi. Đêm đêm ông vẫn hát câu hát cũ, nhưng chẳng ai nghe thấy. Ông chỉ hát đủ mình ông nghe. Con chó nằm bên cạnh, gác mõm lên hai chân, mắt lim dim nghe ông hát.
Người đàn bà ấy cũng không phải là kẻ lười nhác. Ngay từ dạo mưa xuân ấm đất, cô ta đã dọn sạch một vạt cỏ ven đê thành một mảnh vườn nhỏ. Ông biết ý, mỗi lần ra chợ bán cá ông lại đem về một ít hạt giống. Lạ thay, những thứ cây người đàn bà trồng trong mảnh vườn nhỏ ấy lớn nhanh như thổi. Một vạt rau muống sát mép nước non nõn non nà. Trong bữa ăn, đĩa rau muống luộc, bát nước mắm vắt chanh, vài lát ớt với đĩa cá kho mà ông ăn ngon lành bằng mấy đi dự tiệc dưới xã. Những luống rau cải, rau thơm, vài cây ớt thứ nào cũng mơn mởn. Đi chợ, ông Cẩm quên hẳn cái khoản mua rau. Các bà hàng rau có mời thì ông bảo: “Nhà tôi đã có rau sạch ăn rồi!”. Các bà nhìn nhau tủm tỉm hỏi lại: “Rau sạch thật chứ?”. Ông Cẩm huơ huơ chiếc nạng gỗ, hồn nhiên đáp: “Sạch một trăm phần trăm!”. Các bà lại nháy nhau cười: “Thì ông ấy bảo sạch là sạch thật rồi! Phải không ông Lẩm Cẩm?”. Biết các bà ấy trêu nhưng ông vẫn gật gù cười ra vẻ thích thú. Việc gì mà phải giận họ. Ông nghĩ, nếu Trời cho, ông sẽ nuôi thằng bé nên người, cho nó học hành đến nơi đến chốn. Còn mẹ thằng bé thì… giá như cô ta có thể sống cởi mở hơn một chút, cô ta có thể chia sẻ nỗi niềm cùng ông. Còn không thì cô ta cứ sống thế nào mà cô ấy thích. So với ông, cô ta còn quá trẻ. Nhưng hình như cô ta không thấy như thế. Một lần, thấy cô ta nặng nhọc kéo xô nước từ dưới sông lên, ông đỡ lấy xô nước và bảo: “Thôi, để đấy cho ta, con gái ạ!”. Người đàn bà thoáng giật mình, ngẩng nhìn ông ngỡ ngàng như vừa nhìn thấy vật thể lạ ngay trước mặt. Rồi cô ta bối rối bỏ vào trong lều. Ông Cẩm không ngạc nhiên. Ông nghĩ, cô ta không muốn ông coi như con gái. Ông đâm ra lúng túng không biết nên đối xử như thế nào với người đàn bà này cho phải nhẽ.
Mấy tháng qua, cô ta đã có vẻ không coi ông là người xa lạ. Cô kín đáo chăm sóc ông. Ngoài việc bếp núc, cô còn giặt giũ và đơm lại những chiếc cúc áo sắp đứt, khâu vá lại những chỗ quần áo của ông bị sứt chỉ. Mỗi khi ông vào làng thường bị cánh đàn bà nửa khen, nửa đùa: “Gớm có tay đàn bà vào là khác ngay. Cứ xem ông Lẩm Cẩm bây giờ thì biết!”. Ông Cẩm cười: “Ơn giời đấy, các bà ạ!”. Bà lão hàng xáo vẫn bán gạo cho ông thì lại lo xa: “Này, ông cẩn thận, kẻo lại tò vò mà nuôi con nhện mất thôi!”. Ông Cẩm nghe và cũng chỉ gật gật đầu. Đã có ối người đàn bà khi đi làm cỏ lúa ở cánh đồng ven sông Vạc lên lều vó của ông xin nước uống. Ông thừa biết họ chỉ muốn thấy tường tận mẹ con người đàn bà nọ. Họ thăm hỏi ông vài câu vu vơ nhưng mắt cứ đảo lia đảo lịa khắp lều vó của ông. Khổ thân người đàn bà ôm thằng bé nép vào tận xó lều, mặt cúi gằm như tội phạm bị bắt quả tang, trông đến tội nghiệp. Ông tìm cách xua khéo mấy người đàn bà thóc mách. Ông đi ra chỗ họ ngồi khẽ nói như van vỉ: “Người ta lâm vào cảnh này đã là cùng quẫn lắm rồi! Cùng cảnh đàn bà, xin đừng làm cho người ta khổ thêm nữa”. Những người đàn bà bảo: “Nào chúng tôi có ý ác gì đâu! Chỉ muốn xem cô ấy có cần chúng tôi giúp gì không? Người lớn thì không nói làm gì, nhưng còn trẻ con trẻ mỏ. Ông xem cần gì thì cứ ới chúng tôi một tiếng, nhá!”. Ông Cẩm gật đầu. Mấy người đàn bà giục nhau đứng lên. Những bát nước rót ra vẫn còn nguyên đấy. Vọng lại chỗ lều vó của ông Cẩm những tiếng xì xào bàn tán của họ. Trong lều có tiếng sụt sịt khe khẽ. Hình như mẹ thằng bé đang khóc. Con chó cũng nằm yên trong góc lều, nó gác mõm lên chân người đàn bà như an ủi.
Mùa hè đến bằng những ngày nắng rát rạt trên tấm lưng trần. Ông Cẩm nghĩ đến việc phải tìm cách chống nóng cho lều vó, điều mà từ trước tới nay ông chưa hề nghĩ đến. Ông lo mẹ con thằng bé không thể chịu nổi cái nóng ba mươi bẩy độ giữa đồng không mông quạnh thế này. Ông bơi thuyền vào làng, đến chợ mua thêm vài tấm cót ép. Chủ hàng sai người chở ra thuyền cho ông. Về đến nơi ông thấy căn lều có vẻ khang khác. Chỉ thấy con chó chạy lui chạy tới vừa vẫy đuôi mừng vừa ư ử trong cổ như rên rỉ. Mắt nó nhìn ông trông thật buồn bã. Giật mình, ông gọi: “Ra đỡ hộ một tay với nào!”. Ông gọi hai ba lần vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Khác hẳn mọi bận, khi thuyền ông còn cách một quãng xa đã thấy mẹ con thằng cu đứng đợi. Chắc có chuyện chẳng lành. Ông Cẩm vội vã trèo lên bờ ngó vội vào trong lều. Chỉ có thằng cu con vẫn ngủ. Ông nhìn quanh. Xung quanh vắng lặng. Hay là mẹ thằng bé xuống đồng bắt cua như mọi bận? Ông bụm tay lên miệng định gọi. Ông bỗng ngớ ra. Nào đã biết tên cô ta là gì mà gọi! Lâu nay ông chỉ quen gọi là mẹ thằng cu. Mà hình như cô ta cũng không muốn nói tên mình. Với lại ông thấy gọi cô ta là “mẹ thằng cu” nghe nó thân thiết và ấm áp quá nên không có ý hỏi tên cô ta làm gì. Giờ thì đành vậy. Ông gọi: “Mẹ thằng cu ơi! Ở đâu về đi thôi! Về giúp tôi một tay nào!”.
Cánh đồng Vạc rộng mênh mông. Ông nhìn vào tận luỹ tre ven làng xa tít tắp. Không một bóng người. Ông ngoảnh lại nhìn về phía tây, nơi có con đường quốc lộ chạy qua. Con đường như đang oằn mình đỡ những làn xe chạy xuôi, chạy ngược. Ông ngồi phịch xuống dệ cỏ. Con chó cũng nằm phủ phục xuống bên cạnh.
Từ hôm ấy, trong căn lều vó chỉ còn ông Cẩm với thằng cu con và con chó. Cũng may, thằng bé đã biết ăn cháo. Những đêm thèm sữa mẹ, nó khóc ngằn ngặt, ông Cẩm phải nghĩ ra đủ trò để dỗ cho nó nín. Dần dần nó cũng quên mùi sữa mẹ. Ăn no, chơi chán, nó rúc vào nách ông ngủ ngon lành. Mảnh vườn rau ven đê không người chăm bón còi cọc đến chết khô, chết héo. Ngồi kéo vó kẽo kẹt, mắt ông Cẩm không rời đoạn đê về phía đường quốc lộ. Thảng hoặc có chiếc xe dừng lại, rồi có bóng người đi xuống làm tim ông thót lại, thắc thỏm hy vọng. Nhưng họ chỉ xuống ven đường để giải quyết “nỗi băn khoăn” rồi lại lên xe đi tiếp làm ông thất vọng.
Rồi ngay sau đó ông lại không nguôi hy vọng. Ông chờ một ngày nào đó. Giờ mỗi khi cần vào làng đi chợ, ông Cẩm đều phải đem thằng bé theo. Đem thằng bé theo cả hai đều thật vất vả. Người trong làng nhìn ông lắc đầu ái ngại. Ai cũng biết thế là người đàn bà ấy đã ra đi. Không ai nỡ bình luận một câu nào về hoàn cảnh của ông. Người ta khuyên ông về ở trong làng cho có lân bang tắt lửa tối đèn nhưng ông từ chối. Ông nghĩ, ông phải ở lại lều vó của ông. Ở đấy ông có thể nhìn về con đường quốc lộ mà hy vọng. Theo lời khuyên của ông bạn đang là chủ tịch hội Cựu chiến binh, ông ra Uỷ ban xã xin nhận thằng bé làm con nuôi và làm giấy khai sinh cho nó. Ông đặt tên cho nó là Hà. Nguyễn Cẩm Hà. Hà tức là sông. Còn ông cứ gọi nó thằng Cò cho sau này nó nhớ là đã được nuôi lớn lên từ lều vó sông Vạc.
Từ ngày mẹ thằng bé bỏ đi, những người đàn bà làm đồng ghé vào lều vó của ông thường xuyên hơn. Họ mang cho ông đủ thứ, nhất là những đồ cần dùng cho thằng bé. Những người đàn bà ấy không để lại ấn tượng gì nhiều cho ông. Chỉ có một người…
Đó là cô y sĩ trạm trưởng trạm Y tế xã.
Ông nhớ lần đầu tiên cô y sĩ ra tận cái lều quạnh quẽ giữa đồng tiêm chủng cho thằng bé. Mũi kim chích nhẹ, vậy mà chả hiểu sao thằng bé khóc mãi không nín. Cô y sĩ hoảng quá vội bồng nó lên dỗ dành nựng nịu. Và thật bất ngờ, nó luồn tay vào trong ngực áo của cô làm cô đỏ bừng mặt nhưng vẫn để yên cho nó nín khóc.
Cứ đúng lịch là cô y sĩ lại ra lều tiêm đủ 6 mũi văc xin cho thằng bé. Lần nào cô cũng nấn ná chơi với thằng bé rất lâu. Ông không hiểu tại sao quý trẻ thế mà đã ngoại tứ tuần cô ấy vẫn không lấy chồng. Lần nào trả thằng bé lại cho ông, cô ấy cũng vội vã đi như kẻ chạy trốn. Và cuối cùng thì cô y sĩ đã không có cớ ra căn lều giữa đồng không mông quạnh nữa. Ông Cẩm có hơi nghĩ ngợi một chút, nhưng rồi ông lại lắc đầu. Ông chú tâm vào việc làm sao để nuôi thằng bé khôn lớn, dạy nó nên người, cho nó học hành đến nơi đến chốn. Ngày ngày kẽo kẹt với chiếc vó bè, ông vẫn không thôi nhìn về phía đường quốc lộ và nuôi hy vọng. Đêm đêm, ông vẫn hát câu hát của ông tự ngày nào. Thằng Cò đã nghe quen câu hát ấy. Chỉ khi nào ông cất tiếng hát nó mới ngủ và ngủ rất ngon lành…
*
* *
Thời gian trôi. Trái đất đã di chuyển đủ mười hình e-líp trong vũ trụ. Mầm non đầu tiên đã nhú trên cành cây báo hiệu một mùa xuân nữa sắp đến. Thằng Cò đã học lớp năm trường làng. Nó học khá, năm nào cũng được giấy khen. Khi nào nhận giấy khen thằng Cò cũng được chụp ảnh. Ông Cẩm đem treo ảnh và giấy khen của thằng Cò lên khắp vách lều. Ông coi đấy cũng là thành tích của ông, niềm tự hào của ông. Trời vẫn cho ông còn dư sức khoẻ. Tiếng vó vẫn kẽo kẹt đều đều…
Một ngày nắng đẹp, ông Lẩm Cẩm đưa thằng Cò vào làng chơi thì trên đường quốc lộ có một chiếc xe con dừng lại. Một người đàn bà sang trọng chui ra và xăm xăm đi xuống con đường đê gồ ghề. Người đàn bà dừng lại trước căn lều vó của cha con ông Cẩm. Con chó nằm bên cạnh cửa không sủa. Nó đứng dậy vẫy đuôi vừa có vẻ mừng vừa có vẻ dè dặt. Nó vẫn còn nhớ nhưng hình như nó không quen với người đàn bà sang trọng trước mặt nó. Người đàn bà khẽ nâng cái cánh cửa liếp mỏng chui vào trong lều. Chị sững sờ đứng chết lặng trước những tấm giấy khen và những bức ảnh, mặc cho nước mắt lặng lẽ tuôn rơi trên má…
Người đàn bà mở xắc lấy ra một gói vuông vắn bọc trong khăn mùi xoa đặt vào trong cái hộp nhỏ bằng tôn kê dưới chân vò mắm tép, nơi xưa kia ông Cẩm vẫn để cất những đồng tiền kiếm được từ bán mớ cá, mớ cua. Người đàn bà bước ra cửa, nhìn lại căn lều lần cuối rồi vội vã đi về chỗ chiếc xe con đang đợi. Vừa đi chị vừa rút những chiếc khăn giấy ra khẽ khẽ chấm nơi mi mắt. Những chiếc khăn giấy sực nức mùi nước hoa làm đầu chị thêm vướng vất như bị say xe. Con chó chạy theo người đàn bà một đoạn ngắn rồi dừng lại, nó không sủa mà ngẩng đầu tru lên một hồi dài. Người đàn bà quay lại nhìn căn lều và con chó một lần nữa rồi lại vội vã bước.
Khi cha con ông Cẩm về đến nơi, cánh cửa của căn lều vẫn đóng im như trước. Con chó chồm lên quấn lấy chân hai cha con. Thằng Cò cúi xuống ôm lấy cổ con chó nhưng nó bỏ ra ngay và chạy vào trong lều. Nó kêu lên: “Có ai đã vào nhà ta bố ạ! Mùi thơm như của cô giáo con ấy!”. Ông Lẩm Cẩm vội quay lại nhìn lên phía đường quốc lộ. Lối rẽ xuống con đê có một chiếc xe con đã đậu ở đấy tự lúc nào. Không hiểu sao ông Lẩm Cẩm lại rướn người giơ tay vẫy. Chiếc xe nhẹ nhàng vút đi nhanh như tên bắn chỉ để lại đằng sau một lớp bụi mờ. Ông Cẩm cười buồn nghĩ hay mình lẩm cẩm thật rồi?
Ngày lại ngày, ông Cẩm vẫn lui cui với chiếc vó bè. Sông Vạc vẫn nuôi cha con ông bằng sự hào phóng của sông nước. Đêm đêm, người ta vẫn nghe ông hát:
Kẽo cà kẽo kẹt
Những mắt lưới
Như mắt người thương mến
Nhìn ta long lanh, long lanh
Ngóng đợi ta bao năm, bao năm...
Vẫn dạ khúc cũ, tiếng hát của ông vẫn trầm ấm, vang xa, vượt qua cánh đồng mênh mang, theo làn nước sông Vạc toả về muôn cánh đồng khác, xa hơn, xa hơn, đến những mái nhà ấm áp đầy ắp tiếng cười trong muôn ngàn ngôi làng Việt. Bên cạnh ông, con chó già nằm gác mõm lên hai chân trước. Không biết nó có lắng nghe ông hát hay đã ngủ rồi…
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro