TÀI LIỆU NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I/ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
______________
Câu 1: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Yêu cầu khách quan và các quan điểm?
Bài làm:
Về phương diện lý luận, các nhà khoa học đã đi tới một số khẳng định quan trọng: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ.
Với quan niệm này, nhà nước pháp quyền đã được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Các giá trị phổ biến của nó được trình bày dưới các dạng thức khác nhau và phụ thuộc vào lập trường chính trị – pháp lý, quan điểm học thuật của mỗi người. Ngay cả cách trình bày cũng có thể khác nhau, nhưng về thực chất, đều nhấn mạnh các giá trị sau đây:
- Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Theo đó, dân chủ vừa là bản chất, vừa là điều kiện, là tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền.
- Bộ máy nhà nước pháp quyền được tổ chức và vận hành trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức quyền lực một cách dân chủ.
- Một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, cơ quan xét xử chỉ tuân theo pháp luật với một chế độ tố tụng công khai, dân chủ.
Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:
- Chỉ từ khi dân chủ tư sản xuất hiện, mới có cơ hội và điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được xây dựng ở hầu hết các nước tư bản phát triển và đang phát triển .
- Nhà nước pháp quyền với tư cách cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội không những được xây dựng ở chế độ tư bản, mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố này, về thực chất, là hết sức đa dạng, phong phú và rất phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi quốc gia dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra cái đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển, mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
Từ Đại hội lần thứ IX, khi thông qua việc sửa đổi một số điều trong Hiến pháp năm 1992, Đảng ta đã xác định phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về vấn đề này, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động”.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, trước hết chúng ta cần nhìn lại một cách khái quát những gì đã làm được cả trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận lẫn hoạt động thực tiễn; đồng thời phải giải quyết một cách hiệu quả nhất những vấn đề mới đặt ra trong tiến trình phát triển đất nước.
Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm 1959. năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Mặt khác nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù của riêng mình.
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, có thể khái quát trên các nét chính sau:
Thứ nhất; cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
Những quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam?
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân . Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Yêu cầu đặt ra khi tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền đó là không được làm thay đổi, làm biến dạng bản chất vốn có của nhà nước ta hiện nay. Vì vậy Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam phải giữ nguyên các thuộc tính cơ bản sau.
- Quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân;
- Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Phải do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đây là điều kiện quan trọnh nhất;
- Vừa mở rộng dân chủ đồng thời thực hiện chuyên chính vô sản.
Đồng thời nhà nước pháp quyền Việt Nam còn được xây dựng trên cơ sở kế thừa các thành tựu xây dựng nhà nước từ năm 1945 đến nay. Phải lấy Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và lý luận. Phải nhận thức đúng và có quan điểm phát triển cụ thể:
- Có những quan điểm của chủ nghĩa mác trước đây đúng, bây giờ vẫn đúng ta tiếp tục vận dụng;
- Có những quan điểm trước đây đúng, bây giờ không còn phù hợp, ta phải xem lại;
Có những quan điểm trước đây đúng, bây giờ phải bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Phải kế thừa các quan điểm lý luận và kinh nghiệm của nhân loại về xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó có cả lý luận của các học giả tư sản.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Quyền lực nhà nước có tính thống nhất đó là thuộc về nhân dân, cùng định hướng mục tiêu,. Thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân và do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước phải có sự phân công vì chỉ có thực hiện phân công mới thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, tạo ra năng suất, hiệu quả và chất lượng cao trong lao động quyền lực. Đồng thời thực hiện tốt việc phân công cũng làm giảm thiểu nguy cơ độc quyền, lạm quyền trong thực thi quyền lực. Đây chính là bước kế thừa những nhân tố tích cực, hợp lý của thuyết phân quyền cổ điển là sản phẩm của các học giả tư sản, thuyết tam quyền phân lập, như vậy ta đã có sự lựa chọn hợp lý. Cụ thể
- Cơ quan Quốc hội nắm quyền lập pháp;
- Cơ quan chính phủ nắm quyền hành pháp;
- Cơ quan Toà án, Viện kiểm sát nắm quyền tư pháp.
Quyền lực nhà nước phải có sự phối hợp bởi vì chỉ có sự phối hợp mới có thể thực hiện tốt nhất các chức năng chung của bộ máy nhà nước, khắc phục được hạn chế đó là tuyệt đối hoá trong phân công hay tuyệt đối hoá trong phối hợp. Có cơ chế phối hợp tốt mới đảm bảo hiệu quả hoạt động chung của toàn bộ máy nhà nước.
Cần phải kiểm soát quyền lực nhà nước bởi vì quyền lực có xu hướng bị tha hoá, như lạm quyền, chuyên quyền, độc quyền đây là những biểu hiện hết sức nguy hiểm. Chính vì vậy cần thiết phải thực hiện việc kiểm soát quyền lực, phải có cơ chế kiểm soát từ bên trong nội bộ bộ máy nhà nước tức là sự tự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước, và cơ chế kiểm soát từ bên ngoài tức là toàn xã hội tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ ba;Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước là tập trung nhưng không độc đoán, quan liêu mà phải được xây dựng trên cơ sở dân chủ nghĩa là mệnh lệnh, quyết định của cấp trên buộc cấp dưới phải thi hành, thiểu số phải phục tùng đa số. Quyền lực nhà nước là tập trubng trên cơ sở dân chủ tức có sự bàn bạc, thảo luận đi đến sự thống nhất và từ đó cấp dưới phục tùng. Nếu thực hiện như vậy càng thu được nhiều dân chủ hơn đồng thời quyền lực nhà nước càng tập trung hợn.
Khi thực hiện nguyên tắc này cần lưu ý.
- Theo yêu cầu thực hiện nguyên tắc này nhiều khi cấp dưới phải thi hành mệnh lệnh của cấp trên nhiều khi không phù hợp, điều này đem lại hậu quả đặc biệt là những văn bản hướng dẫn sai do một tập thể đưa ra. Muốn khắc phục cần phải có cơ chế pháp lý để truy cứu trách nhiệm;
- Theo nguyên tắc này thiểu số phải phục tùng đa số nguyên tắc này dễ trở thành vũ khí để số đông cản trở, gây kho khăn cho số ít nếu số ít đại diện cho cái đúng và cái tích cực có lợi cho tập thể.
- Dân chủ phải gắn liền với kỷ cương, có như vậy mới tránh được luận điệu lợi dụng dân chủ của các thế lực thù địch hiện nay đang tìm mọi cách chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hoá thành luật và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.
Thứ tư, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời coi trọng việc giáo dục đạo đức. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Pháp luật dù có đầy đủ và hoàn thiện đến đây cũng không thể điều chỉnh hết và có hiệu quả tất cả các mối quan hệ xã hội bởi pháp luật luôn có tính khái quát quá cao trong khi cuộc sống lại cần cái cụ thể, điều này đòi hỏi người cán bộ xử lý phải có trình độ giải thích, vận dụng linh hoạt, đồng thời phải tăng cường công tác giáo dục đạo đức bởi vì đạo đức và các quy phạm xã hội khác như phong tục tập quán, luật tục … có thể hỗ trợ cho pháp luật. Thực chất là quan điểm kết hợp pháp trị và đức trị trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam. Nó nói lên tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam, ở đâu pháp luật bất lực thì ở đó đạo đức, tình cảm sẽ lên tiếng để hỗ trợ cho pháp luật, đẻ hoạt động hiệu quả hơn. Đây chính là sự sáng tạo của Đang ta trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
Thứ năm; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một yêu cầu khách quan trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền vì vậy đảng phải đổi mới cách thức, phương thức lãnh đạo nhà nước. Muốn vậy trước tiên phải tiếp tục phân định một cách rõ ràng, rạch ròi, hợp lý vai trò lãnh đạo chính trị của đảng với chức năng quản lý của nhà nước, đồng thời tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với nhà nước bằng cách Đảng tăng cường chất lượng hoạch định đường lối, chính sách của mình để dễ đi vào cuộc sống. Để đạt được mục đích đó đảng cần tự nâng tầm trí tuệ của mình ngày càng cao hơn yêu cầu của cuộc sống thông qua các con đường học tập, tạo ra môi trường thực sự dân chủ trong tranh luận, thảo luận đường lối, chính sách . Đảng phải biết lăng nghe và tiếp thu ý kiến từ dư luận xã hội, đặc biệt là không được phân biệt đối xử với các ý kiến trái chiều..
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn thể hiện ở chỗ: Đảng thông qua công tác cán bộ giới thiệu đảng viên ưu tú tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước
Đội ngũ cán bộ, công chức luôn giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ xã hội. Ngoài trình độ chuyên môn, đội ngũ cán bộ công chức phải tận tuỵ phục vụ nhân dân mà tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn toả sáng trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Đảng ta phát động và đang được toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng. Thiết nghĩ, đây là dịp tốt để mọi cán bộ, công chức, viên chức liên hệ vào công việc của mình đang đảm nhiệm, tạo chuyển biến tốt để phục vụ nhân dân một cách thiết thực thì chắc chắn, Đảng và Nhà nước ta tăng thêm được uy tín của mình đối với nhân dân. Đó cũng là cách thức tốt nhất để nhân dân góp phần thiết thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân../.
Phương hướng xây dựng: (nếu cần)
1/ Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước
2/ Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gồm các nội dung:
Thứ nhất; Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được tiến hành đồng bộ, từ việc xác định vị trí trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị, cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hành và phát huy dân chủ đến việc đổi mới từng bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương.
Thứ hai; Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng nâng cao chất lượng, thực hiện tốt chức năng lập pháp và giám sát tối cao.
Hiến pháp năm 1992 đã xác định Quốc hội nước ta là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với 3 chức năng: lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao.
Cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổng thể bộ máy nhà nước, theo đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không phải toàn bộ quyền lực nhà nước đều thuộc về Quốc hội. Vấn đề đặt ra là, cần phải xây dựng được một Quốc hội thực quyền chứ không phải là Quốc hội toàn quyền.
Đối với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, vấn đề thiết thực và quan trọng nhất là hiệu quả của sự giám sát thông qua cơ chế xử lý kết quả giám sát của Quốc hội, bảo đảm các kết luận giám sát của Quốc hội phải được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Để tạo lập được cơ chế giám sát tối cao một cách thực tế đối với hoạt động của nhà nước, cần tổ chức nghiên cứu để tiến tới thành lập một cơ quan bảo hiến, đảm bảo địa vị tối cao, thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của nước ta.
Thứ ba; Tiếp tục cải cách hành chính nhằm nâng cao chất lượng hành pháp, đặc biệt đổi mới phương thức hoạt động của chính phủ. Xây dựng một Chính phủ gọn về tổ chức, rõ về chức năng, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động.
Thứ tư; Đổi mới các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm của cải cách tư pháp chính là cải cách tổ chức và hoạt động của Toà án với quan điểm Toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp và sự độc lập của Toà án trong xét xử là điều kiện cơ bản bảo đảm cho Toà án thực hiện vai trò của mình với tư cách cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
Thứ năm; Đổi mới chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp cần bảo đảm sự thống nhất không gian kinh tế và không gian pháp lý. Quyền tự chủ của chính quyền địa phương phải đặt trong sự quản lý của Trung ương về thể chế và chính sách vĩ mô. Mỗi cấp chính quyền là một bộ phận cấu thành của hệ thống hành chính nhà nước thống nhất. Do đó, không thể coi việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương như là sự thoát ly, tách rời khỏi Nhà nước Trung ương và không thể làm phát sinh tình trạng cát cứ, cục bộ địa phương, không để tạo ra sự đối lập lợi ích giữa địa phương và Trung ương.
Đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng ở các cấp địa phương.
Thứ sáu; Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đội ngũ cán bộ, công chức luôn giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ xã hội. Ngoài trình độ chuyên môn, đội ngũ cán bộ công chức phải tận tuỵ phục vụ nhân dân mà tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn toả sáng trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Đảng ta phát động và đang được toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng. Thiết nghĩ, đây là dịp tốt để mọi cán bộ, công chức, viên chức liên hệ vào công việc của mình đang đảm nhiệm, tạo chuyển biến tốt để phục vụ nhân dân một cách thiết thực thì chắc chắn, Đảng và Nhà nước ta tăng thêm được uy tín của mình đối với nhân dân. Đó cũng là cách thức tốt nhất để nhân dân góp phần thiết thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ bảy; Tiến hành mạnh mẽ hơn nữa công tác chống tham nhũng, cửa quyền và quan liêu, đây đang là một nguy cơ lớn trong giai đoạn hiện nay.
Kết luận.
Ở Việt Nam, quá trình thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đặt ra những yêu cầu dân chủ bức bách về kinh tế, xã hội. Mặt khác trong đời sống chính trị yêu cầu dân chủ hoá cũng được đặt ra gay gắt, như là biểu hiện xu hướng vận động chung của thời đại, cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt nam cũng đã khẳng định xu hướng đó. Thực chất của đổi mới hệ thống chính trị nước ta là xây dựng dân chủ XHCN bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng dân chủ thực sự bao giờ cũng gắn liền với pháp luật, pháp chế, gắn với một nhà nước được tổ chức chặt chẽ bằng pháp luật, nhà nước hoạt động theo pháp luật, đặt mình dưới pháp luật – nhá nước pháp quyền. Xuất phát từ yêu cầu dân chủ d8ược nêu ra trong cương lĩnh, khái niệm nhà nước pháp quyền cành được khẵng định như là một xu thế tất yếu khách quan trong điều kiện đổi mới.
Mặc dù đã được chính thức ghi nhận vào các văn kiện của Đảng và Nhà nước,nhà nước pháp quyền XHCN là gì vẫn là một câu hỏi lớn cần phải làn sáng tỏ về bản chất, nội dung và những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
( các anh chị có thể vận dụng thêm vê công tác thực thi pháp luật hiện nay ở cơ quan đơn vị mình )….//….
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro