Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tập hợp những câu chuyện ma

Ba Chàng Sinh Viên Trong Căn Nhà Ma

Thưa các bạn vụ án ma quái: "TÔI BỊ TAI HỌẠ.." coi như đã kết thúc. 

    Vì anh Minh Nguyễn ra đi qúa đột ngột, chúng tôi đã không làm gì kịp để cứu ảnh. Thành thật chi a buồn (Nếu các bạn có lời an ủi thì xin gởi về cho cô Mỵ Lan) 

    Nhưng không vì vậy mà chúng tôi nản chí. chúng tôi vẫn tiếp tục điều tra thêm những vụ án khác. 

    Diều-tra-viên "000000" tui vừa mới điều tra xong một vụ án ma quái nữạ Vụ án này có tên là " BA CHÀNG SINH VIÊN TRONG NGÔI NHÀ MA". 

    Hiện giờ tôi đang chuẩn bị bản tường trình cho vụ án mới nàỵ Các bạn có yêu cầu một "format" đặc biệt nào cho bản tường trình này thi xin đề nghị Tôi phải trình bày bảng tường trình như thế nàọ Hình ảnh, tang chứng... chúng ta có nên đưa ra cho bạn đọc cùng xem hay là không? v.v 

    Mong các bạn góp ý 

    Ghost story 1 

    Truyện này viết theo lời kể của một vị sỹ quan thuộc sư đoàn 21 BB, Quân Lực VNCH. Sự việc này xảy ra tại xã Phú Hữu, quận Phong Thuận , tỉnh Cần Thơ vào một đêm cuối mùa Thu năm 1974. 

    Tôi xin ghi chú một vài danh từ được dùng trong bài viết, vì có thể một số bạn không hiểu nghĩa của các từ này. 

    _ Ông thày: lính và hạ sỹ quan dùng danh từ này để gọi cấp chỉ huy của họ (thường là hàng Sỹ Quan). 

    _ Ngọn: nơi phát xuất con sông. 

    _ Vàm: nơi con sông đổ vào con sông khác lớn hơn, hay chổ con sông đổ ra biển. 

    _ Lều poncho: lều căng bằng áo mưa của lính (gọi theo tiếng Mỹ) 

    _Ta lọt: người lính được cắt đặt để lo việc cơm nước và chổ ngủ cho cấp chỉ huy của anh ta. 

    _ Quán cóc: Quán nhỏ bên đường hay cạnh các bờ sông , thường bán cà fê hay đồ nhậu. 

    _Cát Tê: là một loại bài mà con lớn hơn thì thắng con nhỏ hơn nếu trong cùng một nước bài ( thí dụ con già Bích thì ăn con bồi Bích ). 

    _ Đi tiền đồn: đi kích ở một vị trí trong vùng địch , thường là do một tiểu đội hay một trung đội đảm trách. Thường được coi là nhiệm vụ nguy hiểm. 

    Lúc đó tôi là một sỹ quan trẻ, giữ chức vụ đại đội phó cho một đại đội tác chiến của sư đoàn 21 bộ binh! Vào một ngày cuối mùa Thu năm 1974, tiểu đoàn tôi được lệnh tấn công vào một vị trí cố thủ của một tiểu đoàn địch trong "ngọn" Rạch Muỗi ! Sau một ngày ác chiến kịch liệt, chúng tôi vẫn chưa chiếm được mục tiêu! Đơn vị chúng tôi được lệnh rút ra ngoài "vàm" để nghỉ qua đêm, đồng thời tảI thương và đợi nhận thêm tiếp tế để sửa soạn cho cuộc tấn côngmới vào ngày hôm sau. 

    Trực thăng xuống tải thương nhưng không còn chổ nên xác của một binh sỹ tử trận đành phải bỏ lại để chờ được di chuyển bằng tàu tiếp tế vào ngày mai! Thế là ngoài việc canh gác bên ngoài, chúng tôi phải cắt thêm người trông chừng cái xác chết được đặt trên bộ ván ngựa trong căn nhà lá bỏ hoang gần đó! 

    Dưới ngọn đèn dầu mù mờ trên chiếc bàn vuông giữa nhà, bốn chúng tôi ngồi đánh bài Cát Tê để giết thì giờ! Tôi ngồi quay lưng lại bộ ván ngựa còn ba người kia ở vị thế có thể nhìn thấy cái tử thi ! 

    Đến quá nửa đêm, người ngồi đối diện tôi bổng đứng dậy nói buồn đi cầu rồi bước ra không thấy trở lại. Chừng mười lăm phút sau, người bên trái tôi cũng đứng lên nói là đi tiểu rồi mất tăm luôn 

    ! Năm phút sau, người bên phải tôi cũng rời bàn nói là ra ngoài hit' thở chút không khí trong mát ngoài trời và cũng chẳng thấy tăm hơi đâu ! 

    Tôi ngồi chờ bọn họ trở lại, nhưng mắt tôi díu lại vì buồn ngủ ! Tôi đứng dậy mở cửa bước ra ngoài, rồi tiện tay kéo đóng cánh cửa lại. 

    Ngay lúc đó tôi nghe một tiếng "BỊCH" phía trong nhà ! Hơi ngạc nhiên vì tôi là người cuối cùng ra khỏi nhà , nhưng tôi nghĩ có lẽ chiếc ba lô treo trên vách rớt xuống đất nên cứ một mạch đến cái "lều poncho" mà người "tà lọt" đã căng sẵn cho tôi. Quá buồn ngủ tôi làm một giấc tới sáng, tôi chỉ tỉnh dậy khi tiếng ồn ào của các người lính khiêng đồ tiếp tế lên từ tàu. 

    Tôi đợi khi tất cả đồ tiếp liệu được khuân lên hết rồi mới gọi mấy anh lính theo tôi lên chiếc nhà lá để khiêng cái xác xuống tàu. Tôi đẩy cửa vào nhưng có vật gì cản phía trong ! Một anh lính phụ tôi đẩy mạnh cánh cửa. Tôi nhảy bật ra ngoài vì cái vật cản cái cánh cửa lại chính là cái xác chết mà chúng tôi đã đặt trên bộ ván !! Lấy lại bình tỉnh tôi la lớn: 

    _ (DM) Thằng nào chơi trò này ! Tao mà biết tao đá cho lọi giò luôn ! (DM) tới người chết mà tụi mày chẳng tha nữa hả !!! 

    Không một ai lên tiếng! Cuoíi cùng rồi thì cái xác cũng được mang xuống tàu chở về bệnh viện tỉnh Cần Thơ để chờ thân nhân đến lãnh về mai táng !! 

    Suốt mấy tháng trời tôi vẫn để tâm theo dõi xem tên nào chơi trò nghịch ngợm đó, nhưng không sao tìm ra manh mối ! Cho đến một ngày kia, tình cờ tôi và ba người canh xác bữa đó ngồi nhậu cùng nhau trong một "quán cóc" bên đường. Sau vài xị tôi mới nhắc lại sự việc xảy ra đêm hôm đó. Lúc này người bỏ đi đầu tiên mới rụt rè lên tiếng: 

    _ Tui nói thiệt với "ông thày" chứ bữa đó tui sợ muốn té đái ra quần luôn vậy đó !! 

    _ Sao vậy?! Tôi hỏi với giọng nhạc nhiên! 

    _ Không biết bữa đó tui có bị hoa mắt hông! Chứ thiệt tình thì tui thấy cái xác chết dơ tay lên để tay xuống mấy lần ở trên bộ ngựa! Tui sợ quá phải nói dóc là đi cầu để trốn ra ngoài! Tui sợ bị cười là nhát nên không dám nói cho ai biết về chuyện này hết !! 

    Đến đây người bỏ ra thứ nhì đằng hắng rồi lên tiếng: 

    _ Tui cũng thấy y chang như vậy đó ! Lúc đầu tui nghĩ là do buồn ngủ quá nên mờ mắt. Tui thấy nó dơ tay lên bỏ tay xuống tới mấy lần lận ! Trong bụng tui niệm Phật liên hồi ! Nhưng vẫn còn run , tui phải viện cớ để chuồn ra ngoài rồi không dám trở vô nữa ! Thiệt ra tui đâu có dám ngủ đâu! Chỉ sợ nó bò ra chổ tui thì chắc chết luôn quá ! 

    Lúc này người thứ ba cũng phụ họa: 

    _ Tui thề với Trời Phật là bữa đó tui cũng thấy rỏ ràng là nó ngồi lên rồi nằm xuống hai lần ! Tui sợ muốn đứng tim luôn! Nhưng mang tiếng là lính mà chạy ra kêu là bị ma nhát thì thiên hạ cười chết! Tui đành lủi lẹ ra ngoài luôn! Sở dĩ tui không nói cho "ông thày" biết là vì tui nghĩ ông có đạo (Thiên Chúa) nên nó không nhát ông. Nó chỉ nhát tụi tui thôi! Lúc đó tui nghĩ là nó chỉ nhát một mình tui thôi, ai dè nó nhát luôn cả hai người này nữa !! Bây giờ nghĩ lại tui vẫn thấy nổi da gà !! 

    Tởn tới già luôn! Tui không bao giờ dám lãnh cái việc coi xác chết nữa đâu! Lần sau ông có đày tui đi "tiền đồn" một tháng thì cũng đành chịu thôi ! Xin "ông thày" tha cho cái việc đó đi ! 

    Qua lời họ tôi suy ra cái tiếng động mà tôi nghe đêm hôm đó không phải là do cái ba lô rớt xuống mà là do cái xác chết ngã xuống (khi đuổi theo tôi) vì va vào cái cánh cửa do tôi vô tình kéo đóng lại khi bước ra ! Tôi cũng rởn tóc gáy khi nghĩ việc gì đã xảy ra nếu như tôi không đóng cái cửa lại!! Có lẽ cái tử thi đó đã chụp được tôi từ phía sau lưng rồi !! Thật là hú hồn !!! 

    (Chuyện này của Tam Tang. Tui lấy cho các bạn đọc dỡ buồn. Nếu được xin các bạn phân tích hoặc giải thích hiện tượng này) 

    Hello, 

    Phần cuối cùng làm tui hơi rợn tóc gáy một chút. Theo tui nghĩ thì có lẽ mấy người thức đêm canh buồn ngủ bị hoa mắt, hoặc họ ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, họ nghĩ là tử thi cử động cho nên nó... cử động thiệt. 

    Còn phần tử thi tại sao lại đi theo người cuối cùng thì tui nghĩ chắc lúc đó có con mèo nhảy qua xác chết truyền điện vào xác chết làm xác chết đứng dậỵ Tình cờ lúc đó người cuối cùng đứng dậy đi ra ngoài, xác chết bị hút theo cử động của người nàỵ Cũng may người này tiện tay kéo cửa lại, không sẽ bị xác chết đi theo cho tới khi nó hết điện trong ngườị 

    Có người đã bị chết vì người chết đứng dậy đi nàỵ Mèo nhảy qua, người chết bật đứng dậy, người canh xác chết sợ quá bỏ chạỵ Điện trong người sống hút theo người chết làm người chết... rượt theọ Chạy một hồi người sống vấp té, người chết chạy tới vướng vào rồi té đè lên ngườị Người sống kinh khủng quá, đứng tim... thành người chết luôn. 

    Nhân đọc chuyện ma quái, tui xin góp ý một chuyện... có thiệt qua lời kể lại của người anh: 

    Bạn của anh tui đi buôn lậu bằng xe lửa từ Sàigòn ra miền Trung, tạm gọi anh T.. Xe lửa ở VN chật chội, rất hầm, cho nên có một số người leo lên mui nằm dài ra ngủ. 

    Lúc đang ngủ anh T. tự nhiên nghe tiếng gọi í ới "Tới rồi, tới rồi!". Ảnh bật ngồi dậy và va vào vách đá của đường hầm - xe lửa sửa soạn đi vào đường hầm. Bị va vào đầu, anh T. văng té xuống đất ngất xỉụ 

    Người gác nơi cổng xe lửa đi kiểm tra nghe được tiếng rên rỉ của anh T.. Ông ta tới chỗ anh T. nằm, anh kể lại sự kiện và hỏi xin miếng nước. Người gác đi về nhà lấy nước uống, khi trở lại chỗ anh T. thì anh đã chết rồi! 

    Người ta báo tin về gia đình. Khi anh của anh T. lên nhận xác để đem chôn, người gác cổng xe lửa kể lại rằng khúc này rất nhiều người bị chết vì... nghe tiếng gọi tới rồi đúng ngay lúc xe lửa bắt đầu đi vào đường hầm. 

    Các bạn có nghĩ rằng người đã chết rồi muốn đi đầu thai, nên đánh thức người sống đang ngủ dậy để chết thế mạng không? Hm, số anh T. đáng lẽ chưa chết nếu VN kỹ thuật tân tiến chẳng hạn như có điện thoại gọi xe cấp cứu như 911 bên Mỹ vậỵ Nếu vậy thì... chẳng có chuyện kể hôm nay, phải không?

Căn Nhà Kì Lạ Trên Đường An Địa

Âm Ly là một thị xã nhỏ, khuất nẻo mà một du khách bình thường sẽ không bao giờ để ý đến. Vài năm trước đây còn có con lộ chánh chạy ngang qua, nhưng bây giờ một xa lộ bốn "lanes" đã được xây thêm cho xe chạy với vận tốc nhanh hơn. Con lộ cũ trở nên hoang vắng, hầu như không còn xe nào lui tới con đường nhỏ có tấm bảng phai nhạt vì sương gió đề tên "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly". 

    Ông bạn Huỳnh Hắc mà tôi quen biết vì cùng là hội viên của một câu lạc bộ, đã giới thiệu với tôi về cái địa danh nàỵ Ông ta sau khi chộp được một "cú áp phe" lớn tại thị trường chứng khoán Wall Street mấy năm trước, trở thành giầu có, dư giả tiền bạc nên đã quyết định về hưu non, sống một cuộc đời nhàn tản. Lúc đó tôi còn là một nhà văn vô danh nghèo kiết xác so với ông bạn họ Huỳnh, nhưng không hiểu vì lý do đặc biệt nào đó ông ta tỏ vẻ rất ưa thích và muốn kết thân với tôị 

    Chúng tôi thường gặp nhau trong các buổi ăn chiều, đôi lúc ngồi nhâm nhi uống rượu đánh cờ và tán dóc với nhaụ Một hôm trong câu chuyện tôi nói về ý định muốn đi nghỉ hè mà không biết đi đâu, ông Huỳnh nêu ý kiến bảo tôi nên đến thị xã Âm Ly thử xem saọ Ông nói một cách lơ đãng, như không để ý đến điều mình nói cho lắm: 

    - Âm Ly thật ra cũng chẳng có gì đặc biệt cả, tẻ nữa là đằng khác. Nếu ông muốn đi nghỉ hè ở xa thì chỗ này không thích hợp mấy vì nó chỉ cách đây trên 40 dặm nhưng thật yên tĩnh và thanh bình. Tìm chỗ trọ không khó. Nếu ông không để ý phiền hà thì có thể nhập bọn với tôi trong khi chờ đợi đi tìm chỗ trọ. Tôi có một căn nhà nhỏ ở đó. Hơi chật một tí, nhưng cũng có phòng dành riêng cho khách. Ông và tôi có thể ở tạm trong thời gian chờ ông tìm được chỗ vừa ý. 

    Hai tuần sau, tôi lái xe theo con đường cũ hoang sơ, quẹo vào nơi có tấm bảng đề chữ "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly", đi thêm vài dặm nữa thì đến một tỉnh lỵ nhỏ kiểu như một tỉnh miền Tân Anh Cát Lợi, xinh xắn và mơ màng như cô gái còn trong cơn ngái ngủ. Thị xã này đã may mắn tránh khỏi cái nạn bị đám người "nghỉ hè hằng niên" thường rất ồn ào đến quấy nhiễụ 

    Cái "căn nhà nhỏ chật chội" của ông Huỳnh thật ra là một căn nhà kiểu Georgian tuyệt đẹp, có cổng vào xây bằng cột kiểu Doric. 

    Khoảng một giờ sau tôi đã tắm rửa sạch sẽ,ra ngồi với chủ nhân ở sân sau ngó xuốn vườn kiểu Anh-Cát-Lợi có rào che kín chung quanh. 

    Tôi ngồi xuống, yên vị trong cái ghế bành êm ái, nhâm nhi ly rượu mạnh pha sodạ Chỉ một lúc sau cái cảm giác êm đềm dễ chịu từ từ lan ra khắp cơ thể, xâm chiếm từng tế bào trong da thịt, tôi cảm thấy muốn buông xuôi mọi ý chí năng động, thả mình hưởng thụ cái nhàn hạ nàỵ Tôi thấy không còn cần phải đi đâu xa nữa, không cần phải kiếm chỗ trọ nào khác và không còn có ý định vùi đầu vào viết như đã định trước nữạ 

    Ông Huỳnh như đoán biết cái tâm ý của tôi, bèn nói: 

    - Tôi nghĩ rằng, nếu ông chịu được chật chội thì không cần phải đi đâu nữạ Cứ ở đâỵ Tôi có một bà giúp việc mỗi ngày đến lo cơm nước buổi sáng và buổi trưa, còn buổi chiều thì chúng ta dùng bữa tại quán Hắc Sự Quán này tuy là nhà hàng duy nhất ở Âm Ly nhưng làm đồ ăn khá lắm. 

    Tôi thật cảm động trước tấm thạnh tình của ông, vì dù nằm mơ đi nữa tôi cũng không dám nghĩ đến việc ông có thể chấp nhận một việc nhiều phiền hà như vậỵ Nhưng một lần nữa như biết được ý nghĩ của tôi, ông nói một cách quả quyết làm tôi yên tâm: 

    - Không có gì phiền hà đâụ Trái lại chính ông là người sẽ giúp tôi đấy chứ. Bây giờ tôi chẳng có gì phải lo nghĩ cả, lúc nào cũng dư thì giờ, thành ra cuộc sống đôi lúc cũng không có gì thú vị lắm. Ông ở đây thì tuyệt, chúng ta có thể ngồi đánh với nhau vài ván cờ thật hứng thú mà không phải lo canh đồng hồ! 

    Rót thêm rượu vào ly cho tôi, ông tiếp: 

    - Lẽ dĩ nhiên lúc nào ông muốn ngồi vào bàn viết thì xin cứ tùy nghị Tôi là người rất tôn trọng nghề văn. 

    Thế là xong. Tôi hiểu ông sẽ tổn thương tự ái nếu tôi bàn thêm về vấn đề tiền bạc trả cho việc ăn ở nàỵ Tôi nghĩ ra một cách là khi đến ăn tại quán Hắc Sư tôi sẽ dành trả tiền để bù vào đó. 

    Mùa hè qua thật êm đềm. Thường ngày tôi ngồi viết vài giờ đồng hồ vào buổi sáng sớm và dạo quanh tỉnh vào buổi chiềụ Tới giờ, về tắm rửa, ngồi uống một vài ly rượu khai vị, tán gẫu với ông Huỳnh trước khi đi ăn chiều tại quán Hắc Sư. 

    Sau bữa ăn trưa, tôi thường lang thang đi dạo dọc theo những đường phố nhỏ đầy tàng cây bóng mát của thị xã Âm Lỵ Ở đây, cái cảnh sắc an bình, cái không khí trong lành, cái cảm giác bền vững toát ra từ những ngôi nhà cổ lâu đời làm tôi thấy như đang sống đắm mình trong một thế giới mộng ảo nào khác. 

    Việc viết lách của tôi cũng tiến triển đúng theo chương trình đã ấn định. Da thịt tôi trở nên hồng hào, và tôi thường thắng nhiều hơn trước trong những bàn cờ đánh với ông Huỳnh. May mắn cho tôi, ông ta là người có tinh thần thể thao, tuy thua nhưng không bao giờ nổi tánh xấụ Sự tiến bộ trong các nước cờ tướng của tôi được ông coi như một thách thức mới đầy thú vị, và tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đều đạt kỹ thuật cao hơn xưạ Đến bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn còn cảm thấy cái thích thú khi nhớ tới những ván cờ sôi nổi kỳ phùng địch thủ nàỵ 

    Một buổi trưa trời gắt nắng, đang lang thang đi dưới hàng cây rợp bóng mát, tôi bỗng chú ý đến một tấm bảng ghi: Đường An Địạ Cái tên đường là lạ khêu gợi lòng hiếu kỳ của tôi#. Tôi quẹo vàọ Con đường này hoàn toàn không giống các đường khác tại Âm Lỵ Dọc theo hai bên đường toàn là những ngôi nhà cổ thật yên tĩnh,chung quanh có vườn cây rợp mát với hai hàng cây cổ thụ cành lá xum xệ Con đường vắng lặng, không một bóng người qua lạị Đi gần đến cuối đường, mới thấy đó là một con đường cụt, muốn về, tôi phải quay trở ngược lạị Tôi đi tới cuối đường, băng ngang qua lề bên kia để đi trở về. Đó là lần đầu tiên tôi để ý đến ngôi nhà ở cuối đường. Bề ngoài trông cũng bình thường, chỉ là một ngôi nhà gạch hai tầng, nhưng điều khác là chung quanh nhà mọc lan tràn những loài thảo mộc đủ loại lớn nhỏ, hình dáng ngoại lai xa lạ, không thấy có dấu hiệu được một bàn tay nào chăm sóc cả. 

    Tôi đặc biệt chú ý đến một loại cây leo trường xuân có cành giây lớn bao phủ gần như toàn diện mặt tiền ngôi nhà, lấp cả cửa sổ. Tất cả như bị phủ kín, chỉ thấy được cửa ra vàọ Tôi biết nhiều giống cây leo nhưng chưa bao giờ bao giờ lại thấy có cây leo to như vậỵ Lá cây xanh tốt, phản chiếu ánh nắng mặt trời rọi xuống xuyên qua kẽ lá, ánh lên mầu tim tím. 

    Ngay lúc đứng ngắm nghía cái cây leo bất thường này, tôi chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đầu tóc bạc trắng, từ bên trong khung cửa sổ ở trên lầu đang đưa mắt nhìn ra ngoàị Khung cửa sổ cũng bị dây leo che khuất, trong tích tắc khi tôi nhìn lại, thì khuôn mặt ấy đã biến đâu mất không để một dấu vết nào cả. Tôi bỏ về và đi ngược trở lại ngược theo đường An Địa ra trung tâm Âm Lỵ 

    Buổi chiều vào giờ uống rượu khai vị , tôi nhắc đến chuyện trên thì được ông Huỳnh cho biết: 

    - Đó là căn nhà của ông Phạm Minh, một nhà thảo mộc học có tiếng. Ông ta thường đi du hành khắp thế giới mang về các loại cây hiếm. Ông ta có một khu vườn cho khách thăm viếng, nhưng mấy năm gần đây ông bị bịnh và bây giờ như ở ẩn vậỵ Ít người gặp ông tạ Ông đóng cửa ở trong nhà để kệ cây cối mọc tùm lum. Tiếc thật. 

    Ông Huỳnh ngừng nói, nhấp một ngụm martini, một lúc sau như để đắn đo rồi mới tiếp: 

    - Ông ấy có họ xa với tôi, cho tôi giữ chìa khóa để vào nhà đó nữạ Nhưng tôi không hề nghĩ đến việc dùng nó. Tôi thích được để yên nên tôi cũng trọng sự riêng tư của người khác. 

    - Ông nói đúng, tôi bàn góp, nhưng ông có nghĩ rằng ông ấy đã bỏ bê nhà cửa một cách quá đáng không? Căn nhà này chả mấy chốc sẽ biến mất trong đám rừng cây leọ 

    Ông Huỳnh nhún vai: 

    - Tôi chủ trương là ai cũng có cái quyền điên khùng theo ý riêng của mình, miễn là đừng đụng đến quyền của người khác. Nếu me-sừ Minh muốn sống trong cái rừng của ông ta thì đó là quyền của ông tạ 

    Tôi biết ý, không đề cập đến vấn đề này nữa, nhưng cứ một hoặc hai ngày tôi lại thấy mình đi lơ vơ về hướng đường An Địa, tôi cũng nghĩ rằng có lẽ cái ông Phạm Minh già đáng thương kia đang nguyền rủa sự phá quấy của tôi, như ruồi thấy mật bu lại, làm phiền rộn ông. Nhưng căn nhà kỳ bí đầy cây phủ kia có hấp lực lôi cuốn tôi như nam châm hút sắt vậỵ

    Mùa hè nóng bức năm ấy không làm cho cây leo giảm cường độ mọc mạnh thêm. Loại cây leo trường xuân thường kỵ nắng, nhưng vì căn nhà luôn được bóng mát của hai hàng cây du to lớn trồng hai bên đường, nên cây leo này không phải chịu nắng rọi trực tiếp. Các lá cây năm nhánh ngày càng rậm ra, che kín cửa sổ, nên sau lần đầu, tôi chỉ thấy cái bóng đầu bạc trắng một hai lần nữa mà thôị Tôi rất thích thú theo dõi cây cối thảo mộc tăng trưởng, tôi càng kỳ thú hơn khi thấy một người tự cho phép để mặc cho cây cỏ mọc tự do che khuất nơi mình ở. 

    Mùa hè đã trôi qua, Ông Huỳnh càng trở nên khó tính hơn, tôi thấy hình như có cái gì làm bận tâm ông. Một đôi lúc tôi bắt gặp ông bẳn gắt và tài nghệ chơi cờ của ông xuống dốc thấy rõ. Cuối cùng một hôm ngồi uống rượu mùi với tôi, ông lại đề cập đến vấn đề: 

    - Phiền nhiễu quá sức, ông biết không, tôi hơi lo cho ông Minh nàỵ Mấy người giao hàng chưa gặp ông ấy cả tuần nay rồị Thơ từ chất cả đống bên ngoàị 

    Rồi quay sang phía tôi ông hỏi: 

    - Ông có dịp đi ngang đường An Địa lúc gần đây không? 

    Tôi biết rõ là ông cũng biết tôi thường đi xuống phía đó, nên trả lời: 

    - Cứ vài ngày là tôi thả bộ ngang. Cửa sổ bị cây leo phủ kín mít, và tôi không thấy bên trong có động tĩnh gì. 

    Tôi nhấp một hơi rượu rồi tiếp: 

    - Lẽ dĩ nhiên là không ai có thể thấy gì trong đó được. Cửa sổ với đám giây leo mọc một cách tham lam che phủ kín mít như vậy thì dù cho bên trong có tiệc tùng đông đảo cả trăm người đi nữa thì bên ngoài cũng chẳng có ai biết đâụ 

    - Chữ ông dùng lạ nhỉ. 

    - Chữ nàỏ 

    - Chữ tham lam ấy mà. 

    Ông ngừng ở đó, một lúc sau với tay lấy thêm rượu rót vào ly cho tôi rồi nói: 

    - Tôi nghĩ tôi phải làm một cái gì đâỵ 

    Tôi gật đầu đồng ý: 

    - Tôi cũng nghĩ thế, tôi biết cái ý tưởng xâm phạm đời tư người khác ông không ưa tý nào, nhưng nếu chỉ đến coi ông lão có làm sao không thì có gì là tai hại đâụ 

    Ông Huỳnh ngả người sau ra miệng ầm ừ: 

    Vậy thì ngày mai Ông và tôi đến đó,tôi sẽ gọi cửa, nếu không ai trả lời thì tôi sẽ dùng đến cái chìa khóa mà tôi có đâỵ 

    Ngày hôm sau, trời vẫn nóng nực như cũ. Sau bữa ăn trưa nhẹ, chúng tôi kéo nhau đến nhà ông Phạm Minh trên đường An Địạ 

    Mới một ngày qua đi mà tôi có cảm tưởng những lá mầu xanh tím to lớn đã mọc dài thêm rạ Chúng bò tràn lan khắp nơị Leo theo máng xối, bò lên nóc. Các rễ nhỏ bám chặt vào ống máng, dính vào vách tường gạch, chui vào khung cửa sổ. Cả căn nhà như được gói trong cái bọc dây leo dầy cộm. 

    Ông Huỳnh nhấn chuông nhưng không ai trả lờị Sau khi đợi mươi phút, ông rút chiếc chìa khóa ra, miệng lầm bầm: 

    - Ông biết đấy, tôi không ưa làm như thế này chút nàọ 

    Chiếc cửa kêu lên răng rắc khi bị đẩy vàọ Rễ cây leo đã luồn qua khe cửa bít chặt ngay cả các khe nhỏ giữa khung cửa và cánh cửạ 

    Lối vào xông lên một mùi ẩm mốc rêu phong. Ông Huỳnh gọi lớn: "Minh ơi!". rồi lại tiếp tục gọi sau mỗi lần chờ trả lời, nhưng vẫn im lìm. Ông Huỳnh đưa tay đóng cánh cửa chính lại, bỏ chìa khóa vào túi quần ông bảo: 

    - Có lẽ mình phải lên lầu thôị 

    Tôi theo sau ông Huỳnh đi lên cầu thang. Một mùi hôi nồng nặc xông lên.Đến tầng trên, ông Huỳnh ngó quanh quất, có vẻ như người lạc đường: 

    - Mấy năm rồi chưa đặt chân đến đâỵ Quên mất cái phòng mà ông Minh ở rồị 

    Sau cùng ông chọn căn phòng cuối phía bên phải, nằm ngó ra đường. Ông ta gõ cửa, nhưng vẫn không có ai trả lờị Ông đập cửa đùng đùng kêu lớn tiếng: "Minh! Huỳnh Hắc đây". Im lặng. 

    Ông vặn nắm cửa, cửa khóa: "Phải phá cửa ra, chứ tôi không có chìa khóa các phòng này!". Sau một phút ngần ngại, ông lùi ra sau lấy trớn, dùng cái vai khổng lồ húc vào cánh cửạ Cánh cửa mở bung ra sau tiếng gỗ và kim khí gẫy bể. Chúng tôi bước vào trong căn phòng nửa sáng nửa tối, không ai thốt lên được lời nàọ 

    Trong đám mầu xanh lục, mờ mờ tranh tối tranh sáng là hình thù một người lọt thỏn trong cái ghế bành cách cửa sổ khoảng một thước tâỵ Cái hình thù này bị lá cây leo năm cánh khổng lồ bao trùm lấy chỉ thấy lờ mờ cái hình ngườị Khoảng một phút hay hơn nữa, tôi như bị mọc rễ đứng cứng đơ tại chỗ vì khiếp đảm, cái hình thù đó cũng không nhúc nhích. Rồi tôi thấy nó cử động. Nó đứng lên với một tiếng rít nhỏ thoát ra từ miệng nó. 

    Các lá cây leo mầu tím xanh giống như mầu da thịt lập tức hướng về phía chúng tôi như bị nam châm hút. Rồi cái hình thù ấy rơi trở lại ghế ngồi, nhưng cái tiếng rít lanh lảnh, không giống tiếng người kia vẫn phát ra không ngừng. Các lá cây leo tiếp tục lao xaọ Có thể do đầu óc tôi tưởng tượng, nhưng tôi có cái cảm giác thật rõ rệt là nhánh cây leo rời khỏi ghế, bò xuống dưới sàn, và bắt đầu trườn về phía chúng tôị 

    Ông Huỳnh chợt htỉnh, lấy tay xô tôi về phía cửa và hét lên: 

    - Đi ra nhanh lên! Chạy ra cửa mau! 

    Tôi đâm bổ ra cầu thang, ông Huỳnh chạy sát theo saụ Kỳ lạ là ngay trong tình cảnh này, tôi chợt thấy đây không phải là con người ông Huỳnh tôi thường biết, hay nghĩ rằng mình đã biết. Khi ra tới ngoài rồi, tôi quay lại bảo ông: 

    - Trời đất ơi, ông Huỳnh ! Ông sắp làm cái quái quỉ gì thế? 

    - Rồi ông sẽ thấỵ 

    Tôi đi theo ông vòng ra sau nhà, chật vật với đám lá cây rậm rạp. Ông Huỳnh vừa đi vừa chửi thề, khua tay chân vạch đám lá cây mở đường đi tới một căn nhà nhỏ chứa đồ gì đó. Căn nhà nhỏ bé này cũng bị cây phủ kín chung quanh trông như một hang động. Ông Huỳnh mở cửa lách vào trong. Tôi đứng chờ, ngạt thở trong đám cây cỏ dầy đặc. Một lát sau ông Huỳnh trở ra trong tay cầm cái rìu nặng, tuy lưỡi đã rỉ sét nhưng cái cán trông còn chắc lắm. Chúng tôi vạch đám lá cây trở ra phía trước. Tôi có cảm tưởng như cái đám cây leo xum xê ấy phủ chùm lên chúng tôị Đến khi trở lại trước cửa nhà, tôi mới hiểu ý của ông Huỳnh. Ông len vào trong, xục xạo tìm cho ra cái thân chính của cây leọ Tôi biết là vô lý nhưng có cảm tưởng cái cây leo như biết được ý đồ của ông Huỳnh. Những lá cây leo to bản như những cái quạt phất vào mặt ông tạ Tôi nhìn thấy rõ ràng một hoặc hai nhánh giây vươn ra cuốn chặt vào vai áo ông Huỳnh. Lập tức ông vung rìu lê chém mạnh vào thân câỵ Tôi thấy ông giật bắn người lên, bước lùi ra sau,ông ngó chừng chừng vào cái thân cây bị chém sâu qúa nửạChùi mồ hôi đọng trên mắt, tôi nhìn chăm chú hơn vào thân câỵ Một giòng chất lỏng đỏ thẫm như máu ứa ra từ thân cây leo Ông Huỳnh tiếp tục vung rìu lên chém tới tấp không ngừng taỵ 

- o O o - 

    Ở Âm Ly, ông Huỳnh là người quen biết nhiều nên đã dàn xếp tránh hết báo chí phỏng vấn, nhà chức trách , điều tra phiền nhiễụ Chỉ có một mẩu tin ngắn thông báo về cái chết của ông Phạm Minh vì bệnh tim. Đám ma cũng rất đơn giản, chỉ có ít thân nhân tham dự, và nắp quan tài được đóng kín. Ông Huỳnh là người thừa kế gia tài, ông đã thuê người chặt hết cây cỏ quanh nhà cho sạch tận gốc. 

    Mãi về sau, khi gặp lại tôi tại hội quán, ông Huỳnh mới trở lại đề tài: 

    - Ông biết không, mẫu các loại trường xuân khổng lồ đó đã được gửi tới các phòng thí nghiệm thảo mộc học khắp nơi trong nước, nhưng không chỗ nào biết rõ xuất xứ! Có lẽ Phạm Minh đã lấy được nó từ chỗ rừng sâu nước độc nào đó không ai biết. Trông nó giống loại trường xuân bình thường Hedera canariensis, nhưng lại có những cái khác biệt rùng rợn mà chúng ta đã được chứng kiến. Nhánh rễ giây leo chui qua các khe cửa sổ phòng ông Minh. Tôi chỉ đoán vì không biết rõ thứ tự những gì đã xẩy rạ Có lẽ ông ta bị lên cơn đau tim bất thình lình, ngồi sụm ngay vào chiếc ghế bành gần đó, rồi ngồi luôn không đứng dậy được nữạ Cây trường xuân khi len vào trong nhà đã bò về phía ông Minh ngồi và những nhánh giây leo đã bám vào người ông, các rễ giây leo nhỏ như sợi tóc bắt đầu len vào da thịt ông. Lúc đó ông vẫn còn sống,chắc là phải đau đớn lắm. 

    Ông Huỳnh ngừng nói rót rượu vào ly, nhấm nháp một tý rồi nói tiếp: 

    - Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng sự đau đớn này cũng không kéo dài lâụ Ngay cả những cái chính mắt mình nhìn thấy cũng có thể bị sai lầm đi nữạ Lúc chúng ta bước vào thì ông Phạm Minh đã chết rồị 

    Tôi lên tiếng phản đối: 

    - Nhưng tôi thấy rõ ràng là ông ta đứng dậy từ chiếc ghế bành mà. 

    Ông Huỳnh nhíu mày lại vẻ mặt không đồng ý: 

    - Vâng, tôi có thấỵ Nhưng... đúng đấy... Ông phải hiểu đó là một loại cộng sinh. Nói khác đi, trên phương diện y học thì Phạm Minh đã chết khi chúng ta đến nơị Các rễ cây trường xuân đã bò vào tới trong não bộ Ông ta, kích thích các giây thần kinh, làm giây thần kinh như sống lạị Nói khác đi, ông ta như một xác chết biết đi, bị điều khiển từ bên ngoàị 

    Tôi lắc đầu chưa chịu thua: 

    - Khó tin những điều ông đang giải thích. Thế còn tiếng kêu rít lên đó... thì saỏ 

    Ông Huỳnh gật đầu chấp nhận sự kiện tôi nêu ra: 

    - Tôi biết. Nhưng ngay cả điều này cũng có thể giải thích được. Cuộc giảo nghiệm tử thi cho thấy các nhánh rễ nhỏ như sợi tóc đã ăn vào tới óc ông ta và có thể kích thích trung tâm phát âm ở đó, mặc dù ông ta đã chết rồị 

    -Thế còn cái chất lỏng đỏ như máu ứa ra từ rễ câỷ 

    Ông Huỳnh nhăn mặt: 

    - Biết thế nào ông cũng nêu câu hỏi đó. Chúng tôi đã nhờ phòng thí nghiệm phân tích. Vâng, đó là máu, có một phần máu người trong đó. 

    Tôi biết không thể tiếp tục bàn cãi thêm được nữạ Ông Huỳnh, theo tôi nhận xét, đã kết thúc đề tài này sau câu giải thích vừa rồị 

    Tới bây giờ, mỗi lần đến nhà một người quen nào có giây trường xuân leo trên bờ tường, tôi tức khắc thúc chủ nhân phải nhổ bỏ đị Có lẽ tôi vẫn còn bị ám ảnh về chuyện này quá nhiềụ Một số người quen biết đã coi tôi là một người có đầu óc bỡn cợt bất bình thường.  

Trường Học Toàn Là Ma

 Nhà ông Khương Bộ Lang ở phía nam sông Vị, có nhiều ma quỷ, thường nhát người ta, vì thế ông phải dời đi chỗ khác, bỏ nhà trống cho một lão bộc giữ cửa bên ngoài thôị Lão này bị ma làm chết. Thay thế mấy người khác cũng chết nốt, thành phải bỏ hoang. 

    Trong làng có Đào Sinh, tên Vọng Tam, tánh ưa phóng khoáng, thích chơi gái, nhưng uống rượu ngà ngà rồi bỏ về. 

    Bạn cố bảo mấy ả chạy theo lôi vào, chàng cười mà không cự tuyệt ở lại cách đêm song chớ hề đụng chạm tới bao giờ. Có lần ngủ đêm ở nhà ông Bộ Lang một nàng hầu đêm khuya đến tự hiến cho chàng, thế mà chàng khăng khăng chối từ, không chịu làm quấỵ Bởi thế, ông Bộ Lang càng trọng là người đứng đắn. 

    Có điều nhà nghèo, vợ lại mới chết, nhà tranh mấy gain, ẩm thấp nực nội khó chịu, bèn xin Bộ Lang cho ở tòa nhà bỏ hoang kiạ Bộ Lang nghĩ nhà ấy nhiều ma, cho nên từ chốị Chàng viết bài luận vô quỷ đưa cho ông xem, và nói: 

    - Ma có làm gì được mình mà sợ ! 

    Bộ Lang thấy nài nĩ quá, đành chọ 

    Chàng dọn đến ở nhà giữa, mới chặp tối để quyển sách đó. về lấy đồ vật khác đêm đến, thì sách đã biến đâu mất rồi, liền nằm ngữa trên giường, lặng lẻ chờ coi sự biến. 

    Giây lát nghe tiếng giày đi lẹp kẹp, liếc nhìn có hai thiếu nữ từ trong buồng đi ra, đặt quyển sách vừa mất trên bàn. Một cô chừng hai mươi tuổi, một cô độ mười bảy, mười tám, đều đẹp tuyệt trần, đứng quanh quẩn bên giường, ngó nhau mà cườị Chàng làm thinh không nhúc nhích. Cô lớn co một chân lên gác trên bụng chàng; cô nhỏ bụm miệng cười khúc khích. Chàng nghe trái tim hồi hộp, dường như bồn chồn không làm sao cầm được, liền ngồi lên chửng chạc trong trí suy nghĩ đứng đắn trở lại rồi thì ngảnh mặt ngó lơ. 

    Cô lớn thò tay trái vuốt râu chàng, còn tay mặt gỏ nhẹ trên trán kêu lộp bộp, cô nhỏ thích chí, càng cười dữ. Bây giờ chàng vùng dậy quát tháo: 

    - Lũ quỷ sao dám hỗn xược thế à? 

    Hai cô hoảng sợ bỏ chạy mất. Chàng sợ bị quấy nhiễu cả đêm, ý muốn dọn về, nhưng đã lỡ nói cứng mất rồi, bỏ đi thì xấu hổ. Nghĩ vậy rồi khêu đèn sáng ngồi đọc sách, thoáng thấy bóng ma chập chờn trong xó tối, nhưng chàng mặc kệ. 

    Gần nửa đêm, để đèn mà ngủ, nghe như có người lấy vật gì nhỏ ngoáy vào lỗ mũi bắt hắt hơi bắn người lên, trong xó có tiếng cười sặc sụạ Chàng không nói chi, giả đò ngủ để xem còn làm trò gì nữạ Một lát, hé mắt dòm thấy cô nhỏ mon men đến nơi, chàng nhỏm dậy mắng rầm cả hai lui lủi trốn mất. 

    Chừng dỗ được giấc ngủ vừa thiêm thiếp, lại bị ngoáy lỗ taị Suốt đêm họ nghịch ngợm quấy nhiễu, hết trò này đến trò kia, mãi đến gà gáy mới yên. Lúc ấy chàng mới được ngon giấc, cả ngày không nghe không thấy gì lạ. 

    Đến mặt trời lặng trở đi, ma lại xuất hiện. Chàng bàn tính cách nấu cơm đêm, cho được thức luôn tới sáng. Cô lớn dần dà ngồi xếp bằng trên ghế xem chàng đọc sách, rồi thò tay bịt lấy sách, chàng giận chụp bắt, nàng vụt biến đị Chốc lại mò đến, chàng để tay chận trên sách mà đọc. Cô nhỏ lén đến sau lưng, đưa tay bưng lấy mắt chàng, rồi chạy vụt ra đứng xa xa mà cườị Chàng phát cáu điểm mặt nhiếc mắng: 

    - Con ma bắt tì kia, hễ tao bắt được thì giết chết cả đôi ! 

    Nàng cũng chẳng sợ, nhơn dịp, chàng nói giỡn chơi: 

    - Cái trò lăn lóc trên giường, tôi không thiện nghệ đâụ Các cô chọc nghẹo làm chi, vô ích ! 

    Hai cô mỉm cười day mình đi vô trong bếp, chia nhau chẻ củi nhen lửa, vo gạo nấu cơm hộ chàng. Chàng ngó và khen: 

    - Hai cô làm việc có ích như thế, không hơn là nghịch ngợm ư? 

    Cơm nấu chín rồi lại tranh nhau lấy thìa muỗng đũa chén bày trên bàn, chàng nói: 

    - Cảm ơn phục dịch, lấy gì báo đền được nhau đây? 

    Nàng cười đáp: 

    - Trong cơm có bỏ thuốc độc đó, coi chừng kẽo chết. 

   Chàng trả lời: 

    - Xưa nay tôi có thù oán gì hai cô, lẽ đâu hại nhau đến thế? 

    Chàng ăn hết chén cơm, hai cô dành bới chén khác bưng lại, bôn tẩu xăng xái, chàng thấy rất vuị 

    Ngày ngày thành ra quen thân, cùng người nói chuyện, hỏi đến tánh danh, cô lớn nói: 

    - Em là Thu Dung, họ Kiều; con bé kia Tiểu Tạ, họ Nguyễn đó. 

    Chàng tò mò hỏi đến nguyên do tại sao ở chốn này, Tiểu Tạ cười và nói: 

    - Anh này ngốc quá! Đến mình mẩy còn chẳng dám phô ra cho người ta xem, ai mượn anh hỏi tới dánh tánh cửa nhà, dễ thường muốn xin cưới đó sao? 

    Chàng nghiêm nét mặt, nói: 

    - Đối diện người đẹp, bảo tôi vô tình sao được? Có điều âm khí nặng nề, người ta đụng vào tất là phải chết. Vậy, không vui ở chung với nhau thì nên đi, nếu vui ở chung với nhau thì cứ ở, ai yên phận nấỵ Ví bằng tôi chẳng được thương yêu, thì làm sao tôi xâm phạm được tới hai cô, ví bằng tôi đáng được thương yêu, thì chắc hai cô không nỡ lòng nào vật chết một thằng cuồng sị Hai cô thử nghĩ như thế có phải không? 

    Hai nàng nghe nói, ngó nhau có vẻ động lòng, từ đó trở đi không nghịch ngợm tinh quái nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn chơi đùa thọc tay vào bụng chàng, có khi lột quần xuống tới đất, chàng không lấy làm lạ. 

    Một hôm chàng chép quyển sách chưa xong, thì có việc gấp phải đi, lúc trở về thấy Tiểu Tạ đang cúi mình trên bàn, cầm bút chép nốị Nàng trông thấy chàng về, ném bút xuống đất mà cười; chàng đến gần xem, chữ viết tuy còn xấu, nhưng hàng lối ngay ngắn, tấm tắc khen: 

    - Cô viết khá đấy; nếu thích học thì tôi sẽ dạy chọ 

    Đoạn, ôm nàng vào lòng, cầm tay dạy viết. 

    Thu Dung ở ngoài chạy vô, mặt hơi tái, như có vẻ ghen tức. Tiểu Tạ cười nói:

    - Hồi em con bé, ông thân em đã dạy viết chữ song bỏ lâu ngày, giờ cầm bút như bỡ ngỡ mới tập vậỵ 

    Thu Dung chẳng nói gì, chàng hiểu ý, giả đò không biết, rồi cũng ôm nàng vào lòng, trao cây bút cho và nói: 

    - Tôi xem cô có viết được không nào? 

    Cầm tay nàng viết mấy chữ, đứng lên nói tiếp: 

    - Chữ cô Thu viết tố đáo để ! 

    Bấy giờ Thu Dung mới hả lòng. 

    Liền đó chàng rọc hai tờ giấy làm nòng, cho hai nàng cùng tập viết, còn mình thì ngồi học với một ngọn đèn riêng, trong bụng mừng thầm ai cũng có việc làm, hết quấy rối nhaụ 

    Viết xong, hai nàng đem đến cho chàng sửa chữa phê bình. 

    Từ trước, Thu Dung vốn chưa từng đi học, cho nên chữ viết nguệch ngoạc bất thành tự. Sau khi nghe chàng chỉ bảo, nàng tự xét thua kém Tiểu Tạ, mặt có vẻ thẹn, chàng phải vỗ về yên ủi rất khéo, nhan sắc nàng mới tươi trở lạị 

    Hôm đó về sau, họ coi chàng như một thầy đồ, ngồi thì gãi lưng, nằm thì bóp cẳng, đã không dám lớn mặt, lại còn tranh nhau chiều chuộng. 

    Cách mấy bữa, Tiểu Tạ viết chữ coi ngay ngắn tốt đẹp, chàng buộc miệng khen mãi, Thu Dung tủi thân, nước mắt rưng rưng, chàng phải khuyên giải đủ cách mới êm. Nhân đó, chàng lấy sách ra dậy học, cả hai cùng thông minh lạ thường, chỉ dạy qua một bận là nhớ, không hỏi tới hai lần. Thầy trò thi nhau đọc sách ê a, thường khi suốt đêm tới sáng. 

    Tiểu Tạ lại dắt thằng em là Tam Lang đến thọ nghiệp. Cậu này mới mười lăm, mười sáu tuổi, mặt mày điển trai, đem dâng lễ nhập môn là cái móc bằng vàng. 

    Chàng để Tam Lang học chung một sách với Thu Dung. Từ đó, chàng làm như mở trường dạy học toàn ma, cứ tối đến, tiếng đọc sách vang rân cả nhà. Ông Bộ Lang nghe lấy làm mừng, thỉnh thoảng cho người mang gạo củi tới giúp đỡ. 

    Được mấy tháng Thu Dung với Tam Lang đều biết làm thơ, thường cùng nhau xướng họạ Tiểu Tạ ngầm bảo chàng đừng dạy Thu Dung, chàng ừ; Thu Dung ngầm cũng bảo chàng đừng dạy Tiểu Tạ chàng cũng gật. 

    Một hôm, gần tới khoa thi, hai nàng cùng khóc lóc sắp tiễn đưa chàng ứng thí, nhưng Tam Lang nói: 

    - Chuyến này thầy nên cáo bịnh đừng đi thì hơn. Không vậy, e gặp sự chẳng lành đó. 

    Chàng nghĩ sự cáo bịnh trốn thì là nhục, cho nên cứ đị 

    Nguyên trước, chàng làm thơ chê bai thời sự, đã được chạm tới một nhà quý phá trong bản hạt; lão này vẫn ghi mối thù, đêm ngày tìm cách làm hạị Nay lão đem tiền đút lót quan đốc học, vu chàng hạnh kiểm không tốt, bắt giam vô ngục dây dưạ Chàng hết sạch tiền túi, khải xin ăn quanh bạn đồng tù, trong lòng tự nghĩ mình đến chết khô ở chốn này, không trông gì được sống nữạ 

    Bỗng thấy một người thoáng vào chỗ giam, nhìn ra chính là Thu Dung đem cơm đến nuôi chàng. Hai người ngó nhau khóc thút thít, nàng nói: 

    - Tam lang từng lo thầy đi chuyến này gặp sự chẳng lành, nay đã quả nhiên. Tam lang cùng đi với em, nhưng hắn cầm đơn vào phá viện kêu oan rồị 

    Nói qua loa một hai câu rồi nàng đi ra, nội ngục chẳng ai trông thấy gì cả. 

    Hôm sau, quan Hình bộ đi ra, Tam Lang đón đường kêu là có chuyện oan khuất, quan chấp đơn và giữ cả người để xét. 

    Thu Dung lại vô ngục báo tin cho chàng, rồi trở ra đi dò thăm, luôn ba ngày không thấy mặt, cah'ng buồn lòng đói bụng, coi một ngày đằng đằng như một năm. 

    Chợt thấy Tiểu Tạ đến, mặt mài ủ rủ muốn xỉu, nói Thu Dung bữa kia ở đây về, đi qua miễu Thành Hoàng, bị Ông Phán quan mặt lọ nồi ở hành làng mé tây chạy ra bắt đi, ép nàng làm vợ bé. Nàng không chịu khuất , hiện đang bị giam kín. Em rong ruổi hơn trăm dặm đường, vất vả muốn chết, khi đến cửa bắc lại bị gai gia đâm vào giữa gan bàn chưn đau buốt thấu xương tủy, em bận sau em không tới đây được nữạ 

    Nói đoạn, đưa bàn chưn ra phô, máu còn đóng giây đóng cục; vội vã trao tay cho chàng ba lượng vàng, rồi khập khễnh biến đị 

    Quan Hình bộ xét vụ Tam Lang khiếu nại, thấy và chẳng có họ hàng thân thuộc chi với bị cáo mà tự nhiên thay mặt kêu oan, cho thế là sự trái nghịch, toan thét lính căng nọc đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất, quan lấy làm kinh dị, xem tờ khiếu nại, thấy lời lẽ tha thiết, liền gọi lính giải chàng đến trước mặt xét hỏi Tam Lang là người thế nàọ Chàng giả đò không biết. Quan biết chàng oan uổng, lập tức thả về. 

    Chàng về nhà suốt cả buổi tối chả thấy một người nào tới, mãi đến nửa đêm mới thấy Tiểu Tạ bước vào sầu thảm và hỏi: 

    - Tam Lang biến ở sân quan Hình bộ, lập tức bị thần áp giải xuống âm ty, Diêm Vương thấy và có nghĩa, đã phú cho đi thác sanh vô nhà giàu sáng rồị Còn Thu Dung thì vẫn bị giam cầm, em đầu đơn kêu Thành Hoàng, lại bị ngăn trở không được vô, giờ làm thế nào? 

    Chàng nghe nổi doá nắng chửi um sùm: 

    - Thằng quỷ lọ nồi, sao dám ỷ thế hiếp người như vậy kìa? Để mai tao đạp pho tượng nó mà chà thành đất bùn, lại điểm vào mặt Thành Hoàng hỏi tội lão, tại sao để cho thuộc hạ bạo tàn đến thê? Lào ta say sưa mê mộng không biết hay sao? 

    Hai người bi phẫn nhìn nhau, mãi tới gần hết canh tư, bỗng Thu Dung vụt đến, làm cho hai người mừng rỡ sửng sốt vô cùng. Thu Dung khóc và nói: 

    - Thật là vì chàng mà em phải chịu muốn vàn khổ nhục. Lão phán quan lọ nồi hàng ngày đưa dao gậy ra hiếp bức. Đêm nay tự nhiên thả cho em về nói rằng: "Ta không có ý gì khác đâu, chỉ vì thấy người đẹp mà thương yêu, nếu lòng chẳng khứng thì ta cũng chẳng nỡ ép nhau mãị Giờ tha nàng về, cảm phiền nói nhắn với ông Đào Thu Tào, chớ hiềm thù trách giận ta nghe". 

    Chàng nghe chuyện vui lòng hả dạ đôi chút. Nhân dịp cao hứng, muốn cùng ngủ chung một giường, nói rằng hôm nay vì khanh mà chết cũng cam. Hai nàng nhăn nhó và nói: 

    - Bấy lâu nhờ chàng dạy bảo, chúng tôi hơi biết nghĩa lý ít nhiều, nỡ lòng nào lấy sự yêu chàng để giết chàng cho đành? 

    Hai nàng nhứt định không chịu ngủ chung, nhưng nghiêng đầu bá cổ, tình thân mật y như vợ chồng. Vì có gặp tai nạn, ý nghĩa ghen tương của họ đà tiêu đi hết. 

    Một vị đạo sĩ gặp chàng ngoài đường, bảo chàng có quỷ khí; chàng nghe nói lạ, bèn ngỏ chuyện thật. Đạo sĩ nói: 

    - Ma đó tốt lắm, chớ nên phụ nó. 

    Rồi viết hai lá bùa trao cho chàng, căn dặn: 

    - Về trao cho mỗi cô ma một lá bùa này, để tùy theo phước mạng run rủi, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc con gái, thì nuốt lá bùa chạy ra tức khắc, cô nào ra trước thì sống lạị 

    Chàng cảm tạ, đem bùa về trao cho hai nàng, căn dặn như lời đạo sĩ. 

    Hơn tháng sau, quả nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con gái, hai cô tranh nhau chạy rạ Tiểu Tạ lật đật quá, quên nuốt lá bùạ Khi thấy đám táng vừa đi ngang, Thu Dung chạy thẳng tới, chun vô quan tài, còn Tiểu Tạ không chun vô đặng, khóc lóc trở về. 

    Chàng liền ra xem, thì ra đám táng người con gái nhà giàu, họ Hác; ai nấy cùng trông thoáng thấy một cô thiếu nữ chun vô quan tài rồi mất, đều xầm xì bàn tán, cho là chuyện quái lạ. Giữa lúc đó, nghe trong quan tài có tiếng động, người ta bèn đỗ lại để mở ra xem, thấy Hác nữ đã tỉnh lạị Tang gia bèn xin tạm ký ở ngoài cửa nhà học của chàng, sai người canh giữ. 

    Bỗng nàng mở mắt, hỏi Đạo Sinh đâu? Hác gia lấy làm lạ, xúm lại gạn hỏi nguồn cơn, nàng đáp: 

    - Ta không phải là con gái nhà ngươi nữa đâụ 

    Rồi kể rõ sự tình đầu cuốị Hác gia không tin, muốn khiêng về nhà. Nàng không nghe, chạy tuốt vô nhà học, nằm lỳ không dậỵ Hác gia đành nhận diện ở chàng là chú rể, rồi kéo nhau đị 

    Chàng đến gần xem, tuy diện mạo có khác, nhưng vẽ kiều diễm không kém gì Thu Dung, mừng quá sở vọng cùng nhau nhắc chuyện bình sanh một cách niềm nở. Chợt nghe góc nhà có tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang khóc một mình trong xó tốị Hai người rất thương cầm đèn đến soi và kiếm lời yên ủi, thấy nàng vẫn khóc nức nỡ, áo xuống đẫm lệ, cứ thế cho tới gần sáng mới đị 

    Sáng ngày, Hác gia đem rương hòm y phục vào cho mấy người hầu hạ sang ở nhà chàng, nghiễm nhiên thành nhạc gia và gia tế vậỵ 

    Tối lại, chàng vô buồng vợ, thì Tiểu Tạ lại khóc thảm thiết, kéo luôn sáu bảy đêm khiến hai vợ chồng cùng xót thương cảm động, không thành lễ hiệp cẩn với nhau đặng. Chàng lo nghĩ nát ruột không tìm ra kế gì. Thu Dung nói: 

    - Đạo sĩ chắc là tiên, vậy mình lại đi tìm ông mà cầu khẩn, may ra ổng thương tình cứu giúp. 

    Chàng lấy làm phải, liền đi tìm đến Đạo sĩ, quỳ mọp xuống dất bày tỏ sự tình. Đạo sĩ một mực trả lời rằng không có phép gì giúp được. Chàng ai cầu mãi, Đạo sĩ cưới, nói: 

    - Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta thôị Nhưng, thật anh có duyên số với con ma đó nữa, thôi để ta ráng sức giúp chọ 

    Đạo sĩ liền theo chàng về nhà, dời ở riêng một gian tĩnh mịch, đóng cửa ngồi bên trong, bảo không ai được gọi hỏi gì cả. Luôn mười đêm ngày không hề ăn uống. Lén dòm, thấy ông ngồi thiếp như ngủ. 

    Một hôm mới tảng sáng, có một thiếu nữ vén màn bước vô, mắt sáng miệng tươi, vẻ rất kiều diễm, mỉm cười và nói: 

    - Tôi bương chải suốt đêm, mệt quá. Bị ngà ngươi đeo theo làm rộn, mà phải bôn tẩu hơn trăm dặm đường, mới tìm ra một tòa nhà tốt đặng vô nghỉ chưn. Đạo sĩ đi rước và cùng đến đâỵ Chờ nàng vô để giao phó thì xong. 

    Chặp tối, Tiểu Tạ đến, thiếu nữ vội vàng đứng lên đón, ôm chầm lấy nàng, tức thời hai người nhập chung vào một thân thể, rồi ngã gục xuống đất, cứng đơ. 

    Lúc ấy, Đạo sĩ từ trong phòng bước ra, vòng tay chào rồi đi thẳng. 

    Chàng cảm tạ, tiễn chưn ra tới ngoài; chừng trỏ vô thì nàng đã tỉnh, liền ôm đặt lên giường. Hơi thở dần dần điều hòa, nhưng vẫn ôm cẳng la đau, mấy hôm sau mới đứng dậy đi lại được. 

    Sau, chàng đi thi, được khôi nguyên ghi tên va danh sách sĩ tử. Có bạn cùng số là Thái Tử Kinh, nhơn việc đến nhà chàng, ở chơi mấy ngàỵ Tiểu Tạ qua thăm lối xóm trở về, Thái trông thấy, rảo bước theo dõị Tiểu Tạ kiếm đường tránh đi, trong trí thầm giận người khách vô lễ. Thái về nói với chàng: 

    - Có một chuyện quái lạ vô cùng, anh có cho phép tôi nói chăng? 

    Chàng hỏi chuyện chi, Thái đáp: 

    - Ba năm về trước, cô em gái tôi chết yểu, cách hai đêm thì mất thi thể, đến nay hãy còn ngờ vực khó hiểụ Mới rồi dòm thấy phu nhơn sao mà giống cô em tôi hết sức. 

    Chàng cười: 

    - Vợ tôi là người quê mùa, làm sao sánh được quý muội, nhưng tôi với anh đã là bạn đồng phả với nhau, nghĩa rất thân thiết, vậy để tôi cho nhà tôi ra chàọ 

    Nói đoạn vô nhà trong, bảo Tiểu Tạ lấy đồ tuẫn táng hôm nọ mà mặc, rồi ra chào khách. Thái thất kinh nói: 

    - Chính em tôi đấy mà. 

    Rồi khóc rưng rức. Chàng thuật chuyện gốc ngọn cho nghe, Thái mừng rỡ nói: 

    - Thế là em gái tôi chưa chết, tôi phải về liền, báo tin cho bà thân mẫu tôi yên lòng. 

    Mấy hôm sau, cả Thái gia kéo đến thăm, từ đó về sau, thường thường lui tới như Hác gia vậỵ

Hồn Ma Trong Biệt Thự

Tân, một người bạn học cũ của Khôi, mời Khôi tới toà biệt thự tráng lệ của Tân tại Đà Lạt nghỉ ngơi trong dịp cuối tuần. Tại đây, Khôi gặp một số bè bạn của Tân và hình như có một cái gì rất bất thường đang xẩy ra trong ngôi biệt thự khi mọi người thảo luận về hồn ma của một nữ tu. 

    Trong bữa ăn chiều, Khôi thấy mọi người đặc biệt theo dõi chàng và nói về chàng, hình như cho rằng chàng là đối tượng của một cái gì bí mật. 

    Và những gì xẩy ra sau đó theo lời kể lại của Khôi.... 

    ... Tới mười một giờ thì tất cả khách khứa của Tân đều về phòng hết, chỉ còn lại hai vợ chồng Tân và tôi ngồi trong phòng khách. Vợ Tân nói chuyện về mấy người hàng xóm trước khi che miệng ngáp dài và xin phép về phòng trước. Rõ rệt nàng cảm thấy hài lòng khi rời khỏi phòng khách. 

    Không hiểu tại sao tôi có ý nghĩ rằng hình như mọi việc tại đây không được bình thường và chợt cảm thấy hối hận khi đã bỏ bao nhiêu công việc tại Sài Gòn, lên đây theo lời mời của vợ chồng Tân để không làm gì hết! 

    Vợ Tân đi rồi, Tân không nói nhiều lắm mà dường như chỉ cố tìm cách nói về việc căn biệt thự của anh bị ma ám. Bắt mạch được việc này, tôi hỏi ngay: 

    - Có phải ông muốn nói rằng căn biệt thự của ông có ma phải không? 

    Vừa dứt lời, tôi nhận thấy ngay một nét kinh hoàng thoáng hiện trên mặt người bạn cũ. Tôi bèn bảo Tân: 

    - Thôi được! Ông không muốn nói thì thôi, tôi đi ngủ để sáng mai còn dậy sớm. 

    Không nói một lời, Tân đứng dậy bước lên lầu. Tôi đi theo anh. 

    Đi hết dẫy hành lang tới trước cửa phòng ngủ của tôi, Tân dừng lại, hỏi tôi bằng một giọng run run: 

    - Nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không? 

    Trong bữa ăn chiều, khi thảo luận về hồn ma của một nữ tu, một người bạn của Tân hỏi tôi: 

    - Nghe Tân nói rằng ông là người cứng bóng vía, không tin những chuyện ma quỉ. Nhưng... nếu gặp ma, ông có dám nói chuyện với nó hay không? 

    Tôi mỉm cười từ tốn đáp lời người bạn mới: 

    - Nếu đã không có ma thì ma ở đâu cho tôi gặp! Còn chuyện gặp gỡ chuyện trò thì tôi sẵn sàng trò chuyện với bất cứ ai. 

    Bây giờ nghe câu hỏi của Tân, tôi không trả lời. Tân đứng im khoảng một phút trước khi chúc tôi “bonne nuit” rồi quay đi. Khi tới cửa phòng ngủ của anh, Tân quay lại nhìn tôi: 

    - Nếu cần gì, ông cứ gọi tôi. 

    Rồi Tân đóng cửa. 

    Tôi bước vào phòng, thay đồ ngủ, bật ngọn đèn nhỏ ở đầu giường, đọc một hai tờ báo. Chưa đầy nửa tiếng mắt tôi đã díu lại, tôi tắt đèn và ngủ ngay lập tức. 

    Khoảng nửa đêm tôi thức giấc. Bên ngoài trời lặng gió. Bên trong căn biệt thự nguy nga của Tân cũng im lìm. 

    Đột nhiên một tiếng cú gào lên khiến tôi rợn tóc gáy. Tôi không ngủ được nữa và quyết định đọc báo cho tới khi gục. 

    Tôi mò tìm quả nắm ở đầu giường và nhấn nút. Áng sáng đột ngột tỏa ra khiến tôi chói mắt. Tôi cầm tờ báo lên toan đọc, nhưng không hiểu tại sao tôi lại liếc nhìn xuống phía chân giường. 

    Tôi không thể nào tả lại được cho bạn nghe những gì xẩy ra cũng như không thể diễn tả được những gì tôi cảm thấy lúc đó. Tôi chỉ nhớ rằng tim tôi như ngưng đập, cổ tôi khô cứng, và bị thúc đẩy bởi sự kinh hoàng, tôi ngồi bật dậy, co rút ở đầu giường. 

    Có lẽ hành động bất chợt đó khiến tim tôi đập lại và mồ hôi của tôi vã ra như tắm. Tôi không phải là người tin tưởng ở bất kỳ tôn giáo nào và tôi không bao giờ tin là có ma. Nhưng tôi còn nhớ rõ trong giây phút đó, định kiến của tôi hầu như thay đổi hoàn toàn, vì ở phía chân giường, một hình người quấn những mảnh vải liệm tả tơi trắng xóa từ đầu đến chân đang đứng nhìn chòng chọc vào mặt tôi. Cái đầu, chỉ còn cái sọ với hai lỗ mắt đen ngòm, sâu hoắm, đang nhìn thẳng vào mặt tôi. Ngoại trừ hai bàn tay xương xẩu đang chờn vờn, có vẻ như muốn chụp lấy tôi, cái sọ người và toàn thân hồn ma hoàn toàn bất động. 

    Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của cái sọ người và đôi mắt sâu hoắm cũng trừng trừng nhìn tôi, hai hàm răng trắng nhởn nhe ra mà tôi không biết là cười hay dọa. 

    Tôi vẫn cầm quả nắm trong tay. Ý tưởng tắt đèn vụt đến nhưng tôi không dám, sợ trong bóng tối lỡ hồn ma nhào tới vuốt nhẹ vào mặt tôi một cái thì chắc là tôi chết ngay tại chỗ quá. Quá căng thẳng tôi nhắm mắt lại, nhưng lai vội vã mở ra ngay. 

    Hồn ma vẫn ở đó. Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực và mồ hôi khiến tôi run lên vì lạnh. Đầu óc tôi hoàn toàn tê liệt trong hai mươi giây hoặc hai mươi phút, tôi không biết. 

    Đột nhiên tôi nhớ tới cảnh các bạn bè của Tân nói về chuyện hồn ma người nữ tu và những đôi mắt nhìn tôi xoi mói. Tôi cũng nhớ câu nói của Tân “nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?”. Đầu óc tôi chợt loé lên một tia sáng: “Tụi nó dám dàn cảnh phá mình lắm à!”. Chỉ nghĩ tới đó, mặt tôi chợt nóng bừng, tim tôi đập huỳnh hụÿch, không phải vì sợ mà vì giận. Hừ! Nếu tụi nó muốn chọc phá tôi, tôi phải cho bọn chúng một bài học mới được!”. 

    Vừa nghĩ xong, tôi lao vụt về phía chân giường, thẳng tay đấm thật mạnh vào “hồn ma”. Cú đấm của tôi khiến bộ xương bật ngửa ra đất và tay tôi, không hiểu đấm trúng vào chỗ nào, máu chảy đầm đìa. 

    Chỗ tay bị cắt khiến tôi giận điên lên, phóng xuống giường, đứng nhìn bộ xương nằm bất động trên mặt đất. Rõ rệt đây là một trò bịp, có thể đã được dàn cảnh và “trình diễn” nhiều lần để Tân và lũ bạn có dịp giải trí hoặc đánh cá với nhau về phản ứng của các “nạn nhân” khi đối diện với hồn ma do chúng dựng lên. 

    Cơn giận khiến tôi không còn suy nghĩ gì hơn được nữa, Tôi cúi xuống chụp lấy tấm vải liệm giựt mạnh rồi xé tan xé nát khiến bụi bay mù mịt. Rồi tôi giở cái sọ lên giộng mạnh xuống sàn nhà trước khi giựt cái sọ bị nứt nẻ ra khỏi bộ xương, đập mạnh xuống đất mấy cái nữa khiến cái sọ bể thành nhiều mảnh. Chưa đã giận, tôi lượm hai cái xương cánh tay lên phang mạnh vào thành giường khiến chúng gẫy đôi. Liệng mấy khúc xương vụn vào một góc nhà, tôi tiếp tục thanh toán hai cái xương ống quyển. Những cái xương sườn bị tôi lượm từng cái lên, kéo ngăn bàn ra đút vào một nửa, khép ngăn bàn lại và... rắc rắc... Càng “làm việc” tôi càng hăng say và chẳng bao lâu cuộc “tàn phá” của tôi đã hoàn tất. Bây giờ trong phòng ngổn ngang những mảnh xương vụn, những khúc xương gẫy và một màn bụi mịt mù. 

    Lượm một mảnh xương sọ nằm sát chân lên, mảnh xương má bên trái, tôi xô cửa bước ra, huỳnh hụych tiến thẳng tới phòng ngủ của Tân. Tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua những giọt mồ hôi của tôi thi nhau rơi lã chã trên mặt hành lang. 

    Tới trước cửa phòng Tân tôi ngưng lại, giơ chân đá thật mạnh khiến cánh cửa bật tung ra.

    Đèn trong phòng vẫn bật sáng tự lúc nào và tôi thấy Tân đang ngồi trên giường co rúm cả người lại, có lẽ vì kinh hoàng. Thấy tôi cầm miếng xương bước vào với vẻ giận dữ, mặt mày Tân tái ngắt, người anh run lẩy bẩy. 

    Tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi không nhớ lúc đó tôi nói những gì mà chỉ biết đại khái là những lời giận dữ, sỉ vả Tân vì cái trò ma quái rẻ tiền của anh, vì việc dàn cảnh để biến tôi thành một trò hề. Tôi không biết tôi đã nói trong bao lâu mà chỉ nhớ rằng lúc đó tôi chợt cảm thấy phục tài hùng biện của chính mình. 

    Với bàn tay máu còn đang nhỏ giọt, với mái tóc đẫm mồ hôi phủ xuống khuôn mặt giận dữ đến cực độ, lúc đó coi tôi chắc không giống ai. Trong khi đó, Tân thu mình ở đầu giường, có lẽ giống như tôi khi vừa nhìn thấy “hồn ma”. Anh ngồi run rẩy không nói được một lời tuy một hai lần tôi thấy anh liếm môi như toan lên tiếng. Hình như Tân đang bận suy nghĩ cái gì vì hai tay anh đưa lên đưa xuống, đôi môi anh thỉnh thoảng lại mấp máy nhưng không một âm thanh nào thoát ra. 

    Đột nhiên có tiếng chân chạy huỳnh hụych bên ngoài hành lang, rồi vợ Tân lao vào, mặt mày tái ngắt, run lẩy bẩy: 

    - Có chuyện gì đó? Trời ơi! Chắc nó lại hiện lên nữa phải không? 

    Thấy Tân đang ngồi co rúm, run rẩy trên đầu giường, nàng chạy tới ngồi sát bên chồng và cả hai cùng nhìn tôi chờ đợi. 

    Tôi cho nàng biết những gì xẩy ra trong phòng ngủ của tôi. Tôi nói rằng tôi đã làm hỏng việc dàn cảnh trò ma quái láo lếu của họ để biến tôi thành trò cười... 

    Trong khi tôi nói, Tân có vẻ ngơ ngác, làm như không hiểu tôi đang nói gì. Thấy thế, tôi bèn gằn giọng: 

    - Tôi đã đập nát món đồ chơi quái gở của ông bà thành hàng trăm mảnh rồi! Về Sài Gòn tôi sẽ cho tất cả bạn bè hay cái trò chơi hèn hạ này. 

    Rồi tôi ném miếng xương trên tay xuống sát cái chân giường gần chỗ hai vợ chồng Tân đang ngồi: 

    - Đó, hãy giữ lại món quà kỷ niệm trò chơi đốn mạt của ông bà đi! 

    Tân nhìn thấy mảnh xương, và trong một thoáng, anh khiến tôi sợ hãi. Anh la hét thất thanh như con heo bị thọc huyết. Anh la hét, la hét tới độ vợ anh, có lẽ vừa sợ hãi vừa kinh ngạc như tôi, ôm lấy anh vỗ về như vỗ về một đứa trẻ. 

    Rồi Tân xô vợ ra, bước xuống đất, vừa la hét vừa ngồi thụp xuống, run rẩy lượm mảnh xương dính đầy máu lên. 

    Khi anh đứng lên, tình hình chợt biến đổi, mở đầu cho sự hãi hùng thực sự đêm hôm đó. 

    Cầm mảnh xương trong tay, Tân đột nhiên nín bặt, có vẻ như đang lắng nghe một cái gì. Rồi anh lẩm bẩm “tới giờ rồi, tới giờ rồi...” trước khi té xuống, đập đầu vào cạnh giường chảy máu. Mảnh xương trong tay anh văng vào một góc phòng. 

    Không suy nghĩ, tôi bước tới nâng Tân dậy. Mặt mũi anh bơ phờ, hốc hác và đầy máu. Tuy nhiên anh vẫn lẩm bẩm: “Nghe kìa... nghe kìa...”. Vợ Tân và tôi nhìn nhau và lắng tai nghe. 

    Khoảng mười giây sau, tôi nghĩ rằng tôi nghe thấy một cái gì. Tôi không chắc lắm nhưng tôi không thể lầm được. Hình như có tiếng chân di chuyển thật êm, thật nhẹ ngoài hành lang. Rồi những bước chân nghe rõ hơn trên sàn gỗ, đang tiến về phía chúng tôi. 

    Tân bước tới chỗ vợ đang ngồi run rẩy trên giường mặt mày tái ngắt, kéo mặt vợ úp vào vai anh. Rồi Tân tắt đèn, kéo vợ xuống và cả hai nằm úp mặt lên một cái gối trên giường như cố tránh né hoặc không muốn nhìn thấy một cái gì. 

    Bây giờ chỉ còn lại mình tôi đối diện với cánh cửa mở toang và tiếng chân mỗi lúc một gần. Tôi đưa tay vỗ vai vợ Tân để tìm đồng minh nhưng người đàn bà không phản ứng. Sự sợ hãi, sự hèn nhát của họ có lẽ đã kéo tôi về phe với họ. Hai chân tôi tự nhiên khụyu xuống và tôi thấy mình cũng úp mặt xuống giường. 

    Cả ba chúng tôi nằm yên hầu như nín thở, lắng nghe. 

    Bây giờ tiếng chân đã dừng lại ngay trước cửa phòng. Tôi cố gắng ngước đầu lên nhưng thần kinh tôi hình như tê liệt khiến tôi không còn điều khiển nổi một phần thân thể của mình nữa! 

    Rồi chúng tôi nghe như có tiếng áo quần xào xạc, tiếng thở xì xì và biết rõ “nó” đã bước vào phòng. Tôi cố gắng ngóc đầu lên nhưng hình như bị một sức mạnh vô hình đè xuống. Tôi thầm sỉ vả sự hèn nhát của mình trong khi tai vẫn lắng nghe tiếng “nó” di chuyển trong phòng. Rồi những bước chân dừng lại ở góc phòng nơi có mảnh xương sọ mà Tân vừa đánh rơi. 

    Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân hòa lẫn những tiếng loạt xoạt tiến về phía cửa phòng, bước ra ngoài và từ từ đi xa. 

    Trong một phút sự can đảm đột nhiên trở lại, tôi đứng bật dậy lao mình ra cửa nhìn theo về cuối hành lang, nơi tôi nghĩ rằng tôi nhìn thấy một cái gì mờ nhạt mỗi lúc một xa. Rồi chỉ một giây sau, tất cả hoàn toàn trống vắng! 

    Tôi thẫn thờ quay vào phòng nói với Tân: 

    - Ông bật đèn lên đi. 

    Ánh đèn vừa bật sáng, tôi nhận thấy ngay mảnh xương ở góc phòng đã biến mất và vợ Tân đang bất tỉnh. Tân hoàn toàn như kẻ mất hồn và phải mất tới gần mười phút tôi mới khiến vợ Tân tỉnh lại. 

    Trong khi Tân lẩm bẩm, mà tôi không hiểu anh muốn nói gì hoặc đang cầu nguyện, tôi chỉ nghe được một câu đáng nhớ khi Tân nói với tôi bằng giọng của kẻ mơ ngủ “Ông không nói chuyện với cô ta phải không?”. 

    Sau đó, ba chúng tôi ngồi bên nhau trên giường cho tới sáng. Thực ra vợ Tân đã ngủ gục sau một hai tiếng đồng hồ. Trong giấc ngủ này chắc chắn nàng chỉ nằm mơ toàn ác mộng nên thỉnh thoảng lại run rẩy, giẫy giụa và la ú ớ khiến tôi phải đánh thức nàng dậy mấy lần. Tân thì hoàn toàn không nhờ cậy được gì khi anh ngồi yên lặng như một pho tượng không hồn, tuy có đôi ba lần anh nói với anh những gì tôi không nghe rõ. 

    Trong đời tôi, chưa bao giờ đêm dài đến thế! Thành thực mà nói, cứ mỗi phút trôi qua tôi lại cảm thấy thêm khổ sở nhưng không dám làm gì khác hơn là tiếp tục ngồi bó gối trên giường. 

    Hai biến cố khủng khiếp trong cùng một đêm - hồn ma ngồi dưới chân giường và những tiếng chân vô hình tiến vào phòng lượm mảnh xương rơi - khiến quan điểm vô thần của tôi hầu như hoàn toàn xụp đổ. 

    Trong khi ngồi co rúm trên giường, tôi không biết làm gì khác hơn là lấy khăn tay quấn chặt chỗ máu chảy. 

    Những tiếng gà gáy đầu tiên vọng lại từ phía xa xa chẳng khác gì những liều thuốc hồi sinh đối với chúng tôi. Và khi những tiếng chim ríu rít trên cành hòa lẫn với giữa những vạt sáng đầu tiên trong ngày, chúng tôi biết ngay sẽ phải làm gì. 

    Tuy nhiên cả ba chúng tôi vẫn ngồi bất động cho tới khi bác quản gia già bước vào. Tân lên tiếng với giọng khàn khàn mệt mỏi: 

    - Bác Tư, nói bà bếp chuẩn bị điểm tâm. Sáng nay tôi muốn ăn ở nhà. 

    Bác Tư là quản gia trung thành của vợ chồng Tân và chắc chắn bác sẽ không hở môi với bất cứ ai về cảnh tượng lạ lùng mà bác nhìn thấy. 

    Bác Tư đi rồi nhưng sự xuất hiện của bác khiến chúng tôi sực tỉnh. Tôi nói với Tân là tôi phải về phòng. 

    Tuy nói như vậy nhưng thực ra tôi chỉ muốn bước ra phòng khách ngồi chờ tới khi trời sáng hẳn chứ không đủ can đảm trở về phòng ngủ dù rất muốn biết bộ xương bị tôi đập nát có còn ở đó hay không, vì tôi mường tượng một sự liên hệ nào đó giữa bộ xương bị tôi đập nát và những bước chân vô hình trong phòng ngủ của Tân. 

    Tưởng tôi nói thật, Tân có vẻ ngại ngùng nhưng cũng bước xuống giường, nói là anh sẽ đi với tôi. Vợ Tân đồng ý ở lại trong phòng sau khi yêu cầu Tân kéo hết màn cửa ra và đừng đóng cửa ra vào. 

    Khi tôi và Tân bước ra khỏi phòng thì trời đã sáng hẳn khiến chúng tôi thêm hăng hái. 

    Tới trước cửa phòng ngủ của tôi, hai đứa chúng tôi hơi ngần ngại trước khi bước vào. Trong phòng vẫn hơi mờ mờ vì mành cửa sổ được buông xuống vào buổi tối trước khi tôi đi ngủ. 

    Không ai bảo ai, tôi và Tân chia nhau bước tới hai cánh cửa sổ, kéo màn cửa lên. 

    Ánh sáng dịu dàng của buổi ban mai rọi sáng căn phòng. Tôi nhìn quanh phòng nhưng không thấy một mảnh xương nào hết! Căn phòng vẫn ngăn nắp như khi tôi lên giường vào tối hôm trước, ngoại trừ cái mền nằm bừa bãi. 

    Một điều khác nữa là chúng tôi thấy rất rõ những vết máu nhiểu đầy phía chân giường, nơi tôi tung cú đấm vào hồn ma. Máu cũng dính đầy những ngăn kéo, nơi tôi bẻ gẫy những khúc xương, và trên mặt thảm, nơi tôi xé nát tấm vải liệm ra thành từng mảnh vụn và cũng là nơi tôi hăng say làm công việc tàn phá bộ xương! 

    Tôi quay nhìn Tân và thấy mặt anh lộ vẻ hãi hùng: Trên tay Tân là một mảnh vải trắng nhỏ tả tơi trông như một mảnh vải liệm bị xé nát.

Hồn Ma Hiện Lên Từ Đáy Biển

Khi nào mà các đại dương vẫn còn những lợi gân nối liền các phần khác nhau của Đế quốc Anh thì chúng ta vẫn sẽ không tránh khỏi những chuyện hoang đường. Vì linh hồn người ta tự để cho bị khuấy động bởi nước, cũng giống hệt như nước phải vâng theo mặt trăng và khi những con đường lớn của một đế quốc bị bao quanh bởi nỗi hỉêm nguy muôn thuở, cũng phong phú về những cảnh trí và âm thanh kỳ lạ, người ta phải có một tinh thần khá thâm hậu để giữ được thản nhiên trước những điều ác hại của chúng. Hiện nay nước Anh đang vươn ra rất xa bên ngoài chính quốc, khi mà ba ngàn dặm hải phận của mỗi mạn duyên hải làm thành cương giới mà nó đã đoạt được bởi cái búa, cái khuôn dệt và cái cuốc nhọn hơn là bởi những nghệ thuật của chiến tranh. Quả thật lịch sử đã đoán chắc với chúng ta rằng không một ông vua nào, không một đạo quân nào có thể cản đường của một người chỉ có hai đồng tiền trong két sắt nhưng biết rằng ở nơi nào y sẽ có thể biến hai đồng tiền thành ba đồng, và để hết trí thông minh vào việc đi tới nơi đã định. Và vì cương giới đã mở xa ra, trí thông minh của Anh Quốc cũng được nới rộng và tràn lan ra một cách đầy đủ trên khắp thế giới để cho tất cả mọi người thấy rằng những con đường của hải đảo có tính cách châu lục, giống hệt như những con đường của châu lục đều có tính cách hải đảo. 

    Nhưng để tới được chỗ đó, người ta đã phải trả một cái giá, và cái giá này cứ tiếp tục tốn kém hơn. Cũng giống như con quái vật thời xưa phải nhận được dưới dạng cống phẩm hàng năm một người trai trẻ, với đế quốc của chúng ta cũng thế, hàng ngày chúng ta phải hy sinh cái tinh hoa của thế hệ thanh niên của chúng ta. Guồng máy thì bao la và dũng mãnh nhưng nhiên liệu duy nhất làm cho nó vận hành là sinh mạng của dân Anh. Đó là lý do tại sao khi ở trong những giáo đường cổ kính màu xám chúng ta nhìn thấy những danh tính xa lạ: những danh tính mà cả những người xây các bức tường này cũng không biết, vì chính ở Peshawar, ở Umbellah, ở Korti, ở Fort Pearson mà những chàng trai trẻ chết, mà chỉ để lại phía sau họ truyền thuyết và một tấm biển. Nếu bên trên mỗi cái xác người Anh có một đài kỷ niệm được dựng lwn thì người ta sẽ không cần vạch ra cương giới, vì một sợi dây thừng của những ngôi mộ sẽ chỉ rõ làn sóng của dân Anh và Celtes đã vờ tới nơi nào. 

    Cả điều đó nữa, đồng thời với những khối nước nối liền chúng ta với thế giới, đã đóng góp vào những chuyện hoang đường mà chúng ta thấm nhuần. Khi mà bao nhiêu người đàn ông và đàn bà đã có ở phía bên kia đại dương những người mà họ yêu quý và những người này đang tiến lên dưới làn đạn của dân sơn cước hoặc trong những đầm lầy của bệnh sốt rét rừng, thì lúc đó tâm hồn đi vào sự giao cảm với tâm hồn, và những truyện ly kỳ nẩy sinh, những mộng mị, những sự linh cảm, những ảo tưởng trong đó một bà mẹ trông thấy con trai bà đang chết và bà ngất đi trong cơn tuyệt vọng, ngay cả trước khi cái tang của anh ta được loan báo cho bà. Mới gần đây khoa học đã chiếu cố tới vấn đề này và đã ban cho nó một cái nhãn hiệu, nhưng chúng ta đã biêt gì hơn nếu không phải là việc một linh hồn bị hành hạ và tới bước cũng đã có thể phóng qua mặt đất, vào một khoảng cách mươi lăm ngàn cây số, cái hình ảnh của tình cảnh đau buồn của y tới tận tâm trí của người thân cận nhất của y? Tôi không hề phủ nhận cái quyền năng đó, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải khôn ngoan trong những vấn đề như vậy, vì ít nhất đã có một lần tôi biết rằng những điều trong khuôn khổ các định luật tự nhiên có thể hoàn toàn nằm ngoài những vấn đề này. 

    John Vansittart là hội viên thứ nhì của công ty Hudson et Vansittal, công ty xuất khẩu cà phê ở Ceylan ( Tích Lan). Ông vốn là người gốc Hà Lan, nhưng 100% Ăng-Lê trong lòng các phong độ. Đã nhiều năm tôi làm đại diện cho ông ở Luân Đôn. Khi ông tới Anh quốc để nghỉ ngơi ba tháng, ông nói với tôi để có những sự giới thiệu cho phép ông làm quen với đời sống ở thị thành và ở thôn quê. Ông đã rời khỏi các văn phòng của tôi với bảy bức thư trong túi áo. Trong một vài tuân, những bức thư ngắn từ nhiều nơi khác nhau gửi tới báo tin cho tôi biết là ông đã lấy được cảm tình của các bạn tôi. Rồi tôi được tin là ông đã đính hôn vơi Emily Lawson, thuộc ngành thứ của gia đình nhà Hereford Lawson, và gần như ngay sau đó họ đã thành hôn: sự tán tỉnh của một du khách chỉ có thể chóng vánh thôi, và cái ngay ông phải xuống tàu của công ty, một cái tàu buồn một ngàn tấn: đó sẽ là chuyến đi chơi tuần trăng mật của họ. 

    Thời đó là thời cực kỳ thuận lợi cho các nhà trồng cà phê ở Ceylan, họ đã chưa từng biết cái mùa khủng khiếp mà chỉ trong vài tháng thôi, nhưng đã làm lụi bại tất cả một cộgn đồng này nhờ ở sự dũng cẩm và kiên trì, sẽ lại dành được một thắng lợi thứ hai: quả thực những cánh đồng trà ở Tích Lan là một đại công trình của lòng dũng cảm của dân Anh, giống hệt như con sư tử ở Waterloo. Nhưng trong năm 1872 chưa có một đám mây nào đe doạ ở chân trời. Những hy vọng của các nhà trồng tỉa thật tràn trề, Vansittart trở lại Luân Đôn cùng với cô vợ trẻ đẹp của ông. Ông giới thiệu cô với tôi, chúng tôi cùng ăn bữa tối với nhau, và cuối cùng thì ông đồng ý rằng, vì các công việc củng đòi hỏi sự có mặt của tôi ở Tích Lan, tôi sẽ là bạn đồng hành của họ trên tau Eastern Star, mà sự nhổ neo rời bến đã được định trước vào ngay thứ hai sắp tới. 

    Tôi gặp lại ông vào buổi tối ngày chủ nhật. Ông đi vào trong nhà tôi với một vẻ băn khoăng và bực bội. Khi tôi bắt tay ông, tôi nhận thấy bàn tay ông nóng và khô. 

    - Ông Atkinson ạ, ông nói với tôi, tôi muốn ông bảo người nhà pha cho tôi một chút nước chanh và nước lạnh. Nói theo nghĩa đen, tôi đang chết khát đây, và tôi càng uống bao nhiêu thì tôi càng muốn uống nữa. 

    Tôi bấm chuông và gọi lấy một bình nước và những cái cốc. 

    - Ông đang bị sốt nóng lạnh, toi nói với ông, ông có vẻ đang khó ở đó. 

    - Không, tôi không cảm thấy khoẻ mạnh lắm. Tôi bị đau phong thấp ở lưng, và tôi ăn không ngon. Chính cài thành phố Luân Đôn chết tiệt này làm tôi nghẹt thở. Tôi không quen hít thở cái không khí mà bốn triệu buồng phổi cùng khuấy trộn lên cùng một lúc. 

    Ông vung vẩy hai bàn tay co quắp trước mặt ông: thật sự ông đã cho người ta một ấn tượng của sự ngột ngạt. 

    - Một khi ông ở trên mặt biển, ông sẽ cảm thấy khoẻ khoắn ngay. 

    - Đúng. Về điều đó thì tôi đồng ý với ông, Đó là việc cần thiết của tôi. Tôi không cần tới một vị y sĩ khác. Nếu ngày mai tôi không xuống tàu thì tôi sẽ phát ốm..... 

    Ông uống một hơi hết cốc nước chanh và ông xoa chỗ sống lưng bằng hai bàn tay ông. 

    - Người ta nói rằng điều đó sẽ tốt cho tôi, ông nói tiếp trong khi nhìn tôi với một con mắt rầu rỉ. Bây giờ tôi cần có sự giúp đỡ của ông, ông Atkinson ạ, vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh tế nhị. 

    - Hoàn cảnh thế nào? 

    - Đây này, bà mẹ vợ tôi bị ngã bệnh và bà ấy đã đánh điện gọi vợ tôi tới bên giường bệnh của bà ấy. Tôi đã không thể đi theo vợ tôi (ông biết rõ hơn ai hết là tôi đã bị cầm chân lại ở đây ) và vợ tôi đành phải đi một mình. Bây giờ tôi lại vừa nhận được một bức điện khác nói là ngày mai vợ tôi không thể tới được, nhưng nàng sẽ bắt kịp con tàu ở Falmouth vào ngày thứ tư. Ông biết đó, chúng tôi sẽ đạu lại ở đó: nhưng Atkinson ạ, tôi thấy thật là khó cho người ta đòi hỏi một người phải tin vào sự huyền bí, và người ta sẽ nguyền rủa, nếu y không thể tin vào điều đó, người ta sẽ nguyền rủa y, ông hãy hiểu tôi đi! 

    Ông cúi xuống phía trước và khịt mũi làm như thể ông sắp khóc oà lên. 

    Lúc đó tôi nghĩ tới việc người ta đã nói rất nhiều với tôi về những tập tục ở hải đảo và về cách thức người ta uống rượu không pha ở đó. Chắc hẳn rượu đã là nguyên nhân của những lời nói khó hiểu này và của những bàn tay đang lên cơn sốt này! Tôi cảm thấy một sự lo sợ mạnh mẽ khi trông thấy một người trai trẻ cao quý như vậy nằm trong tay một con quỉ ghê tởm nhất trong số tất cả những con gái. 

    - Ông phải đi nằm nghỉ! Tôi nói một cách nghiêm nghị. 

    Ông dụi mắt như thể ông tìm cách tự làm cho mình tỉnh lại, và ông nhìn tôi với vẻ kinh ngạc. 

    - Tôi sẽ đi tới đó, ông nói với tôi một cách bình thản, lúc nãy tôi cảm thấy hơi choáng váng, nhưng bây giờ tôi đã hồi phục rôi. Này, tôi đang nói về về việc gì thế? À, dĩ nhiên là về vợ tôi rồi! Nàng sẽ xuống tàu ở Falmouth. Tôi tin rằng sức khoẻ của tôi tuỳ thuộc vào sự đi đường biển. Tôi cần có chút ít không khí trong lành trong phổi tôi để tôi có thể hoàn toàn bình phục. Do đó tôi xin ông hãy làm cho một việc với tư cách bạn bè, ông sẽ đí tới Falmuoth bằng xe lửa, phòng trường hợp mà chúng tôi tới trẻ, và lúc đó ông sẽ trông nom cho vợ tôi. Ông hãy tới khách sạn Royal; tôi sẽ đánh điện cho nàng là ông trú chân ở đó. Em gái của nàng sẽ đi theo nàng tới tận đó, như thế là mọi việc sẽ tốt đẹp. 

    - Rất vui lòng, tôi trả lời. Thật sự tôi không đòi hỏi gì hơn là được đi tới Falmuoth bằng xe lửa, vì từ đây tới Colombo chúng ta sẽ có nhiều thời gian thưởng thức biển cả. Tôi cũng nghĩ rằng ông có một nhu vầu khẩn thiết về sự thay đổi không khí. Nếu ở địa vị ông tôi sẽ đi nằm nghỉ ngay tức thì. 

    - Phải. Đêm hôm nay tôi sẽ ngủ trên tàu. Ông thấy đó một thứ sương mù còn lởn vởn trước mắt ông. 

    -....Mấy đêm nay tôi không ngủ được nhiều, tôi đã gặp mâu thuẫn với các nhà thần học....nghĩa là..... 

    Trong một sự cố gắng tuyệt vọng, ông kêu lên: 

    -....Bởi những sự hoài nghi có tính cách thần học...Xì! Tôi tự hỏi tại sao đấng tối cao toàn năng lại tạo ra chúng ta, tại sao. Ngài lại làm cho chúng ta ngu độn và gài những sự đau đớn lặt vặt vào sống lưng của chúng ta. Có lẽ là tối nay tôi sẽ khá hơn! 

    Ông đứng dậy và bám thấy cái lưng ghế của ông. 

    - Ông Vansittart! Xin ông hãy nghe tôi! Tôi nói với sự nghiêm trọng. Tối nay tôi sẽ mời ông ở đây với tôi, ông không ở trong tình trạng để đi ra ngoài được. Ông không đi ngay ngắn được. Ông đã uống những thứ pha trộn của rượu... 

    - Rượu hả? 

    Ông nhìn thằng vào mắt tôi với một cái nhìn ngớ ngẩn. 

    - Thường nhật thì ông chịu đựng khá hơn khi uống rượu mà. 

    - Ông Ankinson này, tôi thề với ông là đã từ hai ngày nay tôi không uống một cốc rượu, tôi không biết là tôi đã uống cái gì. Tôi giả thiết rằng ông nghĩ đó là hiệu ứng của rượu.... 

    Ông nắm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên trán ông. 

    - Lạy chúa tôi! Tôi kêu phải lên. 

    Ông có làn da mỏng như một dải nhung, dưới lớp da tôi cảm thấy như một lớp chi chít những miêng chỉ lụn vụn. 

    - Ông chớ lo sợ, ông nói trong lúc cười mỉm. Tôi đã mắc bệnh lở mụn nước rất tệ. 

    - Nhưng chuyện đó không dính líu gì tới bệnh lở mụn nước mà ! 

    - Không, đó là Luân Đôn. Đó là việc thở hít cái không khí tệ hại đó. Ngày mai tôi sẽ mạnh khoẻ hơn nhiều. Trên tàu có một y sĩ, thế là tôi sẽ được săn sóc chu đáo. Bây giờ tôi sẽ đi đây. 

    - Không, tôi nói với ông trong khi bắt ông phải ngồi xuống. Việc đó sẽ là đưa sự đùa cợt đi quá xa đấy. Ông sẽ không nhúc nhích khỏi nơi này trước khi gặp một vị y sĩ. Hãy ở yên chỗ ông đang ngồi. 

    Tôi cầm lấy cái mũ và vội vã đi tới nhà một vị y sĩ ở ngay gần nhà tôi. Tôi đưa ông ấy về nhà tôi ngay lập tức, nhưng phòng khách của tôi trống không và Vansittart đã đi khỏi. Tôi bấm chuông, anh đầy tớ báo với tôi rằng vị quý khách đã sai gọi một cỗ xe. Ông ấy bảo người đánh xe đưa ông ấy đến bến tàu. 

    - Vị quý khách có vẻ ốm yếu không? Tôi hỏi. 

    - Ốm yếu à? Anh đầy tớ mỉm cười trả lời. Thưa ông không, ông ấy hát ầm ĩ! 

    Sự bào tin này đã không làm tôi yên tâm chút nào, nhưng tôi nghĩ rằng ông đi tới tàu Eastem Star, và có một y sĩ ở trên tàu, tôi không thể làm được gì nữa cho ông. Tuy nhiên, khi tôi nhớ tới sự khác nước của ông, nhớ tới hai bầnty nóng bỏng của ông, con mắt nặng chĩu của ông, những lời nói vô ý nghĩa của ông, và cuối cùng là cái trán lở lói bệnh cùi của ông, thì tôi đã mang theo lên giường nằm của tôi một ký ức khó chịu về người khách của tôi và sự tới thăm của ông ấy. 

    Sáng hôm sau, vào lúc mười một giờ, tôi đi tới bến tàu, nhưng tàu Eastern Star đã bắt đầu chạy xuôi dòng sông và đã fần tới Gravesend. Tôi đi với Gravesend bằng xe lửa, nhưng khi tôi tới nơi thì chỉ còn trông thấy các cột buồm của nó ở một khoảng cách khá xa, được mở đường phía trước bởi một lùm khói của một cái tàu kéo. Thế là tôi không có tin tức nào của ông bạn tôi nữa trước khi tới Falmuoth. Khi tôi trở về văn phòng của tôi, một bức điện tín đã đợi tôi. Bà Vansittart đã tới Falmuoth; buổi tối ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Royal, tại đó chúng tôi phải đợi tàu Eastern Star. Mười ngày đã trôi qua, chúng tôi không nhận được tin tức gì của con tàu. 

    Tôi sẽ không dễ dàng quên được mười ngày đó! Khi tàu Eastern Star rời khoti sông Tamise, một cơn bão lớn phát khởi; nó thổi trong gần cả một tuần lễ không ngừng nghĩ chút nào. Trên bờ biển miền nam, chưa bao giờ người ta thấy một trận bảo dài như thế và cuồng nộ như thế. Từ các cửa sổ khách sạn của chúng tôi, mặt biển hình như bị bao trùm trong sương mù. Gió đè một cách quá nặng nề lên những đợt sóng khiến cho mặt biển không thể vùng lên được: ngọn của từng đợt sóng đã bị ngắt đi ngay tức thì. Những đám mây, gió, mặt biển đều ùn ùn kéo về hướng tây. Ở giữa những thế lực hung hăng này, tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác với sự bầu bạn duy nhất của một người đàn bà xanh xao và trầm lặng, mà cặp mắt phản ảnh sự kinh hoàng; từ sáng tới chiều, nàng cứ đứng dán mắt vào cửa kính, đăm đăm nhìn vào tấm xịt qua đó một con tàu có thể hiện ra. Nàng không nói gì cả, nhưng nét mặt nàng là một khúc bi ca dài dặc. 

    Sang tới ngày thứ năm tôi hỏi ý kiến một thủy thủ già. Ý tôi muốn được ngồi một mình với ông ấy, nhưng nàng đã trông thấy tôi mở lời với ông ấy, và nàng tới ngay tức thì, miệng hé mở và đôi mắt khẩn cầu. 

    - Khởi hành từ Luân Đôn đã bảy ngày rồi à? Ông ấy nói. Vậy là năm ngày trong giông bão. Này, biển Manche đã bị quét sạch bởi cơn gió này! Có ba giả thuyết, trận bão có thể bắt nó phải tìm nơi trú ẩn trong một hải cảng của Pháp. Điều này có thể là đúng. 

    - Không phải thế đâu! Ông ấy biết rằng chúng tôi đang ở đây. Lẽ ra ông ấy phải đánh điện cho chúng tôi. 

    - À phải! Vậy thì có thể là nó đã chạy ra khơiđể tránh bão, nếu đúng vậy thì lúc này chắc nó không ở xa Madere. Thưa bà, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra; bà có thể tin lời tôi nói ! 

    - Và giả thuyết thứ ba? 

    - Tôi có nói với bà về một giả thuyết thứ ba à? Không, tôi nghĩ chỉ có hai thôi. Tôi không tin là tôi đã nói tới một giả thuyết thứ ba. Con tàu của bà đang ở một nơi nào đó ở giữa Đại Tây Dương, và chả mấy chốc bà sẽ có tin tức của nó, vì thời tiết săp thay đổi. Thưa bà, bà chớ lo lắng. Hãy đợi tới ngày mai, ngay từ buổi sáng bà sẽ có một bầu trời xanh, đẹp. 

    Người thủy thủ già đã tiên đoán đúng: ngày hôm sau trời quang đãng ngoại trừ một đám mây thấp bay ở phía tây, và đó là mảnh cuối cùng của cơn cuồng nộ của trận bão tố. Dù trời đã quang đãng chúng tôi cũng vẫn không có một tin tức nào về chiếc tàu thủy. Ba ngày bực bội, lo âu nữa đã trôi qua, rồi một thủy thủ tới trình diện ở khách sạn với một bức thư, tôi thốt lên một tiếng kêu vui mừng. Bức thư tới từ vị thuyền trưởng của tàu Eastern Star. Khi đọc qua mấy dòng đầu tiên, tôi đã muốn giấu nhẹm là thư đi, nhưng nàng đã giật lấy nó từ tay tôi. 

    - Tôi đã đọc đoạn đầu, nàng nói với một giọng bình thản. Vậy thì tôi có thể đọc chỗ tiếp theo. 

    Lá thư viết như sau: 

    ” Kính thư ông, ông Vansittart đang ở trên tàu với bệnh đậu mùa, và chúng tôi đã bị đẩy ra quá xa mũi đất của chúng ta nên chúng tôi không biết phải làm sao: ông ấy đã phát cuồng và ông ấy không còn khả năng để ra lệnh cho chúng tôi. Theo những sự tính toán phỏng chừng của tôi thì chúng tôi chỉ còn cách Fanchal chừng bốn trăm hai mươi cây số thôi. Tôi cũng giả thiết là nên đi tới đó, đưa ông Vansittart vào bệnh viện, và đợi ông tới ở trong vịnh. Người ta nói với tôi là trong vài ngày nữa một tàu buồm sẽ từ Falmuoth đi tới Fanchal. Lá thư này sẽ được mang tới ông bằng sự môi giới của thuyền nhỏ Marian ở Falmuoth, phải trả viên thuyền trưởng của nó năm bảng. Kính chào ông. Jno Hines. ” 

    Nàng thật là tuyệt diệu, cô thiếu nữ vừa mới rời khỏi đại học này! Cũng trầm tĩnh và cương nghị như một bậc nam nhi vậy. Nàng không nói gì cả. Nàng mím chặt môi và đội mũ lên đầu. 

    - Cô đi ra ngoài à? Tôi hỏi. 

    - Vâng. 

    - Tôi có thể giúp gì cho cô không? 

    - Không, tôi đến nhà vị y sĩ. 

    - Sao? 

    - Phải. Để biết cách người ta điều trị bệnh đậu mùa. 

    Nàng loay hoay bận rộn súôt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi Madere, trên chiếc tàu Róe ò Shảon. Gió biển thổi mười nút một giờ. Trong năm ngày chúng tôi chạy với tốc độ đều đặn, và chúng tôi đã tới nơi không xa hải đảo. Sang ngày thứ sáu gió nổi lên đột ngột, chúng tôi lâm vào tình trạng không nhúc nhích được như đi trên dầu nhớt. 

    Lúc mười giờ tối, Emily Vansittart và tôi cùng đứng tựa vào bao lớn bên phải của mạn cuối tàu; mặt trăng sáng rực đằng sau chúng tôi và chiếu xuống chân chúng tôi bóng đen của con tàu và bóng hai cái đầu của chúng tôi trên mặt nước lóng lánh như tấm gương. Từ chỗ bóng tối một con đường của ánh trăng trải dài ta và vừa đi xa, vừa tan rộng cho mãi tới chân trời hiu quạnh. Chúng tôi nói chuyện trong khi cúi thấp đầu xuống, chúng tôi nói dông dài về sự yên tĩnh, về cơ may của một cơn gió thuận lợi, về trạng thái của bầu trời, thì bỗng nhiên có một tiếng bõm trên mặt nước, như thể một con cá hồi vừa nhảy lên, và kìa, dưới ánh sáng trăng vằng vặc John Vansittart nhô lên từ dưới mặt biển và ngẩng đầu lên về phía chúng tôi. 

    Tôi chưa bao giờ thấy một vật gì rõ rệt hơn thế. Ánh trăng soi sáng ông ấy rõ mồn một, ông ấy ở cách xa chúng tôi tầm độ ba tầm chèo. Ông ấy có bộ mặt phồng lên lớn hơn là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, da ông có nhiều chỗ lốm đốm những vẫy đen; mặt và miệng ông mở lớn ra như thể một người vủa gặp một sự kinh ngạc lớn lao. Từ hai vai của ông, một chất trắng đục chảy xuống thành những dãi dài; một bàn tay của ông giơ lên gần tai, bàn tay kia thì gặp lại để ngang ngực ông. Tôi trông thấy ông vọt lên khỏi mặt nước, và trên mặt phẳng yên tĩnh của đại dương, những gợn sóng vẽ thành các vòng tròn cho mãi tới hông tàu. Rồi ông lại chìm xuống, và tôi nghe thấy một tiếng rập gẫy, một tiếng xé rách, như thể trong một đêm băng giá một bó củi khô nổ lép bép trong đống lửa bập bùng. Khi tôi nhìn lại tôi không còn trông thấy một chút dấu vết nào của ông đã xuất hiện. Tôi không thể nói là tôi đã đứng ở đó bao lâu cúi khom người trên các đầu ngón chân, một tay vịn chặt lấy cái lan can và tay kia đỡ lấy người đàn bà bất tỉnh. Tôi đã là một kẻ trái ngược hẳn với người hay nhạy cảm, lần này thì ít nhất tôi đạp chân lên boong tàu để biết chắc tôi vẫn còn làm chủ được các cảm giác của chính tôi, và đây không phải là sự sáng tạo điên khùng của một bộ óc hỗn loạn. Emily Vansittart run lẩy bẩy, mở mắt ra, nàng đứng dậy, hai tay tì vào cái lan can, nhìn ra mặt biển long lanh dưới ánh trăng; mặt nàng đã già đi mười năm trong một đêm hè. 

    - Ông có nhìn thấy ông ấy không? Nàng thì thào nói. 

    - Tôi đã nhìn thấy một vật gì. 

    - Đó là ông ấy! Đó là John! Ông ấy đã chết!.... 

    Tôi ấp úng nói một vài lời có tính cách hoài nghi. 

    -...Chắc chắn là ông ấy vừa mới chết, nàng nói nhỏ. Ở bệnh viện Madère. Tôi đã đọc qua những truyện vào loại đó. Các yd nghĩ của ông ấy đều nghĩ tới tôi. Thị quan của ông ấy đã tới với tôi. Ôi John, người yêu quý của tôi, người yêu quý đã mất đi mãi mãi của tôi ! 

    Nàng oà lên khóc nức nở: tôi đưa nàng về phòng của nàng và để nàng ở đó với nỗi lo buồn của nàng. Một cơn gió nhỏ bắt đầu thổi trong lúc ban đêm, và buổi tối hôm sau chúng tôi bỏ neo trong vịnh Fanchal. Tàu Eastern Star đang đậu gần đó, lá cờ kiểm dịch được treo cao trên cột buồm lớn và cờ hiệu của nó để rũ xuống. 

    - Ông trông kìa! Bà Vansittart nói với tôi. 

    Cặp mắt nàng khô ráo, nàng biết rằng không một giọt lệ nào trả lại được người chồng cho nàng. Trong lúc ban đêm chúng tôi nhận được giấy phép cho lên tàu Eastern Star. Viên thuyền trưởng, ông Hines, đợi chúng tôi trên boong, sẹ lo buồn và bối rối đã hằn lên trên bộ mặt da đồng của ông, và ông tìm những từ để loan báo hung tin: nàng ngắt lời ông. 

    - Tôi biết rằng chồng tôi đã chết, nàng nói, ông ấy đã chết tối hôm qua, vào lúc mười giờ, ở bệnh viện Madère, có phải vậy không? 

    Người thủy thủ nhìn nàng, sững sờ. 

    - Khồn, thưa bà. Ông ấy chết tám ngày rồi, ở trên biển và chúng tôi đã buột lòng phải thủy táng ông ấy ở đó, vì chúng tôi thấy mình đang ở một khu vực yên tĩnh và chúng tôi đã không biết khi nào thì chúng tôi sẽ tới bờ. 

    Đó là những sự kiện chính yếu liên quan tới cái chết của John Vansittart, cũng như về sự xuất hiện của ông ấy tại một nơi nào đó vào khoảng độ 35 bắc vĩ - tuyến và độ 15 tây kính tuyến. Một hồn mà hiện hình rõ rệt hơn thật ít khi xảy ra, do đó nó đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận, của nhiều bài viết. Nó đã được xác nhận bởi giới bác học và nó đã làm dầy thêm tập hồ sơ mới được mở ra gần đây về sự thần giao cách cảm. Về phần tôi, tôi chủ trương là sự thần giao cách cảm không có gì để nghi ngờ, nhưng tôi muốn rút trường hợp này ra khỏi tập hồ sơ và tôi muốn nói rằng chúng tôi đã không trông thấy sự xuất hiện của hồn ma John Vansittart, mà đúng là John Vansittart bằng xương bằng thịt, vọt lên từ đáy sâu của Đại Tây Dương dưới ánh trăng. Tôi luôn luôn tin rằng một sự ngẫu nhiên phi thường (Một trong các sự ngẫu nhiên rất ít có khả năng xảy ra này, tuy nhiên lại vẫn thường xảy ra ) đã làm cho chúng tôi đứng bất động bên trên chính ngay cái chỗ mà người đàn ông đó đã bị chôn vùi trên biển một tuần lễ trước. Về phần còn lại, vị y sĩ đã nói với tôi là quả tạ bằng chì không được cột chặt, và bảy ngày đã mang tới cho cái xác chết vài sự thay đổi nào đó có thể làm cho nó nổi lên mặt nước. Quả tạ đã làm nó chìm sâu xuống đấy biển. Nếu quả tạ tách rời ra xác chết có thể lại chồi lên mặt nước với sự đột ngột mà chúng tôi đã chứng kiến. Đó là lời giải thích của vị y sĩ. Tới chỗ muốn biết rõ ràng hơn nữa, tôi coi đó là phận sự của tôi, và nếu nhắc lại với bạn về cái tiếng động khô khan của sự rập gẫy, của sự xé rách, cũng như sự xao động trong nước biển. Những con cá mập kiếm ăn trên mặt nước, và chúng đông lúc nhúc trong miền này.

Tôi Đã Quá Giang Một Chuyến Xe Ma

Chúng ta đã được nghe nhiều chuyện ma quá giang xe người, sau đó biến mất khi xe đi tới nghĩa địa hoặc nhà của ma khi còn là người hay nơi xảy ra tai nạn chết người vào ngày oan trái ấy, một năm một lần. 

    Truyện tự thuật của tài tử Telly Savalas khác những truyện trên ở nhiều điểm sau đây: 

    Lần đầu tiên người quá giang xe ma. 

    Người ở đây là một nhân vật nổi tiếng thế giới, còn sống, gần chúng ta, có thể kiểm chứng được. 

    Truyện kể không nhằm tạo gây cấn, đăng trong báo lá cải, mà đăng trong một tạp chí chuyên về siêu hình đứng đắn, kể truyện này ra chỉ thiệt thòi cho uy tín người kể chứ không lợi lộc gì. 

    Hồn ma ở đây là một linh hồn tốt, sáng suốt: cho Telly Savalas tiền, ghi lại tên tuổi địa chỉ của mình cho người khi được yêu cầu. 

    Điều quan trọng nhất là, qua truyện này và những truyện trong mục này, trong những số kế tiếp, chúng ta sẽ thấy trong cõi dương mà chúng ta tưởng chỉ dành cho người sống, còn sống lẫn lộn nhiều người của cõi âm, của quá khứ, và của những hành tinh khác. 

    Nếu Telly Savalas không điện thoại lại địa chỉ mà hồn ma cho, chúng ta còn lâu mới biết những truyện này! 

    Gần đây, cõi siêu hình, siêu giác, liên hành tinh bắt đầu tự thị hiện cho những nhận chứng đồng thời là những agent quảng cáo rất đắc dụng: tài tử Glenn Ford, Thống tướng George Patton, cựu Thống đốc kiêm cựu Tổng Thống Jimmy Carter, tài tử Shirley McLaine, Sylvester Stallone và bây giờ Telly Savalas. - C.P   

- o O o - 

    Lúc ấy là một giờ sáng khi tôi đang lái xe từ New Jersey về nhà ở Garden City, Long Island thì xe hết xăng. 

    Tôi ở trong một tình trạng nguy nan. Không những tôi cạn xăng mà tôi còn cạn cả tiền. Tôi không có lấy một xu trong túi. Tôi khóa cửa xe và bắt đầu đi bộ dọc theo một con lộ qua một vùng đầy rừng cây với hy vọng tìm thấy một trạm xăng mở cửa suốt đêm thì một tiếng nói êm ái vẳng ra từ bóng tối khiến tôi giựt cả mình. 

    − Tìm xe quá giang à? Tiếng nói lên tiếng. 

    Tôi quay đầu lại và nhìn thấy một cái Cadillac màu đen mà một cách nào đó tôi đã không nhìn thấy lúc trước và thấy một người đàn ông vận bộ đồ lớn màu trắng ngồi sau tay lái. 

    − Cám ơn rất nhiều - Tôi nói với ông ta- Chắc chắn là tôi cần rồi. Và tôi trèo lên băng ghế trên bên cạnh tài xế mà mặt mũi tôi nhìn không được rõ lắm. 

    Ông ta không hỏi tôi là tôi muốn đi đâu, tuy nhiên chỉ vài phút sau ông ta lái xe vào một cây xăng và vừa làm vậy, ông ta vừa bảo tôi: "Tôi có thể cho anh vay một đô la " 

    Lúc đó tôi không thấy lạ lùng là làm sao ông ta lại biết tôi cần tiền mà không cần hỏi tôi. Chỉ sau này tôi mới cảm thấy lạ lùng mà thôi. Tôi cầm tờ giấy một đô la ông ta trao cho tôi và nói: "Tôi muốn cám ơn ông, thưa ông. Tôi cũng muốn gửi trả lại ông. Ông có thể viết cho tôi tên và địa chỉ của ông không? Tôi sẽ xin hoàn lại ông." Ông ta làm như tôi yêu cầu và tôi cất mảnh giấy vào túi áo ngực chiếc áo sơ mi của tôi. 

    Người đàn ông trong xe Cadillac chờ trong khi người bán xăng bơm một đô la xăng vào can và khi việc mua bán xong, ông ta ngỏ ý muốn lái tôi trở về chỗ xe của tôi. 

    Cả hai chúng tôi đều không ai nói gì cả trên đường lái xe trở về, thì bỗng nhiên ân nhân của tôi lên tiếng: "Tôi biết Harry Agannis." 

    − Tôi không biết Harry Agannis - Tôi bảo ông ta - Ông ấy là ai? Ông ấy làm gì? 

    − Anh ta là đội Boston Red Sox - Ông ta trả lời. 

    Khi chúng tôi trở lại chỗ xe của tôi, tôi đổ xăng vào bình và khi xe không nổ máy, người đàn ông trong xe Cadillac de xe về phía sau xe tôi và đẩy giúp tôi. Máy xe tôi bắt trớn và khi tôi quay ra cám ơn người tài xế kia thì ông ta chỉ giơ tay lên chạm vành mũ của ông và lái biến đi. 

    Tôi cho chuyện này la một kinh nghiệm khác thường và chỉ có thế, nhưng khi nhật báo New York buổi trưa hôm sau loan báo cái chết đột ngột của cầu thủ hai mươi bốn tuổi của đội Boston Red Sox tên Harry Agannis, thì tôi giựt thót người. 

    Trong khi đọc tiếp, tôi được biết rằng Agannis đã chết vào cùng thời gian mà người tài xế của chiếc Cadillac đã bảo tôi: "Tôi biết Harry Agannis". 

    Tôi tới giỏ đựng quần áo giặt, và lấy ra cái áo sơ mi tôi đã mặc đêm hôm trước và mò vào túi lấy ra mẫu giấy có ghi tên và đại chỉ của người đàn ông kia. Tôi tò mò ngạc nhiên. Tất cả các chuyện này là cái gì đây? Ông ta là ai và ông ta có liên quan gì với Agannis? Tôi quả quyết là phải tìm ra vài câu giải đáp. 

    Địa chỉ ở trên tại Massachussetts. Tôi quay điện thoại xin tin tức và có số điện thoại, tôi quay số. Khi có tiếng một người đàn bà trả lời, tôi hỏi liền: 

    − Xin phép cho tôi được nói chuyện với Bill được không ạ? 

    Và tôi cho bà ta cái tên đầy đủ, cái tên được viết trên mẫu giấy. Điện thoại bỗng ngừng bặt một lát kế đó người đàn bà hỏi: 

    − Xin ông vui lòng cho biết ai đang gọi đấy ạ? 

    − Chả là thế này, tôi nói, tôi mới gặp Bill đêm qua và ông ấy rất tốt, và tôi chỉ muốn... 

    − Đêm quả... Ông nói ông gặp anh ấy đêm qua? 

    Và tới đó bà ta bật khóc nức nở, cố gắng lắm mới nói được rằng Bill, người mà bà ta đã lấy, đã qua đời từ ba năm qua. 

    Tôi lặng ngắt không thốt lên lời trước tầm quan trọng của những lời nói của bà tạ Tôi không tin nổi điều mình vừa nghe. Thế rồi bà ta nổi giận và đùng đùng lớn tiếng nói rằng:

    − Tôi không biết ông đang định moi móc cái gì đây nhưng dù ông có muốn giở bất cứ cái trò gì, tôi cũng không thích! 

    − Thưa bà, tôi xin đảm bảo với bà đây không phải là trò đùa. 

    Tôi thưa với bà ta Kế đó tôi kể cho bà nghe tôi bỗng hết xăng ra sao và Bill đã đến cứu tôi thế nào. Rồi đến lượt bà ta kể cho tôi nghe rằng ông chồng quá cố của bà trước kia quả có làm chủ một chiếc Cadillac mà đen thật và khi người ta khâm liệm ông ấy để ông ấy an nghỉ giấc ngàn thu thì ông ấy được mặc bộ đồ lớn màu trắng mà tôi đã thấy ông ấy mang trên người. Tôi thất kinh hồn vía. 

    Bà quả phụ của Bill tới New York và gặp gỡ tôi và năn nỉ tôi tỉ mỉ đi vào tất cả những chi tiết của diễn biến đêm đó và khiến bà chẳng còn chút hồ nghi nào trong tâm trí, rằng bằng một cách kỳ lạ nào đó tôi đã gặp người chồng quá cố của bà. 

    Kinh nghiệm này quả có hơi cơ cực đối với bà (#1) và đó là lý do tại sao tôi không bao giờ nói cho bà ta hay rằng chữ viết trong bức thư cuối cùng mà Bill viết cho vợ hoàn toàn giống khi so đọ với chữ viết trên mảnh giấy mà ông ta đã viết tên và địa chỉ của ông ta cho tôi. 

    Tôi đã nghe và cũng đã đọc về những chuyện như thế này nhưng tôi không bao giờ lại tin những chuyện bá láp như thế. Giờ thì hiển nhiên là tôi tin như bắp. 

    Telly Savalas 

    Hal Jacques viết lại. 

    Chú thích: 

    (1-) Tại sao? Có lẽ vì người chồng quá cố không giao cảm với bà mà lại đi chọn một người lạ mặt.

Ngôi Nhà Ma Ở Đà Lạt

Trong dịp tết này tôi có dịp lên ĐÀ LẠT chơi.Tất nhiên thú vị nhất là NGÔI NHÀ MA nổi tiếng ở TP ĐÀ LẠT mà khi hỏi ai cũng biết hết á Sau đây là những chiện tui nghe đuợc về NGÔI NHÀ MA 

    Con đường đèo lên khu vực hồ TUYỀN LÂM hai bên đường chỉ có cây cỏ , không hề có bóng dáng một ngôi nhà nào khác. Sau khi xe đi được một đoạn thì gần giữa đèo thấp thoáng có một ngôi nhà lớn , theo lời giới thiệu của chị hướng dẫn tôi đuợc biết đó là NGÔI NHÀ MA , tất cả các cửa của ngôi nhà đều đóng kín mít có rất nhiều ô cửa sổ , trước cửa ngôi nhà có một bảng màu xanh đề là ''không phận sự miễn vào ''. 

    Nhìn sơ qua căn nhà này cũng bình thường không có gì khác biệt cũng như bao căn nhà khác.Theo lời của 1 chị thì căn nhà được xây từ rất xưa do một gia đình nguời Pháp , vì họ rất thích khí hậu mát mẻ cũa ĐÀ LẠT nên quyết định xây nhà và định cư luôn ở VN.Đến một ngày đó cả gia đình người Pháp bị giết rất tàn độc, kể từ đó căn nhà bị bõ hoang. 

    Còn một nguời khác lại nói rằng chính ông Pháp đã tư tình với cô người làm nên bà vợ biết được đã giết chết cô nguờii làm chặt người của cô ra từng phần rồi chôn dưới nền gạch.Kể từ đó họ đã dọn đi chỗ khác 

    2 câu chuyện trên không biết là thật hay là giả nhưng câu chuyện này báo đã từng đăng rối 

    Có một cô gái sinh sống ở VŨNG TÀU cô đang thất tình nên lên Đà Lạt để nghỉ ngơi, sau khi nghe người dân bàn tán về NGÔI NHÀ MA cô gái mới lên xem thử , không hiểu sao cô gái rất thích ngôi nhà này và quyết kêu gia đình của mình mua cho bằng đươc. Sau một tháng ở ngôi nhà này cô gái đã treo cổ tự tử chết trong căn phòng của mình. Những vật dụng của cô vẫn còn được bào quản trong ngôi nhà như: kẹp tóc , bàn , giường (bạn nào muốn kiểm chứng thì dzô thử ngen) 

    MỘ của cô gái được lập sau ngôi nhà đọ 

    Một đêm đó (theo lời kể của một chú sinh sống lâu năm ở ĐÀ LẠT) một người chở rau để đi bán , con đường ra chợ phải bắc buộc wa đèo này , lúc đó cũng khỏang 2-3g sáng khi đi đến giửa đèo thì có một người con gái xin quá giang ,tóc dài , bận bồ đồ ngủ mỏng,trông cô gái rất lạnh, vì nghĩ là đường đèo quá vắng vẻ nên ông đã cho cô gái quá giang một đoạn , đi được một quãng thì ông sợ cô gái lạnh nên đã đưa áo khóac của mình cho cô gái bận.Khi ông ngừng xe thì quay lại đã thấy cô gái biến mất từ lúc nào. 

    Sáng hôm sau khi ông quay trở lại đường đèo đó khi đi ngang qua ngôi nhà thì thấy chiếc áo khoác của mỉnh nằm trên ngôi mộ 

    NGÔI NHÀ này chỉ lắp một thứ đèn đó lả đèn vàng , không có đèn trắng ,có một cái hầm ở dưới ngôi nhà ,có 1 trệt và một lầu , khi bước vào sẽ thấy một bức tranh vẽ môt gương mặt tưa như sọ người có 2 rănh nanh thè ra nhỉn rất ghê....... 

    Bây giờ chỉ có một nguời quản gia sống ở ngôi nhà đó 

    ai có dịp lên đà lạt chơi thì nhớ lên coi thử nghen....

Phải Chăng Là Ảo Giác ?

Rõ ràng tôi vừa thấy ông Wangliu trong gương. Không thể nào? Chính mắt tôi thấy xác ông mà. Hay là tôi bị ảo giác vì đầu óc quá căng thẳng???? Tôi phải đi gặp Lan và đám bạn của tôi. Dù sao ngày mốt cũng là thời hạn ba ngày đưa nhẫn cho họ xem. Tôi liền trở về phòng ngủ , tìm một cái bao tay đeo vào và ra ăn sáng.

    Tôi vừa ăn vừa suy nghĩ lung lắm. Cháo gà mẹ tôi nấu tuyệt vời , vậy mà tôi ăn không thấy ngon. Cái bóng của ông Wangliu còn lỡn vỡn trong đầu tôi. Cha mẹ và em tôi nói loáng thoáng gì đó , tôi không nghe rõ... " Sao mặt thằng Minh tái ngắt vậy bà " , " Anh Minh đeo bao tay chi vậy? "... 

    - Minh! Minh ! Con bị gì vậy , sao không múc cháo ăn?? 

    Nghe tiếng mẹ la , tôi giật mình thoát khỏi dòng suy nghĩ. Sợ mọi người nghi , tôi nhìn chén , múc một muỗng cháo. Bất ngờ: 

    - OH MY GOD, Cái Gì Trong Chén Vậy? Một... một... ngón tay trong chén cháo ! 

    Tôi hất tung chén cháo ra giữa bàn , rồi ôm bụng ụa mửa. Mẹ tôi hốt hoảng nói với bố: 

    - Thằng Minh nó học nhiều quá bị bệnh rồi , ông dìu nó vô phòng nghỉ đi. 

    Tôi định thần nhìn kỷ lại , thì ra chỉ là cái cổ gà. Không đợi bố đỡ dậy , tôi chạy một mạch vô phòng và nói: 

    - Bố mẹ khỏi lo. Con không sao đâu , hơi bị cảm thôi. 

    Trong phòng tôi ngồi hít một hơi thở lấy bình tỉnh. Rỏ ràng tôi bị ám ảnh. Nhất định tôi không sợ nữa. Tôi cầm ống phôn gọi Lan và hết tất cả bạn bè , bắt họ ra gặp tôi tại một quán ăn. Ngày lễ không ai đi học , với lại tôi muốn chỉ cho họ xem chiếc nhẫn cho xong , để tôi còn tháo nó ra , quăng đi cho rồi. Ðêm dài lắm mộng , thiệt đúng không sai. 

    Dĩ nhiên là bạn bà tôi phục lăn. Lan thì khỏi nói , nàng là cô gái mới lớn , thích bạn trai mạnh khỏe , dám nói dám làm. Cả bọn họ ăn uống vui vẻ cười đùa , rồi mạnh ai nấy ra về vui vẻ. Chỉ có tôi là dại dột. Họ đâu biết tôi đã trải qua những giây phút kinh hoàng. Quả thật tôi dại , còn trách ai nữa chứ. Ðợi mọi người về hết tôi tháo bao tay ra coi lại bàn tay mình. 

    Tôi giật mình lo ngại , bàn tay tôi hình như có vẻ teo lại , và đen hơn. Tôi đưa cả hai tay lên so sánh. Rỏ ràng hai tay khác nhau. Tay trái tròn trịa , trắng trẻo , to hơn tay phải. Tôi sợ hải không biết phải làm sao. Ngón tay vẫn còn sưng , không lấy nhẫn ra liền được. Tôi đành phải chờ một hôm nữa... 

    Tai Họa Từng Ngày Một ngày nữa (11/28/99) trôi qua , cứ chốc chốc tôi tháo bao tay ra xem. Rỏ ràng trong khi tay trái vẫn bình thường , thì bàn tay phải càng ngày càng teo lại nhỏ xíu , chỉ còn da bọc xương. Chiếc nhẫn vẫn xiết chặc ngón giữa , thật lạ lùng. 

    Thứ Hai (11/29/99) ngày lễ đã hết , tôi đi học lại. Tôi tránh mọi người kể cả Lan. Tôi biết Lan tìm tôi dữ lắm , nhưng tôi lẫn tránh nàng vì không muốn nàng thấy bàn tay quái dị của tôi. Xong buổi học tôi chạy về nhà , vừa học bài vừa tìm cách lấy chiếc nhẫn ra. Tôi thoa xà bông , kem dưỡng da (Hand Lotion) , đủ các thứ dầu cho ngón tay trơn dễ kéo ra nhưng vô hiệu. Bàn tay bây giờ chỉ có da dính sát xương , từng lóng tay lộ lên rỏ ràng. Tuy vẫn cử động được nhưng bàn tay nhìn rất kinh dị. 

    Qua thứ Ba (11/30/99) , Trời ơi ! bàn tay của tôi trở nên đau nhức quá. Từng cơn đau hành hạ tôi. Có lúc tôi tưởng cơn đau hết hẳn , ai dè chẳng được bao lâu thì cơn đau hành hạ tôi trở lại. Lâu lâu toàn thân tôi có một luồng khí lạnh chạy khắp người , ớn cả châu thân. Tôi không còn tinh thần nữa , tôi thật sự sợ. Ðây không phải là sự ám ảnh nữa ! Ðầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: Hay là ông Wangliu đang trừng phạt , đang trả thù tôi? Tôi cần phải có sự giúp đỡ , phải nói cho ai đó biết. Nhưng nói cho ai nghe bây giờ đây? Tôi không thể nào cho ba mẹ tôi biết. Tôi không muốn hai người đó lo lắng. Càng không thể nói cho Lan. Nàng giúp gì được cho tôi chứ? Bí quá tôi đã lên Net lúc 6 giờ tìm đại một diễn đàn nào để hỏi một ai đó giúp đỡ. 

    Thứ Tư (12/1/99) Cả đêm qua tôi không ngủ được. Bàn tay tôi đau dữ dội tôi mở bao tay ra xem. Quỷ Thần ơi tay tôi đang bị tét lỡ. Từng miếng da khô rạn nứt. Tôi cần phải đi bác sĩ. Lan nữa ! Nàng gọi điện thoại nhất định đòi gặp tôi cho bằng được , nếu không Lan sẽ đoạn tuyệt nghĩ chơi tôi ra. Tôi buồn vô hạn biết làm sao đây. Thôi đành phải gặp nàng một lần. Buổi chiều tôi gặp Lan mà tinh thần không có bên cạnh nàng. Nàng hành hạ tôi đủ điều , nói rằng tôi bỏ lơ nàng. Mặc cho Lan nói , tôi không chú nghe. Tôi phải lo bàn tay của tôi. Tôi hẹn giờ ngày mai đi gặp bác sĩ , 9 giờ sáng. 

    Lan Cầm Tay Tôi Thứ Năm (12/2/99): Ðầu hôm tôi ngủ được một chút. Nhưng nữa đêm về sáng tôi bật choàng tỉnh dậy vì một cơn ác mộng quá khủng khiếp. Ông Wangliu lại hiện về rỏ mồn một. Mặt ông đanh lại dữ tợn. Ông hét lớn bằng tiếng Quan-thoại mà tôi biết chút chút: 

    - Nị CìY Wộ , Wộ Tờ SHố. ( Mày trả cho tao , tay của tao ! ). 

    Tôi khiếp vía , không thể nào ngủ lại được nữa. Tôi bật ngọn đèn trong phòng cho sáng lên. Và lật bàn tay ra xem. Tôi muốn hét lên một tiếng bể cả buồng phổi. BÀN TAY tôi bây giờ đã trở thành một BÀN TAY XƯƠNG TRẮNG HẾU. Tôi khóc nức nở , mà không dám cho ba mẹ hay. 

    Ðúng 9 giờ sáng tôi đã có mặt ở văn phòng bác sĩ lo về tay. Vừa gặp bác sĩ tôi la lên: 

    - Doctor help me , Please check my hand ! (Bác sĩ , giúp tôi , làm ơn khám tay tôi ). 

    Rồi tôi giựt cái bao tay ra cho bác sĩ xem. Tôi nghĩ là bác sĩ sợ hải lắm. Nhưng lạ thật , ông bác sĩ vẫn thản nhiên nhìn bàn tay tôi nói: 

    - What s wrong with your hand? It looks fine , nice ring though. 

    (Tay anh có sao đâu? Nhìn bình thường , mà chiếc nhẫn ngộ quá ha) Cái gì kỳ vậy , bàn tay tôi vẫn còn đang là 1 bàn tay xương trắng mà? Tại sao ông không thấy. Tôi dụi mắt nhìn kỹ , vẫn là bàn tay xương , mà sao ông bác sĩ không thấy gì. Tôi hét lên kịch liệt: 

    - Bác sĩ, tay của tôi nè , ông không thấy gì hả?. Bác sĩ giúp tôi đi? 

    Bác sĩ vẫn ôn tồn: 

    - Bình tỉnh lại , tay anh có sao đâu. Ðừng đùa nữa. Hay là anh đang bị stress (khủng hoảng). Tôi viết giấy giới thiệu cho anh qua gặp bác sĩ tâm thần. May ra ổng có thể giúp anh. 

    Tôi còn biết nói gì nữa? Ðành cầm tờ giấy giới thiệu đợi chiều 3 giờ đi gặp bác sĩ tâm thần. Nhưng cũng giống như bác sĩ trị tay , ông không hề thấy gì khác thường. Tôi không thể nào thuyắt phục được họ tin tôi. Tôi bèn đi gặp Lan. Sau khi năn nỉ Lan muốn hết nước miếng , nàng mới nguôi giận. Bất ngờ Lan đòi xem tay tôi và chiếc nhẫn một lần nữa. Tôi liền cho nàng xem thử và ngạc nhiên thấy nàng chỉ xem xoi coi chiếc nhẫn. 

    Ðúng rồi , một trăm phần trăm tôi bị ảo giác. Nhất định tôi sẽ lấy chiếc nhẫn ra và đem chôn trả lại cho chủ nhân của nó vào tối mai. [/quote]Phải Chăng Là Ảo Giác? 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #thienthong