Vô Đề - Lý Thương Ẩn
Vô đề (Tương kiến thì nan biệt diệc nan):
無題(相見時難別亦難) • Vô đề (Gặp nhau đã khó ly biệt lại càng khó)
Thơ Trung Quốc thuộc thời kỳ Vãn Đường của Lý Thương Ẩn
無題(相見時難別亦難)
相見時難別亦難,
東風無力百花殘。
春蠶到死絲方盡,
蠟炬成灰淚始幹。
曉鏡但愁雲鬢改,
夜吟應覺月光寒。
蓬萊此去無多路,
青鳥殷勤為探看。
Vô đề (Tương kiến thì nan biệt diệc nan)
Tương kiến thì nan biệt diệc nan,
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ty phương tận,
Lạp cự thành khôi lệ thuỷ can.
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
Dịch nghĩa
Gặp gỡ nhau đã khó, chia lìa nhau lại càng khó
Gió xuân không đủ sức, để trăm hoa tàn úa
Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ
Ngọn nến thành tro mới khô nước mắt
Sớm mai soi gương, buồn cho tóc mây đã thay đổi
Ngâm thơ ban đêm chợt nhận ra ánh trăng lạnh lẽo
Đường từ đây tới Bồng Lai dù không xa
Chim xanh hãy vì ta mà ân cần thăm dò tin tức
Chú Thích :
Lý Thương Ẩn ( 812-858 ), tự là Nghĩa Sơn, nên thường được gọi thân mật là Lý Nghĩa Sơn. Ông sống vào thời Vãn Đường (836-907), nhà Đường xuống dốc và sụp đổ nhanh chóng. Nông dân bị bóc lột, sưu cao thuế nặng, quan lại hà hiếp, sự xa hoa trụy lạc của bọn quí tộc quan liêu. Lời hịch khởi nghĩa truyền nhau đã dẫn dắt đến nhiều cuộc nổi dậy để đòi quyền sống, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào. Trong cảnh xã hội nhiễu nhương, đất nước loạn ly phân tán, nền văn học Trung Hoa cũng đột nhiên chuyển biến mang tính chất lãng mạn, phóng khoáng, hiện thực, trữ tình, đem tình yêu nam nữ vào thi ca, và những nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ này có thể nói là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục, Tào Đường, Ôn Đình Quân, Đỗ Tuân Hạc, ...
Lý Thương Ẩn nổi tiếng qua những bài thơ VÔ ĐỀ vì có ẩn tình riêng. Cuộc đời tình ái của ông vô cùng lãng mạn như thanh niên nam nữ hiện nay, ông yêu cả 2 chị em nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương, yêu cả người Thị thiếp của Lệnh Hồ Sở là Cẩm Sắc, yêu cả một Thiên kim tiểu thơ tên Liễu Chi,.... (yêu nhiều vcl, yêu sao nổi :v) nên thơ của ông như tình của ông dàn trãi mênh mông, cuồng nhiệt, say mê đắm đuối mà... mơ hồ không rõ đối tượng, vì thế mà có tựa là VÔ ĐỀ, trong khi mọi người đều làm thơ HỮU ĐỀ, và ông lại nổi tiếng nhờ vào những bài thơ Vô Đề đó cho mãi đến hiện nay, và... Mọi người đều tôn xưng ông là ông Tổ của thơ VÔ ĐỀ.
Bài thơ trên là một trong những bài VÔ ĐỀ nổi tiếng nhất của ông đã ảnh hưởng rất nhiều đến văn học Việt Nam ta, như câu :
Xuân tầm đáo tử ty phương tận,
Cụ Nguyễn Du đã mượn ý câu trên cho lời của Thúc Sinh nói với Kiều là :
Dù cho sông cạn đá mòn,
CON TẦM ĐẾN THÁC VẪN CÒN VƯƠNG TƠ !
và hình ảnh của con chim xanh chuyên dò đường và đưa thơ của bà Tây Vương Mẫu...
Thanh điểu ân cần vị thám khan
mà Cụ Nguyễn Du đã vận dụng rất tài tình vào lúc chàng Kim đi dò la chỗ của cô Kiều ở:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm DỨT ĐƯỜNG CHIM XANH !
Cũng như câu :
Lạp cự thành khôi lệ thủy can, mà Ngân Giang nữ thi sĩ ( thơ Tiền Chiến ) đã mượn ý cho câu :
Đêm nay lệ nến rơi thành chữ !
Bản dịch thơ:
Gặp đã khó, chia còn hơn
Trăm hoa tàn úa nay hờn gió đông
Tằm xuân chết, hết tơ lòng
Nến kia đã dứt mà lòng hết đau?
Sáng soi gương, tóc ngả màu
Ngâm thơ dưới ánh trăng màu lạnh câm
Bồng Lai tiên cảnh xa xăm
Chim xanh hỏi lối truy tầm đường đi.
Người dịch: Tetrahedron (Chính là tớ) :>>>>
Nếu có ai mượn thì xin ghi nguồn, mà chắc chả ai mượn đâu nhỉ.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro