Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tam than hoc 1


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA

BÀI GIẢNG

TÂM THẦN HỌC

THÁI NGUYÊN, 1/2008

CHỦ BIÊN

BS CKII Bùi Đức Trình

THAM GIA BIÊN SOẠN

PGS. TS. Nguyễn văn Ngân

PGS. TS. Ngô Ngọc Tản

PGS. TS. Cao Tiến Đức

PGS. TS. Nguyễn Sinh Phúc

Ths. Đặng Hoàng Anh

Ths. Đàm Bảo Hoa

Ths. Trịnh Quỳnh Giang

Lời Nói Đầu 

Nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy và học, thúc đẩy quá trình tự đào tạo

cho sinh viên y khoa trong lĩnh vực tâm thần học. Bộ môn Tâm thần đã biên soạn tập

bài giảng về Tâm thần học, đây là tài liệu giảng dạy và tham khảo với nội dung cơ bản

nhất về các vấn đề sức khoẻ tâm thần thường gặp ở cộng đồng.

Trong lần tái bản này, với sự tham gia của một số Giáo sư đầu ngành, chúng tôi

đã bổ sung và chỉnh sửa một số nội dung cho phù hợp với mục tiêu và chương trình

đào tạo chung của trường và sự phát triển của ngành trong công tác chăm sóc sức

khoẻ và dự phòng các bệnh lý rối loạn Tâm thần.

Chúng tôi hy vọng cuốn sách này góp phần tích cực cho việc tự học tập của sinh

viên và mong muốn đồng nghiệp và bạn đọc đóng góp cho lần tái bản sau được tốt

hơn. Bộ môn xin chân thành cám ơn!

TRƯỞNG BỘ MÔN

BSCKII. Bùi Đức Trình

MỤC LỤC

1.    ĐẠI CƯƠNG TÂM THẦN HỌC .....................................................................................................1

2.    PHƯƠNG PHÁP KHÁM VÀ THEO DÕI BỆNH NHÂN TÂM THẦN .......................................10

3.    TRIỆU CHỨNG HỌC TÂM THẦN RỐI LOẠN CẢM GIÁC - TRI GIÁC..................................20

4.    RỐI LOẠN TƯ DUY......................................................................................................................26

5.    RỐI LOẠN TRÍ NHỚ .....................................................................................................................34

6.    RỐI LOẠN CẢM XÚC...................................................................................................................38

7.    RỐI LOẠN HÀNH VI TÁC PHONG.............................................................................................42

8.    RỐI LOẠN Ý THỨC ......................................................................................................................46

9.    RỐI LOẠN TRÍ TUỆ ......................................................................................................................49

10.  RỐI LOẠN SỰ CHÚ Ý...................................................................................................................52

11.  ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CƠ BẢN CỦA TRIỆU CHỨNG VÀ HỘI CHỨNG HỌC TÂM THẦN .....53

12.  ĐẠI CƯƠNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN THỰC TỔN ..........................................................55

13.  ĐỘNG KINH TÂM THẦN VẬN ĐỘNG.......................................................................................71

14.  VÀ RỐI LOẠN TÂM THẦN TRONG ĐỘNG KINH ...................................................................71

15.  TÂM THẦN PHÂN LIỆT, CÁC RỐI LOẠN LOẠI PHÂN LIỆT VÀ CÁC RỐI LOẠN HOANG

TƯỞNG...........................................................................................................................................78

16.  RỐI LOẠN KHÍ SẮC .....................................................................................................................98

17.  CÁC RỐI LOẠN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS......................................................................113

18.  PHẢN ỨNG VỚI STRESS VÀ RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG ...................................................115

19.  CÁC RỐI LOẠN PHÂN LY.........................................................................................................119

20.  RỐI LOẠN DẠNG CƠ THỂ ........................................................................................................124

21.  RỐI LOẠN LO ÂU .......................................................................................................................128

22.  NGHIỆN MA TUÝ .......................................................................................................................134

23.  LẠM DỤNG RƯỢU VÀ NGHIÊN RƯỢU..................................................................................147

24.  DƯỢC LÝ HỌC TÂM THẦN......................................................................................................155

25.  LIỆU PHÁP TÂM LÍ ....................................................................................................................176

26.  LIỆU PHÁP SỐC ĐIỆN................................................................................................................188

27.  CẤP CỨU TÂM THẦN................................................................................................................192

28.  MỘT SỐ THANG LƯỢNG GIÁ TÂM THẦN THANG TRẦM CẢM HAMILTON ................197

29.  THANG TRẦM CẢM BECK.......................................................................................................202

30.  THANG TRẦM CẢM TUỔI GIÀ - GDS.....................................................................................205

31.  THANG LO ÂU SPIELBERGER.................................................................................................207

32.  KIỂM TRA SƠ BỘ TRẠNG THÁI TÂM THẦN ........................................................................210

33.  THANG ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GAF..............................................................211

34.  THANG ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG NGHỀ NGHIỆP  VÀ XÃ HỘI - SOFAS..........................213

35.

THANG CHỈ SỐ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG ........................................................................214

1. Sơ lược lịch sử

bệnh nguyên, bệnh sinh, các phương pháp điều trị, chăm sóc và dự phòng các rối loạn

tâm thần và các rối loạn hành vi.

Thuật ngữ "Tâm thần học - Psychiatry" xuất phát từ tiếng Hy Lạp (psyche có

nghĩa là linh hồn hay tâm thần, iatria là chữa bệnh). Đã qua nhiều thế kỷ, bệnh tâm

thần được mang nhiều tên gọi khác nhau như từ "điên" chủ yếu là miệt thị người bệnh.

Về lịch sử tâm thần học luôn gắn liền với lịch sử phát triển của con người, để tồn

tại và phát triển nó gắn liền với quá trình đấu tranh của con người qua các thời kỳ và

qua mỗi thời kỳ cũng có các dấu ấn theo mỗi giai đoạn của lịch sử.

Thời kỳ thượng cổ: người cổ xưa đã tin rằng các rối loạn tâm thần đều do các

thần linh ban thưởng, che chở hay ma quỉ trừng phạt. Tuy nhiên, trong suốt thời gian

dài đó, Hippocrate người đầu tiên đã mô tả một số các hội chứng tâm thần và các rối

loạn cảm xúc lưỡng cực mà trước đây được cho là loạn thần hưng trầm cảm là do mất

thăng bằng thể dịch và môi trường.

Thời kỳ trung cổ: với niềm tin sơ khai và mê tín dị đoan, nhà thờ và thiên chúa

giáo thịnh hành tất cả các bệnh nhân đều cho là ma quỉ ám, mọi khuynh hướng tiến bộ

trái với kinh thánh đều bị đàn áp, đánh đập, bỏ đói hoặc đưa lên giàn hỏa thiêu.

Thời kỳ phục hưng (thế kỉ XIII - XV) bệnh nhân tâm thần được tách ra khỏi tù

tội nhưng không được quan tâm người bệnh đi lang thang. Trong thời gian này, bệnh

viện tâm thần St. Mary ở Bethlehem đầu tiên được thành lập ở Anh vào năm 1547

dành riêng cho người bệnh tâm thần.

Từ cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX đã chú ý đến người bệnh tâm thần.

Philippe Pinel và các thày thuốc đã cởi trói cho bệnh nhân tâm thần. Trong giai đoạn

này một số các bệnh viện tâm thần ra đời ở châu Âu, các rối loạn tâm thần cũng đã

được  mô  tả,  nghiên  cứu  điều  trị  bởi  nhiều  nhà  tâm  thần  học  nổi  tiếng  như  Emil

Kraepelin (1856 1926). Sigmund Freud (1856 - 1939), Eugene Bleuler (1857 - 1939).

Sự phát triển vượt bậc của việc điều trị bắt đầu từ những năm 1950, đã mở ra kỷ

nguyên  cho  ngành  Tâm  thần,  với  sự  ra  đời  của  các  thuốc  hướng  tâm  thần  như

Chlopromazine là thuốc chống loạn thần và Lithium thuốc chống hưng cảm. Hơn 10

năm sau, các thuốc chống trầm cảm ba vòng, các thuốc giải lo âu và ngày nay các thế

hệ thuốc mới đã góp phần cải thiện to lớn cho người bệnh tâm thần. Đặc biệt là được

mạng lưới chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng đã được phát triển ở các nước

trên thế giới.

Ở Việt Nam, từ xa xưa các bệnh lí tâm thần cũng như trên thế giới, nhưng trong

suốt thời kỳ Pháp đô hộ chỉ có hai cơ sở để nhốt người bệnh tâm thần cùng với các tù

nhân, đó là nhà thương "Điên" ở Bắc Giang và Biên Hòa. Môn tâm thần không được

1

ĐẠI CƯƠNG TÂM THẦN HỌC

Tâm thần học là một ngành đặc biệt trong y học, nó có nhiệm vụ nghiên cứu

dạy trong trường Y ở Việt Nam. Nhưng từ sau năm 1954 đến nay, ngành Tâm thần đã

phát triển mạnh mẽ, mặc dù còn có nhiều khó khăn nhưng hàng loạt các hệ thống bệnh

viện tâm thần ra đời. Hoạt động tổ chức quản lí chăm sóc và điều trị cho người bệnh

tâm thần tại cộng đồng. Đã triển khai các chương trình nghiên cứu khoa học, đào tạo

đội ngũ cán bộ y tế phục vụ cho công tác chăm sóc, điều trị và dự phòng các bệnh lí

tâm thần cho công cuộc xây dựng đất nước.

2. Nội dung và đối tượng nghiên cứu của tâm thần học

2.1. Nội dung:

Tâm thần học được chia thành hai phần:

Tâm thần học đại cương hay Tâm thần học cơ sở chuyên đi sâu nghiên cứu về

bệnh nguyên, bệnh sinh, các phương pháp chẩn đoán và điều trị dự phòng các bệnh

tâm thần.

Tâm thần học chuyên biệt đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau trong tầm

thần học như: dịch tễ học tâm thần, bệnh tâm thần phân liệt, trầm cảm, tâm thần học

trẻ em, tâm thần học người già, sinh hoá não, miễn dịch, dược lý học tâm thần...

2.2. Các khái niệm cơ bản

Bản chất hoạt động tâm thần

Hoạt động tâm thần là một hoạt động tổng hợp rất nhiều chức năng khác nhau

của hệ thần kinh, não bộ, đó là các chức năng phản ánh thực tại khách quan hết sức

tinh vi và phức tạp. Như vậy, bản chất hoạt động tâm thần là một quá trình hoạt động

của não, đó là quá trình phản ánh thực tại khách quan các sự vật, hiện tượng vào trong

chủ quan của mỗi người, thông qua bộ não là tổ chức cao nhất trong quá trình tiến hoá

của vật chất. Hoạt động tâm thần được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hoạt động như

tri giác, tư duy, nhận thức, trí nhớ, cảm xúc...

Bệnh tâm thần là gì:

Bệnh tâm thần là những bệnh do quá trình hoạt động của não bộ bị rối loạn bởi

nhiều nguyên nhân khác nhan gây ra như các yếu tố nhiễm trùng, nhiễm độc, chấn

thương sọ não, bệnh lý mạch máu não, bệnh lý cơ thể, stress... Những nguyên nhân

này đã làm rối loạn quá trình hoạt động phản ánh thực tại khách quan của não như các

rối loạn tri giác, cảm xúc, tư duy, hành vi tác phong không phù hợp với hoàn cảnh và

môi trường xung quanh. Tuy nhiên, trên thực tế có những bệnh tâm thần nặng, đó là

các bệnh loạn thần, như bệnh tâm thần phân liệt, thì quá trình phản ánh thực tại khách

quan của người bệnh bị sai lạc nhiều, hành vi tác phong, ý nghĩ, cảm xúc của người

bệnh bị rối loạn nặng. Nhưng cũng có những bệnh tâm thần nhẹ như các rối loạn tâm

căn, rối loạn nhân cách...thì quá trình phản ánh thực tại khách quan bị rối loạn nhẹ,

bệnh nhân vẫn có thể học tập và công tác được.

Khái niệm về sức khoẻ tâm thần

Khái niệm sức khoẻ của Tổ chức Y tế thế giới: "Sức khoẻ không những là trạng

thái không bệnh, không tật mà còn là trạng thái hoàn toàn thoải mái về cơ thể, tâm

2

thần và xã hội".

Như vậy có 3 loại sức khoẻ đó là: sức khoẻ cơ thể, sức khoẻ tâm thần, và xã hội.

Thực chất sức khoẻ tâm thần của con người bao hàm các nét đặc trưng sau:

a. Có một cuộc sống thật sự thoải mái.

b. Có mềm tin vào giá trị bản thân và niềm tin vào phẩm chất và giá trị của con

người

c. Có khả năng ứng xử bằng cảm xúc hành vi hợp lý trước mọi tình huống.

d. Có khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển thoả đáng các mối quan hệ.

e. Có khả năng tự hàn gắn và chống lại các stress, các sự cố mất thăng bằng, căng

thẳng.

 

Sức khoẻ tâm thần ở thế kỷ XXI

Ngày nay, các nước trên thế giới đã ghi nhận về sự tổn thất về mặt xã hội do

bệnh tâm thần gây nên, theo đánh giá của Ngân hàng thế giới về "Gánh nặng bệnh tật

toàn cầu" đã kết luận đến năm 2020 bệnh tâm thần sẽ là nguyên nhân thứ hai tiếp tục

gây ra tàn tật cho con người trên thế giới. Bước sang thế kỷ 21, chúng ta đã chuyển

dần mối quan tâm về " Con người chết như thế nào?" sang mối quan tâm "con người

đang sống như thế nào". Điều đó đã xác định không chỉ quan tâm đến những trường

hợp tử vong mà còn đánh giá gánh nặng do bệnh tật gây nên đối với bệnh nhân và xã

hội. Với sự chuyển hướng về cách nhìn một số căn bệnh giết người chủ yếu như sốt

rét, lao... và những bệnh tâm thần tuy không phải là bệnh giết người nhưng lại làm mất

khả năng hoạt động của con người.

Mặt khác, sức khoẻ tâm thần phần nào còn phụ thuộc vào giá trị của gia đình và

cộng đồng, đã được đánh giá ưu việt hơn trong việc điều trị bệnh nhân, và về công

bằng xã hội, sự quan tâm của công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu và chiến lược giáo

dục, dự phòng các bệnh lí tâm thần.

3. Dịch tễ học

Sử dụng công cụ DALY (Disability Adjusted Life Years) để đánh giá những năm

tháng cuộc đời thích nghi với trạng thái mất khả năng hoạt động. Theo báo cáo của Tổ

chức Y tế thế giới năm 1998 ước tính trên toàn thế giới tỷ lệ các rối loạn tâm thần

chiếm  12%  dân  số.  Tỷ  số  đóng  góp  các  rối  loạn  tâm  thần  vào  gánh  nặng  bệnh  tật

chung ở các nước phát triển là 23%, còn ở các nước đang phát triển là 11%. Rối loạn

tâm thần xếp hàng thứ năm trong 10 nguyên nhân gây gánh nặng bệnh tật toàn cầu, đó

là các bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc, nghiện rượu, rối loạn hành vi, ám

ảnh... Ở Việt Nam, theo kết quả điều tra dịch tễ học của ngành Tâm thần (năm 2000),

điều tra tập trung vào 10 rối loạn tâm thần chủ yếu thì tỷ lệ rối loạn tâm thần chung

chiếm khoảng từ 10 - 15 % dân số, trong đó bệnh tâm thần phân liệt: 01%, trầm cảm: 3

- 5%, rối loạn liên quan stress: 4 - 6 % rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên 3,7 %,

nghiện rượu: 3 - 5%, nghiện ma tuý: 0,15 - 1,5%, chậm phát triển tâm thần: 1 - 3%.

3

4. Nguyên nhân của các bệnh tâm thần

Hiện nay, nguyên nhân của các bệnh tâm thần vẫn còn là một vấn đề phức tạp,

một số bệnh đã biết rõ căn nguyên song còn một số bệnh căn nguyên vẫn chưa được

sáng tỏ, vẫn còn đang được tiếp tục nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau như các

yếu tố gen, miễn dịch, sinh hoá não... các quan điểm trên phần nào đã có những ảnh

hưởng đến thái độ, cách tiếp cận và các phương pháp điều trị của thầy thuốc tâm thần.

Thường có 2 yếu tố để xác định nguyên nhân:

4.1. Yếu tố dễ mắc bệnh

Các yếu tố về gen: có thể di truyền từ bố, mẹ sang con hoặc do quá trình biến đổi

gen như các bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

Các tổn thương của hệ thần kinh trong thời kỳ phát triển, tổn thương não trong

thời kỳ chu sinh.

Các yếu tố tâm lý, xã hội không thuận lợi tác động vào tâm thần ngay trong thời

kỳ thơ ấu hay vị thành niên như mất cha, mẹ, mất nhà, tệ nạn xã hội, lệch lạc của cộng

đồng.

4.2. Yếu tố gây bệnh

Các stress về cơ thể là các bệnh cơ thể như chấn thương sọ não, bệnh lý mạch

máu não, các tổn thương thực thể tại não, u não, viêm não, viêm màng não, nhiễm vi

rút, thay đổi tình dục, nhiễm độc rượu, ma tuý, bệnh nghề nghiệp, các bệnh nội tiết,

các rối loạn chuyển hoá.

Các stress về tâm thần: mất người thân, mất bố mẹ, con cái mất đột ngột hoặc hư

hỏng, mất bạn bè, làm ăn thua lỗ...

5. Liên quan giữa tâm thần và các môn khoa học.

Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học kỹ thuật và y

học đã góp phần nghiên cứu và làm sáng tỏ căn nguyên của một số bệnh tâm thần và

đã ghi nhận được mối liên quan giữa tâm thần và nhiều các môn khoa học khác nhau.

5.1. Liên quan với các môn lâm sàng

Với thần kinh học: các bệnh lý nhiễm trùng thần kinh như: viêm não, viêm màng

não, giang mai thần kinh, chấn thương sọ não, u não, các bệnh lý mạch máu não, đặc

biệt là hậu quả xa của chấn thương sọ não gây ra các rối loạn tâm thần.

Với nội khoá và các chuyên khoa khác: bệnh tâm thần là bệnh toàn thân vì vậy

các rối loạn cơ thể đều có thể gây hậu quả xấu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến

não và gây ra các rối loạn tâm thần như các bệnh: cao huyết áp, rối loạn nội tiết như

Addison, Cushing.

Với các môn cận lâm sàng:

Đối với sinh hoá não, hiện nay đã có nhiều bằng chứng xác định được các rối

loạn tâm thần như rối loạn cảm xúc, căng trương lực...đều xuất hiện trên cơ sở những

biến  đổi  sinh  hoá  trong  não  như  các  chất:  Cathecholamin,  Serotonin,  Dopamin,

4

GABA...và các chất gây loạn thần như Mescalin, LSD25...

Đối với giải phẫu bệnh lý điện tử, hiện nay dưới kính hiển vi điện tử người ta

đã ghi nhận được các thay đổi bất thường ở mức độ tế bào ở não của các bệnh nhân

tâm thần như trong thoái hoá tế bào não ở bệnh Altheimer, Pick...

  Đối với miễn dịch học và di truyền học hiện đại phát triển, đã giúp chúng ta đi

sâu nghiên cứu căn nguyên của các bệnh tâm thần như chậm phát triển tâm thần là do

rối loạn nhiễm sắc thể hoặc nhiều bệnh tâm thần khác.

  Đối với các kỹ thuật thăm dò hiện đại như điện sinh lý thần linh hiện đại đã

giúp chúng ta ghi được thay đổi sóng điện của não trên các vùng khác nhau của não,

đặt cơ sở sinh lý chính xác cho các hoạt động tâm thần. Đặc biệt, gần đây với các kỹ

thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại như: C.T.Scanner, MRI , PET, Spect, đã giúp xác

định được các tổn thương não và mối liên quan với các rối loạn tâm thần.

5.2. Liên quan với các ngành khoa học xã hội

Y học là nơi kết hợp chặt chẽ nhất giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,

chính trong tâm thần học là nơi kết hợp chặt chẽ nhất và nó là mũi nhọn đấu tranh giữa

các quan điểm về hoạt động tâm thần bình thường và bệnh lý.

Với triết học: vấn đề mà Tâm thần học thường quan tâm về lý luận cũng như thực

hành là bản chất của hoạt động tâm thần là gì?, mối liên quan giữa tâm thần và cơ thể,

giữa tâm thần với môi trường sinh sống bên ngoài, vai trò của ý thức và vô thức, hay

giữa hoạt động có ý chí và hoạt động bản năng.

Với tâm lý học như: tâm lý học đại cương, tâm lý y học là những môn cơ sở chủ

yếu của tâm thần học trong việc chẩn đoán, theo dõi các bệnh tâm thần và thực hành

các liệu pháp tâm lý trong điều trị và phòng bệnh.

Với giáo dục học: giáo dục là một trong các phương pháp phòng bệnh quan trọng

nhất của y học. Đối với tâm thần học đó là việc giáo dục nhân cách, hành vi trong việc

nâng cao sức khoẻ chung và sức khoẻ tâm thần.

Với pháp lý: người bị bệnh tâm thần đôi khi gây ra các hành vi xâm phạm đến

tính mạng, tài sản của bản thân, gia đình và người xung quanh. Vì vậy, thầy thuốc tâm

thần cần phải xem xét đánh giá các rối loạn của họ để giám định cho người bệnh về

mặt pháp lí xem họ có còn năng lực chịu trách nhiệm về mặt pháp lý, về mặt dân sự,

hình sự trước hành vi đó hay không và bảo vệ quyền lợi pháp lí cho họ.

6. Phân loại các rối loạn tâm thần

Hiện nay chúng ta đã và đang sử dụng bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10

vào trong chẩn đoán và phân loại bệnh (ICD

10

- Intemational statistical clasissfication

of diseases and related health problems tanh revision)

Các rối loạn tâm thần được ghi mã trong chương F.

F00 - F09

chứng:

Các rối loạn tâm thần thực tổn bao gồm cả rối loạn tâm thần triệu

5

F00

F01

F02

F03

F04

F05

F06

F07

F09

F10 - F19

thần:

F10

F11

F12

F13

F14

F15

F16

F17

F18

F19

Mất trí trong bệnh Altheimer

Mất trí trong bệnh mạch máu

Mất trí trong các bệnh lý khác được xếp loại ở chỗ khác

Mất trí không biệt định

Hội chứng quên thực tổn, không do rượu và các chất tác động tâm thần

khác

Sảng không do rượu và các chất tác động tâm thần khác

Các rối loạn tâm thần khác do tổn thương não và các rối loạn chức năng

não và bệnh cơ thể

Các rối loạn hành vi và nhân cách do bệnh lý não, tổn thương não và rối

loạn chức năng não

Rối loạn tâm thần triệu chứng hoặc thực tổn không biệt định

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động tâm

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất có thuốc phiện

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cần sa

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các thuốc an dịu hoặc các

thuốc ngủ

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cocain

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất kích thích khác bao

gồm cafein

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất gây ảo giác.

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng thuốc lá

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các dung môi dễ bay hơi

Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và sử

dụng các chất tác động tâm thần khác

F20 - 29 Bệnh tâm thần phân liệt, các rối loạn loại phân liệt và các rối loạn hoang

tưởng

F20

F21

F22

F23

F24

F25

F28

Bệnh tâm thần phân liệt

Các rối loạn loại phân liệt

Các rối loạn hoang tưởng dai dẳng

Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời

Các rối loạn hoang tưởng cảm ứng

Các rối loạn phân liệt cảm xúc

Các rối loạn loạn thần không thực tổn khác

6

F29

Bệnh loạn thần không thực tổn không biệt định.

F30 - F39 Rối loạn khí sắc (cảm xúc)

F30

F31

F32

F33

F34

F38

F39

F40 - F48

F40

F41

F42

F43

F44

F45

F48

F50 - F59

cơ thể

F50

F51

F52

F53

F54

F55

F59

F60 - F69

F60

F61

F62

F63

Giai đoạn hưng cảm

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Giai đoạn trầm cảm

Rối loạn trầm cảm tái diễn

Các trạng thái rối loạn khí sắc (cảm xúc) dai dẳng

Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) khác

Rối loạn khí sắc (cảm xúc) không biệt định

Các rối loạn bệnh tâm căm có liên quan đến Stress và dạng cơ thể

Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ

Các rối loạn lo âu khác

Rối loạn ám ảnh nghi thức

Phản ứng Stress trầm trọng và rối loạn sự thích ứng

Các rối loạn phân ly (di chuyển)

Các rối loạn dạng cơ thể

Các rối loạn tâm căn khác

Các hội chứng hành vi kết hợp với các rối loạn sinh lý và các nhân tố

Các rối loạn ăn uống

Các rối loạn giấc ngủ không thực tổn

Loạn chức năng tình dục không do rối loạn hoặc bệnh thực tổn

Các rối loạn hành vi và tâm thần kết hơp với thời kỳ sinh đẻ, không phân

loại ở nơi khác

Các nhân tố tâm lý và hành vi kết hợp với rối loạn hoặc phân loại ở nơi

khác

Lạm dụng các chất không gây nghiện

Các hội chứng hành vi không biệt định kết hợp với các rối loạn sinh lý

và các nhân tố cơ thể

Các rối loạn nhân cách và hành vi ở người thành niên

Các rối loạn nhân cách đặc hiệu

Các rối loạn nhân cách hỗn hợp và các rối loạn nhân cách khác

Các biến đổi nhân cách lâu dài mà không thể gán cho một tổn thương

não hoặc một bệnh não

Các rối loạn thói quen và xung đột

7

F64

F66

F68

F69

F70 - F79

F70

F71

F72

F73

F78

F79

F80 - F89

F80

F81

F82

F83

F84

F88

F89

F90 - F99

Các rối loạn về ưa chuộng giới tính

Các rối loạn hành vi và tâm lý kết hơp với sự phát triển và định hướng

giới tính

Các rối loạn khác về hành vi và nhân cách ở người thành mên

Rối loạn không biệt định về hành vi và nhân cách ở người thành niên

chậm phát triển tâm thần

Chậm phát triển tâm thần nhẹ

Chậm phát triển tâm thần vừa

Chậm phát triển tâm thần nặng

Chậm phát triển tâm thần trầm trọng

Chậm phát triển tâm thần khác

Chậm phát triển tâm thần không biệt định

Các rối loạn về phát triển tâm lý

Các rối loạn đặc hiệu về phát triển lời nói và ngôn ngữ

Các rối loạn đặc hiệu về phát triển các kỹ năng ở nhà trường

Các rối loạn đặc hiệu về phát triển chức năng vận động

Các rối loạn hỗn hợp và đặc hiệu về phát triển

Các rối loạn phát triển lan tỏa

Các rối loạn khác của phát triển tâm lý

Các rối loạn không đặc hiệu của phát triển tâm lý

Các rối loạn hành vi và cảm xúc thường khởi phát ở tuổi trẻ em và

thanh thiếu niên

F90

F91

F92

F93

F94

F95

F98

F99

Các rối loạn tăng động

Các rối loạn hành vi

Các rối loạn hỗn hơp của hành vi và cảm xúc

Các rối loạn cảm xúc với sự khởi phát đặc biệt ở tuổi trẻ em

Rối loạn hoạt động xã hội với sự  khởi phát đặc biệt  ở  tuổi trẻ em và

thanh thiếu niên

Các rối loạn tic

Những rối loạn hành vi và cảm xúc thường khởi phát ở trẻ em và thanh

thiếu niên

Rối loạn tâm thần, không biệt định cách khác

8

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD

10

) 1992 - Các rối loạn Tâm thần và hành vi.

WHO- Geneva.

2.Nguyễn Việt. 1984. Tâm thần học. Nhà xuất bản y học.

3.Trần Đình Xiêm. 1992. Tâm thần. Nhà xuất bản y học.

4.Harold.  I.  Kaplan  and  Benjamin  J.  Sadock.  1996.  Pocket  Handbook  of  Chnical

Psychiatry Second Edition - Wiuiams and wilkins.

5.Harold.  I.  Kaplan  and  Benjamin  J  Sadock.  2000.  Textbook  comprehensive  of

psychiatry- Wiuiams and Wilkins.

6.American  Psychiatric  Association  -  Practice  Guidelines  for  the  Treatment  of

Psychiatric Disorders - Compendium 2004.

7.Intemational Joumal of Epidemiology. Volume 36 Number 4 Angust 2007.

8.American Psychiatric Association - Text book of Mood Disoluls 2006.

9

PHƯƠNG PHÁP KHÁM VÀ THEO DÕI

BỆNH NHÂN TÂM THẦN

Khám lâm sàng tâm thần bao gồm 2 phần chính. Phần thứ nhất là phần lịch sử

bao gồm bệnh sử tâm thần, lịch sử phát triển và các vấn đề cá nhân, tiền sử bệnh tâm

thần, tiền sử bệnh cơ thể, tiền sử gia đình và các vấn đề liên quan. Phần thứ hai là

khám, đánh giá trạng thái tâm thần tại thời điểm tiến hành phỏng vấn.

Trong khám lâm sàng tâm thần, hỏi bệnh là kỹ năng chính. Do vậy kỹ năng giao

tiếp giữa bác sỹ và bệnh nhân là vô cùng quan trọng quyết định sự thành công của buổi

khám bệnh. Mục đích của hỏi bệnh là để: (l) nắm được đầy đủ về lịch sử của bệnh

nhân, (2) thiết lập được mối quan hệ và hợp tác điều trị, (3) tạo dựng được lòng tin và

sự trung thực của bệnh nhân, (4) đánh giá được tình trạng hiện tại, (5) chẩn đoán được

bệnh, (6) lập được kế hoạch điều trị.

Để có được các thông tin đầy đủ và khách quan, cần phối hợp giữa các thông tin

do bệnh nhân và gia đình bệnh nhân cung cấp với các giấy tờ, tài liệu, kết quả xét

nghiệm.... của những lần khám trước. Song song với việc khám lâm sàng tâm thần, cần

khám lâm sàng thần kinh và các cơ quan, thực hiện các xét nghiệm thích hợp giúp cho

chẩn  đoán  và  theo  dõi  điều  trị.  Tóm  lại  khám  lâm  sàng  tâm  thần  cần  tuân  theo  3

nguyên tắc cơ bản: (l) Khám toàn diện, chi tiết, cơ động. (2) Kết hợp giữa các tài liệu

chủ quan và khách quan. (3) Kết hợp kiến thức vững vàng về tâm thần học và nghệ

thuật tiếp xúc.

I KỸ NĂNG HỎI BỆNH

Xắp xếp khám bệnh ở một phòng riêng yên tĩnh, thoải mái

Tự giới thiệu về mình với bệnh nhân, chào hỏi bệnh nhân, thông báo với bệnh

nhân mục đích của việc hỏi bệnh.

Để bệnh nhân ngồi thoải mái, biểu lộ thái độ tôn trọng, cảm thông để bệnh nhân

cảm thấy yên tâm, tin tưởng

Không phê bình, chỉ trích bệnh nhân.

Quan sát bệnh nhân một cách tỷ mỉ về hình dáng, điệu bộ, cử chỉ động tác.

Chủ động trong khi hỏi bệnh, không tranh cãi hoặc tỏ thái độ tức giận với bệnh

nhân.

Sử dụng lời lẽ dễ hiểu phù hợp với trình độ và khả năng của bệnh nhân.

Thời gian hỏi bệnh thường kéo dài từ 15 - 90 phút và phụ thuộc vào tình trạng

của người bệnh, trung bình khoảng từ 45 - 60 phút.

Sử dụng các câu hỏi mở với những bệnh nhân có thể kể bệnh tốt và hợp tác khám

bệnh, sử dụng các câu hỏi đóng (đúng/ sai) nếu thời gian khám bệnh ngắn, hoặc khi

bệnh nhân đang trong trạng thái loạn thần, mê sảng, sa sút trí tuệ hoặc bệnh nhân ít

hợp tác kể bệnh.

10

Một số bệnh lý đòi hỏi những lưu ý đặc biệt cho việc khám bệnh:

Bệnh nhân biểu hiện tình trạng sa sút, thoái lui

: cần chủ động, sử dụng các câu

hỏi đóng. Chú ý đến các động tác, cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể của người bệnh. Thay đổi

câu hỏi hoặc chủ đề khác nếu nhận thấy bệnh nhân khó trả lời được câu hỏi vừa nêu

Hỏi gia đình người bệnh

: tập trung vào những vấn đề của bệnh nhân. Hỏi về

cách thức mà các thành viên trong gia đình đối xử với bệnh nhân: tức giận, quan tâm,

lo lắng, ai là người muốn giúp đỡ người bệnh.

Bệnh nhân trầm cảm

: cần phát hiện ý tưởng tự sát, hỏi xem bệnh nhân có kế

hoạch gì không. Cố gắng để làm tăng lòng tự trọng của bệnh nhân bằng cách đưa ra

những lời khen ngợi phù hợp.

Bệnh nhân kích động

: lưu ý không ngồi gần bệnh nhân trong phòng đóng kín.

Ngồi gần nơi có thể dễ dàng thoát ra ngoài. Trong phòng có nhân viên bảo vệ. Nếu

bệnh nhân có biểu hiện quá khích, dừng buổi khám bệnh ngay lập tức.

Bệnh nhân rối loạn dạng cơ thể

: không thảo luận về các triệu chứng dạng cơ thể

của bệnh nhân. Quả quyết với bệnh nhân rằng thầy thuốc tin những khó chịu mà bệnh

nhân kể.

Bệnh nhân có hoang tưởng

: đừng tranh cãi với bệnh nhân về hoang tưởng. Hãy

nói với bệnh nhân rằng anh không đồng ý với bệnh nhân nhưng hiểu những suy nghĩ

của họ.

Bệnh nhân hưng cảm

: Cố gắng đặt ra các giới hạn để kiềm chế bệnh nhân. Hãy

nói với bệnh nhân rằng anh cần biết một số thông tin đặc biệt trước, sau đó hãy nói đến

các vấn đề khác

Bệnh nhân vừa được dùng thuốc

: bệnh nhân sẽ buồn ngủ và muốn trả lời qua

loa. Do vậy nên dùng các câu hỏi đóng và chỉ hỏi một số vấn đề quan trọng, chuyển

những vấn đề thứ yếu sang lần khám sau.

II. LỊCH SỬ TÂM THẦN

Lịch sử tâm thần là toàn bộ câu truyện về cuộc đời bệnh nhân theo trình tự thời

gian. Nó cho phép người bác sỹ tâm thần hiểu bệnh nhân là ai, quá khứ của bệnh nhân

như thế nào và tương lai bệnh nhân sẽ ra sao. Lịch sử tâm thần phải được kể bằng lời

kể của bệnh nhân, theo quan điểm của họ. Có thể các thông tin này cũng được thu thập

từ cha mẹ, họ hàng, vợ chồng, bạn bè...của bệnh nhân. Lưu ý: cần cho phép bệnh nhân

tự kể về mình và yêu cầu họ kể những gì họ cho là quan trọng nhất. Người phỏng vấn

cần đưa ra những câu hỏi phù hợp để có được các thông tin quan trọng và chi tiết.

1. Các thông tin cá nhân

Thông tin cá nhân bao gồm: họ và tên bệnh nhân, tuổi, giới tính, dân tộc, tình

trạng hôn nhân, tôn giáo, trình độ học vấn, địa chỉ, số điện thoại, nghề nghiệp và nơi

làm việc, bệnh nhân tự đến hay được ai giới thiệu đến, người cung cấp thông tin là ai,

có quan hệ thế nào đối với bệnh nhân, thông tin nhận được có đáng tin cậy hay không

11

(nếu bệnh nhân không hợp tác khám bệnh).

2. Lý do đến khám bệnh

(hay biểu hiện chính)

Lý do đến khám bệnh phải được ghi theo lời giải thích của bệnh nhân. Ghi lý do

buộc bệnh nhân phải đến viện hoặc đến gặp nhân viên tư vấn. Sử dụng các câu hỏi: "

Tại sao anh phải đến gặp bác sỹ tâm thần?", " Điều gì buộc anh phải đến bệnh viện?",

" Cái gì là vấn đề chủ yếu khiến anh cảm thấy khó chịu phải đi khám bênh?".

3. Bệnh sử hiện tại

Trong phần này, cần khai thác sự tiến triển của các triệu chứng bệnh lý từ khi có

dấu hiệu khởi phát cho đến hiện tại, mối liên quan đến các sự kiện trong đời sống,

những xung đột cá nhân, sang chấn tâm lý, các thuốc, chất gây nghiện, những thay đổi

chức năng so với trước đây. Cần ghi càng sát theo lời kể của bệnh nhân càng tốt. Cần

hỏi bệnh nhân đã được khám và điều trị ở đâu, bằng các phương pháp gì, kết quả điều

trị ra sao.

4. Tiền sử bệnh tâm thần và cơ thể

Khai thác tiền sử các bệnh tâm thần từ trước bao gồm các rối loạn loạn thần, các

rối loạn tâm thần và hành vi, rối loạn dạng cơ thể và các bệnh tâm căn....

Về tiền sử mắc các bệnh cơ thể cần khai thác các bệnh lý thần kinh (viêm não, u

não, tai biến mạch máu não. chấn thương sọ não, động kinh...), các bệnh nội tiết, hệ

thống, các bệnh cơ thể khác

Khi khai thác tiền sử bệnh tật, cần chú ý hỏi thời gian mắc bệnh, mức độ nặng

nhẹ, điều trị tại bệnh viện nào hoặc được bác sỹ nào theo dõi điều trị, điều trị bằng các

biện pháp gì, hiệu quả ra sao, tác động của đợt ốm đó đến cuộc sống của bệnh nhân.

Yêu cầu bệnh nhân cho xem các tư liệu liên quan đến bệnh tật trước đây (nếu có).

Khai thác tiền sử nghiện chất: nghiện rượu, thuốc lá, ma tuý, các thuốc an thần

gây ngủ khác. Không nên đặt câu hỏi: "anh có nghiện rượu không?" mà nên hỏi: "anh

uống bao nhiêu rượu một ngày?". Cần hỏi: thời gian nghiện, mức độ sử dụng, tác động

của  việc  sử  dụng  chất  gây  nghiện  đó  đến  sức  khoẻ,  đời  sống,  sinh  hoạt  và  nghề

nghiệp... của bệnh nhân.

5. Lịch sử cá nhân

Khi xem xét bệnh lý hiện tại của bệnh nhân, người bác sỹ tâm thần cần biết toàn

bộ về quá khứ của bệnh nhân và mối liên hệ của nó đến bệnh lý hiện tại. Lịch sử cá

nhân thường được hỏi dựa theo các giai đoạn và các lứa tuổi phát triển chủ yếu. Cần

chú ý khai thác các sự kiện nổi bật VD: các sang chấn tâm lý, chấn thương cơ thể,

xung đột, thảm hoạ...

5.1. Lịch sử quá trình mang thai và sinh đẻ của mẹ bệnh nhân

Cần khai thác các đặc điểm nổi bật như bệnh nhân được sinh ra đúng theo dự

định và mong muốn của cha mẹ không? quá trình mang thai có bình thường không?,

có ốm đau gì hoặc có sang chấn tâm thần hay cơ thể không?, trong khi mang thai mẹ

12

bệnh nhân có sử dụng thuốc hay chất gây nghiện gì không?, đẻ thường hay đẻ khó, có

phải can thiệp thủ thuật gì không? Có bị ngạt sau đẻ không?

5.2. Thời kỳ trẻ nhỏ

Khai thác quá trình phát triển từ nhỏ như được nuôi bằng sữa mẹ hay nuôi bộ,

các giai đoạn phát triển tâm thần vận động như ngồi, bò, tập đứng, tập đi, tập nói, tính

tình thế nào? trẻ khoẻ hay thường xuyên ốm yếu?, có bị va ngã lần nào đáng chú ý

không? thói quen ăn uống, tập đi vệ sinh khả năng học tập và bắt chước?, mối quan hệ

gắn bó với cha mẹ, người trông trẻ trẻ cùng lứa tuổi như thế nào, thân thiện bạo dạn

hay nhút nhát, thích chơi một mình hay thích chơi cùng bạn ?, có thường xuyên gặp ác

mộng không?, có đái dầm không?, có các ám sợ không? Điều gì khủng khiếp nhất

hoặc thích thú nhất thời thơ ấu mà bệnh nhân nhớ.

Khi bắt đầu đi học cần hỏi xem có gặp khó khăn gì trong học tập không?, khả

năng tập trung chú ý?, tình trạng học kém, lưu ban, kỷ luật,....?mối quan hệ với thầy cô

giáo, bạn bè cùng trang lứa?

5.3. Thời kỳ thanh thiếu niên

Đây là thời kỳ nhạy cảm của đời người. Do vậy, ngoài việc hỏi các vấn đề như

học tập, vấn đề sức khoẻ và bệnh tật chung, cần chú ý khai thác các vấn đề liên quan

đến tâm lý và các rối loạn tuổi vị thành niên như các mối quan hệ xã hội, thầy cô giáo,

bạn bè, có nhiều hay ít bạn, có bạn thân không?, có tham gia nhóm hội gì không?, có

rắc rối trong trường hoặc ngoài trường (trộm cắp, đánh nhau, phá phách,...)?, có sử

dụng chất kích thích hoặc các chất ma tuý khác không?, có giai đoạn nào có cảm giác

đau khổ, tội lỗi hoặc cảm thấy mình thua kém bạn bè không?....

5.4. Thời kỳ trưởng thành

Thời kỳ này, người thầy thuốc tâm thần cần quan tâm đến nghề nghiệp và việc

lựa chọn nghề nghiệp của bệnh nhân, thái độ đối với công việc, các mối quan hệ với

đồng nghiệp, bạn bè, với lãnh đạo, các mối quan tâm chính, các tham vọng thăng tiến

và kết quả đạt được.

Trong thời kỳ trưởng thành, một loạt các sự kiện lớn liên quan đến bệnh nhân

như: yêu đương lập gia đình, sinh đẻ, cuộc sống hôn nhân, con cái, việc học tập, thu

nhập, các hoạt động xã hội, tôn giáo...cần được tập trung khai thác.

Về điều kiện sống hiện tại, cần hỏi xem bệnh nhân sống cùng với ai (ông bà, bố

mẹ, anh chị em...)?, mối quan hệ giữa các thánh viên trong gia đình? Nếu bệnh nhân

phải nhập viện, ai là người chăm sóc bệnh nhân, ai là người giúp bệnh nhân chăm sóc

con cái...

5.5. Tiền sử về tình dục

Chịu ảnh hưởng của văn hoá Á Đông, đại đa số bệnh nhân không muốn thảo luận

về vấn đề tình dục thậm chí cả khi đây chính là nguyên nhân sâu sa nằm dưới các rối

loạn hiện tại của người bệnh. Do vậy người thầy thuốc cần tạo ra bầu không khí thoải

13

mái, thân thiện, tin cậy mới có thể khai thác được lịch sử tình dục.

Cần hỏi bệnh nhân về quan điểm chung của bệnh nhân về tình dục, thái độ của

bệnh nhân đối với vấn đề tình dục hiện nay của bản thân. Gợi mở cho bệnh nhân nói

về sự phát triển tình dục qua các giai đoạn từ khi dậy thì (tuổi có kinh lần đầu, tuổi

xuất tinh lần đầu, những cảm xúc đặc biệt, những nỗi sợ hãi, những khác biệt...). Có

thể sử dụng một số câu hỏi như: "Anh (chị) đã từng có vấn đề phiền muộn gì về đời

sống tình dục của mình"?, "Ban đầu hiểu biết của anh (chị) về tình dục có được từ

nguồn thông tin nào"?...

6. Tiền sử gia đình

Cần khai thác tiền sử gia đình về bệnh tâm thần, các bệnh cơ thể, các bệnh có

tính  chất  di  truyền  (chậm  phát  triển  tâm  thần,  động  kinh,  Alzheimer,  Parkinson,...).

Khai thác tiền sử nghiện chất của cha mẹ và những thành viên khác... Cần hỏi thêm về

tuổi  và  nghề  nghiệp  của  cha  mẹ.  Nếu  cha  mẹ  đã  chết  cần  hỏi  chết  ở  độ  tuổi  nào,

nguyên nhân chết là gì,.... Chú ý cảm nhận của bệnh nhân về các thành viên trong gia

đình.

III. KHÁM TÂM THẦN

Khám tâm thần chính là phần đánh giá lâm sàng của người thầy thuốc tại thời

điểm khám bệnh dựa vào hỏi bệnh, quan sát. Trạng thái tâm thần của bệnh nhân có thể

thay đổi từng ngày, từng giờ. Cần khám thật tỷ mỹ, chi tiết, ghi lại toàn bộ các thông

tin liên quan đến quá trình khám bệnh.

1. Biểu hiện chung

Trong phần này; người thầy thuốc tâm thần cần mô tả hình dáng vẻ ngoài ban

đầu khi gặp bệnh nhân thể hiện qua hình dáng, đi lại , điệu bộ, ăn mặc, trang điểm, nói

năng... Thông thường, biểu hiện chung của bệnh nhân được mô tả là: có vẻ khoẻ mạnh,

vẻ ốm yếu, tư thế đĩnh đạc đường hoàng, trông có vẻ già, trông có vẻ trẻ trung, trông

có vẻ nhếch nhác, trông như trẻ con, trông dị kỳ....Cũng nên chú ý đến các dấu hiệu

của lo âu: xoắn vặn 2 bàn tay, cúi đầu vẻ căng thẳng, mắt mở tròn...

2. Thái độ tiếp xúc với thầy thuốc.

Thầy thuốc tâm thần cần nhận xét thái độ tiếp xúc của bệnh nhân. Các dạng thể

hiện có thể là: hợp tác kể bệnh, thân thiện, chăm chú, quan tâm, thẳng thắn bộc trực,

thái độ quyến rũ, thu hút thầy thuốc, thái độ tự vệ đề phòng, thái độ khinh khỉnh, thái

độ lúng túng bối rối, thái độ thờ ơ thái độ thù địch chống đối, thái độ kịch tính, thái độ

dễ mến, thái độ lảng tráng,...

3. Khám ý thức

Khám ý thức nhằm mục đích đánh giá mức độ tỉnh táo của bệnh nhân, đồng thời

phát hiện các rối loạn chức năng não bộ. Các biểu hiện có thể là: tỉnh táo, rõ ràng, lú

lẫn, u ám, bán mê, hôn mê. Định hướng thời gian, không gian, bản thân, xung quanh

đầy đủ, rõ ràng hoặc rối loạn.

14

Khi khám ý thức, thường sử dụng một số câu hỏi: "Đây là đâu?", "Hôm nay là

thứ  mấy?",  "Anh  có  biết  tôi  là  ai  không?",  "Anh  hãy  cho  biết  anh  là  ai"...  Thông

thường khi có rối loạn, định hướng về thời gian và không gian thường rối loạn trước,

định hướng về bản thân và xung quanh duy trì lâu hơn.

Khi có rối loạn định hướng cần lưu ý đến các bệnh thực thể ở não hoặc bệnh toàn

thân gây tổn thương nặng nề đến chức năng não.

4. Khám cảm xúc

Quan  sát  khí  sắc  của người bệnh.  Khí sắc  là  trạng  thái  cảm xúc ổn  định,  bền

vững. Khí sắc có thể giảm, buồn rầu, ủ rũ, đau khổ, trầm cảm, tăng vui vẻ, hạnh phúc

sung sướng, hưng cảm, giận dữ, phẫn uất, tức giận, lo sợ hết hoảng, bàng quan, thờ ơ

vô cảm,... Sử dụng các câu hỏi như: "Anh cảm thấy như thế nào?" , "Anh có nghĩ rằng

cuộc sống là về giá trị không đáng sống hay không?", "Anh có ý muốn tự làm hại bản

thân mình không?", "Anh có kế hoạch gì đặc biệt không?, có ý muốn tự sát không?"...

Quan sát sự thay đổi cảm xúc của bệnh nhân. Cảm xúc là trạng thái dễ thay đổi

liên quan đến hoàn cảnh, đến suy nghĩ của bệnh nhân. Khi hỏi bệnh, quan sát các dấu

hiệu thể hiện sự thay đổi cảm xúc như nét mặt, cử động thân thể, âm điệu lời nói. Nhận

xét xem cảm xúc của bệnh nhân có dễ thay đổi không, dễ tức giận, thô lỗ không, cảm

xúc phù hợp hay không phù hợp với hoàn cảnh, có hay không có sự thay đổi cảm

xúc.... Những thay đổi cảm xúc thường gặp ở bệnh nhân tâm thần phân liệt, mất sự

biểu cảm gặp trong bệnh nhân rối loạn tâm thần thực tổn, căng trương lực...

5. Khám tri giác

Quan sát hành vi bệnh nhân để phát hiện các rối loạn tri giác như: bịt tai, nhắm

mắt, che mắt, đeo kính râm, nhăn mặt khó chịu, ngửi tay và các vật dụng, xoa, bắt

nhúp trên da, tránh né, chạy trốn...

Đặt ra cho bệnh nhân các câu hỏi như: "ánh sáng, tiếng động như  thế này  có

khiến  cho  anh  khó  chịu  không,  anh  có  thể  cảm  nhận  mọi  thứ  một  cách  rõ  ràng

không?",  "anh  đã  bao  giờ  nhìn  thấy  gì  lạ  hoặc  nghe  thấy  giọng  nói  khác  thường

chưa?", "Anh đã bao giờ nhận thấy những điều lạ lùng khi anh bắt đầu ngủ hoặc bắt

đầu thức dậy chưa?", "Anh có cảm thấy có điều gì đó khó chịu lạ lùng trên da hoặc

trong cơ thể mình không?", "Đã bao giờ anh cảm thấy cơ thể mình có gì đó thay đổi rất

lạ lùng chưa? thay đổi đó như thế nào?", "Anh có cảm thấy xung quang mình có điều

gì đó thây đổi khác lạ không?"...

Các rối loạn tri giác có thể gặp như: tăng cảm giác, giảm cảm giác, rối loạn cảm

giác bản thể, ảo tưởng, ảo giác (ảo thanh, ảo thị, ảo vị, ảo khứu, ảo giác xúc giác, ảo

thanh chức năng, ảo giác lúc giở thức giở ngủ, ảo giác nội tạng), tri giác sai thực tại và

giải thể nhân cách. Khi phát hiện thấy bệnh nhân có rối loạn đặc biệt là có ảo giác cần

hỏi kỹ về đặc điểm của rối loan đó

6. Khám tư duy

15

Tư duy có thể được chia thành hình thức tư duy và nội dung tư duy. Hình thức tư

duy chỉ ra cách thức bệnh nhân diễn đạt và kết nối các ý nghĩ. Nội dung tư duy dùng

để chỉ điều mà bệnh nhân suy nghĩ: ý tưởng, niềm tin, mối bận tâm, nỗi ám ảnh...

6.1. Hình thức tư duy

Trong phần này, người thầy thuốc tâm thần cần mô tả đặc điểm ngôn ngữ của

bệnh nhân. Bệnh nhân có thể được mô tả là người nói nhiều, ba hoa, nói liến thoắng,

lầm lì ít nói, ngôn ngữ có vẻ không tự nhiên, hoặc có các đáp ứng phù hợp với các câu

hỏi của thầy thuốc. Nhịp điệu ngôn ngữ có thể nhanh hoặc chậm, bị dồn nén, đầy cảm

xúc, ngôn ngữ kịch tính, nói chậm từng từ một, nói to, nói thì thầm, nói lật bật, run

rẩy...

Các rối loạn hình thức tư duy có thể biểu hiện như tư duy phi tán, tư duy dồn

dập, nói hổ lốn, tư duy chậm chạp, ngắt quãng, lai nhai, nói một mình, không nói,

ngôn ngữ rời rạc không liên quan, đảo lộn các cấu trúc ngữ pháp một cách vô nghĩa, từ

bịa đặt, tiếng nói riêng khó hiểu, tư duy 2 chiều trái ngược, tư duy tượng trưng.... Nhận

xét xem các rối loạn này có chịu ảnh hưởng của cảm xúc, các rối loạn tri giác như ảo

thanh, ảo thị hoặc rối loạn tư duy như ám ảnh, hoang tưởng hay không.

6.2. Nội dung tư duy

Các rối loạn nội dung tư duy có thể bao gồm: các hoang tưởng, những mối bận

tâm (mà liên quan đến tình trạng bệnh tật của bệnh nhân, các ám ảnh, các suy nghĩ có

tính chất cưỡng bức, các ám sợ, các kế hoạch, dự định, ý tưởng tái diễn về hành vi tự

sát hoặc tự huỷ hoại, các triệu chứng nghi bệnh, những thôi thúc về hành vi chống đối

xã hội....Có thể sử dụng các câu hỏi như: "Anh có những suy nghĩ đó khó chịu cứ lặp

đi lặp lại trong đầu không?", "Có việc gì mà anh bắt buộc phải làm đi làm lại nhiều lần

thao một cách thức nhất định không?", "Có việc gì mà anh bắt buộc phải làm theo một

cách riêng biệt hoặc theo trình tự nhất định không?", "Nếu anh không làm theo cách

đó, anh có bắt buộc phải làm lại không?", "Anh có biết tại sao anh lại phải làm như

vậy không?", "Anh có cảm thấy hoặc nghĩ rằng có người nào đó muốn làm hại anh

không?", "Anh có cho rằng mình có mối liên hệ đặc biệt nào đó với thần thánh hoặc

chúa trời không?", "Anh có cho rằng có người nào đó đang cố gắng gây ảnh hưởng

đến anh không?", "Anh có cho rằng có ai đó đang dùng quyền lực, phép thuật để điều

khiển anh không?", "Anh có cho rằng mọi người xung quanh đều đang xì xào bàn tán

về mình hoặc nhìn mình với một ý nghĩa đặc biệt không?", "Anh có cho rằng mình có

tội lỗi gì không?", "Anh có nghĩ gì về ngày tận thế của thế giới không", "Anh có khả

năng đặc biệt hoặc quyền lực đặc biệt gì không?".... Cũng cần yêu cầu bệnh nhân cho

xem các giấy tờ, tài liệu, tranh vẽ của bệnh nhân để giúp cho việc đánh giá.

Khi phát hiện bệnh nhân có rối loạn hình thức tư duy, cần hỏi kỹ về đặc điểm của

rối loạn đó. Mô tả ảnh hưởng của rối loạn đó đến cảm xúc, hành vi, công việc, sinh

hoạt và các mối quan hệ của bệnh nhân...

7. Khám trí nhớ

16

Khám trí nhớ bao gồm đánh giá trí nhớ gần, trí nhớ xa, trí nhớ ngắn hạn

Trí nhớ gần là khả năng nhớ lại những sự việc mới sảy ra trong khoảng một vài

tháng. Có thể sử dụng những câu hỏi như: "Anh đã ở đâu ngày hôm qua?", anh đã ăn

gì trong bữa ăn trước? Thông thường ở bệnh nhân rối loạn tâm thần do các bệnh thực

thể tại não, bệnh Alzheimer trí nhớ gần thường bị ảnh hưởng trước trí nhớ xa. Hiện

tượng tăng nhớ có thể gặp trong rối loạn nhân cách paranoide...

Trí nhớ xa là khả năng nhớ lại những kiến thức, những sự việc xảy ra đã lâu

trong quá khứ. Có thể sử dụng những câu hỏi như: "Anh sinh ra ở đâu?", "Anh đã học

phổ thông ở trường nào? "Anh lập gia đình vào ngày tháng năm nào?", "Các con anh

bao nhiêu tuổi?", "Ngày quốc khánh là ngày nào?"... So sánh với các thông tin do gia

đình cung cấp để đánh giá trí nhớ.

Trí nhớ ngắn hạn là khả năng nhớ lại ngay lập tức. Có thể đọc tên 3 đồ vật khác

nhau và bảo bệnh nhân nhớ và nhắc lại sau 5 phút. Hoặc yêu cầu bệnh nhân nhắc lại 5

câu hỏi trước đó....Suy giảm trí nhớ ngắn hạn gặp trong tổn thương tại não, rối loạn

phân ly, rối loạn lo âu hoặc bệnh nhân sau dùng một số thuốc (VD: benzodiazepines...)

8. Khả năng tập trung chú ý

Đánh giá khả năng tập trung chú ý của bệnh nhân dựa vào quan sát, theo dõi

bệnh nhân khi trả lời các câu hỏi của thầy thuốc. Nếu bệnh nhân kém tập trung, thầy

thuốc phải nhắc đi nhắc lại câu hỏi bệnh nhân mới trả lời, bệnh nhân khó đáp ứng

được các câu hỏi, câu trả lời không phù hợp.....

Có thể yêu cầu bệnh nhân thực hiện nghiệm pháp 100 - 7 (lấy 100 trừ đi 7 năm

lần liên tiếp) đếm thật nhanh từ 1 đến 20, đánh vần ngược tên của bệnh nhân...để đánh

giá khả năng tập trung chú ý.

9. Trí tuệ

Đánh giá trí tuệ của bệnh nhân bao gồm việc kiểm tra các khả năng sử dụng ngôn

ngữ, khả năng tính toán, khả năng hiểu và phân tích các tình huống, khả năng đánh giá

bản thân, khả năng đáp ứng với các tình huống sảy ra trong cuộc sống.

Có thể yêu cầu bệnh nhân phân tích một câu thành ngữ, câu ca dao tục ngữ (VD:

hiểu thế nào về câu: "gần mực thì gen, gần đèn thì rạng"....

Đưa ra cho bệnh nhân một câu chuyện hoặc tình huống và yêu cầu bệnh nhân xử

lý: (VD: xếp hàng mua vé xe, đột nhiên có người chen ngang, bệnh nhân sẽ làm gì?)

Hoặc ra một phép toán (phù hợp với trình độ học vấn) để bệnh nhân thực hiện

(VD: 3 x 4 + 4 x 9 =?)

Đối với trẻ em, có thể yêu cầu trẻ so sánh 2 bức tranh, 2 đồ vật... để trẻ nhận xét

về những điểm giống và khác nhau. Nhận xét khả năng tân ra điểm căn bản, chủ yếu,

thứ yếu, tổng thể, chi tiết...

Khi xem xét khả năng tự đánh giá bản thân có thể sử dụng các câu hỏi: "Anh có

nghĩ rằng anh bị bệnh không?, bệnh gì?", "Anh có cho rằng bệnh của mình cần phải

17

điều trị hay không?", "Anh có dự định gì cho bản thân trong tương lai?"...

Suy giảm trí tuệ gặp trong bệnh thực thể tại não, mất trí, tâm thần phân liệt, chậm

phát triển tâm thần...

10. Đánh giá các rối loạn hành vi tác phong

Quan sát hành vi tác phong của bệnh nhân, chú ý các động tác tự động như run,

ức, cắn móng tay, vê gấu áo, rứt tóc, rung đùi....Quan sát các rối loạn hoạt động có ý

chí như bồn chồn, đứng ngồi không yên, giảm, ít hoạt động, tìm cách chạy trốn, ngồi,

nạn ở các tư thế dị kỳ, kích động, bất động...

IV.  CÁC  THANG  ĐÁNH  GIÁ  HỖ  TRỢ  TRONG  KHÁM  LÂM  SÀNG  TÂM

THẦN

Trong quá trình khám lâm sàng, người thầy thuốc tâm thần có thể sử dụng một số

thang (test) đánh giá các triệu chứng hoặc hỗ trợ cho chẩn đoán. Một số thang đánh giá

thường được sử dụng đó là: thang trầm cảm Beck, thang đánh giá lo âu Zung, thang

đánh  giá  chức  năng  tâm  thần  tổng  thể  (GAF  -  Global  Assessment  of  Functioning

Scale), test đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (MMSE). (Xem thêm ở phần phụ lục)

V. KHÁM THỰC THỂ

1. Khám thần kinh

Khám  có  hệ  thống,  đúng  phương  pháp,  nhằm  phát  hiện  các  hội  chứng,  triệu

chứng, các bệnh lý cấp cứu thần linh có biểu hiện rối loạn tâm thần như: Viêm não, áp

xe não, u não, lao màng não...

Chú ý phân biệt các hội chứng thần kinh thực thể với các hội chứng rối loạn chức

năng trong bệnh lý tâm thần.

2. Khám các cơ quan

Khám toàn diện và hệ thống các cơ quan nhằm phát hiện các bệnh lý cơ thể dễ bị

che lấp bởi các triệu chứng rối loạn tâm thần.

Lưu ý: Khi có các bệnh lý cơ thể cần phải tuân thủ các chỉ định, chống chỉ định

trong các liệu pháp điều trị, theo dõi và chăm sóc. Cần chú ý các bệnh lý của cơ quan

tim mạch, hô hấp, tiêu hoá, tiết niệu, nội tiết.

3. Cận lâm sàng

Các xét nghiệm cơ bản: công thức máu, đường máu, ure máu, chụp X quang tim

phổi,...

Các xét nghiệm đặc hiệu: Xét nghiệm chức năng gan, chụp X quang sọ thẳng

nghiêng, điện não đồ, chụp C.T. scanner sọ não, chụp MRI, chọc dò - xét nghiệm dịch

não tuỷ...

VI. PHÂN TÍCH, TỔNG HỢP, CHẨN ĐOÁN

1. Phân tích

Sau khi đã thu thập đầy đủ các thông tin về bệnh nhân, cần tiến hành đánh giá,

18

phân tích các thông tin dựa trên:

Các thông tin về bệnh sử

Các dấu hiệu, tính chất xuất hiện của thời kỳ khởi phát của thời kỳ khởi phát.

Các triệu chứng và hội chứng của thời kỳ toàn phát

Tính chất tiến triển của bệnh

Tiền sử cá nhân và gia đình

Kết quả khám lâm sàng thần kinh và các cơ quan

Các kết quả cận lâm sàng

2. Tổng hợp

(tóm tắt bệnh án)

Tóm tắt một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ, nêu bật những điểm chủ yếu sau đây:

Bệnh nhân là ai

Các vấn đề của bệnh nhân là gì

Ảnh hưởng của những vấn đề này lên người bệnh như thế nào

Các yếu tố khởi phát và yếu tố thúc đẩy

Các vấn đề về tiền sử và nhân cách.

Các triệu chứng và hội chứng chính

Quá trình chẩn đoán, theo dõi, điều trị.

3. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định: lập luận chẩn đoán dựa theo các tiêu chuẩn chẩn đoán trong

bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD 10).

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán nguyên nhân

Chẩn đoán thể (nếu có)

VII. HƯỚNG ĐIỀU TRỊ, CHĂM SÓC VÀ TƯ VẤN

Cần đưa ra hướng điều trị trước mắt và lâu dài cho bệnh nhân, các liệu pháp điều

trị có thể sử dụng, vấn đề theo dõi chăm sóc. Lập kế hoạch tư vấn cho bệnh nhân và

gia đình người bệnh về việc điều trị, chăm sóc, theo dõi, kết quả điều trị có thể đạt

được, các hậu quả có thể sảy ra....

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Bộ môn Tâm thần và Tâm lý Y học - Học viện Quân Y (1998),

 

Tâm thần học đại

cương và Tâm lý học y học

, Hà nội, Tr: 148 - 157.

2.Sidney Bloch và Bruee S. Singh (2001),

 

Cơ sở của lâm sàng Tâm thần học

(tài liệu

dịch), Nhà xuất bản Y học, Tr : 77 - 109.

3.Kaplan & Sadock (2005),

 

Clinical Examination of the Psychiatllc Patient, Concise

Textbook of Climcal Psychiatry, Lippincott Williams & Wilkins, Tr : 1 - 11.

19

TRIỆU CHỨNG HỌC TÂM THẦN

RỐI LOẠN CẢM GIÁC - TRI GIÁC

Cảm giác là quá trình phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng

khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. VD: cảm giác về hình

dạng, kích thước, màu sắc, mùi vị, âm thanh, nóng lạnh, trơn bóng hay thô ráp...

Tri giác là quá trình phản ánh các thuộc tính của sự vật hiện tượng một cách trọn

vẹn thống nhất khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Do

vậy, tri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở của cảm giác. Nhưng tri giác

không phải là phép cộng đơn thuần các cảm giác, mà phản ánh tổng hợp các thuộc tính

và cho chúng ta một hình ảnh trọn vẹn, hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.

1. Các rối loạn cảm giác tri giác

1.1 Tăng cảm giác

Do ngưỡng kích thích hạ xuống, vì vậy những kích thích trung bình hoặc nhẹ lại

trở nên quá mạnh đối với bệnh nhân, làm bệnh nhân không chịu đựng được.

Ví dụ:

Ánh sáng bình thường cũng làm cho bệnh nhân chói mắt không chịu đựng được.

Tiếng đập cửa nghe như tiếng bom nổ.

Thường gặp trong trạng thái quá mệt mỏi ở người bình thường, hoặc là biểu hiện

đầu tiên của nhiều bệnh loạn thần cấp tính.

1.2. Giảm cảm giác

Ngưỡng kích thích tăng lên, do đó bệnh nhân không tri giác được những kích

thích nhẹ, hoặc tri giác một cách mơ hồ, không rõ ràng những kích thích thông thường.

Ví dụ:

Mọi tiếng động trở nên xa xôi, nghe không rõ ràng.

Cảnh vật xung quanh mờ nhạt như phủ một lớp sương mù.

Mùi vị thức ăn trở nên nhạt nhẽo.

Thường gặp trong rối loạn trầm cảm hoặc tổn thương đồi thị.

1.3. Loạn cảm giác bản thể

Bệnh nhân có những cảm giác đau nhức, khó chịu, lạ lùng trong cơ thể hay gặp

trong các nội tạng như nóng bỏng dạ dày, cảm giác cắn xé trong ruột, điện giật trong

óc, buồn như bị cù.. các cảm giác này xuất hiện thường xuyên, tính chất và khu trú

không rõ ràng, không thể xác định được nguyên nhân bằng các phương pháp khám xét

thực thể.

Thường gặp trong hội chứng nghi bệnh, trạng thái trầm cảm.

2. Ảo tưởng (Illusion)

20

2.1. Khái niệm

Ảo tưởng là tri giác sai lệch về toàn bộ những sự việc hay hiện tượng có thật bên

ngoài.

Ví dụ:

"Trông gà hoá cuốc"

Nhìn quần áo treo trên tường tưởng là người.

Nghe tiếng lá rơi tưởng tiếng chân người bước.

Ảo tưởng có thể gặp ở người bình thường và người bị bệnh trong những trường

hợp điều kiện tri giác bị trở ngại: chú ý không đầy đủ, ánh sáng lờ mờ, tiếng nói không

rõ ràng, quá mệt mỏi, quá lo lắng, sợ hãi hoặc chờ đợi lâu... Tuy nhiên trạng thái này

sẽ mất đi nhanh chóng khi các điều kiện làm trở ngại tri giác không còn nữa.

2.2. Phân loại

Chia theo các giác quan: ảo tưởng thính giác, ảo tưởng vị giác, ảo tưởng khứu

giác...

Trong trạng thái bệnh lý thường chia ra các loại ảo tưởng sau:

2.2.1. Ảo tưởng cảm xúc

(affective illusion).

Xuất hiện trong các trạng thái cảm xúc bệnh lý: lo âu; sợ hãi; trầm cảm hoặc

hưng cảm.

Ví dụ: Trong trạng thái cảm xúc lo lắng, sợ hãi, bệnh nhân nhìn quần áo treo trên

tường thành kẻ giết người đang đứng nấp.

Trong trạng thái chờ đợi sự trừng phạt, bệnh nhân nghe tiếng va chạm của bát đĩa

thành tiếng va chạm của xiềng xích, vũ khí chuẩn bị hành hình.

Trong trạng thái hưng cảm, bệnh nhân ra đường nhìn thấy những người đi đường

vẫy chào mình, nghe tiếng ồn ào ngoài phố thành tiếng đoàn người diễu hành tung hô

tên tuổi mình.

2.2.2. Ảo tưởng lời nói

(illusion - verbales)

Là tri giác sai lệch về nội dung lời nói. Bệnh nhân nghe những câu chuyện thông

thường của những người xung quanh thành những lời kết tội, tố giác, tuyên bố hình

phạt...

Thường gặp trong trạng thái trầm cảm.

Trên  lâm  sàng  cần  phân  biệt  với  hoang  tưởng  liên  hệ  dựa  vào  các  tính  chất:

Trong ảo tưởng lời nói, bệnh nhân nghe rất rõ lời nói nhưng nghe sai lệch câu này

thành câu khác Trong hoang tưởng liên hệ, bệnh nhân thường nghe không rõ nội dung

lời nói mà suy đoán câu chuyện qua thái độ của những người xung quanh, hoặc bệnh

nhân nghe rõ ràng câu nói nhưng tìm ra một ý nghĩa thầm kín sau câu nói đó, theo

hoang tưởng của mình.

2.2.3. Ảo ảnh kỳ lạ

(Pareidolie nlusion).

21

Là những ảo tưởng thị giác rất phong phú, đa dạng, sinh động, kỳ lạ... những biểu

hiện này xuất hiện ngoài ý chí của bệnh nhân, không phụ thuộc vào biến đổi cảm xúc,

dồn dập xuất hiện thay thế dần các sự vật có thực bên ngoài.

Ví  dụ:  bệnh  nhân  nhìn  những  chấm  sáng  hoặc  vết  loang  lổ  trên  tường  thành

những cảnh tượng sinh động, những hình ảnh kỳ lạ đa dạng, những khuôn mặt quái

gở... hoặc nhìn những đám mây thấy biến đổi thành cảnh trên thiên đình có các nàng

tiên đang múa

¼

bệnh nhân ngắm nhìn một cách say mê, thích thú.

Ảo ảnh kỳ lạ thường xuất hiện trong giai đoạn đầu của trạng thái mê sảng và

trạng thái mê mộng.

3. Ảo giác (Hallucination)

3.1. Khái niệm:

Ảo giác là tri giác như có thật về một sự vật, hiện tượng không hề có thật trong

thực tại khách quan. Ảo giác xuất hiện và mất đi không phụ thuộc vào ý muốn của

bệnh nhân, có thể xuất hiện xen kẽ hoặc riêng lẻ với các sự vật hiện tượng có thật bên

ngoài. Kèm theo với ảo giác có thể có hoặc không có các rối loạn ý thức (mê sảng, mê

mộng) hoặc rối loạn tư duy (mất phê phán về tri giác sai lệch của mình).

3.2. Phân loại

: Có nhiều cách phân loại:

3.2.1. Chia theo hình tượng kết cấu

Ảo giác thô sơ

: ảo giác chưa thành hình, không có hình thái và kết cấu rõ rệt.

Ví dụ: Thấy 1 ánh lấp loá không rõ là cái gì. Nghe thấy tiếng rì rào, u u...

Ảo giác phức tạp

: ảo giác có hình thù rõ ràng, có vị trí nhất định trong không

gian.

Ví dụ:. Thấy người đến giết mình. Nghe thấy tiếng người nói từ góc cửa sổ bình

phẩm về đạo đức mình...

3.2.2. Chia theo các giác quan

: có bao nhiêu giác quan thì thường có bấy nhiêu loạn

ảo giác như: ảo giác thính giác (ảo thanh), ảo giác thị giác (ảo thị), ảo giác vị giác (ảo

vị), ảo giác khứu giác (ảo khứu), ảo giác xúc giác (ảo xúc), ảo giác nội tạng.

3.2.3. Chia theo nhận thức và thái độ của người bệnh đối với ảo giác.

Ảo giác thật:

Khái niệm: bệnh nhân tiếp nhận ảo giác như những sự vật có thật trong thực tại,

không nghi ngờ, không phân biệt ảo giác với sự vật thật, không nghĩ rằng có ai đó làm

ra ảo giác bắt mình phải tiếp thu.

Đặc điểm:

Là những sự vật, hiện tượng cụ thể, có vị trí, hình khối, âm lượng rõ ràng.

Xuất hiện trong thực tại khách quan.

Không có cảm giác bị chi phối (do người khác làm ra)

Các loại ảo giác thật:

22

Ảo thanh

: hay gặp nhất trong các loại ảo giác. Nội dung đa dạng, có thể là ảo

thanh thô sơ (tiếng ve kêu, tiếng u u...) hoặc ảo thanh phức tạp (tiếng nói rõ rệt của

giới nào, tuổi nào, quen hay lạ và nội dung ra sao, vị trí xuất hiện cụ thể. Nội dung

tiếng nói cũng đa dạng như ra lệnh khen hoặc nói xấu... có thể nghe thấy một hoặc

nhiều tiếng nói trò chuyện trực tiếp với bệnh nhân hoặc bình phẩm với nhau về bệnh

nhân).

Cảm xúc và hành vi của người bệnh bị chi phối tuỳ theo nội dung của ảo thanh

như đau khổ, lo sợ, thích thú, bịt tai, nhét bông vào tai, trả lời thì thầm, trò chuyện với

ảo thanh hoặc tự sát, giết người...

Thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần triệu chứng, loạn

thần d o rượu...

Một bệnh nhân nam 23 tuổi đang điều trị tâm thần phân liệt được đưa đến phòng

cấp cứu trong tình trạng gần như trụy tim mạch. Anh kể rằng cách đây khoảng 3 tháng

anh nghe thấy một tiếng nó i lạ của người đàn ông khăng khăng nài nỉ anh ngừng

uống thuốc. Sau vài tuần cố gắng chống lại yêu cầu trên, cuối cùng bệnh nhân quyết

định ngừng điều trị. Nhưng sau khi bệnh nhân ngừng uống thuốc, tiếng nói đó lại tiếp

tục nài nỉ yêu cầu bệnh nhân phải ngừng ăn uống để làm sạch cơ thể.

Ảo thị

cũng là loại ảo giác thường gặp (sau ảo thanh) và thường kết hợp với ảo

thanh. Ảo thị hay xuất hiện khi quá trình tri giác bị trở ngại, rối loạn ý thức (mê sảng,

mê mộng), quá lo sợ hoảng hết hoặc quá mệt mỏi, điều kiện ánh sáng không đủ (đêm

tối, hoàng hôn). ,

Nội dung rất đa dạng: hình ảnh rõ nét hoặc mơ hồ, động hoặc tĩnh, người hoặc

cảnh vật

¼

có thể là ảo thị khổng lồ, hay ảo thị tí hon, ảo thị ghê rợn hoặc ảo thị xinh

đẹp, ảo thị kèm theo tiếng nói hoặc ảo thị câm...

Thái đồ của bệnh nhân: say mê ngắm nhìn, bàng quang ngơ ngác hoặc sợ hãi bỏ

chạy, có thể tham gia hoạt động cùng ảo thị.

Thường gặp trong loạn thần cấp, loạn thần nhiễm khuẩn, say rượu...

Ảo vị và ảo khứu

: ít gặp hơn.

Hai loại này hay đi đôi với nhau và thường xuất hiện cùng hoang tưởng. Nội

dung thường là những mùi, vị khó chịu: đắng cay, mùi khét, mùi tóc cháy, mùi trứng

ung, thịt thối...

Ví dụ: bệnh nhân có hoang tưởng bị đầu độc, ngửi thấy thức ăn có mùi khó chịu.

Có thể gặp trong tâm thần phân liệt, động kinh tâm thần...

Ảo giác xúc giác

Nội dung rất đa dạng: cảm giác ngoài da như nóng bỏng, tê rát, côn trùng bò, kim

châm... xuất hiện thường xuyên hoặc từng lúc, có thể kết hợp với ảo thị.

Hay gặp trong loạn thần nhiễm độc (cocain, rượu, ma tuý...) và hoang tưởng nghi

bệnh.

23

Ngoài ra còn gặp trong tâm thần phân liệt, loạn thần nhiễm khuẩn...

Ảo thanh chức năng

: ảo thanh xuất hiện đồng thời với một âm thanh có thực bên

ngoài, âm thanh mất thì ảo giác cũng mất theo.

Ví dụ: đồng thời khi nghe tiếng xình xịch của bánh xe lửa hoặc tiếng róc rách của

vòi nước chảy thì bệnh nhân nghe thấy tiếng doạ dẫm, chửa rủa mình.

Ảo giác lúc giở thức giở ngủ

: ảo giác xuất hiện lúc sắp ngủ hay sắp thức dậy,

trong bóng tối hay trong ánh sáng lờ mờ bệnh nhân nhìn thấy những hoa văn rực rỡ,

sinh vật kỳ quái

Thường  gặp  trong  rối  loạn  tâm  thần  do  stress,  nội  dung  thường  phản  ánh  nội

dung stress.

Ảo giác nội tạng và ảo giác về sơ đồ cơ thể:

Bệnh nhân thấy các dị vật, sinh vật trong cơ thể như đỉa trong tai, rắn trong bụng,

điện  giật  trong  tim,  bị  sờ  mó,  chân  tay  bị  biến  đổi...  gặp  trong  tâm  thần  phân  liệt,

hoang tưởng nghi bệnh và thường kết hợp với ảo thị.

Ảo giác giả

Khái niệm: bệnh nhân xem ảo giác như những sự vật hiện tượng lạ lùng, không

giống  với  thực  tại,  phân  biệt  ảo  giác  với  vật  thật.  Đặc  biệt  bệnh  nhân  cho  rằng  có

người nào đó gây ra ảo giác buộc mình phải tiếp thu (như làm ra ảo thị cho mình thấy

hoặc làm cho ý nghĩ mình vang lên thành tiếng...)

Đặc điểm:

Không rõ ràng về vị trí và âm lượng, thường cảm thấy như những biểu tượng

hoặc hình ảnh mơ hồ...

Xuất hiện trong tư duy và trong trí tưởng tượng của bệnh nhân nhiều hơn là trong

thực tại khách quan.

Có tính chất chi phối bệnh nhân.

Các loại ảo giác giả:

Ảo thanh giả

(thường gặp nhất).

Nội dung có thể nghe thấy tiếng nói trong cơ thể, không rõ đàn ông hay đàn bà,

lạ hay quen. Có bệnh nhân thấy tư duy vang lên thành tiếng, tư duy bị đánh cắp, bị bộc

lộ.

Ví dụ: bệnh nhân sắp làm gì, sắp nghĩ gì thì tiếng nói bên trong đã nói trước, có

thể là tiếng nói của người lạ hoặc chính tiếng của tư duy vang lên.

Biểu hiện này là thành phần chính trong hội chứng tâm thần tự động và là một

trong những tiêu chuẩn hàng đầu để chẩn đoán tâm thần phân liệt.

Ảo giác giả vận động

: bệnh nhân nhận thấy hành động của mình như được làm

sẵn: Có người nào đó mượn tay, chân mình làm một hành động gì đó, mượn mồm

hoặc lưỡi mình để nói liên tục không kiềm chế được. Gặp trong hội chứng ảo giác -

paranoid của bệnh tâm thần phân liệt.

24

Ảo thị giả:

thường là những hình ảnh giống như biểu tượng xuất hiện ngoài ý

muốn của bệnh nhân. Ví dụ: hình người không đầy đủ, bóng người lờ mờ, hiện tượng

quái khách nhập vào người...

4. Rối loạn tâm lý giác quan: (Psychosensoriel)

Rối loạn tâm lý giác quan gần giống như tri giác nhầm nhưng bền vững hơn và

dai dẳng hơn.

4.1. Tri giác sai thực tại

Là tri giác sai lầm về một vài thuộc tính, vài khía cạnh nào đó của thực tại khách

quan như kích thước, trọng lượng màu sắc...

Ví dụ: bệnh nhân vẫn tri giác được cái bàn nhưng cái bàn có vẻ to hơn không

giống những cái bàn cùng loại.

Tri giác biến hình: thay đổi một vài thuộc tính của đối tượng.

Tri giác loạn hình: thay đổi nhiều thuộc tính làm cho đối tượng gần như thay đổi

hoàn toàn

4.2. Giải thể nhân cách

Là tri giác sai lầm về đặc điểm cơ thể (tri giác sai về sơ đồ cơ thể) như tay dài ra,

mũi ở sau gáy, không có tim, phổi...

Có thể tri giác sai về đặc điểm tâm lý như cảm xúc, ý nghĩ, tác phong bị biến đổi.

Thường gặp trong rối loạn tâm thần do tổn thương thực thể ở não, loạn thần thực

nghiệm (gây ra bởi các chất như mescalin, LSD25...) giai đoạn đầu của bệnh tâm thần

phân liệt.

25

RỐI LOẠN TƯ DUY

Trên cơ sơ quá trình tri giác, tư duy đi sâu phản ánh những thuộc tính bản chất

bên  trong,  những  mối  quan  hệ  có  tính  quy  luật  của  sự  vật  hiện  tượng  trong  hiện

thkhách quan mà trước đó ta chưa biết. Do vậy, tư duy là quá trình nhận thức cao hơn

tri giác Tư duy có khả năng phản ánh gián tiếp, khái quát các thuộc tính, các mối liên

hệ bản chất của sự vật hiện tượng. VD: Tri giác cho ta biết mặt trời mọc hướng đông

và lặn ở hướng tây, tư duy cho ta nhận biết được trái đất quay xung quanh mặt trời.

Quá trình tư duy bao gồm nhiều thao tác như: Phân tích và tổng hợp, so sánh,

trừu tượng hoá, khái quát hoá, cụ thể hoá, phân loại, hệ thống hoá. Kết quả của các quá

trình này biểu hiện ra bên ngoài bằng các hình thức như: khái niệm, phán đoán, suy

luận.

1. Rối loạn hình thức tư duy

(rối loạn ngôn ngữ)

1.1 Theo nhịp điệu ngôn ngữ

1.1.1. Nhịp nhanh

Tư duy phi tán

: liên tưởng mau lẹ, chủ đề luôn thay đổi, nội dung nông cạn,

bệnh nhân nói thao thao bất tuyệt, việc nọ sọ việc kia.

Ví dụ: bệnh nhân nói "sức khoẻ tôi rất tốt. Những cầu thủ bóng đá của chúng ta

thắng đội khách. Đoàn kết và luyện tập. Mặt trời, nước và không khí trong suốt... "

Thường gặp trong hưng cảm.

Tư duy dồn đập

: ý nghĩ đủ các loại, ngoài ý muốn, dồn dập đến với bệnh nhân

làm bệnh nhân rất khó chịu.

Thường gặp trong tâm thần phân liệt.

Nói hổ lốn

: nói luôn mồm, ý tưởng linh tinh, nội dung vô nghĩa.

Gặp trong tâm thần phân liệt, trí tuệ sa sút.

1.1.2. Nhịp chậm

Tư duy chậm chạp

: dòng ý tưởng chậm, suy nghĩ khó khăn, phải mất một thời

gian lâu sau mỗi câu hỏi bệnh nhân mới trả lời được. Gặp trong trầm cảm.

Tư duy ngắt quãng

: đang nói chuyện, dòng ý tưởng như bị cắt đứt làm bệnh

nhân không tiếp tục nói được nữa, mãi lâu sau lại tiếp tục về chủ đề khác. Gặp trong

tâm thần phân liệt.

Tư duy lai nhai

: bệnh nhân khó chuyển chủ đề, luôn đi vào những chi tiết vụn

vặt của một vấn đề. Gặp trong động kinh.

Tư duy kiên định

: luôn luôn lặp lại một chủ đề. Gặp trong hội chứng paranoia.

1.2. Theo hình thức phát ngôn:

1.2.1. Nói một mình:

Nói  rõ  ràng  hay  lẩm bẩm một  mình,  nội  dung  không  liên  quan  tới  hoàn  cảnh

26

xung quanh.

Gặp trong giai đoạn cuối của tâm thần phân liệt.

1.2.2. Nói tay đôi tưởng tượng.

Nói  chuyện,  tranh  luận  với  ảo  thanh  hay  nói  chuyện  với  một  nhân  vật  tưởng

tượng. Gặp trong loạn thần do stress, tâm thần phân liệt.

1.2.3. Không nói:

Do nhiều nguyên nhân như: trầm cảm, phủ định, lú lẫn và sa sút, liệt chức năng

cơ quan phát âm, hoang tưởng và ảo giác chi phối, tổn thương thực thể ở não.

1.2.4. Trả lời bên cạnh:

Nội dung trả lời của bệnh nhân không liên quan đến câu hỏi. Thường gặp trong

bệnh tâm thần phân liệt.

1.2.5. Nói lặp lại

: luôn nói lặp lại một số từ hoặc một câu, không ai hỏi cũng nói.

1.2.6. Đáp lặp lại:

Với tất cả các câu hỏi khác nhau bệnh nhân đều trả lời bằng một câu nhất định.

1.2.7. Nhại lại

Hỏi bệnh nhân không trả lời mà chỉ nhắc lại câu hỏi. Nói lặp lại, đáp lặp lại, nhại

lời gặp trong hội chứng căng trương lực.

1.2.8. Cơn xung động lời nói:

Bệnh nhân đột nhiên chửi rủa, nói tục hoặc nói những câu vô nghĩa.

Gặp trong tâm thần phân liệt.

1.3. Theo kết cấu ngôn ngữ

1.3.1. Rối loạn kết âm và phát âm:

Nói khó, nói thì thào, nói lắp, nói giọng mũi, giả giọng nước ngoài, giả giọng địa

phương, tiếng ký sinh (vừa nói vừa khụt khịt).

1.3.2. Rối loạn ngữ pháp và 1ogic của tư duy

Ngôn ngữ phân liệt

: từng câu có thể đúng ngữ pháp và có ý nghĩa nhưng giữa

các câu mất logic và không có ý nghĩa.

Gặp trong tâm thần phân liệt giai đoạn cuối.

Ngôn ngữ rời rạc không liên quan

: bệnh nhân nói những từ, những câu rời rạc,

không liên quan với nhau.

Gặp trong hội chứng lú lẫn.

Chơi ngữ pháp

: đảo lộn các thành phần trong câu.

Ví dụ: dùng trạng từ chỉ địa điểm thay cho trạng từ chỉ thời gian, đảo lộn vị trí

chủ ngữ, vị ngữ, cắt cụt câu...

Gặp trong tâm thần phân liệt.

Chơi chữ

: các câu nói tiếp theo nhau theo vần, điệu, câu vô nghĩa. Ví dụ: hoà

27

bình, đứng một mình, đi một mình, đi nhanh, hái lá chanh...

Gặp trong hội chứng hưng cảm, tâm thần phân liệt.

Đặt tiếng nói riêng

: bệnh nhân tự nói bằng tiếng nói riêng, chỉ mình bệnh nhân

hiểu được.

1.4. Theo ý nghĩa, mục đích riêng của ngôn ngữ

1.4.1. Suy luận bệnh lý

Sử dụng cách suy luận, phán đoán cứng nhắc vụn vặt. Bệnh nhân luôn nói về một

chủ đề nhất định, nghiên cứu chủ đề ấy, thường đi vào những cái vụn vặt, không có ý

nghĩa, xa rời thực tế, hay đi vào vấn đề triết học và khoa học siêu hình, quái gở. Gặp

trong tâm thần phân liệt.

1.4.2. Tư duy hai chiều

Trong ngôn ngữ  đồng thời xuất hiện hai câu có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược

nhau. Gặp trong tâm thần phân liệt.

1.4.3. Tư duy tự kỷ

Bệnh nhân luôn nói đến thế giới bên trong kỳ lạ của mình, không có thực tế. Gặp

trong tâm thần phân mệt

1.4.4. Tư duy tượng trưng:

Sự việc thực tế không quan trọng nhưng bệnh nhân lại gắn cho ý nghĩa tượng

trưng.

Ví dụ: con số 5 tượng trưng cho sự thống nhất như 5 ngón tay trong bàn tay.

Gặp trong tâm thần phân liệt.

2. Rối loạn nội dung tư duy

2.1. Định kiến

: (fixe idee)

Là những ý tưởng, dựa trên sự kiện có thực nhưng bệnh nhân lại gán cho sự kiện

ấy một ý nghĩa quá mức, ý tưởng ấy chiếm ưu thế trong ý thức bệnh nhân và được duy

trì bằng một cảm xúc mạnh liệt.

Ví dụ: bệnh nhân đánh giá quá cao việc làm của người khác là làm nhục bệnh

nhân, ý tưởng đó chi phối mọi cảm xúc, hành vi, làm bệnh nhân không thể nghĩ đến

cái gì khác, mà chỉ tìm cách rửa nhục cho bằng được.

Thường gặp trong trầm cảm, động kinh.

2.2. Ý tưởng ám ảnh

(obsession)

Khái niệm

: là những ý tưởng không phù hợp với thực tế, bệnh nhân còn biết phê

phán là sai, tự đấu tranh đi xua đuổi những ý tưởng đó nhưng không được. Nó xuất

hiện trong ý thức của bệnh nhân với tính chất cưỡng bách.

Ví dụ: người thợ may có ý tưởng ám ảnh là bỏ quên kim trong đường may, phải

tháo đường khâu để kiểm tra lại.

Ý tưởng ám ảnh ít khi xuất hiện riêng lẻ mà thường kết hợp với các loại ám ảnh

28

khác để hình thành hội chứng ám ảnh

Hội chứng ám ảnh bao gồm:

Ý tưởng ám ảnh.

Lo sợ ám ảnh

Xu hướng và hành vi ám ảnh.

Trên một bệnh nhân, thường kết hợp nhiều loại ám ảnh. Có loại có nội dung làm

cho bệnh nhân lo sợ, đan khổ (ám ảnh cảm thụ). Có loại ám ảnh không kèm theo nội

dung làm cho bệnh nhân lo sợ, đau khổ (ám ảnh trừu tượng).

Hội chứng ảm ảnh hay gặp nhất trong tâm căn ám ảnh, trầm cảm ám ảnh, tâm

căn suy nhược, giai đoạn đầu của tâm thần phân liệt.

Một bệnh nhân nữ 32 tuổi đã chọn một bịch sữa tươi trong siêu thị và sau đó

đem đặt nó vào chỗ cũ sau khi quyết định không mua loại sữa đó. Vài ngày sau, cô cứ

suy nghĩ mãi về hành động đó của mình. Cô không thể xua đuổi được ý nghĩ rằng sẽ

có một bà mẹ chọn đúng bịch sữa đó, lây virus của cô và truyền sang cho đứa con của

bà ấy. Cuối cùng đứa con của bà ấy có thể chết do đã nhiễm loại virus của cô. Mặc dù

biết rằng, hậu quả nặng nề ấy thực sự là rất khó sẩy ra, bệnh nhân cũng không thể xua

đuổi được ý nghĩ ấy ra khỏi tâm trí.

2.3. Hoang tưởng:

(delusion)

2.3.1. Định nghĩa:

Hoang tưởng là những ý tưởng phán đoán sai lầm, không phù hợp với thực tế

nhưng bệnh nhân cho là hoàn toàn chính xác, không thể giải thích, thuyết phục được.

Hoang tưởng do bệnh tâm thần sinh ra, chỉ mất đi khi bệnh tâm thần thuyên giảm hoặc

khỏi.

Hoang tưởng là triệu chứng chủ yếu của các bệnh loạn thần.

Hoang tưởng chi phối cảm xúc, hành vi, tác phong và các hoạt động tâm thần

khác của người bệnh.

Hoang tưởng kéo dài làm biến đổi nhân cách của người bệnh.

2.3.2. Phân loại hoang tưởng:

2.3.2.1. Theo nguồn gốc phát sinh

: thường chia ra hai loại.

Hoang tưởng nguyên phát

: hoang tưởng phát sinh không liên quan tới rối loạn

tri giác.

Hoang tưởng thứ phát

: hoang tưởng xuất hiện trên cơ sở rối loạn tri giác, cảm

xúc, ý thức.

2.3.2.2. Theo phương thức kết cấu

: thường chia ra hai loại.

Hoang tưởng suy đoán:

Khái niệm

: Hoang tưởng được xây dựng thuần tuý theo logich lệch lạc của bệnh

nhân biểu hiện một sự rối loạn trong việc phản ánh mối liên quan nội tại giữa các sự

29

vật, hiện tượng. Thường là những hoang tưởng kéo dài, dai dẳng, phát triển thành hệ

thống và làm biến đổi nhân cách một cách sâu sắc.

Các loại hoang tưởng suy đoán:

Nhóm hoang tưởng bị truy hại, bị chi phối:

Hoang tưởng liên hệ

: bệnh nhân cho rằng tất cả xung quanh đều có mối liên hệ

đặc biệt với mình. Hình như mọi người nhìn bệnh nhân một cách đặc biệt, bàn tán,

cười cợt, chế diễu bệnh nhân. Trong thái độ lời nói của người khác, bệnh nhân đều suy

đoán, tìm ra một ý nghĩa thầm kín có liên quan đến mình, ám chỉ mình. Thường phát

sinh sớm và xuất hiện trước hoang tưởng bị truy hại.

Hoang tưởng bị truy hại

: bệnh nhân khẳng định có một người hay nhóm người

nào đó theo dõi, âm mưu hại mình bằng nhiều cách như đầu độc, ám sát, thủ tiêu, bắt

giam... có khi bệnh nhân chỉ rõ tên người theo dõi, làm hại mình, thường là những

người gần gũi, thân cận: vợ, chồng, cha, mẹ, hàng xóm, đồng nghiệp...

Ví dụ: bệnh nhân nghĩ rằng vợ mình đầu độc mình bằng cách bỏ thuốc độc vào

thức ăn. Do vậy bệnh nhân không dám ăn hoặc để người nhà ăn trước sau đó mới dám

ăn.

Hoang tưởng bị chi phối: bệnh nhân cho rằng có người nào đó có quyền lực hoặc

phép thuật dùng một phương tiện nào đấy để chi phối toàn bộ tư tưởng, hành vi, cảm

xúc của mình.

Nếu hoang tưởng có nội dung chi phối bằng các phương tiện vật lý như tia lase,

dòng điện, máy ghi âm, vô tuyến... thì gọi là hoang tưởng bị vật lý chi phối.

Bệnh nhân nam, 21 tuổi, tin rằng cột ăng ten của đài truyền hình thành phố được

sử dụng để chuyển thông tin từ một trùm tư bản thông tin ở Mỹ trên máy truyền tin

được cấy vào não anh ta, mục đích là để ép anh tham gia vào các hoạt động gián điệp.

Anh nhớ lại lần đau đầu cách đây nửa tháng và cho rằng mình đã bị ảnh hưởng của

các tia từ máy nhắn tin nói trên. Anh cũng nói rằng ông trùm tư bản sử dụng hệ thông

máy nhắn tin này để truyền ý nghĩ về một điệp vụ ngoại giao mà họ sẽ thực hiện cùng

nhau bằng cách sử dụng sức mạnh của Internet.

Hoang tưởng chen tuông

: người bệnh dựa vào những hiện tượng vô lý, những

bằng chứng không có cơ sở chắc chắn để khẳng định sự phản bội hoặc mối quan hệ bất

chính của vợ hoặc chồng mình.

Nhóm hoang tưởng tự ti, phủ định:

Hoang tưởng tự buộc tội: người bệnh tự cho mình là hèn kém, có phẩm chất xấu

xa, có tội lỗi hoặc khuyết điểm lớn... Thường người bệnh có ý nghĩ mình không đang

sống hoặc đáng bị trừng phạt bằng cái chết nên dễ đưa đến ý tưởng và hành vi tự sát.

Một bệnh nhân nữ tiết lộ đã gây lên một đại dịch lớn và có thể làm chết rất nhiều

người bằng cách truyền virus gây bệnh ra môi trường. Cô cũng cho rằng mình chỉ

luôn làm những chuyện tồi tệ, rằng cô "không đáng sống ", "đời hoàn toàn vô nghĩa ",

30

và "cái chết có thể là sự giải thoát may mắn ". Tuần trước cô đã có ý nghĩ muốn đâm

vào ô tô trong khi lái xe.

Hoang

 tưởng

 nghi

 bệnh

:  người  bệnh  luôn  khẳng  định  mình  bị  bệnh  này  hoặc

bệnh khác, thường là những bệnh nguy hiểm, nan y như ung thư, AIDS hoặc những

bệnh lây, lao, phong...

Nhóm hoang tưởng khuếch đại:

Hoang tưởng tự cao

: bệnh nhân cho rằng mình thông minh, tài giỏi có nhiều khả

năng vượt xa những người khác, có sức lực mạnh mẽ.

Có bệnh nhân cho rằng mình có địa vị cao, quyền lực lớn, có họ hàng với các bậc

vĩ nhân hoặc cho rằng mình có nhiều của cải quí báu, giàu có nhất nhì thế giới.

Hoang tưởng phát minh

: người bệnh có phát minh độc đáo, kỳ lạ về khoa học,

triết học, cải cách xã hội... họ luôn trình bày và tìm cách thuyết phục mọi người công

nhận.

Ví dụ: bệnh nhân không phải là thầy thuốc nhưng lại phát minh ra phương pháp

điều trị bệnh ung thư bằng uống nước tiểu của chính mình hàng ngày. Bệnh nhân dùng

mọi cách để đấu tranh bắt mọi người phải thừa nhận và phổ biến phương pháp này ở

mọi nơi.

Hoang tưởng được yêu

: người bệnh cho rằng có người nào đó hoặc nhiều người

yêu mình, tìm cách bộc lộ tình yêu với mình một cách tượng trưng nhưng bệnh nhân

không yêu lại.

Hoang tưởng cảm thụ:

Khái niệm

: xuất hiện sau các rối loạn tri giác hay cảm xúc, ý thức. Bệnh nhân

không có logic lệch lạc mà chỉ có ý tưởng rời rạc, không kế tục, cảm xúc căng thẳng,

bàng hoàng, ngơ ngác. Nhân cách ít bị biến đổi.

Các loại hoang tưởng cảm thụ:

Hoang tưởng nhận nhầm

: nhận người lạ là người thân hoặc nhầm người thân là

người lạ.

Ví dụ: bố mẹ đến thăm bệnh nhân lại cho là người lạ giả dạng y tá đến phát thuốc

thì bệnh nhân lại nhận là bố mẹ mình.

Hoang tưởng gán ý

: người bệnh gán cho sự vật, hiện tượng tự nhiên một ý nghĩa

tượng trưng báo hiệu cho tương lai, số phận mình. Hoang tưởng gán ý khác với hoang

tưởng  liên  hệ: hoang tưởng  gán  ý  là  hoang  tưởng  cảm  thụ xây  dựng  trên  một  hiện

tượng, một sự việc thực tại chứ không liên hệ, suy đoán theo một logic lệch lạc như

trong hoang tưởng suy đoán.

Ví dụ: trên đường đi gặp một cái hố, ở bệnh nhân có hoang tưởng gán ý cho rằng

cái hố đó là dấu hiệu tượng trưng, báo hiệu cho số phận mình sắp phải chết. Còn bệnh

nhân có hoang tưởng liên hệ cho rằng có người nào đó đào sẵn cái hố, mục đích làm

cho mình rơi xuống gãy chân.

31

Hoang tưởng đóng kịch

: người bệnh thấy xung quanh như những cảnh trên phim,

trên sân khấu Những người xung quanh và bệnh nhân là những nhân vật luôn thay đổi

vai diễn.

Hoang tưởng biến hình bản thân

: bệnh nhân cảm thấy mình bị biến thành chim,

thú... thường kèm theo rối loạn cảm giác bản thể và liên quan đến hoang tưởng bị chi

phối.

Hoang tưởng ký quái

: nội dung rất đa dạng:

Nội dung khuyếch đại với tính chất hưng cảm: kèm theo khí sắc hưng phấn, cảm

xúc vui vẻ, bệnh nhân cho rằng mình có thể lên cung tiên, sống trong thế giới giàu

sang vô kể, lãnh đạo quân đội toàn thế giới.

Nội dung phủ định với tính chất trầm cảm - hội chứng cotard:

Nỗi đau khổ vô biên: tất cả người thân đều chết, nhà cửa tan nát, người bệnh đau

khổ hàng thế kỷ...

Phủ định ngoại cảnh: thế giới bị huỷ diệt, bị ngập lụt, các thành phố bị sụp đổ...

Phủ định bản thân: nội tạng bị hư hỏng, thối rữa, người bệnh không có tim, óc

rữa.

Hoang tưởng di chứng:

Là hoang tưởng còn sót lại sau những trạng thái loạn thần cấp, trong khi các triệu

chứng khác đã mất, hay gặp sau các trạng thái rối loạn ý thức như mê sảng, mê mộng,

lú lẫn...

3. Các hội chứng rối loạn tư duy

3.1. Hội chứng ảo giác - paranoide:

Hoang tưởng các loại: gặp cả hoang tưởng suy đoán và hoang tưởng cảm thụ

(hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, gán ý...).

Ảo giác giả, ảo giác thật.

Hội chứng tâm thần tự động (hội chứng Kandinski - Clerambault) bao gồm:

Ý tưởng tự động: ý nghĩ của mình bị bộc lộ, bị đánh cắp hay do người khác làm

sẵn.

Cảm giác tự động: người khác gây cho bệnh nhân các loại cảm giác như nóng,

lạnh, đau đớn

Vận động tự động: người khác dùng tay bệnh nhân để mở cửa, dùng lưỡi của

bệnh nhân để nói.

Thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt, động kinh, loạn thần triệu chứng, loạn

thần cấp...

Nếu trong hội chứng chỉ có hoang tưởng nổi bật, ảo giác và hội chứng tâm thần

tự động mờ nhạt được gọi là hội chứng paranoide thuần tuý.

3.2. Hội chứng paranoia

Hoang tưởng có hệ thống tập trung sâu sắc vào một vấn đề nhất định và kéo dài,

32

đó là hoang tưởng nguyên phát, suy đoán.

Kèm theo rối loạn cảm xúc phù hợp với hoang tưởng.

Không kèm theo tan rã nhân cách, không có ảo giác và hội chứng tâm thần tự

động.

3.3. Hội chứng paraphrenia

Trên cơ sở hội chứng paranoide xuất hiện và nổi bật lên hàng đầu là hoang tưởng

tự cao kỳ quái

 

(là lãnh tụ thế giới, phát minh ra tất cả các qui luật của mọi ngành

khoa học...)

Thường kèm theo hội chứng hưng cảm. Gặp trong tâm thần phân liệt, loạn

thần tuổi già, liệt toàn thể tiến triển.

3.4. Hội chứng nghi bệnh

Là trạng thái quá lo lắng sợ hãi, quá chú ý vào sức khỏe của mình đến mức trở

thành hoang tưởng nghi bệnh. Hội chứng nghi bệnh có thể xuất hiện trên cơ sở một

bệnh có thật nhưng phóng đại quá mức, có thể xuất hiện như một hoang tưởng không

có căn cứ thực tế, có thể xuất hiện như một mối lo lắng kéo dài sau khi bệnh cơ thể đã

khỏi. Thường kết hợp với các hội chứng khác: ám ảnh, trầm cảm, paranoia... gặp trong tâm thần phân liệt, trầm cảm, rối loạn nghi bệnh có liên quan đến stress.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #toai