tam than hoc 2
RỐI LOẠN TRÍ NHỚ
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm, hiểu biết của cá nhân
bằng cách ghi nhớ, bảo tồn, và tái hiện lại những gì mà trước đây con người đã cảm
giác, tri giác, rung động, hành động, suy nghĩ.
Trí nhớ bao gồm nhiều quá trình khác nhau và có liên hệ mật thiết với nhau như:
ghi nhớ bảo tồn, tái hiện lại và quên
Có nhiều cách phân loại trí nhớ. Trên lâm sàng thường quan tâm đánh giá trí nhớ
theo thời gian bao gồm: trí nhớ xa (dài hạn - nhớ các sự việc kiến thức đã có từ lâu), trí
nhớ gần (ngắn hạn - nhớ các sự việc kiến thức đã có trong thờ gian vài tháng trở lại),
trí nhớ ngay lập tức ( nhớ các sự việc kiến thức vừa thu nhận được)
1. Giảm nhớ (hypoamnesia)
Kém nhớ những sự việc mới xảy ra hay những sự việc cũ. Giảm hiệu quả của quá
trình nhớ và lưu giữ tài liệu. Hay gặp trong lão hoá, suy nhược thần linh, liệt toàn thể
tiến triển.
2. Tăng nhớ (Hyperanmesia)
Hiệu quả nhớ của người bệnh tăng lên với tính chất bệnh lý. Bệnh nhân nhớ
những việc rất cũ, những chi tiết vụn vặt, nhớ cả những việc không có ý nghĩa.
Ví dụ: nhớ rõ vị trí một từ trong từ điển ở dòng nào, trang nào nhưng lại không
nhớ nghĩa của từ đó. Thường gặp trong hưng cảm, sốt do nhiễm khuẩn, say rượu bệnh
lý.
3. Mất nhớ (quên - anmesia)
3.1. Chia theo sự việc
3.1.1. Quên toàn bộ
Quên tất cả những sự việc cũ và mới thuộc mọi lĩnh vức. Gặp trong sa sút trí tuệ
nặng.
3.1.2. Quên từng phần:
Chỉ quên một số kỷ niệm, một số thao tác nghề nghiệp. Gặp trong tổn thương
khu trú ở não hoặc sau cảm xúc mạnh.
3.2. Chia theo thời gian
3.2.1. Quên thuận chiều
Quên những việc xảy ra ngay sau khi bị bệnh, có thể quên toàn bộ hoặc từng
phần. Gặp trong chấn thương sọ não, xơ vữa mạch máu kèm xuất huyết.
3.2.2. Quên ngược chiều
Quên những sự việc xảy ra trước khi bị bệnh, có thể quên từng phần hoặc toàn
bộ. Gặp trong chấn thương sọ não, xơ mỡ động mạch và kèm xuất huyết.
3.2.3. Quên trong cơn
Chỉ quên những sự việc sảy ra trong cơn, trong thời gian ngắn bị bệnh. Gặp trong
34
cơn động kinh, trạng thái ý thức hoàng hôn.
3.2.4. Quên vừa thuận, vừa ngược
Quên cả những việc cũ lẫn việc mới. Gặp trong loạn thần cấp kèm lú lẫn, sa sút
trí tuệ do chấn thương sọ não.
Bà A., một phụ nữ đã ly hôn hiện đang sống với 3 cô con gái. Bà làm nghề giao
hàng cho một cửa hàng bách hoá. Cách đây 3 năm, bà tự nhiên xuất hiện các biểu
hiện như mệt mỏi, hay quên, thờ ơ, và đau đầu mà bà cho là do bệnh migraine đã mắc
từ trước. Bà đã đến gặp một bác sỹ tâm thần, ông này kê cho bà đơn thuốc chống trầm
cảm nhưng không kết quả. Đau đầu ngày một nặng hơn và bà A. đã đến khám một bác
sỹ thần kinh. Sau khi khám, mặc dù không thấy có gì bất thường, và bác sỹ thần kinh
vẫn giới thiệu bà đi chụp CT scanner. Kết quả là đã xuất hiện một khối u thần kinh
đệm lớn ở thuỳ trán phải ở giai đoạn II/IIV. Bà được điều trị bằng phẫu thuật, tiếp sau
đó là tia xạ và đã cho một kết quả tốt đáng kinh ngạc mà không có biểu hiện suy giảm
chức năng thần kinh. Bà đã có thể quay trở lại làm việc, hàng ngày chỉ phải dùng
carbamazepine để phòng động kinh.
Ba năm sau phẫu thuật, bệnh nhân và gia đình bắt đầu chú ý đến biểu hiện suy
giảm trí nhớ gần của bà. Khởi đầu bà quên địa chỉ nhà và vị trí các đồ đạc. Một lần,
bà đã không thể tìm được ô tô mình đã đậu ở trong bãi đỗ vì bà đã quên nhãn hiệu của
nó và quên nơi đỗ. Càng ngày, tình trạng quên càng nặng hơn đến mức ảnh hưởng đến
công việc. Ví dụ: bà không thể nhớ mình đã đặt hàng ở đâu nên lại gọi tiếp. Ban đầu,
bà A. bị căng thẳng ghê gớm và thường đổ lỗi cho những người khác (VD: đỗ lỗi cho
thư ký đã quên đưa giấy cho bà, đổ lỗi cho con bà đã đặt sai vị trí của đồ đạc trong
nhà). Vấn đề này đã làm bà rất khổ sở vì trước đây bà luôn tự hào về trí nhớ rất tốt
của mình. Tuy nhiên, dần dần bà nhận ra vấn đề của bản thân và chấp nhận việc suy
giảm trí nhớ là do bà đã phải điều trị bằng tia xạ. Trí nhớ xa và các chức năng nhận
thức khác vẫn tốt ngoại trừ khả năng lập kế hoạch trong đầu có biểu hiện suy giảm
nhẹ. Nhưng chính vì khả năng trí tuệ ở mức cao trước đây mà bệnh nhân vẫn duy trì
được chức năng trên mức trung bình. Dần dần, bà A. mắc nhiều sai sót trong công
việc đến nỗi bà phải nghỉ việc. Bà vẫn còn có thể làm các công việc trong gia đình
nhưng phải cần đến một bản liệt kê "các công việc cần làm " và các bảng thông báo
nhắc nhở ở nhiều phòng trong nhà.
4. Loạn nhớ (Paraamnesia)
4.1. Nhớ giả
Những sự kiện có thực trong cuộc sống của bệnh nhân ở trong khoảng thời gian
và không gian này, bệnh nhân lại nhớ sang khoảng thời gian và không gian khác, hoặc
nhầm lẫn giữa sự việc này với sự việc khác. Có khi trên một sự việc có thực, bệnh
nhân nhớ thêm những chi tiết không hề có.
Ví dụ: bệnh nhân đã nằm viện một tuần, nhưng lại nói là vừa từ nhà ga đến, hôm
qua còn đi công tác và làm đủ loại nhiệm vụ.
35
So sánh với rối loạn tri giác, nhớ giả gọi là ảo tưởng trí nhớ.
4.2. Bịa chuyện
Có thể bệnh nhân quên toàn bộ và thay vào đó bệnh nhân kể những sự việc
không hề xảy ra với mình, nhưng bệnh nhân không biết là mình bịa ra, khẳng định
những sự việc mình kể là có thực. Có thể bệnh nhân chỉ bịa chuyện mà không quên.
Ví dụ: người bệnh kể rất chi tiết những sự kiện hoàn toàn không thể tin được mà
dường như đã xảy ra với họ trong quá khứ. Nội dung của các sự kiện đó có thể là cuộc
gặp gỡ với những nhân vật vĩ đại, những chuyện tình cũ, những phát minh vĩ đại nhất.
Tất cả những cái đó đều thuộc vào những thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ.
Nội dung bịa chuyện có thể là những câu chuyện thông thường, có thể là kỳ quái.
Trường hợp bịa chuyện kèm theo mất định hướng gọi là lú lẫn bịa chuyện.
Trong lâm sàng nhiều khi khó phân biệt giữa nhớ giả và bịa chuyện, vì vậy phải
tận hiểu chi tiết cuộc đời của bệnh nhân mới biết chuyện kể ra có thật hay là chuyện
bịa.
So sánh với rối loạn tri giác, bịa chuyện gọi là ảo giác trí nhớ.
Nhớ giả và bịa chuyện hay gặp trong các bệnh thực thể ở não, tâm thần phân liệt.
4.3. Nhớ nhầm
4.3.1. Nhớ vơ vào mình
Ý nghĩ sáng kiến của người khác nhớ ra là của mình, hay những điều nghe người
khác kể hoặc thấy ở đâu lạ tưởng là mình đã sống qua.
4.3.2. Nhớ việc mình thành việc người
Sự việc, ý nghĩa của mình lại nhớ ra của người khác hay đã học, đã thấy ở đâu.
4.3.3. Nhớ như đang sống trong dĩ vãng
Kết hợp với quên tiến triển, người bệnh tưởng mình đang sống trong thời kỳ dĩ
vãng cách đây 10 - 20 năm và hành động như người trẻ lại.
Ví dụ: có cụ già 60 tuổi khi soi gương không nhận ra mình, cho rằng hình trong
gương là một cụ già nào đó, còn mình là một cô gái trẻ mới 20 tuổi và hành động như
một cô gái trẻ 20 tuổi thực sự.
Gặp trong loạn thần tuổi già, động kinh.
5. Hội chứng Kocsakop
(Korsakoff)
Do Kocsakop mô tả năm 1887 trên những bệnh nhân nghiện rượu mạn tính, có
viêm đa dây thần kinh.
Hội chứng bao gồm:
Quên thuận chiều (quên do ghi nhận kém): mất định hướng và quên tất cả mọi sự
việc vừa xảy ra.
Loạn nhớ: nhớ giả hoặc bịa chuyện.
36
Các sự việc cũ nhớ rất tốt.
Hội chứng này hay gặp trong chấn thương sọ não giai đoạn cấp, tổn thương thực
thể tại não, liệt toàn thể tiến triển, u não, tai biến mạch máu não, nghiện chất độc,
nghiện rượu.
Một bệnh nhân nam 40 tuổi nghiện rượu mãn tính được người nhà đưa đến khám
tại phòng khám tâm thần. Khám lâm sàng thấy có suy giảm trí nhớ nghiêm trọng.
Bệnh nhân có đề nghị khẩn thiết muốn được rời khỏi bệnh viện và nói rằng vợ ông ta
vừa bị tai nạn ô tô nên ông phải đến một bệnh viện khác để gặp vợ. Bệnh nhân nói
điều đó một cách khẩn khoản và vẻ lo lắng hiện rõ trên nét mặt. Đối với bệnh nhân,
câu truyện trên hoàn toàn là sự thực. Nhưng trên thực tế, vợ bệnh nhân đã chết cách
đây 15 năm. Bệnh nhân kể về điều này nhiều lần, đưa ra những bằng chứng để thuyết
phục các nhân viên y tế mặc dù các nhân viên đều cô gắng giải thích cho bệnh nhân
rằng vợ ông ta đã chết từ lâu. Tuy vậy, bệnh nhân vẫn không tin bởi vì ông không thể
tiếp nhận các thông tin mới. Với khả năng nhớ quá khứ một cách chắp vá bệnh nhân
vẫn có thể nhớ lại sự kiện vợ ông bị cấp cứu trong bệnh viện.
37
RỐI LOẠN CẢM XÚC
Cảm xúc - tình cảm là sự phản ánh thế giới khách quan, thể hiện thái độ của con
người đối với những sự vật hiện tượng có liên quan đến sự thoả mãn những nhu cầu
của con người.
Cảm xúc - tình cảm nói lên bản chất con người, bản chất đó thể hiện qua hành
động và thái độ của con người đối với sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Cảm
xúc - tình cảm cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Hoạt động của
các chức năng tâm thần đều chịu ảnh hưởng của cảm xúc - tình cảm (như tri giác, tư
duy, trí nhớ, hoạt động có ý chí...)
Cảm xúc - tình cảm tích cực làm tăng thêm nghị lực, lạc quan, tin tưởng, củng cố
ý chí, thôi thúc hành động. Cảm xúc - tình cảm tiêu cực làm hạn chế, cản trở mọi hoạt
động, làm con người trở nên yếu đuối bi quan, chán nản, mất tin tưởng, thiếu sáng
suốt.
Cảm xúc - tình cảm có thể biểu hiện ra bên ngoài dưới các hình thức như:
Tâm trạng: Là trạng thái tình cảm tương đối kéo dài, tạo ra một sắc thái nhất định
cho những rung động khác của con người. Nó xâm chiếm toàn bộ đời sống và có thể
ảnh hưởng tốt hay xấu đối với hoạt động của cá nhân (tâm trạng vui vẻ phấn chấn hoặc
tâm trạng lo âu chán nản). Trên lâm sàng có thể quan sát được qua nét mặt gọi là khí
sắc.
Xúc động: là cơn bùng nổ cảm xúc, diễn ra trong một thời gian ngắn., trên lâm
sàng gọi là xung cảm.
Ham mê: là một tình cảm sâu sắc bền vững, bao trùm lên đời sống tâm lý con
người, chi phối xu hướng cơ bản của những ý nghĩ và hành động của con người.
1. Các triệu chứng giảm và mất cảm xúc
Ngưỡng kích thích cảm xúc tăng cao, vì vậy cường độ kích thích phải thật mạnh
mới gây ra phản ứng cảm xúc nhẹ, hoặc không có biểu hiện phản ứng cảm xúc.
1.1 Giảm khí sắc
Khí sắc buồn rầu, ủ rũ, phiền muộn, chán nản... gặp trong trầm cảm.
1.2. Cảm xúc bàng quan
Mất phản ứng cảm xúc kèm theo mất hưng phấn ý chí. Bệnh nhân không biểu
hiện cảm xúc ra nét mặt, không hoạt động, không sáng kiến.
1.3. Cảm xúc tàn lụi
Mức độ rối loạn cảm xúc nặng hơn, mất phản ứng với mọi khích thích, mất khả
năng biểu hiện cảm xúc nói chung. Bệnh nhân thụ động, lờ đờ, lằm lỳ trên giường
hoặc ngồi im một chỗ không hề quan tâm, chú ý đến các sự việc diễn ra xung quanh...
gặp trong tâm thần phân liệt.
38
1.4. Mất cảm giác tâm thần
Mất mọi phản ứng cảm xúc, mất cảm giác tâm thần một cách đau khổ, đôi khi
đưa đến hành vi tự sát... gặp trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn phân liệt cảm
xúc, trầm cảm thoái triển.
2. Các triệu chứng tăng cảm xúc
Ngưỡng hưng phấn cảm xúc hạ thấp, vì vậy cường độ kích thích nhẹ lại gây cảm
xúc mạnh.
2.1. Cảm xúc không ổn định.
Dễ chuyển từ cảm xúc này sang cảm xúc khác, thường trái ngược nhau vừa khóc
vừa cười vừa lạc quan vừa bi quan...gặp trong suy nhược tâm thần.
Một hình thức rối loạn tương tự là cảm xúc không kiềm chế được bệnh nhân dễ
mủi lòng, dễ chảy nước mắt, thường gặp trong các bệnh thực thể tại não như viêm não,
tai biến mạch máu não...
2.2. Khoái cảm
Bệnh nhân vui vẻ một cách vô nghĩa, khí sắc tăng không thích ứng với hoàn
cảnh. Gặp trong các bệnh tổn thương thực thể tại não.
2.3. Cảm xúc say đắm
Trạng thái cảm xúc cao độ, có tính chất nhất thời. Bệnh nhân ở tư thế say đắm,
không nói, không cử động, mặt nhìn xa xăm, mồm há hốc.
3. Các rối loạn cảm xúc dị thường
3.1. Cảm xúc hai chiều
: trên một bệnh nhân, đồng thời xuất hiện hai cảm xúc hoàn
toàn trái ngược nhau.
Ví dụ : vừa yêu vừa ghét, vừa thích vừa không thích thường gặp trong tâm thần
phân liệt.
3.2. Cảm xúc trái ngược không thích hợp
Cảm xúc không thích hợp hoặc hoàn trái ngược với hoàn cảnh xung quanh.
Ví dụ: vui vẻ cười đùa trong đám ma của cha hoặc mẹ mình, thường gặp trong
tâm thần phân liệt.
4. Các hội chứng rối loạn cảm xúc
4.1. Hội chứng trầm cảm
:
(syndrom depressive)
Hội chứng trầm cảm điển hình
: biểu hiện sự ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần
chủ yếu gồm:
Cảm xúc bị ức chế : khí sắc giảm, bệnh nhân buồn rầu, ủ rũ chán nản và đau khổ,
nhìn xung quanh thấy cảnh vật ảm đạm, như có một màu mây gen tối bao trùm. Bệnh
nhân thường hay khóc. Một số trường hợp trầm trọng nét mặt biểu hiện dấu hiệu
"omega" (nếp nhăn ở khoé miệng, trán cung mày đều cụp xuống, mắt luôn nhìn
xuống) mất các quan tâm, sở thích cũ, không còn cảm giác hài lòng với mọi thứ,
39
thường hay xa lánh tách rời xã hội.
Tư duy bị ức chế: suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng khó khăn, giảm sút tự tin và
tính tự trọng, luôn cho mình là hèn kém, mất khả năng quyết định trong mọi việc, bi
quan về tương lai, hay nghiền ngẫm những ý nghĩ về khuyết điểm, tội lỗi của mình
cảm giác không xứng đáng. Trường hợp nặng những suy nghĩ này có thể trở thành
hoang tưởng bị tội hoặc tự buộc tội thường đưa đến ý tưởng và hành vi tự sát.
Vận động bị ức chế: do giảm năng lượng bệnh nhân luôn cảm thấy mệt mỏi,
thiếu sinh lực dẫn đến giảm sút hoạt động , giảm hiệu xuất lao động. Bệnh nhân ít hoạt
động, thường nằm lý hoặc ngồi lâu một tư thế với nét mặt đau khổ, trầm ngâm suy
nghĩ, ức chế nặng sẽ biểu hiện bất động, giống trạng thái sững sờ căng trương lực.
Một nhóm các triệu chứng thường được gọi là "triệu chứng sinh học, triệu
chứng cơ thể
"
rất quan trọng của trầm cảm gồm có: rối loạn giấc ngủ, táo bón, mất
ngon miệng, giảm trọng lượng, dao động khí sắc trong ngày, mất khả năng tình dục,
rối loạn kinh nguyệt (ở nữ). Hội chứng trầm cảm điển hình thường gặp trong rối loạn
cảm xúc lưỡng cực, rối loạn trầm cảm, rối loạn phân liệt cảm xúc loại trầm cảm...
Hội chứng trầm cảm không điển hình:
Trầm cảm kích thích: bệnh nhân không ức chế hoạt động mà biểu hiện trạng thái
kích thích (bồn chồn, đi đi lại lại, xoắn bóp tay...) hoặc vật vã, lăn lộn khóc lóc...
Trầm cảm cơ thể, thực vật: trên lâm sàng nổi bật là những rối loạn cơ thể thực vật
như cơn vã mồ hôi, cơn nóng bừng, đau vùng ngực, rối loạn tiêu hoá, nhiều khi che lấp
hoàn toàn những dấu hiệu trầm cảm.
Đó chính là lý do để nhiều tác giả gọi là trầm cảm che đậy, trầm cảm ẩn... hay
gặp ở hệ thống y tế cơ sở.
Ngoài ra còn gặp nhiều trạng thái trầm cảm không điển hình khác như trầm cảm
suy nhược, trầm cảm nghi bệnh, trầm cảm ám ảnh, trầm cảm loạn khí sắc, trầm cảm
paranoide, trầm cảm mất cảm giác tâm thần...
Trầm cảm không điển hình có thể gặp trong rối loạn tâm thần thực tổn, tâm thần
phân liệt, trầm cảm tâm sinh...
Hội chứng trầm cảm là hội chứng cấp cứu vì bệnh nhân có thể tự sát hoặc giết
người rồi tự sát do hoang tưởng bị tội chi phối.
Cô B. 45 tuổi, là mẹ của 3 đứa con, là nhân viên đánh máy cho một công ty giao
dịch nhà đất. Cô được bác sỹ gia đình gửi đến sau khi cố gắng tự sát không thành. Cô
mô tả các triệu chứng buồn chán thất vọng của mình đã tồn tại từ khoảng 6 tháng nay
ngay sau khi cô ly thân với chồng. Cô có cảm xúc buồn, không thấy hứng thú trong bất
kỳ hoạt động thông thường nào, giảm cân, cảm thấy mình chẳng còn giá trị gì và mất
ngủ. Thời gian gần đây cô không thể tập trung vào công việc vì những ý nghĩ tự sát
luôn ám ảnh. Hai tuần trước bệnh nhân phải ngường làm việc và nhận thấy khó có thể
tự chăm sóc bản thân và chăm sóc con cái. Con gái lớn của cô đã đưa cô đến gặp bác
sỹ gia đình và ông này đã giới thiệu cô đến gặp bác sỹ tâm thần. Ngày hôm trước khi
40
gặp bác sỹ tâm thần, khi ở nhà một mình, cô đã uống quá liều thuốc ngủ và để lại một
lá thư trong đó cô thú nhận mình là một người vợ và người mẹ thất bại.
4.2. Hội chứng hưng cảm
: (syndrom manic)
.
Hội chứng hưng cảm điển hình: là trạng thái hoàn toàn đối lập với trầm cảm, biểu
hiện tình trạng hưng phấn hoạt động tâm thần, gồm có.
Cảm xúc hưng phấn: khí sắc tăng, bệnh nhân vui vẻ không tương xứng với hoàn
cảnh, cảm thấy khoan khoái dễ chịu, đầy sinh lực, nhìn xung quanh thấy cảnh vật tươi
sáng, đẹp đẽ, thú vị lạc quan hy vọng tràn trề về tương lai, tiền đồ.
Tư duy hưng phấn: tư duy nhịp nhanh, liên tưởng mau chóng, tư duy phi tán.
Bệnh nhân nói nhiều, nói việc nọ sọ việc kia, chơi chữ, nói theo vần điệu... Chú ý luôn
thay đổi, bệnh nhân có nhiều chương trình, nhiều sáng kiến, tự đánh giá quá cao về
bản thân, có khi phát triển thành hoang tưởng tự cao rõ rệt.
Vận động hưng phấn: luôn luôn hoạt động, can thiệp vào mọi việc không biết
mệt mỏi, đôi khi can thiệp cả vào công việc của người khác một cách sàm sỡ. Hành vi
có tính chất thái quá, nhiều khi lố bịch, tiêu pha phóng túng. Có thể xuất hiện giải toả
bản năng như: cuồng ăn, đánh người, loạn dục... ít khi kích động, thường chỉ kích
động khi kiệt sức hoặc có bệnh cơ thể kèm theo.
Hưng cảm điển hình thường gặp trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn phân
liệt cảm xúc loại hưng cảm.
Hội chứng hưng cảm không điển hình
Hưng cảm với tăng khí sắc đơn thuần không kèm theo tăng hoạt động hoặc tăng
nhịp độ ngôn ngữ.
Hưng cảm giận dữ: khí sắc tăng kèm theo cáu kỉnh, giận dữ.
Hưng cảm kèm theo hoang tưởng, ảo giác.
Hội chứng này hay gặp trong tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần thực tổn, rối
loạn tâm thần triện chứng....
Một giáo viên độc thân 28 tuổi được đồng nghiệp đưa đến phòng khám vì một
loạt các biểu hiện lạ thường của anh ta trong thời gian gần đây. Khoảng 1 tháng trở
lại đây anh thường xuyên đưa ra các ý tưởng mới, thuyết phục mọi người tham gia các
công trình sáng tạo của anh. Anh ta cũng cho rằng mình giầu có và có rất nhiều tiền.
Anh cũng mua một loạt đồ đạc đắt tiền không cần thiết, mua chịu một chiếc ô tô và có
nhiều dự định như sẽ đi du lịch nước ngoài và giảng bài ở các trường đại học có uy tín
trên thế giới. Anh cũng có những hành động sàm sỡ với đồng nghiệp và học sinh nữ.
Khi đến khám, ngôn ngữ của anh ta nhanh đến nỗi rất khó hiểu được bệnh nhân đang
nói gì...
4.3. Hội chứng loạn cảm
( syndrom dysphonc).
Khí sắc hằn học, bất mãn với xung quanh.
Tăng cảm giác, dễ bị kích thích.
Hành vi có khuynh hướng bạo động, dễ tấn công người khác.
Thường gặp trong động kinh, bệnh thực thể tại não, nhân cách bệnh.
41
RỐI LOẠN HÀNH VI TÁC PHONG
(Rối loạn hoạt động có ý chí và rối loạn bản năng)
Hoạt động có ý chí là quá trình hoạt động tâm thần có mục đích, phương hướng
rõ ràng, chỉ có ở con người. Hoạt động nay không chỉ nhằm để thoả mãn những nhu
cầu sinh vật mà còn để thoả mãn những nhu cầu cao cấp ( nhu cầu đạo đức, luân lý xã
hội, trí tuệ và thẩm mỹ). Hoạt động có ý ý không chỉ giúp con người thích nghi với thế
giới mà còn có khả năng biến đổi thế giới cho phù hợp với xã hội loài người.
Hoạt động bản năng là những hoạt động vô thức, xuất hiện như những phản xạ
không điều kiện, bẩm sinh. Hoạt động bản năng nhằm để thoả mãn những nhu cầu sinh
vật (sinh tồn). Ở người trưởng thành, hoạt động bản năng chịu sự kiềm chế, chi phối
của hoạt động có ý chí. Khi vỏ não bị suy yếu hoặc bị tổn thương, vùng dưới vỏ thoát
ức chế và lúc này bản năng nổi lên hỗn loạn. Bởi vậy, trên lâm sàng người bệnh có
biểu hiện rối loạn hoạt động có ý chí và cả hoạt động bản năng.
1. Các rối loạn hoạt động có ý chí
1.1 Rối loạn vận động
Giảm vận động, giảm động tác
. Thường gặp trong trạng thái lú lẫn.
Mất vận động, mất động tác. Gặp trong các trạng thái bất động, câm hysteria, tâm
thần phân liệt (TTPL).
Vận động, động tác dị thường
: đó là những động tác không cần thiết, không có ý
nghĩa, thường có tính chất định hình như rung đùi, lắc lư người nhịp nhàng, mắt nhìn
trừng trừng.
Hay gặp trong T.T.P.L.
Tăng vận động, động tác
: là những động tác thừa, không có ý nghĩa, động tác tự
động, rung giật, nháy mắt, nháy môi. Gặp trong TTPL, cơn hưng cảm, rối loạn phân li.
1.2. Rối loạn hoạt động có ý chí
Giảm hoạt động
: thường gặp trong trạng thái trầm cảm, suy nhược
Tăng hoạt động:
gặp trong trạng thái hưng cảm, nghiện chất độc, nghiện ma
tuý...
Mất hoạt động:
thường phối hợp với mất cảm giác tâm thần trong hội chứng
apathie- aboulie. Hay gặp trong loạn thần phản ứng, tâm thần phân liệt.
2. Các rối loạn hoạt động bản năng
2.1. Các hành vi xung động
Đó là những hành vi xuất hiện đột ngột, không có duyên cớ, những hành vi
không được cân nhắc, suy nghĩ trước và không có sự đấu tranh để kìm chế lại.
Xuất hiện thành từng cơn.
Thường gặp một số cơn xung động sau.
42
Cơn xung động phân liệt
: hay gặp trong các thể căng trương lực: đột nhiên la hét,
đập phá, xé quần áo, đánh người, người bệnh không có rối loạn ý thức và nhận biết
hành vi xung động của mình vừa xảy ra song họ không hiểu được.
Cơn xung động động kinh
: xuất hiện đột ngột, trong trạng thái rối loạn ý thức,
hoặc có các cơn chạy thẳng gặp gì phá đó rất hung bạo. Sau cơn bệnh nhân quên hoàn
toàn.
Cơn xung động trầm cảm:
người bệnh đột nhiên tự sát hoặc giết người sau đó tự
sát.
2.2. Các cơn rung động bản năng
Xung động bản năng thường có tính chất chu kỳ.
Các xí bạn bản năng ăn uống:
Không ăn: gặp trong TTPL, trầm cảm.
Chán ăn: gặp ở nữ, tuổi dậy thì, mang tính chất tâm căn (névrose) chán ăn tâm
thần.
Cơn thèm uống: người bệnh có những cơn khát thường xuyên uống mãi không
đỡ khát.
Cơn thèm ăn: có những cơn đói ghê gớm, ăn mấy cũng không thấy no.
Cô S., 23 tuổi, tự đi khám để chữa chứng ăn vô độ. Các vấn đề của cô bắt đầu
xuất hiện từ 3 năm trước, khi vị hôn phu của cô cắt đứt quan hệ với cô. Từ đó, S luôn
có mối bận tâm đến trọng lượng thân thể. Thoạt tiên, cô bắt đầu ăn kiêng với dự định
để làm giảm nhiều cân. Sau đó, cô nhanh chóng nhận thấy mình thèm ăn bánh ngọt, sô
cô la và cô trở nên ăn không thể kiềm chế được. Sau mỗi lần ăn vô độ cô đều tìm cách
tự gây nôn để thải thức ăn ra. Trong thời gian này, cô nhậu nhẹt, ăn uống quá mức rồi
lại tự gây nôn trong hầu hết các ngày trong tuần. S. vẫn đang sống cùng gia đình và
cô lo sợ mọi người trong gia đình biết được về các rối loạn của cô nên quyết định tìm
kiếm sự giúp đỡ từ bác sỹ.
Cơn thèm rượu: xuất hiện từng chu kỳ, uống rất nhiều, giữa các cơn không uống
hoặc uống rất ít, thường kèm theo loạn cảm.
Ăn vật bẩn: ăn phân, ăn tóc, ăn chuột sống.
Cơn đi lang thang
: Thường có tính chất chu kỳ, không cưỡng lại được, bỏ nhà,
bỏ công ăn việc làm đi lang thang nơi xa, cơn này cũng kèm theo trạng thái loạn cảm.
Cơn trộm cắp: xuất hiện từng chu kỳ, có tính chất xung động lấy đem cho người
khác, hoặc vứt đi.
Cơn đốt nhà
: xuất hiện theo chu kỳ, có tính xung động, không có lí do, có thể lặp
lại.
Ông T., 50 tuổi, đã sống gần 10 năm trong trại tâm thần. Trước đây, ông đã
nhiều lần đốt nhà hàng xóm mà không rõ lý do. Gia đình ông luôn ra sức bảo vệ ông
tránh khỏi sự trừng phạt của luật phát, nhưng họ đã buộc phải đưa ông vào trại tâm
43
thần sau khi ông tự nhiên đốt nhà mình. Trong thời gian ở trại tâm thần, ông sống rất
kỷ luật và ôn hoà, không cãi cọ gây gổ với ai, không có bất kỳ một biểu hiện bất
thường nào. Chủ nhật tuần trước, bác sỹ cho phép ông ra ngoài đi dạo. 2 giờ sau, ông
trở về và sau lưng ông, vài cột khói bốc cao.
Cơn giết người
: xuất hiện theo xung động, không có lí do, có thể lặp lại.
Loạn dục:
có thể biểu hiện dưới nhiều dạng như thủ dâm, loạn dục đồng giới,
khổ dục chủ động, hoặc bị động, loạn dục phô bày, loạn dục với trẻ em, với súc vật....
Cơn loạn dục cũng xuất hiện theo chu kỳ. Loạn dục có thể do bệnh tâm thần hoặc do
điều kiện giáo dục và yếu tố môi trường xã hội.
Anh P., 24 tuổi, bị buộc tội phô bày bộ phận sinh dục của mình trước một phụ nữ
đang ngồi chờ ở trạm xe buýt. Anh khai rằng từ khoảng 3 năm nay thói quen này đã
ngày càng trở nên thường xuyên và anh luôn cảm thấy có hứng thú đặc biệt. Anh cũng
khai rằng mình luôn có hứng phấn mạnh mẽ trước khi phô bày và ăn năn tiếp theo
sau.
Các rối loạn bản năng thường gặp trong bệnh TTPL, liệt toàn thể tiến triển, loạn
thần tuổi già, động kinh, tổn thương thực thể não...
3. Các hội chứng rối loạn hoạt động có ý chí
3.1. Các hội chứng kích động
3.1.1 Hội chứng kích động căng trương lực:
Hội chứng này bao gồm hai trạng thái kích động và bất động xuất hiện kế tiếp
nhau, hoặc xen kẽ nhau.
Xuất hiện đột ngột, từng đợt kích động xen kẽ bất động.
Chủ yếu là các động tác dị thường, vô nghĩa, không có mục đích thường có tính
chất định hình, đơn điệu như: rung đùi, lắc lư người nhịp nhàng.
Động tác định hình, nhại lời, nhại cử chỉ, mắt nhìn trừng trừng.
3.1.2. Hội chứng kích động thanh xuân:
Thường xuất hiện trên các bệnh nhân phân liệt trẻ tuổi.
Kích động mang tính chất si dại, dữ dội, mãnh liệt.
Thường có các động tác si dại, lố lăng, vô ý nghĩa, thiếu tự nhiên, cười hô hố,
nhăn nhó mặt mày, gào thét, đập phá hay nằm ngồi ở những tư thế dị kỳ.
Tác phong bừa bãi, thiếu vệ sinh, ăn bốc, tiểu tiện ra giữa nhà.
3.1.3. Hội chứng kích động động kinh:
Xuất hiện đột ngột trong trạng thái rối loạn ý thức và loạn cảm.
Kết thúc đột ngột sau vài giờ, vài ngày.
Hành vi vừa tự vệ vừa tấn công và có tính chất phá hoại.
Nguy hiểm, thường do hoang tưởng, ảo giác (ảo thị ghê rợn) chi phối.
3.1.4. Hội chứng kích động hưng cảm
(xem bài rối loạn cảm xúc)
44
Thường kích động khi quá trình hưng phấn kéo dài khiến bệnh nhân mệt mỏi
hoặc kích động khi có người cản trở các hoạt động của bệnh nhân. Kích động đi kèm
với tư duy phi tán, hoang tưởng tự cao.
Ngoài ra còn gặp một số loại kích động như.
Kích động sau stress.
Kích động nhân cách bệnh.
Kích động tuổi già.
3.2. Các hội chứng bất động
3.2.1. Hội chứng bất động căng trương lực
Biểu hiện lúc đầu bằng trạng thái bán bất động, ngày càng ít nói, ngồi lâu ở một
tư thế, không ăn.
Rồi đến hiện tượng giữ nguyên dáng: để tay, đầu ở tư thế nào thì giữ nguyên ở tư
thế đó trong một thời gian khá lâu.
Có thể xuất hiện triệu chứng Pavlov: hỏi to thì bệnh nhân không trả lời, hỏi nhỏ
thì lại trả lời. Khi mang thức ăn vào cho bệnh nhân ăn thì không ăn nhưng khi đi khỏi
thì lấy về ăn.
Rồi đến trạng thái phủ định, không nói, không ăn, phủ định thụ động không làm
theo lệnh của thày thuốc hoặc làm ngược lại.
Sau cùng là trạng thái bất động hoàn toàn: biểu hiện bằng triệu chứng gối không
khí như khi nâng đầu người bệnh lên khỏi mặt giường thì họ giữ nguyên ở tư thế đó
trong một thời gian tất cả các cơ đều căng thẳng, có khi nằm như khúc gỗ.
Trong trạng thái bất động, có thể kèm theo động tác định hình như nhại lời, nhại
cử chỉ, nhại nét mặt.
Ý thức có thể kèm theo rối loạn ý thức kiểu mê mộng.
Hội chứng này kéo dài từ vài tuần đến nhiều năm.
3.2.2. Hội chứng bất động trầm cảm:
Xuất hiện từ từ, người bệnh ngồi, nằm ở một tư thế, mặt mày đau khổ, nước mắt
lưng tròng, không ăn, không tiếp xúc.
3.2.3. Hội chứng bất động ảo giác:
Trạng thái ức chế vận động do ảo giác chi phối.
Phản ứng cảm xúc (sợ hãi, đau khổ, say mê).
Thường có khuynh hướng tái phát, không có rối loạn ý thức.
Ngoài ra còn gặp bất động động kinh, bất động sau cảm xúc mạnh.
45
RỐI LOẠN Ý THỨC
Ý thức là chức năng tâm lý cao cấp của con người, nó bao gồm toàn bộ kiến
thức, nhận biết của con người về thế giới xung quanh, giúp con người tự đánh giá hành
vi của mình, đảm bảo cho hoạt động của con người có mục đích. Do đó ý thức là sự
phản ánh đúng đắn, thích hợp về thực tiễn xung quanh và khả năng tác động lên thực
tiễn đó một cách có mục đích. Trong lâm sàng tâm thần ý thức được hiểu là mức độ
tỉnh táo, sáng sủa của tâm thần, mức độ nhận thức của người bệnh về bản thân và mối
liên hệ với môi trường xung quanh. Ở đây ý thức được đánh giá thông qua năng lực
định hướng (không gian, thời gian, bản thân và xung quanh).
Trên lâm sàng các rối loạn ý thức thường được chia ra hai nhóm lớn:
Các hội chứng rối loạn ý thức loại trừ
Các hội chứng rối loạn ý thức mù mờ.
1. Các hội chứng ý thức bị loại trừ
Tiêu chuẩn để đánh giá hội chứng dựa vào:
Năng lực định hướng
Khả năng phản ứng trước các kích thích của môi trường
Các phản xạ thần kinh thể hiện ở mức độ bị ức chế.
Không có các triệu chứng tâm thần nặng (hoang tưởng, ảo giác, kích động...)
1.1 Hội chứng ý thức u ám
Năng lực định hướng rối loạn nhẹ, còn phân biệt được ít nhiều thời gian và
không gian, định hướng bản thân còn duy trì.
Phản ứng với các kích thích chậm chạp.
Bệnh nhân như ngà ngà say, không hiểu được sự việc xảy ra xung quanh.
1.2. Hội chứng ngủ gà
Năng lực định hướng rối loạn nhiều hơn, định hướng về bản thân, không gian,
thời gian không rõ ràng, không đầy đủ.
Chỉ phản ứng với các kích thích mạnh, gọi to nhiều lần mới trả lời.
Ra khỏi trạng thái ngủ gà quên hoàn toàn.
1.3. Hội chứng bán hôn mê
(subcoma)
Năng lực định hướng mất hoàn toàn, ý thức bị loại trừ cơ bản.
Không phản ứng với mọi loại kích thích xung quanh, không nói, không trả lời,
không thực hiện yêu cầu của thày thuốc.
Các phản xạ giảm như phản xạ đồng tử với ánh sáng, phản xạ gân xương, giác
mạc giảm.
1.4. Hội chứng hôn mê
(coma)
46
Ý thức bị loại trừ hoàn toàn.
Các phản xạ đều mất.
Xuất kiếm các phản xạ bệnh lý (Babinski, Oppenheim..)
Chỉ còn hoạt động của các trung tâm hô hấp, tuần hoàn.
Các hội chứng rối loạn ý thức loại trừ về tiến triển có thể từ hội chứng u ám đến
hôn mê, hoặc hôn mê ngay, tuỳ theo từng nguyên nhân.
Hội chứng này thường hay gặp trong các bệnh tổn thương thực thể ở não và các
bệnh cơ thể tác động đến não.
Các hội chứng này việc đánh giá còn có thể dựa theo bảng phân loại hôn mê
Glasgow
(tham khảo thêm).
2. Các hội chứng rối loạn ý thức mù mờ
Đặc điểm chung:
Tách rời thế giới bên ngoài, tri giác xung quanh giảm hoặc mất.
Năng lực định hướng mất hoặc rối loạn nhiều.
Tư duy rời rạc, phán đoán suy yếu.
Nhớ từng mảng hay quên sự việc sảy ra sau cơn.
2.1. Hội chứng mê sảng
Năng lực định hướng rối loạn, định hướng về không gian, thời gian lệch lạc, định
hướng bản thân còn duy trì.
Nhiều các rối loạn tri giác, ảo tưởng, ảo giác sinh động kỳ lạ.
Có các hoang tưởng cảm thụ, tác phong do hoang tưởng chi phối.
Cảm xúc không ổn định căng thẳng, lo âu.
Hội chứng này thường xuất hiện về chiều tối, hay gặp trong các trạng thái loạn
thần cấp, loạn thần nhiễm độc....
2.2. Hội chứng mê mộng
Rối loạn ý thức vừa giống như cảnh chiêm bao, vừa giống như cảnh thực.
Định hướng về bản thân rối loạn nặng, bệnh nhân vừa là diễn viên vừa là khán
giả.
Nội dung ảo giác phần lớn là những cảnh thần tiên, hoang đường, khuếch đại, kỳ
quái hoặc có tính chất trầm cảm mê mộng như chứng kiến sự sụp đổ của các thành phố
hay hội chứng Cotard.
Hành vi tác phong không ăn khớp với cảnh mộng, hoạt động trên giường nằm,
đơn điệu.
Trong trạng thái mê mộng thường kèm theo các hoang tưởng cảm thụ.
Sau mê mộng nhớ rất chi tiết cảnh mộng, còn cảnh thực xen vào nhớ ít.
Hội chứng này thường gặp trong bệnh TTPL, động kinh, bệnh tổn thương thực
47
thể não.
2.3. Hội chứng lú lẫn
Đây là hội chứng rối loạn ý thức nặng nhất trong hội chứng rối loạn ý thức mù
mờ.
Tư duy rời rạc.
Rối loạn trầm trọng về năng lực định hướng xung quanh và và bản thân.
Tri giác xung quanh rời rạc, lẻ tẻ.
Ngôn ngữ không liên quan đến hoàn cảnh, khó hiểu.
Kèm theo kích động trên giường nằm.
Ảo giác, hoang tưởng xuất hiện lẻ tẻ, rời rạc.
Cảm xúc không ổn định, bàng hoàng, ngơ ngác, cảm xúc bàng quan.
Hội chứng này thường xuất hiện về đêm, kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Sau
trạng thái lú lẫn bệnh nhân quên hoàn toàn. Hay gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn,
nhiễm độc, trong các bệnh tổn thương thực thể não.
2.4. Hội chứng hoàng hôn
Trạng thái ý thức bị thu hẹp, nửa tối nửa sáng, mờ mờ.
Hội chứng này xuất hiện đột ngột, người bệnh đang bình thường đột nhiên mất
định hướng.
Trạng thái này tồn tại trong một thời gian ngắn và cũng mất đi đột ngột.
Trong cơn cảm xúc bàng hoàng căng thẳng, hoặc buồn rầu, lo lắng và hung dữ.
Hành vi có tính kế tục, người ngoài không biết và khó đề phòng.
Trong cơn thường có các ảo thị ghê rợn và hoang tưởng cảm thụ cấp, có thể có
hành vi nguy hiểm giết người... sau cơn quên toàn bộ.
Thường gặp trong bệnh động kinh và tổn thương thực thể não.
48
RỐI LOẠN TRÍ TUỆ
Trí tuệ là hoạt động nhận thức của con người, bao gồm các kinh nghiệm, kiến
thức đã thu thập được và cả năng lực tiếp thu kinh nghiệm mới và áp dụng nó vào thứ
tiễn. Trí tuệ khái quát tất cả các quá trình nhận thức, nó có liên quan với các mặt hoạt
động tâm thần khác nhưng liên quan chặt chẽ nhất với tư duy (đặc biệt là với các quá
trình suy luận, phán đoán, lĩnh hội).
Khối lượng kinh nghiệm, kiến thức của con người phản ánh trí tuệ. Trí tuệ có
được dựa trên các yếu tố: năng lực, tài năng, và khả năng lao động trí óc. Trình độ trí
tuệ liên quan đến đặc điểm bẩm sinh của não bộ, đến quá trình học hỏi và rèn luyện có
hệ thống trong lao động, và với quá trình tiếp xúc với thực tại mà đặc biệt là với xã hội
loài người. Rối loạn trí tuệ thường biểu hiện dưới 2 dạng chính: các hội chứng chậm
phát triển tâm thần và hội chứng trí tuệ sa sút
1. Các hội chứng chậm phát triển tâm thần
(CPTTT)
1.1. Đặc điểm chung
CPTTT thường có tính chất bẩm sinh hoặc xuất hiện trong vài năm đầu sau đẻ,
khi trí tuệ đang hình thành.
Khả năng hoạt động nhận thức yếu hoặc không có, vì vậy không tiếp thu được
kiến thức mới mà chỉ lĩnh hội được các điều đơn giản.
Trí nhớ máy móc khá tốt, trí nhớ thông hiểu giảm hoặc không có.
Thường có những động tác vô nghĩa, hành vi kích động vô lí.
Kèm theo dị dạng cơ thể, nội tạng (sứt môi, hở hàm ếch...)
Không điều trị khỏi được, một số trường hợp nhẹ thì có thể cải thiện được một
phần bằng lao động và huấn luyện.
Hội chứng CPTTT thường chia làm 3 mức độ từ nặng đến nhẹ.
1.2. CPTTT mức độ nặng
(ideotte - HC ngu)
Đặc điểm:
Phản ứng cảm xúc thể hiện nhu cầu bản năng có được thoả mãn không.
Ví dụ: người bệnh thích thì hét lên, không thích thì đập phá, khóc.
Hoạt động đơn điệu, lắc lư người, động tác định hình, các động tác phức tạp thì
không làm được.
Không tự phục vụ được phải có người giúp cho ăn...
Ngôn ngữ có thể phát âm được một số từ đơn giản.
Hội chứng này có 3 mức độ: nặng - trung bình - nhẹ.
Thương số trí tuệ IQ (20 - 30).
1.3. CPTTT mức độ trung bình
(imbécilite - HC đần)
49
Phản ứng với xung quanh đa dạng, linh hoạt hơn.
Ngôn ngữ cũng phát triển hơn, có một số vốn từ thông dụng, có thể phát âm sai,
giọng trẻ con.
Có thể thu nhận và tích luỹ được một số kinh nghiệm đơn giản trong cuộc sống,
chỉ có tư duy cụ thể, không khái quát được.
Phản ứng cảm xúc sơ đẳng, thô bạo, khoái cảm, giận dữ...
Người bệnh có thể gắn bó với một số người nhất định.
Dễ bị ám thị, nên dễ bị lợi dụng.
Có thể huấn luyện lao động đơn giản.
Thương số trí tuệ IQ (35 - 39).
1.4. CPTTT mức độ nhẹ
(débilite mentabe)
Đây là mức độ nhẹ nhất
Người bệnh có thể khái quát hoá được kinh nghiệm đơn giản.
Dự trữ từ nghèo nàn, nói năng không linh hoạt.
Không xử trí được tình huống khó khăn.
Dễ bị ám thị, nên dễ bị lợi dụng.
Có thể có trí nhớ máy móc khá phát triển.
Có thể học được những năm đầu ở trường phổ thông và có thể làm được một số
nghề đơn giản.
Có thể lập được gia đình làm ăn sinh sống hoà hợp với xung quanh.
Thương số trí tuệ từ (50 - 69).
Các hội chứng CPTTT thường hay gặp trong các bệnh sau:
Tổn thương não trong thời bào thai.
Hoặc các bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc, chấn thương trong những năm đầu sau
khi đẻ.
Các bệnh về nhiễm sắc thể, rối loạn chuyển hoá.
2. Hội chứng trí tuệ sa sút
Đặc điểm chung:
Thường là trạng thái cuối cùng của nhiều bệnh tâm thần khác nhau.
Mất toàn bộ hay một phần năng lực phán đoán.
Rối loạn trí nhớ: mất toàn bộ hay một phần kiến thức hay thói quen đã thu nhận
được trước kia.
Nhân cách biến đổi nặng, cố định không hồi phục.
Mất khả năng thích ứng với cuộc sống (không tiếp thu được kiến thức mới,
không giải quyết được các nhu cầu trong cuộc sống).
50
Phân loại: chia làm 2 loại:
Trí tuệ sa sút toàn bộ.
Trí tuệ sa sút từng phần.
2.1. Trí tuệ sa sút toàn bộ
Rối loạn trầm trọng về nhân cách, trí nhớ, phán đoán và cảm xúc.
Thường gặp trong các bệnh tổn thương thực thể não, liệt toàn thể tiến triển.
2.2. Trí tuệ sa sút từng phần
Rối loạn trí nhớ trầm trọng. Các rối loạn khác không nặng. Thường gặp trong xơ
mạch não, các bệnh nội tiết, nhiễm độc nặng chấn thương sọ não.
Các loại trí tuệ sa sút thường gặp trong lâm sàng:trí tuệ sa sút động kinh, trí tuệ
sa sút phân liệt.
51
RỐI LOẠN SỰ CHÚ Ý
Chú ý là năng lực tập trung hoạt động tâm thần vào một hay một số đối tượng
xác định để con người có thể nhận thức được đối tượng đó một cách rõ nét nhất, toàn
vẹn nhất. Khi chú ý đến đối tượng nào thì các quá trình tri giác, tư duy...về đối tượng
đó sẽ được nhận thức sâu hơn, rõ nét hơn. Còn tất các các đối tượng không nhận được
sự chú ý sẽ bị đẩy xuống hàng thứ yếu khoác hoàn toàn không được nhận thức.
Nghiên cứu về chú ý, người ta quan tâm đến khả năng tập trung chú ý, khả năng
phân phối chú ý, khối lượng chú ý, tính bền vững của chú ý, và khả năng di chuyển
chú ý. Khi bị rối loạn có thể gặp các biểu hiện:
1. Chú ý quá chuyển động
Do chú ý có chủ định suy yếu, chú ý không chủ định chiếm ưu thế. Người bệnh
không thể tập trung chú ý vào đối tượng hay hoạt động cần thiết, thường dễ bị lôi cuốn
vào những kích thích mới lạ.
Thường gặp trong trạng thái hưng cảm, rối loạn tăng động giảm chú ý...
2. Chú ý trì trệ
Khả năng di chuyển chú ý kém, khó chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác.
Thường gặp trong động kinh, trạng thái trầm cảm, tâm thần phân liệt.
3. Chú ý suy yếu
Tính bền vững của chú ý kém. Người bệnh không thể tập trung chú ý lâu dài vào
một đối tượng được.
Thường gặp trong trạng thái suy nhược, mệt mỏi, bệnh tổn thương thực thể tại
não...
52
ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CƠ BẢN
CỦA TRIỆU CHỨNG VÀ HỘI CHỨNG HỌC TÂM THẦN
1. Đặc điểm cơ bản
Hoạt động tâm thần là một hoạt động vô cùng phức tạp, đặc biệt là khi bị rối loạn
có tính chất bệnh lý. Vì vậy muốn hiểu đúng đắn các triệu chứng tâm thần, tránh nhầm
lẫn cần phải nắm vững các đặc điểm sau:
1.1
. Hoạt động tâm thần là một hoạt động tổng hợp, thống nhất, không thể phân
tách được. Việc xắp xếp các triệu chứng tâm thần theo từng mặt hoạt động tâm thần
(rối loạn tri giác, rối loạn tư duy, rối loạn cảm xúc...) chỉ có tính chất qui ước để thuận
lợi cho giảng dạy và thảo luận lâm sàng. Vì vậy có nhiều cách qui ước tuỳ từng tác giả.
Thực tế một triệu chứng tâm thần có liên quan và ảnh hưởng đến các mặt hoạt động
tâm thần khác.
Ví dụ: ảo giác có liên quan chặt chẽ với hoang tưởng, có thể là hậu quả của
hoang tưởng, có thể là cơ sở phát sinh ra hoang tưởng. Ảo giác còn ảnh hưởng đến tác
phong, hành vi, tư duy, cảm xúc... của bệnh nhân.
1.2
. Các triệu chứng tâm thần ít khi xuất hiện riêng rẻ và thường kết hợp với
nhau thành một hội chứng nhất định.
Ví dụ: khí sắc vui vẻ thái quá kết hợp với tư duy nhịp nhanh và hoạt động hưng
phấn để tạo thành hội chứng hưng cảm.
1.3
. Các triệu chứng và hội chứng tâm thần luôn luôn biến chuyển, tuỳ theo từng
giai đoạn bệnh. Tuy nhiên cả tiến triển cũng như thoái triển đều tuân theo những qui
luật nhất định.
1.4
. Các triệu chứng tâm thần không thể giải thích thuần tuý theo cơ chế sinh học
và tâm lý học được, vì chúng còn là kết quả của các yếu tố cơ thể, xã hội, môi trường
tác động phức tạp vào hoạt động của bộ não.
1.5
. Việc đánh giá các triệu chứng và hội chứng tâm thần trong lâm sàng rất khó
khăn nhưng vô cùng quan trọng. Đánh giá khó khăn vì các triệu chứng tâm thần phần
lớn là những triệu chứng chủ quan (do bệnh nhân kể và có thể khác nhau tuỳ theo cách
hỏi bệnh, tuỳ thời gian hỏi). Trong khi đó việc phát hiện các triệu chứng này lại phụ
thuộc vào kinh nghiệm thày thuốc nghệ thuật tiếp xúc, trạng thái tâm thần bệnh nhân
khi tiếp xúc...
Tuy nhiên vai trò của việc đánh giá các triệu chứng hết sức quan trọng vì nếu
đánh giá sai triệu chứng thì không thể tổng hợp đúng hội chứng và từ đó không thể
chẩn đoán bệnh chính xác được.
1.6
. Phân biệt giữa triệu chứng bệnh lý và hoạt động tâm thần bình thường nhiều
khi rất khó khăn Vì vậy muốn phân biệt chắc chắn cần phải nắm vững các đặc điểm
tâm lý, nhất là đặc điểm tâm lý cùng lứa tuổi, từng tầng lớp xã hội, từng địa phương,
từng dân tộc... Ví dụ: đồng bào dân tộc thiểu số miền núi có thể có hoạt động tư duy
53
chậm chạp, ngôn ngữ diễn đạt, hoạt động chậm nhưng chưa nên kết luận ngay là có
hiện tượng tâm thần bệnh lý.
2. Triệu chứng âm tính và đương tính
2.1. Triệu chứng âm tính
(hay các hiện tượng suy sụp):
Thể hiện sự tiêu hao, mất mát trong hoạt động tâm thần.
Ví dụ: cảm xúc khô lạnh, tư duy nghèo nàn, giảm nhớ, trí tuệ sa sút v.v.. Các
triệu chứng âm tính tiến triển từ từ, chậm chạp nhưng làm tan rã nhân cách sâu sắc,
khó điều trị, thuyên giảm chậm.
2.2. Triệu chứng dương tính
( hay các hiện tượng kích thích)
Thể hiện những biến đổi bệnh lý phong phú đa dạng trong hoạt động tâm thần.
Ví dụ: hoang tưởng ảo giác, ám ảnh, trầm cảm, hưng cảm...
Các triệu chúng dương tính tiến triển tuy rầm rộ, cấp diễn nhưng có tính khát tạm
thời, không làm tan rã nhàn cách trầm trọng có khi mất đi không để lại dấu vết trong
nhân cách.
2.3. Ý nghĩa của sự phân chia triệu chứng âm tính, dương tính
Giúp cho chẩn đoán phân biệt một số bệnh lý và một số thể lâm sàng
Giúp cho tiên lượng bệnh: triệu chứng âm tính càng nhiều bệnh càng nặng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ môn Tâm thần và Tâm lý Y học - Học viện Quân Y (1998),
Tâm thần học đại
cương và Tâm lý học y học, Hà nội, Tr: 148 - 157.
2.Sidney Bloch và Bruce S. Singh (2001),
Cơ sở của lâm sàng Tâm thần học(tài liệu
dịch), Nhà xuất bản Y học, Tr : 77 - 109.
3.Kaplan & Sadock (2005),
Ctinical Examination of the Psychiatric Patient,Concise
Textbook ofclửncal Psychiatry, Lippincott Williams & Wilkins, Tr1 - 11.
54
ĐẠI CƯƠNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN THỰC TỔN
1. Khái niệm chung
Rối loạn tâm thần thực tổn (Organic Mental Disorder- RLTTTT) là các bệnh tâm
thần hay các trạng thái rối loạn tâm thần có liên quan trực tiếp đến tổn thương thực thể
ở tổ chức não do nhiều nguyên nhân khác nhau, chúng có thể là các tổn thương hoặc
các bệnh tại não như: u não, viêm não, tai biến mạch máu não,... nhưng cũng có thể là
các tổn thương hoặc các bệnh ngoài não, mà chủ yếu là các bệnh toàn thân như: nhiễm
khuẩn huyết, nhiễm độc, chấn thương sọ não, các bệnh tim mạch, các bệnh gan, thận,
nội tiết,...
Triệu chứng lâm sàng của các RLTTTT là rất đa dạng và tiến triển ở những mức
độ khác nhau không chỉ phụ thuộc vào vị trí và mức độ tổn thương của não nặng hay
nhẹ, lan toả hay khu trú mà còn phụ thuộc vào trạng thái tinh thần, sức đề kháng, yếu
tố stress, các yếu tố tác động của môi trường xung quanh đến từng cá thể trước khi bị
bệnh.
Bệnh cảnh lâm sàng của các trạng thái rối loạn tâm thần trong tổn thương thực
thể não phụ thuộc không chỉ vào sự tiến triển của bệnh chính, vào mức độ phá huỷ của
tổ chức thần kinh não bộ mà còn vào nhiều yếu tố tác động tâm lý, môi trường khác
nữa. Sức đề kháng của cơ thể yếu, môi trường tâm lý không thuận lợi, nhân cách của
người bệnh không bền vững, suy đồi yếu ớt đều là các nhân tố thúc đẩy quá trình bệnh
lý, làm cho các triệu chứng lâm sàng chủ yếu có thể bị che lấp hoặc bị cường điệu quá
mức. Một số bệnh tâm thần và cơ thể khác vốn tiềm tàng, nay được dịp thuận lợi bùng
phát, làm cho bệnh cảnh lâm sàng phức tạp hơn nhiều và gây nhiều trở ngại cho công
tác theo dõi chẩn đoán và điều trị.
Nghiên cứu về RLTTTT còn cho ta thấy có sự liên quan chặt chẽ đến các chuyên
ngành y học khác. Do vậy, người thầy thuốc tâm thần phải có kiến thức rộng và hiểu
biết sâu sắc về một số chuyên ngành có liên quan trực tiếp như: Thần kinh học, Truyền
nhiễm học và các kiến thức nội-ngoại khoa chung khác để có đủ năng lực giúp đỡ
người bệnh ngày càng tốt hơn.
Thực tế còn cho thấy có những trường hợp RLTTTT bị bỏ sót trong quá trình
theo dõi, chẩn đoán và điều trị ở các cơ sở tâm thần không phải do thầy thuốc tâm thần
không đủ kiến thức y học nói chung mà do thăm khám không tỷ mỷ hoặc "ám ảnh
phân liệt hoá" nhiều loại bệnh tâm thần, trong đó có RLTTTT.
Mặt khác trong thực hành lâm sàng người ta cũng nhận thấy rằng không phải bất
cứ rối loạn tâm thần nào trên bệnh nhân bị bệnh cơ thể đều là RLTTTT. Nhiều trường
hợp, bệnh cơ thể chỉ là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình rối loạn tâm thần nội
sinh vốn tiềm tàng nay được bộc lộ rõ. Năm 1988, V.M. Morkovkin, A.V. Kartelisev
đã chỉ ra rằng cứ 1 trường hợp được chẩn đoán là tâm thần phân liệt thì có 3 trường
hợp khác bệnh đang tiềm tàng và có nguy cơ bùng phát khi có các tác nhân thuận lợi
55
như: chấn thượng sọ não, nhiễm khuẩn, nhiễm độc,...
Tiến triển của RLTTTT cũng như các bệnh cơ thể khác là cấp tính hay mạn tính
tuỳ thuộc vào khả năng phục hồi các triệu chứng rối loạn tâm thần, vào phương thức
khởi bệnh từ từ hay đột ngột và thời gian kéo dài của các triệu chứng đó. Khái niệm
cấp tính hay mạn tính cũng rất tương, đối, bởi vì chúng có thể chuyển từ loại này sang
loại kia trong quá trịnh tiến triển của bệnh chính và bao gồm:
+ Các phản ứng não cấp tính gồm có: hội chứng não cấp tính, trạng thái lú lẫn
cấp tính, rối loạn tâm thần thực tổn cấp tính, hội chứng thực tổn-loạn thần cấp tính. ,
+ Các phản ứng não mạn tính gồm có: hội chứng não mạn tính, trạng thái lú lẫn
mạn tính, rối loạn tâm thần thực tổn mạn tính, hội chứng thực tổn-loạn thần mạn tính
và sa sút trí tuệ
+ Các rối loạn do tổn thương não khu trú gồm có : tổn thương thuỳ trán, tổn
thương thuỳ đỉnh, tổn thương thuỳ thái dương, tổn thương thuỳ chẩm, tổn thương thể
chai, tổn thương thân não và não trung gian.
2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân gây ra rối loạn tâm thần thực tổn. Tuỳ thuộc vào phương
thức tiến triển, vào biểu hiện lâm sàng mà người ta thường chú ý đến các nguyên nhân
sau đây:
2.1. Nhiễm độc
Thường gặp nhiễm độc các loại thuốc dùng trong nông nghiệp, công nghiệp và
trong y học. Đáng chú ý là các thuốc chống parkinson, thuốc hướng thần, giảm đau,
chống động kinh, thuốc mê, rượu, kim loại nặng, các chất ma tuý,....
2.2. Nhiễm khuẩn
Bao gồm 2 loại nhiễm khuẩn nội sọ và nhiễm khuẩn toàn thân, tiến triển cấp tính
hoặc mạn tính:
+ Nhiễm khuẩn nội sọ như: viêm màng não, viêm não, abscess não, giang mai
não,...
+ Nhiễm khuẩn toàn thân như: nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn một số cơ quan
nội tạng hoặc nhiễm khuẩn đặc hiệu như: lao, thương hàn, sốt rét,...
2.3. Rối loạn chuyển hoá
Chứng tăng ure máu, suy gan, rối loạn nước-điện giải,..
2.4. Thiếu hoặc giảm oxy não
Suy tim, rối loạn thông khí phổi như: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế
quản,...
2.5. Các rối loạn mạch máu não
Đột quị não, suy chức năng não, tăng huyết áp, viêm tắc mạch não, nhồi máu
não,...
56
2.6. Chấn thương sọ não
Thường gặp do nhiều tác nhân khác nhau trong thời bình (tai nạn giao thông, tai
nạn lao động,...) cũng như trong thời chiến (các vết thương do hoả khí, chấn thương do
sóng nổ,...).
2.7. Rối loạn nội tiết
Bệnh cường tuyến giáp (Bdow), bệnh thiểu năng tuyến giáp, các bệnh liên quan
đến chức năng tuyến yên, bệnh đái tháo đường và các bệnh khác liên quan đến chức
năng tuyến thượng thận,...
2.8. Động kinh
Thường gặp trong động kinh cơn lớn toàn thể, động kinh thái dương, động kinh
tiến triển kéo dài,...
2.9. Các bệnh gây thoái hoá hệ thống thần kinh
Alzheimer, Pick, Parkinson, Huntington,...
2.10. Các tổn thương choán chỗ
U não, não nước,...
2.11. Thiếu vitamin
Vitamin B12, axit folic, vitamin B1, vitamin PP.
3. Phân loại
Phân loại các RLTTTT vẫn chưa thống nhất, nhiều cuộc hội thảo Quốc tế và
nhiều trường phái Tâm thần học vẫn còn đang tranh luận gay gắt, nhưng người ta cũng
dựa theo 2 khuynh hướng cơ bản sau:
+ Theo Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10), năm 1992 của Tổ chức
Y tế Thế giới thì RLTTTT được xếp vào nhóm: F00-F09 " Các rối loạn tâm thần thực
tổn bao gồm cả rối loạn tâm thần triệu chứng" (Organic including Symptomatic,
Mental Disorders).
F00: Mất trí trong bệnh Alzheimer
F01: Mất trí trong bệnh mạch máu
F02: Mất trí trong các bệnh khác được xếp loại ở chỗ khác
F03: Mất trí không biệt định
F04: Hội chứng quên thực tổn không do rượu và các chất tác động tâm thần khác
F05: Sảng không do rượu và các chất tác động tâm thần khác
F06: Các rối loạn tâm thần khác do tổn thương và rối loạn chức năng não và bệnh
lý cơ thể.
F07: Các rối loạn nhân cách và hành vi do bệnh não, tổn thương và rối loạn chức
năng não
F09: Rối loạn tâm thần thực tổn hoặc triệu chứng không biệt định
57
4. Đặc điểm lâm sàng chung
Trên cơ sở một số tiêu chuẩn của ICD-I0 về rối loạn tâm thần và hành vi, chương
F00- F09, người ta dựa vào các biểu hiện lâm sàng để định ra một số đặc điểm lâm
sàng chung, giúp cho các thầy thuốc dễ vận dụng trong thực tiễn.
4.1. Hội chứng mê sảng (Delirium)
Hội chứng mê sảng thường gặp trong hội chứng não cấp, các cơn rối loạn do tổn
thương não cấp tính, các phản ứng thực tổn cấp tính, các rối loạn do nhiễm độc cấp
tính,... Bệnh kéo dài vài giờ đến vài tuần lễ và cần phải điều trị tích cực và chăm sóc
của các cơ sở y tế.
Bệnh cảnh lâm sàng là trạng thái rối loạn ý thức với biểu hiện rối loạn tri giác đa
dạng bao gồm cả ảo ảnh kỳ lạ, các ảo tưởng và thậm chí còn có cả các ảo thị giác thật
kèm theo hoang tưởng cảm thụ các loại.
Người bệnh rối loạn ý thức nặng, có thể mất định hướng toàn bộ hoặc nhẹ hơn thì
chỉ mất định hướng cục bộ như: định hướng thời gian, không gian nhưng còn định
hướng bản thân. cảm xúc của người bệnh bàng hoàng, ngơ ngác, căng thẳng, không ổn
định. Hành vi cửa người bệnh phụ thuộc vào sự chi phối của ảo giác và chủ yếu là
hành vi chông đỡ, tấn công hoặc chạy trốn.
4.2. Hội chứng sa sút trí tuệ (Dementia)
Hội chứng sa sút trí tuệ là một hội chứng bệnh lý tiến triển mạn tính do nhiều
nguyên nhân gây ra. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là rối loạn nhận thức ở các mức độ
khác nhau tuỳ từng loại tổn thương não nặng hay nhẹ. Người bệnh thường giảm hoặc
mất năng lực phán đoán, giảm nhớ hoặc mất nhớ hoàn toàn, cảm xúc không ổn định.
Nhân cách biến đổi nặng nề, suy đồi, mất khả năng thích ứng với cuộc sống.
Mức độ sa sút trí tuệ phụ thuộc vào mức độ tiến triển của bệnh và vào các
nguyên nhân khác nhau tác động đến não. Có thể gặp sa sút trí tuệ hoàn toàn nhưng
thường hay gặp nhất vẫn là sa sút trí tuệ từng phần, biểu hiện chủ yếu là rối loạn trí
nhớ, rối loạn cảm xúc còn các rối loạn khác ở các mức độ khác nhau.
4.3. Các rối loạn tâm thần triệu chứng (Symptomatic Psychùltric Disorders)
Biểu hiện lâm sàng ở các rối loạn này rất đa dạng, có liên quan chặt chẽ đến bệnh
chính. Người ta có thể mô tả khái quát bằng các triệu chứng rối loạn tâm thần như:
+ Rối loạn lo âu thực tổn: thường gặp là rối loạn lo âu lan toả kèm theo các rối
loạn hoảng sợ trên cơ sở bệnh thực tổn đã được xác định rõ ràng.
+ Rối loạn cảm xúc thực tổn: biểu hiện chủ yếu là khí sắc thay đổi, trầm cảm
hoặc hưng cảm ở mức đô nhẹ hoặc vừa kéo dài và thường hết khi điều trị bệnh chính
đã ổn định sau một thời gian nhất định.
+ Ảo tưởng hoặc ảo giác thực tổn: trong giai đoạn cấp tính của bệnh thực tổn
thường xuất hiện ảo ảnh kỳ lạ hoặc ảo thị giác thật, thường là ảo thị khổng lồ hoặc ảo
thị tí hon, ảo thị có mầu sắc rực rỡ và nhiều khi chi phối hành vi của người bệnh.
58
+ Rối loạn nhân cách thực tổn: thường gặp là giảm khả năng hoạt động có mục
đích, cảm xúc không ổn định hoặc khoái cảm, bông đùa không thích hợp hoặc có thể
gặp trạng thái vô cảm và có hành vi gây rối trật tự xã hội mà không có mực đích rõ
ràng. Có thể có rối loạn nhịp độ ngôn ngữ hoặc rối loạn nhận thức ở các mức độ khác
nhau.
4.4. Các hội chứng não thực tổn chọn lọc
Các hội chứng não thực tổn chọn lọc rất đa dạng và phức tạp tuỳ thuộc vào từng
loại nguyên nhân. Ngoài những triệu chứng và hội chứng chung đã trình bầy ở trên,
người ta còn chú ý đến những hội chứng chủ yếu chọn lọc như:
+ Hội chứng mất nhớ thực tổn thường gặp trong chấn thương sọ não,
Alzheimer,...
+ Hội chứng ảo giác do rượu trong những bệnh nhân rối loạn tâm thần do nghiện
rượu, ảo giác xuất hiện thường xuyên và có thể chi phối hành vi của người bệnh.
+ Hội chứng thuỳ trán thường gặp nhất trong RLTTTT, xuất hiện trong tổn
thương thuỳ trán do nhiều nguyên nhân khác nhau như: chấn thương sọ não, u não, tai
biến mạch máu não,...
4.5. Bệnh thần kinh hoặc các bệnh nội khoa khác kết hợp với rối loạn tâm thần.
Bao gồm các loại bệnh lý khác nhau có liên quan đến rối loạn tâm thần.
+ Lupus ban đỏ hệ thống: người ta nhận thấy khoảng 5% số bệnh nhân mắc bệnh
này có các triệu chứng thần kinh và tâm thần. Các rối loạn tâm thần thường gặp là ảo
tưởng và ảo thính giác thật cùng với trang thái lo âu và trầm cảm.
+ Chấn thương sọ não: có biểu hiện lâm sàng phức tạp ở các mức độ khác nhau
tuỳ thuộc từng giai đoạn của bệnh.
+ Sơ cứng rải rác: biểu hiện rối loạn tâm thần chủ yếu là trầm cảm, rối loạn nhân
cách và hành vi, đôi khi gặp cả trạng thái sa sút trí tuệ đồng thời với tổn thương thần
kinh khu trú rất rõ ràng.
+ Bệnh Parkinson: triệu chứng rối loạn tâm thần xuất hiện cùng với các rối loạn
chức năng thần kinh, bắt đầu bằng các rối loạn lo âu, trầm cảm. Có thể thấy các triệu
chứng hoang tưởng và ảo giác đa dạng, rối loạn thích ứng. Số bệnh nhân này chiếm
khoảng 5%. Khoảng 40% số bệnh nhân Parkinson kết thúc bằng trạng thái sa sút trí
tuệ, thường là sa sút không hoàn toàn, chủ yếu là rối loạn trí nhớ song song với rối
loạn hình thức tư duy.
+ Bệnh động kinh, bệnh mạch máu não, bệnh nhiễm HIV,... đều có liên quan đến
rối loạn tâm thần ở nhiều mức độ khác nhau.
5. Chẩn đoán phân biệt
Việc đánh giá chính xác RLTTTT là một thách thức to lớn không chỉ đối với các
bác sĩ nội khoa nói chung mà còn cả đối với bác sĩ chuyên khoa tâm thần nói riêng.
Điều quan trọng nhất là phải xác định được đâu là rối loạn tâm thần "Thực tổn" và đâu
59
là rối loạn "Chức năng" . Đó là việc làm rất khó khăn. Tuy vậy, ở một chừng mực nào
đó, người ta cũng xác định được một số những điểm chính cần phân biệt với các rối
loạn thần kinh, Hysteria, những triệu chứng của TTPL khởi phát, phản ứng thực tổn
cấp tính và mạn tính không có loạn thần,...
5.1. Phân biệt với các trạng thái không thực tổn
Việc phân biệt với các trạng thái không thực tổn thường xác định nguyên nhân
gây thực tổn là rất dễ dàng khi có rối loạn ý thức, rối loạn nhận thức, khi có những cơn
động kinh hoặc khi có những triệu chứng rối loạn tâm thần và các dấu hiệu khác kèm
theo. Nhưng không phải tất cả là như vậy, một vài trường hợp có biểu hiện ảo giác,
thay đổi cảm xúc hoặc các triệu chứng giống TTPL hoặc các triệu chứng thực tổn
không rõ nguyên nhân thì rất khó phân biệt như: rối loạn cảm xúc, mê sảng, rối loạn
giấc ngủ,... gặp trong các chấn thương tâm lý. Người ta cũng có thể sử dụng một số xét
nghiệm hỗ trợ cho chẩn đoán quyết định như EEG, test tâm lý, chụp cắt lớp vi tính sọ
não (CT-Scanner), thậm chí có thể chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI). Khoảng
chừng 10% số bệnh nhân có tổn thương thực thể mà không có các triệu chứng rối loạn
loạn thần kèm theo.
+ Rối loạn thần kinh: là những rối loạn chức năng của não biểu hiện bằng các rối
loạn lo âu, rối loạn trầm cảm, người bệnh dễ bị kích thích và mất ngủ. Các triệu chứng
này thường không đầy đủ, không thể nghĩ đến một rối loạn tâm thần thực tổn được.
Các triệu chứng ám ảnh, nhất là ám ảnh sợ (Phobia) không đặc trưng cho một bệnh
thực tổn nào và có khuynh hướng phát triển thành rối loạn tâm căn.
+ Dạng Hysteria phản ứng: cũng chỉ là phản ứng tạm thời thường gặp trong
những phản ứng cấp tính, cảm xúc quá mức và có khuynh hướng biểu hiện bằng các
triệu chứng Hysteria rõ rệt. Trong những trường hợp
"Mất trí giả", cần phải khai thác
trong tiền sử có đặc điểm nhân cách kiểu
"Hysteria"
hay không, có thể gặp giả liệt
hoặc ngất lịm. Người ta có thể gặp 14% RLTTTT được chẩn đoán nhầm với Hysteria
và loạn thần kinh nói chung.
+ Các triệu chứng giống tâm thần phân liệt: những triệu chứng này rất đa dạng,
biểu hiện bằng các ảo giác và hoang tưởng cấp tính hoặc mạn tính rất dễ nhầm với rối
loạn tổn thương thực thể não. Điều quan trọng bậc nhất là phải khai thác tiền sử bệnh
của bệnh nhân hoặc người thân bệnh nhân tỷ mỹ và có hệ thống. Người ta có thể gặp
25% số bệnh nhân có RLTTTT được chẩn đoán nhầm là TTPL.
+ Các triệu chứng rối loạn trầm cảm: đặc biệt là các triệu chứng rối loạn trầm
cảm không điển hình và trầm cảm ẩn mà biểu hiện bằng các rối loạn cơ thể phức tạp
như rối loạn chức năng tim mạch, rối loạn chức năng hệ thống tiêu hoá, hệ thống hô
hấp, tiết niêu,... Những trường hợp này cần phải khai thác kỹ về tiền sử bệnh của bệnh
nhân hoặc người thân bệnh nhân xem đã điều trị bằng các loại thuốc chống trần cảm
nào? đã được làm sốc điện chưa? có tái diễn một triệu chứng nhiều lần hay không?.
Rối loạn tâm thần thực tổn có thể chẩn đoán nhầm với các giai đoạn rối loạn trầm cảm
60
là 20%.
5.2. Phân biệt giữa phản ứng thực tổn cấp tính và mạn tính
Trong thực hành lâm sàng, người ta nhận thấy quá trình hình thành bệnh sử của
bệnh rối loạn tâm thần thức tổn là điều khác biệt chủ yếu. Phản ứng thực tổn cấp tính
được hình thành là do rối loạn ý thức cấp tính ở các mức độ khác nhau. Ngược lại,
trong phản ứng lực tổn mạn tính thì có tính chất khác hẳn như: quá trình tiến triển bệnh
lý chậm, các triệu chứng mờ nhạt, lẻ tẻ còn có ảo giác không rõ rệt hoặc có hoang
tưởng nhất thời, từng lúc ở từng giai đoạn của bệnh và từ từ dẫn đến mất trí toàn bộ.
Rối loạn cấp tính của não hiếm hơn là rối loạn mạn tính. Thường gặp các triệu
chứng như: rối loạn lo âu, rối loạn vận động với các ảo tưởng và ảo giác thị giác nổi
bật. Sự thiếu sót trong nhận thức thực chất làm phong phú thêm và làm rõ ràng thêm
những triệu chứng mê mộng, trống rỗng, ngốc nghếch và suy nhược. Đó là những đặc
điểm của tư duy trong phản ứng thực tổn mạn tính.
5.3. Phân biệt giữa tổn thương lan toả và tổn thương khu trú
Rối loạn tâm thần thực tổn hay gặp nhất là những rối loạn lan toả, nhưng không
mất toàn bộ chức năng của não mà chỉ có những tổn thương cục bộ, tiến triển chậm,
dần dần và cuối cùng biến đổi sâu sắc dẫn đến mất chức năng toàn bộ của não. Sa sút
trí tuệ trong RLTTTT nói chung thì bắt đầu bằng những rối loạn lo âu lan toả, nhưng
trong bệnh Altheimer lại bắt đầu bằng rối loạn trí nhớ, giảm nhớ từ từ và cuối cùng là
mất nhớ toàn bộ hoặc trong bệnh Pick có hội chứng rối loạn thuỳ trán là chủ yếu.
Các dấu hiệu thần kinh quan trọng bậc nhất là nhưng rối loạn quá trình liên
tưởng, rối loạn cảm giác và rối loạn lo âu thường gặp trong mất trí tuổi già và trước
tuổi già. Rối loạn vận động, rối loạn cảm giác và rối loạn lo âu thường gặp trong các
bệnh như: u não, bệnh mạch máu não và bệnh giang mai não. Mất khứu giác cục bộ
hoặc teo thị giác là dấu hiệu quan trọng trong u thuỳ trán. Kiểm tra các dấu hiệu thần
kinh khu trú thường xuyên sẽ bổ sung cho việc theo dõi các cơn động kinh cục bộ biểu
hiện bằng rối loạn lo âu.
Triệu chứng RLTT biểu hiện bằng mất trí nhớ phụ thuộc vào các triệu chứng
khác như thiếu sót trong nhận thức, rối loạn ngôn ngữ, trạng thái buồn ngủ và các
trạng thái chung khác nhau.
Theo J.Bachal (1966) thì tỷ lệ chẩn đoán sai rối loạn tâm thần thực tổn rất khác
nhau, đáng chú ý nhất là: TTPL 25%, rối loạn trầm cảm 20%, các bệnh thực tổn không
có loạn thần 10% bệnh tâm căn và Hysteria 14%. Do vậy, chẩn đoán quyết định được
một trường hợp rối loạn tâm thần thực tổn là rất khó khăn, phải cần những bác sĩ
chuyên khoa có nhiều kinh nghiệm và cần nhiều phương pháp hỗ trợ cho chẩn đoán
mới hy vọng chẩn đoán và điều trị bệnh này ngày càng tốt hơn.
6. Một số trạng thái mất trí thực tổn thường gặp
6.1. Mất trí trong bệnh xơ vữa mạch máu não
61
Mất trí (Dementia) hoàn toàn rất ít gặp trong những trường hợp tai biến mạch
máu não đơn thuần hoặc đột quị phức tạp mà chỉ xảy ra một cách từ từ, trong một thời
gian dài sau các giai đoạn tiến triển liên tiếp và chỉ xuất hiện khi có xơ vữa động mạch
hoặc nhồi máu nhiều ổ.
Mất trí trong các tổn thương mạch máu não có liên quan đến vai trò của những
nhồi máu "lỗ khuyết" (lacunar infarcts). Đây là tổ chức xơ và mảng vữa xơ làm cho
màng trong của động mạch dày lên từng đám, nổi gờ do một chất vữa hoại tử là các tế
bào ăn mỡ. Mảng vữa xơ có hình một mụn mủ, dày ở giữa và có một vùng hoại tử
khảm trong một vỏ xơ, có nhiều axit béo và cholesterol làm cho nòng động mạch hẹp
dần. Cuối cùng là canxi lắng đọng ở vùng hoại tử tạo lên các vết loét ở giữa mảng vữa
xơ và nòng động mạch, hình thành huyết khối. Trong y văn, người ta đều mô tả quá
trình bệnh lý vữa xơ động mạch não là quá trình hình thành các triệu chứng lâm sàng
song song với quá trình biến đổi về hình thái bệnh học.
Mất trí do vữa xơ động mạch (Arterio-sclerotic Dementia) hoặc mất trí do nhồi
máu não rải rác. Khởi phát bệnh có thể là một đợt tai biến mạch máu não cấp, thậm chí
là đột quị hoặc trong tiền sử có những đợt thiếu máu cục bộ với rối loạn ý thức thoáng
qua, liệt nhẹ hoặc mất thị giác tạm thời. Xuất hiện rối loạn trí nhớ và tư duy từ từ sau
những đợt thiếu máu cục bộ hoặc có thể xuất hiện nhanh hơn sau các cơn đột quị.
Tiêu chuẩn chẩn đoán mất trí căn nguyên mạch máu theo ICD-10 (1992) của Tổ
chức Y tế Thế giới dựa vào các điểm như sau:
+ Có biểu hiện mất trí.
+ Có biểu hiện các tổn thương thần kinh khu trú (triệu chứng thần kinh khu trú).
+ Khởi phát bệnh từ từ trong một thời gian dài và trải qua những giai đoạn hình
thành mảng vữa xơ mạch máu sớm hay muộn.
+ Có hình ảnh tổn thương não trên CT hoặc MRI. .
Trong y văn, đã mô tả quá trình bệnh lý vữa xơ động mạch não là quá trình hình
thành các triệu chứng lâm sàng cùng với sự biến đổi về hình thái bệnh học. Đặc điểm
lâm sàng của mất trí trong bệnh vữa xơ động mạch não phụ thuộc vào các giai đoạn
tiến triển của bệnh. Bệnh tiến triển từ từ (20-30 năm), thường có biểu hiện lâm sàng ở
tuổi từ 40-60 tuổi. Bắt đầu bằng các triệu chứng giống loạn thần kinh như: mệt mỏi,
khó tập trung chú ý và hay đãng trí, khả năng lao động trí óc giảm rõ rệt, suy kiệt về
tâm thần, cảm xúc không ổn định (dễ bực tức, dễ nổi nóng, hay có xung đột) và khó
hoà hợp với những người xung quanh.
Rối loạn trí tuệ tăng dần, bệnh nhân quên các sự việc mới xảy ra, quên không biết
mình phải làm gì, một số trường hợp xuất hiện hội chứng Corxacov điển hình. Tư duy
cứng nhắc, mất tính linh hoạt, vụn vặt, chi ly. Bệnh nhân khó tiếp xúc với người xung
quanh, sống ích kỷ, hay đòi hỏi, không tự kiềm chế và điều chỉnh được hành vi của
mình. Đôi khi gặp các hội chứng bệnh lý tâm thần khác nhau như: paranoid, ý thức mù
mờ, ảo giác, các cơn "dạng động kinh" và quá trình phát triển của vữa xơ động mạch
62
không tương xứng với biểu hiện lâm sàng của các rối loạn tâm thần. Đáng chú ý là các
trường hợp vữa xơ động mạch có rối loạn ý thức thường tiên lượng không thuận lợi,
nhiều trường. hợp chuyển sang mất trí rất nhanh chóng. Song song với nhịp độ mất trí
tăng dần còn nhiều tổn thương thực thể khác cũng có biểu hiện lâm sàng rõ nét dần
như: vữa xơ động mạch chủ, động mạch vành, nhiễm mỡ cơ tìm và nhiều triệu chứng
tổn thương thần kinh khác (giảm phản xạ đồng tử với ánh sáng, mất nếp nhăn mũi-
môi, run tay, nghiệm pháp Romberg không ổn định, hội chứng tự động miệng,...).
6.2. Mất trí trong bệnh giang mai não
Mất trí do giang mai não bao giờ cũng là giai đoạn cuối cùng của rối loạn tâm
thần do giang mai. Biểu hiện lâm sàng là các rối loạn tâm thần và thần kinh đa dạng.
Bản chất của mất trí là tổn thương các mạch máu não và màng não do giang mai hoặc
do các gồm giang mai (hiếm gặp hơn) ở trong não. Đôi khi tổn thương mạch máu não
lại là những tổn thương thứ phát và lan toả các nhu mô não và màng não do giang mai.
Biểu hiện của hội chứng màng não không rõ ràng, thường kèm theo hội chứng
não toàn bộ, tiến triển mạn tính hoặc bán cấp tính. Phản ứng màng não thường bị che
lấp bởi các cơn co giật "dạng động kinh" và một trạng thái ý thức không sáng sủa. Hay
kèm theo tổn thương các dây thần tinh sọ số III, IV, V, VI, VII và có thể gặp mất ngôn
ngữ, rối loạn phản xạ đồng tử xét nghiệm dịch não tuỷ thấy Albumin tăng và phản ứng
BW (+).
Biểu hiện rối loạn tâm thần chủ yếu là rối loạn ý thức ở các mức độ khác nhau
như: mù mờ ý. thức, mê sảng hoặc lũ lẫn. Trí tuệ giảm sút rõ rệt nhưng không đồng
nhất, quên nhiều, tư duy chậm chạp..., còn khả năng nhận biết về bệnh tật.
6.3. Mất trí trong bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer (Alzhẹimer Disease) là một bệnh não thoái hoá nguyên phát,
căn nguyên chưa rõ, biểu hiện lâm sàng bằng trạng thái mất trí tiến triển, không phục
hồi, thường khởi phát ở lứa tuổi tiền lão (45-60 tuổi) hoặc ở lứa tuổi già (sau 65 tuổi).
Trạng thái mất trí tiến triển thường khởi đầu bằng giảm trí nhớ và các rối loạn khác
như: rối loạn ngôn ngữ, rối loạn hoạt động và rối loạn trí tuệ ngày càng rõ rệt hơn do
sự giảm số lượng đáng kể các neuron, teo vỏ não lan toả, giãn rộng hệ thống não thất
đồng thời có sự giảm rõ rệt các enzyme Cholin-Acetyl-Transferaza, Acetylcholin và
một số chất dẫn truyền và điều chỉnh thần kinh khác. Thường các biểu hiện lâm sàng,
biến đổi giải phẫu bệnh lý và sinh hoá nói trên không nhất thiết phải đi song song với
nhau. Bệnh được Alois Alzheimer ( 1864- 1915) mô tả lần đầu tiên từ năm 1907 với
các biểu hiện lâm sàng như: mất trí tiến triển và các rối loạn hành vi, nhân cách, cảm
xúc được gọi là "bệnh sa sút trước tuổi già" (Pra"semile Demenz).
Mất nhớ (Amnesia) là triệu chứng đầu tiên, xuất hiện rất sớm với các triệu chứng
báo hiệu như: quên tên, lẫn lộn ngày tháng, nhầm đồ vật, nhầm phòng ở, quên tắm,
quên rửa mặt, quên cài khuy áo, quên kẻo khoá quần,...ngày càng tăng dần và không
hồi phục. Biểu hiện mất nhớ thường với các sự việc vừa xảy ra như người sống trong
63
mộng, họ quên ngày, quên tháng, quên tên, tuổi vợ, quên tên, tuổi các con, quên đường
về nhà mình, quên cả nét mặt của chồng và không nhận ra mình trong gương,
¼
Nếu ở
giai đoạn muộn, người bệnh chỉ sống với quá khứ biểu hiện bằng những mảng hồi ức
về thời son trẻ, chắp vá lẫn lộn với nhau và thậm chí quên cả tên của mình. Ngoài ra,
còn các triệu chứng khác như: biểu hiện sớm là khó tìm từ để biểu lộ ý tưởng của
mình, khó phát âm, mất nhận thức (Agnosia), mất ngôn ngữ (Aphasia). Ở giai đoạn
cuối cùng người bệnh không hiểu được mình nói gì? hoặc không hiểu được tiếng nói
người khác.
Rối loạn phối hợp động tác (Dyspraxia) cũng là những dấu hiệu sớm,bệnh nhân
không chú ý đến trang phục, mặc quần áo, thực hiện các công việc quen thuộc trong
nhà khó khăn, việc mua bán cũng rất khó khăn và khả năng điều khiển xe cũng bị ảnh
hưởng. Những biểu hiện trên là rối loạn trương lực cơ do tổn thương các hạch nền chủ
yếu là yếu các cơ và run kiểu ngoại tháp, đi lại chậm chạp và cứng nhắc, đi giật cục,
bước đi ngắn, người lao về phía trước. Các triệu chứng trên tiến triển càng ngày nặng
hơn, người bệnh phải có người giúp đỡ mặc quần áo, tắm giặt và lúc ăn không còn khả
năng cầm thìa, và đũa.
Rối loạn chức năng nhận thức chủ yếu là rối loạn trí nhớ sớm kèm theo giảm khả
năng chú ý hay đãng trí, rối loạn định hướng không gian và thời gian, mất khả năng
tính toán đơn giản, không còn khả năng hiểu biết về tình trạng bệnh của mình, không
còn khả năng phê phán và đánh giá. Các triệu chứng trên ngày càng nặng dần và
không hồi phục, đồng thời xuất hiện thêm một số triệu chứng rối loạn tâm thần làm
cho biểu hiện lâm sàng của bệnh ngày càng phong phú như: cảm xúc không ổn định,
trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát hoặc khoái cảm có biểu hiện nhi hoá hoặc bàng
quan thờ ơ, có thể có những hoang tưởng kèm theo lo âu bối rối. Ảo giác cũng hay
gặp, kết hợp với mù mờ ý thức xuất hiện tình trạng mộng thức. Các biến đổi nhân cách
và hành vi chỉ gặp ở giai đoạn cuối của bệnh.
Việc chẩn đoán sớm bệnh Alzheimer là rất khó khăn. Phát hiện Alzheimer ở giai
đoạn sớm có tác dụng quyết định cho chẩn đoán và tổ chức dự phòng, lập kế hoạch
điều trị và săn sóc bệnh nhân tốt hơn. Nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán bệnh Alzheimer
theo ICD-10 (1992) của Tổ chức Y tế Thế giới như sau:
+ Có biểu hiện rối loạn trí tuệ: suy giảm cả trí nhớ và tư duy đủ gây trở ngại cho
hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân. Các lĩnh vực khác thuộc chức năng
cao cấp của vỏ não như khả năng tính toán, sự hiểu biết, khả năng học tập, định hướng,
khả năng phán đoán, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ cũng bị suy giảm trên nền ý
thức không bị lu mờ.
+ Khởi phát từ từ và suy thoái chậm: thường khởi phát khó xác định được thời
điểm cụ thể nên những người xưng quanh có cảm giác là bệnh xảy ra đột ngột.
+ Không có bằng cứ về lâm sàng và các xét nghiệm đặc hiệu cho thấy tình trạng
tâm thần là do một bệnh não hoặc một bệnh lý thực tổn chung gây nên.
64
+ Không bắt đầu đột ngột, không có đột quị và không có dấu hiệu thần kinh khu
trú xuất hiện sớm trong quá trình bệnh.
6.4. Mất trí trong bệnh Parkinson
Không phải trường hợp bệnh Parkinson nào cũng dẫn đến mất trí, chỉ có những
trường hợp tiến triển nặng và nguyên phát mới dẫn đến mất trí. Gần đây, người ta tìm
thấy trong não của những bệnh nhân Parkinson các tiểu thể Lewy là những đĩa ái toan
nằm trong tế bào thần kinh với vòng sáng nhạt bao quanh. Các bệnh nhân này thấy có
khoảng trên 20% mất trí và Gibb W., Crystal H. (1989,1990) gọi là "bệnh mất trí do
tiểu thể Lewy".
Việc chẩn đoán phân biệt giữa mất trí do Parkinson hoặc mất trí do Alzheimer
hoặc mất trí do Parkinson kết hợp với Alzheimer hoặc mất trí do các bệnh mạch máu
não gặp rất nhiều khó khăn. Để chẩn đoán mất trí do bệnh Parkinson chúng ta cần chú
ý những điểm sau:
+ Rối loạn trí tuệ tiến triển không hồi phục.
+ Hội chứng Parkinson (liệt run) biểu hiện ở mức độ trung bình, nặng hoặc rất
nặng.
+ Loại trừ bệnh Alzheimer, các bệnh mạch máu não và các tổn thương thực thể
khác gây mất trí như: nhồi máu não, tăng huyết áp, u não, thuỷ thủng não, giang mai
thần kinh,...
6.5. Mất trí trong bệnh Pick
Bệnh Pick cũng là một bệnh mất trí tiến triển do thoái hoá vỏ não gây ra. Bệnh
được Pick L. (1868-1935) mô tả năm 1892 ở trên 100 bệnh nhân, trẻ nhất là 21 tuổi và
nữ gặp nhiều hơn nam giới. Bệnh có đặc điểm là quá trình thoái hoá xảy ra chọn lọc ở
một số thuỳ não khác nhau như: thuỳ trán, thuỳ thái dương và một phần của thuỳ đỉnh
với đặc tính là phần não tổn thương do thoái hoá trở nên nhăn nhúm và xẹp lại. Một
đặc điểm riêng biệt nữa là không tồn thấy các mảng lão hoá và biến đổi tổ chức sợi
như trong bệnh Alzheimer.
Về lâm sàng đặc trưng là các biểu hiện mất trí có kèm theo các triệu chứng của
tổn thương thuỳ trán như: vô cảm hoặc đùa tếu (Euphona). Nhân cách của bệnh nhân
tan rã rất nhanh chóng là sống bê tha: rượu chè, ăn trộm, trai gái,... các triệu chứng rối
loạn tâm thần ngày càng rõ rệt, nhưng các triệu chứng ảo giác và hoang tưởng rất ít
gặp. Trạng thái sa sút tiến triển nhanh dẫn đến mất định hướng, mất nghe và không
tiếp xúc với môi trường xung quanh. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Pick theo ICD-10
(1992) của Tổ chức Y tế Thế giới như sau:
+ Rối loạn trí tuệ khởi đầu ở lứa tuổi 50 - 60 tuổi và tiến triển chậm.
+ Rối loạn trí tuệ kèm theo các triệu chứng tổn thương thùy trán chiếm ưu thế
như: khoái cảm, thô lỗ, có giải toả bản năng nhất là bản năng ăn uống và bản năng tình
dục hời hời hoặc vô cảm và bồn chồn.
65
+ Các biến đổi nhân cách và tác phong thường đi trước các rối loạn về trí nhớ và
trí tuệ.
6.6. Mất trí trong bệnh Huntington
Bệnh Huntington do George Huntington ( 1851 - 1916), một bác sĩ người Mỹ mô
tả lần đầu tiên năm 1872 về tình trạng mất trí của những bệnh nhân có chứng múa giật
và được gọi là "bệnh múa giật Huntington" (Huntington's Chorea). Bệnh múa giật
Huntington
là một bệnh thoái hoá não lan toả, mang tính di truyền do một gen trội tự
thân duy nhất. Tuổi khởi phát của bệnh phụ thuộc vào từng cá thể, tuổi khởi phát trung
bình ở lứa tuổi 30-40 tuổi, cũng có thể khởi phát ở lứa tuổi sớm hơn (< 20 tuổi) với
những rối loạn cảm xúc nổi bật thì nặng hơn cả, ở lứa tuổi trung niên với các triệu
chứng múa giật chiếm ưu thế và ở người trên 60 tuổi với triệu chứng run, cường độ lớn
thì nhẹ hơn. Dù ở lứa tuổi nào, cuối cùng bệnh cũng kết thúc bằng trạng thái mất trí.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh sớm nhất là các triệu chứng lo âu, trầm cảm, hoang
tưởng và ảo giác, bệnh tiến triển chậm và kéo dài, về sau các biểu hiện rối loạn hành vi
và nhân cách ngày càng rõ nét. Người ta nhận thấy rối loạn vận động xuất hiện trước
khi có rối loạn tư duy và mất trí, sau một vài năm có thể thấy các triệu chứng này tách
riêng biệt ra thành 2 nhóm, nếu một trong hai nhóm là triệu chứng điển hình thì bệnh
có tiến triển xấu hoặc hai nhóm triệu chứng kết hợp với nhau nhưng không có triệu
chứng nào điển hình thì bệnh tiến triển thuận lợi hơn. Điều đó có ý nghĩa về tiên lượng
bệnh. Các tác giả còn nhận thấy đôi khi bệnh Huntington chỉ có triệu chứng múa giật
đơn thuần và duy nhất hoặc chỉ có rối loạn tư duy và sa sút trí tuệ đơn thuần hoặc có
những triệu chứng kết hợp như: múa giật và các kích động tiến triển trong bệnh
parkinson.
Các triệu chứng tâm thần có thể là các dấu hiệu khởi đầu của bệnh Huntington
như: thường gặp thay đổi khí sắc, rối loạn cảm xúc và hội chứng paranoia. Nhiều tác
giả đã nhận thấy rằng thay đổi về tâm thần thường biểu hiện sớm hơn so với triệu
chứng múa giật và rối loạn trí tuệ. Tình trạng vô cảm xuất hiện sớm và rối loạn khả
năng nhận thức là một đặc trưng của bệnh Huntington, khó tập trung chú ý, sắp xếp ý
nghĩ kém và di chuyển chú ý chậm rõ rệt. Ngoài ra, còn có rối loạn trí nhớ nhưng gặp
ít hơn trong bệnh Alzheimer. Mất trí từ từ là rất phổ biến, rối loạn định hướng không
gian và thời gian xuất hiện muộn. Nét đặc trưng của mất trí Huntington là mất khả
năng nhận thức chung nhưng không có rối loạn ngôn ngữ, điều đó cho thấy tổn thương
ở dưới vỏ trầm trọng hơn là ở vỏ não. Rối loạn tình dục thường gặp do mất trí, có thể
xuất hiện bạo lực, cưỡng dâm, lãnh đạm ở nữ giới và mất khả năng cường dương ở
nam giới.
Các triệu chứng thần kinh trong bệnh Huntington thường không được chú ý ngay
từ đầu. Rối loạn vận động sớm ở các ngón tay và ở động tác chau mày, ở cơ mặt, cơ
tay hoặc cơ bả vai và khó giữ tư thế, về sau xuất hiện triệu chứng múa giật như: vận
động lộn xộn, mất điều hoà vận động cơ trong một khoảnh khắc. Rối loạn ngôn ngữ
66
thường là mất logic rất sớm. Đôi khi những rối loạn vận động có cường độ lớn tạo ra
các thói quen như vuốt tóc hoặc vuốt quần áo. Tư thế rất kì dị như: nhảy múa, thất điều
ở chi dưới, trọng lượng tỳ lên gót chân trong khi các ngón chân dạng, không chạm đất
và chân đứng nhấc lên chậm hơn so với bình thường. Bệnh nhân bước những bước dài,
lưng khom quá mức, tay vung rộng thành hình rích rắc do sự lắc lư của thân. Bước đi
chậm từng bước một như bị tạm dừng.
Tiến triển của bệnh múa giật Huntington thường là chậm so với các bệnh mất trí
tiên phát khác. Trung bình từ 13-16 năm, nhưng cũng có một số trường hợp tiến triển
chậm hơn hàng vài chục năm mới đến giai đoạn cuối cùng. Những bệnh nhân rối loạn
trí tuệ nặng thì thường gặp nghiện rượu (19%), phạm tội (18%) và số người ly dị hoặc
ly thân (38%).
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh múa giật Huntington theo ICD-10 (1992) của Tổ
chức Y tế Thế giới dựa vào các điểm sau:
+ Có biểu hiện rối loạn trí tuệ kèm theo các rối loạn vận động (múa giật).
+ Tiền sử gia đình có người mắc bệnh múa giật Huntington.
+ Các biểu hiện múa giật không tự chủ, điển hình xuất hiện ở mặt, tay và ở vai.
+ Dáng đi kiểu cứng đờ hoặc run xuất hiện sớm trước khi có các triệu chứng mất
trí rõ rệt.
6. 7. Mất trí trong bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJ)
Bệnh Creutzfeldt-jakob là một bệnh thoái hoá vỏ não, thể vân và tuỷ
(Corticostriato- Spinal) với các mảng xơ cứng giả do Creutzfeldt H.G. (1885 - 1964)
và Jakob A. (1884- 1931) mô tả năm 1920- 1921.
Về giải phẫu bệnh lý là tổn thương thoái hoá hạt, nhiễm xơ và nhiễm mỡ đa dạng
được phân bố rộng rãi ở các lớp vỏ não, các nhân xám nền não, vỏ tiểu não, đồi thị và
các tế bào hình sao ở tuỷ sống. Hình ảnh giải phẫu bệnh lý của bệnh Creutzfeldt-jakob
rất giống hình ảnh của não trong bệnh bò điên ở Anh, nên có tác giả cho rằng nguyên
nhân tổn thương là do virus chậm gây ra.
Về các triệu chứng lâm sàng của bệnh Creutzfeldt-jakob bao gồm 3 giai đoạn tiến
triển:
+ Giai đoạn tiền triệu: biểu hiện hội chứng suy nhược, mệt mỏi, vô cảm, khó nhớ
với những hành vi bất thường như: đi loạng choạng, khó nói, yếu chi.
+ Giai đoạn toàn phát: các triệu chứng thần kinh biểu hiện ngày càng rõ như: nói
ngọng, thất điều, tay chân cứng, đi lại khó khăn và tình trạng mất trí (Dementia) xảy ra
nhanh. Người bệnh trở nên thờ ơ, không chú ý, không tiếp thu nổi các thông tin mới,
không tiếp xúc với môi trường xung quanh. Các biểu hiện tổn thương tiểu não và
ngoại tháp như run, cử động giật cục, cứng đờ cũng thường gặp. Có thể gặp trường
hợp có xu hướng bịa chuyện, một số rối loạn tâm thần như hoang tưởng và ảo thính
giác.
67
+ Giai đoạn cuối: ngoài tình trạng mất trí còn xuất hiện rối loạn ngôn ngữ, liệt chi
và rối loạn cơ vòng. Biểu hiện lâm sàng hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng tổn thương
khu trú ở các vùng não bị thoái hoá.
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Creutzfeldt-jakob theo ICD-10 (1992) của Tổ chức Y
tế Thế giới dựa vào các tiêu chuẩn như sau:
+ Rối loạn trí tuệ tiến triển nhanh từ vài tháng đến vài năm.
+ Có các triệu chứng tổn thương thần kinh rất phong phú như: liệt cứng tiến
triển, run, múa giật, múa vờn, thất điều vận động do rối loạn tháp và ngoại tháp.
+ Có những dấu hiệu đặc trưng trên điện não đồ (EEG) là có dạng 3 pha.
6.8. Mất trí trong nhiễm HIV/AIDS
Biểu hiện lâm sàng là những nét suy giảm nhận thức, đáp ứng với tiêu chuẩn
chẩn đoán mất trí, nhưng không tìm thấy căn nguyên cụ thể nào, ngoài xét nghiệm
HIV dương tính. Bệnh nhân than phiền là hay quên, khả năng tập trung chú ý kém, khó
tiếp thu các kiến thức mới trong đọc sách, đọc báo và khó tập trung giải quyết những
vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Tính linh hoạt của bệnh nhân giảm sút, thiếu sáng
kiến, một số ít có biểu hiện vô cảm, ngại giao tiếp xã hội hoặc có biểu hiện tình trạng
rối loạn tâm thần cấp như: các rối loạn trầm cảm, hưng cảm, paranoid hoặc các cơn co
giật kiểu động kinh.
Khám thần kinh thường thấy run, mất thăng bằng, thất điều vận động, tăng
trương lực cơ, tăng phản xạ gân xương lan toả và dấu hiệu rung giật nhãn cầu dương
tính. Ở trẻ em có biểu hiện tình trạng chậm phát triển tâm thần, tăng trương lực cơ, đầu
nhỏ (microencephalus) và vôi hoá các hạch nền não. Các biểu hiện lâm sàng trên được
gọi là bệnh não do nhiễm HIV hoặc viêm não bán cấp do nhiễm HIV.
Các triệu chứng rối loạn tâm thần trong các giai đoạn của bệnh xuất hiện rõ nét
dần lên như.
+ Rối loạn sự thích ứng, bệnh nhân không thích ứng với hoàn cảnh xung quanh,
không dung nạp sự chăm sóc của gia đình và xã hội, mặc cảm, tự ti và có nhiều định
kiến với xã hội.
+ Rối loạn trầm cảm chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 40-50%). Thực chất rối loạn
này là rối loạn hỗn hợp của rối loạn trầm cảm thực tổn do nhiễm HIV/AIDS gây ra và
trầm cảm chức năng do các yếu tâm lý-xã hội trong quá trình bị bệnh mang lại. Chúng
xen kẽ lẫn nhau khó có thể phân biệt được đâu là rối loạn thực tổn và đâu là rối loạn
chức năng.
+ Rối loạn lo âu thường biểu hiện rõ ràng hơn, chủ yếu là lo âu lan toả, ám ảnh
cưỡng bức, kèm theo nhiều rối loạn thần kinh thực vật như: run, vã mồ hôi, hồi hộp,
mất ngủ, hoảng hết, chán ăn,...
+ Rối loạn hành vi, nổi bật nhất là hành vi tự sát do có nhiều biến chứng như: suy
giảm nhận thức và mê sảng, có thể tự sát do hoang tưởng hoặc có thể bị người thân và
68
xã hội xa lánh hoặc kinh tế kiệt quệ vì lạm dụng các chất ma tuý,...
+ Rối loạn ý thức chủ yếu là hội chứng mê sảng do tổn thương hệ thần kinh trung
ương.
Một số bệnh nhân khác từ mê sảng kéo dài dẫn đến xa mất trí đồng thời có nhiều
rối loạn tâm thần khác.
+ Rối loạn phức hợp nhận thức-vận động: gồm có 2 mực độ nhẹ và nặng biểu
hiện rất khác nhau giữa 2 tật chứng nhận thức-vận động trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày.
+ Rối loạn nhân cách, đặc trưng bằng những biến đổi mô hình hành vi quen
thuộc. Sự xuất hiện cảm xúc-hành vi xung động làm tăng các nét nhân cách dẫn đến
hành vi giải toả ức chế, dễ bị kích thích và gây nguy hiểm cho người xung quanh, thậm
chí kể cả người thân trong gia đình.
+ Lạm dụng chất ma tuý cũng thường xảy ra do tiêm chích từ trước hoặc mới
mắc để giải toả các ức chế biểu hiện bằng rối loạn lo âu hoặc trầm cảm.
Các triệu chứng tổn thương thần kinh khu trú của não chủ yếu là viêm não và
viêm màng não do vi khuẩn hoặc do vứus hoặc do nấm ở giai đoạn cuối cùng (giai
đoạn AIDS):
+ Viêm não do Toxoflasma, thường biểu hiện bằng các dấu hiệu viêm màng não-
não. Rối loạn ý thức ở các mức độ khác nhau từ hội chứng u ám đến hôn mê, còn có co
giật kiểu động kinh, có tăng áp lực nội sọ và có nhiều dấu hiệu tổn thương thần kinh
khu trú, tiến triển rất nặng và tỷ lệ tử vong rất cao.
+ Viêm màng não do nấm Cryptococcus neufomlan, giống như viêm màng não
do lao, sốt cao, có dấu hiệu màng não rõ rệt, có rối loạn ý thức kiểu lú lẫn hoặc hôn mê
và bệnh nhân tử vong rất nhanh chóng.
+ Viêm não do Cytomegalovius, tiến triển rất nặng kèm theo viêm phổi, viêm
niêm mạc ống tiêu hoá, viêm võng mạc mắt dẫn đến mù và tử vong rất nhanh chóng.
+ Viêm não chất trắng đa ổ tiến triển, triệu chứng rất đa dạng, rối loạn hành vi
nghiêm trọng và thường dẫn đến mất trí, cuối cùng cũng dẫn đến tử vong.
Tiêu chuẩn chẩn đoán mất trí trong nhiễm HIV/AIDS theo ICD-10 (1992) của Tổ
chức Y tế Thế giới dựa vào các điểm như sau:
+ Rối loạn trí tuệ gặp chủ yếu là suy giảm quá trình nhận thức.
+ Các dấu hiệu tổn thương thần kinh khu trú như đã mô tả.
+ Xét nghiệm nhiều lần và bằng nhiều phương pháp khác nhau vẫn xác định là
HIV dương tính
+ Loại trừ các căn nguyên gây mất trí khác.
Trạng thái mất trí do nhiễm HIV/AIDS thường tiến triển rất nhanh chỉ sau vài
tháng đã dẫn đến mất trí hoàn toàn, kèm theo các dấu hiệu của hội chứng suy giảm
miễn dịch nặng và tử vong.
69
6.9. Mất trí sau chấn thương sọ não
Mất trí sau chấn thương sọ não (Post-Traumatic Dementia) là giai đoạn muộn của
các rối loạn sau chấn thương sọ não và bao gồm có 4 hội chứng chính:
+ Suy nhược sau chấn thương (Post-Traumatic Asthenia) là một hội chứng khá
phổ biến, chiếm 50 -70% số các trường hợp chấn thương sọ não, thường tiến triển sau
một năm là ổn định.
+ Suy não sau chấn thương (Post-Traumatic Encephalopathia) có biểu hiện các
triệu chứng rối lont tâm thần và thần kinh rõ rệt hơn so với hội chứng suy nhược sau
chấn thương. Rối loạn tâm thần nổi bật là "trạng thái giống loạn thần kinh sau chấn
thương", thực chất là các triệu chứng rối loạn phân ly sau chấn thương. Có thể gặp các
triệu chứng la hét, vật vã hoặc diễn lại tình huống chiến đấu. Các triệu chứng này
thường gặp trong năm đầu của chấn thương và về sau thì mất hẳn. Trạng thái mệt mỏi
xảy ra thường xuyên và không mất đi sau nghỉ ngơi. Các triệu chứng tâm thần thực tổn
như: giảm sút trí nhớ, khó nhớ các kiến thức mới, tư duy kém linh hoạt và nghèo nàn.
Cảm xúc không ổn định, dễ bùng nổ, không tự kiềm chế, dễ tấn công, một số bệnh
nhân khác lại có trạng thái vô cảm, lờ đờ, chậm chạp, thiếu chủ động và có nguy cơ
mất trí hoàn toàn rất cao.
+ Động kinh sau chấn thương (Post-Traumatic Epilepsy) chiếm tỉ lệ 4-5% các
chấn thương sọ não, nếu là các vết thương chiến tranh thì tỉ lệ này tăng lên 30%. Động
kinh có thể xuất hiện rất sớm, đôi khi rất nguy kịch cho tính mạng bệnh nhân. Những
cơn động kinh xuất hiện muộn từ 6-12 tháng sau chấn thương gặp khá nhiều (50%).
Người ta nhận thấy các cơn động kinh thường xuất hiện trong vòng 2 năm sau chấn
thương (80%). Động kinh sau chấn thương thường là những cơn động kinh cục bộ, nếu
là động kinh toàn thể thì cũng bắt đầu bằng các cơn cục bộ. Cơn động kinh cũng có thể
bắt đầu bằng hiện tượng giống rối loạn phân ly và kết thúc bằng cơn co giật mất ý
thức. Trong động kinh sau chấn thương luôn luôn tồn tại hội chứng suy não chấn
thương và thường xuất hiện các cơn xung động tâm thần vận động hoặc ngôn ngữ.
Trong cơn, ý thức bệnh nhân không mất hoàn toàn, dễ có hành vi hung bạo, nguy hiểm
và cũng có nguy cơ mất trí không hoàn cao nếu không được điều trị tích cực.
+ Mất trí sau chấn thương (Post-Traumatic Dementia), thực chất là sự tiến triển ở
mức độ nặng của trạng thái vô cảm trong suy não sau chấn thương. Biểu hiện của trạng
thái này là bệnh nhân mất nhớ toàn bộ, trí năng giảm sút rõ rệt, mất khả năng phê
phán, mất khả năng lao động trí óc, còn có thể làm được một số công việc lao động
chân tay, đơn giản và không đòi hỏi kỹ thuật cao. Một số bệnh nhân khác tiến triển rất
nặng, chỉ còn các hoạt động bản năng, không còn khả năng tự phục vụ mình.
70
ĐỘNG KINH TÂM THẦN VẬN ĐỘNG
VÀ RỐI LOẠN TÂM THẦN TRONG ĐỘNG KINH
Động kinh (ĐK) là một bệnh mạn tính, do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra,
đặc trưng là sự lặp đi lặp lại của các cơn do sự phóng điện quá mức, đồng thì của các
tế bào thần kinh não bộ, dù cho triệu chứng lâm sàng và cận lên sàng có thể khác nhau.
Tỉ lệ bệnh này chiếm khoảng 0,5 - 0,8% dân số. Dựa vào lâm sàng và điện não, người
ta chia ĐK ra nhiều thể bệnh.
1. ĐK tâm thần vận động
ĐK tâm thần vận động hay còn gọi ĐK thùy thái dương (TTD). ĐKTTD bao
gồm ĐK cục bộ đơn giản (không có rối loạn định hướng, có hoặc không có aura)và
ĐK cục bộ phức tạp (có rối loạn định hướng). ĐKTTD được J.H.Jackson mô tả lần
đầu năm 1881 và gọi là cơn móc và trạng thái mộng. Năm 1940 Gibs và CS sử dụng
thuật ngữ ĐK tâm thần vận động. Năm 1981 Hiệp hội chống ĐK quốc tế sử dụng thuật
ngữ ĐK cục bộ phức tạp thay cho ĐK tâm thần vận động. ĐKTTD được chia ra ĐK vô
căn, ĐK do di truyền và ĐK triệu chứng.
Đặc điểm của loại ĐK này là những biến đổi từng cơn về hành vi tác phong. Cơn
ĐK thường bắt đầu bằng những cơn thoáng (aura), aura xuất hiện ở 80% ĐKTTD.
Chúng thường là nét đặc trưng của ĐK cục bộ đơn giản như các triệu chứng về cảm
giác bản thể, cảm giác đặc biệt, các triệu chứng tự động và tâm thần. Các ảo khứu và
ảo vị có thể xuất hiện. Các aura khứu giác như ngửi thấy mùi cao su cháy thường liên
quan đến u TTD. Ảo thanh bao gồm tiếng vo ve, các tiếng nói ở xung quanh hoặc từ
trong cơ thể phát ra, ảo tưởng thị giác: nhìn mọi vật to ra hoặc bé lại. Mất thăng bằng,
chóng mặt gặp ở ĐKTTD sau trên. Về tâm thần có cảm giác đã từng thấy hoặc chưa
bao giờ thấy và các hoang tưởng. Sợ hãi và lo âu liên quan với cơn ĐK xuất phát từ
hạnh nhân. Hiện tượng tự động như thay đổi nhịp tim, dựng tóc, vã mồ hôi.
Sau aura là cơn ĐK cục bộ phức tạp, người bệnh có biểu hiện: mắt mở to, nhìn
chằm chằm, đồng tử giãn, các hoạt động bị ngưng lại. Nhiều hoạt động tự động như
nhai, liếm môi, các động tác tự động ở tay chân có thể gặp. Người bệnh đứng lên ngồi
xuống, mặc áo vào, cởi áo ra, đi lang thang, vùng chạy hỗn loạn, đi trốn, đi tìm hoặc
thực hiện những hoạt động có kĩ năng cao như lái xe, chơi những bản nhạc phức tạp...
Những hành vi này có tính chất tụ động, không mục đích. Có thể có cơn xung động tấn
công hoặc giết người rất dã man. Người bệnh sau đó không nhớ những gì đã xẩy ra.
Nếu tổn thương có liên quan đến bán cầu trội, người bệnh có thêm những rối loạn về
ngôn ngữ như đang nói bỗng nhiên dừng lại, nói năng không liên quan. Hầu hết những
cơn này đều bắt nguồn ở thùy thái dương đặc biệt là hồi hải mã hoặc hạnh nhân, hệ
thống viền hoặc những vùng khác của não. Hầu hết aura và các hiện tượng tự động kéo
dài trong một thời gian ngắn: vài giây hoặc 1-2 phút, trạng thái sau cơn có thể kéo dài
vài phút.
71
Nguyên nhân: Các nguyên nhân hay gặp là viêm não virus, viêm màng não mủ,
chấn thương sọ não, xuất huyết não, u não lành tính hoặc ác tính, dị dạng mạch máu
não. Khoảng 213 số người bệnh được phẫu thuật thấy có xơ cứng hồi hải mã.
Người bệnh ĐKTTD cần được chụp MRI, PET hoặc SPECT. Điện não đồ giữa
các cơn cần ghi ở tất cả những người nghi ngờ bị ĐKTTD. Hay gặp phức bộ gai nhọn
sóng chậm, thường xuất hiện ở vùng thái dương trước. Trong cơn ghi được teta nhọn,
tần số 5-7 Hz.
2. Các rối loạn tâm thần trong bệnh động kinh
Các rối loạn tâm thần rất hay gặp ở bệnh nhân ĐK và là một vấn đề quan trọng
về một sức khoẻ tâm thần do sự khá phổ biến của bệnh này trong nhân dân.Theo nhiều
tác giả, khoảng 30 - 50% bệnh nhân ĐK có những khó khăn về tâm thần. Các rối loạn
tâm thần ở bệnh nhân ĐK hay gặp ở bệnh nhân có tiền sử gia đình có rối loạn tâm
thần, khởi phát ĐK khi còn trẻ, ĐK cục bộ phức tạp, ĐKTTD, trí tuệ kém phát triển.
Các triệu chứng tâm thần hay gặp là trầm cảm, lo âu, ảo giác, ảo giác paranoid và rối
loạn nhân cách là hay gặp nhất. Đặc biệt là ở những bệnh nhân ĐK có nguồn gốc ở
TTD. Có thể chia các biểu hiện tâm thần của bệnh ĐK thành các loại sau:
2.1. Các biểu hiện trong cơn động kinh
Các biểu hiện trong cơn ĐK thường được biết đến nhiều nhất là các rối loạn về ý
thức và nhận thức do hôn mê sau cơn ĐK cơn lớn, thường kéo dài từ vài phút đến
nhiều giờ, ít gặp hơn là những cơn rối loạn hoạt động tâm thần tạm thời xảy ra ở
những cơn ĐK cơn nhỏ hoặc ở ĐK cục bộ xuất phát từ một vùng giới hạn của não, đặc
biệt là TTD. Tính chất ĐK của những cơn này rất khó nhận biết do các biểu hiện vận
động và cảm giác thường không có hoặc rất nhẹ. Rối loạn cảm xúc và hành vi xuất
hiện từng cơn: Lo âu, trầm cảm, ảo giác.Thường kéo dài 1-3 phút và liên quan đến
hiện tượng tự động miệng và vận động. Có thể đó là biểu hiện lâm sàng của ĐK cục bộ
đơn giản hoặc phức tạp. Một phần ba số bệnh nhân kể lo âu như là một phần của mùa.
Trầm cảm ít gặp, thương là sự thất vọng và ý tưởng tự sát. Bệnh nhân có các ảo giác
như: ảo thị, ảo vị, ảo thanh và thường liên quan ĐK cục bộ. Tấn công bạo lực hiếm
gặp hơn.
+ Rối loạn tâm thần còn gặp trong ĐK liên tục dưới lâm sàng (Subcnihcal status
epileptic) khi sự phóng điện ĐK kéo dài, có thể trong nhiều giờ, mà không gây ra các
rối loạn vận động. Các cơn này thường khởi đầu đột ngột, biểu hiện bằng sự u ám ý
thức, mất định hướng, rối loạn trí nhớ và nhận thức. Cơn có thể kéo dài từ 10 phút đến
nhiều giờ và sự hồi phục cũng nhanh như lúc khởi đầu. Sau cơn người bệnh có thể
quên hoàn toàn hoặc chỉ nhớ từng mảng những sự việc xảy ra.
+ ĐNĐ trong cơn thường có những hoạt động mũi nhọn, sóng lan toả hoặc sự
phóng điện cục bộ với nhiều mũi nhọn hoặc mũi nhọn - sóng. Trạng thái lú lẫn tâm
thần tạm thời này thường được ghi nhận như một rối loạn thực thể não ngay cả khi tính
chất ĐK của nó chưa được xác định lúc khởi đầu. Chẩn đoán khó khăn hơn nếu trong
72
bệnh cảnh lâm sàng có sự xuất hiện nổi bật của các triệu chứng về cảm xúc và ngay cả
các triệu chứng loạn tâm thần. Trong khi các biến đổi về ý thức và nhận thức lại không
rõ rệt. Trong những trường hợp này, việc chẩn đoán rất khó vì chúng thường biểu hiện
bằng các ảo giác, hoang tưởng, kích động mạnh, trầm cảm nặng mất vận ngôn hoặc
câm tạm thời và các trạng thái căng trương lực rất giống với các bệnh loạn tâm thần
chức năng khác. Với các rối loạn tâm thần từng cơn như vậy cần phải nghĩ đến nguyên
nhân ĐK khi chúng xảy ra ở một bệnh nhân có tiền sử về bệnh này. Chẩn đoán sẽ
được xác định nếu ĐNĐ trong cơn có những phóng điện ĐK liên tục hoặc gần như liên
tục. Nhưng thường thì không đo được ĐNĐ trong cơn và trong những trường hợp này
chẩn đoán có thể xác định nếu các cơn biến mất hoặc giảm rõ rệt về tần số và độ nặng
dưới tác dụng của các thuốc kháng ĐK.
Một số đặc điểm lâm sàng gợi ý về khả năng của một bệnh lý ĐK:
- Sự khởi đầu đột ngột của rối loạn tâm thần ở một bệnh nhân trước đó được xem
là bình thường về tâm thần.
- Sự khởi đầu đột ngột của lú lẫn tâm thần mà không có những nguyên nhân khác
thường gặp hơn.
- Tiền sử có những cơn tương tự với khởi đầu và hồi phục một cách đột ngột tự
phát hoặc có những cơn ngất xỉu hoặc ngã không có lí do rõ rệt
Việc chẩn đoán xác định rất quan trọng vì sự điều trị bằng thuốc kháng ĐK phù
hợp sẽ giúp cắt cơn và ngăn ngừa sự tái phát.
Ngoài ra sự hung bạo từng cơn cũng gặp ở vài bệnh nhân ĐK, đặc biệt là ĐK có
nguồn gốc ở thùy thái dương. Vấn đề đặt ra là phải chăng sự hung bạo này là một biểu
hiện của bản thân cơn ĐK là một trạng thái tự động ĐK hoặc là một biểu hiện của tâm
lý bệnh ngoài cơn. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, đặc biệt về mặt pháp y. Cho
đến nay có nhiều bằng chứng cho thấy sự hung bạo hiếm khi xảy ra như là một hiện
tượng trong cơn ĐK, chỉ trong rất ít trường hợp hung bạo xảy ra ở bệnh nhân ĐK được
cho là do chính cơn ĐK gây nên.
3.2. Các biểu hiện sau cơn động kinh
Thường xuất hiện sau cơn ĐK toàn thể và trạng thái ĐK. Đặc điểm là mất năng
lực định hướng, rối loạn ý thức. Hành vi tấn công có thể xuất hiện, bệnh nhân quên các
sự kiện xẩy ra. Rối loạn cảm xúc bao gồm: trầm cảm lo âu hoặc hưng cảm. Trầm cảm
có thể kéo dài vài tuần, dài hơn các rối loạn khác. Các triệu chứng có thể từ nhẹ đến
nặng và xuất hiện hành vi tự sát. Hay gặp ở ĐKTTD hoặc trán phải.Lo âu sau cơn ít
gặp. Một số trường hợp có hưng cảm sau cơn: tăng hoạt động, kích thích, mất khả
năng kiềm chế hành vi.
2.2. Các biểu hiện ngoài cơn động kinh
2.2.1. Các rối loạn tâm thần
Các trạng thái rối loạn tâm thần ngoài cơn đã được ghi nhận ở 7-12% bệnh nhân
73
ĐK. Các rối loạn tâm thần này rất giống với tâm thần phân liệt (TTPL), gặp ở một số
bệnh nhân ĐK có nguồn gốc ở thùy thái dương. Chúng thường gặp ở phái nữ hơn phái
nam và ở bệnh nhân có ổ ĐK ở bán cầu não ưu thế. Chúng có thể xuất hiện cấp, bán
cấp hay từ từ và thường sau khi đã bị bệnh ĐK trên 15 năm, và trước đó bệnh nhân
thường đã có những biến đổi về nhân cách.
Chúng thường biểu hiện chủ yếu bằng các hoang tưởng paranoid và các ảo giác
(đặc biệt là ảo thanh), ý thức không bị rối loạn. Cảm xúc có thể cùn mòn, nhưng
thường thì người bệnh còn niềm nở và phù hợp về cảm xúc. Tư duy người bệnh
thường nghèo nàn hoặc tư duy lai nhai. Quan hệ giữa các rối loạn tâm thần này và tần
số cơn ĐK chưa được rõ, có khi các rối loạn tâm thần lại nhiều hơn khi các cơn ĐK đã
giảm đi. Ở hầu hết bệnh nhân, các rối loạn tâm thần này khác với bệnh TTPL ở nhiều
điểm quan trọng. Chúng thường xuất iệh muộn hơn, người bệnh không có tiền sử gia
đình về TTPL, cảm xúc và nhân cách bị rối loạn hơn và không có cáo rối loạn tư duy
hoặc thiếu sót tiểu TTPL. Càng về sau, người bệnh càng có nhiều triệu chứng sa sút
tâm thần và ít có triệu chứng gợi ý TTPL.
Các rối loạn cảm.xúc như cơn trầm cảm, 3-22% có nguy cơ tự sát cao gấp 4-5 lần
so với quần thể chung, đặc biệt ở người có trâm cảm giữa các cơn ĐK. Nguy cơ cao ở
bệnh nhân ĐKTTD, bệnh nhân có hội chứng loạn thán bệnh viện, bệnh nhân có hoang
tưởng, ảo giác. Rối loan hoảng sợ và lo âu xuất hiện liên quan chặt chẽ với trầm cảmặ
ham muốn và chức năng tình dục bị giảm sút ở bệnh nhân ĐK, đặc biệt ĐKTTD. Rối
loạn chức năng tình dục liên quan với rối loạn nội tiết và rối loạn chức năng hệ lủn lực.
Cơn hưng cảm và loạn tâm thần hưng trầm cảm thường ít gặp hơn các rối loạn tâm
thần giống TTPL.
2.2.2. Các rối loạn nhân cách
Các rối loạn nhân cách thường hay gặp ở bệnh nhân ĐK nhất là ĐTTD. Bệnh
nhân thường có những biến đổi trong hành vi, tư duy lai nhai, đi vào các chi tiết vụn
vặt, không phân biệt được cái chính với cái phụ và khó chuyển từ vấn đề này sang vấn
đề khác. Tính chất này còn thể hiện cả trong chữ viết, hình vẽ của người bệnh. Cảm
xúc người bệnh thường không ổn định, hay gây gổ và thỉnh thoảng có những cơn giận
dữ, chỉ vì một lí do nhỏ nhặt. Gần đây, người ta nhận thấy hiện tượng đa nhân cách
hoặc các trạng thái phân li ở bệnh nhân ĐKTTD.
Sự kết hợp giữa RL nhân cách và ĐKTTD đôi khi đáp ứng tốt với tâm lí liệu
pháp, các thuốc kháng ĐK hoặc kết hợp cả hai. Carbamazepin thường có ích trong
việc kiểm soát các triệu chứng dễ bực tức và các cơn bùng nổ gây hấn cũng như các
thuốc chống loạn thần.
2.2.3. Các biến đổi về trí năng
Bệnh ĐK không hẳn gây ra những biến đổi về trí năng. Nếu như có một số người
bệnh có kém phát triển về trí tuệ thì ở một số người khác trí tuệ lại phát triển tốt. Tuy
nhiên, nhìn chung thì tỉ lệ giảm sút về trí tuệ trong những người bệnh ĐK cao hơn
74
người bình thường.Theo Lennox 36% bệnh nhân ĐK có chậm phát triển tâm thần,
trong đó có 14% chậm phát triển tâm thần rõ rệt. Trẻ em ĐK giảm sút trí nhớ và khó
khăn về toán học. Giảm trí nhớ gặp nhiều ở bệnh nhân ĐKTTD, ở TTD giảm trí nhớ
ngôn từ, ở TTD phải giảm từ nhớ thao tác và thị giác. Một số yếu tố gây chậm phát
triển tâm thần khác như: sự tổn thương tổ chức não ngay từ đầu đã ảnh hưởng đến phát
triển thần kinh cao cấp. Tổn thương tổ chức não thứ phát do các cơn co giật, thiếu các
cơ hội học tập, các mối quan hệ xã hội do sự bảo vệ của gia đình hoặc sự tự cô lập của
bệnh nhân.
Ngoài ra một số thuốc chống ĐK liên quan đến loạn thần như các biểu hiện trầm
cảm, lo âu, những vấn đề về hành vi và nhận thức. Ví dụ phenobarbital, primidone,
tiagabine, tobiramate,vigabatrin và felbamate liên quan với trầm cảm. Loạn thân là
biến chứng ít gặp của thuốc chống ĐK như: Vigabatrin và topiramate. Tăng liều thuốc
điều trị ĐK liên quan với một số cấp cứu tâm thần vì vậy sử dụng thuốc nên bắt đầu
liều thấp và tăng dần. Nguy cơ loạn thần cao ở bệnh nhân điếng bằng phối hợp thuốc.
3. Điều trị
Khoảng 47-60% ĐK cục bộ mới mắc được điều trị có hiệu quả ngay bằng thuốc
chống ĐK đầu tiên. Phenytoin, phennharbital, carbamazepine, valproate có hiệu quả
tương đương trong kiểm soát cơn ĐK cục bộ. Các thuốc mới như: topiramate,
lamotrigine, levetiracetam, oxcarbezapine và zonisamide cũng có hiệu quả tương
đương. Với ĐK mới phát lamotrigine tốt hơn carbamazepine. Khoảng 40% bệnh nhân
vẫn có cơn ĐK khi được điều trị bằng 3 thuốc phối hợp. Những bệnh nhận xơ cứng hồi
hải mã rất khó kiểm soát bằng thuốc.
- Kích thích dây thần kinh số 10: Năm 1997, người ta đề xuất phương pháp kích
thích dây thần kinh số 10 để điều trị ĐK cục bộ cho những bệnh nhân lớn hơn hoặc
bằng 12 tuổi. Cơ chế chưa rõ. Các tác dụng không mong muốn gồm: khàn giọng, ho,
đau cục bộ vùng dây 10 chi phối, rối loạn cảm giác, khó nuốt, khó thở. Các tác dụng
phụ này không liên quan với thuốc chống ĐK.
Phẫu thuật cắt bỏ TTD trước: Khi ĐKTTD không kiểm soát dược băng 2 thuốc
chống ĐK, bệnh nhân cần được xem xét khả năng phẫu thuật. Đặc biệt khi có xơ cứng
hồi hải mã. Sau phẫu thuật có 25% số trường hợp có loạn thần trong 6-12 tuần đầu,
thường gặp sau phẫu thuật TTD phải, khi đó phải dùng thuốc chống loạn thần kết hợp.
Một số thuốc điều trị ĐK cụ thể :
- Barbituric (phenobarbital, gardenan, lepital...) là loại kháng ĐK được dùng
nhiều nhất vì dễ sử dụng và giá rẻ. Chỉ định cho hầu hết các loại ĐK trừ ĐK cơn nhỏ
vắng ý thức, hội chứng West, hội chứng Lennox-Gastaut. Trình bày: Viên 10, 50, 100
mg; ống 200 mg dùng tiêm bắp thịt. Người lớn 2 - 3mg/kg cân nặng.Trẻ em 3 -
4mg/kg cân nặng. Phenobarbital tiêm, dùng trong trạng thái ĐK liên tục. Tác dụng
phụ: buồn ngủ, giảm hoạt động tâm thần, giảm năng suốt học tập và công tác. Riêng ở
trẻ em có thể gây sự tăng hoạt động rối loạn giấc ngủ, thay đổi tính tình và quan hệ với
75
người xung quanh.
- Hydantoin (dilantil, dthydan, phenitoin, sedanton...), chỉ định tất cả các loại ĐK
trừ ĐK cơn nhỏ vắng ý thức.Có hiệu quả tốt hơn phénobarbital trong ĐK cục bộ phức
tạp như ĐK thái dương. Trình bày: viên 30mg và 100mg Liều lượng: người lớn 3 -
5mg/ kg. Trẻ em 5 - 8mg/ kg chia đều làm 2 lần/ ngày. Tác dụng phụ: khi nồng độ
trong máu cao thường gây rung giật nhãn cầu, mất điều hoà đi đứng, rối loạn tâm thần
kèm hội chứng tiểu não- tiền đình. Liều trung bình và thấp: phì đại ngôn răng, viêm
tróc da, nổi mẩn, mề đay, thiếu máu, rậm lông.
Carbamazepin (tegretol): có tác dụng rất tốt trong ĐK cục bộ và hội chứng
Lennox- Gastaut. Chỉ định: tất cả các loại ĐK trừ ĐK cơn nhỏ vắng ý thức. Trình bày:
viên 200mg. Liều lượng: người lớn 10 - 15mg/kg. Trẻ em 15 - 20mg/kg. Chia thành 2-
3 lần/ngày.Tác dụng phụ: rối loạn ở dạ dày, buồn ngủ, mệt mỏi, nhìn đôi, mất điều hoà
đi đứng. Giảm bạch cầu, tăng bạch cầu ái toan thiếu máu không tái tạo, nổi mẩn ở da,.
dị ứng chậm...Trong trường hợp nặng có thể dẫn đến tử vong. Thuốc cũng có thể gây
rối loạn hành vi tác phong ở trẻ em. Tránh dùng ở người có thai.
- Valproate de sodium (depakine, depamid), chỉ định: tất cả loại ĐK, đặc biệt là
ĐK toàn thể như ĐK cơn lớn, ĐK cơn nhỏ, cơn nhỏ giật cơ, hội chứng Lennox-
Gastaut. Có thể dùng depakine thay cho phenobarbital trong điều trị co giật sốt cao.
Trình bày: viên 200 và 500mg. Dung dịch 1ml = 40 giọt = 200mg. Liều lượng: người
lớn 20 - 30mg/kg. Trẻ em: 30 -50mg/kg chia làm 2-1 lần/ngày. Tác dụng phụ (ít gặp):
ăn không ngon, giảm tiểu cầu, rụng tóc, run...
- Primidone (mysoline, lepsiral, mylepsin). Chỉ định: tương tự như phengbarbital.
Trình bày: viên 250mg. Liều lượng: người lớn 10 - 15mg/kg. Trẻ em 15 - 20mg/kg.
Tác dụng phụ: buồn nôn, nôn, mất điều hoà đi đứng.
- Succinimides: gồm ethosuximide (zarontin), methosuximide (cetontin),
phensuximide (milontin). Chỉ định: chỉ dùng trong ĐK cơn nhỏ vắng ý thức. Trình
bày: Zarontin: viên 250mg, dung ích 5ml : 250mg. Celontin: viên 150 và 300mg. Liều
lượng: zarontin 20 - 30mg/kg chia 2 1ần/ ngày. celontin, milontin 5 -20mg/kg chia 2 -3
1ần/ngày.Tác dụng phụ: ăn không ngon, đau ở dạ dày, nấc cục, nôn, đau đầu, giảm
bạch cầu và tăng eosinophile. Đặc biệt zarontin có thể làm tái xuất hiện các cơn ĐK
cơn lớn.
- Benzodiazepin:
. Diazepam (valium), là loại uống không có vai trò trong điều trị lâu dài bệnh
ĐK. Loại tiêm tĩnh mạch có tác dụng tốt trong trạng thái ĐK liên tục, sốt cao co giật ở
trẻ em.
. Clonazepam (clonopin, rivotril). Loại uống (clonopin) có tác dụng tốt trong ĐK
cơn nhỏ vắng ý thức; thường được dùng khi depakin hoặc zarontin không có kết quả;
rất ít tác dụng phụ. Được trình bày dưới dạng viên 0,5; 1 và 2 mg. Liều ban đầu là 0,01
mg - 0,03 mới kg rồi tăng dần đến 0,1 - 0,2mg/kg. Chia làm 2 - 3 lần/ngày. Loại tiêm:
76
(rivotril) được trình bày dưới dạng ống 2ml = 1mg được dùng trong trạng thái ĐK liên
tục.
.Clobazam (urbanyl), nitrazepam (mogadon), chlorazepate, tranxene. Có tác dụng
với mọi cơn nhưng chủ yếu là ĐK cơn nhỏ vắng ý thức, ĐK nhạy cảm với ánh sáng,
hội chứng Lennox-Gastaut. Bất lợi chính là nhiều tác dụng an thần và dễ gây ra sự
quen thuốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vũ Quang Bích và CS (1994), Lâm sàng và điều trị các loại ĐK và co giật. NXB y
học Hà Nội.
2.Cao Tiến Đức (1995), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng ở 296 bệnh nhân ĐK. LA TS
y học HVQY.
3.Nguyễn Văn Ngân, Ngô Ngọc Tản và CS (2005), Bệnh học tâm thần. NXB QĐND.
4.Đào Trần Thái và CS (2005). Tâm thần học, XB lần thứ 6. NXB y học, tr 54 - 59.
5.Kaplan and Sadock (2003). Epilepsy synopsis of psychiatry. Voi 1, 9
Lippincott, Williams and Wikins, P 356 - 360.
th
Ed.
77
TÂM THẦN PHÂN LIỆT, CÁC RỐI LOẠN LOẠI PHÂN LIỆT
VÀ CÁC RỐI LOẠN HOANG TƯỞNG
1. Tâm thần phân liệt
(schizophrenia)
1.1. Đại cương1.1.1 Khái niệm
Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh tâm thần nặng, tương đối phổ biến, căn
nguyên chưa rõ, tiến triển và tiên lượng rất khác nhau, thường tác hại đến lứa tuổi trẻ..
Tâm thần phân liệt xuất phát từ Hy lạp: Schizo có nghĩa là chia tách, phân rời và
phrenia có nghĩa là tâm hồn, tâm thần.
Theo quan niệm TTPL là một đơn vị bệnh lý độc lập: Bệnh TTPL, ta có thể định
nghĩa như sau: Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng và phổ biến, căn nguyên
chưa rõ, bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư duy, tri giác và
cảm xúc, dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm lí và nhân cách theo kiểu phân liệt,
nghĩa là mất dần tính hài hoà thống nhất giữa các hoạt động tâm lý, gây chia cắt rời rạc
các mặt hoạt động tâm thần.
1.1.2. Tầm quan trọng
- Là một bệnh phổ biến. Trên thế giới theo các thống kê của nhiều nước tỉ lệ bệnh
chiếm 03-1,5 % dân số.
Theo R.Breen (2001), tỷ lệ mới mắc (incidence) của bệnh TTPL là từ 0,11-0,70
%0, theo Kaplan và Sadok là 0,25 - 0,5 %0.Tỷ lệ mắc (Prevalence) ở các nước đang
phát triển cao hơn ở các nước công nghiệp. Tỷ lệ mắc điểm (Point Prevalence) dao
động từ 0,6 đến 8,3%. Tỷ lệ mắc trong đời (Lifetime Prevalence) theo một nghiên cứu
của Mỹ là 1,3%.
- Bệnh thường phát sinh ở lứa tuổi trẻ, trong đó một phần lớn phát sinh trong độ
tuổi 15- 35 tuổi. Theo số liệu thống kê của ngành TTH Việt nam năm 2002, tỷ lệ mắc
bệnh là 0,47% dân số. Ở 2 giới (nam và nữ) tỉ lệ mắc bệnh tương đương nhau, song nữ
có xu hướng khởi phát muộn hơn.
1.2. Lược sử nghiên cứu bệnh TTPL
Năm 1911, E.Bleuler (Thuỵ sỹ) phát hiện ra các nét cơ bản nhất của bệnh chính
là tính phân liệt trong hoạt động tâm thần. Đó là sự không hoà hợp, không thống nhất,
sự chia cắt các mặt hoạt động tâm thần.
Năm 1937, G. Langfeldt qua nghiên cứu hậu sử chia bệnh TTPL ra 2 nhóm chính
là TTPL chính thức tiến triển không thuận lợi và loạn tâm thần dạng phân liệt tiến triển
có khuynh hướng khả quan hơn.
Năm 1939, K. Schneider, một nhà tâm thần học Đức cho rằng, các triệu chứng cơ
bản của Bleuler xuất hiện chậm và cũng có thể gặp trong các bệnh tâm thần khác. Tác
giả đã đưa ra những triệu chứng hàng đầu giúp cho chẩn đoán sớm bệnh TTPL.
78
Năm 1966, A.V.Snheznhepxky cho rằng, bệnh TTPL tiến triển rộng và đa dạng
khó xác định các tiêu chuẩn cố định để chẩn đoán bệnh. Nhưng có thể khái quát bằng 3
nhóm tiến triển: Liên tục; Liên tục từng cơn; Từng cơn. Có sự biến chuyển và thay thế
nhau giữa các hội chứng được chẩn đoán theo 2 mặt cắt ngang và dọc. Có sự chuyển
biến của 9 triệu chứng dương tính thay thế nhau từ nhẹ đến nặng.
Năm 1992 TCYTTG công bố bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 ( ICD- 10),
trong đó TTPL được xếp vào nhóm F2.
Năm 1994, hội TTH Mỹ đã cho ra đời DSM-IV
nhóm 295.
1.3. Bệnh sinh bệnh tâm thần phân liệt
TM
, trong đó TTPL được xếp vào
Cơ chế bệnh sinh của TTPL rất phức tạp và chưa được sáng tỏ. Chưa có một
nhóm giả thuyết nào có thể giải thích được cách khởi phát đa dạng và sự dao động rất
lớn của các biểu hiện triệu chứng lâm sàng trong TTPL.
Quan niệm hiện nay cho rằng, bệnh sinh của TTPL có thể là những sự tác động
của các yếu tố sinh học, xã hội và tâm lý. Do đó nhiều giả thuyết chỉ phản ảnh một
khía cạnh nào đó của quá trình phát triển bệnh.
1.3.1. Giả thuyết về di truyền trong TTPL:
Vấn đề di truyền trong bệnh TTPL là rõ ràng song bệnh do một gen đơn độc gây
ra là không hợp lý. Trong khi tỷ lệ bị bệnh TTPL phổ biến ở cộng đồng là 1 % thì
nguy cơ bị bệnh ở phả hệ 1 là từ 3-7% (R.Breen), theo Freedmann là khoảng 5%.
Donald W. Black và N. Adreasen (1999) tóm tắt các nghiên cứu gia đình cho thấy
rằng, những gia đình có 1 người bị TTPL thì những người khác có nguy cơ bị bệnh
TTPL là 10% trong suốt cuộc đời. Theo Sadock B. (2004) nếu bố hoặc mẹ bị TTPL thì
khả năng con bị bệnh là 12%, nếu cả bố và mẹ bị bệnh thì tỷ lệ này tăng lên đến 40%.
Ở người sinh đôi cùng trứng nếu một người bị TTPL thì khả năng người kia bị bệnh là
47%, nếu sinh đôi khác trứng thì tỷ lệ này là 16,4%. Quan niệm di truyền đa gen dễ
được nhiều người thừa nhận hơn. Người ta cho rằng có sự tổ hợp nhiều đến quyết định
tính di truyền bệnh TTPL.
1.3.2. Giả thuyết về phát triển tâm thần.
Các nghiên cứu trong nửa cuối thế kỷ XX đã xác định rằng, yếu tố phát triển tâm
thần có liên quan tới cơ chế bệnh sinh của TTPL. Các yếu tố nguy cơ trong thời kỳ
mang thai, mùa sinh dinh dưỡng, các biến chứng sản khoa đóng một vai trò quan
trọng.
1.3.3. Giả thuyết về tâm tí, xã hội, văn hoá
Test tâm lí cho thấy có sự bất thường rõ ràng ở người TTPL và ở cả một số người
họ hàng chưa có biểu hiện của bệnh TTPL.
Việc giáo dục trong gia đình có khả năng thay đổi loại cảm xúc và tạo ra một
cuộc sống ít căng thẳng hơn có tác dụng tốt để phòng tránh bệnh TTPL.
79
Nguyên nhân văn hoá của bệnh TTPL đã được nghiên cứu và giải thích khác
nhau giữa khu vực công nghiệp và vùng nông thôn. Tuy nhiên yếu tố kinh tế ảnh
hưởng chính là yếu tố dinh dưỡng, vệ sinh và chăm sóc sức khoẻ cho mọi người chứ
không phải là sự khác biệt về văn hoá.
1.3.4. Giả thuyết về sinh học:
Các nghiên cứu hiện đại đã được tiến hành và nhiều dự định giải thích bệnh
TTPL qua cơ chế hoá sinh hoặc sinh học cũng có nhiều triển vọng.
Năm 1980, T.J. Crow trên cơ sở lâm sàng và các tổn thương giải phẫu bệnh lý
trong não bệnh nhân TTPL, đã chia TTPL thành hai nhóm (type):
- Type 1 : thường khởi phát bệnh cấp tính, lâm sàng biểu hiện chủ yếu là các
triệu chứng dương tính, cấu trúc não qua thăm dò hoàn toàn bình thường, dung nạp tốt
với điều trị.
- Type 2: thường khởi phát bệnh từ từ, lâm sàng biểu hiện chủ yếu là các triệu
chứng âm tính, tìm thấy nhiều bất thường trong cấu trúc não, điều trị kém hiệu quả.
Cấu trúc của não ở bệnh nhân TTPL có các biểu hiện bất thường sau:
- Giãn rộng các não thất bên: mất tổ chức não do chậm phát triển hoặc do các tế
bào thần kinh bị chết, DNT sẽ nhiều hơn và lấp đầy các khoảng trống này. Song cho
đến nay, người ta vẫn chưa xác định được vùng não nào bị mất tế bào đầu tiên.
- Giảm kích thước vùng đồi thị là một vùng rất quan trọng để tổng hợp các dẫn
truyền thần kinh và tiếp nối thông tin giữa các vùng não khác nhau. Mất chức năng
vùng đồi não dẫn đến mất chức năng các vùng rộng lớn khác của não.
- Kích thước hồi Hải mã nhỏ hơn bình thường. Song người ta không xác định
được quá trình mất tế bào xẩy ra khi nào khi còn trong bào thai, lúc phát triển hay đến
tận khi có các triệu chứng lâm sàng.
- Các bất thường trong cấu trúc tế bào ở vùng trước trán cũng được báo cáo, các
bất thường này có thể gây nên tổn thương dẫn truyền thần kinh từ hệ Limbic đến thuỳ
đỉnh và thuỳ thái dương.
Nhiều nghiên cứu gần đây đều cho rằng rối loạn chuyển hoá Dopamin đóng vai
trò chính trong bệnh sinh bệnh TTPL. Rối loạn chuyển hoá các chất trung gian hoá học
(mediator) trung ương trong bệnh TTPL là sự biến đổi của hệ thống receptor tiếp nhận
chúng hoặc là rối loạn hệ thống men tổng hợp và phân huỷ chúng, trước hết là
Dopamin.
Giả thuyết dopamin cho rằng, các rối loạn có nguyên nhân tiên phát bởi sự hoạt
động quá mức của hệ dopamin.
Rối loạn chuyển hoá catecholamin: Trong huyết thanh bệnh nhân TTPL thấy tăng
hoạt tính của MAO của ty lạp thể và ngược lại không tìm thấy các yếu tố ức chế MAO.
Những bất thường của hệ thống dẫn truyền glutamate: Nồng độ glutamate giảm
trong DNT của bệnh nhân TTPL. Thêm vào đó, các chất đối kháng thụ cảm thể
80
glutamate như phenylclidin có thể gây các triệu chứng loạn thần giống TTPL ở người
bình thường.
Trong các thử nghiệm trên người có sử dụng chụp cộng hưởng từ và nghiên cứu
giải phẫu bệnh lý đều chứng tỏ có sự giảm sút hoạt động của hệ glutamate ở các tế bào
hình tháp của vùng trước trán. Các tế bào thần kinh thụ cảm glutamate có tác động qua
lại lên cả hai hệ serotonin và dopamin.
Những bất thường của hệ thống dẫn truyền GABA: Các nhà khoa học tin rằng
GABA tác động nhanh nhất đến dẫn truyền thần linh ở não và có liên quan đến các rối
loạn lo âu và đóng vai trò ức chế các neuron dopamin.
1.4. Lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt
1.4.1. Các triệu chứng trong bệnh tâm thần phân liệt
Các triệu chứng trong bệnh TTPL là vô cùng phong phú, vô cùng phức tạp và
luôn biến đổi nhưng đa số tác giả đều chia ra 2 loại triệu chứng chung gồm có các triệu
chứng âm tính và các triệu chứng dương tính.
Triệu chứng âm tính:
Là thể hiện sự tiêu hao mất mát các hoạt động tâm thần sẵn có. Nó thể hiện sự
mất tính chất toàn ven, tính thống nhất của hoạt động tâm thần.
Tính thiếu hoà hợp
.
Biểu hiện tính chất chung đó là tính 2 chiều trái ngược, tính dị kỳ khó hiểu, tính
khó thâm nhập, tính phủ định và tính tự động. Tính thiếu hoà hợp thể hiện trong các
mặt hoạt động tâm thần, rõ nét nhất trong 3 mặt hoạt động chính tư duy, cảm xúc, hành
vi tác phong. Tính tự kỷ cũng mang những tính chất trên nhưng ở mức độ cao hơn, nổi
bật là tính dị kỳ khó hiểu, khó thâm nhập.
Con người tự kỷ là con người dị kỳ, khó thâm nhập biểu hiện đa dạng khi thì đạo
mạo đài các, khi thì thô bạo. Thế giới tư kỷ là thế giới bên trong riêng biệt hết sức kỳ
lạ. Người bệnh quay vào thế giới nội tâm, vào thế giới bên trong với các qui luật tự
nhiên và xã hội đều bị đảo lộn. Người bệnh hiểu và làm những điều kỳ dị không ai có
thể hiểu được.
Giảm sút thế năng tâm thần:
Giảm thế năng tâm thần là giảm tính năng động, tính nhiệt tình trong mọi hoạt
động tâm thần. Biểu hiện cảm xúc ngày càng cùn mòn, khô lạnh, tư duy ngày càng
nghèo nàn, ý chí ngày càng suy đồi, hoạt động ngày càng yếu đuối đi đến chỗ không
thiết làm công việc gì.
Triệu chứng dương tính:
Là những triệu chứng mới xuất hiện trong quá trình bị bệnh. Triệu chứng dương
tính rất phong phú và đa dạng và luôn luôn biến đổi, xuất hiện nhất thời rồi lại mất đi
hay được thay thế bằng những triệu chứng dương tính khác.
1.4.2. Các triệu chứng âm tính và dương tính trong TTPL:
81
Các triệu chứng âm tính và dương tính đều có thể biểu hiện trong các mặt hoạt
động tâm thần. Mối liên quan giữa các triệu chứng âm tính và dương tính phụ thuộc
vào các thể bệnh. Các thể tiến triển càng nặng thì các triệu chứng âm tính càng chiếm
ưu thế.
Về tư duy:
Rối loạn tư duy cả về hình thức và nội dung tư duy. Ngôn ngữ của người bệnh
thường sơ lược tối nghĩa, ẩn dụ khó hiểu, thường hay gặp hiện tượng lời nói bị ngắt
quãng, thêm từ khi nói. Dòng tư duy nhanh hoặc chậm, nói một mình, không nói hoặc
cơn nói liên hồi. Rối loạn quá trình liên tưởng nói đầu gà đuôi vịt, hỗn độn, lặp đi lặp
lại.
Hai nét đặc trưng nhất của rối loạn tư duy là hội chứng tâm thần tự động và
hoang tưởng bị chi phối, những cảm giác ý nghĩ và hành vi sâu kín nhất thường được
cảm thấy như bị những người khác biết hay lấy mất. Người bệnh thường nói đến hiện
tượng bị chi phối bằng các máy móc như máy vô tuyến điện, máy ghi âm, máy điều
khiển từ xa, v.v... Có những trường hợp cảm thấy bị chi phối bằng phù phép, bằng thôi
miên, bằng một sức mạnh siêu nhân nào đó.
Về tri giác
Đặc trưng nhất là ảo thanh bình luận về hành vi của bệnh nhân hoặc thảo luận với
nhau về bệnh nhân, có thể đe doạ cưỡng bức hay ra lệnh cho bệnh nhân. Các loại ảo
giác như ảo thị, ảo khứu, ảo vị giác, xúc giác có thể xuất hiện nhưng hiếm gặp hơn.
Một số bệnh nhân có những rối loạn cảm giác trong cơ thể nhất là trong cơ quan nội
tạng (loạn cảm giác bản thể) hoặc có cảm giác biến đổi các cơ quan trong cơ thể như
không có tìm phổi, chân tay dài ra hay ngắn lại, cảm xúc suy nghĩ tác phong đã biến
đổi, "cái ta" đã mất (giải thể nhân cách).
Về cảm xúc:
Những thay đổi cảm xúc thường xuất hiện sớm, đặc trưng là cảm xúc ngày càng
cùn mòn, khô lạnh, người bệnh mất cảm tình với người xung quanh, bàng quan lạnh
nhạt với những vui thú trước đây.
Cảm xúc trái ngược với nội dung lời nói và hoàn cảnh xung quanh hoặc cảm xúc
2 chiều vừa yêu, vừa ghét đối với một người, hay một hiện tượng.
Xa lánh người thân, hằn học với mọi người, đôi khi xuất hiện những cảm xúc đột
biến như cơn khóc lóc cơn cười vô duyên cớ, cơn lo sợ, cơn giận dữ. Có thể có những
cơn trầm cảm, hưng cảm không điển hình.
Về tâm lý vận động
: có nhiều loại rối loạn nhưng đặc trưng là trạng thái căng
trương lực biểu hiện bằng 2 trạng thái kích động và bất động xen kẽ nhau.
Trong trạng thái kích động thì lời nói và động tác có tính chất định hình, có
trường hợp xung động và tấn công.
Trong trạng thái bất động người bệnh sững sờ và có những triệu chứng giữ
82
nguyên dáng, uốn sáp, tạo hình.
Hành vi điệu bộ, kiểu cách định hình (nhún vai, nhếch mép, xua tay,...). Có
những hành vi dị kỳ khó hiểu, trời rét cời trần lội xuống sông bơi, xung động bột phát
tự nhiên đất nhà, giết người một cách thản nhiên.
Rối loạn ý chí
: người bệnh mất sáng kiến, mất động cơ, hoạt động không hiệu
quả, thói quen nghề nghiệp cũ mất dần đến chỗ không thiết làm gì nữa. Đời sống ngày
càng suy đồi không chú ý đến vệ sinh thân thể tiến tới nằm ỳ một chỗ.
1.4.3. Các giai đoạn tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt
Thường qua 3 giai đoạn: báo trước, toàn phát và di chứng.
Giai đoạn báo hiệu:
Thời kỳ đầu thường biểu hiện các triệu chứng suy nhược, người bệnh cảm thấy
chóng mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, mất ngủ, cảm giác khó khăn trong học tập và công
tác, khó tiếp thu cái mới, đầu óc mù mờ, khó suy nghĩ, cảm xúc lạnh nhạt dần, khó
thích ứng với ngoại cảnh, giảm dần các thích thú trước kia, bồn chồn, lo lắng không
duyên cớ, dễ nóng nảy, dễ bùng nổ.
Sau nữa cảm giác bị động tăng dần, thấy như sức đuối trước cuộc sống, không
theo kịp những biến đổi xung quanh. Một số bệnh nhân cảm thấy có những biến đổi kỳ
lạ trong người, thay đổi nét mặt, màu da... Cũng có bệnh nhân trở lên say sưa đọc các
loại sách triết học, lý luận viển vông không phù hợp với thực tế. ,
Giai đoạn toàn phát:
Các triệu chứng khởi đầu tăng dần lên đồng thời xuất hiện các triệu chứng loạn
thần rầm rộ, phong phú, bao gồm các triệu chứng dương tính (ảo giác, hoang tưởng) và
các triệu chứng âm tính. Tuỳ theo triệu chứng hay hội chứng nào nổi bật lên hàng đầu
và chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng mà người ta chia ra các thể khác nhau
Giai đoạn di chứng.
Một giai đoạn mạn tính và muộn trong tiến triển của bệnh TTPL biểu hiện bằng
các triệu chứng âm tính nổi bật, các triệu chứng dương tính mờ nhạt. Các biến đổi
nhân cách và rối loạn hành vi kèm sa sút tâm thần biểu hiện rõ rệt.
1.4.4. Các thể lâm sàng
Theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) bệnh tâm thần phân liệt
gồm các thể sau đây:
F20.0. Thể hoang tưởng
:
Đây là thể thường gặp nhất ở đa số các nước trên thế giới. Các triệu chứng nổi
bật nhất là các hoang tưởng và ảo giác (hội chứng ảo giác-paranoid) các hoang tưởng
đặc trưng là hoang tưởng bị chi phối, bị kiểm tra và hoang tưởng bị truy hại.
Các ảo giác thường gặp nhất là ảo giác thính giác dưới dạng bình phẩm ý nghĩ
hành vi của bệnh nhân hoặc nói chuyện với nhau về bệnh nhân, hoặc đe doạ, ra lệnh
cho bệnh nhân. Các ảo giác khứu giác, vị giác, thị giác cũng có thể xuất hiện nhưng
83
hiếm khi chiếm ưu thế.
Đồng thời xuất hiện hội chứng tâm thần tự động như tư duy vang thành tiếng, tư
duy bị áp đặt hay bị đánh cắp. Có thể gặp tri giác sai thực tại và nhân cách giải thể.
cảm xúc thường ít cùn mòn hơn các thể khác.
Tuy nhiên thường gặp cảm xúc không thích hợp ở mức độ nhẹ như cáu gắt, giận
dữ, sợ hãi và nghi ngờ. Các triệu chứng âm tính xuất hiện muộn và không sâu sắc.
Tâm thần phân liệt thể paranoid có thể tiến triển từng giai đoạn với thuyên giảm
một phần hay hoàn toàn hoặc tiến triển mạn tính.
F20.l. Tâm thần phân liệt thể thanh xuân:
Thể bệnh này thường xuất hiện ở tuổi trẻ từ 15-25 tuổi. Nổi bật là hội chứng kích
động thanh xuân: hành vi lố lăng si dại, cảm xúc hỗn hợp hời hợi, lúc khóc, lúc cười,
hát nói trêu chọc người xung quanh.
Tư duy không liên quan, rời rạc, đặt ra chữ mới, giả giọng địa phương.
Hành vi tác phong điệu bộ, nhãn mặt, nheo mắt, tinh nghịch, quấy phá.
Các hoang tưởng và ảo giác thoáng qua và rời rạc.
Có thể có hội chứng căng trương lực kích động hoặc bất động lẻ tẻ.
Người bệnh có khuynh hướng sống cô độc, cảm xúc và hành vi thiếu mục đích.
Các triệu chứng âm tính xuất hiện sớm và tiến triển nhanh, đặc biệt cảm xúc cừu mòn
và ý chí giảm sút báo hiệu một tiên lượng xấu.
F20.2. Thể căng trương lực:
Bệnh thường xuất hiện cấp tính, giai đoạn đầu biểu hiện thay đổi tính tình, ít nói,
ít hoạt động. Rồi xuất hiện triệu chứng kích động dữ dội có tính chất xung động, định
hình, bối rối, hoạt động không có mục đích không chịu ảnh hưởng các kích thích bên
ngoài. Sau đấy chuyển sang bất động sững sờ, cứng như gỗ, không nói, không ăn,
chống đối.
Các dáng điệu và tư thế không tự nhiên có thể duy trì trong một thời gian dài, gối
không khí uốn sáp, tạo hình (người bệnh duy trì chân tay và thân hình do những tư thế
do người ngoài áp đặt) hoặc vâng lời tự động (tự động làm theo những chỉ dẫn của
người khác) hoặc phủ định (chống đối với tất cả những chỉ dẫn của người khác, có khi
bệnh nhân làm ngược lại)
Hội chứng căng trương lực có thể kết hợp với một trạng thái ý thức giống mê
mộng với những ảo giác sinh động.
F20.3. Tâm thần phân liệt thể không biệt định:
Thể này bao gồm các trạng thái đáp ứng các tiêu chuẩn chung của bệnh TTPL,
nhưng không tương ứng với bất cứ thể nào đã mô tả ở trên.
Bệnh cảnh biểu hiện đồng thời các nhóm triệu chứng mà không có một nhóm nào
đặc trưng cho chẩn đoán nào chiếm ưu thế rõ rệt.
84
F20.4 Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt:
Biểu hiện một trạng thái trầm cảm kéo dài xuất hiện sau một quá trình phân liệt,
đồng thời một số triệu chứng phân liệt vẫn còn tồn tại nhưng không còn chiếm ưu thế
trong bệnh cảnh. Các triệu chứng phân liệt có thể là dương tính hoặc âm tính nhưng
thường gặp các triệu chứng âm tính hơn.
Hội chứng trầm cảm không trầm trọng và mở rộng đến mức đáp ứng một giai
đoạn trầm cảm nặng trong rối loạn cảm xúc. Nhiều trường hợp khó xác định trạng thái
trầm cảm do bệnh với trầm cảm do các thuốc an thần kinh.
Trạng thái trầm cảm sau phân liệt thường đáp ứng kém với các thuốc chống trầm
cảm và kèm theo nguy cơ tự sát ngày càng tăng.
F20.5. Tâm thần phân liệt thể di chứng:
Thể này là một giai đoạn mãn tính trong tiến triển bệnh TTPL, các triệu chứng
dương tính của giai đoạn toàn phát gồm một hay nhiều thời kỳ mất đi hay mờ nhạt
không ảnh hưởng cảm xúc và hành vi của người bệnh nữa.
Những triệu chứng âm tính nổi bật lên biểu hiện hoạt động kém, cảm xúc cùn
mòn, bị động trong cuộc sống, thiếu sáng kiến, ngôn ngữ nghèo nàn, kém chăm sóc
bản thân và hoạt động xã hội, nhưng không có trạng thái mất trí.
F20.6. Tâm thần phân liệt thể đơn thuần:
Bệnh bắt đầu bằng các triệu chứng âm tính, giảm sút dần khả năng học tập và
công tác, không thích ứng với các yếu tố của xã hội, cảm xúc cùn mòn, ý chí giảm sút
dần, các triệu chứng dương tính như hoang tưởng và ảo giác không rõ ràng, lẻ tẻ và
các biểu hiện loạn thần không rõ bằng các thể thanh xuân, hoang tưởng và căng trương
lực của bệnh TTPL.
Các triệu chứng âm tính ngày càng sâu sắc, tiếp xúc xã hội ngày càng nghèo nàn,
người bệnh trở thành sống lang thang, thu mình lại, ăn không ngồi rồi và sống không
có mục đích.
1.5. Các tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt
Tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL theo ICD - 10 năm 1992:
a/ Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị phát
thanh.
b/ Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động, có liên quan rõ rệt với
vận động thân thể hay các chi, hoặc có liên quan với những ý nghĩ hành vi hay cảm
giác đặc biệt. Tri giác hoang tưởng.
c/ Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân hay thảo luận
với nhau về bệnh nhân hoặc các loại ảo thanh khác xuất hiện từ một bộ phận nào đó
của thân thể.
d/ Các hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn hoá và hoàn toàn
không thể có được như tính đồng nhất về tôn giáo hay chính trị hoặc những khả năng
85
và quyền lực siêu nhân. Thí dụ: có khả năng điều khiển thời tiết hoặc đang tiếp xúc với
những người của thế giới khác.
e/ Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thoáng qua hay
chưa hoàn chỉnh, không có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng quá dai
dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng.
f/ Tư duy gián đoạn, hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy không liên quan hay lời
nói không thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.
g/ Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng, uốn sáp, phủ
định, không nói hay sững sờ.
h/ Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng
cảm xúc cùn mòn hay không thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội hay giảm sút
hiệu xuất lao động, phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay thuốc
an thần gây ra.
i/ Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập tính cá
nhân biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy
nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.
* Yêu cầu chẩn đoán bệnh TTPL theo ICD-10 là:
Phải có ít nhất một triệu chứng rõ ràng hoặc phải có hai triệu chứng hay nhiều
hơn nữa (nếu triệu chừng ít rõ ràng) thuộc vào các nhóm từ a đến d (kể trên).
- Nếu là các nhóm từ e đến i (kể trên) thì phải có ít nhất là hai nhóm triệu chứng.
- Thời gian của các triệu chứng phải tồn tại ít nhất là 1 tháng hay lâu hơn.
- Không được chẩn đoán TTPL nếu có các triệu chứng trầm cảm hay hứng cảm
mở rộng xuất hiện trước các triệu chứng nói trên.
- Không được chẩn đoán TTPL khi có bệnh não rõ rệt hoặc bệnh nhân đang ở
trong trạng thái nhiễm độc ma tuý.
- Không được chẩn đoán TTPL khi có bệnh động kinh và các bệnh tổn thương
thực thể não.
1.6. Chẩn đoán phân biệt
1/ Phân biệt với trạng thái suy nhược ở giai đoạn báo trước với nhiều trạng thái
suy nhược khác. Trạng thái suy nhược trong bệnh TTPL thường phát sinh không có lý
do.
2/ Các rối loạn tâm thần thực tổn: có nhiều triệu chứng thần kinh, có thể kết hợp
với các triệu chứng giống TTPL nhưng do nguyên nhân thực tổn.
3/ Loạn thần phản ứng cấp: có các sang chấn tâm lý mạnh. Bệnh cảnh tập trung
vào yếu tố sang chấn, không có các triệu chứng âm tính. Thời gian tồn tại triệu chứng
dưới một tháng.
4/ Rối loạn khí sắc: các rối loạn lưỡng cực (hưng cảm hoặc trầm cảm) có thể bao
86
gồm các triệu chứng giống phân liệt. Dựa vào các tiêu chuẩn đặc trưng của rối loạn khí
sắc.
5/ Các rối loạn nhân cách: nói chung không có các triệu chứng loạn thần, nếu có
chỉ là tạm thời hoặc thứ phát và bệnh ổn định lâu dài không tiến triển.
6/ Các rối loạn hoang tưởng: các hoang tưởng có hệ thống.
- Không kỳ dị, kéo dài ừ nhất 3 tháng, nhân cách không biến đổi, còn hoạt động
tương đối tốt
- Không có ảo giác và các triệu chứng phân liệt khác.
- Khởi phát muộn ở người lớn tuổi.
7/ Rối loạn trong quá trình phát triển (tự kỷ ở trẻ em):
- Hành vi kỳ dị và bị biến đổi.
- Không có hoang tưởng và ảo giác hoặc rối loạn tư duy rõ rệt.
1.7. Tiến triển
Nếu không được phát hiện sớm và điều trị hợp lý, bệnh tiến triển mạn tính với sự
mất mát tăng dần, có những giai đoạn cấp có các triệu chứng dương tính rầm rộ. Trong
quá trình tiến triển, các triệu chứng dương tính nghèo dần đi, các triệu chứng âm tính
ngày càng sâu sắc hơn.
- Biến đổi nhân cách kiểu phân liệt mức độ tuỳ vào loại hình tiến triển của bệnh.
- Theo R. Mu nay (2000), có 4 nhóm tiến triển sau:
+ Nhóm 1 : có một thời kỳ bị bệnh duy nhất, khỏi bệnh hoàn toàn, chiếm 22%.
+ Nhóm 2: có nhiều cơn tái phát bệnh, giữa các cơn có biểu hiện rất nhẹ nhàng
hoặc không có biểu hiện các thiếu sót tâm thần chiếm 35%.
+ Nhóm 3 : có nhiều cơn tái phát bệnh, giữa các cơn có biểu hiện thiếu sót tâm
thần rõ ràng chiếm 8 %.
+ Nhóm 4: sau mỗi đợt phát bệnh, di chứng trong hoạt động tâm thần ngày càng
tăng (giống như kiểu tiến triển liên tục nặng), chiếm 35%.
- Theo ICD 10- 1992, để đánh giá tiến triển, cần phải có thời gian theo dõi tối
thiểu một năm, có 7 kiểu tiến triển sau:
+ Tiến triển liên tục.
+ Từng giai đoạn với thiếu sót tăng dần.
+ Từng giai đoạn với thiếu sót ổn định.
+ Từng giai đoạn với sự thuyên giảm.
+ Thuy giảm không hoàn toàn.
+ Thuyên giảm hoàn toàn.
+ Các kiểu tiến triển khác và có thời kỳ theo dõi dưới một năm.
1.8. Điều trị
87
Bệnh TTPL hiện nay nguyên nhân chưa xác định rõ ràng nên chủ yếu vẫn điều trị
triệu chứng. Cần kết phải tiến hành điều trị sớm và hợp lý ngay từ cơn bệnh đầu tiên,
vừa có tác dụng ngăn chặn bệnh, vừa giúp cho tiên lượng được tốt hơn. Trong điều trị
phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau.
2. Rối loạn loại phân liệt
2.1. Khái niệm
Các rối loạn này chưa được phân định thống nhất giữa các trường phái tâm thần
học lớn. Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) gọi là các rối loạn loại phân liệt (RLLPL-
Schizotypal disorder), còn các RLDPL được xếp chung vào nhóm TTPL khác (F20.8
Other Schizophrenia). Hội tâm thần học Mỹ gọi là các rối loạn dạng phân liệt (RPDPL
- Schizophreniform disorder). Tuy có khác nhau đôi chút song nhìn chung có một số
điểm tương đồng vì chúng có thể tiến triển tới TTPL ở các giai đoạn sau.
Theo TCYTTG, đây là một rối loạn với các đặc điểm như tác phong kỳ dị, tư duy
và cảm xúc bất thường giống như trong bệnh TTPL nhưng không có những nét quá bất
thường và đặc trưng như trong TTPL ở bất cứ giai đoạn nào của bệnh. Không có một
rối loạn nào là điển hình, ưu thế hay đặc trưng cho TTPL.
2.2. Dịch tễ học
Hiện nay chưa có nhiều số liệu về tỷ lệ mắc và giới tính của RLLPL. Rối loạn
thường gặp ở thanh thiếu niên và người ta dự đoán tỷ lệ mắc blg một nửa bệnh TTPL.
Tỷ lệ mắc bệnh tính theo cuộc đời là 0,2%.
Nhiều nghiên cứu cho thấy thân nhân của bệnh nhân có nguy cơ cao về các bệnh
rối loạn tâm thần khác song phân bố không giống như ở TTPL và rối loạn cảm xúc
(RLCX). Ví dụ thân nhân của bệnh nhân bị RLDPL bị rối loạn khí sắc nhiều hơn thân
nhân bệnh nhân TTPL, còn thân nhân của bệnh nhân bị RLCX lưỡng cực ít bị RLCX
có loạn thần hơn là thân nhân của bệnh nhân RLDPL.
2.3. Bệnh nguyên
Bệnh nguyên và bệnh sinh chưa rõ. Langfeldt nhận thấy nhóm các bệnh nhân này
tạo một quần thể không đồng nhất, một số có các cứ liệu giống TTPL, trong khi đó
một số khác lại giống RLCX.
- Hình thể và chức năng não: Một số thiếu sót hoạt hoá tương đối ở vùng trước
trán dưới giống như ở bệnh nhân tâm thần phân liệt đã được nhận thấy ở bệnh nhân
RLDPL. Một nghiên cứu nhận thấy thiếu sót giới hạn ở bán cầu trái và ngoài ra còn có
sự rối loạn trong ức chế hoạt động thể vân cũng giới hạn ở bán cầu trái khi thực hiện
nghiệm pháp hoạt hoá. Điều này cho thấy có sự tương đồng về sinh lý giữa hai bệnh lý
kể trên.
- Mặc dù mọt số dữ liệu cho thấy bệnh nhân RLDPL có thể có các não thất bị dãn
rộng được xác định trên CT và MRI, các dữ liệu khác cho thấy không giống sự dãn
rộng trong TTPL, sự dãn não thất trong RLDPL không liên quan đến các đo lường kết
88
quả hoặc đo lường sinh học khác.
- Các đo lường sinh học khác: Có ít nhất một nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt
về hoạt động điện da giữa TTPL và RLDPL. Bệnh nhân TTPL sinh vào những tháng
mùa đông và mùa xuân có sự dẫn truyền da giảm đáp ứng nhưng không có hiện tượng
này ở bệnh nhân RPDPL. Điều này gợi ý cần thận trọng khi cho rằng có sự tương đồng
giữa hai bệnh lý trên.
2.4. Chẩn đoán
Theo ICD-10, rối loạn loại phân liệt (Schizodtypal disorder) là một rối loạn với
các đặc điểm như tác phong kỳ dị, tư duy và cảm xúc bất thường giống như trong bệnh
TTPL nhưng không có những nét quá bất thường và đặc trưng như trong TTPL ở bất
cứ giai đoạn nào của bệnh. Không có một rối loạn nào là điển hình, ưu thế hay đặc
trưng cho TTPL. Nhưng bất cứ rối loạn nào được liệt kê dưới đây cũng có thể có và
giúp cho chẩn đoán bệnh:
1. Cảm xúc hời hợt hay không thích hợp, người bệnh có vẻ lạnh lùng và cách
biệt.
2. Tác phong, hình dáng bề ngoài lạ lùng, kỳ dị hay có vẻ đặc biệt.
3. Ít tiếp xúc với người khác và có khuynh hướng xa cách xã hội.
4. Tin tưởng kỳ dị hay tư duy thần bí gây ảnh hưởng đến tác phong và mâu thuẫn
với tập quán văn hoá.
5. Hoài nghi hay ý tưởng Paranoid.
6. Các nghiền ngẫm ám ảnh không có tự phê phán nội tâm, thường có nội dung
sợ dị hình,.tình dục hay xam phạm....
7. Những nhận cảm tri giác bất thường bao gồm các ảo tưởng về cơ thể- giác
quan hay các ảo tưởng khác, giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại.
8. Tư duy và lời nói mơ hồ, chi ly, ẩn dụ, quá chải chuốt hay định hình, kỳ dị
nhưng không quá rời rạc.
9. Có những giai đoạn gần như loạn thần, thỉnh thoảng xuất hiện nhất thời với
các ảo tưởng ảo thanh hay các ảo giác khác, tất cả đều mãnh liệt kèm theo các ý tưởng
giống hoang tưởng thường xuất hiện không do kích thích bên ngoài.
Các rối loạn tiến triển mạn tính, với cường độ khi tăng khi giảm. Thỉnh thoảng lại
chuyển sang giai đoạn giống bệnh tâm thần phân liệt. Không có thời kỳ khôi đầu rõ
ràng và thường tiến triển như một rối loạn nhân cách. Rối loạn thường gặp hơn ở
những người có quan hệ huyết thống với bênh nhân TTPL.
Nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán
Phải có ít nhất 3 hoặc 4 trong 9 điểm nêu trên, biểu hiện thường xuyên hay từng
thời kỳ, thời gian theo dõi ít nhất hai năm.
- Bệnh nhân chưa bao giờ được chẩn đoán là TTPL.
89
- Trong tiền sử gia đình có một người thân thuộc trực hệ bị bệnh TTPL làm gia
tăng giá trị của chẩn đoán song không phải là điều kiện tiên quyết.
- Ngoài ra, TCYTTG khuyên không nên sử dụng rộng rãi chẩn đoán này vì nó
không có ranh giới rõ ràng với TTPL thể giản đơn, rối loạn nhân cách dạng phân liệt
hoặc Paranoid.
2.5. Chẩn đoán phân biệt
- Chẩn đoán phân biệt của RLLPL giống như chẩn đoán phân biệt của TTPL.
Cần loại trừ rối loạn loạn thần do một bệnh cơ thể và rối loạn loạn thần do chất. Động
kinh thuỳ thái dương u não và các bệnh mạch máu não cũng có thể kết hợp với các giai
đoạn loạn thần tương đối ngắn. Sư gia tăng các trường hợp loạn thần kết hợp với việc
sử dụng các steroids đồng hoá ở những người trẻ muốn phát triển hệ thống cơ bắp
nhằm đạt các thành tích thể thao cũng cần được lưu ý.
- Cần phân biệt với loạn thần cấp và nhất thời, loạn tâm thần cảm ứng, rối loạn
nhân cách dạng phân liệt, hội chứng Asperger.
- Theo TCYTTG, các khái niệm tương tự với RLLPL bao gồm:
TTPL ranh giới, TTPL tiềm tàng, Phản ứng phân liệt tiềm tàng, TTPL tiền loạn
thần, TTPL tiền chứng, TTPL giả tâm căn, TTPL giả nhân cách bệnh, rối loạn lulall
cách loại phân liệt.
- Chẩn đoán phân biệt của RLLPL cũng giống như chẩn đoán phân biệt của
TTPL. Cần loại trừ các thể khác của TTPL, các rối loạn loạn thần do một bệnh cơ thể
và rối loạn loạn thần nghiện chất., rối loạn nhân cách dạng phân liệt, hội chứng
Asperger.
2.6. Tiến triển và tiên lượng
Tiên lượng thay đổi tuỳ theo bệnh nhân có hoặc không có các biểu hiện của tiên
lượng tốt. Rối loạn tâm thần và bối rối ở đỉnh điểm của giai đoạn loạn thần là đặc điểm
có liên quan nhất đến tiên lượng tốt. Ngoài ra, giai đoạn bệnh càng ngắn thì tiên lượng
càng tốt.
2.7. Điều trị
Với pha cấp tính, điều trị tiến hành trong bệnh viện. Cần điều trị bằng thuốc
chống loạn thần trong suốt thời gian của bệnh. Không cần điều trị duy trì. Cần phải
theo dõi bệnh nhân trong một thời gian dài để phân biệt xem triệu chứng trên là của
bệnh rối loạn dạng phân liệt hay là của pha khởi phát của bệnh TTPL mà thời gian của
bệnh mới được chưa đầy 6 tháng. Với các trường hợp khác, nếu cần thiết để đánh giá,
cũng cần cho nhập viện để điều trị và giám sát hành vi của bệnh nhân. Các triệu chứng
loạn thần thường được điều trị trong 3-6 tháng với các thuốc chống loạn thần (như
risperidone).
3. Rối loạn hoang tưởng
3.1. Khái niệm
90
Các rối loạn hoang tưởng (RLHT) hiếm gặp trong lâm sàng. Tỷ lệ bệnh trong
nhân dân là khoảng 0,03%. Tỷ lệ mắc trong đời là 0,05- 0,1 %.
Cơ sở văn hoá, tôn giáo của RLHT cần được xem xét. Một số nền văn hoá có
niềm tin đặc biệt lại bị coi là hoang tưởng ở các nền văn hoá khác. Rối loạn hoang
tưởng thể ghen tuông hay gặp ở nam hơn nữ, nhưng nói chung không có sự khác biệt
về giới tính trong tỷ lệ chung. Hoang tưởng trong RLHT có thể là kết quả của các vấn
đề xã hội, hôn nhân hoặc nơi làm việc. Hoang tưởng suy đoán rất phổ biến.
Nhiều bệnh nhân bị RLHT có biểu hiện khí sắc bị kích thích, chúng có thể được
xem như là phản ứng của hoang tưởng. Đặc biệt thể bị hại hoặc ghen tuông có thể xuất
hiện trạng thái nổi cáu và hành vi bạo lực. Bệnh nhân có thể có hành vi kiện cáo. Bệnh
nhân có RLHT thể nghi bệnh có thể có nhiều khám xét lâm sàng và cận lâm sàng.
Các giai đoạn trầm cảm chủ yếu có thể có ở bệnh nhân hoang tưởng thường
xuyên hơn so với nhân dân nói chung. Thường trầm cảm nhẹ bắt đầu khi khởi phát các
hoang tưởng. Rối loạn hoang tưởng có thể phối hợp với rối loạn ám ảnh -xung động,
rối loạn bản thể và rối loạn nhân cách thể Paranoid, khép kín hoặc xa lánh.
Một số nghiên cứu đã xác định rằng rối loạn hoang tưởng thường gặp ở những
người họ hàng của bệnh nhân TTPL hơn so với nhân dân nói chung trong khi các
nghiên cứu khác lại không ghi nhận. Một vài số liệu cho rằng rối loạn nhân cách thể xa
lánh và Paranoid có thể rất thường gặp ở những người có quan hệ huyết thống mức độ
I của bệnh nhân rối loạn hoang tưởng.
3.2. Đặc điểm lâm sàng
Đặc điểm lâm sàng duy nhất hoặc nổi bật nhất là sự biểu hiện của 1 hay nhiều
hoang tưởng không kỳ quái bền vững ít nhất 1 tháng (theo DSM-VI-TR) hoặc 3 tháng
(theo ICD-10). Người bệnh thường ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, không có các biến đổi
nhân cách và giảm sút trong công việc thường ngày. Khám tâm thần không tìm thấy
bất thường ngoại trừ hoang tưởng hệ thống hoá. Có thể có tác phong kỳ dị, đa nghi,
hay gây hấn hoặc kiện cáo. Các ảo thanh và ảo thị nếu tồn tại thì không nổi bật, ảo xúc
và ảo khứu có thể tồn tại (và nổi bật), nếu như liên quan chặt chẽ với nội dung của
hoang tưởng (ví dụ cảm giác côn trùng bò phối hợp với hoang tưởng có côn trùng).
Bất chấp việc chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoang tưởng, chức năng tâm lý xã hội
không bị ảnh hưởng, hành vi không quá lạ lùng và kỳ dị. Nếu như đồng thời với hoang
tưởng có những rối loạn cảm xúc thì thường phù hợp với nội dung của hoang tưởng và
ngắn hơn độ dài toàn bộ của giai đoạn hoang tưởng.
Hành vi của bệnh nhân có thể bị chi phối bởi nội dung của hoang tưởng, còn các
hành vi không bị hoang tưởng chi phối thì biểu hiện bình thường.
3.3. Các thể lâm sàng
3.3.1. Thể được yêu
Thể này áp dụng khi nội dung chính của hoang tưởng được xây dựng là có một
91
người khác yêu bệnh nhân. Bệnh nhân có hoang tưởng rằng đó là một tình yêu lãng
mạn, lý tưởng, nặng về tinh thần hơn là tiếp xúc tình dục. Người mà bệnh nhân tin
rằng yêu mình thường có vị trí cao hơn (ví dụ người nổi tiếng, các vĩ nhân) nhưng có
thể là một người hoàn toàn lạ. Bệnh nhân cố gắng tiếp xúc với người trong hoang
tưởng (gọi điện, viết thư, quà tặng, đến thăm).
3.3.2. Thể tự cao
Thể này áp dụng khi nội dung trung tâm của hoang tưởng xây dựng một niềm tin
rằng họ có khả năng to lớn (nhưng chưa được biết) hoặc tiềm năng lớn. Hiếm hơn,
bệnh nhân có thể có hoang tưởng rằng họ có một mối liên quan đặc biệt với các bậc vĩ
nhân (một cố vấn của tổng thống) thậm chí họ cho rằng mình là một nhân vật vĩ đại.
Hoang tưởng tự cao có thể có nội dung tôn giáo (ví dụ bệnh nhân tin rằng mình có một
thông điệp của thượng đế).
3.3.3. Thể ghen tuông
Thể này áp dụng khi nội dung trung tâm của hoang tưởng xây dựng trên cơ sở
rằng vợ (chồng) hoặc người yêu của bệnh nhân không chung thuỷ. Niềm tin này không
có cơ sở thực tế và trên cơ sở suy diễn sai lầm những bằng chứng mà bệnh nhân cho là
rõ ràng, được chọn lọc theo phán quyết của hoang tưởng. Bệnh nhân có hoang tưởng
thường hành hạ vợ (chồng), người yêu và cố gắng tra hỏi theo khía cạnh không chung
thuỷ.
3.3.4. Thể bị hại
Thể này được áp dụng khi nội dung trung tâm của hoang tưởng là mã số người có
mưu đồ chống lại bệnh nhân như theo dõi, lừa đảo, làm gián điệp, đầu độc hoặc là
dụng ma tuý, theo dõi bệnh nhân trong một thời gian dài. Một thiếu sót nhỏ có thể bị
phóng đại và trở thành hạt nhân của hệ thống hoang tưởng. Hạt nhân của hoang tưởng
thường được xây dựng bởi sự sửa chữa do các hành động hợp pháp. Nhưng bệnh nhân
có thể có xung động lặp đi lặp lại để thoả mãn bản thân, kiện ra toà án và các văn
phòng chính phủ. Bệnh nhân có hoang tưởng bị hành hạ thường bị phật ý và có thể sử
dụng bạo lực chống lại những người mà họ tin rằng chống lại họ.
3.3.5. Thể cơ thể
Thể này áp dụng khi nội dung trung tâm của hoang tưởng thể trên các chức năng
hoặc cảm giác cơ thể. Hoang tưởng dạng cơ thể có thể khác nhau. Thường gặp nhất,
bệnh nhân tin rằng họ có mùi khó chịu ở da, miệng, trực tràng hoặc âm đạo, rằng họ bị
nhiễm các côn trùng trên hoặc dưới da, rằng bị hỏng cơ quan nội tạng, một phần của
cơ thể không bình thường, dị dạng (bất chấp mọi bằng chứng rõ ràng) có khi họ tin
rằng một phần cơ thể (các nội tạng) không hoạt động.
3.3.6. Thể hỗn hợp
Áp dụng cho các trường hợp bệnh nhân có từ hai chủ đề hoang tưởng trở lên,
trong đó không có chủ đề nào chiếm ưu thế tuyệt đối.
92
3.3.7. Thể không biệt định.
Thể này áp dụng khi hoang tưởng nổi trội không được phân biệt hoặc không
được ghi trong các thể biệt định (ví dụ hoang tưởng bị điều khiển, không có hoang
tưởng bị hành hạ hoặc tự cao rõ ràng).
3.4. Tiến triển
Tuổi khởi phát của rối loạn hoang tưởng nhìn chung ở người trung niên hoặc
người cao tuổi. Thể bị hành hạ hay gặp nhất. Tiến triển rất khác nhau. Đặc biệt thể bị
hành hạ là mãn tính, thêm vào đó giảm sút khả năng lao động do hoang tưởng là
thường gặp. Trong trường hợp khác, giai đoạn lui bệnh hoàn toàn có thể tiếp sau đó là
bị tái phát. Cuối cùng, ở các thể khác bệnh lui được vài tháng thường không có tái phát
tiếp theo. Một số số liệu cho rằng thể ghen tuông có thể có tiên lượng tốt hơn thể bị
hành hạ.
3.5. Chẩn đoán phân biệt
Sảng, mất trí và rối loạn tâm thần do bệnh cơ thể có thể biểu hiện triệu chứng
giống như rối loạn hoang tưởng. Ví dụ hoang tưởng bị hại đơn thuần trong thời kỳ sớm
của mất trí thể Alzheimer cần được chẩn đoán là Alzheimer có hoang tưởng.
Loạn thần do 1 chất đặc biệt là thuốc kích thích như Amphetanim hoặc Cocain,
có thể bị nhầm với triệu chứng của rối loạn hoang tưởng, nhưng thường được phân
biệt do liên quan đến chất gây loạn thần với khởi phát và lui bệnh của hoang tưởng.
Rối loạn hoang tưởng có thể cần phân biệt với TTPL hoặc rối loạn dạng phân liệt
do thiếu các triệu chứng đặc chủng khác cho pha hoạt động của TTPL (ví dụ ảo thanh
hoặc ảo thị rõ ràng, hoang tưởng kỳ quái, ngôn ngữ thanh xuân, hành vi căng trương
lực, triệu chứng âm tính). Khi so sánh với TTPL, rối loạn hoang tưởng ít ảnh hưởng
đến chức năng nghề nghiệp xã hội.
Có thể rất khó phân biệt với rối loạn cảm xúc có yếu tố loạn thần với rối loạn
hoang tưởng, tuy nhiên các yếu tố loạn thần cùng rối loạn cảm xúc thường là hoang
tưởng không kỳ quái không có ảo giác rõ ràng, nhưng rối loạn hoang tưởng thường
được phối hợp với rối loạn cảm xúc. Sự phân biệt phụ thuộc vào quan hệ tạm thời giữa
rối loạn cảm xúc và hoang tưởng với mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng rối
loạn cảm xúc.
Bệnh nhân có loạn thần cảm ứng có thể biểu hiện các triệu chứng giống như
trong rối loạn hoang tưởng. Hoang tưởng xuất hiện trong một mối liên quan chặt chẽ
với một người khác được xác định rằng hoang tưởng của bệnh nhân giảm hoặc biến
mất khi bệnh nhân có loạn thần tạo ra được cách ly khỏi người có rối loạn tâm thần
tiên phát.
Rối loạn tâm thần ngắn được phân biệt với rối loạn hoang tưởng từ thực tế là các
hoang tưởng ngắn hơn 1 tháng.
Nghi bệnh (đặc biệt với nhận thức về bệnh giảm) có thể khó phân biệt với các rối
93
loạn hoang tưởng khác nhau. Trong nghi bệnh, nội dung liên quan với thực tế rằng có
một bệnh nghiêm trọng nhưng cường độ không mạnh bằng hoang tưởng (nghĩa là bệnh
nhân có thể chấp nhận rằng bệnh không được biểu hiện).
Rối loạn dạng cơ thể áp dụng khi có một tưởng tượng khiếm khuyết của cơ thể.
Nhiều người bị bệnh này có các niềm tin với cường độ thấp hơn của hoang tưởng và
thừa nhận rằng ý kiến của họ về các khiếm khuyết của cơ thể là không chính xác.
Giới hạn giữa rối loạn ám ảnh xung động (đặc biệt là nhận thức bệnh giảm) và
rối loạn hoang tưởng có thể khó được xác định. Bệnh nhân có rối loạn ám ảnh xung
động có khả năng nhìn nhận rằng các ám ảnh xung động là quá mức và không hợp lý
xuất hiện tiếp theo nhau. Ở một số bệnh nhân cảm giác phân tích có thể bị mất, do vậy
ám ảnh có thể đạt tới mức của hoang tưởng (ví dụ niềm tin rằng ai đó là nguyên nhân
gây ra cái chết của người khác từ thực tế là họ muốn như thế).
3.5. Điều trị
Rối loạn hoang tưởng là bệnh khó điều trị. Mục đích điều trị là xác định chẩn
đoán, quyết định biện pháp can thiệp và thay đổi điều kiện sống.
3.5.1. Liệu pháp tâm lý
Yếu tố nhấn mạnh để có hiệu quả trong liệu pháp tâm lý là xác lập mềm tin của
bệnh nhân vào liệu pháp điều trị. Liệu pháp tâm lý cá nhân có hiệu quả hơn liệu pháp
nhóm. Liệu pháp nhận thức và liệu pháp hành vi thường có kết quả tốt. Lúc đầu, nhà
tâm lý không đồng tình, nhưng không nghi ngờ hoang tưởng của bệnh nhân. Mặc dù
nhà tâm lý phải đặt các câu hỏi để xác định hoang tưởng, nhưng tránh hỏi nhiều về vấn
đề này. Bác sỹ có thể khuyến khích bệnh nhân nêu ra các ước muốn của mình để giúp
họ giảm bót lo âu và căng thẳng. Không cần nhấn mạnh rằng hoang tưởng phải được
điều trị. Nhưng nhà tâm lý không đồng tình với bệnh nhân hoang tưởng là sự thật. Nếu
chiều theo ý thích của bệnh nhân quá mức có thể làm tăng mối nghi ngờ và thù địch
bởi thực tế diễn ra không đúng theo suy nghĩ của bệnh nhân.
Khi các thành viên trong gia đình đã sẵn sàng, bác sỹ có thể quyết định cho họ
tham gia vào chương trình điều trị. Thông thường cả bệnh nhân và gia đình họ phải
hiểu biết về liệu pháp mà bác sỹ sử dụng, mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân
và phương pháp thảo luận với bệnh nhân. Sự tham gia của gia đình bệnh nhân có thể
có lợi cho quá trình điều trị.
3.5.2: Điều trị nội trú
Bệnh nhân rối loạn hoang tưởng nhìn chung chỉ cần điều trị ngoại trú. Chỉ điều
trị nội trú các trường hợp sau:
- Bệnh nhân phải khám bệnh toàn diện, đặc biệt là khám thần kinh để tìm nguyên
nhân của hoang tưởng.
- Bệnh nhân kích động, có hành vi bạo lực, tự sát, giết người do hoang tưởng chi
phối.
94
- Hành vi của bệnh nhân do hoang tưởng chi phối gây rối loạn trong gia đình và
nơi công tác.
3.5.3. Liệu pháp hoá dược
Thuốc an thần điều trị có hiệu quả rối loạn hoang tưởng. Thường chỉ cần dùng
thuốc uống, nhưng trong trường hợp bệnh nhân kích động nặng thì phải dùng đường
tiêm. Sau 6 tuần điều trị bằng thuốc an thần mà bệnh nhân không đáp ứng thì phải thay
bằng thuốc an thần nhóm khác.
Khi bệnh nhân hết hoang tưởng, cần giảm liều thuốc từ từ, chuyển sang điều trị
củng cố lâu dài (l vài năm). Liều điều trị củng cố thường bằng 1/2 liều điều trị tấn
công.
4. Rối loạn phân liệt cảm xúc
4.1. Khái niệm
Rối loạn phân liệt cảm xức (RLPLCX) là những rối loạn từng giai đoạn, trong đó
có các triệu chứng cảm xúc lẫn phân liệt đều nổi bật trong cùng một giai đoạn của
bệnh, thường là đồng thời nhưng ít nhất cũng cách nhau khoảng vài ngày. Mối liên
quan của chúng với những rối loạn cảm xúc điển hình và các rối loạn phân liệt là
không chắc chắn. Chúng được coi như một thể loại riêng và tương đối phổ biến.
Những bệnh nhân có các giai đoạn phân liệt cảm xúc tái diễn, đặc biệt ở người có
những triệu chứng thuộc loại hưng cảm nhiều hơn là trầm cảm, thường được thuyên
giảm hoàn toàn và hiếm khi phát triển sang trạng thái di chứng.
Theo ICD - 10F, các rối loạn này chia làm 3 loại chính:
- Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm (F25.0).
- Rối loạn phân liệt cảm xúc loại trầm cảm (F25.l).
- Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hỗn hợp (F25.2).
4.2. Lâm sàng và chẩn đoán
4.2.1. Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm
Lâm sàng:
Một rối loạn trong đó các triệu chứng tâm thần phân liệt (TTPL) và các triệu
chứng hưng cảm, cả hai đều nổi bật trong cùng một giai đoạn của bệnh.
- Khí sắc bất thường, hưng phấn.
- Tư duy hưng phấn kèm theo tự đánh giá bản thân quá cao và ý tưởng khuy ếch
đại, nhưng đôi khi kích động hoặc cáu kỉnh rõ hơn và kèm theo tác phong xâm phạm
và ý tường bị truy hại.
- Hoạt động tăng quá mức, sự tập trung chú ý bị rối loạn, mất khả năng ức chế xã
hội bình thường.
- Có thể có những hoang tưởng liên hệ tự cao hay truy hại... có thể có hoang
tưởng bị chi phối, bị kiểm tra.
95
- Có thể xuất hiện ảo giác (ảo thanh) hoặc các hoang tưởng khác.
- Hành vi rối loạn nặng nề.
Mặc dù rối loạn cảm xúc và hành vi rầm rộ, nhưng rối loạn phân liệt cảm xúc
hưng cảm có thể phục hồi hoàn toàn trong vài tuần.
Nguyên tắc chẩn đoán:
- Khí sắc hưng phấn nổi bật.
- Có ít nhất 1 hay 2 tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt, các hoang tưởng ảo
giác không phù hợp với cảm xúc. Ví dụ hưng cảm nhưng lại kèm theo hoang
tưởng bị hại...
- Các đợt tái diễn đều rối loạn cảm xúc hưng cảm và có rối loạn phân liệt.
- Giữa các đợt tái phát bệnh nhân hoàn toàn ổn định.
4.2.2. Rối loạn phân liệt cảm xúc loại trầm cảm
Lâm sàng:
Một rối loạn mà trong đó các triệu chứng bệnh tâm thần phân liệt và trầm cảm, cả
hai đều nổi bật lên trong cùng một giai đoạn của bệnh.
- Khí sắc trầm thường kèm theo nhiều triệu chứng trầm cảm đặc trưng.
- Hoạt động bị ức chế. tác phong chậm chạp, lờ đờ.
- Mất quan tâm thích thú, giảm sút tập trung.
- Xuất hiện các ý tưởng bị tội và tự sát.
- Tư duy đồng thời xuất hiện các hoang tưởng bị kiểm tra, cho rằng ý tưởng bị
phát thanh, tư duy vang thành tiếng hoặc là hoang tưởng kỳ quái, tự cao.
- Có thể xuất hiện các ảo thanh bình phẩm, ảo thanh đe doạ...
Rối loạn phân liệt cảm xúc loại trầm cảm thường ít phong phú hơn loại hưng
cảm, nhưng chúng có khuynh hướng kéo dài và tiên lượng ít thuận lợi hơn. Mặc dù đa
số bệnh nhân phục hồi hoàn toàn, một số bệnh nhân có khả năng để lại dị tật phân liệt.
Nguyên tắc chẩn đoán:
- Có giai đoạn trầm cảm nổi bật kèm theo ít nhất 2 triệu chứng trầm cảm đặc
trưng.
- Có ít nhất 1 tiêu chuẩn tâm thần phân liệt điển hình. Các hoang tưởng ảo giác
không phù hợp với rối loạn khí sắc.
- Các đợt tái phát đều là tâm cảm và giữa các đợt tái phát bệnh nhân gần như ổn
định hoàn toàn.
4.2.3. Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hỗn hợp
Lâm sàng:
Là rối loạn mà trong đó, các triệu chứng phân liệt và rối loạn cảm xúc hướng cực
hỗn hợp trong cùng một giai đoạn của bệnh.
96
Bao gồm tâm thần phân liệt chu kỳ, loạn thần phân liệt và cảm xúc hỗn hợp.
Nguyên tác chẩn đoán:
- Là các giai đoạn các triệu chứng rối loạn cảm xúc hướng cực nổi bật.
- Kết hợp với ít nhất một triệu chứng phân liệt.
- Giữa các giai đoạn bệnh nhân thuyên giảm hoàn toàn
4.3. Tiên lượng
Rối loạn phân liệt cảm xúc là bệnh loạn thần nội sinh. Về mặt tiến triển thường là
theo chu kỳ từng đợt, giữa các đợt tiến triển gần như thuyên giảm hoàn toàn. Với
RLPLCX loại hưng cảm thì tiên lượng tốt hơn loại trầm cảm. Các giai đoạn phân liệt
cảm xúc loại trầm cảm có khuynh hướng kéo dài lâu hơn và tiên lượng ít thuận lợi
hơn.
4.4. Điều trị
Đối với giai đoạn tiến triển của bệnh, bệnh nhân cần được nhập viện bắt buộc.
Kết hợp các liệu pháp sinh học với liệu pháp tâm lý và tái thích ứng xã hội. Sau điều
trị tận công trong bệnh viện phải tiếp tục điều trị củng cố.
97
1. Đại cương
thần.
Đặc trưng của rối loạn này là sự thay đổi khí sắc, có thể là hưng cảm
(hưng phấn)
hay trầm cảm
(ức chế), kéo theo sự biến đổi gây suy giảm có ý nghĩa các hoạt động
tâm thần khác như hành vi, tâm lý vận động, nhận thức, chú ý, trí nhớ... làm giảm chất
lượng cuộc sống của người bệnh. Tuy nhiên, mặc dù bệnh có tính chất lặp đi lặp lại
các giai đoạn rối loạn khí sắc, nhưng không làm biến đổi nhận cách và sa sút tâm thần.
Các tác giả cảnh báo rằng rối loạn trầm cảm sẽ là một trong các bệnh có số người mắc
lớn nhất vào năm 2020 (Murray and Lopez, 1996). Rối loạn khí sắc có thể là biểu hiện
của một bệnh lý nội sinh, nhưng cũng có thể là triệu chứng của một bệnh lý cơ thể hay
là một trong những rối loạn do lạm dụng các chất gây nên hoặc là trạng thái phản ứng
trước các stress.
2. Dịch tễ học
Rối loạn trầm cảm thường gặp ở nữ nhiều hơn nam. Tỷ lệ nữ 1 nam là 2/1
(Kessler et al 1998, Weissman, 1993). Mặc dù lý do cho sự khác nhau giữa nữ và nam
không rõ và không có số liệu thực tế tuy nhiên nhiều giả thuyết cho rằng đó là do sự
khác nhau về hormon, các yếu tố về cá thể, xã hội và môi trường. Bệnh có thể khởi
phát ở lứa tuổi sớm, trung bình từ 20 đến ngoài 30 tuổi (Weissman, 1993; Andrade et
al, 2003). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu mới đây cho biết rối loạn trầm cảm có xu
hướng khởi phát sớm ở lứa tuổi trẻ, đặc biệt tuổi dậy thì. Độ tuổi xuất hiện các giai
đoạn bệnh tập trung nhiều nhất từ 25 - 34 tuổi. Trong báo cáo của Tổ chức Y tế thế
giới năm 2001 về vấn đề sức khoẻ tâm thần, Dr Gro Harlem Brundtland nhận thấy tỉ lệ
mắc rối loạn trầm cảm ước tính khoảng 4,4% dân số. Tỷ lệ mắc cả đời là từ 1,5% đến
2,5% dân số trưởng thành (Bland, 1997).
Tình trạng hôn nhân cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ trầm cảm cao hơn ở những người không kết hôn hoặc
đã kết hôn nhưng ly dị so với những người có tình trạng hôn nhân bình thường
(Weissman, 1996). Chưa kết hôn bao giờ là yếu tố nguy cơ đối với rối loạn trầm cảm
nặng trong khi li dị lại là yếu tố nguy cơ liên quan đến tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm
trong suốt cuộc đời (Kessler, 2003).
Điều kiện kinh tế và sinh sống là một yếu tố tác động lớn đến tỷ lệ mắc rối loạn
trầm cảm. Các tác giả nhận thấy tỷ lệ mắc trầm cảm cao hơn ở hơn những người có
điều kiện kinh tế thấp thu nhập thấp. Mất việc và không có việc làm cũng là yếu tố
nguy cơ của trầm cảm (Kessler 1998; Myers, 1978). Rối loạn trầm cảm cũng được
nhận thấy có tỷ lệ mắc ở thành thị cao hơn so với nông thôn. Mặc dù điều này chưa rõ
ràng nhưng nhiều tác giả cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do ở thành thị
có nhiều yếu tố nguy cơ hơn ở nông thôn như tội ác, thất nghiệp, cuộc sống căng
98
RỐI LOẠN KHÍ SẮC
Rối loạn khí sắc là bệnh lý rất phổ biến, đứng hàng thứ hai trong các bệnh lý tâm
thẳng... (Patten, 2003)
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
không giống như trầm cảm, bệnh có tỷ lệ mắc cả
đời thấp hơn trầm cảm, vào khoảng 1% đến 2% dân số trong hầu hết các nghiên cứu
(Bland et al 1998, Chen et al 1993). Trong những nghiên cứu gần đây các tác giả nhận
thấy, tỷ lệ rối loạn cảm xúc lưỡng cực cao hơn chiếm 3% - 6% dân số (Angst, 1995)
bao gồm hưng cảm, hưng cảm nhẹ hưng cảm tái diễn và rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
Lứa tuổi mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường vào khoảng từ 18 - 44 tuổi. Ít
khi gặp mắc bệnh ở lứa tuổi trên 50 (Winchen et al, 1992). Không có sự khác biệt rõ
rệt giữa hai giới. Tình trạng kinh tế xã hội và nơi sống cũng không có ảnh hưởng rõ rệt
tới tỷ lệ mắc bệnh (Kesssler, 1997). Trong khi đó các nghiên cứu về mối liên quan
giữa tình trạng hôn nhân và bệnh cho thấy những người ly hôn hoặc không kết hôn có
tỷ lệ mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực cao hơn những người trưởng thành khác
(Kessler, 1997)
Rối loạn hưng cảm
hay gặp ở lứa tuổi trẻ từ 20 - 25 tuổi. Bệnh thường gặp ở nữ
hơn nam.
3. Bệnh nguyên bệnh sinh
Nói chung cho đến nay, bệnh nguyên bệnh sinh của rối loạn khí sắc (RLKS) còn
chưa được sáng tỏ hoàn toàn. Vì vậy, có nhiều giả thuyết về cơ chế bệnh sinh nhưng
chưa có giả thuyết nào riêng nó có giải thích đầy đủ và loại trừ được các giả thuyết
khác.
3.1. Giả thuyết về yếu tố di truyền
Các nghiên cứu gia đình cho thấy 50% số bệnh nhân RLKS có ít nhất một người
cha hoặc mẹ mắc RLKS. Nếu cha hoặc mẹ mắc RLKS thì 25% con cái họ mắc bệnh.
Nếu cả hai bố mẹ cùng mắc bệnh thì 50 - 75% các trường hợp có con mắc RLKS.
Đồng thời nghiên cứu RLKS ở các cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy tỷ lệ rối loạn cảm
xúc lưỡng cực là 33 - 90% và rối loạn trầm cảm là 50%. Nghiên cứu ở các cặp sinh đôi
khác trứng thấy tỷ lệ rối loạn cảm xúc lưỡng cực là 5 - 25% và rối loạn trầm cảm là 10
- 15%. Một số nghiên cứu sâu hơn về gen cho biết, có thể xác định được một số điểm
đặc biệt về gen trên các nhiễm sắc thể X, 5, 11 ở các gia đình có RLKS.
3.2. Giả thuyết về rối loạn các chất hoá học dẫn truyền thần linh
Có rất nhiều các nghiên cứu mới đây về cơ chế bệnh sinh của RLKS cho thấy sự
liên quan của nó với hệ thống chất dẫn truyền thần kinh trong hệ thần kinh trung ương.
Các chất này bao gồm các mono - amine của não như dopamine, noradrenaline và
serotonine. Các thuốc IMAO, TCAS SSRIS được xác định hiệu quả của chúng thông
qua việc làm thay đổi các monoamine hoặc các quan sinh học khác tại vị trí receptor ở
vùng dưới đồi hoặc hệ viền của não có thể gây ra sự thay đổi cảm xúc. Nồng độ của
các chất này và chất chuyển hoá của nó trong nước tiểu, dịch não tuỷ bị dao động ở
bệnh nhân trầm cảm và hưng cảm. Chức năng của hệ GABA cũng có sự bất thường
trong rối loạn khí sắc.
99
3.3. Giả thuyết về yếu tố môi trường
Những sự kiện sống mang tính chất stress (sự mất mát, chia ly, mất việc, sự tổn
thương xúc phạm nặng nề...) như là một yếu tố khởi phát đối với rối loạn khí sắc.
Trong đó sự mất mát do chết chóc hoặc chia ly có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là ở
thời thơ ấu. Hơn nữa các stress xảy ra trong gia đình, xã hội còn ảnh hưởng đến sự hồi
phục, tái phát của các giai đoạn rối loạn khí sắc.
3.4. Giả thuyết về rối loạn nội tiết
Một số cơ sở của giả thuyết này dựa trên rối loạn khí sắc hay gặp ở phụ nữ, các
giai đoạn thường xuất hiện vào thời kỳ dậy thì, có thai, sau đẻ, rối loạn kinh nguyệt...
Rối loạn trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận được cho rằng có liên quan đến
rối loạn khí sắc. Bên cạnh đó, vai trò của nội tiết tố giáp trạng như TSH, TRH và
T3 - T4 cũng được nêu lên trong quan điểm về bệnh sinh của rối loạn khí sắc.
4. Triệu chứng lâm sàng:
4.1. Rối loạn trầm cảm
4.1.1. Rối loạn trầm cảm điển hình
4.1.1.1 Biểu hiện khởi phát:
Thường bệnh khởi phát từ từ bằng các dấu hiệu bệnh nhân cảm thấy suy nhược,
mệt mỏi, khó tập trung khi làm việc, ngại tiếp xúc, chậm chạp trong hoạt động rút,
khỏi các hoạt động xã hội thường lệ, trí nhớ nghèo nàn, dễ bị kích thích và rối loạn
giấc ngủ (thường thức giấc sớm).
4.1.1.2. Biểu hiện toàn phát:
* Theo mô tả kinh điển: Trạng thái trầm cảm điển hình được biểu hiện bằng sự
ức chế các hoạt động tâm thần, nổi bật là cảm xúc bị ức chế, tư duy bị ức chế, hoạt
động bị ức chế.
* Theo mô tả của ICD - 10: Giai đoạn trầm cảm biểu hiện bằng các triệu chứng
đặc trưng và phổ biến sau:
- Các triệu chứng đặc trưng:
1. Khí sắc trầm
2. Mất mọi quan tâm và thích thú.
3. Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động.
- Các triệu chứng phổ biến khác hay gặp:
1. Giảm sút sự tập trung và chú ý.
2. Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.
3. Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng.
4. Nhìn vào tương lai thấy ảm đạm.
5. Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
6. Rối loạn giấc ngủ
100
7. Ăn ít ngon miệng.
- Các triệu chứng cơ thể (sinh học, sầu uất) của trầm cảm:
1. Mất quan tâm, ham thích trong những hoạt động thường ngày gây thích
thú.
2. Không có phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi trường xung
quanh thường ngày vẫn tạo phản ứng vui thích.
3. Thức giấc sớm ít nhất 2 giờ so với bình thường.
4. Trầm cảm nặng nề hơn về buổi sáng.
5. Chậm chạp tâm lý vận động hoặc kích động.
6. Mất khẩu vị rõ rệt.
7. Sút cân (thường giảm > 5% so với trọng lượng cơ thể tháng trước).
8. Mất dục năng rõ rệt, rối loạn kinh nguyệt ở nữ.
- Các triệu chứng loạn thần: Hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ.
Hoang tưởng, ảo giác có thể phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị tội, bị thiệt hại,
bị trừng phạt, nghi bệnh, hoang tưởng mở rộng, nhìn thấy cảnh trừng phạt, ảo thanh
kết tội hoặc nói xấu, lăng nhục) hoặc không phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị theo
dõi, liên hệ...)
4.1.2. Trầm cảm không điển hình
Tuỳ theo cấu trúc lâm sàng và sự nổi bật của một loại triệu chứng nào đó, chia ra
các thể loại lâm sàng như sau.
4.1.2.1. Trầm cảm uể oải (Trầm cảm suy nhược)
Trên nền tảng khí sắc giảm, nổi bật lên sự suy yếu, mệt mỏi, mất sinh lực, mất
khả năng hưng phấn thích thú, lạnh nhạt với xung quanh, suy nhược cả về thể chất và
tinh thần.
4.1.2.2. Trầm cảm kích thích
Khí sắc giảm, không giảm vận động mà kích thích, vật vã kèm theo lo âu. Bệnh
nhân bồn chồn, không thể đứng ngồi một chỗ, rên rỉ, than vãn về tình trạng của mình,
có thể kích động đòi tự sát. Trong cơn xung động trầm cảm nặng có thể tự sát rất
nhanh chóng hoặc giết người rồi tự sát.
4.1.2.3 Trầm cảm mất cảm giác tâm thần
Hình ảnh lâm sàng chủ yếu là mất cảm giác về tâm thần, không còn cảm giác đau
đớn, vui buồn, mất phản ứng cảm xúc thích hợp. Bệnh nhân cảm giác rất đau khổ vì
tình trạng đó.
4.1.2.4. Trầm cảm với hoang tưởng tự buộc tội
Người bệnh tập trung vào khiển trách, lên án bản thân. Họ cho rằng mình có
những lỗi lầm, những sai trái đòi được từng phạt như đồi bại, ăn bám, vô trách nhiệm,
có nhiều hành vi xấu xa vi phạm đạo đức. Những lỗi lầm, sai phạm cũ trong quá khứ
101
có thể bị đánh giá quá mức trong tình trạng trầm cảm.
4.1.2.5. Trầm cảm loạn khí sắc
Đi đôi với cảm giác buồn là sự cáu kỉnh, càu nhàu, bực bội, không hài lòng lan
tràn sang cả những người xung quanh, người bệnh có khuynh hướng cục cằn, công
kích.
4.1.2.6. Trầm cảm sững sờ
Ức chế vận động nặng nên biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hội chứng bất động, nét
mặt sững sờ đau khổ, nước mắt lưng tròng.
4.1.2.7. Trầm cảm lo âu
Trên nền tảng khí sắc trầm, lo âu nổi lên chiếm vị trí hàng đầu, thường bệnh nhân
lo âu không có chủ đề, lo sợ chờ đợi rủi ro bất hạnh không gắn vào bất kỳ một sự kiện
nào đặt ra trong đời thường.
4.1.2.8. Trầm cảm với rốt loạn cơ thể và thần kinh thực vật
Tình trạng bệnh được bệnh nhân kể ra trước tiên là các rối loạn thực vật nội tạng,
suy nhược loạn cảm giác bản thể như: Cơn đánh trống ngực, dao động huyết áp, vã mồ
hôi, chân tay lạnh, rối loạn trí nhớ, nôn, chóng mặt... Nền tảng khí sắc giảm biểu hiện
không rõ ràng, không than vãn buồn phiền, không có ức chế tâm thần vận động.
Thường nhận thấy dao động khí sắc khá lên về buổi chiều. Nhiều trường hợp khác
xuất hiện các triệu chứng cơ thể thay thế: Đau vùng ngực dai dẳng, chóng mặt, rối loạn
tiêu hoá... Nhưng không phát hiện được tổn thương thực thể tương xứng.
Vì không có biểu hiện trầm cảm rõ rệt, hình thái lâm sàng này còn được gọi là
trầm cảm ẩn, trầm cảm che đậy, trầm cảm tương đương... Thể bệnh này rất hay gặp
trong lâm sàng ở hệ thống y tế cơ sở và thực hành đa khoa.
4.1.2.9. Trầm cảm với loạn cảm giác bản thể, giải thể nhân cách
Trầm cảm với cảm giác khó chịu không xác định rõ ràng ở các cơ quan, bộ phận
khác nhau trong cơ thể, đầu óc nặng nề, cảm giác như rỗng tuếch hoặc đặc sệt như đất
sét, bị bớp thắt hoặc tù mù.
4.1.2.10. Trầm cảm ám ảnh
Hiện tượng ám ảnh được hình thành nổi lên trên nền trầm cảm với các nội dung
đa dạng: ám ảnh sợ chỗ đông người, sợ khoảng trống, sợ lây bệnh hoặc sợ chết đột
ngột
¼
Thường xuất hiện trên những người có nhân cách hoài nghi, lo âu.
4.1.2.11. Trầm cảm nghi bệnh
Trên nền tảng khí sắc giảm, bệnh nhân xuất hiện những cảm giác rất khó chịu
khác nhau và từ đó khẳng định rằng mình đã bị mắc một bệnh nào đó trầm trọng, nan
giải. Vì thế bệnh nhân thường kiên nhẫn đi trên sự giúp đỡ của các thầy thuốc chuyên
khoa. Bệnh nhân chỉ được khám xét về tâm thần sau khi đã nhiều năm theo dõi, điều
trị ở nhiều chuyên khóa khác nhau mà không hề tìm được dấu hiệu bệnh lý cơ thể nào
tương xứng với các than phiền về bệnh tật của bệnh nhân.
102
4.1.2.12. Trầm cảm Palanoide (trầm cảm hoang tưởng)
Liên quan với trầm cảm và nổi lên trong bệnh cảnh là những hoang tưởng như:
hoang tưởng bị theo dõi, bị truy hại, bị đầu độc, bị thiệt hại, buộc tội, hoang tưởng liên
hệ. Ngày nay ít gặp trầm cảm với hoang tưởng mở rộng (hoang tưởng phủ định mang
tính chất kỳ quái còn gọi là hội chứng Cotard).
4.1.2.13. Trầm cảm ở trẻ em
Ở trẻ em, tuỳ theo lứa tuổi có biểu hiện trầm cảm khác nhau. Trẻ sơ sinh có biểu
hiện thờ ơ bỏ bú, chán ăn, rối loạn phát triển toàn thân, rối loạn giấc ngủ. Trẻ <7 tuổi
thường biểu hiện thiếu nhiệt tình vui chơi, tách rời xung quanh, khóc lóc, từ chối ăn, ít
ngủ. Trẻ đi học biểu hiện kích thích, buồn chán, hay than vãn mất quan tâm thích thú.
Trẻ lớn hơn thường kể về những thất vọng bản thân, lo âu và ý tưởng hành vi tự sát
cũng phổ biến hơn. Ở tuổi thanh thiếu niên, bệnh cảnh lâm sàng gần giống của người
lớn.
4.1.3. Một số xét nghiệm hỗ trợ cho xác định trạng thái trầm cảm
Một số test tâm lý được dùng hỗ trợ xác định trạng thái trầm cảm như thang
Hamilton Depression Rating Seale (HDRS) và thang Beck Deression Inventory (BDI)
4.2. Giai đoạn hưng cảm
4.2.1. Theo mô tả kinh điển
Trạng thái hưng cảm được biểu hiện bằng hội chứng hưng cảm với sự hưng phấn
các hoạt động tâm thần, nổi bật là cảm xúc hưng phấn, tư duy hưng phấn và hoạt động
hưng phấn.
4.2.2. Theo mô tả của ICD - 10:
Các triệu chứng biểu hiện:
Tăng khí sắc không phù hợp với hoàn cảnh xung quanh dai dẳng kéo dài trong
nhiều ngày (đôi khi thể hiện bằng cáu kỉnh, kích động)
Người bệnh biểu hiện tư duy phi tán, liên tưởng rất mau lẹ, nói nhanh. Ý tưởng
khuyếch đại tự cao quá mức, lạc quan, tăng khả năng sáng tạo, tăng giao tiếp một cách
tự do thái quá. Tăng năng lượng dẫn đến tăng hoạt động, giảm nhu cầu ngủ, bệnh nhân
dễ chan hoà, ba hoa, suồng sã. Tăng tình dục thường dẫn đến mất khả năng kiềm chế
và có những hoạt động tình dục không phù hợp. Mất khả năng kiềm chế xã hội thông
thường, tuỳ theo mức độ trầm trọng của hưng cảm có thể làm cản trở hoặc gián đoạn
nhiều hay ít công việc và hoạt động xã hội. Trong trường hợp nặng có thể dẫn đến xâm
phạm hoặc hung bạo, xao nhãng ăn uống và vệ sinh cá nhân, thậm chí đôi khi ảnh
hưởng đến tính mạng của người bệnh. Bệnh nhân giảm sự tập trung và chú ý dẫn đến
giảm khả năng yên tâm khi làm việc. Có thể kèm theo các triệu chứng loạn thần, các
hoang tưởng và ảo giác phù hợp với khí sắc (hoang tưởng tự cao, phát minh, được yêu,
liên hệ, nhìn thấy người nổi tiếng hoặc nghe thấy tiếng của họ hoặc các rối loạn tri giác
có liên quan đến tăng khí sắc) hoặc không phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị truy
hại, bị theo dõi, bị điều khiển...)
103
4.3. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực biểu hiện trên lâm sàng là các cơn rối loạn cảm xúc
hưng cảm và trầm cảm xen kẽ nhau và lặp đi lặp lại. Các giai đoạn hưng cảm và trầm
cảm thường khởi phát sau stress nhưng không nhất thiết phải có stress trong chẩn đoán
bệnh. Giữa các cơn của bệnh là giai đoạn ổn định với trạng thái tâm thần gần như trình
thường. Bệnh có xu hướng tiến triển mạn tính, bệnh có xu hướng nặng lên ở tuổi sau
trung niên với biểu hiện giai đoạn ổn định giữa các chu kỳ ngày càng ngắn lại và các
giai đoạn bệnh kéo dài hơn.
Tuỳ theo từng cách tiến triển của bệnh, các giai đoạn hưng cảm thường kéo dài từ
hai tuần đến 4-5 tháng. Trong khi đó các giai đoạn trầm cảm thường có xu hướng kéo
dài hơn trung bình 6 tháng.
5. Chẩn đoán và phân loại rối loạn cảm xúc theo ICD -10
5.1. Chẩn đoán xác định
Giai đoạn trầm cảm (F32) biệt định theo các mức độ trầm cảm.
F32.0
Giai đoạn trầm cảm nhẹ.
- Phải có 2/3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm.
- Và có 2/7 triệu trứng phổ biến khác hay gặp của trầm cảm.
- Không có triệu chứng cơ thể (sinh học) của trầm cảm.
- Khó tiếp tục công việc và hoạt động xã hội nhưng không dừng hoàn toàn.
- Kéo dài ít nhất 2 tuần.
F32.l
. Giai đoạn trầm cảm vừa:
- Phải có 2/3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm.
- Và có ít nhất 3/7 triệu chứng phổ biến hay gặp của trầm cảm
- Gây nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, xã hội và nghề nghiệp.
- Có thể có các triệu chứng cơ thể (phải có 4 hoặc nhiều hơn các triệu chứng cơ
thể).
- Kéo dài ít nhất 2 tuần.
F32.2.
Giai đoạn trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần.
- Có 3/3 triệu chứng đặc trưng.
- Và có ít nhất 4/7 triệu chứng phổ biến.
- Kèm theo các triệu chứng cơ thể.
- Không còn khả năng tiếp tục công việc xã hội và nghề nghiệp.
- Kéo dài ít nhất 2 tuần, nhưng nếu các dấu hiệu rõ rệt , trầm trọng có thể chẩn
đoán trước 2 tuần.
F32.3.
Giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần.
- Thoả mãn các tiêu chuẩn đã nêu trong mục F32.2. Ở trên.
104
- Kèm theo hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ trầm cảm. Nếu cần, hoang tưởng
và ảo giác có thể được phân rõ là phù hợp hay không phù hợp với khí sắc.
F32.8.
Các giai đoạn trầm cảm khác:
Bao gồm trầm cảm không điển hình, trầm cảm ẩn.
Giai đoạn hưng cảm (F30)
: được biệt định với 3 mức độ trầm trọng.
F30.0
. Hưng cảm nhẹ: ,
- Có nhiều nét trong các rối loạn sau:
+ Tăng khí sắc nhẹ và dai dẳng, dễ chan hoà, ba hoa, suồng sã.
+ Tăng năng lượng, sảng khoái, tăng hoạt động.
+ Cảm giác thoải mái, có hiệu xuất lao động và tâm thần rõ rệt.
+ Tăng tình dục, giảm nhu cầu ngủ.
- Phải xuất hiện ít nhất nhiều ngày liên tục, dai dẳng hơn so với khí sắc chu kỳ
(F34.0).
- Có trở ngại đáng kể với công việc và hoạt động xã hội nhưng không bị gián
đoạn nên ít nhận ra là bệnh lý.
F30.l
. Hưng cảm không có các triệu chứng loạn thần.
Thay đổi khí sắc phải kèm theo tăng năng lượng và nhiều triệu chứng đã nêu trên
(phần mô tả triệu chứng lâm sàng) đặc biệt nói nhanh, giảm nhu cầu ngủ, tính tự cao
và lạc quan quá độ
- Thời gian của giai đoạn hưng cảm phải kéo dài ít nhất 1 tuần.
- Mức độ phải đủ trầm trọng làm gián đoạn nhiều hay ít công việc và hoạt động
xã hội thông thường.
F30.2
. Hưng cảm có các triệu chứng loạn thần.
- Biểu hiện lâm sàng là một thể nặng như F30.l.
- Kèm theo các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo giác, kích động. Nếu
cần thiết, các hoang tưởng, ảo giác có thể được biệt định là có hoặc không phù hợp với
khí sắc.
F30.8
. Các giai đoạn hưng cảm khác.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC - F31).
Tiêu chuẩn chung: lặp đi lặp lại những giai đoạn RLKS (ít nhất là 2 lần), trong đó
khí sắc và hoạt động bị rối loạn đáng kể (hưng cảm hoặc trầm cảm, hưng cảm nhẹ
hoặc hỗn hợp). Thường hồi phục hoàn toàn giữa các giai đoạn. Phải có ít nhất trong
tiền sử một giai đoạn hưng cảm nhẹ, hưng cảm hoặc hỗn hợp (nếu giai đoạn hiện tại là
hưng cảm thì trong tiền sử có thể là trầm cảm)
Tuỳ theo sự phù hợp chẩn đoán của giai đoạn hiện tại với một loại rối loạn khí
sắc đã được biệt định mà phân ra các thể sau:
105
thần.
F31.0 RLCXLC, hiện tại giai đoạn hưng cảm nhẹ
F31.1 RLCXLC, hiện tại hưng cảm không có triệu chứng loạn thần.
F31.2 RLCXLC, hiện tại hưng cảm có triệu chứng loạn thần
F31.3 RLCXLC, hiện tại giai đoạn trầm cảm nhẹ hoặc vừa.
F31.4 RLCXLC, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn
F31.5 RLCXLC, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần.
F31.6 RLCXLC, hiện tại giai đoạn hỗn hợp (pha trộn hoặc thay đổi nhanh chóng
các triệu chứng hưng cảm, hưng cảm nhẹ hoặc trầm cảm từ ngày này sang ngày khác,
từ giờ này sang giờ khác)
F31.7 RLCXLC, hiện tại thuyên giảm :
+ Trước đó đã phù hợp tiêu chuẩn chẩn đoán của RLCXLC.
+ Hiện tại không có 1 RLKS nào đáng kể trong nhiều tháng.
Rối loạn trầm cảm tái diễn
(RLTCTD - F33)
Tiêu chuẩn chung:
+ Lặp đi lặp lại những giai đoạn trầm cảm kéo dài tối thiểu 2 tuần và phải cách
nhau nhiều tháng không có RLKS đáng kể.
+ Không hề có trong tiền sử những giai đoạn độc lập tăng khí sắc và tăng hoạt
động có đủ tiêu chuẩn của một cơn hưng cảm.
+ Thường có sự hồi phục hoàn toàn giữa các giai đoạn, một số ít có thể phát triển
thành trầm cảm dai dẳng.
+ Nguy cơ sẽ có một giai đoạn hưng cảm không bao giờ mất hoàn toàn, nếu xuất
hiện thì chẩn đoán phải chuyển sang RLCXLC.
Dựa vào biểu hiện lâm sàng của giai đoạn hiện hành chia các thể sau:
+ F33.0 RLTCTD, hiện tại giai đoạn nhẹ:
Phải có đủ tiêu chuẩn cho một RLTCTD (F33) và giai đoạn hiện tại phải đủ tiêu
chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0)
+ F33.l RLTCTD, hiện tại giai đoạn vừa:
Phải có đủ tiêu chuẩn cho một RLTCTD (F33) và giai đoạn hiện tại phải có đủ
tiêu chuẩn cho 1 giai đoạn trầm cảm vừa (F32.l).
+ F33.2 RLTCTD, hiện tại giai đoạn nặng không có các triệu chứng loạn thần:
Phải có đủ tiêu chuẩn cho một RLTCTD (F33) và giai đoạn hiện tại phải có đủ tiêu
chuẩn cho 1 giai đoạn trầm cảm nặng không có triệu chứng loạn thần (F32.2).
+ F33.3 RLTCTD, hiện tại giai đoạn nặng có các triệu chứng loạn thần:
Phải có đủ tiêu chuẩn cho một RLTCTD (F33) và giai đoạn hiện tại phải có đủ
tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần (F32.3).
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro