Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

talawas

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 1 [email protected]

CHUYÊN ĐỀ

BAO NHIÊU CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LÀ ĐỦ?

Chủ nghĩa dân tộc là một đề tài hết sức rộng, phức tạp, đã và vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Các bài viết

và bản dịch trong số tạp chí talawas mùa Thu 2009 chỉ có thể đề cập tới một số khía cạnh, với hi vọng sẽ

mở ra những đóng góp và thảo luận mới, đặc biệt về chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.

Để số chuyên đề này tới được với độc giả, không thể không nhắc đến những đóng góp và sự ủng hộ của

nhiều tác giả và dịch giả. Trước hết, chúng tôi trân trọng cảm ơn Giáo sư Vũ Tường, người viết bài giới

thiệu hết sức công phu cho cả số tạp chí, đồng thời là tác giả của một tiểu luận và cũng là người mời

được hai tác giả Kenneth T. So và Sophal Ear tham gia viết bài. Chúng tôi cũng xin vô cùng cảm ơn các

tác giả Sophal Ear, Chris E. Goscha, Charles Keith, Lê Hải, Kenneth T. So, Trần Anh, cùng các dịch giả

Đông Hiến, Hồng Tuấn, Nguyễn Việt, Phạm Minh Ngọc, Phạm Văn, Trần Ngọc Cư và Trịnh Lữ đã dành rất

nhiều thời gian và công sức cho số tạp chí này.

Chúng tôi mong nhận được nhiều phản hồi từ độc giả.

Những người phụ trách: Hoài Phi, Vy Huyền

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 2 [email protected]

MỤC LỤC

Vũ Tường

Lời dẫn - Từ giải phóng đến giải giáp, giải độc và giải hoà: Phong trào dân tộc mới ở châu Á 3

George Orwell - Trịnh Lữ dịch

Ghi chú về chủ nghĩa dân tộc 9

Lê Hải

Chủ nghĩa dân tộc - Một tiến trình lịch sử của văn hoá 20

Christopher E. Goscha - Đông Hiến dịch

Tái cấu trúc các mối quan hệ thời kỳ thuộc địa: Quan hệ liên Á ở Đông Dương thuộc Pháp giai đoạn giữa

hai cuộc thế chiến 28

Charles Keith - Phạm Minh Ngọc dịch

An Nam vùng lên: Những vị giám mục đầu tiên của Việt Nam và sự hình thành giáo hội dân tộc, giai

đoạn 1919-1945 36

Vũ Tường - Nguyễn Việt dịch

"Ngày nay, Cách mạng Đông Dương phải 'hiện nguyên hình'": Bước ngoặt dẫn đến đấu tranh giai cấp và

nội chiến Việt Nam vào năm 1948 59

Trần Anh

Chủ nghĩa quốc gia của chánh quyền Đệ Nhứt Cộng hoà, 1954-1963 77

Thân Tứ Long - Hồng Tuấn dịch

Qua diễn biến của chủ nghĩa dân tộc cận đại Việt Nam đến nay, nhìn nhận tác dụng hai chiều của chủ

nghĩa dân tộc 95

Nghê Hiểu Hà - Hồng Tuấn dịch

Phân tích các nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa li khai dân tộc ở Tây Nguyên Việt Nam 99

Kenneth T. So và Sophal Ear - Phạm Văn lược dịch

Yuon và người Việt: điều gì trong một tên ngoại dụng? 101

Choe Sang-Hun - Phạm Văn dịch

Hàng xuất cảng mới nhất của Nam Hàn: Mẫu tự 106

Samuel Chi - Trần Ngọc Cư dịch

Chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa đẻ ra óc kỳ thị chủng tộc kiểu Trung Hoa 108

Jerry Z. Muller - Trần Ngọc Cư dịch

Ta và chúng - sức mạnh trường tồn của chủ nghĩa dân tộc 111

Về các tác giả và dịch giả 121

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 3 [email protected]

Vũ Tường

Lời dẫn - Từ giải phóng đến giải giáp, giải độc và giải hoà: Phong trào dân tộc

mới ở châu Á

Có cần phải chứng minh rằng chủ nghĩa dân tộc là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt trong lịch sử hiện đại Việt

Nam? Hàng triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập dân tộc trong thế kỷ 20. Dưới khẩu hiệu "Không có gì

quý hơn độc lập tự do," hay "Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa", người Việt đã chiến đấu

gần như liên tục trong gần nửa thế kỷ với người Nhật, người Pháp, người Mỹ, người Trung Hoa, người

Cam Bốt, và với cả đồng bào khác ý thức hệ của mình.

Nhưng đó là lịch sử. Nếu hỏi chủ nghĩa dân tộc có quan trọng trong lúc này-khi chúng ta bước qua thập

kỷ thứ hai của thế kỷ 21-câu trả lời có thể dẫn đến bất đồng sâu sắc. Nhiều thanh niên và trí thức bức

xúc và phản kháng công khai những hành vi lấn lướt của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian gần

đây-một biểu hiện rõ rệt của chủ nghĩa dân tộc. Nhìn từ phía chính quyền, sự phản kháng đó "thiếu ý

thức" và có thể "bị các thế lực nước ngoài lợi dụng." Nhưng ai "thiếu ý thức" và ai "bị các thế lực nước

ngoài lợi dụng" là điều không phải chúng ta có thể dễ dàng nhất trí.

talawas không né tránh các chủ đề gai góc-một việc làm đáng khen ngợi. Và các tài liệu cũng như bài

viết trong số này không có ý định tỏ bày một tuyên ngôn hay cung cấp kết luận cho bạn đọc, mà chỉ hy

vọng mở ra một số vấn đề thảo luận từ góc cạnh lý thuyết và tư liệu để giải thích cả những biến cố lịch

sử lẫn những câu hỏi đương đại.

Chủ nghĩa dân tộc (cũ) và sứ mệnh giải phóng

Lý thuyết về chủ nghĩa dân tộc rộng lớn và phức tạp - như bài tổng quan của Lê Hải trình bày. Phần lớn

các nghiên cứu của phương Tây, như tác phẩm của Benedict Anderson, quan tâm đến nguồn gốc của

chủ nghĩa này như một luồng tư tưởng và phong trào chính trị thoát thai từ "xã hội truyền thống" và trở

thành một khối sức mạnh khổng lồ trong "xã hội hiện đại". Câu hỏi đặt ra là: Nguyên nhân nào khiến

người ta chuyển lòng trung thành với vua chúa thành niềm tin vào sự hiện hữu và giá trị của một cộng

đồng [tưởng tượng là] có chung một ngôn ngữ, lịch sử hay văn hoá? Cách đặt vấn đề này sâu sắc nhưng

có thể bị chỉ trích ở hai khía cạnh. Một là sự tuyệt đối hoá khái niệm dân tộc, khi trong thực tế tinh thần

dân tộc ít khi tồn tại ở dạng thuần khiết, mà pha lẫn với những yếu tố khác cấu thành bản sắc của mỗi cá

nhân và cộng đồng, ví dụ như tôn giáo, ý thức hệ, giới tính, lịch sử, và văn hoá địa phương-đây là

những yếu tố khó có thể cắt nghĩa bằng cặp phạm trù "truyền thống-hiện đại" [Xem bài của Charles

Keith, Christopher Goscha và George Orwell về tính phức tạp của tinh thần dân tộc ở Việt Nam và ở Anh].

Người Việt Nam theo đạo Thiên Chúa có tinh thần dân tộc không? Đối với người cộng sản ở Anh hay ở

Việt Nam, Liên Xô có phải là tổ quốc của họ không? Dưới thời Pháp thuộc, người Việt tự coi mình là người

An Nam hay người Đông Dương?

Nhưng chủ nghĩa dân tộc không chỉ là một niềm tin mà còn là một phong trào chính trị. Đây là chỗ yếu

thứ hai của nhiều lý thuyết gia khi họ phân tích chủ nghĩa dân tộc mà chỉ chú trọng đến những biến

chuyển xã hội rộng lớn (ví dụ Anderson và Ernest Gellner). Trong sách của họ thiếu vắng những nhân vật

chính trị và đám đông quần chúng sẵn sàng bắn giết hay hy sinh theo lời kêu gọi của lãnh tụ. Có lẽ vì

thiếu chú ý đến yếu tố chính trị, họ có xu hướng xem chủ nghĩa dân tộc như một trào lưu tích cực có tính

giải phóng con người. Họ không sai: chúng ta biết tư tưởng dân tộc đã góp phần thay đổi xã hội châu Âu

từ phong kiến cát cứ thành nhà nước công dân. Phong trào giải phóng dân tộc đem đến tự trị ở hầu hết

các nước Á Phi sau Thế chiến thứ hai. Nhưng tư tưởng dân tộc bành trướng ở châu Âu cũng dẫn đến việc

xâm chiếm và nô dịch các dân tộc thuộc địa. Thế chiến thứ hai cũng chứng kiến việc Đức Quốc Xã tàn

sát người Do Thái và việc Liên Xô cưỡng chiếm Ba Lan-cả hai đều nhân danh quốc gia hay chủng tộc

[Xem bài của George Orwell-nhà văn Anh nổi tiếng với các tác phẩm châm biếm chế độ toàn trị cộng

sản-về quan niệm cho rằng mọi chủ nghĩa dân tộc "gắn liền với dục vọng quyền lực"]. Phong trào giải

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 4 [email protected]

phóng dân tộc trong hầu hết các trường hợp cũng không đem đến tự do vì chỉ thay thế các viên Toàn

quyền châu Âu bằng những bạo chúa người bản xứ. Ở châu Á, phong trào này mới ra đời thì bị lái vào

cuộc tranh đua giữa hai khối Tự do và Cộng sản [Xem bài của Vũ Tường sử dụng tư liệu mới giải thích

bối cảnh chính trị năm 1948 khi phong trào dân tộc Việt Nam bị những người cộng sản lái sang con

đường đấu tranh giai cấp và nội chiến]. Kết quả là ở nhiều nơi quyền lợi của dân tộc bị hy sinh cho quyền

lợi của phe nhóm.

Dù chúng ta ủng hộ hay chỉ trích chủ nghĩa dân tộc, một điều hiển nhiên là phong trào dân tộc chủ nghĩa

ra đời cùng lúc với sự hình thành hệ thống nhà nước trên toàn thế giới. Gọi chủ nghĩa dân tộc là chủ

nghĩa quốc gia không sai: mỗi dân tộc có quyền-theo chủ nghĩa này-đòi hỏi một quốc gia bao gồm

lãnh thổ và chính quyền của riêng mình. Nhưng với thời gian, khi các đế quốc lớn đã tan rã, khi tất cả

các dân tộc lớn đã có nhà nước riêng, khi biên giới quốc gia đã trở nên khó thay đổi, và khi dân chúng đã

chán ngán việc chém giết, phong trào giải phóng dân tộc đang mất dần tính cấp thiết của nó. Ở châu Á

chẳng hạn, các phong trào đòi tự trị mang tính dân tộc vẫn dai dẳng ở Tây Tạng, Tân Cương, miền nam

Thái Lan, tỉnh Papua của Indonesia, hay ở cộng đồng Tamil tại Sri Lanka. Nhưng các phong trào này

không có khả năng lôi cuốn hàng triệu người như trong thế kỷ trước. Cái chủ nghĩa dân tộc làm mưa làm

gió một thời trên vũ đài thế giới trong suốt 200 năm kể từ Cách mạng Pháp đã chuyển vào những vùng

biên địa, chỉ còn khuấy động những dân tộc thiểu số [Xem bài của Nghê Hiểu Hà, một tác giả Trung

Quốc có quan điểm giống chính phủ Việt Nam về "chủ nghĩa ly khai" ở Tây Nguyên].

Chủ nghĩa dân tộc (mới) và nguyên nhân ra đời

Nhưng nếu "sợi chỉ đỏ" đã phai màu, chúng ta giải thích thế nào về những biểu hiện chống Trung Quốc ở

Việt Nam gần đây? Không chỉ ở Việt Nam, mà những biểu hiện thậm chí mạnh mẽ hơn đã xuất hiện

trong 10 năm qua ở Trung Quốc (chủ yếu nhắm vào Mỹ và Nhật), ở Hàn Quốc (nhắm vào Mỹ và Nhật), ở

Cam Bốt (nhắm vào Việt Nam và Thái Lan), ở Indonesia (nhắm vào Singapore, Úc và Mỹ) [Xem bài của

Sophal Ear và Kenneth So về quan hệ Cam Bốt - Việt Nam, và bài của Thân Tứ Long, một tác giả Trung

Quốc phê phán "chủ nghĩa bành trướng" của Lê Duẩn]. Sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc này chứng tỏ

các lý thuyết gia "phái hiện đại hoá" (ví dụ: Gellner, Anderson và Hobbawms) phạm sai lầm khi tiếp cận

chủ nghĩa dân tộc như một hiện tượng lịch sử độc nhất vô nhị gắn với bước chuyển từ xã hội truyền

thống sang hiện đại. Cách tiếp cận này đã làm giảm nhẹ vai trò của tinh thần dân tộc trường tồn trong

nhiều cộng đồng. Trong những cộng đồng "già" như người Hán, người Việt hay người Khmer, tinh thần

dân tộc đã hiện hữu trước khi phong trào dân tộc chủ nghĩa hiện đại ra đời với Cách mạng Pháp. Tinh

thần này làm cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở những cộng đồng này mãnh liệt hơn so

với phong trào ở những cộng đồng khác. Tinh thần này vẫn tồn tại sau khi phong trào này đã lắng xuống

từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay cả ở châu Âu và Mỹ, tinh thần này có thể ngủ yên nhưng không

mất đi sau khi đã có nhà nước độc lập [Xem bài của Jerry Muller về sự quan trọng của chủ nghĩa dân tộc

ở châu Âu và Mỹ trong thế kỷ vừa qua và trong tương lai].

Trong bối cảnh thế giới mới, niềm tin vào cộng đồng dân tộc không thay đổi về cơ bản-mặc dù biên giới

mỗi cộng đồng vẫn tiếp tục thay đổi và mối đe doạ đối với từng cộng đồng biến thiên theo thời gian. Thử

xét Việt Nam: Hàng triệu người Việt đã di tản sang phương Tây; hàng chục ngàn công nhân sinh viên

Việt đã sống và làm việc ở nước ngoài; hàng ngàn thiếu nữ Việt đã lấy chồng ngoại; hàng chục ngàn

người ngoại quốc đang sống ở Việt Nam. Cọ xát văn hoá và chủng tộc sẽ tiếp tục buộc người Việt phải

đối mặt với vấn đề bản sắc dân tộc.

Nhưng từ góc độ một phong trào chính trị, những biểu hiện tinh thần dân tộc gần đây ở Á châu phải

được xem là biểu hiện của một phong trào dân tộc mới khác với phong trào đòi độc lập dân tộc của thế

kỷ trước. Có ba nguyên nhân chính tạo ra phong trào mới này.

Thứ nhất, sự trỗi dậy gần như đồng loạt của chủ nghĩa dân tộc mới ở Đông và Đông Nam Á từ đầu thập

niên 1990 đến nay khiến nhiều sử gia [ví dụ Sheila Miyoshi Jager] cho rằng phong trào này có liên quan

đến việc Chiến tranh Lạnh chấm dứt. Chúng ta biết Chiến tranh Lạnh thực chất là việc chia thế giới thành

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 5 [email protected]

hai khối đối chọi nhau: khối Tự do và khối Cộng sản. Ở khu vực châu Á, khối Tự do bao gồm Nhật, Hàn

Quốc, Đài Loan, Philippines, Việt Nam Cộng hoà (cho đến 1975), Thái Lan, Singapore, và Malaysia. Khối

Cộng sản bao gồm Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Afghanistan (1978-1989), Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,

Lào, và Cam Bốt (Khmer Đỏ, 1975-1979; do Việt Nam cai trị, 1979-1989). Indonesia không hoàn toàn

theo khối nào nhưng dưới thời Tổng thống Suharto (1966-1998) ngả về phía khối Tự do. Còn

Burma/Myanmar theo đường lối tự cô lập.

Khi còn Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa dân tộc bị hai chủ nghĩa kia (chủ nghĩa Tự do và chủ nghĩa Cộng

sản) kiềm chế. Các chế độ cầm quyền ở châu Á dốc sức tuyên truyền cho hai chủ nghĩa ngoại lai. Họ

phát động "thi đua yêu nước" nếu yêu nước được hiểu là "yêu chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc Mỹ và

tay sai bán nước" (ở khối Cộng sản), hay "chống cộng sản khát máu tay sai của Đế quốc Đỏ Nga Xô" (ở

khối Tự do) [Xem bài của Trần Anh về chủ nghĩa quốc gia dưới chế độ Ngô Đình Diệm thời Việt Nam

Cộng hoà]. Họ đàn áp những người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc thuần tuý-kiểu Trịnh Công Sơn

phản đối việc người Việt bắn giết lẫn nhau vì ý thức hệ, hay kiểu những sinh viên Hàn Quốc đòi quân đội

Mỹ triệt thoái khỏi bán đảo Triều Tiên và Hàn Quốc thống nhất với Bắc Triều Tiên.

Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, với sự tan rã của khối xã hội chủ nghĩa, các nước cộng sản ở châu Á (trừ

Bắc Triều Tiên) nếu không sụp đổ thì phải quay sang ve vãn tư bản phương Tây để khỏi sụp đổ. Các

nước khối Tự do không còn sợ "cộng sản xâm lăng," cũng muốn ve vãn các chế độ cộng sản để tìm

nguồn công nhân rẻ và dễ bóc lột (vì ở các nước cộng sản mức sống rất thấp và không có công đoàn độc

lập bảo vệ quyền lợi công nhân). Nhiều lãnh tụ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam vẫn tin vào chủ nghĩa

Mác-Lê, nhưng sự sụp đổ quá bất ngờ của cả khối Xô viết khiến họ choáng váng mất nhiều năm. Hơn

nữa, họ khó mở mồm huênh hoang về tương lai của chủ nghĩa xã hội khi đang "ôm chân đế quốc" nhằm

duy trì quyền lợi chính trị và kinh tế cho chế độ. Dân chúng và trí thức cũng không còn thiết tha với ý

thức hệ--ngược lại, trí tưởng tượng của họ hướng đến những cộng đồng chính trị dựa trên những mối

liên hệ khác, trong đó nổi bật là dân tộc và tôn giáo. Phong trào dân tộc mới vì vậy có nguồn gốc một

phần từ sự thay đổi trật tự thế giới.

Nguyên nhân thứ hai của phong trào dân tộc mới ở châu Á là sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc

trong ba thập kỷ vừa qua. Dù Trung Quốc luôn mồm chủ trương "trỗi dậy hoà bình", sự phát triển này

gây lo ngại không chỉ cho siêu cường Mỹ mà cho các lân bang của Trung Quốc. Những lân bang yếu hơn

của Trung Quốc như các nước Đông Nam Á và Úc lại càng lo ngại-đặc biệt là khi Trung Quốc đã có

nhiều cử chỉ bá quyền nước lớn trên biển và trên trường ngoại giao quốc tế. Trung Quốc vẫn có nhiều

"láng giềng hữu nghị" như Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cam Bốt, Myanmar và Singapore, giúp cho phong

trào bài Trung Quốc không đến nỗi lan rộng. Nhưng cả ở những nơi này, những biểu hiện dân tộc chống

Trung Quốc cũng diễn ra ngấm ngầm như ở Singapore hay Việt Nam.

Tự do hoá chính trị là nguyên nhân thứ ba tạo ra phong trào dân tộc mới. Ở Hàn Quốc, Đài Loan và

Indonesia, dân chủ đã chiến thắng độc tài. Sự tham gia rộng rãi của quần chúng vào vận động chính trị

buộc nền chính trị phải thể hiện phần nào ước muốn của họ. Ở Hàn Quốc, đó là ước muốn thống nhất và

bớt lệ thuộc vào Mỹ. Ở Đài Loan, ước muốn đó là một đảo quốc độc lập tách rời khỏi Trung Quốc do

người bản xứ Đài loan, không phải di dân từ Trung Hoa lục địa, cầm quyền. Ở Indonesia, đó là ước muốn

phát triển đạo Hồi và ủng hộ các dân tộc đạo Hồi được xem là bị các nước Tây phương áp bức. Mặc dù

ước muốn của cử tri không thống nhất và cố định (sự kiện đảng bảo thủ của Tổng thống Lee Myung-bak

thắng cử ở Hàn Quốc, Quốc dân Đảng của Tổng thống Mã Anh Cửu thắng cử ở Đài Loan, và các đảng

Hồi giáo thu được ít ủng hộ ở Indonesia gần đây), phong trào dân tộc vẫn âm ỉ.

Ở Thái Lan và Cam Bốt là những chế độ nửa dân chủ nửa độc tài, tự do hoá chính trị cũng dẫn đến

những biểu hiện của phong trào dân tộc mới. Cựu Thủ tướng Thaksin của Thái Lan thắng cử năm 2002

một phần nhờ lập trường chống Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Đảng của Thaksin lập ra có một cái tên rất

yêu nước: Thai Rak Thai (người Thái yêu người Thái). Các cuộc biểu tình gần đây ở Cam Bốt phản đối

Việt Nam và Thái Lan cũng nằm trong xu hướng quần chúng tự phát này.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 6 [email protected]

Ở hai nước cộng sản đang "đổi mới" là Trung Quốc và Việt Nam, quá trình tự do hoá chính trị gắn với

quá trình đổi mới kinh tế từ bao cấp sang thị trường. Sự ra đời của kinh tế hàng hoá tự do nằm ngoài

bàn tay của Nhà nước dẫn đến sự phát triển tự phát của tầng lớp tư sản và trí thức có vị trí độc lập

tương đối. Mặc dù Nhà nước cố gắng tăng cường kiểm soát, bản chất một nền kinh tế thị trường là phức

tạp không thể dễ dàng thống trị. Các hiện tượng bột phát của tinh thần dân tộc chống Mỹ (ở Trung

Quốc) và chống Trung Quốc (ở Việt Nam) nói lên điều này.

Giải giáp, giải độc, và giải hoà

Như vậy việc Chiến tranh Lạnh chấm dứt, Trung Quốc trỗi dậy, và chính trị được tự do hoá là ba nguyên

nhân dẫn đến phong trào dân tộc mới ở châu Á gần đây. Phong trào dân tộc mới rõ ràng không phải một

vài hiện tượng đơn lẻ, hay do một vài thế lực "quá khích" hay "phản động" bày ra, hay là "âm mưu diễn

biến hoà bình của Đế quốc Mỹ", mà có nguyên nhân trong những thay đổi chính trị ở quốc tế, khu vực,

và trong từng nước châu Á. Vấn đề là: phong trào dân tộc mới có mục tiêu gì và quan trọng ra sao?

Đầu tiên, nói Chiến tranh Lạnh chấm dứt là nói ở phạm vi toàn cầu. Không phải các liên minh quân sự--ý

thức hệ đã dễ dàng tan rã ở tất cả các nước. Hãy nói về quân sự trước. Ở các nước tư bản như Nhật,

Hàn Quốc và Đài Loan, Chiến tranh Lạnh chưa hẳn đã kết thúc và quá trình giải giáp chưa thực sự bắt

đầu với sự trỗi dậy của Trung Quốc và mối đe doạ từ Bắc Triều Tiên. Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan đều

mong được Mỹ tiếp tục bảo vệ về quân sự khi Trung Quốc đang hiện đại hoá quân đội và Bắc Triều Tiên

cố gắng chế tạo vũ khí hạt nhân. Tình hình ở Thái Lan, Malaysia và Singapore hơi khác. Trong giai đoạn

Việt Nam chiếm đóng Cam Bốt, các nước ASEAN đã liên kết với Mỹ và Trung Quốc để bao vây, cô lập Việt

Nam. Sau hàng loạt sự kiện cuối thập niên 1980 (Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ, Việt Nam rút quân

khỏi Cam Bốt, các Đảng Cộng sản Malaysia và Thái Lan quy hàng chính phủ sau khi bị Trung Quốc và

Việt Nam bỏ rơi), Việt Nam nói riêng và chủ nghĩa cộng sản nói chung không còn là mối đe doạ thường

trực nữa. Do đó, các chính phủ này ít cần Mỹ hơn.

Trong các nước cộng sản, Trung Quốc có vị trí thuận lợi nhất khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt. Cải cách

kinh tế và quan hệ với phương Tây đã bắt đầu được một thập kỷ. Bắc Kinh có hai kẻ thù quan trọng là

Liên Xô và Việt Nam, thì Liên Xô bị sụp đổ, làm cho Việt Nam không còn đáng để lo ngại nữa. Sự kiện

Thiên An Môn làm cho quan hệ Trung Quốc với phương Tây căng thẳng trong một thời gian-đây chính

là thời điểm khi Trung Quốc mềm dẻo hơn với Việt Nam và chấp nhận giải quyết vấn đề Cam Bốt cũng

như khôi phục quan hệ với Đông Nam Á. Khác với Trung Quốc, cải cách kinh tế ở Việt Nam vừa mới bắt

đầu khi trục Moscow-Hà Nội-Nam Vang tan vỡ. Do hoang mang sợ hãi, Việt Nam đã tìm sự che chở của

Trung Quốc là đồng minh quân sự và ý thức hệ cũ. Mặc dù trên thế giới nhiều người nghĩ đến Việt Nam

như một biểu tượng của "độc lập", Việt Nam có chủ quyền nhưng chưa bao giờ thực sự là một quốc gia

độc lập. Chế độ thuộc địa được thay thế sau năm 1954/1975 bằng sự lệ thuộc nặng nề cả về ý thức hệ

lẫn quân sự vào khối Xô Viết.1 Các cuộc tấn công can thiệp của Mỹ vào Panama (1989), Iraq (1991),

Kosovo (1999), Afghanistan (2001) và Iraq (2003) làm cho Hà Nội càng bám chặt Bắc Kinh hơn vì sợ bị

Mỹ đánh.

Nhưng quân sự không quyết định tất cả, đặc biệt là ở các nước cộng sản. Ở Trung Quốc và Việt Nam,

chế độ đã dựa quá nhiều vào nền tảng ý thức hệ nên việc từ bỏ nó thật khó khăn. Trung Quốc gặp ít khó

khăn hơn Việt Nam vì cuộc Cách mạng Văn hoá khủng khiếp đã làm xói mòn lòng tin vào Mao và ý thức

hệ cộng sản. Nhưng ở cả hai nước, việc thừa nhận đã chọn con đường sai lầm rất khó, vì lấy gì để biện

minh cho sự hy sinh của hàng triệu người trong ngần ấy năm, lấy ai để đứng ra nhận trách nhiệm? Các

1 Sự lệ thuộc này không hoàn toàn do Liên Xô hay Trung Quốc áp đặt lên Việt Nam, mà do lãnh đạo Việt Nam sùng

bái "chủ nghĩa xã hội" như một thứ tôn giáo, có tham vọng thu tóm quyền lực tuyệt đối để thi hành "chủ nghĩa xã

hội" trên toàn cõi Việt Nam (thậm chí cả ở Lào và Cam Bốt nếu điều kiện cho phép), và tự buộc chặt số phận dân tộc

mình vào khối Xô Viết để có thể thực hiện đến cùng tham vọng đó. Khi Khối này sụp đổ, Việt Nam tự nhiên bơ vơ

không nơi nương tựa trong khi kẻ thù từ "Đế Quốc Mỹ sừng sỏ" cho đến các "chư hầu" vây kín chung quanh.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 7 [email protected]

nước tư bản không gặp vấn đề này vì đường lối lựa chọn của họ đúng (hơn phe cộng sản), dẫn đến sự

chiến thắng của khối Tự do trong Chiến tranh Lạnh.

Dân chúng và cả giới trí thức cũng không dễ gì "chia tay với ý thức hệ" (ông Hà Sĩ Phu có lẽ là ngoại lệ?).

Sau bao nhiêu năm bị nhồi sọ lòng căm thù và ghê tởm đế quốc, không phải một sớm một chiều người

Trung Quốc và Việt Nam có thể thay đổi. Ở Trung Quốc và Việt Nam, ý thức hệ có sức sống dai dẳng

hơn ở các nước tư bản trong khu vực. Lý do chính là việc nhồi sọ ở các nước này được tiến hành bài bản

hơn và việc kiểm soát trí thức cũng như thông tin được chặt chẽ hơn. Tuyên truyền cho ý thức hệ được

đưa vào chương trình từ lớp một và học sinh không có chọn lựa nào khác (ví dụ: trường tư hay sách giáo

khoa tư nhân). Với phương pháp "chỉnh phong" do Mao và đồng chí phát minh ra ở Diên An sau đó được

áp dụng rộng rãi ở Trung Quốc và xuất khẩu sang Việt Nam, trí thức Trung Quốc và Việt Nam được nhào

nặn thành tròn trịa. Họ tha hồ mơ tưởng "bay theo đường dân tộc đang bay" (Chế Lan Viên) nhưng thực

chất chỉ là công cụ phục vụ đắc lực cho tham vọng của Đảng cầm quyền.2 Vì bị bưng bít thông tin, không

chỉ dân chúng mà thậm chí giới trí thức biết rất ít về thế giới bên ngoài phe xã hội chủ nghĩa. Do đó, ở

Trung Quốc và Việt Nam, giải độc ý thức hệ mất nhiều thời gian hơn.

Có thể nói phong trào dân tộc mới đang tấn công vào những tàn tích của liên minh ý thức hệ còn sót

lại-những thành luỹ cuối cùng của Chiến tranh Lạnh, những bức tường Bá Linh ở châu Á. Chủ trương nối

lại quan hệ Nam-Bắc tiến đến thống nhất của chính phủ Kim Dae-jung và Roh Mo-hyun của Hàn Quốc đã

dẫn đến phản ứng bất bình ở Washington và những lời kêu gọi của chính khách Mỹ đòi chính phủ Mỹ rút

quân ở Hàn Quốc. Chính phủ mới của Nhật dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Yukio Hatoyama (Đảng Dân

chủ) khi còn tranh cử đã có lập trường không thân thiện với Mỹ và rất có thể sẽ làm xấu đi quan hệ Mỹ-

Nhật trong tương lai. Cựu Tổng thống Trần Thuỷ Biển của Đài Loan đã làm cả Bắc Kinh lẫn Washington

lo sợ vì những lời tuyên bố hay chính sách hướng đến độc lập cho Đài Loan. Quan hệ giữa Indonesia với

Úc hay Mỹ đều gặp trắc trở trong những năm gần đây vì dư luận và những cuộc biểu tình rầm rộ chống

Úc và Mỹ trên đường phố Jakarta. Chúng ta đã thấy trí thức và sinh viên ở Việt Nam đang buộc chính

phủ nước này phải có lập trường cứng rắn hơn đối với Trung Quốc.

Phong trào dân tộc mới không dẫn đến những cuộc chiến đẫm máu như phong trào đòi độc lập của thế

kỷ trước, nhưng nó đang thúc đẩy quá trình hình thành một trật tự khu vực mới ở Á châu. Trong trật tự

mới này, quyền lực không tập trung mà có xu hướng phân bố ra nhiều cực. Lấy ví dụ hai mầm xung đột

lớn đã có từ lâu vẫn tiếp tục đe doạ hoà bình khu vực là Hàn Quốc-Bắc Triều Tiên và Trung Quốc-Đài

Loan. Trong trật tự mới này, ngay cả những xung đột sinh tử này sẽ có nhiều tính chất đa phương hơn

trong đó các nước lớn không đóng vai trò chủ chốt như thời Chiến tranh Lạnh. Xu hướng này còn rõ hơn

đối với những xung đột về lãnh thổ như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, trong hai thập kỷ

vừa qua, các tổ chức đa phương ở khu vực đã phát triển nhiều, và chúng ta có thể hy vọng những tổ

chức này đóng một vai trò nhất định trong việc hoá giải các tranh chấp dẫn đến bớt đổ máu.

Nhưng liệu phong trào dân tộc mới có cản trở được sự trỗi dậy của Trung Quốc như cường quốc số một

của châu Á? Đây là một câu hỏi quan trọng nhưng không có câu trả lời rõ ràng. Ở Trung Quốc, những

biểu hiện của phong trào này (bài Mỹ, Nhật và thống nhất với Đài Loan) sẽ gây lo ngại cho Mỹ, Nhật, Ấn

Độ và Đài Loan. Ở các nước lân bang của Trung Quốc, phong trào dân tộc mới sẽ hướng về Trung Quốc

như một mối đe doạ. Nhưng Trung Quốc sẽ vẫn có đồng minh hoặc bạn bè là các chế độ ở Myanmar,

Việt Nam, Thái Lan, Singapore và Cam Bốt. Cán cân có vẻ chống lại Trung Quốc nhưng không phải hoàn

toàn bất lợi cho Bắc Kinh. Với thị trường lớn và có nhiều tiền đem ra nước ngoài đầu tư, Trung Quốc vẫn

2 Trong khi đó. ở Hàn Quốc, Việt Nam Cộng hoà, Thái Lan và Philippines trong những năm 1960 vẫn có biểu tình

chống Mỹ. Phái Mác xít có khá đông tín đồ trong những sử gia trí thức Nhật, nơi Đảng Cộng sản được công khai hoạt

động. Các trí thức Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan hay Thái Lan được đào tạo tại Mỹ hay tại Tây Âu (nhiều người trong số

họ du học bằng học bổng chính phủ) tha hồ tiếp cận các luồng tư tưởng khác nhau. Trên thực tế, nhiều lãnh tụ của

phong trào chống Mỹ ở Philippines, Thái Lan hay Indonesia được học hành ở phương Tây và tiếp thu những tư tưởng

thiên tả ở đó (như trước kia Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lê Nin lúc ở Pháp).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 8 [email protected]

có khả năng thêm nhiều bạn (Bangladesh, Philippines, Indonesia, Úc, Hàn Quốc, thậm chí Đài Loan) đủ

để cân bằng với Mỹ, Nhật và Ấn Độ.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc còn tuỳ thuộc vào việc phong trào dân tộc mới có dẫn đến dân chủ hoá ở Á

châu hay không, nhưng cũng không có câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi này. Chúng ta đã thấy quá trình

tự do hoá chính trị đã dẫn đến phong trào dân tộc mới ra đời. Ở một số nước như Hàn Quốc, Đài Loan

và Indonesia, phong trào này giúp nền dân chủ mới tiếp tục được củng cố qua hai quá trình. Một là quá

trình vận động dân chúng tham gia chính trị qua các tổ chức đảng phái hay qua việc bỏ phiếu. Hai là

phong trào cung cấp môi trường rèn luyện cho các chính trị gia đối lập. Ở những nước vẫn còn độc tài,

phong trào dân tộc mới liên kết các lực lượng đối lập và thúc đẩy quá trình giải độc ý thức hệ, giúp trí

thức cắt đứt sự lệ thuộc và thói quen sợ hãi chính quyền. Nhưng phong trào này không đủ để dẫn đến

dân chủ hoá. Các chế độ ở Trung Quốc và Việt Nam có lực lượng quân đội và công an đủ để đàn áp đối

lập. Mặc dù giới trí thức đã được giải độc, phong trào cần có sự tham gia của đông đảo dân chúng, sự

bất đồng sâu sắc trong hàng ngũ lãnh đạo, hay tác động bên ngoài để dẫn đến dân chủ hoá. Cũng có

khả năng Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam sử dụng phong trào dân tộc để tăng cường sự lãnh

đạo của họ--như đã từng xảy ra trong lịch sử và có thể tái diễn.

Một đóng góp tích cực của phong trào dân tộc mới là việc thúc đẩy quá trình giải hoà giữa các nhóm

trong cùng một dân tộc bị chia rẽ vì ý thức hệ trong Chiến tranh Lạnh. Khi máy bay Mỹ ném bom

(nhầm?) vào Toà Đại sứ Trung Quốc ở Belgrade vào năm 1999, không chỉ người dân Trung Quốc mà Hoa

kiều ở các nước khác cũng tham gia biểu tình phản đối chính phủ Mỹ. Khi chính phủ Việt Nam để Trung

Quốc lấn lướt ở biển Đông, không chỉ trí thức trong nước Việt Nam mà cả Việt kiều (bình thường không

"yêu nước") cũng tham gia phản đối. Ở Hàn Quốc, Tổng thống Kim Dae Jung và Roh Moo-hyun đã thay

đổi rất nhiều cách người Hàn Quốc suy nghĩ về người anh em Bắc Triều Tiên.

Nhưng giải hoà trong nội bộ dân tộc xây dựng trên chủ nghĩa dân tộc không phải là một điều hoàn toàn

tốt đẹp (giải hoà xây dựng trên cơ sở tha thứ nhau về những hận thù trong quá khứ mới tốt). Giải hoà

xây dựng trên chủ nghĩa dân tộc nghĩa là lòng thù hận thay vì hướng về nhau, được (tạm thời?) chuyển

sang một "kẻ thù chung của dân tộc". Giải hoà trong nội bộ dân tộc có thể dẫn đến hận thù mới giữa các

dân tộc. Phong trào dân tộc mới ở Trung Hoa lục địa sẽ làm cho việc chính quyền Trung Quốc nhân

nhượng với Đài Loan hay Tây Tạng khó khăn hơn. Phong trào dân tộc mới ở Đài Loan cũng gây ra căng

thẳng giữa những người muốn Đài Loan độc lập và những người xem Đài Loan là một phần của Trung

Quốc. Phong trào dân tộc mới đã dẫn đến căng thẳng quân sự giữa Thái Lan và Cam Bốt, và có thể dẫn

đến chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Chúng ta có thể kết luận ở đây. Cũng như tất cả mọi phong trào chính trị, cái tích cực và tiêu cực đan

xen nhau trong phong trào dân tộc cũ và mới. Phong trào dân tộc mới có sức mạnh tiềm tàng tạo ra

những thay đổi trong khu vực mang tính chất cả hoà hoãn lẫn xung đột. Khác với phong trào dân tộc cũ,

phong trào mới không có sứ mệnh giải phóng mà làm nhiệm vụ giải độc ý thức hệ và giải hoà trong nội

bộ các dân tộc bị chia rẽ trong quá khứ. Cách đây một thế kỷ, phong trào dân tộc cũ đã đem đến cho

dân các xứ thuộc địa nhiều hy vọng được giải phóng, nhưng chúng ta đã thấy kết quả khá khiêm tốn

trong khi xương máu đổ ra không phải ít. Chúng ta còn phải chờ xem liệu phong trào dân tộc mới ở châu

Á có mang đến giải độc và giải hoà trong hoà bình không.

______________________________

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 9 [email protected]

George Orwell

Ghi chú về chủ nghĩa dân tộc

Trịnh Lữ dịch

Byron đã có dùng đến từ tiếng Pháp LONGUER theo nghĩa 'dài dòng chán ngắt' ở đâu đó và nhân tiện nói

rằng chả biết làm sao trong tiếng Anh lại không có cái TỪ ấy, mặc dù cái SỰ 'dài dòng chán ngắt' thì

chúng ta có đầy rẫy. Cũng như vậy, đầu óc con người có một thói quen phổ biến tác động đến cách nghĩ

của chúng ta về hầu hết mọi chuyện, mà chúng ta vẫn chưa cho nó một cái tên gọi nào. Khi tìm ví dụ

cho hiện tượng này, tôi đã chọn từ 'nationalism' - chủ nghĩa dân tộc -, nhưng bạn đọc sẽ thấy ngay rằng

tôi không dùng nó với nghĩa thông thường, vì cái cảm xúc mà tôi đang nói đến bằng cái từ ấy không phải

lúc nào cũng gắn với cái gọi là một dân tộc - nghĩa là một giống người hoặc một vùng địa lý riêng biệt.

Nó có thể gắn với một giáo hội hoặc một giai cấp, hoặc có thể mang một nghĩa tiêu cực đơn thuần là

CHỐNG LẠI một cái gì đó mà không cần phải có bất kỳ một đối tượng trung thành tích cực nào.

Tôi dùng từ 'chủ nghĩa dân tộc' hoặc 'tinh thần dân tộc' trước hết với nghĩa là một thói quen cho rằng

con người có thể được phân loại giống như côn trùng, rằng ta có thể yên trí dán nhãn cho hàng triệu

hoặc hàng chục triệu người là 'tốt' hoặc 'xấu'3. Nhưng ở nghĩa thứ hai, còn quan trọng hơn nhiều, tôi coi

'chủ nghĩa dân tộc' hoặc 'tinh thần dân tộc' là thói quen đồng nhất mình với một dân tộc hoặc một đơn vị

duy nhất nào đó khác, đặt nó cao hơn thiện ác và không công nhận một nghĩa vụ nào khác ngoài việc

thúc đẩy các quyền lợi của nó. Ta không nên nhầm lẫn chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước. Cả hai

cụm từ này đều thường được dùng một cách mơ hồ đến nỗi bất kỳ định nghĩa nào cũng đều có thể bị

phản bác, nhưng ta bắt buộc phải phân biệt chúng vì chúng có liên quan đến hai ý tưởng khác nhau và

thậm chí còn trái ngược nhau. Với tôi, 'chủ nghĩa yêu nước' là tinh thần dâng hiến cho một nơi chốn cụ

thể và một lối sống cụ thể mà ta tin là tốt đẹp nhất trên thế gian này, nhưng không có ý muốn áp đặt nó

cho ai. Về bản chất, chủ nghĩa yêu nước là một tinh thần tự vệ, cả về quân sự và văn hoá. Nhưng chủ

nghĩa dân tộc thì lại gắn liền với dục vọng quyền lực. Mục đích cố hữu của tất cả các nhà dân tộc chủ

nghĩa là tìm kiếm nhiều quyền lực hơn và nhiều đặc quyền hơn. KHÔNG phải cho bản thân họ, mà là cho

dân tộc hoặc đơn vị mà họ đã chọn để hoá thân vào đó.

Khi chỉ áp dụng cho các trào lưu dân tộc chủ nghĩa cụ thể ở Đức, Nhật và các nước khác thì tất cả những

chuyện này đều rõ ràng. Đứng trước một hiện tượng như chủ nghĩa Quốc xã ở Đức mà chúng ta có thể

quan sát từ bên ngoài chẳng hạn, hầu như tất cả chúng ta đều sẽ có cùng một ý kiến về nó. Nhưng ở

đây tôi phải nhắc lại điều tôi đã nói ở trên, rằng tôi chỉ đang dùng từ 'chủ nghĩa dân tộc' vì chưa có một

từ nào tốt hơn. Chủ nghĩa dân tộc, trong cái nghĩa mở rộng mà tôi đang dùng đây, bao gồm cả những

trào lưu và khuynh hướng như chủ nghĩa Cộng sản, Thiên chúa giáo chính trị, chủ nghĩa phục quốc Do

Thái, chủ nghĩa bài Do thái, chủ nghĩa Trotsky và Hoà bình chủ nghĩa. Nó không nhất thiết mang ý nghĩa

trung thành với một chính phủ hoặc một đất nước, càng không phải là đất nước của chính mình, và càng

không nhất thiết là những đơn vị dính dáng đến nó phải thực sự tồn tại. Xin kể ra một vài ví dụ rõ ràng:

chủ nghĩa phục quốc Do Thái, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, giai cấp vô sản và Chủng tộc da trắng, tất cả

đều là đối tượng của tình cảm dân tộc chủ nghĩa mãnh liệt, nhưng sự tồn tại của chúng có thể bị thắc

mắc một cách nghiêm trọng, và chẳng có một định nghĩa nào đã có của chúng được chấp nhận hoàn

toàn.

Cũng cần nhấn mạnh lại một lần nữa rằng xúc cảm dân tộc chủ nghĩa có thể là tiêu cực đơn thuần. Ví

dụ, có những người theo chủ nghĩa Trotsky đã trở thành kẻ thù hiển nhiên của Liên bang Xô Viết mà

3 Dân tộc, và cả những tổng thể mơ hồ hơn như Giáo hội Thiên chúa hoặc giai cấp vô sản, thường được coi như các

cá nhân và nhắc đến bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít. Mở tờ báo nào ta cũng có thể thấy những câu nhận

xét đầy phi lí như 'Đức là một dân tộc có bản chất phản trắc' và hầu như ai cũng có những câu khái quát bừa bãi

đầu lưỡi về đặc tính dân tộc ('Bọn Tây Ban Nha đều có máu quí tộc cả', hoặc 'Bọn Anh thì đứa nào mà chả đạo đức

giả'). Thỉnh thoảng nghe thì những câu khái quát ấy có vẻ vô lí, nhưng thói quen nói chúng thì không ai bỏ được, và

cả những người rõ ràng có quan điểm quốc tế như Tolstoy hoặc Bernard Shaw cũng mắc tội nói những câu đầu lưỡi

ấy (chú thích của tác giả).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 10 [email protected]

không cần xây dựng một lòng trung thành thay thế với bất kỳ một đơn vị nào khác. Khi hiểu được những

hàm nghĩa của điều này thì bản chất của cái mà tôi gọi là chủ nghĩa dân tộc sẽ rõ ràng hơn rất nhiều.

Một người dân tộc chủ nghĩa là người chỉ chủ yếu nghĩ đến cạnh tranh đặc quyền. Người ấy có thể là một

nhà dân tộc chủ nghĩa tích cực hoặc tiêu cực - nghĩa là anh ta có thể dùng năng lượng tinh thần của

mình để xây dựng hoặc phá hoại - nhưng là gì đi nữa thì ý nghĩ của anh ta luôn hướng về những thắng

lợi, thất bại, vinh quang và ô nhục. Anh ta thấy lịch sử, đặc biệt là lịch sử đương đại, là chuỗi hưng thịnh

và suy tàn không ngừng của các đơn vị quyền lực lớn, và sự kiện nào diễn ra cũng có vẻ chỉ cho thấy

rằng phe của anh ta đang lên, còn đối thủ đáng căm thù nào đó kia thì đang xuống. Nhưng một điều

quan trọng cuối cùng là không được nhầm lẫn giữa chủ nghĩa dân tộc với tinh thần tôn thờ thành đạt

đơn thuần. Người theo chủ nghĩa dân tộc không theo nguyên tắc chọn theo phe nào mạnh nhất. Ngược

lại, một khi đã chọn phe cho mình, anh ta tự thuyết phục rằng đó là phe mạnh nhất, và có thể khăng

khăng tin như vậy ngay cả khi sự thật hoàn toàn chống lại mình. Chủ nghĩa dân tộc là lòng khát khao

quyền lực được tôi luyện bởi tinh thần tự lừa dối. Nhà dân tộc chủ nghĩa nào cũng có khả năng giả dối

trắng trợn nhất, nhưng với ý thức rằng mình đang phụng sự cái gì đó lớn lao hơn chính mình, anh ta

cũng có lòng tin không gì lay chuyển được rằng mình đang chính đạo.

Sau khi đã đưa ra một định nghĩa dài như vậy, tôi chắc ta phải công nhận rằng cái thói quen của đầu óc

mà tôi đang nói đến ở đây là rất phổ biến trong giới trí thức Anh, còn hơn cả trong đầu óc của quảng đại

quần chúng. Với những ai quan tâm sâu sắc đến chính trị đương đại, một số vấn đề đã bị những toan

tính đặc quyền làm cho méo mó đến mức hầu như không thể nào có được một cách nhìn duy lý chân

chính. Trong hàng trăm các ví dụ có thể đưa ra ở đây, ta hãy thử lấy chuyện này: Trong ba đồng minh

lớn là Liên Xô, Anh và Mỹ, nước nào đã đóng góp nhiều nhất cho việc đánh bại nước Đức? Về lý thuyết,

người ta có thể đưa ra được một câu trả lời có lý lẽ và thậm chí còn không thể tranh cãi được nữa. Tuy

nhiên, trong thực tế, những tính toán cần thiết lại không thể nào làm nổi, vì bất kỳ ai khi đã bận tâm đến

một câu hỏi như thế cũng sẽ tất yếu nhìn nhận nó trên cơ sở cạnh tranh đặc quyền. Vì vậy, người ấy sẽ

BẮT ĐẦU bằng việc quyết định bênh vực Liên Xô, Anh hoặc Mỹ tuỳ trường hợp của mình, và SAU ĐÓ mới

tìm kiếm các lập luận có vẻ sẽ hỗ trợ cho quyết định ấy. Và còn có hàng chuỗi dài các câu hỏi liên đới mà

ta chỉ có thể có những câu trả lời trung thực từ những ai hoàn toàn vô tư với vấn đề đang đặt ra, mà ý

kiến của họ thì lại có thể chả được ai để ý. Đó chính là một phần nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất

bại nhiều đến thế của những tiên liệu chính trị và quân sự ở thời đại chúng ta. Hãy ngẫm mà xem, trong

số tất cả các 'chuyên gia' của tất cả các trường, không một người nào có khả năng dự đoán một sự kiện

dễ xảy ra đến thế như Hiệp ước Nga-Đức 19394. Và khi có tin Hiệp ước ấy thì người ta lại đưa ra những

giải thích khác nhau vớ vẩn nhất, cùng những tiên đoán vừa mới đưa ra đã bị thấy là sai lầm, và hầu như

tất cả đều xuất phát từ mong muốn làm cho Liên Xô có vẻ tốt hoặc xấu, mạnh hoặc yếu, chứ không dựa

trên một nghiên cứu nào về các khả năng diễn biến của tình hình. Giống như các nhà chiêm tinh, các nhà

bình luận chính trị hoặc quân sự có thể sống sót qua hầu hết các lầm lẫn của mình, vì những người tin

theo họ không cần họ thẩm định sự thực mà chỉ cần họ kích động những tình cảm trung thành có tính

dân tộc chủ nghĩa.5 Mà những xét đoán mỹ học, đặc biệt là văn học, cũng thường bị nhiễu loạn hệt như

những xét đoán chính trị. Khó có một người Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc thích đọc Kipling hoặc một

người theo chủ nghĩa Bảo thủ thấy được giá trị của Mayakovsky, và lúc nào người ta cũng có ý tin rằng

cuốn sách nào không phù hợp với khuynh hướng của mình thì tất phải là một cuốn sách tồi về văn

4 Một vài cây bút có khuynh hướng bảo thủ, như Peter Drucker, đã tiên đoán một thỏa ước giữa Đức và Nga, nhưng

họ nghĩ đó sẽ là một liên minh thực sự hoặc một câu kết lâu dài. Không có cây bút Marxist hoặc cánh tả nào, với bất

kì màu sắc nào, đã mon men gần được đến một tiên đoán về Hiệp ước này (chú thích của tác giả).

5 Các nhà bình luận quân sự của báo chí phổ thông có thể được phân loại thành thân Nga và bài Nga, thân Đức hoặc

bài Đức. Nhưng sai lầm như tin rằng Phòng tuyến Mrginot là không thể chọc thủng được, hoặc tiên đoán rằng Nga

sẽ chinh phục Đức trong vòng ba tháng, vẫn không lay chuyển được danh tiếng của họ, vì họ luôn nói những gì

người đọc của họ muốn nghe. Hai nhà phê bình quân sự được giới trí thức thích nhất là Đại uý Liddell Hart và Thiếu

tướng Fuller, ông Đại uý nói lực lượng phòng thủ mạnh hơn lực lượng tấn công, ông Thiếu tướng thì bảo tấn công

mạnh hơn phòng thủ. Mâu thuẫn ấy không ngăn họ vẫn được chấp nhận như những cây bút có thẩm quyền. Cái lý

do bí mật khiến họ được các nhóm cánh tả hâm mộ là cả hai đều có xung khắc với Bộ Quốc phòng (chú thích của tác

giả).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 11 [email protected]

chương. Người có quan điểm dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ thường cư xử hời hợt như vậy mà không biết

đó là bất lương.

Ở Anh, nếu chỉ xét đến số người tham gia, có lẽ hình thức dân tộc chủ nghĩa thịnh hành nhất vẫn là chủ

nghĩa sô-vanh hiếu chiến Anh lỗi thời. Rõ ràng nó vẫn đang lan tràn, và hầu hết các nhà quan sát từ

khoảng chục năm về trước sẽ không thể tin được là tình hình sẽ như hiện nay. Tuy nhiên, trong bài viết

này, tôi chỉ quan tâm chủ yếu đến những phản ứng của giới trí thức, những người đã hầu như không còn

có đầu óc sô-vanh hiếu chiến và thậm chí cả tinh thần yêu nước nữa, mặc dù hiện nay chúng có vẻ đang

sống lại ở một bộ phận thiểu số. Trong giới trí thức, chẳng cần nói ta cũng biết rằng hình thức dân tộc

chủ nghĩa đang thịnh hành là chủ nghĩa Cộng sản - với nghĩa rất linh động của từ này, bao gồm không

những các thành viên của Đảng Cộng sản, mà cả những trí thức nay đây mai đó, và những người có cảm

tình với Liên Xô nói chung. Với mục đích của tôi ở đây, một người Cộng sản là người xem Liên bang Xô

Viết như tổ quốc của mình và cảm thấy có trách nhiệm phải bênh vực các chính sách và thúc đẩy các

quyền lợi của Nga bằng mọi giá. Rõ ràng là những người như vậy hiện đang rất đông đảo ở Anh, và ảnh

hưởng trực tiếp và gián tiếp của họ là rất lớn. Nhưng nhiều hình thức dân tộc chủ nghĩa khác cũng đang

nở rộ, và nếu tìm ra được các điểm tương đồng giữa những trào lưu tư tưởng khác biệt và thậm chí có

vẻ trái ngược nhau này thì ta mới hiểu được tương quan tổng thể của chúng.

Mười hoặc hai mươi năm trước đây, hình thức dân tộc chủ nghĩa có tương quan gần gũi nhất với chủ

nghĩa Cộng sản ngày nay là tư tưởng Thiên chúa giáo chính trị. Đại diện nổi bật nhất của nó - thực ra có

lẽ ông ta là một trường hợp cực đoan hơn là một đại diện điển hình - là G. K. Chesterton. Chesterton là

một văn tài lớn đã chọn con đường gạt bỏ cả những nhạy cảm và tính lương thiện trí thức của mình để

phục vụ sự nghiệp tuyên truyền cho giáo hội Thiên chúa La Mã. Trong khoảng hai mươi năm cuối đời

mình, toàn bộ những gì ông viết ra đều thực sự chỉ là lặp lại mãi một thứ, che đậy dưới những câu chữ

khôn khéo cố tình vừa ngớ ngẩn vừa nhàm chán như kiểu 'Vĩ đại thay là Diana của những người

Ephesian.' Mỗi cuốn sách ông viết, mỗi mẩu đối thoại, đều phải khẳng định một cách không thể nghi ngờ

gì được tính ưu việt của Thiên chúa so với Tin Lành hoặc dị giáo. Nhưng Chesterton không chịu bằng

lòng với ý nghĩ sự ưu việt đó chỉ đơn thuần là tri thức hoặc tâm linh: nó phải được chuyển đổi thành

những đặc quyền dân tộc và sức mạnh quân sự, đưa đến một thái độ lý tưởng hoá ngu xuẩn đối với các

nước Latinh, đặc biệt là Pháp. Chesterton không sống nhiều ở Pháp, và hình ảnh của ông về đất nước ấy

- mảnh đất của những nông dân Thiên chúa giáo suốt ngày vừa hát Marseillaise vừa uống vang đỏ -

cũng chỉ dính dáng đến thực tế như Chu Chin Chow viết về cuộc sống thường nhật ở Baghdad mà thôi.

Và thái độ ấy không những đã dẫn đến việc đánh giá quá cao sức mạnh quân sự của Pháp (cả trước và

sau đại chiến thứ Nhất, ông đều cho rằng Pháp tự nó là mạnh hơn Đức), mà còn đến thái độ vinh danh

ngớ ngẩn và thô tục chính tiến trình thực tế của cuộc chiến. Những bài thơ chiến trận của Chesterton,

như "Lepanto" hoặc "The Ballad of Saint Barbara", khiến cho "The Charge of the Light Brigade" nghe chỉ

như một tiểu luận hoà bình chủ nghĩa: có lẽ chúng là những mẩu khoa trương hào nhoáng nhất có thể

thấy trong ngôn ngữ của chúng ta. Có điều thú vị là nếu thứ văn rác rưởi lãng mạn mà ông thường viết

về nước Pháp và quân đội Pháp ấy mà có ai khác dùng để viết về nước Anh và quân đội Anh thì chắc

chắn ông sẽ là người đầu tiên lên tiếng giễu cợt ngay. Trong chính trị quốc nội ông là một kẻ khiêm tốn,

một Little Englander, một người thực lòng căm ghét tư tưởng sô-vanh hiếu chiến và chủ nghĩa đế quốc,

và còn tỏ ra là một người bạn chân chính của dân chủ nữa. Vậy mà khi nhìn nhận các lĩnh vực quốc tế,

ông có thể từ bỏ các nguyên tắc của mình, và thậm chí không còn biết là đang làm như vậy. Cho nên

niềm tin gần như thần bí của ông vào các phẩm chất tốt đẹp của dân chủ đã không ngăn cản ông thán

phục Mussolini. Mussoloni đã tiêu diệt chính phủ đại diện và tự do báo chí mà Chesterton đã từng tranh

đấu kiên cường đến thế ở quê hương mình, nhưng Mussoloni là người Ý và đã làm cho nước Ý hùng

mạnh, và như thế là không có vấn đề gì nữa. Chesterton cũng chưa bao giờ tìm được một lời nào để nói

về chủ nghĩa đế quốc và việc chinh phục các nòi giống da màu khi chúng được thực hành bởi người Ý

hoặc người Pháp. Cảm thức của ông về thực tại, thị hiếu văn học của ông, và thậm chí ở một mức độ

nào đó cả ý thức đạo đức của ông nữa, đều đã rời bỏ ông một khi ý thức dân tộc chủ nghĩa đã trỗi dậy.

Rõ ràng là Thiên chúa giáo chính trị như đã thấy ở Chesterton và chủ nghĩa Cộng sản có rất nhiều cái

giống nhau. Sự giống nhau ấy cũng thấy khi ta so sánh từng thứ tinh thần này với những thứ khác như

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 12 [email protected]

chủ nghĩa dân tộc Tô Cách Lan, chủ nghĩa phục quốc Do Thái, chủ nghĩa bài Do thái hoặc chủ nghĩa

Trotsky. Sẽ là quá đơn giản nếu nói mọi hình thức dân tộc chủ nghĩa đều như nhau, ngay cả trong bầu

khí quyển tinh thần của chúng, nhưng đúng là tất cả chúng đều có cùng những quy luật nhất định. Sau

đây là các đặc điểm chính của tư tưởng dân tộc chủ nghĩa:

Ám ảnh

Hầu như không một nhà dân tộc chủ nghĩa nào từng nghĩ, nói, hoặc viết về bất kì cái gì ngoài tính ưu

việt của đơn vị quyền lực của chính họ. Rất khó và hầu như không thể có một nhà dân tộc chủ nghĩa nào

biết giấu giếm lòng trung thành của mình. Một lời dè bỉu nhỏ nhoi nhất về đơn vị của họ, hoặc bất kì một

lời có hàm ý ca tụng một đơn vị đối thủ nào cũng khiến họ khó chịu đầy mình và chỉ có thể giải tỏa bằng

cách đốp chát lại ngay. Nếu đơn vị quyền lực ấy là một đất nước cụ thể, như Ireland hoặc Ấn Độ, người

ấy thể nào cũng tự nhận mọi sự ưu việt cho nó, không những trong sức mạnh quân sự và phẩm hạnh

chính trị, mà trong cả nghệ thuật, văn học, thể thao, cấu trúc ngôn ngữ, vẻ đẹp hình thể của người dân,

và có thể cả trong khí hậu, cảnh đẹp thiên nhiên và ẩm thực. Anh ta sẽ tỏ ra rất tinh tế về những thứ

như cách trình bày cờ hiệu, kích cỡ những dòng tiêu đề trên báo chí và trật tự từ trong tên gọi ở nhiều

nước khác nhau6. Danh pháp (cách đặt tên) đóng một vai trò rất quan trọng trong tư tưởng dân tộc chủ

nghĩa. Những nước mới giành được độc lập hoặc vừa trải qua một cuộc cách mạng dân tộc thường đổi

tên gọi của mình, và bất kì đất nước hoặc đơn vị nào khác thu hút những cảm xúc mạnh mẽ đều thường

có nhiều tên gọi, mỗi cái một hàm ý khác nhau. Hai phe của cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha mỗi phe có

đến chín mười tên gọi, phản ánh các mức độ yêu ghét khác nhau. Một số cái tên ấy (ví dụ như 'Ái quốc'

là tên của phe ủng hộ Franco, hoặc 'Trung thành' là tên của phe ủng hộ chính phủ) đều đáng ngờ cả, và

chả có cái nào được cả hai bên đối thủ chấp nhận. Tất cả các nhà dân tộc chủ nghĩa đều coi mình có

nghĩa vụ phải truyền bá ngôn ngữ của riêng mình để làm hại ngôn ngữ của các đối thủ, và trong thế giới

nói tiếng Anh, cuộc tranh chấp này xuất hiện trở lại dưới những hình thức tinh tế hơn như một cuộc

tranh chấp giữa các thổ ngữ.

Những người Mỹ có tư tưởng bài Anh sẽ không chịu dùng một câu nói lóng nếu họ biết nó có nguồn gốc

Anh, và cuộc đụng độ giữa những người muốn Latinh hoá và những người muốn Đức hoá ngôn ngữ

thường có những động lực dân tộc chủ nghĩa ở phía sau. Các nhà dân tộc chủ nghĩa Tô Cách Lan nhất

định coi tiếng Tô Cách Lan vùng Lowland là ưu việt, còn các nhà xã hội chủ nghĩa - một thứ dân tộc chủ

nghĩa dưới hình thức căm thù giai cấp - thì dài mồm chỉ trích giọng đọc của đài BBC.

Bất ổn

Những người dân tộc chủ nghĩa trung thành với tư tưởng của họ với cường độ rất cao, nhưng điều này

cũng không ngăn cản họ thay đổi lòng trung ấy của mình. Như tôi đã nói ngay từ đầu, họ có thể và

thường gắn lòng trung thành của mình với một xứ sở ngoại lai nào đó. Ta rất thường thấy rằng các lãnh

tụ dân tộc lớn, hoặc các nhà sáng lập ra những phong trào dân tộc chủ nghĩa, thậm chí còn không phải

là dân của chính đất nước mà họ đã làm cho vinh hiển. Nhiều khi họ là dân ngoại lai rõ ràng, hoặc

thường có xuất thân từ những vùng ngoại biên với quốc tịch đáng ngờ. Ví dụ như Stalin, Hitler,

Napoleon, de Valera, Disraeli, Poincare, Beaverbrook. Phong trào Liên-Đức (Pan-German) còn có phần là

tác phẩm của một người Anh, Houston Chamberlain. Trong năm mươi hoặc một trăm năm vừa qua, việc

chuyển đổi đối tượng của chủ nghĩa dân tộc đã là một hiện tượng trong giới tri thức văn chương.

Lafcadio Hearne chuyển lòng trung của mình sang Nhật Bản, Carlyle và nhiều người đương thời khác của

ông thì sang Đức; còn trong thời của chúng ta đây thì thường lòng trung ấy được chuyển sang nước Nga

xô viết. Nhưng có một sự thật đặc biệt thú vị là lòng trung ấy còn có thể được chuyển đổi lại nữa. Một

đất nước hoặc đơn vị từng được thờ phụng nhiều năm bỗng trở thành đáng ghét, và một đối tượng khác

có thể lập tức thay thế nó hầu như không cần một giai đoạn trung chuyển nào cả. Trong bản Outline of

History đầu tiên của H. G. Wells và các tác phẩm cùng thời khác của ông, ta thấy Hoa Kỳ được ca ngợi

6 Có những người Mỹ đã bày tỏ bức xúc với cái tên 'Anglo-American' chỉ vì thứ tự gán ghép hai từ này. Họ đề nghị

phải dùng từ 'Americo-British' (chú thích của tác giả).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 13 [email protected]

hết lời chả khác gì nước Nga đang được những người cộng sản ca ngợi hôm nay. Ấy vậy mà chỉ ít năm

sau, thái độ ngưỡng mộ vô điều kiện ấy đã biến thành thái độ thù địch. Việc một người Cộng sản cố chấp

biến thành một người Troskyist cũng cố chấp không kém chỉ trong vòng vài tuần hoặc thậm chí vài ngày

là chuyện rất thường thấy. Ở lục địa châu Âu, các phong trào phát xít chủ yếu tuyển mộ thành viên từ

các đảng viên Cộng sản, và quá trình ngược lại rất có thể sẽ diễn ra trong vòng vài năm tới. Cái bất biến

ở người dân tộc chủ nghĩa là tâm trạng của họ, còn đối tượng cảm tình của họ có thể thay đổi, và có thể

chỉ là tưởng tượng.

Nhưng với một trí thức, chuyển đổi lòng trung thành có một chức năng quan trọng mà tôi đã nhắc đến

sơ qua khi đề cập đến Chesterton. Nó khiến cho người ấy có thể trở nên một nhà dân tộc chủ nghĩa nặng

kí hơn - thô bỉ hơn, ngu ngốc hơn, đểu cáng hơn, bất lương hơn - đến tận cùng khả năng của mình

nhân danh tổ quốc của anh ta hoặc bất kỳ một đối tượng trung thành nào khác. Khi thấy những điều rác

rưởi được viết ra một cách say đắm hoặc huyênh hoang về Stalin, về Hồng Quân, vân vân, bởi những

người khá thông minh và nhạy cảm, ta phải hiểu rằng nhất định phải có một sự lầm lạc nào đó rồi. Trong

những xã hội như của chúng ta, việc có ai đó có thể gọi là một nhà trí thức mà lại có cảm tình gắn bó

sâu sắc với chính tổ quốc mình là một sự bất thường. Dư luận - nghĩa là bộ phận công luận mà người trí

thức ấy biết tới - sẽ không cho phép anh ta sống như vậy. Hầu hết mọi người xung quanh anh ta đều có

đầu óc hoài nghi và độc lập, và anh ta chắc sẽ cũng chấp nhận thái độ ấy, vì a dua hoặc có khi chỉ vì

nhát sợ: trong trường hợp ấy, anh ta nhất định sẽ rời bỏ hình thức dân tộc chủ nghĩa gần gụi với mình

nhất mà vẫn không bị mang một quan điểm quốc tế chủ nghĩa nào đích thực cả. Anh ta sẽ vẫn cảm thấy

cần có một Tổ quốc, và tất nhiên là sẽ tìm nó ở một xứ sở hải ngoại nào đó. Khi đã tìm thấy nó rồi, anh

ta mới có thể tha hồ ngụp lặn trong chính những tình cảm mà anh ta tưởng rằng đã tự mình giải thoát

được khỏi chúng. Thượng đế, Hoàng đế, Đế chế, Liên bang... mọi thần tượng vừa bị vất bỏ có thể tái

xuất hiện dưới những danh xưng khác, và vì bản chất của chúng không lộ rõ, chúng có thể được thờ

phụng với một lương tâm thanh thản. Chủ nghĩa dân tộc bị chuyển đổi đối tượng, giống như việc sử

dụng con dê thế mạng, là một cách đạt được cứu rỗi mà không cần phải thay đổi hành vi của chính

mình.

Không quan tâm đến thực tiễn

Tất cả những người dân tộc chủ nghĩa đều có năng lực không thấy được những tương đồng giữa nhiều

chuỗi sự kiện tương tự. Một đảng viên bảo thủ Anh sẽ bảo vệ quyền tự quyết ở châu Âu và phản đối nó ở

Ấn Độ mà không cảm thấy tí mâu thuẫn nào. Mọi việc được xem là tốt hoặc xấu không phải do giá trị

riêng của chúng, mà do yếu tố ai đã làm những việc ấy. Hầu như không có loại việc quá trớn nào - tra

tấn, bắt giữ con tin, lao động cưỡng bức, trục xuất hàng loạt, bỏ tù không cần xét xử, giả mạo, ám sát,

ném bom thường dân - lại không được đổi màu đạo đức khi chúng được tiến hành bởi 'phe ta'. Tờ

Liberal News Chronicles đã cho đăng các bức ảnh chụp người Nga bị người Đức treo cổ làm ví dụ cho

hành vi man rợ khủng khiếp, rồi một hai năm sau đó lại cho đăng những bức ảnh tương tự chụp người

Đức bị người Nga treo cổ với những lời lẽ tán đồng nhiệt liệt.7 Đối với các sự kiện lịch sử cũng vậy. Lịch

sử được nghĩ đến phần lớn theo cách nhìn của những người theo dân tộc chủ nghĩa, và những thứ như

toà án dị giáo, những lối tra tấn của toà án Star Chamber, chiến công của các nhà hàng hải Anh (ví dụ

như Sir Francis Drake, được phép dìm chết các tù nhân người Tây Ban Nha ngoài biển), chính quyền

khủng bố của cách mạng Pháp, những người hùng nổi loạn đã bắn tan xác hàng trăm người da đỏ bằng

cách trói họ vào họng súng đại bác, hay như quân lính của Cromwell chuyên rạch mặt phụ nữ Ái Nhĩ Lan

bằng dao cạo, tất cả đều trở thành trung tính về đạo đức hoặc thậm chí đáng tuyên dương khi người ta

cảm thấy rằng chúng đều phục vụ một sự nghiệp đúng đắn. Nếu nhìn lại một phần tư thế kỷ vừa rồi, ta

thấy rằng hầu như năm nào cũng có những chuyện tàn bạo được tường trình từ một nơi nào đó trên thế

giới; vậy mà không có một vụ nào trong số đó - xảy ra ở Tây Ban Nha, Nga, Trung Quốc, Hungary,

7 Tờ News Chronicle khuyên độc giả nên đi xem bộ phim thời sự để có thể chứng kiến toàn bộ cuộc hành quyết ấy ở

nhiều cận cảnh. Tờ Star thì đăng nhiều ảnh có vẻ tán đồng việc đám đông dân Paris lột chuồng hạ nhục những

người đàn bà Pháp đã cộng tác với Đức. Những ảnh ấy rất giống những ảnh của phát xít Đức chụp những người Do

Thái bị đám đông dân Berlin làm nhục (chú thích của tác giả).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 14 [email protected]

Mexico, Amritsar, Smyrna - được giới trí thức Anh nói chung chấp nhận là có thật và lên tiếng phản đối.

Những vụ việc ấy có đáng lên án không, hoặc thậm chí chúng có xảy ra thật không, lúc nào cũng chỉ có

câu trả lời theo thiên kiến chính trị mà thôi.

Người dân tộc chủ nghĩa không những không phản đối các hành vi tàn bạo của phe mình, mà anh ta còn

có một khả năng đặc biệt nữa là thậm chí còn không nghe đến chúng. Trong gần suốt sáu năm trời,

những người Anh hâm mộ Hitler đã bảo nhau không biết gì đến sự tồn tại của Dachau và Buchenwald.

Còn những người lớn tiếng nhất trong việc lên án các trại tập trung ở Đức thì lại hầu như không biết hoặc

chỉ biết rất lờ mờ rằng hình như còn có cả những trại tập trung như thế ở Nga nữa. Nhưng sự kiện lớn

lao như nạn đói năm 1933 ở Ukraine, liên quan đến cái chết của hàng nhiều triệu người, đã thực sự

không hề được biết đến bởi đa phần những người Anh có cảm tình với Nga. Nhiều người Anh đã và đang

gần như không biết tí gì về việc tiêu diệt dân Do Thái Đức và Ba Lan trong cuộc chiến tranh hiện nay.

Thái độ bài Do Thái của chính họ đã khiến cho họ không thể biết đến tội ác tày trời này. Trong ý nghĩ

của người dân tộc chủ nghĩa có những sự kiện vừa thật vừa không thật, vừa biết vừa không biết. Một sự

kiện được biết đến có thể khó chịu đến nỗi nó thường bị gạt sang một bên và không cho phép lọt vào

những quá trình luận lí, hoặc giả nó có lọt vào đủ mọi loại tính toán đi nữa thì cũng không bao giờ được

chấp nhận là một sự kiện có thật, ngay cả trong ý nghĩ của chính họ.

Tất cả các nhà dân tộc chủ nghĩa đều bị ám ảnh bởi cái xác tín rằng quá khứ có thể thay đổi được. Anh

ta sống một phần cuộc đời trong một thế giới tưởng tượng nơi mọi thứ diễn ra đúng như mong ước - ví

dụ như Hạm đội Tây Ban Nha đã chiến thắng chứ không thất bại hồi thế kỷ 16 và Cách mạng Nga thì đã

bị dẹp tắt ngay trong năm 1918 - và sẽ đưa các mảnh vụn của thế giới ấy vào các cuốn sách lịch sử bất

kỳ khi nào có dịp. Rất nhiều bài viết tuyên truyền trong thời đại chúng ta đều chỉ là bịa đặt giả mạo. Các

sự kiện có thật bị dìm đi, ngày tháng bị thay đổi, lời nói bị trích dẫn theo các chu cảnh khác và bị sửa đổi

để mang ý nghĩa khác. Những sự kiện bị cho là không được xảy ra đã không được nhắc đến và cuối cùng

còn bị bác bỏ.8 Năm 1927, Tưởng Giới Thạch luộc sống hàng trăm người Cộng sản, nhưng chỉ mươi năm

sau, ông ta đã trở thành một trong những người hùng của cánh tả. Cuộc định vị lại chính trị thế giới đã

đưa ông ta sang hàng ngũ chống phát xít, và do đó mọi người cảm thấy việc luộc sống những người

Cộng sản kia là không đáng kể, và có thể còn chưa bao giờ xảy ra nữa. Mục tiêu hàng đầu của tuyên

truyền tất nhiên là để tác động vào dư luận đương đại, nhưng những người viết lại lịch sử rất có thể đã

tin ở mức độ nào đó rằng họ đang thực sự nhét các sự kiện có thật vào quá khứ. Khi xem xét những bịa

đặt tinh vi mà người ta đã viết nhằm chứng tỏ rằng Trotsky không có vai trò quan trọng nào trong cuộc

nội chiến ở Nga, ta khó lòng nghĩ rằng những người viết ấy thực sự dối trá. Có lẽ họ cảm thấy những gì

họ viết mới thực sự đã diễn ra với sự chứng giám của Thượng đế, và họ hoàn toàn có lí khi xếp đặt lại

mọi thứ như vậy.

Thái độ thờ ơ với sự thật khách quan được khích lệ bởi việc ngăn cách thế giới ra từng phần riêng biệt,

khiến cho việc phát hiện những gì đang diễn ra mỗi ngày một khó khăn hơn. Và thường có một tâm lí

nghi ngờ chính đáng về những sự kiện lớn lao nhất. Ví dụ, không thể nào tính được con số người chết do

cuộc chiến hiện nay gây ra là hàng triệu hay là hàng chục triệu. Những thương vong liên tục được đưa

tin - các trận đánh, những cuộc tàn sát, nạn đói, cách mạng - có khuynh hướng khiến cho một người

trung bình có cảm giác là không thật. Người ta không có cách gì để kiểm chứng, thậm chí không thể tin

chắc rằng những sự kiện ấy đã xảy ra, và lúc nào cũng nghe nói về chúng từ nhiều nguồn tin và ý kiến

khác nhau. Cuộc nổi dậy ở Warsaw hồi tháng Tám 1944 có gì đúng, có gì sai? Chuyện lò thiêu người của

Đức ở Ba Lan có thật hay không? Ai là những kẻ thực sự gây ra nạn đói ở vùng Bengal? Có thể tìm ra

được sự thật, nhưng các sự kiện đều bị hầu hết báo chí đưa ra một cách sai lệch đến nỗi ta không thể

buộc tội người đọc bình thường nếu họ cứ thế nuốt chửng những lời dối trá ấy hoặc chịu chết không thể

có một ý kiến gì của mình được. Vì nói chung không thể tin chắc được liệu những chuyện ấy có thực sự

diễn ra không, người ta càng dễ bấu víu vào những xác tín điên rồ. Do không có gì có thể được kiểm

8 Một ví dụ là bản Hiệp ước Nga-Đức, đã bị xoá bỏ khỏi kí ức của công chúng rất nhanh chóng. Một phóng viên Nga

cho tôi biết rằng các biên niên của Nga có liệt kê các sự kiện chính trị gần đây đã hoàn toàn không nhắc gì đến Hiệp

ước này (chú thích của tác giả).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 15 [email protected]

chứng hoặc bác bỏ một cách xác đáng, ngay cả đến một sự kiện hầu như không thể nhầm lẫn vào đâu

được nữa cũng có thể bị bác bỏ một cách trơ tráo. Hơn nữa, mặc dù không ngớt ấp ủ về quyền lực,

chiến thắng, thất bại, trả thù, người dân tộc chủ nghĩa thường lại có thái độ vô tâm trước những gì đang

diễn ra ở thế giới thực tại. Cái anh ta muốn là được CẢM THẤY đơn vị của mình đang thắng thế so với

một đơn vị nào đó khác, và anh ta có thể làm điều này dễ dàng hơn bằng cách cứ thế chấm điểm thấp

cho đối thủ chứ không khảo sát sự kiện để xem chúng có ủng hộ mình hay không. Mọi thứ tranh cãi kiểu

dân tộc chủ nghĩa đều chỉ ở mức độ nói mồm kiểu giữa những thành viên của một hội tranh biện. Lúc

nào cũng hoàn toàn không đi tới kết luận gì cả, vì thành viên nào cũng nhất định tin rằng mình đã thắng.

Một số nhà dân tộc chủ nghĩa, không khác những người mắc chứng tâm thần phân liệt là bao, sống hoàn

toàn hạnh phúc giữa những giấc mơ quyền lực và chinh phục không liên quan tí gì đến thế giới thực tại.

Tôi vừa hết sức khảo sát các thói quen tâm lí chung nhất của mọi hình thức dân tộc chủ nghĩa. Việc tiếp

theo là phân loại các hình thức này, nhưng rõ ràng việc này không thể làm hoàn chỉnh được. Dân tộc chủ

nghĩa là một chủ đề lớn. Thế giới bị xâu xé bởi vô vàn ảo tưởng và hận thù chồng chéo lên nhau một

cách cực kỳ phức tạp, và một số ảo tưởng và hận thù hiểm độc nhất vẫn còn chưa được người châu Âu

biết đến. Trong bài viết này tôi quan tâm đến chủ nghĩa dân tộc như nó hiện hữu trong giới trí thức Anh.

Ở họ, hơn nhiều so với ở giới quần chúng Anh, nó không bị lẫn lộn với chủ nghĩa yêu nước, và do đó có

thể được nghiên cứu thuần khiết . Dưới đây là liệt kê các biến thể của chủ nghĩa dân tộc hiện đang nở rộ

trong giới trí thức Anh, cùng với những lời bình mà tôi cho là cần thiết. Để thuận tiện, tôi phân chúng ra

làm ba loại: Tích cực, Chuyển đổi, và Tiêu cực, mặc dù có những dạng dân tộc chủ nghĩa có thể được liệt

kê vào cả loại này và loại kia.

I. Chủ nghĩa dân tộc tích cực

1. Phái Tân Bảo thủ (Neo-Toryism)

Đại diện là những người như Lord Elton, A.P. Herbert, G.M. Young, Giáo sư Pickthorn, là những bài viết

của Ủy ban Cải tổ đảng Tory, và các tạp chí như tờ New English Review và tờ The Nineteenth Century

and After. Động lực thực sự của phái tân bảo thủ, cái làm cho nó mang tính dân tộc chủ nghĩa và khác

biệt với tư tưởng bảo thủ thông thường, là thái độ không muốn công nhận sự suy tàn của quyền lực và

ảnh hưởng của nước Anh. Ngay cả những người đủ đầu óc thực tế để thấy rằng vị thế quân sự của Anh

đã không còn được như trước nữa cũng vẫn cứ khăng khăng rằng những 'tư tưởng Anh' (thường không

được định nghĩa gì cả) chắc chắn phải thống trị thế giới. Tất cả những người theo phái tân bảo thủ đều

có tư tưởng bài Nga, nhưng có lúc trọng tâm của họ lại là bài Mỹ. Có điều đáng phải quan tâm là trường

phái tư tưởng này có vẻ đang lớn mạnh dần lên trong số các trí thức còn trẻ tuổi, có nhiều người từng là

Cộng sản nhưng đã trải qua quá trình vỡ mộng thông thường và trở thành vỡ mộng với cả chính chuyện

ấy. Những người có đầu óc bài Anh rồi đột nhiên trở thành thân Anh một cách dữ dằn cũng là loại tương

đối phổ biến. Loại này có những văn sĩ như F.A. Voigt, Malcolm Muggeridge, Evelyn WWaugh, Hugh

Kingsmill, và diễn biến tâm lý tương tự như của họ có thể thấy ở cả T.S. Eliot, Wyndham Lewis và nhiều

đệ tử của họ.

2. Phái Dân tộc chủ nghĩa Celtic

Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của người Welsh, Irish và Scottish có những điểm khác biệt, nhưng đều

giống nhau ở khuynh hướng bài Anh. Thành viên của cả ba phái này đều đã và đang chống chiến tranh

trong khi tiếp tục tự cho mình là thân Nga, và những người điên rồ trong số họ thậm chí còn tỏ ra cùng

lúc thân cả với Nga và với Phát xít Đức. Nhưng chủ nghĩa dân tộc Celtic không đồng nghĩa với tâm lý bài

Anh. Động lực của nó là niềm tin vào sự vĩ đại trong quá khứ và tương lai của giống người Celtic, và

nhuốm đậm màu phân biệt chủng tộc. Người Celt được cho là có tâm linh thượng đẳng hơn người Saxon

- giản dị hơn, sáng tạo hơn, đỡ thô lậu hơn, ít hợm hĩnh hơn, vân vân - nhưng bên dưới những cái đó

vẫn là tâm lý ham muốn quyền lực thông thường. Một triệu chứng của tâm lý này là cái ảo tưởng rằng xứ

Eire, Scotland, hoặc thậm chỉ cả xứ Wales nữa, đều có thể tự mình duy trì độc lập và không cần tí gì đến

sự bảo hộ của Anh. Trong số các nhà văn theo phái tư tưởng này có Hugh McDiarmid và Sean O'Casey.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 16 [email protected]

Không một văn sĩ Irish nào, kể cả tầm cỡ như Yeats hoặc Joyce, hoàn toàn không mang dấu vết gì của

tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

3. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (Zionism)

Phái này mang nhiều đặc điểm bất thường của một phong trào dân tộc chủ nghĩa, nhưng ở Mỹ nó có vẻ

bạo hành và ác hiểm hơn là ở Anh. Tôi liệt phái này vào loại dân tộc chủ nghĩa trực tiếp chứ không phải

chuyển đổi vì nó hầu như chỉ nở rộ trong bản thân dân Do Thái. Ở Anh, vì nhiều lý do khá trái ngược

nhau, giới trí thức hầu hết đều ủng hộ Do Thái trong vấn đề Palestine, nhưng họ cũng không thật nhiệt

tình trong việc này. Tất cả những người Anh có thiện chí cũng đều ủng hộ Do Thái theo nghĩa phản đối

sự ngược đãi của người Đức. Nhưng đã không phải là dân Do Thái thì rất khó có ai thực sự trung thành

theo kiểu dân tộc chủ nghĩa với tư tưởng phục quốc Do Thái, hoặc thật sự tin vào tính thượng đẳng trời

cho của dân Do Thái.

II. Chủ nghĩa dân tộc chuyển đổi (Transferred nationalism)

1. Chủ nghĩa cộng sản

2. Thiên chúa giáo chính trị

3. Cảm xúc màu da

Thái độ khinh bỉ ngày xưa đối với những 'dân bản xứ' đã bớt đi nhiều ở Anh, và nhiều thứ lý thuyết nguỵ

khoa học về bản chất thượng đẳng của giống người da trắng cũng đã bị người ta vứt bỏ.9 Trong giới trí

thức, cảm xúc màu da chỉ tồn tại dưới dạng đã thay đổi đối tượng, ví dụ như tin vào nhiều cái ưu việt

của các giống người da màu. Tư tưởng này hiện ngày càng phổ biến trong giới trí thức Anh, có lẽ do

khuynh hướng bạo dâm và tâm lí ức chế tình dục, chứ không phải do tiếp xúc với các phong trào dân tộc

chủ nghĩa ở phương đông và của người da đen. Ngay trong số những người không để tâm lắm đến vấn

đề màu da, tính hợm hĩnh và a dua cũng vẫn có một ảnh hưởng mạnh mẽ. Hầu như bất kì một trí thức

Anh nào cũng sẽ bị tai tiếng nếu nói rằng các giống da trắng là ưu việt hơn da màu, còn có nghe thấy ai

nói ngược lại thì cũng không mấy ngạc nhiên, dù trong bụng có không tin đi nữa. Thái độ thiên vị các

giống người da màu kiểu dân tộc chủ nghĩa này thường lẫn lộn với niềm tin rằng đời sống tình dục của

những giống ấy là hơn hẳn, vì vậy mà vẫn có một huyền thoại ngấm ngầm rất phổ biến về tính dục

cường tráng của người da đen.

4. Cảm xúc giai cấp

Chỉ tồn tại dưới dạng chuyển đổi đối tượng và trong giới trí thức thượng lưu và trung lưu - như một niềm

tin vào tính ưu việt của giai cấp vô sản. Ở đây cũng vậy, trong nội bộ giới trí thức, áp lực của dư luận là

áp đảo. Lòng trung thành theo kiểu dân tộc chủ nghĩa đối với giai cấp vô sản, cùng với thái độ căm ghét

có tính lý thuyết và cay độc nhất đối với giai cấp tư sản, có thể và vẫn thường chung sống với tính hợm

hĩnh thông thường trong cuộc sống hàng ngày.

5. Hoà bình chủ nghĩa (Pacifism)

9 Tư tưởng dị đoan về bệnh cảm nắng là một ví dụ. Cho tới mãi gần đây người ta vẫn tin rằng các giống người da

trắng dễ bị cảm nắng hơn người da màu rất nhiều, và một người da trắng không thể đi ra nắng nhiệt đới an toàn

nếu không đội mũ cối có vành. Lý thuyết này không có tí bằng chứng nào, nhưng nó có tác dụng nhấn mạnh sự

khác biệt giữa 'dân bản xứ' và người châu Âu. Trong chiến tranh, người ta đã lẳng lặng quên cái lý thuyết ấy đi và

các đoàn quân vẫn di chuyển không cần mũ cối rộng vành ở các vùng nhiệt đới. Nhưng ở Ấn Độ, các bác sĩ người

Anh có vẻ vẫn tin vào lý thuyết ấy chẳng khác gì người thường (chú thích của tác giả).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 17 [email protected]

Đa số những người hoà bình chủ nghĩa đều thuộc về các giáo phái mờ ám hoặc chỉ đơn thuần là những

người có đầu óc nhân đạo luôn phản đối giết chóc và không chịu suy nghĩ gì quá cái ngưỡng ấy. Nhưng

có một thiểu số các nhà trí thức hoà bình chủ nghĩa có vẻ mang động cơ thù hận nền dân chủ tây

phương và thán phục chủ nghĩa toàn trị, mặc dù họ không công nhận là vậy. Tuyên truyền hoà bình chủ

nghĩa thường chỉ quy về một luận điệu rằng phe nào thì cũng tồi tệ như nhau, nhưng nếu đọc kỹ các bài

viết của các trí thức trẻ có đầu óc hoà bình chủ nghĩa, ta sẽ thấy hầu hết họ chỉ chĩa mũi dùi vào Anh

hoặc Mỹ. Hơn nữa, họ nhất quán không lên án bản thân bạo lực, mà chỉ lên án bạo lực được dùng để

bảo vệ các nước phương tây. Không như người Anh, người Nga không bị lên án vì đã dùng phương tiện

chiến tranh để tự vệ, và quả thật là mọi tuyên truyền hoà bình chủ nghĩa kiểu này đều tránh không nhắc

gì đến Nga hoặc Trung Quốc. Tương tự thế, người ta không lên án dân da đỏ đã dùng bạo lực chống lại

người Anh. Văn liệu hoà bình chủ nghĩa đầy rẫy những nhận định lập lờ nước đôi mà nếu chúng có nghĩa

gì đi nữa thì hình như cũng chỉ muốn nói rằng các chính khách kiểu Hitler còn đáng có hơn là kiểu

Churchill, và rằng bạo lực có thể tha thứ được nếu nó là bạo lực đủ tầm. Sau khi nước Pháp thất thủ,

những người Pháp hoà bình chủ nghĩa đã phải đối mặt với một lựa chọn hệ trọng mà những người đồng

phái với họ ở Anh không biết đến, và hầu hết đều đã về phe với Quốc xã Đức, còn ở Anh thì hình như

một số ít thành viên của Peace Pledge Union (Liên đoàn vì Hoà bình) đồng thời cũng là đảng viên Quốc

xã. Các cây bút hoà bình chủ nghĩa đã viết ca tụng Carlyle, một trong những cha đẻ trí thức của chủ

nghĩa Phát xít. Tóm lại là khó có thể tránh được cảm giác rằng chủ nghĩa hoà bình, như thấy trong một

bộ phận của giới trí thức, có nguồn hứng khởi âm thầm từ tâm lý khâm phục quyền lực và sự tàn bạo

thắng thế. Hướng sự khâm phục ấy vào Hitler là một sai lầm, nhưng nó cũng dễ dàng tìm thấy đối tượng

khác tương tự.

III. Chủ nghĩa dân tộc tiêu cực

1. Tâm lý bài Anh

Trong giới trí thức với nhau, một thái độ giễu nhại và hơi thù địch một tí đối với nước Anh là tương đối

bắt buộc, nhưng trong nhiều trường hợp đây cũng là một thái độ thật sự chứ không phải a dua nhau mà

có. Trong thời gian chiến tranh, nó được thể hiện ở tư tưởng thất bại chủ nghĩa của giới trí thức, vẫn dai

dẳng mãi ngay cả sau khi ai cũng biết là phe Trục sẽ không thể thắng được nữa. Nhiều người công khai

vui mừng khi Singapore thất thủ hoặc khi quân Anh bị đánh đuổi ra khỏi đất Hy Lạp, và người ta có thói

không chịu tin những tin tức tốt lành, ví dụ như số máy bay Đức bị bắn rơi trên đất Anh. Dĩ nhiên là các

trí thức cánh tả Anh không bao giờ mong người Đức hoặc người Nhật chiến thắng, nhưng nhiều người

trong số họ không ghìm được một cảm giác phấn chấn khi thấy chính đất nước mình bị hạ nhục, và

muốn cảm thấy rằng thắng lợi cuối cùng sẽ là nhờ ở nước Nga, hoặc có thể là Mỹ, chứ không phải là

nước Anh. Trong các động thái chính trị đối ngoại, nhiều trí thức tin theo cái nguyên tắc rằng bất kỳ một

phe phái nào do Anh ủng hộ đều tất yếu sai lầm cả. Vì vậy, dư luận của giới trí thức phần lớn chỉ là phản

ảnh trái ngược của chính sách bảo thủ. Tư tưởng bài Anh luôn có thể được đảo ngược, cho nên mới có

cái hiện tượng khá phổ biến là một nhà hoà bình chủ nghĩa của một cuộc chiến này lại trở thành một kẻ

hiếu chiến trong cuộc binh lửa tiếp theo.

2. Tư tưởng bài Do Thái

Tư tưởng này hiện ít bộc lộ, vì những ngược đãi của Đức Quốc xã đang khiến cho bất kỳ một người có

suy nghĩ nào cũng phải đứng về phía người Do Thái và chống lại những kẻ áp chế họ. Hễ đã là người có

chút học hành mà nghe đến hai từ 'bài Do' là phải vội vàng tự nhận mình không hề có tí gì cái tư tưởng

ấy, và người ta cũng cẩn thận loại bỏ hết những lời lẽ bài Do trong đủ các loại văn liệu. Nhưng sự thực

thì tư tưởng bài Do Thái có vẻ vẫn rất phổ biến, ngay cả trong giới trí thức, và cái âm mưu cùng giữ im

lặng chung có thể còn làm cho nó nặng nề thêm. Những người có tư tưởng tả khuynh cũng không phải là

miễn nhiễm, và thái độ của họ nhiều khi còn bị ảnh hưởng bởi một sự thật là những người theo chủ

thuyết Trotsky và vô chính phủ thường lại là người Do Thái. Nhưng tư tưởng bài Do đến với những người

có khuynh hướng bảo thủ một cách tự nhiên hơn, vì họ vốn vẫn nghi ngại rằng người Do Thái đang gây

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 18 [email protected]

ảnh hưởng xấu đến đạo đức và làm loãng nền văn hoá dân tộc của họ. Phái tân bảo thủ và những người

Thiên chúa giáo chính trị luôn dễ tìm đến tư tưởng bài Do, dù chỉ là lúc này lúc khác.

3. Chủ nghĩa Trotsky

Cái tên này được dùng dễ dãi đến mức nó bao gồm cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, những

người xã hội chủ nghĩa dân chủ, và cả những người có tư tưởng tự do. Tôi dùng nó ở đây để chỉ người

theo chủ nghĩa Marx giáo điều mà động lực chính là thù nghịch với chế độ Stalin. Tìm hiểu chủ nghĩa

Trotsky ở các tài liệu tuyên truyền in thành sách nhỏ hoặc các báo như tờ Socialist Appeal thì dễ hơn là

đọc các tác phẩm của chính Trotsky, vốn là một người không phải chỉ có nhất quán một ý tưởng. Mặc dù

là ở nhiều nơi, ví dụ như ở Hoa Kỳ, chủ nghĩa Trotsky có khả năng thu hút khá đông đảo người tin theo

và phát triển thành một phong trào có tổ chức với cả một thủ lãnh nho nhỏ của chính mình, cảm hứng

của nó cốt lõi vẫn là tiêu cực. Người theo Trotsky chống đối Stalin cũng hệt như người cộng sản ủng hộ

ông ta, và cũng như phần lớn những người cộng sản, người ấy mong muốn cuộc tranh giành ưu thế và

quyền lực phải tiến triển có lợi cho chính phe phái của mình nhiều hơn là mong muốn thay đổi thế giới

bên ngoài. Cả hai trường hợp ấy đều có cùng một ám ảnh khôn nguôi về một chủ đề duy nhất, một bất

lực hệt nhau trong việc tạo ra một chính kiến duy lí đích thực dựa trên những khả dĩ có thật. Việc ở đâu

những người Trotskyist cũng chỉ là một thiểu số bị ngược đãi, và việc những cáo buộc chống lại họ, ví dụ

như họ cộng tác với phát xít, thường đều là vu cáo, đã tạo ra một ấn tượng rằng chủ nghĩa Trotsky là

hơn hẳn chủ nghĩa Cộng sản về mặt tri thức và đạo đức; nhưng thực sự thì chả biết được hai phe phái ấy

có gì khác nhau lắm không. Gì thì gì, những người Trotskyist điển hình nhất vẫn là những cựu đảng viên

Cộng sản, và người nào đến với tư tưởng Trotsky cũng đều xuất thân từ một phong trào khuynh tả.

Không có người Cộng sản nào, trừ phi bị cột chặt vào đảng mình vì thâm niên lề thói, có thể hoàn toàn

không bất ngờ thấy mình rơi vào tư tưởng của Trotsky. Quá trình ngược lại có vẻ không xảy ra thường

xuyên như thế, mà cũng không có lí do gì rõ ràng để giải thích tại sao tình hình lại như vậy.

Trong việc phân loại tôi vừa cố làm ở trên, sẽ có vẻ như tôi đã thường thậm xưng, đơn giản hoá quá

mức, có những giả định không lấy gì làm đảm bảo và chưa đụng đến sự có mặt của nhiều động cơ chính

đáng thông thường. Việc này là không thể tránh khỏi, vì trong bài viết này, tôi đang cố khu biệt và định

dạng những khuynh hướng có trong đầu óc của tất cả chúng ta và làm méo mó sự suy nghĩ của chúng

ta, chứ không nhất thiết là những khuynh hướng diễn ra trong một trạng thái thuần khiết hoặc vận hành

một cách tuần tự. Có lẽ đến đây, tôi cần phải chỉnh đốn lại cái bức tranh bị đơn giản hoá quá mức mà

mình đã tự dựng nên. Đầu tiên, ta không có quyền giả định rằng TẤT CẢ MỌI NGƯỜI, hoặc tất cả mọi trí

thức, đều mắc tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. Thứ hai, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa có thể xảy ra lúc này lúc

khác hoặc một cách hạn chế. Một người thông minh có thể tin theo nửa vời một xác tín mà anh ta biết là

vớ vẩn, và anh ta có thể chả nghĩ gì đến nó trong nhiều thời gian dài, chỉ quay về với nó trong những

thời điểm giận dữ hoặc xúc động, hoặc khi biết chắc là không có liên quan gì đến những vấn đề quan

trọng. Thứ ba, xác tín dân tộc chủ nghĩa có thể được người ta tin tưởng chấp nhận từ những động cơ phi

dân tộc chủ nghĩa. Thứ tư, nhiều loại dân tộc chủ nghĩa, ngay cả những loại kình chống nhau, có thể

đồng thời tồn tại ở cùng một người.

Tôi đã nói suốt rằng 'người dân tộc chủ nghĩa làm cái này', 'người dân tộc chủ nghĩa làm cái nọ', vì mục

đích minh họa mà dùng đến loại người dân tộc chủ nghĩa cực đoan, gần như điên rồ, không còn một khu

vực trung lập nào trong đầu óc và không thiết đến gì khác ngoài việc tranh giành quyền lực. Mà thực thì

những người ấy cũng khá phổ biến, nhưng họ cũng không đáng phải tốn đến thuốc súng và đạn làm gì.

Trong đời thực, những Lord Elton, D.N. Pritt, Lady Houston, Ezra Pound, Lord Vanisttart, cha cố Coughlin

và tất cả những người khác trong cái bộ lạc buồn thảm của họ đều cần phải bị đấu tố, nhưng những

khiếm khuyết trí tuệ của họ thì chả cần phải vạch ra làm gì nữa. Bệnh độc tưởng là chả hay ho gì rồi, cho

nên cái sự thật rằng chả có một nhà dân tộc chủ nghĩa loại mù quáng nào có thể viết được một cuốn

sách có vẻ còn đáng đọc sau vài năm cũng có một tác dụng khử mùi nhất định. Nhưng khi công nhận

rằng chủ nghĩa dân tộc đã không thắng thế ở khắp mọi nơi, rằng vẫn có nhiều người không để cho dục

vọng chi phối phán xét của mình, ta vẫn phải nhìn nhận một sự thật là nhiều vấn đề cấp bách - Ấn Độ,

Ba Lan, Palestine, cuộc nội chiến Tây Ban Nha, các vụ án ở Moscow, người da đen ở Mỹ... - vẫn không

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 19 [email protected]

thể hoặc không bao giờ được bàn thảo ở một mức độ hợp lý. Những Elton với Pritts và Coughlins, kẻ nào

trong bọn họ cũng chỉ là một cái miệng khổng lồ chu chéo cùng một lời dối trá mãi không thôi, thì rõ

ràng là những trường hợp cực đoan rồi; nhưng chúng ta sẽ tự lừa dối mình nếu không chịu nhận rằng

chúng ta cũng đều hệt như họ trong những lúc mất cảnh giác. Chỉ vì một lời nói thôi, một cử chỉ thôi, là

cả người có đầu óc công bằng nhất, tính tình đáng yêu nhất cũng có thể đột ngột biến thành một người

phe phái nanh nọc, chỉ nóng lòng muốn 'ghi điểm' chiến thắng đối thủ và vô cảm hoàn toàn với tất cả

những lời dối trá của chính mình, những lầm lẫn lí trí mà mình đã phạm phải khi làm vậy, cho dù có

nhiều lần đến mấy. Lloyd George, một người phản đối cuộc chiến tranh Boer, lên tiếng tại Hạ Viện rằng

nếu cộng hết các con số trong các thông cáo của chính phủ thì nước Anh đã tự nhận giết được nhiều

người Boer hơn cả dân số thực có của họ, và theo biên bản thì lúc ấy Arthur Balfour đã vùng đứng dạy

và hét lên 'Đồ đê tiện!' Rất hiếm người hoàn toàn cưỡng lại được những bột phát kiểu này. Người da đen

bị một đàn bà da trắng mạt sát, người Anh nghe thấy một người Mỹ chỉ trích nước Anh một cách ngu

xuẩn, người công giáo biết lỗi quá khứ bị người khác nhắc đến vụ Hạm đội Tây Ban Nha, tất cả họ đều

sẽ phản ứng theo cùng một cách như vậy. Chỉ cần dí thử đầu kim vào cái huyệt dân tộc chủ nghĩa thôi là

mọi phẩm giá trí thức có thể sẽ biến mất, quá khứ có thể bị thay đổi, và sự thật hiển nhiên nhất cũng có

thể bị bác bỏ.

Hễ đã neo đậu trong tâm trí một tình cảm trung thành hoặc hận thù nào theo kiểu dân tộc chủ nghĩa thì

có nhiều sự việc, dù đã biết là có thật đấy, cũng sẽ trở thành không thể chấp nhận được. Để lấy vài ví

dụ, tôi xin liệt kê dưới đây năm loại người dân tộc chủ nghĩa, và với mỗi loại tôi thêm một sự thật mà loại

người ấy không thể chấp nhận được, ngay cả trong tâm tư thầm kín của họ:

NGƯỜI ANH BẢO THỦ: Cuộc chiến này sẽ làm cho nước Anh suy giảm cả ưu thế và quyền lực.

NGƯỜI CỘNG SẢN: Nếu không có Anh và Mỹ hỗ trợ, Nga đã bị Đức đánh bại rồi.

NGƯỜI DÂN TỘC CHỦ NGHĨA ÁI NHĨ LAN: Đất Ái Nhĩ Lan chỉ có thể độc lập nhờ sự bảo hộ của người

Anh.

NGƯỜI THEO PHÁI TROTSKYIST: Chế độ Stalin được quần chúng Nga chấp nhận.

NGƯỜI THEO HÒA BÌNH CHỦ NGHĨA: Những người 'nguyện từ bỏ' bạo lực chỉ làm được điều đó vì đã có

những người khác thi hành bạo lực nhân danh họ.

Tất cả những sự thật đó đều hết sức hiển nhiên nếu ta không tình cờ bị tình cảm chi phối, nhưng với mỗi

loại người vừa được liệt kê cùng thì chúng còn là những điều không thể chịu được, do đó phải bị bác bỏ

và thay thế bằng những lí thuyết giả tạo. Trở lại với sự thất bại đáng kinh ngạc của những tiên đoán

quân sự trong cuộc chiến hiện nay. Theo tôi, đúng là phải nói rằng giới trí thức đã và đang sai lầm về

diễn tiến của cuộc chiến hơn là người bình thường, và họ bị những tình cảm phe phái chi phối mạnh hơn.

Ví dụ, người trí thức trung bình thuộc phái tả tin rằng ta đã thua từ 1940, rằng người Đức nhất định sẽ

tràn ngập Ai Cập vào năm 1942, rằng người Nhật sẽ không bao giờ bị đánh đuổi khỏi những vùng đất mà

họ đã chinh phục được, và rằng cuộc tấn công của không quân Anh Mỹ chả có ấn tượng gì với Đức. Anh

ta có thể tin những chuyện ấy vì vẫn mang lòng oán hận giai cấp thống trị Anh đã cấm không cho mình

công nhận rằng các kế hoạch của Anh có thể sẽ thành công. Người ta có thể nuốt vô hạn những thứ linh

tinh ấy nếu bị chi phối bởi những tình cảm loại này. Ví dụ tôi đã từng nghe có người tuyên bố một cách

bí mật rằng lính Mỹ được đưa đến châu Âu không phải để chiến đấu chống người Đức mà là để dập tắt

một cuộc cách mạng Anh. Phải là người trong giới trí thức mới tin những chuyện như vậy. Không có

người bình thường nào lại ngu ngốc đến thế. Khi Hitler xâm lăng Nga, các quan chức bộ thông tin đưa ra

một cảnh báo 'có tính làm nền' rằng Nga có thể sẽ thất thủ trong vòng sáu tuần lễ. Mặt khác, những

người cộng sản lại coi mỗi giai đoạn của cuộc chiến như một thắng lợi của Nga, ngay cả khi người Nga

đã bị đánh lui đến tận gần Biển Caspian và đã mất nhiều triệu lính bị bắt làm tù binh. Cũng không cần

phải ví dụ nhiều thêm làm gì. Ý tôi muốn nói ở đây là hễ đã dính đến sợ hãi, hận thù, ghen tức và tôn

thờ quyền lực thì cảm thức về thực tại sẽ bị mất chỗ dựa, như cửa tuột bản lề. Và như tôi cũng đã nói,

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 20 [email protected]

cả cảm thức về đúng sai cũng như vậy luôn. Bất kỳ một tội ác nào, tuyệt đối như vậy, cũng có thể được

tha thứ nếu là do 'phe ta' tiến hành. Ngay cả nếu ta đã không chối cãi nó, ngay cả nếu ta biết rằng nó

chính là cái tội ác mà ta đã lên án trong những trường hợp khác, ngay cả nếu ta công nhận với một ý

thức hiểu biết rằng không gì có thể biện hộ được nó - ta vẫn không thể CẢM THẤY là nó sai được. Trung

thành đã dính vào thì trắc ẩn không còn nữa.

Lý do trỗi dậy và lan truyền của chủ nghĩa dân tộc là một câu hỏi quá lớn không thể nêu lên ở đây.

Nhưng có thể nói rằng với những hình thức như đã xuất hiện trong giới trí thức Anh, nó là một phản ánh

méo mó của những trận chiến đáng sợ đang thực sự diễn ra ở thế giới bên ngoài, rằng những thứ ngốc

nghếch tệ hại nhất của nó là do sự đổ vỡ của chủ nghĩa yêu nước và xác tín tôn giáo. Nếu lần theo mạch

suy nghĩ này, ta sẽ rơi vào nguy cơ bị dẫn đến một chủng loại của chủ nghĩa bảo thủ, hoặc thái độ chính

trị mũ ni che tai. Ví dụ, ta có thể lập luận một cách đáng tin, mà thậm chí có thể là đúng thật - rằng chủ

nghĩa yêu nước là một lai ghép kháng lại chủ nghĩa dân tộc, rằng quân chủ là một người gác ngăn ngừa

độc tài, và tôn giáo có tổ chức là để ngăn chặn mê tín. Hoặc nữa, ta còn có thể lập luận rằng KHÔNG

THỂ CÓ một quan điểm vô tư nào, rằng TẤT CẢ các tín điều và sự nghiệp đều phải dính đến cùng những

dối trá, ngốc nghếch và man rợ như nhau; và đây thường là lý do để người ta hoàn toàn tránh xa chính

trị. Tôi không chấp nhận lập luận này, cho dù chỉ là vì trong thế giới hiện đại không ai được coi là trí thức

có thể tránh xa chính trị với nghĩa không quan tâm gì đến chúng. Tôi nghĩ ta phải tham dự vào chính trị

với nghĩa rộng của từ này, và ta phải có chính kiến, nghĩa là phải nhận ra được một cách khách quan

rằng một số sự nghiệp là tốt đẹp hơn những sự nghiệp khác, cho dù chúng có bị theo đuổi với cùng

những phương tiện tồi tệ như nhau. Còn với những yêu ghét mang tính dân tộc chủ nghĩa như tôi đã nói

đến thì chúng là một phần của những gì đã tạo nên vẻ ngoài của hầu hết chúng ta, có thích hay không

cũng mặc. Có thể vứt bỏ được chúng đi hay không thì tôi không biết, nhưng tôi thực sự tin rằng có thể

chiến đấu chống lại chúng, và rằng đây cốt lõi là một nỗ lực ĐẠO ĐỨC. Trước hết là vấn đề tìm cho ra

mình thực sự là gì, những tình cảm riêng của mình thực sự là gì, và sau đó là vấn đề cho phép những

thiên kiến không thể tránh được ấy được tồn tại đến mức độ nào. Nếu ta ghét và sợ Nga, nếu ta ghen tị

với sự giàu có và sức mạnh của Mỹ, nếu ta khinh bỉ người Do Thái, nếu ta có ẩn ức thua kém khi nghĩ

đến giai cấp cầm quyền Anh, ta không thể loại bỏ những tình cảm ấy chỉ bằng suy nghĩ. Nhưng ít nhất ta

cũng công nhận rằng mình có chúng, và ngăn đừng để chúng làm ô nhiễm các quá trình tâm lí của mình.

Những thôi thúc tình cảm không tránh thoát được và có lẽ còn cần thiết cho hành động chính trị nên

được tồn tại song hành với một ý thức chấp nhận thực tại. Nhưng điều này, tôi nhắc lại, cần đến một nỗ

lực ĐẠO ĐỨC, và văn học Anh đương đại, trong chừng mực nó còn sinh động đối với các vấn đề lớn của

thời đại chúng ta, đang cho thấy rằng chúng ta thật hiếm người sẵn lòng có cái nỗ lực đạo đức ấy.

(Dịch xong trong ngày kỉ niệm cách mạng Pháp 14 July 2009)

Nguồn: http://www.george-orwell.org/Notes_on_Nationalism/0.html

___________________________________

Lê Hải

Chủ nghĩa dân tộc - Một tiến trình lịch sử của văn hoá

Chữ tiếng Anh nationalism có thể dịch sang tiếng Việt là "chủ nghĩa dân tộc" theo cách hiểu thiên về

chính trị, hoặc "tư tưởng dân tộc" nếu xét từ góc độ học thuật và tiến trình văn hoá, như nền của bài viết

này. Thế nhưng, ngay từ đầu cách dịch đó đã có vấn đề vì chắc chắn nhiều độc giả muốn thay chữ "dân

tộc" bằng chữ "quốc gia" - chữ cũng sẽ được dùng song song, không chỉ riêng vì lý do dịch thuật hay

ngữ nghĩa, nội dung. Về cơ bản, trong tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ châu Âu, kết cấu -ism khi nối tiếp

vào đuôi một từ gốc sẽ tạo ra từ mới với nghĩa là một chủ nghĩa, một trào lưu hay một hệ tư tưởng, một

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 21 [email protected]

lối tư duy nào đó mới được đặt tên10. Thêm vào đó, từ gốc nation có thể hiểu/dịch theo nhiều kiểu khác

nhau, như một dân tộc, một quốc gia, hay một nguồn gốc, một phát sinh như bắt đầu từ chữ Latin natio

hay nascere. Đó là chưa kể cách dùng tạm, không tập trung nhiều vào ngữ nghĩa như trong bài viết này,

mượn chữ thường gặp nhất - "chủ nghĩa dân tộc" - để diễn tả nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau,

và cùng lúc cũng dùng các biến thể khác nhau của nó để chỉ có khi là cùng một khái niệm và cách hiểu

đơn lẻ. Từ ngữ là thành phần cơ bản của ngôn ngữ - sản phẩm thường gặp nhất của văn hoá, cho nên

bản thân cũng là một biến số của lịch sử, mà những khái niệm khác nhau của chủ nghĩa dân tộc cũng

chính là những dấu vết lịch sử của quá trình tiến hoá đó, cả trong phạm vi một giai đoạn, một quốc gia

lẫn mở rộng ra cả thế giới và lịch sử loài người. Theo cách hiểu hậu hiện đại thì nó cũng chính là lịch sử

một giai đoạn tìm kiếm và trưởng thành của chính người viết bài này, có thể tạm coi là những thông hiểu

(understanding) đã chắt lọc và tích luỹ lại được sau hơn mười năm tìm hiểu và nghiên cứu. Tìm hiểu để

định nghĩa khái niệm chủ nghĩa dân tộc cũng là một cách để trả lời câu hỏi Ta-là-was, trong bối cảnh bản

sắc đang là đề tài được quan tâm hàng đầu trong trào lưu deconstructionism của thời hậu hiện đại rồi

đến reconstructionism của thời sau hậu hiện đại.

Khai sinh hay vốn có?

Trong học thuật, các hệ tư tưởng đương đại về dân tộc và chủ nghĩa dân tộc hầu hết được tái xây dựng

từ những công trình nghiên cứu được xuất bản vào đầu thập niên 1980, mà ba đầu sách cùng xuất hiện

năm 1983 của Ernest Gellner, Eric Hobsbawm và Benedict Anderson11 thường được trích dẫn nhất. Từ đó

đến nay, bên cạnh hàng chục đầu sách quan trọng là hai tạp chí đầu ngành, cùng do đại học LSE xuất

bản từ 1995: Nations and Nationalism và Studies in Ethnicity and Nationalism. Có thể coi hai tạp chí này

là đại diện cho hai hướng tiếp cận mâu thuẫn nhau về vấn đề dân tộc, mà Samuel Huntington (2005:29)

từng thử khái quát: dân sự và sắc tộc, chính trị và văn hoá, cách mạng và bộ lạc, tự do và hội nhập, hiệp

hội đi kèm với chọn lựa và thần thánh đi cùng với tự nhiên, dân sự-lãnh thổ và sắc tộc-gia đình, hay yêu

nước và chủ nghĩa dân tộc.

Nổi bật nhất trong các cuộc tranh luận giữa các chuyên gia trong ngành có lẽ là câu hỏi "dân tộc có

cuống rốn hay không?"12 mà Ernert Gellner và Anthony Smith đã đặt ra vào năm 1995 tại đại học

Warwick. Mặc dù đồng ý với thầy mình rằng chủ nghĩa dân tộc là một hiện tượng - quá trình tư tưởng

dựa trên một thực tế xã hội là dân tộc - của thời hiện đại, Smith (1995) không đồng ý với quan điểm quá

hiện đại của Gellner (1995) - coi dân tộc là sản phẩm (phụ) của quá trình hiện đại hoá, mà cho rằng

cũng nên cân nhắc các yếu tố nền tảng như văn hoá sắc tộc và biểu tượng, vì đó mới chính là yếu tố

giúp tư tưởng dân tộc duy trì và tiếp tục đang là một quyền lực đáng kể trong xã hội toàn cầu hoá, xoá

nhoà ranh giới quốc gia như hiện nay.

Tâm điểm của cuộc tranh cãi vừa kể cũng là ranh giới giữa hai nhóm tư tưởng mà một bên - làm khai

sinh cho dân tộc trong thời hiện đại - là phe hiện đại (modernism), còn bên kia cho rằng dân tộc vốn đã

có sẵn (primordialism) hoặc tồn tại từ rất lâu đời (perenialism), các thay đổi gần đây chẳng qua chỉ là

tiếp biến. Mâu thuẫn vừa nêu cũng lộ ra và bùng nổ trong phần bình luận bài điểm sách trên BBC tiếng

Việt (22.III.2005) về một phân tích của Benedict Anderson (1983), cho rằng nền giáo dục Pháp đã phần

nào kéo theo sự "khai sinh"13 của dân tộc Việt Nam, mà đa phần các ý kiến phản đối đều thể hiện lối tư

10 Một số tri thức Việt Nam từng thử nghiệm với đếch-ism như trên diễn đàn Thanh niên Xa mẹ (Tathy/Thăng Long),

lưu trữ ở địa chỉ mạng http://www.tathy.com/thanglong/archive/index.php/t-10.html, hoặc từng được đăng lại trên

talawas.org

11 Các học giả nêu tên trong bài đều được tác giả soạn chuyên mục giải thích trên trang Wikipedia tiếng Việt để tiện

cho độc giả có thể vào tra cứu và tìm hiểu thêm.

12 Câu hỏi này tiếp tục là đề tài cho các cuộc tranh luận sau này như tên gọi cho phiên hội thảo quốc tế thường niên

lần thứ 14 của Hiệp hội nghiên cứu dân tộc ASEN tổ chức ở London 23-24.IV.2004: When is the nation?: the debate,

mà một số tham luận được in thành sách (Ichijo&Uzelac ed. 2005).

13 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/03/050322_anderson_nationalism.shtml

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 22 [email protected]

duy phản hiện đại14. Anderson đã làm một điều rất liều lĩnh là áp dụng tư duy "hiện đại" cho một nước

hậu thuộc địa, nơi vốn thường được dùng để chứng minh cho các lập luận ngược lại. Clifford Geertz

(1973, theo Smith 1998:151-155) từng xác nhận rằng ở những nơi đó dân chúng được kết nối với nhau

không phải bằng các mối quan hệ dân sự như kiểu ở phương Tây hiện đại mà là qua các mối quan hệ

nguyên thuỷ như ngôn ngữ, phong tục, sắc tộc, tôn giáo và những loại hình văn hoá khác. Với những xã

hội chưa bị xáo trộn do di dân hay kết hôn với người (nước) ngoài thì Pierre van den Berghe (1978, theo

Smith 1998:146-151) thậm chí còn nhìn thấy cơ chế vận hành xã hội như một đại gia đình thông qua

quan hệ bà con, nâng đỡ ê-kíp và cưỡng chế bè phái. Cũng cần chú ý rằng hai học giả vừa nêu đều là

chuyên gia trong ngành nhân học về sắc tộc (ethnic), phát triển từ các nghiên cứu điền dã của nhân

chủng học, tác động vào các tranh luận của xã hội học và sử học về dân tộc (nation), một quá trình đang

lặp lại trong các ngành xã hội và nhân văn hiện nay tại Việt Nam, khi cả hai khái niệm ethnic và nation

đều được coi/dịch là dân tộc.

Quốc gia và biện chứng lịch sử

Giới học giả từ miền Nam15 Việt Nam thường dịch nation thành quốc gia, theo cách hiểu thiên về nhà

nước16 (state) của khái niệm này. Điều kiện phải có tổ quốc để sinh sống và hướng về, hay hướng đến

một thể chế nhà nước là điều kiện để một hoặc một nhóm sắc tộc được coi là dân tộc đã nhấn mạnh đến

vai trò của lịch sử. Nếu nhìn lại tiến trình lịch sử tư tưởng châu Âu, chúng ta sẽ thấy các hệ tư duy mang

hơi hướng chủ nghĩa quốc gia bắt đầu xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ 19 (Kedourie 1994) và được coi

là một trong bốn hệ tư tưởng lớn kể từ sau ngày cách mạng Pháp, bên cạnh chủ nghĩa bảo thủ, chủ

nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội (Szacki 2003:169). Những từ như nation và patrie xuất hiện trong các

ngôn ngữ châu Âu từ giữa thế kỷ 18 (Huntington 2005:29). Cho rằng hiếm có quốc gia nào hiện diện từ

trước nửa sau của thế kỷ 19, Walker Connor (1994, theo Smith 1998:159-165) nhận thấy các lãnh đạo

mang thiên hướng dân tộc - từ Hitler và Mussolini cho đến Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh - đều nhắc

đến dòng máu và gia đình để động viên những người cùng dân tộc (đồng bào - người cùng bào thai),

cùng tổ tiên (tổ quốc - đất nước của tổ tông), hay cùng quan hệ gia đình mở rộng (quốc gia - đất nước

của gia đình) sẵn sàng hi sinh trong những hoàn cảnh mà nếu suy tính theo logic và lẽ thường họ sẽ

không bao giờ chịu chết như vậy.

Nhìn lịch sử từ quan điểm duy vật biện chứng, Anthony Giddens (1985) coi xã hội hiện đại là những quốc

gia - dân tộc tồn tại trong một hệ thống các quốc gia - dân tộc như một thể chế kiểm soát quyền lực vũ

trang, phát triển từ các nhà nước phong kiến chuyên chế (absolutism), thông qua quá trình công nghiệp

hoá và tư bản hoá. Cũng là một nhà lý luận Mác-xít đương đại (Lê Hải 2008a, 2008b), Eric Hobsbawm

(1983, 1992) nhìn thấy những gì được gọi là truyền thống, phong tục, tập quán quốc gia thực ra được

người ta tạo ra (invented tradition) trong quá trình vận động xây dựng ý thức dân tộc. Ernest Gellner

(1993, 1997) nhìn thấy văn hoá từ thượng tầng kiến trúc qua giáo dục mà lan tỏa và phổ biến, còn

Benedict Anderson (1993) thì đánh giá cao ảnh hưởng của in ấn và báo chí lên tư duy mang kết cấu kể

chuyện của con người hiện đại. Nhiều qui luật lịch sử của con đường hình thành dân tộc - quốc gia được

phát hiện bổ sung, từ quá trình vẽ bản đồ (Winichakul 1994), cách mạng (Tilly 1993), cách mạng giai cấp

(Tonnesson 1998), kháng chiến (Hobsbawm 1998, SarDesai 1992), thế tục hoá (Greenfeld 2004), tranh

luận xã hội (Hall 1984, 1996), hội nhập (Birch 1989), hay thậm chí bất ngờ (Wilson 2002), vớ vẩn (Billig

1995) và ảo (Eriksen 2006).

14 Như đã trình bày, tức là sử dụng primordialism hoặc perenialism. Bạn đọc quan tâm về các lối phân chia có thể tìm

đọc các giáo trình của Anthony Smith (2000a, 2000b, 2009), cũng có phân tích sâu hơn về mâu thuẫn giữa lối tư duy

voluntarism - được coi là đặc trưng cho văn hoá Anglo-Saxon, tức là mỗi cá nhân có quyền chọn lựa dân tộc cho

mình và organicism - trường phái lãng mạn Đức, cho rằng dân tộc gắn liền với mỗi cá nhân từ khi sinh ra, hay các cơ

sở của trường phái instrumentalism.

15 Thaveeporn Vasavakul (1998) từng có phân tích rất chi tiết về khác biệt giữa hai hệ thống ý thức về dân tộc thông

qua hai nền giáo dục khác nhau giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong khoảng thời gian 1945-1965.

16 Ví dụ như United States (of America) là Hiệp chủng Quốc và United Nations là Liên hiệp Quốc.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 23 [email protected]

Từ cá tính đến bản sắc

Đa số các qui luật lịch sử như vừa kể được phát hiện và trình bày thông qua phương pháp duy vật biện

chứng, nhưng chính Mác và Angel lại nhìn vấn đề dân tộc qua lớp sương mù (James 1997), còn các nhà

lý luận cộng sản không nhắc gì đến hoặc thậm chí còn tuyên bố cáo chung cho dân tộc trong Quốc tế

hai. Mặc dù Stalin (1913) có đặt ra Câu hỏi về dân tộc tại Quốc tế ba và vấn đề này phần nào trở thành

điểm khác biệt - ít nhất là về lý luận - giữa họ và Đệ Tứ hay Trốt-kít, lý luận về dân tộc tại các nước cộng

sản vẫn thường là điểm yếu hoặc không đậm nét như vừa trình bày ở các nước phương Tây. Thời kỳ đầu

trong chính sách của đảng cộng sản Việt Nam chưa có tham vọng đưa ra chủ trương xây dựng văn hoá

xã hội chủ nghĩa và con người Xô-viết như sau này, mà chỉ chú trọng "tân dân chủ với hình thức phù hợp

với dân tộc" (Trường Chinh 1943), cũng không đặt nặng chủ trương dân tộc đến mức như "yêu tổ quốc,

yêu đồng bào" (chủ nghĩa dân tộc quốc gia), xây dựng con người đạo đức như các điều dạy của Hồ Chí

Minh đối với thiếu nhi, quân đội, công an và cán bộ. Đó cũng chính là mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa

dân tộc cộng sản của Việt Nam (Lữ Phương 1998).

Thiếu vắng một hệ thống lý luận khoa học bậc cao về dân tộc và những vấn đề liên quan, các nghiên cứu

cả không chuyên lẫn hàn lâm của Việt Nam đều tự do phát triển ngoài vùng thẩm định. Họ tìm về nguồn

cội sắc tộc (Hà Văn Thuỳ 2007), lãnh thổ (Trương Thái Du 2007), cộng đồng (Dohamide và Dorohiêm

2004), gốc tư tưởng (Phạm Tường và Việt Hoàng 2006, Hữu Thọ 2000), ngôn ngữ (Cao Xuân Hạo 2003),

bài học vỡ lòng (Trần Văn Chi 2005), cổ nhạc hay Phật giáo (Lê Mạnh Thát 2001), căn cước (Nam Phan

2008) hay cẩn thận hơn thì sắp xếp, phân chia loại hình (Trần Ngọc Thêm 2001), vùng miền (Trần Quốc

Vượng 2002), hay thể nghiệm bản sắc (Nguyễn Khoa Điềm 2001). Một lần nữa, cũng như các trào lưu

trước, biến chuyển về khái niệm/nhận thức dân tộc ở Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của khu vực,

khi châu Á đang chuyển đổi từ tư duy dân tộc phát triển sang tư tưởng dân tộc văn hoá (Lương Văn Hy

2007), còn ASEAN thì đang xây dựng chủ nghĩa khu vực (Sutherland 2008). Nhìn rộng ra thì tiến trình

lịch sử trong vòng 100 năm qua của chủ nghĩa dân tộc - quốc gia ở Việt Nam đã đi từ thiên hướng cá

tính nhân chủng (Trần Trọng Kim 1919) hay hữu cơ tân-Darwin sang đến bản sắc17 (identity) trong

không gian học thuật lịch sử hậu Fukuyama (Lê Hải 2008c), hậu Mác-xít, trong lúc các hệ tư duy trước

vẫn được duy trì hoặc tiếp tục du nhập (Houben 2008, Anesaki 2008). Nhiều nghiên cứu Việt Nam từ

nước ngoài bỏ qua hoặc tránh động đến tâm điểm/định nghĩa của vấn đề dân tộc, chỉ đề cập đến những

mảng nhỏ từ nhiều góc và phương pháp tiếp cận khác nhau: mỹ thuật (Nora Taylor 2004), văn hoá chính

trị (Marr 2004), cộng đồng hải ngoại (Ngô Sĩ Long 2008), ký ức (Hồ Tài Huệ Tâm 2001), tôn giáo thời

hiện đại (Philip Taylor ed. 2007, Fielstad và Nguyễn Thị Hiền ed. 2006), không gian tôn giáo cục bộ (Đỗ

Thiện 2003, Kwon 2008, Malarney 2002), địa phương làng xã (Kleinen 1999, Koh 2006). Tuy nhiên, hiện

có dự án Vietnam Update do giáo sư Philip Taylor chủ trì ở Đại học quốc gia Úc đang ngày càng tiếp cận

thêm nhiều mảng đề tài sau mỗi năm nghiên cứu và hội thảo báo cáo, tiến dần đến một cái nhìn đầy đủ

về bản chất Việt Nam, mà chủ đề được quan tâm trong năm nay là bản sắc liên quan đến di dân, cả nội

địa lẫn ra nước ngoài.

Kết luận

Dân tộc/quốc gia là vấn đề mà bất cứ học giả hàng đầu nào trong ngành xã hội và nhân văn đều phải đề

cập tới, nếu không phải là một đầu sách hay một hệ tư tưởng tiếp cận thì cũng là một essay (tiểu luận)

khảo sát. Thế nhưng ngành học này không có được một hệ tư tưởng chủ đạo, khiến cho mọi bộ giáo

trình dù đơn giản nhất cũng phải hợp đủ hàng chục đầu sách từ đủ mọi hướng tiếp cận khác nhau, và

sinh viên hay người nghiên cứu lần đầu tiên bước chân vào đây phải tự tìm đọc đủ mọi quan điểm đang

phổ biến trên các diễn đàn tranh luận nổi bật, để rồi cuối cùng không biết phải chọn hệ thống nào, hoặc

phải tự mình chọn lựa và tích luỹ các thành phần khác nhau rồi dồn sức xây dựng một hệ thống liên

ngành riêng. Hệ thống đó không chỉ cần phải phù hợp với điều kiện và thực địa nghiên cứu, mà còn với

cả chính bản thân người nghiên cứu - một phát hiện có thể coi là đóng góp của ngành nhân học hiện đại

17 Các hệ thống khái niệm đương đại cũng được tác giả bài viết giới thiệu trên trang blog ở địa chỉ

bansacdantocvietnam.blogspot.com

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 24 [email protected]

trong bối cảnh lịch sử đang phải vượt qua dấu chấm hết (Fukuyama 1992), còn xã hội học đang phải đi

xuống tầm vi mô của các cộng đồng (Etzioni 2000, Putnam 2000, Lê Hải 2008d) và ảnh hưởng nhiều từ

tâm lý học. Cá nhân luận (methodological individualism) với khả năng dung hoà tất cả các điều kiện trên

hứa hẹn sẽ là giải pháp khoa học phù hợp cho các nghiên cứu dân tộc/quốc gia hiện nay. Nhưng đó lại là

đề tài cho một bài viết tiếp theo mất rồi. Tuy nhiên, có thể thấy hiện tại một số blogger trên talawas đã

bắt đầu thử tiếp cận vấn đề theo hướng đó, có thể trực tiếp như "Tôi là người Việt Nam" của Đỗ Kh., như

"Lòng vòng xóm nhà lá" của Phan Xuân Sinh, "Tôi là ai..." của Bùi Văn Phú, Trần Mộng Tú, hay gián tiếp

như hầu hết tất cả các blogger còn lại. Từ những tự sự nhìn lại (retrospective) chúng ta có thể xây dựng

thành một hệ thống lý thuyết khoa học liên chủ quan (inter-subjective) về dân tộc Việt Nam, tức về chính

bản thân mình trong các chiều của xã hội mình: thời gian - không gian, cá nhân - gia đình - địa phương -

vùng miền - dân tộc - khu vực - thế giới, quá khứ - tương lai, vùng biên, chuyển đổi...

Tham khảo:

Anderson, Benedict [1983] 2002, [Những cộng đồng tưởng tượng: những suy tư về nguồn gốc và sự

phát tán của chủ nghĩa dân tộc, tái bản có sửa chữa] Imagined communities: reflections on the origin

and spread of nationalism, -rev. ed., Verso.

Anesaki, Masahira 2008, [Quá trình tạo thành cá tính dân tộc: Vài so sánh giữa Nhật Bản và Việt Nam],

tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, 5-7.XII.2008 tại Hà Nội.

Billig, Michael 1995, [Chủ nghĩa dân tộc vớ vẩn] Banal Nationalism, Sage.

Birch, Anthony H. 1989, [Chủ nghĩa dân tộc và hội nhập dân tộc] Nationalism and national integration,

Unwin Hyman.

Cao Xuân Hạo 2003, Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt, Nxb Trẻ.

Donamide và Dorohiêm 2004, Bangsa Champa - Tìm về với một cội nguồn cách xa, Seacaef & Viet

foundation, California.

Đỗ Thiện 2003, [Siêu nhiên ở Việt Nam: Những góc nhìn từ miền Nam] Vietnamese Supernaturalism:

Views from the South, Routledge.

Eriksen, Thomas Hylland 2006, [Các dân tộc trong thế giới ảo] "Nations in cyberspace", bài giảng Gellner

năm 2006 tại LSE.

Etzioni, Amitai 2000, [Một dân tộc của các nhóm thiểu số?] "A Nation of Minorities?", The Responsive

Community, vol.10 issue 1 Winter 1999/2000.

Fjelstad, Karen và Nguyễn Thị Hiền chủ biên 2006, [Nhập đồng: gọi hồn ở các cộng đồng Việt Nam

đương đại], SEAP Cornell University.

Fukuyama, Francis 1992, [Sự kết thúc của Lịch sử và Người cuối cùng] The End of History and the Last

Man, Free Press.

Geertz, Clifford 1973, [Diễn giải của Văn hoá, Tập hợp bài viết] The interpretation of Cultures, Selected

Essays, University of Michigan, Basic Book.

Gellner, Ernest [1983] 1993, [Các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc] Nations and nationalism, Blackwell.

Gellner, Ernest 1995, [Các dân tộc có cuống rốn hay không?] "Do nations have navels?" trong Smith,

Anthony D. & Ernest Gellner 1995, [Cuộc tranh luận ở đại học Warwick] The Warwick Debates 24.X.1995.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 25 [email protected]

Gellner, Ernest 1997 [Tư tưởng dân tộc] Nationalism, Weidenfeld & Nicolson.

Giddens, Anthony 1985, [Dân tộc - Quốc gia và Bạo lực] The Nation-State and Violence, Polity Press.

Greenfeld, Liah 2004, [Chủ nghĩa dân tộc và não trạng] "Nationalism and the Mind", Bài giảng thường

niên mang tên Gellner tại London School of Economics 22.IV.2004, in lại trong tạp chí Nations and

Nationalism 11.3 (July 2005): 325-341.

Hà Văn Thuỳ 2007, Tìm lại cội nguồn văn hoá Việt, Nxb Văn Học, các bài viết của Hà Văn Thuỳ có thể

đọc trên mạng ở địa chỉ:

http://anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=contentbyauthor&author=HaVan

Thuy&name=H%C3%A0+V%C4%83n+Th%C3%B9y

Hall, Stuart 1996, [Ý nghĩa, Đại diện, Tư tưởng: Althusser và các cuộc Tranh luận Hậu Cấu trúc]

"Signification, Representation, Ideology: Althusser and the Post-Structuralist Debates", trong tập sách do

James Curran chủ biên. 1996, Cultural studies and communications, Arnold.

Hall, Stuart chủ biên [1980] 1984 [Văn hoá, truyền thông, ngôn ngữ] Culture, media, language,

Hutchinson.

Hobsbawm, Eric J. [1990] 1992, [Các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc từ 1780: chương trình, truyền thuyết,

thực tại] Nations and nationalism since 1780: programme, myth, reality, Cambridge University Press.

Hobsbawm, Eric J. biên tập [1983] 1984, [Truyền thống được tạo dựng] The invention of tradition,

Cambridge University Press.

Hobsbawm, Eric J. 1998, [Những con người không thường gặp - Kháng chiến, Phiến quân và Jazz]

Uncommon People - Resistance, Rebellion and Jazz, Orion.

Hồ Tài Huệ Tâm chủ biên 2001, [Đất nước của ký ức: Tái dựng quá khứ ở giai đoạn sau của Việt Nam

thời xã hội chủ nghĩa] The Country of Memory: Remaking of the Past in late Socialist Vietnam, University

of California Press.

Houben, Vincentius Johannes Hubertus 2008, [Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á: Tình thế và những

so sánh] "Vietnam in the context of Southeast Asia. Conjunctures and Comparisons", phát biểu khai mạc

Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, 5-7.XII.2008 tại Hà Nội

Hungtington, Samuel 2005, [Chúng ta là Ai? Những Thách thức của Bản sắc Dân tộc Hoa Kỳ], Who are

we? - The Challenges to America's National Identity, Simon&Schuster.

Hữu Thọ chủ biên 2000, Hồ Chí Minh - Về công tác tư tưởng văn hoá, Nxb Chính trị Quốc gia.

Ichijo, Atsuko & Gordana Uzelac ed. 2005, When is the nation?: towards an understanding of theories of

nationalism, Routledge.

James, Paul 1997, [Sự hình thành của Dân tộc - Tìm về một Lý thuyết cho Cộng đồng Trừu tượng]

Nation Formation - Towards a Theory of Abstract Community, SAGE.

Kedourie, Elie 1994 [Dân chủ và văn hoá chính trị Ả Rập] Democracy and Arab political culture, Frank

Cass.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 26 [email protected]

Kleinen, John 1999 [Đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ: nghiên cứu biến đổi xã hội ở một làng Bắc Việt

Nam] Facing the future, reviving the past: a study of social change in a Northern Vietnamese village,

ISAS, bản tiếng Việt do Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 2007.

Koh, David W.H. 2006, [Phường ở Hà Nội], Wards of Hanoi, ISAS.

Kwon, Heon-ik 2008, [Hồn ma cuộc chiến ở Việt Nam] Ghosts of War in Vietnam, Cambridge University

Press

Lê Hải 2008a, "Chủ nghĩa Mác đương đại", talawas 13.III.2008

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12550&rb=0306

Lê Hải (dịch) 2008b, "Người cộng sản kiên định", (dịch từ buổi nói chuyện của Eric Hobsbawm 2004

Interesting Times: A Twentieth Century Life, UCLA), talawas 19.3.2008

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12616&rb=0306

Lê Hải (dịch) 2008c, "Giải nghĩa lịch sử", (dịch từ lời dẫn cho loạt sách về lịch sử sau tuyên bố chấm dứt

của Fukuyama), talawas 2.XI.2008

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14651&rb=0302

Lê Hải 2008d, "Chủ nghĩa cộng đồng", talawas 15.II.2008

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12296&rb=0306

Lê Mạnh Thát 2001, Lịch sử âm nhạc Việt Nam - từ thời Hùng Vương đến Lý Nam Đế, Nxb Tp.HCM.

Lữ Phương 1998, "Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam", bản điện tử ở:

http://www.viet-studies.info/LuPhuong/LuPhuong_ChuNghiaDanTocVietNam.htm

Lương Văn Hy 2007, [Chuyển đổi cơ cấu của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam 1954-2006] "The Restructuring

of Vietnamese Nationalism", Pacific Affairs, University of British Columbia.

Malarney, Shaun Kingsley 2002, [Văn hoá, tín ngưỡng và cách mạng ở Việt Nam] Culture, ritual and

revolution in Vietnam, University of Hawaì Press.

Marr, David G. 2004, [Lược sử chính quyền địa phương ở Việt Nam] "A Brief History of Local Government

in Vietnam", trong Benedict J. Kerkvliet và David Marr chủ biên 2004, Beyond Hanoi: local government in

Vietnam, ISAS.

Nam Phan 2008, "Đi tìm căn cước thật của Việt Nam", Đàn Chim Việt 22.I.2008.

Ngô Sĩ Long 2008, [Cộng đồng di dân Việt Nam toàn cầu] The Global Vietnamese Diaspora, bản thảo

điện tử trên trang blog của ĐH Houston ở địa chỉ:

http://blogs.bauer.uh.edu/vietDiaspora/2008/introduction/

Nguyễn Khoa Điềm chủ biên 2001, Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia.

Phạm Tường và Việt Hoàng 2006, Nguồn cội văn hoá thần minh Đại Việt, Nxb Văn Nghệ.

Putnam, Robert 2000, [Chơi bowling một mình: Sự sụp đổ và phục hồi của cộng đồng Mỹ] Bowling

Alone: The Collapse and Revival of American Community, Simon & Schuster, tiểu luận trước đó (1995)

được lưu trên mạng ở địa chỉ:

http://xroads.virginia.edu/~HYPER/DETOC/assoc/bowling.html

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 27 [email protected]

SarDesai, D.R. 1992, [Việt Nam: Cuộc kháng chiến cho Bản sắc Dân tộc] Vietnam: The Struggle for

National Identity, Westview Press.

Smith, Anthony D. 1995, [Các dân tộc và quá khứ của họ] "Nations and their pasts", trong Smith,

Anthony D. & Ernest Gellner 1995, [Cuộc tranh luận ở đại học Warwick] The Warwick Debates 24.X.1995.

Smith, Anthony D. 1998, [Chủ nghĩa dân tộc và Chủ nghĩa hiện đại] Nationalism and Modernism,

Routledge.

Smith, Anthony D. 2000a, [Dân tộc trong lịch sử: Các cuộc tranh luận sử-địa về dân tộc và chủ nghĩa

quốc gia] The Nation in History: Historiographical Debates about Ethnicity and Nationalism, Polity Press.

Smith, Anthony D. 2000b, [Các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại toàn cầu] Nations and

nationalism in a global era, Polity Press.

Smith, Anthony D. 2009, [Chủ nghĩa sắc tộc - biểu tượng và chủ nghĩa dân tộc; Một tiếp cận văn hoá]

Ethno-symbolism and Nationalism; A cultural approach, Routledge.

Stalin, J.V. 1913, Marxism and the National Question, Prosveshcheniye, bản tiếng Anh trên mạng ở địa

chỉ http://www.marxists.org/reference/archive/stalin/works/1913/03.htm

Sutherland, Claire 2008, [Hoà hợp giữa quốc gia và khu vực: Tiến trình xây dựng dân tộc Việt Nam và

chủ nghĩa khu vực của ASEAN] "Reconciling Nation and Region: Vietnamese Nation Building and ASEAN

Regionalism", Political Studies 2008.

Szacki, Jerzy 2003, [Lịch sử tư tưởng xã hội - Ấn bản mới] Historia mysli socjologicznej - Wydanie nowe,

PWN.

Taylor, Nora A. [2004] 2009, [Các họa sĩ ở Hà Nội - Một nghiên cứu dân tộc ký về mỹ thuật Việt Nam]

Painters in Hanoi - An Ethnography of Vietnamese Art.

Taylor, Philip chủ biên 2007, [Hiện đại và tái mê tín: tôn giáo ở Việt Nam sau cách mạng] Modernity and

re-enchantment: religion in post-revolutionary Vietnam, ISAS.

Tilly, Charles 1993, [Các cuộc cách mạng châu Âu 1492-1992] European revolutions, 1492-1992,

Blackwell.

Tonnesson, Stein và Hans Antlov [1996] 1998 [Các loại hình châu Á của quốc gia] Asian Forms of the

Nation, Curzon.

Trần Ngọc Thêm 2001, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Tp.HCM.

Trần Quốc Vượng chủ biên 2002, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục.

Trần Trọng Kim 1919, Việt Nam sử lược, TT Học liệu Bộ Giáo dục.

Trần Văn Chi 2005, Tình nghĩa giáo khoa thư, Nxb Xưa Và Nay, Canada.

Trường Chinh 1943, Đề cương về Văn hoá Việt Nam, talawas.

Trương Thái Du 2007, Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề, Nxb Lao Động; các bài viết của Trương

Thái Du có thể đọc trên mạng ở địa chỉ:

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 28 [email protected]

http://www.vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacgia.asp?TGID=742&LOAIID=17&LOAIREF=5

van den Berghe, Pierre [1978, 1979] 1981 [Hiện tượng sắc tộc] The Ethnic Phenomenon, Elsevier.

Vasavakul, Thaveeporn 1998, "Ý thức dân tộc Việt Nam trong cách nhìn so sánh", bài viết trình bày tại

Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội 15-17.VII.1998, in lại trong Phan Huy Lê chủ biên

2002, Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết Về Việt Nam, Nxb Thế giới

Wilson, Andrew 2002, [Người Ukraina: Dân tộc bất ngờ] The Ukrainians: Unexpected Nation, Yale

University Press.

Winichakul, Thongchai 1994, [Siam được bản đồ hoá: Lịch sử tạo thân địa lý cho một dân tộc] Siam

Mapped: A History of the Geo-body of a Nation, University of Hawaii.

_______________________________________

Christopher E. Goscha

Tái cấu trúc các mối quan hệ thời kỳ thuộc địa: Quan hệ liên Á ở Đông Dương

thuộc Pháp giai đoạn giữa 2 cuộc thế chiến

Đông Hiến dịch

Giới thiệu

Hiếm khi các công trình nghiên cứu về quốc tế học, lịch sử thực dân và nghiên cứu Đông Nam Á (tuy có

nhiều hơn các chuyên ngành khác) đề cập đến những mối liên hệ giữa các cộng đồng bản xứ ở châu Á

trong thời kỳ thực dân.

Các nhà nghiên cứu lịch sử thuộc địa và hậu thuộc địa thường chú trọng vào mối quan hệ lưỡng cực giữa

một bên là thực dân Tây phương - bên cai trị, và bên kia là những người bản xứ - bên bị cai trị.

Các chuyên gia về quan hệ quốc tế hiển nhiên là quan tâm hơn đến các quốc gia có chủ quyền trong giai

đoạn đó, như nhà nước Đông Dương thuộc Pháp hay Ấn Độ thuộc Hà Lan, hơn là những nhóm người bản

xứ không có chính quyền cấp quốc gia.

Ngoại trừ những công trình tương tự như của Erez Manela và Elaine Patterson, vế bên kia của câu

chuyện, từ phía châu Á, thường chỉ được mở ra từ khi làn sóng giải phóng thuộc địa khởi phát từ năm

1945.

Mặc dù các sử gia về Đông Nam Á đã chú trọng tới sự hình thành và phát triển của các phong trào giải

phóng dân tộc và các nhóm gốc Á khác nhau cùng sống trong xã hội thuộc địa, chúng ta vẫn còn biết

quá ít về những vấn đề như những cộng đồng người Việt và người Trung Quốc, hay người Miến Điện và

Ấn Độ đã đối đãi với nhau như thế nào trong thời kỳ thực dân - cả ở trong và bên ngoài các quốc gia

thuộc địa.

Thế nhưng, tôi vẫn cho rằng những mâu thuẫn trong thời kỳ thực dân đã tạo động lực hình thành một

mạng lưới quan hệ liên Á hoàn toàn mới giữa các nước thuộc địa. Chính điều đó đã tác động trực tiếp

đến tính chất của "quan hệ thuộc địa" lúc bấy giờ và sự hình thành các quốc gia hậu thuộc địa sau kể từ

năm 1945.

Để làm rõ ý này, tôi xin tập trung phân tích nội tình các quốc gia Đông Dương thuộc Pháp qua hai ví dụ

cụ thể: 1) sự kiện tẩy chay kinh tế đối với Hoa Kiều ở Việt Nam từ 1919 đến 1922; và 2) cuộc tranh luận

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 29 [email protected]

lý thú giữa những người Việt Nam, Cam Bốt và Pháp về tính khả thi của một số quy định pháp lý thực

dân vào thập niên 1930.

Trong phần kết luận, tôi sẽ trình bày ý kiến của mình về những lĩnh vực ít tính đối kháng hơn trong quan

hệ giữa những người bản xứ, như quan hệ hôn nhân dị chủng giữa những người châu Á, thể thao và sự

gặp gỡ các thuộc địa khác.

Để nghiên cứu những mối quan hệ này, tôi chủ yếu khai thác 3 loại tư liệu: 1) những ghi chép về du ký

của người Việt; 2) số lượng lớn các biên khảo, nghị luận, thư gửi ban biên tập và hý họa chính trị; và

cuối cùng là 3) lưu trữ về thuộc địa ở Pháp.

Các tập du ký cung cấp những thông tin thú vị về giao lưu giữa người Việt với các sắc dân châu Á khác,

với bên thực dân, và hé mở về sự thay đổi tư duy cũng như thế giới quan của các tác giả. Tuy chất lượng

có khác nhau, nhưng riêng tôi đã nhận diện được tới khoảng 100 ghi chép về các chuyến đi, trên khắp

vùng Đông Dương và phần lớn châu Á, sang tới phương Tây và Liên xô.

Báo chí Đông Dương cũng là một nguồn tư liệu không kém phần phong phú để nghiên cứu về giao lưu

giữa những người dân thuộc địa, với các bài báo về quan hệ giữa người Việt với thương gia Ấn Độ, các

hình ảnh và bài viết về các trận đấu thể thao giữa những người Trung Quốc, Việt Nam, Pháp và Lào, các

cuộc hôn nhân có cô dâu chú rể là người thuộc hai chủng tộc châu Á khác nhau. Thậm chí, còn có cả các

bài bút chiến về thuyết chủng tộc Âu châu. Các nhật báo cũng tái hiện một diễn đàn mở, trong đó những

nhóm người bản xứ trao đổi với nhau và với người "cai trị". Sau cùng, các văn khố lưu trữ về thuộc địa

của Pháp là một mỏ vàng thông tin về tất cả các vấn đề nói trên. Nói như thế, nhưng đến nay tôi vẫn

đang cố tìm lại các lưu trữ về toà án thuộc địa, mà trong đó chắc hẳn phải có những thông tin về xung

đột sắc tộc, tranh chấp tài sản, luật ly hôn và các vụ tranh cãi về quốc tịch. Cả ba nguồn tư liệu đó đã

cho tôi thấy các khía cạnh khác nhau về sự kiện tẩy chay Hoa Kiều mà tôi sẽ đề cập ở phần tiếp theo

đây.

I. Dựa vào yếu tố "nội địa": Người Việt tẩy chay người Hoa

Các quốc gia thuộc địa ở Đông Nam Á khi hình thành đương nhiên bao gồm các cộng đồng châu Á đa

chủng tộc. Trong quá trình đó, tính chất của các quan hệ xã hội vốn có đã bị thay đổi. Khắp vùng Đông

Nam Á, chính quyền thực dân thúc đẩy những đợt sóng di cư vốn đã xuất hiện từ trước của người Việt,

người Hoa và người Ấn, một mặt để có nguồn nhân lực cho các hoạt động kinh tế và quản lý thuộc địa,

mặt khác để có thành phần trung gian thương mại giữa dân cư bản xứ với chính quyền thực dân. Hàng

trăm ngàn người Trung Quốc bị đưa đi làm công ở các nhà máy và đồn điền suốt từ Đông Dương thuộc

Pháp đến Malaysia thuộc Anh, đồng thời hàng chục ngàn người Ấn Độ và Việt Nam đến cạo giấy tại các

công sở thuộc địa ở Miến Điện và Tây Đông Dương (Lào, Cam Bốt).

Để thúc đẩy quá trình khai thác thuộc địa, chính quyền thực dân đã trao những đặc quyền kinh tế và tạo

ra những phạm trù pháp lý mới cho người Hoa, Ấn và Việt, làm thay đổi những mối quan hệ giữa các

nhóm này như trong ví dụ thứ hai mà tôi sẽ nêu. Đồng thời, chủ nghĩa thực dân khuyến khích sự phát

triển của các nhóm thượng lưu mới ở đô thị, có tham vọng nắm giữ một vai trò riêng trong guồng máy

kinh doanh thương mại.

Những thực tế nói trên đã tạo nên bối cảnh cho sự kiện tẩy chay. Các dấu hiệu căng thẳng trong quan hệ

Trung-Việt đã xuất hiện từ sau Thế chiến thứ nhất, khi các nhà tư sản Việt Nam mới nổi muốn đột phá

vào các lĩnh vực vốn do người Hoa thống trị từ trước đến giờ, như ngân hàng, ngoại thương và kinh

doanh gạo. Xu hướng này thể hiện rõ nhất ở Nam Kỳ, nơi số lượng Hoa Kiều và các hoạt động kinh tế

của họ luôn lớn nhất cả nước.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 30 [email protected]

Đến thời điểm đó, các nhà tư sản người Việt ở Nam Kỳ tự cho rằng họ đã có đủ phương tiện tài chính,

báo chí và quan hệ với chính quyền thực dân để đối đầu với các doanh nhân người Hoa.

Kể từ cuối năm 1918, các nhà lãnh đạo thân Pháp của Đảng Lập hiến Việt Nam và các tờ báo Nam Kỳ bắt

đầu cho đăng các bài viết kêu gọi "giải phóng" nền kinh tế Việt Nam, theo gương cuộc tẩy chay của

người Trung Quốc đối với Nhật Bản được phát động trước đó ít lâu.

Và họ chỉ cần một lý do để phát động cuộc tẩy chay. Thời cơ đó đã đến vào một ngày tháng Tám năm

1919, khi hai cửa hiệu cà phê của người Hoa ở trung tâm Sài Gòn tăng giá bán mỗi ly cà phê thêm 1 xu.

Khách hàng của hai tiệm này, chủ yếu là công chức người Việt, giận dữ phản đối. Các biên tập viên,

doanh nhân và chính trị gia người Việt nắm ngay lấy sự kiện này để kêu gọi người Việt đồng loạt tẩy

chay toàn bộ hàng hoá của người Hoa.

Đến cuối tháng đó, báo chí đã biến một sự kiện nhỏ lẻ thành một cuộc thánh chiến quyết liệt chống lại

sự "đè nén" bấy lâu của người Hoa đối với nền kinh tế Việt Nam, thực ra là với cả dân tộc Việt Nam. Báo

chí tiếng Trung cũng đáp trả với giọng điệu tương ứng, nhấn mạnh là người Hoa luôn có vai trò mang lại

"văn minh và vốn liếng" đến cho Việt Nam.

Chẳng mấy chốc, những định kiến tồi tệ nhất từ cả hai phía được tung ra theo kiểu "hòn bấc ném đi hòn

chì ném lại". Suốt hai năm, báo chí Việt Nam tràn ngập những lời bàn về "tham vọng Trung Hoa", trong

khi văn giới Trung Quốc chì chiết về "sự vô ơn" của người Việt.

Tôi không muốn bị hút vào những tiểu tiết. Điều khiến tôi quan tâm ở đây là những trao đổi "ăn miếng

trả miếng" này đã bộc lộ những xung đột mới trong quan hệ Trung-Việt và cho thấy một biên độ rộng

lớn hơn trong quan hệ giữa các nhóm dân bản xứ.

Vì một lẽ, chính người Hoa - chứ không phải thực dân Pháp - đã trở thành một động lực quan trọng kích

thích chủ nghĩa dân tộc đối với các nhà tư sản Việt Nam, hay ít nhất cũng là một yếu tố ngoại lai cần

thiết. Những nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam không chỉ quyết tâm đối đầu với người Hoa trên mặt trận

kinh tế, mà họ còn nhất trí rằng nếu muốn thành công phải tự thay đổi chính mình.

Các tác giả Nam Kỳ kêu gọi đồng bào mình hợp nhất lại để đoàn kết dân tộc. "Tổ chức", "thống nhất" và

"đoàn kết" trở thành những từ cửa miệng của những nhà tư sản dân tộc từ Bắc đến Nam. Ý của những

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 31 [email protected]

từ này là thành lập những tổ chức mới, hiệp hội thương mại, thậm chí một Phòng Thương mại (như

người Trung Quốc đã làm từ năm 1910) để tập hợp các doanh nhân Việt Nam lại với nhau.

Đó cũng là vấn đề dân tộc, y như trường hợp các nhà tư sản dân tộc Trung Quốc đối đầu với người Nhật.

Một nhà dân tộc chủ nghĩa nổi tiếng thời kỳ này đã phát biểu, "Trước mối họa (Trung Quốc) này, chả lẽ

chúng ta, những người Nam Kỳ và Bắc Kỳ, đều là con dân An Nam, lại không thấy có sự thống nhất ư?"

Không phải ngẫu nhiên mà ngân hàng đầu tiên của người Việt ra đời năm 1919 - chính là trong bối cảnh

quan hệ với người Hoa nói trên, chứ không phải với thực dân Pháp. Ngân hàng này tài trợ những hoạt

động tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc và hỗ trợ thương mại người Việt qua việc tích trữ vốn đầu tư. Giữa

hai cộng đồng Việt-Hoa này, trong thời kỳ thực dân, đã có rất nhiều chuyện xảy ra.

Thứ hai là, dù đối tượng chính là người Trung Quốc, nhưng người Pháp cũng tham gia vào mối quan hệ

này. Ở tầng lớp dưới, các thương gia người Pháp, phóng viên, thậm chí những người Pháp nghèo thường

về phe với người Việt trong cuộc đụng độ này, chia sẻ sự tức giận của người Việt vì cảm thấy "bị chèn

ép".

Ở cấp cao, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã gặp gỡ những nhân vật thượng lưu Việt Nam đang bức

bối và hứa với họ là chính quyền sẽ hỗ trợ phát triển thương mại của người Việt. Người Pháp thành lập

những trường thương mại để giúp đào tạo những doanh nhân trẻ người Việt và những doanh gia thượng

lưu trong tương lai. Dù nói vẫn dễ hơn làm, sự tham gia của phía thực dân vào cuộc tranh chấp cho thấy

quan hệ giữa thực dân Pháp và người Việt bản xứ không phải bao giờ cũng mang tính đối đầu. Và, tại

thời điểm 1919, một số thương gia Pháp lại về phe người Hoa. Đồng minh có thể thay đổi tuỳ theo quyền

lợi. Quan hệ ở thuộc địa là mối quan hệ linh hoạt, không phải cố định.

Ba là, những va chạm giữa người Hoa và người Việt trong giai đoạn này cho chúng ta một cái nhìn tổng

quan về quan niệm cố hữu của người Việt về người Hoa đã được tái thể hiện một cách định kiến, thường

mang tính phân biệt chủng tộc và được lan truyền rộng rãi chưa từng thấy. Nhờ phương tiện báo chí hiện

đại, các hý họa chế giễu các thương gia Hoa Kiều "tham lam" và "hợm hĩnh" được đăng tải trên trang

nhất các tờ báo Nam Kỳ. Những người Hoa ăn mặc lố lăng bị coi là những kẻ lấy tranh mất "phụ nữ Việt

Nam" và làm giàu trên xương máu, mồ hôi và nước mắt của những người nông dân bị bóc lột. Những từ

lóng khinh miệt kiểu như "chệc" ngày càng trở nên phổ biến.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 32 [email protected]

Tất nhiên, không chỉ ở Việt Nam thuộc Pháp mới có tư tưởng bài Hoa. Một vị vua Thái Lan đương thời đã

gọi người Hoa là "bọn Do Thái phương Đông". Đúng là tư tưởng và các hành động bài Hoa đã từng tồn

tại trước khi người Pháp tới vùng này, nhưng chính nhờ có báo chí hiện đại, phong trào tẩy chay và các

hý họa tuyên truyền đã đẩy nhanh hơn quá trình "ly gián" và nhiều khi bôi nhọ người Hoa. Thay vì được

coi là một thành phần dân tộc có nhiều tiềm năng, có thể đóng góp vào công cuộc hiện đại hoá và làm

giàu cho Việt Nam, Hoa Kiều ở Đông Dương lại bị định kiến là một cộng đồng tách biệt, yếu tố "ngoại lai"

cần thiết để làm nổi bật căn cước dân tộc thuần Việt đặc trưng. Trong phần kết luận tôi sẽ phân tích vấn

đề này sâu hơn.

Sau cùng, những người tổ chức phong trào tẩy chay tố cáo rằng những người Hoa sống trong những

cộng đồng khép kín, và không có dân tộc tính của người Việt - dù đó là một khái niệm mơ hồ. Một nhà

dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đã phát biểu: "Chính những cộng đồng Hoa Kiều, với cách hình thành và sinh

hoạt khép kín của mình, đã làm phát sinh vấn đề. Cái kiểu tổ chức xã hội này, nói cách khác là tạo ra

những tiểu quốc gia bên trong một quốc gia, là nguồn gốc của những sai lầm mà chính chúng ta, những

người bản xứ, đang phải trả giá. [...]".

Trong cuốn du ký của một chuyến đi đến biên giới Trung Quốc vào năm 1922, vị thủ hiến tương lai của

Việt Nam, Trần Trọng Kim đã kêu gọi người Pháp đồng hoá người Hoa bằng cách đặt ra một quốc tịch

Việt Nam mở rộng. Điều này không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, vấn đề xung đột pháp lý này đã đưa tôi

đến một phương pháp nghiên cứu mới để tìm hiểu về những mâu thuẫn luôn thay đổi trong quan hệ ở

các thuộc địa, chủ đề của phần thứ hai mà tôi sẽ bàn dưới đây.

II. Cũng dựa vào yếu tố "nội địa": Xung đột pháp lý thuộc địa ở Cam Bốt

Nếu người Việt từng ân hận đã không biến Hoa Kiều thành người Việt được, thì chỉ một thập niên sau,

rất nhiều người trong số đó phải đấu tranh quyết liệt trước nỗ lực của người Cam Bốt nhằm hạn chế số

lượng di dân Việt Nam bằng cách trục xuất hoặc đồng hoá họ thành người Cam Bốt. Trong những năm

1930, giới thượng lưu Việt Nam, Cam Bốt và Pháp bị cuốn vào một cuộc đối thoại khá hấp dẫn, chủ yếu

xoay quanh hai vấn đề chính: 1) quyền pháp lý của phía Cam Bốt muốn đồng hoá người Việt thành công

dân Cam Bốt, và 2) nỗ lực của người Việt chống lại xu hướng này bằng cách vận động cho một khái niệm

quốc tịch thuộc địa mở rộng, bao trùm toàn bộ vùng thuộc địa Đông Dương. Một quốc tịch Đông Dương

sẽ cho phép người Việt sinh sống, làm việc và đi lại trên toàn cõi Đông Dương mà không chịu sự kiểm

soát pháp lý của Lào và Cam Bốt.

Qua đây, chúng ta có thể thấy nền pháp luật thuộc địa đã tác động trực tiếp đến các mối quan hệ sẵn có

ở châu Á, tạo nên các hậu quả đáng lưu ý trong thời kỳ hậu thuộc địa. Một là, vấn đề quyền công

dân/quốc tịch hiện đại được đặt ra lần đầu tiên trong thời kỳ thuộc địa chứ không phải vào năm 1945.

Xin lưu ý rằng, những nhà dân tộc chủ nghĩa ở Cam Bốt thuộc địa đang vận động cho một loại quốc tịch

Cam Bốt riêng (tách khỏi khối Đông Dương) chưa hẳn là mâu thuẫn với người Việt về văn hoá bản địa

hay chủng tộc. Thực ra, họ đều là những người ủng hộ một ý tưởng của phe Cộng hoà về đồng hoá triệt

để, căn cứ theo nơi sinh. Những người gốc Việt sinh ra ở Cam Bốt nên và cần được "Khơ-me hoá" bằng

giáo dục, ngôn ngữ và mang quốc tịch Cam Bốt thuộc địa.

Dù trước đó một thập niên, người Việt đã khát khao đồng hoá người Hoa bằng một loại quốc tịch Việt

Nam, trong xung đột với các nhà dân tộc chủ nghĩa Cam Bốt, người Việt đã ứng phó bằng cách vận động

cho một loại quốc tịch Đông Dương căn cứ theo mô hình thuộc địa, một khái niệm chưa từng tồn tại

trước khi người Pháp đặt chân đến xứ này. Thay vì làm người Việt hay người Cam Bốt, họ kêu gọi, tất cả

mọi người hãy trở thành "người Đông Dương".

Điều này dẫn tôi tới vấn đề liên quan tiếp theo: chọn lựa vùng lãnh thổ. Vào năm 1930, rất ít, thậm chí

có thể không có, người Cam Bốt nào với tư tưởng dân tộc chủ nghĩa lại sẵn sàng cho mình là công dân

Đông Dương như người Việt và người Pháp đề xướng. Vùng lãnh thổ của họ là Vương quốc Cam Bốt, chứ

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 33 [email protected]

không phải Đông Dương thuộc Pháp. Như một nhà dân tộc chủ nghĩa Cam Bốt đã lập luận với người

Pháp:

Cái gọi là Liên minh Đông Dương, mà thực chất là sự thôn tính Cam Bốt của người An Nam, sẽ

gây tổn hại đến tương lai dân tộc chúng tôi. Nếu đất An Nam và vương quốc Cam Bốt thuộc sự

cai trị của hai nước khác nhau, ví như họ thuộc Hoà Lan còn chúng tôi thuộc Pháp, thì biên

cương phía Đông của chúng tôi còn giữ được, và người An Nam đã không thể tràn sang tự do

mà không cần phải làm các thủ tục nhập cảnh phức tạp. Tôi vốn có lòng tin vững chắc rằng

người Pháp rộng lượng sẽ không để tình cảnh này tiếp diễn lâu nữa trên đất Cam Bốt, điều mà

họ sẽ không bao giờ cho phép xảy ra trên đất Pháp. Nếu không, thì (người Pháp) sẽ phải chịu

trách nhiệm trước Lịch sử. Người cầm quyền phải đặt mình vào hoàn cảnh người dân chúng tôi

khi cai trị. Họ phải làm thế nào để Khơ-me hoá những người Á châu không có gốc Khơ-me hiện

đang sinh sống ở đây, tức là khoảng một phần ba dân số. Ngắn gọn là người Pháp nên cho

chúng tôi, ít nhất là về hình thức, một nhà nước dân tộc.

Vấn đề là ở chỗ, nhà nước thuộc địa Đông Dương, về mặt hành chính, bao trùm toàn bộ lãnh thổ Đông

Dương; Cam Bốt chỉ là một địa danh thuộc lãnh thổ đó mà thôi. Tuy nhiên, với một cú xoay chuyển

ngoạn mục, một số người Cam Bốt đề xướng một giải pháp mà họ đã tìm được ngay trong vùng thuộc

địa Đông Nam Á. Họ yêu cầu người Pháp tách Cam Bốt khỏi xứ Đông Dương thuộc Pháp và thành lập

một thuộc địa riêng, như người Anh đã làm ở Ấn Độ khi họ hình thành một thuộc địa Miến Điện riêng rẽ

(một phần là vì thái độ thù nghịch của người Miến đối với số người Ấn Độ làm việc trong chính quyền

thuộc địa ngày một tăng). Cam Bốt, cũng như Miến Điện, vẫn là một thuộc địa của Pháp, nhưng sẽ có

chủ quyền quốc gia riêng để chuyển hoá người Việt thành "người Cam Bốt". Qua đó, ta thấy tình hình

thuộc địa Đông Dương đã có sẵn nhiều rối ren trước khi Nhật Bản chiếm trọn vùng Đông Dương năm

1945. Và vào năm 1946, giới trí thức Cam Bốt trực tiếp phản đối với người Pháp về vấn đề quốc tịch

trong một cuộc đàm phán được tổ chức với kế hoạch tái tạo Liên minh Đông Dương hướng tới việc áp

dụng một loại quốc tịch Đông Dương tương ứng.

Như trong vụ mâu thuẫn Hoa-Việt, người của chính quyền thực dân cũng can dự vào vụ này. Ông

Marinetti, đại diện cho Cam Bốt trong Bộ Thuộc địa, người tự cho mình là "Khơ-me hơn cả người Khơme"

phản đối những đề xuất mang tính "ly khai chủ nghĩa" của người Cam Bốt. Ông ta cho rằng người

Anh có thể tách Miến Điện khỏi thuộc địa Ấn, nhưng không đời nào người Pháp sẽ làm chuyện tương tự.

Dù có phải là thuộc địa Pháp hay không, cũng đừng nghĩ tới chuyện ly khai. Thống sứ Cam Bốt cũng vào

hùa với quan điểm này. Nhưng người Cam Bốt thì không tâm phục khẩu phục. Một người phát ngôn Khơme

công khai phê phán ông chuyên gia Pháp này, và phát biểu rằng nếu thực sự Marinetti "Khơ-me hơn

cả người Khơ-me" thì đương nhiên phải bảo vệ lợi ích Cam Bốt. Giới văn bút Cam Bốt kêu gọi những

người đại diện cho Cam Bốt ở Pháp phải ủng hộ nguyện vọng của dân tộc Khơ-me nếu không thì nên từ

chức cho rồi.

Ông Marinetti tỉnh ngộ trước lời biện luận của những nhà dân tộc chủ nghĩa Khơ-me, và lật ngược quan

điểm của mình. Năm 1938, ông ta gửi một báo cáo đến Bộ Thuộc địa, trình bày rằng người Pháp nên đáp

ứng nguyện vọng của tất cả mọi người dân Đông Dương, ngụ ý cả người Lào và Cam Bốt. Ông ta yêu

cầu chính quyền nên dành riêng một số chức vụ cho người Khơ me, thậm chí ông ta còn thuyết phục nên

để cho Cam Bốt có quyền tự quyết cao hơn về chính trị và kinh tế trong khối Đông Dương. Ông ta kết

luận rằng những đòi hỏi "hợp lý' này là cần thiết, và nếu không đáp ứng thì sẽ là một lỗi lầm không thể

tha thứ được. Một lần nữa cho thấy quan hệ đồng minh giữa thực dân với thuộc địa vẫn có thể thay đổi.

Người Việt sửng sốt. Phía Pháp bắt đầu có ý tưởng ngược lại với người Việt ngay trong chính quyền thực

dân. Rất nhiều người Việt sợ rằng phía Pháp sẽ thực hiện những kiến nghị của Marinetti. Và điều đó đã

xảy ra. Năm 1935, người Pháp thay đổi một điều luật quốc tịch, quy định người Việt sống thành nhóm

cộng đồng ở Lào phải theo sự điều chỉnh của luật pháp Lào. Chính người Pháp đã đưa ra một tiền lệ đi

ngược lại với ý định hình thành một quốc tịch chung trên cõi Đông Dương.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 34 [email protected]

Cuối cùng, những diễn biến trên cho ta thấy tuy các quy định của chính quyền thực dân thường bị phản

đối, chống đối và bất tuân, nhưng cũng có trường hợp được đón nhận, và ủng hộ, tuỳ theo vấn đề liên

quan và địa bàn cư trú của người bản xứ. Những quy định, và các ý kiến tranh cãi xoay quanh các vấn

đề đó cho chúng ta thấy rõ thêm về nhận thức của người thuộc địa về mối quan hệ của mình với những

đại diện của thực dân và với những nhóm dân "châu Á" khác sinh sống trên cùng một xứ thuộc địa. Như

trường hợp ở Việt Nam cho thấy, một mặt người ta có thể yêu cầu phải "Việt hoá" người Hoa, đồng thời

bảo vệ một tư cách công dân thuộc địa riêng cho người Việt ở Cam Bốt và vận động hình thành một loại

quốc tịch Đông Dương hoàn toàn mới.

Kết luận: Kết nối những mối quan hệ ở thuộc địa theo những cách khác

Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng cách gợi ra những hướng mới để chúng ta có thể kết nối, phân tích

những mối quan hệ ở thuộc địa theo những hướng ít tính đối kháng, ít cực đoan hơn. Điều quan trọng là

phải xem xét những lĩnh vực mà người Trung Quốc, Ấn Độ, Cam Bốt hay Pháp, ở mức độ cá nhân có thể

tiếp xúc trực tiếp, hàng ngày một cách hoà bình. Tôi không thể không liên hệ tới một trong những tiểu

thuyết ưa thích của mình về thuộc địa, là cuốn Tường biển của Marguerite Duras. Trong tiểu thuyết này,

bà đã vẽ nên một bức tranh nhiều màu sắc về xã hội thuộc địa, dù chịu sự áp bức của chính quyền thực

dân, nhưng vẫn là một xã hội với những người da trắng nghèo, trong đó có gia đình của bản thân tác

giả, luôn sống, làm việc và chết bên cạnh những người Việt, Ấn và Hoa cùng chia sẻ một không gian

thuộc địa. Họ nhiều khi về phe những người bản xứ phản đối lại sự áp bức của thực dân. Khi nhân vật

chính Suzanne, sinh ra trong một gia đình nghèo ở vùng quê Cam Bốt, bắt đầu rời nhà đi du lịch Sài Gòn

lần đầu tiên, cô ta đến ở khách sạn "Trung tâm", nằm ngay ở ranh giới giữa khu cư dân bản xứ với khu

phố Pháp ở thành phố thuộc địa này. Amitav Ghosh cũng thể hiện những góc nhìn tương tự về xã hội

thuộc địa ở Miến Điện trong tác phẩm Nhà kính qua câu chuyện của ba thế hệ trong cùng một gia đình

gốc Ấn Độ.

Tóm lại, qua hai trường hợp cụ thể nói trên, tôi chỉ trình bày được một mặt của đồng xu. Không phải mối

quan hệ nào cũng có tính đối kháng. Ví dụ, những cuộc hôn nhân của người Việt với người Hoa vẫn diễn

ra bất chấp phong trào bài Hoa của người Việt đầu thập kỷ 1920 và quy định pháp lý phức tạp của chính

quyền Pháp. Hàng ngàn người Việt đã kết hôn với Hoa Kiều. Riêng năm 1921, ở Đông Dương đã có

64.500 đứa trẻ ra đời từ những cuộc hôn phối dị chủng như thế. Một thập kỷ sau, con số đó đã tăng lên

73.000. Chúng ta còn biết quá ít về những quan hệ hôn phối này, cũng như con cháu của họ, chưa nói gì

đến hoàn cảnh của những phụ nữ Việt làm lẽ hoặc tì thiếp cho người Hoa. Cũng có số đông những cặp

vợ chồng người Việt lấy người Khơ-me, và rất nhiều người miền Nam Việt Nam vẫn nói được tiếng Khơme,

và ngược lại. Nhà dân tộc chủ nghĩa nổi tiếng người Khơ-me, Dap Chhuon, đã từng có hai người vợ

Việt một lúc. Cay-xỏn Phôm-vi-hản, lãnh tụ cộng sản Lào, có mẹ người Lào và bố người Việt, nên nói

thông thạo cả hai thứ tiếng. Trên các trang về nghệ thuật của báo chí Cam Bốt, có những bài tường

thuật về những người Việt tham dự vào các hoạt động văn hoá Khơ-me, tất cả đều bằng tiếng Khơ-me.

Thể thao cũng là một lĩnh vực mà các mối quan hệ ở thuộc địa diễn ra một cách phức tạp. Đúng là báo

chí địa phương và tàng thư của Pháp cho thấy có những sự kiện tồi tệ xảy ra khi các đội bóng đá Lào,

Việt và Cam Bốt thi đấu với đầu óc dân tộc chủ nghĩa trên các sân cỏ tại Đông Dương. Các cổ động viên

cũng bị hút theo. Năm 1936, ở Viêng-chăn, cổ động viên Lào ào vào sân rượt đuổi trọng tài người Việt, vì

cho rằng ông này thiên vị đội bóng đồng hương của mình. Cảng sát phải ra tay ngăn chặn vụ ẩu đả.

Nhưng nếu nghiên cứu kỹ những tạp chí thể thao ở thuộc địa, chúng ta cũng phát hiện được trường hợp

người Việt và người Hoa cùng chơi trong một đội quần vợt, rằng phóng viên thể thao Pháp thường ưu ái

và ủng hộ cầu thủ và đội Việt Nam trong các trận thi đấu với đội Pháp; rằng chúng ta đã bỏ quên những

trường hợp người bản xứ và người mẫu quốc cùng chơi chung trong một đội, nhất là ở những giải giao

hữu hoặc địa phương. Thể thao có thể gây chia rẽ xã hội, nhưng cũng có thể đưa những dân tộc khác

biệt lại gần với nhau. Một lần nữa, tôi muốn nhắc lại rằng quan hệ thuộc địa ở cấp thấp linh hoạt hơn

chúng ta nghĩ nhiều. Những bữa chiêu đãi vận động viên thể thao ở thuộc địa có thể là bằng chứng cho

thấy các vận động viên thể thao có thể ngồi lại với nhau bất chấp những rào cản chủng tộc.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 35 [email protected]

Vì khuôn khổ của bài viết có hạn nên tôi không thể nói nhiều về các trường hợp bên ngoài xứ Đông

Dương. Nhưng chúng ta cũng có thể nhớ lại rằng phong trào cộng sản và chống thực dân đã kết nối

người châu Á trên toàn cầu. Hàng trăm thanh niên Việt Nam có tư tưởng chống thực dân đã sang Quảng

Đông vào những năm giữa thập kỷ 1920 để học trong các trường chính trị và quân sự Trung Quốc; một

số đã tham gia cuộc trường chinh cùng với Mao Trạch Đông tới Diên An, và một vị đã lên đến hàm tướng

của cả hai quân đội cộng sản Trung Quốc và Việt Nam sau năm 1945. Ông ta có hai người vợ Trung

Quốc và hai người vợ Việt. Tôi biết nói gì đây? Châu Âu cũng là nơi kết nối những người chống thực dân.

Tin tưởng vào bài phát biểu về quyền tự quyết của Wilson tại Hội nghị Versailles, Hồ Chí Minh kết bạn với

những người đồng tư tưởng người Triều Tiên, Trung Quốc và Algeria ở Pháp trước khi mối quan hệ mới

với mạng lưới cộng sản đưa ông ta tới Moscow. Dù tôi chia sẻ mối quan tâm của Manela về nguồn gốc

quốc tế của phong trào chống thực dân, tôi chú trọng hơn đến phương cách các nhà dân tộc chủ nghĩa

liên kết lại với nhau như thế nào hơn là đến "thời điểm bài nói của Wilson". Việc này diễn ra không chỉ ở

Paris vào năm 1919, mà còn ở Tokyo ngay từ năm 1905 và sau này là ở Moscow vào năm 1925. Rất

nhiều mối quan hệ trong thời kỳ thuộc địa này đã kéo theo những kết cục bất ngờ trong chính trường

châu Á vào thời kỳ hậu thuộc địa, sau Thế chiến thứ hai. Sau cùng, Hồ Chí Minh đã thiết lập được tình

bạn suốt đời với Chu Ân Lai từ Paris. Ông ta cũng đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo tương lai của Philippines

và Thái Lan là Carlos Romulo và Pridi Phanomyong, những người đã ủng hộ cuộc kháng chiến chống

Pháp của Việt Nam sau năm 1945.

Một số người châu Á thuộc địa khác lại du hành xuyên biên giới các đế chế thực dân. Trong một chuyến

đi thú vị, Bùi Quang Chiêu - một người đã công kích người Hoa và đòi áp dụng một quốc tịch Đông

Dương để phản đối người Cam Bốt, đã tới Ấn Độ vào cuối thập kỷ 1920 để học hỏi về Quốc hội Ấn Độ và

cấu trúc "dân chủ ở thuộc địa". Tại đây ông ta đã gặp gỡ và trao đổi với Nehru và Gandhi, khi trở về rất

tâm đắc với sách lược phản kháng ôn hoà đã được Gandhi áp dụng để chống lại thực dân Anh.

Tất cả những mối liên hệ này - từ những quy định của thực dân, đến tẩy chay, hý họa, kết hôn dị chủng,

thể thao và phong trào chống thực dân quốc tế - vạch ra những nguồn tư liệu và cơ hội nghiên cứu

phong phú để tìm hiểu về nội tình các cộng đồng bản xứ bên trong và bên ngoài các thuộc địa. Có thể

các mối liên hệ và nguồn tư liệu tương tự cũng có thể tìm thấy ở các khu vực khác của châu Á thuộc địa,

ví dụ như Indonesia/Ấn Độ thuộc Hà Lan và các cựu thuộc địa của đế chế Anh: Miến Điện, Malaysia,

Singapore và Ấn Độ.

Những mối liên hệ này gợi mở rằng, có lẽ đã đến lúc phải vượt qua lối nhìn lưỡng phân, đặt "thực dân"

đối đầu với "người bị cai trị/thuộc địa" trong các nghiên cứu về thời kỳ thực dân và hậu thuộc địa. Hình

thành một tuyến đồ phân tích theo chiều cắt ngang giữa các thuộc địa và theo chiều dọc giữa bên "thực

dân" và bên "thuộc địa" sẽ là một khả năng mang lại nhiều điều thú vị. Và tôi thiết nghĩ cần phải luôn xét

đến phía thực dân trong các nghiên cứu để thấy người Pháp, Hà Lan hay Anh - kể cả tầng lớp thượng

lưu và dân nghèo - có thể, và trên thực tế đã bất ngờ liên minh với những người bản xứ, tuỳ theo vấn đề

lợi ích, cũng như không, thời gian liên quan. Làm được như vậy, bức tranh lịch sử thuộc địa Đông Nam Á

sẽ không chỉ đơn thuần là một trang sử chỉ có đối đầu và đấu tranh, hoặc chỉ thiên kiến theo quan điểm

phương Tây, mà sẽ là một "lịch sử được kết nối" - nói theo thuật ngữ mà Sanjay Subrahmanyam và

Christopher Bayly đã dùng trong các nghiên cứu về các khu vực và thời kỳ khác. Tuy nhiên, để "thấy"

được sự phức tạp của Đông Nam Á thuộc địa, chúng ta cần tái cấu trúc các tiếp cận các mối quan hệ

trong thời kỳ thực dân. Tôi mới chỉ đơn thuần đề xuất một số phương cách mới để tiếp cận những vấn

đề cũ mà thôi.

Nguồn: Bài viết này do tác giả gửi cho talawas, tóm tắt lại nội dung chính của tiểu luận nghiên cứu,

"Widening the Colonial Encounter: AsianConnections Inside French Indochina During the Interwar

Period," đăng trên Modern Asian Studies, Vol., No. 05, September 2009.

___________________________________________

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 36 [email protected]

Charles Keith

An Nam vùng lên: Những vị giám mục đầu tiên của Việt Nam và sự hình

thành giáo hội dân tộc, giai đoạn 1919-1945

Phạm Minh Ngọc dịch

Tóm lược: Tiểu luận này khảo sát vị trí của các giám mục người Việt đầu tiên trong nền chính trị và xã

hội Việt Nam vào những năm cuối giai đoạn thuộc địa. Nó cũng xem xét sự thăng tiến của một số nhân

vật có nhiều ảnh hưởng trong bối cảnh của sự suy giảm của Giáo hộ truyền giáo, sự thúc đẩy của Vatican

cho việc hình thành Nhà thờ dân tộc ở châu Á và những thay đổi về định chế cũng như văn hoá của Giáo

hội Thiên chúa giáo Việt Nam giữa hai cuộc Thế chiến. Từ đó, bài viết đã khảo sát mối liên hệ giữa đức

tin và chính trị trong nước Việt Nam thuộc địa, chỉ ra những thay đổi trong giáo hội Thiên chúa giáo Việt

Nam phản ảnh sự bất hoà ngày càng gia tăng giữa chính quyền thuộc địa và những mối quan hệ ngày

càng lớn hơn với giáo hội Thiên chúa giáo toàn cầu như thế nào. Điều này giúp giải thích vai trò của Nhà

thờ trong xã hội Việt Nam sau khi nước này giành được độc lập.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, trong không khí hỗn loạn sau khi Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập,

bốn vị giám mục Thiên chúa giáo đã kí một bức thư ngỏ gửi Giáo hoàng Pius XII. "Nhân dân Việt Nam

thân yêu của chúng con", họ viết, "cầu xin Người chúc phúc cho nền độc lập của chúng con, một nền độc

lập mà nhân dân chúng con đã giành được và sẵn sàng bảo vệ bằng bất kì giá nào... [Chúng con], các

giám mục Việt Nam cầu xin Đức giáo hoàng, Toà thánh Rome, các Đức Hồng y, các vị Tổng giám mục,

các vị linh mục và nhà thờ Thiên chúa giáo toàn thế giới, đặc biệt là nước Pháp, ủng hộ quyết định của

dân tộc thân yêu của chúng con18".

Một tháng sau, khi binh lính Pháp tràn vào Sài Gòn nhằm tái lập chế độ thuộc địa, các vị giám mục này

lại tung ra một lời kêu gọi công khai nữa.

Đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta đã bị ngoại bang xâm lấn. Để bảo vệ nền độc lập của

đất nước, bảo vệ chính nghĩa của công lí và tự do, những người con của Tổ quốc, được tình yêu

nước chân chính dẫn dắt đã hi sinh trên chiến trường, nếu không phải hi sinh thì đấy chính là

những bàn tay hữu dụng trong công cuộc tái thiết đất nước. Trong giờ phút này, khi mà Hoà

Binh đã trở lại với thế giới, đáng lẽ chúng ta, cũng giống như tất cả các dân tộc khác trên trái đất

này, phải cống hiến sức mình cho việc sửa chữa những đổ nát của chiến tranh chứ không phải là

tạo ra những đống đổ nát mới.19

Đấy là những lời kêu gọi do lãnh đạo Việt Minh yêu cầu, được đài phát thanh của nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà phổ biến, được in ấn và bỏ trên bậc thềm của các nhà thờ ở tận Paris, là biểu tượng của vị trí

tế nhị của cộng đồng Thiên chúa giáo Việt Nam trong giai đoạn cách mạng, khi mà nhiều người Thiên

chúa giáo Việt Nam không tin rằng cuộc cách mạng vừa mới phất đó sẽ không đàn áp tinh thần hồ hởi về

viễn cảnh sẽ có một Nhà thờ Thiên chúa giáo độc lập với nhà nước.

Trước cách mạng Tháng Tám, sự thăng tiến của bốn vị giám mục, những người chấp bút những lời kêu

gọi nói trên - Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục và Lê Hữu Từ - đã đập tan hàng rào ngăn

cách về mặt sắc tộc trong hàng giáo phẩm của Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam, từ thế kỉ XVII vẫn do

người châu Âu nắm giữ, cho đến khi Nguyễn Bá Tòng được tấn phong vào năm 1933. Mặc dù con số

này chỉ chiếm một phần tư trong tổng số giám mục ở Việt Nam20 vào năm 1945, các giáo phận mà họ cai

18 "Un appel des évêques en faveur de l'indépendence de luer pays", Bulletin des Missions, January-March 1946, 38-

40.

19 "Messages des quatre évêques vietnnamiens aux chrétiens du monde et aux pueple des etata-unis d'amériqua at

du Royame-uni" (Hanoi Editions de l'office d'information de la république du Vietnam, 1946).

20 Về mặt kĩ thuật, người châu Âu đứng đầu các hội truyền giáo không phải là giám mục mà là đại diện của Toà

thánh, chức vụ tương đương với giám mục trong hội truyền giáo chưa tham gia vào hàng giáo phẩm của Nhà thờ

dân tộc. Tương tự, những khu vực mà họ quản lí cũng không phải là khu vực do giám mục cai quản hay giáo phận

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 37 [email protected]

quản lại chiếm đến 1,2 triệu người, tức là gần một nửa giáo dân, bao gồm cả trung tâm Thiên chúa giáo

ở miền Bắc là hai xứ Bùi Chu và Phát Diệm. Các vị giám mục mới được tấn phong là những nhân vật

quan trọng, được coi gần như những nhà tiên tri - họ là những đại diện đầy quyền lực của một cộng

đồng tôn giáo có mối liên hệ đang ngày càng mở rộng trên toàn cõi Việt Nam, đại diện cho phần đang

gia tăng của thế giới Thiên chúa giáo, đại diện cho tinh thần độc lập [tách] khỏi quá khứ truyền giáo

trước kia. Số người Thiên chúa giáo Việt Nam tham gia vào những buổi lễ tấn phong và hành hương

đông chưa từng thấy - hàng ngàn người hành hương trên những đoạn đường rất xa để được ngắm các

vị linh mục đi ngang qua, hàng chục ngàn người đọc về họ trong những ấn phẩm Thiên chúa giáo đang

phát triển rất nhanh21. Tiểu luận này cho thấy làm thề nào mà những vị giám mục người Việt đầu tiên và

những cuộc hành hương cũng như lòng mộ đạo mà họ tạo ra đã trở thành hiện tượng mang tính quần

chúng của người Thiên chúa giáo, không thể tách rời khỏi những xáo trộn về mặt văn hoá và chính trị

trong giai đoạn cuối cùng của thời thuộc địa. Như những biểu tượng của sự bình đẳng sắc tộc trong một

xã hội thường xuyên chia rẽ, như những lãnh tụ của một sự kết hợp và động viên mới trong cộng đồng

người Thiên chúa giáo Việt Nam, và như một biểu tượng của những khát vọng phê phán chế độ thuộc

địa, các vị giám mục mới là hiện thân của ước mơ đang ngày càng gia tăng của rất nhiều người Thiên

chúa giáo Việt Nam không những được thấy Nhà thờ thoát khỏi quá khứ truyền giáo trước kia, mà còn

được thấy Nhà thờ trong một quốc gia đã thoát khỏi quá khứ thuộc địa nữa.

Công trình nghiên cứu về những vị giám mục người Việt đầu tiên này miêu tả hình ảnh Nhà thờ Thiên

chúa giáo Việt Nam trong giai đoạn thuộc địa theo hai cách. Thứ nhất, đặt vấn đề về giả định cho rằng

mối quan hệ gắn bó giữa một số người Thiên chúa giáo Việt Nam với người Pháp trong giai đoạn củng cố

chế độ thuộc địa đã tiếp tục tồn tại trong suốt thời kì thuộc địa22. Sự xuất hiện của những vị giám mục

Việt Nam đầu tiên là thí dụ rõ ràng về việc làm thế nào mà trong những năm 1920 và 1930, chính sách

của Vatican nhằm phát triển các Nhà thờ dân tộc đã được giải thoát khỏi những nhà truyền giáo Âu châu

đã tạo cơ sở cho những tình cảm dân tộc trong cộng đồng Thiên chúa giáo Việt Nam, đấy chính là cơ sở

nhận thức vai trò của Nhà thờ trong nền chính trị và xã hội Việt Nam sau khi giành được độc lập23. Thứ

hai, công trình nghiên cứu này thách thức những quan niệm cho rằng Nhà thờ Thiên chúa giáo là lực

lượng bảo thủ, phản động trong nước Việt Nam giai đoạn thuộc địa. Vì một vài đánh giá mang tính học

thuật về Nhà thờ Thiên chúa giáo chỉ tập trung vào tính chất chống cộng của Nhà thờ, Nhà thờ Thiên

chúa giáo Việt Nam thời hiện đại thường bị qui giản thành lực lượng đối lập với phong trào chính trị và xã

hội giữ thế thượng phong ở Việt Nam trong thế kỉ XX24. Điều này đã cản trở các nhà sử học khảo sát quá

(là những thuật ngữ tương đương), mà là khu vực đại diện (vicariate). Tuy nhiên "giám mục" [évêque] và khu vực

do giám mục cai quản hay giáo phận (bishopic hay diocese) [évêché or diocese] thường được sử dụng thay thế cho

"đại diện của Toàn thánh" (apostolic vicar - vicare apostolique) và khu vực đại diện (vicariate - vicariat) trong các tài

liệu viết bằng tiếng Pháp, còn trong các tài liệu viết bằng tiếng Việt thì các thuật ngữ bishop (giám mục) và bishopic

hoặc diocese (giáo phận hoặc địa phận) được dùng khi nói về các đại diện của Toà thánh và khu vực do đại diện Toà

thánh người châu Âu cai quản. Vì vậy, để tránh nhầm lẫn, tôi dùng thuật ngữ bishop (giám mục) để nói về người

châu Âu đứng đầu hội truyền giáo trong một khu vực hành chính và giáo phận (diocese) để chỉ khu vực mà người đó

cai quản.

21 Tờ báo Thiên chúa giáo bằng quốc ngữ đầu tiên có tên là Nam Kỳ Địa phận, hai tuần ra một số, nhưng tiếng Pháp

lại gọi là Semaine Religieuse (Tuần báo tôn giáo) - xuất bản lần đầu ở Sài Gòn vào năm 1908. Năm 1945, có gần 20

tờ báo Thiên chúa giáo xuất bản bằng chữ quốc ngữ. Về báo chí Thiên chúa giáo giai đoạn thuộc địa xin xem

Nguyễn Hồng Dương - Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển ở Việt Nam (Hà Nội, Khoa học Xã hội,

2004, 253-259.

22 Xu hướng này đặc biệt thịnh hành trong sử kí bằng tiếng Việt. Xem Đỗ Quang Hùng, Một số vấn đề lịch sử Thiên

chúa giáo ở Việt Nam (Hà Nội, Tủ sách Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1991 và Phạm Như Cương, chủ biên, Một số vần

đề lịch sử đạo thiên chúa giáo trong lịch sử dân tộc Việt Nam (HCMC: Viện Khoa học Xã hội và Ban Tôn giáo Thành

phố Hồ Chí Minh, 1988). Xem thêm Nicole-Dominique Lê, Les Missions Etrangére et la penetration française au

Vietnam (Paris Mouton, 1975).

23 Về Nhà thờ Thiên chúa giáo ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần I (1945-1954), xem Claire Trần

Thị Liên, Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d'independence (1945-1954); Emtre la reconquete coloniale

et la résistance communiste (PhD dissertation, Institu d'Etudes Polotiques de Paris, 1996.

24 Thí dụ điển hình là đoạn ngắn trong tác phẩm mở đường của David Marr, Vietnamese Tradition on Trial (Berkeley

and Los Angeles: University of California Press, 1981), trong đó ông khẳng định rằng việc Nhà thờ Thiên chúa giáo

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 38 [email protected]

trình chuyển hoá của Thiên chúa giáo từ giáo hội truyền giáo sang giáo hội dân tộc, tức là thành phần

chủ yếu của những hiện tượng tôn giáo khác nhau trong nửa đầu thế kỉ XX, một giai đoạn thay đổi to lớn

trong đời sống tôn giáo và vai trò của nó trong xã hội và đời sống chính trị ở Việt Nam25. Sự thiếu vắng

những nghiên cứu về Thiên chúa giáo Việt Nam thế kỉ XX càng đặc biệt nổi bật khi ta biết rõ vai trò quan

trọng của cộng đồng Thiên chúa giáo trong quá trình thăng tiến và cầm quyền của ông Ngô Đình Diệm,

quan điểm của ông này về nền văn hoá và đời sống chính trị ở Việt Nam hiện đang được giới hàn lâm

chú ý26. Hơn nữa, sự thiếu vắng những nghiên cứu về các cộng đồng Thiên chúa giáo ở bên ngoài châu

Âu giai đoạn cuối của thời kì thuộc địa, một giai đoạn cực kì quan trọng trong việc tìm hiểu quá trình phi

thực dân hoá, không chỉ của những thuộc địa của các đế quốc châu Âu mà còn tìm hiểu Nhà thờ Thiên

chúa giáo nữa. Công trình nghiên cứu những vị giám mục đầu tiên của Việt Nam này, vì vậy còn giúp làm

sáng tỏ không chỉ nguồn gốc của Nhà thờ Thiên chúa giáo độc lập ở Việt Nam và vị trí của nó trong đời

sống chính trị và xã hội Việt Nam hậu thuộc địa, mà còn cho thấy làn sóng thay đổi to lớn về định chế và

văn hoá trong thế giới Thiên chúa giáo, tức là những thay đổi góp phần tạo ra quan điểm của Hội đồng

Vatican II (1962-1965) về Nhà thờ Thiên chúa giáo đa văn hoá và toàn cầu hoá.

Thiên chúa giáo Việt Nam, chế độ Pháp thuộc và Rome: Mối quan hệ đang thay đổi

Phong trào bản địa hoá hàng giáo phẩm trong Nhà thờ bên ngoài châu Âu bắt đầu phát triển từ Tông thư

Maximum Illud (Về việc truyền bá đức tin trên toàn thế giới) của giáo hoàng Benedict XV và Tông thư

Rerum Ecclesiae (Về sứ mệnh của Thiên chúa giáo)27. Những lời tuyên bố này đánh dấu sự thay đổi

quyết định trong quan hệ giữa Rome với các tổ chức truyền giáo và chính quyền thuộc địa của các nước

châu Âu. Trong các Tông thư Maximum Illud và Rerum Ecclesiae, Rome đã phê phán thẳng thừng mối

quan hệ gắn bó về mặt chính trị giữa các phái bộ truyền giáo và chính quyền thuộc địa của người châu

Âu. Giáo hoàng Benedict XV viết trong Maximum Illud: "Sẽ là tai hoạ nếu người của Toà thánh đem sức

mình ra để thúc đẩy và củng cố uy tín của mảnh đất quê hương mà người đó đã bỏ lại ở phía sau, điều

đó sẽ dễ dàng dẫn đến quan điểm cho rằng Thiên chúa giáo là tôn giáo của người ngoại quốc, người cải

đạo sang Thiên chúa giáo là người không còn trung thành với dân tộc của mình, là người phục tùng đòi

hỏi và sự thống trị của quyền lực ngoại bang". Bức Tông thư còn phê phán hàng giáo phẩm mang tính

phân biệt chủng tộc của Nhà thờ Thiên chúa giáo lúc đó. "Những người coi người bản địa là chủng tộc hạ

đẳng hay người có trí tuệ thấp kém là đã phạm sai lầm nghiêm trọng", Giáo hoàng Pius XI viết trong

Rerum Ecclesiae như thế. "Kinh nghiệm lâu dài chứng minh rằng người dân ở các khu vực phương Đông

và phương Nam xa xôi thường không thấp kém hơn chúng ta, và có thể đứng ngang hàng với chúng ta,

ngay cả trong lĩnh vực trí tuệ nữa. Còn nếu ở ngay trung tâm những nước bán khai có những người

không có khả năng hiểu biết thì đấy chủ yếu là vì điều kiện sống của họ mà thôi".

Vế nhiều mặt, Maximum Illud và Rerum Ecclesiae chính là đỉnh điểm của một loạt cuộc cải cách trong

Nhà thờ Thiên chúa giáo hải ngoại trong ba mươi năm cuối thế kỉ XIX, khi Rome tìm cách phát triển Nhà

thờ mang tính dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh, tức là tìm cách tái khẳng định ảnh hưởng

của mình sau khi đã mất ảnh hưởng ở châu Âu suốt hàng chục năm ròng28. Nhưng những lời tuyên bố

Việt Nam phản đối chủ nghĩa cộng sản phản ánh tinh thần bài bác tính hiện đại về chính trị và văn hoá. Xem trang

82-86.

25 Công trình gần đây về tôn giáo Việt Nam trong giai đoạn này, xem Shawn Mchale, Print and Power: Confucianism,

Communism and Buddhism in the Makinh of Modern Vietnam (Holonulu: University of Hawai's Press, 2004); Philip

Laylor, Goddess on the Rise: Pligrimage and Popular Religion in Vietnam (Holonulu: University of Hawai's Press,

2004); và Pascal Bourdeaux, Emergence et constution de la communauté du bouddhism Hoa Hao: Une constribution

à l'histoire social du delta Mékong (1935-1945) (PhD dissertation, École pratique des haute etudes, Paris, 2003).

26 Xem Phillip Catton, Diem's Final Failure: Prelude to America's War in Vietnam (Lawrence: University Press of

Kansas, 2003); và Ed Miller, Grand Design: Vision, Power nad Nation-building in America's Alliance with Ngô Đình

Diệm, 1954-1960 (PhD dissertation, Harvard University, 2004).

27 Bản dịch tiếng Anh Tông thư Maximum Illud và Rerum Ecclesiae trong P. E. Hallett, ed. Selected Papal Letters and

Encyclicals, 1896-1931, vol. 1 (Lodon; Catholic Truth Sociaty, 1939).

28 Thời điểm quan trọng của những cuộc cải cách ban đầu này là Thông tri Ad Extremas (Về các trường dòng cho

giới tăng lữ bản địa) của Giáo hoàng Leo XIII ban hành năm 1893, kêu gọi đào tạo nhiều hơn và tốt hơn các linh

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 39 [email protected]

nói trên còn là sự đoạn tuyệt mang tính cách mạng với quá khứ của Nhà thờ Thiên chúa giáo, có ảnh

hưởng mạnh mẽ đối với quan hệ của các phái bộ truyền giáo với chính quyền thuộc địa của người châu

Âu. Trong Maximum Illud và Rerum Ecclesiae, Vatican không chỉ phê phán những ràng buộc mang tính

chính trị và những định kiến về mặt chủng tộc của giáo hội Thiên chúa giáo hải ngoại, mà còn công nhận

rằng thay đổi trong Nhà thờ Thiên chúa giáo bên ngoài châu Âu là tất yếu vì đến một ngày nào đó chế

độ thuộc địa sẽ phải cáo chung. Giáo hoàng Pius XI viết trong Rerum Ecclesiae: "Giả sử rằng người dân ở

một vùng lãnh thổ nào đó... muốn được tự do và độc lập, họ sẽ đuổi khỏi nước mình nhà cầm quyền,

binh lính và các nhà truyền giáo ngoại quốc... Ai cũng thấy thiệt hại đối với Nhà thờ sẽ lớn đến mức như

thế nào... trừ phi trước đó giới tăng lữ bản xứ đã phát triển rộng khắp". Maximum Illud và Rerum

Ecclesiae khẳng định rằng Nhà thờ Thiên chúa giáo do các phái bộ truyền giáo nắm chỉ là giai đoạn quá

độ trong quá trình tiến hoá của cộng đồng Thiên chúa giáo toàn cầu, và một ngày nào đó nó sẽ phải cáo

chung. Dự kiến và thậm chí còn lập kế hoạch cho sự suy tàn của Nhà thờ Thiên chúa giáo do các phái bộ

truyền giáo nắm, Giáo hoàng Benedict XV và Pius XI khẳng định rằng người ngoài châu Âu sẽ không còn

bị hạn chế trong các chức vụ như trợ tế và trợ giảng nữa, mà trong một thời gian ngắn nữa sẽ trở thành

các giám mục đứng đầu các nhà thờ trong các quốc gia của họ. Ví vậy, chính sách mới của Vatican là:

"không chỉ nhằm thoát khỏi những rắc rối của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân... mà còn chuẩn

bị cho tương lai hậu thuộc địa của nhà thờ nữa29".

Maximum Illud và Rerum Ecclesiae là những tuyên ngôn nổi bật nhất của phong trào cải cách Nhà thờ

Thiên chúa giáo, do các phái bộ truyên giáo nắm giữ, thổi qua thế giới Thiên chúa giáo trong những năm

1920 và 1930, một phong trào thể hiện cội nguồn tư tưởng và định chế của Hội đồng Vatican II. Ưu tiên

cao nhất là hình thành giới tăng lữ có nhiều người bản xứ hơn, nhưng Vatican còn thúc đẩy việc hiện đại

hoá chương trình học tập và các biện pháp giảng dạy trong các trường tiểu học và trường dòng, kêu gọi

xoá nạn mù chữ và mở rộng lĩnh vực in ấn, tìm cách tạo ra và củng cố các hiệp hội cho giáo dân bình

thường tham gia một cách trực tiếp hơn vào những hoạt động xã hội và giáo dục của Nhà thờ.

Có những động cơ khác nhau ẩn chứa đằng sau những cuộc cải cách đó. Nhiều người trong tổ chức

truyền giáo của Vatican, gọi là Tuyên truyền Đức tin (Propadanda Fide), cam kết thực hiện những cuộc

cải cách trong thế giới Thiên chúa giáo ngoài châu Âu đầy ý nghĩa đó, một số là vì cách giải thích của họ

về niềm tin Thiên chúa giáo, số khác là để phản ứng lại chính sách thiển cận và lạm dụng của chính

quyền thuộc địa. Nhưng còn những lí do khác nữa. Một là do nhu cầu, vì phong trào truyền giáo đã bị

các chính quyền thế tục ở châu Âu giáng cho một đòn nặng. Ở Việt Nam, nhiều phái đoàn truyền giáo

không còn đạt được đỉnh cao như những năm đầu thế kỉ XX nữa và đến giữa thế kỉ thì chỉ còn là cái vỏ

của những ngày xưa cũ mà thôi. Đặc biệt là trong thập niên 1930, khi chủ nghĩa cộng sản trở thành động

mục bản địa trong các hội truyền giáo châu Âu. Về cuộc đấu tranh giữa Nhà thờ và nhà nước và những thay đổi

trong Giáo hội Thiên chúa giáo Pháp cuối thế kỉ XIX, xem Ralph Gibson, A Social History of French Catholisim, 1789-

1914 (London, Routledge, 1989).

29 John Pallard, Unknown Pope: Benedict XV (1914-1922) and the Pursuit of Peace (London, Geoffrey Chapman,

1999), 203.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 40 [email protected]

lực mới đằng sau những cuộc cải cách của Vatican, trong khi Nhà thờ cố gắng thảo luận những vấn đề

mà chủ nghĩa Marx-Lenin có thể nói rất mạnh và nói cho rất nhiều người nghe.

Bất kể nguồn gốc là như thế nào, các cuộc cải cách của Vatican đã nhanh chóng tạo ra những thay đổi

có ý nghĩa trong đời sống Thiên chúa giáo ở Việt Nam. Trong hàng thế kỉ, Hội truyền giáo ngoại quốc ở

Paris (SMEP) đóng vai trò chủ yếu trong việc truyền giáo và giữ thế thượng phong trong hàng giáo phẩm

Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam30. Dù đã suy tàn từ cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX31, nhờ phong

trào truyền giáo được hồi sinh ở Pháp mà sự hiện diện của SMEP ở Việt Nam đã gia tăng liên tục trong

suốt thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, Thiên chúa giáo bị coi là tà đạo và việc những người Thiên chúa giáo tham

gia vào những vụ bạo loạn chống lại triều đình nhà Nguyễn32 đã dẫn đến những vụ đàn áp chống lại

những người Thiên chúa giáo, và đến lượt nó, người Pháp đã coi những vụ đàn áp đó là cái cớ để họ

hiện diện nhiều hơn ở Việt Nam33. Việc một số người Thiên chúa giáo ủng hộ lực lượng quân sự Pháp đã

tạo điều kiện cho các phái đoàn truyền giáo nhận được bảo trợ trong các hiệp ước hoà bình kí kết giữa

chính phủ Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Nhiều người Thiên chúa giáo còn tiếp tục giúp đỡ quân đội

Pháp trong quá trình họ tiến ra Bắc Kỳ. Trong khi cuộc xâm lược Bắc Kỳ đặt dấu chấm hết cho giai đoạn

bài Thiên chúa giáo căng thẳng nhất ngay tại các vùng trung tâm Thiên chúa giáo thì nó cũng kích hoạt

một loạt các vụ xung đột mới. Mặc dù các nhà truyền giáo và chính quyền thuộc địa đều chia sẻ ý tưởng

về tính ưu việt của nền văn minh Pháp và gắn bó với nhau trong việc sắp xếp các định chế, từ cuối thế kỉ

XIX, hai bên bắt đầu va chạm, thể hiện sự căng thẳng trong quan hệ giữa chính quyền thế tục và tôn

giáo ở ngay chính quốc34. Căng thẳng giữa các nhà truyền giáo và những người Thiên chúa giáo Việt

Nam cũng bắt đầu phát triển, một phần là do sự hợp tác của một số nhà truyền giáo với chính quyền

thuộc địa, phần khác là do thái độ kẻ cả, đôi thậm chí là lỗ mãng, của một số nhà truyền giáo đến trong

giai đoạn 1870 và 1880. Trước khi Thế chiến I kết thúc, tạm ước giữa chính quyền thuộc địa với các phái

bộ truyền giáo châu Âu và những người Thiên chúa giáo Việt Nam rất mong manh. Sự kiện Vatican cổ

động cho việc tấn phong giám mục Việt Nam chỉ làm cho nó xấu thêm mà thôi.

Sau Thế chiến I, Rome lập tức bắt đầu công cuộc bản địa hoá hàng giáo phẩm Nhà thờ ở châu Á. Cuối

năm 1922, một vị Khâm sai của Toà thánh là giám mục Henri Lécroart đã đến Việt Nam để khảo sát các

cơ sở giáo dục Thiên chúa giáo, đề xuất một số cải cách và cố gắng làm giảm các mối căng thẳng giữa

những người truyền giáo và người Thiên chúa giáo Việt Nam. Đỉnh điểm cuộc công du của giám mục

Lécroart là buổi hội thảo của ông với mười ba vị giám mục người Pháp và người Tây Ban Nha ở Việt Nam.

Giám mục Lécroart thúc giục các đoàn truyền giáo tiếp tục mở rộng các trường dòng và lĩnh vực in ấn

Thiên chúa giáo ở Việt Nam, đề nghị người Thiên giáo Việt Nam đến Rome để học tập, và kêu gọi thành

lập Khâm sứ - tức là người đại diện của Vatican ở những nước mà Rome chưa có quan hệ trực tiếp - đến

Đông Dương. Đề nghị cuối cùng đã nhanh chóng trở thành vấn đề gây tranh cãi. Trong khi về lí thuyết,

Khâm sứ chỉ mang tính chất tôn giáo, thì trên thực tế ngay từ cuối thế kỉ XIX, Vatican đã bắt đầu sử

dụng các Khâm sứ như là đối trọng với ảnh hưởng của chế độ thuộc địa đối với các đoàn truyền giáo

trong các nước thuộc địa và khu vực ảnh hưởng của châu Âu. Rõ nhất là ở Trung Quốc, Khâm sứ là Đức

cha Celso Costantini lớn tiếng chống lại sự can thiệp của các cường quốc vào công việc nội bộ của Trung

30 Về vai trò của SMEP ở Việt Nam trước thế kỉ XIX, xin xem Jean Guennou, Missions Étrangère de Paris (Paris,

Fayard, 1986); Main Forest, Les missionnaries française au Tokin at au Siam, 3 vols. (Paris; L'Harmattanm 1998; và

Nguyễn Kiệm, Sự du nhập của đạo thiên chúa vào Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX (Hà Nội, Hội Khoa học Lịch

sử Việt Nam, 2001).

31 Về đạo Thiên chúa giáo Việt Nam hồi đầu thế kỉ XIX, xem Nola Cooke, "Early Nineteenth-century Viêtnamese

Catholics and Others in the Pages of the Annales de la Propagation de la Foi", Journal of Southeast Asian Studies 35

(June 2004, 261-285).

32 Về sự tham gia của người Thiên chúa giáo trong cuộc bạo loạn chống lại hoàng đế Minh Mạng do Lê Văn Khôi cầm

đầu vào năm 1933, xem tác phẩm gần đây của Choi Byung Wook, Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang

(Ithaca, NY, Southeat Asia Program Publications, Southeast Asia Program, Cornell University; 2004), 95-99.

33 Xem Mark W. McLeod, The Vietnamese Rosponse to French Intervention, 1862-1874, (Westport, CT: Praeger,

1991).

34 Xem James P. Danghton, An Empire Divided Riligion, Republicanism, and the Making of French Colonialism, 1880-

1914 (Oxford, Oxford University Press, 2006).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 41 [email protected]

Quốc và là người ủng hộ việc hình thành hàng giáo phẩm người bản xứ cho Nhà thờ Trung Quốc35. Thực

tế, cho đến năm 1926, Costantini đã giúp tấn phong 6 vị giám mục người Trung Quốc, đây là lần đầu

tiên kể từ năm 1685, khi một người Trung Quốc duy nhất khác là ông Luo Wen-Zao được tấn phong giám

mục. Hoạt động của Costantini làm cho đại diện của Toà thánh ở Đông Dương trở thành viễn cảnh khó

khăn đối với chính quyền thuộc địa. Họ cho rằng mối liên hệ trực tiếp đầu tiên này giữa Rome và Việt

Nam có khả năng thổi bùng lên tinh thần quốc gia trong những người Thiên chúa giáo Việt Nam.

Chính quyền thuộc địa có lí do để mà lo lắng vì trước chuyến công du của giám mục Lécroart, một số

người Thiên chúa giáo có ảnh hưởng ở Việt Nam đã bắt đầu vận động cho việc cử đại diện của Vatican

đến Việt Nam. Người đứng sau chiến dịch này là ông Nguyễn Hữu Bài36. Nguyễn Hữu Bài sinh năm 1863

ở Quảng Trị. Năm lên mười tuổi ông vào học ở trường dòng của SMEP ở Penang (Malaysia - ND). Ông

trở lại Việt Nam vào năm 1884, với chân thông ngôn ở Bắc Kì. Sau đó ông trở thành bố chính tỉnh Thanh

Hoá, sau này là thành viên của sứ bộ của hoàng đế ở Sài Gòn, rồi thành viên phái đoàn hoàng gia đi

Pháp vào năm 1902. Nguyễn Hữu Bài trở lại Huế vào năm 1907 và thấy triều đình đang nằm trong tình

trạng hỗn loạn. Người Pháp tuyên bố vua Thành Thái bị điên và đày Ngài ra đảo Réunion, một sự kiện

cực kì đáng lo đối với những người đang đấu tranh nhằm bảo vệ triều đình, là Nguyễn Hữu Bài và bạn

ông, ông Ngô Đình Khả, Thượng thư bộ Lễ, một vị đại thần và là cha của 7 người con trai, trong đó có

Ngô Đình Thục (người sau này sẽ trở thành vị giám mục thứ ba của Việt Nam) và Ngô Đình Diệm (sau

này trở thành vị Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng hoà).

Nguyễn Hữu Bài được phong Thượng thư vào năm 1908. Không lâu sau đó ông có chân trong Viện cơ

mật, một cơ quan hành chính ở An Nam. Điều này đã giúp ông gây ảnh hưởng nhân danh những người

Thiên chúa giáo, đặc biệt là những người con đầy tham vọng của gia đình họ Ngô mà ông đã trở thành

người cha đỡ đầu sau khi Ngô Đình Khả mất vào năm 192337. Năm 1922, Nguyễn Hữu Bài tham gia phái

đoàn của vua Khải Định trong cuộc viễn du đến Pháp. Nhân chuyến công du, ông có ghé qua Rome và

đệ trình lên Đức Giáo hoàng lời thỉnh cầu về việc thiết lập Toà Khâm sứ Toà thánh ở Đông Dương. Đây là

thời điểm quan trọng trong quá trình phát triển mối quan hệ trực tiếp hơn giữa những người Thiên chúa

giáo Việt Nam và Rome. Pierre-Marie Gendreau, Giám mục Hà Nội, sợ rằng lòng nhiệt tình của Nguyễn

Hữu Bài trong việc thiết lập Toà Khâm sứ sẽ khiến chính quyền Pháp nghĩ rằng ông "theo đuổi mục tiêu

dân tộc chủ nghĩa ... làm phương hại cho uy quyền của chế độ bảo hộ38". Gendreau đã nhận xét chính

xác về mối lo của nhà cầm quyền: năm 1924 Cơ quan An ninh của Pháp, trong báo cáo về Nhà thờ Thiên

chúa giáo ở Việt Nam, đã nói rằng việc Vatican thúc giục phải có đại diện của người Việt trong Nhà thờ là

cố gắng thổi bùng lên tinh thần quốc gia trong cộng đồng Giáo dân, chỉ có lợi cho tổ chức truyền giáo

của Vatican (Propadanda Fide) mà thôi. "Những cuộc vận động của Bài (Nguyễn Hữu Bài - ND), nếu chỉ

để thoả mãn thói kiêu ngạo của ông ta thì tự bản thân chúng sẽ chẳng có gì nguy hiểm, nhưng những

cuộc vận động đó lại phục vụ cho mục tiêu của Ngài Van Rossum39", đứng đầu Thánh bộ của giáo triều

(Sacrée Congregation), một người "luôn sử dụng giáo dân nhằm chống lại nước Pháp40".

35 Xem Arnulf Camps, "Celo Constatini, Apostolic Delegate in China, 1922-1933: The Changing Role of the Foreign

Missionary" trong Studies in Asian Mission History (Leiden: Brill, 2000), 169-174.

36 Về tiểu sử Nguyễn Hữu Bài, xem Lê Ngọc Bích, Nhân vật Thiên chúa giáo Việt Nam, thế kỉ XVIII-XIX-XX (n.p.

2006), 105-110.

37 Thí dụ, năm 1916 Nguyễn Hữu Bài đã đưa được người con cả của Ngô Đình Khả là Ngô Đình Khôi vào hàng ngũ

quan lại cao cấp nhất. Xem "Rapport avec l'administration Cp Mat, 1915-1945", Fonds du Gouverneur General de

l'Indochine (GGI) 65365, Centre des Archives d'Outre-Mer, Aix-en-Provence, France (CAOM).

38 Bishop of Hanoi Pierre-Marie Gendreau to Superior of the SMEP Jean DeGúebriant, December 18, 1922, Gendreau

Letters, Archives of the Société de Missions Etrangére de Paris (SMEP).

39 Đây là nói về Hồng y Willem Marinus Van Rossum (1854-1932), dòng Chúa Cứu thế Hà Lan, đứng đầu Propaganda

Fide từ năm 1918 đến khi tạ thế vào năm 1932. Van Rossum hết sức tin tưởng vào sự phát triển của Nhà thờ dân

tộc bên ngoài châu Âu và là người đứng sau rất nhiều cải cách các phái đoàn truyền giáo do Rome tiến hành.

40 "Les Missions Catholiques d'Indochine", Report of the Sûretê, October 1, 1924, pp.110, Indochine Nouveau Fonds

(ICNF) 1475 (1), CAOM.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 42 [email protected]

Quan chức chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương, vốn đã có thái độ không thân thiện với Khâm sứ

Toà thánh, càng tỏ ra thất vọng khi giám mục Conatantino Aiuti, một giám mục người Ý làm việc tại

Trung Quốc, được bổ nhiệm làm Khâm sứ đầu tiên của Toà thánh ở Đông Dương và Thái Lan từ ngày 20

tháng 5 năm 1925. Các nhà ngoại giao Pháp sợ rằng chính phủ của Mussolini có thể sẽ sử dụng Khâm sứ

để giành chỗ đứng trong đế chế Pháp. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp viết: "Nếu chúng ta chấp nhận tiền lệ

này, thì sau này chúng ta sẽ dùng quyền gì để phản đối nếu người ta quyết định mở rộng chế độ này

sang Bắc Phi?41" Địa điểm đặt Toà Khâm sứ cũng là một điểm tranh cãi nữa. Đại sứ Pháp ở Vatican đề

đạt với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa rằng nếu văn phòng của giám mục Aiuti đặt ở Hà Nội, ông ta có thể có

ảnh hưởng tích cực đối với mối quan hệ đang căng thẳng giữa nhà nước thuộc địa với những người

truyền giáo dòng Dominic người Tây Ban Nha ở Hải Phòng và Nam Định42. Nhưng Nguyễn Hữu Bài lại có

kế hoạch khác. Bằng cách hiến một khu đất ở Huế và bảo đảm sự trợ giúp của Lê Phát An, một người

Thiên chúa giáo giàu có ở Sài Gòn, ông đã thuyết phục tổ chức truyền giáo của Vatican (Propadanda

Fide) đặt Toà Khâm sứ ở Huế. Toà Khâm sứ vẫn ở đó ngay cả khi chính quyền thuộc địa đã cố gắng đòi

những vị Khâm sứ dễ bảo hơn, được cử đến sau này, chuyển đi nơi khác43. Việc dinh thự của Khâm sứ

nằm quá xa hai trung tâm quyền lực của Pháp làm cho cả chính quyền thuộc địa lẫn Bộ Ngoại giao bực

mình. "Việc giám mục Aiuti chọn Huế, kinh đô của vương quốc An Nam và nơi đóng đô của triều đình chứ

không phải những trung tâm của người Pháp ở Việt Nam là Hà Nội và Sài Gòn khẳng định 'chính sách

bản xứ' của Vatican44".

Ngoài một chuyến quay lại Rome vào năm 1927, giám mục Aiuti ở Việt Nam từ tháng 11 năm 1925 cho

đến tận khi qua đời vào ngày 29 tháng 6 năm 1928. Nhiệm kì của ông ngắn ngủi, nhưng nó đánh dấu

một bước đột phá của Giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam. Giám mục Aiuti thúc giục các giám mục châu

Âu thông qua tiêu chuẩn nhập học và chương trình học tập cho các trường dòng, trường giáo lí và kiến

thức Thiên chúa giáo sơ đẳng, cũng như thúc đẩy việc dạy chữ quốc ngữ và thành lập các thư viện Thiên

chúa giáo trên toàn cõi Việt Nam45. Giám mục Aiuti còn đi đầu trong việc vận động cho sự ra đời của tờ

báo đầu tiên dành cho giới tăng lữ Việt Nam, nguyệt san Sacerdos Indosinensis, có trụ sở đặt ở Huế và

được xuất bản từ năm 1927 đến năm 1944. Các vị linh mục người Việt viết hầu hết các bài báo trên ấn

phẩm ba ngôn ngữ (quốc ngữ, Latinh và Pháp) này, từ những bài bình luận kinh thánh và thảo luận về

tâm linh, đến những bài về lịch sử và xã hội Thiên chúa giáo. Hai vị giám đốc đầu tiên của toà báo, limh

mục Hồ Ngọc Cẩn và linh mục Ngô Đình Thục, rồi ra sẽ trở thành giám mục thứ hai và thứ ba của Việt

Nam.

Trong nhiệm kì của mình, giám mục Aiuti đã tạo ra nhiều phản ứng đáng lưu ý từ những người Thiên

giáo Việt Nam hơn là từ những nhà truyền giáo. Trước khi giám mục Aiuti tới, một nhóm linh mục người

Việt ở Hà Nội đã chuẩn bị một buổi đón tiếp long trọng, nhưng bị giám mục người Pháp cấm. Ông ta bảo

các linh mục rằng "đây là vấn đề rất tế nhị và có thể bị hiểu sai46". Báo chí của Pháp chỉ cho công bố bức

thư gửi các mục tử của giám mục Aiuti và những bài tường thuật ngắn về những buổi xuất hiện trước

công chúng, nhưng báo Thiên chúa giáo của Việt Nam thì chạy những bài tường thuật dài về những

chuyến viếng thăm của Aiuti trên khắp các vùng trong cả nước, thường là dành mấy trang để nói về

những hoạt động trong có một ngày, cho đăng những bài thơ và những bức thư mà những chuyến viếng

41 Memo from Fontenay, French ambassador to the Vatican to Briand, Minister of foreign affairs, December 26, 1928.

Correspondeance Politique et Commercial, 1918-1940 (CPC), vol. 17 (Memoires et Documents Asie) MAE.

42 Doulcet, French ambassador to the Vatican, to Briand, Minister of foreign affairs, June 16, 1925. CPC, vol. 17

(Memoires et Documents Asie) MAE.

43 Một bản ghi nhớ không có chữ kí trong văn khố Bộ ngoại giao Pháp đề ngày 2 tháng 1 năm 1929 chứng tỏ rằng

đây là một trong những cố gắng của toàn quyền Pierre Pasquier đối với người kế nhiệm là Colomaban Drever. Xem

CPC, vol. 17 (Memoires et Documents Asia), MAE.

44 Monguillot, Toàn quyền Đông Dương gửi Perrier, Bộ trưởng thuộc địa, ngày 24 tháng 4 năm 1928, CPC, Volume

17, (Memoires et Documents Asia), MAE.

45 Xem Compte-redue de la réunion des Evéques du groupe Tonkin tenu au Tam Dao le 8-16 Septembre 1926 sous la

présence de S. E. Monseigneur Aiuti, Délégué Apostolique en Indochine (Hà Nội: Imprimerie Trung Hoà Thiên Bảo,

1926).

46 Gendreau to Deguébriant, Novembre 13, 1925, Gendreaau letters, SMEP.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 43 [email protected]

thăm gợi cảm hứng cho người viết. Hồ Ngọc Cẩn tường thuật trong một bài báo rằng Aiuti đòi gặp từng

thày giáo trong mỗi ngôi trường Thiên chúa giáo tại địa phương mà ông ghé thăm, khen ngợi những linh

mục người Việt nói tiếng Latin giỏi và ca tụng các nhà truyền giáo người Pháp, vì họ đã ăn uống cùng với

những đồng nghiệp người Việt47. Theo một tác giả thì khi giám mục Aiuti mất vào năm 1928, những

người Thiên chúa giáo Việt Nam đồn rằng các linh mục người Pháp, vì sợ những thay đổi mà ông là

người đại diện, đã đầu độc ông48.

Tranh cãi gia tăng

Trong thời gian được cử làm Khâm sứ ở Đông Dương, giám mục Constatino Aiuti tránh không ủng hộ

công khai cho việc tấn phong giám mục người Việt. Nhưng nếu nhìn vào hoạt động của giám mục Celso

Costantini ở nước Trung Quốc láng giềng thì mối liên hệ giữa việc cử Khâm sứ và việc Rome ủng hộ giới

tăng lữ bản xứ trong Nhà thờ châu Á là rất rõ. Những tuyên bố công khai của giám mục Aiuti chẳng làm

được gì nhiều trong việc chấm dứt mối lên hệ: "Thời gian đang thay đổi, các linh mục bản xứ chẳng cần

phải nấp sau ai... trong việc mở mang Nước Chúa49", ông đã viết trong một bức thư ngỏ như thế. Thực

vậy, trong những buổi nói chuyện riêng tư với các giám mục người Pháp, Aiuti đã nhanh chóng đặt vấn

đề tấn phong giám mục cho người Việt. Tháng 11 năm 1926, Aiuti đã nói với Isidore Domorier, Giám mục

Sài Gòn, về việc tách một khu vực khỏi giáo phận của Sài Gòn và Qui Nhơn để thành lập giáo phận của

người Việt Nam ở Phan Thiết50. Người kế nhiệm Aiuti là giám mục Colomban Dreyer - Khâm sứ Toà

thánh từ năm 1928 đến năm 1936 - và Antonin Prapier - Khâm sứ Toà thánh từ năm 1936 đến năm

1951 - cả hai đều là người Pháp, có quan hệ hữu hảo hơn với chính quyền thuộc địa, nhưng trong suốt

những năm 1930 đều cố gắng vận động cho việc thành lập giáo phận cho người Việt. Ngoài ba giáo phận

đã có trước năm 1945 là Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long, Dreyer và Darpier còn đề nghị thành lập giáo

phận Việt Nam ở Vinh, Phú Thọ/Sơn Tây và Mỹ Tho, nhưng không thành công51.

Đa số các giám mục của SMEP và người truyền giáo ngoại quốc phản đối việc tấn phong giám mục cho

người Việt. Isidore Dumortier, Giám mục Sài Gòn, có lẽ là người phản đối quyết liệt nhất ý tưởng này.

Ông biện luận rằng "rõ ràng là việc đặt vấn đề về sứ mệnh của người bản xứ ở Đông Dương sẽ chẳng

mang lại lợi lộc gì cho việc vinh danh Thiên Chúa và sự an lạc của linh hồn52". Cá nhân ông cũng chẳng

được lợi lộc gì vì nếu có giám mục người Việt ở đồng bằng sông Mekong thì một vùng đồng lúa trù phú

sẽ không còn nằm dưới quyền quản lí của ông nữa. Việc phản đối của Dumortier có vẻ như còn có nguồn

gốc từ quan điểm về chủng tộc, trong những thư từ giao thiệp thời gian đó ông đã gọi người Việt là "mọi

rợ". Nhưng Andréa Eloy, Giám mục giáo phận Vinh, một người có đầu óc cởi mở và có quan hệ tốt với

giới tăng lữ Việt Nam cũng phản đối. Năm 1932 và 1935, khi Dreyer đề nghị thành lập giáo phận mới

tách ra từ giáo phận Vinh thì Eloy thuyết phục đừng thực hiện đề nghị này, viện cớ rằng không có đủ

nguồn lực và các linh mục Việt Nam học tập chưa đến nơi đến chốn53. Trong số các giám mục châu Âu,

chỉ có hai người ủng hộ việc tấn phong giám mục Việt Nam: Aléxandre Marcou, giám mục Phát Diệm, nơi

47 Hồ Ngọc Cẩn, "Đức khâm sứ Toà thánh viếng địa phận Huế", Nam Kỳ Địa Phận, April 8, 1936.

48 Thế Hùng, "L'eglise catholique et la conlonisation française", Etudes Vietnamienes no 53 (1978). Tác giả bài báo

mang tính chính trị này không trích dẫn nguồn nào và tôi cũng không tìm thấy tham chiếu nào khác về lời đồn này.

49 Constantino Aiuti, "Une lettre circulaire de S. E. le délégué apostolique au clergé at au fideles d'indochine". L'avenir

du Tonkin, February 5, 1926

50 Bishop of Sài Gòn Isidore Dumortier to DeGúebriant, Novamber 16, 1926, Mumortier Letters, SMEP.

51 Xem Eloy to the head of the SMEP delegation at the Vatican, Eugène Garnier, December 3, 1935. Eloy Letters,

SMEP, Deguébriant to Drever, November 8, 1934, Deguébriant letters, SMEP, Dumortier to Garnier, April 8, 1935,

Dumortier Letters, SMEP.

52 Xem Letters from Dumortier to Deguébriant from November 16, 1926 August 8, 1934, September 15, 1934,

October 13, 1934, and April 8, 1935, Dumortier Letters, SMEP. Công văn từ văn khố Bộ ngoại giao Pháp đề nghị

Dumortier không những phản đối việc phân chia giáo phận của ông mà còn thông báo cho chính quyền thuộc địa với

hi vọng là họ sẽ chặn đứng ý kiến này. Xem Charles-Roux, French ambassador to the Vatican, to Laval, minister of

foreign affairs, December 4, 1934, CPC, vol. 41 (Memoire et Documents Asie), MAE.

53 Eloy to Garnier, December 3, 1935, Eloy Letters, SMEP.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 44 [email protected]

sau này sẽ thành lập giáo phận Việt Nam đầu tiên, và Eugène Allys giám mục Huế, một người có quan hệ

gần gũi với Nguyễn Hữu Bài.

Bất chấp những phản đối như vậy những thành phần tiến bộ trong dư luận của các nhà truyền giáo trên

thế giới bắt đầu bàn đến việc bản địa hoá hàng giáo phẩm Nhà thờ ở Việt Nam. Tác giả bài báo "Nhà thờ

ở xứ Đông Dương thuộc Pháp" trên tờ Catholic Mission xuất bản ở Mỹ vào tháng 4 năm 1931, đã khẳng

định bằng những lời phẫn nộ của ông Jean DeGúebriant, đứng đầu SMEP lúc đó, rằng giới tăng lữ Việt

Nam "là nạn nhân của sự bất công quá đáng, nếu chính phủ Pháp không phản đối và không có sự a tòng

của những người truyền giáo thì cả chục người trong số họ đã có thể trở thành giám mục54". Càng ngày

càng có đông người Việt không theo đạo ủng hộ việc tấn phong giám mục là người Việt Nam, đáng chú ý

nhất là các ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long, hai đảng viên có danh vọng của Đảng Lập

hiến55.

Chính quyền thuộc địa tỏ thái độ ranh mãnh, nhưng cuối cùng cũng không thể nào ngăn chặn được [tiến

trình này]. Tiền cược cho trò ngoại giao trong khi sự đối đầu với Vatican đang ngày càng gia tăng sẽ

không phải là nhỏ, còn cơ sở pháp lí cho việc phản đối cũng đã bị lung lay. Chính quyền thuộc địa cũng

nhận thức được rằng chế độ thuộc địa sẽ bị dư luận coi thường nếu nó phản đối cải cách, đặc biệt là sau

khi biết rằng vị giám mục Việt Nam đầu tiên sẽ được mọi thành phần trong xã hội chào đón. Như

Pasquier, Toàn quyền Đông Dương viết: "Nói về dư luận của người bên lương lẫn người Thiên chúa giáo

Annam... dư luận tỏ ra hài lòng một cách không cần giấu giếm trước thái độ của Vatican về các vấn đề

của Á châu trong mấy năm gần đây. Báo chí đối lập... do những người An Nam cực tả kiểm soát đã bình

luận một cách có thiện ý về việc tấn phong các giám mục Trung Hoa và không quên so sánh "quan điểm

cởi mở" của Vatican với "quan điểm hẹp hòi" của chính quyền thuộc địa56". Mặc dù những người kế

nhiệm Aiuti có quan hệ thân thiện hơn với chính quyền thuộc địa, nhưng từ đầu những năm 1930, việc

phản đối giám mục người Việt đã trở thành vấn đề quá lớn đối với Pháp. Như Charles-Roux, Đại sứ Pháp

ở Vatican, viết năm 1933: "Chúng ta gặp khó khăn trong việc làm cho Vatican hiểu được sự chống đối

của chúng ta đối với việc phong một trong những thần dân trong xứ thuộc địa của chúng ta vinh dự của

giáo sĩ và chức vụ giám mục. Chúng ta là một trong những người chiếm cứ thuộc địa có tư tưởng tự do

nhất, khái niệm "chính sách bản xứ" và "chính sách liên kết" là do chúng ta đưa ra. Làm sao chúng ta có

thể cho rằng đấy là phương pháp tồi chỉ vì Vatican áp dụng phương pháp đó?"57. Mặc dù những cuộc bạo

loạn lan rộng trong khắp các vùng quê ở Việt Nam trong những năm 1930, 1931 làm cho Tổ chức truyền

giáo của Vatican (Propadanda Fide) phải hoãn việc tấn phong giám mục Việt Nam đến gần hai năm,

nhưng ngay từ đầu những năm 1930, cả chính quyền thuộc địa lẫn SMEP đều chấp nhận không để vấn

đề đi xa hơn nữa.

Ngay sau khi SMEP chấp nhận rằng việc phản đối của họ sẽ không ngăn cản Tổ chức truyền giáo của

Vatican (Propadanda Fide) tấn phong giám mục Việt Nam, họ đã xác định giáo phận, nơi vị tân giám mục

người Việt có thể dễ thành công hơn cả. Cuối năm 1931, người ta đồng ý rằng giáo phận Phát Diệm, bao

gồm cả hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá, một trong những cộng đồng Thiên chúa giáo lâu đời nhất Việt

Nam, là khu vực thuận lợi nhất58. Có nhiều lí do để lựa chọn Phát Diệm. Tỉ lệ người Thiên chúa giáo trong

giáo phận mới là khoảng 25%, cao nhất trong tất cả các giáo phận ở Việt Nam. Người Thiên chúa giáo lại

tập trung trong một khu vực hẹp, việc quản lí giáo phận mới sẽ dễ dàng hơn. Tỉnh Ninh Bình còn có rất

nhiều người giảng dạy giáo lí - tỉnh này chỉ chiếm một nửa giáo phận Phát Diệm, nhưng có tới 80%

54 DeGuébriant to the prefect of Propaganda Fide, Fumasoni-Biondi (không ghi ngày tháng, có thể được một người

nào đó viết vào tháng 4 năm 1934). DeGuébriant letters, SMEP

55 Pasquier, gonernor general of indochina, to Perrier, minister of colonies, April 24, 1928, CPC, vol. 17, (Memoires et

Documents Asie), MAE.

56 Nt.

57 Charles_Roux, French ambassador to the Vatican, to Paul-Boucour, minister of foreign affairs, February 20, 1933,

CPC, vol. 41 (Momoires et Documents Asie), MAE.

58 Việc thành lập giáo phận Việt Nam đã chia giáo phận Phát Diệm do SMEP cai quản thành hai phần. Giáo phận mới

của người Việt Nam vẫn giữ tên cũ, còn phần còn lại của giáo phận cũ mang tên giáo phận Thanh Hoá do SMEP cai

quản.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 45 [email protected]

người giảng giáo lí trong toàn giáo phận59. Aléxandre Marcou, giám mục Phát Diệm cũng là lí do quan

trọng cho việc lựa chọn này, như DeGuébriant viết: "Lạy Chúa, trong tất cả các giám mục của chúng ta,

Đức cha Marcou là người nhìn xa trông rộng nhất về những chuyển hoá không thể nào tránh khỏi60".

Khi người ta biết rõ rằng Phát Diệm sẽ là giáo phận đầu tiên do giám mục người Việt cai quản thì nó

cũng trở thành nơi tranh chấp giữa những cách viết khác nhau về quá khứ của đạo Thiên chúa giáo ở

Việt Nam. Nhà thờ Kim Sơn, trụ sở giáo phận, được xây dựng theo lối nửa Gothic, nửa chùa chiền, đã

kích thích những suy nghĩ về tính chất lai tạp của Thiên chúa giáo ở Việt Nam: Graham Green đã tỏ ra vô

cùng kinh ngạc trước cảnh tượng nhà thờ với "tháp chuông có chái nhà dài theo kiểu phương Đông" với

"những cái cột to đùng làm từ một thân cây và bàn thờ được quét sơn đỏ rực, trông giống chùa Phật

giáo hơn là nhà thờ Thiên chúa giáo61". Tính chất lai tạp của nhà thờ thể hiện chính đời sống của người

xây dựng nó: đấy là linh mục Trần Lục (người Pháp gọi là Cha Sáu, người Việt gọi là Cụ Sáu hay Cố Sáu),

được mọi người yêu quí đến mức theo người ta nói là có tới bốn mươi ngàn người tham dự đám tang của

ông. Trần Lục sinh năm 1825, được phong linh mục năm 1855 và ngay sau đó phải trốn chạy lên vùng

núi gần Lạng Sơn vì một trong những đạo dụ sát tả của vua Tự Đức. Trần Lục trở lại đồng bằng sông

Hồng vào năm 1880. Quan hệ của ông với những nhà truyền giáo người Pháp làm cho ông trở thành

đồng minh vô giá của người Pháp trong cuộc xâm lăng Bắc Kì. Trần Lục đóng vai trò nhà ngoại giao giữa

người Pháp và triều đình Việt Nam, tiếp Toàn quyền DeLanessan, Maréchal Lyauty, rồi Lord George

Curzon, và nhiều yếu nhân khác nữa. Nhiệm vụ cuối cùng của đời ông là chỉ huy xây dựng toà nhà mà sự

rắc rối của nó thể hiện chính sự phức tạp của đời ông. Công trình được khởi công vào năm 1891 và hoàn

thành vào năm 1899, cũng là năm ông mất. Ông được chôn, theo đúng ước nguyện của mìmh, ngay

dưới chân nhà thờ.

Những tác phẩm viết về Trần Lục xuất hiện vào đầu thập niên 1930 cho thấy quan niệm khác nhau của

người Âu và người Việt vể triển vọng của Nhà thờ của họ tại thời điểm tấn phong vị giám mục người Việt

đầu tiên. Tác phẩm viết về tiểu sử của Trần Lục dài nhất bằng tiếng Pháp là của Đức cha Olichon, người

đứng đầu Liên hiệp những nhà truyền giáo của giới tăng lữ Pháp, xuất bản năm 1930. Giống như nhiều

nhà truyền giáo khác, Olichon tin rằng cuộc đời của Trần Lục chứng tỏ rằng Nhà thờ có vai trò trong chế

độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam. Trần Lực "Yêu nước Pháp một cách chân thành và phục vụ nước Pháp

theo cách riêng" vì "ông yêu Chúa trước hết, sau Chúa mới đến tổ quốc" - ông "cảm thấy trái tim của

người Thiên chúa giáo đập dưới vỏ bọc chống giáo quyền" mà nước Pháp thường thể hiện. Dưới ngòi bút

của Olichon, cuộc đời của vị cố đạo hiện ra như một câu chuyện ngụ ngôn về lòng mộ đạo, nhắc nhở độc

giả rằng những người Thiên chúa giáo Việt Nam, sự thành công của quan hệ Việt-Pháp phải có một vị trí

đặc biệt trong mối "quan hệ đặc biệt" của chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam. "Trong thời điểm, khi mà vấn

đề thuộc địa trở thành cực kì cấp bách, bài học về cuộc đời Cha Sáu rất đáng để chúng ta suy ngẫm. Nếu

đúng là đối với tất cả các dân tộc văn minh, chính trị trong tương lai sẽ là chính trị của sự liên kết, thì

vấn đề là làm sao lôi kéo và sử dụng được những người cộng tác đầy giá trị của vị linh mục ở Phát

Diệm?62"

Các tác phẩm viết về cuộc đời của Trần Lục do những người Thiên chúa giáo Việt Nam chấp bút lại cung

cấp cho ta những quan niệm trái ngược nhau. Ông Joseph Trần, tác giả cuốn tiểu sử Trần Lục dài nhất

bằng tiếng Việt xuất bản trong giai đoạn này, viết rằng "sự giúp đỡ mà ông dành cho người Pháp và

những người Việt theo Pháp là to lớn, nhưng đấy là điều tôi không thể giải thích được63" Còn P. Quỳnh

thì viết trong tạp chí Sacerdos Indosinenis rằng việc Trần Lục liên kết với Pháp chỉ chứng tỏ rằng ông đã

bảo vệ cộng đồng tôn giáo của ông trong giai đoạn bị bức hại và đã lợi dụng ngoại giao để bảo vệ dân

59 Bishop of Phát Diệm Aléxandre Marcou to Deguébriant, June 8, 1930, Marcou Letters, SMEP.

60Deguébriant to Gendreau, June 4, 1930, Deguébriant Letters, SMEP.

61 Graham Green, The Quiet American (New York, Penguin Books, 1996), 47

62 Monsignor Olichon, Le Baron de Phat Diem (Histoire d'un pêtre tonkinois) (Paris, Bloud et Gav., 1930, 9, 133.

63 Joseph Trần, Lịch sử cụ Sáu (Qui Nhơn: Imprimerie de la Mission, 1930), 6. Văn bản này không nhắc đến tác giả,

nhưng được cho là Joseph Trần trong P. Quỳnh, "Câu chuyện ba thế kỷ. Từ cụ hiền đến Đức Cha Tòng", Sacerdos

Indosinensis, June 1933 and September 1933.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 46 [email protected]

tộc ông khi vũ lực đã không còn là lựa chọn nữa: tuy nhiên, Trần Lục là "một người yêu nước ... người

thể hiện rằng quan hệ giữa nguyên tắc của Nhà thờ Thiên chúa giáo và dân tộc là rõ ràng64". Một bài báo

gồm ba phần của P. Quỳnh: "Câu chuyện ba thế kỉ: từ cụ hiền đến Đức Cha Tòng" thể hiện sự phát triển

của đạo Thiên chúa giáo ngoài châu Âu được mô tả trong Maximum Illud và Rerum Ecclesiae, cũng được

dịch và đăng trong tạp chí nói trên cách đó vài năm. P. Quỳnh viết rằng từ khi những nhà truyền giáo

đến Á châu, "việc cải đạo, đào tạo các vị linh mục bản xứ luôn là công việc có tầm quan trọng bậc nhất".

Hiện nay, "chúng ta đã thấy người Trung Quốc, người Nhật Bản, rồi người Ấn Độ trước đó ... trỗi dậy và

cai quản giáo khu của họ. Sẽ đến lượt chúng ta, và chúng ta sẽ được chứng kiến vinh dự đó". Câu

chuyện của P. Quỳnh về đạo Thiên chúa ở Việt Nam là câu chuyện tán dương sự tiến bộ. Ông không

nhắc tới những chi tiết có thể làm xấu đi hình ảnh đó - ông hầu như không nhắc tới những vụ bạo hành

chống người Thiên chúa giáo trong thế kỉ XIX hay mối liên hệ của Nhà thờ với việc củng cố chính quyền

thuộc địa của Pháp. Có thể đây không phải là cuốn lịch sử chính xác nhất về Nhà thờ Thiên chúa giáo

Việt Nam, nhưng nó đã xuất hiện đúng lúc. Đối với nhiều người Thiên chúa giáo Việt Nam, việc tấn

phong giám mục cho một trong những người đồng bào của họ có nghĩa là họ đã đạt đến một giai đoạn

mới trong lịch sử của mình.

Nguyễn Bá Tòng và "tinh thần quốc gia" Thiên chúa giáo của người Việt

Giáo hoàng Pius XI tấn phong Nguyễn Bá Tòng cùng với một giám mục Ấn Độ và hai giám mục Trung

Quốc tại Nhà thờ Thánh Peter Basilica vào ngày 11 tháng 6 năm 1933. Nguyễn Bá Tòng sinh ra trong

một gia đình Thiên chúa giáo lâu đời tại tỉnh Gò Công, đồng bằng sông Cửu Long và bắt đầu cuộc hành

trình đến chức giám mục từ cách đó sáu mươi lăm năm. Một nhà truyền giáo người Pháp xác định

Nguyễn Bá Tòng là một học sinh có triển vọng ngay từ khi cậu đang học tiểu học và đã gửi cậu đến học

tại trường trung học Fréres des Ecoles Chrétiennes ở Mỹ Tho do hội truyền giáo cai quản. Nguyễn Bá

Tòng tiếp tục học tập tại trường Catholic Lycée D'Adran từ năm 1880 đến năm 1882, rồi học tại trường

dòng ở Sài Gòn vào năm 1883. Nguyễn Bá Tòng được phong linh mục năm 1896, và trở thành thư kí của

giám mục địa phận Sài Gòn. Năm 1917, vì lí do sức khoẻ, ông phải rời xuống Bà Rịa và sau đó trở về làm

người đứng đầu giáo xứ Tân Định vào năm 1926, đồng thời làm giám đốc cơ quan Mission Press. Nguyễn

Bá Tòng tích cực hoạt động trong đời sống văn học Thiên chúa giáo. Ông là đồng tác giả một cuốn sách

giáo khoa được phổ biến rộng rãi, dành cho các trường tiểu học Thiên chúa giáo. Và ông cũng chắp bút

cho phiên bản tiếng Việt tác phẩm sân khấu Khổ hình của Chúa Giê-xu (The Passion of Christ), được

dựng vào năm 191765. Cuối những năm 1920, Nguyễn Bá Tòng chu du khắp Việt Nam nói chuyện và

nhân đó có kinh nghiệm phát biểu trước công chúng. Đấy cũng là lí do quan trọng để Rome quyết định

chọn ông làm giám mục Việt Nam đầu tiên vào năm 193366.

Việc tấn phong Nguyễn Bá Tòng là sự kiện quan trọng nhất trong Giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam kể

từ khi có những chiến dịch bài Thiên chúa giáo vào thế kỉ XIX, và dĩ nhiên là sự kiện vui mừng đối với

người Thiên chúa giáo Việt Nam. Paul Vàng, thư kí của giám mục Sài Gòn và ba vị linh mục khác đã hộ

tống Nguyễn Bá Tòng trên đường đến Rome. Họ đi qua Singapore, Djibuti, Colombo, Port Said và Pháp;

rồi qua ngả Lebanon và vùng đất thánh Palestine để về nước. Đấy là một chuyến đi nhớ đời, chưa có

người Việt Nam nào từng trải qua một cuộc hành trình như thế.

64 P. Quỳnh, "Câu chuyện ba thế kỷ. Từ cụ hiền đến Đức Cha Tòng", Sacerdos Indosinensis, June 1933 và September

1933. P. Quỳnh được coi là linh mục Hoàng Quỳnh, người lãnh đạo cuộc kháng chiến của người Thiên chúa giáo Phát

Diệm từ năm 1945 đến năm 1954 và sau này là một nhân vật quan trọng trong những cuộc tranh luận chính trị ở

Việt Nam Cộng hoà.

65 A. Cransac và Nguyễn Bá Tòng, Lược biên cách thức dạy học (Sài Gòn - Tân Định: Imprimerie de la Mission, 1924)

và Nguyễn Bá Tòng, Tuồng thương khó (Sài Gòn - Tân Định: Imprimerie de la Mission, 1912).

66 Tiểu sử của Nguyễn Bá Tòng trong tác phẩm của Paul Vàng "Tiểu sử Đức cha Jean-Baptiste Nguyễn Bá Tòng,

trong Nguyễn Bá Tòng, Giám mục tiên khởi Việt Nam, cuộc hành trình Roma (Sài Gòn - Tân Định: Imprimerie de la

Mission, 1934) và Phan Phát Huồn, Việt Nam giáo sử (Sài Gòn: Cứu thế tùng thư, 1962), 2: 249-251.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 47 [email protected]

Paul Vàng cố gắng ghi lại cảm tưởng trong suốt hành trình, đặc biệt là thời gian ở Vatican. Ông mô tả

kho báu của Nhà thờ Basilica, cảnh tượng rực rỡ của những chiếc áo choàng đỏ của các vị giám mục, âm

thanh vui vẻ của những chiếc kèn trompet bằng bạc, giọng ca tuyệt vời khi nghe những bài kinh, bài

tụng ca, thánh ca... cảnh thanh bình sâu lắng của những phút cầu nguyện trong yên lặng, và cuối cùng

là sự trang trọng của Nguyễn Bá Tòng khi ông đi vào, khi ông bước lên bục, khi ông ngồi xuống vị trí cao

nhất mà một người Việt Nam từng giành được trong Thánh đường này. Paul Vàng nhận thức được giới

hạn của ngôn từ của ông: "Vẻ uy nghi và đường bệ ở đây thật không bút nào tả xiết. Phải chứng kiến thì

mới hiểu được. Người có vinh dự nhìn thấy một lần thì đến chết cũng không thể nào quên67". Mặc dù

những người Thiên chúa giáo Việt Nam khác không có may mắn trải nghiệm những điều mà Paul Vàng

và ba đồng bào của ông từng trải nghiệm, nhưng hàng ngàn người đã được chia sẻ kinh nghiệm đó khi

họ đọc những bài viết của ông trên tờ nhật trình Nam Kỳ Địa Phận. Cuối cuộc hành trình, do dân chúng

đòi hỏi quá nhiều về lễ tấn phong Nguyễn Bá Tòng, Mission Press ở Sài Gòn đã cho xuất bản tập bài viết

của Paul Vàng, trong đó có cả tiểu sử của vị tân giám mục và một vài bức thư của ông, cũng như những

bức ảnh chụp trên đường đi và những bài báo viết về lễ tấn phong68.

Nhờ những bài viết của Paul Vàng mà tinh thần phấn chấn càng gia tăng khi vị giám mục về gần đến quê

hương. Hàng ngàn người Thiên chúa giáo đã đội mưa để đón ông ở Sài Gòn69. Hàng chục ngàn người

đọc về lễ tiếp rước trong ngày ông trở về quê hương, và khi Nguyễn Bá Tòng công du Bắc Kỳ thì họ tụ

tập để chào đón ông ở Nha Trang, Qui Nhơn, Huế (nơi ông yết kiến Hoàng đế Bảo Đại), Vinh, Thanh

Hoá, vùng đất Thiên chúa giáo xung quang Bùi Chu và ở giáo phận mới là Phát Diệm, nơi ông sẽ trị

nhậm. Nguyễn Bá Tòng kết thúc cuộc hành trình ở Hà Nội. Khoảng ba giờ chiều ngày thứ sáu, chuông

đồng hồ Nhà thờ Lớn Hà Nội bắt đầu rung, báo tin rằng vị tân giám mục đã tới. Hôm ấy nhà trường cho

nghỉ cho nên có rất nhiều trẻ em trong số hàng ngàn người đứng đợi để chào đón vị tân giám mục. Họ

mặc quần áo trắng toát, cánh tay có đeo băng chữ thập đỏ, vẫy cờ và biểu ngữ có in hình vị tân giám

mục. Có cả quan chức người Pháp, quan lại người Việt với đủ lễ bộ, những người có danh vọng mặc quần

áo xanh da trời, rồi những doanh nhân và thương gia có uy tín cũng ra đón ông. Lời cám ơn của vị tân

giám mục được mọi người nhiệt liệt vỗ tay. Ba ngày sau ông có bài thuyết pháp tại Nhà thờ Lớn Hà Nội.

Nhà thờ Lớn được xây dựng năm 1886, nhưng đây là lần đầu tiên một người Việt Nam giảng đạo trong

nhà thờ này70.

Trong những bài nói chuyện với công chúng ở Hà Nội, Nguyễn Bá Tòng khẳng định niềm tin của ông

rằng Thiên chúa giáo ở Việt Nam đang ở trong giai đoạn hồi sinh. Ông nói: "Chúng ta hãy chúc mừng

tương lai của Nhà thờ ở An Nam. Trong khi buổi lễ này là tưởng nhớ quá khứ... nhưng nó chủ yếu nói về

tương lai". Vị giám mục ngừng lại để chúc mừng các nhà truyền giáo, những người "đã ở lại trên chiến

trường, ngay cả trong những giờ phút nguy hiểm nhất, máu của nhiều người trong số họ đã hoà trộn với

máu của những con chiên của họ" và ông hỏi những người đang thành kính dâng lễ bên cạnh để chắc

chắn rằng "lời cầu nguyện của chúng ta, trong cái ngày đáng ghi nhớ này, sẽ dễ dàng vượt qua mọi biên

giới của cuộc đời trần tục này, thấm qua những ngôi mộ và mang đến cho những người mà chúng ta gọi

là đã chết, nhưng thực ra vẫn còn sống, lời chứng về tình bằng hữu của chúng ta, lời chứng còn mạnh

mẽ hơn cả cái chết!" Tuy nhiên, vị tân giám mục đến Hà Nội không chỉ để nhắc nhở mà còn để tái tạo.

Ông nhắc đến những ngôi trường mới và những trường dòng mới mà ông đã thấy trên khắp đất nước,

nhắc đến cảnh tượng mừng vui của những người đón chào ông và "đức tin, tinh thần xả thân, tinh thần

hoà thuận và nhiệt huyết" của rất nhiều linh mục Việt, những người đã giúp xây dựng và củng cố những

ngôi trường đó. "Nhờ công việc mà ta nhận ra người nghệ sĩ", ông nói, "và đấy là một công việc tuyệt

vời, rộng lớn, vĩ đại". Đối với vị tân giám mục này, sự vĩ đại của Nhà thờ ở Việt Nam không phải là những

hi sinh của nó trong quá khứ mà là đức tin mà ông đang chứng kiến ở xung quanh71.

67 Paul Vàng, Nguyễn Bá Tòng, Giám mục tiên khởi Việt Nam, cuộc hành trình Roma, 76

68 Như trên.

69 "Sài Gòn fait une belle réception à Mgr. TONG", L'Avenir du Tonkin, Novembre 4, 1933.

70 A. T., "S. E. Jean-Baptiste Tòng à Hà Nội", L'Avenir du Tonkin, Novembre 17, 1933.

71 "S. E.Momseignieur Tòng a prêchê Dimanche 19 Novembre 1933 a l'église cathedrale de Hanoi", L'Avenir du

Tonkin, Novembre 20, 1933.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 48 [email protected]

Việc tấn phong giám mục người Việt là sự kiện mà ngay cả những linh mục người Việt được đào tạo kĩ

lưỡng và những nhà trí thức Thiên chúa giáo cũng coi là một thay đổi lớn và nhiều người nghĩ rằng

những người Thiên chúa giáo bình thường sẽ khó chấp nhận. Một linh mục ở Phát Diệm lo lắng rằng tân

giám mục khó mà đáp ứng được kì vọng của các tín hữu ở Phát Diệm.72 Còn Đức cha Marcou, vị giám

mục mà Nguyễn Bá Tòng kế nhiệm, thì lo rằng người Thiên chúa giáo ở Phát Diệm sẽ không hiểu được

giọng Nam Bộ của tân giám mục. Thời đó, ít người Việt có điều kiện nghe những người Việt ở các vùng

khác nói73. Nỗi lo có vẻ như là nhỏ này thể hiện mối quan ngại thực sự của những người Thiên chúa giáo

Việt Nam về việc tiếp nhận sự thay đổi như thế trong cộng đồng trong khi ý tưởng về một cộng đồng tôn

giáo dân tộc vẫn còn xa lạ. Sau khi biết tin mình sẽ được tấn phong, Nguyễn Bá Tòng viết thư cho những

người Thiên chúa giáo ở Sài Gòn để thuyết phục họ rằng tấn phong sẽ là một tin tốt lành. "Cả bên trong

lẫn bên ngoài quốc gia, chúng ta là một Nhà thờ74", ông viết như thế. "Nam, Bắc là một dân tộc thống

nhất". Sau khi vị giám mục ra đi, người Thiên chúa giáo ở Sài Gòn đã tiến hành chiến dịch nhằm tìm hiểu

quan điểm của những nhà lãnh đạo Thiên chúa giáo Việt Nam về phong trào mà họ gọi là Phong trào

Tòng và coi những quan điểm này - đa số là ủng hộ - như bằng chứng rằng tân giám mục là một bước

tiến đối với tất cả mọi người Thiên chúa giáo Việt Nam.

Một trong những thí dụ như thế là cuốn sách của Nguyễn Hữu Lượng với nhan đề Đức Thầy Jean-

Baptiste Tòng, Giám mục địa phận Phát Diệm, xuất bản năm 1934. Trong năm tấn phong Nguyễn Bá

Tòng, tác giả cuốn sách, vốn là một kí giả viết cho một số tờ báo Thiên chúa giáo Việt Nam, đã thực hiện

một loạt cuộc phỏng vấn về vị tân giám mục và tập hợp thành một cuốn sách kèm theo lời bình của

chính mình. Nguyễn Hữu Lượng ca ngợi viễn kiến của Nguyễn Bá Tòng, coi Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt

Nam như là tổ chức dẫn đầu của giáo hội Thiên chúa giáo Á châu, và khẳng định rằng việc tấn phong

ông là tín hiệu cho thấy "tinh thần quốc gia" của cộng đồng Thiên chúa giáo Việt Nam, dù bị những sự

kiện khó khăn của thế kỉ XIX kìm nén, lại một lần nữa bắt đầu đơm hoa kết trái. Nguyễn Hữu Lượng

phỏng vấn các giáo dân kiệt xuất ở miền Nam như Paul Vàng, Đoàn Quang Đạt, giám đốc mới của

Mission Press, và Matthieu Đức, một nhà văn Thiên chúa giáo có tiếng, để chứng minh rằng đáng lẽ việc

tấn phong phải diễn ra từ lâu và chẳng bao lâu nữa, những người Việt Nam khác cũng sẽ giành được địa

vị tương tự. Nhằm xua tan bớt nỗi băn khoăn về việc giám mục rời Sài Gòn, những người được phỏng

vấn đều nói rằng những chuyến viếng thăm trong tương lai sẽ ngắn và không thường xuyên, nhưng đấy

là điều mà người ở vị trí quan trọng như thế phải làm. Như Paul Vàng nói trong buổi phỏng vấn: "Một

người quan trọng như Đức giám mục không có thì giờ ở lâu một chỗ... Nếu không, ngài sẽ không thể

hoàn thành được nhiệm vụ75".

Việc làm đầu tiên của Nguyễn Bá Tòng sau khi được tấn phong, tức chuyến đi của ông từ Sài Gòn ra Hà

Nội, là một sự kiện đối với tất cả người Thiên chúa giáo Việt Nam. Tân giám mục đi gần bốn tuần mới tới

miền Bắc, và ở trạm dừng chân nào, ông cũng được chào đón một cách trọng thể. Các giám mục, các

nhà truyền giáo, các quan chức Pháp và Việt, các linh mục và rất nhiều người mộ đạo kéo đến, thường

từ rất xa, để chiêm ngưỡng và nghe lời cầu chúc của ông. Những buổi đón tiếp thường diễn theo đúng

nghi thức. Nguyễn Bá Tòng đến bằng ô tô. Các quan chức hàng tỉnh đợi đón ông. Ông nói lời cảm ơn về

vinh dự mà họ dành cho ông - bằng tiếng Pháp, nếu có các quan chức Pháp, sau đó bằng tiếng Việt. Rồi

ông dẫn đầu đoàn diễu hành đến một nhà thờ gần đó, bước lên bệ thờ, đọc Kinh tạ ơn và thường đọc lại

trong các nhà thờ bên cạnh. Một dàn đồng ca đã đợi sẵn để hát quốc ca hoặc bài hát ca ngợi ông, được

sáng tác riêng cho sự kiện này. Tân giám mục còn ghé thăm các địa điểm khác, như nhà ở của các linh

mục, trường dòng, trường tiểu học, các họ đạo, tu viện, các đài tưởng niệm. Nhân dân thường đứng đợi

để chào đón, tặng quà, hát hoặc đọc thơ chào mừng ông. Tại những nơi này, Nguyễn Bá Tòng thường

chào hỏi những người mộ đạo, từ các cháu học sinh cho đến các linh mục và nữ tu. Kế hoạch cuộc hành

trình có thay đổi, nhưng không lớn - thí dụ như ở Sài Gòn, có nhiều yếu nhân cần gặp và nhà trường cần

72 Liễu Hựu, "Phát Diệm - Tân Định", Thiên chúa giáo Đồng Thịnh, March 30, 1933.

73 Bùi Đức Sinh, Giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam (Calgary: Veritas, 1998), 133.

74 Nguyễn Bá Tòng, Thơ Đức Cha J. B. Tòng gửi Giám Mục địa phận Phát Diệm (Sài Gòn: Xưa Nay, 1934), 12.

75 Nguyễn Hữu Lượng, Đức thầy Jean-Baptiste Tòng, Giám mục địa phận Phát Diệm (Sài Gòn: Xưa nay, 1934), 12.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 49 [email protected]

thăm hơn, nên ông dành nhiều ngày hơn. Ở Huế, ông gặp vị Khâm sứ Toà thánh và yết kiến vua Bảo

Đại.

Các nhà báo tháp tùng Nguyễn Bá Tòng trong lễ tấn phong và những chuyến du hành cho rằng đây là

một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử Thiên chúa giáo Việt Nam. Ngôn ngữ họ dùng

cũng cho thấy nhiều điều - các nhà báo thường mô tả việc tấn phong như là cái cây đã được trồng, một

cái cây cao nhất trong vườn hoa, mà rễ đã đâm sâu và sẽ cho hoa trái trong những năm tiếp theo. Một kí

giả còn viết rằng ngày vị giám mục rời Sài Gòn lên đường đi Rome "người mộ đạo ba miền, từ Nam chí

Bắc, đều ngày đêm nóng lòng chờ ngài, họ chờ đợi những tin tốt lành, làm cho ngay cả những người

không có đạo cũng phấn khởi76". Đức cha Marcou còn nhận xét về ấn tượng mà chuyến đi đã tạo ra cho

những người ngoại đạo như sau: "Những người ngoại đạo cũng tỏ thái độ tôn kính và chân thành trong

những buổi chào mừng Đức cha Tòng, cho phép chúng tôi dự đoán số người cải đạo sẽ gia tăng đáng kể

trong tất cả các giáo phận Việt Nam. ... Trong giờ phút này, không làng xóm nào không biết rằng đã có

một vị giám mục trên đất An Nam77". Đối với nhiều quan sát viên, tân giám mục đúng là một phép màu.

Những quan sát viên trong chuyến du hành của đức giám mục rất quan tâm đến những người Việt Nam

bình thường, tức là những người đến chứng kiến đường đi của ông. Phần lớn các bản tường trình đều nói

đám đông lên đến hàng ngàn người, những ngôi nhà khiêm tốn nhất cũng được trang hoàng với cờ và

đèn lồng bằng giấy, và ghi nhận bao nhiêu người mua ảnh và bưu thiếp có in hình ông. Một tiệm chụp

ảnh ở Sài Gòn (tiệm Modern Photo) đã biến việc tấn phong thành chiến dịch quảng cáo mới bằng cách

bán những bức ảnh giám mục Nguyễn Bá Tòng kích thước bốn nhân sáu và năm mươi nhân sáu mươi

("Đặt hàng từ xa sẽ phải trả thêm tiền vận chuyển78"). Ta cũng có thể thấy quan điểm của người Việt

bình thường qua những bài thơ mà họ đăng trên những tờ báo Thiên chúa giáo nhằm vinh danh ông.

Đấy là những bài thơ của học sinh, của sinh viên trường dòng, linh mục địa phương, nói trực tiếp với Đức

giám mục bằng ngôn ngữ sùng kính chẳng khác gì, thậm chí còn hơn, các nhà báo và các nhà truyền

giáo. "Tất cả các địa phương trong ba kỳ cùng vinh danh ngài, từ Nam tới Bắc ước mơ của mọi nhà đều

được thực hiện", một đạo hữu đã viết như thế79. Một bài thơ khác, của linh mục ở Huế đã hỏi rằng làm

thế nào mà Đức giám mục xuất thân từ Sài Gòn và đang đại diện cho Phát Diệm lại có thể đại diện cho

miền Trung vì "chúng con đều là con Lạc, cháu Hồng80". Nguyễn Bá Tòng hồi đáp công khai nhiều bài thơ

và thư gửi cho ông. Ông thường nhắc lại câu đã viết cho các linh mục ở Sài Gòn trước khi lên đường đi

Rome: "Cả bên trong lẫn bên ngoài quốc gia, chúng ta là một Nhà thờ". "Nam, Bắc là một dân tộc thống

nhất... Tất cả mọi người trong mọi vùng trên cả nước phải như cùng một trái tim81".

Việc tấn phong Nguyễn Bá Tòng lập tức được kỉ niệm như một ngày lễ trọng của Nhà thờ Thiên chúa

giáo Việt Nam và vẫn được coi là ngày lễ trong những năm sau đó. Bạn Thiếu Niên, một tạp chí của

thanh niên Thiên chúa giáo, dành hẳn số ra tháng 6 năm 1938 để kỉ niệm ngày vinh danh Đức giám mục

cách đó năm năm. "Ngày đó", một tác giả viết, "là ngày mà danh dự của Việt Nam trở nên rõ ràng trước

thế giới, là ngày mà thế giới biết đến tên chúng ta, nghe thấy tiếng nói của chúng ta, vốn trước đó vẫn bị

lu mờ hoặc bỏ qua". Đối với tác giả này, Nguyễn Bá Tòng đã "mở ra con đường tiến bộ cho tuổi trẻ"; ông

đã "cấy vào đầu óc họ niềm hi vọng, lòng tự trọng và tinh thần độc lập82". Trong lần kỉ niệm thứ mười lễ

tấn phong, các linh mục ở Phát Diệm lại tổ chức ngày lễ như là ngày của sự tiến bộ. Giống như các linh

mục ở Huế năm 1933, các linh mục ở Phát Diệm cũng coi việc tấn phong như cầu nối Nhà thờ Thiên chúa

giáo Việt Nam với quá khứ huyền thoại của người Việt Nam. "Đây là lần đầu tiên", họ viết, "mẹ Lạc nhìn

76 Địa phận Sài Gòn đã nghinh tiếp Đức Cha J. B. Tòng tiên khởi giám mục bổn quốc một cách rất long trọng, Nam

Kỳ Địa Phận, November 22, 1933.

77 Marcou to Deguébriant, November 22, 1933, Marcou Letters, SMEP.

78 Xem Nam Kì Địa Phận Supplement, 1933.

79 "Kính tặng Đức cha J. B. Tòng", Nam Kì Địa Phận, February 16, 1934.

80 Nhiều tác giả, "Các cha Huế mừng Đức Cha J. B. Tòng", Nam Kì Địa Phận, Tháng 11 ngày 23, 1933.

81 Nguyễn Bá Tòng, "Đức cha J. B. Nguyễn Bá Tòng đáp từ cho các linh mục bổn quốc ở Huế", Nam Kì Địa Phận,

March 2, 1933.

82 "Bạn thiếu niên với ngày kỉ niệm thụ phong của Đức Giám Mục Gioan Baotixta", Bạn Thiếu Niên, June 1938.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 50 [email protected]

thấy một trong những người con của mình được đội lên đầu vương miện bằng vàng, được cầm quyền

trượng bằng ngọc bích, và đi trong tiếng kèn đồng từ châu Âu qua khắp lãnh thổ của người Việt, từ Nam

ra Bắc, trước khi cắm rễ sâu và toả bóng mát che chở cho giáo phận Phát Diệm83". Hồ Ngọc Cẩn, giám

mục người Việt thứ hai, nói rằng ngày tấn phong Nguyễn Bá Tòng là ngày mà Chúa Cứu thế của Việt

Nam đã tới, đấy là "ngày mà Chúa thân yêu của chúng ta nhận được cây thánh giá từ tay Đức Giám mục

và đến để cùng chịu nạn với chúng ta và thay cho chúng ta84".

Nguyễn Bá Tòng tin rằng Nhà thờ độc lập của người Việt có liên kết toàn diện với hệ thống Nhà thờ thế

giới, nhưng ông không muốn coi việc tấn phong là sự kiện có ý nghĩa cách mạng. Nguyễn Bá Tòng là

giám mục người Việt gần gũi nhất với quan điểm của Maximum Illud và Rerum Ecclasiae, người chỉ trích

nhà nước thực dân vào cuối những năm 1940 cũng như phê phán cách thức mà các nước thuộc địa kêu

gọi và chiến đấu để giành độc lập. Tương tự như nhiều tư tưởng gia Thiên chúa giáo châu Âu thời đó,

Nguyễn Bá Tòng tin rằng thế giới bị tan hoang vì suy thoái và những cuộc bạo loạn, chứng tỏ ảnh hưởng

tai hại của chủ nghĩa tư bản công nghiệp đối với đời sống tinh thần. "Sự phát triển thiếu kiểm soát của

máy móc", ông viết, "biến người công nhân thành cỗ máy tự động và không để cho họ có thời gian suy

nghĩ... (Người công nhân) tự biến thành một cỗ máy khổng lồ, tìm cách tiêu diệt tất cả những điều tạo ra

giá trị của đời sống: tư duy, tình cảm, tự do, nói ngắn gọn là đời sống tâm linh, đời sống tinh thần85".

Nguyễn Bá Tòng phê phán các tôn giáo khác là giáo điều và không có khả năng thích ứng với những

thách thức của đời sống hiện đại; ông kịch liệt phê phán đạo Phật, đạo Khổng và tục thờ cúng tổ tiên.

Đối với Đức giám mục, sự tàn phá của thời đại công nghiệp và chủ thuyết tương đối về đức dục của

những "triết lí" phi Thiên chúa giáo đã kết hợp với nhau để tạo ra chủ nghĩa cộng sản - tai hoạ khủng

khiếp nhất của thời hiện đại. Giáo điều vô thần, vô gia đình, vô tài sản của chủ nghĩa này đang lan tràn

khắp châu Á. Nguyễn Bá Tòng cho rằng Thiên khải là cách ngăn chặn cách mạng duy nhất: ông tin rằng

chỉ có Thiên chúa giáo với học thuyết, đạo đức và ảnh hưởng xã hội của nó, thông qua sức mạnh của

thông điệp về tình yêu, với lòng khoan dung vĩnh hằng và phổ quát, mới có thể liên kết được sự đa dạng

về văn hoá của thế giới hiện đại. "Nếu một lần nữa xã hội không trở thành xã hội tôn giáo thực sự", ông

cảnh báo, "thì các vị sẽ không có lựa chọn, vũ khí của các vị sẽ chẳng có giá trị gì". Không có nền tảng

Thiên chúa giáo thì sẽ không có gì ngăn chặn nổi quá trình phân rã thành xã hội vô chính phủ86.

Quan điểm của Nguyễn Bá Tòng về Nhà thờ khác hẳn với quan điểm của các nhà truyền giáo, những

người mà trước đó một thế hệ đã giúp truyền bá ảnh hưởng của nước Pháp trên toàn cõi Việt Nam.

Những cố gắng của ông nhằm phát triển Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam còn có ảnh hưởng rất lâu sau

khi ông đã qua đời. Tuy nhiên, trong những năm sau khi được tấn phong, quan điểm của ông cũng ngày

càng xa cách quan điểm của chính Giáo hội của ông. Nguyễn Bá Tòng bác bỏ tư tưởng cho rằng đạo

Thiên chúa giáo là tôn giáo của châu Âu, tức là đồng nghĩa với chế độ thuộc địa, nhưng ông vẫn tiếp tục

chứng tỏ lòng trung thành với nước Pháp, một lòng trung thành mà đối với nhiều người là trái ngược với

ý nghĩa nền tảng của quá trình thăng tiến của chính ông: "Không nghi ngờ gì rằng sau những việc đã làm

cho chúng ta, nước Pháp sẽ mãi mãi giữ được quyền cai trị chúng ta. Tuy nhiên tôi hi vọng rằng mình sẽ

không lầm khi khẳng định rằng chúng ta càng tỏ ra chân thành và trung thành với nước Pháp thì chúng

ta càng thấy phạm vi những quyền tự do của chúng ta được mở rộng hơn87". Rút cục là, Nguyễn Bá Tòng

chưa bao giờ đánh mất niềm tin rằng có thể có mối "quan hệ đặc biệt" giữa Pháp và Việt Nam trong

quan điểm mới của Rome về Nhà thờ Thiên chúa giáo ở châu Á, rằng đất nước của ông có thể trở thành

"người con cả của Nhà thờ ở châu Á, cũng như nước Pháp là người con cả của Nhà thờ ở châu Âu và trên

toàn thế giới". Đây là câu Nguyễn Bá Tòng đã nói trong những buổi nói chuyện đầu tiên ở Nhà thờ Lớn

83 "Bài chúc từ các cha Phát Diệm đọc mừng Đức cha Nguyễn Bá Tòng", Đa Minh, July 1943.

84 Hồ Ngọc Cẩn, "Kỷ niệm ngày Đức Cha Nguyễn Bá Tòng thụ phong Giám mục chẵn bốn năm", Trung Hoà Báo,

June 17, 1937.

85 Nguyễn Bá Tòng, "Tiến bộ của sự sống/Le progrès de la vie", conférence donné a la fête de 7eme centenaire de

Saint Dominique à Thai Binh, 24 Juin 1935. (Nam Định Thiên chúa giáo Nam Thành, 1935), 8.

86 Nguyễn Bá Tòng, "Deux conférences de S. E. Mgr. J. B. Tòng. Em quête de la Vérité. Evagélisation de l'indochine

depuis ses débuts", (Nam Định, Ngô Việt Viện, 1941), 23.

87 Nguyễn Bá Tòng, "La Papauté", Vì Chúa, Decembre 1, 1940.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 51 [email protected]

Hà Nội và sẽ còn tiếp tục xuất hiện trong những buổi nói chuyện và bài viết của ông cho đến tận khi ông

qua đời vào năm 1949.

Hồ Ngọc Cẩn và việc động viên giáo dân Việt Nam

Hồ Ngọc Cẩn là vị giám mục người Việt thứ hai. Ông trở thành giám mục giáo phận Bùi Chu (giáo phận

có nhiều giáo dân nhất Việt Nam) vào tháng 6 năm 1935, gần đúng hai năm sau lễ tấn phong Nguyễn Bá

Tòng. Lễ tấn phong Hồ Ngọc Cẩn diễn ra trong thời buổi nhiễu nhương. Kinh tế suy thoái khiến tình hình

vốn đã tuyệt vọng ở Việt Nam càng trầm trọng thêm; phong trào phản đế lan mạnh, và ngày càng thể

hiện rõ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Cũng như ở những nơi khác trên thế giới, thái độ thù địch

của chủ nghĩa Marx-Lenin đối với tôn giáo buộc giới lãnh đạo Nhà thờ ở Việt Nam phải tìm biện pháp

đương đầu với ảnh hưởng ngày càng gia tăng của phong trào cộng sản quốc tế. Một trong những biện

pháp như thế là phong trào Hành động Thiên chúa giáo (Catholic Action), một phong trào nhằm tổ chức

và động viên tín hữu Thiên chúa giáo một cách hữu hiệu hơn. Trên khắp thế giới, Hành động Thiên chúa

giáo đã làm gia tăng đáng kể số lượng các hiệp hội Thiên chúa giáo cũng như hướng vào những khu vực

xã hội - chủ yếu là thanh niên, phụ nữ và công nhân - vốn không được các định chế của Nhà thờ quan

tâm một cách đầy đủ. Những tổ chức như Hướng đạo sinh Thiên chúa giáo, Người tình nguyện Thiên

chúa giáo, Thanh niên Thiên chúa giáo nông nghiệp, Thanh niên Thiên chúa giáo nông thôn và Công

nhân Thiên chúa giáo, đã trở thành những tổ chức quần chúng đông đảo nhất của người Thiên chúa giáo

trong nước Việt Nam thuộc địa, làm cho nhiều người Thiên chúa giáo phải suy nghĩ và hành động trước

những thách thức mà xã hội Việt Nam đang phải đối mặt88. Nửa sau những năm 1930, Hồ Ngọc Cẩn đã

hướng điều đó về phía các cộng đồng tín hữu được tổ chức và động viên tốt hơn, một trong những

chuyển hoá về mặt định chế quan trọng nhất trong giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam trước khi tách hẳn

khỏi hàng giáo phẩm truyền giáo vào những năm 1960.

Hồ Ngọc Cẩn sinh năm 1876 ở Ba Châu, ngoại thành Huế. Sau khi cha ông mất vào năm 1886, hoàn

cảnh buộc gia đình ông phải cầu xin các linh mục người Việt trông nom cậu bé. Một cha cố người Việt 83

tuổi nhận nuôi Hồ Ngọc Cẩn, đưa cậu đến Trường An gần đó, và bắt đầu dạy cậu chữ quốc ngữ và giáo

lí. Đến năm tròn 13 tuổi, Hồ Ngọc Cẩn được gửi vào trường dòng ở An Ninh. Khi mới nhập học, Hồ Ngọc

Cấn chưa biết tiếng Latin, nhưng cậu học rất chăm để có thể chuyển đến trường dòng lớn hơn ở Phú

Xuân, nơi cậu tỏ ra là một học trò xuất sắc về văn chương và thơ phú. Hồ Ngọc Cẩn được phong linh

mục vào năm 1902 và làm phó linh mục xứ Kẻ Văn cho đến năm 1910, sau đó ông quay lại giảng dạy tại

trường dòng An Ninh. Năm 1924, Hồ Ngọc Cẩn được cử làm hiệu trưởng trường dòng ở Trường An và ở

đó cho đến khi được tấn phong giám mục89.

Hồ Ngọc Cẩn là giám mục người Việt đầu tiên được tấn phong ngay trong nước. Ngày 29 tháng 6 năm

1935, từ khắp Việt Nam, những người Thiên chúa giáo không có điều kiện sang Rome dự lễ tấn phong

Nguyễn Bá Tòng đã đến Phú Cam, ngoại thành Huế để chứng kiến cảnh Đức cha Colomban Dreyer,

Khâm sứ Toà thánh, làm lễ tấn phong cho vị linh mục mới. Người từ cả ba miền Bắc, Trung, Nam, từ

vùng cao nguyên, các nhà truyền giáo và các giám mục cũng như rất nhiều người mộ đạo đã có mặt tại

lễ tấn phong này. Trong khi Nguyễn Bá Tòng nói bằng tiếng Latin và tiếng Pháp tại lễ tấn phong, Hồ

Ngọc Cẩn phát biểu và đọc lời chào mừng bằng tiếng Việt90.

Trong cộng đồng tôn giáo với rất ít nguồn bồi dưỡng các giáo sĩ về mặt trí tuệ, Hồ Ngọc Cẩn là một lựa

chọn hấp dẫn cho chức giám mục. Ông là một nhà thần học và một trí thức hoàn hảo. Thậm chí, có thể

ông còn là người cầm bút Thiên chúa giáo được xuất bản nhiều nhất trong giai đoạn thuộc địa. Hồ Ngọc

Cẩn bắt đầu viết ngay từ đầu thập niên 1910. Từ đó đến ngày được tấn phong giám mục, ông đã có bài

88 Về sự phát triển của Catholic Action ở Việt Nam, xem Phan Phát Huồn, Việt Nam giáo sử, 2: 483-514.

89 Tiểu sử Hồ Ngọc Cẩn được lấy từ "Tiểu sử Đức cha Dominique Hồ Ngọc Cẩn" của Pierre Lượng, Trung Hoà Nhật

Báo, May 4, 1935.

90 Xem bài tường thuật của Vidi, "Le sacré de S. E. Monseigneur Dominique Hồ Ngọc Cẩn, L'Avenir du Tonkin, July 3,

1935.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 52 [email protected]

đăng trên hầu hết mọi ấn phẩm Thiên chúa giáo then chốt ở Việt Nam,. Ông viết về các sự kiện đương

thời, về lịch sử, về sư phạm, về thần học và rất nhiều đề tài khác. Nhiều bài viết của ông lúc đầu được

đăng thành nhiều kì, sau đó mới được tập hợp thành sách. Nhưng cũng có nhiều cuốn chưa xuất hiện

trên báo. Đầu tiên là những cuốn sách giáo khoa cho các trường sơ học, trong đó có các môn như tiếng

Pháp, tiếng Latin, quốc ngữ, toán, trích dẫn, những câu truyện từ Kinh thánh cũng như những cuốn kinh

nhật tụng và thánh ca mà ông biên dịch. Những cuốn sách này đều được xuất bản trong những năm ông

dạy ở An Ninh và những năm đầu khi ông làm hiệu trưởng Trường An. Trong những năm 1920, trước tác

của Hồ Ngọc Cẩn mở rộng sang cả các lĩnh vực như sổ tay dành cho các phó xứ và thày giảng, các linh

mục trong các trường dòng và các nữ tu, bao gồm cả những tác phẩm về các vấn đề thần học đặc thù

hơn như lòng khoan dung và chân lí, đạo đức và tư cách, và cả một vở kịch trong đó Lucifer và hai quỉ sứ

đánh nhau với một thiên thần nhằm giành giật linh hồn của bảy người đàn ông đã phạm những tội ác

chết người.

Mặc dù việc viết lách giúp Hồ Ngọc Cẩn trở thành một nhân vật nổi bật trong cộng đồng Thiên chúa giáo

Việt Nam trước khi ông được tấn phong, nhưng chức giám mục làm cho ông trở thành người còn quan

trọng hơn. Tương tự như những chuyến đi của giám mục Nguyễn Bá Tòng cách đó hai năm, những

chuyến du hành của vị tân giám mục trở thành sự kiện nổi bật trên báo chí Thiên giáo suốt mấy tháng

liền. Chính quyền thuộc địa muốn giới thiệu Hồ Ngọc Cẩn ngay giữa trung tâm quyền lực của chế độ

thuộc địa và mời ông ra Hà Nội ngay sau lễ tấn phong. Việc vị tân giám mục đến Bắc Kì là một sự kiện

lớn. Dân chúng kéo đến chiêm ngưỡng Hồ Ngọc Cẩn khi ông đi qua Bùi Chu. Tại Hà Nội, chính quyền

thuộc địa đã cử những quan chức người Pháp cao cấp nhất ở Bắc Kì ra đón tiếp ông (lần này vị tân giám

mục chào mừng khách bằng tiếng Pháp91). Sau buổi tiếp, Hồ Ngọc Cẩn lên đường vào Nam. Mặc dù

không vào đến Sài Gòn, nhưng ông đã đi đến miền Trung để về thăm quê và dự đám tang Nguyễn Hữu

Bài - chính người mà nỗ lực hàng chục năm trước đó đã góp phần khiến việc tấn phong giám mục Việt

Nam trở thành hiện thực. Sau đó Hồ Ngọc Cẩn quay ra Bắc qua ngả Vinh và Nam Định. Cũng như

Nguyễn Bá Tòng, ông thường dừng lại để đi thăm các nhà thờ, các trường dòng, trường học và họ đạo.

Vị giám mục Bùi Chu đến giáo phận mới của mình trong một đoàn xe hộ tống gồm mười lăm chiếc. Hội

đoàn linh mục dòng Mominican người Tây Ban Nha và người Việt đứng đợi để chào mừng ông trong giáo

phận Thiên chúa giáo lớn nhất Việt Nam - với gần một phần tư triệu người92.

Việc tấn phong Hồ Ngọc Cẩn khẳng định rằng vị linh mục người Việt đầu tiên không phải là do may mắn,

và đã khiến nhiều người Việt ngây ngất. Vừa nghe được quyết định đó, "Phêrô Nghĩa"93, một nhà văn

Thiên chúa giáo, đã nghĩ ngay đến mức độ ảnh hưởng của sự kiện này đối với người Thiên chúa giáo Việt

Nam và viễn cảnh chức giám mục cho đồng bào mình như sau:

Trong quá khứ, lí do để nước ta chấp nhận và chịu đựng phong trào Tây hoá là vì phong trào

này dẫn chúng ta lên con đường tiến bộ, cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong mọi lĩnh vực, chúng

ta đều mong muốn tiến hoá như người phương Tây, nói một cách rõ ràng hơn là thúc đẩy người

Việt tiến lên ngang hàng với người Pháp. Nhưng hiện nay chúng ta đã thấy những người Việt

Nam vĩ đại, không chỉ một người từ miền Nam mấy năm trước, mà hôm nay một người khác từ

miến Trung cũng đã giành được chức giám mục, một chức vụ quan trọng mà trong quá khứ ở

nước ta chỉ có người châu Âu mới được giữ mà thôi. Tự bản thân sự kiện này đã chứng tỏ người

Việt không thua kém gì người Âu94.

Một nhà văn Thiên chúa giáo Việt Nam khác còn phấn khởi đến mức cho rằng về mặt thể chất, các giám

mục Việt Nam cũng hầu như không còn khác biệt với các giám mục châu Âu đã giữ chức trước họ. Hồ

Ngọc Cẩn có một bộ râu trắng dài. Vì vậy, "Khi ngài mặc lễ phục giám mục thì dân chúng dễ lầm mà cho

91 "L'arivée de Mgr. Hồ Ngọc Cẩn au Tokin", L'Avenir du Tokin, August 6, 1935.

92 Nguyễn Thanh Hương, "Cuộc nghênh tiếp Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn khi ra Bùi Chu", Trung Hoà Báo, August 5, 1935.

93 Đây là bút danh của Lê Thiện Bá (1891-1982), kí giả của tờ Nam Kì Địa Phận trong những năm 1920 và 1930.

94 Phêrô Nghĩa, "Cái tin cha Dominique Hồ Ngọc Cẩn lên ngôi đã gây nên nhiều nỗi cảm tình", Nam Kỳ Địa Phận, May

23, 1935.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 53 [email protected]

rằng ngài là một giám mục Âu châu!" Cũng theo nhà văn này, vị giám mục không để râu là Nguyễn Bá

Tòng thường bị lầm với các giám mục người Ý95 (theo truyền thống không để râu).

Tinh thần phấn chấn lan khắp. Những lần xuất hiện trước đám đông của các vị giám mục khiến các quan

chức Pháp lo lắng. Các vị tân giám mục quản lí hai giáo phận nằm sát nhau và thường cùng nhau đi

thăm các cộng đồng Thiên chúa giáo nhân dịp khai trương trường học hoặc trường dòng. Cuối năm

1935, người Thiên chúa giáo Hải Phòng mời Nguyễn Bá Tòng và Hồ Ngọc Cẩn đến thăm và tổ chức một

sự kiện có đông người tham gia để chào đón các ông. Trong số những người đứng ra tổ chức có Ngô Tử

Hạ, chủ một nhà in Thiên chúa giáo, người sau này trở thành cộng sự gần gũi của Hồ Chí Minh. Ban tổ

chức mời các giám mục người Việt vào thời gian này là có chủ đích, vì giám mục Hải Phòng lúc đó, - một

người dòng Dominican, Tây Ban Nha, đang đi vắng và như thế nghĩa là không có đại diện giáo quyền

phương Tây tham dự các sự kiện. Sau nhiều năm căng thẳng giữa những nhà truyền giáo Tây Ban Nha

và giáo dân người Pháp, chính quyền thuộc địa có thái độ cảnh giác với người Thiên chúa giáo Hải Phòng

nên họ dự tính hoãn chuyến viếng thăm của các vị giám mục, một việc "chỉ làm gia tăng tính kiên trì và

sự ngoan cường mà theo tôi là để phản ứng lại những mục đích xa lạ đối với tôn giáo" của đa số người

dân Hải Phòng mà thôi. Việc làm cho nhiều người lo lắng hơn cả là trong ban tổ chức có nhiều người

không phải là người Thiên chúa giáo, khiến "khó có thể coi sự kiện này là hành động hoàn toàn mang

tính tôn giáo". Điều đó chứng tỏ rằng người Thiên chúa giáo Việt Nam ở Hải Phòng "hành động với một

tinh thần độc lập công khai" và những nhà truyền giáo ở Hải Phòng "đã đánh mất khá nhiều quyền lực".

Chính quyền thuộc địa đã phản ứng lại mối lo lắng này bằng cách gây áp lực đối với hai vị giám mục và

Đức cha Pedro Munaggori, vị giám mục vừa rời địa phận Bùi Chu, và kết quả là lễ đón tiếp đã bị huỷ

bỏ96.

Việc tấn phong Hồ Ngọc Cẩn đã tạo ra tinh thần phấn chấn vô cùng to lớn. Vừa nhận được tin ông đến

Bùi Chu, các linh mục có triển vọng từ khắp Bắc Kỳ liền kéo về giáo phận mới để theo học - đông đến nỗi

một số phải trở về vì trường dòng không đủ chỗ chứa. Việc Hồ Ngọc Cẩn đạt được địa vị xã hội quan

trọng đã làm thay đổi sâu sắc cách tiếp cận của vị tân giám mục đối với thiên hướng của ông. Trong quá

khứ, ông dành trọn ba mươi năm cho việc giảng dạy và viết lách trong các trường dòng. Nhưng sau khi

trở thành giám mục giáo phận Bùi Chu, ông tập trung vào sự nghiệp phát triển mạng lưới tổ chức Thiên

chúa giáo, tham gia vào công việc giáo dục trong giáo phận, thường xuyên ghé thăm các trường học để

giảng dạy và hướng dẫn hành lễ. Ông còn kêu gọi thành lập các hội đoàn nhằm thúc đẩy thanh niên cam

kết phục vụ Nhà thờ, và coi sóc việc thành lập ở Bùi Chu tăng hội đầu tiên của Dòng Mến Thánh Giá của

các nữ tu97.

Tuy nhiên, mối quan tâm chủ yếu của vị tân giám mục là các tổ chức tôn giáo dành cho thanh niên Thiên

chúa giáo. Trong thời gian làm giám mục, Hồ Ngọc Cẩn đã lập ra ở Bùi Chu một loạt tổ chức Thiên chúa

giáo dành cho thanh niên mà trước đó vốn chỉ tồn tại trong các khu phố thị, rồi lập Thanh Niên Thôn Quê

Thiên chúa Giáo, chuyên thảo luận những vấn đề của đời sống nông thôn. Các tổ chức này có nhiều chức

năng, ví dụ động viên dân chúng đi lễ, cùng nhau đọc Kinh thánh, rửa tội cho trẻ sơ sinh, giúp đỡ những

người kém may mắn, rồi những buổi họp mặt và lễ hội, thu hút được hàng ngàn người xung quanh giáo

phận Bùi Chu và cả những vùng xa xôi hơn. Cuộc họp mặt đầu tiên dành cho thanh niên Bùi Chu, tổ chức

vào cuối năm 1936, có đến trên bốn ngàn người tham dự98. Những sự kiện mang tính quần chúng như

thế, cùng với việc huấn luyện các thày giáo trẻ do Hồ Ngọc Cẩn thường xuyên tiến hành bắt đầu thu hút

các linh mục từ khắp vùng Bắc Kỳ đến để học cách tổ chức xứ đạo của họ, những người sau này sẽ lãnh

đạo các cộng đồng tôn giáo trong cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và cuộc di cư của nhiều

người Thiên chúa giáo vào Nam trong hai năm 1954 - 1955. Các tổ chức do Hồ Ngọc Cẩn giúp đỡ tạo

95 "Đệ nhị Việt Nam giám mục", Thiên chúa giáo Đồng Thịnh, May 9, 1935.

96 "Question de l'opprtunité de la visite prévue a Haipong de Tong et Can, 1935", Resident Supériuer au Tokin

Nouveau Fonds (RST NF) 6925, CAOM

97 Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo sử, 2: 264-277

98 "Đại hội thanh niên Thiên chúa giáo đã cử hành cực kì rực rỡ tại Nam Định", Trung Hoà Báo, October 21, 1936.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 54 [email protected]

dựng còn đóng vai trò quan trọng sau năm 1945, trong việc tổ chức các xứ đạo và giúp đỡ người dân

trong cuộc kháng chiến chống quân Việt Minh99.

Ngô Đình Thục và Đệ nhất gia tộc trong nền chính trị Thiên chúa giáo Việt Nam

Việc động viên người Thiên chúa giáo và vai trò chính trị của hàng giáo phẩm Nhà thờ gia tăng vào năm

1938 cùng với việc tấn phong Ngô Đình Thục, vị giám mục thứ ba của Việt Nam, cũng là giám mục đầu

tiên ở Nam Kỳ, mà cụ thể là ở tỉnh Vĩnh Long. Ngô Đình Thục sinh năm 1897 ở Phủ Cam, gần Huế, trong

một gia đình Thiên chúa giáo có đến 9 người con. Gia đình này có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình lịch

sử Việt Nam trong suốt thế kỉ XX. Cha ông, Ngô Đình Khả, như đã nói ở phần trên, là một quan chức cao

cấp của triều đình Huế, cũng là tác giả của một số cuốn sách Thiên chúa giáo quan trọng, đồng thời là

dịch giả của tạp chí hàn lâm Bulletin des Amis du Vieux Huế (Những người bạn của cố đô Huế). Hai người

em của Ngô Đình Thục là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm đã giúp cha thực hiện nhiệm vụ này. Ngô

Đình Thục tu học tại các trường dòng ở An Ninh và Phú Xuân. Năm 1919. ông trở thành người Việt Nam

đầu tiên được gửi đi tu học ở Rome. Ông nghiên cứu triết học và thần học ở Rome, rồi được phong linh

mục vào năm 1925, sau đó đi Paris để nghiên cứu giáo luật. Ông trở về Việt Nam giảng dạy ở An Ninh và

Phú Xuân vào năm 1929. Năm 1933 ông được cử làm hiệu trưởng La Providence, trường trung học Thiên

chúa giáo đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1935, Ngô Đình Thục được cử làm giám đốc, đây là vị giám đốc thứ

hai, cho tờ Sacerdos Indosinensis và giữ chức vụ này đến khi được tấn phong giám mục100.

Trong lời tri ân lễ tấn phong vào ngày 4 tháng 5 năm 1938, Ngô Đình Thục thừa nhận rằng lí lịch và kinh

nghiệm sống đã định hình quan điểm của ông về Nhà thờ sâu sắc đến mức nào. Rome chứ không phải là

nước Pháp là "quê hương về mặt tinh thần", còn Huế là "quê hương bé nhỏ" của ông. "Vị tân giám mục

trước hết đã ngỏ lời tri ân Giáo hoàng, sau đó là người đứng đầu Tổ chức truyền giáo (Propaganda Fide),

Đức cha Fumasoni-Biondi, người đã "dẫn dắt những bước đầu tiên của tôi trên con đường trở thành giám

mục" trong thời gian ông sống ở Rome, và Đức cha Antonin Drapier, Khâm sứ Toà thánh ở Đông Dương.

Ngôn ngữ mà Ngô Đình Thục dùng để mô tả SMEP làm người ta liên tưởng đến các Tông thư Maximum

Illud và Rerum Ecclesiae - đã tạo dựng Nhà thờ ở Việt Nam "bằng mồ hôi và tưới tẩm nó bằng máu của

mình", thông qua việc tấn phong các giám mục Việt Nam, nay SMEP trao tặng Nhà thờ ở Việt Nam "cho

Vatican với tất cả niềm tự hào của tình thương của Thánh tông đồ". Ngô Đình Thục kết thúc bài nói bằng

cách nhắc đến cha mình. Ông so sánh những năm cuối đời của Ngô Đình Khả - khi ông không ngăn cản

được người Pháp lưu đày nhà vua và nghỉ hưu vì quá thất vọng với triều đình - với những thử thách của

Job. Giống như Job, người đã bị Thượng đế cám dỗ bằng vô vàn thử thách, Ngô Đình Khả "cũng mất hết

- phẩm giá, của cải và sức khoẻ - trong cuộc chiến đấu vì Chúa cứu thế, nhưng Thượng đế đã ban

thưởng cho ông một gia đình... những người con trai, con gái của ông với sự tận tuỵ đáng tự hào của họ

với đức tin Thiên chúa giáo và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc An Nam của họ101".

Những tuyên bố trước đó của Ngô Đình Thục giúp ta thấy rõ vì sao nhiều nhà truyền giáo Pháp và chính

quyền thuộc địa phản đối việc tấn phong cho ông. Trong bức thư mục vụ đầu tiên gửi đến giáo phận vào

tháng 8 năm 1938, Ngô Đình Thục khẳng định cả quyền lực lẫn lòng trung thành của ông với Rome. Sau

lời cảm ơn những vị tiền nhiệm người Pháp, vị tân giám mục đi thẳng vào điểm chính. Các linh mục Việt

Nam, ông viết, sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trong giáo phận mới vì "sự thiêng liêng, trí tuệ và học vấn

của họ không thua kém gì các nhà truyền giáo châu Âu". Giáo phận mới chứng tỏ rằng Đức giáo hoàng

"thương yêu, tôn trọng và tin tưởng nhân dân Việt Nam như tin tưởng hàng trăm ngàn linh hồn nằm

trong tay vị giám mục Việt Nam và các linh mục Việt Nam với trách nhiệm đưa họ đến Thiên đường".

Lòng tin cần được đáp trả bằng lòng trung thành. "Giáo phận này", Ngô Đình Thục viết, "là giáo phận

của Rome... về nguyên tắc giám mục cai quản như người đại diện của Giáo hoàng... Nghĩa là luật của

99 Về vai trò của Hồ Ngọc Cẩn trong các tổ chức thanh niên Thiên chúa giáo tại giáo phận của ông, xem Phan Phát

Huồn, Việt Nam giáo sử, 2: 264-277

100 Về tiểu sử Ngô Đình Thục, xem Trần Quang Chu, Hành hương giáo phận (Huế: Giáo phận Huế, 2000), 3: 161-170

101 Bài diễn văn, xin xem "Đi chầu lễ tấn phong Đức tiên khởi Giám Mục Vĩnh Long tại Kinh Đô Huế", Nam Kỳ Địa

Phận, May 19, 1938

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 55 [email protected]

Vatican, và không tuân theo luật cũng là không tuân theo Vatican vậy102". Việc giáo phận có ít người theo

đạo đặt ra những thách thức to lớn đối với vị giám mục này, như ông viết trong thư mục vụ năm 1938:

"Chúng ta thiếu người và nguồn lực... Chúng ta chưa có cơ sở chung tương tự như trường Latin... chưa

có văn phòng cho giáo phận, chưa có phòng cho các linh mục, chưa có nhà an dưỡng cho các vị linh mục

già yếu, chưa có nhà thờ chính, chưa có nhà ở chính thức cho giám mục...103" Nhu cầu cấp bách của giáo

phận khiến Ngô Đình Thục trở thành người cổ động mạnh mẽ cho Catholic Action. Ông đặc biệt nhấn

mạnh vai trò của các tín hữu bình thường trong việc khuyếch trương các hoạt động xã hội của Nhà thờ,

và kết thúc bức thư với khẳng định mạnh mẽ rằng người mộ đạo có trách nhiệm không chỉ sùng kính mà

còn làm việc để giúp truyền bá ngôn sứ (của Chúa Ki Tô - ND).

Ngô Đình Thục là giám mục người Việt đầu tiên tại nước Việt Nam Cộng hoà sẽ được thành lập trong

tương lai, quê hương mới của đa phần người Thiên chúa giáo Việt Nam sau khi Việt Minh thắng Pháp vào

năm 1954. Tuy nhiên, vào thời thuộc địa, chỉ có khoảng 20% người Thiên chúa giáo Việt Nam ở Nam Kỳ,

chủ yếu tập trung tại Sài Gòn và các khu vực phụ cận. Khi Ngô Đình Thục đến Vĩnh Long, ông thấy giáo

phận này được tổ chức rất sơ sài và người Thiên chúa giáo chỉ là thiểu số không đáng kể. Ông đã dành

nhiều năm (thời trước 1945), cho việc phát triển tổ chức của giáo phận. Trong thư mục vụ năm 1939,

giám mục khẳng định rằng thống nhất về nghi thức lễ nghi là yếu tố cực kì cần thiết cho việc thống nhất

cộng đồng tôn giáo. Ông thúc giục người Thiên chúa giáo Vĩnh Long thoả thuận những hình thức mang

tính tiêu chuẩn cho việc hành lễ như Lễ Mixa, lễ rửa tội và tang lễ. Ông nhấn mạnh rằng Vĩnh Long cần

nhiều giáo viên và linh mục, và thúc giục dân chúng đi vào những nghề đó; ông phê phán hệ thống bảo

trợ, rất thịnh hành ở Việt Nam, mà các nhà truyền giáo dùng để lựa chọn những người được gửi đến các

trường dòng. Mặc dù đây là thư gửi cho giáo phận Vĩnh Long, nhưng Ngô Đình Thục đã suy nghĩ ở tầm

cộng đồng tôn giáo quốc gia: "Khi nhìn ra bên ngoài biên giới quê hương ta là ta nhìn sang các xứ Lào và

Cao Miên... Nếu đây là những dân tộc yếu kém cả về kinh tế lẫn chính trị là vì họ không phải là những

dân tộc được Thượng đế lựa chọn104". Trong thư mục vụ năm 1941, vị giám mục này tiếp tục nhấn mạnh

nguyên lí thống nhất và cộng đồng, và khẳng định rằng phải thông qua tổ chức thì mới có thể truyền bá

được lòng nhân từ105. Năm 1943, Ngô Đình Thục đã có thể viết về việc thành lập các nhóm công nhân và

thanh niên, liên hệ với những tổ chức tương tự ở miền Bắc106.

Ngô Đình Thục gắn bó cả về mặt vật chất lẫn biểu tượng giáo phận của ông với vùng trung tâm Thiên

chúa giáo Việt Nam bằng cách thường xuyên thăm thú miền Bắc. Một trong những chuyến đi như thế là

vào tháng 11 năm 1940, nhân dịp lễ tấn phong Phan Đình Phùng làm làm trợ tá cho giám mục Nguyễn

Bá Tòng ở Phát Diệm107. Nhân dịp này, Ngô Đình Thục đã cùng giám mục Hồ Ngọc Cẩn đi thăm giáo

phận Bùi Chu. Cả hai vị giám mục đều xuất thân từ miền Trung. Một quan sát viên nhận xét rằng trước

khi họ được tấn phong, giáo dân ở Bùi Chu và giáo dân miền Trung và miền Nam "xa lạ với nhau, chúng

tôi chỉ gần gũi nhau về thói quen, về sứ mệnh thiêng liêng là truyền bá Phúc âm, về nhiệm vụ mở mang

nước Chúa... Ngoài điều đó ra chúng tôi không gần gũi, không gắn bó như ngày hôm nay". "Nếu chúng

ta là con của giám mục Hồ, thì chúng ta là cháu của giám mục Ngô", các học sinh đã hát như thế. "...

Chúng ta biết rõ rằng Bắc, Trung, Nam là ba vùng gắn bó với nhau. Giáo phận Huế như cây cao, có hai

cành bảo vệ tất cả mọi người miền Bắc và Nam". Ngô Đình Thục đáp lại bằng lời của Thánh Augustine:

"Quam bonum et quam jucundum frates habitare in unum" [Còn gì tốt đẹp và vui sướng bằng anh em

sống hoà thuận] - câu này thường được hát trong các tu viện để biểu thị tình anh em gắn bó của các tu

sĩ, nhưng ở đây nó làm người ta liên tưởng tới ý nghĩa hoàn toàn khác. Khi hai vị giám mục đến thăm

102 Ngô Đình Thục, "Thơ chung trong dịp thiết lập địa phận Vĩnh Long", Nam Kỳ Địa Phận, March 23, March 26 và

April 6, 1939.

103 Như trên

104 -nt-

105 Xem Ngô Đình Thục, "Thơ chung địa phận Vĩnh Long mùa chay cả năm 1941", Nam Kỳ Địa phận, March 12 và

March 19, 1941

106 Xem Ngô Đình Thục, Thơ chung 1943 (Về Thiên chúa giáo tiến hành) (Sài Gòn: Imprimerie de la Mission, 1943)

107 Phan Đình Phùng được tấn phong trợ tá giám mục với mục đích là sẽ thay giám mục Nguyễn Bá Tòng khi ông già

yếu, không thể thi hành phận sự được. Nhưng bệnh tật đã quật ngã Phan Đình Phùng vào năm 1944.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 56 [email protected]

một trường học, hiệu trưởng nhà trường đã chào mừng họ bằng câu: "Xin chào các vị giám mục của ba

miền Đông Dương, những người được Thượng đế liên kết lại ở đất Bắc Kỳ này". Chuyến thăm của Ngô

Đình Thục mang lại một vinh dự đặc biệt vì người Thiên chúa giáo Bùi Chu biết ông là "một giám mục nổi

tiếng, được mọi người từ khắp nơi trên thế giới, từ châu Âu đến châu Á, từ Rome đến An-nam nhắc

tới108".

Lễ tấn phong là thời điểm bước ngoặt trên con đường hoạt động chính trị của Ngô Đình Thục cũng như

của hai người em ông là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Lễ tấn phong là việc chuyển giao ngọn lửa

tinh thần dân tộc từ những người già hơn, như cha ông, Ngô Đình Khả và cha đỡ đầu của ông, Nguyễn

Hữu Bài, sang những người đại diện cho luồng tư tưởng sẽ trở thành chủ đạo của tinh thần quốc gia

không cộng sản ở Việt Nam. Lễ tấn phong không chỉ vinh danh Ngô Đình Thục như một người Thiên

chúa giáo xuất chúng, mà còn là thành viên của một gia đình danh giá nữa. Địa điểm cử hành lễ tấn

phong tại Phủ Cam cũng đầy kỉ niệm về Ngô Đình Khả và Nguyễn Hữu Bài - Nguyễn Hữu Bài từng có vai

trò tích cực trong việc xây dựng chính nhà thờ nơi sẽ diễn ra lễ tấn phong Ngô Đình Thục109. Hầu hết mọi

tường trình về lễ tấn phong đều gợi nhớ tới Ngô Đình Khả và Nguyễn Hữu Bài và những đóng góp của họ

đối với Việt Nam. Một số bài thậm chí còn chỉ viết về tổ tiên lẫy lừng của vị tân giám mục này. Trong một

bài báo kiểu như vậy, tác giả khẳng định vai trò của Ngô Đình Khả trong việc thành lập Trường Quốc

học, một ngôi "trường quốc học" nổi tiếng ở Huế, và vai trò của Nguyễn Hữu Bài trong việc gửi sinh viên

Việt Nam đi du học, làm cho họ trở thành những người đầu tiên "quan tâm tới việc đào tạo ra những

người tài giỏi, đào tạo ra một nền văn hoá mới và một thời đại mới" mà Ngô Đình Thục là một thí dụ

sáng chói110. Báo chí còn cho in bức ảnh Nguyễn Hữu Bài uý lạo các học sinh du học ở Rome, trong đó có

Ngô Đình Thục, khi ông đến thăm thành phố này. Một số bài thơ của Nguyễn Hữu Bài cũng được đọc tại

lễ tấn phong nữa.

Lễ tấn phong Ngô Đình Thục và sự quan tâm mà ông nhận được sau đó không chỉ tôn vinh gốc gác dân

tộc chủ nghĩa của chính ông, mà còn tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa cho những người em đầy tham vọng

chính trị của ông. Các nhà sử học biết tương đối ít về hoạt động của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu

trong nửa sau thập niên 1930. Ngô Đình Diệm vẫn sống ở Huế và tham gia vào công việc triều đình (dưới

sự giám sát của người Pháp), mặc dù sau khi rút khỏi chính phủ của Bảo Đại vào năm 1933 ông không

giữ chức vụ gì nữa. Ngô Đình Nhu thì học ở Pháp cho đến năm 1938111. Đối với cả hai anh em, lễ tấn

phong Ngô Đình Thục và những chuyến du hành của vị giám mục này qua khắp các vùng Việt Nam là cơ

hội xuất hiện công khai trước công chúng ngay trước khi Thế chiến II khởi sự, cũng là giai đoạn mà Ngô

Đình Diệm bắt đầu khuyếch trương hoạt động theo đường lối dân tộc chủ nghĩa của mình112. Ngô Đình

Thục được hai người em tháp tùng trong nhiều chuyến công du, và khi báo chí viết về Ngô Đình Thục, họ

cũng viết về gia đình ông. Chuyến đi dài nhất của Ngô Đình Thục trong những tháng đầu sau khi được

tấn phong là qua vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Luyện

(cùng con của Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huấn) đã hộ tống vị tân giám mục gần như suốt cả chặng

đường phía Nam; họ đi cùng với ông đến thăm nhiều Nhà thờ và trường dòng ở Sài Gòn, gặp gỡ các linh

mục và trí thức nổi tiếng, rồi theo ông ra ngoài thành phố và được những người Thiên chúa giáo ở đồng

bằng sông Cửu Long đón chào113. Sau này, trong một chuyến đi của Ngô Đình Thục ra miền Bắc vào cuối

năm 1940 thì Ngô Đình Nhu đã từ Hà Nội tới và đi cùng với anh khi vị giám mục này gặp gỡ người Thiên

chúa giáo ở Phát Diệm và Bùi Chu. Đây là một sự kiện có ý nghĩa nếu xét rằng sau đó Ngô Đình Nhu

hoạt động chính trị ở miền Bắc dưới danh nghĩa công đoàn của những người theo đạo Thiên chúa

108 "Bùi Chu tiếp rước hai vị thượng tân: Đức cha Memasle (Huế) và Ngô Đình Thục", Đa Minh Bán Nguyệt, January

1, 1941.

109 Nhà thờ này sau bị đổ nát và được giám mục mới của Huế là Ngô Đình Thục xây dựng mới vào năm 1960.

110 Nguyễn Văn Thích, "Những người trồng người", Vì Chúa, June 10, 1938.

111 Không có tờ báo nào nói đến sự hiện diện của Ngô Đình Nhu trong lễ tấn phong Ngô Đình Thục vào tháng 5 năm

1938, nhưng Ngô Đình Nhu làm ở Thư viện và Văn khố quốc gia cho đến cuối năm đó.

112 Xem Ed. Miller, "Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Đình Diệm 1945-1954", Journal of Southeast Asian

Studies 35, no. 3 (October 2004), 433-458.

113 "Đức cha Phêrô Ngô Đình Thục vào Nam", Nam Kỳ Địa Phận, June 30 và July 7, 1938

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 57 [email protected]

giáo114. Cùng với những bài báo viết vể việc tấn phong Ngô Đình Thục, tờ Nam Kỳ Địa Phận còn chúc

mừng Ngô Đình Nhu nhân dịp ông tốt nghiệp trường Ecole de Chartres ở Pháp115 và cho đăng những bài

viết về thành tích của từng người trong gia đình116. Không nghi ngờ gì rằng việc tấn phong Ngô Đình

Thục là việc của cả một gia đình.

Kết luận: Các giám mục Việt Nam và tình hình chính trị sau khi giành được độc lập

Lê Hữu Từ, vị giám mục người Việt thứ tư, được tấn phong vào ngày 1 tháng 11 năm 1945117. Đây là lễ

tấn phong đầu tiên trong nước Việt Nam độc lập, cũng là lễ tấn phong đầu tiên không có sự hiện diện

của các giám mục và các nhà truyền giáo châu Âu. Sự kiện này đánh dấu tầm quan trọng của các vị giám

mục người Việt trong chủ nghĩa dân tộc về văn hoá đang phát triển trong cộng đồng Thiên chúa giáo

Việt Nam, được bản tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh đọc vào tháng 9 năm 1945 đốt lên. Trong suốt

chín năm chiến tranh diễn ra sau đó, càng ngày càng có nhiều giáo phận do người châu Âu trực tiếp cai

quản được chuyển cho người Việt - Hà Nội và Bắc Ninh vào năm 1950, Vinh vào năm 1951, Hải Phòng

vào năm 1953 và cuối cùng là Sài Gòn, trung tâm của chính quyền thuộc địa Pháp, vào năm 1955.

Những buổi lễ tấn phong có vẻ như song hành với quá trình thua trận của nước Pháp - Nhà thờ cũng

như đế chế đang trượt dần khỏi tay người Pháp. Theo lời đại sứ Pháp tạiVatican, mỗi lễ tấn phong lại "hạ

thấp thêm đạo đức của dân chúng, những người đã chịu quá nhiều đau khổ... làm yếu đi vai trò của văn

hoá và đức hạnh" mà "quyền và nghĩa vụ của chúng ta là phải bảo vệ bằng mọi giá118". Kết thúc cuộc

chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất cũng đặt dấu chấm hết cho cái đế chế mà Tông thư Maximum Illud

đã dự đoán từ trước, và việc tấn phong Lê Hữu Từ cũng như những vị giám mục sau ông cho người ta

thấy rõ rằng các nhà truyền giáo châu Âu có một tương lai có giới hạn trong Nhà thờ Thiên chúa giáo tại

Việt Nam. Quả thật như thế, năm 1960, sáu năm sau khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam bị chia cắt làm

hai, Rome đã chuyển giao giáo phận cuối cùng do người Âu châu cai quản sang cho giám mục người

Việt, và do vậy, chính thức thừa nhận Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam là Nhà thờ dân tộc độc lập.

Việc tấn phong Lê Hữu Từ vào năm 1945 nhấn mạnh vai trò quan trọng sống còn của các giám mục Việt

Nam trong tình hình chính trị phức tạp và đầy mâu thuẫn sau khi giành được độc lập. Chính phủ Hồ Chí

Minh đã cử phái đoàn tham dự lễ tấn phong, trong đó có cả những nhà cách mạng lừng danh như Phạm

Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu. Vua Bảo Đại, niềm hi vọng của những người dân tộc chủ

nghĩa bảo thủ và của cả Vatican, cũng có mặt. Sự có mặt của các chính trị gia quan trọng nhất của nước

Việt Nam độc lập chứng tỏ rằng chế độ mới chính thức công nhận Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam.

Điều này còn được khẳng định thêm qua việc Hồ Chí Minh đề nghị giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn cho

tân chính phủ của ông ta. Hành động này, cũng là một phần trong chiến lược của mặt trận Việt Minh, tạo

cho giám mục cơ hội giúp Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam, như Claire Trần Thị Liên viết: "tham gia

một cách toàn diện vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và nhờ vậy, xoá bỏ được hình ảnh đã ăn sâu

bén rễ vào đầu óc người dân là Nhà thờ cộng tác với lực lượng xâm lược ngoại quốc119". Lê Hữu Từ đã

trở thành, theo lời một nhà quan sát người Pháp, "linh hồn của tinh thần bài Pháp120"; khuôn mặt của

Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam đang bỏ qua quá khứ truyền giáo và thuộc địa, để hướng về tương lai

nước Việt Nam độc lập.

114 Bùi Chu tiếp rước hai vị thượng tân: Đức cha Lemasle và Ngô Đình Thục, Đa Minh Bán Nguyệt, January 1, 1941

115 "Ông Ngô Đình Nhu đậu bằng Cổ tự học", Nam Kỳ Địa Phận, February 24, 1938

116 P. Mười Chỉ, "Trông gương họ Ngô Đình", Nam Kỳ Địa Phận, July 14, 1938

117 Việc tấn phong Lê Hữu Từ còn đưa Nguyễn Bá Tòng, dù lúc đó ốm nặng, lên địa vị vinh quang hơn nữa. Về tiểu

sử và hoạt động của Lê Hữu Từ từ 1945 đến 1954, xem Đoàn Độc Thu và Nguyễn Huy, Giám mục Lê Hữu Từ và

Phát Diệm: Những năm tranh đấu hào hùng, (Sài Gòn: Sử liệu hiện đại, 1973)

118 D'Ormesson, French Ambassador to the Vatican, to Schumann, minister of foreign affairs, February 21, 1950,

trong "Politique à l'egard des missions en IC, 1950-1956, Direction des Affaires Politiques, 1920-1954, 481, Fonds

Ministérielle, CAOM

119 Claire Trần Thị Liên, Les Catholiques Vietnamiens, 44.

120 Trích theo Claire Trần Thị Liên, "Les catholiques at la République démocratique du Viet Nam: Une approche

biographique", trong Naissance d'un átat-parti: Le Việt Nam depuis 1945 (Paris: Les Indes Savantes, 2004), 265

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 58 [email protected]

Lễ tấn phong Lê Hữu Từ cũng là điềm báo rằng Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam và cách mạng Việt

Nam chẳng bao lâu sau sẽ chia rẽ sâu sắc đến mức nào. Lễ tấn phong cung cấp cơ hội thành lập Mặt

trận Thiên chúa giáo cứu quốc, tức một phần của mặt trận Việt Minh, nhằm đưa người Thiên chúa giáo

vào mặt trận tổ quốc và động viên họ tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Đáp lại, Lê Hữu Từ và

một số nhân vật Thiên chúa giáo có danh vọng khác đã đứng ra thành lập Liên Đoàn Thiên chúa Giáo

nhằm tự tổ chức đời sống vật chất và tinh thần của Nhà thờ trong quốc gia mới. Hai quan điểm, một là

liên kết, hai là độc lập với cuộc cách mạng dân tộc, chẳng bao lâu sau đã xung đột với nhau. Đa phần

người Thiên chúa giáo Việt Nam phấn chấn trước tinh thần Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và một số

người tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp do Việt Minh lãnh đạo121. Tuy

nhiên, khi cuộc chiến tiếp diễn, các cuộc thanh trừng những người ôn hoà và dân tộc chủ nghĩa phi cộng

sản khỏi hàng ngũ Việt Minh cũng như những vụ bạo lực chống lại người Thiên chúa giáo đã đẩy đa số

người Thiên chúa giáo xa rời mặt trận tổ quốc và chuyển sang đối đầu trực tiếp với Việt Minh. Năm 1949,

xung đột giữa Việt Minh và người Thiên chúa giáo bùng phát ở Phát Diệm và Bùi Chu (Bùi Chu lúc này

nằm dưới quyền cai quản của vị tân giám mục tên là Phạm Ngọc Chi). Với chiến thắng của Việt Minh ở

Điện Biên Phủ và việc chia đôi đất nước vào năm 1954, trung tâm Thiên chúa giáo Việt Nam nằm dưới

quyền của chế độ thù nghịch. Đứng trước cuộc sống dưới chế độ cộng sản, được những người lãnh đạo

Thiên chúa giáo mô tả bằng những lời lẽ dữ tợn nhất, phần lớn giáo dân miền Bắc quyết định di cư hoặc

đơn giản là được di tản vào Nam. Đối với nhiều người trong số này, cuộc di cư vĩ đại122 nhắc nhở họ về

những khó khăn trong quá khứ của cộng đồng và củng cố thêm sự chống đối của Nhà thờ Thiên chúa

giáo Việt Nam với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam gia tăng cường

độ123.

Trong khi các giáo phận của Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi công khai chiến đấu chống lại Việt Minh thì

đồng sự của họ, giám mục Ngô Đình Thục, đã giúp định hình một xu hướng mà sau này trở thành lực

lượng đối lập chủ yếu với Việt Minh kể từ sau năm 1945. Gia đình họ Ngô choáng váng trước việc Việt

Minh giết hại Ngô Đình Khôi và con trai của ông ta vào tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, tình hình chính trị

mập mờ buộc gia đình họ Ngô phải thảo luận không chỉ với những người dân tộc phi cộng sản khác mà

còn cả với Bảo Đại và Việt Minh nữa. Cho đến cuối thập niên 1940, Ngô Đình Thục vẫn giữ thái độ trung

lập với cuộc kháng chiến chống Pháp ở Vĩnh Long, trong khi Ngô Đình Diệm tìm mọi cách nhằm thúc đẩy

tham vọng chính trị của gia đình họ. Cuối năm 1949, Ngô Đình Diệm bác bỏ các giải pháp của Pháp là

liên kết với Liên hiệp Pháp và giải pháp của Bảo Đại là hợp tác với Việt Minh theo quan điểm của ông ta

về cách mạng. Khi Ngô Đình Diệm ra nước ngoài để tìm sự ủng hộ thì những mối quan hệ của Ngô Đình

Thục bỗng trở thành vô giá - trước tiên là ở Nhật Bản, sau đó là Pháp và Rome (nơi Ngô Đình Diệm gặp

gỡ Giáo hoàng), và cuối cùng là Hoa Kỳ, nơi chức vụ giám mục của người anh đã giúp ông dễ dàng thiết

lập quan hệ với những người Mỹ có danh vọng. Trong khi Ngô Đình Diệm ở Mỹ (1950-1955) thì Ngô Đình

Thục và Ngô Đình Nhu đã sử dụng mạng lưới tổ chức Thiên chúa giáo để gây dựng cơ sở cho Ngô Đình

Diệm. Ngô Đình Thục hoạt động trong giáo phận của mình, còn Ngô Đình Nhu thì thông qua các tổ chức

Thiên chúa giáo khác nhau như Thanh niên Thiên chúa giáo và Công nhân Thiên chúa giáo ở cả miền

Bắc lẫn miền Nam - tạo cho Ngô Đình Diệm căn cứ vững chắc trong giáo dân trong suốt những năm ông

làm Tổng thống.

Như công trình nghiên cứu này đã cố gắng chỉ rõ, việc động viên và chính trị hoá cộng đồng Thiên chúa

giáo Việt Nam sau năm 1945 có nguồn gốc sâu xa trong thời kì Pháp thuộc. Giáo hội Thiên chúa giáo Việt

121 Về hoạt động kháng chiến của người Thiên chúa giáo, xem Lê Tiền Giang, Thiên chúa giáo kháng chiến Nam Bộ,

1945-1954 (Sài Gòn: Chọn, 1972) và Claire Trần Thị Liên, Les Catholiques Vietnamiens, 238, 379-381, 540-541.

122 Về cuộc di cư của người Thiên chúa giáo vào nam, xem Trần Quốc Bảo, Cuộc di cư vĩ đại trong lịch sử cận kim,

(Sài Gòn: Phan Thanh Giản, 1956), Về vai trò của Hoa Kỳ, xem Setth Jacobs, "'Christ cruecified in Indochina': Tom

Dooley and the North Vietnamese Refugees" trong America's Miracle Man in Vietnam: Ngo Dinh Diem, Religion, Race,

and the US Intervention in Southeast Asia 1950-1957 (Durham, NC: Duke University Press, 2004) 127-135.

123 Chính trị và xã hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam Cộng hoà là đề tài quan trọng nhưng chưa được nghiên cứu kĩ.

Xem Nguyễn Quang Hung, Katholizismus in Vietnam von 1954 bis 1975 (Berlin: Logos, 2003); và Nguyễn Hồng

Dương, Hoạt động tôn giáo và chính trị của Thiên chúa giáo miền Nam thờ Mỹ nguỵ (1954-1975) (HCMC: Trường

Cao đẳng An ninh Nhân dân II, 1988).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 59 [email protected]

Nam, theo một cách nào đó, cả một thế hệ trước năm 1945 đã trải qua cuộc cách mạng của chính mình,

khởi đầu từ Thế chiến I, khi Vatican bắt đầu đưa người bản địa lên các vị trí lãnh đạo Nhà thờ bên ngoài

châu Âu, nhiều người trong số đó là công dân những vùng lãnh thổ thuộc địa của châu Âu. Với bối cảnh

chính trị và văn hoá của nước Việt Nam thuộc Pháp, sự thăng tiến của các giám mục Việt Nam trong

hàng giáo phẩm của chính họ là một biểu tượng và thay đổi quan trọng, một sự thay đổi đã làm cho

nhiều người Thiên chúa giáo Việt Nam, thông qua đức tin và cộng đồng của mình, đã đặt vấn đề và tỏ ra

nghi ngờ chính quyền thuộc địa. Vì vậy, các vị tân giám mục có thể là những ví dụ rõ ràng nhất về việc

không thể tách sự tiến hoá của Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam khỏi những biến đổi về chính trị và

văn hoá trên toàn cõi Việt Nam vào những năm cuối của giai đoạn thuộc địa. Từ việc củng cố chính

quyền thuộc Pháp hồi đầu thế kỉ cho đến cuộc Cách mạng năm 1945, những thay đổi trong Giáo hội

truyền giáo, những phương pháp mới trong việc giáo dục và huấn luyện số lượng linh mục Thiên chúa

giáo ngày càng gia tăng, trình độ học vấn của giáo dân ngày càng được nâng cao, những biện pháp in ấn

mới và việc nhấn mạnh vào tổ chức đã đưa Nhà thờ Thiên chúa giáo Việt Nam thoát khỏi quá khứ truyền

giáo để tiến vào tương lai như Nhà thờ dân tộc trong cộng đồng Thiên chúa giáo toàn cầu. Trước hết,

trường hợp các vị giám mục Thiên chúa giáo đầu tiên ở Việt Nam đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu

hơn về cộng đồng tôn giáo mà họ lãnh đạo. Vị trí của cộng đồng này trong lịch sử Việt Nam vẫn còn gây

nhiều tranh cãi cũng như còn bị hiểu lầm.

Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Vol. 3, Issue 2, pp. 128-171.

_______________________________________

Vũ Tường

"Ngày nay, Cách mạng Đông Dương phải 'hiện nguyên hình'": Bước ngoặt

dẫn đến đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm 1948

Nguyễn Việt dịch

Tóm tắt: Năm 1948, nội chiến bùng nổ giữa các Đảng Cộng sản và các Đảng phái quốc gia không cộng

sản ở các nước Đông Nam Á có phong trào cộng sản mạnh (Miến Điện, Mã Lai và Indonesia). Ở Việt

Nam, nội chiến bắt đầu chậm hơn một thập niên, và năm 1950 thường được coi là năm bản lề khi hai

phe trong Chiến tranh Lạnh công nhận hai chính phủ đối nghịch Bảo Đại và Hồ Chí Minh. Cho đến nay,

các sử gia Chiến tranh Lạnh đã coi nhẹ tầm quan trọng của năm 1948 đối với Đông Dương. Dựa trên tài

liệu mới, bài báo này chỉ ra những biến chuyển then chốt về chính trị bên trong phong trào dân tộc Việt

Nam vào năm 1948. Đó là kết quả tổng hợp của những tiến triển cuối 1947 và đầu 1948, bao gồm các

thay đổi chính trị trên thế giới, trong mối quan hệ Pháp-Việt, và trong quan hệ giữa các lãnh tụ cộng sản

và không cộng sản trong nhà nước Việt Minh. Đến cuối năm 1948, lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương

đã bắt đầu đặt mục tiêu đấu tranh giai cấp và xã hội chủ nghĩa ngang với mục tiêu độc lập dân tộc. Khối

liên hiệp dân tộc từng dẫn dắt Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đã bị phá vỡ vào năm 1948, dù

cho phải nhiều năm sau nội chiến mới bùng nổ. Do đó, cũng như ở nhiều nơi khác tại Đông Nam Á, năm

1948 đánh dấu một giai đoạn mới: khởi đầu cho kết thúc của thời kỳ 'mặt trận đoàn kết' và sự hợp tác

của cộng sản với với những người quốc gia không cộng sản.

Dẫn nhập124

124 Công trình nghiên cứu này được sự giúp đỡ của Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển thuộc Đại học Quốc gia

Hà Nội và Viện Nghiên cứu Châu Á, Đại học Quốc gia Singapore. Bài báo nhận được những ý kiến đóng góp có giá trị

của Ang Cheng Guan, Karl Hack, Anthony Reid, Geoff Wade, và nhất là Bruce Lockhart trong Ban Biên tập Journal of

Southeast Asian Studies. Bài báo sẽ xuất hiện trong Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3 (October 2009), 519-

542. Bản dịch của Nguyễn Việt do chính tác giả hiệu đính. Một số câu văn trong bản dịch không theo sát nguyên tác,

và một số chú thích được rút gọn, để bản dịch dễ hiểu hơn đối với độc giả Việt Nam.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 60 [email protected]

Các sử gia về Chiến tranh Lạnh không xem 1948 là bước ngoặt quan yếu ở Đông Dương. Thay vào đó,

họ lại đề cao năm 1950, khi Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) bắt đầu có được sự hỗ trợ từ Trung

Quốc và khối Xô viết, cũng là khi người Pháp và phe chống cộng do Mỹ đứng đầu công nhận Quốc gia

Việt Nam do Hoàng đế Bảo Đại lập ra như một chính phủ đối kháng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

(VNDCCH) của chủ tịch Hồ Chí Minh. Dựa trên các tài liệu nội bộ của Đảng Cộng sản mới được công bố,

báo chí của Việt Nam, cũng như hồi ký và phỏng vấn các bộ trưởng không cộng sản trong chính phủ

VNDCCH hồi những năm 1945-1950, chúng tôi hy vọng chỉ ra được những biến chuyển then chốt về

chính trị của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trong giai đoạn 1945-1948 cho đến nay vẫn chưa

được biết đến rộng rãi.125

Các biến chuyển này là kết quả của hai xu hướng mang tính hội tụ của giai đoạn từ cuối 1947 đến đầu

1948. Xu hướng thứ nhất bao gồm việc thành lập Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Lao động

(Cominform), sự ra đời của "đường lối Zhdanov" của Liên Xô, thắng lợi quân sự của Trung Cộng tại Mãn

Châu và chính sách cải cách ruộng đất mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), sự thất bại trong

tranh cử của cánh tả tại Pháp, và thành công của các phe nhóm quốc gia trong việc thành lập một chính

phủ mới do Bảo Đại làm Quốc trưởng với sự hậu thuẫn của Pháp. Xu hướng thứ hai bao gồm những xung

đột trong chính phủ VNDCCH giữa các lãnh tụ cộng sản và không cộng sản-xu hướng này chưa được

giới sử gia biết đến như xu hướng thứ nhất. Những xung đột nội bộ và các thay đổi trên chính trường

quốc tế khuyến khích các lãnh tụ ĐCSĐD đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc rẽ vào con đường đấu

tranh giai cấp và chủ nghĩa xã hội phù hợp với niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản của họ.126

Bước chuyển này thể hiện ở các thay đổi trong chính sách ruộng đất và những nỗ lực củng cố Đảng

trong năm 1948. Một hội nghị toàn thể của Đảng đầu năm 1948 quyết định thúc đẩy trở lại chính sách

ruộng đất và tăng cường phát động nông dân. Đảng cũng dự định triệu tập Đại hội vào cuối năm 1948

(nhưng sau bị hoãn) nhằm tái lập Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) đã bị giải tán về mặt công khai,

nhưng thực chất là đi vào hoạt động bí mật vào cuối năm 1945 dưới tên Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở

Đông Dương. Các tờ báo của Đảng cho phép phê phán công khai đối với các bộ trưởng không cộng sản

của chính phủ Việt Minh. Việc này dẫn tới những cuộc tranh luận gay gắt và bất hoà công khai giữa

những người cộng sản và không cộng sản. Khoảng cuối năm 1948, lãnh đạo Đảng đã bắt đầu nhìn xa

hơn độc lập dân tộc, hướng tới việc xây dựng một chế độ "dân chủ mới" (thực chất là chế độ kiểu Mao-ít

và Sta-lin-nít)dựa trên phát động quần chúng đấu tranh giai cấp. Hình thức liên hiệp của chính phủ

VNDCCH trên thực tế đã đổ vỡ vào năm 1948, mặc dù sự đổ vỡ được thể hiện dần dần trong giai đoạn

1949-1950 khi quyền lực của các bộ trưởng không cộng sản bị tước bỏ và nhiều viên chức và trí thức

không cộng sản của VNDCCH rời chiến khu để "dinh tê" (tức là quay về sống tại các khu vực do Pháp

kiểm soát).127 Cũng như ở những nơi khác tại Đông Nam Á, năm 1948 đánh dấu hồi kết của giai đoạn

mặt trận đoàn kết mở rộng, ở đây có nghĩa là hồi kết cho liên minh mang tính dân tộc chủ nghĩa đã

125 Kim Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam, 1945-1965 (Ann Arbor:

University of Michigan Press, 2002; các chương 2 và 3), phân tích các biến chuyển trong chính sách văn hoá và xung

đột giữa cán bộ chính trị và trí thức trong những năm 1948-1950, và cũng đồng ý với lập luận ở đây, theo đó 1948 là

một thời điểm bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.

126 Việc thảo luận đầy đủ về những thay đổi trong chính sách đấu tranh giai cấp của ĐCSĐD nằm ngoài phạm vi bài

viết này. ĐCSĐD chủ yếu nhấn mạnh đấu tranh giai cấp trong thập niên tồn tại đầu tiên, nhưng ở giai đoạn từ 1941

đến 1948 đã tạm gác chủ trương này lại. Trước 1948, chính sách đấu tranh giai cấp của ĐCSĐD luôn chịu ảnh hưởng

của đường lối của Quốc tế Cộng sản III (QTCS), đồng thời cũng phản ánh những cuộc tranh luận nội bộ về các chính

sách cụ thể giữa các lãnh tụ cực đoan và ôn hoà. Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism (Ithaca: Cornell

University Press, 1982) trình bày khá đầy đủ về chính sách của ĐCSĐD và mối quan hệ QTCS-ĐCSĐD trong những

năm 1930. Chúng tôi đã từng phân tích cụ thể chính sách của ĐCSĐD trong những năm 1940 và 1950 liên quan tới

mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc và đấu tranh giai cấp; xem Tuong Vu, Paths to Development in Asia: South

Korea, Vietnam, China, and Indonesia (New York: Cambridge University Press, 2010); và Vu, "From Cheering to

Volunteering: Vietnamese Communists and the Arrival of the Cold War, 1940-1951", trong Christopher Goscha và

Christian Ostermann, bs. Connecting Histories: The Cold War and Decolonization in Asia (1945-1962) (Stanford:

Stanford University Press, 2009).

127 Về trường hợp một trí thức rời chiến khu, xem Phạm Duy, Hồi Ký: Cách Mạng và Thời Kháng Chiến (PDC Musical

Productions, 1991).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 61 [email protected]

giành được chính quyền tại Việt Nam vào năm 1945. Nhưng không giống như các nơi khác, những sự

kiện chính trị nội bộ của VNDCCH thời kỳ 1945-1950 bị che giấu mãi cho tới gần đây, vì những người

không cộng sản hoặc giữ im lặng hoặc không được ai lắng nghe, và nhiều tài liệu quan trọng của Đảng

Cộng sản không được công bố.128

Bài viết được chia thành bốn phần. Phần đầu bàn về các thỏa hiệp mà ĐCSĐD buộc phải thực hiện vào

cuối năm 1945 khi họ lên nắm chính quyền. Không hiểu được những thỏa hiệp này, những gì đã bị các

nhà lãnh đạo cộng sản cố ý che giấu cho mãi tới gần đây, thì sẽ không hiểu ý nghĩa của bước ngoặt năm

1948. Phần thứ hai nhìn lại các bước tiến triển trong năm 1947 liên quan tới cuộc chiến giữa Pháp và

VNDCCH, cũng như những sự kiện quốc tế khác. Phần thứ ba tập trung vào xung đột trong nội bộ chính

phủ Việt Minh giữa các lãnh tụ cộng sản và những nhân sĩ không cộng sản sau hai năm hợp tác vì sự

nghiệp giải phóng dân tộc. Phần thứ tư phân tích sự đổ vỡ trong khối liên minh vào năm 1948 bắt nguồn

từ những chính sách mới của ĐCSĐD. Trong phần kết luận, chúng tôi sẽ trình bày lý do tại sao ở Việt

Nam nội chiến diễn ra chậm hơn so với các nước Đông Nam Á khác.

Các thỏa hiệp bị lãng quên

Sau công trình mang tính mở đường của Vũ Ngự Chiêu, các chuyên gia lịch sử Việt Nam hiện đại đã bắt

đầu đặt câu hỏi về giả thuyết cho rằng chính phủ Việt Minh đại diện cho một cuộc đoạn tuyệt triệt để với

chính phủ Trần Trọng Kim tồn tại trước đó trong một khoảng thời gian ngắn (từ tháng Tư tới tháng Tám

năm 1945).129 Giả thuyết này có phần dựa trên việc thiếu tài liệu liên quan tới chính phủ Trần Trọng Kim.

Nói đúng hơn, có lẽ các nhà quan sát đã tin (có ý thức hoặc vô thức) theo tuyên truyền của các sử gia

cộng sản (vd Trần Huy Liệu) rằng chế độ Trần Trọng Kim chỉ là một chính phủ bù nhìn đã sụp đổ vào

tháng Tám năm 1945 khi những người cộng sản giành quyền lực với sự hậu thuẫn của dân chúng. Ở đây

lại thêm một trường hợp người chiến thắng viết sử để che giấu những gì đã xảy ra. Chúng tôi có ý định

chỉ ra rằng, để giành chính quyền và tồn tại được vào cuối năm 1945, những người cộng sản buộc phải

có các thỏa hiệp [compromise] và thu nạp [accommodate] những thành viên trong chính phủ Trần Trọng

Kim, giới tinh hoa thuộc địa và giới viên chức thuộc địa, cũng như các nhóm quần chúng địa phương.

Không hiểu được những thỏa hiệp ấy, chúng ta sẽ không thể hiểu được tầm quan trọng của năm 1948,

khi những thỏa hiệp ấy tan rã và góp phần tạo ra cuộc nội chiến giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam.

Câu chuyện về các thỏa hiệp này bắt đầu với việc Nhật tiến vào Đông Dương thuộc Pháp thông qua đàm

phán vào năm 1940. Đối diện với hiểm họa Nhật Bản, chính phủ Vichy đồng ý cho phép Nhật sử dụng

các cảng, đường sá, nhân công và vật lực Đông Dương cho mục tiêu chiến tranh. Để đổi lại, Pháp được

tiếp tục cai trị Đông Dương.130 Mãi cho tới tháng Ba năm 1945, sau khi Vichy sụp đổ ở Pháp và để đón

đầu trước việc Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương sắp xảy ra, Nhật mới quyết định lật đổ Pháp. Sau khi

cầm tù các viên chức và lính tráng người Pháp vào tháng Ba năm 1945, Nhật cho phép hoàng đế Việt

Nam tuyên bố một Đế quốc Việt Nam (ĐQVN) độc lập và thiết lập nền cai trị của người Việt Nam. Thay vì

lựa chọn những nhân vật quốc gia chủ nghĩa [nationalists] có kinh nghiệm (như họ đã làm ở Java), Nhật

128 Bài báo này dựa nhiều vào hai hồi ký mới được xuất bản của Ô. Vũ Đình Hoè. Những hồi ký này gộp chung cả các

hồi ký chưa được xuất bản của nhiều người từng thân cận với Ô. Vũ như Phan Anh và Vũ Trọng Khánh. Ô. Vũ Đình

Hoè, sinh năm 1912, là bộ trưởng không cộng sản duy nhất trong chính phủ Việt Minh hiện còn sống. Chúng tôi xin

cảm ơn Ô. Vũ và con trai ông, Giáo sư Vũ Thế Khôi, vì đã cho phép chúng tôi phỏng vấn nhiều lần kể từ năm 2003.

129 Vũ Ngự Chiêu, "The Other Side of the Revolution: The Empire of Vietnam (March-August 1945)", Journal of Asian

Studies, 45, 2 (tháng Hai 1986), tr. 293-328. Vũ Ngự Chiêu chỉ ra bằng cách nào mà chính phủ Trần Trọng Kim đã

tạo những điều kiện thuận lợi cho việc đoạt chính quyền thành công của Việt Minh vào tháng Tám năm 1945. Cũng

xem Stein Tønnesson, The Vietnamese Revolution of 1945 (London: SAGE Publications, 1991); và David Marr,

Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley: University of California Press, 1995).

130 Vai trò của Nhật ở Đông Dương không rõ ràng như ở Indonesia. Tại Indonesia thuộc Hà Lan, các lực lượng Nhật

Bản đổ bộ, nhanh chóng đánh bại quân đội Hà Lan, rồi đưa những lãnh tụ phong trào giải phóng dân tộc có tiếng

tăm đang bị Hà Lan giam giữ ra làm việc với tư cách cố vấn cho chính phủ quân sự Nhật, với lời hứa về độc lập trong

tương lai. Nhưng ở Việt Nam, vì Pháp vẫn còn đó, Nhật không làm gì nhiều ngoài việc thiết lập liên lạc với các nhóm

Việt Nam như Hoà Hảo và Cao Đài và bảo vệ một vài nhân vật chống Pháp khỏi bị Pháp đàn áp.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 62 [email protected]

lại chọn một nhóm gồm các chuyên gia và trí thức thành công về chuyên môn nhưng không có kinh

nghiệm chính trị để lập một chính phủ mới ở Việt Nam.131 Thủ tướng của chính phủ này, Trần Trọng Kim,

đã được đào tạo tại Pháp và chủ yếu được biết đến với tư cách sử gia và thanh tra trường học.132

Mặc dù các nhà lãnh đạo có ít kinh nghiệm chính trị và chính phủ này chỉ kéo dài có bốn tháng, thật là

sai lầm nếu phủ nhận vai trò lịch sử của nó.133 Liên kết với chính phủ là nhiều nhóm thành thị có thế lực

như Đảng Đại Việt134 và nhóm Thanh Nghị.135 Phan Anh và Vũ Văn Hiền, hai luật gia được Pháp đào tạo

và là thành viên chủ chốt của nhóm Thanh Nghị làm Bộ trưởng Thanh niên và Bộ trưởng Tư pháp. Nhóm

Thanh Nghị lập ra một tổ chức tên là Tân Việt Nam Hội để thu hút hậu thuẫn của quần chúng cho chính

phủ mới.136 Trung ương của Đảng này do Vũ Đình Hòe làm Tổng Thư ký bao gồm 33 trí thức và chuyên

gia xuất sắc, là một phần trong mạng lưới thân hữu cùng chí hướng đã đóng góp cho tạp chí Thanh

Nghị.137 Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình, chính phủ Trần Trọng Kim đã mở rộng cơ hội cho

quần chúng tham gia chính trị bằng cách xoá bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí, thả hàng nghìn tù chính trị

từ các nhà tù thực dân và phát động phong trào thanh niên tại các thành phố. Nếu không có những động

thái ấy, chắc hẳn sẽ không thể có các cuộc nổi dậy bột phát của quần chúng dẫn tới việc giành chính

quyền khi Nhật đầu hàng vào tháng Tám năm 1945.

Cú đảo chính của Nhật vào tháng Ba năm 1945 đã đưa chính phủ Trần Trọng Kim lên nắm chính quyền,

nhưng đồng thời, sự kiện này lại là một món quà của Nhật cho phong trào cộng sản.138 Cho đến khi ấy,

cảnh sát và mật thám Pháp vẫn rất hiệu quả trong việc đàn áp cộng sản. Năm 1940, nhà cầm quyền

thực dân đã đập tan dễ dàng một cuộc nổi dậy do ĐCSĐD lãnh đạo tại miền Nam và xử tử gần như tất

cả các nhà lãnh đạo của Đảng. Năm 1941, Hồ Chí Minh quay về vùng biên giới Việt-Trung tìm cách gây

dựng lại phong trào. Ông và các nhà lãnh đạo còn sống sót thuộc chi bộ phía Bắc của ĐCSĐD lập ra Việt

Nam Độc lập Đồng minh, một tổ chức mặt trận do cộng sản kiểm soát nhưng mở rộng cho mọi người.139

Học tập theo chiến lược của Trung Quốc, các lãnh tụ ĐCSĐD cũng tìm cách lập ra một lực lượng du kích

để huy động quần chúng.140 Dưới sự bảo trợ của Trương Phát Khuê, một viên tướng Quốc dân Đảng

Trung Quốc (QDĐTQ), Hồ miễn cưỡng làm việc chung với các nhóm quốc gia lưu vong ở miền Nam

Trung Hoa nhằm thành lập một mặt trận tương tự, nhưng kết quả rất khiêm tốn.141 Cho đến trước tháng

Ba năm 1945, tổ chức Việt Minh hoạt động rất yếu ớt vì bị Pháp đàn áp nặng nề.142 Tình thế này thay đổi

sau khi Nhật hất cẳng Pháp vào tháng Ba năm 1945. Vào quãng thời gian đó, Nhật chủ yếu lo đối phó

việc các lực lượng Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương, chứ không phải một cuộc nổi dậy trong nước. Vì

vậy, vùng nông thôn bị bỏ mặc, và Việt Minh đã nhanh chóng lấp đầy khoảng trống.143 Tuy về công khai

131 Tønnesson, The Vietnamese Revolution of 1945, tr. 282-6; và Marr, Vietnam 1945, tr. 116-7 bàn về nhiều giả

thuyết liên quan tới các động cơ của Nhật.

132 Nguyễn Quốc Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh: Văn Hoá,

1997), tr. 894-5.

133 Vũ Ngự Chiêu, "The Other Side of the Revolution".

134 Xem François Guillemot, "Vietnamese Nationalist Revolutionaries and the Japanese Occupation: The Case of the

Đại Việt Parties (1936-1946), trong Li Narangoa and Robert Cribb, bs. Imperial Japan and National Identities in Asia,

1895-1945 (New York: Routledge Curzon, 2003), tr. 221-48.

135 Nhóm này gồm nhiều luật gia, bác sĩ và chuyên gia, xuất bản tờ tạp chí Thanh Nghị tại Hà Nội từ 1940 đến 1945.

136 Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi với Ô. Vũ Đình Hoè (Hà Nội, tháng Chạp 2003), ông giải thích rằng vào thời

ấy "Hội" cũng có nghĩa là "đảng".

137 Vũ Đình Hoè, Hồi ký Thanh Nghị (Hà Nội: Văn Học, 1995), tr. 182-9. Tân Việt Nam Hội sẽ bị Nhật cấm vào tháng

Bảy năm 1945 và nhiều lãnh tụ của đảng sẽ gia nhập Việt Minh.

138 Tønnesson, The Vietnamese Revolution of 1945, tr. 247.

139 nt, tr. 114-25.

140 nt, tr. 125-32 & 144-7.

141 nt, tr. 122. Hồ Chí Minh sang miền Nam Trung Quốc vào năm 1943, bị các lực lượng của QDĐTQ bắt bỏ tù trong

vòng một năm trước khi được thả và được yêu cầu hợp tác với các nhóm quốc gia chống Pháp.

142 nt, tr. 131.

143 nt, tr. 249. Trong một bài đăng trên báo Việt Nam Độc Lập của Việt Minh (30 tháng Tư 1945), đã có lời công

nhận phong trào hưởng lợi từ việc người Pháp sụp đổ.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 63 [email protected]

vẫn tố cáo chính phủ Trần Trọng Kim là bù nhìn của Nhật,144 nhưng những người cộng sản vẫn kín đáo

tìm cách giác ngộ các quan chức của chính phủ theo Việt Minh.145 Bước đi này chuẩn bị trước cho những

thỏa hiệp về sau.

Chính phủ Trần Trọng Kim mới tồn tại được bốn tháng thì Nhật đầu hàng. Trước tình hình sôi sục của

quần chúng và cuộc nổi dậy ủng hộ Việt Minh ở Hà Nội, chính phủ này đã từ nhiệm và thỏa thuận

chuyển giao quyền lực cho đối thủ một cách hoà bình. Thỏa hiệp này rất quan trọng, bởi vì chính phủ

Trần Trọng Kim hoàn toàn có thể tìm cách đàn áp những người cộng sản: tại Hà Nội, nơi Việt Minh mạnh

hơn cả, các nhóm ủng hộ Việt Minh có không tới 1.000 người với khoảng 100 khẩu súng, trong khi chính

phủ Trần Trọng Kim có thể điều động 1.500 dân binh có vũ trang.146 Để đổi lại thỏa hiệp này, nhiều quan

chức của chính phủ Trần Trọng Kim sau đó được giao các vị trí trong chính phủ Việt Minh với tư cách bộ

trưởng và thứ trưởng. Trong số này có Phan Anh (Bộ trưởng Thanh niên), Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc

Bộ), Nguyễn Văn Hưởng (Đổng lý Văn phòng cho Phan Kế Toại), Tạ Quang Bửu (trợ lý cho Phan Anh),

Vũ Trọng Khánh (Thị trưởng Hải Phòng), Nguyễn Mạnh Hà (Giám đốc Kinh tế Hải Phòng), Hoàng Minh

Giám (Trưởng đoàn Liên lạc Nhật-Việt ở Bắc Kỳ), và nhiều người khác. Nền hành chính thuộc địa, bao

gồm các bộ luật thuộc địa, thủ tục và nhân viên, được nhập vào nhà nước mới gần như một cách nguyên

vẹn.147 Hàng nghìn lính thuộc địa bỏ hàng ngũ để gia nhập quân đội Việt Minh vào cuối năm 1945.148 Nhà

nước Việt Minh ra đời thông qua những thỏa hiệp quan trọng nhưng đã bị quên lãng này. Khi Hồ Chí

Minh tuyên thệ nhậm chức chủ tịch nước VNDCCH vào đầu tháng Chín năm 1945, gần một nửa vị trí

trong nội các của ông được giao cho những người không cộng sản.149 Bên cộng sản nắm các bộ Ngoại

giao, Quốc phòng, Nội vụ và Thông tin trong chính phủ liên hiệp, còn thực quyền ở các bộ Kinh tế, Canh

nông, Giáo dục và Tư pháp thuộc về những người không cộng sản.

Người ta vẫn hay nghĩ chính phủ Việt Minh là một mặt trận đoàn kết, với ĐCSĐD ở vị trí chỉ huy trung

tâm, còn các nhân vật không cộng sản quy tụ ở vòng ngoài với rất ít quyền lực thực tế. Nhưng thực tế

không đúng như vậy. Chấp nhận sự thỏa hiệp về chính trị vì lực lượng nhỏ và yếu, ĐCSĐD buộc phải trao

cho các nhân sĩ không cộng sản, phần lớn là thành viên của nhóm Thanh Nghị, quyền lực thực thụ với tư

cách các bộ trưởng một số bộ và cán bộ chủ chốt trong nhiều cơ quan khác. Thay vì chịu sự chỉ huy của

ĐCSĐD giống như mô hình lý thuyết của mặt trận đoàn kết,150 các lãnh tụ không cộng sản đã đóng vai

trò độc lập trong lãnh vực họ phụ trách. Dù các lãnh vực này không nằm trong địa hạt ngoại giao hay

quốc phòng, chúng là nơi quyết định các chính sách xã hội-văn hoá-kinh tế cả ở phạm vi quốc gia lẫn địa

phương. Tuy phe cộng sản giữ quyền thống trị chung, những người cộng sản chỉ kiểm soát được một số

cơ cấu nhà nước chủ chốt. Đúng như lãnh tụ ĐCSĐD đồng thời là Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng than

phiền vào đầu năm 1950, "Hiện nay Đảng ta chỉ nắm cơ quan chính quyền trọng yếu, còn cả bộ máy nhà

nước, cả bộ máy chuyên môn chúng ta không nắm được hết. Đối với một đôi ngành có tính chất quan

trọng đặc biệt như công an, chúng ta nắm không hết từ trên đến dưới, nắm không chặt tư pháp, giáo

144 Xem Việt Nam Độc Lập, 21 tháng Tư 1945.

145 Lê Trọng Nghĩa, "Các cuộc tiếp xúc giữa Việt Minh với Chính phủ Trần Trọng Kim". Trong Lịch sử, sự thật và bài

học (Hà Nội: Trẻ, 2000).

146 Marr, Vietnam 1945, tr. 393.

147 David Marr, "Beyond High Politics: State Formation in Northern Vietnam, 1945-1946", trong Christopher Goscha

and Benoit de Treglode, bs. Naissance d'un Etat-Parti: Le Viet Nam depuis 1945/ The Birth of a Party-State: Vietnam

since 1945 (Paris: Le Indes Savantes, 2004), tr. 25-60.

148 John McAlister, Vietnam: The Origins of Revolution (New York: Alfred Knopf, 1969); Greg Lockhart, Nations in

Arms: Origins of the People's Army of Vietnam (Wellington: Allen & Unwin, 1989), tr. 150, 175-6.

149 Những người không cộng sản bao gồm Vũ Đình Hoè (Giáo dục, và sau này là Tư pháp), Dương Đức Hiền (Thanh

niên), Vũ Trọng Khánh (Tư pháp), Nguyễn Mạnh Hà (Kinh tế), Nguyễn Văn Tố (Cứu tế Xã hội), và Nguyễn Văn Xuân

(Bộ trưởng không bộ). Sau này còn có thêm nhiều người không cộng sản nữa, như Nghiêm Xuân Yêm (Canh nông),

Nguyễn Văn Huyên (Giáo dục), Trần Đăng Khoa (Thuỷ lợi), và Phan Anh (Công thương).

150 Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism, tr. 137-41, mô tả lý thuyết và thực tiễn của ĐCSĐD về mặt trận

đoàn kết trong những năm 1930.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 64 [email protected]

dục thì có thể nói còn ở ngoài sự lãnh đạo trực tiếp và mật thiết của chúng ta."151 Dưới đây chúng ta sẽ

xem tại sao Phạm Văn Đồng buồn bực; tuy nhiên vào cuối năm 1945, dường như thỏa hiệp là con đường

duy nhất giúp một ĐCSĐD yếu ớt lên nắm quyền và trụ được ở đó.

Trên thực tế, nếu không có thỏa hiệp ngay từ đầu này, ĐCSĐD hẳn sẽ không thể sống sót được lâu sau

khi đoạt được quyền lực vào tháng Tám năm 1945. VNDCCH mới được năm tuần tuổi thì quân QDĐTQ

của Tưởng Giới Thạch tiến vào Hà Nội giải giáp quân Nhật theo hiệp ước Postdam.152 Đi theo đoàn quân

này từ miền Nam Trung Quốc là hai nhóm hải ngoại, Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) và Việt Nam

Cách mạng Đồng minh Hội (VNCMĐMH). Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, VNQDĐ

chuyển sang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc. Vào năm 1945, lãnh đạo của đảng này là Nguyễn

Tường Tam (Nhất Linh), một trí thức do Pháp đào tạo và tiểu thuyết gia lừng danh.153 Trong những năm

1930, Nguyễn Tường Tam là linh hồn của tổ chức Tự lực Văn đoàn tại Hà Nội nhưng đã xuất dương

trong Thế chiến thứ hai để gia nhập VNQDĐ. Lãnh đạo của VNCMĐMH là Nguyễn Hải Thần, người đã

xuất dương chống Pháp từ năm 1905, từng học và dạy tại Trường Võ bị Hoàng Phố.154 Lực lượng dân

quân của VNQDĐ và VNCMĐMH giành chính quyền tại nhiều tỉnh miền Bắc và đòi chính phủ Việt Minh

phải giải tán. Các lực lượng Việt Minh vẫn còn kiểm soát được Hà Nội nhưng ngày nào cũng xảy ra xô xát

giữa hai bên.

Các tướng lãnh QDĐTQ chủ yếu quan tâm tới việc giữ gìn trật tự và giải giáp quân đội Nhật. Không giống

như người Mỹ ở Nam Hàn hay người Anh ở Sài Gòn, chỉ huy quân đội QDĐTQ ở Hà Nội công nhận chính

phủ của Hồ Chí Minh. Như đã nói ở trên, trong những năm 1943-1944, QDĐTQ bảo trợ sự hợp tác giữa

nhiều nhóm Việt Nam lưu vong, trong đó có Hồ Chí Minh với tư cách đại diện của Việt Minh. Giờ đây, họ

chỉ đơn giản là tiếp tục sự bảo trợ ấy bằng cách gây sức ép bắt ông ta chia sẻ quyền lực với VNQDĐ và

VNCMĐMH. Vì yếu thế, những người cộng sản đã nhường cho Nguyễn Hải Thần chức Phó Chủ tịch, và

bàn giao một số bộ và 70 ghế trong Quốc hội vừa được bầu ra cho VNQDĐ và VNCMĐMH. Hồ Chí Minh

cũng bị buộc phải chỉ định những người "không đảng phái"155 vào chức Bộ trưởng Nội vụ và Quốc phòng.

Vì muốn chối bỏ các cáo buộc của VNQDĐ và VNCMDMH cho rằng chính phủ Việt Minh là một chính phủ

cộng sản trá hình, các lãnh tụ ĐCSĐD đã làm một động thái thỏa hiệp thông qua việc giải tán ĐCSĐD

vào tháng Mười một năm 1945. Trên thực tế, Đảng chưa bao giờ bị giải thể; nó chỉ rút vào hoạt động bí

mật kể từ đó. Đã có lúc, áp lực của quân đội Tưởng Giới Thạch mạnh tới mức thậm chí Hồ Chí Minh còn

nghĩ đến việc đưa Bảo Đại trở lại đứng đầu chính phủ, còn ông sẽ từ chức để trở thành một "cố vấn".156

Nhưng trên thực tế, ĐCSĐD chưa bao giờ thực sự trao quyền lực cho các đối thủ của mình hoặc các bộ

trưởng không đảng phái.157 Ngay khi quân đội Trung Quốc rút về vào giữa năm 1946,158 chính phủ Hồ

Chí Minh đã thanh toán phần lớn lãnh tụ của VNQDĐ và VNCMĐMH; những người trốn thoát chạy sang

miền Nam Trung Quốc và các nơi khác.159

151 Phạm Văn Đồng, "Phải kiện toàn chính quyền cộng hoà nhân dân", bài diễn văn đọc tại Hội nghị cán bộ lần thứ

ba, 21/1-3/2/1950. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), Văn kiện Đảng toàn tập, t. 11, tr. 185.

152 Peter Worthington, "Occupation and Revolution: The Chinese Nationalist Army in Northern Vietnam, 1945-1946"

(luận án tiến sĩ, University of Hawaii, Honolulu, 1995).

153 Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1993), tr. 113-4, 176-81.

154 Nguyễn Quốc Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 953-4.

155 "Không đảng phái" chỉ những người không thuộc ĐCSĐD, VNQDĐ hay VNCMĐMH.

156 Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh (Hà Nội: Văn hoá Thông tin, 2000), tr. 58.

157 Về các nỗ lực của cộng sản trong việc giành lấy Bộ Nội vụ từ tay một người không đảng phái, xem Lê Giản,

Những ngày sóng gió: Hồi ký (Hà Nội: Công an Nhân dân, 2000).

158 Mỹ gây sức ép với chính phủ Tưởng Giới Thạch để quân đội Pháp vào thay quân đội Trung Quốc. Đổi lại, người

Pháp đồng ý cho Tưởng một số đặc quyền thương mại tại Bắc Việt Nam. Xem Worthington, "Occupation and

Revolution".

159 Những người ở lại có số phận bất hạnh. Chẳng hạn, lãnh tụ của VNQDĐ Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Kinh tế, bị

tống vào trại an trí (sau này gọi là trại cải tạo) khi tìm cách trốn khỏi vùng Việt Minh và cuối cùng có thể đã chết

trong trại cải tạo; xem Văn phòng Quốc hội, Đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá X (Hà Nội: Chính trị Quốc gia,

2002) để biết số phận của nhiều lãnh tụ VNQDĐ và VNCMĐMH trong Quốc hội khoá I.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 65 [email protected]

Sự đối đầu giữa ĐCSĐD và VNQDĐ/VNCMĐMH càng củng cố thêm thỏa hiệp trước đó giữa những người

cộng sản và những nhân sĩ không cộng sản bên trong chính phủ Việt Minh. Để đối phó với việc VNQDĐ

và VNCMĐMH tăng cường ve vãn tầng lớp trên tại các thành thị, ĐCSĐD phải dựa nhiều hơn vào những

trí thức và doanh nhân có chân trong chính phủ liên hiệp. Các quan chức cũ của chính phủ Trần Trọng

Kim đã đóng một vai trò cốt tử nhưng vẫn chưa được thừa nhận trong việc thu hút sự ủng hộ của quần

chúng cho Việt Minh. Những người này có nhiều uy tín và ảnh hưởng lớn với dân chúng, đặc biệt là với

các nhóm tinh hoa thành thị. Các mối quan hệ gia đình hay kinh doanh của họ với giới quan lại, tinh hoa

địa phương và công chức thuộc địa đã giúp lôi kéo những người này sang phe Việt Minh.160 Thêm vào

đó, công an Việt Minh tiến hành rất nhiều vụ bắt bớ đảng viên của VNQDĐ và VNCMĐMH với cớ vi phạm

pháp luật. Sự tham gia của những nhân sĩ không cộng sản trong chính phủ, đặc biệt là Bộ Tư pháp,

khiến những vụ bắt bớ này đỡ bị coi là một cuộc thanh trừng của cộng sản. Đương cục, QDĐTQ có thể

lấy cớ những vụ bắt bớ này để lật đổ chính phủ Việt Minh. Ngoài vai trò chính trị của mình, những nhân

sĩ không cộng sản có hiểu biết trong các lĩnh vực kỹ thuật cũng hữu dụng đối với chính phủ Việt Minh

thực hiện nhiều nhiệm vụ hành chính khó khăn, trong đó có việc thảo ra một bản Hiến pháp mới và các

đạo luật mới, lựa chọn và bổ nhiệm các quan chức mới, chiến đấu chống nạn mù chữ và nạn lụt lội, cũng

như áp dụng chính sách nông nghiệp nhằm phòng ngừa nạn đói.

Một thỏa hiệp quan trọng thứ hai của ĐCSĐD đã được thực hiện ở mức độ địa phương. Các nghiên cứu

trước đây khẳng định sự lãnh đạo tập trung của ĐCSĐD trong cuộc cách mạng, còn những công trình

gần đây hé lộ một tình huống phức tạp hơn. Trước tháng Tám năm 1945, các lãnh tụ Việt Minh đã tính

toán sai khi trông chờ liên quân Mỹ-Trung Quốc tiến vào Đông Dương đánh Nhật. Do vậy, họ tập trung

vào việc xây dựng một lực lượng dân quân với mục đích cùng chiến đấu bên cạnh các đồng minh.161 Việc

này không xảy ra. Khi Nhật đột ngột đầu hàng và khoảng trống quyền lực bỗng mở ra tại các thành phố,

chính các nhóm địa phương đã bột phát đoạt lấy chính quyền một cách dễ dàng không cần đổ máu.

Nhiều nhóm địa phương do các cán bộ cộng sản hoạt động ngầm hoặc mới ra tù tổ chức, nhưng nhiều

nhóm khác lại do các nhân sĩ địa phương hoặc tầng lớp tư sản huy động. Chẳng hạn như ở Hà Nội, đảng

viên Đảng Dân chủ (ĐDC)162, không phải đảng viên ĐCSĐD, có nhiều súng nhất.163 Các tổ chức đối thủ

của Việt Minh ở đây cũng chạy đua để giành chính quyền, nhưng vì những lý do khác nhau, họ đã thua

cuộc trước các nhóm ủng hộ Việt Minh như ĐDC.164 Phần lớn Đảng viên cộng sản ở các địa phương tự

hành động chứ không theo chỉ thị của trung ương ĐCSĐD. Tại phần lớn các tỉnh miền Trung và miền

Nam Việt Nam, chính các nhóm Thanh niên Tiền tuyến do Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong chính

phủ Trần Trọng Kim, tổ chức trước đây, đã đoạt chính quyền.165 Các lãnh tụ trung ương ĐCSĐD và lực

lượng dân quân của họ phải mất nhiều ngày hoặc nhiều tuần sau mới tới nơi để nắm quyền kiểm soát

những thành phố chính; tại phần lớn những nơi khác, các nhóm quần chúng hay dân quân tự phát mặc

nhiên được công nhận là chính quyền Việt Minh tại địa phương.

Khi miêu tả những cuộc nổi dậy của quần chúng trên khắp Việt Nam cuối năm 1945, sử gia David Marr

cho thấy rằng chính phủ Việt Minh dựng lên ở Hà Nội trên thực tế không có quyền đối với hàng nghìn uỷ

ban cách mạng địa phương.166 Chính quyền trung ương thu nạp hầu hết các tổ chức quần chúng tự phát

đã giành chính quyền địa phương hồi cuối năm 1945, không quan tâm tới chất lượng cách mạng hay sự

trung thành chính trị. Các chính sách do những chính quyền "cách mạng" địa phương ban bố thực ra

nhằm đáp ứng quyền lợi và điều kiện địa phương chứ không phải theo mệnh lệnh từ trung ương.167 Vấn

160 Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 68, 96-100. Một ví dụ nổi bật là Nguyễn Văn Huyên, Bộ

trưởng Giáo dục của VNDCCH (cho đến 1975), con rể của Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định.

161 Tønnesson, The Vietnamese Revolution of 1945, tr. 336.

162 Một đảng nhỏ với các lãnh tụ là trí thức và sinh viên do Pháp đào tạo mà ĐCSĐD tổ chức ra vào tháng Sáu năm

1944 nhằm huy động sự ủng hộ của giới tinh hoa thành thị. ĐCSĐD chi phối ĐDC thông qua những người cộng sản

(ngầm) cấy vào hàng ngũ lãnh đạo của ĐDC.

163 Marr, Vietnam 1945, tr. 393; Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 63.

164 Marr, Vietnam 1945, tr. 375-7.

165 nt, tr. 464-6.

166 nt, tr. 402.

167 Marr, "Beyond High Politics."

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 66 [email protected]

đề "quan cách mạng" lộng hành vì vậy trở nên nghiêm trọng sau khi nhà nước Việt Minh ra đời. Đặc biệt,

các Ủy ban Nhân dân ở cấp làng xã rất tai tiếng vì thói hống hách, bè đảng, cấu kết, bắt bớ vô tội vạ và

nhũng lạm công quỹ.168 Nội bộ chính quyền và dân quân địa phương rất lủng củng. Trong phần lớn các

trường hợp, dân quân Việt Minh địa phương không hề đánh Nhật. Thay vào đó là "Việt Minh cũ" đánh

nhau với "Việt Minh mới",169 dân quân Việt Minh đọ súng với dân quân ĐDC,170 và Ủy ban Nhân dân tranh

quyền với Ủy ban Việt Minh.171 Dưới đây chúng ta sẽ thấy rằng các vụ lộn xộn ở địa phương sẽ góp phần

gây ra xung đột giữa các lãnh tụ cộng sản và không cộng sản trong chính phủ Việt Minh vào năm 1948.

Nói tóm lại, ĐCSĐD giành được chính quyền với rất ít máu đổ và dựng ra một nhà nước mới trong

khoảng thời gian ngắn. Cái giá phải trả là việc thu nạp và thỏa hiệp với giới tinh hoa thuộc địa, nền hành

chính thuộc địa và các nhóm quần chúng địa phương. Không phải những người cộng sản thu nạp tất cả

mọi người: nhiều lãnh tụ Trốt-kít, Đại Việt, VNQDĐ cũng như VNCMĐMH là đối thủ sừng sỏ của ĐCSĐD

đã bị thủ tiêu.172 Nhưng thỏa hiệp giữa ĐCSĐD với giới trí trức không cộng sản trong nhóm Thanh Nghị

có tầm quan trọng hơn hẳn sự hiện diện chiếu lệ của những nhân sĩ không cộng sản trong chính phủ

cộng sản sau năm 1949 tại Trung Hoa lục địa. Những "nhân sĩ ái quốc" này không đóng vai trò trực tiếp

trong chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong cuộc nội chiến và sau này mới được

đưa vào chính phủ, chủ yếu để tuyên truyền. Ngược lại, các quan chức của chính phủ Trần Trọng Kim và

những trí thức thành thị khác từng hợp tác với những người cộng sản có vai trò vô cùng lớn trong việc

ĐCSĐD lên nắm quyền và trụ vững tại đó từ cuối 1945 đến giữa 1946. Ở cấp độ quần chúng, nhà nước

Việt Minh đã thu nạp nhiều nhóm quần chúng địa phương. Chúng ta sẽ thấy sự thu nạp này chỉ có hiệu

quả tạm thời và những rạn nứt nghiêm trọng bên trong khối liên hiệp đã bộc lộ rõ vào năm 1948.

Chiến tranh và các bối cảnh địa chính trị

Cuộc chiến giữa Pháp và chính phủ Việt Minh trải qua một bước ngoặt quan trọng trong năm 1947. Sau

khi chiến tranh bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946 giữa VNDCCH và Pháp, quân đội Pháp nhanh chóng

giành được quyền kiểm soát phần lớn các thành phố và thị trấn. Ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ

VNDCCH rút lui vào các khu vực núi non Đông Bắc và tiến hành chiến lược vườn không nhà trống. Ngày

25 tháng Tư năm 1947, đúng bốn tháng sau khi chiến tranh bắt đầu, VNDCCH gửi thư cho chính phủ

Pháp đề nghị thương thuyết ngừng bắn. Chúng ta không biết rõ lý do khiến chính phủ của Hồ Chí Minh

đề nghị ngừng bắn. Trong một tài liệu nội bộ, lãnh đạo ĐCSĐD giải thích rằng họ chấp nhận Việt Nam là

thành viên của Liên hiệp Pháp [French Union] chừng nào Pháp cam kết độc lập thực thụ và toàn vẹn lãnh

thổ. Có vẻ họ đặt rất nhiều hy vọng vào khả năng Đảng Cộng sản Pháp sớm lập một chính phủ mới, và vì

vậy "không chủ trương tách Đông Dương ra khỏi khối Liên hiệp Pháp để ngã vào cánh tay của Anh-

Mỹ."173

Để đáp lại, vào tháng Năm 1947, Cao uỷ Pháp Émile Bollaert thông qua một người đại diện đề nghị trao

cho VNDCCH quyền tự trị bên trong Liên hiệp Pháp nhưng không có độc lập về quốc phòng và quan hệ

đối ngoại.174 Vẫn tiếp tục nuôi hy vọng, các lãnh tụ của ĐCSĐD cải tổ cơ cấu chính phủ VNDCCH vào

168 Xem thư của Hồ Chí Minh, "Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng", ĐCSVN, t. 8, tr. 16-8; cũng

như loạt bài báo trên một tờ báo của VNQDĐ, "Xưa và nay: Nhìn qua các Ủy ban hành chính địa phương", Việt Nam,

25/5-5/6/1946.

169 nt

170 Vũ Đình Hoè trích từ một báo cáo năm 1948 của Phạm Tuấn Khánh, Tổng Thư ký ĐDC (Vũ Đình Hoè, Pháp quyền

nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 141). Các xung đột nổ ra ở tỉnh Hải Dương và miền Nam Việt Nam. Cũng xem Marr,

Vietnam 1945, tr. 409-10.

171 Xem "Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương", 25 tháng Mười một năm 1945, ĐCSVN, t. 8, tr. 30.

172 Điều này không chỉ diễn ra ở Việt Nam: tại Indonesia Thủ tướng Sutan Sjahrir thỏa hiệp và hợp tác với Sukarno

và Amir Sjarifuddin, nhưng không hợp tác với Tan Malaka. Xem Tuong Vu, Paths to Development in Asia.

173 "Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương", 3-6/4/1947. ĐCSVN, t. 8, tr. 178-9. Cũng xem "Chỉ thị của T. Ư.", 22

tháng Năm 1947. nt, tr. 207-13.

174 "Chỉ thị của T. Ư.", tr. 207. Một công trình có giá trị về giai đoạn 1947-1950 nhìn từ quan điểm của Pháp là Ellen

Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1955 (Stanford: Stanford University Press, 1955). Một phân tích gần đây

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 67 [email protected]

ngày 19 tháng Bảy năm 1947 để đưa thêm nhiều nhân vật không cộng sản vào, nâng số lượng các quan

chức ngang cấp bộ trưởng thuộc loại này lên con số 15 trên 27.175 Động thái này nhằm thể hiện mong

muốn thương lượng, đồng thời chống lại tuyên truyền của Pháp cho rằng chính phủ VNDCCH chỉ là chính

phủ cộng sản trá hình. Trong số những người được thêm vào này có hai người theo Thiên chúa giáo và

một vị quan (Đặng Văn Hưởng) trước đây. Võ Nguyên Giáp vẫn là tổng tư lệnh quân đội VNDCCH, nhưng

Tạ Quang Bửu, một quan chức của chính phủ Trần Trọng Kim trước đây, được thăng chức lên làm Bộ

trưởng Quốc phòng. Thế nhưng nỗ lực mang tính tượng trưng này chỉ gặt hái được một kết quả đáng

thất vọng. Trong bài diễn văn đọc tại Hà Đông vào ngày 10 tháng Chín năm 1947, Bollaert lặp lại ý định

của Pháp dành cho Việt Nam "tự do trong Liên hiệp Pháp". Thậm chí ông ta còn từ chối thừa nhận

VNDCCH là chính phủ hợp pháp của Việt Nam và tuyên bố việc sáp nhập Nam Kỳ với phần còn lại của đất

nước sẽ được quyết định thông qua một cuộc trưng cầu dân ý.176

Trong khi ĐCSĐD thất bại trong các mưu toan chính trị của mình, thì cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong

tại Hồng Kông và các nhóm quốc gia lại giành được một số thắng lợi.177 Sau khi thoát khỏi cuộc thanh

trừng của cộng sản vào cuối năm 1946, VNQDĐ và VNCMĐMH hợp nhất với các lãnh tụ tôn giáo miền

Nam lập ra Mặt trận Thống nhất Quốc gia vào tháng Năm 1947. Họ tự nhận là đại diện thực sự của tinh

thần dân tộc chủ nghĩa, khác với chính phủ Việt Minh bị phe cộng sản thống trị. Nhóm này đã thu hút sự

chú ý của Pháp và hai bên bắt đầu thương thuyết với nhau. Đến tháng Mười, quân Pháp nhảy dù xuống

Việt Bắc, khởi sự một cuộc tấn công lớn. Nhưng chiến dịch quân sự của Pháp kết thúc sau hai tháng mà

không có thắng lợi rõ ràng nào cho cả hai phía. Các vùng do Pháp kiểm soát được mở rộng, nhưng cuộc

tấn công không đạt được mục tiêu ban đầu là tiêu diệt lãnh đạo và lực lượng chủ lực của Việt Minh. Sau

những thất bại đầu tiên, quân đội Việt Minh đã chống trả và thu được vài chiến thắng nhỏ. Cuối năm

1947, chiến tranh rơi vào tình trạng bế tắc. Các lực lượng của Pháp vẫn có ưu thế hơn, nhưng cả hai bên

đều nhận ra rằng đây sẽ là một cuộc chiến dai dẳng.

Cuộc tấn công của Pháp và tin đàm phán giữa Bollaert và Bảo Đại báo hiệu cho các lãnh tụ ĐCSĐD rằng

việc theo đuổi thương thuyết của họ đã đi vào ngõ cụt. Một chiều hướng chính trị xấu nữa đối với ĐCSĐD

là phe de Gaulle đang mạnh lên, dẫn tới thất bại của những người cộng sản Pháp trong cuộc bầu cử ở

Pháp vào cuối tháng Mười 1947.178 Niềm hy vọng mà các lãnh tụ ĐCSĐD đặt vào Đảng Cộng sản Pháp

vẫn còn, nhưng giờ đây đã có ít lý do để thương thuyết hơn.179 Quan trọng hơn cả, tính chính danh của

chế độ Hồ Chí Minh bị đe dọa khi những phe nhóm quốc gia chống cộng đã tập hợp lại và bắt đầu cạnh

tranh có hiệu quả với chính phủ Việt Minh trong việc giành hậu thuẫn của quốc tế và ủng hộ của dân

chúng. Ngày 2 tháng Chạp năm 1947, một bước đột phá quan trọng đã diễn ra với cuộc gặp gỡ giữa Bảo

Đại và Bollaert tại Vịnh Hạ Long. Trước đó, Bảo Đại đã gạt bỏ các đề nghị của Pháp về độc lập hạn chế

cho Việt Nam trong Liên hiệp Pháp; thế nhưng giờ đây ông ta lại đồng ý gặp Bollaert. Tháng Năm 1948,

lần đầu tiên kể từ năm 1945, ở Đông Dương tồn tại hai chính phủ: một do Hồ Chí Minh lãnh đạo trong

về chính trị của Pháp trong mối liên hệ với chính sách Đông Dương là Martin Thomas, "French imperial reconstruction

and the development of the Indochina War, 1945-1950", trong Mark Lawrence và Fredrik Logevall, bs. The First

Vietnam War: Colonial Conflict and Cold War Crisis (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2007).

175 Tân Trào (Trường Chinh), "Việc mở rộng chính phủ". Sự thật, 19 tháng Tám 1947. Trong bài báo này, Trường

Chinh gợi ý rằng động thái chỉ mang tính tượng trưng và cảnh báo độc giả đừng có ảo tưởng về việc thương thuyết.

Trong một tài liệu nội bộ, Đảng nói với các đảng viên là họ sẽ phải "chiến đấu mạnh mẽ hơn" nếu muốn đưa người

Pháp trở lại bàn thương lượng. Xem "Thông cáo của T.Ư. về việc thay đổi một số nhân viên chính phủ", 27 tháng

Bảy năm 1947, ký tên Lê Đức Thọ.

176 Về các phản ứng của VNDCCH, xem "Bô-la nói gì? Ta phải làm gì? Chỉ thị của T.Ư.", 15 tháng Chín 1947. ĐCSVN,

t. 8, tr. 289-303.

177 Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1955, tr. 209-22.

178 Thomas, "French imperial reconstruction," tr. 142-6.

179 ĐCSĐD hy vọng rằng Đảng Cộng sản Pháp sẽ lãnh đạo một cuộc nội chiến ở Pháp. Trung ương Đảng tiên đoán

trong trường hợp đó, tướng Franco của Tây Ban Nha có thể sẽ đem quân can thiệp vào Pháp nhằm hỗ trợ phe bảo

thủ trong khi Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Do đó họ tính đến một "phong trào cách mạng" mới ở châu Âu và việc

cách mạng Trung Quốc và Việt Nam hợp lại để chống liên minh giữa Mỹ và nước Pháp bảo thủ tại châu Á. Xem

"Thông cáo của Thường vụ T.Ư.", 2 tháng Chạp 1947, ký tên Phương (Trường Chinh). ĐCSVN, t. 8, tr. 337-9.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 68 [email protected]

vùng rừng núi miền Bắc Việt Nam, và một do tướng Nguyễn Văn Xuân lãnh đạo đặt dưới sự bảo hộ của

Pháp tại Sài Gòn.180

Trong khi sự ủng hộ của Pháp dành cho Bảo Đại và các nhóm quốc gia chống cộng trở thành một mối lo

ngại lớn đối với ĐCSĐD, những chuyển biến trong khối Xô viết vào cuối năm 1947 lại mang đến nhiều cơ

hội. Tại Warsaw (Ba Lan) vào tháng Chín 1947, Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Lao động được

lập ra với sự tham gia của chín đảng cộng sản châu Âu. Người phụ trách công tác tư tưởng của Đảng

Cộng sản Liên Xô, Andre Zhdanov, đã phát biểu trong cuộc họp, tố cáo Tổng thống Mỹ Truman đang

mưu đồ thống trị thế giới. Zhdanov trình bày về sự hình thành của hai khối chính trị-quân sự đối nghịch

do Mỹ và Liên Xô đứng đầu và cho rằng phe đế quốc sẽ phải thất bại. Zhdanov cũng nhắc tới Indonesia

và Đông Dương như là các thành viên của "mặt trận phản đế và chống phát xít". Ông ta kêu gọi tất cả

các đảng cộng sản hãy nắm lấy quyền lãnh đạo phong trào phản đế tại đất nước mình.

Một tiến triển khác theo thời gian ngày càng có thêm tầm quan trọng là việc thành lập một căn cứ du

kích cộng sản tại miền Nam Trung Quốc đi kèm với chiến thắng của các lực lượng ĐCSTQ tại Mãn Châu.

Ngày 20 tháng Chạp năm 1947, Mao Trạch Đông đọc một báo cáo quan trọng tại Hội nghị toàn thể

Trung ương của ĐCSTQ, thông báo một giai đoạn mới trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc trong đó

Hồng quân Trung Quốc bắt đầu chuyển sang thế tấn công. Trong bài diễn văn của mình, Mao kiểm điểm

tình hình quân sự kể từ khi chiến tranh bắt đầu, trình bày chiến lược của Hồng Quân nhằm chiến đấu

chống lại kẻ thù ban đầu mạnh hơn, và ghi nhận các thành công của chính sách đất đai do ĐCSTQ tiến

hành. Hai tháng trước đó, một cuộc họp của ĐCSTQ về vấn đề ruộng đất đã thông qua đạo luật mới về

ruộng đất, trong đó lần đầu tiên kể từ khi nội chiến nổ ra, chính sách cải cách ruộng đất được ĐCSTQ

quyết tâm đẩy mạnh. Nhờ có những mối quan hệ rất tốt ở nước ngoài, các báo cáo của Zhdanov và Mao

đều nhanh chóng tới tay ĐCSĐD.181

Như các phần dưới đây sẽ chỉ ra, tình hình khối Xô viết có tác động rất đáng kể lên ĐCSĐD. Ý tưởng về

hai phe đối đầu về ý thức hệ không mới mẻ gì với Đảng và họ đã ủng hộ những người cộng sản Trung

Hoa từ những năm 1930.182 Diễn văn của Zhdanov lần đầu tiên cho thấy chính sách của Xô viết đối với

VNDCCH có thể được đảo ngược; cho đến lúc đó, Stalin vẫn lờ đi mọi kêu gọi của Hồ Chí Minh xin được

công nhận về mặt ngoại giao và viện trợ. Việc thành lập Cục Thông tin các Đảng Cộng sản biểu thị một

khối cộng sản thống nhất hơn và một Liên Xô kiên quyết hơn trong việc đối đầu với phe đế quốc. Những

chiến thắng của ĐCSTQ tại Mãn Châu và căn cứ mới của nó tại miền Nam Trung Quốc mở ra khả năng

liên kết giữa các lực lượng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Hơn thế nữa, Mao rao giảng rằng một

chiến lược quân sự thành công không đòi hỏi phải xoa dịu giai cấp địa chủ, một chính sách mà ĐCSĐD

đã theo đuổi cho đến khi đó. Ngược lại, Mao lập luận một cách mạnh mẽ rằng phóng tay phát động quần

chúng mới là tiền đề cho thắng lợi.

Như vậy là cuộc chiến tranh chống Pháp, các sự kiện tại Trung Quốc, và sự khởi đầu của Chiến tranh

Lạnh ở châu Âu đã cùng nhau tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuyển sang chính sách đối nội khuynh

tả tại Việt Nam. Ngay khi chính phủ Hồ Chí Minh vừa từ bỏ hy vọng về một giải pháp hoà bình nhanh

chóng thông qua thương lượng và chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu lâu dài, những cơ hội tốt đã xuất

hiện cho phép vừa "tả hoá" nền chính trị đối nội, vừa mở rộng phạm vi cuộc chiến. Quả là, như chúng tôi

từng chỉ ra, các lãnh tụ ĐCSĐD không phải là những con cừu theo chủ nghĩa quốc gia bị tình thế bắt

buộc phải hoá thân thành những con sói cộng sản.183 Ngược lại, chính hoàn cảnh trong năm 1945 đã

180 Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1955, tr. 221-3.

181 Báo cáo của Zhdanov được dịch và đăng trên nhiều số báo Sự thật, bắt đầu từ 19 tháng Năm 1948, trong khi

báo cáo của Mao và chính sách ruộng đất của ĐCSTQ cũng được dịch và đăng nhiều kỳ trên Sự thật bắt đầu từ 15

tháng Tư 1948.

182 Xem Tuong Vu, "From Cheering to Volunteering"; và Vu, "Dreams of Paradise: The Making of a Soviet Outpost in

Vietnam", Ab Imperio: Studies of New Imperial History and Nationalism in the Post-Soviet Space, tháng Tám năm

2008.

183 nt

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 69 [email protected]

buộc họ phải đội lên mình bộ lông quốc gia chủ nghĩa ôn hoà; với các tiến triển của năm 1947, họ sẵn

sàng vứt bộ lông hoá trang ấy đi. Phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét tình hình chính trị vào năm 1948

bên trong khối liên hiệp dân tộc đã từng tạo dựng lên chính phủ Việt Minh. Nhìn vào tình hình này, hoàn

toàn có thể cho rằng một cuộc nội chiến Việt Nam hẳn đã có thể xảy ra ngay cả khi không có những sự

kiện quốc tế kể trên.

Lủng củng bên trong chính phủ liên hiệp Việt Minh, 1945-1947

Cho đến lúc này, tôi đã chỉ ra việc ĐCSĐD nắm được chính quyền nhờ vào thỏa hiệp và thu nạp như thế

nào; nhưng đổi lại, Đảng Cộng sản cũng phải nhân nhượng nhiều trong các mục tiêu cách mạng xã hội.

Quan trọng hơn nữa là việc ĐCSĐD phải chia sẻ quyền lực chính quyền với những nhân sĩ trí thức không

cộng sản. Những người này không tán thành đường lối cách mạng xã hội bằng bạo lực của người cộng

sản. Chính quyền Hồ Chí Minh cũng buộc phải lưu dụng các viên chức ngạch hành chính thuộc địa,

những người nói chung có quan điểm bảo thủ. Hoàn cảnh ép buộc chính quyền này phải chấp nhận các

chính quyền địa phương được tự phát thành lập. ĐCSĐD cũng buộc phải mở cửa cho các giai cấp trên gia

nhập Đảng. Đó là những cái giá phải trả để có thể lên nắm quyền và sống sót trong giai đoạn 1945-

1946. Chiến thuật cộng sản sử dụng "bạn đồng hành" [fellow travellers] trong từng giai đoạn khi cần

thiết và bỏ rơi họ khi không còn cần nữa có vẻ rất dễ dàng trên lý thuyết,184 nhưng dưới đây chúng ta sẽ

thấy rằng ở trường hợp Việt Minh, thực tế phức tạp hơn lý thuyết một chút. Việc thỏa hiệp và thu nạp

gây ra nhiều khó khăn cho chính phủ Việt Minh, và vào năm 1948 những khó khăn ấy trở nên gay gắt

trên ba lĩnh vực có liên quan với nhau: chính sách ruộng đất, các xung đột trong hàng ngũ lãnh đạo, và

việc kiện toàn các tổ chức nhà nước và đảng.

Khi mặt trận Việt Minh được lập ra vào năm 1941, các lãnh tụ ĐCSĐD đã quyết định tạm gác vấn đề

phân chia ruộng đất nhằm củng cố khối liên hiệp dân tộc. Cùng lúc, họ cũng tin rằng đặt mục tiêu giải

phóng đất nước lên trước không nhất thiết gây trở ngại cho cách mạng xã hội; các điều kiện quốc tế có

lợi có thể cho phép cả hai được tiến hành cùng một lúc.185 Theo lập luận của họ, sẽ không có trở ngại bởi

vì (1) nếu Đảng, đội tiên phong của những người vô sản, nắm được quyền lãnh đạo cuộc cách mạng giải

phóng dân tộc, Đảng sẽ dễ dàng lái cuộc cách mạng đó theo hướng phục vụ cho mục tiêu cách mạng xã

hội; (2) trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng kiểm soát chính phủ và có thể sử dụng nó như

một công cụ để tiến hành cách mạng xã hội; (3) khi cách mạng Đông Dương thắng lợi, "thế giới sẽ giống

như một nồi nước sôi sục". Tình hình ấy có thể sẽ cho phép cách mạng Đông Dương nhảy vọt, chuyển

sang cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Suy nghĩ này được thể hiện trong chính sách ruộng đất khi ĐCSĐD lập ra nhà nước Việt Minh vào cuối

năm 1945. Mặc dù những người cộng sản không kêu gọi chia lại ruộng đất, họ vẫn ban hành các đạo luật

buộc địa chủ phải giảm tô 25%, tái cấu trúc nợ nần, và xoá bỏ một số loại tô.186 Những đạo luật này gợi

ý rằng, trong khi ĐCSĐD bị buộc phải thu nạp địa chủ vào mặt trận Việt Minh toàn quốc, thì nó không từ

bỏ mục tiêu cách mạng xã hội của mình, mà chỉ chờ thời điểm tốt hơn.187 Đáng buồn là những đạo luật

với mục tiêu khá khiêm tốn này cũng không được thực hiện.

Chính sách giảm tô bị phản đối và cưỡng lại ngay khi được ban hành. Ngay từ tháng Chín năm 1946,

Tổng bí thư ĐCSĐD Trường Chinh công khai phê bình những người cổ vũ việc tách rời hai cuộc cách

mạng.

184 Theo lý thuyết của Lenin, "bạn đồng hành" là những người nhất trí với các mục tiêu ngắn hạn của Đảng Cộng sản

nhưng không lựa chọn việc đứng dưới lá cờ của nó. Họ được khuyến khích gia nhập các tổ chức quần chúng trong

một mặt trận đoàn kết. Xem Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism, tr. 138-9.

185 "Trung ương Hội nghị lần thứ Tám", tháng Năm 1941. ĐCSVN, t. 7, tr. 120-1. Xem phân tích của chúng tôi về tài

liệu này trong Vu, "From Cheering to Volunteering."

186 Bộ Canh nông, giảm tô giảm tức, thể lệ lĩnh canh (Việt Bắc, kh. 1950), tr. 7-12.

187 "Cách mạng tháng Tám: Triển vọng của Cách mạng Việt Nam", Sự thật, 7 tháng Chín năm 1946.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 70 [email protected]

Đến đây một quan điểm sai lầm về bước tiến triển của cách mạng Việt Nam cần phải đánh đổ.

Có người cho rằng cách mạng Việt Nam cần phải đi từng bước một: cách mạng giải phóng dân

tộc (phản đế) hoàn thành, rồi mới đến cách mạng dân chủ hoặc cách mạng ruộng đất (phản

phong kiến); cách mạng dân chủ hoặc cách mạng ruộng đất hoàn thành, rồi mới đến cách mạng

xã hội chủ nghĩa. Thuyết "tuần tự nhi tiến" đó là sai. Bên trong, quyền lãnh đạo cách mạng ngày

càng vững chắc trong tay giai cấp vô sản cầm quyền; các lực lượng dân chủ, tiến bộ đúc thành

một khối không thể lay chuyển; bên ngoài, Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa, thắng lợi và phong

trào dân chủ nhân dân phát triển bồng bột. Trong điều kiện lịch sử ấy, cách mạng Việt Nam có

thể vừa hoàn thành nhiệm vụ phản đế, vừa giải quyết một phần nhiệm vụ phản phong.188 (in

nghiêng trong nguyên bản).

Các chỉ trích của Trường Chinh phản ánh một sự chia rẽ nhất định về tư tưởng bên trong ĐCSĐD dù cho

chúng ta không biết ai là người trong hàng ngũ lãnh đạo đảng bị chỉ trích. Bất chấp lời kêu gọi đầy nhiệt

tình của Trường Chinh, mọi việc thay đổi rất ít vì các lý do liên quan đến thỏa hiệp hồi năm 1945 như tôi

sẽ giải thích dưới đây. Trong một bản kiểm điểm toàn diện các chính sách nông thôn của Đảng vào năm

1950, Trường Chinh cho rằng chương trình giảm tô từ 1945 vẫn chưa được hoàn thành ngay tại những

vùng nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của Việt Minh. Việc chuyển giao đất tịch thu từ người Pháp sang

cho nông dân hoặc bị lơ là hoặc được tiến hành quá chậm chạp.189 Trong những trường hợp tệ hại nhất,

tá điền đã gửi hàng trăm lá thư tới chính quyền tỉnh và trung ương để than phiền về nhiều cán bộ không

công bằng hoặc hống hách. Công điền ở các làng xã không được phân chia theo luật định. Trong chiến

dịch trưng mua gạo cho chính phủ, người giàu thường tìm được cách tránh không phải bán, trong khi đó

người nghèo phải đi vay gạo với lãi suất cao nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ với chính phủ. Những nơi

các đạo luật giảm tô được áp dụng, chúng gây ra căng thẳng rất lớn nhưng lại không mấy hiệu quả trong

việc giúp đỡ tá điền.190

Trong khi chính sách ruộng đất không mấy tiến triển, thì xung đột nổ ra ngày càng gay gắt giữa những

người cộng sản và những người không cộng sản ở nhiều cấp độ trong chính phủ vào năm 1948.191 Giờ

đây Đảng không còn kiểm soát các đô thị và cũng đã đào tạo được đủ số lượng cán bộ đảng viên để điều

hành chính quyền. Do đó, trí thức thành thị và chuyên gia do Pháp đào tạo không còn cần thiết cho Đảng

như hồi cuối năm 1945. Xung đột giữa những người cộng sản và những người không cộng sản xảy ra

trong bối cảnh ấy. Những người không cộng sản khó chịu khi những người cộng sản, thường là có học

vấn thấp hơn, đòi quyền kiểm soát một cách thô bạo các lĩnh vực chuyên môn trải từ các chính sách luật

pháp, kinh tế cho tới văn học. Đối với chính sách nông thôn, những người không cộng sản trong chính

phủ Việt Minh ủng hộ cải cách ruộng đất nhưng lại có cảm tình với phú và trung nông.192 Vì vẫn giữ được

quyền nắm năm bộ của nhà nước, Tư pháp, Giáo dục, Công thương, Canh nông và Thuỷ lợi, quan điểm

của họ đã được chuyển hoá thành các chính sách ôn hoà. Trong số này, Tư pháp là bộ quan trọng nhất

bởi vì nó là một phần của cơ cấu cưỡng chế của nhà nước. Đó cũng là nơi các xung đột gay gắt nhất đã

diễn ra. Khi nhà nước Việt Minh được thành lập, các Bộ trưởng Tư pháp không cộng sản193 đã bổ nhiệm

các luật gia do Pháp đào tạo làm thẩm phán trong bộ máy tư pháp của chính quyền trung ương và các

188 nt

189 "Chính sách của Đảng ở nông thôn (Việt Nam)", báo cáo của Trường Chinh tại cuộc họp của Ủy ban Kinh tế

Trung ương, 5-7/7/1950. ĐCSVN, t. 11, tr. 608-12. Tài liệu này không nêu lên việc tịch thu đất từ "Việt gian". Không

giống như chính sách đối với ruộng đất do Pháp sở hữu, chính sách liên quan đến đất của "Việt gian" cho tới khi đó

chỉ được quyết định đối với từng trường hợp cụ thể.

190 Về một trường hợp của sự căng thẳng này, xem Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 120-1. Báo

của Đảng cũng nhận xét rằng chính sách giảm tô được thi hành trọn vẹn ở miền Nam, chậm chạp ở miền Trung, và

bị coi nhẹ ở miền Bắc cho tới năm 1948. Chí Thanh, Sự thật, 30 tháng Mười năm 1950.

191 Cũng xem Dương Đức Hiền, "Đảng Dân chủ Việt Nam trong hàng ngũ Mặt trận", Độc lập, 20 tháng Hai năm 1951

và Hoàng Văn Đức, "Hiện trạng đời sống viên chức, trí thức", Độc lập, 15 tháng Mười năm 1951.

192 Chẳng hạn, Đỗ Đức Dục, một thành viên của nhóm Thanh Nghị và một lãnh tụ của ĐDC, kêu gọi bảo vệ trung

nông trong cải cách ruộng đất. Độc lập, 15 tháng Ba năm 1953.

193 Đó là các luật gia do Pháp đào tạo Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình Hoè.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 71 [email protected]

cấp thấp hơn.194 Những nơi chính sách giảm tô được áp dụng, những thẩm phán này thường xuyên, dựa

trên đánh giá của chính họ và nhân danh luật pháp cũng như độc lập tư pháp, đứng về phía địa chủ

chống lại cả tá điền lẫn chính quyền địa phương. Đôi khi các thẩm phán này ra lệnh thả những người bị

công an địa phương bắt bất hợp pháp. Họ cũng không ngần ngại trong việc ra lệnh bắt giữ và xử án

nhiều quan chức địa phương tham nhũng nhưng lại là Đảng viên.195

Sự căng thẳng giữa các lãnh tụ cộng sản và không cộng sản trở nên sâu sắc một phần do việc chính phủ

Việt Minh lưu dụng hệ thống hành chính thuộc địa. Không giống như ở Trung Quốc, nơi ĐCSTQ loại bỏ

phần lớn quan chức hành chính của chính quyền Tưởng Giới Thạch ngay trong năm đầu tiên, nhà nước

Việt Nam vẫn lưu dụng các viên chức thuộc địa trong nhiều năm. Ngay từ đầu đã có những lời than phiền

về nhiều "phần tử phản cách mạng" trong số các giáo viên còn lại từ chế độ thuộc địa. Các tài liệu của

Đảng ghi nhận rằng các cựu viên chức thuộc địa không mấy hào hứng, thậm chí còn cố ý phá hoại các

chính sách của chính phủ. Như chúng ta có thể tiên đoán, cuộc hôn phối của một đảng cách mạng với

một nền hành chính thuộc địa không thể êm thấm được. Như Trường Chinh viết vào năm 1946, phần lớn

cán bộ chính trị "trung thành, hăng hái, hiểu chính trị và tháo vát, nhưng phần nhiều thất học, trình độ

văn hoá thấp", và nhiều phần không biết chữ.196 Ngược lại, các chuyên gia, nhà quản lý và trí thức được

đào tạo thời Pháp "tuy có trình độ văn hoá, nhưng lại ít hiểu về chính trị." Xung đột trở nên căng thẳng

vào năm 1948: cán bộ chính trị coi thường và không tin tưởng giới chuyên môn; đến lượt mình, những

người kia lại lập luận rằng vì Việt Nam đã giành được độc lập, đã đến lúc các cán bộ chính trị cần được

thay thế bằng những chuyên gia có học, những người có các kỹ năng cần thiết để quản lý nhà nước. Các

lãnh tụ ĐCSĐD đã biết tới cuộc xung đột trên giữa những quan chức hành pháp và tư pháp trong chính

phủ từ giữa năm 1946.197 Năm 1950, Trường Chinh than phiền về các viên chức của Bộ Canh nông cùng

các ty địa phương vì không thi hành chính sách của đảng đến nơi đến chốn. Theo ông, các quan chức

này là sản phẩm của nền hành chính thuộc địa chứ không xuất thân từ giai cấp nông dân, do đó có hiểu

biết kém về tình hình nông thôn và không quan tâm đến lợi ích của người nông dân.198

Ngoài chính sách ruộng đất và xung đột nội bộ, tổ chức của ĐCSĐD cũng có vấn đề. Một khó khăn các

lãnh tụ ĐCSĐD gặp phải từ năm 1945 là làm thế nào giữ được tính chọn lọc trong việc kết nạp đảng viên

mới trong khi phải thỏa hiệp và thu nạp tầng lớp trên vào phong trào giải phóng dân tộc. ĐCSĐD phát

triển rất nhanh từ 1945 đến 1950. Từ chưa tới 5.000 đảng viên vào cuối năm 1945, Đảng đã có hơn

760.000 vào năm 1950, nghĩa là phát triển hơn một trăm lần.199 Rõ ràng Đảng đã quan tâm đến thu nạp

hơn là chọn lọc: theo một ước tính của Đảng vào năm 1952, hơn 65% đảng viên xuất thân từ giai cấp

tiểu tư sản.200 Nếu so sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của con số này. Với

đa số đảng viên xuất thân từ bần cố nông, nhà nước của Mao bén rễ vào giới nông dân vững chắc hơn

nhiều và nội bộ ĐCSTQ dễ nhất trí việc áp dụng các chương trình kinh tế-xã hội cực đoan như cải cách

ruộng đất bằng bạo lực. Với một đảng được cấu thành chủ yếu từ trung nông và các giai cấp xã hội cao

hơn, giấc mơ cách mạng xã hội xây dựng trên đấu tranh giai cấp của các lãnh tụ ĐCSĐD khó mà thoát

khỏi chống đối nội bộ. Chính sách giảm tô nói đến ở trên bị lơ một phần vì nó bị cản trở bởi các viên

chức không cộng sản và các thẩm phán địa phương. Nhưng phần khác, sự lơ là này cũng có nguồn gốc

từ chính bên trong hàng ngũ của Đảng.

Tóm lại, thỏa hiệp và thu nạp đã gây ra nhiều vấn đề cho các lãnh tụ ĐCSĐD nôn nóng thực hiện một

chương trình cách mạng cộng sản. Những vấn đề này bao gồm những cản trở trong việc thực hiện chính

194 Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 53-6.

195 Sđd., tr. 159-65; 196-7.

196 "Cách mạng tháng Tám: Nhiệm vụ cần kíp của dân tộc Việt Nam", Sự thật, 4 tháng Mười năm 1946.

197 "Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Trung ương", 31/7-1/8/1946. ĐCSVN t. 8, tr. 103.

198 Trường Chinh, "Chính sách của Đảng ở nông thôn (Việt Nam)," tr. 612-3. Trong bài diễn văn của mình tại cùng

hội nghị, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng tiếc rằng ĐCSĐD đã lưu dụng các viên chức thuộc địa mặc dù ông không

nói chi tiết về vấn đề. Xem Phạm Văn Đồng, "Phải kiện toàn chính quyền cộng hoà nhân dân", tr. 185.

199 Xem "Nhân dân dân chủ chuyên chính ở Việt Nam", một báo cáo tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba (có lẽ vào

tháng Tư năm 1952). ĐCSVN, t. 14, tr. 95-6.

200 Xem "Vấn đề chỉnh Đảng", báo cáo của Lê Văn Lương tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba. ĐCSVN, t. 14, tr. 102.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 72 [email protected]

sách giảm tô, sự "nhiễm độc" trong Đảng bởi các phần tử tư sản, và xung đột với những nhân sĩ không

cộng sản trong chính phủ liên hiệp và với các viên chức lưu dụng. Những vấn đề này đã xuất hiện vào

năm 1946 nhưng trở nên gay gắt hơn vào năm 1948. Như chúng tôi sẽ trình bày ở phần tiếp theo, những

vấn đề này gây lo lắng cho các lãnh tụ ĐCSĐD khi họ quyết định đưa cuộc cách mạng của mình theo con

đường đấu tranh giai cấp vào năm 1948.

Bước ngoặt dẫn đến đấu tranh giai cấp và nội chiến vào năm 1948

Chính sách của ĐCSĐD được điều chỉnh dần vào năm 1948 khi Đảng ứng phó với những hoàn cảnh mới.

Những thay đổi chính sách được tiến hành thông qua hai hội nghị Trung ương vào tháng Giêng và tháng

Tám năm 1948. Các thay đổi này bao gồm một chính sách ruộng đất mạnh tay hơn và một Đảng mang

tính vô sản nhiều hơn. Sau hội nghị tháng Giêng, xuất hiện cuộc tranh luận công khai gay gắt giữa các

lãnh tụ không cộng sản và cộng sản của chính phủ về tư pháp độc lập và vai trò của những người không

cộng sản trong cách mạng. Cuộc tranh luận này còn kéo dài cho mãi tới năm 1950, nhưng vào cuối năm

1948 chúng ta đã có thể thấy sự rạn nứt sâu sắc và không thể hàn gắn giữa hai nhóm lãnh đạo trong

chính phủ liên hiệp. Những người không cộng sản sẽ không bị hoàn toàn vô hiệu hoá cho tới khoảng năm

1950, nhưng nhiều người trong số họ đã bắt đầu "dinh tê" vào năm 1949, chủ yếu do bất mãn với những

người cộng sản. Dù cho các sự kiện tại Việt Nam không dẫn ngay đến nội chiến như ở Mã Lai, Miến Điện

và Indonesia, thì năm 1948 ở Việt Nam vẫn là bước ngoặt quan trọng trên một đường hướng không thể

đảo ngược.

Đầu tiên chúng ta hãy xem xét chính sách ruộng đất. Vào các ngày 15-17 tháng Giêng năm 1948,

ĐCSĐD tổ chức hội nghị Trung ương để định ra chính sách cho tình hình mới. Nghị quyết của hội nghị

này cho thấy sự phấn khích của những người cộng sản Việt Nam trước các tiến triển mới trên thế giới và

thông báo những thay đổi quan yếu trong chính sách ruộng đất cùng với nhiều chính sách khác. Phần

nhận định tình hình quốc tế trong nghị quyết ghi nhận sự thành lập của Cục Thông tin của các Đảng

Cộng sản và Lao động, đồng thời nhấn mạnh các điểm quan trọng trong bài diễn văn của Zhdanov. Nghị

quyết bắt đầu với câu, "Các lực lượng phản dân chủ và dân chủ, đế quốc và chống đế quốc trên thế giới

đã dần dần sắp thành hai phe rõ rệt 'Phe đế quốc phản dân chủ' và 'Phe dân chủ chống đế quốc'"; đây

cũng là một câu quan trọng trong bài nói chuyện của Zhdanov.201 Nghị quyết nhận định rằng "cuộc đại

phản công của Quân Giải phóng Trung Hoa đang đẩy mạnh phong trào nông dân khởi nghĩa [tại các

vùng dưới sự kiểm soát của QDĐTQ] và cách mạng ruộng đất [tại các vùng của ĐCSTQ] ở Trung Hoa.

Quân Giải phóng Trung Hoa đã lập được căn cứ sát biên giới Bắc Bộ".202 Ngoài việc nhấn mạnh rằng cuộc

vận động giảm tô phải được tiến hành mạnh mẽ hơn, lần đầu tiên Đảng ra lệnh tịch thu đất và tài sản

của "Việt gian", hoặc để chia lại cho nông dân nghèo, hoặc để bộ đội canh tác nhằm tự cung tự cấp.203

Đảng cũng ra lệnh tổ chức Hội nghị cán bộ nông vận ở cấp khu và tỉnh nhằm đẩy nhanh việc vận động

nông dân.204 Các điều tra nông thôn trước đây đã có chỉ thị nhưng không được tiến hành; giờ đây, việc

này được ưu tiên, một phần bởi vì Đảng cần biết "Việt gian" có bao nhiêu đất đai và tài sản để tịch thu.

Hội nghị cũng quyết định một số chính sách nhằm kiện toàn tổ chức của ĐCSĐD. Đảng đã phát triển

nhanh chóng kể từ năm 1945: trong quý bốn của năm 1947, chỉ riêng số lượng đảng viên tại các tỉnh

phía Bắc đã lên đến hơn 10.000.205 Các lãnh tụ của đảng không thực sự hài lòng với những con số này, vì

công nhân vẫn mới chỉ chiếm 7% và phụ nữ 6,5% trong tổng số đảng viên, trong khi đa số đảng viên

xuất thân từ trung nông và tiểu tư sản. Đảng quyết định triệu tập Đại hội vào tháng Tám năm 1948 bởi:

201 "Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng", 15-17/1/1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 16.

202 nt, tr. 17.

203 nt, tr. 31. Cũng xem mệnh lệnh sau đó nhằm tiến hành chính sách: "Chỉ thị gửi các khu uỷ về việc tịch thu ruộng

đất, tài sản của bọn Việt gian phản quốc", 18 tháng Hai năm 1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 60-1. Đảng chưa đả động đến

địa chủ lúc này.

204 "Chỉ thị về vấn đề vận động nông dân", 19 tháng Năm 1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 140-1.

205 nt, tr. 45.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 73 [email protected]

Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi hơn hai năm rồi. Cuộc kháng chiến toàn quốc cũng đã

hơn một năm. Tình hình thế giới lại bước vào một thời mới, với sự khủng hoảng kinh tế và chính

trị đương lan rộng trong các nước tư bản. Những biến cố mới ấy đẻ ra những nhiệm vụ nặng nề.

Hội [Đảng] phải duyệt lại chương trình, đường lối về cuộc vận động cách mạng trong nước. Hơn

nữa, việc chung đúc kinh nghiệm và thống nhất tư tưởng, hành động toàn Hội là vấn đề cấp

bách.206

Ngoài một Đại hội (rồi sẽ bị hoãn nhiều lần cho mãi tới tháng Ba năm 1951), Trung ương ĐCSĐD khởi

động một chiến dịch tăng số lượng đảng viên với tham vọng phát triển số Đảng viên ở mỗi khu lên 30%

trong năm tháng tiếp theo.207 Xuất phát từ mối quan ngại của Đảng về việc đảng viên gồm quá nhiều

người thuộc các giai cấp trên, nghị quyết này ra chỉ thị rằng việc kết nạp phải chọn lọc hơn: đối tượng

chính là bộ đội và du kích, công nhân, và dân chúng ở các vùng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp và các

vùng dân tộc thiểu số. Ngoài mục tiêu trên, phát triển Đảng phải đi kèm với việc kiện toàn thông qua

tăng cường đào tạo và các hoạt động có kế hoạch. Mục đích là có được 20% chi bộ trong toàn Đảng

"được kiện toàn" trong vòng năm tháng.208

Một phần nhờ chiến dịch kết nạp đảng viên này mà Đông Dương gần đạt tiêu chuẩn thế giới vào đầu

năm 1949 về tỉ lệ đảng viên cộng sản trên tổng số dân chúng. Như Hồ Chí Minh đã tự hào tuyên bố

trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ 6 vào tháng Giêng năm 1949, trong khi

có 20 triệu người cộng sản trên tổng số hai tỉ người (1 trên 100) trên toàn thế giới, thì tại Đông Dương, tỉ

lệ này là 1 trên 112.209 Số lượng đảng viên đã tăng 300% trong chín tháng đầu năm 1948 và 450% trong

toàn năm 1948.210 Từ chỗ chỉ có 20.000 đảng viên vào cuối năm 1946, một năm sau đó Đảng đã có

50.000 thành viên, và khoảng 180.000 vào cuối năm 1948.211

Cả chính sách ruộng đất và việc kiện toàn tổ chức đảng đều chỉ ra những bước đi cực đoan hơn trên con

đường đấu tranh giai cấp theo hướng bạo lực sẽ bắt đầu thực sự vào năm 1953. Tuy nhiên, những thay

đổi chính sách này có ít ý nghĩa tượng trưng [symbolic significance] hơn cuộc tranh luận giữa những

người cộng sản và những người không cộng sản trong chính phủ Việt Minh về độc lập tư pháp và thực thi

pháp luật tại địa phương. Bắt đầu vào năm 1948 và kéo dài cho tới đầu năm 1950, cuộc tranh luận công

khai này bề ngoài có vẻ ôn hoà nhưng không có nghĩa là không quan trọng.212 Những bộ trưởng không

cộng sản nắm quyền kiểm soát các lãnh vực chính sách xã hội, kinh tế, văn hoá và tư pháp. Các trí thức

thành thị cũng đóng những vai trò nổi bật trong các cấp và các cơ quan của chính phủ; họ có nhiều hậu

thuẫn trong giới viên chức thuộc địa và thậm chí trong hàng ngũ Đảng viên ĐCSĐD. Hiếm có khi nào mà

cuộc xung đột gay gắt giữa những người cộng sản và những người không cộng sản ở cấp cao nhất trong

nhà nước Việt Minh được thể hiện công khai như trong dịp này. Cuộc tranh luận chỉ liên quan tới một số

ít người, nhưng trên thực tế nó được cả giới lãnh tụ cao nhất, giới quan chức địa phương lẫn những

người trong lĩnh vực thi hành pháp luật theo dõi sát sao.

206 nt, tr. 44. Cũng xem một quyết định chi tiết hơn "Quyết nghị của Ban Thường vụ Trung ương", 1 tháng Tư năm

1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 85-8.

207 "Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương", ký tên Lê Đức Thọ, 1 tháng Sáu năm 1948. ĐCSVN t. 9, tr. 149. Có

nhiều lý do Đại hội bị hoãn, nhưng có vẻ hai lý do quan trọng hơn cả là khó khăn của các đại biểu của cơ sở Đảng tại

miền Trung và miền Nam Việt Nam để tới được căn cứ Việt Bắc vào những năm 1948-1950, và việc chiến tranh Triều

Tiên bùng nổ vào tháng Sáu năm 1950.

208 Văn kiện này không nói tới việc thanh trừng đảng viên vì thành phần giai cấp. Việc này chỉ bắt đầu được tiến

hành từ khoảng 1953.

209 "Bài nói chuyện trong buổi bế mạc Hội nghị", Hội nghị Cán bộ Trung ương, 14-18/1/1949. ĐCSVN, t. 10, tr. 166-

7.

210 "Báo cáo về tình hình Đảng năm 1948", Hội nghị Cán bộ Trung ương, 14-18/1/1949. ĐCSVN, t. 10, tr. 120-50.

Con số 450% cho năm 1948 được lấy từ "Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, tích cực chuyển sang tổng phản công", báo

cáo của Trường Chinh tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, 21/1-3/2/1950. ĐCSVN, t. 11, tr. 92.

211 Tuy nhiên sự tăng trưởng không đồng đều: chỉ riêng Khu 3 (các tỉnh ở thượng nguồn sông Hồng) đã có 70.000

đảng viên. Miền Nam Việt Nam có tổng cộng khoảng 30.000 đảng viên vào cuối năm 1948.

212 Cuộc tranh luận diễn ra trên Sự thật, tờ báo của ĐCSĐD, và Độc lập một tờ báo tuần của ĐDC.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 74 [email protected]

Bên phía cộng sản, người đứng ra tranh luận là Quang Đạm, một người được Trường Chinh đỡ đầu, biên

tập viên của Sự thật và dịch giả nhiều tác phẩm của Mao sang tiếng Việt.213 Cách viết của Quang Đạm

đầy thẩm quyền như thể ông ta là một người phát ngôn không chính thức cho Đảng. Về phần mình,

những người không cộng sản giao cho Vũ Trọng Khánh, một luật gia do Pháp đào tạo và là chưởng lý

Khu 10, làm đại diện chính. Vũ Trọng Khánh từng là Thị trưởng Hải Phòng dưới chính phủ Trần Trọng

Kim và là Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên trong chính phủ Việt Minh vào cuối 1945. Đứng về cùng phía với

Vũ Trọng Khánh là Vũ Đình Hòe, thư ký của Tân Việt Nam Hội, được lập ra để hỗ trợ chính phủ Trần

Trọng Kim từ tháng Tư đến tháng Tám năm 1945. Vũ Đình Hòe là một luật gia do Pháp đào tạo và trở

thành Bộ trưởng Giáo dục vào cuối năm 1945 và Bộ trưởng Tư pháp từ 1946. Cuộc tranh luận cho thấy,

và đào sâu hơn, mức độ khác biệt về ý thức hệ giữa những người cộng sản và không cộng sản. Sau cuộc

tranh luận, ĐCSĐD sẽ dần tước quyền của các bộ trưởng và viên chức không cộng sản.

Cuộc tranh luận khởi đầu với những lời phê phán của phe cộng sản đối với nguyên tắc độc lập tư pháp.

Các thẩm phán địa phương dùng nguyên tắc này biện minh cho các hành động nhằm hạn chế sự lạm

dụng quyền lực của chính quyền địa phương hoặc của các cán bộ đảng. Nhiều thẩm phán từ chối làm

theo chỉ thị của các uỷ ban đảng hoặc hành chính địa phương, đồng thời thả những người bị bắt vì các lý

do chính trị nhưng trái với luật pháp. Trong hai bài báo đầu tiên mở màn cuộc tranh luận, Quang Đạm

tung ra hai hướng tấn công, một chống lại hệ thống tư pháp của chủ nghĩa tư bản và một chỉ trích các trí

thức do Pháp đào tạo.214 Trước hết, ông lập luận rằng luật và công lý, với tư cách là một bộ phận của

nhà nước, vận hành để phục vụ lợi ích giai cấp. Trong những xã hội có giai cấp, không có gì nằm trên

đấu tranh giai cấp. Độc lập tư pháp và phân quyền [giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp] có thể đã

từng giúp cho tư sản châu Âu hạn chế quyền lực võ đoán quân chủ, nhưng kể từ đó đã trở thành một

thứ huyền thoại nhằm che đậy bản chất áp bức của hệ thống chủ nghĩa tư bản. Tại các xã hội thuộc địa,

chính quyền thực dân cũng đưa ra huyền thoại đó, nhưng các toà án của nó chưa bao giờ mang lại công

lý cho người dân xứ thuộc địa, mà ngược lại đã ban bố hàng nghìn bản án độc ác chống lại các nhà cách

mạng dân tộc. Độc lập tư pháp và phân quyền không phải là các nguyên tắc linh thiêng và trung tính

như một số người tin tưởng. Quang Đạm tập trung tấn công vào luật của tư bản nhưng không hề tìm

cách áp đặt một cái khung khái niệm theo chủ nghĩa Lê Nin cho luật của xã hội chủ nghĩa. Ông ta dùng

đấu tranh giai cấp làm cơ sở lý thuyết và tấn công vào hệ thống luật của thuộc địa, nhưng ở đây ông

tuyên bố mình bảo vệ quyền lợi "nhân dân" và "quần chúng", chứ chưa phải lợi ích giai cấp.

Hướng tấn công thứ hai của Quang Đạm nhằm vào các lãnh tụ không cộng sản, những người từng được

đào tạo tại các trường thuộc địa. Ông ta tố cáo "nhiều phần tử trí thức" xa rời "quần chúng" và "nhân

dân". Các "phần tử" này do Pháp đào tạo, bị nhiễm những thứ lý thuyết cũ kỹ của tư sản được tạo ra để

phục vụ cho lợi ích của chính quyền thực dân và các giai cấp bóc lột. Những người này có lòng tự ái cao

và tin quá mức vào tự do cá nhân. Động cơ của họ là sự đố kỵ, tham vọng và mong muốn địa vị xã hội

và quyền lực chính trị. Hiểu biết chuyên môn về luật của họ chỉ đơn giản là kinh nghiệm áp dụng những

thủ tục luật phức tạp chứ không đảm bảo việc thực thi công lý, nhưng họ lại cho rằng hiểu biết chuyên

môn ấy là đủ để họ có được một tự do không hạn chế, nằm ngoài mọi kiểm soát chính trị. Vô tình hay cố

ý, họ đang giúp đỡ bọn phản cách mạng thông qua việc cứ khăng khăng đòi độc lập tư pháp và hằn học

chỉ trích các uỷ ban hành chính địa phương. Rõ ràng là Quang Đạm muốn nói thay cho những cán bộ

đảng thất học không ưa các trí thức do Pháp đào tạo và thái độ có vẻ ngạo mạn của họ với các cán bộ

chính trị.

Để đáp lời Quang Đạm, các đối thủ của ông phủ nhận tính thích đáng và hợp thức của đấu tranh giai cấp

ngay cả ở bình diện lý thuyết. Đặc biệt, Vũ Trọng Khánh lập luận rằng luật không chỉ là một công cụ của

213 Xem Quang Đạm: Nhà báo, học giả (Hà Nội: Lao động, 2002). Quang Đạm là bút danh của Tạ Quang Đệ, từng

làm thẩm phán trong chính quyền thuộc địa và không có liên hệ với Thanh Nghị. Anh trai ông, Tạ Quang Bửu, nổi

tiếng hơn nhiều, đã từng phục vụ chính phủ Trần Trọng Kim và là một thứ trưởng của Việt Minh.

214 "Tư pháp với nhà nước", Sự thật, 15 tháng Tư 1948; "Tính chất chuyên môn trong tư pháp", Sự thật, 19 tháng

Năm 1948.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 75 [email protected]

giai cấp thống trị mà còn là một công cụ bảo vệ kẻ yếu chống lại kẻ mạnh và kẻ nhiều quyền lực.215 Luật

cao hơn đấu tranh giai cấp. Chẳng hạn như luật dân sự dùng để điều chỉnh các xung đột giữa những

người bình thường và không có gì liên quan tới chính trị. Luật được xây dựng và phản ảnh không chỉ dựa

trên ý chí của tầng lớp thống trị mà cả các tập quán xã hội ở các khối "nhân dân". Tương tự, độc lập tư

pháp nhằm để bảo vệ "nhân dân," nghĩa là ở trên mọi giai cấp, và để phòng ngừa việc những người có

chức quyền lạm dụng quyền lực ở mọi chế độ, dù là chế độ dân chủ hay không. Vũ Đình Hòe chỉ ra rằng

Việt Nam chưa bao giờ có một nền tư pháp độc lập kể từ thời cổ đại cho tới thuộc địa.216 Chính là "nhờ

Cách mạng Tháng Tám" mà giờ đây "nhân dân" mới được hưởng hệ thống luật tiến bộ này. Nói cách

khác, Vũ Đình Hòe hàm ý những trí thức như ông đại diện cho "cách mạng", chứ không phải chống lại.

Độc lập tư pháp không phải một huyền thoại của chế độ phong kiến lẫn thuộc địa, nó mang tính cách

mạng.

Vũ Đình Hòe cho rằng hệ thống tư pháp dưới sự lãnh đạo của ông kể từ đầu cuộc cách mạng là hoàn

toàn đứng về phía "nhân dân". Về nguyên tắc, mọi thẩm phán đều do các cơ quan đại diện cho nhân dân

chỉ định, như Quốc hội và các Hội đồng Nhân dân địa phương. Tại các cấp địa phương, ông cho biết Bộ

Tư pháp đã thiết lập một hệ thống bồi thẩm theo đó "nhân dân" có thể tham gia trực tiếp xử án các

trường hợp đặc biệt. Vũ Đình Hòe gián tiếp nhắc nhở những người cộng sản rằng, theo bản Hiến pháp

năm 1946 vẫn còn hiệu lực, các cơ quan do dân bầu ra, chứ không phải Đảng Cộng sản hay chính phủ,

mới nắm quyền lực nhà nước tối cao. Các thẩm phán chỉ tuân theo những cơ quan ấy. Nói cách khác,

thông điệp gửi tới những người cộng sản là, các anh không đồng nhất với "nhân dân" và các anh cũng

phải có trách nhiệm giải trình [accountability] trước "nhân dân". Theo lập luận của Vũ Đình Hòe, "nhân

dân" với tư cách một tập thể rõ ràng là nền tảng duy nhất của sự hợp thức, chứ không phải các giai cấp

xã hội. Ông buộc các lãnh tụ cộng sản phải đối mặt với tuyên bố trước đây của họ [về chính phủ do dân

và vì dân] và các thể chế nhà nước vẫn còn hợp thức [ví dụ Hiến pháp 1946] được lập ra dựa trên những

thỏa hiệp trước đây với những người không cộng sản.

Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình Hòe đẩy Quang Đạm vào thế phòng thủ: Quang Đạm phải biện minh rằng

phe cộng sản đại diện cho "nhân dân".217 Quang Đạm lập luận rằng chính phủ và "nhân dân" là một, vì

chính phủ được cấu thành từ những đại diện ưu tú nhất của nhân dân. Tôn trọng "nhân dân" có nghĩa là

theo lệnh chính phủ, đặc biệt là các chính quyền địa phương. Các uỷ ban địa phương gần với "nhân dân"

hơn cả", họ biết "mong muốn của người dân" rõ hơn là chính phủ trung ương. Chính "nhân dân" chứ

không phải các uỷ ban này đã bắt Việt gian bởi vì nhân dân căm ghét chúng. Những vụ bắt bớ trái luật là

do các hoàn cảnh đặc biệt, nhưng làm thế nào mà các thủ tục luật pháp lại có thể quan trọng hơn "mong

muốn của người dân" được? Các uỷ ban địa phương không lạm dụng quyền lực của mình mà chỉ hành

động vì lợi ích của nhân dân thông qua việc bắt "Việt gian". Các quan chức ngành tư pháp nên ủng hộ

thay vì chỉ trích những uỷ ban ấy.

Mặc dù khởi đầu cuộc tranh luận với lý thuyết đấu tranh giai cấp, giờ đây Quang Đạm bị buộc phải bám

vào một khái niệm "nhân dân" rất mù mờ, khiến cho ông ta càng xa rời đấu tranh giai cấp hơn. "Nhân

dân" theo Quang Đạm nghĩ là một tập đoàn không thể phân chia và kiên quyết gắn liền với cuộc đấu

tranh. Nhân dân có một "ý chí tập đoàn" đại diện cho hình thức công lý tối cao; và "lợi ích của nhân dân"

phải được coi như là nguyên tắc luật tối cao. Nhân dân có một "mong muốn chung", mà các cán bộ tư

pháp phải tuân theo.218 Vì không có khả năng đáp trả các lập luận lý thuyết của đối thủ, Quang Đạm

quay sang dọa nạt:

215 "Ý kiến bạn đọc về vấn đề tư pháp", Sự thật, 19/8-2/9/1948; và "Vấn đề tư pháp", Sự thật, 20 tháng Sáu, 10

tháng Bảy và 1 tháng Tám năm 1949.

216 "Tư pháp trong chế độ dân chủ mới", Độc lập, tháng Bảy năm 1948.

217 "Vài điểm căn bản về vấn đề tư pháp", Sự thật, 15 tháng Mười một, 30 tháng Mười một, và 19 tháng Chạp năm

1948; và "Về cuộc thảo luận vấn đề tư pháp", Sự thật, 6 tháng Giêng năm 1950.

218 Cho mãi đến năm 1950, sau khi VNDCCH đã chính thức gia nhập khối Xô viết, Quang Đạm mới dùng từ "nhân

dân" như một khái niệm dựa trên giai cấp, nghĩa là "nhân dân" với tư cách một tập thể được tạo nên từ hai giai cấp

(công nhân và nông dân) dẫn dắt cách mạng dân tộc và đấu tranh giai cấp. Xem Quang Đạm, "Người trí thức trong

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 76 [email protected]

"Trước Toà án tối cao là Toà án của nhân dân, dưới đạo luật tối cao là ý chí của nhân dân, kẻ

nào cố ý hay vô tình bám vào hình thức pháp luật mà phản lại tinh thần pháp luật, quyết không

thể tránh khỏi bản cáo trạng và sự trừng phạt rất đơn giản nhưng rất đích đáng của nhân dân".

Cuộc tranh luận kéo dài đến năm 1950, nhưng sau loạt bài báo đầu tiên của Quang Đạm và đáp trả của

Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình Hòe vào năm 1948, ta đã có thể thấy rõ mâu thuẫn nằm ở đâu và chúng là

không thể hàn gắn. Mặc dù việc những quan chức không cộng sản sẽ bị tước bỏ quyền lực vẫn chưa xảy

ra, có vẻ như điều này sẽ chỉ là vấn đề thời gian. Quả thực, các viên chức tư pháp do Pháp đào tạo như

Vũ Văn Huyền và Trần Chánh Thành bị khiển trách do tranh cãi với chính quyền địa phương đã bắt đầu

dinh tê vào năm 1949.219

Ngay cả khi ĐCSĐD không thể triệu tập một hội nghị Đảng toàn quốc vào tháng Tám năm 1948 do nhiều

nguyên nhân, khi ấy một đường lối mới đã ra đời để chỉ đạo cách mạng cho đến năm 1953. Ở Hội nghị

Cán bộ lần thứ 5 vào tháng Tám 1948, Trường Chinh đọc một báo cáo dài theo đó, lần đầu tiên kể từ

1941, nhiệm vụ cải cách ruộng đất đã chính thức được đặt ngang hàng với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Mục tiêu cuối cùng của cách mạng giờ đây được chính thức tuyên bố là chủ nghĩa xã hội. Bản báo cáo

mang tên "Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ", với "dân chủ" được hiểu là một "chế độ dân chủ

mới" tương tự với nền dân chủ được thiết lập tại Đông Âu, Bắc Triều Tiên và "những vùng được giải

phóng" ở Trung Quốc. Trích dẫn Zhdanov, E. Varga (Đảng Cộng sản Pháp), Gottwald (Chủ tịch Tiệp

Khắc) và Dimitrov (lãnh tụ Bulgaria và trước đây là một trong những người lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản),

Trường Chinh lập luận rằng "chế độ dân chủ mới" này là một sáng tạo mới của vô sản thế giới bằng cách

áp dụng lý thuyết Mác xít-Lê nin nít.220 "Cách mạng dân chủ mới" tương tự như cách mạng dân chủ tư

sản (cũ) ở chỗ cả hai đều hướng tới việc tiêu diệt chế độ phong kiến do giai cấp địa chủ làm đại diện. Dĩ

nhiên "cách mạng dân chủ mới" do vô sản lãnh đạo, chứ không phải giai cấp tư sản. "Chế độ dân chủ

mới" nghe không có vẻ tiên tiến bằng chuyên chính vô sản được sử dụng ở Liên Xô, nhưng nó vẫn hướng

tới xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản. Nhờ các điều kiện thế giới thuận lợi (sự giúp đỡ

có được từ Liên Xô và phe tư bản chủ nghĩa đang rơi vào khủng hoảng), các nền dân chủ mới có thể

phát triển Chủ nghĩa Xã hội mà không cần đổ máu nhiều trong đấu tranh giai cấp.221 Trường Chinh kết

luận rằng, "Ngày nay, cách mạng Đông Dương phải 'hiện nguyên hình'... là cách mạng tư sản dân chủ,

cách mạng dân chủ mới" dù cho cuộc chiến chống Pháp [của VNDCCH] vẫn có thể được coi là một cuộc

chiến tranh giải phóng dân tộc.222 Nói cách khác, loài sói giờ đây có thể hiện nguyên hình là sói mà

không cần giả làm cừu nữa. Trong khi Trường Chinh và ĐCSĐD vẫn muốn duy trì mặt trận dân tộc thống

nhất,223 thì trong bài diễn văn này cũng như tên của nó, chúng ta có thể thấy họ đang nhắm xa hơn độc

lập dân tộc. Họ hướng tới một ngày của tương lai gần khi hoàn thành được mục tiêu thứ hai, "chế độ dân

chủ mới", và họ đang tích cực chuẩn bị cho ngày đó tới thông qua chính sách ruộng đất và nhiều chính

sách khác.

Kết luận

Cho đến nay, các sử gia đã không xem năm 1948 là một bước ngoặt quan yếu của cuộc cách mạng ở

Đông Dương. Rõ ràng các thay đổi ở Việt Nam trong năm này không dẫn tới một cuộc nội chiến như tại

xã hội và trong cách mạng, Sự thật, 15 tháng Ba năm 1950. Từ "nhân dân" trước 1945 không hay được sử dụng.

Đến 1950, nó chủ yếu được một số ít tác giả dùng, một trong số đó là Trường Chinh. Từ này được sử dụng rộng rãi

và bắt đầu có một số hàm ý Mác xít có lẽ là nhờ các nỗ lực của Trường Chinh trong việc quảng bá nó và du nhập

diễn ngôn cách mạng Trung Quốc vào Việt Nam từ sau 1950. "Renmin" (dịch từng từ là "nhân dân") là một từ trọng

tâm trong diễn ngôn của Mao.

219 Sau này Trần Chánh Thành sẽ trở thành Bộ trưởng Thông tin của Việt Nam Cộng hoà dưới thời Ngô Đình Diệm.

220 Trường Chinh, "Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ", bài diễn văn tại Hội nghị Cán bộ lần thứ năm, 8-

16/8/1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 191.

221 nt, tr. 187-92.

222 nt, tr. 198.

223 nt, tr. 209-18.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 77 [email protected]

các nước Đông Nam Á khác, nhưng chúng vẫn rất quan trọng trong bối cảnh chính trị Việt Nam. Tiểu

luận này trình bày các sự kiện trong các năm 1947-1948, đồng thời quay trở lại với những thỏa hiệp mà

ĐCSĐD thực hiện khi nắm chính quyền vào cuối năm 1945. Những thỏa hiệp chính trị ở giai đoạn chính

phủ Việt Minh mới lên nắm chính quyền giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của năm 1948, nghĩa là

lúc khối đoàn kết dân tộc bắt đầu sụp đổ - chưa phải là một cuộc nội chiến nhưng cũng đã là sự chia rẽ

không thể đảo ngược.

Trong khi tình hình quốc tế thúc đẩy các lãnh tụ ĐCSĐD đưa ra một đường lối cực đoan hơn, thì họ lo

lắng trước những vật cản đối với cuộc cách mạng của họ: thất bại trong việc tiến hành các chính sách

giảm tô, xung đột với các lãnh tụ không cộng sản trong chính phủ, và mâu thuẫn giữa lý tưởng đấu tranh

giai cấp của Đảng với quan điểm bảo thủ của các viên chức hành chính thuộc địa được lưu dụng. Những

vấn đề này có nguồn gốc ở những thỏa hiệp và thu nạp thực hiện vào cuối năm 1945 để đổi lại sự ủng

hộ của dân chúng và tầng lớp tinh hoa thuộc địa. Đa số lãnh tụ của Đảng mong muốn tiến hành một

cuộc cách mạng xã hội càng sớm càng tốt nên họ bức xúc trước các vấn đề này. Họ phân tích tình hình

thế giới dựa trên thế giới quan của họ về một cuộc đối đầu không thể tránh khỏi giữa hai phe.224

Còn lại một câu hỏi lớn: Tại sao ĐCSĐD không đoạn tuyệt ngay lập tức với những người không cộng sản

vào năm 1948 và bắt đầu nội chiến như ở các nước Đông Nam Á khác? Câu hỏi này cần nghiên cứu

thêm, nhưng chúng tôi có thể đề xuất một vài lý do. Có thể những lãnh tụ nhiệt tình với đấu tranh giai

cấp như Trường Chinh cần thời gian để thuyết phục những đồng chí cẩn trọng hơn trong hàng ngũ lãnh

đạo của Đảng đi theo mình. Những người cẩn trọng có thể đã lập luận thuyết phục về việc tiến hành

thay đổi chậm hơn. Trước hết, ĐCSĐD đã thống trị khối liên hiệp, và những nhân vật không cộng sản

như Vũ Đình Hòe không thể đe dọa quyền lực của nó.225 Nó có thể kiên nhẫn chờ đợi trong khi dần dần

loại "những bạn đồng hành" không còn có lợi ra khỏi chính phủ. Thứ hai, xét về mặt quân sự, cán cân

vẫn nghiêng về phía người Pháp và ĐCSĐD không dại gì loại bỏ những người không cộng sản vẫn được

dân chúng kính trọng. Ngoài ra, còn có mối nguy những người này sẽ bị chính phủ Bảo Đại thu hút về.

Giữ họ lại trong vòng kiểm soát đồng thời vô hiệu hoá họ là một chiến lược khôn ngoan hơn so với để

cho họ chạy đi để giúp Bảo Đại. Hoặc, ngay cả nếu ĐCSĐD thủ tiêu ngay lập tức các lãnh tụ không cộng

sản, thì động thái này có thể kích động rất nhiều người vẫn đang phân vân giữa Bảo Đại và Hồ Chí Minh

chuyển hẳn sang ủng hộ Bảo Đại. Thứ ba, ĐCSĐD có thể trông cậy vào hỗ trợ quốc tế nếu Đảng biết

kiên nhẫn. Các lực lượng cộng sản Trung Quốc từ giữa năm 1948 đã ở vào thế thắng và việc họ áp sát

biên giới Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Đây cũng là một khác biệt cốt yếu về tình hình của ĐCSĐD

so với các đảng cộng sản khác tại Đông Nam Á. Nếu ĐCSĐD chờ đợi, nó có thể được ĐCSTQ hỗ trợ trong

một thời gian gần. Nếu nó hành động vội vàng, Mỹ có thể can thiệp trong khi Hồng Quân Trung Quốc

vẫn còn ở xa. Với các đảng cộng sản khác ở Đông Nam Á, thời gian không đứng về phía họ. Nếu hành

động trong khi các đối thủ phe quốc gia vẫn còn yếu, thì họ có cơ may chiếm được thế thượng phong.

Họ không thể trông chờ một sự giúp đỡ từ bên ngoài nào và nếu như chờ đợi, cơ may của họ trong việc

đánh bại đối thủ sẽ ngày càng ít hơn.

Mặc dù đã tự kiềm chế, bước ngoặt năm 1948 đã dẫn tới việc nhiều trí thức và chuyên gia chán nản rời

khỏi hàng ngũ Việt Minh trong những năm sau đó. Không phải ai cũng bỏ đi, và trong số những người ở

lại nhiều người đã phải chịu đựng các vụ thanh trừng đầy bạo lực trong cải cách ruộng đất, "chiến dịch

chỉnh huấn tổ chức đảng", rồi vụ Nhân văn-Giai phẩm hồi giữa thập niên 1950.226 Và câu chuyện cũng

224 Vu, "From Cheering to Volunteering."

225 Vào năm 1957, sau khi những sai lầm của cải cách ruộng đất được phát hiện, ông Vũ, lúc đó vẫn là Bộ trưởng Tư

pháp trên danh nghĩa (dù quyền lực thực tế thì từ năm 1949 đã mất về tay Thứ trưởng Tư pháp Trần Công Tường là

một đảng viên), và một vài nhân sĩ trí thức không cộng sản đề nghị nhà nước cho phép Đảng Dân chủ được hoạt

động như một đảng đối lập để ngăn ngừa những sai lầm tương tự. ĐCSVN lập tức cho ông Vũ về hưu non. Bộ Tư

pháp bị giải thể và VNDCCH/Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không có Bộ Tư pháp cho đến những năm 90 của

thế kỷ 20.

226 Để có các bình luận mới về những sự kiến ấy, xem Vu, Paths to Development in Asia; Ninh, A World Transformed;

và Shawn McHale, "Vietnamese Marxism, Dissent, and the Politics of Postcolonial memory: Tran Duc Thao, 1946-

1993," Journal of Asian Studies, 61, 1 (tháng Hai năm 2002), tr. 7-31.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 78 [email protected]

chưa dừng tại đó. Lịch sử sẽ lặp lại vào năm 1975 khi các trí thức thành thị miền Nam Việt Nam trước đó

từng gia nhập Mặt trận Giải phóng Dân tộc nhanh chóng bị gạt ra lề sau khi thống nhất đất nước. Dù cho

Đảng Cộng sản Việt Nam mới đây đã tỏ ra xoa dịu trí thức, thì cái quá khứ xung khắc ấy vẫn còn để lại di

chứng. Theo nghĩa này, bóng ma năm 1948 vẫn ám ảnh nền chính trị Việt Nam cho đến ngày hôm nay.

_____________________________________

Trần Anh

Chủ nghĩa quốc gia của chánh quyền Đệ Nhứt Cộng hoà, 1954-1963

Đã có nhiều sách vở nói về chủ nghĩa chánh trị của cộng sản tại Việt Nam từ những ngày còn là Đảng

Cộng sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh, đến chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH, 1954-

1975) ở miền Bắc, và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN, 1976-hiện tại) thống nhứt hai

miền Nam Bắc. Nhìn từ cuối thập niên đầu của thế kỷ 21, chiến thắng của cộng sản dễ làm ta quên rằng

Việt Nam trong thế kỷ 20 từng là chính trường tranh chấp sôi nổi của nhiều lý tưởng khác nhau, và chủ

nghĩa cộng sản chỉ là một trong nhiều lựa chọn chính trị khi đó. Ngay từ giữa thế kỷ 19, người Việt đã

thành lập nhiều tổ chức ái quốc chống thực dân Pháp và hô hào cải cách xã hội. Các tổ chức này cạnh

tranh khốc liệt vì phe nào cũng muốn giành vai trò lãnh đạo chính trị, từ đó dẫn đến những xung đột ý

thức hệ gay gắt. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về Việt Nam, giới hàn lâm thường tập trung nghiên cứu phe

cộng sản và không mấy chú ý tới các lực lượng đối lập. Hành động (dù vô tình hay cố ý) này cũng đồng

nghĩa với việc xoá trắng một phần quan trọng trong lịch sử chánh trị Việt Nam hiện đại. Tiểu luận này sẽ

xem xét một trong các tổ chức quốc gia đối lập với thể chế cộng sản, mong phần nào bổ khuyết những

khoảng trống bị giới học giả lãng quên đó.

Trong số các thế lực đối đầu với cộng sản, chế độ Việt Nam Cộng hoà (VNCH) ở miền Nam là lực lượng

chính trị mạnh nhứt. VNCH đã giao chiến với VNDCCH trên các lãnh vực chính trị, quân sự, văn hoá và tư

tưởng trong suốt hai thập niên kể từ giữa những năm 1950 đến 1975 khi chiến tranh kết thúc. Sử sách

viết về cuộc chiến Nam Bắc có xu hướng tập trung vào vai trò của Hoa Kỳ, của phe cộng sản hoặc về các

liên hệ ngoại giao và quân sự của chế độ VNCH mà không đề cập đến tình hình chánh trị nội bộ hay

những phát triển văn hoá xã hội tại miền Nam.227 Cũng có một số tác phẩm thực sự viết về miền Nam,

nhưng phần lớn là dưới dạng hồi ký, không phải là các nghiên cứu lịch sử, sử dụng nhiều tư liệu khác

nhau và đưa ra cái nhìn bao quát hơn.228 Do sự thiếu sót này, ta khó có thể đánh giá được các lập luận

dù phủ nhận hay đề cao chánh nghĩa của VNCH, chẳng hạn như thái độ ẩn sau các khẩu hiệu thường

thấy như "chế độ Mỹ Diệm" hay "miền Nam tự do." Thay vì tìm cách giải quyết mâu thuẫn này, ta có thể

bắt đầu bằng cách đặt lại câu hỏi: "Nội dung chủ nghĩa quốc gia của chánh phủ VNCH là gì? Thể chế này

227 Xem George Herring, America's Longest War: The United Sates and Vietnam, 1950-1975, tái bản lần thứ tư (New

York: McGraw-Hill, 2002); George Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Anchor

Boosk, 1987); Carlyle Thayer, War by Other Means: National Liberation and Revolution in Vietnam, 1954-60, (Boston:

Allen and Unwin, 1989); William Turley, The Second Indochina War: A Short Political and Military History, 1954-1975

(Boulder, Co.: Westview Press, 1986); Marily B. Young, The Vietnam Wars, 1945-1990 (New York: Harper Perennial,

1991).

228 Tuy nhiên, cũng đã có những thay đổi trong thời gian gần đây. Một lớp sử gia trẻ tại Hoa Kỳ đã bắt đầu tìm hiểu

và viết về thời Đệ Nhứt Cộng hoà. Xem Philip Catton, Diệm's Final Failure: Prelude to America's War in Vietnam

(Lawrence: University of Kansas Press, 2002); Jessica Chapman, "Staging Democracy: South Vietnam's 1955

Referendum to Depose Bảo Đại," Diplomatic History 30, số 4 (2006): tr. 671-703; Jessica Chapman, "Debating the

Will of Heaven: South Vietnamese Politics and Nationalism in International Perspective, 1953-1956," (luận án tiến sĩ,

University of California, Santa Barbara, 2006); Edward Miller, "Grand Designs: Vision, Power, and Nation-Building in

America's Alliance with Ngô Đình Diệm, 1954-1960" (luận án tiến sĩ, Đại học Harvard, 2004); Edward Miller, "Vision,

Power and Agency: The Ascent of Ngô Đình Diệm, 1945-1954" Journal of Southeast Asian Studies 35, số 3 (tháng

mười 2004): tr. 433-458. Xem bản dịch tiếng Việt, "Viễn kiến, quyền lực, và tính chủ động: Con đường lên nắm

quyền của Ngô Đình Diệm, 1945-1954," đăng trên talawas ngày 9 tháng 8, 2007.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 79 [email protected]

đã xây dựng chủ thuyết của mình dựa trên những lập luận nào?" Tiểu luận này chú trọng vào tư tưởng

quốc gia của chính thể Việt Nam Cộng hoà, do đó đa số tài liệu được trích dẫn trong bài là từ văn bản,

sách vở chính thức mà chánh quyền đã sử dụng để tuyên truyền và giải thích chủ thuyết của mình, với

mục đích thuyết phục dân chúng tin tưởng vào chế độ. Do điều kiện thời gian và tài liệu, bài viết giới hạn

vào thời Đệ Nhứt Cộng hoà dưới sự lãnh đạo của Ngô Đình Diệm, từ 1954 đến 1963. Cũng xin nói ngay,

trong bài này, tôi chọn sử dụng ý niệm "chủ nghĩa quốc gia" thay vì "chủ nghĩa dân tộc," nhằm nhấn

mạnh vai trò của chế độ trong việc định nghĩa và phổ biến tư tưởng.229

"Bài phong, đả thực, diệt cộng"

Tìm hiểu nền Cộng hoà đệ Nhứt, ta thấy chủ nghĩa quốc gia dưới sự lãnh đạo của Ngô Đình Diệm có hai

nội dung chính: một là tiêu diệt những thành phần và tư tưởng bị xem là chống đối chánh quyền; hai là

xây dựng một xã hội mới thay cho xã hội thời thuộc địa và thời chiến tranh Việt Pháp. Vì độ dài của bài

viết không cho phép, tiểu luận này chỉ giới hạn vào mục tiêu thứ nhứt là tiêu diệt đối phương.

Trong suốt hậu bán thập niên 1950, chánh quyền Sài Gòn đưa ra ba "kẻ thù dân tộc" gồm phong kiến,

thực dân và cộng sản và tiến hành nhiều hoạt động thông tin tuyên truyền, nhằm phổ biến rộng rãi trong

dân chúng chủ trương "bài phong, đả thực, diệt cộng." Đường lối chống phong, thực, cộng của chánh

phủ được tuyên bố ngay trong ngày thành lập nền cộng hoà 26 tháng 10 năm 1955, qua bài "Nhân dân

cách mạng" của Hùng Lân, được trình diễn tại Dinh Độc Lập:

Nhân-dân Cách-mạng Việt-nam vùng đứng lên cùng thế-giới,

Vai chen vai bên nhau mưu cuộc giải-phóng giống nòi;

Tận-diệt bọn Thực-Cộng

Đã cướp mất lẽ sống

Từng đoạ đầy dầy đạp non sông.

Nhân-dân Cách-mạng Việt-nam thề phá chế-độ Phong-kiến.230

Trong các nghi lễ của chánh quyền, ngoài quốc ca, người dân còn nghe "Suy tôn Ngô Tổng thống," ca

ngợi Ngô Đình Diệm là thể hiện của lý tưởng chống phong, thực, cộng:

Người cương-quyết chống Cộng, bài Phong-kiến bóc-lột,

Diệt Thực-dân đang rắc reo tàn phá.231

Tuy Ngô Đình Diệm có lập trường chống cộng và chống Pháp từ trước, đường lối chống phong, thực,

cộng không chỉ bắt nguồn từ những thành kiến của cá nhân ông. Khi về chấp chánh với tư cách là tân

thủ tướng Quốc gia Việt Nam (QGVN) vào mùa hè năm 1954, Ngô Đình Diệm phải đương đầu với hàng

loạt thế lực thù nghịch, đe doạ sự sống còn của chánh quyền mới, gồm có quân đội Pháp (thực), Việt

Minh (cộng),232 và các lực lượng địa phương như Cao Đài, Hoà Hảo, và Bình Xuyên (bị coi là phong kiến).

229 Trong lịch sử hiện đại, mỗi khi một phong trào cách mạng thành công, lật đổ chánh phủ đương thời và thay thế

nó bằng một chánh quyền mới, thì khi đó, "quốc gia" thường được dùng với tính cách bao gồm cả "dân tộc" (phương

diện lịch sử, văn hoá, huyết thống...) và "chế độ" (phương diện chính trị).

230 Hùng Lân, "Nhân dân cách mạng," Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II - Thành phố Hồ Chí Minh (TTLTQGII), Phong

Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà (ĐICH), hồ sơ số 753.

231 Bài này còn có tên là "Ghi ơn Ngô Tổng thống," nhạc của Ngọc Bích, lời Thanh Nam. Dù không phải quốc ca chính

thức, bài này thường được trình diễn song song với quốc ca lúc bấy giờ là bài "Tiếng gọi công dân." Ngọc Bích và

Hùng Lân, "Ghi ơn Ngô Tổng Thống," TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 753; Jason Gibbs, "The Music of the State:

Vietnam's Quest for a National Anthem," Journal of Vietnamese Studies 2, số 2 (2007): tr. 129-174, xem 149-150.

Xem bản dịch tiếng Việt, "Quốc nhạc Việt Nam, hành trình tìm kiếm bản quốc ca," được đăng trên talawas ngày

30.8.2007.

232 Việt Minh là tổ chức mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương, sau lấy tên là Đảng Lao động

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 80 [email protected]

Ngô Đình Diệm giải quyết hai vấn đề "thực" và "phong" khá nhanh gọn. Một mặt, Pháp đồng ý rút quân

khỏi lãnh thổ VNCH sau nhiều cuộc thương thuyết; mặt khác, các lực lượng địa phương (bị chánh phủ

mới gọi chung là "phiến loạn") thiếu sự đoàn kết nên phần thì bị đánh bại, phần khác thì bị mua chuộc

hoặc được thuyết phục gia nhập chánh quyền. Khẩu hiệu bài "phong" cũng ám chỉ Quốc trưởng Bảo Đại,

người đã bổ nhiệm Ngô Đình Diệm, nhưng nay bị coi là một mối đe doạ. Tuy Bảo Đại đã qua Pháp,

nhưng một số lãnh đạo do ông chỉ định từ thời chiến tranh Việt Pháp ở lại và vẫn hoạt động chính trị.

Trong số này, thậm chí có những nhân vật có tham vọng tranh chấp quyền hành với tân thủ tướng,

chẳng hạn như Trung tướng Nguyễn Văn Hinh. Ngô Đình Diệm nghi ngờ Bảo Đại và phe cánh của ông, vì

vậy ông đã cho tổ chức cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23 tháng 10 năm 1955 để phế truất Bảo Đại, lật

đổ chánh thể quân chủ và thành lập nền cộng hoà.233

Tuy vậy, hoàn cảnh chánh trị khi đó không phải là nguyên nhân duy nhứt giải thích cho chủ trương

chống phong, thực, cộng của chế độ Ngô Đình Diệm. Quan điểm lịch sử của vị tổng thống này cũng đóng

một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành chủ trương ấy. Theo Ngô Đình Diệm, các phong trào giải

phóng quốc gia trước đó thất bại vì đã nhận định sai lầm về các kẻ thù áp bức dân tộc Việt Nam, bao

gồm thực dân, phong kiến và cộng sản. Ông cho rằng phải chống lại cả ba thì mới có thể thành công

trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong diễn văn ngày Song Thất năm 1957 kỷ niệm ngày chấp chánh,

Ngô Đình Diệm giải thích quan điểm này:

Vì có phong-trào chủ-trương phản-đế mà không phản-phong. Có phong-trào vừa phản-đế vừa

phản-phong nhưng lại chủ-trương độc-tài cộng-sản. Chúng ta không cần kể những nhóm chủ-

trương diệt Cộng với sự cộng-tác của đế-quốc và phong-kiến. Vì thế mà các phong-trào đó không

hoàn-thành được nhiệm-vụ tối-cao của nhân-loại là giải-phóng con người, cứu cánh của xãhội.

234

Nói cách khác, Ngô Đình Diệm cho rằng chống đế quốc Pháp mà không chống phong kiến là muốn duy

trì một chế độ quân chủ lỗi thời; chống thực dân và phong kiến nhưng lại theo cộng sản thì không đưa

đến độc lập tự do cho dân tộc; còn chống cộng mà lại hợp tác với phong kiến và thực dân thì thực chất

là cấu kết với kẻ thù.

Tuy coi cộng sản là kẻ thù chính, chánh phủ Ngô Đình Diệm vẫn theo đuổi hai mục tiêu còn lại là bài

phong và đả thực. Đọc kỹ các diễn văn, tuyên cáo cũng như các tài liệu tuyên truyền, ta thấy chánh

quyền tin rằng có sự liên hệ mật thiết giữa ba địch thủ này. Tại Đại hội Tố cộng toàn quốc, theo tuyên bố

của Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Thông tin và Thanh niên, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Nhân dân chỉ

đạo chiến dịch Tố cộng trung ương, phát động năm 1956, thì chiến dịch này vừa nhằm tiêu diệt các tổ

chức cán bộ cộng sản nằm vùng, vừa nhằm "triệt-hạ luôn những lực-lượng cấu-kết với Cộng-Sản là

Thực-Dân và Phong-Kiến," theo "ba phương-châm của Tổng-Thống."235 Cuốn Thành tích Tố Cộng, xuất

bản nhân dịp đại hội, có đoạn:

Tất cả mọi công-tác của Chiến-dịch Tố-Cộng trong đợt 2 này nhằm trọng-tâm kết liền việc đả

Thực diệt Cộng với nhiệm-vụ bài Phong. Vì vậy đợt 2 được kết-thúc vào sau ngày 23-10-55, ngày

Trưng-cầu Dân-ý truất-phế tên bù-nhìn phong-kiến điển-hình Bảo-Đại.236

Hàng năm, nhân dịp tết Nguyên đán, chánh phủ VNCH phát quà cho "các trẻ em các gia đình có người bị

Việt-Cộng hoặc phiến-loạn lưu-manh giết hại" trong ba năm trở lại. Hành động này chứng tỏ lòng ưu ái

của chánh phủ đối với nạn nhân của tất cả kẻ thù quốc gia nói chung.237

233 Xem Chapman, "Staging Democracy"; Chapman, "Debating the Will of Heaven."

234 Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Độc lập, dân chủ, quyển III, tr. 137.

235 Thành tích Tố Cộng giai đoạn I: Tổng kết thành tích Tố Cộng trong 3 đợt của giai đoạn 1 và mở đầu giai đoạn II

của chiến dịch (Sàigòn: Hội đồng Nhân dân Chỉ đạo chiến dịch Tố Cộng, 1956): tr. 20.

236 Thành tích Tố Cộng, tr. 77.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 81 [email protected]

Tại sao Trần Chánh Thành và các cán bộ thông tin cho rằng các thế lực chống đối như Pháp và Bảo Đại

liên kết với cộng sản? Căn cứ trên sự kiện nào mà các lực lượng Bình Xuyên, Hoà Hảo, và Cao Đài lại bị

xếp vào thời "phong kiến," đồng loã với thực dân? Điều này xuất phát từ quan điểm lịch sử của chánh

quyền. Thời Pháp thuộc, triều đình Huế vẫn được duy trì; ở miền Bắc và Trung, hệ thống quan lại cũng

được giữ lại. Năm 1949, Quốc gia Việt Nam được thành lập trong Liên bang Pháp. Tuy Bảo Đại là Quốc

trưởng trên danh nghĩa và được chỉ định thủ tướng cho quốc gia của mình, nhưng trên thực tế, Pháp vẫn

nắm giữ mọi quyền hành. Vì vậy, chánh quyền VNCH đã kết tội những người cộng tác với Pháp là "bọn

tay sai... cam tâm vâng theo lệnh Pháp khoác thêm cho dân ta một cái chòng vào cổ," là "bè lũ tay sai

phong-kiến và Thực-dân."238 Một tài liệu học tập chánh trị về ý nghĩa cuộc tuyển cử Quốc hội năm 1956

còn nêu đích danh "bọn tay sai" gồm: Bảo Đại, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Bửu Lộc, Nguyễn Văn

Hinh.239 Tất cả nhân vật này từng giữ chức vụ cao trong quân đội hoặc chánh quyền QGVN; sau hiệp

định Genève, họ vẫn bị coi như những thế lực thân Pháp.240 Tuy vậy, các tài liệu tuyên truyền kết án

"phong kiến" của VNCH đã "khéo" bỏ sót chi tiết này: Ngô Đình Diệm cũng từng làm quan dưới thời Pháp

những năm 1930, rồi chính ông đã thay thế Bửu Lộc theo sự bổ nhiệm của Bảo Đại, nhưng ông lại không

bị kết tội.

Cáo buộc về việc Pháp liên kết với cộng sản cũng có nguồn cơn từ lịch sử. Năm 1954, Pháp và VNDCCH

(cùng nhiều quốc gia khác) ký hiệp định Genève, tạm chia Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm

ranh giới, và dự định tổ chức tổng tuyển cử trên toàn quốc để thống nhứt đất nước vào năm 1956.241

Quân đội Pháp và QGVN rút về phía nam, còn Việt Minh về phía bắc. Tuy chỉ được đóng vai trò quan sát

viên và không có quyền thương lượng hay ký kết, QGVN (với tân thủ tướng Ngô Đình Diệm) đã phản đối

dữ dội hiệp định chia đôi đất nước. Trong các thông cáo sau này về vấn đề thống nhứt lãnh thổ, VNCH

triệt để khai thác tình trạng bất lực của chánh quyền miền Nam tại bàn hoà đàm, buộc tội phe cộng sản

đã chia cắt quốc gia trong khi QGVN muốn "bảo toàn quyền thiêng-liêng của Dân-tộc Việt-Nam về nền

Thống-nhất lãnh-thổ."242 Tuy từ chối tổng tuyển cử với lý do là chế độ VNDCCH thiếu tự do dân chủ,

chánh quyền VNCH thường so sánh quan điểm trái ngược giữa QGVN và Việt Minh về việc chia cắt đất

nước, lên án sự "cấu kết" giữa Việt Minh và Pháp: "Việt-cộng và Thực-dân Pháp đã chia xẻ đất nước Việt-

Nam làm hai miền và làm tổn thương đến nền thống-nhất lãnh-thổ Việt-Nam."243 Theo tài liệu hướng dẫn

học tập của Bộ Thông tin, cả hai hợp tác với nhau vì quyền lợi riêng, Việt Minh vì "muốn hiến miền Bắc

cho Nga Tàu, còn thực-dân mưu toan tiếp tục cai trị và bóc lột dân chúng miền Nam."244

237 Quách Tòng Đức Đổng Lý Văn Phòng (ĐLVP) Phủ Tổng thống gởi Đại biểu Chánh phủ tại Nam phần ngày 25-1-

1958 v/v tổ-chức "Cây Mùa Xuân" năm 1958 (số 72-TTP/ĐL), TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 16.533. Những chỉ dẫn

tương tự cũng được gởi đến đại biểu chánh phủ tại Cao nguyên Trung phần và Trung nguyên Trung phần. Xem các

thư từ trong TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 16.533.

238 "Bọn tay sai...": "Dẫn ý bài nói truyện ý nghĩa mục đích của cuộc Tổng tuyển cử Quốc Hội," Lịch Công-tác v/v Kế-

hoạch vận-động Tổng-tuyển-cử quốc-hội của các Đoàn Công-dân-vụ, khoảng 1956, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 733;

"bè lũ tay sai...": Thành tích Tố Cộng, tr. 109.

239 Trần Văn Hữu (1950-1952), Nguyễn Văn Tâm (1952-1953), Bửu Lộc (1953-1954) đều làm thủ tướng do Quốc

trưởng Bảo Đại chỉ định. Nguyễn Văn Hinh, con trai Nguyễn Văn Tâm, phục vụ trong quân đội QGVN, lên đến chức

Trung tướng.

240 "Dẫn ý bài nói truyện ý nghĩa mục đích của cuộc Tổng tuyển cử Quốc Hội," khoảng 1956, ĐICH 733; Thành tích

Tố Cộng, tr. 109.

241 Ngoài hiệp định Genève, chánh quyền còn tố cáo Pháp và cộng sản đã hợp tác trong những âm mưu khủng bố:

"Qua ngày 20-7-55, Thực-dân và Việt-Cộng âm-mưu chôn plastic tại các 'bót điện' và các ngã tư đường để phá

hoại... Một số lưu manh Pháp kiều và Việt-Cộng bị bắt quả tang với chất nổ còn ôm trong tay và đang lúi húi làm

điều vô nhân đạo" (Thành tích Tố Cộng, tr. 67).

242 Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Độc lập, dân chủ, quyển II (Sàigòn: Sở Báo chí Thông tin, Phủ Thủ

tướng, 1955), tr. 13.

243 "Để hiểu rõ bản Tuyên cáo ngày 26-4-1958 của chánh phủ Việt Nam Cộng hoà về vấn đề thống nhất lãnh thổ,"

trong Tuyên cáo ngày 26-4-1958 của chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà về vấn đề thống nhất lãnh thổ ([Sàigòn?]: Bộ

Thông tin và Thanh niên, 1958), tr. 19-80, trích tr. 20.

244 "Lịch-sử ngày 26 tháng 10: tài-liệu hướng-dẫn học-tập cấp II," khoảng 1958-1959, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số

20.184.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 82 [email protected]

Việc các lực lượng địa phương liên kết với chánh quyền Bảo Đại và Việt Minh phản ánh tình hình chánh

trị và quân sự chia rẽ phức tạp tại miền Nam những năm 1950. Tuy nắm giữ một số địa phương nhứt

định, không phe phái nào đủ mạnh để kiểm soát toàn bộ miền Nam. Tình trạng này dẫn đến hàng loạt

những liên minh lỏng lẻo, tạm thời: các lực lượng địa phương khi thì hoà Pháp để đánh Việt Minh, khi thì

lại bắt tay với Việt Minh để đánh Pháp, hoặc đánh lẫn nhau. Các tài liệu tuyên truyền của VNCH đơn giản

hoá tình trạng rối ren này với những lời xuyên tạc như cộng sản đã "võ trang phong kiến để duy trì tình

trạng bị trị và hỗn loạn,"245 hay "Việt-Cộng cấu kết với Thực-Dân, chia rẽ giáo phái xúi giục phiến-loạn

nêu bao cuộc đổ máu làm cho bao nhiêu đồng bào bị chết nạn, nhà cửa đồ-đạc bị thiêu huỷ."246 Trong

thời chiến, lực lượng Bình Xuyên trúng thầu quản lý sòng bài Đại Thế giới nhờ sự can thiệp của Bảo Đại,

rồi còn được Pháp giao quyền trông coi Tổng nha Cảnh sát Công an. Theo tuyên truyền của VNCH, việc

Bình Xuyên, Hoà Hảo, Cao Đài có quan hệ mật thiết với các kẻ thù quốc gia là cộng sản và Pháp đã khiến

các lực lượng địa phương này mất uy tín với đồng bào.247

Hẳn không phải là vô tình mà chánh phủ thường gán tội "phiến loạn" cho các lực lượng đối lập,248 và so

sánh các lực lượng này với thời Thập Nhị Sứ quân vào thế kỷ mười. Chẳng hạn, để mô tả tình hình miền

Nam năm 1954, có sách viết, "chế-độ Sứ-Quân do Thực-Dân nuôi-dưỡng đang reo-rắc biết bao tang-tóc

đau thương."249 Tài liệu tuyên truyền của Bộ Ngoại giao còn hùng hồn hơn: Thời (1954) ấy, "an-ninh

chưa được vãn hồi... đảng phái dầy xéo non sông, tranh giành ảnh hưởng, chiếm đóng từng vùng, xưng

hùng xưng bá, không khác thời kỳ Thập Nhị Sứ Quân ngày xưa."250 Những hình ảnh về giặc loạn cổ xưa

như vậy gợi liên tưởng về bản chất của các lực lượng "phiến loạn" là phong kiến lạc hậu, chỉ mang tính

chất địa phương, không phù hợp với nhu cầu chính trị hiện đại và không đủ tầm vóc lãnh đạo đất nước.

Gột rửa "tàn tích thực phong"

Chủ trương "bài phong, đả thực, diệt cộng" của VNCH không chỉ nhằm tấn công các thế lực đối lập cụ

thể (cộng sản, Pháp và các lực lượng địa phương), mà còn phê phán các chính sách xã hội Việt Nam thời

Pháp thuộc, thời QGVN, ở vùng Việt Minh và tại VNDCCH. Đặc điểm chung của các chế độ này là đều

thiếu tự do, dân chủ và công bằng xã hội. Theo tài liệu học tập chính trị của VNCH, xã hội Việt Nam thời

thuộc địa thậm chí hầu như không có luật pháp, "...bọn thực dân nắm toàn quyền định đoạt, bắt dân

sống phải sống chết phải chết."251 Trong khi đó, bộ máy giáo dục lại chỉ tuyên truyền cho chủ nghĩa thực

dân. Tại Đại hội Văn hoá toàn quốc 1957, dân biểu Quốc hội Nguyễn Thiệu đọc diễn văn tố cáo Pháp

"dạy dân ta yêu mẫu quốc, đề cao thứ luật pháp đàn áp những nhà ái quốc có ý chí giải phóng đất

245 Tại sao chống cộng? (Sàigòn: Văn hữu Á châu, 1960), tr. 42. Văn hữu Á châu là cơ quan xuất bản của Văn hoá

Vụ trực thuộc Bộ Thông tin. Đến cuối năm 1960, bộ phận thông tin trong Bộ Thông tin và Thanh niên được sáp nhập

vào Phủ Tổng thống; Văn hoá Vụ cũng được dời theo.

246 Thành tích Tố Cộng, tr. 41.

247 Các nhóm chống đối Ngô Đình Diệm lập luận ngược lại. Theo họ, chính những hành động độc tài của ông đã cô

lập các giáo phái, buộc họ phải liên minh với Việt Minh. Trong bài "Cuộc thay đổi bắt đầu" trong Bản thông tin của

Đại Việt Quốc dân Đảng 4, ngày 22-2-1956, một tác giả vô danh đã chỉ trích chánh sách của Ngô Đình Diệm: "Nếu

Ngô-đình-Diệm tạo nổi một chính-sách có uy-tín, thì đã hợp-nhất được các lực-lượng quốc-gia và thống-nhất được

quân-đội giáo-phái để bắt dầu cuộc chống Cộng và kiến-thiết ngay từ hồi đầu năm 1955." Nhưng ngược lại, ông đã

"đẩy những giáo-phái vào một cuộc liên minh với Việt-Minh." ("Cuộc thay đổi bắt đầu," Bản Thông-tin của Đại-Việt

Quốc-dân-đảng 4 [22-2-1956], do đài Phát-thanh Đại-Việt ấn-hành, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 4.350).

248 Để biết thêm về việc ám chỉ các lực lượng Bình Xuyên, Hoà Hảo và Cao Đài là "phiến loạn," xem "Thân-thế và sự-

nghiệp Tổng-thống Ngô Đình Diệm," không đề ngày tháng, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 893; "Lịch-sử Ngày 26 tháng

10," khoảng 1958-1959, ĐICH 20.184.

249 "Thân-thế và sự-nghiệp tổng-thống Ngô Đình Diệm," không đề ngày tháng, ĐICH 893.

250 "Hoạt-động của Bộ Ngoại-giao," Hồ sơ thành tích hoạt động 9 năm của Chính phủ từ ngày 7-7-1954-7-7-1963,

khoảng 9-8-1963, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 565.

251 "Dẫn ý bài nói truyện ý nghĩa mục đích của cuộc Tổng tuyển cử Quốc Hội," khoảng 1956, ĐICH 733.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 83 [email protected]

nước."252 Nguyễn Thiệu cho rằng nền giáo dục thực dân này củng cố cho sự bất bình đẳng xã hội bằng

cách truyền bá những giá trị lỗi thời, "đề cao nề nếp tôn ty trật tự lạc hậu của Xã-hội phong kiến cũ,

đồng thời mơn trớn tay sai phong kiến và duy trì bất công Xã hội, thực hiện chia rẽ giai cấp để dễ cai

trị."253 Quốc sách Ấp chiến lược, do Nha Chiến tranh Tâm lý xuất bản vào đầu thập niên 60, cũng đưa ra

lập luận tương tự, rằng sự nuôi dưỡng tư tưởng giai cấp là một thủ đoạn chánh trị của thuộc địa Pháp:

"Xét cho kỹ thì đây chỉ là chủ trương 'chia để trị'của thực dân: các giai tầng xã hội có chia rẽ nhau về

quyền-lợi ích-kỷ, về địa-vị cá nhân thì chánh-sách thống-trị của thực-dân mới kiến-hiệu."254

Do đó, sau khi loại trừ thành công ảnh hưởng chính trị của Pháp và các lực lượng địa phương, chánh

quyền hướng tới mục tiêu xoá bỏ vết tích văn hoá của chế độ cũ, một công việc không kém phần nan

giải, vì nước Việt "chưa gột rửa hết tàn tích Thực Phong."255 Thậm chí mãi cho đến năm 1960, vị tổng

thống họ Ngô vẫn kêu gọi dân chúng cải biến "xã hội còn tàn tích Phong Thực Cộng."256 Vậy "tàn tích" ấy

gồm những gì? Theo chánh quyền, chúng là sản phẩm của một nền văn hoá ngoại lai và xã hội phong

kiến lỗi thời, bao gồm ham muốn tiền bạc và thế lực, tánh tàn bạo và tinh thần chuyên chế, văn hoá đồi

truỵ hưởng thụ, và tư tưởng vong bản, khiến cho nhiều người Việt thời Pháp quên mất nhiệm vụ cứu

nước và phản lại văn hoá truyền thống. Như Quốc sách Ấp chiến lược vạch rõ, những bất công xã hội

thời trước "hoàn-toàn căn-cứ trên các yếu-tố ngoại lai: tiền tài và quyền thế."257 Theo chánh quyền, tác

hại của lòng ham muốn quyền lực, tiền tài, say mê tửu sắc là sao lãng trách nhiệm quốc gia và văn hoá

dân tộc. Vì ham tiền bạc và thế lực, nhiều người đã "chà đạp đạo lý cổ truyền và đang tâm hy sinh quyền

lợi chung của toàn dân cho quyền lợi ích-kỷ của mình," - thí dụ việc Hoàng Cao Khải giúp Pháp bắt Phan

Đình Phùng.258 Tương tự, tại Đại hội Văn hoá, Nguyễn Thiệu cũng tố cáo giáo dục thuộc địa đã "truỵ lạc

hoá thanh niên để thanh niên mê ly với tiền tài, danh vọng và ái tình; tôn sùng những cái gì thuộc mẫu

quốc, coi nhẹ quê hương đất tổ, chôn vùi quốc hận."259 Có lẽ chánh quyền cho rằng thanh niên Việt nếu

không bị những cám dỗ thấp hèn lối cuốn, thì đã sớm nhận thức được nhiệm vụ giải phóng tổ quốc khỏi

ách thuộc địa.

Ta có thể thấy rõ mối quan ngại của chánh quyền về ảnh hưởng văn hoá "thực, phong" qua việc kiểm

duyệt văn hoá phẩm được áp dụng vào thời đó. Theo một bản "nguyên tắc kiểm duyệt", các tác phẩm có

khuynh hướng đế quốc, thực dân thường "cổ võ tinh-thần thống trị (tinh thần sức mạnh, đàn áp, độc tài,

phản tự-do)," "gieo rắc lòng tàn nhẫn, tính bạo sát trong lòng quần chúng," hay "ca tụng phong kiến,

quyền uy." Để minh hoạ cho đặc tính "ca tụng phong kiến," bản hướng dẫn này đưa ra thí dụ:

...những bản tuồng cải lương, vọng cổ lấy các chuyện vua quan, công hầu, khanh tướng làm tích

hát, nhằm gây tư tưởng hống-hách, sợ sệt, khúm núm làm hèn nhân cách, chỉ có lợi cho nền

móng thống trị (loại sản phẩm nầy một cách vô tình hoặc vô ý thức đã cũng cố [sic] cho cơ thể

chế-độ phong-kiến).260

252 Việt Nam Thông tấn Xã (VTX), "Quan niệm về giáo dục dưới chính thể Cộng hoà hiện tại," Mục Nghiên cứu và tài

liệu, Bản tin Việt Nam Thông tấn xã 2145 (chiều 14-1-1957): tr. XX-XIII, trích tr. XXIII, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số

16.366.

253 VTX, "Quan niệm về giáo dục dưới chính thể Cộng Hoà hiện tại," Mục Nghiên cứu và tài liệu, Bản tin VTX 2146

(chiều 16-1-1957): tr. XIV-XVI, trích tr. XIV, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 16.366.

254 Quốc sách Ấp chiến lược: Tài liệu hướng dẫn học tập dành riêng cho sĩ quan thuyết trình viên ([Saigon?]: Nha

Chiến tranh Tâm lý, Bộ Quốc phòng, 1963), tr. 148.

255 Tại sao chống cộng?, 46.

256 Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Nhân vị, cộng đồng, đồng tiến, quyển VI (Sàigòn: Nha Tổng Giám đốc

Thông tin, 1960), tr. 94.

257 Quốc sách Ấp chiến lược, 147.

258 Quốc sách Ấp chiến lược, tr. 147.

259 "Quan niệm về giáo dục dưới chính thể cộng hoà hiện tại," Bản tin VTX 2145 (chiều 14-1-1957): tr. XXIII, ĐICH

16.366.

260 Người viết chưa xác định được xuất xứ và tác giả của bản nguyên tắc này, nhưng có lẽ nó thuộc Nha Tổng Giám

Đốc Thông tin. "Những nguyên tắc kiểm duyệt," khoảng 1961, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 17.475.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 84 [email protected]

Kiểm duyệt viên chánh phủ cũng được chỉ thị rằng: "Những tác phẩm tuyên-truyền cho đế quốc, thực

dân là những tác phẩm ít, nhiều, gián tiếp hoặc trực tiếp cổ động hưởng lạc, sống trước đã," nhứt là

những văn hoá phẩm nhằm vào lớp thanh niên,261 do đó phải cảnh giác đặc biệt về loại tác phẩm "cổ võ

chủ-trương phá bỏ, lũng đoạn, đồi truỵ văn-hoá dân-tộc" vì "chủ trương này ẩn dấu dưới nhiều hình

thức: tư tưởng vong bản, a-dua, bắt một cách vô ý-thức những mẫu mực ngoại bang. Hoặc trực tiếp

hơn, [nó] gieo rắc mầm mống thối nát, ngoại lai nhằm đào tạo một lớp thanh-niên" vọng ngoại. Loại tác

phẩm này còn có thể "gây tư trào xấu trong xã hội, bất lợi hoặc phản lại văn-hoá dân-tộc (những tư trào

này thường bắt nguồn từ văn chương nghệ thuật, nếp sống ngoại quốc có tác dụng dìm chết nếp sống,

nhân sinh quan dân-tộc)."262 Chánh phủ lo sợ văn hoá phẩm sẽ có khả năng biến những thanh niên

thuần tuý Việt Nam thành những người mất gốc. Không những vậy, theo chánh phủ, nền văn hoá

"phong, thực" này cũng là nguyên nhân gây ra các tệ đoan xã hội như bài bạc, đĩ điếm, truỵ lạc:

Ngay tại thủ-đô Sàigòn, sòng bạc Kim-Chung và Đại Thế-Giới mở cửa thâu đêm, người ra vào lũlượt,

tấp-nập. Trên các đại-lộ trong khu Pháp chiếm đóng cùng nơi xóm Bình-Khang, lúc nào

cũng nhộn-nhịp những mặt hoa da phấn, quần bóng vẻ, áo hở lườn. 'Sàigòn cờ bạc,' 'Sàigòn đĩđiếm'

là những sãn-phẫm [sic] của Thực-Dân, cố kết với Phong-Kiến để tạo nên.263

Một số tài liệu tuyên truyền cũng cho rằng việc reo rắc những tệ nạn này có cả bàn tay tham dự của

cộng sản: "Việt-Cộng và Thực-dân vẫn âm mưu phá hoại nền kinh tế và văn hoá Quốc-gia. Chúng cho tải

thuốc phiên lậu từ Trung-Quốc theo miền duyên hải vào miền nam Việt Nam để đầu độc nhân dân ta."264

Vì thế, chánh phủ quyết định phát động chiến dịch "bài trừ tứ đổ tường" vào năm 1956, đóng cửa các

tiệm mãi dâm, sòng bạc.265 Kết quả của chiến dịch này là: "sự đầu độc tư tưởng truỵ lạc lãng mạn của

thực-dân bị tẩy trừ một cách triệt để."266

Bảng liệt kê tội lỗi của cộng sản

Nếu tội lỗi của "thực, phong" đã nhiều, thì dưới mắt chánh quyền VNCH, tội lỗi của cộng sản là vô kể.

Những chỉ trích, tố cáo của chánh quyền về chế độ Việt Minh và VNDCCH có thể phân thành 4 loại.

1. Phản bội kháng chiến: Việt Minh đã lợi dụng kháng chiến và phản bội mục tiêu chánh của cuộc đấu

tranh giành độc lập.

2. Gia nhập hệ thống quốc tế của các quốc gia cộng sản: Thay vì thực hiện nguyện vọng của kháng

chiến, chánh quyền VNDCCH đã sáp nhập vào "đế quốc đỏ."

3. Thiếu dân chủ: Chánh phủ miền Bắc độc tài, thiếu tự do dân chủ; nhân dân miền Bắc đói khổ do

chánh sách kinh tế khắc nghiệt của đảng. Chánh quyền VNCH đặc biệt phản đối sự đàn áp quyền tự do

tư tưởng.

4. Chủ nghĩa sai lầm: Tất cả những tội lỗi của cộng sản bắt nguồn từ ý thức hệ ngoại lai, phi nhân bản.

Kết hợp những tội lỗi trên, VNCH lên án cộng sản Việt Nam đã phản bội dân tộc.

261 "Những nguyên tắc kiểm duyệt," khoảng 1961, ĐICH 17.475.

262 "Những nguyên tắc kiểm duyệt," khoảng 1961, ĐICH 17.475.

263 Tác giả của tập tài liệu này không xác định được. "Thân-thế và sự-nghiệp Tổng thống Ngô Đình Diệm," không đề

ngày tháng, ĐICH 893.

264 Thành tích Tố Cộng, tr. 81.

265 Tác giả tiểu luận này chưa tìm được tài liệu xác nhận sự tham gia của Việt Minh trong những hoạt động kinh tế

như sòng bài, mãi dâm, hoặc buôn thuốc phiện. Nhưng, ngoài vấn đề luân lý, có lẽ chiến dịch "bài trừ tứ đổ tường"

của chánh phủ cũng nhằm đánh vào cơ sở kinh tài của đối thủ. Thành tích Tố Cộng, tr. 81.

266 Thành tích Tố Cộng, tr. 81.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 85 [email protected]

1. Phản bội kháng chiến

Trong các hiệu triệu, thông cáo, diễn văn, v.v..., Ngô Đình Diệm thường nhắc tới sự phản bội của Việt

Minh, chẳng hạn như "Việt-Cộng lợi-dụng lòng ái-quốc," "Việt-cộng đã phản lại quyền-lợi của Tổ-quốc,"

"lợi dụng công nghiệp của những người kháng chiến..."267 Nhân dịp Tết Bính Thân năm 1956, ông tưởng

nhớ những phần tử kháng chiến đã khuất và liên kết nỗi thương tiếc của mình với lòng căm phẫn trước

sự "phản bội" của cộng sản:

Làm sao ngăn cản được nỗi phẫn uất khi nghĩ đến những chiến-sĩ quốc-gia đã đem máu đào

nhuộm non sông từ ải Nam-Quan đến mũi Cà-Mau, nhưng những sự hy-sinh đó đã bị Việt-Minh

Cộng-Sản lợi dụng choán-đoạt và phản-bội.268

Tội phản bội này gồm hai mặt: thứ nhứt, Việt Minh đã che giấu khuynh hướng cộng sản và hãm hại

những phần tử kháng chiến thuộc các đảng phái khác; thứ nhì, Việt Minh đã phủ nhận mục tiêu của

kháng chiến là độc lập và thống nhứt quốc gia. Diễn văn nhân dịp Tết 1955 của tổng thống nhấn mạnh,

Giả sử không vì bội lời hứa, lợi-dụng tinh-thần ái-quốc và sức tranh-đấu của toàn dân... thì cuộc

đoàn-kết thiêng-liêng năm 1945-1946 đâu đến nỗi tan-tành, phong-trào giải-phóng đất nước đâu

đến nỗi lạc hướng.269

Theo quan điểm của chánh quyền, cuộc kháng chiến là công lao của nhiều đảng phái, của mọi người dân

Việt Nam. Việt Minh lấy danh nghĩa kết hợp tất cả các phần tử chống Pháp, nhưng trên thực tế lại là mặt

trận của đảng cộng sản. Sau một thời gian hợp tác, đảng cộng sản đã tiêu diệt những đảng phái khác,

thanh trừng nhiều người trong những tổ chức mà họ điều khiển.270 Chính hành động chia rẽ này của

cộng sản đã phản lại tinh thần đoàn kết của toàn dân. Không những thế, cộng sản còn chia rẽ giai cấp.

Theo Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, do Phòng Nghiêm huấn Nha Thông tin Trung Việt

xuất bản năm 1955, thì:

Năm 1945, tất cả già trẻ trai gái ai nấy đều đứng dậy đánh Pháp đuổi Nhật, thế mà về sau họ

[cộng sản] phân ra thành phần nầy, giai cấp nọ để loại lần ra khỏi uỷ ban, khỏi hội đồng, để cho

những đảng viên Cộng-sản chính cống độc quyền. Thử hỏi ai giành Độc-lập cho họ mà sau nầy

họ lại truất uy thế chính-trị, kinh-tế của người ta. [...] Quả là bọn Cộng-sản đã lợi dụng đồng-bào

ta chứ không có tình đoàn kết gì cả.271

267 "Việt-Cộng lợi-dụng...": Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Độc lập, dân chủ, quyển IV (Sàigòn: Bộ Thông

tin và Thanh niên, 1958), tr. 5; "Việt-Cộng đã phản lại quyền-lợi của Tổ-quốc": Con đường chính nghĩa IV, tr. 6; "lợi

dụng công nhiệp...": Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Nhân vị, Cộng đồng, đồng tiến, quyển V (Sàigòn: Bộ

Thông tin, 1959), tr. 39.

268 Con đường chính nghĩa II, tr. 21.

269 Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Độc lập, dân chủ, quyển I (Sàigòn: Sở Báo chí Thông tin, Phủ Thủ

tướng, 1955), tr. 32.

270 Lịch sử tranh chấp giữa các đảng phái kháng Pháp thời chiến tranh Việt-Pháp chưa nhận được sự chú ý của giới

hàn lâm, do đó hiện thời chưa thể xác định được một cách chi tiết về những mặt trận, liên minh, những cuộc thanh

trừng... Nhưng qua những tài liệu đã được công bố (kể cả dưới dạng hồi ký), ít nhứt ta cũng có thể thấy được một

vài điểm tổng quát: các đảng phái chống Pháp thường chống đối, tiêu diệt lẫn nhau, tranh giành vai trò lãnh đạo

quốc gia; Việt Minh là một tổ chức mặt trận do Đảng Cộng sản Đông Dương (đã giải tán) lãnh đạo; dù (buộc phải)

liên minh với các đảng phái khác, phe cộng sản nắm những chức vụ then chốt. Tuy kháng chiến thu hút nhiều người,

không phải "toàn dân" hay "mọi người" dân Việt Nam đều tham gia phong trào này như trong tuyên truyền chính

thống thường nói.

271 Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam ([Huế?]: Phòng Nghiêm huấn, Nha Thông tin Trung Việt, 1955), tr.

5.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 86 [email protected]

Theo tác giả cuốn sách này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hành động vì quyền lợi riêng thay vì quyền lợi

dân tộc, ký hiệp ước với Pháp "vào năm 1946, để rảnh tay tiêu diệt những phần tử Quốc gia chân chính

trong các vụ Ôn-như-Hầu ở Bắc, cầu Chiêm-sơn ở Quảng-Nam."272

Tương tự, khi bàn về tranh chấp giữa các đảng phái chống Pháp thời kỳ 1945-1946,

Những mặt trận bịp bợm của cộng sản tố cáo việc cộng sản núp đằng sau các mặt trận, che giấu khuynh

hướng chánh trị (cộng sản), để thu hút đồng bào một cách giả dối: "Cũng tháng 5 năm đó [1945], mặt

trận Việt-Minh mở rộng thành mặt trận Liên-Việt trong đó Cộng-sản nắm những địa-vị then chốt, mụcđích

để thu hút những ai đã tỏ ý nghi ngờ màu sắc chính-trị của chúng."273 Tuy liên kết với các đảng

khác, cộng sản không hề thành thật hợp tác, mà chỉ chờ cơ hội giết hại đồng minh:

Trong khi tạm thời bắt tay với Pháp bằng hiệp-định sơ-bộ 6/3 [1946], Cộng-sản liền ra tay

khủng-bố các đảng phái Quốc-Gia, vì từ đó không còn có sự giúp đỡ của Quân-Đội Trung-Hoa

Quốc-Gia nữa... Cộng-sản đã gây ra cảnh cốt nhục tương tàn, sát hại không biết bao nhiêu

chiến-sĩ Quốc-Gia khiến các lãnh-tụ lại một phen phải xuất ngoại.274

Đảng phái nào không bị tiêu diệt đều phải phục tùng cộng sản275, chẳng hạn như "đảng Dân-chủ, đảng

cùng Cộng-sản gia nhập đầu tiên trong mặt trận Việt-Minh thì Cộng-sản cho người len lỏi vào để chi phối

đến nỗi không còn một chút chủ-quyền nào hết."276

Để cổ võ và khuyến khích dân chúng truyền bá quan điểm chánh thức về sự phản bội của cộng sản,

chánh quyền tổ chức nhiều cuộc thi văn nghệ nhằm vinh danh các tác phẩm có thái độ chánh trị thích

hợp. Chẳng hạn, năm 1956, Bộ Thông tin và Thanh niên tổ chức cuộc thi văn nghệ Tố cộng. Trong số

các tác phẩm trúng giải thưởng, có Mặt trận Tổ Quốc: Một chiến thuật sảo quyệt của Việt Minh Cộng Sản

của Trần Ích Quốc. Theo tác giả này, các đảng phái đã cùng hợp tác trong Mặt trận Việt Minh lúc còn ở

Trung Quốc và đồng thoả thuận sẽ chia sẻ quyền hành; nhưng khi về nước, cộng sản lại cướp chánh

quyền, rồi từ từ thủ tiêu các đảng khác.277 Trần Ích Quốc nêu đích danh những nhân vật lãnh đạo của

các đảng phái bị giết hại và việc Đảng Dân chủ biến thành "đảng bù nhìn."278 Một tác phẩm khác được

chánh quyền khen thưởng là quyển tự thuật, Thanh niên quốc gia dưới ách cộng sản của Nhị Hùng, kể lại

cuộc đời của bạn tác giả, một tín đồ Thiên Chúa giáo gia nhập tổ chức Việt Minh. Vì bất mãn với đường

lối của Việt Minh, người bạn này liên lạc với những phần tử "quốc gia," rồi bị bỏ tù, và cuối cùng bị bắn

chết trên đường di cư vào Nam.279

272 Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, tr. 5.

273 Những mặt trận bịp bợm của cộng sản ([Sàigòn?]: Bộ Thông tin và Thanh niên, 1956), tr. 57.

274 -nt-

275 VNCH khai thác tranh chấp giữa các đảng phái, nhưng lại không nhắc đến một sự kiện khác: sau khi khối đoàn

kết năm 1945 bị tan rã, các đảng phái quốc gia không theo cộng sản bị tiêu diệt không còn lựa chọn nào khác ngoài

việc liên minh với n QGVN, một chánh quyền hợp tác với Pháp và thường bị chế độ lên án trong mục tiêu "bài

phong."

276 -nt-

277 Trần Ích Quốc, Mặt trận Tổ Quốc: Một chiến thuật sảo quyệt của Việt Minh Cộng Sản (Sàigòn: tác giả giữ bản

quyền, 1957), tr. 103-104.

278 Trần Ích Quốc, tr. 103-107. Người viết không xác định được là Trần Ích Quốc đã dự thi môn nào. Có lẽ cuộc thi

văn nghệ này là do chiến dịch Tố cộng tổ chức. Quyển Thành tích Tố Cộng có cho biết rằng, vào đợt ba của giai

đoạn thứ nhứt của chiến dịch, "những cuộc thi-đua sáng-tác văn-nghệ đã rầm rộ phát-động khắp nơi, làm động-lực

thúc-đẩy cho nhiều phong-trào thi-đua xây-dựng khác," nhưng không liệt kê các tác phẩm trúng giải (Thành tích Tố

Cộng, 81).

279 Đây là cuộc thi văn hoá toàn quốc do Văn hoá Vụ tổ chức. Nhị Hùng thắng giải khuyến khích môn văn (;không có

tác phẩm thắng giải nhứt, nhì, tam, chỉ có giải khuyến khích). Không rõ cuộc thi này có phải cùng cuộc thi đã công

nhận tác phẩm của Trần Ích Quốc hay không. Nhị Hùng, Thanh niên quốc gia dưới ách cộng sản (Sàigòn: tác giả giữ

bản quyền, 1956); VTX, "Lễ khánh thành Phòng Liên lạc của Đại hội Văn hoá toàn quốc," Bản tin VTX 2088 (chiều

18-11-1956): tr. IV-VII, trích tr. VII, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 16.035.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 87 [email protected]

Đồng thời với việc cổ võ cho văn học nghệ thuật theo đường lối chánh phủ, VNCH cũng kiểm duyệt các

tác phẩm có quan điểm "lệch lạc" với những chỉ dẫn chi tiết về văn hoá phẩm miêu tả cuộc chiến tranh

Việt Pháp. Kiểm duyệt viên phải hết sức dè dặt, phát hiện và kiểm duyệt những sách báo, phim ảnh gián

tiếp ủng hộ, tuyên truyền cho cộng sản bằng cách "ca ngợi cuộc kháng chiến 45" mà "không nhắc tới sự

có mặt của các đoàn-thể quốc-gia đã góp sức (mà cũng bị Cộng-sản tước đoạt)[,] cũng nhưng không hề

nhắc tới những tội ác của Cộng-sản (đấu-tố, dân công)."280 Nhưng ngược lại, "nếu một tác phẩm đề cao

tinh-thần kháng chiến của dân tộc để khích lệ nhân dân đấu tranh chống Cộng-sản phản bội kháng chiến

thì ta cho lưu hành sau khi đã bỏ bớt những chi tiết có thể gây ngộ nhận hay có lợi cho cộng-sản."281

Ngoài việc cho phép phổ biến các tác phẩm ca ngợi kháng chiến mà lại chống cộng đúng đương lối quốc

gia như Thanh niên quốc gia dưới ách cộng sản, chánh quyền VNCH cũng chấp nhận những tác phẩm

tuy phổ biến tư tưởng cộng sản, nhưng với mục đích chống cộng:

Những sản phẩm phóng tác, trích dẫn, dịch thuật hoặc nguyên bản tác phẩm của văn nghệ sĩ

Cộng-sản (có tính chất đối kháng nhà cầm quyền Cộng-sản), thì ta cho phổ biến sau khi đã điều

tra lý lịch về nhân vật xin giấy phép xuất bản.282

Dựa trên nguyên tắc đó, những quyển như Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, hay Phan Khôi và cuộc đấu

tranh tư tưởng ở miền Bắc đã được xuất bản ở miền Nam thời kỳ này.283

Không những phản bội đồng minh, cộng sản còn phản bội cả hai mục tiêu chánh của kháng chiến khi ký

hiệp định Genève: vì một quốc gia Việt Nam thống nhứt và độc lập. VNCH cho rằng Việt Minh đồng ý việc

chia đôi đất nước vì theo ý muốn của Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô) và Cộng

hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH).284 Theo Thành tích Tố Cộng, "Việt-Cộng trung-thành theo chỉ-thị

của bọn đế-quốc trá hình Nga-Sô, Trung-Cộng, đã bắt tay với Thực-dân ký-kết hiệp-định Genève chia đôi

đất nước để cùng mưu lợi riêng."285 Tài liệu học tập của Bộ Thông tin về tuyên cáo của chánh phủ ngày

26 tháng 4 năm 1958 cũng chia sẻ quan điểm này: "Việt-cộng đã tuân theo mệnh-lệnh Nga, Tàu ký hiệpđịnh

bán nước tại hội-nghị Genève," đã "chống đế-quốc Pháp nhưng lại rước đế-quốc cộng-sản Nga-sô

và Trung-cộng vào thống-trị miền Bắc Việt-Nam"286 và vì vậy "...đã phản-bội kháng chiến, không giảiphóng

dân-tộc mà còn thắt dân-tộc vào vòng nô-lệ cộng-sản ngoại-bang dưới một chế-độ độc tài."287 Mãi

đến năm 1962, vai trò của Liên Xô và CHNDTH vẫn tiếp tục được đề cập đến trong tài liệu học tập cho

nhân viên chánh quyền. Theo tài liệu, Liên Xô và CHNDTH đều muốn ngưng chiến, nên Việt Minh đã

đồng ý vì lệ thuộc vào viện trợ của hai quốc gia kia:

Vậy nên, Nga Tàu đã ép Việt-cộng phải ký hiệp định Genève chia đôi đất nước... Ký hiệp định

Genève cùng thực dân Pháp để chia đôi đất nước vì quyền lợi Đảng và quyền lợi Cộng-sản Quốctế,

Việt-cộng đã phản bội kháng chiến, đã phá hoại nền thống nhất lãnh thổ, gây nên trạng

huống đau đớn ngày nay.288

280 "Những nguyên tắc kiểm duyệt," khoảng 1961, ĐICH 17.475.

281 -nt-

282 "Những nguyên tắc kiểm duyệt," khoảng 1961, ĐICH 17.475. Những chữ in đậm trong nguyên bản được gạch

dưới, và được đổi thành in đậm theo nguyên tắc biên tập của talawas.

283 Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Sàigòn: Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá, 1959); Phan Khôi và cuộc đấu tranh tư

tưởng ở miền Bắc (Sàigòn: Ủy ban Trung ương chống chính sách nô dịch văn hoá và đàn áp văn nghệ sĩ trí thức sinh

viên miền Bắc, 1961).

284 Vào thời điểm năm 1954, các cường quốc cộng sản chủ hoà và khuyên Việt Minh chấp nhận chia đôi lãnh thổ.

Đây cũng là nguồn gốc của sự xung đột giữa CHNDTH và VNDCCH sau này. Xem Qiang Zhai, China and the Vietnam

Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2000).

285 Thành tích Tố Cộng, tr. 35.

286 "Để hiểu rõ bản Tuyên cáo ngày 26-4-1958," tr. 22, 24.

287 "Để hiểu rõ bản Tuyên cáo ngày 26-4-1958," tr. 25.

288 ĐLVP Phủ Tổng thống, Trưởng ban Hướng dẫn Học tập, gởi các học hội, cơ quan trực thuộc Phủ Tổng thống ngày

2-8-1962 chuyển tài liệu học tập về vấn đề thống nhứt lãnh thổ (không mã số), TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 22.451.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 88 [email protected]

Trên thực tế, đúng là Liên Xô và CHNDTH đã làm áp lực, buộc Việt Minh chấp nhận việc chia đôi lãnh

thổ, trái với ý muốn của phái đoàn Việt Minh. Tuy nhiên, lập luận của VNCH lại cố tình bỏ sót một điểm

quan trọng. Dù sử dụng thủ đoạn gian xảo, dù thẳng tay thanh trừng các thành phần chống đối, tại thời

điểm đó, Việt Minh vẫn là lực lượng Việt Nam duy nhứt có khả năng giao chiến với Pháp, ép Pháp vào tư

thế hoà đàm. Trong khi ấy, nhiều đảng phái, vì thiếu thế lực sau những cuộc thủ tiêu đã bỏ mặt trận,

theo QGVN mà hợp tác với Pháp (hoặc bỏ về thành, chọn thái độ "trùm chăn"), nên không có quyền đàm

phán tại Genève.

2. Gia nhập hệ thống quốc tế của các quốc gia cộng sản

Theo quan điểm của chánh quyền VNCH, hậu quả của hiệp định Genève là Việt Nam bị tước mất chủ

quyền quốc gia, đi ngược lại mục tiêu độc lập của cuộc kháng chiến; đồng thời, VNDCCH đã hoàn toàn

sáp nhập vào khối cộng sản quốc tế. Mọi tài liệu học tập, tuyên truyền và các tuyên bố chính thức của

chánh phủ đều lên án VNDCCH là "chư-hầu của Nga-sô," "tôi tớ chọ bọn lưu manh quốc-tế," "lệ-thuộc

vào hệ-thống Cộng-sản," "một phần lãnh-thổ lại rơi vào tay Đế-quốc-Đỏ... lôi-cuốn dân-tộc vào vòng lệ-

thuộc Nga-Sô Trung-Cộng," "tay sai cho ngoại bang, là Trung cộng, Nga sô," "tay sai đế quốc cộng-sản,

thực dân đỏ."289 Theo Tuyên cáo ngày 26 tháng 4 năm 1958 của VNCH về vấn đề thống nhứt lãnh thổ,

thì

sự giao-thiệp giữa các nhà đương-cuộc Hà-Nội và Nga-sô, Trung-cộng chỉ là những tương-quan

lệ-thuộc của một chư-hầu đối với đế-quốc cộng-sản, một cấp dưới đối với cấp trên trong hệ-

thống một đảng, đảng cộng-sản quốc-tế.290

Cuộc di cư năm 1954 được xem như một hành động phản đối việc lệ thuộc vào khối cộng sản. Nhân dịp

kỷ niệm đệ nhị chu niên di cư năm 1956, Ngô Đình Diệm tuyên bố:

Sở-dĩ có một phong-trào di-cư đông-đúc từ Bắc chí Nam... là vì từ hai năm nay trong thâm-tâm

của tất cả quốc-dân đồng-bào ta đã nhận-thức rằng bên cạnh một khối khổng-lồ Cộng-sản

Trung-Hoa, nếu dân Việt buông mình hoà-mình với khối Cộng-sản đó thì Việt-Nam yêu-quí của ta

không còn mối hy-vọng đóng vai lãnh-đạo nào ở Đông-Nam Á cả.291

Theo Ngô Đình Diệm, chính vì mong muốn thành lập một quốc gia độc lập có khả năng đóng vai trò trên

chính trường quốc tế, gần một triệu dân Bắc đã bỏ vào Nam. Đối với ông, hành động phản kháng đồng

hoá, chống lại tình trạng lệ thuộc này là nối tiếp truyền thống lịch sử của người Việt:

Đó là ý-nghĩa sâu-xa của cuộc di-cư vĩ-đại của anh em, đó là lý-tưởng động-lực tiềm-tàng thúcđẩy

dân ta từ mấy ngàn năm trên giải đất này để cùng nhau nắm giữ lấy cá-tính của dân-tộc và

thực-hiện cho kỳ được sứ-mạng của Tổ-tiên... Chính đây là một phong-trào dân-tộc, đúng với

đường lối lịch-sử của dân Việt.292

289 "Chư-hầu của Nga-sô": Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, tr. 3; "tôi tớ cho bọn lưu manh quốc-tế":

Con đường chính nghĩa II, tr. 104; "lệ-thuộc vào hệ-thống Cộng-sản": Con đường chính nghĩa IV, tr. 8; "một phần

lãnh-thổ lại rơi vào tay Đế-quốc-Đỏ...": Con đường chính nghĩa I, tr. 32; "tay sai cho ngoại bang là Trung cộng, Nga

sô": "Chánh-sách của Chánh-phủ Việt Nam Cộng Hoà đối với những người cựu kháng-chiến," 8-1959, TTLTQGII

ĐICH, hồ sơ số 22.451; "tay sai của đế quốc cộng-sản, thực dân đỏ...": Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa:

Nhân vị, cộng đồng, đồng tiến, quyển VII (Sàigòn: Nha Tổng Giám đốc Thông tin, 1961), tr. 28.

290 Con đường chính nghĩa IV, tr. 50.

291 Con đường chính nghĩa III (Sàigòn: Bộ Thông tin và Thanh niên, 1957), tr. 57-58.

292 Con đường chính nghĩa III, tr. 58.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 89 [email protected]

Để củng cố cho lập luận chống cộng, chánh phủ đưa ra những thí dụ cụ thể chứng minh sự lệ thuộc của

VNDCCH. Theo tài liệu học tập về Tuyên cáo ngày 26 tháng 4 năm 1958, Việt Minh đã đánh đổi độc lập

kinh tế để được sự giúp đỡ của CHNDTH về mặt quân sự:

Trung-cộng giao ước rằng Trung-cộng sẽ giúp Việt-cộng đánh thắng một trận thật lớn tại Điệnbiên-

phủ để làm hậu-thuẫn cho cuộc điều đình ngừng bắn. Như vậy, Việt-cộng phải dâng trọn

quyền kinh-tế miền Bắc cho Trung-cộng.293

Vì vậy, sau khi hoà bình lập lại, chánh quyền miền Bắc phải "ký hiệp-định trao các đường giao thông thuỷ

lục cho Trung-cộng và Trung-cộng đã đưa hàng vạn dân Tàu xuống chiếm đóng."294 Quyển Tại sao

chống cộng? còn tố cáo việc chánh quyền VNDCCH cố gắng phổ biến tập quán Trung Hoa, dạy dân

chúng tôn kính lãnh tụ CHNDTH bằng cách "bắt nhân dân phải bắt chước Nga sô và Trung Cộng trong

đời sống riêng tư hàng ngày, tỉ dụ như bắt nhân dân 'học tập tác phong Mao chủ tịch', phục sức theo

kiểu Trung Cộng, từ bộ 'áo đại quan' đến lối thiếu nữ tết tóc đuôi sam."295 Thậm chí đến ngôn ngữ cũng

bị đồng hoá: "Việt Cộng cũng bắt đầu dùng những tiếng Trung Cộng, mặc dầu đã có sẵn những tiếng

Việt cùng một nghĩa."296 Tuyên cáo ngày 26 tháng 4 năm 1958 của VNCH cũng liệt kê các hành động

tương tự: "Ở Bắc-phần, các nhà đương-cuộc bắt dân-chúng phải thờ phụng, treo hình ảnh các lãnh-tụ

Nga-sô, Trung-cộng, tổ-chức kỷ-niệm những ngày lễ của Nga-sô, cấm không ai được chỉ-trích chủ-nghĩa

cộng-sản, Chánh-phủ và lãnh-tụ các nước ấy."297 Tại nhà trường, thầy cô dạy học sinh ngưỡng mộ các

cường quốc cộng sản và chủ nghĩa cộng sản, "... ca tụng Nga-sô, sùng bái thuyết duy vật của Mác,

Lê."298 Trong khi đó, "Ở Việt-Nam Cộng-Hoà, không ai bị bó buộc treo hình-ảnh và tôn sùng các lãnh-tụ

ngoại-quốc và cũng không ai có thể nghĩ đến một sự lạ lùng như vậy."299

Trong quan niệm của chánh quyền VNCH, một khi VNDCCH gia nhập hệ thống cộng sản quốc tế, tất cả

chánh sách của miền Bắc sẽ phải rập khuôn theo chánh sách của các nước cộng sản đàn anh, và vì vậy,

ắt dẫn tới tình trạng người dân bất mãn và sẽ phản kháng như ở Đông Âu. Năm 1956, cuộc nổi dậy tại

Hung Gia Lợi và biểu tình ở Ba Lan đã gây chấn động trong dư luận thế giới. Tại VNDCCH, chánh quyền

đàn áp cuộc nổi dậy của người dân Quỳnh Lưu (Nghệ An) và đóng cửa các tờ Nhân văn, Giai phẩm vì đã

đăng bài chỉ trích lãnh đạo. Giá trị tuyên truyền của những sự kiện này được VNCH khai thác triệt để.

Ngày 6 tháng 11 năm 1956, chánh quyền đưa ra tuyên bố chính thức về hai cuộc biến động tại Đông

Âu.300 Ba ngày sau, nhân dịp khai mạc Quốc hội, Ngô Đình Diệm nhắc lại tình hình Đông Âu.301 Đến khi

có tin tức về vụ đàn áp cuộc nổi dậy tại Quỳnh Lưu, chánh quyền VNCH so sánh chánh sách của VNDCCH

với Hung Gia Lợi: "Bọn Việt-Cộng đã tỏ ra là chúng không kém gì bọn chủ chúng. Tại Bắc-Việt cũng như

tại Hung-Gia-Lợi, mạng người coi rẻ miễn là chế-độ cộng-sản toàn-thắng."302 Đầu năm 1957, nhân dịp

tiếp một phái đoàn sinh viên Hung từng tham dự cuộc nổi dậy sang thăm viếng VNCH, Ngô Đình Diệm

bày tỏ "... tình đoàn-kết của dân-tộc Việt-Nam đối với dân-tộc Hung-Gia-Lợi đang đau khổ và bị bóc

lột,"303 Ông thuật lại cuộc nổi dậy tại Quỳnh Lưu, khởi lên chỉ vài ngày sau cuộc cách mạng ở Hung, và

kết luận, "Đồng bào ngoài Bắc, cũng như nhân-dân Hung đòi phục-hồi sự tự-do và thành-lập một Chánh-

293 "Để hiểu rõ bản Tuyên cáo ngày 26-4-1958," tr. 26.

294 -nt-

295 Tại sao chống cộng?, tr. 40.

296 -nt-

297 Con đường chính nghĩa IV, tr. 43.

298 Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, tr. 12.

299 "Để hiểu rõ bản Tuyên cáo ngày 26-4-1958," tr. 65.

300 Con đường chính nghĩa III, tr. 36-37.

301 Con đường chính nghĩa III, tr. 15.

302 Con đường chính nghĩa III, tr. 41.

303 Con đường chính nghĩa IV, tr. 53.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 90 [email protected]

phủ đặt trên nguyên-tắc tôn-trọng phẩm giá con người. Họ đã đổ máu cùng với nhân dân Hung-Gia-Lợi

để xác-nhận quyết-định chống Cộng."304

3. Thiếu tự do dân chủ

Theo chánh quyền VNCH, chế độ VNDCCH thiếu nền tảng căn bản tối thiểu của một thể chế dân chủ: các

cuộc tuyển cử, các quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, chánh trị, và ngôn luận. Hơn nữa, chánh sách

kinh tế và cải cách ruộng đất lại đàn áp người dân thôn quê. VNCH tận dụng mọi cơ hội để so sánh hình

ảnh tương phản giữa thể thức dân chủ miền Nam và chế độ cộng sản miền Bắc.

Trong tuyên cáo ngày 26 tháng 4 năm 1958 từ chối đề nghị hiệp thương tổ chức tổng tuyển cử của

VNDCCH vì lý do miền Bắc thiếu dân chủ, chánh quyền vạch rõ mâu thuẫn giữa lời yêu cầu và thực trạng

chánh trị của miền Bắc: tuy đòi tuyển cử, nhưng chính tại miền Bắc lại không có tuyển cử. Theo VNCH,

Quốc hội miền Bắc có tính cách phản dân chủ vì nghị viên không được lựa bởi cuộc đầu phiếu: "Quốc-hội

này gồm một phần nghị-viên chỉ-định, một phần nghị-viên bầu-cử sau cuộc đầu phiếu gian dối năm

1946, trong đó có người đã bị thủ-tiêu và một số khác đã di-cư vào miền Nam tìm tự-do." Hơn nữa, Quốc

hội miền Bắc không những đã không thi hành mục đích chánh của một hội đồng lập pháp là nghị luận,

mà lại còn phản hiến pháp: "Quốc-hội ấy đã mãn nhiệm-kỳ hơn 8 năm rồi, theo bản hiến-pháp mà quốchội

ấy đã chấp-thuận, không thảo-luận trong một phiên họp vẻn-vẹn một ngày. Một hiến-pháp được

biểu-quyết như vậy mà họ cũng không thi-hành." Kết quả là cộng sản đã thành lập một chế độ mà không

hội ý dân chúng: "Họ đã tự ý lập chế-độ cộng-sản tại miền Bắc không hỏi ý-kiến của dân, và họ cũng sẽ

không bao giờ hỏi ý-kiến của dân, vì họ biết rằng dân-tộc Việt-Nam không chịu chế-độ ấy."305 Miền Bắc

độc tài bao nhiêu, thì miền Nam dân chủ bấy nhiêu, vì, cũng theo tuyên cáo, miền Nam có trưng cầu dân

ý truất phế Bảo Đại năm 1955, rồi có tổng tuyển cử Quốc hội theo cuộc phổ thông đầu phiếu năm 1956,

đúng với thể thức được ấn định trong hiến pháp.

Các cuộc bầu cử tại VNCH cũng tạo cơ hội cho chánh quyền miền Nam tuyên truyền về bản chất dân chủ

của chế độ so với miền Bắc. Nhân dịp kỷ niệm năm năm chấp chánh và cuộc bầu cử Quốc hội năm 1959,

Ngô Đình Diệm lại nhấn mạnh tình trạng bất hợp pháp của Quốc hội VNDCCH, lặp lại gần như nguyên

văn lời tuyên cáo một năm trước đó:

... cái tổ chức bịp bợm mà chúng gọi là 'Quốc Hội' ở Bắc Việt, tổ chức này đã mãn nhiệm kỳ hơn

mười năm nay, một số nghị viên đã đi tìm tự do tại miền Nam, một số khác đã bị chúng thủ tiêu

hay đầy đoạ trong các ngục thất Cộng sản.306

Năm 1961, sau cuộc bầu cử tổng thống, Nha Tổng Giám đốc Thông tin VNCH phát hành hành cuốn Bầu

cử Tổng thống và Phó Tổng thống, đả kích thể chế phi dân chủ của miền Bắc, vì ở đó, "các cuộc 'Tổng

tuyển cử' năm 1946 và năm 1960 đều là bịp bợm, giả dối. Quốc hội của Việt cộng là Quốc hội bù nhìn chỉ

có công việc nghe báo cáo, thông qua quyết nghị và vỗ tay hoan hô."307 Nếu cơ quan lập pháp miền Bắc

được bầu ra một cách gian lận, thì cơ quan hành pháp hoàn toàn không qua bất cứ cuộc tuyển cử nào.

Theo quyển Bầu cử Tổng thống,

Hồ Chí Minh làm chủ tịch từ 15 năm mà không cần một người dân nào đi bỏ phiếu bầu y làm chủ

tịch. Hiến pháp của Việt cộng định rằng cứ 5 năm thì bầu lại chủ tịch, nhưng Hồ Chí Minh đã ở

trên ghế chủ tịch 15 năm không phải bầu lại dù việc bầu cử... chỉ là một trò bịp bợm.308

304 Con đường chính nghĩa IV, tr. 54. Đại hội Văn hoá toàn quốc năm 1957, do Văn hoá vụ tổ chức, cũng thông qua

kiến nghị ủng hộ cuộc cách mạng Hung Gia Lợi (Đại hội văn hoá toàn quốc 1957 [Sàigòn: Bộ Thông tin, 1957], tr.

391).

305 Con đường chính nghĩa IV, tr. 43.

306 Con đường chính nghĩa V, tr. 110.

307 Bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống (Sàigòn: Nha Tổng Giám đốc Thông tin, 1961), tr. 17-18.

308 Bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống, tr. 18.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 91 [email protected]

Ngoài việc bầu cử, VNDCCH cũng thiếu các quyền tự do dân chủ căn bản nhứt. Trong tuyên bố về vụ nổi

dậy Quỳnh Lưu, VNCH vẽ lại một bức tranh hết sức bi thảm về đời sống của người dân miền Bắc. Họ bị

cộng sản

bóp nghẹt tất cả tự-do cá-nhân, tự-do đi lại dù là ở trong địa-hạt một tỉnh, tự-do hội-họp, tự-do

phát-biểu ý-kiến, tự-do tư-tưởng, cả đến tự-do tín-ngưỡng nữa. Những tu-sĩ cũng như tín-đồ

Công-giáo bị đe-doạ hãm-hại và không có cách nào hoạt-động về tôn-giáo cả.309

Ngục tù miền Bắc còn rùng rợn hơn: "Bọn Việt-Cộng đem xử-tử hay giam-cầm trong các trại an-trí đã nổi

danh bi-đát mà ở đây không mấy ai trở về, hàng trăm ngàn người vô tội, cũng chưa lấy làm thoả trí."310

Cộng sản còn khống chế và nghiêm cấm sự tồn tại của bất cứ đoàn thể nào ngoài vòng kiểm soát của

đảng, "bắt ép mọi đảng-phái, mọi xu-hướng chính-trị, mọi giai-cấp, thành phần xã-hội, mọi tôn giáo phải

tự huỷ tính chất riêng biệt của mình đi để sáp nhập với đảng Cộng-sản, xu-hướng Cộng-sản và giai-cấp

công nông."311 Các chánh sách kinh tế của VNDCCH như hợp tác hoá nông nghiệp, hệ thống cửa hàng

mậu dịch quốc doanh, v.v... cũng gây nhiều nỗi thống khổ cho người dân, nhứt là ở nông thôn. Nhà nước

ép nông dân bán thóc gạo với giá quá thấp, nên dân quê đã "chán nản không thiết canh tác nữa"; hậu

quả là chính tầng lớp "trực tiếp sản xuất ra thóc gạo" lại thiếu gạo để ăn.312 Chánh sách kinh tế bóc lột

này thậm chí còn len lỏi vào tận nhà trường, khiến học sinh miền Bắc về nhà thì "dóng da dóng dỏi đòi

thuế nông-nghiệp, thúc dục dân-công, chửi rủa những ai chưa bán kịp heo, bò nộp thuế."313

VNCH đặc biệt quan tâm tới sự đàn áp quyền tự do tư tưởng. Theo diễn văn khai mạc Quốc hội năm

1961 của Ngô Đình Diệm, cộng sản muốn loại trừ bất cứ thành phần nào khác lý tưởng với đảng, và "chỉ

có thể thoả-mãn khi đã tiêu-diệt tất cả các dân-tộc, tất cả mọi người, bất luận nam hay nữ, không chịu

theo chúng."314 Có lẽ sự kiện tiêu biểu nhứt cho việc chế độ miền Bắc đàn áp tự do ngôn luận là vụ Nhân

văn - Giai phẩm vào cuối năm 1956. Văn hoá Vụ tổ chức Đại hội Văn hoá toàn quốc tại Sài Gòn từ ngày

mồng 7 đến ngày 16 tháng giêng năm 1957, chỉ hai tuần sau khi các báo Nhân văn, Giai phẩm bị đóng

cửa, với hai chủ đề chánh là sự đàn áp trí thức miền Bắc và quyền tự do sáng tác ở miền Nam.315 Bộ

trưởng Thông tin và Thanh niên Trần Chánh Thành khai mạc đại hội với những lời ca ngợi VNCH: "Đại

hội Văn hoá khai mạc tại Sàigòn... trong bầu không khí tự do tư tưởng, tự do sáng tác, giữa niềm tin

tưởng của mọi người về tương lai huy hoàng của nền Cộng Hoà."316 Rồi ông đối chiếu tình trạng sáng tác

hai miền:

Trong lúc đó ở Bắc-phần các văn nghệ sĩ bấy lâu bị kèm hãm bắt đầu lên tiếng công kích đường

lối lãnh đạo một chiều của Phòng Chánh trị đảng Cộng Sản muốn biến Văn Nghệ sĩ - theo một tờ

309 Con đường chính nghĩa III, tr. 39.

310 -nt-

311 Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, tr. 5.

312 Đời sống nông thôn miền Bắc (Sàigòn: Văn hữu Á châu, 1959), tr. 6.

313 Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, tr. 12.

314 Ngô Đình Diệm, Con đường chính nghĩa: Nhân vị, cộng đồng, đồng tiến VIII (Sàigòn: Nha Tổng Giám đốc Thông

tin, 1962), tr. 13-14

315 Người viết chưa tìm được hồ sơ xác định rằng chánh quyền VNCH đã cố tình lựa khoảng thời gian đầu tháng

giêng năm 1957 để khai thác giá trị tuyên truyền của vụ Nhân văn - Giai phẩm, nhưng rõ ràng là đại hội đã được tận

dụng để thực hiện mục tiêu đó. Tôi chỉ có thể xác định rằng Bộ Thông tin từng định tổ chức một đại hội văn hoá

toàn quốc từ năm 1955, nhưng dự án bị hoãn lại vì tình hình đất nước. Xem tài liệu Phạm Xuân Thái, Tổng trưởng

Thông tin và Chiến tranh Tâm lý gởi Thủ tướng ngày 29-3-1955 (số 398-VP/BTT); Trần Trung Dung, Bộ trưởng đặc

nhiệm tại Phủ Thủ tướng gởi Tổng trưởng Thông tin và Chiến tranh Tâm lý ngày 4-4-1955 v/v hoãn lại Đại hội Văn

nghệ (số 243-PTT/Trần Trọng Kim), TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 16.246.

316 VTX, "Về Đại hội Văn hoá toàn quốc khai mạc sáng hôm qua," Bản tin VTX 2139 (trọn ngày 8-1-1957), tr. VII-Xb,

trích tr. VIII, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 16.246.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 92 [email protected]

báo xuất bản tại Hanoi - thành 'những con cừu ngoan ngoãn, sợ sệt chịu để cho bọn chăn giắt

lùa đi ngã nào cũng được.'317

Trần Chánh Thành kết thúc diễn văn bằng cách thay mặt cho giới trí thức, văn nghệ sĩ trong khán giả,

tuyên bố ủng hộ các nhà văn miền Bắc: "Chúng ta mong các Văn nghệ sĩ ở Bắc phần sẽ tranh đấu cho

được tự do tư tưởng, tự do sáng tác theo quan niệm và cảm hứng của mình, không phải theo chỉ thị văn

hoá của Trung ương Đảng bộ."318

Tiếp theo Trần Chánh Thành, các thuyết trình viên khác thay nhau lên khán đài để phản đối chánh sách

văn nghệ, thông tin của chế độ VNDCCH. Dân biểu Nguyễn Phương Thiệp trình bày về tự do tư tưởng

trong hiến pháp VNCH và cho rằng sự "chỉ huy văn hoá" của cộng sản đã tiêu diệt sáng tác văn hoá vì nó

phủ nhận bản sắc cá nhân của mọi người nghệ sĩ, nguồn gốc của sự sáng tác.319 Nhà báo Văn Hoàn,

trong diễn văn về báo chí Việt Nam, nhận xét rằng chế độ VNDCCH chỉ có hai tờ nhật báo và 10 tờ tuần

báo cho số dân 13 triệu người, mà "tất cả đều là cơ-quan phát-biểu tư-tưởng chủ-trương của Đảng Laođộng."

320 Theo Văn Hoàn, những bài đăng trong Nhân văn, Giai phẩm đã gây phản ứng dữ dội tại miền

Bắc thật ra chỉ là những lời "chỉ-trích nhẹ-nhàng," vì với một chánh quyền độc tài như VNDCCH, "mọi ýkiến

đụng chạm đến chúng [đảng cộng sản] đều [bị] coi là trọng tội."321 Nhà báo Tô Văn cũng cho rằng

các nhà văn phản kháng ở miền Bắc thật ra chỉ "bất mãn với chánh sách, với cá-nhân, với nội-bộ Việt-

Cộng mà thôi. Họ không viết được bài nào để thể-hiện được tất cả những cái uất hờn của dân-chúng

Bắc-Việt và đồng-bào Nam-Việt ra tập kết ở miền Bắc."322 Theo các nhà báo này, quyền tự do tư tưởng ở

miền Bắc bị đàn áp đến mức tuy các tiếng nói phản kháng chỉ có khả năng phê bình nhẹ nhàng, không

diễn tả được tâm sự đích thực của người dân, nhưng vẫn bị chánh quyền trừng phạt nặng nề. Hai năm

sau, nhằm mục đích phổ biến tài liệu chứng minh sự độc tài tư tưởng của chế độ VNDCCH, Văn hoá Vụ

xuất bản cuốn Số phận trí thức miền Bắc (qua vụ Trần Đức Thảo) - gồm các bài báo phản kháng của

Trần Đức Thảo, một trong những trí thức bị bắt trong vụ Nhân văn - Giai phẩm, kèm với những bài kết

tội ông và bản tự kiểm sau khi bị bắt giam.323

4. Lý thuyết sai lầm

Theo quan điểm VNCH, chế độ VNDCCH không chỉ sai lầm trong chánh sách mà còn ngay trong cơ sở lý

thuyết, vì chủ nghĩa cộng sản là một nền tư tưởng ngoại quốc và sẽ tiêu diệt dân tộc tính của người Việt

Nam, chà đạp nhân phẩm của loài người. Nhân dịp kỷ niệm Khổng tử năm 1959, Ngô Đình Diệm kết án

tư tưởng cộng sản muốn chia lìa dân tộc Việt Nam với văn hoá truyền thống. Theo ông, "làn sống duy

vật vô thần... muốn phá đổ mọi nền móng tinh thần xưa cũ của ông cha ta để lại."324 Tương tự, tại Đại

hội Văn hoá toàn quốc, Nguyễn Thiệu chỉ trích giáo dục miền Bắc "đoạn tuyệt hẳn với nền văn minh cổ

truyền và quá trình lịch sử tranh đấu vẻ vang của dân tộc Việt Nam."325 Giáo sư Lê Văn Siêu, trong bài

thuyết trình về văn học Việt Nam, cho rằng sự độc tài tư tưởng của cộng sản đã dập tắt mọi tư tưởng bất

đồng khuynh hướng, trong đó có nền văn chương Việt Nam. Nhưng sự chia đôi lãnh thổ

đã khiến tập-trung vào riêng hẳn một khu thứ văn-học [cộng sản] đen tối ấy, và kể từ 1954 trở

về sau... nối tiếp theo đà tiến trong dòng dài lịch-sử, nền văn-học đích-thị Việt-Nam đã bắt đầu

317 "Về Đại hội Văn hoá toàn quốc khai mạc sáng hôm qua," Bản tin VTX 2139 (trọn ngày 8-1-1957), tr. IX, ĐICH

16.246.

318 -nt-

319 Đại hội văn hoá toàn quốc 1957, tr. 38-39.

320 Đại hội văn hoá toàn quốc 1957, tr. 143-144.

321 Đại hội văn hoá toàn quốc 1957, tr. 144.

322Đại hội văn hoá toàn quốc 1957, tr. 147.

323 Số phận trí thức miền Bắc (qua vụ Trần Đức Thảo) (Sàigòn: Văn hữu Á châu, 1959).

324 Con đường chính nghĩa VI, tr. 116.

325 "Quan niệm về giáo dục dưới chính thể Cộng Hoà hiện tại," Bản tin VTX 2146 (chiều 15-1-1957), tr. XVI, ĐICH

16.366.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 93 [email protected]

đứng ra đảm-nhận trách-nhiệm lịch-sử của mình để lo xây-dựng ý-thức hệ mới đúng nguyệnvọng

của toàn-dân.326

Theo ông, "nền văn học đích thị Việt Nam" không thể thuộc khuynh hướng cộng sản mà chỉ có thể phát

triển theo bản sắc của nó sau khi đã thoát khỏi chế độ cộng sản. Còn lối văn chương của VNDCCH hiện

thời chỉ thể hiện tư tưởng cộng sản ngoại bang, tuyệt đối không còn sót dấu tích dân tộc tính. Trước đó,

Trần Chánh Thành cũng đã phản đối việc thay thế tư tưởng dân tộc bằng chủ nghĩa ngoại quốc, cương

quyết tuyên bố "không chịu nô lệ tư tưởng vào một hệ thống tư tưởng ngoại lai trái ngược với tinh hoa

giống nòi."327 Vào lễ bế mạc mười ngày sau đó, một lần nữa, đại hội xác định "một lập-trường dứt-khoát

triệt-để chống lại hiểm-hoạ Cộng-sản đang lũng đoạn nền văn-hoá dân-tộc."328

Không chỉ phi dân tộc tính, chú nghĩa cộng sản còn bị xem là phi nhân bản. Lý do thường được chánh

quyền VNCH đưa ra củng cố cho quan niệm này là chánh sách chia rẽ gia đình, hàng xóm, cộng đồng

của cộng sản với mục đích nhằm cách ly mọi cá nhân đã sáp nhập vào tổ chức của đảng. Tài liệu tuyên

truyền Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam phản đối chánh sách này: "Người Cộng-sản bảo ta

bỏ đạo, bỏ tổ tiên, ông bà, bà con, xóm giềng để đoàn kết với họ thì đoàn kết làm sao được."329 Tại sao

chống cộng? cũng lên án thủ đoạn cắt đứt các liên hệ mật thiết nhứt của đời người để phục vụ đảng:

Cộng sản với mục đích tiêu diệt những liên hệ của con người đối với gia đình, bạn hữu để đặt

con người hoàn toàn trong vòng thao túng của Đảng, đã tìm mọi cách diệt tình cảm chính đáng

trong con người và khuyến khích sự căm thù giai cấp, sự chia rẽ gia đình, sự nghi ngờ bạn hữu

làm cho người này chống lại người kia, dò thám tố cáo lẫn nhau...330

Tác giả đưa ra những thí dụ cụ thể từ chính sách cải cách ruộng đất tại VNDCCH:

Những chuyện con phải đấu tố cha mẹ, vợ phải tố chồng... đầy rẫy trong vùng Việt Cộng. Áp lực

của Cộng sản bao trùm cả lên đời sống con người, vợ chồng cũng không còn dám bộc lộ tư

tưởng với nhau, cha mẹ, con cái, anh chị em dò xét nhau, nghi ngờ tố cáo nhau.331

Tài liệu học tập phát cho công chức nhân dịp kỷ niệm bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khai thác tác

hại của chánh sách ruộng đất đối với các gia đình miền Bắc: "Với chính sách cải cách thổ địa, hàng trăm

ngàn gia đình bị tan nát, hàng triệu nông dân biến thành nô lệ cho Đảng."332

Đối với chánh phủ VNCH, chế độ VNDCCH là một chế độ "phủ-nhận nhân-phẩm, phủ-nhận nhân-đạo"

ngay từ lý thuyết cơ sở: chủ nghĩa cộng sản đi ngược lại với tất cả đức tính cao quý nhứt của nhân

loại,333 nhằm "đưa chúng ta đến một thế giới không linh hồn, không tình nghĩa, không liêm sỉ."334 Theo

tài liệu học tập "Tội-ác của Cọng-sản [sic]" được phổ biến năm 1956, chủ nghĩa cộng sản lấy ác làm căn

bản, trái ngược với các tôn giáo đều dạy người ta làm điều thiện. Nhưng vì sao cộng sản không nhận

thấy ác độc là sai lầm? Tài liệu trả lời: "Họ lấy duy vật làm chủ nghĩa và coi rằng đời này không có gì là

tinh thần cả. Chỉ có vật chất mà thôi, nghĩa là sự sống loài người chỉ ở trong vòng ăn, ngủ, v.v... như sự

sống của côn [sic] vật vậy." "Tội-ác của Cọng-sản" cho rằng thuyết duy vật đã đưa đến sự phủ nhận đạo

đức.335

326 Đại hội văn hoá toàn quốc 1957, tr. 99.

327 "Về Đại hội Văn hoá toàn quốc khai mạc sáng hôm qua," Bản tin VTX 2139 (trọn ngày 8-1-1957), tr. IX, ĐICH

16.246.

328 Đại hội văn hoá toàn quốc 1957, tr. 382.

329 Chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, tr. 5.

330 Tại sao chống cộng?, 23.

331 Tại sao chống cộng?, 24.

332 "Tài-liệu học-tập về Tuyên-ngôn Quốc-tế Nhân-quyền," khoảng 10-12-1962, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 20.682.

333 Con đường chính nghĩa VIII, tr. 117.

334 Con đường chính nghĩa VI, tr. 116.

335 "Tài-liệu học-tập Tố-cộng: Tội-ác của Cọng-sản," khoảng 2-1956 đến 3-1956, TTLTQGII ĐICH, hồ sơ số 733.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 94 [email protected]

Khía cạnh bị lên án là phi nhân bản nhứt của nghĩa cộng sản là khuynh hướng tập thể. Tài liệu "Tội-ác

của Cọng-sản" giải thích cho nhân viên chánh phủ ý nghĩa chữ "cộng sản" là "gồm của cải trong nước lại

vào tay Chánh-Phủ, không còn cho ai có của riêng tư nữa." Không những đồ vật mà ngay cả con người

cũng trở thành sở hữu của chánh phủ:

Nguy hại hơn nữa là Chính-Phủ Cọng-sản coi mỗi người thường dân là của cải dùng để cho Đảng

Cọng-sản tiêu thụ. Con người của bạn sẽ không phải là của bạn nữa mà là của Chính-Phủ Cọngsản.

336

Trong các diễn văn chính thức, Ngô Đình Diệm cũng trình bày quan điểm này. Theo ông, "chế-độ Cộngsản

phủ-nhận giá-trị con người - coi con người chỉ là một phương-tiện trong guồng máy sinh-hoạt của

đoàn-thể," "Cộng-sản muốn biến con người thành công cụ sản-xuất phục-vụ cho đảng."337 Quốc sách ấp

chiến lược còn đưa ra thêm một cơ sở lý thuyết khác để giải nghĩa hiện tượng biến người dân thành cỗ

máy sản xuất: thuyết giá trị lao động. Theo tác giả, "căn cứ vào năng xuất lao động để định giá trị con

người, Cộng sản đã biến con người thành một bộ máy sản xuất vô tri giác," với hậu quả là con người "chỉ

còn như là những cái máy sản xuất trong xí nghiệp hay nông trường."338

Khẩu hiệu "Bài phong, đả thực, diệt cộng" nêu tên các thế lực thù nghịch đã đe doạ chánh quyền Ngô

Đình Diệm trong giai đoạn đầu. Trong tuyên truyền của chánh phủ, các lực lượng này thường bị coi là có

nhiều đặc điểm giống nhau, và đã cấu kết với nhau để chia cắt đất nước, chống lại phong trào giành độc

lập. Trên phương diện xã hội, "thực và phong" tượng trưng cho một quá khứ suy đồi: một hệ thống

chánh trị được xây dựng dựa trên bạo lực chuyên quyền và một nền văn hoá đồi bại ngoại lai, đề cao các

giá trị vật chất. Tương tự, chế độ cộng sản cũng bị kết tội là thiếu tự do dân chủ, cổ võ cho chủ nghĩa

ngoại bang, chủ trương các giá trị duy vật, phủ nhận các giá trị tinh thần tâm linh. Cộng sản phản bội

kháng chiến, sát hại chiến sĩ quốc gia, hy sinh quyền lợi dân tộc và lệ thuộc vào nước ngoài. Tóm lại, nền

Đệ Nhứt Cộng hoà lên án "phong, thực, cộng" về mọi phương diện. Nhưng việc dựng lên một chân dung

kẻ thù hết sức ghê tởm này thực ra cũng phục vụ cho mục đích xây dựng chủ nghĩa quốc gia, đề cao lập

trường và thành tích của chánh quyền VNCH. Có thể nói, để xây dựng một chủ nghĩa quốc gia dựa trên

sự phủ nhận đối phương, chánh thể VNCH cần có đối thủ là VNDCCH.

Kết luận

Chủ nghĩa quốc gia thời Đệ Nhứt Cộng hoà được kiến tạo trong một hoàn cảnh khá đặc biệt: hai chế độ

đối lập cùng tranh giành một dân tộc, như trường hợp Đại Hàn/Bắc Hàn và Đông Đức/Tây Đức. Thực

trạng hai chế độ này đã tạo ra cho VNCH một mẫu tương phản có quá nhiều điểm tương đồng. Thay vì

một kẻ thù bất đồng văn hoá như dân tộc thiểu số hay những quốc gia lân cận có ý định xâm chiếm, chế

độ VNCH đối diện với một cừu địch cùng sắc tộc, cùng ngôn ngữ, gây nhiều khó khăn phức tạp cho

chánh quyền trong việc xây dựng một chủ nghĩa quốc gia riêng. Chánh phủ phải cố gắng tìm các điểm dị

biệt của đối phương, sau đó phóng đại chúng để vận động và tuyên truyền cho người dân. Phân biệt

"dân tộc thiểu số" hay "ngoại quốc" với dân bản xứ không khó bằng nhận diện sự khác biệt giữa Việt

Nam và "Việt cộng." Vì hai quốc gia giống nhau trên nhiều phương diện, VNCH buộc phải chánh trị hoá

lãnh vực văn hoá theo đường phân ranh "quốc cộng" của chiến tranh lạnh. VNCH luôn phải chứng minh

rằng chánh quyền giàu "dân tộc tính" hơn, rằng văn hoá "quốc gia" thuần tuý hơn. Ngược lại, chánh

quyền phủ nhận cộng sản cũng trên phương diện văn hoá: chủ nghĩa cộng sản phá huỷ tính cách riêng

biệt của dân tộc Việt Nam và mọi dân tộc trên thế giới - về căn bản là đối nghịch với chủ nghĩa quốc gia.

Hơn nữa, chế độ VNDCCH không thuộc về một dĩ vãng thuộc địa với ý nghĩa tượng trưng. Các quốc gia

336 "Tội-ác của Cọng-sản," khoảng 2-1956 đến 3-1956, ĐICH 733.

337 "Chế-độ Cộng-sản phủ-nhận...": Con đường chính nghĩa I, tr. 30; "Cộng-sản muốn biến con người...": Con đường

chính nghĩa VIII, tr. 105.

338 Quốc sách ấp chiến lược, tr. 148.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 95 [email protected]

mới giành được độc lập thường xây dựng chủ nghĩa quốc gia trên cơ sở chống chế độ thuộc địa - một dĩ

vãng đen tối nhưng không còn là kẻ địch trên thực tế. Trong khi đó, chánh quyền VNCH phải tranh thủ

nhân tâm để chống lại một đối phương cụ thể và vững mạnh. Hậu quả của sự khó khăn này là VNCH đã

sử dụng "kẻ thù cộng sản" để củng cố cho nhiều chánh sách đa dạng, đôi khi không mấy liên hệ tới cộng

sản. Chẳng hạn, có cần viện đến chủ nghĩa chống cộng để phục hưng văn hoá truyền thống, tôn trọng

nhân phẩm, truyền bá tư tưởng dân chủ, lành mạnh hoá tập quán? Nhưng trên thực tế, tư tưởng chống

cộng đóng vai trò lập luận quan trọng, biện hộ cho mọi chánh sách và hành động của chánh phủ nền

Cộng hoà đệ nhứt.339 Phản ứng chống cộng dẫn tới việc VNCH theo đuổi một chủ nghĩa quốc gia bị chiến

tranh lạnh chi phối, tập trung vào mục tiêu tiêu diệt đối phương, nhưng lại kém cỏi trong công trình xây

dựng một xã hội mới.

Tác giả cảm ơn talawas đã biên tập bài viết này.

________________________________________

Thân Tứ Long

Qua diễn biến của chủ nghĩa dân tộc cận đại Việt Nam đến nay, nhìn nhận tác

dụng hai chiều của chủ nghĩa dân tộc

Hồng Tuấn dịch

Tóm tắt: Từ thời cận đại đến nay, chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam đã trải qua quá trình diễn biến từ chủ

nghĩa ái quốc đến chủ nghĩa bá quyền khu vực. Chủ nghĩa dân tộc từng khích lệ nhân dân Việt Nam hoàn

thành việc thống nhất đất nước, thực hiện giải phóng dân tộc. Nhưng mặt trái của nó - sự bành trướng -

cũng khiến cho Việt Nam đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, gây ra những tai hại to lớn cho nhân

dân các quốc gia chung quanh và cả nhân dân Trung Quốc. Vì vậy, chúng ta cần phải thận trọng trong

đối xử với chủ nghĩa dân tộc, cần nhận thức được tác dụng hai chiều của chủ nghĩa dân tộc, dẫn dắt và

sử dụng nó một cách hợp lí. Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc yêu cầu người ta vừa biết bảo vệ ý thức

tự giác dân tộc, vừa phải chú ý đến lợi ích của các quốc gia khác, như vậy mới phù hợp với phương

hướng phát triển của xã hội loài người.

Từ then chốt: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa ái quốc, chủ nghĩa bá quyền khu vực, tác dụng hai chiều

Từ thời cận đại đến nay, nhân dân Việt Nam liên tục gặp phải tai ách, bị nhiều nước thực dân xâm

chiếm. Đầu tiên, Việt Nam rơi vào cảnh thuộc địa của Pháp, trong Đệ nhị Thế chiến lại bị Nhật Bản chiếm

đóng. Đệ nhị thế chiến vừa kết thúc, thực dân Pháp lại một lần nữa ồ ạt kéo đến. Sau khi đánh đuổi

được Pháp, Việt Nam lại bắt đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước trường kì 14 năm. Nhân dân Việt

Nam đã chịu đủ sự giày xéo và áp bức của ngoại tộc, vậy nên tính chất dân tộc chủ nghĩa cực kì mạnh

mẽ. Bài viết này tiến hành thảo luận và phân tích diễn biến của chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam, tổng kết

thành kinh nghiệm và bài học về chủ nghĩa dân tộc, nhằm giúp cho Trung Quốc từ nay về sau có cách

đối xử đúng đắn với chủ nghĩa dân tộc.

1. Chủ nghĩa dân tộc nảy sinh và phát triển

Chủ nghĩa dân tộc (nationalism) thường được hiểu là sự trung thành của người ta đối với hệ thống truyền

thống lịch sử dân tộc mình, cũng như là sự quan tâm tới vận mệnh của dân tộc; chủ nghĩa dân tộc nảy

sinh cùng với sự hình thành quốc gia dân tộc.340 Chủ nghĩa dân tộc mới đầu manh nha ở Tây Âu vào thế

kỉ 17, rồi lan truyền tới Châu Á cùng với sự khuếch tán của chủ nghĩa thực dân.341

339 Cũng có khi chánh quyền lợi dụng lý do chống cộng để đàn áp các phần tử đối lập khác dù những lực lượng này

cũng chống cộng.

340 Hầu Ngọc Lan, Hứa Ba, Tình cảm và kiếm sắc, NXB Côn Lôn, 1999, tr. 6, tr. 9.

341 nt

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 96 [email protected]

Chủ nghĩa dân tộc trước thế kỉ 20 bị giai cấp tư sản tận dụng và nắm giữ, trở thành công cụ đắc lực mà

Châu Âu sử dụng nhằm tranh đoạt không gian sinh tồn, chia cắt phạm vi quyền lực. Bước vào thế kỉ 20,

dân các nước ở Châu Á, Phi, Mỹ Latin nhanh chóng thức tỉnh, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc,

phản đối chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình.342 Theo cách

đó, chủ nghĩa dân tộc đã trở thành vũ khí tư tưởng để các dân tộc nhược tiểu phản đối "chủ nghĩa đại

dân tộc" và "chủ nghĩa Chauvin nước lớn", đấu tranh giành độc lập và bình đẳng.343

Tuy chủ nghĩa dân tộc dù ở bất kì hoàn cảnh nào cũng có tác dụng và ý nghĩa trong việc phản đối nước

lớn nước mạnh từ bên ngoài đến xâm lược và áp bức dân tộc, nhưng hạt nhân của nó lại là chủ trương

đặt dân tộc mình vào vị trí ưu việt hơn, quan trọng hơn so với các dân tộc khác. Người thống trị luôn

luôn sử dụng chủ nghĩa dân tộc để che đậy và xoá bỏ sự đối lập giai cấp và mâu thuẫn giai cấp sâu sắc,

về đối nội thì đẩy mạnh áp bức dân tộc và đồng hoá dân tộc, về đối ngoại thì thực thi bành trướng xâm

lược và chủ nghĩa Chauvin nước lớn. Chủ nghĩa dân tộc liên quan tới bạo lực và bành trướng xâm lược,

nó khuếch đại quá mức lợi ích của dân tộc mình, áp đặt quan điểm giá trị và thể chế chính trị của mình

lên các dân tộc khác mà không quan tâm tới nguyện vọng và quyền lợi của họ. Nó nhấn mạnh quá mức

vào sự thống nhất và cường thịnh của dân tộc mình, nhấn mạnh vào phạm vi lãnh thổ của dân tộc mình

đã đạt đến trong lịch sử, và mưu cầu khôi phục cái phạm vi lãnh thổ có giới hạn lớn nhất ấy. Chủ nghĩa

dân tộc khiến người ta chẳng mảy may quan tâm tới bất kì bộ phận quyền lợi nào của các dân tộc khác,

trừ phi họ nói cùng ngôn ngữ với mình, có cùng tên gọi với mình. Nếu chủ nghĩa dân tộc bị các chính

khách, thường dân, hoặc nhà dân tộc chủ nghĩa lợi dụng nhằm cổ động lòng người, thì chẳng mấy chốc

sẽ sinh đại nạn. Chủ nghĩa dân tộc coi đặc trưng dân tộc, ý thức dân tộc, tình cảm dân tộc và quyền lợi

dân tộc là cơ sở, vậy vì vậy rất dễ gây nên sự ngăn cách và đối lập như ngờ vực, hận thù, bất tín nhiệm

giữa các dân tộc, cũng dễ kích động tình cảm cuồng nhiệt với dân tộc, từ đó biến thành công cụ để giai

cấp thống trị phản động cũng như các chính khách sử dụng để bảo vệ sự thống trị của họ, đồng thời

thực hiện dã tâm và ý đồ của họ.

2. Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam nổi lên và bành trướng tai hại

Trong lịch sử, Việt Nam đã có thời gian 1000 năm chịu sự thống trị của Trung Quốc, người Việt Nam gọi

là "thời kì Bắc thuộc". Việt Nam đã thấm đẫm văn minh Trung Quốc, những ảnh hưởng ấy trải qua thời

gian lâu dài đã trở thành "quốc tuý" của riêng Việt Nam. Sau đó, Việt Nam lại trải qua gần 1000 năm

phát triển độc lập, người Việt Nam đã hình thành ngôn ngữ, văn hoá nghệ thuật, chế độ chính trị, phong

tục xã hội và truyền thống cho riêng mình. Những điều này tạo nên lớp trầm tích rất dày trong tâm lí

người Việt. Trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm cũng như mở rộng biên giới lãnh thổ, cái ý thức

dân tộc ấy tiếp tục lớn mạnh, đồng thời hình thành sức ngưng tụ khá mạnh trên bình diện chính trị và

văn hoá, trở thành ngọn nguồn sức mạnh cho chủ nghĩa ái quốc truyền thống và chủ nghĩa dân tộc. Cái ý

thức dân tộc và tình cảm dân tộc truyền thống ấy chính là cơ sở quần chúng và cơ sở tâm lí của chủ

nghĩa dân tộc cận đại Việt Nam.

Người Pháp sau khi đến Việt Nam đã xoá bỏ phương thức sản xuất và cơ sở kinh tế ở đó, đưa đến

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xây dựng một số cơ sở hạ tầng tiện cho việc bóc lột, xây dựng

nhà thờ, mở trường học. Người Pháp làm vậy vốn để chuyển di hình thái ý thức của người Pháp sang cho

người Việt Nam, để tạo dựng lòng dân hoà thuận, đào tạo nên một số người đại diện; nhưng về mặt

khách quan thì lại làm thức tỉnh ý thức dân tộc của người Việt Nam và nảy sinh các giai cấp mới - giai

cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản dân tộc là giai cấp tiên phong đầy nhiệt tâm phản kháng kẻ thống trị

thực dân phương Tây thời cận đại. Về mặt kinh tế, giai cấp này bị người Pháp chèn ép, nên họ muốn lật

đổ kẻ thống trị thực dân để phát triển kinh tế dân tộc. Hơn nữa, họ lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng và ý

thức phương Tây. Điều này đã cung cấp cho họ hai vũ khí tư tưởng là chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa

dân chủ. Trong xã hội xuất hiện rất nhiều phần tử trí thức được giáo dục theo kiểu phương Tây và một

342 Pháp] Gil Delannoi, Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, Trịnh Văn Bân dịch, NXB Tam Liên, 2005, tr. 6, tr. 27.

343 nt

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 97 [email protected]

giai tầng xã hội làm thương nghiệp và công nghiệp. Họ kết hợp ý thức tư tưởng châu Âu với truyền thống

tinh thần bản địa, phát động phong trào chủ nghĩa dân tộc phản đối sự thống trị và bóc lột của phương

Tây.

Nhà thống trị và nhà cách mạng Việt Nam xưa nay đều coi trọng tác dụng của chủ nghĩa dân tộc, bất kể

là ở thời cận đại hay hiện đại. Trong lịch sử cận đại Việt Nam, một số nhân vật chống Pháp nổi tiếng như

Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phạm Hồng Thái... có vẻ như ban đầu đã giương cao ngọn cờ tự do

dân tộc và độc lập dân tộc để tiến hành đấu tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh dù là một người theo chủ

nghĩa cộng sản nhưng rất coi trọng tác dụng của chủ nghĩa dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn đánh

đổ thực dân Pháp và tiến hành giải phóng dân tộc, thì cần phải khích lệ nhiệt tình yêu nước, khơi dậy tư

tưởng yêu nước và sự tự tôn dân tộc của mọi người. Chỉ có như thế mới có thể đủ để thâm nhập lòng

người. Không thể cứ nói mãi về giai cấp vô sản một cách xơ cứng và cơ giới. Ông nhiều lần nhấn mạnh

rằng cần phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.344 Cái gọi là "sức mạnh của dân

tộc" chính là dựa vào chủ nghĩa dân tộc để khích lệ nhiệt tình cách mạng của mọi người; còn cái gọi là

"sức mạnh của thời đại" là trỏ việc tích cực tranh thủ viện trợ từ bên ngoài. Được sự khích lệ của tinh

thần dân tộc chủ nghĩa, người Việt Nam đã thể hiện lòng nhiệt tình yêu nước xưa nay chưa từng có, hết

lớp này ngã xuống lại có lớp khác đứng lên, khắc phục những khó khăn khôn lường, tiến hành cuộc đấu

tranh trường kì và bất khuất. Bắt đầu từ chiến tranh chống Pháp, đến chiến tranh chống Nhật, lại đến

chiến tranh chống Mỹ, trong khoảng thời gian 100 năm, nhân dân Việt Nam không sợ cường bạo, không

quản hi sinh, lần lượt đánh bại các kẻ thù hung ác, đi đến thống nhất hoàn toàn quốc gia và giải phóng

dân tộc. Tinh thần phản kháng, đấu tranh của người Việt Nam quả thật hiếm có trong lịch sử cận hiện

đại, nó được nhân dân thế giới ghi nhận và tôn trọng. Từ đó có thể thấy, chủ nghĩa dân tộc là một chủ

nghĩa ái quốc đặc thù, có tác dụng không thể thay thế trong một số điều kiện lịch sử nhất định.

Sau khi chiến tranh chống Mỹ cứu nước thắng lợi, lòng tự tin dân tộc của Việt Nam tiếp tục được tăng

cường, tinh thần dân tộc chủ nghĩa càng dâng cao. Rốt cuộc thì một nước nhỏ và yếu ở châu Á đã đánh

bại nước Mỹ - cường quốc số một trên thế giới. Điều đó cũng khiến cho tập đoàn thống trị Việt Nam bắt

đầu phát trương đầu óc, tự kiêu tự đại, bắt đầu đi đến cực đoan. Lê Duẩn dù làm Tổng bí thư Đảng Cộng

sản Việt Nam nhưng trên thực tế lại là một nhà dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Ông ta chịu ảnh hưởng sâu

sắc từ truyền thống không ngừng mở rộng biên giới lãnh thổ của các vương triều phong kiến Việt Nam,

lại kế thừa cái "y bát" Liên bang Đông Dương mà nhà cầm quyền thực dân Pháp xây dựng trước đó, nên

về đối ngoại đã đẩy mạnh chủ nghĩa khuếch trương dân tộc Đại Việt, mang dã tâm khuếch trương đối với

các nước Campuchia, Thái Lan, Lào, Trung Quốc. Tập đoàn Lê Duẩn lợi dụng mối quan hệ liên dân tộc,

không ngừng gây chuyện ở vùng biên giới Việt Nam với Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia và Lào, gây

nên mâu thuẫn dân tộc, rồi tiến hành xâm lược. Tập đoàn ấy nhấn mạnh cái sứ mệnh đặc biệt đối với

Đông Dương mà chúng gánh vác. Lê Duẩn từng khoa trương rằng: "Trước kia nếu không phải là người

Việt Nam thì sẽ không có bất kì ai đánh Mỹ, bởi khi ấy các nước khác trên thế giới đều sợ Mỹ."345 Thật ra,

ông ta cần phải nghĩ lại một chút: nếu tách rời viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô, chỉ dựa vào sức

người, sức của ở miền bắc Việt Nam thì có thắng Mỹ được không? Chiến tranh Việt Nam nhìn bề ngoài là

chiến tranh Việt - Mỹ, nhưng về thực chất lại là cuộc đọ sức giữa Trung-Xô với Mỹ. Tại sao Mỹ không huy

động lục quân tấn công miền Bắc Việt Nam? Chắc chắn là vì e ngại Trung Quốc đem quân viện trợ, thành

ra giẫm lên vết xe đổ của chiến tranh Triều Tiên. Điều khiến cho người ta tức giận hơn nữa là, Lê Duẩn

không hề đếm xỉa gì đến sự thật lịch sử là Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam trong một thời gian dài.

Ông ta luôn nói rằng Trung Quốc trong lịch sử đã từng xâm lược Việt Nam, cắt nghĩa sự viện trợ to lớn

của Trung Quốc thành nhu cầu khống chế Việt Nam, rồi phát động tinh thần phản Hoa trong người Việt.

Từ đó có thể thấy, sự bành trướng tai hại của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đã khiến cho các nhà lãnh đạo

Việt Nam trở nên cuồng vọng tự cao, trở nên vong ân phụ nghĩa.

Dưới sự chi phối của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt đầu đẩy mạnh chủ

nghĩa bành trướng bá quyền đối với nước khác. Đầu tiên chúng khống chế Lào, cùng Lào xây dựng cái

344 Hoàng Tranh, Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Giải phóng quân, 1987.

345 Lí Đan Tuệ, Về những văn kiện của Lê Duẩn bàn về quan hệ Việt - Trung, tr. 8.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 98 [email protected]

gọi là "quan hệ đặc biệt". Tiếp theo, chúng lại huy động đại quân xâm nhập Campuchia, giúp đỡ chính

quyền bù nhìn Heng Samrin, biến Campuchia thành đất thực dân. Đồng thời, chúng liên tục lấn chiếm

lãnh thổ Trung Quốc ở vùng biên giới Trung - Việt, gây nên xung đột biên giới. Con đường bá quyền của

Việt Nam khiến cho Việt Nam bốn bề gặp địch, gây căng thẳng quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực,

khiến nhân dân các nước trên thế giới mất đi sự tin tưởng và tôn trọng đối với Việt Nam, và khiến nền

kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn lâu dài. Khi Trung Quốc tiến hành chiến tranh tự vệ phản

công thì Việt Nam bắt đầu rơi vào thế yếu và bị tổn thất nặng nề. Việc xâm nhập Campuchia khiến cho

Việt Nam bị quốc tế cô lập mạnh mẽ: Đại hội Liên hiệp quốc gần như kì họp nào cũng thông qua quyết

nghị khiển trách Việt Nam, yêu cầu Việt Nam rút quân; các nước phương Tây lần lượt ngưng viện trợ cho

Việt Nam; Liên Xô cũ do "ốc không mang nổi mình ốc" nên cũng dần giảm viện trợ cho Việt Nam, rồi sau

thì cắt hẳn. Việt Nam vốn lâu nay dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài, nền kinh tế quốc dân rơi vào khốn

cảnh, nhân dân sống trong sự bần cùng thiếu thốn chưa từng có. Nhà cầm quyền Việt Nam không biết tự

lượng sức, theo đòi chủ nghĩa bá quyền, rốt cuộc không có lối thoát, rơi vào thảm cảnh đùa với lửa mà

tự đốt mình.

Qua quá trình diễn biến phát triển của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, chúng ta có thể nhận ra rằng, chủ

nghĩa dân tộc có tác dụng hai chiều, vì vậy nhất định phải đưa chủ nghĩa dân tộc đi đúng hướng. Nhìn

lại lịch sử văn minh nhân loại mấy nghìn năm nay, chủ nghĩa dân tộc luôn luôn đi từ phản đối sự xâm

lược và khống chế từ bên ngoài, giành độc lập và giải phóng dân tộc, rồi dần dần thành ra bành trướng,

xâm lược và khống chế các dân tộc và quốc gia tương đối nhỏ yếu. Chủ nghĩa dân tộc bất kể là khi thắng

lợi hay khi thất bại, bất kể khi kinh tế phồn vinh hay tiêu điều thì cũng đều đi theo con đường đó.

Ngoài ra, chúng ta cần phải nhận thức được rằng, chủ nghĩa dân tộc chỉ có tác dụng hữu hạn trong việc

thúc đẩy kinh tế phát triển, không bao gồm các phương cách thúc đẩy phát triển kinh tế. Muốn đưa các

nước đang phát triển thoát khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế và văn hoá thì cần phải có hình thái ý thức

khác, cũng như nguồn vốn và kĩ thuật tương đối đầy đủ. Tính hai chiều và tính phức tạp của chức năng

của chủ nghĩa dân tộc buộc chúng ta phải thận trọng trong đối xử và sử dụng chủ nghĩa dân tộc, cần

phải hiểu rõ tình hình cụ thể trước rồi mới áp dụng hành động. Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc phải

vừa giúp người ta duy trì ý thức tự giác dân tộc, lại vừa quan tâm đến lợi ích của quốc gia khác, đó là

phương hướng phát triển phù hợp với xã hội loài người. Chúng ta tin tưởng rằng thời đại mới đang tới có

xu hướng trở thành một hệ thống quốc tế đa cực hoá, được tạo ra trên cơ sở là sự bình đẳng dân tộc và

sự hợp tác khu vực. Ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc trong thế kỉ 21 vẫn phải được phất cao, nhưng nó là lí

tính chứ không phải cực đoan, là hợp tác chứ không phải đối đầu.

Tài liệu tham khảo

1. Hạ Kiến Bình, Nghiên cứu về chủ nghĩa bá quyền của Mỹ sau chiến tranh lạnh, Luận văn Thạc sĩ năm

2003 tại Đại học Sư phạm Hoa Trung.

2. [Việt] Nhóm Ngô Sĩ Liên biên soạn, Trần Kinh Hoà hiệu chỉnh, Đại Việt sử kí toàn thư, 1986.

3. [Mỹ] Anthony Smith, Chủ nghĩa dân tộc: Lí luận, hình thái ý thức, lịch sử, Diệp Giang dịch, NXB Thế kỉ

Thượng Hải, tháng 4 năm 2005.

Nguồn: "从越南近代以来民族主义的演变来看待民族主义的双重作用", in trong tạp chí An Huy văn học

安徽文学, số 12/2007, tr. 237-238.

______________________________________

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 99 [email protected]

Nghê Hiểu Hà

Phân tích các nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa li khai dân tộc ở Tây Nguyên

Việt Nam

Hồng Tuấn dịch

Tóm tắt: Chủ nghĩa li khai dân tộc ở Tây Nguyên Việt Nam là một trong những vấn đề dân tộc của Việt

Nam. Nguyên nhân của nó chủ yếu là nhân tố lịch sử, nhân tố kinh tế, nhân tố di dân, nhân tố tôn giáo,

và nhân tố nước ngoài.

Từ then chốt: Việt Nam, Tây Nguyên, li khai dân tộc

Khu vực Tây Nguyên nằm ở phía Tây Việt Nam, tại nơi giao giới giữa Việt Nam với Lào và Campuchia,

bao gồm 5 tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Nông. Đây là khu vực tụ cư quan trọng của

các dân tộc thiểu số Việt Nam, cũng là nơi giao thoa văn hoá của nhiều dân tộc. Các dân tộc chủ yếu ở

đây là Kinh, Xơ Đăng, Tày, Ê Đê, Hmông, Mạ, Ba Na, Gia Rai, Mơ Nông... Diện tích đất ước tính 54,452

km2, chiếm 18% tổng diện tích toàn quốc, dân số ước tính 4,498,400 người (trong đó có 600,000 người

dân tộc thiểu số), chiếm 6% tổng dân số toàn quốc. Trong đó, tỉnh Kon Tum có diện tích 9,616 km2, dân

số 339,500 người. Tỉnh Gia Lai có diện tích 15,496 km2, dân số 1,667,000 người. Tỉnh Đắk Nông có diện

tích 6,514 km2, dân số 363,000 người. Tỉnh Lâm Đồng có diện tích 9,765 km2, dân số 1,064,300 người.

Nơi đây sản vật phong phú, là khu vực chủ yếu của các sản phẩm như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, hạt

điều của Việt Nam, đây còn là nơi nổi tiếng xa gần với rất nhiều loại gỗ tốt (1: 95).

Những năm gần đây, nhằm tách Tây Nguyên ra khỏi Việt Nam, các thế lực chia rẽ dân tộc ở Tây Nguyên,

đứng đầu là tổ chức Fulro đã xây dựng cái gọi là nhà nước tự trị Đêgar. Về đối ngoại thì cấu kết với các

thế lực phản Việt quốc tế, ra sức yêu cầu sự đồng tình và ủng hộ của xã hội quốc tế, thúc giục các nước

phương Tây gây áp lực với đảng Cộng sản và chính phủ Việt Nam; về đối nội thì cấu kết với các phần tử

chia rẽ dân tộc và cực đoan tôn giáo khác, không ngừng gây ra bạo động phản chính phủ ở khu vực Tây

Nguyên Việt Nam, liên tục tiến hành các hoạt động chia rẽ, gây ảnh hưởng đến vấn đề an toàn quốc gia

Việt Nam (2: 23).

1. Nhân tố lịch sử

Nhìn từ lịch sử, người Kinh thông qua những cuộc chiến tranh không ngớt đã thống nhất Việt Nam, các

dân tộc thiểu số chỉ có ảnh hưởng hữu hạn đối với đời sống chính trị, có quan hệ khá lỏng lẻo với nhà

nước. Sau khi lập quốc vào thế kỉ 10, Việt Nam đã trải qua một quãng thời gian rất dài mà các thế lực

thống trị không vươn tới được các vùng dân tộc miền núi. Việc chính phủ trung ương Việt Nam dần tăng

cường khống chế các vùng dân tộc miền núi đã dẫn đến nảy sinh xung đột về lợi ích chính trị giữa dân

tộc chủ thể và các dân tộc thiểu số, mâu thuẫn dân tộc có chiều hướng xấu đi. Triều Lê sau khi thành lập

vào thế kỉ 15 đã đẩy mạnh chế độ thổ ti tại các vùng núi bắc bộ - địa bàn phân bố của các dân tộc Tày,

Nùng, Thái, uỷ nhiệm cho những người đứng đầu, lãnh chúa, tù trưởng là người dân tộc thiểu số trong

vùng làm Tri châu, Đoàn luyện, cho họ được sách phong và cống nạp cho vương triều phong kiến, thông

qua thượng tầng dân tộc để tiến hành thống trị "ki mi" (lỏng lẻo). Sau khi triều Nguyễn thành lập vào

đầu thế kỉ 19, nhằm tăng cường nền thống trị trung ương tập quyền, Việt Nam bắt đầu thực hành hành

chế độ lưu quan "Đại Kinh tộc thống nhất thiên hạ" (sai phái các quan lại người Kinh trong cung đến các

vùng dân tộc thiểu số để xây dựng cơ quan thống trị, khiến cho vùng đó chịu sự thống trị trực tiếp của

vương triều trung ương). Thực dân Pháp khi xâm lược cũng tăng cường khống chế các vùng dân tộc

thiểu số, khiến cho các dân tộc thiểu số phải chịu hai tầng áp bức bóc lột. Năm 1945, nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà (ở miền Bắc Việt Nam) thành lập, họ từng xây dựng khu tự trị Việt Bắc và khu tự trị người

Thái Tây Bắc ở các vùng tụ cư của người miền núi Tây Bắc và Bắc bộ. Năm 1975, sau khi Việt Nam thống

nhất, người ta lại huỷ bỏ hai khu tự trị dân tộc này, tiếp tục tăng cường khống chế đối với các khu vực

đó, đồng thời di dân ồ ạt đến các vùng dân tộc thiểu số, đưa hàng triệu nông dân người Kinh vốn ở các

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 100 [email protected]

vùng đồng bằng dời lên khu vực cao nguyên để đi xây dựng vùng kinh tế mới. Trong tình hình ấy, vấn đề

dân tộc miền núi của Việt Nam ngày càng nghiêm trọng hơn. Xung đột giữa người dân tộc thiểu số với

người Kinh di cư ở các vùng kinh tế mới xảy ra thường xuyên. Một phần trong số các dân tộc vùng núi

của người Hmông, người Dao trở thành nạn nhân, phải rời bỏ quê hương. Tại một số vùng miền núi còn

xuất hiện các tổ chức vũ trang của người dân tộc thiểu số chống chính phủ (3: 386).

2. Nhân tố kinh tế

Tại Việt Nam, dân tộc chủ thể sinh sống tại các vùng đồng bằng có kinh tế và văn hoá tương đối phát

triển. Họ theo nghề nông nghiệp truyền thống, lấy việc trồng lúa nước làm chủ đạo, đồng thời cũng đang

tiến vào công nghiệp hoá. Nhưng các dân tộc thiểu số ở các vùng cao nguyên đồi núi hẻo lánh lại làm

nghề nông nghiệp miền núi, đốt rẫy làm nương, hoàn toàn khác nhau ở mức độ bảo lưu các tàn dư của

chế độ phong kiến, chế độ thôn xã, cũng như chế độ thị tộc nguyên thuỷ. Trung ương đảng Cộng sản

Việt Nam trong một nghị quyết hữu quan đã chỉ ra rằng: Trình độ phát triển kinh tế xã hội miền núi khá

thấp, kinh tế tự nhiên và bán tự nhiên vẫn chiếm một tỉ trọng rất lớn, phương thức sinh hoạt du canh du

cư vẫn chưa được khắc phục căn bản. Đời sống kinh tế của các dân tộc miền núi vẫn còn khá nghèo khó

(4: 49). Những hành vi khai hoang đốt rẫy làm nương tàn phá rừng, làm phá hoại môi trường nghiêm

trọng, khiến cho thuỷ thổ xói mòn, nguồn nước cạn kiệt, điều đó càng khiến cho nhân dân nghèo khó

hơn.

3. Nhân tố di dân

Từ thập niên 1980 trở đi, Việt Nam liên tục có các đợt di dân tự phát đến Tây Nguyên và miền Đông

Nam bộ. Điều đó một mặt bắt đầu tạo ra áp lực mất cân bằng về vấn đề nhân khẩu và lao động vốn

từng diễn ra bình ổn tại Việt Nam. Mặt khác, sau khi tiến vào những vùng đất mới này, nhằm tìm kế sinh

nhai, người ta đã chiếm dụng rất nhiều đất đai để tự phát triển. Điều này không chỉ gây ra tranh chấp

đất đai với các dân tộc thiểu số bản địa, mà còn gây phá hoại môi trường nghiêm trọng đối với rất nhiều

diện tích đất khai hoang, từ đó cũng khiến cho nhân dân càng thêm nghèo khó.

4. Nhân tố tôn giáo

Do ảnh hưởng của Mỹ với Việt Nam trong lịch sử, đa phần người dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên đều

theo đạo Tin lành. Từ năm 1929, Hội Tin lành ở Việt Nam bắt đầu cử giáo sĩ đến vùng dân tộc thiểu số

Tây Nguyên truyền giáo. Thời chính quyền Mỹ Nguỵ, đạo Tin lành ở Việt Nam còn lập ra tại vùng dân tộc

thiểu số ở Tây Nguyên hai giáo phận tách rời với người Việt, xây dựng một cơ quan chuyên môn được

đặt trực tiếp dưới quyền người Mỹ - cơ quan truyền giáo người Thượng, đồng thời lập trường giáo hội

chuyên đào tạo giáo dân và giáo sĩ cho người Thượng. Cách mà Hội Tin lành Việt Nam lần lượt đặt ra

giáo phận người Việt và giáo phận người Thượng đã vô hình trung tạo ra trong lòng người dân tộc thiểu

số một ý thức về sự sai biệt giữa đạo Tin lành của người Việt với đạo Tin lành của người Thượng, tạo sự

ngăn cách về lĩnh vực ý thức tôn giáo giữa dân tộc thiểu số với dân tộc chủ thể. Từ thập niên 1990, tổ

chức Fulro đã lợi dụng công việc truyền đạo của các giáo sĩ đạo Tin lành, đồng thời liên tục thâm nhập

sâu vào các tổ chức và chính trị của vùng Tây Nguyên (5: 23).

5. Nhân tố nước ngoài

Năm 1884, Việt Nam chính thức rơi vào cảnh đất thuộc địa của Pháp. Kẻ thống trị thực dân Pháp đã thực

hiện thể chế "củng cố người Thượng tự trị" tại vùng Tây Nguyên, cố tình tách rời mối quan hệ giữa người

dân tộc ở Tây Nguyên với người Việt ở Tây Nguyên, khiến cho Tây Nguyên bắt đầu xuất hiện phong trào

chủ nghĩa li khai dân tộc. Sau khi hiệp định Genève được kí kết năm 1954, Mỹ thay thế Pháp khống chế

miền nam Việt Nam, giúp đỡ chính quyền bù nhìn thân Mỹ của Ngô Đình Diệm. Năm 1958, dưới sự giật

dây của người Pháp, trong người Thượng ở Tây Nguyên đã nổ ra phong trào "Bajaraka" để phản đối

chính quyền họ Ngô, yêu cầu tự trị dân tộc. Phong trào này đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tàn

khốc. Nhưng nhằm mục đích kiềm chế Ngô Đình Diệm, người Mỹ ngầm thả các thành viên của phong

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 101 [email protected]

trào "Bajaraka" đã bị bắt, đồng thời ủng hộ họ lập lại tổ chức Fulro - một tổ chức vũ trang theo chủ

nghĩa li khai dân tộc hoàn toàn mới - tại Phnom Penh, Campuchia năm 1965. Mục đích của tổ chức Fulro

cũng chuyển từ việc đòi tự trị dân tộc thời "Bajaraka" sang đòi xây dựng "nhà nước tự trị Đêgar" độc lập.

Trong một chiến dịch bao vây quy mô lớn của chính phủ Việt Nam năm 1985, Fulro đã bị đánh một đòn

trí mạng. Tàn quân Fulro chạy sang Campuchia, đến năm 1992 thì tuyên bố giải tán tổ chức. Sau khi chủ

nghĩa thực dân kiểu cũ đã mất thị trường, các quốc gia phương Tây đứng đầu là Mỹ đã thực thi chủ

nghĩa thực dân kiểu mới, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và dân chủ để can thiệp và

nhúng tay vào nội chính các nước khác. Năm 2000, một số phần tử lưu vong tại bang Colorado nước Mỹ

lập ra cái gọi là "Nước cộng hoà Đêgar," ngầm thao túng các cuộc bạo loạn của người dân tộc thiểu số ở

vùng Tây Nguyên, đòi độc lập dân tộc cho vùng đất này (6: 10-11).

Tài liệu tham khảo

1. Lương Bính Mãnh, "Nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa li khai dân tộc ở vùng Tây Nguyên Việt Nam", in

trong Quảng Tây dân tộc học viện học báo, số 5/2005.

2. Đường Hoàn, "Thế lực chia rẽ dân tộc ở Tây Nguyên Việt Nam và đối sách của Việt Nam", in trong

Đông Nam Á nghiên cứu, số 1/2005.

3. Trung tâm Nghiên cứu Dân tộc và Tôn giáo, thuộc Sở Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế Hiện đại Trung

Quốc biên soạn, Quan sát vấn đề dân tộc và tôn giáo các khu vực chung quanh, Bắc Kinh: NXB Thời sự,

2002.

4. Lưu Trĩ, "Vấn đề dân tộc miền núi ở các nước bán đảo Trung Nam và đối sách của chính phủ", in trong

Đông Nam Á tung hoành, số 1/1998.

5. Đường Hoàn, "Đạo Tin lành và chủ nghĩa li khai dân tộc ở Việt Nam", in trong Thế giới dân tộc, số

5/2004.

6. Đường Hoàn, "Vấn đề người Thượng ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó", in trong Thế giới dân tộc, số

1/2002.

Nguồn: "越南西原地区民族分离主义原因探究", in trong tạp chí Khoa giáo văn hội 科教文汇, số 6/2009,

tr. 243.

______________________________________

Kenneth T. So và Sophal Ear

Yuon và người Việt: điều gì trong một tên ngoại dụng?

Phạm Văn lược dịch

Xenonym

xeno "ngoại" + onym "tên"

1. Tên gọi một dân tộc hoặc một ngôn ngữ hoặc một thành phố... không do

chính người bản xứ dùng. Chẳng hạn, German là một tên ngoại dụng dùng để

chỉ những người gọi chính họ là deutsch, Germans là một tên ngoại dụng để chỉ

Deutsche, Cologne là một chữ ngoại để chỉ Köln, Austria để chỉ từ Österreich...

(http://en.wiktionary.org/wiki/xenonym)

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 102 [email protected]

Người Khmer (hỏi): "Hồ Chí Minh là Hoàng đế Đông Dương à?"

Người ta nói, "Để hiểu người khác, trước tiên bạn phải hiểu chính mình". Chúng tôi tin rằng đối với

những người ngoại quốc muốn hiểu người Khmer, biết tiếng Khmer và sống ở Cam Bốt346 là cần thiết

nhưng vẫn không đủ. Tính cách Khmer [Khmerness] là một phạm trù rộng lớn hơn ngôn ngữ và kinh

nghiệm sống ở Cam Bốt. Tính cách Khmer là nói tiếng Khmer, hiểu thành ngữ Khmer, thưởng thức câu

nói đùa Khmer cùng những điểm ý nhị của nó, và yêu thích âm nhạc cùng thi ca Khmer. Đó là sự cảm

nhận cùng chia sẻ với người Khmer sống ở Cam Bốt. Là người Khmer không phải là đồng nghĩa với Pol

Pot. Những việc làm của Pol Pot hoàn toàn phản lại tâm hồn Khmer. Một người Khmer là người hãnh diện

với di sản nền văn minh Angkor đã để lại.

Người Khmer từng sống dưới mối đe doạ tuyệt chủng (có lẽ thậm chí đã được chủ nghĩa thực dân Pháp

cứu vớt), và đã chứng kiến lãnh thổ Khmer mất vào tay các nước láng giềng hùng mạnh là Việt Nam và

Thái Lan. Đây là thực tế trước mặt chúng tôi khi viết bài báo này.

Như Yimsut (2005) đã nói:

Những nhận thức này về [kẻ xâm lược] Việt Nam cũng rất đúng về mặt lịch sử. Cái gọi là

'Kampuchea Krom' (vùng đất ngày nay là miền nam Việt Nam - bao gồm thành phố Hồ Chí Minh

và vùng châu thổ sông Cửu Long), và cựu 'Vương quốc Champa' (vùng đất ngày nay là miền bắc

Việt Nam [sic]) là hai thí dụ lịch sử về hành động thôn tính và chủ nghĩa bành trướng của Việt

Nam.

Bài viết này không có ý định nhìn lại lịch sử quan hệ Khmer-Việt Nam vì đây là một vấn đề rộng lớn.

346 Lời người dịch: Cambodia được dịch là Cam Bốt, Mien là Miên, trong khi vẫn giữ nguyên Campuchia, Kampuchea,

Khmer và Champa... Những chữ trong [...] là của người dịch.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 103 [email protected]

Kang (2004:5) viết:

Trong giai đoạn 1813-1815, người Việt đã phạm vào việc tàn sát bỉ ổi mà người Khmer nào cũng

biết qua cụm từ 'Prayat Kompup Te Ong'. Họ áp dụng cách tra tấn dã man nhất, theo đó người

Khmer bị chôn sống tới cổ, đầu họ bị dùng để kê nồi đun nước cho các ông chủ người Việt. Khi

các nạn nhân bị phỏng và đau đớn, đầu họ ngọ ngoạy. Lúc ấy những người Việt đang tra tấn họ

nói đùa với nhau, 'Cẩn thận nào, đừng làm đổ nước trà của ông chủ'.

Khi được đề nghị viết về cách người Khmer nhìn người Việt, chúng tôi thấy đây là một việc quá khó để

thực hiện trong một bài viết ngắn. Việc này cần nhiều bộ sách. Tạm thời, chúng ta hãy thử xem xét chỉ

một chương, vấn đề ngôn ngữ và chữ người Cam Bốt dùng để chỉ người Việt: "Yuon". Điều này vẫn còn

là nguồn gốc gây ra tranh cãi vì nhiều người không phải là người Khmer biện luận rằng chữ "Yuon" hàm

chứa bản chất kỳ thị chủng tộc trong cách dùng thông thường của từ này.

Chữ "Yuon" có thể đã bắt nguồn từ chữ "Yueh", trong tiếng quan thoại của người Trung Quốc dùng để

gọi Việt Nam, "Yueh Nam". Chữ "Nam" nghĩa là phía nam trong tiếng Hán. "Yueh"chỉ tên dân tộc ở vùng

đó. Vì thế, "Yueh" nghĩa là Việt hay người Việt trong tiếng Hán, và "Yueh Nam" nghĩa là người "Yueh" ở

phía nam. Trong trường hợp này, phía nam là phía nam Trung Quốc. Người miền Nam phát âm là

Yeaknam (với âm "Y" [Diệc Nam]).

Chou Ta-Kuan (Zhou Daguan [周達觀, Chu Đạt Quan]), vị sứ giả lừng danh của Trung Quốc đến Cam Bốt

vào thế kỷ 13, viết trong báo cáo của ông rằng đã có một số đông người Trung Quốc định cư ở Cam Bốt

vào thời ấy. Ông nói người Trung Quốc thích cuộc sống ở Đế quốc Khmer vì đời sống dễ dàng hơn ở

Trung Quốc. Nhiều đàn ông Trung Quốc cưới vợ người bản xứ Cam Bốt. Chữ "Yuon" có thể lấy từ chữ

Hán "Yueh" để chỉ người Việt. Nếu chúng ta ngẫm nghĩ về nó, "Việt" (như người miền bắc Việt Nam phát

âm) hay "Yeak" ["Diệc"] (như người miền nam Việt Nam phát âm) nghe rất giống với "Yueh"; và "Yueh",

nghĩa là người Việt, lại nghe rất giống với "Yuon".

George Coedes, một chuyên gia về Đông Nam Á, tìm thấy chữ "Yuon" khắc bằng tiếng Khmer trên một

tấm bia thời Vua Khmer Suryavarman I (1002-1050). Adhémar Leclère, viên Toàn quyền người Pháp đã

sống 25 năm tại Cam Bốt, dùng từ "Yuon" rất nhiều chỗ trong cuốn Histoire du Cambodge depuit le 1er

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 104 [email protected]

siècle de notre ère của ông.

Trong khi đó, chữ "Yuon" được xem như đồng nghĩa với dã man (Roberts, 2002). Thật ra, dã man dịch

sang tiếng Cam Bốt là "Pourk Prey" hay "Phnong" (thật không may, cũng là từ để chỉ một bộ lạc sắc tộc

thiểu số miền núi sống ở Cam Bốt). Người Cam Bốt gọi người Việt là "Yuon", cũng giống như họ gọi

người Ấn là "Khleung", người Miến Điện là "Phoumea", người Pháp là "Barang", và người Trung Quốc là

"Chen". Tất cả đều là những tên riêng tiếng nước ngoài được nhập vào và chuyển tự sang tiếng Khmer.

Đôi khi người Việt gọi người Khmer là "người Miên" (lẽ ra họ nên dùng chữ "người Campuchia"). Đây là

cách gọi không chính xác, vì "Miên" là tên của một nhóm người thiểu số không thuộc sắc tộc Khmer.

Theo Mien Network (http://www.miennetwork.com/miencommunity/history.html),

"Người Miên là một nhóm nhỏ của người Dao ở Trung Quốc, bắt nguồn từ phía tây nam Trung

Quốc. Theo kết quả điều tra dân số do Viện Nghiên cứu Bộ tộc ở Chiang Mai xuất bản năm 1995,

có trên 40.000 người Miên sống trong 173 làng ở phía bắc Thái Lan. Có khá đông người Miên

sống ở Lào (85.000 người) và Việt Nam (474.000 người) [hơn ở Cam Bốt], trong khi đa số vẫn ở

Trung Quốc. Theo điều tra dân số năm 1990, có khoảng 2,1 triệu người Dao sống ở Trung

Quốc."

Việc này cũng giống như nói một người Anh là người Basque. Về mặt địa lý là hoàn toàn sai, nhưng theo

nghĩa rộng khả dĩ chấp nhận được thì có thể là một dân tộc không có quốc gia riêng [a nation without a

state]. Vào cuối thế kỷ 17, triều đình Việt Nam ở Huế đổi tên các công chúa Cam Bốt Ang Mei, Ang Pen,

Ang Peou, và Ang Snguon, tương ứng qua tên mang âm Việt là Ngọc Vân, Ngọc Biên, Ngọc Tú, và Ngọc

Nguyên. Phnom Penh cũng được biết trong tiếng Việt là Nam Vang. Thật vậy, món hủ tíu Phnom Penh

lừng danh của chúng tôi được quảng cáo khác đi bằng tiếng Việt là "hủ tíu Nam Vang". Trong khi đó,

chúng tôi gọi Châu Đốc và Sài Gòn (bây giờ là thành phố Hồ Chí Minh) là Moat Chrouk và Prey Nokor.

Đây là hiện tượng tương đương trong cách dùng khi như chữ "Yuon", một tên ngoại dụng.

Chúng tôi phỏng đoán rằng sự lẫn lộn về chữ "Yuon" bắt nguồn từ sự tồn tại của chữ "(người) Việt". Điều

gây nên hiểu lầm là người Khmer chọn cách dùng chữ "Yuon" thay vì chữ "(người) Việt" đã khiến cho

người không phải gốc Khmer có ấn tượng là chúng tôi kỳ thị chủng tộc. Nói như thế cũng tương tự như

nói người nào dùng chữ "người Cam Bốt" thay vì chữ "người Khmer" là kỳ thị chủng tộc.

Khi chúng tôi nói tiếng Khmer thì dùng chữ "Viet Nam" sẽ rất ngọng nghịu, nghe không thuận tai, và chữ

"người Việt" thậm chí còn khó nghe hơn. Tuy nhiên, khi chúng tôi nói tiếng Anh hay Pháp, dùng chữ

Vietnamese hay Vietnamien có vẻ tự nhiên hơn, và dùng chữ "Yuon" lại trở nên ngọng nghịu.

Chẳng hạn, nếu chúng tôi muốn nói "ngư phủ phần lớn là người Việt", và nếu cả hai chữ "Yuon" và

"người Việt Nam" đều được dùng trong câu tiếng Khmer, kết quả sẽ như sau: "Pourk Neak Nisart Trey

Keu Chreun Tè Youn" hoặc "Pourk Neak Nisart Trey Keu Chreun Tè Choun Cheat Vietnam". Như trong ví

dụ này, ta thấy cần nhiều âm tiết hơn khi dùng chữ Việt Nam để diễn tả người Việt, vì chúng tôi phải nói

"Choun Cheat Vietnam" (dịch sát từng chữ là "Quốc tịch Việt Nam") để tả một người Việt. Chúng tôi

không thể nói "Pourk Neak Nisart Trey Keu Chreun Tè Vietnam", vì từ Vietnam để chỉ một nước. Trong

tiếng Khmer, chữ người Việt thực ra không có, trừ phi dùng chữ "Yuon".

Trong ngôn ngữ Khmer, hiếm khi có một từ kỳ thị chủng tộc để gọi các dân tộc khác. Tuy nhiên, điều

này không có nghĩa là không có ngôn từ khiếm nhã. Ngược lại, khi muốn tỏ ý thiếu tôn kính đối với ai,

chúng tôi thêm một tính từ "A" trước chữ định dùng. Nếu chúng tôi nói "A Yuon" thì đó là dấu hiệu thiếu

kính trọng, nhưng không nhất thiết là câu nói kỳ thị chủng tộc. Để tỏ ý kỳ thị chủng tộc, phải dùng

những chữ như sau: "A Katop" (tựa như đánh đồng một người Việt với cái tã lót), "A Gnieung" (có thể là

một cách chơi chữ với họ Nguyễn thường có của người Việt), hoặc "A Sakei Daung" (đánh đồng một

người Việt với cái vỏ dừa). Một số người có thể so sánh chữ "Yuon" với chữ "Nigger", nhưng so sánh này

là thái quá và không mang tính lịch sử. Dù thế nào đi nữa, gọi một người sống thời 1860 là kỳ thị chủng

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 105 [email protected]

tộc khi người ấy dùng chữ "Nigger" là không đúng về mặt lịch sử. Hồi đó, cách nói này là thông lệ, rồi về

sau trở nên không hợp thời nữa.

Nguyên cớ duy nhất cho lời phê phán chữ "Yuon" là vào thời Lon Nol (Cộng hoà Khmer 1970-1975), từ

"Yuon" quả thật bị dùng theo cách khinh miệt lúc tấn công người Việt. Vì thế, từ "Yuon" mang nghĩa xấu

trong thập niên 1970, và nghe nói là bị cấm dùng trong thập niên 1980 khi Cam Bốt bị Việt Nam chiếm

đóng. Món canh chua Việt Nam "samlar machou Yuon" trở thành "samlar machou Vietnam", nhưng đến

thập niên 1990 lại mang tên cũ. Tất nhiên, Khmer Rouge cũng dùng chữ "Yuon", như khi họ gọi United

Nations Transitional Authority in Cambodia (UNTAC, [cơ quan giám sát tổng tuyển cử tại Cam Bốt do Liên

hiệp quốc bảo trợ thành lập năm 1991]) là Yuon-TAC, ám chỉ cơ quan này thực tế là tay sai của Đảng

Nhân dân Cam Bốt được Việt Nam hậu thuẫn. Nhưng như đã nói, chỉ vì Khmer Đỏ và chính quyền Lon

Nol thời Cộng hoà Khmer đã cưỡng đoạt từ ngữ ấy, không có nghĩa là nó phải bị loại ra khỏi ngôn ngữ

hàng ngày.

Nếu chúng tôi nói tiếng Khmer và gọi người Việt là "A Katop", khi ấy sẽ bị xem là mang nội dung xúc

phạm và kỳ thị chủng tộc. Nếu chúng tôi nói "Pourk Yuon" hay chỉ nói "Yuon", nghĩa là dân tộc Việt Nam

hay người Việt, khi ấy không có lý do gì để lên án chúng tôi vì đã nói như thế. Nếu chúng tôi nói "A

Yuon", xin nhắc lại cũng không hẳn là kỳ thị chủng tộc, nhưng chắc chắn là từ ngữ để tỏ sự thiếu tôn

trọng đối với một người Việt Nam nào đó, cũng như "A Khleung", "A Phoumea", "A Barang", và "A Chen",

đều là một từ khiếm nhã thêm vào một từ mô tả bình thường.

Chẳng hạn, khi một người Khmer nói "Lombol Yo, Tveu Oy Ahgn Lours Proleung", đại khái có nghĩa là

"đồ quỷ, mày làm tao sợ mất vía". Bây giờ, nếu tôi thêm "A" phía trước câu như sau "A Lombol Yo, Tveu

Oy Ahgn Lours Proleung", khi ấy nghĩa trở thành thô tục, tương đương như nói, "đồ chó đẻ, mày làm tao

sợ mất vía".

Tựa như vụ Taliban phá huỷ các bức tượng Phật, Touch (2003) viết:

Để người Việt chấp nhận một từ khác, từ 'yuon', và hiểu rằng từ này không miệt thị và không đê

tiện có lẽ sẽ dễ hơn và ít tốn kém hơn là buộc người Khmer bỏ nó, một việc có thể đòi hỏi phải

phá huỷ câu khắc đã tồn tại 1000 năm [trên tấm bia của Vua Khmer Suryavarman I] (hoặc ít

nhất là làm mờ bớt đi cái chữ mang tính 'xúc phạm' trong câu khắc đó) cũng như phải huỷ tất cả

từ điển tiếng Khmer.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 106 [email protected]

Tài liệu tham khảo

Chou Ta-Kuan, The Customs of Cambodia, The Siam Society, Bangkok, Third Edition, 1993, do Paul Pelliot dịch từ

bản dịch tiếng Pháp của J. Gilman d'Arcy Paul.

George Coedes, The Indianized States of Southeast Asia, do Walter F. Vella biên tập và Sue Brown Cowing dịch,

University of Hawaii Press, Honolulu, 1968.

Kang, Pol (2004). "Vietnam's Expansionism in Indochina: Strategies and Consequences on the Regional Security,"

People's Lively Voice, May. Truy cập ngày 3 tháng 9, 2009. http://devaraja.free.fr/khcrucial-event/vietexpansionism/

viet-expansionism01.pdf

Leclère, Adhémar (1914). Histoire du Cambodge depuit le 1er siècle de notre ère, Paris: Librairie Paul Geuthner. Truy

cập ngày 3 tháng 9, 2009.

http://books.google.com/books/download/Histoire_du_Cambodge_depuis_le_1er_si__c.pdf?id=g4p5AAAAIAAJ&outp

ut=pdf&sig=ACfU3U0sUzogNV2PIBpIgtHfxKyXqBFlew&source=gbs_v2_summary_r&cad=0

Roberts, David (2002). "Cambodian coverage deserved critical review," Washington Times, 13 September. Truy cập

ngày 3 tháng 9, 2009. http://www.khmerinstitute.org/musings/mu4.html#10

Touch, Bora (2003). "The Term 'Yuon' and Its Political Manipulation," Khmer Connection, Home > Channels > Politics

> Opinion, 16 February. Truy cập ngày 3 tháng 9, 2009. http://www.khmer.cc/channels/0,4,37,01,6856.html

Ung, Bun Heang (2009). "Mutual Friends," Sacravatoons no. 1432, 7 June. Truy cập ngày 3 tháng 9, 2009.

http://sacrava.blogspot.com/2009/06/sacravatoons-no-1432-mutual-friends.html

Ung, Bun Heang (2008). "The Indochina's Emperor," Sacravatoons no. 1042, 7 July. Truy cập ngày 3 tháng 9, 2009.

http://sacrava.blogspot.com/2008/07/sacravatoons-no-1042-indochinas-emperor.html

Ung Bun Heang (2001). N/A. 21 October. Truy cập ngày 3 tháng 9, 2009.

http://2.bp.blogspot.com/_C4E4uXd2BZQ/SXKg1ebQHYI/AAAAAAAAACE/gQzkPX29-gU/s1600-h/Tae4.jpg

Yimsut, Ronnie (2005). "Vietnam: Was It Liberation or Invasion?" online essay, 2 June. Truy cập ngày 3 tháng 9,

2009. http://www.mekong.net/cambodia/jan7.htm

_____________________________________________

Choe Sang-Hun

Hàng xuất cảng mới nhất của Nam Hàn: Mẫu tự

Phạm Văn dịch

Từ lâu, Nam Hàn vẫn cảm thấy nhiều thành tựu của họ không được thừa nhận đủ: chỉ trong mấy thập

niên họ đã xây dựng nên một cường quốc kinh tế từ những đổ nát tàn khốc của chiến tranh, và sau

nhiều năm dưới chế độ cai trị độc tài họ đã tạo dựng được một nền dân chủ đầy sức sống thuộc loại bậc

nhất ở Á châu.

Giờ đây, một phụ nữ Nam Hàn 75 tuổi, bà Lee Ki-nam, cương quyết làm cho thế giới thừa nhận họ hơn

nữa bằng một món hàng xuất cảng khác thường: mẫu tự Đại Hàn. Bà Lee dùng tài sản kiếm được trong

ngành địa ốc, cố đem mẫu tự Đại Hàn đến những nơi người địa phương thiếu hệ thống chữ viết bản xứ

để ghi lại ngôn ngữ của họ.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 107 [email protected]

Một trang sách giáo khoa cho người thiểu số

ở Nam Dương © Hunminjeongeum Society

Dự án của bà đã mang lại thành công đầu tiên hồi tháng Bảy - và tạo ra tin sốt dẻo, khi trẻ con trong

một bộ lạc ở Nam Dương bắt đầu học mẫu tự Đại Hàn, Hangul [Hàn ngữ].

Bà Lee trả lời trong một buổi phỏng vấn: "Tôi đang làm cho những ngôn ngữ không có chữ viết của thế

giới điều mà tổ chức Doctors Without Borders làm trong lãnh vực y khoa. Có hàng ngàn ngôn ngữ như

vậy. Tôi nhắm mang Hangul đến cho tất cả những ngôn ngữ đó."

Nỗ lực của bà có vẻ viển vông đối với những ai không phải người Đại Hàn. Nhưng tại đất nước này - với

ngày quốc lễ là Ngày Hàn ngữ - nỗ lực của bà được đón nhận với niềm hãnh diện lớn lao. Báo chí viết về

bà bằng giọng điệu tràn trề tình cảm. Một đảng chính trị ở Đại Hàn ca tụng kỳ công của bà ở Nam Dương

- mà theo bà Lee, cho đến nay chỉ mới có 50 trẻ em tham gia - là "bước hùng ca đầu tiên tiến tới toàn

cầu hoá Hàn ngữ".

Tình cảm dạt dào này thể hiện sự gắn bó của người Hàn quốc với mẫu tự của họ - một tổng hợp đặc thù

gồm các vòng tròn và đường thẳng - và điều mà họ tin rằng sức chịu đựng của nó nói lên dân tộc tính

của họ. Trong thời thực dân Nhật cai trị hồi thế kỷ trước, người Đại Hàn bị cấm dùng ngôn ngữ và mẫu

tự của họ trong thương mại và việc công; trường học bị cấm dạy ngôn ngữ này. Số người Đại Hàn mù

chữ tăng cao, nhưng nhiều người Đại Hàn vẫn phá luật và dạy ngôn ngữ này cho con cái họ và những

người khác.

Cha bà Lee, một nhà ngôn ngữ và giáo sư, đã bí mật dạy ngôn ngữ này cho con ông và các học trò khác.

Bà Lee lấy việc vinh danh di sản của ông, vinh danh Đại Hàn và giúp thế giới làm sứ mạng của mình.

Kim Ju-won, một nhà ngôn ngữ tại Đại học Quốc gia Seoul và chủ tịch Hội Hunminjeongeum [Huấn dân

chính âm] do bà Lee thành lập để truyền bá Hàn ngữ, đã tóm tắt sứ mạng này như sau: "Khi cho các

ngôn ngữ không có chữ viết mẫu tự riêng của họ, chúng tôi có thể giúp cứu họ khỏi bị huỷ diệt và do đó

bảo đảm tính đa dạng về ngôn ngữ và văn hoá của nhân loại."

Dù vậy, tham vọng ngôn ngữ của Đại Hàn đã gây ra một số quan ngại, không lâu sau khi một số nước

Hồi giáo than phiền về nhiệt huyết của Nam Hàn trong ý định truyền bá Ky-tô giáo.

Tại Nam Dương, chính phủ khuyến khích 240 triệu dân của họ học "một ngôn ngữ thống nhất" là Bahasa

Indonesia [Ngôn ngữ Nam Dương], để rất nhiều nhóm sắc tộc có thể giao tiếp được với nhau một cách

có hiệu quả. Do vậy, dự án của bà Lee gây ra những vấn đề tế nhị.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 108 [email protected]

Mới đây, Nicholas T. Dammen, đại sứ Nam Dương tại Nam Hàn, nhận xét về quyết định thu nhận Hàn

ngữ của nhóm sắc tộc thiểu số Cia-Cia như sau: "Nếu đây là một thứ sở thích thì được. Nhưng họ không

cần nhập cảng mẫu tự Hàn ngữ. Họ vẫn có thể viết tiếng địa phương của họ bằng mẫu tự La Mã."

Theo Shin Eun-hyang, một viên chức trong Ban Ngôn ngữ Đại Hàn thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du

lịch tại Seoul: "Đây là vấn đề nhạy cảm về mặt ngoại giao. Chính phủ bị giới hạn trong việc ủng hộ trực

tiếp những dự án như vậy."

Chính phủ [Nam Hàn] tuyên bố họ không cấp tiền cho nhóm của bà Lee. Nhưng bà nói họ ủng hộ gián

tiếp bằng cách tài trợ cho các nhà ngôn ngữ để theo đuổi công việc của mình, kể cả việc dạy Hàn ngữ ở

nước ngoài.

Bà Lee bắt đầu định truyền bá Hàn ngữ từ hồi năm 2003. Thoạt tiên, bà định nhờ cậy vào các đoàn

truyền giáo Ky-tô người Đại Hàn ở Nepal, Mông Cổ, Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng theo bà, quan tâm

chính của các đoàn truyền giáo không phải là ngôn ngữ, vì thế các chương trình này không thành công.

Về sau, bà bắt đầu làm việc với các nhà ngôn ngữ ở Nam Hàn, và năm 2007 họ đã có đồng minh. Nền

văn hoá được ưa chuộng của Nam Hàn - kịch tình cảm, âm nhạc, minh tinh - đã làm mê hoặc phần lớn

Á châu. Theo một phim tài liệu quay trên hòn đảo của dân Cia-Cia, các sắc tộc như dân Cia-Cia, một

nhóm thiểu số 60.000 người ở Nam Dương, háo hức đón nhận những gì thuộc về Đại Hàn.

Vào tháng Bảy 2008, bà Lee dẫn một phái đoàn tới Baubau, một thị trấn trên đảo Buton phía đông nam

Sulawesi. Trong các buổi họp với viên chức và các thủ lĩnh bộ lạc, bà đề nghị giúp tạo dựng một hệ

thống chữ viết và sách giáo khoa căn cứ trên Hàn ngữ để họ có thể dạy con cái họ trong trường bằng

ngôn ngữ của chính họ. Bà cũng tỏ ý giúp xây một trung tâm văn hoá Đại Hàn trị giá 500.000 đô la và

đẩy mạnh phát triển kinh tế.

Họ ký thoả thuận. Hai giáo viên đại diện hai nhóm ngôn ngữ ở Baubau đến Seoul để dự một khoá tập

huấn 6 tháng về Hàn ngữ tại Đại học Quốc gia Seoul. Một người bỏ ngang, than phiền khí hậu lạnh.

Người còn lại, một thày giáo gốc Cia-Cia tên Abidin, ở lại tiếp tục học. Hồi tháng Bảy (năm nay), ông

Abidin bắt đầu dạy ngôn ngữ Cia-Cia cho 50 trẻ em lớp ba ở Baubau bằng cách dùng một cuốn sách giáo

khoa của Nam Hàn viết bằng Hàn ngữ.

Mặc dù chính phủ Nam Dương chưa can thiệp vào dự án Hàn ngữ, ông Dammen quan ngại rằng các bộ

lạc khác ở Baubau có thể ganh tị với "cách đối xử đặc biệt" mà người Đại Hàn dành cho người Cia-Cia.

Theo ông: "Nếu các bộ lạc khác bảo là: 'Ồ, chúng tôi cũng có thể mời Nhật, chúng tôi có thể mời Nga,

chúng tôi có thể mời Ấn Độ, chúng tôi có thể mời Trung Quốc, thậm chí Ả Rập,' khi ấy sự việc sẽ trở nên

hỗn loạn."

Trong khi đó, với bà Lee, chương trình cho người Cia-Cia mới là bước mở đầu tham vọng của mình. Bà

cho biết, chia sẻ chữ viết với người khác chỉ là thể hiện ước muốn của tổ tiên bà là Vua Sejong, người đã

ban hành hệ thống chữ viết. (Bà Lee là cháu 21 đời).

Quốc lễ Ngày Hàn ngữ vào 9 tháng Mười, mừng ngày nhà vua ban hành hệ thống chữ viết hồi năm 1446.

Trước đó, người Đại Hàn không có hệ thống chữ viết của riêng mình. Giới sĩ phu Đại Hàn đã học chữ

Trung Quốc để ghi nghĩa tiếng Đại Hàn, nhưng không ghi âm.

Sử chép khi giải thích lý do của Huấn dân chính âm, tên gọi nguyên thuỷ của Hàn ngữ, nhà vua đã tuyên

bố: "Nhiều thần dân thất học của ta muốn truyền đạt đã không thể diễn tả mối quan tâm của họ. Ta cảm

thấy thương cho họ. Vì thế ta đã tạo ra 28 chữ cái."

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 109 [email protected]

Bà Lee tuyên bố: "Nhà vua truyền bá Hàn ngữ vì thương dân. Đã đến lúc người Đại Hàn mở rộng tình

thương của ông đến với nhân loại bằng cách truyền bá Hàn ngữ ra toàn cầu. Đây là thời đại toàn cầu

hoá."

Nguồn: http://www.nytimes.com/2009/09/12/world/asia/12script.html?_r=1&hpw

_____________________________________

Samuel Chi

Chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa đẻ ra óc kỳ thị chủng tộc kiểu Trung Hoa

Trần Ngọc Cư dịch

Hãy gọi sự kỳ thị dành cho người dân tộc Uighur là một cuộc thanh tẩy chủng tộc (ethnic cleansing) có

đặc tính Trung Hoa.

Trong hai thập niên vừa qua, các quan lớn cộng sản Trung Quốc đã cố vận dụng chủ nghĩa dân tộc nhằm

lấp liếm tính chính đáng đầy nghi vấn (dubious legitimacy) của chế độ. Bằng cách biến mọi sai phạm của

Trung Quốc thành một sự xúc phạm do người nước ngoài gây ra, chế độ Bắc Kinh đã tạo được một cảm

thức "Trung Quốc là trên hết" (China Uber Alles), xin mượn cụm từ của một chế độ đã bị vùi sâu vào dĩ

vãng.347

Biến chứng của chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa kiểu mới là một dạng kỳ thị chủng tộc độc hại. Nói chính

xác hơn, đó là óc kỳ thị chủng tộc của người Hán Hoa.

Chủng tộc Hán khống chế thế giới người Hoa trong mọi cách thế mà người ta có thể tưởng tượng ra. Dù

họ giàu hay nghèo. Dù họ nói tiếng Quảng Đông hay Quan thoại. Dù họ sinh ở Thượng Hải hoặc Đài

Loan hay Los Angeles. Nhưng họ cùng chung một dòng máu từ một cội nguồn tiên tổ.

Vì lãnh thổ nguyên thuỷ của Trung Quốc có một dân số gần như thuần chủng, vấn đề chủng tộc hiếm khi

là một đề tài đáng tranh luận. Dân tộc Hán rốt cuộc đã đoàn kết lại vào thế kỷ 19 nhằm mục đích đánh

đuổi giới thống trị gốc Mãn Châu ra khỏi Trung Quốc. Một khi Nhà Thanh bị lật đổ năm 1911, hồ sơ quan

hệ chủng tộc tại Trung Quốc coi như được khép lại.

Cho đến bây giờ.

Sau khi giành được chiến thắng trong cuộc Nội chiến vào năm 1949, người Cộng sản Trung Quốc đã cố

duy trì sự vẹn toàn lãnh thổ, nhất là sau nhiều cuộc đụng độ biên giới với Liên Xô, Ấn Độ và Việt Nam.

Nhằm nắm vững những vùng sâu gần biên giới trong phần lãnh thổ rộng lớn phía tây của nước Cộng hoà

Nhân dân, chính phủ Bắc Kinh đã đầu tư vào chính sách đưa những thành phần đáng tin cậy đến những

vùng có tiềm năng rối loạn.

Đây là một chương trình định cư to lớn, mà nếu đem ra so sánh thì chương trình định cư của Israel chỉ là

trò chơi con trẻ.

Người Hán Hoa lũ lượt tràn vào Tây Tạng và Tân Cương (nghĩa đen là "Lãnh thổ Mới") trong những năm

sau khi Quân Giải phóng Nhân dân tiến vào nắm quyền kiểm soát những vùng này. Chính phủ Trung

Quốc khuyến dụ người Hán Hoa di cư đến những nơi cách xa vùng trung châu cả hàng ngàn dặm bằng

cách hứa hẹn với họ việc làm tốt hơn, địa vị cao hơn và tương lai tương sáng hơn.

347 "Deutschland über alles" (nước Đức là trên hết, ND).

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 110 [email protected]

Thành quả của chương trình này là một trong những cuộc chuyển dịch dân số (population shifts) lớn

nhất của thế giới kể từ khi người Đức bị trục xuất ra khỏi Đông Âu vào cuối Thế chiến II. Vào năm 1949,

người Hán Hoa chỉ chiếm 5% dân số Tân Cương. Ngày nay con số đó đã lên tới 41%, chẳng bao lâu nữa

chắc họ sẽ che mờ người bản địa Uighur theo đạo Hồi hiện chiếm 45% dân số. Urumqi, thủ phủ hiện đại

lấm chấm những nhà chọc trời, bị khống chế bởi người Hán Hoa, một chủng tộc chiếm đến 75% trong số

2 triệu rưỡi dân của thành phố này.

Việc định cư thành công dân tộc Hán tại Tân Cương làm nổi bật tầm quan trọng của vùng này đối với chế

độ Bắc Kinh. Mặc dù Tây Tạng được thế giới bên ngoài chú ý nhiều hơn, nhưng Tân Cương mới thật sự

trọng yếu hơn đối với Trung Quốc.

Với diện tích lớn hơn gấp đôi bang Texas, Tân Cương nằm trên Con đường Tơ lụa cổ xưa và là vùng đất

phong phú tài nguyên như khí đốt thiên nhiên và dầu hỏa. Tân Cương là nhà chứa những cơ sở vũ khí

hạch nhân của Trung Quốc. Biên thuỳ của nó được rặng Thiên Sơn sừng sững đứng canh phòng, che

chắn cho Trung Quốc khỏi bị phiền nhiễu vì những nước láng giềng bất ổn của vùng Trung Á.

Cũng như Tây Tạng, trên danh nghĩa, Tân Cương là một "vùng tự trị", nhưng tên gọi này cũng thiếu

trung thực như cụm từ "Cộng hoà Nhân dân". Người bản địa Uighur không được nắm giữ những chức vụ

then chốt, đành rằng những chức vụ này đương nhiên chịu sự kiểm soát của Bắc Kinh. Thật vậy, mặc dù

cách xa thủ đô đến 3000 dặm Anh, toàn bộ Tân Cương (cũng như toàn bộ Trung Quốc) đều theo giờ

giấc của Bắc Kinh.

Ngoài việc đưa người Hán vào Tân Cương để đảm bảo có được một khối dân trung kiên, một yếu tố khác

của chính sách "thanh tẩy chủng tộc" là việc đưa người dân tộc Uighur ra khỏi Tân Cương. Hàng ngàn

người Uighur bản địa đã bị đưa ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn để nhận việc làm trong nội địa Trung Quốc.

Bề ngoài, sự thuyên chuyển này có mục đích giúp người dân Uighur có đồng lương cao hơn và tương lai

tươi sáng hơn, đúng như những điều Bắc Kinh đã hứa hẹn người Hán Hoa tại Tân Cương.

Những rối ren tuần này [tức đầu tháng 7-2009] không khởi sự tại Tân Cương mà tại Quảng Đông, nơi

những người Uighur, sống xa quê hương và làm công nhân nhà máy, có chuyện xô xát với người Hán

Hoa địa phương. Khi người Uighur tổ chức biểu tình tại Urumqi, họ gặp sự chống trả của những đám

đông Hán Hoa, nhiều hơn họ đến 5 lần, trong thủ phủ của vùng đất có cái tên khá mỉa mai "Vùng Tự trị

Uighur Tân Cương".

Rõ ràng là, từ những vụ bạo loạn năm ngoái tại Lhasa [thủ phủ của Tây Tạng] đến những bạo loạn tuần

này tại Urumqi, nhiều người Hán Hoa đã để lộ một ý thức tự tôn về chủng tộc mình.

Một cụm từ mà người ta thường nghe từ cửa miệng của người Hán Hoa bình thường trên đường phố là

"đồ vong ơn bội nghĩa". Nói cách khác: Bọn dân tộc ít người lạc hậu kia lẽ ra phải biết ơn về tất cả cơ sở

hạ tầng hiện đại và mức sống tốt đẹp mà người Hán Hoa đã ban phát cho họ chứ không nên gây rối

loạn.

Đã qua rồi cái thời mà sự hoà hợp chủng tộc là một quan niệm được đề cao tại Cộng hoà Nhân dân

Trung Hoa. Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh giai cấp nhưng cũng đòi hỏi lòng nhân ái (ít ra trên

danh nghĩa) đối với các dân tộc ít người. Thời đó, ngay cả tờ giấy bạc Nhân dân tệ của Trung Quốc cũng

cố tình mô tả hết mọi dân tộc thiểu số trong sắc phục địa phương của họ.

Nhưng đó là cái thời tất cả mọi người còn bị áp bức tại Trung Quốc. Bây giờ Trung Quốc đã rộng lớn hơn,

hùng mạnh hơn, và giàu có hơn bao giờ cả, thì việc quan tâm đến những bất bình của các dân tộc ít

người không còn là một ưu tiên.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 111 [email protected]

Thật vậy, những bất bình này đã được đáp lại không phải chỉ bằng những cái nhún vai khinh rẻ, mà bằng

những cú đấm, gậy gộc và cả súng đạn - không phải chỉ do cảnh sát và quân đội. Bạn có thể gọi đó là

sự kỳ thị chủng tộc mang đặc tính Trung Hoa.

Nguồn: http://www.realclearworld.com/articles/2009/07/09/chinese_nationalism_beget_chinese_racism_96900.html

___________________________________________

Jerry Z. Muller

Ta và chúng - sức mạnh trường tồn của chủ nghĩa dân tộc

Trần Ngọc Cư dịch

Lời người dịch: Vì tác giả lặp đi lặp lại một từ then chốt trong bài viết của ông là

ethnonationalism, mà tôi thiển nghĩ là rất sát nghĩa với từ "chủ nghĩa dân tộc", nên xin mạo muội

dịch từ nationalism là "chủ nghĩa quốc gia" để phân biệt. Theo Muller, chủ nghĩa dân tộc đòi hỏi

biên giới quốc gia phải trùng khít với biên giới chủng tộc trong mô hình quốc gia-dân tộc có chủ

quyền (the nation-state), trong khi chủ nghĩa quốc gia thông thoáng ngụ ý rằng "tất cả dân

chúng cùng sống trong biên giới của một lãnh thổ đều là thành viên của một quốc gia, không

phân biệt nguồn gốc sắc dân, chủng tộc, hay tôn giáo. Chủ nghĩa quốc gia cởi mở hay có tính

công dân này là quan niệm mà người Mỹ đương đại thường dùng để mô tả bản sắc của mình".

Để độc giả khỏi mất thì giờ tìm cước chú nằm ở cuối bài, người dịch xin phụ chú trong ngoặc

vuông ngay sau từ ngữ hay ý tưởng liên hệ.

Phóng chiếu kinh nghiệm lịch sử của mình lên phần còn lại của thế giới, người Mỹ không mấy coi trọng

vai trò của chủ nghĩa dân tộc trong sinh hoạt chính trị. Dẫu sao, tại Hoa Kỳ, dân chúng đủ mọi nguồn gốc

chủng tộc đang sống kề vai sát cánh bên nhau tương đối hoà bình. Nội trong vòng hai, ba thập niên sau

khi đến Mỹ, bản sắc dân tộc của người nhập cư trở nên phôi pha xuyên qua quá trình hội nhập văn hoá

và hôn nhân dị chủng. Chắc chắn, hiện tượng này cũng xảy ra ở nhiều nơi khác.

Ngoài ra, nhiều người Mỹ nhận thấy chủ nghĩa dân tộc không ổn cả trên bình diện tri thức lẫn đạo lí.

Nhiều nhà xã hội học đã công phu chứng minh rằng chủ nghĩa dân tộc không phải là một khuynh hướng

bẩm sinh, mà là một sản phẩm văn hoá, thường được hun đúc có chủ tâm. Còn các nhà nghiên cứu đạo

lí lại thường khinh miệt các hệ giá trị đặt cơ sở trên các bản sắc tập thể hẹp hòi mà không chịu hướng ra

cùng thế giới.

Nhưng chẳng phải vì thế mà chủ nghĩa dân tộc sẽ biến mất. Người nhập cư thường đến Hoa Kỳ với một

thái độ sẵn sàng hội nhập vào quê hương mới và do đó phải thay đổi bản sắc của mình. Nhưng đối với

những người còn ở lại trên vùng đất mà tổ tiên họ đã sống qua nhiều thế hệ, nếu không là hằng thế kỉ,

thì căn cước chính trị của họ thường mang dạng thức chủng tộc. Sự thể này đã tạo những tranh giành

quyền lực chính trị giữa các cộng đồng. Sự hình thành một trật tự bình ổn trong một vùng gồm có nhiều

quốc gia-dân tộc (nation-states) thường là hệ quả của một tiến trình li khai chủng tộc đầy bạo lực. Trong

những vùng mà tiến trình li khai này chưa hề diễn ra, cứ lẽ thường, sinh hoạt chính trị vẫn còn mang một

bộ mặt xấu xí.

Về lịch sử châu Âu thế kỉ 20, một luận cứ quen thuộc và có nhiều ảnh hưởng cho rằng chủ nghĩa dân tộc

đã hai lần đưa đến chiến tranh, một lần vào năm 1914 và lần kia vào năm 1939. Từ đó về sau, theo

quan điểm này, người châu Âu đi đến kết luận chủ nghĩa dân tộc là một hiểm hoạ và vì thế dần dần từ

bỏ nó. Trong những thập niên hậu chiến, người Tây Âu từng bước tham gia vào một mạng lưới các cơ

chế xuyên quốc gia, mà nhiên hậu đã đi đến việc hình thành Liên minh châu Âu (EU). Sau khi Liên Xô

sụp đổ, mô hình xuyên quốc gia này đã bành trướng về hướng đông và trùm lên gần hết châu lục. Người

dân châu Âu đã đi vào một kỉ nguyên hậu-dân tộc, sự kiện này không những là một điều tốt đẹp tự thân,

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 112 [email protected]

mà còn là một gương mẫu cho nhiều vùng khác trên thế giới. Chủ nghĩa dân tộc, theo quan điểm này, đã

là một khúc quanh bi thảm trên con đường đi đến một trật tự dân chủ tự do và hoà bình.

Quan điểm này không những được phần lớn trí thức châu Âu tin theo mà thậm chí có lẽ còn được nhiều

người Mỹ có văn hoá tin tưởng hơn thế nữa. Chẳng hạn, cách đây không lâu, trong khi tranh luận rằng

Israel phải từ bỏ chủ quyền của một quốc gia Do Thái (a Jewish state) và phải tự thoát xác để trở thành

một thực thể gồm hai dân tộc (binational entity), sử gia nổi tiếng Tony Judt đã chia sẻ quan điểm với bạn

đọc của The New York Review of Books, [một bán nguyệt san phê bình và nghị luận], như sau: "Vấn đề

mà chúng ta gặp phải với Israel là, quốc gia này đã đưa một đồ án li khai mang tính đặc trưng của cuối

thế kỉ 19 vào một thế giới ngày một tiến bộ, một thế giới tôn trọng các quyền cá nhân, có biên cương mở

rộng và có luật pháp quốc tế. Chính ý niệm một 'quốc gia Do Thái' là một quan niệm lỗi thời."

Tuy vậy, kinh nghiệm của hàng trăm người châu Phi và châu Á bỏ mạng hằng năm khi cố vượt biên sang

châu Âu bằng cách đổ bộ lên bờ biển Tây Ban Nha hoặc Italy lại chứng tỏ rằng biên cương của châu Âu

không rộng mở đến như thế. Ngoài ra, nếu chịu khó nghiên cứu, người ta sẽ thấy rằng vào năm 1900,

châu Âu có nhiều quốc gia đa-dân-tộc, mà trong đó không một dân tộc nào chiếm vị trí áp đảo. Còn như

vào năm 2007, tại châu Âu chỉ còn hai quốc gia thuộc loại này, mà một trong hai, tức Bỉ, suýt bị tan rã

[vì một cuộc khủng hoảng chính trị]. Nói thế khác, ngoài Thuỵ Sĩ ra - nơi cán cân quyền lực giữa các sắc

dân trong nước được bảo vệ bằng các luật công dân rất nghiêm chỉnh -- tại Âu châu, "đồ án li khai" đã

không biến mất mà có chiều hướng thắng thế.

Thay vì bị đào thải vì quá lỗi thời vào năm 1945 [cùng với sự cáo chung của chế độ Quốc xã], chủ nghĩa

dân tộc trên nhiều mặt đã đạt đến đỉnh cao trong những năm tiếp theo Thế chiến II. Sự ổn cố của châu

Âu trong thời Chiến tranh Lạnh, thật ra, một phần nhờ việc thực hiện tốt đồ án dân tộc chủ nghĩa trên

diện rộng. Ngoài ra, kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, chủ nghĩa dân tộc vẫn còn tiếp tục thay đổi

các đường biên giới châu Âu.

Tóm lại, chủ nghĩa dân tộc đã đóng một vai trò sâu đậm và bền vững trong lịch sử hiện đại hơn người ta

thường quan niệm, đồng thời các tiến trình dẫn đến sự thắng thế của mô hình quốc gia dân tộc (the

ethnonational state) và sự li khai của các nhóm sắc tộc tại châu Âu có khả năng tái diễn ở những nơi

khác trên thế giới. Những nhân tố sau đây sẽ thách thức cấu trúc nội bộ của các quốc gia và các đường

biên giới: việc đô thị hoá ngày một gia tăng, trình độ giáo dục, nỗ lực vận động sức mạnh chính trị; sự

cách biệt giữa các sắc dân về tỉ lệ sinh suất và thành tựu kinh tế; và việc di dân giữa các nước. Dù có

được coi là đúng đắn chính trị (politically correct) hay không, chủ nghĩa dân tộc vẫn còn tiếp tục thay đổi

thế giới trong thế kỉ 21 này.

Chính trị dựa vào bản sắc

Có hai tư duy chính về bản sắc quốc gia. Một quan niệm là, tất cả dân chúng cùng sống trong biên giới

của một lãnh thổ đều là thành viên của một quốc gia, không phân biệt nguồn gốc sắc dân, chủng tộc,

hay tôn giáo. Chủ nghĩa quốc gia cởi mở hay có tính công dân này là quan niệm mà người Mỹ đương đại

thường dùng để mô tả bản sắc của mình. Nhưng quan niệm thông thoáng này đã từng va chạm với và

thường phải nhượng bộ trước một quan niệm khác, đó là quan niệm dân tộc chủ nghĩa

(ethonationalism). Cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc là các quốc gia được xác định bằng một di sản chung,

thường gồm có một ngôn ngữ chung, một đức tin chung, và một cội nguồn tiên tổ chung.

Quan điểm chủ nghĩa dân tộc có truyền thống ngự trị lên phần lớn châu Âu và thậm chí vẫn tồn tại ở Hoa

Kỳ cho đến cách đây không lâu. Qua nhiều thời kì lâu dài trong lịch sử Hoa Kỳ, người ta tin rằng chỉ có

những người dân gốc Anh, hay những người theo đạo Tin Lành, hay da trắng, hay đến từ bắc Âu mới

thực sự là người Mỹ. Mãi đến năm 1965, khi cải tổ luật di trú, Hoa Kỳ mới bãi bỏ hệ thống hạn ngạch dựa

vào nguồn gốc dân tộc (national-origin quotas), một hệ thống đã từng hiện hữu cả hàng chục năm trước

đó. Hệ thống này đã hoàn toàn loại bỏ người châu Á và triệt để giới hạn việc nhập cư của người nam Âu

và đông Âu.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 113 [email protected]

Chủ nghĩa dân tộc tiếp nhận phần lớn sức mạnh tình cảm từ quan niệm cho rằng tất cả mọi thành phần

dân tộc đều thuộc về một đại gia đình, mà truy nguyên rốt ráo, được gắn bó với nhau bằng huyết hệ.

Chính sự tin tưởng chủ quan vào tính hiện thực của một cái "chúng ta" chung (a common "we") là rất

quan trọng. Những mốc giới nhằm phân biệt đại gia đình dân tộc (the in-group) nói trên có thể biến thiên

theo từng trường hợp và từng giai đoạn. Ngoài ra, chính vì tính chất chủ quan của các biên giới dân tộc

mà một số người đã không đếm xỉa đến giá trị thực dụng của chúng. Nhưng như Walker Connor, một

nhà nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc sâu sắc, đã nhận xét: "Những gì hiện hữu trên thực tế chưa chắc ảnh

hưởng đến lối ứng xử của con người bằng những gì hiện hữu trong tâm tưởng họ". Ngoài ra, tín lí dân

tộc chủ nghĩa đã dựa trên những nguyên tắc nòng cốt sau đây: rằng các dân tộc là những thực thể, rằng

mỗi dân tộc phải có một quốc gia riêng, và rằng mỗi quốc gia phải gồm có các thành viên của một dân

tộc duy nhất.

Sử quan thông thường về châu Âu cho rằng trong quá khứ chủ nghĩa quốc gia ở tây Âu chủ yếu là thông

thoáng và rằng càng đi về phía đông, chủ nghĩa này càng mang nặng màu sắc dân tộc. Nói vậy cũng

đúng một phần nào, nhưng lại nguỵ trang nhiều phần khác. Đúng ra phải nói rằng, khi các quốc gia hiện

đại bắt đầu thành hình, thì biên giới chính trị và biên giới sắc tộc-ngôn ngữ của chúng hầu như đã trùng

khít lên nhau tại phần lãnh thổ châu Âu dọc theo Đại Tây Dương. Nghĩa là, trong bối cảnh lịch sử này,

chủ nghĩa quốc gia thông thoáng hoàn toàn có khả năng xuất hiện tại các quốc gia đã có một mức độ

thuần chủng khá cao. Ngay cả trong một thời kì lâu dài trước thế kỉ 19, các quốc gia như Anh, Pháp, Bồ

Đào Nha, Tây Ban Nha, và Thuỵ Điển đã xuất hiện như là những quốc gia-dân tộc (nation-states), dưới

dạng thức những cơ cấu tổ chức xã hội, trong đó sự chia rẽ sắc tộc đã bị xoá nhoà qua một tiến trình

thuần-nhất-hoá văn hoá và xã hội lâu dài.

Ở trung tâm châu lục, địa bàn của những người nói tiếng Đức và tiếng Ý, các cơ cấu chính trị từng bị

phân chia ra thành hằng trăm đơn vị nhỏ. Nhưng trong thập niên 1860 và thập niên 1870, sự phân hoá

này được giải quyết nhờ sự thành lập nước Ý và nước Đức, do đó hầu hết người nói tiếng Ý được sống

trong nước Ý và đa số người nói tiếng Đức được sống trong nước Đức. Càng đi xa hơn về phía đông, tình

hình lại thay đổi thêm nữa. Mãi đến năm 1914, hầu hết miền trung, miền đông và miền đông-nam châu

Âu vẫn chưa có các quốc gia dân tộc có chủ quyền nhưng gồm có những đế quốc. Đế chế Hapsburg nắm

phần lãnh thổ mà bây giờ gồm các nước Áo, Cộng hoà Tiệp, Hungary, Slovakia và một số vùng bây giờ là

Bosnia, Croatia, Ba Lan, Romania, Ukraine, và nhiều vùng khác. Đế quốc Romanov vươn vào cả bên

trong châu Á, gồm phần lãnh thổ bây giờ là Nga và nhiều vùng bây giờ thuộc Ba Lan, Ukraine, và nhiều

vùng khác. Và Đế quốc Ottoman bao gồm nước Thổ Nhĩ Kì ngày nay và nhiều vùng nay thuộc về

Bulgaria, Hi Lạp, Romania, và Serbia, đồng thời trải lên phần lớn Trung Đông và Bắc Phi.

Trong mỗi đế quốc như vậy có nhiều nhóm sắc tộc khác nhau, nhưng những đế quốc này không có tính

đa-dân-tộc (multinational) theo nghĩa các dân tộc tạo nên dân số của chúng được hưởng qui chế bình

đẳng với nhau. Chế độ quân chủ thống trị và giai cấp quí tộc địa chủ thường không có cùng ngôn ngữ và

nguồn gốc chủng tộc với giai cấp thương gia thành thị, mà thành phần của giai cấp này lại không có

cùng ngôn ngữ, chủng tộc và cả tôn giáo với giai cấp nông dân. Trong đế quốc Hapsburg và đế quốc

Romanov chẳng hạn, thương gia thường là người dân tộc Đức hay Do Thái. Trong đế quốc Ottaman, giới

buôn bán thường là người Armenia, Hi Lạp, hay Do Thái. Và trong mỗi một đế quốc, bản thân giai cấp

nông dân cũng thuộc về nhiều sắc tộc khác nhau.

Mãi đến cuối thế kỉ 19, phần lớn những xã hội này vẫn còn ở trong tình trạng nông nghiệp: đại bộ phận

dân chúng là nông dân sống ở vùng thôn quê và ít người biết chữ. Các giai tầng chính trị, xã hội và kinh

tế thường được cấu trúc tương ứng với nguồn gốc chủng tộc, và dân chúng không kì vọng thay đổi địa vị

của mình trong hệ thống. Trật tự xã hội này hầu như không có vấn đề, mãi cho đến khi chủ nghĩa dân

tộc hiện đại bắt đầu trỗi dậy. Ngoài ra, trong thế giới này, những người cùng một tôn giáo, cùng một

ngôn ngữ, hay cùng văn hoá lắm khi bị phân tán qua nhiều nước và đế quốc khác nhau. Chẳng hạn,

người Đức không những sống trong những vùng về sau trở thành nước Đức mà còn tản mác khắp đế

quốc Hapsburg và đế quốc Romanov. Có người Hi Lạp tại Hi Lạp đã đành, nhưng còn có hàng triệu người

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 114 [email protected]

Hi Lạp trong đế quốc Ottaman (đó là chưa nói đến hàng trăm ngàn người Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi sống ở

Hi Lạp). Và người Do Thái thì sống khắp mọi nơi - nhưng họ không có được một quốc gia độc lập.

Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc

Ngày nay, người ta thường tin chắc rằng quốc gia-dân tộc có chủ quyền (the nation-state) là dạng thức

tự nhiên của tập hợp chính trị và coi các đế quốc là hiện tượng bất bình thường. Nhưng nhìn qua phần

lớn sử sách, phải nghĩ ngược lại mới là gần với sự thật hơn. Hầu hết nhân loại ở vào hầu hết mọi thời đã

sống trong những đế quốc, trong khi đó quốc gia-dân tộc là ngoại lệ chứ không phải là thông lệ. Vậy

nhân tố nào đã đột nhiên tạo ra chuyển biến này?

Theo cách lí giải của nhà xã hội học Ernest Gellner, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc không phải là một

lỗi lầm kì quặc nào đó trong lịch sử; mà thực ra, nó được thúc đẩy bởi một số sóng ngầm mang tính hiện

đại sâu sắc nhất. Sự cạnh tranh quân sự giữa các quốc gia đòi hỏi những nguồn lực quốc gia ngày càng

lớn và vì thế đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục. Phát triển kinh tế lại tuỳ thuộc vào trình độ học

vấn của đại chúng cũng như sự thuận lợi của phương tiện truyền thông; những yêu cầu này thúc đẩy

chính sách phát huy giáo dục và một ngôn ngữ chung -- một sự kiện đã trực tiếp đưa đến những xung

đột về ngôn ngữ và về cơ hội thăng tiến của các dân tộc.

Các xã hội hiện đại đặt cơ sở trên khái niệm bình quân, theo đó, ít ra trên lí thuyết, bất cứ người nào

cũng có khả năng vươn tới bất cứ địa vị kinh tế nào mà mình muốn. Nhưng trên thực tế, không phải ai

cũng có một cơ hội đồng đều để thăng tiến về kinh tế. Sở dĩ như vậy, không phải chỉ vì các cá nhân có

khả năng bẩm sinh dị biệt, mà vì những thăng tiến này một phần còn tuỳ thuộc vào điều mà các nhà

kinh tế học gọi là "vốn văn hoá" (cultural capital), tức là những kĩ năng và mô thức ứng xử giúp cho các

cá nhân hay tập thể thành công. Chẳng hạn, những nhóm sắc tộc có truyền thống học hành và chịu dấn

thân vào thương trường thì thường thành công vượt bực, còn những nhóm không có được truyền thống

ấy thì thường chịu phần thua thiệt trong xã hội.

Vào thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, khi di cư vào sống trong các đô thị và có cơ hội học hành hơn xưa, các

nhóm chủng tộc có gốc gác chủ yếu là nông dân, như người Tiệp, người Ba Lan, người Slovaks, và người

Ukraine nhận thấy rằng những địa vị then chốt trong chính quyền và trong sinh hoạt kinh tế đều đã bị

các sắc dân như Armenia, Đức, Hi Lạp, hay Do Thái nắm giữ. Những người nói cùng một ngôn ngữ trong

nhóm có gốc nông dân nói trên mới bắt đầu chia sẻ một thứ tình liên đới, đồng thời nhận ra bản sắc của

mình tương phản với các cộng đồng khác. Rốt cuộc họ phải đòi hỏi một quốc gia-dân tộc (nation-state)

có chủ quyền, trong đó họ sẽ là chủ nhân ông, chi phối sinh hoạt chính trị, bổ dụng nhân viên công

quyền, và kiểm soát thương mại.

Chủ nghĩa dân tộc vừa có cơ sở tâm lí vừa có cơ sở kinh tế. Xuyên qua việc tạo ra một quan hệ mới mẻ

và trực tiếp giữa cá nhân với chính quyền, sự trỗi dậy của nhà nước hiện đại đã làm suy yếu những gắn

bó truyền thống của cá nhân đối với những đơn vị xã hội trung gian như gia đình, dòng họ, phường hội,

và nhà thờ. Và xuyên qua việc tăng trưởng tính cơ động xã hội và địa lí (social and geographical

mobility), đồng thời khuyến khích tâm lí tự lập của cá nhân, sự trỗi dậy của các nền kinh tế thị trường

cũng có tác dụng tương tự. Kết quả là các cá nhân phải đối diện một khoảng trống vắng tình cảm

(emotional vacuum), một khao khát thường được thoả mãn bằng cách đi tìm cho mình những dạng căn

cước mới, thường là dựa vào bản sắc dân tộc.

Ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa đòi hỏi một sự đồng dạng giữa quốc gia và dân tộc nên đã mang lại những

hệ quả đầy bạo động. Đúng như Lord Acton đã nhận ra từ năm 1862, "Bằng cách làm cho quốc gia và

dân tộc phải trùng hợp nhau trên lí thuyết, [chủ nghĩa dân tộc của giới thống trị] thực sự đã đưa tất cả

các dân tộc khác tình cờ sống trong cùng một biên giới xuống thân phận thần dân (subject condition). Do

đó, tuỳ theo mức độ nhân đạo và văn minh của bộ phận thống trị, tức bộ phận đã nắm hết mọi quyền

hành trong cộng đồng, những dân tộc hạ đẳng hoặc là bị tiêu diệt, hoặc bị đưa xuống làm nô lệ, hoặc bị

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 115 [email protected]

đặt ra ngoài vòng pháp luật, hoặc bị kìm hãm trong tình trạng lệ thuộc". Và đó chính là những gì đã xảy

ra.

Chuyển biến vĩ đại

Những người có khuynh hướng tự do của thế kỉ 19, cũng tương tự như những người chủ trương toàn cầu

hoá ngày nay, đã tin tưởng rằng sự bành trướng thương mại giữa các quốc gia sẽ giúp nhiều người nhận

ra được những lợi ích phát sinh từ hoà bình và mậu dịch, cả bên trong các xã hội lẫn giữa chúng với

nhau. Những người theo xã hội chủ nghĩa đồng ý điều này, mặc dù họ tin tưởng rằng sự hài hoà trong xã

hội và giữa các quốc gia chỉ có thể đi theo bước chân của chủ nghĩa xã hội mà thôi. Thế nhưng đó không

phải là con đường định mệnh mà lịch sử thế kỉ 20 phải đi theo. Tiến trình "làm cho hai thực thể quốc gia

và dân tộc tương hợp" mang nhiều dạng thức khác nhau, từ tự nguyện di dân (thường do chính sách kì

thị của chính phủ đối với các sắc dân thiểu số), đến việc trục xuất bằng vũ lực (còn được mệnh danh là

"thuyên chuyển dân chúng"), đến chính sách diệt chủng. Mặc dù từ "ethnic cleansing" (thanh tẩy chủng

tộc) mới đi vào tiếng Anh gần đây thôi, nhưng những từ tương đương của nó trong tiếng Tiệp, tiếng

Pháp, tiếng Đức, và tiếng Ba Lan thì đã có từ lâu. Thật vậy, phần lớn lịch sử châu Âu thế kỉ 20 đã là một

tiến trình cách li các dân tộc với nhau (process of ethnic disaggregation), một tiến trình dai dẳng và đau

thương.

Tiến trình cách li các chủng tộc trên qui mô lớn bắt đầu diễn ra tại vùng biên giới châu Âu. Ở vùng Balcan

[đông nam châu Âu], nơi tập hợp nhiều sắc dân khác nhau, các cuộc chiến bành trướng lãnh thổ của

những quốc gia-dân tộc (nation-states) như Bulgaria, Hi Lạp, và Serbia vào lúc đế quốc Ottoman suy tàn

đã diễn ra đồng thời với các cuộc bạo động giữa các dân tộc. Trong các cuộc chiến ở vùng Balcan những

năm 1912-13, gần nửa triệu người đã rời quê cha đất tổ, hoặc tự ý ra đi hoặc vì áp lực. Người Hồi giáo

đã từ bỏ những vùng nằm dưới sự kiểm soát của người Bulgaria, người Hi Lạp, và người Serb; người

Bulgaria đành bỏ những vùng thuộc Macedonia do người Hi Lạp cai quản; còn người Hi Lạp thì phải chạy

ra khỏi những vùng ở Macedonia đã bị nhượng cho Bulgaria và Serbia.

Thế chiến I dẫn đến sự cáo chung của ba đế quốc lớn của cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20. Tiến trình giải

thể các đế chế này đã châm ngòi cho chủ nghĩa dân tộc. Trên lãnh thổ Đế quốc Ottaman, những đợt trục

xuất và tàn sát tập thể suốt cuộc thế chiến đã cướp mất mạng sống của một triệu người thiểu số

Armenian trong mưu đồ "thanh tẩy chủng tộc" đầu tiên, nếu không muốn nói đó là một cuộc diệt chủng.

Năm 1919, chính phủ Hi Lạp đưa quân vào chiếm đóng vùng lãnh thổ mà sau này đã trở thành nước Thổ

Nhĩ Kì, với quyết tâm mở mang bờ cõi cho một nước "Hi Lạp rộng lớn hơn", một nước Hi Lạp vươn đến

tận Constantinople. Thừa thắng vào buổi đầu, quân đội Hi Lạp đã cướp phá và thiêu huỷ nhiều làng mạc

nhằm xua đuổi người Thổ Nhĩ Kì đang sống trong vùng. Nhưng cuối cùng quân Thổ Nhĩ Kì đã tập kết và

đẩy lùi quân Hi Lạp, đồng thời trên đường tiến quân chính họ cũng thực hiện cuộc thanh tẩy chủng tộc

nhắm vào người Hi Lạp địa phương. Tiếp đến, tiến trình hoán chuyển dân cư được hình thành trong Hiệp

ước Lausanne năm 1923: theo đó, tất cả mọi người Hi Lạp phải di cư sang Hi Lạp, tất cả mọi người Hồi

giáo Hi Lạp phải di cư sang Thổ Nhĩ Kì. Kết cuộc, Thổ Nhĩ Kì đã trục xuất ngót 1,5 triệu người và Hi Lạp

đã trục xuất gần 400 ngàn.

Sự tan rã của đế quốc Hapsburg và đế quốc Romanov đã đưa đến sự xuất hiện một số đông đảo các

quốc gia mới. Trong đó, nhiều quốc gia chấp nhận thể chế dân tộc (ethononational polity), theo đó nhà

nước tồn tại để bảo vệ và thăng tiến nhóm chủng tộc nổi bật nhất. Tuy thế, lúc bấy giờ, trong số ngót 60

triệu người trung Âu và đông Âu, có đến 25 triệu người vẫn thuộc về các dân tộc ít người tại những quốc

gia họ sinh sống. Gần như trong mọi trường hợp, nhóm dân tộc đa số không bao giờ thực tình giúp đỡ

để các nhóm thiểu số hội nhập vào sinh hoạt dòng chính, và chính bản thân các nhóm thiểu số cũng

không mấy thiết tha. Các chính phủ dân tộc chủ nghĩa công khai bênh vực quyền lợi của cộng đồng đa

số. Các sinh hoạt của chính phủ được thực hiện qua ngôn ngữ của nhóm dân tộc đa số, và các công việc

trong chính quyền thì chỉ dành cho những ai nói được ngôn ngữ ấy.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 116 [email protected]

Trên phần lớn lãnh thổ trung Âu và đông Âu, người Do Thái từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong

các ngành nghề và trên thương trường. Sau khi được hưởng những quyền dân sự vào cuối thế kỉ 19, họ

tỏ ra vượt trội trong những nghề nghiệp đòi hỏi trình độ học vấn, như y khoa và pháp lí, và chẳng bao

lâu người Do Thái hay người có gốc Do Thái đã chiếm nửa tổng số bác sĩ và luật sư tại những đô thị như

Budapest, Vienna, và Warsaw. Khoảng trước thập niên 1930, nhiều chính phủ đặt ra nhiều chính sách

nhằm ngăn chặn và đảo ngược những bước thăng tiến này, bằng cách từ chối tín dụng với người Do Thái

và hạn chế việc thu nhận họ vào đại học. Nói cách khác, đảng Quốc xã -- một lực lượng chính trị lên nắm

chính quyền tại Đức năm 1933 và xây dựng phong trào của họ chung quanh "tính Đức" (Germanness)

đối chọi lại "tính Do Thái" (Jewishness) - chỉ là một phiên bản cực đoan của một xu thế dân tộc chủ

nghĩa khá phổ biến lúc bấy giờ.

Nền chính trị đặt cơ sở trên chủ nghĩa dân tộc đã đi một bước ngoặt thậm chí nguy hiểm hơn nhiều trong

Thế chiến II. Chế độ Quốc xã cố tình thiết kế lại bản đồ chủng tộc của toàn châu Âu bằng bạo lực. Hành

vi triệt để nhất của nó là mưu toan quét sạch bóng dáng Do Thái khỏi châu Âu bằng cách giết toàn bộ

dân tộc này -- một mưu toan khá thành công. Chính quyền Quốc xã cũng sử dụng các nhóm thiểu số dân

tộc Đức tại Tiệp Khắc, Ba Lan, và nhiều nơi khác để áp đặt quyền thống trị. Nhiều chế độ đồng minh với

Đức cũng mở chiến dịch riêng của mình nhằm tiêu diệt kẻ thù dân tộc trong biên giới. Chính quyền

Romania, chẳng hạn, đã ra tay tàn sát hàng trăm ngàn người Do Thái, mà không hề nhận lệnh từ Đức

Quốc xã. Chính quyền Croatia không những tàn sát người Do Thái mà còn giết hại cả hàng trăm ngàn

người Serb và người Romany.

Hậu chiến nhưng chưa phải hậu-dân tộc chủ nghĩa

Có lẽ nhiều người đã từng đinh ninh rằng những chính sách diệt chủng của chế độ Quốc xã và sự sụp đổ

toàn bộ của chế độ này sẽ chấm dứt kỉ nguyên dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật ra những biến cố này đã

dàn dựng sân khấu cho một đợt chuyển biến dân tộc chủ nghĩa to lớn khác nữa. Sự dàn xếp chính trị tại

trung Âu sau Thế chiến I sở dĩ thành tựu được phần lớn nhờ vào việc di dời các đường biên giới cho phù

hợp với các khối dân tộc sẵn có. Ngược lại, sau Thế chiến II, chính các khối dân tộc lại bị di dời cho phù

hợp với các đường biên giới cố định. Hàng triệu người bị trục xuất ra khỏi quê hương và tổ ấm của mình,

chí ít với sự thoả thuận ngầm của các Đồng minh thắng trận.

Chính Winston Churchill, Franklin Roosevelt, và Joseph Stalin đã nhất trí rằng việc trục xuất người Đức ra

khỏi các quốc gia không phải nước Đức (non-German countries) là điều kiện tiên quyết để thiết lập một

trật tự ổn cố thời hậu chiến. Như Churchill đã phát biểu trong một diễn văn trước Nghị viện Anh vào

tháng Mười hai 1944:

Cho đến giờ phút này, chúng ta có thể thấy được rằng hành động trục xuất sẽ là biện pháp thoả

đáng và trường cửu nhất... Sự pha trộn các sắc dân với nhau sẽ không có lí do tồn tại để tạo ra

những lo lắng bất tận... Phải thực hiện cho kì được một cuộc càn quét sạch sẽ. Tôi không hề nao

núng trước viễn ảnh phải tháo gỡ các khối dân tộc ra khỏi nhau, tôi cũng không hề nao núng vì

những cuộc thuyên chuyển dân chúng trên qui mô lớn này.

Churchill trưng dẫn Hiệp ước Lausanne ra làm tiền lệ, chứng minh rằng thậm chí lãnh đạo các quốc gia

dân chủ tự do thời bấy giờ cũng đã đi đến kết luận là, chỉ có những biện pháp áp đặt triệt để mới chấm

dứt được nguyên nhân tạo ra những tham vọng dân tộc và ý đồ xâm lược.

Giữa năm 1944 và năm 1945, năm triệu người Đức từ các vùng miền đông của Đế chế Đức (the German

Reich) đã chạy về hướng tây để trốn thoát Hồng quân Liên xô, một đội quân đang thừa thắng, hăng say

hãm hiếp và tàn sát trên đường tiến đến Berlin. Rồi, từ năm 1945 đến 1947, những chế độ mới thời hậugiải

phóng tại Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, và Nam Tư lại trục xuất thêm 7 triệu người Đức nữa để trả

đũa sự cộng tác của họ với chế độ Quốc xã. Chung qui, những biện pháp này đã tạo nên một cuộc cưỡng

bách di dân vĩ đại nhất lịch sử châu Âu, với hậu quả là hàng trăm ngàn người đã bỏ mạng dọc đường.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 117 [email protected]

Một số người Do Thái còn sống sót sau chiến tranh và trở lại mái nhà xưa ở đông Âu, đã gặp phải chủ

nghĩa bài Do (anti-Semitism) gay gắt đến nỗi tuyệt đại đa số đành bỏ quê hương ra đi vĩnh viễn. Khoảng

220 ngàn trong số này đã lần hồi đến được khu vực do người Mỹ chiếm đóng tại Đức, từ đó cuối cùng

hầu hết đã di cư sang Israel hay Hoa Kỳ. Như thế, người Do Thái gần như đã biến mất khỏi trung và

đông Âu, một địa bàn từng là trung tâm sinh hoạt Do Thái từ thế kỉ 16.

Hàng triệu người tị nạn từ các nhóm sắc tộc khác cũng bị đuổi ra khỏi nhà và bị đưa đi tái định cư ở nơi

khác sau chiến tranh. Một phần cũng vì biên giới của Liên Xô được nới rộng về hướng tây vào tận trong

phần đất từng thuộc về lãnh thổ Ba Lan, trong khi biên giới của Ba Lan cũng di dời theo hướng tây vào

trong phần đất từng thuộc về lãnh thổ Đức. Nhằm làm cho các khối dân tộc nằm gọn vào các đường biên

giới mới, một triệu rưỡi người Ba Lan từng sống trên những vùng mà nay lại thuộc về Liên Xô đã bị trục

xuất sang Ba Lan, và 500 ngàn người dân tộc Ukraine từ lâu sống trên đất Ba Lan lại bị đưa sang Cộng

hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraine. Ngoài ra, một cuộc chuyển giao dân cư khác đã diễn ra giữa Tiệp

Khắc và Hungary, theo đó người Slovak bị đưa ra khỏi Hungary và người Hungary (Magyar) bị đưa ra

khỏi Tiệp Khắc. Một thiểu số người Hungary nhỏ hơn cũng rời bỏ Nam Tư để di cư sang Hungary, còn

người dân tộc Serb và Croat thì đi theo chiều ngược lại.

Nhờ tiến trình tách riêng các dân tộc trên qui mô lớn này, lí tưởng dân tộc chủ nghĩa hầu như đã trở

thành hiện thực: gần như khắp châu Âu, mỗi dân tộc đã có một quốc gia riêng, và mỗi quốc gia hầu như

được hình thành do một dân tộc duy nhất. Trong thời Chiến tranh Lạnh, những ngoại lệ của qui luật này

là Tiệp Khắc, Liên Xô, và Nam Tư. Nhưng hậu vận của những quốc gia này cũng chỉ chứng minh sức

sống liên tục của chủ nghĩa dân tộc. Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, Đông và Tây Đức đã thống nhất

cực kì nhanh chóng, Tiệp Khắc phân thân một cách hoà bình để trở thành Cộng hoà Tiệp và Cộng hoà

Slovak, còn Liên Xô thì tan rã thành một số đơn vị quốc gia khác nhau. Từ đấy, những thiểu số dân tộc

Nga ở nhiều quốc gia hậu-Xô viết lần lượt di cư về Nga, người Hungary ở Romania thì di cư qua Hungary,

và một thiểu số người dân tộc Đức còn sót lại ở Nga đa phần đã sang Đức. Một triệu người gốc Do Thái

từng sống trên lãnh thổ Liên Xô cũ tìm đường định cư ở Israel. Liên bang Nam Tư chứng kiến sự li khai

của Croatia và Slovenia, rồi lao đầu vào các cuộc chiến chủng tộc để cố níu kéo Bosnia và Kosovo.

Sự tan rã của Liên bang Nam Tư chỉ là hồi cuối của một vở kịch dài. Nhưng phần cốt lõi của vở kịch ấy --

sự tách riêng các dân tộc và chiến thắng của chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thời hiện đại-thì ít ai nhận

thấy, và vì thế một thiên lịch sử có ý nghĩa ngang tầm với sự bành trướng thể chế dân chủ hay chủ nghĩa

tư bản hầu như chưa được nghiên cứu tường tận và chưa được đánh giá đúng mức.

Tiến trình giải thực và sau đó

Hẳn nhiên, những hệ quả của chủ nghĩa dân tộc không chỉ nằm trong phạm vi châu Âu. Đối với phần lớn

thế giới đang phát triển, tiến trình giải thực đã mang lại sự cách li các chủng tộc xuyên qua việc trao đổi

dân cư hoặc thẳng tay trục xuất các nhóm dân tộc ít người ra khỏi lãnh thổ.

Sự cáo chung của nền thống trị Anh tại Ấn Độ năm 1947 đã mang lại sự chia cắt tiểu lục địa này thành

hai nước Ấn Độ và Pakistan, mà hậu quả là một đợt bạo động đã làm thiệt mạng hàng trăm ngàn người.

Mười lăm triệu cư dân bỗng dưng trở thành người tị nạn, gồm có người Hồi giáo chạy sang Pakistan và

người Hindu di tản sang Ấn Độ. Rồi vào năm 1971, chính Pakistan, buổi đầu được thống nhất trên cơ sở

tôn giáo, lại tan rã thêm lần nữa vì lí do ngôn ngữ, để biến thành nước Pakistan nói tiếng Urdu và

Bangladesh nói tiếng Bengali.

Tại Palestine, một lãnh thổ từng ở dưới quyền uỷ trị của người Anh, quốc gia Do Thái được thành lập

năm 1948 đã tức khắc đối đầu với cuộc nổi dậy của cộng đồng Ả-rập bản xứ và cuộc xâm lăng từ các

quốc gia Ả rập láng giềng. Trong cuộc chiến tiếp theo biến cố này, nhiều cộng đồng Do Thái đã bị quét

sạch khỏi những vùng do người Ả-rập kiểm soát, đồng thời những người Ả-rập đã phải trốn thoát hoặc bị

trục xuất ra khỏi những vùng do người Do Thái chiếm giữ. Khoảng 750 ngàn người Ả-rập đã rời khỏi

Palestine; vì thế con số 150 ngàn đồng bào của họ còn ở lại chỉ đủ để tạo thành 1/6 dân số của nước Do

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 118 [email protected]

Thái mới. Trong những năm sau đó, những cuộc bạo động bài Do có động lực dân tộc chủ nghĩa tại các

nước Ả-rập đã buộc gần như toàn bộ trên nửa triệu người Do Thái phải rời bỏ quê cha đất tổ (their lands

of origin) để di cư sang Israel. Tương tự, vào năm 1963, sự cáo chung của chế độ thuộc địa Pháp tại

Algeria đã dẫn đến việc cưỡng bách hầu hết người Algeria gốc Âu (thường được gọi là pieds-noirs) di cư

sang Pháp. Không bao lâu sau, các sắc dân thiểu số Á châu cũng bị trục xuất khỏi Uganda khi nước này

thoát khỏi ách thực dân. Hơn nữa, di sản thời thuộc địa vẫn còn tồn tại dai dẳng. Khi các đế quốc châu

Âu ở hải ngoại theo nhau tan rã, chúng để lại đằng sau một tác phẩm chắp vá gồm nhiều quốc gia mà

đường biên giới thường cắt ngang những cộng đồng sắc tộc khiến cho những quốc gia này mang trong

mình những khối dân số tạp chủng. Thật là một ước mơ quá chủ quan (a wishful thinking) khi cho rằng

những đường biên giới này sẽ tồn tại vĩnh viễn. Một khi các xã hội trong thế giới cựu thuộc địa bắt đầu

hiện đại hoá, nghĩa là được đô thị hoá hơn, với nhiều người có trình độ học vấn hơn và có tham vọng

chính trị hơn, thì chính những lực tác động đã từng tạo ra chủ nghĩa dân tộc và thúc đẩy tiến trình cách li

các dân tộc tại châu Âu cũng sẽ có khả năng thúc đẩy nhiều biến động tại những vùng này.

Bản kết toán

Các nhà phân tích tiến trình cách li các chủng tộc thông thường chỉ tập chú vào những hệ quả tai hại của

nó; điều này cũng dễ hiểu thôi, vì sự cách li này từng gây ra những đau thương trực tiếp cho con người.

Nhưng những thái độ như thế của người nghiên cứu có thể tạo ra một quan điểm lệch lạc vì đã bỏ qua

những thiệt hại tiềm ẩn cũng như những lợi ích quan trọng mà việc cách li các chủng tộc đã mang lại.

Nhiều nhà kinh tế từ thời Adam Smith trở về sau, chẳng hạn, đã lí luận rằng hiệu năng của các thị trường

cạnh tranh thường gia tăng theo tầm cỡ của các thị trường này. Sự phân rã Đế quốc Áo-Hung thành

nhiều quốc gia dân tộc nhỏ bé hơn, mỗi quốc gia với rào cản mậu dịch riêng, như vậy là không hợp lí về

phương diện kinh tế và làm tăng thêm những khó khăn trong vùng này vào giai đoạn giữa hai cuộc thế

chiến. Trong phần lớn lịch sử châu Âu sau đó đã có những nỗ lực khắc phục tình trạng này và chặn đứng

các tình trạng phân rã kinh tế khác. Những nỗ lực này nhiên hậu đã tạo ra Liên minh châu Âu (EU).

Hơn nữa, tiến trình cách li các dân tộc tỏ ra có tác dụng tai hại cho tính sinh động văn hoá. Chính vì hầu

hết công dân trong nước đều chia sẻ một gia tài ngôn ngữ và văn hoá chung, mà những quốc gia thuần

chủng của châu Âu thời hậu chiến đã trở nên biệt lập văn hoá hơn các tiền thân đa chủng của chúng [tức

là các đế quốc cũ]. Càng hiếm người Do Thái ở châu Âu và càng hiếm người Đức ở Prague, điều này có

nghĩa là càng ngày càng ít có những tài năng như Franz Kafka.

Những cuộc di dân cưỡng bách thường có tác dụng trừng phạt những quốc gia trục xuất và tưởng

thưởng những quốc gia nhận người vào. Hành động trục xuất thường bị thúc đẩy bởi lòng ganh tị của

nhóm đa số đối với sự thành công vượt bực của một nhóm thiểu số, phát xuất từ nhận thức sai lầm rằng

sự thành công này chỉ là một trò tổng số bằng không (a zero-sum game), [vì chúng giàu lên nên ta phải

nghèo đi, trong đẳng thức "ta + chúng = 0"]. Nhưng chính những quốc gia đã trục xuất những người

thuộc chủng tộc Armenian, Đức, Hi Lạp, Do Thái, và các sắc dân thiểu số thành công khác, cũng đồng

thời tự đánh mất một số công dân tài giỏi nhất, vì những người này sẽ đem kĩ năng và kiến thức của họ

đến một xứ khác. Ngoài ra, tại nhiều nơi, sự thắng thế của nền chính trị dân tộc chủ nghĩa đã mang lại

thắng lợi cho các thành phần có gốc rễ nông thôn và đè bẹp các nhóm đã được đô thị hoá, tức là những

thành phần có đủ những kĩ năng mà một nền kinh tế công nghiệp tiên tiến cần đến.

Nhưng nếu chủ nghĩa dân tộc thường xuyên dẫn đến căng thẳng và xung đột, thì thực tế cũng chứng

minh được rằng chủ nghĩa này là suối nguồn của tình đoàn kết và sự ổn định. Khi sách giáo khoa Pháp

bắt đầu bằng "Tổ tiên chúng ta là người Gô-loa" hay khi Churchill nói trước các cử toạ thời chiến về

"giống dân hải đảo này" (this island race), người tuyên bố những câu như thế đã đánh động những tình

cảm dân tộc bén nhạy nhất nhằm tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau và hi sinh cho nhau. Trong trường hợp

này, chế độ dân chủ tự do và tính thuần chủng không những tương hợp, mà còn có khả năng bổ túc cho

nhau.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 119 [email protected]

Người ta cũng có thể lí giải rằng sở dĩ tình hình châu Âu kể từ Thế chiến II đến nay rất hài hoà không

phải là do sự thất bại của chủ nghĩa dân tộc, mà chính nhờ sự thành công của nó, một sự thành công đã

triệt tiêu một số nguyên nhân xung đột to lớn nhất trong nội bộ các quốc gia và giữa các quốc gia. Sự

kiện các biên giới chủng tộc và biên giới quốc gia hiện nay hầu như đã trùng khít lên nhau có nghĩa là

các cuộc tranh chấp về biên giới hay về các cộng đồng ngoại kiều đã giảm đi rất nhiều--một sự kiện đã

đưa đến một cấu hình lãnh thổ (territorial configuration) ổn định nhất trong lịch sử châu Âu.

Những tổ chức xã hội đồng chủng này đã biểu dương khá nhiều tình đoàn kết nội bộ, hơn thế nữa, còn

thực hiện được những chương trình chính phủ, gồm cả việc trợ cấp cho dân chúng, dưới nhiều dạng thức

khác nhau. Khi những đảng viên Dân chủ Xã hội Thuỵ Điển triển khai kế hoạch cho một nhà nước phúc

lợi rộng rãi nhất Âu châu trong thời kì giữa hai cuộc thế chiến, như nhà nghiên cứu chính trị Sheri

Berman nhận định, họ đã thai nghén và quảng bá những kế hoạch này như công trình xây dựng một

folkhemmet, hay "ngôi nhà của nhân dân". [Theo đó, quốc gia Thuỵ Điển sẽ trở nên một ngôi nhà tốt

đẹp, nơi mà mọi người được sống bình đẳng và thông cảm lẫn nhau. Ngôi nhà đại chúng này sẽ thay thế

cho xã hội giai cấp truyền thống của Thuỵ Điển.]

Dù vậy, một cuộc sống bình thường kéo dài năm, bảy chục năm trong những quốc gia thuần chủng và ổn

định lại có thể tát cạn sức mạnh cảm tính của chủ nghĩa dân tộc. Nhiều người châu Âu hiện nay sẵn

sàng, và thậm chí hăng hái, tham gia những cơ cấu tổ chức xuyên quốc gia như EU, một phần vì nhu cầu

trước mắt về quyền tự quyết dân tộc hầu như đã được thoả mãn.

Sự hợp chủng mới

Song hành với tiến trình cưỡng chế cách li các dân tộc diễn ra trên hai thế kỉ qua, thì cũng có một tiến

trình hợp chủng do tự nguyện di dân. Mô hình thông thường là sự di dân từ những vùng nghèo khổ, cuộc

sống bế tắc, đến những vùng trù phú và năng động hơn.

Tại châu Âu, cuộc di dân tự nguyện chủ yếu đã đi theo hướng từ đông sang tây và từ nam lên bắc, mà

nơi có nhiều người đến nhất là Pháp và Vương quốc Anh. Mô hình này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay:

chẳng hạn, trong đợt di dân mới nhất, có đến nửa triệu người Ba Lan đến Anh và 200 ngàn đồng bào của

họ đến Ireland. Những người di dân từ vùng này sang vùng khác của châu Âu rồi định cư luôn tại đó,

thường hội nhập vào xã hội mới và ít khi tạo ra những vấn đề đáng kể, mặc dù có một số người bản xứ

phàn nàn về điều mà họ cho là cuộc xâm lăng của "bọn thợ ống nước Ba Lan" (Polish plumbers).

Chuyển biến ấn tượng nhất trên cán cân chủng tộc tại châu Âu trong mấy chục năm qua phát sinh từ

việc nhập cư của những người di dân đến từ châu Á, châu Phi, và Trung Đông. Kết quả của đợt nhập cư

này khá phức tạp. Một số trong những nhóm này đã thành công rất ngoạn mục, điển hình là người Hindu

Ấn Độ đến định cư ở Anh. Trái lại, ở Bỉ, Pháp, Đức, Hoà Lan, Thuỵ Điển, Anh, và những nơi khác, nói

chung sự tiến bộ về giáo dục và kinh tế cuả người nhập cư Hồi giáo có hạn chế hơn, và tình trạng thiếu

hội nhập văn hoá nghiêm trọng hơn.

Thật khó mà định lượng được bao nhiêu phần trăm của vấn đề này là do sự kì thị, bao nhiêu phần trăm

là do mô hình văn hoá của chính người nhập cư, và bao nhiêu phần trăm là do chính sách của các chính

phủ châu Âu. Nhưng một số yếu tố -- từ chính sách đa văn hoá của nước sở tại, đến các chương trình trợ

cấp quá hậu hĩ, đến sự liên lạc với cố hương quá dễ dàng-- hầu như đã giúp hình thành những đảo sắc

tộc (ethnic islands), nơi khả năng hội nhập vào một nền văn hoá và kinh tế rộng lớn hơn trở nên hạn

hẹp.

Do đó, một số nề nếp truyền thống trong sinh hoạt chính trị châu Âu đã bị xáo trộn. Cánh tả, chẳng hạn,

có khuynh hướng hậu thuẫn việc nhập cư của người nước ngoài, nhân danh chủ nghĩa bình quân và đa

văn hoá. Nhưng nếu thực sự có một gạch nối giữa tính thuần chủng dân tộc và sự hăng hái của toàn dân

trong việc hậu thuẫn những chương trình tái phân phối lợi tức hậu hĩ, thì việc khuyến khích một xã hội đa

chủng rốt cuộc có thể phương hại chương trình nghị sự khá tham vọng của cánh tả. Ngoài ra, một số

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 120 [email protected]

khuynh hướng tự do văn hoá của châu Âu đã va chạm với khuynh hướng phi-tự do văn hoá (cultural

illiberalism) của một số cộng đồng của người mới nhập cư.

Nếu người nhập cư Hồi giáo không chịu hội nhập vào xã hội mới mà lại mạnh dạn triển khai một căn

cước cộng đồng riêng biệt dựa trên tín lí tôn giáo của mình, việc này có thể đưa đến một hậu quả là làm

sống lại những bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc tại một số quốc gia châu Âu - hay triển khai một

bản sắc văn hoá châu Âu mới, một phần nào được quan niệm như là để đề kháng lại Hồi giáo. (Sự chống

đối đều khắp nhắm vào khả năng nới rộng Liên minh châu Âu để nhận Thổ Nhĩ Kì làm thành viên chính

thức có thể là một báo hiệu về một chuyển biến tư duy như thế.)

Những ngụ ý về tương lai

Vì chủ nghĩa dân tộc là hậu quả trực tiếp của những yếu tố then chốt tạo nên tiến trình hiện đại hoá, chủ

nghĩa này có khả năng thắng thế trong những xã hội đang kinh qua một tiến trình như thế. Vì vậy, thật

không đáng ngạc nhiên khi chúng ta thấy rằng chủ nghĩa này vẫn còn là một trong những lực tác động

sung sức nhất-và nguy hiểm nhất-trên nhiều vùng của thế giới đương đại.

Chẳng hạn, những dạng thức tế nhị của chủ nghĩa dân tộc không ít thì nhiều đã được biểu hiện đều khắp

trong chính sách di trú của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều nước -- gồm có Armenia, Bulgaria, Croatia,

Phần Lan, Đức, Hungary, Ireland, Israel, Serbia, và Thổ Nhĩ Kì -- tự động hoặc nhanh chóng cấp quyền

công dân cho kiều bào hiện sống rải rác khắp thế giới, nếu có yêu cầu. Luật di trú Trung Quốc dành

nhiều ưu tiên và quyền lợi cho Hoa Kiều. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có chính sách di trú dành nhiều

thuận lợi cho những đương sự từ thuộc địa cũ của mình ở Tân Thế giới. Còn một số quốc gia khác, như

Nhật Bản và Slovakia, thì cấp thẻ căn cước chính thức cho phép kiều bào dù không phải công dân được

sinh sống và làm việc trong nước. Vì thấm nhuần đường lối chính thức của chính phủ Hoa Kỳ coi việc

phân biệt đối xử vì lí do chủng tộc là vi phạm những chuẩn mực phổ quát, nhiều người Mỹ coi những

chính sách của các nước kể trên là biệt lệ, nếu không muốn nói là đáng ghét. Tuy nhiên, trong bối cảnh

toàn cầu [khi đa số quốc gia có chính sách kì thị] thì chính việc đòi hỏi những chuẩn mực phổ quát

[không phân biệt đối xử] lại hoá ra cục bộ (provincial).

Ý thức bản sắc cộng đồng ngày một gia tăng và cán cân chủng tộc ngày một chuyển dịch-hai sự kiện

này chắc chắn sẽ mang lại một số hậu quả đa dạng, cả trong nội bộ các quốc gia lẫn giữa các quốc gia,

trong những năm sắp tới. Chẳng hạn, khi tiến trình toàn cầu hoá đưa thêm nhiều quốc gia vào hệ thống

kinh tế toàn cầu, những thành quả đầu tiên của tiến trình này sẽ rơi vào nhóm chủng tộc nào có điều

kiện lịch sử và văn hoá tốt nhất để khai thác vận hội mới với mục đích làm giàu, vì vậy nhiều khoảng

cách xã hội sẽ được đào sâu thêm thay vì được san bằng. Những vùng trù phú và thành công hơn sẽ cố

gắng tách khỏi những vùng nghèo khổ, thất bát; trong khi đó, những vùng có sắc dân đồng chủng rõ nét

sẽ cố giành chủ quyền cho dân tộc mình--những nỗ lực này có thể gây phản ứng dữ dội từ những nhóm

sắc tộc chỉ muốn bảo vệ nguyên trạng (the status quo).

Dĩ nhiên, có nhiều xã hội đa chủng trong đó ý thức chủng tộc vẫn còn non yếu. Hoặc có khi một ý thức

chủng tộc thậm chí được triển khai mạnh mẽ khả dĩ đưa đến những đòi hỏi chính trị nhưng không đòi

được chủ quyền. Và đôi khi, những đòi hỏi dân tộc tự trị hay dân tộc tự quyết có thể được đáp ứng ngay

trong biên giới một quốc gia đang hiện hữu. Những đòi hỏi của người Catalan ở Tây Ban Nha, của người

Flemish ở Bỉ, và người Tô Cách Lan ở vương quốc Anh đã được đáp ứng theo mô thức này, chí ít trong

giai đoạn hiện tại. Nhưng những dàn xếp chính trị theo lối này vẫn có tính bất ổn và cần phải được tái

thương thuyết nhiều lần. Do đó, trong thế giới đang phát triển, nơi nhiều quốc gia mới được thành lập

gần đây và có đường biên giới lãnh thổ cắt ngang đường biên giới chủng tộc, những quốc gia này có khả

năng sẽ bị chia cắt thêm lần nữa theo những đường biên giới dân tộc và sẽ phải đối đầu với những cuộc

xung đột giữa các cộng đồng. Và như nhà nghiên cứu Chaim Kaufmann đã nhận xét, một khi cuộc xung

đột chủng tộc vượt qua một ngưỡng bạo động nhất định, nỗ lực duy trì những nhóm thù nghịch trong

một cơ cấu tổ chức xã hội duy nhất sẽ trở nên vô cùng khó khăn.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 121 [email protected]

Thực tế đáng buồn này tạo ra nhiều tình huống tiến thối lưỡng nan cho những ai chủ trương can thiệp vì

lí do nhân đạo vào các cuộc xung đột như thế. Lí do là, nỗ lực hoà giải và duy trì hoà bình giữa các nhóm

chủng tộc vốn căm thù và sợ hãi lẫn nhau thường đòi hỏi những cam kết quân sự tốn kém và liên tục

chứ không phải chỉ những nghĩa vụ hời hợt tạm thời. Ngoài ra, khi bạo động giữa các cộng đồng leo

thang thành một cuộc thanh tẩy chủng tộc (ethnic cleansing), việc đưa những số lượng lớn người tị nạn

về nguyên quán sau khi các bên thoả thuận đình chiến là thiếu thực tế và thậm chí không có kết quả như

ý, vì nỗ lực này cũng chỉ dọn sân khấu cho một đợt xung đột khác trong tương lai mà thôi.

Chia cắt lãnh thổ vì thế có thể là một giải pháp nhân đạo bền vững nhất cho những cuộc xung đột chủng

tộc gay gắt như thế. Việc này tất yếu tạo thêm nhiều làn sóng tị nạn, nhưng chí ít nó sẽ giải quyết vấn

đề tranh chấp. Sự thách đố đối với cộng đồng quốc tế trong những trường hợp này là làm thế nào để

cách li các cộng đồng dân tộc ra khỏi nhau theo một phương thức khả thi nhân đạo nhất: bằng cách

cung cấp phương tiện vận chuyển, đảm bảo quyền công dân trên quê hương mới, và giúp đỡ tài chánh

cho việc tái định cư và hội nhập kinh tế. Chi phí cho tất cả nỗ lực này sẽ là một con số khổng lồ, nhưng

nó hiếm khi vượt quá những tổn thất vật chất do việc đưa vào và duy trì một đội quân nước ngoài đủ

hùng hậu để bình định các phe sắc tộc thù nghịch lẫn nhau, hay vượt quá những thiệt hại tinh thần do

thái độ thờ ơ, không làm gì cả.

Các nhà khoa học xã hội đương đại khi viết về chủ nghĩa dân tộc thường có khuynh hướng nhấn mạnh

những yếu tố ngẫu hợp [chứ không phải tất yếu] của bản sắc cộng đồng-vì họ cho rằng ý thức dân tộc

là sản phẩm được các nhà tư tưởng và các chính khách sáng chế ra, nếu xét về phương diện văn hoá và

chính trị. Họ thường xuyên trích dẫn quan niệm của Benedict Anderson về "những cộng đồng được tưởng

tượng", như thể nếu chứng minh được rằng tinh thần dân tộc chỉ là một sản phẩm do hun đúc mà có,

người ta sẽ tước mất sức mạnh của nó đi. Đành rằng bản sắc dân tộc không phải là cái gì tự nhiên hay

tất yếu như những người theo chủ nghĩa dân tộc thường rêu rao. Nhưng, thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ

vì tinh thần dân tộc một phần nào do hun đúc mà có, do đó nó là mong manh hoặc luôn luôn có thể uốn

nắn được. Chủ nghĩa dân tộc không phải là một bước ngoặt tình cờ trong lịch sử châu Âu: nó phù hợp với

một số thiên hướng bền vững (enduring propensities) trong tinh thần nhân loại; những thiên hướng này

lại được củng cố thêm nhờ tiến trình hình thành các quốc gia hiện đại. Chủ nghĩa dân tộc là suối nguồn

quan trọng của tình đoàn kết và lòng hận thù, và dưới hình thức này hay hình thức khác, nó sẽ còn tồn

tại trong nhiều thế hệ tương lai. Người ta chỉ có thể hưởng được lợi ích bằng cách đối diện trực tiếp với

chủ nghĩa này.

Nguồn: Foreign Affairs, March-April, 2008

_____________________________________

Về các tác giả và dịch giả

Chi, Samuel: sinh ở Đài Bắc. Tốt nghiệp khoa báo chí Đại học Cal State Fullerton và nghiên cứu khoa

học chính trị sau đại học tại UCLA. Từng viết cho các tờ San Francisco Chronicle, Contra Costa Times,

hiện ông đã về hưu và sống cùng gia đình tại Florida. Vào tháng 4 năm 2008, ông lập trang

Sinotaneous.com, chuyên về lịch sử, hiện tại và tương lai của Trung Hoa.

Choe Sang-Hun: tốt nghiệp Đại học Hàn Quốc ở Seoul và từng gia nhập quân đội Nam Hàn. Sau khi

giải ngũ, ông trở thành phóng viên chuyên viết về chính trị cho tờ Korea Herald và chuyển sang làm cho

văn phòng của AP tại Seoul vào năm 1994. Năm 2000, cùng với hai đồng nghiệp là Charles J. Hanley và

Martha Mendoza, ông đoạt giải Pulitzer nhờ loạt bài "No Gun Ri Bridge," đưa ra ánh sáng vụ lính Mỹ thảm

sát hàng trăm thường dân Hàn Quốc tại Cầu No Gun Ri vào buổi đầu cuộc chiến Hàn Quốc/Triều Tiên.

Đông Hiến: chuyên về lịch sử mỹ thuật Việt Nam, hiện là nghiên cứu sinh ngành Đông Nam Á học,

California, Mỹ. Một số bản dịch của Đông Hiến đã xuất hiện trên talawas, chẳng hạn bài điểm sách của

Hồng Quốc Lộc và tiểu luận của Christopher E. Goscha.

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 122 [email protected]

Ear, Sophal: Tiến sĩ, Phó giáo sư môn National Security Affairs tại U.S. Naval Postgraduate School (NPS)

ở Monterey, California, giảng dạy các môn Ổn định và Tái thiết Hậu chiến, Phương pháp nghiên cứu, và

Đông Nam Á. Trước khi dạy tại NPS, ông là Post-Doctoral Fellow tại Maxwell School ở Đại học Syracuse.

Ông là cố vấn cho Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Á châu, và là Phó Đại diện Tại chỗ cho

Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) tại Timor-Leste năm 2002-2003. Tốt nghiệp UC

Berkeley (B.A., M.S., M.A., Ph.D.) và Princeton (M.P.A.), ông từ Pháp qua Mỹ với tư cách người Cam Bốt

tị nạn vào năm 10 tuổi. Ông là tác giả nhiều bài viết đã công bố, kể cả một số bài được dùng để tham

khảo trong vấn đề ngoại viện và Cam Bốt, có thể tìm tại: http://faculty.nps.edu/sear

Hồng Tuấn: nghiên cứu sinh ngành Hán-Nôm, hiện sống tại Hà Nội.

Goscha, Christopher E. Phó Giáo sư (Assistant Professor), Khoa Sử, Đại học Québec, Montréal. Bài viết

này do tác giả gửi cho talawas, tóm tắt lại nội dung chính của tiểu luận nghiên cứu, "Widening the

Colonial Encounter: AsianConnections Inside French Indochina During the Interwar Period," đăng trên

Modern Asian Studies, Vol., No. 05, September 2009.

Lê Hải: hiện là nghiên cứu sinh về đề tài "Bản sắc dân tộc" tại Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan, Viện Triết

và Xã hội học, đồng thời cũng là hội viên của Hiệp hội Nghiên cứu các Vấn đề Dân tộc ASEN, LSE, Anh

Quốc.

Keith, Charles: Phó Giáo sư (Assistant Professor), Lịch sử Đông Nam Á, Michigan State University. Tiểu

luận này trích một phần từ bản thảo đang được thực hiện, Catholic Vietnam: a Church from Empire to

Nation, 1862-1954 (Thiên chúa giáo Việt Nam: Nhà thờ trong quá trình chuyển đổi từ đế chế sang dân

tộc).

Muller, Jerry Z. là giáo sư sử học tại Catholic University of America. Tác phẩm nghiên cứu mới nhất của

ông là Tư duy và Thị trường: Chủ nghĩa tư bản trong Tư tưởng châu Âu Hiện đại (The Mind and the

Market: Capitalism in the Modern European Thought).

Nghê Hiểu Hà 倪晓霞: Học viện Lịch sử và Hành chính, Đại học Sư phạm Vân Nam, Trung Quốc.

Nguyễn Việt: dịch giả, hiện sống tại Hà Nội.

Phạm Minh Ngọc: sống tại Việt Nam, đã công bố hàng chục tác phẩm dịch quan trọng từ tiếng Nga và

tiếng Anh trên talawas: George Orwell, Trại súc vật và 1984; Milovan Djilas, Nói chuyện với Stalin; Alain

Besançon, Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ,

Richard Pipes, Chủ nghĩa cộng sản... và Sigmund Freud, Tâm lí đám đông và Phân tích cái Tôi.

Phạm Văn: cộng tác viên lâu năm của talawas. Trong số các bản dịch của ông có Balzac và cô bé thợ

may Trung Hoa của Đới Tư Kiệt, và Solzhenitsyn, đại văn hào đương đầu với chế độ Xô-viết của Micheal

T. Kaufman.

Orwell, George (1903-1950): là nhà báo, nhà phê bình, cây bút chính luận và là một trong những tiểu

thuyết gia nổi tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20. Độc giả talawas từng được làm quen

với hai tiểu thuyết của ông là Trại súc vật và 1984, cũng như một số tiểu luận quan trọng qua các bản

dịch của Phạm Minh Ngọc.

So, Kenneth T. sinh tại Phnom Penh, Cam Bốt. Ông là kỹ sư lâu năm trong ngành hoả tiễn với ba mươi

năm kinh nghiệm tại các hãng Rockwell International, Boeing, và United Launch Alliance, trong lãnh vực

hoả tiễn có người và không người lái. Ông tốt nghiệp kỹ sư hoá học tại University of Tennessee (1978),

thạc sĩ môn Systems Management tại University of Southern California (1995), và Certificate Degree về

Systems Engineering tại California Institute of Technology (2006). Tuy nhiên, So cũng nghiên cứu lịch sử

tạp chí talawas số mùa Thu 2009

__________________________________________________________________________________

www.talawas.org 123 [email protected]

Khmer trong 18 năm qua. Ông là tác giả các bài viết tự xuất bản sau đây: "The Road to Khmer

Independence" (2003); "A Brief History of Buddhism, Including That of Cambodia" (1997); và "Puddh

Tomneay" (1996).

Thân Tứ Long 申四龙, Viện Lịch sử học, Đại học Trịnh Châu, Trung Quốc.

Trần Anh đang làm tiến sĩ về lịch sử Việt Nam thời chiến tranh 1954-1975 tại California, Mỹ. Sinh ra và

lớn lên ở Mỹ, Trần Anh thuộc thế hệ di dân thứ hai trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt.

Trần Ngọc Cư: hiện sống tại California, Mỹ. Là cộng tác viên của talawas với nhiều bản dịch như "Huyền

thoại về mô thức độc tài," "Chuyển hoá một số quốc gia" và gần đây nhất là "Lịch sử được viết lại trong

một phim về nước Trung Hoa mới."

Trịnh Lữ: sinh năm 1948 tại Hà Nội. Kỹ sư xây dựng mỏ. Từng làm radio, truyền hình, chuyên gia truyền

thông và đào tạo phát triển tại Việt Nam và Hoa Kỳ. Là dịch giả của nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng

như Rừng Na Uy, Cuộc đời của Pi, Con nhân mã ở trong vườn... và Utopia.

Vũ Tường là Phó Giáo sư, ngành Khoa học Chính trị, Đại học Oregon, Mỹ. Tác giả (với Erik Kuhonta và

Dan Slater) Southeast Asia in Political Science: Theory, Region, and Qualitative Analysis (Stanford, 2008);

(với Wasana Wongsurawat) Dynamics of the Cold War in Asia: Ideology, Identity, and Culture (Palgrave,

2010); và Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia (Cambridge, 2010).

Địa chỉ trang web: http://polisci.uoregon.edu/facbios.php?name=Tuong_Vu

Ung, Bun Heang là một nghệ sĩ và hoạ sĩ hoạt hoạ xuất sắc. Cuốn sách gồm 60 bức tranh The

Murderous Revolution, kể về cuộc phấn đấu có thật của ông để sinh tồn dưới chế độ Khmer Đỏ, là một

bằng chứng sống động về thời đại bi thảm đó. Bun cộng tác với Martin Stuart-Fox để xuất bản cuốn sách

trên lần đầu tiên năm 1985. Tác phẩm hoạt hoạ của Ung đã xuất hiện trên phim và các chương trình

truyền hình. Ông cũng được nhiều người biết đến qua những bức hoạt hoạ và biếm hoạ trào phúng, là

người vẽ biếm hoạ chính trị cho tờ Far Eastern Economic Review trong nhiều năm. Tuy nhiên cũng có bất

lợi là ông không thể về Cam Bốt yêu dấu của ông trong những năm gần đây vì lý do an ninh. Trang

mạng Sacrava Toons (http://sacrava.blogspot.com) trình bày nhiều tác phẩm của ông.

__________________________________________

© 2009 tạp chí talawas

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #gautruckaka