tap lam van 2
<!-- /* Style Definitions */ p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal {mso-style-parent:""; margin:0cm; margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} span.ff2 {mso-style-name:ff2;} span.ff1 {mso-style-name:ff1;} span.ib {mso-style-name:ib;} @page Section1 {size:612.0pt 792.0pt; margin:72.0pt 90.0pt 72.0pt 90.0pt; mso-header-margin:36.0pt; mso-footer-margin:36.0pt; mso-paper-source:0;} div.Section1 {page:Section1;} -->
VIỆT BẮC (1947 – 1954)
Tập thơ Việt Bắc in lần đầu vào cuối năm 1954, gồm 24 bài thơ được sáng tác trong
thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp ( trong đó có 5 bài dịch thơ nước ngoài). Trong
những lần in sau, Tố Hữu có bổ xung 4 bài được viết năm 1946 chưa đưa vào tập Từ ấy
(Đêm xanh, Lạnh lạt, Trường tôi, Tình khoai sắn).
Tập thơ Việt Bắc thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thơ Tố Hữu theo hướng dân
tộc và đại chúng, phù hợp với phương châm của nền văn nghệ thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp. Nếu như ở Từ ấy nổi bật vả kết tinh giá trị của tập thơ là hình tượng“cái
tôi” trữ tình của tác giả - người thanh niên cộng sản, thì dến Việt Bắc là hình tượng trung
tâm, là quần chúng nhân dân kháng chiến. Nhà thơ tập trung thể hiện hình ảnh những con
người đại diện cho quần chúng kháng chiến với những chi tiết chân thực bình dị trong đời
sống hằng ngày, trong mọi hoạt động kháng chiến với những tâm tình, ý nghĩa và tiếng
nói của họ. Đó là anh vệ quốc quân nông dân hiền lành đã làm nên chiến thắng việt bắc
vang dội ( Cá Nước); là phụ nữ Bắc Giang dù việc nhà bề bộn vẩn hăng hái tham gia
công tác kháng chiến ( Phá Đường); là những người mẹ nông dân chấ phát gắn bó nghĩa
tình với kháng chiến hòa là một tình thương con với lòng yêu nước ( Bà mẹ Việt Bắc, Bà
Bủ, Bầm ơi); là em bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê dưới
làng đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với quê hương dất nước
(Lượm).
Cái tôi trữ tình của nhà thơ đã hóa thân vào nhân vật quần chúng hoặc có hiện diện
thì củng chỉ là một đường viền để làm nổi bật hình ảnh những con người quần chúng,
trực tiếp bày tỏ lòng yêu mến và niềm cảm phục với họ trong sự gần gữi, thân thiết của
tình đồng bào, đồng chí.
Tình cảm bao trùm và sâu đậm nhất trong cả tập thơ là lòng yêu nước và Việt Bắc
xứng đáng được gọi là “ khúc trường ca của tình quê hương dất nước” (Hoài Thanh).
Tình cảm ấy được biểu hiện phong phú, sâu sắc trong nhiều trạng thái đa dạng. Đó là
nghĩa tình gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến được thể hiện trong niềm nhớ thương
của những bà mẹ nông dân với đứa con vệ quốc quân; là tình cảm “cá nước” của những
người cán bộ với anh bộ đội chỉ qua một lần gặp gỡ tình cờ trên đường kháng chiến; là
mối tình gắn bó keo sơn giữa miền ngược với miền xuôi; là lòng biết ơn sâu nặng của
người cán bộ với đồng bào Việt Bắc: và trên hết là lòng kính yêu của nhân dân với vị lãnh
tụ. Lòng yêu nước còn thể hiện trong cái nhìn và tình cảm với thiên nhiên và sinh hoạt
của con người từ làng quê đến rừng núi, chiến khu, tuy còn nghèo khó và gian khổ
nhưng không thể thiếu vẻ đẹp, niềm vui và hất là thắm thiết nghĩa tình. Thiên nhiên đất
nước hiện lên với nhiều cảnh sắc, trong mọi thời khắc và cả bốn mùa, trong đời sống
hằng ngày và trong sinh hoạt kháng chiến. Có “trăng lên đầu núi, nắng chiếu lưng
nương”, có “tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nệm cối đều đều suối xa”, lại có những cảnh
rộn rã, tấp nập sinh hoạt kháng chiến của các cơ quan, lớp học i tờ… và những cảnh hào
hùng từng đoàn dân công, bộ đội đi chiến dịch. Còn đây là bức tranh “tứ bình” thật đẹp
và giản dị về cảnh và người Việt Bắc trong các mùa hiện lên dưới ngòi bút của nhà thơ
mà như của một họa sĩ tài năng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
(Việt Bắc)
Lòng yêu nước cũng thể hiện lòng tự hào dân tộc, gắn liền với ý thức làm chủ đất
nước cùa quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi dân tộc ta làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ “chấn động địa cầu”, giành lại hòa bình và giải phóng một nửa đất nước thì niềm vui
và niềm tự hào dân tộc rất cao thành khúc ca hào sảng, say sưa trong thơ Tố Hữu. Nhà
thơ đã dỏng dạc khẳng định:
Cửa ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Rồi lại reo lên với tất cả niềm sung sướng và tự hào khi hòa bình được lập lại trên
đất nước:
Ngẩng đầu lên: trong sáng tuyệt trần
Tháng tám trời thu xanh thẳm
Mây nhởn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp lắm
Mây của ta, trời thắm của ta.
(Ta đi tới)
Niềm vui sướng ấy khiến cho nhà thơ nhìn vào đâu cũng muốn cất lên tiếng hát say
mê:
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca….
(Ta đi tới)
Tập thơ Việt Bắc là bản hung ca về cuộc kháng chiến, ghi lại nhiều hình ảnh, sự
kiện và bước trưởng thành của cuộc kháng chiến, những âm vang của lịch sử, của thời
đại. Lần theo các bài thơ trong tập, có thể hình dung ề các chặng đường của cuộc kháng
chiến. Từ những ngày đầu phòng ngự với chủ trương tiêu thổ những thành thị, thị trấn,
phá cầu, đường để cản bước tiến công của quân giặc (Giữa thành phố trụi, Phá đường),
rồi chiến thắng Việt Bắc, chiến tắng lần đầu tiên của quân và dân ta, đánh bại cuộc tiến
công quy mô lớn của giặc Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc, được nhà thơ ghi lại bằng lời kể
sảng khoái của anh vệ quốc quân trong bài Cá nước. Nhà thơ theo bước chân anh bộ đội
lên Tây Bắc để ghi lại hình ảnh cuộc sống gian khổ và vẻ đẹp hào hùng của người chiến
sĩ vượt lên những đeo núi hiểm trở, cheo leo của miền Tây. Cuộc kháng chiến ở hậu
phương tá hiện qua hình ảnh và tâm tình của những người mẹ, người phụ nữ nông dân.
Đặc biệt, năm 1954 cuộc kháng chiến vươn tới đỉnh cao của thắng lợi, bằng chiến tắng
Điện Biên Phủ và kết thúc ở Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình thì hồn thơ Tố Hữu nhu
đươc nâng bổng, vươn xa trong cảm hứng sử thi hào hùng và tầm khái quát của lịch sử
với ba bài thơ lớn: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới,Việt Bắc. Ba bài thơ mang đậm
tính thời sự, ghi lại được một cách tài tình không khí, tâm trạng, khí thế của thời đại trong
bước ngoặc đi lên của lịch sử dân tộc, nên cũng mang giá trị lịch sử đặc sắc. Trong đó,
bài Việt Bắc là thi phẩm xuất sắc nhất của thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp và
cũng thuộc trong số những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến. Nhà thơ Xuân Diệu
nhận định: “Đến bài thơ Việt Bắc, lại là đỉnh cao thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên.
Với bài này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ (…); không phải một cây bút
trong tay Tố Hữu, mà nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta
thấy văn chương cách mạng, văn chương nói chiến đấu, gian khổ và quyết tâm cũng lại là
cái văn chương chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc (Tập thơ Việt Bắc
của Tố Hữu).
Nếu như phần đầu tập thơ “cái tôi” trữ tình của nhà thơ thường nhập vai nhân vật
quần chúng hoặc hướng vào để làm nổi bật những con người quần chúng, thì ở những bài
thơ viết vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến nổi bật hình tượng cái tôi sử thi, mang
tính khái quát và đại diện cho nhân dân, dân tộc, cách mạng. Đi liền với “cái tôi” sử thi
ấylà giọng hào sảng, kiêu hãnh và đầy tin tưởng.
Việt Bắc là chặng đường có vị trí quan trọng trên hành trình thơ của Tố Hữu. Đến
tập thơ này, cái tôi của nhà thơ đã có thể hòa nhập thực sự vào đời sống nhân dân, thấu
hiểu và gần gũi với cuộc đời, tâm tình, ước nguyện của quần chúng kháng chiến. Thơ Tố
Hữu đã bắt được vào mạch nguồn sâu xa và bền bỉ của truyền thống văn hóa tinh thần
của dân tộc và nhân dân, đồng thời thể hiện lý tưởng cách mạng, tinh thần của thời đại
trong việc làm, hành động, ý thức và tình cảm của đông đảo quần chúng
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro