Kiếm báu
Kỳ 1: Huyền thoại kiếm báu của người Dao
Bài liên quan
Bí mật ẩn giấu trong thanh kiếm huyền thoại trên lá bài K cơ
Bí mật ẩn giấu trong thanh kiếm huyền thoại trên lá bài K cơ
Rùng mình người đàn ông nuốt 22 thanh kiếm cùng lúc
Rùng mình người đàn ông nuốt 22 thanh kiếm cùng lúc
Cuộc thiên di và những cổ vật quý
Trước đây, lên Hoàng Su Phì (Hà Giang), tôi đã nghe mấy anh ở Phòng Văn hóa huyện kể những câu chuyện hấp dẫn về thanh kiếm báu của tổ tiên người Dao ở Việt Nam. Tuy nhiên, các cán bộ văn hóa của huyện đều chưa nhìn thấy thanh kiếm báu ấy, thậm chí cũng chẳng biết ai đang giữ nó. Họ chỉ biết rằng, thanh kiếm đó là báu vật của tổ tiên người Dao để lại. Vì nó là báu vật, là linh hồn của dân tộc Dao, nên không phải ai cũng được tận mắt, dù là quan chức, cán bộ văn hóa. Hơn nữa, vì kiêng, hoặc sợ mất, mà người Dao cũng giấu tung tích của thanh kiếm, không tiết lộ ai giữ nó.
Nhiều năm trước, nghe tin ở bản Đoàn Kết, xã Hồ Thầu, cũng có phiên bản của kiếm cổ, do một dòng tộc người Dao cất giữ, cán bộ Bảo tàng văn hóa các dân tộc đã tìm đến xem. Vì muốn có vật độc đáo trưng bày, nên cán bộ này đã tìm mọi cách thuyết phục người Dao ở đây bán lại cho Nhà nước, để Nhà nước cất giữ, trưng bày cho cả nước xem, nhằm bảo tồn văn hóa người Dao.
Với nghĩa cử cao đẹp ấy, dòng họ người Dao ở bản Đoàn Kết phải miễn cưỡng đồng ý. Buổi rước kiếm từ bản Đoàn Kết về Bảo tàng văn hóa các dân tộc, có sự chứng kiến của chính quyền địa phương, nhiều lãnh đạo huyện, tỉnh. Cả họ người Dao đã đến tiễn đưa thanh kiếm. Trước đó, họ đã cúng bái suốt đêm. Lúc người của bảo tàng mang kiếm đi, cả trăm người, đủ cả già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, đứng bên đường khóc tu tu. Ai cũng không ngờ, người Dao lại trọng vọng thanh kiếm cũ mèm, han gỉ như vậy. Với người Dao, thanh kiếm đó là vô giá, nhưng vì ý nghĩa cao cả, nên Bảo tàng mua được với giá rất rẻ, gồm 3 triệu đồng và 1 con lợn. Hiện thanh kiếm này đang trưng bày tại Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Thái Nguyên.
Tuy nhiên, đó chỉ là phiên bản của kiếm báu của tổ tiên người Dao. Thanh kiếm báu thực sự, do dòng tộc đứng đầu của người Dao ở Việt Nam hiện đang sở hữu, thì không mua nổi. Bảo tàng đã đề xuất trả 100 triệu đồng, để được đưa về bảo tàng trưng bày, nhưng bị dòng tộc này từ chối. Thậm chí, các cán bộ của bảo tàng cũng chưa được vinh dự xem thanh kiếm này.
Lần này, lên Hà Giang, tôi lại nghe anh em ở Phòng Văn hóa huyện Hoàng Su Phì bàn tán sôi nổi về thanh kiếm báu của tổ tiên người Dao. Có đồng chí kể rằng, kiếm báu, cùng bát hương, trống, chiêng, tranh cổ đã bị dòng họ người Dao ở xã Nậm Ty giấu vào một hang đá bí mật. Những vật dụng này là của tổ tiên người Dao, truyền đến đời các con trưởng, cháu trưởng. Tuy nhiên, người được truyền những vật tối cổ kia là người không tốt, không xứng đáng được cất giữ kho báu, không xứng đáng được thờ tổ tiên, nên dòng họ đã quyết định đem những món đồ cổ đó cất giấu vào hang động. Nhưng, lại có đồng chí cán bộ văn hóa của huyện khẳng định chắc chắn rằng, thanh kiếm cổ và những vật dụng của tổ tiên người Dao hiện do Phàn Tà Loàng cất giữ. Nhà anh này ở bản Nậm Ty (xã Nậm Ty, Hoàng Su Phì, Hà Giang).
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 1
Thanh kiếm của người Dao ở Hoàng Su Phì.
Mặc dù khó có cơ hội được chiêm ngưỡng thanh kiếm báu của tổ tiên người Dao ở Việt Nam, bởi đến cán bộ văn hóa của huyện, tỉnh còn không tiếp cận được, song tôi vẫn thử tìm đến nhà Loàng, biết đâu lại có duyên với kiếm báu.
Đường vào nhà Phàn Tà Loàng đúng là khủng khiếp, cứ dốc ngược lên đỉnh núi, với đá hộc lởm chởm, mây giăng khắp ngả. Gặp ngôi nhà to nhất bản, tôi hỏi nhà Loàng, thì một người trẻ tuổi bảo: "Loàng đây, anh hỏi Loàng có việc gì?". Tôi vốn mang ý nghĩ, Phàn Tà Loàng, người giữ kiếm báu của tổ tiên người Dao phải có tuổi, uy nghi, đạo mạo, thậm chí râu dài trắng như cước, hoặc ít ra cũng như ông thầy cúng đầy vẻ bí ẩn. Nhưng không ngờ, Loàng còn trẻ, chưa đến 40 tuổi, đang vật lộn với cái máy sao chè.
Tôi giới thiệu với Loàng là nhà báo, muốn tìm hiểu về kiếm báu của người Dao, Loàng tỏ ra lạnh nhạt, nhát gừng, như vẻ không muốn nói, cũng chẳng muốn kể. Uống hết ấm trà, Loàng cũng chỉ nói đại ý rằng: Bố Loàng là ông Phàn Chòi Cuối, là con cháu của tổ tiên người Dao, được truyền giữ đôi kiếm báu, gồm kiếm đực và kiếm cái từ năm 1974. Năm 2007, ông Cuối chết, thì kiếm báu được truyền cho con trai là Loàng. Nhưng đầu 2011, đôi kiếm báu đã được chuyển cho người anh họ là Phàn Tà Phâu. Lúc này, tôi mới biết, dòng họ này giữ cả đôi kiếm báu, gồm cả kiếm đực và kiếm cái. Trước đó, các cán bộ văn hóa huyện kể rằng, kiếm cái do dòng họ Dao ở Nậm Ty giữ, còn kiếm đực do một dòng họ khác ở Lào Cai thờ.
Tôi hỏi rằng, có chuyện các cán bộ Bảo tàng Hà Giang hỏi mua thanh kiếm hay không, anh Loàng bảo có. Các cán bộ văn hóa đã tìm vào hỏi mua, trả giá 100 triệu đồng, song Loàng khẳng định không ai có thể mua được, vì đó là linh hồn của người Dao ở Việt Nam. Nếu người giữ kiếm mà bán, thì dòng họ sẽ cho lên giàn hỏa thiêu. Tuy nhiên, theo lời Loàng, thì những bức tranh cổ mới là quý, thậm chí còn quý hơn cả kiếm. Tôi ngỏ ý nhờ Loàng dẫn đường đến nhà ông Phâu, song Loàng không đồng ý. Loàng bảo, dù có gặp ông Phâu, cũng không xem được kiếm. Trong lúc trò chuyện với Loàng, tôi mới biết, Loàng là em của ông Ké, Chủ tịch UBND xã Nậm Ty. Như vậy, ông Ké cũng là em họ của ông Phâu – người gữi kiếm cổ.
Tôi vốn quen ông Ké từ năm 1998, trong chuyến đi bộ 50km từ Tân Quang vào Hoàng Su Phì. Ngày đó, lũ lớn, núi lở, lấp hàng chục đoạn đường vào huyện này, nên xe cộ không đi được. Tôi đi bộ từ sáng đến đêm thì được nửa đường, ghé vào nhà ông Ké ăn nhờ, ngủ nhờ. Tôi vẫn nhớ hình ảnh bà vợ ông Ké, ngồi nhai quả mướp đắng mà uống 6 bát rượu ngô. Gặp lại người cũ thật vui. Giờ ông Ké đã lấy vợ khác. Bà vợ này uống rượu kém hơn, chỉ 3 bát là say. Tôi hỏi chuyện về kiếm báu người Dao, ông Ké suy nghĩ rồi bảo khó có thể xem được. Tuy nhiên, ông dẫn tôi xuống núi tìm vào nhà ông Phâu. Nếu nhà Loàng ở trên đỉnh núi, thì nhà ông Phâu lại ở tận thung lũng. Con dốc đá hộc lẫn đất đỏ trơn chuồi chuỗi xuyên qua đại ngàn vầu lẫn những cây cổ thụ to vài người ôm. Đi đến tối mịt thì đến nhà ông Phàn Tà Phâu. Ông Ké giao tôi và anh bạn đồng nghiệp cho ông Phâu rồi về luôn.
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 2
Ông Phàn Tà Phâu mở tủ lấy hai thanh kiếm báu cho phóng viên xem.
Ông Phâu khẳng định rằng, không thể xem kiếm báu được, nhưng vì nể quen "thằng em" là chủ tịch xã, nên ông sẽ kể chuyện về kiếm báu cho nghe. Sau khi mỏi mồm chửi "thằng em" con chú làm chủ tịch xã mà không chịu quan tâm đến dân bản, ông sai cô con gái vừa bị chồng bỏ đi mổ gà. Ông bảo, chuyện về thanh kiếm thì dài dòng lắm, nó là của tổ tiên người Dao, rất xa xưa, nhưng hỏi ngay lúc đó thì ông không nhớ được, không biết kể từ đâu, nhưng uống mấy bát rượu rồi, có khi sẽ nhớ ra chuyện để kể cho nhà báo.
Không biết ông Phàn Tà Phâu cảnh giác với chúng tôi, hay muốn có người đỡ rượu, nên gọi thêm vợ chồng người cháu ở bên kia sườn núi đến nhà, rồi mới dùng bữa. Phàn Dùn Khuân mới 26 tuổi, nhỏ thó, song đã có vợ và 2 con. Dù tửu lượng chẳng được mấy, nhưng biết cái bụng người vùng cao, nên tôi cứ uống. Chỉ là rượu sắn, rượu ngô, nhưng trong khung cảnh tĩnh mịch rừng già thấy chẳng có thú nào bằng.
Đi vùng cao nhiều, hiểu về phong tục người Dao chút ít, nên tôi và ông Phâu nói chuyện nhiều lắm. Hiểu được bụng mình, với lại rượu đã ngà say, sự cảnh giác của ông Phâu dường như đã tan vào chén rượu. Câu chuyện về thanh kiếm cổ, "kho báu" và cuộc thiên di của người Dao cứ bảng lảng sương khói giữa rừng rậm Hoàng Su Phì.
Thủy tổ của người Dao vốn là Bàn Hồ (Bàn Vương) ở phương Bắc xa xôi. Bàn Hồ vốn là một long khuyển mình dài 3 thước, lông đen với các sọc vàng từ đầu đến đuôi. Ông này vốn từ trên trời giáng xuống trần gian. Do lập nhiều công trạng đánh đông dẹp bắc, nên Bàn Hồ được Bình Hoàng gả cung nữ. Ông sinh được 6 người con trai và 6 người con gái. 12 con lấy 12 họ khác nhau, lập ấp sinh sống ở các vùng khác. Do đất chật, người đông, chiến tranh liên miên, nên các dòng họ Dao phân tán đi khắp ngả. Thế nhưng, truyền thuyết về thủy tổ Bàn Vương của mình thì bất cứ dòng họ nào cũng nhớ. Có nguồn sử liệu ghi chép rằng, người Dao đã di cư từ phương Bắc về Việt Nam chừng 1.000 năm trước, song gia phả, truyền thuyết, sách vở của các họ người Dao thì đều cho rằng, họ mới đi cư vào Việt Nam khoảng 300-400 năm mà thôi.
Theo ông Phâu, sách cổ của người Dao mà ông giữ, thì họ Bàn mới di cư đến Việt Nam gần 400 năm trước, vào thời nhà Lê và cũng là dòng họ đầu tiên thiên di từ phương Bắc về phía Nam. Họ Bàn và họ Phàn là một, là do mỗi vùng có một cách gọi khác nhau mà thành. Cuộc thiên di của họ vô cùng vất vả, gian khổ, phải vượt qua không biết bao nhiêu sông, núi, rừng hoang cách trở. Họ bị chết hàng loạt vì đói khát, vì bị kẻ thù truy sát, tộc người bản địa sát hại, bệnh tật... Mỗi cuộc thiên di là cả họ người Dao cùng kéo đi, đông đến hàng ngàn, hàng vạn người. Thứ mà mỗi cuộc thiên di họ đều phải mang theo và bảo vệ nghiêm cẩn như báu vật là những vật thờ tổ tiên.
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 3
Cờ quạt được sử dụng trong lễ múa kiếm.
Theo ông Phâu, những vật dụng đó vô cùng quan trọng với người Dao. Trong cuộc thiên di, khi qua con sông, qua ngọn núi, người Dao đều bày lễ cúng rất linh đình tưởng nhớ tổ tiên, cầu mong tổ tiên phù hộ cho chuyến vượt sông, leo núi. Những đồ cổ của tổ tiên truyền lại được bày ra trong lễ cúng. Điều đặc biệt, trong lễ cúng đó, họ "mặc cả" với tổ tiên rằng, nếu phù hộ cho họ thành công khi vượt sông, vượt núi, họ sẽ rèn thêm dao, thêm kiếm, thêm vật dụng để tổ tiên... có đồ mà dùng.
Tổ tiên người Dao rèn, chế ra đủ các loại vật dụng như dao, kiếm, búa lớn, búa nhỏ, liềm, cuốc, bát, đĩa, bát hương, gậy... Trong số những món cổ vật, đặc biệt quý là tranh, gồm 18 bức khổ lớn. Những bức tranh thờ này vẽ đủ các vai vế, từ đế vương đến quan chức, dân thường, đàn ông, đàn bà, trẻ con, thầy cúng, binh mã, thế giới âm phủ... Những bức tranh mô tả toàn bộ đời sống, sinh hoạt, văn hóa của người Dao thời xa xưa, kể cả cõi dương lẫn cõi âm. Chính vì thế, những bức tranh này vô cùng quý giá, đặc biệt quan trọng, như tính mạng của họ. "Kho báu" ông Phàn Tà Phâu hiện đang giữ là những vật tối cổ của người Dao. Bản thân ông Phâu cũng không biết những vật dụng này có từ khi nào, nhưng chắc chắn nó có trước khi dòng họ này thiên di về Việt Nam, tức là hơn 400 năm trước.
Cuộc thiên di vô cùng vất vả, khốc liệt và sự tồn tại của người Dao đến ngày hôm nay, theo suy nghĩ của họ, là nhờ sự phù hộ của tổ tiên. Chính vì lẽ đó, người Dao rất coi trọng việc thờ cúng thần linh và tổ tiên. Những vật dụng của tổ tiên được họ giữ gìn cẩn trọng như báu vật và trong những buổi lễ truyền thống, họ mang "kho báu" đó ra để dâng tổ tiên bằng lòng thành kính với những nghi lễ tối cổ.
Người Dao có rất nhiều nghi lễ phức tạp trong năm và mỗi khi thầy cúng hành nghề, đều dùng đến những đồ vật cổ. Tuy nhiên, những vật dụng đem ra cúng bái chỉ là phiên bản. Ngay cả lễ cấp sắc quan trọng nhất đời người, các thầy cúng trong dòng họ cũng chỉ được mượn một số vật dụng đơn giản trong "kho báu" của tổ tiên người Dao do ông Phâu giữ. Để mượn được đồ, thầy cúng phải đem lễ là miếng vải đỏ, túm gạo, xâu thịt dài và chút ít tiền. Thầy cúng phải mang bồ to đến đựng đồ vật. Tuy nhiên, không thầy cúng nào, không dòng họ nào được phép mượn đôi kiếm báu gồm kiếm đực và kiếm cái của tổ tiên người Dao.
Tôi hỏi, trong năm, khi nào thì kiếm báu mới xuất hiện để mọi người chiêm ngưỡng, thì Phàn Tà Phâu bảo rằng, chỉ duy nhất vào ngày tết Cúng nhảy. Tết Cúng nhảy có thể chọn bất kỳ ngày nào, từ ngày mùng 1 đến 15 tháng giêng. Tết Cúng nhảy chính là lễ cúng tổ tiên. Khi đó, tất cả các cổ vật sẽ được trưng ra, đôi kiếm báu sẽ xuất hiện trong cảnh cực kỳ liêu trai chí dị.
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 4
Trong lễ cúng, thầy cúng vung kiếm đâm loạn xạ, nhưng không làm ai bị thương.
Rượu ngà say, ông Phàn Tà Phâu mới mở lời: "Sự thực thì tôi cũng không muốn giấu giếm gì, cũng muốn cho nhà báo thấy, để tuyên truyền, giữ gìn văn hóa người Dao, nhưng ngặt nỗi, đây là kiếm báu của tổ tiên người Dao cả nước này, với những mười mấy họ, nên tôi rất sợ. Cho nhà báo xem rồi, nhỡ dòng họ xảy ra chuyện gì, người ta lại trách mắng thì tôi gánh sao hết tội. Ngay cả người Dao ở bản này, cũng có mấy ai được nhìn kiếm báu đâu, chứ đừng nói chạm vào... Mà có phải chỉ có mỗi kiếm đâu, còn nhiều tranh cổ, đồ cổ quý lắm".
Ông Phâu vừa uống rượu vừa kể về kiếm cổ với lòng thành kính sâu sắc như kính ngưỡng tổ tiên. Xưa kia, chính bố ông là người giữ "kho báu" này. Bố ông mất, thì chuyển cho chú ruột ông là ông Phàn Chòi Cuối. Ông Cuối mất năm 2007 thì con trai là Phàn Tà Loàng giữ. Đến đầu năm nay, các báu vật mới chuyển cho ông Phâu, tức là ông mới được giữ có 8 tháng. Câu chuyện chuyển kiếm cổ và kho báu sang nhà Phàn Tà Phâu quả là nhuốm màu liêu trai, kỳ bí.
Câu chuyện đang đến hồi hấp dẫn thì anh Triệu Dào Và, người Dao trong bản soi đèn pin đến nhà ông Phâu chơi. Nâng chén rượu, Và bảo, sống ở đất này từ bé, đã 40 năm, mà cũng chưa một lần được nhìn kiếm báu. Rồi anh chàng Phàn Dùn Khuân, cháu ruột của ông Phâu cũng chêm vào, rằng mang tiếng là sống ở ngay cạnh nhà chú, uống rượu với chú bao nhiêu lần, mà cũng chưa biết hình thù kiếm báu ra sao. Bản thân Khuân cũng đã mấy lần nhảy lửa, vác búa xông vào trận tiền trong các buổi lên đồng trong lễ Cúng nhảy, nhưng cũng chưa được nhìn kỹ kiếm báu lần nào. Lúc kiếm báu "ra trận", là lúc Khuân đang say máu với đống lửa, với những trận chiến kinh hồn bạt vía không thể giải thích nổi.
Rượu tàn canh, cả nhà báo và gia chủ say mèm, ông Khuân vững dạ tuyên bố: "Thế thì sáng mai ta sẽ cho nhà báo được xem kiếm báu của tổ tiên ta". Nói xong, ông lên giường ngáy o o.
Trận chiến kỳ lạ
Chuyện chuyển kiếm báu và các cổ vật từ nhà Phàn Tà Loàng sang nhà Phàn Tà Phâu mang chất liêu trai kỳ dị. Theo lời ông Phâu, kiếm cổ và các vật báu không nhất thiết phải truyền đến những người trong gia đình, mà có thể truyền cho các gia đình khác, thậm chí dòng họ khác, miễn là người Dao, chung một ông tổ Bàn Vương. Việc kiếm báu được luân chuyển không phụ thuộc vào ý chí của các gia đình, cá nhân, mà phụ thuộc vào "mong muốn của tổ tiên". Nếu gia đình nào tốt, thì kho báu và kiếm cổ ở, còn không tốt, thì sẽ "đòi" đi nhà khác. Nếu tổ tiên muốn đến ở nhà ai, thì nhà đó phải phụng sự. Tổ tiên sẽ tạo ra các dấu hiệu để nhận biết mong muốn của tổ tiên. Tổ tiên đã ẩn linh hồn trong đôi kiếm báu cùng các vật cổ này. Nếu dòng họ không còn ai tốt nữa, thì sẽ phải mang những vật báu này giấu vào hang động và vĩnh viễn không được sờ đến nữa.
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 5
Ông Phâu và hai thanh kiếm báu của tổ tiên người Dao.
Theo ông Phâu, suốt năm 2010, giữa nhà ông và nhà Phàn Tà Loàng xảy ra rất nhiều biến cố kinh dị tương đối giống nhau. Cả hai nhà vợ chồng không êm ấm, bố mẹ chết, con cái chia lìa (con rể ông Phâu bỏ đi lấy vợ khác), nhiều người ốm đau, bệnh tật, trâu lăn ra chết, gà lợn mắc dịch, sâu ăn hết lúa ngô, cơm chưa nguội đã thiu. Ban ngày, chó quan hệ với lợn, nửa đêm trèo lên mái nhà tru như sói, mèo lên bàn thờ ngủ... Rơi vào hoàn cảnh đó, tin rằng, tổ tiên đang hành nhà Loàng và nhà ông Phâu, ý muốn được về nhà ông Phâu ở, nên cả hai nhà đi gặp thầy bói. Thầy bói cũng phán, tổ tiên muốn về nhà ông Phâu ở nên mới gây sự đảo điên như thế. Xem bói xong, họ tộc họp bàn và quyết định như ý thầy bói. Ông Phâu buộc phải có trách nhiệm với tổ tiên, còn Loàng thì dù không muốn trao vật báu gia đình đã giữ mấy chục năm, song cũng phải tuân theo. Có lẽ, vì nguyên do đó, mà chúng tôi hỏi về kiếm báu, Loàng giữ thái độ lạnh nhạt.
Lễ cúng chuyển vật báu của tổ tiên diễn ra hết sức quan trọng. Ông Phâu mổ gà, mổ lợn kính báo tổ tiên, thết đãi dòng họ, ăn uống linh đình cả ngày. Cả dòng họ có mặt đưa tiễn và rước tổ tiên về nhà ông Phâu. Các cụ già, thanh niên, trẻ con đều khóc to lắm, khi được đưa rước tổ tiên đến ngôi nhà mới. Đưa kho báu về rồi, ông Phâu được chia 9 sào ruộng tốt nhất vùng. Ông Phâu sẽ nhận cấy hái, trồng trọt và dùng lương thực đó phục vụ các nghi lễ cúng tổ tiên. Khi gà rừng cất tiếng gáy, con bìm bịp chạy ra từ bụi vầu trước nhà, tôi trở dậy, thì thấy bố con ông Phàn Tà Phâu cùng vợ chồng cậu cháu Phàn Dùn Khuân đã mổ xong gà, chuẩn bị rượu làm lễ cúng, xin tổ tiên cho phép nhà báo được xem kiếm báu. Bàn thờ nghi ngút khói, ông Phâu đứng trước ban thờ đọc bài cúng dài dằng dặc tới cả chục trang sách.
Ông Phâu trèo lên nóc tủ mở khóa, cẩn thận mang một số cổ vật cho chúng tôi xem. Ông Phâu vừa nhấc đôi kiếm cổ, Phàn Dùn Khuân và Triệu Dào Và đã chạy đến đỡ thanh kiếm với sự sững sờ và thành kính. Tôi cứ ngỡ, kiếm báu của tổ tiên người Dao phải lớn lắm, sắc lắm, thậm chí nạm vàng, nhưng hóa ra, đó là đôi kiếm đen sì, xỉn màu và đang han gỉ. Quả thực, đây là đôi kiếm rất cổ. Thanh kiếm to là kiếm đực, nhỏ hơn là kiếm cái. Kiếm đực có chuôi nhọn, kiếm cái chuôi vuông. Ở đuôi chuôi kiếm là những chiếc vòng sắt treo các đồng xu. Chuôi và lưỡi ngăn cách bằng hình chữ U. Tôi cầm thanh kiếm múa thử, nhưng cảm giác không được thoải mái. Có lẽ, đôi kiếm này chỉ mang giá trị tâm linh, chứ không phải dùng để ra trận. Khi nâng hạ kiếm, những chiếc đồng xu va đập vào nhau leng keng nghe vui tai và có lẽ để tạo âm thanh trong những buổi thầy cúng múa kiếm.
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 6
Với kiểm trang trí này, thanh kiếm giống "kiếm cúng" sử dụng trong nghi lễ hơn là kiếm thực chiến.
Ngoài đôi kiếm đực - cái quý nhất này, thì còn nhiều loại dao rựa, dao phay, dao quắm, kiếm, búa, lao lớn bé và các thứ vũ khí khác nữa. Những thứ vũ khí này sẽ được đem ra sử dụng vào tết Cúng nhảy đầu năm. Ngày tết Cúng nhảy, hàng trăm người của dòng tộc sẽ có mặt ở nhà ông Phâu, mổ lợn, gà sống 18 con, rượu nhiều can, cúng bái, ăn uống linh đình.
Sau khi cúng Bàn Vương, sẽ diễn ra nhiều nghi lễ huyền bí, trong đó có lễ nhảy lửa. Người ta sẽ đốt một đống gỗ to tướng để lấy than. Sau khi thầy bói đọc thần chú, lần lượt từng người sẽ nhảy vào đống than hồng. Hứng chí thì lăn lê bò toài trên đống than, bốc than nóng nghịch, cho vào mồm nhai lạo xạo. Cùng với màn nhảy lửa, sẽ là các màn múa thiêng diễn tả lại các sự kiện, huyền tích tổ tiên, về hành trình gian khổ đi tìm đất mới, cuộc chiến đấu giữa thiện và ác, lao động sản xuất, bài học làm người...
Màn lễ bí ẩn nhất trong lễ Cúng nhảy tại nhà ông Phâu là cuộc chiến đấu trực diện. Người cầm thanh kiếm đực là vua, người cầm kiếm cái là tướng. Những người cầm dao, búa, chùy, liềm, gậy gộc là các tiểu tướng, binh lính. Màn múa này gọi là múa dao, hay còn gọi là điệu múa "ra binh vào tướng". Quang cảnh thời khắc đó thật khó lý giải. Những người tham gia cầm vũ khí như bị thôi miên, nhập đồng. Bình thường, họ chỉ là những nông dân chân lấm tay bùn, chưa một ngày tập võ, vác đao đi đánh giặc, thế nhưng, rơi vào trạng thái đó, họ múa kiếm cực kỳ điêu luyện, đẹp mắt.
Nhung thanh kiem bi an o Viet Nam: Kiem bau ky la cua to tien nguoi Dao hinh anh 7
Sau màn múa kiếm kỳ ảo, sẽ diễn ra cuộc chiến cực kỳ quái gở. Những người múa kiếm, đao, búa sẽ xông vào nhau đâm chém ác liệt. Cứ như thể thần linh nhập vào những người này và dùng những miếng võ ác hiểm sát hại nhau. Những mũi kiếm lao vun vút, cắm thẳng vào mặt, họng, ngực đối phương. Nhưng kỳ lạ thay, dù đâm chém cật lực, song chẳng ai bị thương. Những người tham gia múa kiếm đều chống đỡ hoặc né tránh được các đòn hiểm ác. Tại nhà ông Phâu, trong dịp Cúng nhảy đầu năm, một số trường hợp tránh đòn đã nhảy phốc một cái lên tận xà nhà cao tới 3m, rồi lại lao xuống phóng thẳng vào đầu đối thủ. Nhiều vụ đâm chém gãy cả kiếm, búa, nhưng người thì vẫn không hề hấn gì. Sau trận chiến kinh hồn đó, vũ khí gẫy la liệt. Những người thợ của dòng họ này lại phải rèn những vũ khí mới bù vào số vũ khí gẫy, hỏng để chuẩn bị cho trận chiến năm sau.
Câu chuyện về kiếm báu, cuộc thiên di gian khổ, cùng với những câu chuyện kỳ bí liên quan đến các buổi hành lễ của người Dao nơi đại ngàn Hoàng Su Phì thật hấp dẫn, nhuốm màu huyền thoại. Ông Phâu bảo: "Kiếm báu là tổ tiên của người Dao, tổ tiên ẩn mình trong kiếm báu, bảo vệ mùa màng, văn hóa, cuộc sống của người Dao, nên với người Dao kiếm cổ là thứ vô giá. Giá trị của kiếm cổ cũng như các cổ vật tổ tiên người Dao để lại không thể đo đếm bằng tiền được. Tự thân dòng họ sẽ có ý thức bảo tồn, giữ gìn các cổ vật và phát huy giá trị của nó".
Kỳ 2: Những thanh kiếm bí ẩn ở Việt Nam: Thanh kiếm ma ám của người Lào
Kỳ 1: Huyền thoại kiếm báu của người Dao
Thanh kiếm ma ám
Những ngày lang thang ở vùng rừng rú hoang rậm Điện Biên Đông (Điện Biên), tôi được nghe nhiều câu chuyện kỳ bí về ma quỷ. Vùng đất Điện Biên Đông núi cao, rừng rậm, sắc tộc đa dạng, nơi có những dân tộc ít người nhất Việt Nam, như Lào, Xinh Mun, Khơ Mú... và có lẽ cũng là nơi có nhiều "ma" nhất nước. Từ gốc cây, ngọn cỏ, hòn đá, con suối, góc núi... đều gắn với con ma nào đó. Nào là ma gà, ma núi, ma sông, ma suối, ma cây, ma ngũ hải, ma xó... Thậm chí, là ma cà rồng, thứ ma tưởng như chỉ có ở phương Tây xa xôi, cũng hiện diện ở đất này, từng gây nên bao chuyện tang tóc, nghi kỵ.
Nhưng, câu chuyện về thanh kiếm của người Lào, bị ám bởi ma xó, do thầy giáo Hoàng Quốc Huy, hiệu trưởng ở Trường THCS Phì Nhừ (Điện Biên Đông) kể, thì quả thực kỳ lạ. Theo anh Huy, bản thân anh không bao giờ tin vào chuyện ma quỷ, nhưng khi chứng kiến cảnh ông thầy cúng nhỏ thó người Lào, ở Mường Luân cúng ma, bị con ma xó nhập vào người, nhảy múa tưng tưng, húp cả bát mỡ sôi trong chảo nóng, thì quả thực khiến anh khó lý giải theo lẽ thông thường. Nhưng, kinh dị, kỳ quái hơn, là khi "ma xó" nhập vào thanh kiếm, khiến thanh kiếm dựng đứng bằng mũi không đổ, thì còn khó tin hơn... Chuyện thật quái lạ, không thể tin nổi, nhưng tôi cứ lần dò, hỏi đường, tìm đến "vương quốc người Lào", để gặp ông thầy cúng kỳ quái ấy, với thanh kiếm ma ám, gieo rắc nỗi hoài nghi, và nỗi sợ hãi với cư dân vùng đất sơn cùng thủy tận này.
Đường đèo dốc ngược, quanh co đến cả trăm km từ TP. Điện Biên Phủ, mới đến xã Mường Luân. Ngôi tháp cổ xây dựng từ khoảng thế kỷ 15-16, cao bằng ngọn cây, hơi nghiêng mình soi bóng xuống dòng sông Mã. Dòng sông Mã chảy qua Thanh Hóa hùng vĩ như vậy, hoặc qua Sơn La dữ dằn, mà ở đây chỉ nhỉnh hơn con suối. Những tảng đá lô nhô giữa sông, những bãi cát vàng phẳng phiu hai bên bờ, thoai thoải, cảm giác như có thể xắn quần lội qua sông Mã.
Ngay cạnh tháp Mường Luân cổ kính, là cây cầu treo. Người dân trong vùng bảo, đi qua cây cầu ấy, đến đầu bản Mường Luân, thì hỏi nhà ông Lò Văn Pỉn, thầy cúng nổi tiếng nhất trong cộng đồng người Lào ít ỏi chỉ khoảng 10 ngàn người trú ngụ ở Tây Bắc Việt Nam. Người Lào trân trọng gọi các ông thầy cúng là Mo Lăm. Họ là kho báu các giá trị truyền thống, họ thuộc nhiều dân ca, truyện cổ, biết thổi khèn, nhảy múa, chữ viết cổ...
Vòng vèo mãi, rồi lội bờ cát ngược sông Mã một hồi, thì cũng tìm thấy nhà ông thầy mo Lò Văn Pỉn. Chỉ có cô con dâu ở nhà. Trông cô gái độ tuổi trăng tròn, mới 16-17, mà đã ôm con à ơi. Thiếu nữ Lào ấy khá nhanh nhẹn, bảo tôi ngồi chờ, cô địu con chạy lên nương gọi bố chồng về. Nhoáng cái, đã thấy cụ ông móm mém, hom hem quần ống ngắn, ống cao bước vào nhà. Người Lào ở nhà sàn, nhưng thầy mo Lò Văn Pỉn lại ở nhà đất. Nhà có 3 gian. Vợ chồng người con út ở gian ngoài, ông ở gian trong, còn gian phía trong, theo lời ông, là nơi thờ con "ma xó" và thanh kiếm báu truyền đời của tổ tiên.
Thanh kiem ky di bi 'ma xo nhap' vao cua nguoi Lao o Dien Bien hinh anh 1
Thầy mo Lò Văn Pỉn
Biết tôi nhà nhà báo, lại mãi Hà Nội lên, thầy mo Pỉn rất vui. Ông mở chiếc hòm sắt cũ kỹ ở đầu giường, lôi ra "trình báo" mấy tấm giấy khen của tỉnh, vì có công trong việc giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa người Lào. Hóa ra, thầy mo Pỉn cũng đa năng lắm, tham gia nhiều tiết mục văn nghệ. Ông đúng là kho báu văn hóa dân gian của người Lào. Ông với chiếc trống da trâu treo trên tường đánh bập bùng vài điệu cho tôi nghe, rồi lấy chiếc kèn lớn thổi tù tù, khiến khung cảnh rừng rú hoang rậm thêm phần lãng mạn, hoang hoải.
Dè dặt hỏi về thanh kiếm báu bị ma xó ám như lời đồn của cư dân bên bờ thượng nguồn sông Mã, tưởng thầy mo Lò Văn Pỉn sẽ chối, ai dè ông khẳng định là có. Câu chuyện về thanh kiếm báu bị ma xó ám, làm nhiều nhiệm vụ thiêng liêng trong văn hóa cộng đồng bộ tộc Lào quả thực đầy tính huyền bí, ma mị, nhưng không kém phần hấp dẫn. Ông Lò Văn Pỉn dẫn tôi ra phía trái nhà, chỉ tay qua con sông Mã, về phía ngọn tháp cổ nằm dưới tán những tán cây cổ thụ và bảo rằng, truyền thuyết về thanh kiếm báu có liên quan đến cái tháp cổ, biểu tượng của đời sống văn hóa tâm linh của người Lào. Bản thân ông Lò Văn Pỉn không biết thanh kiếm đó có từ khi nào, nhưng theo lời các cụ, thì nó là vật sở hữu của người xây dựng nên những ngôi tháp cổ. Ông cũng chẳng nhớ ông là đời thứ bao nhiêu được sở hữu thanh kiếm đó.
Ông Pỉn sinh năm 1944, năm nay 71 tuổi. Tuổi thơ của ông cùng những đứa trẻ người Lào lớn lên quẩn quanh bên chân ngọn tháp và lam lũ dưới dòng sông Mã. Trước đây, cạnh tháp có một ngôi chùa, trong chùa có nhiều tượng quý, trong đó, có pho tượng vàng ròng. Pho tượng vàng ròng chính là hình ảnh của người dựng lên ngôi tháp. Dựng xong tháp, con cháu đã đúc tượng ông, đặt trong ngôi chùa để thờ. Thế nhưng, năm 1964, Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc, đã thả bom xuống ngọn tháp, nhưng bom không trúng tháp, mà trúng chùa. Ngôi chùa bị san phẳng, giờ chỉ còn dấu tích. Pho tượng quý đó bị vùi lấp, rồi bị kẻ trộm bứng đi. Bao năm qua, những người Lào già cả vẫn nhớ thương pho tượng ấy, mong nó quay trở về, để dựng lại chùa, thờ cúng, nhưng không thấy đâu. Về ngôi tháp, thì không ai còn nắm rõ nguồn gốc một cách cụ thể, cũng không có ghi chép nào kỹ càng, chỉ có những câu chuyện truyền miệng vẫn còn kể lại cho các thế hệ sau.
Vào đầu thế kỷ 11, bên dòng sông Mã, có hai mẹ con người Lào sống chung với nhau. Chàng trai tên Thần, mồ côi cha, nhưng lớn nhanh, tuấn tú, giỏi giang cung kiếm, sức mạnh hơn người. Chàng trai trẻ như chỗ dựa của bản làng, một mình chống lại cướp bóc, tiêu diệt thú dữ. Đến tuổi lấy vợ, bà mẹ đánh tiếng tuyển vợ cho con. Gái ở khắp nơi tìm đến ứng tuyển. Trong số đó, có 12 cô quá xinh đẹp, giỏi giang, nên bà lúng túng, không biết chọn lựa thế nào. Bà mẹ để con trai tự quyết định lựa chọn một trong số 12 người con gái đó. Chàng trai tên Thần cũng không biết chọn cô nào, nên... chọn tất. Không ngờ, cả 12 cô đều vui vẻ chấp nhận chia sẻ chồng cho nhau.
Thanh kiem ky di bi 'ma xo nhap' vao cua nguoi Lao o Dien Bien hinh anh 2
Thầy mo Lò Văn Pỉn khoe hình xăm đặc trưng của dân tộc Lào.
Ngày đó, vùng đất này rừng rậm, thú nhiều, người ít, nên bà mẹ muốn con trai đẻ nhiều con, để cư dân thêm đông đúc. Một hôm, bà mẹ dẫn con ra bờ sông Mã, chỉ vào đàn vịt ở dưới sông và bảo: "Con thấy không, mẹ nuôi 30 con vịt, mà chỉ có 1 con đực. Một con đực quan hệ với 29 con cái cơ đấy!". Cậu con trai nhìn đàn vịt và bảo: "Vâng! con biết rồi mẹ ạ!". Ngày mùng 10, tháng 1 âm lịch năm 1012, cách đây hơn 1.000 năm, chàng trai bắt con vịt đực ăn thịt. Ăn xong con vịt, chàng trai tên Thần thấy mình khỏe hơn nữa. Đêm nào anh ta cũng quan hệ với lần lượt 12 vợ mới thôi. Cô vợ nào cũng được Thần chiều, nên vô cùng hạnh phúc, thỏa mãn, yêu chiều Thần hết sức. Người mẹ không tin lắm, còn hỏi dò: "Con à, con lấy những 12 vợ, có sinh hoạt nổi không?". Thần bảo: "Mẹ cứ yên tâm, con khắc lấy vợ, thì khắc chiều được vợ. Mẹ sẽ sớm có cháu bồng bế thôi".
Vài tháng sau, cả 12 cô đều mang bầu, bụng to vượt mặt. Bà mẹ tủm tỉm cười bảo: "Con mẹ sao mà khỏe thế?". Miệng bà nói vậy, nhưng trong bụng bà không tin con mình lại khiến cả 12 cô vợ đều mang bầu được. Bà sợ, những cô con dâu lén lút với những người đàn ông khác mà mang bầu. Để thử xem con trai có "khỏe" thật không, hay là người khác giúp, một đêm bà chui vào giường, đuổi cô con dâu ra ngoài, rồi nằm im.
Đêm ấy, Thần đi uống rượu nhà bạn, say lướt khướt rồi mới về nhà. Thần ngủ với lần lượt từng cô vợ. Quan hệ với "người vợ" cuối cùng xong, thì "người vợ" ấy bảo: "Con không nhận ra mẹ à?". Anh chàng Thần giật mình, rồi khóc rống lên: "Thôi chết rồi. Giờ con làm thế nào? Ôi, con xin lỗi mẹ". Người mẹ vỗ về bảo: "Thôi, con không khóc nữa. Không sao đâu con. Mẹ biết như thế là con khỏe rồi". Thần lại nói: "Con biết con sai rồi, nhưng ở đây không có nhà tù mà đi, thì giờ làm sao? Mẹ trừng phạt con đi". Người mẹ bảo tiếp: "Người Lào ở đâu, thì ở đó phải có tháp. Vậy con đi làm tháp để chuộc tội đi nhé". Thần vâng lời mẹ.
Thanh kiem ky di bi 'ma xo nhap' vao cua nguoi Lao o Dien Bien hinh anh 3
Thầy mo Lò Văn Pỉn là nghệ nhân tài hoa của cộng đồng người Lào.
Năm đó, anh chàng Thần tròn 20 tuổi. Nghe tin Thần đi xây tháp, trai tráng khắp nơi kéo đến xin đi theo Thần để giúp sức. Thần như một vị tướng quân, chỉ đạo xây dựng đâu ra đấy. Mọi người phong anh ta là tướng, là vị thần của người Lào. Anh xây dựng hết tháp nọ đến tháp kia. Công việc bận rộn đến nỗi anh không về thăm vợ, con, thăm mẹ lần nào. Mục đích của anh là xây đủ 12 tháp, ứng với 12 người vợ, và 12 đứa con, rồi mới tìm đường về nhà. Xây cái tháp cuối cùng ở Mường Luân, thì Thần đã tròn 70 tuổi. Tháp xong, ông Thần qua đời. Lính tráng thiêu xác, đặt tro trong tháp, rồi xây dựng ngôi chùa, đặt tượng ông bằng vàng ròng trong chùa, với tướng tá xung quanh. Thanh kiếm của ông được thờ trong chùa.
Sau này, thanh kiếm linh thiêng được trao cho những người có uy tín trong bản Mường Luân. Người có uy tín thường là thầy mo, thầy cúng, là người chăm lo đời sống tinh thần, sức khỏe cho người dân trong vùng, nên kiếm luôn được trao cho họ. Thanh kiếm kỳ lạ của ông Thần - người xây dựng nên 12 tháp cổ dọc sông Mã đã được truyền đến gia đình ông Lò Văn Pỉn. Rồi đời nọ tiếp nối đời kia sở hữu thanh kiếm, hành nghề thầy mo, đến đời ông Pỉn là thứ 5.
Tận mắt thanh kiếm ma ám
Bài liên quan
Huyền thoại nhuyễn kiếm hồi sinh và lóa mắt với cuộc đấu kiếm của hai võ sĩ
Huyền thoại nhuyễn kiếm hồi sinh và lóa mắt với cuộc đấu kiếm của hai võ sĩ
Chuyện kỳ bí quanh những thanh kiếm thiêng ở Thanh Hóa
Chuyện kỳ bí quanh những thanh kiếm thiêng ở Thanh Hóa
Sau khi kể câu chuyện đầy huyễn hoặc quanh thanh kiếm báu truyền đời, ông Lò Văn Pỉn dẫn tôi vào gian trong của ngôi nhà, mà không phải ai cũng dám bước vào. Tôi nghĩ rằng, đó phải là một căn phòng nghi ngút khói hương, bốn bức tường dán đầy bùa ngải, nhưng hóa ra, căn phòng thật giản dị, chẳng có đồ đạc gì đáng giá, cũng không mang nhiều hình ảnh tâm linh, ma mị. Ông Pỉn chỉ lên vách nhà. Phía sát mái có bàn thờ nhỏ bằng miếng gỗ, gồm bát hương và chai rượu. Thanh kiếm treo ngay dưới bàn thờ. Theo lời ông Pỉn, đây là gian phòng thờ ma xó. Hiện tại, con ma xó đang ẩn trong thanh kiếm, nên không có gì đáng ngại. Tuy nhiên, ngoài ông ra, không ai dám bén mảng vào căn phòng này. Với người Lào, ma xó là thứ vô cùng đáng sợ hãi, không ai dám trêu ghẹo, chọc giận.
Trong văn hóa người Lào ở vùng đất xa xôi này, bệnh tật, ốm đau là do con ma, do vậy, người ta không tìm đến bệnh viện, mà nhờ vả vào thầy cúng cao tay. Chỗ dựa tâm linh ở vùng đất người Lào lẻ loi lạc phía này biên giới chính là ông Lò Văn Pỉn. Trong vùng, ai ốm đau, bệnh tật, tang ma, người ta đều nhờ vào pháp lực của ông thầy cúng Pỉn và con ma xó vô hình.
Theo lời ông Pỉn, khi ai đó bị ốm lâu ngày không khỏi, thì họ sẽ mời ông đến chữa bệnh. Ông Pỉn cúng bái, rước thanh kiếm và con ma xó đi theo. Ông còn mang theo một đoạn chỉ trắng, dùng để dệt vải. Ông Pỉn kéo đoạn dây chỉ từ cuộn chỉ to bằng cổ tay cho tôi xem. Tôi kéo nhẹ thì đứt lìa. Tôi có cảm giác cuộn chỉ này đã nhiều năm, mục nát rồi. Ông Pỉn bảo, cuộn chỉ ấy đã ngót trăm năm, nên có phần mục, kéo nhẹ là đứt. Cuộn chỉ đó không phải để dệt vải, mà để làm phép. Ngoài thanh kiếm, thì ông Pỉn mang đến nhà người ốm một đoạn dây chỉ dài 2-3m. Ông Pỉn rút thanh kiếm châm vào bếp than hồng rực. Làm lễ cúng, thỉnh con ma xó về, thì ông Pỉn sẽ yêu cầu 2 người trong gia đình người bệnh kéo nhẹ sợi chỉ, để sợi chỉ hơi căng.
Thanh kiem ky di bi 'ma xo nhap' vao cua nguoi Lao o Dien Bien hinh anh 4
Ông Pỉn lấy thanh kiếm cho PV xem, nhưng không cho rút kiếm khỏi bao.
Ông lôi thanh kiếm đỏ lừ, đặt lưỡi kiếm lên sợi chỉ. Nếu sợi chỉ đứt, thì ông bỏ về, không chữa trị cho người bệnh, bởi người đó đã hết mệnh, còn nếu sợi chỉ không bị đứt, dù bị thanh kiếm đỏ rực đè lưỡi lên, thì ông sẽ chữa trị và đảm bảo người bệnh sẽ sống. Tất nhiên, hầu hết những lần thử, sợi chỉ đều không đứt. Câu chuyện này quả thực vô cùng khó tin.
Sau buổi gặp ông Pỉn, tôi ngược ra phía ngôi tháp, gặp ông Lò Văn Nố, 79 tuổi, người già hiểu biết và uy tín của bản người Lào, để hỏi về chuyện này. Ông Nố cũng là thầy cúng, chuyên đi cúng ma, cúng chữa bệnh, và ông khẳng định chuyện thanh kiếm nung đỏ không cứa đứt được sợi chỉ là có thật, ông đã chứng kiến cả trăm lần. Ông Nố không chỉ xem ông Pỉn dùng thanh kiếm nung đỏ không làm đứt sợi chỉ, mà tận mắt cả những lần bố đẻ ông Nố làm việc đó. Theo lời ông Pỉn, lý do sợi chỉ không đứt khi tiếp xúc với lưỡi kiếm nung đỏ, là vì con ma xó đã nhập vào sợi chỉ. Con ma xó đã thông báo cho thầy cúng rằng, người bệnh sẽ được cứu sống.
Để lễ cúng chữa bệnh diễn ra, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mà gia chủ chuẩn bị lễ lạt. Nhà nghèo thì chỉ cần con gà, còn khá giả thì con dê. Khi con ma xó xuất hiện, ông Pỉn như thể lên đồng, biến thành người khác. Ông rút thanh kiếm, chém đứt đầu con gà, hoặc rơi cổ con dê, lấy máu nhuộm kiếm. Ông Pỉn vung kiếm, múa loạn xạ, trong khi bệnh nhân nằm bất động trên giường. Ông Pỉn vốn già nua, chậm chạp, nhưng lúc này như một võ sư, với đường kiếm uyển chuyển, lúc nhanh, lúc chậm, lúc xé gió vù vù khiến ai nấy đều khiếp đảm. Múa kiếm một hồi, ông Pỉn chợt ngừng lại, lao đến chỗ bếp lửa cháy đùng đùng, lấy chiếc bát con, vục vào nồi mỡ sôi, chạy đến bên bệnh nhân, uống một hơi hết sạch bát mỡ nóng hàng trăm độ C. Uống mỡ xong, ông lại múa kiếm. Múa kiếm một hồi, lại lao đến chỗ bếp lửa, rút con dao nung đỏ lừ, chạy đến chỗ bệnh nhân thè lưỡi liếm vào dao nung đỏ, khiến lưỡi cháy xèo xèo, khiến ai nấy sợ hãi, rùng mình, dựng cả tóc gáy. Ai cũng tin rằng, con ma xó đã nhập vào thầy cúng và đuổi con ma ám trong người bệnh, khiến người này bị ốm. Và thầy cúng biểu diễn những trò đó, để con ma thấy thầy cúng có năng lực phi phàm, sợ hãi mà bỏ đi.
Tuy nhiên, màn kinh dị nhất, không chỉ khiến người, mà cả quỷ ma đều sợ, đó là màn dùng thanh kiếm báu ngoáy mũi, ngoáy tai, cắm phập vào chân. Thanh kiếm ấy vốn sắc lẹm, chém một hai nhát đứt đầu con dê, thế nhưng, ông Pỉn cứ cầm kiếm ngoáy lỗ mũi, mà máu không hề chảy ra. Ngoáy mũi xong, ông lại dùng lưỡi kiếm chọc vào lỗ tai và ngoáy liên tục. Xong ông ngồi xuống ghế, cầm cầm kiếm chọc thật mạnh vào bàn chân. Kiếm chọc nhanh đến nối nhìn loang loáng. Thế nhưng, kỳ lạ thay, mũi kiếm xuyên đúng vào kẽ chân, giữa những ngón chân sin sít, mà rõ ràng không đâm vào chân. Sau màn đâm kinh dị đó, ông đặt lưỡi kiếm vào kẽ tay, kẽ chân, rồi cò cưa như xẻ gỗ, thế mà thanh kiếm sắc lẹm cứ trơn tuồn tuột, không hề làm đứt tay, chân.
Màn biểu diễn kỳ lạ nhất, cũng là màn cuối cùng, là ông Pỉn cắm thanh kiếm lên bát gạo đặt trên chiếc bàn bày giữa nhà, và thanh kiếm vẫn đứng vững, không hề đổ. Thậm chí, ông đặt mũi thanh kiếm trên bàn, mũi kiếm nhọn hoắt không xuyên xuống mặt bàn, nhưng thanh kiếm cũng không đổ. Nhiều người thấy lạ, còn thử treo áo lên chuôi kiếm, nhưng thanh kiếm vẫn đứng như có thế lực vô hình can thiệp. Lúc này, theo lời ông Pỉn, ma xó đã rời khỏi thân thể của ông, nhập vào thanh kiếm và tạo nên điều kỳ dị đó. Kể xong chuyện, ông Pỉn hẹn rằng, khi nào có lễ cúng ma, ông sẽ gọi tôi lên, để tận mắt và ghi hình.
Tôi trình bày ý tưởng muốn được xem thanh kiếm. Ông Pỉn chắp tay cúng, nói tiếng Lào, gieo đồng xu, rồi mang thanh kiếm cho tôi. Thanh kiếm khá nặng. Tôi kéo nhẹ chuôi, thanh kiếm tụt ra khoảng chục cm, ông Pỉn hoảng hồn xông đến cướp lấy thanh kiếm. Mặt ông chợt tái dại. Ông Pỉn dặn tôi không được rút kiếm ra, nhưng tôi chỉ định kéo nhẹ một chút thôi, không ngờ ông sợ hãi đến vậy. Sợ tôi rút kiếm ra, ông Pỉn mang kiếm cất kỹ, rồi mới trò chuyện tiếp. Theo lời ông Pỉn, ma xó ẩn trong thanh kiếm, nên ai rút kiếm ra, sẽ gặp họa. Theo lời ông Pỉn, từ đời bố ông, đến đời ông, đã có 5 người tự tiện rút kiếm ra nghịch, đều nổi điên. Bố ông và ông phải cúng bái rất nhiều, những người đó mới trở lại bình thường. Tôi chẳng tin chuyện rút thanh kiếm ra mà hóa điên, nhưng quả thực, nỗi sợ hãi thực sự hiện trên khuôn mặt ông Pỉn, cũng khiến chùn tay.
Tạm biệt ông Pỉn và bản người Lào giữa rừng thẳm, mong một ngày sớm được trở lại, để chứng kiến buổi cúng ma, tật mắt những chuyện kỳ dị quanh thanh kiếm ma ám.
Kỳ 3: "Thanh kiếm quái dị"
Kỳ 1: Huyền thoại kiếm báu của người Dao
Kỳ 2: Những thanh kiếm bí ẩn ở Việt Nam: Thanh kiếm ma ám của người Lào
Ở Bảo tàng Hà Giang, những thanh kiếm được trưng bày trong tủ, gây ám ảnh khôn nguôi cho du khách. Con dao chỉ dài cỡ 40 cm với dòng chữ chú thích: "Dao nhọn của tên trùm phỉ Dương Văn Khoắn dùng cướp phá 39 vụ, giết 10 người", "Dao nhọn của tên phỉ Nguyễn Pó Thiên ở Hoàng Su Phì giết 7 người", "Con dao của tên phỉ Dì Pín Sần dùng để giết 7 người ở Xín Mần"...
Nhưng khủng khiếp nhất, hãi hùng nhất là dòng chữ chú thích dưới thanh kiếm kỳ quái, mà người Hà Giang gọi là câu liêm với cái lưỡi cong 90 độ, có chú thích: "Câu liêm của tên trùm phỉ Tráng Séo Khún ở xã Cốc Pài, huyện Xín Mần. Hắn dùng dao này giết 50 người dân vì không đi theo chúng".
Tráng Séo Khún là ai? Chiếc câu liêm bằng thép, dày cồm cộp kia được tên Tráng Séo Khún giết người thế nào? Hắn giết những ai? Giết cán bộ hay dân thường? Trẻ con hay người già?... Có cả trăm câu hỏi mà tôi cũng như khách tham quan muốn đặt ra, nhưng câu trả lời chỉ là mấy dòng chữ ngắn ngủi ghi rõ ràng dưới vật trưng bày: "Câu liêm của tên trùm phỉ Tráng Séo Khún ở xã Cốc Pài, huyện Xín Mần. Hắn dùng dao này giết 50 người dân vì không đi theo chúng".
Con dao giết từng ấy con người, chứ có phải giết con trâu, con ngựa đâu? Con dao trưng bày ở một chỗ trang trọng, tố cáo một thứ tội ác quá rùng rợn, quá đau thương, mà đồng bào, chiến sĩ ta đã phải trả bằng máu, mà chỉ có từng ấy thông tin thôi sao?
Chuyen ron nguoi ve 'thanh kiem quai di' doat mang 50 nguoi o Ha Giang hinh anh 1
Chợ phiên ở Cốc Pài (Xín Mần, Hà Giang).
Lục lâm thảo khấu
Không thu thập được thêm thông tin gì về chiếc câu liêm kinh sợ, cắt cổ, moi bụng, rạch thịt 50 đồng bào nằm im lìm trong Bảo tàng Hà Giang, tôi đành phải ngược về miền tây thủ phủ Hà Giang tìm đến huyện Xín Mần để tìm hiểu.
Thị trấn Cốc Pài ngày cuối tuần họp chợ đông đúc, trai gái dập dìu chợ phiên. Ký ức về những vụ bạo loạn kinh hoàng của phỉ, giết người hàng loạt như thời Trung Cổ man rợ giờ ít người biết đến, trừ những cụ già mắt mờ răng rụng. Mảnh đất cực tây của tỉnh địa đầu này giờ yên bình quá. Đau thương dường như đã trôi theo dòng sông Chảy về mãi đâu rồi. Hỏi một số cán bộ cao tuổi, đã về hưu, thì họ cũng hầu như không nắm được thông tin gì về việc phỉ nổi loạn. Đến tên trùm phỉ Tráng Khéo Khún, cũng chỉ biết rằng hắn là trùm phỉ, giết người không ghê tay bằng chiếc câu liêm. Còn nó giết người thế nào, giết ai, thì chẳng mấy ai biết.
Ngày trước, huyện Xín Mần thuộc châu Hoàng Su Phì. Sau ngày lập nước vẫn thuộc huyện Hoàng Su Phì. Đến năm 1965 mới tách làm huyện riêng. Ngày phỉ nổi loạn, chúng hoạt động ở địa bàn rất rộng, khắp Hoàng Su Phì, mà xã Cốc Pài (giờ là thị trấn Cốc Pài của Xín Mần) chỉ là một địa bản nhỏ của chúng. Các cán bộ địa bàn, cán bộ tiễu phỉ đều từ nơi khác đến. Tiễu phỉ xong thì rút đi. Cán bộ ở lại nắm địa bàn, thì cũng về hưu, chuyển đi nơi khác cả. Một số người về huyện Hoàng Su Phì ở. Không thu thập được thông tin gì, tôi đành ngược trở ra thị trấn Vinh Quang của huyện Hoàng Su Phì.
Tôi được người dân, rồi cán bộ địa phương giới thiệu đến các vị cao niên, gồm ông Hoàng Ngọc Trương, ông Hoàng Ngọc Lâm, ông Trịnh Xuân Dớn. Ông Trương từng là chủ tịch UBND thị trấn Vinh Quang, ông Lâm là nguyên Bí thư huyện Hoàng Su Phì, còn ông Dớn là cán bộ văn phòng của thị trấn. Cả 3 ông đều đã từng trải qua thời kỳ... sống chung với phỉ, hoặc nghiên cứu về phỉ sau này. Tuy không nắm rõ về thân nhân, gốc tích tên trùm phỉ Tráng Séo Khún, cũng như cụ thể hành vi tội ác dã man của hắn với từng đồng bào, chiến sĩ, nhưng những cuộc nổi loạn của phỉ, những cuộc tiễu phỉ, và những chuyện truyền kỳ về chúng, các ông cũng biết được một số thông tin.
Chuyen ron nguoi ve 'thanh kiem quai di' doat mang 50 nguoi o Ha Giang hinh anh 2
"Thanh kiếm" kỳ quái với cái lưỡi cong 90 độ, giết hại 50 mạng người.
Theo ông Trịnh Xuân Dớn, bọn phỉ ở vùng Hoàng Su Phì, Xín Mần nói riêng và Hà Giang nói chung, có những đặc điểm khác biệt. Chúng thực sự là bọn lục lâm thảo khấu, gồm cả bọn trong nước và tàn quân Tưởng Giới Thạch. Bọn chúng lúc ở bên này, lúc ở bên kia biên giới. Chúng thường xuyên tổ chức cướp bóc cả thổ ty lẫn nhân dân. Khi lực lượng cách mạng của ta hình thành, hoạt động mạnh mẽ, thì thực dân Pháp đã mua chuộc bọn phỉ để chống phá cách mạng.
Chúng cấp vũ khí, thành lập "vương quốc" tự trị cho bọn phỉ để chúng nổi loạn. Chúng dùng vũ khí đe dọa nhân dân, cướp bóc của cải, gây chiến giữa dân tộc này với dân tộc khác, khiến họa diệt vong có thể xảy đến với các dân tộc ít người. Bọn phỉ thực sự đã làm mưa làm gió toàn bộ vùng miền tây Hà Giang rộng lớn.
Chúng lập các đồn lũy, dựng lên các "vương quốc" riêng, trong đó, mạnh nhất là "Xứ Nùng tự trị" đặt trung tâm tại châu Hoàng Su Phì. Bọn phỉ chiếm giữ các vị trí trung tâm, lập cơ sở trong rừng sâu, trên dãy Tây Côn Lĩnh hiểm trở để đối phó với cách mạng. Thời điểm đó, đồng bào ta mù chữ 98%, lại bị phỉ tuyên truyền sai về cách mạng, nên đi theo chúng rất đông. Vả lại, nếu không theo thì chúng giết. Bọn phỉ lớn mạnh nhanh chóng, mở rộng địa bàn, tấn công ra tận Bắc Quang, nhằm cắt dứt đường liên lạc Quốc lộ 2 của ta.
Những cuộc càn quét
Trước tình hình đó, tháng 10/1948, Bộ Tư lệnh Liên khu 10 quyết định mở chiến dịch tấn công vào Hoàng Su Phì. Trận mở màn chớp nhoáng của ta đã tiêu diệt 40 tên, trong đó có 8 lính Pháp. 25 tên phỉ bị thương, bị ta bắt sống. Ta có 5 chiến sĩ hy sinh, bị thương 10. Lợi dụng thế thắng như chẻ tre, ta tiếp tục tấn công các đồn, bốt nằm dọc biên giới châu Hoàng Su Phì, giết nhiều phỉ, lấy lại toàn bộ địa bàn.
Ngày đó, ông Hoàng Xuân Lâm mới 20 tuổi, tuy nhiên, ông vẫn nhớ rõ những cuộc chiến vô cùng khốc liệt giữa cách mạng và phỉ. Sau khi chiếm lại địa bàn, các đội võ trang tuyên truyền của ta đã gây dựng cơ sở cách mạng trong lòng dân, tuyên truyền nhân dân chống lại bọn phỉ và thực dân Pháp. Tuy nhiên, theo ông Lâm, cách mạng ta đã chủ quan, rút đi nhanh chóng, bởi tin rằng bọn phỉ đã hoàn toàn tan rã. Không ngờ, một nỗi đau quá lớn ập đến bất ngờ với đồng bào ở châu Hoàng Su Phì.
Trong ký ức của ông Hoàng Xuân Lâm, thì cái ngày 1/12/1948 vẫn lặn sâu vào ký ức ông. Ngay khi bộ đội ta rút đi, bọn Pháp và phỉ đã điên cuồng trả thù bằng cách trút giận lên đầu nhân dân. Chúng từ phía Lào Cai và ngoài biên giới tràn sang xã Cốc Pài giết hại rất nhiều cán bộ và nhân dân. Chúng truy bắt, gom tất cả những người mà chúng cho là theo cách mạng về trung tâm xã để hành hình. Đã có 48 đồng bào, gồm nhiều dân tộc, chủ yếu là Mông, La Chí, Dao bị chúng cắt cổ, moi bụng, ăn gan ngay giữa thanh thiên bạch nhật, trong tiếng khóc than, trong ánh mắt căm hờn của đồng bào.
Chuyen ron nguoi ve 'thanh kiem quai di' doat mang 50 nguoi o Ha Giang hinh anh 3
Vụ xét xử phỉ ở Hà Giang.
Mặc dù không được chứng kiến, nhưng ông Trịnh Xuân Dớn được nghe các cụ già ở Cốc Pài kể lại rằng, khi đó, tên Tráng Séo Khún mới là tên giặc cỏ, chưa phải trùm phỉ, độ tàn ác của hắn thì đã nổi tiếng nhanh chóng. Hắn luôn cầm thanh kiếm kỳ quái với cái lưỡi cong trên tay. Người dân bị trói quặt tay, quỳ giữa đường. Tên Tráng Séo Khún đặt lưỡi câu liêm cong 90 độ vào họng từng người. Một cú giật mạnh khiến họng đứt, máu xối thành tia, khiến người đó chết trong giây lát. Chúng hành hình lần lượt 48 đồng bào một cách tàn khốc như thế, để rồi trong Bảo tàng Hà Giang, có những dòng chú thích đau đớn về những chiếc câu liêm, những con dao giết tới cả chục mạng người.
Quá căm phẫn với bọn "dã thú", cách mạng ta quyết tâm trả thù cho đồng bào. Chỉ 15 ngày sau, tức ngày 16/12/1948, hai đại đội của tỉnh Hà Giang cùng Liên khu 10 dùng hỏa lực tấn công thẳng vào đồn bốt của chúng. Trong trận huyết chiến đầy căm thù ấy, ta đã tiêu diệt và làm thương 51 tên. Hàng chục tên cũng bị bộ đội địa phương, du kích của ta tiêu diệt trên đường chúng rút về Yên Bái.
Đến tháng 3-1949, thực dân Pháp đã điều 300 lính lên Hoàng Su Phì, phối hợp với 1.000 tên phỉ chiếm lại địa bàn. Tên Tráng Séo Khún nổi lên nhanh chóng. Hắn cùng với các trùm phỉ như Xếp Sần, Xếp Vần, Xếp Sinh làm mưa làm gió, tự tung tự tác, vô cùng tàn bạo. Chúng giết hại hàng trăm người dân, đốt không biết bao nhiêu nhà cửa của những người không theo chúng, hoặc chống đối chúng.
Tháng 4/1951, sau nhiều trận đánh giằng co, thiệt hại 2 bên đều nhiều, ta đã huy động lực lượng mạnh tấn công vào Hoàng Su Phì, quyết giành lại địa bàn. Ta đã bắt và diệt tổng số 300 tên. Những tên còn lại chạy tán loạn sang Trung Quốc nhập với phỉ Hạng Sào Chúng và sang Lai Châu nhập với phỉ Pha Long. Nhiều tên lẩn sâu vào rừng chờ cứu viện của thực dân Pháp.
Ký ức đau thương
Trong khi ta chưa thành công trong việc "nhổ cỏ tận gốc", thì Mỹ đã can thiệp. Mỹ cùng Pháp tiếp tục thả gián điệp biệt kích xuống Hoàng Su Phì và Đồng Văn. Để gây thanh thế, trong 3 tháng cuối năm 1951, tên Tráng Séo Khún cùng các trùm phỉ gây ra 50 vụ cướp. Chúng giết đồng bào ta không biết bao nhiêu mà kể.
Ông Trịnh Xuân Dớn moi trong đống tài liệu cũ nát cho tôi xem mấy trang tài liệu còn ghi rõ: "Trong tháng 4 và 5 năm 1952, phỉ cướp phá tràn lan các nơi. Hầu như không có ngày nào, đêm nào không có khủng bố cướp bóc. Phỉ cướp và đốt kho thóc 56 tấn của ta ở Nậm Dịch. Chúng khủng bố, giết hại thân nhân các gia đình theo cách mạng, treo trẻ em lên cây cho đến chết. Chúng bẻ răng, rút lưỡi dân lành, chúng hãm hiếp phụ nữ trước thanh thiên bạch nhật, chúng mổ bụng moi gan các cán bộ kiên trung. Có gia đình bị giết từ già đến trẻ. Có cụ già 90 tuổi bị chúng chặt làm 9 mảnh vì không khai báo".
Nhưng câu chuyện đau thương và bi tráng nhất do tên trùm phỉ Tráng Séo Khún cùng đồng bọn gây ra, ám ảnh ký ức ông Trịnh Xuân Dớn cũng như người dân châu Hoàng Su Phì xưa là vụ chúng sát hại Đoàn văn công Trung đoàn 148 Khu Việt Bắc, khi đi biểu diễn phục vụ đồng bào.
Chuyen ron nguoi ve 'thanh kiem quai di' doat mang 50 nguoi o Ha Giang hinh anh 4
Những thanh kiếm giết hại nhiều người trưng bày ở Bảo tàng Hà Giang.
Tháng 5/1952, đoàn phục vụ đồng bào theo hướng Hoàng Su Phì, qua Cốc Pài sang Si Ma Cai (Lào Cai). Đoàn đi đến đâu, phục vụ đồng bào đến đó. Ngày 15/5, đoàn đến thôn Nàn Ma, thuộc Xín Mần bây giờ và đã tổ chức lưu diễn, rồi qua đêm tại đây. Bản Nàn Ma (giờ là xã Nàn Ma) khi đó không có bóng người. Dân trốn hết vào rừng vì phỉ liên tục tấn công, cướp bóc, giết người. Đoàn đã ở lại nhà ông Thào Seo Xừ. Nửa đêm, tên Tráng Séo Khún đã cầm đầu một toán phỉ đã tổ chức đánh úp. Đoàn văn công đã kiêng cường đánh trả.
Đồng chí Nguyễn Thị Hảo bị chúng chặt đứt một cánh tay, chém xả chân, vẫn cầm dao xông ra đâm phỉ. Tuy nhiên, bọn phỉ quá đông, đoàn văn công lại hết đạn, nên bị chúng sát hại dã man. Nền nhà ông Thào Seo Xừ sũng máu, 7 đồng chí đã tắt thở. 4 đồng chí gồm Dương Bách Niên, Nguyễn Văn Thịnh, Lê Văn Chương, Nguyễn Quang Đạo dù bị thương, nhưng vẫn dìu nhau trốn thoát. Tuy nhiên, do bị thương nặng, địa hình rừng núi hiểm trở, nên cuối cùng đã bị chúng bắt được.
Để khủng bố tinh thần người dân, trưa hôm sau, tên Tráng Séo Khún cùng toán phỉ kéo 4 đồng chí đến bờ suối Nàn Ma, rồi cưỡng ép nhân dân đến xem chúng xử tử. Tên trùm phỉ Tráng Séo Khún đã đe dọa, cưỡng bức những văn công này phải ký giấy đầu hàng và theo chúng biểu diễn văn nghệ chống phá cách mạng. Đe đọa, cưỡng ép các văn công không được, đích thân tên Tráng Séo Khún cầm chiếc câu liêm cứa cổ từng người. Chúng mổ bụng, moi gan các văn công để đe đọa dân bản.
Hành động của bọn phỉ quá dã ma, khiến nhân dân và chính quyền ta vô cùng tức giận. Quá xót thương các văn công, bộ đội ta đã bất chấp nguy hiểm, thọc thẳng vào Xín Mần săn lùng, tiêu diệt và tóm được tới 152 tên, quét sạch phỉ ở vùng Xín Mần. Tuy nhiên, tên Tráng Séo Khún vẫn tẩu thoát vào rừng sâu.
Sau những trận đánh khốc liệt, thứ mà ta thu được chỉ là cây đàn phong cầm nhuốm máu chi chít vết đạn. Giờ cây đàn ấy ở đâu cũng không ai rõ. Chỉ còn những con dao, những khẩu súng của phỉ vẫn nằm im lìm trong Bảo tàng Hà Giang. Câu chuyện đau thương này, những lứa lớn tuổi như ông Dớn, ông Lâm, ông Trương đều nắm rõ, nhưng lịch sử hầu như chưa nhắc đến họ.
Trong khi ta còn chưa tóm hết được những tên phỉ đang lẩn trốn trong rừng để đòi nợ máu cho đồng bào, cho các văn công, thì Pháp tiếp tục tăng cường cho bọn phỉ, nhằm tạo động lực để chúng quấy rối, hòng làm giảm áp lực của ta ở Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp đã thả 117 gián điệp biệt kích cùng vô số đạn dược xuống Nàn Ma, Cốc Pài. Bọn gián điệp biệt kích đã tập hợp tàn quân phỉ.
Như cá gặp nước, tên Tráng Séo Khún lại trở thành bạo chúa của châu Hoàng Su Phì rộng lớn. Chúng vác súng và câu liêm càn quét các bản làng khắp Hoàng Su Phì, giết hại vô số sinh linh. Trong một báo cáo của Đảng bộ tỉnh Hà Giang, trong giai đoạn bọn phỉ nổi loạn, dân số của châu Hoàng Su Phì (khi đó gồm cả Xín Mần) suy giảm nghiêm trọng. Chúng cắt cổ, mổ bụng, moi gan cán bộ, người già, trẻ em. Chúng kích động các dân tộc tàn sát lẫn nhau, khiến máu đỏ sông Chảy. Tên phỉ Tráng Séo Khún nêu cao khẩu hiệu: "Giết cán bộ làm thuế" để báo cáo thành tích với thực dân Pháp.
Tuy nhiên, Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp không ứng cứu được nữa, nên chúng rơi vào trạng thái hoang mang. Tuy nhiên, với tội ác gây ra, không còn đường lùi nữa, nên tên Tráng Séo Khún càng điên cuồng chống trả. Hắn cài mìn dọc sông Chảy đến tận Trung Quốc. Hắn cho người phá đường, đốn đổ cây để cản bước tiến của quân ta. Chúng tăng cường giết người, cướp bóc để trữ lương thực. Tuy nhiên, khí thế chiến thắng Điện Biên Phủ khiến nhân dân tin tưởng vào Đảng, nên đã tích cực đứng lên. Trong huyện du kích nổi lên, bên ngoài bộ đội tấn công vào. Suốt từ ngày 10 tháng 10 đến cuối tháng 11/1954, ta tấn công giải phóng hàng loạt xã, diệt hàng trăm tên phỉ. Tên Tráng Séo Khún gom tàn quân gồm vài trăm tên kéo về xã Chế Là, Nấm Dẩn (thuộc Xín Mần bây giờ) cố thủ. Bọn chúng có rất nhiều súng ống, đạn dược, bộc phá, mìn, cùng lượng đạn đủ bắn vung vãi.
Bị quân đội ta tấn công dữ dội, giết hàng trăm tên, nên "tập đoàn thú dữ" Tráng Séo Khún rất hoang mang. Tuy nhiên, là kẻ đứng đầu, hắn đem uy lực và sự tàn ác ra thể hiện để kích động đồng bọn. Hắn giết bất kỳ tên phỉ nào hoang mang, sợ hãi, có ý ra hàng. Hắn cũng bắt người dân vô tội để giết một cách man rợ để tăng thêm bản lĩnh cho đồng bọn. Dù dùng súng, nhưng lúc nào chiếc câu liêm cũng kè kè bên người hắn, sẵn sàng lấy máu của bất kỳ ai. Hắn ra yêu sách bộ đội ta phải rút lui, tôn trọng địa bàn của hắn.
Đầu tháng 12/1954, ta điều thêm một đại đội ở Bắc Mê đánh thọc mạnh vào sào huyệt cuối cùng của chúng. Cuộc tấn công thọc mạnh đó đã làm tan rã toàn bộ "tập đoàn phỉ", bắn thương tên Xếp Vần. Ta đã tiêu diệt 63 tên, làm bị thương 87 tên, bắt sống 103 tên và kêu gọi 700 tên trở về gia đình, không theo phỉ nữa. Riêng tên Tráng Séo Khún cùng 20 tên phỉ vẫn mất tăm mất tích trong rừng.
Đồng bào châu Hoàng Su Phì vui mừng với chiến thắng, nhưng vẫn không an lòng khi tên Tráng Séo Khún vẫn chưa phải đền mạng. Hắn vẫn như bóng ma phủ lên đời sống đồng bào nơi đây. Khuôn mặt dã thú của hắn, ánh mắt lạnh lùng, với cây câu liêm trên tay nhuốm máu đồng bào vẫn cứ ám ảnh cuộc sống người dân.
Kỳ 4 (kỳ cuối): Hành trình truy bắt dã thú giết người bằng thanh kiếm lạ
Kỳ 1: Huyền thoại kiếm báu của người Dao
Kỳ 2: Những thanh kiếm bí ẩn ở Việt Nam: Thanh kiếm ma ám của người Lào
Kỳ 3: "Thanh kiếm quái dị"
Bóng ma trong rừng
Trong những ngày lùng sục tìm kiếm thông tin về trùm phỉ Tráng Séo Khún, kẻ dùng thanh kiếm kỳ dị mà người dân Hà Giang gọi là câu liêm giết 50 mạng người vô tội ở miền tây Hà Giang, may mắn, tôi được Đại tá Nguyễn Kim Chung, nguyên Chỉ huy Phó chính trị, Phó Bí thư đảng ủy quân sự tỉnh Hà Giang tiết lộ người duy nhất nắm rõ về tên phỉ ác ôn này. Thời kỳ đó, có vài người truy lùng tên Khún, nhưng hiện chỉ ông Nguyễn Bình Địch còn sống. Ông Địch đang sống ở bản Pắc Há (xã Quang Minh, Bắc Quang).
Từ khi về hưu, ông về quê sinh sống. Dù cụt một tay, ông vẫn hăng say làm việc. Ở tuổi 82, với 64 năm tuổi Đảng, cụ ông dân tộc Tày vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Nhắc đến trùm phỉ Tráng Séo Khún, ông Địch vui vẻ hẳn lên. Ông sắp xếp lại ký ức, rồi bắt đầu câu chuyện tỉ mỉ về tội ác của bọn phỉ ở vùng đất biên viễn này.
Năm 1948, tròn 18 tuổi, ông Nguyễn Bình Địch được cử làm chính trị viên xã đội xã Quang Minh. Cũng năm đó, ông được kết nạp Đảng, một vinh dự rất lớn ngày đó. Tháng 10/1950, ông xung phong vào "vùng đất phỉ" miền tây Hà Giang. Đã vào đó, thì xác định khó có ngày trở về. Ông được cử làm bí thư chi bộ xã Trung Thịnh (hiện xã Trung Thịnh tách làm 6 xã, trong đó 3 xã thuộc Xín Mần, 3 xã thuộc Hoàng Su Phì). Ông nắm luôn chức vụ chính trị viên, chỉ huy du kích chống phỉ.
Xã Trung Thịnh chủ yếu là dân tộc Nùng. Với sự giúp sức của thực dân Pháp, bọn phỉ dựng lên cái gọi là "Xứ Nùng tự trị", rồi gây thù chuốc oán với các dân tộc anh em, chống lại cách mạng, tiêu diệt chính quyền non yếu của ta. Ông Địch phải mặc quần áo người Nùng, đóng giả người Nùng để dễ bề hoạt động.
Trong một trận đánh phỉ giáp lá cà, khi ông giương súng ngắm, một tên phỉ bắn xuyên từ bàn tay, chạy dọc cánh tay, thủng nách. Vết thương nặng, lại không có điều kiện chữa trị kịp thời, bị nhiễm trùng, nên phải cưa tay. Sức khỏe hồi phục, tháng 8/1954, ông được phân về ủy ban kháng chiến hành chính huyện Hoàng Su Phì, tiếp tục công tác tiễu phỉ.
Cuoc truy lung ten 'da thu' doat mang 50 nguoi bang 'thanh kiem ky di' hinh anh 1
Xét xử Phỉ ở Hà Giang. Ảnh tư liệu.
Hai trùm phỉ người Nùng quê ở xã Pố Lồ (Hoàng Su Phì) gồm Tại Xếp Vần và Tại Xếp Sần cầm đầu toán phỉ mấy trăm tên bị bộ đội và du kích ta đánh tơi bời. Trong một trận đánh ác liệt, Tại Xếp Vần bị bắt. Trùm phỉ Tại Xếp Sần trốn thoát, dẫn quân hợp lực dưới trướng Tráng Séo Khún. Có thêm vây cánh, Tráng Séo Khún nổi lên thành tên phỉ khét tiếng khắp vùng biên ải. Hắn liên hệ với các nhóm phỉ bên Trung Quốc, nên sức mạnh càng tăng lên, tha hồ làm mưa làm gió dọc dải miền tây tỉnh Hà Giang. Địa bàn hoạt động của hắn kéo dài sang tận Si Ma Cai của Lào Cai. Tuy nhiên, trước sự tấn công tổng lực của ta, bọn chúng đã tan rã. Tráng Séo Khún cùng đồng bọn trốn vào rừng ẩn náu, tìm cơ hội nổi dậy.
Tội ác của Tráng Séo Khún quá man rợ, nên không thể dung thứ. Cấp trên chỉ thị bằng mọi giá phải lùng bắt được tên Khún, hoặc tiêu diệt hắn, tránh mầm họa có thể xảy ra sau này. Tuy nhiên, cuộc truy lùng diễn ra suốt 3 năm, từ cuối năm 1954 đến 1958 vẫn không có kết quả. Tráng Séo Khún vẫn như một bóng ma, lúc ẩn lúc hiện trong rừng.
Diệt phỉ bằng... mồm
Năm 1958, khi đồng chí Nguyễn Văn Mạnh, bí thư huyện Hoàng Su Phì được điều đi nơi khác, thì ông Nguyễn Bình Địch tiếp nhận công việc của một bí thư. Mặc dù vậy, nhiệm vụ lớn nhất của ông là tìm ra tên trùm phỉ Tráng Séo Khún, để nhổ cỏ tận gốc. Qua quá trình điều tra, ông biết tên Khún có quê quán ở thôn Nậm Chà, xã Nấm Dẩn, thuộc Xín Mần bây giờ. Hắn lấy vợ ở xã Chế Là. Ông cùng anh em du kích phục nhiều ngày ở đó, song không thấy sự xuất hiện của hắn.
Qua một số nguồn tin, biết tên này vẫn liên hệ với tàn quân phỉ bên Trung Quốc, nên Nguyễn Bình Địch đóng vai phỉ, sang Trung Quốc tìm dấu tích của hắn. Với dáng người nhỏ thó, bị cụt một tay, không mang theo vũ khí, nên bọn phỉ chẳng tin ông là người đang săn lùng, tìm diệt phỉ. Chính vì thế, sau này, anh em phong cho Nguyễn Bình Địch biệt danh "người diệt phỉ bằng mồm".
Những ngày ở Trung Quốc, thâm nhập sâu vào nhóm tàn quân phỉ, ông nắm được một thông tin quan trọng như sau: Một tháng trước, Tráng Séo Khún ngồi ăn cơm trong một nhà dân cùng với một đồng chí công an, 3 người dân ở Túng Quá Lìn (hiện Túng Quá Lìn là bản của người Mông, ở chân đỉnh Tây Côn Lĩnh, thuộc xã Túng Sán – Hoàng Su Phì). Tên này yêu một cô gái 18 tuổi, người Trung Quốc. Hắn cùng cô bồ trú ngụ ở trong rừng sâu quanh chân đỉnh Tây Côn Lĩnh, giáp biên giới.
Ngày đó, và kể cả bây giờ, Tây Côn Lĩnh vẫn là địa bàn vô cùng hiểm trở, nước độc rừng thiêng, là nơi hổ báo trú ngụ, không có bóng người ở. Đám tàn quân phỉ ở cả Trung Quốc và Việt Nam mỗi khi thất bại thường rút lên đỉnh Tây Côn Lĩnh trú ngụ. Khi bên Trung Quốc truy quét, chúng đột nhập vào Việt Nam, và khi Việt Nam đánh mạnh, chúng chạy sang Trung Quốc. Địa bàn rộng lớn, hiểm trở quanh đỉnh Tây Côn Lĩnh ít người dám ra vào, vì dễ mất mạng như chơi.
Cuoc truy lung ten 'da thu' doat mang 50 nguoi bang 'thanh kiem ky di' hinh anh 2
Ông Nguyễn Bình Địch.
Nắm được thông tin, Nguyễn Bình Địch về nước, xin ý kiến của cấp trên. Ông đánh mật mã hỏi ông Trần Quốc Hoàn (Bộ Trưởng bộ Công an) xin lệnh bắt sống hay giết Tráng Séo Khún. Khu ủy Việt Bắc chỉ thị ông tìm mọi cách thuyết phục, dụ hắn ra hàng. Nếu tóm được hắn, thì sẽ dụ được đám tàn quân của hắn phục thiện. Trong trường hợp không thuyết phục được thì mới thủ tiêu.
Ông Địch về huyện gọi tất cả anh em công an để dò hỏi và đã tìm ra một đồng chí từng ăn cơm cùng 3 người Mông ở bản Túng Quá Lìn. Lúc này, đồng chí công an nọ mới toát mồ hôi, vì không biết từng ngồi ăn cơm, uống rượu với một trùm phỉ khét tiếng. Bản thân Tráng Séo Khún cũng không biết đồng chí này là công an. Nếu thân phận bại lộ thì chắc chắn hắn và đồng bọn sẽ hạ thủ đồng chí công an trước.
Ông Địch lúc đóng giả người Mông, lúc đóng giả người Nùng thâm nhập vào những địa bàn Tráng Séo Khún từng xuất hiện. Ông phát hiện hắn thường xuyên có mặt ở xã Chiến Phố, Tụ Nhân, Tân Tiến cùng với một cô gái. Tuy nhiên, mỗi khi ông tìm đến, hắn lại đã biến mất. Hắn quả thực như một bóng ma trong rừng. Hắn không lưu lại chỗ nào quá 2 ngày. Khi du kích nắm được thông tin, rồi ông tìm đến nơi, thì hắn đã lại mất tăm mất tích.
Ông Địch đã sử dụng "binh pháp" rung cây dọa khỉ, đó là chỉ đạo du kích các xã đồng loạt tổ chức lùng sục khắp nơi, tố giác tội ác Tráng Séo Khún. Hành động lùng sục hắn được công khai, rầm rộ, cốt để hắn sợ hãi. Riêng xã Chế Là thì du kích nằm im, không thực hiện truy bắt, mục đích để dụ hắn trốn về đó.
Sở dĩ ông chọn Chế Là là điểm đón lõng, vì đó là nơi vợ của hắn đang ở. Điều tra về cô vợ này, ông Địch nắm được thông tin thú vị: Trong hoàn cảnh Tráng Séo Khún trốn chui trốn lủi khắp nơi, thì tên Tại Xếp Sần định tòm tem với vợ Khún. Cô vợ báo tin, Khún đã tìm về, dùng câu liêm cắt cổ Tại Xếp Sần.
Đối mặt trùm phỉ
Ông Địch giao cho ông Sinh Khế Dùng, vốn là lý trưởng cho Pháp, đã được cách mạng cảm hóa, bổ nhiệm làm chủ tịch xã Chế Là, làm nhiệm vụ thuyết khách và báo tin. Quả đúng như dự tính, tên Khún đã có mặt ở nhà vợ. Vì từng là chỗ thân quen, từng cùng hội cùng thuyền, nên ông Dùng đã gặp được hắn. Ông dụ hắn ra hàng. Hắn đã đồng ý hàng. Ông Dùng đã xắp xếp một buổi gặp mặt giữa ông Địch và Tráng Séo Khún tại nhà ông Dùng.
Ông Dùng làm một bữa cơm. Lúc đó, ông Địch mới giáp mặt tên Khún. Hắn có vóc dáng nhỏ như ông, nhưng rắn rỏi, nhanh nhẹn. Hắn giỏi võ thế nào thì cả vùng đã biết tiếng. Thấy ông Địch cụt tay, không có vũ khí, hắn cũng yên tâm. Hắn hỏi ông Địch:
- Tôi muốn hỏi ông hai điều trước khi ăn cơm...
- Anh cứ hỏi.
- Bây giờ tôi gặp Xếp Sần tôi có quyền bắn nó không?
Thực ra Khún đã giết Sần một năm trước rồi. Ông Địch biết thừa hắn hỏi để thăm dò mà thôi. Ông Địch giả như không biết gì, nói:
- Anh thấy Xếp Sần anh không có quyền bắn. Anh chỉ có quyền kêu gọi hắn ra hàng như anh. Chỉ khi hắn tấn công anh, anh mới được quyền bắn lại.
- Thứ nữa, là tại sao tôi hàng rồi mà vẫn có dân quân, công an theo dõi tôi?
- Anh hàng rồi, tôi vẫn cho người theo dõi. Tôi bố trí cả dân thường theo dõi anh nữa cơ. Cả tôi cũng theo dõi anh nữa. Tôi làm thế để xem anh có hàng thật không. Anh còn hỏi chuyện gì nữa không?
- Không. Tôi hỏi thế thôi.
Sau đó ông Địch và Tráng Séo Khún ngồi ăn cơm với nhau. Hai bên vừa ăn vừa thăm dò. Không khí rất nặng nề. Ông Địch cảm thấy Khún chưa thực tâm muốn hàng. Ăn xong, ông và Khún chia tay. Sau này ông mới biết, Khún bố trí hơn chục tên thân cận bao vây quanh nhà ông Dùng, với hỏa lực rất mạnh. Chỉ cần Khún ra hiệu, đồng bọn sẽ xông vào nhà giết ông Địch.
Tiêu diệt trùm phỉ
Một tuần sau, 3 đồng chí công an được điều lên Hoàng Su Phì. Cả 3 đồng chí đều là giáo viên dạy võ thuật trong ngành công an. Vài hôm sau thì nhận được tin Tráng Séo Khún có mặt ở nhà vợ. Một đồng chí được bố trí ở huyện, một đồng chí đi trước vào Chế Là, một đồng chí theo sát bảo vệ ông Địch. Cả 3 đồng chí công an đều mang giấy giới thiệu là cán bộ huyện đi kiểm tra việc thu thuế.
Hai hôm sau, từ Cốc Pài báo cáo ra ngoài là đã hẹn gặp được Tráng Séo Khún. Địa điểm gặp là nhà Tráng Lao Khao, bản Nậm Chà. Ông Địch bố trí đồng chí Nghiêm, đồng chí Kim, là cán bộ ủy ban huyện, một đồng chí công an rất giỏi võ, cùng 6 du kích đi vào. 6 đồng chí du kích được trang bị vũ khí, ẩn nấp ngoài rừng, bao vây ngôi nhà một cách bí mật. Ông Địch sang nhà chủ tịch xã Cốc Pài trú ẩn.
Thời điểm đó, ông Địch là cán bộ tiễu phỉ nòng cốt, nhưng hoạt động vừa như một trinh sát, lại như một người cấp tin, thuyết khách, nên phải giữ thân phận rất kỹ lưỡng. Nếu thân phận tiễu phỉ của ông bị bại lộ, thì bọn phỉ có thể lấy mạng ông bất cứ lúc nào. Là cán bộ huyện, sống giữa vương quốc phỉ, ông ở ngoài ánh sáng, chúng ở bóng tối, nên chúng lấy mạng ông dễ như trở bàn tay.
Cuoc truy lung ten 'da thu' doat mang 50 nguoi bang 'thanh kiem ky di' hinh anh 3
Thanh kiếm (có lưỡi như câu liêm) của Tráng Séo Khún.
Tuy nhiên, chờ đến 2 ngày sau mà trùm phỉ Tráng Séo Khún không xuất hiện. Lương thực mang theo thì đã hết. 6 đồng chí du kích có nguy cơ phải rời vị trí phục kích. Đồng chí Kim liền kêu thèm cơm nếp, đề nghị gia đình nấu nồi to. Tuy nhiên, buổi tối đó mọi người cố tình ăn ít, để thừa thật nhiều. Đêm xuống, ông Kim lấy trộm cơm mang cho 6 du kích ở rừng ăn.
Sự kiên trì đã có kết quả. Sáng ngày thứ 3, tức ngày 24/12/1958, Tráng Séo Khún xuất hiện. Hắn lượn lờ quanh nhà Tráng Lao Khao cả tiếng đồng hồ, quan sát tứ phía xem động tĩnh, rồi mới ra mặt. Hắn cầm trên tay chân giò chó đã luộc chín mà hắn đang ăn dở.
Theo lời mọi người kể lại với ông Địch, thì Tráng Séo Khún vừa vào nhà, đồng chí công an từ trong buồng đi ra, bắt tay ông Kim, rồi bắt tay Tráng Séo Khún. Là người giỏi võ, nhìn thế đứng của đồng chí công an, hắn nghi ngờ đồng chí này chuẩn bị ra tay, nên không đưa tay ra bắt. Tuy nhiên, đồng chí công an không để hắn kịp tính toán, nhanh như chớp, quật ngã Tráng Séo Khún. Khám xét trong người hắn, thu được 2 khẩu súng lục đã lên đạn.
Nhận được thông tin đã tóm Tráng Séo Khún, ông Địch lập tức có mặt. Sau khi bàn tính, thì mọi người thống nhất dẫn giải hắn lên xã Xín Mần, phòng đồng bọn của hắn tập kích bất ngờ vào Nậm Chà giải cứu hắn thì rất nguy hiểm cho tính mạng của anh em. Khi đó, Cốc Pài đường xa, hiểm trở, phỉ ẩn náu trong rừng, tấn công rất nhanh, mà ta thì ứng cứu không kịp.
Khi đó đường từ Cốc Pài đến xã Xín Mần chưa có cầu, phải qua sông Chảy bằng mảng. Ông Địch làm nhiệm vụ trói tên trùm phỉ này. Ông chỉ đạo anh em bắt hắn nằm sấp xuống giữa mảng, trói quặt tay ra sau, vì sợ hắn làm lật mảng. 4 đồng chí giữ tay và chân, ấn chặt hắn xuống.
4 đồng chí áp tải hắn qua sông an toàn, thì mọi người nảy sinh tâm lý chủ quan. Nghe đồn đại về Tráng Khéo Khún võ nghệ cao cường, giết người không chớp mắt, ai cũng sợ hãi, nhưng nhìn thân thể nhỏ thó của nhắn, cộng với việc tóm hắn khá dễ dàng, nên nảy sinh tâm lý chủ quan. Đồng chí chỉ huy trưởng biên phòng cùng đồng chí công an đi trước, du kích dẫn giải hắn đi sau. Lẽ ra phải trói cả chân hắn, chỉ để một đoạn dây ngắn, đủ bước đi, nhưng không ai nghĩ hắn đủ bản lĩnh trốn thoát được họng súng của cả chục người, đều có võ nghệ cao cường, nên chỉ trói 2 tay hắn.
Cuoc truy lung ten 'da thu' doat mang 50 nguoi bang 'thanh kiem ky di' hinh anh 4
Chờ phiên Xín Mần.
Từ bờ sông Chảy đến xã Xín Mần phải vượt qua một ngọn núi rất cao. Con đường nhỏ xíu, chênh vênh bên vực thẳm, chỉ đủ lối cho một người đi, hoặc ngựa thồ. Đến đoạn dốc cao nhất, trùm phỉ Tráng Séo Khún nhanh như chớp nhảy phốc một cái, lao thân xuống vực thẳm. Đứng trên mép đường mòn nhìn xuống, thấy hắn lăn lộn mấy vòng, bạt một lối nương ngô. Sợ hắn trốn thoát, tất cả cùng nổ súng. Đạn bắn xối xả, cày đất mịt mù. Khói súng tan, mọi người mới thở phào khi thấy Tráng Séo Khún nằm còng queo trên mặt đất.
Đem xác Tráng Séo Khún về Cốc Pài, hàng ngàn đồng bào đến xem. Ai cũng sôi sục máu căm thù tên trùm phỉ này. Sau đó, một tên phỉ dưới trướng Tráng Séo Khún, lẩn trốn trong rừng lâu ngày đã ra hàng, mang theo thanh kiếm kỳ dị, mà gọi là câu liêm. Theo tên phỉ này, chiếc câu liêm đó là vật bất ly thân của Tráng Séo Khún trong thời gian hắn nổi lên là trùm phỉ. Hắn dùng câu liêm giết người một cách man rợ với mục đích uy hiếp đồng bào, đe đọa những người không theo hắn, hoặc chống lại hắn. Đồng bào ở Xín Mần, cũng như Hoàng Su Phì khi nhìn chiếc câu liêm đó đều trào lên niềm căm hận. Đã có tới 50 oan hồn chết thê thảm bởi chiếc câu liêm ấy.
Ông Nguyễn Bình Địch cho biết: "Việc không bắt sống được tên Tráng Séo Khún là điều đáng tiếc nhất. Sau vụ đó, đồng chí giáo viên công an và chỉ huy biên phòng bị kiểm điểm nặng. Tôi cũng bị kiểm điểm vì tội không trói chân hắn. Tuy nhiên, cũng may mà nó chết, chứ nó còn sống mà báo thù thì quả thực nguy hiểm. Việc chiếc câu liêm giết 50 người trong tay nó thì tôi không nắm được cụ thể có đúng con số đó không và giết những ai, nhưng đồng bào kể thế thì sau này trong lịch sử tiễu phỉ nhắc đến và Bảo tàng Hà Giang chỉ thông tin lại. Thực hư như thế nào, thì cũng cần phải tìm hiểu thêm. Nếu các anh ở Bảo tàng không vào cuộc tìm hiểu sớm, những người già chết hết đi, thì thông tin sẽ càng mù mịt hơn. Làm rõ cuộc đời trùm phỉ Tráng Séo Khún và chiếc câu liêm đó cũng là điều rất nên làm, để con cháu chúng ta thấy được sự hy sinh thế nào của cha ông để bảo vệ Tổ quốc này".
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro