tap truyen ngan-lenghiabk05
Người chứ có phải gà đâu! – truyện ngắn của MỘC MIÊN
Nhìn miếng thịt nạc vừa mua về đã bị cắt xén mất hơn một nửa, nó ấm ức. Cổ họng nghẹn đắng, nước mắt như chực trào ra rồi lại lặn vào trong. Đúng là hạnh phúc thì giống nhau nhưng niềm đau thì mỗi người mỗi cảnh. Ai khổ vì chồng cờ bạc, rượu chè, hay gái gú. Nó thấy nó khốn khổ vì gà.
Ngoài sân, chú gà chọi đang đường hoàng, khoan thai mổ những viên thịt nạc đã được bằm thật kỹ trên một cái đĩa thủy tinh trước cái nhìn chăm chú và hết mực âu yếm của lão chồng nó.(Lão hơn nó đúng mười tuổi nên sau lưng chồng, nó thường gọi là lão ta). Với lão, nuôi gà chọi như một niềm đam mê mãnh liệt, niềm đam mê ấy đã ăn sâu vào tận xương tủy của lão. Lão biết cách chăm sóc, huấn luyện và đánh giá một con gà chọi như một chuyên gia thứ thiệt. À, không phải như mà lão đã là chuyên gia thứ thiệt.
Nó thầm nghĩ, với chừng ấy kiến thức về gà chọi, nếu lão chồng nó đem viết thành sách về cách nuôi và thuần dưỡng một chú gà nòi thì chắc chắn sẽ được xuất bản và biết đâu sẽ trở thành một cuốn sách bán chạy trên thị trường. Nó mường tượng, lúc đó có khi lão không phải chỉ được người ta biết đến như một tay chơi gà sành sỏi như bây giờ mà tiếng tăm của lão sẽ nổi như cồn nhờ vốn kiến thức rất cần thiết đó, vì theo lão, giới chơi gà chọi trên cái đất nước này đâu có ít. Mà thử hỏi có mấy ai có được kinh nghiệm như lão. Chỉ hiềm một nỗi, trời ban cho ta cái tài này thì lại lấy đi mất cái khả năng kia, cứ như là sợ người ta trở nên xuất sắc quá đỗi ấy.
Trời cho lão niềm đam mê và sự sành sỏi về gà chọi, cho lão huyên thuyên mãi mớ bòng bong hỗn độn về cái con vật hai chân mà theo nó là chỉ để làm mâm cỗ cúng tổ tiên, để làm bữa trưa thịnh soạn, làm cho cậu con trai của nó cười toe toét vì sung sướng khi được nhận cái đùi gà. Nhưng lại không cho lão cái khả năng biến vốn hiểu biết đó thành sách để kiếm tiền.
Nó thấy khó chịu và tự oán trách mình, thấy mình nhỏ nhen vì đang ghen với một con gà. Vì từ khi có cái giống gà cao cao, da thịt đỏ au, ít lông này về nhà thì trong mắt lão chồng, mẹ con nó bị tụt xuống hàng thứ hai, xếp sau con gà. Bảo sao nó không ấm ức. Thay vì ngủ nướng với cậu con trai, để nó trở dậy lo bữa sáng như mọi khi. Lão dậy từ sớm, ngày nào cũng vậy. Lão ra mở chiếc chuồng đã được xây khóa cẩn thận, tra chìa vào ổ khóa, ôm con gà ra, mát xa, nắn bóp chân cho nó. Rồi cùng nó chạy thể dục quanh vườn. Trở về lão lại ngồi nhìn gà say đắm. Cái cách cho gà ăn của lão còn kỹ hơn chăm cậu quý tử của lão. Thực đơn của gà ngon gấp mấy lần bữa cơm đạm bạc của gia đình. Vì theo lão là cứ để nó ăn để nó còn chiến đấu, đem lại tiền bạc và vinh quang cho lão. Ngày có hai mươi tư tiếng đồng hồ lão dành trọn cho gà. Ăn nói chuyện gà, ngủ nói chuyện gà, dường như mỗi lần lão mở miệng là từ gà tự nhiên bay ra trước.
Trong khi mọi người lục tục ngoài đồng ruộng thì lão cũng say sưa với một mớ công việc nào là nấu nước trà xanh để tắm cho gà, cho gà tắm nắng, nào là giã gừng với rượu đế để mát xa cho gà, tỉa lông gà, sưu tập lông gà. Kỹ tính hơn, lão biết được từng cánh của con gà có bao nhiêu lông. Lão theo dõi, săm soi xem có rụng mất chiếc lông nào làm giảm độ oai của chiến binh gà thì lão lại tỉ mẩn, chọn từng cái một làm sao cho hợp màu, vừa vặn với gà rồi đem nối vào. Rõ là nghề chơi cũng lắm công phu. Xong đâu đấy, lão lại ngồi ngắm nghía, miệng lẩm nhẩm. Chắc là lão đang nhẩm tính, với phong độ kia thì chàng chiến binh của lão cũng đáng vài chai chứ chẳng chơi. Lão lạy trời trận đấu sắp tới chiến thắng về với thầy trò lão. Nó thấy lão bận túi bụi với những trận quyết đấu. Có đêm, khuya lơ khuya lắc, lão bật dậy, mặc áo cho gà, nổ máy, chạy khỏi nhà sau một hồi chuông điện thoại reo.
Vì gà, lão quên trời quên đất, quên luôn rằng mình còn là trụ cột của gia đình này. Từng ấy công việc nhà nông dồn lên đôi vai gầy của nó. Rồi tiền bán mía, bán mì lần lượt ra đi theo lão, chỉ ra đi mà chẳng thấy về cùng lão. Hạnh phúc ngày xưa của nó hóa chênh vênh chỉ vì con gà. Có hôm nó ốm, gà cũng ốm. Lão còn mải đi mua thuốc cho gà, hái lá nấu nước xông cho gà mà quên mua thuốc cho nó. Tủi thân, nó khóc. Nhìn vợ ôm gối sụt sùi trên gường, lão quát: “Có chân thì tự đi mua lấy, người chứ có phải gà đâu!”.
Á HẬU - CƠM GÀ
Bình vẫn còn nhớ như in buổi chiều đông năm ấy, khi đang sao mẻ chè cuối sàng, thì mẹ đột nhiên nói với anh như thể bà sắp phải đi xa: “Làng mình thờ cụ Nghè Sổ làm Thành Hoàng, còn cụ Chỉ Hiệt của họ Vũ ta mới là ông tổ nghề chè Tân Cương. Con phải siêng năng học hành để sau này làm sáng danh nghề tổ”. Ít lâu sau mẹ đột ngột qua đời, bố con anh sống trong cảnh “gà trống nuôi con”, mới thấu hiểu mẹ quan trọng đối với anh đến nhường nào. Năm 25 tuổi, Bình đặt tấm bằng kỹ sư Kinh tế và tờ Quyết định công tác tại Trung tâm Nghiên cứu ngành Chè lên bàn thờ, rồi thắp 3 nén nhang chắp tay khấn: “Lạy mẹ linh thiêng, con xin phép được gác ước nguyện làm rạng danh nghề Tổ, để về giúp bố cứu công ty đồ gỗ nhà ta sắp bị phá sản!”
Chàng trai phố núi với bản lĩnh tự tin, quyết đoán lại gặp vận may, nên chỉ sau năm năm “lao tâm khổ tứ”, anh đã vực một công ty làm ăn thua lỗ trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh có lãi, cơ ngơi bề thế, khẳng định được thương hiệu trên thị trường nội địa và xuất khẩu lô hàng đầu tiên ra nước ngoài. Năm năm ấy, dầu đã vắt kiệt sức lực, nhưng người cha trước khi “gác kiếm” vẫn lặn lội sang tận chùa Quang Hiếu ở Quảng Đông, Trung Quốc thỉnh về một đôi Tỳ Hưu bằng ngọc quý yểm vào chính tâm hòn non bộ đặt trong bể cảnh, trước sân Công ty, theo đúng hướng Đông Bắc là phương “phù trợ cho người kế nghiệp” để làm chỗ dựa tinh thần cho con. Thầy phong thủy bảo: “Đôi Tỳ Hưu này ẩn vía Thiên Lộc bằng ngọc Phỉ Thúy dựng ở lầu Tài Môn, trong Tử Cấm Thành thời Minh Thái Tổ, linh vật này có hình dáng rất kỳ dị: đầu kỳ lân lại có sừng tê giác, thân gấu lại mọc cánh trên lưng, đuôi sư tử, mông bạnh, mồm rộng, ngực nở, là loài chuyên hút vàng bạc trong trời đất mà lại không có hậu môn nên chỉ nhập vào mà không xuất ra được. Vì vậy, Tỳ Hưu là thần giữ của và sinh tài lộc dồi dào cho thân chủ.’’Người cha đã lo liệu xong mọi nhẽ, thanh thản “như người nông dân cày xong thửa ruộng”, ông yên lòng trao sản nghiệp cả đời cho người con trai độc nhất của mình vừa bước sang tuổi “Tam thập như lập”. Bình thay cha điều hành một Công ty đang trên đà phát triển, nhiều đêm mất ngủ, anh tha thẩn đứng trên sân thượng, đau đáu nhìn những chớp lửa hàn rực sáng ở đôi bờ con sông Cầu thơ mộng mà mơ tưởng về một vùng chè bát ngát xanh, mong ước của mẹ, là món nợ đối với quê hương mà anh luôn canh cánh bên lòng.
Rồi Bình trở thành “Đại gia phố Núi”, anh cảm thấy mĩ mãn khi “bóc tem” con xe Mercedes-Benz-S500L màu nòng súng cực kỳ sang trọng,
lần
đầu tiên nhập khẩu vào Việt Nam, thành căn phòng năm sao của riêng anh, và cưới được cô gái trẻ, đẹp nhất tỉnh, từng đoạt ngôi á hậu về làm vợ. Có lẽ từ trước đến nay ở cái thành phố miền núi trung du này chưa từng có một đám cưới nào to và náo nhiệt bằng đám cưới của Bình. Hoa pháo đủ sắc màu bay rợp trời, cô dâu lộng lẫy trong bộ xiêm y voan trắng, vương miện á hậu lấp lánh, sánh vai cùng chú rể trên chiếc xe ô tô mui trần, trông hệt như chiếc lẵng hoa khổng lồ di động. Người hãnh diện nhất có lẽ là anh chàng điển trai lái chiếc xe hoa ấy. Cậu tên là Tuấn, cháu đích tôn của dòng họ Lã. Cụ cố nội Tuấn đã 80 tuổi, chỉ mong cháu sớm lấy vợ để có thằng cu nối dõi tông đường, nên quyết ép cậu lấy bằng được cô gái cùng làng, béo tròn trùng trục như con trâu lăn, mọi người quen gọi là cái Mập. Tuấn nản quá, nhưng không thể cưỡng lại được nên đành phải nhắm mắt cưới cho xong. Hôm rước dâu về, cụ Cố vỗ vai thằng cháu nội cười ha hả: “Vợ mông Tỳ Hưu đẻ một địu con tha hồ mà bế”.
Cưới vợ xong, chưa đầy tuần trăng thì Tuấn nằng nặc đòi lên tỉnh học lái xe cho bằng được, Mập đành phải đồng ý, rồi dúi vào tay chồng cái nhẫn hai chỉ vàng vốn riêng của cô, để chồng dắt lưng phòng thân. Ngót nửa năm xa vợ, Tuấn đã có tấm bằng trong tay. Hôm công ty Quang Bình tổ chức tuyển lái xe, đã phỏng vấn mấy chục người mà chưa chọn được ai, đến lượt Tuấn, ông thầy tướng ghé vào tai giám đốc nói nhỏ: “cậu này rất hợp tuổi chủ!”, Bình hiểu ý nhận ngay Tuấn làm lái xe riêng cho mình. Anh quý nhất ở cái tính cẩn thận và trung thành của Tuấn, tuy mới ra trường nhưng tay lái rất cứng, nên mới quyết định giao con xe Mẹc hàng tỷ đồng này để Tuấn “quản”. Có điều Bình băn khoăn nghĩ mãi không ra: Là thanh niên sức dài vai rộng, lừng lững như Tuấn lại dửng dưng với mọi thứ, chỉ nghiện mỗi một món thịt gà luộc, kể cũng lạ?
Ròng rã suốt ba năm đánh vật với cô vợ á hậu, Bình mới ngộ ra một điều rằng: lấy vợ á hậu chỉ “lãi” được mỗi một khâu “oai” thôi, còn thì lỗ “tuốt”. Ôi, tính khí thất thường, “sớm nắng, chiều mưa” của nàng đã làm anh nhiều phen bạt vía kinh hoàng, nhưng vẫn không gớm ghiếc bằng cái tật nói ngọng, cứ “lờ” đánh thành “nờ”, sửa thế nào cũng không được, lắm lúc nghe vợ tía lia trước mọi người, là Bình không biết tìm đâu ra lỗ nẻ mà chui. Lại tiếp đến cái đận á hậu ở cữ, chàng trai phố núi khỏe mạnh, chắc nịch như gốc tre đực là vậy, mà chưa đầy một tháng chăm bẵm vợ, con đã gầy rộc đi, trông chẳng khác gì La Hán tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn. Đúng là “trai nuôi vợ đẻ gầy mòn”, cổ nhân nói đố có sai!
Giữa trưa hè nóng nực, Bình về đến Công ty thì mất điện, người mệt rũ, đặt chiếc cặp da lên đi-văng, rồi mở toang cánh cửa sổ cho thoáng căn phòng, anh sà vào đống giấy tờ trên bàn, tay vừa cầm tập hợp đồng định xem, thì mí mắt cứ sụp xuống, rồi phủ phục xuống bàn thiếp đi lúc nào không biết. Bỗng có tiếng reo ồ lên như đá bóng vào lưới, đèn trong phòng bừng sáng làm Bình mở choàng mắt, bất ngờ gặp nụ cười dịu ngọt của Út Huệ, tay chị đang cầm chiếc quạt lụa phe phẩy cho anh…
Út Huệ là người được cha Bình tin cẩn, chị như người “vú em” của công ty, đã ngót 40 tuổi mà vẫn còn là con gái. Chị không đẹp, tính tình lại cù mỉ cù mì như hạt thóc, củ khoai nhưng có sức lan tỏa đến kỳ lạ, Bình bỗng tìm thấy ở nơi chị tấm lòng bao dung, đức hy sinh tận tụy, thiên chức của người làm mẹ, làm vợ mà anh khao khát, kiếm tìm bấy lâu. Như “buồn ngủ lại gặp chiếu manh”, rồi những buổi trưa sau đó, anh ít về nhà, nơi đây có cơm ngon, canh ngọt, áo quần được giặt ủi tinh tươm. Bình thích nhất cách giặt áo sơ mi, cứ nước cuối là bao giờ chị cũng vò bằng xà bông thơm, bởi vậy mỗi khi mặc áo, thắt ca-vat, là anh cảm nhận được mùi hương da thịt của Út Huệ...
Chuyện đến tai Á hậu, máu gái đẻ lồng lên, nàng định cho đứa to gan dám cướp chồng mình một trận tơi tả. Nhưng mẹ nàng ngăn lại: “không lẽ cỡ mày lại đi đánh ghen với nhà chị đầu bếp sao?”. Đang đêm, nàng gào thét trong điện thoại bằng đủ lời lẽ thô tục, như thể hắt thau nước bẩn vào mặt chồng...
Sáng sớm hôm sau, Bình lệnh cho Tuấn đem ngay một sam-so-nai đầy tiền, cùng cuốn sổ đỏ ngôi nhà mặt phố theo đúng yêu cầu của vợ. Tuấn chưa kịp đặt cặp tiền xuống bàn, thì Á hậu từ phòng trong bước ra, mắt ráo hoảnh, chẳng nói nửa lời, cô giằng thốc lấy cặp tiền rồi ôm con tức tốc về thẳng nhà ngoại. Từ hôm ấy, mặt Tuấn cứ nặng như chì, miệng thì lẩm bẩm: “Vợ đẹp như tiên thì không thích, lại đi mê loại gái đang ế xưng ế xỉa, thật vô lý hết chỗ nói”.
*
Thời gian sau đó, mọi việc dường như đã lắng xuống. Nhân dịp về Hà Nội dự hội nghị “Doanh nhân tiêu biểu toàn quốc”, giám đốc Bình gặp lại ông Vua địa ốc Sài Gòn Trịnh Long, là bạn học cùng Trường Kinh doanh Ha-vớt với anh hơn hai năm ở Mỹ. Long hồ hởi kể với Bình về khám phá mới trong chuyến đi khảo sát thị trường tỉnh Hải Nam. Được đến huyện Văn Xương, tận mắt thấy những cây đa kỳ lạ, mà dưới gốc cổ thụ có hàng trăm con gà mái tơ đang mải mê tranh nhau ăn những quả rụng chín nẫu. Gà Văn Xương có dáng rất ngộ nghĩnh, ngực nở, mông bạnh gọi là gà “tam đoản” vì nó có 3 cái “ngắn”: cổ ngắn, cánh ngắn và chân ngắn. Chúng nghiện ăn quả đa, ăn no rồi thì chạy nhảy, bới đất cho chóng đói để ăn tiếp, chúng ăn suốt ngày, vì vậy thịt chắc và thơm ngon nổi tiếng Đông Nam Á. Thêm nữa, Văn Xương còn là quê hương của ba chị em Tống Khánh Linh - đại mỹ nhân Trung Quốc càng làm cho miền đất trù phú này thêm danh tiếng.
Ngay chiều hôm ấy, họ rủ nhau đi thưởng thức món cơm Gà Văn Xương mới khai trương ở Hà Nội. Nhìn mâm cơm sắp cho ba người ăn đã thấy vô cùng hấp dẫn: Chiếc đĩa sứ Giang Tây trắng tinh, hình bầu dục bày nguyên một con gà hấp cốt dừa, chặt miếng bằng dao phay theo lối “trảm kê”, được trang trí thêm mấy miếng dưa leo xếp rẻ quạt, ớt lồng đèn nguyên quả và lá ngò gai thái chỉ bày khéo léo, trông thật bắt mắt, kế bên là một âu canh gà cách thủy với nấm bào ngư, nấm đông cô và cà rốt cắt khẩu, nước canh thanh ngọt, tỏa hương thơm phức. Nổi bật giữa mâm là bát nước chấm màu nâu sẫm, được chế biến từ dầu hào, tỏi, gừng, xì dầu làm dậy lên vị ngọt và thơm độc đáo. Liễn cơm bốc khói, nóng rốp, hạt gạo ngậm màu vàng nhạt, được nấu từ nước luộc gà nên tơi, mềm... Tuấn sướng rên, không thể kìm lòng được phải thốt lên: “món Gà Văn Xương này, có mà ăn cả đời cũng không chán!”. Và từ hôm ấy, thầy trò Bình ngày nào cũng “diễn” đều hai bữa cơm gà đặc sản này.
Kết thúc hội nghị, giám đốc Bình vội về để kịp giải quyết lô hàng đi Châu Âu. Anh bảo Tuấn xuống ghế sau, ấy là thói quen muốn tự mình lái xe mỗi khi anh phấn khích trong lòng. Bình cài chéo dây an toàn trước ngực rồi nổ máy.
Chiếc Mercedes-Benztừ từ rời khỏi Trung tâm Hội nghị, nhập vào dòng người đông như mắc cửi, xuôi ngược trong chiều Thu Hà Nộị.Từ ngày phục vụ sếp, Tuấn chưa một lần dám ngồi vào chiếc ghế sang trọng dành riêng cho chủ, nhưng hôm nay được sếp cho phá lệ, thì trong lòng cậu hả hê vô cùng. Tuấn chưa kịp hưởng cái cảm giác mê li ấy thì xe bỗng dừng lại, đường phố đã sáng ánh đèn. Tấm biển hiệu “Cơm gà Văn Xương” như ập vào mắt, cậu hốt hoảng kêu lên: “Ô! sao lại dừng xe ở đây hả sếp?”. Bình tắt máy, không quay lại để dấu nụ cười suýt bật ra, rồi thản nhiên bảo: “Vào ăn thêm bữa gà Văn Xương nữa kẻo về Thái lại thèm”. Chưa nghe hết câu, Tuấn quặn người như “đỉa phải vôi”, mếu máo nói: “Gớm, ba ngày liền tù tì ăn món Gà Văn Xương mà sếp vẫn chưa thấy chán sao? Còn em thì đã ngán đến tận mang tai rồi. Bây giờ có là gà văn da, văn thịt gì thì cũng chịu, để bụng về dọc đường ăn cơm bụi cho nó lành sếp ạ!”
Giám đốc Bình ngước mắt nhìn tấm biển Gà Văn Xương như để chào tạm biệt, rồi giao lại chìa khóa xe cho Tuấn. Anh
thả lưng vào ghế đệm êm ru, thoải mái như nằm trên sô-pha trong phòng khách. Bình thong thả đưa ngón tay lên tháo nhẹ “củ ấu” ca-vạt khỏi cổ sơ-mi, rồi thủng thẳng nói với Tuấn: “Mấy ngày nay, nếu tính kỹ chú mày mới ăn có dăm bữa Gà Văn Xương mà đã ngán đến tận mang tai? Còn anh đây, đã xơi món Á hậu ròng rã ba năm trời, thử hỏi còn ngán đến tận đẩu đâu nữa hả giời?”. Tuấn ngớ ra, bỗng vỡ òa câu nói đắng chằng của sếp, cậu vỗ tay đánh rụp vào vô-lăng, rồi phá lên cười mà không hiểu là mình vui hay buồn.
Màn đêm buông xuống, chiếc xe Mercedes-Benz sang trọng màu nòng súng như một cái công-ten-nơ bằng kim loại quý, đóng gói tâm tư của hai người đàn ông đem trả về nơi mà ở đó Á hậu và cơm Gà từng là khát khao đầy vơi thời trai trẻ của họ. Khối sắt vô hồn ấy cứ loang loáng lao qua cây cầu thế kỷ, rồi khuất dần về hướng thành phố miền trung du./.
Bầy Gà Nòi Của Mẹ
Khuôn mặt của Ba tôi bỗng nhiên thật nghiêm trọng. Ông vuốt đầu, vuốt lông, miệng nói thì thầm với con gà đá có màu lông đen tuyền mà ông gọi là con Ô Thần Kê:
"Gà ô chân trắng mỏ ngà - Đá đâu thắng đấy gọi là Thần kê.". Em trai cuả tôi nói là Ba đang khích tướng con gà Ô Thần Kê trước khi nó ra trận mạc. Không biết con gà có nghe được những gì Ba nói không nhưng nó chớp mắt tỏ vẻ xúc động, nó lắc mình xù lông, chớp cánh liền mấy cái, chậm chạp bước đi dáng đi thật oai nghiêm, các ngón chân gà chụm lại quăng về phía trước như hốt cát vãi ra. Mặt gà lắc lia liạ và cất tiếng gáy thật hùng dũng. Ba tôi sung sướng ra mặt, thấy con gà chiến số một của mình ngon lành, hiên ngang gáy vang.
"Nhất thời hốt cát vãi ra. Nhì thời lắc mặt, thứ ba né lồng"
"Trăm trận trăm thắng, con Thần Kê thắng liên tục 7 độ (trận đấu) rồi đó".Ba tôi nói nho nhỏ câu ngạn ngữ về gà với giọng đầy tự tin, hãnh diện, và giải thích cho tôi nghe về cái biệt tài của chú gà này. Mọi người lại bàn tán, trận đấu chưa bắt đầu mà con Thần Kê đã gáy vang rần làm cho nhiều con gà khác cũng gáy tiếp theo.
Con Thần Kê gáy làm cả trường gà tăng thêm không khí sôi động. Những ngưòi theo phe bên phía Thần Kê của Ba tôi ra giá chấp ngay mặc dầu trận đấu gà chưa bắt đầu. Gà còn nhốt trong chuồng người ta đã quăng chấp mười ăn bảy. Mười đồng ăn chỉ ăn có 7 đồng. Nhiều người ở xa đến không biết lý lịch con Thần Kê nên ham rẻ bắt liền vì họ cũng nhận biết con gà của ông Huyện Trưởng Phưòng 2 ông Du có cái dáng đứng oai phong, lông màu xám pha lẫn với màu đen, chân vàng nghệ, mỏ vàng. Trông sắc diện, lông cánh, chân, vẩy, cựa, đầu cổ chỗ nào người ta cũng thấy ngon lành, vừa ý. Những cái móc nghéo giao ước, quăng bắt thật rộn rịp. Ba tôi không cá độ. Ông chỉ cho mượn gà đá và thâu tiền "Chạng", tiền mà những người đá gà phải trả công cho chủ gà.Một thanh niên trẻ làm trọng tài ra dấu trận đá bắt đầu. Hai ngưòi "Làm Nước" bồng gà ngồi ở hai góc đối diện. Cả hai đều thủ thế. Một tay chận ngực con gà, một tay nắm ngay chỗ đuôi gà, thủ thế. Trọng tài cấm không ai được đẩy gà của mình tấn công trước gà đối phương vì đó là lợi thế, ăn gian những người đá gà. Cái đẩy mạnh đó rất nguy hiểm, nhiều khi con gà đối phương chưa buông ra, chưa sẵn sàng con gà được đẩy tới đá liền. Vì vậy, cho công bình, hai bên giữ chặt gà lại chỉ để cho chúng nhìn nhau chuẩn bị xáp trận. Cả hai buông tay ra nhẹ nhàng, không ai được đẩy con gà mình tới tấn công trước. Khi hai bên buông gà ra, lẹ làng bước ra khỏi trường đá ngay. Tiếng nói qua nói lại rộn rã, thật ồn ào cuộc đá hàng xáo và quăng bắt vẫn tiếp tục.
Chuông đồng hồ reo vang báo hiệu hết hiệp một, hai con gà như chưa nóng máy chỉ lừa thế, tránh né nhau nên không có con nào bị thương tích gì cả. Trận đấu hơi chìm xuống, nhưng mới vào hiệp hai, con Thần Kê của Ba tôi dũng mãnh như chàng Triệu Tử Long trong trận Đương Dương Trường Bản tấn công liên tục. Nó nhảy thật cao nã hai ba phát tới tấp những cú đá "Khấu Mé" đánh thẳng vào mặt đối thủ bằng cả hai chân. Con gà xám đen cũng rất nhanh né tránh nhưng không còn kịp nữa, cái thế liên hoàn cước độc đáo của con Thần Kê đã là gãy cỗ con gà xám đen. Đầu của gà xám nghẹo sang một bên và ngóc lên không đượcc nữa trong khi đó con thần kê cứ tiếp tục nã liên tục nhựng cú đá thật tàn bạo. Cả trường gà náo loạn với những tiếng la hét. Trận đấu kết thúc chỉ với 2 hiệp (hồ) khoảng 30 phút và con thần kê của Ba tôi ghi thêm thành tích chiến thắng lần thứ 8. Trong tiếng cưòi vui sướng, ông cụ hơn 80 tuổi của tôi bồng chú gà màu đen truyền trên tay vẫy tay chào mọi ngưòi và ra dấu hiệu chiến thắng khi rời khỏi trường gà.Tôi rất thích gà nòi nhưng tôi rất ít khi đến trường gà để coi chúng đá nhau làm trò vui giải trí cho loài người hay hơn thua nhau như những canh bạc. Đây là lần đầu tiên tôi xem hết một trận đá gà. Thật ra, mỗi lần về Việt Nam thăm gia đình thường thì những ngày đầu tiên tôi lúc nào cũng rất khổ sở vì thiếu ngũ. Lý do đơn giản vì giờ giấc khác biệt giữa Mỹ và Việt Nam khác nhau nên thông thường tôi rất khó ngũ, cả đêm trằn trọc đến 4 hay 5 giờ mới thiêm thiếp đuợc là thường. Vừa nhắm mắt mơ màng thì đám gà đá của Ba tôi đã gáy vang đánh thức tôi dậy. Không chỉ có Ba tôi là nuôi gà đá, tất cả mấy đứa em trai tôi đứa nào cũng có ít nhất là chục con gà. Bắt đầu từ 5 giờ sáng bản đồng ca của gà cùng với các tiếng rao hàng của những ngưòi bàn hàng dạo làm tôi đìên đầu. Cả đêm không tài nào chợt mắt, cứ như vậy đến cả tuần sau thì mới quen dần.
Không ai biết Ba tôi chơi gà đá từ lúc nào, tuy nhiên theo các em tôi có lẽ từ dạo tôi rời quê hương năm 1978. Năm đó, thời kỳ mà ngưòi ta gọi là thời kỳ "bao cấp", giai đọan cả nươ'c không đủ lương thực vì chính phủ quản lý tất cả các nguồn thức ăn dự trử và chỉ phân phối nhỏ giọt cho dân. Gạo phải ăn độn với hạc bo bo và khoai lang. Tôi còn nhớ năm đó, tôi ra trường và về dạy học tại trường Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt với mức lương 85 đồng một tháng cùng với phụ cấp nhu yếu phẩm gồm có gạo bơ bo và đường cùng với bột ngọt. Mấy thứ linh tinh này bán ra thì chỉ đủ để ăn sáng.Để có thêm lương thực, mẹ tôi vá các em trồng thêm rau sau vườn và nuôi thêm vài chú heo, cả chục con thỏ và một bầy gà.
Một ngày nọ, Bác Hương, một người bạn của Ba tôi đến thăm nhà, thấy vườn rộng, điều kiện tốt, bèn bàn với Mẹ là sao không nuôi gà nòi (gà đá). Vì bác là một tay chơi gà đá quanh năm nên đã thuyết phục Ba tôi nuôi gà đá một cách dễ dàng. Và bác hứa sẽ mang cho một cặp “gà giống” tốt, với điều kiện là sau này bác xin một con gà con. Bác còn nói nếu gà đá nuôi kỷ, giống tốt thì bán được nhiều tiền, gấp mấy lần gà thường. Ba tôi nghe bùi tai, ngày hôm sau chặt tre về đan mấy cái lồng lớn để chuẩn bị cho việc nuôi gà đá. Vài tuần sau, bác Hương mang đến một cặp gà đá giống, một con trống, một con mái, lông con nào cũng đen mượt. Gà tơ nhưng trông tốt tướng lắm. Bác còn nói là gà lấy giống ở Phú Phong Bình Định, nơi có giống gà đá khá nổi tiếng. Vài tháng sau, gà lớn, Ba tôi làm một cái lồng khác thật lớn, bao cả một khu đất rộng, chỉ dành cho hai con gà nòi này thôi. Dần dà gà đẻ trứng ấp con, Mẹ tôi có một bầy gà nòi nhỏ thật dễ thương. Chúng lớn như thổi lúc bấy giờ Ba mới thả cho chúng tha hồ chạy nhảy khắp vườn. Tuy là gà đá, có ngón có đòn; nhưng vì cùng một mẹ, chúng chẳng bao giờ đá nhau cả.Mùa Xuân 1978, trong nỗi vui mừng vì đứa con gái đầu lòng vừa mới chào đời, tôi lại phải ngậm ngùi tiển Ba Mẹ và các em rời thành phố Đà Lạt và về vùng kinh tế mới Tà Hin. Khu rừng sâu nước độc cách Đà Lạt hơn 100 cây số. Chính phủ ra điều kiện cho gia đình tôi là phải quyết định đi kinh tế mới hay các em trai tôi phải gia nhập bộ đội và tham chiến tại Miên (Cumpuchia). Cả đời không biết làm ruộng nhưng thương các con Ba mẹ tôi đưa hết cả gia đình về vùng kinh tế mới để lại căn nhà tại Đà Lạt cho vợ chồng tôi coi giữ. Không đủ lương thực cả thành phố Đà Lạt lúc đó rơi vào tình trạng đói rét. Con gái đầu lòng của tôi thiếu sữa và thiếu dinh dưõng nên con bé ốm dơ xương. Những lần Mẹ về lại Đà Lạt, Mẹ thường bắt những con gà đá còn non trong bầy gà mà mẹ rất yêu thích đem hầm lấy nước soup cho cháu uống để có thêm dinh dưỡng. Lòng tôi se thắt khi nghe Mẹ cố phân trần:
"Gà con hầm lấy nước cho con bé uống sẽ rất bổ dưỡng. Mẹ nuôi nhiều gà lắm chúng cục tát đẻ hàng ngày. Tuần sau mẹ về sẽ đem về một tá trứng cho vợ con ăn cho có thêm sữa cho con bú".Nhìn mẹ gầy guộc da đen sạm nắng lòng tôi đau nhói. Mẹ không bao giờ nói ra nhưng tôi biết sự hy sinh tột cùng của Mẹ trong giai đoạn khốn khổ này.
Tôi yêu khu vườn của Mẹ từ dạo đó. Cứ mỗi lần về quê vợ tôi ở Tam Quan, Bình Định là tôi cố mang về vài con gà nòi thả vào vưòn của Mẹ. Tôi mua gà có khi ở vưòn có khi ở chợ, tôi không biết chọn gà theo tướng hay vẫy vi gà như trong sách vở mà chỉ chọn gà có giống to con. Tôi quan niệm gà càng to thi gà con càng lớn. Cân nặng dẫy có bán thịt cũng có lợi. Có những buổi chiều tôi say mê ngắm nhìn đàn gà của Mẹ. Ngoài các loại gà nòi vạm vỡ, mẹ còn có các loại gà mái dễ thương có cái đuôi vòng cung như cái mống trời, bộ lông mã mướt rượt như vừa mới ra khỏi mỹ viện, nét mặt hiền từ và trong sáng như trăng rằm. Ngoài bộ lông mã sang qúy, gà còn có tiếng gáy te te gợi nên cảm xúc hoà lẫn với tiếng sáo chiều quê, thanh tao và êm đềm, hoà cùng tiếng cành tre đong đưa trong gió, tiếng võng ù ơ của mẹ ru con. Tiếng gà gáy như một nét nhạc trong một đại hoà âm trầm bỗng và du dương nghe hoài không thấy chán.Tháng 8 năm 1978, con gái của tôi lúc đó vừa được 6 tháng thì bộ đội Trung Quốc ào ạt tràn qua biên giới Việt Nam với lời tuyên bố dạy cho Việt Nam một bài học. Đà Lạt đã bị nạn đói càng đói hơn. Những ngưòi bạn cùng khoá sư phạm của tôi thi nhau vượt biển ra nưóc ngoài cùng lúc với hàng triệu ngưòi vượt biển Đông làm chấn động cả thế giới thời đó. Hằng ngày sau giờ dạy học, vợ chồng tôi ôm con mà nước mắt cứ lưng tròng. Thiếu dinh đưỡng thêm vào bịnh còi xương con gái tôi gầy ốm trông rất thảm hại. Không còn sự chọn lựa nào hết, tôi quyết định rời bỏ quê hương, để lại Ba Mẹ già và xuôi về miền Trung tìm đường vượt biển ra nước ngoài dầu biết rằng dự tính này rất gian khổ và hiểm nguy đang chờ đón chúng tôi trước mặt.
Bẵng đi một thời gian, hơn nửa năm bận rộn cho việc tổ chức vượt biển, tôi không có dịp gần gũi với với những đàn gà nhà Mẹ tại vùng kinh tế mới Tà Hin. Gìò cuối cùng về quê để tạm biệt Mẹ lòng tôi cứ quặn thắt nhói đau. Ðàn gà nhà Mẹ đông hơn, gà nòi của Mẹ bây giờ khá nổi tiếng. Nhìn những “cô” gà mái dẫn con đi ăn, nhìn những quả trứng trắng ngà xinh xắn nằm gọn trong những chiếc ổ rơm ấm áp, nhìn những lần Ba cho gà “xổ” (đá thử) với gà của những người làng bên... Tôi cảm thấy vui vui mặc dầu biết rằng mình sắp xa quê mẹ, sắp xa tất cả những ngưòi thân trong gia dình và không biết định mệnh sẽ đưa đầy mình về đâu.Hôm đó, về vùng kinh tế mới Tà Hin từ gĩa Ba Mẹ và các em, tôi cùng mẹ đứng trước sân nhìn những chú gà chuẩn bị vào chuồng, dường như không muốn làm tôi yếu lòng, Mẹ chỉ và nói: “ đàn gà này được hai tháng, gần lẻ mẹ, đàn gà kia có con mái tốt, sẽ giữ làm giống, đàn nọ có con cồ tốt sẽ giữ lại, không bán...”, giây phút này tôi biết Mẹ tôi đang cố nuốt những giọt lệ tiển đưa ngược vào tim của Mẹ. Tôi tê tái ngậm ngùi rồi tự nhũ thầm: "Mẹ ơi, Mẹ đâu biết rằng con cũng sẽ bắt đầu “lẻ mẹ” từ đây... Biết ngày nào con mới về gặp lại Mẹ.." Mắt tôi đỏ cay và nước mắt tuôn trào khi tôi nói cho Mẹ biết ý định đi sắp đi xa của mình. Mẹ lặng thinh nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn, rồi Mẹ nhìn quanh vườn và nói, những lời nói không liên hệ nhiều đến lời từ gĩa của tôi: “Con biết không? Nhà này vườn rộng, cây cối um tùm ...", rồi mẹ nói lời động viên cho sự ra đi của gia đình tôi: "Con đi rồi nhớ viết thư cho Mẹ. Dầu xa con, Mẹ cứ tưởng tượng con có đời sống bình an và hạnh phúc là Mẹ vui rồi.. Con cứ lo cho gia đình con. Mẹ vẫn còn các em con bên mẹ."
Hôm đó, Ba tôi không nói một lời, ông lầm lì ngồi trước bàn thờ ông Nội kêu tôi vái lạy Nội để xin được phù hộ, và vì phải giữ bí mật chuyện quan trọng của tôi sáng hôm đó tôi rời Tà Hin và hơn một tuần sau thì cả gia đình tôi mới biết đuợc tin tôi đã rời khỏi Việt Nam.Qua Hồng Kông gần một năm sau tôi mới có điều kiện mua quà gởi về Mẹ. Ôi những món quà đầu tiên với số tiền làm được từ trại tị nạn gởi về cho Mẹ vừa cao qúy vừa chua sót vô cùng. Tôi đì sắm từng món quà gởi về gia đình mà tâm trạng như bản nhạc "Một Chút Quà Cho Quê Hương" của nhạc sĩ Việt Dzũng lúc đó:
Thầy Thế đi chợ bán trứng
Ai ơi chớ lấy thầy đồ
Anh còn nhớ chỗ em vẫn ngồi bán hàng không? Ở khu vực thực phẩm, bên cạnh là cô bé Thuận bán đậu phụ ấy. Anh đi cẩn thận khi qua cái cầu sắt, có chỗ mục ải rồi, khéo tụt chân xuống thì khổ!
Nâng cái làn cói đầy ắp trứng gà lên, ngoắc vào ghi đông chiếc xe đạp, còn cố quài tay ra sau đút một quyển sách dày cộm vào túi quần, thầy Thế mới quay lại nhìn vợ, gật gật đầu:- Em cứ yên tâm, đừng lo gì cho anh cả.
- Kìa, đã đi bán hàng lại còn mang cả sách đi theo để đọc ! Quyển gì thế ? Không rời ra được à ? Hay là thôi, nghỉ một buổi cũng đã sao nào.
- Chậc! Quyển sách bàn về văn học của Jean Paul Sartre anh mới mượn được ấy mà. Không sao đâu. Nhưng mà chân em hôm nay thế nào rồi ?
- Hơ lá láng không ăn thua. Nhưng giã nghệ đắp lên thì thấy êm êm, không đau nhức nữa, có lẽ chỉ trưa nay là em có thể nhúc nhắc được rồi.
- Nhúc nhắc là nhúc nhắc thế nào. Bong gân, kinh nghiệm rồi, phải án binh bất động ít ra là một tuần.
- Tuổi tác rồi, sơ ý bước hụt một cái là mang họa cho cả anh. Thật tình, để anh đi, em áy náy lắm.
Rút phựt cuốn sách ở túi quần sau, chạy vào nhà đặt lên bàn, thầy Thế quay ra, nắm ghi đông xe, quay lại nhìn vợ, mắt hấp háy ánh cười:
- Thế nào, hết áy náy chưa, đã yên trí chưa ! Ui dào, bán mất quả trứng mà lại toàn khách quen của em ! Khó đến dạåy ngữ pháp Việt Nam, anh cũng còn chẳng sợ nữa là. Thôi, nắng rồi, anh đi đây !
Chiếc xe lăn theo sức đẩy của hai cánh tay gầy.
Đường làng khập khềnh mất một quãng. Lại gặp cây cầu sắt cũ và hai cái làn trứng ngoắc hai bên xe kềnh càng quá nên tay lái có lúc bị kẹt cứng rất khó điều khiển. Nhưng rồi cũng quen, nhất là khi xe đã lăn trên khúc đường nhựa đầu làng.
Tuy vậy, từ đây, thầy Thế có cảm giác ngất ngư như là đang ở trong một thực tại chưa từng được biết đến. Chưa từng biết đến cả đám sương mù dày đặc phủ kín những khu vườn quả, tiếng bánh xe lao vun vút qua hai bên như những sinh vật đang ra sức bày tỏ ý chí của mình bằng hành động. Chưa từng biết đến, rồi sẽ có lúc mình bước vào cuộc mưu sinh, nghĩa là tạo ra một bản chất mới cho mình, bằng việc đi chợ bán hàng thay vợ như lúc này.
Hừ, sáu mươi hai tuổi, rời bục giảng đã hai năm trời, là người lao động tự do rồi, thế mà mới nhớm chân vào cuộc kiếm sống đã thấy ngượng ngập, lạ lẫm quá ! Nhâm, vợ thầy, giản dị hơn. Mới buông viên phấn, vở soạn bài một tuần, cô đã thon thón hai đầu đòn gánh hai sảo giá đậu ra chợ xã, tìm chỗ ngồi, hớn hở chào mời: "Em mua giá cho cô đi. Giá cô ngâm nước sạch đấy !”. Ấy thế ! Phụ nữa chính là bản thân cuộc sống tự nhiên vậy. Họ ở trong lòng nó, họ sống với nó. Ngơ ngác là cái anh đàn ông. Dang dang dở dở là cái anh đàn ông. Ngang ngang ngửa ngửa là cái nhà ông giáo về hưu ở thôn quê ! Ở đây trẻ con chẳng cần học thêm làm gì. Chúng đào đâu ra tiền để trả công cho thầy. Mà thầy thì ngoài công việc dạåy trẻ con học ra còn làm gì nên ? Quét cái nhà còn bẩn. Giặt quần áo xong, vợ còn phải giũ lại. Cả đời mới chỉ làm đến chức tổ phó công đoàn phụ trách thu đoàn phí mà cứ nhầm lẫn lung tung cả. "Chỉ được mỗi cái tài dạy văn, chỉ được mỗi cái đầu ngẫm nghĩ giỏi hơn người thôi, ông ơi". Cô giáo Nhâm rên, trách yêu chồng. Trách yêu thật ! Vì học trò trong lớp ngồi nghe thầy giảng mà cứ như nhập đồng vào một thế giới khác. Mê mẩn cả tâm trí, có đứa mắt gà sắp ngủ, bị hỏi còn đổ tại vì thầy dạy hay quá. Trách yêu thật ! Vì đó là cái đầu có sức nghĩ sức cảm sâu xa khác thường, như nhìn hoa hồng thấy sự thủy chung, nhìn quả trứng thấy con gà sắp nở và cái lý sự con gà có trước hay quả trứng có trước?
- Chào thầy Thế ! Thầy thay cô đi chợ đấy à ?
Chiếc xe như vấp phải vật chắn. Nhìn sang ngang, thầy Thế cố giữ vẻ tự nhiên. Lời chào hình như phát ra từ một cái quán bên đường túm tụm bốn năm người đang vây quanh cái bàn cờ tướng vẽ trên nền đất. Hình như thôi, vì thấy trong đám đông chơi cờ ở quán nọ, hình như có bộ mặt xấc xược của Khởi, gã thuế vụ, tên học trò bất trị ngày xưa của thầy. Hình như thôi, vì nó giống như tâm trạng thầy phát ra và giống như một lời đồng vọng vẳng tới và ngay sau đó, nghe thấy tiếng còi xe máy thúc ở phía sau, thầy liền gật đầu nhẹ một cái để giữ phép lịch sự rồi đẩy xe đi, cảm giác như đã bước lên bục giảng, nghĩa là vào cuộc rồi.
Sương đang bốc lên từ mặt đất như một hồn thơ phiêu lãng. Bên trái là dãy hàng quà sáng nhộn nhịp đông ken thực khách. Phở, bún, bánh cuốn, mì vằn thắn, bún chả, xôi giò, bánh bao ngào ngạt mùi vị. Như một vế đối, để chứng tỏ rằng sau cái ăn là cái mặc, đối diện với dãy hàng quà là dãy quần áo mùa đông đang ra sức phô trương màu sắc và kiểu loại. Treo trên dây căng, mắc áo, chất chồng tú ụ từng đống như rau dưa, hoặc gấp nếp xếp từng hàng tăm tắp là áo quần đủ kiểu, từng măng-tô, vét khuy chéo, bu-dông, tới sơ mi áo lót, su chiêng, quần xịp của các hãng nội địa, của Mỹ, Thái, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Chợ quê mà sang quá ! Đang cữ rét, hàng nào cũng đông. Nhất là hàng thùng, hàng second - hand. Trông hơi cũ một tí nhưng chất liệu vải ngoại, kiểu dáng và màu sắc lạ mắt. Dãy hàng này vừa xuất hiện ở bên cổng chợ đã như một tứ thơ rủ rê hồn người, khiến thầy vội bóp chặt tay phanh để hãm chiếc xe trứng vì mải nhìn mấy cái áo quần nọ, suýt nữa thầy đâm phải một gánh rổ rá ở bên phải đường.
"Chỗ này đây !".
Như đã tìm được chủ đề của bài thơ, thầy Thế cho dừng xe đúng vào khoang đất trống ở đầu dãy hàng thực phẩm tươi sống. Dựng chân chống, mắm môi mắm lợi, nhưng gượng nhẹ nhấc hai chiếc làn ra khỏi ghi đông xe, đặt xuống đất, thầy thở phào. Thật khéo, vừa lúc một thiếu nữ áo len màu huyết dụ, tóc búi cao, mặt nhẹ nhõm, chạy từ trong chiếc lều lợp tôn ra, miệng kêu liên tiếp: “Để em đỡ một tay”, rồi hai tay hai làn trứng nhanh nhẹn xách vào.
- Chỗ ngồi của cô em ở đây ạ. Em tên là Thuận, học trò cũ của cô. Thầy dạy lớp trên, chắc thầy không biết em đâu. Cô đau thế nào, hả thầy ? Thầy vào trong lều này, ngồi nghỉ, để em xếp trứng ra đã.
Nhanh nhảu và khéo léo quá. Thò tay vào trong làn, nhấc ra, lần nào cũng như lần nào, năm quả trứng xinh một ổ gọn trong bàn tay xòe của Thuận lại được đặt êm ru xuống lòng một cái sảo tre lớn. Lúng túng, thầy Thế chỉ còn biết đứng nhìn. Rồi sau một lần Thuận giụåc nữa, thầy đành bước vào trong lều.
- Trứng bán thế nào đây ?
Hàng vừa bày xong đã có khách. Nhìn ra, thầy Thế thấy khách là một thiếu phụ, váy dài xẻ cạnh, áo măng-tô tím, kính râm to, vai tòng teng ví đầm, điệu bộ đài các. "Câu khai đề thế là đã có rồi đây", thầy Thế nghĩ vui vẻ, nhưng chưa kịp đáp, Thuận đã ngẩng lên, nhanh nhảu:
- Trứng tươi lắm. Cô mua mở hàng cho cháu đi.
- Tươi hay là ung thối ?
- Bốn trăm quả, cháu soi không sót quả nào. Quả nào cũng trong suốt, không hề có tí tia dây nào.
- Không khéo bị mày lừa, trứng gà ta không mua lại mua phải trứng gà Tam Hoàng thì bỏ mẹ.
- Cô ơi, trứng gà Tam Hoàng trông cái là biết ngay chứ. Trứng gà ta hai đầu nó thon thon thế này cơ mà.
Kéo váy, người thiếu phụ ngồi xuống. Môi bìu bĩu như phải làm một việc cực chẳng đã, tay trái ôm ví, bàn tay phải có hai cái nhẫn mặt ngọc to sều, xanh đỏ cạnh nhau, lần rờ trên sảo trứng, rồi bất ngờ giật lên như chạm phải gai, chùi vào cạp sảo, nhăn nhó.
- Khiếp quá, trứng dính cả cứt à ? Trứng này thì bán bao nhiêu ?
- Cô ơi, cô cứ đi khắp chợ mà xem, chả có hàng nào được như của cháu đâu. Cô lấy cho cháu đi. Đúng giá mười ba, cô ạ.
- Mười ba ! Mày bán cho ai giá đấy ?
- Cô ơi, giá ấy là mềm nhất rồi đấy, cô ạ.
- Đừng có qua mặt tao. Ranh con ! Nói thách tao vạch vào mặt bây giờ. Chín rưỡi!
Quái, sao lại có cảm giác như đang đọc một đoạn kịch ấy nhỉ ? Thầy Thế nheo mắt. Thầy nhận ra cái mặt vênh vênh, cái điệu bộ, cái giọng nói ngoa ngoắt của ả khách kia có nét quen quen. Hay là cô ta từ một trang văn nào đó bước ra
- Tao cho mày nói lại. Bao nhiêu ?
- Cháu không nói thách đâu cô ạ.
- Thì một chục chẵn đấy. Mày định chém đẹp tao bao nhiêu nữa, hả con ranh ?
- Cô ơi, cô chửi thì cháu nghe, chứ không có giá ấy cô ạ. Cô xem trứng cháu mười quả như cả mười. Cô cứ lấy đi. Nếu cô mua ở đâu rẻ hơn thì cô đến giả lại cháu, cháu xin làm con cô.
Hừ, một tiếng kêu đau đớn là dấu hiệu của nỗi đau. Nhưng, một tiếng hát đau đớn thì vừa chính là nỗi đau, vừa là cái gì cao hơn nỗi đau. Thầy Thế nghĩ tới câu văn trong một cuốn sách lý luận văn học và nhìn theo người khách đàn bà nọ quay ngoắt đi. Thầy bỗng chưng hửng vì Thuận vừa phủi tay đã chửi ả nọ là con đĩ mới sớm ra đã ám hàng bà, vừa xé mảnh giấy báo, bật lửa đốt, huơ trên mặt hai sảo trứng, miệng lầm nhầm như đọc thần chú, rồi bất thình lình nhấc một bên chân ném tờ giấy đang cháy nọ qua háng mình. Động tác đốt vía đốt vang ấy là lạ với thầy Thế, nhưng thầy nhận ra nó đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Chẳng khác gì một nhân vật kịch từ cánh gà bước ra sân khấu, khách là một người đàn ông đội mũ cối từ hàng bên đã bước tới. Và ông mới chỉ kịp nói: “Cho tôi ba chục quả nào”, thầy Thế đã bật reo to: "Kìa, ông chủ tịch Quát".
- Ôi, thầy Thế ! Sao lại gặp thầy ở đây nhỉ ?
Thuận cười cười:
- Để em nhặt cho bác chủ tịch huyện nhé. Thầy cứ nói chuyện với bác đi
- Chủ tịch huyện gì nữa đâu. Về hưu nửa năm nay, giờ là phó thường dân rồi. Nghĩ cũng có cái sướng của nó, thầy Thế ạ. Cô đâu mà thầy phải đi chợ ?
- Nhà tôi bước hụt xuống cãi rãnh nước, bị bong gân chân. Thế em Tường có được đơn vị cho nghỉ phép Tết không, bác ?
- Dạ, em nó mới về hôm qua. Tít tịt Trường Sa, lại đang lúc phải trực chiến, được về phép coi như đơn vị khen thưởng. Cháu nó được phong trung úy rồi. Về đến nhà là hỏi thăm thầy cô. Để tối nay em nó sang thăm thầy cô nhé.
Ba chục quả trứng đã được bọc gọn trong túi ni lông trao cho khách. Thuận nhận tiền, dúi vào túi áo vét của thầy Thế, khe khẽ: “Thầy giữ cẩn thận. Kẻ cắp ở đây sẵn lắm đấy !”.
Nắng đã hoe vàng trên nóc các ngôi chợ xây. Ông Quát đi thì lớp khách khác đến. Đến cùng một lúc những ba người. Đến là ngồi xuống tự chọn, rồi móc túi trả tiền, không mà cả, so đo. Chà ! Ba người này vừa đi thì dồn đến mấy người khách đi xe mini, đi xe máy. Thì ra đa phần là khách quen. Khách quen là khách nhớ nhà hàng, là khách tin cậy. Tin cậy ở cô giáo. Cô giáo không bao giờ sai ngoa. Khách quen đến là bảo đếm hộ chục quả, hai chục quả không yêu cầu chọn lựa. Có người đến trả nốt tiền hôm qua còn thiếu. Cũng có người nắc nỏm khoe rằng hôm qua mua được mấy quả hai lòng hoặc hẹn ngày ấy ngày nọ để dành cho mấy chục quả thật tươi. Cũng có nhiều người trả tiền xong, ngửng lên nhìn mặt Thuận, mới ngơ ngác: “Ủa, hôm nay cô giáo Nhâm đi đâu mà mày lại bán thay cô, hả con ?”.
Trong cái dồn dập của văn cảnh, thầy Thế có cảm giác như đây là một câu chuyện ăm ắp các chi tiết nghệ thuật làm mê mẩn người đọc mà thầy chỉ là kẻ quan sát. Nói đúng hơn thầy chỉ là cái túi đựng tiền mà cô bé Thuận ních vào mỗi lúc một đầy. Thầy là cái túi. Ý nghĩa ấy khiến thầy bất giác nhớ tới một câu triết lý trong cuốn sách thầy vừa đọc của Jean Paul Sartre: "Điều đáng kể trong cái lọ lục bình là cái rỗng không ở giữa".
Chà ! Xung quanh cái rỗng không, tức thầy Thế, đầu óc toàn tư tưởng và kiến thức sách vở, lúc này là bức tranh sinh hoạt đầy màu sắc lạ lùng mà bây giờ thầy mới nhận ra. Đúng là cái tổ ong nhộn nhịp, tấp nập một cuộc sống thường nhật lý thú mà thầy chưa bao giờ để ý tới. Tíu tít người qua kẻ lại, huyên náo tiếng nói tiếng cười, lời gắt gỏng, câu rủa xả. Hàng rau, hàng măng, hàng cà, hàng bí, hàng bầu san sát chen nhau. Dưa hấu được mùa tròn thu lu to như cái nồi đất. Những bó măng tươi vàng ươi ưởi. Cà rốt đỏ gạch. Cà chua đỏ hồng. Trắng phau là những rổ cà pháo đầy có ngọn và xanh tươi đủ các sắc độ là đậu côve, rau cải, rau ngót và cải xoong. Bên hàng thịt hàng cá nối tiếp đó cũng chẳng kém phần chen đua.
Thầy Thế có cảm giác bị lạc trí. Ôi ! Lại cũng là cái thói quen và tài nghệ nhìn quả trứng thấy con gà cùng mệnh đề triết học: con gà có trước hay quả trứng có trước và bên kia hoa hồng là sự chung thủy, thầy nhận ra cái khung cảnh chợ búa tạp nhạp, nhỏ nhặt vui vẻ và thiết cốt hóa ra là một hiện thực phản ánh trong nó tính đa dạng muôn màu của cuộc sống và thầy bao lâu nay có vẻ như chỉ là một khách du đứng bên lề đường !
Ánh nắng một ngày đông tận đã tưới lên khu chợ một sắc vàng màu mỡ.
Người mua kẻ bán lúc này đều như đã vào guồng, nhịp nhàng trong một hoạt động hài hòa. Nhìn hoạt cảnh này, thầy Thế nghĩ, đúng như người xưa đã nói, những việc khó nên được hoàn thành vào lúc dễ, nên bây giờ tất cả đã trôi chảy, hoàn bị như một tác phẩm thơ kiệt xuất, nghĩa là không thể làm được cái gì hơn thế nữa.
Nhưng vào quãng mười giờ hơn, khi hai sảo trứng chỉ còn ba chục quả thì giống như vĩ thanh của một câu chuyện, trước mắt thầy Thế lại là người khách nữ mặc váy dài đen đã xuất hiện ở đầu buổi chợ. Câu chuyện chưa xong đâu. Đầu vở kịch có khẩu súng thì cuối vở kịch sẽ có tiếng nổ. Đó là quy tắc nghiêm ngặt của nghệ thuật. Ở đời cũng vậy chăng ?
- Ai bán trứng đi đâu rồi ?
Người thiếu phụ kênh kiệu hỏi, lồ lộ vẻ hoang mang.
- Tôi đây.
Lần này thì thầy Thế xưng danh. Thuận đã phải quay sang bán món hàng đậu phụ của em.
- Còn toàn trứng ôi. Chín mươi tất cả, tôi lấy nốt.
- Vâng, cô lấy đi.
Đúng là đi vàng về xanh, đi hơn về kém. Người đàn bà kéo váy ngồi xuống, đưa tay ngót trứng vào cái túi vải in hình Con vịt Đô-nan nhãn hiệu Mỹ. Rồi phủi tay đứng dậy móc ví lấy tiền. Trong động tác đứng lên, cái kính râm như dán vào mắt bỗng trễ xuống, hai con mắt chị đột ngột hất cái nhìn như hai tia chớp vào gương mặt người đàn ông bán hàng. Thốt nhiên, thầy Thế như muốn giật lui một bước. Giây phút giao nhau của hai luồng mắt chấm dứt bằng việc thầy Thế ngoảnh sang bên tìm Thuận, lơ ngơ như cầu cứu và người đàn bà vội xách túi trứng đi. Thuận ngoảnh ngay mặt lại, hơi bất ngờ:
- Thầy Thế, sao thầy bán rẻ thế ?
- Ờ ờ...
- Bán thế thì lỗ vốn thầy ạ.
- Ờ ờ...
- Kìa, thầy cầm lấy tiền con mẹ ấy nó trả ở sảo trứng đi. Nghèo rớt mồng tơi mà điệu chảy nước ra ! Cáo chết ba năm lại quay đầu về núi. Em biết ngay mà.
Đúng là nước vừa chảy vừa nương theo những chỗ gồ ghề ở đáy sông. Ngẩn ngơ vì một mệnh đề cổ văn vừa sực nhớ, thầy Thế cứ để mặc Thuận vừa càu nhàu vừa vơ số tiền nọ đút vào túi áo thầy.
- Ơ kìa, cô Nhâm.
Quay lại, ra khỏi tất cả mọi ý nghĩ vẩn vơ, thầy Thế nhận ra vợ mình tay dắt xe, chân tập tễnh đang đi tới trong tiếng reo vui của cô bé Thuận.
- Cô xem, thầy em có duyên bán hàng chẳng kém cô đâu. Hết sạch cả mấy trăm quả rồi đấy !
Cô giáo Nhâm quệt một giọt nước mắt tưởng tượng ở gò má, sụt sịt:
- Nằm ở nhà sốt ruột quá. Cô cám ơn em Thuận.
Rồi quay sang chồng, giọng cô sụt hẫng nao nao:
- Anh nghỉ đi. Để các thứ đấy em thu dọn cho.
Thầy Thế đứng ngây. Cái gì vừa xảy ra nhỉ ? Gái thương chồng đang đông buổi chợ. Bên kia màu hồng của hoa là biểu trưng của tình chung thủy. Quả trứng đã nở thành con gà. Cuộc đời không thể là cái chợ lộn xộn đâu. Tất cả đều có trật tự
lô-gích của nó đây. Và chung quy, con người vẫn là kẻ cần được sự thương yêu, nâng đỡ của đồng loại ! Mải nghĩ ngợi, cho tới lúc vợ thầy giật tay thầy hỏi: "Có chuyện gì thế, hở anh ?" thầy mới nhìn vào cặp mắt vợ, lòng dâng lên nỗi xôn xao trắc ẩn, ngập ngừng:
- Nhâm à, em có nhớ cái Tý Tửu không? Con bé loắt choắt, mồ côi cha mẹ ấy. Ở với vợ chồng anh trai, nó bị chị dâu hành hạ đến là khốn khổ. Có bận nó bị lột trần, đuổi ra khỏi nhà đã chạy đến nhà mình, anh và em đã cho nó quần áo mặc, cho nó ăn ở nhà mình gần tháng trời. Sau, anh nó buôn ma túy bị đi tù. Chị dâu nó bắt nó phải tiếp khách, nó trốn ra thành phố, ít lâu sau lấy một người Mỹ già. Rồi theo chồng về quê. Vừa nãy anh thấy nó đến mua trứng. Khổ ! Chẳng hiểu nó lênh đênh chân trời góc biển, ba chìm bảy nổi, giờ sinh sống thế nào mà xem ra cũng tội nghiệp lắm.
Tiếng thầy Thế chìm trong tiếng ồn ào của buổi chợ đang cữ đông rồi đột ngột bị ngắt quãng. Thuận vừa chống tay lên sườn, nhìn ra trước cửa hàng, chao chát:
- Ông Khởi, đừng có dở trò hạch sách. Thầy, cô tôi mua vé chợ, đóng thuế chợ đầy đủ rồi !
Trước hai cái sảo tre trống không là gương mặt to như cái tráp của một gã đàn ông. Gã tên Khởi nhân viên thuế vụ tên học trò hư đốn, lười biếng đã bị thầy đuổi học, cách đây hơn chục năm. Thầy đã nhác thấy bóng gã ở cái quán bên đường lúc đẩy xe trứng vào chợ. Giờ, chả lẽ là lúc gã đến quấy rầy thầy và cô. Giờ, chả lẽ theo quy tắc nghệ thuật là nhân vật nổi loạn, cưỡng lại ý định ban đầu của nhà văn ư ?
Không! Không có cuộc nổi loạn của nhân vật. Vì gã đã gật đầu quay đi, vì Thuận đã vừa lườm gã, vừa nhét vào túi gã tờ giấy năm ngàn rồi đập tay vào vai gã, suồng sã quát: "Thôi đi đi, tinh tướng nó vừa vừa thôi !
Cơm gạo mới
Giữa thu, gió heo may thổi se se trên cánh đồng tràn trề hy vọng. Làng đói đã mấy tuần nay, từng đôi mắt háo hức hướng ra cánh đồng mờ mịt trong sương. Thoắt cái lúa đã chuyển sang màu vàng chanh. Cả làng ào ra đồng, hối hả dưới cái nắng dịu nhẹ chưa đủ để làm chín già những ruộng lúa xác xơ.
Dé lúa lép kẹp nằm lọt thỏm trong thân lúa gầy còm, lơ thơ vài mảnh lá sâu sia. Mồ hôi từng dòng nặng nề bò trên gương mặt nhăn nheo của người già. Thanh niên cũng chẳng muốn trêu chọc nhau nữa, tất tả, ủ rũ, thở dài thườn thượt.
Cô tôi nén tiếng thở dài trong lồng ngực hóp heo, nhẫn nại như chiếc máy khâu nhịp những nhịp đều đặn xuống mặt ruộng, đặt về phía sau từng đon, gốc lúa nặng trịch mà đầu bông tun ngủn, loe hoe. Mỗi lần cô vươn vai cho khỏi mỏi, tôi nghe xương sống cô kêu rắc một tiếng, tưởng như sắp lìa ra. Rồi cô lại cắm cúi, nhấp nhô trên lúa, mảnh ruộng lúa còm không cao hơn nổi thân người chia đôi.
Những con chim cuổng, chim én mất tổ dáo dác bay lên đen trời, như tàn tro hoá vàng ngày ba mươi tết. Vài đứa trẻ nhảy loi choi khi vớ được ổ trứng nằm gọn trong đám lúa vàng ươm, hò hét nhau, đánh thức lũ chim. Bất chấp những cái vợt đang giơ lên, lũ chim vẫn điên cuồng lao vào lũ trẻ, hòng giằng lại ổ trứng, phát ra những tiếng kêu inh ỏi, kinh hoàng. Đến lúc cuộc hỗn chiến xảy ra, cánh đồng mới có chút âm thanh náo động.
Tôi lầm lũi đi sau cô, gom những đon lúa lại, cẩn thận, sẽ sàng, kẻo rụng mất những hạt lúa quý báu. Rồi tôi bó lúa lại thành từng ôm to, để lên bờ ruộng, vừa làm vừa thèm thuồng ngắm nhìn lũ trẻ vô tư đùa nghịch khắp cánh đồng.
Quết trầu trên môi bà đã khô lại, thâm xịt. Mình bà cong gập xuống ruộng như một dấu hỏi dường đã tuyệt vọng.
Theo bước chân thoăn thoắt của cô, gánh lúa cao lút đầu người đang nhún nhảy về làng. Không ít trai làng và cả các bà già lại trông theo ao ước, giá như cô là người nhà họ.
Cô tôi hai mấy tuổi rồi tôi không nhớ nổi, mà cô cũng chẳng cần biết, vì vài ba năm sau khi đã quá tuổi lấy chồng, chẳng ai hơi đâu mà tính tuổi mình nữa.
Những lúc thấy cô nép vào bụi cúc tần tần ngần nhìn đám cưới nhà ai đi ngang qua ngõ, tôi thương cô đến thắt lòng.
***
Hai đon lúa to xâu vào hai đầu đòn xóc, tôi phải gánh oằn lưng mà đập ra chỉ được vài đấu. Cô tôi đội thúng thóc trên đầu, từ từ nghiêng miệng thúng, để lúa từ trên tuôn xuống, bay lả tả. Hết buổi chiều mà đống thóc tụ lại chỉ bằng phân nửa đống văng ra nhưng cô dường như không để ý. Đôi lúc mái tóc dài mượt của cô xổ tung, óng ánh trong nắng, quấn quýt bay cả vào những hạt thóc vàng chanh.
Ánh mắt cô nhìn xa hun hút, sẫm màu sim chín. Rồi cô ngồi bệt xuống giữa sân, tẩn mẩn bóc những thân lúa vàng ươm, bóc những bầu đòng còn sót lại, tẩn mẩn tách ra từng tí một xem cây lúa chửa như thế nào. Bóc chán, cô nhấm nhẳn nhằn những dóng lúa ngòn ngọt.
Thấy tôi nhìn, cô chìa ra một nắm. Tôi lắc đầu, cô cắp cái thúng con con chạy vụt đi.
Đồng làng mê mải nắng, đám trẻ con gáy cháy khét đang chí choé tranh nhau vạt thóc rụng góc ruộng. Khắp cánh đồng, trẻ con vừa mót thóc vừa đùa nghịch túm tụm, bóng chúng xeo xéo, gãy khúc, dài nghêu trên san sát gốc rạ.
Cô tôi cứ lủi thủi một mình, chỗ nào chúng mót chán rồi cô mới lê đến, cắm cúi như con chim sẻ nhẫn nại, lúc lúc lại bị lũ kiến lửa đốt nhói cả tay.
“Tao mà giàu, tao sẽ cho chúng mày ăn cả một nhà thóc”... Đàn kiến vẫn lầm lũi theo nhau ngoằn ngoèo, li ri, moi móc rồi hỉ hả lôi lên những hạt lọt sâu trong khe rãnh. “Lép cả, chúng mày ăn thế nào được mà cứ cố”. Cô vừa lẩn mẩn nói chuyện với lũ kiến, vừa hát lên những câu gì không rõ. Chỉ nghe một giai điệu miên man, da diết như cứa buốt ruột gan. Tôi không dám lại gần cô những lúc ấy.
Sau này lớn lên, tôi mới biết rằng mình hoàn toàn có lý. Khi được lặn sâu vào trong nỗi đau, người ta sẽ thấy mình có được niềm tin rằng những gì đã qua chẳng thấm tháp vào đâu, để sẵn sàng tiếp tục chịu đựng thêm những gì sẽ đến.
Cô tôi cứ ngồi thế cho đến khi hoàng hôn đã phủ sẫm đồng, những đống rấm cháy ngun ngún, khói luênh loang mờ ảo. Cái thúng con con chỏng trơ chỉ vài hạt lót đáy. Hơi lạnh miên man trải khắp cánh đồng sương buồn hiu hắt.
***
Chú Hiệp cụt uống hết hai ấm chè xanh rồi lệch thệch cái nạng gỗ ra tận hàng rào cúc tần ngóng cô. Bà tôi thương hại bảo chú vào nhà ngồi cho khỏi muỗi đốt. Chú cười hề hề, vỗ vỗ vào hai cái chân gỗ: “Có giỏi muỗi đốt vào đây, chỉ cong vòi. Bà cứ mặc con”. Bà lắc đầu, toan nói gì đó lại thôi.
Cô tôi về, người ngai ngái mùi khói. Chú Hiệp le te lấy nước, cầm quạt quạt lấy quạt để. Cô chả nói gì, ngồi vào bếp ăn cơm. Cô lấy một cái bát tô to, xới cơm, chan canh, và húp sùm sụp. Chú Hiệp vẫn ngồi bên cạnh, vừa quạt vừa cười âu yếm, xót xa.
Ăn xong, cô xỉa răng, súc miệng òng ọc. Rồi cô ra giếng.
Trăng lên lấp loá sau những tán lá bưởi, lá mít. Chú Hiệp nháy nháy mắt với tôi, lộc cộc chống nạng theo cô. Chiếc dây chuyền vàng trên cổ áo được mở rộng của chú bắt ánh trăng sáng lấp lánh, lấp lánh. Cô tôi cúi xuống múc nước. Chú Hiệp nhìn hút vào tấm lưng và đường cong lượn tròn ôm lấy thành giếng, nuốt nước bọt. Đột ngột, cô giơ gàu nước, dội mạnh từ đỉnh đầu xuống.
Tóc cô xổ tung, nước bắn tung toé. Chú Hiệp nhảy lùi lại, sững sờ. Nước bết dính hết áo vào khuôn người cô, ánh trăng tràn vào, đẹp ngời ngợi. Cô cứ tiếp tục múc nước, tiếp tục dội. Chú Hiệp dùng dằng mãi rồi cũng phải đánh tiếng chào bà tôi, ra về.
Nửa đêm tỉnh dậy, tôi nghe tiếng bà thủ thỉ: “Nó đồng ý ở rể, còn chê nỗi gì”? Tiếng cô tôi thút thít hồi lâu, rồi nghẹn ngào: “Đã lỡ thì lỡ cho luôn. Đèo bòng làm sao được hai cái chân gỗ hả bu?”. Bà tôi: “Nhà nó có của ăn, của để. Mày vất vả gần nửa đời rồi”. Cô tôi bật khóc tức tưởi: “Chân người ta bị què là do đi đào vàng sập hầm đấy, u biết không”?
***
Những ngày sau, cô tôi tối nào cũng ở ngoài đồng ngoài bãi rất muộn để tránh gặp chú Hiệp. Tôi cũng không thiết tha với những cái bánh khảo, kẹo bột hay cái súng cao su làm từ chạc cây ổi nhẵn bóng mà chú dúi cho nữa.
Chú lại rủ tôi tối tối sang nhà Tiến Chính xem video. Toàn phim chưởng Hồng Kông, đấm đá tít mù, yêu đương tay ba tay tư, chẳng phải làm gì mà vẫn có tiền phiêu bạt khắp giang hồ, ăn ngon mặc đẹp, đúng như sở thích của tôi. Giá vé mỗi lần xem là một trăm đồng, tôi thèm lắm nhưng đào đâu ra tiền, nên toàn chờ phim đã chiếu được nửa buổi, chủ nhà phải rời cổng vào sân để quản lý cái tivi to đại đặt giữa sân và đầu máy không bị bọn trẻ con quấy phá, lúc ấy tôi mới trèo tường vào.
Chắc có lần nhìn thấy tôi nhảy tường xuống bị ngã tập tễnh nên chú Hiệp cứ ăn cơm xong là sang nhà tôi chờ. Chú chả vội. Tôi có ăn cơm muộn, tắm muộn, chú càng mừng. Vừa chờ vừa tranh thủ kể những chuyến đi xa, thu được tiền nhiều thế nào, chuẩn bị mua sắm những gì bằng chất giọng vói cao đến căng cả cuống họng, để cô tôi dù đang giặt quần áo tận ngoài giếng hay đang cho lợn ăn phía sau nhà cũng phải nghe thấy.
Vài lần cô cố tình sai tôi làm việc này, việc kia để chú phải sốt ruột mà đi xem trước. Nhưng sau thấy như thế chỉ càng có lợi cho chú nên cô phải gọi tôi ra nói thẳng:
- Đừng bán rẻ cô lấy mấy buổi xem phim nhé.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Cô thở dài, xoa xoa đầu tôi, dịu giọng:
- Tranh thủ ôn lại bài vở đi. Lên cấp ba mà học dốt thì dù có lớn cô vẫn nọc ra đánh đít.
Vậy là ý cô đã quyết. Tôi là đứa ngán học hơn cả đi hót phân trâu. Ngồi trong lớp, chân tay thì tù túng, đầu óc cứ phải căng ra. Tôi thích được chạy nhảy tung tăng ngoài đồng, được tắm sông cùng trâu, được hò hét cho căng lồng ngực. Mắt thì nhìn trân trân lên bảng, nhưng đầu tôi lẩn vẩn tính toán chiều nay sẽ đánh trận giả với bọn thằng Tong xóm Bến ra sao. Lần trước bên tôi thua to, chỉ tại bọn chúng chọn được chiến luỹ là dãy núi đất, nơi có nhiều hầm hào lô cốt thực dân Pháp còn bỏ lại. Lần này, nếu chúng tôi chiếm lĩnh rồi cố thủ ở đấy trước thì chúng cũng đã biết hết mọi ngõ ngách để tấn công.
Lại còn cuộc đua trâu ngày kia, cuộc thi bắn chim sẻ ngoài đồng Cói ngày kìa...
Cứ học kiểu như thế, tôi được lên lớp đã là may. Nên khi hết cấp hai, tôi nằn nì cô cho đi học lái máy cày, vừa được suốt ngày ngoài đồng, lại có tiền đỡ bà, đỡ cô. Cô tôi không nói gì, quằn lưng gánh nốt gánh thóc cuối cùng chứa trong chum, đi nửa ngày trời lên chợ huyện (bán được giá hơn chợ quê) mua cho tôi bộ quần áo kẻ sọc, mấy quyển vở, một cây bút Kim Tinh và hai quyển sách.
Tôi lại lấy cớ, từ nhà lên trường huyện những mười lăm cây số, dù tôi có muốn thì trước sau cũng phải nghỉ học thôi. Làm sao đi bộ ròng rã nổi ngày hai buổi suốt ba năm trời. Đến nước ấy thì cô có vẻ nản lòng thực sự.
Cô ngồi xoài xuống phản. Chỉ chờ có thế, tôi nhảy tót ra đồng. Đến khi tôi về, trời đã tối sẫm, cô tôi mới uể oải đứng dậy nổi lửa, khua nồi.
***
Mấy hôm nay nhà tôi đã phải ăn cháo độn sắn. Nuốt không trôi nhưng tôi vẫn không dám kêu ca. Tuổi ăn tuổi lớn, tôi ăn như hùm đơm đó, vì thế, có cái cho đầy bụng đã là may.
Khi lang thang ngoài đồng bãi hoặc tạt vào bờ rào hàng xóm, kiểu gì tôi cũng sẽ vớ được thứ gì đó có thể cho vào mồm. Một đống cuống rạ đốt khói mù mịt, vài con chuột đồng, sẻ đồng hay củ khoai mót nướng lên thơm lừng, hay quả ổi, quả sim hay bất cứ thứ hoa trái gì vớ được ở ruộng đồng hoặc dãy núi đất là đã đủ cho những trò đùa nghịch từ nửa chiều cho đến tối.
Nhưng cái chính là tôi vẫn rất thương cô, thương bà. Dường như trời phú cho những đứa trẻ mồ côi nhà nghèo sự mẫn cảm trước tuổi. Có lẽ tôi sẽ suốt đời phải khổ vì điều đó, nhưng lúc này đây thì tôi lại cám ơn sự mẫn cảm của mình. Chỉ cần tôi kêu nửa lời, có lẽ bà sẽ phải làm việc bằng hai, bằng ba lúc bấy giờ. Và cô tôi, hoặc cô sẽ suốt đời không lấy chồng, hoặc sẽ phải lấy đại một người nào đó như chú Hiệp để giúp cho tôi được đầy cái bụng.
Nhưng đi học là chuyện khác. Mười lăm cây số, tôi không thể vừa vắt chân lên cổ vừa mắt trước mắt sau kiếm hoa quả dại bỏ vào bụng. Tôi nhắc lại:
- Những mười lăm cây số, cháu không đi bộ được suốt ba năm được đâu. Cô cho cháu ở nhà đi làm.
Cô lại nhìn tôi, hai chân mày cau lại, ánh mắt đầy uy lực. Bà bảo, cô và bố tôi giống nhau như đúc, suốt ngày chả nói câu nào, nhưng đã mở miệng thì chẳng ai có thể đáp lại được. Tôi không còn bố để mà so sánh. Nhưng tôi chắc, ánh mắt kia, nếu là của bố tôi, thì ngay lập tức tôi đã phải tự mang roi lên để trên mông mình rồi.
***
Bỗng dưng tối ấy, thấy chú Hiệp đến nhà rõ sớm, ăn mặc bảnh bao, đầu chải mượt, nháy nháy mắt nhìn tôi, rồi đưa cho tôi gói kẹo lạc rõ ngon. Cô tôi đưa cho tôi một trăm, bảo đi xem phim. Bà thì đã đi hội Kể Hạnh với các cụ trong xóm. Tôi thấy nghi nghi, không đi xem phim nữa mà lén rình ở hàng rào cúc tần.
Tôi thấy chú Hiệp đưa ra một gói giấy báo, cô tôi cầm lấy đem cất vào buồng. Chú Hiệp đi theo, định ôm choàng lấy cô, bị cô đẩy ra ngã chỏng gọng, mãi mới lê được đôi chân gỗ để đứng dậy. Cô khẽ nói câu gì đó không rõ, nhưng tôi thấy chú ra về, miệng huýt sáo vang lừng.
Hôm sau tôi đã có chiếc xe đạp Thống Nhất nữ, tuy bong tróc hết sơn nhưng vẫn còn khá bắt mắt. Tôi bắt đầu tập xe quanh sân vì không dám ra ngoài đường, sợ bọn cùng xóm chê cười hoặc bu vào đòi đi thử thì hỏng hết cả xe. Cô cũng không biết đi xe, chỉ gồng tay chạy sau giữ xe cho tôi, hai chân cứ líu ríu, vừa thở hổn hển cô vừa luôn miệng nói cô thấy ngoài huyện người ta đạp thế này, chống chân thế kia.
Rồi tôi cũng mắm môi mắm lợi đạp được những vòng đầu tiên trước ánh mắt thán phục của cô tôi. Thêm năm vết bầm dập toé máu ở đầu gối nữa thì tôi đã đi vững. Tôi guồng chân đạp như bay, chở theo cô tôi mắt nhắm tịt, mặt rạng ngời hạnh phúc, lướt qua trước mắt bọn thằng Tong, con Mẹt và kết thúc chuyến du hí đầy tiếng cười của hai cô cháu ở chân đống rơm.
Cô tôi cũng bị một cái u ở đầu gối, nhờ thế mà chú Hiệp càng được thể, tối nào cũng mang sang cho mượn lọ dầu Thái Dương chú mua tận ngoài tỉnh.
***
Có xe, tôi đi học chăm chỉ, nhưng cũng không giỏi hơn là bao. Tôi đi xe tối ngày, thậm chí, chỉ ra đầu ngõ mua mấy trăm nước mắm tôi cũng vác xe đi, thế là đâm phải con trâu, nước mắm đổ, bát cũng rơi vỡ mất. Cô không mắng, bà cũng không có thời gian để mắng. Bà xin vào một cơ sở đan lát rổ rá dần sàng tư nhân, ngày làm không hết việc thì đêm về chong đèn đan tiếp. Còn cô tôi, ngày nào cũng theo đò vượt sông sang làng bên đóng gạch, gánh gạch đến oằn vai. Đêm nào cô cũng bóp dầu vào vai rồi vỗ bồm bộp, bẻ lưng kêu lục khục.
Nghe tiếng cô ngáy, tôi khe khẽ tắt điện, lên giường. Nhưng chỉ năm phút sau, tôi đã thấy cô đến bên, túm tôi dậy, ấn đầu vào quyển sách.
***
Thấm thoắt lại đến vụ chiêm. Năm nay cả làng như vào hội. Lúa được mùa cứ trĩu cả lưng gánh mà lòng vui phơi phới. Nhưng tôi vẫn thấy bà buồn, cô buồn.
Mấy tuần nay, không biết ở đâu ra tin đồn chú Hiệp sắp cưới cô tôi. Lễ đã sắm đủ, ngày cũng đã chọn, chỉ chờ gặt xong là rước dâu. Thậm chí, tôi còn nhìn thấy giữa quán rượu, chú Hiệp ngồi dương dương tự đắc, khoe đã tắm sông cùng cô trước gần chục đôi mắt hau háu của trai làng.
Tôi phóng xe đâm rầm vào cửa quán, chú ngừng bặt, nhưng lại vẫy tôi đến cho gói lạc rang làm bọn trai làng cười ầm lên. Tôi cáu tiết vờ như không nghe thấy, vội vàng lao đi, tiếng cười ô ố vẫn đuổi theo sau lưng.
Ngày thường, đi làm từ sáng đến tối, cô không phải nghe ai hỏi han. Giờ cả làng tập trung ra đồng, tránh không được, giải thích mãi không ai tin, cô bực mình chọn giờ gặt vào sáng sớm và đêm khuya để khỏi nghe điều tiếng eo sèo.
Mải vồ chuột, tôi vẫn nghe tiếng cô khẽ nói với bà bằng cái giọng ưu tư:
- Có bán một nửa lúa vẫn chưa đủ.
Bà ngập ngừng:
- Hay là bán cả đi, rồi khi có đồng ra đồng vào thì đong gạo của hàng xáo ăn sau.
- Không được. Thằng bé đang tuổi ăn tuổi học. "Ăn vóc học hay, ăn mày học dốt". Thôi, con sẽ có cách bu ạ.
Túm được con chuột đồng béo mẫm, quay lại vẫn thấy cô lấy nón quạt cho bà, hai mắt nhìn về đâu xa xăm lắm, tôi chợt nhớ ra, hớn hở khoe:
- Năm nay cháu được học sinh tiên tiến đấy. Gặt xong là cháu đi nhận phần thưởng.
- Thật không?
Tôi thấy bà cười, những nếp nhăn như giãn ra trên gương mặt nhăn nheo. Còn cô đi đi lại lại bên đống lúa vừa gặt xong, chân tay như muốn múa lên cùng chiếc nón. Tim tôi cũng đập rộn lên như muốn vọt ra ngoài lồng ngực để bắt đầu guồng chân chạy khắp cánh đồng.
***
Thức trắng đêm đập lúa, nhà nào cũng mong có bữa cơm gạo mới vì đã phải ăn khoai sắn quá lâu.
Nhìn thấy đống thóc quá ít của nhà tôi, chú Hiệp lại có vẻ mừng. Trăng sáng vằng vặc, mồ hôi trên trán cô long lanh, vài sợi tóc bết lại, loăn quăn phủ trên gáy càng làm cô trở nên đẹp huyền ảo, mơ màng. Chú Hiệp như ngây ngất. Chú lâng lâng tiến lại, vẻ như muốn ôm cô vào lòng. Cô trừng mắt nhìn chú:
- Anh Hiệp, nốt vụ này là tôi có thể trả hết tiền cho anh.
Chú Hiệp khựng lại, vò vò hai tay đầy bối rối:
- Cô hiểu lầm tôi rồi, tôi không sang để đòi tiền. Số tiền ấy có đáng là bao. Cô cho tôi được giúp cô là tôi mừng rồi. Mong cô cho tôi đi lại thường xuyên cho... tình cảm.
- Mẹ con bà cháu tôi đội ơn anh - cô tôi bình thản - nhưng cái gì phải ra cái nấy. Khi nào có tiền, tôi sẽ mang sang tận nhà anh trả, để khỏi phiền anh sang đây, hàng xóm dị nghị.
***
Rơm phơi vàng ươm khắp làng cũng là lúc mùa lũ tràn về. Dòng sông như con ngựa bất kham phăng phăng lồng xuống từ phía thượng nguồn. Bao nhiêu là gỗ, thân cây rừng, và cả những xác người trương to như bò mộng, theo dòng lũ ầm ào đổ về xuôi, chỉ còn củi rều dạt lại ở bến sông cùng với bọt nước trắng xoá.
Năm trước, bao nhiêu củi vớt được cả làng đều phơi ngay tại chỗ, bị mối xông mất gần hết. Đến mùa đông, cả làng xo xeo. Giữa đêm bà trở dậy, cặm cụi vét đáy bao ở góc nhà được một nắm củi vụn bỏ vào cái thau đồng đặt dưới gậm giường. Khói vẩn quanh nhà, bà ho sặc sụa.
Nhưng củi sưởi cuối cùng rồi cũng hết. Chẳng nhà nào còn để vay. Cái rét làm héo mặt cả làng.
Năm nay lũ về, nhà tôi đập lúa xong sớm, tranh thủ ra sông sớm để vớt của. Vật lộn cả ngày với sóng nước, bù lại chúng tôi lấy được những súc gỗ rừng to, chất cao như núi. Cô hăm hở giật từ sóng những gốc cây to bằng cả nửa chiếc chiếu, quyết liệt như thể sức lực điền. Cô chắc mẩm, cứ cố thêm vài ngày nữa, bán chỗ gỗ đi, cầm chắc có tiền để trả nợ. Cả mùa đông cũng không lo đói, lo rét.
Nhưng trời chẳng chiều lòng người. Chỉ được một ngày suôn sẻ. Ngày sau bão đã rầm rập kéo về.
Tôi đi đến trường bế giảng, nhận phần thưởng, đã dặn đi dặn lại cô và bà đừng quá cố, chờ bão tan hãy ra vớt củi tiếp. Cô tôi vừa cười vừa nói tưng bừng:
- Đi đi, đi nhanh về cho cô xem cái phần thưởng học sinh tiên tiến trường huyện nó thế nào.
***
Nếu không vì cô, vì bà, có lẽ tôi đã bỏ dở quãng đường mười lăm cây số gió táp phần phật muốn xô ngã cả xe cả người. Nhận phần thưởng xong, bọc kỹ càng năm quyển vở và tờ giấy khen vào tấm ny-lon, tôi đội mưa đạp như bay. Nhưng về đến làng vẫn muộn.
Con sông chưa kịp mang đến niềm vui thoát món nợ nặng nề khó trả thì đã cuốn cô tôi cùng với hy vọng nhỏ nhoi của cô trong sóng dữ đục ngầu.
Hai ngày sau, người làng dưới vớt được cô nhờ mái tóc dài nổi lập lềnh. Đám ma cô tôi không thiếu mặt ai trong làng.
Đoàn người lặng lẽ đi bên nhau trong cái nắng chói chang sau bão. Những vòng hoa trắng cứ rưng rưng trên tay các trai làng. Chú Hiệp xin bà vành khăn, bà cứ lưỡng lự mãi rồi khẽ khàng:
- Tôi không muốn anh buồn, nhưng anh đừng đeo thì hơn. Cho con tôi nó được nhẹ lòng.
Chú Hiệp đấm ngực thùm thụp. Chú bám theo sau quan tài, vừa khóc vừa kể lể thê thiết.
Chú Hiệp ơi, day dứt mà làm gì. Có nợ thì phải trả, cô tôi mất đi là số không may, chứ đâu phải do chú dồn ép. Chẳng có duyên, lại không có phận, chú tha thiết với cô tôi như thế cũng khiến người chết ngậm cười rồi.
Tôi đốt tấm giấy khen, đốt cả mấy quyển vở phần thưởng để cô tôi có thể được nhìn thấy, được vui nốt niềm vui cuối cùng như cô đã ước muốn.
Chú Hiệp chỉ lặng yên được một lúc rồi lại bưng mặt, khóc rưng rức.
***
Vậy là xong một kiếp người. Cô tôi mất mà vẫn chưa kịp ăn bữa cơm gạo mới.
Bữa cơm gạo mới năm ấy cả làng tôi chẳng còn mấy ai hào hứng.
Mấy năm sau, bà tôi cũng khuất núi.
Chú Hiệp trọn đời chẳng lấy ai, tháng đôi lần chú lê đôi chân gỗ ra thắp hương mộ bà rồi ngồi cả buổi bên mộ cô tôi.
Còn tôi, trên bước đường đời lầm lụi của mình, năm nào tôi cũng cố mua cho được một vài bữa cơm gạo mới đầu mùa.
Thật lạ kỳ, bao giờ bữa cơm gạo mới cũng cứ rưng rưng một vị mặn mòi của nỗi nhớ quê nghèo, nhớ tuổi thơ lam lũ, nhớ những người đã khuất, nhớ cả những người còn sống đang nghỉ ngơi sau một mùa lúa nhọc nhằn.
Cơm nắm
--- Băng Sơn ---
Vào khoảng trước năm lên mười tưổi, có lần tôi suýt chết đuối ở ao làng. May mà các anh tôi vớt kịp.
Tối hôm đó, mẹ dắt tôi đi cùng, đến cái ao ấy. Mẹ bưng một cái rá đựng bẩy nắm cơm chim chim và mấy nén nhang. Đến bờ ao, mẹ thắp nhang rồi chao rá cơm trên mặt nước và khấn khứa:
- Bớ ba hồn bẩy vía thằng Bốn (Bốn là tên tôi ) ở đâu thì về với mẹ...
Rồi mẹ cầm nhang vái tứ phía.
Những nắm cơm chim chim ấy chắc là thiêng lắm nên tôi khỏe mạnh lớn khôn dần, và vẫn sống cho đến khi viết những dòng này. Tôi lớn lên bên chính cái ao làng ấy trong sự yêu thương của cha mẹ, sự dùm bọc của gia đình, sự thương mến chở che của làng xóm quê hương...
Từ những nắm cơm chim chim "chao vía " (nếu là con gái thì chín vía ), hoặc để cho trẻ ăn cho vui, tôi đã bao lần được ăn những nắm cơm khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau.
Lần đầu tiên đi xa nhà: mẹ đã gửi tình thương yêu của mẹ, hơi hướng của mẹ, bóng dáng của mẹ... qua nắm cơm trong mo cau vườn nhà.
Đêm trở trời, nằm trong nhà bỗng nghe đánh "bộp " ngoài sân. Mẹ lụi cụi ra nhặt tầu cau vừa rụng, cắt bỏ phần lá để đun, còn cái mo cau giữ lại, cất đi. Ngày con đi xa mẹ lấy tấm mo cau đã khô, dấp nước, bới cho con nắm cơm vừa xới ở nồi ra, thơm ngát. Mẹ cũng gói theo một dúm muối vừng gói trong lá chuối tươi đã lau sạch. Mùi vừng thơm lựng, thơm khắp xóm, vừa bùi vừa ngậy, ăn với cơm nắm nó hợp nhau như cau với trầu, như cốm với hồng, như dưa hành với bánh chưng, như cô dâu với chú rể, như...
Trên chuyến tầu thủy chạy dọc dòng sông mênh mông và không biết chảy về tận vùng nào, tôi giở nắm cơm ra ăn và nghẹn ngào. Gạo mới thơm ngọt mùi cốm, hòa vào mùi thơm muối vừng, vừa ngọt đậm vừa dẻo mát khi đưa miếng cơm lên đầu lưỡi. Hình ảnh mẹ, hình ảnh xóm làng hiện lên trong khi tôi nhai thong thả miếng ngọc thực ấy giữa hơi ngòn ngọt của dòng sông đầy phù sa, giữa hơi mo cau đã mềm đi vì hơi cơm chín...
Mẹ thương con cả khi con đã đi xa, đã ra khỏi vòng tay mẹ. Con đi xa đến đâu vẫn là gần mẹ, gần quê hương đồng lúa, không xa được cái hồn những lời không nói của mẹ gửi theo. Nắm cơm đã thành hình bóng mẹ, thành hình bóng quê nhà...
Cùng khoang tàu với tôi cũng có người giở cơm nắm ra ăn. Có người gói cơm nắm trong tàu lá chuối, lá đã tái đi một mảng, hệt như miếng lá chuối trên miệng nồi nước lá xông giải cảm. Có người gói trong giấy báo giở cơm ra có cả những chữ in, được in ngược lại trên da thịt nắm cơm. Có người gói trong màng mỏng hiện đại.
Cách ăn khác nhau. Có người chỉ dùng tay bẻ ba bẻ tư nắm cơm rồi cầm lên mà cắn những miếng thật to. Có người dùng con dao thật sắc cắt nắm cơm thành từng thỏi nhỏ, vuông vức, trông như những thỏi giò lụa trắng tinh. Nhìn những thỏi cơm đặt thứ tự bên nhau, đều tăm tắp, cảm giác ngon, thèm ăn tăng lên đến mấy lần.
Thức ăn thật khác nhau. có người ăn với giò chả, có người có ruốc bông, có người có lạp xường, thịt gà rim... Chỉ giống nhau ở chỗ có những nắm cơm đều từ hạt gạo mà nên, đều ngon lành, chắc dạ, sạch sẽ, hẳn người ở nhà mong người đi thuận buồn xuôi gió, chắc dạ cứng chân.
Nắm cơm mà bẻ ra thì quả là mất ngon. Nó chỉ còn lại là những tảng những vừng cơm cạnh nồi, lại rắn chắc, nguội tanh. Phải nâng niu, nhẹ nhàng, phải gọt phải cắt, phải ăn thong thả, tay cầm miếng cơm đưa lên miệng vừa nhai vừa ngẫm nghĩ một điều gì... có thể ân tình của người ở nhà mới thấm sâu tận đáy lòng người đi, dù đường ngắn hay dặm dài...
Xôi đỗ xanh đỗ đen hoặc cơm nếp trắng bới vào mo cau hay lá chuối vẫn chỉ là cơm nếp, không thể giống cơm nắm gạo tẻ. Cơm tẻ là mẹ ruột. Cơm nắm chính cũng là mẹ ruột. Và muối vừng đậm vị dân dã đi đôi với cơm nắm quả là thần tình, sáng tạo.
Một lần khác tôi đi xa, ngồi nghỉ dưới bóng mát một cây cổ thụ ở lưng đèo. Giở cơm nắm ra ăn, gió đồng đưa hương lúa từ dưới thung lũng lên, đất đỏ thấm vào gan bàn chân, cây xanh toả bóng mát trên đầu... càng thấm thía vị cơm nắm mẹ cho mang theo dọc đường xa ngái.
Mẹ tôi không còn. Người bạn đời chung thủy của tôi lại học cách của mẹ truyền cho, thường gửi theo đường xa cho tôi những nắm cơm ân tình hệt như ngày cũ. Cái từ "truyền thống " dùng nhiều quá hóa nhàm, vậy nên gọi tâm tình ấy là gì nhỉ? Hỡi những người thương mến của tôi?
Tiệc tùng chỉ là đôi khi và cũng không phải là của tất cả mọi người, nhất là những người bình thường chúng ta. Ai đã nói câu ấy hay lời nói của nắm cơm?
Sơn hào hải vị, nem công chả phượng, bào ngư yến sào... là món ăn cao quý. Và ai mà chẳng từng ít ra được một lần ăn bữa cỗ linh đình, nhiều người còn ăn thừa mứa kiểu hiện đại, quá nhiều tiền bất chính hoặc không bất chính.
Chắc, dù là ai, đang sống sang trọng, ngày nào cũng đặc sản phát ngấy cũng không thể nào thoát được những bữa cơm nắm dọc đường. Nắm cơm không hợp với khăn bàn trắng, không ưa cùi dìa phóng xét. Nó là đồng quê, là gian khó, là tiết kiệm, là phòng xa... Không hiểu có hay không người nào quá quen bơ sữa mà quên mất vị cơm nắm? Có không nhỉ?
Không riêng nắm cơm người thân gửi cho. Ở nhiều bến tàu bến xe, ở trên tàu nữa, có những hàng cơm nắm bán rao để thuận tiện cho khách đi đường, dù là lữ khách tha hương hay bà buôn chuyến... những con người kẻ vội vã, kẻ thiếu mái ấm một gia đình, thiếu bàn tay chăm sóc. Những nắm cơm như thế chỉ là đỡ đói lòng khi nhỡ độ đường, vỗ yên cái dạ dày tàm tạm. Nó chẳng ngon lành được.
Và có thể nào quên năm đau thương Ất Dậu, 1945, có hàng triệu người không có nổi một nắm cơm, trong khi có rất nhiều hàng cơm nắm ở mọi nơi mọi chỗ. Nắm cơm lúc ấy hình tròn hơi dẹt và lõm một chút ở giữa, có lẽ là chỗ để chút muối vừng hoặc chí đơn giản muối rang. Ăn cầm hơi mà sống qua ngày. Cái nắm cơm đơn sơ ấy nó có sức mạnh ghê gớm, có thể nặng bằng một đời người vì có thể cứu sinh mạng một con người nếu đúng lúc. Bởi có ai cũng có nắm cơm như thế mà ăn đâu.
Cũng nghiệm ra bánh đúc riêu cua không thể bày trên bàn tiệc. Món nước vối không nên đựng vào cốc pha lê. Tương tự, cơm nắm làn dọc đường, không cần bát đũa, chẳng cần khăn bàn... Nó giống như tình yêu, chứa đựng sự chân thành là cốt yếu. Nó không cần hào nhoáng, cũng chẳng thích xa hoa. Nó là mảnh hồn chân chất của người Việt Nam chúng ta, người nào cũng mang trong con người mình, qua ngàn đời nghèo khó lam lũ, nhưng cũng ngàn đời chân tình chung thủy...
Cơm trưa văn phòngChả cần nhìn đồng hồ, chỉ cần ngửi thoáng mùi cơm hộp lướt qua cửa phòng làm việc nàng biết đã 12 giờ trưa. Giấy tờ xếp gọn lại. Chat online để chế độBuzy. Bạn bè khắc biết đã đến giờ nàng đi nạp năng lượng.
Cộng đồng cơm trưa văn phòng hơn mười năm nay của cơ quan luôn có mặt nàng. Bền bỉ. Và thành thạo với các “nghi lễ”: kéo ghế, kê bàn, trải báo, chia suất ăn, đặt sẵn một bình trà mạn. Hôm nào xôm hơn thì có hoa quả và đồ ăn ai đó mang
ở nhà đi để gia tăng dinh dưỡng cho bữa trưa. Nếu không thì cứ mỗi người một khay, cơm của ai người ấy ăn, rau của ai nẫu người ấy chịu. Ăn xong thì xếp gọn vỏ hộp ra ngoài hành lang, hai giờ chiều cánh phục vụ nhà hàng khắc đến lấy mang về. Bụng no, mắt mỏi, đàn ông đàn bà mỗi người làm chén trà mạn cho mồm miệng đỡ tanh tao rồi chui vào các góc trong phòng làm viêc, đánh một giấc. Thế là gọn. Dàn đồng ca của 7- 8 con người hôm nào cũng rôm rả. Đoạn thì ồ ồ như nước lũ dâng với những giá vàng lên, chứng khoán xuống. Đoạn thì râm ran con diễn viên này xinh nhỉ, hàng bún đậu ấy ngon nhưng mà đắt bỏ bố đi được. Đoạn thì chẳng còn tiếng ai nhỏ to, chỉ những tiếng phì phò đứt quãng.Nàng nhà xa, không vướng bận gia đình chồng con, ở lại cơ quan là tiện nhất. Nàng trung thành với sự tiện lợi ấy đã hơn mười năm ròng, thành thử cũng ngại thay đổi. Trời lạnh ngăn ngắt, mặt tái xám, lội cầu thang từ tầng năm xuống tầng một, lang thang quán xá vỉa hè cũng chỉ cho đầy cái bụng. Thế thì cứ ở văn phòng, tự khắc có người phục vụ tận nơi, chẳng phải sướng hơn?
Thực ra ban đầu nàng cũng thấy ghê sợ mùi cơm hộp ấy. Nàng không thể gọi tên một cách chính xác những mùi vị hỗn độn dâng lên trước mũi mình. Hơi nước mắm hoi hoi. Mùi tỏi xào rau muống nồng nồng. Hơi cơm hấp mùi khay nhựa gây gây… Thôi thì gọi chung là mùi cơm hộp hay mùi cơm trưa văn phòng cho nó văn hoa. Cái mùi ấy nó khiến nàng nôn nao. Nàng không còn muốn ăn nữa, dù bụng đang tóp dính cả lại.
Mùi buổi trưa sẽ ám cả đến buổi chiều bởi căn phòng khép kín với hai chiếc máy điều hoà kiễn nhẫn thổi gió. Cái thứ mùi đặc trưng - ngửi cái biết liền ấy còn đeo đuổi vào quần áo, đầu tóc. Chỉ khi chiều xuống, điều hoà tắt, cửa sổ mở, cái mùi văn phòng ấy mới nguội xuống, lẫn vào những giấy má, rác rưởi mà cô tạp vụ sẽ dọn dẹp vào cuối ngày hoặc sáng sớm hôm sau. Cũng là lúc căn phòng được hưởng tí khí trời và đẩy bớt những tỏi với cả nước mắm, cá kho lẫn thịt bò xào. Nhưng phải tận đến lúc về tới nhà, khi nàng đầm mình vào vòi hoa sen trong nhà tắm thì may ra mới gột hết nổi cái mùi dai như đỉa ấy.
Có hôm, mặc dù đã tắm gội xong, đã lên giường đi ngủ, nàng vẫn thấy cái mùi ấy lẩn quất quanh mình. Săm soi mãi thì ra thủ phạm là chiếc khăn quàng cổ cũng đã vô tư “nhiễm mùi” từ lúc nào.
Nhưng thực ra con người cũng dễ thích nghi. Và nàng thích nghi cơm trưa văn phòng cũng khá nhanh chóng. Khi bị hấp dẫn bởi những chuyện thầm thào phòng nọ ban kia đầy bí mật. Khi bị hấp dẫn bởi cảm giác khoan khoái của buổi giữa trưa gác chân thẳng lên bàn và xì xoẹt xỉa tăm, không phải lấy tay che miệng giữ ý như ngoài quán xá. Khi bạn bè thưa vắng dần, không tụ tập mỗi lúc ban trưa,
chỉ còn trơ trọi lại mình nàng…*
Thực ra lúc đầu phát sinh chuyện ăn trưa ở cơ quan cũng bị đẩy lên thành mâu thuẫn nội bộ, cãi vã tùm lum. Các cuộc họp giao ban chuyên môn thành
chiến trường phân định chuyện cơm trưa ăn hay không ăn ở cơ quan.
Người không ăn thì bảo
: phòng làm việc hay là phòng ăn của các vị?
Người ăn thì bảo
: ừ, phòng làm việc. Chỗ tôi tôi ngồi, việc tôi tôi làm. Mấy vị kêu gì. Tôi đi làm không ngồi cơ quan thì đánh đú ở đâu?
Người không ăn bảo lại
: Giờ ăn ra ngoài mà ăn. Chỗ làm việc chỉ để làm việc thôi chứ. Sao lại lẫn lộn giữa ăn với làm thế?Người ăn cãi
: Cơ quan tầng năm, tháng máy thì không, trời mùa hè thì nắng sém mặt, mùa đông thì lạnh tái cảcái ấy. Ra ngoài ăn thì chỉ có mỗi sảnh đi vào toilet là còn chỗ. Nhưng thử hỏi, ngồi ăn ở sảnh, giữa trời nắng như lò nung, hoặc giữa trời lạnh căm căm; ngay cạnh toilet, thế thì có còn coi là người hay là chó?
Giọng cãi có phần gay gắt khi bồi thêm cú đấm vào hầu bao: Lương ba cọc ba đồng, chúng tôi chỉ đủ tiền ăn cơm hộp. Làm gì có dư giả mà đi nhà hàng, mà ăn cơm suất những bốn năm chục nghìn. Chưa kể tiền xăng xe. Ai trả cho đây?
Sếp nghe đến hồi căng thẳng, thấy bên nào cũng có lý, những không thể để tiếp tục lời qua tiếng lại, gây mất đoàn kết cơ quan, bèn xuê xoa:
“Đề nghị các anh chị cho tôi cân nhắc.”
Ờ, cân nhắc thì cân nhắc. Cơm trưa văn phòng thì vẫn phải ăn. Không ăn để mà chết đói à. Trời đánh tránh miếng ăn. Cãi nhau thế chứ cãi nữa thì vẫn phải có cái bỏ vào mồm. Vậy là cứ đến 12 giờ trưa, nhà cơm hộp khệ nê bê túi lớn túi nhỏ, phân phát các phòng. 12 giờ trưa, đám nhân viên thuộc “hội cơm hộp” hò nhau ngồi túm tụm, mỗi người một khay, vừa nhồm nhoàm nhai vừa bốc phét. 12 giờ trưa, đám “nói không với cơm hộp cơ quan” lừ mắt đi xuống tầng, miệng lẩm bẩm “lũ vô văn hoá”.
Văn hoá gì? Văn hoá nào? Lương thế văn hoá thế thôi. Nhá!
Đám cơm trưa văn phòng phản pháo.
Sếp nấn ná mãi, chả biết quyết thế nào. Vậy là cứ giả bộ quên phứt đi cho xong.
Đấu tranh mãi thì cũng có hồi thoái trào. Vậy là cơm trưa văn phòng cứ duy trì đều đặn. Hết đậu sốt cà chua, thịt luộc, canh rau ngót lều bều mỡ lại xoay sang thịt bò xào đỗ xanh, canh cải. Chán cũng phải ăn. Ăn để mà sống, mà cống hiến cho xã hội chứ!
Nàng thuộc thành phần nhiệt tình
đòi bình đẳng cho đám cơm trưa văn phòng nhất.
*
Cho đến một ngày nọ.
Khi nàng tình cờ gặp chàng trong một đám sinh nhật. Dân kỹ thuật, biết làm ăn, có khiếu hài hước. Nàng ngoài 30, chưa chồng con, xinh xắn, dễ thương. Gặp nhau - chả ấn tượng đặc sắc nhưng cũng quý mến. Rỗi việc cơ quan,
chátquachátlại dí dủm cả ngày không hết chuyện. Buổi trưa đằng nào chả phải ăn, anh đánh ô tô qua đón em đi cùng. Chả mất gì! Nàng nghe tỉ tê mãi cũng bùi tai. Thôi đằng nào cũng là thay đổi không khí. Chứ nghe ông Bền gáy rung phòng mãi cũng chán.Nàng tạm ly thân với cơm trưa văn phòng 15.000 đồng và nồng nàn đủ thứ mùi hỗn tạp.
Hai người thường ngồi ở một quán nước có phục vụ ăn trưa, nhạc nhẽo dễ chịu. Café cà pháo rất vừa miệng. Những chuyện thế giới nhân loại rất chi là văn minh. Không phải ỉ eo khó chịu chuyện thằng ấy toàn lấy lý do xe hết xăng rồi mượn xe tạo chạy như điên. Con nọ thấy tao có mầu áo đẹp, hôm sau thửa cái giống y chang. Nó thừa biết tao ghét nhất bị đụng hàng mà còn giở trò ấy ra làm gì? Mụ kế toán phát lương cho tao toàn đếm thiếu tiền. Lão trưởng phòng mồm hôi nói chuyện với ai thì cứ ghé sát miệng vào mặt người ta, kinh bỏ bố đi được.
Và quan trọng là thoát ra khỏi cảm giác bị mùi thức ăn bủa vây. Vài ba bữa thì nàng thấy mình có phần khác lạ. Thấy mình tự nhiên được nâng niu quá thể. Mà sinh cảm động. Mà sợ quay lại cái quần thể buổi trưa ở cơ quan, nhỏ nhen, tù túng.
Rồi tiện đấy chàng đãi nàng món karaoke. Món này lâu nàng không dùng. Nàng vừa hát vừa đợi nhạc. Chàng lắc lư chai bia trong tay.Tay
áp tay, mặt áp mặt. Người rần rật áp sát vào nhau. Vậy là mặc nhạc cứ ỉ eo, cô người mẫu cứ lượn đi lượn lại trên màn hình, chàng dồn nàng vào góc phòng. Ghế bành dài và hẹp. Chỉ đủ cho một người nằm. Người nàng lịm đi.Hai giờ chiều về cơ quan làm việc, nàng vẫn còn cảm giác ngây ngất. Rồi nàng bắt đầu mơ mộng và tưởng tượng nhiều hơn mức cần thiết. Nàng đợi điện thoại của chàng. Cả ngày. Rồi thêm cả ngày hôm sau nữa. Và ngày nữa.Nó khiến cho nàng hoang mang.
Lẽ ra chàng phải vồ vập nhắn tin như nàng hy vọng vì những gì ngọt ngào hai người đã trải qua?
Lúc nàng bắt đầu hồ nghi thì chàng xuất hiện.
“Anh đã thấy mình được quá nhiều nên không dám đối diện với ngày hôm sau. Vì sợ…”
Câu nói nhanh chóng bóp vụn những hờn dỗi của nàng.
*
Một ngày nọ, chàng đến đón nàng sớm hơn mọi bận. Thay bằng việc đến quán café cơm văn phòng như mọi bữa thì xe lại đi thẳng đến nhà nghỉ .
Nàng – quên chưa ăn sáng - bụng éo ù ù. Sợ mang tiếng phàm ăn, nàng đành im lặng, không dám kêu ca.
“Chiều nay 1 giờ anh phải về công ty có cuộc họp”
Hoá ra chàng chỉ có hơn 1 giờ đồng hồ cho “cơm trưa văn phòng” của mình. Vì vậy chàng phải tranh thủ. Chàng hối hả ôm lấy nàng, hít hà phía sau gáy. Hai tay lần xuống dưới hông nàng.
Bụng nàng vẫn réo òng ọc. Nàng thầm thì:
“Ở đây có gì ăn không nhỉ? Em đói quá”
Chàng nhanh chóng mở cửa đi ra ngoài. Một loáng sau trở về với hai chiếc bánh ngọt đóng túi bóng hiệu Staff và hai hộp sữa tươi.
“Em ăn đi”
Chàng hối hả vừa mút sữa vừa nhai bánh. Chưa đến năm phút chiếc bánh đã nằm gọn trong dạ dày.Nàng - bụng réo ù ù, bánh vẫn không trôi khỏi cổ.Nàng cố uống hết hộp sữa tươi. Tự nhiên thấy mệt mỏi.
Chàng hình như không mấy để ý. Hết khẩu phần ăn, chàng òng ọc vào toilet súc miệng, đoạn đi ra, trút dần quần áo trên người. Thao tác như một kiểu dây chuyền công nghiệp.
Người chàng gày gò. Không mùi. Có đôi lúc nàng không khỏi ngạc nhiên về tính “không mùi” của chàng. Nhưng đúng như vậy.Sau những lần gần gụi với nhau, nàng tuyệt nhiên không ngửi thấy bất kì mùi gì trên người chàng. Ít ra thì cũng để mà nhớ.
Chàng quyết định khoả thân trước. Mảnh vải cuối cùng được gỡ ra khỏi người.
Nàng đã uống hết hộp sữa. Tự nhiên lợm cổ, muốn nôn khi nhìn thấy con giống của chàng bé xiu xiu, ngỏng lên, sốt ruột chờ đợi.
Cơm trưa văn phòng không nước mắm hôi, không tỏi xào sao vẫn khiến cho nàng nôn nao bụng dạ.
Nàng hối hả chạy ra ngoài, gọi xe ôm.
*
Từ bữa ấy, nàng tiếp tục điệp khúc cơm trưa văn phòng 15.000 đồng với cánh cơ quan.
Và ít mơ mộng hơn.
Con chó xấu xí
Kim Lân
Tiếng con chó tự trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một "ắng!... ắng! ắng!...". Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. "Thôi để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu...". Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.
Nó là một con chó xấu xí! Xấu đến nỗi trong nhà chẳng ai buồn đặt cho nó một cái tên. Nó không được là tôtô, kiki, cũng chẳng là quýt, là cún, là gì gì cả. Gọi nó người ta chỉ việc "êu, êu..." như gọi bất cứ một con chó nào là nó đến. Mãi đến lúc nó chết, đại khi nhắc đến, vợ tôi mới gọi nó bằng cái tên nghe rất đỗi thương yêu: "Con Mực nhà ta... Ngày Tây nhảy dù Việt Bắc, con Mực nhà ta... Ngày con Hiền mới chập chững biết đi, con Mực nhà ta..." Khốn nạn, cái "con Mực nhà ta" ấy, thực ra từ lúc mua, đến lúc chết, nó phải chịu sự ghét bỏ, hắt hủi của mọi người trong nhà tôi y như đứa trẻ, con một người làm lẽ thứ năm, thứ bảy trong một gia đình giàu có, đông con mà bố mẹ chết rồi phải ở với anh, chị con bà cả vậy. Ngày ấy con bé đầu lòng của tôi chưa đầy tuổi tôi, vợ tôi cần có một con chó nhép để cho nó "dọn". Cái trò đàn bà hay tham rẻ, chỉ tính đến chuyện được việc. Nhà tôi mua nó đâu có ba hào chỉ. Tôi bực mình lắm. Cứ thoáng trông thấy nó, tôi đã lộn ruột lên rồi. "Chó gày khổ mắt người nuôi!" ừ thì trong lúc kháng chiến này cũng chẳng nên kén chọn, cầu kỳ đến những giống chó đồ, chó kiểu làm gì, nhưng đã nuôi cái của giống má trong nhà, ít ra cũng phải sạch mắt thì mới coi được. Đằng này, con chó nhà tôi mua, nom nó thảm hại quá. Nó không còn thể gọi là con chó được nữa. Nó bằng cái nắm đấm thế này, vừa bé, vừa lường, còm dóm như con chuột trù ốm ấy. Nhất là những hôm đang lạnh bỗng dưng trở nắng, con chó nhà tôi ra sân ngồi sưởi thì, giời đất cha mẹ ơi, không còn thể sao khươm được. Bẩn mắt quá! Nó ngồi gù gù ngoài bóng nắng như anh nghiện thiếu thuốc. Cái mặt gục xuống, rớt rãi chảy ra, hai con mắt ướt nhoèn hai cục nhử trắng nhã. Cái lưng khòm khòm nổi lên từng đốt, từng đốt xương sống. Cái con chó khốn khổ ấy nó không còn đủ cả lông để che kín thân thể nữa. Lông nó lường ăn rụng từng đám lơ phơ, nham nhở và đỏ bẻm như đám cỏ ấy. Da lưng, da bụng, da cổ trật ra sần sùi, cóc cáy, đến cả cái đuôi cũng không đủ lông. Đuôi nó thun lủn một mẩu xám xịt như đuôi con chuột cống già. Dưới ánh nắng mùa hanh rát ràn rạt, lớp da răn rúm bọc ngoài cái thân hình gầy gùa, lủng củng những xương của nó, lúc lúc lại thấy rùng lên. Nó khẽ rên ư ử một cách sung sướng và thê thảm... Tôi bảo nhà tôi đem mà vứt mẹ nó đi, không có cho ai thì cho. Nhà tôi chỉ cười:
- Cho là thế nào? Để tăng gia đấy. Nhà tôi cũng biết chót mua phải con chó xấu quá, nên mỗi bạn tôi kỳ kèo chỉ cười, nói quấy quá cho xong lần. Còn con chó thì hình như nó cũng biết thân phận nó, biết tôi ghét nó, mỗi lần thấy bóng tôi từ xa, cu cậu đã lui lủi lỉnh đi chỗ khác.
Nó cúi gằm mặt xuống, mắt lấm lét nhìn trộm, cái đuôi thun lủn một mẩu thịt cháy thì khẽ ngoáy ngoáy mừng nịnh. Tôi càng ghét. Cho mãi đến hôm có Đặng ở đoàn kịch của tỉnh đi qua tạt vào thăm, con chó ấy mới được yên thân với số phận Đặng quyết định cho nó và, từ đấy tôi cũng thôi không kỳ kèo nhà tôi nữa. Đặng là một tay bợm rượu. Anh em bạn chơi vẫn gọi anh ta là Đặng cồn. Người anh ta lúc nào nom cũng ủ dột. Mặt trắng bự, mắt ướt nhoèn, lưng gù, cặp kính trắng thõng xuống đến cánh mũi. Cái miệng chảy thễu ra lúc nào cũng thấy đánh tóp ta, tóp tép như cóc thèm muỗi. Thường khi cả ngày chẳng thấy anh ta nói một câu, ấy hễ mà ngồi vào mâm rượu là cả người anh ta bỗng tỉnh táo, linh hoạt và cái khuôn mặt bệch bạc, rụng hết lông mày của anh phút chốc rạng rỡ hẳn lên. Lúc ấy sao mà anh ta nói chuyện có duyên đến thế! Anh gọi chó là "hươu thềm", là "nàng thơ của cụ Lỗ Trí Thâm". Chó vàng anh gọi là "ka ki", chó đen anh gọi là "nhung Thượng Hải". Những con chó thui nhoáng mỡ treo lủng lẳng trước quán hàng anh gọi là "leo coóc" v. v... Hôm Đặng vào chơi tôi, con chó ấy đang ngồi phơi nắng ở giữa sân. Cũng như mọi bận, vừa thấy động bóng người, cu cậu đã lử khử đứng dậy, cúi đầu lặng lẽ lui lủi xuống bếp. Nhưng mà Đặng đã nhìn thấy nó rồi. Anh ta tiếng rằng hấp him, cặp bà lời nhưng lắm cái lại tinh ra phết. Vừa thoáng thấy con nhãi nhép ấy, anh ta bỗng reo lên:
- A ha, nhà này vừa sắm được của quý!
Nhà tôi ngồi trong bếp nhìn ra chưa hiểu nhà mình sắm được cái của quý gì, Đặng đã ngồi sà xuống đất, nheo mắt khẽ gọi:
- U, chậc, chậc chậc!... Tiếng gọi nghe thật dịu dàng, âu yếm. Con chó đứng lại lưỡng lự, nghi ngờ. Từ ngày về nhà này có bao giờ nó được nghe cái tiếng gọi thương yêu đến như thế.
- U, chậc chậc chậc!... Con chó sướng quá, ngoáy tít cái đuôi trụi, dặt dẹo trên bốn cái khoeo gày quay trở lại. Đến gần Đặng, nó nằm rạp xuống, thè lưỡi ra liếm liếm, và khẽ rít lên ư ử. Đặng cúi xuống nghiêng nghé cặp kính nhìn con chó hồi lâu, anh gật gù, tấm tắc khen:
- Hay! Hay lắm! Sáng kiến của bà Hiền phải không? Nhà tôi thấy Đặng chú ý đến con chó mình mua một cách đặc biệt như vậy cũng hởi lòng hởi dạ. Nhà tôi cười bảo anh ta:
- Vâng tôi mua đấy anh ạ. Thế mà nhà tôi cứ bảo đem cho...
- Cho là thế nào!
- Đặng trợn mắt lên cướp lời
- Chị cứ để đấy cho tôi. Ba tháng nữa tôi giở lại, được vô khối là việc. Đặng nháy tôi một cái, làm dáng điệu đang thủ một cái chầy sau lưng, miệng ngọt ngào gọi "êu, chậc..." rồi thình lình anh trợn mắt, mím môi bổ xuống không khí một cái thật mạnh:
- A lê hấp! Cho một chầy, chị biết chửa? Đặng cười ré lên một hồi ròn khanh khách. Con chó dưới chân Đặng cồn giật thót người, cúp đuôi chạy vút đi. Đặng càng cười đắc ý. Đi với Đặng cồn còn có Nhược Dự. Bận nào Đặng đến nhà tôi, Nhược Dự cũng đi theo. Anh ta là người khó hiểu, khôn ngoan và kín đáo. Ngồi nói chuyện với anh ta khó mà biết được ý thật của anh ta như thế nào. Bao giờ anh ta cũng nói theo ý của người khác và nếu gặp một ý nào đối chọi lại lập tức anh ta rụt lại ngay. Lúc nào anh ta cũng khoác bên ngoài cái vẻ lờ mờ, rụt rè như một người lạc lõng, hiểu rất ít về thời cục. Hồi mới chạy lên trên này, Nhược Dự còn để cái đầu trọc. Cái đầu sinh ra từ ngày còn Nhật chưa có dịp chuyển sang đầu thường, nhưng chỉ mấy tháng sau tóc anh đã mọc rất dài, không những thế anh còn để cả bộ râu dài lượt mượt như một ông cụ nữa. Bộ râu lạc lõng trên cái mặt non choẹt, trắng nhẫy nom như râu đóng kịch. Có bộ râu ấy, anh có thể rền rĩ, than thở với mấy ông xã đội trưởng rằng mình già yếu không thể đi canh gác, hay đi phá đường được; hoặc từ chối một vài việc gì đấy mà ủy ban muốn nhờ anh ta giúp đỡ. Trước ngày, Nhược Dự cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện "ái tình" lâm lá, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo, quen thuộc, rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ Mỹ ký. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa, mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn. Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cả già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi, đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bếp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn luẩn quẩn, mê luyến với cái không khí của một thời "oanh liệt" của ông chồng trước kia... Trước mặt người lạ, họ đối đãi, nói năng với nhau hoa mỹ, kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai! Người như vậy, kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dự trước kia có viết văn, cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ, băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc, vì anh ta nặng gánh gia đình, vì anh ta bệnh tật, đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm.
Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ, không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cập kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh khó chịu, tức tối ngấm ngầm, có khi phải tủi hổ. Mỗi lần Đặng có việc đi qua tạt vào chơi, vợ chồng Nhược Dự rất mừng. Trong số bè bạn ngày trước chỉ cóĐá Đặng là chịu chuyện được vợ chồng nhà này. Nhược Dự vớ được Đặng như người chết đuối vớ được cọc. Mỗi lần gặp nhau lại rượu. Trên mâm rượu "tha hương ngộ cố"... ít ra anh ta cũng nói được đại ba câu cảm khái vụn, ngâm ngợi một vài bài thơ than thở cho thân, cho thì. Có lần rượu vào anh ta rũ xuống mà khóc. Hôm Nhược Dự theo Đặng đến nhà tôi chơi, thấy Đặng có ý kiến về con chó ghẻ như vậy, anh ta liền "bốc" ngay. Anh ta ca tụng các món thịt cầy, ca tụng cái đạo của những ai biết thưởng thức thịt cầy, cuối cùng anh ta hẹn ba tháng nữa, Đặng trở lại sẽ hội ẩm một chầu thịt cầy có thể gọi là "phanh dương, tể ngựu..."
- Cô hai nhà moa sẽ đội sang một cái quả sơn đầy bún với hai cây rượu đặt thật trứ danh. Các toa sẽ thưởng thức của bà cả nhà moa món giò chó, món thịt chó hầm cách thủy, món thịt chó hấp... à, các toa đã được nghe bà cả nhà moa ngâm "Hồ trường" chưa? Này "en" mà ngà ngà mấy chén vào, ngâm "Hồ trường" thì lạ lùng hết sức... Buồn mà thấm vô cùng...
Thực tình trong lúc này, tôi chẳng thấy hay ho gì những cái trò ấy. Nhưng thôi, con chó như thế, nó cũng yên với cái phận của nó rồi. Tôi cũng thôi không còn phải băn khoăn, kỳ kèo, ca thán gì về nó nữa. Trong những ngày chờ đợi nó béo, lớn lên, tôi như đã quên nó, coi như không có nó trong gia đình. Đôi lần gặp Đặng, anh ta có nhắc nhở, tôi mới nhớ ra và trả lời một cách mù mờ rằng: con chó ấy có dễ nó cũng kha khá lên rồi. Thật ra tôi có biết bây giờ con chó nó gầy, béo ra sao đâu. Một phần vì độ ấy cơ quan tôi đã chuyển sâu vào rừng, tôi ít khi về nhà; một phần vì con chó ấy cứ thoáng thấy bóng tôi, nó đã lui lủi lỉnh đi, nằm bẹp ở xó xỉnh nào rồi. Một buổi chiều, tôi vừa ở cơ quan ra thì gặp Đặng khoác ba lô, chống cái gậy hèo khật khưỡng đi tới. Thấy tôi, anh ta mừng quá, phì cả hơi rượu vào mũi tôi, nói choang choang giữa rừng:
- À, mày... Thằng Hiền! Thế nào, to chưa? To rồi chứ còn gì? Tôi đứng ngây ra không hiểu Đặng hỏi tôi cái gì to chửa. Anh ta phì cười, phát đen đét vào vai tôi:
- Bố khỉ, bố đần!... Con chó ốm nhà mày ấy, to chửa? Khử được rồi chứ còn gì? Tôi gật đầu cười "à à...". Ra cái tay bợm rượu này không lúc nào nó quên được con chó!
- Tao đã bảo vợ chồng nhà Nhược Dự rồi. Hai chai bố trong suốt như nước suối... Anh nháy tôi một cái, ngấp ngó cặp kính thõng xuống tận mũi, nhìn tôi:
- Kể ra vợ chồng chúng nó cũng có khí... nhạt đấy. Mặc mẹ, được việc cho mình thì thôi, hả? Anh ta cười khá lên một dịp ròn tan.
- Chủ nhật hả! Chủ nhật này mày về, ta làm một chầu văn hóa cao! Đặng bắt tay tôi, hỉ hả chống gậy lên đường. Nhưng sự đời có mấy khi chiều những ý muốn đã định trước. Đặng vừa đi hôm trước thì hôm sau có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, rồi có tin giặc từ Bắc Giang đánh lên, Bắc Ninh đánh sang. Lối Kim Tràng, Cầu Xim, Cầu Đồng; bên núi Hia, núi Đót; dưới chợ Lữ, bến Lủi, bến Phà, đâu đâu cũng có giặc cả rồi. Người các mạn dưới đánh trâu, bò, bồng bế, gồng gánh chạy giặc dạt lên đen kín cả ngoài cánh đồng. Cơ quan tôi đã chuẩn bị từ trước, vừa có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, lập tức chuyển sâu thêm nữa vào rừng, sang một địa điểm tỉnh khác. Tôi được anh em đồng ý cho về thu xếp gia đình rồi sẽ theo cơ quan sau. Anh em ai cũng biết cảnh nhà tôi neo bấn, chỉ có một mình vợ tôi với đứa con gái nhỏ, lại ở vào giữa vùng giặc đang đánh lên, một mình vợ tôi sẽ không biết xoay xỏa như thế nào trong cái tình thế khó khăn, bối rối ấy được. Tôi về chuyến ấy, có ý định sẽ đưa gia đình theo cơ quan, ở một trại ấp hẻo lánh nào đấy cách cơ quan tôi chừng độ dăm bảy cây số cho tiện sự đi về thăm nom. Con chó của tôi như thế không thể "làm một chầu văn hóa cao" như Đặng hẹn nữa, và cái số phận của nó cũng vì cuộc chạy giặc ấy mà thay đổi. Đêm ấy tôi từ cơ quan về đến nhà thì vợ con tôi đã chạy cả rồi. Hàng ấp cũng không còn nhà nào ở lại. Xóm ngõ vắng tanh, súng giặc nghe rền từng chập. Nghe rõ tiếng liên thanh ùng ục và, từng phát súng trường lẻ tẻ rít vào không khí. Tôi biết vợ con tôi đã chạy vào đồng Kĩnh. Từ mấy tháng nay, mỗi bận tôi về nhà, hay viết thư về cho nhà, tôi đều căn dặn vợ tôi lúc nào cũng phải hết sức gọn gàng, phòng giặc đánh lên, hoặc nhảy dù là có thể bế con chạy ngay được. Trường hợp tôi chưa về kịp, mẹ con hãy chạy vào nhà cụ bếp Móm trong đồng Kĩnh làm chỗ liên lạc, tôi sẽ về đón. ở trong ấy gần rừng, hẻo lánh dễ chạy, mà cụ bếp Móm lại là chỗ đi lại quen biết từ trước, nhỡ xảy gặp khó khăn có thể nhờ cậy được. Tôi đảo về qua nhà, đi vẩn vơ ngoài cái sân bỏ vắng mấy lượt, rồi cắm đầu đi thẳng vào đồng Kĩnh. Bấy giờ đã khuya lắm. Đêm tối vẫn rùng rùng bóng người, bóng trâu bò chạy giặc. Người ở vùng dưới chạy lên đây, người ở đây lại chạy mãi vào những mạn ven rừng. Trong các búi cây, bờ ruộng, khe suối, rệ đồi, trong các lều quán ven đường, chỗ nào cũng thấy nhan nhản những người. Chỗ nào cũng nghe tiếng trẻ khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, chửi rủa. Ruột gan tôi càng rối lên. Vào đến nhà cụ bếp Móm, tôi giục nhà tôi thổi cơm ăn, chuẩn bị đi ngay đêm nay. Bây giờ tôi mới chợt nghĩ đến con chó. Tôi thấy nó vương vướng. Đem nó theo gia đình lúc này thật chẳng được tích sự gì, rất phiền, mà rất có thể nguy hiểm.
Mà bỏ nó lại thì... thật ra trong lòng tôi cũng áy náy. Trong cái lúc chạy giặc này, trong cái lúc con người ta đang phấn đấu giành lấy sự sống, sự đoàn tụ, yên vui, phải bỏ lại bất cứ một vật gì đã có trong gia đình mình cũng đều thấy xót xa như phải bỏ lại một con người và có cảm giác như đấy là một cuộc chiA Ly phũ phàng giữa cái sống và cái chết. Con chó ấy, từ trước vẫn sợ tôi, thoáng thấy bóng tôi là tránh cho thật xa, đêm nay hình như nó cũng thấy có những cái gì khác hẳn, cái gì như là tan nát, thấy tôi về, nó mừng quá, nó quên cả cái thói quen sợ tôi của nó, nó chạy bổ ra với tôi, mừng rối rít. Nó quấn lấy tôi, dều dễu theo tôi, nằm phục dưới chân tôi mà hít hít, ngửi ngửi rên lên những tiếng ư ử sung sướng, thân thiết. Thì ra những lúc gian nguy, chẳng những con người, đến con vật cũng quên hết những ghét bỏ, hiềm khích cũ mà gần gũi, thương yêu nhau, thấy cần phải nương tựa vào nhau mà sống. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự không biết đối xử với con chó này như thế nào, bỏ nó lại, hay là mang nó đi?... Người chạy giặc vẫn kéo lên mỗi lúc một đông. Có tốp tiếp tục đi mãi vào trong mạn rừng, có tốp nghỉ lại ở đây. Cái túp nhà ông cụ bếp Móm chặt nèn những người. Trong số những người mới đến tôi thấy có cả ba vợ chồng Nhược Dự, tôi mừng quá, chạy ra hỏi tin giặc. Nhược Dự với cô vợ hai không nói gì. Đêm nay anh ta thay đổi hẳn, gặp tôi anh ta cũng chẳng thấy nhích lên được một nét vui nào. Anh ta chỉ lầm lầm cái mặt và thở dài. Sự lo lắng, chán nản, oán trách hiện lên đầy mặt. Anh ta đối với tôi lúc này lại như có vẻ hờ hững, khó chịu. Trái lại chị vợ cả lại nói rất nhiều, cặp môi ăn trầu thuốc thâm đen của chị cuốn lên. Chị nói bằng mắt, bằng tay, bằng nét mặt, bằng tất cả cái sắc sảo của một tay buôn lọc lõi. Có lúc chị nói liên liến một hồi như cái máy khâu đạp cố rồi đột nhiên ngừng lại, đưa mắt dò la đánh giá người nghe, có lúc chị nói khoan thai thẽ thọt như thể giọng mẹ chồng ngồi kể xấu nàng dâu. Có lúc chị giả giọng ba bốn người trò chuyện đối đáp với nhau. Chị vừa nói vừa cười ròn khanh khách. Kể chuyện giặc đánh lên, giặc đốt làng mà giọng chị nghe văn hoa, hồ hởi như chuyện vừa kiếm được món hời.
- Tại anh Nhược Dự đấy, kêu là chiều tối rồi, nó không lên nữa, để sáng sớm mai hẵng chạy còn kịp chán. Thế mà ai ngờ nó đi đêm anh ạ. Nó đốt cái quán ở đình Bùi của tôi rồi. Tiếc quá.
- Nó lên đình Bùi rồi chị? Chị bổ cái mặt chị vào mặt tôi:
- Chả có hai lần đình Bùi! Nó đến Nhã Nam rồi anh ạ. Thật cả là một sự điêu linh. Cũng chỉ tại mấy bố du kích nhà ta thôi anh ạ. Súng ống chẳng có, có mấy khẩu súng kíp còm cũng đậm đọp bắn nó. Nó mấy cáu, nó mấy đốt cho. Nó đốt đình Bùi, đốt Cao Thượng, bây giờ nó đang đốt Nhã Nam đấy. Vợ chồng tôi vừa chạy giặc, vừa ngoảnh lại nhìn ngọn lửa quân xâm lăng tàn bạo nó đốt nhà, đốt cửa của đồng bào mà trái tim của vợ chồng tôi tưởng chừng như sắp sửa tan vỡ ra từng mảnh... hé, hé, hé...
Chị ngửa cổ, bưng miệng cười khé lên. Mặt anh chồng cứ nhăn như bị. Nhược Dự vốn là người kín đáo, giữ gìn, có điều gì hậm hực, không được như ý, anh ta chỉ hậm hực riêng với mình, hoặc quá lắm thì anh hậm hực với hai bà vợ của anh. Cái lối văn hoa giả khôn, giả dại của bà vợ anh, thường ngày làm cho cái cửa hàng bún riêu của vợ chồng anh đông khách, người ta ngồi ăn hàng và xem một người ăn nói lạ tai như vậy cũng thấy hay hay, nhưng hôm nay, nghe vợ nói năng như vậy Nhược Dự ta khổ tâm quá, khổ tâm lắm. Anh khổ tâm không phải cái lối nói ba hoa, giả dối của vợ mà có lẽ anh khổ tâm vì bà vợ của anh không biết giữ mồm giữ miệng, nói những điều mà anh chỉ dám nói trong cổ họng. Anh ta vội hỏi tôi một câu, có ý lái khéo câu chuyện sang hướng khác:
- Lâu nay toa có sáng tác được cái gì mới không? Hình như thấy câu nói của mình lạc lõng không hợp với tình thế lúc này, anh ta hỏi thêm:
- Lâu nay toa có gặp Đặng không? Toa có biết lúy chạy đâu không? Tôi chưa kịp trả lời, Nhược Dự đã quay ra nói gì nho nhỏ với bà cả. Hình như anh không cần thiết câu trả lời của tôi cho lắm. Tình hình lúc ấy đột nhiên lại thấy lộn xộn. Người ở ngoài chạy dồn vào, người ở đây lại nhốn nháo kéo nhau đi. Tin người tản cư nghe mỗi lúc một khác, những tin không biết từ đâu truyền đi rất nhanh. Lúc có tin giặc đã đến Nhã Nam, lúc có tin giặc ở Thái Nguyên đánh sâu vào rừng lùng các cơ quan, lúc lại có tin giặc ở Thái Nguyên đốt phá Thác Huống, Đá Gân. Mạn Vĩnh Yên, Phúc Yên cũng có tin giặc vào đến chân Tam Đảo. Con đường tôi và vợ con tôi phải đi qua đêm nay cũng có tin giặc đánh đến nơi rồi. Đằng nào cũng phải vượt thôi!
- Này mình ạ...
- Tôi nhìn nhà tôi đắn đo một lúc
- Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy, tôi nghĩ không thể đem nó đi được đâu.
- Sao, mình bảo gì cơ? Nhà tôi ngồi nắm nắm cơm bằng chiếc khăn tay trên mặt cái sàng, ngẩng lên nhìn tôi sửng sốt. Tôi ngập ngừng nói thêm:
- Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy không thể đem nó đi theo mình đêm nay được đâu.
- Sao lại không đem nó đi được! Mình nói tôi chẳng hiểu ra sao cả. Nhà tôi cau mặt lại một cách khó chịu:
- Nuôi nó ngần ấy ngày giời, gặp lúc như thế này lại định bỏ nó! Mình nghĩ thế nào, lại tính thế? Chả thà là thịt nó đi như anh Đặng nói lại đi một nhẽ. Tôi nín lặng chẳng biết nói với nhà tôi như thế nào, trong lòng thật cũng thấy hổ thẹn với những ý nghĩ của mình. Ngoài kia, ba bốn đám lửa đốt làng, đốt phố rừng rực trong đêm tối. Những đám lửa nom gần lắm rồi. Tôi càng nôn nao, bối rối, tôi nói với nhà tôi như dỗ dành, như phân trần:
- Có phải rằng tôi muốn để lại nó đâu, nhưng mà giặc thì nó đánh đến nơi rồi, xung quanh mình chỗ nào cũng có tin giặc, mình đem nó đi làm sao được... Thôi, đành nhẽ là phải gửi nó lại... Sau này giặc yên, về ta lại đem nó về... Nhà tôi cắm cúi nắm nắm cơm không trả lời. Nắm xong, nhà tôi lẳng lặng thu xếp, bỏ vào quang gánh, rồi đi vào trong nhà. Nét mặt nhà tôi lúc ấy nom lầm lì và buồn bã vô cùng. Lát sau nhà tôi và cụ bếp Móm từ trong nhà đi ra. ông lão bước nhanh về phía tôi, xăm xắm:
- Thôi được, hai bác không đem được nó đi thì để lại, tôi trông nom cho, anh em mình, lo gì. à hà, con chó này đang ngon thịt đây...
"Quái thật, làm sao ai nhìn đến con chó cũng nghĩ đến chuyện thịt?" Tôi thấy hơi khó chịu. ông lão chắp hai tay sau đít, cười gật gật ngắm nghía con chó. Chừng như con chó ấy nó cũng thấy có điều gì khác ý, nó vội rúc vào chân tôi liếm liếm, ngửi ngửi, hai chân nó đập đập vào chân tôi, ngoáy đuôi mừng mừng. Nhà tôi chẳng nói chẳng rằng, một tay cầm cái xích, một tay nắm gáy lôi tuột nó ra, xích nghiến lại. Con chó giật mình, hoảng quá nó chồm lên và càng cố lăn vào chân tôi, trốn tránh, giẫy giụa, kêu ăng ẳng. ông cụ bếp vui tính thấy thế cứ nhe bộ lợi ra cười kha khá, còn nhà tôi thì hai mắt càu cạu, môi mím chặt lôi sềnh sệch con chó ra một cách phũ phàng. Nhà tôi buộc nó vào gốc mít gần đấy. Con chó lăn lộn trong cái xích căng thẳng, cái xích vít cổ nó lại, nó cố nhoai về phía tôi mà không được, nó tru lên từng hồi. Trong ánh lửa cháy bập bùng ở bếp hắt ra, tôi thấy mắt nó có hai đốm lửa nhỏ tý. Hai đốm lửa ấy nhìn vào tôi oán trách, cầu khẩn lúc lại thấy như thù hằn, giận dữ. Tôi cúi mặt xuống, không dám nhìn vào con chó ấy nữa. Khốn nạn thân nó, bây giờ chắc nó biết chủ nó bỏ nó. "Thôi, để chuyến này chạy giặc về, tao sẽ nuôi mày, tao không dám phụ mày, tao không thịt mày nữa đâu"... Nhà tôi đã thu xếp quang gánh, đồ đạc xong. Đứa con gái nhỏ của chúng tôi ngồi gọn bên một thúng, xung quanh nó quây chăn, tã cho ấm, phía trên che một cái chiếu cuộn khum khum như cái mái lều. Một bên là nồi niêu bát đĩa, tương muối và các thức cần dùng khác. Bây giờ nhà tôi mới cầm một bọc gạo vừa mới san ở trong bị ra, đi đến trước mặt cụ bếp Móm:
- Thôi, chúng cháu đi đây... Nước mắt nhà tôi bỗng giàn ra, nhà tôi đứng im trước mặt cụ bếp nghẹn ngào không nói được. Tiếng con chó vẫn kêu ăng ẳng và, tiếng cái xích căng ra xoắn vào thân cây mít lục cục.
- Cháu... gửi lại cụ một ít gạo đây, nhờ cụ trông nom nó giúp cháu... Sau này thiếu đủ như thế nào, về cháu sẽ xin thưa lại với cụ...
- Được! Được! Chỗ tôi với hai bác ấy mà. ông cụ bếp cười, sua sua tay, gạt đi. Nhà tôi khẽ chào ông cụ, bước vội về phía quang gánh. Tôi cũng đứng dậy khoác ba lô, ôm bọc chăn màn chào cụ bếp, bước theo nhà tôi. Từng chặp súng máy nổ rền ngoài đêm tối. Và, đám lửa đốt làng, đốt phố ở mé Cao Thượng càng khuya nom càng rừng rực ngất trời. Bao giờ cho giặc rút? Bao giờ cho vợ con tôi được sống yên ổn dưới một mái nhà? Tôi thèm một cái mái nhà... "ắng!... ắng! ắng!..." Tiếng con chó lồng lộn, cuống quít đằng sau bước chân tôi. Nó như gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách. Tôi lẳng lặng bước qua chỗ vợ chồng Nhược Dự đang đứng. Rõ ràng anh ta biết tôi đi nhưng lại lờ đi như không nhìn thấy. Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cả nói với chồng:
- Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ. Và tiếng anh chồng dấm dẳn:
- Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!... Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi. Đêm "thu đông" lạnh buốt. Rải rắc trong những búi sim, mua rậm, bóng những người chạy giặc nằm ngả ngốn, chụm đầu vào nhau nói chuyện rì rầm. Trâu bò hàng đàn sồn sột gậm cỏ thầm trong tối.
Tiếng con chó tự trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một "ắng!... ắng! ắng!...". Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. "Thôi để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu...". Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.
* * *
Hai tháng sau tôi về. Giặc rút lâu rồi. Cuộc tấn công rầm rộ của chúng nó ngày ấy ai ngờ lại là cuộc đánh tháo cho đám quân mắc nghẽn ở giữa rừng già trong thị xã Bắc Cạn. Chúng nó tràn lên đâu trong vòng chỉ có nửa tháng thì rút hết. Vợ con tôi cũng đã dọn về nhà cả rồi. Dọc đường từ cơ quan về thăm gia đình hôm ấy tôi rất vui. Bao nhiêu nỗi vui dồn đến chen chúc rộn ràng trong ý nghĩ. Mấy tháng ở cơ quan, ngày lại ngày trông ra chỉ thấy cây già và núi thẳm bưng bít xung quanh, bây giờ về xuôi, tôi lại được thấy trời rộng, sông dài và những cánh đồng bát ngát. Tôi lại sắp được gặp vợ, gặp con tôi. Mỗi bước chân, bao nhiêu vui sướng. Nhưng mà tôi đã quên mất con chó khốn khổ ấy. Nhà tôi thấy tôi về, mừng quá cũng không kịp nhắc đến nó. Sau một trận giặc đánh lên, cái sống cái chết kề bên bây giờ mới được đoàn tụ, ai mà còn kịp nghĩ đến một con chó xấu xí! Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng cồn từ đầu ngõ đi vào, bấy giờ tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:
- À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à? Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy ngày giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.
- Nó chết rồi!...
- Nhà tôi nói khe khẽ.
- Chết rồi? Làm sao mà chết được?... Tôi trố mắt lên hỏi lại. Nhà tôi cúi mặt xuống, thở dài:
- Nó chết thương lắm cơ mình ạ. Không phải nó chết trong cụ bếp Móm đâu. Nó về nhà ta nó chết đấy. Nhà tôi ngừng lại, cắn môi chớp chớp hai mắt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi đứng dậy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mời anh rồi mới tiếp tục câu chuyện. Chao ôi! Con chó xấu xí ấy, của tôi! Con chó từ lúc mua, đến lúc chết không được một lần vuốt ve! Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá. Từ hôm vợ chồng tôi gửi lại nó cho ông cụ bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. Nó chỉ kêu. Nó kêu suốt ngày, suốt đêm. Một đêm, ông cụ bếp không thấy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích đi đâu mất rồi. Hôm nghe tin giặc rút, ở trong khe đồn Khau Vắt dọn về, nhà tôi tạt vào nhà cụ bếp Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy nữa. Lúc ấy nhà tôi cũng yên trí là con chó mất rồi. Chắc chắn nó sẽ lạc vào một trại ấp nào đấy và người ta làm thịt nó. Nhưng khi nhà tôi về đến nhà. Bà con xóm giềng vừa chạy sang láo quáo thăm hỏi thì, ở ngoài vườn sau, có mấy tiếng chó hú lên thảm thương và ghê rợn. Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn một dúm xương da sộc sệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã rụi bên này, rụi bên kia. Rồi nó không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê dần về phía nhà tôi. Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là còn ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm vào tay chủ. Khốn nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết. Tôi tối xầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỷ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu? Đặng vẫn ngồi im. Từ lúc đến, đến lúc nghe xong câu chuyện, Đặng vẫn ngồi im. Hình như câu chuyện con chó ấy của nhà tôi kể làm anh có điều gì áy náy, nghĩ ngợi.
- Này, lâu nay cậu có được tin gì về vợ chồng Nhược Dự không? Lúc lâu sau Đặng chợt ngẩng lên nhìn tôi hỏi. Cặp môi mỏng dính của anh kéo sệch một bên lên thành một nụ cười. Anh tự trả lời câu anh vừa hỏi:
- Nó dinh tê rồi! Nghe nói vào trong ấy nó viết báo, viết truyện chửi kháng chiến, chửi bọn mình đểu lắm. Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Cái im lặng trang nghiêm ghẻ lạnh, thật khó chịu.
Cơm gạo mới (Phần cuối)
Mấy hôm nay nhà tôi đã phải ăn cháo độn sắn. Nuốt không trôi nhưng tôi vẫn không dám kêu ca. Tuổi ăn tuổi lớn, tôi ăn như hùm đơm đó, vì thế, có ăn cho đầy bụng là may. Khi lang thang ngoài đồng bãi hoặc tạt vào bờ rào hàng xóm kiểu gì tôi cũng sẽ vớ được cái gì đó cho vào mồm. Một đống cuống rạ đốt khói mù mịt, vài con chuột đồng, sẻ đồng hay củ khoai mót nướng lên thơm lừng hay quả ổi, quả sim hay bất cứ thứ hoa trái gì vớ được ở ruộng đồng hoặc dãy núi đất là đủ cho những trò đùa nghịch từ nửa chiều cho đến tối. Cái chính là tôi thương cô, thương bà. Dường như trời phú cho những đứa trẻ mồ côi và nhà nghèo sự mẫn cảm trước tuổi. Nếu tôi kêu nửa lời, có lẽ bà sẽ phải làm việc bằng hai, bằng ba bây giờ. Còn cô tôi, hoặc cô sẽ suốt đời không lấy chồng, hoặc sẽ phải lấy đại một người nào đó như chú Hiệp để làm cho tôi đầy cái bụng.
Nhưng đi học là đi học. Mười lăm cây số, không thể vừa vắt chân lên cổ vừa mắt trước mắt sau kiếm hoa quả dại bỏ bụng. Tôi nhắc lại:
- Những mười lăm cây số, cháu không đi bộ được suốt ba năm đâu. Cô cho cháu ở nhà đi làm.
Cô lại nhìn tôi, hai chân mày cau lại, ánh mắt đầy uy lực. Bà bảo, cô và bố tôi giống nhau như đúc, suốt ngày chả nói câu nào, nhưng đã mở miệng thì chẳng ai nói lại được. Tôi không còn bố để mà so sánh. Nhưng tôi chắc, ánh mắt kia, nếu là của bố tôi, thì ngay lập tức tôi đã phải tự mang roi lên để trên mông mình rồi.
*
Bỗng dưng tối ấy, chú Hiệp đến nhà rõ sớm, ăn mặc bảnh bao, đầu chải mượt, nháy nháy mắt nhìn tôi, rồi đưa cho tôi gói kẹo lạc rõ ngon. Cô tôi đưa cho tôi một trăm, bảo đi xem phim. Bà thì đã đi hội kể hạnh với các cụ trong xóm. Tôi thấy nghi nghi, không đi xem phim nữa mà lén rình ở hàng rào cúc tần. Chỉ thấy chú Hiệp đưa ra một gói giấy báo, cô tôi cầm lấy cất vào buồng. Chú Hiệp đi theo, định ôm choàng lấy cô, bị cô đẩy ra suýt ngã. Cô khẽ nói câu gì đó không rõ, nhưng tôi thấy chú ra về, miệng huýt sáo vang lừng.
Hôm sau tôi đã có chiếc xe đạp Thống Nhất nữ, tuy bong tróc hết sơn nhưng vẫn còn khá bắt mắt. Tôi bắt đầu tập xe quanh sân vì không dám ra ngoài đường, sợ bọn cùng xóm chê cười hoặc bu vào đòi đi thử thì hỏng hết cả xe. Cô cũng không biết đi, chỉ biết gồng tay giữ cho tôi, hai chân líu ríu chạy theo, vừa thở hổn hển cô vừa luôn miệng nói cô thấy ngoài huyện người ta đạp thế này, chống chân thế kia. Rồi tôi cũng mắm môi mắm lợi đạp được những vòng đầu tiên trước ánh mắt thán phục của cô tôi. Thêm năm vết bầm giập tóe máu ở đầu gối nữa thì tôi đã đi vững. Tôi guồng chân đạp như bay, chở theo cô tôi mắt nhắm tịt, mặt rạng ngời hạnh phúc lướt qua trước mắt bọn thằng Tong, con Mẹt và kết thúc chuyến du hí đầy tiếng cười của hai cô cháu ở chân đống rơm. Cô tôi cũng bị một cái u ở đầu gối, vì thế mà chú Hiệp càng được thể tối nào cũng mang sang cho mượn lọ dầu Thái Dương chú mua tận ngoài tỉnh.
*
Có xe, tôi đi học chăm chỉ, nhưng cũng không giỏi hơn là bao. Tôi đi tối ngày, thậm chí, chỉ ra đầu ngõ mua mấy trăm nước mắm cũng vác xe đi, đâm phải con trâu, nước mắm đổ, bát cũng rơi vỡ mất. Cô không mắng, bà cũng không có thời gian để mắng. Bà xin vào một cơ sở đan lát rổ rá dần sàng tư nhân, ngày làm không hết việc thì đêm về chong đèn đan tiếp. Còn cô tôi, ngày nào cũng theo đò vượt sông sang làng bên đóng gạch, gánh gạch oằn vai. Đêm nào cô cũng bóp dầu vào vai rồi vỗ bồm bộp, bẻ lưng kêu lục khục. Nghe tiếng cô ngáy, tôi khẽ tắt đèn, lên giường. Nhưng chỉ năm phút sau, tôi đã thấy cô đến bên, túm dậy, ấn đầu vào quyển sách.
*
Thấm thoắt lại đến vụ chiêm. Năm nay cả làng như vào hội. Lúa được mùa cứ trĩu cả lưng gánh mà lòng vui phơi phới. Tôi vẫn thấy bà buồn, cô buồn. Mấy tuần nay, không biết ở đâu ra tin đồn chú Hiệp sắp cưới cô tôi. Lễ đã sắm đủ, ngày cũng đã chọn, chỉ chờ gặt xong là rước dâu. Thậm chí, tôi còn nhìn thấy giữa quán rượu, chú Hiệp ngồi dương dương tự đắc, khoe đã tắm sông cùng cô trước gần chục đôi mắt hau háu của trai làng. Tôi phóng xe đâm rầm vào cửa quán, chú ngừng bặt, nhưng lại vẫy tôi đến cho gói lạc rang làm bọn trai làng cười ầm lên, tôi cáu tiết vờ như không nghe thấy, vội vàng lao đi, tiếng cười ô ố vẫn đuổi theo sau lưng. Ngày thường, đi làm từ sáng đến tối, cô không phải nghe ai hỏi han. Giờ cả làng tập trung ra đồng, tránh không được, trả lời mãi không ai tin, cô bực mình sắp giờ gặt vào sáng sớm và đêm khuya cho khỏi nghe tiếng eo sèo.
Mải vồ chuột, tôi còn nghe tiếng cô khẽ nói với bà, giọng ưu tư:
- Bán đi một nửa lúa vẫn chưa đủ.
Bà ngập ngừng:
- Hay là bán đi cả, rồi có đồng ra đồng vào thì đong gạo của hàng xáo ăn sau?
- Không được. Thằng bé đang tuổi ăn tuổi học, “ăn vóc học hay, ăn mày học dốt”. Thôi con sẽ có cách bu ạ.
Túm được con chuột đồng béo mẫm, quay lại vẫn thấy cô lấy nón quạt cho bà, hai mắt nhìn về đâu xa xăm, chợt nhớ ra, tôi hớn hở:
- Năm nay cháu được học sinh tiên tiến đấy. Gặt xong là cháu đi nhận phần thưởng.
- Thật không?
Tôi thấy bà cười, những nếp nhăn giãn ra trên gương mặt nhăn nheo. Tôi thấy cô đi đi lại lại bên đống lúa vừa gặt xong, chân tay như muốn múa lên cùng chiếc nón. Tim tôi cũng đập rộn lên như muốn vọt ra ngoài lồng ngực để guồng chân đi khắp cánh đồng.
*
Thức trắng đêm đập lúa, ai cũng mong có bữa cơm gạo mới vì đã phải ăn khoai sắn quá lâu. Nhìn thấy đống thóc ít ỏi nhà tôi, chú Hiệp có vẻ mừng. Trăng sáng vằng vặc, mồ hôi trên trán cô long lanh, vài sợi tóc bết lại, loăn quăn phủ trên gáy. Chú Hiệp ngây ngất. Chú lâng lâng tiến lại, như muốn ôm ngay cô vào lòng. Cô trừng mắt:
- Anh Hiệp, nốt vụ này là tôi có thể trả hết tiền anh.
Chú Hiệp khựng lại, vò vò hai tay, bối rối:
- Cô hiểu lầm tôi rồi, tôi không sang để đòi tiền cô. Số tiền ấy có đáng là bao. Cô cho tôi giúp là tôi mừng rồi. Cô cho tôi đi lại thường xuyên cho... tình cảm.
- Mẹ con bà cháu tôi đội ơn anh - Cô tôi bình thản - Nhưng cái gì phải ra cái nấy. Khi nào có, tôi sẽ mang sang tận nhà anh trả để khỏi phiền anh sang đây, hàng xóm dị nghị.
*
Rơm phơi vàng ươm khắp làng cũng là lúc mùa lũ tràn về. Dòng sông như con ngựa bất kham lồng phăng phăng từ thượng nguồn, bao nhiêu gỗ, thân cây rừng, và cả những xác người trương to như con bò mộng theo dòng lũ ầm ào về xuôi, chỉ còn củi rều dạt lại bến sông cùng bọt trắng xóa. Năm trước bao nhiêu củi vớt được cả làng đều phơi ngay tại chỗ, mối xông lên mất gần hết. Mùa đông cả làng xo xeo. Thỉnh thoảng bà trở dậy, cặm cụi vét đáy bao góc nhà được một nắm vụn bỏ vào cái thau đồng đặt dưới gậm giường. Khói vẩn quanh nhà, ho sặc sụa. Nhưng rồi củi sưởi cũng hết. Chẳng nhà nào còn để vay. Cái rét làm héo mặt cả làng. Năm nay lũ về, nhà tôi đập lúa xong sớm, tranh thủ ào ra vớt trước. Vật lộn cả ngày với sóng nước, bù lại từng súc gỗ rừng to cứ chất lên như núi. Cô hăm hở cướp từ sóng những gốc cây to bằng nửa chiếc chiếu, gò mình quyết liệt như mang sức lực điền. Cô chắc mẩm, cố thêm hai ngày nữa, bán chỗ gỗ đi cầm chắc có món tiền để trả nợ. Nhanh tay vớt trước khi làng ào ra thì cả mùa đông không lo đói lo rét. Nhưng trời chẳng chiều lòng người, được một ngày suôn sẻ, ngày sau bão đã rầm rập kéo về. Tôi đi bế giảng, nhận phần thưởng, dặn đi dặn lại cô và bà đừng cố, chờ bão tan hãy ra vớt tiếp. Cô vừa cười vừa nói tưng bừng:
- Đi đi, đi về cho cô xem cái phần thưởng học sinh tiên tiến trường huyện thế nào.
*
Nếu không vì cô, không vì bà, có lẽ tôi đã bỏ dở chừng quãng đường mười lăm cây số gió táp phần phật. Nhận phần thưởng xong, bọc kỹ càng năm quyển vở và tờ giấy khen vào tấm ny lông, tôi đội mưa đạp như bay. Về làng vẫn muộn. Sông đã cuốn cô đi trong sóng dữ đục ngầu.
Hai ngày sau, người làng dưới vớt được cô nhờ mái tóc dài nổi lập lềnh. Đám ma cô, không ai trong làng thiếu. Đoàn người lặng lẽ bên nhau trong cái nắng hè chói chang sau bão, những vòng hoa trắng rưng rưng trên tay trai làng. Chú Hiệp xin bà vành khăn, bà lưỡng lự mãi rồi khẽ khàng:
- Tôi không muốn anh buồn, nhưng anh không đeo thì hơn. Cho con tôi nó được nhẹ lòng.
Chú Hiệp đấm ngực thùm thụp. Chú bám theo quan tài, vừa khóc vừa kể lể. Chú Hiệp ơi, day dứt mà làm gì. Có nợ thì phải trả, cô tôi mất đi là số không may, chứ đâu phải do chú dồn ép. Chẳng có duyên, lại không có phận, chú tha thiết với cô tôi như thế cũng khiến người chết ngậm cười rồi. Tôi đốt giấy khen, mấy quyển vở phần thưởng để cô được nhìn thấy, được vui nốt niềm vui cuối cùng.
*
Vậy là cũng xong một kiếp người, cô mất mà chưa kịp ăn cơm gạo mới. Bữa cơm gạo mới năm ấy ở làng chẳng còn mấy hào hứng. Mấy năm sau, bà khuất núi. Chú Hiệp tháng đôi lần lê đôi chân gỗ thắp hương mộ bà rồi ngồi bên mộ cô. Còn tôi, từ đó trên bước đường đời lầm lụi của mình, năm nào cũng phải cố mua được một vài bữa cơm gạo đầu mùa, lạ kỳ, năm nào cơm mới cũng rưng rưng nỗi nhớ quê, nhớ tuổi thơ lam lũ, nhớ cả những người đã khuất hay còn đang nghỉ ngơi sau mùa lúa nhọc nhằn.
Làng
Kim Lân
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu thủ que đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo… thì ông Hai vùng dậy, sang bên bác Thứ nói chuyện. Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, tự nhiên ông sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó bực dọc làm sao ấy. Mà ông, thì không thích nghĩ ngợi như thế một tý nào. Ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ông cũng phải bày vẽ ra công việc gì để làm: đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp. Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại nghe những tiếng rì rầm tính toán ấy, ruột gan ông cứ nóng lên như lửa đốt. Ông phải đi chơi cho khuây khỏa. Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão hỏi ngay: “Thế nào, hôm nay có gì không bác?” Không đợi trả lời, ông lão nói luôn:
- Này Đácgiăngliơ nó lại về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn là đi đi về về!
Hoặc:
- Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình lại không Thống nhất, Độc lập được hở bác? Rồi ông nói đến chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, chuyện Việt gian, chuyện thổ phỉ… những chuyện ông lượm được hồi trưa, ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả. Ông lão kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm:
- Cũng là học lỏm cả thôi đấy bác ạ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà…
Và cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, thì ông xoay đến chuyện cái làng của ông. Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh.
Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông Hai vẫn có tính khoe làng như thế xưa nay. Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà!” Mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kỳ được. Ông mê man giảng giải cho họ: cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải. Cái ông đắp bằng xi măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là… lấy kiểu tận xa lắm, đâu như tận bên chùa Đế Thích. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt cắm vào cái bầu rượu có đắp bốn con giơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia là máy thu lôi. Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong ấy.
- Chả nguyên là “cụ tôi” phòng sau này nằm xuống bất hạnh sét có đánh phải cũng không việc gì mà. Xem! Trí lực của người ta có khiếp không?
Ông lão vừa nói vừa nhìn vào cái bộ mặt lì xì của người bà con họ bên ngoại giãn ra vì kinh ngạc ấy mà ông lão hả hê cả lòng. Ông thấy cái lăng tẩm ấy một phần như có ông. Nhưng từ ngày khởi nghĩa thì người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa. Ông đã bảo ông thù nó cơ mà. Cái lăng ấy nó làm khổ ông, nó còn làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. Có người ốm, có người chết, có người làm mấy tháng trời không được đồng công nào. Cái chân ông đi khập khễnh bây giờ cũng vì cái lăng ấy. Ông bị một chồng gạch đổ vào bại một bên hông. Bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. Ông khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai. Mỗi lần hô động tác, anh huấn luyện viên lại phải đệm tiếng ạ… thườn thượt đằng sau: “Nghiêm ạ!… Nghỉ ạ!… Vác súng lên vai ạ!…”. Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì làm công trình không để đâu hết. Ông lão kể rành rọt từng cái một. Cái thì đắp ở đầu xóm Ba Khu, cái thì xây ở Ngõ Mái, cái thì xẻ thông từ đầu phố trên đến tận đầu phố dưới. Cửa mạch nhà nào cũng đục, có thể đi suốt làng không phải ra đến đường cái. Cũng có khi ông lão lại ngậm ngùi kể lại những chuyện ngày xửa ngày xưa nào không biết, ông bị bọn hương lý trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán. Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn trên chiếc chõng tre nhà bác Thứ mà nói liên miên hết cái đường xóm kia tốt, cái giếng xóm kia trong với những chuyện đẩu chuyện đâu về cái làng của ông lão, làm như bác Thứ cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy lắm. Thực ra ông lão chỉ nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái làng của ông chứ cũng chẳng chú ý gì đến người nghe có thích nghe lắm không. Đôi khi thấy mình mải nói quá, mà bác Thứ hình như lơ đễnh những đâu đâu, ông lão lại nhắc:
- Cậu vẫn nghe đấy chứ?
Thì bác Thứ giật mình, trả lời vội vàng:
- Có! Có! Tôi vẫn nghe đây, ông kể nốt đi…
Thế là ông lão lại kể. Nhưng cũng có nhiều bận đang ngồi nói mải mê như vậy bỗng dưng ông ngắc lại, mặt ông thần ra, ông nghĩ ngợi một lúc lâu rồi thủ thỉ:
- Chuyến này bước chân ra đi… Năm năm, ba năm hay mươi mười lăm năm, không biết có còn về được đến làng đến nước nữa không đây.
Ông lão im lặng, thở dài:
- Nó chết một cái nhà tôi neo người quá, phải đi, chứ những như một mình tôi, thì tôi ở lại làng với anh em cơ đấy. Quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót hả bác?…
*
Thực tình ông Hai không muốn tản cư lên trên này một tí nào. Trong làng còn có một số anh em ở lại, họ quây quần với nhau khoảng chừng năm, sáu nóc nhà giữa làng. Ngày ngày cùng anh em đi đào đường đắp ụ, công việc bề bộn, ông chẳng còn kịp nghĩ gì đến vợ con, nhà cửa nữa. Năm bảy lần bà Hai nhắn về thúc phải lên ngay, ông chỉ nhăn mặt kêu: “Công việc đang như lửa đốt thế này đã lên thế nào được”. Hôm bà Hai về đón, ông lão lại toan không đi. Ông nghĩ: mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ. Ông cha cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này mình lại đâm đầu bỏ đi còn ra thế nào nữa. Công việc là công việc chung chứ của riêng mình ai? Ông lão bảo vợ:
- Tôi thì tôi không đi được đâu. Mẹ con mày trên ấy liệu bảo nhau xoay xỏa mà làm ăn. Ở nhà rồi tôi cũng cố cày cấy, thêm thắt vào tôi gửi lên cho, tản cư thì cũng phải thiếu thốn một tý chứ, lại như ngày trước thì có đâu.
Nhưng bà Hai khóc lóc, bà năn nỉ bắt ông phải đi, bà bảo:
- Thế ông định bỏ mẹ con tôi chết đói à? Ông phải lên trông nom chúng nó cho tôi xoay xỏa chứ. Rồi bà khẩn khoản nói với mọi người, khẩn khoản với đồng chí thôn đội trưởng, mọi người đồng ý để ông Hai đi, ông Hai đành phải nghe theo. Ông buồn khổ lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Tình cảnh mẹ con chúng nó quả là có gieo neo thật. Một nách ba đứa con dại, vốn liếng lại chẳng có, cứ nhong nhóng ôm con ở nhà thì lấy gì mà ăn? Nhà có người đàn ông nó như nhà có nóc ấy. Ông lên rồi làm thuê làm mướn thêm cặp vào cũng đỡ vực được ít nhiều. “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là kháng chiến”. …
Những ngày đầu ở trên này công việc không có, trong người ông lão lúc nào cũng bực bội. Ông ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm. Xin được miếng đất sau nhà, ông hậm hụi cuốc xới suốt ngày, vừa được mấy luống rau cải, bén chân thì đàn gà nhà chủ ra vặt trụi tiệt. Ông lão cáu lắm. Không thể cáu được với ai ông quay ra cáu với vợ con. Hơi một tý là gắt, hơi một tý là chửi, lắm khi chuyện chẳng đâu vào đâu, ông cũng khơi ra cho to để gây sự. “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! ông thì giết hết, ông thì giết hết!”. Mỗi lần ông lão bước chân ra khỏi cái gian nhà tối thấp bề bộn những bồ, bị, nồi, niêu, và những dây quần áo ẩm sì ấy là mặt ông lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên. Sao mà ông lão sợ cái gian nhà ấy thế! Nhất là những buổi trưa im ắng, oi ả, có tiếng mụ chủ nhà nói nheo nhéo ở bên ngoài, thì ông lão không sao chịu được. Ông lão phải đi cho nó khuất. Ông Hai chưa thấy người đàn bà nào tham lam, tinh quái như mụ ta. Người thì gầy đét như thanh củi khô. Cái miệng mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Không vào nhà thì thôi, động vào nhà là nhòm.
Mụ nhòm xó này một tí, nhòm xó kia một tí, rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên ngắm rồi đặt xuống, mụ mở thạp gạo ra xem, lại đậy vào, mụ lục bồ moi chiếc áo ra ướm thử vào người, rồi ném trả. Hình như trong ý mụ, mụ nghĩ: chúng mày ở nhà tao, thì những thứ của chúng mày cũng như của tao. Đồ ăn thức đựng của mụ, mụ cất kỹ đi. Con dao, cái chậu, bó củi của người ta mụ dùng tự nhiên, hồ cất đi, mụ lại lôi ra. Không tìm thấy thì mụ nói móc, nói máy như chính mụ bị người ta hà hiếp. Đến cả cái ăn, cái uống mụ cũng rây phần vào. Có cái nồi nước giải mua để tăng gia một tí, mụ cũng lấy hết. Trong nhà động có thức gì mụ đã biết rồi. Không một hôm nào bà Hai ở quán về mụ không sấn đến vạch thúng ra xem.
- Ái chà! Nhà này có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mấy được.
Thế là chiều mụ sai con bưng bát đến xin. Mụ đẩy lưng thằng bé:
- Con cứ xuống mà xin, tội gì.
Có cái gì ăn giấu, mà mụ biết thì mụ đánh hơi. Mụ đứng giữa nhà, hếch cái mũi lên hít hít:
- Có cái gì mà thơm gớm, y như mùi bánh rán ấy anh em ạ. Mẹ kiếp nhà này nó giấu.
Cứ lâu lâu, mụ lại vay tiền. Lúc mua trầu vỏ, lúc mua diêm thuốc, mớ rau, con cá… Có đòi thì mụ chủng chẳng:
- Tớ trừ vào tiền thuê nhà đấy.
Mụ cười rất nhạt:
- Nói đùa đấy chứ, mai tớ cuốc mẻ sắn tớ bán tớ khắc trả.
Và mụ tiếp luôn:
- Này, nói thì bảo là tham, cái nhà ông Hai này, với bác Thứ bên kia ở, thật tớ đếch được cái gì, ở xóm dưới, cánh hàng xáo họ ở, họ nuôi lợn được vô khối là “khuẩn”. Nói thật, tớ cho ở nhờ chỉ chủ có mỗi cái “khuẩn” thôi…
Ngay từ dạo mới lên, ông Hai đã bực mình với mụ ấy lắm rồi. Nghe xóm giềng ở đây người ta nói, ông biết mụ không phải là người đứng đắn. Mụ lấy đến người chồng này là đời chồng thứ ba rồi; hai người trước, người thì người ta bỏ mụ, người thì mụ bỏ người ta. Tính nết lành chanh lành chói, chỉ bắt nạt chồng. Người chồng thì lại hiền lành quá, cả ngày cặm cụi làm. Vợ nói, có tức lắm thì cũng chỉ đỏ mặt lên văng tục văng giác mấy câu rồi thôi. Ông Hai ghét mụ chủ lắm. Ông không muốn ở chung ở chạ với những người như thế. Năm lần bảy lượt ông bảo vợ dọn nhà đi nơi khác. Nhưng bà Hai cứ lần chần. Bà bảo:
- Biết rằng đâu hơn đâu, hay là lại quá tội. Trong làng ngoài phố nhà nào cũng ba bốn bếp tản cư cả. Có được chỗ chui ra chui vào như thế này là may mắn lắm rồi còn gì nữa. Ông lão đành phải dùi dắng chờ vậy.
*
Buổi trưa hôm ấy ông Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ chưa thấy về. Hai đứa bé thì ông cắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại chẳng gà vặt hết. Ông Hai hì hục vỡ một vạt đất rậm, ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, ông tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào những tháng đói sang năm. Có một mình, ông phải làm cố, hai vai mỏi nhừ. Ông nằm vật lên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm với anh em. A, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá. Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo óc. Gian nhà càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. Ông lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vại nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây. Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. Ông Hai giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào. Ông cất tiếng hỏi:
- Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?
Không để đứa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vơ lấy cái nón:
- Ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy.
Ông lão giơ tay chỉ lên nhà trên:
- Nó thì rút ruột ra, biết chửa!
Dứt lời ông bước vội ra ngoài. Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảnh bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả. Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cung cúc lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai quen ông Hai cũng níu lại cười cười:
- Nắng này là bỏ mẹ chúng nó!
Có người bỡ ngỡ hỏi lại: “Chúng nó nào?”. Thì ông lão bật cười, giơ tay trỏ về phía tiếng súng:
- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.
Dứt lời, ông lão lại đi, làm như đang bận nhiều công việc lắm. Cũng như mọi hôm, việc đầu tiên là ông vào phòng thông tin nghe đọc báo. Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức. Ông cũng đã có học được một khóa bình dân học vụ ở làng, cũng đã biết đọc, biết viết. Nhưng chữ in khó nhận mặt chữ, ông đọc nó cứ bập bõm, câu được câu chăng, mà chả lẽ cứ nghếch cổ lên giữ chịt lấy tờ báo không cho người khác xem nữa? Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Hôm nay may quá, vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một, cơ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy. Ông lão nghe chẳng sót một câu nào. Bao nhiêu là tin hay.
- Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa. “Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Ở đây, những tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa sù sì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…
- Các ông các bà ở đâu ta lên đấy ạ? Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời:
- Thưa ông chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây vất vả quá!
- Ở Gia Lâm lên ạ? Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được không bác?
- Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này nhiều.
- Thì vưỡn! Lúa dưới ta vưỡn tốt nhiều chứ.
Ông lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu:
- Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để.
- Này bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không?
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
- Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ.
Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:
- Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh:
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.
Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:
- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…
- Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.
Có người hỏi:
- Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
- Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên:
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!
Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm.
Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng. Quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy!… Nhưng sao lại nẩy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng không sai rồi. Không có lửa thì sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?… Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác. Bà bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi. Trẻ con cũng không đứa nào dám vòi quà. Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu, không ai dám cất tiếng lên nói, cả đến nhìn nhau họ cũng không dám nhìn nhau nữa. Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.
- Này thày nó ạ.
Ông Hai nằm rũ ra trên giường không nói gì.
- Thày nó ngủ rồi à?
- Gì? Ông lão khẽ nhúc nhích:
- Tôi thấy người ta đồn…
Ông lão gắt lên:
- Biết rồi!
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.
- Thế nhưng người ta đồn trên này người ta không chứa những người chợ Dầu nữa thầy nó ạ.
Nghe ngóng một chút, không thấy chồng trả lời, bà lão lại cúi xuống lầm bầm tính. Nét mặt bà lặng đi, chịu đựng và nhẫn nhục. Bên gian bác Thứ đã ngủ từ lâu, chung quanh đều im lặng… Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng trong tiếng gió. Ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được… Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch. Ông lão nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài… Bà Hai bỗng lại cất tiếng:
- Thày nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã.
Ông Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, ông sít hai hàm răng lại mà nghiến:
- Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ.
Ông lão lại ngả mình nằm xuống, không nhúc nhích.
*
Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.
Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê hơn cả những tiếng kia nhiều. ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt ông lão. Thôi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ chui ra chui vào là may lắm rồi. Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết chuyện gì. Ông thì muốn lặng đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ông yên đâu. Sáng hôm nay lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà không biết đi đâu về, mụ đứng dạng háng ở ngoài sân nói chõ vào:
- Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?…
- Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này!
- Vâng bà để mặc em… à bà Hai này!…
Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật:
- Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ? … Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa.
Mụ chủ chép miệng, giọng ngọt xớt:
- Em cứ khó nghĩ quá… ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy… Này, ở với nhau đang vui vẻ, ông bà dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ.
Bà Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, bà nói:
- Vâng… thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu…
Mụ chủ đi rồi, bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng dám nói với nhau câu gì. Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?… Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu. “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông. Hay là quay về làng ?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Ông lão nghĩ đến mấy thằng kỳ lý chuyên môn khua khoét như thế lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi, trừ ngoại, tống ra khỏi làng…
Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lỵ con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được vài câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được vài phần.
Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến chơi nhà ông Hai. Hắn cũng là người chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ông Hai đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. Ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. Ông Hai đi mãi đến xẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ ông lão đã lên tiếng:
- Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào.
Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão vội rút cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn:
- Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái.
Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ. Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô:
- Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy! Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lại lật đật bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải kể cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai cũng mừng cho ông lão. Đến ngay cả mụ chủ nhà là người ông lão yên trí, nghe tin này thế nào mặt mụ cũng sa sầm xuống mà nói tức nói xóc, thì trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất vui sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt lên mà reo:
- A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên chả ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu.
Mụ cười khi khí:
- Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy!
Ông Hai gật gật:
- Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ…
Tối hôm ấy ông Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông. Ông kể lại hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao; rành rọt tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật…
Mùa muộn
Đỗ Chu
Chị Chiêm than thở, đồng ta giờ khác lắm, đến con bống cũng chả còn anh ạ. Anh Tường chân co chân duỗi trên võng, lừng khừng hỏi lại, vậy tìm đâu ra chim ngói mang lên làm quà, chắc mua dọc đường.
Trên núi ông Đụng sau làng người ta đã xây một cột điện cao thế to nhất vùng, bên kia sông, trên núi bà Đón cũng có một cột như thế. Ở trên đỉnh mỗi cột có mắc một ngọn đèn thắp suốt từ chập tối đến sáng hóa ra các loài chim bay đêm cũng ưa ánh sáng, lũ chúng cứ nhằm ngọn đèn mà lao tới, ngọn đèn được bảo vệ bằng lưới thép, đâm đầu vào đó nhiều con gãy cổ gãy cánh, sáng ra hôm nào cũng thấy chim rơi cả bãi. Đám trẻ trong làng gọi nhau mang bao tải lên núi nhặt chim mang xuống tỉnh bán cho lái chim, lái chim mang đi khắp nơi, cho nên chỗ nào cũng thấy có quán chim trời là bắt đầu từ làng ta mà ra. Hiểu rồi, vậy là tháng hai tháng ba đều đặn, vẫn có từng đàn le le mồng két bay về, bước vào gặt mùa tháng 9 tháng 10 vẫn có những đàn chim ngói trốn đông. Chim trời vẫn giữ nguyên nhịp điệu đi về từ muôn thuở, chỉ cung cách sống của con người là đã khác, khác nhiều quá.
Anh Tường níu vào dây võng, lóng ngóng ngồi dậy, bỏ thõng hai chân xuống đất. Rồi anh cười, hai tay đưa ra như gọi chị, nào giúp tôi ra giường để ngắm mấy con ngói cho đã, lâu lắm rồi không thấy tăm hơi chúng, cũng nhớ. Chị Chiêm quàng tay ra sau lưng anh, từng bước từng bước dìu anh tới giường. anh ngồi xuống mép chiếc giường một, đặt ở đuôi giường là mươi con ngói mình mẩy tướp máu lông cánh tơi tả. Chị bảo, em dặn các cháu dành cho những con còn khỏe. Ờ, thấy rồi, nhìn vào mắt chúng là biết vẫn đang còn sống cả, nhưng thương tích đã đầy mình. Anh bỗng im bặt vì chợt nhận ra những con chim đang được nhốt trong một cái lồng quá chật, nó là một cái lồng cũ, nan chuốt cầu kỳ, nút mây buộc cũng cầu kỳ, nó là những nan tre cật tự tay anh vót, là những nút mây già, nút hoa thị ngoài anh ít ai bện nổi. Cái lồng năm xưa nuôi một chú sáo non anh đã gửi lại chị buổi anh ra đi. Thuở ấy có lắm cuộc ra đi, động rời làng đi xa là người ta nói tay ấy đã ra đi. Có người tưởng công cán gì gớm lắm, dân làng đồn ông ấy đang chỉ huy cả một đại đoàn, về sau có ai đi dân công hỏa tuyến về mới vỡ nhẽ, chỉ huy cái đếch gì, đang thồ lợn nuôi một đống con trên Thái kia kìa. Lại có người ngày hòa bình mò về làng dạy trẻ con múa "són mi rê đồ", kể chuyện Điện Biên quân ta bò thế nào, quân địch chạy thế nào làm cả làng há hốc mồm nghe. Về sau có người lên Phổng Mẹt mua sắn mới biết anh ta đang đứng lơ xe cho công ty xe khách, gặp người làng tảng lờ không chào. Có một nhà chị xinh gái nhất vùng được tuyển vào văn công quân khu, son phấn nhảy múa túi bụi, cả làng lấy làm mừng như vừa có người được vời vào cung làm phi làm hậu, được vài ba năm lại nghe tin đã được thuyên chuyển qua ngành hậu cần, xuống bếp nấu cơm.
Ngồi trong đám cỗ có cụ nghẹn ngào bảo làng ta nằm trên một trạch đất rộng, bắc là Cai Kinh, nam là Tản Viên, đông là Yên Tử, tây là Tam Đảo. Nó đúng là đất rồng, nhưng khốn một nỗi rồng thì phải có đầu có đuôi, có chân có móng, có rốn có vây, làng ta rủi lắm chẳng sánh nổi với ai trong thiên hạ. Có người hỏi đế, giọng cũng nghẹn ngào không kém, vậy ông cho làng ta nằm ở chỗ nào thì bảo? Còn chỗ nào nữa, nó là cái lỗ đít, cái trôn con rồng chứ còn chỗ nào!
Hôm sau ra đồng đám đông lại một dịp kháo nhau. Ông ấy già mà chẳng đâu vào đâu, cứ rượu ngà ngà là chỉ được cái nói xằng. Không hẳn thế đâu nhé, ông cụ là người biết việc âm dương nhà ấy mấy đời làm thầy phù thủy, xem đất xem cát, vốn dòng con cháu của Tả Ao tiên sinh từ trong Thanh mò ra ngoài này chứ không phải vừa. Lại có người chép miệng, nghĩ thật viển vông, nhận là rồng làm gì cho khổ, chi bằng cứ xin làm con trâu, con trâu chịu thương chịu khó, cứ nom vào mắt nó mà xem, có con vật nào có đôi mắt buồn mà hiền đến vậy. Chuyện làng chuyện xóm lắm lúc nghe mà chán cả tai. Một hôm lại có tin anh Tường nhà ông Tưởng hy sinh ở Điện Biên Phủ rồi, anh ấy ôm bộc phá lên đồn Tây giật nụ xòe xong không chạy kịp, thế là mất xác. Tin ở đâu ra hay lại nói xằng. Tin từ tỉnh từ huyện chứ còn từ đâu mà hỏi gặng thế. Chị Chiêm chạy đến đằng ấy tìm ông cụ thân sinh ra anh muốn lựa lời xem thực hư ra sao. Ông cụ điềm nhiên ngồi chẻ lạt trước thềm, ngẩng lên thấy Chiêm thì bảo, cháu ngồi xuống đây nghe ta nói, thằng Tường nhà ta không sao cả, cháu chớ nghe dại. Vậy bác đã đi hỏi mấy ông thày bói trong làng hay chưa? Ta không ưa bói toán, chẳng cần hỏi ai, ta cứ nghe tự lòng ta mà biết. Mấy hôm sau có đội cải cách ở đâu rầm rầm kéo về, ông cụ lập tức bị vu là địa chủ cường hào gian ác. Có anh đội cho gọi chị lên giác ngộ, cô là con cái bần cố, sao phải chịu đâm đầu vào làm dâu nhà ấy, mai cô đứng ra đấu địa chủ Tưởng làm gương cho cả làng, đến ngày chia quả thực không ai quên, tự khắc có trâu cày ruộng cấy. Cô cãi, ở vào hoàn cảnh này, liệu anh có dám đứng ra đấu bố anh không, tôi thì không dám. Anh đội mắt long sòng sọc, lừ lừ ngắm người con gái từ đầu tới chân, phẩy tay quát lớn, thôi bước, một phần tử ngoan cố, mất lập trường giai cấp. Ông cụ bị đuổi khỏi nhà, ra ngoài soi lựa một góc vườn mà ở, chị Chiêm một lần nữa lại ra đó tìm gặp, vẫn thấy một ông già ngồi bên đống lạt, trong tay là một con dao. Chả biết dùng gì đến lạt mà quanh năm rỗi lúc nào là thấy ông cụ lại ngồi chẻ lạt. Lạt chẻ xong buộc từng bó gài lên gác bếp, ai cần thì cho. Hay là rơi vào cảnh gà trống nuôi con mà ông đã chẻ lạt cho đỡ buồn. Buổi ấy ông vẫn điềm nhiên như thường, ông chỉ vào mô đất dưới gốc trám mà bảo, cháu ngồi xuống nghe ta nói, thằng Tường vẫn còn sống, ta đã nói nó còn là nó còn. Có điều việc nước khó bàn, cháu là phận gái mỗi tuổi mỗi già, không đợi được mãi, gặp đận nhục nhã này ta không muốn sống nữa, còn cháu thì phải đi lấy chồng, xem ai con nhà tử tế thì lấy. Mai này nếu ông trời cho gặp lại nhau, thằng Tường nó sẽ hiểu hết mọi nông nỗi, cháu nói lại lời ta nhắn, ở đời người lớn không chấp vặt, người lớn nghĩ lớn, ta tin nó là thằng biết sống.
Sau lần đó ông biến đâu mất, làng nước chịu không rõ sự thể, nghe như ông đã nhảy xuống cửa Lục đầu, dạo ấy lắm người nhảy xuống cửa Lục đầu. Mấy năm sau chị mới chịu lấy chồng, lấy một người ở làng bên. Vợ chồng sinh được một đứa con trai, đứa con năm sáu tuổi thì bố nhập ngũ, vào Nam chiến đấu rồi mất trong đó. Chị bị làng xóm chê là có số sát phu, hai lần góa bụa, ý là muốn kể cả trường hợp với anh, tuy chưa ăn hỏi cưới xin nhưng cũng đủ chứng cứ để xem là một đời chồng. Ngày sắp đi lấy chồng chị đã thả cho con sáo muốn bay đâu thì bay, chỉ giữ lại cái lồng. Con sáo non lúc lớn lên biết nói, nó nói liến thoắng làm chị sốt ruột sốt gan, "có khách có khách, sắp về sắp về". Mỗi lần dắt con về thăm ông bà ngoại, nhìn vào cái lồng trống không treo ở đầu hồi, chị lại thầm gọi, sáo ơi sáo, còn sống mày cố mà đi tìm anh ấy về đây cho tao. Thầm gọi thế chứ chả tin là còn, vậy mà vẫn còn và đã về thật. Anh Tường bước vào cổng làng vừa lúc mấy chị em xã viên xúm xít đẩy xe lúa từ ngoài đồng vào sân kho hợp tác. Hôm ấy chị Chiêm cũng đến để góp công đỡ cho mẹ già. Thoạt tiên chị không nhận ra anh, xung quanh chẳng ai nhận ra anh. Ai ấy, một người lạ đến làng ta làm gì ấy.
Anh ra đi năm 20 tuổi, đi là đi luôn một mạch, chả thèm lai vãng, cũng chả thư từ nhắn nhe, sống chết ra sao không ai hay. Ngày về nom héo hắt như một ông lão, một ông lão mới ngoài 40! Vào tuổi anh khối người vẫn đang sức dài vai rộng, ra đường đám con gái theo đầy, mà người ta cũng nam chinh bắc chiến như ai chứ kém gì. Ở làng trên vừa có một ông cấp tá góa vợ tuổi tác còn nhiều hơn anh, về làng đem một đứa cháu gái gọi vợ mình là cô lên sống chung với nhau trên thành phố, họ hàng bảo chú rể lấy con anh vợ là phạm pháp, nhưng ủy ban bảo được, đóng dấu đánh xoạch một cái, thế là xong. Với anh mọi việc xem chừng đều muốn khó. Ở quê mươi ngày, mấy ngày đầu la cà quanh quẩn, hết ngồi với người già lại rủ rê lang thang cùng lũ trẻ con, gặp đâu ăn đấy, tiện đâu lăn ra đấy, kêu đau mình mẩy suốt đêm trăn trở không chợp mắt nổi.Người ấy áo quần bộ đội mới toanh nhưng chẳng mũ nón gì, cũng chẳng thấy có mang huân chương, cấp bậc gì. Một ông lão tóc bạc lưng còng, nước da sốt rét, đôi con mắt sốt rét, vàng vọt và mệt mỏi. Người lính già xăm xăm bước trong ngõ, chào hỏi ân cần quá, rồi theo xe lúa người ấy đến ngồi tựa lưng vào cây cột thềm nhà kho. Chị nhìn ngắm lúc lâu, sao dáng ngồi của ai mà nom quen quá. Đến lúc người ấy nở một nụ cười với chị thì chị hiểu ra ngay đấy là ai. Chị chỉ kịp bưng mặt kêu lên một tiếng "trời ơi" rồi gục xuống đống lúa. Đấy là một ngày vào cuối năm 1975, anh không phải là những người đầu tiên mà cũng chưa phải đã là những người sau cùng từ mặt trận trở về.
Anh bảo mấy chục năm qua đã quen treo mình lên cây mà ngủ, giờ nằm giường không quen, muốn ngủ yên là phải có võng. Chị chạy ra phố huyện tìm một cái võng đay mang về mắc lên hai cột gỗ xoan đào cho anh nằm. Bố chị cũng đã mất, nay chỉ còn mẹ già, để anh ở đấy là tiện nhất, có người trò chuyện thâu đêm, có chị chạy đi chạy, lúc bên con cái lúc bên anh. Cũng có đêm chị đến nằm chung với mẹ, nói chuyện với anh, anh đòi chị kể những chuyện từ bao giở bao giờ, nếu anh không hỏi thì chị cũng không còn nhớ làm gì nữa. Anh nói tôi muốn ra nằm một đêm ở nhà cũ liệu có nên không, chị cân nhắc lúc lâu rồi bảo, không nên, nhà mình giờ biến thành kho hợp tác, trong đó chất đầy những thóc, những phân hóa học và thuốc trừ sâu, loại DTT độc hại vô kể, mang ném xuống ao đến đỉa còn chết mất giống, sức anh thế không ai dám để vào nằm đấy đâu. Anh lại nói, thế còn mấy cây duối ngoài bãi ma, chỗ ngày trước ấy, giờ vẫn còn hay mất hết rồi. Vẫn còn, vẫn còn đủ, có điều không rậm rạp như trước nữa, phần do thiếu củi đun người này chặt một ôm người khác chặt một ôm, phần do ban chủ nhiệm quyết định biến chỗ ấy thành nơi chứa trâu, đàn trâu sau buổi làm về nằm đó nghỉ ngơi, đói quá phải ăn cả lá duối, cọ lưng cọ bụng vào thân cây làm còi cọc, xác xơ ráo cả. Ngày anh ấy nhà em nhận được lệnh mai phải lên huyện gấp để đi chiến đấu, đang cày ngoài bãi soi bằng con trâu kềnh to nhất làng, anh ấy nói oang oang, được thôi, ông sẽ đi, nhưng trước khi đi cũng phải được ăn miếng thịt trâu luộc! Anh ấy tìm sợi dây thép cứng uốn làm cái móc thọc sâu vào đít nó, ngoáy mấy vòng rồi giật cho đống ruột xổ tung ra, con trâu kềnh hung hãn bậc nhất vậy mà chịu bị quật ngã quay lơ trên những luống cày, nó thở dốc một hồi rồi ngắc ngoải. Ông chủ nhiệm cho người lên xã báo tin trâu bị trúng gió xin phép được mổ kịp thời. Thịt xả ra nong đem phân phối từng nhà, kèm thêm xâu lòng và tiết luộc, xâu nào xâu ấy rất đều, là do nhà em đứng ra chia, anh ấy tính nết có phần nóng nảy nhưng được cái ngay thẳng lắm. Ngót chục năm ăn ở với nhau, giá hỏi có yêu không thì đành phải nói rằng cũng chả yêu là mấy, cũng là chỉ riêng mình hiểu với mình, nhưng thương thì nhiều, thương quá, người ấy sao chất phác thật thà làm vậy. Anh thử nghĩ mà xem, liệu có phải là anh ấy đã chịu chết oan chết uổng hay không?
Người ấy nếu còn thì cũng biết thương vợ thương con chứ chẳng phải hạng nhỏ nhen hẹp lượng gì. Giờ thì đang nằm mãi tận đẩu đâu, còn anh lại về, em cũng chẳng biết tính thế nào cho phải, em chỉ nguyện làm em gái anh, được sống nốt tuổi già cùng anh. Thầy lúc sắp đi có dặn lại anh là người biết sống, vậy anh sẽ hiểu lòng em. Ròng rã ngần ấy năm, mỗi khi qua vùng bãi ma em lại liếc nhìn mấy lùm duối, lúc nó xanh um tùm, lúc nó phờ phạc dở sống dở chết, nghĩ đến cái bận anh lôi em vào đấy, em là con bé quê kệch vừa kịp lớn lên vẫn chả rõ mô tê làm sao, chỉ thấy hãi hùng. Ôi trời đất, con bé chỉ còn biết ôm mặt nấc lên, nó bắt đền anh, thùm thụp đấm vào lưng vào ngực anh. Để đến lúc anh đi xa rồi mới thấy nhớ, nó biết là nó đã mang lòng thương yêu anh, yêu thương cái con hùm ghê gớm ấy cho đến hết đời mất thôi.
*
Thực ra anh Tường không phải lính Điện Biên, lính Điện Biên là phải đánh Điện Biên, mà lúc ấy anh lại đang lăn lộn bên Thượng Lào. Trước khi bước vào chiến dịch lớn, nhằm mở rộng hậu phương quân ta đã làm một cuộc truy kích vũ bão, đuổi giặc chạy dài từ Thượng Lào tới Hạ Lào. Người đuổi cứ đuổi, kẻ chạy cứ chạy, ở trong cuộc mà cũng chẳng kịp hiểu ra làm sao. Mấy viên sĩ quan Pháp đầu đội mũ đỏ, gù lon tả tơi vừa thở vừa ngửa mặt lên trời chửi đổng, "đ... mẹ Việt Minh, đánh đấm kiểu đếch gì thế không biết"! Đang thừa thắng đuổi giặc bỗng có lệnh hỏa tốc gọi đại đoàn quay về, riêng anh và mươi người nữa ở lại nhận nhiệm vụ mới. Từ đấy họ thuộc quân số của Bộ Tổng. Anh Tường tới lúc đó tính ra đã có hai tuổi quân, là tiểu đội phó một tiểu đội quân báo biết vẽ bản đồ địa hình, biết điều tra nắm bắt tình địch, biết đọc viết mật mã và đánh điện tín tạch tè, chứ chưa biết gì chuyện đặt bộc phá giật nụ xòe như người làng đồn thổi. 20 năm ấy có biết bao nhiêu là chuyện để kể lại cho người đời biết. 20 năm sống ở rừng, chiến đấu với đủ thứ giặc, vật lộn với những cơn sốt rét, với mưa bão, với đói rét, với thú dữ, với cái chết, nếu trong số các anh có ai biết viết hồi ký thì có lẽ cuộc phiêu lưu ba chìm bảy nổi của tiểu đội trinh sát ấy sẽ là một pho sách lớn của những người anh hùng. 5 người nằm lại, hai người ngã xuống bởi đạn bom, một người chết đói, một người chết sốt rét, một người bị rắn độc cắn, một người bị hổ vồ. 5 người trở về, tất cả đều là thương binh bậc cao, tất cả đều ra quân với hàm thượng tá. Có thế thôi và câu chuyện về họ sẽ mãi mãi nằm trong im lặng bởi không một ai trong số họ biết viết hồi ký và cũng không một ai muốn kể lại những gì mình đã nếm trải và làm được. Họ vẫn đang nằm đung đưa trong chiếc võng dã chiến ở căn buồng chật hẹp trên tầng thượng một ngôi nhà tập thể nào đó, một khu chung cư nào đó.
Mỗi năm một hai lần Tường lại phải vào nằm ở khoa xương của Quân y viện 108. Được gần các thầy thuốc, xem họ chẩn đoán bệnh tật, anh dần dần tích cóp được ít nhiều kiến thức. Có vị giáo sư đầu ngành một hôm đã nói với bọn anh, không phải ngẫu nhiên mà sống lưng lại được gọi là xương sống, thiếu nó con người không đứng lên được, trăm thứ bệnh đều bắt nguồn từ nó mà ra. Vào tuổi cánh ta xương cốt mệt mỏi rồi, ngay đến kim loại cũng có sự mệt mỏi nữa là ta. Thuốc thang dù hay đến mấy cũng chỉ đóng vai trò bổ trợ, cái quyết định nằm ở tinh thần vận động của mỗi cá nhân. Phải vận động không ngừng, phải thường xuyên khua chân múa tay. Mạnh mẽ lên, ngồi giữa vợ con bạn bè hay đi ngoài đường, mặc, cứ thấy buồn bực là khua khoắng. Họp hành chỗ đông người vẫn có cách không ngồi yên, cái cổ khẽ lắc bên trái, lắc bên phải, cái đầu ngửa lên gập xuống, những ngón tay xòe ra cụp vào, hai bàn tay sờ nắn chỗ này chỗ khác. Tóm lại, một câu là cần phải có ý chí tấn công, nên nhớ đã bệnh xương cốt là khó lòng chữa khỏi, phải xác định chịu đựng chung sống, từ đó nghe ngóng tìm cách đẩy lùi nó từng bước.
Thằng Chiểu con trai của Chiêm sau mấy năm nhập ngũ làm lính thông tin, đì đùng vài trận trên biên giới, được chuyển ra làm thợ trong một công ty thuộc ngành điện lực. Một hôm nó cầm về hai chiếc máy điện thoại, đặt một cái dưới quê, một cái trong phòng Tường. Nó nói, con bây giờ tạm gọi là đã trưởng thành, có vợ có con, vợ chồng chúng con bắt buộc phải có di động, di động lợi hại vô cùng. Riêng với ông bà, ông đầu sông bà cuối sông, cũng bắt buộc phải trang bị hai chiếc để bàn. Đây là máy của ngành chúng con sản xuất, nó đặc biệt độc đáo, thời buổi cạnh tranh lành mạnh mà không ăn đứt người ta tất người ta sẽ ăn đứt mình, ông nhỉ. Đây ông xem, nó là một chiếc máy liên lạc không cần dây dợ, không cần ăng ten, đi đâu xa chịu khó bỏ vào cái túi xách theo, tính năng chẳng khác nào cái di động. Sau khi bấm đủ số, nhìn vào màn hình sẽ nổi lên dòng chữ nhắc ông nhập mật khẩu. Mật khẩu đặt bốn số không, rất đơn giản và bí mật. Nhập mật khẩu rồi lại có mấy chữ khác nổi lên, đang liên lạc, vậy ta phải đợi thêm một chút. Nếu đầu kia không ai nhấc máy thì sẽ có một dòng, cuộc gặp tạm hoãn, chưa liên lạc được xin quý khách vui lòng gọi lại sau, còn nếu như vì tuổi già sức yếu, nhớ nhớ quên quên, mắt mũi kèm nhèm bấm thiếu số thừa số thì sẽ có nhắc, số máy không có xin quý khách vui lòng gọi lại.
Tường nghe thằng bé thuyết trình một hồi thì bảo, chúng mày chỉ vẽ sự, tao nghe rườm rà, cái máy này chỉ hoạt động một khi xung quanh có sẵn sóng vô tuyến, về những nơi xa xôi không phải đâu cũng dùng được. Thằng bé đứng ngẩn ra, rồi nó cười xòa, hóa ra ông biết tỏng cái mẹo của chúng con. Bây giờ con thử máy, gọi về xem bà đang làm gì ông nhỉ. Đằng kia lập tức có tiếng bà văng vẳng, tôi nghe đây. Bà đang làm gì đấy, con Chiểu đây mà. Tao đang quấy bột thổi cơm hầu vợ con mày chứ còn làm gì nữa. Vậy bà nói chuyện với ông nhé, ông dạo này đi đứng nhanh nhẹn lắm rồi. Tường đón lấy ống nghe. Ông đấy à, có khỏe không? Tạm được, thế bao giờ bà mới lên với tôi? Gặt hái xong rồi, đang nóng lòng đợi trời cho mưa xuống để làm mầu mà vẫn chưa thấy, vậy nay mai tôi tranh thủ mang mấy con ngói lên thăm ông. Cảm ơn bà. Dập máy.
Thằng Chiểu thấy mình đã hết việc, nó vội vã chào Tường rồi vù luôn. Còn lại một mình, chả biết làm gì, ông toan nhấc máy nói chuyện thêm với bà lão nhưng ngập ngừng lại buông tay khỏi ống nghe. Suốt ngày hôm sau vẫn thế, ông cứ đi ra đi vào, thấy căn buồng sao trống trải. Lần đầu tiên sau mấy năm dọn đến đây, giờ ông mới có cảm giác đơn chiếc. Đã đơn chiếc bao nhiêu năm rồi có sao đâu, vậy mà nay bỗng đổi tính đổi nết. Nghe các nhà chuyên môn nói tuổi già đến con người ta thường đổi tính đổi nết, đang hiền lành hóa dữ tợn, đang xuề xòa xong thôi hóa cầu kỳ khó chịu, đang chừng mực điều độ hóa thèm khát buông tuồng. Ôi chà, cái tuổi ngoài năm mươi trở đi người ta gọi là đã lên lão, nó cũng là một bước thử thách nữa của con người. Sau đấy liệu có còn những bước khác không, lại cứ phải đợi xem sao.
Chị Chiêm xách lồng chim ngói bước lên 4 tầng cầu thang, gặp ai cũng mặn mà chào hỏi, chị đã quen với thông thổ nơi này, đã nhớ tên từng người hàng xóm và mỗi lần tới đây chị thấy ấm cúng như đang về nhà. Có bà chị sống ở tầng dưới thoáng trông thấy bóng Chiêm liền gọi lại rỉ tai, tôi nom bà dạo này đẹp ra, như hồi xuân thì phải. Chị đỏ mặt lí nhí một lời cảm ơn. Sống ở tập thể làm sao mà tránh nổi chứ, con ruồi bay qua người ta đều biết, người ta đi guốc vào bụng mình, hoặc là khuyến khích, hoặc là sẽ dè bỉu, chỉ hai khả năng ấy thôi. Trong ánh mắt xung quanh nhìn vào chị hiểu hai đứa mình đang được khuyến khích, chỉ riêng điều ấy đủ khiến chị quý mến và muốn gần gụi với nơi này. Và chị thầm hiểu mình đang bước gần đến hạnh phúc. Bản thân những điều đó tự nó cũng đã là một hạnh phúc rồi.
Để anh ngồi một mình, chị thay quần áo, sau đó chui vào bếp. Chỉ một loáng mùi thơm của thức ăn trên chảo đã làm cho căn buồng nhỏ tràn ngập cảm hứng. Đứng ngoài hiên tưới táp cho mấy chậu cây cảnh, ông lão hàng xóm lên tiếng tức thì, nhà tay Tường xào nấu gì mà mùi hành thơm nức. Mời bác qua xơi nước, có vài đôi ngói em vừa mang từ quê lên bác ạ. Đã có chim ngói rồi đấy, nhanh thật, mới hôm nào thu mà nay đã lại thu.
Với Hà Nội cả năm đây là những ngày thời tiết đẹp đẽ nhất, mát mẻ khô ráo, lòng người thanh thản nhẹ nhõm, có chạy ra phố gặp nhau còn muốn dừng lại chào hỏi hoặc đưa tay lên vẫy vẫy. Đêm xuống anh Tường giục chị Chiêm lên giường sớm. Chị Chiêm sau khi tắm gội để nước gột rửa mang đi mọi nỗi vất vả dọc đường, trong bộ đồ ngủ lụa tơ tằm Hà Đông màu hạt dẻ, chị hiện ra trước khung cửa như một người khác chứ không còn là chị của mọi ngày. Con người ta hoàn toàn có thể xấu đi trong chốc lát và cũng có thể đẹp lên trong chốc lát. Bộ đồ chị mặc đêm nay là tự tay anh Tường đã chọn mua trong siêu thị mấy hôm trước, khi anh có chút việc vào trung tâm thành phố. Có hai nét ở chị để anh thấy người mình thương yêu cần phải được chăm sóc nhiều hơn nữa, rất nhiều. ấy là nét hồn hậu mộc mạc mà thị thành không có, thứ hai là nét duyên dáng bẩm sinh không son phấn tô vẽ, nét này quý vì luôn luôn hiếm ở đời, trời cho ai thì người ấy may mắn mà có đấy thôi.
Ông bác sĩ đầu ngành nói thế nào nhỉ, mạnh mẽ lên, phải có ý chí tiến công, ông này thế mà hóm, càng nghĩ càng thấy lão ta thâm hậu. Anh vòng tay kéo chị quay lại phía mình, ngọn đèn ngủ như một trái ớt đỏ cuối phòng mờ tỏ, khuôn ngực đầy đặn của chị phập phồng nồng ấm, nó tỏa sáng, là thứ ánh sáng của mảnh trăng lẩn trong đám mây loãng như sương. Chị khẽ dặn anh hãy nhẹ cái tay, phải rồi, như thế, cứ thế... Anh đang là ngày xưa của em rồi đấy.
Dạo mới về, vẫn căn phòng này, anh bắt chị đứng úp mặt vào tường, hai tay vịn vào tường, còn anh lòng khòng áp ngực mình lên lưng chị rồi anh làm cái việc người ta vẫn gọi là đánh chịn. Chả ra làm sao cả, thương anh quá, nhưng làm thế đâu có hay. Chị vừa chiều anh vừa lặng lẽ khóc vì chạnh thấy tủi thẹn. Chúng ta là người cơ mà, anh ơi, như thế đâu phải cách của người. Suốt một kiếp này em vẫn chỉ quanh quẩn với quê nhà, chả được như ai học hành bay nhảy, đừng để em đến một ngày phải biến đi như cái bống trong đồng. Đến cái bống cũng không còn sống nổi là nghĩa làm sao.
Đợi năm tới Tết ra em sẽ kéo anh về gây bống, thương cho những cái bống cái bang.
Kìa! Con...
Nguyễn Công Hoan
Bây giờ lắm lúc ngồi buồn mà nghĩ đến chuyện ấy, tôi lại vừa buồn cười, vừa xấu hổ...
Ngày tôi còn đi học ở Hà nội, tôi vẫn nghe anh em bạn kháo nhau rằng hiệu thợ may Đại Ích, mới dọn đến phố Hàng Bông, có một cô con gái đẹp lắm mà ai đã trông thấy một lần cũng phải chịu là một vị tiểu thư tân thời, một giai nhân tuyệt thế, và công nhận cái tên tặng cho cô là “Ngôi sao Hà Thành” là không sai. Ừ không biết các cô gái non, đến tuổi mà chưa được bổ làm vợ, thường ngày bị các công tử nhắc nhỏm luôn thì các cô có hay hắt sơi không? Có khi các cậu lại gọi chằng cả là “mợ nó” mới đáng phục chứ! Ấy, cô này cũng bị chúng tôi, đứa nào đứa ấy, khép án vắng mặt một cách vô lý thế. Duy có tôi, tuy chẳng đạo đức gì nhưng không nhận vơ, vì tôi mới chỉ được nghe tiếng chứ chưa được biết người, cho nên mấy bận đi gần, tôi cố ý liếc mắt nhìn trộm qua tủ hàng, nhưng tức quá không bận nào rõ, chỉ thỉnh thoảng mới thấy cô ấy ngồi thon lỏn bên quầy, mặt méo xệch sau hai lần kính tủ?
Cụ Đại Ích - tôi xin phép các ngài gọi thế - mà nói câu này, các ngài cũng bỏ ngoài tai, vị nào có con gái đẹp, thì tự nhiên trông ra phúc hậu, oai vệ ngay, mà đường đường một đấng bố vợ, dù râu ria chưa có, dù vẫn trẻ măng, nhưng tôn lên chức cụ cũng đáng, mà cô em càng nõn nà, thì ông cụ càng có giá trị. Cụ Đại Ích nhà tôi cũng có giá trị lắm, tuy mặt cụ cũng non nớt, chỉ độ băm nhăm bốn mươi tuổi là cùng. Cứ xét mặt cụ thì cũng là tay đáo để, thâm trâm lắm, nhưng đáo để thâm trầm ở đâu chứ đối với khách mua hàng, cụ rất dịu dàng, ngọt ngào, vui vẻ, nhất là rất lễ phép. Cái lê phép ăn người của nhà buôn, vì thỉnh thoảng nể lời ăn nói, cách cử chỉ của cụ nhiều người phải vui lòng, miễn cưỡng mua một thứ hàng không vừa lòng.
Tôi lập tâm xem mặt cô con gái cụ mãi mà không ăn thua. Một lần xin được tiền nhà may bộ quần áo tây, tôi quyết vào hàng cụ dù đắt rẻ thế nào cũng được một dịp làm quen, lần này còn lần khác. Tôi yên chí tài nào cũng gặp mặt cô con gái cụ, nhưng ngờ đâu số tôi đen, đã cố chọn vải, đo người, dằng dai cho đến hàng giờ đồng hồ mà không gặp, tôi đành ngậm bồ hòn ra không. Giá luật cho phép khách mua hàng được nằm ăn vạ lỳ tù tì ở nhà chủ cho đến khí thấy mặt cô con gái thì tôi cũng chẳng về!
Cụ Đại Ích tiếp tôi rất lễ phép. Cứ những lời cụ rót vào tai tôi thì tôi tưởng dẫu cụ đã tính bộ quần áo ấy đắt hơn hiệu khác ba đồng bạc, nhưng tôi cũng không dám ân hận chút nào. Mà giá cụ làm ơn thả ngay tiểu thư nhà cụ ra cửa hàng cho tôi được ngắm, thì dù cụ cưa nặng mấy, tôi cũng phải cố nhắm mắt, nhắm mũi mà thọc tiết ví.
Đây những câu sau này, tôi nhắc lại các ngài nghe xem có ngọt ngào không:
- Bẩm ông từ đầu mùa rét năm nay, chúng tôi được nhiều ngài chiếu cố may cái hàng này lắm.
- Nào, bác cai đâu ra đo hầu ông.
- Xin phép ông để cái này bên này.
Cách tiếp khách của cụ Đại Ích làm cho tôi ngượng nghịu quá chừng, bởi vì tôi mới ba tuổi toẹt, chỉ bằng con rể cụ là cùng, mà cụ lại gọi là ông. Bởi vậy, tôi phải gọi cụ là cụ.
Vài hôm sau, tôi đến thử quần áo. Lần này cũng như lần trước, bông hồng chẳng thấy ở trước mặt, mà tiếng lễ phép suông cứ làm ngượng hai tai. Rồi đến hôm lấy quần áo về tôi chẳng thấy được tia sáng của ngôi sao.
Hà Thành! Chán quá, thà vứt mấy chục đồng bạc xuống sông, xuống biển còn được xem tăm.
Tôi định cố tìm chỗ nào may hàng để bẻ hoẹ chữa đi chữa lại cho có cớ mà ra vào cửa hàng vài lần nữa, nhưng số đen đủi, họ lại may khéo quá mất rồi.
Nhưng từ đó tôi lấy lại được cái lãi con con, là được đứng vào hạng người quen của cụ Đại Ích. Vì một lần gặp cụ ở phố, tôi chào cụ, cụ còn nhớ mà khen bộ quần áo may sát người.
Một lần nữa, tôi cần sắm cái mũ, tôi cũng lại đâm đầu vào đó. Thôi thì đắt rẻ thế nào cũng bấm bụng mà mua, tuy cũng lại không gặp cô con, nhưng được nghe cụ mắng người nhà câu sau này, tôi cũng hả dạ:
- Xà! Láo nào! Bán cho người ta thì mới được tính giá ấy, chứ bán hầu ông đây kia mà! Xin bớt ông năm hào.
Như thế thì tôi đối với cụ Đại Ích chẳng phái là người xa nữa, nghĩa là người quen, người thân, người nhà, con rể rồi vậy! Cho nên chẳng lần nào tôi gặp cụ ngoài phố, tôi không cố làm cho cụ trông thấy, để chào trước, cùng bắt tay chuyện trò.
Nhưng tôi vẫn tấm tức một điều, là cô con gái yêu quí của cụ, tôi vẫn thấy anh em ca tụng, mà chính tôi thì chẳng rõ mặt ngang mũi dọc ra sao. Vì bận nào liếc mắt vào mà có gặp cô ngồi bên quầy, thì tôi cũng chỉ thấy mặt cô méo xệch sau hai lần kính tủ!
Một hôm, vào ngày Hội Chợ. Cũng như thói nhiều hạng công tử bột, tôi thắng bộ để đi diện gái. Tôi lướt hết dãy hàng nọ sang dãy hàng kia trong Hội Chợ, mà chẳng thấy một ma nào lọt vào mắt xanh. Đi đã bại hai cẳng, thì may sao, khi ngoặt ra cổng thấy đằng trước tôi, thướt tha một cái bóng hống đi một mình cũng ra phía cổng.
Cái bóng đó là một cái ô khum khum màu sữa, dưới cái khung ô, là một cái áo satanh hồng sáu khuy đang bay phấp phới, dưới cái vạt áo là hai cái ống quần rộng nhỏ bé như ống sậy; dưới hai gấu quần, là gót cao mun mút của đôi giầy mang cá da trăn. Thấy cái mồi ngon, tôi quyết săn cho được. Tôi rảo cẳng đuổi theo. Lúc đến gần độ mười thước, thì một luồng hơi thơm thoang thoảng đã làm nở nang mũi tôi.
Tôi cố trông suốt qua tầng vải ô, thấy vẽ rõ bóng một cái đầu xinh xắn, cái áo sa-tanh trơn nhẳn bóng như căng khít lấy cái lưng ong hum húp, tròn tròn, thỉnh thoảng làn gió tạt tung cái tà áo ngoài thì lại lộ cái áo cộc lụa mỡ gà viền đăng-ten, ôm chặt lấy cái đũng quẩn cẩm-châu phình ra, mà hai ông nếp là phẳng tắp!
Khi đang chòng chọc ngắm từ đầu đến chân con bò lạc ấy, thì thình lình tôi đi sát ngay trước mặt cụ Đại Ích mà tôi không biết. Cụ Đại Ích trông thấy tôi, tay cất mũ, tay giơ ra và nói:
- Kìa, thưa ông, ông cũng đi chơi Hội Chợ, có vui không?
Tôi thi lễ và trả lời:
- Vâng, thưa cụ, Hội Chợ năm nay cũng như mọi năm. Tôi định vào sắm cái hộp bằng tre chạm, nhưng không được cái nào vừa ý.
- Vâng, tôi cũng chẳng mua được cái gì.
Tôi không muốn nói chuyện lâu, nên chỉ cười lạt không trả lời thì cụ Đại Ích khéo mồm miệng mà nói tiếp:
- Xin phép ngài để tôi giới thiệu ngài một chỗ bán hộp tre chạm của người anh em. Tôi xin đi hầu ngài tới đó, ngài thử chọn xem rồi chiếu cố cho...
- Cảm ơn cụ, xin để bận khác, vì tôi có người nhà chờ.
Người nhà tôi tức là cô gì đây kia ấy mà, các ngài có hiểu không? Nếu cụ Đại Ích cùng đi với tiểu thư nhà cụ thì tôi xin cam lòng thả cô kia ra mà bám chặt lấy cụ. Vậy ai bảo cụ găm con gái ở nhà, để cụ chẳng được đi “hầu” tôi đến cái hàng của người anh em để tôi “chiếu cố”!
Thoát được nạn cụ Đại Ích, tôi lại phải đi rảo cẳng đuổi theo mồi. Lúc đến sau lưng, tôi càng ngắm cái dáng đi của cô ta, càng thấy yểu điệu, cái tay vung vẩy sao mà khéo và mềm thêm. Mà không biết nước hoa cô ấy mua bao nhiêu tiền một lọ mà thơm được làm vậy. Tôi tiến lên trước, để quay lại nhìn mặt! Ôi mẹ ơi? Ông bà nào ăn gì mà đẻ được con đẹp đến thế! Cái mái tóc tơ rẽ đường ngôi lệch, chải kỹ càng quá, nhưng nó kỹ càng ở chỗ cố ý làm cho người ta tưởng lầm là chải dối dá, nó loà xoà xuống trán, xuống má, nó toả ra che gần lấp gáy; lấp tai. Cái dây chuyền quàng qua cổ, giấu trong lần áo trước ngực, tuy kín mà kín hở, vì nó vẫn lóng lánh, nhấp nháy qua khe sợi tơ. Hai cái má bánh đúc, phinh phính dưới làn da mịn, đã xoa qua ít phấn lạt, lại được cái ánh phơn phót của mầu ô hắt xuống, mầu áo hắt lên, thành ra hây hây như cánh hoa phù dung. Đôi môi đo đỏ cũng khéo tăng thêm vẻ tươi của cái miệng bầu bậu, lúc nào cũng sắp sẵn một nụ đổ nhà đổ cửa.
Đến hai con mắt thi đẹp không có chữ tả nữa. Có lẽ tạo hoá cũng mất lắm công, kén chọn mãi mới được cái mặt này xứng đáng để giao cho hai con mắt ấy.
Nói tóm lại, trông cô tiểu thư này, nhu nhú như bông hồng mới nở, bầu bĩnh như cái gối mới nhồi bông vậy.
Tôi ngắm cô ấy, ngắm chòng chọc mãi khiến cô ấy ngượng, và phải che ô lấp mặt đi. Tôi đành giở thói trắng trợn, âu là bên phải cô đã che ô lấp thì tôi xoay sang bên trái vậy.
Trong bụng tôi bối rối. Tôi nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, bèn thảo vội ngay một bức chiến thư.
Tôi tủm tỉm, nói bâng quơ rằng:
- May quá, hôm nay đi Hội Chợ tưởng là phí công?
Nói đoạn, liếc vào cô ấy mà xoà cườỉ. Cô tiểu thư biết tôi có ý trêu ghẹo, bèn xoay cái ô sang bên trái.
Lập tức tôi lại đi sang bên phải.
- Gớm làm bộ quá! Cô đi Hội Chợ có mua được gì không?
Cái ô lại ngả sang bên phải, mà tôi thì lại đổi sang bên trái.
- Thưa cô, cô làm ơn cho tôi biết bây giờ là mấy giờ rồi?
- Cô ở phố nào? Sao tôi trông cô quen quá!
Cái ô lại nghiêng về bên trái, mà tôi lại luồn sang bên phải. Trời còn nắng đâu mà che ô! Cái đồng hồ đeo tay của cô xinh lắm nhỉ! Nó bé thế sao nó cũng chạy được?
Chà? Ước gì tôi được làm cái đồng hồ kia. Cứ môi câu tôi nói ra, thì cái ô và tôi lại chuyển đổi chỗ. Mà sao cô bé gan lì, nói thế nào cũng không hề nhếch mép!
Tôi thấy bao nhiêu mồi thả ra, mà cá chẳng cắn câu tôi bèn trâng tráo, miệng cười, mắt liếc, tay dúi cái ô và nói:
- Hoài của, người đẹp thế mà câm, người ta hỏi từng ấy câu mà không trả lời!
Bỗng tiếng giầy lộp cộp đằng sau đập vào màng tai tôi làm cho tôi quay lại. Thì ra cụ Đại Ích đi tới. Cụ Đại Ích không nhìn tôi, nhưng khi đến ngang mặt cô tiểu thư, cụ đập vào ô cô, ngọt ngào như nhắc cô rằng:
- À! Con, ông hỏi, sao còn không trả lời ông đi!
Cái xó bếp
Lê Văn Trương
- Ông mãnh con, cứ bám nhằng nhẵng lấy con đ... ấy thì còn làm ăn gì. Lại đây.
Thằng Tý, bất cứ lúc nào, nghe thấy tiếng bà to béo, bệ vệ mà cái quyền áp chế của kẻ mạnh cùng cái tập quán xấu xa của xã hội đã bắt nó phải gọi bằng "mẹ" là nó lạnh cả gáy. Nó biết, hễ khi nào bà kia gọi đến nó thì phi phải đánh tất phải chửi. Khổ thêm cho nó nữa, là mỗi lần, nó phải đánh, phải chửi thì y như chị Hai là người yêu quý nhất đời của nó cũng bị đánh, bị chửi lây. Mỗi lần bà kia gọi, nó tuy sợ chết đi mà cũng phải lại gần, khoanh tay, thưa:
- Bẩm mẹ bảo gì con?
Người ta bắt buộc nó phải cử chỉ lễ phép, phải nói năng cung kính như thế. Nhưng cái tiếng mẹ, đối với nó, chẳng những không ý nghĩa gì mà lại gây lắm cảm giác hãi hùng. Chỉ cái tiếng "chị Hai" đối với nó là có vẻ thiết tha. Mỗi lần gọi chị Hai, nó thấy trái tim nhỏ xíu của nó hồi hộp, một tia sáng êm đềm ấm áp ở trong mắt nó bay ra mà bao phủ, mà ôm ấp lấy cái người nó gọi. Nó cho rằng cái tiếng đáng yêu, đáng quý nhất đời là cái tiếng chị Hai, mà cái tiếng mẹ là cái tiếng đáng ghê, đáng sợ nhất. Còn tiếng mẹ đối với nó là biểu hiện cho sự đòn đánh, ghét bỏ mà cái tiếng chị Hai là hình ảnh của sự yêu thương nồng nàn.
Khối óc non nớt, trái tim trong sạch của nó đã định nghĩa cho hai tiếng gọi kia những tự bao giờ.
Nó lên sáu, người ta cho đi học thì nó cũng đi học chứ nào có hiểu đi học để làm gì. Nhưng mỗi lần, chị Hai nó bế nó vào lòng, nước mắt dàn dụa bảo: "Em cố học đi cho chị Hai nhờ" thì nó thấy thích học lắm, chứ nào có biết chị Hai yêu quí được nhờ gì về sự học của nó đâu. Nó chỉ biết rằng đi học thì thêm một cái cớ cho mẹ già nhiếc móc chị Hai, mỗi khi mẹ già nó phải bỏ tiền ra mua thỏi mực hay chục giấy cho nó. Tuy thế, nó vẫn thích học, mà nó lại học chăm bởi vì nó cảm thấy mỗi lần chị Hai thấy nó "kêu như con cuốc mùa hè" là trên vẻ mặt thảm sầu kia lại hiện ra một vẻ vui mừng.
Nó chỉ muốn cho chị Hai được vui nên nó càng chăm học. Mỗi lần nó cắp sách về là mỗi lần chị Hai đon đả hỏi:
- Em thuộc bài không. Em viết đã tốt chưa, cụ Đồ có khen em không?
Nó tươi cười mà gật đầu. Cái gật đầu rất có ý nghĩa khiến cho mỗi lần chị Hai nó trông thấy lại tủm tỉm cười. Mỗi lần nó thấy chị Hai tủm tỉm cười thì những muốn chạy lại ôm chầm lấy chị Hai, nhưng con mắt dữ dội của cái bà to béo bệ vệ đứng đằng kia lại làm cho nó sợ hãi thành thử nó cũng chỉ tủm tỉm cười và ngó chị Hai một cách rất yêu thương mà không dám lại gần.
Một điều mà nó vẫn không hiểu là tự làm sao chị Hai nó chỉ dám gọi nó là con trong lúc vắng người, còn khi đứng trước mặt cái bà to béo bệ vệ kia thì chỉ kêu nó bằng anh. Người khác gọi thế là sự thường, chứ chị Hai nó gọi nó thế thì quá lắm. Cái tiếng anh có cái ý nghĩa giả dối, miễn cưỡng đối với nó rất là khó chịu. Nhưng chị Hai khéo dùng một cái giọng rất dịu dàng mà gọi, nên tiếng anh cũng không cách biệt cái tiếng con là mấy, cũng không đến nỗi nhạt nhẽo cho lắm. Nó chỉ băn khoăn tự hỏi làm sao chị Hai không có quyền gọi nó bằng con nhỉ?
Cứ như ý nó thì lúc nào nó cũng muốn cho chị Hai nó gọi nó bằng con, bởi vì nó xét thấy tiếng gọi kia thường đi đôi với một cái nhìn quyến luyến, một cái hôn âu yếm, một vẻ mặt tươi cười.
Nó chỉ muốn cho chị Hai lúc nào cũng gần gũi nó, ôm ấp bồng bế nó để cho nó được vuốt tóc, sờ má, bẹo mũi, để lúc nào díp mắt, nó được gục đầu vào ngực chị Hai mà ngủ.
Giá nó được nằm thon lỏn vào lòng chị Hai mà đánh một giấc thì ngon biết chừng nào. Lúc ấy, thì dù ông "ba bị chín quai, mười hai con mắt" có hiện ngay ra, nó cũng chẳng núng, chị Hai chỉ khẽ tát cho một cái là phải lộn nhào đi...
Nó chỉ muốn thế, chỉ ước ao có thế, mà có lẽ chị Hai nó cũng chỉ ước mong có thế thôi, nhưng cái bà to béo bệ vệ kia nào có muốn thế cho. Bà chỉ muốn cho chị Hai nó làm, làm đầu tắt mặt tối, từ mờ mờ sáng cho đến nửa đêm. Nó thấy chị Hai vất vả mà nó thương. Nó chỉ mong cho chóng có hai cánh tay to lớn như thằng xe, thằng bếp để làm giúp cho chị Hai.
Nó nhìn thấy chị Hai đầu bù tóc rối mà nó buồn, nó thấy chị Hai phải chửi phải đánh mà muốn khóc muốn kêu giời lên. Nhưng nếu kêu giời, nếu khóc thì cái bà to béo bệ vệ kia lại túm lấy nó đánh túi bụi mà lại còn đánh thêm chị Hai nó nữa. Nó chỉ biết đứng ngó những cảnh thương tâm ấy mà nuốt nước mắt.
Ôi, nuốt nước mắt! Câu nói rất thường kia mà ý nghĩa rất chua cay nó đã hiểu từ hồi còn măng sữa trong cái tuổi mà trẻ con người ta đang vui cười với con bướm với ông giăng.
Nó thấy cái đời nó và chị Hai bị bó buộc nhục nhằn hơn mẹ con con chó mực vì chúng còn được tự do âu yếm nhau. Nó trông thấy con chó mực liếm mình mẩy cho con mà thèm, ước gì chị Hai và nó sẽ biến ra thành con chó, để chị Hai được tự do mà nưng niu nó.
Chị Hai phải làm vần vật cả ngày, mà cả ngày mẹ già nó cứ long lên sòng sọc, nên không bao giờ nó được gần chị Hai nó cả.
Chỉ có lúc buổi sáng là lúc cả nhà còn đương ngủ mà chị Hai đã phải dậy làm lụng rồi, là nó được tự do âu yếm chị Hai mà thôi. Những thời khắc ấy là những thời khắc sung sướng nhất trong đời nên nó chẳng bỏ phí bao giờ.
Giời rét như cắt ruột, nó thấy chị Hai dậy là nó cũng bò dậy, chị Hai cản thế nào, nó cũng không nghe.
- Em ngủ nữa đi cho khỏe, mai còn đi học.
Nó phụng phịu:
- Không, con dậy với chị Hai cơ.
- Chị Hai phải dậy sớm dọn dẹp, em dậy sớm làm gì?
- Em dọn dẹp mấy chị Hai.
- Em bé bỏng đã dọn dẹp gì được. Ngủ đi chóng ngoan.
Nó cũng muốn là đứa con ngoan của chị Hai mà nó cũng lại muốn dậy để gần gụi chị Hai, nó kiếm cớ:
- Cụ Đồ bảo dậy sớm học chóng thuộc, em dậy em học, em quên chữ nào, chị Hai bảo em.
Ở dưới xó bếp, chị Hai nó ngồi đun nước, nó lặng lẽ ngồi một bên. Nó trông ngọn lửa cháy đỏ ối mà nó vui, nó nghe tiếng củi nổ mà nó sướng, nó nhìn bức tường đen kịt những khói mà ánh lửa chiếu vào như có vẻ vui cười với nó, nó coi những nồi, niêu, xanh chảo treo ở chung quanh như những người bạn rất thân đến mục kích và chứng thực cho sự sung sướng của nó. Nó ngồi chồm chỗm cạnh chị Hai nó mà nó chẳng biết mỏi, biết chán là gì. Chị Hai bảo nó học thì nó cũng nghe lời, giở sách học, chứ theo ý nó thì cứ ngồi nhìn chị Hai nó, nhìn ngọn lửa còn sướng hơn.
Thỉnh thoảng nó lại giả vờ hỏi nghĩa, kỳ tình nó đã thuộc làu như cháo.
- "Nhân chi sơ" là gì, hở chị Hai?
- Là người chưng xưa.
- Không phải, không phải, là sờ vú mẹ.
Rồi nó sà vào lòng chị Hai, nó vạch yếm, nó sờ vú, cũng có lúc nó giả bộ làm em bé, nó bú ti. Nó nằm thon lỏn vào lòng chị Hai, nó nhắm mắt lại. Những lúc ấy thì nó sung sướng lạ. Nó thấy nó bé lại, nó thấy hơi thở nó ăn theo với hơi thở của chị Hai nó, nó thấy trái tim nó hồi hộp với trái tim chị Hai. Mà chị Hai thấy nó sung sướng, chị Hai cũng sung sướng. Chị Hai thấy nó ngoan ngoãn kháu khỉnh mà trong thần trí bỗng nổi lên một mối hy vọng rực rỡ đầy rẫy những điều ước hẹn tốt đẹp về tương lai... Chị Hai cầu mong cho nó chóng nhớn thành người để đạt được những chí nguyện mà chị Hai nó đã kỳ vọng cho nó. Giá có phải rạch máu, xẻ thịt mà bù đắp vào cho nó để nó chóng nhớn, thì chị Hai cũng sẵn lòng bù đắp ngay. Mà nó, nếu có phải moi ruột, xé gan để cho chị Hai được sung sướng, nó cũng vui lòng mà hy sinh ngay.
- Lạy giời phù hộ cho mẹ con tôi...
Thằng Tý nghe chị Hai nó khấn như thế, nó tưởng chừng như ông giời - một ông giời của những kẻ khốn nạn - đã bước chân ngay xuống cái xó bếp này, dùng phép mầu mà biến ra thành một cảnh bồng lai đầy rẫy những sự lạc thú.
Cái xó bếp ấy là một thế giới thần tiên của mẹ con nó.
Những người lòng dạ khô khan ở nơi lầu son, gác tía bao giờ biết được những cái thú "xó bếp" ấy, cái thú không mất tiền mua, mà dù có tiền mua cũng không được. Muốn biết những cái thú thần tiên ấy phải có một trái tim trong sạch, phải trải qua một cảnh đau thương như thằng Tý, phải lấy một trái tim yêu thương để hiểu một trái tim yêu thương. Thằng Tý ngày nay đã thành người, đã là một người có địa vị ở trong xã hội, nhưng nó vẫn ngậm ngùi rằng không lúc nào, ở chốn nào mà nó được sung sướng cho bằng khi còn ngồi xó bếp với chị Hai nó, bởi vì cái người đã tận tụy một đời vì nó, đã hy sinh một đời cho nó ngày nay đã chôn sâu dưới nấm đất vàng.
Hỡi ơi! Cái xó bếp! Nó biết tìm đâu cho thấy một cái xó bếp ấm áp như xưa nữa.
Cánh tay đứa trẻ
Lê Văn Trương
Canh đã khuya, hạt mưa gieo tí tách, Hà Nội đang chìm đắm trong một cảnh buồn rầu thảm đạm.
Phố xá đã vắng tanh. Lơ thơ một vài cái xe, áo tơi cánh gà bưng kín mít, ghếch càng lên bờ hè mà anh xe thì co ro ngồi ẩn mưa ở dưới hiên. Vài con mèo cắn nhau ở trước cửa một nhà kia gào lên những tiếng "mao... o" lanh lảnh ghê mình.
... Trong cái buồng giấy rất lịch sự trang hoàng theo lối mới, dưới cái ánh sáng le lói của ngọn đèn điện, Bùi Nguyên đang cắm cúi viết một bức thơ. Chắc bức thơ kia có lắm điều khó nói, nên thỉnh thoảng chàng lại cau đôi lông mày, cắn móng tay, nghĩ ngợi...
Sau nửa giờ đồng hồ nghí ngoáy, vất vả, bức thư đã viết xong, chàng ném bút xuống bàn, xoa tay có vẻ khoan khoái, nhẹ nhàng như đã cất được một gánh nặng. Chàng châm thuốc hút rồi cầm bức thơ đọc lại.
Hà Nội, ngày 14-6-1934
Thưa chú,
Khi chú nhận được bức thơ này, thì cháu đã ra người thiên cổ, chắc chú phải cho cháu là một kẻ hèn nhát không chịu nổi nỗi đau đớn ở trên đời mà phải quyên sinh. Cháu xin thú thực với chú rằng cháu không có cái can đảm chịu được những nỗi chênh lệch, éo le ở đời. Cháu không thể khoanh tay giương mắt ngồi nhìn cái cơ nghiệp của cha ông vì cháu buôn thua bán lỗ, vì cháu bất tài mà phải sa vào tay kẻ khác, cháu không thể đang tâm mục kích cái cảnh tượng tan tành của gia đình cháu được. Cháu tưởng đến ngày một ngày hai đây, bọn khách nợ tham lam và tục tằn sẽ đến đây mà xâu xé, tranh giành với nhau những đồ đạc vốn là những người bạn trong cuộc đời êm ấm xưa kia của cháu, cháu tưởng đến cái vẻ mặt buồn rầu ngơ ngác của vợ con cháu trong cảnh tan nát ấy mà cháu không thể nào sống được nữa. Cháu biết rằng, cháu chết đi thì để nỗi xót thương, thiếu thốn cho vợ con cháu, nhưng nghĩ rằng chú là người rất thương yêu cháu, chắc là sau khi cháu chết, chú sẽ đem tấm lòng giời bể kia mà đùm bọc lấy vợ con cháu, nên cháu cũng đành lòng mà nhắm mắt.
Chú ôi, "con chim lúc chết kêu thương", xin chú nghĩ đến cái tiếng gọi cuối cùng của cháu lúc sắp từ giã cõi đời này mà tha hết cả tội lỗi cho cháu cùng là che chở cho vợ con cháu, cho chúng nó khỏi bơ vơ, thì cái ơn cao dày ấy dẫu kiếp này không giả được, kiếp sau cháu cũng xin thác sinh làm thân trâu ngựa để đền bồi.
Trăm lạy chú
Bùi Nguyên
Bùi Nguyên đọc xong bức thơ, vất điếu thuốc lá, mở ngăn kéo lấy ra một con dao cạo.
Trông thấy lưỡi dao sáng quắc, lạnh lẽo kia nó sắp đưa chàng về nơi chín suối, chàng chẳng có vẻ gì rụt rè ghê sợ mà lại cảm ơn nó sắp rũ sạch cho chàng những nỗi đau thương nhục nhằn. Chàng lấy ngón tay cái vuốt khẽ lưỡi dao, xem nó có thiệt bén không. Rồi chàng giơ cổ tay trái lên, tháo cái đồng hồ tay ra. Chàng lại đứng dậy lấy thìa khóa hết các cửa lại. Chàng khóa cửa xong, về ngồi ghế, xếp ba bức thơ gửi cho chú, cho vợ, cho quan tòa vào ngăn kéo rồi cởi áo ngoài ra, vén cánh tay áo sơ mi lên, lấy ngón tay giữa bên phải tìm cái mạch máu cái, chú ý như một vị nguyên soái đang tìm địa thế để triệt hạ quân thù ở trên bức bản đồ vậy.
Trông chàng lúc bấy giờ vẻ mặt nghiêm trang, cả quyết, cử chỉ điềm đạm, chậm chạp, ta tưởng ngay đến một vị y sĩ đang đem hết cái trí thông minh suy xét để xem mạch cho một người bệnh, chứ ta không thể ngờ rằng con người kia đang đi tìm cái chết, đang đi kiếm cái huyệt hiểm yếu để cầu lấy một cái chết chắc chắn, ta không thể ngờ rằng kẻ kia đang kiếm cách để làm cho bao nhiêu máu nóng trong người sẽ trào ra hết, khiến cho cái thân thể mạnh mẽ hồng hào kia sẽ trở nên một cái thây ma lạnh lẽo xám xịt.
Tử huyệt đã tìm được rồi. Bùi Nguyên lấy ngòi bút đánh dấu mực vào cho nhớ.
Chỉ nhờ một nhát dao mạnh và nhanh là cái mạch máu kia sẽ đứt phăng ra, chàng sẽ ngồi nhìn sự sống nó từ từ rời khỏi thân thể chàng...
Các cửa đã đóng kín không còn ai có thể đến bắt chàng được nữa.
Năm phút... Mười phút...
Chàng sẽ ngã ra. Thế là thoát nợ!
Bùi Nguyên nghĩ đến đấy mỉm cười, một cái cười lạnh lẽo, ghê sợ của ông thần chết. Chàng liếc nhìn chung quanh buồng như muốn cùng các đồ vật kia vĩnh biệt. Chàng cầm lưỡi dao sáng loáng giơ lên, lạnh lùng đều đặn như một cái máy, mắt nhìn vào dấu mực ở cổ tay.
Trông chàng lúc bấy giờ điềm tĩnh quả quyết cơ hồ như không còn sức mạnh gì có thể bắt chàng sống được nữa thì bỗng chiếc đồng hồ quả lắc ở buồng bên đánh mười hai tiếng: mười hai tiếng đều đặn, thánh thót, khắc khoải, trong bầu không khí yên lặng như những tiếng gọi của trái tim vợ con chàng gọi chàng. Tiếng chuông ngân ra như có vẻ khóc than, rền rĩ bắt chàng phải lùi cái chết lại một lúc mà nghĩ đến cảnh thảm sầu đau đớn của vợ con chàng sau khi chàng chết. Chàng lấy tay khoa khoa như muốn xua đuổi những cái hình, ảnh ghê gớm, đau thương, những cái ai oán, não nùng ấy đi để cho chàng được thảnh thơi mà chết. Chàng khoa tay mạnh quá thế nào đụng phải bức ảnh của vợ con để ở góc bàn, rơi xuống sàn đánh độp một tiếng. Chàng nẩy mình, cái giật mình của một kẻ đang làm một việc gì bí mật trong chỗ kín mà bỗng có tiếng động. Không biết tại làm sao - có lẽ cái bản năng nó sai khiến- chàng vội vàng nghiêng mình lấy tay nhặt lên, rồi chàng nhìn...
Vẻ mặt xinh xắn, tươi tỉnh của vợ con chàng lồ lộ ra ở trong ảnh khiến chàng phải sửng sốt, đau đớn. Chàng tự xét mình không đủ can đảm ngồi nhìn những vẻ mặt yêu mến, xinh xắn, tươi tỉnh kia sẽ phải buồn rầu, nhăn nhó sau khi mõ tòa đến tịch biên cơ nghiệp chàng. Chàng tưởng tượng đến phải mục kích những nỗi thiếu thốn nghèo nàn mà sau này vợ con chàng phải chịu mà chàng ghê sợ. Nhất định là chàng phải chết.
Nhưng nghĩ rằng trong bao nhiêu năm giời, vợ con chàng đã đem hết một tấm lòng yêu chàng, khiến cho đời chàng trong thời hạn ấy thật đã được hoàn toàn sung sướng, chàng lại muốn trông thấy mặt một lần cuối cùng nữa.
Chàng giở bức thư viết cho vợ lúc mười giờ (nghĩa là sau một giờ khi cả quyết tự tử) ra đọc lại xem nó đã đủ để an ủi vợ chàng sau khi chàng chết chưa.
Chàng đọc xong bức thơ, lấy chìa khóa sẽ mở cửa rồi vào buồng vợ.
Ngọn đèn Philipp xanh mười lăm nến như muốn đem bọc cả đồ đạc vào trong một hào quang ấm áp, êm đềm. Bùi Nguyên sẽ rón rén đến cạnh giường mở tấm màn tuyn. Mùi hương thơm tho ở trong thoang thoảng bay ra.
Trên cái nệm trắng, người thiếu phụ đang thiêm thiếp một giấc hòe nhẹ nhàng, thú vị. Cái coocsê mầu hồng mỏng và ngắn như bó lấy khổ người óng ả hồng hào...
Bùi Nguyên đứng nhìn cái tòa ngọc thiên nhiên ấy, trông cái sắc đẹp biến thành người mà toàn thân nửa hở, nửa kín như thúc giục tấm lòng thờ cái đẹp, yêu cái đẹp mà chàng động tâm. Có lẽ lòng cả quyết muốn buộc mình vào ông thần chết đã giết sống lòng mỹ cảm của chàng chăng? Trên vẻ mặt lạnh lùng khắc khổ kia, trước cái cử chỉ điềm tĩnh ấy, ta không thấy một triệu chứng gì tỏ cho ta biết rằng con người đứng kia đã xúc động.
Về khuya, giời hơi lạnh, Bùi Nguyên sẽ lấy cái chăn gấm mỏng phủ lên bụng cho vợ, thở dài một tiếng rồi quay sang buồng con.
Thoạt mở màn chàng đã được thấy một cảnh tượng rất ngộ nghĩnh nên thơ. Thằng Tý tròn trĩnh bầu bĩnh như một con búp bê nằm ngửa tênh hênh bắc chân lên một con voi bằng cao su to gần gấp đôi nó (dễ thường tối nào nó cũng phải có con voi ngủ chung thì mới được ngon giấc). Trên cái khuôn mặt bánh dầy, đôi má hây hây đỏ phảng phất như trái đào. Dưới đôi lông mày, cặp mắt ti hí như bà mụ đang dậy nhìn những cảnh thần tiên mơ mộng ở tận đâu đâu. Đôi bàn chân nhỏ nhắn, xinh xẻo, thanh tao giời sinh ra chẳng phải là để giẫm lên chông gai, bùn lầy ở trên cõi đời nhục thế này. Hai cánh tay mềm mại, trông nung núc, như chỉ để ôm lấy cổ những người yêu quý nó mà ghì vào ngực. Toàn thể các bộ phận đại để còn là trong cái thời kỳ phôi thai, nhưng nếu giời để cho sống làm người, hay ăn chóng nhớn, thì chứa chan biết bao nhiêu là hi vọng.
Thằng Tý nằm chếch về một bên giường, tay co, tay duỗi, tóc thì bơ phờ trông mấy "ghét" làm sao! "Ghét" đến nỗi ta phải mắng yêu ngay một câu: "Thằng con chó". Mà "chó" tệ. Toàn thể cái gì trông cũng ngây thơ, dễ thương lắm.
Ai cũng phải nhận rằng cái cảnh tượng một vị giai nhân đang say giấc nồng là đẹp nhưng kể ra thì một đứa bé nằm ngủ - mà một đứa bé như thằng Tý - còn có vẻ thần tiên hơn nhiều.
Bùi Nguyên tưởng tượng sắp phải từ giã đứa con kháu khỉnh ngoan ngoãn như thế kia mà lòng chàng bồn chồn, sôi nổi. Chàng sẽ ngồi ghé xuống giường rồi cúi đầu hôn con. Có lẽ lúc ấy thằng Tý đang mê một giấc đánh nhau với ông ộp, ông Ngáo gì đó mà khi cái hôn âu yếm kia vừa đặt lên gò má lại trúng ngay với cái thời kỳ trong mộng, nó liền dang hai cánh tay yếu ớt ra ghì chặt lấy cổ Bùi Nguyên mà hét to:
- Thày đánh chết nó đi cho Tý nhé!
Rồi hình như nó đã được ẩn dưới một cái sức mạnh rất có hiệu lực của một người cha yêu nó mà che chở cho nó, cái giọng sợ hãi hớt hải đã tiêu tán đi mà nhường chỗ cho cái giọng vui vẻ đắc chí, đắc chí với kẻ thù vô hình rằng: "Tao đã gần thày tao, thì mày liệu hồn". Nó lại như có vẻ khiêu khích ú ớ nói:
- Mày dám lại đây thì thày tao đánh mày chết.
Rồi như muốn thực hành ngay cái lời dọa của nó khi nó đã chắc dạ có thày nó ở bên cạnh, nó co chân đá một cái. Khổ cho con voi vô tội, bị đá, kêu đánh "bịch" một tiếng. Có lẽ giấc mộng của thằng Tý đến đấy là hết, nên nó lại ngủ, cứ ôm cổ thày nó mà ngủ.
Bùi Nguyên thấy hai cánh tay bé bỏng của nó ghì chặt lấy cổ chàng như muốn đem da thịt nó mà nhập làm một với da thịt chàng, chàng thấy cái hơi thở thơm tho của nó như một luồng gió ở trên cung tiên đưa xuống, đánh tan những nỗi u sầu thảm khốc chứa chất ở trong lòng chàng. Nhưng câu nói rất ngây thơ của thằng Tý trong khi nằm mê khiến cho chàng nghĩ đến cái chết mà ghê sợ, không phải là ghê sợ vì phải chết, ghê sợ rằng khi chết rồi thì lấy ai làm cái bình phong đón lấy những nỗi đau thương, những sự khó khăn để che chở cho đứa con còn măng sữa kia, trên bước đường đời chông gai gió bụi này. Chàng tự hỏi chàng có quyền bắt đứa con kia phải bơ vơ, khốn khổ, đau xót, nhục nhằn về cái chết của chàng không? Nghĩ đến đây, mồ hôi đổ ra như tắm.
Bùi Nguyên sẽ lấy tay gỡ cánh tay con ra. Cái cánh tay yếu ớt mà mạnh mẽ làm sao!
Chàng sẽ đứng dậy, hai mắt đăm đăm nhìn con. Rồi hai giọt nước mắt mà ta có thể nói rằng hai giọt máu mắt đầu tiên trong đời chàng dần dần nổi lên ở khóe mắt, rồi lại từ từ rơi xuống gò má. Chàng sẽ lấy tay gạt nước mắt, cúi đầu hôn con rồi trở về buồng giấy, cầm ba bức thơ tuyệt mệnh xé nhỏ, ném vào sọt giấy...
Ngoài đường, mấy bác phu xe vẫn co ro ẩn ở dưới mái hiên mà hạt mưa gieo trên nóc nhà vẫn đều đặn tí tách như không quan tâm gì đến sự đổi thay của lòng người.
Hai hào
Lê Văn Trương
Ký giả thường được nghe rất nhiều lời bình phẩm quá đáng đối với dân làng Bẹp; ký giả thiển nghĩ những người bạo mồm như thế toàn là những người không biết hút thuốc phiện, hay hút chưa đến thời kỳ "đã biết khoái", hay gián hoặc chưa được mục kích cái oai quyền chí thần, chí thánh, chí đại, chí tôn của vị thần ấn Độ. Vậy ký giả xin vì các bạn làng "Cơm đen" kể một chuyện sau đây mà ký giả được mục kích mong các bạn làng "Cơm trắng" trước khi nói một câu gì có can thiệp đến việc "hút xách" hẵng nên nhớ lấy câu tục ngữ "chó ba khoanh mới nằm, người ba năm mới nói". Ký giả lại xin thú thực rằng từ ngày được mục kích tấn bi kịch này, ký giả đối với thần "ấn Độ" chỉ một lòng kính cẩn mà không dám khinh nhờn.
Chuyện thực xin kể sau đây:
"Cậu Nghĩa đi học về đến nhà mếu máo nói với mẹ:
- Mẹ ơi, thầy giáo bắt phải mua một quyển "Quốc văn" hai hào, nếu chiều nay không có thì thầy đuổi. Mẹ cho con tiền mua nhé.
Cậu Nghĩa, vừa nói vừa ôm lấy đầu mẹ hôn lấy hôn để. Bác Cả đương nằm rền rĩ ở trên giường nghe con nói, da mặt đã xanh bỗng nhợt hẳn đi, hai hàng nước mắt không biết tự đâu tuôn ra, ướt đầm gò má; bác muốn nói mà không nói được, chỉ lấy tay vuốt ve con. Cậu Nghĩa thấy mẹ khóc mà không trả lời, cậu tái hẳn người đi. Cậu hiểu, cậu hiểu là nhà cậu nghèo, mẹ cậu ốm không đi chợ, tiền thuốc, tiền gạo còn chưa có, tiền đâu mà mua sách cho cậu được. Cậu bùi ngùi nhưng có vẻ tiếc mà bảo mẹ rằng:
- Thôi thế thì thôi, mẹ nín đi, con ở nhà chơi với mẹ vậy.
Cậu vừa nói vừa lấy tay vuốt mái tóc mẹ, cậu thấy mặt mũi hốc hác, hai mắt quầng đen hõm hẳn xuống, cậu sẽ cúi đầu sát vào tận mặt mẹ cậu mà hỏi:
- Mẹ ốm lắm ư, mẹ đã ăn cơm chưa?
Trong cái óc ngây thơ của cậu, cậu tưởng tượng hễ ốm cứ ăn cơm nhiều là khỏi, mà cậu nghĩ thế vị tất đã không đúng. Những người ốm chẳng là những người rất ít ăn sao? Cậu vội vã chạy xuống bếp xúc bát cơm nguội, lấy quả cà đem lên, giục mẹ cậu ăn. Bác Cả nể lời cầm lấy bát cơm.
- Mẹ cố ăn đi để đi chợ.
Đi chợ, đi chợ. Hai chữ ấy ở trong óc cậu nó có một cái ý nghĩa khác, mẹ cậu đi chợ búa chẳng là đi mua lấy sự sung túc cho cả nhà cậu ư? Đã gần ba tháng nay, chỉ vì mẹ cậu ốm không đi chợ được mà thành ra túng bấn, bữa đói bữa no. Trước kia, lúc mẹ cậu còn quẩy gánh cháo ra chợ, dẫu chẳng được phong phú lắm, nhưng mỗi lần cậu xin tiền mua giấy bút, sách vở, mẹ cậu vẫn sẵn lòng cho ngay. Mà ngày nay... ngày nay chỉ vì mẹ cậu ốm nằm nhà nên đã ba hôm nay, cậu khẩn khoản xin hai hào mà chưa có.
Bác Cả không ăn được bèn nhường bát cơm cho con ăn. Cậu Nghĩa còn dùng dằng hai ba lần mới cầm lấy mà bảo:
- Mẹ không ăn thì con ăn vậy.
Rồi cậu cởi áo dài treo lên mắc tử tế. Sự cẩn thận ý tứ chẳng là học được trong khi nghèo nàn ru?
Cậu ăn lấy làm ngon miệng quá, khiến cậu phải tự nghĩ: "Cơm dẻo thế này, cà giòn thế này mà mẹ mình không ăn thì biết bao giờ khỏi được?" Nếu ông lang thì đã nghĩ: "Không ăn được thế này, bệnh đã nặng lắm rồi". Nhưng cậu mới tám tuổi đầu, nào đã biết thế nào là ốm nặng với ốm nhẹ.
Vui thay cái tuổi đồng ấu mà cũng may thay, trong cái tuổi "vàng" ấy, sự buồn rầu nó chỉ như gió thoảng mà thôi.
Bác Cả ngồi nhìn con ăn, thấy con kháu khỉnh, hiếu thảo, thông minh thế kia, nay vì không tiền mua sách mà phải bỏ học thì đáng tiếc, đáng thương biết bao... Bác thấy cái hy vọng một đời bác nó tiêu tan đi mà bác buồn. Bác bấm lưng trong nhà tiền đã sạch trơn. Chẳng còn một vật gì đáng tiền cả, đi vay thì biết vay ai mà thiên hạ có ai cho kẻ nghèo vay bao giờ. Nội trong xóm bác, có nhà cụ Tiên là giầu có, nhưng cụ riết róng lắm, không có vật gì đem cầm thì cụ chẳng cho vay không bao giờ. Bác nghĩ, nghĩ mãi... Sau bác cố bò dậy, mon men xuống bếp còn cái niêu bằng đồng, bác cọ rửa tử tế rồi mang đi.
Cụ Tiên nghe bác kể lể nỗi nhà cũng có vẻ ái ngại bèn bảo:
- Hôm nọ, bác giai có đem cái nồi ấy sang đây đòi cầm lấy một hào tôi không cầm, nhưng có phải bác cần tiền mua sách cho cháu thì tôi cũng làm phúc cầm giùm cho, nhưng phải giả lãi năm xu đấy.
Trong khi bác Cả gái, chân nam đá chân chiêu, thất thểu, hổn hển đi như thế, bác Cả giai ở nhà làm gì?
Bác ngồi như cú rũ ở trong buồng tối om om đối diện với ngọn đèn phù dung mờ tỏ mà nước mắt nước mũi chảy ra ròng ròng. Không phải cám cảnh nhà nghèo vợ ốm mà bác khóc đâu. Bác hết hút đã mấy hôm nay rồi. Bác cầm cái hến giơ lên đặt xuống mà bác ngao ngán. Hến không, nhẵn bóng như chùi. Bác sờ đến cái cóng sái, sái cũng hết. Bác thấy chân tay bác như dập gẫy, trong xương hình như có dòi bọ đục, buồn bã khó chịu; ruột gan bác như đứt ra từng mảnh, đau đớn như ai cầm dao rạch ra vậy. Bác hết đứng lại ngồi, hết nằm lại đứng, lúng túng quay cuồng mãi cũng chẳng nghĩ được kế gì cho ra thuốc, bác chỉ ngáp, bác ngáp mãi... Bác chỉ còn mong ả phù dung đem cái thần tài lại cho bác. Nhưng ác thay, ả phù dung chỉ là một vị hung thần đem người đẩy xuống giếng khơi rồi bỏ đó... Bác cầm cái dọc tẩu đưa lên mũi hít khan, hít vã như con chó săn đánh hơi thấy vết cầy cáo vậy. Mùi tẩu thơm tho phảng phất làm cho ruột gan bồn chồn như ai đem trăm nghìn cái kim đâm vào, muốn ngủ mà không ngủ được.
Cậu Nghĩa ăn xong, đang hí hoáy rửa bát thì nghe ở cổng có tiếng mẹ gọi. Cậu vội vã chạy ra. Bác Cả gái đứng cạnh hàng rào run đây đẩy, mặt xanh như tầu lá, nhưng vẻ vui mừng như lộ ra ở hai con mắt bác. Bác đưa cái tay xương bọc lấy da giúi cho cậu Nghĩa hai hào mà bảo:
- Đây tiền đây, con đem đi mà mua sách nhưng đi mua ngay đi, khéo thầy con biết thì lại lấy mua thuốc phiện mất.
Cậu Nghĩa mừng rỡ, cầm tiền, tất tả chạy vào nhà lấy áo mặc để ra phố. Cậu cũng chẳng nghĩ gì đến mẹ ốm, nhà nghèo, giá để hai hào kia đem mua thuốc thì có lẽ cũng giúp cho sức khỏe mẹ cậu được ít nhiều, nhưng cái tuổi cậu chưa phải cái tuổi ấy...
Cậu hấp tấp quá, chạy bay vào nhà, chẳng may vấp phải bực cửa ngã chúi xuống, hào ván ở trong túi cậu bắn ra kêu đánh keng một tiếng!!!
Bác Cả giai đang phục vị ở trong buồng, hai mắt lim dim. Như con hổ đói đã bảy ngày nay bỗng thấy tiếng hươu kêu bên cạnh, bác vội chồm dậy. Hai con mắt bác sáng quắc như hai con mắt vọ chăm chú tìm... kiếm... Đồng hào ván trắng hếu nằm tròn xoe giữa nhà. Nhanh như cái cắt, bác nhẩy lại vồ... Ngay lúc ấy, cậu Nghĩa tuy đau đã điếng cả người, nhưng thấy bộ dạng bố thế, cậu hiểu... cậu cố gượng quờ tay ra vớ lấy đồng hào cùng một lúc với cái tay "hổ đói" kia. Hai cha con giằng nhau, đồng hào văng ra. Bác Cả vội vàng giẫm chân lên. Cậu Nghĩa chồm dậy, chạy lại, du bố ra, cố đẩy chân bố để lôi lấy đồng hào, miệng thì kêu:
- Giả đây! Giả đây!
Bác Cả cứ trơ như đá vững như đồng, tưởng Từ Hải xưa kia thất trận, khí thiêng chung đúc cũng dạn dầy đến thế là cùng. Chân bác như có những bù lông sắt tán chặt xuống đất. Cậu Nghĩa lay bố chẳng chuyển vội khóc òa lên gọi mẹ. Mẹ cậu ở sân nghe tiếng vội chạy vào, trông thấy cái quang cảnh ấy bèn nói với chồng rằng:
- Nhà sao lại tệ thế? Tôi ốm mấy tháng nay, một ngụm thuốc chẳng dám uống, có đồng nào đưa nhà mua thuốc phiện cả, nhưng tiền này là tiền cho con mua sách, tôi nói khó với người ta mãi mới vay được, nhà lại lấy của con, thế nhà định không cho con đi học lấy dăm ba chữ à?
Bác Cả trai vẫn đứng trơ như bụt mọc, vợ nói gì mặc.
Nói chẳng được, bác Cả gái giận, bèn chạy lại níu lấy chồng lôi ra. Bác Cả giai như có quỷ quái gì nhập vào, chẳng nghĩ đến vợ ốm, bác chỉ lo vợ lấy mất hai hào nó là cái "nguồn sống" của bác. Bác sợ... sợ phải đeo dài cái khổ cảnh dở sống, dở chết mà bác đã phải chịu trong ba hôm nay.
Hai hào kia đối với người ta chỉ là hai hào, nhưng đối với bác nó là một phương pháp cải tử hoàn sinh có thể tìm thấy ở trong mấy điếu thuốc, mấy điếu sái, nay mà để ai cướp mất, chẳng khác cướp sống cái đời bác đi sao. Nhưng thà chết một cách khác, thà chịu đâm, chịu chém, chịu mổ, chịu xẻ mà chết, chứ phải hành hạ như ả phù dung đã hành hạ bác trong ba hôm nay thì bác không sao chịu nổi. Bác bèn dùng hết sức "thần" du vợ một cái thật mạnh, miệng thì quát:
- Ốm thì chết! Chẳng học thì đừng! Ông hút đã!
Bác gái mình yếu như sên, bị đẩy một cái quá mạnh, ngã lăn đùng ra, máu mồm, máu mũi đổ ra lênh láng. Cậu Nghĩa thấy mẹ ngã, vội chạy lại ôm chầm lấy mẹ, kêu lên một tiếng rồi ngất hẳn người đi...
Một lúc sau, người ta chỉ nghe tiếng đàn bà khóc, tiếng trẻ khóc, tiếng mẹ gọi con, con gọi mẹ não nùng ai oán mà tuyệt nhiên chẳng thấy tăm hơi bác Cả giai đâu.
Bác đi đâu...??? Bác đi mua thuốc.
Trong buồng, ngọn đèn dầu vẫn còn le lói... ả phù dung như mỉm miệng cười.
Ký giả viết đến đây, rùng mình sởn gáy, bút cầm ở tay rơi ra, muốn viết mà không sao viết được nữa.
Bác Hòa hàng cơm
Nhất Linh
Bến Cháy có độ mươi nóc nhà và trong đó có hàng cơm của bác Hòa. Mỗi lần Căn kéo xe đến vùng lân cận đấy, vì xa Xóm Cầu Mới đêm tối không về được nên thường phải ngủ trọ ở hàng cơm bác Hòa, sáng hôm sau đón khách mới để khỏi phải kéo xe không về. Vì bến Cháy xa, nên hoạ hoằn lắm mới có khách.
Lúc kéo xe qua, thấy bác Hòa ở trong ngửng mặt nhìn ra, tự nhiên Căn thấy vui vẻ như là vẫn mong đợi được gặp mặt nàng từ lâu, tuy những lúc thường Căn không bao giờ nghĩ đến bác ta cả. Chàng cũng thấy thích là đến gần nửa năm không gặp mà bác ta nhận ngay được mình, nét mặt bác tươi hẳn lên tỏ vẻ vui mừng:
- Bác Căn lát nữa ra đây nhé!
Rồi bác Hòa chào người khách ngồi trên xe:
- Ông Chánh đi Hải Phòng về.
Căn để ý đến chỗ Hòa hỏi mình trước rồi mới chào ông Chánh sau. “Khách nhớ nhà hàng, nhà hàng không nhớ khách”. Thế mà bác Hòa lại nhớ cả tên mình và gọi mình không chút lưỡng lự như quen thuộc từ đã lâu lắm.
Hòa ngồi nhìn theo cho đến khi cái xe khuất sau bụi tre đầu con đường rẽ vào làng Me. Bây giờ đã chiều, mà con đường ra ga ngập nước, rất có thể không có khách nào đêm nay. Hòa bế đứa con lên bốn của mình, đặt ngồi trên cái ghế đẩu rồi đi thổi cơm chiều.
Hòa goá chồng đã gần bốn năm nay từ trước khi đẻ đứa con đầu lòng. Lần đầu tiên gặp Căn bác đã thấy mình mê ngay không để ý gì đến chỗ nàng hơn Căn đến sáu bẩy tuổi. Vừa làm cơm Hòa vừa loay hoay xếp đặt cách thức tiếp đãi Căn. Nàng nghĩ:
- Kéo ông Chánh đến tận làng Me, ra đến đây chắc vừa tối.
Thổi cơm xong, trời đã tối, nàng lên đèn mà cũng chưa thấy Căn ra.
- Ngộ có việc gì ngăn cản không ra được chăng?
Nàng nhìn về phía bụi tre, ngồi yên đợi. Một người khách vác một cái tay nải vào ngồi ở ghế, lật bát nước chè. Hòa rót nước xong mới nhận thấy mình không đon đả chào hỏi gì người khách như lúc thường. Nàng nhìn người khách ngẫm nghĩ, cố nhớ xem người này đã có lần nào đến ngủ trọ chưa. Đã nhiều đêm nhà chỉ có mình nàng với một người khách đàn ông, nên nàng đã quen rồi và tuy có một vài người khách sàm sỡ song nàng không bị sa ngã bao giờ; nhưng nàng vẫn không ưa những đêm như thế vì sáng hôm sau nàng không khỏi thấy ngường ngượng với những người bên hàng xóm. Nàng cũng biết là họ cho nàng làm cái nghề cơm này không hợp với cảnh một người đàn bà goá, nhưng không làm thì không có cách gì nuôi thân nàng và nuôi con. Nhưng lần này thì nàng lại chỉ mong cho ông khách này không ngủ trọ ở đây.
Hòa nghĩ nếu hỏi ông ta thì biết ngay nhưng nàng không hỏi. Nàng thấy người khách nhìn vào trong nhà, rồi lại nhìn cái tay nải. Uống xong bát nước người ấy một tay cầm lấy đầu tay nải một tay móc túi lấy tiền. Lúc giơ tay nhận tiền nàng thấy bàn tay mình hơi run run. Bỗng nàng thấy người khách đến đường cái đứng dừng lại một lúc, lưỡng lự rồi quay trở vào.
- Bác bán cho một bao diêm.
Hòa thở nhẹ một cái. Lần này thì người khách đi thẳng. Cái sợ có người khách ngủ trọ và cái vui thoát được người khách lại làm cho nàng hồi hộp hơn. Tuy đã quá giờ đóng cửa, nàng cũng đợi một lúc lâu mới dám đóng. Nàng trải cái chiếu mới lên giường, bưng mâm cơm đặt ở giữa, rồi lấy một chai rượu con và hai cái chén đặt ở cạnh mâm. Nàng ra sau nhà múc một chậu nước đặt trên ghế, cạnh chậu vắt sẵn cái khăn mặt mới. Nàng đưa mắt nhìn mâm cơm và cái chậu thau. Tuy thường thường nàng vẫn bưng mâm, thau hầu khách như thế nhưng chỉ đêm nay nàng mới thấy là nàng nghĩ đến công việc mình làm, đến từng cử chỉ một. Mâm cơm sang bằng mâm cơm dọn cho người khách sang nhất.
Dọn cơm xong, nàng vào buồng, lục rương lấy ra cái váy sồi và cái áo the hoa mà nàng đã mặc hôm cưới, rồi nàng thay quần áo và lấy gương ra soi ngắm nghía mặt mình. Nàng thấy nàng đẹp và mím môi ngắm nghía mình một lúc lâu. Rồi nàng đi ra ngoài nhà, ngồi đợi và nghe ngóng tiếng bên ngoài. Thằng Lương con nàng vẫn ngồi yên trên cái ghế đẩu. Nó gọi mẹ đòi ăn nhưng nàng bảo nó đợi; con nàng còn thức thì nàng ăn cùng mâm và uống rượu với Căn tự nhiên hơn. Bỗng Hòa đứng dậy cầm một cái chén ở mâm cơm đem cất đi; nàng thấy để đến hai cái chén có vẻ lộ quá.
Có tiếng xe lăn lạch cạch ở đầu phố, Hòa ngồi thẳng người lắng tai nghe. Nàng cũng có cái cảm tưởng như là ngày trước lúc nàng ngồi đợi chồng về ăn cơm. Rồi nàng mỉm cười ngẫm nghĩ:
- Nhưng mà chồng trước ngồi trên xe cơ!
Cái xe mỗi lúc một gần và đỗ lại ở sân rồi có tiếng nón quạt. Hòa cất tiếng hỏi:
- Sao về muộn thế?
Tiếng nàng có nhiễm vẻ trách móc một cách thân yêu và nàng vừa nói vừa lắng tai nghe tiếng của mình. Hòa đứng lên mở cửa, đợi Căn vào rồi thong thả cài then. Căn đưa mắt nhìn mâm cơm sang và cái chậu thau với chiếc khăn trắng còn mới nguyên, không phải để dành cho hạng khách phu xe ăn cơm dưa cà như chàng.
- Hôm nay có khách nào thế?
- Không có khách nào cả.
- Thế mâm cơm?
Hòa yên lặng và lấy tay chỉ vào Căn rồi lại chỉ vào mình như người câm làm hiệu. Căn thấy là lạ cũng không nói, chỉ gật nhanh một cái và mở to mắt để tỏ vẻ ngạc nhiên. Chàng cũng thấy thích bắt chước Hòa làm người câm. Hòa gật gật đầu một lúc mấy cái. Căn mỉm cười nhìn nàng một lúc và nàng cũng mỉm cười lại, rồi nàng cất tiếng nói nhưng rất khẽ:
- Hôm nay nhà tôi có giỗ.
Căn nhìn vào mâm cơm:
- Thảo nào, thảo nào cơm sang thế này.
Lúc đó chàng mới để ý đến bộ quần áo khá sang của Hòa, không phải quần áo để mặc lúc thường nhật. Hòa nói:
- Bác đến vừa may.
Nàng chỉ cái thau nước, bảo Căn:
- Mời bác đi rửa mặt cho mát.
Thấy vẻ mặt ngơ ngác của Căn nàng tiếp theo:
- Hôm nay bác là khách đến ăn cỗ cơ mà. Phải thịnh soạn một tí chứ.
Căn lau mặt thong thả, rồi cầm chậu thau định đem đổ. Hòa đã chạy ngay lại đỡ lấy chậu thau. Căn giằng lại:
- Bác để tôi rửa chân. Hôm nay ăn cỗ cơ mà.
Không có guốc đàn ông, Hòa đưa cho Căn đôi guốc của mình. Căn rửa xong chân đi vào, vừa đi vừa gõ guốc xuống nền đất cho kêu coong coong; chàng thấy hơi là lạ ở hai bàn chân sạch và hơi man mát, đã lâu lắm mới lại đặt chân lên guốc. Trước mặt chàng dưới ánh đèn lại có mâm cỗ sang, lại có cả rượu nữa. Nét mặt Hòa dưới ánh đèn đương nhìn chàng đi lại, chàng thấy có vẻ êm dịu và vui lắm. Lúc nãy mới trông mặt Hòa chàng vui vui trong lòng không phải vì chàng coi Hòa như một người đàn bà mà chàng thấy muốn yêu: ngay từ lần đầu tiên gặp Hòa, Căn để ý đến nàng không phải vì nhan sắc, Hòa không đẹp lại hơn tuổi nhiều quá. Nhưng nét mặt người bán hàng cơm ấy có cái gì hợp với chàng lắm; chàng mới nhìn đã thấy thân ngay như một người chị cả hiền từ và tốt bụng.
Căn cười lên một tiếng rồi nói:
- Nào bây giờ ăn cỗ của bà chị.
Chàng ngồi lên trên giường, xếp bằng tròn rồi chống tay vào đùi, cúi mặt nhìn mâm đồ ăn, cười xoà một tiếng. Hòa lấy hai tay bưng bát đũa cho chàng rồi rót rượu vào chén trước mặt Căn.
- Mời bác xơi tí rượu. Cả ngày đi chắc mệt.
Căn mỉm cười vì lần đầu được người hầu hạ mình cung kính như thế, và chàng thấy hơi có cái gì lạ trong những cử chỉ hơi quá lễ phép của bà hàng cơm.
- Bà cũng xơi một chén chứ?
- Tôi không biết uống.
- Uống một tí thôi không sao.
Căn bước vội xuống giường với cái chén rồi rót rượu đưa cho Hòa:
- Mời bà.
Hòa cầm lấy chén,tay run run.
- Nể bác quá.
Bỗng Căn cảm thấy có cái gì khang khác ở trong nhà.
Hòa hỏi:
- Cái gì thế bác?
Căn quay nhìn đứa bé ngồi trên ghế đẩu; đứa bé ngồi xếp bằng tròn trên cái ghế, yên lặng, hai mắt mở to. Bấy giờ chàng mới nhận ra là từ lúc chàng mới vào nhà nó cũng ngồi yên như thế. Đầu nó lại cạo trọc nên trông như một nhà sư đương ngồi tụng kinh. Hòa hiểu ý Căn, vội nói:
- À thằng Lương.
Rồi Hòa nói cho Căn biết là tìm được cách ấy tiện cho nàng lắm; những lúc bận tay nàng cứ đặt nó ngồi trên cái ghế đẩu và nó cứ ngồi yên thế hàng giờ đồng hồ. Hễ nó xuống đất là vớ được cái gì nó đập cái ấy ngay. Cả vùng này ai cũng gọi nó là “sư cụ”.
Căn cười đứng lên bế nó:
- Mời sư cụ lại xơi cơm với chúng cháu.
Rồi Căn đặt nó ngồi cạnh mình. Hòa vui mừng vì thấy Căn có vẻ thích đứa bé lắm, Căn vừa ăn vừa gắp cho đứa bé ăn. Chàng đã uống đến chén thứ hai nên cười đùa với đứa bé vang cả nhà. Hòa vẫn chưa nhắp một hụm rượu nào. Nàng không dám tự mình uống, còn Căn thì mải chơi với đứa bé nên không nghĩ tới mời nàng.
- Thôi bác đưa cháu đây, tôi cho nó ăn rồi cho nó đi ngủ.
Nàng thấy con nàng như cướp mất cả Căn. Lúc đặt xong đứa con đi ngủ, ở trong buồng bước ra, Hòa đứng dừng lại: Căn ngồi che lấp ánh đèn xoay lưng về phía nàng, một bên má và một bên cổ hơi hồng hồng; nàng đứng lại nhìn trộm Căn lâu lắm và có cái cảm tưởng như người ngồi ở mâm là chồng nàng đương ngồi đợi nàng ra ăn cơm. Nàng thong thả đi ra phía giường, đi thong thả lắm, và vén áo nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh mâm, mặt cúi xuống. Không phải nàng ngượng nên có những dáng dấp ấy, nàng làm thế chỉ vì nàng thấy thích làm thế. Nàng nhớ lại độ mới lấy chồng, có một đêm ở trong buồng ra, chồng nàng cũng ngồi ăn cơm xoay lưng vào nàng che lấp ánh đèn như Căn hôm nay.
- Mời bà xơi rượu đi chứ. Chén còn đầy nguyên thế kia?
Hòa cầm lấy chén rượu rồi ngửng nhìn Căn:
- Mời bác.
Nàng nhắc chén uống một hụm to rồi ngừng lại. Nàng thoáng vẳng nghe lời của chồng nàng một hôm nào nói với một người bạn trong khi hai người bàn về một chuyện trai gái gì đó:
- Cố nhiên, đàn ông thì bao giờ họ từ chối.
Rồi nàng dốc chén uống một hơi cạn, khiến Căn mở to mắt nhìn một cách kinh hãi:
- Bà uống rượu giỏi nhỉ.
Hòa thở hà một tiếng mạnh, giơ tay vuốt ngực, mỉm cười:
- Tôi sợ uống rượu lắm nên phải uống thế cho chóng xong đi.
Nàng đã say bàng Hòang nên mạnh bạo hơn, mời Căn và giục Căn ăn luôn miệng. Có lần tìm được một miếng ngon, nàng gắp bỏ vào bát Căn, dịu giọng nói:
- Bác xơi.
Rồi nàng hỏi về Căn, về gia đình Căn:
- Sao lâu lắm bác không kéo xe về vùng này?
Căn mỉm cười nói:
- Nếu cứ đến đây có cỗ ăn như thế này thì tôi muốn đến luôn, nhưng ít khách về vùng này lắm.
Thấy Hòa hỏi về nhà mình, chàng sực nghĩ đến chồng bà hàng cơm, và hơi lấy làm lạ là nhà có giỗ mà ông ta lại đi vắng:
- Ông nhà đi đâu giờ chưa về?
Hòa hơi khó chịu vì câu hỏi ấy đã cho nàng biết là Căn không để ý gì đến nàng; tuy mấy lần trước Căn đến ngủ trọ nhà có đông khách nhưng nếu Căn để ý một tí tất phải nhận ra là nàng đã goá chồng.
- Thầy cháu mất đã lâu, ngay từ khi chưa sinh cháu Lương.
- Thế à?
Tuy không nhìn thẳng nhưng Hòa nhận thấy có vẻ gì khác trên nét mặt Căn. Căn đưa mắt nhìn chung quanh nhà rồi lại nhìn ra cửa. Nàng biết là Căn đã để ý đến sự nàng goá chồng và cả nhà hôm nay chỉ có mình nàng với chàng.
Căn cũng để ý đến chỗ đó; thấy một đêm ngủ chung nhà mà chỉ có mình với một người đàn bà goá, Căn cũng thấy hơi bất thường và thấy hồi hộp trong lòng. Hai người lại ngồi ăn cùng một mâm và uống rượu với nhau nữa. Căn nhắc chén để lên môi nhìn trộm nét mặt Hòa một lúc, lần này chàng uống một hụm khá to hơn mọi lần.
Căn cũng không hỏi thêm về cái chết của chồng Hòa. Chàng mong bữa cỗ giỗ hôm nay không phải là bữa cỗ giỗ chồng bà ta và vì nghĩ thế chàng mới để ý nhìn lên bàn thờ. Nhìn kỹ bàn thờ, Căn cúi đầu vờ gắp đồ ăn để tránh cái nhìn của Hòa và để chàng có thể mỉm cười được một cái cho tự nhiên. Căn muốn uống cho thật say.
Ăn xong, Căn đứng lên giúp Hòa dọn mâm. Chàng lại rửa bát nhưng Hòa nhất định từ chối và sau cùng vì Căn cứ nhất quyết, nàng phải để Căn cùng rửa bát đĩa với mình. Tay hai người hễ có dịp là đụng vào nhau và nhiều lúc đụng vào nhau lâu hơn là sự cần bắt buộc; như là lúc cất bát đĩa vào chạn, việc ấy đáng lẽ chỉ một người làm tiện hơn, nhưng Căn cứ đứng cạnh rổ bát cầm từng chiếc một đặt vào tay Hòa để nàng cất, cất từng cái một, vào trong chạn bát.
- Ăn cỗ có khác. Lắm bát đĩa quá. Tôi mỏi cả tay.
Nhưng Hòa cứ yên lặng giơ tay đón, không cản Căn. Căn nói tiếp:
- Bà bảo không biết uống rượu, thế mà vẫn không đánh vỡ một đĩa nào. Tài thật.
Cất xong bát đĩa, Hòa cầm đèn đưa Căn lên nhà rồi nàng ra đóng nốt cái cửa sau xuống bếp. Căn nhà như chật hẳn lại.
- Bây giờ mời bác đi nghỉ.
Hòa lắng tai nghe bên ngoài. Cả phố chắc nhà nào cũng đã ngủ; không có tiếng trẻ con chơi đùa nữa. Nàng ra lấy chổi phất trần quét giường, đặt cái gối ngay ngắn ở giữa rồi đứng lên giường mắc màn. Chiếc màn nâu dầy, nên ngồi ở ngoài Căn chỉ nhìn thấp thoáng bóng nàng. Chàng chăm chú để ý đến từng cử chỉ một của Hòa trên giường. Sao nàng lại giắt màn lâu thế. Chiếc màn vá rất nhiều mảnh nhưng vẫn còn nhiều chỗ hở. Nàng không cần phải giắt một cách quá cẩn thận như thế. Như lúc khác thì Căn đã cất tiếng nói đùa một câu về chỗ đó, nhưng chàng chỉ ngồi yên và chàng lại cố giữ mình không cất một tiếng nói nào. Sau cùng một bàn tay Hòa lộ ra ở cửa màn:
- Thôi mời bác đi nghỉ. Đêm đã khuya rồi.
Nghe tiếng Hòa nói một cách thong thả và ấm cúng, từ trong màn đưa ra, Căn biết là nếu chàng đi vội một tí để đến lúc đến cửa màn vừa gặp Hòa ở trong màn bước ra thì hai người tất sẽ cầm lấy tay nhau tự nhiên. Nhưng Căn vẫn ngồi yên ở giường không nhúc nhích.
Hòa bước xuống đất đi về phía Căn ngồi và nhắc lại:
- Mời bác đi nghỉ.
Rồi nàng ra chỗ chõng nước, cúi xuống loay hoay xếp dọn các thứ, yên lặng không nói gì với Căn nữa. Căn vào giường đặt mình nằm, cầm cái quạt phe phẩy. Chàng tự trách mình sao đối với Hòa chàng lại nhút nhát thế. Chàng biết là nếu cứ nói đùa luôn với Hòa chắc rất dễ dàng có dịp cầm tay nàng nhưng tự nhiên chàng lại sợ không dám nói đùa với Hòa nữa. Như những lúc hút thuốc lào, chàng rất có thể nhân cái cớ hút vào thì mê man bất tỉnh để đùa Hòa và thử ý nàng, nhưng bao nhiêu cơ hội chàng đều bỏ qua. Lại còn lúc Hòa bỏ màn nữa, sao chàng không chạy đến tranh bỏ màn, để đến nỗi bây giờ phải nằm suông thế này. Thật là bực mình.
Xếp dọn xong, Hòa cầm cây đèn rồi rón rén đi về phía giường Căn, đi thật nhẹ bước như sợ Căn đã thiêm thiếp ngủ. Nàng đặt đèn ở cái ghế cạnh đầu giường Căn. Căn liếc nhìn tự hỏi:
- Tại sao lại phải để đèn ở đây?
Chàng thấy Hòa nhìn nhanh về phía giường rồi cúi xuống. Chắc nàng định tắt đèn, chàng nghĩ thế và toan ngồi thẳng dậy. Nhưng Hòa không tắt đèn và vì thế Căn cứ nằm yên; nàng thong thả vặn cho thấp ngọn đèn, nhưng nàng không vặn bé quá đợi cho ngọn lửa đứng yên rồi đi về phía buồng. Căn lắng tai nghe nhưng không thấy nàng đóng hay khép cửa buồng lại. Căn lại nhìn ngọn đèn và ngẫm nghĩ:
- Nhà không có giỗ lại nói dối là có giỗ để ngồi uống rượu với mình, nhưng sao một người đàn bà goá đêm hôm nhà không có ai, rất có thể vờ say rượu, nhưng sao uống nhiều mà vẫn tỉnh và cố giữ cho tỉnh rượu. Lại còn cái ngọn đèn!
Ngọn đèn tuy vặn nhỏ thật nhưng nếu Hòa có ý gì thì không đời nào lại để đèn như muốn ngầm bào chàng cứ ngủ yên đi đừng có nghĩ ngợi lôi thôi. Nhưng tại sao nàng lại không đóng cửa buồng riêng lại, như thế chắc chắn hơn là để đèn sáng.
- Hay là buồng không có cửa?
Căn ngồi thẳng lên và nhìn về phía cửa buồng. Rõ ràng có cánh cửa. Căn ngồi lâu lắm nhìn vào chỗ bóng tối trong buồng ở sau cái cánh cửa mở rộng như muốn mời chàng vào. Chỉ đứng lên đi một vài bước rồi đứng lại ở cửa gọi bác ta, và tuỳ theo tiếng bác ta trả lời lại là có thể biết chắc được. Không có gì nguy hiểm cả. Nếu bác ta trả lời lại tỏ vẻ ngạc nhiên về cử chỉ của mình thì có thể nói là…
Căn loay hoay nghĩ xem viện cớ gì cho tự nhiên nhưng loay hoay nghĩ mãi mà không tìm ra được cớ gì cả; chẳng lẽ đêm hôm lại đến gọi một người đàn bà goá dậy chỉ để than phiền là màn thủng nhiều chỗ mà trí Căn lúc đó lại chỉ nghĩ ra được có cái cớ màn thủng. Căn mỉm cười một cái rồi lại nằm xuống và đành tự an ủi mình bằng cái thú đợi Hòa ra; không có hy vọng gì lắm nhưng chỉ còn cách ấy thôi; như thế chàng lại có thể nếu giấc ngủ đến thì cứ ngủ đi không tai hại gì. May ra được một giấc mơ mà nếu ban đêm giấc mơ không đến thì lúc biết trời đã sáng rồi không phải băn khoăn nữa.
- Hay là mình tắt đèn đi.
Căn thấy việc tắt một cái đèn mà nàng cứ muốn để cho sáng một cách vô lý cũng đủ khiến cho nàng nghĩ ngợi chú ý mà không có gì nguy hiểm cho chàng cả. Căn đưa mắt nhìn ngọn đèn toan ngồi dậy. Bỗng chàng thấy thoáng có bóng Hòa ở cửa buồng, rồi Hòa đi về phía giường chàng. Căn vội vắt tay lên che ngang mắt để có thể nhìn nàng mà nàng không biết. Quả tim chàng đập mạnh.
Hòa từ lúc vào buồng vẫn không nằm xuống; nàng ngồi yên ở cạnh giường, người hơi nghiêng về một bên vì như thế nàng có thể trông qua cửa buồng nhìn ra chỗ Căn nằm. Ánh ngọn đèn mà nàng định tâm đặt ở phía bên kia chiếc màn khiến nàng nhìn thấy Căn rất rõ ràng. Lâu lắm Căn không phe phẩy quạt nữa, có lẽ Căn đã ngủ rồi chăng. Nhưng không Căn chưa ngủ vì nàng thấy Căn hơi quay đầu như ngước nhìn ngọn đèn. Câu nói của chồng vẳng bên tai nàng; nhưng từ tối đến giờ nàng thấy Căn say rượu mà vẫn nghiêm trang quá. Nếu Căn có gì thì sao lúc nàng đến cạnh giường vặn nhỏ đèn, Căn không cất tiếng hỏi một vài câu để nàng có thể đứng lại lâu hơn. Căn có thể vờ say rượu nhưng Căn vẫn cố giữ đứng đắn. Dẫu sao Hòa cũng biết chắc là nếu bây giờ nàng lại bước ra tìm cớ lấy một vật gì để đến gần chỗ giường Căn nằm và hỏi Căn một vài câu chuyện thì chắc Căn sẽ biết ý nàng. Nhưng Hòa vẫn ngồi yên và đợi.
Bỗng nàng thấy Căn ngồi dậy nhìn về buồng mình. Hòa vội ngồi thẳng lên để che mặt khuất sau cánh cửa, tưởng như Căn có thể nhìn thấy mình được, quả tim nàng đập mạnh và Hòa lặng người đi, nhắm mắt lại, lấy tay sờ xuống chiếu rồi đặt mình nằm xuống cố tránh để không có một tiếng động nhỏ nào. Một lúc lâu, Hòa lại hơi mở mắt nhìn ra phía cửa buồng nhưng vẫn không thấy Căn vào. Nàng ngồi dậy nghiêng người nhìn và vừa lúc đó thấy Căn lại nằm xuống. Nàng đứng thẳng lên rồi đi ra phía cửa buồng như người đi trong một giấc mơ; nàng dừng lại một lúc trước ánh sáng ở nhà ngoài rồi đi về phía giường Căn. Nàng dừng lại ở cạnh giường rồi giơ tay mở một bên mép màn nhìn vào trong. Căn lúc đó đương nằm vắt tay ngang trán nên nàng không biết rõ Căn nhắm mắt hay đương nhìn mình. Không thấy Căn động đậy, Hòa ngồi xuống cạnh giường, ngồi rất nhẹ; nàng thả tay bỏ rơi cửa màn, hất nhẹ một cái cho hai mép cửa màn khép lại rồi nàng nhắm mắt và đặt mình nằm xuống cạnh Căn. Nàng thấy một bàn tay Căn đương đặt lên vai nàng. Nàng mở mắt ra thấy Căn đương nhìn mình hơi mỉm cười; nàng giơ tay nắm lấy bàn tay Căn đương đặt trên vai mình và mỉm cười với Căn. Lúc đó nàng không còn thấy ngượng gì nữa. Căn cũng vậy, và cả hai người đều cảm thấy như là thân nhau đã từ lâu rồi.
Căn cất tiếng nói trước:
- Nằm sát vào đây.
Rồi chàng cho tay xuống đặt lên đùi nàng, nhưng chàng ngạc nhiên thấy nàng bẻ gập tay chàng lên, có vẻ giận. Tuy thế Căn lại thấy chính nàng tự ý nằm sát vào Căn và đặt tay lên người chàng, rồi nàng lại gục đầu vào ngực chàng, cựa quậy đầu mấy cái như đứa bé nằm trong lòng mẹ. Rồi nàng lại ngửa mặt nhìn Căn nói:
- Này.
Mắt nàng mở to và Căn thấy nàng không nói thêm gì nữa.
Chàng hỏi:
- Này… cái gì?
- Lạ lắm cơ, nhưng mà thẹn lắm không nói được.
Căn đặt tay lên người nàng nhưng lần này cũng bị nàng bẻ tay gập lên. Căn nói:
- Thẹn gì, nằm với nhau như thế này còn thẹn gì.
Chàng thấy Hòa nắm mạnh một cái vào người mình rồi nói:
- Thế này nhé, đằng ấy phải thề làm theo thế nhé. Thề đi đã.
Căn mỉm cười thấy hơi là lạ:
- Tôi xin thề. Nhưng thề cái gì mới được chứ!
Tay Hòa đưa lên vuốt má Căn:
- Nào thì nói, thế này nhớ. Tôi với đằng ấy bây giờ coi nhau như hai người bạn, ở với nhau cả đời. Nhưng không bao giờ…
Nàng ngừng lại, tìm lời nói. Căn hỏi:
- Không bao giờ cái gì?
- Thôi không cần nói, đằng ấy hiểu rồi… Thỉnh thoảng đằng ấy lại đến đây, tôi làm cơm cho mà ăn, xong rồi đến đêm lại nằm với nhau nói chuyện suông như thế này và thề không bao giờ… Đằng ấy hiểu rồi chứ?
Căn lại thấy người nàng đè mạnh vào người chàng. Căn mỉm cười một mình, rồi nhìn Hòa gật gật.
- Tôi hiểu rồi! Tôi thề không bao giờ…
- Đằng ấy thề rồi cơ mà; đã thề rồi mà thề lại thì hỏng. Đằng ấy có thích thế không?
- Thích hay không thích nhưng đã thề rồi cơ mà.
- Thế thì được. Bây giờ tôi nói cho mà nghe.
Căn cảm thấy có cái gì là lạ trong người đàn bà goá này nó như kích thích chàng bằng một cái thú khác thường và mới mẻ. Hòa ngỏ cho Căn biết là nàng đã mê ngay Căn từ lần đầu tiên gặp, nàng tả những nỗi buồn vui của nàng khi Căn đến và đi. Căn ngạc nhiên thấy khác hẳn lúc thường, nàng nói chuyện khéo lắm, nói về những chuyện yêu thương và nàng nói có duyên tệ khiến Căn lúc nghe thì không nhịn cười được lúc thì cảm động phiêu phiêu cả người. Chàng thấy mình mê Hòa nói chuyện, mê cả cái giọng nói của nàng nữa, lúc thủ thỉ chuyện trò có một thứ duyên đầm ấm. Như về hôm đầu tiên chàng đến hàng cơm, nàng nói:
- Con mắt đằng ấy cứ mỗi lần nhìn người ta thì lại khiến người ta hết cả hồn cả vía, rủn cả người đi như là cua gặp ếch hay là ếch gặp rắn. Đổ cả nước sôi lên ngón tay mà hôm sau mới biết là bỏng. Bỏng đến mấy hôm mới khỏi, đau chết người nhưng mà thích đáo để. Đến hôm khỏi là thấy tiêng tiếc và nhớ đằng ấy hơn. Một tháng sau, đúng ra là ba mươi ba ngày, đằng ấy lại đến. Lại muốn rót nước sôi vào ngón tay một lần nữa, nhưng không dám, sợ đau. Nhưng lần này thì mê đặc rồi. Sao lần thứ hai đến lại cứ hay nhìn người ta luôn thế, nhìn trừng trừng như là chính đằng ấy mê tớ chứ không phải tớ mê đằng ấy. Hỏi thực đằng ấy chắc cũng mê đằng này?
Nàng lay lay vai Căn giục trả lời; chàng mỉm cười, gật:
- Ừ, cũng phải nói là mê đặc.
- Thế sao không đến luôn.
- Không có khách thì đến thế nào được.
- Đằng ấy nói dối rồi, nếu cũng mê đặc thì trời long đất lở cũng đến được. Mình đi rồi, mình là mình ấy chứ không phải là mình này, mình này đêm ngày ốm tương tư buồn thờ thẫn đến nửa tháng, cơm chẳng buồn ăn, đầu tóc bơ phờ, mặt xanh xao làm hàng xóm người nào hễ nhìn mình là có vẻ nghĩ ngợi, có vẻ lo lắng; nhưng không phải họ lo đằng này chết đâu, họ muốn đằng này chết lắm, hạng đàn bà goá mà cứ ngủ chung với khách trọ đàn ông, chung nhà này, rồi chỉ ông vua bếp là biết rõ, biết đâu không chung giường chung chăn, chung một trăm thứ bà dằn nữa. Họ có vẻ lo lắng là vì họ lo mình có thai, đẻ ra một lũ “sư cụ” nữa, mỗi “sư cụ” ngồi ở một ghế đẩu, để tụng kinh sám hối cho bà mẹ hư thân.
Nói đến đây nàng gác chân lên đùi Căn:
- Nói chứng minh có ông vua bếp, đêm nay là đêm đầu tiên ngủ với khách trọ. Bây giờ thì họ nghi không oan nữa.
Thấy tay Căn đặt lên đùi mình, Hòa cầm lấy bẻ gập cánh tay đưa lên đặt trên vai. Căn nhận thấy nàng có sức khoẻ lạ thường những lúc nàng cầm tay chàng bẻ gập lên.
- Này nếu đằng ấy cứ nhất định muốn có sư cụ thì tuyệt tình nhân nghĩa ngay bây giờ cho mà xem. Tôi sẽ hô hoán đánh thức cả xóm dậy. Họ sẽ chạy đến và từ giờ trở đi cả xóm ai cũng phục goá này đoan chính; xưa nay họ vẫn lấy làm lạ là bao nhiêu lần ngủ chung với khách trọ mà không xẩy ra một chuyện lung tung to tiếng nào, vì thế họ chắc chỉ toàn xẩy ra những chuyện lung tung lặng tiếng, chết điếng người đi.
Căn véo vào tai Hòa một cái:
- Con khỉ. Cứ nói chuyện thế thì ai chịu nổi.
- Đã thề rồi cơ mà?
Nói thế Hòa lại ôm người Căn chặt hơn.
- Bây giờ đằng này kể cho đằng ấy nghe về chuyện các bác khách trọ định tán tỉnh đằng này. Nhiều chuyện hay lắm cơ. Nhưng thôi để hôm khác. Bây giờ nói chuyện riêng chúng mình đã. Này mình không biết goá chồng khó chịu lắm cơ. Nhất là mỗi buổi chiều đến, trời tranh tối tranh sáng, lên đèn ngồi ăn cơm một mình nó lạnh lẽo thế nào ấy. Thành thử chiều nào tôi cũng nhớ mình.
Rồi nàng cất tiếng hát rất khẽ. Căn thấy giọng nàng hát hay quá:
- Sao đằng ấy hát hay thế. Hát nữa đi.
- Chuyện! Lúc còn con gái, đằng này có đi hát đám mấy năm. Lấy chồng thì thôi.
Căn nói:
- Tôi cũng biết hát.
Rồi chàng cũng cất tiếng hát theo giọng “gửi thư”.
- Ồ đằng ấy hát lại hay hơn tôi nhiều. Tối nào chúng mình cũng hát cho nhau nghe. Thích quá nhỉ.
Căn mỉm cười:
- Tối nào cũng hát? Mai tôi phải về cơ mà. Đằng ấy làm như chúng mình là vợ chồng rồi.
- Thế này không là vợ chồng à. Lại thích hơn là vợ chồng nữa.
- Chết chửa hát thế này ai nghe thấy thì chết.
- Không sợ ai nghe thấy đâu. Đầu nhà này thì cách vườn rau, đầu nhà kia thì cách cái ao. Chúng mình tha hồ tự nhiên. À nhân nói đến chuyện vợ chồng tôi lại nghĩ đến độ ấy, cứ chiều chiều nhớ mình, tôi lại ngồi nhìn về cuối phố, nhìn con đường đi Phủ Lệ. Hễ thấy cái xe tay nào từ phía ấy đi đến là lại chết lặng người đi một lúc. Sao gặp bao nhiêu khách trọ mà tôi không thấy một người nào nhìn vừa mắt cả. Nhìn mình đầu tiên tôi muốn mình là chồng tôi ngay.
Giọng nàng Căn thấy trở nên nghiêm trang:
- Nhưng tôi nghĩ, này đằng ấy đừng cãi vội, tôi nghĩ tôi già rồi năm nay đã hai mươi sáu (nàng nói bớt đi hai tuổi) nên cứ tương tư muốn lấy mình thì tương tư đến chết mất. Thấy độ ấy mình nhìn tôi hình như có vẻ yêu, nhưng tôi không dám mong hão. Thế rồi một hôm tôi nghĩ đến cô Thuý Kiều…
Căn hơi ngơ ngác:
- Cô Thuý Kiều?
- Đằng ấy không nhớ giai đoạn tái hồi Kim Trọng à?
Rồi nàng khe khẽ ngâm:
- Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
- Đằng ấy nhớ Kiều nhỉ?
- Chuyện! Đọc mãi.
Căn ngạc nhiên:
- Đằng ấy đọc được truyện?
Hòa cười và cũng muốn khoe với Căn:
- Thuở bé tôi học mãi chữ nho, thầy tôi là ông thầy đồ.
Hòa thấy bàn tay Căn đương nắm lấy vai mình tự nhiên thả lỏng ra, nàng biết là Căn ngạc nhiên lắm khi biết nàng là con gái một ông đồ. Nàng nói tiếp:
- Thôi bây giờ nói về Thuý Kiều, Kim Trọng. Hai người lấy nhau, nhưng cả đời chỉ là bạn suông như chúng mình bây giờ. Thế rồi tôi nghĩ đến cách có được mình làm chồng, nhưng chỉ riêng hai người biết với nhau thôi. Tôi chỉ mong thỉnh thoảng được mình đến nằm với nhau nói chuyện như hai vợ chồng… nhưng cũng suông như Thuý Kiều, Kim Trọng.
Hòa bíu chặt lấy hai vai Căn, mở to mắt nhìn thẳng vào mắt Căn:
- Ngờ đâu, bây giờ… như thế này… có được anh làm chồng. Chồng của em đây.
Căn thấy hai con mắt nàng ướt nước mắt, chàng lay vai nàng một cái như để hỏi. Hòa cúi mặt xuống chiếu, mím môi lại như cố giữ cho khỏi khóc, nhưng nước mắt lại trào ra nhiều hơn. Căn giơ hai bàn tay ấp lấy hai bên má nàng và nhìn thẳng vào hai con mắt long lanh ướt. Hai con mắt Hòa, chàng mới nhận ra là cũng có vẻ đẹp riêng, lòng chàng cũng đã đổi khác, chàng bắt đầu đã thấy hơi hơi yêu Hòa như yêu một người vợ. Chàng ngạc nhiên vì cái may được gặp một người đàn bà lạ lùng như Hòa và sao nàng lại nghĩ ra được cái lối vợ chồng kỳ quặc nhưng rất lý thú này. Tuy nàng lúc còn con gái đã đi hát mấy năm, goá chồng mà lại thường ngủ cùng nhà với khách trọ đàn ông, tự nhiên lại đến nằm cạnh chàng trước cử chỉ và lời ăn tiếng nói đĩ thoã, nhưng Căn vẫn tin là ngoài chàng ra nàng chưa biết một người đàn ông nào khác, đúng như lời nàng nói. Nàng lại là con gái một ông đồ. Trong lòng yêu của Căn có lẫn thêm lòng trọng nể Hòa. Chàng dịu giọng hỏi:
- Em… tên con gái em là gì nhỉ?
Nghe Căn gọi mình là em, nàng thấy nàng như trẻ hẳn ra. Lúc nãy xưng em với Căn nàng thấy ngượng mồm lắm, thế mà Căn lại gọi nàng là em được mà giọng vẫn tự nhiên. Nàng cho là nàng tuổi cao nhưng nét mặt chắc còn trẻ. Nàng đáp lại và lần này nàng có ý nói dằn vào mấy tiếng nàng xưng em với Căn:
- Em ấy à? Tên em… em tên là Xuân.
- Tên em là Xuân à? Thích nhỉ. Thảo nào mà nét mặt em còn xuân thế.
- Giễu nhau làm gì, đằng này già rồi còn gì nữa.
Hòa cãi lại để cốt gợi Căn nhắc lại lần nữa là Căn thấy nàng còn trẻ.
- Đằng ấy hai mươi sáu cơ mà. Tôi trông tôi tưởng chỉ độ hai mươi hai.
- Thật à? Cha đời đứa nào nói dối nhé!
Căn lay vai Hòa một cái, gật gật nhưng chàng tránh không cất tiếng thề. Hòa nói:
- Này ban tối lúc ăn cơm, uống rượu rồi dọn giường bỏ màn, tôi tưởng y như là đám cưới chúng mình. Thế mà hoá ra đám cưới thật…
Nàng lấy chân cặp chặt lấy người Căn và kéo đầu Căn đặt vào ngực mình:
- Thích quá nhỉ, bây giờ quả nhiên em có người chồng nằm cạnh.
Căn úp mặt mình vào hai bầu vú của Hòa và thấy có mùi hăng hắc của vải yếm mới nhuộm nên chàng nhắm mắt lại và mỉm cười nghĩ thầm:
- Thế này mà lại bảo là nằm cạnh.
Bỗng Hòa bỏ người Căn ra ngồi dậy mở màn đi xuống đất. Nàng ra cạnh chõng nước lấy ấm rót vào chén. Nàng uống thong thả vừa uống vừa đưa mắt nhìn quanh. Cái mái nhà, cái cột nhà, bức tường đã lở nhiều chỗ và cái giường trong đó có một người đàn ông nằm; đứng riêng một mình ở ngoài nhìn vào nàng nhận thấy rõ ràng hơn đấy là sự thực và nàng lại cảm thấy mạnh hơn cái sung sướng nó đương thấm trong khắp thân thể nàng và làm run run ở bàn tay cầm chén nước. Nàng ngừng uống, nghiêng tai nghe ngóng, hai mắt yên lặng mở to, ngạc nhiên, ngơ ngác trước sự sung sướng của mình.
Nàng rót chén nước khác rồi đi lại phía giường:
- Anh dậy xơi nước.
Căn ngồi dậy toan giơ tay đỡ, thì Hòa ngồi xuống, nghiêng người cầm chén đưa lên môi Căn và dốc chén cho Căn uống. Nàng ôm lấy người Căn và ngửi thấy mùi mồ hôi ở lưng áo Căn xông lên. Nàng thấy ngồi ôm nhau lại có một cái thú là lạ hơn là nằm ôm nhau.
- Anh xơi thuốc.
Nàng đem cái điếu lại, dịt thuốc và đánh diêm cho Căn hút. Chồng nàng trước kia cũng nghiện thuốc lào, tuy nàng không ưa gì mùi thuốc nhưng nàng cũng thích Căn hút để có mùi thuốc ở trong màn.
Khi Căn say, nàng đặt đầu Căn vào ngực, ôm lấy lưng chàng đợi chàng tỉnh. Căn mở mắt mỉm cười và cứ nằm yên thế trong lòng Hòa. Có một thứ gì êm dịu từ ở người Hòa đưa ra bao phủ lấy chàng. Nằm dựa đầu vào ngực Hòa, chàng chỉ nhìn thấy cái cổ nàng và một bên cằm; chàng giơ tay khẽ bá vai Hòa và làm hiệu để nàng cúi xuống nhìn mình. Chàng muốn nhìn hai con mắt của Hòa để xem lại là có đẹp không. Chàng lại thấy đẹp hơn và nét mặt nàng nữa chàng cũng bắt đầu thấy có một vẻ đẹp kín đáo, một thứ duyên riêng mà trước kia chàng chưa nhận thấy.
- Thôi chỉ còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi.
- Cũng chẳng sao. Thế một hai tháng sau đằng ấy lại đến nhớ.
Căn gật gật:
- Đến sớm hơn cũng chưa biết chừng.
- Đừng đến nhiều quá, người ta sinh nghi.
Chính nàng, nàng phải định tâm trước là một hai tháng mới gặp Căn một lần; định trước thế nàng không sợ buồn những lúc xa Căn lâu và thất vọng vì Căn chẳng đến.
Căn hỏi:
- Này, sao lúc nãy đằng ấy lại để đèn sáng.
Hòa cười:
- Không để đèn sáng thì làm thế nào biết được ông khách trẻ này ngồi dậy, nhìn trừng trừng vào cửa buồng người ta, quả tim cu cậu chắc đập như trống làng, cu cậu muốn mò vào lắm nhưng lại sợ, nên lại đành nằm xuống vuốt bụng thở dài. Đối với một ông khách trọ thế mà bây giờ được bà hàng cơm tự ý đến nằm xuống bên cạnh thì còn gì ngon hơn nữa. Vì nghĩ thế nên đằng này mới đủ bạo để đến nằm bên cạnh đằng ấy. Lúc buông màn, sao mình không để ý là tôi ngồi lâu lắm ở trong màn.
- Có, nhưng không dám vào.
- Lúc ấy em đợi đằng ấy đến. Em thấy như là trước kia mỗi buổi tối buông màn đợi chồng về. Nhưng lâu lắm, lại phải chuồn ra và tức cu cậu lắm.
Căn cười rồi ngồi dậy:
- Đằng ấy để đèn sáng cũng láu đấy, mưu mô của đằng ấy có vẻ chắc chắn nhưng giá nếu đằng ấy lúc đó mà tắt đèn thì có phải đã thành vợ chồng sớm hơn được đến nửa giờ.
Hòa nghĩ ra:
- Ừ nhỉ, lúc đó mình cứ sợ tắt đèn mà cu cậu vẫn còn nhát thì thật là hết. Chẳng lẽ tắt đèn, không thấy có gì rồi lại ra thắp đèn lại. Vô lý và thẹn chết. Nhưng mình không nghĩ ra là tự nhiên đem cái đèn đặt bên cạnh giường khách trọ rồi lại thổi cho tắt; ông khách trọ cho dẫu ngu độn như đằng ấy đi nữa tất cũng phải hiểu chứ?
Hòa đặt Căn xuống giường, để chàng gối vào đầu tay mình rồi nói:
- Thôi bây giờ ngủ đi. Phải ngoan đấy.
Nhưng cũng đến hơn nửa giờ sau hai người mới ngủ được.
*
Lúc Hòa tỉnh dậy thì đầu Căn vẫn đặt trên cánh tay nàng. Hòa kéo tay ra rất khẽ để Căn không thức giấc, rồi nàng ngồi dậy, nghiêng người, chống hai tay nhìn ngắm Căn ngủ. Nàng mỉm cười với Căn và hất hất cằm mấy cái như điệu bộ nói với một đứa trẻ con. Sau một giấc ngủ, tỉnh dậy nhận rõ Căn nằm đấy, nàng có cái cảm tưởng như độ nào đẻ thằng Lương, sau một cơn mê man nàng được cái thú lần đầu tiên ngắm đứa con nằm cạnh mình. Nàng cầm hai tay Căn kéo ngồi dậy:
- Dậy đi thôi, mình.
Căn thức giấc và bốn mắt nhìn nhau một lúc như ngơ ngác hỏi nhau không biết nằm mê hay sự thực. Hòa mỉm cười cúi mặt xuống rồi gục đầu vào ngực Căn.
- Tôi đi làm cơm mình ăn sớm rồi về, như thế cả xóm không biết là mình ngủ đây đêm qua.
Căn nói:
- Phải đấy, như thế độ năm mười hôm nữa tôi lại đến được mà không sợ gì.
Tuy thích nhưng Hòa cũng vội cản:
- Không được, nhiều nhất cũng chỉ một tháng một lần thôi.
Rồi nàng xuống bếp lấy nước đem lên cho Căn rửa mặt. Nàng đi vào buồng lấy gạo thổi cơm. Khi Hòa đi ngang qua trước mặt Căn, Căn ngừng rửa mặt, gọi:
- Này.
- Gì thế mình.
- Không có gì cả.
Chàng mỉm cười vì chàng gọi thế chỉ cốt Hòa quay mặt lại để chàng nhìn. Chàng nhận thấy nét mặt Hòa sáng nay lại đẹp hơn lên một tí.
Bữa cơm hôm nay tuy không sang như hôm qua, nhưng cũng nhiều thức ăn. Bữa cơm hôm nay lại khác hôm qua ở chỗ hai người không ngồi hai bên mâm mà lại ngồi cả về một phía. Ăn cơm uống nước xong, sắp đến lúc Căn phải đi, hai người đều trở nên tư lự ít nói. Căn cầm tay Hòa bảo ngồi xuống giường, rồi chàng ngồi xuống cạnh. Cả hai đều không nghĩ đến ôm lấy người nhau hay nhìn nhau nữa; họ ngồi thế lâu lắm, rồi Căn nói:
- Tháng sau không có khách đến đây tôi cũng đến.
Chàng lấy làm lạ là lúc từ biệt nhau lại không tìm được câu gì thân yêu để nói. Hòa ban đêm nói chuyện khéo thế mà bây giờ cũng không buồn nói gì cả như băn khoăn nghĩ ngợi gì. Căn thấy nàng cứ nhìn vào buồng luôn. Ngồi một lúc lâu rồi Hòa đứng lên đi vào buồng. Căn nghe có tiếng mở hòm rồi có tiếng nàng gọi chàng vào.
- Cái gì thế?
Căn vừa hỏi vừa bước lại phía góc buồng tới chỗ Hòa đương đứng. Hòa yên lặng đặt vào tay Căn mấy đồng bạc đồng:
- Mình cầm lấy.
Từ lúc nghe tiếng lục rương, Căn cũng đoán biết nhưng chàng cũng giật nẩy mình một cái:
- Chết chửa tôi không lấy đâu.
Thấy Căn cứ khăng khăng từ chối mãi, Hòa nói có vẻ giận:
- Vợ chồng mà sao mình lại cứ ngại. Đằng ấy hai cha mẹ đều nghèo, mình cầm lấy giúp thêm ít nhiều cho em vui lòng. Em không giầu nhưng cũng có vốn để dành. Gọi là có ít tiền của cô nàng dâu mới mà!
Nàng nói đùa rồi cất tiếng cười để cho Căn khỏi ngượng khi nhận lấy tiền. Căn biết là nếu nhất định không lấy, Hòa sẽ tủi thân tưởng là chàng nghĩ nàng cho tiền chàng như thế là khinh chàng. Hòa tiếp theo:
- Nhưng đừng nói thầy bu là của em nhé!… Hừ, nói đến hai tiếng thầy bu sao mà ngượng mồm thế!
Căn mở nắp cái ví dây lưng và mặc dầu không muốn lấy, tay chàng cũng run run khi cho tiền vào ví.
- Năm đồng bạc. Cả một cái vốn liếng to.
Từ thuở bé đến giờ, Căn chưa bao giờ có một cái vốn to như thế. Ra đến cửa buồng sáng, Căn thấy Hòa đứng lại, và quay mặt đi đưa vạt áo lên lau mắt. Rồi nàng ngửa mặt hai con mắt còn ướt chớp mau có vẻ tươi cười nhìn chàng:
- Thôi mình về. Tháng sau lại đến nhé.
Nét mặt Hòa lúc đó Căn thấy đẹp hẳn và chàng lấy làm lạ sao trước kia chàng lại không nhận thấy; lòng chàng lúc đó cũng cảm thấy đã yêu Hòa mê man.
Hòa ra mở cửa, nhìn hai bên rồi làm hiệu cho Căn ra. Căn vác áo xe rồi đi về phía cửa. Lúc sắp bước ra chàng ngừng lại nhìn Hòa. Hòa đứng nép sau cánh cửa, yên lặng nhìn lại chàng rồi nàng sẽ hất cằm một cái và mỉm cười như nhắc lại lời hẹn. Căn gật gật đầu rồi bước ra ngoài phố. Trời đã sáng nhưng các nhà ở bên còn đóng cửa hết. Căn kéo xe thật thong thả và vì nhớ đường có nhiều cỏ nên tiếng kêu cũng không đến nỗi to lắm. Sao lòng chàng lại vui một cách dồn dập đến thế.
Đi đã xa và khuất hẳn không trông thấy bến Cháy đâu nữa, lại thấy cả quãng đường vắng ấy không có bóng người, Căn ngừng xe lại. Chàng đặt xe bên đường, rồi lên ngồi trên xe, chân bắt chữ ngũ, ngả lưng vào thành xe ngửa mặt nhìn trời và mỉm cười. Chàng cho tay mở cúc cái ví rồi nhắm một bên mắt nhìn vào trong và mỉm cười một cái nữa.
- Cuộc phù thế nhân sinh ơi! Năm đồng bạc!
Chàng thong thả rút từng đồng bạc ra, vừa rút vừa đếm:
- Một, hai, ba, bốn, năm…
Chàng như đếm cái sung sướng của mình.
Đồng bạc nào cũng còn mới nguyên cả. Căn nghĩ chắc tiền Hòa để dành và xem tình trạng cửa hàng Hòa, thì số tiền để dành của nàng cũng không quá hai ba chục bạc. Thế mà Hòa lại cho chàng những năm đồng bạc, đó là triệu chứng chắc chắn là Hòa yêu chàng lắm.
Căn tung những đồng bạc lên cao rồi giơ tay đón bắt và sóc sóc trong lòng bàn tay. Các đồng bạc sáng sủa kêu coong coong nghe rất vui tai. Rồi Căn yên lặng ngẫm nghĩ về cuộc tình duyên mới mẻ với Hòa, mắt vẫn không rời những đồng bạc; cuộc tình duyên ấy cũng đầy hứa hẹn và chắc nịch như những đồng bạc trắng của nàng, nó đương đè nặng trên lòng bàn tay chàng, đến thích.
Truyện ngắn của Lưu Quốc Hòa
******************************
Đấy là một cây đa cổ thụ không biết mọc từ bao giờ, chỉ biết qua bao dự án cải tạo Thành Phố, nó vẫn không bị chặt hạ. Sau cây đa là một ngôi chùa ngày đêm bảng lảng khói hương, rầm rì kinh kệ.
Ông Liễm bà Tho vào tuổi lục tuần mà đã có đám cháu ngoại thau tháu gần chục đứa. Dưới gốc đa râm mát chúng nô đùa rình rịch. Lũ trẻ ở khu phố nhỏ cũng tụ bạ thêm cho xôm trò. Các bà đi lễ, trước khi ra khỏi cổng chùa đều phát lộc cho chúng, lúc thì vốc táo, chùm nho, lúc vài gói Bim Bim. Chúng cúi đầu khoanh tay lạy mọp như diễn tuồng, nói mấy câu học vẹt do người lớn bày cho: Cháu cám ơn bà! Cháu cám ơn cụ ạ ...Rồi chí chóe chia nhau ăn tem tẻm.
Cùng a dua với chúng có một con chó nhỏ mà lũ trẻ vẫn gọi là con Húng. Con chó ấy là của gia đình ông Liễm nuôi để đảm đương khâu vệ sinh khi các cháu của ông bà vô phép. Nó là giống chó cỏ nên nhanh nhẹn và rất đẹp mã. Bộ lông Húng đen mượt như nhung lại có mấy đốm vàng. Bên trên hai con mắt có hai chấm nên nhìn rất ngộ. Nó túng tớn chạy theo lũ trẻ và cái đuôi ngoáy tít, bốn chân chạy tăn tắt, luồn lách vào khe chân đám trẻ làm nhiều đứa vấp bò nhoài đè lên. Thật là một đám hỗn quân hỗn quan bất trị. Chúng lấy chạy nhảy, hò hét làm đầu. Một lũ hai chân lĩnh xướng để một con bốn chân theo đuôi, chúng là bức tranh sinh động làm bừng lên niềm vui cho mọi người trong con phố nhỏ.
Chó con cũng là giống nghịch. Húng can dự, tọc mạch bất kỳ trò gì do lũ hai chân bày ra. Húng hếch cái mũi ướt nhượt hút hít vào chân lũ trẻ. Húng ngồi xổm, cái đuôi chấm đất như bông lau nhỏ khua đảo tưng bừng, nghênh tai ra chiều nghĩ ngợi, nguyên cứu rồi chẳng biết đồng tình hay phản đối, cũng hếch mõm lên "roách roách" mấy câu ý chừng là đã hiểu, rồi sau đó quài chân lên cổ gãi nhanh nhách một hồi, gãi chán, thò móng cào sồn sột trên đất. Lũ trẻ không thèm để ý đến can dự của Húng. Dưới con mắt ngây thơ, chúng coi Húng là đứa theo đuôi, chỉ gây nhiễu và ăn bám, vòi vĩnh, chia trác khẩu phần xin được của các bà đi lễ chùa. Cái gì lũ trẻ ăn được Húng cũng cố ăn, mấy quả sung chát lè, mấy khẩu mía rắn câng cúng cho cô hồn quả tú, mấy chùm nho chua gẫy răng được chia Húng cũng nhá. Húng theo dõi xát xao quyền lợi và đòi chia trác công bằng, nếu không bình đẳng, nó thượng chân lên mà phản đối, bất bình quá nó chạy ra một đoạn ra chiều phân tuyến giai cấp mà xủa về đám trẻ, tiếng nó tru lên cũng chua ngoa, ai oán và khinh bỉ, nó đấu tranh đến khi nào bình đẳng mới thôi. Húng tự cho phép mình có đòi hỏi quyền lợi hợp pháp khi tham dự nhóm Gốc Đa cùng lũ hai chân bắng nhắng, om xòm lại tham ăn tục uống.
Lũ trẻ nhóm Gốc Đa toàn là con nhà lao động. Đứa bố mẹ bán cơm bụi, xe ôm, xe lôi, xe ba gác, đứa con nhà buôn thúng bán bưng hay làm cửu vạn. Chúng không có quần áo đẹp và đồ chơi điện tử, chả đứa nào phải học thêm nên mắt sáng như sao, cứ hè về là tha hồ chạy nhảy. Chúng cũng chẳng ốm đau phải đi nhập viện như con nhà giàu. Cảm sốt đắp chăn rên hừ hừ, ăn vài cái roi kèm lời đe của bố mẹ:" Bêu nắng lắm vào! Cho mày chết! Mai còn thế tao chặt chân" ...vậy mà sớm mai bên gốc đa lại nhảy tưng tưng, quên phéng lời đe, vẫn chứng nào tật nấy.
Như đã kể đầu chuyện. Sau gốc đa cổ thụ là chùa Lương Thiện. Bên trong chùa Lương Thiện có một vị sư gần 40 tuổi, mặt lấm tấm mụn cá và trắng như sáp nặn. Chưa đến 40 tuổi đã được phong Đại Đức thì ngẫm ra cũng là bậc chân tu. Còn nghi ngờ gì nữa, không đức cao vọng trọng thì làm sao các bà nhà quê mấy thứ tóc, lưng dấu hỏi vẫn phải lạy như tế sao mỗi khi bậc Thiền khoan thai đi trong khuôn viên nhà chùa. Sư trụ trì có tên nhà Phật cũng oai lẫm. Khắp vùng vẫn gọi là "cụ" Thích Đàm Thứ. Mấy lão ba láp sống ở cổng chùa nên "gần chùa gọi bụt bằng anh" lại nhạo lái tên thành "Thích đủ Thứ". Chưa thỏa cái thói trần tục, mấy gã cửu vạn lại kháy đám trẻ xóm Gốc Đa. Cứ thấy "cụ" ra khỏi cổng chùa lại xếp hàng nhất hô bá ứng đều tăm tắp: " Lạy cụ Thích Đủ Thứ ạ! Chúng cháu lạy cụ Thích đủ Thứ ạ". Con Húng chả hiểu mô tê gì cũng tru lên hưởng ứng cùng lũ trẻ làm " Cụ" giận lắm. Mấy lần cụ vung roi đen đét gầm lên:" Bá ngọ lũ quỷ Đông! Bá ngọ cái lũ quỷ đằng Đông".
*****************************
Giờ thì Gốc Đa vắng lắm. Nó vắng từ khi ông Liễm Bà Tho gây "sự kiện vùng vịnh". Sự kiện ấy có từ lâu rồi nhưng ém trong phòng lanh với cửa kính màu dày một phân. Họ gây sự kiện thế nào thì chỉ có họ biết hay bất quá là có ông giời cùng biết. Dân phố không có thói quen tọc mạch, dòm rỏ chuyện nhà khác. Khi ấy, lũ cháu ngoại của ông bà và lũ trẻ hàng xóm vẫn bình yên chạy nhảy bên ngoài.
Lần này thì khác. Cuộc chiến đẫm máu ấy xảy ra trước gốc đa, có nghĩa là xảy ra bên ngoài cửa kính có độ cách âm gần như tuyệt đối.
Sau cú đạp cửa thoát hiểm mau lẹ. Bà Tho vớ được hòn gạch vỡ. Bà thủ thế bên ngoài, mắt trừng trừng ngó về phía cửa kính nhà mình. Để tăng phần khí lực, bà vắn cái cạp quần màu huyết dụ lên vài đao, lùi dần về phá đống gạch vụn xếp bên đường chờ đợi. Vừa yên vị thì ông Liễm cầm con dao chọc tiết lợn lao ra. Cái yết hầu ông co lên hạ xuống theo phương tịnh tiến và đỏ như mào gà chọi. Ấy là ông một phen quyết tử với bà Tho. Hãi thật! Không khí phừng phừng như lửa sôi khi ông tiến về phía bà. Bỗng "cấc" và kèm theo là tiếng "ái", nửa hòn gạch đã đáp trúng cái trán vung nồi đồng ông Liễm. Ông khựng lại, lấy tay vuốt trán. Một dòng máu tươi phè phè theo tay lả rả rơi xuống đất. Như không tin vào mắt mình, ông lại vuốt lần thứ hai. Vẫn thế, vẫn là máu đỏ như máu lợn bị chọc tiết. Còn nghi ngờ gì nữa, thủ phạm kia rồi! Con nặc nô, con giặc cái, con sư tử Hà Đông kia rồi. Mặt nó đỏ như lưỡi cày nung, cái miệng vạt ống dầu lèm bèm khiêu chiến đang nhơn nhơn thách thức trứơc mặt. Như con trâu dái đang hăng, ông lao về đối phương với con dao chọc tiết lợn. Tuy quyết đấu nhưng cuối cùng thì con dao không thể tiếp cận nổi đống gạch mẩu và chịu ôm đầu máu quằn quại rồi được hàng xóm vực lên tắc xi tới viện. Trong cơn đau đớn, ông Liễm vẫn lảm nhảm đe dọa đối phương, lời đe dọa thều thào bị lấp bởi tiếng la xoe xỏe của bà Tho đang sắn váy quai cồng, thượng lên bên đống gạch mẩu.
Chỉ khổ lũ trẻ và con Húng. Khi trận hỗn chiến xảy ra, chúng chạy tóa tòa loa như mối vỡ tổ. Chúng co cụm vào các góc khuất run bần bật khi nhìn thấy máu me đầm đìa. Chúng ôm nhau rú lên kinh hãi khi nhìn thấy con dao bén sắc huơ lên nhoang nhoáng. Con Húng chui tọt vào lòng cái The, hai tai cúp xuống, lấm lét nhìn đám trẻ. Chắc là nó chờ đợi động thái lũ hai chân vẫn chơi bời hàng ngày với nó. Lũ trẻ then lét một xó, cái The ôm Húng vào lòng, vỗ vỗ vào cái đầu, vân vê cái tai trấn an con Húng. Con Húng ve vãn cầu cạnh đám trẻ. Nó ệp bụng xuống đất, lê hai chân bò đến từng đứa, thè cái lưỡi đỏ, liếm quèn quẹt, liếm nhun nhút bất kỳ chỗ nào nó vớ được. Húng là con chó mang ơn cả hai người chủ đang đánh nhau, nó chẳng biết bênh ai, bỏ ai nên đành lấy lũ trẻ làm chung gian, làm chỗ dựa lúc binh biến trong nhà.
Thế là mấy tháng sau.Ông Liễm bà Tho ra tòa ly dị. Họ ly dị vì lý do gì chỉ có họ và Tòa án Thành Phố biết mà thôi. Hai ông bà mỗi người mỗi ngả về với đám cháu ngoại. Ông ở nhà này thì bà ở nhà kia. Họ như sao Hôm và sao Mai trong gầm trời oan nghiệt.
Căn nhà bên gốc đa của họ giờ vắng bóng đàn cháu ngoại vẫn đeo bám ông bà. Cái cửa kính cách âm đóng lại, đám trẻ xóm phố không còn tụ bạ dưới gốc đa trước cửa chùa để lẻo mép xin lộc người đi lễ. Cái sân trước vẫn nhẫn thín bước chân người lớn trẻ con giờ mốc rêu vì thiếu người qua lại, lá đa tầng lâu tầng mới đè lên nhau, lớp dưới bốc mùi hoai mục. Trong tâm trí lũ trẻ, trận hỗn chiến diễn ra cách đây nửa năm vẫn là nỗi ám ảnh kinh hoàng.
Cũng gần nửa năm con Húng vắng chủ. Mỗi đêm nó không còn hạnh phúc được nằm trước cửa kính, bò nhoài hai chân, áp tai xuống nền xi măng để làm chức phận giữ nhà cho chủ. Bây giờ Húng đã là của mọi nhà, nó lang thang cùng đám trẻ và tiện đâu ăn đấy, tiện đâu ngủ đấy. Thỉnh thoảng nhớ nhà, Húng lần về tần ngần bên cửa kính, ngó nghiêng một hồi rồi buồn bã cúp đuôi lảng đi. Nó bỏ thói quen sủa đêm vì có ai mượn nó giữ nhà đâu mà sủa. Ai với nó bây giờ cũng là người quen. Lũ trẻ xóm Gốc Đa vẫn không ghẻ lạnh nó. Chúng thay phiên nhau mời Húng về nhà, cho ăn no, lấy xà bông tắm thơm tho rồi ôm hôn Húng. Con chó tội nghiệp lớn rất nhanh, núng nính chạy nhong nhong thăm hỏi mọi nhà. Nó là thành viên của xóm Gốc đa bên những con người mưu sinh lam lũ và tất bật.
Cái giống nghiện ngập trong thành phố dạo này tác quái vô cùng. Không biết thằng sáng chế lưu manh nào lại cung cấp cho chúng loại súng bắn chó. Gọi là súng nhưng thực chất nó là bộ phận kích điện cao áp bằng Pin. Ngang phố ban đêm, chúng nhằm Húng nhả tên, cũng may cái The phát hiện được hô hoán mà Húng thoát chui vào bao tải bọn kẻ cắp. Húng được The đem về nhưng lưỡi cứng do điện giật nên không ăn không uống được. Bác Lãm xe ôm họp toàn dãy phố thông báo tình hình. Lũ trẻ cũng bỏ chơi, suốt ngày quanh quẩn vuốt ve chăm bẵm Húng. Húng nhìn lũ trẻ với ánh mắt tin cậy và biết ơn nhưng không thể thè cái lưỡi đã cứng đơ,liếm láp vào lũ bạn hai chân đã cùng Húng buồn vui trong xóm Gốc Đa. Lưỡi Húng thâm dần và lông xù ra như đám phoi tre chiếc đũa cắm bát cơm trên quan tài người chết.
Bà Tho điện về: Tôi đang nhập viện nên rất khó khăn tiền bạc, thôi các ông các bà đánh đụng con chó đi kẻo nó chết hoài của.
Cô Hiền ngay từ buỏi chiều hôm trước đã đi chợ. Cô mua bao nhiêu là gia vị giềng, xả, mắm tôm, chanh ớt đem về. Đám hành quyết Húng đã mài dao, Húng được bốn nhà đánh đụng.
Không khác được, số phận của Húng đã được định đoạt rồi. Sáng hôm sau, chú Tùng xe ôm lại lôi đâu về một ôm rơm vàng óng, cái thau nhôm đã được đánh sáng bong, nồi nước trên bếp than tổ ong cô Hà đã lăn tăn xôi. Tất cả sẵn sàng. Húng thản nhiên nhìn cái thớt, con dao nhọn và cái làn đầy ắp gia vị trước mặt...Lũ trẻ con nhớn nhác nhìn người lớn bày pháp trường, nhiều đứa rân rấn nước mắt.
Húng bị trói quặt hai chân trước nhưng không đủ sức kêu, nó ứa hai hàng nước mắt nhình lũ trẻ. Húng bị điệu lên chiếc ghế gỗ, một người nhanh tay vặt núm lông cổ, cái khăn sạch lau chỗ chọc tiết đã sẵn sàng...Con dao bén nhọn sau nhát chọc điệu nghệ tìm tia hồng. Người Húng co giật lên rồi lả dần. Con dao bầu ngoáy thêm nhát nữa, chiếc thau nhôm long tong dòng máu khi con dao ngày càng nong rộng...
Dẫu biết việc ấy sẽ sảy ra nhưng khi nhìn thấy dòng máu của Húng, lũ trẻ mặt xanh nanh vàng bỏ chạy rồi tru lên khóc. Chúng lại tìm góc khuất co cụm mà run, đứa nào cũng quờ tay tưởng Húng đang nằm trong lòng mình như hôm ông Liễm bà Tho hỗn chiến..
^^^^^^^^^^.
Mùi thịt thui thơm lựng bay vào cửa chùa và bay lan ra phố. Giờ thì Húng đã vàng hươm và trên lớp da , một lớp mỡ óng ánh nhầy nhẫy gợi thèm trần tục. Vị sư trụ trì lấp ló nhìn qua xong cửa sắt.
Ai đoán được vị ấy đang nghĩ gì?
CHUYỆN CHÓ
Truyện ngắn: Hồ Tĩnh tâm
Cách đây mấy chục năm, tôi đọc được trên một tờ tạp chí khoa học, thấy có nói rằng, trên thế giới có bảy loài chó săn(xin nhắc lại là chó săn) thông minh, dũng cảm, thì ở Việt Nam ta có tới hai loài được liệt vào danh sách đó. Một là loài chó Lài của người Mường; loài chó này có sắc lông vàng, to như con bê, có con dám chống chọi cả với cọp. Hai là loài chó Phú Quốc, có sắc lông màu xám, và có một đường xoáy dựng lông, chạy dài từ bả vai xuống tận đuôi, chân có móng đeo, giữa các ngón có màng nối như màng chân vịt. Thú thật tôi đọc sao biết vậy, chứ trong bụng cũng nghi nghi hoặc hoặc. Chó ta sao hơn chó Tây được. Đến cái lịch treo tường, ông Tú Hà Nam còn vịnh một câu chí tử nữa là: “Ngày Ta nằm dưới đít ngày Tây”. Nói vậy là tôi nói chuyện thời trước cho vui, chứ không hề có ý mặc cảm tự ti. Nước Việt mình thời hiện đại đã có tới hai người cưỡi tàu vũ trụ: một là ông Trinh, người Việt quốc tịch Mỹ, hai là ông Tuân, người Việt chánh hiệu từ đầu đến chân, đã từng cỡi mây đạp gió, bắn rớt tàu bay B52 trên trời Kinh Bắc. Chừng đó cũng đủ để tự hào phần nào về nòi giống tiên rồng của mình rồi, cần gì phải nói thêm về một ông quê Hà Tây đang làm việc cho Nasa Hoa kỳ, đã vạch quỹ đạo đường bay, cứu con tàu Apolo trở về trái đất. Còn chuyện chó thì khác. Muốn biết đích xác ngọn ngành thì phải điều tra, phải so sánh, đối chiếu. Ra nước ngoài, tiền máy bay không có là cái chắc. Lại còn thủ tục đăng ký hải quan, khám sức khẻ… Ôi thôi! Rách việc lắm!
Nhưng đêm nằm ngủ, nghe tiếng chó nhà hàng xóm giật mình sủa trăng, tôi lại cựa mình trăn trở: Có đúng nước mình có hai loài danh khuyển cỡ đệ nhất hành tinh?! Áy náy mãi, chịu hết nổi, tôi lò dò mò sang nhà ông hàng xóm.
- Ai đó? Đêm hôm ai tới có chuyện chi đó?
Ông hàng xóm ốm nhách, vừa hỏi bằng cái giọng khào khào của kẻ nghiện, vừa mở cửa cho tôi vào.
- Ủa, bác tới có chuyện chi?
Tôi trình bày tất tật nghi vấn của mình. Nghe xong, ông hàng xóm vừa gải gải chỗ kín của mình, vừa kéo ghế mời tôi ngồi xuống kế cái bàn đá hình bán nguyệt.
- Má thằng Sơn ơi! Chăm giùm bình trà coi!
Gần nửa đêm mà uống trà thì chỉ có chết. Nhất là trà của tía thằng Sơn; cứ gọi là trắng dờ con mắt cả ngày hôm sau. Nhưng mà thây kệ, ông ta đã chịu chăm trà, tức là cũng chịu luận về chuyện chó với mình. Cũng bỏ công thức với nhau.
- Chuyện chó săn thì tui hổng rành, chớ chuyện chó thịt thì đố nước nào qua nổi An Nam! Chỉ cần một miếng đùi cầy tơ thôi, luộc đơn giản với nước dừa, đủ chứng minh chó thịt của ta đúng là số dách.
Sợ ông ta sa vào chuyện cầy tơ bảy món thì bỏ mẹ cái đêm tiếc ngủ, tôi tìm cách lái lại cái miệng ưa dồi nướng, nhựa mận của ông.
- Tháng rồi đi Phú Quốc, tôi có nghe kể chuyện về cái Am con Xám. Là chuyện về cái Am thờ con chó Xoáy Xám Phú Quốc chánh cống. Nghe xong cũng phần nào tin tin cái thông tin trên tạp chí. Bác biết không, con chó một mình quần nhau nát đất với con hổ mây to bằng cổ chân, nhờ nó mà con ông chủ của nó chạy thoát được vô nhà. Chừng người lớn xách rựa, xách gậy chạy ra, thì con chó đã ngoạm được ngang cần cổ con rắn. Con rắn quấn xiết lấy con Xám mà riết, tiếng xương gãy nghe răng rắc. Mọi người chỉ còn cách đứng chờ cả hai con lăn ra chết. Con chó họ chôn cất. Con rắn họ chặt khúc hầm sả, xào lá cách. Bác thấy chó Phú Quốc mình có gan trời không? Phong vào hàng danh khuyển cũng phải.
- Đã nhằm gì!( ông hàng xóm vừa vấn một điếu thuốc rê trảng tổ bố như ngón tay, vừa nói). Ba chuyện chó cỡ đó ý mà, có mà vô thiên lũng! Hồi trẻ tui sống ở quê, một hôm ra đồng chăn vịt, trời hây hẩy gió, lại mây ken dày dựng lên như núi, đã trong người, tôi lăn ra ngủ. Đang ngon trớn, chợt nghe tiếng con phèn sủa dắng dỏi. Trời đất! Một con rít to hơn ngón tay cái, đang quằn quại dưới bàn chân trước con Phèn, cách cần cổ tui có gang tay. Mèng đéc ơi! Thử dính nó một miếng coi, có mà trào đờm. Tui choàng ngay dậy, quơ chiếc dép mủ, huýt gọi con Phèn nhấc chân lên để đập con rít đem về ngâm rượu làm thuốc cho gà. Ai dè con Phèn đè chặt quá, con rít bị mắc vô móng chân của nó, khi nó nhấc chân lên, con rít cũng đeo theo lên. Tổ cha con rít ác địa đó, nó chích có một phát, mà con Phèn tuyệt hảo của tui lăn ra chết ngay tức khắc.
- Bác chôn nó chứ?
- Ngu gì mà chôn. Chết rồi coi như hết. Tui hú đám bạn qua, tẩn liệm nó hết nghiến năm lít Sơn Đông. Cứ là ấm chân răng tới mấy ngày.
Chiêu một ngụm nước. Vấn thêm một điếu sâu kèn tổ trảng, ông hàng xóm tỏ ra hứng khẩu, cao giọng:
- Bác đã mặn chuyện, tui cũng xin thành thật thưa rằng, chó xứ mình tiếng nhỏ thó mà trung thành, gan dạ ít có chó nào sánh đặng. Bên quê ngoại tui, có ông lão ăn mày, đi đâu cũng dắt theo con chó. Từ khi con chó bằng cầm chân tới khi con chó già cóc kẹ. Lúc bấy giờ, ông lão đã lòa câm hai con mắt, việc đi lại cứ phải nhờ vào con chó. Nó đi trước, ông lão lẻo đẻo theo sau. Hệt như cái dấu chấm hỏi cong vòng, và cái dấu chấm dòng cụt lủn, lê lết kéo nhau trên mặt lộ. Thương lắm bác à. Tới nhà nào hay cho của bố thí thì con chó đứng lại, dụi dụi cái mũi ướt rượt vào cẳng chân ông già báo hiệu. Ai cho thì nó vẩy đuôi. Ai chưa cho thì nó ngước nhìn bằng cặp mắt ướt nước dấp dính. Ai đuổi mắng sổ sàng thì nó chồm lên sủa. Ai cũng nể nó. Chừng ông lão quy tiên, cả đêm nó ngồi canh xác, miệng không ngớt cất tiếng tru ai oán. Nó tru cả đêm cả ngày, nhờ đó mà lối xóm biết ông lão đã về trời. Họ tới đưa ông đi, nhưng hễ ai đụng vào thây ma là con chó chồm lên cắn; mắt ngầu như lửa. Mấy tay trai tráng lực lưỡng phải lừa thế, dùng đòn vông dằn nó xuống trói lại, mới đưa được nắm xương tàn của ông lão ra đồng. Rồi thì từ đó ngày nào cũng như ngày nào, con chó cứ nằm rũ phủ phục trên nấm mộ ông chủ mà khóc tru lên. Tiếng tru thảm thiết rợn người. Nhứt là từ nửa đêm về sáng. Rồi thì nó cũng chết thôi, nhưng không biết có kẻ nào vì động tâm thương nó đang chết dần chết mòn mà đập chết, hay vì mất ngủ bởi tiếng tru ai oán của nó mà đập chết. Chỉ biết, một buổi sáng, người ta thấy đầu nó nứt toác, phọt cả óc trắng nhờ nhờ trên mộ chủ. Có người đơm chuyện, kháo phứa lên rằng, con chó quá đau khổ, tự đập đầu vô đá mà chết. Làm như người chứ không phải chó không bằng.
*
Sau cái đêm nhàn đàm chuyện chó ấy, tôi vẫn tiếp tục cuộc điều tra của mình. Tôi mua và cắt tất cả các bài báo, bài chí viết về chó, đóng thành một tập hồ sơ lưu trữ. Ai có chuyện gì về chó, liên quan tới chó, tôi cũng ghi chép. Lúc túng cùng, tôi cắt lén cả tư liệu chó trong sách mượn của người ta, của thư viện(Về chuyện này ấy mà, chẳng biết thế đếch nào, tay phó phòng tổ chức biết được, voa thọt lên thượng cấp, tôi bị hăm một phen ra trò). Ngoài ra, tôi còn sưu tập cả một bộ chân dung chó, gồm đủ thứ ảnh đen trắng, ảnh màu. Chó Tây, chó Ta. Vớ được anh chó, chị chó nào tôi cũng gom tuốt vào tập an bum ngân hàng chó của mình. Nghĩa là tôi lao vào công việc say sưa, liều mình như chẳng có. Đầu óc tôi quay cuồng toàn những chuyện chó. Bởi vậy, bộ lưu trữ độc nhất vô nhị của tôi, theo thời gian, đã chất đầy mấy hộc tủ. Đó là một bảo tàng tư liệu chó. Tôi bán cả ti vi, đầu máy cát xét, tủ lạnh… để lao vào công cuộc sưu tầm tư liệu. Cho dù vợ tôi khóc đầy hàng thau nước mắt về việc của cải đội nón ra đi. Cho dù bạn bè mai mỉa tôi là ông hấp(Nói nhỏ nhé! Lại vẫn cái tay phó phòng ấy thọc gậy bánh xe. Y rêu rao khắp nơi là tôi bị hội chứng nhiễm tiền chó dại, phải cho hưu non mới dứt cơn). Như một Rô Bin Xơn, tôi cứ lao vào công cuộc điều tra khoa học với tất cả máu huyết của mình. Tôi đã có ý đồ của tôi. Nếu quả thật giống cho Lài của người Mường, giống chó xoáy xám của Phú Quốc đích thị là giống chó săn nổi tiếng toàn thế giới, thiên hạ sẽ biết tay tôi. Bấy giờ tôi sẽ làm một luận án phó tiến sĩ- mà cũng có thể là tiến sĩ- về chó. CHÓ SĂN VIỆT NAM VÀ THỊ TRƯỜNG CHÓ THẾ GIỚI. Tôi sẽ trình Hội đồng Nhà nước một luận chứng kinh tế về việc thành lập tức tốc một Trung tâm chó Việt Nam, mang tên TRUNG TÂM PHỐI VÀ LAI TẠO KHUYỂN VINAMEX. Ái dà! Biết đâu tôi lại chẳng được cử làm Giám đốc hay Tổng Giám đốc gì đó. Chẳng gì tôi cũng đã có trong tay hàng hộc hộc ngăn kéo tư liệu chó.
Tôi biết rõ đặc điểm sing lý giống chó xi lùn Nhựt Bổn khác xi lùn Bắc Kinh ra làm sao. Tôi biết rõ tính nhõng nhẽo của giống phốc Thụy Sĩ, tính chây lười của giống xồm Na Uy, tính ngổ ngáo của giống mặt cọp Hoa Kỳ… Còn như bạn cần chọn một bẹc giê Đức đáp ứng tiêu chuẩn huấn luyện nghiệp vụ? Sẵn sáng! Tôi có đủ tài liệu. Bạn muốn hỏi về giống Poite Ăng Lê? Có ngay! Bạn muốn xin chỉ dẫn để chọn một con chó làm cho căn nhà lộng lẫy trở nên lộng lẫy hơn? Xin mời! Hãy chọn giống Lesvie của Nga. Bạn muốn mua một con Boxer thật quý? Vâng, đừng tốn tiền mua những con màu nâu- thứ đó ê hề trên thị trường chó đầy biến động- hãy tìm bằng được một con lông trắng lốm đốm đen trên người. Bạn đã đọc Gavrain1
chưa? “Bim trắng tai đen” ấy mà. Chính nó đấy!...
Đấy! Tôi đã tập trung cơ man nào là tư liệu về chó. Kể cả tư liệu y khoa dạy cho chó nhảy đực thế nào đạt hiệu quả phủ nọc. Cách đỡ đẻ khi chó lâm bồn. Cách cung cấp dinh dưỡng trứng, sữa cho chó hộ sản. cách cho chó uống thuốc tiêu chảy, long đờm, sổ mũi… Nói chung là đủ các kiểu tư liệu, tài liệu. Nhưng toàn là tư liệu, tài liệu bên Tây, bên Tàu; còn tài liệu bên ta thì…hiếm như lá mùa thu, mặc dù chợ trời của ta có thể mua đủ phụ tùng ráp chiếc phi cơ phản lực. Có chăng cũng chỉ là những câu nói dân gian dạy cách chọn chó nuôi giữ nhà, với chức năng là sủa đổng, là cắn trộm. Những câu như tứ túc mai hoa, huyền đề, trường lưng, rộng ức, mõm nhọn, trán vuông… hay móng đeo chẳng hạn, cũng chỉ nhằm vào ba giống chó miệt vườn, chưa thể gọi là tài liệu khoa học được. Có vậy mới biết người Tây, người Tàu họ giỏi chơi chó hơn ta nhiều, nhiều lắm.
*
Trong khi tôi đang vùi đầu vào công tác sưu tầm tới mất ăn mất ngủ thì ông hàng xóm của tôi, chẳng biết ai chỉ vẻ, đã chuyển sang nuôi chó kinh doanh. Đầu tiên ông nuôi chó thịt, theo phương châm nhất bạch, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm. Chó đẻ ra chó. Chó con, con nào tốt mã ông bán cho người ta nuôi, con nào xấu mã ông để nuôi trong nhà, chờ lớn lên “hạ cờ Tây” chế đủ bảy món “A đây rồi!”, vừa bán vừa nhậu lai rai. À, mà món tiết canh chó của ông ta thì phải biết. Cứ gọi là nhức răng hăng cật. Bên Tây họ giỏi chuyện lai tạo, điều trị, săn sóc chó, chứ sử dụng chó làm thực phẩm cao cấp chống suy dinh dưỡng thì họ cứ phải kiếng bên ta làm sư phụ. Nay mai, cơ chế thị trường mở rộng, người nước ngoài họ vác, họ khuân hàng hàng va li vàng bạc, đô la đổ vào xứ ta để kinh doanh sản xuất, biết đâu họ chẳng được người Việt Nam khai hóa cho biết ăn thịt chó. Chừng đó ông hàng xóm của tôi, không khéo lại trở thành Giám đốc nhà hàng chó đặc sản năm sao.
Một hôm, nhân trời mưa lắc rắc, ông hàng xóm cho cậu út sang mời tôi qua lai rai chút đỉnh món nai đồng quê nức tiếng của ông. Rượu vào được vài ly, nghe tôi khen tài kinh doanh chó tài tình của ông, ông xua tay nói:
- Nhằm nhè gì ba cái lẻ tẻ hả bác. Phải biết hy sinh cho khoa học chó như bác mới gọi là đáng mặt anh hào. Kỳ này tui tính đổi nghề.
- Trời đất! Nói thiệt hay nói chơi? Bác nhờ chó, đang làm nên ăn ra?!...
- Phải làm ăn lớn cà- ông hàng xóm nhấp nháy con mắt ra chiều khoái trá- Vậy chớ bác còn nhớ vụ tay gì ở Hà Nội, tổ chức đám ma chó linh đình, hàng trăm xe hơi chở vòng hoa đưa đám, bị kỷ luật cách về làm phó thường dân không?
- Vụ đó nức tiếng như cồn, tôi còn lưu hàng chồng bài viết của các tay săn tin.
- Đấy! Sự đời nó vậy! Hồi đó người ta mê bẹc giê hơn mê người tình. Giờ thời buổi xoay vần, các nhà giàu có sang trọng đua nhau nuôi chó kiểng. Tui tính vầy, bác với tui như anh em, tui có vốn, bác có học vấn, ta hùn hạp nuôi chó xi lùn, chó phốc, kiếm tiền làm giàu với thiên hạ chơi.
Thật là ngán cho tấn trò đời. Mình đang lao vào khẳng định tiếng tăm của nhị vị danh khuyển để trình luận án thì… hắn lại rủ kinh doanh chó kiểng. Mà… cũng được, khoa học phải có hậu phương cấp vốn, mới triển khai nghiên cứu được những đề án tầm cỡ thế giới chứ. Bao nhiêu đồ đạc đã bán ráo, mà cái chốt nhất của vấn đề là giá trị đích thực của giống chó Lài, chó Phú Quốc vẫn chưa tìm ra. Suy cho cùng cũng tại ngành khoa học tự nhiên của ta, trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, còn thiên lệch quá, hạn chế quá, chỉ nặng về trâu bò, lợn gà, chưa đoái gì tới chó. Bao nhiêu chó đều ném cả vào chai rượu, có ai biết nuôi chó để nghiên cứu khoa học như ông Páp Lốp đâu. Họa chăng cũng chỉ vài người làm trên Cục, trên Viện, bị coi là hâm tỉ độ mới ghé mắt dòm qua loáng thoáng về chó. Ấy thế mà cũng không biết lòng tự trọng dân tộc về chó quý hiếm của ta, chiếm được tỉ lệ bao nhiêu phần trăm trong đầu của họ. Thôi thì… liều một phen xem nó thế nào. Chẳng qua là một bước lùi hai bước tiến như sách Tôn Tử. Biết đâu bắt cá hai tay lại hốt bạc ào ào.
Ngay đêm đó, tôi nài nỉ rót vào tai bà vợ những lời ngọt nhạt. Đại loại: em ráng tiếp anh một lần này nữa thôi. Thiên hạ đầy trời đang đua nhau chơi chó kiểng. Giá mỗi con xi lùn xấu nhất, cũng trên chỉ rưởi khi vừa mở mắt. Một con chó giống đẻ mỗi lứa ba, bốn con, làm gì mà lỗ được. Với nữa, ông hàng xóm bao gần chín phẩy chín chín phần trăm số vốn, mình có là cái đinh gì. Ngon ngọt suốt đêm, bà xã cuối cùng cũng lột cho tôi đôi bông tai và cái nhẫn cưới. Hai chỉ cả thảy. Phần hùn hạp cổ phần của tôi chỉ có thế.
Vậy mà ông hàng xóm rước về một hơi ba con chó cái giống. Mỗi con giá trên hai cây vàng. Tôi nhìn chúng mà hoa cả mắt. Đến ẵm chúng lên nựng nựng vào mũi cho quen hơi như trong tài liệu hướng dẫn, tôi cũng không dám. Mình hút thuốc, uống rượu, ăn rau dưa, lỡ làm chúng nhiễm trùng một cái có mà khuynh gia bại sản. Đến cả việc chúng nhảy phốc từ trên sa lông xuống nền gạch bông tôi cũng lo cóng ruột, sợ chúng lỡ trợt chân té bị què. Rồi thì… ngày mưa nhiều, tôi nơm nớp lo chúng lạnh bụng. Ngày oi bức, tôi nơm nớp lo chúng cảm nắng. Trước đây, khi bà xã lần đầu vượt cạn, khi con cái sốt phát ban nóng nứt môi chảy máu, tôi cũng chưa bao giờ lo đến thế. Ôi chao! Đủ cái lo tự dưng lại rước vào người. Cứ hễ rảnh việc cơ quan, đạp xe về tới nhà là lập tức tôi xách tập hồ sơ y khoa chó, qua ngay nhà ông hàng xóm, chúi mũi nghiên cứu hàng giờ. Có bữa mãi mê quá, tôi đến sở chậm gần cả tiếng. Giám đốc phải cho mời tôi lên uống trà.
- Đồng chí có biết thế nào là tha hóa lập trường giai cấp công nhân không?- Giám đốc nói với tôi- Đất nước còn nghèo, vậy mà đồng chí hùn hập với tư nhân kinh doanh chó. Đồng chí tính dạy cho đồng bào ăn chơi hàng cây vàng một lúc sao?!
Ông ta viện dẫn kinh điển một thôi một hồi, đủ cả Xôcrat, Phrớt, Hêghen, Cácmác… khiến tôi đã tính đầu hàng, nếu như chiều đó ông hàng xóm không thông báo:
- Động đực rồi! Cái hoa đỏ như búp lựu, sưng lên đẹp như múi mít. Chủ nhật tốt ngày ta cho nhảy.
(vậy là tôi quên béng hết, kể cả quên cục tức nghẹn họng bởi tay phó phòng đeo dính tôi, săn từng tiểu tiết việc tôi hùn hập nuôi “chó nái”).
*
Hôm con xi Pháp tam sắc chịu đực, lần đầu tiên trong đời, tôi thấy có điều gì đó vô cùng hệ trọng, trong cuộc sống vốn nhuốm màu công chức tẻ nhạt của tôi, mà khi vợ tôi chuyển bụng đi nhà bảo sanh sanh thằng hai với con ba tôi không hề thấy. Chúng tôi tẩm bổ cho anh chị chó đầy đủ nào sữa, nào hột gà, nào phôi hột vịt lộn. Vậy mà còn nơm nớp lo chúng đuối sức, làm tình không đến nơi đến chốn. Mỗi lần chó chịu nọc, tốn cả hai chỉ vàng bốn số chín chứ ít à. Mà cái thứ chó Tây nó làm tình cũng đài các lắm. Anh đực cứ nằm ườn ra. Chị cái thì khủng khỉnh dim mắt ngồi liếm bộ lông dài mượt. Cả tiếng đồng hồ chảnh chẹ ra vẻ không thèm chuyện ấy, chúng mới xáp lại gần nhau. Lại còn dềnh dàng hít hít, liếm liếm nhau mãi. Chừng con đực chịu nhảy, nó điệu như một nghệ sĩ. Cái lưng cong tớn, giần giật từng cơn theo nhịp rên ư ử. Ông hàng xóm chỏi đôi mục kiểng dòm một hồi, rồi nói:
- Điệu nghệ quá tay! Lứa này cầm chắc tứ khuyển. Vô lút rồi bác hà.
Vô lút, nhưng là vô lút cái của hái ra tiền cho chủ của con xi đực, chứ còn hai cúng tôi thì… vô trắng con mắt. Con xi Pháp có bầu tới bốn cái thai mà đẻ không được. Tôi chỉ là nhà sưu tầm chó, chứ đâu phải nhà đỡ đẻ chó, ông hàng xóm phải cho cậu út rồ máy chiếc java230 đi rước bác sĩ thực hành; nhưng hăm ba năm tuổi nghề lo cho heo đẻ heo bệnh của ông ta, cũng không giúp gì được cho sản phụ chó đang lâm bồn. Cũng là vì nền y học súc vật của ta chuyên hướng quá nhiều về heo, về gà, vịt, trâu, bò hơn là về chó. Cả ba chúng tôi bó tay ngồi chết trân, gần giống như Từ Hải chết đứng. Riêng tôi, mỗi lần con chó rặn đẻ là tôi nhót cả ruột, tim gan phèo phổi cứ cuộn cuống lên, xoắn nùi lại. Chừng con xi Pháp lả ra chết, ông hàng xóm móc chiếc khăn mùi xoa ra lau mồ hôi trán, nói với tôi:
- Coi như thí nghiệm. Bác đừng buồn, ta còn hai cơ hội gở bàn thua. Lo gì!
(Vậy mà tay phó phòng sáng hôm sau đã săn được tìn này. Gặp tôi ở chân cầu thang, y nói: Sao? Nghiên cứu tài liệu không kĩ hay sao mà để chó chết tức tửi vậy. Cả một đống tiền chứ ít à. Hoang vừa vừa thôi!).
*
Ai mà biết trước sự đời thiên biến vạn hóa. Trong họa có phúc. Với chúng tôi, phúc trùng lai lia lịa. Có thờ thần tài có khác. Hai con chó giống còn lại đẻ giỏi như hai cái máy đẻ ra vàng. Sáu con. Tám con. Rồi lại tám con. Con nào con nấy đẹp như công chúa xứ Ba Tư, hoàng tử xứ Hy Lạp. Ông hàng xóm của tôi suốt ngày cứ nằm bò ra nền nhà mà nhìn ngắm đắm đuối từng cô cậu khuyển.
- Bác ạ- ông nói với tôi- phần săn sóc bác cứ để tui, tui mát tay lắm. Bác rành nghề sưu tập, bác chịu khó săn lùng người mua, ca cho thiệt mùi vô lỗ tai thiên hạ . Kiến thức về chó bác thiếu gì.
Trong chớp mắt, tôi thành người săn khách. Mà lạ thiệt, tôi không cần hít ngửi giỏi như chó, cũng săn được khách hàng dễ ợt.
Chẳng biết giống chó Lài, chó Phú Quốc thế nào, chứ với chó Tây thì… tôi săn đâu dính đó. Khách đến thăm nom, ngả giá, đặt cọc nườm nượp, đông nghịt như thiên hạ xếp hàng đăng ký xin vô các công ty liên doanh với nước ngoài, như các cô thôn nữ tơ măng chen chúc đăng ký cho dân Hàn Quốc, Đài Loan thay nhau sờ nắn chọn về làm máy đẻ. Chúng tôi chưa dám nhận lời bán cho ai, bởi vì cuộc mua bán chó đã trở thành cuộc đấu xảo chó tại gia. Giá chó leo thang vòn vọt. Đồng tiền phá giá như chong chóng. Từ chỗ người săn khách, tôi trở thành đối tượng bị săn đuổi của những ông bà đang cuống lên, vì sự thèm khát chó, làm cho đồng tiền mua chó chẳng còn là gì, khi mà họ vẫn chưa rước được chó về nhà. Vinh quang đã thuộc về chó, thuộc về chó kiểng. Con đẹp mã đã lên tới cả cây,mấy cây vàng . Con xấu nhất cũng tròm trèm năm chỉ. Vậy mà hôm giáp Tết Tây, ông hàng xóm nói với tôi một câu xanh rờn:
- Bác có muốn quậy tay phó phòng không? Cái tay hay săn tin nói xấu ấy. Bác cứ ẵm con cún đẹp nhất này này, biếu cho ông giám đốc, chắc ổng mừng lắm. Nhà ông ta vừa có đứa con gái đi học bên Tây về, nó không mê chó thì chớ kể tui làm người.
Mọi người biết không, gần tuổi về hưu mà đùng một cái, đang từ chân nhân viên trị sự, tôi nhảy tót lên ghế trưởng phòng tổ chức. Con chó năm cây vàng đã làm nên phép nhiệm màu, hay là sự sống lâu lên lão làng đã giúp tôi mọc cánh? Ngồi lên ghế trưởng phòng, tôi bỗng thấy công việc thật thơm tho nhàn nhã. Đồng nghiệp trước đây coi tôi có cũng như không, giờ gặp tôi, tới ho cũng không dám. Ai đi xa về cũng tìm đến thăm tôi, tình thân như ruột thịt.
*
Một chiều tôi đang ngồi gật gù đọc lại tập hồ sơ về giống chó chăn cừu Bắc Âu, bất chợt tay phó phòng(xin nói rõ là chính tay phó phòng ấy), rụt rè bước vào. Thấy tôi đang chú mục vào chân dung một con chó đốm đen tai cụp, hắn vặn vặn hai bàn tay, cố rặn ra
nụ cười nhạt hoét.
- Anh Hai, biết anh có bộ sưu tập quý hiếm về chó, em đã trao đổi với bên Tòa soạn một tờ báo, họ đã nhận còm măng một loạt bài viết về chó của anh.
Thấy tôi lột mục kỉnh ra dòm, anh ta đưa tay trái măn măn giái tai, nói tiếp:
- Vấn đề là danh dự và uy tín anh ạ, chứ tiền thì đáng là bao.
Chà, hắn nói chí phải. Tội gì mình để cả đống tư liệu, tài liệu về chó ngủ im trong hộc tủ. Vậy là viết. Viết say sưa như chưa bao giờ được viết. Với sức học lớp bảy bổ túc văn hóa ban đêm mà bài của tôi vẫn được báo đăng rầm rầm. Tên tuổi tôi nổi như cồn như sóng. Chưa hết đâu, tay phó phòng còn săn cho tôi vô vàn những miếng mồi béo bở. Y móc nối với các cơ quan đoàn thể, mời tôi đến nói chuyện về chó như một nhà tư vấn chó. Y gạ gẩm họ thù lao cho tôi theo thang bậc giáo sư cấp I. Y trung thành lùng sục khắp nơi để tôi có thể trổ hết các ngón hiểu biết về chó của tôi. Tới mức, ông hàng xóm một hôm đã nói với tôi:
- Này! Hình như lóng rày bác đã chứng minh được đức tính tuyệt
hảo của giống chó Phú Quốc rồi chứ?
- Chưa đâu- tôi đáp.
- Vậy nó là giống chó Lài à?
Vừa nhồi một mồi thuốc Tiên Lãng vào nỏ điếu, tôi vừa thủng thẳng nói với ông hàng xóm.
- Lâu nay tôi theo bác kinh doanh chó Tây, đã biết thế nào được tài khí hai loài danh khuyển Việt Nam. Mà phàm cái gì chưa biết thì chớ có mà nói ẩu. Nói ẩu dễ xúc phạm danh dự người ta lắm, dù là danh dự chó.
- Vậy thì- ông hàng xóm gải gải chỗ kín(ông ta mắc tật hay gải chỗ ấy)- bác thử xin nghỉ phép, đi một vòng điều tra thêm chuyện chó Phú Quốc, chó Lài mà viết một thiên phóng sự về hai giống chó ấy, không chừng ăn tiền đó nghe.
(ay phó phòng không biết bằng cách nào đã săn được tin tôi vừa hoàn thành thiên phóng sự. Anh ta tìm đến tận nhà riêng của tôi, chúi mũi đọc. Đọc xong khen rối rít: viết thế này mới là viết, phải thế chứ, cứ như Quan Thế Âm Bồ Tát tái thế trần gian. Không phải lối viết theo kiểu văn học chuyên hư cấu. Lại càng không phải lối viết theo kiểu báo chí chuyên moi tin. Đây là lối viết tổng hợp, đầy năng lực sáng tạo của một nhà báo, một nhà văn, một nhà khoa học, một nhà tổ chức. Em đắc ý nhất là cái đoạn bác khuyên bà con dưới quê, không nên để chó dọn vệ sinh cho con trẻ, vì lỡ nó táp nhằm cục cưng của cậu trai, thì lấy đâu ra thỏi vàng mà triển khai nòi giống. Nói thật chứ, chó ta là ẩu lắm, phẩn vừa mới lò ra nó đã lăm le chực đớp, sơ sểnh là toi. Còn chó Tây, ăn uống no nê phè phởn, nó có thèm gì những thứ hôi thối vứt đi. Tây chứ có phải ta đâu há anh?. (Mẹ kiếp! Nó nịnh ngu còn hơn chó! Tôi viết phóng sự về hai loài chó săn Việt Nam nổi danh toàn thế giới, nó lại cứ chó Ta chó Tây mà hát đầy tai tôi! Chó thiệt! Chó thiệt!! Đúng là chó thiệt!!!).
*
Xin lỗi bạn đọc một phút nhé! Có ai gỏ cửa nhà tôi.
- Ai đó?
-Tôi đây- à, ông hàng xóm tri kỉ của tôi- báo bác hay, con phốc Ăng Lê đã chuyển bụng.
Phải dừng viết thôi, bởi chuyện này hệ trọng vô cùng
Theo đóm ăn tànHuỳnh Văn Úc
Hắn là người thích ăn thịt chó. Thích ăn thịt chó mà nhà hắn lại có một vị thế địa chính trị bất lợi. Anh cứ hay nói chữ, cứ như là nhà chính trị. Địa chính trị bất lợi thế nào? Ừ! Thì nói bình dân vậy. Nói nôm na ra là nhà hắn ở gần quán thịt chó của mụ Tam. Quán mụ Tam thường xuyên có một hai con chó thui béo căng và vàng óng treo lủng lẳng. Đi ngang qua quán của mụ lúc nào mũi hắn cũng bị tra tấn vì mùi thơm của chả nướng, dồi nướng. Mà cái hơi của nồi rựa mận bay xa thế, hàng trăm mét vẫn còn ngửi thấy. Mỗi lần bắt buộc phải ngửi những mùi ấy nước răng hắn lại chảy ra. Nước răng chảy ra nhưng túi hắn không phải lúc nào cũng có tiền. Thế cho nên mới khổ. Cũng có lúc hắn nghĩ hay là ta ăn chịu. Chỉ mới nghĩ đến thôi chứ chưa ăn chịu lần nào chỉ vì mụ Tam là một con mụ la sát chua ngoa. Ăn chịu à? Mụ sẽ vác cái mặt không được tươi tỉnh cho lắm nhìn một con chim nào đó bay trên trời xanh và từ đôi môi vĩ đại của mụ thoát ra những lời chói tai : “Đây không bán chịu. Có tiền thì hẳn ăn”.
Tháng Chạp trời rét. Chà! Rét tháng Chạp này mà được uống rượu với thịt chó thì tỉnh cả người nhỉ. Hắn đang mơ màng một bữa rượu thịt chó thì lại vớ được một bữa thịt chó như từ trên trời rơi xuống. Đầu đuôi là như thế này. Hắn được huy động tham gia một buổi cưỡng chế thu hồi đất. Trực tiếp chỉ đạo cuộc cưỡng chế là ông Huyện ủy viên kiêm Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND xã. Hai ông này đích thân đi xe máy đến hiện trường. Hai chiếc xe dựng cạnh gốc chuối, máy hảy còn nóng. Lực lượng hùng hậu hơn một trăm người gồm cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường, cảnh sát cơ động, cảnh sát điều tra, cảnh sát trật tự, cảnh sát phòng cháy chữa cháy, cảnh sát giao thông, cảnh sát hình sự, bộ đội thuộc Ban chỉ huy quân sự huyện và dân phòng được điều động để cưỡng chế thu hồi đầm thủy sản và khu đất liền kề trên đó có ngôi nhà hai tầng của khổ chủ. Trong lực lượng hùng hậu đó hắn chỉ thuộc hạng tép riu. Thuộc hạng tép riu vì hắn chỉ là dân phòng. Dân phòng là gì? Dân phòng là dân nhưng được công an tập huấn về nghiệp vụ và khi đi làm nhiệm vụ phải tham gia cùng với công an theo sự sai bảo của công an. Khi đi làm nhiệm vụ dân phòng ăn mặc như thế nào? Hiện chưa có văn bản pháp quy nào quy định trang phục của dân phòng. Có nơi từ mũ đến áo quần đều một màu tím than, có nơi quần áo dùng màu ghi hay màu xanh nhạt. Có người đeo cầu vai có vạch, có người không đeo. Khi đi làm nhiệm vụ được trang bị dùi cui, có khi còn cầm máy bộ đàm khiến nhiều du khách nước ngoài nhầm họ là công an hay cảnh sát. Vì hắn là dân phòng nên tôi có đôi lời giải thích như thế để các bạn rõ.
Đài truyền thanh xã thông báo cấm mọi người dân qua lại khu vực cưỡng chế vì còn bom mìn chưa kích nổ. Tiếng loa vừa dứt thì chiếc máy xúc bánh xích đi theo sau các công an viên và dân phòng dẫn đường lừ lừ xình xịch tiến vào sân. Chiếc gầu tua tủa răng của nó ngoạm và giật đổ từng mảng tường lớn. Khi tầng hai đã hoàn toàn đổ sụp và chiếc gầu bắt đầu ngoạm vào tường của tầng một thì bỗng dưng hai con chó một lớn một nhỏ từ trong nhà tông ra sân và hoảng loạn tìm đường chạy trốn. Con lớn là chó vện vàng, con nhỏ là chó vện đen. Thấy hai con chó hắn giật tay anh bạn dân phòng:
- Này! Chó…
- Chó thì làm sao?
- Làm sao? Làm sao! Làm thịt chứ còn làm sao! Mày không thấy à, con vện vàng dễ chừng cao đến nửa mét, của này có lẽ phải ngót hai mươi cân. Còn con vện đen bỏ rẻ cũng bảy tám cân. Miếng ngon kề ngay miệng, bỏ phí à?
Không cần phải nói với nhau nhiều lời hơn nữa, hai thằng bỏ vị trí xông lên. Bỏ vị trí xông lên mà chẳng thấy ai nói gì. Hay là hai con chó cũng nằm trong số đối tượng cần phải bắt giữ ngay tại hiện trường ? Dùi cui cầm tay, người ngã về phía trước, chúng tạo thành hai mũi giáp công và cắm cúi chạy. Mục tiêu là con vện vàng. Con vện vàng bỏ rẻ cũng ngót hai mươi cân. Nhưng mà con vện vàng khôn lắm, nó chạy ngoắt ngoéo chữ chi khiến hai thằng người mấy lần vồ hụt. Rồi con vện vàng nhảy ào xuống đầm thủy sản bơi thoát. Hai thằng người nuốt nước bọt tiếc rẻ. Nhưng hãy còn con vện đen. Con vện đen bỏ rẻ cũng bảy tám cân. Tội nghiệp con vện đen, nó chậm chân mà lại cuống nữa nên vừa chạy loăng quăng vừa gào sủa thảm thiết cuối cùng bị thằng người quật cho một dùi cui rồi túm được hai chân sau khi hai chân trước và mõm nó đã ở trong mép nước của đầm thủy sản. Con chó rét run vì ướt, vì gió lạnh và sợ hãi. Giẫy giụa. Ẳng ẳng. Chắc thằng người cũng học hết phổ thông nên biết thế nào là lực ly tâm. Nó nắm chặt hai chân sau con chó rồi một chân làm trụ cứ thế xoay tròn người, miệng kêu rối rít:
- Cái bao! Cái bao, đưa cho tao cái bao. Nhanh lên!
Theo đóm ăn tàn? Theo đóm ăn tàn nghĩa là gì? Ừ! Thì đại khái nó cũng như là theo voi hít bã mía. Anh nói rõ ra xem nào, đừng có vòng vo. Ừ! Thì nói rõ. Bạn chịu khó giở Từ điển tiếng Việt ra sẽ thấy họ giải thích
Theo đóm ăn tàn
là một thành ngữ ví hành động của người đi theo đuôi kẻ khác để hòng kiếm chác chút lợi lộc. Cũng có thể là do cái tích ngày xưa đi đêm người ta cầm đuốc rồi con rắn mò ra ăn tàn đuốc để kiếm chút vị mặn trong tro. Theo đóm ăn tàn của con rắn là bản năng sinh tồn. Còn con người mà theo đóm ăn tàn là loại người kém cỏi hể thấy đâu có tí lợi lộc dẫu nhỏ nhoi thì a dua làm theo kẻ khác bất kể đúng sai. Bữa thịt chó từ trên trời rơi xuống hôm ấy đối với hắn há chẳng phải là một cái lộc đáng kể hay sao?./.
Lão HạpHuỳnh Văn Úc
Thỉnh thoảng tôi và lão Hạp lại có chút thời gian rảnh rỗi ngồi mời nhau điếu thuốc lào và nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Tôi thông cái điếu cày, nhón lấy một ít sợi thuốc lào vàng rộm vê viên nhồi vào nõ điếu rồi châm đóm mời lão Hạp:
- Thuốc lào mười bốn chính hiệu đấy, anh hút đi!
Thuốc lào mười bốn được mua ở số nhà 14 phố Nam Đồng. Ở Hà Nội những người kỹ tính vẫn đến đó mua thuốc lào vì tin rằng chỉ ở đó mới bán thuốc lào Tiên Lãng chính hiệu, khi hút khói đậm đà như vị mật thấm qua lưỡi lan đi toàn thân làm cho người ta đê mê. Lão Hạp đón cái điếu từ trong tay tôi rít một hơi dài rồi nhả khói, khuôn mặt mãn nguyện của lão ẩn hiện trong làn khói xanh bồng bềnh như thực như mơ.
Lão Hạp là hàng xóm của tôi, là bạn chơi đá bóng với tôi hồi tuổi thiếu niên, khi trong ngõ Xã Đàn nhà cửa còn thưa thớt chứ không dày đặc và hoành tráng như bây giờ; còn cái bãi đất cỏ mọc, ở hai đầu dựng hai khung thành bằng gỗ mà chúng tôi gọi một cách trịnh trọng là sân vận động nằm cạnh con đường vào ngôi chùa cổ bây giờ là khuôn viên của khu tập thể quân đội với những khối nhà cao tầng lừng lững. Tuổi lão xấp xỉ tuổi tôi, cả hai đều chưa quá 55, có tuổi rồi mà khuôn mặt lão vẫn tròn vành vạnh, nếu không có tí ria mép nửa đen nửa xám lão cố tình nuôi cho oai thì ta dễ nhầm là khuôn mặt đàn bà. Hơn nữa, có tí rượu vào thì mặt lão ửng đỏ, nói năng to tát, đi đứng mạnh bạo, lại càng tỏ ra là một trang nam nhi hảo hớn.
Cả lão Hạp và tôi đều nối nghiệp cha mẹ một cách xứng đáng. Mẹ tôi là giáo viên Trung học cơ sở, đã quy tiên, bà được đào tạo theo kiểu 10+2, có nghĩa là tốt nghiệp Trung học phổ thông rồi học thêm hai năm nữa thì ra công tác. Còn tôi có bằng Đại học Sư phạm chính quy, nhưng cũng chỉ dạy Văn, Sử cấp THCS. So với bạn bè dạy môn Toán hay môn Lý, chạy sô dạy thêm mệt nghỉ, xây được nhà tầng, thì thu nhập của tôi khiêm tốn lắm, vì không học sinh nào có nhu cầu học thêm hay luyện thi môn học của tôi. Thu nhập của cả nhà, hai vợ chồng và hai đứa con trông vào gánh bún riêu của vợ tôi, quanh năm vất vả ở mom sông, nuôi đủ hai con với một chồng. Đấy là tôi nhại bài thơ Thương vợ của cụ Tú Xương cho có vần, chứ vợ tôi không vất vả ở mom sông, mà ngồi bán rong trong Ngõ Gạch ở gần chợ Đồng Xuân. Tôi xót xa thương vợ, vì hoàn cảnh mà tuy có bằng trung cấp cơ điện nhưng xin thôi việc ở nhà máy để lăn lộn với gánh bún riêu. Vả lại, nhờ có gánh bún riêu thì tôi mới trở thành người có ích cho xã hội và gia đình khi ngồi giã cua, chẻ rau muống hay ngồi canh lửa nồi riêu. Có hôm tôi vừa canh lửa nồi riêu, vừa tranh thủ chấm bài kiểm tra một tiết của học sinh lớp 9C-lớp tôi làm giáo viên chủ nhiệm- đề bài về " Liên Xô và các nước Đông Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai". Chả hiểu lúc lên lớp tôi có giảng nhầm hay không mà hầu như cả lớp đều viết rằng :" Sau chiến tranh thế giới thứ hai, xuất hiện phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh do Liên Xô làm trụ cột nhà". Đáng lẽ đặt dấu chấm câu sau từ trụ cột thì câu văn rất hoàn chỉnh và có nghĩa, nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà học sinh của tôi lại thêm một từ nhà nên câu văn trở nên ngô nghê và buồn cười. Cái chữ nhà thừa ra đó làm tôi ôm bụng cười ngặt nghẽo, bò ra mà cười, làm cho vợ tôi hốt hoảng :
" Sao? Anh lại để cho nồi riêu sôi trào ra rồi à?".
Thế còn lão Hạp? Lão nối nghiệp ông cụ, đạp xích lô. Bây giờ người ta cấm xích lô thì làm gì? Thì chơi chứ còn làm gì nữa! Muốn tiếp tục đạp xích lô thì phải vào nghiệp đoàn xích lô gọng vàng, đưa mấy ông Tây bà đầm đi dạo phố cổ. Xế xích lô gồm toàn bọn con trai cao ráo, đẹp lồng lộng, có đứa nói tiếng Tây như gió, lão đọ được thế nào với lũ ranh con ấy? Không đọ được thì nghỉ cho khoẻ. Ừ thì nghỉ! Lão tự an ủi rằng dẫu có là ngồi trên yên xe ở phía sau khách thì thân phận anh xế xích lô chẳng qua cũng chỉ là ngựa người, nói rõ ra là thằng người nhưng chẳng khác mấy con ngựa kéo xe. Ta hãy cứ tưởng tượng cái cảnh một đôi vợ chồng Tây nặng tổng cộng hơn hai tạ ngồi trên xe, máy ảnh và máy quay phim cầm tay, chỉ chỉ chỏ chỏ, cười cười nói nói, còn anh xế xích lô trán vã mồ hôi gò lưng đạp thì cũng thấy nhục thay cho người bản xứ. Tránh được cái nhục ấy kể ra cũng tốt. Thôi! Nghỉ vậy. Nói vậy chứ lão không nghỉ đâu. Gánh bún riêu của vợ đã không để cho lão ngồi chơi, cũng như tôi, lão bị cuốn vào các công việc vất vả và tỉ mỉ trong việc chế tạo ra nồi riêu cua. Bún riêu! Ôi! Bún riêu muôn năm! Nhờ có bún riêu mà tình hữu nghị giữa nhà lão và nhà tôi ngày càng bền chặt, gặp tôi ngoài đường, lão vồn vã: " Chào ông giáo! Ông giáo đi đâu đấy".
Và thỉnh thoảng kiếm được chút thời gian rỗi, chúng tôi lại ngồi hút thuốc lào vặt với nhau. Trong câu chuyện với lão khi đã lờ đờ say vì khói thuốc, tôi tự trách mình vô dụng, là giáo viên dạy Sử mà chẳng bỏ công ra tra cứu trong sử sách nước nhà hoặc đông tây kim cổ xem ông nào hay bà nào là tổ nghề bún riêu để đưa tên tuổi lên bàn thờ tổ nghề.
Ngoài việc phụ giúp vợ trong việc chế tạo ra nồi riêu cua, lão Hạp còn trông nom hàng chè chén con con, ngoài nước chè ra còn có rượu trắng, dăm bao thuốc lá, vài thanh kẹo lạc đựng trong những lọ thuỷ tinh. Tuy ít khách vì nhà lão chỉ trông ra mặt con ngõ nhỏ, nhưng nếu không có cái hàng nước ấy thì lão biết dùng thời gian còn lại trong ngày sau khi giã cua, chẻ rau vào việc gì? Những lúc vắng khách, lão hay ê a vài câu vọng cổ. Giọng lão khê nồng-thì những người hút thuốc lào làm gì có chất giọng nghe lọt tai được-tuy vậy nội dung bài hát làm cho lão đôi khi hát lên với tất cả sự xúc động chân thành, lắm khi chợt nghe lòng tôi cũng thấy nao nao:
Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh ngã bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào. Cửa vườn cô đã khoá kín tự hôm nào, tôi vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên xóm rẫy, chiếc áo nhuộm bùn đã lấm tấm giọt mồ hôi. Nhà của cô sau trước vắng tanh, gió lạnh chiều đông bỗng có ai dạo lên tiếng nguyệt cầm như gieo vào lòng tôi một nỗi buồn thê thảm…
Ôi! Lão Hạp! Tôi thật không ngờ ông bạn thuốc lào của tôi lại có một tâm hồn nhạy cảm đến nhường ấy!
Trưa hôm nay sau tiết dạy ở trường, xe tôi vừa về đến đầu ngõ thì thấy người tụ tập đông trước cửa nhà lão Hạp. Xe của công an vừa mới đưa lão Hạp lên đồn. Làm sao đến nông nỗi này, ơi lão Hạp! Những người hiếu kỳ còn đứng trước cái quán chè chén của lão kể với nhau:
- Người ta theo dõi lâu rồi, hôm nay mới ra tay. Một thằng nghiện từ quán nước của lão đi ra, đến bên cây cột điện đầu ngõ vừa mới đưa tay cầm tép thuốc giấu ở đó thì hai cánh tay đã bị trinh sát bẻ quặt ra phía sau. Nó không chối được và khai ra lão Hạp…
Tôi tự trách mình chơi với lão Hạp đã lâu mà không hiểu lão. Nhà lão hai vợ chồng với gánh bún riêu cũng đủ nuôi ba đứa con chứ có thiếu thốn gì cho cam mà phải bán lẻ ma tuý. Trước đây đã có lúc tôi ngờ ngợ, cái quán chè chén ấy thu nhập đáng bao nhiêu mà lão ngồi đấy, rách việc! Thì ra cái quán ấy chỉ dùng để che mắt thế gian, thực ra nó là địa điểm thu hút những con nghiện nhan nhản ở đường đê La Thành gần đấy. Đời cứ bằng phẳng quá, không có những sự bất ngờ làm cho người ta sững người hay thót tim thì cũng kém phần thi vị. Nhưng cái sự bất ngờ mà lão Hạp đem lại làm cho tôi thấm thía:
Thằng nhà quê
Huỳnh Văn Úc
1-
Bố tôi là giáo viên THCS đã nghỉ hưu, mẹ tôi làm ba sào ruộng và chăm mảnh vườn nhà, nếu chỉ trông mong vào đấy mà học đại học thì chỉ là sự nằm mơ. Khi tôi học năm cuối THPT thì cũng là lúc vợ chồng chị gái tôi ăn nên làm ra bằng nghề đại lý thu mua sắt vụn và phế liệu, xây được nhà, vốn liếng có tiền tỉ và sẵn sàng nuôi cậu em út học đại học. Sau khi tôi thi đỗ, chị tôi sắm cho tôi xe máy, cấp cho tôi tiền ăn, tiền trọ, tiền tiêu vặt, sang đến năm thứ hai mua cho tôi bộ máy tính.
Tôi cùng 3 sinh viên tỉnh lẻ nữa thuê một phòng trọ trên tầng hai một khu chung cư, buổi trưa ăn ở căng tin nhà trường còn buổi tối thì góp gạo thổi cơm chung. Tôi cao hơn mét bảy, da bánh mật, khuôn mặt chữ điền, mắt sáng và hơi xếch, nụ cười khoe hai hàm răng trắng và đều đặn. Trang phục của tôi không đắt tiền nhưng sạch sẽ và được là phẳng sau khi giặt. Tất cả những điều ấy làm cho tôi bớt đi cái chất tỉnh lẻ, trông tôi điệu đàng trên chiếc xe máy đi đến trường cũng không khác mấy so với những bạn học người gốc Hà Nội. Giá như cuộc đời cứ từ từ trôi đi như thế cho đến ngày tốt nghiệp thì tôi sung sướng biết bao nhiêu!
Tết Kỷ Sửu tôi về thăm nhà, thấy vợ chồng chị gái tôi mặt nhăn như bị. Không ai ngờ trong một thời gian ngắn giá sắt thép giảm còn một nửa, đống sắt thép vụn mà chị tôi đã nhỡ thu mua chất trong kho làm anh chị tôi thua lỗ gần vài trăm triệu. Mẹ tôi cũng không vui vẻ gì hơn, mấy luống xu hào trong vườn nhà tốt bời bời đã đến kỳ thu hoạch nhưng chẳng ai buồn nhổ. Nhổ lên làm gì? Hơn một chục củ xu hào to đùng chỉ bán chưa đến hai ngàn bạc, chả bõ. Chưa có năm nào rau củ lại rẻ mạt như cái đận giáp Tết này. Tôi tự đánh giá tình hình và rụt rè đề nghị với chị gái giảm bớt số tiền tài trợ hàng tháng, tôi sẽ tự xoay xở lo liệu được, chẳng gì tôi cũng là sinh viên năm thứ ba, việc học hành đã vào nề nếp, sức học của tôi loại khá, tôi có bớt chút thì giờ kiếm sống chắc cũng không ảnh hưởng.
Nhờ bạn bè giới thiệu, tôi tìm đến một Văn phòng kiến trúc sư. Tiếp tôi là một kiến trúc sư khoảng ngoài ba mươi tuổi, để râu mép lún phún, tóc dài chấm gáy trông rất nghệ sĩ: “Bao giờ học hết năm thứ tư em hãy tìm đến đây”, câu nói như một gáo nước lạnh dội vào chút hy vọng le lói. Lang thang mãi rồi cuối cùng tôi cũng tìm được việc chạy bàn trong một quán giải khát ở phố Lê Văn Hưu, làm từ 5 giờ chiều đến 9 giờ tối, làm cả ngày nghỉ ngày lễ, lương tháng một triệu.
2-
Theo sự mô tả của mẹ tôi thì con gái Hà Nội đáng ghét lắm: “ Con gái Hà Nội mắt xanh mỏ đỏ, mặc áo ba lỗ ra đường, không mặc quần mà hay mặc váy, chiều dài cái váy không khác mấy so với quần đùi. Con lên Hà Nội học thì tránh xa bọn ấy ra, học xong thành tài thì về quê mẹ dấm cho một mối, cưới xong nó ở với mẹ cho vui cửa vui nhà. Anh con theo người ta rủ rê, vào Sài Gòn kiếm ăn rồi lấy vợ đẻ con ở luôn trong ấy, chị con đã về nhà chồng, con mà không lấy vợ ở quê thì bố mẹ buồn lắm!”. Theo lời mẹ dặn: “tránh xa bọn ấy ra”, tôi chăm chỉ học hành, ngoài ba anh bạn ở trọ cùng phòng, tôi không kết bạn với người nào khác. Thế nhưng một buổi chiều nắng muộn, trên khoảng sân trước nhà gửi xe của trường, tôi đã không tránh xa bọn ấy ra được. Nàng đang loay hoay đến vã mồ hôi với chiếc xe, hết đề lại đạp mà không thể nào khởi động được máy. Tôi thấy bỏ đi thì không nỡ, nên lật yên xe lấy túi phụ tùng để ra tay giúp người đẹp qua cơn hoạn nạn.- Anh tên là gì?
- Chính Hữu, năm thứ ba ngành Kiến trúc công trình, khoa Kiến trúc.
- Thế thì chúng mình học cùng khoa rồi, em là Ngọc Trâm, năm thứ hai ngành Mỹ thuật công nghiệp. Cảm ơn anh đã giúp đỡ.
- Chuyện vặt! Không có gì!
Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra chỉ ngắn ngủi có thế nhưng dư âm của nó thì ngân nga hơi lâu. Hơi lâu vì cái dáng dong dỏng cao của nàng, con gái mà đứng đến quá vai tôi thì phải cao đến mét sáu, vì chiếc quần bò bó sát người làm nổi lên những đường cong mềm mại, vì mái tóc thề để chấm ngang vai, vài sợi gió thổi bay phất phơ trên đôi môi đỏ mọng... Một hôm, sau câu chào : “Anh Hữu”, nàng ngỏ ý mời tôi đến nhà để giúp khắc phục một lỗi gì đó của máy tính. Bước vào căn hộ hơn 100 mét vuông ở tầng 8 khu đô thị Mỹ Đình, từ căn bếp, phòng khách rồi đến phòng riêng của nàng, cái gì cũng làm cho tôi ngợp vì vẻ sang trọng và tiện nghi. Khi đang thao tác trên máy tính, tôi cảm thấy hơi thở của nàng nóng và ẩm sau gáy, khiến tai tôi dần dần đỏ lên. Tôi lo sợ rằng cứ đà này mà tiến tới, có lẽ tôi sẽ không theo được lời mẹ dặn tránh xa bọn ấy ra được vì sau khi ở nhà nàng ra về hình ảnh nàng trong tôi cứ lung linh như bóng nắng, bảng lảng như mây trời, bước đi, dáng đứng, nụ cười cứ làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
3- Hắn tên là Khoa, học cùng lớp với nàng. Con nhà giàu, cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai, đầu chải gôm mượt, áo quần hàng hiệu bảnh bao, đến trường
trên chiếc SH sang trọng. Hình như hắn cũng mến nàng, quan hệ giữa hai người đến đâu thì tôi đâu có biết. Tôi hoàn toàn không quan tâm tới hắn, nhưng chẳng hiểu bằng cách nào, hắn biết về tôi khá nhiều. Sau cái hôm hắn bắt gặp tôi và nàng đứng nói chuyện với nhau trên khoảng sân trước nhà giữ xe, có lẽ nụ cười của nàng và ánh mắt nàng dịu dàng nhìn tôi làm hắn khó chịu. Một buổi chiều hắn và tôi cùng dắt xe từ trong nhà giữ xe ra sân, hắn ngồi lên xe khởi động máy và trước khi ra khỏi sân trường ngoái đầu nhìn như xoáy vào tôi: “ Này! Thằng nhà quê! Đũa mốc đừng có mơ chòi mâm son!”. Máu nóng dâng lên mặt nhưng tôi chưa kịp phản ứng thì hắn đã nháy ga vụt đi mất. Cái câu “thằng nhà quê” làm cho tôi suy nghĩ miên man về thân phận của mình. Ừ! Thì tôi là con nông dân, còn hắn có thể là con của một đại gia hay một viên chức cỡ bự tôi chưa được biết, giữa tôi và hắn là cái hố ngăn cách giàu nghèo sâu thẳm nhưng hắn không có quyền gọi tôi là “thằng nhà quê” một cách miệt thị. Sau đó tôi và hắn còn chạm mặt nhau đôi lần, lần thì trên cầu thang lên thư viện, lần ở sân trường nhưng tôi muốn hỏi cho ra nhẽ về cái câu “thằng nhà quê” thì cũng không có cơ hội, chẳng nhẽ mình lại là người gây sự trước. Và còn “cái mâm son” là nàng nữa! Giả sử tôi thuyết phục được nàng về quê thăm bố mẹ tôi thì nàng sẽ nghĩ gì khi gặp hai ông bà già cũ kỹ, thấy nếp nhà tuy lợp ngói nhưng thấp lè tè, cái giếng khơi, cái sân gạch có mấy bãi phân ngan do mấy con ngan thả rông thải ra?Buổi chiều muộn hôm ấy, có lẽ đã hơn 6 giờ, một tia nắng yếu ớt vàng nhạt
còn sót trên ngọn cây xà cừ trước cửa hiệu giải khát. Tôi đang thu dọn cốc tách ở một bàn thì có tiếng gọi giật giọng:
- Ê! Bồi!
Thì ra là hắn. Làm sao hắn biết chỗ tôi làm thêm và tìm được đến đây? Hắn và một thằng bạn nữa, hai đứa đang ngồi ở một bàn cạnh cửa ra vào. Hắn giương đôi mắt đắc thắng nhìn tôi trong bộ đồng phục của hiệu giải khát, đầu gật lên gật xuống, hai ngón tay phải xoáy vào nhau thành một tiếng kêu đánh tách:
- Cho hai cà phê sữa!
- Có ngay!
Tôi hiểu ngay rằng hắn đến đây không phải để giải khát, nhưng lúc này hắn là khách, là Thượng đế, còn tôi là bồi, là người phục vụ Thượng đế, thôi thì phục vụ hắn cho nhanh để hắn cuốn xéo đi. Tôi chạy vào bếp và sau đôi ba phút bê ra khay có hai ly cà phê sữa nóng. Tôi chưa kịp đặt lên bàn thì hắn lừ mắt nhìn tôi:
- Có nghe nhầm không đấy? Tao gọi cà phê sữa hồi nào? Hai sữa nóng, nghe chưa?
Máu dâng lên mặt, hai thái dương tôi giật rần rần nhưng tôi cố kiềm chế bê khay cà phê sữa trả lại bếp để đổi lấy hai ly sữa. Lúc quay đi, tôi còn kịp nhìn thấy thằng bạn đá vào chân hắn dưới gầm bàn, hai đứa mắt nhìn nhau miệng cười khúc khích. Sự việc chưa dừng ở đấy, lúc tôi đặt hai ly sữa lên bàn thì mũi hắn nhăn lại:
- Thật không hiểu ở đây làm ăn thế nào? Sữa đã bốc mùi chua thế này mà còn dám đem ra cho khách. Biến!
Hắn đưa tay gạt đổ hai ly sữa, một cái lăn xuống đất vỡ tan. Hai đứa đứng dậy rồi đi nhanh ra chỗ gửi xe. Tôi không tự kiềm chế được nữa, lao ra phía cửa, nhưng đúng lúc ấy ông chủ thấy có việc lộn xộn, từ trên tầng hai bước xuống:
- Có việc gì thế, anh Hữu ?….
Hôm ấy chưa đến 9 giờ tối, quán còn đông khách tôi đã xin phép chủ nghỉ sớm. Về đến phòng trọ, tôi nằm vật ra giường, mấy anh bạn cùng trọ hỏi gì cũng không nói, tôi không khóc nhưng nước mắt tự nhiên cứ ứa ra.
- Sao thế? Thất tình à?
Tôi đã có mảnh tình nào vắt vai đâu mà thất tình. Tôi chỉ thương cho thân phận một “thằng nhà quê” mà ngay trong thời buổi này cũng có kẻ tìm được hoàn cảnh và cơ hội để hạ nhục./.
Số đỏ
Huỳnh Văn Úc
Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, chăm học và mơ mộng. Ngày còn học phổ thông, năm học nào chàng cũng được xếp vào loại học sinh giỏi và đạo đức tốt. Đêm đêm, sau khi học bài chàng ra sân hít thở khí trời và nhìn về quầng sáng lung linh ở xa xa, phía ấy là kinh đô Thanglongski, ước mơ của chàng, hoài bão của chàng cũng lung linh trong cái quầng sáng ở phía xa xa ấy.
Học xong trung học phổ thông, chàng về kinh đô thi vào đại học. Sức học của chàng vào loại giỏi, nên chàng thi đỗ với số điểm khá cao. Ngày ấy, người ta bảo nước Nga là thiên đường của nhân loại, nên sự hâm mộ đã khiến chàng thi vào khoa tiếng Nga trường Đại học Tổng hợp. Vào lúc kết thúc năm học thứ nhất thì nước Nga sụp đổ, tuy vậy, lòng yêu mến nước Nga của chàng không hề suy giảm. Chàng hát không hay, nhưng hay hát bài
Cây liễu
:
Ивушка зелённая
Над рекой склонённая
Ты скажи, скажи не тая
Где любовь моя ?
Liễu thân yêu xanh xanh dịu dàng
Đứng bên sông nghiêng nghiêng nhẹ nhàng
Nói đi em ta nghe đừng thôi nữa
Người yêu ta ở nơi nào ?
Ra trường, chàng lận đận lắm, vì tiếng Nga đã hết thời, mà vốn liếng tiếng Anh chàng học như là ngôn ngữ thứ hai thì chưa thành thạo. Tuy vậy, chàng là người tháo vát và có nghị lực nên đã kiếm được việc làm ở một sứ quán. Và cây liễu thân yêu xanh xanh dịu dàng/đứng bên sông nghiêng nghiêng nhẹ nhàng đã xui khiến chàng gặp gỡ và đem lòng yêu mến nàng-cũng là nhân viên của sứ quán. Nàng là con gái của một viên chức nghỉ hưu, nhà nàng có ba người con hai trai một gái, sau nàng còn có người em trai út. Chàng và nàng hay đưa nhau đến ngồi tình tự bên gốc cây sưa cổ thụ, lá xanh rờn, gió thổi rụng những cánh hoa nho nhỏ trắng muốt rơi lả tả quanh chỗ họ ngồi. Bỗng một hôm, họ ngạc nhiên và lo lắng vì cây sưa không còn nữa, thay vào đó là một gốc cây nham nhở, đất chung quanh bị bới lên, có lẽ người ta muốn tận diệt nó đến gốc. Thời ấy, không hiểu từ đâu mà khắp kinh thành lan truyền tin đồn là cây sưa đáng giá bạc tỉ, người ta bán lá, cành, thân, rễ của nó tính theo cân và lạng như cân vàng, nên bọn đạo chích đã nhân lúc tối trời buộc chặt cửa các nhà xung quanh rồi chặt mất cây sưa ngay giữa lòng phố phường đô hội. Sự biến mất của cây sưa làm cho cả chàng và nàng lo lắng, vì vậy chàng xin với quỷ thần:
Ước gì ta lấy được nàng/ Thì ta mua gạch Bát Tràng về xây
…
Thế là chàng và nàng lấy nhau. Lấy được nàng, nhưng còn lâu chàng mới mua được gạch Bát Tràng về xây tổ ấm nên đành phải ở tạm trong một gian buồng khoảng mười mét vuông nhà bố vợ. Thời ấy, người ta có nhiều kế hoạch lớn lao và hay ho để
xây nhà cho người nghèo, sao cho những hạng công chức như hai vợ chồng chàng có nơi tá túc. Nhưng chờ mãi, rồi chàng cũng cay đắng mà nhận ra rằng đó chỉ là những cái bánh vẽ được tô điểm trên báo chí và thốt lên từ cửa miệng của những quan chức khi cần gặp gỡ và hứa hẹn với
dân chúng. Nói cho đúng ra, thỉnh thoảng cũng có đôi ba dãy chung cư dành cho người thu nhập thấp được đăng trên báo khiến cho mọi người mừng rỡ, nhưng muốn mua thì phải có giấy xác nhận gia cảnh có chữ ký của cơ quan và phường xã, quận huyện, xin được giấy rồi kiên nhẫn xếp hàng chờ. Giấy xác nhận gia cảnh dù phải có bao nhiêu chữ ký chàng vẫn có thể xin được, nhưng chờ đợi đến lượt thì chàng thiếu kiên nhẫn lắm nên phải tính nước tự cứu mình trước khi trời cứu, tức là phải làm sao có tiền để ra ở riêng, tránh được cái cảnh chung đụng chật chội.
Bỗng một hôm có con chim đại bàng cực to bay đến, chàng ôm chân nó và theo nó lên trời, rất cao, rất cao…Chim và người bay đến đất nước Ấn Độ, hạ cánh xuống một thành phố đẹp rực rỡ. Chàng ở đấy hơn một năm, các pháp sư dạy cho chàng những ngón nghề của môn học HRM-Human Resource Management (Quản lý nguồn nhân lực) . Ở nước nhà người ta dạy môn học đó sơ sài lắm vì Quản lý nguồn nhân lực thuộc về công tác Tổ chức cán bộ, mà ai làm công tác ấy thì chỉ cần học LLCC (Lý luận cao cấp) là đủ. Thế nhưng thời ấy mang cái bằng LLCC đi phỏng vấn ở các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hay các dự án viện trợ chẳng ai người ta hiểu đó là bằng gì. Vì vậy khi trở lại quê nhà chàng nhanh chóng tìm được việc làm HRM-Human Resource Manager (Trưởng phòng nhân sự) ở một tổ chức nước ngoài với mức lương làm cho nhiều người mơ ước. Tuy vậy , với mức lương ấy, có lẽ phải đến khi đầu chàng bạc, răng chàng long thì mới đủ tiền để sắm một căn hộ ra ở riêng. Đã thế, một đêm mùa đông cả ba người nhà chàng đang ngủ trên chiếc gường đôi thì thằng con đầu lòng 14 tháng tuổi không hiểu xoay trở thế nào mà lại lăn ngay xuống đất và nằm đó cho đến sáng. Thương lắm ! Bức xúc lắm ! Thời ấy, giá bất động sản tăng từng ngày do bọn đầu cơ lũng đoạn thị trường. Có một tiên sinh mắt sáng, mặt tròn, râu rậm, đã từng làm đến chức thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị một thứ thuế luỹ tiến, nếu anh nào sở hữu căn hộ thứ hai trở đi hoặc nhiều hơn nữa với mục đích đầu cơ thì nhà nước đánh thuế đến mức không chịu nổi. Thế nhưng tiên sinh này lại không được tin dùng, nên giá nhà và đất ở kinh đô Thanglongski thời ấy đạt đến những con số làm các nước lân bang tròn mắt ngạc nhiên.
Trước tình hình này, chàng phải tính cách tự cứu mình, có thể hơi phiêu lưu một tí ta cũng cứ liều. Chàng mua một mảnh đất hơn 50 mét vuông trong ngõ một làng ngoại thành, tính lần hồi gom đủ tiền thì mua gạch Bát Tràng xây lấy một tổ ấm nho nhỏ để chứa hai trái tim vàng, tuy ở xa trung tâm nhưng nghèo không có tiền thì chịu khó đi xa vậy. Hôm chàng đi trả tiền đất, người anh của nàng nói:
- Cái thằng này nó điên rồi ! Chỗ ấy tao đã đến xem, quanh đó người ta nuôi chó thả rông để giết thịt, nhưng chó cũng không thèm vào đất ấy mà ị, vậy mà nó dám cả gan mang một đống tiền…
Nhưng chàng liều mà lại thắng, chỉ sau chưa đầy một năm, chàng bán miếng đất ấy với giá tiền hơn gấp đôi, vay mượn thêm người thân và bạn bè, mua một căn hộ hơn 80 mét vuông ở tầng 7 chung cư 15 tầng. Chàng phải cắn răng mua lại với giá chênh lệch gần một phần tư giá trị căn hộ. Những người dư tiền và nhanh chân đã qua đường này hay đường khác mua các căn hộ từ khi còn trên bản vẽ, chàng là cái thớ gì trong cảnh bon chen chụp giật của thời ấy mà lại đòi mua với giá gốc?
Dẫu sao, nhờ may mắn trời cho mà chàng cũng đã có được chỗ chui ra chui vào.Thằng bạn học cùng lớp với chàng ở trường đại học sau khi ra trường không hiểu trời xui đất khiến thế nào lại trở thành một nhà dân chủ. Hắn viết blog để mơ tưởng viễn vông về một xã hội hài hoà, tốt đẹp theo ý hắn. Nhà dân chủ đi làm trên chiếc cub 50 đã cũ , vợ thì đi làm bằng xe đạp, con gái học mẫu giáo lớn, con trai học mẫu giáo bé, cả nhà thuê một phòng để ở. Hắn bị nhà chức trách hỏi thăm, tuy chưa đến mức bị tạm giam nhưng nói chung cũng rầy rà. Anh em gặp nhau, chàng trách hắn sao dại dột dấn thân làm nhà dân chủ làm gì để đến nỗi bị lôi thôi.
Sau mấy giây im lặng, hắn đáp lại rằng sống ở trên đời đâu có phải miếng ăn là tất cả làm chàng cũng hơi chột dạ.
Số chàng như thế là rất đỏ, việc gì cũng cầu được ước thấy. Vợ đẹp, con khôn, căn hộ chàng đều có cả rồi, vậy chàng còn mơ ước gì nữa? Vậy mà có đấy! Sau đợt điều chỉnh, mức lương của chàng lên đến bốn chữ số tiền đô thì chàng bắt đầu nghĩ đến một chiếc ô tô, có ít tiền thì sắm cái bốn chỗ ngồi cũng được. Nhưng thuế má kiểu thời ấy, thì có lẽ lại chờ đến ngày đầu chàng bạc, răng chàng long, may ra chàng mới có thể sở hữu một chiếc ô tô. Thật là vô lý đùng đùng khi bình quân thu nhập đầu người của dân chúng ở kinh đô Thanglongski chỉ bằng một phần năm mươi tám so với nước Mỹ ( 750 USD/ 43.500 USD), mà giá ô tô lại gấp đôi, gấp ba so với người ta. Nhưng chàng là người có số đỏ, vì vậy điều mong ước có lẽ là cuối cùng của chàng rồi cũng thành hiện thực. Chàng có mua được ô tô hay không sử sách không thấy chép lại nên câu chuyện của chàng tôi chỉ biết chừng ấy, nay viết ra để mọi người cùng đọc./.
Vết bùn lấm tấm trên đôi chân Mẹ...
Mẹ không phải là người phụ nữ hiện đại, chẳng phải là cô giáo hay bác sỹ để con có thể khoe với bạn bè. Vậy mà trong lòng con, chưa khi nào con thôi tự hào về người mẹ quê mùa, chân chất và hiền hậu của mình.
Nhiều khi nhìn tay chân mẹ nứt nẻ, làn da mẹ sạm đen vì nắng gió miền Trung, con không khỏi chạnh lòng. Ngày chúng con còn bé, bố đi bộ đội, mình mẹ ở nhà đánh vật với gần một mẫu ruộng. Mẹ vẫn thường dạy chúng con câu hát: "Bố đi đánh giặc giữ nước. Mẹ đi trồng khoai, trồng lúa, trồng hành.”
Sự lam lũ của mẹ thể hiện ở dáng đi vội vàng với đôi quang gánh trên vai, với quần ống thấp ống cao. Mẹ nhoài mình để cho chúng con một cuộc sống đầy đủ hơn.
Trong bữa cơm, mẹ luôn nhường cho chị em con những miếng ngon nhất. Ngày ấy, con không hiểu tại sao mẹ "thích” ăn đầu cá trích, sao mẹ không thích ăn những miếng cá ngon như chúng con? Con cũng không biết tại sao mẹ không thích may áo mới? Tại sao mẹ vẫn mặc chiếc áo trứng sáo đã bạc màu cả lưng bao năm trời? Con cũng không hiểu tại sao mẹ thích ăn cơm độn sắn độn khoai mà không ăn cơm trắng như chúng con? Con cũng không biết tại sao mẹ không thích đi dép? Có rất nhiều câu hỏi mà lớn lên, con mới có câu trả lời.
Dường như tình yêu thương mẹ dành hết cho chồng, cho con. Ốm, mẹ chẳng dám mua thuốc vì sợ tốn tiền và không muốn đụng vào tiền đóng học của các con. Năm lớp 8, con phải ở lại lớp vậy mà con không biết rằng mẹ đã bí mật gặp cô giáo để xin cho con lên lớp như chúng bạn. Dường như điều mẹ sợ nhất là chúng con thất học. Mẹ vẫn bảo ăn khoai, ăn ngô mà các con nên người thì mới là nhà có phúc, ở mảnh đất miền Trung cằn cỗi, "chó ăn cát, gà ăn sỏi” này muốn sướng thì phải học…
Con thật xấu hổ khi nhớ lại ngày còn nhỏ, trong bữa ăn, con cầm đôi đũa vặn cái đầu cá trích gắp vào bát mẹ và nói:"Mẹ ăn tạm!”. Bởi vì bữa ăn nào, mẹ cũng chỉ ăn đầu cá. Hồi còn bé, con bị chó cắn, mẹ bế con chạy lên tận trạm xá xa hơn 3 cây số để rửa vết thương. Khi con vô tình nhìn xuống chân mẹ thì thấy vẫn còn lấm tấm đất bùn lên tận đầu gối. Và khi nào giặt quần áo, con cũng thấy quần mẹ có màu bùn đất đục ngầu cả chậu. Mẹ thường nói vui: "Chân mà không lấm bùn thì lúa răng mà tốt được?”.
Ngày bé, con bị vàng móng, lại bị "đi kiết” (đi ngoài) mà dì út đến giờ vẫn thường nhắc lại: "Nhìn mi khi đó đến ruồi cũng chẳng thèm bâu.” Mẹ bụng đói đi tìm thuốc cho con hết xã này sang xã khác, hết huyện này đến huyện khác. Đến khi con khỏi bệnh, mẹ ứa nước mắt: "Cha bố nó, rứa cũng bõ công”. Những ngày miền Trung lũ lụt, mưa bão, mẹ thức trắng đêm để hứng nước vì sợ mưa dột vào người chúng con.
Mẹ chẳng biết 8/3 hay 20/10 là ngày gì cả. Nhưng năm nào con cũng xin tiền mẹ để đi mua hoa, mua thiệp tặng cô giáo. Duy có năm ấy, còn thừa một bông hoa, con đem về cho mẹ - chứ không phải tặng. Con không nghĩ là mẹ lại vui như thế. Con nhớ gương mặt mẹ nở một nụ cười: "Mẹ ở nhà thì cần chi mồng tám tháng ba?”
Năm con thi trượt đại học, một cảm giác hổ thẹn ập đến, trong giây phút nông nổi của đứa con mười tám đôi mươi, con kêu lên: "Con thấy chán đời lắm rồi”. Mẹ lại nhẹ nhàng đến bên con bằng những lời an ủi "rất nông dân”: "Năm nay không cày bừa được thì để năm sau con ạ. Lúa trổ đòng sớm cũng chưa chắc cuối vụ thu hoạch được thóc đẹp mô”. Rồi mẹ nhìn thẳng vào mắt con: "Mi mới 18 tuổi, phía trước còn rất nhiều điều tốt đẹp đang chờ đón. Có chi mà phải kêu chán đời?”. Mẹ nói đúng, con mới tí tuổi mà đã la chán đời thì thử hỏi sau này nếu gặp khó khăn trên đường đời, liệu con có thể vượt qua được hay không?
Cuối cùng ước nguyện trở thành sinh viên Đại học Kiến Trúc của con cũng trở thành hiện thực. Được tung tăng trong môi trường mới, con như chú chim đủ lông đủ cánh bay ra khỏi tổ ấm. Nhưng dường như từ lúc ấy con càng trở nên vô tâm hơn.
Tiền hàng tháng bố mẹ gởi ra, con thỏa sức chi tiêu mà không nhớ rằng ở quê, bố mẹ đang dải nắng dầm mưa. Con nhịn ăn để mua quần áo, giày dép đua đòi theo chúng bạn. Con không muốn bạn bè nói mình là: "Dân Thanh Hóa ăn rau má phá đường tàu”. Con đâu biết rằng ở nhà, đã bao năm nay bố mẹ vẫn chưa có một bộ quần áo mới? Con cũng đâu biết rằng bố mẹ chật vật ra sao mỗi khi chu cấp tiền cho con và em trai đang học ngoài Hà Nội?
Mỗi lần về thăm quê, con có cảm giác mẹ vẫn như ngày xưa, cần kiệm và sống quên mình. Hầu như bữa cơm nào, mẹ cũng gắp thức ăn vào bát chúng con. Có lúc con đã rất khó chịu và tỏ thái độ gay gắt: "Mẹ kệ con đi, để cho con tự nhiên. Mẹ cứ gắp thế này con ăn mất ngon”. Mẹ không nói gì nhưng nét buồn hiện trên gương mặt. Tại con vô tâm chẳng biết đó là sự quan tâm của mẹ? Hay con đã trót quên mất những ngày còn bé, mẹ chỉ "thích” ăn đầu cá trích, chỉ "thích” ăn cơm độn sắn độn khoai để nhường cơm trắng cho các con?
Chỉ đến cuối năm 2009, khi con bị sốt xuất huyết, con mới thấy rõ tình mẫu tử lớn đến chừng nào. Nghe tin con nhập viện ở bệnh viện Bộ Xây Dựng (Nguyễn Quý Đức – Hà Nội). Mẹ từ Thanh Hóa bắt xe ra ngay trong đêm hôm đó. Khi vừa nhìn thấy con, mẹ đã nói: "Mẹ đang gánh nước tưới hành ở ngoài đồng, bác Huệ chạy ra báo là mi vào viện nên mẹ ra luôn”. Rồi mẹ gặp Bác sỹ để xin truyền máu cho con. Nhìn đôi bàn chân mẹ vẫn còn lấm tấm bùn đất, vẫn quần ống thấp ống cao, mẹ không lẫn vào đâu được. Cái mùi mồ hôi ngai ngái vẫn còn vương trên chiêc áo bạc phếch của mẹ khiến nước mắt con tự nhiên rơi rớt.
Gần 1 tháng nằm trong viện, nhìn mẹ ngồi vạ vật, mất ngủ, con mới thấy thấm thía và ân hận. Trong viện toàn người tứ xứ, dáng mẹ tất tả, giọng mẹ vẫn "mô, tê, răng, rứa” thật quê cục mà nghe ấm áp làm sao. Những khi mà mẹ chạy theo bác sỹ để hỏi bệnh tình của con, con mới càng thấm tháp nhiều điều ý nghĩa.
Hàng ngày, đôi bàn tay nứt nẻ, thô ráp của mẹ vẫn tỉ mỉ lau mặt cho con mỗi sáng, mỗi tối tựa như ngày con còn là đứa trẻ lên ba, lên năm vậy. Vẫn là những cử chỉ ân cần, tự tay mẹ bón cho con ăn từng miếng cơm và thức trắng đêm để chăm sóc, canh cho con ngủ. Khi ấy, con tự hỏi mình từ xưa đến nay đã bao giờ nấu cho bố mẹ bát cháo nóng khi trái gió trở trời? Con đã bao giờ hỏi, động viên mỗi khi bố mẹ mệt hay chưa?
Dường như lúc nào con chống chếnh, mẹ đều ở bên. Con vẫn thường trêu: "Cứ nhìn thấy đôi chân mẹ là con thấy củ khoai lang nướng”. Mẹ lại nở nụ cười, nụ cười rất đẹp. Bởi nhờ có "củ khoai lang” đen đúa ấy, con mới có được ngày hôm nay.
Với con, mẹ đẹp nhất là cái lúc đôi chân còn lấm tấm bùn màu với quần ống thấp ống cao. Con yêu hình ảnh quê mùa, bình dị ấy của mẹ biết bao bởi vết bùn vương sự lam lũ, chân chất của người mẹ hiền.
XE HONDA BẬN ÁO CÀ SA
Tợp hết chén rượu Bình Tây loại bốn mươi lăm độ, lão gắp miếng dồi chó cuộn vào chiếc lá mơ, nhúng vào chén mắm tôm sủi bọt lăn tăn rồi cho vào mồm nhai ngấu ghiến, mắt lim dim như nhà hiền triết đang nghiền ngẫm sự đời:
- Ngon! – Lão vỗ đùi chan chát,:- đúng là sống trên đời không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không, lời thánh hiền đã phán thì cấm có sai!
Là dân nhậu thứ thiệt nhưng lão chỉ biết đến món cẩu nhục cách đây chưa lâu, trong khi những chiến hữu bao phen vào sanh ra tử trên chiếu rượu, ngay từ lúc mới gia nhập vào làng chai lọ đã kết duyên giai ngẫu với món chó hấp cách thủy, rựa mận ướp mẻ với củ riềng, cầy nướng lá lốt ( món này đám chiến hữu của lão tự biên tự diễn ) Chính vì thế, suốt một thời gian dài, trong bàn nhậu, lão xem như kẻ tín đồ lạc đạo.
Lão biết mùi thịt cầy là do các chiến hữu gài bẫy. Hôm đó, các chiến binh từng vào sinh ra tử mang đến nhà lão một bọc thịt nướng gói trong lá chuối, bảo là thịt rừng. Lão đưa lên mũi ngửi ngửi rồi tấm tắc khen:
- Được! Chỉ ngửi mùi đã muốn nhậu rồi!
Lão bước vội vào nhà ôm ra bình rượu tắc kè với chiếc bát to:
- Thịt nai phải uống bằng bát mới thú.
Cuộc nhậu các anh hùng Lương Sơn Bạc kéo dài bốn giờ đồng hồ. Một mình lão đánh gọn ba suất. Vừa ăn, vừa tấm tắc khen ngon. Bạn nhậu bấm bụng cười thầm. Tiệc tàn, một người trong bọn cười hề hề bảo thịt nai mua ở chợ ông Tạ.
Lão chưng hửng:
- Chợ ông Tạ làm gì có thịt thú rừng. Phạm Viết Chánh mới có chứ!
- Giống nai này khôn lắm, vừa biết giữ nhà, vừa biết sủa!
Vừa nghe xong, lão bỗng trợn trắng rồi lăn đùng ra. Các chiến hữu vội lao đến. Bỏ mẹ rồi, lão mà ngỏm thì bàn nhậu mất một tay chiến binh lẫy lừng, bách chiến bách thắng. Mọi người chưa kịp chạm đến, lão bỗng ngỏm dậy như chiếc lò xo. Tệ thật. Món ngon như thế, bây giờ lão mới biết. Té ra, lão suýt chết vì tiếc.
Thế là, kể từ lần đó, lão chỉ chuyên trị món cầy. Tuy nhập môn muộn màng nhưng lão lại tỏ ra sành sỏi hơn các tín đồ khác về khoản ẩm thực các món cẩu nhục, bởi lão rất chịu khó cất công sưu tầm. Người Bắc chế biến thịt cầy bao giờ cũng ngon hơn người Nam. Thịt chó Nam Hà ở góc đường Trần Phú – Nguyễn Văn Cừ vô địch về món nướng và dồi. Muốn thưởng thức món luộc sành điệu phải đến quán Nó đây rồi! ở cư xá Thanh Đa. Món rựa mận phải đến Cống Quỳnh...Tuy nhiên dân miền Nam lại có tuyệt chiêu món cầy quay chảo mà người Bắc không có. Cả thành phố cũng không có. Muốn thưởng thức món phải lặn lội gần trăm cây số xuống tận Vĩnh Long. Ăn chơi không ngại đường sá xa xôi hay tốn kém. Thịt cầy làm xong đem ướp mẻ, củ riềng, mắm tôm và các gia vị hỗ trợ khác sau đó đem quay trên chảo. Món này phải ăn kèm với cà pháo, đậu bắp nướng, rau sống các loại mới đúng điệu. Da thịt cầy được quay giòn như heo sữa quay, lịm đến óc o, ai đã thử một lần đến chết vẫn thòm thèm. Có một điều rất lạ, cũng thịt chó đấy, cũng công thức chế biến ấy, nhưng vào tay kẻ khác thì món chẳng ra món, tấm chẳng ra tấm, lão nghi, tay chủ quán cố tình giấu bí quyết gia truyền. Chẳng trách được, thời buổi, kẻ mua người bán tranh giành, có bao nhiêu võ công đem ra thi thố tất tật có mà húp cháo.
Đến giữa tiệc nhậu các chiến hữu bắt đầu chộn rộn, bởi chủ xị chưa tuyên bố lý do. Lão thủng thẳng nhấn nhá món luộc rồi nói:
- Kể từ sau sau tiệc rượu này, Tư Lãm sẽ làm hành giả!
- Cái gì! – Đám đông đồng loạt thốt lên. Một người đang nhai miếng nướng lập tức phun ra. Mắt trợn trừng như Từ Hải chết đứng.
- Tu? Tôi có nghe lùng bùng cái lỗ tai không vậy cà. Lão mà tu thì cả thế gian này đắc đạo tuốt luốt.
- Nè, Tư Lãm mới sương sương vài sợi mà nói năng kiểu gì vậy? Lão mà bước chân vào chùa, Đức Thích Ca mâu ni không đá giò lái lão dính vô vách, thấm nước miếng ba ngày gỡ không ra, tôi đi đầu dưới đất!
- Chẳng có chùa nào dám chứa lão đâu. Ăn thịt chó cứ như là Lỗ Trí Thâm mà đòi tu với hành! Lão đi tu, dân bán thịt chó đồng loạt giải nghệ.
Bị chọc quê lão chẳng giận còn cười tít mắt:
- Tế Điên hòa thượng nhờ chuyên trị món cẩu nhục với rượu đế Mao Đài mà đắc thành chánh quả. Tư Lãm này tại sao không?
Trong lúc mọi người còn ngơ ngác giữa hai bờ hư hư thực thực, lão nói tiếp:
- Từ Lãm này nói tu là tu. Từ bỏ món mặn các loại, Tư Lãm sẽ ăn chay trường.
Tất nhiên chẳng ai thèm nghe lão cả. Lời nói của lão như cá trê chui ống. Mọi người hồ nghi cũng đúng thôi, bởi trước đó lão đã hai lần vào chùa ăn chay, niệm Phật. Và cả hai lần đều bị sư trụ trì sai môn đồ nắm cổ ném ra đường vì phạm ngũ giới cấm và thập thiện nghiệp.
Lần quy y thứ nhất, lão đang trong độ tuổi di quân dịch, để trốn lính, lão nương náu vào cửa thiền. Lão sợ chết và sợ cả các món chay. Đi lính thì có thể chết chứ ăn chay thì vẫn sống nhăn răng, vì thế lão phải chọn cái sợ thứ hai ít nguy hiểm hơn.
Lão xuất gia gần nửa năm thì không thể nào chịu nổi các món được chế biến từ rau quả, đậu phụ, chao tương, dưa muối. Thiếu rượu và chất tươi trong dạ dày, lão thấy bứt rứt khó chịu, lúc nào cũng cáu gắt và chực gây sự với bất kỳ đạo hữu nào mà lão thấy ngứa mắt. Người lão bị rộc ra nom như con khô hố phơi ba chục nắng. Khổ nỗi, cạnh chùa có quán tiết canh, gỏi vịt, khách khứa chen chân không lọt. Chiều nào, lão lén ra gần chỗ thuyền bát nhã nhìn qua bên kia đường. Mắt đóng đinh lên mấy con vịt mập ú treo lủng lẳng trên tủ kính, cùng đám thực khách đang cùng ly chan chát mà tuổi phận tu hành. Nếu không có chiến tranh, đời lão đâu phải khốn nạn như thế này. Cha chả, tiết canh vịt mà nhậu với rượu thuốc hiệu Ông Già thì cho dù xuống địa ngục tám kiếp lão cũng không ngán!
Trong đám môn đồ có ba thằng đi tu trong độ tuổi quân dịch. Nhìn sơ qua là biết ngay là dân tu..h..ú...Nhưng cửa thiền luôn rộng mở đón nhận những tâm hồn hướng về ngôi tam bảo. Hai tay kia tuy tu giả cầy nhưng luôn thi hành phận sự chuông mõ, kệ kinh rất chi là thành kính. Chỉ có lão là kẻ phá chùa, phá đạo. Ngồi trong chánh điện đọc kinh mà hồn gửi nơi quán nhậu. Thỉnh thoảng lại liếc sang bên kia đường, cánh mũi chun chun mùi trần gian thơm ngát rồi nuốt nước bọt ừng ực. Mẹ kiếp! Tiết canh mà ăn như thế làm sao biết ngon hay dở. Nam mô phổ độ..thịt vịt, tiết canh, a di..rượu thuốc..chúng sanh..phải uống loại rượu..đà Phật..mới đúng điệu..Kinh Phật và kinh đời thay nhau quần lão tả tơi. Sư chủ trì mấy lần nhắc nhỡ, lão hứa sẽ dốc lòng phận sự chuông mõ, kệ kinh:
- Bạch thầy, con cũng muốn làm trọn phận sự tu hành nhưng mọi việc đối với con sao khó quá. Con phải làm sao? Cái quán nhậu ấy mà..
- Bởi vì con chưa rũ được bụi trần, còn để lửa tam muội thiêu cháy. Con hãy thành kính hướng về đức Phật, Người sẽ giúp con.
Lão cố hướng về cội bồ đề hy vọng sớm trở thành tín đồ ngoan đạo. Nhưng ngay từ đầu, lão đã gửi thân theo đạo Lưu Linh, là người giữ chữ tín, lão không muốn cải đạo.
Mẹ lão vào thăm con. Nhìn thấy thầy Trúc Minh ( pháp danh của lão ) sụt mất tám cân, bèn khóc như mưa. Lão nhìn trước, ngó sau rồi kề tai nói khẽ điều gì đó có vẻ quan trọng. Mười giờ đêm hôm đó, đích thân mẹ lão xách chiếc gà mên ba ngăn lén lút đưa cho thằng con ốm đói đang đập muỗi chan chát phía sau bụi chuối bên hông chùa.
Đi đêm mãi cũng có ngày gặp ma. Thằng Phần, một trong ba tên đi tu trốn lính, pháp danh Phổ Tịnh, tình cờ ngửi thấy miệng lão toàn mùi rượu với gỏi cá sống bèn ton hót với sư phụ lập công. Mọi chuyện còn đang trong vòng đàm phán, không hiểu làm sao tay trưởng khóm biết chuyện:
- Này, tôi nghe nói thầy nhậu một cây xanh dờn có phải không?
Tất nhiên lão phải chối bay chối biến, chứ ngu gì nhận. Tay trưởng khóm xây mặt về phía ông liên gia trưởng:
- Ông ở bên cạnh chùa, nên giám sát thầy đây cẩn thận. Sao thời buổi bây giờ có nhiều người muốn đắc đạo thành chánh quả quá. – Đoạn hắn nheo mắt nhìn lão:- Coi tu được thì tu. Ăn mấy món chay dễ bị kiết lỵ lắm. Đừng để chúng tôi bắt thầy làm lao công đào binh, nghe chưa. Chúng tôi sẽ làm việc với sư trụ trì..
Đúng là ông trời còn thương những kẻ phàm ăn, tục uống như lão. Lão bị trục xuất khỏi cửa thiền lúc chín giờ sáng, thì mười hai giờ trưa hôm đó, quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn. Tay trưởng khóm chưa kịp tóm cổ lão đi vùng một đã phải cuốn cờ chạy mất tăm. Lão ăn mừng thống nhất bằng một chầu nhậu kéo dài tám tiếng. Sang ngày hôm sau lão lấy vợ.
Lần xuất gia thứ hai, là lúc người vợ đầu ắp tay gối của lão chính thức nói lời chia tay vì không chịu nổi ông chồng sáng say, chiều xỉn, tối lai rai, chẳng làm nên tích sự gì. Cú sốc quá lớn, lão nhậu khỉa ba ngày, ba đêm. Sau đó, lão đi thẳng vào chùa. Thề quyết tâm, đoạn tuyệt với con ma men. Bởi vì nó mà lão lâm vào cảnh tan cửa nát nhà.
Tất nhiên lần này, lão tu ở chùa khác. Nhưng dù sao tên tuổi lẫy lừng của lão cũng đã vang danh bốn phương tám hướng. Nhậu đến vợ bỏ theo trai thì biết. Sư trụ trì nhìn lão mà lên cơn sốt. Chứa chấp lão chẳng khác nào rước quỷ vào chùa. Tai họa tới nơi rồi!
Cực chẳng đã, sư trụ trì mới đồng ý cho lão nương náu nơi cửa thiền, với điều kiện; trước khi thiết phát quy y lão phải “ tu thử “ ba tháng. Lão giữ mình được hai tháng, hai mươi chín ngày, chỉ còn một ngày nữa lão sẽ chính thức xuống tóc, thọ giới quy y. Đêm hôm ấy, lão cứ trằn trọc mãi. Rồi ma đưa lối, quỷ đưa đường, xui lão leo rào và bước vào quán nhậu. Lão không nhớ đã nốc bao nhiêu rượu, chỉ biết rằng khi tỉnh dậy lão thấy mình đang nằm giữa gian chánh điện, với đầy đủ tăng ni. Lão ra khỏi chùa phải kéo vạt áo che kín mặt. Chuyện này, lão kín như bưng không hiểu sao thiên hạ đồn ầm lên. Hóa ra, mấy vị sư sãi cũng nhiều chuyện lắm.
Cách đây mấy hôm, lão thấy trong người khó ở, đi khám, bác sĩ bảo trong người lão mang hàng trăm thứ bệnh, nào là mở trong máu, huyết áp cao, tim có vấn đề, gan nhiễm mỡ..Trời ạ, tứ chứng nan y lão thầu sạch không chừa thứ nào cả. Lão rên hừ hự. Bác sỹ khuyên, lão nên ăn chay, nếu chay trường thì càng tốt. Và chỉ có chay tịnh mới có thể cứu được mạng sống của lão. Lão thích nhậu nhẹt nhưng sợ chết hơn.
Bạn nhậu nhìn lão bằng ánh mắt khôi hài:
- Lần này, lão định tu chùa nào? Anh em biết chỗ để còn rủ nhậu!
- Chùa nào dám chứa chấp lão, tôi thề bỏ nhậu suốt đời.
- Tôi cũng bỏ luôn món cẩu nhục!
- Đấy là các người nói đấy nhá! Tư Lãm này cóc cần tu chùa. Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa! Vì thế, Tư Lãm này sẽ tu tại nhà.
Nói là làm, hôm sau Tư Lãm thuê người đến chỉnh sửa lại nhà cửa, biến chỗ ở thành cái am tu hành. Phòng khách được dùng làm chánh điện. Có tượng Phật ngự tòa sen, rồi chuông, rồi mõ, rồi khói nhang nghi ngút. Lão còn đến chùa thỉnh mấy pho kinh và mấy bộ áo cà sa vàng chóe. Đúng ngày rằm, lão xuống tóc quy y và tự đặt cho mình pháp danh Thích Đạo Thứ, trước sự chứng giám của các chiến hữu đang say lắc lư.
Tin Tư Lãm tu hành giữa bụi hồng trần lan nhanh như cơn bão cấp mười. Khắp khu phố đâu đâu cũng nghe thiên hạ đồn thổi. Có người bảo lão chỉ tu ban ngày, còn ban đêm khi Phật đi ngủ lão lại kết bạn với quỷ sứ, ma vương. Người khác lại dè bỉu pháp danh lão Thích Đạo Thứ gì lão? Thích Đủ Thứ thì có. Thế là, pháp danh của lão bị méo mó. Mỗi lần lão đi ra ngoài, thiên hạ lại reo ầm lên, Thích Đủ Thứ đến kìa! Chúng em xin chào thầy Thích Đủ Thứ!
Chẳng ai tin lão. Mặc dù, lần này lão đã hạ quyết tâm đi một mạch đến niết bàn không ghé trạm dọc đường. Ăn chay mới mấy hôm, lão thấy trong người khỏe ra, bệnh tình giảm đi mấy phần. Tuy nhiên mọi việc cũng không dễ dàng chút nào, lão vẫn luyến tiếc mùi đời. Ôi, cái mùi trần tục ấy cứ dai dẳng bám theo lão như ma ám. Mấy lần, lão định xé rào, may mà, lão kịp dừng lại trước khi bước qua giới hạn mong manh. Lão không muốn mang mo cau che mặt mỗi khi ra đường, lão sợ chết. Khổ nổi, đám bợm nhậu không để lão yên, cứ hai ngày một lần cả bọn gần chục tên kéo đến nhà lão tổ chức ăn nhậu rình rang từ sáng đến chiều.
- Thích Đủ Thứ làm miếng luộc nhá. Con cầy này còn tơ lắm! Ai chà, sao mà ngon dữ vậy nè.
- Chà, rượu này mua hay tự nấu mà thơm thế? Chỉ ngửi đã muốn say!
Lão ngồi xếp bằng kiểu kiết già, mắt nhắm nghiền, miệng lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thấy trò khích tướng không xong, đám bợm nhậu bèn đưa cái đùi chó nướng gần chạm mũi lão:
- Đùi chó tơ ngon tuyệt. Hôm nay ngày nghỉ, Phật đi chơi rồi. Vài miếng thịt chó, dăm ba cốc rượu chẳng lẽ Phật bắt tội? Uống đi, bọn tôi không hó hé với ai đâu.
Tu hành mà gặp quỷ phá nhà chay thì khó lòng đắc đạo. Mùi cầy nướng thơm lựng như cánh tay kéo lão về cánh cửa địa ngục. Lão nghỉ thầm, hay là tạm phá giới một phen chắc Phật cũng thông cảm. Vừa lúc lão định há mồm ngoạm lấy cái đùi, ông bạn bỗng rụt tay lại:
- Cha, Tư Lãm này sắp đắc đạo rồi. Thịt cầy để ngay mũi mà vẫn bình tâm niệm Phật đúng là người có căn tu. Vậy, kể từ hôm nay, bọn tôi không đến quấy rầy lão nữa. Chúc chiến hữu sớm về cõi nát bàn! Khi nào thành Phật nhớ độ trì anh em thoát khỏi vạc dầu lũ đầu trâu mặt ngựa nhé.
Hú vía! Nếu thằng bạn trời đánh, thánh vật chậm tay một chút, lão đã chu du xuống diêm la thập điện mất rồi.
Tay khóm trưởng năm nào, sau khi học tập cải tạo trở về có ghé qua thăm lão:
- Tôi đã nghĩ oan cho thầy. Hai người cùng tu với thầy, một làm nghề chọc tiết heo, người kia làm chủ vựa vịt, tay họ lúc nào cũng vấy máu. Chỉ có thầy mới là bậc chân tu thứ thiệt. Thầy cho tôi xin lỗi.
Mặc dù, lão luôn làm tròn phận sự tu hành nhưng để bịt miệng thế gian không phải một ngày một buổi. Và lão cần phải làm điều gì đó chứng tỏ cho họ thấy. Nhưng phải làm gì đây? Lão trăn trở mãi vẫn không tìm ra phương cách.
Nửa năm trôi qua, lão đã quen các món chay và trở nên dị ứng với các món được chế biến từ động vật từ bao giờ, hễ ngửi thấy mùi là nôn thốc nôn tháo. Rõ ràng, lão đã là nhà tu thứ thiệt. Tuy nhiên mọi người vẫn không tin lão.
Thế là lão nghĩ ra cách. Mỗi lần tụng kinh, lão truyền qua bộ phận khuếch đại, micrô với cặp loa hàng trăm wat. Tiếng đọc kinh khàn khàn của lão vang xa thậm chí làm tắc tị cả trạm phát thanh phường.
Thiên hạ xì xồ.
- Ái dà, thầy Thích Đủ Thứ muốn chứng tỏ đây mà! Tu gì lão!
- Giọng đọc kinh của lão đượm mùi thịt chó, củ riềng.
- Hình như lão đã nốc rượu thì phải, giọng lão cứ dính vào nhau!
- Tôi đồ, lão bày trò để gom tiền bá tánh. Lão bao giờ cũng thích ngồi mát ăn bát vàng mà lại.
Những lời đàm tiếu đi một vòng khu phố rồi quay ngược vào tai lão, lão giận phát run. Được rồi, lão đã có cách.
Sang ngày hôm sau lão gọi thợ đến sơn phết lại toàn bộ ngôi nhà, bên trong lẫn bên ngoài, từ gian bếp đến cửa ra vào toàn màu vàng. Màu của Phật.
Ngôi nhà vàng chóe của lão làm nhức mắt. Nhưng không gì thế mà làm ngớt đi lời bàn tán. Quỷ vẫn là quỷ, khoác áo cà sa thì vẫn cứ là quỷ thôi.
Lão bèn đi thêm một bước, thay thế và sơn phết toàn bộ vật dụng trong nhà toàn màu vàng. Từ đôi dép nhựa đến cái tẩu thuốc lá, từ bộ áo cà sa khoác bên ngoài chí đến chiếc quần xà lỏn, từ chiếc chiếu nằm, đến chiếc bát ăn cơm cũng vàng nốt. Khách đến nhà lão phải mang kính vì không thể nào chịu nổi cái màu vàng chóe đến nhức mắt. Khổ nỗi, lão càng chứng tỏ, thiên hạ càng hồ nghi, thế mới chết.
Lão Thích Đủ Thứ cưa sừng làm nghé đấy. Tin lão có ngày phải bán thóc giống.
Dù sao cũng có người tin lão tu thật. Đó là đám chiến hữu thịt cầy. Bỏ được rượu và thịt chó đã xem như đắc đạo rồi. Nhưng lời của dân ăn nhậu không thể nào thuyết phục được ác cảm đám đông. Lảo quên mất một điều, Phật tự lòng ta, trong ta có Phật. Lão tu vì muốn chứng tỏ mà thôi, lão không bận tâm đến chuyện lên nát bàn hay xuống địa ngục, những thứ đó quá xa vời.
Thắm thoát, lão đã tu tại gia gần một năm. Những ác cảm, hoài nghi đã xua tan phần nào. Tuy nhiên lão muốn mọi người phải gật đầu công nhận, lão là một hành giả thứ thiệt.
Buổi chiều, lão đang cưỡi xe đi chợ mua thức ăn. Đám đông buôn bán, thấy lão từ xa đã xì xầm bàn tán. Lão giả điếc, đi một mạch vào gian bán rau quả. Khi quay trở ra bãi giữ xe, một bà bán cá nhìn lão cười rúc rích, rồi cất tiếng chọc quê:
- Lão Thích Đủ Thứ chưa tu thật đâu.
- Tại sao?
- Tại vì chiếc cub lão đang cưỡi vẫn còn màu trần tục.
Lão bừng tỉnh. Ừ nhỉ, chiếc cub đời 78 chưa được mặc áo cà sa!
Lão cám ơn mụ bán cá, rồi dong xe đến thẳng tiệm sơn:
- Anh sơn lại chiếc 78 này cho tôi.
- Sơn lại theo màu cũ phải không?
- Không, màu vàng.
Gã thợ sơn nhìn lão như vật thể lạ ngoài hành tinh rơi xuống trái đất:
- Tôi có nghe lầm không đấy? Màu vàng ư?
- Phải, màu vàng. Đúng như màu áo cà sa tôi đang mặc đây này.
- Ừ, thì sơn, - gã thợ sơn cười khùng khục trong cổ họng:- Miễn sao tiền công trả đủ, sơn màu gì cũng chả sao. Nhưng mà, màu vàng có vẻ, không được đẹp mắt lắm.
- Cứ sơn cho tôi!
Kể từ hôm đó, hễ bắt gặp lão cưỡi chiếc xe cà tàng toàn vàng, là bọn trẻ trong khu phố lại reo lên ầm ĩ:
- Xe Honda bận áo cà sa!
- Xe Honda bận áo cà sa!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro