Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

suong do chap 67-111

67.

Đúng như Anh Tú dự đoán, trên thế gian này, người duy nhất có thể làm khó Ngọc Vũ, chính là Ngọc Trâm, nàng công chúa thứ sáu của Hoàng đế Hiển Tông.

Vừa đặt chân lên bậc tam cấp lát đá ong, Anh Tú đã nhìn thấy Dạ Mai - nàng cung nữ hầu cận Ngọc Trâm đứng lấp ló bên ngoài, với dáng điệu bồn chồn . Không nói không rằng, Anh Tú xăm xăm tiến đến, hất cánh tay níu kéo, ngăn cản của Dạ Mai sang một bên mà bất chấp hậu quả . Mở tung cánh cửa phòng, nó chùng chân khi chứng kiến một cảnh tượng hiếm có . Cô nàng Ngọc Vũ thường ngày không sợ trời, không sợ đất đang đứng nép một bên, đôi mắt hoe đỏ, năm ngón tay bấu chặt vào thành ghế, run rẩy, trong khi Ngọc Trâm ngồi trên ghế . Chiếc quạt tròn, mỏng như cánh chuồn rực rỡ phe phẩy, khuôn mặt xinh đẹp hếch lên, chân bắt chéo, cánh tay đặt hờ trên bàn trông vô cùng kiêu kỳ . Thấy Anh Tú, Ngọc Trâm nhướng đôi mày lá liễu lên, rồi trở lại bình thường khi nhìn khay cơm trên tay nó, cô hững hờ khoát tay.

- Tiểu Anh tử! Ở đây không có phận sự của ngươi! Mau lui ra.

Anh Tú chau mày . Sống trong cung đã quen, nhưng quả thật Anh Tú vẫn không thể nào thích ứng được cái kiểu lên mặt, coi người khác không ra gì như thế . Với những nàng công chúa quen sống trong cung cấm, có kẻ hầu người hạ, mặc sức sai bảo, không phải động tay động chân, trong khi người khác è ra làm ná thở, chẳng vừa lòng việc gì thì quát tháo, mắng mỏ, khiến Anh Tú bất mãn vô cùng . Không đáp lại Ngọc Trâm, Anh Tú đặt khay cơm xuống chiếc bàn hình elips . Nó trông về phía Ngọc Vũ, ánh mắt dịu xuống vì cô lúc này đang rũ ra như một chú chim bị mất hết cánh, không còn chút sức lực, không còn vẻ ngang tàng, kiêu ngạo như thường ngày.

- Chuyện gì đang xảy ra?

- Ngươi không nghe ta nói sao? Ở đây không có phận sự của ngươi.

- Tôi hỏi lại, chuyện gì đang xảy ra?

Lừ mắt nhìn Ngọc Trâm, giọng Anh Tú đanh lại . Nét tươi cười, tếu táo trên mặt biến mất, thay vào đó là sự nghiêm túc, đến nỗi Ngọc Trâm cũng phải ngạc nhiên . Nếu không nhờ có cô, thì gã này chắc chắn đã chịu kiếp thái giám, chứ không đứng ở đây mà lên tiếng hùng dũng như thế, thật chẳng hiểu ăn trúng miếng gan hùm nào . Đắn đo suy nghĩ, Ngọc Trâm tính ra lệnh cho binh lính, lôi cổ tên "thái giám" không biết điều này ra ngoài, nhưng sực nghĩ lại, tên "thái giám" này được Đoan Nam vương bảo lãnh, chắc chắn không thân cận thì cũng có đôi chút quan hệ với phủ chúa . Mà luật bất thành văn, Hoàng thất xưa nay không động chạm đến phủ chúa bao giờ, đối với cô cũng thế . Ngọc Trâm im lặng . Cô phe phẩy cánh quạt mỏng tênh, nhẹ giọng, chứ không còn cao vút như lúc ban đầu.

- Chuyện không liên quan tới ngươi! Nguơi xen vào làm gì?

- Chuyện không liên quan tới tôi, vậy mà tôi vẫn muốn xen vô, trong khi người có liên quan đến chuyện này thì lại không thấy tới.

- Ý nguơi là sao?

Nhìn thẳng vào đôi mắt ngạc nhiên của Ngọc Trâm, Anh Tú cười nhạt.

- Ý tôi đơn giản lắm, lẽ ra người nên thấy mấy chuyện này không phải tôi, mà là Hoàng thượng kia . Tuy tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng cả hai đều là chị em trong nhà...

- Ai là chị em với nó! Ngươi biết gì mà nói.

Anh Tú chưa kịp dứt lời, Ngọc Trâm đã quát lên, mắt tối sầm, chứng tỏ rất giận dữ vì những lời nó vừa thốt ra . Không hiểu mình đã lỡ lời chỗ nào, Anh Tú cảm thấy bối rối . Chẳng lẽ nó đã nghĩ sai, chẳng lẽ hai người này không phải chị em ruột thịt với nhau sao? Vô lý.

- Tôi không hiểu? Mà cho dù không phải là chị em thật, nhưng cùng là con gái thì cũng không nên đối xử với nhau như thế.

- Hay thật! Cung nữ của nó làm đổ canh lên áo ta . Ta dạy cho ả cung nữ ấy một bài học về phép tắc trong cung, chỉ có thế thôi mà nó đã cản ta lại, lại còn đe dọa là sẽ đi bẩm lại với phụ hoàng . Ỷ thế được phụ hoàng chiều chuộng rồi muốn gì làm nấy, không coi ai ra gì hay sao?

- Tôi không có ý thế, tỷ đừng vu oan cho tôi.

Đang lặng lẽ đứng nép vào tấm rèm, Ngọc Vũ đột ngột ngửng đầu, nói lớn, vì Ngọc Trâm đã chạm đến điều cấm kỵ nhất của cô . Trước sự phản ứng của Ngọc Vũ, Ngọc Trâm cười lạt.

- Ta mà đi vu oan cho ngươi sao?

- Nếu tỷ không động đến A Đào, ngăn cản tỷ cách mấy cũng không được, thì tôi đã không phải dùng đến hạ sách đó.

Nghe Ngọc Vũ và Ngọc Trâm đối đáp, Anh Tú sực nhớ đến bộ dạng thất thểu của A Đào . Nhớ đến năm vệt ngón tay dài sượt, in hằn trên đôi má sưng vêu của cô bé, Anh Tú nhìn Ngọc Trâm, hỏi nhẹ.

- Là cô đã đánh A Đào?

- Nó chỉ là một con cung nữ bình thường mà dám lên mặt dạy bảo ta . Ta chỉ thay mặt chủ nhân của nó, dạy dỗ nó lại thôi.

Ngọc Trâm cao giọng, nói bình thản như thể đó là lẽ đương nhiên . Đôi mắt to, đen mượt của Ngọc Vũ vụt long lanh, làn môi hồng mím lại, cố tự chủ . Cuối cùng, không thể chịu được nữa, Ngọc Vũ lên tiếng chỉnh lại cô chị lâu nay luôn so kè từng chút một với mình.

- A Đào còn trẻ người non dạ, hơn nữa lại mới nhập cung . Cho dù thế nào thì tỷ cũng từ từ bảo ban, dạy dỗ . Đằng này tỷ lại dụng hình nặng nề với nó như thế, tôi là chủ nhân của nó, sao có thể làm ngơ . Tôi đâu phải như tỷ.

Ngọc Trâm đứng bật dậy, gương mặt đỏ phừng phừng, rõ ràng đang rất kích động vì những lời của Ngọc Vũ lọt vào tai . Ngay từ lúc mới sinh ra, Ngọc Trâm chỉ là một trong những nàng công chúa mà Lê Hiển Tông đã có, chứ không phải là nàng công chúa duy nhất, độc nhất trong cung . Cô lớn lên trong sự yêu thương của mẫu thân mình, và bà đã nỗ lực dành những gì tốt nhất cho con gái . Đáp lại yêu thương đó, Ngọc Trâm đã cố học tất cả những gì các nữ quan đã dạy, để trở thành một nàng công chúa hoàn mỹ nhất, xứng đáng nhất . Cô có đủ công, dung, ngôn, hạnh, tinh thông thi ca, lại thuộc làu thơ truyện và điển tích xưa, làm mọi người trong cung ai cũng phải nể phục vì tài nghệ của cô không thua kém bất cứ văn thần nào.

Nhưng dù đã làm hết sức, dù đã phấn đấu nhiều như thế, Ngọc Trâm vẫn không thể nào hiểu được, tại sao phụ hoàng lại không yêu thương cô nhiều như Ngọc Vũ . Cô không hiểu nên cô tức giận . Cô tức giận nên đâm ra uất ức . Uất ức lại hóa thành ghen tị . Điều đó khiến Ngọc Trâm không được thoải mái và cảm thấy khó chịu . Đối với mọi người, Ngọc Vũ là một nàng công chúa đáng yêu, xinh xắn . Đối với phụ hoàng, Ngọc Vũ là chiếc trâm vàng quý báu . Nhưng đối với cô, Ngọc Vũ thật sự là một bất ổn, vì bao nhiêu tình yêu phụ hoàng đều dồn cả cho nó . Cô không thích nhưng đồng thời cô cũng không ghét . Cô không ghét Ngọc Vũ, nhưng lại hay để mắt và không hài lòng với bất cứ gì từ con bé . Cảm giác phức tạp ấy Ngọc Trâm không thể lý giải nổi . Nó như một sợi lông mi rơi vào trong khóe mắt, gây cho cô cảm giác xốn xang, đau nhức, mãi mà vẫn chẳng thể lấy sợi lông mi quái ác đó ra .

Những lời Ngọc Vũ trong lúc tức giận, dù không ác ý, nhưng con bé cũng đã động vào những nỗi niềm sâu kín nhất của cô . "Tôi đâu giống tỷ" . Phải! Cô và Ngọc Vũ làm sao giống nhau . Một người được yêu và một người không được yêu, lúc nào cũng chỉ có sự so sánh thì làm sao mà giống nhau.

- Ngọc Vũ! Ngươi dám nói với ta như thế sao? Cho dù ngươi có được phụ hoàng thương yêu thì ta cũng sẽ không nương tay đâu.

- Tỷ chưa bao giờ nương tay . Lần nào tỷ cũng luôn kiếm cớ gây chuyện với tôi, thế nhưng tôi luôn nhường nhịn tỷ vì nghĩ rằng ít ra cả hai đều có chung dòng máu . Lần này tỷ thật quá quắt, tôi cũng không thể nhường nhịn thêm được nữa.

- Hỗn láo! Mẫu thân ngươi dạy dỗ ngươi chống đối với ta như thế phải không?

- Tỷ... tỷ không được xúc phạm đến mẫu thân của tôi.

Ngọc Vũ nức nở . Tim cô nhói đau khi Ngọc Trâm đụng chạm đến người mẹ dịu dàng đã khuất của mình . Lẽ ra cô phải khóc, nhưng mắt cô ráo hoảnh . Cô thẳng lưng, nhìn xoáy vào mặt Ngọc Trâm, ánh mắt chất chứa căm hờn, uất giận và bất lực . Nhìn thấy ánh mắt đó, Ngọc Trâm chỉ nhếch môi, cô thong thả đi vòng quanh Ngọc Vũ, quan sát, thăm dò phản ứng của em gái mình, và cất giọng đều đều, pha chút mỉa mai sâu cay.

- Ta nói không phải sao? Mẫu thân ngươi chỉ là cung nữ hầu cận của mẫu thân ta, vì có chút nhan sắc nên mới được phụ hoàng để mắt đến, và kết quả là hạ sinh ra ngươi . Nếu như không có mẫu thân ngươi, thì mẫu thân ta không phải chịu cảnh uất ức, thui thủi một mình trong cấm cung . Ngươi cũng thế mà bà ta cũng thế, cũng đều cố sức chiếm hết tình cảm, yêu thương của người khác . Bà ta đã dạy cho ngươi cái gì, mà có thể khiến phụ hoàng hết lòng cưng chiều ngươi như thế chứ?

- Tỷ im đi! Nếu không có mẫu thân tôi thì mẫu thân tỷ vẫn sẽ cô độc trong cung cấm . Nếu không có tôi thì tỷ cũng không bao giờ được phụ hoàng yêu thương vì cá tính độc đoán, ích kỷ của tỷ . Không bao giờ!

- Ngươi...

Bốp!!

Bốp!!

Lo lắng đi tới lui bên ngoài hành lang, A Đào và Dạ Mai không dám bước vào thư phòng, khi cuộc tranh cãi như cơm bữa giữa chủ nhân họ đang diễn ra đến hồi căng thẳng . Nghe hai tiếng "Bốp" giòn dã bên trong vọng ra, A Đào và Dạ Mai đưa mắt nhìn nhau . Cả hai rất muốn mở tung cửa, lao vào trong để xem đang xảy ra chuyện gì, thế nhưng họ lại chỉ đứng yên một chỗ, không dám nhúc nhích, bởi biết rằng vào đó không những tình hình càng thêm tồi tệ, mà rất có thể họ sẽ bị vạ lây vì xuất hiện không đúng lúc . Chỉ có duy nhất còn lại một tên thái giám ở trong đó, không biết số phận của hắn ta bây giờ thế nào mà mãi vẫn chưa thấy trở ra.

A Đào và Dạ Mai đã vô cùng sáng suốt, khi quyết định không can thiệp vào trận chiến giữa hai nàng công chúa, bởi nếu họ mà xộc vô ngay lúc này, chắc chắn không đờ người ra cũng hoảng hốt, vì âm thanh giòn dã ban nãy là do tên tiểu thái giám mà họ lo lắng đã tạo ra . Và tất nhiên, người lãnh nhận hai cái tát ấy không ai khác chính là chủ nhân của họ - Ngọc Trâm và Ngọc Vũ - vẫn chưa hết sững sờ.

Ban đầu, Anh Tú không tính can thiệp vào câu chuyện riêng tư của Ngọc Trâm và Ngọc Vũ . Nó đơn giản chỉ đến đây để xem chuyện gì đã xảy ra cho A Đào, và không ngờ lại nghe được khối chuyện thâm cung bí sử từ hai nàng này . Đứng yên lặng một bên để tìm hiểu rõ đầu đuôi, coi ai đúng ai sai trước khi cất tiếng, đến lúc nghe Ngọc Trâm và Ngọc Vũ từ mỉa mai nhỏ nhẹ chuyển sang cải vã, làm đau lòng nhau bằng những chuyện lẽ ra không nên nhắc tới, Anh Tú đã chịu hết nổi . Nghĩ đến cảnh đứa em gái đang lưu lạc bên ngoài, nghĩ đến cảnh rất có thể nó đã chết, nghĩ đến cảnh giấc mơ kia thành hiện thực thôi là trong bụng Anh Tú như có lửa đốt . Hai anh em nó phải xa cách nhau, không biết sống chết của người kia thế nào, thật vô cùng bất lực và cay đắng, ấy thế mà hai người này là chị em với nhau, cùng cha, cùng dòng máu, lại đem những chuyện bí mật cung cấm ra mà mổ xẻ, mà đay nghiến, làm tổn thương nhau khiến Anh Tú phát bực . Kết quả, không kềm chế được, Anh Tú sấn lên một bước . Nó vung tay, tặng cho Ngọc Trâm và Ngọc Vũ, mỗi nàng một cái tát, không nặng cũng không nhẹ, làm cho đôi má hồng xinh xinh của hai người đỏ bừng lên.

Đang như nhím xù lông, sẵn sàng tuôn ra những lời lẽ để hạ gục đối phương Ngọc Trâm và Ngọc Vũ sững sờ, vì không ngờ một tên tiểu thái giám thấp kém lại có hành động vô lễ đó với mình . Quên phắt cả cự cãi, giận hờn, Ngọc Trâm và Ngọc Vũ đứng trố mắt nhìn Anh Tú, chung quy vẫn chưa tin được những gì nó đã làm . Không né tránh hai gương mặt kinh ngạc ấy, Anh Tú bình tĩnh nhìn cả hai . Nó quay sang Ngọc Trâm, xoáy sâu vào đôi mắt ngỡ ngàng của cô, nhấn mạnh từng lời.

- Công chúa Ngọc Trâm! Tôi không biết cô đang nghĩ gì, và tất nhiên không thể hiểu được tâm tư, tình cảm của cô, nhưng tôi không hiểu, khi nói ra những chuyện đó thì cô được lợi ích gì . Chẳng lẽ khiến Ngọc Vũ đau lòng sẽ làm cho cô được thanh thản hơn sao? Dù thế nào đi chăng nữa, thì cả hai người đều là ruột thịt với nhau, một giọt máu đào hơn ao nước lã . Cô đối xử với Ngọc Vũ như thế, Hoàng thượng liệu sẽ yêu thương cô không? Nếu không, tại sao cô còn làm như thế? Những lời cô vừa nói, không những làm Ngọc Vũ đau lòng mà chính bản thân cô cũng đau lòng, vậy hà tất phải nói những lời khiến cả hai đều không được vui.

Trố mắt nhìn Anh Tú, Ngọc Trâm đứng lặng . Bờ môi cô run run, tựa như muốn nói điều gì đó mà không thể thốt thành lời . Sau khi đã nói xong những điều muốn nói với Ngọc Trâm, Anh Tú thở dài . Quay sang Ngọc Vũ, nó nghiêm khắc nhìn vào khuôn mặt non nớt, trẻ thơ của cô, nghiêm nghị.

- Còn cô, Ngọc Vũ! Cô được may mắn hơn người khác là có được sự yêu thương của Hoàng thượng, trong khi họ lại không có . Cũng như Ngọc Trâm, tôi không biết cảm giác của cô là gì . Được yêu thương có phải là hạnh phúc hay bất hạnh, tôi không biết, nhưng những lời cô nói vừa rồi chẳng khác nào không tôn trọng mẹ cô và bản thân cô . Thế giới này vốn không công bằng . Người khác đã không tôn trọng cô, thì cô phải tôn trọng và yêu quý bản thân mình, đừng có đày đọa nó như thế . "Không có tôi..." nói ra câu ấy đối với cô sao thật dễ dàng . Trên thế gian này, có rất nhiều người muốn được sống, thậm chí còn có cả những bào thai không được sinh ra, phải chịu bị tước đoạt mạng sống do bồng bột của người lớn . Còn cô, cô được sinh ra, được lớn lên, tay chân khỏe mạnh, lành lặn, mang một gương mặt xinh xắn, là con gái yêu của Hoàng thượng, cô quá may mắn và hạnh phúc so với người bình thường . Vậy sao không trân trọng mà lại hủy hoại nó đi như thế.

Nói dứt lời, Anh Tú yên lặng quan sát cả hai . Nhận thấy má cả hai người đều bị sưng lên do cái tát của nó, Anh Tú chợt hối hận . Lẽ ra nó không nên mạnh tay như thế . Dù có đanh đá, ương ngạnh thế nào thì họ cũng là con gái, mà theo quan điểm của nó, con gái sinh ra là để thế giới tươi đẹp hơn . Thở dài đánh sượt, Anh Tú cầm khay cơm lên, nó quét mắt nhìn Ngọc Trâm và Ngọc Vũ lần nữa, rồi dịu giọng.

- Tôi chỉ nói thế thôi, các cô thế nào tùy các cô . Vẫn chiến tranh liên miên hay chung sống trong hòa bình giả tạo thì tùy . Tôi có một đứa em gái khác mẹ, hiện nó đang lưu lạc bên ngoài mà không biết sống chết thế nào, lòng lo muốn điên lên . Nay gặp tỷ muội các người tương tàn, thật thấy thương cho phụ hoàng của hai người.

Anh Tú dứt lời, quay lưng đi luôn, bỏ mặc Ngọc Trâm và Ngọc Vũ đứng phía sau im lặng . Bước chân ra ngoài, nó đã bắt gặp gương mặt đầy lo lắng và hiếu kỳ của A Đào và Dạ Mai, do không biết chuyện gì đang diễn ra, mà sau hai âm thanh "bốp bốp" giòn giã, bên trong phòng im ắng như tờ . Lạnh lùng nhìn hai nàng cung nữ, Anh Tú thẳng bước về phía Ngự trù . Đến khi khuất bóng, Anh Tú vội vàng dựa lưng vào cột, gương mặt đầm đìa mồ hôi vì lo lắng . Ban nãy, do quá tức giận, nó đã trong một phút nông nổi mà tặng cho hai nàng công chúa mỗi người một cái tát . Bây giờ bình tâm lại, chuyện đó quả thật tày trời . Nó sẽ có nguy cơ bị tội, vì đã dám động đến Ngọc Vũ, con gái yêu của Hoàng thượng và Ngọc Trâm, nàng công chúa hành động khó lường . Anh Tú lắc đầu ngao ngán . Bây giờ có muốn hối cũng không kịp, chắc chắn hai nàng ấy sẽ không tha cho nó, và chuyện này sẽ sớm bị phanh phui . Gieo gió thì ắt gặt bão, huống chi ở đây Anh Tú gieo bão, chắc chắn sẽ gặp sóng thần . Nó đành phải tự xử trước, chứ để hai nàng ấy ra tay thì đời nó còn thê thảm gấp bội lần.

Phen này Anh Tú tàn đời thật rồi...

68.

Nhờ thẻ bài Đoan Nam vương cấp, được phép ra ngoài bất cứ lúc nào để tấu trình lại mọi việc xảy ra trong cung, Anh Tú có thể đường hoàng trở về phủ chúa, mà không bị hai tên thị vệ canh cửa hạch hỏi hay xách mé . Trong ba cô bạn thân, ngoại trừ Linh Lan, chỉ có Nguyên Thục và Bách Nhật là chín chắn nhất, có những lời khuyên hữu ích nhất . Anh Tú lẻn về đúng lúc Bách Nhật ra chợ mua ít đồ lặt vặt, chỉ còn Nguyên Thục ngồi trong phòng, tỉ mỉ gò từng đường kim, xếp những sợi chỉ màu thành hình cánh bướm đằm thắm, dịu dàng . Không có Bách Nhật, Nguyên Thục là ứng cử viên sáng giá . Trước sự chăm chú của bạn mình, Anh Tú được dịp bộc bạch hết nỗi niềm, rồi sau đó ngồi yên, chờ Nguyên Thục đưa ra phương pháp tối ưu để giải quyết chuyện động trời này.

Ngồi im lặng từ đầu chí cuối, nghe Anh Tú kể hết sự tình trong bức xúc, Nguyên Thục cất bản thêu lên bàn trang điểm, mà nó chỉ dùng khi chải tóc, rồi đan hai tay vào nhau, trấn an sự lo lắng phập phồng trong Anh Tú.

- Không sao, tôi có cách giải quyết chuyện này.

- Thiệt hả? - Nghe Nguyên Thục nói chắc nịch, Anh Tú mừng rỡ

- Tất nhiên! Chẳng lẽ giả . Nhưng trước khi nói, tôi muốn hỏi câu này.

- Sao?

- Ông thật sự đã tặng cho hai nàng công chúa ấy, mỗi người một cái tát thiệt hả.

Nhăn mặt khi Nguyên Thục tỏ ra không tin tưởng, Anh Tú ngả người lên giường, vùi mặt vào lòng bàn tay, giọng ngán ngẩm.

- Tôi nói khô miệng nát nước mà bà vẫn không tin sao.

- Không phải không tin . Nhưng từ trước tới nay ông vẫn rất tôn trọng chị em phụ nữ, bởi vậy khi nghe ông khai báo tin giật gân, tôi hơi ngạc nhiên chút thôi.

- Ờ! Thế giờ đích thân tôi xác nhận, chứ không phải đọc tin tức trên tạp chí lá cải nào đó, bà đã tin chưa?!

Nguyên Thục tủm tỉm cười . Tuy không biết tại sao Anh Tú to gan gây ra chuyện tày đình thế, nhưng căn cứ vào nét mặt Anh Tú, Nguyên Thục hiểu nó đang nói thật, và trông anh chàng cũng có vẻ bứt rứt không yên, do lần đầu tiên ra tay nặng nề đối với con gái . Vực Anh Tú ngồi dậy ngay ngắn, Nguyên Thục bắt đầu phổ biến kế hoạch giải cứu "binh nhì Ryan", lòng hy vọng Trịnh Khải sẽ không giận nó vì chuyện tự ý chuyên quyền, mượn danh nghĩa Đoan Nam vương của anh mà không hỏi ý anh trước . Nghe mưu kế của Nguyên Thục, gương mặt như mất sổ gạo thời bao cấp của Anh Tú dần tươi tỉnh, rồi sáng rỡ lên như pháo hoa bắn trong đêm ba mươi . Giơ ngón tay cái lên để khen thưởng, Anh Tú thở phào nhẹ nhõm vì xem ra kế này cũng khả thi, nhất là mượn danh nghĩa của Đoan Nam vương, thì hai bà chằn kia phần nào cũng không thể làm khó dễ nó.

Theo kế sách của Nguyên Thục, do Anh Tú thân là "thái giám" nhỏ nhoi, lại ăn mật gấu đột xuất, "hành hung" hai nàng công chúa trong Hoàng tộc, tội thật không thể tha . Nhưng nể tình Anh Tú là người của phủ chúa, lại là người thân cận của Hồ tiệp dư, ái thiếp của Đoan Nam vương, tội chết có thể tha nhưng tội sống thì không thể dung được . Thừa biết chuyện thân là công chúa cành vàng lá ngọc, lại bị một tên tiểu hoàng môn tát vào mặt, Ngọc Trâm và Ngọc Vũ cũng khó lòng mở lời xin Hiển Tông trừng phạt Anh Tú, vì như thế chỉ làm bẽ mặt của cả hai, Nguyên Thục đã đi trước một bước . Nó bịa ra lý do Anh Tú đã tự ý xộc vào khuê phòng của Ngọc Vũ mà chưa được lệnh, nên bị xử phạt năm mươi trượng . Thụ hình bằng cách nằm khểnh trong phòng xử phạt, Anh Tú ráng sức la hét, gào rú sao cho thê thảm một chút, rồi sau đó xuất hiện với vẻ đầu bù tóc rối, quần áo nhàu nhĩ, bết máu - do công dụng của trái cà chua trước mặt mọi người . Xong việc, Nguyên Thục sẽ tung tin ra ngoài, rằng tiểu hoàng môn vô lễ đã bị Đoan Nam vuơng xử phạt một trận thừa chết thiếu sống . Sau đó, nó không quên sai người đưa thư cho Ngọc Trâm và Ngọc Vũ, giãi bày đầu đuôi câu chuyện với lời lẽ thiết tha, cảm động, tự nhận hết lỗi về phía mình, khiến Ngọc Vũ không thể nói gì hơn và Ngọc Trâm đành cay đắng cho qua.

Sau mấy ngày nằm dưỡng thương trong phủ chúa, đồng thời dỏng tai nghe ngóng tình hình xem bên Hoàng cung có rục rịch gì không, đến khi thấy mọi chuyện có vẻ êm xuôi, Anh Tú mới vững dạ . Nó cám ơn Nguyên Thục rối rít, hẹn khi nào có dịp nhất định sẽ khao một chầu để tạ ơn, rồi sau đó khăn gói quả mướp cùng với tinh thần thép trở lại Hoàng cung, tiếp tục làm công việc giám sát ông hoàng băng giá trong Nội điện, và làm tròn lời hứa của mình đối với Đoan Nam vương.

Tiễn Anh Tú ra đến tận cửa Tuyên Vũ, Nguyên Thục dúi vào trong tay nó một bọc to đầy bánh trái, toàn những thứ Nguyên Thiên thích nhất, nhờ gởi vào trong cung với lời thăm hỏi dặn dò đứa em hậu đậu của mình . Hỏi sao Nguyên Thục không tự tay đưa những món quà này cho Nguyên Thiên, Nguyên Thục chỉ bẽn lẽn, cúi gằm đầu . Nó không dám nói thật cho Anh Tú biết chuyện nó muốn dành thời gian nỗ lực học tập, cố gắng hoàn thiện bản thân mình để vượt qua cô nàng Ngọc Xuân kia, vì Trịnh Khải . Nhìn gương mặt e ấp của Nguyên Thục, không cần cô nàng tự khai báo, Anh Tú đã hiểu hết mọi chuyện . Nó cười thầm, bụng tự hỏi không biết chừng nào Đoan Nam vương mới ngỏ lời với Nguyên Thục, vì xem ra cô nàng cũng chờ đợi khá lâu rồi.

Không nhìn vào mặt Anh Tú để tránh nụ cười tẩm ngẩm của nó, Nguyên Thục trông theo Anh Tú cho đến khi khuất bóng, rồi mới quay trở về phòng, tiếp tục thêu cho xong cái khăn tay đã làm suốt tuần nay . Kể từ khi nhìn thấy Trịnh Khải và Ngọc Xuân đánh cờ với nhau, dù dư âm ngọt ngào của câu nói "cô quan trọng hơn" vẫn đọng lại trong tiềm thức nó, thế nhưng Nguyên Thục vẫn không sao quên được nét mặt vui vẻ của Trịnh Khải khi chơi cờ . Cảm giác ấy cứ len vào tim nó, nghèn nghẹn, tưng tức mỗi khi nhớ đến . Lòng tự ái trỗi dậy, Nguyên Thục quyết tâm học đánh cờ . Nó nhờ A Vân tìm cho mình người nào biết chơi cờ để dạy nó, và A Vân đã tìm thấy một nàng cung nữ chuyên phụ trách việc thay hoa trong phủ, kỳ nghệ rất tinh thâm . Mừng như bắt được vàng, Nguyên Thục quyết tâm học tập, sao cho ngang ngửa với Ngọc Xuân để có thể cùng Trịnh Khải chơi đánh cờ . Nó muốn chứng minh cho anh thấy rằng Nguyên Thục đã nói nhất định sẽ làm.

Và thế là, một ngày của Nguyên Thục trở nên vô cùng bận rộn . Sáng vào Ngự trù làm cơm cho Trịnh Khải, trưa ngồi học may vá, thêu thùa, chiều học đánh cờ và tối thì học viết chữ . Nhắc đến viết chữ, gương mặt Nguyên Thục lại ửng hồng như hoa đào nở đón tết, vì Trịnh Khải đã đích thân dạy nó viết chữ mỗi tối trong thư phòng của anh . Lần đầu tiên cầm bút theo kiểu xưa, lần đầu tiên viết trên tờ giấy cách đây hai trăm năm, kết quả cho bàn tay không chuyên ấy là tờ giấy lem nhem mực, chữ nọ xọ chữ kia, đua nhau lên bờ xuống ruộng . Đứng bên cạnh, Trịnh Khải chỉ mỉm cười không nói gì, nhưng điều đó đã làm quyết tâm của Nguyên Thục tăng cao độ vì quê . Học chữ với Trịnh Khải, Nguyên Thục không sao tập trung đầu óc được . Mùi trầm hương nhẹ nhàng của anh cứ lẩn khuất bên nó, bàn tay to, rộng, ấm áp của anh nắm lấy lấy tay nó, hướng dẫn cho nó những nét bút đầu tiên . Những khi ấy, Trái tim Nguyên Thục đập loạn xạ . Nó cắn môi, cố trấn tĩnh nhịp tim bình ổn lại, và ghi nhớ những gì Trịnh Khải đã dạy do không muốn tỏ ra "tồ" đột xuất trước mặt anh.

Đóng cửa phòng lại, Nguyên Thục mở tung cửa sổ ra để đón nắng gió tràn vào . Nó ngồi xuống ghế, trải rộng tờ giấy lên bàn, tay với lấy chiếc bút lông treo trên giá bút, bắt đầu ôn lại bài để tối nay còn trả bài cho Trịnh Khải, đồng thời học thêm những chữ mới . Đang say sưa gò mình theo nét mực óng ánh, đen thẫm, Nguyên Thục chợt ngẩng đầu lên, khi nghe thấy có tiếng thì thầm từ ngoài cửa sổ vọng vào . Nếu ngày thường, Nguyên Thục chẳng bao giờ chú ý đến những nàng cung nữ tám chuyện, vì chẳng can hệ gì tới mình, thế nhưng hôm nay tai nó thính đột xuất và tò mò bất tử, vì chuyện mà họ đang nói hình như có liên quan đến Trịnh Khải...

- Thật không? Vậy hóa ra những gì đồn đãi trong cung suốt mấy ngày nay là thật à?

- Sao lại không! Chuyện này tôi nghe từ chính miệng của A Kim - cung nữ chuyên túc trực bên cạnh Thái phi cho biết . Phen này chúa công có muốn từ chối cũng không được nữa rồi.

Trái tim Nguyên Thục hẫng một nhịp, khi một trong hai nàng cung nữ nhắc đến Thái phi . Bất chợt, một linh cảm xấu hiện trong đầu, Nguyên Thục đứng dậy, tiến sát cạnh cửa sổ, để nghe rõ hai nàng cung nữ kia đang bàn với nhau chuyện gì . Yên lặng một chút, giọng nói trong trẻo của nàng cung nữ vừa hỏi tin tức cất lên, ngập ngừng.

- Vậy còn... Hồ tiệp dư thì sao?

- Chịu thôi! Đó là lệnh của Thánh mẫu và Dương thái phi.

- Nhưng, tội nghiệp Hồ tiệp dư quá . Tiệp dư đối xử với tôi rất tốt.

Giọng của hai nàng cung nữ bắt đầu ngùi ngùi, làm lòng Nguyên Thục quặn thắt, cồn cào . Sự yên lặng kéo dài . Có tiếng thở hắt não nuột, có tiếng bước chân loạt xoạt trên cỏ, tiếng tà áo cọ vào nhau, rồi tất cả lại trở về như lúc ban đầu . Thẫn thờ ngồi thụp xuống đất, Nguyên Thục vô cùng hoang mang, tự hỏi những gì nó nghe thấy có phải sự thật không? Nếu là thật thì rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra? Tại sao không ai nói cho nó hay? A Vân và A Đào là cung nữ thân tín nhất của nó, tại sao hai người đó không hé răng lấy một lời? Nguyên Thục bấu chặt ngực áo, run rẩy . Từng cơn đau thắt dưới vùng bụng, và trong tim nó xoắn lấy nhau, trào dâng, làm nó thở gấp gáp mà không ra hơi.

Đúng lúc đó, A Vân mở cửa bước vào . Trên tay cô là khay nước quả mà A Đào đã đặc biệt nhờ Ngự trù làm cho Hồ tiệp dư, vì mấy hôm nay chủ nhân của cô đã lao tâm khổ tứ cho việc học hành rất nhiều . Thấy Nguyên Thục ngồi bệt dưới đất, A Vân hốt hoảng, đặt vội khay nước lên bàn, rồi tất tả chạy tới bên Nguyên Thục, hỏi dồn.

- Tiệp dư, tiệp dư! Người có sao không? Người thấy không khỏe chỗ nào?

Đang trong vùng tăm tối, Nguyên Thục ngước đầu lên khi nghe động . Đôi mắt nó đau đớn, nhưng lại ráo hoảnh . Vẻ mặt phức tạp đó khiến A Vân lo lắng, sờ tay lên trán Nguyên Thục để xem có bị sốt hay không, nhất là vào những ngày trời đang trở lạnh . A Vân băn khoăn.

- Tiệp dư! Người có chuyện gì thế? Nền nhà rất lạnh, để em dìu người lên giường nghỉ.

- Tôi mới là người phải hỏi câu đó?

- Sao ạ?

Nâng cánh tay Nguyên Thục, nhè nhẹ đỡ nó đứng dậy, nhưng Nguyên Thục đã rị lại . Nhìn sâu vào mắt A Vân, Nguyên Thục môi mím lại, bình tĩnh hỏi, nhưng nếu tinh ý thì sẽ thấy giọng nói của nó hơi lạc đi.

- Trong cung có chuyện gì xảy ra, chị có thể nói cho tôi biết không, A Vân?

- Không, em...em không biết chuyện gì đâu ạ?

A Vân biến sắc, cô lắc đầu nguầy nguậy với vẻ mặt khổ sở . Căn cứ vào biểu hiện đó, Nguyên Thục biết ngay cô đang nói dối, bởi A Vân rất thật thà, xưa nay nghĩ gì điều lộ ra mặt . Hơn nữa, hai nàng cung nữ kia còn biết chuyện, lẽ nào A Vân lại không.

- Thôi được rồi! Chị không cần phải nói nữa, tôi biết cả rồi.

- Tiệp... tiệp dư, người đã biết rồi sao?

A Vân bàng hoàng . Bất giác cô xiết chặt tay Nguyên Thục như muốn xẻ chia điều gì đó . Nguyên Thục buồn rầu, nói cay đắng.

- Vâng! Tôi đã biết cả rồi . Dù chúa công có yêu thương tôi cách mấy, thì ý chỉ của Thánh mẫu và thái phi là tối thượng, chúa công không muốn mang tiếng bất hiếu thì đành thế mà thôi.

- Tiệp dư! Người đừng buồn, cho dù chúa công có lập ai làm Vương phi, thì em thiết nghĩ chỉ cần chúa công vẫn yêu thương người là được.

Tim Nguyên Thục nhảy lên một cái khi A Vân tiết lộ tin tức đang xảy ra trong cung . Cố không để lộ hoang mang, Nguyên Thục vờ rầu rĩ nét mặt, mà thật ra bây giờ nó cũng không cần vờ nữa, bởi thật sự trong lòng nó rối như tơ vò với thông tin lấy từ miệng A Vân.

- Tôi muốn tìm một món quà để chúc mừng Ngọc Xuân trong ngày lễ tấn phong Vương phi . A Vân, chị nghĩ nên chọn quà gì?

- Em không biết, mấy chuyện quà cáp này em không rành cho lắm . Chỉ còn ba hôm nữa là lễ tấn phong Vương phi sẽ diễn ra, trong phủ đang tấp nập chuẩn bị như mở hội, nếu tiệp dư muốn ra ngoài chọn quà, thì đây chính là cơ hội tốt nhất đó . Em sẽ đi cùng tiệp dư.

Nguyên Thục đứng phắt dậy, thân người nó chao đảo, chuỵên mà nó muốn biết đã khai thác được . Thì ra Thánh mẫu và Dương thái phi đang tất bật cho ngày lễ phong phi của Ngọc Xuân, diễn ra sau ba hôm nữa . Hèn chi mấy hôm nay nó đã thấy lạ, không hiểu trong phủ tổ chức tiệc tùng gì mà khắp nơi giăng đèn, kết hoa. Bàn ghế bóng loáng, sàn nhà sạch như lau như li, khắp nơi treo đầy lồng đèn rực rỡ, kèm những cây hoàng lạp to bự, ngát hương thơm . Ban đầu, Nguyên Thục cứ tưởng làm thế để trang hoàng lại phủ chúa, cho một năm mới tràn đầy hạnh phúc, nhưng bây giờ thì nó đã vỡ lẽ, thái giám, cung nữ trong phủ rộn rịp thế là để làm gì.

Càng nghĩ, Nguyên Thục càng thấy uất ức . Chuyện tấn phong này trong nhà ngoài phố ai ai cũng biết, chỉ có nó là ngây thơ chẳng biết gì, lại còn chăm chỉ học tập, cặm cụi thêu thùa . Thấy nó kỳ công như thế, chắc chắn mọi người sẽ cười thầm sau lưng nó, rằng người khác được phong phi rồi, cô còn cố gắng làm chi . Xiết chặt tay vào thành ghế, Nguyên Thục nghẹn lại khi nghĩ đến Trịnh Khải . Phải chăng anh đã biết chuyện này? Phải chăng vì thế mà anh tỏ ra ân cần với nó, để bù đắp cho việc anh đã gieo vào lòng nó hy vọng mong manh . Nguyên Thục nghĩ thế, rồi gạt phắt ngay ý nghĩ đó . Không hiểu sao nó tin Trịnh Khải . Nó tin anh sẽ không làm nó thất vọng, không làm nó hụt hẫng, và cũng không biết gì về chuyện này . Rất có thể Thánh mẫu và Dương thái phi đã lấy lý do nào đó gạt anh, rồi áp dụng kế sách tiền trảm hậu tấu . Ngay trong lễ tấn phong Vương phi, trước mặt tất cả mọi người, nếu Trịnh Khải không chấp nhận phong phi cho Ngọc Xuân thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến danh dự Ngọc Xuân rất nhiều.

Với một người con gái, ngoài gương mặt ra thì danh dự là yếu tố quan trọng thứ hai, nhất là trong thời đại phong kiến trùng trùng, trong khi Trịnh Khải là người rất dịu dàng, vô cùng dịu dàng . Anh sẽ không nỡ để Ngọc Xuân bị tổn thương và chấp nhận chuyện đã được sắp đặt . Ngọc Xuân sẽ là Vương phi, sẽ sinh con cho anh để có người kế thừa hương hỏa và sự nghiệp của Trịnh Công . Chuyện Ngọc Xuân làm Vương phi, Nguyên Thục không thèm bận tâm đến, nhưng điều làm nó rơi thẳng xuống đáy vực sâu, chính là việc Ngọc Xuân sẽ là người sinh con cho Trịnh Khải . Nó không muốn như thế . Nó không muốn thế . Nó không muốn ai là người bước vào trong trái tim của anh . Với những tình cảm đè nén bao lâu, với những cảm xúc quặn đau, khó thở, bức bối như rơi xuống vực thẳm khi nghe tin Ngọc Xuân sẽ là người sinh con cho Trịnh Khải, sẽ là vợ anh, Nguyên Thục đã nghe được nhịp đập trong trái tim mình, nghe những gì trái tim đang mách bảo, và nghe tâm hồn nó đang thầm thì . Rằng nó yêu anh.

Nó yêu anh...

Phải! Nó yêu anh . Nó yêu Trịnh Khải, và không muốn bất kỳ người con gái nào khác mang anh đi khỏi cuộc đời nó . Mặc kệ khoảng cách hai trăm năm mà nó từng lo lắng, mặc kệ tương lai và quá khứ nó từng bận tâm . Mẹ nó đã nói rằng, nếu có hạnh phúc thì tuyệt đối phải giữ lấy, không được buông bỏ, không được thả lỏng tay . Nếu một ngày nào đó, nó có thể trở về hiện tại, thì chắc chắn nó sẽ không bao giờ gặp được Trịnh Khải nữa . Nó sẽ không có những rung động như thế này nữa, và nó cũng sẽ không yêu ai được nữa . Bởi vì trái tim nó chỉ có một, và người đó cũng chỉ có một mà thôi.

Nguyên Thục nhắm mắt lại, hít sâu vào một hơi rồi mở bừng mắt ra, gương mặt rạng ngời, lấp lánh tự tin làm A Vân kinh ngạc . Nó đã xác định được tình cảm trong lòng mình, đã xác định được nó cần ai và yêu ai . Yêu nhau không cần tìm hiểu dài lâu, chỉ cần một phút, một giây, một khắc thôi cũng đã biết muốn gắn bó với ai trọn đời . Nó tin vào lời mách bảo của con tim . Mở tung cánh cửa, để cơn gió tràn vào phòng, Nguyên Thục ngẩng mặt đón lấy những tia nắng lung linh, dịu dàng soi thấu tâm hồn nó . Nhìn thẳng về phía trước, Nguyên Thục sải bước đến hậu cung . Nó đã biết hạnh phúc của mình ở đâu thì chắc chắn sẽ nắm giữ lấy, sẽ đấu tranh cho hạnh phúc ấy tới cùng.

Nó không muốn chịu thua dễ dàng như thế, nó không muốn để quyền lực xen vào hạnh phúc của nó, cho dù là bất cứ ai . Nếu Ngọc Xuân có những cái mà nó không có, thì nó tin rằng nó cũng có những cái mà Ngọc Xuân không có . Nguyên Thục đã quyết định, nó sẽ đến đàm thảo với Thánh mẫu và Dương thái phi, rồi sau đó sẽ sang toà Ngự lâu để bộc bạch hết những tình cảm của nó với Trịnh Khải . Vốn bản tính quyết đoán, Nguyên Thục không thích những gì mập mờ . Nó linh cảm rằng dường như Trịnh Khải cũng có cảm tình với nó . Cứ để mờ mịt, lo âu thế này, nó sẽ không được thoải mái, chi bằng cứ đến gặp anh hỏi rõ ra, rồi sau đó ra sao cũng mặc . Dù kết quả có thế nào thì nó cũng không hối hận . Tuyệt đối không hối hận, vì nó đã thành thật với trái tim mình.

Khu Hậu cung dần hiện ra trước mắt Nguyên Thục . Băng qua dãy hành lang trang trí bằng những tấm rèm mềm mại, Nguyên Thục dừng bước tại căn phòng có cánh cửa gụ sơn màu vàng rực rỡ . Hít một hơi dài như thói quen lên bảng trả bài, Nguyên Thục lấy tự tin rồi gõ nhẹ, và đẩy cửa bước vào...

69.

Rõ ràng, Thánh Mẫu và Dương thái phi không nghĩ rằng Nguyên Thục sẽ đến đây . Bằng chứng là sự ngạc nhiên in đậm trên nét mặt của Dương thái phi, còn đôi lông mày thưa, nằm tít phía trên trán của Thánh Mẫu thì xếch lên, khi thấy Nguyên Thục đẩy cửa bước vào, đứng trước mặt cả hai người với sự tự tin, rạng ngời . Thông thường khi đối diện với hai bà, tất cả mọi cung tần đều hơi cúi thấp đầu xuống một chút nhưng Nguyên Thục thì ngược lại . Nó ngẩng cao đầu, không mang một tâm trạng sợ sệt, lo lắng nào trước hai vị quyền uy nhất chốn hậu cung.

Đứng giữa căn phòng vàng vọt vì nến, ngột ngạt vì mùi dầu và bít bùng vì không có cửa sổ, Nguyên Thục yên lặng, chờ sự ngạc nhiên của Thánh mẫu và Dương thái phi qua đi . Vuốt nhẹ chiếc tách sứ, Thánh mẫu nhìn xoáy vào mắt Nguyên Thục đầy khắc nghiệt, rồi buông giọng nén chặt trong cổ họng, thành một thứ âm thanh khàn đục, rin rít qua đầu môi.

- Ngươi tới đây để làm gì? Chắc không phải để vấn an ta chứ?

Đối với Nguyên Thục, Thánh mẫu chẳng cần giữ giọng ngọt nhạt mà nói thẳng do không muốn tiếp chuỵên với nó trong lúc này . Vốn biết Thánh mẫu và Dương thái phi không thích mình, cũng chẳng coi nó là Tiệp dư, vì xuất thân của nó chỉ là một cung nữ bình thường, nên trước sự lạnh nhạt của Thánh mẫu, Nguyên Thục không lấy đó làm buồn . Ngược lại, nó còn phải cám ơn bà, vì nếu bà tỏ ra tử tế, ân cần đột xuất với nó, thì chắc chắn ngày đó mưa bão to.

- Thưa thánh mẫu! Thần đến đây để vấn an người và Thái phi.

Nguyên Thục nhã nhặn cúi người xuống đúng với cung cách trong phủ chúa, xong đứng thẳng lên, hai tay để xuôi trước ngực, đan vào nhau, rồi nói khoan thai.

- ...Và cũng để giải tỏa thắc mắc của thần trong mấy ngày qua.

- Về chuyện gì?

Vẫn giọng nói không chút cảm xúc, Thánh mẫu ngả lưng vào thành ghế . Những ngón tay gầy sọc, móng dài ngoẵng của Thánh mẫu cạ vào nhau khi bà ve vẩy cổ tay cho đỡ nhức mỏi.

- Về chuyện lập Vương phi ạ.

Có lẽ biết sớm muộn gì, Nguyên Thục cũng sẽ cấp tốc đến Hậu cung để trình bày cho ra lẽ, Dương thái phi thay đổi tư thế ngồi khi nghe bốn chữ "chuyện lập Vương phi" từ bờ môi Nguyên Thục thốt ra, bình thản, chứ không nặng nề như bà vẫn tưởng . Bấy lâu nay, bà luôn biết ngôi vị Vương phi đầy quyền lực đủ sức mê hoặc bất cứ người con gái nào trong chốn cung cấm, nhưng thái độ của cô gái mà con trai của bà đã chọn đã làm cho Dương thái phi ngạc nhiên phần nào . Ho nhẹ một tiếng để khỏa lấp sự ngạc nhiên đó, Dương thái phi điềm đạm, thay mặt Thánh mẫu trả lời.

- Chuyện đó thì sao? Lẽ nào ngươi cho rằng Ngọc Xuân không đủ tư cách, mà ngươi mới chính là người thích hợp cho ngôi vị ấy?

- Thần tuyệt đối không hề có ý đó, thưa Thái phi . Xin người đừng hiểu nhầm ý của thần.

- Thế thì lạ thật! Vậy ý của ngươi là gì, Hồ tiệp dư?

Nhướng mắt nhìn Nguyên Thục, Dương thái phi không giấu vẻ mỉa mai, khi cho rằng Nguyên Thục đến đây để kỳ kèo tước vị, còn Thánh mẫu thậm chí còn không nhìn mặt nó, mà vẫn chậm rãi hớp một ngụm trà thơm đặt trên chiếc bàn con . Ánh nến vàng hắt lung linh trên gương mặt Thánh mẫu, làm gương mặt bà lồi lõm bóng tối, xệ xuống, khó chịu và cay nghiệt, tựa như nó không tồn tại trong phòng . Thái độ đó không làm Nguyên Thục bất an hay lo lắng, nó vẫn bình tĩnh, giữ nụ cười hòa nhã trên môi, nhỏ nhẹ từng lời .

- Thưa Thái phi, ý của thần chỉ muốn hỏi, tại sao lại là Ngọc Xuân mà không phải là thần . Nếu chỉ là sinh con nối dõi, có người kế thừa sự nghiệp chúa công, chuyện đó thần cũng làm được, không hề có vấn đề gì . Nhưng Thánh mẫu và Thái phi lại một mực muốn Ngọc Xuân làm Vương phi, có phải là vì thần không có hậu thuẫn, phải thế không ạ?

Đến lúc này, Thánh mẫu mới đưa mắt nhìn Nguyên Thục, khóe môi nhăn nheo của bà kéo thành một nụ cười, vì cô gái này nhanh nhạy và tinh khôn hơn bà tưởng . Nói đúng trọng tâm, lại còn nói thẳng ra điều ấy với bà mà không quanh co, ngập ngừng . Thông minh và thẳng thắn, thảo nào Khải nhi không để ý ai khác ngoài con bé này.

- Ngươi dám nói với ta điều ấy, quả thật cũng có gan lắm . Phải! Chọn Ngọc Xuân làm Vương phi, không phải chỉ vì con bé có hậu thuẫn, mà tài sắc của nó cũng gấp trăm lần những cung tần tầm thường khác trong chốn Hậu cung này, kể cả ngươi.

- Thánh mẫu! Người nói thế, không những xúc phạm đến các cô ấy, mà còn xúc phạm đến cả chúa công, thưa Thánh mẫu.

- Cái gì?

Thánh mẫu bất chợt ngồi thẳng lưng, vô ý quẹt tay vào chiếc quạt lông công của nàng cung nữ đang đứng hầu, làm mặt cô tái xanh . May mắn thay, bị những lời nói của Nguyên Thục làm cho kích động, tâm trí bà choáng ngợp, nên bà đã không để ý đến vẻ lấm lét của nàng cung nữ, mà nhìn chòng chọc vào Nguyên Thục, soi mói như thể phát hiện trên trán nó có con mắt thứ ba . Về phía Dương thái phi, bà chỉ im lặng, không nói câu nào trước ý kiến của Nguyên Thục, nhưng hai tay bà bấm vào nhau, chứng tỏ cũng đang tức giận vì những lời nó nói . Cậy mình là thiếp yêu của chúa công, nên dù có tác oai tác quái thế nào cũng sẽ được chúa công bảo vệ, đó là tâm lý chung của tất cả những phi tần trong chốn Hậu cung, và cô gái này cũng không nằm ngoài lệ đó . Quá khứ ngày xưa chợt trỗi dậy . Ký ức về nụ cười đắc thắng của Đặng Thị Huệ khi bước vào phòng Trịnh Sâm trước sự tủi nhục, đau xót của bà khi không bằng một ả hầu, khiến đôi mắt Dương thái phi căng ra, chất chứa oán hận, những tưởng như có thể xuyên thủng cả người Nguyên Thục, nghiền nó ra thành trăm mảnh nhỏ.

Mặc nhiên đón nhận những phản ứng ấy, Nguyên Thục biết chắc rằng sẽ có ngày mình phải đối diện với Thánh mẫu và Dương thái phi, để làm rõ mọi chuyện, để làm sáng tỏ những thắc mắc trong đầu . Chậm rãi lướt mắt qua Thánh mẫu và Dương thái phi đang ngồi bất động, hệt như hai pho tượng sáp, Nguyên Thục nói từ tốn.

- Tài sắc của Ngọc Xuân, không cần nói ra thì thần đã hiểu và cũng đã biết - Tim Nguyên Thục nhói lên một cái khi lại nhớ đến nét mặt vui vẻ của Trịnh Khải - Nhưng mỗi người một tính, mỗi người một ý, nếu ai cũng như nhau hóa ra là bản sao lẫn nhau rồi còn gì . Thánh mẫu so sánh Ngọc Xuân với những phi tần khác thì thật quá bất công cho họ . Người đã từng nói chuyện với họ chưa? Người đã từng tìm hiểu về họ chưa? Nếu chưa thì người không biết gì về họ cả . Không biết gì về họ mà có chủ kiến như thế, chẳng hóa ra là không khách quan và công bằng sao? Trong Hậu cung, ai cũng muốn làm đẹp lòng người, ai cũng cố gắng chiều lòng người, đó cũng là sự cố gắng của họ . Thánh mẫu không phát hiện ra những cố gắng đó thì thôi, sao lại nỡ nói họ như thế? Người xưa có câu, cách duy nhất để đánh giá con người anh ta, là thông qua bạn bè của anh ta . Người đánh giá các cung tần khác ai ai cũng tầm thường, vậy hóa ra chúa công cũng là nguời tầm thường sao?

- Hỗn láo!

Thánh mẫu đập bàn quát lớn, làm tách trà trên cái bàn con đổ tràn ra cả chiếc nệm gấm, loang lổ hình thù kỳ quái . Dương thái phi vội đỡ lấy tấm lưng cong của Thánh mẫu khi bà gập người lại, tay chặn trước ngược, trấn áp cơn ho đang nghèn nghẹn trong cổ họng . Dương thái phi mặt đỏ gay, bà quắc mắt nhìn Nguyên Thục cảnh cáo, rằng hãy cuốn khỏi đây nếu không muốn bị lính lôi ra ngoài như những tội nhân . Quyết tâm đến đây để đàm thảo với Thánh mẫu và Dương thái phi, Nguyên thục không để những chuyện này làm chùn bước . Nó vẫn đứng nguyên tại chỗ, không nhúc nhích, nói nhỏ nhẹ.

- Làm Thánh mẫu nổi giận, thần thành tâm nhận lỗi . Nhưng hôm nay thần đến đây là để bày tỏ suy nghĩ của thần về chuyện phong phi.

Thở hồng hộc, thánh mẫu rít qua kẽ răng nghiến chặt . Bà vẩy tay cho Dương thái phi trở về chỗ ngồi, vì không muốn kích động trước mặt một con bé non nớt, sống chưa bằng nửa cuộc đời bà.

- Ngươi còn bày tỏ ý kiến gì nữa!!!

Nguyên Thục yên lặng, để thời gian cho Thánh mẫu tĩnh tâm trở lại . Nó bỗng cảm thấy mềm lòng khi chứng kiến bộ dạng của Thánh mẫu vào lúc này . Có lẽ nó đã quá vội vàng, có lẽ nó đã quá nôn nóng, nên quên mất đây là thời phong kiến, không được tự do ngôn luận như ở hiện đại . Lời nói của nó đã làm Thánh mẫu nổi giận trong khi tuổi tác bà đã cao, đáng tuổi bà ngoại của nó . Trong phút chốc, Nguyên Thục cảm thấy có lỗi . Nó cảm thấy mình đã ăn nói hơi quá đáng, và vô lễ đối với người già . Thánh mẫu đã cao tuổi, nếu như nó làm bà kích động, xảy ra chuyện, thì nó có hối hận bao nhiêu cũng đã muộn . Hơn nữa, bản thân là Thánh mẫu, người đứng đầu Hậu cung, trên cả Dương thái phi và tân vương phi, mà bị một cung tần bé nhỏ nói như hất nước vào mặt thì nổi giận cũng là lẽ đuơng nhiên . Nghĩ như thế, Nguyên Thục mềm lại, nó nhìn Thánh mẫu rồi khoanh hai tay, đầu cuối xuống lễ phép, nhận lỗi, giống như cách nó làm đối với ngoại nó, mỗi khi bà không hài lòng với nó điều gì.

- Thánh mẫu! Con xin lỗi - Nói đến đây, thấy đôi mắt của Thánh mẫu trợn lên, Nguyên Thục biết nó đã lỡ lời, xưng "con" như thói quen với bà ngoại nó . Nó vội vàng sửa lại vì lỡ Thánh mẫu lại kích động lần nữa thì nguy thay - Thần biết mình còn non trẻ, khờ khạo, nên đã nói nhiều lời làm Thánh mẫu phật lòng . Thần đến đây cốt để nói về chuyện phong phi, không ngờ lại làm mọi chuyện tệ hại đến thế, mong Thánh mẫu tha thứ cho thần.

Dựa lưng vào thành ghế, Thánh mẫu nhắm nghiền mắt, khoát tay, không muốn nói gì thêm nữa . Nhìn Nguyên Thục với đôi mắt không mấy thiện cảm, Dương thái phi kéo tấm chăn đắp ngang người Thánh mẫu, rồi đưa tấm nệm đã bị nước trà đổ ướt cho nàng cung nữ hầu cận kế bên đem đi giặt . Bà nói mà đầu không quay lại.

- Nói đi! Hãy nói chuyện ngươi muốn nói, xong rồi thì đi ngay cho khuất mắt ta.

Nguyên Thục im lặng, sóng mũi nó cay cay . Quá quen với sự lạnh nhạt của Thánh mẫu và Dương thái phi, Nguyên Thục cũng chẳng mong cả hai đối xử tốt với mình . Dù đến đây có mục đích, nhưng Nguyên Thục vẫn không khỏi thấy xót xa . Môt sự xót xa lãng đãng, cào nhẹ trái tim nó không nói thành lời.

- Vâng, thưa Thái phi . Chuyện người và Thánh mẫu lập Ngọc Xuân làm Vương phi, thần chỉ muốn hai người hãy cho thần được tâm phục khẩu phục . Như thế thần sẽ thuận theo ý của Thái phi và Thánh mẫu, mà không hề chống đối hay phản kháng lại bất cứ điều gì.

- Ngươi nói sao?

- Thần muốn cạnh tranh với Ngọc Xuân trong việc ai xứng đáng làm Vương phi . Nếu thần thua, thần sẽ tâm phục khẩu phục, và tự động rời khỏi phủ chúa, vĩnh viễn không xuất huện trước mặt Thánh mẫu và người.

Im lặng quan sát Nguyên Thục từ đầu đến chân, Dương thái phi trong lòng vô cùng ngạc nhiên . Chuyện Nguyên Thục vừa đề xuất là không thể tưởng . Từ trước đến nay, lập Vương phi là do chúa hay Thái phi lập chứ chưa bao giờ có chuyện cạnh tranh, đảm bảo công bằng như thế . Cả gan đến phủ Thánh mẫu, cả gan đề cập đến chuyện cạnh tranh Vương phi với thái độ bình thản, điềm nhiên, tự tin chấp nhận những thách thức sẽ diễn ra, điều đó làm bà kinh ngạc . Kinh ngạc vì chưa bao giờ thấy có chuyện đi ngược lại phép tắc trong cung đình như thế . Tự tin, điềm đạm, ăn nói chừng mực và có những suy nghĩ táo bạo, nếu con bé này mà có hậu thuẫn, thì chắc chắn ngôi vị Vương phi bà sẽ không ngần ngại giao vào tay nó . Chợt nín lặng, mặt đỏ lên, Dương thái phi cảm thấy kỳ lạ . Bà làm sao lại có ý nghĩ kỳ quái như thế . Kín đáo liếc mắt về phía Thánh mẫu, Dương thái phi nhẹ nhõm, khi Thánh mẫu chăm chú quan sát Nguyên Thục nên không phát hiện ra cảm xúc khi nãy của bà . Quay sang Nguyên Thục, vẫn đứng yên lặng chờ nghe câu trả lời, Dương thái phi nhếch môi, lạnh lùng.

- Nực cười! Ngươi dựa vào đâu mà đòi cạnh tranh ngôi vị Vương phi chứ . Như ngươi đã nói, ngươi không có hậu thuẫn để giúp đỡ chúa công, không xinh đẹp, cầm, kỳ, thi, họa cũng không có, công, dung, ngôn, hạnh lại càng không . Mặt nào cũng thua kém người khác, sao ngươi có thể mơ tưởng tời chuyện cạnh tranh như thế?

- Thưa Thái phi, mỗi người là một thế giới bí mật, không bí mật nào giống bí mật nào . Nếu thần không có những gì Ngọc Xuân có, thì thần tin rằng Ngọc Xuân cũng không có những gì thần có . Hơn nữa, khắp phủ chúa, có lẽ ai ai cũng biết thần là thiếp yêu của chúa công, nếu thần thua tâm phục khẩu phục, thì mọi người sẽ công nhận Ngọc Xuân mới là người thích hợp nhất để làm Vương phi, chứ không phải là do Thánh mẫu sắp xếp . Như thế sẽ tạo được khách quan và công bằng cho cả hai, rằng Ngọc Xuân không phải nhờ vào Thánh mẫu và Thái phi mới được làm Vương phi mà ngược lại, cả hai người đều có con mắt nhìn người . Chẳng hay những lời thần nói có chỗ nào sai không ạ?

Dương thái phi im lặng bởi những lời Nguyên Thục nói vô cùng hợp lý . Nếu để Nguyên Thục và Ngọc Xuân cạnh tranh, phần thắng chắc chắn sẽ thuộc về Ngọc Xuân . Khi đó mọi người căn cứ vào kết quả mà sẽ thừa nhận Ngọc Xuân, con bé sẽ không phải mang tiếng có bàn tay của bà và Thánh mẫu ở phía sau . Tất cả đều công bằng, bà và Thánh mẫu cũng chẳng mất mát gì, trái lại còn có lợi . Như thế, dưới sự ủng hộ của mọi người, Ngọc Xuân sẽ chính thức lên ngôi, và tòa Lượng phủ này sẽ đoàn kết, vững mạnh hơn . Dương thái phi bất giác mỉm cười, bà đưa mắt nhìn Thánh mẫu, và cũng nhận lại được ánh mắt nghi toan của người . Sau phút chốc lặng yên nhìn nhau, cả hai gật đầu, vì cùng có chung một ý nghĩ như nhau.

- Được! Để ngươi không nghĩ Thánh mẫu và ta cậy quyền mà hiếp đáp ngươi . Chúng ta chấp nhận điều kiện đó . Ngươi muốn cạnh tranh như thế nào?

- Được Thánh mẫu và Thái phi chấp thuận, thần vô cùng cảm kích . Thần muốn cạnh tranh bằng cách, để mọi người trong phủ chúa bỏ phiếu đánh giá cuộc cạnh tranh của thần và Ngọc Xuân, để xem ai mới là người xứng đáng.

- Bỏ phiếu?

- Đó là cách khách quan và công bằng nhất . Sẽ có hai cái thùng, một là của thần, một là của Ngọc Xuân . Trong vòng một tháng, Thần và Ngọc Xuân sẽ tự đặt mình vào ngôi vị Vương phi, hành động, ứng xử như một Vương phi . Sau đó đến cuối tháng, mọi người trong phủ tụ họp lại, bỏ phiếu . Ai thấy thần xứng đáng thì đút phiếu vào thùng giấy của thần, và ngược lại . Mong Thánh mẫu cho tất cả mọi người, kể cả thái giám, cung nữ, gia nhân trong phủ được tham gia vào cuộc bỏ phiếu này . Nếu thần thua, thần cam chịu rút lui.

- Một tháng? Tại sao lại tận một tháng?

- Bởi có lâu dài thì cuộc kiểm tra mới công bằng và xác thực . Thời gian ấy đủ để mọi người kiểm tra và quyết định bỏ phiếu cho ai . Thần thiết nghĩ, Vương phi là một người rất quan trọng, nắm quyền kiểm soát Hậu cung . Chúa công lo đối ngoại, còn người làm Vương phi sẽ lo đối nội để rảnh tay chúa công, cho chúa công toàn tâm toàn ý lo việc quốc gia . Trong ấm thì ngoài mới êm . Thế nên chuyện tuyển chọn Vương phi là cả một quá trình, không phải một sớm một chiều . Nay chuyện cạnh tranh chỉ diễn ra trong vòng một tháng, bản thân thần thấy là nhanh rồi, thưa Thái phi.

Dương thái phi hơi ngả người về phía trước khi nghe Nguyên Thục trình bày . Khi nó dứt lời bà vẫn còn suy nghĩ mông lung . Rõ ràng con bé Hồ tiệp dư này rất thông minh, có nhiều kế sạch độc đáo, giải quyết gọn gàng, thấu đáo mọi vấn đề, điều đó làm Dương thái phi lợn cợn khi nghĩ đến bánh xe tái diễn của Đặng Thị Huệ . Ả ta có rất nhiều mưu mẹo, lừa lọc trong việc huyễn hoặc người khác . Con bé này thông minh thế, nếu nó là một Đặng Thị Huệ thứ hai thì sau này tai họa ắt khó lường . Thừ người ra suy nghĩ một lúc, Dương thái phi bừng tỉnh khi nghe tiếng Thánh mẫu ho khẽ . Bà vội nhìn về phía Thánh mẫu, và thấy người lẳng lặng gật đầu, chứng tỏ đã chấp thuận yêu cầu của Nguyên Thục . Dù không muốn đồng ý, nhưng ý Thánh mẫu đã quyết, không gì có thể lay chuyển nổi, Dương thái phi thở dài, quay sang Nguyên Thục, nói nhẹ tênh.

- Được! Ta chấp thuận.

70

Đứng bên song cửa rợp bóng mát, Trịnh Khải nhìn những sợi dây leo xanh mượt bò quanh thân cây cổ thụ ngàn năm tuổi, cành lá quấn quýt nhau, nở ra một loài hoa nhỏ bé, mang sắc tím dịu dàng . Lòng anh chợt mênh mang khi từng cơn gió rầm rì luồn qua tán lá, tạo nên những âm thanh xào xạc, ngân nga.

Ngay từ thưở nhỏ, Trịnh Khải đã rất thích nghe âm thanh này, âm thanh của lá và gió hòa quyện vào nhau xào xạc, xào xạc . Thứ âm thanh dịu dàng đó làm tâm hồn anh yên tĩnh, nhẹ nhõm và bình yên đến lạ thường . Những khi quá căng thẳng, mệt mỏi, khi công việc cứ vây lấy anh trập trùng, Trịnh Khải giải khuây bằng cách ra đứng bên cạnh cửa sổ, mắt nhìn ngắm khoảnh vườn xanh tươi với những chồi non mới nhú, hay dõi mắt theo những đám mây bềnh bồng, bay miên man trên bầu trời.

Tựa lưng vào song, nhấp một ngụm trà thơm, Trịnh Khải tạm quên đi những phiền muộn trong cuộc sống, thoát khỏi những bận rộn, ưu tư vì mớ tấu chương xếp thành chồng trên bàn . Anh thả lỏng tâm hồn, để mặc nó đi lang thang rồi tìm về quá khứ . Từng hình ảnh nhạt nhòa, không rõ nét lần lượt đi qua tâm trí anh . Lúc anh bảy tuổi, khắc được một bông hoa tặng mẹ . Lúc anh mười tuổi, đã hiểu thế nào là bị bỏ rơi . Lúc anh mười tám tuổi, đã đánh mất lòng tin và lúc anh hai mươi tuổi, đã hiểu thế nào là sự lãng quên . Cứ thế, cứ thế, những tháng ngày quá khứ trong miền ký ức cứ nối đuôi nhau ùa về, làm đôi mắt anh mông lung, suy tư và trở nên sâu hun hút, ưu phiền.

Đột ngột, tất cả những hình ảnh nhạt nhòa dần mờ đi và biến mất hẳn, khi Trịnh Khải nghe thấy tiếng gõ cửa ngập ngừng vang lên . Đôi lông mày thanh tú chau nhẹ, Trịnh Khải cất giọng ấm áp, vời người vừa mới gõ cửa vào trong, để rồi thoáng ngạc nhiên khi thấy Nguyên Thục rụt rè bước vào, khác hẳn với sự tự tin, hồn nhiên và thẳng thắn thường ngày.

Được Trịnh Khải cho vào, Nguyên Thục bỗng nhiên cảm thấy hồi hộp . Tim nó đập gấp gáp, như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực khi thấy nụ cười dịu dàng của anh . Từ cung Huỳnh của Thánh mẫu đến Ngự lâu, Nguyên Thục đã tự động viên bản thân phải dũng cảm lên, gan góc lên, nếu muốn thổ lộ hết những gì ở trong lòng ra cho anh hay . Ấy thế mà không hiểu sao, nhìn thấy bóng dáng của tòa Ngự lâu, Nguyên Thục lại chùng chân . Càng tới gần, Nguyên Thục càng thấy hồi hộp, tim nó đập nhanh trong lồng ngực, chân nó run còn hơn là lên bảng trả bài . Bao lần quay vào lại quay ra, hai tay Nguyên Thục không ngừng xiết vào nhau, vung vẩy, vì không biết quyết định của nó là đúng hay sai . Lỡ như Trịnh Khải không thích nó như nó tưởng, lỡ như anh thấy nó quá đường đột, mất cả cái duyên con gái . Hay anh cho rằng nó là cọc mà đi tìm trâu, khác hẳn những cô gái kín đáo trong chốn khuê phòng, rồi nhìn nó bằng ánh mắt ngờ vực thiếu thiện cảm, từ đó dần dần xa lánh, không còn thân thiết với nó như lúc ban đầu . Nếu chuyện đó xảy ra thì Nguyên Thục chắc chắn sẽ oán hận bản thân mình suốt đời.

Mang tâm trạng bất an, thấp thỏm, bãi cỏ êm mượt dưới sân đã bị chân Nguyên Thục quần nát, do hết đi tới rồi lại đi lui, bứt trụi cả cánh hoa để xem nên đến hay về vì bây giờ vẫn còn kịp . Cuối cùng, không thể dùng dằng được mãi, Nguyên Thục ngẩng cao đầu, hít một hơi dài, nhịp thở sâu và chậm, xếp lại những gì muốn nói trong đầu, rồi mạnh dạn gõ cửa bước vào.

Đúng y như là, vừa nhìn thấy Trịnh Khải, mặt Nguyên Thục nóng bừng, môi nó mấp máy tựa như muốn nói, tựa như không, hai tay vò nhàu vạt áo . Nó cứ đứng mãi tại ngạch cửa mà không thể tiến vào bên trong, vì đôi chân không còn nghe lời chủ nhân mình . Biểu hiện khác thường đó của Nguyên Thục làm Trịnh Khải rất ngạc nhiên . Nguyên Thục ngập ngừng không đến bên cạnh anh, thì anh chuyển bước đến bên cạnh nó . Vì đầu cúi xuống, lúng túng, nên Nguyên Thục chỉ nhìn thấy từng bước chân của Trịnh Khải dần tiến về phía mình . Mỗi bước chân của anh là một nhịp tim đập dồn của Nguyên Thục, làm nó hồi hộp, run rẩy, hai lòng bàn tay lạnh ngắt, tựa như phạm nhân trước giờ tử hình . Đứng trước mặt Nguyên Thục, đôi giày anh khẽ lay động, mùi trầm hương dịu dàng thoang thoảng làm Nguyên Thục ngẩn ngơ, khi biết mình đã yêu mùi hương này từ lúc nào không hay.

- Cô không thấy mỏi khi cứ đứng ở đó mãi hay sao? Vào đây và ngồi xuống đi.

Kéo cho Nguyên Thục một chiếc ghế con, Trịnh Khải tiến đến chiếc bàn kê sát góc phòng, lấy bình trà tự tay pha, vẫn còn ấm cùng hai chiếc tách, rồi mang đến đặt xuống trước mặt Nguyên Thục . Mỗi lần anh chuyển động, mùi trầm hương nhạt nhòa, tan loãng trong không khí, khi hiện hữu, khi tan biến, làm Nguyên Thục bâng khuâng . Ngồi xuống ghế, Nguyên Thục đăm đăm nhìn Trịnh Khải, đến khi thấy anh quay người lại, Nguyên Thục vội đánh mắt sang chỗ khác, vành tai nó đỏ ửng lên do không thể tự chủ khi đứng trước mặt anh.

Thong thả rót trà vào tách, Trịnh Khải nhẹ nhàng đẩy tách trà đến trước mặt Nguyên Thục . Tuy trong lòng tự hỏi tại sao Nguyên Thục bỗng nhiên khác lạ như thế, nhưng Trịnh Khải giữ trong lòng chứ không hỏi . Anh chỉ mỉm cười khi nó bối rối vì vô tình chạm vào những ngón tay gầy của anh, do vươn tay nhận lấy tách trà . Thời gian trôi qua chậm chạp . Bình trà trên bàn đã cạn, Trịnh Khải vẫn yên lặng không nói, đôi mắt sâu thẳm lấp lánh bóng trà loang . Mãi đến khi anh đứng lên để rót thêm một bình trà khác, thì...

- Trịnh... Trịnh Khải...

Nguyên Thục ngập ngừng lên tiếng, gương mặt nó đỏ chín vì những lời nó sắp nói ra . Dán mắt vào những ngón tay ủ quanh tách trà, Nguyên Thục không dám ngẩng đầu lên nhìn Trịnh Khải . Nó biết anh đang nhìn nó với một đôi mắt sâu thẳm, dịu dàng . Đôi mắt mà nó mơ thấy hàng đêm trong những giấc mơ.

- Sao?

- Tôi... tôi...

"Nói đi! Nói đi! Nói là em yêu anh! Chỉ thế thôi, nói đi"

Những tiếng la hét, cổ vũ, khích lệ đang kêu rầm rầm trong đầu Nguyên Thục, thúc giục nó thổ lộ hết những tình cảm bấy lâu ấp ủ, động viên nó hãy bày tỏ những gì chôn giấu, cổ vũ nó thành thật với con tim mình . Đã đến lúc! Nhất định mình phải nói, nhất định mình phải nói . Nguyên Thục! Can đảm lên! Dũng cảm lên . Nguyên Thục gồng người, hít một hơi thật sâu để không thí căng tràn buồng phổi, giúp nó có thêm sức mạnh và tự tin . Ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt Trịnh Khải, Nguyên Thục cảm thấy choáng ngợp, khi khoảng cách của hai rất gần, gần đến nỗi chỉ cần nó nhích lên thêm một chút nữa, thì... thì... môi chạm môi.

Về phần Trịnh Khải, thấy Nguyên Thục cứ cúi đầu, mặt đỏ ửng, lại còn ấp úng mãi mà không thốt ra thêm một lời nào nữa ngoài chữ "tôi", Trịnh Khải nhíu mày . Anh ngồi xuống, thật gần Nguyên Thục, để nghe nó muốn nói với anh những gì . Đến khi Nguyên Thục vụt ngẩng đầu lên, thì gương mặt thanh tú của anh kề sát với mặt nó, đến nỗi cả hai người đều nghe thấy hơi thở của nhau . Nhìn sâu vào trong mắt Nguyên Thục, Trịnh Khải chợt yên lặng . Có vẻ như anh đã phát hiện ra điều gì đang ẩn sâu trong đôi mắt Nguyên Thục . Một sự say mê, một sự thiết tha, một sự trìu mến và một tình cảm không thể diễn tả thành lời...

Mắt của anh rất sâu, sâu hun hút khiến Nguyên Thục trượt chân, rơi xuống vực thẳm của đôi mắt đó . Nó yêu đôi mắt ấy, yêu những gì chất chứa trong đôi mắt ấy, yêu cả những vui buồn, yêu cả những ưu phiền, cả những lo toan, cả những mệt mỏi trong đôi mắt ấy . Nó muốn nhận lấy, cùng sẻ chia, cùng chờ đón và cùng được ở bên nhau...

Từ trong mắt anh, em nhìn thấy được hình ảnh phản chiếu hạnh phúc nhất của chính mình

Dù được ở nơi thiên đường hay phải lang thang nơi hoang mạc

Em yêu anh...(*)

Nguyên Thục thở dồn dập . Chưa bao giờ nó lại khao khát được ở trong vòng tay Trịnh Khải đến như thế . Chưa bao giờ nó muốn được anh yêu thương như thế, chưa bao giờ nó muốn được anh che chở như thế . Cánh tay bé nhỏ chợt vươn ra, run rẩy, nhưng quyết đoán, mạnh mẽ, ôm lấy Trịnh Khải . Nguyên Thục ngã vào lòng anh, vùi mặt vào lớp áo ấm áp, dịu dàng và rúc vào lòng anh như một đứa bé con.

- Em... yêu anh...

Sâu dưới lớp áo ấm áp, giọng nói Nguyên Thục cất lên, thoang thoảng, mơ hồ, và dìu dặt . Trịnh Khải yên lặng, bất động, đôi mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không . Bóng tối phủ trong đôi mắt anh dày đặc, dao động, cồn cào như những đợt thủy triều . Hơi thở của anh trở nên thoang thoảng, mất hút trong không khí . Những hình ảnh quá khứ tràn về như con quay chóng mặt, rõ nét . Chúng vươn cánh tay xám ngoét, gầy gò, ma quái về phía anh, níu kéo anh, trì trệ anh với lời nguyền độc địa mãi mãi đến muôn đời.

"Ngươi sẽ không bao giờ được thương yêu."

Một đứa bé không bao giờ được người khác thương yêu.

Đứa bé ấy chỉ mang bất hạnh đến cho người khác, chỉ cuốn người khác vào vòng xoáy do chính tay mình tạo ra, phá nát số phận người khác bằng tuổi thơ cháy nắng, hanh hao, đeo bám dai dẳng như một lời nguyền .

Ấy thế mà người con gái này lại yêu anh, lại đem thân mình cột vào anh, cột vào lời nguyền mãi mãi không thể thoát ấy . Nếu đến với anh, Nguyên Thục chắc chắn không thể hạnh phúc . Nếu đến với anh, Nguyên Thục sẽ phải hứng chịu lời nguyền ấy . Nếu đến với anh, chính anh sẽ đẩy Nguyên Thục vào con đường vĩnh viễn không có lối ra...

Nguyên Thục! Em rất dễ thương!

Em rất đáng yêu!

Khi nhìn thấy em cười, tôi cảm thấy cuộc sống này vẫn còn có những thứ tốt đẹp và đáng sống . Nhưng tôi biết cả hai chúng ta vốn không đi cùng một con đường . Một cô gái lương thiện và đáng yêu như em, không thích hợp với cuộc sống quá nhiều phức tạp trong cung cấm . Tôi không thích hợp với em . Và tôi cũng không thể tiếp tục ở bên cạnh em . Đoạn đường tôi đi sẽ rất xa, rất chông gai, mà tôi không muốn có em đi theo cùng.

Trịnh Khải đã nghĩ như thế . Anh đã suy nghĩ như thế!

Phải! Anh phải giải thoát cho cô gái ấy . Anh không thể để cho cô gái ấy tự hủy hoại tương lai và bản thân mình . Anh phải để cô gái ấy tránh xa anh, tránh xa lời nguyền ấy . Anh phải...

Đôi bàn tay chợt đưa lên . Ngập ngừng, rồi...

...Ôm xiết tấm thân bé nhỏ, mảnh mai vào lòng.

Anh phải... được yêu.

Vùi mặt vào lòng Trịnh Khải, nhắm mắt, lắng nghe mùi trầm hương dịu dàng len lỏi vào từng sợi tóc mượt mà của mình, cả người Nguyên Thục run lên khi Trịnh Khải vòng tay ôm lấy nó, xiết chặt . Đôi mắt Nguyên Thục mở to, ươn ướt, môi mấp máy chẳng thốt thành lời vì quá hạnh phúc . Hạnh phúc đến tột cùng, đến bàng hoàng vì chưa thể tin đây là sự thật . Trịnh Khải đang ôm nó, anh đang ôm chặt nó vào lòng . Bờ môi thanh tú lướt nhanh lên mái tóc dài mượt mà của nó, làm nó mềm nhũn, bềnh bồng và mê man . Hạnh phúc quá, hạnh phúc quá đi thôi . Nguyên Thục hét lên trong đầu, hét lên trong niềm hoan hỉ . Nó rúc sâu vào lòng anh, dụi đầu vào lòng anh, đôi bàn tay đan lại với nhau, thắt chặt anh vào vòng tay bé nhỏ của nó . Nó yêu anh . Nó yêu anh và anh cũng đã đáp lại tình cảm của nó, đã rộng mở tấm lòng đón nhận nó, thử hỏi trên thế gian này có niềm hạnh phúc nào hơn.

- Em yêu tôi?

- Vâng! Vâng!

Nguyên Thục đáp vọng lại trong dòng sông hạnh phúc, nó ngẩng đầu lên nhìn Trịnh Khải, gương mặt ánh lên vẻ rạng ngời . Trịnh Khải cuối xuống, nhìn sâu vào mắt Nguyên Thục, hình bóng của anh in sâu trong đôi mắt nó, lung linh và tỏa sáng . Anh mỉm cười, từng ngón tay gầy vuốt nhẹ đôi má ửng hồng của nó, dịu dàng.

- Không sợ sau này sẽ thế nào?

- Không!

- Không sợ Thánh mẫu và Dương thái phi?

- Sao phải sợ?

- Không sợ bị nguyền rủa?

- Chắc chắn không!

- Không hối hận?

- Không hối hận.

- Tuyệt đối không?

- Tuyệt đối!

Nguyên Thục cười rạng rỡ . Dưới ánh hoàng lạp, gương mặt nó lung linh, sinh động . Ánh nến soi vào đôi mắt nâu mật trong veo của nó, nghiêng lên má lúm đồng tiền xinh xinh của nó, hắt lên nụ cười tươi tắn, đáng yêu của nó . Những đường nét đơn giản, gọn gàng ấy làm Trịnh Khải bồi hồi . Nguyên Thục muốn đi cùng con đường với anh, muốn được ở bên anh và không hối hận, tuyệt đối không hối hận vì những gì đã nói, đã làm . Bóng mây quá khứ vẫn còn đó, lời nguyền vẫn còn đó, tuổi thơ và cả những vết thẹo nhức buốt theo năm tháng vẫn còn đó, nhưng Trịnh Khải đã bắt đầu thấy được khoảng trời trong xanh, thấy được chốn bình yên nhất trong tâm hồn mình.

Suốt mấy tháng qua, những gì Nguyên Thục đã làm vì anh, lẽ nào anh không biết . Những gì Nguyên Thục đã cố gắng vì anh, lẽ nào anh không biết . Nguyên Thục đã phải học tập, đã phải nhọc công, đã phải thay đổi bản thân mình rất nhiều . Không biết từ lúc nào, anh đã quá quen thuộc với mùi hương hoa sen thanh nhã từ mái tóc đen mềm ấy . Không biết từ lúc nào, nụ cừoi của Nguyên Thục luôn in sâu trong tâm trí anh, đằm thắm và lung linh . Ở bên cạnh Nguyên Thục, anh thấy rất dễ chịu, thật sự rất dễ chịu . Những sắp xếp chính trị ban đầu dần biến mất, chỉ còn lại những tình cảm vương vấn, quấn quýt trong trái tim hoang mạc, đầy những vết cắt của anh . Thông minh, chân thành và thẳng thắn, quan trọng hơn hết là cố gắng thay đổi vì anh, tất cả những điều đó làm anh mềm lòng và dần mở rộng trái tim . Trịnh Khải mỉm cười, bàn tay vuốt nhẹ suối tóc đen nhánh đổ dài lên vai anh . Anh khẽ cúi sát mặt xuống, thật gần, thật gần . Đôi mắt Nguyên Thục trở nên long lanh, khao khát . Nó nhắm mắt lại, cánh môi mềm run rẩy hé mở, đợi chờ...

Và rồi một nụ hôn.

Một nụ hôn kéo dài, ngây ngất . Giọng nói trầm ấm, dịu dàng của anh cất lên trong lúc Nguyên Thục trôi đi trên dòng sông cảm xúc bềnh bồng . Sung sướng . Và ngọt ngào.

- Tôi yêu em...

A/N : Chap 70 này thật sự rất trọn vẹn, trọn vẹn cho Nguyên Thục, trọn vẹn cho Trịnh Khải và trọn vẹn cho cả tôi . Có thể nói, khi tôi viết chap này, những gì Nguyên Thục cảm nhận, tôi đều hiểu rõ tất cả, tiếc thay lực bút có hạn, không thể nào truyền tải hết cho mọi người cảm giác hạnh phúc của cô ấy . Lần đầu tiên yêu, và được yêu, nhất là khi đó lại là người mình hằng tìm kiếm, mong mỏi bấy lâu nay, cảm giác đó thật không gì có thể so sánh được . Trải qua gần ba trăm năm, trải qua không gian và thời gian, cô ấy đã gặp được người mình yêu nhất, người mà mình muốn được ở bên cạnh suốt đời . Mặc cho khoảng cách ba trăm năm, mặc cho quá khứ và hiện tại, mặc cho bão táp phong ba, khi yêu phải nắm lấy từng khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi đó, có gì phải bận tâm, nhọc lòng đến ngày mai .

Rất có thể các bạn sẽ cho rằng họ yêu nhau nhanh quá, gấp quá, lạ quá, nhưng trong thâm tâm mình tôi, vẫn tin rằng, họ đã yêu nhau, yêu nhau từ rất lâu rồi...

Nếu là định mệnh, chắc chắn sẽ gặp nhau.

Nhưng định mệnh chính là chiếc cầu do ta xây lấy, để tìm đến bên người ta yêu thương.

Đó chính là những gì mà anh chàng trong phim My sassy girl đã nói, và có phải chăng, mỗi người chúng ta đều đang tự tay xây cho mình một chiếc cầu định mệnh, để gặp gỡ, để tìm đến người mà ta hằng yêu thương.

(*) Lời bài hát Wơ ai ni - em yêu anh .

Ba từ đó đôi khi rất khó khăn, nhưng đôi khi lại dễ dàng biết bao . Đó chính là bài hát tôi đã nghe khi đang chìm trong cảm xúc của chương này . Lời bài hát dường như là tâm trạng của Nguyên Thục, là những gì Nguyên Thục muốn nói, muốn nhắn nhủ, muốn tỏ bày đến cho người cô ấy yêu -Trịnh Khải - người duy nhất mang đến hạnh phúc cho cô ấy suốt đời.

Em yêu anh! Anh cứ để em lắng nghe những mệt mỏi và lo lắng của anh

Em yêu anh! Em muốn đến gần hơn con tim sâu thẳm tận cùng của anh

Em sẽ dùng hết tất cả tình yêu để quây thành cấm địa, che chắn mọi gió mưa

Chống lại mọi cuồng phong bão vũ.

Thật tuyệt vời biết bao, lúc em được nói yêu anh.

oOo

Lời dịch:

Wo ai ni- S.H.E

Từ trong mắt anh, em nhìn thấy được hình ảnh phản chiếu hạnh phúc nhất của chính mình.

Sự giao ước ngầm nắm chắc trong lòng bàn tay, chính là sự chỉ dẫn của ngày mai.

Bất luận là thế kỉ nào, xa hay gần.

Dù được ở nơi thiên đường hay phải lang thang nơi hoang mạc.

Em yêu anh, em đều dám đi đến những nơi đó.

Dù là vận mệnh tương lai nào, em yêu anh, em đều sẵn sàng đón nhận.

Em đồng ý để anh đưa ra mọi quyết định về thế giới hai chúng ta.

Dẫu đôi lúc em không thực sự hiểu anh.

Nhưng có ai thực sự hiểu mình đâu cơ chứ.

Một thế giới có hai người thì hạnh phúc biết bao.

Đó là sự chứng minh khi chúng ta đã vượt qua đau khổ.

Như lúc anh lo rằng rằng em sẽ ngang bướng.

Anh không muốn tiết lộ điều đó, cho nên anh ưu phiền...

Em yêu anh! Anh cứ để em lắng nghe những mệt mỏi và lo lắng của anh.

Em yêu anh! Em muốn đến gần hơn con tim sâu thẳm tận cùng của anh.

Em sẽ dùng hết tất cả tình yêu để quây thành cấm địa, che chắn mọi gió mưa

Chống lại mọi cuồng phong bão vũ

Em muốn để anh được nhẹ nhõm, để con tim khô cằn của anh có thời gian hồi phục.

Dù mộng tưởng cứ kéo dài trong sự hoài nghi, trong tương lai mờ mịt

Em sẽ ôm anh thật chặt, truyền cho anh sức mạnh và dũng khí...

Vì em yêu anh

Em yêu anh

Em muốn đi dến tận cùng của tương lai

Em yêu anh! Hãy để em lắng nghe những mệt mỏi và sự lo toan của anh

Em yêu anh! Em muốn gần hơn con tim sâu thẳm tận cùng của anh

Dù nơi nào cũng cùng nhau đi tới, cùng nhau ngắm những vì sao.

Cùng nhau đi ra khỏi khu rừng rậm, cùng nhau sẻ chia hồi ức.

Cùng nhau hiểu lầm, cùng nhau đố kị,cùng nhau trải qua những ngày nắng mưa.

Cùng nhau hiểu rõ bản thân mình hơn, cùng nhau tìm ra được ý nghĩa.

Em yêu anh! Em không muốn mình không có anh.

Em không thể không có anh, tuyệt đối không thể không có anh.

71.

Sau nhiều ngày nghỉ ngơi ở phủ chúa, nghe ngóng tình hình trong cung, đến khi không thấy ai đả động đến chuyện cũ hay lùm xùm bàn tán bất cứ điều gì, Anh Tú mới chắc mẩm mình đã tai qua nạn khỏi . Nó khăn gói lên đường về chốn cũ, bụng bảo dạ lần sau phải bình tĩnh, kềm chế, không nóng tính để gây ra hậu quả đáng tiếc như lần này.

Đó là những gì Anh Tú suy nghĩ trước đó, còn bây giờ nó đang hối hận vô cùng.

Len lỏi trong Hoàng cung, thấy không khí xung quanh vẫn bình thường như bao ngày, đám cung nữ vẫn tất bật làm việc, chẳng ai để tâm việc mấy ngày trước đã xảy ra, Anh Tú như trút được tảng đá to tướng ra khỏi ngực mình . Nó thôi không nhớn nhác nhìn quanh nữa mà ngẩng đầu lên, sải từng bước dài đến Nội điện, lòng tự hỏi không có nó làm "chuột bạch thử nghiệm" thì anh chàng Hoàng tôn đó có ăn uống gì không, hay đã chết đói từ lâu rồi . Vừa mới đặt chân lên bậc tam cấp bằng đá, có đôi rồng chầu hai bên, Anh Tú đã ngửi thấy trong không khí mùi thức ăn thơm lừng, sốt dẻo, ngon lành . Ngạc nhiên vì giờ này phòng Ngự thiện chưa mang thức ăn đến, thế mà lại có mùi thơm này, quả thật kỳ quái, Anh Tú bất giác nuốt nước bọt đánh ực một cái, rồi chậm chạp đẩy cửa bứớc vào...

Lẽ ra, nó cứ thế mà quay ra thì tốt hơn nhiều . Suy nghĩ ấy ập đến trong đầu Anh Tú khi mục kiến Ngọc Vũ đang ngồi trên ghế, một tay vung vẩy sợi roi da, tay còn lại chống cằm lơ đãng ngó ra cửa sổ, nơi lá vàng lơ lửng rơi sau mỗi đợt gió xuân. Trên chiếc bàn ăn quen thuộc thường ngày, mọi hôm không có gì thì nay lại bày thức ăn la liệt, thịnh soạn còn hơn một bữa tiệc . Duy Khiêm đang ngồi nhâm nhi miếng bánh cốm, nét mặt chẳng biểu lộ chút cảm xúc nào khi thấy Anh Tú đứng ngơ ngác tại ngạch cửa, ngoài cái nhướng mày đầy ẩn ý . Chuyện gì? Chuyện gì đang diễn ra? Chuyện gì?

- Hoàng cô, tiểu Anh tử đã tới.

Gì đây trời?

Anh Tú giật mình đánh thót khi Ngọc Vũ bất thần quay lại, ánh mắt lấp lánh nguy hiểm khi Duy Khiêm cất tiếng thông báo . Theo bản năng mách bảo mỗi khi có chuyện bất trắc, Anh Tú liền giật lùi vài bước rồi bay ra cửa với tốc độ nhanh nhất có thể . Chỉ nghe "vút" một tiếng đanh gọn, ngọn roi trong tay Ngọc Vũ bay ra, quấn quanh chân Anh Tú nhanh như cắt, giật ngược lại . Kết quả là Anh Tú ngã đánh rầm trên sàn nhà, đồ đạc nó mang theo văng ra tung tóe . Bọc thức ăn Nguyên Thục gởi cho Nguyên Thiên trượt ra khỏi tay nó, chui tuốt vào gầm bàn, nút vải bung ra, phơi những thứ bánh trái la liệt bên trong, làm Anh Tú than thầm.

Nhìn mớ bánh trái nghiêng ngả trong bọc, Duy Khiêm yên lặng . Mắt anh thoáng qua một tia chớp bạc mơ hồ nào đó, rất nhanh, rồi biến mất ngay . Anh cúi người, nhặt bọc bánh lên, cho tất cả bánh trái vung vãi ra sàn vào chỗ cũ, bọc lại, rồi đặt lên bàn trước sự kinh ngạc của Anh Tú , do từ lúc ở với Duy Khiêm cho đến nay, nó chưa bao giờ thấy anh chàng Hoàng tôn ấy tốt bụng đột xuất như lúc này.

Nắm chặt sợi roi trong tay, gương mặt xinh đẹp của Ngọc Vũ lộ vẻ đắc thắng . Cô đứng lên, tiến dần về phía Anh Tú, tay cuộn tròn sợi roi lại, ánh mắt nheo nheo khi thấy Anh Tú tức giận, vì trò múa roi của cô nàng nó chẳng hề khoái tẹo nào . Ngồi thụp xuống, cánh môi đào của Ngọc Vũ hình thành nụ cười mỉm chi, tinh nghịch . Sôi máu vì nụ cười đó chẳng khác nào cười trên nỗi đau của kẻ khác, Anh Tú mở miệng tính la mắng, nhưng sực nhớ mấy ngày trước vừa trót gây ra chuyện, giờ không thể lại nhờ Nguyên Thục bảo lãnh một lần nữa, nó đành cố gắng nhẫn nhịn, đổi giận làm vui . Ông bà ta đã dạy, một sự nhịn, chín sự lành . Cứ thế mà làm theo.

Thấy Anh Tú nằm im, chẳng buồn ngọ nguậy và ra vẻ cam chịu, Ngọc Vũ nhíu mày . Cô thò tay nắm lấy sợi dây cột trên tóc Anh Tú, giật giật, nó (cố) nhăn nhở cười . Cô véo mũi, nhéo má, Anh Tú phải gồng mình hết cỡ mới có thể chịu đựng trò tra tấn đó, mà không nổi sùng lên do không muốn lại mang thêm họa vào thân . Nhịn đi! Nhịn ! Nhịn! Nhịn . Anh Tú nhắm mắt lâm râm tụng niệm, cố gắng trấn áp cơn giận đang phập phồng . Thấy làm đủ trò mà Anh Tú vẫn không tức giận, ngược lại còn cười thơi thới, Ngọc Vũ nghiêng đầu nhìn nó . Đôi môi xinh mím lại rồi bất thần, cô vung tay, búng cái tách vào tai nó đau điếng, khiến Anh Tú quên bẵng cả công sức nhẫn nhịn từ nãy đến giờ.

- Chơi gì kỳ vậy! Được voi đòi hai bà Trưng đấy phỏng?

- Tốt! Như thế này mơi giống ngươi.

Ngọc Vũ vỗ tay tươi cười, làm Anh Tú vừa bực mình vừa ngạc nhiên . Con bé này, rốt cuộc nó muốn gì? Anh Tú làu bàu, nó lồm cồm ngồi dậy khi Ngọc Vũ thu sợi roi da về . Phủi sạch bụi bặm bám trên áo, Anh Tú chộp lấy bọc bánh trên bàn, vỗ nhẹ, rồi quay sang Ngọc Vũ, hất hàm.

- Rốt cuộc cô muốn gì đây, công chúa?

- Vẫn còn biết ta là công chúa cơ đấy?

Ngọc Vũ nhướng mày, hỏi lại bằng giọng châm biếm làm Anh Tú toát mồ hôi . Biết cô nàng ám chỉ đến vụ việc xảy ra vài ngày trước, Anh Tú không sao làm khác hơn, chỉ biết nhe răng cười trừ, lấp liếm.

- Tất nhiên rồi, cô lúc nào cũng là công chúa... trong lòng của tôi cả.

Anh Tú nói công chúa trong lòng tôi, ở đây ám chỉ là trong lòng nó, Ngọc Vũ là một nàng công chúa kiêu kỳ, ngang ngược nhất quả đất, thế nhưng sự lắt léo đó Ngọc Vũ làm sao hiểu được . Chỉ biết khi nó nói xong, chẳng biết Ngọc Vũ nghĩ gì mà hai gò má lại đỏ hồng lên như hoa đào . Túm lấy vạt áo Anh Tú, Ngọc Vũ níu chặt rồi quay sang Duy Khiêm, nhoẻn cười.

- Khiêm nhi, cho Hoàng cô mượn tên tiểu hoàng môn này trong... bảy ngày nhé.

Cái gì?!

Anh Tú bật la thảng thốt trong bụng . Nó không nghĩ rằng cô nàng Ngọc Vũ đến đây là để "mượn" nó . Chẳng lẽ, chẳng lẽ con bé đó cố ý đến đây để chờ nó về hỏi tội sao? Ôi mẹ ơi! Chỉ nghĩ đến việc bị sai lên sai xuống, chạy đông chạy tây theo chỉ thị của cô nàng thôi là Anh Tú ngán cả người . Ném vào tương lai một viên sỏi, ta sẽ nhận lại được một hòn đá... à không, một quả đại bác to, cổ nhân dạy cấm có sai mà . Bây giờ nó mới thấm thía câu nói này . Lật đật nhìn Duy Khiêm, ánh mắt Anh Tú chứa chan hy vọng, môi cố nặn ra nụ cười cầu hòa, khẩn thiết mong ông hoàng băng giá đừng mang mình "bán" cho kẻ khác . Phớt lờ gương mặt thảm thấy thương của Anh Tú, Duy Khiêm vuốt nhẹ tách trà trong tay . Anh gật đầu, mà Anh Tú tưởng như đó là hiệu lệnh mang nó ra ngoài Ngọ môn chém đầu.

- Không sao! Hoàng cô muốn mượn bao lâu tùy thích.

Nhìn trừng trừng Duy Khiêm, Anh Tú á khẩu . Thật trên đời này chưa thấy ai máu lạnh như con người này . Mấy ngày qua ở bên cạnh anh ta, tuy nó không phải hầu hạ mệt nhọc gì như nó đã tưởng, vì Duy Khiêm luôn tự tay làm hết mọi việc, ngoại trừ thử thức ăn, nhưng Anh Tú cũng có thể gọi là thư đồng của Duy Khiêm . Không có công lao thì cũng có khổ lao, nỡ lòng nào anh ta để mặc người khác lôi nó về "hành hạ" như thế . Máu lạnh cũng vừa vừa thôi chứ, cậu hai.

Anh Tú rủa xả trong bụng, mặt nó méo xệch khi Ngọc Vũ níu chặt lấy vạt áo của nó, lôi ra khỏi Nội điện, mặc cho nó chống cự quyết liệt, nhất quyết không đi theo cô nàng . Gỡ từng ngón tay Anh Tú ra khỏi gờ cửa, Ngọc Vũ hắng giọng, kéo Anh Tú cúi sát xuống cho ngang hàng với gương mặt xinh xắn của mình, rồi thì thầm.

- Tiểu Anh tử! Ngươi mà còn phản ứng quyết liệt thế, thì tội danh có hành vi thất lễ với công chúa, ta e ngươi không gánh nổi, mà cũng không ai cứu được ngươi đâu.

- Cô muốn gì đây? - Trợn mắt nhìn Ngọc Vũ, Anh Tú rít lên qua kẽ răng.

- Muốn gì hả? Ta cũng chưa nghĩ ra, khi nào nghĩ ra ta nói cho ngươi biết . Còn bây giờ mau về cung với ta.

Ngọc Vũ cười tươi trả lời lại, rồi sầm mặt xuống, kéo Anh Tú thẳng hướng về tẩm cung của mình . Khó chịu vì sự ngang ngạng của Ngọc Vũ, nhưng Anh Tú chẳng thể chống lại do lời cảnh cáo kia vẫn còn lơ lửng trong đầu nó . Tội danh "có hành vi thất lễ" với công chúa chắc chắn không tránh khỏi tử tội, trong khi nó thì còn bao chuyện phải làm, không muốn chết khi tuổi vẫn còn xuân . Cứ như thế, Anh Tú bất đắc dĩ phải đi theo Ngọc Vũ, đầu mường tượng ra cảnh cô nàng hả hê lúc hành hạ mình . Trên thế gian, độc nhất là lòng dạ của nữ nhi, nó nhớ có ai đó đã nói câu này . Khi ấy, nó còn không đồng ý lắm, nhưng bây giờ thì nó bắt đầu ngẫm thấy rằng câu này rất đúng trong trường hợp của Ngọc Vũ . Mới chỉ tát... nhẹ cô ta một cái, mà bây giờ Anh Tú đã phải trả giá bằng những ngày sống trong hồi hộp, do không biết cô ta sẽ dùng cách gì để trừng phạt nó . Hỡi ôi! Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, hết nạn này lại đến tai kia . Đợi đến khi thu được chân kinh thì nó đã lên tây thiên gặp phật tổ sớm, vì mấy trò "bạo hành tinh thần" của Ngọc Vũ rồi . Không biết những gì sẽ chờ đợi nó trong bảy ngày sắp tới đây.

o0o

Đưa mắt nhìn theo bóng dáng Ngọc Vũ và Anh Tú cho đến khi mất hút, Duy Khiêm chậm rãi đứng lên, anh ngần ngừ đôi chút rồi bước ra ngoài . Thong thả rảo bước vào khu vườn hiu hắt, bóng cây xanh lác đác, Duy Khiêm lướt mắt qua những khóm hoa héo tàn vì không ai chăm sóc, những mần non mới nhú, chưa kịp sống đã vội chết rũ dưới cái nắng thiêu đốt, gay gắt của ánh mặt trời . Đến bên cạnh ghế đá, Duy Khiêm phủi lớp bụi mỏng tang bám trên mặt ghế xám nhẵn, lạnh ngắt vì đã lâu không ai ngồi, anh nhẹ nhàng ngồi xuống, tựa đầu vào thân cây xù xì phía sau, mắt ngẩng nhìn mây trời.

Bầu trời hôm nay cao vời vợi, không một gợn mây, xanh dìu dặt, trong suốt, làm đôi mắt Duy Khiêm trở nên mông lung . Sau vụ việc của Thánh mẫu, dưới sự xắp xếp của Trịnh Khải, anh không còn là Hoàng tôn nữa mà đã chính thức là Hoàng thái tôn, địa vị lẽ ra là của Hoàng thúc Duy Cận, nay đã trở thành Sùng Nhượng công . Cho đến bây giờ, Duy Khiêm vẫn còn nhớ đến cảm giác của mình khi buổi lễ tấn phong thái tử diễn ra . Ngày hôm ấy, cả Hoàng cung như thức dậy sau bao năm dài im lìm . Lần đầu tiên Nội điện của anh lại rộn rịp, long trọng đến thế, khi bá quan văn võ trong triều đều thay phiên nhau đến chúc mừng anh . Ai ai cũng cho đó là việc quan trọng, ai ai cũng cho đó là chuyện tất nhiên.

Đón nhận tất cả những lời chúc tụng đó, Duy Khiêm chỉ mỉm cười đáp lễ, lòng vô cảm, chẳng chút buồn vui . Khi viên quan đến đọc chỉ thụ phong, bá quan văn võ đều lùi lại, quỳ xuống . Yên lặng khi lễ quan đọc thánh chỉ, Duy Khiêm cảm thấy thời gian đang trôi vùn vụt qua tai anh . Anh nhắm mắt lại, vành mi lay động, rồi lại mở mắt ra, mỉm cười tạ ơn khi viên lễ quan nhẹ đặt thánh chỉ vào tay mình . Trong khoảnh khắc đó, nét mặt nghiêm trang, hòa hoãn của viên quan bỗng nhiên thay đổi . Ông có cảm giác như cánh tay tê rần, nặng trịch, không sao nhấc lên nổi khi đặt thánh chỉ vào tay tân Thái tử . Trái tim ông đập mạnh, từng mạch máu trong người ông đông cứng lại . Trán ông lấm tấm mồ hôi, nổi gân xanh vì hoang mang . Một cảm giác đè nặng tâm can ông khi nhìn trân trân vào cuộn thánh chỉ trên tay Thái tử, và tay ông vẫn còn đặt trên nó, không thể rụt tay về.

Dùng hết sức bình sinh, viên lễ quan giật phắt tay lại . Cảm giác nặng nề, khó thở trong người ông dần tan biến, như bị gió thổi bay . Lo lắng vì không hiểu tại sao ông lại có cảm giác ấy, cảm giác nặng ngàn cân khi cuộn thánh chỉ tiếp xúc với tay Thái tử và tay ông, viên quan lúng tung khi Thái tử nhìn ông, mỉm cười . Một gương mặt ngây thơ đáng yêu, một đứa bé đễ thương không thể chê bất cứ điểm nào, mang dáng dấp của cố Thái tử Duy Vĩ, viên quan cảm thấy hài lòng . Ông quên ngay cảm giác khó thở khi nãy và vuốt chòm râu, lạy tạ, chúc mừng Hoàng tôn nay đã chính thức trở thành Thái tử, trở thành niềm kỳ vọng của Hoàng tộc khi mai này sẽ là người gánh vác giang sơn.

Duy Khiêm bây giờ đã là Thái tử . Đã là Thái tử thì sau này sẽ lên ngôi Hoàng đế . Anh sẽ là người trị vì quốc gia, là người chăm lo cho dân chúng, là người sẽ đưa đất nước vào ổn định, yên vui, no ấm, không còn cảnh thiếu thốn, đói khát, mất mùa, hạn hán diễn ra hằng ngày ở khắp các nơi.

Nhưng tại sao phải thế?

Sao phải chăm lo cho chúng?

Sao phải lo lắng cho cái quốc gia này?

Nó đâu có quan hệ gì với ta?

Nó đâu có thân thiết, ruột rà với ta?

Nó ở đâu trong mười một năm giam cầm đã qua của ta?

Nó đâu có bầu bạn với ta.

Vậy sao ta phải chăm lo cho nó?

Chăm lo cho nó để làm gì?

Ta đâu có yêu thương nó

Mà...

Yêu thương là gì?

Duy Khiêm nhếch môi . Anh trở mình, hơi thở nhẹ hẫng . Anh thôi không nhìn bầu trời nữa mà dời mắt xuống lùm cây vàng vọt, xanh xao trong góc vườn . Nhiều nắng quá sẽ khô héo, nhiều nước quá sẽ úng thối . Lùm cây ấy lúc trước đã bị anh bỏ quên, tựa hồ như không biết đến sự có mặt của nó . Từ khi Nguyên Thiên dọn đến Nội điện, không ngày nào không ra chăm nom cho mảnh vườn và đặc biệt là lùm cây thấp lè tè ấy . Con nhóc cận vệ của anh đã từng thắc mắc ngô nghê rằng, tại sao đã chăm sóc rất chu đáo, cẩn thận rồi mà nó vẫn không ra hoa . Con nhóc ấy đâu biết rằng lùm cây ấy đã thối rễ . Lẽ ra nó đã chết từ khi mới sinh ra, nhưng nó vẫn cố lay lắt, bám víu cuộc đời bằng một niềm tin, rồi từ từ lớn lên, còi cọc, xanh xao, mặc cho bao nhiêu chăm sóc, vun vén vẫn không thể thay đổi được . Cái cây ấy sao mà giống anh, giống đến lạ lùng . Giống ai không giống, lại đi giống anh, nên kết cuộc nó sẽ chẳng bao giờ ra hoa . Mãi mãi không bao giờ ra hoa...

...

Ngày xửa ngày xưa, có một ông già mù.

Ông già mù sống trong một thị trấn nhỏ, hôi hám, nghèo nàn và bẩn thỉu . Ông ta sống bằng sự bố thí và lòng trắc ẩn của mọi người trong con hẻm ấy . Chính nhờ những mẩu cơm thừa, những con cá khô mặn chát, những miếng thịt mỡ teo tóp, nát vụn, những cọng rau tơi tả, bầm giập, ông mới có thể sống lây lất từ ngày này sang ngày khác, từ tháng ngày sang tháng khác mà chưa chết đi.

Ở đây, con người ta ai cũng nghèo, một miếng cơm manh áo quý báu còn hơn bạc vàng . Ấy thế mà người ta vẫn chia sẻ miếng ăn cho ông, giúp cho ông níu kéo thêm cuộc đời này . Ông rất hạnh phúc, ông hạnh phúc lắm vì lòng người trên thế gian sao mà rộng rãi, sao mà ấm áp . Tiếc thay là ông mù, ông mù nên chẳng thể thấy mặt bất cứ ai, chẳng thể thấy rõ ân nhân của mình, chẳng thể biết hình dáng họ ra sao, những người đã nuôi sống ông qua ngày . Ông tiếc . Ông thật lòng rất tiếc về điều ấy.

Cho đến một ngày kia...

Mọi người đồn rằng có một vị đạo sĩ sống trên núi cao, nơi con người không thể đi đến được, có tài trị bá bệnh, và có thể cải tử hoàn sinh . Lời đồn ấy lan truyền từ thôn này qua thôn khác, từ xóm này qua xóm khác, từ làng này qua làng khác và truyền đến tai ông...

Ông già mù như thấy trước mắt mình là một quầng sáng rộng rãi, bao quanh lấy ông . Ông tưởng mình như đang tắm trong bể nguồn hạnh phúc . Có thể trị bá bệnh, có thể cải tử hoàn sinh, vị đạo sĩ chân tu ấy chắc chắn sẽ giúp ước nguyện của ông thành sự thật, sẽ giúp đôi mắt mù lòa, đen tối, đục ngầu của ông sáng trở lại . Sáng mắt rồi, ông có thể nhìn thấy những gì ông muốn thấy, ông sẽ ghi nhớ từng giọng nói, từng nét mặt thân yêu của những người đã nuôi nấng, giúp đỡ ông...

Rồi một ngày nọ, nơi con hẻm quen thuộc, mọi người đã không thấy ông già mù đâu nữa . Họ bàn tán, họ xì xào, họ đồn đại, rằng ông đã đi tìm vị đạo sĩ đó để chữa bệnh cho mình...

Thế cũng tốt

Thế cũng tốt...

Núi non hiểm trở mấy tầng cao

Vượn hót, mây bay, tưởng động đào

Cao sơn lưu thủy, phiêu diêu thế

Ngàn trùng cho thỏa chốn tiêu dao

Đó là tiếng hát của ông già mù.

Ông vừa đi, vừa hát . Ông cứ đi . Đi mãi . Đi mãi . Băng qua muôn trùng sông núi, băng qua mưa nắng, gió bão, cát cháy, sỏi đá bằng sự nỗ lực của một người mù . Cuối cùng, một ngày nọ, ông già mù đã đến được nọn núi ấy . Quần áo ông rách tả tơi, chân tay ông bị cào xướt, xây xát, mặt mũi ông hốc hác, râu tóc ông dài thượt, bết dính vào nhau, xồm xoàm và rối núi như một dã nhân . Đứng dưới chân ngọn núi, ông già mù cười, ông cứ theo tâm mà đi, và ông linh cảm đây chính là ngọn núi có vị cao nhân ấy ngự . Ngọn núi cao cheo leo, lởm chởm . Mây che phủ đỉnh núi, chỉ một khoảnh khắc sơ xảy cũng có thể rơi thẳng xuống vực sâu, đủ làm nản lòng bất cứ người sáng mắt nào . Nhưng rất may, ông mù . Ông mù cho nên ông không thấy được sự nguy hiểm ấy . Hay có lẽ ông biết thì cũng làm ngơ . Vì sao? Vì ông đến đây để thực hiện ước nguyện của mình.

Thế là ông già mù bắt đầu leo lên.

Ngày thứ nhất, ông leo được một đoạn.

Ngày thứ hai, ông leo được một quãng.

Ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm, một tháng, hai tháng, ba tháng...

Cuối cùng, ông lão cũng đã đến nơi.

Nằm trên ngọn núi mây bay, ông lão cảm thấy lòng thư thái . Ông sắp chết . Phải, ông sắp chết . Sức lực của ông bây giờ leo lắt như một ngọn nến tàn, chỉ cần hà hơi thôi cũng đủ để ngọn đèn sinh lực cạn kiệt của ông tắt phụt, đen thui . Ông đang nằm chờ chết... và rồi, điều kỳ diệu đã xảy ra, vị đạo sĩ mà ông khao khát tìm từ xa đi tới, lãng đãng như sương khói . Cúi xuống nhìn ông già mù, vị đạo sĩ mỉm cười, khó có thể hình dung rằng một ngày nào đó, sẽ có con người trần thế, lại còn mù lòa, sẽ tìm thấy ông.

"Lão bá! người muốn gì ở ta? "

"Thưa ngài! Tôi muốn mắt tôi được sáng như bao người khác"

"Để làm gì? Thế này không tốt hơn sao?"

"Không! Không tốt! Thần tiên ơi, mắt ngài sáng như sao băng nên không thể thấu hiểu được nỗi khổ của những kẻ mù lòa như tôi . Tôi ao ước được nhìn thấy những người đã nuôi sống tôi, khao khát nhìn thấy trần gian tươi đẹp này, khao khát nhìn thấy nắng ấm và bình minh sớm mai . Thần tiên ơi! Tôi cầu xin người, van xin người, xin người hãy chữa mắt cho tôi."

"Thế này không tốt hơn sao...?"

"Không! Thần tiên ơi! Tôi van ngài"

Im lặng, ngẫm nghĩ, suy tư.

"Được! Ta sẽ chữa đôi mắt cho người . Nhưng thế này không tốt hơn sao...?"

Đôi mắt ông già mù đã trở nên sáng như ban ngày . Sức lực của ông dồi dào, tráng kiện hơn bao giờ hết . Ông vui mừng, ông la hét, ông nhảy múa, ông reo hò như một đứa bé con.

Bầu trời thì màu xanh

Mây thì màu trắng

Nắng ấm thì màu vàng

Nhiều màu quá

Nhiều màu quá, mắt ông hoa lên rồi . Ông phải nhanh chóng xuống núi, ông phải nhanh chóng xuống núi để thỏa nguyện tâm ước của ông . Ông muốn nhìn thấy họ, những người mà ông yêu quý, những người mà ông quan tâm, những người mà ông đã muốn đôi mắt sáng lại để tận đáy lòng nói lời cám ơn.

Ông già mù đã trở lại . Chỉ khác là ông không còn mù nữa.

Ông ngồi ngay góc con hẻm nhỏ ngày nào, nhưng không ai còn cho ông thức ăn nữa.

Họ đi qua ông, thờ ơ, lạ lẫm, chẳng buồn liếc mắt, thậm chí còn lấy tay bịt mũi lại khi đi ngang qua chỗ ông ngồi . Ông ngồi đó, ngơ ngác, ngạc nhiên, khó hiểu và tưởng như mình đã đến lầm nơi.

Họ đâu rồi?

Những người mà ông muốn gặp . Họ đâu?

"Ông già mù đã sáng mắt, chén cơm thiu này đành đổ đi thôi"

"Chán thật! Ổng ta đã thấy con cá bị mèo tha đi, rơi xuống đất dơ thế, chắc chắn không ăn"

"Ôi thôi! Nuôi một lão già sáng mắt, thà đem thức ăn thừa nuôi chó, mèo, trâu, lợn còn có ích hơn"

"Ông ta đã sáng mắt rồi, còn muốn xin sự bố thí của chúng ta làm gì?"

"Chúng ta đã nghèo quá rồi, không còn dư cái gì nữa đâu."

Vì ông mù, cho nên ông mới được bố thí.

Vì ông được phép lạ, cho nên họ ganh tỵ với ông...

Con hẻm nhỏ dơ dáy, bẩn thỉu, người người đi qua ông đều nhăn mặt . Không còn được cho như trước, ông đành lê bước, đến từng nơi, gõ cửa từng nhà để đi xin của bố thí . Nhưng đáp trả lại sự năn nỉ, van xin của ông chỉ là cái lắc đầu, khoác tay . Ông thấy họ nhăn nhó khi nhìn ông . Ông thấy họ dè môi, khinh bỉ ông . Ông thấy họ xua đuổi ông . Ông thấy họ ghê tởm ông . Ông thấy bọn trẻ ném đá ông . Ông thấy bọn trẻ xua chó ra cắn ông . Ông thấy chúng dùng ông làm trò tiêu khiển độc địa . Ông thấy sự ghen ghét, thói điêu toa, dối trá, lừa lọc ở đời . Bầu bạn với ông chỉ là những con nhặng, con ruồi.

"Như thế này không tốt hơn sao?"

Ông già mù khóc.

Ông khóc không thành tiếng, khóc trong lặng lẽ . Những giọt nước mắt đùng đục, ri rỉ trên má ông, ứa tràn, cay đắng và chua xót . Đột ngột, mắt ông ráo hoảnh, ông ngửa mặt lên trời cười khùng khục . Ông cười như điên như dại . Ông cười gập người, cười lăn trên mặt đất, giãy dụa, giật giật như con cá bị mắc câu . Bàn tay xương xẩu, đất đóng thành kẽ trên móng tay, cáu bẩn, nhớp nháp của ông ngọ nguậy, rồi vươn ra chụp lấy cái bát sành mẻ một góc, đập xuống đất, vỡ tan . Bật người dậy như một tia chớp, ông già mù vớ lấy một mảnh sành sắc cạnh nằm trên mặt đất, giơ lên và...

Đâm thẳng vào mắt mình.

Một con.

Rồi một con nữa.

"Như thế này không tốt hơn sao?"

Ông già mù gập người, ôm lấy gương mặt đầy máu . Bóng tối lại bao ập lấy ông, bủa vậy ông, che khuất ông . Nhưng, ông lại thấy an toàn.

Phải!

Như thế này không tốt hơn sao?

...

Đôi khi bóng tối chưa hẳn đã không tốt, và ánh sáng chưa chắc đã an toàn.

Duy Khiêm nhếch môi cười.

Có tiếng chân vang lên trên hành lang lát đá . Giảng quan Mai Doãn Khuê đã đến . Duy Khiêm thong thả đứng lên, quay trở vào Nội điện, bỏ lại chiếc lá vàng úa trên mặt bàn, ngơ ngác, lắc lư.

Mà...

Yêu thương là gì?

72.

- Khách quan có cần gọi thêm món gì không ạ?

- Không! Bao nhiêu đây đủ rồi, cám ơn anh.

Đang buộc lại suối tóc thành hai bím dài bằng chiếc nơ xanh xinh xắn, Bách Nhật quay đầu lại khi tên tiểu nhị đẩy cửa bước vào, trên tay là khay thức ăn nó đã gọi trước đó . Lướt mắt qua những đĩa thức ăn ngon lành, nóng hổi, Bách Nhật hài lòng . Nó lấy mấy đồng bạc lẻ thả vào tay tên tiểu nhị, làm gương mặt lưỡi cày của hắn ánh lên tia sáng mừng rỡ . Rối rít cám ơn Bách Nhật, tên tiểu nhị luôn miệng bảo nó cần gì cứ việc gọi một tiếng, rồi sau đó lụp sụp buớc ra ngoài.

Buộc tóc gọn gàng, y phục chỉnh tề đâu đó, Bách Nhât ngồi xuống ăn điểm tâm trước khi ra ngoài tiếp tục công cuộc tìm kiếm Linh Lan . Đến Phú Yên đã được ba ngày, không ngày nào Bách Nhật không hỏi thăm người dân trong vùng về tin tức của Linh Lan . Nhưng dù đã đi nhiều nơi, hỏi nhiều người, đến nhiều chỗ, tất cả câu trả lời mà Bách Nhật nhận được chỉ là cái lắc đầu nguầy nguậy, cái khoát tay từ chối do không hề biết cô gái mà nó muốn hỏi là ai . Khổ cực tìm kiếm bao lâu mà vẫn không thấy tín hiệu khả quan, Bách Nhật vẫn không nản lòng . Nó gạt hết mọi dự cảm về chuyện không lành đã xảy ra cho Linh Lan, tự nhủ rằng với một người lanh lợi, hoạt bát, lém lỉnh như bạn mình, thì chẳng ai có thể ức hiếp hay bắt nạt được, để đầu óc có thể tỉnh táo, toàn tâm toàn ý vào công cuộc tìm kiếm, mà không lo âu, yếu dạ hay chồn chân.

Tự ý đến Phú Yên mà không cho Anh Tú biết, rất có thể khi tin này lộ ra, Anh Tú sẽ oán trách nó vì cái tội tự tung tự tác . Thế nhưng một khi Bách Nhật đã quyết thì không gì có thể lay chuyển được, nếu cứ để dây dưa, lừng khừng, chờ đợi mãi thì sẽ chẳng đâu vào đâu . Anh Tú vào cung, còn nó sẽ một mình đến Phú Yên tìm Linh Lan, đó là kế sách vẹn đôi bề cho cả hai bên . Trước quyết định của Bách Nhật, Nguyên Thục chỉ thở dài mà không nói gì . Bạn bè chơi thân lâu năm, tính cách Bách Nhật thế nào há Nguyên Thục lại không biết . Tuy lo lắng những bất trắc trên đường đi có thể xảy ra cho Bách Nhật, nhưng Nguyên Thục lại không lên tiếng cản ngăn, khuyên nhủ . Nó lẳng lặng nhét vào hành lý của Bách Nhật một ít vàng bạc có được, do nhờ A Vân đem bán một số đồ đạc trong thư phòng, đủ cho Bách Nhật làm lộ phí đi đường . Biết nếu từ chối, Nguyên Thục chắc chắn sẽ giận, Bách Nhật nắm chặt lấy tay Nguyên Thục, đôi mắt xám tro long lanh thay cho lời cám ơn vì sự quan tâm thấu triệt ấy .

Nhắc đến Nguyên Thục, Bách Nhật tủm tỉm cười khi nghe chuyện tình cảm của Nguyên Thục kể lại trong mơ màng, nét mặt ửng hồng vẫn còn đong đầy hạnh phúc vì tình yêu và nụ hôn đầu thật ngọt ngào . Ôm riết lấy cái gối, Nguyên Thục nhéo vào má để chứng tỏ đây không phải là giấc mơ, rồi cười hoài trong sung sướng . Suốt đêm đó, Bách Nhật không hề chợp mắt, nó nằm yên nghe Nguyên Thục kể say sưa về Trịnh Khải . Từ cái chau mày, nụ cười cho đến sở thích và thói quen của anh, Nguyên Thục đều rành rọt, và nhớ một cách chính xác mà không hề lẫn vào đâu.

Nhìn gương mặt rạng ngời hạnh phúc của Nguyên Thục, Bách Nhật cảm thấy vui lây . Nó mừng vì cuối cùng Nguyên Thục cũng đã tìm thấy tình yêu đích thực, nhưng lòng còn gợn bao suy tư, khi nghĩ đến những trắc trở sau này bạn mình phải vượt qua . Yêu Trịnh Khải, đồng nghĩa với việc Nguyên Thục sẽ phải đuơng đầu với rất nhiều chướng ngại, chuyện kiêu binh, chuyện tranh chấp ở Hậu cung mà điển hình là Thánh mẫu và Dương thái phi . Nghe qua tình hình chiến sự, Bách Nhật cũng rất bất ngờ khi Nguyên Thục quyết định đứng lên, đề nghị tranh cử ngôi vị Vương phi, chẳng khác nào các cuộc tranh cử tổng thống . Không biết Nguyên Thục sẽ làm thế nào, không biết bạn mình sẽ có kế sách gì trước tầng lớp ủng hộ Ngọc Xuân tương đối lớn, và không biết Nguyên Thục có đủ sức gánh vác ngôi vị Vương phi một khi trúng cử hay không, nhưng Bách Nhật tin rằng có Trịnh Khải bên cạnh, chắc chắn đó chính là nguồn sức mạnh tuyệt vời nhất, tiếp thêm nghị lực và can đảm cho Nguyên Thục, giúp Nguyên Thục vượt qua tất cả những trắc trở chông gai trong tương lai sau này.

Ngày Bách Nhật đi, Nguyên Thục và Trịnh Khải đã tiễn nó đến tận cửa Tuyên Vũ . Nguyên Thục vô cùng bịn rịn, nó cứ nắm chặt tay Bách Nhật mãi không rời, sau cùng mới lưu luyến buông tay khi thấy đã đến lúc Bách Nhật phải lên đường . Từ biệt Trịnh Khải, Bách Nhật mỉm cười với Nguyên Thục một lần nữa rồi quay người đi . Được nửa đường, Bách Nhật ngần ngừ đôi chút rồi quay đầu nhìn lại . Nó chợt bâng khuâng khi thấy Nguyên Thục rúc vào lòng Trịnh Khải, lòng ngậm ngùi do phải chia tay Bách Nhật, mà không biết đường đời có những hiểm nguy nào rình rập bước chân bạn mình, còn Trịnh Khải thì dịu dàng ôm lấy Nguyên Thục, hôn nhẹ lên mái tóc nó, vỗ về . Trong chốn quá khứ binh đao loạn lạc, Nguyên Thục đã tìm thấy hạnh phúc, nhưng còn Nguyên Thiên, Anh Tú, Linh Lan và... cả nó nữa, hạnh phúc của tụi nó bây giờ đang ở đâu?

Bách Nhật vươn vai đứng dậy, thư giãn gân cốt . Nó dọn dẹp các đĩa thức ăn trên bàn cho sạch sẽ, rồi mang khay cơm xuống dưới lầu . Hôm nay lại tiếp tục hành trình hỏi thăm tin tức Linh Lan, Bách Nhật đã xác định rằng sẽ đi lâu hơn, xa hơn, cho nên đã mang bánh trái theo ăn lót lòng . Vốn không tin vào mấy chuyện ma quỷ, thần thánh, nhưng trong những lúc ngặt ngèo, khốn khó, cần một thứ gì đó để làm niềm tin, Bách Nhật luôn lấy trời phật ra cầu khấn . Nó muốn nuôi dưỡng hy vọng, để rồi có thể bám vào cái hy vọng ấy, nhằm tiếp sức cho cuộc hành trình tìm kiếm của mình mà không bỏ cuộc . Nó hy vọng rằng với sự kiên nhẫn ấy, trời phật sẽ phù hộ nó tìm thấy vết tích của Linh Lan giữa biển người mênh mông trôi nổi này.

Phủ Phú Yên hôm nay đông đúc và rộn rịp hơn thường lệ, khi những sọt trái cây, rau củ tươi ngon từ khắp các nẻo đường đổ về phiên chợ . Len lỏi trong dòng người đông đúc, lao xao, Bách Nhật vừa đi vừa hỏi thăm bất cứ ai đi ngang qua, gương mặt nó ửng đỏ vì dang nắng, vầng trán lấm tấm mồ hôi vì nóng . Khi nhận được những câu trả lời giống nhau quen thuộc, Bách Nhật gật đầu cám ơn họ, rồi tiếp tục rẽ sang con đường khác để hỏi thăm.

Mặt trời đã lên cao, phiên chợ dần thưa thớt, Bách Nhật đi suốt sáng tới giờ cũng đã mệt . Nó ngồi xuống bậc tam cấp của một ngôi chùa ven đường, nương nhờ bóng mát của tán cây rợp lá trên cao, nghỉ ngơi dưỡng sức cho chặng đường tiếp theo . Lấy chiếc khăn trong tay áo ra thấm mồ hôi, Bách Nhật vỗ vỗ vào đôi bắp chân nhức nhối, xoa nắn bàn chân phồng rộp vì cát bụi đường dài . Nó vén sợi tóc chen ngang mắt qua một bên, khi một cơn gió nhẹ nhàng thổi đến, luồn lách qua những kẽ lá, lau khô giọt mồ hôi lấm tấm trên vầng thái dương của Bách Nhật . Thả lỏng cơ thể, tự do tận hưởng cơn gió mát rượi, trong lành, Bách Nhật nhìn ra ngọn núi mờ sương phía xa, lòng thơ thẩn nhớ đến những ngọn núi cao ngất, xen lẫn mây xanh, xếp chồng, vỗ vễ bên nhau ở Hương sơn . Không biết giờ này thầy nó đang làm gì? Không biết dạo này sức khỏe của thầy ra sao? Không biết hiện thời tiệm thuốc thế nào? Không biết...

Bách Nhật ngừng lại.

Nó cúi xuống đấm nhẹ vào bắp chân căng như dây đàn, tự thân cắt đứt mọi hồi tưởng khi một hình bóng chợt thoáng qua trong đầu . Đã tự dặn lòng không được nghĩ đến, không được bận tâm đến, thế nhưng tâm trí Bách Nhật vẫn không sao ngăn được, vẫn không sao kềm chế được, vẫn đi lang thang theo gió lúc nào chẳng hay . Vốn rất ghét nghĩ ngợi lung tung, Bách Nhật luôn uốn nắn bản thân mình phải tuân theo lý trí, giữ cho đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, sẵn sàng đối phó với những tình huống bất trắc có thể xảy ra . Thế mà lần này cảm xúc của nó lại lấn át lý trí, lại vi phạm những nguyên tắc mà nó tự đặt ra . Những hình ảnh xưa tựa như cuốn phim quay chậm, rò rè, tái hiện rõ ràng trong đầu nó mà không cách nào bấm nút dừng lại được, khiến Bách Nhật khó chịu về sự bất lực của mình . Cảm giác đó giống như là bàn tay bị gai đâm, đau thốn, nhưng vì cái gai ấy quá nhỏ, ghim sâu vào da thịt, làm lòng bàn tay nó cứ thốn lên, nhưng nhức mà chẳng biết cái gai đáng ghét ấy nằm ở đâu.

Gió thổi tung những sợi tóc mai, làm nó phải vén tóc qua vành tai nhỏ nhắn, nếu không muốn đầu tóc rối bù . Nghỉ ngơi đã đủ, sức lực cũng đã lấy lại phần nào, Bách Nhật thong thả đứng lên . Tính tiếp tục cất bước thì đột nhiên nó dừng lại khi nhìn thấy một trái quýt no tròn, lăn lông lốc về phía mình, xoay thành một vòng cung ngoạn mục rồi mới chịu đứng yên . Ngạc nhiên ngẩng đầu lên, đôi mắt xám tro của Bách Nhật nghiêm lại, khi nhìn thấy một cụ già mặc áo nâu sẫm, đương ngồi xổm dưới đất thu lượm từng trái quýt rơi tứ phía trên đường . Vội chạy lại giúp cụ già, Bách Nhật mỉm cười khi cụ già gật đầu tỏ ý cám ơn nó . Lúc trái quýt cuối cùng nằm yên trong chiếc giỏ mây, Bách Nhật nhìn mớ hành lý trên người cụ già rồi chau mày . Nào là rau rá, bánh trái, kèm theo những gói giấy màu cháo lòng xôm xốp xâu thành một chuỗi lủng lẳng, Bách Nhật không khỏi ái ngại khi nó quá cồng kềnh so với tầm vốc của cụ già.

- Cụ để cháu mang giúp cho ạ!!

- Cám ơn cô gái! Thật may cho lão quá! Cứ đi một bước dừng một bước để chỉnh đốn đồ đạc lại, thật không biết khi nào lão đây mới có thể trở về nhà.

- Dạ không sao ạ! Cụ cứ để cho cháu.

Bách Nhật tủm tỉm cười rồi đón lấy các bọc bánh trái lủng lẳng trên vai cụ già . Thở một hơi dài khoan khoái, cụ già đứng thẳng lưng, khiến xương cốt kêu răng rắc rồi sải bước về phía trước, niềm nở với Bách Nhật đang đi sóng đôi.

- Cô gái, có vẻ như cháu từ nơi khác đến thì phải?

- Vâng ạ! Cháu từ Bắc hà đến Phú Yên để tìm người.

- Tìm người? Cháu tìm ai?

Tuy không chắc cụ gìa sẽ biết được tin tức gì, nhưng Bách Nhật vẫn lễ phép trả lời.

- Dạ, tìm bạn cháu . Bạn cháu tên là Linh Lan, đến đây ít lâu rồi, khi đó cô ấy ăn mặc khá đặc biệt, nổi trội so với mọi người xung quanh ạ.

- Hm! Ăn bận đặc biệt, nổi trội à? Lão nhớ cách đây khá lâu, dân chúng truyền tai cho nhau rằng có một cô gái kỳ lạ đã xuất hiện ở đây, không biết liệu đó có phải bạn cháu không?

- Thật thế sao? - Đôi mắt xám tro của Bách Nhật lấp lánh, giọng nói nó không giấu vẻ vui mừng - Cụ có biết cô gái ấy đã đi đâu không ạ?

- Lão cũng không biết . Lão chỉ nghe họ đồn thế, còn thực hư thế nào thì không thể xác nhận được . Nhưng cháu cứ yên tâm, hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng . Nếu cháu và bằng hữu cháu có duyên, cả hai nhất định sẽ gặp lại nhau thôi.

Tuy đôi chút thất vọng, nhưng Bách Nhật cũng phải phì cười khi cụ già lại ví von việc nó tìm Linh Lan cứ như thể trai gái đang yêu nhau . Bách Nhật vâng dạ mà không nói thêm lời nào . Không quá hy vọng cũng không quá tuyệt vọng, vừa là đủ, đó là phương châm sống của nó . Thế nên đối với những việc đi tìm dấu vết này, Bách Nhật biết rằng không phải ngày một ngày hai là có kết quả, mà cần phải có một quá trình, vậy nên nó không tỏ ra nôn nóng, sốt ruột hay mất bình tĩnh bao giờ.

Xốc lại bọc bánh trái trên tay, Bách Nhật vừa đi vừa trò chuyện thân mật với cụ già . Hỏi ra mới biết mọi người hay gọi cụ là cụ Lý, làm nghề thuốc, có tiệm thuốc Bảo An Đường nổi tiếng nhất phủ Phú Yên . Nhân dịp sắp đầy năm của thằng cháu đích tôn, cụ Lý thân chinh ra chợ, mua rau củ, bánh trái, cùng những thứ đồ chơi mà thằng nhóc thích, ai ngờ đi đứng không cẩn thận đã đánh rơi cả giỏ quýt trên tay, đúng lúc Bách Nhật đang nhồi nghỉ ngơi ở ngôi chùa kế bên . Đến lượt cụ già hỏi gia thế của nó, Bách Nhật chỉ bảo nó là một cô học trò nhỏ bé ở tiệm thuốc của thầy nó - tức Hải Thượng lãn ông - tránh đả động đến phủ chúa chừng nào hay chừng nấy . Nghe tên Hải Thượng lãn ông, đôi mắt tinh anh của cụ Lý sáng lên, mừng rỡ . Cụ hỏi thăm Bách Nhật rất nhiều về thảo dược và thầy nó, lại còn bảo rằng chắc chắn một ngày nào đó, sẽ khăn gói đến Hương sơn một chuyến, nhìn tận mặt vị danh y nổi tiếng cũng như lĩnh hội thêm một số kiến thức y thuật, để về chăm lo cho Bảo An Đường.

Câu chuyện từ từ tiếp diễn đến hồi lý thú, cụ Lý trao đổi với Bách Nhật về một số bệnh tình, và nó đáp lại cụ Lý bằng những bài thuốc mà thầy nó đã dạy . Dần dần, chiếc đèn liên đăng khắc ba chữ Bảo An Đường đỏ tươi cũng đã hiện ra . Đang trò chuyện vui vẻ, Bách Nhật vô cùng ngạc nhiên, khi phía trước tiệm thuốc là một đám đông tề tựu choáng hết cả lối đi . Tiếng nói lao xao, ồn ào, nhộp nhịp khác thường đã làm những nếp nhăn trên mặt cụ Lý chau lại . Vẹt đám đông qua một bên, cụ Lý chen vào để xem tại sao Bảo An Đường lại huyên náo như thế . Đến khi trông thấy một người thanh niên mặt đầy mụn, quần xắn ống thấp ống cao, đứng giữa tiệm nói oang oang, trong khi con trai và con dâu của mình đứng kế bên với nét mặt khó xử, hàng lông mày bạc của cụ Lý xếch lên, do lại có kẻ đến phá đám bảng hiệu của Bảo An Đường.

- Cái gì mà "Bảo An Đường", mang sức khỏe đến cho mọi người chứ . Tôi không tin, trừ phi các người chứng minh được cái bảng hiệu ấy đúng thì tôi mới tin.

- Chàng trai trẻ! Xin cậu hãy bình tĩnh . Bảo An Đường chúng tôi chữa khỏi một số bệnh thông thường, tức là đã mang sức khỏe đến cho mọi người, ngoài ra không có ý gì khác . Chẳng hay cậu mắc bệnh gì? Có thể nói triệu chứng cho chúng tôi biết hay không?

- Không phải tôi bệnh mà là người nhà của tôi bệnh . Nếu các người cam đoan sẽ chữa hết bệnh cho họ, tôi mới nói triệu chứng, còn không thì mau gỡ tấm bảng này xuống đi thôi.

Tên thanh niên mặt mụn nói rồi hăm hở xắn tay áo lên, như thể chuẩn bị trèo lên dỡ bảng hiệu xuống, làm người đàn ông trung niên, đầu chít khăn xanh thất sắc . Ông ra lệnh cho gia nhân trong nhà từ trong túa ra, giữ chặt chân tay của tên thanh niên, khiến gã lăn ra gào thét, la hét, thóa mạ với đủ thứ ngôn từ hắn nghĩ ra . Hai vợ chồng chủ tiệm ngán ngẩm lắc đầu, khi mới sáng đã đụng phải loại người ăn vạ không sao đuổi đi được này.

- Lão còn tưởng là ai, hóa ra là cậu Ngô Tam, nhà kế cây dâu đầu làng, con trai của bà góa bán trầu đây mà . Chẳng hay Bảo An Đường của lão đã làm gì khiến cậu không vừa ý, mà phải đến tận đây kêu la ầm ĩ như thế.

Đang hăng tiết chửi bới, tên Ngô Tam quay phắt lại khi giọng nói sang sảng của cụ Lý từ sau vang lên, lại còn nói trúng phóc thân thế và tên tuổi của mình, khiến hắn lúng túng mất vài giây . Nhìn thấy phụ thân đã về, gương mặt căng thẳng của hai vợ chồng Bảo An Đường liền giãn ra, mừng rỡ . Họ vội vàng chạy đến, đón lấy mớ bánh trái từ tay cụ Lý và Bách Nhật, sai gia nhân đem vào trong, rồi quay sang cụ Lý thuật lại hết chuyện đã diễn ra . Nghe con trai thuật xong, cụ Lý mặt trầm ngâm . Đưa mắt nhìn Ngô Tam đứng khoanh tay một bên, cụ Lý tính lên tiếng, nhưng sau đó liền ngừng lại khi một giọng nói nhừa nhựa, dai dai từ trong đám đông bỗng cất lên.

- Cụ Lý, người thanh niên này không có lỗi, có trách là trách Lê Anh tôi đã nhiều chuyện . Do thương hại cậu ta không quản khó nhọc từ xa đến vì người thân, nên tôi đã cho cậu ta biết rằng Bảo An Đường là tiệm thuốc mát tay và lành nghề nhất Phú Yên, có thể chữa dứt bệnh cho người nhà cậu ta . Chà, không ngờ sự thể lại ra thế này, mong cụ hãy tha thứ cho sự đường đột đó của tôi.

Người vừa mới lên tiếng là một người đàn ông trạc tuổi con trai cụ Lý, trái với vẻ khắc khổ, hiền lành của con trai cụ, người đàn ông này lại mang một nét gì đó gian tà, nham hiểm . Nhìn bộ quần áo láng mượt, thẳng thớm không một nếp nhăn, cùng cái khăn trắng lượt là thắt trên búi tóc, đôi mắt ti hí láo liên như mắt lươn của người đàn ông tự xưng là Lê Anh, Bách Nhật nhíu mày . Nó không mấy thiện cảm lắm với những người chải chuốt, bảnh bao một cách thái quá như thế. Người ta nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thế nhưng cửa sổ tâm hồn của ông ta lại hẹp cạn, đóng mở liên miên, chứng tỏ là người thủ đoạn, nham hiểm chỉ biết tư lợi cho bản thân mình . Ba nó đã nói không nên trông mặt mà bắt hình dong, nhưng quả thật có những người trông mặt thì hình dong thế nào đã bắt được ngay, điển hình như ông Lê Anh này.

Về phần cụ Lý, là người sống trên đời đã sáu mấy mùa xuân, cụ Lý quá hiểu bản chất Lê Anh là người như thế nào . Tiệm thuốc Bảo An Đường của cụ đối diện tiệm thuốc An Lạc Đường của Lê Anh . Bảo An Đường khách ra vào nườm nượp, trong khi An Lạc Đường lại lèo tèo vài ba khách, điều đó khiến Lê Anh đã sinh lòng đố kỵ . Tiệm thuốc của ông cụ gần đất xa trời và cái gã lù khù, ngay cả giá thuốc cũng tính sai mà lại phát đạt như thế, thật khiến hắn vô cùng khó chịu, ganh ghét . Trước giọng điệu vờ khiêm tốn của Lê Anh, người đàn ông đầu chít khăn xanh rất tức giận, toan cãi lại thì cụ Lý đã khoát tay, ra hiệu cho ông im lặng . Nhìn Ngô Tam đang ngồi bệt xuống dưới đất, xem chừng cắm rễ không chịu đi, cụ Lý chậm rãi từng lời.

- Người nhà cậu mắc bệnh gì?

- Đã không chữa được thì hà tất phải hỏi?

- Cậu thật lạ! không nói bệnh tình thì làm sao lão biết đường mà chữa trị?

- Ông mới là lạ đó, quý tử của ông đã bảo bệnh này không thể chữa được, anh ta không thể chữa được chẳng lẽ ông chữa được sao?

Nheo mắt nhìn Ngô Tam, cụ Lý thủng thẳng.

- Cậu cứ nói ra cho lão hay, người nhà cậu mắc bệnh gì?

- Thế nếu tôi nói ra bệnh tình của họ, thì ông nhất định phải chữa được đấy . Nếu ông không chữa được thì bảng hiệu Bảo An Đường phải tháo xuống ngay cho tôi.

- Ngô Tam! Cậu vô lý vừa phải thôi . Bảng hiệu Bảo An Đường của chúng tôi là do tổ tiên mấy đời để lại, đâu thể vì những lời vớ vẩn, gàn bướng của cậu mà nói tháo là tháo được.

Trước yêu cầu quá quắt của Ngô Tam, người đàn ông chít khăn xanh quát lớn, gương mặt đỏ gay vì giận dữ . Lừ mắt nhìn con trai, cụ Lý quay sang Ngô Tam, ôn tồn.

- Cậu cứ đưa người nhà cậu đến đây, nếu có thể chữa được thì lão nhất định sẽ tận tâm?

- Vậy là ông đã hứa rồi đấy nhé, nếu tôi đưa họ đến mà không chữa được thì ông sẽ phải làm theo giao kèo của tôi đấy.

Không để cho cụ Lý kịp trả lời lại, Ngô Tam đã lật đật đứng lên . Hắn ta len vào trong đám đông, sau đó dắt ra hai người bệnh được cho là người nhà của Ngô Tam . Trông thấy bệnh tình của họ, người đàn ông chít khăn xanh và vợ ngớ người ra, còn cụ Lý thì nhíu mày . Yên lặng theo dõi câu chuyện và cuộc đối đáp giữa cụ Lý với Ngô Tam, Bách Nhật tự hỏi không biết người nhà của tên Ngô Tam ấy rốt cuộc bệnh gì mà khiến hắn phải lặn lội đường xa mò đến Bảo An Đường như thế . Nhưng đến lúc chứng kiến bệnh tình hai người đang đứng giữa sân Bảo An Đường, Bách Nhật đã hiểu ra rằng...

Rõ ràng, đây là một cái bẫy.

Tags: Sương

Posted in Phần tổng quát |

Leave a Reply

73.

Đám đông đang im lặng theo dõi cuộc đối thoại giữa cụ Lý và Ngô Tam, nay lại một phen xôn xao như cái chợ vỡ, khi nhìn thấy hai người bệnh mà Ngô Tam đưa đến trước tiền sảnh Bảo An Đường . Đó là một người thanh niên mặc áo thâm, dáng người nhỏ thó, trạc tuổi Ngô Tam . Khó khăn lắm mới bắt anh chàng này đứng yên, vì cứ đi môt bước anh ta lại nhảy một bước, chân nọ đá chân kia, miệng la hét lung tung rằng "Tôi điên đó! Tôi điên đó", làm ai nấy đều nhăn mặt tránh xa, khi cái miệng tía lia của hắn chẳng khác nào sấm động ban ngày.

Đứng bên cạnh Ngô Tam, bệnh nhân còn lại cũng là một thanh niên, trên cổ có thắt một sợi dây làm dáng . Xem ra anh ta là người khá tỉnh táo, không mắc chứng bệnh hoang tưởng rằng mình bị điên như anh chàng áo thâm kia . Thế nhưng đến khi cụ Lý lại gần hỏi thăm bệnh tình đau ốm chỗ nào, thì hắn ta cứ ngơ ngơ ngác ngác như người mất hồn . Ban đầu, cụ Lý cứ tưởng anh chàng bị lãng tai nên tăng âm lượng của giọng nói to hơn bình thường, đến lúc thấy anh ta vẫn đực mặt ra, nói hai ba lần vẫn không ừ hử lại, cụ Lý mới vỡ lẽ ra rằng cậu ta bị điếc, không thể nghe được những gì cụ nói . Một người luôn tự nhận mình bị điên, một người thì bị điếc, hai chứng bệnh này muốn chữa khỏi là điều không tưởng . Phen này Ngô Tam thật sự đã gây khó cho Bảo An Đường.

Lặng lẽ quan sát hai bệnh nhân Ngô Tam đưa đến, Bách Nhật thấy ngờ ngợ trong lòng . Anh chàng áo thâm kia tự nhận là mình điên, ấy là cái lạ thứ nhất, bởi từ trước tới nay nó chưa thấy ai điên mà tự nhận mình điên bao giờ . Điều lạ thứ hai, là trông thần sắc anh này chả có gì gọi là mất trí, nói năng hồ đồ, càn rỡ . Một người bị bệnh điên, hay còn gọi là bệnh tâm thần, thứ nhất, quần áo thường nhàu nhĩ chứ không được thẳng thớm, lành lặn như anh này . Thứ hai, sắc mặt anh ta hồng hào, đôi mắt tuy láo liên nhưng lại rất linh hoạt, không đờ đẫn, rối loạn, chẳng có vẻ gì gọi là bệnh tâm thần lâu ngày . Thứ ba, người mắc bệnh điên thường không thể làm chủ bản thân, không kiểm soát được hành vi của mình, ấy thế mà người thanh niên này tuy miệng luôn la hét, chạy tới nhảy lui, múa may quay cuồng, thượng cẳng tay hạ cẳng chân với đám đông, thế nhưng lại chẳng mảy may động đến Ngô Tam cũng như anh chàng bị điếc kia . Nội chỉ ba yếu tố nhỏ nhặt ấy thôi, cũng đã làm Bách Nhật không khỏi nghi ngờ . Nhưng dù nói gì thì nói, đó cũng chỉ là cảm giác và sự phỏng đoán của nó, chứ không có căn cứ chính xác nên chẳng biết thực hư thế nào.

Sau khi đi tới đi lui trước hai người thanh niên Ngô Tam vừa đem đến, cụ Lý bước lên bậc tam cấp Bảo An Đường, đôi mày bạc xoăn tít vào nhau trước câu đố khó giải của Ngô Tam . Nếu không chữa trị được chứng bệnh của hai người này, Ngô Tam chắc chắn sẽ gây khó dễ cho Bảo An Đường . Cậu ta sẽ đem câu chuyện này rêu rao khắp nơi, còn Lê Anh sẽ được dịp thêm mắm dặm muối vào câu chuyện, nhằm hạ uy danh bao năm của tiệm thuốc . Rút lui cũng không được, tiến lên cũng không xong, những nếp nhăn trên mặt cụ Lý xếp lại, chứng tỏ cụ đang suy nghĩ điều gì đó rất nhọc tâm . Sự căng thẳng ấy khiến con trai và con dâu của cụ cũng chỉ biết đứng khép nép một bên, chưa biết phải xử trí thế nào trước tình huống khó khăn này.

Thấy ai cũng bóp trán lo âu, Bách Nhật đắn đo khi không biết phải làm sao để giúp cho cụ Lý thoát khỏi bàn thua trông thấy ấy . Liếc mắt vào phía trong Bảo An Đường, Bách Nhật chợt nhìn thấy một tên gia nhân mặc áo nâu, đang đứng lấp lo sau chậu cây cảnh, đầu nghển ra ngoài như đang suy đoán điều gì đó . Thấy nét mặt của tên gia nhân là lạ khi ngó hai bệnh nhân của Ngô Tam, Bách Nhật nghi hoặc, nó đoán rất có thể anh chàng này biết chút ít gì về hai vị khách không mời này . Lưỡng lự đôi chút do xen vào chuyện nhà người khác thật không tiện, cuối cùng, Bách Nhật vẫn ghé vào tai cụ Lý thì thầm mấy câu . Trước nét mặt nghiêm túc của nó, cụ Lý không nói gì mà chỉ gật đầu . Được cụ đồng ý cho đến gặp tên gia nhân kia, Bách Nhật mỉm cười, nó vội vã túm lấy áo của tên gia nhân khi hắn tính chạy vụt đi, do nhác thấy nó tiến về phía mình.

- Khoan đã! Tôi có chút chuyện muốn hỏi anh.

- Không được đâu cô ơi . Tôi còn phải xuống xao nốt mớ thuốc để trong thúng, nếu để lão gia bắt gặp tôi bỏ việc ra ngoài này hóng chuyện, tôi sẽ bị lão gia khiển trách mất.

- Anh yên tâm! Cụ Lý chắc chắn sẽ không đuổi việc anh, nếu như anh cho tôi biết anh có quen hai bệnh nhân ngoài kia không?

Bị Bách Nhật túm lại hỏi thăm, trong khi còn những ba thúng thuốc đang chờ được xao lên, tên gia nhân mất kiên nhẫn nhưng cũng cố nán lại trả lời.

- Cậu thanh niên mặc áo nâu kia tôi không biết, nhưng hai anh chàng bệnh nhân ấy thì tôi biết . Gã mặc áo thâm kia là A Tứ, chuyên bán tò he cho bọn nhóc trong xóm tôi, còn anh chàng đeo sợi dây kia là A Ngũ, em trai A Tứ, hay hái dừa thuê cho đại tẩu tôi làm mứt . Mới hôm qua họ còn tỉnh táo, lành lặn nguyên vẹn, thế mà hôm nay đã đến Bảo An Đường khám bệnh, lạ thiệt.

- Thật thế à? Anh quen họ thế có biết từ trước tới nay họ có bệnh tật gì, như là thần trí không tỉnh táo hay điếc đột xuất không?

- Không! Ai thì tôi không biết, nhưng hai người này thánh vật còn chưa chết nữa là.

Nhìn nét mặt sửng sốt của tên gia nhân khi hỏi đến bệnh tình của A Tứ, A Ngũ, Bách Nhật không hỏi thêm câu nào nữa . Nó gật đầu cám ơn tên gia nhân rồi thả tay ra, để hắn tất tả chạy xuống bếp làm nốt công việc sao thuốc của mình . Thế là đã rõ, Bách Nhật nở một nụ cười nhẹ, giờ đây mọi chuyện đã sáng tỏ và thông suốt . Nó đã biết được hai tên bệnh nhân A Tứ, A Ngũ kia thật ra khỏe phây phây, mà lại giả bệnh đến Bảo An Đường phá rối, chắc chắn là đã theo lệnh ai đó sai khiến . Đối với những người nghèo khổ, cơ hàn, động lực khiến họ nai lưng ra làm, bất kể là chuyện gì, chỉ là một chữ tiền, không hơn không kém . Trong cái xã hội phong kiến này, có tiền mua tiên cũng được, và điều đó giải thích tại sao hai tên "bệnh nhân" kia, lại hành động gây khó dễ cho Bảo An Đường.

Mọi chuyện đã có chiều hướng giải quyết . Nếu như hai tên kia bệnh thật, thì có là Hoa Đà tái thế cũng không cách nào chữa nổi, nhưng vì hai tên kia không bệnh mà vờ có, thì với một biện pháp nhỏ, Bách Nhật sẽ khiến hai tên này phải lòi đuôi chuột của mình ra, chuồn thẳng về nhà mà không dám quay trở lại Bảo An Đường lần thứ hai.

Bước ra ngoài đại sảnh, không khí bên ngoài vẫn đang râm ran, Bách Nhật mỉm cười, ghé vào tai con trai cụ Lý, thì thầm gì đó mấy câu . Sau phút do dự, nét mặt người đàn ông tỏ ra lưỡng lự đôi chút nhưng rồi cũng gật đầu, cùng vợ đi vào nhà trong . Còn lại Bách Nhật và cụ Lý, nhìn vầng trán của cụ vẫn đang cuồn cuộn nếp nhăn như từng đợt sóng, Bách Nhật mỉm cười . Nó tiến đến gần Ngô Tam, đi một vòng xem xét bệnh tình của hai người thanh niên, rồi nhìn cả ba, nói chậm rãi.

- Anh mắc bệnh điên, đúng không?

- Ha ha! Tôi điên đó, tôi điên đó!

Anh chàng áo thâm - A Tứ - tuôn một tràng, tay vung loạn xị, nhảy nhót vòng quanh như khỉ, làm Bách Nhật phải nghiêng người qua một bên để tránh bị va phải . Ngó sang anh A Ngũ, Bách Nhật tủm tỉm cười khi anh chàng tỏ vẻ ngơ ngáo, cho dù nó có hỏi gì thì anh ta vẫn không ừ hử lấy một câu . Quay sang Ngô Tam, đôi mắt xám tro lấp lánh, Bách Nhật mỉm cười do Ngô Tam ngơ ngác, không hiểu tại sao nó nhìn mình, đoạn nhỏ nhẹ.

- Anh chàng bị điếc tên là gì?

- Nó là em út của tôi, tên A Ngũ.

- Thế anh A Ngũ đó mắc bệnh điếc đã lâu chưa? Bị từ lúc nhỏ hay mới gần đây.

- Tất nhiên là từ lúc nhỏ.

- Thật đáng thương! Bệnh đã lâu đến thế cơ à? Thế còn người bị mắc bệnh tâm thần kia?

- Cũng thế! Bị điên ngay từ nhỏ . Cô hỏi gì lắm thế, rốt cuộc có chữa cho chúng không đây?

Thấy Bách Nhật cứ hỏi luôn miệng, Ngô Tam đáp với vẻ lúng túng . Từ lúng túng chuyển sang tức giận, hắn sẵn giọng . Không khó chịu với thái độ ấy của Ngô Tam, Bách Nhật nheo mắt.

- Được! Nếu như Bảo An Đường chúng tôi chữa khỏi bệnh cho họ thì phiền anh và người nhà của anh từ nay về sau không được quấy rối nữa.

- Cô chữa khỏi đi rồi hẵng nói.

- Không! Tôi muốn nghe câu trả lời của anh trước.

- Thì... thì...- Ngô Tam lắp bắp . Hắn liếc về phía Lê Anh rồi mạnh dạn nói khi Lê Anh gật đầu - Được! Từ nay về sau tôi và người nhà của tôi sẽ không bén mảng đến Bảo An Đường.

- Anh không cần phải nói thế, nếu có bệnh thực sự thì Bảo An Đường luôn hoan nghênh anh đến . Thêm một điều nữa, để chữa khỏi bệnh cho hai người này, anh không được can thiệp vào trong khi chúng tôi đang chữa bệnh . Nếu anh xen vào, có gì bất trắc xảy ra thì do tại anh, chứ không phải do Bảo An Đường chúng tôi bất lực, anh có đồng ý điều kiện đó không?

- Chuyện đó...

- Một có, hai không . Còn nếu anh không đồng ý thì xin hãy đưa hai bệnh nhân này về.

- Được! Nếu chữa khỏi bệnh cho họ thì tùy nghi Bảo An Đường các người.

Mặt Ngô Tam không giấu nổi nghi hoặc khi Bách Nhật ra điều kiện, nhưng anh ta vẫn mạnh dạn gật đầu khi Bách Nhật truy tới cùng . Thấy Ngô Tam đã đồng ý, Bách Nhật mỉm cười . Nó rà mắt quan sát A Ngũ đang đứng im lặng ở đó, rồi vỗ tay vài cái để anh ta chú ý . Thấy A Ngũ chẳng buồn phản ứng, Bách Nhật thừa biết người thanh niên này giả vờ bệnh tật . Tủm tỉm cười rồi đến bên cạnh con trai cụ Lý, Bách Nhật nhận lấy trái cầu rực rỡ từ tay ông, rồi thong thả đi đến trước đám đông, đâu lưng lại với A Ngũ, nói rõ ràng cho tất cả mọi người đang tề tựu trước mặt nghe rõ từng lời.

- Các vị! Hôm nay Bảo An Đường chúng tôi có chuyện vui, đó chính là cháu đích tôn của cụ Lý được một tuổi . Do mong muốn cháu được khỏe mạnh, phát quang dương đại cho Bảo An Đường, thế nên chung tôi khuyến khích cho cháu dùng nước dừa tươi . Nước dừa rất dồi dào axit claurit, loại axit béo chỉ có trong sữa mẹ, rất tốt cho hệ tiêu hóa của bé, tăng cường hệ miễn dịch và bảo vệ bé khỏi bệnh truyền nhiễm . Để chia sẻ niềm vui này đến các vị, trên tay tôi là một trái cầu, nếu trái cầu này rơi trúng tay ai thì người đó sẽ ra sau vườn Bảo An Đường, nơi có một cây dừa đang sai trĩu quả để hái dừa . Hái càng nhiều, tiền càng đầy túi vì mỗi trái dừa sẽ là một lạng bạc.

- Cái gì? Một trái dừa là một lạng bạc ư?

Bách Nhật vừa dứt lời, đám đông xôn xao ồn ào . Người thanh niên A Ngũ vội vàng quay phắt lại, đôi mắt hắn sáng rỡ, gương mặt linh hoạt khi nghe đến món tiền thưởng hấp dẫn mà muôn đời hắn không có được . Ngay giây phút ấy, Lê Anh đang ung dung chắp tay sau lưng, xem Bảo An Đường sẽ làm cách nào để chữa khỏi bệnh "điếc" cho A Ngũ, liền biến sắc, vì tên ngốc này thấy lợi là quên phắt chuyện mình đang giả điếc, tươm tướp tranh giành món tiền thuởng ấy, làm đổ bể cả vở tuồng hắn dày công dựng lên . Chỉ chờ có thế, Bách Nhật quay phắt lại, nó mỉm cười khi A Ngũ lộ vẻ lúng túng do phút lỡ lời, còn Ngô Tam thì tái mặt lại vì không ngờ A Ngũ đã sập bẫy một cách dễ dàng.

- Anh Ngô Tam! A Ngũ đã nghe được rồi kìa . Có lẽ vì cảm động khi anh lặn lội đường xa đến Bảo An Đường để chữa bệnh cho anh ấy, thế nên "bệnh điếc bẩm sinh" nhờ đó mà khỏi hẳn chăng?!

Bắt gặp ánh mắt hình viên đạn của Ngô Tam, A Ngũ cúi đầu lúng túng vì phản ứng nghề nghiệp của mình . Trông thấy thất bại của A Ngũ, gã A Tứ bên cạnh vội vàng la hét, chạy nhảy khắp nơi khi Bách Nhật tiến lại gần . Phớt lờ trước phản ứng của gã, Bách Nhật đưa mắt nhìn người phụ nữ mặc áo trắng - con dâu của cụ Lý - và gật đầu . Nhận được dấu hiệu của người phụ nữ, từ trong tiền sảnh Bảo An Đường, bốn tên gia nhân lực lưỡng, khệ nệ khiêng một vật kỳ lạ ra đặt trước sân . Vật đó gồm một cái bàn cao với bốn chân trụ vững chắc, bên trên thay vì mặt phẳng thì lại được làm trục đỡ cho một bánh xe lớn . Dưới những con mắt mở to kinh ngạc của mọi người, bốn tên gia nhân xăm xăm tiến tới A Tứ, nhấc bổng anh ta lên, đặt ngồi trên bánh xe to lớn đó, giữ chặt, bất chấp việc anh ta la hét, quẫy đạp như thế nào.

Mỉm cười khi Ngô Tam đứng ngẩn ra do không biết Bảo An Đường muốn làm gì, Bách Nhật nhìn bốn tên gia nhân rồi gật đầu . Nhận được hiệu lệnh của nó, hai tên gia nhân giữ chặt A Tứ, không cho hắn quẫy đạp lung tung, hai tên còn lại dùng hết xức xoay vòng bánh xe mỗi lúc một nhanh hơn . Ngồi trên vòng xoay đó, A Tứ run lẩy bẩy, gương mặt hắn xanh xao, nhợt nhạt, không còn quẫy đạp như lúc ban đầu . Hai tay hắn túa mồ hôi, bám chặt tay vào mép bánh xe, miệng la ầm ĩ trước khuôn mặt đang tái lại của Ngô Tam.

- Dừng lại đi! Chóng mặt quá! Dừng lại đi!

Bách Nhật tủm tỉm cười, nó bảo bốn tên gia nhân tăng thêm tốc độ, quay vù vù rồi nhìn A Tứ bằng đôi mắt thương cảm, dịu dàng.

- Không được! Anh đang bị điên . Để chữa khỏi bệnh thì anh phải chịu khó thôi.

- Không không! Dừng lại đi! Chóng mặt quá! Trời ơi.

- Không được! Bảo An Đường đã hứa với anh Ngô Tam đây là sẽ chữa khỏi bệnh cho anh, trừ phi anh khỏi bệnh, chúng tôi mới cho anh xuống được.

- Thôi thôi! Các người làm ơn! Tôi đã hết bệnh rồi! chóng mặt quá! Làm ơn thả tôi xuống đi.

- Anh đã khỏi bệnh rồi à? Anh hết bị điên rồi à?

- Vâng vâng! Tôi hết điên rồi! Hết rồi! Chóng mặt quá, làm ơn cho tôi xuống, tôi van các người.

Chỉ chờ có thế, Bách Nhật liền bảo bốn tên gia nhân ngừng lại, đỡ A Tứ xuống . Vừa đặt chân xuống đất, A Tứ gập người, nôn thốc tháo . Hắn ta loạng choạng đứng không vững trên đôi chân xiêu vẹo . Đất trời quay cuồng trước mặt, đầu óc hắn nhức như búa bổ với đủ thứ âm thanh, màu sắc xáo trộn vây quanh, thảm hại đến nỗi A Ngũ phải bước tới dìu hắn đứng bên cạnh Ngô Tam . Lướt qua gương mặt tái mét của cả ba, Bách Nhật mỉm cười, nói dịu êm.

- Anh Ngô Tam! Như thế là tôi đã chữa khỏi bệnh cho anh A Ngũ và A Tứ, xin anh hãy thực hiện lời hứa của mình cho.

Ngô Tam lúng túng, không thể nói một tiếng nào . Hắn lấm lét nhìn Lê Anh giận dữ bỏ đi, khi kế hoạch thuê người phá hoại Bảo An Đường đã bị thất bại, rồi sau đó cùng A Ngũ, vội vã dìu A Tứ len lách qua khỏi đám đông đang vỗ tay như sấm dậy, vì đã thua trắng trước mưu kế của cô gái này . Thở phào nhẹ nhõm vì những kẻ phá hoại Bảo An Đường đã thoái lui, một đi không trở lại, cụ Lý rạng rỡ nét mặt, tiến đến gần Bách Nhật . Bàn tay khẳng khiu của cụ xoa đầu nó, khiến Bách Nhật nôn nao, vì Hải Thượng lãn ông cũng luôn xoa đầu khen thưởng nó mỗi khi nó làm tốt công việc gì...

- Cháu gái, giỏi lắm! Xem ra Bảo An Đường mắc nợ cháu rồi.

- Dạ không ạ! Đó chỉ là điều cháu cần phải làm thôi.

- Lão thấy kiến thức y dược của cháu không tệ, nhất là ở độ tuổi của cháu . Cháu có muốn đến làm việc trong Bảo An Đường không?

- Được không ạ?

- Sao lại không? Cháu bây giờ là ân nhân cứu mạng của chúng ta rồi . Nếu không nhờ cháu, thì uy danh của Bảo An Đường chắc chắn sẽ bị tổn hại ít nhiều.

Trước lời khen ngợi của cụ Lý, Bách Nhật bẽn lẽn . Những lời cụ nói là quá đề cao nó, trong khi nó biết rằng kiến thức về y dược của nó chưa chắc đã bằng một nửa cụ . Nghĩ đến việc sẽ được làm trong Bảo An Đường, học hỏi thêm nhiều thứ thuốc và cách chữa bệnh, tiếp nối nghề của thầy là Bách Nhật đã cảm thấy vui vui trong lòng . Tuy vẫn chưa tìm thấy Linh Lan, nhưng bên cạnh đó, tìm được công việc ở Bảo An Đường cũng là một niềm an ủi cho nó . Có công ăn, có việc làm, có thể ngày ngày tra hỏi tung tích Linh Lan, ít ra mọi chuyện đối với Bách Nhật bây giờ đã có ý nghĩa hơn nhiều...

Bách Nhật mỉm cười, bỗng nhiên nó chợt nhớ đến châm ngôn sống của Nguyên Thiên hơn bao giờ hết . Cho dù mây đen che khuất, thì nguyên thủy của bầu trời vẫn là một màu xanh ngắt, trong veo . Có lẽ bây giờ nó cũng thế, một khi đã tìm thấy một công việc ý nghĩa cho mình tại chốn xa xưa này, thì những chuyện phiền lòng khác cũng sẽ trôi theo gió mà vơi đi phần nào...

Trên cao, trời vẫn còn xanh...

74.

Từ lúc đến Phú Yên, và vào làm việc ở Bảo An Đường cho đến nay cũng đã gần được nửa tháng, thế nhưng bóng dáng của Linh Lan vẫn mịt mờ, điều đó làm Bách Nhật không khỏi chạnh lòng.

Với công việc ngổn ngang ở Bảo An Đường, nào là sao thuốc, bốc thuốc, đôi khi thay mặt cụ Lý để khám cho bệnh nhân, Bách Nhật tạm thời quên đi bao mối ưu tư . Thế nhưng, mới đêm qua sau giấc mộng nặng nề, Bách Nhật đã không thể ngủ được nữa, và cứ nằm trên giường thao thức mãi cho đến sáng.

Đây là lần đầu tiên Bách Nhật mơ một giấc mơ quái lạ đến thế . Trong mơ, Bách Nhật thấy mình đang đứng ngơ ngác tại bến Bạch Đằng quen thuộc, sau khi bước qua làn sương đỏ mờ ảo trước mặt . Nhận ra đây chính là hiện tại, nơi nó đã sống, tim Bách Nhật nghẹn lại, nó vội vàng chạy như bay về nhà, mong gặp được bố mẹ và những người mà nó vô cùng thương yêu . Đi trên con đường quen thuộc, nhưng Bách Nhật lại cảm thấy vô cùng lạ lẫm . Con đường này nó đã đi lại nhiều lần, nhưng sao hôm nay lại trở nên xa lạ, ngỡ ngàng quá . Không còn công viên và cây cổ thụ già nơi góc đường Lý Tự Trọng, mà thay vào đó là một dãy nhà hàng sang trọng, bề thế . Không còn quán nước ven đường với món sâm dứa sữa yêu thích, mà thay vào đó là một quán karaoke đèn xanh đỏ nhấp nháy . Hoang mang đi trên con đường nửa lạ nửa quen, lòng Bách Nhật rối như tơ vò, đôi chân nó mau chóng tăng tốc, bụng nó thấy nôn nao lạ thuờng, lòng linh cảm đến chuyện không lành đã xảy ra.

Dừng trước ngôi nhà mang biển số 149, Bách Nhật đứng ngây người ra như tượng gỗ . Căn nhà trước đây là nhà nó, là tiệm thuốc Hải Thượng Đường, thế mà giờ đã chuyển thành căn nhà lầu tiện nghi, thoáng mát, kín cổng cao tường, làm Bách Nhật thở trong khó khăn khi nghĩ rằng đã có sự nhầm lẫn gì ở đây . Đưa tay run run bấm chuông cửa, Bách Nhật mở to mắt khi một người phụ nữ lạ mặt bước ra nhìn nó với vẻ lạ lẫm . Nghe rõ câu trả lời từ người phụ nữ về việc ai là chủ nhân căn nhà này, Bách Nhật tưởng chừng như đất trời chao đảo, khi biết rằng gia đình trước kia sống trong ngôi nhà này đã dọn đi, vì hai mươi năm đã vùn vụt trôi qua.

Giấc mơ chỉ có thể tái hiện đến đó vì Bách Nhật đã vội vàng bật dậy . Trống ngực nó đập thình thịch, lòng bàn tay lạnh ngắt và vầng trán xanh tái ướt đẫm mồ hôi . Tự nhủ đó chỉ là một giấc mơ, nhưng Bách Nhật vẫn không sao ngăn được trái tim mình đập như trống dồn . Hai mươi năm . Hai mươi năm . Trong vòng hai mươi năm đó đã có biết bao thay đổi . Mới chỉ là một giấc mơ thôi mà đã làm cho nó hốt hoảng đến thế, huống chi nếu đó là sự thật thì không biết Bách Nhật sẽ đón nhận nó như thế nào? Mỉm cười chấp nhận hay ủy mị khóc lóc? Bách Nhật thật sự không biết, và cũng chẳng muốn biết đáp án để làm gì.

Chính vì đêm qua gặp cơn ác mộng đó, nên sáng nay thần sắc của Bách Nhật không được tốt cho lắm . Cụ Lý đã nói rằng, nếu nó thấy khó ở trong người thì cứ giao việc chợ búa lại cho người khác, thế nhưng Bách Nhật đã từ chối . Nó bảo mình vẫn có thể đi được, không phải phiền đến ai, rồi sau đó xách chiếc giỏ mây đi khuất trước ánh mắt ái ngại của cụ, do nhìn thấy rõ sự buồn phiền vương vấn trong đôi mắt xám tro nghiêm nghị kia.

Cố gắng gạt bỏ hết những lợn cợn trong đầu, do ảnh hưởng của giấc mơ đêm qua, Bách Nhật tập trung vào công việc chợ búa của mình . Được cụ Lý nhận vào Bảo An Đường, lại cho ăn ở miễn phí để không phải tốn tiền trọ, Bách Nhật vô cùng cám ơn cụ . Nó lãnh trách nhiệm chợ búa bếp núc trong Bảo An Đường, để trả ơn cụ Lý và cũng để không phải áy náy, tránh cảm giác ăn nhờ ở đậu người khác mà không phải tốn xu nào.

Buổi sớm tinh mơ, đường phố vẫn còn êm ả, chưa bị sự ồn ào, náo nhiệt đánh thức khỏi giấc ngủ say, đây là khoảng thời gian Bách Nhật thích . Khi đi giữa phố xưa tĩnh lặng, trong trẻo tinh khôi, tâm hồn nó dịu lại, lắng đọng vì sự bình yên đến lạ của khung cảnh xung quanh . Đang ngân nga một bài hát không rõ tên, Bách Nhật chợt dừng lại, đôi mắt xám tro lay động, khi nhìn thấy một bóng người vừa lướt ngang qua con đường trước mặt . Một phong thái điềm nhiên, một tà áo trắng lãng đãng và một nụ cười như sương khói . Bóng dáng mơ hồ đó lướt qua rất nhanh, nhanh đến nỗi trong mắt Bách Nhật còn chưa kịp lưu lại, thì hình bóng ấy đã biến mất như một ảo ảnh, hệt như chưa từng tồn tại trong chốn phù du...

Tiếng chim hót trên cao đâu nhiều bằng tiếng tim đập trong lồng ngực nó

Bầu trời xanh trên cao đâu thể mênh mông bằng mắt nó như lúc này.

Bách Nhật mím môi, yên lặng . Tà áo nó lay động khi gió thổi qua rồi chợt bay lật phật, khi tấm thân bé nhỏ chạy vụt đi, băng qua con đường, nơi bóng hình ấy đã xuất hiện và rồi nhìn quanh, trông ngóng, mong tìm thấy hình bóng ấy dù chỉ là một vết tích nhỏ nhoi . Tiếng chim hót im lặng, bầu trời xanh lao xao, con đường nào đã in dấu bước chân người, và bóng dáng nào chưa kịp lưu lại đã vội nhòe đi . Không có! Hoàn toàn không có! Có lẽ vì tối qua không ngủ, nên sáng nay đầu óc nó không được tỉnh táo lắm . Có lẽ tối qua mắt không được nghỉ ngơi, cho nên sáng nay mới kèm nhèm như thế rồi . Chắc chắn là thế, tuyệt đối là như thế, không đời nào người đó lại có mặt ở đây, không đời nào nó và người đó sẽ được gặp lại nhau . Chỉ là nó lầm lẫn thôi, chỉ là nó lẩn thẩn mà thôi...

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện bất tương phùng...

Bách Nhật chợt cười . Nụ cười hanh hao đến lạ . Nó xốc lại chiếc giỏ mây tuột khỏi vai, rồi nhắm thẳng phiên chợ Phú Yên mà tiến tới . Nó đi mà không biết mình đang đi, nó nghĩ mà không biết mình nghĩ ngợi gì . Nó ghét cảm xúc đó, ghét cảm xúc không biết bản thân mình muốn gì . Đến bao giờ nó mới thoát khỏi tình trạng này . Đến bao giờ nó mới làm chủ được bản thân, thôi không nghĩ ngợi lung tung . Đến bao giờ lý trí của nó mới chiến thắng hoàn toàn? Nó không tò mò ái tình, nó không thích đặt chân đến thế giới riêng tư của người khác, nó không muốn phải lưu luyến và vương vấn bất cứ một ai . Nó đã vẽ ra ranh giới cho mình như thế, vậy thì tại sao người đó không làm như nó đã làm . Hà cớ gì người đó lại xóa bỏ ranh giới của nó, bước chân vào cuộc sống bình lặng của nó, và làm xáo trộn tất cả những quy định mà nó đã đặt ra cho bản thân mình...

Bách Nhật lặng yên suy nghĩ, nó lặng lẽ ôn lại những gì mà nó đã trải qua kể từ khi đặt chân đến quá khứ, nhưng dòng suy nghĩ ấy không được lâu, khi có tiếng vó ngựa từ phía sau rầm rập vang lên, xé toạt cả bầu không khí yên lành sớm tinh mơ . Vội vàng quay phắt người lại, Bách Nhật mở to mắt, in rõ bóng một con ngựa đen hung hãn tung vó, bất chấp việc sẽ nghiền nát ai đó vô phúc đứng ở phía trước cản đường mình . Con tuấn mã không thấy, nhưng có vẻ chủ nhân của nó thì thấy . Bằng chứng là khi vừa trông thấy Bách Nhật đang đứng ngẩn người ra, không thể tránh né được, người cưỡi trên lưng ngựa vội vàng nắm chặt dây cương, giật về phía sau, buộc con tuấn mã thắng gấp lại, khiến nó chồm hai vó trước lên trời . Chú ngựa hí lên một tràng dài phẫn uất rồi sau đó ngoan ngoãn đứng yên tại chỗ, để chủ nhân của nó nhảy xuống, nhè nhẹ vuốt ve cái bờm dài màu đen tuyền, nói gần như reo vui.

- Bách Nhật! Là cô phải không?

Còn chưa hết sững sờ khi suýt bị móng ngựa nghiền nát, Bách Nhật không nhận ra được chàng trai cao to, vạm vỡ, khoác chiến bào sẫm lại vì sương gió, đang oai vệ đứng trước mặt mình là ai . Thấy nó ngơ ngác, tỏ ý không quen, nụ cười trên môi của chàng trai chợt trở nên lúng túng . Anh tiến lại gần Bách Nhật, tháo chiếc mũ rộng vành trên đầu ra, cúi đầu xuống ngang tầm mắt nó và tươi cười.

- Không nhận ra tôi sao?

Tuy vẫn không biết mình và chàng trai này có quen biết gì không, nhưng Bách Nhật đã bắt đầu ngờ ngợ ra nụ cười này quen quen, nhưng nhất thời chẳng thể nhớ ra quen chỗ nào . Dường như không thể đợi Bách Nhật lục lọi trí nhớ bụi bặm nhằm nhớ ra mình là ai, chàng trai nôn nóng, vọt miệng đáp luôn câu trả lời.

- Tôi chính là cái người mà cô đã cứu mạng ở Hương sơn, Ngô Văn Sở đây! Chẳng lẽ cô quên rồi sao?

Chỉ khi nghe chàng trai xưng danh tính và trường hợp cả hai người gặp nhau, Bách Nhật mới sực nhớ ra anh chàng mà nó và thầy đã chăm sóc, khi bị bọn thảo khấu vây đánh . "À" lên một tiếng vui vẻ, Bách Nhật nhìn chàng trai trước mặt - tức Ngô Văn Sở - bằng sự ngạc nhiên . Đã lâu không gặp, trông Ngô Văn Sở cao lớn và oai vệ hẳn ra, chẳng biết là vì do bộ chiến bào khoác lên người, hay là vì bây giờ nó mới nhận ra anh cao hơn nó gần hai cái đầu.

- Tôi còn tưởng là ai, hóa ra là anh . Đã lâu không gặp, trông anh oai vệ hẳn ra.

Đối với Bách Nhật, đó chỉ là nó công nhận sự thật, nhưng đối với Ngô Văn Sở thì đó lại là một lời khen, anh hớn hở ra mặt, trong mắt lấp lánh niềm vui khi không ngờ lại gặp Bách Nhật ở Phú Yên . Theo lệnh của Thái Đức hoàng đế, quân Tây Sơn đang rốt ráo chuẩn bị lương thực, thuyền bè, thủy quân để chuẩn bị tiến vào Gia Định, và anh có mặt ở Phú Yên này là để trưng thu lương thực, nhằm bổ sung đủ số lương cần thiết cho việc tiến đánh đó . Trên đường thiên lý, gấp rút việc quân, Ngô Văn Sở nằm mơ cũng không tưởng tượng được sẽ có ngày anh gặp lại cô gái nhỏ bé, sắc mặt điềm tĩnh như không khi nhìn thấy máu, với một đôi mắt xám tro nghiêm nghị, kiên định, khiến người khác không thể tự ý đùa giỡn này.

Đưa mắt nhìn chiếc giỏ mây Bách Nhật đeo trên vai, trông vô cùng đằm thắm, dịu dàng, Ngô Văn Sở chợt đỏ mặt vì cảm xúc lạ lùng ấy, rồi ngập ngừng hỏi khi một suy nghĩ thoáng qua trong đầu.

- Phu quân của cô... không đi cùng với cô à?

Nghe Ngô Văn Sở hỏi một cách thành thật, Bách Nhật phì cười.

- Anh nghĩ gì vậy, mới mười tám mà lập gia đình cái gì! Tôi đang đi chợ để về nấu ăn thôi, chồng con gì ở đây.

Nét mặt Ngô Văn Sở như vừa trút được một mớ ưu phiền đang đeo bám, anh hớn hở nói nhanh.

- Hiện giờ cô đang ở đâu? Tại sao lại đến Phú Yên? Rồi còn...

- Tôi hiện ở Bảo An Đường, đến Phú Yên để tìm bạn . Chỉ thế thôi.

Không để Ngô Văn Sở nói hết, Bách Nhật cắt ngang lời anh . Không hiểu sao mỗi khi nhắc đến tên của Ưu Phong là nó lại thấy nhoi nhói . Chính vì biết tâm trạng mình sẽ như thế, nên Bách Nhật tránh nhắc đến tên Ưu Phong càng nhiều càng tốt, vì không muốn phải cảm thấy hoang hoải trong lòng.

Không hiểu được ý tứ của Bách Nhật, nhưng Ngô Văn Sở cũng tế nhị, đủ hiểu mình nên nói gì và không nên nói gì . Anh tập trung vào một mục tiêu khác, đó chính là Bách Nhật đang ở Bảo An Đường . Bảo An Đường, tiệm thuốc vô cùng nổi danh ở Phú Yên, đến Quy Nhơn cũng biết tiếng . Việc Bách Nhật ở trong Bảo An Đường làm anh có phần bất ngờ, nhưng nghĩ lại lúc ở Hương sơn, anh đã chứng kiến y thuật của Bách Nhật không hề non kém, lại là học trò cưng nhất, tâm đắc nhất của Hải Thượng lãn ông, thì việc nó đang làm ở Bảo An Đường cũng vô cùng hợp lý, không gì đáng phải bàn cãi.

Chợt, một tia sáng lóe qua trong đầu Ngô Văn Sở . Tây Sơn sắp xuất quân vào Gia Định, thanh trừng Nguyễn Ánh . Đợt xuất quân lần này quy mô và rầm rộ hơn trước, bởi Thái Đức hoàng đế và Long Nhương tướng quân đã quyết định dồn sức đánh bật chúa Nguyễn, cùng các thuộc tướng của hắn ra khỏi Gia Định, để không phải ra vào nhiều lần . Những gì cần thiết cho chuyến đi đang được gấp rút hoàn thành . Nếu đã là một trận đánh lớn, chắc chắn thương vong sẽ không thể tránh khỏi, ngược lại còn nhiều hơn đợt xuất quân vào Gia Định năm ngoái rất nhiều . Trong Tây Sơn, hiện giờ quân y dù có nhiều đến đâu cũng không thể nói là đủ, có thể chữa hết được cho hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn binh lính . Bách Nhật đang làm trong Bảo An Đường, kiến thức về thảo dược, y thuật của Bách Nhật không thua kém những thầy lang hiện tại trong quân y . Đã thế, nó còn là học trò cưng của vị danh y nổi tiếng Hải Thượng lãn ông, tính cách lại điềm đạm, cẩn trọng và nghiêm túc, những yếu tố đó hội đủ tố chất của một vị thầy thuốc, có thể làm trong quân y thì thật hay biết nhường nào.

- Bách Nhật! Tôi có một lời đề nghị, không biết... cô có chấp nhận không.

Đi sóng đôi bên cạnh Bách Nhật, Ngô Văn Sở một tay nắm sợi dây cương, một tay gãi đầu ấp úng, khiến Bách Nhật ngạc nhiên do không hiểu sao anh lại rụt rè đột xuất như thế, khác hẳn vừa rồi.

- Chuyện gì?

- Cô ở Bảo An Đường thế nào?

- Rất tốt.

- Cô thích thảo dược, muốn làm một thầy thuốc, cứu người khác thoát khỏi sổ tử của diêm vương, phải không?

- Không cao xa đến mức đó đâu, tôi chỉ làm những việc mình phải làm thôi.

- Thế cô có thể...

- Sao?

- Có thể rời khỏi Bảo An Đường, đi theo Tây Sơn chúng tôi và trở thành thầy lang trong quân y không?

Ngô Văn Sở hít một hơi dài rồi nói môt mạch . Bình thường, anh không bao giờ phải cân nhắc ngôn từ, rào trước đón sau như thế, nhưng không hiểu sao khi đứng trước Bách Nhật, nhìn vào đôi mắt nghiêm nghị đó, Ngô Văn Sở bỗng trở nên bối rồi . Bản tính hài hước, thẳng thắn của anh thường ngày bỗng đâu bay biến sạch, chỉ còn lại sự vụng về lúng túng, khi đứng trước cô gái bé nhỏ này . Đưa mắt nhìn Ngô Văn Sở, nét mặt Bách Nhật không tỏ vẻ ngạc nhiên hay mừng rỡ, nó nhìn về con đường xa thăm thẳm trước mặt, lòng vu vơ mà không hiểu chính xác vu vơ điều gì . Gia nhập vào Tây Sơn, trở thành thầy lang trong quân y, điều đó có nghĩa là nó sẽ có thể nhìn thấy những vị lãnh tụ sử sách ca ngợi, nổi bật hơn hết là Quang Trung hoàng đế - người đại phá quân Thanh và sáng lập ra triều Tây Sơn . Bách Nhật thở dài, nếu quả thật gia nhập Tây Sơn thì nó sẽ bị cuốn vào vòng xoáy của lịch sử, trong khi bản thân nó chỉ muốn tránh xa khỏi dòng chảy đó, chỉ muốn bàng quan và làm kẻ đứng bên lề của lịch sử, không nhúng tay hay tham dự vào bất cứ điều gì.

Nhưng...

Nếu làm trong đội quân y của Tây Sơn, thì điều đó đồng nghĩa với việc nó sẽ rất bận rộn . Bận rộn thì đầu có sẽ không phải lang thang, nghĩ ngợi . Bận rộn thì sẽ không còn thời gian để mà suy nghĩ đến những phiền muộn, khúc mắc, lo toan trong đầu.

- Chuyện này có lẽ quá đột ngột, cô có thể không trả lời ngay cho tôi cũng được.

- Anh Sở!

Những tưởng khi đề nghị công việc đó, Bách Nhật sẽ đồng ý ngay mà không cần phải do dự, đến khi thấy Bách Nhật trầm ngâm, im lặng, Ngô Văn Sở lúng túng, lo sợ sẽ nhận được một lời từ chối . Chính vì ý nghĩ đó, anh đi bên cạnh nó mà lòng không ngừng hoang mang, khi không biết đằng sau gương mặt dịu dàng, thuần hậu đó ẩn chứa điều gì . Đang tự trách bản thân sao quá vội vàng khi đề cập đến chuyện đó một cách đột ngột thế, để giờ đây bầu không khí giữa cả hai chìm trong yên lặng, Ngô Văn Sở giật mình khi Bách Nhật lên tiếng gọi, không những thế lại còn là "anh Sở" vô cùng thân mật . Anh Sở! Anh Sở! Anh Sở! Sao trên đời này lại có hai tiếng ngọt ngào và mát ruột đến như thế này.

- Sao?

- Lời đề nghị của anh, tôi chấp nhận . Nhưng bên cạnh đó tôi có một điều kiện.

- Điều kiện gì?

- Tôi không đi theo Tây Sơn, cũng không gia nhập Tây Sơn mà chỉ là hợp tác, hợp tác thôi anh hiểu chứ . Nếu tôi không muốn hợp tác nữa thì có thể rời khỏi Tây Sơn bất cứ lúc nào mà không phải gặp rắc rối hay ai cản ngăn . Nếu điều kiện đó được chấp thuận thì tôi sẽ hợp tác với Tây Sơn

Ngô Văn Sở nhìn Bách Nhật . Anh nhìn thật sâu, thật lâu vào mắt nó, và nó cũng nhìn anh lại như thế với một nụ cười dịu dàng . Lần đầu tiên có một cô gái ra điều kiện như thế, lần đầu tiên có một cô gái lạ lùng đến thế . Hợp tác chứ không gia nhập, có thể rời khỏi Tây Sơn bất cứ lúc nào mà không muốn bị cản chân, cô gái ấy tựa như một cơn gió, yêu tự do và thích làm theo những gì bản thân mình mong muốn mà không gì có thể ràng buộc cô . Thật ra cô gái ấy là ai? Từ đâu đến, mà làm anh hết đi từ ngạc nhiên này lại đến ngạc nhiên khác như thế.

- Được! Tây Sơn không bao giờ ép buộc những người không tự nguyện ở lại . Chúng tôi chấp nhận điều kiện của cô.

Và khi Ngô Văn Sở nói xong, Bách Nhật mỉm cười . Một nụ cười như mùa đông chợt có nắng, làm anh thấy xốn xao trong lòng...

Nếu bận rộn thì đầu óc có sẽ không phải lang thang, nghĩ ngợi . Nếu bận rộn thì sẽ không còn thời gian để mà suy nghĩ đến những phiền muộn, mắc mứu, lo toan trong lòng.

Nhưng có thật là như thế không?

75.

Linh Lan nghiêng mình trên giường, ngắm những tia nắng rót mật vàng xuống mặt đất, lòng nó bồn chồn, chân tay ngứa ngáy không yên khi cứ phải nằm chết gí trên giường, mà không được vận động, hay dạo bộ bất cứ đâu vì chỉ thị của thầy lang . Thầy lang đã dặn rằng trước khi vết thương khép miệng, lành hẳn thì nó cần phải nghỉ ngơi, tịnh dưỡng để hồi phục sức khỏe, hạn chế không được cử động nhiều.

Nằm yên một chỗ đến phát ngán, Linh Lan ngó mọi người qua lại mà lòng ước sao có thể tha hồ chạy nhảy mà không sợ bị ai giữ lại . Mấy ngày trước, Linh Lan liệu rằng mình có thể đã hồi phục được tám chín phần, vết thương đã lên da non và bắt đầu lành lặn, thế là nó se sẽ bước xuống giường, đi qua, đi lại, từ chậm cho đến nhanh dần, lòng vô cùng sung sướng khi vết thương của nó đã hoàn toàn hồi phục . Đang tính lỉnh ra ngoài đi dạo, do suốt tháng qua đã phải nằm cuộn chăn trên giường như một con gấu ngủ đông, Linh Lan bị Phan Văn Lân vô tình bắt gặp lúc nó đang tha thẩn dạo chơi ngoài vườn . Mặc cho nó nói khan cả cổ rằng mình không sao, mấy chuyện đi lại này là chuyện nhỏ đối với nó, thế nhưng Phan Văn Lân vẫn bỏ những lời nó nói ngoài tai . Anh bế thốc nó lên, mang nó trở lại giường, rồi nghiêm khắc dặn dò những nàng hầu phục dịch nó chu đáo hơn, không được để nó bước xuống giường nếu đại phu chưa cho phép . Tức nổ đom đóm mắt khi cố gắng thuyết phục mãi mà Phan Văn Lân vẫn cương quyết, Linh Lan chẳng buồn nhìn mặt anh nữa mà nằm xuống giường, kéo chăn trùm kín đầu, mặc cho anh xuống nước dỗ dành.

Ngước mắt nhìn đám cột kèo đầu phụng nằm gác lên nhau, Linh Lan tự hỏi không biết bố nó giờ ra sao, anh nó giờ thế nào và các bạn nó hiện làm gì . Hết nghĩ miên man đến hiện tại, Linh Lan chuyển suy nghĩ về quá khứ tự lúc nào không hay . Xui xẻo bị Nguyễn Ánh bắn cho một mũi tên, chỉ chút xíu nữa là đã xuyên tim, Linh Lan tưởng như mình sẽ cầm chắc cái chết . Có thể nói lần này chính Phan Văn Lân đã cứu mạng nó, khi không trở về Quy Nhơn ngay lập tức mà dừng lại ở một quán trọ ven đường, lôi thầy lang đến cho bằng được dù đã nửa đêm . Tuy là vết thương không nguy hại đến tính mạng nhưng cũng khá nghiêm trọng do mất nhiều máu, Phan Văn Lân cùng Linh Lan phải lưu lại Trấn Biên, tìm thầy lang chữa trị vết thương cho đến khi ổn định lại, rồi mới trở về Quy Nhơn, để đảm bảo không có nguy hiểm gì xảy ra.

Sau bao ngày mê man vì bị vết thương hành, cũng như không quen với khí hậu nóng bức đột ngột ở Trấn Biên, Linh Lan dần tỉnh lại . Điều đầu tiên xuất hiện trong đôi mắt nhạt nhòa hình ảnh của nó, chính là Phan Văn Lân . Anh đang ngồi ngủ gục bên giường, đôi mày kiếm chau lại, ưu tư, rõ ràng đang rất lo lắng khi mãi mà Linh Lan vẫn chưa tỉnh lại . Giật mình bừng tỉnh, có lẽ do một cơn ác mộng nào đó, Phan Văn Lân thở phào nhẹ nhõm khi thấy Linh Lan đang nhìn mình, và mỉm cười một cách khó khăn . Khi đó, trông anh như trút được gánh nặng ngàn cân vì cuối cùng mọi chuyện cũng đã qua .

Từ từ, từng ngày một, cơn sốt của Linh Lan đã thuyên giảm và bắt đầu khởi sắc . Biết đó là tín hiệu tốt, Phan Văn Lân lẳng lặng đem bán con ngựa thần mã của mình, lấy tiền thuê một chiếc thuyền khá tốt để đưa cả hai về Quy Nhơn, vì anh hiểu, với sức khỏe của Linh Lan hiện giờ không thể đi xe ngựa như bình thường. Lót nệm xung quanh cho Linh Lan nằm, thêm một khay kẹo để nó nhấm nháp khi buồn miệng, Phan Văn Lân cho thuyền đi từ từ, tránh làm động đến vết thương của nó . Từ chỗ nằm có thể nhìn ra sông nước và hưởng gió mát, thêm chiếc rèm che kín đáo để tránh gió độc, Linh Lan chập chờn nửa tỉnh nửa mê, bồng bềnh theo nhịp sóng vỗ . Bao giờ cũng thế, mỗi khi tỉnh lại, Linh Lan luôn thấy Phan Văn Lân đang ngồi đó, yên lặng, nhắm mắt, lưng tựa vào mạn thuyền tưởng chừng như say ngủ, nhưng chỉ cần nó ngọ nguậy là anh lại mở mắt ra, cúi xuống nhìn nó, tựa như hỏi nó cần gì . Cứ như thế cho đến khi cả hai về đến Quy Nhơn.

Qua cơn hoạn nạn, Linh Lan mới biết Phan Văn Lân tốt với nó đến ngần nào . Anh không quản khó khăn để giúp nó bình phục trở lại, không ngại vất vả khi chăm sóc một cô gái bị thương như nó, trong khi tâm trạng nó thì vô cùng tồi tệ, vì ý nghĩ mình chỉ là vật cản, vô dụng, hay gây phiền phức cho người khác và liên lụy đến cả anh . Nhớ đến lúc truớc đã trêu đùa anh, thậm chí còn khiến anh tức giận nhưng không thể bẻ lại nó điều gì, Linh Lan cảm thấy có lỗi với anh vô cùng . Nó tự nhủ sau khi đã hoàn toàn lành lặn, bình phục, nó nhất định sẽ đến xin lỗi anh vì những gì nó gây ra cho anh lúc trước, và sẽ không trêu đùa, châm chọc anh nữa, nếu điều đó làm anh khó chịu và không hài lòng.

Linh Lan lặng lẽ chống tay, ngồi dậy, mắt nó hơi hoa lên do cả ngày phải nằm mãi trên giuờng . Kể từ lúc trở về Quy Nhơn cho đến nay, nó chưa một lần gặp Văn Bình hay nghe thấy bất cứ điều gì về anh . Các cung nữ ở đây rất kín tiếng . Dù Linh Lan có khéo léo gợi chuyện hay hỏi trực tiếp họ, nó cũng không thu được chút thông tin gì ngoài câu trả lời quen thuộc "Long Nhương tướng quân bận trăm công ngàn việc, chúng em không rõ lắm", làm nó vô cùng bực mình . Bận trăm công ngàn việc, chẳng lẽ anh bận gấp rút tổ chức lực lượng, tiến đánh vào Gia Định, đến nỗi không có thời gian đến thăm nó lấy một lần hay sao . Làu bàu trong miệng, Linh Lan càng nghĩ càng thấy bực bội . Nó biết như vậy là không đúng, nó biết như vậy là nó sai . Việc đánh Gia Định cố nhiên quan trọng, Văn Bình bận túi bụi như thế cũng là điều dễ hiểu, nó không thể trách anh và càng không thể giận anh . Dù biết thế, nhưng Linh Lan vẫn thấy không được thoải mái trong lòng . Nó vẫn có cảm giác như mình đang bị bỏ rơi, vẫn có cảm giác anh chưa hay nó trở về Quy Nhơn, vẫn có cảm giác anh không biết chuyện nó đang nằm bẹp gí trên giường, mệt mỏi, chán nản và tưởng chừng như phát điên tới nơi.

Mím môi im lặng, Linh Lan thò chân xuống để tìm đôi dép . Nếu anh không đến thăm nó thì nó đến thăm anh, ai cấm cản được chuyện đó . Xỏ chân vào dép, Linh Lan loạng choạng đứng lên . Nó vịn tay vào thành giường, vỗ vỗ trán để đầu óc tỉnh táo lại, rồi nhìn quanh quất để chắc chắn không có nàng cung nữ nào lai vãng gần đây, sau đó nhanh chóng bước ra ngoài.

Vươn vai hít thở bầu không khí trong lành, Linh Lan cảm thấy vô cùng dễ chịu . Các khớp xương trong nó kêu răng rắc khi được hoạt động, các sợi dây thần kinh trong đầu rung rinh, đánh thức mọi giác quan để tiếp xúc với không khí thiên nhiên tươi mát bên ngoài . Đúng lúc đó, bụi trúc từ xa lay động, Linh Lan than thầm khi một bóng người mảnh khảnh thoăn thoắt đi về phía nó . Cùng sẻ chia hoạn nạn suốt gần một tháng qua, Linh Lan không khó khăn mấy để nhận ra đó chính là Phan Văn Lân . Gương mặt thư sinh của anh nghiêm nghị, đôi mày kiếm chau lại với nhau, rõ ràng anh không hài lòng khi thấy nó bất chấp lời đại phu, lại một lần nữa thẩn thơ ngoài vườn.

Quay người bỏ chạy, nhưng chỉ với vài bước chân là Phan Văn Lân đã bắt kịp Linh Lan . Anh túm lấy tay nó, rồi cúi người xuống, cõng nó lên lưng trước khi nó nhận thức ra được điều gì . Tính mở miệng bắt anh thả xuống, Linh Lan đã vội ngưng lại khi nhận ra anh không cõng nó về phòng, mà lại rẽ ngoặt hướng khác, thẳng bước . Bụng vô cùng thắc mắc vì hành động bất thường ấy, Linh Lan níu áo anh, hỏi với giọng ngạc nhiên.

- Này Lân! Anh đưa tôi đi đâu vậy?

- Đến lầu Quyển Bồng!

- Hả? Đến đó làm gì?

- Hoàng thượng cần hỏi cô về chuyện bản đồ ở Gia Định . Mấy ngày qua do bận việc quân, cộng thêm cô bị thương tật thế, người vẫn chưa vời cô sang phủ để hỏi được . Nay cô đã khỏe mạnh thì người muốn gặp cô để hỏi rõ hơn về chuyện bản đồ, cùng như những gì cô đã nhìn thấy ở Gia Định vừa qua.

- Khoan đã! Anh nói lại coi, anh vừa nói tôi khỏe mạnh, đúng không? Tức là anh cũng biết tôi đã khỏe mạnh, đúng không?

Phan Văn Lân không trả lời, điều đó làm Linh Lan vô cùng tức giận . Rõ ràng đã biết nó khỏe mạnh, thế mà vẫn ép nó nằm trên giường, không được đi đâu suốt thời gian qua . Rõ ràng đã biết nó khỏe mạnh, thế mà Văn Bình vẫn chưa hề vào thăm nó lấy một lần, từ khi nó trở về Quy Nhơn . Một suy nghĩ ập đến trong đầu Linh Lan, nó mím môi, đấm vào vai Phan Văn Lân, lạnh lùng.

- Thả tôi xuống! Yêu cầu anh thả tôi xuống.

Phan Văn Lân dừng lại, im lặng, rồi thả lỏng vòng tay . Không cần Phan Văn Lân phải ngồi xuống, Linh Lan quẫy mạnh và nhảy xuống . Nó thở gấp khi vết thương trên vai bị động, đau nhói, nhưng điều đó vẫn chưa là gì so với điều mà nó đang nghĩ hiện giờ.

- Hoàng thượng đang đợi cô, chúng ta đi nhanh thôi.

- Nói cho tôi biết, có phải vì bên các anh nghĩ tôi là gián điệp của Nguyễn Ánh cài vào, nên mới lấy lý do tôi bị thương mà ép tôi nằm một chỗ trong Hoàng đế thành, không được đi bất cứ đâu, không được trở về nhà, không được vào đội nữ binh . Các người giữ tôi lại để giám sát tôi, theo dõi tôi có đúng không? Nếu thế thì ngay cả anh ta, ngay cả anh ta cũng...

Linh Lan chỉ nói được đến đó rồi nghẹn lại . Nó mím môi, ngăn không cho cơn xúc cảm trào dâng qua mi mắt, vì những gì mà người ta đã đón tiếp nó sau khi nó bị thương chí mạng trở về đây . Thở một hơi dài, Phan Văn Lân vươn tay ra, tính bóp nhẹ bờ vai của nó để động viên, nhưng đến phút cuối anh ngừng lại, rồi lặng lẽ thu tay về . Quay mặt nhìn về hướng phủ Tây Sơn vương ẩn hiện sau hàng cây rợp bóng, Phan Văn Lân dịu giọng.

- Không phải thế! Hoàng thượng chưa bao giờ cho cô là gián điệp, chúng tôi cũng thế, cả Long Nhương tướng quân cũng thế.

- Vậy thì tại sao anh ta vẫn chưa đến thăm tôi? - Linh Lan ngẩng đầu lên, đôi mắt đen long lanh, nét mặt hiện rõ bồn chồn.

- Linh Lan, cô có biết phu nhân của tướng quân vừa mới mất không?

Giọng nói của Phan Văn Lân nhẹ tênh như hơi thở, nhưng lại chẳng khác nào tiếng sấm động bên tai Linh Lan . Nó đứng lặng, môi mấp máy, mắt sững lại, mãi mà chẳng thốt nổi câu nào . Phu nhân của Long Nhương tướng quân vừa mới mất . Người phụ nữ đôn hậu, dịu dàng mà nó nhìn thấy đã mất . Vợ của Văn Bình đã mất . Sao lại thế? Sao lại như thế?

- Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, thể trạng Phạm phu nhân (*) rất yếu ớt, bệnh tật liên miên . Sợ không nuôi được con, lại nghe nhà họ Phạm kế bên rất có kinh nghiệm trong việc chăm sóc và dạy dỗ con cái, bằng chứng là đứa nào cũng khỏe mạnh, không hề có bệnh tật hay đau ốm gì, gia đình Bùi công mới đem phu nhân qua nhờ nhà bên ấy nuôi hộ . Sau này khi đón con về, vì cảm kích ơn dưỡng dục ấy, gia đình Bùi công đã để phu nhân theo họ Phạm . Phạm phu nhân từ nhỏ thể chất đã yếu ớt, lại hay bệnh tật, may nhờ gia đình họ Phạm nuôi dưỡng nên mới lớn lên như bao người bình thường khác, nhưng tiếc là cuối cùng cũng không thể thoát khỏi ý trời...

Phan Văn Lân ngậm ngùi . Anh nói đến đó rồi im lặng, làm Linh Lan sốt ruột, hỏi dồn.

- Tại sao vợ... à không, Phạm phu nhân lại mất?

- Khi sinh công tử và tiểu thư, Phạm phu nhân bị băng huyết, do đó đã mất ngay sau khi sinh . Ngày đưa phu nhân đến nơi an nghỉ, tướng quân đã đứng yên lặng rất lâu, mãi khi chiều tối mới trở về phủ, trông thần sắc người vô cùng mệt mỏi . Linh Lan, sau khi Phạm phu nhân qua đời ba hôm, thì chúng ta trở về Quy Nhơn, khi đó tướng quân đã đến thăm cô.

- Sao? Văn Bình có đến thăm tôi sao?

- Phải! Tướng quân có đến thăm cô, nhưng vì lúc ấy cô đang ngủ nên người không cho tôi đánh thức cô dậy . Cũng như Phạm phu nhân, người đứng yên lặng bên cạnh cô, rất lâu, sau đó mới trở về phủ mà không căn dặn một lời nào.

Linh Lan im lặng, nó nghe mắt cay cay khi Phan Văn Lân hé lộ chuyện xảy ra trong thời gian qua . Vợ Văn Bình mất, hai đứa con còn chưa mở mắt nhìn đời mà đã thiếu vắng tình mẫu tử . Văn Bình mất mát lớn thế mà nó không biết, lại còn vô tâm giận anh đã không đến thăm nó, rồi lại trách anh hết lời vì tưởng anh đã quên mình . Trong khoảnh khắc đó, Linh Lan cảm thấy hối hận, vô cùng hối hận vì đã ích kỷ như thế, chỉ biết chăm chăm lo cho bản thân mình mà không nghĩ tới anh . Thẫn thờ một lúc lâu, Linh Lan ngước nhìn Phan Văn Lân, đôi mắt nó long lanh.

- Văn Bình bây giờ thế nào?

- Tôi không biết! Mấy ngày qua tôi phải phụ trách huấn luyện đám tân binh để tiến quân vào Gia Định sắp tới . Thôi! Chúng ta đi nhanh lên, đừng để Hoàng thượng đợi lâu.

Chẳng buồn gặng hỏi thêm điều gì, Linh Lan lẳng lẽ bước theo Phan Văn Lân mà lòng ngổn ngang trăm mối . Vợ Văn Bình đã mất, người phụ nữ dịu dàng mà nó đã thấy hôm nào ở Hoàng đế thành nay đã không còn . Đối với mất mát lớn như thế, không biết bây giờ tâm trạng Văn Bình ra sao? Linh Lan cảm thấy lo lắng . Mọi người ráo riết chuẩn bị cho lần ra quân này, chắc chắn Văn Bình phải dẹp tình riêng qua một bên để hướng đến việc chung . Nhưng đang lúc tâm trạng bất ổn, căng thẳng, liệu anh có bình tĩnh được không, hay là lại lao vào làm việc quần quật, không cho mình phút thảnh thơi vì sợ sẽ nhớ lại những chuyện đau lòng . Linh Lan cảm thấy thương cho Văn Bình, thật sự rất thương anh . Truớc đây học trên ghế nhà trường, sử sách và thầy cô vẫn luôn ca ngợi Quang Trung hoàng đế lên đến tận mây xanh . Nào là vị anh hùng áo vải, vượt lên trên tất cả vì ước mơ, hoài bão, phất cờ khởi nghĩa để đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, thế nhưng họ lại quên rằng cho dù là một vị anh hùng tài trí đến đâu, hiên ngang đến đâu, Quang Trung trước hết cũng chỉ là một con người . Là một con người thì cũng biết yêu, biết hận, biết mệt mỏi và ưu phiền như chúng ta mà thôi.

Do vừa đi vừa suy nghĩ, lầu Quyển Bồng dần hiện ra trước mắt Linh Lan từ lúc nào không hay . Đứng yên bên ngoài, đợi cho tên lính canh cửa vào trong bẩm báo trước, rồi Phan Văn Lân mới cùng Linh Lan bước vào khi Thái Đức hoàng đế đã cho phép . Ngự trên sập là một người đàn ông cao lớn, chính là Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc . Ông khoác áo bào màu vàng, oai nghiêm, gương mặt khắc khổ, da nâu đỏ như đúc đồng, tay vuốt chòm râu đen nhánh, mắt đang lướt trên tấm bản đồ Gia Định của Linh Lan và một tấm bản đồ của ông . Ngồi bên trái Nguyễn Nhạc chính là tiết chế Nguyễn Lữ . Gương mặt ông lúc nào cũng đăm chiêu như đang bận tính chuyện gì đó, vóc người vạm vỡ, mặc chiến bào, ngồi trên một chiếc ghế bọc nệm, có vẻ không thoải mái lắm với mùi nhang trầm của bát hương cháy dở trên bàn . Lần đầu tiên gặp Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ, lẽ ra Linh Lan sẽ chú ý hai ông hơn, nếu như không nhìn thấy người thứ ba đang ngồi bên tay phải Nguyễn Nhạc, đó chính là Văn Bình.

Không nghĩ sẽ được gặp Văn Bình ở đây, nét mặt Linh Lan không giấu được vui mừng . Mọi lo âu khi nãy đều tan biến . Nó muốn gọi tên anh nhưng lại không thể, vì đây chẳng phải phủ Long Nhương, và không gian xung quanh không phải chỉ có hai người . Yên Lặng nhìn Văn Bình, Linh Lan không biết nó có nhạy cảm quá không khi hôm nay thấy Văn Bình hơi là lạ . Lúc nó đặt chân bước vào, Văn Bình đang nhìn tấm bản đồ trải trên trường kỷ mà không ngẩng đầu lên, tựa như đang chăm chú lắm . Đến khi Phan Văn Lân vòng tay khấu chào cả ba người thì anh mới nhìn lên, lướt qua nó . Vâng! Chính xác là lướt qua nó . Cứ như rằng nhìn Phan Văn Lân thì tiện thể lướt sang nó, rồi lại cuối xuống, mảy may như không có chuyện gì xảy ra, làm nụ cười trên môi nó tắt phụt . Dù biết Văn Bình hiện thời đang ưu phiền vì Phạm phu nhân vừa qua đời, dù biết anh đang tập trung vào kế hoạch tiến quân sắp tới, nhưng có cần phải lạnh lùng tới mức không biểu lộ cảm xúc gì ngoài cái nhếch môi khinh bạc, làm cho nó thấy mình như một con ngốc hay không?

- Linh Lan! Cô có nghe Hoàng thượng nói gì không?

Do đang mãi để tâm đến thái độ khó hiểu của Văn Bình, Linh Lan giật mình khi Phan Văn Lân nhắc nhở . Phải rồi, ban nãy hình như Thái Đức hoàng đế có nói gì đó với nó, nhưng nó không nghe rõ . Đưa mắt nhìn Nguyễn Nhạc, Linh Lan bối rối vì sự vô ý đó . Dù không muốn đổ tội cho hoàn cảnh nhưng Linh Lan không còn cách nào khác, nó đành lấy bệnh tình của mình ra làm bia đỡ đạn, mà thực tâm chẳng muốn chút nào.

- Do vẫn còn bị vết thương ảnh hưởng nên dạo này đầu óc thần không được tập trung lắm, xin Hoàng thượng thứ lỗi . Chẳng hay ban nãy người đã nói gì, có thể rộng lượng nhắc lại cho thần biết hay không?

Nghe câu trả lời của Linh Lan, Nguyễn Nhạc nhướng mày lên, ông mỉm cười, tõ rõ sự hài lòng khi Linh Lan lễ phép đáp lại . Dù đã chính thức lên ngôi vương, xưng là Thái Đức hoàng đế, thế nhưng Nguyễn Nhạc vẫn không quên nguồn gốc xuất thân nông dân của mình . Trong sâu thẳm, ông vẫn còn có chút gì đó mặc cảm, tự ti, nhưng bên cạnh đó cũng có một chút kiêu hãnh, quyền thế khi đang ngồi trên ngai vương, ngự trong khuôn viên xinh đẹp của Hoàng đế thành, tiền thân trước kia là thành Đồ Bàn . Chính vì ai ai cũng xuất thân nông dân, bá quan văn võ trong triều cũng là nông dân không quen lễ nghĩa, nên triều đình của ông là triều đình nông dân, phải mất một thời gian ông mới tập được cho họ thói quen đi đứng, bẩm báo có phép tắc chứ không xộc vào, nói cười tự nhiên như trước kia . Dưới sự cố vấn của thầy giáo Hiến, khi phổ biến lại những quy tắc tối thiểu trong cung đình, ông biết rằng thay đổi một người trước nay luôn hào sảng, nói cười tự do, như ông chẳng hạn, quả thật rất khó . Chính vì cảm thấy những phép tắc, lễ nghi cung đình quá khuôn khổ và rườm rà, ông đã bỏ dần đi, chỉ lưu lại những quy tắc cần thiết cho một triều đình, chứ không bày vẽ long trọng như trước kia, bởi ông thấy nó chương chướng và đối chỏi với nguồn gốc của mình.

Cô gái này do Bùi công nhận nuôi, cũng tức là em vợ của Nguyễn Huệ . Cô ấy đã giúp đứa em tài năng của ông đoạt được thanh Ô Long đao huyền thoại, thế nên Nguyễn Nhạc có chút lưu tâm đối với cô gái này . Vóc dáng nhỏ nhắn, đôi mắt đen láy lấp lánh, đầu ngẩng cao tự tin và lời lẽ nhún nhường đủ mức cần thiết, không làm ông thấy buồn cười như Bùi Văn Nhật, khi cứ một "bệ hạ" hai "hạ thần" kiểu cách quá mức . Có phải chính vì thế mà em trai ông mới đặc biệt quan tâm đến cô gái này hay không?

- Ta hỏi cô sống trong Hoàng đế thành cảm thấy thế nào? Có tốt như lúc ở Bùi gia hay không? Vết thuơng có để lại di chứng gì hay không?

Mỉm cười khi Nguyễn Nhạc tỏ ra quan tâm mình, hay có lẽ đối với ai ông cũng ân cần như thế, Linh Lan nhỏ nhẹ.

- Nếu không nằm hoài một chỗ lâu đến thế, thì thần sẽ cảm thấy khỏe hơn . Trong Hoàng đế thành rất tiện nghi, nhưng thần vẫn thích ở Bùi gia hơn vì không đâu thoải mái bằng nhà mình . Vết thương của thần đã hoàn toàn lành lặn, ngoài một vết thẹo trên lưng thôi ạ . Cám ơn Hoàng thượng đã quan tâm, thần rất cảm kích.

Thấy Linh Lan ăn nói không biết kiêng dè, Phan Văn Lân tái mặt, nhưng Nguyễn Nhạc thì lại cười ha hả vì câu trả lời vừa khen vừa chê của nó . "Cám ơn" chứ không "đội ơn", điều đó làm Nguyễn Nhạc dễ chịu hơn vì ít ra cô gái này rất thẳng thắn, không hề xu nịnh ông như bọn quan thần thường ngày . Vuốt ve tấm bản đồ vấy máu, Nguyễn Nhạc mỉm cười.

- Cô có biết vì sao hôm nay ta cho gọi cô đến không?

- Thưa biết, là vì tấm bản đồ kia, phải không ạ?

- Tốt! Cô lại gần đây, đừng đứng xa thế ta nghe không rõ . Ta muốn cô nói rõ hơn về những gì cô đã thấy và đã vẽ trong tấm bản đồ này.

Hơi ngần ngừ một chút, nhưng Linh Lan vẫn tiến về phía Nguyễn Nhạc . Nó liếc về phía Văn Bình và thấy anh vẫn đang nhìn tấm bản đồ, tựa như không chú ý đến nó . Không hiểu sao, Linh Lan chợt thấy nhẹ nhõm . Nó xin phép Nguyễn Nhạc xoay tấm bản đồ về phía mình, và ôn lại tất cả những gì nó đã chứng kiến ở Gia Định, rồi chỉ tay vào những ghi chú trên tấm bản đồ, nhẹ nhàng.

- Đây là nơi Nguyễn Ánh ở . Còn đây là hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư, được Nguyễn Anh tập trung binh lực và trang bị kỹ càng nhất . Địa hình ở Gia Định thế nào, thần thiết nghĩ Hoàng thượng rõ hơn thần nên thần không cần phải nói . Từ chỗ Nguyễn Ánh, đi thẳng ra bến thuyền, sau đó lại tiếp tục lên thuyền ra hai đồn ấy . Trên khúc sông Tân Bình, đồn Giác Ngư và đồn Thảo Câu là hai đồn khá lớn, chúng nằm đối diện nhau và tuần tra hết sức kỹ càng . Trên bờ từng tốp lính đi lại rầm rập, gươm giáo sáng lóa, dưới nước thuyền chen chúc cả hàng dài, đặc kín cả lối.

Linh Lan nói dứt, nó im lặng, để cho Nguyễn Nhạc suy nghĩ về những thông tin nó vừa cung cấp . Đôi lông mày rậm rạp của Nguyễn Nhạc chau tít lại, tay không ngừng bóp trán theo thói quen khi phải cân nhắc điều gì . Dậm chân tại chỗ suốt mấy tháng qua, gián điệp trong Tây Sơn không thể biết được chút gì về kế hoạch phòng thủ ở Gia Định, vì Nguyễn Ánh quá kín đáo, thế nhưng không ngờ, cô gái này sau khi ở Gia Định về lại mang đến thông tin quan trọng như thế . Nghe Linh Lan báo cáo sơ qua, Nguyễn Nhạc đã có thể nắm được tình hình Gia Định như thế nào . Ngoài đồn Bến Nghé ở phía nam thành và đồn Thị Nghè ở phía bắc thành, là hai đồn lớn nhất và đã xây đắp từ lâu, Nguyễn Ánh tập trung xây dựng hai đồn mới, đó là đồn Giác Ngư và Thảo Câu, với quy mô không kém gì hai đồn lâu năm kia . Không khí trong phòng im phăng phắc, chỉ nghe tiếng thở mạnh của Nguyễn Lữ và tiếng nến nhỏ xèo xèo .

Linh Lan nhìn đăm đăm vào tấm bản đồ mà nó đã cố gắng vẽ khi ở Gia Định . Những dấu máu do vết thương trên vai nó dây vào nay đã khô lại, đen sẫm thành từng vệt dài, làm Linh Lan rùng mình . Mỗi khi nhớ đến buổi tối kinh hoàng đó, Linh Lan vẫn chưa hết sợ . Nó mừng vì mình vẫn còn sống khi bị lãnh một mũi tên chí mạng, sút chút nữa là về chầu ông bà...

- Đây là cái gì?

Đang chìm trong hồi tưởng, Linh Lan giật bắn mình khi giọng nói lạnh tanh của Văn Bình đột ngột cất lên . Cố trấn tĩnh để không quay người lại, do dư âm của cơn giận ban nãy, Linh Lan vội vịn tay vào mép bàn khi biết Văn Bình đang đứng phía sau lưng nó, và khoảng cách của hai người rất gần . Chính vì khoảng cách sát sao ấy, Linh Lan chợt ngửi thấy một mùi hương từ người Văn Bình . Mùi hương này nhẹ nhàng, thoang thoảng, đến nỗi sẽ chẳng nhận ra nếu như nó không đứng gần anh như thế này.

- Chỗ nào?

Linh Lan lạnh lùng hỏi lại, lòng chợt thấy lạ vì Văn Bình lúc nào cũng đứng trước mặt nó, mỉm cười, chứ không bao giờ xuất hiện đột ngột sau lưng, khiến nó bối rối thế này . Không biết nó đang bối rối, hay biết mà anh làm ngơ, Văn Bình đột ngột vươn tay ra, vòng qua vai nó, chỉ vào những bó cỏ mà nó vẽ nghệch ngoạc trên bản đồ . Vành tai của nó nóng ran khi hơi thở của anh thoang thoảng mùi hương lạ lùng, mơn man trên má, càng khiến cho nó bối rối hơn.

- Đó là ký hiệu rơm rạ, điều mà tôi luôn nghi vấn khi ở Gia Định . Không hiểu vì sao, ở hai đồn Giác Ngư và Thảo Câu lại chất đầy rơm rạ, nhưng lại không có một con ngựa nào . Chưa hết, nghe Phan Văn Lân báo lại, chắc anh cũng biết Nguyễn Ánh đã mua một số lượng gỗ rất lớn từ các thương nhân, nhưng số gỗ đó lại chỉ là những khúc gỗ bình thường, không phải loại gỗ tốt để đóng thuyền . Đó là thắc mắc của tôi.

Linh Lan giải thích xong, nó không còn ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng đó nữa, thay vào đó là Văn Bình đang ngồi trước mặt nó, nhẹ và nhanh như một cơn gió . Không hiểu vì sao, thái độ của Văn Bình hôm nay rất lạ, cứ như một người hoàn toàn khác . Anh nhìn nó, môi phớt nụ cười, nhưng không ấm áp như thường ngày, mà là một nụ cười giễu cợt pha chút khinh bạc, tàn nhẫn một cách lạ lùng . Nụ cười đó khiến Linh Lan thấy bứt rứt, bụng dạ nôn nao khác thường . Né tránh ánh mắt của Văn Bình, Linh Lan không muốn ở lại đây thêm một giây một phút nào nữa . Nhìn Văn Bình, nó khó chịu lắm, vô cùng khó chịu vì sự xa cách thăm thẳm đó . Vòng tay khấu chào Nguyễn Nhạc, khó khăn lắm nó mới thốt thành lời.

- Thưa hoàng thượng, sau thời gian ở Gia Định, người có thể cho thần bày tỏ đôi lời được không?

- Được! Cô cứ nói!!

- Vâng! Thần chỉ muốn nói một chút về Nguyễn Ánh . Thần ở Gia Định trong suốt thời gian qua, cho nên thần có thể biết được đôi chút tính cách anh ta thế nào . Theo đánh giá chủ quan của thần, Nguyễn Ánh là một người rất tự tin, có tài đoán trước đường đi nước bước của đối phương, đặc biệt là rất thận trọng . Khi đưa thần tới thăm đồn Giác Ngư và Thảo Câu, anh ta chỉ cho thần nhìn bên ngoài, chứ không được phép đi sâu vào bên trong vì hai đồn ấy là chiến lược trong kế hoạch phòng thủ lần này . Để cho thần biết thông tin cơ mật đó, nhưng chẳng may cho anh ta là thần thoát được, vậy tất nhiên anh ta biết kế hoạch phòng thủ ấy đã bị lộ ra . Thần không biết anh ta suy nghĩ thế nào, nhưng đổi lại, nếu thần là anh ta, một khi hai đồn quan trọng của mình bị phát hiện, chắc chắn anh ta sẽ dời phòng thủ lên hai đồn khác, còn Thảo Câu và Giác Ngư vẫn sẽ phòng thủ nhưng không còn là chiến lược như trước . Ta có thể tiến quân ồ ạt, đánh nhanh chiếm gọn hai đồn đó, dùng chúng làm bàn đạp để tấn công vào Gia Định . Đó là ý kiến chủ quan của thần.

Sau khi Linh lan trình bày xong, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ cùng im lặng, để kiểm nghiệm lại những gì Linh Lan vừa nói. Không thể chờ đợi câu trả lời của hai người thêm một giây một phút nào nữa, Linh Lan vòng tay chào Nguyễn Nhạc, giọng nói nhẹ tênh.

- Thưa Hoàng thượng, thần thấy không được khỏe, xin người cho phép thần được lui.

Thấy gương mặt Linh Lan nhợt nhạt, Nguyễn Nhạc tin ngay lời nó . Ông khoát tay cho Linh Lan trở về phòng, rồi sau đó trở lại cùng Văn Bình, Nguyễn Lữ nghiên cứu tấm bản đồ và bàn thảo kế sách . Được Nguyễn Nhạc cho về, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm, nó nhanh chóng quay đi, cố trấn áp cảm giác buồn nôn đang cồn cào trong người . Nhìn bước chân Linh Lan loạng choạng, Phan Văn Lân định tiến đến cạnh nó, dìu nó trở về phòng rồi quay trở lại lầu Quyển Bồng, nhưng sau đó anh vội ngừng lại khi Văn Bình đột ngột đứng lên, mỉm cười lạnh lùng.

- Ta sẽ đưa cô ta về . Ngươi ở lại đây.

Chú thích

(*) Phạm phu nhân : Phạm Thị Liên

Giải thích chút xíu về chuyện của bà Phạm Thị Liên. Trong rất nhiều tài liệu sử sách đã ghi lại rằng, Phạm Thị Liên là em gái cùng mẹ khác cha của Bùi Đắc Tuyên, nói tóm lại, đối với dòng họ Bùi mối liên hệ của bà là rất ít . Xét về cái thuyết cùng mẹ khác cha, thật sự Thủy Thành thấy nó rất khó đứng vững .

Xét theo thuyết Phạm Thị Liên là Chính cung hoàng hậu của vua Quang Trung thì bà được phong Chính cung vào tầm khoảng 30 tuổi, khi đó, Bùi Đắc Tuyên đã phải hơn lục tuần . Hai anh em mà lại chênh nhau hơn 30 tuổi, lại còn là khác cha, cùng mẹ . Chẳng lẽ có thể sinh con sau hơn 30 năm sao, lại còn là tái hôn rồi sinh con nữa . Thế nên thuyết này Thủy Thành không sử dụng mà thay đổi cho phù hợp hơn . Phạm Thị Liên trong fic là con của ông Bùi Đắc Lương, em ruột cùng cha, cùng mẹ của Bùi Đắc Tuyên luôn . Bà mang họ Phạm vì lý do mà anh Lân đã nói .

Đó là chút thay đổi của Thủy Thành, giải thích rõ để các bạn đọc tài liệu sẽ không thấy thắc mắc về sự sửa đổi này.

76.

Đi một mạch ra khỏi lầu Quyển Bồng, Linh Lan đi như chạy, nó không muốn phải nhìn thấy những gì làm cho nó thương tổn và đau lòng . Lâu ngày không gặp, Linh Lan đã có rất nhiều chuyện muốn nói với Văn Bình, nhất là khi biết Phạm phu nhân đã mất sau khi hạ sinh hai đứa con . Lúc đó, nó đã nghĩ rằng tâm trạng Văn Bình có lẽ rất phức tạp và ngổn ngang, ấy thế mà giờ gặp anh tại lầu Quyển Bồng, suy nghĩ đó lập tức trở thành một điều cực kỳ ngớ ngẩn . Văn Bình không có vẻ gì gọi là đau buồn, mệt mỏi hay tí chút tình cảm nào khi lướt qua nó, tất cả những gì nó thấy chỉ là sự lạnh lùng, giễu cợt tàn nhẫn . Chẳng lẽ thời gian có thể thay đổi tâm tính của con người, để khi gặp lại nhau sau mấy tháng, Văn Bình đã trở thành một người khác, một người xa lạ đối với nó.

Linh Lan nén tiếng thở dài vào lòng . Phải rồi! Làm sao nó lại có thể quên được chứ, Văn Bình là Nguyễn Huệ, là Long Nhương tướng quân, là Quang Trung hoàng đế, còn nó, nó chỉ là một cô gái bình thường trong đội nữ binh, không có quyền hành, không thể giúp anh bất cứ việc gì . Khoảng cách của cả hai quá xa, thân phận của cả hai quá chênh lệch, cho dù có thân thiện đến đâu, có cởi mở đến đâu thì khoảng cách đó muôn đời vẫn không thể thay đổi, thử hỏi sao anh có thể tự nhiên với nó như bạn bè . Thế cũng tốt! Anh giữ khoảng cách với nó cũng tốt, lạnh lùng với nó cũng tốt . Nếu quá thân mật, gần gũi chỉ thêm nhiều tin đồn thất thiệt không hay cho cả hai, nhất là trong hoàn cảnh Phạm phu nhân vừa mới mất như hiện nay...

Linh Lan chợt mỉm cười, một nụ cười buồn . Dù đã tự bào chữa cho thái độ xa cách của Văn Bình, nhưng khi nhớ đến những ngày tháng xưa, lúc anh và nó vui vẻ với nhau, cùng ngắm hoàng hôn lặn trên cánh đồng hoa vàng nay sẽ không còn nữa, thay vào đó là kẻ trên người dưới như bao người bình thường khác, Linh Lan lại thấy nao nao . "Nếu phải đi trở lại, tôi lại đi đường này" . Nếu đây là con đường mà anh đã chọn đối với nó, Linh Lan không có quyền hành gì để can thiệp, và cũng không có gì để phải lưu luyến hay tiếc nuối nữa . Ấy vậy mà, không hiểu sao khi nghĩ đến một mai, nó và Văn Bình trở nên xa lạ, Linh Lan lại buồn buồn, bởi vì nó biết rằng nơi bình yên nhất trong chốn quá khứ này của nó, từ nay có lẽ sẽ không còn...

Có tiếng bước chân giẫm nhẹ lên những viên đá cuội phía sau nhưng Linh Lan chẳng buồn quay đầu lại . Nó đang muốn yên tĩnh một mình và không muốn gặp ai, nhất là khi tâm trạng không được tốt như thế này.

- Tôi ổn mà! Anh không cần phải theo hộ tống tôi về đâu, Lân!

Không có tiếng trả lời, chỉ có sự im lặng hiện hữu, nhưng tiếng bước chân vẫn vang lên phía sau lưng, vọng rõ mồn một vào tai Linh Lan như đang giễu cợt . Quay phắt người lại, gương mặt chằm hăm của Linh Lan chợt giãn ra, ngạc nhiên khi nhìn thấy người đang đi phía sau chính là Văn Bình, chứ không phải là Phan Văn Lân . Trong giây phút ấy, mắt Linh Lan lấp lánh niềm vui . Văn Bình đã đuổi theo nó? Phải chăng anh thấy áy náy vì thái độ khi nãy của mình? Chợt thấy vui vui vì ý nghĩ đó, Linh Lan tuy không dừng chân nhưng lại cố ý đi chậm lại, để chờ Văn Bình đuổi kịp, cùng đi sóng đôi với mình.

Ngay khi nó vừa đi chậm lại, Văn Bình có vượt lên như nó nghĩ thật, nhưng lại không đi sóng đôi mà vượt qua trước mặt nó cả khoảng . Chiếc áo bào rực rỡ bay phần phật, đỏ như ánh hoàng hôn buổi chiều tà trên cánh đồng hoa vàng hôm nào . Chưng hửng vì không nghĩ Văn Bình sẽ đi trước, Linh Lan mím môi, nó do dự đôi chút rồi tăng tốc, đuổi theo Văn Bình khi thấy anh rẽ về hướng phủ Long Nhương . Rốt cuộc là chuyện gì? Tại sao Văn Bình lại như thế? Tại sao lại hờ hững với nó như thế? Dù đã suy nghĩ thông suốt rằng hoàn cảnh phải thế, nhưng Linh Lan thật sự không thể làm chủ được mình khi thấy Văn Bình lạnh lùng, thờ ơ . Nó đuổi theo anh, bất chấp vết thương đang nhoi nhói để hỏi cho rõ nguồn cơn, bởi nó nhất định sẽ không thể chịu được khi câu hỏi của nó chưa có lời giải đáp, hay im lặng chấp nhận vì đó coi như chuyện đã rồi.

- Văn Bình! Anh dừng lại một chút được không? Tôi có chuyện muốn hỏi anh

Rõ ràng nó đã gọi to, rất to, không chỉ một lần mà còn lần hai, lần ba, thế nhưng Văn Bình vẫn không dừng chân lại . Anh vẫn đi như thể chưa nghe thấy bất cứ gì . Lòng đã bắt đầu bức bối, Linh Lan tăng tốc, chạy thật nhanh về phía Văn Bình . Nó nắm được vạt áo của anh khi anh đang đẩy cửa, tính bước vào phòng.

- Anh đứng lại đó.

Xoay lưng về phía Linh Lan, Văn Bình vẫn để tay lên cánh cửa . Khi nó vừa nói dứt, Văn Bình đẩy tung cửa, khiến cánh cửa rên rỉ cọt kẹt vì lực đẩy của anh không hề nhẹ nhàng . Vẫn đứng yên tại chỗ, Văn Bình thong thả quay nghiêng đầu lại, cất giọng thản nhiên, mà với góc độ thế thì anh sao có thể thấy được sự giận dữ đang tuôn trào qua khóe mắt của nó như lúc này.

- Chuyện gì?

Vẫn là cái giọng lạnh lùng, pha chút giễu cợt như khi ở trong lầu Quyển Bồng, điều đó làm Linh Lan không thích chút nào.

- Văn Bình, hôm nay anh rất lạ, không giống như thường ngày . Tôi biết anh không hài lòng chuỵên tôi tự ý đào ngũ, rời Quy Nhơn đến Gia Định, nhưng đó chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì tôi cần phải xác minh một chuyện rất quan trọng chứ không hề muốn thế . Nay tôi đã trở về, anh có gì không thích cứ nói thẳng . Tôi đã nói tôi không phải gián điệp do Nguyễn Ánh phái đến, cũng không thám thính tình hình trong Tây Sơn cho bất cứ ai, nếu anh nghĩ như thế thì tôi rất giận, bởi đó không phải những gì tôi muốn làm.

- Thế cô muốn làm gì, Linh Lan?

Không biết có phải nó nhạy cảm quá mức hay không, nhưng hai tiếng Linh Lan từ miệng Văn Bình thoát ra rất chậm rãi và sắc lạnh . Từ trước tới nay, Văn Bình chưa bao giờ gọi thẳng tên nó, chỉ đơn thuần là "ớt nhỏ", biệt danh của nó do anh đặt cho vì cá tính không chịu thua bất cứ ai . Nay nghe Văn Bình lần đầu tiên gọi tên, Linh Lan có cảm giác lạ lẫm, sờ sợ, lo âu, mà không cắt nghĩa được rốt cuộc cảm giác ấy vì sao mà thành hình . Ngần ngừ mãi trong mớ cảm xúc hỗn độn, Linh Lan không trả lời . Từng ngón tay của nó thả lỏng, để cho vạt áo đỏ trôi qua kẽ tay của mình, trơn tuột, ram ráp, mà không níu kéo lại gì.

Văn Bình bước vào phòng, từng bước chân của anh nhẹ thênh . Tiến về phía góc phòng, nơi hai bà nhũ mẫu đang ngồi chăm nom cho hai đứa trẻ sơ sinh một cách cẩn thận, Văn Bình khoát tay, ra hiệu cho hai bà nhủ mẫu ra ngoài . Chỉ còn lại một mình trong phòng, Văn Bình vịn tay vào chiếc nôi đan bằng mây, đứng lặng yên, gương mặt lạnh như tạc tượng chìm trong bóng tối, che phủ đôi mắt bàng bạc, mơ hồ . Lướt mắt qua hai đứa bé nằm ngủ trong nôi, khoảnh khắc ấy, nét mặt Văn Bình dần thay đổi . Có gì đó như là cay đắng, tàn nhẫn, pha lẫn một chút xót thương và một chút khinh bạc, giễu cợt . Tất cả những cảm xúc ấy hòa quyện vào nhau, tạo thành một thứ cảm xúc hỗn mang, không nói thành lời nhưng nhanh chóng biến mất . Rất nhanh, gương mặt anh hoàn toàn tĩnh lặng, trở về nét mặt lạnh lùng cố hữu như ban đầu . Do đứng xoay lưng về phía Linh Lan, nên Linh Lan không thể biết được cảm xúc của Văn Bình khi ấy, nhưng khi nhìn thấy hình ảnh anh đứng chơi vơi bên hai chiếc nôi, sự bực bội trong lòng nó dịu lại . Níu lấy tay một bà nhủ mẫu, Linh Lan chỉ vào phía trong, thì thầm.

- Bà ơi! Cho con hỏi, hai đứa bé nằm trong nôi là...

Nhướng mày nhìn Linh Lan từ đầu đến chân, bà vú già tỏ ra lạ lẫm, nghi hoặc vì không biết nó là ai mà lại có mặt ở đây . Đọc được dấu hỏi trong đôi mắt già nua in đậm vết chân chim, Linh Lan nhỏ nhẹ trả lời.

- Con là Linh Lan, em gái của Phạm phu nhân, em vợ của tướng quân ạ.

Nghe Linh Lan giới thiệu thân phận, người vú già không nói gì . Bà trầm tư một lúc lâu rồi gật đầu khi nhớ đến cô gái mà gia đình Bùi công mới nhận nuôi, qua lời kể của chủ nhân bà - Phạm phu nhân.

- Là quý công tử và tiểu thư của tướng quân . Thật đau lòng, đến bây giờ già vẫn cứ tưởng mọi chuyện chỉ là một giấc mơ . Phu nhân sinh con xong đã vội lìa đời, tiểu thư và công tử mới lọt lòng đã chịu cảnh mồ côi, thật là...

- Thế... Thế Văn... À... Tâm trạng tướng quân thế nào ạ?

Liếc mắt vào bên trong, bà nhũ mẫu bóp hai tay vào nhau, tỏ vẻ bồn chồn.

- Khi phu nhân mất, tướng quân ẵm công tử và tiểu thư trên tay, nét mặt vô cùng đau xót . Ngày nào người cũng tạt ngang qua thăm con, đứng yên lặng trước nôi rất lâu, không nói một lời, ánh mắt vô cùng buồn bã . Chỉ thế thôi, nhưng chúng tôi hiểu cái chết của phu nhân đã ảnh hưởng rất nhiều đối với tướng quân . Nhưng mà...

Bà vú già đang nói liền ngập ngừng, rồi khe khẽ liếc mắt vào bên trong, như để dò xem Văn Bình có nghe được những gì bà nói hay không . Sự bí hiểm, ngập ngừng ấy làm Linh Lan sốt ruột, nó hỏi dồn.

- Nhưng mà sao?

- Có lẽ già đã lớn tuổi rồi nên lẩm cẩm nhưng cách đây ít lâu, tướng quân đột nhiên rất lạ . Ánh mắt không sáng lấp lánh mà trở nên u tối, nụ cười không ấm áp mà trở nên rất tàn nhẫn, giọng nói không trầm ấm mà rất lạnh lùng, cứ như trở thành một người hoàn toàn khác vậy.

- Bà... nói sao?

Linh Lan hốt nhiên thở mạnh . Té ra không chỉ có nó nhận thấy vẻ bất ổn đó, mà ngay cả bà vú già này cũng nhìn thấy hay sao?

- Thật sự già cảm thấy thế . Mỗi khi tướng quân tạt ngang qua thăm công tử và tiểu thư, trông người rất lạ . Lúc trước tướng quân hay bế công tử và tiểu thư vỗ về, nhưng bây giờ thì không thế nữa . Người chưa chạm vào tiểu thư và công tử lần nào, thậm chí còn từ chối khi già bế con trao cho người.

- Có khi nào vì tâm trạng căng thẳng, mệt mỏi, cộng thêm công việc nhiều quá nên tướng quân mới trở nên như thế không?

- Già không biết? - Bà vú già ngập ngừng - Già chỉ cảm nhận thế thôi . Ôi! Theo phu nhân mười năm, có lẽ già đã lẩm cẩm thật rồi.

Bà vú già lẩm bẩm mấy câu trong miệng rồi tất tả bỏ đi, chuẩn bị sữa đem tới khi hai đứa bé thức giấc, bỏ lại Linh Lan đứng chôn chân một mình . Những tiết lộ của bà vú làm Linh Lan thât sự thấy rối rắm . Rốt cuộc là sao? Chuyện gì đã xảy ra cho Văn Bình? Chẳng lẽ cái chết của Phạm phu nhân đã gây ra cú sốc tâm lý nặng nề cho anh, khiến anh trở thành một con người hoàn toàn khác? Nghĩ đến đó, Linh Lan thấy lo lắng, nhưng đồng thời cũng nhẹ nhõm . Bà vú già cũng thấy, hay ít ra cũng có cảm nhận về sự thay đổi của anh như nó, điều đó lý giải cho việc anh xa cách nó là không đúng, việc anh muốn tạo khoảng cách giữa anh và nó vì quan hệ của đôi bên cũng không đúng . Sự lạnh lùng, xa cách ấy có lẽ là do tinh thần bất ổn, qua một thời gian chắc chắn sẽ bình ổn lại ngay thôi.

Linh Lan mỉm cười, nụ cười hiếm hoi của nó từ ngày trở về Quy Nhơn . Hít một hơi thật sâu, Linh Lan đặt chân vào phòng, nó tới đứng bên cạnh Văn Bình rồi đưa mắt nhìn vào trong nôi . Nằm trong nôi là hai đứa bé xinh xắn, được quấn trong một chiếc khăn màu vàng nhạt, đang nằm nhắm tịt mắt, ngủ ngon lành, trông rất đáng yêu . Nhìn hai đứa trẻ bé bỏng say giấc, Linh Lan chợt cảm thấy là lạ . Mai này khi đến tuổi, nó cũng sẽ lấy chồng, tốt nhất là lấy người mình yêu, rồi sau đó sinh cho người đó một đứa con, hay hai đứa, cũng sẽ bé bỏng và đáng yêu như thế này . Đến lúc ấy, cảm giác được làm mẹ sẽ như thế nào nhỉ? Cảm giác được ngắm những đứa con xinh xắn của mình say ngủ sẽ như thế nào nhỉ? Linh Lan thẩn thơ suy nghĩ, để rồi sau đó mặt đỏ hồng lên vì ý nghĩ quái lạ đó của mình.

- Văn Bình! Anh đặt tên cho con chưa?

Văn Bình không trả lời, Linh Lan cũng chả buồn hỏi thêm . Lại là mùi hương kỳ lạ ấy, Linh Lan nhủ thầm, nhưng vì đang cúi xuống ngắm nhìn hai đứa bé, nên nó chỉ thấy ngón tay anh gõ gõ lên thành nôi mà thôi.

- Anh chưa đặt tên thì tôi nghĩ giùm cho anh nhé . Xem nào, một nàng công chúa và một hoàng tử à . Để coi, con gái thì thường hay lấy tên Hân, Liễu, Thúy,... nhưng tôi chẳng thích mấy cái tên đó tẹo này . Mẹ bé vừa mất, vậy con gái sẽ tên Liên nhé, Ngọc Liên, sau này lớn lên sẽ xinh đẹp, dịu dàng như mẹ . Còn con trai, con trai thì... coi nào . Chà! Hồi đọc Người Thăng Long của Hà Ân, tôi rất thích ông Chiêu Minh vương Quang Khải và Hoài Văn hầu Quốc Toản, ghép lại tên hai người ấy là... Quang Toản . Quang Toản nhé! Hay không? Hay không?!

Linh Lan ngẩng đầu lên, cười khúc khích vì hai cái tên nó vừa mới nghĩ ra, nhưng nụ cười của nó chợt tắt ngóm khi Văn Bình đang cúi xuống nhìn nó, mỉm cười . Đôi mắt anh rất lạ, nó không sáng lấp lánh như mọi lần mà lại u tối, một màu u tối của vực thẳm, làm người khác lo lắng, bất an . Nó không còn ấm áp như ánh sáng của mặt trời hiền hòa khi soi vào biển cả, mà lại lành lạnh, tựa như hơi nước phảng phất của mùa đông . Nụ cười điềm nhiên, tự tại cũng đã biến mất, chỉ còn lại một nụ cười thờ ơ và vô tình đến đau lòng.

Anh...

Là Văn Bình thật sao?

Linh Lan thẫn thờ . Những lời bà vú già hiện rõ rệt trong đầu óc nó, nhức nhối, khó chịu hơn bao giờ hết . Không thể nhìn vào đôi mắt xa lạ, khiến người khác hoang mang ấy, Linh Lan vội cúi xuống, nó nhìn đăm đăm hai đứa bé đang ngủ, lòng tự hỏi đây có phải là một giấc mơ?

- Thanh kiếm đó đâu?

- Sao?

Linh Lan ngơ ngác hỏi lại, nhưng nó không nhìn lên vì sợ lại phải đối diện với đôi mắt ấy, đôi mắt đã làm nó đau lòng . Giọng nói đó không phải của Văn Bình, giọng nói không trầm, không làm nó ấm lòng, không làm nó cảm thấy yên tâm mỗi khi ở bên.

Câu hỏi của Linh Lan, Văn Bình không trả lời, anh rảo bước quanh phòng, lướt mắt nhanh một vòng như tìm kiếm điều gì . Cố không để ý gì đến Văn Bình nữa, nhưng có một mãnh lực vô hình nào đó buộc Linh Lan phải nhìn anh, phải quan sát theo từng hành động của anh . Văn Bình đang thong thả tiến lại chiếc bàn, anh rà tay vào các ống giấy cuộn tròn để trong chiếc bình sành cổ cao một cách chậm rãi, rồi lại nhìn thanh Ô Long đao giắt trên vách, môi phớt nụ cười lửng lơ, hờ hững . Sao lại cười? Linh Lan tự hỏi như thế khi thấy lúc dừng chân trước bất cứ đồ vật nào trong phòng, Văn Bình cũng mỉm cười . Chợt, anh quay đầu lại, nhìn nó, làm Linh Lan vội dời mắt xuống hai đứa bé, vờ chạm vào đôi má hồng hồng của đứa bé mà nó đặt tên Quang Toản, nựng nịu, ra vẻ như nãy giờ ta không quan tâm tới điều gì.

Chẳng biết Văn Bình có nhận ra sự lúng túng trên gương mặt Linh Lan hay không, chỉ biết anh từng bước tiến về phía nó, ung dung, nhưng lại tiềm ẩn một mối nguy hiểm mơ hồ nào đó, làm Linh Lan rối loạn . Văn Bình hôm nay và Văn Bình ngày trước cứ như là hai người chứ không phải một, từng hành động của anh đều bí ẩn, lạ lùng làm cho nó khó hiểu vô cùng . Mím môi khi bỗng ngửi thấy mùi hương nhè nhẹ, Linh Lan không cần quay lại cũng biết Văn Bình đang đứng sau lưng mình, đột ngột, lạ lùng như chính anh ngày hôm nay.

Vươn tay, vòng qua vai Linh Lan, cầm lấy một chiếc hộp bọc kỹ càng đặt trên kệ, Văn Bình tháo tấm vải bọc ra, để lộ bên trong một thanh kiếm sắt, cẩn một con rồng quấn quanh chuôi kiếm . Một tay chống lên tường, một tay nâng thanh kiếm ngang mặt Linh Lan, làm nó thấy ngờ ngợ vì thanh kiếm này sao ngó... quen quen, anh cất tiếng.

- Nó ở đâu?

- Cái... Cái gì ở đâu?

- Thanh kiếm...

Giọng nói của Văn Bình lạnh lẽo, không chút cảm xúc nào . Anh cúi xuống, thì thầm vào tai Linh Lan, chậm rãi từng lời.

- ... Ở đâu?

Trong phút chốc, vành tai Linh Lan nóng bừng lên vì sự va chạm nhẹ đó . Trấn tĩnh lại trái tim đập nhanh hơn thường ngày một nhịp, Linh Lan nói nhanh, hai tay nó bấu chặt vào vành nôi để làm chủ tình hình . Tuy không biết Văn Bình bây giờ thật ra đang nghĩ gì, tâm trạng có ổn định hay không, nhưng Linh Lan đang tự đặt mình vào giả thuyết nó vừa nghĩ thoáng qua trong đầu, đó là Văn Bình hôm nay và Văn Bình xưa kia là hai người, là hai người hoàn toàn khác nhau chứ không phải một . Điều đó làm nó dễ ứng phó hơn nhiều.

- Yêu cầu anh nói rõ ràng! Thanh kiếm nào? Úp mở như thế tôi không biết trả lời thế nào đâu.

Trước câu trả lời của Linh Lan, Văn Bình nhếch môi . Anh rà tay lên thanh kiếm rồi nhè nhẹ rút ra, để lộ lưỡi kiếm sắc bén, phảng phất một làn khói trắng vờn quanh, lung linh trong đôi mắt ngạc nhiên của Linh Lan . Rà tay theo lưỡi kiếm bàng bạc, đôi mắt u tối của Văn Bình lóe lên những tia sáng nhỏ bí ẩn, gương mặt anh như nhuộm một màu lạnh lẽo, hoàng tàn . Chợt, anh nghiêng tay, kề lưỡi kiếm lành lạnh vào cổ Linh Lan, khiến nó giật mình, biến sắc . Mỉm cười vì sự lúng túng của nó, Văn Bình cúi đầu xuống . Mái tóc anh lòa xòa trên vai nó, giọng nói chậm rãi lướt qua tai nó, hơi thở phả vào má nó, phảng phất sự đe dọa và nguy hiểm, khiến Linh Lan rùng mình.

- Một thanh kiếm mà cô đã tìm thấy trong chiếc rương cũ . Một thanh kiếm mà hắn ta đã choáng khi nhìn thấy nó.

Một tia sáng lóe lên trong đầu Linh Lan, những hình ảnh ký ức lần lượt tua qua trong đầu . Ngày nó gia nhập vào đội nữ binh, ngày nó lục tung chiếc rương vũ khí lên để chọn lựa cho mình một binh khí phù hợp nhất, cuối cùng nó cũng đã tìm được một thanh kiếm gọn nhẹ thích hợp cho mình . Nhìn đăm đăm vào thanh kiếm kề trên cổ, Linh Lan nuốt nước bọt một cách khó khăn . Nó đã nhận ra tại sao lại thấy quen thuộc với thanh kiếm này đến như thế . Đó là vì thanh kiếm mà nó đã tìm được giống hệt thanh kiếm này, nhưng tiếc thay nó đã bị Nguyễn Ánh tước mất thanh kiếm đó . Trải qua bao nhiêu chuyện, Linh Lan đã hoàn toàn quên bẵng thanh kiếm ấy, để rồi giờ đây nó mới sực nhớ ra khi nghe Văn Bình đề cập đến . Chẳng lẽ vì phát hiện ra việc nó không giữ được thanh kiếm, nên Văn Bình mới có thái độ này với nó sao?

- Thanh kiếm đó... Tôi đã bị Nguyễn Ánh lấy mất khi còn ở Gia Định . Nếu anh khó chịu vì việc đó thì tôi xin lỗi.

Nghe Linh Lan nói Nguyễn Ánh đã lấy mất thanh kiếm, Văn Bình nhướng mày, môi điểm một nụ cười thích thú . Ấn lưỡi kiếm vào cổ Linh Lan gần hơn một chút, Văn Bình rà nhẹ lưỡi kiếm trên cổ nó, chậm rãi, hệt như đang mài dao, khiến Linh Lan sợ hãi khi ngửi thấy mùi sát khí phảng phất đâu đây . Vội lấy tay chặn thanh kiếm lại trước khi Văn Bình vô tình "tặng" cho nó một vết thẹo trên cổ, Linh Lan nhỏ nhẹ từng lời.

- Văn Bình! Việc Phạm phu nhân qua đời, tôi biết đã ảnh hưởng đến anh rất nhiều, nhưng cho dù thế nào anh cũng không nên như thế . Trông chẳng giống anh thường ngày chút nào hết . Anh cứ như thế này thì tôi sẽ lo lắng lắm . Anh có bị bệnh chỗ nào, hay thấy không khỏe chỗ nào không?

- Thứ nhất! Việc cô ta chết, không ảnh hưởng gì tới ta.

Văn Bình đáp lời lạnh lẽo, anh đột ngột vòng tay qua thắt lưng Linh Lan, xiết chặt, khiến ý định chuồn ra phía sau của Linh Lan bị phá sản hoàn toàn . Một tay ôm lấy thắt lưng, không cho nó ngọ nguậy, một tay anh vẫn kề thanh kiếm vào cổ nó, gần thêm một chút, làm Linh Lan tái mặt đứng im . Nếu rục rịch thêm chút nào nữa thì việc cái cổ nó đầy máu là điều không thể tránh khỏi . Chúa ơi! Văn Bình bị sao thế này? Văn Bình có còn là Văn Bình không? Ai làm ơn cho tôi biết đi.

- Thứ hai! Như thế này mới là ta.

Bầu không khí trong phòng im lặng, căng thẳng tới nỗi nghe thấy tiếng rõ tiếng thở nhẹ của Linh Lan . Nó mím môi lại, tay nắm chặt, không sao cựa quậy được khi thanh kiếm đang ấn sâu vào cổ . Một ánh mắt lạnh như sương, một nụ cười tàn nhẫn, những hành động lạ lùng, khó hiểu, đây không phải Văn Bình! Đây tuỵêt đối không phải Văn Bình.

- Thứ ba! Ta rất khỏe . Và cuối cùng, ta không phải Văn Bình

Đây không phải là Văn Bình

Linh Lan mở bừng mắt, nó có cảm giác như đang đi trong màn sương mù, một màn sương mù dày đặc đang bao bọc lấy nó, khiến nó lần tìm mãi mà không thấy đường ra.

- Ta là Nguyễn Huệ!

77.

"Ta là Nguyễn Huệ"

Linh Lan nghe đầu ong ong, tưởng như có cả một đàn ong mật bay vù vù trong đó. "Ta là Nguyễn Huệ. Ta là Nguyễn Huệ". Nếu là thế thì tại sao lúc nó hỏi anh muốn gọi bằng tên nào, anh lại nói rằng muốn được gọi là Văn Bình? Lúc đó, Linh Lan đã rất vui, thật sự rất vui do nghĩ anh muốn cả hai có một mối quan hệ thân thiết hơn, không gò bó, kiểu cách như những người bình thường khác. Ấy thế mà sau bao tháng xa cách, khi cả hai gặp lại nhau, thì Văn Bình lại nói anh là Nguyễn Huệ. Có phải nó đã quá ảo tưởng khi cho rằng Văn Bình cũng nghĩ như thế? Có phải nó quá vội vàng, khi kết luận rằng anh muốn cả hai thân thiết hơn, như những người bạn tốt? Phải! Anh là người bạn tốt nhất của nó, người luôn cho nó cảm giác bình yên ở nơi chiến tranh khói lửa. Nhưng còn anh? Anh xem nó là gì? Không! Không là gì cả. Thật đáng đời cho nó vì trí tưởng bở mà.

Tay bị khóa, có muốn thoát cũng không được.

Cổ bị kiếm kề, có muốn chạy cũng không được.

Văn Bình! Anh đón tiếp sự trở về của tôi là thế này hay sao?

- Văn Bình! Nghe này, tuy tôi không biết trong thời gian tôi vắng mặt ở Tây Sơn, anh đã gặp cú sốc tâm lý nào, hay việc Phạm phu nhân mất đã khiến tinh thần anh không được ổn định, tôi rất lấy làm tiếc vì chuyện đó. Nhưng việc anh lấy kiếm kề vào cổ tôi thì tôi không thể chấp nhận cho dù bất cứ lý do gì. Bây giờ thì làm ơn, hãy bỏ kiếm xuống, buông tôi ra và để tôi đi.

Linh Lan hít một hơi thật sâu để lấy bình tĩnh, nó chậm rãi buông từng lời, hy vọng Văn Bình sẽ thấy tính nghiêm trọng của sự việc mà thôi không đùa với nó nữa. Nhưng Linh Lan đã lầm. Khi vừa dứt lời, nó cảm thấy cổ nhói lên một cái, đau thốn, lành lạnh. Hốt hoảng liếc xuống, Linh Lan tái mặt khi lưỡi kiếm ngập vào cổ nó, đồng thời, một dòng máu ri rỉ từ từ bò xuống thành dòng, thấm vào chiếc áo xanh mà nó đang mặc, làm Linh Lan hoảng hốt, ngẩng phắt đầu lên nhìn Văn Bình, khi biết rằng anh không hề đùa.

Linh Lan ngẩng đầu lên, đúng lúc Văn Bình cúi đầu xuống.

Trong khoảnh khắc đó, lúc hai đôi mắt bất ngờ giao nhau, Linh Lan chợt thấy tê dại khi chìm sâu vào đôi mắt u tối ấy. Một đôi mắt đen thẫm, kín bưng, hoàn tòan không thấy lối ra. Một bầu trời đỏ bao trùm trong đôi mắt sa mạc, khô cằn, rực cháy, khiến Linh Lan hoang hoải, bàng hoàng khi nhận ra rằng, sâu trong bầu trởi đỏ lửa ấy là một vết thương...

Một vết thương...

... Xẻ đôi hoang mạc.

Vết thương trong đôi mắt ấy có thật hay không, hay do suy nghĩ của nó trong nhất thời thì nó không biết, chỉ biết rằng khi nhìn thấy vết thương vô hình ấy, Linh Lan đã rùng mình, vội vàng ngó xuống, mồ hôi rịn trên vầng trán xanh tái. Bây giờ, ngay lúc này, lần đầu tiên nó mới ý thức ra rằng người đang đứng sau lưng nó không phải Văn Bình, tuỵêt đối không phải Văn Bình. Vết thương hằn trên cổ nó, ngập sâu, tươm máu, nhức buốt thay cho lời nhắc nhở và cảnh tỉnh. Đó không phải Văn Bình.

Nếu anh ta không phải Văn Bình, vậy thì anh ta là ai?

- Anh... là ai?

Khó khăn lắm Linh Lan mới thốt ra được ba từ ấy, bởi mỗi lần cử động là thanh quản của nó lại rung lên, đau nhói. Máu vẫn chảy, chảy càng ngày càng nhiều . Nếu cứ như thế này chắc chắn nó sẽ mất mạng mà còn ngơ ngác, không biết chuyện gì đang xảy ra mất thôi.

- Ta nói rồi! Ta là Nguyễn Huệ!!

Văn Bình thì thầm qua vành tai nó, đồng thời kê kiếm gần cổ Linh Lan thêm một chút nữa, bờ môi tạo thành một nụ cười tinh quái . Chúa ơi! Linh Lan la hoảng trong bụng . Đến bây giờ thì nó đã chắc chắn đây không phải Văn Bình, mà là một người hoàn toàn khác hẳn. Theo lời anh ta nói thì anh ta tự xưng là Nguyễn Huệ. Là Nguyễn Hụê chứ không phải Văn Bình, trong khi nó học trong sử sách thì Nguyễn Huệ chính là Quanng Trung hoàng đế sau này. Nếu muốn thấu triệt chuyện này mà không hoang mang hay thắc mắc nữa, chỉ có thể quy về một mối, nghe thì có vẻ hoang đường nhưng lại là lời giải thích xác đáng nhất, đó chính là Văn Bình và Nguyễn Huệ là hai nhân cách khác nhau, hoàn toàn là hai người khác nhau.

Linh Lan khe khẽ liếm đôi môi khô khốc. Nếu như phía sau là Văn Bình, Linh Lan chỉ việc tỏ ra không thích trò đùa này, thì chắc chắn anh sẽ thả nó ra. Nhưng ngược lại người phía sau nó lại là Nguyễn Huệ, nó có phản ứng thế nào thì mặc kệ, kiếm thì cứ kề, máu thì cứ chảy. Thật là tàn bạo, nếu muốn nó chết thì chẳng thà cứa một đường thật sâu thật ngọt, để cho nó chết càng nhanh càng tốt, thế là xong. Đằng này anh ta không làm thế, mà cứ dần dần đưa kiếm ngập sâu vào trong cổ họng nó. Vừa đau, vừa sợ, quả thật cái cảm giác thấy thần chết đang đến từ từ là cảm giác đáng sợ nhất trên đời.

- Anh là Nguyễn Huệ! Được! Vậy thì Nguyễn Huệ, anh muốn gì ở tôi?

Linh Lan cố giữ giọng nghiêm túc, nó đếm thầm từ một đến mười theo thói quen để lấy lại bình tĩnh. Nó bây giờ phải tỉnh táo hơn bao giờ hết để thoát khỏi tình thế ngặt nghèo này. Nó không được tỏ ra run sợ, bởi nếu càng run sợ thì chỉ càng làm cho đối phương thích thú. Có vẻ như biết trong đầu Linh Lan đang suy nghĩ những gì, Nguyễn Huệ lại xiết chặt tấm thân lạnh ngắt của nó. Anh tựa cằm lên vai Linh Lan, hơi thở mang theo hương thơm lạ lùng phả nhẹ vào má nó, khiến Linh Lan rụt người lại. Vuốt ve chiếc cổ đang rướm máu của Linh Lan, Nguyễn Huệ rà mắt theo lưỡi kiếm nhuộm máu, đỏ tươi lấp lánh, nói lạnh lùng.

- Cô chẳng có gì để ta muốn...

- Vậy làm ơn hạ kiếm xuống, thả tôi ra - Linh Lan nghiêng đầu, cố né tránh hơi thở, cố không để những ngón tay dài của Nguyễn Huệ chạm vào mình.

- ...Nhưng hắn ta thì có thứ ta muốn.

Nguyễn Huệ vẫn thì thầm, anh nhìn Linh Lan bằng ánh mắt tinh quái, pha chút giễu cợt. Nó đăm đăm nhìn anh, im lặng. Do gương mặt của cả hai rất gần nhau, cho nên Linh Lan có thể nhìn sâu vào đôi mắt hoang mạc ấy, và nó nhận ra rằng Nguyễn Huệ không nói đùa. Hắn ta? Người mà Nguyễn Hụê muốn nói đến là ai? Chẳng lẽ "hắn ta" chính là ám chỉ Văn Bình hay sao?

- Anh muốn thứ gì ở Văn Bình?

- Ta muốn...

Nguyễn Huệ mỉm cười, nụ cười đó làm Linh Lan chột dạ bởi vì nó lấp lánh nguy hiểm khác thường.

- ...Cô phải chết!!

Nghe hết ba chữ cuối cùng, Linh Lan mở to mắt nhìn Nguyễn Huệ. Anh không đùa. Anh ta không hề đùa. Nó biết thế, bởi đôi mắt u tối kia ngày càng đen thẫm lại như vực thẳm không đáy, và nó sẽ trượt chân rơi vào vực thẳm đó mà không cách nào ngoi lên được. Nguyễn Huệ muốn nó phải chết. Tại sao? Tại sao? Nó đã làm gì anh? Nếu Văn Bình và Nguyễn Huệ là hai nhân cách cùng tồn tại chung trong một thể xác, thì đây là lần đầu tiên anh gặp nó. Nó chẳng làm gì để động đến anh cả. Anh ta đã nói nó không có gì để anh ta muốn, thứ anh ta muốn là từ Văn Bình, và đó là cái chết của nó sao? Nhưng nó chết thì Nguyễn Huệ được lợi lộc gì, được vui thú gì? Hay làm Văn Bình đau khổ mới chính là niềm vui của anh ta? Như thế lại càng vô lý, cực kỳ vô lý. Nó và Văn Bình chỉ là bạn, không hơn không kém. Tuy cả hai có thân thiết với nhau một chút nhưng cũng chỉ là bạn, chứ có yêu đương gì đâu mà Văn Bình phải đau khổ vì nó cơ chứ.

Linh Lan hoang mang tột bậc, càng ngày càng có nhiều câu hỏi dồn ứ, tắc tị trong đầu, hệt như xe cộ giờ cao điểm. Nó có cảm giác mình đang lần mò trong bóng tối, mà chẳng hề nhìn thấy bất cứ ánh sáng chỉ đường nào, để thoát khỏi đêm đen đang bao trùm lên người nó. Nó không hiểu, nó không hiểu gi hết. Ngày hôm nay có nhiều chuyện quá dồn dập xảy ra với nó, làm cho nó mụ mị đầu óc, không thể bình tĩnh và giữ được sáng suốt như thường ngày. Đầu tiên Văn Bình lạnh lùng với nó, kế đến Văn Bình bảo anh là Nguyễn Huệ, sau đó anh lại muốn nó phải chềt với một lý do quá đỗi mơ hồ, làm nó thần người ra, chẳng suy nghĩ được gì...

Cái cổ của nó lại đau nhói, máu thấm ra càng lúc càng nhiều. Cứ đà này, chỉ trong chốc lát nữa thôi là nó sẽ bị chảy cạn máu. Một cái chết từ từ, đau đớn sẽ đến với nó mà nó thì không hề muốn chết chút nào. Không được! Linh Lan nhắm mắt, hai bàn tay nó nắm chặt, run rẩy để cố tập trung đầu óc, xua tan làn sương mù đang lởn vởn quanh nó. Nếu không có đáp án cho những chuyện đang diễn ra thì phải chuyển sang bảo vệ mạng sống, nhanh chóng thoát khỏi bàn tay Nguyễn Huệ. Còn sống thì tất cả những thắc mắc, khó hiểu sẽ có được giải đáp, chứ người chết thì chỉ có nước ôm hận xuống hoàng tuyền, chứ chẳng thể làm được gì. Đừng trông mong gì vào Nguyễn Huệ vì nó biết chắc anh ta không hề nói đùa, phải dựa vào bản thân nó thôi. Nếu thật sự đúng như nó nghĩ, Văn Bình và Nguyễn Huệ là hai người, thì nó chắc chắn phải đánh thức được Văn Bình đang ngủ yên đâu đó trong thân xác này, để mà hỏi rõ ràng mọi chuyện. Nó phải tìm phương án giải quyết chứ không thế để mập mờ như thế được.

Chợt, một tia sáng lóe qua trong đầu Linh Lan, nó nuốt nước bọt vì quyết định táo bạo, gan góc mới nảy ra trong đầu. Thông suốt hết mọi vần đề, định ra phương hướng mình sẽ làm, Linh Lan đã bắt đầu thấy tự tin hơn. Dẹp hết nỗi đau thân xác, Linh Lan hít vào, thở ra nhịp nhàng. Nó nhìn Nguyễn Huệ, tập trung tinh thần vào ván cờ trước mặt, rồi nói chậm rãi.

- Tôi biết sớm muộn gì tôi cũng sẽ chết, nhưng trước khi chết, anh có thể lý giải cho tôi vài chuyện được không?

Trước yêu cầu của Linh Lan, Nguyễn Huệ không đồng ý cũng chẳng từ chối, anh chỉ mỉm cười, còn Linh Lan thì mặc nhiên công nhận nụ cười đó chính là sự đồng ý.

- Nguyễn Huệ và Văn Bình là hai người?

- ...

- Tại sao anh muốn tôi phải chết? Nó có lợi gì cho anh?

- ....

- Văn Bình đâu rồi? Chuyện gì đã xảy ra cho anh ấy?

- ...

Linh Lan tức muốn nổ con mắt, khi Nguyễn Huệ chẳng buồn trả lời những câu hỏi của nó mà chỉ yên lặng, quan sát các phản ứng trên gương mặt nó như một trò chơi đuổi bắt. Kế hoạch kéo dài thời gian, hy vọng có người tạt ngang qua thấy, sẽ nhảy vào can thiệp đã phá sản, bây giờ chỉ còn kế hoạch thứ hai, và kế hoạch này hơi phiêu nếu muốn đánh lạc hướng sự chú ý của Nguyễn Huệ. Mạng sống là quan trọng trước tiên, không thử làm sao biết, huống hồ bây giờ nó còn đang yêu đời.

- Thôi được rồi! Chết thì chết, anh tưởng tôi sợ hay sao?

Linh Lan nhấn mạnh từng chữ. Kết hợp với lời nói của mình, nó bất thần vươn tay ra, chụp lấy lưỡi kiếm, mặc cho lưỡi kiếm bạc sắc bén cứa vào lòng bàn tay, đau thốn, máu rơi tí tách từng giọt xuống sàn. Do hành động ghì chặt lưỡi kiếm bằng cả hai tay của Linh Lan chỉ diễn ra trong tích tắc, khiến Nguyễn Huệ có hơi bất ngờ. Anh chưa kịp phản ứng gì thì Linh Lan đã dùng hết sức bình sinh gạt tay anh ra, xoay nhanh người lại, níu lấy áo anh, kiễng chân lên và rồi...

Hôn nhanh lên bờ môi thanh tú của Nguyễn Huệ.

Vì Linh Lan chưa nói hết lời đã hành động, lại thêm những câu hỏi của nó khi muốn kéo dài thời gian, đã làm phân tán tư tưởng của Nguyễn Huệ, thế nên anh không thể phản ứng kịp, và cũng có phần bất ngờ với hành động vừa diễn ra. Không ngờ Linh Lan lại hành động táo bạo đến thế, cả gan kiễng chân hôn lên môi mình, Nguyễn Huệ khựng người lại, gương mặt thoáng nét ngạc nhiên pha lẫn sửng sốt. Chỉ chờ có thế, Linh Lan rút nhanh trong áo ra một trái bom khói, lúc nào cũng kè kè theo bên mình sau sự cố với Nguyễn Ánh, rồi quăng nhanh xuống sàn.

Chỉ nghe "bụp" một tiếng, một làn khói trắng dày đặc từ mặt đất thoát lên, che khuất cả lối đi. Trước khi ném trái bom khói xuống đất, Linh Lan đã âm thầm tính toán hết đường đi nước bước, ghi nhớ khoảng cách từ chỗ nó đứng đến cửa chính là bao nhiêu bước chân, thế nên lúc đám khói dày đặc như cụm bông thoát ra, là Linh Lan đã chớp lấy thời cơ, chuồn nhanh ra khỏi cửa. Nó chạy như bay mà không dám ngoái đầu nhìn lại, mặc cho vết thương trên vai và trên cổ đau nhức, khó thở. Cũng may là đám khói ấy chỉ có tác dụng che mắt lực lượng địch để trốn thoát, chứ nếu có độc hại gì thì Linh Lan sẽ ân hận vô cùng, vì ảnh hưởng đến hai hài nhi đang nằm trong nôi .

Đám khói vẫn dày đặc, len lỏi qua từng ngóc ngách trong căn phòng. Nguyễn Huệ đứng yên ở đó, anh nhìn đăm đăm về khoảng trống mịt mờ trước mặt, không cần quan sát cũng biết Linh Lan đã trốn thoát. Nhếch môi lạnh lùng, Nguyễn Huệ rà mắt theo lưỡi kiếm bạc. Dòng máu đỏ tươi trên lưỡi kiếm phản chiếu trong đôi mắt anh, trở nên lấp lánh lạ thường.

Đám khói trắng sau ít phút hoành hành trong phòng giờ tan dần, tan dần, hình ảnh Nguyễn Huệ đứng chống thanh kiếm xuống dưới đất, hai tay tựa lên đốc kiếm, bờ môi thanh tú tạo thành nụ cười nửa miệng dần hiện rõ. Bóng dáng Linh Lan đã mất hút, chỉ còn lại rặng liễu xanh reo ca trong gió. Cô ta có thể thoát được một lần, nhưng chắc chắn sẽ không có lần thứ hai. Nguyễn Huệ hờ hững lướt mắt nhìn hai đứa bé nằm ngủ trong nôi, đôi mày kiếm nhướng lên, mang một biểu cảm lạ lùng, rồi quay ngoắt người bỏ đi. Tấm áo bào bay phấp phới, choàng phủ cả căn phòng một màu đỏ tươi.

Vừa bước chân ra khỏi ngạch cửa, Nguyễn Huệ nheo mắt khi nhìn thấy hai người nhủ mẫu hấp tấp từ xa chạy lại, trên tay là hai ca sữa đầy. Lạnh lùng lướt qua bà nhủ mẫu già mà không để lại lời nhắn nhủ, chăm nom cẩn thận như cách Văn Bình vẫn thuờng hay làm, Nguyễn Huệ bỏ lại sau lưng gương mặt ngơ ngác của hai người, rồi rẽ ngoặt vào dãy hành lang hướng đến phòng riêng của Văn Bình.

Nhìn cánh cửa khép im ỉm một lúc lâu, Nguyễn Huệ nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào. Căn phòng vắng lặng, lạnh ngắt, không có chút hơi ấm nào, tựa như đã hoang phế từ lâu. Thong thả bước qua ngạch cửa, Nguyễn Huệ rảo một vòng quanh phòng, gương mặt lạnh lùng không chút cảm xúc, ngoại trừ nụ cười lửng lơ vô định cùng với một đôi mắt hoang lạnh thưở nào. Quẹt nhẹ lớp bụi bám trên giá binh khí, Nguyễn Huệ miết tay lên những thanh đao sắc lạnh, mỉm cười giễu cợt khi nghe tiếng trái tim đập chậm chạp trong lồng ngực mình, hay nói chính xác hơn là của Văn Bình.

Tiến về phía cửa sổ để nhìn cho rõ giò hoa lan đang đong đưa mỗi khi cơn gió lả lơi, Nguyễn Huệ chạm tay vào chiếc bàn đặt ngay cửa sổ. Trên bàn có để một nghiên bút, và dưới chân bàn là chiếc bình ngọc màu hồng cánh sen, chứa những giấy tờ quan trọng, cuộn thành ống dài. Thoáng nhíu đôi mày kiếm - nhanh đến nỗi người khác không nhận ra - khi nhìn thấy những tờ giấy lem nhem mực nằm rơi rác trong đó, Nguyễn Huệ thuận tay nhặt lấy một tờ lên. Đôi mắt đen thẫm của anh nheo lại, khi trông thấy những dòng chữ nguệch ngoạc chẳng ra hình thù gì, lại còn để mực vây nát bét cả tờ giấy trắng tinh. Biết những dòng chữ lên bờ xuống ruộng ấy là do Linh Lan viết, khi Văn Bình dạy cho viết chữ những lúc rảnh rỗi, Nguyễn Huệ gom hết những tờ giấy đó vào một chỗ, rồi châm lửa đốt sạch, không để lại vết tích nào.

Nhìn những tờ giấy trở thành tro bụi, bay tứ tung trong không khí khi ngọn gió trêu đùa thổi qua, Nguyễn Huệ lạnh lùng phủi những bụi tro bám trên người. Anh lại rảo mắt lên giò lan trổ hoa treo lủng lẳng bên cửa sổ. Chẳng hiểu giò lan này có bệnh hay không, mà chúng chỉ nở độc nhất một bông hoa màu trắng mịn, đọng sương đêm dịu dàng đang hé cười. Nhìn không chớp vào bông hoa trắng mịn bé nhỏ, Nguyễn Huệ từ từ giơ tay chạm nhẹ vào nó. Đột ngột, những ngón tay dài, chai sạn vì đao kiếm co lại, bóp nát bông hoa, khiến cánh hoa mỏng manh rơi rụng xuống mặt bàn. Anh mỉm cười. Ngẩng đầu nhìn cành cây khô gầy vương bên cửa sổ, chia ngang khoảng trời xanh đầy nắng, Nguyễn Huệ đứng yên lặng, nhìn về ngọn núi xa xa. Đôi mắt thẫm tối lấp lánh. Cánh hoa bị bóp nát vương mùi hương lưu luyến trong từng kẽ tay, làm anh khẽ cau mày...

Đã lâu rồi ta mới quay trở lại nơi này...

78.

Chạy nhanh ra khỏi thư phòng của Văn Bình, Linh Lan nghe rất rõ nhịp tim đang đập ngỡ ngàng trong lồng ngực nó. Tháo chiếc thắt lưng màu hoa thiên lý ra, Linh Lan quấn nhẹ nhàng lên cổ một cách cẩn thận, tránh động đến vết thương đau thốn thịt xương. Nhìn dòng máu thấm trên áo, tạo thành những sọc kẻ caro đỏ tươi, Linh Lan nhắm mắt lại, vành mi run run, tay bấu chặt vào ngực áo vì vẫn chưa thể tin vào những gì vừa mới diễn ra.

"Ta là Nguyễn Huệ"

Linh Lan lẩm bẩm như người mất hồn. Khi nãy trong lúc nguy cấp, đầu óc nó quay cuồng, đông đặc, chỉ nghĩ làm sao bảo toàn mạng sống chứ chẳng thể nghĩ bất cứ chuyện gì ra hồn. Bây giờ, thoát khỏi tình huống ngàn cân treo sợi tóc, Linh Lan mới bắt đầu bình tĩnh lại. Nó chống tay vào bức tường màu gạch cua nhạt, cố ổn định hơi thở, xâu chuỗi lại những sự kiện đã xảy ra. Hiện giờ, Văn Bình mà nó luôn cảm thấy bình yên khi bên cạnh đã không còn nữa, chỉ còn một Nguyễn Huệ muốn lấy mạng nó bất cứ lúc nào. Tuy không biết suy đoán của nó có chính xác không, nhưng bây giờ tạm tin vào thuyết đa nhân cách còn thấy hợp lý hơn việc Văn Bình đột ngột thay đổi tính tình.

Nếu Văn Bình và Nguyễn Huệ là hai nhân cách hoàn toàn khác nhau, thì hẳn Văn Bình đã gặp chuyện gi đó ảnh huởng tới bản thân, thế nên nhân cách Nguyễn Huệ mới trỗi dậy và chiếm lấy thể xác của Văn Bình. Bây giờ, một là nó rời khỏi Tây Sơn, nếu không muốn bị anh ta tìm đến. Hai là bằng mọi giá, nó phải đánh thức Văn Bình dậy, để anh chiếm lại thân xác, bắt Nguyễn Huệ mãi mãi ngủ yên thì mới có thể an tâm. Kế hoạch thứ nhất, dù muốn thực hiện cũng khó. Nó là con gái nuôi của ông Lương, trong khi nhà ông Lương lại có mối quan hệ mật thiết với Tây Sơn, chẳng chóng thì chầy Nguyễn Huệ cũng tìm đến. Còn bỏ đi?! Linh Lan thở dài. Bỏ đi thì nó không biết phải đi đâu, xoay sở thế nào trước bốn bề chiến tranh khói lửa, vả lại nó đã quen ở nơi này, ít nhiều gì cũng có nhiều tình cảm, nay lại bỏ đi đến một nơi khác thì...

Linh Lan bất giác sờ bờ vai lạnh của mình. Bờ vai nó bây giờ đã mang một vết thẹo không bao giờ có thể lành lặn được. Nhớ lại đêm sương mù buốt giá đó, Linh Lan mím môi, có lẽ suốt đời, nó cũng sẽ không bao giờ quên được cảm giác ấy, cảm giác đau thốn khi bị mũi tên cắm ngập vào thịt da. Trong giây phút gần kề sinh tử đó, từ sâu thẳm Linh Lan chợt hiện lên một cánh đồng. Chỉ là một cánh đồng, là cánh đồng hoa hay cánh đồng bông lau nó cũng không rõ, cùng bóng dáng ai đang đứng trên cánh đồng ấy, nhìn về phía nó với sự dịu dàng. Những hình ảnh khi ấy bây giờ Linh Lan cũng khó xác nhận được, khó mà tái hiện lại rõ ràng được. Có lẽ trong phút lâm nguy, ngước nhìn thần chết thì người ta mới có thể biết được chính xác nhất trái tim mình muốn gì.

Vỗ vào đầu mấy cái để loại những suy nghĩ vu vơ chợt đến, Linh Lan hít sâu một hơi rồi đứng lên. Đối với nó, điều quan trọng bây giờ là phải tìm hiểu kỹ về Văn Bình hơn, để hiểu nguyên nhân từ đâu hình thành nhân cách thứ hai kia. Nghĩ đến đó, Linh Lan mới thấy hối hận làm sao. Trải qua chuyện này, Linh Lan mới chợt nhận ra nó chẳng biết một tì gì về Văn Bình. Những gì nó biết, Văn Bình là Nguyễn Huệ, là người sau này sẽ lên ngôi vua, hiệu là Quang Trung, đánh đuổi giặc Thanh ra khỏi đất nước, ngoài ra nó chẳng biết một chút gì về anh. Nhà Văn Bình có bao nhiêu anh em? Anh là con út hay con giữa? Anh thích gì, ghét gì? Tuổi thơ của anh đã trải qua như thế nào, quan hệ giữa anh đối với mọi người ra sao, thật sự những điều đó nó mù tịt, chẳng biết ất giáp gì, để rồi đụng chuyện mới ngớ người ra.

Càng nghĩ, Linh Lan lại oán trách bản thân mình hơn bao giờ hết. Trong khi Văn Bình đối với nó rất tốt, không nỡ làm nó buồn lòng khi nó vòi vĩnh anh điều gì, ấy thế mà nó thật vô tâm, cứ hồn nhiên nhận lấy mà chẳng hề suy nghĩ gì. Ngay cả thân thế của anh ra sao nó còn không biết, thử hỏi sao có thể nói đến hai từ bạn tốt ở đây. Không được, Linh Lan tự nhủ, nhất định sau chuyện này, nó sẽ tìm hiểu Văn Bình nhiều hơn, để cùng anh giải quyết nhân cách Nguyễn Huệ đáng ghét kia.

Phồng miệng, thở phù một hơi như trút bỏ mọi ray rứt, ăn năn, quyết định sẽ ra khỏi hoàng đế thành để trở về nhà ông Lương, chăm sóc vết thương, Linh Lan đứng lên, nhưng ngay sau đó lại ngồi thụp xuống, khi nghe tiếng bước chân của ai đó giẫm lên lá khô. Tim đập thình thịch trong lồng ngực, Linh Lan nấp sau những chậu hoa đang trổ bông. Nó cúi sát người xuống, lòng thầm khấn đó không phải là Nguyễn Huệ, bởi nếu thật là anh ta tìm đến thì nó chết chắc, vì màu hoa lý trên áo nó rất dễ nhận ra, và mấy chậu hoa cảnh cũng không đủ kín đáo. Thế nhưng khi tiếng buớc chân tiến về phía nó mỗi lúc một gần, sau đó lại là một giọng nói ngạc nhiên vang lên, khi thấy nó bỗng nhiên hứng lên, chơi trò trốn tìm.

- Linh Lan! Cô làm gì thế? Sao lại núp ở đây?

Tim đang đập lô tô như khi lớp trưởng phát bài kiểm tra toán, Linh Lan thở hắt ra một hơi, mừng rỡ khi giọng nói đó chẳng ai xa lạ, chính là Phan Văn Lân. Anh khoanh tay đứng đối diện nó, nghi hoặc vì điệu bộ thập thò của nó hệt như đã làm gì phạm lỗi. Vội vàng đứng dậy, bước ra khỏi chỗ ẩn núp do đã bị phát hiện, chưa bao giờ Linh Lan cảm thấy vui khi gặp Phan Văn Lân như lúc này. Vừa ló đầu ra, sự nghi hoặc trên gương mặt thư sinh của Phan Văn Lân liền chuyển sang nét âu lo, do nhìn thấy dải thắt lưng màu thiên lý trên cổ Linh Lan lốm đốm máu. Chạm vào cổ nó, đôi mày kiếm của Phan Văn Lân chau tít khi Linh Lan nhăn nhó, buột miệng kêu đau.

- Vết thương này là sao? Chuyện gì đã xảy ra?

- Không có gì!

- Sao lại không có?! Máu chảy nhiều như thế mà nói không sao à?

- Tôi nói không có gì là không có gì mà! Tôi đi đây, tạm biệt anh.

Thấy Linh Lan bướng bỉnh, không chịu trả lời dù anh đã gặng hỏi, Phan Văn Lân liền nắm lấy tay nó, kéo lại khi nó dợm bỏ đi. Ngạc nhiên vì không ngờ trông Lân thư sinh mà lại tiềm ẩn một sức mạnh đến thế, Linh Lan liếc về phía sau, bồn chồn do sợ Nguyễn Huệ đột ngột xuất hiện, sẽ tóm lấy nó và tiễn nó về bên kia thế giới thì xong đời. Thở nhẹ một hơi khi Linh Lan không ngừng nhìn anh, rồi lại nhìn về phía sau, mặt cáu kỉnh, tay vung vẩy để thoát khỏi sự kềm chế của anh, Phan Văn Lân đột ngột ngồi xuống, rồi cõng Linh Lan lên, khiến nó la oai oái vì đây là lần thứ hai anh đã cõng nó trong ngày.

- Thả tôi xuống! Mau thả tôi xuống đi. Phan Văn Lân! Anh có nghe tôi nói không?

- Cô không chịu nói nguyên do bị thương thì cũng nên để tôi đưa cô đến đại phu chứ. Bộ muốn chảy máu cho đến chết hay sao?

- Tự tôi đi được, không cần anh phải cõng đâu - Biết Phan Văn Lân có ý tốt lo cho mình, Linh Lan dịu giọng lại. Tuy không còn cáu kỉnh như lúc ban đầu nhưng chuyện anh đột ngột ghé lưng cõng nó, thì nó không hề thích tẹo nào.

- Đừng bướng bỉnh! Nếu đi bộ thì vết thương của cô sẽ bị động, khi ấy máu sẽ càng chảy nhiều, và cô chết còn nhanh hơn.

- Tôi không sao đâu, thật mà. Tôi không thích thế này, anh cho tôi xuống đi.

Những bước chân của Phan Văn Lân chậm dần, rồi dừng lại trước giọng nói nhẹ nhàng nhưng cương quyết của Linh Lan. Anh hiểu cô gái nhỏ này nếu không thích điều gì, thì không ai có thể ép buộc được điều đó. Thả Linh Lan xuống đất, Lân để cho Linh Lan được tự do, nhưng anh theo sát bên cạnh nó, để nếu vết thương có biến chứng gì thì anh vẫn có thể ứng cứu kịp thời. Mỉm cười cám ơn Phan Văn Lân, Linh Lan đi chậm từng bước, bản thân nó không thích những chuyện có thể gây hiểu lầm cho người khác khi ra chốn đông người. Nếu Lân cõng nó ra đến khu quân y, rất có thể binh lính trong trại khi nhìn thấy cảnh ấy, sẽ nhầm tưởng cả hai đang có tình cảm gì với nhau thì rất mệt. Nó không thích động chạm, nó không thích gây hiểu lầm, càng không thích tiếp xúc thân mật với người khác phái nào. Không kể bố nó, ông anh điêu kiêu của nó, thì từ trước tới nay, chỉ có duy nhất hai người Linh Lan tiếp xúc thân mật, đó là Văn Bình, còn người còn lại là....

Bặm môi vì mỗi lần nhắc đến tên của Nguyễn Ánh, là Linh Lan lại cảm thấy trong người bức bối, khó chịu, mà ngay cả bản thân nó cũng không thể lý giải cảm xúc ấy. Tay không ngừng chạm vào dải thắt lưng trên cổ, để xem máu có còn chảy nữa hay không, Linh Lan tự cảm thấy nó còn hên lắm. Không biết Nguyễn Huệ cố ý không giết nó ngay, hay do nó may mắn, mà theo nó phán đoán sơ bộ, thì vết thương trên cổ nó tuy đau thốn, nhưng lại chỉ là tổn thương phần mềm, không hại đến tính mạng. Nhưng cho dù vết thương không nguy hiểm đến tính mạng, nếu không chữa trị kịp thời thì nó cũng sẽ bị mất máu, mà việc truyền máu ở thời quá khứ này vẫn còn là một khái niệm mơ hồ, chứ đâu được tân tiến như ở hiện đại. Mà nếu có truỳên máu được, thì nó cũng bó tay do chẳng biết mình nhóm máu gì. Đã không biết nhóm máu mà lại đi truỳên bừa, lỡ xảy ra phản ứng ngược lại thì nguy to.

- Này Lân!! Trong Tây Sơn có thầy lang à?

- Tất nhiên là có!

Thắc mắc ngô nghê của Linh Lan khiến Lân phì cười. Câu hỏi ngô nghê của nó làm bầu không khí đang im lặng của cả hai nhẹ nhàng hơn. Đếm nhịp chân trên những viên đá cuội nhỏ nhắn, lăn tròn trong sân, trong đầu Linh Lan chợt lóe lên một suy nghĩ. Phan Văn Lân là tùy tướng thân thuộc bên cạnh Văn Bình, có lẽ anh cũng biết được chút ít gì về Văn Bình chăng.

- Lân này!

- Hửm?

- Anh gia nhập Tây Sơn được mấy năm rồi?

- Cũng được năm năm! Có chuyện gì sao?

Thấy Linh Lan đột ngột quan tâm tới mình thế, Phan Văn Lân bước chậm lại, anh nhìn nó, đôi mắt không giấu vẻ ngạc nhiên. Trong đầu có biết bao thắc mắc muốn hỏi Lân, nhưng không hiểu sao mỗi lần tính mở miệng, Linh Lan lại ngập ngừng, không thể nói nên lời. Trong lúc nó còn đang do dự, xem có nên hỏi chuyện về Văn Bình hay không thì Phan Văn Lân đột ngột lên tiếng.

- Linh Lan! Tôi có một thắc mắc muốn hỏi cô?

- Sao?

- Tại sao cô lại gọi tướng quân là Văn Bình?

- Hả?

- Tôi thật tình cũng phục cô lắm, dám gọi thẳng tên của tướng quân như thế, nhưng tên của tướng quân là Nguyễn Huệ chứ đâu phải Văn Bình? Hay đó là tên khác của tướng quân?

Khi Phan Văn Lân hỏi câu đó, Linh Lan thật tình cũng không biết phải trả lời như thế nào. Nó ngập ngừng hồi lâu rồi mới trả lời.

- Có lẽ là tên khác của anh ấy. Khi tôi hỏi anh ấy muốn tôi gọi là gì thì anh ấy đã bảo tôi gọi anh ấy là Văn Bình.

Nghe Linh Lan đáp lời, Phan Văn Lân gật gù tỏ vẻ đã hiểu, rồi không hỏi thêm câu nào. Cả hai cứ thế yên lặng, đi đến khu vực quân y trong hoàng đế thành để chữa trị vết thương trên cổ cho Linh Lan. Sải đều bước chân, Linh Lan đi mà không nhìn đường, bởi tâm trí nó còn đang vướng lại câu hỏi của Lân khi nãy. Anh hỏi nó về nguồn gốc cái tên Văn Bình, điều đó chứng tỏ anh cũng không biết gì nhiều về chuyện đa nhân cách, một người là Nguyễn Huệ, người còn lại là Văn Bình, nếu thế thì nó lại phải đi tìm người để giải đáp thắc mắc này, do Phan Văn Lân không thể giúp nó làm sáng tỏ mọi chuyện. Mà không lẽ không ai biết chuyện này? Không ai biết chuyện Văn Bình đa nhân cách? Hoặc có lẽ ngày hôm nay nhân cách thứ hai ấy mới xuất hiện? Hay có lẽ Nguyễn Huệ che giấu khéo léo đến nỗi không ai nhận ra...

Càng nghĩ, Linh Lan càng có cảm giác như đang đi trong làn sương mù tối tăm, ẩm thấp và lạnh lẽo. Suy nghĩ này chưa dứt thì suy nghĩ khác lại kéo tới, cứ như một cuộn chỉ bị người khác vò rối tung lên. Tạm gạt những vướng mắc đó qua một bên cho nhẹ đầu, Linh Lan chợt nhớ đến thầy lang mà Phan Văn Lân đề cập đến. Nó ngước nhìn anh, hỏi khẽ, mà mỗi lần hỏi là cuống họng lại đau nhức không ngừng.

- Mà khi nãy anh nói trong Tây Sơn có thầy lang à? Nam hay nữ?

- Lúc trước trong Tây Sơn chỉ có thầy lang là nam thôi, nhưng bây giờ Ngô Văn Sở đã tìm ra một nữ lang y rồi. Thật may mắn.

- Nữ lang y? Ai thế?

- Không biết! Nghe đâu Sở đã tìm được vị nữ lang y đó tại Phú Yên. Và hình như tên vị nữ lang y đó là Bách Nhật thì phải.

Đang rảo bước theo con dường trồng hai hàng liễu dẫn đến khu quân y, Linh Lan ngừng phắt lại. Đôi mắt đen láy của nó mở to, sững sờ, nhìn đăm đăm vào mặt Phan Văn Lân như chưa thể tin những gì anh vừa mới thốt ra.

- Anh... nói gì?

79.

- Đại phu ơi, cánh tay của tôi hôm nay sao đau nhức quá, đại phu xem hộ tôi có bị gì không?

- Vớ vẩn! Tay ông từ hồi nào đã sưng thế. Mắc gì phải nhờ tới đại phu xem giùm, có xem là xem cánh tay của tôi đây này.

- Hai ông chẳng có gì đáng xem hết, tránh ra cho tôi. Vết thương trên vai tôi hôm qua sao mãi chưa lành, không biết chừng đã bị gì rồi cũng nên.

Bách Nhật ngồi trong trướng, phía trước là án thư, xung quanh là đám đông binh sĩ đang xúm quanh nó, kẻ xô đẩy, người hồ hởi tiến lên phía trước, cố chen lấn vào đám đông binh sĩ quây tròn chỗ Bách Nhật đang ngồi. Ai nấy đều mồ hôi mồ kê ròng rã, gương mặt đỏ phừng như hơ lửa nhưng vẫn toe toét, khiến Bách Nhật phì cười.

Chỉ mới đặt chân vào Tây Sơn được hai ngày, nó không cần phải cố làm quen với mọi người, thì mọi người đã chủ động nhào tới làm quen nó. Để rồi giờ đây, ngày nào cũng thế, cứ sau giờ tập luyện, cả đám lại lũ lượt kéo đến lều quân y quen thuộc của nó, hết than đau cổ lại tới nhức đầu, mà nó thừa biết những chứng bệnh ấy do họ tự tạo ra. Tuy đôi lúc có hơi phiền, vì Bách Nhật thích yên tĩnh hơn là những nơi náo nhiệt, nhất là có một đám đông lúc nào cũng vây quanh mình, nhưng Bách Nhật dần chấp nhận chuyện đó. Sống ở đâu cũng thế, nó cần phải thích nghi với môi trường mới. Đối với những người bị thương và có bệnh thật sự, Bách Nhật tận tình chăm sóc họ. Nhưng với đối với những người không bệnh lại làm ra có, Bách Nhật chỉ nói khéo vài câu rồi đuổi về quân doanh, tránh để họ làm phiền đến những binh sĩ trong trại đang nghỉ ngơi.

Đúng với mong muốn của Bách Nhật, làm việc nhiều sẽ khiến đầu óc nó không được thảnh thơi, tránh nghĩ ngợi lung tung. Do số binh sĩ bị thương trong trận đánh Gia Định đến nay vẫn chưa thể lành lặn, những vết bỏng trên người họ vẫn còn nhức nhối, rát buốc, đôi khi lại mưng mủ, vì những khẩu đại bác trên chiếc tàu đồng của viên chỉ huy Mãn Noài, nên Bách Nhật không lúc nào ngơi tay. Đi một vòng xem xét bệnh tình của các binh lính, Bách Nhật hỏi han đến sức khỏe của từng người, rồi sau đó ngồi vào bàn, thảo những đơn thuốc thích hợp, có tác dụng giảm đau, bồi bổ sức khỏe, tăng cường sức đề kháng, cộng thêm chế độ dinh dưỡng thích hợp trong khẩu phần ăn. Do cả ngày bận rộn như thế, mỗi lần về trướng, đặt lưng xuống giường là Bách Nhật ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng, không mộng mị, không lo âu, điều đó mới thật dễ chịu làm sao.

Chuyện xung quanh lúc nào cũng có binh sĩ quây quần, Bách Nhật không nói, nhưng Ngô Văn Sở thì lại để ý đến chuyện đó, và giúp nó giải quyết những "vệ tinh" xung quanh mình. Sau mỗi lần huấn luyện binh lính, Sở không về thẳng trướng để luyện thêm mấy bài quyền như thường lệ, anh tạt ngang qua chỗ của Bách Nhật, mặt sầm lại khi thấy đám binh sĩ đang quây quần xung quanh, quấy rầy vị nữ lang y duy nhất của trại quân.

Không nói không rằng, Sở giật lấy thanh đao trong tay một người lính đứng gần, cắm mạnh xuống đất. Tiếng động lớn đến nỗi tất cả binh sĩ đều quay ngoắt ra phía sau, để xem ai đến phá đám vào lúc này. Nhận ra kẻ phá bĩnh đó là chủ tướng, mọi tiếng cười đùa đều im bặt, thay vào đó là sự e sợ. Rồi cứ thế, dưới con mắt quan sát của Sở, từng người một rút đi trong im lặng, và chắc chắn nếu để chủ tướng bắt gặp cảnh tượng này lần thứ hai thì e họ sẽ bị phạt nặng, do tội không về quân ngũ mà lại bén mảng đến khu vực không phải của mình.

Từ lúc bị Sở bắt gặp cảnh chen chúc trước bàn của nữ lang y, đám binh sĩ thôi không còn lảng vảng lại gần chỗ Bách Nhật ngồi nữa. Được Sở giải thoát khỏi tình huống bất đắc dĩ đó, Bách Nhật cám ơn anh nhiều lắm. Không còn cảnh phải ở giữa đám đông, Bách Nhật thấy thoải mái hơn nhiều. Nhìn nụ cười dịu dàng của Bách Nhật, Sở bỗng cảm thấy bồi hồi khi gương mặt ấy trông thật rạng ngời. Mỗi ngày ghé qua chỗ Bách Nhật, cùng trò chuyện dăm ba câu với nó, nghe nó hỏi thăm sức khỏe mọi người trong nhà anh, đối với Ngô Văn Sở, đó bỗng trở thành thói quen lúc nào không hay. Cứ như thế, sau mỗi lần tập luyện, anh đều đến khu vực quân y để nghe giọng nói dịu dàng ấy, rồi mới yên lòng trở về trướng của mình.

- Thành phần: Đu đủ 20 gam, Kê Huyết Đằng 30 gam, Thổ Nguyên 6 gam.

- Cách chế: Đem sắc kỹ.

- Công hiệu: Chữa đau nửa đầu.

- Cách dùng: Uống mỗi ngày 2 lần (*)

Bách Nhật cẩn thận viết lại đơn thuốc kê bệnh cho Sở, khi anh nhờ nó thảo một đơn thuốc chữa chứng bệnh đau nửa đầu cho anh. Hoàn thành xong đơn thuốc, Bách Nhật gấp lại gọn gàng, để khi Sở đến thì giao lại. Xếp chồng giấy trên bàn lại cho ngay ngắn, Bách Nhật đứng lên, duỗi tay chân để giãn gân cốt sau hàng tiếng đồng hồ ngồi lì một chỗ. Ngước nhìn bầu trời xanh trong, Bách Nhật hít một hơi dài, lòng thấy khoan khoái hơn bao giờ hết. Đang dõi mắt theo những cánh chim bay về phía chân trời xa, Bách Nhật chợt bừng tỉnh khi có ai đó gọi tên nó. Giọng nói quen thuộc, trong trẻo, vọng lại từ tiềm thức, khiến Bách Nhật vội ngoái nhìn về phía sau.

Đứng trước mặt nó là một cô gái tóc dài, buộc cao gọn gàng bằng chiếc nơ hồng xinh xắn, đôi mắt mở to, sững sờ, bờ môi mềm mím lại, run run. Trong khoảnh khắc ấy, trái tim Bách Nhật run lên nhè nhẹ, gương mặt rạng rỡ vẫn chưa hết nét ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi cô gái ấy chạy ào tới, ôm choàng lấy nó trong niềm vui bất ngờ.

- Bách Nhật! Bách Nhật, là bà phải không?

- Không phải tui thì là ai! Tạ ơn trời phật! Linh Lan, thật may vì cuối cùng tui cũng đã tìm thấy bà.

Bách Nhật vòng tay, ôm chặt cô gái áo xanh trong niềm hạnh phúc. Cảm nhận giọt nước mắt mừng rỡ, cảm nhận được hơi ấm tỏa ra, đúng là Linh Lan. Đúng là Linh Lan thật rồi. Bách Nhật thầm reo vui. Thật bất ngờ làm sao khi nó được gặp người mà nó tìm kiếm cả tháng qua, thật là sung sướng khi biết chắc rằng bạn bè mình vẫn bình an khỏe mạnh, thật là ấm áp khi nhìn thấy những gương mặt thân yêu. Tất cả những cảm xúc đó trỗi dậy mạnh mẽ, rồi hòa quyện vào nhau làm Bách Nhật xúc động, bồi hồi đến nghẹn lời.

Quẹt nhẹ giọt nước mắt rung rưng bờ mi, Bách Nhật nắm chặt tay Linh Lan, cả hai đứa nó ngồi xuống ghế, lâu thật lâu mà vẫn không nói nên lời. Cuối cùng, người lên tiếng trước là Bách Nhật, khi trông thấy vết thương đang rỉ máu trên cổ Linh Lan, sau khi niềm xúc động đã qua đi.

- Bà làm sao mà bị thương vậy?

- Ờ không! Không có gì! Tui luyện kiếm, không cẩn thận nên bị thương thôi.

Vội lấy hộp cứu thương có những đồ dùng cần thiết do chính tay mình sắp xếp, Bách Nhật cẩn thận tháo chiếc khăn quàng quanh cổ Linh Lan, và cau mày lại khi thấy vết cắt đang rỉ máu trên cổ bạn mình. Lấy một miếng vải sạch, Bách Nhật trụng vào nước sôi để khử trùng, rồi bắt đầu đổ rượu vào vải, thấm nhẹ lên cổ Linh Lan. Vết thương gặp rượu ngấm vào liền bắt đầu xót và nhức nhối, khiến Linh Lan nhăn mặt, bụng oán trách Nguyễn Huệ không tiếc lời vì chẳng biết thương hoa tiếc ngọc là gì.

Sau khi băng bó vết thương trên cổ Linh Lan xong xuôi, Bách Nhật mới rảnh tay, hỏi han Linh Lan những gì đã xảy ra trong thời gian thất lạc với bạn. Ngồi lặng im nghe Linh Lan kể, Bách Nhật đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đầu tiên là chuyện Linh Lan đã gặp được Quang Trung hoàng đế, kế đó lại gặp và gia nhập vào đội nữ binh của Bùi Thị Xuân, sau rốt còn gặp vua Gia Long và cuối cùng, Quang Trung hoàng đế là người có hai nhân cách trong cùng một thân xác, Văn Bình và Nguyễn Huệ. Những nhân vật "tai to mặt lớn" trong lịch sử thời này Linh Lan đã gặp hết cả, thậm chí còn là một phần trong cuộc đời của họ. Bách Nhật chầm chậm thở dài, một sự lo lắng mơ hồ trỗi dậy, lấn cấn như từng đợt sóng trong trái tim nó. Linh Lan đã lún quá sâu vào lịch sử, chứ không thể là người bàng quan đứng ngoài lề như nó. Trừ Anh Tú và nó ra, cả Linh Lan, Nguyên Thục và Nguyên Thiên đều đã là một thành phần trong guồng quay lịch sử, rất có thể sau này cuộc đời của họ sẽ không như ý muốn, gặp nhiều tai biến, trắc trở, thậm chí cả họa diệt thân.

Không hiểu đến những lo lắng của Bách nhật, Linh Lan vồn vã hỏi thăm đến tất cả bạn bè của mình. Khi nghe tin Nguyên Thiên và Nguyên Thục đang ở Bắc hà, cả hai chị em đều bình an, Nguyên Thục thì trở thành Hồ tiệp dư, chuẩn bị tiến cử vào ngôi vị Vương phi trong phủ chúa Trịnh, còn Nguyên Thiên lại là cận vệ của Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận, một thành viên của Hoàng tộc, gương mặt Linh Lan vô cùng tươi tỉnh. Nhưng đến khi nghe tin Anh Tú vẫn an toàn, hiện đang vào cung làm mật thám cho phủ chúa, đôi mắt đen láy của Linh Lan mở to, sửng sốt. Một niềm vui vỡ òa trong đôi mắt nó, khiến nó chụp lấy vai Bách Nhật lay lay, nói nhanh không kịp thở, để chắc chắn những gì Bách Nhật nói không phải là chuyện đùa.

- Thật không, Bách Nhật, thật không? Có thật là ông anh của tui vẫn bình an và đang ở trong cung cùng với bà Thiên không?

Bóp nhẹ tay Linh Lan để động viên, đôi mắt xám tro của Bách Nhật dịu dàng nhìn sâu vào mắt Linh Lan. Biết đó là dấu hiệu xác nhận mỗi khi muốn chứng minh một điều gì đó, Linh Lan thôi không hỏi nữa. Nó cắn móng tay, bứt rứt, thói quen mỗi khi vui mừng một chuyện gì đó, nhưng lại không thể dùng hết ngôn từ để diễn tả. Ngày hôm nay, tuy đau đầu vì chuyện của Văn Bình và xui xẻo khi bị ăn một nhát kiếm của Nguyễn Huệ, nhưng bù lại, Linh Lan đã gặp được người bạn thân thiết của mình là Bách Nhật, và tin tức Anh Tú hiện đang an toàn ở Bắc hà, đã giúp tinh thần của Linh Lan phấn chấn lên rất nhiều. Đã lâu không gặp, không biết ông anh của nó như thế nào, mập hay ốm, khỏe mạnh hay xanh xao, có còn vừa điêu vừa kiêu như lúc trước không, hay dung nhan tàn tạ và khiêm tốn bậc nhất rồi. Linh Lan phì cười, nước mắt rưng rưng trên khóe mi, lòng nó nôn nao, bồi hồi. Nếu không vì Văn Bình, chắc chắn nó sẽ bỏ hết tất cả, bay thẳng ra Bắc hà để hai anh em có thể đoàn tụ với nhau, không phải canh cánh lo lắng cho nhau như thế này.

oOo

Bên trong lầu Quyển Bồng, Tiết chế Nguyễn Lữ hết đi tới rồi lại đi lui, nét mặt tỏ rõ bồn chồn, gấp rút, do các tướng lĩnh đã có mặt đông đủ để bàn việc xuất quân, nhưng em ông - Nguyễn Huệ - hồi lâu vẫn chưa thấy trở về. Ngồi trên một chiếc ghế bọc nệm nhung có thành dựa, Nguyễn Nhạc rà chiếc que nhỏ lên tấm bản đồ da được căng bằng một khung tre. Trước sự chậm trễ của Nguyễn Huệ, tuy Nguyễn Nhạc không biểu lộ hẳn ra như Nguyễn Lữ, nhưng căn cứ vào đôi lông mày bạc xoắn lại với nhau cũng đủ hiểu ông đang sốt ruột đến mức nào.

Kể từ ngày ba anh em ông khởi nghĩa thành công đến nay, Nguyễn Huệ chưa bao giờ vắng mặt đột xuất hay đến trễ như lần này. Bao giờ anh cũng là người đến sớm nhất, bàn bạc kế hoạch với ông, cũng như bố trí chỗ ngồi thuận tiện nhất. Vẫn biết cái chết đột ngột của cô em dâu đã để lại khoảng trống, và những xáo trộn trong cuộc sống của em trai mình, nhưng cách đây mấy hôm, khi ông hỏi về chuyện đánh Gia Định, Nguyễn Huệ đã trả lời ông bằng một thái độ dứt khoát, pha chút giễu cợt khiến ông thật sự lo lắng và khó hiểu. Chỉ trong một thời gian ngắn, em ông thay đổi quá nhiều, quá đột ngột khiến ông không còn hiểu được những gì anh nghĩ và tính toán như xưa.

Chừng như không còn chờ được nữa, Nguyễn Nhạc ho khẽ một tiếng khiến Nguyễn Lữ quay đầu nhìn. Nguyễn Nhạc gật đầu một cái khi thấy ánh mắt dò hỏi của ông, chừng đó đủ để ông biết mình phải làm gì. Được anh sai đi tìm Nguyễn Huệ để cuộc họp nhanh chóng được bắt đầu, Nguyễn Lữ vội vàng bước đến ngạch cửa. Tính mở cửa ra ngoài nhưng ông đã kịp thời ngừng lại, khi cánh cửa cọt kẹt mở ra, Nguyễn Huệ trong bộ giáp phục bước vào, nhìn ông và mỉm cười. Ung dung tiến về phía Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ khấu đầu với ông, tạ lỗi về chuyện anh đã đến trễ, rồi thong thả ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc dành sẵn cho mình.

Tính mở miệng nhắc nhở em về chuyện đã để mọi người chờ lâu, nhưng cuối cùng, Nguyễn Nhạc lại im lặng, không nói. Ông rảo mắt hết một lượt căn phòng, nhìn những đôi mắt sốt sắng dõi theo ông chờ đợi. Rà chiếc que nhỏ lên tấm bản đồ, Nguyễn Nhạc trầm giọng.

- Như các ngươi đã biết, đây là cuộc họp bàn kế hoạch xuất quân vào Gia Định năm nay. Phan Văn Lân! Ngươi hãy đứng lên, báo cáo những gì ngươi biết ở Gia Định cho mọi người ở đây được tường tận.

Được Nguyễn Nhạc gọi đến, Phan Văn Lân dạ một tiếng, rồi đứng lên trình bày những thông tin anh tổng hợp được từ Gia Định suốt mấy tháng qua. Vừa trình bày, anh vừa đánh dấu vị trí hai đồn Giác Ngư và Thảo Câu mà Linh Lan đã nói bằng mực đỏ lên khúc sông Tân Bình trên bản đồ. Phan Văn Lân vừa nói dứt, Nguyễn Nhạc gật đầu hài lòng, ông vẫy tay cho anh ngồi xuống, rồi bắt đầu ngồi nghe xem các thuộc tướng sẽ bàn bạc chuyến xuất quân này như thế nào. Đám đông bắt đầu lao xao, rầm rì, mỗi người một ý. Kẻ cho rằng với những thông tin mà Tây Sơn đã nắm được, chắc chắn sẽ đánh bật được quân Nguyễn Ánh ra khỏi Gia Định một lần nữa. Trong số đó, to hơn cả là giọng nói của Ngô Văn Sở. Anh cho rằng những thông tin mà Linh Lan cung cấp có thể không chính xác và đáng tin cậy. Rất có thể đó là cái bẫy Nguyễn Ánh lập ra, phao tin đồn giả để quân Tây Sơn chui vào và bị triệt tiêu.

Bàn luận sôi nổi, một lúc sau tình hình đã chia thành hai bên. Một bên là Nguyễn Văn Lộc, với ý kiến cho rằng Ngô Văn Sở đã đánh giá quá cao Nguyễn Ánh. Thông tin của Tây Sơn thu thập hoàn toàn chắc chắn, tình hình ở Gia Định quân ta nắm rõ như lòng bàn tay, quân nhà Nguyễn giờ như cá nằm trong rọ, chỉ cần xuất quân, tung mẻ lưới là đã bắt gọn bọn chúng. Chủ kiến này được sự đồng tình của Nguyễn Văn Tuyết và Trương Văn Đa - phò mã của Nguyễn Nhạc. Trái ngược với ý kiến đó là suy nghĩ của Ngô Văn Sở. Trước những lời lẽ hùng hồn, có phần khiêu khích khi cho rằng anh sợ quân Nguyễn của Tuyết, anh vẫn không hề nao núng và giữ vững quan điểm của mình. Anh cho rằng quân Tây Sơn cho dù nắm chắc hết những thông tin ở Gia Định, cũng không nên chủ quan khinh địch như thế. Nguyễn Ánh là người đa mưu túc trí, làm việc gì cũng suy tính kỹ càng trước sau. Ai dám chắc cuộc chiến lần này không có thêm một viên quan ngoại quốc Mãn Noài thứ hai, cùng chiếc tàu tây dương đã khiến quân Tây Sơn dù chiến thắng nhưng cũng đã hao binh tổn tướng. Binh bất yếm trá, cứ thận trọng từng bước thì bao giờ cũng là điều nên làm. Suy nghĩ của anh rất được Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đồng tình.

Trước sự bàn tán sôi nổi, râm ran của các thuộc tướng, Nguyễn Nhạc ngồi vuốt râu. Bao giờ cũng thế, ông luôn để cho mọi người bày tỏ ý kiến của mình, rồi mới là người ra quyết định cuối cùng. Đánh mắt sang Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lấy làm ngạc nhiên khi anh yên lặng, ngồi ngả lưng vào ghế, đôi bàn tay chai sạn đan vào nhau, chân bắt chéo hình chữ ngũ, miệng cười mà tựa như không, vô cùng thoải mái. Hiện tượng đó khác hẳn với một Nguyễn Huệ thường ngày. Trong mỗi cuộc họp, bao giờ em ông cũng là người đi đầu, luận bàn kế hoạch và đưa ra những phương án tối ưu nhất, giải quyết triệt để sự tranh cãi của các thuộc tướng vì bất đồng ý kiến với nhau.

Trong mắt ông, Nguyễn Huệ càng ngày càng khó hiểu. Lúc trước anh nghĩ gì, làm gì, ít nhiều ông cũng có thể đoán được, nhưng gần đây thì lại khác, Nguyễn Huệ như biến hẳn thành một người hoàn toàn khác, khiến ông không thể nào nắm bắt anh được nữa. Chính vì thế, dù muốn dù không, chuyến xuất quân lần này, ông buộc phải đưa Nguyễn Lữ đi cùng Nguyễn Huệ. Vợ sinh hai con thơ xong rồi mất, cô gái mà anh đặc biệt quan hoài bị thương nặng trở về, biết bao chuyện xảy ra dồn dập, lại thêm những khác biệt tính cách của em ông bây giờ thật khiến ông khó lòng an tâm. Đưa Nguyễn Lữ theo để lỡ như sơ xuất chuyện gì, thì còn có người bên cạnh cứu vãn kịp thời, chứ không thể vì chuyện riêng của em trai ông mà làm lỡ việc chung.

Thấy đã đến lúc phải chốt lại cuộc họp, Nguyễn Nhạc đứng lên, giơ hai tay ra, tức thì mọi tiếng bàn tán sôi nổi từ từ nhỏ dần, rồi sau đó là im lặng hoàn toàn. Mọi người hướng về ông, đợi chờ một quyết định cuối cùng từ Hoàng thượng. Rảo mắt lên gương mặt từng người, Nguyễn Nhạc trầm giọng.

- Ý kiến của đô đốc Tuyết có lý, nhưng ý kiến của chinh nam tướng quân cũng không sai. Nguyễn Ánh tuy còn trẻ tuổi nhưng lại lắm mưu mẹo, bao phen thoát khỏi vòng vây của Tây Sơn, chính vì thế mà chúng ta càng cần phải đánh. Đánh nhanh thắng nhanh để cho chúng bất ngờ, trở tay không kịp, tiêu diệt hoàn toàn để ngăn sự trỗi dậy của hắn, thu hồi Gia Định để hắn không còn đất nương thân. Không thể để hắn mãi là mối bận tâm của chúng ta được

Dừng lại quan sát phản ứng của mọi người, Nguyễn Nhạc hài lòng khi ai nấy đều đồng ý với quyết định của ông, có vài người mấp máy môi nhưng lại không nói gì. Trở lại chỗ ngồi, ông từ tốn nói tiếp.

- Lần này xuất quân vào Gia Định, ta tiếp tục dùng thủy quân, thuận theo gió mùa mà vào, khi nào gió Nam thổi thì trở ra. Ba ngày nữa ta sẽ truyền hịch xuất phát, các ngươi hãy đôn đốc binh lính gấp rút chuẩn bị. Lệnh cho xưởng thuyền nhanh chóng hoàn tất và hạ thủy những chiến thuyền mới, chất thêm trọng pháo và tạo thêm Hỏa hổ. Lần xuất quân này, ta giao toàn quyền cho Long Nhương tướng quân và... Tiết chế.

Dứt lời, Nguyễn Nhạc liếc nhanh về phía Nguyễn Huệ và nhận ra cái nhướng mày của anh, nhưng không có lời phản đối nào. Tránh nhìn vào đôi mắt đen thẳm đang xoáy vào mình, Nguyễn Nhạc dời mắt sang Nguyễn Lữ, cất giọng hỏi.

- Chú tư, lương thực và quân y mang theo đã chuẩn bị đến đâu rồi?

- Tâu hoàng thượng, quân y, thuốc men đều đã sẵn sàng, tất cả chỉ còn chờ ngày lên đường. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này thần chuẩn bị hai thuyền lương thực, thêm những thức ăn khô để thuyền không quá nặng và cồng kềnh, tránh chyện thuyền lương chậm chạp theo sau như lần trước.

Nghe Nguyễn Lữ báo lại công tác chuẩn bị chu đáo rành mạch, Nguyễn Nhạc vuốt râu hài lòng, ông hỏi tiếp.

- Tốt lắm. Chú tám, chú có cần thêm gì nữa không? Lần này chú muốn mang theo những ai?

- Thần muốn đưa thêm Phò mã Trương Văn Đa, Tư Khấu Nguyễn Văn Kim, Đô đốc Lê Văn Kế trong lần xuất quân này.

Nghe những người Nguyễn Huệ vừa đề cử, Nguyễn Nhạc không giấu được ngạc nhiên, do anh không chọn những người thân thuộc như Phan Văn Lân, hay có kinh nghiệm nhiều lần ra vào Gia Định như Ngô Văn Sở. Đa số những tướng mà em ông chọn, trừ Trương Văn Đa ra, đều là những người chỉ quen đánh trên bộ, còn việc sông nước thì không được thành thạo, quen thuộc đường lối như các thuộc tướng trong lần tấn công trước. Trước ánh mắt dò hỏi của ông, Nguyễn Huệ chỉ mỉm cười bí ẩn. Với nụ cười ấy, biết có hỏi cũng chưa chắc em ông chịu nói thật, Nguyễn Nhạc gật đầu đồng ý, rồi chuyển sang chuyện khác.

- Thế chú và chú tư tính điều binh, chia quân thế nào.

Đánh mắt sang Huệ, Nguyễn Lữ tính để cho anh trả lời câu hỏi đó, nhưng Huệ lại nhìn ông lắc đầu, nhường phần quyết định cho ông. Liếm bờ môi nứt nẻ vết chân chim, Nguyễn Lữ hướng mắt về các thuộc tướng tâm phúc đang chờ đợi, nói sang sảng.

- Chúng ta chủ đích là đánh nhanh chiếm gọn hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư, làm bàn đạp để đánh vào trung tâm đầu não của Nguyễn Ánh. Đạo thứ nhất do Tư Khấu Nguyễn Văn Kim cầm quân, đánh vào bờ phía Bắc, chiếm đồn Thảo Câu. Đạo thứ hai do Trương Văn Đa làm chỉ huy, đánh vào bờ Nam, chiếm đồn Giác Ngư. Đạo tiên phong do Đô đốc Lê Văn Kế cầm quân. Còn trung quân...

- Nên để Trương Văn Đa chỉ huy cánh quân tiên phong. Đạo thứ hai giao cho Đô đốc Kế chỉ huy.

Đang nói trơn tru, Nguyễn Lữ liền ngưng lại khi Huệ đột ngột cất lời, thay đổi chỉ huy của hai đạo quân. Sự thay đổi đó khiến Nguyễn Lữ khó hiểu, ông nhíu mày, ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu, sau đó tiếp tục phân công trung quân, hậu quân. Ngồi ngả lưng vào ghế, nghe Nguyễn Lữ phân bố các đạo quân, khóe miệng của Huệ hơi nhếch lên, vẽ thành một nụ cười mơ hồ, khi nghĩ đến những thông tin mà Linh Lan liều chết đưa về.

Gỗ và rơm à, thật là thú vị...

Sau khi phân bố xong hết nhiệm vụ cho các thuộc tướng, Nguyễn Lữ ngừng lại, ông cố ý chờ Huệ lên tiếng, nhằm xem anh có bổ sung thêm điều gì không, hay cũng đồng ý với cách sắp đặt của mình. Nhận được nụ cười lửng lơ của anh, Nguyễn Lữ thở hắt ra một hơi rồi ngồi xuống. Đột ngột đứng dậy, Huệ thong thả tiến về phía Nguyễn Nhạc, anh vòng tay trầm giọng.

- Hoàng thượng, thần muốn đề nghị một chuyện. Lần này thần muốn sau khi chiếm được Gia Định, sẽ ở lại đó truy quét đến cùng tàn quân Nguyễn Ánh chứ không đánh vào rồi lập tức rút ra như mọi năm.

Kinh ngạc nhìn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc chỉ nhận lại được cái nhếch môi cười mà không cười của anh. Ông nhíu mày

- Chuyện lương thảo thì sao?

- Có thể trưng thu tại chỗ để dùng.

- Nếu ngược gió?

- Người yên tâm, thần có thể giải quyết và trở về kịp mùa gió. Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, thần không muốn năm nào cũng phải nghe về đám loạn binh trong Gia Định, để rồi điều binh ra vào dẹp loạn, hao quân tổn tướng. Ngoài việc truy quét, thần còn muốn tái tổ chức, cắt đặt các đồn trạm, cử người có năng lực trấn giữ. Ý của người thế nào, thưa Hoàng thượng?

Câu hỏi của Nguyễn huệ đã dứt từ lâu, nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa trả lời vội. Ông nhìn đăm đăm vào Nguyễn Huệ, cảm thấy một dáng dấp vừa quen vừa lạ, vừa gần vừa xa. Chớp mắt để tránh cho giọt mồ hôi lăn tròn, rơi vào trong mắt, hơi thở của Nguyễn Nhạc đã có phần nặng nề. Mấy ngày qua, dẫu biết tâm tính em trai ông không được bình thường, nhưng ông cũng không nghĩ nó lại khác lạ đến mức này. Từ bao giờ em trai ông không còn là một chàng trai hiền lành, làm phụ chính trong Tây Sơn nữa, mà đã trở thành một vị tướng thao lược, làm khiếp đảm bao kẻ phải đối mặt với mình trên chiến trường. Đứa em trai ấy bây giờ đã vụt trở nên cao lớn, nổi trội, đủ lông đủ cánh để bay khỏi tầm mắt ông, vút lên bầu trời xanh, khiến ông phải ngóng mắt tìm kiếm trong những làn mây mịt mờ xa xôi. Em trai ông ngày càng tỏ ra là một thiên tài quân sự, dường như nó sinh ra chỉ để tung hoành trên chiến trường, và khiến kẻ thù e dè khi phải nhắc đến tên.

Nguyễn Nhạc nhếch môi, ý nghĩ đó làm ông thấy lạ lẫm. Cảm giác Nguyễn Huệ bây giờ như một con chim đang chuẩn bị tung cánh, bay xa khỏi chiếc lồng son tù túng, chật hẹp, tìm cho mình một phương trời mới để thỏa sức vẫy vùng đôi cánh tự do, khiến ông lợn cợn, e dè, và thậm chí còn là một cảm giác mà ông không muốn thừa nhận dần len lỏi vào tâm trí ông. Đó chính là thứ cảm giác ganh tị. Ganh tị khi tướng sĩ ai nấy đều đang nhìn em trai ông với lòng ngưỡng mộ, lắng nghe em trai ông với thái độ phục tùng tuyệt đối. Ông là Hoàng đế, nhưng người sai khiến những thuôc tướng này không phải là ông, mà là em của ông. Ý nghĩ dị thường ấy khiến ông bức bối, khó chịu, nhưng lại không thể làm gì để xua tan cảm giác đó, chỉ có thể chấp nhận và chung sống với nó, bằng cách thôi không để tâm với sự thật mà ngày hôm nay ông lờ mờ nhận thức ra.

- Được! Ta chấp nhận.

Giọng nói của Nguyễn Nhạc nhẹ như hơi thở. Ông nhìn xoáy vào mắt Nguyễn Huệ, một tia mắt thăm dò, pha lẫn sự cảnh cáo cho những ý định nổi loạn. Nguyễn Huệ không né tránh ánh mắt ấy, ngược lại còn nhìn thẳng vào mắt ông, bằng một ánh mắt ung dung lạ thường. Nguyễn Nhạc cau mày, nhếch môi, ông phất nhẹ ống tay áo rồi quay trở về chỗ ngồi đúng cương vị của mình. Khi giọt sáp cuối cùng từ cây nến thơm đặt trên giá đồng rỏ xuống, cũng là lúc lầu Quyển Bồng thức tỉnh. Cuộc họp đã bàn xong, các thuộc tướng ai nấy lần lượt đứng lên, vái chào Hoàng thượng cùng chủ tướng, sau đó lần lượt ra ngoài, nôn nao chuẩn bị cho kế hoạch xuất quân.

Nguyễn Huệ là người đi sau cùng. Chiếc áo choàng đỏ của anh che khuất ánh mắt sắc lạnh của Nguyễn Nhạc rớt lại phía sau. Anh đứng cạnh lan can, phóng tầm mắt về phía chân trời xa. Mặt trời đã bắt đầu đi ngủ. Mây nối đuôi nhau theo về cuối chân trời. Từng làn gió hiu hiu phả vào mặt anh, gởi lời chúc tốt đẹp đến viên tướng sa trường. Đặt tay lên thanh kiếm khảm những đường mây uốn lượn, đôi mắt đen thẳm của Nguyễn Huệ chợt lay động, rồi trở nên lấp lánh. Nắm đốc kiếm trong tay, Nguyễn Huệ như nghe thấy nhịp đập nhè nhẹ reo vui của thanh kiếm, khi sắp được cùng chủ nhân tung hoành, sau bao năm tháng lặng yên đợi chờ. Vuốt nhẹ thanh kiếm, Nguyễn Hụê từ từ rút kiếm ra. Một tia sáng bạc lóe lên trong mắt anh, rồi tắt phụt, như sao băng bị đêm tối nuốt chửng khi còn chưa kịp tỏa sáng.

Ba ngày sau, Tây Sơn xuất quân...

Chú thích:

(*) : Thế này, cái thành phần thang thuốc trên kia là đồ thật đàng hoàng, và chắc chắn ko nhiều thì ít, có người đang thắc mắc là đơn vị đo lường tính sao. Bạn Cáo giải thích thế này. Thời này, đơn vị cân đo thuốc Bắc là cân, lạng, phân, lượng, chỉ, chứ ko phải gam, kg. Em Nhật học về thuốc, thế nên những thứ này em ý tự biết nói thế nào cho các anh biết, nhưng mà bạn Cáo thì lại ko rảnh đến độ ngồi đổi ra để giải thích chi tiết với mọi người. Xét thấy đây cũng là tiểu tiết nên bạn Cáo để hẳn là gam cho mọi người dễ hiểu và dễ hình dung. Bạn Cáo để chú thích là giải thích trước cho những bạn [sẽ] thắc mắc. Chỉ muốn nói vậy thôi. Mọi người chấp nhận nhé.

80(1)

Tháng ba năm Qúy Mão, Long Nhương tướng quân và tiết chế Nguyễn Lữ đem quân vào cửa Cần Giờ. Nhưng trận chiến lần này không phải do Văn Bình cầm quân nữa, mà người trực tiếp chỉ huy lại là Nguyễn Hụê, một con người khác đang tồn tại trong chính bản thân anh.

Đoàn thuyền theo hình mũi tên nhờ vào sức gió, thẳng hướng lướt trên biển, dần tiến vào cửa biển Cần Giờ sau chặng hải trình dài. Cánh buồm trắng căng gió, lá cờ đào bay phần phật trên cao, như hòa chung với khí thế hăng hái của đội quân Tây Sơn tốc chiến tốc thắng. Nguyễn Huệ đứng lặng yên trên mũi tàu, đôi mắt đen u tối lạnh lùng nhìn thẳng về phía trước, tấm áo bào đỏ bay lồng lộng trong gió như một cánh chim lửa. Từ phía xa, một phòng tuyến do Nguyễn Ánh xây dựng chễm chệ hiện ra ngay cửa Cần Giờ. Trên mặt nước là những chiến thuyền được dàn thành chữ nhất, cờ xí rợp trời sẵn sàng ngênh chiến.

Trông thấy lực lượng thủy binh của quân Nguyễn án ngữ cửa biển, Nguyễn Lữ lệnh cho đoàn thuyền tiên phong tiến nhanh về phía trước, xông thẳng vào đội hình đã dàn sẵn của quân Nguyễn. Dưới sự chỉ huy của Trương Văn Đa, toán quân tiên phong tăng tốc. Quân lính trên thuyền hăng hái reo hò, mặt ai nấy đều chăm chú, tay vung cao thanh gươm sẵn sàng cho một trận huyết chiến, quyết tâm phá tan phòng tuyến đầu tiên của quân Nguyễn, tiến vào Gia Định, quét sạch tập đoàn Nguyễn Ánh theo lệnh của Hoàng thượng lúc xuất quân.

Chiến thuyền Tây Sơn tăng tốc, lao về phía quân Nguyễn như mũi tên xé gió. Trận chiến diễn ra chớp nhoáng, tiếng la hét rầm rộ, tiếng binh khí chạm vào nhau chan chát, từng vòi máu tuôn ra, thây người đổ gục xuống như những bắp chuối bị phạt đến tận gốc. Bỗng, một ánh lửa từ bên thuyền Tây Sơn bắn vụt qua đội hình quân Nguyễn, kéo theo một loạt pháo nổ ra. Mặt nước lóa sáng do phản chiếu hình ảnh của những chiến thuyền bùng cháy, vỡ vụn. Mùi khét lẹt của thịt người bị thiêu sống bốc lên ngùn ngụt. Cả khúc sông chìm trong lửa đỏ, tiếng la hét, rên rỉ vì bị hỏa hổ của quân Tây Sơn bắn trúng, sự nháo nhào, tan vỡ của đồn giặc càng khiến Tây Sơn thêm phần hứng khởi, say đà chiến thắng. Chẳng mấy chốc, phòng tuyến đầu tiên tại cửa biển Cần Giờ nhanh chóng tan vỡ, đám tàn quân của quân Nguyễn không dám nán lại chiến đấu thêm nữa, mà vội vàng quay thuyền thoái lui, bỏ lại những cụm khói cuồn cuộn bốc lên từ phía sau.

Chứng kiến quân Nguyễn cắm đầu bỏ chạy và trận đánh đầu tiên lại thành công nhanh chóng như thế, Nguyễn Lữ cười vang hài lòng. Ông ra lệnh cho thủy binh Tây Sơn chia làm hai đạo, tạo thành thế gọng kềm để tiến công tiếp hai đồn Thảo Câu, Giác Ngư như kế hoạch đã vạch ra. Được lệnh đánh thẳng vào Gia Định của chủ tướng, Đô đốc Lê Văn Kế dạ một tiếng rõ to, rồi bắt đầu cho thuyền tăng tốc, lao vùn vụt về phía trước như một mũi tên. Đứng trên thuyền của Tư khấu Nguyễn Văn Kim, chỉ huy đạo quân thứ hai tiến đánh đồn Thảo Câu, Nguyễn Huệ nhìn gương mặt bừng sáng của Nguyễn Lữ, đôi mắt u tối của anh lấp lánh những tia sáng lạ thường.

Từ lúc khởi hành cho đến bây giờ, Nguyễn Huệ cứ yên lặng như thế, dù thanh kiếm trong tay anh lấm tấm những vệt máu đỏ tươi khi tước đi mạng sống của những tên lính Nguyễn. Chốc chốc, anh lại ngẩng nhìn bầu trời, khóe miệng nhếch lên tạo thành vẻ mỉa mai, chế giễu, nhưng chỉ trong thoáng chốc rồi biến mất, trở về nét mặt lạnh lùng cố hữu như ban đầu.

Chẳng mấy chốc, chiến thuyền của Tây Sơn dần tiến đến đồn Thảo Câu do Dương Văn Trừng, một thuộc tướng của Nguyễn Ánh, trấn giữ, đang dàn binh thành chữ nhất án ngữ ở phía trước. Tên tướng có đôi mắt nhỏ, hẹp ấy một tay cầm kiếm, tay còn lại vân vê khuôn mặt nhẵn nhụi, có vẻ tự tin rằng trận đánh này sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Tin tưởng vào sự bài binh bố trí của mình, Dương Văn Trừng không giấu nổi vẻ mặt đắc thắng khi nghĩ đến Nguyễn Phúc Mân, vị tôn thất được chúa công phân binh án ngữ đồn Giác Ngư phía đối diện sẽ giận đến thế nào, nếu biết được chiến công mà gã sẽ đạt được trong chốc nữa. Càng nghĩ càng đắc chí, Dương Văn Trừng bật cười to, khiến chiếc nón đỏ đội hờ hững trên đầu cũng phải run lên theo nhịp cười đắc chí của gã.

- Thưa tướng quân! Đại binh của Tây Sơn đã xuất hiện!

Dương Văn Trừng có hơi giật mình, khi cái giọng khàn khàn của một tên lính đứng trên cao, có nhiệm vụ quan sát trận địa nói vọng xuống. Lúc này, đôi mắt hẹp của Dương Văn Trừng đang chú mục nhìn đoàn thuyền hùng hổ lướt nhanh của Tây Sơn. Được lắm! Cứ tiến nhanh hơn đi, rồi ta sẽ cho các ngươi về chầu với ông bà sớm.

- Mau dàn thuyền tiến lên phía trước chặn chúng lại cho ta. Các ngươi cứ đánh hết sức. Khi nào thấy lá cờ đỏ phấp phới trên tay ta thì đồng loạt rút lui. Rõ chưa?!

Dương Văn Trừng vừa nói dứt, thì những tiếng dạ ran như nổi sóng lần lượt vang lên, khí thế náo nức cả một vùng. Nguyễn Huệ đang đứng chống kiếm xuống sàn, dõi theo những chiếc thuyền to nhỏ lần lượt lao nhanh về phía mình vô cùng khí thế. Một nụ cười lạnh lùng thoáng hiện trên môi, đôi mắt đen u tối ngày càng thẫm lại. Trước khuôn mặt chữ điền của Nguyễn Văn Kim, viên thuộc tướng có trách nhiệm chỉ huy đồn đánh đồn Thảo Câu đang nhìn anh một cách nôn nóng, Nguyễn Huệ chỉ im lặng. Một sự im lặng lạ lùng.

- Tướng quân! Xin hãy ban lệnh cho thuộc hạ ra đánh.

Mãi một lúc lâu mà vẫn không thấy Nguyễn Hụê có ý định gì, trong khi cả đoàn thuyền hung hãn của Dương Văn Trừng mỗi lúc một tiến lại gần, Nguyễn Văn Kim nhấp nha nhấp nhổm như đang đứng dưới ổ kiến lửa. Đã mấy lần, ông hé môi xin Nguyễn Huệ ra lệnh cho tiến quân, nhưng trước khuôn mặt lạnh lùng vô cảm của vị tướng tuổi trẻ tài ba này, ông đành nhẫn nhịn lặng im. Dù có nóng ruột đến cỡ nào thì tận sâu trong đáy lòng, ông vẫn tin tưởng chủ tướng của mình, một khi người ra trận sẽ không bao giờ thất bại

Ra là thế...

Đôi mắt đen thẫm của Nguyễn Huệ nhắm hờ lại.

Ra là thế...

Đoàn thuyền của Dương Văn Trừng hò reo ầm ĩ khích tướng, làm Nguyễn Văn Kim đang cố dằn lòng cũng phải phát bực. Thằng khốn này! Mày cố ý khoa trương thanh thế để làm chúng tao phải phân tâm và nhanh chóng đầu hàng chứ gì. Đừng mơ! Chúng tao chưa xuất quân, chẳng qua là vì chủ tướng của chúng tao đang suy tính làm cách nào, để một phát đập tan bọn bây ra. Để xem khi bị bắt, cái bản mặt đáng ghét của mày có còn vênh váo lên được như thế không!

- Tư khấu Kim!

Nguyễn Văn Kim đang nghiến răng rủa thầm, bàn tay to bè nắm chặt đốc kiếm để có thể sẵn sàng rút ra bất cứ lúc nào, bỗng giật mình khi Nguyễn Huệ đột ngột gọi tên. Ông vội vàng vòng tay, sốt sắng đợi chờ Nguyễn Huệ truyền lệnh tiến đánh.

- Đánh! Nhưng chỉ cầm chừng...

Trước thái độ cung kính sẵn sàng đợi lệnh của Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Hụê chỉ thốt ra năm chữ gọn lỏn. Chỉ có năm chữ cho một khẩu lệnh xuất quân, điều đó làm cho khuôn mặt đang tỏ vẻ hào hứng của Nguyễn Văn Kim có phần hơi khựng lại. Ông bối rối hỏi lại bằng một thái độ vô cùng dè dặt.

- Đánh!? Nhưng chỉ cầm chừng thôi sao tướng quân! Sao không tiến lên đánh cho chúng tan tác?

Đáp lại sự nhiệt tình của Nguyễn Văn Kim chỉ là một đôi mắt không thể nào lạnh lùng hơn. Chính vì đôi mắt băng giá, nhưng không kém phần chết chóc khi nhìn mình ấy, đã khiến Nguyễn Văn Kim thôi không dám nói thêm gì nữa. Ông nhanh chóng cúi đầu, rồi khẳng khái hô to cho những binh sĩ dàn thuyền hai bên đang ngóng mắt đợi lệnh, khiến nét mặt ai nấy đều rạng rỡ cả lên, khi nhìn thấy Dương Văn Trừng khiêu khích nãy giờ.

- Toàn quân nghe lệnh của Long Nhương tướng quân! Hãy xông lên mà đánh! Nhưng chỉ cầm chừng thôi.

Tiếng hô lồng lộng của Nguyễn Văn Kim vừa dứt, hàng loạt tiếng reo hò dậy lên. Từng chiến thuyền lần lượt tách ra khỏi đội hình, và nhanh chóng lướt về phía trước. Nở một nụ cười đắc chí, khi nhìn thấy thủy quân Tây Sơn đổ dồn về phía mình, Dương Văn Trừng rút kiếm ra, nhanh tay chặt đứt hai sợi dây câu do lính Tây Sơn quăng lên thuyền. Muốn đổ bộ chiếm thuyền ta sao, các ngươi đừng hòng.

Trong khi cả hai bên đã hòa thuyền vào nhau và xảy ra một trận kịch chiến, quân Tây Sơn ai nấy hăm hở đâm chém, thì lẫn trong đám đông ấy là một người lính đội nón lông sùm sụm, che khuất cả nửa gương mặt, đang cố gắng lùi về phía sau. Người lính ấy len lỏi trong dòng người ào ạt tràn lên, tránh cản chân người khác, nhưng cũng tránh cả những tia máu tươi bắn vọt vào áo mình với sự lúng túng, do trước nay chưa từng nhìn thấy cảnh tượng đâm chém máu me như thế này. Người lính nhỏ con ấy không ai khác chính là Linh Lan.

Kế hoạch cải trang thành một anh lính cho đợt ra quân lần này đã thành công, bằng chứng là Linh Lan hiện đang ở trên thuyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, mà không bị ai phát hiện ra. Phải cố gắng lắm, phải lấy hết can đảm, phải tự động viên bản thân mình lắm, Linh Lan mới có thể cải trang thành một anh lính để che mắt mọi người, đặc biệt là Nguyễn Huệ, vì một khi anh phát hiện ra nó, chắc chắn may mắn sẽ không đến với lần thứ hai.

Ngày ra quân, tất cả binh lính đứng tập hợp trong hoàng đế thành để duyệt binh. Dù đã lẫn vào trong đám đông, dù đã cố tự nhủ hãy cứ bình tĩnh, xem như không có chuyện gì xảy ra, nhưng trái tim Linh Lan vẫn đập như trống trận trong lồng ngực, khi đích thân Nguyễn Huệ duyệt binh chứ không phải ai khác. Vội lảng tránh ánh mắt của Nguyễn Huệ, lúc anh vô tình quét mắt qua mình, Linh Lan rờn rợn, khi cảm giác rằng Huệ đang nhìn nó với một đôi mắt tinh quái pha lẫn chế giễu. Lúc ấy, Linh Lan đã vô cùng lo lắng. Từng giọt mồ hôi trắng đục cứ tứa ra, thấm ướt cả tấm lưng nó, do nếu bị Nguyễn Huệ phát hiện ra thì thật chỉ có nước tiêu đời. Chẳng biết do nó có tật giật mình, hay do Nguyễn Huệ chỉ nhìn bâng quơ, mà ngay sau đó anh quay đi, tiếp tục kiểm tra đội hình khác, làm Linh Lan mừng rỡ, không nén được mà thở phào một hơi.

Tại sao nó lại dám cải trang thành lính? Tại sao nó lại dấn thân vào chiến trường đầy rẫy hiển nguy, chỉ cần sơ sẩy một chút là mất mạng, thay vì ngồi ở nhà đợi tin tức, hay vào đội nữ binh phụ trách hậu cần của Bùi Thị Xuân để được an toàn hơn? Tại sao nó nhất thiết phải dấn thân vào mũi tên làn đạn, chỉ để bảo đảm Nguyễn Huệ không làm gì gây tổn hại đến Văn Bình? Tại sao? Linh Lan thật sự không biết. Nếu Nguyễn Huệ có ý muốn gây tổn hại đến thân xác của Văn Bình, chắc chắn anh sẽ không thiếu gì cách chứ không phải đợi đến lúc ra chiến trường. Nhưng chính vì như thế Linh Lan lại càng lo lắng hơn.

Nguyễn Huệ muốn gì?

Đưa tay chạm nhẹ vào vết thương vừa lành trên cổ, Linh Lan rùng mình khi nhớ lại ngày hôm ấy. Rõ ràng anh ta muốn cho Văn Bình phải đau khổ, phải chịu tổn thương tinh thần chứ không chỉ đơn giản là những thương tích ở thể xác. Điều gì sẽ xảy ra nếu như Nguyễn Huệ cố ý đánh thua trận này? Nếu như Nguyễn Huệ cố ý để cho toàn quân thất bại, chắc chắn anh ta sẽ khiến Văn Bình tổn thương, bằng cách khiến anh phải chịu trách nhiệm cho những cái chết vô nghĩa của binh sĩ, anh em. Tệ hơn thế, nếu như cả Văn Bình bị thương, nếu như Văn Bình có gặp bất trắc gì...

Linh Lan càng nghĩ càng thấy lo lắng không yên. Nó không thể chọn một phương án an toàn là quanh quẩn trong đội hậu cần, hay ở nhà trông ngóng tin tức, bởi như thế chắc chắn nó sẽ chết vì quá sốt ruột, hoặc đứng ngồi không yên do mong ngóng tin tức trên chiến trường truyền về. Như thế với nó lại càng đáng sợ hơn. Với suy nghĩ đó, cộng thêm tính cách liều lĩnh, như lời Anh Tú nhận xét, Linh Lan đã quyết tâm gạt bỏ hết những nỗi sợ hãi, gạt bỏ hết những bất trắc để cải trang thành một người lính, ra trận cùng Tây Sơn. Khi đã quyết định, nó thậm chí giấu chuyện đó với cả Bách Nhật, bởi nó biết Bách Nhật chắc chắn sẽ không đồng tình với những chuyện rủi ro cao, và đặc biệt là nguy hiểm đến tính mạng của bạn mình.

Chắc chắn Linh Lan sinh nhằm sao quả tạ hay là xui tận mạng, nên nó mới vô phước lên trúng thuyền của Nguyễn Huệ. Rút lui cũng không được, tiến tới cũng không xong, Linh Lan chỉ còn biết nhắm mắt, cầu trời khấn phật, sao cho giữa một rừng lính, Nguyễn Huệ sẽ không phát hiện ra mình. Chẳng biết trời phật có nghe lời cầu khẩn của nó hay không, mà chỉ biết đến giờ Nguyễn Huệ hình như vẫn chưa phát hiện ra nó. Anh vẫn để tâm đến những chuyện khác, thậm chí còn không biết có một tên lính lúc nào cũng mũ che sùm sụp, dõi theo anh trên thuyền của mình.

Lênh đênh trên biển mất mấy ngày, Linh Lan phải gắng lắm mới giữ cho đầu óc được tỉnh táo, không bị sóng nhồi thành gà quay, do không quen đi biển đường dài như thế này bao giờ. Lúc trước nó bị thương, nửa tỉnh nửa mê, ngủ li bì cho nên không cảm thấy gì, nhưng lần này thì lại khác. Mang tâm trạng lo lắng phập phồng do sợ bị phát hiện ra, lại thêm chen chúc trên một chiến thuyền với lính tráng, Linh Lan mệt đừ người. Gương mặt nó đỏ gay, thân hình loạng choạng, chân đứng không vững do bị say sóng. Phải tập trung hết sức, gồng mình lên chịu đựng, Linh Lan mới có thể giữ được tỉnh táo cho tới tận bây giờ.

Càng tiến sâu vào cửa biển Cần Giờ, Linh Lan lại càng thấy hồi hộp, lo lắng và hoang mang. Hồi hộp là do không biết chuyến đi này mang đến những bất trắc gì cho nó. Lo lắng là do chứng kiến Nguyễn Huệ chiến đấu chớp nhoáng trên thuyền, nhanh chóng và dũng mãnh hơn bất cứ viên tướng nào. Và hoang mang khi ngờ ngợ rằng mọi suy nghĩ, tính toán của mình bắt đầu rạn vỡ từ khi nhìn thấy tuyến phòng thủ đầu tiên của Nguyễn Ánh tại cửa Cần Giờ. Thế này là thế nào? Linh Lan đứng nép vào cột buồm. Nó cảm thấy khó thở vì cảnh chém giết tàn bạo trước mặt, cảm thấy buồn nôn khi chứng kiến những thây người máu me đầm đìa, và mùi khét hăng hắc của khói, của da thịt người bị cháy theo gió xộc vào mũi. Căng mắt nhìn đội quân Tây Sơn lao thẳng vào thuyền của Dương Văn Trừng, một mối lo lắng trào dâng trong tâm trí nó, ép lấy trái tim của nó, làm nó khó thở. Theo dự tính của nó, Nguyễn Ánh lẽ ra sẽ không bày quân ở Thảo Câu hay Giác Ngư, do nó đã phát hiện ra hai đồn chiến lược trong kế hoạch phòng thủ Gia Định của anh...

Khoan! Đợi đã! Linh Lan cắn móng tay, nó vừa cố gắng tránh né những viên lính Tây Sơn để không cản đường họ, vừa lùi về phía sau để suy nghĩ. Rất có thể đội quân của Dương Văn Trừng ở Thảo Câu chỉ là một đội quân nhỏ, đánh nghi binh để hậu quân phía sau có thời gian chuẩn bị kỹ càng hơn, nhằm vớt vát lại phần nào đổ bể từ chiến lược quan trọng của Nguyễn Ánh. Có thể như thế lắm chứ, Nguyễn Ánh không khi nào liều đến mức hai đồn chiến lược đã bị người khác biết hết, mà vẫn ngoan cố bố trí quân như cũ. Như thế khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết. Anh ta là người chứ không phải thần thánh, mà đã là người tất phải biết cái nào có lợi cho mình mà làm theo. Linh Lan bám chặt vào cột buồm, nó tự trấn an mình như thế, rồi dõi theo bóng dáng của Nguyễn Huệ đang chiến đấu ở phía trước. Trái tim nó lại thốn lên một nhịp khi năm tên lính bên địch xông lên, tấn công Nguyễn Huệ mãnh liệt với những đường kiếm nguy hiểm chết người.

Không được bị thương

Đừng để bị thương

Mắt đăm đăm nhìn về phía Nguyễn Huệ, Linh Lan nhủ thầm trong bụng. Nó thở phào nhẹ nhõm, khi Nguyễn Huệ ung dung hóa giải hết những đường kiếm tấn công của năm tên lính, và tặng cho mỗi tên một nhát kiếm chí mạng, khiến chúng ngã nhào xuống biển, máu loang cả mặt nước. Nhìn Nguyễn Huệ dũng mãnh như thế, Linh Lan chợt nhớ tới lúc anh kề kiếm vào cổ mình. Nếu thanh kiếm đẫm máu kia lia một nhát ngọt xớt vào cổ nó, chắc chắn nó đã về chầu ông bà, chứ không còn đứng đây mà lo lắng cho Văn Bình như thế này.

Dương Văn Trừng càng đánh càng hăng. Gã tỏ ra vô cùng đắc ý, vì đội quân của mình đang dần khiến đội thủy quân của kẻ được mệnh danh "đánh đâu thắng đó" phải núng thế, ngày càng lùi dần về phía sau. Tư khấu Nguyễn Văn Kim đang vung tay phạt ngã hai người lính Gia Định kế bên, trông thấy cái bản mặt đáng ghét của Dương Văn Trừng đang giương giương tự đắc, khi đẩy lui được thuyền quân mình, ông tức muốn nổ con ngươi. Dù trong thâm tâm, thật tình ông rất muốn thúc đẩy toàn quân đánh hết sức chứ không phải giả vờ đánh một cách cầm chừng, nhưng vì lời căn dặn của chủ soái, lại thêm khuôn mặt quá lạnh lùng, dứt khoát, nên Nguyễn Văn Kim bấm bụng đành nhịn. Ông trút tất cả tức giận của mình lên một tên lính Gia Định đang hùng hổ lao tới, lòng hoài nghi không biết thế trận này rồi sẽ giữ vững cho đến bao giờ.

Dương Văn Trừng đang đánh hăng say, chợt nhớ đến kế hoạch mà chúa công đã giao. Hà hà! Không lúc này thì còn đợi đến chừng nào. Quân của Nguyễn Hụê đang thua, nay thấy ta đột nhiên quay thuyền bỏ chạy, chắc chắn hắn sẽ không dại gì mà không xua quân đuổi theo, để cứu vãn lại trận đánh. Và chỉ cần thế là hắn sẽ rơi gọn vào ổ phục kích ta đang giăng sẵn. Để xem lần này vị tôn thất Mân lắm mồm nhiều chuyện, đang giữ đồn đối diện, còn có điều gì để cạnh khóe ta nữa hay không.

Sợ để lâu sẽ sinh nghi, Dương Văn Trừng phất ngọn cờ đỏ đang giắt ở bên hông ra, báo hiệu thực hiện kế hoạch. Quân lính của gã đang chiến đấu hăng say, nay bỗng nhiên thấy lá cờ ám hiệu đó, trong lòng dù tiếc rẻ cũng phải quay đầu bỏ chạy theo kế hoạch của chủ tướng. Nguyễn Hụê đang chiến đấu ở trên thuyền, anh cười nhạt khi thấy Dương Văn Trừng quay đầu bỏ chạy. Trái ngược lại với vẻ thản nhiên lạnh lùng của anh, Nguyễn Văn Kim đang thuận tay lấy đầu hai tên lính kế bên tỏ ra nôn nóng ra mặt, liền quát lên.

- Toàn quân! Mau...

- Đuổi theo! Nhưng chỉ cầm chừng!

80(2)

Giọng nói lạnh lùng của Nguyễn Huệ bất thần vang lên, khiến Nguyễn Văn Kim giật mình quay phắt lại. Đôi mắt ông mở to, nhìn trân trối vào khuôn mặt vô cảm của Nguyễn Hụê. Chủ tướng! Rốt cuộc điều gì ẩn sau đôi mắt đen thẫm ấy của người? Những lần ra trận trước, người luôn ra lệnh phải tốc chiến tốc thắng, phải đạp hết mọi trở ngại mà tiến lên. Chính vì nhờ khẩu lệnh đạp bằng trở ngại mà tiến lên đó của người, chúng ta mới có thể oanh liệt thảo phạt Gia Định hết lần này đến lần khác, mới có thể thiêu rụi chiến thuyền Tây Dương của Mãn Noài. Vậy tại sao lần này lại người trở nên khác hẳn như thế?! Đánh, thì chỉ đánh cầm chừng! Đuổi theo, thì cũng chỉ cầm chừng. Cầm chừng là thế nào? Cái thái độ dứt khoát, đạp bằng mọi trở ngại, đánh cho giặc phải chạy dài của người đâu rồi?

Biết Nguyễn Văn Kim đang bất mãn trong lòng, nhưng Nguyễn Hụê không quan tâm đến viên thuộc tướng chỉ biết xông vào là đánh đó. Nhìn Dương Văn Trừng gấp rút chạy về nơi phòng thủ, và quân Tây Sơn đang đuổi theo, nhưng chỉ đuổi theo một cách cầm chừng và chậm chạp theo lời dặn của mình, đôi mắt đen u tối từ từ nhắm lại, dấu hiệu để Nguyễn Hụê thả lỏng mọi giác quan. Thính giác, vị giác, xúc giác, và thị giác...tất cả, tất cả đều lắng nghe hơi thở của thiên nhiên đang chuẩn bị giao hòa.

Hơi thở của nước! Sức sống của gió, và tiếng lao xao thì thầm của đám cỏ lau chập chờn.

Chính là lúc này!

Nguyễn Huệ vụt mở mắt. Từ trong đôi mắt đen u tối đó có một ánh lửa thoáng vụt cháy.

- Mau tăng tốc! Cho thuyền xông thẳng vào Dương Văn Trừng!!

Nguyễn Văn Kim đang đứng khua kiếm, lòng thầm rủa xả Dương Văn Trừng, bỗng ngừng phắt lại khi nghe Nguyễn Hụê ra lệnh. Đúng rồi, phải thế chứ. Đó mới chính là cái mà ông mong muốn ngay từ đầu. Phải xông lên! Phải đánh thẳng vào bọn chúng, phải thần tốc để cho chúng sáng con mắt ra, vì can tội có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn.

Thủy quân Tây Sơn đang đuổi theo một cách chậm chạp, bỗng rùng mình và lao nhanh như tên bắn khi nghe hiệu lệnh từ Tư khấu Nguyễn Văn Kim. Dương Văn Trừng nãy giờ đang lo lắng, do thấy chiến thuyền của Tây Sơn không có ý định đuổi theo, sợ kế hoạch sẽ tan thành bong bóng, nay phấn chấn hẵn lên, khi nhìn thấy đoàn thuyền hình mũi tên lao nhanh về phía mình. Được lắm, có thế chứ. Nào, đến đây! Các ngươi sẽ biết hỏa công là như thế nào.

Nguyễn Văn Kim đang hùng hổ cỗ vũ binh sĩ, bỗng trợn tròn cả mắt lên, khi nhìn thấy dày đặc những chiếc bè chứa cỏ khô đang dập dềnh trên mặt nước, trước đoàn thuyền của Dương Văn Trừng. Một tia sáng lóe qua trong đầu, Nguyễn Văn Kim mặt biến sắc. Thôi chết! Chúng ta mắc mưu hắn rồi. Nguyễn Văn Kim kêu hoảng trong bụng, ông còn chưa kịp hô hoán, thì Dương Văn Trừng đã ra lệnh phóng lửa vào những chiếc bè chứa cỏ khô, thúc giục binh sĩ chặt đứt những sợi dây nối mấy chiếc bè rực lửa vào thuyền. Sợi dây ràng buộc đã bị chặt đứt, hành loạt chiếc bè cỏ đang trôi lững lờ theo dòng nước, bỗng chốc như chim được sổ lồng. Chúng đồng loạt lao thẳng về phía đoàn thuyền đang tiến nhanh về phía trước của Nguyễn Huệ, mang theo cả một trời lửa với những tiếng tí tách lèo xèo, do đám cỏ khô bốc cháy phát ra.

- Tướng quân! Chúng ta rút lui thôi. Đó là kế hỏa công.

Tư khấu Nguyễn Văn Kim kinh hoàng nhìn những chiếc bè lửa đang hung hãn lao nhanh về phía mình. Viễn cảnh cả một đoàn quân hùng hậu bị thiêu trụi thành tro hiện ra rõ mồn một, khiến ông thất sắc. Trái ngược với vẻ cuống cuồng của Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Huệ đang đứng chống kiếm xuống sàn thuyền chỉ nhếch môi, tạo thành một nét cười lửng lơ.

- Xông thẳng vào đám bè lửa đó!

- Tướng quân!!

Nguyễn Văn Kim hoảng sợ la lên khi Nguyễn Hụê tỏ vẻ không muốn rút lui, nhưng trước một đôi mắt uy nghi, lạnh lẽo, Nguyễn Văn Kim không còn cách nào khác đành thúc quân tiến lên. Ông chỉ còn biết liếm đôi môi nứt nẻ khô rốc, và giương mắt nhìn đoàn thuyền dần tiến vào biển lửa trước mặt. Rồi chỉ trong chốc lác nữa thôi, tất cả đoàn quân dũng cảm của Tây Sơn sẽ bị lửa liếm ra tro.

Trông thấy Dương Văn Trừng dụ địch vào vùng phục kích, thực hiện kế hoạch hỏa công, thiêu rụi toàn bộ chiến thuyền của Tây Sơn, Linh Lan kinh ngạc đến ngây cả người. Lòng bàn tay nó ướt lạnh, khi Nguyễn Huệ lệnh cho toàn quân xông thẳng vào biển lửa đỏ rực, được tạo thành từ những chiếc bè nứa đó. Lặng người nhìn những cột lửa cháy ngùn ngụt, được sức gió và dòng chảy hỗ trợ, lao như tên bắn đến những chiến thuyền của Tây Sơn, những giọt mồ hôi chầm chậm rịn ra từ vầng trán tái xanh của nó, rơi vào đôi mắt đen mở to, cay xè.

Thế này là thế nào? Chuyện gì đã xảy ra? Chẳng lẽ mọi phán đoán của nó đều đã sai hết? Chẳng lẽ những gì nó nghĩ đều trật đường ray hoàn toàn. Trong giây phút căng thẳng tột cùng ấy, những hình ảnh quá khứ dần tái hiện trong đầu óc Linh Lan. Nó là người bên Tây Sơn, Nguyễn Ánh biết rõ điều đó nhưng lại để nó đi tham quan hết những gì ở Gia Định. Không giam cầm, không tra tấn, không hạch hỏi, ngược lại còn rất ân cần, cho phép nó tự do đi lại - trong giới hạn - mà không hạch sách điều gì. Đồn Giác Ngư, đồn Thảo Câu, mọi sự phòng bố ở Gia Định, tất cả, tất cả đều chỉ cho nó thấy. Một người cẩn thận, làm gì cũng suy trước tính sau như Nguyễn Ánh lại có thể để cho nó thoát dễ dàng, nhất là sau khi nó đã biết sơ qua tình hình Gia Định ra sao, thì quả thật không hợp lý chút nào. Đáng lẽ ra, anh ta phải canh chừng nó cẩn thận hơn mới phải.

Càng suy nghĩ, Linh Lan càng cảm thấy đầu óc mụ mị. Nguyễn Ánh để cho nó thoát, không lẽ, không lẽ tất cả đều nằm trong dự tính của anh? Hé mở từng chút một về Gia Định, cho nó tự do thoải mái, đi đâu cũng mang nó theo, nếu như anh ta đã có chủ ý thì những chuyện đó không có gì lạ. Vậy thì, phải chăng việc để nó trốn thoát cũng hoàn toàn nằm trong dự tính của anh ta? Rồi việc nó sẽ trở về, trình báo rằng hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư bây giờ không nguy hiểm, do kế hoạch phòng thủ chiến lược đã bị lộ, quân Tây Sơn có thể tốc chiến, tốc thắng, chiếm được hai đồn ấy dễ dàng do Nguyễn Ánh đã mang quân phòng thủ ở nơi khác, không tập trung quân ở hai đồn này, cũng nằm trong tiên liệu của anh ta?

Linh Lan nuốt nước bọt, nó run rẩy, bám chặt tay vào cột buồm, người không còn chút sức lực. Trận hỏa công đang đợi trước mặt. Một cái bẫy tinh vi đã giăng ra chờ quân Tây Sơn chui vào, và người tiếp tay cho kế hoạch đó của Nguyễn Ánh lại chính là nó. Nguyễn Ánh đã lừa nó, đã khéo léo sử dụng nó, đã biến nó trở thành người đưa quân Tây Sơn vào bẫy. Anh đã lợi dụng nó, dẫn dắt suy tính của nó, để rồi chính nó lại dùng những phân tích của mình, gián tiếp đẩy toàn quân vào biển lửa này. Thì ra công dụng của khối lượng gỗ và đám rơm rạ mà nó nhìn thấy ở hai đồn là thế. Ngốc. Ngốc. Ngốc ơi là ngốc mà. Tại sao nó không nghĩ đến trường hợp này? Tại sao nó không nghĩ đến Nguyễn Ánh sẽ lợi dụng sức gió, sử dụng kế hỏa công? Đôi mắt Linh Lan long lanh sắc giận. Môi nó mím chặt, đôi tay run rẩy. Mãi đến tận bây giờ nó mới nhận ra rằng mình đã bị Nguyễn Ánh lợi dụng triệt để cho mưu đồ của anh. Nếu đội quân Tây Sơn thua trận, nếu Văn Bình có mệnh hệ nào thì tất cả đều là lỗi của nó. Nó chắc chắn sẽ không tha thứ cho mình, chắc chắn sẽ giận bản thân mình và oán hận Nguyễn Ánh suốt đời.

Linh Lan nắm chặt bàn tay, làm nổi lên những đường gân xanh nhợt nhạt. Nó vụt ngẩng cao đầu, nhìn về phía Nguyễn Huệ. Nếu anh ta đã thấy đám bè lửa trước mặt, đã biết quân Nguyễn sử dụng kế hỏa công thì tại sao anh ta lại thản nhiên đến như thế? Chẳng lẽ anh ta không sợ chết hay sao? Chẳng lẽ... Linh Lan bặm môi, chẳng lẽ vì đó là thân xác của Văn Bình cho nên nó có thế nào cũng không hề tổn hại đến anh ta. Linh Lan rùng mình vì ý nghĩ đó, nó lắc đầu, mắt sáng rực khi hạ quyết tâm không để Nguyễn Huệ được toại nguyện. Thường ngày, Văn Bình đối xử rất tốt với nó, nó xem anh là người thân nhất trên đời, và nhất định sẽ chẳng để bất cứ ai, cho dù đó có là Nguyễn Huệ, làm tổn thương anh.

Hít một hơi dài để lấy dũng khí, Linh Lan tạm thời gạt bỏ nỗi oán giận Nguyễn Ánh qua một bên. Nó sải chân, thẳng bước về phía Nguyễn Huệ, mặc cho ra sao thì ra, để buộc anh phải ngừng lệnh tấn công lại. Nhưng mới đi được hai bước, Linh Lan đã dừng chân lại. Nó ngước đầu lên, nhìn mây trời, và thấy bóng mây bỗng từ từ thay đổi. Nhíu mày khi linh cảm có một điều gì đó sắp sửa xảy ra, Linh Lan nhìn thấy dòng nước dưới thuỳên hình như ngày càng chảy nhanh hơn, và chiều gió bỗng đột ngột thay đổi. Chỉ có hai lý do để Nguyễn Huệ cho thuyền lao thẳng vào những chiếc bè cỏ đó. Thứ nhất, anh ta muốn Văn Bình cùng toàn quân phải thất trận và chết, thứ hai là...

Thứ hai là anh ta biết chúng sẽ trở nên vô hại đối với quân mình...

Tiếng nước ngày càng chảy mạnh, sức gió đột ngột đổi chiều.

Nguyễn Huệ nhắm mắt lại, lắng nghe hơi thở của thiên nhiên.

Thủy triều...

Thủy triều đã dâng lên rồi.

Dương Văn Trừng đang đắc thắng, đứng khoanh hai tay vào nhau, nhìn những chiếc bè lửa chuẩn bị thiêu cháy cả đoàn thuyền vô phúc tự đâm đầu vào nộp mạng. Nhưng chỉ được một lúc, đôi mắt gã thốt nhiên bỗng mở to, nét mặt không giấu nổi vẻ bàng hoàng, khi chứng kiến những chiếc bè đang lao nhanh về phía trước, đột ngôt dừng hẳn lại, rục rịch chuyển hướng, nương theo chiều gió và sức nước chảy ngược, lao trở về phía mình như bị một bàn tay vô hình nào đó đẩy lui, với một tốc độ vô cùng kinh hoàng.

Nguyễn Văn Kim đứng nhắm mắt trên thuyền, lòng lo lắng đội quân Tây Sơn phen này sẽ bị thiêu rụi thành tro, nhưng ông nhắm mắt không được bao lâu. Nghe những tiếng reo hò phấn khích của quân lính, ông vội vàng mở choàng mắt để chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ đang diễn ra. Những chiếc bè rực lửa đang hùng hổ tiến đến, đột ngột gặp nước triều dâng lên, đồng thời bị sức gió đảo chiều thổi ngược một cách ngọan mục. Tất cả bè lửa lúc này nhất tề lao vào đoàn thuyền đang án ngữ của Dương Văn Trừng, khiến Nguyễn Văn Kim há hốc miệng vì sự đảo ngược thần kỳ ấy. Một biển lửa nổi dậy. Cả một đoàn thuyền dũng mãnh bị lửa nhanh chóng bủa vây và liếm sạch. Tiếng la hét, tiếng kêu gào thất thanh vì bị lửa thiêu vang lên khắp nơi. Mặc cho Dương Văn Trừng tái mặt ra lệnh phản công lại, quân lính lần lượt rời bỏ thuyền, nhảy bừa xuống sông để tránh cái nóng rát da của thần lửa đang nổi giận. Mặt sông rộng lớn đầy những thây người chết do không biết bơi, hoặc do bị bỏng, trong khi số còn lại dạt vào bờ trước sự kinh hoàng của Linh Lan.

Ánh lửa thiêu rụi đoàn thuyền lan nhanh trên mặt nước, phản chiếu lấp lánh trong đôi mắt đen thẫm, u tối của Nguyễn Huệ. Khuôn mặt anh lúc này trông thật vô cảm, nhưng nụ cười lạnh lùng lại nở một nửa trên môi, cứ như thể chuyện hỏa công phản lại Dương Văn Trừng là điều tất yếu. Nguyễn Văn Kim sau khi chứng kiến tất cả mọi việc, phải phục đến sát đất sự tính toán chính xác đến từng li từng tí của chủ tướng. Nếu thủy triều không lên, nếu sức gió không thuận, nếu sự tính toán đó chệch đi dù chỉ một khắc, thì thật không dám tưởng tượng tiếp chuyện gì sẽ xảy ra? Lê Văn Kế rùng mình, viễn cảnh đen tối đó đã có thể diễn ra, nếu như chỉ huy của ông không phải là một Long Nhương tướng quân chưa từng nếm mùi thất bại. Càng nghĩ ông càng thấy sợ, sợ người đang đứng trước mặt mình, sợ một thiên tài quân sự, tính toán như thần và dám mang cả tính mạng của mình ra để đặt cược cho sự tính toán đó.

Lợi dụng lúc đám tàn quân lo chạy tháo thân, những chiến thuyền Tây Sơn nhanh chóng tiến đến, nã pháo như mưa vào đoàn quân đang rối loạn, khiến đội hình mà Dương Văn Trừng cất công sắp xếp nhanh chóng tan vỡ, chạy tán loạn như bầy ong bị vỡ tổ. Biết bản thân mình nếu nấn ná ở lại, chắc chắn số phận cũng giống như những thây người đang trôi nổi lềnh bềnh kia, hoặc nếu không chết trôi cũng bị quân Tây Sơn cho câu liêm móc lên thì cũng tàn đời, sau vài phút đắn đo suy nghĩ, Dương Văn Trừng giương buồm chạy thẳng. Đồn Thảo Câu mà gã được phân công trấn giữ, nhanh chóng bị quân Tây Sơn tràn đến bủa vây.

Linh Lan đừng từ xa trông thấy tất cả. Nó đau lòng cho những người vô tội bị chết oan trong biển lửa, hay đem thân làm mồi cho cá. Nhưng dù buồn, dù đau lòng, và cảm thấy buồn nôn đến khó thở, thì nó vẫn biết những chuỵên giết chóc đó tất phải xảy ra trong cái thời loạn lạc còn vua còn chúa này. Khó chịu là thế, nhưng ý nghĩ Văn Bình đã được an toàn khiến nó thở phào nhẹ nhõm và cảm thấy yên tâm phần nào. Nguyễn Huệ đã không bị đám bè lửa thiêu trụi, ngược lại còn phản công, không còn lý do để cho nó tiến đến nữa. Linh Lan thụt lùi lại, tay kéo chiếc nón sơn đỏ xuống, ẩn sau cột buồm, để người khác không chú ý đến. Đúng vào lúc đó, Nguyễn Huệ chợt quay đầu lại. Ánh mắt đen thẫm u tối của anh chợt trở nên lấp lánh, đi kèm với cái nhếch môi chế giễu, mỉa mai khi nhìn về phía nó, khiến Linh Lan hốt hoảng, quay mặt đi. Trấn áp trái tim đập thình thịch trong lồng ngực, Linh Lan vô cùng ngỡ ngàng. Nguyễn Huệ có nhìn thấy nó không, có biết nó đang có mặt ở trên thuỳên không? Nếu biết thì tại sao anh biết, và nếu không thì ánh mắt và nụ cười ấy có ẩn ý gì khi nhìn về phía cột buồm?

Linh Lan càng nghĩ, tim càng đập dồn dập vì lo lắng. Nếu anh đã nhìn thấy nó, đã biết nó có mặt trên thuyền thì tại sao chưa vạch trần và thẳng tay trừng trị, mà còn để nó an toàn theo dõi từ khi ra quân đến giờ. Chẳng lẽ... Linh Lan liếm môi. Chẳng lẽ Nguyễn Huệ cố ý làm thế. Chẳng lẽ anh muốn để cho nó thấy mình đã bị Nguyễn Ánh lợi dụng như thế nào, cho nó biết chỉ vì nó mà đội quân Tây Sơn suýt chút nữa là bị thiêu ra tro, trước kế hỏa công nhờ vào sức gió mà nó nói cho Nguyễn Ánh nghe?!

Trong phút chốc, đôi đồng tử của Linh Lan nở to. Nó bặm chặt môi, đầu nóng ran khi hiểu ra nụ cười của Nguyễn Huệ khi ấy, chắc chắn là hàm ý mỉa mai và giễu cợt. Trong cùng một lúc, ý nghĩ bị hai người đàn ông lừa gạt, lợi dụng và giễu cợt đã làm cho Linh Lan cảm thấy khó thở. Tim nó nghẹn lại, miệng nó khô khốc, đắng ngắt, từng mạch máu trong người nó như đang sôi lên, đôi mắt long lanh tựa như muốn khóc, nhưng lại ráo hoảnh, chẳng có lấy một giọt lệ nào. Thật đáng đời, thật đáng đời cho nó mà. Nhẹ dạ, cả tin nên bị lừa cũng đáng, bây giờ nó còn oán trách được ai ngoài bản thân mình.

Đồn Thảo Câu đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

Linh Lan kinh hoàng khi nhìn thấy chiếc cầu phao nối hai đồn Giác Ngư và Thảo Câu bị chặt đứt, vô số những xác người chết trôi nổi như đám lục bình trên sông. Máu loang đỏ nước. Tiếng bước chân chạy loạn điên cuồng, những đám lửa ngùn ngụt bốc khói đen bay thẳng lên cao, che khuất cả một bầu trời xanh. Kết quả của trận chiến, là Tư khấu Nguyễn Văn Kim chặt dứt cầu phao nối hai đồn, khiến tôn thất Mân tử trận. Dương Văn Trừng cũng không khá khẩm hơn do bị phò mã Trương Văn Đa bắt sống, khi cố tẩu thoát vào thành.

Hạ xong hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư, thuyền của quân Tây Sơn theo đà thẳng tiến, nhanh chóng triệt phá thêm đồn Bến Nghé. Không gặp cản trở nhiều như ở Thảo Câu và Giác Ngư, tướng sĩ giữ đồn Bến Nghé đã sớm tháo chạy khi nhìn thấy khói cuộn dày đặc ở hai đồn chủ chốt. Giữ đồn chỉ còn lại một số ít lính, nên quân Tây Sơn không khó khăn mấy để chiếm nốt, và sau đó tiến thẳng vào thành, khi bóng dáng của Nguyễn Ánh mãi vẫn không thấy xuất hiện lần nào.

Quân Tây Sơn lục đục xuống thuyền, túa ra khắp nơi để xông thẳng vào thành. Không chậm trễ, Linh Lan cũng vội vàng bám sát phía sau họ, nhưng giữ khoảng cách đủ xa để Nguyễn Huệ không nhìn thấy. Nghĩ đến chuyện bị Nguyễn Ánh lợi dụng là Linh Lan lại vô cùng tức giận. Nó muốn gặp anh, muốn xem sau khi kế hoạch của anh đã bị Nguyễn Huệ phá vỡ, thì nét mặt tự tin, kiêu ngạo ấy sẽ biểu hiện những cung bậc cảm xúc nào?

Chiều tà, bầu trời Gia Định nhuộm một màu tang thương, khói lửa. Đường vào thành vắng ngắt, lạnh lẽo, chỉ có những chiếc lồng tre lăn lóc, vương vãi khắp nơi, những ngôi nhà trống bốc, quên cả khép cửa, để gió thổi lắc lư, do dân chúng đã chạy loạn mỗi khi có chiến tranh. Nhìn cảnh tượng điêu tàn ấy, Linh Lan thấy nao nao. Nó chưa quen được với việc ra chiến trường. Đến bây giờ bụng nó vẫn còn đau âm ỉ và buồn nôn dữ dội, như lúc ngửi thấy mùi thịt người bị nướng khét, cảnh máu thịt bầy nhầy không ra hình thù. Sống ở thời đại này, chuyện máu me có lẽ như cơm bữa, một khi còn ở trong đội nữ binh Tây Sơn thì nó phải tập làm quen mấy chuyện này.

Lớp thành cuối cùng hiện ra trước mặt với cánh cửa gỗ lim đóng chặt, bất khả xâm phạm, khiến Linh Lan thấy chờn chợn. Dường như đã quá quen thuộc, quân Tây Sơn dừng lại, tự động xếp thành hàng thẳng tắp, tách ra hai bên nhường đường cho đội công phá cổng thành tiến lên. Hồi hộp nhìn cánh cổng thành rung chuyển, kêu răng rắc khi bị khúc gỗ to, bự nện vào, Linh Lan chợt lo lắng vu vơ. Văn Bình đã an toàn, quân Tây Sơn đã thắng trận, vậy tại sao nó còn lo lắng, nó lo lắng điều gì, nó lo lắng cho ai? Linh Lan biết mà cũng không muốn biết. Chợt nghe rầm một tiếng đinh tai, Linh Lan giật mình nhìn về phía trước, cánh cửa thành không chịu nổi sức ép đã bật mở, nhưng ngay lập tức, khi Linh Lan còn chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra, thì nó đã nghe thấy những tiếng hự uất nghẹn ở phía trước. Lớp lính đi tiên phong ngã lăn xuống đất, giẫy lên vài cái rồi nghẹo đầu tắt thở khi bị những mũi tên cắm phập vào người, máu không ngừng tuôn trào, thấm ướt cả chiếc áo nâu sờn mặc trên người.

Chứng kiến cảnh tượng đó, không cần ai giải thích Linh Lan cũng hiểu ngay sự việc. Trong thành có mai phục. Khi cổng thành rắn chắc vỡ toang, đội xạ thủ của quân Nguyễn mai phục trong thành, và cả trên tường thành xả tên như mưa vào lớp lính tiên phong của quân Tây Sơn. Tên bay rào rào, tiếng người la hét, rên rỉ vang lên thảm thiết. Linh Lan quýnh quíu, cuối xuống một người lính đã chết, rút phắt thanh gươm đeo ngang hông, vung lên gạt những mũi tên bay vèo vèo về phía mình.

Trước sự tập kích của quân Nguyễn, Nguyễn Huệ chỉ hừ nhạt một tiếng. Gương mặt anh lúc này như bao phủ môt làn sương mỏng, không chút biểu cảm, thanh kiếm trong tay loang loáng, gạt hết những mũi tên bay như mưa về phía mình. Tháo chiếc áo choàng đỏ, Nguyễn Huệ dùng tay, quấn tấm áo choàng thành một tấm khiên, che chắn an toàn cho bản thân, tay còn lại vung kiếm. Vừa tiến về phía trước, anh vừa hất những mũi tên bay ngược lại phía kẻ thù, tạo ra những tiếng hự khô khốc, khiến quân nhà Nguyễn tái mặt vì sự dũng mãnh của Long Nhương tướng quân của Tây Sơn.

Biết khó lòng phòng thủ thêm được nữa, xạ thủ của Nguyễn quân lần lượt rút lui, sau khi bắn thêm một loạt tên để cầm chân Tây Sơn. Không chậm trễ, Nguyễn Huệ vượt lên đi đầu, nhanh chóng tiến vào thành để bắt cho được Nguyễn Ánh, diệt trừ tận gốc mối hậu hoạ về sau. Vừa mới được vài bước, Nguyễn Huệ khựng người lại. Anh quay nhìn về phía sau khi có ai đó kéo lấy áo choàng, và rồi đôi mắt anh sẫm màu khi nhận ra đó là Linh Lan, trong lốt một người lính với chiếc nón sơn đỏ sùm sụp trên đầu.

Nhân lúc Nguyễn Huệ đang hóa giải làn tên bắn như mưa của quân Nguyễn, Linh Lan thận trọng, từng bước tiến về phía anh, cố gắng không để bị thương và không để cho Nguyễn Huệ kịp phát hiện ra. Bây giờ, mọi dự tính ban đầu của nó về hành động của Nguyễn Ánh đã không còn nữa. Chuyện hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư đã làm sụp đổ toàn bộ kế hoạch của nó, và nó đã có thể chắc chắn rằng, những suy nghĩ của Nguyễn Ánh bao giờ cũng khác thường. Lẽ ra hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư bị phát hiện, thì Nguyễn Ánh phải dời quân phòng thủ sang đồn khác, nhưng không, anh ta không làm thế. Không những vẫn giữ vững sự phòng thủ, ngược lại anh ta còn khéo léo lợi dụng nó đưa thủy quân Tây Sơn vào bẫy. Giờ đây, khi hai đồn chiến lược đã bị phá, thế mà trong thành vẫn còn xạ thủ mai phục chứ không rút toàn bộ quân đi, mà kể cả khi rút lui, xạ thủ của Nguyễn Ánh rút lui cũng trật tự như thế, tất bên trong vẫn còn có mưu kế nào đó.

Níu được áo choàng của Nguyễn Huệ, không để cho anh lên tiếng, Linh Lan nhìn theo những người lính tràn qua cổng thành và xông vào bên trong, nó nói nhanh, với giọng vô cùng nghiêm túc và cứng rắn.

- Đừng vội xông vào đó, bên trong chắc chắn có bẫy. Cứ để quân tiên phong đi trước, nếu không có chuyện gì thì chúng ta hẵn vào sau.

Có mai phục, tất những người đi đầu tiên sẽ lãnh hết. Hy sinh người khác để an toàn cho bản thân, đó là một hành động ích kỷ. Dù không thoải mái lắm với cái ý nghĩ đó, nhưng ở đây Linh Lan không còn cách nào khác. Nếu phải chọn lựa giữa những người lính Tây Sơn và Văn Bình, chắc chắn nó sẽ chọn Văn Bình. Nó muốn Văn Bình an toàn nên đành chịu lỗi với những người lính đi tiên phong, dù trong lòng không hề muốn thế.

Đáp lại lời Linh Lan là đôi mắt đen thẫm của Nguyễn Huệ nhìn xoáy vào mặt nó. Không e sợ trước cái nhìn chết chóc ấy, Linh Lan ngẩng cao đầu, nhìn thẳng vào mắt anh một cách chậm rãi, toàn thân buông lỏng, để anh thăm dò hết mọi ngõ ngách trong tâm hồn mình. Đoàn quân tiên phong hăng hái tiến lên, tràn vào thành, băng qua Linh Lan và Nguyễn Huệ, để lại hai người đứng yên lặng, nhìn nhau, và tay nó vẫn nắm chặt lấy áo choàng anh, không rời. Chợt, một tiếng hét thảm thiết vang lên, cắt đứt luồng suy nghĩ của nó. Hướng về nơi đã phát ra tiếng hét, Linh Lan mở to mắt, sững sờ, khi nhìn thấy một chiếc hố rộng nằm ngay phía sau cánh cổng, bên trong chứa đầy chông vót nhọn hoắt, xuyên qua những người lính chẳng may sụp bẫy rơi xuống.

Có lẽ do những lần tấn công vào Gia Định trước, Nguyễn Ánh không hề bố trí mai phục trong thành, tạo sự chủ quan cho quân Tây Sơn, thế nên lần tấn công này, họ cứ an nhiên phá cổng thành, tràn vào mà không hề phòng bị. Kết cuộc, một cái bẫy chông được đào ngay cổng vào, khéo léo ngụy trang bằng lớp đất bồi mỏng đã khiến quân tiên phong của Tây Sơn sụp bẫy, chết như ngả rạ. Chứng kiến cảnh tượng trước mắt, đoàn quân phía sau không dám tràn vào thành nữa, mà tụ dồn ở bên ngoài, do không biết quân Nguyễn còn có những chiếc bẫy nào khác hay không. Và mặc nhiên, đám đông dồn tụ đó lại trở thành bia sống để các xạ thủ Nguyễn quân xả tên vào.

Chứng kiến cái hố chông chết người, chứa đầy xác quân Tây Sơn nằm trên những cọc nhọn, Linh Lan toát cả mồ hôi hột, vì không ngờ Nguyễn Ánh lại tinh tường đến như thế. Nếu như ban nãy nó không kéo Nguyễn Huệ lại mà để anh cùng quân tiên phòng tiến lên thì chuyện gì sẽ xảy ra? Linh Lan rùng mình, nó không dám nghĩ tới nữa, rồi thả tay ra, không níu kéo Nguyễn Huệ bởi có lẽ lúc này hẳn anh đã biết mình phải làm gì. Nhìn quân Tây Sơn đứng ngần ngừ trước cổng thành, Nguyễn Huệ nhếch môi. Anh quay sang Lê Văn Kế đang đứng tần ngần bên cạnh, giọng nói không lộ chút cảm xúc nào.

- Bắc cầu!!

81.

Lời Nguyễn Huệ vừa ban ra, tư khấu Kim ngay lập tức thi hành. Ông lệnh cho quân Tây Sơn lùi lại để cho đội bắc cầu vượt hố chông từ xa tiến lên. Với sự thành thạo do những đợt chiến đấu trước, từng chiếc thang tre được mang đến, xếp liền nhau, bắc ngang qua chiếc hố chông, tạo thành một cái khung vững chắc, rồi phủ lên trên là những tấm liếp, ván lấy từ nhà dân. Chỉ trong thoáng chốc, một chiếc cầu đơn giản và an toàn đã hình thành. Trong khi quân Tây Sơn đang bận bắc cầu vượt qua hố chông, không bỏ lỡ cơ hội, xạ thủ Nguyễn quân tiếp tục xả tên như mưa vào địch thủ. Trận mưa tên khiến quân Tây Sơn luống cuống, vội vàng vung gươm chống đỡ, do chứng kiến đồng đội mình liên tiếp ngã xuống bởi những mũi tên chí mạng xuyên qua người.

Những lần xuất quân vào Gia Định trước, quân Nguyễn không hề bố trí mai phục, quân Tây Sơn cứ thẳng đường tiến vào thành, điều đó vô tình tạo nên sự chủ quan khinh địch cho những người lính Tây Sơn. Chính vì thế, trước sự mai phục của quân Nguyễn lần này, quân Tây Sơn bắt đầu lúng túng, lo lắng, do không biết sẽ còn có những cái bẫy nào dành cho mình. Biểu hiện của những người lính Tây Sơn không qua khỏi mắt Nguyễn Huệ. Anh lạnh lùng quét mắt qua đội xạ thủ của Nguyễn quân, môi khẽ nhếch lên, chiếc áo choàng đỏ không gió mà bay phần phật. Trông thấy ánh mắt như ánh lửa cháy rừng rực, quân Nguyễn tái mặt nghiến răng. Họ vội vã lắp tên, căng dây, bắn vùn vụt về phía anh với tốc độ kinh hoàng.

Một nét cười lửng lơ, lạnh lẽo điểm trên mặt Nguyễn Huệ. Giữa rừng tên lao xé gió, tấm áo choàng trên tay anh căng phồng lên, tạo thành một khối cầu đỏ, quây lấy hàng chục mũi tên vào giữa. Tung mình lên không trung, Nguyễn Huệ vươn tay, chụp lấy những mũi tên ấy rồi phóng ngược vào đội xạ thủ đối phương. Chỉ nghe những tiếng hự uất nghẹn, những xạ thủ đứng phía sau kinh hoàng thất sắc, khi nhìn thấy lớp phía trước đổ gục xuống, máu thấm đầy mặt đất nâu sẫm. Ngay lúc đó, chiếc cầu đã hoàn thành xong, không để cho quân Nguyễn kịp hoàn hồn, Nguyễn Huệ điểm chân lên chiếc cầu, tung người vào thành. Ánh chớp bạc lóe lên, thanh trường kiếm lạnh lẽo tuốt ra khỏi vỏ, một cơn mưa máu xuất hiện. Tiếng người la hoảng, tiếng bước chân chạy tán loạn, những thây người đổ gục xuống như chuối bị phạt tận gốc, đội xạ thủ quân Nguyễn tan vỡ hoàn toàn.

Xuất hiện trong làn mưa máu, chiếc áo choàng đỏ của Nguyễn Huệ bây giờ lại càng thẫm màu hơn bao giờ hết. Anh đứng đó, thanh trường kiếm từ màu bạc đã chuyển đang đỏ sẫm. Ánh mắt hoang lạnh quét lên từng gương mặt trắng bệch của quân Nguyễn. Nguyễn Huệ tiến lên từng bước, gương mặt phong sương không cảm xúc, sát khí từ người anh tỏa ra lạnh lẽo, hệt như một tử thần. Chứng kiến sự dũng mãnh, tàn khốc của viên chiến tướng lừng danh trong Tây Sơn, quân Nguyễn dù dũng cảm đến mấy cũng không khỏi thất sắc. Họ vội lùi dần về phía sau, ngọn giáo trong tay chĩa thẳng về phía Nguyễn Huệ nhưng không một ai dám manh động. Nét mặt ai nấy đều tập trung cao độ, đề phòng thanh kiếm nhuốm máu kia lia về phía mình.

Chứng kiến sự dũng mãnh của chủ tướng đã làm cho quân Nguyễn khiếp sợ, quân Tây Sơn phấn chấn, lấy lại tinh thần. Nỗi lo lắng vì sợ bị tập kích trong lòng họ bị dẹp tan. Hô lên một tiếng khí thế, binh lính lũ lượt tràn vào bên trong qua chiếc cầu, khiến chiếc cầu run lên, cong oằn xuống dưới sức nặng và khí thế của họ. Trong phút chốc, tuyến phòng thủ cuối cùng của Gia Định đã bị nhấn chìm bởi những tiếng hò reo phấn khích dồn dập. Quân Nguyễn bị đẩy lùi, trán họ rịn mồ hôi vì biết khó lòng thoát khỏi sự bao vây trùng điệp này. Đứng giữa sự sống và cái chết, mặt ai nấy đều căng thẳng tột độ, thế nhưng quân Nguyễn vẫn giữ vững đội hình, không xáo trộn hay tan tác. Bởi hơn ai hết họ hiểu rằng, một khi chúa công còn đang ở phía sau, họ thà tan thây nát thịt còn hơn hèn nhát bỏ chạy, muôn đời không thể ngước mặt lên.

Đứng lặng yên trong bóng tối, một chàng trai có đôi mắt nâu trong suốt đang quan sát viên dũng tướng Tây Sơn từ từ tiến sâu vào thành. Một nụ cười kiêu ngạo điểm trên gương mặt thanh tú, thanh trường kiếm trong tay khẽ lay động. Ánh mắt trong suốt nhìn quân Tây Sơn đang lũ lượt tràn lên, chợt trở nên sẫm màu, khi nhìn thấy một tên lính đội nón lông sùm sụp theo sát sau Nguyễn Huệ. Đôi mày thanh tú của tên lính chau tít lại, điệu bộ thấp thỏm, rõ ràng là rất lo lắng cho gã Long Nhương tướng quân đang tiến thẳng vào thành kia.

- Chúa công! Nhân lúc quân ta còn giữ vững được đội hình, chúng ta nên rút lui để bảo toàn lức lượng thôi.

Không thay đổi nét mặt khi viên hầu cận thư sinh, trắng trẻo đứng bên cạnh lên tiếng, chàng trai chỉ cười nhạt một tiếng. Tà áo vàng lay động. Đôi mắt nâu lấp lánh trong bóng tối. Đột ngột, chàng trai trở mình, bước ra khỏi vùng bóng tối, tiến thẳng về phía Nguyễn Huệ, khiến viên hầu cận há hốc miệng, do không nghĩ chúa công của gã lại táo bạo, và thản nhiên đến thế trước vòng vây của quân thù.

Càng tiến sâu vào thành, Linh Lan càng lo lắng. Một nỗi lo lắng mơ hồ, vô cớ mà nó không sao hiểu được. Ban nãy, chứng kiến cảnh Nguyễn Huệ thiện chiến nhưng không kém phần tàn khốc, Linh Lan chợt cảm thấy gai người. Hình ảnh Văn Bình ôn nhu, điềm đạm mà nó quen thuộc trước đây đã biến mất, thay vào đó là một Nguyễn Huệ hung tàn, sẵn sàng lấy mạng kẻ địch mà không hề chớp mắt. Phải nhìn thấy cảnh đầu rơi máu đổ, phải nhìn thấy những khuôn mặt rúm ró khi đối diện với thần chết, đó quả là áp lực đè nặng lên trái tim nó, là cơn ác mộng dài nhất mà nó nhất thời vẫn chưa thể quen. Mùi máu tanh khiến nó buồn nôn. Xác chết nằm la liệt dưới đất khiến bước chân nó loạng choạng, thế nhưng cay đắng thay tất cả những điều đó là nó buộc phải thích ứng, bởi không còn cách nào khác hơn nếu muốn sinh tồn.

- Cún con! Đúng như tôi nghĩ, cô vẫn chưa chết.

Đang ngơ ngẩn, chợt một giọng nói trầm ấm quen thuộc, nhưng lại pha lẫn sự chế giễu vang lên khiến trái tim Linh Lan giật thót. Tà áo vàng lay động trong mắt nó. Nụ cười kiêu ngạo thường trực trên bờ môi, đôi mắt nâu trong suốt hơi nheo lại, ánh lên sự mỉa mai, làm mặt Linh Lan nóng dần lên khi nhớ đến chuyện đã bị lợi dụng như thế nào. Nguyễn Ánh! Phải! Không sai, người đang đứng trước mặt nó là Nguyễn Ánh, cái tên mà suốt đời nó cũng không quên.

Trông thấy Nguyễn Ánh đang chậm rãi bước ra với nụ cười ngạo nghễ, trong tay là thanh kiếm bạc quen thuộc, đôi mắt đen u tối của Nguyễn Huệ ngày càng thẫm lại. Không chút chần chừ, anh tung mình lên cao rồi đáp trước mặt Nguyễn Ánh, đồng thời thanh trường kiếm trong tay cũng chém xuống người đối phương. Vung kiếm lên để đỡ đường kiếm nguy hiểm ấy, Nguyễn Ánh thoáng cười. Khi nhìn sâu vào đôi mắt hoang mạc của Nguyễn Huệ, vết sẹo nơi cánh tay trái của anh chợt nhói lên, thay cho lời nhắc nhở món nợ năm xưa. Ban nãy, nhìn gã Long Nhương tướng quân một kiếm lấy nhiều mạng binh lính Nguyễn với nét mặt lạnh lùng, không chút cảm xúc, khác hẳn với một Long Nhương tướng quân trong những lần đụng độ trước, tâm trí của Nguyễn Ánh thoáng hiện lên hình ảnh một người. Cái gã đang đấu với anh hôm nay, nét mặt và phong thái giống hệt kẻ tử thù ấy, kẻ đã đưa anh đến vai trò của một vị chúa cuối cùng, giống như một lời nguyền.

Khi nhìn thấy hai chủ tướng của mình so kiếm, quân Tây Sơn và quân Nguyễn đồng loạt lăn xả vào nhau. Tiếng binh khí chan chát, tiếng la hét, tiếng bước chân vang lên rầm rập. Tất cả trộn lẫn vào nhau, tạo nên một mớ âm thanh lộn xộn và chát chúa đến đinh tai. Nôn nóng đứng xem trận chiến giữa Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ, dù Linh Lan có hơi hoảng trong lòng, khi lính tráng hai bên đồng loạt xông vào nhau, chém giết loạn xạ, nhưng nó vẫn cảm thấy bực phần nào, vì bị những người lính hăng máu đó che khuất hết tầm nhìn. Nó muốn biết giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, ai sẽ thắng và ai sẽ thua. Nếu một trong hai người thua, chắc chắn sẽ bị kẻ còn lại giết chết. Nhưng nếu Nguyễn Ánh mà chết thì nước Việt Nam sẽ không thống nhất, và cũng chẳng có cái tên Việt Nam nào trên bản đồ. Ngược lại, nếu Nguyễn Huệ chết, thì có nghĩa là Văn Bình cũng sẽ chết, và tất nhiên một hoàng đế Quang Trung đánh đuổi giặc Thanh cũng không tồn tại trên cõi đời này.

Không được!

Linh Lan vặn vẹo đôi bàn tay mình đến đỏ cả lên, nó nhất định phải xem cho được trận chiến đang xảy ra dồn dập giữa hai người. Linh Lan ngó quanh ngó quất. Ánh mắt nó bỗng sáng lên khi nhìn thấy đài quan sát tình hình từ xa. Nuốt nước bọt trong miệng, do cái đài quan sát ấy hơi bị... cao, trong khi nó lại mắc chứng sợ độ cao, nhưng chỉ có đứng trên đó, thì nó mới có thể trông thấy rõ tình hình đang diễn ra. Cố gắng nhủ lòng phải bình tĩnh, Linh Lan mím môi để lấy quyết tâm. Nó vội vã chạy lại đài quan sát, hà hơi vào hai bàn tay, và bắt đầu leo lên những bậc thang bắc xuống từ vọng đài.

Linh Lan vừa leo, vừa cố gắng không nghĩ đến cái độ cao té xuống là gãy xương ở phía dưới. Trái tim nó đang đập lô tô trong lồng ngực, những giọt mồ hôi trắng đục lăn xuống vầng trán cao của nó. Bình tĩnh! Bình tĩnh nào! Chỉ cần nghĩ mình không ngã thì mình sẽ không bao giờ ngã. Cố lên nào! Linh Lan, mày có thể làm được, mày nhất định có thể làm được mà. Linh Lan vừa leo, vừa tự động viên bản thân. Cho đến khi đặt hai tay lên vọng đài, gồng người leo lên, thì nó mới có thể dựa lưng vào những thanh gỗ rắn chắc, tay vuốt lấy những giọt mồ hôi cay xè đang chảy vào trong mắt mình.

Thở hắt ra một hơi, Linh Lan từ từ đứng lên một cách thận trọng, hai tay run rẩy bấu chặt vào thanh gỗ chắn ngang trước mặt. Nó cảm thấy choáng váng khi những cơn gió lạnh mạnh mẽ thổi thốc vào mặt. Mắt nó hoa lên, vì không ngờ có ngày mình lại dám đứng nhìn xuống ở một độ cao bằng hai tầng lầu như thế này. Đưa mắt cố tìm Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ giữa một rừng binh khí, Linh Lan reo khẽ do nhìn thấy cái áo bào đỏ và vàng quen thuộc của hai người. Nổi bật như thế nên dù là người có tật về mắt cũng phát hiện ra, huống chi thị lực của nó là mười trên mười.

Linh Lan hồi hộp đứng trên vọng đài nhìn xuống. Mỗi khi đường kiếm của Nguyễn Ánh sượt qua vai Nguyễn Huệ là trái tim của Linh Lan lại run lên. Đến khi đường kiếm của Nguyễn Huệ lướt qua người Nguyễn Ánh thì nó cũng không tránh khỏi cảm giác lo âu. Nếu bất cứ ai trong số họ chết thì lịch sử thay đổi là điều không thể tránh khỏi, mà lịch sử bị thay đổi tất tương lai của nó cũng sẽ bị đổi thay theo, đó chính là cái mà Linh Lan không bao giờ mong muốn.

Không được! Phải nghĩ ra một cách gì đó. Nếu Văn Bình xuất hiện, có lẽ còn có cơ may anh sẽ để cho Nguyễn Ánh đi, chứ Nguyễn Huệ thì đảm bảo anh ta nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nếu là Văn Bình thì hy vọng có thể nhường cho nó một chút, chứ còn Nguyễn Huệ thì chắc chắn không ngại gì mà giết luôn cả nó, không tha. Nếu là Văn Bình, nếu là Văn Bình thì...

Linh Lan chợt ngẩng phắt đầu lên, bàn tay đang vò nát mép áo từ từ thả ra. Đúng rồi! Lúc Nguyễn Huệ lần đầu tiên xuất hiện trước mặt và muốn giết chết nó, anh ta đã nói việc đầu tiên anh ta làm để Văn Bình bị tổn thương ấy chính là giết chết nó. Dù không biết thật hay giả, nhưng nếu anh ta đã nói thế, có nghĩa là ít ra nó cũng có một vị trí nào đó - không hẳn là quan trọng - trong lòng Văn Bình. Linh Lan vốn không phải là một cô gái mơ mộng hay giàu trí tưởng tượng, nhưng đứng trước tình hình này thì nó buộc mình phải tưởng tượng một chút. Nghĩa là nó phải tưởng tượng Văn Bình thích nó, và bằng mọi giá nó phải lợi dụng cái sự tưởng tượng đó để làm Văn Bình xuất hiện. Kế hoạch đó có thành công hay không nó không biết, nhưng lúc này thì nó chẳng thể nghĩ ra một kế sách nào hay ho hơn kế sách bất đắc dĩ và liều lĩnh này.

- Văn Bình! Anh có nghe tôi nói không?

Đã quết định xong xuôi, Linh Lan hít vào một hơi dài, nó cố hết sức gào thật to để Nguyễn Huệ ở dưới kia nghe thấy. Thói quen mỗi sáng chờ xe lửa chạy ngang qua, hét lên thật to để xả strees của nó lúc này đã phát huy tác dụng, bằng chứng là Nguyễn Huệ có hơi phân tâm, và Nguyễn Ánh đã gạt được một đường kiếm đang đà chém tới của anh.

- Văn Bình! Anh nghe cho rõ đây! Những lời này tôi chỉ nói có một lần thôi đấy!!

Đôi mắt đen u tối của Nguyễn Huệ hơi lay động, khi những lời nói của Linh Lan từ trên đài quan sát vọng vào tai anh. Thanh kiếm trong tay đã bắt đầu run lên dù cho anh đã cố kiềm chế như thế nào.

- Tôi thích anh lắm, Văn Bình!!

Đến câu thứ ba của Linh Lan, không chỉ Nguyễn Huệ đột ngột dừng kiếm lại, mà cả Nguyễn Ánh cũng phải khựng người, đưa mắt liếc nhanh lên vọng đài. Màu mắt nâu trong suốt xuất hiện sắc xám, hệt như những vệt mây giăng ngang bầu trời.

- Nhưng tôi lại không biết anh thế nào, trong khi tôi đang bắt đầu xiêu lòng vì Nguyễn Ánh rồi!!

Thanh kiếm trong tay Nguyễn Huệ bây giờ lại càng run lên dữ dội hơn bao giờ hết. Anh nhíu mày. Rõ ràng, Văn Bình đã nghe những gì Linh Lan vừa nói và bắt đầu có phản ứng lại với chính linh hồn thứ hai trong mình. Về phần Nguyễn Ánh, khi đường kiếm của Nguyễn Hụê đã bắt đầu chậm lại và lệch mục tiêu, lẽ ra anh đã có thể chuyển bại thành thắng, nhưng những lời Linh Lan nói khi nãy lại cứ chiếm hết tâm trí, khiến anh cũng không thể nào tập trung vào mục tiêu trước mắt mình. Cô ta vừa nói gì?! Cô ta thích Văn Bình?! Cô ta thật sự thích hắn sao?!

- Văn Bình! Nếu anh thích tôi thì anh hãy xuất hiện đi. Còn không tôi sẽ đi theo Nguyễn Ánh bây giờ!!

Đang ráng sức hô lớn để mong Văn Bình xuất hiện, Linh Lan giật bắn người khi thanh kiếm trong tay Nguyễn Huệ phóng vút lên, cắm mạnh vào thanh gỗ lan can chắn ngang trước mặt nó, dù rằng nó đã ở cách anh đến hai tầng lầu. Nhìn lưỡi kiếm cắm sâu vào thớ gỗ đang run lên bần bật, Linh Lan tái mặt. Không lẽ, không lẽ kế hoạch khích tuớng của nó từ nãy đến giờ đều thành công cốc sao.

- Linh Lan! Cô vừa nói gì?!

Đang hoang mang, lo lắng, đột ngột, giọng nói trầm ấm quen thuộc từ dưới vọng lên, làm Linh Lan đang ngồi thụp xuống, phải vội vàng bật dậy và ngó xuống. Khuôn mặt nó bỗng nhiên vô cùng rạng rỡ, khi nhìn thấy thanh đao Ô Long quen thuộc giắt trên vách thuyền, giờ đã từ tay Tư khấu Kim, ngang nhiên xuất hiện trên tay Nguyễn Huệ. Đôi mắt đó, nụ cười đó, sự ấm áp đó, không ai khác chỉ có ở Văn Bình! Đó chính là Văn Bình.

Tốt rồi, Linh Lan mừng rỡ, đồng thời nghe khóe mắt cay cay. Văn Bình đã xuất hiện, bây giờ chỉ còn lại Nguyễn Ánh. Linh Lan nhủ thầm, nó bình tĩnh hít môt hơi thật sâu, và đặt một chân lên thanh chắn an toàn của vọng đài. Tiếng trái tim đập thình thịch vang lên trong lồng ngực. Không sao. Không sao. Linh Lan, mày nhất định phải làm được. Nếu một trong hai người đó chết đi, thì lịch sử chắc chắn sẽ bị thay đổi. Mà lịch sử thay đổi thì tương lai cũng không còn. Gia đình, bạn bè, người thân của mày sẽ gặp nguy hiểm. Cố lên, Linh Lan, mày nhất định phải cố lên.

Linh Lan mím mạnh môi, nó từ từ buông tay ra khỏi thanh chắn, và tung mình lao xuống phía dưới.

Trong khi đó, phải cố gắng lắm Văn Bình mới có thể thoát khỏi sự kềm chế của Nguyễn Huệ, nhờ những lời "khích tướng" ban nãy của Linh Lan trên đài quan sát. Thanh Ô Long đao quen thuộc trong tay tuy đang tấn công Nguyễn Ánh, nhưng đôi mắt anh thỉnh thoảng vẫn liếc nhanh về phía vọng đài. Đến khi trông thấy Linh Lan liều mạng nhảy từ đài quan sát xuống, đôi mắt sáng lấp lánh của anh bỗng mở to, trái tim như ngừng đập vì quá lo âu.

Về phần Nguyễn Ánh, tuy có ngạc nhiên bởi những thay đổi liên tục của Nguyễn Huệ từ lúc nghe thấy lời nói của Linh Lan, nay lại thấy anh đang tấn công tới tấp, bỗng nhiên lỗi mất vài đường đao, mắt nhìn về phía vọng đài bằng một nét mặt vô cùng kinh ngạc, Nguyễn Ánh cũng vội hướng mắt nhìn theo. Anh biết điều duy nhất có thể làm cho gã tướng quân ấy phân tâm chính là cô gái nhỏ bé đang hô hào khí thế trên kia. Trong phút chốc, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh sững lại, khi trông thấy cô gái bé nhỏ ấy đang rơi từ đài quan sát xuống, với một tốc độ mỗi lúc một nhanh.

Nếu rơi xuống, dù không chết thì chắc chắn cô ta sẽ cũng tàn phế suốt đời.

Văn Bình và Nguyễn Ánh, không ai nói với ai lời nào, cả hai vội vàng lao đến, đưa tay về phía trước, và đỡ trọn lấy thân hình bé nhỏ vào vòng tay mình một cách an toàn.

Cả ba người cùng té nhào ra đất, khiến cho binh sĩ hai bên đang hăng say giao chiến với nhau cũng khựng lại, trố mắt nhìn cảnh tượng hiếm có đang xảy ra trước mặt mình. Sau khi nhảy từ trên độ cao hai tầng lầu xuống mà vẫn an toàn, vì có cả hai người cùng nhào ra đỡ lấy, Linh Lan vội vàng mở mắt ra. Nó vội đưa tay lên đầu xoa xoa, để trấn áp cái cảm giác hoa mắt chóng mặt đang nhộn nhạo khắp cơ thể, và thở phào một cái khi thấy mình không bị xây xát gì.

- Đồ ngốc! Cô không sợ chết hay sao mà nhảy xuống?!

Không hẹn mà cả Văn Bình và Nguyễn Ánh đều gắt lên cùng một lúc. Điều đó làm Linh Lan ngạc nhiên vô kể. Sực nhớ mục đích cho cái sự liều mạng đó, Linh Lan vội đứng phắt dậy, rồi lại loạng choạng không vững, bởi tác động của cú nhảy bungie của mình.

- Cẩn thận!!

Lại một lần nữa, Văn Bình và Nguyễn Ánh cùng đồng thanh. Không hẹn mà cả hai cùng đưa tay ra, đỡ lấy thân người loạng choạng của Linh Lan. Cố định lại tinh thần đang bất ổn, Linh Lan vỗ tay lên trán và mỉm cười, trong khi khuôn mặt còn tái xanh vì vẫn còn bị ảnh hưởng của cú nhảy ban nãy.

- Tôi không sao! Cám ơn hai người!

Lời cám ơn của Linh Lan đã làm Văn Bình và Nguyễn Ánh đang lo lắng cho nó liền nhớ lại vị trí của mình. Nhanh như chớp, Văn Bình kéo Linh Lan ra đứng phía sau anh, thanh đao Ô Long chắn ngang trước mặt, môi nở một nụ cười ung dung.

- Cám ơn vì đã đỡ lấy Linh Lan!

- Không cần phải khách sáo - Nguyễn Ánh cũng mỉm cười đáp lễ lại và nâng thanh kiếm ngang mắt mình - Vợ ngã thì chồng nâng thôi!!

Nguyễn Ánh vừa dứt lời, Văn Bình liền nhíu mày, thanh Ô Long đao trong tay anh vung lên, rít như xé gió về phía Nguyễn Ánh. La hoảng trong bụng, Linh Lan không kịp suy nghĩ, nó vội ôm lấy cánh tay Văn Bình, điều đó làm anh khựng lại. Đôi mày kiếm hằn sâu trên gương mặt phong sương bởi hành động đột ngột của Linh Lan. Ngay lúc đó, một trái cầu nhỏ từ đâu bỗng bay vút lại, lọt thỏm vào giữa trận chiến. Bùm một tiếng, một làn khói trắng dày đặc từ từ thoát ra. Chỉ trong thoáng chốc, một khoảng sân rộng lớn đã chìm trong làn khói dày đặc. Quân Tây Sơn đang chiến đấu hăng say đột ngột chững người lại, lúng túng vì đối phương đã chìm vào làn khói dày đặc ấy, mất tăm tích, khiến họ không biết phải tấn công như thế nào.

Lần đầu tiên nhìn thấy thứ vũ khí lạ lẫm đó, Văn Bình vẫn bình tĩnh. Anh kéo tay Linh Lan đứng sát vào người, thanh Ô Long đao nâng ngang trước mặt, sẵn sàng đối phó với những nguy cơ đang rình rập trong làn khói trắng, để bảo vệ nó an toàn. Đứng bên cạnh Văn Bình, Linh Lan đưa mắt nhìn quanh. Đâu đâu cũng là màn khói dày đặc, ngoài Văn Bình ra thì nó chẳng nhìn thấy bất cứ ai. Tiếng ồn ào nhỏ dần, cũng không còn nghe thầy tiếng binh khí va chạm, có lẽ quân Nguyễn đã nhân cơ hội mà rút đi, kể cả Nguyễn Ánh.

Nhớ lại tình cảnh ban nãy, khi ôm lấy cánh tay Văn Bình, Linh Lan vô tình chạm phải ánh mắt của Nguyễn Ánh. Đôi mắt giông tố ấy khiến Linh Lan chững người lại, một cảm giác gần như là ăn năn xuất hiện trong tâm trí nó. Ánh mắt anh nhìn nó nửa ngạc nhiên, nửa giận dữ, nữa mỉa mai, nửa lạnh lẽo, làm nó bối rối rụt tay về. Tại sao lại như thế? Lẽ ra ánh mắt ấy là nó dành cho anh mới phải. Anh đã lợi dụng nó, đã biến nó thành một kẻ ngốc khi xém chút nữa đẩy quân Tây Sơn tới chỗ tận diệt! Vậy thì tại sao người nhìn nó bằng ánh mắt đó lại là anh chứ không phải là nó?! Linh Lan vò nát mép áo, nó bất giác liếc nhìn Văn Bình. Đã bao lần nó mấp máy môi toan nói, nhưng cuối cùng lại im lặng, bởi gương mặt Văn Bình bây giờ phủ một làn sương lạnh lẽo, đôi mày hằn sâu, chứng tỏ anh đang phiền lòng vì việc nó cản anh khi nãy, để cho quân Nguyễn có cơ hội đưa Nguyễn Ánh đi.

oOo

Màn khói vẫn lan tràn trong thành như những áng mây trắng tinh khôi xà xuống trần gian, khiến người ta mất định hướng và lạc lối trong mê cung bí hiểm ấy. Từ cánh cổng phía tây thành, một chiếc xe ngựa phóng vụt ra, lao nhanh về phía trước như một cơn lốc, bỏ lại sau lưng lớp bụi đỏ mịt mù. Ngồi trong khoang xe, Nguyễn Ánh tay chống đốc kiếm, đôi mắt trong suốt mơ hồ như đang suy nghĩ đến chuyện nào đó. Chốc chốc đôi mày kiếm của anh nhíu lại, rồi giãn ra, khiến Lê Phúc Điển ngồi bên cạnh cũng không dám mở miệng câu nào.

- Phúc Mân chết như thế nào?

Đang ngồi chống cằm suy nghĩ, Phúc Điển giật mình khi Nguyễn Ánh bất chợt lên tiếng. Lén nhìn anh, Phúc Điển im lặng khi nét mặt Nguyễn Ánh lạnh băng, chẳng biểu lộ cảm xúc nào. Kín đáo thở nhẹ một hơi, giọng nói của Phúc Điển nhẹ tênh khi nhớ đến vị tôn thất trẻ tuổi, có nụ cười ngô nghê, đã bỏ thân trong trận chiến khói lửa với Tây Sơn mà không kịp để lại lời trăn trối nào.

- Khi đồn Giác Ngư và Thảo Câu bị phá vỡ, một viên tướng Tây Sơn chặt đứt cầu phao, Phúc Mân đang chiến đấu với quân lính liền bị rơi xuống nước. Trong lúc cố gắng tìm cách bơi vào bờ, cậu ấy đã bị chúng tung lưới bắt được. Quân Tây Sơn vớt Mân lên, tra hỏi cậu ấy về chúa công. Thấy Phúc Mân không chịu hé môi lấy một lời, chúng đã dùng giáo đâm vào người cậu ấy cho tới chết.

Lê Phúc Điển trả lời xong, khoang xe lại chìm trong im lặng. Tiếng giục giã ngựa phi của Lê Văn Duyệt vang lên gấp gáp, át cả tiếng vó ngựa rầm rập trên mặt đường. Nguyễn Ánh không nói một lời nào. Đôi mắt anh chìm trong bóng tối, lâu thật lâu mới cất lời.

- Các cậu hy sinh là vì ai?

- Chúa công! Sao người lại nói thế! Chúng thần và tất cả mọi người nguyện hy sinh vì người.

Lê Phúc Điển thảng thốt, nhưng mắt lại ánh lên vẻ kiên nghị không lay chuyển. Chậm rãi lướt mắt lên gương mặt trang nghiêm của Phúc Điển, Nguyễn Ánh nhếch môi. Anh nhìn xoáy vào mắt gã, khiến gã toát mồ hôi hột, chân tay luống cuống do không biết phải làm như thế nào. Nhìn thấy sự lúng túng hiện trên nét mặt Phúc Điển, Nguyễn Ánh cười nhẹ, những tia lửa cháy bùng trong đôi mắt anh biến mất, thay vào đó là nét trong suốt như lúc ban đầu.

"Văn Bình! Tôi thích anh lắm"

Nguyễn Ánh hừ nhạt một tiếng, anh lặng yên nghe tiếng trái tim đập nhanh trong lồng ngực, từng ngón tay mảnh khảnh xòe ra, ẩn hiện những mạch máu đỏ lờ mờ cùng với những vết chai do cầm kiếm. Chính bàn tay này đã đưa ra, đỡ lấy tấm thân mềm mại của người con gái ấy, và chỉ cần một chút nữa thôi, nó đã ôm lấy tấm thân mềm mại ấy vào lòng, xiết chặt, bất chấp máu rơi như mưa trên chiến trường.

Nguyễn Ánh yên lặng nhìn đăm đăm vào lòng bàn tay. Đôi mắt nâu trong suốt chợt thay đổi. Sự êm ả trong đáy mắt biến mất và giông tố nổi tràn, cuồn cuộn như đại dương.

Khi nhìn thấy người con gái ấy, chính xác là chỉ cần nhìn thấy bóng hình ấy, xung quanh Nguyễn Ánh chợt trở nên im lặng. Chiến trường, máu tanh, tiếng la hét, thét gào, tiếng binh khí chạm nhau, tất cả đều lùi về phía sau, chỉ còn lại anh và người con gái đó giữa một rừng hoa lau trắng ngập trời. Mũi tên của anh đã không lấy mạng người con gái ấy, để rồi bây giờ, người con gái ấy lại xuất hiện trước mặt anh, với ánh mắt, nự cười và tất cả sự quan tâm đều hướng cả về gã tướng quân Tây Sơn.

Nguyễn Ánh nhếch môi lạnh lẽo. Thanh kiếm bạc chậm chạp ló ra khỏi vỏ. Nâng lưỡi kiếm bạc chết chóc trong lòng bàn tay, Nguyễn Ánh vuốt nhẹ. Một dòng máu đỏ tươi xuất hiện trong lòng bàn tay anh, chảy dọc theo sống kiếm, lấp lánh trong đôi mắt sẫm tối trong ánh chiều tà.

- Chúa... chúa công!

Trông thấy hành động đột ngột đó của Nguyễn Ánh, Lê Phúc Điển thất sắc. Gã la lên hốt hoảng rồi sau đó im lặng, lúng túng khi chạm phải ánh mắt của anh, dù lòng lo lắng không hiểu tại sao chúa công lại có hành động kỳ lạ ấy. Nhìn dòng máu đỏ tươi, âm ấm đọng trên tay, gương mặt Nguyễn Ánh bây giờ lạnh lùng như một pho tượng đá, ánh lên một nét đẹp hoang tàn. Trận chiến đã kết thúc, ván cờ đang tạm nghiêng về phía gã Long Nhương, nhưng toàn cuộc vẫn đang ở trong tay anh. Và, anh sẽ là người đứng lên trên tất cả, nắm lấy thiên hạ, cho những xương máu đã đổ xuống để giữ cái ngôi cho vị chúa cuối cùng này.

Một nụ cười bình thản lướt qua trong đêm tối chập choạng, nhạt nhòa...

Cún con! Món nợ này tôi sẽ tính với cô.

82

Hoàng hôn dần tắt.

Màn đêm buông xuống chiến trường đầy mùi khói súng, phủ lên mặt đất màu tang thương, hiu quạnh. Mặt sông loang loáng ánh đỏ, thì thầm trôi. Đâu đây văng vẳng tiếng dế nỉ non, run rẩy trong các lùm cây gẫy gập, giập nát, như tiếng người thiếu phụ khóc chờ chồng con.

Trong thành Gia Định, ở căn phòng nhỏ phía đông, Linh Lan đứng tựa lưng vào cửa sổ, nhìn ra những bó đuốc cháy lập lòe trong đêm. Ánh lửa cháy bập bùng trong đôi mắt đen láy của nó, ánh lên tia sáng lung linh, đỏ rực, tựa chiếc áo choàng của ai tung bay trên chiến trường.

Tây Sơn thắng trận, chiếm lại được Gia Định, đuổi quân Nguyễn tan tác muôn phương. Ùa vào thành, nét mặt ai nấy hân hoan, vui sướng, bước chân gấp gáp, nhưng không lạc lối bởi đã quá quen thuộc đường đi nước bước nơi chốn cũ. Văn Bình là người đi sau cùng. Gương mặt phong sương không biểu lộ cảm xúc, thanh Ô Long đao nắm hờ trong tay, đôi mày kiếm nhíu lại, tạo thành một vết khắc trên mặt. Ánh lửa soi vào mắt anh, lấp lánh như ngàn vì sao trên bầu trời.

Trận chiến đã kết thúc. Quân Tây Sơn lại một lần nữa hát vang bài ca chiến thắng. Tiến vào thành, Văn Bình lệnh cho thuộc tướng nhanh chóng thu dọn chiến trường, kiểm tra lại sĩ số quân sĩ, sửa sang lại mọi thứ, cắt đặt người canh gác luân phiên, và cử quân tiếp tục truy đuổi tàn binh của Nguyễn Ánh, đề phòng những thuộc tướng còn sót lại của vị chúa trẻ tuổi ấy, lại tiếp tục vùng lên.

Linh Lan nhẹ thở dài, nó phòng tầm mắt ra màn đêm mênh mông, lòng tự hỏi không biết cuộc truy đuổi đã có kết quả nào chưa. Cả ngày hôm nay nó đã rất mệt mỏi, phiền muộn, vì cảnh đẫm máu trên chiến trường vẫn ám ảnh tâm trí nó, không rời. Dẫu biết đó là chuỵên tất yếu thôi, nhưng nó nhất thời vẫn chưa chấp nhận được sự thật nghiệt ngã ấy. Chiến tranh, chết chóc, loạn li, đây là những điều mà trước đây, một cô gái mười tám tuổi như nó có nằm mơ cũng không bao giờ nghĩ đến. Vậy mà bây giờ, điều đó lại hiển hiện rõ ràng trước mắt nó, nhắc nhở nó rằng đây là sự thực, chứ không phải là một giấc mơ để nó có thể trốn tránh hay quay đầu bỏ đi.

Linh Lan bất chợt rùng mình, hai tay nó ôm lấy bờ vai, xiết chặt. Nó mỉm cười, một nụ cười cay đắng khi nghĩ đến tình cảnh hiện thời. Trở về quá khứ, đối mặt với chuyện chém giết như cơm bữa, rời xa hiện tại thanh bình, ấm êm, ngày ngày cắp sách đến trường với bao ước mơ ấp ủ trong nó. Phải làm sao nó mới có thể chấp nhận sự thật này, làm sao nó quen được cảnh chém giết trên chiến trường? Phải làm sao để nó ngửi thấy mùi máu mà không buồn nôn, làm sao để nó có thể bình tĩnh, huyết quản không nhộn nhạo, khi nhìn thấy những cái xác không hồn đổ gục xuống, nhưng mắt vẫn mở to, bất động, vì chưa biết rằng mình đã lìa khỏi cõi dương gian. Để bảo vệ tính mạng, nó có thể ra tay giết người ư, có thể để tay mình nhuốm máu mà không phân vân, do dự ư? Tại sao nó lại trở về quá khứ? Tại sao nó lại có mặt ở đây? Làm một con bé mười tám tuổi, ăn no ngủ kỹ chờ ngày đi thi, không tốt hơn là một con bé mười tám tuổi nhìn thấy cảnh đầu rơi máu đổ trên chiến trường hay sao?

- Linh Lan!

Đang chìm trong dòng suy nghĩ cuồn cuộn như thác lũ, Linh Lan giật mình quay người lại khi có ai đó gọi tên nó. Văn Bình đang đứng trước cửa. Trên người anh không còn bộ giáp phục, thay vào đó là một chiếc áo màu nâu xám, màu của mặt đất hiền hòa. Văn Bình đứng đó trong yên lặng, đôi mắt sáng thường ngày trở nên thăm thẳm như vực sâu khi nhìn gương mặt tái nhợt của nó. Trông thấy người vừa mới xuất hiện là Văn Bình, Linh Lan mấp máy môi, nhưng lâu thật lâu vẫn không sao thốt được thành lời. Cuối cùng, Linh Lan đành mím môi lại, hai tay buông thõng, đuôi mắt của nó trễ xuống, long lanh, tựa như một giọt lệ đang chực chờ rơi.

Chậm rãi, tà áo nâu xám lay động, mũi giày nhúc nhích, rồi từng bước một tiến về phía Linh Lan. Thời gian thu lại, nhỏ giọt. Đứng trước mặt Linh Lan, Văn Bình cúi xuống, ngang tầm mắt nó. Bàn tay anh khẽ đưa lên, chạm vào đôi má lạnh buốt của nó, vuốt nhẹ. Cử chỉ dịu dàng, thân mật ấy khiến Linh Lan ngạc nhiên. Hơi ấm từ bàn tay to lớn, vững chãi tỏa ra, khiến nó bình tâm lại. Mỗi khi anh vuốt nhẹ, những vết chai do cầm đao kiếm ngụ trong lòng bàn tay lại cọ nhẹ vào má nó, mơn man, khiến những xáo động trong tâm hồn Linh Lan dần lắng lại. Thế giới xung quanh nó trở nên êm đềm...

...Và bình yên...

- Sao lại khóc?

Văn Bình nhẹ cất tiếng, giọng nói anh ấm áp, chất chứa sự quan tâm, trìu mến, làm Linh Lan cảm thấy ấm lòng hơn bao giờ hết. Nó xoay người, nhanh chân đến bên chiếc bàn con, rót hai tách trà, tay gạt vội giọt lệ trong khóe mắt, rồi đưa chén trà cho Văn Bình, mỉm cười.

- Không có đâu! Bụi bay vào mắt tôi thôi. Anh uống trà cho ấm bụng nhé. Khuya rồi, anh không nghỉ mà đến đây làm gì?

Nhận tách trà từ tay Linh Lan, Văn Bình mỉm cười, nụ cười đầu tiên của ngày hôm nay. Ngồi xuống chiếc ghế mây dựng sát góc phòng, Văn Bình nhấp một ngụm trà thơm. Anh nhìn ngọn bấc vàng leo lét trong đĩa đèn dầu, cháy lên trong mắt anh một nỗi niềm sâu kín, mơ hồ.

- Tôi đến để xem cô thế nào thôi. Trông sắc mặt cô không được tốt, có phải vì cô không quen cảnh tượng trên chiến trường?

Im lặng nhìn những ngón tay bao quanh chén trà, Linh Lan không gật đầu, cũng chẳng phản bác. Không biết từ lúc nào, thói quen uống trà đã dần hình thành trong nó. Chỉ với một bình trà lỏng, thêm một chút đường là Linh Lan đã có thể nhấm nháp món giải khát tự chế, ngon, bổ, rẻ, thay cho những lon nước ngọt red bull, sting dâu tây đỏ, hay twistter mà nó vẫn uống thường ngày như trước đây.

- Tôi.. không biết nói sao cho anh hiểu. Chỉ là từ trước tới nay, tôi sống trong hòa bình êm ấm quen rồi, nay nhìn thấy cảnh đầu rơi máu đổ, khói lửa loạn ly, tôi thật sự không quen.

Lâu thật lâu, Linh Lan mới lên tiếng trả lời. Thời gian cháy tí tách trên ngọn bấc. Không gian len lỏi mùi hoa bưởi nhè nhẹ trong vườn khuya. Văn Bình yên lặng, ánh mắt anh nhìn Linh Lan thật sâu thẳm, thật mênh mang. Bỗng nhiên, anh cảm thấy cô gái đang ngồi trước mặt anh sao xa cách quá, tựa như người con gái ấy không thuộc về nơi này. Ngày hôm qua, tưởng chừng như anh sẽ ngủ yên trong thân xác của chính mình, nhưng chính người con gái này đã đánh thức anh dậy. Anh đã được kéo ra khỏi bóng tối, trở về với ánh sáng, khi nghe những lời người cô ấy thốt ra trên chiến trường.

Đối với trọng trách mà bản thân anh đang gánh vác, Văn Bình cảm thấy trọng trách ấy còn dễ dàng hơn những tình cảm riêng tư trong anh. Ngày Liên mất, những k‎ý ức xa xưa trong anh lần lượt hiện về. Năm ấy, để tạo thêm những mối liên kết và nền tảng vững chắc cho lực lượng Tây Sơn trong những năm đầu khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đã bàn với ông Lương, hỏi cưới Liên cho anh. Cô gái có nước da nâu mặn mà, nụ cười duyên dáng, e ấp sau vườn chuối, nay nghiễm nhiên trở thành vợ anh. Cùng sống chung một nhà, cùng ra vào chạm mặt và cùng ngủ chung giường, nhưng chưa bao giờ Liên trở thành một người vợ thật sự, đúng nghĩa của anh, bởi anh chưa bao giờ chạm vào người cô. Dẫu một lần cũng không.

Chung sống với nhau sáu năm trời. Dù không có tình yêu nhưng vẫn có tình nghĩa. Anh biết Liên yêu anh, hết lòng với anh và cam phận sống trọn đạo của một người vợ. Điều đó làm Văn Bình thấy bất nhẫn, gần như là xót xa khi đối diện với Liên. Âm thầm, kiên nhẫn và chịu đựng, Liên không đòi hỏi ở anh bất cứ điều gì. Điều duy nhất mà cô muốn, là sinh cho anh một đứa con, bất chấp thể trạng ốm yếu liên miên. Sinh cho anh một đứa con, đó là niềm khao khát và là tâm nguyện của cô. Liên mất, mất sau khi sinh đứa trẻ ấy chào đời, mất khi chỉ kịp nhìn thấy đứa con của người mà cô yêu thương. Liên mất với một nụ cười rạng ngời trên môi. Chết vì tâm nguỵên, vì khao khát của chính mình, đối với Liên đó là một niềm hạnh phúc. Và Liên đã nhắm mắt ra đi như thế.

Ngày Liên mất, bầu trời mưa như trút nước, từng tiếng sấm trên không rền vang, sáng rực cả một góc sân. Văn Bình yên lặng đứng trước thi hài của Liên, bên tai anh văng vẳng tiếng khóc của trẻ thơ. Nhìn nụ cười thỏa nguyện của Liên, Văn Bình vô cùng đau xót. Một cảm giác ăn năn, tội lỗi, thống khổ tràn ngập trong trái tim anh. Anh là một chiến tướng bất bại trên sa trường, nhưng lại không làm tròn trọng trách của một người chồng đối với Liên. Tình nghĩa phu thê sáu năm trời, không đầu gối, không tay ấp, và anh chỉ động đến Liên một lần duy nhất khi cô năn nỉ anh cho cô một đứa con, để rồi sau đó Liên ra đi, nhanh chóng, mà không hề oán trách anh một lời nào.

Đau khổ, dằn vặt, xót xa, bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ. Cũng chính trong đêm mưa gió ấy, từ phương xa, Phan Văn Lân đã đưa Linh Lan trở về trong tình trạng thiêm thếp vì lên cơn sốt cao, do vết thương chí mạng trên vai trở nặng. Đón lấy Linh Lan từ tay Phan Văn Lân, đôi mắt anh sẫm lại, tối đen. Bao cảm giác xót xa, trĩu nặng, dồn dập bủa vây tâm trí anh. Ngay cả cái chết cũng không khiến anh phải cau mày, thế nhưng đối với hơi thở mỏng manh, tiêu tán của cô gái bé nhỏ trong vòng tay anh, lại làm cho anh lo lắng, bất an. Viên tướng dũng mãnh trên sa trường lại sợ hơi thở yếu ớt của một cô gái nhỏ bé. Tim anh đập mạnh, đầu anh trở nhức. Liên đã đi, Liên đã ra đi. Nếu ngay cả cô gái này cũng ra đi, cũng vĩnh viễn rời xa anh, thì anh sẽ thế nào?

... Anh sẽ như thế nào?

- Văn Bình! Anh sao thế?

Một bàn tay nhỏ nhắn, dịu dàng chạm khẽ vào trán anh, cùng với giọng nói đầy quan tâm khiến Văn Bình bừng tỉnh. Anh nhìn sâu vào đôi mắt đen lay láy của Linh Lan, thật lâu. Cái nhìn sâu thẳm, trìu mến, dâu bể đó, khiến Linh Lan bối rối, ngượng ngùng. Chợt nhận ra mình vẫn để tay trên trán anh, Linh Lan tính rụt tay về, nhưng nó không rụt lại được nữa khi Văn Bình vươn tay ra, nắm lấy bàn tay nó, xiết chặt. Hành động đột ngột ấy của Văn Bình khiến Linh Lan ngạc nhiên. Hôm nay Văn Bình rất lạ, hoàn toàn không giống như thường ngày, chẳng hạn như việc nắm tay nó như lúc này. Bình thường anh đối với nó cũng thân thiết, nhưng bao giờ cũng có giới hạn, có chừng mực, chứ không như lúc này...

- Linh Lan! Tôi hỏi cô một câu...

- Sao? - Vẫn để yên bàn tay mình trong tay Văn Bình, không rụt lại, Linh Lan ngước nhìn anh. Nó nhận ra khoảng cách giữa anh và nó lúc này là rất gần. Điều đó làm nó lúng túng, do từ trước tới nay nó và anh chưa bao giờ gần nhau đến thế.

- Ngày hôm qua, trên chiến trường, cô níu lấy tay tôi, có phải vì cố tình để Nguyễn Ánh thoát được, đúng thế không?

Linh Lan giật mình, nó nhìn đăm đăm vào mắt Văn Bình, lòng cảm thấy lo sợ khi một vệt tối thấp thoáng trong đôi mắt của anh. Nếu Văn Bình biết được sự thật, biết rằng nó cố ‎ôm lấy tay anh vì muốn Nguyễn Ánh thoát đi thì không biết anh sẽ phản ứng với nó như thế nào. Văn Bình là người đầu tiên ở quá khứ mà nó quen biết, là người đầu tiên làm cho nó cảm giác ấm áp và bình yên. Đối với nó, anh rất quan trọng. Anh là người mà nó thấy gần gũi, thân thiết nhất, chỉ sau Anh Tú. Bất luận thế nào, nó cũng không muốn Văn Bình hiểu lầm nó, không muốn Văn Bình thất vọng về nó, nhưng nếu nói thật thì nó lại không biết phải giải thích như thế nào để anh hiểu được nguyên nhân xâu xa trong đó. Sau phút suy nghĩ nhanh, Linh Lan đành quyết định nói dối. Dù rằng nó không hề muốn nói dối Văn Bình về bất cứ điều gì, nhưng trong trường hợp này thì...

- Không! Không có chuyện đó đâu. Lúc từ trên đài cao nhảy xuống, tôi vì quá choáng váng, nên mới ôm lấy cánh tay của anh để khỏi ngã ra đất. Nếu vì chuyện đó mà Nguyễn Ánh thoát được, khiến anh phải phiền lòng thì cho tôi xin lỗi. Văn Bình, thành thật xin lỗi anh.

Những lời về sau của Linh Lan ngày càng nhỏ dần. Trong lòng nó thực tâm xin lỗi Văn Bình, cộng thêm sự áy náy vì đã nói dối, nên gương mặt nó hoàn toàn không có chút giả dối nào. Nghe Linh Lan trả lời, Văn Bình đột nhiên cảm thấy nhẹ nhõm, vệt tối trong đôi mắt anh biến mất, thay vào đó là sự ôn hòa, trìu mến như thường ngày.

Mấy tháng nay không gặp, trông Văn Bình đã ốm đi nhiều. Lúc trước vì là Nguyễn Huệ, một con người khó đoán và hoang tàn, là mối nguy hiểm của nó, nên Linh Lan không có dịp quan sát kỹ Văn Bình. Bây giờ anh và nó ngồi gần nhau, Linh Lan mới nhận thấy rõ sự thay đổi trên gương mặt anh. Đôi mắt anh vẫn sáng, nhưng lẩn khuất đâu đó là những vệt tối mơ hồ, thoáng qua. Đầu mày kiếm của anh bây giờ hay nhíu lại, suy tư. Bàn tay lại có thêm nhiều nốt chai và gương mặt phong sương giờ trầm tư nhiều hơn.

Linh Lan ngồi lặng im nhìn ngắm Văn Bình. Chắc hẳn việc Liên qua đời đã tác động không nhỏ đến anh, nên anh mới thay đổi nhiều như thế. Trong khoảnh khắc đó, Linh Lan cảm thấy thương Văn Bình quá. Nó có thể làm gì để Văn Bình trở lại như là ngày đầu tiên anh gặp nó, vui vẻ, phóng khoáng và tự tại như trước đây.

Để yên bàn tay mình trong tay Văn Bình, Linh Lan thoáng ngạc nhiên khi từng ngón tay của Văn Bình co lại, xiết chặt lấy tay nó, như không bao giờ muốn rời xa. Cái xiết chặt ấy làm nó đột nhiên nhớ tới một người. Người đó cũng vòng tay ôm lấy nó, xiết chặt, nhưng không trìu mến, ấm áp như thế này, mà lại tỏa ra sát khí, muốn đuổi cùng giết tận nó đến nơi.

- Văn Bình! Anh có thể nói cho tôi biết chuyện này được không?

- Chuyện gì?

- Ừm... Nguyễn Huệ là ai vậy? Anh và hắn có mối quan hệ thế nào? Tôi có thể biết được không?

Nhắc đến tên của Nguyễn Huệ, ánh mắt của Văn Bình sẫm lại, đôi mày kiếm hằn sâu, tạo thành một nét thống khổ trên gương mặt anh. Những k‎ý ức xa xưa lại hiện về, nhạt nhòa như mây như khói. Con sông, cánh đồng, cây đa cổ thụ tại An Thái, tất cả những hình ảnh đó ngỡ đã chôn sâu trong tâm trí anh, mãi mãi không bao giờ được khơi gợi, nay lại được Linh Lan đột ngột hỏi đến với chất giọng đầy tha thiết, quan hoài.

Cô gái này là người duy nhất nhìn sâu vào mắt anh, là người duy nhất gọi tên anh - Văn Bình, là người duy nhất khiến anh lo lắng, bất an mỗi khi nghĩ đến. Đao kiếm sắc bén có thể khai sơn phá thạch, nhưng ngàn đời lại không thể chặt đứt mối tơ vương của sợi dây tình cảm nhỏ bé mỏng manh. Quảy gánh giang sơn trên vai vẫn không cảm thấy nặng, nhưng chỉ nghiêng người, gánh mối tình riêng thôi đã thấy chân không thể bước đi. Đối với cô gái này, anh nửa muốn giấu diếm những tình cảm, suy nghĩ riêng tư, nửa muốn bộc bạch, chia sẻ những bí mật. Anh muốn giữ cô ấy lại, tin tưởng vào cô ấy, xem cô ấy như là người thân duy nhất của mình, người mà anh có thể bộc bạch nỗi niềm riêng sâu tận đáy lòng...

Đôi mắt Văn Bình trở nên xa xăm, bàn tay anh ngày càng xiết chặt tay Linh Lan trong vô thức, tâm trí như đang hướng về miền xa xôi nào đó đã bị thời gian phủ màu. Tiếng cười đùa thơ trẻ vọng lại, tiếng bước chân chạy vội trên cánh đồng, tiếng khuấy nước trên dòng sông Côn, tiếng đao kiếm chạm nhau trong vườn cây xanh mướt. Tất cả, tất cả lũ lượt tràn về, rồi trở nên sống động, lấp đầy trong tâm trí anh như chưa bao giờ phôi pha.

Ngày đó...

83

Mặt trời vừa mới nhú lên khỏi ngọn núi An Sơn xa xa, báo hiệu cỗ xe ngày mới lại bắt đầu lăn bánh trên nhân gian.

Phía đường làng An Thái, một con gà trống với bộ lông rực rỡ, nhảy tót lên ụ rơm gần đó. Nó vươn cao đầu, dõng dạc gáy một tràng, báo hiệu ngày mới. Ngay sau tiếng gáy của nó là một hồi trống dài vang lên, dồn dập. Làng An Thái thức giấc, bầu không khí yên lặng bao trùm bị đẩy lùi, thay vào đó là những tiếng cười nói lao xao, hứng khởi, do hôm nay là ngày lễ hội lớn của thôn, lễ hội Đổ Giàn (*).

Trên con đường đất đỏ phủ rợp bóng tre, từng tấm áo đủ màu bay phơ phất. Trai, gái, già, trẻ đông vui, mọi bước chân đều đổ dồn về làng An Thái. Nét mặt ai nấy tưng bừng hứng khởi do sắp được tham dự lễ hội Đổ Giàn lớn nhất vùng. Chen chúc trong đám đông náo nhiệt là hai cậu bé trạc tám, chín tuổi, mặc võ phục, chân quấn xà cạp, có ngoại hình giống nhau như hai giọt nước. Ngoại hình tuy giống nhau là thế, nhưng không cần để ‎ý quá kỹ, chỉ nhìn thoáng qua thôi, người khác cũng có thể phân biệt được hai cậu bé này do thần thái khác nhau rõ rệt. Cậu bé mặc áo xám, tóc buộc cao bằng một sợi dây màu vàng trông rất lém lỉnh, hoạt bát, đôi mắt sáng mở to kiên nghị, pha chút tinh quái. Còn cậu bé tóc cột bằng sợi dây màu trắng có gương mặt hiền hòa, nhẫn tính, đôi mắt sáng như sao băng luôn nhìn thẳng về phía trước, thi thoảng lại kiên nhẫn trả lời cậu bé áo xám, khi cậu nhóc tỏ vẻ sốt ruột, lâu lâu lại quay sang hỏi mình.

- Anh ơi! Sao chúng ta đi lâu rồi mà vẫn chưa tới thế?

- Ráng lên! Còn một chút xíu nữa là tới thôi.

- Nhưng em mỏi chân lắm rồi!

- Lên đây, anh cõng cho.

Câu bé cột tóc bằng sợi dây màu trắng cả cười khi thấy dáng bộ mệt mỏi của đứa em tinh nghịch. Nghe anh nói sẽ cõng, cậu bé áo xám rạng ngời nét mặt, cậu nhanh chóng quàng bọc cơm lên vai rồi leo lên lưng anh, miệng cười toe toét, trông vô cùng đáng yêu.

Tiết trời buổi sáng trong lành, mát mẻ, tiếng chim hót véo von trên cành tre xanh. Từng ngọn gió sớm mai thổi đến, vờn qua đôi má phúng phính của hai đứa bé, giúp chúng lau đi những giọt mồ hôi mệt nhọc vì đường xa. Chẳng mấy chốc hai cậu bé đã đến được đầu thôn An Thái, nơi tổ chức lễ hội Đổ Giàn.

Dưới tán đa rộng lớn, một cái giàn giáo hẹp, được kết‎ bằng tre, gỗ, tạo thành một đàn cúng cao và vững chắc. Bày trên đàn cúng là một chiếc lư hương bằng đồng nhỏ nhắn, khói hương nghi ngút, bên cạnh là các đĩa hoa quả, trà, kẹo, cùng đủ các loại bánh bọc xanh đỏ trông vô cùng bắt mắt. Nhưng nổi bật nhất trên đàn cúng lại là con heo quay vàng ruộm, tẩm mật ong thơm phức, khiến đám trẻ con đứng bên dưới chảy cả nước miếng khi nào không hay.

Mảnh sân rộng trước làng chẳng mấy chốc dày đặc những người, già, trẻ, lớn, bé, nam, phụ, lão, ấu, đều có mặt trong lễ hội. Mọi người đứng quây thành một vòng tròn. Do vóc dáng nhỏ con cùng với sự linh hoạt hiếm thấy, hai cậu bé nhanh chóng len lỏi trong đám đông, chen lên đứng được hàng đầu, trong khi những đứa trẻ còn lại đã bị đẩy lùi về phía sau không thương tiếc. Trên đàn cúng, một cụ già mặc áo thụng đỏ, tay cầm nén nhang khấn vái trời đất, chòm râu bạc trắng như cước, dài đến tận ngực, phất phơ mỗi khi gió thổi qua. Khi cụ già, cùng với các bô lão còn lại quỳ lạy truớc bức tượng thành hoàng trong ngôi đình khang trang, nghi thức cuối cùng trong buổi lễ, thì bên ngoài, đám đông dần xôn xao. Những cụ già, những cô gái đội nón ba tầm, đám trẻ con cùng với cánh phụ nữ dần dạt ra vòng bên ngoài, chỉ còn chừa lại những thanh niên trai tráng, trẻ tuổi, với sức khỏe phi thường tiến vào bên trong. Gương mặt ai nấy nghiêm trang, mắt hướng lên giàn cao, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, một khi cụ già chủ tế tuyên bố xô giàn...

- Ê! Hai nhóc! Mau đứng ra bên ngoài, nơi này không có chỗ cho hai đứa đâu.

Đang hớn hở tăm tia con heo quay vàng rộm, cậu bé áo xám cau mày, quay về phía sau khi một giọng quát trịch thượng bất thần vang lên. Án ngữ trước mặt cậu là một người đàn ông mặc võ phục màu đen, tay áo ngắn, để lộ bắp tay cuồn cuộn, lưỡng quyền nhô cao, kiêu ngạo nhìn hai đứa bé đứng tới thắt lưng mình. Căn cứ vào bộ võ phục thêu hình một con chim ưng màu đỏ giữa ngực, cậu bé áo xám biết đó là một trong những võ sinh huyện Bình Khê, tới An Thái để tham gia lễ hội Đổ Giàn. Ánh mắt sáng lấp lánh tinh nghịch, cậu bé áo xám không những không lùi về phía sau như bọn trẻ đồng trang lứa khác, ngược lại còn dấn tới một bước, hai tay khoanh lại với nhau, gương mặt kiên nghị ngẩng cao, cất lời rành rọt.

- Tôi đến đây để tham dự xô cỗ, nếu đứng bên ngoài thì xô thế nào?

Nghe những lời cậu bé thốt ra với vẻ mặt đầy tự tin, người đàn ông trung niên trố mắt, rồi sau đó bật cười ha hả vì thích thú. Lời lẽ của cậu bé này không những ngang tàng, thêm vào đó còn là lời thách thức với tất cả những thanh niên trai tráng tham dự hội Đổ Giàn năm nay. Nghe lời nói đó, ai nấy bất giác đều hướng mắt về phía cậu, và thấy cậu nhóc này thật lạ lùng khi không hề tỏ ra bối rối hay ngượng ngùng, ngược lại, còn rất tự tin.

- Nhóc con! Được lắm! Nếu muốn chết thì cứ tham gia.

- Tôi không phải nhóc con! Tên tôi là Nguyễn Huệ. Còn đây là anh trai tôi, Văn Bình. Chúng tôi nhất định sẽ đoạt được con heo quay ấy, ông chống mắt lên mà coi.

Nói rồi, không thèm đếm xỉa gì đến gương mặt ngạc nhiên của người đàn ông và của những ai tham dự lễ hội, cậu bé mặc áo xám - tức Nguyễn Huệ - quay sang Văn Bình, nháy mắt, cười cầu hòa, khi anh trai tỏ ra không hài lòng về chuyện tự ‎quyết của mình. Giữa một rừng người đổ xô tham dự lễ hội, ai nấy đều cao lớn, khỏe mạnh, bỗng đâu lọt thỏm hai cậu nhóc, vóc người vé tí, nhưng thần thái lại hiên ngang không thua kém ai. Ngay lập tức, hai cậu nhóc trở thành tâm điểm, khiến mọi người chú ý dõi theo cùng với nụ cười tủm tỉm trên môi. Đám trẻ con cùng lứa tuổi hai cậu thì nửa ngưỡng mộ, nửa sợ sệt, đứng lùi lại phía sau, hồi hộp xem số phận của hai cậu nhóc dại dột này.

Trên cao, nén hương trong chiếc lư đồng đã cháy hết. Sau khi làm lễ trong đình, ba cụ già cùng với một người đàn ông trung niên mặc áo the đen liền thong dong bước ra, trên tay là một cây pháo hoa đủ màu sắc. Lướt mắt‎ qua đám đông, ánh mắt của người đàn ông trung niên chợt dừng lại nơi Văn Bình và Nguyễn Hụệ đang đứng. Mắt ông chợt lấp lánh, tay vuốt nhẹ chòm râu đen nhánh, bờ môi mỏng nở một nụ cười hiền hòa khi một ý nghĩ vụt qua.

Không để đám đông phải đợi lâu, cụ già áo thụng sau khi thông báo buổi tế lễ kết thúc, chiếc pháo hoa trong tay cụ bắn ra, tỏa thành vô số những tia sáng đủ màu sắc lung linh trên bầu trời. Hành động bắn pháo hoa chính là lời tuyên bố xô giàn, nên ngay lập tức, người đàn ông mặc võ phục áo đen khi nãy liền phi thân lên giàn cao, tay vươn ra, chụp lấy con heo quay vàng óng đặt trên đó. Không chậm trễ, đám thanh niên tham dự vội vàng phóng theo sát gót, nhằm ngăn cản người đàn ông chiếm thế thương phong.

Do ai cũng muốn rinh về con heo ấy, bởi nó tượng trưng cho "lộc của thần" sẽ mang may mắn đến, nên mọi người đều trổ hết chiến thuật cũng như tài nghệ để ngáng đường, cản lối đối phương, nhằm đoạt lại con heo quay chạy về đích, mang lại vẻ vang cho thôn xóm mình.

Hòa lẫn trong đám đông sôi nổi ấy là hai thân hình nhỏ bé của Văn Bình và Nguyễn Huệ. Nhắm thấy chàng thanh niên mặc áo gai hiện đang là người giữ con heo quay trong tay, tả xung hữu đột để chạy về đích, Nguyễn Huệ kề vào tai Văn Bình, nói thì thầm mấy câu với nét mặt tinh quái. Chẳng biết cậu nhóc nói gì mà chỉ thấy Văn Bình cười tủm tỉm, sau đó gật đầu, lách khỏi đám đông, đứng khoanh tay chờ sẵn ngay vạch về đích. Nháy mắt với Văn Bình một cái, Nguyễn Huệ phóng đi, bóng dáng bé nhỏ, linh động lọt thỏm giữa rừng người đang đuổi theo chàng thanh niên chiếm giữ heo quay. Với thân pháp nhanh nhẹn, thoắt bên này, thoắt bên nọ, chẳng mấy chốc, Nguyễn Huệ đã tiếp cận chàng trai mặc áo gai. Tăng tốc để bắt kịp tốc độ của đối phương, Nguyễn Huệ ngước nhìn mâm heo quay vàng ruộm, thơm phức trên tay chàng trai, rồi khẽ cười.

- Chú ơi!

Đang đột phá vòng vây, chăm chú tìm cách chạy về đích trước khi bị cuỗm mất phần thưởng, chàng trai mặc áo gai giật mình khi có một giọng nói bất thân vang lên. Định thần nhìn lại, chàng trai cười nhạt vì thấy rõ đó chỉ là một cậu bé con. Chẳng buồn liếc mắt về phía Nguyễn Huệ, chàng trai áo gai sẵn giọng, nhưng gương mặt thì lộ vẻ vui mừng khi đích đến chẳng còn bao xa.

- Nhóc con! Khôn hồn tránh ra chỗ khác cho ta.

- Muốn tôi tránh cũng được, nhưng đợi sau khi tôi nói với chú chuyện này đã.

- Chuyện gì?

- Lưng quần của chú sắp tuột kìa!

Gương mặt đang nhơn nhơn tự đắc của chàng trai áo gai liền chuyển sang đỏ bừng khi Nguyễn Huệ vừa nói dứt câu. Hôm nay là ngày hội lớn, người làng khác chắc chắn cũng có mặt tại An Thái. Giữa hàng ngàn con mắt, nhỡ lưng quần bị tuột thì thiên hạ chắc chắn được một phen cười no vì sự bất cẩn của mình. Nghĩ thế, chàng trai lúng túng ra mặt, anh vội vàng chậm lại, mắt ngó nhanh xuống thắt lưng xem sự thể ra sao. Chỉ chờ có thế, một nụ cười láu lỉnh lướt nhanh trên gương mặt tinh nghịch của Nguyễn Huệ. Cậu nhún chân phóng lên, chụp lấy mâm heo quay nhanh như cắt, đến khi chàng trai kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, thì cậu đã chạy xa trước đó cả thước rồi.

- Oắt con! Mau trả lại con heo cho ta.

Trợn mắt lên vì không ngờ lại mắc mưu của một đứa bé, chàng trai mặc áo gai đỏ mặt tía tai quát lên, rồi hấp tấp đuổi theo Nguyễn Huệ. Thấy con heo đã bị một đứa bé đoạt lấy, đám người đang truy đuổi phía sau liền hô hoán, đồng loạt đổi hướng, nhắm thân hình bé nhỏ phía trước mà đuổi theo, giành lấy con heo. Nâng cái khay sáng bạc lên bằng cả hai tay, Nguyễn Huệ hết luồn sang bên phải rồi lách sang bên trái, hệt như một con cá nhỏ lướt nhanh trong dòng suối trong vắt, khiến đám đông chụp hụt không biết bao lần.

Khó ai có thể biết được, sở dĩ Nguyễn Huệ có thân thủ nhanh nhẹn như thế, là kết quả của những buổi rủ rê Văn Bình lẻn vào vườn lão Lý hái trộm trái cây. Lúc nào cũng thế, khi vạt áo chứa đầy những trái ổi, xoài tươi rói, hai anh em luôn phải đối phó với đàn chó hung dữ của lão L‎ý, và bao giờ hai cậu cũng thoát được đàn chó hung hãn, với những chiếc răng nhọn hoắt, cùng mớ trái cây ngon lành trong tay.

Cười vang như để giễu cợt những người đang đuổi theo sát gót, đôi mắt Nguyễn Huệ lấp lánh khi đích đến ngày càng gần. Bỗng, một bàn tay từ phía sau lao ra, chụp lấy chân cậu, xiết chặt, khiến cậu mất thăng bằng. Xảy ra biến cố đột ngột, Nguyễn Huệ không hề nao núng, cậu điềm tĩnh, khoa chân một vòng, hóa giải thế nắm của bàn tay, rồi nhảy vọt lên cao như một con chim én. Phóng tầm mắt về đích đến, Nguyễn Huệ gồng người, cậu dùng sức ném cái mâm bạc về phía trước, nơi Văn Bình đang đứng đợi sẵn ở vạch, trong những tiếng kêu kinh ngạc của mọi người.

Chiếc mâm bạc không vướng phải rào cản, bay qua những mái đầu xanh. Không để cho mọi người kịp định thần, do không thể ngờ một đứa bé lại có thể làm được như thế, Văn Bình nhoài người về phía trước. Cậu tung người lên cao, tay vươn ra, chụp lấy chiếc mâm bạc, rồi sau đó ung dung đáp xuống vạch, trước những tiếng hoan hô như sấm của mọi người. Trông thấy con heo đã vào tay anh mình, Nguyễn Huệ reo lên một tiếng vui mừng, cậu chạy như bay về phía Văn Bình, ôm lấy cổ anh trai nhảy nhót, rồi sau đó đón lấy chiếc mâm bạc, hôn cái chóc lên đầu con heo. Đôi mắt cậu lấp lánh niềm vui, và gương mặt ánh lên nét kiêu ngạo, thách thức,ngang tàng.

Đứng lẫn trong đám đông đang hò reo vang dậy cả một góc trời, người đàn ông mặc áo the đen khẽ vuốt râu, gương mặt điềm đạm thấp thoáng nụ cười hài lòng. Chủ nhân của lễ hội Đổ Giàn năm nay là hai cậu nhóc non choẹt, trong khi những thanh niên trai tráng, hùng dũng lại ra về tay không. Sự thú vị ấy khiến những người tham dự quên bẵng mất con heo đã bị cướp, mà cùng ùa về phía hai cậu nhóc, ẵm lên và tung hê. Ban đầu, do không quen được tung lên, hai cậu nhóc có đôi chút lo lắng, nhưng rất nhanh sau đó, sự lo lắng đã chuyển sang thích thú, và trở thành niềm vui rộn rã, khi cả hai cùng nhau cười vang, hòa mình vào niềm vui chung của mọi người.

...

oOo

Tiếng cười giòn dã của hai cậu bé bay vút lên cao, luồn qua những cành tre mượt mà, bay khỏi làng An Thái, và đọng lại trong tâm trí mênh mang của Văn Bình. Trong căn phòng thinh lặng, nghe tiếng gió xào xạc trên mái lá, Văn Bình ngồi đó, bàn tay anh vẫn nắm chặt lấy tay Linh Lan, tựa như đó là sợi dây duy nhất giữ anh lại hiện tại, khi tâm hồn anh đang trôi vào chốn quá khứ xa xôi.

Ngồi im lặng nghe Văn Bình kể, đến khi anh đã ngừng từ lâu mà Linh Lan vẫn chưa thốt lên một tiếng nào. Nghe câu chuyện của anh, nó có thể nhìn thấy hình ảnh hai cậu bé con chạy nhảy vô tư trên cánh đồng An Thái, cùng nhau thưởng thức miếng thịt heo quay bọc trong lá chuối khô, khi con heo được xẻ ra, mời tất cả những võ sĩ đã tham dự cuộc tranh tài.

Tại sao lại như thế?

Linh Lan bần thần, tự hỏi. Nó không ngờ một con người lạnh lùng, tàn bạo và nguy hiểm như Nguyễn Huệ, lại từng là một cậu bé con hồn nhiên, vô tư, láu lỉnh và nghịch ngợm đến thế. Qua lời kể của Văn Bình, chắc hẳn hai anh em họ rất yêu thương nhau, và ăn ý với nhau đến không ngờ. Sinh ra từ cùng một bào thai, ra đời cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng nhau lớn lên, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, mở mắt nhìn đời đã luôn nhìn thấy người kia ở bên cạnh, vậy tại sao Nguyễn Huệ lại trở thành như bây giờ? Tại sao Nguyễn Huệ lại muốn làm Văn Bình phải tổn thương? Rốt cuộc giữa hai người đã xảy ra chuyện gì, để một Nguyễn Huệ hồn nhiên, vô tư như ngày xưa lại trở thành tàn bạo, độc đoán như bây giờ...

Ngoài trời, gió nhè nhẹ thổi. Hương hoa bưởi tan dần trong vườn khuya, đọng lại trong lòng ai những nỗi niềm đau đáu mà cho đến nay vẫn không thể nói thành lời. Trong căn phòng thinh lặng, vàng vọt, có tiếng trái tim ai đập nhè nhẹ, nóng hổi trong lồng ngực, như đang cười vào những ngày tháng vụng dại xưa kia, nơi một miền ký‎ ức đã trôi qua.

Chú thích :

(*) Hội Đổ giàn là lễ hội truyền thống hàng năm, diễn ra vào ngày rằm tháng 7, tại làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

Những người tham gia sẽ dùng tài nghệ để cướp lấy con heo quay xô giàn và chạy về địa điểm an toàn đã định. Theo tục lệ con heo quay chiến lợi phẩm này được đem xẻ ra để khao chung cho tất cả những võ sĩ cùng có mặt trong cuộc tranh tài này. Những võ sĩ, hay làng võ có người giành được phần thắng được mọi người hoan nghênh và nể trọng và họ tin rằng năm ấy họ sẽ gặp hên vì được "lộc của thần".

84.

Vào những ngày Tây Sơn tấn công Gia Định, Bách Nhật hầu như thức trắng đêm. Chân tay nó luôn tất bật, để kịp thời cứu chữa cho các binh sĩ bị thương trên chiến trường.

Đối với Bách Nhật mà nói, khi chấp nhận lời đề nghị của Sở, mời nó vào đội quân y của Tây Sơn, Bách Nhật đã hòan toàn chuẩn bị tinh thần trước những cảnh đầu rơi máu chảy. Trong thâm tâm, nó tự nhủ rằng thời chiến tranh tất cảnh đổ máu là lẽ thường tình, không thể nào làm khác hơn. Dù đã dọn sẵn tâm l‎ý từ trước, nhưng khi đối mặt với hiện trường, Bách Nhật không khỏi mất bình tĩnh. Tâm tư nó xáo trộn vì lần đầu tiên nhìn thấy máu nhiều đến thế. Ruột gan nó không khỏi nhộn nhạo khi chứng kiến cảnh nội tạng của những người lính bị lòi hết ra ngoài, lúc đưa đến lều quân y.

Ngày đầu tiên, Bách Nhật cầm chén cơm nhưng không ăn nổi. Mỗi lần cho đũa cơm vào miệng, Bách Nhật lại nhớ đến thảm trạng của những người lính ấy. Dạ dày nó quặn lại, miệng khô khốc, hột cơm chưa vào mà bụng đã no ngang. Phải mất ba ngày, sau khi đã làm quen với mùi thuốc súng, mùi máu tanh tưởi, chết chóc, Bách Nhật mới dần bình tâm trở lại, và cùng những lương y khác chăm sóc cho hàng ngàn binh lính bị thương.

Ban đầu, Bách Nhật không cần đến lều trướng của những binh sĩ ấy, nó có thể ngồi trong lều, soạn đơn thuốc do đội nữ binh của Bùi Thị Xuân mang đến, nhưng lương tâm của nó không cho phép. Dù mùi thịt người bị lửa hun cháy và tình trạng lục phủ ngũ tạng đều phơi ra trước mắt nó, nhưng Bách Nhật vẫn đến lều trướng, nơi những binh sĩ đang bị thương nằm để thăm hỏi, tận tay soạn thuốc, chữa bệnh cho họ.

Hết ca này đến ca khác, Bách Nhật bận tối mày tối mặt. Giữa những hàng lính nằm ngẹo đầu trên chiếc nệm cỏ, đau đớn, khổ sở, nhân lực của đội quân y sao mà ít ỏi đến thế. Nhìn những người lính bị lửa bén đến trụi cả lông mày, khét lẹt, phơi cả mỡ trắng hếu ra ngoài, Bách Nhật vừa sợ vừa xót. Nó cảm thấy bụng nao nao, nhưng ngay sau đó, cảm giác ấy đã qua mau, nhường chỗ cho sự lo lắng do số lượng thuốc mang theo không còn bao nhiêu, trong khi số binh sĩ bị thương đưa vào ngày một tăng lên.

Ngoài nhiệm vụ của một người thầy thuốc, Bách Nhật còn tham gia cả những công việc của đội tạp dịch. Giữa hoàn cảnh khốn khó, nhân lực không đủ, Bách Nhật tự tay soạn một thực đơn dinh dưỡng dành cho các binh sĩ. Dù rằng những nguyên vật liệu nó cần không có đủ, nhưng ít ra bảng thực đơn này ít nhiều cũng có vitamin, bổ sung những chất cần thiết để bồi bổ sức khỏe, hồi phục vết thương một cách nhanh chóng. Vừa kê đơn, chữa bệnh, vừa giúp đội hậu cần nấu ăn, giặt giũ, Bách Nhật như một con thoi. Tâm trí nó luôn bị chiếm lĩnh bởi công việc, và cũng chính vì thế nó mới quên đi hết những suy tư trong lòng.

Chiều buông xuống trên thành Gia Định, tiết trời dần mát mẻ, không còn ánh nắng gay gắt, oi nồng như buổi ban trưa. Trong lều trướng, Bách Nhật đang ngồi thay băng cho một binh sĩ bị thương. Cẩn thận tháo lớp băng trắng quấn ngang ngực chàng binh sĩ, nét mặt căng thẳng của Bách Nhật trở nên nhẹ nhõm vì vết thương trên ngực anh ta đã bắt đầu kéo da non. Tuy vất vả cực nhọc chăm sóc cho binh sĩ, mấy đêm liền không chợp mắt, nhưng khi nhìn thấy họ bắt đầu hồi phục và lành lặn, những khó nhọc suốt mấy tuần qua của Bách Nhật kể như cũng được đền bù. Dù trong lòng nó vẫn còn lấn cấn bởi những binh sĩ đã không thể qua khỏi, nhưng dẫu sao có người còn sống cũng may mắn lắm rồi.

- Bách Nhật! Bên cháu còn rễ cây Mã Đề không?

Đang tỉ mẩn kê một đơn thuốc tẩm bổ cho binh sĩ, Bách Nhật ngẩng đầu lên khi lão Gàn - vị thầy lang nhiều tuổi và nhiều kinh nghiệm nhất trong đội, được mọi người gọi vui là lão Gàn, do tính khí gàn dở của lão - hỏi vọng qua. Đặt cây bút ngay ngắn lên bàn, Bách Nhật đứng dậy, trở về chỗ ngồi của mình, tay mở các bao thuốc tìm kiếm. Trong phút chốc, Bách Nhật nhíu mày, rễ Mã Đề bên nó đã hết. Túm lại túi bao rồi dùng dây thắt lại, Bách Nhật vừa làm vừa nói to.

- Bên cháu cũng hết rồi ạ! Để cháu qua hỏi chị Thúy xem sao.

- Thôi! Cháu không cần hỏi, con Thúy, cậu Hân cũng không còn, chẳng những thế mà tam thất, ngũ gia bì, hạng liên thảo để cầm máu cũng sạch nốt. Bệnh nhân thì đông mà thuốc thang ngày một vơi. Ta lo quá.

- Không sao đâu ạ! Cháu ghé qua đội hậu cần, xem họ còn thuốc dự trữ hay không. Nếu không để cháu bảo họ tấu lên tướng quân, xin xuất tiền mua thuốc vậy.

Lão Gàn gật đầu, khoát tay cho Bách Nhật, ngụ ‎ý làm nhanh đừng trù trừ. Vội lấy bút soạn xong đơn thuốc cho chàng binh sĩ đang ngồi chờ, sau đó ghi lại những vị thuốc đang cần thiết, Bách Nhật nhét mẩu giấy vào thắt lưng màu thiên thanh, rồi nhanh chân xuống đội hậu cần để kiểm tra và bổ sung những vị thuốc còn thiếu hoặc đã dùng hết. Nhận được thông báo của nó, Bùi Thị Xuân vào kho, đích thân kiểm tra xem thuốc còn hay không. Sau khi sục sạo hồi lâu, Bùi Thị Xuân quay trở ra, nét mặt cô không giấu thất vọng khi những vị thuốc nó hỏi đã không còn.

Bách Nhật im lặng, nó biết rằng quân lương cần phải sung thêm thuốc để kịp thời chữa trị cho mọi người. Nhưng để có tiền mua thuốc, lại là một số lượng không nhỏ, thì không đơn giản. Việc này cần phải thông qua chủ ý của thủ kho, sau đó phải trình lên tướng quân để tránh bị nghi ngờ đã để thất thoát ngân khố. Trời bây giờ đang sâm sẩm tối, những thủ tục nhiêu khê kia không thể có kết quả ngay trong khi việc chữa bệnh lại cần kíp, Bách Nhật không thể không lo.

Đắn đo suy nghĩ giây lát, Bách Nhật nhìn Bùi Thị Xuân, nhỏ nhẹ.

- Chị Xuân, trong người em vẫn còn một ít lương bổng mới cấp, tuy chẳng đáng là bao nhưng cũng có thể mua ít thuốc về được. Mạng người quan trọng, việc chữa trị là trên hết, vậy chị cho phép em ra ngoài để mua thuốc về. Em sẽ đi nhanh về nhanh.

Nhìn ánh mắt mềm mỏng ôn nhu, nhưng không kém phần kiên quyết của Bách Nhật, Bùi Thị Xuân khẽ gật đầu. Cô quay vào bên trong kho, lát sau trở ra ngoài với một cái túi màu đen, thắt chặt nút trên tay. Nhận thấy sự dò hỏi trên nét mặt của Bách Nhật, Xuân mỉm cười.

- Đây là tiền dành dụm của chị, tính dùng nó để mua vải may áo cho anh Diệu, nhưng xem ra đây là lúc thích hợp nhất để dùng. Em cứ cầm đi mua thuốc, xong sau đó quản kho sẽ trả lại tiền sau, em đừng ngại.

Bùi Thị Xuân biết Bách Nhật là một cô gái tự trọng, không bao giờ mở miệng nhờ vả hay vay mượn tiền của người khác, nên cô đã chặn trước, rằng số tiền này sẽ lấy lại từ tay quản kho, nên nó không cần phải áy náy hay lo lắng. Hiểu được tâm ‎tư của Xuân, Bách Nhật không nói gì, nó đưa tay nhận lấy chiếc túi, nói dịu dàng.

- Em cám ơn chị.

- Bên ngoài trời đã tối, rất có thể tàn quân của Nguyễn Ánh còn lẩn khuất bên ngoài. Thời buổi chiến tranh, con gái ra ngoài một mình rất nguy hiểm, chị đi cùng em nhé?

- Không cần đâu chị ạ! Em đi một mình được rồi - Bách Nhật nhẹ lắc đầu. Xuân còn bao chuyện phải làm, nó không muốn phải làm phiền Xuân chỉ vì chuỵên của mình.

- Vậy cũng được! Em nhớ cẩn thận. À! Chị đưa cho em cái này, cầm nó, quân giữ thành sẽ cho em ra ngoài mà không hạch hỏi hay cản trở, nhớ đi nhanh về nhanh nhé.

Xuân thả một chiếc lệnh bài vào lòng bàn tay Bách Nhật. Nó nắm lấy, thì thấy đó là một miếng thẻ bài hình vuông, nhỏ nhắn, được đúc bằng thiếc. Bao bọc bốn cạnh miếng thẻ là một đường viền vàng, trong có khắc một chữ "Xuân", kèm theo một bông hoa mai nhỏ. Bách Nhật nắm chặt chiếc thẻ bài lành lạnh trong tay. Nó gật đầu cám ơn Xuân, mắt long lanh vì sự quan tâm của cô, rồi sau đó quay gót đi.

Đúng như lời Xuân nói, từ trại quân y ra đến cổng thành, Bách Nhật phải ngang qua ba trạm canh gác, và hàng chục toán lính tuần tiễu trong thành. Ban đầu, thấy một cô gái đi lang thang bên ngoài lúc trời tối, bọn lính tuần tiễu nghi ngờ gọi nó lại. Đến khi thấy Bách Nhật giơ ra tấm thẻ bài, nét mặt ung dung, bình tĩnh, họ xem xét kỹ càng, rồi sau đó cho nó đi mà không tra xét thêm lời nào. Tương tự như thế, nhờ tấm thẻ bài nhỏ nhắn, Bách Nhật qua các trạm canh gác mà không ai gây khó, ngược lại họ còn đưa cho nó một chiếc đèn lồng soi đường, dặn nó mau trở về bởi bên ngoài rất nguy hiểm, có thể tàn dư của Nguyễn Ánh vẫn còn lẩn khuất đâu đó.

Mỉm cười cám ơn bọn lính canh gác, Bách Nhật băng qua cửa thành, bóng dáng nhỏ nhắn chìm trong đêm tối. Đêm Gia Định lộng gió. Tiếng chim kêu bi thương ngoài trời hoang, mái nhà tranh xiêu vẹo, tả tơi. Những viên gạch rêu phong vỡ nát dưới lối đi. Khung cảnh xơ xác, tiêu điều, khắc khỏai đó khiến Bách Nhật chạnh lòng. Trời không trăng, không sao, xung quanh là đêm đen, chỉ có duy nhất ánh sáng từ chiếc lồng đèn trên tay Bách Nhật, soi bóng dáng nó nhập nhòe, run rẩy, đổ dài trên mặt đường.

Mặc dù trời chưa về khuya nhưng nhà nhà đều đóng chặt cửa. Nếu Bách Nhật ra ngoài mấy ngày trước, có lẽ khung cảnh còn hoang liêu hơn nhiều. Khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định, dân chúng đã vội vàng ôm khăn gói tẩu tán muôn phương. Ai ai cũng chỉ lo đến bản thân, gia đình, của cải, nên mặc nhiên không để tâm đến phe nào đánh nhau, chỉ lo mạng sống là trên hết. Sau nhờ hịch vỗ về an dân của Long Nhương tướng quân đưa ra, dân chúng mới lục tục trở lại Gia Định. Rồi phải mất đến mấy ngày chợ mới họp như bình thường, do thấy quân Tây Sơn không quấy phá họ vì lệnh cấm của ông Long Nhương.

Dù cuộc sống đã trở lại như cũ, nhưng vì tâm ly cẩn tắc vô ưu, dân chúng bây giờ sống khép kín hơn trước. Trời chưa tối đã đóng cửa, chợ chưa đủ đã tan. Bách Nhật đi nguyên cả đoạn đường dài vẫn không thấy một hiệu thuốc nào. Sợ lão Gàn chờ lâu, sợ cửa thành sẽ đóng, nó gia tăng tốc độ. Bách Nhật đi như chạy. Trời trở lạnh, những giọt mồ hôi chưa kịp rơi đã bị gió hong khô. Sương rơi xuống ngày càng dày. Chốc chốc lại xoa hai tay vào nhau cho đỡ lạnh, Bách Nhật vừa đi vừa ngó hai bên đường, lòng mong tìm được một hiệu thuốc nào đó chưa đóng cửa để tạt vào mua đủ số thuốc dùng cho đến ngày mai.

Trải qua không biết bao nhiêu con đường, bước chân của Bách Nhật không đếm được số ngõ ngách nó đã đi qua. Cuối cùng, Bách Nhật cũng đã tìm thấy một tiệm thuốc nằm ven sông, đang bắt đầu đóng cửa. Một nụ cười hiếm hoi nở trên gương mặt nó, Bách Nhật vội bước đến, tay níu cánh cửa lại, giọng hòa nhã khi người chủ tiệm thuốc nhìn nó nửa lo lắng nửa ngạc nhiên.

- Bác ơi! Đừng đóng cửa vội! Cho cháu mua một số thuốc rồi hẵng đóng cửa được không ạ.

Thấy Bách Nhật ăn nói lễ phép, dáng bộ lại khoan thai, hiền lành, người chủ tiệm thuốc hết nhìn nó rồi lại nhìn ra phía sau. Chỉ thấy một mình nó với chiếc đèn lồng, sau lưng là con phố vắng tanh, lạnh lẽo, không hề có bóng người lai vãng, lúc này người chủ tiệm mới yên yên tâm phần nào. Tay vẫn giữa cánh cửa, nhưng lúc này đã nới rộng ra một chút, người chủ tiệm liếc mắt vào bên trong, nói nhanh.

- Cô muốn mua thuốc gì?

- Dạ vâng! Cho cháu đinh lăng, tam thất, mã đề, hạng liên thảo, ngũ gia bì, mỗi thứ năm lạng.

Nghe Bách Nhật liệt kê năm loại thảo dược, người đàn ông gật đầu, sau đó vào trong, bốc đủ số thuốc Bách Nhật cần rồi mang ra ngoài. Gói các vị thuốc vào miếng giấy màu vàng thành một khối vuông vức, người đàn ông vừa làm vừa hỏi Bách Nhật.

- Người nhà cô bị thương à?

- Dạ vâng! Cha cháu làm nghề hái dừa thuê cho người ta, vì tuổi cao sức yếu, nên ông chẳng may té từ trên cao xuống, gãy cả xương. Chậm chút là nguy hiểm đến tính mạng nên cháu mới phải đi ngay lúc trời tối như thế ạ.

Bách Nhật nghĩ nhanh trong đầu rồi trả lời người chủ tiệm thuốc với giọng tự nhiên nhất. Vốn tính cẩn thận, Bách Nhật không muốn để lộ ra nó là người trong Tây Sơn, nên mới nói dối nhằm tránh phiền phức lôi thôi. Người chủ tiệm gật đầu, cũng không hỏi thêm gì nữa. Ông ta gói hết số thuốc Bách Nhật yêu cầu, rồi đem tất cả cột thành một xâu, miệng lo lắng hỏi.

- Nhiều thế này cô xách hết được không?

- Không sao ạ.

Bách Nhật khe khẽ đáp lời, rồi móc túi tiền trong thắt lưng ra trả cho người chủ tiệm. Không muốn để lão Gàn phải sốt ruột do đã đi quá lâu, Bách Nhật nhanh chóng quay người. Nhưng chưa đi được bước nào thì bất chợt, trong đêm tối yên lặng, heo hút, một tiếng rên nho nhỏ từ trong cửa tiệm vọng ra, rất khẽ, nhưng cũng đủ làm cho nó giật mình...

85.

Tiếng rên nghèn nghẹn vừa thoát ra khỏi bức mành sáo sau cánh cửa, người chủ tiệm thuốc giật mình, mặt biến sắc. Ông ta vội khép cửa lại, đánh một tiếng cạch khô khốc. Nhíu mày vì hành động quái lạ ấy, Bách Nhật lắc đầu nhưng không để tâm lắm, nó cần phải nhanh chóng trở về trại, trước khi cửa thành bị đóng.

Gió lạnh là đà trên mặt đường, đẩy những chiếc là vàng trượt về phía trước. Bốn bề yên lặng tịch mịch. Thỉnh thoảng vọng lên tiếng chó hoang sủa dài, ú ớ như người mê khiến Bách Nhật rùng mình. Nắm chặt chiếc lồng đèn đỏ, Bách Nhật dò dẫm trong đêm. Chồng thuốc trên tay thêm nặng mỗi khi nó dừng lại, để xác định lại đâu là con đường nó đã đi qua.

Chợt, trong đêm tối vang lên tiếng bước chân gấp gáp, rất nhẹ, nhưng vọng vào tai Bách Nhật chẳng khác nào tiếng sấm. Không quay đầu lại, Bách Nhật trấn tĩnh trái tim đang đánh nhịp trong lồng ngực. Chân nó vẫn giữ nguyên nhịp bước, không đổi. Đêm hôm khuya khoắt. Sương sa lạnh lẽo, ướt đẫm lá xanh, lại thêm có chiến tranh, không ai muốn ra đường vào giờ này vì sợ nguy hiểm, trán Bách Nhật rịn mồ hôi. Tiếng bước chân phía sau cạ nhẹ trên mặt đường, chậm rãi, nhưng lại đánh nhịp theo bước chân của nó. Nó đi nhanh thì bước chân ấy nhanh, nó đi chậm thì tiếng bước chân cũng chậm lại, lặng lẽ. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để Bách Nhật suy ra rằng, người lạ mặt phía sau nó nhất định đang theo dõi mình.

Bách Nhật ôm chặt những gói thuốc vào lòng như để tăng thêm hơi ấm. Vốn là một cô gái điềm tĩnh, Bách Nhật tuy không hoảng loạn, nhưng bụng nó lo lắng, phập phồng, bởi không biết người đang theo dõi nó có ý ‎đồ gì. Một suy nghĩ thoáng qua trong đầu Bách Nhật, nó lôi từ trong ngực áo ra một chiếc khăn lụa mỏng. Đưa khăn chấm những giọt mồ hôi lạnh trên trán, Bách Nhật thả lỏng những ngón tay. Chiếc khăn bị gió cuốn lấy, bay la đà về phía sau như một cánh bướm. Trong khoảnh khoắc quay người lại để chụp lấy chiếc khăn, Bách Nhật thoáng nhìn thấy một người đàn ông vận áo khoác sẫm màu. Đôi mắt xám tro của nó thẫm lại, do nhận ra đó chẳng phải ai xa lạ, mà chính là người chủ tiệm thuốc nó đến mua vừa rồi.

Có lẽ không ngờ Bách Nhật quay người lại để lượm chiếc khăn, người chủ tiệm thuốc lúng túng, nhanh trí nấp ngay sau ngã rẽ gần đó. Tuy thân thủ của người chủ tiệm rất nhanh, nhưng chỉ giây lát cũng đủ để nó nhận ra đó là ai. Bách Nhật cau mày, nó thong thả nhét chiếc khăn mỏng vào túi, rồi quay người đi, lòng dậy lên bao suy nghĩ không lành.

Ban nãy, lúc ở tiệm thuốc, Bách Nhật tình cờ nghe thấy tiếng rên từ bên trong phát ra. Tuy không biết tiếng rên đó là của ai mà lại khiến người chủ tiệm lo lắng đến thế, nhưng cái hành động đi phía sau theo dõi nó, chứng tỏ ông ta cũng không tốt lành gì. Thời buổi nhiễu nhương, không thể phán đoán ai tôt ai xấu, cũng không thể tin vào bất cứ ai, nhất là khi Bách Nhật lại đang ở trong Tây Sơn. Theo lời Xuân và những người lính gác, có thể dư đảng của Nguyễn Ánh vẫn còn lẩn khuất bên ngoài. Nếu để họ biết nó là người trong Tây Sơn, chắc chắn nó sẽ gặp rắc rối to, thậm chí tính mạng khó lòng bảo toàn.

Một con gió lạnh thổi đến, vờn lên đôi má khiến Bách Nhật rùng mình. Nó liếm môi, chân bước nhanh hơn. Bằng mọi cách nó phải chấm dứt tình trạng một đi trước một đi sau, nhanh chóng trở về để mọi người khỏi phải sốt ruột đi tìm. Trong trường hợp này thì nó không còn cách nào khác ngoài việc phải lập tức cắt đuôi nếu muốn tránh sinh chuyện lôi thôi.

Trên đường về trại, Bách Nhật băng qua rất nhiều con hẻm, đôi mắt xám tro không ngừng linh động, kín đáo quan sát từng ngõ ngách. Bách Nhật vô cùng thất vọng, lo lắng, bởi không có con hẻm nào đủ yêu cầu. Những tưởng cứ phải vừa đi vừa quan sát để tìm chỗ trốn, bụng lại phập phồng, sợ người chủ tiệm thôi không theo dõi nữa, mà bất thần bắt luôn nó, thì công sức nãy giờ sẽ tiêu tan, cuối cùng, Bách Nhật kiềm lại tiếng reo khẽ trong miệng, do nhìn thấy một con hẻm đáp ứng đủ yêu cầu của nó. Đủ kín đáo, đủ an toàn để chơi trò trốn tìm.

Con hẻm này cũng như bao con hẻm khác nó đã đi qua, cũng tối tăm, ẩm thấp và lạnh lẽo. Nhưng may sao, sát góc hẻm đặt những chiếc sọt chứa rau cải thối, nơi tập trung rác thải của khu chợ. Mùi hôi ấy sẽ lấn át được mùi thơm nhè nhẹ của những gói thuốc nó đang cầm trên tay, rất thích hợp để làm chỗ ẩn nấp. Phòng khi người chủ tiệm căn cứ mùi thơm của những gói thảo dược lan tỏa trong không khí, để tìm ra nó.

Dù chờn chợn do nghĩ đến cảnh phải chui rúc giữa những sọt rác vừa thối vừa dơ, nhưng muốn bảo toàn tính mạng thì Bách Nhật không còn cách nào khả dĩ hơn. Đang thong thả trên đường, Bách Nhật vờ dừng lại, cúi xuống, nhặt cái gì đó. Hành động đột ngột ấy khiến người chủ tiệm vội ẩn sau một con hẻm gần đó để tránh bị nó nghi ngờ. Không bỏ lỡ thời cơ, Bách Nhật vung tay, gió từ lòng bàn tay nó làm tắt ánh lửa leo lét trong chiếc đèn lồng. Ngay sau đó, Bách Nhật nhanh chóng quẹo vào con hẻm vắng tanh, tối om om.

Đang bám theo sau Bách Nhật một cách cẩn thận, người chủ tiệm thuốc giật mình, lách vào con hẻm khi Bách Nhật đột ngột dừng lại. Đếm từng giây từng phút, đủ thời gian để Bách Nhật tiếp tục di chuyển, người chủ tiệm từ từ ló đầu nhìn, rồi vội nhảy ra, mặt biến sắc khi phía trước trống không.

Gắt lên một tiếng nho nhỏ, người chủ tiệm nhìn quanh, sau đó vội vã rẽ vào con hẻm Bách Nhật vừa mất dạng. Tiếng chó thức giấc sủa hoang, màn đêm lạnh lẽo, thâm trầm. Con hẻm hoang vắng, sâu hun hút, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng người cần kiếm đâu, khiến người chủ tiệm sa sầm mặt. Ông ta buột miệng chửi rủa, rồi mò mẫm đi sâu vào con hẻm sau vài giây tần ngần.

Người chủ tiệm vừa đi khuất, sự yên lặng lại bao trùm, chỉ còn tiếng dế rúc thê lương trong những lùm cỏ ướt sương. Trong khung cảnh tối đen như mực đó, những sọt rác chợt động đậy, xê dịch, rồi sau đó xuất hiện một cô gái nhỏ nhắn, tay ôm bọc thuốc, lục đục chui ra.

Phủi những lá cải giập nát bám trên áo, Bách Nhật nhăn mặt khi mùi cải thối xộc vào mũi nó, khó chịu. Biết giờ này đã quá trễ, rất có thể lão Gàn và mọi người đang lo lắng, ngóng đợi nó về, Bách Nhật quên cả chiếc đèn lồng vùi trong sọt rác. Nó nhanh chóng theo hướng cũ, chạy về thành, bụng thầm mong sẽ chẳng gặp chuyện rắc rối nào xảy ra.

Cũng may Bách Nhật có một trí nhớ khá tốt, lại cẩn thận, nơi nào đã đi qua nó đều dùng viên gạch đỏ vạch một đường trên tường làm dấu, cho nên bây giờ nó chỉ việc lần theo những đường đánh dấu này mà trở về. Tiếng bước chân lại vang lên trong đêm đen, nhưng Bách Nhật yên tâm hơn khi bây giờ chẳng còn ai bám đuôi ở phía sau. Thời gian dần trôi, chỉ còn ba dãy phố là đến được cổng thành. Bách Nhật ôm chặt bọc thảo dược trên tay, chân như chắp cánh, băng qua biết bao con đường mà không thấy mệt.

Gió ngày càng lạnh, sương xuống ngày càng nhiều. Những làn sương mỏng manh, nhạt như màu khói vờn quanh tấm áo xanh của Bách Nhật. Mái tóc dài ướt lạnh theo gió phơ phất, cõi lòng Bách Nhật trống tênh. Chân nó bước nhưng lòng lại mênh mang. Cũng vào một ngày lạnh khắc khoải như thế, ở đêm hội hoa đăng, một mình nó đếm bước chân trên con đường thênh thang. Con đường lấp lánh ánh đèn. Bao kẻ nói cười qua lại, đông vui, mà Bách Nhật tưởng rằng chỉ có một mình nó. Lẻ loi, lạc lõng, bơ vơ giữa nhân thế phồn hoa...

Đôi mắt xám tro lấp lánh, con phố dài nhòa nét. Bách Nhật chớp mắt, chân bước nhanh hơn. Nó phải làm việc. Không! Chính xác hơn là nó cần làm việc. Chỉ có công việc mới làm nó bận rộn, mới chiếm lĩnh đầu óc nó, để tâm trí nó không đi lang thang, rồi lại nghĩ đến những điều không nên. Bách Nhật hít một hơi dài, mùi thơm thoang thoảng của bọc thảo dược nhè nhẹ len vào mũi nó, làm nó tỉnh táo. Ngẩng đầu nhìn về phía trước, Bách Nhật tự nhủ sẽ dẹp bỏ những phiền muộn không đâu, để tập trung vào công việc chữa bệnh cho quân lính trong Tây Sơn.

Những suy nghĩ vừa mới hiện ra trong đầu, ngay lập tức biến mất khi Bách Nhật ngẩng nhìn lên. Khung cảnh trước mặt in vào trong đôi mắt xám tro đang sững lại. Ngay giữa con phố vắng hoang hoải là một bóng trắng, đang đứng xoay lưng về phía nó. Vóc người dong dỏng cao, tà áo trắng lay động, mái tóc thẫm sương nhẹ bay. Bóng trắng đó xuất hiện như một ảo ảnh, im lìm, đột ngột, khiến trái tim Bách Nhật trồi lên và hụp xuống theo nhịp buồn vui.

Trái tim Bách Nhật trồi lên khi nghĩ rằng bóng trắng ấy là người đó...

...Nhưng rồi nhanh chóng hụp xuống khi nó biết rằng đó chỉ là sự ngộ nhận mà thôi.

Bách Nhật cắn môi. Sóng mũi nó cay cay. Bóng trắng vẫn không quay lại, chỉ có tà áo lay động. Không hiểu sao, càng đến gần bóng trắng ấy, một cảm giác bất an lấn cấn trong tâm trí Bách Nhật. Đôi mày thanh tú cau lại, Bách Nhật tăng tốc độ, nó muốn vượt qua bóng trắng ấy nhanh chừng nào hay chừng nấy. Đến lúc chỉ còn cách một bước chân là Bách Nhật vượt qua đuợc thì bóng trắng đột ngột quay người lại, nhanh đến bất ngờ, khiến Bách Nhật giật mình, lùi lại về phía sau ba bước liền.

Do khoảng cách giữa Bách Nhật và bóng trắng ấy khá gần nên nó không khó mấy để nhìn rõ diện mạo của bóng trắng ấy. Dưới đôi mắt của Bách Nhật, bóng trắng ấy hiện rõ là một chàng trai kiên nghị, lông mày rậm, đôi mắt sáng, gương mặt chữ điền ẩn hiện nát ngang ngạnh, rắn rỏi. Chàng trai ấy đứng bất động, nhìn nó không chớp, khiến Bách Nhật cảm thấy khó chịu. Đang có việc gấp, những người lính trong quân y chờ nó mang thuốc về, ấy thế mà nó hết bị người này theo dõi đến kẻ kia chặn đường. Biết trước như thế, lẽ ra nó nhận lời đi cùng với Xuân thì hay hơn.

Bách Nhật cố nén những cảm giác không lành xuống. Do chàng trai đứng giữa đường, nên nó đành phải nép sang bên trái mà đi. Nào ngờ, nó đi sang trái thì chàng trai nhích sang trái, nó lách sang phải thì chàng trai cũng nhích sang phải, nó tiến về phía trước thì chàng trai lại đứng yên. Cứ thế tới ba bốn lần, làm một người luôn bình tĩnh như Bách Nhật cũng không tránh khỏi bực mình.

- Xin lỗi! Anh có thể tránh đường cho tôi đi được không? Tôi có việc gấp.

Vẫn đứng yên với tư thế cũ, chàng trai chẳng tỏ vẻ muốn nhường đường cho nó, ngược lại còn nhìn nó đăm đăm, khiến Bách Nhật vừa giận vừa ngượng ngùng, tuy ngoài mặt vẫn tỏ ra bình tĩnh, xem như không có gì.

- Anh làm ơn nhường đường giúp tôi.

Bách Nhật kiên nhẫn nhắc lại yêu cầu một lần nữa. Đến lúc này chàng trai mới trả lời nó.

- Tôi không thể!

- Tại sao?

- Vì cô là người có thể cứu được công tử của chúng tôi.

Nghe chàng trai trả lời, Bách Nhật ngớ người ra. Nó ngạc nhiên vô cùng bởi không biết chàng trai này dựa vào đâu mà bảo nó là người có thể cứu được vị công tử nào đó của anh ta. Ừ thì nó là thầy thuốc, những lời anh ta nói không phải là không được. Huống hồ sinh mạng con người là việc quan trọng, nó là thầy thuốc, không lẽ thấy bệnh mà trơ mắt nhìn. Nhưng ngặt nỗi nó đang có việc cần kíp. Lão Gàn và mọi người đang đợi nó, nó không thể nhận lời chàng trai này mà bỏ đi. Hơn nữa, nó không biết lai lịch chàng trai này thế nào, tốt xấu ra sao, thử hỏi nó sao có thể quyết định tùy tiện được.

- Xin lỗi! Tôi không hiểu sao anh lại nói như thế. Tôi không phải thầy thuốc, không thể giúp gì cho anh cả, xin anh hãy nhường đường cho tôi. Tôi còn phải mang thuốc về chăm sóc cha già.

Bách Nhật vừa nói, vừa đánh mắt về phía trước. Nó hy vọng trong lúc nó kéo dài thời gian, mọi người trong quân y thấy nó lâu về mà đi tìm. Chẳng biết những suy nghĩ đó chàng trai có biết hay không, mà chỉ thấy anh ta cúi xuống, rồi đột ngột bế thốc nó lên, khiến Bách Nhật hốt hoảng, đánh rơi cả những gói thảo dược trên tay.

- Thả tôi ra! Anh làm gì vậy! Anh...

La đến đó, Bách Nhật đã không thể nào thốt được lơi nào nữa, bởi chàng trai đã nhanh tay lấy chiếc khăn trong ngực áo ra nhét vào miệng nó. Lần đầu tiên bị người khác vác trên vai, lần đâu tiên bị người khác nhét khăn vào miệng và lần đầu tiên bị ngừơi khác cưỡng ép, Bách Nhật vô cùng tức giận. Nó không ngừng la hét, giẫy giụa. Nhưng những tiếng la thét bất bình của nó lại trở thành những tiếng ú ớ vô nghĩa, và dù có giãy dụa cách mấy thì cũng vô hiệu trước vòng tay cứng như thép của chàng trai. Bách Nhật đâm tuyệt vọng. Nó đuối sức, đành im lặng, bụng tính kế thoát khỏi tay chàng trai quái lạ này.

Thấy Bách Nhật sau phút chống đối quyết liệt đã chịu thúc thủ, chàng trai mỉm cười. Anh vác nó trên vai, chạy như bay trên con đường mờ sương. Mỗi lúc có tiếng động khả nghi nào, chàng trai đều dừng lại, nghe ngóng, rồi sau đó lại lướt về phía trước, âm thầm như một bóng ma. Nín lặng trên vai chàng trai, Bách Nhật cố gắng nhìn xung quanh. Nó nhận thấy chàng trai đang men theo con đường đến cửa tiệm thuốc ban nãy nó ghé tới. Một ý‎ nghĩ lóe qua khiến Bách Nhật bừng tỉnh. Nhớ đến tiếng rên khe khẽ vọng vào tai nó lúc nãy, Bách Nhật lờ mờ đoán ra phần nào. Căn cứ vào tiếng rên yếu ớt, có lẽ chủ nhân của tiếng rên ấy đã mang trọng thương, còn chàng trai này hẳn là thủ hạ của người đó. Thế nhưng còn chuyện tại sao anh ta đoán ra nó là thầy thuốc, lại còn bảo nó có thể cứu được công tử của anh ta thì quả thật đáng ngạc nhiên.

- Cô đang tự hỏi làm sao tôi có thể khẳng định cô cứu được công tử nhà chúng tôi phải không?

Vẫn không giảm cước bộ, chàng trai vừa đi vừa hỏi. Phần vì miệng bị nhét khăn, phần đang tìm cách thoát khỏi tay chàng trai, Bách Nhật chẳng ừ hử, cũng chẳng buồn trả lời. Không thấy Bách Nhật có động tĩnh, chàng trai mỉm cười.

- Đơn giản lắm! Lúc cô đến An Sinh đường mua thuốc, tôi đứng ở phía trong nên nhìn thấy hết. Cô bảo mua thuốc về cho cha. Cha cô hái dừa thuê, nhưng xem cách ăn mặc lại rất chỉnh tề, gọn gàng, chất liệu được may bằng lụa, bàn tay lại mềm mại, trắng hồng, tuyệt không phải con nhà lam lũ. Trong khi A Phúc lấy thuốc, tôi đã bảo ông ta trộn loại rễ đinh lăng đã sao tẩm và không sao tẩm vào với nhau. Lúc A Phúc gói thuốc, cô đứng kế bên, bảo chỉ lấy rễ đinh lăng chưa sao tẩm chứ không lấy rễ đã sao tẩm. Lẽ thường một cô gái nhà quê, cha hái dừa thuê, làm sao biết y l‎ý, làm sao biết rễ cây đinh lăng đã sao rồi hay chưa. Từ đó, tôi suy ra cô có kiến thức về y thuật, không những thế lại còn rất tinh tường. Nhất là lúc nãy, khi cô đi ngang qua người tôi, dù người cô lấm bẩn, nhưng vẫn tỏa ra một mùi thơm đặc biệt, đó là mùi thơm của thảo dược. Chỉ những người làm thầy thuốc, chuyên tâm về thảo dược, hay sao thuốc, mới có một mùi thơm đặc biệt và dễ chịu như thế thôi...

Những lời chàng trai vừa nói, Bách Nhật vô cùng kinh ngạc. Té ra chàng trai này khi ấy đứng bên trong tiệm thuốc. Hèn chi người chủ tiệm chỉ mở độc một cánh cửa, thì ra là sợ Bách nhật phát hiện còn có người bên trong. Trong khi nó không hề hay biết gì về anh chàng này thì anh ta đứng trong bóng tối, lặng lẽ quan sát nó kỹ càng. Từ việc nó loại những rễ cây đinh lăng đã sao tẩm, cho đến vóc dáng, y phục, bàn tay nó ra sao cũng không qua khỏi mắt anh ta. Chưa hết, anh ta còn trắng trợn bảo người nó tỏa ra một mùi thơm thảo dược, mà ngay chính nó cũng không bao giờ để‎ ý tới. Người nó có mùi thơm thảo dược ư? Sao nó lại không biết nhỉ?

- Nhất là bây giờ, bế cô trên tay, mùi thơm ấy tỏa ra còn dễ chịu hơn.

Chàng trai nheo mắt, quay đầu lại nhìn Bách Nhật để xem phản ứng của nó như thế nào, thì bắt gặp đôi mắt xám tro nghiêm lại, tỏ ý không hài lòng. Nét mặt ấy làm chàng trai nhún vai, rồi quay đầu nhìn về phía trước, nhưng từ đó cũng không đùa thêm một câu nào.

Bị chàng trai vác trên vai, vòng tay cứng như thép choàng qua thắt lưng nó, Bách Nhật không sao cựa quậy được. Khi nghe chàng trai bông đùa, Bách Nhật khó chịu, nhìn anh cảnh cáo, rằng không nên đùa những câu khiếm nhã ấy đối với nó. Bách Nhật không phải là một người khó tính. Nó có thể đùa, nhưng trong chừng mực. Chứ không bao giờ thích những câu nói đùa quá trớn, nhất là đối với một người không quen biết, sỗ sàng bắt cóc nó như vầy.

Những giọt mồ hôi trong suốt chầm chậm lăn trên trán Bách Nhật khi cước bộ của chàng trai bắt đầu giảm lại, từ tốn. Điều đó có nghĩa là anh ta đang tiến đến gần hiệu thuốc. Bách Nhật lo lắng, nó nhìn quanh, hy vọng sẽ có người lai vãng quanh đây, thấy chuyện bất bình, sẽ đến báo cho lính Tây Sơn đi tuần tới giải thoát cho nó. Bao thuốc đã bị rơi, lão Gàn chắc chắn đang ngóng đợi. Những người lính bị thương không có thuốc, trong khi nó lại thúc thủ chịu trói trên tay anh chàng này. Đối với Bách Nhật mà nói, đây có lẽ là tình cảnh không còn gì khó chịu hơn.

86

Suốt mấy tuần qua trong phủ chúa, các cung nữ đang bàn tán râm ran về chuyện lạ lùng nhất hậu cung, đó là Hồ tiệp dư tự đứng ra tranh cử ngôi vị Vương phi với người mà Thái phi và Thánh mẫu đã chọn. Một chuyện lạ từ trước tới nay chưa có bao giờ.

Khi nghe được tin tức ấy, Nguyên Thiên vô cùng thán phục chị mình. Nó rất ghét bà Thánh mẫu lúc nào cũng trợn ngược lông mày lên cùng bà Thái phi tuy đẹp nhưng khó chịu đó. Đối với Nguyên Thiên mà nói, Thánh mẫu và Thái phi không ưa hai chị em nó, nay Nguyên Thục lại tự đứng ra tranh ngôi vị vương phi, không cần nói cũng biết chị nó chẳng được xơ múi gì. Ngược lại còn có nguy cơ bị thiên hạ chê cười, rằng chim sẻ mà mơ phượng hoàng, châu chấu mà đòi đá xe.

Trước những mối lo lắng của Nguyên Thiên, Nguyên Thục chỉ cười. Nó biết em gái đang lo, và cũng biết em mình không muốn chị bị Thánh mẫu và Thái phi ức hiếp, nhưng biết làm sao được, Nguyên Thục nhún vai. Sống ở thời phong kiến đa thê, Nguyên Thục muốn giữ người con trai mà nó yêu nhất bằng cách tự đứng ra tranh cử ngôi vị. Hôm qua, khi hai người cùng dùng chung bữa với nhau, Nguyên Thục đã nói rõ ràng với Trịnh Khải cả rồi. Nguyên Thục nói rằng nó không phải là người ở đây. Nơi nó sống là một đất nước tiến bộ, chỉ có một vợ một chồng. Trước đây Trịnh Khải có bao nhiêu người nó không cần biết, nhưng bây giờ đã có nó thì chỉ được có duy nhất một mình nó thôi.

Đáp lại mong muốn của Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ mỉm cười. Anh cũng nói ra yêu cầu của anh trước bối rối của nó, rằng trước đây nó thích bao nhiêu người không cần biết, bây giờ nó đã có anh rồi, thì chỉ được thích một mình anh thôi. Nghe yêu cầu đó, mặt Nguyên Thục đỏ bừng như gấc chín. Nó mỉm cười thẹn thùng vì những yêu cầu của anh xem ra không cần thiết. Anh đâu biết rằng đây là lần đầu tiên nó yêu. Anh là mối tình đầu tiên và cũng là duy nhất của nó, thử hỏi lấy đâu ra người mà nó thích trước đây.

Mong muốn của Nguyên Thục đều được Trịnh Khải thực hiện. Việc chính sự đã tạm ổn, những khi rảnh rỗi, anh đều đưa Nguyên Thục đi dạo chơi. Không nơi nào ở tòa phủ Lượng lộng lẫy thiếu dấu chân của Nguyên Thục. Nó say sưa khám phá hết những vẻ đẹp của kiến trúc xưa cổ, những hành lang sáng bóng ánh nến. Khắp nơi thoang thoảng hương thơm vàng son, lộng lẫy, lầu rèm, gác ngọc, đủ thứ kỳ trân dị bảo, thôi thì không thiếu món nào. Được tân mắt nhìn ngắm, Nguyên Thục mới thấu hiểu hết sự kinh ngạc của Hải Thượng Lãn Ông khi vào cung chữa bệnh cho thế tử. "Lính một cửa vác đồng nghiêm ngặt. Cả trời nam sang nhất là đây"...

Theo chân Trịnh Khải thăm thú hết tòa Lượng phủ, thấy được hết vẻ quyền qu‎ý sang trọng trong phủ chúa, Nguyên Thục chợt cảm thấy nao nao. Nơi này một thời vàng son là thế, lộng lẫy, to đẹp là thế, ấy vậy mà ở hiện tại chẳng có chút vết tích nào. Tất cả được thay thế bằng những dãy nhà cao tầng hiện đại, dòng xe cộ đua nhau chen lấn và hàng cây hiu quạnh rũ bóng xuống hồ Gươm.

Được Trịnh Khải dẫn đi một vòng cung cấm, Nguyên Thục thích lắm. Nhưng lòng nó lại băn khoăn về căn nhà nhỏ, cửa đóng im ỉm phía sau khu vườn rộng thênh thang. Khi đi ngang qua đó, Nguyên Thục để ‎ý thấy hai người lính đứng canh gác vô cùng nghiêm mật. Từ trong căn nhà nhỏ vọng ra tiếng hát trong trẻo, khe khẽ, làm Nguyên Thục rất đỗi ngạc nhiên. Thầm thắc mắc không hiểu ai đang ở trong ấy mà phải có lính canh chừng, nhưng thấy Trịnh Khải chỉ đi ngang qua mà không có ý định ghé vào, Nguyên Thục cũng bỏ qua. Nếu Trịnh Khải không đưa nó đến căn nhà nhỏ, nghĩa là anh không thích đến nơi đó. Anh không thích nó cũng không tiện hỏi, vì sợ động đến những bí mật ẩn sâu trong tâm khảm của anh.

Ý nghĩ đó làm Nguyên Thục thấy buồn buồn. Biết bao giờ Trịnh Khải mới mở lòng, bộc bạch quá khứ của anh cho nó nghe...

Chính vì căn nhà nhỏ luôn ẩn hiện chập chờn trong tâm trí Nguyên Thục, và suy nghĩ mong muốn Trịnh Khải sẽ chia sẻ với nó về quá khứ, về những suy nghĩ của anh, Nguyên Thục càng có quyết tâm để tranh cử ngôi vị vương phi . Nó không ham quyền lực, không ham giàu sang, không ham làm chủ hậu cung. Nó chỉ muốn được ở bên Trịnh Khải, được lắng nghe những suy nghĩ của anh, và trở thành điểm tựa tâm hồn anh. Những điều đó, là Tiệp dư cũng có thể làm được. Nhưng sâu xa hơn nữa, nó muốn tranh cử ngôi vị vương phi vì không muốn Trịnh Khải chung sống với người khác, không muốn ai sinh con cho anh ngoại trừ nó. Mỗi lần nghĩ đến đó, sắc mặt Nguyên Thục lại hồng lên. Nó mơ rằng trong tương lai sẽ được chính thức lấy anh, sinh cho anh những đứa con xinh xắn. Nếu nó là Tiệp dư, rất có thể nó sẽ không bảo vệ được con mình. Rất có thể Thánh mẫu và Thái phi sẽ dùng sức ép để nó giao con cho vị vương phi nào đó nhận nuôi một cách danh chính ngôn thuận, trong khi nó muốn tự tay chăm sóc con mình. Có thể nó đã quá lo lắng và mơ mộng quá mức. Chuyện tương lai hãy còn xa vời và không biết mai này ra sao, nhưng nó phải lường trước sự việc, để mai này xảy ra biến cố thì còn kịp trở tay.

Ý nghĩ lấy Trịnh Khải và sinh cho anh những đứa con khiến Nguyên Thục ngượng ngùng. Năm nay nó mười tám tuổi, nghĩa là cũng không vi phạm luật pháp, nghĩa là được lấy chồng và được sinh con. Cứ mỗi lần tưởng tượng đến cảnh nó cùng Trịnh Khải chăm sóc những đứa con xinh xắn, là Nguyên Thục lại cảm thấy rạo rực. Suy nghĩ ấy luôn hiển hiện trong đầu nó, dần dà trở thành một ước mơ thầm kín từ khi nào không hay.

Chính vì ước mơ thầm kín đó, Nguyên Thục mới có thể tiến hành từng bước trong kế hoạch ứng cử ngôi vị vương phi. Nó nhắm nó không đủ sức lôi kéo tầng lớp thượng lưu, vì họ có lẽ đã về phe Thánh mẫu. Cho nên ban đầu, nó tập trung vào tầng lớp bình dân, nghĩa là các cung nữ trong cung, rồi từ từ tiến đến những tầng lớp cao hơn.

Nguyên Thục hiểu rằng, muốn lôi kéo một thế lực nào đó ủng hộ, điều đầu tiên cần làm là phải cho họ thấy mình sẽ được lợi lộc gì khi nó cầm quyền. Đối với Nguyên Thục, lôi kéo các cung nữ trong tòa Lượng phủ không phải chuyện dễ dàng. Trong phủ chúa, họ là tầng lớp thấp nhất, người khác có thể sai bảo họ chứ họ không thể sai bảo người khác. Cá tính họ e dè, rụt rè, sợ động đến các bề trên, nhất là Thánh mẫu, nên không ai hưởng ứng lời kêu gọi của nó. Biết trước chuyện ấy là điều tất yếu, Nguyên Thục không nản lòng. Nó cần cho họ thời gian để quyết định. Với quyền hạn của một vương phi trong thời gian tranh chấp theo giao ước, Nguyên Thục đã lập ra một danh sách áp dụng cho các cung nữ trong vương phủ. Đã từng là cung nữ, Nguyên Thục rất hiểu làm cung nữ khổ đến thế nào. Việc đầu tiên nó làm trên chức vị vương phi, chính là cải cách tầng lớp cung nữ, thông qua sự đồng ý ‎của Trịnh Khải.

Kế hoạch cải cách của nó như sau. Mỗi ngày, cung nữ trong phủ chúa được ăn ba bữa, đó là bữa sáng, bữa trưa và bữa tối. Bữa sáng cung cấp năng lượng cho cả ngày, giúp họ đầu óc minh mẫn, năng suất làm việc sẽ tốt hơn. Bữa trưa sẽ có thêm thời gian nửa nén nhang để họ nghỉ ngơi, cuối cùng là bữa tối. Lúc trước, đám cung nữ thức dậy phải đánh răng, rửa mặt và làm việc, không được ăn bữa sáng, riết đã thành thói quen. Bây giờ đột nhiên được ăn sáng, không ai buồn ăn. Họ bỏ bữa để nhanh chóng làm việc cho kịp giờ. Nghe A Đào và A Vân báo lại, Nguyên Thục cắn môi suy nghĩ. Cuối cùng, nó đành ra quyết định bất cứ cung nữ nào bỏ bữa sáng sẽ bị trừ lương, và ra lệnh các cung nữ bắt đầu làm việc vào giữa giờ mão, tức sáu giờ.

Xem ra, hiệu lệnh của Nguyên Thục đã có tác dụng. Sợ bị trừ lương, các cung nữ đều phải ăn sáng, và họ cũng thôi tất tả như trước vì đã có giờ làm việc mới. Theo kết quả phản hồi từ các cung nữ mà A Đào báo cáo lại, kết quả cải cách của nó được các cung nữ ủng hộ rất nhiều. Bữa sáng giúp họ có năng lượng để làm việc, sau bữa trưa còn được nghỉ ngơi thoải mái, khiến ai nấy đều cảm thấy chưa bao giờ làm cung nữ lại sung sướng đến như thế. Chế độ cải cách bữa ăn và giờ làm việc đã có phản hồi tốt, Nguyên Thục tiếp tục đề xuất việc cung nữ cần có lang y riêng.

Trước đây, ngự y trong phủ chúa chỉ dành cho Thánh mẫu, Thái phi và các phi tần. Cung nữ chỉ được hưởng ké, nhiều khi họ có bệnh cũng chẳng dám than thở cùng ai. Hiểu được tâm nguyện đó qua A Đào, Nguyên Thục đã tuyển một ngự y trong cung chuyên chữa bệnh cho cung nữ. Nếu có Bách Nhật ở đây thì Nguyên Thục đã không cần phải suy nghĩ nhiều, điều nó do dự là chuyện có thể vị ngự y đó cảm thấy bất bình vì mình phải chữa bệnh cho tầng lớp bình dân. Nguyên Thục đã nhìn thấy sự bất mãn ẩn hiện trên gương mặt của vị ngự y mà nó sung vào chăm sóc cho đội cung nữ. Trong khi nó chưa biết phải làm sao để vuốt ve tự ái của vị ngự y này thì sáng hôm sau, khi nó đến phòng các cung nữ thì đã thấy viên ngự y ngồi đó, bắt mạch cho từng người. Nguyên Thục ngạc nhiên quá đỗi. Nó chưa kịp hỏi han thì viên ngự y đã trông thấy nó. Ông ta tất tả đến khấu chào nó, miệng rối rít cám ơn mãi mà nó không hiểu tại sao.

Chuyện cải cách cung nữ đã tạm ổn, Nguyên Thục bắt đầu cải cách tới phòng ngự thiện. Trước đây, mỗi khẩu phần ăn của các cung nữ phi tần đều khác nhau, thậm chí Nguyên Thục chưa ăn đã bội thực khi nhìn thấy số món ăn trong phòng Trịnh Khải lên tới hai mươi. Quá nhiều thức ăn, tất sẽ sinh ra tình trạng phí phạm đồ ăn thức uống. Theo yêu cầu của Nguyên Thục, dưới sự chấp thuận của Trịnh Khải, trừ những buổi yến tiệc, một bàn ăn bây giờ chỉ còn khoảng mười món. Theo thứ tự cao thấp, Thánh mẫu sẽ dùng mười món, Thái phi chín món, nó và Trịnh Khải cùng ăn chung nên còn tám món, và giảm dần cho đến hết bậc phi thấp nhất trong hậu cung là bốn món.

Do có quy định riêng trong ăn uống, nên kho thức ăn trong phủ chúa còn dự trữ khá nhiều. Bao giờ cũng thế, mỗi khi các nàng phi đã ăn xong, Nguyên Thục đều yêu cầu phòng ngự thiện giữ nguyên hiện trạng để nó đi kiểm tra. Cùng các cung nữ trong phủ chúa, Nguyên Thục hâm và chế biến lại số thức ăn còn dùng được. Nó đem gói tất cả lại, sai người đem phân phát cho những người nghèo đói sống bên ngoài. Dân là nước, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền. Nguyên Thục hiểu rõ điều ấy. Nó phải kéo dân chúng đứng về phủ chúa. Dân và tòa Lượng phủ đoàn kết với nhau mới có thể trừ họa kiêu binh và giữ vững được nước nhà.

Đối với tầng lớp cung nữ, Nguyên Thục đã có những cải cách riêng. Đối với tầng lớp cao hơn, nó đành phải dựa vào uy quyền của Trịnh Khải. Nó biết, chắc chắn họ sẽ không ủng hộ nó, bởi vì phía sau nó là cái bóng cao lớn của Thánh mẫu. Không nản lòng, Nguyên Thục quyết định thực hiện kế hoạch riêng của mình. Nó đến phòng Trịnh Khải, hỏi han anh cặn kẽ hết những quan lại trong phủ chúa. Sau đó nhờ A Đào khéo léo hỏi thăm sở thích ăn uống và tình trạng sức khỏe của từng vị. Tất nhiên vì là quan cao cấp, nên sở thích của họ cũng trên trời dưới đất. Nào là nem công, chả phượng, tay gấu, thôi thì không thiếu thứ nào. Tất nhiên Nguyên Thục không thể đáp ứng hết những sở thích tốn kém ấy. Nó đã nhờ ngự thiện phòng làm những món đơn giản, như cá bống kho tiêu, dưa môn kho, ruốc sả... Tất cả những món ăn đó, Nguyên Thục đều đem bỏ vào quả sơn đỏ, phủ khăn điều lên, kèm theo một lời chúc. Tất nhiên những món ăn đó đối với các quan rất tầm thường, nhưng nếu đó là quà chúa ban thì những món đó còn qúy hơn vàng.

Ban thức ăn thôi còn chưa đủ, Nguyên Thục còn ghi vào giấy công dụng của những món ăn đó, như mát ruột, tiêu đàm, hạ nhiệt. Sự khéo léo đó của Nguyên Thục khiến ai cũng cảm động, phần đó là quà của chúa ban, một phần những món ăn đó đều có tác dụng giúp họ giải được một số bệnh mà họ đeo mang trong người.

Trong chuyện đem tặng thức ăn, Nguyên Thục những tưởng Trịnh Khải không biết gì, cho đến khi Nguyễn Khản vào cung tình cờ gặp nó trong ngự hoa viên, thì nó mới vỡ lẽ hết mọi chuyện.

Thì ra, những việc mà Nguyên Thục làm Trịnh Khải đều biết, chỉ có điều anh không nói ra. Khi Nguyên Thục đem các lẵng thức ăn tặng cho các quan lại, bên trong mỗi lẵng thức ăn đều có một tờ giấy nhỏ màu vàng. Tò mò không hiểu trong tờ giấy ấy viết gì, Nguyên Thục được Nguyễn Khản bí mật cho xem. In vào mắt nó là những dòng chữ nhã nhặn, tinh xảo của Trịnh Khải.

"Theo lời Hồ tiệp dư tâu lại, ta được biết dạo gần đây khanh hay bị đau lưng, gân xương nhức mỏi. Nay ta ban cho khanh bát cháo lươn, có tác dụng bổ khí dưỡng huyết, ôn dương, ích tỳ, bồi bổ can thận, làm mạnh gân cốt. Khanh cứ tùy nghi dùng, đừng phụ lòng Hồ tiệp dư"

Sau khi đọc được những dòng chữ đó, Nguyên Thục im lặng, trái tim nó đập thình thịch trong lồng ngực. Cổ họng nó nghẹn lại, mãi mà không thốt nên lời. Thấy biểu hiện đó của nó, Nguyễn Khản tưởng rằng Nguyên Thục đang xấu hổ. Ông hết lời tạ ơn Nguyên Thục, rằng nhờ bát cháo lươn thơm ngon đó mà chứng bệnh của ông đã thuyên giảm phần nào. Nhìn bóng dáng Nguyễn Khản xa dần, Nguyên Thục ngơ ngẩn. Thì ra Trịnh Khải đã giúp đỡ nó trong bí mật mà nó không hề hay biết. Nguyễn Khản có tờ giấy đó thì các quan lại ai ai cũng có tờ giấy tương tự, tùy theo chứng bệnh của từng người. Nghĩ đến việc Trịnh Khải còn trăm công ngàn việc, mà lại bỏ thời gian viết những tờ giấy ấy cho mọi người, trái tim Nguyên Thục đập rộn rã. Anh giúp nó, như vậy có nghĩa anh cũng muốn nó làm vương phi, và cũng muốn...

Nghĩ đến đó, Nguyên Thục đỏ mặt, nó không dám nghĩ thêm nữa. Nguyên Thục hé môi cười. Một nụ cười rạng ngời. Trong lòng nó bây giờ vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Một cảm giác êm đềm lan tỏa toàn thân nó, khiến nó lơ lửng như trên chín tầng mây. Càng ngày nó càng phát hiện ra mình yêu anh nhiều hơn. Tình yêu đó giúp nó càng thêm vững bước với quyết định, và gúp nó đương đầu với những chông gai sau này.

Cứ như thế, trong suốt những ngày tạm thời nắm quyền vuơng phi, Nguyên Thục đã làm hết khả năng của mình. Cải cách cung nữ, cải cách bữa ăn và làm thân với quan lại quyền quy. Nguyên Thục còn xin Trịnh Khải tổ chức những buổi thi đua cho các cung nữ, cho các đầu bếp trong ngự thiện phòng. Người nào nấu ăn ngon, dệt được tấm vải đẹp nhất sẽ được ban thưởng tiền và quà kỷ niệm. Nhờ những cải cách nhỏ bé đó của nó, chưa bao giờ phủ chúa rộn ràng như lúc này. Ai nấy đều hăng say làm việc, đều cảm thấy cuộc sống của mình đã tốt đẹp hơn.

Trong lúc nó dùng quyền hạn của một vương phi để tiến hành cải cách thì bên Ngọc Xuân cũng đã tiến hành theo phương pháp riêng. Vì có sự hậu thuẫn của Dương thái phi và Thánh mẫu, những món quà cho quan lại dĩ nhiên cao cấp hơn của nó. Đối với dưa món, cá bống kho tiêu, cháo lươn, thì mã não, trân châu phỉ thúy có giá trị hơn gấp vạn lần. Không những thế, Ngọc Xuân còn xuất lương thực trong phủ riêng của mình để quyên góp, bố thí cho người nghèo. Đối với các cung nữ, Ngọc Xuân đem những trang sức, lụa là mình không dùng đến để ban phát lại cho họ. Đặc biệt, Ngọc Xuân còn đích thân làm những bánh mứt ngon lành dâng lên Thánh mẫu, Thái phi và cả Trịnh Khải, khiến Thánh mẫu, Thái phi vô cùng hài lòng và hết lời ngợi khen.

Biết Ngọc Xuân là đại kình địch, Nguyên Thục không dám khinh xuất. Dù nó đã cố gắng rất nhiều, nhưng lại không khỏi chạnh lòng khi Ngọc Xuân được các cung nữ khen ngợi hết lời. Người vừa đẹp, vừa tài giỏi lại vừa biết lấy lòng người khác, đặc biệt là đối với Thánh mẫu và Thái phi, bây giờ Ngọc Xuân đang dẫn điểm trước nó, còn nó hụt hơi ở phía sau. Mỗi lần đến phòng Trịnh Khải, nhìn bánh mứt ngon lành bày trên đĩa, không cần phải nói Nguyên Thục cũng biết ai là chủ nhân của những đĩa bánh mứt này. Nghĩ đến mình không thể làm được những bánh trái ngon lành như thế cho Trịnh Khải, Nguyên Thục se sắt lòng. Những giọt nước mắt của nó trào ra, rồi khô nhanh trên vai anh, khi Trịnh khải ôm nó vào lòng, vỗ về.

Bánh trái của Ngọc Xuân, tất nhiên Nguyên Thục không chịu ăn. Nó không chịu ăn và không chịu cho Trịnh Khải động đến. Dù biết thế là vô l‎ý, nhưng Nguyên Thục vẫn làm thế, nó mang hết bánh trái trong phòng Trịnh Khải vào bếp, rồi bí mật nếm thử. Bánh đậu xanh vừa mềm vừa ngon, nếp đậu beo béo, ngọt bùi cùng với mùi thơm khiến Nguyên Thục vừa tức vừa khen. Dù tay nghề không lão luyện như Bách Nhật và càng kém xa Ngọc Xuân, nhưng Nguyên Thục vẫn cố gắng hết sức mình.

Nhờ A Đào chỉ cho cách làm bánh, Nguyên Thục chiếm một chỗ đứng trong bếp, lay hoay nhào nặn trong khi các đầu bếp rửa rau, xào nấu thức ăn. Không thèm làm bánh quế, bánh đường, bánh đậu xanh như Ngọc Xuân đã làm, Nguyên Thục tự sáng tạo ra cho mình một loại bánh, đó chính là bánh thập cẩm. Dưới sự dẫn dắt nhiệt tình của các đầu bếp, và sự cố gắng học hỏi, Nguyên Thục nhồi bột làm vỏ bánh, nhân bánh nó cho đủ loại. Cái thì nhân đậu xanh, cái thì nhân khoai môn, cái thì nhân thịt, cái thì nhân đậu, cái thì nhân đậu phộng trộn đường. Nguyên Thục say sưa làm hết cái này đến cái khác. Bắt chước bánh bao chỉ, sau khi nặn xong một chiếc bánh tròn tròn, nó rắc một ít bột trắng lên trên, khiến mặt mũi, đầu tóc, tay chân nó lấm tấm bột bánh trắng tinh. Sau đó nó dùng phẩm đỏ, vẽ mắt mũi cho chiếc bánh, rồi đem tất cả đi hấp, cùng với sự mong chờ.

Được các đầu bếp kiểm duyệt và chính mình nếm thử, Nguyên Thục cảm thấy nó làm không đến nỗi nào. Sau khi đã hoàn thành xong bánh, Nguyên Thục xếp tất cả ra khay, phủ lên hộp bánh một tấm vải điều rồi đem đến phòng Trịnh Khải. Trước những chiếc bánh tròn tròn, đôi mắt Trịnh Khải thoáng hiện nét ngạc nhiên. Anh mỉm cười vì lúc nào Nguyên Thục cũng háo thắng như thế. Trước gương mặt rạng rỡ của nó, Trịnh Khải bắt đầu thưởng thức những chiếc bánh Nguyên Thục cất công làm ra. Bao giờ cũng thế, bù lại cho công sức của nó luôn là một nụ hôn của anh. Lúc thì trên môi, lúc thì trên má, lúc thì trên trán. Những khi ấy nó lại rúc vào lòng Trịnh Khải, má hồng lên và tâm trạng rộn ràng, phấn chấn hơn gấp nhiều lần.

oOo

Hôm nay là ngày sinh thần của Thánh mẫu, trong phủ đèn hoa kết trướng rực rỡ, khắp nơi đâu đâu cũng là hoa, kèm theo lời chúc Thánh mẫu thọ tỷ nam sơn treo đầy. Vì là sinh thần của Thánh mẫu nên Trịnh Khải tổ chức buổi yến tiệc để mừng thọ, mời quan chức khắp nơi về dự tiệc. Không khí trong phủ tất bật lên xuống để kịp buổi yến tiệc diễn ra tối nay.

Vốn biết Thánh mẫu không ưa mình, và cũng chưa chắc bà đã chấp nhận món quà nhỏ bé của nó, nhưng Nguyên Thục vẫn muốn chọn một món quà cho Thánh mẫu. Rủ A Đào, A Vân, Nguyên Thục mang theo một ít ngân lựợng giành dụm ra chợ Cửa Đông để mua quà. Có lẽ do hôm nay là sinh thần của Thánh mẫu, nên nhà nào cũng treo một chiếc lồng đèn đỏ trước hàng mình. Phố chợ đông vui, huyên náo, người mua kẻ bán tấp nập. Nguyên Thục chen chân vào tiệm bán trang sức gần đó. Mân mê những chiếc lược đồi mồi chạm khắc tinh xảo trong tay, Nguyên Thục vô cùng thích thú. Bàn tay người xưa khéo léo chẳng kém gì người nay. Không máy móc, tất cả chỉ dựa vào đôi tay nhưng lại có thể tạo ra những đồ vật bé nhỏ, xảo diệu, nhìn không chán mắt thế này. Nhìn ngắm đã mắt, Nguyên Thục tiếc rẻ đến hàng khác, nó vừa đi vừa nghĩ đến Trịnh Khải. Anh đang bận tiếp chuyện với tham tụng Bùi Huy Bích và quốc sư Nguyễn Khản, chứ không thì đã cùng nó ra ngoài mua quà rồi.

Không có Trịnh Khải bên cạnh, sự hào hứng trong lòng Nguyên Thục giảm đi phần nào. Cùng anh đi giữa chiều vàng mát mẻ, cùng anh dạo chơi qua từng con phố, được bàn tay ấm áp của anh bao bọc, được mùi trầm hương dịu dàng vây quanh, đối với Nguyên Thục, như thế mới thật sự trọn vẹn. Nó hững hờ ngắm phố xá rộn ràng xuân sắc mà lòng lại đau đáu ở tòa Lượng phủ, tim chỉ hướng về Trịnh Khải mà thôi. Thấy gương mặt buồn thiu của Nguyên Thục, A Đào và A Vân hiểu ngay tâm sự của nó. Cả hai thôi không nói cười rộn rã nữa, mà kéo Nguyên Thục đến một hàng bán trang sức bên đường.

- Tiệp... Tiểu thư, người xem chiếc vòng này có đẹp không?

Nghe A Đào lên tiếng, Nguyên Thục sực nhớ đến mục đích chính của mình. Nó bắt đầu ngó qua một lượt các món đồ trang sức được trưng bày. Nào là lược đồi mồi, vòng ngọc thạch, trâm vàng, lược bạc, nhưng tất cả những đồ trang sức này Thánh mẫu không thiếu, thậm chí còn đẹp hơn như thế rất nhiều. Mang về làm quà cho bà chỉ thêm xấu hổ mà thôi.

Nguyên Thục cắn nhẹ môi, Ngọc Xuân chắc quơ tay là có cả chục món quà, còn nó sao mà khó đến như vậy. Nguyên Thục thở nhẹ, nó tính quay lưng đi, thì bất chợt nhìn thấy một chiếc vòng ngọc nằm trong chiếc hộp gấm, khiến nó dừng chân.

Chiếc vòng ngọc ấy bằng ngọc thạch, màu xanh, trong suốt. Ánh sáng trên cao chiếu vào, gợn sóng li ti, hệt như vô số những tia sáng vàng lấp lánh chuyển động trong thân ngọc, làm chiếc vòng ngọc bừng sáng. Mở to mắt vì chiếc vòng xinh đẹp ấy, Nguyên Thục vội cầm lấy chiếc vòng ngắm nghía. Quan sát đã đời, Nguyên Thục phát hiện ra một điều thú vị ở chiếc vòng này. Khi lắc qua bên phải, chiếc vòng dần chuyển sang màu tím nhàn nhạt. Khi lắc sang bên trái, chiếc vòng xuất hiện những đường vân màu lam gợn sóng, rồi chuyển thành màu vàng trong suốt khi Nguyên Thục giữ yên trên tay.

- Ông chủ! Chiếc vòng này bao nhiêu vậy?

- Tiểu thư! Cô không thể mua chiếc vòng này được đâu.

Đáp lại ánh mắt rạng rỡ của Nguyên Thục là cái lắc đầu của người bán hàng. Mất một vòng tìm kiếm mới tìm được món quà tâm đắc dành cho Thánh mẫu, Nguyên Thục không từ bỏ hy vọng. Nó lấy hết tất cả số bạc trên người ra, đặt lên bàn, nài nỉ.

- Ông chủ! Tôi muốn mua cái vòng ngọc thạch này. Ông xem chừng này bạc đã đủ chưa?

- Cái vòng này chỉ ba lạng bạc thôi, cô đưa năm lạng là đã quá dư, nhưng tôi thật sự không thể bán nó cho cô được.

- Tại sao?

- Vì cái vòng này đã có người đặt mua trước rồi.

Nguyên Thục thất vọng khi nghe những lời người bán hàng vừa nói. Đã có người đặt mua, tức là nó đã đến chậm một bước. Người ta không thể bán, nó cũng không thể cưỡng cầu. Nguyên Thục thở dài, nó nhìn chiếc vòng lâu thật lâu bằng ánh mắt tiếc nuối, rồi mới quay đi.

- Tiểu thư! Cô muốn mua chiếc vòng này phải không?

Vừa mới đi được vài bước, Nguyên Thục chợt dừng lại khi nghe ai đó gọi nó từ phía sau. Quay người lại, Nguyên Thục ngạc nhiên khi đứng trước mặt nó là một chàng trai mặc áo thủy lục. Có thể nói chàng trai áo thủy lục là một nam nhi anh tuấn. Anh ta mày kiếm, mắt sao, quần áo sang trọng, phong tư đường mạo, ung dung. Trên tay chàng trai là chiếc vòng ngọc thạch, gương mặt anh tuấn đang nhìn nó, mỉm cười, càng làm tăng thêm vẻ tuấn tú từ chàng trai ấy. Trông thấy cốt cách phiêu diêu của chàng trai, A Đào và A Vân bỗng chốc đỏ mặt lên. Còn với Nguyên Thục thì trong lòng nó chỉ có Trịnh Khải nên chàng trai này cũng bình thường như những người qua đường khác, vậy thôi.

- Đúng! Tôi đang muốn mua chiếc vòng ấy, vậy anh chính là người đã đặt mua nó sao?

Chàng trai mỉm cười, anh ta không lên tiếng phủ nhận. Nguyên Thục thầm hiểu lời nó đã chính xác. Nếu anh ta là chủ nhân của chiếc vòng ấy thì gọi nó lại làm gì? Nó đâu có quen biết người này, chẳng lẽ anh ta muốn bán lại cho nó sao?

- Cô đã bỏ năm lạng bạc để mua chiếc vòng này, có phải nó rất quan trọng với cô?

Trả lời câu hỏi của nó lại là môt câu hỏi khác của chàng trai, Nguyên Thục cau mày, nhưng cũng gật đầu.

- Vâng! Đúng là nó rất quan trọng. Hôm nay là sinh nhật nội tôi, nên tôi muốn mua chiếc vòng đó. Đáng tiếc là tôi chậm một bước rồi.

Đưa chiếc vòng lên cao ngắm nghía, đôi mắt chàng trai lấp lánh ánh vàng của chiếc vòng. Chìa chiếc vòng về phía nó, chàng trai từ tốn tiếp lời.

- Nếu đã quan trọng với cô như thế, thì tôi tặng lại cho cô.

Nguyên Thục mở to mắt. Nó đăm đăm nhìn chiếc vòng trên tay chàng trai, rồi dời mắt lên gương mặt anh tuấn, tỏ vẻ khó hiểu.

- Nhưng anh mua nó mà.

- Không sao! Tôi mua chiếc vòng này để sưu tập thôi. Nhưng nếu nó quan trọng đối với cô, thì tôi nhường lại nó cho người cần nó hơn, không sao.

Nguyên Thục cắn môi, lưỡng lự. Đem chiếc vòng ngọc thạch tuyệt đẹp này làm quà cho Thánh mẫu, ít ra sẽ không thấy kém cạnh đối với món quà của Ngọc Xuân. Nhưng trừ những dịp sinh nhật, hoặc đối với bạn bè thân thiết, xưa nay nó không bao giờ muốn nhận đồ ai tặng, nhất là đối với người không quen.

- Xin lỗi! ‎Ý tốt của anh tôi rất cám ơn, nhưng tôi không muốn nhận đồ tặng. Nếu anh bán lại nó thì tôi sẽ mua.

Hơi ngạc nhiên khi nghe những lời Nguyên Thục nói, chàng trai mỉm cười.

- Được! Vậy tôi bán lại cho cô giá hai lạng bạc vậy.

- Không được! Anh có‎ lòng tốt tôi rất cám ơn. Nhưng nếu đã bán, tôi xin mua với giá gốc của nó, ba lạng bạc.

Nguyên Thục vừa nói xong, chàng trai liền bật cười. Có lẽ là lần đầu tiên có một người con gái không muốn nhận đồ tặng, càng không muốn mua hàng đã giảm giá, mà chỉ mua với giá nguyên thủy ban đầu, điều đó khiến anh cảm thấy thú vị. Đôi mắt chàng trai lóe lên những tia sáng lấp lánh. Anh đặt chiếc vòng ngọc vào tay Nguyên Thục, rồi mỉm cười.

- Được! Ba lạng thì ba lạng.

- Vâng! Cám ơn anh, cám ơn anh nhiều lắm.

Nhận được chiếc vòng ngọc thạch từ tay chàng trai, Nguyên Thục rạng rỡ. Nó bỏ chiếc vòng vào túi gấm đeo bên mình, rồi nhoẻn miệng cười, cám ơn chàng trai rối rít. Gương mặt rạng rỡ, lúm đồng tiền xinh xinh trên má nó khiến chàng trai nheo mắt. Cám ơn chàng trai thêm một lần nữa, Nguyên Thục quay lưng. Lòng nó hớn hở rộn ràng vì cuối cùng cũng đã tìm được quà cho Thánh mẫu. Thêm một niềm hoan hỉ khác trong lòng nó, là nó đã mua cho Trịnh Khải một chiếc túi thơm, có tác dụng an thần, giúp anh dễ ngủ hơn.

Nhìn bóng dáng Nguyên Thục xa dần, tiếng cười trong trẻo còn vọng lại, chàng trai vỗ nhẹ chiếc quạt vào lòng bàn tay. Từ trong ngôi lầu gần đó, một chàng trai mặc áo thiên thanh sang trọng bước ra, gương mặt anh tuấn, kiêu ngạo nhìn theo bóng dáng Nguyên Thục, nói nhẹ tênh.

- Đó chính là phi tử của Đoan Nam vương sao? Thật không giống với tưởng tượng của đệ chút nào.

Không đáp lại câu hỏi của chàng trai áo thiên thanh, chàng trai áo lục phẩy quạt. Chiếc quạt trúc xòe rộng, che khuất gương mặt cùng nụ cười đẩy bí mật, chỉ còn lại đôi mắt lấp lánh tia sáng khác thường.

- Làm người thì chớ nên tưởng tượng quá! Chúng ta đi thôi.

87.

Trước đây, Nguyên Thiên cứ tưởng làm cận vệ cho Duy Cận chắc cũng rất nhiều quy định khe khắt. Sống chung trong phủ anh, nó thấy Duy Cận nghiêm khắc với cung nữ, lại thêm bề ngoài của anh đạo mạo, trang nghiêm, khiến nó cảm thấy anh là người khó gần. Ở bên cạnh Duy Cận một thời gian, tiếp xúc nhiều với anh, những định kiến trước kia của Nguyên Thiên dần tan biến, thay vào đó là cái nhìn thiện cảm hơn.

Duy Cận rất tốt với nó. Anh luôn tôn trọng sở thích của nó, không chê cười chuyện nó chỉ biết dăm ba chữ, ngược lại còn bỏ công dạy nó học với sự chu đáo, nhiệt tình. Không như Duy Khiêm, luôn chê hết lời lúc nhìn dòng chữ lên bờ xuống ruộng của nó, Duy Cận không bao giờ cười chê. Anh khen nó khi chữ viết của nó bắt đầu đẹp ra, thỉnh thoảng còn thưởng cho nó cây kẹo lạc, cái bánh gừng khi nó đã có sự tiến bộ.

Sống chung với Duy Cận, Nguyên Thiên có thể thấy nhiều khía cạnh khác của anh. Cũng như Duy Khiêm, Duy Cận rất chăm đọc sách. Gặp câu nào ưng ý‎, anh liền chép riêng vào một cuốn sách nhỏ, lâu lâu lại lấy ra nghiền ngẫm. Đối với người khác, Nguyên Thiên không biết thế nào, nhưng đối với nó, Duy Cận rất dễ chịu. Anh không bao giờ bắt lỗi, la rầy mỗi khi nó làm sai điều gì, ngược lại còn để cho nó làm những gì nó thích, miễn không vượt quá giới hạn. Có thể nói, so với những ngày tháng sống trong nội điện của Duy Khiêm thì nơi đây chẳng khác thiên đường.

Chính vì cảm kích trước việc Duy Cận đã đối xử tốt với mình, ngày nào Nguyên Thiên cũng cố gắng làm Duy Cận vui. Sở trường của Nguyên Thiên là kể chuỵên. Mỗi buổi tối, khi Duy Cận đã đọc sách xong, Nguyên Thiên luôn kể chuyện cho anh nghe. Từ chuyện cổ tích như Tấm Cám, Thạch Sanh L‎ý Thông, Sơn tinh Thủy tinh, Tú Uyên Giáng Kiều, cho đến chuyện Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, liêu trai, đặc biệt là Tây du k‎ý, bộ phim yêu thích nhất mọi thời đại của nó. Nhờ giọng kể lên bổng xuống trầm, cùng với những động tác minh họa ngộ nghĩnh từ Nguyên Thiên, Duy Cận chăm chú lắng nghe. Qua tình tiết câu chuyện, Duy Cận bộc lộ những cảm xúc khác nhau. Lúc nghe chuyện ba anh em Lưu Bị kết nghĩa vườn đào, Duy Cận rất thích thú. Sau đó, anh tròn mắt khi nghe Tôn Ngộ Không được sinh ra từ một hòn đá, có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, rồi lại bật cười lúc Trư Bát Giới cùng tắm với bảy nhền nhện tinh.

Đối với những câu chuyện của Trung Quốc, Duy Cận thích thú là thế. nhưng đối với những câu chuyện cổ tích việt nam, Duy Cận không hứng thú. Điển hình như chuỵên Sơn tinh Thủy tinh, khi nghe đến việc Thủy tinh đến chậm một bước mà để Mị nương thuộc về người khác, kết thúc là Thủy tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn tinh hóa phép làm núi non cao bấy nhiêu, đôi mày kiếm của Duy Cận chau lại, tạo thành một đường thẳng. Nhìn thấy biểu hiện đó của anh, Nguyên Thiên không kể nữa, nó biết câu chuyện Sơn tinh Thủy tinh vô tình khơi dậy vết thương trong lòng anh. Từ đó trở đi, nó chỉ toàn kể chuyện Trung Quốc hoặc chuyện hài hước mà thôi. Có lần Nguyên Thiên hứng chí kể chuyện Lục Vân Tiên cho anh nghe, nhưng nó biến tấu và ngâm nga câu "ca rao" vẫn thường hay đùa khi học trường đoạn Vân Tiên bị Trịnh Hâm xô xuống sông. "Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, gặp phải cái ca cõng mẹ chạy vô. Vân Tiên cõng mẹ chạy vô, gặp phải trái ngô cõng mẹ chạy ra". Nghe nó ngâm nga luyến láy, Duy Cận nhíu mày, rồi sau đó bật cười.

Ngoài chuyện kể cho anh nghe những câu chuyện mà nó yêu thích, Nguyên Thiên còn cùng Duy Cận chơi đá cầu. Sáng nào cũng thế, sau khi dùng xong điểm tâm, tập thể dục cho tinh thần sảng khoái, Nguyên Thiên lại mang trái cầu mây ra khu vườn rộng rãi phía sau phủ của Duy Cận để chơi. Tham gia cùng nó là cô công chúa bé Ngọc Hân. Cô công chúa này rất yêu qúy Duy Cận và cũng từ Duy Cận mà cô yêu qúy Nguyên Thiên. Trong lúc Nguyên Thiên và Duy Cận đá cầu với nhau, Ngọc Hân cùng các cung nữ ngồi vỗ tay đếm nhịp. Đến khi nó và Duy Cận đá xong thì đã có ngay mớ bánh mứt ngon lành do Ngọc Hân sắp xếp theo sở thích của Nguyên Thiên. Vì ngày nào Ngọc Hân cũng đến phủ của Duy Cận, nghe Nguyên Thiên kể chuyện không biết chán, dần dà, Nguyên Thiên và cô bé trở nên thân thiết với nhau. Cô bé hay đem đến cho Nguyên Thiên những bánh mứt ngon nhất. Những khi ấy, Nguyên Thiên bao giờ cũng xoa đầu cô bé, hệt như một người chị, mặc cho những nàng cung nữ đi theo lườm nó, bởi Ngọc Hân dù sao cũng là công chúa, còn nó chỉ là nàng cận vệ nhỏ bé thôi.

Hôm nay như thường lệ, nó cùng Duy Cận vào cung vấn an Hoàng thượng. Trong khi Duy Cận vào trong thì Nguyên Thiên đứng chờ ở bên ngoài. Ngồi lên bậc thềm mát lạnh quen thuộc, Nguyên Thiên xoay xoay chiếc lá vàng trong tay. Những lúc như thế này, bao giờ tâm trí nó cũng nhớ đến Duy Khiêm. Trước đây, mỗi buổi sáng, Duy Khiêm và nó luôn đến thăm hỏi sức khỏe của thánh thượng, nhưng bây giờ người nó đi cùng là Duy Cận. Khung cảnh vẫn thế, không thay đổi. Nó vẫn ngồi chỗ cũ quen thuộc, không thay đổi, có chăng, chỉ là người đi cùng nó không phải người xưa, và điều đó làm Nguyên Thiên cảm thấy buồn buồn.

Kể cũng thật lạ, trong Hoàng cung rộng lớn, nội điện của Duy Khiêm và Duy Cận không cách xa nhau là mấy, nhưng sao Nguyên Thiên cảm thấy khoảng cách giữa nó và anh sao mà xa vời quá. Nó có thể viện cớ Anh Tú đang ở đó mà đến chơi, nhưng biết bao lần ý định đó vừa nhen nhóm đã bị Nguyên Thiên dập tắt. Không hiểu sao nó cảm thấy sợ. Nó sợ sự lạnh nhạt, hờ hững của anh. Nó sợ phải nhìn thấy gương mặt không biểu cảm của anh. Không còn thấy nụ cười tuy có phần chế giễu của anh, không còn nghe anh gọi "nhóc con", không còn ai nắm tay nó trong giấc ngủ, Nguyên Thiên cảm thấy trống trải, hụt hẫng. Dù thế, nhưng nó lại càng không muốn đối diện với sự vô tình của anh. Chẳng thà không gặp, chẳng thà nhớ mong, còn hơn gặp rồi lại đau lòng...

- Nguyên Thiên! Cô có nghe ta nói gì không?

Đang thả hồn vẩn vơ, Nguyên Thiên giật mình do giọng nói Duy Cận bất chợt vang lên. Vội đứng dậy, Nguyên Thiên gượng cười khi Duy Cận nhìn nó bằng đôi mắt khó hiểu. Nó gãi đầu, lúng búng.

- Ơ... Xin lỗi! Ban nãy anh vừa nói gì?

Duy Cận cau màu. Ngó gương mặt ngơ ngác của nó, nãy giờ tai nó chắc chắn chẳng lọt câu nào của anh. Nhìn chiếc lá vàng giòn mục đậu lung lay trên tóc nó, Duy Cận vươn tay, gỡ chiếc lá khỏi mái tóc ngắn, anh trầm giọng.

- Hôm nay là sinh thần của Thánh mẫu. Tối nay phủ chúa tổ chức yến tiệc, ta phải có mặt để mừng thọ người. Cô ra ngoài với ta, chúng ta đi mua quà cho Thánh mẫu.

Nghe Duy Cận nói, Nguyên Thiên bất giác hả một tiếng. Nó gãi đầu.

- Anh cần gì phải cất công ra ngoài mua. Trong phủ anh thiếu gì kỳ trân dị bảo. Nếu cần thì bảo cung nữ đi được rồi, việc gì phải ra ngoài.

- Dúng là trong phủ ta không thiếu kỳ trân dị bảo, nhưng ra ngoài biết đâu lại tìm được món nào hay hay. Không nói nhiều, chúng ta mau đi thôi.

Duy Cận vừa nói xong liền sải bước mà không cho nó kịp lên tiếng. Ban đầu nó tính từ chối, nhưng lâu lâu ra ngoài dạo chơi một chuyến cũng hay, ở riết trong Hoàng cung cũng chán. Nguyên Thiên nghĩ nhanh, nó nhanh chân chạy theo Duy Cận, miệng rối rít khi bóng anh ngày càng xa dần.

- Duy Cận! Đợi tôi với!!

Nguyên Thiên bắt kịp Duy Cận ở cửa Tường Phù. Anh đang xuất thẻ bài ra khỏi cung cho hai người lính xem xét. Nhận ra đó là Sùng nhượng công, hai người lính vội vàng mở cánh cửa, đồng thời khấu đầu khi anh đi ngang qua. Bước qua cửa Tường Phù, một chiếc xe ngựa đã túc trực sẵn ở đó tự bao giờ. Vén tấm rèm trắng qua một bên, Duy Cận chìa tay về phía Nguyên Thiên trước đôi mắt ngạc nhiên của nó, anh mỉm cười.

- Lên xe mau.

Hơi bất ngờ vì cử chỉ ga-lăng của Duy Cận, Nguyên Thiên ậm ừ. Nó vịn vào tay anh, rồi lấy đà phóng lên xe. Đang tính vèn rèm chui vào, Nguyên Thiên quay người lại khi có tiếng bước chân giẫm lên lá vàng khô từ phía sau vang lên. Bao ngày không gặp, nhưng đến khi gặp, chỉ cần nhìn bóng dáng phía sau thôi nó cũng đã biết đó là ai, huống chi bây giờ anh đang ở trước mắt nó, cùng với nụ cười " đáng ghét" thường trực trên môi.

Lâu ngày không gặp, Duy Khiêm vẫn như xưa. Đôi mắt Nguyên Thiên vụt trở nên long lanh. Nó quan sát từng đường nét trên gương mặt anh, lòng ngùi ngùi bao dư âm bồi hồi. Vẫn gương mặt trẻ con tươi cười ấy, vẫn tà áo xanh thẫm ấy, vẫn phong thái ung dung, điềm đạm ấy, nhưng sao Nguyên Thiên cảm thấy như nó đã xa cách anh mấy năm. Nhìn Duy Cận đứng bên cạnh chiếc xe ngựa sang trọng, Duy Khiêm vòng tay khấu chào Duy Cận theo lễ nghĩa, rồi điềm nhiên bước đi, mà không đoái hoài đến nó đang đứng trên xe. Chứng kiến cảnh Duy Khiêm vô tình bỏ quên nó, như thể nó không tồn tại trước mắt anh, nụ cười rạng rỡ trên môi Nguyên Thiên trở nên ngượng ngập. Từ bao giờ anh trở nên xa cách với nó, từ khi nào cả hai đã có những khoảng cách không thể vượt qua? Nguyên Thiên vội chui vào khoang xe. Sóng mũi nó cay cay, hai bàn tay nó xiết chặt vào nhau, đỏ ửng. Nó không có can đảm đối diện với sự lạnh nhạt của anh, nó cũng không có dũng khí để hỏi anh cho rõ mọi chuyện. Nó sợ anh bảo ghét nó. Nó sợ anh xua đuổi nó. Ký‎‎ ức trong đêm đông lạnh lẽo ngày ấy vẫn chôn sâu trong lòng nó, nhức nhối, không quên. Rốt cuộc nó đã làm gì sai để anh đối xử với nó như thế? Rốt cuộc nó đã làm gì sai để anh hờ hững với nó như thế? Rốt cuộc nó đã làm gì sai...

Trong khi Nguyên Thiên đang miên man với hàng trăm câu hỏi, thì bên ngoài, Duy Cận đang chau mày nghĩ ngợi. Nhìn bóng dáng Duy Khiêm xa dần, anh lên xe, giục tên gia nhân cho xe chạy về phía trước. Lúc đi ngang qua Duy Khiêm, Duy Cận ra hiệu cho phu xe dừng lại, anh vén rèm, ló đầu ra, hỏi vọng xuống với giọng ôn tồn.

- Khiêm nhi! Có phải cháu cũng ra ngoài mua quà cho Thánh mẫu không?

Chân vẫn sải bước, Duy Khiêm đưa mắt nhìn Duy Cận đang ngồi trong xe. Anh mỉm cười.

- Thưa vâng! Hôm nay là sinh thần Thánh mẫu. Cháu muốn ra ngoài mua quà mừng thọ người.

- Vậy cháu hãy lên xe, chúng ta đi chung. Phường Giang Khẩu phố xá buôn bán tấp nập, biết đâu cháu có thể tìm được món quà ưng ‎ý cho Thánh mẫu.

Những bước chân của Duy Khiêm dần chậm lại, anh nhìn thẳng vào mắt Duy Cận, một tia sáng nhỏ lướt nhanh trong đôi mắt nâu của anh. Chiếc xe ngựa chậm chạp lăn bánh như chờ đợi, Duy Khiêm thủng thỉnh đáp lời.

- Cung kính không bằng tuân mệnh. Cháu xin đi nhờ xe của Hoàng thúc vậy.

Ngồi trong xe, trái tim Nguyên Thiên đập thình thịch khi nghe cuộc đối đáp giữa Duy Cận và Duy Khiêm. Chiếc xe ngựa chạy chậm, lắc lư vài cái rồi dừng lại. Tấm rèm trắng được vén lên, ánh sáng tràn vào, bóng dáng quen thuộc của Duy Khiêm xuất hiện, khiến Nguyên Thiên bối rối. Như không biết bên trong có người, Duy Khiêm thản nhiên đến ngồi bên cạnh Nguyên Thiên. Hành động đột ngột ấy khiến nó ngỡ ngàng, tim đập rộn ràng.

Cỗ xe ngựa lại lăn bánh, ngày một nhanh dần. Vì Duy Khiêm ngồi bên cạnh Nguyên Thiên, nên Duy Cận đành ngồi ghế đối diện. Không ai nói với nhau câu nào, tất cả âm thanh chỉ là tiếng vó ngựa chạy lọc cọc trên đường. Bầu không khí yên lặng đó khiến Nguyên Thiên không được thoải mái. Nó ngọ nguậy trên ghế, mắt hết nhìn Duy Cận, rồi lại len lén nhìn Duy Khiêm. Một người thì mặt lạnh băng, một người thì mặt tỏ vẻ không vui. Nguyên Thiên thì vốn kém trong việc hòa giải, nên nó lay hoay mãi mà vẫn không sao giải tỏa bầu không khí căng thẳng này.

- Nguyên Thiên! Tối qua cô kể chuyện tới đâu rồi, nhớ không?

Đang không biết phải mở lời như thế nào, Nguyên Thiên "hả" một tiếng khi Duy Cận chợt lên tiếng. Lời nhắc nhở của anh đã làm nó nhớ đến câu chuyện kể dang dở tối qua. Hôm qua, nó lại tiếp tục kể chuỵên Tây Du K‎ý cho Duy Cận nghe, đến đoạn ba thầy trò thi đấu phép thuật với ba lão yêu thì nó quá buồn ngủ, đành khất anh, hẹn mai sẽ kể hết câu chuyện ngưng giữa chừng. Sự nhắc nhở của Duy Cận vô tình làm bầu không khí yên lặng bị phá vỡ. Nguyên Thiên vỗ bộp vào trán mình, hào hứng.

- À! Đúng rồi! Tôi quên mất. Tối qua tôi kể cho anh nghe đến đoạn thầy trò đường tăng đấu phép, đúng không?

- Đúng rồi!

- Được! Vậy tôi kể tiếp cho anh nghe nhé. Ba lão yêu quái thách đấu tam tạng xem ai mới là người thần thông quảng đại hơn. Ban đầu, tam tạng rất lo lắng bởi ông ta không hề biết chút phép thuật nào, sau được Tôn Ngộ Không bảo mọi chuyện đều có đệ tử, tam tạng mới yên tâm thi đấu. Thách đấu đầu tiên chính là thấu thị. Bà Hoàng hậu sai thị vệ khiêng một cái tủ đặt giữa sân rồng. Bà giao hẹn, nếu ai có thể biết được bên trong chứa món đồ gì, thì người ấy sẽ chiến thắng.

- Rồi sao?

- Với phép lực thần thông của mình, lão hồ yêu nhìn thấy món đồ chứa trong tủ là một chiếc ao cà sa. Lão ta hí hửng, bẩm với Hoàng hậu "Kính thưa nương nương! Bên trong tủ là một chiếc áo cà sa mới toanh". Thấy hắn ta đoán trúng món đồ bà đã bí mật cất giấu, Hoàng hậu vô cùng hài lòng. Bà tuyên bố lão hồ yêu là người chiến thắng. Đúng lúc ấy, Tôn Ngộ Không nhảy ra, bảo rằng "sư phụ ta chưa đoán, sao bà có thể phán quyết lão ta thắng được". Bà Hoàng hậu biết chắc tam tạng sẽ thua, nhưng vì lão hồ yêu muốn tam tạng nói ra món đồ trong tủ là gì, nên bà gật đầu cho phép tam tạng trổ tài. Nhờ Tôn Ngộ Không xuất hồn, chui vào bên trong chiếc tủ, biến chiếc áo cà sa trở nên cũ mèm, nên khi nghe tam tạng trả lời " Tâu Hoàng hậu! Bên trong chiếc tủ là một chiếc ao cà sa cũ nát", ai nấy đều cười to. Đến khi mở tủ ra, họ tá hỏa khi trong đó quả thật là một chiếc áo cà sa cũ nát. Lần thứ hai, thứ ba cũng thế. Lão hồ yêu bảo "trong tủ là một trái đào", tam tạng bảo trong tủ là hột đào. Lão yêu bảo trong tủ là một đạo sĩ, tam tạng bảo trong tủ là một nhà sư. Nhờ có Tôn Ngộ không giúp sức, cả ba lần tam tạng đều thắng, khiến ba lão yêu tức đến xây xẩm mặt mày.

Nguyên Thiên vừa kể xong, nét mặt Duy Cận không giấu vẻ thích thú. Ngồi bên cạnh Nguyên Thiên, Duy Khiêm cũng tủm tỉm cười. Nụ cười đó khiến Nguyên Thiên chột dạ, nó thắc mắc.

- Anh cười gì?

- Không!

- Còn bảo không! Rõ ràng anh vừa mới cười.

- Cô không cần nhìn tôi như thế. Tôi cười vì phục vị Tôn Ngộ Không ấy có thể đổi trắng thành đen mà không ai hay biết, thế thôi.

Giọng nói của Duy Khiêm không có âm sắc, nên Nguyên Thiên không biết anh nói câu đó với ý nghĩa gì. Nụ cười lạnh nhạt của Duy Khiêm khiến sự hào hứng của Nguyên Thiên bị dập tắt. Nó ngồi xoay lưng về phía anh, mặt xịu xuống. Dù Duy Cận đã gợi chuyện nhưng nó chỉ trả lời ậm ờ, không muốn kể đến chuỵên hấp dẫn diễn ra ở phía sau. Bầu không khí lại rơi vào im lặng. Ai nấy đều đuổi theo suy nghĩ riêng. Vòng bánh xe quay đều đặn, tiếng vó ngựa tiếp tục đánh nhịp lóc cóc trên mặt đường.

Cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Đông, thẳng hướng đến khu phố buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mã. Hôm nay, phố xá đặc biệt đông vui, đâu đâu cũng kết đèn, giăng hoa, cùng hòa chung với không khí tiệc sinh thần của Thánh mẫu. Tuy đây không phải lần đầu tiên Nguyên Thiên ra ngoài dạo chơi, nhưng sự nhộn nhịp ở phường Giang Khẩu đã làm Nguyên Thiên thích thú. Quên phắt nỗi buồn mang tên Duy Khiêm, Nguyên Thiên lại trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Nó tung tăng theo chân Duy Cận và Duy Khiêm từ hàng này sang hàng khác, từ quán này sang quán khác. Cứ mỗi lần sà vào quán nào, Nguyên Thiên lại tha thêm một món đồ cho mình. Từ cây tò he nhào bằng bột xinh xắn cho đến chiếc bánh vòng rán mật thơm tho, Nguyên Thiên đều ăn hết không chừa món nào. Trước cảnh tượng đó, Duy Cận chỉ biết lắc đầu, cô nhóc cận vệ của anh tuy nhỏ con mà lại có sức ăn đến ngạc nhiên.

Phố xá ngày càng đông đúc, kẻ mua người bán ngày càng tấp nập, Duy Cận và Nguyên Thiên khó khăn lắm mới luồn lách được trong dòng người đang chen lấn. Ban nãy, vì mải mê ngắm nhìn và ăn uống, Nguyên Thiên không để‎ ý đến Duy Khiêm đang đi phía sau. Bây giờ khi nhìn lại, nó ngạc nhiên khi bóng dáng anh đã biến mất, chiếc áo xanh thẫm mất hút trong dòng người, hệt như làn khói từ tách trà tan vào không trung.

Nguyên Thiên ngơ ngác nhìn quanh, không biết Duy Khiêm đã đi đằng nào mà tìm hoài không thấy. Nó lo lắng. Anh là Hoàng tự tôn, trước nay chỉ ở trong nội điện, không hay ra ngoài, lỡ như anh đi lạc, lỡ như gặp trộm cướp hay tai nạn nào đó, thì chắc chắn cả Hoàng cung sẽ một phen sóng gió. Có thể Duy Cận sẽ không tránh khỏi liên can khi chính anh là người cho Duy Khiêm đi cùng xe. Nghĩ đến chuyện Duy Khiêm gặp những kẻ bất hảo, bụng Nguyên Thiên nóng như lửa đốt. Nó cố sức gạt dòng người chen lấn để tìm cách thoát ra bên ngoài, đầu ngoảnh lại phía sau, nhắn nhủ Duy Cận đang đứng đợi bên đường.

- Duy Cận! Anh ở đó đợi tôi chút nhé. Để tôi đi tìm Duy Khiêm về.

- Không được! Nguyên Thiên, mau quay lại đây. Đường phố đông đúc, nêu cô bị lạc thì sao.

Tiếng gọi của Duy Cận, Nguyên Thiên không đáp trả lại, vì lúc này nó đã đi xa. Lo lắng Duy Khiêm gặp nguy hiểm, Nguyên Thiên vừa chạy, vừa nhìn quanh quất để tìm kiếm tà áo xanh quen thuộc. Có những lúc nó mừng rỡ khi tưởng bóng người đang đi phía trước là Duy Khiêm, đến khi nhìn lại, Nguyên Thiên ngượng ngùng xin lỗi vì nó đã nhận nhầm người. Phường Giang Khẩu hàng quán đông đúc, Nguyên Thiên phải lội từ hàng này sang hàng khác một cách cẩn thận. Nó không muốn bỏ lỡ bất cứ nơi nào, rủi Duy Khiêm đang có mặt trong đó thì cả hai sẽ không gặp được nhau.

- Duy Khiêm! Anh đang ở đâu vậy? Duy Khiêm!!!

Nguyên Thiên bắt tay làm loa, nó vừa chạy, vừa gọi to. Dòng người trên phố ai cũng quay đầu nhìn nó hiếu kỳ. Mặc kệ những cái nhìn tò mò ấy, điều Nguyên Thiên mong muốn bây giờ là tìm thấy Duy Khiêm. Chẳng lẽ anh đã về Hoàng cung? Vô l‎ý, nếu anh trở về Hoàng cung thì phải ghé qua thông báo cho Duy Cận một tiếng chứ. Duy Khiêm là người lịch sự, phép tắc trong cung đều hiểu rõ, tuyệt không phải là ngượi tự ý làm càng. Nhưng nếu anh không về Hoàng cung thì chắc chắn anh đã đi lạc, rủi như gặp người xấu, rủi như gặp mấy kẻ bắt cóc tống tiền, thì với cái thân thư sinh đó chắc chắn sẽ không chống cự nổi, mà bị bắt mất thôi.

Đã không nghĩ thì thôi, Nguyên Thiên càng nghĩ càng sốt ruột. Nó băng qua từng con phố, miệng gọi to tên anh. Gặp hàng nào nó cũng vào thăm, gặp quán nào nó cùng vào hỏi, nhưng đáp lại sự mong chờ của nó chỉ là những cái lắc đầu, khiến Nguyên Thiên thất vọng. Bóng chiều dần buông, trời đã sâm sẩm tối. Tiệc sinh thần của Thánh mẫu sắp được tổ chức. Duy Cận phải lên đường quay trở về ngay để vào phủ chúa Trịnh và nó phải hộ tống anh về cung. Chức trách của một cận vệ thúc giục nó quay trở về bên Duy Cận, nhưng trái tim của nó lại không muốn. Nó không cam chịu quay về khi chưa tìm thấy Duy Khiêm.

Nguyên Thiên vò nát mép áo. Một suy nghĩ nhen nhóm trong đầu nó, liệu có khi nào Duy Khiêm đã quay về chỗ cũ và đợi nó hay không. Nó nên tiếp tục đi tìm, hay là quay trở về chỗ Duy Cận đây?

Đang còn rối tung vì chưa biết phải quyết thế nào, đôi mắt của Nguyên Thiên chợt mở to. Vẻ lo âu trên mặt nó biến mất, thay vào đó là sự ngạc nhiên và vui mừng khi nhìn thấy những gì in trong đôi mắt mình.

Trước mặt nó là một đồng ruộng mênh mông, lúa rập rờn gợn sóng, Duy Khiêm đang ngồi trên một tảng đá, trên đầu là bóng cây gạo phủ lòa xòa. Tà áo xanh thẫm bay trong gió. Chỉ hình ảnh đó thôi cũng đủ làm Nguyên Thiên vui mừng và nhẹ nhõm. Anh không gặp người xấu, không bị bắt cóc, mà chỉ dừng lại đây nghỉ ngơi mà thôi.

Có vẻ như Duy Khiêm không nghĩ rằng Nguyên Thiên sẽ xuất hiện ở đây, bằng chứng là khi nhìn thấy nó, một thoáng ngạc nhiên lướt qua trong đôi mắt anh rồi biến mất. Từng bước tiến đến bên cạnh Duy Khiêm, Nguyên Thiên đứng đó, ấp úng vì không biết phải mở lời như thế nào. Khi nãy nó còn nóng ruột, mong tìm thấy anh, nhưng đến khi tìm thấy rồi thì lại chẳng biết nói gì, chỉ biết đứng vân vê vạt áo. Anh im lặng. Nó im lặng. Cả hai không mở miệng nói với nhau câu nào, chỉ có tiếng gió đuổi nhau trên đồng lúa, nghe như tiếng cười đùa lao xao.

- Sao cô lại đến đây?

Những tưởng anh và nó sẽ mãi lặng thinh, thì Duy Khiêm là người lên tiếng phá vỡ bầu không khí im lặng của cả hai. Thoát được tình cảnh ậm ờ, Nguyên Thiên mừng rỡ, đáp lời.

- Tôi sợ anh đi lạc nên mới chạy đi tìm. Dù sao Duy Cận cũng đã rủ anh đi chung, nếu về mà lại lạc lẫn nhau thì anh ấy cũng khó ăn nói với mọi người lắm.

Nghe câu cuối, đôi mày kiếm của Duy Khiêm cau lại. Anh nhin nó, cười nhạt.

- Bây giờ đã tìm được tôi rồi, cô về được chưa?

Hơi bất ngờ vì không nghĩ Duy Khiêm lại lạnh nhạt đến mức ấy, Nguyên Thiên nóng mũi. Sợ Duy Khiêm gặp bất trắc, nó đã qua biết bao con phố, hỏi biết bao người, vào biết bao hàng quán để tìm anh, đổi lại nó được gì? Chỉ là một sự lạnh nhạt đến vô tình của Duy Khiêm. Nó đã làm gì nên tội mà anh nỡ đối xử như thế với nó chứ.

- Anh... Tôi đã làm gì mà anh đối xử với tôi như vậy? Tôi cực khổ lắm mới tìm ra anh, anh không an ủi thì thôi sao lại lạnh nhạt với tôi như thế?

Nguyên Thiên không nhịn được nữa. Nó nhìn thẳng vào mặt anh, mắt long lanh vì tức giận. Không quan tâm đển cảm xúc của nó, Duy Khiêm không né tránh ánh mắt tức giận ấy. Anh cười nhẹ.

- Tôi không đi lạc. Cô cực khổ tốn công tìm tôi là do cô. Tôi không cưỡng cầu.

Vừa nói xong, Duy Khiêm thong thả đứng lên. Anh quay bước. Tà áo xanh thẫm vương ngang trong đôi mắt long lanh của Nguyên Thiên. Nhìn cánh nhạn bay trong bóng chiều tà, Nguyên Thiên cảm thấy lòng se sắt. Sự lạnh nhạt của Duy Khiêm chẳng khác nào gáo nước lạnh, dội tắt những nhiệt huyết trong nó. Nó không ngại khó khăn để mong tìm thấy anh, đáp lại chỉ là sự hờ hững, xa lạ đến đau lòng. Nguyên Thiên ngước mắt nhìn lên bầu trời. Từng áng mây hối hả nối đuôi nhau về nơi xa. Mắt nó đỏ hoe, nhưng không khóc. Nó nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ Nguyên Thục, nhớ mái ấm gia đình và nhớ bạn bè. Ở đây, nó không cảm thấy sự ấm áp nào hết. Tất cả chỉ là những lời nói làm nó bị tổn thương, và những sự thật khiến lòng nó quặn đau.

Nguyên Thiên muốn về nhà. Nó khao khát muốn về nhà. Nó không muốn ở lại đây thêm một giây một phút nào nữa.

Nó muốn về nhà...

88.

Dù ở trong phủ chúa đã tròn một năm, nhưng chưa bao giờ Nguyên Thục thấy tòa phủ Lượng lại lung linh đến thế.

Ngay từ ngoài cửa Chính Môn, cửa Tuyên Đức, cửa Diệu Nam đã treo đầy đèn lồng rực rỡ. Các dãy hành lang sáng bóng như gương. Ngự hoa viên treo những câu đối, kèm theo những bức tranh chúc phúc đến thánh mẫu. Khu hậu cung trang hoàng hàng ngàn ánh nến. Ao Long Trì lấp loáng đèn hoa đăng. Hương thơm lãng đãng, khói bay gần xa, trông chẳng khác nào cảnh thần tiên.

Ngồi trong phòng để A Đào và A Vân trang điểm, lòng Nguyên Thục nôn nao lạ thường. Đây không phải tiệc sinh nhật của nó, thế nhưng trước khung cảnh nhộn nhịp ấy, Nguyên Thục cũng cảm thấy vui lây. Chốc nữa đây, nó sẽ đến ngự lâu của Trịnh Khải, cùng anh đến hiên Lạc Thiên để chủ trì đại tiệc với cương vị là một vương phi theo giao ước giữa nó và thánh mẫu. Thời gian một tháng cũng đã gần hết, mọi người cũng đã có quyết định nên chọn ai. Phải đợi đến ngày cuối cùng Nguyên Thục mới được mở phiếu ra đếm, cho nên nó nửa nôn nóng, nửa lo âu vì không biết có bao nhiêu người ủng hộ mình.

- Tiệp dư! Người đứng yên để cho chúng em mặc đồ nào.

Đang với lấy sợi dây lụa màu thiên lý đính kim tuyến lấp lánh để làm thắt lưng cho Nguyên Thục, A Đào ngẩng đầu lên, nhắc khẽ do Nguyên Thục ngọ nguậy không yên. Phải trân mình ra nửa tiếng đồng hồ để trang điểm và mặc áo, Nguyên Thục vô cùng bứt rứt. Xiêm áo ngày thường mớ ba mớ bảy đã rất rườm rà, ấy thế mà trang phục cho ngày đại lễ lại còn cầu kỳ hơn. Đến dự tiệc, Nguyên Thục phải mặc một chiếc áo dài mở giữa màu thiên thanh, buông vạt và nẹp trang trí hình chiếc lông công ngũ sắc. Với thắt bao lưng vải buộc múi trước bụng, một dải lụa hồng phủ cả vai thả dài trước ngực, lại thêm chiếc mũ bằng vàng nạm ngọc đội trên đầu, Nguyên Thục cử động rất khó khăn. Với xiêm y phơ phất, gấu váy rủ kín hài thế này, Nguyên Thục không được thoải mái. Dù trăm bề bất tiện nhưng vì là sinh thần của thánh mẫu, nó phải ăn mặc trang trọng một chút để giữ thể diện cho mình. Nhất là Nguyên Thục cũng cảm thấy hơi xinh xinh khi mặc áo mới. Nó nôn nao gặp Trịnh Khải, để cho anh thấy diện mạo mới của mình. Ai lại chẳng muốn đẹp hơn trong mắt người mình yêu.

- Tiệp dư! Hôm nay người thật đẹp! Chúa công mà nhìn thấy chắc sẽ ngạc nhiên lắm.

Sau khi trang điểm hoàn tất cho Nguyên Thục, A Vân lùi ra xa trầm trồ. Lời khen của A Vân làm đôi má đã hồng của Nguyên Thục nay lại hồng hơn. Nhìn hình bóng mình qua chiếc gương trên tay A Đào, Nguyên Thục cảm thấy là lạ khi trong gương là một cô gái yểu điệu, sang trọng, nhưng lại pha chút bẽn lẽn. Sự thay đổi ấy khiến Nguyên Thục vừa vui vừa lo lắng. Nó vui vì cảm thấy ít ra mình cũng dễ thương chứ không đến nỗi, và lo lắng vì sợ đó chỉ là những suy nghĩ cá nhân của nó mà thôi.

- A Vân! Chị nói thật chứ? Anh ấy sẽ ngạc nhiên chứ?

- Tiệp dư, em có bao giờ gạt người chưa? Hôm nay Tiệp dư rất xinh đẹp, em mà là chúa công chắc chắn sẽ rất hài lòng.

Nghe A Vân khẳng định, Nguyên Thục vô cùng sung sướng. Nếu Trịnh Khải mà nhìn thấy nó, thì anh sẽ nghĩ như thế nào? Anh có bất ngờ không, có hài lòng như lời A Vân nói không? Nguyên Thục càng nghĩ càng nôn nao. Bụng đang vui nhưng lại e ngại A Vân khen thế chỉ để nó vui lòng, Nguyên Thục lại quay sang hỏi A Đào.

- A Đào, chị A Vân nói có đúng không? Em dễ thương thật chứ?

- Phải! Nàng rất dễ thương.

A Đào chưa kịp trả lời, sau lưng nó, một giọng nói ấm áp chợt cất lên. Mùi trầm hương dịu dàng phảng phất trong phòng, khiến Nguyên Thục giật mình quay lại. Trịnh Khải đang đứng sau lưng nó. Vừa nhìn thấy anh, đôi mắt Nguyên Thục vụt trở nên long lanh. Hôm nay anh mặc chiếc áo bào thanh cát màu hỏa minh, đầu đội mũ bình đính. Trông anh vừa oai nghiêm như một vị thần, vừa nho nhã như một bậc văn sinh. Nhất là đôi mắt sâu thăm thẳm nhìn nó trìu mến, khiến đôi má Nguyên Thục đỏ ửng, còn trái tim thì đập rộn ràng.

- Em... em chuẩn bị xong rồi...

Nguyên Thục bỗng sinh tật lắp bắp. Nhớ đến câu nói của Trịnh Khải ban nãy, bảo rằng nó dễ thương, Nguyên Thục vừa thẹn vừa sung sướng. Nhìn Nguyên Thục thẹn thùng vân vê vạt áo, đôi mắt Trịnh Khải trở nên sâu thẳm. Anh nhẹ vén những sợi tóc mai cài qua vành tai nhỏ nhắn của nó. Những ngón tay mảnh khảnh mơn man trên đôi má nó. Cử chỉ dịu dàng, trìu mến ấy khiến Nguyên Thục vô cùng hạnh phúc. Bất chấp A Vân và A Đào đang đứng đó, nó ngả đầu vào lòng Trịnh Khải. Nhắm mắt lại ngửi mùi trầm hương dịu dàng vây lấy, cảm nhận bàn tay anh vuốt nhẹ mái tóc đen, trong tim Nguyên Thục trỗi lên cảm giác ngọt ngào và êm đềm. Bất luận ở quá khứ, hay hiện tại hoặc tương lai, người mà nó yêu nhất, tin tưởng nhất, cảm thấy bình yên nhất chỉ có Trịnh Khải. Chỉ một mình anh mà thôi.

- Chúng ta đi thôi.

- Vâng!

Nguyên Thục cười bẽn lẽn khi Trịnh Khải vuốt nhẹ đôi má đang ửng hồng của nó. Anh nắm lấy tay Nguyên Thục, xiết nhẹ, rồi dẫn nó ra khỏi phòng, theo sau là A Đào và A Vân với hộp quà tặng dành cho thánh mẫu.

Hiên Lạc Thiên, nơi bá quan văn võ vào chầu ăn yến đang tưng bừng, náo nhiệt chưa từng có. Mọi người lũ lượt ra vào. Các quan đại thần trịnh trọng trong chiếc áo the xanh, ngực thêu hoa văn chữ phúc, đầu vấn khăn lụa mềm. Các bậc phu nhân, quý tiểu thư yểu điệu trong xiêm áo lộng lẫy, không kém các nàng phi trong hậu cung. Không hiểu các cô ăn mặc đẹp vì tiệc sinh thần của thánh mẫu, hay đua nhau khoe xem ai đẹp hơn, quyến rũ hơn, mà chỉ thấy ánh mắt họ đổ dồn về phía Trịnh Khải cùng với nụ cười e ấp. Nhìn Trịnh Khải bằng đôi mắt dịu dàng là thế, nhưng đến khi chuyển mắt sang Nguyên Thục thì ánh mắt ấy hiện rõ sự khó chịu. Ai ai đều cảm thấy ngạc nhiên vì người đứng ra tranh cử ngôi vị Vương phi với Ngọc Xuân, đang lưu truyền trong câu chuyện của các chị em, chỉ là một cô gái bình thường. Từ ngạc nhiên chuyển sang ganh tị, sự lộ liễu ấy khiến Nguyên Thục cảm thấy bất an.

Chưa kể đến những nàng phi trong hậu cung đang khăn áo lụa là tiến ra chúc mừng thánh mẫu, mà ngay đến cả những quý phu nhân cùng thiên kim tiểu thư của các quan đại thần đây, Nguyên Thục cũng cảm thấy thua sút phần nào. Nghĩ đến chuyện vua chúa đa thê, nghĩ đến chuyện nhan sắc của nó không được xinh đẹp so với mọi người, Nguyên Thục bất giác níu lấy áo Trịnh Khải. Đáp lại sự lo lắng của nó là cái xiết tay thật chặt. Mừng rỡ ngước mắt lên, Nguyên Thục nhìn sâu vào đôi mắt của Trịnh Khải. Đôi mắt sâu thẳm, rất đỗi dịu dàng ấy khiến Nguyên Thục ấm lòng. Nó gạt bỏ những cảm giác lấn cấn, mắt nhìn thẳng về phía trước. Trên môi Nguyên Thục luôn giữ nụ cười tươi tắn khi các bá quan văn võ cùng gia quyến đến khấu chào.

- Thánh mẫu giá đáo!!

Giữa bầu không khí vui vẻ, náo nhiệt, chợt có tiếng nói dõng dạc của Lệ công công cất lên. Đang thay nhau chúc mừng Đoan Nam vương, mọi người vội tách sang hai bên, tay áo rũ, đầu hơi cuối xuống để nghênh đón thánh mẫu. Giọng nói của Lệ công công vừa dứt, thánh mẫu và các cung nữ uy nghi tiến vào. Hôm nay bà mặc một chiếc áo màu tím sẫm thêu con phượng hoàng đang xòe đôi cánh bằng chỉ ngũ sắc quyền quý. Ống tay áo rộng phảng phất hương thơm. Đầu bà đội mũ dát vàng, hai bên là những viên ngọc rủ dài xuống tận ngực. Trông bà sang trọng tột bực, tỏ rõ là chủ nhân của tòa Lượng phủ, chỉ sau Đoan Nam vương.

Tiến vào cùng thánh mẫu là Dương thái phi và Ngọc Xuân. Cánh tay phải của bà là Dương thái phi nâng, cánh tay trái là Ngọc Xuân đỡ. Hôm nay Ngọc Xuân trông vô cùng lộng lẫy. Cô vận một chiếc áo dài màu đỏ kiêu sa, thắt lưng là những chuỗi ngọc, đầu đội mũ vàng óng ánh trông vô cùng diễm lệ, thu hút biết bao ánh nhìn. Yểu điệu dìu thánh mẫu ngồi lên chiếc đôn bằng vàng, Ngọc Xuân nhìn về phía Trịnh Khải. Ánh mắt vừa e ấp, vừa nhu tình ấy khiến trái tim Nguyên Thục giật thót. Nó đánh mắt sang Trịnh Khải thì thấy anh mỉm cười đáp lễ nụ cười tươi thắm của Ngọc Xuân. Nếu như người đứng bên cạnh anh không phải là nó mà là Ngọc Xuân, thì hai người họ chẳng khác nào trời sinh một đôi. Ý nghĩ ấy khiến Nguyên Thục bồn chồn, lo lắng, lại khó chịu, nhưng lại không biết làm sao hơn.

Thánh mẫu vừa an tọa, bà liền vẫy tay cho Dương thái phi ngồi xuống bên cạnh, còn Ngọc Xuân thì đứng cùng Trịnh Khải với cương vị là Vương phi như Nguyên Thục. Điều đó làm Nguyên Thục không được thoải mái. Đứng cạnh Trịnh Khải, trông Ngọc Xuân vô cùng rạng rỡ. Mọi người đều dồn mắt về hai người, ai nấy tấm tắc khen Ngọc Xuân xinh đẹp, đài các, chắc chắn sẽ là một Vương phi xuất sắc. Nghe những lời khen ngợi ấy, Nguyên Thục im lặng. Nó vẫn nhìn thẳng về phía trước, môi vẫn giữ nguyên nụ cười, không để lộ chút ghen tị, nhưng có ai biết trong lòng Nguyên Thục như nổi sóng. Nó rất ghét bị so sánh, nhưng oái ăm thay chính bản thân nó lại đang so sánh và cảm thấy mất tự tin trước Ngọc Xuân. Nguyên Thục bấu nhẹ vào cánh tay, thầm tự mắng mình. Nó đang nhắc bản thân phải bình tĩnh lại, không được ghen tị hay yếu đuối. Nhớ đến lời tuyên bố rằng nó không có cái Ngọc Xuân có, thì Ngọc Xuân cũng không có cái nó có. Ngọc Xuân có sắc đẹp, có sự ủng hộ của thánh mẫu, thì đổi lại nó có Trịnh Khải, có được tình yêu của anh. Chỉ một mình anh thôi cũng đủ lắm rồi. Ý nghĩ đó khiến tự tin của Nguyên Thục được khôi phục. Nó hít một hơi thật sâu, thật lâu, rồi quay sang Ngọc Xuân, điềm đạm mỉm cười.

- Sùng Nhượng công giá đáo.

Đang tươi cười với mọi người, gương mặt Nguyên Thục rạng rỡ khi Lệ công công cất tiếng thông báo. Duy Cận đã đến, không biết Nguyên Thiên có được đi cùng không. Ngóng ra cửa, Nguyên Thục vui mừng khi thấy Nguyên Thiên đang lấp ló phía sau Duy Cận với địa vị là một cận vệ. Vẫn bộ võ phục màu hồng ngày thường, lưng đeo trường kiếm, nhưng gương mặt bầu bĩnh đã phơn phớt chút son hồng, trông em gái nó đáng yêu lạ thường.

Vừa nhìn thấy Nguyên Thục đứng phía trước, Nguyên Thiên quên bẵng những gì Duy Cận căn dặn. Nó vội chạy về phía Nguyên Thục, nắm lấy tay chị mình lưu luyến không rời. Phủ Đoan Nam vương và Hoàng cung không cách xa nhau là mấy, nhưng vì quy định trong cung nghiêm ngặt, mỗi lần ra vào phải xuất trình thẻ bài, nên Nguyên Thiên không có cơ hội gặp Nguyên Thục nhiều. Nó nhớ nhà, nhớ chị. Gặp được chị chẳng khác nào được trở về vòng tay gia đình. Nguyên Thiên cứ nắm lấy tay Nguyên Thục, nhõng nhẽo mãi không thôi, mặc cho mọi ánh nhìn đổ dồn về phía hai chị em vì bỗng nhiên xuất hiện một cô gái giống hệt Hồ tiệp dư.

Đứng giữa hiên Lạc Thiên, Trịnh Khải lướt mắt ra cửa. Tất cả bá quan văn võ đã có mặt đông đủ, Sùng Nhượng công cũng đến vừa kịp lúc, chỉ còn Duy Khiêm mãi vẫn chưa thấy tới. Nghĩ đến Duy Khiêm, đôi mắt Trịnh Khải trở nên sâu hun hút như vực không đáy. Câu chuyện về ông già mù của đứa bé ấy anh vẫn không quên. Anh là người đã trao ngai vàng vào tay nó. Cái ngai vàng ấy sẽ được giữ vững hay mục nát trong tay đứa bé ấy, thì kết quả đó cũng gián tiếp từ anh mà ra. Ngày tháng của thánh mẫu vốn không còn nhiều, anh biết chắc chắn thánh mẫu sẽ không hài lòng nếu tiệc sinh thần của bà lại tổ chức giản đơn. Bữa tiệc linh đình này chỉ tổ chức một lần duy nhất để bà được mãn nguyện khi nhắm mắt. Dạo gần đây, thánh mẫu thường hay sốt về chiều, bà ho nhiều. Trong đàm lại có máu. Sức khỏe của bà giờ như ngọn nến leo lét trước sân, chỉ một ngọn gió thổi qua là phụt tắt. Đêm nay là đêm sinh thần của bà, cứ để cho bà được đắm chìm trong giấc mộng vàng son, một đêm huy hoàng, lộng lẫy, để rồi một khi đến lúc nhắm mắt cũng không còn gì luyến tiếc cõi trần phù hoa.

Trịnh Khải thở nhẹ, anh bắt đầu bữa tiệc khi thánh mẫu không còn kiên nhẫn vì phải đợi Duy Khiêm. Bà và Duy Khiêm không hòa hợp nhau. Nên Duy Khiêm có đến hay không cũng chẳng liên quan gì tới bà. Yến tiệc bắt đầu, không khí rộn rịp hẳn. Thánh mẫu ngự trên cao nhận lời chúc tụng của bá quan văn võ. Các nàng cung nữ hầu cận thay phiên nhau đón lấy những món quà do mọi người dâng lên. Ngồi bên cạnh thánh mẫu, Trịnh Khải quan sát bá quan văn võ lên chúc mừng bà. Trong số họ, hết quá nửa quen nếp sống sung túc, an nhàn, còn lại là những người vốn quen bình lặng, chỉ biết lắc đầu thở than trước vận nước nhà. Trong hoàn cảnh lính tam phủ càn loạn, đối với những con người này, chưa đánh đã tan. Anh biết, họ biết, cũng chính vì quá biết điều đó nên dường như đôi mày của anh ngày càng hằn sâu mỗi khi nghĩ đến con thuyền trước bão tố phong ba.

Lên ngôi chúa khi cơ nghiệp đã rỗng mục, tiếp nhận lại cơ đồ đã tan rã từ cha ông, Trịnh Khải biết rằng bề ngoài của tòa Lượng phủ tuy vẫn còn sang trọng, nhưng bên trong đã lung lay, và sẽ sụp đổ nếu anh buông tay. Chỉ vì một giấc mộng vu vơ mà Trịnh Sâm - cha anh đã phán rằng cơ nghiệp không bền. Vì muốn thoát khỏi lời nguyền ấy, anh đã ngày đêm cố gắng giải quyết chính sự, trấn áp loạn kiêu binh để khôi phục lại Thăng Long bình yên như trước đây. Tuy bây giờ chưa xảy ra biến loạn, nhưng trước thời thế này, chỉ cần một mồi lửa là tro tàn âm ỉ bấy lâu sẽ bùng cháy. Nếu biến loạn xảy ra, anh chắc chắn sẽ thân chinh ra trận. Anh sẽ không bỏ rơi cơ nghiệp này. Anh sẽ sống chết theo nó. Đó là ý nghĩ của Trịnh Khải lúc trước, đó là ý nghĩ khi anh lên ngôi trị vì giang sơn. Đó là ngày ấy, nhưng còn bây giờ...

Trịnh Khải hướng mắt về phía Nguyên Thục.Dường như nó cũng đang nhìn anh, nên khi bắt gặp ánh mắt của anh, Nguyên Thục nhoẻn cười, đôi mắt long lanh. Ngày ấy anh chỉ có một mình. Đối với anh, cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng bây giờ thì đã khác, Nguyên Thục đã bước vào cuộc đời anh. Người con gái ấy khiến anh biết được cảm giác yêu và được yêu là gì. Nếu như anh mất đi, thì Nguyên Thục sẽ như thế nào? Nếu có một ngày Đoan Nam vương sẽ chết theo cơ nghiệp, thì Nguyên Thục sẽ như thế nào...

- Hoàng tự tôn giá đáo!!

Trịnh Khải lướt mắt về phía cửa. Bờ môi thanh tú nửa cười, nửa lại không. Thánh mẫu ngự trên đôn vàng im lặng, đôi lông mày xoắn lại, chẳng rõ ngạc nhiên hay khó chịu. Duy Khiêm bước vào hiên Lạc Thiên trước đôi mắt trông chờ của mọi người. Đến dự tiệc sinh thần thánh mẫu, Duy Khiêm vận áo cũng khác thường ngày. Với chiếc áo màu thiên thanh, bên ngoài khoác áo bào cùng màu nhưng sậm hơn, viền những đường mây bằng chỉ trắng lấp lánh, trông Duy Khiêm vừa chững chạc, lại vừa uy nghiêm. Đầu đội mũ kim khôi, gương mặt trẻ con mỉm cười, trên tay là một chiếc hộp gấm dần tiến về thánh mẫu với dáng bộ ung dung.

Nhìn thấy Duy Khiêm, Nguyên Thiên, đang đứng phía sau Duy Cận, chợt nghe tim đập rộn ràng. Dáng vẻ của anh vừa đạo mạo, vừa trang nghiêm khiến nó cảm thấy thật lạ. Duy Khiêm đến dự tiệc một mình, không cung nữ, không cận vệ, điều đó khiến Nguyên Thiên cảm thấy nao nao. Mọi giận hờn ban chiều dường như tan biến. Sóng mũi nó cay cay. Nó muốn được ở bên anh. Muốn là người sóng đôi với anh đến dự tiệc. Muốn là người cùng anh chia sẻ bao buồn vui. Nó muốn, nó muốn rất nhiều, nhưng anh đã từ chối tấm lòng của nó, thì nó có thể làm gì ngoài cách đứng từ xa mà nhìn đây...

Không biết đến tâm trạng xáo trộn của Nguyên Thiên, Duy Khiêm bước vào hiên Lạc Thiên. Anh tiến đến trước thánh mẫu, tay nâng hộp gấm ngang tầm mắt, cất giọng nhẹ nhàng.

- Hôm nay là sinh thần của thánh mẫu, tôi đến trễ một bước, mong người thứ lỗi. Món quà này phải mất một buổi chiều tôi mới chọn được. Mong rằng thánh mẫu cũng sẽ yêu thích nó...

Nói đến đây, Duy Khiêm ngưng lại. Đôi mắt nâu mật nhìn thằng vào gương mặt vàng vọt ánh nến của thánh mẫu, môi điểm nụ cười.

- ...Như tôi!!

Hai chữ cuối, Duy Khiêm nói rất nhẹ nhàng, nhưng lại khiến đôi lông mày của thánh mẫu lại dựng ngược lên. Hừ nhẹ một tiếng, thánh mẫu khoát tay cho một cung nữ tiến lên nhận lấy. Bà nhếch môi.

- Hoàng tự tôn, ta cám ơn người. Nay mai đã là thái tử thì những lễ nghi này ta thiết nghĩ không cần phải dùng đến nữa.

- Thánh mẫu nói phải! Chừng nào sắc phong thái tử thì những lễ nghi ấy sẽ không dùng đến. Nhưng hôm nay tôi vẫn là Hoàng tự tôn, những chuyện phép tắc vẫn còn cần thiết. Thánh mẫu! Tôi chúc người sống lâu trăm tuổi, phúc thọ vinh hiển tràn đầy không bao giờ dứt.

Nghe những lời chúc của Duy Khiêm, gương mặt phấn sáp của thánh mẫu không biểu lộ cảm xúc. Sự việc sông Nhĩ Hà bà vẫn chưa quên, và chắc chắn Duy Khiêm cũng không quên. Đối với những ân oán khắc sâu trong lòng như thế, mà đứa bé ấy vẫn có thể thản nhiên nói cười như chưa từng có chuyện gì xảy ra, điều đó khiến thánh mẫu càng cảm thấy đứa bé này mưu sâu khó lường. Toan đáp lại lời chúc phúc của Duy Khiêm bằng một câu nói sâu xa, nhưng thánh mẫu lại thấy Trịnh Khải nhíu mày. Cái nhíu mày đó khiến bà dằn lòng, thôi không nói nữa. Phút kích động qua đi, bà lại trở về vai trò thánh mẫu oai nghiêm thường ngày.

Sau khi đã chúc thọ thánh mẫu, Duy Khiêm trở về chỗ ngồi. Chỗ ngồi của anh là bên cạnh Trịnh Khải. Gật đầu chào khi Trịnh Khải mỉm cười, Duy Khiêm ngồi xuống. Anh rảo mắt một vòng hiên Lạc Thiên, chẳng biết vô tình hay hữu ý mà ánh mắt anh dừng lại chỗ Nguyên Thiên.

Lặng lẽ quan sát Duy Khiêm từ khi anh vừa mới bước vào, vì ở xa, nên Nguyên Thiên không thể biết Duy Khiêm và thánh mẫu nói với nhau những gì, nhưng căn cứ vào nét mặt mất hẳn vẻ tươi vui của thánh mẫu, có lẽ Duy Khiêm đã nói gì động đến bà. Dõi theo bước chân của Duy Khiêm, Nguyên Thiên bất ngờ khi chạm phải ánh mắt của anh. Ánh mắt vừa ôn nhu, vừa giễu cợt ấy khiến Nguyên Thiên bối rối. Nó muốn nhìn sang chỗ khác nhưng đôi mắt vẫn không rời ra. Cách đó mấy ngày, Duy Cận có cho nó mấy bộ quần áo mới. Duy Cận đã nói rằng nó hợp với màu lục hơn là màu hồng, nhưng Nguyên Thiên vẫn cứ muốn mặc những bộ độ mà Duy Khiêm đã chọn cho nó. Hôm nay đi dự tiệc, Duy Cận đã chuẩn bị sẵn cho nó một bộ áo màu thủy lục rất đẹp. Nguyên Thiên biết nếu không mặc bộ áo mới ấy, Duy Cận chắc chắn sẽ không vui, nhưng nó đành làm anh mất vui, bởi vì nó muốn đứng trước mặt Duy Khiêm với bộ áo màu hồng như cũ, ngụ ý rằng nó vẫn như trước đây, không bao giờ đổi thay.

Không biết Duy Khiêm có hiểu được những điều Nguyên Thiên muốn nói hay không, mà ánh mắt của anh dừng lại ở Nguyên Thiên, rất lâu. Điều đó khiến Nguyên Thiên vừa vui vừa xôn xao. Anh yên lặng nhìn nó. Nó lặng lẽ nhìn anh. Cứ như thế cho đến khi Duy Khiêm rời mắt sang nơi khác, khiến nó hụt hẫng. Một người là Đoan Nam vương dịu dàng mà uy nghiêm, một người là Hoàng tự tôn có gương mặt đáng yêu. Hai hình ảnh ấy thu hút biết bao ánh nhìn e lệ của các cô gái, khiến Nguyên Thiên không được vui khi nghe loáng thoáng ai đó mơ ước được làm vợ của một trong hai người.

Trong khi Nguyên Thiên đang mãi đuổi theo suy nghĩ của mình, thì Nguyên Thục vô cùng hồi hộp khi đến lượt nó tặng quà cho thánh mẫu. Từ nãy tới giờ, nhìn từng người một dâng quà, Nguyên Thục nhẹ liếm môi khi thấy quà ai cũng to, cũng đẹp. Thông thường lúc dâng lễ vật, bậc quan nào lớn nhất thì dâng trước, xong mới đến những cấp quan còn lại. Nay nó và Ngọc Xuân đều là Vương phi, nên cả hai đều tiến lên dâng quà cho thánh mẫu một lượt. Mặt không lộ chút cảm xúc khi nhận quà của Nguyên Thục, nhưng khi nhận quà của Ngọc Xuân, thánh mẫu gật đầu mấy cái, còn ban tặng cho Ngọc Xuân một khay kẹo đào. Vốn biết trước thánh mẫu không thích nó, nên chuyện bà lạnh nhạt với mình cũng là điều dễ hiểu, Nguyên Thục khụt khịt mũi vài cái. Nó liếc nhanh sang Trịnh Khải, rồi chúc thọ thánh mẫu, sau đó nó lặng lẽ quay trở về chỗ ngồi vì không muốn nán lại thêm lâu.

- Hồ vương phi!!

Đang dợm trở về chỗ ngồi, Nguyên Thục quay người lại khi nghe tiếng Dương thái phi gọi. Dương thái phi cùng một phe với thánh mẫu. Người bà ủng hộ làm Vương phi là Ngọc Xuân, nên chắc thái phi cũng không ưa gì nó. Nay bỗng nhiên bà gọi giật nó lại, chắc có lẽ muốn ngọt nhạt vài câu với nó cũng nên. Đó là Nguyên Thục nghĩ thế. Nhưng không, trước ánh mắt ngạc nhiên của nó, Dương thái phi vốc một nắm kẹo sen đổ vào tay nó. Hành động đó khiến Nguyên Thục bất ngờ.

- Ta không muốn người khác nhìn vào sẽ cho thánh mẫu thiên vị. Hai người quay trở về chỗ ngồi đi.

Nguyên Thục nhìn sâu vào mắt Dương thái phi. Nó ngỡ ngàng khi ánh mắt ấy nhìn nó không còn gay gắt như lúc ban đầu, mà đã có phần dịu đi. Phút ngỡ ngàng qua đi, Nguyên Thục mỉm cười tạ ơn thái phi. Nó nhìn trộm Trịnh Khải thêm một lần nữa, rồi nhanh chóng trở về chỗ ngồi với tâm trạng lửng lơ.

Dương thái phi cho kẹo nó. Dù bà đã giải thích rằng đó là vì không muốn thánh mẫu mang tiếng thiên vị, nhưng trong thâm tâm Nguyên Thục, nó tin rằng Dương thái phi đã bắt đầu thay đổi cái nhìn về nó. Nếu không phải là thiện cảm, thì chí ít cũng không phải là vẻ khó chịu như lúc ban đầu. Mân mê viên kẹo sen trong tay, Nguyên Thục liếc nhìn Dương thái phi. Gương mặt xinh đẹp của bà vẫn thản nhiên như chưa có chuyện gì xảy ra, còn Trịnh Khải lại mỉm cười với nó, khiến đôi má Nguyên Thục ửng hồng, rồi rạng rỡ cười vì ít ra bữa yến tiệc này cũng không khó khăn như nó đã nghĩ trước đây.

Phần dâng quà đã hết. Yến tiệc bây giờ mới thật sự bắt đầu. Trong niềm vui của mọi người, từng khay thức ăn vun cao được mang ra. Xôi có, chè có, hoa quả có, bánh mặn, ngọt đều có, đủ loại, khiến Nguyên Thục phân vân không biết nên ăn món nào trước tiên. Mọi người nâng ly kính thánh mẫu. Đội nhạc công tấu nhạc. Rượu ngon, thức ăn ngon, lại thêm tiếng sên ca dập dìu, khiến ai nấy vô cùng cao hứng. Không khí trong hiên Lạc Thiên dần ấm lên. Tiếng cười, tiếng nhạc hòa lẫn với nhau, mọi ưu phiền đều rũ sạch, chỉ còn lại niềm vui rộn rã, trông thật chẳng khác nào chốn đào tiên.

Chợt, tiếng nhạc dần dịu lại rồi tắt hẳn. Mọi người chưa kịp hiểu tại sao, thì từ ngoài hiên, một đoàn vũ công đi vào. Ai nấy đều che kín mặt, xiêm y lả lướt, trên tay mỗi nàng vũ công là hai bông sen trắng muốt. Họ nhẹ nhàng tiến vào giữa hiên Lạc Thiên và khấu đầu trước thánh mẫu. Trong số những vũ công ấy, nổi bật nhất là cô gái mặc áo đỏ. Chiếc mạng mỏng tang che nửa khuôn mặt hoa, chỉ chừa lại đôi mắt thu ba lấp lánh. Cô gái đội một vòng hoa trên đầu, cổ chân của cô đeo một chiếc lục lạc nhỏ, mỗi bước đi lại kêu leng keng nghe thật vui tai.

Nhìn đoàn vũ công tiến vào, Nguyên Thục hiểu rằng bao giờ có yến tiệc cũng phải có ca múa nhạc. Đúng như nó nghĩ, các cô gái trong đoàn vũ công lần lượt xếp thành vòng tròn, bọc lấy cô gái áo đỏ vào giữa. Họ quỳ xuống dưới đất, tay trái đặt lên ngực, đầu cuối xuống, đến khi nghe một tiếng phách ngân dài, tất cả đồng loạt tung người lên. Những dải lụa quấn quanh cánh tay các nàng vũ công bay lật phật, mang theo hương thơm thoang thoảng làm ai nấy đều ngẩn ngơ.

Trong đời Nguyên Thục, nó đã xem rất nhiều chương trình ca múa trên tivi, nhưng nhìn tận mắt bao giờ cũng hay và thú vị hơn rất nhiều. Sống ở hiện tại, có thể nói các điệu nhảy đều rất đa dạng, và ở quá khứ thì điệu múa của họ cũng mang một bản sắc riêng. Đơn cử như điệu múa nó đang nhìn thấy, những bông hoa sen trong tay các nàng vũ công chuyển động nhịp nhàng như con sóng. Nàng vũ công mặc áo đỏ với tấm thân kiều mị, mềm dẻo uốn lượn theo từng nhịp sóng đưa. Điệu múa huyền ảo ấy khiến Nguyên Thục thầm thán phục cô gái áo đỏ. Mỗi cử động của cô gái đều rất mềm mại, mỗi bước chân của cô gái đều rất nhịp nhàng, hòa hợp với những dải lụa bay phấp phới, trông chẳng khác nào tiên nữ trong tranh.

Ngồi bên cạnh thánh mẫu, Trịnh Khải nhìn đoàn vũ công múa mừng bà. Cô gái áo đỏ như bông hoa sen đang xòe cánh trong đoàn vũ công. Cô gái càng múa, dải lụa càng bay lật phật. Mùi hương từ người cô gái ấy tỏa ra, lãng đãng trong không khí, và nhẹ bay tới chỗ anh ngồi. Một ký ức thoáng qua trong tâm trí, Trịnh Khải lướt lên khuôn mặt đẹp của cô gái. Khuôn mặt hoa đã bị tấm mạng che khuất, nhưng đôi mắt thu ba không biết vô tình hay hữu ý lại nhìn anh. Đôi mắt ấy nửa long lanh, nửa như có những tia lửa nhỏ bừng cháy, khiến đôi mày thanh tú của anh nhẹ chau lại. Khi cô gái uốn người về phía sau, từ trong chiếc áo đỏ, một sợi dây kết bằng chỉ xanh nhẹ bung ra, đong đưa trước ngực cô gái, lắc lư theo từng bước chân của cô.

Nhìn thấy sợi dây kết bằng chỉ xanh đó, Trịnh Khải yên lặng. Đôi mắt ấm áp của anh chợt biến mất, chỉ còn lại vực sâu hun hút, giá lạnh. Trong thoáng chốc, gương mặt thanh tú của anh tối lại. Những mảng ký ức phai màu ngày xưa chợt trở về, sống động, u buồn, khiến anh nhớ đến một cái tên tưởng đã chìm sâu vào quên lãng.

Hoàng Thanh Loan...

89.

Trong ánh nến lung linh tỏa ra từ hiên Lạc Thiên, đôi mắt cô gái áo đỏ long lanh như mặt nước hồ thu. Phối hợp với tiếng nhạc réo rắt, cô gái nhẹ nhàng tung người lên cao. Xiêm áo chập chờn như những cánh bướm, giải lụa đỏ bay lất phất, càng khiến cho cô gái thêm vẻ yêu kiều quyến rũ. Nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, cô gái giơ cao cánh tay ngọc rồi xoay thành những vòng tròn đẹp mắt. Vũ điệu ấy khiến ai nấy không dám chớp mắt, vì sợ sẽ bỏ sót bất kỳ một cử động mềm mại, tuyệt đẹp nào.

Ngồi thưởng thức điệu múa sinh động của cô gái áo đỏ, Nguyên Thục xem không chớp mắt. Nếu cô gái này mà sống ở hiện đại, chắc chắn sẽ là một nghệ sĩ múa balê nổi tiếng hoặc một vũ công đại tài. Đang thích thú vì suy nghĩ đó, Nguyên Thục chợt thấy cô gái áo đỏ liếc mắt về phía nó. Tấm mạng che mặt rung rinh, ánh mắt đằm thắm, tựa như cô gái đang cười.

Biểu hiện ấy khiến Nguyên Thục lúng túng, nó mỉm cười theo thói quen khi có ai đó nhìn mình. Đáp lại nụ cười của nó, cô gái chợt uốn người xoay theo hình chữ Z và dần tiến lại gần chỗ Nguyên Thục đang ngồi. Hơi bất ngờ vì hành động của cô gái, Nguyên Thục đưa mắt nhìn quanh. Mọi người trong bữa tiệc đều dồn mắt về phía nó và cô gái áo đỏ, khiến nó ngượng ngùng vì bỗng nhiên trở thành trung tâm chú ý của mọi người.

Không để ý đến sự lúng túng của nó, cô gái áo đỏ vẫn xoay từng vòng tới chỗ Nguyên Thục. Khi khoảng cách giữa cả hai thật gần, bất chợt, bàn tay cầm hoa sen của cô gái vung lên. Từ trong đóa hoa bật ra một thanh trủy thủ nhỏ lấp lánh. Do khoảng cách cả hai quá gần, cộng thêm hành động của cô gái quá đột ngột, Nguyên Thục không thể nào tránh kịp. Chỉ nghe xoẹt một tiếng nhỏ, Nguyên Thục cảm thấy má trái đau rát. Một dòng máu đỏ tươi trào ra, nhỏ tí tách xuống bàn tay Nguyên Thục trong những tiếng kêu la thất thanh của mọi người.

Trong tích tắc đó, tấm mạng che mặt của cô gái bay lất phất. Nguyên Thục trông thấy bờ môi đỏ tươi của cô gái nhếch lên, tạo thành một nụ cười lạ lùng. Nguyên Thục kinh hoảng. Nó không quen biết cô gái này, cũng như không ra ngoài gây thù chuốc oán với ai, ấy vậy mà cô gái áo đỏ lại đột ngột tấn công nó. Vẻ yểu điệu mềm mại của cô gái biến mất, chỉ còn sát khí từ người cô ta tỏa ra ngùn ngụt làm nó kinh hãi. Vốn không biết võ như Nguyên Thiên, lại thêm biến cố bất ngờ, Nguyên Thục không thể nào trở tay kịp. Bị cô gái rạch một nhát đường lên mặt, Nguyên Thục đau đến chảy nước mắt. Nếu như nó chạy về phía Trịnh Khải, chắc chắn cô gái áo đỏ sẽ đuổi theo, sẽ liên lụy đến anh, nó phải chạy ra cửa để kêu gọi binh lính đến ứng cứu. Nghĩ nhanh trong đầu, Nguyên Thục hất tung bàn tiệc vào cô gái khi cô ta vung thanh trủy thủ về phía nó. Ngay vừa lúc Nguyên Thục đứng lên, thanh trủy thủ trong tay cô gái áo đỏ xoay lại, nhằm thẳng vào vai Nguyên Thục mà đâm xuống.

Chứng kiến biến cố đang xảy ra, mọi người có mặt trong hiên Lạc Thiên đều kinh hoàng thất sắc. Đứng bên cạnh Duy Cận, Nguyên Thiên hoảng hốt khi Nguyên Thục bỗng dưng bị cô gái áo đỏ ra tay hành thích. Không đợi Duy Cận kịp nói, Nguyên Thiên rút thanh trường kiếm đeo bên hông ra, rồi nhảy vọt về phía cô gái áo đỏ. Đang nhắm bả vai Nguyên Thục đâm thẳng, cô gái áo đỏ quay người lại khi nghe thấy tiếng gió rít sau lưng. Chỉ nghe choang một tiếng, thanh kiếm của Nguyên Thiên chạm vào thanh trủy thủ của cô gái. Nội lực của cô gái áo đỏ rất mạnh, khiến Nguyên Thiên cảm thấy cổ tay tê chồn, nhưng vì an nguy của Nguyên Thục, nó cắn răng nắm chặt đốc kiếm, không chịu buông tay.

Nhờ có Nguyên Thiên ứng cứu kịp thời, Nguyên Thục thoát khỏi cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Nó vội vã chạy ra cửa, cất tiếng gọi lính cấm vệ đến truy bắt thích khách. Bị Nguyên Thiên cản trở, đôi mày liễu của cô gái áo đỏ nhướng lên, thanh trủy thủ trong tay cô ta biến đổi, liên tục điểm vào những yếu huyệt trên người Nguyên Thiên. Ở trong phủ Duy Cận, Nguyên Thiên được anh rèn luyện võ nghệ hằng ngày. Với sự yêu thích võ thuật và nền tảng căn bản vững chắc, Nguyên Thiên đã kết hợp với cổ kim, sáng tạo ra được những chiêu kiếm kỳ lạ không giống ai. Chính vì sự sáng tạo ấy, cô gái áo đỏ nhất thời chưa giành được thế chủ động. Nguyên Thiên lùi thì cô ta tiến, Nguyên Thiên tiến thì cô gái áo đỏ lùi. Cứ như thế, cô gái liên tục tránh né những chiêu kiếm của nó. Cô ta vừa thủ, vừa đảo mắt tìm sơ hở của Nguyên Thiên để chờ thời cơ tấn công.

Trong phút chốc, quang cảnh trong hiên Lạc Thiên vô cùng hỗn loạn. Cấm vệ quân lũ lượt kéo đến cứu giá. Thấy binh lính kéo vào hiên Lạc Thiên ngày một đông, đoàn vũ công đưa mắt nhìn nhau. Không ai bảo ai, tất cả đồng loạt giơ cao bông hoa sen lên, từ trong chiếc hoa bật ra một thanh trủy thủ sắc bén hệt như của cô gái áo đỏ. Để bảo vệ cô gái, đoàn vũ công đứng dàn thành chữ nhất. Quân cấm vệ tràn vào hiên Lạc Thiên đều bị họ đánh bật ra. Thức ăn đổ tung tóe, bàn ghế ngổn ngang. Tiếng la hét huyên náo, hiên Lạc Thiên biến thành bãi chiến trường với thây người nằm ngổn ngang trong những vũng máu đỏ tươi.

Chứng kiến tai họa bỗng chốc xảy ra ngay trong tiệc sinh thần của mình, gương mặt Thánh mẫu tái nhợt, không còn sức sống. Đỡ lấy thân hình lảo đảo của Thánh mẫu, hoa dung của Dương thái phi cũng kinh hoàng, thất sắc. Bà và Ngọc Xuân dìu Thánh mẫu đứng nép phía sau Trịnh Khải. Dù được lính cấm vệ quây thành vòng tròn để bảo vệ, nhưng cả ba vẫn lộ vẻ hoang mang, sợ hãi khi bỗng chốc tiệc vui biến thành chiến trường.

- Duy Khiêm! Cậu ở đây với Thánh mẫu, tôi sẽ xuống đó.

Nhìn vết thương đang chảy máu trên má Nguyên Thục do cô gái áo đỏ gây ra, Trịnh Khải nóng lòng. Anh dặn nhanh Duy Khiêm, rồi tiến vào khung cảnh hỗn loạn bên dưới, mặc cho Dương thái phi và Ngọc Xuân hết lời can ngăn.

Có lính cấm vệ tiếp ứng, lòng Nguyên Thiên bớt lo lắng. Nó ngước mắt nhìn lên, thì thấy Duy Khiêm đã an toàn trong vòng bảo vệ của binh lính. Chính vì sự phân tâm đó, cô gái áo đỏ đã thừa cơ hội vung trủy thủ đâm thẳng vào vai phải của nó. Mắt thấy Nguyên Thiên gặp nguy hiểm, Nguyên Thục bật tiếng la hoảng. Quên mất vết thương đang chảy máu ròng ròng trên má, Nguyên Thục chụp lấy bình rượu trên bàn, ném thẳng vào người cô gái áo đỏ. Chỉ nghe xoảng một tiếng, cô gái áo đỏ kịp thời nghiêng người qua một bên. Chiếc bình vỡ tan tành dưới thềm nhà. Nguyên Thiên đã thoát nạn nhưng đến phiên Nguyên Thục lại gặp nguy, bởi cô gái chuyển hướng tấn công về mục tiêu ban đầu là nó.

Bị cô gái áo đỏ đột ngột tấn công, Nguyên Thục vô cùng lúng túng. Đối với một người không biết võ như Nguyên Thục, cô gái áo đỏ chỉ cần một chiêu đã lấy mạng nó ngay tức thì. Giữa cảnh hỗn loạn, la hét, cô gái áo đỏ vung thanh trủy thủ lên đâm thẳng vào ngực của Nguyên Thục. Cảnh tượng đó khiến ai nấy có mặt trong hiên Lạc Thiên đều kinh hoàng. Ngay trong khoảnh khắc ấy, Nguyên Thục những tưởng nó sẽ mất mạng, thì một chiếc chén ngọc từ đâu bay đến, quất mạnh vào cổ tay của cô gái áo đỏ. Chỉ nghe choang một tiếng, thanh trủy thủ của cô gái áo đỏ rơi nhanh xuống thềm. Chiếc chén ngọc vỡ tan thành muôn mảnh, cổ tay trắng mịn của cô gái đỏ ửng lên vì bị chiếc chén đánh trúng. Thoát nạn trong gang tấc, Nguyên Thục chưa kịp hoàn hồn thì đã thấy tà áo lục phất phới trước mặt nó. Bóng dáng quen thuộc ấy khiến trái tim đập thình thịch vì sợ của Nguyên thục dần bình ổn lại. Đó chính là Trịnh Khải.

Được Nguyên Thục giúp đỡ, Nguyên Thiên đã không bị mất mạng. Thấy cô gái đột nhiên chuyển hướng tấn công, Nguyên Thiên bụng nóng như lửa đốt. Tuy đã yên dạ khi Trịnh Khải kịp thời ứng cứu, nhưng với điệu bộ hung hãn của cô gái áo đỏ kia thì liên thủ tấn công cô ả mới là thượng sách. Nguyên Thiên suy tính, nó chuyển mũi kiếm hướng vào lưng cô gái. Ngay giây phút đó, một cô gái trong đoàn vũ công đột ngột vung thanh trủy thủ quẹt ngang mạn sườn của Nguyên Thiên. Đến lúc này thì Duy Cận không thể ngồi yên. Rút phắt thanh trường kiếm của một tên lính cấm vệ đứng lo sợ bên cạnh, Duy Cận xông vào vòng vây. Anh vung kiếm ngăn cản thanh trủy thủ đang đà chém tới của cô vũ công, khiến cô ta lảo đảo, lùi về phía sau vài bước và giương mắt nhìn Duy Cận tức giận.

Trên bục cao, Duy Khiêm chăm chú quan sát khung cảnh hỗn loạn ở bên dưới. Thật là ngạc nhiên. Khi đứng trước mặt Trịnh Khải, vẻ hung hãn lúc hành thích Nguyên Thục của cô gái áo đỏ đã biến mất. Bờ vai cô ta nhẹ run, dường như đang kích động về chuyện gì đó, còn Nguyên Thục thì đứng nép phía sau lưng Trịnh Khải, vết thương trên má không ngừng tuôn máu mà cũng không hay. Giữa khung cảnh hỗn loạn, máu chảy, Trịnh Khải và cô gái áo đỏ không ai nói với nhau lời nào. Cả hai cứ thế đứng yên lặng, ánh mắt giao nhau mãi mà vẫn chưa động thủ, tưởng chừng thời gian ngừng trôi.

Duy Khiêm nhíu mày, rõ ràng cô gái áo đỏ có quan hệ sâu xa nào đó với Đoan Nam vương, vì thế, cô ta không ra tay với Trịnh Khải, và anh cũng không so kiếm với cô gái đó. Lướt mắt qua Duy Cận và Nguyên Thiên, Duy Khiêm công nhận hai người này phối hợp rất ăn ý với nhau. Hoàng thúc Duy Cận thông thạo võ nghệ, lại thêm những đường kiếm kỳ quái của Nguyên Thiên, chẳng mấy chốc hai nàng vũ công đã bắt đầu ở thế hạ phong.

Nhìn Nguyên Thiên chăm chú đối phó với nàng vũ công xa lạ, đôi mắt Duy Khiêm lướt qua một tia sáng mơ hồ. Lâu ngày không gặp, Nguyên Thiên càng ngày càng trở nên chững chạc. Dưới sự bảo ban của Hoàng thúc Duy Cận, võ nghệ của con bé ấy đã có nhiều tiến bộ, lại còn phối hợp nhịp nhàng với Hoàng thúc, chẳng khác nào song kiếm hợp bích. Căn cứ vào nét mặt của Hoàng thúc, rõ ràng người rất quan tâm đên Nguyên Thiên. Nói cho cùng Nguyên Thiên dù sao cũng chỉ là một cận vệ, có thể hy sinh vì chủ nhân. Nhưng khi thấy Nguyên Thiên gặp nguy hiểm, Duy Cận không những không trơ mắt nhìn mà còn bất chấp thân phận, xông vào trợ giúp cho Nguyên Thiên. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ nói lên sự bất thường trong mối quan hệ cận vệ và chủ nhân này.

Đứng án ngữ trước mặt cô gái áo đỏ, che chở Nguyên Thục không bị cô ta gây hại, Trịnh Khải nhìn xoáy vào đôi mắt thu ba long lanh sắc giận của cô gái. Sợi dây chuyền kết bằng chỉ xanh đung đưa phập phồng theo nhịp trái tim. Trong giây phút ấy, Trịnh Khải biết rằng anh đã đoán không sai. Người con gái đang đối diện với anh chính là Hoàng Thanh Loan, con gái của quận huy Hoàng Đình Bảo, người đã khiến quá khứ của anh bị một dấu mực đen phủ mờ. Người mà anh không bao giờ muốn nhắc đến cùng những vết thương lòng còn chưa lành năm xưa.

Thấy Trịnh Khải che chở cho Nguyên Thục, cô gái áo đỏ cười lạt. Biết mình không thể làm gì Nguyên Thục một khi có Trịnh Khải, và mục đích hôm nay của cô cũng không phải nhất thiết lấy mạng Nguyên Thục, cô gái xoay người lướt nhanh ra cửa. Lính cận vệ đến ngày càng đông, bao vây hiên Lạc Thiên. Bá quan văn võ luống cuống tìm cho mình một chỗ trốn. Đứng trước tình cảnh bất lợi, các cô gái trong đoàn vũ công vội quăng đóa hoa sen trong tay xuống sàn nhà. Chỉ nghe bùm một tiếng thật lớn, từ trong đóa hoa sen, một luồng khói trắng thoát ra, dày đặc, che khuất cả cảnh vật xung quanh. Ngay lúc đoàn vũ công ném đóa hoa sen xuống thềm, Trịnh Khải vội ôm Nguyên Thục vào lòng. Ánh mắt sắc bén của anh nhìn đám khói len lỏi khắp hiên Lạc Thiên. Khắp nơi đâu đâu cũng là khói, chỉ nghe những tiếng ho khan của mọi người. Lính tam phủ nhốn nháo. Bá quan văn võ lo âu, sợ đoàn vũ công sẽ nhân cơ hội hành thích họ trong đám khói trắng mù mịt này.

Dù trong tình cảnh ngặt nghèo, có thể nguy hiểm đến tính mạng, nhưng Nguyên Thục lại vô cùng sung sướng khi được Trịnh Khải ôm chặt vào lòng. Mùi trầm hương từ ống tay áo của anh dìu dịu tỏa ra khiến nó dễ chịu. Nhớ đến biến cố ban nãy, tim Nguyên Thục vẫn đập thình thịch. Nếu không nhờ Trịnh Khải ném chiếc ly ngọc, giờ đây nó đã táng mạng dưới tay cô gái lạ mặt chứ đâu còn sống trên đời để mà được ở trong vòng tay anh.

- Thục nhi! Không sao chứ? Vết thương có đau không?

Nhìn má trái của Nguyên Thục bị một vết cắt chạy dài xuống tận cằm, máu không ngừng tuôn, Trịnh Khải vô cùng lo lắng. Anh cúi xuống xem xét, đôi mày kiếm chau lại dần giãn ra khi vết thương không có độc. Thanh trủy thủ của Thanh Loan quá sắc bén, vết thương trên mặt Nguyên Thục nếu lành lặn cũng sẽ phải để lại một vết sẹo dài. Đối với phụ nữ, dung mạo chẳng khác gì sinh mạng, Thanh Loan biết rõ điều đó mà lại ra tay nặng với Nguyên Thục như thế, thật khiến anh bất nhẫn vô cùng.

Nhìn Trịnh Khải lo lắng quan tâm vết thương trên má, tuy má trái đang nhức nhối, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy ngọt ngào. Nó nhẹ nhàng lắc đầu khi anh ân cần hỏi, rồi cố nở một nụ cười thật tươi để cho anh biết rằng mình không sao. Vừa mới mỉm cười, nước mắt Nguyên Thục tràn ra vì má trái đau rát dữ dội. Biểu hiện ấy khiến Trịnh Khải lo lắng, anh dìu nó ngồi xuống, rồi dùng chiếc khăn tay Nguyên Thục mang theo để lau máu đang trào ra. Vết cắt rất sâu, có lẽ sau này sẽ để lại sẹo, Nguyên Thục sẽ không được vui vẻ khi nhìn thấy dung nhan của mình đã bị hủy, điều đó làm Trịnh Khải cảm thấy đau lòng. Trước khi ngự y đến, anh phải rửa sơ vết thương. Cẩn thận đổ ít rượu lên khăn tay, Trịnh Khải chấm nhẹ lên vết thương của Nguyên Thục từng chút một. Vết thương hằn sâu bị ngấm rượu trở nên đau xót, nhức nhối, khiến Nguyên Thục đau đến trào nước mắt.

Bị cô gái áo đỏ hành thích trong khi mình không có thù oán gì với cô ta, Nguyên Thục vô cùng tức giận và sợ hãi. Nó tức giận cô gái ấy là một, lại đau lòng vì vết thương trên mặt mình đến mười. Lúc nãy vì tính mạng đang nguy hiểm, Nguyên Thục không để ý đến điều này, nay bình tâm trở lại thì nó mới bắt đầu thấy sợ hãi.

Đối với phụ nữ, nhan sắc của họ quan trọng chẳng khác nào sinh mạng của mình. Tuy Nguyên Thục không để ý lắm về dung nhan ra sao, nhưng khuôn mặt đã bị hủy hoại sẽ rất khó coi. Bình thường nó đã không đẹp, nay trên mặt lại có thêm một vết sẹo chạy dài như thế, chắc chắn nó sẽ rất xấu xí, vô cùng xấu xí. Xung quanh Trịnh Khải toàn những vô gái xinh đẹp, Ngọc Xuân là một ví dụ, nếu như nó trở nên xấu xí khiến anh không thích nó, chán ghét nó và bỏ rơi nó, thì nó sẽ phải làm sao. Nó quyết định ở lại đây là vì anh, quyết định rời bỏ gia đình, bè bạn là vì anh. Nay nếu như anh bỏ mặc nó, không quan tâm đến nó, hỏi nó sẽ phải làm sao đây.

Nguyên Thục càng nghĩ càng sợ. Tâm trí nó rối bời, vết thương trên má lại càng thêm rát buốt. Từng giọt nước mắt lã chã rơi trên mặt, mặn đắng thấm qua bờ môi và nhỏ giọt xuống đôi bàn tay đang nắm chặt. Cô gái áo đỏ ấy là ai, tại sao lại nỡ nhẫn tâm hại nó? Nó đã làm gì sai để ông trời trừng phạt nó như thế này? Nó không cần vương vị, nó không cần thực quyền, nó chỉ cần có Trịnh Khải thôi. Nếu nó trở nên xấu xí thì nó lại càng không xứng khi đứng bên cạnh anh, ở trong tình cảnh này hỏi nó phải làm sao đây?

- Thục nhi! Sao lại khóc?

Nhìn gương mặt Nguyên Thục ướt đẫm lệ, Trịnh Khải nhíu mày. Lần đầu tiên, anh lại thấy bối rối đến như thế. Trước đây, khi phụ thân quay lưng, khi phải đối diện với cuộc sống bị giam cầm, Trịnh Khải vẫn không nhíu mày. Đến khi lên ngôi chúa, đối diện với nạn kiêu binh, đối diện với những khó khăn khi trị vì đất nước loạn lạc, Trịnh Khải vẫn không hề lúng túng. Nhưng nay nhìn Nguyên Thục rơi lệ, nhìn vết thương trên má Nguyên Thục, Trịnh Khải vô cùng đau lòng. Người con gái anh yêu đang rơi lệ mà anh không thể làm gì khác, người con gái anh yêu đang đau lòng nhưng anh lại không thể xoa dịu nỗi đau đó. Điều đó khiến anh khó chịu, và càng làm đôi mày của anh chau lại, tạo thành một vết khắc hằn sâu ưu phiền.

Vòng tay ôm Nguyên Thục vào lòng, để những giọt nước mắt của nó thấm ướt áo, Trịnh Khải vuốt mái tóc óng mượt của Nguyên Thục. Anh xoa nhẹ bờ vai run lên thổn thức của nó và cất giọng dịu dàng.

- Thục nhi! Đừng khóc! Ngoan nào.

Nguyên Thục vùi mặt vào lòng Trịnh Khải. Anh càng an ủi, nó lại càng khóc thật nhiều. Vết thương trên má nhức buốt, hằn sâu vào lòng. Nó không muốn phải nhìn thấy khuôn mặt nó trong gương. Nó không muốn phải nhìn thấy vết sẹo xấu xí ấy. Ngay cả bản thân nó còn không dám nhìn, thì ai còn dám nhìn nó. Mọi người chắc chắn sẽ chê cười, sẽ chế giễu sau lưng nó. Cuộc tranh đua ứng cử ngôi vị Vương phi chưa kết thúc mà nó đã gặp phải chuyện này, nếu nó là Thánh mẫu, chắc chắn không bao giờ chọn một cô gái xấu xí lên làm Vương phi. Nếu nó thua cuộc, nó sẽ phải rời xa Trịnh Khải theo giao ước. Chỉ nghĩ đến việc rời xa Trịnh Khải, không được gặp anh nữa, không còn ở bên cạnh anh nữa là Nguyên Thục lại quặn đau. Nỗi đau ấy còn đau hơn cả vết thương trên gương mặt nhạt nhòa nước mắt của nó. Nó phải làm sao đây, ai nói cho nó biết nó phải làm sao đây?

- Thục nhi! Đừng khóc! Đừng làm ta đau lòng, nín đi nào.

- Em... phải làm sao đây. Mặt em như thế này... chắc chắn là rất xấu xí... rất khó coi. Em sợ lắm.... sợ bị anh bỏ rơi...

Nguyên Thục nói trong nghẹn ngào. Bờ vai nhỏ nhắn của nó run rẩy trong vòng tay anh. Trịnh Khải thở nhẹ. Anh vuốt mái tóc đen nhánh của nó. Mùi hương hoa bưởi trên mái tóc Nguyên Thục luôn làm anh dễ chịu. Nguyên Thục sợ bị anh bỏ rơi chỉ vì gương mặt xấu xí, nhưng anh yêu nó vì Nguyên Thục chính là Nguyên Thục, không phải là ai khác, chứ có phải vì sắc đẹp như nó vẫn lo sợ đâu.

- Thục nhi! Nghe ta nói. Ta yêu nàng không phải vì bề ngoài. Ta yêu nàng vì nàng chính là Nguyên Thục. Nàng không tin tưởng ta sao?

Trịnh Khải nâng cằm Nguyên Thục lên, anh nhìn thật sâu vào mắt nó. Mỗi khi thật lòng với ai, anh luôn nhìn sâu vào mắt họ. Anh có thể nói rất nhiều lời để đông viên Nguyên Thục, để Nguyên Thục an tâm, nhưng anh không làm như thế. Anh chỉ nói những gì anh cần nói, làm những gì anh cần làm. Nếu Nguyên Thục không tin ở anh, dù anh có nói trăm vạn điều cũng vô ích. Nhưng nếu Nguyên Thục tin anh thì chỉ cần một lời đã đủ.

Nhìn sâu vào mắt Trịnh Khải, những giọt nước mắt của Nguyên Thục ngừng rơi. Nó nhìn thấy trong đáy mắt anh là hình bóng của nó, lung linh. Ánh mắt anh ấm áp, trìu mến và thiết tha. Sâu trong đáy mắt ấy là một biển trời dịu dàng, một tình yêu sâu sắc dành cho nó, không bao giờ đổi thay. Nhìn thật lâu vào đôi mắt sâu thẳm ấy, lòng Nguyên Thục trở nên nhẹ nhõm. Bờ vai nó thôi run rẩy, nước mắt nó không còn rơi, chỉ còn lại những giọt lệ sau cuối chậm chạp lăn dài trên má.

Nguyên Thục thôi khóc, dù vẫn còn nấc nghẹn ngào. Tuy vết thương trên má vẫn còn đó, đau buốt, và sẽ làm gương mặt nó trở nên khó coi, nhưng Nguyên Thục dần bình tâm lại. Nó cảm thấy hạnh phúc vì những gì Trịnh Khải vừa nói và những gì nó nhìn thấy trong đôi mắt anh. Nguyên Thục nhoẻn cười khi Trịnh Khải lau những giọt lệ còn sót lại trên đôi má nó. Ống tay áo anh phảng phất mùi trầm hương khiến Nguyên Thục ấm lòng. Nó quên mất biến cố vừa mới xảy ra, quên mất mình vẫn còn đang ở giữa hiên Lạc Thiên mà rúc vào lòng Trịnh Khải. Vòng tay ấm áp của anh khiến nó cảm thấy bình yên, khiến mọi sợ hãi, đau đớn trong tim nó đều tiêu tan.

Trong khi Trịnh Khải đang dỗ dành Nguyên Thục, thì trong đám khói trắng, Nguyên Thiên vô cùng bực bội do bỗng nhiên lâm vào tình cảnh này. Trong làn khói trắng dày đặc, ngoài người đang đứng gần mình ra, thì Nguyên Thiên chẳng thể nhìn thấy bất cứ ai khác. Giữa tiếng la hét, huyên náo của đám lính, Nguyên Thiên nghe thoang thoảng tiếng chị nó khóc, điều đó làm nó vô cùng sốt ruột. Vốn rất ghét cảnh đứng chôn chân một chỗ, Nguyên Thiên hươ tay quạt mạnh, cố xua đuổi đám khói dày đặc đi nhưng chỉ vô ích. Nhìn Nguyên Thiên nôn nóng, Duy Cận vỗ nhẹ vào vai nó. Thanh kiếm của anh lấm tấm máu, có lẽ trước khi đám vũ công quăng quả khói thì anh cũng đã đâm trúng một cô gái nào đó trong đoàn.

- Đừng manh động. Với làn khói mịt mù này rất thuận tiện cho đám người ấy tấn công, chi bằng cứ đứng ở đây phòng thủ, đợi khói tan hết rồi hẵn hay.

- Nhưng chị tôi đang bị thương, chị ấy đang khóc, tôi sao có thể đứng yên ở đây mà không lo.

- Chị cô đã có Đoan Nam vương. Bây giờ liều thuốc hữu hiệu nhất đối với cô ấy chỉ có Đoan Nam vương thôi, chúng ta không nên làm phiền họ.

Nghe Duy Cận nói, Nguyên Thiên tính nói điều gì đó, nhưng nó lại im lặng. Ngẫm ra Duy Cận nói đúng, trong làn khói dày đặc này, địch ở ngoài sáng ta ở trong tối. Lỡ như vọng động thì sẽ chuốc lấy những tai họa cho mình, chi bằng cứ đợi khói tan rồi tính tiếp. Chị nó bị cô gái rạch một đường dài trên mặt, chắc chắn đang rất hoảng loạn và đau đớn, nhưng có Trịnh Khải bên cạnh thì chị nó sẽ yên tâm. Nghĩ đến đó, Nguyên Thiên thở hắt ra một hơi. Nó nắm chặt đốc kiếm, mắt nhìn quanh, mọi giác quan đều tập trung để có thể đối phó nếu có biến cố xảy ra. Ngước nhìn lên cao, nơi Nguyên Thiên đoán là chỗ Duy Khiêm đang đứng trong làn khói mờ mịt, nó thầm mong anh được an toàn trong sự bảo vệ của binh lính. Nó thầm hy vọng rằng đoàn vũ công đã rút lui mà không làm tổn hại đến bất cứ một ai.

Được một lúc, khói đã tan hết, hiên Lạc Thiên hiện ra rõ ràng trong mắt của mọi người. Ai nấy nhìn nhau ngơ ngác khi đoàn vũ công đã biến mất không còn vết tích. Đám lính tam phủ tức giận, hò hét inh ỏi, thay nhau lùng sục khắp nơi để truy tìm dấu vết kẻ vừa gây ra náo loạn. Hồ ngự y cùng một tiểu đồng vội vàng tiến vào. Trên tay ông là hộp thuốc để chữa trị cho Nguyên Thục. Ban nãy trong cơn xúc động, Nguyên Thục cứ thế mà thổ lộ nỗi lòng, cứ thế mà ấm êm trong vòng tay Trịnh Khải. Bây giờ nhìn lại, Nguyên Thục ngượng chín người khi thấy mọi người đang nhìn nó chằm chặp. Thánh mẫu và Dương thái phi ngồi trên cao ngó xuống. Cả hai người vẫn còn chưa hết sợ hãi vì sự hành thích đột ngột của cô gái áo đỏ, nay lại tức giận khi thấy Nguyên Thục xà vào lòng Trịnh Khải như chốn không người. Thấy ai cũng dồn mắt về phía mình, Nguyên Thục xấu hổ. Nó rời khỏi lòng Trịnh Khải, những sợi tóc dài mượt của nó lưu luyến vương trên áo anh, không rời.

Nguyên Thiên vội vã chạy đến bên cạnh Nguyên Thục. Nhìn vết thương sâu hoắm, máu chảy ròng ròng trên mặt chị mình, nước mắt Nguyên Thiên cứ trào ra. Nó và Nguyên Thục là chị em sinh đôi, chị nó bị thương tức là nó bị thương, chị nó đau thì nó cũng đau. Thấy Nguyên Thiên khóc, Nguyên Thục cuống qu‎ýt. Nó vội dùng khăn tay lau nước mắt cho Nguyên Thiên, miệng rối rít bảo rằng mình không sao, vết thương không có gì đáng lo.

Ngồi xuống cạnh Nguyên Thục, Hồ ngự y mở nắp thuốc lấy ra một chiếc hộp gỗ. Vì Trịnh Khải đã sơ cứu vết thương của Nguyên Thục nên bây giờ ông chỉ còn việc đắp thuốc lên vết thương của nó. Cơn sợ hãi đã qua đi, bá quan văn võ trong hiên Lạc Thiên bắt đầu ổn định trở lại. Đám cung nữ ra dọn dẹp tàn tích, ai nấy về chỗ ngồi. Không khí rộn rã của buổi tiệc sinh thần biến mất, thay vào đó là bầu không khí nặng nề bởi lòng người đang hoang mang, nghi ngờ về hành động của cô gái áo đỏ kia.

Được Hồ ngự y đắp thuốc, vết thương trên má Nguyên Thục không còn rát buốt nữa. Nó cảm thấy mát mát, có lẽ do công dụng từ những dược thảo Hồ ngự y vừa mới đắp lên. Dè dặt nhìn Hồ ngự y đang đóng nắp thuốc lại, Nguyên Thục ngập ngừng.

- Ngự y, ông hãy nói thật... vết thương trên má tôi... có thể lành được không, có thể không để lại sẹo không?

- Thưa lệnh bà! Vết thương trên má người chắc chắn sẽ lành lại, còn việc có để lại sẹo hay không... thì....

Nói đến đây, Hồ ngự y ngừng lại, tỏ vẻ khó xử. Không cần ông phải nói, Nguyên Thục cũng đã hiểu. Lòng nó chùng xuống, đôi mắt rưng rưng. Nhìn biểu hiện đó của Nguyên Thục, Trịnh Khải nắm lấy bàn tay đang run rẩy của nó rồi xiết chặt. Không màng đến sự tức giận của Thánh mẫu và những cái nhìn hiếu kỳ của bá quan văn võ, Trịnh Khải choàng tay ôm lấy Nguyên Thục. Anh hôn nhanh lên trán nó, nụ hôn dịu dàng đó khiến Nguyên Thục sung sướng. Mối e ngại lo âu vẫn còn đó, nhưng đã không còn làm nó bận tâm nhiều nữa. Trịnh Khải yêu nó, vẫn luôn yêu nó, mãi mãi ở bên cạnh nó, như thế là đã đủ lắm rồi.

Sau sự cố vừa xảy ra, hiên Lạc Thiên bắt đầu quay trở về với bữa tiệc. Lẽ ra Trịnh Khải sẽ ngồi bên cạnh Thánh mẫu, nhưng anh lại ngồi ở bên cạnh Nguyên Thục, nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn nhỏ nhắn của nó. Hạnh phúc vì cử chỉ ấy của anh, Nguyên Thục ngồi nép vào Trịnh Khải, gò má ửng hồng lên. Hiên Lạc Thiên lung linh trước mặt. Trong mắt nó dường như không còn bất cứ ai khác nữa, mà chỉ nhìn thấy mỗi Trịnh Khải mà thôi.

Nhìn Nguyên Thục như thế, Nguyên Thiên nửa đau lòng nửa vui mừng. Nó đau lòng vì gương mặt chị nó sẽ mang sẹo và vui mừng khi Trịnh Khải đúng là người mà nó có thể gởi gắm chị nó cho anh. Nhớ tới cô gái áo đỏ kỳ lạ ban nãy, nếu không có nó giải vây kịp thời, Nguyên Thục chắc chắn sẽ mất mạng dưới tay cô ta. Nghĩ đến chuyện cô gái áo đỏ không ngừng tấn công Nguyên Thục, Nguyên Thiên nóng mặt lên. Nó nghiến răng, lầm bầm nguyền rủa cô gái áo đỏ hết lời. Lần sau nếu gặp lại cô gái ấy, chắc chắn nó sẽ rạch hai nhát kiếm lên gương mặt của cô ả. Cho cô ả nếm mùi đau khổ hệt như những gì cô ả gây ra cho chị mình.

Đứng bên cạnh Thánh mẫu, chứng kiến Nguyên Thục và Trịnh Khải quấn qu‎ýt bên nhau, Ngọc Xuân vô cùng đau lòng. Cô cảm giác rằng giữa Đoan Nam vương và cô gái kia không có khoảng cách để cô xen vào. Ngay từ khi đặt chân vào cung, nhìn thấy Đoan Nam vương, nhìn thấy ánh mắt sâu thẳm dịu dàng đó, trái tim của Ngọc Xuân đã không còn thuộc về mình. Không biết từ lúc nào, cô luôn dõi theo những bước chân của người ấy. Được Thánh mẫu và Dương thái phi chọn làm Vương phi, là người nâng khăn sửa túi cho Đoan Nam vương, Ngọc Xuân vui lắm. Cô rất hạnh phúc vì có thể lấy được người cô yêu, cô rất hạnh phúc vì có thể ở bên cạnh người đó chia sẻ buồn vui. Đối với Hồ tiệp dư, cô vốn rất tự tin có thể thắng được trong cuộc tranh cử lần này. Cô có địa vị, có hậu thuẫn, rất thích hợp để làm Vương phi và cô rất cố gắng vì điều đó. Thế nhưng, giờ đây, đứng trước hiện thực phũ phàng này, rằng Đoan Nam vương đã có người yêu, rằng giữa họ không hề có chỗ cho cô xen vào, Ngọc Xuân cảm thấy đau lòng. Không giành được tình yêu của Đoan Nam vương, lẽ ra cô sẽ rút lui, nhưng thâm tâm cô không cam chịu thua cuộc một cách dễ dàng như thế. Cô vẫn muốn tranh cử, cô vẫn muốn được làm vợ Đoan Nam vương. Ước mơ làm vợ người mình yêu thì có gì sai trái đâu, huống chi ván cờ vẫn chưa kết thúc.

Những tâm sự của Ngọc Xuân, tuy cô không hề nói ra, nhưng căn cứ vào nét mặt của cô, Dương thái phi đã lờ mờ đoán ra được phần nào. Bỗng nhiên, bà buông tiếng thở dài. Ngọc Xuân bây giờ chẳng khác nào bà năm xưa, còn cô gái đó lại là bản sao của Đặng Thị Huệ. Tuy cô gái đó không đẹp như Đặng Thị Huệ, nhưng cô ta được con trai bà hết sức yêu chiều, rồi sớm sẽ có ngày nắm quyền binh biến trong tay. Môt bên thì được yêu thương chiều chuộng, một bên thì ngay cả tới ánh mắt dịu dàng cũng không có. Điều đó làm Dương thái phi cảm thấy xót xa. Không biết xót xa cho chính bản thân bà hay cho Ngọc Xuân.

Trong khi Dương thái phi mang một tâm trạng khó nói, thì Thánh mẫu lại không để lộ chút cảm xúc nào. Gương mặt chảy xệ của bà trắng nhợt. Đôi mắt bà lạnh lùng quét về phía Nguyên Thục khi chứng kiến sự quyến luyến của cháu bà đối với cô gái tầm thường, không rõ lai lịch kia. Thánh mẫu chậm chạp đứng thẳng lên, những móng tay dài, nhọn của bà bấm sâu vào thành ghế. Bà cất giọng chậm rãi. Từng câu từng chữ vang lên, lấn át cả những tiếng xầm xì của mọi người trong hiên Lạc Thiên vì chuyện mới xảy ra.

- Quân đâu! Mời Hồ tiệp dư trở về tẩm cung, cử người canh gác cho cẩn thận. Không có lệnh của ta, bất cứ ai cũng không được ra vào.

Thánh mẫu vừa dứt lời, những tên lính cấm vệ đứng xung quanh hiên Lạc Thiên đưa mắt nhìn nhau. Không ai dám tiến lên phía trước vì Đoan Nam vương còn chưa có lệnh. Trước tình cảnh ấy, Thánh mẫu vô cùng tức giận. Gương mặt của bà đã trắng giờ lại thêm nhợt nhạt, bà quát lớn.

- Các ngươi còn chờ gì mà không thi hành?

Tiếng quát của Thánh mẫu khiến đội cấm vệ giật mình, họ vội vàng tiến về phía Nguyên Thục. Chạm phải ánh mắt của Trịnh Khải, đám lính cấm vệ sợ hãi lùi xuống. Sau khi quét mắt cảnh cáo binh lính không được manh động, Trịnh Khải chuyển ánh nhìn lên Thánh mẫu. Thánh mẫu đột ngột ra lệnh lính cấm vệ "mời" Nguyên Thục về cung, mang tiếng là mời nhưng không khác gì cho tống giam, không cần bà phải giải thích anh cũng hiểu nguyên nhân.

Lúc này, gương mặt Nguyên Thục vô cùng ngơ ngác. Nó tự hỏi mình đã làm gì sai để Thánh mẫu hạ lệnh như thế. Nguyên Thục nhìn Trịnh Khải, đôi mắt long lanh. Nó vội níu tay áo anh khi những người lính chìa tay về phía nó, chờ đợi. Bữa tiệc đang diễn ra vui vẻ, mọi chuyện đều tốt đẹp đối với Nguyên Thục, ấy vậy mà đến phút cuối, bỗng dưng xuất hiện một cô gái kỳ lạ làm đổ bể mọi thứ. Cô ta đã làm mặt nó bị thương, đã muốn lấy mạng nó, rồi sau đó còn gián tiếp khiến Thánh mẫu hạ lệnh "mời" nó về tẩm cung, lại còn cử người canh gác mà không cho nó biết nguyên nhân tại sao.

Đứng bên cạnh Nguyên Thục, Nguyên Thiên vô cùng tức giận. Chị nó bị cô gái áo đỏ đả thương, thánh mẫu đã không cử người chăm sóc thì thôi lại còn hạ lệnh giam lỏng. Vốn là một cô gái thẳng thắn, có gì không vừa lòng đều nói ra, Nguyên Thiên lớn giọng hỏi Thánh mẫu mà quên mất rằng ở đây thân phận của nó chỉ là cận vệ mà thôi.

- Thánh mẫu! Tôi không hiểu, rốt cuộc chị tôi có tội gì mà bà lại bắt giam chị tôi như thế.

Nguyên Thiên ăn nói thẳng thừng không hề kiêng nể, khiến Duy Cận lo lắng thay cho nó. Thánh mẫu là bà của Đoan Nam vương, thân phận của bà vô cùng cao qúy, trong khi Nguyên Thiên chỉ là một nàng cận vệ bé nhỏ mà lại có thể ngang nhiên gọi thánh mẫu là "bà", bất chấp quy tắc lễ giáo trong cung. Trái ngược với sự lo lắng của Duy Cận, Thánh mẫu không hề tỏ vẻ tức giận mà dường như là bà đang chờ một ai đó cất lên câu hỏi này. Bà nhướng mày nhìn Nguyên Thiên, rồi cất giọng thâm trầm.

- Phải! Chị ngươi không có tội. Ta cũng không ra lệnh "bắt". Cái ta quan tâm là an nguy của Đoan Nam vương. Các ngươi đều có mặt ở đây và đã chứng kiến chuyện mới xảy ra. Chị ngươi bị một cô gái giang hồ, giả dạng đoàn vũ công, trà trộn vào phủ hành thích. Vậy ngươi nói xem, chị ngươi đã làm gì để cô ta phải mạo hiểm, quyết tâm hành thích như thế?

- Thánh mẫu! Thần không biết cô gái đó là ai, càng không biết cô gái áo đỏ ấy là người từ đâu đến. Như thế thần sao có thể làm gì cô ta như người đã nói chứ.

Nép sau lưng Trịnh Khải, Nguyên thục phẫn uất lên tiếng. Nó không hề né tránh ánh mắt đanh lại của Thánh mẫu, ngược lại còn nhìn thẳng vào mắt bà. Mọi chuyện xảy ra đối với nó như một giấc mơ, đến bây giờ trái tim Nguyên Thục vẫn còn hồi hộp khi nhớ đến khoảnh khắc nguy hiểm ấy. Vốn rất thương Nguyên Thục, Nguyên Thiên vô cùng tức giận khi chị mình bị Thánh mẫu ngờ vực. Nó lớn tiếng, bất chấp ánh mắt cảnh cáo của Duy Cận lần thứ hai.

- Thánh mẫu! Bà nghe chị tôi nói rồi đó. Chị ấy bảo không hề quen biết cô gái áo đỏ ấy. Xin bà đừng nghi oan cho chị tôi có được không.

- Giờ thì các ngươi nói gì mà chẳng được. Nếu đã không quen biết thì hà cớ gì cô gái áo đỏ kia ai không hành thích lại nhằm ngay chị ngươi mà hành thích. Bữa tiệc ngày hôm nay, trên có vua chúa hoàng tộc, dưới có bá quan văn võ, ai ai cũng có xuất thân, chỉ trừ chị ngươi là ta không hề biết nguồn gốc, lai lịch thế nào. Chỉ một câu nói không quen biết của các ngươi thì có thể khiến ta tin là các ngươi không liên quan gì hay sao? Lai lịch của chị ngươi như thế nào, trước đây có thâm thù, ân oán gì đó với bên ngoài, khiến người ta vào tận đây để hành thích thì làm sao ta biết được. Nếu trả thù chị ngươi thôi thì ta không nói, cũng không can thiệp, nhưng lỡ liên lụy tới Đoan Nam vương, gây nguy hại đến tòa Lượng phủ thì ta quyết không thể ngoảnh mặt làm ngơ.

- Nhưng mà...

- Ngươi nghe cho rõ, vừa rồi ta chỉ hạ lệnh cho quân lính "mời" chị ngươi về phòng, cử người "bảo vệ" cẩn mật chứ không hề nói là bắt tội hay tống giam. Đợi khi nào điều tra rõ ràng lai lịch chị ngươi ta sẽ bãi bỏ lệnh đó. Ngươi nên nhớ, chị ngươi đang trong giai đoạn ứng cử ngôi vị Vương phi. Chỉ còn mấy ngày nữa là sẽ có kết quả, nay xảy ra chuyện ngoài ý muốn, bản thân ta quả rất khó xử. Nhưng nghĩ kỹ, nếu ta nhắm mắt làm ngơ chuyện này, để chị ngươi lên làm Vương phi trong khi lai lịch lại không rõ ràng thì thật không hay. Ai dám bảo đảm chuyện hành thích ngày hôm nay sẽ không tái diễn lần thứ hai? Ai dám bảo đảm sẽ không xảy ra những chuyện tày đình khác nữa? Ai dám đảm bảo mục tiêu lần sau sẽ không phải là Đoan Nam vương, là ta, là những người khác trong tòa Lượng phủ. Nếu chỉ vì ân oán riêng của chị ngươi đối với người ngoài mà những người ủng hộ cho chị ngươi làm Vương phi, những người bên cạnh hay có liên quan đến chị ngươi đều bị liên lụy thì đó chẳng phải chuyện tồi tệ sao?

Những lời Thánh mẫu quá sắc sảo, đánh trúng vào tâm lý hoang mang, sợ hãi của những người chứng kiến sự việc xảy ra ở hiên Lạc Thiên ngày hôm nay, khiến Nguyên Thiên cứng họng, không thể phản bác lại một lời nào. Lời Thánh mẫu vừa dứt, những tiếng xầm xì đã bắt đầu trỗi dậy. Ai nấy đều cho rằng lời Thánh mẫu nói quả không sai. Ngọc Xuân là em gái của quốc sư Nguyễn Khản, ai ai cũng biết, nhưng vị Hồ tiệp dư kia là họ lại không hề biết xuất thân từ đâu, lai lịch thế nào. Theo những lời cung nữ trong phủ nói lại, Hồ tiệp dư được cung chủ Tử Phụng cung đưa vào nhưng cũng không nói rõ lai lịch xuất thân. Hơn nữa, Đạo Hoa vương tuy là cung chủ của một bang có danh tiếng, có ảnh hưởng, lại lâu đời nhưng vẫn là người của giang hồ. Phủ chúa canh gác nghiêm ngặt là thế, vậy mà đoàn vũ công kia lại liều mạng xâm nhập vào hành thích rồi thoát ngay trước mặt họ như ở chốn không người khi hành động thất bại. Như thế cũng đủ thấy mối quan hệ của họ và Hồ tiệp dư không đơn giản, mới khiến họ liều mạng như thế. Rủi như vị Hồ tiệp dư kia thật sự có ân oán nào đó trong giang hồ thì họ chắc chắn sẽ gặp phiền phức nếu như có bất cứ liên hệ nào với cô ta.

Qua biểu hiện của mọi người, Nguyên Thục cảm thấy lo lắng. Lòng người đang dao động, ai nấy đều e dè khi đưa mắt nhìn nó. Trong giây phút đó, Nguyên Thục chợt hiểu ra tất cả. Thánh mẫu đã lợi dụng chuyện nó bị hành thích, lợi dụng xuất thân không rõ ràng của nó để tác động đến suy nghĩ của mọi người. Thời gian tranh cử ngôi vị Vương phi đã gần kết thúc, ngày bỏ phiếu đã gần kề, nay bỗng nhiên xảy ra cớ sự này, chắc chắn mọi người sẽ nghi kị nó. Số phiếu bầu cho nó chắc chắn sẽ bị suy giảm và ngôi vị Vương phi gần như chắc chắn sẽ vào tay Ngọc Xuân. Nguyên Thục càng nghĩ càng tức giận. Nó giận cô gái áo đỏ lạ mặt đã hành thích nó trong khi cả hai không hề quen biết nhau. Để rồi giờ đây, chuyện này đã thành cái cớ để Thánh mẫu vịnh vào, gây bất lợi cho nó, làm nó bị cô lập trong mắt mọi người.

Nguyên Thục mím môi, nắm tay của nó run run. Mọi người có thể nghi ngờ nó, không tin nó, và ngôi vị Vương phi có vào tay ai nó cũng không cần. Nó chỉ cần Trịnh Khải tin nó, thế là đủ. Ngước mắt nhìn Trịnh Khải, Nguyên Thục có hơi sợ. Nó sợ sẽ nhìn thấy gương mặt lạnh lùng của anh, sợ anh cũng sẽ tin vào lời Thánh mẫu mà rời xa nó, không quan tâm đến nó nữa. Đáp lại sự lo lắng của Nguyên Thục là cái xiết tay nhẹ nhàng của Trịnh Khải. Cử chỉ dịu dàng, quen thuộc đó làm Nguyên Thục thấy ấm lòng. Vậy là đủ, anh đã tin nó thì nó không còn mong gì hơn.

Vuốt nhẹ mái tóc đen mượt của Nguyên Thục, Trịnh Khải nhíu mày khi trong đôi mắt Nguyên Thục là sự ngơ ngác, thảng thốt, hệt như một chú thỏ con lạc lõng giữa nơi xa lạ. Một cảm giác xót xa nhẹ len lỏi vào tâm trí anh. Ánh mắt đó trước đây anh đã từng thấy. Đó là ánh mắt của mẹ anh khi nghe tin Đặng tuyên phi hạ sinh Trịnh Cán. Ngẩng nhìn thánh mẫu đứng trên bục cao cùng với Dương thái phi, Trịnh Khải dừng mắt ở mẹ anh trong một thoáng. Khoảnh khắc ánh mắt hai ngươi giao nhau ấy, Trịnh Khải nhìn thấy nỗi đau quá khứ hằn sâu trong mắt bà, vình viễn không phai nhòa. Mẹ anh ngày ấy và Nguyên Thục bây giờ, cả hai có khác nhau chỗ nào không...

- Thánh mẫu! Người giam lỏng Nguyên Thục là vị lai lịch không rõ của cô ấy. Nếu chuyện này được làm rõ, thì người sẽ không nghi ngờ Nguyên Thục nữa, phải thế không?

- Phải! Nếu lai lịch của Hồ tiệp dư minh bạch, ta chắc chắn sẽ không làm khó dễ nữa.

Thánh mẫu nói xong, Trịnh Khải cũng không hỏi thêm gì nữa. Anh quay sang Nguyên Thục, trầm giọng.

- Thục nhi! Bây giờ nàng hãy theo lệnh thánh mẫu trở về phòng, chờ ba ngày nữa, ta sẽ đến đón nàng.

- Nhưng mà...

- Không sao, chỉ ba ngày thôi. Khi ấy chúng ta sẽ gặp lại nhau.

Nguyên Thục bịn rịn nhìn Trịnh Khải. Dù đã nghe anh nói thế, nhưng nó vẫn không muốn về cung một chút nào. Trịnh Khải đã nói ba ngày sau mới đến đón nó, nghĩa là trong thời gian ba ngày tới nó sẽ không được gặp anh. Dù biết Trịnh Khải làm thế là vì nó, nhưng Nguyên Thục vẫn không được vui. Lòng nó băn khoăn tự hỏi, mình là người từ tương lai trở về quá khứ, Trịnh Khải làm cách nào để có thể điều tra lai lịch của nó cho rõ ràng, minh bạch. Tuy Nguyên Thục có chút hoang mang, lo lắng, nhưng nó biết một khi Trịnh Khải nói gì đều đã có suy tính trong đầu. Nó chỉ buồn vì phải xa anh. Dù chỉ ba ngày thôi nhưng đối với nó vẫn là lâu lắm. Người ta nói một ngày không gặp là bằng ba thu. Nay nó không được gặp anh những ba ngày, thì khác nào nó phải trải qua chín mùa thu mà không có anh.

Nguyên Thục càng nghĩ càng buồn vô hạn. Nó mỉm cười với Nguyên Thiên để trấn an sự lo lắng của em gái mình, rồi sau đó lại lưu luyến nhìn sang Trịnh Khải. Nguyên Thục theo lính cấm vệ trở về cung, nhưng mắt thì cứ nhìn theo anh mãi cho đến khi khuất bóng. Nguyên Thục vừa đi khuất, hiên Lạc Thiên lại một lần nữa xôn xao. Nguyên Thiên định chạy theo Nguyên Thục để xem chị mình thế nào thì Duy Cận đã kịp thời ngăn lại. Tính cãi lại lời anh, nhưng Nguyên Thiên sực nhớ ra nó đang ở trong phủ chúa chứ không phải ở phủ của Duy Cận để mà có thể tự do tự tại, không cần phải ngó trước nhìn sau. Từ khi bước vào hiên Lạc Thiên, nó đã cãi lời Duy Cận rất nhiều lần. Cũng may Duy Cận là người tốt, chứ nếu không, nó đã bị trách phạt vì cái tội cận vệ mà cãi lại lời chủ nhân từ lâu rồi.

Nghĩ đến đó, Nguyên Thiên dù muốn chạy theo chị mình nhưng cũng phải gìm lại. Nó gật đầu, rồi lui ra đứng phía sau Duy Cận. Sự việc Hồ tiệp dư đến đó là kết thúc, bữa tiệc được bắt đầu lại nhưng đã kém phần rôm rả bởi dư âm chuyện thích khách vẫn còn đọng lại trong đầu của mọi người.

Ngồi lại bữa tiệc, tuy ngoài mặt Trịnh Khải không để lộ cảm xúc nào, nhưng tâm trí của anh đang bận tâm về vấn đề của Nguyên Thục. Dù không biết mục đích của Thanh Loan khi đến đây là gì, nhưng nếu cô đã xuất hiện thì chắc chắn vụ việc hôm nay sẽ không dừng lại ở đây. Giữa anh và Thanh Loan có ân oán riêng, nhưng Thanh Loan lại đem chuyện này trút qua Nguyên Thục thì anh không thể đứng yên. Thánh mẫu vốn muốn làm khó nên mới bắt làm rõ thân thế Nguyên Thục, nhưng ngay cả bản thân anh cũng không biết nhiều về lai lịch Nguyên Thục. Đến bây giờ, Trịnh Khải mới nhận ra những gì anh biết về Nguyên Thục quá ít. Nguyên Thục ở đâu, tại sao lại lưu lạc đến đây? Gia đình Nguyên Thục gồm những ai, Nguyên Thục thích gì anh đều không biết? Chỉ có một mình Nguyên Thục lo lắng cho anh, quan tâm đến anh và biết tất cả những gì anh thích. Còn anh, anh không biết gì về Nguyên Thục cả, một chút cũng không. Nguyên Thục có thấy buồn vì điều đó không?

Trong khoảnh khắc, đôi mắt Trịnh Khải chợt mông lung. Anh đã hứa với Nguyên Thục là sẽ chứng minh sự trong sạch của nó sau ba ngày. Anh đã hứa và anh chắc chắn sẽ làm được. Về thân thế của Nguyên Thục, chỉ có một người mới có thể giải quyết được. Và để tìm được người này, anh phải có thời gian ít nhất là ba ngày...

Cơn gió ưu phiền ấy hiện đang thổi ở nơi nào?

90.

Duy Khiêm trở người ngồi dậy. Anh nheo mắt lại khi tia nắng lung linh ngoài cửa sổ soi vào mắt. Trời đã sáng, ngày bắt đầu trôi. Lịch trình của anh lại bắt đầu hoạt động đều đặn. Sáng vấn an Hoàng thượng, khi về thụ giáo với giảng quan, đến trưa thì nghỉ ngơi, chiều bắt đầu đọc sách, làm thơ, viết câu đối cho đến tối rồi đi ngủ. Cứ thế ngày qua ngày, không một chuyện gì xảy ra để thay đổi lịch trình đó của anh.

Duy Khiêm vươn vai, anh xỏ giày vào chân rồi đứng lên dạo quanh Nội điện một vòng theo thói quen. Tối qua anh đến tòa Lượng phủ dự tiệc sinh thần của Thánh mẫu, kết quả là đã chứng kiến sự lộn xộn khá hay ho trong phủ chúa. Duy Khiêm nhếch môi, nét mặt kinh hoàng của Thánh mẫu khi vụ việc xảy ra vẫn còn làm anh thích thú cho đến bây giờ. Tiệc tan sớm hơn dự kiến, ai nấy ra về trong lo lắng. Dương thái phi dìu Thánh mẫu vào tẩm cung, Nguyên Thiên dù muốn ở lại cũng phải quay về cùng Hoàng thúc Duy Cận. Tiệc tan, không còn trò vui, Duy Khiêm có phần hơi chán. Anh từ chối khi Trịnh Khải có ý định cử người đưa anh về Nội điện. Lúc đi ngang qua Nguyên Thiên, anh không nhìn nó lấy một cái, nhưng anh vẫn biết Nguyên Thiên đang dõi theo những bước chân của anh, dần mất hút trong màn đêm.

Sau khi sửa soạn xong xuôi, Duy Khiêm ngồi xuống ghế. Anh với lấy ấm trà trên bàn và tự rót cho mình một tách. Trà nguội, Duy Khiêm vẫn bình tâm nhấp từng ngụm. Trong khi vua chúa hoàng tộc ai cũng lắm kẻ hầu người hạ, riêng Duy Khiêm thì không. Nội điện của anh chỉ có một nàng cung nữ. Lúc trước còn có Nguyên Thiên và Anh Tú, nhưng Nguyên Thiên đã bị anh đuổi đi còn Anh Tú thì đã cho hoàng cô Ngọc Vũ "mượn" vô thời hạn, Nội điện lại vắng lặng như chốn không người. Đôi lúc, mẫu thân anh đã muốn cử thêm hai, ba nàng cung nữ đến chăm sóc, nhưng Duy Khiêm lại từ chối. Anh không muốn Nội điện đông đúc, anh không muốn có người xâm phạm đến chốn riêng tư của anh. Anh thích một mình và chỉ một mình, thế nên mẫu thân anh đã không còn nhắc đến ý định tuyển cung nữ vào chăm sóc cho anh nữa.

- Thưa Hoàng thái tôn, điểm tâm đã đến rồi đây ạ.

Duy Khiêm ngẩng đầu lên khi giọng nói thanh tao của một nàng cung nữ cất lên. Nhìn rõ dung mạo của người cung nữ vừa mang điểm tâm đến, Duy Khiêm nhíu mày. Thường ngày, cung nữ hay mang điểm tâm cho anh là Thúy Hoa, hôm nay người mang điểm tâm cho anh lại là một nàng cung nữ khác. Nàng cung nữ mới này dáng người thanh mảnh, xinh đẹp, cử chỉ lại đoan trang nền nã, không cần nàng ta phải giải thích, Duy Khiêm cũng hiểu ngay nàng ấy từ đâu đến. Chắc chắn nàng ta là người của mẫu thân anh.

- Thưa Hoàng thái tôn, nô tì là Tiểu Kim. Theo lệnh của Hoàng phi, từ hôm nay nô tì sẽ thay thế Thúy Hoa đến hầu hạ người.

Duy Khiêm cười nhạt khi nghe nàng cung nữ nhỏ nhẹ bẩm báo. Anh đã đoán không sai, nàng cung nữ này do mẫu thân anh - tức Trịnh hoàng phi đưa tới. Duy Khiêm vẫn còn nhớ cách đây hai ngày, Trịnh hoàng phi đã có ý muốn tuyển cho anh một nàng phi tần vì đã đến tuổi thành gia lập thất. Trước thái độ hờ hững của Duy Khiêm, Trịnh hoàng phi thôi không nhắc đến nữa, vậy mà hôm nay lại cử một nàng cung nữ xinh đẹp đến Nội điện của anh. Bà muốn gì chẳng lẽ Duy Khiêm không biết hay sao.

Lướt mắt qua mâm điểm tâm nàng cung nữ tên Tiểu Kim vừa mang đến, ánh mắt Duy Khiêm thoáng hiện nét ngạc nhiên. Tất cả những món ăn trên bàn đều đang bốc khói, nóng sốt chứ không hề nguội lạnh, khác hẳn với thường ngày. Đứng bên cạnh anh, Tiểu Kim cầm lấy đôi đũa ngà chỉ vào từng đĩa thức ăn, rồi nói dịu dàng.

- Hoàng thái tôn! Hôm nay các món ăn ngự thiện dâng lên cho người đều có tên gọi khác nhau, người có muốn nghe không?

Tiểu Kim miệng thì hỏi, nhưng không đợi Duy Khiêm trả lời thì đã nói luôn. Không biết ai là người đã đặt tên cho những món ăn này nhưng khi nghe qua thì rất thi vị. Đĩa rau xanh tươi non có tên là "yên thảo như bích ti". Những viên chả cá vo tròn nằm trên tấm lá cải có tên gọi là "tần tang đệ lục chi". Cứ như thế, nào là "đương quân hoài quy nhật", rồi lại tới "thị thiếp đoạn trường thi". Tổng hợp tất cả món ăn lại thì ra bài thơ "Xuân tự" của Lý Bạch. Sự khéo léo của những cái tên trong món ăn cũng như sự lanh lợi của Tiểu Kim làm Duy Khiêm bất giác mỉm cười.

- Hoàng thái tôn, người ăn đi kẻo nguội. Thần đã kiểm tra rồi, món ăn hôm nay rất vừa miệng.

Tiểu Kim nhanh nhẹn gắp thức ăn vào chén của Duy Khiêm. Nhìn bàn tay trắng hồng, mềm mại của Tiểu Kim, đôi mày kiếm của Duy Khiêm nhẹ chau lại. Nàng cung nữ do mẹ anh gởi đến quả nhiên rất lanh lợi. Câu nói của cô ta có ngụ ý rằng mình đã nếm thức ăn trước, anh có thể yên tâm vì trong thức ăn không hề có độc. Sau bữa cơm, Tiểu Kim còn chu đáo mang cho Duy Khiêm một ly trà thảo dược thơm, có tác dụng bồi bổ cơ thể. Sự chu đáo ấy khiến Duy Khiêm phải đặt câu hỏi, rằng nàng cung nữ này chỉ đơn giản theo lời mẫu thân đến đây hầu hạ anh, hay còn có một mục đích nào khác.

- Hoàng thái tôn! Đây là chữ viết của người sao?

Không biết đến những suy nghĩ của Duy Khiêm, Tiểu Kim hồn nhiên chìa ra một tấm giấy lụa trước mặt anh. Tấm giấy lụa ấy Duy Khiêm dùng để luyện chữ viết. Trong khi anh đang dùng trà thì Tiểu Kim dọn dẹp Nội điện, tình cờ cô nhìn thấy tấm giấy lụa trải dài trên bàn, nét mực đã khô. Khác với những quan thần trong triều, bút lực của Duy Khiêm không rồng bay phượng múa. Nét bút của anh rất gọn, có những chữ lại vuông vức, sắc nhọn, làm Tiểu Kim thích thú. Không thèm lướt mắt qua tấm giấy khi Tiểu Kim hỏi, Duy Khiêm hờ hững gật đầu. Đưa tấm giấy ngang mặt, nét mặt Tiểu Kim rạng rỡ. Đôi mắt cô ánh lên sự vui thích khi nhìn những dòng chữ mạnh mẽ trên tấm giấy lụa lung linh.

Chúng bất khả hộ thuyết hề,

Thục vân sát dư chi trung tình?

Thế tịnh cử nhi hiếu bằng hề,

Phù hà quynh độc nhi bất dư thính.(*)

- Thật không ngờ Hoàng thái tôn lại viết bài thơ Ly Tao. Nô tỳ rất thích bài này của Khuất Nguyên.

Đang lơ đãng ngó mây trôi ngoài song cửa trong khi chờ giảng quan Mai Doãn Khuê đến, Duy Khiêm đưa mắt nhìn Tiểu Kim khi cô đọc bài thơ mà đã anh viết trên tấm giấy lụa. Vốn không định nói với Tiểu Kim câu nào, nhưng sở thích của cô đã làm Duy Khiêm chú ý. Anh hỏi, giọng pha chút thú vị

- Cô cũng biết Ly Tao sao?

- Thưa vâng! Nô tì rất thích bài thơ ấy. Khuất Nguyên vì không can ngăn Hoài vương được, lại thêm bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức nhảy xuống sông Mịch La tự vẫn. Bài thơ Ly tao nói lên tâm trạng phẫn uất của ông, về nỗi buồn trước vận mệnh đất nước suy vong.

Thì ái ái kì tương bãi hề,

Kết u lan nhi duyên trữ

Thế hỗn trọc nhi bất phân hề,

Hảo tế mĩ nhi tật đố

Nghe Tiểu Kim ngâm hai câu thơ trong Ly tao, đôi mày của Duy Khiêm cau lại. Hai câu thơ ấy chính anh đã ngâm cho Thánh mẫu nghe trước khi đến sông Nhĩ Hà, hôm nay, chẳng biết vô tình hay cố ý mà Tiểu Kim lại ngâm đúng hai câu thơ này. Trong phút chốc, đôi mắt nâu mật của Duy Khiêm chợt xáo trộn. Anh nhìn Tiểu Kim, đúng lúc Tiểu Kim cũng quay đầu lại nhìn anh. Bắt gặp ánh mắt khó hiểu của Duy Khiêm, Tiểu Kim không cúi đầu xuống, trái lại còn nhoẻn cười. Một nụ cười như đóa hàm tiếu nở trong mưa.

- Hoàng thái tôn, nô tì đọc có đúng không ạ?

Câu hỏi của Tiểu Kim, Duy Khiêm không trả lời. Từ đó, anh im lặng, để mặc cho Tiểu Kim luôn miệng ríu rít. Có thể nói, trong tất cả các cung nữ đã đến và đi ở Nội điện, kiến thức của Tiểu Kim khá phong phú. Cô còn có chung sở thích với anh một cách ngẫu nhiên. Điều đó không làm Duy Khiêm thấy thú vị. Tiểu Kim như một bông hoa tươi thắm nở trong Nội điện. Sự sinh động của cô làm anh bất chợt nhớ đến cô nhóc cận vệ tóc ngắn, lúc nào cũng lẽo đẽo theo phía sau anh khi cả hai còn ở chung với nhau. Không hiểu biết nhiều về thơ ca, thi phú như Tiểu Kim, cô nhóc cận vệ ấy ngược lại còn bướng bỉnh, hay xịu mặt dỗi hờn mỗi khi bị anh châm biếm, mỉa mai. Nhưng bất luận ở đâu, làm gì, mỗi khi anh ngoảnh đầu lại đều thấy cô nhóc ấy đứng ở phía sau nhìn anh. Bắt gặp ánh mắt của anh, đôi mắt của cô nhóc trở nên long lanh cùng với một nụ cười rạng ngời trên môi.

Nguyên Thiên!

Đã lâu lắm rồi anh không nhắc đến cái tên này...

- Thưa Hoàng thái tôn, giảng quan đã đến rồi ạ!

Duy Khiêm rời mắt khỏi bầu trời xanh khi tiếng nói thanh tao của Tiểu Kim cất lên. Giảng quan Mai Doãn Khuê đã đến tự bao giờ. Lịch trình sinh hoạt của anh bắt đầu vào guồng quay cố định. Hôm nay, giảng quan Khuê giảng giải cho anh về tấm gương của các tiền nhân triều đại trước, trong số đó, nổi bật là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Thông qua nét mặt kính ngưỡng của Doãn Khuê, không cần ông nói Duy Khiêm cũng biết đó chính là vị tướng mà ông kính trọng nhất trong sử xanh.

- Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, là danh tướng dưới triều đại nhà Trần. Hai lần kháng chiến chống Mông Nguyên, người đều có công lớn. Hưng Đạo vương là người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. Phụ thân của người là An Sinh vương trước khi qua đời đã trăn trối "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được", Hưng Đạo vương đã ghi nhớ lời phụ thân nhưng lại không làm theo lờ trăn trối ấy. Khi vận mệnh nước nhà lâm nguy, quyền binh biến đều nằm trong tay, nhưng không vì thế mà người thực hiện lời trăn trối của An Sinh vương. Hưng Đạo vương quả là một tấm gương lớn ghi vào sử xanh cho người đời sau nhớ đến.

Ngồi yên nghe Mai Doãn Khuê say sưa nói về Hưng Đạo vương, Duy Khiêm chỉ mỉm cười. Đợi cho giảng quan nói dứt anh mới từ tốn hỏi.

- Phu tử! Có đôi điều ta không hiểu lắm! Người có thể giảng giải cho ta biết không?

- Thưa Hoàng thái tôn, xin người cứ hỏi!

Mai Doãn Khuê sốt sắng. Trước thái độ ấy của ông, Duy Khiêm chỉ mỉm cười.

- Ban nãy, phu tử có nói rằng vì mối thù cướp vợ của Trần Thái tông nên An Sinh vương trước khi qua đời mới dặn Hưng Đạo vương phải cướp ngôi, đúng không?

- Thưa vâng!

- Theo lời người nói, Hưng Đạo vương là người đại nghĩa diệt thân, vì lợi ích chung của cả nước nên bỏ qua thù nhà, vậy tại sao khi An Sinh vương trăn trối, Hưng Đạo vương tuy biết đó là sai vậy mà vẫn ghi nhớ trong lòng?

Không nghĩ Duy Khiêm sẽ hỏi vấn đề ấy, Mai Doãn Khuê khựng lại trong chốc lát, rồi cũng trả lời.

- Người biết đó là sai trái, nhưng phàm đạo làm con, bất cứ lời nào của cha mẹ đều phải ghi nhớ trong lòng, cho dù đó là đúng hay sai.

- Phu tử, người nói thế ta lại càng không hiểu. Hưng Đạo vương biết lời trăn trối trước khi thác của An Sinh vương là sai, nhưng vì đạo làm con nên phải ghi nhớ lời ấy. Thế đã ghi nhớ rồi thì thôi, sao lại còn đem ra hỏi những người bên cạnh mình, lại ngay vào lúc quyền hành đều tập trung vào tay người?

- Cái đó...

Mai Doãn Khuê ấp úng, nhất thời chưa biết phải trả lời ra sao. Sau một lúc bóp trán suy nghĩ, ông mới tìm được câu trả lời.

- Hưng Đạo vương đem lời ấy ra hỏi mọi người, để xem mọi người có đoàn kết một lòng không, có mưu phản hay không. Người làm thế để biết chắc chắn rằng người không thực hiện theo lời An Sinh vương là đúng, cho dù có phải mang tiếng bất hiếu với phụ thân.

- Phu tử, người bảo Hưng Đạo Vương muốn xem mọi người có mưu phản hay không, có đoàn kết một lòng không, nhưng Hưng Đạo vương không đem chuyện trăn trối của An Sinh vương đi hỏi mọi người thì ai mà biết chuyện đó, lấy đâu ra ý kiến tranh cãi tạo phản hay không. Hơn nữa, đã hỏi con mình thì thôi, dù sao cũng là người trong nhà, nhưng đến cả gia nô cũng hỏi thì thật lạ. Có phải vì quá nhiều người phản đối, nên Hưng Đạo vương mới đi hỏi người con út, vì hiểu rõ tính nết của ông ta. Khi con thứ ba của Hưng Đạo vương đã có ý kiến thuận tình với An Sinh vương, Hưng Đạo vương mới làm ầm lên cho mọi người hay, lấy đó để làm cớ để thế hiện ông ấy hỏi là để thử lòng trung nghĩa của mọi người. Từ đó ông ta sẽ cho mọi người thấy mình đại nghĩa diệt thân, suốt đời không nhìn mặt đứa con phản nghịch đó nữa.

Nói đến đây, Duy Khiêm ngừng lại, nhìn sắc mặt tái lại của Mai Doãn Khuê, anh cười thầm rồi thản nhiên tiếp lời.

- Phu tử, ta tự hỏi, nếu Hưng Đạo vương là một người vì đại nghĩa diệt thân thì tại sao lần chống Nguyên Mông thứ nhất lại không có mặt người, phải chăng là vì khi ấy binh quyền chưa đủ mạnh, phải đợi đến kháng chiến lần thứ hai mới đủ. Hơn nữa, chuyện An Sinh vương trước khi thác đã trăn trối lại, những lời mưu phản ấy há lại để cho người ngoài nghe thấy sao, làm sao các sử gia có thể biết mà ghi lại được, phải chăng họ cũng có mặt ở đó? Hưng Đạo vương đem chuyện ấy hỏi người thân trong nhà, tại sao các sử gia lại biết, không lẽ họ đem chuyện ấy truyền ra ngoài hay sao? Còn nếu đúng là các sử gia không có mặt ở đó để biết lời trăn trối của An Sinh vương, họ chỉ ghi lại qua lời của Hưng Đạo vương truyền ra thì ta tự hỏi, những lời trăn trối đó có thật là của An Sinh vương hay không, hay lại là của Hưng Đạo vương nhưng do tính chất phản loạn của nó mà phải mượn danh nghĩa của một người đã khuất để đi dò hỏi phản ứng người thân và thuộc hạ của mình.

Duy Khiêm càng hỏi, mồ hôi trên trán Mai Doãn Khuê ngày càng túa ra nhiều. Ông không ngờ Duy Khiêm lại hỏi đến những điều mắc mứu ấy, cho nên ấp úng một hồi vẫn không sao tìm ra lời giải đáp cho những câu hỏi mà Duy Khiêm nêu ra. Nhìn bộ dạng lúng túng của Mai Doãn Khuê, Duy Khiêm tủm tỉm. Anh lại lên tiếng, lời lẽ vô cùng ôn tồn.

- Phu tử, ta chỉ đùa thôi. Hưng Đạo vương là người tài đức, liêm chính, lại yêu dân như con, lẽ nào lại có những tư tưởng thương thiên hại lý như thế. Những lời của ta khi nãy không phải thật đâu, người chớ hiểu lầm.

Duy Khiêm vừa nói vừa cười. Gương mặt trẻ con của anh lại càng đáng yêu hơn bao giờ hết. Những lời trấn an của Duy Khiêm làm Doãn Khuê như trút được gánh nặng ngàn cân. Nếu Duy Khiêm còn tiếp tục truy tới, Mai Doãn Khuê e với học vấn bao năm của ông cũng không thể giải đáp nổi những câu hỏi khó của anh như vừa rồi. Mai Doãn Khuê lật sách, ông bắt đầu giảng bài mới, lòng tự nhủ từ nay sẽ thôi không nhắc đến vĩ nhân trước mặt vị Hoàng thái tôn trẻ tuổi này nữa. Lỡ đâu Duy Khiêm cao hứng lại bắt bẻ ông, thì ông chẳng biết tìm đường nào mà tháo thân.

Mai Doãn Khuê giảng bài, nhưng những câu hỏi của Duy Khiêm cứ lởn vởn trong đầu ông. Trong khoảnh khắc, ông chợt cảm thấy vị Hoàng thái tôn đáng yêu, lúc nào cũng tươi cười này không đơn giản như ông vẫn nghĩ. Hỏi những câu hỏi ông chưa bao giờ nghĩ đến, thắc mắc những điều ông không thể tìm ra câu trả lời, điều đó làm Mai Doãn Khuê lấn cấn. Ông được Đoan Nam vương giao cho nhiệm vụ chăm nom Duy Khiêm. Hôm nay, nhất định ông phải về phủ chúa để bẩm báo lại với Đoan Nam vương về câu chuyện vừa rồi.

Đứng bên cạnh hầu quạt cho Duy Khiêm, Tiểu Kim cảm thấy vị Hoàng thái tôn này thật lạ. Đối với một danh tướng lừng lẫy, vị Hoàng thái tôn này không ca ngợi thì thôi, lại còn vạch những điểm khó hiểu của ông ta, đó là điều trước nay cô chưa bao giờ thấy. Vâng lệnh Trịnh hoàng phi đến thay thế Thúy Hoa hầu hạ Duy Khiêm, Tiểu Kim đã bắt đầu có suy nghĩ khác về vị Hoàng thái tôn trẻ tuổi này. Cô bắt đầu thấy thú vị, và tò mò. Có thể nói vị Hoàng thái tôn này đối với cô như một món quà, cô nửa muốn mở ra để xem bên trong ấy có gì, nửa muốn giữ nguyên vì sợ sẽ đánh mất tò mò vốn có....

Thì ái ái kì tương bãi hề,

Kết u lan nhi duyên trữ

Thế hỗn trọc nhi bất phân hề,

Hảo tế mĩ nhi tật đố

Chú thích:

(*) : Bốn câu trên trích trong bài thơ Ly Tao của Khuất Nguyên

Nói với chúng dễ hòng nói xiết!

Ai là người xét biết lòng ta?

Ðời đều bè đảng gian tà,

Một mình ta nói, nói mà ai nghe?

91.

Hôm nay là một ngày nắng đẹp.

Bầu trời trong xanh không một gợn mây. Ánh nắng dìu dịu chứ không gay gắt như thường ngày. Cung Đoan Nguyên của Nguyên Thục rợp bóng cây xanh nên vô cùng mát mẻ. Trời đẹp, cảnh đẹp, ấy thế mà trong lòng Nguyên Thục ảm đạm tựa mưa rơi, nguyên nhân chính cũng bởi vì ba ngày nay nó đã không gặp được Trịnh Khải.

Ba ngày trước, bữa tiệc của Thánh mẫu đã bị một đoàn người lạ mặt giả dạng vũ công phá hoại. Nguyên Thục vô cớ bị cô gái áo đỏ đả thương dù cả hai không quen biết gì nhau. Mọi chuyện chưa dừng lại ở đó, Nguyên Thục lại còn bị thánh mẫu đem giam lỏng ở cấm cung dù nó đã hết lời thanh minh. Ở trong cung Đoan Nguyên, Nguyên Thục đứng ngồi không yên. Nó nôn nóng muốn biết bên ngoài diễn tiến đến đâu, nhưng ngặt nỗi mỗi khi mở cửa bước ra là nó lại bị hai người lính canh mời quay trở vào. Vừa bực bội, vừa tủi thân, Nguyên Thục đóng sầm cửa lại thật mạnh, dù biết rằng làm thế thật khó coi.

Sống trong cảnh chim lồng cá chậu, Nguyên Thục chán đến tận cùng. Suốt ngày ăn, ngủ, sau đó thuê thùa chút đỉnh rồi lại đi loanh quanh trong phòng không làm gì, một ngày đối với Nguyên Thục chẳng khác chi cực hình. Thỉnh thoảng, nó cũng được phép ra ngoài dạo chơi để thay đổi không khí với hai người lính canh gác ở phía sau, nhưng dạo chơi hậu hoa viên mà không có Trịnh Khải bên cạnh, Nguyên Thục mất hết hứng thú. Nó đi vẩn vơ một lúc rồi thui thủi quay trở về phòng. Thấy Nguyên Thục rầu rĩ, A Đào và A Vân dù rất muốn làm nó vui lên nhưng không được. Bệnh tương tư là bệnh muôn đời khó chữa, liều thuốc chữa dứt bệnh cho Nguyên Thục hai cô lại không có, thử hỏi còn biết làm sao hơn.

Trịnh Khải bảo rằng ba ngày sau sẽ gặp lại, quả nhiên anh làm thế thật. Nguyên Thục cứ tưởng anh nói thế để hòa hoãn với Thánh mẫu thôi, rồi sẽ ghé đến thăm nó, nhưng ai ngờ hết trông rồi lại ngóng tới ba ngày, nó vẫn chẳng thấy bóng dáng anh đâu. Mỗi lần nghe ngoài hành lang vang lên tiếng bước chân là Nguyên Thục lại chạy ra ngoài cửa, ngóng xem đó có phải Trịnh Khải không. Đến khi thấy đó chỉ là những nàng cung nữ đi tưới hoa về, Nguyên Thục vô cùng thất vọng. Mặt nó xịu xuống rồi quay trở vào phòng ngồi thẫn thờ, sau đó lại ra cửa đứng cho đến hết một ngày dài.

Nhìn Nguyên Thục buồn bã vì nhớ Trịnh Khải, A Đào và A Vân đã cố làm mọi cách cho nó vui lên nhưng cũng vô vọng. Nguyên Thục không còn tâm trí nào nữa. Những cố gắng của hai nàng cung nữ làm cho nó rất cảm kích, nhưng nó không thể nào cười nổi khi bóng dáng của Trịnh Khải vẫn như cá biệt tăm.

Có thể nói, ba ngày trôi qua đối với Nguyên Thục vô cùng khó khăn. Ngoài kia cây vẫn xanh lá, nhưng Nguyên Thục lại tưởng rằng mấy mùa thu đã trôi qua. Chưa bao giờ nó lại thấy một ngày dài đến thế. Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", đối với Nguyên Thục mà nói, câu thơ đó đã phản ánh đúng tâm trạng. Ngoài vườn hoa nở, bướm bay rập rờn, cảnh đẹp đó Nguyên Thục không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn. Trong đầu nó chỉ lởn vởn những câu hỏi tại sao. Tại sao Trịnh Khải lại không đến thăm nó, anh hiện giờ đang làm gì? Anh có nhớ đến nó không? Còn nó thì nhớ anh lắm, lúc nào cũng nhớ đến anh, nhớ rất nhiều.

Nguyên Thục càng nghĩ càng giận, nó lâm vào tình cảnh chẳng đặng đừng này tất cả chỉ vì cô gái áo đỏ lạ mặt kia đã gây ra. Nó không có thù oán gì với cô ta, lại càng không biết cô ta là ai, ấy thế mà cô ta đã làm nó bị thương, làm nó bị Thánh mẫu giam lỏng, hại nó không được gặp Trịnh Khải. Tuy vết thương đã lành lặn nhờ thảo dược của Hồ ngự y, nhưng dấu tích còn lại trên má Nguyên Thục là một vết sẹo dài. Mỗi lần chải tóc, Nguyên Thục phải nhờ A Đào chải giùm vì nó không muốn nhìn vào gương. Nó sợ sẽ thấy một khuôn mặt xấu xí, tàn tạ với vết sẹo kia. Dù đã lấy nghệ thoa lên mặt để làm mờ vết sẹo nhưng kết quả vẫn không mấy khả quan. Nguyên Thục buồn tủi. Nó có chút mặc cảm vì vết sẹo ấy, nhưng nỗi mặc cảm thì một, còn nỗi nhớ nhung lại lên tới mười.

Một ngày không gặp được Trịnh Khải, Nguyên Thục chẳng làm gì ra hồn. Đầu óc nó không còn tâm trí để nghĩ ngợi đến những chuyện khác. Nguyên Thục hết giận cô gái áo đỏ, nó lại quay sang giận lây Trịnh Khải. Dù biết rằng anh đang tìm cách để giải oan cho nó, nhưng có cần phải thực hiện lời nói gặp lại sau ba ngày không. Chẵng lẽ anh không biết nó đang nhớ anh, nếu biết tại sao anh không đến thăm nó. Hay là anh đã quên nó rồi, hay là anh đang ở bên cạnh Ngọc Xuân đánh cờ mà quên mất ý định sẽ đến cung Đoan Nguyên.

Đã không nghĩ thì thôi, Nguyên Thục càng nghĩ càng thấy sợ. Hết sợ rồi nó lại cảm thấy buồn và tủi thân. Nó và anh cùng ở trong một phủ chứ có phải ở hai đầu bắc nam đâu mà lại xa xôi đến thế. Nguyên Thục không nén được tiếng thở dài, nó tiến lại song cửa, mắt nhìn những áng mây trôi trên bầu trời mà lòng lại nhớ đến Trịnh Khải vô cùng.

Non yên dù chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong

Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun

Nguyên Thục bất giác ngân nga bài thơ Chinh Phụ Ngâm. Nó cảm thấy những câu thơ ấy hợp với mình vô cùng. Chỉ không gặp Trịnh Khải ba ngày thôi mà nó tưởng như thời gian ngừng trôi, ấy vậy mà những người phụ nữ thời xưa có chồng đi chinh chiến nơi xa lại có thể chờ đến suốt cả cuộc đời. Nguyên thục lại thở dài. Thời xưa, chẳng phải nó cũng đang sống ở thời xưa sao. Ở chốn quá khứ này nó chẳng có ai là người quen, ngoại trừ Nguyên Thiên, Bách Nhật, và Anh Tú. Sống ở quá khứ, Nguyên Thục mới cảm thấy cuộc sống trước kia thật hạnh phúc biết bao. Nó có cha, có mẹ, có bạn bè luôn ở bên cạnh. Lạc về đây rồi thì xung quanh nó chẳng có ai, tất cả những gì nó có là Trịnh Khải. Anh là người đã làm nó cảm thấy rằng cuộc sống thật tốt đẹp. Anh là người đã làm cho những thương nhớ trong lòng nó dần nguôi ngoai, làm cho nó luôn tươi cười hạnh phúc. Cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện một mai trở về hiện tại,được gặp lại mọi người mà không có Trịnh Khải, Nguyên Thục lại đau lòng. Chính vì thế, sau bao đêm trằn trọc suy nghĩ nên về hay ở nếu có cơ hội, Nguyên Thục đã đi đến quyết định cuối cùng, đó chính là mãi mãi ở lại đây để được sống bên cạnh anh.

Có thể nói, quyết định đó đối với Nguyên Thục thật không dễ dàng. Từ bỏ gia đình, bè bạn, và những gì quen thuộc suốt mười bảy năm nay, thật nó không đành lòng. Nguyên Thục biết nó không thuộc về chốn này. Ở lại đây, đường đời nó sẽ rất dài và nhiều chông gai ở phía trước, nhưng vì Trịnh Khải, nó chấp nhận tất cả. Nó chấp nhận từ bỏ mọi thứ để được ở bên cạnh anh, nhìn thấy anh và ở trong vòng tay anh mãi mãi. Nó yêu Trịnh Khải, anh là mối tình đầu tiên cũng là duy nhất của nó. Nó cần có anh bên cạnh, cần có anh vỗ về, chở che. Nó yêu anh mãi mãi, không bao giờ thay đổi, và nó tha thiết mong rằng trái tim anh cũng chỉ có một mình nó mà thôi.

Nguyên Thục lại nhìn về phía cửa, hôm nay đã là ngày thứ tư nhưng Trịnh Khải vẫn chưa thấy đến. Một ý nghĩ nhen nhóm trong đầu Nguyên Thục khiến nó lo lắng. Lỡ đâu Trịnh Khải hết hạn ba ngày chưa tìm được cách nào để chứng minh thân thế của nó? Như thế cả đời nó sẽ không được gặp anh nữa và chôn chân mãi mãi trong cung cấm này hay sao. Nguyên Thục lắc đầu, nó cố gạt đi ý nghĩ không may ấy. Trịnh Khải đã nói anh sẽ minh bạch được xuất thân của nó, anh nói được tất sẽ làm được. Nó phải tin vào anh, tuyệt đối tin tưởng vào anh...

- Thưa Hồ tiệp dư, Thánh mẫu có lệnh cho vời người đến lầu Cần Chánh!

Nguyên Thục ngẩn phắt đầu lên khi một người lính gác bên ngoài cất tiếng. Hôm nay là ngày thứ tư, thời hạn ba ngày đã hết, Thánh mẫu cho vời nó, chẳng lẽ Trịnh Khải đã minh chứng được xuất thân của nó rồi sao. Nguyên Thục nửa mừng nửa lo. Nó vội chải tóc gọn gàng, xiêm áo chỉnh tề rồi theo hai người lính canh cửa đến lầu Cần Chánh. Trên đường đi, Nguyên Thục rất hồi hộp. Nó tự hỏi Trịnh Khải làm cách nào để chứng minh thân phận của nó trong khi nó là người từ tương lai hiện đại trở về quá khứ. Thậm chí nếu nó có nói thật chuyện này ra cho anh hay thì biết đâu anh tưởng nó nói đùa cũng không biết chừng.

Lầu Cần Chánh hiện ra trước mặt Nguyên Thục. Nhìn những bóng người thấp thoáng phía trong, Nguyên Thục liếm nhẹ môi. Ngày hôm nay, số phận nó như thế nào sẽ được quyết định. Bây giờ, nó chẳng khác nào bị cáo ra trước vành móng ngựa để cho các vị thẩm phán và bồi thẩm đoàn xét xử tội trạng. Khổ nỗi bên nguyên cáo thì nhiều mà luật sư bào chữa thì nó chẳng có ai cả. Nguyên Thục cố gắng trấn tĩnh trái tim đang đập nhanh trong lồng ngực. Nó hít vào một hơi thật sâu rồi bước vào lầu Cần Chánh.

Vừa thấy bóng dáng Nguyên Thục, tất cả mọi người đang có mặt trong lầu Cần Chánh đều dồn mục về phía nó. Trịnh Khải kia rồi, Nguyên Thục reo thầm trong bụng. Cuối cùng thì hôm nay nó cũng đã gặp được anh sau bao ngày nhung nhớ. Anh đang ngồi trên chiếc đôn dài, trước mặt là một bình trà ấm. Nhìn thấy Nguyên Thục, ánh mắt anh trở nên ấm áp. Anh nhìn nó mỉm cười. Nụ cười dịu dàng thân quen ấy làm Nguyên Thục chợt trở nên yếu đuối. Ở lầu Cần Chánh này nó không quen biết một ai, và không ai chấp nhận nó. Thánh mẫu ngồi chính giữa với gương mặt lạnh lùng, Dương thái phi và Ngọc Xuân thì không để lộ chút cảm xúc nào. Bá quan văn võ trong triều đều nhìn nó bằng đôi mắt xa lạ. Chỉ có Trịnh Khải là mỉm cười với nó, là người mà nó yêu nhất đang hiện diện nơi đây.

Trong lầu Cần Chánh mọi vị trí đều đã có chỗ, chỉ có một chiếc ghế lạc lõng đặt ở giữa đại sảnh. Nguyên Thục nắm chặt tay lại, nó biết đó là vị trí của mình trong buổi xét xử hôm nay, nhưng nó không muốn phải trân mình chịu đựng những cái nhìn soi mói ấy. Nguyên Thục tiến về chỗ ngồi thật chậm, thật chậm. Nó tha thiết nhìn Trịnh Khải. Nó muốn được ngồi ở bên cạnh anh,muốn được anh che chở trước những cái nhìn thiếu thiện cảm của mọi người. Trong lầu Cần Chánh, chỉ có anh là người thân thương duy nhất của nó mà thôi.

- Thục nhi, nàng lại đây!

Không biết có hiểu được mong muốn của nó hay không mà Trịnh Khải nhẹ nhàng lên tiếng. Nghe được giọng nói dịu dàng ấy, gương mặt Nguyên Thục rạng rỡ như hoa mới nở. Nó vội vàng nắm lấy bàn tay đang giơ ra của Trịnh Khải rồi ngồi xuống bên cạnh anh, trong lòng vô cùng ngọt ngào. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Ngọc Xuân ngoài mặt tuy không để lộ cảm xúc nhưng trong lòng đang xao động. Nhìn Nguyên Thục ngồi nép bên cạnh Trịnh Khải, Thánh mẫu nhíu mày. Chỗ ngồi của Nguyên Thục lẽ ra phải ở giữa đại sảnh để cho bà tiện xét xử, nhưng cháu của bà lại muốn thế thì bà cũng không còn cách nào khác. Hôm nay là hạn cuối cùng, Trịnh Khải đã tìm ra được chứng cứ để chứng minh xuất thân của Nguyên Thục không liên quan gì đến cô gái áo đỏ lạ mặt hôm ấy. Bà cũng tò mò muốn biết con bé này thật ra là ai, vào phủ chúa có mục đích gì để bị người ta đả thương nặng nề đến thế.

- Đoan Nam vương! Tối hôm trước người đã nói với ta rằng đã tìm được lai lịch xuất thân của Hồ tiệp dư. Thời hạn ba ngày đã hết, trước mặt bá quan văn võ trong lầu Cần Chánh, mong người hãy thỏa ý ta, làm minh bạch xuất thân của Hồ tiệp dư.

Thánh mẫu cất giọng, bầu không khí đang xôn xao trong lầu liền im lặng. Ai nấy đều muốn biết Đoan Nam vương làm rõ thân phận của Nguyên Thục thế nào. Cũng trong tâm trạng nôn nóng như mọi người, Nguyên Thục nhìn Trịnh Khải. Nó cũng muốn xem anh làm thế nào để chứng minh lai lịch của nó, trong khi nó không phải người quá khứ. Gia đình không có, tên làng không có và sổ hộ khẩu của Nguyên Thục cũng không có nốt, Trịnh Khải sẽ phải làm sao đây.

Trước sự nôn nóng của mọi người, Trịnh Khải lại vô cùng bình thản. Anh lướt mắt về phía ngưỡng cửa, giọng nhẹ như cơn gió.

- Những gì Thánh mẫu và mọi người muốn biết, chỉ có một người giải đáp được, đó chính là đạo hoa vương, người đã đưa Nguyên Thục tới Lượng phủ.

Lời Trịnh Khải vừa dứt, tức thì một con gió nhẹ nhàng thổi vào lầu Cần Chánh, khiến những sợi tóc của Nguyên Thục bay phất phơ. Đạo hoa vương. Đạo hoa vương Trần Ưu Phong! Nguyên Thục thốt lên, gần như là kinh ngạc. Nó gần như là quên mất cái tên này, nay nghe Trịnh Khải nhắc đến nó mới sực nhớ ra. Quả đúng như thế, đạo hoa vương Trần Ưu Phong ai ai cũng biết, và chính anh là người đã đưa nó đến phủ chúa làm cung nữ. Cách đây gần năm, đạo hoa vương đã không từ mà biệt. Cơn gió ấy lang thang khắp nơi, không ai có thể tìm thấy chốn nào là nơi gió nghỉ chân, ấy vậy mà không hiểu bằng cách nào đó, Trịnh Khải lại tìm được. Tìm được Ưu Phong đồng nghĩa với việc thân thế của nó sẽ được sáng tỏ. Nguyên Thục cắn môi, nó liếc về gương mặt lạnh như tượng của Thánh mẫu. Nếu bà mà biết lần đầu tiên Ưu Phong gặp nó là ở lầu xanh thì chắc chắn bà sẽ không cho Trịnh Khải lập một cô gái có thân phận thấp kém như thế làm Vương phi. Tai hại hơn, nếu bà bắt nó không được ở bên cạnh Trịnh Khải để tránh ảnh hưởng đến thanh danh của anh thì Nguyên Thục chắc chắn sẽ hận Ưu Phong suốt đời.

Không biết đến những lo lắng của nó, cơn gió ưu phiền ấy vẫn nhẹ nhàng thổi vào lầu Cần Chánh. Ngay trước ngưỡng cửa, một tà áo trắng quen thuộc xuất hiện. Trong làn sáng mờ ảo, tà áo ấy bay phấp phới, trắng như một áng mây trời. Nhìn thấy tà áo trắng ấy, mọi người trong lầu Cần Chánh đều đổ mắt về phía ngưỡng cửa. Một chàng trai thanh tú nhẹ nhàng tiến vào. Ánh mắt tựa như cười, tựa lại không, bờ môi thanh tú điểm một nụ cười trên gương mặt phong sương. Đó không ai khác chính là nhân vật Trịnh Khải đã nhắc tới, Đạo Hoa vương Trần Ưu Phong.

Lần trước rời khỏi phủ chúa, Ưu Phong đi rất gấp gáp, bây giờ quay trở lại, bước chân anh có phần ung dung hơn. Vì đã quá quen với chuyện mọi người đều tập trung nhãn quang về phía mình, Ưu Phong thản nhiên như chốn không người. Anh tiến tới gần Thánh mẫu, tay khấu chào và cất giọng nhẹ nhàng.

- Ưu Phong vấn an Thánh mẫu. Đã lâu không gặp, người vẫn bình an chứ?

Thánh mẫu khoát tay miễn lễ rồi mỉm cười. Nụ cười hiếm hoi của bà trong buổi sáng ngày hôm nay.

- Ta vẫn khỏe, đa tạ lời thăm hỏi của người.

Ưu Phong mỉm cười. Anh bước đến chiếc ghế trống duy nhất ở trong lầu Cần Chánh rồi ngồi xuống. Từ khi Ưu Phong đến, hai nàng cung nữ đứng quạt cho Thánh mẫu cứ nhìn theo anh không rời, đến khi bắt gặp ánh mắt của anh, hai nàng cung nữ thẹn thùng cuối đầu xuống. Trong giang hồ, danh tiếng của Tử phụng cung ai ai cũng biết. Trong Tử phụng cung lại toàn những thiếu nữ xinh đẹp hút hồn với tay nghề ủ rượu, ướp trà nổi tiếng. Hôm nay nhìn thấy cung chủ Tử phụng, ai nấy đều cảm thấy mở rộng tầm mắt. Với thần thái bất phàm và gương mặt thanh tú đó, mọi người đều cảm thấy không thể đắc tội với con người này, mà chỉ có kính nhường mà thôi.

Ưu Phong vừa ngồi xuống, chẳng biết vô tình hay cố ý mà đánh mắt về phía Nguyên Thục. Bắt gặp nụ cười của anh, Nguyên Thục giật thót một cái. Dù biết đó là phép lịch sự, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy dường như anh đang cười mình. Anh đã gặp nó ở lầu xanh, sau đó mang nó đến phủ chúa, có lẽ anh cũng không nghĩ rằng cô gái ấy sẽ lên đến chức Hồ tiệp dư, để rồi ngày hôm nay Trịnh Khải lại nhờ anh đến để làm rõ xuất thân của nó. Nhưng Ưu Phong sẽ lấy gì chứng minh đây khi anh cũng không biết nhiều về Nguyên Thục. Chẳng lẽ anh lại đi nói với mọi người rằng anh đã gặp nó ở lầu xanh sao. Nếu thế thì... Chúa ơi, xin đừng.

- Đạo Hoa vương, hôm nay ta mời người đến đây có chuyện gì, chắc hẳn người cũng đã biết rồi, phải không?

Nguyên Thục lo lắng liếc mắt về phía Ưu Phong khi Trịnh Khải lên tiếng. Ưu Phong và Trịnh Khải là hai người bạn tri kỷ, nhưng trước mặt bá quan văn võ thì cả hai đối xử với nhau theo phép tắc bình thường, tránh để mọi người cho rằng Ưu Phong vì có mối thâm giao với anh mà nói khéo cho Nguyên Thục. Không đáp lại ánh nhìn của Nguyên Thục, Ưu Phong đáp lời.

- Phải! Dù sao Hồ tiệp dư cũng là người tôi đưa đến, nếu không làm minh bạch mọi chuyện thì quá oan ức cho Tiệp dư rồi.

Nguyên Thục cắn môi khi Ưu Phong nhắc đến hai chữ " Tiệp dư" một cách ẩn ý. Nó mặc kệ anh nghĩ về nó như thế nào, nhưng nếu anh không những không làm sáng tỏ được thân phận của nó mà lại còn làm mọi chuyện đổ bể thì nó sẽ oán hận anh suốt đời. Dường như muốn kéo dài thời gian ra để Nguyên Thục hồi hộp chơi, Ưu Phong quét mắt về phía Thánh mẫu, miệng tươi cười.

- Thánh mẫu, chẳng hay tôi có thế biết Hồ tiệp dư đã gây ra chuyện tày đình nào mà khiến cho Đoan Nam vương phải đích thân mời tôi đến làm sáng tỏ thân phận cô ấy không?

- Chẳng giấu gì người, cánh đây ba ngày, Hồ tiệp dư đã bị một cô gái giả dạng vũ công đến đển hành thích. Hồ tiệp dư đã bảo rằng không quen biết gì cô gái ấy, thế nhưng nếu không quen biết và không có oán cừu gì, thì tại sao cô gái áo đỏ lại bất chấp nguy hiểm, đột nhập vào phủ chúa, đi hành thích cô ta. Cho nên ta mới nghi ngờ Hồ tiệp dư trước đó đã có ân oán với người giang hồ. Hồ tiệp dư đang trong thời kỳ tranh chấp ngôi vị Vương phi, ta không muốn phủ chúa lại có một Vương phi không rõ lai lịch xuất thân, đã thế còn dính líu đến ân oán giang hồ như thế. Nay đạo hoa vương đã đến, ta cũng mong chuyện này kết thúc, tránh nghi ngờ cho cả đôi bên.

Thánh mẫu cười nhạt khi nhớ đến buổi tiệc bị phá hoại. Giọng nói của bà đều đều, không cảm xúc, dường như chẳng có chút thú vị nào khi nhắc đến Nguyên Thục. Ưu Phong ngồi yên nghe Thánh mẫu thuật lại mọi chuyện. Vốn trong thư Trịnh Khải đã kể hết đầu đuôi, nhưng anh vẫn muốn nghe từ miệng của Thánh mẫu hơn. Khi Thánh mẫu dứt lời, Ưu Phong liếc mắt về phía Nguyên Thục. Thấy anh nhìn mình, Nguyên Thục mấp máy môi, đôi mắt nó long lanh, khẩn cầu Ưu Phong đừng nói chuyện anh đã gặp nó trong lầu xanh cho Thánh mẫu biết. Thái độ bồn chồn của nó khiến anh muốn cười nhưng lại phải nghiêm mặt. "Cô ngốc! Biểu hiện thế càng khiến cho mọi người chú ý mà thôi"

Thánh mẫu vừa thuật lại câu chuyện cho Ưu Phong nghe xong, bà liếc mắt về phía Nguyên Thục soi mói, lâu thật lâu rồi mới lên tiếng.

- Hồ tiệp dư, hãy nghe ta hỏi, phụ thân của ngươi tên gì, người ở đâu?

- Dạ thưa Thánh mẫu! Phụ thân của thần là Hồ Nguyên Hãn, người ở An Nhơn ạ.

Nguyên Thục thận trọng trả lời. Nó chỉ dám nhắc đến tên An Nhơn, do trước đây đã được Trịnh Khải giảng cho nghe một lần lúc nó muốn tìm hiểu địa lý thời xưa, chứ không dám nhắc đến tên xã, huyện vì sợ Thánh mẫu sẽ cho người điều tra. Trước câu trả lời của Nguyên Thục, Thánh mẫu gật đầu, bà tiếp tục truy tới.

- Mẹ ngươi tên gì? Người ở đâu? Họ hàng của ngươi thế nào? Có anh em ruột thịt gì?

Nguyên Thục mím môi. Những chuyện này nó chưa nghĩ đến, thế nên Thánh mẫu hỏi nó nhất thời chưa trả lời được. Đã bí mà còn trả lời, chắc chắn sẽ để lộ ra nhiều sơ hở cho Thánh mẫu vịn vào đó mà truy vấn. Nếu với môt người bình thường, Nguyên Thục đã có thể bịa đại một sơ yếu lí lịch cho mình, nhưng đối với Thánh mẫu thì lại khác. Bà có quyền uy, những câu trả lời của nó chắc chắn bà sẽ cho người tra xét lại, khi đó mọi chuyện sẽ đổ bể, lời nói dối của nó sẽ bị phơi bày và mọi chuyện coi như xong xuôi.

Nguyên Thục cắn môi. Mùi trầm hương thoang thoảng trong không khí khiến nó dần bình tâm trở lại. Nó quyết không thể để mất Trịnh Khải, nó quyết không thể để bất cứ ai ngăn cản nó đến với anh.

- Hồ tiệp dư, ta hỏi sao ngươi không trả lời?

Quan sát từng biểu hiện trên gương mặt Nguyên Thục, Thánh mẫu trầm giọng khi nó cúi đầu không đáp. Phải đóng kịch thôi. Nguyên Thục nhủ thầm. Nó từ từ ngước đầu lên, nhìn thẳng vào mặt Thánh mẫu, đôi mắt long lanh.

- Thánh mẫu, xin người tha thứ cho thần. Câu hỏi của người đã làm cho thần nhớ tới phụ mẫu, trong cơn xúc động thần chưa kịp trả lời mong người lượng thứ. Mẫu thân của thần cũng là người ở An Nhơn, là con gái của một gia đình giàu có trong vùng. Phụ thân của thần là thư sinh nhà nghèo, lại thêm vừa mới cử tang phụ mẫu nên đành phải đến ở nhà mẫu thân thần để dạy học. Qua những lần gặp gỡ, trao đổi thơ phú, mẫu thân và phụ thân của thần vô cùng tâm đầu ý hợp. Hai người dần nảy sinh tình cảm với nhau. Do mẫu thân là tiểu thư khuê các trong khi phụ thân của thần chỉ là một thầy đồ nghèo, ông ngoại của thần đã không chấp nhận tình duyên này. Kết quả là mẫu thân đã hy sinh tất cả, từ bỏ cuộc sống nhung lụa để đi theo phụ thân thần. Thấy con gái mình đã bỏ nhà đi, ông ngoại thần nổi giận từ con. Ngay cả anh em ruột thịt, họ hàng cũng không chấp nhận mẫu thân thần vì xấu hổ, phụ thân và mẫu thân phải chuyển đến Gia Lâm sinh sống. Cách đây khá lâu, khi hạ sinh ra tiểu đệ thần, mẫu thân và tiểu đệ đều không qua khỏi. Vì quá thương nhớ mẫu thân, phụ thân thần đã quyết định chuyển vào Thanh Hoa ở để tránh gặp cảnh cũ mà người xưa không còn. Năm ngoái, trên đường về Gia Lâm thăm mộ mẫu thân thì thần gặp Đạo Hoa vương. Đạo Hoa vương cùng với phụ thân thần bàn chuyện thi ca rất tâm đắc. Khi đến đất Gia Lâm, do bệnh cũ tái phát, lại thêm nỗi sầu khổ trong lòng, phụ thân thần đã thác theo mẫu thân. Em thần lại bị lạc mất, chỉ còn thần côi cút một mình trên thế gian. May là bây giờ đã tìm được nó, chứ nếu không thì...

Nguyên Thục càng kể, mắt càng rưng rưng. Những lời nó nói cũng có một phần tâm trạng của nó trong đó. Nhớ đến gia đình, bạn bè, nhớ đến nụ cười của cha và những món ăn ngon của mẹ, Nguyên Thục nghe cay nơi khóe mắt. Một thân một mình ở nơi xa lạ, sẽ không còn được gặp lại những gương mặt thân thương nữa, Nguyên Thục lòng đau như cắt. Nước mắt nó lăn dài trên má, rồi đọng lại, mặn đắng trên môi, nỗi nhớ nhà cứ theo đó dâng trào.

Thấy Nguyên Thục khóc thút thít khi nhắc đến chuyện gia đình, Trịnh Khải vòng tay kéo nó vào lòng. Bàn tay ấm áp của anh vuốt ve suối tóc đen mượt của nó. Sự dịu dàng ấy khiến nỗi buồn thương trong Nguyên Thục dần nguôi ngoai. Nó rúc vào lòng anh, bất kể hàng chục ánh mắt đổ dồn vào mình. Mùi trầm hương nhẹ nhàng từ áo anh tỏa ra khiến bờ vai Nguyên Thục thôi thổn thức. Những hờn giận, thương nhớ đong đầy của ba ngày nay đều tan.

Nhìn Nguyên Thục ở trong lòng Trịnh Khải, Thánh mẫu nhíu mày. Những cảm xúc trên gương mặt nó rất chân thật, tuyệt không có chút giả tạo, giấu diếm nào. "Chẳng lẽ những lời con bé ấy nói đều là sự thật?" Thánh mẫu tự hỏi. Câu chuyện của Nguyên Thục rất kín lẽ, không để lộ bất cứ sơ hở nào để bà bắt bẻ, nhưng nếu thế thì bà thật không cam lòng.

Ngồi đối diện Nguyên Thục, Ưu Phong để yên cho nó kể. Với đôi mày đang nhướng lên của Thánh mẫu, anh biết bà đang nửa tin nửa ngờ. Để viết tiếp câu chuyện này theo những lời Nguyên Thục kể nhằm đánh tan nghi hoặc trong lòng Thánh mẫu, Ưu Phong điềm đạm tiếp lời.

- Trong một lần ngao du đến Gia Lâm, tôi cùng ngồi chung thuyền với gia đình của Hồ tiệp dư, trò chuyện dăm ba câu mới biết phụ thân của Hồ tiệp dư là thầy đồ. Hồ tiệp dư sớm mồ côi mẹ, nhưng lại được phụ thân hết lòng dạy dỗ. Khi thuyền cập bến, phụ thân của Hồ tiệp dư đột ngột chuyển bệnh rồi qua đời. Không nỡ thấy Hồ tiệp dư thân nhi nữ dặm trường, phải rày đây mai đó, tôi đã quyết định giúp an táng thân phụ cô ấy và đưa Hồ tiệp dư cùng em gái đến phủ chúa để làm cung nữ. Thật không may, em gái của cô ấy bị thất lạc trên đường đi, chỉ còn một mình cô ấy đến đây. Tôi tự ý đưa Hồ tiệp dư vào phủ mà không báo lại với người, đó là lỗi của tôi, Hồ tiệp dư không có lỗi gì cả. Gia đình Hồ tiệp dư đã không còn ai, chỉ còn duy nhất một cô em gái, nay phủ chúa xem như chính là nhà của cô ấy, chẳng lẽ thánh mẫu nhẫn tâm đuổi cô ấy đi sao?

Ưu Phong vừa kể xong, Nguyên Thục không nén được đã thở phào nhẹ nhõm. Nó thầm cám ơn Ưu Phong không nhắc gì đến chuyện lầu xanh. Trước sự phối hợp ăn ý của Ưu Phong và Nguyên Thục, Thánh mẫu không thể tìm ra kẽ hở nào để bắt bẻ. Bà nhíu mày, lâu thật lâu rồi cất lời.

- Theo như ngươi nói ngươi là con gái của một thầy đồ. Đã là con gái của một thầy đồ thì tại sao lại dính đến ân oán riêng của giang hồ, lại bị một người lạ mặt không quen biết hành thích chứ?

- Thánh mẫu! Chuyện đó thì chính là lỗi tại tôi rồi.

- Lỗi tại ngươi?

- Thật ra, cô gái áo đỏ ấy là người đã thầm thương trộm nhớ tôi từ lâu.

Ưu Phong nói dứt, cả lầu Cần Chánh không nhịn được liền ồ lên một tiếng. Nguyên Thục lúc này đã rời khỏi lòng Trịnh Khải, nhưng tay nó vẫn níu lấy áo anh cho an tâm, nghe Ưu Phong nói về thân phận của cô gái áo đỏ, Nguyên Thục tròn xoe mắt vì không hiểu anh nói thật hay đang đùa. Không quan tâm đến phản ứng của mọi người, Ưu Phong thản nhiên tiếp lời.

- Cô gái ấy tên là Kim Thúy, là người của Huyết ly cung. Trong một lần đi du ngoạn ở Tây hồ, tôi đã tình cờ gặp cô gái ấy. Sau lần gặp gỡ, cùng đối ẩm dăm ba câu, cô gái đó tỏ lòng thương mến tôi, muốn cùng tôi nên duyên phu phụ. Bản tính tôi thích ngao du đây đó, muốn được thỏa chí tang bồng nên đã từ chối tấm lòng của cô ấy. Nào ngờ, cô ấy từ yêu chuyển sang hận, cô ấy đã thề độc rằng sẽ giết chết người con gái nào kề cận bên tôi. Trên đường đưa Hồ tiệp dư đến phủ chúa, tôi đã gặp lại cô gái ấy. Thấy tôi chăm sóc cho Hồ tiệp dư chu đáo, nên cô ấy đã tưởng Hồ tiệp dư là hồng nhan tri kỷ của tôi. Có lẽ sau khi điều tra được nơi ở của Hồ tiệp dư là phủ chúa, nhân dịp trong phủ tổ chức tiệc, thấy đó là thời cơ thích hợp, cô ta đã trà trộn vào để hành thích Hồ tiệp dư. Suy ra tất cả mọi chuyện đều là do tôi. Nếu tôi không gặp cô gái ấy, không làm cô ấy tổn thương, không làm cô ấy đau lòng, thì chuyện đáng tiếc này sẽ không xảy ra cho Hồ tiệp dư.

Những lời Ưu Phong vừa dứt, lầu Cần Chánh bắt đầu nổi lên những tiếng rì rầm. Ai cũng biết đạo hoa vương nổi tiếng đào hoa, có người con gái nào thầm thương là điều đương nhiên, từ yêu chuyển sang hận cũng là điều dễ hiểu. Vậy là thân thế của Hồ tiệp dư đã sáng tỏ, mọi người tuy chưa hết lo lắng nhưng cũng thở một hơi nhẹ nhõm.

Nguyên Thục đưa mắt nhìn Ưu Phong. Tuy biết câu chuyện kia là giả, nhưng nó thầm cảm ơn anh đã đỡ lời cho nó, phối hợp với nó, làm cho thân thế của nó được rõ như ban ngày. Ngồi bên cạnh Thánh mẫu, Ngọc Xuân đưa mắt về phía Nguyên Thục. Nhìn sự dịu dàng trên gương mặt Trịnh Khải mỗi khi nhìn nó, trái tim Ngọc Xuân vô cùng hụt hẫng. Nhớ lại câu chuyện kể của Nguyên Thục, Ngọc Xuân tính cất tiếng, nhưng Dương thái phi đã nhanh hơn cô một bước.

- Hồ tiệp dư, phụ thân ngươi là một thầy đồ, chắc ngươi cũng được phụ thân dạy dỗ rất cẩn thận. Chẳng hay ngươi có thể cho ta mở rộng tầm mắt một lần hay không?

92.

Ý kiến của Dương thái phi vừa nêu quả rất hợp lòng Thánh mẫu. Không chỉ có bà, mà mọi người trong lầu Cần Chánh cũng muốn xem tài ba và sở học của Nguyên Thục ra sao. Là một Vương phi, ngoài tiền hô hậu ủng còn phải có những tố chất cần thiết như thi ca, thơ phú và tài trí không kém ai. Vương phi như thế mới là người có thể làm chủ Hậu cung, mới là người có thể cùng chúa đảm việc nước, lo việc nhà.

Nguyên Thục im lặng, nó biết không thể thoái thác được một khi Dương thái phi đề nghị. Bên cạnh đó, Thánh mẫu đang đăm đăm nhìn nó, cứ như thể nếu nó từ chối bà sẽ có dịp vịnh vào đó để nghi ngờ và bác bỏ thân thế là con thầy đồ của nó. Nguyên Thục cắn môi. Nếu Dương thái phi muốn thử thách trí tuệ, câu đố thì nó còn có hy vọng mong manh chứ bà mà muốn nó làm thơ, chơi đàn hay đánh cờ thì thật nguy lắm thay.

Trong khi Nguyên Thục đang do dự, Dương thái phi lại nhẹ nhàng cất tiếng.

- Hồ tiệp dư, chẳng hay ngươi có đồng ý lời đề nghị đó không?

- Thưa thái phi, chẳng hay người muốn thần phải làm thế nào ạ?

Dương thái phi mỉm cười, bà khoát tay.

- Phụ thân của Hồ tiệp dư nói chuyện thi phú tâm đắc với đạo hoa vương, chắc chắn ông ấy là người rất tài hoa. Hồ tiệp dư là ái nữ, có lẽ đã được phụ thân chú tâm dạy dỗ cẩn thận. Hôm nay trước mặt bá quan, ta muốn Hồ tiệp dư giở sở học ra cho mọi người cùng biết một phen.

Dương thái phi nói thật chậm rãi để thăm dò phản ứng của Nguyên Thục . Thấy sắc mặt Nguyên Thục có chút thay đổi, bà nhếch môi, hỏi tới.

- Thế nào, Hồ tiệp dư? Sao ngươi không trả lời câu hỏi của ta, hay ngươi cho mọi người ở đây không xứng để ngươi trổ tài nghệ?

- Bẩm thái phi, người đã quá lời. Người có thể nói cụ thể là muốn thần làm gì không ạ?

Nguyên Thục nhắc lại câu hỏi ban nãy. Nó muốn biết đích xác Dương thái phi muốn nó giở "sở học" gì ra. Ở hiện đại, Nguyên Thục giỏi nhất là anh văn, mỗi lần kiểm tra bao giờ nó cũng đạt chín, mười điểm. Nếu Dương thái phi muốn, nó có thể đọc vanh vách một bài thơ bằng tiếng anh cho bà nghe. Nhưng ngặt nỗi đây là thời xưa, chỉ có văn thơ nôm và hán tự, nó mà đọc thơ bằng tiếng anh dám chắc sẽ bị mọi người cho là có vấn đề. Nguyên Thục còn đang nghĩ thì Dương thái phi đã tiếp lời.

- Hồ tiệp dư là con gái của thầy đồ, chắc là rất giỏi thi phú, ngươi hãy làm một bài thơ theo đề ta ra, như vậy được chứ?

Lại thơ với ca, người thời xưa có vẻ như ăn no rồi chỉ biết làm thơ hay sao ấy, Nguyên Thục than thầm. Nó chỉ than trong bụng thế thôi chứ ngoài mặt vẫn cố tươi cười. Làm thơ bình thường đã khó, huống chi Dương thái phi lại còn bắt nó làm thơ theo đề. Bình thường, Nguyên Thục cũng có thể làm võ vẽ hai, ba câu thơ, nhưng là theo kiểu thơ hiện đại như của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, chứ còn làm thơ hán việt, quy củ hẳn hòi thì nó chỉ có nước chào thua.

- Hồ tiệp dư? Ngươi thấy thế nào?

Thấy Nguyên Thục không trả lời, Dương thái phi nhướng mày hỏi tới. Biết mình không thể làm ngơ được nữa, Nguyên Thục đành gật đầu, trong bụng bắt đầu tính kế.

- Vâng! Xin thái phi ra đề ạ.

- Tốt lắm! Ngươi đã chấp nhận thì ta cũng sẽ không chậm trễ nữa. Đề thơ ta ra là "nhai thượng", ngươi hãy thử làm thử xem.

Dương thái phi vừa ra đề xong, mặt Nguyên Thục trở nên ngơ ngác. Nó không hiểu "nhai thượng" ở đây có nghĩa là gì, mà đã không hiểu thì làm sao có thể làm thơ.Thấy Nguyên Thục ngẩn ngơ, Trịnh Khải nhíu mày. Ngay từ lúc Nguyên Thục nói nó là con gái của thầy đồ lúc bị Thánh mẫu truy vấn, Trịnh Khải đã lấy làm lạ. Khi anh và nó quen nhau, chính anh là người dạy chữ cho nó. Nếu Nguyên Thục đã là con gái của thầy đồ thì tại sao chữ nhất bẻ đôi cũng không biết, và bây giờ lại tỏ ra ngơ ngác vì đề "nhai thượng" mà mẹ anh đưa ra. Mang nghi vấn trong đầu, nhưng vì có mặt mọi người Trịnh Khải không tiện hỏi. Sau này mọi chuyện êm xuôi, anh nhất định phải hỏi lai lịch của Nguyên Thục thật rõ ràng. Không nỡ để Nguyên Thục bóp trán suy nghĩ thêm nữa, Trịnh Khải nghiêng người nhắc khẽ, đủ để nó nghe.

- "Nhai thượng" nghĩa là trên đường phố.

Nguyên Thục mừng như bắt được vàng khi Trịnh Khải nhắc khẽ. Từ "nhai thượng" có nghĩa là ngoài phố, và bây giờ nó phải căng óc ra suy nghĩ bài thơ hán việt nào có từ "nhai thượng" trong đó. Làm thơ thì Nguyên Thục tất lẽ làm không được, nhưng đọc thì nó đã đọc nhiều. Giờ nó đành giở kế cũ, vay mượn mấy bài thơ hán việt của những nhà thơ khác để ứng phó vậy. Lý Bạch? Cái tên này Nguyên Thục gạch ngay từ đầu. Lý Bạch nổi tiếng thế, ai ai cũng biết thơ của ông ta, nay nó đem ra sử dụng là lộ liền ngay tức khắc. Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Từ là những nhà thơ mới, còn những nhà thơ xưa thì trong nhất thời nó không tài nào nhớ nổi, thật nản ơi là nản.

- Hồ tiệp dư? Thế nào? Ngươi có thể làm thơ được chứ.

- Dạ thưa... vâng ạ _ Nguyên Thục liếm môi. Trong những lúc đang phải tập trung suy nghĩ mà bị hối thúc, quả đúng là chuyện tệ nhất trên đời.

- Thế ngươi còn đợi gì mà không mau làm đi.

- Dạ...

Nguyên Thục ngập ngừng, lòng bàn tay nó ướt đẫm mồ hôi. Nếu nó làm thơ không được, Dương thái phi và Thánh mẫu sẽ phát hiện ra ngay lời nói dối của nó. Nếu bị phát hiện thì một mình nó chịu là đủ, nay để Ưu Phong bị liên lụy vì đã tung hứng cùng thì Nguyên Thục thật không muốn chút nào.

Đang trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc, Nguyên Thục chợt reo khẽ một tiếng khi nó nhớ đến một nhà thơ vĩ đại, đó chính là Hồ Chí Minh. Hồi còn ở hiện đại, nó đã đọc tập thơ nhật ký trong tù, trong đó, Bác có làm một bài thơ là "nhai thượng", quả thật vô cùng hợp với đề bài Dương thái phi mới ban ra. Nguyên Thục mừng như bắt được vàng. Chưa bao giờ nó thấy yêu Bác Hồ đến thế. Dù lòng mặc cảm tội lỗi vì đã lấy thơ của Bác ra dùng, nhưng trong tình thế cấp bách này thì nó chẳng còn kế sách gì khác hơn.

- Thưa thái phi, đề "nhai thượng" của người thần đã nghĩ ra ạ.

- Thế sao! Thế ngươi mau đọc lên cho mọi người nghe.

- Dạ vâng! Thần xin đọc bài thơ "nhai thượng"

Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian

Hán gian dữ ngã bản vô can

Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm

Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.

[Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian.

Hán gian, ta vốn thực vô can.

Vô can nhưng bị nghi là có.

Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.]

Nguyên Thục vừa đọc xong bài thơ, mọi người trong lầu Cần Chánh đều " ồ" khẽ một tiếng. Bài thơ "nhai thượng" của Hồ Chí Minh dịch nghĩa ra chẳng khác chi tình cảnh của Nguyên Thục bấy giờ. Nghe xong bài thơ Nguyên Thục "làm", Dương thái phi nhướng mày , còn Thánh mẫu thì chiếu tia nhìn lạnh lẽo vào mặt nó. Tuy không ai nói ai, nhưng mọi người đều hiểu ngầm Nguyên Thục mượn bài thơ để tỏ rõ oan khuất khi bị Thánh mẫu nghi ngờ có liên quan đến người trong giang hồ.

Nguyên Thục làm xong bài thơ, trong lầu Cần Chánh vang lên tiếng vỗ tay lốp bốp làm mọi người đưa mắt nhìn. Thì ra chủ nhân của những tiếng vỗ tay ấy là Ưu Phong. Anh lên tiếng tán thưởng, phớt lờ ánh mắt của Thánh mẫu đang soi về phía mình.

- Hay! Hay lắm! Bài thơ rất hay. "Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm". Tôi thích câu này.

Nguyên Thục nhoẻn cười cám ơn Ưu Phong. Nó đưa mắt nhìn Thánh mẫu và Dương thái phi, lòng vừa hồi hộp, vừa thích thú khi gương mặt của cả hai lạnh như tiền trong những tiếng thì thầm của mọi người. Ho khẽ một tiếng để bá quan văn võ im lặng, Dương thái phi nhìn Nguyên Thục, ánh mắt bà tõ rõ sự căm ghét, khiến Nguyên Thục giật mình.

- Giỏi lắm! Hồ tiệp dư quả được phụ thân dạy dỗ chu đáo. Thảo nào Đoan Nam vương lại yêu quý ngươi đến thế.

Lời nhận xét của Dương thái phi làm Nguyên Thục dè dặt, nó không biết bà đang khen hay đang mỉa mai nó. Trong khi Nguyên Thục còn đang suy nghĩ thì Dương thái phi lại tiếp lời.

- Thi phú của Hồ tiệp dư thật khiến ta mở rộng tầm mắt, nhưng ta còn có một yêu cầu nữa, chẳng hay ngươi có chấp thuận yêu cầu đó của ta hay không?

Nguyên Thục cắn môi do dự. Dương thái phi quả tình đang muốn gây khó cho nó. Lần thử tài thứ nhất là do nó ăn may mới qua được, còn lần thử tài thứ hai thì kết quả thế nào có trời mới biết. Người xưa hay có màn "cầm, kỳ, thi, họa", ban nãy Dương thái phi đã thử tài "thi" của nó, không lẽ bây giờ bà muốn thử "cầm, kỳ, họa" hay sao.

- Dương thái phi còn có yêu cầu gì ở thần ạ?

Nguyên Thục thận trọng hỏi, nó không thể nhận lời khi chưa biết yêu cầu còn lại của Dương thái phi là gì. Như đoán biết suy nghĩ của nó, Dương thái phi mỉm cười.

- Hồ tiệp dư chớ lo! Ta không muốn gây khó dễ cho ngươi, chẳng qua ta chỉ nhờ ngươi giải đáp một câu đố cho ta mà thôi.

- Được Dương thái phi yêu cầu là may mắn của thần, thần nào dám nói người gây khó dễ cho thần. Chẳng hay Dương thái phi muốn thần giải đáp câu đố gì ạ _ Nguyên Thục bình tĩnh đáp. Nó không dám nói Dương thái phi gây khó dễ cho nó, mà nó chỉ nghĩ thôi.

- Tối hôm qua, ta được một người thợ làm lồng đèn nổi tiếng trong kinh thành tặng cho ba cái lồng đèn hình bé gái.

Dương thái phi vừa nói vừa vẫy tay. Từ chiếc rèm trúc sau lầu Cần Chánh, một nàng cung nữ thướt tha tiến ra. Trên tay nàng ta là một chiếc khay có đặt ba cái lồng đèn hình bé gái được trang hoàng lộng lẫy. Nhìn thấy ba cái lồng đèn tinh xảo ấy, mọi người có mặt trong lầu đều dồn mắt về nàng cung nữ, còn Nguyên Thục thì ngơ ngác vì không hiểu Dương thái phi có mục đích gì khi đem ba chiếc lồng đèn đó ra.

Trước những cái nhìn hiếu kỳ của mọi người, nàng cung nữ cầm khay thong thả bước xuống phía dưới. Nàng ta lần lượt đưa lồng đèn cho mọi người xem xét. Đến lượt Nguyên Thục, nó cố mở to mắt để xem ba cái lồng đèn này có gì đặc biệt. Nhưng không, ba chiếc lồng đèn tinh xảo giống hệt nhau, giống từng đường nét và màu sắc. Điều khác biệt ở chúng chính là giá cả. Con thứ nhất một lượng bạc, con thứ hai hai lượng bạc và con thứ ba là ba lượng bạc. Màu sắc, kích cỡ, hình dáng đều giống nhau, chỉ có giả cả là khác. Chẳng lẽ yêu cầu của Dương thái phi là...

- Hồ tiệp dư, ngươi đã nhìn rõ rồi chứ! Ba chiếc lồng đèn này không hề khác nhau chi tiết nào, nhưng tại sao người thợ làm lồng đèn lại định giá khác nhau, ngươi có thể giải thích cho ta hiểu được không?

Nguyên Thục nhíu mày, quả nhiên yêu cầu của Dương thái phi là muốn nó giải đáp sự kỳ lạ ở ba chiếc lồng đèn. Ngắm nghía ba chiếc lồng đèn lại thêm một lần nữa, Nguyên Thục bóp trán, cố tìm xem chúng khác nhau ở điểm nào. Lầu Cần Chánh im phăng phắc, ai nấy đều chú tâm vào Nguyên Thục để xem nó giải đáp câu đố của người thợ làm lồng đèn ra sao. Thời gian trôi pha chậm chạp, vầng trán cao của Nguyên Thục đổ mồ hôi. Ngay vào giữa lúc bế tắc nhất, Nguyên Thục chợt phát hiện ra một điểm kỳ lạ ở ba con búp bê bằng đèn lồng này.

Không hiểu vì ngẫu nhiên hay cố ‎ý mà ba con búp bê này giống hệt nhau từ màu sắc, kích cỡ, hình dáng không sai mảy may nào, nhưng giá thành đính trên ba con búp bê lại khác nhau. Nguyên Thục săm soi từng chi tiết trên ba con búp bê một hồi lâu mới phát hiện ra ở chúng có một sự kỳ lạ, đó chính là trên đôi tai của mổi con búp bê đều có dùi một cái lỗ nhỏ xíu, nếu không tinh ý thì khó có thể phát hiện ra. Sau khi tìm ra điểm khác lạ, Nguyên Thục bắt đầu bóp trán suy nghĩ. Nó săm soi, sờ mó, quan sát tổng thể ba con búp bê một cách cẩn thận. Chẳng biết thời gian trôi qua bao lâu, nhưng dường như thời gian càng trôi thì Dương thái phi và Thánh mẫu ngồi trên cao có vẻ càng đắc ý. Thấy Nguyên Thục lay hoay, săm soi ba con búp bê mãi mà không giải đáp, Dương thái phi cất lời.

- Hồ tiệp dư, ngươi có thể giải đáp câu đố ấy được chứ?

Nguyên Thục không trả lời, nó đang dồn hết tâm trí vào cái lỗ bí ẩn trên tai con búp bê nên nhất thời không nghe Dương thái phi nói gì. Chợt, một điểm sáng lóe lên trong đầu Nguyên Thục khi nó quan sát con búp bê lại một lần nữa. Trước đôi mắt đang nhướng lên của Dương thái phi, Nguyên Thục ghé miệng nói nhỏ vào tai của một nàng cung nữ đang đứng hầu bên cạnh. Chẳng biết Nguyên Thục nói gì mà nàng cung nữ dạ khẽ một tiếng, rồi quay người đi.

Dõi theo nhất cử nhất động của Nguyên Thục, Dương thái phi ngạc nhiên khi thấy nó thì thầm vào tai nàng cung nữ nọ. Bà chưa kịp hỏi chuyện gì thì nàng cung nữ đã quay trở lại một cách nhanh chóng, trên tay nàng ta là ba cọng rơm vàng.

Nhận được cọng rơm nàng cung nữ dâng lên, Nguyên Thục rạng nét mặt. Nó cẩn thận đút cọng rơm vào chiếc lỗ nhỏ trên tai từng con búp bê, sau đó nó vui mừng khi phép thử cọng rơm đã mang lại ba kết quả khác nhau. Con búp bê thứ nhất, cọng rơm chìa ra khỏi tai nọ. Con búp bê thứ hai, cọng rơm chìa ra khỏi miệng, và con búp bê thứ ba cọng rơm hoàn toàn biến mất tiêu.

- Hồ tiệp dư, ngươi đã có câu trả lời rồi chứ?

Đợi lâu mà không thấy Nguyên Thục lên tiếng, Dương thái phi sốt ruột cất giọng. Lần này thì Nguyên Thục ngước mặt lên, tươi cười

- Thưa vâng, thái phi. Thần đã tìm ra câu trả lời.

Dương thái phi hơi ngạc nhiên khi nghe Nguyên Thục trả lời đầy tự tin. Nhìn ba chiếc lồng đèn trong tay Nguyên Thục, bà hỏi, giọng không giấu tò mò.

- Thế điểm khác nhau giữa ba chiếc đèn lồng ấy là gì.

- Dạ thưa, điểm khác nhau giữa ba chiếc đèn lồng hình búp bê này là ở cái lỗ trên cái tai ạ.

Nguyên Thục chỉ vào cái lỗ nhỏ trên tai của ba con búp bê rồi tiếp tục giải thích.

- Ba chiếc đèn lồng hình búp bê này vốn giống nhau về họa tiết, màu sắc, hình dáng và kích cỡ, nhưng tại sao giá của chúng lại khác nhau đến thế, tất cả là do cái lỗ này. Sau khi quan sát kỹ càng ba con búp bê, thần phát hiện trên tai của mỗi con đều có đục một chiếc lỗ nhỏ. Muốn thử xem người thợ làm lồng đèn đục lỗ để làm gì, thần mới nhét ba cọng rơm vàng vào các lỗ trên tai ba con búp bê. Kết quả như Dương thái phi và mọi người thấy đấy, cùng một cái lỗ, nhưng đường ra của cọng rơm vàng khác nhau.

Nguyên giơ cao ba con búp bê cho mọi người trong lầu Cần Chánh thấy rõ vị trí của cọng rơm, rồi quay về Dương thái phi, mỉm cười.

- Cọng rơm đã xuyên qua hai tai của con búp bê thứ nhất. Con búp bê này tượng trưng cho loại người nghe tai nọ xọ tai kia, lời nói thoảng qua tai. Nó tượng trưng cho loại người lời nói gió bay cho nên giá rẻ nhất. Con búp bê thứ hai thì cọng rơm chìa ra ngoài miệng, như vậy con búp bê này tượng trưng cho loại người hay ton hót, mách lẻo,tkhông đáng tin cậy vì thế giá cả vừa phải. Con búp bê thứ ba thì cọng rơm lọt hẳn vào bụng, tượng trưng cho người thận trọng, nói gì đều ghi nhớ và bảo mật thông tin, có thể tin tưởng, như vậy giá nó mắc nhất. Thưa thái phi, chẳng hay người có hài lòng với câu giải đáp này của thần không?!

Nguyên Thục vừa dứt lời, lầu Cần Chánh liền lao xao. Ai nấy đều vỡ lẽ ra điểm mấu chốt về giá cả của những con búp bê nên gật đầu tán thưởng. Ngự trên cao, Dương thái phi đưa mắt nhìn Thánh mẫu, cả hai thử thách bà đưa ra Nguyên Thục đều đã vượt qua. Cả lầu Cần Chánh bây giờ đã bắt đầu khen Nguyên Thục vì sở học của nó, điều đó khiến Dương thái phi không hài lòng. Bà mở miệng, tính nói câu gì đó thì Trịnh Khải bất chợt lên tiếng.

- Mẫu thân, Thục nhi vì thực hiện ý muốn của người nên đã giở sở học ra. Qua hai yêu cầu trên, mẫu thân có lẽ đã công nhận tài học và trí tuệ của Thục nhi không kém cạnh ai, phải không thưa mẫu thân?

Trịnh Khải lên tiếng hỏi, nhưng Dương thái phi hiểu rằng đó là sự khẳng định của anh. Giờ nếu bà lại tiếp tục làm khó Nguyên Thục, thì Trịnh Khải sẽ không hài lòng, và bá quan văn võ trong triều sẽ nghĩ bà cố tình bắt bẻ nó. Dương thái phi nhìn Trịnh Khải, anh đáp lại ánh mắt của bà bằng một nụ cười. Bao giờ cũng thế, mỗi khi Trịnh Khải mỉm cười với Dương thái phi, bà đều cảm thấy lòng mềm lại. Con trai bà đối xử với ai cũng dịu dàng, nhưng sau vẻ dịu dàng đó là một cá tính cương quyết, một khi nó đã muốn thì không ai có thể trái lời. Lần này cũng thế, trước biểu hiện ấy của Trịnh Khải, Dương thái phi ngập ngừng. Bà yêu con trai bà, bà không muốn nó phải thêm ưu phiền, phải thêm nhiều gánh nặng lo toan trong khi việc nước đã quá bộn bề.

Dương thái phi thở dài, bà đưa mắt nhìn Thánh mẫu hội ý. Đáp lại ánh mắt của bà là nụ cười của Thánh mẫu. Nụ cười ung dung, điềm nhiên của bà khiến Dương thái phi ngạc nhiên. Trong giây phút ấy, chợt nhớ ra một vấn đề nào đó, Dương thái phi gật đầu và mỉm cười cùng Thánh mẫu. Bây giờ thì bà không cần phải thử tài sở học của Nguyên Thục nữa làm gì.

- Đoan Nam vương nói rất đúng. Hai yêu cầu của ta, Hồ tiệp dư đã hoàn thành xuất sắc. Ta công nhận Tiệp dư có tài hơn người.

Những lời Dương thái phi rõ ràng đang khen nó, khiến Nguyên Thục vô cùng mát ruột. Nó bẽn lẽn, hỏi lại Dương phi với giọng ngập ngừng.

- Vậy... Vậy thân thế của thần...

- Thân thế của ngươi vậy là đã minh bạch rõ ràng, ta cũng không còn gì để tra xét. Ngươi có thể tự do.

Thánh mẫu trả lời thay cho Dương thái phi. Ngay sau khi hai chữ "tự do" vừa thoát khỏi miệng Thánh mẫu, Nguyên Thục reo khẽ một tiếng. Sau bao ngày hồi hộp chờ đợi, cuối cùng nó cũng được minh oan. Sau bao ngày bị giam cầm, cuối cùng Nguyên Thục cũng được tự do. Bây giờ nó có thể tung tăng khắp phủ chúa, bây giờ nó có thể ở bên cạnh Trịnh Khải hằng ngày mà không còn phải nếm mùi tương tư.

Nguyên Thục biết, để có được kết quả ngày hôm nay, người đầu tiên nó biết ơn chính là Trịnh Khải. Anh đã không quản khó khăn, vất vả, ngược xuôi để mời Ưu Phong đến phối hợp với nó, làm Thánh mẫu không có cớ để bắt bẻ nó nữa. Nguyên Thục thấy lòng bồi hồi, nó khẽ ngước nhìn anh. Ba ngày không gặp mà sao trông anh thay đổi quá. Đôi mày kiếm hơi chau lại, ánh mắt sâu thẳm hun hút nhuốm ưu phiền. Có lẽ nó đã làm liên lụy đến anh nhiều quá, đã làm anh lo toan nhiều quá. Ba ngày qua nó chỉ biết ngồi ở trong phòng hờn dỗi anh, oán trách anh sao không đến thăm nó, sợ anh bỏ rơi nó mà không hề nghĩ suy đến những vất vả, ngược xuôi mà anh phải trải qua để tìm kiếm Ưu Phong về minh oan cho mình. Nó chỉ biết giận dỗi anh, hờn trách anh, mà chưa từng lo lắng cho anh. Nó chỉ biết tủi hờn và cô đơn mà không hề nghĩ anh cũng phải trải qua những cảm giác như nó. Nó thật ích kỷ và vô tâm biết bao.

Nghĩ đến đó, khóe mắt Nguyên Thục chợt cay cay. Trịnh Khải là một vị chúa, anh còn biết bao công việc bộn bề phía trước, còn phải có trách nhiệm với đất nước, muôn dân. Anh phải điều khiển đất nước trong thời đại nhiễu nhương với biết bao khó khăn, thế mà giờ đây anh lại còn gánh thêm một mối lo khác, đó chính là nó. Trong giây phút ấy, Nguyên Thục cảm thấy thương Trịnh Khải biết bao. Nó vô hình chung đã trở thành gánh nặng của anh, đã khiến anh phải bận tâm thật nhiều. Trong khi anh phải quan tâm nhiều đến nó, lo lắng và chăm sóc cho nó, thì nó lại chưa làm được gì cho anh. Đã không làm gì được cho anh thì thôi, lại còn trở thành gánh nặng của anh, Nguyên Thục cảm thấy mình sao quá nhỏ bé và bất lực đến vô cùng.

Trong ba ngày qua, không có nó ở bên, Trịnh Khải ăn uống thế nào, anh ngủ có ngon không, có còn hay thức khuya như trước không. Nguyên Thục thấy nhói lòng, nó khẽ chạm vào bàn tay gầy của anh, khẽ gạt những sợi tóc lòa xòa trên vầng trán ưu tư của anh. Nghĩ đến trách nhiệm anh đang phải gánh, nghĩ đến những phiền muộn mà nó mang đến cho anh, Nguyên Thục cảm thấy đau lòng. Khi anh tìm cách minh bạch thân thế của nó, anh có gặp phải trở ngại nào không, có gặp nguy hiểm gì không. Cô gái áo đỏ kia đã nhắm vào nó, nhưng liệu sâu xa trong đó cô ta có nhắm đến Trịnh Khải không. Anh có trở thành mục tiêu của cô ta không, có bị cô ta làm hại không. Nếu thế, thì nó phải làm như thế nào để bảo vệ anh, nó làm như thế nào để trở thành bờ vai để anh dựa vào mỗi khi mệt mỏi, hay nó chỉ biết dựa vào anh, nhõng nhẽo với anh, hờn dỗi anh mà thôi.

Nguyên Thục càng nghĩ, càng cảm thấy buồn vô hạn. Trịnh Khải quan tâm tới nó nhiều quá, chăm sóc cho nó nhiều quá, vậy mà nó lại chẳng có gì cho anh. Vương vị không có, thực quyền không có. Nó suốt ngày chỉ biết dựa dẫm vào anh, chỉ biết lo lắng, bất an khi không thấy anh đâu, chỉ biết hờn dỗi, tủi thân thân khi không thấy anh bên cạnh nó. Nguyên Thục mím môi. Nó tự nhủ phải cố gắng lên, không được yếu lòng, cố gắng giảm mọi gánh nặng của anh từ nó. Nó phải cố gắng tự chăm sóc bản thân, tự bảo vệ bản thân, tự giải quyết những vấn đề cá nhân để anh không phải phiền lòng, bận tâm vì nó mà có thể chuyên tâm đến việc trị nước.

Trước đây nó chỉ biết yêu Trịnh Khải, chỉ biết nói yêu anh mãi mãi, nhưng giờ nó nhận ra đó chỉ là lời nói suông của nó. Nó chỉ biết nói mà không làm gì cả. Nó yêu anh nhưng chưa làm được gì vì anh cả. Nó yêu anh nhưng lại khiến anh gặp thêm nhiều rắc rối, muộn phiền. Nó yêu anh nhưng sự yếu đuối của nó chẳng khác nào lại chất lên vai anh gánh nặng tình cảm, trong khi anh đã phải oằn lưng với biết bao trách nhiệm nặng nề. Trước kia là thế, nhưng bây giờ nó sẽ cố gắng, sẽ cố gắng thật nhiều vì anh, sẽ tự tin và quyết đoán hơn. Nó sẽ không lo âu nghĩ ngợi vẩn vơ và tuyệt đối tin tưởng vào anh, người mà nó yêu nhất, và muốn bảo vệ nhất trên đời.

Nguyên Thục hít vào một hơi thật sâu. Nó đã có quyết định, và bây giờ nó phải vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn để thực hiện được những điều nó vừa quyết định. Thánh mẫu có làm khó dễ nó cũng được, Dương thái phi không chấp nhận nó cũng chẳng sao. Nhưng để Trịnh Khải được yên tâm, bước đầu tiên của nó là phải làm thân với hai người này. Thánh mẫu là bà nội anh, Dương thái phi là mẹ của anh, và nó là người anh yêu. Đối với Trịnh Khải, ai cũng rất quan trọng, thế nên Nguyên Thục sẽ làm anh vui bằng cách thân thiện, tiếp xúc với Thánh mẫu và Dương thái phi nhiều hơn. Nếu hóa giải được tình cảm của họ, nếu cả ba có thể cảm thông và xích lại gần nhau, thì chẳng phải đó chính là điều Trịnh Khải mong muốn nhất, là điều anh cảm thấy vui nhất ư?

Nguyên Thục nắm bàn tay ấm áp của Trịnh Khải, nó xiết chặt tay anh, lòng thầm nhủ cho dù bất có chuyện gì xảy ra, nó cũng sẽ không rời bỏ bàn tay ấm áp này. Hơi ngạc nhiên vì sự chủ động của Nguyên Thục, Trịnh Khải đưa mắt nhìn nó. Nhìn gương mặt rạng ngời và nụ cười tươi tắn trên môi Nguyên Thục, lòng Trịnh Khải trở nên nhẹ nhõm. Anh lồng những ngón tay của mình đan vào tay Nguyên Thục. Ba ngày qua không nhìn thấy nụ cười đáng yêu này, anh thật sự cảm thấy trống vắng biết bao.

Nếu như đây là ở ngự lâu của Trịnh Khải, Nguyên Thục chắc chắn sẽ giang tay ôm anh vào lòng, bao bọc anh bằng sự ấm áp của nó, thế nhưng đây là lầu Cần Chánh, có đông đủ bá quan văn võ nên Nguyên Thục chỉ có thể nắm chặt lấy tay anh mà thôi.

- Mọi việc như thế đã xong! Thánh mẫu, Đoan Nam vương, Ưu Phong tôi có việc phải đi. Tôi xin cáo từ trước, hẹn lần sau sẽ gặp lại.

Nguyên Thục như bừng tỉnh khi Ưu Phong nhẹ lên tiếng. Nó bẽn lẽn nhìn anh, đôi mắt long lanh thay cho lời cám ơn. Ban nãy vì chỉ nghĩ đến Trịnh Khải, Nguyên Thục quên mất Ưu Phong. Bây giờ anh lên tiếng, nó mới nhớ ra rằng anh cũng góp công không nhỏ trong chuyện nó được tự do, nó đúng thật là vô tâm mà.

- Cám ơn anh, Ưu Phong. Cám ơn anh nhiều lắm.

Ưu Phong mỉm cười khi Nguyên Thục cảm kích. Khấu chào Thánh mẫu và Dương thái phi, Ưu Phong gật đầu với Trịnh Khải, anh xoay bước trở ra ngoài. Khi Ưu Phong đi được vài bước, Nguyên Thục như chợt nhớ ra điều gì đó, nó vội vàng lên tiếng.

- Ưu Phong! Bách Nhật đang ở Quy Nhơn đó.

Lời nhắn của Nguyên Thục rơi tõm vào thinh không. Ưu Phong đã lướt ra ngoài cửa, tà áo trắng hòa tan trong ánh sáng, khiến cả người Ưu Phong như phiêu diêu, vô định hệt như cái tên của anh. Nguyên Thục cắn môi, chẳng biết Ưu Phong có nghe thấy những gì nó nói hay không, nhưng nó cảm thấy cần phải nói điều ấy với anh. Tại sao thì Nguyên Thục không biết, nhưng mỗi khi nhớ đến gương mặt dịu dàng, pha chút nỗi buồn phảng phất của Bách Nhật khi trở về từ Hương sơn, nó thấy lấn cấn. Bách Nhật vốn kín đáo, có nỗi buồn cũng không thổ lộ với ai, cái gì cũng luôn chôn sâu vào lòng trong khi lại tận tâm giải tỏa ưu phiền của bạn bè. Nếu như ngày hôm đó, Bách Nhật không trở về một mình mà bên cạnh còn có Ưu Phong thì liệu Bách Nhật có buồn như thế không, Nguyên Thục cũng không biết. Nếu Bách Nhật thật sự có cảm tình với Ưu Phong thì chỉ rước khổ vào thân. Ưu Phong là cơn gió, lang thang vô định không biết nơi nào dừng chân, Bách Nhật chỉ là một cô gái nhỏ bé, mỏng manh, làm cách nào để tìm đến với gió đây. Nguyên Thục càng nghĩ, càng thấy thương cho Bách Nhật vô cùng.

- Hồ tiệp dư, nhân đây ta cũng muốn công bố với ngươi và tất cả mọi người một chuyện.

Đợi cho Ưu Phong đi khuất, Thánh mẫu mới từ tốn lên tiếng để lầu Cần Chánh thôi rầm rì. Đang ngồi ngẩn ngơ lo nghĩ cho Bách Nhật, Nguyên Thục giật mình khi nghe những lời Thánh mẫu vừa nói. Giọng nói của bà lộ vẻ nghiêm trang, gương mặt trắng như tượng pha chút thích thú và vui vẻ, một biểu hiện mà trước nay Nguyên Thục chưa thấy bao giờ. Điều đó làm cho nó có dự cảm không lành

- Thưa Thánh mẫu, người muốn công bố chuyện gì ạ?

Cả lầu Cần chánh im lặng do muốn biết Thánh mẫu cần công bố chuyện gì mà chưa bãi tọa. Trịnh Khải cũng ngạc nhiên như Nguyên Thục. Chuyện thân thế của Nguyên Thục đã rõ ràng. Thánh mẫu và mẹ anh cũng đã công nhận tài trí và trả tự do cho Nguyên Thục thì còn muốn công bố chuyện gì. Chẳng lẽ Thánh mẫu lại nghĩ ra những chuyện khác để gây khó dễ cho Nguyên Thục sao.

Trong khi Trịnh Khải đang suy nghĩ, Thánh mẫu lại lướt mắt lên từng khuôn mặt của mọi người, sau đó dừng lại ở Nguyên Thục rất lâu, khiến nó chột dạ. Đang khi Nguyên Thục tự hỏi không biết Thánh mẫu muốn công bố chuyện gì thì sau tấm rèm ngọc, một nàng cung nữ bê một cái hũ bọc vải điều đặt lên chiếc bàn trước mặt Thánh mẫu. Nhìn thấy cái hũ đỏ ấy, trái tim Nguyên Thục chợt đập nhanh một nhịp. Đó chính là cái hũ dùng để bỏ phiếu phân định thắng thua giữa nó và Ngọc Xuân, Thánh mẫu đem ra để làm gì, chẳng lẽ bà muốn...

- Hồ tiệp dư, ngươi còn nhớ cuộc tranh cử Vương phi giữa ngươi và Ngọc Xuân chứ?

Nguyên Thục liếm đôi môi khô nứt của mình, nó thận trọng đáp lời.

- Thưa vâng, thần không quên.

- Ngươi đã không quên, vậy ngươi có biết hôm nay chính là ngày hạn một tháng đã kết thúc không.

Thánh mẫu vừa nói vừa mỉm cười, nụ cười của bà nở rộng dưới ánh nến. Nguyên Thục mở to mắt khi những lời Thánh mẫu vừa vọng vào tai nó. Hôm nay là ngày cuối cùng của thời hạn một tháng, nó bất ngờ không phải vì đã hết hạn mà là vì Thánh mẫu vẫn theo như ước định ban đầu cho mở phiếu ngay khi thời hạn đã hết. Ba ngày trước nó bị hành thích, bị giam lỏng trong phòng, lẽ ra Thánh mẫu phải cho ngừng lại cuộc tranh đua để làm sáng tỏ lai lịch của nó trước mới phải chứ. Nó bị giam, mọi hoạt động tranh cử đều bị đông cứng, thanh danh bị nghi ngờ, trong khi Ngọc Xuân bên ngoài tích vẫn tiếp tục cuộc tranh đua. Khỏi cần phải nói, chắc chắn phần thiệt sẽ nghiêng về nó, cớ sao Thánh mẫu lại xem như chưa từng có chuyện gì xảy ra?

- Thưa Thánh mẫu, thần không hiểu. Hôm nay đúng là kết thúc thời hạn một tháng, nhưng vì có sự cố xảy ra đối với thần, thần mong Thánh mẫu hãy gia hạn thêm thời gian ạ.

Nguyên Thục cố gắng thuyết phục Thánh mẫu với lời lẽ chân thành nhất. Nào ngờ, khi nghe những lời trần tình của Nguyên Thục, Thánh mẫu nhếch môi lãnh đạm.

- Hồ tiệp dư, ngươi nói thế không thấy vô lý hay sao? Việc ngươi đã xảy ra sự cố gì ta không quan tâm, đó là chuyện riêng của ngươi chứ không can hệ gì đến cuộc tranh cử ngôi vị Vương phi này. Ta căn cứ theo lời ước hẹn của ngươi rằng một tháng sau sẽ mở phiếu quyết định ngôi vị Vương phi, hôm nay đến hẹn thì ta cứ thế mà làm. Ngươi xin ta gia hạn thêm thời gian mà không thấy mình đòi hỏi vô lý và quá bất công cho Ngọc Xuân sao. Lẽ ra Ngọc Xuân đã có thể đường đường chính chính làm Vương phi, nhưng để ngươi được tâm phục khẩu phục nên đã chấp nhận cuộc tranh cử cùng với ngươi. Bây giờ ngươi chẳng những không chịu, mà lại còn muốn xin ta gia hạn, còn muốn Ngọc Xuân phải chấp nhận một yêu cầu nữa của ngươi. Hồ tiệp dư, ngươi đừng thấy chúng ta chấp nhận yêu cầu của ngươi mà hết lần này đến lần khác tiếp tục lấn tới. Được voi thì đòi tiên, câu ấy đối với ngươi quả không sai chút nào.

Những lời Thánh mẫu nói vô cùng hợp lý và sắc bén đến độ Nguyên Thục không sao phản bác lại lời nào. Nó ấm ức, tính mở miệng nói điều gì đó nhưng cuối cùng lại im lặng. Chuyện thân thế của nó mới tạm yên, bây giờ nó không muốn khơi thêm ngòi nổ khác, thế nên Nguyên Thục đành im lặng. Nó bất lực nhìn Thánh mẫu lệnh cho quan tham tụng Bùi Huy Bích và Nguyễn Khản, hai người được bá quan ca ngợi là công chính liêm minh nhất mở số phiếu ra đếm.

Vì cả hai cái hũ đều bọc vải đỏ, chỉ dán một mảnh giấy ghi tên nó và Ngọc Xuân, cho nên Nguyên Thục không thể biết được số phiếu của ai nhiều hơn. Nó vừa nhìn Bùi Huy Bích mở từng tờ giấy một, trái tim vừa đập như trống dồn. Bầu không khí trong lầu Cần Chánh trở nên cô đặc, Nguyên Thục có thể nghe rõ tiếng hơi thở dồn dập của mình. Thời gian chậm chạp rơi từng giọt, lòng bàn tay Nguyên Thục ướt đẫm, triệu chứng cửa sự căng thẳng và hồi hộp quá mức. Số phiếu sẽ quyết định ai sẽ là Vương phi, số phiếu đó sẽ quyết định nó có được ở bên cạnh Trịnh Khải được hay không... số phiếu đó....

- Thưa Thánh mẫu, hạ thần đã đếm phiếu xong, bây giờ hạ thần đã có kết quả trong tay rồi ạ

Nguyên Thục giật mình đánh thót khi quan tham tụng Bùi Huy Bích lên tiếng. Những ngón tay của nó nhẹ run khi Thánh mẫu yêu cầu Bùi Huy Bích công bố kết quả cho mọi người biết. Nguyên Thục cắn môi, nó xiết chặt tay Trịnh Khải, tay còn lại vịn vào thành ghế, người nó hơi ngả về phía trước. Nó đang chờ đợi trong sự căng thẳng tột cùng. Kết quả sẽ như thế nào? Vương phi sẽ là ai? nó hay là Ngọc Xuân đây...?

Vương phi sẽ là...

- Thưa Thánh mẫu, sau khi thần và quốc sư tổng kết số phiếu, sau đó đổi lại cho nhau kiểm tra kết quả, thì số phiếu của Ngọc Xuân tiểu thư nhiều hơn số phiếu của Hồ Tiệp dư ạ. Số phiếu của ....

Nguyên Thục mở to mắt.

Nó nhìn đăm đăm vào số phiếu trên bàn.

Nó nhìn mà phía trước chỉ là một khoảng trắng vô định, bồng bềnh

Tai nó ù đi, không còn nghe thấy số phiếu cụ thể nữa.

Nó chỉ nghe thấy tiếng cười hài lòng của Thánh mẫu, và gương mặt rạng rỡ vui mừng của Ngọc Xuân.

Vậy là đã có kết quả...

Và nó đã thua cuộc rồi...

Trên cao, Thánh mẫu và Dương thái phi cùng mỉm cười. Nhìn Nguyên Thục như hóa đá, Thánh mẫu cất cao giọng. Giọng nói của nói bà len lỏi khắp lầu Cần Chánh. Từng câu, từng chữ, từng lời của bà như con dao nhọn đâm vào Nguyên Thục, đau đến tận tim.

- Hồ tiệp dư! Như ngươi đã thấy, quốc sư và tham tụng sau khi kiểm tra còn đổi lại cho nhau để kiểm. Với sự cẩn thận đó ta tin rằng kết quả hai người vừa đưa ra vô cùng chính xác. Hồ tiệp dư, ngươi còn nhớ giao hẹn giữa chúng ta chứ? Nếu ngươi thắng trong cuộc tranh cử thì ngôi vị Vương phi sẽ thuộc về ngươi, nhược bằng không, ngươi sẽ phải rời xa Khải nhi mãi mãi. Hôm nay dưới sự chứng kiến của bá quan văn võ, ngươi đã thua cuộc, ngôi vị Vương phi đã thuộc về Ngọc Xuân. Ta đã giữ chữ tín, thực hiện nguyện vọng của ngươi, thế nên ta muốn ngươi cũng hãy thực hiện giao ước của ngươi, ngay bây giờ!

93.

Quán trọ Bồng Lai, nơi vốn được xem là trung tâm của Gia Định, thế nhưng bây giờ lại tiêu điều, ảm đạm, bởi khách khứa không còn nhiều như trước, âu cũng là do Gia Định hiện giờ đang có chiến tranh.

Ngồi dưới lầu làm bạn với ấm trà con, Anh Tú nhìn ánh chiều tà buông xuống, nhuộm đỏ bầu trời mà không nén được tiếng thở dài. Tại sao nó lại ở Gia Định mà lại không ở trong Hoàng cung, âu đó cũng là một câu chuyện dài.

Kể từ khi bị Duy Khiêm cho Ngọc Vũ "mượn" dài hạn, Anh Tú thật sự như đặt chân vào địa ngục. Nó biết lúc trước đã trót phạm một sai lầm, nhưng không ngờ sai lầm đó lại dẫn đến hệ quả nghiêm trọng đến thế. Ngọc Vũ "mượn" được Anh Tú chẳng khác nào như cá trong nước, ngày nào cô cũng tác oai tác quái làm nó ăn ngủ không yên. Trong cung Thủy Nguyệt cung có rất nhiều cung nữ, lại thêm cái cung đó không rộng lớn, đi quanh quẩn một lát đã chạm mặt nhau ầm ầm, đám cung nữ nhiều khi còn ngồi chơi xơi nước chẳng làm gì, ấy thế mà không hiểu sao Ngọc Vũ lại đào đâu ra lắm việc để cho nó làm đến thế.

Ngày đầu tiên, Ngọc Vũ bắt Anh Tú lau nhà. Cô quy định nó phải lau thật bóng, thật sạch và không được để lại vết bụi nào, bằng không sẽ cho nó nhịn đói. Thông thường, từ cung nữ cho đến thái giám, ai ai ở trong cung cũng đi hài, mọi người ra ngoài dạo chơi hậu hoa viên cho đến khi trở về phủ đều tha theo một lượng đất cát không nhỏ. Sàn nhà trong cung không phải là gạnh bông tráng men bóng loáng như bây giờ mà chỉ là loại gạch nung đỏ điểm hoa văn, đi rất nhám, đến nước lau nhà Vim siêu cấp cũng chớ hòng bóng loáng không tì vết. Đã biết thế, ấy vậy mà Ngọc Vũ lại bắt Anh Tú phải lau sạch như lau như li cho đến khi nào cô chịu thì thôi, thật là điều không tưởng.

Bắt Anh Tú lau nhà hoài cũng chán, Ngọc Vũ lại xoay việc khác cho Anh Tú làm. Cung Thủy Nguyệt của Ngọc Vũ trồng rất nhiều hoa. Hằng ngày, người chuyên phụ trách việc tưới hoa là một nàng cung nữ, nhưng bây giờ cô ta đã thất nghiệp vì Anh Tú "được" Ngọc Vũ điều đi làm công việc đó. Nếu là một người bình thường, tất nhiên những chuyện đó rất bình thường, nhưng nếu đó là Ngọc vũ, thì những công việc đó chính là cực hình. Mỗi lần Anh Tú đi tưới hoa, Ngọc Vũ luôn đi theo để quan sát nó, và nó lại được dịp nghe Ngọc Vũ luôn miệng trách mắng. Đại loại như "ngươi làm gì tưới nước nhiều quá vậy,muốn hoa bị úng sao" hay "sao ngươi tưới ít nước thế, hay là ngươi sợ phải đi lấy nước thêm lần nữa", lại còn "có mỗi chuyện tưới hoa mà tưới cũng không xong, vậy còn làm được gì nữa". Cứ thế, cô nàng liên tục làm phiền bên tai nó, khiến nó vô cùng bực mình vì sự khó chìu của cô.

Sau khi hành hạ Anh Tú tưới cây, dường như hứng thú của Ngọc Vũ đã giảm, cô nàng đào ra cho nó một công việc khác, đó là lau rửa ly tách. Trước đôi mắt của giám sát viên Ngọc Vũ, Anh Tú phải cố sức chùi rửa. Khó khăn lắm nó mới làm sạch được những vệt trà hoen ố bám trong bình, những vết dơ ẩn sâu trong các khe hở, vậy mà Ngọc Vũ vẫn chưa hài lòng. Cô cầm từng chiếc ly Anh Tú vừa rửa lên săm soi, ngắm nghía, hết xoay bên này lại xoay bên khác, hết nhìn trước rồi lại ngó sau, thiếu điều lấy cả kính lúp ra soi cho đồng bộ. Chiếc ly nào vinh hạnh được Ngọc Vũ kiểm tra, trăm phần trăm Anh Tú phải rửa lại, dù nó nhìn đỏ cả mắt vẫn không phát hiện ra dơ chỗ nào.

Hết lau nhà, lau dọn ly tách, cho đến tưới hoa, thôi thì không có công việc nào mà Anh Tú không làm. Riết rồi nó thấy mình thành thạo chẳng khác nào mẫu đàn ông giỏi tề gia nội trợ, chỉ thiếu điều chui vào bếp nấu ăn nếu Ngọc Vũ bắt làm mà thôi.

Khi còn ở hiện đại, Anh Tú xem phim về vua chúa, nó tự hỏi ngày xưa người ta sống ra làm sao, bây giờ trở về quá khứ thì câu hỏi đó được giải đáp ngay tức thì. Ở trong cung, Anh Tú mới thấy rằng cuộc sống của một nàng công chúa thật nhàn hạ đến tẻ nhạt. Ngọc Vũ hết được các nữ quan đến dạy thi phú, thơ từ, hội họa, luận bàn điển xưa tích cũ, thêu thùa may vá, xong lại cùng cô nàng Ngọc Hân nô đùa ngoài hậu hoa viên đến chán chê. Nhưng điều đó không làm nó chán bằng việc đi đâu Ngọc Vũ cũng lôi nó theo. Cô ta chơi đùa một mình thì thôi đi, đằng này lại lôi mình theo cơm bưng nước rót, khiến nó bực bội vô cùng.

Có thể nói trong Thủy Nguyệt cung, Ngọc Vũ hầu như không làm gì cả. Cô ăn có người mang đến, uống trà có người pha cho, thậm chí khi đi ngủ cũng có người bưng nước rửa chân vào. Ngọc Vũ tối ngày chỉ biết sai bảo người khác, ngay cả cái móng tay cũng không động đến việc gì, thử hỏi loại công chúa như thế ngoài làm bình hoa di động trong cung thì còn biết làm việc gì khác. Nấu cơm không biết, quét nhà không biết, thậm chí dám con trâu và con bò khác nhau thế nào, cô ta nhìn thấy chắc cũng không biết, nếu không có dịp lẻn ra ngoài dạo chơi như dạo rồi.

Chính vì quá hiểu cuộc sống an nhàn của Ngọc Vũ cho nên Anh Tú vô cùng ngán mấy nàng công chúa vô tích sự, chẳng làm được gì. Có một lần, vì bị Ngọc Vũ quay như chong chóng, Anh Tú đã quay lại và nói thẳng với Ngọc Vũ rằng: "ngoài chuyện chỉ tay năm ngón ra, cô còn biết làm gì? Ngay cả chuyện uống trà cũng phải có người mang đến, ăn cơm cũng phải có người dọn ra. Chẳng bao giờ tôi thấy cô biết giúp đỡ người khác một chuyện gì, công chúa như cô thật vô tích sự". Sau khi nói xong câu đó, Anh Tú biết nó chắc chắn gặp phiền phức to do khiến Ngọc Vũ nổi giận. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên của nó, Ngọc Vũ nghe câu ấy xong chỉ yên lặng, đôi mắt cô long lanh, chẳng rõ là giận hay buồn.

Đêm đó, Anh Tú bị mấy tên lính cận vệ đánh mười hèo vì can tội dám xúc phạm công chúa. Sau khi bị đòn xong, Ngọc Vũ sai người mang thuốc đến cho Anh Tú, nhưng nó thà bán thân bất toại còn hơn bôi cái thứ thuốc quỷ quái của Ngọc Vũ lên người. Thái độ kiên quyết chối từ của nó khiến nàng cung nữ phải mang thuốc quay về cung Thủy Nguyệt. Sau một đêm mỏi nhừ người, hai mắt thâm quầng vì không thể ngủ được, Anh Tú thôi không động chạm gì đến Ngọc Vũ nữa. Không phải vì Anh Tú sợ hay e dè, mà là vì sau trận đòn thừa chết thiếu sống đó, Anh Tú mới cảm thấy cái mạng của nó có thể bị mất bất cứ lúc nào. Xuống suối vàng mà chưa tìm thấy bé Lan của nó, nó thật không cam lòng. Cho nên, bằng bất cứ mọi giá, nó phải nhẫn nhịn chịu đựng, rồi sau đó xin Đoan Nam vương cho nó rời khỏi nơi này để đi tìm Linh Lan.

Sau chuyện trị tội Anh Tú, Ngọc Vũ vẫn như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Cô vẫn sai vặt nó như trước, nhưng đã có thể tự tay rót trà mà không cần ai mang đến. Nhận thấy Ngọc Vũ thay đổi, dù chỉ một tí ti, Anh Tú chỉ cười nhạt mà không nói gì. Nếu là thường ngày thì Anh Tú đã lên tiếng, nhưng từ khi bị mười hèo đau đến rêm mình, Anh Tú thôi không để ý đến Ngọc Vũ nữa. Cô muốn làm gì thì làm, nó không quan tâm. Cái nó quan tâm trước mắt chỉ là bảo toàn mạng sống chờ ngày làm chim xổ lồng mà thôi.

Anh Tú chưa kịp xổ lồng ra khỏi Hoàng cung thì Ngọc Vũ đã tự động mang cái lồng chim ấy đến nơi nó muốn...

Vào một ngày đẹp trời, một con chim bồ câu do Diệu Đức mang tới đáp xuống nóc cung Thủy Nguyệt. Nhận ra đó là con chim bồ câu liên lạc quen thuộc, Ngọc Vũ húyt sáo. Con chim trắng liền rời khỏi cành cây và đậu trên tay Ngọc Vũ, trên chân có kèm theo một cuộn giấy nhỏ. Cẩn thận lôi bức thư ra đọc, sắc mặt đang vui vẻ của Ngọc Vũ liền chuyển sang nét ngạc nhiên, bỡ ngỡ, cứ như thể đã nhận được tin tức gì làm cô chấn động. Không đợi Anh Tú kịp hỏi, Ngọc Vũ đã quay sang nó, nói luôn.

- Hoàng huynh ta sắp lấy vợ rồi!

Đưa mắt nhìn Ngọc Vũ, Anh Tú không hiểu tại sao cô lại nói chuyện này cho nó biết, nhưng sau khi xảy ra chuyện " thần khẩu hại xác phàm", Anh Tú không muốn nói bất cứ thứ gì với Ngọc Vũ nữa. Nó phải giữ im lặng để tránh xảy ra những tai nạn ngoài ý muốn.

Không để ý đến tâm trạng của Anh Tú, Ngọc Vũ thả cho con chim bồ câu bay đi. Cô nói, giọng xa xôi.

- Hoàng huynh ta bây giờ đã không còn ở trong cung nữa, nhưng ta vẫn có thói quen gọi huynh ấy là Hoàng huynh. Một năm nay không gặp huynh ấy, không nghe tin tức gì của huynh ấy, ta thật sự rất nhớ và lo lắng. Chẳng ngờ, lần này lại nhận được tin huynh ấy chuẩn bị lấy cung chủ Ngọc Long cung, đám cưới được chuẩn bị rộn ràng, náo nhiệt, vậy mà huynh ấy chẳng hề nói với ta lời nào.

- ...

- Nếu không nhờ Diệu Đức báo lại, ta có lẽ cũng không biết huynh ấy sẽ lấy vợ. Lúc trước huynh ấy thỉnh thoảng cũng đến thăm ta, tuy thỉnh thoảng thôi nhưng ta vẫn vui lắm. Tiểu Anh tử, ngươi biết không, ta biết Hoàng huynh ta không muốn quay trở về cung, phụ hoàng cũng không nhắc đến Hoàng huynh một lần nào, ta biết Hoàng huynh ta có điều khó xử, nhưng ta vẫn muốn huynh ấy đến thăm ta thật nhiều. Trong Hoàng cung, phụ hoàng tuổi đã cao, Hoàng huynh Duy Cận lại xa cách, Hoàng muội Ngọc Hân chưa trưởng thành, Hoàng tỷ Ngọc Trâm không ưa ta, các Hoàng tỷ, Hoàng huynh khác lại ghanh ghét, cung nữ không dám đắc tội với ta, muốn nói chuyện, tâm sự cũng không biết nói với ai. Tiểu Anh tử, ngươi nói xem, làm một người nông dân bình thường, thiếu cái ăn cái mặc nhưng lại có một gia đình vui vẻ, hạnh phúc là tốt, hay là một nàng công chúa ăn sung mặc sướng, ngay cả cái móng tay cũng không động đến việc gì, nhưng lại sống trong cảnh cá chậu chim lồng, ngay cả số phận của mình cũng không quyết định được là tốt?

Ngọc Vũ vô tình nhắc lại câu "ngay cả cái móng tay cũng không động đến việc gì" hôm qua của Anh Tú, khiến Anh Tú ngạc nhiên nhìn Ngọc Vũ. Nó không ngờ nàng công chúa hồn nhiên, vô tư, thường ngày hay hạch hỏi người khác, lại có nhiều tâm sự thế. Nhìn gương mặt xinh đẹp vẫn còn đượm nét thơ ngây của Ngọc Vũ, Anh Tú bỗng thở dài. Cái thở dài đó làm Ngọc Vũ chú ý, cô quay sang nhìn nó, cau mày.

- Ngươi thở dài cái gì?

- Không có gì. Tôi thở dài vì nhớ đến em gái của tôi thôi.

- Em gái ngươi? Phải rồi, lúc trước khi ngươi đánh ta, ngươi đã nhắc đến cô gái ấy, cô ta hiện giờ ở đâu?

Nghe Ngọc Vũ lại tình cờ nhắc đến vụ "một tên bắn rơi hai con nhạn", Anh Tú khụt khịt mũi. Cứ mỗi lần nhớ đến Linh Lan, là lòng nó lại bâng khuâng.

- Em gái tôi hiện giờ đang lưu lạc bên ngoài, tôi rất muốn gặp lại nó mà không được. Nghe những lời cô nhắc về Hoàng huynh cô, làm tôi nhớ đến nó. Cũng như cô, đã lâu rồi hai anh em tôi chưa được gặp nhau, không biết bây giờ nó như thế nào rồi.

Anh Tú ngậm ngùi. Đã không nhắc thì thôi, càng nhắc nó càng thấy lo. Không biết Linh Lan hiện giờ xấu đẹp thế nào, mập ốm ra sao. Lúc trước, em gái nó rất xinh, nếu không thì thằng Tùng "samsung" đã không gởi thư tỏ tình cho em nó. Nay trở về quá khứ, đối diện với cái nắng thiêu đốt mà không có găng tay, mạng che mặt, thì làn da em nó sẽ đen như cột nhà. Chưa hết, ở đây Linh Lan phải chịu gian khổ, vất vả đủ thứ, chắc chắn cân nặng sẽ xuống như sàn chứng khoáng. Em gái nó mà vừa xấu vừa ốm thì ai mà yêu, không có ai yêu làm sao lấy chồng, không lấy chồng thì làm sao sinh con, mà không sinh con thì làm sao có được một gia đình. Anh Tú càng nghĩ càng xa thì càng cảm thấy lo lắng, nó chỉ hận mình không có trực thăng để bay khỏi Hoàng cung cho nhanh đặng đi tìm Linh Lan. Nhìn thấy mặt Linh Lan, thì Anh Tú mới an tâm và những lo âu, thắp thỏm này mới thôi không tích tụ trong lòng.

Nhìn sắc mặt Anh Tú nắng mưa thất thường, Ngọc Vũ cau mày nghĩ ngợi, lát sau, cô cất lời.

- Tiểu Anh tử, ngươi có muốn đến Quy Nhơn không?

- Sao? Quy Nhơn có gần Phú Yên không? - Anh Tú như không tin vào tai mình, nó vội vàng hỏi lại. Chắc chắn Ngọc Vũ đang nói đùa, cô nàng tai tướng này mà biết làm điều thiện cho ai.

- Ta cũng không biết, nhưng Hoàng Huynh ta đang ở Quy Nhơn. Chắc huynh ấy sẽ tổ chức đám cưới ở Tử Phụng cung. Dù huynh ấy không gởi thiệp mời, nhưng ta cũng sẽ đến chúc mừng huynh ấy. Ta không muốn bỏ lỡ ngày vui của Hoàng huynh ta, và ta cũng muốn xem cô gái nào đã làm Hoàng huynh ta dừng chân, thôi không ngao du nữa. Thế nào, ngươi có muốn đi không?

- Có! Tất nhiên là có. Trời ơi! Tôi yêu cô quá, Ngọc Vũ ơi.

Đối với Anh Tú, được Ngọc Vũ cùng cho đi Quy Nhơn chẳng khác nào tử tù mà được miễn xá tội chết. Nó sung sướng ôm lấy Ngọc Vũ, rồi hôn cái chóc lên trán cô. Bất ngờ bị Anh Tú ôm lấy, rồi lại còn hôn lên trán, Ngọc Vũ sững sờ. Cô mở to mắt, nhìn trân trân vào mặt Anh Tú, nhất thời vẫn chưa tin được anh chàng này vừa làm gì mình.

Sau cơn vui mừng đến phát rồ, Anh Tú mới nhận ra được hành động nó đã thực hiện vô cùng... ngu ngốc. Người ta nói "vui quá hóa rồ", câu đó cấm có sai. Bằng chứng là khi nãy nghe tin được đi Quy Nhơn, có dịp ra khỏi Hoàng cung, hồn Anh Tú bay lên mây. Nó đã vòng tay ôm Ngọc Vũ, rồi lại còn hôn lên trán cô mà không nghĩ đến hậu quả sau hành động bộc phát ấy là gì. Nhớ đến trận đòn đau ngắc ngoải tối qua, Anh Tú toát mồ hôi lạnh. Mới phê phán vài câu đã bị đòn, huống chi bây giờ nó đã có hành động... "sàm sỡ" với công chúa. Đối với Anh Tú, bị thêm vài trận đòn cũng không sao, nhưng mà lỡ Ngọc Vũ nổi giận không cho nó đi Quy Nhơn nữa thì coi như mọi hy vọng tiêu tan.

Trong khi Anh Tú đang lo lắng, thì Ngọc Vũ dường như vẫn chưa tỉnh ra sau sự đụng chạm ấy. Mặt cô ngơ ngẩn, mắt đăm đăm nhìn Anh Tú, chân tay thừ ra mãi mà vẫn chưa thốt được câu nào. Ban nãy... ban nãy hắn ta đã làm gì mình? Hắn ta... Ngọc Vũ lẩm bẩm, cô bất giác sờ lên trán, nơi nụ hôn vẫn còn âm ấm. Ngọc Vũ mới mười sáu tuổi, cái tuổi vẫn còn rất non nớt ngây thơ, nhất là với một nàng công chúa chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường Hoàng cung. Dù chưa đến tuổi trưởng thành nhưng Ngọc Vũ rất đẹp, đẹp như một bông hoa sen trắng nở trên mặt nước, làm cả Hoàng cung tỏa ngát hương thơm dịu dàng của loài hoa thanh khiết kia. Ngọc Vũ sống trong cung trước nay chỉ có cung nữ, chưa bao giờ có một người đàn ông nào bước chân vào Thủy Nguyệt cung. Diệu Đức là cận vệ trung thành, anh không dám mạo phạm Ngọc Vũ và luôn kính cẩn đối với cô. Từ trước tới nay, Ngọc Vũ chưa bao giờ đụng chạm với người khác phái nào, nay đột nhiên bị người khác ôm chầm lấy, rồi lại còn hôn lên trán, dù đó có là thái giám, nhưng Ngọc Vũ vẫn sững người ra, nhất thời chưa thể hành xử như bình thường.

Ngọc Vũ nhìn Anh Tú đăm đăm. Có lẽ sau vài ba phút bất ngờ, đầu óc của cô đã bắt đầu hoạt động và hiểu ra chuyện gì vừa xảy ra. Trong phút chốc, đôi má măng tơ, mịn màng của Ngọc Vũ phơn phớt sắc hồng, rồi màu hồng ấy lan dần ra gương mặt xinh xắn, khiến cô càng thêm xinh đẹp lạ kỳ. Ngọc Vũ nghe má nóng ran, cô ngượng nghịu, hai tay ôm lấy đôi má rồi quay mặt đi, quên mất cả chuyện trị tội sự vô lễ của tên thái giám to gan kia.

Thấy Ngọc Vũ đột nhiên bối rối, lại còn giấu mặt đi, Anh Tú ngơ ngác. Tuy nó không hiểu Ngọc Vũ đang nghĩ gì, nhưng cô không trừng phạt nó thì đã may lắm rồi. Nhớ lại sự thất lễ của nó ban nãy, Anh Tú vỗ vào đầu mấy cái. Nó tự nhủ từ bây giờ dù có vui mừng đến đâu nó cũng sẽ phải kiểm soát hành động, để tránh những trường hợp mang họa vào thân. Nghĩ đến chuyện sẽ được ra khỏi Hoàng cung, được đi Quy Nhơn và có cơ hội tìm Linh Lan, Anh Tú vô cùng phấn khích. Nó sốt sắng.

- Công chúa, thế chừng nào đi?

- Ba... ba ngày nữa chúng ta sẽ khởi hành. Bây giờ ngươi chuẩn bị là vừa.

Vẫn hai tay ôm má, Ngọc Vũ trả lời mà không quay lại. Nguyên ngày hôm đó, Anh Tú rất hưng phấn, Ngọc Vũ có sai gì nó cũng làm trong vui vẻ, không hề ca thán lấy nửa câu. Chỉ nghĩ đến việc ba ngày tới nó sẽ lên đường đi Quy Nhơn thôi là Anh Tú đã thấy rạo rực trong lòng. Dù không biết Quy Nhơn có gần Phú Yên hay không, nhưng có cơ hội ra khỏi Hoàng cung là may lắm rồi. Đợi đến Quy Nhơn, nó sẽ hỏi những người dân sống tại đó xem Phú Yên ở đâu, rồi hy vọng từ đó mà tìm ra được tung tích của Linh Lan.

Đến đây, dòng hồi tưởng đã chấm dứt, Anh Tú thở dài ngán ngẩm. Trước khi khởi hành nó đã nôn nao biết bao, thì bấy giờ nó lại thất vọng bấy nhiêu. Theo như kế hoạch đã định, Ngọc Vũ bí mật rời khỏi cung, mang theo Anh Tú và Diệu Đức- viên cận vệ trung thành. Ban đầu, Diệu Đức không chấp nhận việc Ngọc Vũ rời khỏi Hoàng cung để đến Quy Nhơn xa xôi, hiểm trở, nhưng trước sự nài nỉ cộng đe dọa nhịn ăn nhịn uống của Ngọc Vũ, Diệu Đức đã mềm lòng và khăn gói cùng cô nàng đến Quy Nhơn. Nói mang tiếng cùng Ngọc Vũ đến Quy Nhơn, nhưng Anh Tú chẳng khác nào đầy tớ thứ thiệt. Trong khi Ngọc Vũ ngồi trong kiệu xe ở phía sau, Diệu Đức thong dong đánh xe phía trước, thì Anh Tú lại phải... đi bộ ở phía dưới, khiến nó tức giận không sao kể xiết.

Tất nhiên, với thân phận hiện giờ của nó, một nô tài mà ngồi chung kiệu với một công chúa quý báu của Hoàng cung là điều không tưởng, nhưng ngồi phía trước như Diệu Đức thì có sao? Ấy thế mà nó lại "được vinh hạnh" đi bộ trong khi cặp đôi kia nói cười vui vẻ ở trên xe. Cũng may Ngọc Vũ không phải là một cô nàng quá vô tình. Thấy nó đi đường xa mồ hôi mẹ mồ hôi con đua nhau tuôn chảy, nét mặt vô cùng ảm đạm, Ngọc Vũ đã vén rèm bảo Anh Tú lên xe ngồi. Lẽ ra nó đã có thể cùng ngồi trong kiệu xe cùng Ngọc Vũ, thế nhưng trước sự can ngăn quyết liệt của Diệu Đức, Anh Tú phải ra ngoài ngồi cùng anh chàng dưới cái nắng chang chang.

Chả biết Diệu Đức có thù oán gì với Anh Tú không, nhưng nó lờ mờ nhận ra rằng hình như anh chàng này không ưa mình, bằng chứng là Diệu Đức đã luôn hành nó. Từ vác hành lý cho đến chuyện thuê và nhận phòng, bao giờ nó cũng là người è cổ ra làm trong khi anh ta lại đứng bên cạnh Ngọc Vũ nói cười tỉnh bơ. Dù bên trong rất giận Diệu Đức, nhưng ngoài mặt Anh Tú vẫn cố tươi tỉnh. Nó biết dựa vào võ công nó không thể bằng Diệu Đức, về ngoại hình cũng gọi là kém xa, nhưng ăn thua gì, cổ nhân có câu quân tử báo thù mười năm chưa muộn, huống chi đây mới chỉ vài ngày. Rồi sẽ có ngày nó tìm ra điểm yếu của anh chàng này để lấy đó hành hạ lại anh ta cho bõ những gì Diệu Đức đã gây ra cho nó suốt mấy ngày nay.

Chuyến này đi Quy Nhơn, Anh Tú tưởng ít ra có thể có thời gian rảnh để dò tìm tin tức của Linh Lan, nào ngờ chưa kịp làm gì thì nó đã bị Ngọc Vũ lôi đến Tử Phụng cung. Tử Phụng cung, mỗi khi nhắc đến cái cung này là Anh Tú lại mơ màng. Quy mô của Tử Phụng cung khá lớn, nhìn từ xa, mái ngói lưu ly của Tử Phụng cung đã lấp lánh trong ánh nắng, nổi bật hơn hẳn những ngôi nhà mái rơm ẩm thấp xung quanh. Không biết vị cung chủ này là ai, bản lĩnh đến đâu mà trong cung toàn là con gái, cô nào cô nấy "da trắng dáng xinh", khiến Anh Tú tưởng như mình đang xem chương trình hoa hậu thế giới được tổ chức mỗi năm.

Đón tiếp các vị khách từ phương xa đến, nét mặt của các cô gái đều hiện rõ vẻ ngạc nhiên khi Ngọc Vũ giới thiệu cô là muội muội của Đạo Hoa vương. Không ai nói với nhau lời nào, họ lẳng lặng nhìn Ngọc Vũ từ đầu đến chân, rồi cười bảo rằng rất tiếc cung chủ tử hiện giờ không ở đây mà đang ở Gia Định để tổ chức hôn lễ bên nhà vợ. Khi nghe tin tức ấy từ người của Tử Phụng cung, Ngọc Vũ đã rất ngạc nhiên. Nhưng vì nôn nóng muốn gặp Hoàng huynh, cộng thêm sợ bỏ lỡ ngày vui của huynh ấy nên cô gặn hỏi rõ ràng thêm một lần nữa rồi quay trở về quán trọ, sửa soạn đến Gia Định mà không cho Anh Tú kịp phản bác lại lời nào.

Nghe Ngọc Vũ bảo không ở Quy Nhơn nữa mà cả hai sẽ đến Gia Định, Anh Tú cực lực phản đối. Cuối cùng, khi Ngọc Vũ ra hạ sách sau khi đi Gia Định xong cô sẽ cử Diệu Đức đi tìm tung tích của Linh Lan, còn không thì cả ba sẽ trở về Thăng Long rồi cô sẽ đi Gia Định một mình thì Anh Tú mới thôi phản đối. Ngẫm ra chuyến này đi ra ngoài âu cũng là dịp khám phá những miền đất xưa, và cũng có thể Linh Lan từ Phú Yên đã trôi giạt đến Gia Định không biết chừng, thế nên Anh Tú mới gật đầu đồng ý sau phút cân nhắc kỹ càng.

Để đến được Gia Định, trở ngại đầu tiên của Ngọc Vũ chính là Diệu Đức. Diệu Đức là cận vệ trung thành của Ngọc Vũ, anh luôn chiều chuộng và làm theo mọi yêu cầu của cô, chính vì yếu tố đó nên anh đã bị Ngọc Vũ bỏ rơi ở Quy Nhơn. Biết chắc chắn Diệu Đức sẽ không cho cô đến Gia Định, sau bao ngày suy nghĩ và sắp xếp, Ngọc Vũ đã bắt Diệu Đức tìm mua được món bánh rán tẩm mật ong ở tiệm Hiên Viên nổi tiếng rồi cô mới về Thăng Long theo ý muốn của anh. Tội nghiệp Diệu Đức, anh không hề hay biết gì về cái bẫy của Ngọc Vũ. Vì sợ cô thất vọng, anh đã quanh đi quẩn lại khắp các nẻo đường ở Quy Nhơn chỉ để tìm cái tiệm Hiên Viên vô hình nào đó mua bánh cho Ngọc Vũ, mà không hề biết cô và Anh Tú đã xuống thuyền đi Gia Định từ khi nào.

Tags: Sương

Có lẽ đồng ý cùng đến Gia Định tìm Hoàng huynh với Ngọc Vũ là một sai lầm của Anh Tú.

Vừa mới đặt chân đến Gia Định, Anh Tú đã nhận thấy một bầu không khí bất thường. Có lẽ vì nơi đây vừa xảy ra chiến tranh nên nhìn đâu nó cũng chỉ thấy một màu tan tóc, thê lương. Khác hẳn với một Gia Định phồn thịnh mà Anh Tú đã hình dung, Gia Định bây giờ xáo xào tan tác. Những bụi tre bị cháy vàng, hoa màu bị giẫm nát. Những mái nhà tranh lơ thơ, tàn tạ, mấy luống rau sau vườn đều đã héo tựa không ai chăm sóc. Dân chúng ở Gia Định luôn cảnh giác với người lạ, họ sống lầm lũi như một cái bóng. Tiếng cười đùa của trẻ thơ vắng hẳn, bầu không khí quạnh hiu đó khiến Anh Tú lo lắng vì nơi đây có lẽ không lành.

Do Ngọc Vũ và Anh Tú đến Gia Định vào lúc tình hình bất ổn, nên Ngọc Vũ phải trả cho nhà trọ một số tiền gấp đôi mới có chỗ dừng chân. Thông qua lời chủ trọ nói, Anh Tú cũng đã nắm sơ qua tình hình Gia Định hiện giờ. Gia Định hiện đang có chiến tranh. Hơn một tháng trước, quân Tây Sơn kéo vào để tấn công vị chúa trẻ tuổi cát cứ tại Gia Định. Kết quả chung cuộc ra sao thì chưa dám nói, nhưng hiện tại thì quân Tây Sơn đang thắng thế, họ đang trú lại Gia Định và chỉnh đốn lại quân đội, thành trì.

Tình hình Gia Định loạn lạc, giặc giã khắp nơi nổi lên như ong, chúng tổ chức thành đoàn, ngang nhiên xông thẳng vào nhà dân cướp bóc mà chẳng hề kiêng kỵ gì. Táo bạo hơn trong số chúng, có người còn giả mạo quân Tây Sơn để đi cướp bóc. Người dân sống ở đây chỉ là nông dân bám víu vào mảnh đất quê hương để sống, ai đang nắm phần thắng họ chẳng quan tâm, chỉ mong yên thân mà sống. Bị những tên cướp giả danh kẻ thắng thế vào cướp bóc, họ không dám phản kháng, chỉ biết đứng trơ mắt nhìn những bao thóc gạo rơi vào tay lũ xâm lược mà chẳng dám kêu ca.

May thay, nạn giả danh Tây Sơn cướp bóc chỉ kéo dài được ba ngày vì lời nhân dân than oán đã đến được tai vị tướng quân Long Nhương. Ông ta đích thân lĩnh quân đi dẹp loạn, đồng thời ra điều lệnh nghiêm ngặt trong quân đội và toàn dân biết rằng bất cứ ai dám động đến của cải của nhân dân đều chém không tha. Những tên cướp giả danh Tây Sơn hết đất dụng võ liền bị dẹp, nhân dân tạm yên ổn sinh sống, làm ăn như trước. Dù thế nhưng họ vẫn lo âu phập phồng, thấy người lạ nào đến thì vô cùng cảnh giác, thế cho nên Ngọc Vũ và Anh Tú bị nghi ngờ cũng là lẽ tự nhiên.

Nghe những lời người chủ trọ kể, Anh Tú bắt đầu lo lắng. Nó lo mình sẽ bỏ mạng vô cớ tại nơi này. Tuy quân Tây Sơn đã dẹp nạn cướp bóc, nhưng đám cướp này chẳng khác nào nấm mọc sau mưa, Gia Định lại rộng lớn, đám này bị dẹp thì đám khác sẽ mọc lên. Chúng xuất hiện lẻ tẻ, nay nơi này mai nơi khác, khó mà ra tay tóm gọn ổ. Nó và Ngọc Vũ ở lại đây sẽ rất nguy hiểm, lo cho bản thân còn khó chứ đừng nói phải chăm sóc cho cô công chúa kia. Có Diệu Đức thì còn có chút an lòng nhưng đáng tiếc là anh chàng võ công đầy mình này đã bị Ngọc Vũ cho rớt lại ở Quy Nhơn do can tội phản đối cô lên đường đến Gia Định. Nghĩ cũng buồn cười, Gia Định đang xáo xào thế này, thân còn không giữ được, ai mà đến đây để lấy vợ theo lời mấy nàng trong Tử Phụng cung nói chứ. Đến thằng ngốc cũng chẳng tin chứ nói chi đến người đang tỉnh táo là nó.

- Ngọc Vũ! Tôi nghĩ chúng ta nên quay về là hơn. Gia Định đang xảy ra chiến tranh, tôi nghĩ anh cô không đến đây để tổ chức hôn lễ đâu.

Lời Anh Tú nói khiến Ngọc Vũ do dự. Đến Gia Định đã ba hôm, ngày nào cũng nghe ngóng tình hình, nhưng cô tuyệt đối vẫn không nhận được một chút tin tức gì của Hoàng huynh cô. Nghĩ cũng thật lạ, nếu như những thiếu nữ trong Tử Phụng cung bảo rằng Hoàng huynh cô đang ở đây thì thiết nghĩ họ cũng phải thông báo với huynh ấy một tiếng về chuyện cô sắp đến chứ. Thế nhưng tại sao cô đã đến Gia Định ba ngày mà huynh ấy vẫn không xuất hiện, cũng không thấy ai biết gì về một đám cưới rình rang của cung chủ Tử Phụng. Chẳng lẽ cô đã bị gạt? Chẳng lẽ huynh ấy thật sự không có ở đây như lời Anh Tú nói? Ngọc Vũ lo lắng, cô lắc đầu cố xua tan suy nghĩ đó. Nhìn Anh Tú với đôi mắt đanh lại, cô kiên quyết.

- Những người ấy chắc chắn sẽ không nói dối ta, Hoàng huynh ta chắc chắn ở đây.

Thấy Ngọc Vũ bướng bỉnh, Anh Tú bực bội.

- Nếu anh cô ở đây thì tại sao chúng ta đã đến ba ngày rồi mà vẫn không thấy ai hết, trong vùng cũng chẳng nghe thấy cái đám cưới nào. Gia Định đang giặc cướp hoành hoành, ai lại dám lấy vợ, chỉ sợ vợ chưa lấy được thì đã bị giặc xông vào cướp rồi.

- Hoàng huynh ta không vô dụng như ngươi!

Ngọc Vũ quắc mắt sửa lưng làm Anh Tú khựng người lại. Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, Anh Tú biết đây không phải là lúc tranh cãi hay cáu giận. Nó từ tốn, cố thuyết phục Ngọc Vũ quay về Thăng Long, hay ít nhất cũng là rời xa nơi này.

- Ngọc Vũ, cô nghe tôi nói. Tôi biết cô rất thương Hoàng huynh cô, nhưng cô cũng nên suy nghĩ thấu đáo một chút có được không. Như tôi đã nói khi nãy, thời buổi loạn lạc, chẳng ai xuống Gia Định để tổ chức hôn lễ, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, không loại trừ khả năng những người ấy đã nói dối cô.

- Họ nói dối ta? Tại sao?

- Cô cứ thử nghĩ đi, cô thì biết anh cô, anh cô thì biết cô, nhưng còn mấy người đó thì sao, họ đâu biết cô, lấy gì chứng minh cô là em gái của cung chủ. Ai biết cô có ý đồ gì, có định gây khó dễ cho cung chủ của họ hay không. Theo lời cô nói, anh cô rất đào hoa, còn được mệnh danh là Đạo Hoa vương, nhỡ đâu cô là một trong số những cô gái theo đuổi, say mê hay mang thù hận gì đó với Đạo Hoa vương, muốn gặp người ta để vòi vĩnh, bám đuôi hay trả thù gì đó thì sao. Cho nên, tôi nghĩ nếu họ nói dối cô cũng là điều dễ hiểu thôi, bớt được một rắc rối bao giờ chẳng hay hơn, đuổi đi càng xa càng tốt cơ mà.

- Nhưng...

- Công chúa của tôi ơi, nhưng nhị gì nữa. Chúng ta phải mau chóng rời khỏi đây thôi, còn ở lại, lỡ như đụng độ bọn cướp thì không hay đâu. Tôi thì không nói, cùng lắm là một dao nhắm mắt, nhưng còn cô xinh đẹp như thế, chắc không muốn làm áp trại phu nhân chứ hả.

Nghe Anh Tú nói đến áp trại phu nhân, Ngọc Vũ tái mặt. Cô thừ người ra, đôi mày liễu cau lại chứng tỏ đang động tâm. Nghĩ đến chuyện không gặp được Hoàng huynh, Ngọc Vũ rất buồn. Khó khăn lắm cô mới trốn ra khỏi Hoàng cung, khi trở về chắc chắn sẽ đối diện với cơn thịnh nộ của phụ hoàng, nhưng điều đó không làm cô bận tâm bằng việc mong ngóng gặp được Hoàng huynh. Nào ngờ, Hoàng huynh không gặp được, lại còn bị người ta lừa đến chốn Gia Định binh đao này. Diệu Đức đã bị cô gạt cho ở lại Quy Nhơn, chứ nếu có anh ở đây, thì bọn cướp này sẽ chỉ là chuyện vặt vãnh. Nếu chạm trán phải bọn giặc cướp thô lỗ ấy, cô chẳng thà cắn lưỡi tự tử còn hơn để cho bàn tay nhơ bẩn của chúng chạm vào người.

- Thôi được! Chúng ta quay về Thăng Long.

Trái ngược với vẻ mặt xịu xuống của Ngọc Vũ, Anh Tú lại vô cùng mừng rỡ khi thuyết phục được Ngọc Vũ ngoan ngoãn làm theo ‎ý nó. Không chần chừ thêm giây phút nào nữa, nó hăm hở gói ghém đồ đạc, khiến Ngọc Vũ ngạc nhiên.

- Ngươi làm gì vậy?

- Thấy rồi còn hỏi, dĩ nhiên là thu dọn hành lý để lên đường rồi, chẳng lẽ cô còn muốn ở đây nữa sao?

- Nhưng mà.... Đợi chiều mai hẵn đi không được sao?

- Không được! Rời khỏi đây sớm chừng nào hay chừng đó. Chúng ta làm sao biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Ngọc Vũ im lặng thôi không hỏi nữa. Cô ngồi ôm chân, cằm tựa vào gối nhìn Anh Tú sắp xếp đồ đạc ngay ngắn. Nhìn những sợi tóc lòa xòa trước trán Anh Tú, ánh nến lung linh hắt lên khuôn mặt nó, tạo thành những vệt tối bí ẩn, chập chờn, Ngọc Vũ ngập ngừng.

- Tiểu Anh tử...

- Tôi tên là Anh Tú. Tôi đã nói cô ra ngoài đừng gọi tôi như thế, nhỡ đâu người ta biết chúng ta là người trong Hoàng cung thì sao?!

Ngọc Vũ ngập ngừng, rõ ràng cô chưa quen với việc gọi tên Anh Tú. Trước nay đối với những tiểu hoàng môn khác, Ngọc Vũ chưa bao giờ để ý đến, thế nhưng chỉ có con người này là làm cô phải bận tâm nhiều nhất. Bản tính hắn ta khá lạ, khi mềm, khi rắn, đặc biệt luôn thẳng thừng với cô mỗi khi không hài lòng chuyện gì. Từ bé, Ngọc Vũ sống trong cung đã quen được phụ hoàng yêu chiều, được mọi người răm rắp nghe theo lời sai bảo của cô, duy chỉ có tên tiểu hoàng môn này lại là người đầu tiên phản kháng cô, thậm chí chỉ trích cô không tiếc lời trước mặt bao nhiêu người. Đơn cử chuyện hắn ta đã mắng cô là "đồ vô dụng", lẽ ra hắn đã bị chém bay đầu vì tội xúc phạm đến công chúa, nhưng tại sao cô lại không cho chém mà chỉ cho đánh mười hèo để cảnh cáo, sau đó lại còn mang thuốc cho hắn ta. Cô đã có lòng thương mang thuốc cho hắn, thế mà hắn lại từ chối, không thèm sử dụng, khiến cô ngẩn ngơ nhiều hơn là tức giận vì chẳng hiểu tại sao.

Nhớ lại còn chuyện hôm đó, đến bây giờ Ngọc Vũ vẫn tự hỏi, tại sao cô lại có thể thổ lộ những suy nghĩ của cô cho một người xa lạ như hắn ta biết, tại sao cô không đánh hắn khi hắn ta ôm hôn cô. Nhớ đến nụ hôn, Ngọc Vũ bất giác sờ tay lên trán, cô cắn nhẹ môi vì không hiểu từ lúc nào mình lại trở nên mâu thuẫn đến thế. Một mặt cô muốn trừng trị tên tiểu hoàng môn này vì những gì hắn đã xúc phạm đến cô, không vâng lời cô, làm lòng tự trọng của cô bị tổn thương. Nhưng mặt khác cô lại muốn hắn ở bên cạnh cô, muốn hắn thẳng thắn với cô như thế, để cô cảm nhận rằng, ít ra trong Hoàng cung còn có một người luôn luôn thật lòng với cô.

Lần này cũng thế, ra khỏi Hoàng cung cô cũng đưa hắn theo, trong khi có Diệu Đức bên cạnh là cô đã an toàn. Tên tiểu hoàng môn này ngoài khuôn mặt đẹp, vóc dáng cao ráo ra, còn lại chẳng thể làm gì được. Hắn ta không giỏi võ như Diệu Đức để bảo vệ cô, vậy lẽ ra người cô bỏ rơi lại ở Quy Nhơn phải là hắn ta mới đúng, chứ sao lại là Diệu Đức - cận vệ trung thành của cô suốt bốn năm qua.

Ngọc Vũ tựa lưng vào tường. Tuy miệng Ngọc Vũ luôn nói tên tiểu hoàng môn này vô dụng, nhưng suốt cuộc hành trình vừa qua, thực tế lại khắc hẳn. Khi cả hai lên đường đến Gia Định, tên tiểu hoàng môn này đã cho cô dựa vào vai khi mệt mỏi trên một chiếc thuyền đông đúc. Vì thuyền đông nên sự đụng chạm tất là điều dễ hiểu, nhưng hắn đã ngồi chắn trước cô, cho cô nép sau lưng hắn để tránh khỏi đụng chạm. Vì lần đầu tiên đi thuyền, lại thêm biển động, cô đã say sóng đến mệt lả người, may nhờ có hắn bên cạnh, chăm sóc và pha trà gừng cho cô uống nên mới chóng lại sức. Ăn ở, chi tiêu, thuê phòng thế nào đều một tay hắn lo liệu, nếu không có hắn, quả thật cô cũng không thể bình an đến Gia Định. Nếu không có hắn thì...

- Được rồi! Tôi đã trải chiếu xong, chúng ta đi ngủ sớm để sáng mai lấy sức lên đường. Trở về Hoàng cung cô phải học trải chiếu đi, mấy chuyện này cô phải tự làm, sau này không có người hầu hạ bên cạnh thì còn biết tự chăm sóc bản thân. Vận đổi sao dời, ai biết chuyên tương lai thế nào.

Anh Tú phủi tay vào nhau. Nó đặt gói hành lý xuống và nằm gối đầu lên. Sáng mai nó và Ngọc Vũ phải đi sớm, hy vọng tất cả sẽ thuận buồm xuôi gió. Vì để tiết kiệm lộ phí, dành dụm phòng khi có việc cần đến, nó và Ngọc Vũ thuê chung một phòng. Ngẫm lại thì cũng chẳng có gì quá đáng, đối với Ngọc Vũ, nó là tiểu hoàng môn, còn đối với nó, Ngọc Vũ chỉ là một cô em gái nhỏ, xếp sau Linh Lan, có thế mà thôi.

- Anh...Tú...

Nằm quay mặt vào tấm bình phong, Anh Tú lim dim chuẩn bị ngủ nhưng phút cuối lại bị đánh thức bởi giọng nói quen thuộc của Ngọc Vũ. Nó ngáp dài, hỏi lại mà vẫn quay lưng về phía cô.

- Sao?

- Nếu như ta không có người hầu kẻ hạ bên cạnh, thì ngươi có...ở bên cạnh ta không?

Anh Tú nhíu mày, nó xoay mặt lại. Ngọc Vũ đang nằm trên chiếc giường đối diện nó, nhưng vì cô nằm khuất trong bóng tối nên nó không thể thấy được gì ngoại trừ đôi mắt lấp lánh như ánh sao đêm. Giọng nói cô ngập ngừng, tựa như không chắc lắm về điều vừa mới nói. Từ lúc quen Ngọc Vũ cho đến nay, cô luôn là một nàng công chúa kiêu kỳ trong mắt Anh Tú, nay thấy cô bỗng chốc trở nên khác thường thế, thật không giống Ngọc Vũ nó đã quen chút nào.

- Cô sao thế? Cô là công chúa thì thiếu gì kẻ hầu người hạ, đâu cần phải có tôi.

- Trả lời đi.

Giọng Ngọc Vũ hơi đanh lại, khiến Anh Tú cau mày. "Lại giở giọng ra lệnh rồi đấy"

- Tôi không thể ở bên cô được. Tôi không thuộc về nơi này, mà nếu có thuộc về thì tôi cũng sẽ không ở trong Hoàng cung. Tôi muốn ở bên cạnh em gái tôi, bảo vệ nó, chăm sóc nó, hưởng một cuộc sống tự do tự tại, chứ không phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng, trên quỳ dưới cuối, để cho người khác sai vặt.

Anh Tú nói xong, nó cứ đinh ninh Ngọc Vũ sẽ phản ứng lại, nhưng đáp lại lời nó chỉ là một sự im lặng kéo dài. Không nghe Ngọc Vũ trả lời, Anh Tú nhìn sang thì thấy cô đã nằm im từ bao giờ. "Có lẽ con bé đã ngủ", Anh Tú nghĩ thầm rôi cũng quay lưng vào bình phong, mắt nhắm lại và nhanh chóng rơi vào giấc ngủ mộng mị, chập chờn suốt đêm...

oOo

Ánh nắng xuyên qua kẽ lá, tiếng chim hót chào ngày mới. Hôm nay bầu trời Gia Định trong xanh không một áng mây, cái nắng oi nồng và những cơn mưa bất chợt như lùi vào dĩ vãng, nhường chỗ lại cho những cơn gió lao xao mát lành.

Chính vì tiết trời trong lành như thế nên sáng nay, tâm trạng của Anh Tú cũng vui vẻ phần nào. Hôm qua nó không ngủ được vì phòng trọ quá nhiều muỗi, chợp mắt mơ màng được một lát đã gãi liên miên do bị muỗi bu vào đốt. Gia Định thật lắm muỗi, chả bù cho Hoàng cung Thăng Long, một đêm cứ thế ngon giấc, chả có muỗi mòng gì.

Đất Gia Định là đất Sài Gòn nay. Có dịp quay trở về quá khứ để nhìn thấy Gia Định thưở tiền nhân khai phá cũng lắm cái hay ho. Gia Định xưa sông rạch chằng chịt, dân chúng trong vùng chủ yếu giao lưu bằng đường sông. Bến nhỏ không lập thành chợ thì gọi là bến lạ, còn bến đổi là nơi hẹn để đổi nước ngọt. Nhà thì không rào, làng không lũy tre, khí hậu vẫn chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa khô oi nồng hơn ở Bắc Hà. Do sống ở Bắc Hà đã quen, bây giờ ở Gia Định ba ngày, Anh Tú chẳng khác gì bị sốc nhiệt do thời tiết thay đổi đột ngột. Cũng may cả nó và Ngọc Vũ không ai đổ bệnh, chỉ có Ngọc Vũ thỉnh thoảng nhức đầu, say nắng, cảm mạo vặt, nghỉ ngơi là khỏi, chứ cô mà đổ bệnh nặng thì e phiền phức to.

Chuyến đi này không gặp được Linh Lan, Anh Tú tràn trề thất vọng. Bây giờ nó phải quay trở về Hoàng cung, sau này sẽ rất khó khăn nếu muốn ra ngoài. Không tìm được em gái, Anh Tú dường như không còn cảm thấy niềm vui. Những háo hức được khám phá miền đất mới trong nó biến mất, thay vào đó là sự chán chường, lo lắng triền miên.

Trời về chiều, bến thuyền Bổng Nguyệt hiện ra thấp thoáng đằng xa. Dù không tấp nập như thường ngày nhưng cũng vẫn khá đông người. Có lẽ vì cái ăn trước mắt nên mọi người tạm quên đi những lo lắng về tình hình nhiễu nhương hiện thời, tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhìn thấy tấm phướn căng hai chữ Bổng Nguyệt treo trên một ngọn cây cao, lòng Anh Tú dần trút bỏ tảng đá đè nặng trong lòng. Trên đường đi nó và Ngọc Vũ đã thấp thỏm không yên, nhưng cuối cùng cả hai đã đến bến Bổng Nguyệt an toàn mà không gặp đám cướp nào, âu cũng là do trời phật độ trì.

Anh Tú vừa mới nghĩ đến đó, nó không biết rằng một lần nữa nó đã phạm sai lầm.

Từ đằng xa, một đoàn người ngựa nai nịt gọn gàng thong dong tiến tới. Tuy không biết đó là phe nào, nhưng cẩn tắc thì vô ưu, Anh Tú vội kéo tay Ngọc Vũ đứng nép vào ven đường. Bất chấp sự khó chịu của Ngọc Vũ, Anh Tú ấn đầu cô xuống. Nó biết rằng Ngọc Vũ rất xinh đẹp, tuy đã cải trang thành dân thường, nhưng khí chất sao sang quyền quý và vẻ đẹp của cô chắc chắn không thể lọt qua được bất cứ ánh nhìn sắc bén nào. Nếu bọn họ là quân lính đi tuần thì sẽ không tránh khỏi việc hạch hỏi thân phận, thêm nhiều phiền toái trong khi nó và Ngọc Vũ cần sớm lên thuyền rời khỏi đây. Còn nếu đoàn người ngựa ấy chả phải tốt đẹp gì, để chúng nhìn thấy cô, biết đâu lòng ham muốn chiếm đoạt của chúng sẽ trỗi dậy và bắt lấy Ngọc Vũ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu công chúa lá ngọc cành vàng của Bắc Hà rơi vào tay thổ phỉ, không cần nói cũng biết Anh Tú cũng khó mà giữ mạng mình, cho dù có là có thoát khỏi bọn cướp này đi chăng nữa.

Anh Tú nín thở nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một tới gần, nó và Ngọc Vũ cứ lầm lũi đi như hai bóng ma, lòng thầm mong sẽ không gặp bất cứ cản trở nào. Trước sự lo lắng của nó, đoàn người thản nhiên thúc ngựa chạy qua mà không thèm để ý gì tới hai người nông dân đang nép bên vệ đường. Đợi cho đoàn người đi khuất, Anh Tú có liếc mắt trông thấy một tên. Nó chau mày lại khi gương mặt của người mà nó trông thấy tuyệt không phải hạng tốt lành. Gã ta mặc áo xanh, râu ria xồm xoàm, hai mắt nhỏ trũng sâu, mũi như diều hâu và đôi má hóp vào. Gạt bỏ những dự cảm không lành, Anh Tú nắm tay Ngọc Vũ bước nhanh đến bến đò Bổng Nguyệt. Chỉ còn mấy sải tay nữa thôi là sẽ đến bến thuyền, chỉ còn mấy sải tay nữa thôi là cả hai sẽ trở về Thăng Long, chỉ còn...

- Hai người kia! Đứng lại đó cho ta.

Đang cắm cúi đếm khoảng cách, Anh Tú giật thót khi một tiếng quát găng gắt vang lên xé tan không khí. Anh Tú liếm môi than thầm. Chỉ còn chút nữa thôi là sẽ thoát khỏi Gia Định, ấy thế mà phút cuối lại đào thoát chẳng thành, hôm nay nó đã bước ra đường bằng chân nào mà xui dữ vậy trời.

- Ta nói các ngươi đứng lại, sao không nghe hả?

Tiếng quát lại vang lên, lần này lại có thêm tiếng vó ngựa. Biết đứng lại thì khó bề yên thân, Anh Tú bèn nắm lấy tay Ngọc Vũ bỏ chạy. Phía sau lập tức vang lên tiếng quát giận dữ, đoàn người đã quay ngoắt trở lại và nhanh chóng đuổi theo nó. Nắm chặt tay Ngọc Vũ, Anh Tú chạy như bay, nhưng Ngọc Vũ vì là công chúa, trước nay lại chưa bao giờ phải trốn chạy một ai, lại thêm thấm mệt vì đi bộ một quãng đường dài nên không thể chạy nhanh như Anh Tú. Anh Tú phải kéo theo Ngọc Vũ, lại chẳng thể bỏ cô lại nên bắt buộc phải chạy chậm theo cô. Bình thường, chạy nhanh muốn thoát cũng khó, huống chi bây giờ Anh Tú lại đèo bòng thêm một người, chẳng mấy chốc cả hai đã bị đoàn người đuổi kịp. Trong tích tắc, đoàn người ngựa đã quây nó và Ngọc Vũ, những khuôn mặt nham hiểm lộ vẻ đắc thắng khi dồn hai người vào đường cùng. Trong tình thế bức bách, Anh Tú và Ngọc Vũ không còn đường chạy. Hai người đã bị bao vây.

Đứng án ngữ trước mặt Ngọc Vũ, che chắn cho cô khỏi những cái nhìn khả ố của đám người hung tợn, Anh Tú hít vào một hơi thật sâu để lấy bình tĩnh. Nó quét mắt nhìn lên khuôn mặt của từng người, rồi lấy giọng nhu hòa.

- Thưa các quan lớn. Anh em chúng tôi đang vội, phải về Quy Nhơn gấp để kịp nhìn mặt cha đang bệnh nặng lần cuối, nếu trễ một giây một phút nào thì chúng tôi sẽ mang tội bất hiếu suốt đời. Mong các ngài hãy thương tình mà nhường đường cho anh em chúng tôi.

Anh Tú cất giọng, nó thận trọng chọn lựa từ ngữ sao cho hợp lòng đoàn người chặn đường. Một gã cưỡi ngựa mặc áo xanh, là người Anh Tú nhìn thấy ban nãy, tách vòng vây tiến lên phía trước. Hắn ta vân vê cằm, mắt nhìn hau háu vào người Ngọc Vũ, khiến cô lo lắng nép sau lưng Anh Tú vì cái nhìn khiếm nhã của hắn ta.

- Ta không muốn ngăn trở hai anh em ngươi làm người con có hiếu. Ngươi có thể đi... Nhưng còn em gái ngươi thì không.

Những lời của gã áo xanh vừa thoát khỏi miệng, Ngọc Vũ đã quắc mắt nhìn hắn. Ánh mắt cô long lanh sắc giận vì giọng điệu cợt nhả của gã áo xanh. Cô dấn lên một bước, tay rút thanh đoản kiếm bọc trong tay nải ra, quyết một phen sống mái nếu tên nào cả gan chạm vào người cô. Đúng như lo lắng của Anh Tú, nhìn rõ dung mạo của Ngọc Vũ, gã mặc áo xanh ngồi trên ngựa ngây ra, rồi sau đó chuyển sang cái nhìn thèm muốn, khát khao chiếm đoạt được người con gái xinh đẹp, uyển chuyển đang ở trước mặt mình.

Tình hình ngày càng nguy ngập. Anh Tú biết Ngọc Vũ có thể hạ một tên, hai tên chứ quyết không thể đấu lại nổi mười mấy tên cướp, nhưng với cá tính của cô, nó biết chắc chắn cô thà tự sát còn hơn để những bàn tay nhơ bẩn ấy chạm vào người. Đảo mắt xung quanh, Anh Tú thất vọng khi những người dân đi đường lảng ra thật xa hoặc vội vã đi qua, chứ không ai có ý định dây vào đám người này làm gì. Xem ra cái câu "giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha" chỉ áp dụng được cho những người nào giỏi võ, còn không thì sống chết mặc bay. Anh Tú thu tay lại thành nắm đấm, nó không thể dễ dàng bỏ mạng lại nơi này, cũng như không thể để Ngọc Vũ lọt vào tay của đám cướp ấy, bằng mọi giá nó phải nghĩ ra một cách, bằng mọi giá...

- Các vị, trước khi các vị mang em gái tôi đi, xin cho tôi hỏi một câu được không?

- Ngươi muốn hỏi gì?

Nghe Anh Tú lên tiếng, gã áo xanh hỏi lại nhưng vẫn không rời mắt khỏi Ngọc Vũ. Cô chĩa kiếm vào đoàn người trước mặt, bờ môi anh đào mím lại cương quyết, ánh mắt lấp lánh sát khí. Dáng bộ cầm kiếm như sẵn sàng kết liễu ai dám động đến mình, vừa kiêu ngạo vừa oai vệ của Ngọc Vũ khiến gã thấy hứng thú. Từ nhỏ đến lớn, gã đã gặp qua rất nhiều cô gái, từ tiểu thư, dân thường cho đến kỹ nữ, nhưng chưa bao giờ trông thấy một cô gái vừa xinh đẹp vừa khí phách ngần này. Nhất định lần này gã phải sở hữu được cô gái, nhất quyết không phải nhường lại cho tên đại ca vẫn thường hay lấy hết mọi của ngon vật là của gã, mà chẳng để lại cho gã bất cứ thứ gì.

- Ngài có thấy em gái tôi xứng đáng làm vợ của ngài không?

- Xứng! Tất nhiên là xứng!

Anh Tú ướm hỏi gã áo xanh. Nó nhếch môi khi gã trả lời vồn vã. Phớt lờ ánh mắt nửa ngạc nhiên, nửa tức giận của Ngọc Vũ, Anh Tú vẫn bình thản tiếp lời.

- Thật chẳng dám giấu gì các ngài, tôi là anh trai của nó. Bấy lâu nay tôi vẫn luôn muốn em gái tôi có một tấm chồng xứng đáng, nay nó được ngài để ý quả là may mắn của em gái tôi. Tôi vốn định mang em gái tôi về quê để nhìn mặt cha lần cuối, nhưng giữa đường gặp ngài đây, âu cũng là do duyên phận. Dẫu sao, khi em gái tôi trở thành vợ của ngài thì chúng ta sẽ trở thành người một nhà, tôi cũng cần phải biết danh tính, chức tước của ngài để về bẩm báo lại cho song thân, để họ có xuống suối vàng cũng yên lòng vì em gái tôi đã có chốn nương thân. Ngài thấy tôi nói có đúng không?

Anh Tú càng nói, Ngọc Vũ càng giận. Cô quay ngoắt người lại, tay vung đoản kiếm lên và chém về phía Anh Tú. Vội hụp đầu xuống để né tránh đường kiếm ấy, Anh Tú mở miệng tính mắng, nhưng đến khi nhìn thấy đôi mắt long lanh, ươn ướt pha lẫn giận dữ, thất vọng của Ngọc Vũ, Anh Tú nhíu mày, những lời trách mắng đang ở đầu môi liền kềm lại. Nó nhìn thẳng vào mắt Ngọc Vũ, ánh nhìn kiên quyết đầy ẩn ý, lòng thầm mong cô sẽ hiểu và ngoan ngoãn phối hợp cùng nó.

Những gì Anh Tú vừa nói ra đã làm gã áo xanh thích thú. Gã nói, trong những tiếng reo hò của lũ đồng bọn kế bên mà không chú ý nhiều đến biểu hiện của nó và Ngọc Vũ lúc này.

- Được! Xét lời ngươi nói cũng có lý, ta lấy em gái ngươi làm vợ thì xem như chúng ta là người một nhà. Ta là Lê Anh, phó tướng của quân Đông Sơn.

94.

Khi nghe gã mặc áo xanh tự xưng là Lê Anh - phó tướng quân Đông Sơn, Anh Tú đã rất đỗi ngạc nhiên. Đông Sơn là quân nào, sao nghe giống Tây Sơn quá, Anh Tú nhủ thầm. Nếu biết trước có ngày nó sẽ quay trở về thời Lê Trung Hưng, thì ở hiện đại nó đã chăm chỉ học lịch sử, tuy không biết tường tận chi tiết, nhưng chí ít cũng nắm sơ qua tình hình, chứ không đến nỗi phải chôn chân ở đây đoán già đoán non như thế này.

Có vẻ như thấy Anh Tú đã thuận gả "em gái" cho mình nên Lê Anh không cần vội vàng nữa. Nhìn sắc trời đã dần xẩm tối, Lê Anh sực nhớ đến công việc mà chủ tướng đã giao phó. Tình hình gần đây ở Gia Định, quân Đông Sơn của gã nắm rõ như lòng bàn tay. Chúa Nguyễn đã bị quân Tây Sơn đánh bật khỏi Gia Định, thời cơ báo thù của Đông Sơn quân đã đến. Trước đây, quân Đông Sơn của gã rất hùng mạnh chứ không yếu ớt như bây giờ. Dưới sự lãnh đạo của tướng quân Đỗ Thanh Nhơn, Đông Sơn đã từng tung hoành một cõi, từng làm quân Tây Sơn phải e dè. Quy thuận chúa Nguyễn, những tưởng sẽ được trọng dụng, nào ngờ, chỉ vì những lời dèm pha mà Nguyễn Ánh đã cho giết Đỗ tướng quân. Phẫn uất vì cái chết của chủ tướng, hai phó tướng là Võ Nhàn và Đỗ Bảng nổi lên, thoát ly khỏi quân Nguyễn và chống lại họ để báo thù cho cái chết của chủ tướng. Lẽ ra kế hoạch chống chúa Nguyễn lẫn Tây Sơn sẽ tiến hành dài lâu, nhưng Nguyễn Ánh đã dùng mưu mẹo loại trừ được Võ Nhàn và Đỗ Bảng. Mất đi người đứng đầu lãnh đạo, quân Đông Sơn nhanh chóng phân tán, mỗi người mỗi ngã, lẩn lút khắp nơi do sợ quân Nguyễn truy sát.

Sau lần phân tán ấy, dần dà, Đông Sơn cũng đã tập hợp lại lực lượng, nhưng thanh thế đã không còn được như xưa. Cái chết của ba vị tướng quân vẫn còn lẩn khuất trong lòng họ và họ đã thề sẽ báo thù cho chủ tướng bằng mọi giá. Trước thế lực quá mạnh của quân Nguyễn, Đông Sơn chưa thể trả được thù. Lần trước, khi quân Nguyễn bị Tây Sơn đánh bật ra khỏi Gia Định, lực lượng của họ quá mỏng manh, vẫn còn phân tán khắp nơi do hậu quả của những cuộc càng quét trước đó nên chưa thể tính đến chuyện trả thù. Nay thời cơ đã đến, quân Nguyễn lại một lần nữa bị đánh bật khỏi Gia Định, sĩ số Đông Sơn tuy là chưa thể sánh với năm xưa nhưng cũng đủ để tính món nợ máu với Nguyễn Ánh.

Tuy tôn chỉ trước đây là chống cả Tây Sơn và chúa Nguyễn, nhưng tình hình hiện nay đã thay đổi. Kẻ thù của kẻ thù chính là bạn. Để trả được món nợ với Nguyễn Ánh, việc cấp thiết lúc này của họ là thiết lập mối quan hệ hợp tác với Tây Sơn, mượn thêm binh lực hùng hậu của Tây Sơn để truy lùng và tiêu diệt tận gốc quân Nguyễn. Lê Anh là người đã được chủ tướng Đinh Hồ giao cho nhiệm vụ thỏa hiệp với Tây Sơn. Ngay khi nhận được nhiệm vụ, từ trưa, gã đã nai nịt lên đường, nửa đường lại gặp bọn Anh Tú và Ngọc Vũ cho nên chưa thể hoàn thành nhiệm vụ Đinh Hồ giao.

Biết nấn ná lại thêm phút nào thì nhiệm vụ của gã sẽ không thể hoàn thành, ánh chiều tà cũng gần tắt, thời gian không còn nhiều, gã phải tranh thủ đến được nơi đóng quân của Tây Sơn trước khi trời tối. Anh Tú đã đồng ý gả em gái thì gã không cần phải vội, nhiệm vụ là trên hết, sau về làm lễ động phòng cũng chẳng thiệt thòi gì. Lê Anh xoa cằm nhìn Ngọc Vũ với đôi mắt thèm khát, cô gái xinh như mộng này mà để lọt vào tay người khác thì gã nhất định không cam tâm.

- Bây giờ ta phải tiếp tục đến nơi đóng quân của Tây Sơn, năm người các ngươi hãy đưa hai anh em này về dinh trước đợi ta. Hãy nhớ để cô gái này vào chỗ kín kẽ một chút, không được để chủ tướng nhìn thấy, có biết chưa!!

Lê Anh cẩn thận dặn dò thuộc hạ, gã hài lòng khi chúng dạ ran một tiếng. Đây là những thuộc hạ tâm đắc của gã, chắc chắn sẽ không có chuyện phản bội, và cô gái đẹp này sẽ thuộc về gã. Nghĩ đến đó, Lê Anh không giấu nổi vẻ đắc thắng, gã quét mắt lên người Ngọc Vũ, môi nặn ra nụ cười hung hiểm.

- Tiểu mỹ nhân, đợi ta làm xong nhiệm vụ, ta và nàng sẽ động phòng hoa chúc ngay.

Trước những lời khả ố của Lê Anh, Ngọc Vũ chỉ muốn một kiếm giết chết tên cường đạo này ngay tức khắc. Nhận thấy sắc giận trong mắt Ngọc Vũ, Anh Tú vội nắm tay cô kéo lại, nhường đường cho Lê Anh phóng ngựa đi. Bị Anh Tú ngăn cản, Ngọc Vũ giận lắm, cô phẫn uất nhìn nó, nhưng đáp lại sự tức giận của cô là ánh mắt mềm mỏng của Anh Tú. Ánh mắt vừa mềm mỏng, nhưng không kém phần kiên quyết ấy đã khiến cơn tức giận của Ngọc Vũ tạm thời nén lại. Cô biết ban nãy Tiểu Anh Tử cư xử điềm đạm, cẩn thận khác thường, chắc chắn đó là kế hoãn binh, rồi sau đó sẽ tìm cách thoát thân. Hắn ta chắc chắn không bao giờ bỏ rơi cô. Nghĩ thế, Ngọc Vũ bình tĩnh lại, cô ngoan ngoãn làm theo lời Anh Tú, điều đó khiến Anh Tú hài lòng. Gì chứ cô nàng Ngọc Vũ kiêu ngạo, bướng bỉnh thường ngày nay lại nghe lời nó đến thế, âu cũng là kỳ tích lắm rồi.

Lê Anh vừa phóng ngựa đi, thì năm tên thuộc hạ còn lại cũng thúc giục Anh Tú và Ngọc Vũ nhanh chân đến doanh trại của Đông Sơn. Biết một khi lọt vào ổ địch, muốn thoát ra sẽ khó khăn gấp bội lần, Anh Tú vừa đi vừa tính kế. Nó không thể để Ngọc Vũ bị gã Lê Anh mặt nham mày nhở kia xâm phạm, càng không thể để tính mạng mình gặp nguy hiểm. Bằng mọi giá, trên đường đi, nó và Ngọc Vũ phải thoát khỏi bốn tên thuộc hạ này, chứ nếu không, e là về đến Đông Sơn, số phận của nó và Ngọc Vũ chẳng khác nào cá nằm trong lưới, giãy giụa cách mấy cũng không tài nào thoát ra. Thế nhưng Lê Anh cũng thật gian xảo, tuy Anh Tú đã bằng lòng gả Ngọc Vũ cho gã, nhưng Lê Anh vẫn đề phòng nó trở chứng, bằng cách cử năm tên thuộc hạ to khỏe như bò mộng hộ tống cả hai về trại. Ngọc Vũ tuy có võ, nhưng với sức của cô thì cùng lắm chỉ có thể hạ được hai tên, Anh Tú lại không biết võ. Nghĩ đi nghĩ lại muốn trốn thoát cũng không dễ, tình huống bây giờ thật nan giải.

Trời đã bắt đầu tối, Gia Định càng trở nên hoang vắng. Đi không ngừng nghỉ suốt từ chiều tới giờ cũng đã mệt mỏi, lại thêm không nghĩ sẽ phát sinh chuyện trên đường đi, nên cả bọn không ai mang theo đèn đuốc. Trời tối, cảnh vật bắt đầu mù mờ, tạo cơ hội tốt cho cô gái xinh đẹp và anh trai có thể bỏ trốn, năm tên lính Đông Sơn bắt đầu tìm chốn dừng chân để dễ bề trông chừng. Đêm Gia Định hoang hoải, gió luồn qua vách lá lào xào, xung quanh chỉ toàn cây với cối, suốt mấy dặm không có ánh đèn nào báo hiệu có một quán trọ hay nhà dân để có thể trú chân. Những tưởng sẽ phải ôm bụng đói vất vưởng ngoài trời, năm tên lính sáng mắt khi nhìn thấy một ngôi nhà tranh thấp thoáng sau rặng dừa ở phía trước. Không chậm trễ, năm tên lính giục Anh Tú và Ngọc Vũ đi nhanh về phía ấy. Đến gần nơi, chúng mới phát hiện ra đó là một ngôi nhà tranh dột nát đã bị bỏ hoang. Không giấu nổi thất vọng, năm tên lính đành miễn cưỡng tiền vào vì trời đã tối hẳn.

Theo sau năm tên lính, Anh Tú đảo mắt một vòng ngôi nhà để tìm cách thoát thân. Ngôi nhà tranh này mái đã bị vạt xuống một nửa, để lộ ra bầu trời đêm đen như mực, không ánh sao khuya. Bốn bức vách đã bị hư hại đáng kể, tấm liếp che phe phẩy, cọt kẹt theo cơn gió. Đứng giữa một ngôi nhà hoang không ánh lửa, không thức ăn nước uống, năm tên lính lộ vẻ chán chường, chúng bắt đầu sục dạo khắp ngôi nhà để tìm thứ gì bỏ vào bụng. Lần ra phía sau, năm tên lính phấn chấn ra mặt khi trông thấy khu vườn khoai xơ xác không ai chăm sóc. Đứng lấp ló phía sau hai tên lính Đông Sơn khi bị chúng kềm kẹp, đầu Anh Tú lóe lên một tia sáng vì những cây khoai mì đang rung rinh trong đôi mắt nheo lại của nó. Khoai mì, củ khoai mì, cứu tinh của nó chính là đây.

- Ồ! Tôi cứ tưởng hôm nay không có gì bỏ vào bụng, ai ngờ trời phật thương tình còn cho chúng ta tìm thấy vườn khoai mì này. Tôi sẽ luộc khoai lên làm bữa tối cho chúng ta, các anh thấy thế nào. Có còn hơn không chứ hả.

- Được, ngươi mau luộc khoai cho chúng ta ăn, bổn đại gia chúng ta đói lắm rồi.

Nghe Anh Tú muốn luộc khoai, năm tên lính gật đầu tán thưởng. Để ba tên lính lại giám sát Ngọc Vũ, cả bọn cùng Anh Tú túa ra sau vườn, nhổ bật những cây khoai mì lên để lấy củ. Cũng may đây là ngôi nhà hoang, nhưng còn lại khoai mì trồng ở phía sau vườn, củ nào củ nấy vừa to vừa dài, khiến cho hai tên lính phấn chấn vì sắp được xơi bữa khoai no nê. Sau khi đã thu hoạch một bọc khoai mì, đủ no căng bữa tối, Anh Tú đi vào trong nhà để bắt đầu chế biến khoai mì dưới năm đôi mắt giám sát của bọn lính Đông Sơn. Mặc cho những cái nhìn canh chừng của chúng, Anh Tú vẫn thản nhiên làm công việc đầu bếp của mình. Nó mượn một con dao nhỏ của tên lính đứng bên cạnh để lột vỏ khoai, rồi sau đó cho tất cả vào chiếc nồi mẻ, đã sứt cả hai quai, vừa mới tìm được trong xó nhà. Được sự giúp sức của một tên lính do thấy nó đánh vật với hai cục đá lửa, một cái bếp thô sơ được dựng lên bằng mấy cục đá xếp liền nhau. Nồi khoai mì yên vị trên bếp, năm tên lính ngồi dựa vào vách giám sát nó và Ngọc Vũ trong khi chờ khoai chín.

Ngồi bên cạnh Ngọc Vũ, Anh Tú nhìn đăm đăm vào ngọn lửa cháy bập bùng, lòng nó đang nôn nóng muốn nồi khoai mì sôi càng nhanh càng tốt, bởi nó biết rằng một khi nồi khoai chính, thì nó và Ngọc Vũ sẽ có cơ hội thoát thân.

Tại sao Anh Tú lại mừng rỡ đến thế khi nhìn thấy vườn khoai mì, và tại sao khoai mì chính là cứu tinh của nó, âu đó cũng là thường thức mà nó đọc được trong sách báo hằng ngày. Có thể nói, Anh Tú rất thích đọc báo thường thức, coi những chương trình khoa học và rất có hứng thú về các thí nghiệm hóa, lý. Nếu nói võ nó không bằng ai, nhưng những kiến thức phổ thông thì chẳng ai lại có thể hơn được nó. Theo như những gì nó đã đọc trong báo, khoai mì tuy là một món ăn vô cùng ngon, bổ, rẻ, nhưng bên cạnh đó lại tiềm ẩn những độc tố chết người vì trong khoai mì tích tụ nhiều chất glucosid. Nạn đói năm 1945, vô số người ngộ độc dẫn đến tử vong do đã ăn cả vỏ khoai mì, nơi tích tụ độc tố glucosid, vì quá đói. Ngoài ra, trong khoai mì cũng có chứa độc chất xyanua, xyanua ở phần vỏ và ngay cả phần củ. Dù lột vỏ nhưng khoai vẫn còn một lượng xyanua nhất định. Khi luộc, đặc biệt là luộc với số lượng lớn thì chất này sẽ đóng váng trên bề mặt nước. Nếu ăn phải chất này với hàm lượng cao, người ăn sẽ bị ngộ độc ngay. Muốn dùng khoai mì an toàn, trước khi luộc, bao giờ người ta cũng lột vỏ, sau đó ngâm trong nước lạnh nhiều giờ để loại bỏ chất xyanua. Ngoài ra, trong lúc luộc phải mở nắp nồi để chất xyanua bay đi, khi ấy mới có thể an tâm mà dùng. Quá hiểu rõ những thuộc tính đó của khoai mì, Anh Tú đã cố ý gọt vỏ sơ sài, không thèm ngâm rửa mà đem đi luộc ngay, sau đó nó còn lấy ván gỗ đậy lên nồi, bảo là cho mau chín nhưng thực chất là để lưu lại chất độc. Vừa có xyanua, lại cộng thêm lớp váng đọng trên bề mặt nước không được vớt bỏ, năm tên trâu mộng này ăn vào chắc chắn sẽ bị ngộ độc, vấn đề chỉ là thời gian ngộ độc đến nhanh hay chậm mà thôi.

Trước sự trông ngóng của Anh Tú và năm tên lính Đông Sơn, nồi khoai mì đã nắt đầu sôi ùng ục. Nhẩm tính thời gian khoai mì đã chín, Anh Tú từ từ mở nắp nồi ra. Cẩn thận vớt những củ khoai mì ra để trên ván gỗ, Anh Tú cười thầm khi thấy nước trong nồi gần cạn và lớp váng độc tố đọng dày. Không đợi khoai nguội, năm tên lính lao vào ăn ngay do quá đói. Vì mải mê ních căng bụng, chẳng ai để ý Anh Tú và Ngọc Vũ chỉ ngồi yên bên cạnh, không ăn một củ nào.

Nhìn năm tên lính say sưa ngốn khoai, hàm bạnh ra, Anh Tú nôn nóng. Chúng ngốn ngấu lượng khoai mì nhiều thế, chắc chắn không đầy canh giờ sau là độc tính sẽ phát tác. Sau khi đã ăn khoai mì đến no căng bụng, năm tên lính quệt mép thở một hơi khoan khoái. Chúng dựa lưng vào vách tường nghỉ ngơi để chờ trời sáng là khởi hành ngay. Ngôi nhà hoang chìm trong im ắng, chỉ có những tiếng thở đều và tiếng trở mình sột soạt do bị muỗi cắn. Thời gian trôi chậm chạp trong sự hồi hộp của Anh Tú, nó đang chờ độc tố xyanua và glucosid tiềm ẩn trong người năm tên lính phát tác, rồi nhân đó mà trốn thoát khỏi tay bọn chúng.

Đúng như dự đoán của Anh Tú, độc tố xyanua và glucosid chưa đầy một giờ đồng hồ đã bắt đầu phát tác. Một tên lính đang đang rù rì nói chuyện với đồng bọn kế bên bỗng nhiên ngưng lại. Hắn ta cảm thấy khó thở, tay ôm lấy bụng, người cúi gập xuống nôn hết những gì vừa mới ăn được ra ngoài. Sau khi nôn xong, hắn ngã vật xuống đất, đầu ngón tay xanh tím và dần chìm vào hôn mê, đó chính là triệu chứng khi ngộ độc khoai mì. Nhìn thấy hiện tượng đó, bốn tên lính còn lại kinh ngạc nhất tề xúm lại quanh gã đang hôn mê. Anh Tú để ý thấy ban nãy, tên này là người ăn nhiều nhất, thế nên độc tính phát tác nhanh nhất, kế đó là tên lính mặc áo xám ngồi bên cạnh ăn nhiều thứ hai. Nó vừa suy nghĩ xong, tên lính mặc áo xám liền ngửa mặt lên, miệng hớp hớp không khí vì bỗng nhiên cảm thấy khó thở. Giống hệt đồng bọn, tên lính áo xám cũng có những triệu chứng tương tự, hắn ta ngã vật xuống đất, bất tỉnh, khiến ba tên lính còn lại mở to mắt vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Nhác thấy hai tên lính chịu chung số phận khi bị độc tố xyanua và glucosid phát tác do ăn khoai mì nhiều nhất, ba tên lính còn lại chẳng chóng mà chầy cũng sẽ bị ngộ độc, Anh Tú chớp lấy thời cơ. Nhân lúc ba tên lính đang xem xét tình trạng của đồng bọn, Anh Tú nắm lấy tay Ngọc Vũ rồi lao nhanh ra ngoài như một mũi tên. Vì có biến cố bất ngờ xảy ra, lại không ngờ Anh Tú táo bạo đến thế, ba tên lính không kịp phản ứng, đến khi hoàn hồn lại thì Anh Tú và Ngọc Vũ đã thoát được ra ngoài. Anh Tú chạy mất không sao, nhưng nếu không có Ngọc Vũ, chắc chắn bọn chúng sẽ khó lòng ăn nói với Lê Anh. Không chần chừ thêm giây phút nào nữa, ba tên lính bật dậy, tay cầm đao đuổi theo Anh Tú, miệng quát tháo khi ngờ rằng, chính tên nhóc con ấy đã giở trò với hai đồng bọn của mình. Mà nếu đúng thế thật thì càng phải bắt lại để lấy thuốc giải, nếu không muốn chịu chung số phận.

- Các ngươi mau đứng lại cho ta!

- Các ngươi có chạy cũng không thoát được bọn ta đâu!

- Khôn hồn thì mau đứng lại, bằng không chớ tránh chúng ta vô tình

Mặc cho những lời đe nạt lẫn gạ gẫm, Anh Tú và Ngọc Vũ vẫn chạy như có cánh trên chân. Lẽ ra nếu ba tên lính đã có triệu chứng ngấm chất độc thì Ngọc Vũ có thể nhanh chóng hạ được bọn chúng. Nhưng vì ba tên này khỏe như vâm, lại quá to lớn, phải mất một lúc lâu chất độc mới phát tán được, Ngọc Vũ đối phó với chúng lúc này là rất khó khăn. Hơn nữa nếu đang trong lúc long tranh hổ đấu, tên Lê Anh cùng động bọn quay trở về, đi ngang qua ngôi nhà tranh phát hiện ra, thì công sức của nồi khoai mì sẽ đi tong. Chính vì thế, trước phản ứng của Ngọc Vũ muốn triệt hạ ba tên lính to con đó, Anh Tú phớt lờ, nó dắt cô nàng chạy cho thật nhanh, thật xa rồi hẵn tính sau.

Chẳng biết ba tên lính này là người hay là ma mà mãi chẳng thấy dấu hiệu trúng độc, Anh Tú chạy cách mấy cũng nghe thấy bọn chúng đuổi phía sau ngày càng gần. Vừa cắm cúi chạy, Anh Tú vừa than thầm trong bụng. Đây là thời xưa, cái thời đem quân đánh nhau liên miên, bộ binh chạy bộ theo chủ tướng đang cưỡi ngựa mà vẫn bám theo sát gót, chả thấy mệt, nhiêu đó cũng đủ biết sức bền và tốc độ của lính bộ binh thế nào. Đối với mấy người này, vô địch maraton thế giới còn không đấu lại huống chi là một đứa xưa nay chỉ quen đi xe máy như nó.

Đúng với lo lắng của Anh Tú, ba tên lính ngày càng đuổi sát sao, Ngọc Vũ chừng như đã mệt nên tụt lại phía sau. Đã chạy đến đây, Anh Tú không cam tâm bị bắt lại. Nó bắt đầu tính kế. Gia Định là vùng sông nước, kênh rạch chằng chịt, ban nãy đám lính Đông Sơn đã tìm được nước để luộc khoai, chứng tỏ gần đây phải có sông ngòi gì đó. Ba tên lính này không thể không bị ngộ độc, chỉ vì thể trạng của mỗi người khác nhau nên độc tố cũng phát tác khác nhau, nhưng dù nói thế thì nó và Ngọc Vũ cũng không thể mạo hiểm để chúng bắt trở lại. Nếu tính toán của Anh Tú sai, bị giải về trại Đông Sơn rồi độc tính trong chúng mới phát tác thì nguy to. Anh Tú nhíu mày, nó cảm nhận đươc gió bắt đầu lạnh lên, lại ẩm hơi nước, như vậy nó đang chạy ra hướng bờ sông. Hai bên là đồng không mông quạnh, chẳng có chỗ nào đủ an toàn để ẩn nấp. Sông thì chắc chắn phải có lau lách rậm rạp, lại thêm trời tối, sông rộng mênh mông, đám lau sậy cao quá đầu người chắc chắn sẽ là nơi ẩn thân tốt nhất của nó. Anh Tú quyết định nhanh, nó nắm lấy tay Ngọc Vũ, chân tăng tốc chạy nhanh về hướng gió đang thổi.

Gia Định ngày xưa sông rạch nhiều vô số kể, Anh Tú chỉ chạy loáng một cái là đã đến bờ nước. Những bụi lau rậm rạp phơ phất, gió thổi từ mặt nước phả vào mặt mát lạnh. Nước sông đen tuyền một màu bí ẩn, tạo cho Anh Tú dự cảm không lành. Nhảy xuống sông vào đêm tối lạnh ngắt là điều nó không hề muốn, nhưng với sự truy đuổi bức bách phía sau thì chẳng còn cách nào khác. Vất nhanh tay nải quàng sau lưng vào bụi cây gần đó, phớt lờ sự do dự của Ngọc Vũ, Anh Tú nắm chặt tay cô và nhảy ùm xuống sông. Nước sông ban đêm lạnh ngắt, mơn man da thịt, khiến Anh Tú và Ngọc Vũ rùng mình. Cắn chặt hàm răng va vào nhau lập cập, Anh Tú nắm tay Ngọc Vũ, lặn một hơi xuống dưới mặt nước. Chọn một bờ lau sậy rậm rạp để ẩn thân, Anh Tú trồi lên, bứt lấy hai cây sậy rỗng ruột rồi đưa cho Ngọc Vụ một cái. Thấy Ngọc Vũ ngơ ngác, Anh Tú ngán ngẩm. Cô nàng này ngoài chuyện sai bảo ra, đúng là chẳng biết thứ gì.

¬- Ngậm nó vào miệng, nó dùng để thở khi ở dưới nước!

Có vẻ như từ trước tới nay Ngọc Vũ chưa làm theo cách này bao giờ, nên mãi mà cô vẫn dùng dằng chưa dứt. Anh Tú ngậm cọng sậy vào miệng, tim nó nhảy lên một cái khi nghe tiếng bước chân dồn dập, vội nhét cọng sậy vào miệng Ngọc Vũ, Anh Tú dìm cô xuống nước. Ngay khi cả hai vừa chìm xuống nước, một lưỡi dao sáng loáng khua vào bụi cỏ lau ngay chỗ cả hai vừa ẩn nấp, khiến Anh Tú giật thót mình.

- Tìm đi! Chắc chắc chúng nó chỉ trốn quanh quẩn đâu đây thôi.

Đó là giọng của tên lính Đông Sơn bắt Anh Tú luộc khoai, nhưng giọng nói của gã mất hẳn vẻ sang sảng như lúc đầu, trái lại còn nghe rất yếu ớt. Biết chất độc đã bắt đầu phát tác, Anh Tú mừng thầm. Trên bờ, ba tên lính chậm rãi dò xét dòng sông, cứ mỗi lần dừng chân ở bụi rậm nào là chúng là khua khoắng, mong dồn được hai kẻ đào phạm ra ngoài. Cố gắng chịu đựng cái lạnh đang xâm nhập vào cơ thể, Anh Tú ngậm chặt cọng sậy trong miệng. Bàn tay Ngọc Vũ bấu chặt lấy tay nó, run rẩy, điều đó khiến Anh Tú lo lắng bởi Ngọc Vũ đang chịu đựng cực hạn. Nếu ba tên lính này không mau chóng bỏ đi, nó thật không biết Ngọc Vũ chịu được cái lạnh buốt da này bao lâu nữa.

Có lẽ sau phút sục sạo từng bụi rậm mà vẫn không tìm được Anh Tú và Ngọc Vũ, lại bác bỏ ý nghĩ cả hai đang ở dưới sông do không nghĩ ai mà có thể ở dưới nước lâu đến thế, ba tên lính đã bắt đầu nản. Chất độc dần phát tác khiến chúng cảm thấy khó thở, nên động tác chậm dần. Sợ số phận mình sẽ như đồng bọn khi nãy, ba tên lính cả sợ. Chúng nhanh chóng bỏ cuộc truy đuổi và tìm đường quay trở về doanh trại để gặp thầy lang càng sớm càng tốt. Tuy khó ăn nói với Lê Anh nhưng dẫu sao, tính mạng vẫn quan trọng hơn rất nhiều.

Ẩn mình sâu trong đám lau sậy, án binh bất động cho đến khi chắc chắn chúng đã đi xa, Anh Tú như nhấc được tảng đá ngàn cân đè nặng trước ngực. Chờ cho đến khi không còn nghe thấy động tĩnh gì nữa, Anh Tú kéo Ngọc Vũ trồi lên khỏi mặt nước. Rút cọng sậy ra khỏi miệng, Anh Tú há miệng hớp lấy mấy hơi thật dài để lưu thông không khí. Ngoảnh sang Ngọc Vũ, Anh Tú cả kinh khi cô nhắm nghiền mắt, sắc mặt trắng bệch, người mềm nhũn trong vòng tay nó như không còn sinh khí.

Vội vàng đưa Ngọc Vũ lên bờ, Anh Tú cố gắng lay Ngọc Vũ tỉnh lại. Quần áo cả hai ướt sũng nước, bám chặt vào da thịt. Dưới cơn gió đêm của Gia Định, người Anh Tú run lên bần bật, hai hàm răng va vào nhau lộp cộp chẳng khác nào trong động băng. Nhanh chóng tìm túi hành lý của mình, Anh Tú dùng tất cả những gì có thể để đắp lên người Ngọc Vũ, giúp cô ổn định lại thân nhiệt. Tình hình khá lên, Ngọc Vũ dần hồi tỉnh lại. In trong đôi mắt yếu ớt của cô là gương mặt lo lắng của Anh Tú, cô khẽ rên một tiếng nhỏ rồi trở mình ngồi dậy. Đang lo lắng cho Ngọc Vũ, đôi mày chau tít lại của Anh Tú dần giãn ra. Ổn rồi! Ngọc Vũ tỉnh lại thì chắc là không sao, cả hai đã an toàn. Anh Tú thở phào một hơi nhẹ nhõm. Nó dìu Ngọc Vũ đứng lên để tìm chỗ ẩn thân phòng khi chẳng may có ai đó đi ngang qua.

Trời càng về đêm càng lạnh, sương dần buông, lại thêm Anh Tú và Ngọc Vũ đang ướt như chuột lột, nên hơi thở đều ra khói. Ngọc Vũ hầu như không còn chút sức lực nào, cô tựa hẳn vào người Anh Tú, cả hai dìu nhau đi trong tiết trời lạnh lẽo. Những bước chân liêu xiêu, lập cập và chệnh choạng, tựa như không còn đở nổi thân người đang lạnh cóng của cả hai.

Với tình cảnh hiện giờ, nếu không mau chóng tìm được môt ngôi nhà nào để trú thân và hong khô quần áo thì cả hai chắc chắn sẽ chết cóng. Anh Tú vừa dìu Ngọc Vũ vừa nhìn quanh quất. Cả hai đã đi được một đoạn khá xa nhưng vẫn chẳng thấy một ngôi nhà dân nào để trú tạm qua đêm. Chẳng lẽ hôm nay phải bỏ mạng nơi đây, Anh Tú không cam lòng. Ngọc Vũ đã không đi nổi nữa, cô ngồi bệt xuống đất, sắc mặt càng lúc càng nhợt nhạt, đôi môi hồng bây giờ trở nên tím tái, bờ vai thon không ngừng run lẩy bẩy vì lạnh. Tình cảnh của Ngọc Vũ khiến Anh Tú bất nhẫn. Nó vắt khô mấy tấm áo khoát ướt sũng bên ngoài, rồi đắp trở lại cho Ngọc Vũ để tạo chút hơi ấm cho cô, sau đó ghé lưng cõng Ngọc Vũ lên, vì cả hai tuyệt đối không thể dừng chân nghỉ qua đêm ngoài trời.

Hai tay quàng lấy cổ Anh Tú, Ngọc Vũ lả đi, đầu ngả lên bờ vai của nó, hai mắt nhắm nghiền vì thể lực đã suy kiệt do cuộc chạy trốn. Nhận thấy tình hình nguy hiểm của Ngọc Vũ, Anh Tú vô cùng lo lắng. Bất chấp sự mệt mỏi đang kéo dài, Anh Tú cắn răng gia tăng tốc độ, nó vừa đi vừa nhìn quanh quất, lòng hy vọng sẽ tìm thấy một ngôi nhà dân nào đó để xin tạm trú qua đêm. Bất chợt, gương mặt đang đông cứng của Anh Tú thoáng chút mừng rỡ khi nhìn thấy có ánh lửa cháy bập bùng khuất sau một lùm cây. Quên hết mệt mỏi đang đeo nặng trong lòng, Anh Tú tăng tốc, bước nhanh về phía ánh lửa, hy vọng duy nhất của nó trong đêm.

Càng đến gần, Anh Tú phát hiện ra đó là một ngôi miếu hoang sập xệ, không người qua lại. Bên trong ngôi miếu, mùi cá nương thơm lừng tỏa ra khiến nó nuốt nước miếng. Thở phào một hơi nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng đã tìm thấy ánh sáng trong đường hầm hun hút, Anh Tú bước vào trong sau khi phỏng đoán chắc người ở trong ngôi miếu không phải ba tên lính Đông Sơn. Vừa đặt chân vào bệ cửa, Anh Tú nhìn thấy một người đang ngồi xoay lưng về phía nó, bên cạnh là đống lửa ấm áp cháy bập bùng. Bên trên đống lửa là bốn xiên cá nướng thơm phưng phức, mùi thơm quyến rũ Anh Tú nhất từ trước tới nay....

Tags: Sương

Trước khi vào chap, muốn thông báo cho mọi người một chuyện, đó là từ chap này trở đi, Yoh và Ro đã cân nhắc tình hình và hướng phát triển, thêm để cho phù hợp cho sự trưởng thành của nhân vật, từ giờ, chúng tôi sẽ đổi ngôi xưng của Anh Tú từ "nó" sang "anh". Trước mắt sẽ có nhiều điều không quen, nhưng mong mọi ng' chấp nhận và tiếp tục theo dõi ^^

95.

Qua ánh lửa cháy tỏ, Anh Tú nhìn thấy người ngồi trong miếu là một cô gái, trạc tuổi Ngọc Vũ, dung mạo rất xinh đẹp. Khác với vẻ sang trọng, tiểu thư của Ngọc Vũ, cô gái này toát lên sự từng trải, bôn ba khắp nơi, dù trông cô còn rất trẻ. Nước da cô không trắng mịn là lại mang màu khỏe khoắn, một nét đẹp tinh xảo và đầy sức sống. Chẳng buồn để ý đến người vừa mới bước vào là ai, cô gái vẫn thản nhiên ngồi lau kiếm, bốn xiên cá nướng tỏa mùi thơm khắp ngôi miếu, làm Anh Tú không cầm lòng mà nuốt nước miếng liên hồi.

Anh Tú cõng Ngọc Vũ dò dẫm lại bên cạnh đống lửa, anh chưa kịp mở miệng xin ngồi sưởi chung thì cô gái đã bất thần lên tiếng.

- Không được ngồi xuống đây, chỗ này là của ta!

Giọng nói cô gái sắc nhọn, bàng quan và thờ ơ, làm Anh Tú nhíu mày vì không ngờ cô gái này lại lạnh lùng đến thế. Nếu chỉ có một mình, Anh Tú đã bước thẳng ra ngoài ngồi, nhưng vì Ngọc Vũ đang run cầm cập vì lạnh, anh không nhẫn tâm để cô hứng gió chịu sương. Cố trấn áp sự bất mãn trong lòng, Anh Tú nhìn cô gái, nói nhẹ nhàng.

- Tôi biết chỗ này là của cô, nhưng người hai chúng tôi giờ đang rất lạnh. Sức lực em gái tôi giờ như ngọn đèn trước gió, cô có thể rộng lòng chia sẻ cho chúng tôi chút lửa được không. Nếu được thì tôi cám ơn cô rất nhiều.

Không đợi Anh Tú nói dứt, cô gái áo đỏ đã nói luôn.

- Ta nói không... nghĩa là không. Ngươi đừng phí lời.

Anh Tú đã cố dẹp hết tự ái qua một bên để cầu xin, ấy thế mà đáp lại lời anh chỉ là sự lạnh lùng không thể nào hơn của cô gái, điều đó khiến anh vô cùng bực bội. Không nói thêm gì với cô gái áo đỏ nữa, Anh Tú quày quả quay người đi. Tiến đến sát góc bên trái ngôi miếu, Anh Tú đặt Ngọc Vũ cùng bọc hành lý xuống. Để Ngọc Vũ dựa lưng vào tường, Anh Tú vô cùng lo lắng khi người cô lạnh toát. Dù vẫn còn tỉnh táo, nhưng nếu tình trạng này kéo dài thì cơ thể Ngọc Vũ sẽ suy kiệt và tính mạng khó lòng bảo toàn. Trong ngôi miếu hoang rách nát, gió lùa từng cơn, bốn bề là đồng không mông quạnh, chỉ có duy nhất ánh lửa của cô gái áo đỏ nhưng anh đã bị chối từ. Bằng mọi cách Anh Tú phải tìm ra lửa để Ngọc Vũ sưởi ấm, bằng không nàng công chúa ngọc ngà của Bắc hà e là phải bỏ mạng trong ngôi miếu hoang này mất thôi.

Không được cô gái cho lửa, Anh Tú đành phải tự tìm cách xoay trở. Cô gái áo đỏ tạo được lửa, chẳng lẽ thân nam nhi sức vóc như anh lại không, Anh Tú nhủ thầm. Nhìn quanh ngôi miếu hoang, mắt anh sáng lên khi nhìn thấy một thân tre nằm lăn lóc trong góc miếu. Trước đây, Anh Tú đã từng tham dự một khóa kỹ năng rèn luyện khi đi tham dự trại hè với trường, bây giờ xem ra những kỹ năng ấy đã bắt đầu có đất dụng võ. Nhặt lấy thân tre, Anh Tú dùng thanh đoản kiếm của Ngọc Vũ để chẻ đôi nó ra làm hai phần. Úp một nửa thân tre xuống, anh tiếp tục khoét một lỗ hình vầng trăng khuyết trên bề mặt, đủ rộng để làm bàn ma sát. Vớ lấy một búi rơm khô từ mái tranh của ngôi miếu, Anh Tú độn rơm dưới khe cắt, sau đó đặt thanh tre còn lại vào lỗ khoét hình bán nguyệt và bắt đầu cưa. Đối với kiểu tạo lửa bằng tay đơn sơ này, Anh Tú bắt buộc phải kiên nhẫn và thật tập trung. Theo lý thuyết, ban đầu anh cưa chầm chậm, cứ nhịp đều như thế cho đến khi thấy bốc khói thì mới bắt đầu tăng tốc độ lên.

Nhưng lý thuyết lúc nào cũng đơn giản hơn thực hành, đối với cách tạo lửa từ thời tiền sử này, Anh Tú cưa đến vã cả mồ hôi mà vẫn chưa thấy kết quả khả quan. Mặc dù trời thì lạnh và người anh vẫn còn ướt, nhưng những giọt mồ vẫn tứa ra, tuôn dài trên vầng trán cao của anh. Hai lòng bàn tay của anh bắt đầu ướt đẫm mồ hôi, đau rát vì cạnh sắc thanh tre cứa vào. Anh Tú cưa miệt mài và kiên nhẫn nhưng quá lâu mà vẫn không thấy dấu hiệu gì là sẽ có lửa. Cưa mãi mà không thấy khói bốc lên, anh đâm nản, tính bỏ cuộc, nhưng đến khi thấy Ngọc Vũ dựa lưng vào tường, mắt nhắm nghiền, sắc mặt trắng bệch, hơi thở mỏng manh, hai tay bấu chặt vào bờ vai nhỏ, đang run lên vì lạnh, Anh Tú lại không đành lòng. Anh tiếp tục kiên trì với công việc tạo lửa của mình. Đúng với câu có công mài sắt có ngày nên kim, sau một lúc đánh vật với mớ công cụ tạo lửa thô sơ, Anh Tú mừng rỡ khi thấy khói bắt đầu bốc lên từ khe cắt, dù là rất mỏng manh. Từ nhịp cưa chầm chậm ban đầu,anh từ từ gia tăng tốc độ, và rồi khi thấy tia lửa thấp thoáng, Anh Tú liền bốc thêm một nắm rơm cho vào khe cắt và thổi cho lửa bùng lên...

Ánh lửa bập bùng trong đôi mắt Anh Tú. Anh vội vàng thêm bất cứ gì có thể cháy được vào để thổi bùng ngọn lửa rồi kéo Ngọc Vũ xích lại gần để sưởi ấm. Đang nửa tỉnh nửa mê, nay được ánh lửa ấm áp xua tan cái lạnh đang xâm nhập vào người, Ngọc Vũ dần hồi tỉnh. Cô ngồi dựa lưng vào lòng Anh Tú, hai bàn tay nhỏ nhắn hơ trên lửa, gương mặt tái xanh dần lấy lại sắc hồng vốn có. Từng ngón tay cô ngọ nguậy, rồi từng ngón chân cô nhúc nhích, Ngọc Vũ vươn vai để khởi động lại cơ thể sau thời gian đóng băng. Đưa mắt nhìn Anh Tú đang vắt khô áo và hơ lửa bên cạnh, trong lòng Ngọc Vũ thầm cám ơn anh. Nếu không có anh chẳng ngại mệt nhọc cõng cô đến ngôi miếu này, nếu không có anh cố sức tạo ra lửa để cả hai được sưởi ấm, thì có lẽ cô đã không còn mạng để quay trở về Hoàng cung nữa rồi.

Nhờ có đống lửa do Anh Tú tạo ra, Ngọc Vũ dần tỉnh táo, nhưng khổ nỗi khi người ta tỉnh táo, thì điều đầu tiên họ nghe thấy lại là cái bụng đang đánh trống biểu tình. Ngọc Vũ cũng thế, suốt từ trưa tới giờ cô chưa ăn gì. Ban nãy khi ở trong ngôi nhà hoang cùng năm tên lính Đông Sơn, Anh Tú không cho cô ăn khoai mì vì sợ cô sẽ bị trúng độc. Hết chạy trốn khỏi sự truy đuổi của ba tên lính, lại phải ngâm mình dưới nước một thời gian khá lâu, sau đó lại phải lên bờ chạy trốn, Ngọc Vũ gần như kiệt sức nên rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Bây giờ tỉnh lại, việc đầu tiên cô nghĩ đến là ăn uống để lấy lại sức sau một chuyến hành trình dài.

Mùi cá nướng từ chỗ cô gái áo đỏ lan tỏa trong không khí, càng thơm hơn bao giờ hết. Ngọc Vũ nuốt nước miếng, bụng cô đói cồn cào khi nhìn bốn con cá nướng béo mẫm nằm trên xiên. Từ trước đến nay, Ngọc Vũ là công chúa cành vàng lá ngọc của Hoàng cung, cô chưa bao giờ chịu đói chịu khát, chưa trải qua tình cảnh trốn chui trốn nhủi thảm thương như thế này bao giờ. Lúc ở trong cung, cô được ăn sung mặc sướng, cô không muốn ăn cũng có người tự động dọn lên, thậm chí khi ấy cô còn chẳng thèm liếc mắt qua những món sơn hào hải vị bày la liệt trên bàn. Bây giờ, cái đói cận kề, Ngọc Vũ mới cảm thấy nó đáng sợ như thế nào. Đói đến bủn rủn tay chân, đói đến hoa cả mắt, con người ta mới biết quý trọng thức ăn, và Ngọc Vũ chưa bao giờ thấy muốn ăn đến thế. Bốn con cá nướng ấy không phải cá anh vũ, không phải cá lăng, cá bỗng, phần thịt bị nướng cháy xém đôi chỗ, không được bắt mắt như trong cung, thế nhưng đối với Ngọc Vũ chúng còn hơn cả sơn hào hải vị trong Hoàng cung rất nhiều.

Ngồi bên cạnh Ngọc Vũ, thấy cô nhìn đăm đăm bốn con cá nướng, Anh Tú thở hắt ra một hơi. Không riêng gì Ngọc Vũ, sau cuộc chạy trốn vất vả, bụng anhcũng đang đói cồn cào, ngặt nỗi cả hai lại không mang theo bánh trái gì. Nhìn gương mặt lạnh như sương của cô gái áo đỏ, Anh Tú nhíu mày. Cô gái áo đỏ chắc hẳn biết được hai kẻ cùng trú trong miếu hoang đang rất đói, nhưng lại chả buồn liếc mắt hay lên tiếng, tựa như cả hai có đói chết cũng không quan hệ gì đến cô. Ban nãy, Anh Tú chỉ mới xin ngồi chung để sưởi ấm thôi mà cô gái còn từ chối, bây giờ xin cô ta một con cá, há lẽ nào cô ta lại rộng lượng cho. Anh Tú nghĩ thầm trong bụng, anh liếc mắt về phía Ngọc Vũ. Lúc này, cô thôi không nhìn đăm đăm bốn con cá nướng nữa, mà lại nhìn không chớp mắt vào ánh lửa cháy bập bùng. Ánh lửa đỏ soi hồng khuôn mặt đẹp đang xịu xuống của cô. Nhìn Ngọc Vũ co gối ôm bụng, ngồi tiu nghỉu hệt như một chú mèo con bị chủ bỏ rơi, Anh Tú động lòng. Bị cô gái áo đỏ từ chối, Anh Tú đã rất tự ái. Anh có thể nhịn ăn, không thèm mở miệng cầu xin cô gái áo đỏ, nhưng còn Ngọc Vũ thì không thể. Cô là công chúa, vốn quen no đủ, nay gặp chuyện không may mà lưu lạc bên ngoài, chịu cực khổ trăm bề, chắc chắn sẽ rất tủi thân. Từ trưa đến giờ cả hai không ăn gì, còn vất vả ngược xuôi, anh là nam nhi nên còn gắng gượng và chịu đựng được, nhưng Ngọc Vũ là con gái, chân yếu tay mềm, lại không quen gian khổ, sớm muộn gì cô cũng sẽ ngã bệnh nếu không được chăm sóc kỹ càng. Anh Tú thở hắt một hơi, anh lại cố nén lòng tự trọng mà đứng dậy, tiến về cô gái áo đỏ trước đôi mắt ngơ ngác của Ngọc Vũ. Không còn cách nào khác, muốn có ăn thì anh phải dẹp bỏ tự ái mà cầu xin người ta thôi.

Ngồi giữa ngôi miếu, cô gái áo đỏ trước sau vẫn chăm chú lau thanh kiếm cho sáng bóng, đến nỗi lưỡi kiếm có thể soi rõ gương mặt xinh đẹp của cô, mà chẳng hề quan tâm đến thế sự. Khi nghe bước chân Anh Tú tiến về phía mình, cô gái áo đỏ vẫn chẳng buồn phản ứng. Sự thờ ơ đó khiến Anh Tú chờn lòng, anh do dự trong giây lát, rồi mềm mỏng cất lời.

- Xin hỏi, cô có thể rộng lòng nhường cho chúng tôi một con cá nướng được không?

- Không! Ta chẳng có con cá nào dư để cho các ngươi cả - Cô gái áo đỏ lạnh lùng trả lời, đầu vẫn không hề ngẩng lên.

- Nhưng cô có tới bốn con cá kia mà, sao lại không dư con nào?

Trước sự vô lý của cô gái áo đỏ, Anh Tú vẫn giữ giọng nhẹ nhàng, không hể tỏ ra cáu giận. Lúc bấy giờ, cô gái áo đỏ mới chậm rãi ngẩng đầu lên. Ánh mắt nâu của cô ta lấp lánh ánh sáng, thứ ánh sáng vừa tinh quái, vừa tàn nhẫn, trái ngược hẳn với gương mặt xinh đẹp lạnh lùng, làm Anh Tú chột dạ. Trước ánh mắt sững sờ của anh, cô gái áo đỏ vung kiếm, chém phăng bốn cái xiên, khiến bốn con cá bay khỏi đống lửa và đáp xuống sàn nhà dơ bẩn đầy bụi đất. Sau khi đã thực hiện xong hành động đột ngột đó, cô gái áo đỏ thản nhiên chùi lưỡi kiếm vào chiếc khăn đỏ bên cạnh, nói giọng thản nhiên.

- Giờ thì không còn dư con nào.

Anh Tú sầm mặt. Cô gái áo đỏ này quả thật rất quá quắt. Ban nãy đã không cho anh và Ngọc Vũ cùng sưởi chung lửa, bây giờ lại nhẫn tâm hất đổ bốn con cá nướng trong khi cả hai đói đến mờ mắt chân run. Lướt mắt lên khuôn mặt xinh đẹp của cô gái áo đỏ, Anh Tú không nổi giận cũng chẳng lớn tiếng chỉ trích sự tàn nhẫn, lạnh lùng của cô ta, anh chỉ nhếch môi cười nhạt rồi quay trở về ngồi bên cạnh Ngọc Vũ. Nhìn bốn con cá béo mẫm lấm bẩn, nằm trơ trên nền đất lạnh, Ngọc Vũ ngẩn ngơ, ánh mắt lộ vẻ thất vọng và tiếc nuối. Đang khi cô xịu mặt vì cơn đói dồn dập kéo đến, Anh Tú chợt đứng lên, anh quay sang cô nói nhẹ nhàng.

- Ở đây giữ cho lửa đừng tắt, tôi đi bắt cá về cho cô.

Ngọc Vũ ngơ ngác, bất giác cô níu lấy tay Anh Tú. Mặc dù cô đang rất đói, nhưng để Anh Tú ra ngoài vào lúc đêm khuya lạnh lẽo thế này, cô cũng không được yên tâm. Rủi như Anh Tú chẳng may bị đám lính Đông Sơn khi nãy bắt được, chẳng phải sẽ nguy hiểm đến tính mạng hay sao.

- Tiểu... Anh Tú, thôi, ta không sao, ta có thể chịu đựng được. Bây giờ ngươi ra ngoài, lỡ có chuyện gì thì...

Bóp nhẹ bàn tay mềm mại của Ngọc Vũ, Anh Tú nhìn sâu vào mắt cô. Lần đầu tiên, Ngọc Vũ nhận thấy ánh mắt của người này lại dịu dàng đến như thế.

- Tôi sẽ không sao, cô đừng quá lo lắng. Cô cứ ngồi đây giữ lửa, đợi tôi bắt cá về thì chúng ta sẽ nướng ăn. Nghe lời tôi, đừng lo lắng nhiều, tôi nhất định sẽ bình yên quay trở về.

- Đó là một lời hứa?

- Ừ! Là một lời hứa.

Anh Tú mỉm cười khi Ngọc Vũ hỏi lại trong lo lắng. Anh liếc mắt về phía cô gái áo đỏ, trong ánh mắt ánh lên sự thách thức và cao ngạo, rồi quay lưng bước ra ngoài. Nhìn theo bóng dáng Anh Tú mất hút trong màn đêm, Ngọc Vũ ngồi dựa lưng vào tường, đợi chờ trong lo lắng. Gió ngày càng lạnh, những bức vách rách nát không đủ che chắn, ngọn lửa leo lét có thể phụt tắt bất cứ lúc nào. Rúc vào trong chiếc áo khoác mà Anh Tú đã hong khô và choàng lên người, Ngọc Vũ hà hơi, xoa hai tay vào nhau để chống cái lạnh đang len lỏi vào người. Mỗi lần nhìn thấy ánh lửa leo lét như sắp tàn, Ngọc Vũ cuống quýt, cho thêm rơm rạ vào trong để giữ lửa. Thời gian chậm chạp trôi qua, chim ăn đêm cất tiếng kêu hoang hoải ngoài trời khiến Ngọc Vũ rùng mình. Bên trong ngôi miếu chỉ có cô và cô gái áo đỏ, nhưng cô gái áo đỏ trước sau vẫn im lặng, dường như không biết sự có mặt của Ngọc Vũ trong ngôi miếu hoang này.

Ngồi thu lu trong góc, Ngọc Vũ vô cùng sốt ruột khi đợi đã lâu mà vẫn chưa thấy Anh Tú quay trở về. Một mối lo lắng trỗi dậy, xâm chiếm đầu óc cô. Anh Tú ra ngoài đã lâu mà chưa thấy về, chẳng lẽ hắn ta đã gặp chuyện chẳng lành, chẳng lẽ ba tên lính Đông Sơn kia quay lại và đã tìm thấy hắn, hay hắn ta không gặp chúng mà lại gặp đám cướp khác cũng đang hoành hành ở Gia Định. Ngọc Vũ càng nghĩ càng nôn nóng. Bây giờ chỉ có một mình cô bơ vơ ở trong miếu hoang với một cô gái xa lạ, xung quanh chỉ có tiếng rừng cây lao xao, không có lấy bóng dáng người thân nào bên cạnh, Ngọc Vũ chua xót. Chịu cảnh lạc lõng, bơ vơ, người thân cách xa hàng ngàn dặm, cô mới cảm thấy cô đơn buồn tủi biết bao. Cô nhớ nụ cười dịu dàng, trìu mến của phụ hoàng, cô nhớ Hoàng muội ngoan ngoãn Ngọc Hân, thậm chí ngay cả Ngọc Trâm cô cũng thấy nhớ. Lẽ ra cô nên nghe lời Anh Tú, lẽ ra cô không nên đến Gia Định làm gì, để rồi Hoàng huynh không tìm thấy, lại phải vất vưởng chịu đói, chịu khổ trong ngôi miếu hoang này.

Anh Tú vẫn chưa về.

Ngọc Vũ cắn môi lo lắng, cô xiết chặt tấm áo khoác. Một mặt cô rất muốn ra ngoài cửa để ngóng xem Anh Tú về chưa, nhưng mặt khác lại sợ nếu sơ ý thì sẽ để lửa tắt ngóm. Mang tâm trạng dùng dằng như thế, Ngọc Vũ đứng ngồi không yên. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu khiến Ngọc Vũ sợ hãi. Lẽ nào hắn ta đã bỏ rơi cô, lẽ nào hắn ta đã để cô lại ở đây để lên đường đi tìm người em gái thất lạc của hắn, chẳng lẽ nhân lúc cô hoạn nạn, hắn bỏ mặc cô một mình để cô phải trả giá vì tính xốc nổi của mình. Ngọc Vũ cắn môi, mắt cô rơm rớm. Không đâu, Ngọc Vũ lắc đầu, hắn ta đã hứa là sẽ quay trở lại, một lời hứa của nam nhi bốn ngựa khó theo, hắn ta nhất định sẽ không bỏ rơi cô, hắn ta nhất định sẽ quay lại.

Thường ngày, Ngọc Vũ là một nàng công chúa cứng rắn, không dễ gì yếu lòng và rơi nước mắt, nhưng đây là lần đầu tiên Ngọc Vũ lưu lạc bên ngoài, lại nếm không ít gian khổ. Đối với hoàn cảnh hiện tại, Ngọc Vũ không thể không cảm thấy sợ hãi. Có thể nói, Anh Tú hiện giờ là người thân duy nhất của cô, nếu như cả anh cũng bỏ mặc cô, Ngọc Vũ sẽ không thể bám víu vào ai được, không thể dựa dẫm vào ai được. Chỉ có một thân một mình ở nơi xa lạ, trùng trùng hiểm nguy, Ngọc Vũ không tránh khỏi nảy sinh cảm giác lo lắng, bất an và trở nên yếu đuối. Cô cắn môi, bàn tay nhỏ nhắn quệt lên mắt, ngăn không cho những giọt lệ nóng hổi trào khỏi khóe mi. Anh Tú hứa sẽ quay trở lại, hắn ta đã hứa, hắn ta đã hứa sẽ không bỏ rơi cô...

- Ngọc Vũ, tôi về rồi đây.

Mọi bất an của Ngọc Vũ tan theo mây khói khi nghe thấy giọng nói vui vẻ của Anh Tú vang lên. Ngọc Vũ vội quay phắt người lại, Anh Tú đang tiến về phía cô, toàn thân ướt sũng và trên tay là ba con cá to mẫm đang quẫy đuôi tanh tách. Ngọc Vũ mở to mắt, bờ môi đào mím lại, cô không khóc nhưng đôi mắt lại long lanh, ươn ướt. Không để ý đến biểu hiện của cô, Anh Tú ngồi xuống cạnh đống lửa. Quên cả cái lạnh, anh nhanh tay dùng kiếm làm sạch cá, rồi sau đó xiên vào cành cây và nướng trên lửa. Thời gian nhanh chóng trôi qua, ba con cá đã bắt đầu chín, mùi cá nướng thơm lừng lan tỏa trong không khí càng làm cho Ngọc Vũ đói cồn cào. Ước chừng cá đã chín, Anh Tú nhấc xuống, anh lấy một xiên, thổi cho nguội bớt rồi đưa cho Ngọc Vũ và nhẹ mỉm cười khi đôi mắt Ngọc Vũ sáng lên cùng với gương mặt rạng ngời.

Ba con cá nhanh chóng biến thành ba bộ xương nằm trơ trên nền đất. Sau khi đã trấn áp được cơn đói, Ngọc Vũ nhìn đôi tay dính tro than của mình, cô liếm môi, mắt đảo quanh quất để tìm chỗ rửa tay theo thói quen. Thấy Ngọc Vũ muốn lau tay mà không biết phải làm sao, Anh Tú mỉm cười. Anh nắm lấy tay Ngọc Vũ, nhẹ nhàng dùng chiếc áo đã sũng nước lau những ngón tay búp măng của cô. Vừa lau, Anh Tú vừa bông đùa.

- Cô đó, khi trở về nhà, làm ơn học cách làm việc giùm tôi, đừng có cái gì cũng trông chờ người khác mang đến. Nếu như hôm nay không có tôi thì cô sẽ làm như thế nào? Không phải lúc nào mọi người cũng ở bên cạnh cô, thế nên nếu cô chịu khó học cách tự lập, tự xoay trở một mình mà không cần có người khác thì xem như cô mới có thể trưởng thành lên được, công chúa của tôi ạ!

Nếu là mọi khi, Ngọc Vũ chắc chắn sẽ đáp trả lại, nhưng hôm nay cô lại thấy cõi lòng êm dịu lạ thường khi nghe bốn chữ "công chúa của tôi", nên chỉ lẳng lặng để Anh Tú lau sạch những ngón tay lem luốc mà không nói câu nào. Trong ngôi miếu, ánh lửa bập bùng, Ngọc Vũ nằm bên cạnh Anh Tú. Vì không biết sẽ có bất trắc nào xảy ra khi cả hai đang ngủ, Anh Tú ngồi dựa lưng vào tường, phần che chắn Ngọc Vũ không bị gió lạnh ngoài cửa luồn vào, phần sẵn sàng ứng phó nếu chẳng may xảy ra biến loạn. Nhìn những sợi tóc phơ phất trước trán Anh Tú, Ngọc Vũ bỗng muốn chạm tay vào vầng trán cao ấy. Ý nghĩ đó khiến cô đỏ mặt. Cũng may Anh Tú không biết được những suy nghĩ trong đầu cô, chứ nếu không thì cô ngượng ngùng đến chết mất thôi.

- Anh Tú, ngươi hát cho ta nghe đi.

Đang lim dim bên ngọn lửa ấm áp, lòng suy nghĩ ngày mai sẽ tìm cách về Bắc hà như thế nào, Anh Tú mở mắt ra khi nghe Ngọc Vũ nói. Qua ngọn lửa lung linh, đôi mắt Ngọc Vũ long lanh lạ thường. Nhìn Ngọc Vũ nằm trên lớp rơm do chính tay cô trải, Anh Tú hài lòng vì ít ra cô cũng đã tiếp thu những gì anh nói. Ngọc Vũ đang nhìn nó, ánh lửa ấm áp soi lên gương mặt xinh đẹp ửng hồng. Nàng công chúa lá ngọc cành vàng của Bắc hà đang nằm trên nệm rơm, mình khoác chiếc áo rộng thùng thình của Anh Tú, trông đáng yêu và dễ thương gấp bội phần. Cứ mỗi lần nhìn Ngọc Vũ, Anh Tú lại nhớ đến Linh Lan, em gái bé bỏng của anh, cho nên trước những yêu cầu của Ngọc Vũ, dù đôi khi làm anh khó chịu,nhưng đa phần anh chưa từ chối cô bao giờ, chỉ ngoại trừ những yêu cầu quá quắt, vô lý ra.

- Tôi hát dở lắm, cô nghe chỉ thêm khó ngủ thôi.

- Không, ngươi cứ hát đi, ta muốn nghe. Ta không thích sự im lặng của ngôi miếu này, ngươi hát cho ta nghe đi.

Ngọc Vũ nài nỉ, cô không ra lệnh mà là đang nài nỉ anh. Anh Tú suy nghĩ giây lát, anh nặn óc cố nhớ ra bài hát nào mà mình đã thuộc. Thường ngày, người hay nghe nhạc nhất là Linh Lan, còn anh, tuy tây, ta, tàu gì anh nghe đủ cả, nhưng lại chẳng nhớ nổi ca từ và giai điệu của bài hát nào. Trước sự chờ đợi của Ngọc Vũ, Anh Tú chợt nhớ đến bài hát "khoảnh khắc" của Trương Quý Hải mà anh khá thích, bởi ca từ tha thiết và dịu dàng của bài hát, cũng như chất giọng ấm áp của Elvis Phương, khiến bài hát càng thêm có hồn.

- Được rồi! Cô mà có mất ngủ cũng đừng đổ lỗi tại tôi đấy.

- Không sao, ngươi mau hát đi.

Trước sự hối thúc của Ngọc Vũ, Anh Tú im lặng đôi phút để nhớ lại bài hát, rồi từ từ cất giọng nhẹ nhàng...

"Chỉ còn một chiếc lá cuối thu mong manh

Chỉ còn một mình anh xót xa chờ em

Chỉ còn đêm nay, mai lá kia rơi

Chỉ còn đêm nay, mai lá kia rơi...

Khi mùa thu khuất nơi cuối trời...

Giọt nước mắt khô không lời...."

Và rồi mùa thu qua, trống tênh buồn vui

Vùi lòng mình băng giá, tháng năm lặng trôi....

Ánh lửa dần tàn, đêm dần trôi. Anh Tú ngồi tựa lưng vào vách nghe gió trườn trên mái lá. Đêm nay anh không ngủ được, dường như những chuyện xảy ra ngày hôm nay đã khiến anh lo nghĩ nhiều. Thân nam nhi như anh phải đối mặt với những chuyện này đã rất mệt mỏi, nếu là Linh Lan chắc chắn còn thê thảm hơn. Từ khi đến Gia Định, Anh Tú không lúc nào ngớt lo lắng. Thời đại này chiến tranh liên miên, cướp bóc quá nhiều, Linh Lan làm sao có thể tồn tại được ở chốn xa lạ thế này. Càng nghĩ, anh càng thêm quyết tâm tìm Linh Lan, nhất định anh phải găp được em gái mình, tận mắt nhìn thấy Linh Lan khỏe mạnh anh mới an tâm.

- Mẹ... Mẹ ơi...

Anh Tú nhíu mày, anh quay sang Ngọc Vũ. Cô đang ú ớ trong cơn mê, gương mặt xinh đẹp nhuộm nét buồn thương, đau khổ khiến Anh Tú ngạc nhiên. Vội sờ tay lên trán Ngọc Vũ, Anh Tú kinh ngạc khi trán cô nóng ran, đổ mồ hôi đầm đìa, hơi thở nặng nhọc. Ngọc Vũ đang sốt, lại còn sốt rất cao, nếu không nhanh chóng điều trị, rất có thể xảy ra biến chứng, nguy hiểm đến tính mạng. Anh Tú cau mày, quanh đây không hề có nhà dân, tìm ra thầy lang lại càng là điều không thể, nhưng nếu không kịp thời chữa bệnh cho Ngọc Vũ, để bệnh cô trở nặng thì e là ngay cả Hoa Đà tái thế cũng không thể cứu nổi cô.

Anh Tú lo lắng. Không thể chậm trễ thêm một phút nào nữa, Anh Tú nhanh chóng thu dọn đồ, đỡ Ngọc Vũ ngồi dậy, choàng áo cho cô rồi cõng Ngọc Vũ lên lưng để đi tìm đại phu. Tuy biết Ngọc Vũ đang sốt, băng mình đi trong đêm khuya lạnh lẽo thì có thể sẽ dẫn đến sưng phổi, nhưng nó vẫn quyết định liều một phen, thế còn đỡ hơn là ngồi bó gối trong miếu mà chẳng làm gì.

Vừa đúng lúc Anh Tú cõng Ngọc Vũ lên thì cô gái áo đỏ bất chợt cất tiếng. Giọng nói tuy vẫn lạnh lùng nhưng đã có phần mềm mỏng đôi chút.

- Cô ta đang sốt. Ngươi muốn cô ta chết nhanh hay sao mà còn cõng cô ta chạy ra ngoài trong tiết trời như thế này.

- Cám ơn cô đã có lòng quan tâm, nhưng chẳng thà làm cái gì đó còn hơn ngồi chịu chết trong ngôi miếu hoang này.

Anh Tú đáp mà không quay đầu, những bước chân gấp gáp của anh vẫn không chậm lại. Đến khi đến gần ngạch cửa, cô gái áo đỏ lại lên tiếng, nhưng lần này đã khiến Anh Tú đứng yên.

- Ta biết gần đây có một vị thầy lang rất nổi tiếng, ngươi có muốn đưa cô ta đến đó không?

Anh Tú quay ngoắt người lại, anh quay trở vào trong miếu. Đứng sừng sững trước mặt cô gái áo đỏ, Anh Tú nhướng mày lên, hỏi giọng nghi hoặc vì chưa thể tin được cô gái này lại tốt bụng đột xuất đến như thế....

[- Ta biết gần đây có một vị thầy lang rất nổi tiếng, ngươi có muốn đưa cô ta đến đó không?

Anh Tú quay ngoắt người lại, anh quay trở vào trong miếu. Đứng sừng sững trước mặt cô gái áo đỏ, Anh Tú nhướng mày lên, hỏi giọng nghi hoặc vì chưa thể tin được cô gái này lại tốt bụng đột xuất đến như thế.... ]

- Cô nói thật chứ?

- Dối đấy, đừng tin.

Cô gái áo đỏ mỉm cười, nụ cười đầu tiên giữa Anh Tú và cô, làm bừng lên khuôn mặt trái xoan thanh tú. Nụ cười của cô gái như hoa nở, nhưng Anh Tú lại cảm thấy ẩn chứa trong đó là chất mật độc chết người. Anh nhếch mép. Cô gái kỳ lạ này bỗng nhiên lên tiếng giúp đỡ, chắc chắn phải có điều kiện trao đổi nào đó chứ chẳng khi nào cô ta chịu giúp đỡ mà không đổi lại được lợi lộc gì.

- Nói đi! Cô muốn tôi làm gì?

Đôi mắt cô gái lấp lánh thứ ánh sáng nguy hiểm, nhưng lại không kém phần dịu êm. Tra thanh kiếm vào vỏ, cô gái áo đỏ ung dung đứng lên. Lướt mắt qua Ngọc Vũ, mày liễu của cô nhướng lên. Thấy cô ta thủng thỉnh tiến ra khỏi ngôi miếu, Anh Tú không chần chừ cũng vội vàng cõng Ngọc Vũ đi theo sau. Ngay từ lúc gặp cô gái trong ngôi miếu, Anh Tú đã cảm thấy cô gái này rất cổ quái, tính tình lại khá bạo ngược. Cô ta muốn anh làm gì anh chưa biết, nhưng để cứu mạng Ngọc Vũ trước hết phải thỏa thuận với cô gái ấy, rồi sau này tìm cách ứng phó với yêu cầu của cô ta sau.

Dường như biết được suy nghĩ của Anh Tú, cô gái áo đỏ đang đi thủng thỉnh phía trước liền dừng lại. Cô xoay người đối diện với Anh Tú, bàn tay búp măng đang nắm lại chìa ra trước mặt anh. Anh Tú ngớ người, anh không hiểu cô gái muốn làm gì thì những ngón tay thon thả của cô ta lần lượt xòe ra, để lộ một viên thuốc nhỏ màu đỏ nằm giữa lòng bàn tay. Trước gương mặt ngơ ngác của Anh Tú, cô gái mỉm cười, một nụ cười chứa chất độc ngọt ngào.

- Xưa nay ta chưa hề làm không công cho người khác mà không được lợi lộc gì. Cô gái này ta sẽ cứu, nhưng đổi lại, ta muốn mạng sống của ngươi từ nay sẽ thuộc về ta. Nếu ngươi không đồng ý thì xem như ta chưa nói gì, nhưng nếu ngươi đồng ý thì hãy nuốt viên thuốc này.

- ...

- Viên thuốc này tất nhiên là thuốc độc, nếu không có thuốc giải của ta thì ngươi sẽ có một cái chết vô cùng đau đớn. Ngươi sẽ có cảm giác hàng vạn con trùng bò lên người ngươi, cắn đốt cơ thể ngươi. Ngươi sẽ cảm thấy rất ngứa ngáy, vô cùng ngứa ngáy. Ngươi sẽ gãi, gãi cho đến khi nào rách da, rách thịt, nhưng ngươi vẫn cứ gãi mãi cho đến khi toàn thân lở loét, thất khiếu chảy máu. Một cái chết vạn lần đau đớn, đau hơn những gì ngươi có thể hình dung ra rất nhiều. Thế nào, dùng mạng của ngươi để đổi lấy mạng của cô gái đó, một mạng đổi một mạng, rất công bằng đúng không? Hãy suy nghĩ cho thật kỹ trước khi đưa ra quyết định, bằng không sau này chớ bảo ta dùng kế ép ngươi phải tuân theo.

Nhìn đăm đăm vào gương mặt kiều diễm của cô gái áo đỏ, Anh Tú không thể ngờ cô ta lại quá tàn độc như thế. Có nằm mơ anh cũng không nghĩ cô gái này muốn mạng sống của anh thuộc về cô ta, trong khi anh và cô ta chỉ mới gặp nhau lần đầu trong ngôi miếu hoang này. Nghĩ đến cái chết tàn nhẫn mà cô gái đã đề cập, sống lưng Anh Tú lạnh ngắt, nhưng hơn ai hết anh cảm nhận được sức nặng và hơi nóng từ nhịp thở yếu ớt của Ngọc Vũ trên tấm lưng rộng của mình. Một mạng đổi một mạng, dùng mạng của anh để đổi mạng của Ngọc Vũ, đó là điều anh chưa từng nghĩ đến, nhưng nếu không làm thế thì Ngọc Vũ chắc chắn sẽ không qua khỏi. Anh Tú chau mày. Thời gian đông đặc. Chưa bao giờ anh phải tranh đấu, quyết định chuyện gì phức tạp như thế này. Nếu chết đi trong khi không tìm thấy Linh Lan thì anh không cam tâm, nhưng nếu để Ngọc Vũ chết đi thì...

Anh Tú cắn răng, anh hít vào một hơi thật sâu rồi nhìn thẳng vào đáy mắt cô gái áo đỏ. Anh Tú nói chậm rãi, gương mặt vô cùng bình tĩnh.

- Được! Rất công bằng, một mạng đổi một mạng. Tôi sẽ làm theo ý cô.

Nói rồi, Anh Tú cầm lấy viên thuốc màu đỏ ma quái trong lòng bàn tay cô gái và bỏ tọt vào miệng. Anh nghe cổ họng ngòn ngọt, nhưng vị ngọt đó đối với anh chẳng khác nào chất độc đoạt mạng. Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt cô gái, cô ta đăm đăm nhìn anh, rồi nhìn sang Ngọc Vũ, hỏi dò.

- Cô gái này là gì đối với ngươi?

- Chẳng là gì cả? Đừng ở đây dông dài nữa, mau dẫn tôi đến gặp thầy lang.

Anh Tú đáp lạnh lùng, gương mặt anh như phủ một làn sương. Cô gái áo đỏ cũng thôi không thắc mắc nữa, nở một nụ cười ngọt ngào chết người, cô quay lưng đi, tà áo đỏ lất phất trong đêm tối, nổi bật như một bóng ma.

- Được, ta sẽ dẫn ngươi đến gặp thầy lang. Từ nay mạng sống của ngươi thuộc về ta, cho nên ngươi hãy khắc sâu vào tim tên của ta. Ta là Ngọc Uyển.

Khi Anh Tú chấp nhận lời đề nghị của cô gái áo đỏ, một mạng đổi một mạng, thì Ngọc Vũ có cơ hội sống sót, còn mạng sống của Anh Tú lại thuộc về cô gái mới chỉ gặp mặt nhau lần đầu. Trong bụng Anh Tú lúc này tồn tại vô vàn những câu hỏi tại sao nhưng không thể nào giải đáp được. Phần cô gái - tức Ngọc Uyển - sau khi đã giới thiệu tên, thì không còn nói gì với Anh Tú nữa. Cô cứ ung dung đi phía trước, tựa như không biết Anh Tú đang nôn nóng đi phía sau, do lo lắng cho Ngọc Vũ đang trong tình trạng hôn mê.

Chính vì lo lắng cho Ngọc Vũ, Anh Tú cứ cắm cúi theo Ngọc Uyển mà chẳng biết mình đã đi qua những nơi nào. Cả hai cứ lẳng lặng đi suốt đêm, chẳng ai nói với nhau câu nào, đến khi trời tờ mờ sáng Ngọc Uyển mới dừng chân lại. Cô quay người nhìn Anh Tú rồi cất tiếng, trong giọng nói ẩn chứa sự tinh quái lạ thường.

- Nghe cho kỹ đây, lát nữa đến nơi, khi ta chưa cho phép, ngươi tuyệt đối không được nói câu nào, cũng như không được có bất cứ hành động khả nghi hay sơ suất gì, đã rõ chưa!

Nghe những lời như ra lệnh của Ngọc Uyển, Anh Tú chỉ thở dài và gật đầu. Con gái thời này sao mà giống nhau như đúc. Hết Ngọc Vũ cho đến Ngọc Uyển, cá tính đều ương bướng, ngạo ngược, chỉ biết ra lệnh cho người khác, bất kể tâm trạng của người đối diện như thế nào. Ngặt nỗi, lúc này Anh Tú đang phải nhờ vả người khác, qua sông thì phải lụy đò, chứ bình thường thì còn lâu cô gái này mới ra lệnh được cho anh. Chính vì ấn tượng ban đầu đối với Ngọc Uyển đã không tốt đẹp, bây giờ nghe cô đột ngột yêu sách này nọ mà không thèm giải thích, ác cảm trong lòng Anh Tú càng tăng thêm nhiều lần.

Cả ba người đi suốt đêm không ngừng nghỉ, sau cùng cũng đã tới nơi khi trời tờ mờ sáng. Nơi Ngọc Uyển đưa Anh Tú đến có vẻ như là một doanh trại, nằm sâu trong rừng cây và được che chắn kín đáo. Nhác thấy Ngọc Uyển từ xa tiến tới, hai người lính gác cổng liền ngăn cản lại với thái độ vô cùng cảnh giác. Không nói không rằng, Ngọc Uyển móc trong túi một tấm mộc bài ra đưa cho hai người canh gác. Chẳng biết trên đó viết chữ gì mà chỉ thấy hai người lính mặt biến sắc. Họ khấu tay tạ tội với Ngọc Uyển rồi nhanh chóng nhường đường cho cô đi qua. Trước ánh mắt ngạc nhiên của Anh Tú, Ngọc Uyển điềm nhiên cất tấm thẻ bài vào trong túi, cô hất đầu về phía Anh Tú,và Ngọc Vũ, đoạn trầm giọng với hai người lính gác.

- Trên đường bị quân Tây Sơn truy đuổi, ta còn mạng về đến đây đều nhờ vào công lao của hai người này. Bây giờ ta phải đi gặp Hoàng huynh, ngươi giúp ta chuẩn bị môt chỗ sạch sẽ cho họ ở, sau đó gọi thầy lang đến chữa bệnh cho cô gái kia, rõ chưa.

Hai người lính đưa ánh mắt soi mói nhìn Anh Tú và Ngọc Vũ, rồi sau rốt cũng gật đầu. Ngọc Uyển mỉm cười. Sau khi giao lại Anh Tú cho hai người lính, cô ung dung bước qua cánh cổng trại, nhưng chưa đi được vài bước thì cổ tay đã bất thần bị nắm lại. Đôi mày liễu nhướng lên, Ngọc Uyển quay phắt người lại, cánh tay cô khoa thành hình vòng cung, hóa giải được cái nắm tay của Anh Tú, sau đó chụp lấy cổ tay anh, bẻ ngoặt một bên. Mọi thứ diễn ra chỉ trong chớp mắt, khiến Anh Tú vô cùng bất ngờ. Để yên cánh tay bị bẻ ngoặt môt bên, dù đau đớn, nhưng Anh Tú bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt Ngọc Uyển, không hề có chút sợ hãi. Vì anh cao hơn cô khá nhiều nên Ngọc Uyển ngước lên còn Anh Tú thì nhìn xuống. Anh trầm giọng, đủ để chỉ mình cô nghe thấy.

- Bình tĩnh đi, tôi không cố ý chạm vào người cô, tôi chỉ muốn hỏi đây là đâu, có phải là doanh trại của Đông Sơn không?

- Phải thì sao?

Ngọc Uyển nhướng mày lên, cô mỉm cười trả lời. Nụ cười nửa khiêu khích, nửa ngọt ngào của cô khiến Anh Tú cau mày. Xưa nay, Anh Tú rất ghét những câu trả lời hai chiều như thế. Đối với ánh, đúng là đúng, sai là sai, chứ không có chuyện lấp lửng như thế này.

- Ngọc Uyển, tôi nghiêm túc hỏi cô thì tôi cũng mong muốn cô trả lời tôi nghiêm túc như thế, đó cũng là cách tôn trọng lẫn nhau. Tuy mạng sống của tôi thuộc về cô, nhưng không có nghĩa là cô có quyền định đoạt tất cả những gì thuộc về tôi. Nếu đây là doanh trại của Đông Sơn, chúng tôi có chết cũng không bước vào. Bây giờ tôi hỏi cô một lần nữa, mong cô hãy nghiêm túc trả lời tôi. Đây là đâu, có phải là doanh trại của quân Đông Sơn không?

Anh Tú nói, không chậm rãi, cũng không nhấn mạnh từng tiếng, chỉ có ánh mắt là đang nhìn thẳng vào Ngọc Uyển, mạnh mẽ và rực sáng. Đôi mắt đó khiến nụ cười trên môi Ngọc Uyển dần khép lại. Ngọc Uyển lướt mắt nhìn Ngọc Vũ đang thiêm thiếp trên lưng Anh Tú, cô trả lời, giọng nói thoáng chút lạnh lùng.

- Ngươi yên tâm, quân Đông Sơn là kẻ thù của Nguyễn quân, ngày nào Đông Sơn còn thì đó vẫn là hiểm họa cho chúng ta. Đây là doanh trại quân Nguyễn, chỉ cần ngươi không phải người trong Tây Sơn thì ngươi tuyệt đối an toàn.

Ngọc Uyển nhìn thẳng vào mắt Anh Tú. Ánh mắt cô vừa sắc bén lại vừa ngạo nghễ như đáp trả lại cái nhìn của anh, khiến Anh Tú nhíu mày. Cô gái này quả là không bao giờ chịu thua kém bất cứ ai.

- Được! Chúng tôi không phải người trong Tây Sơn thì cũng chẳng việc gì phải sợ. Giờ thì thả tay tôi ra, có biết đau không?

- Ta nghe nói nam nhi các ngươi quyết đổ máu chứ không rơi lệ, cớ sao nay mới chỉ đau một chút đã chịu không nổi thế kia.

Giọng nói Ngọc Uyển không giấu vẻ mỉa mai. Anh Tú cảm tưởng như cô đang bóp chặt cánh tay của anh hơn nữa, khiến những khớp xương trong người anh kêu răng rắc, như chuẩn bị rạn nứt tới nơi. Trước sự bạo ngược của Ngọc Uyển, Anh Tú nhếch môi, anh thản nhiên trả lời.

- Nam nhi thì cũng là con người chứ không phải thánh thần hay sắt đá. Muốn khóc thì cứ khóc, thấy đau thì nói đau, ngay cả cảm xúc chân thật của mình mà còn không dám thừa nhận hay đối diện thì sau này còn có thể làm được gì?!

Đôi mắt nâu lấp lánh của Ngọc Uyển nheo lại, những ngón tay cô dần nới lỏng, rồi thả Anh Tú ra. Ra hiệu cho hai người lính dẫn Anh Tú đi, Ngọc Uyển nhìn theo cho đến khi bóng dáng Anh Tú dần khuất sau những lùm cây xanh, rồi sau đó mới thả bộ về hướng ngược lại, tìm đến phòng Hoàng huynh của mình.

Sau khi quân Tây Sơn kéo vào Gia Định tấn công, quân Nguyễn rút lui, tạm thời nhường lại cục diện cho Tây Sơn nắm giữ. Hơn một tháng sau, Nguyễn quân trở về tập trung ở Đồng Tuyên, tái thiết lực lượng và bày bố, phòng thủ chặt chẽ để chuẩn bị phản công. Lần Tây Sơn tấn công, Ngọc Uyển đã an toàn rút lui sau khi thanh kiếm nhuộm máu vì chống trả những đợt tấn công vũ bão của đám truy binh Tây Sơn. Sau bao ngày lưu lạc và lẩn trốn bên ngoài, Ngọc Uyển đã nghe ngóng được tin tức của quân Nguyễn, cô quyết định tìm đến nơi đóng quân của quân Nguyễn ở Đồng Tuyên và giữa đường thì gặp Anh Tú và Ngọc Vũ nên thuận tiện mang cả hai đến nơi này.

Thật ra, ban đầu Ngọc Uyển chẳng mấy chú ý đến họ chứ đừng nói là có ý định đưa hai người họ cùng đến doanh trại Nguyễn quân. Cá tính cô khá mạnh mẽ, quyết đoán và tàn nhẫn, ngồi trong ngôi miếu hoang, cô không hề chú ý đến Anh Tú và Ngọc Vũ khi cả hai bước vào. Họ nói gì, làm gì cô cũng mặc kệ, tựa như trong ngôi miếu ấy chỉ hiện hữu mỗi một mình cô.

Lẽ ra, Ngọc Uyển cứ bàng quan như thế, nhưng khi Anh Tú không được cô cho lửa đã tự tạo lấy lửa, cô đã bắt đầu chú ý đến anh. Một gã thanh niên cao lớn, trong tình trạng ướt sũng, lạnh ngắt và kiệt sức, vậy mà vẫn kiên nhẫn vật lộn với những thứ đơn sơ tìm được trong ngôi miếu hoang để tạo ra lửa, thật khiến Ngọc Uyển thấy thú vị. Muốn xem gã này ngoài tạo ra lửa thì còn có thể làm gì, Ngọc Uyển đã thẳng thừng từ chối khi gã lại đến xin một con cá nướng để cho cô gái đi cùng ăn lót lòng.

Không hiểu sao, Ngọc Uyển lại không thích cô gái đi cùng gã thanh niên này. Cô gái đi cùng gã dù còn trẻ tuổi nhưng vẫn rất đẹp, nếu cô ta trưởng thành, chắc chắn còn xinh đẹp rạng rỡ hơn bây giờ rất nhiều. Tuy mặt mũi lem luốc, lấm bẩn nhưng vẫn không át được khí chất cao sang của cô ta. Chỉ nhìn qua, Ngọc Uyển cũng đoán ra được lai lịch cô gái này không bình thường. Cử chỉ cô ta rất yểu điệu, thanh thoát và mềm mại, xem ra có vẻ là loại thiên kim tiểu thư chứ không phải là người hay làm những việc nặng nhọc. Loại người chỉ biết trông chờ vào người khác như cô ta thật làm Ngọc Uyển thấy khó chịu. Tuy sinh ra trong dòng dõi vua chúa, nhưng từ nhỏ, Ngọc Uyển đã phải học cách tự lập để sinh tồn. Cô được dạy sử dụng thành thạo cung kiếm, săn bắn, bản lĩnh không thua gì nam nhi, thế nên nếu có lưu lạc bên ngoài cũng có thể sinh tồn dễ dàng chứ không yếu đuối, dựa dẫm vào người khác như thế này. Chính vì thấy khó chịu nên cô thà bỏ đi bốn con cá còn hơn nhường cho cô ả một con.

Thấy cô gái đã quá đói, gã thanh niên dường như không đành lòng, gã ta ra ngoài và bằng cách nào đó, sau cùng cũng xoay sở đem về được ba con cá. Gã tỉ mỉ chăm sóc cô gái thật chu đáo, để cô ta ăn thỏa thích, sau đó còn lau tay cho cô ta. Khi cô ta đi nghỉ, hắn còn tinh tế ngồi ngoài, che chắn gió giúp cô ta, lại còn hát cho cô ta ngủ, những hành động đó khiến Ngọc Uyển ngày càng chú ý và cảm thấy gã thanh niên này khác lạ. Sinh trưởng trong vương tộc vào thời loạn lạc, Ngọc Uyển bao giờ cũng chí có một mình. Cô phải tự lực cánh sinh từ rất sớm, cô có thể sinh tồn ngay trong những môi trường khắc nghiệt nhất. Để tồn tại mạnh mẽ trong thời buổi chiến loạn, cô học cách tự bảo vệ mình, không phải phiền lụy đến ai. Những tháng ngày sống kề cận chiến tranh, nhìn thấy khoảng cách mong manh giữa sự sống và cái chết đã trui rèn cho Ngọc Uyển tính cách mạnh mẽ, kiên cường và độc lập. Dù là thế, nhưng sâu thẳm bên trong, Ngọc Uyển vẫn chỉ là một thiếu nữ vừa tròn mười bảy tuổi, vẫn là nữ nhi, nhìn thấy những hành động của gã thanh niên đối với cô gái đó, trong lòng cô lại nảy sinh những tư tưởng kỳ lạ. Trong thâm tâm cô bỗng nhiên cũng muốn được như cô ta, muốn được dựa dẫm, muốn được chăm sóc, bảo vệ, dù chỉ là một chút thôi.

Tư tưởng ấy vừa mới nhen nhóm, Ngọc Uyển đã ngay lập tức dập tắt nó. Cô cười cho cái sự ngây ngô của mình. Dựa dẫm vào người khác thì có gì là tốt, được chăm sóc, bảo vệ thì có gì là hay, như thế chỉ khiến cho người ta sinh ỷ lại và trở nên yếu mềm mà thôi. Cô gái xinh đẹp kia sống chết ra sao Ngọc Uyển không bận tâm, cái cô quan tâm là gã thanh niên lạ lùng ấy. Theo lời hắn ta nói, cô gái này là em gái hắn, nhưng qua cách cư xử và xưng hô giữa hai người, Ngọc Uyển không cho rằng họ là anh em. Anh em gì mà lại xưng ta - ngươi, tôi - cô như thế. Anh em không, tình nhân chắc chắn càng không. Ngọc Uyển ngầm quan sát gã thanh niên và nhận thấy rằng hắn không hề có tình ý gì với cô gái xinh đẹp ấy cả. Tình nhân không phải, cốt nhục tình thâm cũng không, ấy vậy mà tại sao hắn ta lại không do dự nuốt viên thuốc của cô, tại sao hắn ta lại đồng ý dùng mạng mình đổi lấy mạng cô gái ấy, trong khi cả hai không có bất kỳ quan hệ nào với nhau.

Ngọc Uyển càng nghĩ càng thấy gã thanh niên này rất thú vị. Hắn ta như một món đồ chơi mà Ngọc Uyển xưa nay chưa từng thấy, cũng chưa từng có, chính vì chưa từng có nên cô muốn sở hữu hắn. Và vì chưa biết chơi như thế nào nên cô càng muốn hắn ở bên cạnh mình, thuộc về mình. Một món đồ chơi thật tuyệt vời...

Ngọc Uyển vừa đi vừa suy nghĩ, cho đến khi đặt chân đến cuối lối đi. Nhìn cánh cửa liếp khép im lặng, Ngọc Uyển nhẹ mỉm cười, một nụ cười ngọt ngào đầy ranh mãnh. Cô chạm tay vào cánh cửa liếp, rồi nhè nhẹ mở ra và bước vào. Trong căn phòng bài trí đơn giản, gọn gàng, một chàng trai mặc áo vàng đang ngồi trên chiếc ghế gỗ, ánh mắt nâu trong suốt lướt theo những đường biên ngoằn ngèo của tấm bản đồ trải dài trên chiếc bàn tre. Bên cạnh chàng trai là một tách trà bốc khói nghi ngút. Nhìn thấy hình ảnh quen thuộc ấy, trái tim Ngọc Uyển đập nhè nhẹ. Cô chậm rãi tiến tới gần chàng trai, bờ môi đỏ mọng cất tiếng dịu dàng.

- Anh, em về rồi đây!

96.

Do kịp thời đưa Ngọc Vũ đến doanh trại quân Nguyễn, lại thêm vị thầy lang chữa trị rất mát tay, thế nên chỉ sau ba ngày, bệnh tình của Ngọc Vũ đã thuyên giảm, chỉ còn phải uống thêm mấy thang thuốc để bồi bổ thì sức khỏe của cô sẽ hoàn toàn bình phục.

Trong thời gian Ngọc Vũ mê man trên giường bệnh, Anh Tú đã phải vất vả rất nhiều. Anh phải canh thuốc cho cô, bón cho cô từng muỗng thuốc, bát cháo, ban đêm còn phải trông chừng cô, đắp khăn lạnh lên trán cô thường xuyên để hạ sốt. Tỉ mỉ hơn, anh còn đốt thêm hương chống muỗi để Ngọc Vũ có thể an giấc. Chăm sóc cho Ngọc Vũ thật sự rất vất vả, nhưng do trước đây đã có kinh nghiệm chăm sóc Linh Lan khi con bé bệnh một trận nặng không thua gì Ngọc Vũ, nên Anh Tú chẳng phiền hà hay ca thán khi bỗng dưng phải đeo gông vào cổ như thế này.

Nhờ sự chăm sóc chu đáo của Anh Tú, Ngọc Vũ dần dần hồi phục, cô đã có thể ngồi dậy và dạo bước loanh quanh dù vẫn còn chóng mặt. Nhìn Anh Tú sắc thuốc, thổi nguội và kiên nhẫn bón cho cô từng muỗng, đôi mắt Ngọc Vũ chợt long lanh. Mấy ngày mê man trên giường bệnh, Ngọc Vũ đã mơ thấy rất nhiều ác mộng. Cô mơ thấy ngày mẫu thân cô qua đời, bỏ cô lại một mình cho bà nhủ mẫu già chăm sóc. Ngày ấy, cô khóc cạn hết nước mắt, nhưng người mẹ xinh đẹp, hiền từ của cô vẫn nhắm nghiền mắt, bàn tay ấm áp thường ngày lạnh dần, lạnh dần và vĩnh viễn ra đi.

Trong giấc mơ, Ngọc Vũ thấy mình đang đứng giữa Hoàng cung. Cả Hoàng cung lặng ngắt, điêu tàn và hoang phế, cây cỏ trong vườn ngự uyển đều úa màu. Xung quanh không có bóng dáng ai, chỉ có một mình cô trơ trọi, lạc lõng, nhìn quanh quất giữa Hoàng cung rộng lớn. Ngọc Vũ sợ hãi, chưa bao giờ cô cảm thấy sợ hãi đến thế. Trong mơ, cô chạy khắp Hoàng cung, miệng không ngừng gọi phụ hoàng và mọi người, nhưng đáp lại lời cô chỉ là một bầu không khí im lìm, chết chóc. Dãy hành lang nhện giăng khắp lối như kéo dài vô tận, nỗi hoang mang chiếm ngự tâm trí cô, khiến cô cảm thấy khó thở. Đột ngột, Ngọc Vũ cảm thấy những viên gạch nứt ra, mặt đất dưới chân cô rung chuyển và rồi tất cả đổ vỡ. Ngọc Vũ chới với, cả thân người cô rơi tuột xuống hố đen thăm thẳm ấy, hai chân cô vùng vẫy, hai cánh tay quơ quào mong nắm giữ lại được vật gì đó, nhưng tất cả đều vô vọng. Người cô rơi xuống mỗi lúc một sâu, dưới chân cô chỉ là một hố đen thăm thẳm, sâu hun hút đến rợn người. Ngọc Vũ gào thét trong truyệt vọng , cô vội mở mắt, hai hạt lệ trong vắt, ấm nồng chảy dài trên gương mặt xanh xao.

Khi Ngọc Vũ mở mắt, thứ đầu tiên mà cô nhìn thấy chính là Anh Tú. Anh đang ngồi bên cạnh cô, đôi mắt hiện rõ vẻ lo lắng khi nhìn thấy những nét đau khổ, sợ hãi in hằn trên gương mặt Ngọc Vũ. Nhìn thấy Anh Tú, Ngọc Vũ ngơ ngác, cô mấp máy môi nhưng cổ họng khô rát, mãi không thể thốt ra được lời nào

Mấy ngày nay đang lo lắng tại sao Ngọc Vũ mãi chưa tỉnh dậy, nay nhìn thấy cô mở mắt, Anh Tú không nén được tiếng thở phào nhẹ nhõm. Nhẹ nhàng đắp chiếc khăn ướt lên trán cô, Anh Tú mỉm cười, nụ cười đầu tiên của anh kể từ khi đặt chân đến doanh trại Nguyễn quân.

Mãi đến sau này, dù trải qua bao nhiêu đau khổ và cay đắng, Ngọc Vũ vẩn không bao giờ quên được nụ cười của Anh Tú khi ấy. Mở mắt ra nhìn thấy nụ cười đó, Ngọc Vũ cảm thấy lòng thanh thản và nhẹ nhõm. Cơn ác mộng trong cô dường như đã tan biến theo những làn mây trắng trôi trên cao.

Vì được chăm sóc chu đáo, bệnh tình của Ngọc Vũ đã nhanh chóng khỏi hẳn, Anh Tú nửa mừng nửa lo. Anh mừng vì Ngọc Vũ đã khỏi bệnh và lo vì có thể anh sẽ không thể hộ tống Ngọc Vũ quay trở về Bắc hà, bởi giờ đây mạng sống của anh không thuộc về chính mình, mà đã nằm trong tay cô gái tên Ngọc Uyển. Anh Tú thở dài. Nếu thật phải ở lại đây cùng Ngọc Uyển thì anh sẽ bắt buộc Ngọc Vũ phải thực hiện giao ước lúc trước của hai người, đó là Ngọc Vũ sẽ cử người đi hỏi thăm tin tức của Linh Lan và rước em gái anh về Hoàng cung, đoàn tụ với Bách Nhật, Nguyên Thục và Nguyên Thiên. Nếu tìm được và đưa Linh Lan bình yên vô sự về đoàn tụ với mọi người thì kể như không uổng chuyến đi đến Gia Định của anh lần này, và cũng coi như Ngọc Vũ đã đáp trả lại sự chăm sóc của anh bao lâu vậy.

Tuy Ngọc Vũ đã khỏi bệnh, nhưng cơ thể của cô còn rất yếu, vẫn cần phải bồi bổ nhiều, nên Anh Tú vẫn đều đặn sắc thuốc cho cô hằng ngày. Kể từ lúc Ngọc Uyển đưa cả hai vào doanh trại đến nay, Anh Tú chẳng thấy bóng dáng Ngọc Uyển đâu. Thế cũng tốt, anh nhủ thầm, gặp lại cô nàng ngang ngược ấy, biết đâu anh và cô ta lại chẳng xảy ra xung đột, cải vã, và nếu để Ngọc Vũ biết được giao ước một mạng đổi một mạng của Ngọc Uyển thì sẽ phiền phức to.

- Xem ra cô ta đã hoàn toàn khỏe hẳn rồi, đại phu của chúng ta quả thật cũng mát tay lắm.

"Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo tới liền, phải chi nhắc tiền nhắc bạc được như vậy cũng đỡ", Anh Tú làu bàu trong bụng. Ngọc Uyển đang đứng trước cửa, vẫn chiếc áo đỏ tươi quen thuộc như lúc cả hai gặp nhau lần đầu tiên trong miếu hoang, bờ môi đỏ mọng hé nở nụ cười làm khuôn mặt cô bừng lên dưới nắng sớm. Biết quá rõ cá tính ngang ngạnh của Ngọc Uyển, nụ cười xinh đẹp đó chẳng mảy may làm Anh Tú động lòng. Cái gì càng rực rỡ, càng đẹp thì lại càng nguy hiểm. Ngọc Vũ thường ngày tuy hay ra lệnh cho người khác, nhưng chí ít cô cũng biết nghe và biết phân biệt đúng sai, còn cô gái này thì ngược lại. Người ta hỏi một đằng cô ta trả lời một nẻo, lúc hứng lên lại khiêu khích sức chịu đựng của người khác, cá tính lại bá đạo khôn lường. Nếu cứ dây dưa với cô ta, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ rước họa sát thân.

Có vẻ như Ngọc Vũ sau cơn bạo bệnh, đầu óc vẫn chưa trở lại linh hoạt như thường ngày. Nhìn Ngọc Uyển đứng bên cạnh Anh Tú, môi nở nụ cười xinh, Ngọc Vũ cảm thấy bức bối trong lòng. Cô nhướng mắt, cất cao giọng nói.

- Cô đến đây làm gì?

Không thèm đưa mắt nhìn Ngọc Vũ, Ngọc Uyển đứng tựa lưng vào vách, hai tay khoanh lại nhìn Anh Tú sắc thuốc, lạnh lùng trả lời.

- Nhà ta, sao ta không được đến?

- Nhà của cô? - Ngọc Vũ trố mắt, giọng không giấu ngạc nhiên. Mấy hôm nay cô đã gặng hỏi Anh Tú rằng đây là đâu nhưng anh luôn né tránh và trả lời qua quýt, nay vỡ lẽ ra rằng đây là nhà của cô gái áo đỏ, Ngọc Vũ càng giận trong lòng. Nếu đây là nhà của cô ả thì anh cứ việc nói thẳng với cô, có gì mà phải giấu giấu diếm diếm như thế.

- Này, ngươi không nói với cô ta chuyện gì đã xảy ra sao?

- Tên tôi là Anh Tú, không phải là "này"

Anh Tú sửa lại lời Ngọc Uyển, anh đứng thẳng người lên, hai tay mang số thuốc đã sắc được cho vào chiếc nồi nhỏ rồi đậy nắp lại. Nhướng mắt nhìn Anh Tú, Ngọc Uyển mỉm cười, nụ cười ngọt ngào đến độ Ngọc Vũ thấy cô nàng này quả thật rất ngứa mắt mà chẳng hiểu vì sao.

- Đã chịu nói tên cho ta biết rồi cơ đấy, ngươi đối xử với ân nhân của mình như thế hay sao?! Ta tôn trọng ngươi thì ngươi cũng phải tôn trọng ta chứ, phải không?

Biết Ngọc Uyển cố ý nhắc lại câu nói mấy hôm trước, Anh Tú thở hắt ra một hơi vì không ngờ cô gái này lại nhớ dai đến thế. Ngẫm ra anh cũng có phần không đúng. Tuy là phải trả giá đàng hoàng, một mạng đổi một mạng, nhưng quả thật ở trong doanh trại quân Nguyễn, Anh Tú thật sự cảm thấy rất dễ chịu. Hiện đang thời buổi chiến tranh, đây là doanh trại của quân Nguyễn, theo như anh biết thì quân Nguyễn đang đối phó với Tây Sơn, nếu có người lạ từ bên ngoài vào, lẽ dĩ nhiên họ phải đề phòng và canh chừng sát sao. Thế nhưng, khi AnhTú tá túc ở đây, quân Nguyễn tuy có đi tuần ngang qua nhưng chẳng ai dòm ngó, hạch hỏi, hay gây khó khăn gì. Cứ ngày hai bữa, đại phu lại đến khám cho Ngọc Vũ, thậm chí ngay cả thức ăn và thuốc thang cũng có người đưa tới tận nơi chứ anh không phải tốn công tìm kiếm, như thế cũng đủ thấy Ngọc Uyển có uy tín trong quân Nguyễn, và hậu đãi anh như thế nào. Nghĩ đến đó, những ác cảm đối với Ngọc Uyển trong lòng Anh Tú dần lắng lại, anh quay sang Ngọc Uyển mỉm cười.

- Xin lỗi! Vì mấy ngày nay phải suy nghĩ nhiều quá nên tâm trạng tôi không được tốt. Nếu tôi làm cô phật lòng thì xin hãy bỏ qua cho.

Trước thái độ hòa hoãn của Anh Tú, Ngọc Uyển gật đầu hài lòng. Gã thanh niên này khi mềm khi rắn, quả là biết cách đối nhân xử thế, có được món đồ chơi thế này cũng không uổng số thuốc đã tốn trong mấy ngày qua. Trong khi Ngọc Uyển rất hài lòng, thì trái lại, Ngọc Vũ ngồi trên gường lại đang rất bực bội. Tại sao cô lại bực bội, Ngọc Vũ không biết, chỉ biết khi trông thấy Anh Tú và cô ả áo đỏ kia nói nói cười cười như thế, cô lại thấy khó chịu trong lòng, một sự khó chịu âm ỉ mà trước đây cô chưa từng trải qua bao giờ. Tại sao Anh Tú lại đưa cô đến tá túc trong nhà của cô ta, chẳng lẽ hắn ta không nhớ là đã phải chịu nhục như thế nào ở trong miếu hoang hay sao. Hay là hắn ta đã say mê sắc đẹp của cô gái ấy, cho nên mới bất chấp tất cả mà ở lại đây để được nhìn ngắm cô ta ngày ngày. Nghĩ tới đó, Ngọc Vũ thấy trong lòng bức bối, một cục tức dâng lên, nghẹn lại ở cổ, khiến gương mặt cô đỏ ửng lên như người say rượu.

Không biết những chuyển biến tâm lý phức tạp trong lòng Ngọc Vũ, Anh Tú lo lắng khi nhìn thấy gương mặt đỏ ửng của cô. Sợ căn bệnh của Ngọc Vũ đột ngột chuyển biến, Anh Tú đến bên cạnh giường, sờ tay lên trán để kiểm tra thân nhiệt cho cô và cất tiếng hỏi thăm.

- Ngọc Vũ, cô không sao chứ?

- Ta không sao hết, ngươi tránh ra đi!

Ngọc Vũ vùng vằng, cô hất mạnh tay Anh Tú ra, hành động đột ngột ấy khiến Anh Tú cau mày. "Mới ngoan ngoãn được vài hôm, nay lại giở thói công chúa ra rồi", Anh Tú nghĩ thầm. Mặc cho sự giận dỗi vô cớ của Ngọc Vũ, Anh Tú không quan tâm cũng chẳng dỗ dành bởi cá tính vui buồn thất thường của cô anh đã hiểu quá rõ. Đưa mắt sang Ngọc Uyển, đang đứng dựa lưng vào vách, nhưng đôi mắt vẫn quan sát Anh Tú và Ngọc Vũ với sự ranh mãnh, Anh Tú hỏi dò.

- Cô đến đây có chuyện gì không?

- Không! - Ngọc Uyển chậm rãi đáp lời - Ta chỉ đến đây xem, bệnh tình cô gái đó đã thuyên giảm chưa, nay thấy cô ta khỏe mạnh thế, ta cũng an tâm phần nào. Anh Tú, ta đã thực hiện phần của mình, ngươi đừng quên giao ước giữa hai chúng ta đấy.

Hai từ giao ước vừa thoát ra khỏi đầu môi Ngọc Uyển, Ngọc Vũ nghe chẳng khác nào sấm động giữa trời quang. Cô sực tỉnh. Phải rồi, cô gái ngạo ngược này chẳng thà vất bỏ bốn con cá nướng còn hơn cho cô một con, vậy hà cớ gì lại chịu để cho cả hai đến tá túc trong nhà cô ta, cô ta mà lại tốt bụng đến thế sao? Giải thích cho tất cả những thái độ và hành động của Anh Tú, chỉ có thể kết luận một điều, chắc chắn là cô gái này thừa gió bẻ măng, nhân lúc người khác gặp hoạn nạn để ra yêu sách. Anh Tú hẳn là thấy cô nguy kịch nên phải chấp nhận yêu cầu của cô ta, bỏ qua sĩ diện mà đến đây tá túc vài hôm, lo chạy chữa.. Nhất định là thế rồi, nhất định Ngọc Uyển đã bắt Anh Tú phải thực hiện yêu cầu nào đó mới chịu chạy chữa cho cô. Anh Tú đã vì cô mà bất kể đến sĩ diện của mình, cô đã không biết ơn thì thôi, ban nãy lại còn dỗi hờn vô cớ như thế, Ngọc Vũ ơi là Ngọc Vũ, ngươi đúng là bệnh quá mà lú lẫn mất rồi.

Ngọc Vũ tự trách mắng mình, cô níu lấy tay Anh Tú, đôi mắt long lanh, miện ấp úng mãi mới nói được tròn câu.

- Anh Tú, ta... xin...lỗi ngươi. Ngươi đừng... giận ta...

Anh Tú ngạc nhiên nhìn Ngọc Vũ. Cô vừa mới xin lỗi anh. Nàng công chúa Bắc hà kiêu ngạo ngày thường nay lại biết thành tâm nhận lỗi với người khác, điều đó thật khiến anh vô cùng kinh ngạc. Đối với người bình thường, một lời xin lỗi đã rất khó nói, ấy thế mà một nàng công chúa vốn quen được chiều chuộng như Ngọc Vũ, nay lại có thể nói lời thành tâm xin lỗi anh như thế, âu cũng là đã cố gắng sửa đổi lắm rồi. Anh Tú mỉm cười, anh xoa đầu cô hài lòng, cử chỉ dịu dàng đó khiến gò má Ngọc Vũ ửng hồng lên. Ban nãy gương mặt cô còn đỏ phừng như thế, nay thoắt cái đã chuyển sang sắc hồng, trông đáng yêu lạ thường.

- Anh Tú, ta muốn biết ngươi đã giao ước gì với cô ta. Ngươi nói đi!

Ngọc Vũ tha thiết hỏi, cô nắm lấy tay Anh Tú, bàn tay nhỏ nhắn run nhẹ trong tay anh. Nhìn biểu hiện của Ngọc Vũ, Anh Tú càng không muốn nói ra giao ước giữa anh và Ngọc Uyển. Nếu như Ngọc Vũ biết anh đã dùng mạng để đổi lấy mạng của Ngọc Vũ, biết anh không thể đưa cô trở về Bắc hà nữa thì Ngọc Vũ sẽ phản ứng như thế nào? Anh Tú thở dài, có lẽ anh đã cả nghĩ quá rồi, có lẽ Ngọc Vũ sẽ không quá hoang mang như anh đã hình dung. Đối với cô, anh dẫu sao cũng chỉ là một tiểu hoàn môn, mất người này thì có người khác, huống chi cô còn có anh chàng cận vệ Diệu Đức võ công trác tuyệt, vô cùng trung thành kia. Không có anh, vẫn còn có Diệu Đức hộ tống Ngọc Vũ về Bắc hà an toàn. Ai chứ Diệu Đức thì Anh Tú rất an tâm. Chỉ mong khi đã an toàn về đến Bắc hà thì Ngọc Vũ hãy nhớ đến lời hứa của cô đối với anh, nể tình anh đã không nề công, tận tình chăm sóc cô mấy ngày qua mà cho người tìm kiếm Linh Lan và đưa em gái anh về Hoàng cung. Được như thế âu cũng là điều an ủi lớn nhất cho anh rồi.

- Xin lỗi! Tôi được Dương đại phu nhờ đưa thuốc đến, xin hãy ra nhận thuốc đi ạ.

Anh Tú còn đang mải suy nghĩ thì một giọng nói dịu dàng từ bên ngoài bất chợt vang lên. Giọng nói ấy nhỏ nhẹ, không quá lớn, chỉ đủ để người bên trong nghe thấy, nhưng đối với Anh Tú chẳng khác nào sét nổ bên tai. Trước đôi mắt ngạc nhiên của Ngọc Vũ và Ngọc Uyển, Anh Tú đứng phắt dậy và lao nhanh ra ngoài như một mũi tên. Đứng trước mặt anh là một cô gái vận chiếc áo màu hoa thiên lý, trên tay là ba gói thuốc được xâu thành một chuỗi, cùng với nụ cười dịu dàng. Vừa nhìn thấy Anh Tú, cô gái dường như cũng kinh ngạc không kém, đôi mắt hạnh của cô mở to, một nụ cười quen thuộc nở trên môi, khiến cả gương mặt cô bừng sáng như ánh mặt trời.

- Bách Nhật!!

Anh Tú mừng như điên khi nhận ra cô gái đó chẳng ai xa lạ mà chính là Bách Nhật. Gặp được bạn thân ở nơi lửa đạn, xa xôi, trong lòng Anh Tú dâng lên niềm vui choáng ngợp cả tâm trí. Anh Tú chạy như bay về phía Bách Nhật, hai tay ôm choàng lấy bạn và nâng bổng Bách Nhật lên rồi cất tiếng cười sảng khoái.

Về phần Bách Nhật, dường như vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì gặp được Anh Tú ở đây, phải mất một lúc sau nó mới ý thức được rằng Anh Tú đột ngột bế thốc mình lên như một cô bé con.

- Bách Nhật! Sao bà lại ở đây? Nếu tôi nhớ không lầm thì lẽ ra bà phải đang ở Bắc hà, bên cạnh Nguyên Thục kia mà!!

- Gặp được ông ở đây tôi cũng bất ngờ lắm. Ông thả tôi xuống đi, vào nhà tôi kể hết mọi chuyện cho ông nghe.

Là một cô gái kín đáo, Bách Nhật không quen bị người khác ẵm lên như thế, dù vui mừng không kém bạn, nó vẫn nhẹ nhàng nhắc nhở Anh Tú thả mình xuống. Biết khi nãy vì quá vui mừng mà có hành động thất thố, Anh Tú cười khì, anh đặt Bách Nhật xuống, ngắm nhìn Bách Nhật kỹ càng từ đầu tới chân. Đã lâu không gặp, Anh Tú nhận ra bạn mình đã có nhiều thay đổi. Mái tóc mượt mà của Bách Nhật nay dài hơn, được tết thành hai bím gọn gàng, nước da trắng của Bách Nhật không ăn nắng, nên khi ở ngoài trời, hai má của cô hồng lên, trông duyên dáng và đằm thắm lạ kỳ. Như đã từng nói, Anh Tú không chú ý đến những cô gái nhìn qua là biết đẹp, anh chỉ thích những cô gái có duyên ngầm, điển hình như Bách Nhật. Ở cô, Anh Tú thích nhất nụ cười rạng rỡ, làm bừng sáng cả khuôn mặt trái xoan dịu dàng. Lâu ngày nhìn thấy nụ cười như hoa mặt trời ấy, Anh Tú cảm thấy lòng ấm lại. Bách Nhật bao giờ cũng thế,sự hiện diện của cô luôn làm người khác cảm thấy bình yên.

Ngồi bên trong nhà nhìn ra ngoài, thấy Anh Tú ôm ấp một cô gái lạ, nét mặt tỏ ra vui mừng, ánh nhìn thì dịu dàng, trìu mến, Ngọc Vũ cảm thấy trái tim thắt lại. Đã quen với Anh Tú từ lâu, nhưng chưa bao giờ cô thấy anh có biểu hiện như thế. Đối với cô, anh một là cau mày, hai là không quan tâm, khá khẩm nhất cũng chỉ là mỉm cười, chứ chưa bao giờ hớn hở như vậy. Cô gái này tên là Bách Nhật, em gái của Anh Tú tên là Linh Lan, thế nên tất nhiên cô gái tên Bách Nhật này không phải là em gái anh. Nếu không phải em gái mà Anh Tú lại mừng rỡ thì đủ biết cô gái ấy quan trọng với anh biết bao, có lẽ cô ta là người trong mộng của Anh Tú cũng không biết chừng...

Nghĩ đến đó, Ngọc Vũ mím môi. Một nỗi hờn tủi từ đâu trào lên, chiếm ngự lấy cô. Cõi lòng cô nặng trĩu, trái tim cô ngẹn lại, bức bối và khó thở hơn cả lúc nãy, khi nhìn thấy Ngọc Uyển... Hình ảnh trước mắt trở nên nhạt nhòa. Cô cảm thấy giận Anh Tú, giận anh ghê gớm. Không muốn nhìn cảnh tượng đau lòng ấy thêm một giây nào nữa, Ngọc Vũ nằm xuống. Cô kéo chăn trùm kín đầu, mắt nhắm nghiền và hai tay bịt chặt lấy tai, như không muốn nghe tiếng Anh Tú tíu tít với cô gái kia.

Không giận dỗi ra mặt như Ngọc Vũ, nhưng nhìn thấy biểu hiện thân thiết của Anh Tú, đôi mắt Ngọc Uyển lại lóe lên những tia sáng kỳ lạ. Cô gái này là nữ lang y đã chăm sóc cho Hoàng huynh Phúc Điển của cô khi anh ấy bị thương, kẹt lại phía sau. Trước đây cô không để ý đến cô gái này mấy, nhưng hôm nay nhìn thấy sự quyến luyến của gã thanh niên đó dành cho cô ta thì Ngọc Uyển đâm ra không thích cô ta. Đã nói Anh Tú thuộc sở hữu của Ngọc Uyển, là đồ chơi của cô, thì cô phải có toàn quyền sử dụng món đồ chơi này. Cô không cho phép ai động đến nó, càng không muốn món đồ chơi của cô tỏ ra thích thú, quan tâm tới bất cứ ai ngoại trừ cô.

Ngọc Uyển nhếch môi. Nhìn Bách Nhật và Anh Tú tíu tít với nhau như thế đã quá đủ, cô tiến tới, không nói không rằng, vươn tay véo thật mạnh vào tai Anh Tú. Đang có bao nhiêu chuyện cần hỏi Bách Nhật, nay bị Ngọc Uyển véo vào tai đột ngột thế, Anh Tú "á" lên một tiếng, anh quay sang Ngọc Uyển, trừng mắt vì hành động bạo lực vô lý của cô.

- Cô làm gì vậy?

- Không được đứng trước mặt ta mà nói cười thơn thớt như thế, có biết ngươi đang làm ta xốn mắt không?

- Gì...gì chứ?

Anh Tú ấp úng vì không ngờ Ngọc Uyển lại nói thẳng thừng như thế, và cũng không hiểu cô muốn ám chỉ điều gì. Gặp lại Bách Nhật, anh còn đang mừng không để đâu cho hết, thế thì liên quan gì mà Ngọc Uyển lại bảo anh làm thế khiến cô xốn mắt, thật chẳng hiểu cô gái này có biết lý lẽ là gì hay không nữa. Chẳng để cho anh kịp phản bác, Ngọc Uyển lại nắm lấy tai Anh Tú mà véo mạnh một cái. Cô ra tay mạnh đến nỗi vành tai của Anh Tú ửng đỏ, mặt anh nhăn nhó, sau đó cô liếc mắt về phía Bách Nhật, cất giọng lạnh lùng.

- Đây là nhà ta, không phải nhà các ngươi. Các ngươi làm gì sau lưng ta, ta không quan tâm, nhưng công khai trước mặt ta thì ta không chấp nhận. Lần sau mà còn như thế thì coi chừng cái mạng của ngươi đó.

Nói xong, Ngọc Uyển liếc Anh Tú một cái. Ánh mắt cô sắc đến nỗi Anh Tú phải thấy rùng mình. Cô gái này tính cách vô cùng thất thường, ban nãy còn cười ngọt ngào như mật ong, vậy mà thoắt cái đã như hai người xa lạ chẳng liên quan tới nhau. Ngọc Uyển nhếch môi, cô quay người bỏ đi sau khi ném thêm cái nhìn băng giá về phía Bách Nhật, làm nó vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu đã làm gì khiến Ngọc Uyển khó chịu đến thế.

Nhìn Ngọc Uyển mất hút sau những lùm cây, Anh Tú hừ nhạt một tiếng. Không bận tâm đến cách khu xử kỳ lạ của Ngọc Uyển, anh nắm tay Bách Nhật trở vào nhà để làm sáng tỏ những thắc mắc đang lởn vởn trong đầu mình.

oOo

Trong căn phòng bài trí đơn sơ, ánh nắng từ khung cửa sổ tràn vào, soi tỏ gương mặt thanh tú của một chàng trai áo trắng. Chàng trai đang ngồi trên một chiếc đôn nhỏ, tay xoay xoay chén trà, đôi mày thanh tú hơi nhíu lại dường như đang bận tâm về một chuyện nào đó, trong khi bạn thân của anh, Nguyễn Ánh, lại đang chăm chú xem những tin tức mà Nguyễn quân vừa mới đưa về, chàng trai ấy chính là Ưu Phong.

Đối với Ưu Phong, mỗi khi đi thăm bạn bè, bao giờ anh cũng là người im lặng, cân nhắc những gì cần nói và những gì không nên nói. Lần trước đi thăm Trịnh Khải, Ưu Phong chỉ hỏi han đến những chuyện thường ngày, chứ không bao giờ động đến chính trị hay tình hình chiến sự xảy ra trong và ngoài phủ chúa. Bây giờ cũng vậy, nhân lúc đến Gia Định tìm Ngọc Vũ khi nghe được tin Tiểu Cúc báo lại, Ưu Phong tranh thủ đến thăm Nguyễn Ánh vì cả hai lâu rồi chưa gặp nhau. Không khó khăn mấy để anh tìm được nơi đóng quân của Nguyễn Ánh bởi cả hai có những phương pháp riêng trong việc liên lạc, nhưng ngoài những chuyện chung ra thì cuộc hội ngộ trò chuyện của họ không đả động gì đến những chuyện khác. Anh là người của giang hồ, anh không muốn dính dáng đến chuyện chiến tranh, tranh giành quyền lực của người khác, trong khi bạn bè anh đa phần đều là những người hai vai mang nặng trách nhiệm đối với dòng tộc của mình.

Nhìn đôi mày kiếm của Nguyễn Ánh nhíu lại khi lướt mắt qua một cuộn giấy, Ưu Phong biết rằng Nguyễn Ánh đang dành nhiều tâm sức để xây dựng lại lực lượng, tiếp tục chống Tây Sơn. Kể cũng lạ, những người bạn anh quen, tuy ngẫu nhiên nhưng vô hình chung lại là kẻ thù của nhau. Văn Bình là Long Nhương tướng quân của Tây Sơn, Nguyễn Ánh là chúa của nhà Nguyễn, Trịnh Khải là Đoan Nam vương, còn thằng cháu Duy Khiêm của anh đã được tấn phong làm thái tử, nay mai sẽ thừa kế ngai vàng. Bốn người, bốn thế lực tách biệt hùng cứ trên khắp đất nước. Cuộc chiến giữa họ, từ lâu anh đã nhận ra, nhưng anh không thể nghiêng về phía ai, cũng không thể can thiệp vào. Đành là một người đứng ngoài bàng quan, nhưng tuyệt đối anh sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ nếu bạn bè cần giúp đỡ, trong phạm vi có thể của anh.

- Ưu Phong, tôi nghe mọi người đồn rằng cậu sắp lấy vợ, phải thế không?

Đang nhìn vạt nắng xuyên qua làn khói mỏng manh thoát lên từ chén trà trên bàn, Ưu Phong ngẩng đầu lên khi giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ánh phá tan không gian yên lặng. Nhiều tháng trước, anh phải vội vã rời khỏi Hương Sơn cũng là vì chuyện này, ngay cả Nguyễn Ánh là người ngoài mà cũng nghe chuyện thì đủ biết cái tin này đã lan rộng đến mức nào. Chẳng trách Ngọc Vũ từ Hoàng cung lặn lội vào Quy Nhơn để tìm gặp anh.

- Cậu tin sao?

Đáp lại câu hỏi của Ưu Phong chỉ là một nụ cười của Nguyễn Ánh, nụ cười lửng lơ đó khiến Ưu Phong tủm tỉm. Nguyễn Ánh bao giờ cũng rất bí mật, không ai biết anh đang nghĩ gì trong đầu, và tất nhiên Ưu Phong cũng thế. Mỗi người cất giữ một bí mật, Ưu Phong cũng không muốn biết hay khám phá bí mật ấy là gì, bởi bản thân anh cũng đang cất giữ nhiều bí mật không muốn người khác khám phá ra.

Thời gian đã không còn sớm, câu chuyện giữa anh và Nguyễn Ánh đã hết từ lâu, nhưng anh vẫn muốn ngồi nán lại thêm chút nữa để thưởng thức cái vị trà vừa ngọt, vừa chát chỉ riêng Nguyễn Ánh mới có. Phải rồi, vị trà vừa ngọt vừa chát, Ưu Phong chưa hỏi Nguyễn Ánh điểm thú vị này là gì.

- Ánh, trên đời này tôi đã uống rất nhiều loại trà. Trảm Mã trà, Ô Long trà, Mạn trà,... nhưng loại trà có vị ngọt, chát là lạ như thế này tôi mới uống qua lần đầu đấy, đây là trà gì thế?

Rời mắt khỏi cuộn giấy, Nguyễn Ánh quay người lại. Đôi mắt nâu trong suốt lướt qua một tia sáng nhỏ, mơ hồ. Nhìn chén trà trong tay Ưu Phong, Nguyễn Ánh mỉm cười.

- Chén trà mà cậu đang uống không phải loại trà nổi tiếng nào cả, nó chỉ đơn giản là một chén trà tươi pha với ít đường mà thôi.

- Trà pha đường?

Ưu Phong ngạc nhiên hỏi lại, xưa nay anh chưa từng nghe thấy ai thưởng thức trà bằng cách pha với đường như thế bao giờ. Nghĩ trong lòng là thế nhưng anh cũng không hỏi gì thêm nữa, uống một hơi cạn sạch, Ưu Phong đặt chén trà xuống bàn rồi ung dung đứng lên. Đã đến lúc anh phải đi, Gia Định là nơi chiến tranh loạn lạc, mấy ngày qua anh đã cất công đi tìm nhưng vẫn chưa nhận được tin tức gì của Ngọc Vũ. Nếu như Ngọc Vũ mà có mệnh hệ nào thì anh chắc chắn sẽ ân hận suốt đời.

- Tôi đi đây. Một ngày nào đó tôi sẽ lại tìm đến cậu.

- Được!

Nguyễn Ánh đáp lại bằng một tiếng "được" gọn gàng. Thế và chỉ có thế, không một lời chúc, không một tiếng chào,cũng không có câu từ biệt, nhưng Ưu Phong hiểu rằng như thế mới là Nguyễn Ánh. Nếu anh mà đứng lên tỏ rõ lưu luyến thì Ưu Phong quả thật thấy không tự nhiên chút nào.

Khép lại cánh cửa liếp, Ưu Phong ngẩng nhìn bầu trời trên cao. Hôm nay trời trong xanh, gió dìu dịu, rất thích hợp cho công việc tìm kiếm Ngọc Vũ. Anh ung dung sải bước ra ngoài, đôi mắt dõi theo một cánh chim trắng tan trong những đám mây. Chính vì mải nhìn theo cánh chim ấy, đến một ngã quẹo, Ưu Phong không để ý đến một người bất thần tiến ra. Kết quả là người ấy va phải anh, khiến anh giật mình nhìn xuống và cất lời xin lỗi vì sự vô ý của mình theo thói quen. Khi nhìn rõ dung mạo của người mà anh vừa va phải, Ưu Phong ngạc nhiên ngẩn người ra.

Trên đời này, anh vốn không tin số mệnh, cũng chẳng tin vào hai chữ ngẫu nhiên hay duyên nợ, thế nhưng giờ đây, ở nơi xa xôi thế này, chính anh đang tỏ ra kinh ngạc vì sự tình cờ đến không ngờ đang xảy ra trước mắt mình. Người anh vừa đụng trúng ấy, không ai khác chính là cô gái có nụ cười như ánh mặt trời- Bách Nhật.

Và Bách Nhật cũng đang nhìn anh. Sững sờ...

97.

Về phần Bách Nhật, trong lúc ra ngoài để mua thêm thuốc về cho quân y ở Gia Định, nó đã bị một chàng trai lạ mặt bắt cóc về chữa trị cho chủ nhân của anh ta. Thì ra chủ nhân của chàng trai lạ mặt ấy là Nguyễn Phúc Điển, em trai của Nguyễn Ánh, kẻ thù của Tây Sơn, điều đó xác định rằng nó đã lọt vào tay quân Nguyễn.

Tất nhiên rơi vào tay quân Nguyễn, Bách Nhật không bao giờ nói ra chuyện nó là người trong Tây Sơn. Đơn giản bây giờ nó chỉ là một cô gái biết y thuật, không nỡ ngoảnh mặt làm ngơ khi người khác bị thương, cho dù đó có là Tây Sơn hay quân Nguyễn đi nữa. Giữa đôi bên có là kẻ thù của nhau, có chiến tranh chém giết liên miên nó không cần biết, chỉ biết nó là thầy lang và trách nhiệm trên hết của nó là cứu người mà thôi.

Không để bụng chuyện bị bức ép, Bách Nhật đã tận tâm cứu chữa cho Phúc Điển, kết quả là vết thương sâu trên vai của anh dần hồi phục. Cá tính Bách Nhật không thích xen vào chuyện của người khác, nó chỉ tận tâm với vai trò thầy thuốc của mình nên ngoài những giờ thay băng, liệt kê đơn thuốc ra, nó không bao giờ lai vãng đến chỗ của Phúc Điển. Kể từ khi buộc phải theo Phúc Điển về doanh trại Nguyễn quân, Bách Nhật ngoài việc chăm sóc cho anh, thời gian rỗi, nó còn chuẩn trị cho khá nhiều quân lính bị thương. Vì doanh trại canh gác khá nghiêm ngặt, bất kể ai lang thang bên ngoài khi chưa được sự cho phép đều bị trị tội, nên Bách Nhật phải thận trọng vô cùng. Nó là người ở trong Tây Sơn, giữa lòng địch mà để họ phát hiện ra thân phận thật, e nó sẽ gặp nhiều rắc rối. Cẩn tắc vô ưu, chi bằng hạn chế tiếp xúc chừng nào hay chừng nấy, bảo toàn tính mạng trước rồi mới tìm cách thoát ra khỏi hang hùm.

Ban đầu, những người lính trong quân Nguyễn khá cẩn mật đối với nó. Dần dà, họ nhận thấy Bách Nhật chỉ toàn tâm toàn ý vào công việc, chẳng có ý định muốn khám phá hay có hành động khả nghi nào nên dần nới lỏng kiểm soát. Thậm chí họ còn coi sự có mặt của Bách Nhật trong quân Nguyễn là điều tất nhiên, bởi thầy lang trong đội ngũ của họ khá ít. Hôm nay, Bách Nhật được Dương đại phu nhờ đem thuốc đến cho một bệnh nhân ở căn nhà lá phía đông, do ông đang bận tay chăm sóc cho người lính chẳng may bị rắn cắn. Theo lời Dương đại phu, Bách Nhật được một người lính chỉ dẫn căn nhà lá phía đông, và nó thật không thể ngờ tại nơi này nó lại có thể hội ngộ cùng Anh Tú, người mà nó nghĩ rằng hiện tại đang yên phận ở Bắc hà mới phải.

Gặp lại Anh Tú, Bách Nhật vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Nó kinh ngạc là vì không biết tại sao Anh Tú lại có mặt ở chốn heo hút này, và vui mừng vì ít ra nó vẫn còn có người thân bên cạnh. Trước mặt Anh Tú, Bách Nhật lặng người đi một lúc, rồi sau đó mới lấy lại cảm giác khi Anh Tú ôm nó vào lòng. Vốn là một cô gái kín đáo, sự kinh ngạc và vui mừng của Bách Nhật chỉ ánh lên một khoảnh khắc trong đôi mắt xám tro, rồi sau đó lại êm ả như ban đầu, dù ngón tay út của nó không ngừng run nhẹ.

Anh Tú hớn hở cầm lấy gói thuốc, anh dẫn Bách Nhật vào nhà rồi nhanh chóng kéo ghế cho nó ngồi. Bách Nhật vừa ngồi xuống, còn chưa kịp nói câu nào thì Ngọc Vũ đang trùm chăn, nằm im trên giường bỗng bật dậy, khiến cả hai giật mình vì hành động đột ngột ấy của cô. Nhìn đăm đăm Bách Nhật, Ngọc Vũ nhíu mày khi nhận thấy cô gái này tuy không đẹp, nhưng sự hồn hậu, dịu dàng của cô ta khiến người khác ít nhiều cũng có thiện cảm. Chẳng lẽ gã Anh Tú kia vì thế mới tỏ ra thắm thiết với cô ta đến thế, chẳng lẽ hắn thật sự cảm mến cô nàng rồi hay sao.

Ngọc Vũ còn đương phỏng đoán thì Anh Tú đã nhìn quanh quất kiểm tra, đến khi chắc chắn không còn người ngoài thì anh chỉ vào Bách Nhật tươi vười.

- Giới thiệu với bà, đây là Ngọc Vũ - công chúa Bắc hà. Ngọc Vũ, còn đây là Bách Nhật, bạn thân của tôi. Hai người làm quen nhau đi.

Anh Tú vừa nói dứt, đôi mắt Ngọc Vũ chợt trở nên lấp lánh, Ngọc Vũ nghe tiếng trái tim đập khe khẽ, và tiếng thở phào nhẹ nhõm của chính mình. Thì ra cô ta chỉ là bạn thân của Anh Tú, lâu năm không gặp, dĩ nhiên có thái độ thân thiết cũng là điều dễ hiểu. Ngọc Vũ gật gù như vừa vỡ lẽ ra một chuyện nào đó, đôi mày liễu đang cau lại liền giãn ra, bóng mây u ám che phủ gương mặt xinh xắn đã tan biến. Trong lòng Ngọc Vũ như có từng cơn gió mát dìu dịu thổi, khiến tâm hồn cô thư thái lạ thường. Cô nhìn Bách Nhật mỉm cười thân thiện, trái ngược hẳn với vẻ khó chịu ban đầu của mình.

Nhìn những thay đổi trên gương mặt Ngọc Vũ, Bách Nhật tuy không tường tận nguyên nhân tại sao nhưng cũng đã đoán được phần nào. Ngay từ lúc gặp mặt nàng công chúa ấy, Bách Nhật đã tinh ý nhận ra rằng cô dường như không thích nó. Đến khi nghe Anh Tú giới thiệu nó là bạn thân, thì cô ấy rõ ràng đã tươi lên đôi chút. Trước sự thân thiện của Ngọc Vũ, Bách Nhật cũng mỉm cười chào lại. Đợi cho hai người đã qua màn chào hỏi, Anh Tú liền bắt ghế ngồi đối diện Bách Nhật, anh nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho nó, và tại sao nó lại lưu lạc đến đây. Dù trong bụng cũng đang thắc mắc hệt Anh Tú, nhưng trước sự nôn nóng của bạn, Bách Nhật tạm gác thắc mắc của mình qua một bên, và bắt đầu thận trọng thuật lại cho Anh Tú những gì đã xảy ra đến với mình.

Ngồi bên cạnh Bách Nhật, Anh Tú chăm chú lắng nghe những lời nó kể, đến khi nghe Bách Nhật bảo Linh Lan đang ở Quy Nhơn, Anh Tú hầu như không tin vào tai mình. Anh đã buộc Bách Nhật dừng lại, kể lại thật chi tiết ba bốn lần, đến nỗi Bách Nhật phải thuộc lòng. Qua lời Bách Nhật, Anh Tú mừng đến muốn nhảy cẫng lên khi nghe tin Linh Lan hiện đang ở tại Quy Nhơn. Chưa hết, em gái anh vô cùng khỏe mạnh và còn ở trong Tây Sơn, nơi có Quang Trung hoàng đế, nhân vật được lịch sử nước nhà ca tụng nhiều nhất.

Trước thông tin quý giá ấy, Anh Tú như người đi trên mây. Anh gặn hỏi Bách Nhật hàng trăm lần rằng điều đó có thật không. Anh phải tự nhéo vào má mình để biết rằng đây không phải là một giấc mơ. Trong tất cả những quyết định của Anh Tú, anh cảm thấy quyết định theo Ngọc Vũ rời khỏi cung là sáng suốt nhất, chỉ đáng tiếc là anh cũng đã đến Quy Nhơn, cũng dừng chân ở đó nhưng lại không gặp được Linh Lan. Nhưng trong cái rủi có cái may, dù rời Quy Nhơn đến Gia Định, nhưng ít nhất thì anh đã gặp được Bách Nhật, và nhờ gặp được Bách Nhật nên mới biết đứa em gái yêu quý của anh lại đang ở Quy Nhơn.

Linh Lan đang ở Quy Nhơn, em gái anh khỏe mạnh hơn bao giờ hết, mừng quá đi thôi, tạ ơn trời phật, tạ ơn trời phật. Biết được tin tức của Linh Lan sau bao nhiêu ngày tìm kiếm vô vọng, anh chẳng khác nào người chết vừa mới sống lại. Anh mừng như chưa bao giờ mừng đến thế, vui như chưa bao giờ vui đến thế. Trong phút chốc, anh chỉ mong mỏi sao cho mình đang có mặt ở Quy Nhơn để hội ngộ cùng Linh Lan, để được nhéo yêu vào đôi má của con bé, để tin chắc rằng em gái anh đang hiện hữu trước mặt anh, và để chấm dứt những con ác mộng triền miên mỗi đêm dài.

Bách Nhật yên lặng để niềm vui của Anh Tú lắng xuống, rồi sau đó đến lượt nó cần phải hỏi để biết tại sao Anh Tú lại có mặt ở đây. Đang nôn nao vì tin tức của Linh Lan, Anh Tú nói câu nọ xọ câu kia, liên miên lan man chẳng rõ đầu đuôi, đến nỗi Ngọc Vũ, vốn không tham dự vào câu chuyện giữa nó và Anh Tú, cũng phải chen lời vào, kể thay.

- Chuyện là thế này. Ta nghe tin Hoàng huynh của ta, hiện là cung chủ Tử Phụng cung sẽ lấy vợ, thế nên ta mới cùng hắn đến Quy Nhơn để dự đám cưới. Nào ngờ đến nơi, thuộc hạ của huynh ấy lại nói rằng huynh ấy đã đến Gia Định để tổ chức tiệc cưới, cho nên cực chẳng đã, ta phải cùng hắn xuống Gia Định để tìm huynh ấy. Số trời run rủi, Gia Định đang có chiến tranh, ta ở Gia Định ba ngày không tìm được Hoàng huynh bèn lên đường trở về Bắc hà...

Ngọc Vũ còn kể nhiều, nhưng những lời sau của Ngọc Vũ, Bách Nhật không nghe được gì nữa. Mọi thứ trước mắt nó trong phút chốc chợt trở nên mơ hồ, và bên tai nó chỉ còn nghe loáng thoáng tiếng của Ngọc Vũ. Nó cảm thấy mình đang trôi xa, trôi rất xa. Gương mặt nó bất động, đôi mắt xám tro quạnh hiu, cảnh vật trước mắt nhạt nhòa tưởng chừng như nó đang nhìn qua màn mưa. Bách Nhật mím môi, đôi bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy mép áo, xiết chặt. Cánh môi dưới của nó run nhẹ, run nhẹ, những cử động ấy rất nhỏ, nhỏ và vô thức đến nỗi bản thân Bách Nhật cũng không cảm thấy gì.

Sau khi nghe tin Ưu Phong đi lấy vợ, Bách Nhật cảm thấy mệt mỏi. Tâm hồn nó chùng xuống, dường như mọi niềm vui thú trên thế gian này đều trôi sượt qua nó, mất tăm. Dù biết sẽ rất bất nhã với Anh Tú nhưng nó không còn cảm giác muốn trò chuyện thêm nữa. Giao thuốc cho Anh Tú xong, Bách Nhật nhanh chóng rời khỏi căn nhà lá, để lại sau lưng ánh mắt lo lắng của Anh Tú khi phát hiện những thay đổi bất thường của nó.

Bách Nhật thả bộ về phòng nhưng tâm trí lại trống rỗng, chẳng thể nghĩ suy được gì. Ưu Phong lấy vợ. Cũng phải thôi, trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, đó là điều tất yếu của cuộc sống, chuyện đó thì có can dự gì đến nó đâu. Có gì can dự đến nó đâu mà tại sao lòng nó lại trống rỗng như vừa đánh mất một cái gì đó, rất nhỏ, rất mơ hồ nhưng cũng rất tiếc nuối. Lần đầu tiên nó lại để đánh mất bản thân mình, lần đầu tiên nó không thể làm chủ bản thân, không thể làm chủ cảm xúc và không thể hiểu nổi bản thân mình muốn gì. Chuyện gì đang xảy ra với nó, chuyện gì đang xảy ra...

Chính vì bước đi trong tâm trạng miên man nên Bách Nhật đã không để ý gì đến xung quanh, kết quả là nó đã đụng phải một người. Khi ngước lên, định bụng nói lời xin lỗi thì Bách Nhật chẳng thể thốt nên lời. Hiện ra trong đôi mắt xám tro của nó là một chàng trai áo trắng, gương mặt thanh tú, phong sương của anh khiến trái tim Bách Nhật thắt lại. Người đó không ai khác lại chính là người nó đang nghĩ đến lúc này, người đã khiến nó trở nên mất kiểm soát với bản thân. Đó chính là Ưu Phong.

Trên đời này thật có chuyện "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" hay không, Bách Nhật không biết, chỉ biết ngay giờ phút này, nhìn chàng trai áo trắng đang hiện hữu trước mặt, nhìn nụ cười phong trần ngày nào trên gương mặt ấy, đôi mắt xám tro của Bách Nhật mở to, bất động và sững sờ. Nó không thể tin Ưu Phong đang hiện hữu trước mắt nó, nó không thể tin trên đời này lại có sự ngẫu nhiên trùng hợp đến thế. Chính vì không thể tin vào mắt mình nên Bách Nhật khẽ nhắm mắt lại rồi mở ra. Ưu Phong vẫn đứng đó, không tan biến, tà áo trắng bay phất phơ như áng mây trắng trên cao, ánh mắt nửa như cười nửa lại như không. Bách Nhật chớp mắt, chớp mắt, rồi lại chớp mắt, những hình cảnh, cảm xúc trong lòng lũ lượt tràn về, ùa vào, quây kín trái tim nó. Trong đời Bách Nhật, chưa bao giờ nó cảm thấy bản thân khó hiểu đến thế. Thứ cảm xúc buồn có, vui có, giận có và hờn trách cũng có, và sâu thẳm đâu đó còn có cả sự nhớ nhung tích tụ qua bao ngày tháng. Tất cả vỡ ra, dồn dập như những đợt sóng nối nhau vỗ vào bờ, nhưng trái tim Bách Nhật lại quá nhỏ bé, nó chỉ biết lặng người đi một lúc lâu chứ không sao thốt nên được lời nào...

Ưu Phong hiện giờ đang chuẩn bị cưới vợ. Ngọc Vũ từ Bắc hà lặn lội xuống Gia Định là để dự tiệc mừng của anh. Những lời đó lao xao trong trái tim Bách Nhật, khiến nó thảng thốt. Cảm xúc của nó như một tấm gương rơi xuống đất, vỡ tan, những mảnh nhọn của chiếc gương ấy găm vào tim nó, thật sâu, thật đau, khiến nó cảm thấy hụt hẫng và khóe mắt cay cay.

- Bách Nhật! Đã lâu không gặp, cô vẫn khỏe chứ?

Ưu Phong là người lên tiếng trước. Tuy anh vẫn còn đang kinh ngạc vì không ngờ sẽ gặp lại Bách Nhật ở đây, nhưng những biểu hiện của nó khiến anh cảm thấy có một cái gì đó đang thay đổi ở cô gái nhỏ bé này.

Bách Nhật nghe tiếng trái tim khẽ thở một hơi dài như cả thế kỷ. Nó chớp mắt, cố trấn tĩnh cơn xúc động đang chiếm lấy tâm trí, rồi điềm đạm trả lời.

- Tôi khỏe, cám ơn anh. Tôi bây giờ có việc phải đi trước, xin lỗi.

Ưu Phong hơi ngạc nhiên khi giọng nói Bách Nhật lạnh lẽo, có chút gấp gáp. Anh mỉm cười khi nó chào anh, rồi cả hai cứ thế lướt qua nhau mà không nói thêm câu nào. Nghe tiếng bước chân Ưu Phong giẫm lên sỏi đá ngày càng xa dần, Bách Nhật ngẩn ngơ, thẫn thờ. Nó có cảm giác như mình sắp đánh mất một cái gì đó, nhưng lại không biết chính xác đó là cái gì. Nó muốn đi thật xa khỏi Ưu Phong, nhưng sâu trong tiềm thức lại có những tiếng nói thôi thúc nó quay lại. Bách Nhật thốt nhiên thở dài, bờ môi đào tươi tắn mím lại, buồn rầu, nó quay ngược bước chân, trở lại theo lối Ưu Phong vừa đi khuất. Nếu chậm một chút thôi thì cơn gió ấy sẽ bay mất, nếu chậm một chút thôi thì ngay cả bông hoa ấy cũng không biết gió vừa thổi qua.

- Ưu Phong, khoan đã!!

Đang thả bộ trên con đường dẫn ra cổng doanh trại, Ưu Phong dừng chân khi có tiếng Bách Nhật gấp gáp ở phía sau. Đôi mày kiếm nhẹ chau, Ưu Phong quay người lại, Bách Nhật đang đứng phía sau anh, gương mặt lấm tấm mồ hôi ửng hồng trong nắng sớm, đôi mắt xám tro lấp lánh. Đó là do ánh nắng soi vào đôi mắt ấy, hay là do anh tự tưởng tượng ra.

- Có chuyện gì sao?

- Anh có một cô em gái tên là Ngọc Vũ, đúng không?

Nghe Bách Nhật hỏi, Ưu Phong vô cùng ngạc nhiên. Tại sao Bách Nhật lại biết Ngọc Vũ trong khi anh chưa hề nói với nó một lần nào, chẳng lẽ là...

- Cô đã gặp Ngọc Vũ sao?

- Phải, chính xác là vừa mới gặp xong. Hiện cô ấy đang ở căn nhà lá phía đông, để tôi dẫn anh đến đó.

Bách Nhật mấp máy môi như muốn nói thêm điều gì đó, nhưng nghĩ sao nó lại quay đi. Thật lòng nó muốn hỏi Ưu Phong về chuyện đám cưới của anh nhưng lại không thể mở lời, một phần nó không muốn can dự vào chuyện của người khác, phần còn lại lớn hơn, là vì nó sợ sẽ lại suy nghĩ nhiều khi anh lên tiếng xác nhận thông tin đó. Ưu Phong cưới ai đó là chuyện của anh, không liên quan gì tới nó. Cả hai chẳng qua chỉ là bèo nước gặp nhau, rồi nó sẽ có ngày quay trở về hiện đại, có luyến lưu thêm cũng chẳng được ích gì, chi bằng trước khi cái gì đó kịp phát triển trong lòng nó, thì cắt đứt sớm chừng nào hay chừng đó, chí ít tổn thương sẽ giảm đi rất nhiều.

Đi phía sau Bách Nhật, Ưu Phong lặng yên không nói một câu nào. Ngọc Vũ đang ở trong quân Nguyễn, thật đúng là xa tận chân trời gần ngay trước mắt. Mấy ngày qua anh đã cất công tìm kiếm Ngọc Vũ nhưng lại không thu thập được tin tức gì, bây giờ chẳng tìm mà lại có, mọi chuyện diễn ra vô cùng suôn sẻ làm Ưu Phong hài lòng. Anh sẽ đưa Ngọc Vũ quay trở về Bắc hà trước khi chuyện này kịp đồn thổi ra ngoài. Nếu là một người nào khác, quân Nguyễn chắc chắn sẽ gây khó, nhưng Ưu Phong là bạn lâu năm của chúa công họ, Nguyễn Ánh cho phép thì sẽ không ai có thể gây khó dễ cho anh.

Nhìn bóng dáng nhỏ bé của Bách Nhật ở phía trước, đôi mắt nâu ấm áp của Ưu Phong chợt mơ hồ. Đã lâu không gặp, trông Bách Nhật không thay đổi là mấy. Vẫn sự điềm đạm hiếm thấy, vẫn sự nghiêm túc khó gần và vẫn một gương mặt rạng rỡ luôn làm người khác không khỏi yêu mến, nhưng tiếc thay lần gặp mặt này, gương mặt rạng rỡ ấy lại lạnh như sương, cứ như thể cả hai chưa từng quen biết nhau. Không nhìn thấy nụ cười bừng lên như ánh mặt trời, Ưu Phong cảm thấy luyến tiếc, một niềm luyến tiếc mơ hồ len lỏi trong tâm trí anh, khiến anh chợt mỉm cười, lắc đầu cho sự mông lung không tên đó của mình. Gió đã ưu phiền rồi, sao nỗi ưu phiền cứ ngày một dày thêm.

oOo

Anh Tú ngồi trong nhà nấu nước, anh đang canh chừng nồi nước sôi rồi bắc xuống dùng. Ở quá khứ, người dân không biết câu ăn chín uống sôi là gì, muốn uống nước thì cứ ra cái lu chứa nước trước nhà mà uống, mặc cho nguồn nước ấy lấy từ đâu, có lọc kỹ càng chưa, có đun sôi để nguội chưa. Anh Tú nghĩ, sở dĩ người ta uống nước dễ dàng thế, một là do dạ dày của họ tốt hơn hơn người hiện đại, hai là nước ở đây không bị ô nhiễm, có thể uống bất cứ lúc nào cũng được. Nói thì nói thế, nhưng cẩn tắc thì vô ưu, bao giờ Anh Tú cũng chắt lọc, đun sôi nước cẩn thận trước khi uống, âu đó cũng là một cách để tự bảo vệ bản thân mình.

Ngồi trên giường nhìn Anh Tú đun nước, Ngọc Vũ chống cằm, nghĩ đến cô gái vừa gặp Anh Tú khi nãy. Bao lần cô đã tự nhủ rằng Anh Tú chỉ là môt tiểu hoàn môn, và cô gái kia cũng chỉ là bạn anh, chẳng có gì để cho cô phải nghĩ, chẳng có gì để cô phải nhọc lòng, nhưng chẳng hiểu sao khi nhớ đến cảnh Anh Tú ôm chầm Bách Nhật là Ngọc Vũ lại tưng tức trong lòng. Tức rồi lại dỗi, mặc cho anh có quan tâm hay hỏi han gì Ngọc Vũ cũng không thèm trả lời.

Ban đầu, thấy Ngọc Vũ bỗng nhiên hờn dỗi mà không hiểu lý do vì sao, Anh Tú còn quan tâm hỏi han này nọ, đến khi thấy đã làm mọi cách mà cô vẫn hờn dỗi, Anh Tú đành bó tay đầu hàng. Mặc cho Ngọc Vũ nằm trùm mền kín mít, cô không trả lời thì anh Anh Tú giả lơ, làm như chẳng thấy gì. Đúng là công chúa, hở chút là giở thói đỏng đảnh ra. Mặc kệ cô ta, mình bây giờ còn phải tìm cách đưa Bách Nhật rời khỏi nơi chiến tranh này, chẳng hơi đâu mà quan tâm đến mấy chuyện vặt vãnh của cô nàng khó chiều này. Anh Tú nghĩ thầm, anh bắc nồi nước sôi xuống rồi để nguội, mặc cho Ngọc Vũ nằm im trên giường như thể cô chẳng tồn tại.

Thấy Anh Tú bỏ lơ, không thèm ngó ngàng đến mình, Ngọc Vũ vô cùng ấm ức, khó chịu. Bụng tính Anh Tú hạ giọng năn nỉ một chút thôi thì cô sẽ cho qua, nào ngờ anh chỉ hỏi han vài câu lấy lệ rồi không thèm quan tâm nữa, khiến Ngọc Vũ giận càng thêm giận. Anh Tú đáng ghét, Anh Tú khó ưa, Ngọc Vũ mắng thầm Anh Tú hết lời. Cô bực bội đưa mắt nhìn ra khoảng nắng mênh mông trước hiên nhà, và rồi khựng lại khi trông thấy cô gái ban nãy từ xa đang tiến tới, và phía sau cô ta chính là Hoàng huynh của cô, Ưu Phong, người mà cô đã không quản gian khổ lặn lội đến tận nơi xa xôi này để tìm gặp.

Ngọc Vũ mở to mắt. Cơn giận hờn trong lòng cô vụt biến mất, cô vội tung chăn, nhảy xuống giường và chạy ra ngoài cửa trước đôi mắt ngạc nhiên của Anh Tú. Người đó đúng là Hoàng huynh của cô, là Hoàng huynh của cô. Ngọc Vũ reo vui, đôi mắt cô long lanh ngấn lệ, bao nhiêu buồn tủi dồn nén trong lòng nay bùng phát, những giọt lệ lấp lánh chầm chậm tuôn ra khi cô nhào vào lòng Ưu Phong, khóc òa.

- Anh! Anh ơi!

Ôm Ngọc Vũ trong tay, Ưu Phong trìu mến vuốt ve mái tóc dài như suối của Ngọc Vũ. Con bé vẫn như xưa, vẫn trong trẻo, hồn nhiên tinh khôi không bao giờ thay đổi. Trong tất cả các anh em, cô em gái mà Ưu Phong yêu quý nhất chính là Ngọc Vũ. Hôm nay gặp lại đứa em gái yêu thương ấy, Ưu Phong cảm thấy lòng mềm lại, xót xa khi một công chúa vốn quen sống trong nhung lụa nay vì anh mà phải vất vả bôn ba. Trăm sự cũng do Ngọc Long cung tung tin đồn thất thiệt, để ai cũng tin lấy tin để rằng Tử Phụng và Ngọc Long sắp trở thành người một nhà, khiến Ngọc Vũ phải lao đao lận đận như thế này.

Nhìn cảnh Ngọc Vũ nhào vào lòng anh trai, khóc nức nở như một cô bé con, sự kiêu ngạo, ngang ngược trong cô đã biến mất, thay vào đó là một cô gái mềm yếu, muốn được bảo vệ và chở che, Anh Tú thở dài cảm khái. Cảnh anh em nhà người ta đoàn tụ làm anh chợt nhớ Linh Lan vô cùng. Em gái anh rất kiên cường và tinh quái, gặp lại anh, bé Lan của anh sẽ chẳng khóc đâu, có khi còn véo tai anh la rầy vì cái tội dám bỏ em gái lại một mình cũng không biết chừng. Nghĩ đến đó, Anh Tú thấy lòng nôn nao.

Nghe Bách Nhật kể Linh Lan đang ở Quy Nhơn, an toàn trong hàng ngũ Tây Sơn, Anh Tú mừng như phát điên. Hơn bao giờ hết, anh muốn bay ngay về Quy Nhơn để gặp Linh Lan. Linh Lan đã được an toàn, lại còn khỏe mạnh hơn bao giờ hết, đó chính là điều an ủi lớn nhất của Anh Tú khi trở về quá khứ. Không chỉ ở trong hàng ngũ Tây Sơn, Linh Lan lại còn gặp được Quang Trung hoàng đế. Anh Tú chợt cảm thấy hưng phấn, Linh Lan gặp Quang Trung thì có gì lạ, nếu muốn, nhiều khi nó còn gặp cả Gia Long rồi ấy chứ. Mà ngẫm, nếu như Quang Trung và cả Gia Long hoàng đế đều yêu quý em gái anh, thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ? Ngẫm đến đó, Anh Tú bật cười, dù biết rõ đó là điều không tưởng, nhưng anh vẫn cảm thấy thích thú khi nghĩ đến trường hợp "bất khả thi" đó. Nếu cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh đều yêu em gái anh, tất nhiên anh sẽ ủng hộ ...

- Anh Tú! Ngươi có nghe ta nói gì không đó?

Luồng suy nghĩ của Anh Tú bị cắt đứt khi giọng nói quen thuộc, pha chút giận dữ của Ngọc Vũ vang lên. Định thần nhìn lại, Anh Tú thấy Ngọc Vũ đang nhìn mình, gương mặt lộ sắc giận do anh đã không chú ý đến cuộc trò chuyện giữa bốn người, mà lại thả hồn bay bổng tận đâu đâu. Thấy ai cũng đăm đăm nhìn mình, Ưu Phong lại còn hơi mỉm cười, Anh Tú gãi đầu, anh đưa mắt nhìn Bách Nhật, hỏi dò.

- Xin lỗi, mọi ngươi đang nói gì vậy?

- Ngươi còn hỏi nữa sao, chúng ta đang bàn chuyện làm thế nào để thoát khỏi đây. Ta và cô gái này đi khỏi đây thì rất dễ, nhưng e rằng ngươi thì không. Ngươi và cô gái áo đỏ kia đã có giao ước thì cô ta sẽ không cho ngươi đi dễ dàng như thế. Cho nên ta đang muốn biết giữa ngươi và cô gái áo đỏ kia đã có giao ước gì để dễ bề tính toán, nhưng hỏi đến hai, ba lần ngươi vẫn không trả lời, rốt cuộc ngươi nói được chưa?

Anh Tú hỏi Bách Nhật, nhưng người trả lời lại là Ngọc Vũ, rõ ràng cô rất khó chịu mỗi khi nhắc đến giao ước ngầm giữa Anh Tú và Ngọc Uyển. Anh Tú im lặng, câu hỏi này nhắc anh về hiện thực nguy hiểm lúc này, chuyện toàn mạng trở về Quy Nhơn gặp Linh Lan với anh chẳng đơn giản. Anh lại càng không muốn để Ngọc Vũ biết được vì cứu cô, anh đã đổi một mạng với Ngọc Uyển. Nếu Ngọc Vũ biết chuyện này, chắc chắn cô sẽ không chịu trở về Bắc hà, mà anh thì lại không muốn thế chút nào.

Nghĩ như thế, Anh Tú gượng cười.

- Giữa tôi và cô ta thì có giao ước gì, cô đừng tin lời cô ta.

- Ngươi nói dối. Nếu quả thật hai người không có giao ước gì thì tại sao cô ta lại chịu tìm thầy lang chữa bệnh cho ta, ta biết cô ta không phải là người tốt đến mức đó. Anh Tú, ngươi trả lời đi, giao ước đó rốt cuộc là gì?

Anh Tú cười khổ, Ngọc Vũ đã không hỏi thì thôi, đã hỏi thì phải hỏi cho ra vấn đề, điều đó làm anh khó xử. Nhìn Anh Tú lúng túng, Ưu Phong nãy giờ vẫn im lặng liền đằng hắng một tiếng, anh quay sang Ngọc Vũ, nói nhẹ nhàng.

- Vũ nhi, em và Bách Nhật ra ngoài chờ, anh có chuyện muốn nói với Anh Tú.

98.

Ngồi bên ngoài cùng Bách Nhật, Ngọc Vũ cứ chốc chốc ngoái đầu lại, nôn nóng cố nghe xem hai người trong nhà đang nói với nhau những gì. Rốt cuộc Anh Tú và Ngọc Uyển đã có giao ước gì, tại sao hắn ta lại không thể nói ra, chẳng lẽ hắn ta đã yêu thích cô nàng đó nên không muốn rời xa cô ta sao. Ngọc Vũ càng nghĩ càng giận, lòng cô trào dâng một mối lo lắng mơ hồ.

Trong khi Ngọc Vũ đứng ngồi không yên thì Bách Nhật lại tỏ ra vô cùng bình thản. Nó không quan tâm đến Anh Tú và Ưu Phong đang nói với nhau những gì trong đó, và dường như nó cũng chẳng bận tâm làm sao để thoát ra khỏi nơi này. Giờ đây, thật sự nó cảm thấy không thể quan tâm đến bất cứ gì khác nữa. Thờ ơ, bàng quan và lãnh cảm, dường như đó là tất cả cảm xúc của Bách Nhật bây giờ.

Trong lúc chờ đợi Anh Tú, Bách Nhật cầm một cành cây nhỏ và vẽ xuống mặt đất ba vòng tròn đặt theo vị trí ba đỉnh của một hình tam giác. Đây chính là hình vẽ yêu thích từ nhỏ của nó. Bách Nhật nhớ mẹ nó đã từng nói rằng, nếu muốn biết người nào tâm linh tương thông với mình, thì hãy xem người đó có vẽ tiếp được hình mà mình đã bỏ lửng trước đó. Bằng cách đó, mẹ nó đã tìm được ba nó, người mà bà yêu thương nhất. Qua câu chuyện của mẹ, Bách Nhật cũng tạo cho mình một hình vẽ dở dang, lòng tự nhủ, nếu như ai đó có thể vẽ được hoàn chỉnh bức vẽ ấy thì có lẽ đó chính là người tâm linh tương thông với nó, người nó chờ đợi và là người nó yêu thương.

Ba vòng tròn đặt theo vị trí ba đỉnh của một hình tam giác là hình vẽ bí ẩn của Bách Nhật, trước đây không ai có thể vẽ được và không ai có thể hiểu được hàm ý của nó là gì. Bạn bè cho rằng Bách Nhật quá mơ mộng, quá viễn vông và không hiện thực, trước những ý kiến đó, Bách Nhật chỉ mỉm cười. Hơn ai hết, nó có lòng tin, rằng nhất định sẽ có một ngày nó tìm ra người tâm linh tương thông với mình như mẹ đã tìm ra ba nó. Nhất định nó sẽ tìm ra được một người hoàn chỉnh bức vẽ dỡ dang của nó, tìm ra một người mà nó yêu thương, chỉ duy nhất dành cho nó và ngược lại. Bách Nhật đã chờ, đã đợi và sẽ tiếp tục đợi người ấy trong tương lai...

- Bách Nhật, Ngọc Vũ, chúng tôi quyết định xong rồi.

Bách Nhật ngẩng đầu lên khi giọng Anh Tú vang lên. Anh và Ưu Phong đã bàn bạc xong, nếu có thể thì tối nay cả bốn sẽ đến gặp Ngọc Uyển thương lượng rồi lập tức rời khỏi đây. Ánh mắt Anh Tú rực sáng, giờ đây, mặc cho Ngọc Uyển đưa ra yêu sách gì, Anh Tú cũng vẫn sẽ rời khỏi đây. Anh sẽ đến Quy Nhơn gặp Linh Lan, không ai có thể cản lại ý định nung nấu đó của anh được.

Đứng bên cạnh Ngọc Vũ, Ưu Phong hài lòng khi thấy nét mặt ủ rũ của Anh Tú đã được thay bằng sự tự tin và hưng phấn. Lướt mắt xuống chỗ Bách Nhật đang ngồi, thấy ba vòng tròn lửng lơ mà nó vẽ trước đó, Ưu Phong chợt mỉm cười. Anh cúi xuống, cầm lấy chiếc que nhỏ và bắt đầu quẹt vài ba nét vào bức vẽ dở dang của Bách Nhật. Hành động của anh khiến Bách Nhật chú ý, nó nhìn theo bức tranh anh vẽ, và đôi mắt dần mở to vì trông thấy những gì dưới mặt đất đã được hình thành.

Bức vẽ dở dang ban đầu của Bách Nhật nay đã hoàn thành. Từ ba vòng tròn nằm ở vị trí ba đỉnh của tam giác ban đầu, nay đã trở thành hai bông hoa cùng hướng về ánh mặt trời tỏa sáng trước mặt. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt Bách Nhật trở nên lấp lánh như có nước mắt, hai bông hoa cùng ông mặt trời trên cao lung linh trong đôi mắt nó. Nếu một ai đó hoàn chỉnh được bức vẽ dở dang thì người đó có tâm linh tương thông với nó, là người mà nó luôn chờ đợi, là người mà nó luôn đi tìm, và ngày hôm nay, nó đã tìm ra người ấy, người ấy đã hoàn chỉnh bức vẽ của nó, người ấy là Ưu Phong.

Bách Nhật ngước nhìn Ưu Phong, vẻ lạnh lùng trên gương mặt biến mất, đôi má nó phơn phớt hồng, ánh mắt long lanh đằm thắm, cánh môi hồng hé mở, ngập ngừng, tựa như vẫn còn ngỡ ngàng vì những gì vừa mới phát hiện ra. Ưu Phong có hiểu ý nghĩa của bức tranh ấy không, hay chỉ nhất thời quẹt lên như thế. Anh có biết bức tranh đó rất quan trọng đối với nó, anh có biết bức tranh đó sẽ tìm ra ai là người nó yêu thương, là người nó trân trọng, quý mến. Anh có biết điều đó không?

Bách Nhật bồi hồi, nó cảm thấy trong lòng nôn nao lạ thường. Tay nó run nhẹ, đôi mắt lấp lánh muôn ngàn tia nắng. Ưu Phong đang đứng trước mặt nó tươi cười, tà áo trắng như một áng mây giăng ngang bầu trời. Cuối cùng nó cũng đã tìm được người nó muốn tìm, cuối cùng nó cũng đã tìm được người nó yêu thương nhất. Đã tìm được rồi, đã thấy được rồi, chuyện tiếp theo nó sẽ phải làm gì đây? Bách Nhật không biết, thật sự không biết. Mọi chuyện đến với nó bất ngờ quá, đột ngột quá, nó vẫn chưa thể nào chấp nhận và tin được. Nó phải làm sao đây, nó phải làm sao để có thể đuổi theo gió được đây...

oOo

Gia Định về đêm vô cùng mát mẻ, cái nắng hanh hao đã nhường chỗ lại cho những cơn gió đêm yên bình thổi từ mặt sông, quấn quýt theo những chiếc lá xanh. Ngọc Uyển đứng tựa lưng vào một thân cây cổ thụ, mắt nhìn ra hướng bờ sông lộng gió. Trưa hôm nay gã thanh niên ấy đột ngột đến gặp cô, bảo tối nay có chuyện muốn nói. Đó cụ thể là chuyện gì thì cô chưa thể biết, nhưng cô tin rằng chuyện mà gã muốn nói, chỉ có thể là vấn đề một mạng đổi một mạng mà thôi.

- Ngọc Uyển, chúng tôi tới rồi đây!

Đang chìm trong suy nghĩ, Ngọc Uyển nhíu mày khi giọng nói quen thuộc vang lên. Từ đằng xa, Ưu Phong, Anh Tú, Ngọc Vũ cùng Bách Nhật đi tới. Dù biết tối nay Anh Tú hẹn mình, nhưng cô cũng không nghĩ là có tới những ba người đoạn hậu ở phía sau, trong đó lại còn là Ưu Phong, bằng hữu thân thiết của Hoàng huynh cô. Ngọc Uyển nhướng mày, lòng tự hỏi, gã thanh niên này làm sao quen biết được cung chủ Tử Phụng cung chứ.

Trong khi Ngọc Uyển còn đang suy nghĩ thì Anh Tú đã đứng trước mặt Ngọc Uyển. Tối nay, anh sẽ nói rõ ràng hết mọi chuyện với cô, và bằng mọi giá cùng Bách Nhật rời khỏi Gia Định đến Quy Nhơn gặp Linh Lan. Đôi mắt Anh Tú như có ánh lửa chiếu soi, anh nhìn thẳng vào mắt Ngọc Uyển, trầm giọng.

- Ngọc Uyển, tối nay hẹn cô ra đây là vì tôi muốn nói với cô một chuyện. Đó là...

- Là ngươi sẽ rời khỏi Gia Định chứ gì.

Anh Tú chưa kịp nói hết lời đã bị Ngọc Uyển đoán trúng, làm anh há miệng đã bị mắc quai, giờ không sao ngậm lại được. Cười nhạt vì tình trạng của Anh Tú, Ngọc Uyển nói luôn.

- Ngươi đúng là đồ vong ân bội nghĩa. Ngươi đã giao ước với ta thế nào? Nay ta thực hiện lời hứa rồi mà ngươi muốn gạt bỏ hết hay sao?

- Hắn ta đã hứa gì với cô thì ta thay mặt hắn trả lại. Mong cô rộng lòng để bọn ta rời khỏi Gia Định, thế thôi.

Không để Anh Tú trả lời, Ngọc Vũ đã vọt miệng đáp thay anh. Ánh mắt cô sắc bén, đầy quyết liệt khi nhìn vào mắt Ngọc Uyển. Chẳng mảy may động tâm vì ánh mắt kiên quyết ấy, Ngọc Uyển thờ ơ đáp lời.

- Ngươi có phải hắn ta đâu mà đòi trả. Ngươi có muốn biết hắn ta đã giao ước gì với ta không. Đó là dùng mạng hắn để đổi lấy mạng ngươi, một mạng đền một mạng. Ta đã tìm thầy lang cứu chữa ngươi thì hắn cũng nên thực hiện đúng giao ước đó chứ.

Anh Tú tính ngăn không cho Ngọc Uyển nói hết nhưng đã quá muộn. Vừa nghe xong những lời Ngọc Uyển nói, Ngọc Vũ nhìn trân trân vào mặt Anh Tú. Đôi đồng tử của cô như đông lại, bàn tay nắm chặt, bờ môi mềm mại hé mở như muốn nói mà chẳng thể thốt ra lời nào. Tại sao? Tại sao hắn ta lại đồng ý giao ước đó với Ngọc Uyển? Tại sao lại lấy mạng hắn đổi cho mạng cô? Cô với hắn không phải bạn bè, huynh muội hay có tình ý gì với nhau. Cô và hắn đơn giản là quan hệ chủ nhân và tôi tớ, mà quan hệ chủ tớ giữa hai người cũng không đủ tốt đẹp để hắn phải trung thành, vì cô mà bỏ mạng. Nếu cô chết đi thì hắn sẽ được giải thoát khỏi gông cùm, phải cảm thấy thoải mái hơn mới phải chứ. Hắn tưởng rằng hắn làm thế là cô sẽ cám ơn hắn ta sao, sẽ cảm kích hắn ta sao. Tự tiện dùng tính mạng của hắn để đổi lấy mạng cô mà chưa có sự cho phép của cô, hắn ta xem cô là gì chứ?!

- Ngọc Uyển, giao ước của chúng ta là cô cứu Ngọc Vũ, mạng sống của tôi sẽ thuộc về cô. Cô đã thực hiện lời hứa của mình, tôi cũng đã uống viên thuốc đoạt mạng cô đưa. Giờ đây tôi muốn rời khỏi Gia Định chứ không hề cầu xin cô thuốc giải, cầu xin cô trả lại tính mạng, vốn đã thuộc về cô, cho tôi. Giữa chúng ta đã sòng phẳng, tôi cũng đã thực hiện phần giao ước của mình, hà cớ gì cô lại bảo tôi bội tín, vọng ân bội nghĩa chứ.

Anh Tú thở dài rồi nhìn thẳng vào Ngọc Uyển, bình tĩnh đáp lời, từng câu từng chữ đều nhã nhặn, vừa đủ, không đả kích, cũng không khiêu khích Ngọc Uyển. Đăm đăm nhìn sự kiên quyết thể hiện trên gương mặt cũng như trong lời nói của Anh Tú, nụ cười có phần chế giễu, đắc thắng của Ngọc Uyển tắt ngấm.

Trong khi Ngọc Vũ đang thừ người ra, Ngọc Uyển chưa kịp phản ứng lại lời Anh Tú thì Ưu Phong nhẹ nhàng lên tiếng.

- Ngọc Uyển, cô là tiểu muội của Nguyễn Ánh, cậu ấy lại là bạn thân của tôi nên tôi không muốn gây khó cho cô, và cũng mong cô không gây khó mà để chúng tôi đi.

Vì Ưu Phong là bạn thân của Hoàng huynh, hơn nữa lại là cung chủ Tử Phụng cung, danh tiếng không phải ít, một khi anh đã mở lời, Ngọc Uyển không thể không có chút nể mặt. Ngọc Uyển liếc mắt nhìn Ngọc Vũ, cô gái này đi hay ở cô không quan tâm, nhưng còn vị nữ y đang đứng bên cạnh Ưu Phong là của thầy lang riêng của ngũ Hoàng huynh Phúc Điển, cô ta cũng rất có ích cho quân Nguyễn vào thời điểm này, để cô ta đi thế cô thật sự không muốn chút nào.

- Cung chủ nói phải lắm. Tôi cũng hy vọng người sẽ không làm khó tôi. Cô gái kia người muốn sao cũng được, nhưng cho hỏi cô gái này có quan hệ thế nào với người?

Ưu Phong đưa mắt nhìn Bách Nhật, vừa hay nó lại đưa mắt nhìn anh. Trong phút chốc, khi hai ánh nhìn gặp nhau, Ưu Phong nhíu mày khi anh có cảm giác rằng người con gái ấy đang nhìn anh bằng ánh mắt vô cùng trìu mến và dịu dàng. Chuyện gì đã xảy ra, mới trước đây thôi người con gái ấy còn vô cùng hờ hững, lạnh lùng với anh kia mà.

- Cô muốn nói đến Bách Nhật, cô ấy là... - Nói đến đây, Ưu Phong ngừng lại, anh lại lướt mắt về phía Bách Nhật, rồi sau đó tiếp lời - Là tiểu hiền thê của tôi.

Lời Ưu Phong vừa dứt, tức thì có hai tiếng "hả" cùng lúc vang lên, một là của Anh Tú, một là của Ngọc Vũ. Nghe Ưu Phong thốt ra ba chữ "tiểu hiền thê", Bách Nhật mở to mắt. Nó cũng ngỡ ngàng như Anh Tú và Ngọc Vũ, nhưng trái ngược với bản tính, biểu hiện của nó chẳng tỏ vẻ gì là nổi giận hay khó chịu. Bách Nhật cúi đầu để che giấu vẻ thẹn thùng, hai bàn tay nó đan vào nhau bối rối. Một sự ngọt ngào kỳ lạ từ từ trỗi lên, lan tỏa khắp ngõ ngách trong tâm hồn nó, như dòng nước nhỏ thấm sâu vào lòng đất, khiến nó cảm thấy bồng bềnh như trên một đám mây.

Trông thấy những biểu hiện khác lạ đó, Anh Tú vô cùng kinh ngạc. Trong nhóm, Bách Nhật là một người nghiêm túc, có chừng mực, ngay cả nhóm tứ quỷ hay quậy trong lớp của tụi anh cũng không trêu chọc Bách Nhật bao giờ. Cho dù những lời Ưu Phong vừa nói có là vì tình thế cấp bách đi nữa, nhưng nói dối như thế thì Bách Nhật sẽ phản ứng ngay, dù là không phá hỏng màn kịch đi nữa nhưng cũng sẽ tỏ rõ thái độ. Nhưng đằng này Bách Nhật lại chẳng phản ứng gì, đã thế đôi mắt còn long lanh, gương mặt lại ửng hồng, hai tay bối rối mân mê tà áo, chẳng lẽ... chẳng lẽ Bách Nhật và Ưu Phong thật sự... rồi sao...?

- Cô gái này là thê tử của người? Tại sao tôi không nghe ai nói đến chuyện này? - Nghe Ưu Phong bảo Bách Nhật là tiểu hiền thê, Ngọc Uyển hỏi giọng nghi hoặc. Cung chủ Tử Phụng cung xưa nay đi đâu cũng có mỹ nhân, lẽ nào lại để mắt đến cô gái bình thường, không xinh đẹp như thế này.

- Cô chưa nghe ai nói cô ấy là tiểu hiền thê của tôi, nhưng chắc đã nghe không ít về chuyện giang hồ đồn đãi tôi lấy vợ chứ. Nhắc đến chuyện này bản thân tôi cũng thấy có lỗi. Tôi và cô ấy mới thành thân chưa được bao lâu, cô cũng biết biệt danh đạo hoa vương của tôi rồi đấy. Được tin tôi đã có thê tử, các cô gái lần lượt kéo đến làm phiền với ý định xem thử dung mạo thê tử tôi thế nào. Vì không muốn thê tử tôi gặp phiền phức hay thấy khó chịu, tôi đã bí mật đưa cô ấy đến nơi khác để sắp xếp hết mọi chuyện rồi mới đón cô ấy trở về. Chẳng ngờ khi đến Gia Định, tôi và cô ấy lạc mất nhau, nay tìm thấy cô ấy trong doanh trại của quân Nguyễn, tôi thật mừng không để đâu cho hết. Nay phu thê chúng tôi đã đoàn tụ, tôi muốn đưa cô ấy rời khỏi Gia Định để bù đắp những ngày tháng vất vả vừa qua của cô ấy. Ngọc Uyển, cô cũng là nữ nhi, thế nên tôi mong rằng cô hãy hiểu cho chúng tôi.

Ưu Phong vừa nói, vừa kéo Bách Nhật về phía mình. Rõ ràng dư âm cái... tát đau điếng khi cả hai gặp nhau lần đầu tiên của Bách Nhật vẫn còn trong tâm trí anh, nên anh vừa nắm tay Bách Nhật, vừa nhấp nháy cho nó biết rằng đây chỉ là một vở kịch tạm thời. Không biết Bách Nhật có hiểu được ám hiệu của anh hay không mà bước chân của nó nửa chậm chạp như muốn trì hoãn, nữa lại tiến nhanh như muốn đến bên cạnh anh. Nắm bàn tay mềm mại của Bách Nhật, Ưu Phong cảm thấy bàn tay ấy nhẹ run rẩy. Anh nhíu mày nhìn nó, và rồi lặng yên khi đôi mắt xám tro in bóng hình của anh, trong trẻo như mặt nước mùa thu.

Ngọc Uyển đưa mắt nhìn Bách Nhật, ánh mắt cô tỏ vẻ nghi ngờ nhưng không tiện phản bác. Ưu Phong đã nói đó là vợ của anh, và cô gái kia xem ra rất quyến luyến phu quân mình, thế nên châu về hợp phố cũng là điều dễ hiểu, cô có thể để họ đi. Nhưng ai cũng có thể đi, còn gã thanh niên kia thì không. Hắn đã một mạng đổi một mạng với cô, sống hay chết thì hắn ta không thể đi, có nói thế nào thì cô cũng không thể đồng ý được, trừ phi.... Nghĩ đến đó, trong đầu Ngọc Uyển chợt lóe lên một tia sáng, cô mỉm cười, hướng về phía Anh Tú, rồi buông lời.

- Còn ngươi, thật sự muốn đi khỏi đây sao?

Giọng nói Ngọc Uyển êm dịu tựa mật ngọt, nhưng đằng sau vẽ mỹ miều xinh tươi ấy bao giờ cũng tiềm ẩn một thứ chất độc chết người. Nếu bình thường thì Anh Tú đã cân nhắc kỹ câu hỏi của Ngọc Uyển rồi mới trả lời, thế nhưng tin tức về Linh Lan đã đánh tan mọi lo lắng của anh. Bây giờ anh chỉ mong mau chóng bay đến Quy Nhơn để đoàn tụ cùng em gái nên chẳng còn lòng dạ nào phân tích thiệt hơn cùng Ngọc Uyển. Nhìn sâu vào mắt cô, Anh Tú kiên quyết nhấn mạnh câu trả lời.

- Phải!

- Dù bất chấp tính mạng? - Ngọc Uyển nhướng mày.

- Không sai - Anh Tú gật đầu chắc chắn.

- Ngươi hãy nghĩ cho kỹ, suy cho kỹ. Chẳng lẽ ngươi đã quên những gì ta nói về tử hồn đan với ngươi rồi sao?

Tử hồn đan, đôi mắt đẹp của Ngọc Uyển lóe sáng khi nhắc đến cái tên này. Phàm người nào uống nó vào cũng đều rước lấy cái chết chậm chạp nhất, đau đớn nhất. Anh Tú đã uống tử hồn đan của cô, nếu không có thuốc giải của cô thì hắn cầm chắc mười mươi cái chết kinh khủng nhất trong tay. Ngoài cô ra trên đời này chỉ có một người có khả năng cứu hắn, nhưng hắn là ai chứ, hắn là ai mà nuôi hy vọng có may mắn gặp được người đó. Nhướng mày nhìn nụ cười ngọt ngào đầy tự tin của Ngọc Uyển, Anh Tú cười nhạt và trầm giọng.

- Tôi không bao giờ quên!

- Vậy ngươi cũng không quên cái chết đi kèm theo nó chứ.

- Làm sao mà tôi quên được!

- Tốt! Thế ngươi vẫn muốn rời khỏi Gia Định hay sao?

- Chưa bao giờ mong muốn như lúc này.

Anh Tú cao giọng đáp lại lời Ngọc Uyển. Từng câu từng chữ của anh đều chậm rãi, nhưng lại nhấn mạnh, để thể hiện quyết tâm đi khỏi Gia Định, mặc cho sống chết của mình đang nằm trong tay cô. Sự can trường, quyết liệt tên gương mặt Anh Tú lúc này chẳng khác nào lời thách thức đối với Ngọc Uyển, đánh thẳng vào lòng tin có thể dùng mạng sống khống chế anh của cô. Ngọc Uyển nhướng mày, nụ cười biến mất, ánh mắt nhìn Anh Tú có phần kinh ngạc và đôi chút khó chịu. Hắn hoặc là đang thách thức cô, hoặc là muốn chết nên mới đòi đi khỏi Gia Định bất chấp hậu quả cô đã nói như thế.

Được, Ngọc Uyển gật gù. Hắn muốn đi, cô không ngăn cản nữa, nhưng xưa nay người có thể giải được tử hồn đan chỉ có cô. Bây giờ độc tính chưa phát tác nên hắn mới có thể hùng hồn mạnh miệng như thế, nhưng để xem đến khi đối mắt với cái chết đau đớn nhất, thê thảm nhất, hắn ta có chịu quay về đây để cầu xin cô hay không. Ngọc Uyển nghĩ thầm, cô nhếch môi cười nhạt. Để cho hắn rời khỏi Gia Định cô cũng không mất mát gì, nhưng để hắn ta cùng cô gái này rời khỏi đây dễ dàng quá, thì lòng kiêu hãnh của cô không cho phép.

Nghĩ đến đó, Ngọc Uyển ung dung quan sát từ đầu tới chân Anh Tú như thể đang tính toán, ước lượng gì đó. Cô nhướng mắt nhìn Anh Tú, bàn tay giơ ra, chạm vào cằm anh rồi vuốt nhẹ xuống cổ khiến Anh Tú sửng sốt, trong khi Ngọc Vũ trố mắt ra vì không ngờ cô gái này lại bạo dạn đến như thế.

- Nè! Cô làm gì vậy, không được chạm vào hắn ta.

Ngọc Vũ nắm tay lại thành quyền và tung vào gương mặt xinh đẹp của Ngọc Uyển. Khẽ lách người qua một bên, đôi môi đỏ tươi của Ngọc Uyển hé mở hình thành một nụ cười chế nhạo khiến Ngọc Vũ nóng bừng mặt vì giận. Sau khi né được cú đánh của Ngọc Vũ, Ngọc Uyển lướt mắt nhìn Anh Tú, cô cất cao giọng, trong giọng nói như có tiếng cười.

- Được! Ngươi đã muốn đi ta cũng không ép, nhưng sau khi trả nợ cho ta đã.

Cùng lúc với lời nói, Ngọc Uyển lao về phía Anh Tú, thanh trủy thủ không biết từ khi nào đã nằm trong tay cô, sáng loáng và đâm thẳng vào ngực anh. Vì khoảng cách cả hai quá gần, lại thêm không ai lường trước Ngọc Uyển sẽ bất ngờ hành động như thế, nên chẳng ai kịp phản ứng. Đến khi mọi người định thần lại thì tất cả mọi chuyện đã xong xuôi. Một thanh trủy thủ sáng lóa cắm vào ngực Anh Tú, gương mặt anh như đông lại vì vẫn chưa hiểu chyện gì đã xảy đến cho mình. Cảm nhận dòng máu nóng thấm qua kẽ tay, tuôn ra từ vết thương, Anh Tú cảm thấy cả người anh như bị xé toạt ra, từng khớp xương trong người căng cứng, và rồi gãy vụn, gãy vụn. Anh Tú lờ mờ nhìn thấy gương mặt đắc thắng, nhuốm vẻ tàn độc của Ngọc Uyển đang mỉm cười, hình như Ngọc Vũ và Bách Nhật đang thất thanh gọi tên anh, và hình như anh nghe đâu đây tiếng Linh Lan vọng về, thật xa xôi...

Anh Tú!!

99.

*Flash back*

- Anh Tú! Đây là em gái của con, tên em ấy là Linh Lan!

Vào một ngày mưa phùn lất phất, người cha yêu quý chợt dẫn một bé gái có đôi má phúng phính, đôi mắt to đen như nhung về nhà. Cậu bé lặng yên nhìn sinh linh nhỏ bé trước mặt, ánh mắt cậu hết dừng ở cô bé rồi lại nhìn chiếc băng đen nhỏ xíu đính trên ngực cha. Mẹ cậu mất đã được hai năm, và thêm một năm nữa cậu mới mãn tang bà. Và hôm nay là ngày cậu chào đón thêm thành viên mới trong nhà, một cô bé, một đứa con khác của cha...

Con rất vui

Nhưng ba à...

... Nếu đó là em gái của mẹ con sinh ra thì hay biết mấy...

*End flash back*

Anh Tú chậm chạp mở mắt.

Dường như anh đã có một giấc ngủ thật dài nên khi mở mắt ra anh nhất thời vẫn chưa khôi phục được thị giác. Bóng tối lờ mờ, nhòe nhoẹt trước mặt anh. Lâu thật lâu, những đường viền nhòe nhoẹt đó dần tụ lại thành một gương mặt. Gương mặt ấy trong suốt, chập chờn, với những giọt lệ chưa khô, và hình như một trong số những giọt lệ ấy đã rơi trên mặt anh, ấm nồng.

Ai đang khóc? Ta đang ở đâu đây?

- Anh Tú! Hay quá, cuối cùng ngươi cũng đã tỉnh lại rồi...

Một giọng nói cất lên, run rẩy, nghe như vỡ òa. Giọng nói trong trẻo ấy rất quen thuộc. Tại sao anh lại nằm đây, tại sao anh không thể động đậy, tại sao anh lại nghe thấy từng khớp xương trong người như đã di chuyển sai vị trí, và tại sao anh lại nghe thấy tiếng sóng biển thì thầm như đang thở than.

- Anh Tú, ông không sao chứ? Ông cảm thấy không khỏe chỗ nào thì nói cho tôi biết. Ông đã hôn mê nhiều ngày rồi đó.

Lại một giọng nói quen thuộc cất lên, giọng nói nhẹ nhàng đó đã đánh thức mọi giác quan trong người Anh Tú. Ký ức như một cuộn phim quay chậm trong đầu. Đêm Gia Định không trăng. Nụ cười Ngọc Uyển ánh lên vẻ hoang dã, tàn độc dòng máu nóng từ ngực anh tuôn ra, thấm qua kẽ tay. Rồi sau đó, tất cả chỉ là một màn đêm đen kịt, đến khi tỉnh dậy thì anh đã thấy mình nằm trong ánh đèn dầu tù mù từ trên bàn tỏa ra.

Anh Tú chớp mắt, trí nhớ đã trở về. Anh chống tay, cố gắng ngồi dậy nhưng cả thân người như bị cột chặt vào một tảng đá, không sao nhấc lên được. Một bàn tay mềm mại đặt lên vai Anh Tú, ấn nhẹ anh nằm xuống, giọng nói nhẹ nhàng lại tiếp tục cất lên.

- Đừng cử động, ông hãy nằm yên nghỉ ngơi cho vết thương hồi phục. Tuy tính mạng đã an toàn nhưng ông vẫn còn yếu lắm, cần phải được bồi bổ nhiều.

Bây giờ, khi các giác quan đã được hồi phục trở lại, Anh Tú nhận ra người vừa lên tiếng là Bách Nhật, cô bạn thân lâu năm của anh. Dưới ánh đèn dầu leo lét, khuôn mặt dịu dàng của Bách Nhật chập chờn trong bóng tối, những tia sáng mỏng soi lên đôi má bầu bĩnh. Dưới đôi mắt xám tro kiên nghị xuất hiện hai quầng thâm rõ rệt. Có lẽ mấy ngày qua Bách Nhật đã phải thức đêm để trông nom, chăm sóc cho Anh Tú, điều đó làm anh cảm thấy áy náy, nhưng đồng thời lại thầm cám ơn Bách Nhật đã có mặt ở đây, bên cạnh anh. Nếu như tỉnh lại mà thấy mình đang ở một nơi xa lạ, cùng với những gương mặt xa lạ, thì tâm trạng của anh chắc chắn sẽ không bình yên như bây giờ.

- Anh Tú, ngươi cảm thấy thế nào? Có còn đau nữa hay không?

Đã nhận ra Bách Nhật, tất nhiên Anh Tú cũng nhận ra cái giọng trong trẻo thấp thỏm vừa cất lên là của Ngọc Vũ. Đưa mắt nhìn cô, Anh Tú lắc đầu một cách yếu ớt. Nhìn bộ dạng thảm thương của Anh Tú, đôi mắt Ngọc Vũ lại long lanh nước vì lo lắng.

Ngay khi Anh Tú vừa bị Ngọc Uyển đâm, bất chấp còn đang ở trong lòng địch, Ngọc Vũ rút kiếm ra để quyết chiến với Ngọc Uyển. Nhanh tay ngăn cản Ngọc Vũ, Ưu Phong quét mắt qua gương mặt đắc thắng của Ngọc Uyển, mày kiếm nhíu lại vì biết Ngọc Vũ làm thế chẳng được ích gì. Trước sự uất ức của Ngọc Vũ, Ưu Phong mang cả ba rời khỏi Gia Định ngay trong đêm ấy, tìm một chỗ trú để chữa trị vết thương cho Anh Tú kịp thời.

Nhờ Bách Nhật và Ngọc Vũ tận tình chăm sóc, lại thêm thuốc thang mà Bách Nhật đã đem theo trước đó, vết thương do Ngọc Uyển gây ra đã được sơ cứu kịp lúc, không còn nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng ngặt nỗi vì mất máu quá nhiều, Anh Tú rơi vào tính trạng nữa tỉnh nửa mê suốt nhiều ngày liền, khiến ai nấy đều cảm thấy lo lắng. Nay nhìn thấy anh tỉnh lại, cả Bách Nhật và Ngọc Vũ đều thở phào nhẹ nhõm. Bách Nhật lại tiếp tục nấu thuốc cho Anh Tú, và Ngọc Vũ trở thành người bón thuốc cho anh như vài hôm trước Anh Tú đã làm.

Lần đầu tiên chăm sóc cho người khác, Ngọc Vũ rất lúng túng. Trước nay cô chỉ quen được người khác chăm sóc chứ chưa có trường hợp ngược lại bao giờ. Về phần Anh tú, nhìn Ngọc Vũ vụng về bón từng muỗng thuốc, lại cuống quýt khi thuốc rơi ra ngoài áo, Anh Tú vừa buồn cười lại vừa cảm động. Cô nàng công chúa này ít ra cũng biết quan tâm đến người khác chứ không còn ích kỷ, chỉ biết đến thân như lúc ban đầu gặp mặt. Xem ra chuyến đi Gia Định lần này không vô ích, Ngọc Vũ đã có thay đổi, và quan trọng hơn là anh đã tìm thấy Linh Lan.

Anh Tú tựa lưng vào tường, hồi tưởng lại tất cả mọi chuyện. Ngày hôm đó, Ưu Phong đã bảo Ngọc Vũ và Bách Nhật ra ngoài, chỉ còn lại hai người đàn ông trong căn nhà lá để dễ nói chuyện. Những tưởng sẽ tiếp tục nghe truy hỏi về giao ước của Ngọc Uyển, nhưng Anh Tú còn chưa kịp nói gì thì Ưu Phong đã lên tiếng, giọng nhẹ thênh.

- Có phải Ngọc Uyển đã ra giao ước một mạng đổi một mạng không?

Chẳng cần vòng vo tam quốc, Ưu Phong nói luôn vào vấn đề chính. Lời anh vừa thốt ra đã làm Anh Tú giật mình vì không ngờ anh lại biết rõ như người trong cuộc vậy. Nhìn Ưu Phong, An Tú ngơ ngẩn, lòng nghi hoặc chẳng lẽ Ngọc Uyển đã nói hết cho người này nghe rồi sao.

- Đừng nhìn tôi như thế, tất cả chỉ là do tôi phỏng đoán mà thôi. Nhưng căn cứ vào những biểu cảm trên mặt cậu, nghĩa là tôi đã nói đúng?

- Sao...sao anh biết?

- Chuyện đó có gì khó. Tôi đã có lần tiếp xúc với Ngọc Uyển nên thừa biết tính cách của con bé. Tính cách của Ngọc Uyển rất tự lập và khá bàng quan đối với chuyện của người ngoài. Sẽ không có chuyện con bé giúp không công cho ai, bao giờ cái giá của họ cũng tương xứng với điều kiện nó đặt ra. Cậu và em gái tôi là người xa lạ với Ngọc Uyển, nhưng nó lại chịu cứu em gái tôi, trừ phi nó đã đổi được thứ gì đó tương xứng từ cậu, bằng không thì sẽ không bao giờ ra tay cứu cả hai. Tôi đoán cái giá của cậu khi chấp nhận lời đề nghị của Ngọc Uyển là một mạng sống. Dùng mạng của cậu để đổi lấy mạng của Ngọc Vũ, đó cũng là cá tính của Ngọc Uyển nên tôi không lấy làm lạ. Cậu trước sau không chịu nói ra giao ước, có phải sợ Ngọc Vũ sẽ hành động nông nổi, không về Bắc hà, hay sợ dù có đi được thì tính mạng vẫn sẽ không đảm bảo bởi vì đã trót nuốt viên thuốc độc của Ngọc Uyển phải không?

Ưu Phong càng nói, Anh Tú càng toát mồ hôi hột, đến khi anh nói xong thì Anh Tú ngơ ngẩn, mãi chẳng thể thốt ra tiếng nào như bị ai điểm huyệt. Trước đây, Anh Tú chỉ đơn thuần nghĩ Ưu Phong là người đào hoa, là cung chủ tử phụng cung chắc bản lĩnh cũng không ít, nhưng đến khi tận mắt chứng kiến thì mới vỡ lẽ ra Ưu Phong quả là một người khó đoán. Qua lời kể của Ngọc Vũ mà anh đã có thể nói chính xác đến như thế, câu nào câu nấy đánh trúng vào tâm lý Anh Tú, khiến Anh Tú thán phục con người ung dung, điềm đạm trước mặt mình. Quả là cung chủ uy chấn giang hồ có khác, mới chỉ bằng lời lẽ thôi đã làm người khác nể phục, nếu giở võ học ra thì không biết siêu quần đến mức nào.

Trước sự ngơ ngẩn của Anh Tú, Ưu Phong bật cười. Anh nheo mắt, hạ giọng đủ để Anh Tú nghe thấy.

- Cậu nghe đây! Thuốc giải độc trong người cậu tôi không có, nhưng tôi biết người có thể giải độc cho cậu hiện đang ở đâu?

- Sao? Có người có thể giải được loại độc này sao? Anh không đùa đấy chứ?

Nghe Ưu Phong bảo chất độc trong người nó có thể giải được, Anh Tú la lớn. Đáp lại câu hỏi của anh chỉ là một cái nhướng mày của Ưu Phong, và Anh Tú nghiễm nhiên cho rằng đó là câu trả lời. Cung chủ tử phụng cung có khác, ngay cả cái nhướng mày cũng có trọng lượng, quả là trời phật thương kẻ hiền lành nên mới cho Ưu Phong đến cứu anh, nếu không e cả đời anh phải trở thành đồ chơi trong tay Ngọc Uyển mất thôi.

Theo lời Ưu Phong, Anh Tú đã có tự tin, an tâm rời khỏi nơi này mà không cần phải thấp thỏm. Anh hẹn gặp Ngọc Uyển, nói ra ý định sẽ rời khỏi đây, nhưng nào có ai ngờ, kết quả là đã bị Ngọc Uyển cho một dao nằm ngắc ngoải mấy ngày trời trên giường. Không thể di chuyển ngay vì sợ vết thương lại chảy máu, càng không thể xuất hiện trước mặt Linh Lan với bộ dạng thê thảm thế này, Anh Tú ở lại Gia Định ít lâu để dưỡng thương, rồi sau đó mới trở về Quy Nhơn để tìm gặp Linh Lan. Dù luôn chê bai anh đủ điều, nhưng hơn ai hết, Anh Tú hiểu rõ Linh Lan rất thương mình. Hai anh em đi đâu cũng có nhau, nay trở về quá khứ mỗi người một nơi. Bằng mọi giá anh phải chiến thắng vết thương trên người, phải chiến thắng bệnh tật để xuất hiện trước mặt Linh Lan một cách lành lặn nhất, để Linh Lan không phải lo lắng cho anh như anh đã lo lắng cho nó.

Nhắc đến Linh Lan, Anh Tú lại nghĩ đến giấc mơ đó. Giấc mơ đã từ rất lâu, khi anh còn là một cậu bé. Gia đình anh chỉ có bốn người, mẹ đã qua đời, anh và Linh Lan lại bị trở về quá khứ, chỉ còn lại một mình cha anh ở lại hiện tại. Cha anh bây giờ thế nào, ông có khỏe không, mái đầu có thêm bạc và gạt tàn thuốc có được ai đổ bớt không, có biết rằng hai đứa con của ông đang mắc kẹt ở quá khứ và ngày ngày đều nhớ đến ông hay không.

Anh Tú thở dài. Ở quá khứ này, anh chỉ có thể làm yên lòng cha mình bằng cách chăm sóc Linh Lan thật chu đáo, đồng thời tìm cách đưa hai anh em quay trở về hiện tại. Dù không nói ra, nhưng Anh Tú biết cha thương nhất là Linh Lan, ông luôn chăm sóc con bé một cách cẩn thận, ngay cả khi lớn lên, dù hình thức chăm sóc của ông chuyển sang thầm lặng, không thể hiện trực tiếp ra như trước đây.

Cha anh thương yêu Linh Lan, và Anh Tú cũng thế, anh cũng rất thương Linh Lan. Mỗi lần nhìn vào đôi mắt đen như bầu trời đêm đó, anh luôn cảm thấy một khoảng trống mơ hồ trong tâm hồn con bé. Mất mẹ ngay lúc còn nhỏ, Linh Lan trưởng thành với tình yêu của cha và anh, con bé có một cá tính kiên nghị và luôn có một sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong đôi mắt đen ấy, cái sức sống đã cứu Anh Tú khi anh đang đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Nhờ nhìn thấy Linh Lan trong giấc mơ, nhìn thấy sức sống trong đôi mắt con bé mà anh đã có thêm nghị lực và ý chí sinh tồn. Nhờ có nó, Anh Tú mới có thể thoát khỏi bóng tối, anh có thể vùng dậy và mở mắt ra, để lắng nghe hơi thở và tiếng mạch đập nhè nhẹ của mình.

Anh vẫn sống!

Cám ơn em, Linh Lan!!

oOo

Sau bao ngày lênh đênh trên biển, cuối cùng Anh Tú cũng đã đặt chân trở lại Quy Nhơn. Cảng Thị Nại ở Quy Nhơn tấp nập không kém gì Kẻ chợ và phố Hiến. Các thương buôn người Hoa đi tàu thuyền vào các cửa biển như Cửa Thử, Đề Di, Hà Ra, Kim Bồng... rồi tỏa vào cư trú ở Nước Mặn, Phú Đa, Đập Đá...Nhà cửa ở các cảng là nhà trệt san sát nhau, cửa hiệu gắn liền với nhà ở. Anh Tú đã để ý một căn nhà của người Minh hương thì thấy, nhà người Minh hương có nhiều phòng, phòng ngoài để trưng bày hàng hóa, nối tiếp với các phòng trong để ở. Còn người Việt thì cửa hiệu ở mặt đường, còn nhà lại ở trong làng. Các cô gái Việt lấy chồng Hoa thì ăn mặc theo bên chồng, nhưng ngay cả các cô gái ở cảng thị, thích cái lạ, cũng mặc quần, áo cài khuy một bên. Sự giao thoa văn hóa phong phú ở đây làm Anh Tú nửa lạ lẫm nửa bâng khuâng. Anh lạ lẫm vì chứng kiến sự giao thương phát triển ở Quy Nhơn, bâng khuâng vì nhớ đến chiếc áo yếm đỏ thắm và bộ áo tứ thân mềm mại đã nhìn quen mắt ở Bắc hà.

Từ cảng Thị Nại, cả bọn lại tiếp tục ngồi xe ngựa để đến thôn Xuân Hòa, nơi Linh Lan đang ở. Qua lời kể của Bách Nhật, Anh Tú vô cùng cảm kích Bùi gia vì đã nhận Linh Lan làm con nuôi, cho con bé một nơi tá túc, tránh cảnh rày đây mai đó. Anh Tú bây giờ rất khỏe mạnh, vết thương cũ đã khép miệng, chỉ còn chờ liền da nữa là sẽ khỏi hoàn toàn. Tuy hiện tại anh ốm đi nhiều, không phong độ như xưa, nhưng có thể khỏe mạnh đứng trước mặt Linh Lan, âu đó cũng là điều may mắn lắm rồi. Lát nữa đây, chỉ lát nữa đây thôi hai anh em sẽ hội ngộ cùng nhau. Anh Tú nhất định sẽ buộc Linh Lan kể lại chi tiết tất cả sự việc đã xảy ra kể từ ngày hai anh em thất lạc. Chỉ nghĩ đến việc nhìn thấy gương mặt trái xoan ngạc nhiên mừng rỡ của em gái, nhìn thấy đôi mắt đen to tròn biết nói đó, là Anh Tú đã cảm thấy người hồi hộp và nôn nao lạ thường.

Nhìn nét mặt háo hức và bồn chồn của Anh Tú, Bách Nhật nhẹ mỉm cười. Nó rất hiểu nỗi lòng bây giờ của Anh Tú nhưng lại chẳng thể thốt ra một câu động viên nào, bởi lẽ nó cũng như bạn, cũng đang bồn chồn và nôn nao khi nghĩ hình vẽ dở dang đã được hoàn thành của mình.

Khẽ liếc nhìn Ưu Phong, trái tim Bách Nhật lại ngân nga những giai điệu ngọt ngào. Cuối cùng nó cũng đã tìm thấy người tâm linh tương thông với nó, thật may mắn làm sao khi người đó lại là Ưu Phong chứ không phải là một ai khác. Ý nghĩ đó vừa nhóm lên trong đầu, đôi má Bách Nhật đã ửng đỏ, một nụ cười bẽn lẽn nở trên bờ môi đào. Lúc trước vì có những rào cản, Bách Nhật đã trăm ngàn cách ngăn không cho mình nghĩ đến một ai đó, không cho tình cảm có cơ hội chen lấn lý trí, nhưng bây giờ, khi phát hiện ra người mà nó tìm kiếm không ai khác là Ưu Phong, Bách Nhật cứ để cho tình cảm tuôn trào như nước vỡ bờ. Không còn sự kèm cặp của lý trí, không còn sự dặn dò của con tim, không còn sự bảo vệ của khối óc, tình cảm của Bách Nhật như một mầm sống ngọ nguậy trong lòng đất, nay đột ngột thoát khỏi những xiềng xích ràng buộc, nhanh chóng vươn lên mặt đất, nở xòe những mầm xanh dưới ánh mặt trời.

Một thoáng mơ hồ đã trở nên sống động, một cái gì đó không tên nay đã được định hình và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Lúc gặp Ưu Phong lần đầu tiên, Bách Nhật đã cảm thấy đôi mắt mênh mông nhuốm ưu tư của anh rất lạ, thật lạ. Ở phủ Đoan Nam vương, hình ảnh những bông hoa đậu trên lưỡi kiếm vừa đẹp lại vừa lạnh lùng ấy đã làm Bách Nhật cảm thấy ngộp thở. Ở Hương sơn, sau những loạt thi tâm đầu ý hợp, Bách Nhật đã rất hy vọng Ưu Phong sẽ tìm ra nó trong hàng chục chiếc kiệu hoa phủ rèm che. Ở trong vòng tay anh đêm ấy, Bách Nhật cảm tưởng rằng, đây là giấc ngủ ngon nhất, sâu nhất của nó từ trước tới giờ.

Ngày đó, khi anh đột ngột ra đi không nói lời từ biệt, bỏ lại mình nó giữa con phố đông người qua lại, Bách Nhật đã cảm thấy hụt hẫng, vô cùng hụt hẫng. Con phố lạnh lẽo năm nào vẫn còn trong tâm trí nó, như một lời nhắc nhở rằng giữa anh và nó vẫn còn cách nhau xa lắm. Ký ức trong lòng Bách Nhật tràn về, làm đôi mắt xám tro long lanh như có nước mắt. Bách Nhật đã nhận ra sự khó chịu, thất vọng khi nghe tin từ Ngọc Vũ là gì, và nó cũng nhận ra niềm vui, niềm hy vọng khi gặp lại anh là gì. Chẳng phải nó đã thích Ưu Phong rồi hay sao, chẳng phải nó đã thích anh từ rất lâu, lâu lắm rồi hay sao...

Bách Nhật xiết chặt đôi tay đang nhẹ run. Một cô gái xưa nay luôn điềm tĩnh như nó lại mất kiểm soát với bản thân mình. Nhận ra được tình cảm của mình rồi thì sao? Đối mặt với nó, không tránh né nữa rồi thì sao? Gió vẫn muôn đời là gió, đến rồi đi như chưa bao giờ tồn tại. Khi gặp Linh Lan rồi thì mạnh ai sẽ đi đường nấy, Ưu Phong rồi sẽ trở về Tử phụng cung, còn nó lại tiếp tục ở trong Tây Sơn, làm thầy thuốc như từ trước tới nay vẫn thế.

Đột ngột, Bách Nhật mím chặt môi, đôi mắt xám tro vụt lấp lánh, thứ ánh sáng quyết tâm, kiên trì trong mục tiêu của mình. Không thể như thế được. Khó khăn lắm Bách Nhật mới tìm thấy và nhận ra Ưu Phong. Khó khăn lắm nó mới gặp được người mà nó tin sẽ mang lại hạnh phúc cho mình. Ưu Phong là hạnh phúc của nó. Hạnh phúc đang ở ngay trước mắt, thế nên bằng mọi cách nó phải nắm lấy, phải biết giữ lấy hạnh phúc cho riêng mình như lời mẹ nó vẫn thường hay nói. Bách nhật sẽ rời khỏi Tây Sơn, nó sẽ đi theo Ưu Phong.

Dù nó là một cô gái chân yếu tay mềm, không có võ nghệ, ở bên cạnh anh chắc chắn sẽ liên lụy đến anh, và trên hết, Ưu Phong có thể không muốn nó đi cùng, nhưng nó mặc kệ. Vì nó là Bách Nhật nên nó có cách. Nó có cách khiến Ưu Phong phải tình nguyện cho nó theo, nó có cách để Ưu Phong nhận ra rằng trên đời này chỉ có Bách Nhật là người duy nhất Ưu Phong không tìm thấy ở đâu khác. Hơn ai hết, nó hiểu bản thân mình muốn gì, thích gì và quyết tâm gì. Nó thích anh, nó thích Ưu Phong, nó muốn chăm sóc cho anh, muốn ở bên cạnh anh, muốn lấp đầy khoảng trống trong đôi mắt ưu tư đó và muốn anh hé mở quá khứ của anh cho riêng mình nó biết mà thôi...

Ngồi bên cạnh Ngọc Vũ, Ưu Phong vẫn yên lặng suốt từ Gia Định đến Quy Nhơn. Ánh mắt anh mông lung dõi theo đồng lúa vàng mênh mông bên ngoài, đôi mày kiếm hơi chau lại, suy tư, chẳng biết đang suy nghĩ những gì.

Xe ngựa bắt đầu đi chậm lại, đã đến thôn Xuân Hòa, Anh Tú nhấp nhỏm như đang ngồi trên ổ kiến lửa. Anh chui ra ngoài xe, ngồi bên cạnh bác xà ích, mắt nhìn ngắm những mái nhà tranh lô nhô sau lũy tre vàng. Thấy một chiếc xe ngựa từ xa đến, bọn trẻ tóc trái đào đang chơi trong làng liền ngoảnh theo hiếu kỳ. Theo lời người dân trong thôn chỉ dẫn, chiếc xe ngựa chậm chạp dừng lại trước một ngôi nhà ba gian khang trang rộng lớn. Nhìn hàng rào tre bao bọc khuôn viên rộng lớn, tim Anh Tú đập như trống dồn. Em gái anh đang sống ở đây sao, Linh Lan hiện đang có mặt trong ngôi nhà này sao? Nó có biết rằng anh đang đứng trước cổng không, có biết rằng anh đang nôn nóng muốn gặp mặt nó hay không?

Anh Tú nhảy phắt xuống xe, hai tay anh run run, chứng tỏ đang rất kích động. Nhác thấy khách lạ, ba con chó đang nằm thiu thiu dưới một gốc xoài liền phóng ra, sủa liên hồi để báo động cho người trong nhà. Có tiếng cửa cót két, có tiếng dép loạt xoạt, từ trong nhà một bóng người vội vàng tiến ra, miệng quát ba con chó không được làm kinh động khách đến. Xuất hiện trước mặt Anh Tú là một cụ già mặc áo dài thêu những cánh hoa rẽ quạt, mái tóc hoa râm búi thành củ tỏi cùng chòm râu trắng như cước, tạo cho cụ một vẻ phúc hậu, phương phi.

Nhìn Anh Tú đang đứng lóng ngóng trước cổng, cụ già nheo mắt lại, có lẽ đang tự hỏi chàng trai này là ai. Thấy Anh Tú lóng ngóng vì không biết phải mở lời như thế nào, Bách Nhật tiến tới, nó lễ phép chào cụ rồi nhẹ nhàng cất lời.

- Bác Lương, bác còn nhớ cháu không ạ?

Rời ánh mắt khỏi Anh Tú, một nụ cười hiền hòa nở trên gương mặt cụ già. Cụ gật đầu, giọng nói sang sảng khiến người khác ngạc nhiên vì nó còn rất "trẻ" so với tuổi tác của cụ.

- Bách Nhật, cháu đấy ư, lâu lắm rồi ta mới gặp lại cháu đấy.

- Vâng! Mấy tháng nay vì bận một số chuyện nên cháu không thể đến thăm bác được. Bác cho cháu hỏi Linh Lan có ở nhà không ạ?

Nhắc đến Linh Lan, Anh Tú đứng bên cạnh tim đập thình thịch như tiếng trống, sốt ruột bám hai tay vào thanh tre hàng rào, mắt nhìn ngó bên trong để xem có trông thấy bóng dáng Linh Lan không. Nhíu mày vì hành động nôn nóng của Anh Tú, cụ già nhẹ lắc đầu.

- Tiếc quá, cháu đến không đúng lúc rồi. Nhạn nhi đi làm nhiệm vụ đặc biệt do Long Nhương tướng quân giao, đã không có ở nhà hơn tháng nay rồi.

Những lời cụ Lương thốt ra, chẳng khác có sét giáng xuống người Anh Tú. Toàn thân anh cứng đờ, đôi mắt mở to, nhìn trân trân vào mặt cụ Lương, cứ như thể anh vừa nghe lầm hay cụ đã nói sai. Bộ dạng chẳng khác nào Từ Hải chết đứng của Anh Tú làm Bách Nhật thương cảm. Nó quay sang cụ Lương, nhẹ giọng.

- Vậy bác có biết Linh Lan đi công vụ ở đâu và khi nào trở về không ạ?

- Không! Ta không biết - Cụ Lương trầm ngâm - Nó đi rất vội vàng, không kịp nói rõ và ta cũng không tiện hỏi, chỉ biết rằng nó đang nhận nhiệm vụ mà thôi.

- Bác ơi! Bác cố nhớ lại đi, Linh Lan có nói là đi đâu, khi nào về không? Bác làm ơn cố nhớ lại đi bác!!

Cụ Lương chưa kịp dứt lời thì Anh Tú đã vội lên tiếng. Giọng nói nó gấp gáp, nửa cầu khẩn nửa thiết tha. Nhíu mày nhìn Anh Tú, cụ Lương khẳng khái đáp lời.

- Không. Nó không nói gì với ta cả. Chuyện Long Nhương tướng quân giao cho nó là bí mật, ta là người ngoài, không tiện hỏi đến việc quân. Ta không biết khi nào Nhạn nhi về, nhưng khi nó về ta sẽ thông báo lại cho cậu ngay. Cậu là ai? Có quan hệ thế nào với nó?

- Cháu...cháu là anh của Linh Lan. Cháu là Anh Tú, anh trai nó.

Đôi mắt cụ Lương vụt lấp lánh khi nghe Anh Tú trả lời. Cụ đưa mắt nhìn từ đầu tới chân Anh Tú rồi chốt lại trên gương mặt nôn nóng pha lẫn lo lắng, thất vọng của anh, giọng nhẹ nhàng.

- Thì ra cậu là anh trai bị thất lạc của Nhạn nhi. Lúc trước ta có nghe nó nói về cậu, đến nay mới được gặp. Tiếc là cậu đến không đúng lúc, nó đã đi công vụ, không biết bao giờ mới về.

Đã đến được Quy Nhơn rồi mà không gặp được nhau, đó là số trời hay cái số con rệp của Anh Tú. Khó khăn lắm mới ra khỏi Hoàng cung được, khó khăn lắm mới biết tin tức của Linh Lan, ấy vậy mà đến tận nơi Linh Lan ở mà vẫn không gặp được, ngỡ gần nhau trong gang tấc, hóa ra lại quá xa nhau. Ý nghĩ ấy khiến Anh Tú khó chịu, bực bội và thất vọng. Mọi niềm vui và hy vọng lúc đến Quy Nhơn đều đã biến mất, thay vào đó là sự chán nản và hụt hẫng tột cùng. Linh Lan không ở đây, con bé đã đi đâu, rốt cuộc con bé đã đi đâu?

Nhìn Anh Tú thẫn thờ thất vọng, Bách Nhật cảm thấy thương cho bạn. Rõ ràng đã đến được đây mà không gặp được nhau, đúng là số trời thích trêu người. Nén tiếng thở dài, Bách Nhật gật đầu với cụ Lương, rồi nói.

- Vậy thôi được ạ. Cháu cám ơn bác nhiều, thôi chào bác, chúng cháu đi đây ạ.

- Ơ! Thế các cháu không vào nhà chơi sao. Còn cậu, cậu là anh của Nhạn nhi thì cũng coi như là con ta, chi bằng ở lại nhà ta, đợi nó trở về đoàn tụ.

- Không! Không được! Hắn... Hắn sẽ không ở lại đây, hắn sẽ về Bắc hà cùng với ta!!

Lời cụ Lương còn chưa nói dứt, Ngọc Vũ đứng bên cạnh đột ngột cất tiếng. Giọng nói của cô thảng thốt, lo lắng, còn tay thì níu áo Anh Tú, tựa như sợ bị bỏ rơi. Trước biểu hiện khác lạ của Ngọc Vũ, Ưu Phong nheo mắt, rồi như vừa chợt nghĩ ra một chuyện gì đó, anh mỉm cười buông lời.

- Không sao đâu bác, Anh Tú cần phải quay trở về Bắc hà để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cháu và Bách Nhật sẽ ở đây để đợi Linh Lan trở về rồi báo tin lại cho cậu ta cũng không muộn.

Anh Tú nhìn Ưu Phong trân trối. Rõ ràng Ưu Phong thừa hiểu anh mong muốn gặp Linh Lan biết bao, muốn được nhìn thấy em gái thế nào, ấy vậy mà còn bảo anh có nhiệm vụ ở Bắc hà. Nhiệm vụ gì mặc kệ, anh không cần biết, anh chỉ biết bằng mọi giá anh phải gặp được Linh Lan. Không gặp Linh Lan, anh có chết cũng không cam lòng. Anh nhất định phải ở lại Quy Nhơn chờ Linh Lan trở về, chứ không bao giờ về Bắc hà theo lời Ưu Phong nói. Không bao giờ!

Những lời đó Anh Tú còn chưa kịp nói thì Ưu Phong đã ra hiệu cho Anh Tú im lặng, rồi rảo bước đến chiếc xe ngựa đang đậu gần gốc đa. Khó hiểu vì hành động ấy, Anh Tú miễn cưỡng đi theo, còn chưa kịp cất tiếng thắc mắt thì Ưu Phong đã đáp lời.

- Cậu thật muốn ở lại đây để chờ em gái cậu trở về?

- Phải! - Anh Tú nhấn mạnh từng tiếng - Và tôi sẽ không đi đâu hết nếu chưa gặp được em gái tôi!

- Kiên quyết lắm - Ưu Phong cười nhạt - Nhưng tôi e chưa kịp gặp em gái cậu thì cậu đã không còn sống trên đời này nữa rồi.

- Sao?

Đang trong lúc thất vọng vì không gặp được Linh Lan nên khi nghe Ưu Phong bảo mình sẽ chết, anh nhất thời ngớ người ra vì không hiểu Ưu Phong muốn ám chỉ đến chuyện gì. Trước sự ngơ ngẩn của Anh Tú, Ưu Phong lắc đầu.

- Đừng nói với tôi là cậu đã quên viên thuốc độc mà cậu đã uống của Ngọc Uyển nhé. Chất độc này chỉ có Đoan Nam vương mới giải được, cậu không về Bắc lấy ai cứu mạng cậu. Em gái cậu đi công vụ không biết khi nào về, có thể một ngày, hay ngày, một tháng, hai tháng hoặc nửa năm, cậu chờ được, nhưng chất độc trong người cậu thì chờ được không? Chẳng lẽ cậu muốn chưa gặp được em gái đã chết ở đây mà chẳng được ích gì sao? Cho dù cậu may mắn chờ được em gái cậu trở về, nhưng lỡ như khi đó độc tính phát tác, cậu sẽ chết rất thê thảm trước mặt em gái cậu thì sao? Cậu đành lòng sao, cậu nhẫn tâm để em gái cậu bơ vơ một mình trên thế gian này à? Theo tôi, tốt nhất bây giờ cậu hãy lo bảo toàn tính mạng, trở về Bắc Hà nhờ Đoan Nam vương giải hết độc, cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh rồi mới quay lại đây để tìm em gái. Tôi và Bách Nhật nhất định sẽ giúp cậu nghe ngóng tin tức, nếu gặp được em gái cậu, chắc chắn tôi sẽ cho người đến Bắc hà báo tin ngay, như thế chẳng phải vẹn toàn sao?!

Ưu Phong tuy đang hỏi, nhưng câu hỏi của anh nghiễm nhiên lại là câu trả lời. Anh Tú nghe xong thừ người ra. Không biết vì nắng nóng hay vì những lời Ưu Phong nói mà mồ hôi trên trán Anh Tú lấm tấm. Dù không cam lòng, nhưng anh công nhận rằng Ưu Phong nói đúng. Anh có thể chờ Linh Lan, nhưng chất độc trong người anh lại không thể. Chẳng biết bao giờ nó phát tác, không gặp được Linh Lan anh cố nhiên không cam lòng, nhưng gặp Linh Lan rồi chết, để Linh Lan lại một mình không ai chăm sóc, anh còn đau hơn gấp nhiều lần.

Anh Tú thở dài,ý muốn gặp Linh Lan vẫn còn đó, nhưng ý chí của anh đã lung lay. Phải! Ưu Phong nói đúng, anh phải quay trở về Bắc hà nhờ Đoan Nam vương giải độc, rồi sau đó mới toàn tâm toàn ý tìm gặp Linh Lan, chuyện trong này đã có Ưu Phong và Bách Nhật giúp anh giải quyết. Ưu Phong là cung chủ Tử phụng cung, tai mắt rất nhiều, Bách Nhật lại là bạn thân của Linh Lan, quen biết ông Lương và cá tính cẩn thận chu đáo. Hai người ấy mà hợp lại với nhau chắc chắn chuyện gì cũng có thể giải quyết được, vậy nên gặp lại Linh Lan không còn quá khó đối với anh như lúc đầu.

Anh Tú đắn đo suy nghĩ, sau một lúc cân nhắc thiệt hơn, cuối cùng anh cũng gật đầu đồng ý. Anh Tú đồng ý trở về Bắc hà là vì tính mạng của anh và vì Linh Lan, chẳng can hệ gì đến Ngọc Vũ, thế mà tự nhiên khi nhìn thấy anh gật đầu, nét mặt lo lắng, thấp thỏm của cô liền giãn ra. Lòng cô như vừa trút được gánh nặng ngàn cân. Mọi chuyện tiếp theo cô không biết sẽ như thế nào, nhưng Anh Tú chịu về Bắc hà đã khiến cô thấy vui. Nãy giờ theo dõi câu chuyện của Hoàng huynh cô và Anh Tú, Ngọc Vũ đã rất lo lắng, cô rất lo Anh Tú sẽ không về Bắc hà cùng cô. Vô hình cô nắm chặt tay lại, hơi thở nhẹ như làn khói, đến khi thấy Anh Tú gật đầu, Ngọc Vũ mới thấy phấn chấn trở lại. Cô mở tay ra thì nghe lòng bàn tay nóng hổi, thì ra tay cô ướt đẫm mồ hôi từ bao giờ.

Mọi chuyện đã hoạch định xong, Bách Nhật cám ơn và gởi lời chào tạm biệt đến ông Lương, rồi đưa tiễn Anh Tú và Ngọc Vũ lên đường quay trở về Thăng Long. Nhìn theo chiếc xe ngựa cho đến khi mất hút, Bách Nhật mới tiến lại gần Ưu Phong. Nó nhìn anh bằng sự trìu mến, trái tim đập nhè nhẹ. Chỉ còn lại hai người, Bách Nhật không biết phải làm gì và nói gì với Ưu Phong. Và trong lúc Bách Nhật còn đang suy nghĩ thì Ưu Phong đã lên tiếng, nhẹ nhàng.

- Anh Tú đã đưa Vũ nhi quay trở về Bắc hà, còn chúng ta ở lại Quy Nhơn, chờ tin tức em gái cậu ta thôi.

100.

Tháng năm nắng nóng, Gia Định như một chiếc bánh ngọt xốp giòn đang nằm trong lò nướng chờ được lấy ra. Dù trong thành có bóng cây xanh che mát, nhưng với cái nắng hanh hao trên cao thì có nhiệt huyết đến đâu, Linh Lan cũng khó lòng mà tập trung vào việc luyện kiếm của mình.

Dậy từ lúc mặt trời chưa mọc, đến giờ cũng đã giữa trưa, những chiêu kiếm Văn Bình dạy cho từ mấy hôm trước, bây giờ Linh Lan mới ôn xong. Quệt ống tay áo lên vầng trán lấm tấm mồ hôi, nó ngồi xuống ghế đá, nhìn lòng bàn tay có những nốt chai nhỏ do cầm kiếm mà khẽ thở dài. Bàn tay của nó bây giờ không mềm mại như xưa, làn da đã chuyển sang màu bánh mật do dang nắng, duy chỉ có mái tóc dài là vẫn đen nhánh, không thay đổi, âu cũng là sự an ủi cho Linh Lan vì nó biết cách chăm sóc tóc mình.

Sau gần hai tháng ở Gia Định, gương mặt Linh Lan giờ có vài bé mụn "xinh xinh" ngự trị bởi dang nắng dầm sương nhiều, thân người lại ốm tong ốm teo bởi phải luyện tập vất vả trong quân ngũ. Mỗi lần nhìn vào gương chải tóc, Linh Lan thầm cười khổ. Dù thường ngày nó không mấy quan tâm đến dung nhan nhưng nay cũng phải nhận thấy mình xuống sắc hơn lúc trước rất nhiều. Nhưng bù lại cho nhan sắc, thể lực của Linh Lan giờ đã được nâng cao, bản thân nó đã có thể tự bảo vệ bản thân và tháo vát hơn lúc trước. Nguyên Thục, Nguyên Thiên, Bách Nhật và ông anh vừa kiêu vừa điêu của nó mà gặp lại thì bảo đảm chỉ có nước cả bốn sẽ tròn xoe mắt mà nhìn.

Nghĩ đến đó, Linh Lan không thể bật cười được vì nhớ đến Bách Nhật. Gần hai tháng nay, nó nó ăn ngủ không yên khi được tin Bách Nhật không trở về doanh trại sau khi ra ngoài mua thuốc men. Thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc, Bách Nhật lại là con gái chân yếu tay mềm, ra ngoài vào lúc tối trời như thế chắc chắn sẽ lành ít dữ nhiều. Từ dạo Bách Nhật mất tích, Linh Lan đứng ngồi không yên. Nó thường xuyên ra ngoài thăm dò tin tức về Bách Nhật, cũng như Văn Bình đã cho người đi tìm khắp nơi nhưng kết quả vẫn là con số không, Bách Nhật vẫn bặt vô âm tín. Thời gian ngày một trôi nhanh, thấm thoát mà đã gần hai tháng kể từ khi Bách Nhật mất tích nhưng vẫn không có chút tin tức nào, khiến Linh Lan không sao vơi được phiền muộn trong lòng.

Đối với Linh Lan, nó rất ghét việc phải chứng kiến từng người thân ra đi lần lượt trước mặt nó. Đầu tiên là để lạc Anh Tú, sau đó là Bách Nhật một đi không trở về, điều đó khiến Linh Lan tự trách bản thân vì đã không bảo vệ được họ. Ngày đó, nếu Linh Lan kịp chạy theo Anh Tú thì cả hai đâu đến nỗi phải lạc mất nhau. Ngày đó, nếu Linh Lan hộ tống Bách Nhật ra ngoài mua thuốc thì giờ đây đã không phải chôn chân một chỗ, lo bạn mình lành ít dữ nhiều như thế này. Tất cả mọi chuyện là lỗi một phần của nó, là nó chỉ biết nhìn những người thân yêu biến mất ngay trước mặt mà không làm được gì. Càng nhớ lại, Linh Lan càng cảm thấy mình thật vô dụng làm sao.

Bởi vì suy nghĩ và ý chí được hun đúc hình thành sau những mất mát, nên ngày nào Linh Lan cũng miệt mài luyện tập kiếm thuật và võ nghệ. Dưới sự kềm cặp trực tiếp của Văn Bình, Linh Lan bây giờ đã tiến bộ rõ rệt, đến nỗi Phan Văn Lân phải tròn mắt ngạc nhiên vì sự thay đổi của nó. Kể ra, để được như bây giờ, Linh Lan cũng phải cám ơn Văn Bình vì những gì anh làm cho nó. Dù bận việc quân, phải tái thiết lực lượng và chỉnh đốn lại quân bị, nhưng những lúc rảnh rỗi, Văn Bình đều dành thời gian dạy nó luyện kiếm. Nhưng ngoài việc luyện kiếm ra thì anh lại không nói chuyện gì với nó, làm Linh Lan có cảm giác, rất mơ hồ, rằng hình như Văn Bình đang tạo khoảng cách giữa hai người.

Linh Lan tuy biết, nhưng nó cũng không nói gì, dù rằng bản thân thấy hơi buồn một chút. Đối với nó, người đầu tiên khiến nó thấy an tâm là anh, người đầu tiên che chở cho nó cũng là anh, nay nhận thấy anh và nó bỗng dưng không còn thân thiết như xưa, mà lại có khoảng cách trong mối quan hệ, Linh Lan cảm thấy buồn.

Từ dạo Văn Bình hé mở một nửa câu chuyện của anh và Nguyễn Huệ đến nay, anh không nói thêm chuyện nào nữa. Dù chỉ nghe được phần đầu câu chuyện, nhưng Linh Lan cũng có thể kết luận mối quan hệ của anh và Nguyễn Huệ khi còn thơ rất tốt. Điều nó cảm thấy khó hiểu nhất là tại sao cả hai lại trở mặt với nhau, Nguyễn Huệ tại sao lại ở trong thân xác Văn Bình, lại còn rất căm ghét người anh sinh đôi của mình, đến mức muốn hủy hoại những gì Văn Bình đang có. Câu hỏi đó có lẽ chỉ có Văn Bình mới trả lời được, nhưng anh không muốn nhắc đến chuyện đó thì nó dù muốn biết cũng không tiện hỏi thêm làm gì.

Linh Lan thở hắt ra một hơi. Trước đây, nó đã có ý nghĩ sẽ thân với Văn Bình hơn, sẽ cùng chia sẻ những buồn vui của anh, thế nhưng ý định đó xem ra không thể thực hiện được. Nó đã vấp rào cản từ phía Văn Bình, anh không mở lòng với nó, cũng như giấu kín mọi buồn vui thường trực của một con người. Anh luôn xuất hiện trước mặt nó với sự điềm đạm thường ngày, nó chưa bao giờ nhìn thấy anh tỏ ra mệt mỏi, dù bờ vai rộng đó đang gánh lấy trách nhiệm nặng nề trên vai. "Thiên hạ trở thành người một nhà", đó là ước mơ của Văn Bình, anh đang cố gắng thực hiện ước mơ đó bằng trách nhiệm, tài năng và công sức của mình, nhưng anh có bao giờ chia sẻ ước mơ đó cho ai không? Lý do gì anh muốn thiên hạ trở thành người một nhà, có phải là vì thiên hạ, hay chỉ vì bản thân anh? Linh Lan không biết. Nó chỉ biết rằng những chuyện ấy có lẽ nó sẽ không bao giờ biết, trừ phi Văn Bình bộc bạch bản thân mình cho nó. Nhưng đến bao giờ đây? Linh Lan e rằng sẽ chẳng bao giờ đâu.

- Cô còn ngồi đây sao? Đội nữ binh đã bắt đầu luyện tập rồi đó.

Một giọng nói bất thần vang lên, cắt đứt dòng suy tưởng của nó. Linh Lan ngẩng đầu lên, Phan Văn Lân đang đứng trước mặt nó, gương mặt thư sinh tươi cười, đôi mắt nheo nheo như vừa phát hiện một chú mèo con đang trốn mẹ đi chơi. Vốn dĩ Lân không nằm trong số các tướng lĩnh xuất quân lần này, thế nhưng cách đây một tháng, anh vào Gia Định với tư cách người truyền tin của Thái Đức hoàng đế đến cho Văn Bình, và được Văn Bình giữ lại, giúp anh trông coi công việc. Thấy trên tay Lân là ba tảng đá dày chồng lên nhau, Linh Lan rất ngạc nhiên. Thường ngày anh vốn kín tiếng, lại không hay trò chuyện với một ai, khi các binh sĩ mới gia nhập yêu cầu anh biễu diễn võ nghệ cho họ xem do thấy dáng vẻ thư sinh của anh, Lân chỉ mỉm cười và từ chối. Ngoài những giờ luyện tập bình thường trong đội ngũ, Linh Lan không thấy Lân luyện tập thêm như những đô đốc khác, té ra là anh lẳng lặng ra đây để luyện một mình. Đúng là nơi này và yên tĩnh vừa kín đáo, có trổ tài học ra cũng chẳng ai dòm ngó hay bình phẩm gì.

Nhìn ánh mắt tinh quái của Linh Lan khi chiếu vào ba phiến đá dày trên tay, Phan Văn Lân lúng túng. Anh không nghĩ nơi này sẽ lại gặp Linh Lan nên mới ra ngoài này để luyện tập thêm. Ban nãy, lẽ ra anh không nên cất tiếng gọi nó, cứ lẳng lặng mà đi, thế nhưng không hiểu sao, khi thấy bóng dáng ấy ngồi trên bậc đá nghĩ ngợi, mái tóc dài xõa xuống bờ vai, trông vừa nhỏ bé trước thế gian rộng lớn, lại vừa như cất giữ một bí mật tôn nghiêm, không ai được xâm phạm chốn riêng tư ấy, Lân lại lên tiếng, đánh thức mái tóc đen phủ trên tấm lưng thon. Điều ấy khác hẳn với bản tính thường ngày ít nói của anh.

- Này Lân, ba phiến đá đó để anh luyện tập phải không?

Lúc trước, chính nhờ có anh mà mạng sống của Linh Lan mới giữ lại được, thế nên nghiễm nhiên, Linh Lan nợ anh một mạng. Bây giờ đối với anh, Linh Lan vừa biết ơn, lại vừa cảm kích, nó nhìn ba tảng đá trên tay anh, hỏi với giọng tinh quái. Quả nhiên, khi nó hỏi thế, Phan Văn Lân giấu phắt tảng đá ra phía sau lưng, lúng túng.

- Đâu có! Tôi đâu có luyện tập gì?

- Không luyện tập vậy anh mang nó ra đây để làm gì?

- Để...ngồi!!

Phan Văn Lân vừa nói xong, Linh Lan không nhịn được liền bật cười. Tiếng cười giòn tan, trong trẻo của nó càng khiến anh lúng túng. Vỗ nhẹ lên ba tảng đá, Linh Lan nói êm ru.

- Thôi, khai thật đi ông anh. Vì anh không thích người khác nhìn ngó, bình phẩm lung tung, nên mới mang ba phiến đá đó ra chốn vắng vẻ này để luyện tập để không bị ai quấy rầy chứ gì?

Phan Văn Lân làm thinh, không trả lời, như vậy nghĩa là Linh Lan đã nói đúng. Nhìn gương mặt thư sinh đỏ lên, Linh Lan muốn cười nhưng lại thôi. Nó đã tự hứa là sẽ không trêu chọc anh nữa, thế nên dù muốn tấn công tiếp, Linh Lan cũng dằn lòng cho qua.

- Nhắc mới nhớ, từ lúc vào Tây Sơn đến nay, tôi chưa thấy anh biễu diễn tài nghệ lần nào đấy. Ngoài này chỉ có anh và tôi, anh thử biểu diễn cho tôi mục kiến một phen xem nào.

Trước đề nghị của Linh Lan, Phan Văn Lân lắc đầu. Thừa biết anh chàng thư sinh này một khi không dùng kế sẽ chẳng chịu lộ sở học ra, Linh Lan hừ mũi một cái. Nó lấy ba phiến đá trên tay Phan Văn Lân đặt xuống đất. Một mắt nheo lại để ước lượng độ dày, Linh Lan giơ cao tay trái lên, đến khi chuẩn bị chém xuống ba phiến đá thì Phan Văn Lân đã kịp thời chụp lấy tay nó, hỏi dồn.

- Cô làm gì vậy?

- Thấy rồi còn hỏi, dĩ nhiên tôi muốn chém vỡ ba tảng đá này rồi.

- Cô đã luyện tập chiêu ấy bao giờ chưa?

- Chưa.

Nghe Linh Lan đáp tỉnh bơ, Phan Vân Lân trố mắt nhìn nó. Anh lo lắng.

- Cô chưa luyện tập qua bao giờ sao lại gan lì như thế? Đến tôi phải mất cả năm mới thực hiện được, cô chưa tập luyện gì sao có thể làm được.

- Anh đã luyện tập rồi thì vậy anh biểu diễn cho tôi xem đi, rồi tôi không làm nữa. Chỉ một lần thôi.

Linh Lan nheo mắt, vẻ tinh quái của nó khiến Phan Văn Lân ngớ người, đến khi vỡ lẽ ra là nó đã gài anh, thì mọi chuyện đã rồi. Cô gái này nào dám chém ba phiến đá ấy, cô ta chỉ khích tướng anh thôi, nếu anh không ngăn lại mà cứ thản nhiên để cô ấy chém thì có cho vàng cô ta cũng không dám. Cô ấy không hỏi, nhưng anh đã tự khai mình có luyện tập, chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Phan Văn Lân thở dài, cô gái này chẳng khác nào trái ớt hiểm, tuy bé nhỏ nhưng làm người khác cay đến nhớ đời.

Phan Văn Lân buông tay Linh Lan ra. Anh nhìn nó, cái nhìn nửa nghiêm túc, nửa trìu mến, nhưng sự trìu mến ấy chỉ thoáng qua rồi nhanh chóng vụt tắt, tựa ánh sao băng rơi trên bầu trời. Phan Văn Lân quay mặt đi, ba phiến đá nằm trơ trên mặt đất, tiếng thở dài đâu đó vọng lại. Phan Văn Lân chậm rãi giơ cao tay trái lên, nhằm ba phiến đá chém xuống. Nhanh như chớp, ba phiến đá dày chồng lên nhau vỡ đôi.

Chứng kiến Phan Văn Lân giở tuyệt nghệ, Linh Lan mở to mắt, nó chồm lên, ngắm nghía thật kỹ ba phiến đá đã vỡ đôi, lòng thầm thán phục anh, tuy dáng dấp thư sinh nhưng lại có sức mạnh kinh hồn. Lướt mắt lên gương mặt thản nhiên như không của Phan Văn Lân, Linh Lan buột miệng.

- Này Lân, anh gia nhập Tây Sơn từ khi nào vậy?

Vừa gạt những mảnh vụn của những phiến đá bị vỡ sang một bên để ngồi xuống, Phan Văn Lân vừa trả lời.

- Tôi đã nói rồi mà, được năm năm.

- Thế à! Tôi quên mất. Thế anh gia nhập Tây Sơn bằng cách nào?

Phan Văn Lân phủi tay, anh quay người lại đối diện với Linh Lan. Đôi mắt anh thẫm lại khi nhớ đến những ngày đầu tiên anh gặp Long Nhương tướng quân. Khi ấy, anh vẫn còn là một thanh niên trẻ tuổi, khăn gói từ Bắc hà vào Quy Nhơn dự lễ tang của chị ruột, chứ không nghĩ đến sẽ có ngày mình làm chức nội hầu trong Tây Sơn như thế này.

- Ngày đó, tôi đang trên đường đến Quy Nhơn để dự lễ tang chị tôi, nửa đường chẳng may tôi gặp cướp, may nhờ tướng quân cứu thoát, nếu không tôi cũng chẳng thể đứng đây.

- Tướng quân? Ý anh là Văn Bình?

Phan Văn Lân gật đầu. Cô gái này gọi tướng quân bằng một cái tên khác, và ngoại trừ cô ấy ra thì không còn ai gọi như thế, điều đó làm anh ngạc nhiên, vì xem ra tướng quân lại dễ chịu mỗi khi nghe cô gái ấy gọi tên Văn Bình.

- Phải! Là tướng quân đã cứu tôi. Thế nên tôi đã nợ tướng quân một mạng, từ đó tôi theo tướng quân gia nhập Tây Sơn để trả ơn cứu mạng cho người.

- Sao? Anh gia nhập Tây Sơn chỉ để trả ơn cứu mạng thôi à? - Linh Lan tròn mắt - Tôi tưởng anh gia nhập Tây Sơn để chống lại sự áp bức bóc lột của tầng lớp chính quyền, giải thoát nhân dân khỏi ách thống trị hà khắc chứ?

- Với người khác thì có lẽ thế, nhưng với tôi lại là một chuyện khác - Phan Văn Lân mỉm cười - Tôi chỉ đơn giản là người có oán báo oán, có ân báo ân, không mắc nợ ân tình một ai. Tướng quân cứu tôi một mạng, tôi gia nhập Tây Sơn để trả lại ân tình đó, thế thôi. Còn chuyện đứng lên khởi nghĩa, chống lại áp bức bóc lột, giải thoát nhân dân khỏi ách thống trị hà khắc gì đó như lời cô nói, thì đó không phải chuyện của tôi. Ngay cả bản thân tôi khi lâm nguy còn phải nhờ sự giúp đỡ của người khác, nói chi giải thoát nhân dân.

Lần đầu tiên nghe Phan Văn Lân thẳng thắn bộc bạch, lại là những lời trong đáy lòng anh, Linh Lan chợt hiểu ra nhiều điều. Thì ra trong Tây Sơn, không phải tất cả tướng sĩ đều có tư tưởng chống lại sự cai trị hà khắc của tầng lớp phong kiến thối nát, đại diện cho tầng lớp áo vải giải thoát nhân dân. Điển hình như Phan Văn Lân, anh là một đô đốc, lại còn đến tước nội hầu, nhưng với anh gia nhập Tây Sơn chỉ đơn giản là để báo đáp ân tình vì không muốn nợ ơn cứu mạng của Văn Bình mà thôi.

Trong phút chốc, Linh Lan nhớ đến Văn Bình, nhớ đến những trọng trách anh đang mang trên vai. Như Phan Văn Lân nói, giải thoát nhân dân khỏi ách thống trị hà khắc, thiết lập một trật tự mới không phải chuyện của anh, vậy thì chuyện đó là của ai, chẳng lẽ là của Văn Bình và của nhà Tây Sơn hay sao? Linh Lan thở dài, nó chợt trở nên mông lung vì những gì mới nghe từ Phan Văn Lân. Nhìn những chiếc lá lao xao, Linh Lan hỏi khẽ, mà không hay mình đã hỏi từ khi nào.

- Ước mơ của anh là gì?

- Sao?

- Ước mơ của anh là gì?

Nghe Linh Lan hỏi, Phan Văn Lân im lặng trong thoáng chốc, anh nhìn theo hướng Linh Lan. Mái tóc đen dài nhẹ cuốn theo chiều gió, tấm lưng thon bất động, ánh mắt xa xăm như đang hướng về chân trời bình yên ở phía xa. Trong khoảnh khắc đó, Phan Văn Lân cảm thấy mơ hồ. Ước mơ của anh là gì? Ước mơ của anh rất đơn giản, nhưng anh biết nó sẽ không trở thành hiện thực, ước mơ cũng chỉ mãi là mơ ước mà thôi.

- Ước mơ của tôi là một ngày có được hai bữa cơm ngon!!

Linh Lan quay người lại, ánh mắt đen láy của nó như đang cười khi nghe ước mơ giản đơn của Lân. Chàng thư sinh này bao giờ cũng thế, không mơ ước xa vời, không mục đích lớn lao, tất cả rất đỗi bình thường và rất đỗi con người. Điều đó làm nó cảm thấy anh thật gần gũi, chứ không cao vời, xa cách như những dũng tướng khác trong Tây Sơn.

Vén làn tóc mai qua vành tai xinh xắn, Linh Lan nhặt lấy thanh kiếm đặt hờ trên phiến đá và quay người, rảo bước về phía đội nữ binh sau khi buông câu nói cuối cùng, vừa đủ lớn để Lân nghe.

- Khi nào thiên hạ trở thành người một nhà, thì một ngày của anh sẽ có được hai bữa cơm ngon.

Linh Lan quay bước đi, chỉ còn lại một mình Phan Văn Lân đứng trong vườn. Tiếng bước chân xa dần, khu vườn trở lại yên lặng, chỉ có tiếng chim hót ríu ríu trong các tàn cây, và ánh nắng lung linh đổ dài xuống vai anh, tạo thành chiếc bóng đơn lẻ, nghiêng nghiêng trong vườn.

Ước mơ ngày có hai bữa cơm ngon....

oOo

Song cửa trong căn phòng phía đông mở toang để đón lấy những cơn gió hiếm hoi trên bầu trời Gia Định. Văn Bình đang đứng tựa lưng vào song cửa, mắt nhìn ra sân tập, nơi có tiếng cười trong trẻo của một người con gái vọng lại. Lúc nào cũng thế, mỗi lần cảm thấy mệt mỏi hay phiền muộn, chỉ cần nghe tiếng cười giòn tan ấy là Văn Bình trở nên nhẹ nhõm, bao ưu phiền như tan biến, chỉ còn đọng lại những dư âm dịu dàng đang ngân nga trong trái tim anh.

Kể từ khi bộc lộ với Linh Lan một nửa câu chuyện bí mật của mình, Văn Bình thôi không tiếp xúc với Linh Lan nhiều như trước nữa. Dường như cái chết đột ngột của Liên vẫn còn trong tâm trí anh, những đau khổ mà anh đã đem tới cho Liên vẫn còn ám ảnh anh nên nhất thời Văn Bình chưa thể tiếp nhận thêm một mối dây tình cảm nào khác. Trong mối quan hệ hiện thời, Văn Bình là người chủ động giữ khoảng cách với Linh Lan, ngoài chuyện dạy kiếm thuật và yến phi quyền cho Linh Lan, Văn Bình không đả động đến một chuyện nào khác. Không còn sự thân mật, không còn những câu bông đùa, điều đó khiến anh cảm thấy thiếu thốn, nhưng anh lại buộc mình phải chấp nhận sự thiếu thốn ấy, buộc mình phải dập tắt mầm mống tình cảm trong anh, trước khi nó kịp phát triển và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời anh.

Đối với Văn Bình, anh bây giờ chỉ có công việc, công việc và công việc. Ước muốn thiên hạ trở thành người một nhà của anh nhất định phải trở thành hiện thực, và anh chưa bao giờ nung nấu nó như lúc này. Tiếng trái tim đập nhè nhẹ trong lồng ngực Văn Bình, như một lời nhắc nhở rằng trái tim này chỉ có một nửa là thuộc về anh. Văn Bình nắm chặt tay lại, những gân xanh chạy dài trên mu bàn tay. Phải! Anh làm sao quên được thân xác anh đang bị xẻ làm đôi, một nửa thuộc về anh, còn một nửa lại thuộc về đứa em trai đã khuất của anh, Nguyễn Huệ.

Nhớ lại ngày ấy, khi kể cho Linh Lan nghe về tuổi thơ đã chìm vào quên lãng, Văn Bình như sống lại thời thơ ấu. Anh tưởng mình đang bé lại, anh tưởng mình đang chạy trên cánh đồng An Thái, mùi vị thơm ngon, giòn giòn của thịt heo quay năm nào trong lễ hội Đỗ giàn như đang tan trong miệng anh. Giây phút quá khứ đã trôi qua, anh lại sực tỉnh trở về hiện tại, đối diện với sự thật, cõi lòng anh trống tênh. Quá khứ ngày xưa giờ xa xôi lắm, chỉ có hiện thực tàn nhẫn là đang đối đầu với anh mà thôi.

Ước muốn thiên hạ trở thành người một nhà, e Nguyễn Huệ khó lòng cho anh thực hiện. Nguyễn Huệ muốn phá hủy tất cả những gì anh xây dựng, muốn phá hủy những gì anh đã tạo dựng ra, những gì anh yêu thương, kể cả người con gái ấy, người đã bước vào cuộc đời anh không một lời báo trước. Nguyễn Huệ đã có lần muốn giết Linh Lan, và anh không đảm bảo được chuyện đó có xảy ra lần thứ hai hay không. Những thứ quan trọng với anh, anh tất không thể để nó tan biến và sụp đổ. Đạp đổ một cái gì đó rất dễ, nhưng để xây lại nó lại khó gấp bội lần. Nguyễn Huệ muốn đánh đổ, anh càng không thể để cho hắn thực hiện được ý định đó. Thế nhưng oái ăm thay, chính anh và Nguyễn Huệ lại trong cùng một thân xác, hắn có thể điều khiển anh, còn anh lại khó lòng mà điều khiển hắn. Dường như, sau năm năm trời, Nguyễn Huệ trở lại trong thân xác anh với một niềm tin nào đó, và chính vì niềm tin đó đã khiến hắn mạnh, rất mạnh, mạnh đến nổi có thể thoát khỏi sự kềm chế của anh mà tung hoành trong thân xác này.

Không thể để tất cả đều bị Nguyễn Huệ hủy hoại, bằng mọi cách Văn Bình phải bảo vệ những gì quan trọng với mình, kể cả cô gái ấy. Anh không thể để Nguyễn Huệ giết chết cô gái ấy, anh không thể để cho hắn làm tổn hại một sợi tóc nào của cô ấy, vì thế, anh phải tránh xa Linh Lan. Anh phải nén lại tình cảm của mình để có thể đối diện với người con gái ấy bằng một trái tim bình lặng nhất. Anh biết, chỉ cần một xao động trong trái tim anh, chỉ cần một phút đắm mình trong đôi mắt đen như nhung ấy là Nguyễn Huệ có thể lấy mạng của Linh Lan bất cứ lúc nào. Bằng mọi giá, anh phải bảo vệ Linh Lan, phải kềm chế bản thân mình, bình thường hóa mối quan hệ của cả hai, phải làm cho Nguyễn Huệ tin rằng, đối với Linh Lan, anh không hề có một chút tình cảm nào, anh chỉ xem Linh Lan như là em gái và đối xử với nó bình thường như bao người khác, không thiên vị. Nhưng điều đó đối với anh thật khó làm sao...

Ở bên cạnh Linh Lan, anh có thể ngăn không cho tình cảm bộc phát, ngăn sự thân mật đối với Linh Lan, nhưng anh lại không thể ngăn ánh mắt trìu mến khi nhìn nó, ngăn trái tim rung nhè nhẹ khi ngửi mùi hương hoa bưởi dìu dịu trên mái tóc mềm mại, ngăn tâm hồn mình dễ chịu khi bờ môi ấy thốt lên hai tiếng "Văn Bình". Tất cả những chi tiết, dù nhỏ nhặt đó, cũng khó lòng qua mắt Nguyễn Huệ, thế nên bây giờ anh phải hạn chế gặp Linh Lan để cất sâu những cảm xúc ấy vào lòng. Vậy mà, mọi chuyện thật không dễ dàng như anh nghĩ. Một ngày không gặp người con gái ấy, không nghe thấy tiếng cười trong trẻo ấy, không nhìn thấy đôi mắt đen lấp lánh, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng ấy, không trông thấy gương mặt tinh nghịch ấy, là Văn Bình lại thấy thiếu thốn. Anh khó lòng tập trung vào việc khác, dù công việc ngồn ngộn trước mắt và tình hình về quân Nguyễn đã nắm đầy đủ trong tay.

- Chú tám, ta nghe nó chú đã từ chối hợp tác với quân Đông Sơn, có phải thế không?

Những dòng suy nghĩ cuồn cuộn của Văn Bình ngừng lại khi giọng nó ồm ồm của Nguyễn Lữ vang lên. Ông đang trải những cuộn binh thư trên bàn để đọc, đôi mày rậm chau lại, dường như đang thắc mắc một vấn đề nào đó mà chưa nói ra. Tạm rời khỏi những suy nghĩ của mình, Văn Bình quay trở về hiện tại, đối mặt với cuộc chiến chưa ngả ngũ với quân Nguyễn của Tây Sơn.

- Thưa vâng! Em đã từ chối lời đề nghị liên minh của họ.

- Tại sao? - Nguyễn Lữ ngẩng đầu lên, hàng lông mày của ông tạo thành một đường thẳng.

- Có hai lý do khiến em từ chối lời đề nghị đó - Văn Bình trầm giọng - Thứ nhất, quân Đông Sơn là một thế lực đồn trú ở Gia Định đã lâu, chủ tướng của họ từng phục vụ cho Nguyễn Ánh nhưng sau cái chết của hắn ta, họ đã trở mặt với quân Nguyễn dù Nguyễn Ánh không ít lần thu phục, mua chuộc. Điều đó cho thấy họ là đạo quân không thể thu phục và sử dụng. Đông Sơn quân chỉ trung thành với chủ tướng của họ và mảnh đất này. Họ đề nghị hợp tác, hoàn toàn không có ý quy phục chúng ta mà chỉ muốn lợi dụng chúng ta để trả thù riêng. Sau khi toại nguyện, bọn họ sẽ lại trở thành kẻ đối địch của chúng ta. Một khi muốn bình ổn Gia Định này, Đông Sơn quân cũng nằm trong số những thế lực cần phải tiêu diệt. Thứ hai, em không muốn lợi dụng bọn họ hay để bọn họ lợi dụng. Cuộc chiến này là của chúng ta, chỉ có chúng ta mới có thể giải quyết, không cần phải vay mượn thêm bất cứ sự giúp đỡ nào cả. Đó là tại sao em từ chối lời đề nghị của bọn họ.

Những lời Văn Bình phân tích vừa đanh thép, lại vừa thuyết phục, khiến Nguyễn Lữ không nói gì thêm nữa, dù rằng ông cũng muốn hợp tác với quân Đông Sơn trong việc càn quét quân Nguyễn. Thêm một thế lực, thêm một người giúp thì quân số của Tây Sơn sẽ đông hơn, thiệt hại sẽ ít hơn, huống chi quân Nguyễn chưa bao giờ bị triệt tiêu hoàn toàn. Hễ Tây Sơn kéo quân khỏi Gia Định là Nguyễn Ánh lại trở về như chưa bao giờ bị đánh bại. Hơn ai hết, Nguyễn Lữ muốn nhanh chóng đập tan quân Nguyễn hoàn toàn để khẳng định ai mới là người chủ Gia Định thật sự. Sau bao tháng nghe ngóng, cuối cùng, thám báo của Tây Sơn đã thu thập được tin tức rằng quân Nguyễn đang tập trung quân ở Đồng Tuyên, và Nguyễn Lữ muốn nhân cơ hội này vớt gọn mẻ lưới, tiêu diệt hoàn toàn, không chừa một ai chạy thoát. Mục tiêu số một của ông là Nguyễn Ánh, vị chúa trẻ luôn thoát khỏi vòng vây điệp điệp trùng trùng của Tây Sơn, khiến lực lượng của ông hết lần này đến lần khác, tổn hao không ít. Hơn ai hết, lần này ông muốn vá lại lỗ thủng trong chiếc lưới bủa vây của Tây Sơn nhằm không cho Nguyễn Ánh thêm một cơ hội nào nữa.

- Chú đã nghe quân thám báo của ta đưa tin về tình hình đóng quân của quân Nguyễn chưa?

- Rồi ạ! Theo như quân ta báo lại, thì Nguyễn Ánh đã từ Phú Quốc trở về, đang tập trung quân ở Đồng Tuyên và phân phối nhiệm vụ cho các tướng sĩ. Nguyễn Kim Phẩm được làm Tiền phong, Nguyễn Huỳnh Đức trông coi đám binh người Miên làm Hậu ứng, Trung quân có Tôn Thất Dụ, Chưởng cơ Hoằng giữ Tả chi, Nguyễn Văn Quý Hữu chi, tổng cộng có hơn một trăm chiến thuyền.

Biết em mình đã nắm rõ các thông tin cũng như sự tổ chức của Nguyễn Ánh, Nguyễn Lữ gật đầu hài lòng, ông nói chậm rãi.

- Thế chú dự tính ra sao? Đã phân phối nhiệm vụ cho tướng sĩ chưa, ngày nào sẽ xuất chinh, kế hoạch tác chiến thế nào?

- Đối với một sứ xở kênh rạch chằng chịt như Gia Định, chúng ta vẫn sẽ sử dụng thủy quân. Thủy quân Tây Sơn sẽ xuất phát theo hình mũi tên xuôi theo sông Lật, áp sát doanh trại bọn chúng. Trương Văn Đa lãnh cánh quân tiên phong. Lê Văn Kế phụ trách cánh quân tả, Nguyễn Văn Kim lãnh cánh hữu. Hai cánh quân này sẽ đồng loạt tấn công ngay khi cánh quân tiên phong dùng pháo đánh mạnh vào đội thuyền của chúng. Em sẽ chỉ huy cánh quân trung tâm, hỗ trợ và chặn đường tháo chạy của chúng. Em tin rằng quân Nguyễn lần này sẽ tan vỡ hoàn toàn.

- Tốt lắm - Nghe Nguyễn Huệ(*) phân bổ nhiệm vụ đâu vào đấy cho các tướng sĩ, Nguyễn Lữ nở một nụ cười đắc thắng - Thế chú định ngày nào xuất quân?

- Ngay tối nay!

- Sao? Ngay tối nay?

Văn Bình mỉm cười, một tia sáng lướt qua trong ánh mắt của anh. Anh rà tay xuống cuộn giấy ngả vàng trước mặt Nguyễn Lữ, tay chỉ vào nơi Nguyễn Ánh đang đóng quân, rồi nhẹ giọng.

- Phải! Mấy tháng qua các tướng sĩ đều đã tập luyện chăm chỉ. Em muốn thấy thủy quân của ta đã tiến bộ đến mức nào. Hơn nữa lần này, chúng ta không nên cho hắn có thời gian lẩn trốn và lớn mạnh trở lại mà phải chủ động đánh úp cho hắn bất ngờ một phen.

Nguyễn Lữ tròn mắt, ông vẫn chưa hết bất ngờ vì kế hoạch này. Trong mắt ông, xưa nay Nguyễn Huệ(*) chưa bao giờ dùng binh đánh úp, em trai ông luôn đường hoàng mà tiến thẳng vào, thế nhưng hôm nay thì lại dùng binh theo một cách khác. Nghĩ thế, nhưng Nguyễn Lữ thôi không hỏi thêm gì nữa. Ông gật đầu khi nhìn vào đôi mắt sáng của em mình, một khi anh đã quyết, không gì có thể thay đổi quyết định đó của anh. Thế cũng tốt, quân Nguyễn luôn quen cách xuất hiện đường hoàng của Tây Sơn, nay Tây Sơn bất ngờ tiến quân và đánh úp trong khi quân Nguyễn không hề có chút thông tin nào, chúng tất không kịp trở tay và sẽ đại bại nhanh chóng ngay thôi.

- Được! Chú đã quyết định rồi thì ta không nói thêm gì nữa. Ta tin rằng Nguyễn Ánh lần này chắc chắn sẽ đại bại, và quân Nguyễn sẽ hoàn toàn bị triệt tiêu.

- Nguyễn Ánh đại bại ư? Không! Anh đã sai, hắn ta chưa bao giờ đại bại...

Đột ngột, em ông cất tiếng, giọng nói của anh nửa như giễu cợt, nửa như vọng về một chốn hoang mạc xa xôi nào đó. Một cơn gió khẽ lướt qua khiến Nguyễn Lữ lạnh toát, ông nhìn đứa em trai đang đứng trước mặt mình, nhưng vì anh đang đứng quay lưng về phía ông, nên ông không thể thấy biểu hiện của anh lúc này là gì.

- Chú nói vậy nghĩa là sao?

- Có gì mà khó hiểu! Quân Tây Sơn bao giờ cũng để Nguyễn Ánh thoát được cho dù đã nắm chắc phần thắng trong tay. Dù bị dồn đến tình cảnh hiểm nghèo nhưng hắn ta vẫn luôn thoát ngay mũi Tây Sơn. Vậy cho nên không phải hắn đại bại mà là cho đến giờ, hắn luôn thắng, hắn đã luôn thắng chúng ta...

Nguyễn Lữ sa sầm mặt. Nguyễn Huệ(*) đã nói trúng mối lo của ông, nói đúng suy nghĩ mà ông không bao giờ muốn thừa nhận. Chính vì sự tinh tế đó, chính vì Nguyễn Huệ(*) đọc thấu những suy nghĩ xấu hổ của ông, về việc một thằng nhãi hơn hai mươi tuổi mà lại nhởn nhơ trước những viên tướng lão lãng của Tây Sơn, đùa cợt họ, làm Tây Sơn phải kéo vào Gia Định hết lần này đến lần khác, khiến Nguyễn Lữ cảm thấy bực bội và khó chịu. Ông cảm thấy rất tức giận về những gì em ông vừa nói, cho dù đó có là sự thật đi chăng nữa.

- Chú là người trong Tây Sơn, là người lãnh đạo ba quân, sao lại có thể nói những lời thoái chí đó. Nếu để các tướng lĩnh nghe được thì sao?

- Thì đã sao! Nhìn vào sự thật bao giờ cũng là cách để chúng ta thôi huyễn hoặc bản thân mình và cố gắng hơn.

Nguyễn Lữ như hóa đá trong chính chiếc ghế của mình. Lời lẽ của Nguyễn Huệ(*) tuy đanh thép, nhìn thẳng vào sự thật, nhưng lại như có chút mỉa mai nào đó, khiến mũi ông phập phồng. Cố đè nén cảm giác khó chịu trong người, Nguyễn Lữ nhận ra sự thẳng thắn khác thường của Nguyễn Huệ(*) khiến ông vừa cảm thấy lạ, nhưng cũng lại thấy quen, một nét quen thuộc nào đó, mà tưởng chừng như ông đã lãng quên. Bây giờ, Nguyễn Huệ(*) mới quay lưng lại, đối diện với đôi mắt sáng của anh, Nguyễn Lữ chợt nhận thấy có một bóng tối mơ hồ lướt qua trong đôi mắt đó, nhanh và mơ hồ đến nỗi ông tưởng rằng mình đã nhìn nhầm.

Không để ý đến những phản ứng của Nguyễn Lữ, hoặc có thể thấy nhưng làm ngơ, bờ môi kiên nghị của Văn Bình lướt qua một nụ cưòi khẽ, anh ung dung tiến bước về phía cửa, những bước chân sải dài vững chãi. Mở toang cánh cửa để gió tràn vào, những tia nắng còn sót lại của buổi chiều tà phủ trên gương mặt anh, tạo thành những vùng sáng tối bí ẩn. Nhìn người lính đang đứng gác nghiêm ngặt, Văn Bình cất tiếng, giọng nói trầm và lạnh.

- Cho gọi các đô đốc đến đây!

Chú thích

(*): Những đoạn có dấu sao là nhìn theo suy nghĩ của Nguyễn Lữ về người đừng trước mặt ông. Trong lòng Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc và tất cả mọi ng', Long Nhương tướng quân là Nguyễn Huệ, ng' chết năm xưa là Văn Bình nên khi họ nói chuyện, trong mắt họ luôn đinh ninh Văn Bình là Nguyễn Huệ, gọi anh là Nguyễn Huệ. Vậy cho nên đoạn này có chút lộn xộng trong cách xưng danh, hy vọng mọi người hiểu.

101.

Sông Lật đang mùa gió, từng bụi lau rậm rạp phất phơ trên mặt nước lạnh lẽo. Bốn bề im ắng như tờ, chỉ có tiếng nước vỗ ì oạp vào mạn thuyền, và tiếng côn trùng kêu rỉ rả tang thương.

Trong đêm tối như mực ấy, nổi bật lên ánh sáng leo lét từ chiếc đèn nhỏ treo trên đài gác cao, đó là nơi đóng quân của quân Nguyễn ở Đồng Tuyên. Dưới nước, hàng chục chiến thuyền dập dềnh theo nhịp gió đưa, trên bờ, quân Nguyễn đang tuần tra, canh gác khá nghiêm ngặt và cẩn mật. Hơi nước từ mặt sông thoát lên, tạo thành một màn sương mỏng, phả vào mặt lành lạnh, khiến họ rùng mình, hai tay xoa vào nhau để tìm chút hơi ấm trong đêm khuya.

Đang kiểm tra lại các mối dây buộc vào thuyền cho chắc chắn, một người lính nhíu mày khi cảm thấy một cái gì đó khác lạ trong không khí. Gió đang đổi hướng, bờ lau reo phất phơ trong màn sương mỏng, bóng tối như đang ẩn chứa một mối họa tiềm tàng. Tên lính hồi hộp, hắn ta đứng phắt dậy, giơ ngọn đuốc về phía trước, mắt căng ra, cố nhìn xuyên qua màn đêm mịt mùng trên sông Lật.

Mặt sông yên tĩnh, rì rào như có gì đang khuấy động. Một âm thanh từ xa vọng lại, mơ hồ như tiếng mái chèo khua nước lọt vào tai gã. Gã liếm môi, trời đang lạnh, nhưng những giọt mồ hôi từ trán gã lăn xuống, rơi vào trong mắt xay xè. Phía trước vẫn là màn đêm mờ sương, cô quạnh bao bọc lấy con sông Lật quanh co, chia thành nhiều nhánh nhỏ với vô số những bụi lau rậm rạp, cao quá đầu người. Với địa hình trắc trở như thế, sông Lật như một con nhện, với những cái chân tỏa ra khắp nơi, ẩn chứa một sự nguy hiểm kín đáo và bất ngờ.

Quân Nguyễn chọn khúc sông này để đóng quân âu cũng là một địa điểm thuận lợi, nhưng cũng khá nguy hiểm, thậm chí là với những binh lính biết bơi như gã. Con sông này vừa lớn vừa sâu, trong màn đêm tịch mịch, hoàn toàn không biết trước được những nguy hiểm nào ẩn chứa trong lòng nó. Nếu bị tấn công bất ngờ, gã và các binh lính sẽ đứng trước nguy cơ đem thân làm mồi cho cá, mãi mãi nằm lại dưới lòng sông lạnh lẽo này mà chưa kịp lấy vợ và sinh con. Nghĩ đến đó, gã rùng mình, lắc mạnh đầu để tống khứ suy nghĩ xui rủi đó ra, rồi tiếp tục công việc kiểm tra thuyền bè của mình nếu không muốn bị khiển trách bởi cấp trên.

Chợt, tên lính quay đầu nhìn về phía sau. Tiếng gió thì thào bên tai gã, tiếng nước quẫy òng ọc càng ngày càng rõ dần. Bóng đêm nở nụ cười ma quái, như chuẩn bị cho gã một món quà bất ngờ. Đột ngột, bóng đêm nở ra, ánh sáng tràn xuống con sông Lật. Hàng loạt tiếng nổ làm rung chuyển màn đêm, trước mặt gã đột ngột chói lòa, con sông Lật sáng bừng lên với vô số ánh lửa bay vun vút về phía gã đang đứng. Một trận cuồng phong nổi lên, tiếng la hét phá vỡ màn đêm yên tĩnh. Sông Lật nổi sóng, tiếng nước cuồn cuộn trào dâng. Hằng hà sa số ánh lửa trên không giáng xuống, bao bọc lấy đồn thủy quân. Những chiếc thuyền dưới chân gã bốc cháy, từng cột lửa đỏ bén vào quần áo, ôm lấy chân gã, và chỉ trong tích tắc, cả người gã bị bao bọc trong ngọn lửa đỏ. Gã biến thành một ngọn đuốc khổng lồ.

Trong bóng đêm mờ ảo, những chiến thuyền lần lượt nuối đuôi nhau xuất hiện, lá cờ đào căng gió, bay lồng lồng trong đêm. Trên thuyền, lớp lớp binh sĩ Tây Sơn dàn kín, họ đang thi nhau bắn hỏa hổ về phía thủy đồn của quân Nguyễn, lớp này bắn xong thì lùi xuống, để lớp khác tiến lên. Phần vì không nghĩ đêm nay quân Tây Sơn sẽ bất thần tập kích, phần không có người chỉ huy, binh lính quân Nguyễn nháo nhào như ong vỡ tổ. Ai nấy đều bỏ vị trí, chạy tháo thân khi hỏa hổ và đạn pháo từ Tây Sơn bắn như mưa về phía họ. Bầu trời đỏ lửa, sông Lật sáng bừng lên như đêm hội hoa đăng. Tiếng lửa cháy tí tách, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng nước dao động khi binh lính đua nhau nhảy xuống, tất cả âm thanh đó trộn lẫn lại, tạo thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho những binh sĩ đang lúng túng ở phía sau.

Bên kia chiến tuyến, Linh Lan bám tay vào mạn thuyền khi thuyền lắc lư dữ dội vì lực đẩy của nước. Nhìn những gương mặt kinh hoàng của quân Nguyễn cùng thảm trạng của họ, Linh Lan cảm thấy khó chịu và bức bối. Ánh lửa cháy trong mắt nó, khiến đôi mắt đen huyền sáng rực trong đêm. Trước đây, dù đã tham dự chiến trận một lần, chứng kiến nhiều cái chết thê thảm của lính Nguyễn cũng như Tây Sơn, Linh Lan những tưởng mình sớm sẽ quen với những hình ảnh đó nếu ở quá khứ, nhưng nó đã lầm. Giờ đây, nhìn bầu trời rợp ánh lửa, nghe tiếng súng đại bác nổ ì oành nã về phía thủy quân Nguyễn, Linh Lan bấu chặt tay vào mạn thuyền đến nỗi mép thuyền như lưỡi dao cứa vào lòng bàn tay nó, dạ dày Linh Lan cuộn lại, bữa cơm chiều trôi tuột qua dạ dày nó, trống rỗng không còn chút vết tích nào.

Trên thuyền chính, Văn Bình đang chỉ huy cho lính Tây Sơn chiến đấu. Chiếc áo bào đỏ lộng gió, bay phần phật trong đôi mắt Linh Lan. Bộ giáp đồng của anh sáng lấp lánh tựa như có vầng khí bạc bao bọc quanh người, ánh mắt sáng như sao băng nhìn đăm đăm về phía trước. Trên thuyền, tất cả mọi người trong đội nữ binh đều tuốt kiếm sẵn sàng cho một trận giao chiến, chỉ việc chờ đợi phá xong đồn thủy quân là họ sẽ nhất tề tràn lên theo lệnh của Long Nhương tướng quân.

Sau phút bất ngờ và hoảng loạn, quân Nguyễn nhanh chóng trấn tĩnh và tổ chức bắn trả lại về phía Tây Sơn, nhưng sự nỗ lực của họ không đi đến kết quả nào khi sĩ số hai bên quá chênh lệch, lại thêm bị đặt vào thế bị động. Tây Sơn có nhiều thuyền chiến, có hỏa hổ, có súng đại bác, lại thêm yếu tố bất ngờ, chẳng mấy chốc, đồn thủy quân bị phá vỡ hoàn toàn. Đám du binh người Miên do Nguyễn Huỳnh Đức trông coi chưa chiến đấu đã bỏ chạy. Chưởng cơ Hoàng và Nguyễn Văn Quý bị chết cháy trong khi nỗ lực cứu lấy quân tiên phong của Nguyễn Kim Phẩm. Thế trận nghiêng về phía Tây Sơn hoàn toàn.

Sông Lật rực sáng, tiếng con nước lao xao dồn dập, thuyền bè tan vỡ, tạo thành những vực xoáy, hút lấy xác quân Nguyễn rơi xuống không nổi lên, tiếng reo hò vũ bão nổi lên, lan nhanh khắp nơi. Quân Tây Sơn bắt đầu tràn lên đồn thủy quân của quân Nguyễn để chém giết. Tuy bị thiệt hại không nhỏ, nhưng Nguyễn quân vẫn cố gắng chống trả khi Tây Sơn kéo đến. Tôn Thất Dụ chỉ huy cánh trung quân tiến lên, phối hợp với binh bộ Minh trong việc ngăn quân Tây Sơn chiếm đồn. Trận chiến diễn ra, ánh chớp lóe lên loang loáng. Quân Tây Sơn như thế chẻ tre ùa lên, hăng say chém giết, biến đồn thủy quân của quân Nguyễn thành địa ngục trần gian.

Trong lúc quân Tây Sơn kéo lên đồn, Văn Bình đứng trên mũi thuyền lặng yên quan sát. Trong tất cả những viên tướng đang chiến đấu bên dưới, không có vị chúa trẻ Nguyễn Ánh. Văn Bình cau mày, anh đảo mắt nhìn quanh, để tìm kiếm xem Nguyễn Ánh ẩn ở nơi nào. Đúng lúc đó, từ nhánh sông sau đồn thủy quân, một chiếc thuyền lặng lẽ lướt ra. Dù chỉ trong phút chốc, lại thêm những đám cỏ lau che khuất, nhưng Văn Bình vẫn tinh ý nhận ra tà áo vàng phấp phới như đùa cợt trong gió. Đôi mắt sao rực sáng, bàn tay vung lên, chỉ thẳng về phía chiếc thuyền bí mật đang lướt về phía trước. Chỉ nghe uỳnh một tiếng vang rền, một cột nước vọt thẳng lên không trung, chiếc thuyền nghiêng ngả, tròng trành. Văn Bình có ý bắt sống Nguyễn Ánh, nên không ra lệnh nã pháo trực tiếp vào thuyền, mà chỉ đánh lạc phương hướng của nó, ngăn không cho nó thoát trước khi quân Tây Sơn tiếp cận, bao vây.

Không chầm chứ thêm một phút nào nữa, Văn Bình lệnh cho thuyền tiến lên, bao vây lấy con thuyền, phong tỏa mọi lối thoát. Nhận được hiệu lệnh của Văn Bình, lại thêm hướng gió hỗ trợ, đoàn thuyền Tây Sơn ùn ùn kéo đến, lướt như bay về phía chiếc thuyền của vị chúa trẻ, trông chẳng khác nào cá mập đang tấn công con mồi.

Vừa nhìn thấy chiếc thuyền bí mật đó, trái tim Linh Lan giật thót một cái khi thấy tà áo vàng thấp thoáng. Nguyễn Ánh! Linh Lan bật kêu thầm trong đầu. Tuy biết đây là đồn thủy quân của quân Nguyễn, nhưng nó không ngờ anh lại đang có mặt ở đây, nó cứ đinh ninh rằng Nguyễn Ánh đang đóng quân ở một nơi khác bí mật hơn, chỉ để lại chiếc đồn này làm nhiệm vụ canh chừng động tĩnh của quân Tây Sơn. Linh Lan cắn môi, nó phóng tầm mắt về phía trước, Văn Bình đã đổ bộ lên chiến thuyền của Nguyễn Ánh, hai bên giao chiến. Quân Tây Sơn và quân Nguyễn lao vào nhau kịch liệt, xem chừng như Nguyễn Ánh khó lòng mà thoát khỏi sự bao vây trùng điệp của quân Tây Sơn.

Bùi Thị Xuân đang dần đầu đội nữ binh chiến đấu trên đồn thủy quân thành ra bây giờ chỉ có mình nó trên thuyền cùng với những tướng sĩ khác. Nhìn Nguyễn Ánh đang so kiếm với Văn Bình, tim Linh Lan đập nhanh, một mối lo sợ mơ hồ dần trỗi lên, chiếm lấy tâm trí nó. Trong vô số binh sĩ đang lao vào nhau trên thuyền, nổi bật nhất là màu áo đỏ và vàng của Văn Bình và Nguyễn Ánh. Dù đang trong tình thế hiểm nguy, nhưng cái nhếch môi kiêu ngạo của Nguyễn Ánh vẫn ngự trị trên gương mặt thanh tú, đôi mắt nâu trong suốt lấp lánh ánh lửa cháy ngùn ngụt phía xa. Hình ảnh đó khiến Linh Lan nắm chặt tay lại, tim đập thình thịch khi những đường đao của Văn Bình ép Nguyễn Ánh dồn về phía mạn thuyền.

Nếu Nguyễn Ánh không thoát khỏi, nếu Nguyễn Ánh bị Văn Bình giết chết, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Linh Lan nuốt nước bọt, cổ họng nó khô rát. Nếu Nguyễn Ánh chết đi thì vua Gia Long sẽ không tồn tại, đất nước Việt Nam liệu có được sát nhập toàn vẹn lãnh thổ và tương lai có còn theo guồng quay cố định? Nếu tương lai bị thay đổi, liệu nó, những người bạn của nó, những người thân của nó có còn được sinh ra và tồn tại nữa hay không?Nếu ngay lúc này, Nguyễn Ánh chết đi, thì liệu nó có biến mất theo cùng cái tương lai bị lệch hướng đó chăng? Một giọt mồ hôi lạnh buốt lăn vào trong mắt Linh Lan, khiến cảnh vật trước mắt như nhạt nhòa. Một ý nghĩ lướt qua tâm trí nó, dù chỉ lướt qua thôi, nhưng nó sẽ quyết định Linh Lan sẽ làm thế nào trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này.

Trong khoảnh khắc, Linh Lan chau mày lại, tạo thành dấu ngã, khi phải thực hiện một quyết định khó khăn. Linh Lan nhắm chặt mắt, trái tim nó giằn xé. Sự mặc cảm tràn ngập trong tâm trí vì tội lỗi nó sẽ gây ra cho Văn Bình, cho binh lính trong Tây Sơn khiến hàng mi dài của nó run rẩy. Mái tóc dài bay trong gió lạnh, bóng dáng nhỏ bé như nghiêng ngả trong đêm. Đột ngột, Linh Lan mở bừng mắt, sự kiên nghị cháy trong đôi mắt đen lung linh, như soi sáng cả mặt nước sông Lật. Hít một hơi dài, Linh Lan nắm chặt thanh trường kiếm trong tay. Ánh kiếm bạc phản chiếu lửa trong đôi mắt, Linh Lan tung chân nhảy lên thuyền của Nguyễn Ánh, tay còn lại dùng bao kiếm, đánh ngã hai ba viên lính Nguyễn trên thuyền để tiến đến gần Văn Bình.

- Nguyễn Ánh, hôm nay tôi quyết trả hết những gì anh đã gây ra cho tôi!!

Đang dồn Nguyễn Ánh sát vào trong, chỉ còn một chiêu nữa là sẽ đoạt lấy mạng của vị chúa trẻ, Văn Bình nhíu mày khi một giọng nói bất thần vang lên, sau đó là một bóng dáng nhỏ bé lao vào Nguyễn Ánh. Nhận ra đó là Linh Lan, sự ngạc nhiên hiện rõ trong đôi mắt Văn Bình, mũi đao đang đâm tới của anh vội dừng lại trong tích tắc rồi chuyển hướng, bởi cứ đà đó lao tới, người bị thương chắc chắn là Linh Lan.

Thấy Linh Lan lao vào giữa cuộc chiến, miệng đòi trả hết những ân oán trước đây, sát khí tỏa ra ngùn ngụt, đôi mắt nâu của Nguyễn Ánh chợt tối lại, chỉ trong thoáng qua, rồi lại trong suốt như lúc ban đầu. Không màng đến biểu hiện của Văn Bình và Nguyễn Ánh, bất chấp hành động mình gây ra sẽ để lại hậu quả, thanh kiếm trong tay Linh Lan lấp loáng. Nó tấn công Nguyễn Ánh dồn dập, chiêu nào chiêu nấy đều nhắm vào yếu huyệt trên người anh. Nó bây giờ như đang thí mạng với Nguyễn Ánh, trong khi những đường kiếm của anh lại không động đến những yếu huyệt trên người nó, nhưng mặt khác lại gây ra những vết thương trên người tuy không sâu, nhưng đủ để máu chảy và tạo thành những vết sẹo khó phai sau này.

Nhìn khắp người Linh Lan đầy thương tích, nhưng ngược lại nó không hề có ý định dừng tay, mà vẫn liên tục tấn công, Văn Bình lo lắng. Thanh Ô Long đao trong tay anh trễ xuống để xác định phương hướng, rồi đột ngột điểm về phía Nguyễn Ánh để cứu lấy Linh Lan. Vốn dĩ, anh nghĩ rằng làm thế, Nguyễn Ánh sẽ thôi không truy kích Linh Lan mà quay lại đỡ đường đao của anh, nhưng mọi chuyện lại diễn ra hoàn toàn khác hẳn. Nguyễn Ánh để mặc thanh đao chém một nhát vào bả vai, máu tuôn ướt áo, nhưng bên cạnh đó anh cũng kịp thời hất tung thanh kiếm của Linh Lan rơi xuống sàn thuyền, sau đó một tay ôm lấy thắt lưng nó, tay còn lại kề ngay lưỡi kiếm vào cổ nó. Tất cả chỉ diễn ra trong cái chớp mắt, nhưng rất may là cái chớp mắt đó đủ để Văn Bình kịp thời thu ngay đao về. Nếu đường đao của anh tiếp tục thừa thắng xông lên, đâm thẳng vào Nguyễn Ánh, tất Linh Lan cũng sẽ mất mạng, mà anh thì không muốn như thế bao giờ.

Nhác thấy chủ tướng khựng lại, quân Tây Sơn ngạc nhiên. Nhìn Linh Lan đang ngọ nguậy, chống cự kịch liệt khi bị Nguyễn Ánh khống chế và phần Nguyễn Ánh đã bị thương không nhẹ, họ liền xông về phía anh. Thấy tình hình nguy kịch, rất có thể sự vận động của binh lính sẽ làm Nguyễn Ánh xuống tay với Linh Lan, Văn Bình cau mày quát lớn.

- Lùi lại!

Đang nhất tề xông về phía Nguyễn Ánh, quân Tây Sơn đều khựng lại. Họ đưa mắt về phía Văn Bình rồi vội vàng lùi xuống theo hiệu lệnh của anh, lòng ngơ ngác vì không hiểu cô gái này quan hệ như thế nào đối với chủ tướng mà người lại lo lắng cho cô ta đến thế. Cục diện đã thay đổi, bây giờ lợi thế đã nghiêng về phía Nguyễn Ánh. Nhận ra sự nôn nóng và lo lắng trên gương mặt điềm tĩnh của Văn Bình, Nguyễn Ánh nhếch môi. Một người xưa nay vào sinh ra tử vẫn thản nhiên như không, nay lại vì cô gái này mà nôn nóng đến thế, cô gái này quả nhiên rất quan trọng đối với hắn ta.

Nguyễn Ánh mỉm cười, đôi mắt lấp lánh những tia nhìn giễu cợt khi nhìn thấy sự lo lắng của Văn Bình. Cánh tay đang ôm Linh Lan vô thức xiết chặt lại, khiến Linh Lan cảm thấy ngột ngạt, khó thở. Nó vùng vẫy, cố thoát ra khỏi gọng kềm đang siết chặt lấy, nhưng vẫn không ăn thua gì.

- Thả tôi ra! Thả tôi ra mau!

Không màng đến phản ứng của Linh Lan, đôi mắt Nguyễn Ánh vẫn quan sát nhất cử nhất động của Văn Bình. Vết sẹo trong lòng bàn tay anh chưa phai mờ, như nhắc nhở anh về ngày hôm ấy. Ngày hôm ấy, cô gái này đã leo lên vọng cao, tuyên bố với cả thiên hạ cô ta thích gã Long Nhương tướng quân đó, chưa hết, cô ta lại còn ôm ấp hắn, ngay trước mặt anh, cứ như thể đang ở trong phòng riêng chỉ có hai người với nhau. Từng ký ức tái hiện lại trong đầu Nguyễn Ánh, chậm chạp, sống động và rõ nét hơn bao giờ hết. Bờ vai anh máu tuôn ướt áo, nhưng anh lại không hề cau mày. Một tia sáng đột ngột lóe lên trong đôi mắt, Nguyễn Ánh xiết chặt tấm thân mềm mại bằng cánh tay bị thương, bờ môi thanh tú lướt trên mái tóc dày đen nhánh, rồi hôn một cái thật kêu vào má linh lan, khiến nó giật bắn mình, sững sờ.

Đang bụng như lửa đốt khi trận chiến tưởng chừng như đã kết thúc, lại rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan vì sợ Linh Lan sẽ mất mạng, Văn Bình sa sầm mặt xuống khi chứng kiến hành động ấy của Nguyễn Ánh. Thanh đao Ô Long trong tay anh run lên, đôi mắt tối lại, trái tim anh gõ nhịp liên hồi, từng mạch máu căng phồng lên, tưởng chừng như sắp vỡ tung. Quan sát tất cả những biểu hiện ấy, Nguyễn Ánh cười nhạt, rồi đột ngột vung kiếm tấn công Văn Bình, trong khi tay còn lại vẫn ôm lấy Linh Lan, không rời. Một cơn gió ào tới, cảnh vật trước mắt Văn Bình như một màn sương che phủ, chỉ nghe một tiếng keng chát chúa vang lên, khi Văn Bình định thần lại thì thấy Phan Văn Lân đã kịp thời ngăn chặn đường kiếm của Nguyễn Ánh trong tích tắc.

Trên chiến trường, điều tối kỵ nhất là để phân tâm, vậy mà một vị tướng dày dạn chinh chiến như Văn Bình lại phạm phải điều cấm kỵ đó. Trong đầu vẫn chưa hết choáng váng vì nụ hôn của Nguyễn Ánh dành cho Linh Lan ngay trước mặt mình như một lời thách thức, Văn Bình đã không phản ứng kịp khi Nguyễn Ánh đột ngột tấn công. Phần không nghĩ Nguyễn Ánh lại táo bạo đến thế, phần vì chủ tướng ra lệnh lùi xuống, quân Tây Sơn không kịp trở tay. Cũng may có Phan Văn Lân bên cạnh ra đỡ kịp thời, chứ nếu không, Văn Bình cũng sẽ lãnh một nhát kiếm chí mạng trên vai như vừa rồi.

Chứng kiến hành động của Nguyễn Ánh, mồ hôi Linh Lan toát ra, ướt đẫm lưng áo. Tất cả câu chuyện này là một màn kịch do nó dựng lên để mở con đường thoát thân cho Nguyễn Ánh, nhưng không ngờ lại gây ra hậu quả nặng nề như thế này. Ban nãy, khi ở trên thuyền, Linh Lan đã quyết định sẽ cứu Nguyễn Ánh, cũng là cứu lấy mạng mình cùng những người thân. Nó quyết định giữ cho lịch sử không bị xáo trộn nên mới nhằm Nguyễn Ánh mà tấn công quyết liệt như thế. Nhìn vết thương trên vai Nguyễn Ánh khi bị thanh Ô Long đao gây ra, Linh Lan lo lắng do thấy máu tuôn từ vết thương ngày càng nhiều, thấm cả qua lớp áo của Linh Lan khi anh ôm chặt lấy nó. Giờ đây, mắt thấy Nguyễn Ánh suýt chút nữa là đả thương Văn Bình vì sự phân tâm của anh, Linh Lan biết mình không thể chần chừ thêm một giây một phút nào nữa. Nguyễn Ánh phải thoát khỏi đây. Vết thương trên vai anh cần phải được chữa trị nhanh chóng, Văn Bình cũng sẽ không gặp nguy hiểm nếu Nguyễn Ánh lại tiếp tục tấn công. Quyết định nhanh trong đầu, Linh Lan cắn chặt môi, thò tay vào trong áo. Trên thuyền đang lộn xộn, tất cả chỉ chăm chú vào Nguyễn Ánh nên không ai chú ý đến nó, thừa cơ Phan Văn Lân ngăn chặn một kiếm của Nguyễn Ánh, Linh Lan móc nhanh trong túi áo ra một vật và kín đáo thả xuống sàn. Chỉ nghe bùm một tiếng, một làn khói dày đặc từ trái cầu nhỏ bốc lên, tỏa ra và nhanh chóng bao phủ khắp con thuyền.

Không bỏ lỡ thời cơ, nhân lúc mọi người đang hoang mang, Linh Lan vòng tay ôm lấy Nguyễn Ánh, lao nhanh về phía trước, nơi con sông Lật cuồn cuộn trào dâng và nhảy xuống. Nhắm chặt mắt khi làn nước giá lạnh xộc vào mũi, thân thể Linh Lan chìm dần xuống dưới, nó cảm thấy khó thở vì không quen lặn xuống nước bao giờ. Và nhắc đến nước mới nhớ, Linh Lan không biết bơi.

Làn nước lạnh lẽo và tối tăm của con sông Lật nuốt chửng lấy Linh Lan. Nó nín thở theo thói quen, bằng mọi giá phải tìm cách trồi lên để hít lấy không khí vào buồng phổi, nhưng Linh Lan chưa kịp thực hiện ý định đó, thì đột ngột, một cánh tay vươn ra nắm lấy cánh tay nó. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra, Linh Lan cuống quýt khi thân thể nó ngày càng chìm sâu xuống dưới đáy. Qua làn nước mở ảo, lạnh buốt, Linh Lan lờ mờ nhìn thấy gương mặt thanh tú không rõ nét của Nguyễn Ánh đang kề sát mặt mình. Hình như anh bờ môi anh xuất hiện một nụ cười giễu cợt, tàn nhẫn, hình như đôi mắt nâu trong suốt của anh không còn êm ả và bình thản, hình như anh không có ý định để nó trồi lên, và hình như anh đang kéo nó thật sâu xuống dưới đáy, mãi mãi không nhìn thấy ánh mặt trời.

Linh Lan kinh hoảng. Lẽ nào Nguyễn Ánh lại muốn giết nó? Nhưng vì sao? Linh Lan hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nó chỉ biết Nguyễn Ánh không có ý định trồi lên, và cũng không để nó trồi lên khỏi mặt nước. Linh Lan sợ hãi, chới với, bàn tay nó vẫy vẫy trong làn nước như muốn níu kéo bất cứ vật gì có thể nắm được, nhưng vòng tay Nguyễn Ánh như một gọng kềm, khiến Linh Lan không thể nào thoát khỏi. Nó ho sặc sụa nhưng không thành tiếng, nó muốn kêu cứu nhưng nước sông lạnh buốt đua nhau tràn vào mũi, miệng khiến nó kinh hoàng.

Sau một hồi vẫy vùng tuyệt vọng, Linh Lan cảm thấy khó thở, lồng ngực nó đau nhói như bị hàng triệu cây kim châm vào, buồng phổi Linh Lan buốt từng cơn vì thiếu không khí, sức ép của nước ngày càng mạnh khiến toàn thân nó đau đớn, rã rời và như muốn vỡ nát ra thành từng mảnh. Đột ngột, Nguyễn Ánh thả lỏng tay, anh vòng tay ôm nó vào lòng, xiết chặt. Bờ môi thanh tú lướt trên vầng trán tái nhợt của Linh Lan, và rồi đặt lên đôi má của nó một nụ hôn dài. Trong giây phút ấy, Linh Lan không còn cảm nhận thấy gì nữa, đôi mắt nó mờ dần, mờ dần, hơi thở càng ngày càng rời xa nó. Đầu óc nó quay cuồng, tai nó đau nhói và cảnh vật trở nên mơ hồ, mơ hồ và tối đen như mực. Nó đã ngất, cánh tay buông thõng và thân thể trở nên bất động trong làn nước giá lạnh của sông Lật đêm khuya.

2.

"Bé Lan! Dậy đi! Trời sáng rồi"

Đang trong cơn mơ màng, Linh Lan giật mình choàng tỉnh khi tiếng gọi quen thuộc của Anh Tú vọng vào tai. Vừa mở mắt ra, nó đã vội nheo lại. Ánh sáng mặt trời trên cao rọi thẳng vào mắt nó, gay gắt và bỏng rát. Khi đã tỉnh hẳn, quen với ánh nắng sớm thì ký ức đêm qua lại ùa về, khiến Linh Lan giật thót mình và vội vàng ngồi dậy. Tưởng rằng mình đã chết, hóa ra vẫn còn sống sờ sờ, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm. Nhớ lại chuyện đêm qua, Linh Lan vẫn chưa hết rùng mình sợ hãi. Dưới làn nước sâu tăm tối, Nguyễn Ánh đã giữ chặt, không có ý định cho nó trồi lên, chỉ suýt chút nữa thôi là phổi nó đã nổ tung và chết ở đáy con sông dữ. Mỗi lần nghĩ đến cảm giác đứng giữa ranh giới sống chết đó, Linh Lan không khỏi cảm thấy mình còn may mắn lắm. Thở hắt ra một hơi, nó đưa mắt nhìn xung quanh. Ngay lập tức, đập vào mắt nó là hình ảnh Nguyễn Ánh đang ngồi dựa vào một thân cây cách nó vài bước chân, hai mắt nhắm hờ. Vết thương trên vai anh do thanh Ô Long đao gây ra giờ đang rỉ máu, vùng da xung quanh nơi thì tái nhợt, nơi lại thâm tím, khiến Linh Lan rùng mình.

Nhắc đến chuyện đó, Linh Lan lại thấy khổ tâm. Nó đã cứu Nguyễn Ánh, tức là đã phản bội lại Văn Bình. Nếu Văn Bình không biết chuyện này, nó còn có thể trở về Tây Sơn, nhưng nếu anh biết thì nó sẽ không còn cơ hội nào nữa. Nhưng cho dù anh không biết thì đã sao, nó sao có thể nhìn thẳng vào mắt anh, sao có thể đối diện với anh nữa khi bản thân đã gây ra một lỗi lớn. Nếu biết chuyện, anh chắc chắn sẽ thất vọng về nó, sẽ uổng công bấy lâu nay anh vẫn quan tâm chăm sóc nó. Và dù anh không khiển trách hay trừng phạt thì nó cũng sẽ đối mặt với bản án của lương tâm, và sẽ còn ray rứt đến suốt đời.

Nhìn vết thương trên vai Nguyễn Ánh, Linh Lan cắn môi. Với một người đa mưu túc trí, kiêu ngạo như Nguyễn Ánh, chắc chắn vết thương đó không làm khó được anh, còn nó, nó cũng không có ý định đi cùng anh. Chỉ đơn giản thấy anh gặp nguy hiểm ngay trước mắt thì nó cứu, nay anh đã bình yên, quân Tây Sơn không đuổi đến thì nó cũng chẳng có việc gì để mà ở lại. Linh Lan gật gù với ý nghĩ đó, nó đưa mắt liếc nhìn Nguyễn Ánh thêm một lần nữa. Thấy anh vẫn đang nhắm mắt, không động đậy, chỉ có những sợi tóc phất phơ trước trán, tự hồ đang ngủ, Linh Lan rón rén, nhón từng bước rồi quay người bỏ đi...

- Mau lên! Mau chia ra tìm kiếm hắn ta!

Vừa đi được ba bước, Linh Lan vội vàng quay dừng lại khi trông thấy những chiếc thuyền con từ xa đang tỏa ra khắp các ngõ ngách con sông để tìm kiếm. Tiếng lính tráng chia thành từng toán nhỏ thúc giục nhau, tiếng giáo khua lách cách, tiếng vạch cành cây, bụi cỏ, truy lùng kỹ càng khiến Linh Lan chưa kịp vui mừng đã thấy lo lắng. Quân Tây Sơn, họ đã đuổi đến đây.

Linh Lan kêu thầm trong bụng. Nó lướt mắt về phía Nguyễn Ánh thì thấy anh vẫn ngồi im, không nhúc nhích, tựa như chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Nó thì dễ rồi, chỉ cần nó kêu lên hay xuất hiện thì có thể theo họ về trại của Tây sơn, nhưng còn Nguyễn Ánh. Khó khăn lắm nó mới cứu Nguyễn Ánh thoát được tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, khó khăn lắm cả hai mới sống sót tới được đây, nếu như lúc này quân Tây Sơn mà bắt được Nguyễn Ánh, nếu như anh lại rơi vào tay họ một lần nữa thì những công lao trước giờ của nó sẽ trở thành công cốc. Nghĩ đến đó, Linh Lan không thể kiềm lòng thêm nữa, nó tiến về phía Nguyễn Ánh, lên tiếng thúc giục.

- Nguyễn Ánh, quân Tây Sơn đến kìa, anh mau chạy đi, nhanh lên!!

Lúc này, Nguyễn Ánh mới từ từ mở mắt ra. Đôi mắt nâu trong suốt lạnh băng. Linh Lan đang đứng trước mặt, mắt nhìn đăm đăm vào anh, gương mặt trái xoan đầy vẻ lo lắng, đôi mày liễu cau lại. Khoảng cách giữa anh và Linh Lan khá xa, nhìn khoảng cách đó, bờ môi Nguyễn Ánh nhếch lên, chẳng rõ đang cười hay đang mỉa mai. Đêm qua quân Nguyễn bị Tây Sơn tập kích nên không kịp trở tay, hai tháng xây dựng lực lượng chỉ trong một đêm đã tan rã. Nhờ đã có những bước tính toán từ trước, Nguyễn Ánh đã lên thuyền rút lui, nhưng có vẻ như lần này gã Long Nhương quyết không tâm không để cho anh thoát. Súng đại bác, hỏa hổ bắn như mưa về phía anh, binh lính vây chặt lấy anh, và nếu cô gái này không tự thân sa vào tay anh thì anh khó có thể thoát khỏi sự bủa vây dày đặc của quân thù lúc đó. Nắm chặt bàn tay, nơi vết sẹo vẫn chưa phai nhạt, anh nên cám ơn cô gái ấy hay là oán hận cô ta đây.

- Sao còn chưa đi?

Nhìn xoáy vào đôi mắt Linh Lan, Nguyễn Ánh hỏi, giọng anh lạnh lùng, tưởng chừng băng còn không lạnh được như thế. Cắn chặt môi, Linh Lan vội tiến về phía Nguyễn Ánh, một tay quàng qua lưng, tay còn lại đỡ anh đứng dậy. Nào ngờ, dù nó có cố sức cách mấy Nguyễn Ánh vẫn không dịch chuyển, cứ như thể anh là một hòn đá tảng, làm Linh Lan toát cả mồ hột. Chuyện gì thế? Chẳng lẽ Nguyễn Ánh không có ý định trốn đi, không lo cho tính mạng của mình hay sao?

- Có chuyện gì thì để nói sau, bây giờ thì anh phải mau đi thôi, quân Tây Sơn sắp đến rồi kìa!!

Dù cho Linh Lan xuống giọng năn nỉ, Nguyễn Ánh vẫn ngồi yên, không đứng lên. Anh thậm chí chẳng buồn nhúc nhích mặc cho Linh Lan ra sức kéo anh đứng dậy. Đột ngột, Nguyễn Ánh vươn tay, quàng qua vai và ghì chặt nó xuống, khiến gương mặt nó kề sát mặt anh. Nhìn thẳng vào mắt nó, Nguyễn Ánh nhếch môi, anh thì thầm.

- Cún con! Cô biết không, tôi không thể nào tha thứ chuyện cô đã ôm hắn ta trước mặt tôi, nhưng cô đã cứu tôi, và tôi là người ân oán phân mình. Nước sông Lật đủ để cô nhớ đến chuyện trong thành Gia Định và ánh nắng mặt trời đủ để trả ơn cứu mạng của cô. Bây giờ, giữa chúng ta không còn nợ nần nhau, sống hay chết là việc của tôi. Ở đây không có việc cho cô. Đi đi!!

Nhìn gương mặt thất thần của Linh Lan, Nguyễn Ánh cười nhạt. vòng tay anh dần nới lỏng ra, rồi đẩy Linh Lan sang một bên. Đôi mắt nâu trong suốt gợn sóng, tưởng chừng như vừa có cơn giông kéo qua nơi ấy, bóng tối chậm chạp phủ màu trong suốt bằng một vực sâu thăm thẳm mơ hồ.

Nghe những lời Nguyễn Ánh vừa nói, Linh Lan rùng mình, nó mở to mắt nhìn anh. Gương mặt thanh tú đang nở một nụ cười tàn nhẫn, đôi mắt nâu tối sẫm, lạnh lẽo bao phủ nó như nước sông Lật đêm qua. Bây giờ Linh Lan mới vỡ lẽ hết mọi chuyện. Nó không ngờ chuyện nó lợi dụng anh, "công khai tình cảm" đối với Văn Bình ở Gia Định đã làm Nguyễn Ánh khó chịu như thế. Chính vì nó đã phạm lỗi với anh nên anh đã cho nó nếm mùi thống khổ của cái chết trong làn nước mênh mông lạnh buốt để trừng phạt. Sau đó, cũng là anh cứu nó lên, cho nó nhìn thấy ánh mặt trời để trả ơn cứu mạng của nó đêm qua. Ân oán trả cùng một lúc, lại khiến người ta phải nhớ đến suốt đời, có lẽ điều này chỉ có ở Nguyễn Ánh mà thôi.

- Thôi được! Anh và tôi không còn nợ nần gì nhau. Chuyện hôm nay coi như là tôi tự nguyện, không cần anh trả ơn. Tôi năn nỉ anh đấy, bây giờ chúng ta phải đi nhanh trước khi quân Tây Sơn tìm đến. Có được không?

Giọng Linh Lan khẩn khoản, nó ôm lấy cánh tay Nguyễn Ánh, tay kia cố sức nâng anh lên. Những tưởng nó sẽ phải tốn khá nhiều công sức để thuyết phục Nguyễn Ánh, nào ngờ, Linh Lan vừa nói xong, Nguyễn Ánh đã đứng dậy, khiến nó loạng choạng mấy bước vì sức nặng của anh đổ dồn lên người.

Đưa mắt nhìn anh, Linh Lan mừng rỡ vì cuối cùng Nguyễn Ánh cũng đã nghe lời mình. Hơn ai hết, cả anh và nó đều biết quân Tây Sơn đang truy đuổi sát sao, thế nên phải tránh mạng lưới bao vây của họ xa chừng nào hay chừng đó. Chuyện suýt bị chết chìm ở sông Lật Linh Lan thôi không nhớ đến, nó phải đưa Nguyễn Ánh rời khỏi này, đến một nơi an toàn để chữa trị vết thương cho anh kịp thời. Tiếng bước chân bắt đầu gần lại, những chiếc nón tua đỏ của quân Tây Sơn thấp thoáng trong những tàn cây phía xa. Không chậm trễ, Linh Lan vội dìu Nguyễn Ánh đi vào rừng, lòng hy vọng trong rừng cành cây tua tủa, lá cây rậm rạp, chí ít có thể che khuất tầm nhìn của quân Tây Sơn.

Mặt trời lên cao dần, gương mặt Linh Lan đỏ hồng lên. Lớp lá dưới chân nó kêu lạo xạo, ánh nắng xuyên qua tàn cây tạo thành những vệt hình thù kì dị trên mặt đất. Dù đang rất mệt vì phải dìu thêm một người nặng gấp đôi mình, nhưng Linh Lan không than vãn một lời. Nó cố gắng dìu Nguyễn Ánh sao cho không động đến vết thương của anh, lại cố di chuyển thật nhanh, phòng quân Tây Sơn đuổi đến.

Vì đang bị thương, Nguyễn Ánh để cho Linh Lan dìu anh đi. Quàng tay qua bờ vai Linh Lan, anh gần như ôm trọn nó vào lòng. Nhìn sợi tóc mai bết vào hai vầng thái dương lấm tấm mồ hôi, đôi mắt kiên nghị nhìn thẳng về phía trước, bờ môi mím lại quyết tâm, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh lao xao, tựa sóng biển vỗ vào bờ cát rì rào. Cứ như thế, hai bóng người tựa vào nhau lặng lẽ đi trong rừng, chỉ có tiếng lá khô vỡ vụn dưới bước chân, tiếng gió luồn xào xạc và những giọt mồ hơi rơi trên nền đất mềm.

Do cả hai đi khá chậm, lại vừa đi vừa nghe ngóng động tĩnh, trời dần về chiều Linh Lan và Nguyễn Ánh mới tới được bờ một con sông. Đoạn sông này tên là Rạch Chanh, tuy không rộng nhưng khá sâu, nước xoáy khá dữ, trong khi Linh Lan không biết bơi và Nguyễn Ánh lại đang mang thương tích. Nhìn dòng nước in ráng chiều đỏ rực, đôi mắt Linh Lan thẫm lại, lung linh. Nó đang đứng tần ngần vì không biết phải định liệu như thế nào thì Nguyễn Ánh đã lên tiếng, giọng anh nhẹ như gió thoảng.

- Cô đi dọc bờ sông, xem có đàn trâu nước nào quanh đây không. Nếu có, chúng ta sẽ nhờ nó đưa qua sông!

Linh Lan gật đầu, nó lẳng lặng dìu Nguyễn Ánh dọc theo bờ sông, mắt không ngừng nhìn quanh, lòng hy vọng sẽ có đàn trâu nước nào đó theo lời anh nói. Quả thật Linh Lan không phải tìm lâu, trên bờ sông, có một đàn trâu nước to lớn đang nằm nghỉ ngơi cạnh một bụi cây gần đó. Nhìn đàn trâu nước nằm lim dim trên bờ, con nào con nấy lùi lũi, chiếc sừng cong nhọn hoắt, sẵn sàng húc thủng ruột bất cứ kẻ thù nào, Linh Lan lấy làm e ngại. Tuy chúng trông có vẻ hiền lành, chiếc đuôi ve vẩy, thong thả nghỉ ngơi, nhưng cứ nghĩ đến việc bầy trâu nước đó nổi điên mà lao lên tấn công thì có cho vàng nó cũng không dám đến gần.

Trái ngược với vẻ thận trọng của Linh Lan, Nguyễn Ánh lại vô cùng bình thản. Linh Lan thận trọng dìu anh lại gần một con trâu nước với sự lo lắng. Nguyễn Ánh ngồi xuống, đôi mắt nâu ấm lại, tay anh chạm vào mình con trâu rồi vỗ nhẹ cùng với sự dịu dàng. Như cảm nhận được sự dịu dàng, ấm áp đó, con trâu nước xác nhận người ngồi trước mặt không có ý chọc giận hay làm nó sợ hãi. Con trâu ngước đôi mắt lên nhìn anh, chiếc đuôi ve vẩy, ve vẩy, hai tai vểnh lên như đang nghe ngóng gì đó. Nguyễn Ánh mỉm cười, anh quay sang Linh Lan và đột ngột bế thốc nó, đặt ngồi lên lưng trâu. Đến khi Linh Lan kịp định thần lại thì Nguyễn Ánh đã ngồi sau lưng nó từ bao giờ.

Con trâu nước ngúc ngoắc đầu, rồi chậm rãi đứng lên trước sự lo lắng tột độ của Linh Lan. Con trâu này to nhất, khỏe nhất trong số trâu nằm trên bờ nên sức nặng của Linh Lan và Nguyễn Ánh cộng lại cũng không làm khó được nó. Trước nay, Linh Lan chỉ quen cưỡi ngựa, nay đột nhiên cưỡi trâu, lại là một con trâu nước chưa thuần chủng, không có dây cương điều khiển, thân to bè, trơn tuột, nên lòng nó rất hồi hộp và lo lắng. Theo hiệu lệnh của Nguyễn Ánh, con trâu lững thững bước xuống nước, mỗi bước đi của nó, người Linh Lan lại nghiêng nghiêng tưởng chứng như sắp ngã, muốn bám chặt cũng không biết phải bám vào cái gì. Dù Nguyễn Ánh đã vòng tay qua thắt lưng nó, ôm lấy nó, tạo thành một vành đai chắc chắn để nó khỏi ngã, nhưng ngực Linh Lan vẫn phập phồng lo lắng. Vô thức, nó tựa hẳn vào lòng anh để tìm chỗ dựa an toàn.

Ngồi trên lưng trâu, Linh Lan phóng tầm mắt qua bờ bên kia. Rừng cây xanh xanh nhạt nhòa trong ánh hoàng hôn, cơn gió mát rượi luồn vào mái tóc khiến cõi lòng nó mênh mang. Ngồi phía sau Linh Lan, Nguyễn Ánh không nói một lời nào. Anh nhìn về phía trước, đôi mắt nâu trong suốt bàng bạc con nước, lấp lánh, loang đỏ ánh chiều tà, mùi hương hoa bưởi theo gió nhẹ đưa. Chiều hoàng hôn, nước sông bao giờ cũng chảy nhanh hơn, mạnh hơn, mặt sông không hề êm ả, tựa như những năm tháng buôn ba lên rừng xuống bể của anh.

Đến giữa đường, đột ngột, Nguyễn Ánh nhíu mày khi nghe tiếng nước reo ùng ục, gió thổi mạnh, báo hiệu thời khắc thủy triều dâng lên. Đúng như anh suy nghĩ, nước sông bỗng chảy gấp gáp, sự hiền hòa biến mất, thay vào đó là con nước ngày càng dâng cao và chảy xiết. Ban đầu, nước sông chỉ đến bụng trâu, sau đó đã xấp xỉ lưng trâu và thoáng chốc thì trâu đã mất dạng và bị cuốn trôi trong làn nước dữ. Thủy triều đã về.

Đang thơ thẩn ngắm mây trời, lòng ngổn ngang trăm mối khi nghĩ về Văn Bình, Linh Lan giật mình khi nhìn thấy thủy triều dâng lên một cách nhanh chóng. Nước triều như cơn lốc, ào ạt cuốn lấy con trâu nước to khỏe, nhấn chìm nó trong dòng chảy xiết. Trâu chìm, Linh Lan chới với, nỗi ám ảnh sông Lật lại tái diễn. Hai tay nó quơ quào trong không khí, đầu óc choáng váng, mũi miệng sặc sụa do nước sông đua nhau tràn vào.

Bụng Linh Lan quặn lại, nó thảng thốt, miệng muốn kêu cứu nhưng không thể, nước triều dâng cao, trắng xóa, đôi mắt nó nửa chìm nửa nổi trong dòng nước. Linh Lan mất phương hướng, nó như một chiếc lá lay lắt giữa dòng, không biết nơi nào là bờ. Giữa lúc nó tuyệt vọng vì không thể bám víu bất cứ vật gì, đột nhiên, một cánh tay vòng qua thắt lưng Linh Lan, kéo nó trồi lên khỏi mặt nước. Không cần phải suy nghĩ, Linh Lan cũng biết ngay vòng tay đó là của ai. Trong khoảnh khắc đó, chưa bao giờ Linh Lan cảm thấy mừng rỡ như lức này.

Khi con trâu nước bị thủy triều cuốn đi, Linh Lan và Nguyễn Ánh ngay lập tức chìm trong nước. Thấy Linh Lan ngày càng bị nước thủy triều cuốn xa, chỉ còn lại hai cánh tay vùng vẫy, ngay lập tức, Nguyễn Ánh lao nhanh về phía nó. Dòng chảy mạnh mẽ không cản nổi anh, mực nước dâng cao không thể nhấn nhìm bàn tay anh nắm lấy Linh Lan và kéo nó về phía mình. Ôm Linh Lan vào lòng bằng cánh tay bị thương, Nguyễn Ánh chống chọi lại cơn nước lũ, dốc sức vượt qua nó, không để bản thân cùng Linh Lan bị cuốn trôi. Thủy triều bọt tung trắng xóa, nước reo hò, mặc sức nhào nặn hai người trong đôi bàn tay đỏ ngầu của mình.

Linh Lan và Nguyễn Ánh như chiếc lá nửa chìm nửa nổi trong nước, sau những phút nỗ lực, cuối cùng Nguyễn Ánh đã đưa được Linh Lan lên bờ. Dường như mọi sức lực của anh đều đổ vào dòng thủy triều để giữ lấy Linh Lan và sinh mạng cho mình, nên vừa đặt chân được lên bờ bên kia, bỏ lại Rạch Chanh đang tức giận gào thét, Nguyễn Ánh liền thả lỏng cơ thể. Anh ngã ra đất, kéo theo Linh Lan ngã nhào vào vòng tay của mình. Nhìn áng mây chu sa kéo thành một vệt dài trên bầu trời, nhuộm đỏ cả không gian, Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười kiêu ngạo. Anh chợt buông lời, dù giọng nói không còn mấy sức lực.

- Lâu lắm rồi tôi mới bơi một trận thỏa thích như thế này.

Tương tự Nguyễn Ánh, cuộc vật lộn giữa dòng nước dữ đã rút cạn sức lực của Linh Lan nên nó không còn chút lực nào để kháng cự. Quần áo nó ướt sũng nước, chiều hoàng hôn gió lạnh, thấm vào da thịt tê buốt khiến Linh Lan rùng mình nhưng khi nghe lời Nguyễn Ánh vừa mới nói, nó phải mở to mắt vì kinh ngạc. Vai mang thương nặng, lại chống chọi với cơn thủy triều hung bạo, ấy thế mà đối với Nguyễn Ánh, đó đơn giản chỉ là một chuyến bơi lội thỏa thích. Trong ranh giới sống chết như thế mà Nguyễn Ánh vẫn bình thản như không, chẳng lẽ chính tính cách này đã tạo nên một hoàng đế Gia Long trong lịch sử hay sao?!

Mặt trời đã lặn khuất, bóng chiều nhanh chóng phủ xuống khu rừng. Bản nhạc côn trùng bắt đầu trỗi lên, đánh nhịp nỉ non khiến đêm càng thêm buồn thảm. Đưa mắt ngước nhìn những ngôi sao trên cao, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh như trở thành hai vì sao lấp lánh. Người con gái trong vòng tay anh đã mệt mỏi thiếp đi, tấm thân mềm mại rúc vào lòng anh tìm hơi ấm như một chú chim non. Cảm nhận từng đường nét trên gương mặt Linh Lan với những ngón tay, Nguyễn Ánh nhẹ mỉm cười, nụ cười vô cùng dịu dàng nếu Linh Lan có thể nhìn thấy. Qua cảm nhận của bàn tay, đôi mắt đen đang nhắm, vành mi hơi động đậy tựa như đang mơ thấy gì, đôi má bầu bĩnh, bờ môi mềm mại hơi hé mở, vương những giọt nước như cánh hoa đọng sương...

Luồn tay vào mái tóc mềm như suối đổ dài trên vai rồi vuốt nhẹ, Nguyễn Ánh lại nhìn lên trời cao. Vết thương trên vai trở nhức nhưng anh không để ý đến. Gió thổi mênh mang. Những mảng ký ức vụn vặt đã qua lại tìm về. Phụ thân qua đời khi anh còn rất nhỏ, hình dáng của phụ thân như thế nào anh không nhớ, chỉ nhớ ông có đôi mắt lấp lánh như ánh sao. Đã lâu rồi anh không thảnh thơi nằm ngắm sao trời. Bầu trời lung linh như khi ở Long Xuyên, nhưng có điều, đêm nay, anh không phải chỉ có một mình. Và hôm nay, chưa bao giờ anh được bơi thỏa thích như thế này.

oOo

Linh Lan choàng tỉnh giấc, nó đưa tay dụi mắt thì nhận ra trời vẫn còn tối, trên cao chỉ có vầng trăng dịu dàng tỏa sáng. Nhận ra mình đang nằm trong vòng tay Nguyễn Ánh, Linh Lan giật mình ngồi dậy, nó vỗ vỗ tay lên trán và nhớ lại mọi chuyện xảy ra đến với mình. Ban chiều, sau khi chống chọi với dòng thủy triều, Linh Lan đã kiệt sức nên ngủ thiếp đi, đến khi mở mắt dậy thì điều đầu tiên mà nó nhìn thấy lại là gương mặt thanh tú của Nguyễn Ánh. Anh đang ngủ, dường như ngủ rất say. Trông anh lúc này vô cùng dịu dàng chứ không kiêu ngạo, tàn nhẫn như lúc bình thường. Linh Lan hơi ngần ngừ, nó không đánh thức anh dậy vì gương mặt nhẹ nhõm ấy, nhưng đồng thời cũng xích lại gần anh để xem xét vết thương trên vai như thế nào.

Bị thanh Ô Long đao chém vào, may thay vì lúc đó Nguyễn Ánh đang kề kiếm vào cổ Linh Lan nên Văn Bình đã không xuống tay quá nặng, nhưng thế thôi cũng đủ tạo thành một vết cắt dài, và sâu trên bờ vai anh. Hai lần ngâm mình dưới nước, vết thương chẳng còn chảy máu nhưng trắng nhợt, trở nặng. Linh Lan cắn nhẹ môi. Bằng mọi giá, nó phải đưa Nguyễn Ánh đến thầy thuốc để chữa trị vết thương kịp thời, chứ nếu để lâu e vết thương sẽ biến chứng, không nặng cũng trở thành nặng, không nguy hiểm tính mạng cũng thành nguy hiểm, đến lúc đó thì Gia Long hoàng đế cũng sẽ không còn.

Đang cúi xuống xem xét vết thương của Nguyễn Ánh, Linh Lan lúng túng và lùi lại một bước khi anh đột ngột mở mắt. Còn chưa kịp khỏa lấp sự lúng túng của mình thì cái bụng một ngày trời không ăn không uống gì của nó chợt kêu rồn rột. Có lẽ, tiếng bụng sôi của nó rất lớn, đến nỗi Nguyễn Ánh cũng nghe thấy và đưa mắt nhìn nó. Đôi mắt anh nheo lại, nhìn Linh Lan chế giểu, khiến nó bối rối, dời mắt nhìn xuống ngón tay của mình vẽ thành từng vòng lằn ngoằn lên ống tay áo. Một nụ cười phớt qua bờ môi thanh tú của Nguyễn Ánh, anh lại cất tiếng, lần này đã mềm mỏng, thôi không lạnh lùng như lúc ban đầu.

- Quanh đây có dâu đất (*), cô có thể hái về ăn.

- Sao anh biết quanh đây có dâu đất?

- Trước đây tôi đã đi ngang qua vùng này một lần.

Khi nói câu ấy, đôi mắt trong suốt của Nguyễn Ánh thẫm lại, bóng tối kéo qua đó như một vệt mây đen trên bầu trời, rất nhanh rồi biến mất. Biết có hỏi Nguyễn Ánh cũng không nói, Linh Lan chỉ gật đầu rồi quay lưng đi vào rừng, mắt bắt đầu tìm kiếm trái dâu đất để ăn lót lòng.

Nguyễn Ánh nói xung quanh có dâu đất, nhưng Linh Lan không ngờ nó lại ở sâu đến thế. Vẹt những cành cây, bụi cỏ, bị gai cào rách cả tay, trời lại tối, chỉ dựa vào mỗi ánh trăng, khó khắn lắm Linh Lan mới nhìn thấy từng chùm dâu đất bám chặt vào cành cây trên cao. Nuốt nước miếng trong miệng, Linh Lan xắn tay áo nhặt vài ba hòn đá dưới chân, mắt nheo lại định vị trí rồi bắt đầu ném. Ban đầu,dù Linh Lan ném rào rào, nhưng từng chùm dâu đất vẫn cứng đầu bám chặt vào cành, khiêu khích tại nghệ của nó. Vì đã có kinh nghiệm sau vài lượt ném đầu, cuối cùng, Linh Lan cũng ném trúng được bốn chùm dâu rơi xuống. Vội vàng kéo vạt áo, thu nhặt những trái dâu đất lăn lóc dưới đất, tay Linh Lan dính đầy mủ, mồ hôi trên trán lấm tấm. Nhẩm tính ngần này là đã đủ cho nó và Nguyễn Ánh, Linh Lan ba chân bốn cẳng chạy về chỗ cũ vì sợ Nguyễn Ánh sẽ phải chờ lâu.

Thả bốn chùm dâu đất xuống trước mặt Nguyễn Ánh, Linh Lan cười rạng rỡ, thế nhưng nó còn chưa kịp chia ra thì anh đã lấy tất cả về phía mình, rồi sau đó bẻ từng trái ra và chia cho cả hai. Ngớ người ra vì không hiểu tại sao Nguyễn Ánh lại làm như thế, Linh Lan im lặng, theo dõi từng hành động của anh, đến khi nhìn thấy bên Nguyễn Ánh thì nhiều, bên nó thì ít, Linh Lan nhíu mày vì kết quả không như nó mong muốn. Rõ ràng là nó muốn ăn phần nhiều hơn.

Dù hơi bất mãn trong lòng, nhưng Linh Lan không nói ra. Đơn giản Nguyễn Ánh bây giờ là người đang bị thương nặng, nhường anh một chút, để anh ăn nhiều hơn nó một ít cũng không sao. Nó khỏe mạnh, chỉ bị xây xát không đáng kể, đói thì tự động đi hái thêm ăn, chứ Nguyễn Ánh thì với cái vai trái thương tích thế kia làm sao đi nổi. Với suy nghĩ đó, Linh Lan thôi không âm ức nữa, nó ngoan ngoãn bóc vỏ dâu đất ra, rồi bắt đầu ăn. Vị ngọt dịu của dâu đất khiến Linh Lan quên đi cái đói đang hoành hành trong cơ thể. Nhìn Linh Lan ăn ngon lành, đôi má ửng hồng, Nguyễn Ánh chợt mỉm cười, nụ cười nhẹ khiến gương mặt anh trở nên dịu dàng lạ thường.

- Cún con, cô biết tôi đang nghĩ gì không?

- Anh nghĩ gì sao tôi biết được - Nghe Nguyễn Ánh hỏi lại, Linh Lan lắc đầu.

- Tôi đang nghĩ nếu tôi yêu cô, thì sẽ rất phiền phức. Cho nên, đừng khiến tôi yêu cô, bằng không cô sẽ gánh lấy hậu quả. Tôi đã cảnh báo rồi đấy!

Nguyễn Ánh vừa nói vừa cười, đôi mắt nâu lấp lánh tia sáng, nhưng lại rất đỗi dịu dàng, trái hẳn với vẻ lạnh lùng tàn nhẫn ban sáng, khiến Linh Lan chẳng thể hiểu nổi con người này thật sự nghĩ những gì. Tốt nhất không nên đụng đến anh ta vì chẳng ai biết anh ta sẽ làm gì nếu chẳng may nổi giận. Linh Lan nhủ thầm, nhưng nhớ đến lời cảnh báo của Nguyễn Ánh, nó lại ngẩn ngơ. Gì thế nhỉ, Nguyễn Ánh đã nói nó đừng khiến anh yêu nó, nếu anh yêu nó chắc chắn nó sẽ gánh lấy hậu quả. Hừ! Gánh hậu quả gì chứ, nó gặp anh đã là gánh lấy hậu quả rồi, chứ mà còn nói đến chuyện yêu hay không yêu.

Nghĩ đến ý tưởng gặp anh là gánh lấy hậu quả, Linh Lan chun mũi. Nuốt vội hột dâu đất xuống cổ họng, xém chút nữa nó đã bị sặc vì nhớ đến những gì đã nói với Anh Tú, khi cả hai còn ở hiện tại. Lần đó, lúc học về trận Đống Đa - Ngọc Hồi của Quang Trung, Anh Tú đã nói rằng Quang Trung dù nhiều chiến công hiển hách, nhưng người lên ngôi thống nhất thiên hạ lại là Gia Long. Anh Tú khi đó đã hỏi nó rằng, nếu một ngày nào đó nó gặp được Quang Trung và Gia Long, nó sẽ đi theo ai. Khi ấy, dù Linh Lan đã cười vì câu hỏi mang tính trừu tượng của anh mình, nhưng nó cũng trả lời vì câu hỏi ấy đối với nó chẳng khó khăn gì.

"Nếu có một ngày gặp được Gia Long và Quang Trung... "

Và bây giờ, người đang ngồi trước mặt nó chẳng ai khác là chính là Gia Long hoàng đế, người sẽ thống nhất đất nước, lập ra vương triều Nguyễn. Nó đã gặp được Gia Long rồi, đã ở bên cạnh rồi và cũng đã trải qua hoạn nạn rồi, liệu nó sẽ làm gì với lời tuyên bố của mình đây....

"... Thì em nhất định sẽ theo Gia Long"

Chú Thích:

(*) Trái dâu đất : Là trái bòn bon đó các bạn ^^. Loại trái này có mùa chín từ tháng 5 đến tháng 10. Là một loài trái gắn liền với Gia Long, sau này dc ông ban cho cái tên Nam Trân, tức báu vật phương Nam.

Spoiler tiếp theo

Lướt mắt về phía Linh Lan đang ngồi lay hoay giặt đồ phía sau vườn, Nguyễn Ánh mỉm cười. Bóng nắng lung linh soi vào đôi mắt anh.

- Cô ấy là vợ tôi.

Bonus đoạn nhạc cảm hứng trong chap này. Cây cà na _ Đồng Lệ

Ngồi trên lưng trâu, Linh Lan phóng tầm mắt qua bờ bên kia. Rừng cây xanh xanh nhạt nhòa trong ánh hoàng hôn, cơn gió mát rượi luồn vào mái tóc khiến cõi lòng nó mênh mang. Ngồi phía sau Linh Lan, Nguyễn Ánh không nói một lời nào. Anh nhìn về phía trước, đôi mắt nâu trong suốt bàng bạc con nước, lấp lánh, loang đỏ ánh chiều tà, mùi hương hoa bưởi theo gió nhẹ đưa...

Tags: Sương3.

Trời vừa tờ mờ sáng, Nguyễn Ánh trở sốt. Ngồi bên cạnh anh, Linh Lan lo sợ khi toàn thân Nguyễn Ánh nóng bừng như có lửa đốt, trong khi bàn tay lại lạnh ngắt, dấu hiệu của cơn sốt cao.

Biết vết thương của Nguyễn Ánh vì không được chăm sóc cẩn thận, dẫn đến cơn sốt, bụng Linh Lan lo ngay ngáy. Nguyễn Ánh dường như đang chìm vào giấc mơ. Không biết trong mơ anh đã thấy những gì mà nét mặt biến đổi vô cùng phức tạp, khi ưu phiền, khi băng giá, khi lại cuồng nộ, toàn những biểu hiện từ trước đến nay Linh Lan chưa thấy bao giờ. Trong vô thức, bàn tay anh xiết tay Linh Lan, chặt đến nỗi nó phải nhăn mặt vì đau.

- Nguyễn Ánh, anh sao thế? Anh có nghe tôi nói không?

Linh Lan gắng sức lay Nguyễn Ánh nhưng vẫn không có động tĩnh gì. Dường như anh đang chìm sâu trong giấc mơ của mình, chỉ có đôi mày kiếm là hằn sâu như một vết cắt, làm Linh Lan hơi hoảng. Ngẩng đầu nhìn quanh, trong đôi mắt Linh Lan là sự tuyệt vọng. Nguyễn Ánh đang gặp nguy hiểm nhưng quanh đây toàn rừng với rừng, chỉ có tiếng chim hót khan chứ chẳng thấy bất cứ bóng dáng ai lai vãng, ngoài nó và anh. Chẳng lẽ số phận của Gia Long đến đây là hết sao, chẳng lẽ lịch sử sẽ thay đổi, chẳng lẽ sau tất cả cố gắng, những người thân yêu của nó vẫn sẽ biến mất sao?

Linh Lan rùng mình, nó vội lắc đầu để trục xuất những ý nghĩ không lành đó. Tháo chiếc thắt lưng màu thiên thanh, Linh Lan ra bờ sông, nhúng chiếc thắt lưng vào nước, rồi sau đó nhanh chóng quay trở lại, thấm nước lên mặt nhằm cố gắng giảm nhiệt cho Nguyễn Ánh. Tình trạng bây giờ của Nguyễn Ánh vô cùng nguy kịch, anh đang chìm vào cơn mê, trán nóng ran, đôi môi lại khô khốc nứt nẻ, dấu hiệu của thiếu nước. Không chậm trễ, Linh Lan vội bẻ một ống sậy làm ống hút, sau đó chọn những chiếc lá to còn đọng sương sớm mát lạnh rồi rót vào miệng cho anh. Độ năm sáu lần truyền nước, trông tình hình của anh cũng không khá hơn là bao, tính mạng vẫn như chỉ mành treo chuông, điều đó làm Linh Lan rối rắm vô cùng.

Không thể ngồi yên ở đây chờ thần chết mang Nguyễn Ánh đi, cũng không thể trông mong ai đó đi ngang qua vùng hẻo lánh này, Linh Lan đành phải tự thân vận động, nó sẽ cõng anh đi tìm người giúp. Cố gắng đỡ Nguyễn Ánh ngồi dậy mà không động vào vết thương, Linh Lan thận trọng quàng hai tay anh qua vai mình, rồi loạng choạng đứng lên. Do anh to cao, trong khi Linh Lan lại thấp bé, nó không thể cõng Nguyễn Ánh hẳn lên được, hai chân của anh thõng xuống, kéo dài trên mặt đất. Bặm môi để chịu đựng sức nặng từ cơ thể Nguyễn Ánh dồn lên người, Linh Lan run rẩy, bước từng bước một, dò dẫm đi về phía thượng nguồn, lòng mong manh hy vọng sẽ tìm thấy một ai đó có thể giúp đỡ tình trạng bi đát của cả hai.

Đi được một quãng, bờ vai Linh Lan đã nặng trĩu, đầu nó choáng váng, chân nó không còn sức để nhấc lên, đành ngồi xuống nghỉ ngơi dăm phút. Đặt Nguyễn Ánh nhẹ nhàng dựa vào thân cây, Linh Lan ngồi phệt ra đất thở dốc, tay nó đấm nhẹ lên bờ vai đau nhức. Từng khớp xương trong người nó rã rời, lưng áo ướt đẫm, những giọt mồ hôi mặn như muối biển chảy vào trong mắt, cay xè.

Dù đang rất mệt, nhưng nó vẫn không quên giữ cho Nguyễn Ánh không bị mất nước. Tiếp tục đi tìm những chiếc lá to đọng sương sớm, Linh Lan dùng ống sậy để tiếp nước cho anh. Sau khi đã đắp khăn lên trán Nguyễn Ánh để hạ nhiệt, Linh Lan lại cõng anh men theo con sông để tìm sự sống. Mắt Linh Lan hoa lên, cảnh vật trước mắt nó như nhạt nhòa.

Lần thứ tư trong suốt quãng đường, Linh Lan lại đặt Nguyễn Ánh nằm xuống và truyền nước. Nhìn vết thương thâm tím, bắt đầu sưng phồng lên trên vai anh, Linh Lan không khỏi chua xót. Tình thế bây giờ vô cùng ngặt nghèo, Nguyễn Ánh đang có nguy cơ đối mặt với tử thần, sức lực nó thì sắp cạn kiệt, vậy mà khung cảnh xung quanh vẫn không thay đổi. Vẫn rừng cây ấy, vẫn con sông ấy, chẳng có lấy một mái nhà tranh, làm Linh Lan tưởng chừng mãi từ nãy tới giờ nó vẫn chưa nhích thêm được bước nào.

Biết có ngồi đây tự hỏi cũng chẳng được ích lợi gì, Linh Lan lau mồ hôi trên trán, nó cố quên đi sự mệt mỏi, đau nhức trên cơ thể, rồi lại đứng lên, cõng Nguyễn Ánh đi tìm sự sống. Cõng Nguyễn Ánh suốt cả một đoạn đường dài, hai chân Linh Lan mỏi nhừ, bờ vai tê cứng, nhưng một khi chưa tìm thấy sự giúp đỡ thì dù mệt đến đâu nó vẫn quyết không dừng chân. Nếu nó dừng lại lúc này, mọi hy vọng cũng sẽ tắt ngấm. Chốc chốc lại xốc Nguyễn Ánh lên, Linh Lan cắn chặt môi, từng bước lần về phía trước, mắt nhìn quanh tìm kiếm với một niềm tin mãnh liệt, rằng trời chắc chắn sẽ không phụ lòng người.

Trời chắc chắn không phụ lòng người, niềm tin của Linh Lan đã được đền đáp. Đang rảo mắt rà soát xung quanh, gương mặt mệt mỏi của Linh Lan sáng bừng lên khi nhìn thấy một mái nhà tranh thấp thoáng sau những bụi cây lô nhô. Sự phấn khích lan tỏa khắp người, bờ vai Linh Lan run nhẹ. Hy vọng Nguyễn Ánh được cứu khiến Linh Lan quên hẳn mệt mỏi. Đôi chân nó như được chắp cánh, tiến nhanh nhất có thể về phía ngôi nhà với niềm phấn khởi.

Hiện ra trong sự hồi hộp của nó là mái nhà tranh ươm vàng dưới hừng đông buổi sớm. Tấm cửa liếp được chống bằng một cành cây, nên Linh Lan có thể nhìn vào bên trong ngôi nhà. Ngồi trên chiếc giường tre là một người đàn ông trung niên mặc áo màu gai, vóc người nhỏ thó, nước da màu nâu sẫm, trên vai là một chiếc túi vải, xung quanh là đồ đạc đang được gói ghém cẩn thận. Không chần chừ thêm nữa, Linh Lan vội đẩy cửa bước vào. Hành động đột ngột ấy khiến người đàn ông giật mình, ngồi sững trên gường vì không biết hai người khách lạ này là ai.

- Cháu... cháu xin lỗi! Cháu không có ý làm chú sợ, nhưng chú cho cháu hỏi, quanh đây có ai là thầy thuốc không ạ? Hiện anh trai cháu đang bị thương rất nặng, nếu không chữa trị kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng, chú làm ơn giúp giùm cháu với.

Linh Lan nói lắp bắp, lời nói đứt quãng do thở gấp, gương mặt khẩn khoản, cầu xin sự giúp đỡ. Ban đầu, người đàn ông hơi hoảng hốt khi bỗng đâu có người tự nhiên xông vào nhà vào lúc trời còn chưa sáng tỏ, nhưng đến khi thấy đó là một cô gái mặt mày lấm lem, quần áo đôi chỗ bị rách, lại đang cõng một thanh niên hôn mê trên vai, cầu cứu ông với đôi mắt tha thiết, lời lẽ khẩn khoản, tuyệt không có ý xấu, thì sự cảnh giác trên gương mặt ông cùng nỗi sợ hãi dần tan biến. Vỗ nhẹ vào túi vải đang đeo trên vai, người đàn ông mỉm cười.

- May cho cô đấy, tôi là thầy thuốc!

Lời người đàn ông vừa mới thốt ra, đối với Linh Lan chẳng khác nào đang chết đuối mà vớ được phao. Bao mệt mỏi trong nó đều tan biến. Nó mừng rỡ, cuống quýt nói.

- Vâng vâng! Quả thật may mắn cho cháu quá. Chú giúp cháu xem xét vết thương của anh cháu đi ạ.

Vừa nói, Linh Lan vừa cõng Nguyễn Ánh lại gần người đàn ông. Cẩn thận giúp nó đặt anh nằm xuống giường, nhìn thấy vết thương trên vai Nguyễn Ánh, ông nhíu mày, rồi nhanh nhẹn tháo túi vải trên vai đặt xuống. Lựa những túi dược thảo cùng mấy miếng vải sạch trong chiếc hộp gỗ ra, người đàn ông thắc mắc.

- Anh trai cô làm sao mà bị thương nặng đến thế này?

- Dạ! - Không muốn người đàn ông biết được thân phận thật sự của Nguyễn Ánh để đảm bảo an toàn, Linh Lan nghĩ nhanh trong đầu, rồi liếm môi - Trên đường lánh khỏi Gia Định, bọn cháu không may gặp phải cướp. Tuy hai anh em thoát khỏi bọn chúng nhưng anh trai cháu lại bị trọng thương, đang không biết phải làm sao thì may gặp được chú, thật may mắn quá.

- Anh em cô nên cẩn thận, vùng này bây giờ đang có chiến tranh, loạn lạc, giặc cướp khắp nơi nổi lên như ong. Quân Tây Sơn đang có chiến tranh với quân Nguyễn, tôi đang chuẩn bị lánh đi nơi khác, đợi mọi chuyện êm xuôi rồi mới quay trở về đây.

Nghe người đàn ông nói, Linh Lan vâng dạ cho xong chuyện, nó không muốn nói nhiều, bởi sợ sẽ để lộ ra những chuyện không cần thiết. Theo lời người đàn ông nói, rất may là nó đã đến đúng lúc, chứ nếu chậm thêm chút nữa thì nơi này sẽ chỉ là căn nhà hoang không có người và tính mạng của Nguyễn Ánh sẽ không thể cứu vãn được bởi vết thương trở nặng. Linh Lan nghe mà rùng mình, bởi nó không thể tưởng tượng được việc Nguyễn Ánh chết đi và mọi chuyện sau đó sẽ ra sao.

- Xong rồi! Tính mạng anh cô tạm thời không còn nguy kịch, nhưng vẫn còn phải nghỉ ngơi, tịnh dưỡng một thời gian thì mới lành lặn được. Cứu người thì cứu cho trót, tôi sẽ nán lại vài hôm để chữa trị cho anh cô rồi đi cũng không muộn.

Trước tấm lòng của người thầy thuốc, Linh Lan vô cùng cảm kích. Nó cám ơn ông rối rít. Thế là tính mạng của Nguyễn Ánh đã được cứu, Gia Long hoàng đế vẫn tồn tại, những cực khổ của nó xem như đã được đền bù. Đưa mắt nhìn Nguyễn Ánh nằm thiếp đi trên giường, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm. Giờ nhớ lại, nó cũng không biết nguồn sức mạnh nào khiến nó có thể cõng trên vai một người nặng gấp đôi mình đi quãng đường dài như vậy. Nhưng mặc kệ, sức nó giờ đã cạn kiệt, mệt lã cả người, nó muốn ngủ. Nó cần được nghỉ ngơi.

oOo

Bóng chiều chạng vạng buông trên con nước mênh mông. Gió lộng xôn xao đượm mùi chết chóc. Trong một cánh rừng thưa, cậu thiếu niên ngồi trên lưng con tuấn mã trắng như tuyết, mắt nhìn theo chàng trai khoác chiếc áo choàng màu xanh đang đứng quay lưng nhìn bầu trời. Chiếc áo choàng xanh bay lồng lộng, che khuất cả bầu trời trong đôi mắt nâu của cậu. Chợt, có tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng reo hò truy đuổi, mùi máu tanh lan nhanh trong không khí, chàng trai quay người lại vỗ mạnh tay thúc ngựa. Con tuấn mã hí lên, rồi tung vó lao nhanh về phía trước. Bên tai cậu ngoài tiếng gió, tiếng vó ngựa phi, còn vọng lại cả tiếng cười. Ai oán và đau thương...

"Nếu con chết, ta cũng sẽ chết!"

Nguyễn Ánh mở bừng mắt, vầng trán anh lạnh toát, đôi mắt trong suốt bao phủ một làn sương, nhạt như màu khói. Xung quanh yên lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng trái tim anh đập khó khăn trong lồng ngực. Sự yên lặng, tịch mịch bao trùm, chỉ có tiếng gió xào xạc trên mái lá khiến giấc mơ trong những ngày qua lại hiện về. Trong giấc mơ, anh đang đứng trên chiến trường, có gió, có máu, có những xác người và có cả tro tàn. Định vương(*), Tân Chính vương(**), phụ thân anh, đại huynh, nhị huynh, ngũ đệ(***) và cả gia tộc của anh đang ở phía trước. Tất cả họ nhạt nhòa, mờ ảo và lay lắt như một chiếc bóng. Với chiếc áo bào màu xanh quen thuộc trong gió, Định vương giơ tay ra, tất cả mọi người đều nhìn về phía anh, đợi chờ.

Anh nhìn họ, họ nhìn anh. Đôi bên đều im lặng. Mặc cho những cánh tay gầy gò, xám nghoét vươn về phía mình, níu kéo, anh vẫn bất động, đôi mắt nâu trong suốt phảng phất những chiếc bóng mờ. Anh yên lặng nhìn họ từ bên kia chiến trường rồi quay lưng đi, tà áo vàng phất phơ trong gió. Sau lưng, tiếng cười bi thương trỗi lên, mặt đất dưới chân anh như chuyển động. Đột ngột, tất cả đều biến mất, chỉ còn mình anh trên cánh đồng bông lau trắng như sương như khói, mắt in màu bầu trời hoàng hôn tĩnh lặng, hoang tàn.

Giấc mơ kết thúc, Nguyễn Ánh trở về thực tại, anh thấy mình nằm trên một chiếc giường tre, vết thương trên vai đã được đắp thảo dược và băng bó cẩn thận. Linh Lan! Trái tim anh bật lên tiếng gọi, anh liền ngồi dậy, mắt tìm kiếm bóng dáng nhỏ bé, mặc cho cơ thể nặng như chì và các khớp xương như muốn tháo rời.

- Này, anh mới vừa tỉnh lại thôi, không nên ngồi dậy như thế.

Một giọng nói trong trẻo cất lên, tấm phên cửa hé mở, Linh Lan ôm rổ rau bước vào, vẻ mặt không hài lòng khi nhìn thấy Nguyễn Ánh không chịu nằm yên trên giường. Đặt rổ rau lên chiếc bàn tre, Linh Lan đến bên cạnh Nguyễn Ánh, xem vết thương của anh có biến chứng gì không. Nào ngờ, vừa mới lại gần, Nguyễn Ánh đã đột ngột vươn tay, kéo nó ngã hẳn vào lòng mình. Tấm thân mềm mại, ấm áp ấy khiến đôi mắt nâu thôi không còn bị bao phủ bởi màu sương khói, mùi thơm trên mái tóc Linh Lan xua tan mùi máu tanh, mùi tro cháy trên chiến trường, khiến trái tim anh bình tâm lại và cõi lòng dịu êm.

Bụng chỉ định xem vết thương của Nguyễn Ánh có tiến triển tốt không, Linh Lan mới mon men lại gần anh, ai ngờ đâu bỗng nhiên lại bị anh ôm chặt, khiến nó hoảng hồn. Tính xô Nguyễn Ánh ra một bên, nhưng Linh Lan lại không thể cựa quậy được vì vòng tay anh xiết quá chặt. Đang còn chưa biết xử trí thế nào thì Nguyễn Ánh đột ngột vùi mặt vào mái tóc nó, hôn lên đó một cái thật lâu, xong rồi mới nới lỏng tay ra, khiến Linh Lan vô cùng tức giận. Thoát khỏi vòng tay Nguyễn Ánh, Linh Lan lùi lại phía sau, suýt chút nữa là làm rơi cả rổ rau xuống đất, mắt nó nhìn anh trừng trừng.

Đối với Linh Lan, trừ phi là người mà nó yêu thương, chứ nó không thích ai đụng chạm hay bị ôm ấp, còn con người Nguyễn Ánh tính khí vô cùng bá đạo, muốn ôm là ôm, không cần phải hỏi han hay để ý đến cảm giác của người khác. Linh Lan cau mày không hài lòng. Nhưng Nguyễn Ánh đã có sức ôm nó như thế thì chắc cũng hồi phục sức khỏe hết tám, chín phần rồi, vậy thì nó không cần quan tâm đến vết thương trên vai anh nữa làm gì.

Cầm lấy rổ rau trên bàn, Linh Lan bỏ ra ngoài mà không thèm nói tiếng nào, nó còn phải nấu canh rồi giặt đồ, để lại sau lưng ánh mắt lấp lánh của Nguyễn Ánh. Linh Lan vừa bước ra ngoài, thì Hữu Huân - người thầy thuốc cũng mang thảo dược bước vào. Nhìn Nguyễn Ánh đang ngồi trên giường, Hữu Huân tỏ vẻ ngạc nhiên, ông mở miệng hỏi, vừa hỏi vừa đem tất cả số thảo dược vừa hái được cho vào nồi.

- Chà! Tôi thật không ngờ cậu lại khỏe nhanh chóng thế đấy. Lúc em gái cậu mang cậu đến chỗ tôi, cậu vẫn còn sốt mê man trên vai cô ấy nữa kia.

Nghe Hữu Huân nói, Nguyễn Ánh nhíu mày. Anh hỏi, giọng có chút ngạc nhiên.

- Cún con đã mang tôi đến đây?

- Phải! Em gái cậu đã cõng cậu đến đây, bộ dạng khi ấy của cả hai trông vô cùng thê thảm. Đối với một cô gái nhỏ bé như em gái cậu, để cõng được cậu đến đây quả thật phải có một nghị lực phi thường. Khi đặt cậu xuống giường, dù đã kiệt sức nhưng cô ấy vẫn phải tận mắt nhìn tôi chữa trị cho cậu và bảo cậu không sao, thì khi đó mới chịu nghỉ ngơi. Mà sao cậu lại gọi em gái cậu là "cún con", đó là tên nhà của cô ấy à.

Đáp lại lời Hữu Huân chỉ là sự yên lặng, Nguyễn Ánh không trả lời. Giấc mơ đêm qua vẫn còn đó, anh không quên, nhưng nó cũng đã không còn đè nặng trong tâm trí. Bầu trời xanh phủ mây trắng, đồng hoa lau trắng muốt trong chiều gió lộng. Nơi ấy, vĩnh viễn chỉ thuộc về duy nhất một người.

- Đại phu, ông lầm rồi...

- Sao?

Lướt mắt về phía Linh Lan đang ngồi giặt đồ phía sau vườn, bờ môi mềm hé mở, mái tóc đen cột cao, tay áo xắn lên, miệt mài với những bộ đồ trong chậu. Bóng nắng lung linh soi vào đôi mắt anh. Nguyễn Ánh mỉm cười, gương mặt thanh tú dịu dàng trong nắng.

- Cô ấy là vợ tôi!

------------------------

Chú Thích:

(*) : Định vương Nguyễn Phúc Thuần, chú ruột của Ánh, bị bắt khi Tây Sơn truy kích đến Long Xuyên, đưa về Gia Định và hành quyết ở chùa Kim Chương năm 1777, thọ 23 tuổi

(**) : Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương, em họ Ánh, bị bắt ở Ba Vát [Vĩnh Long], đưa về Gia Định và hành quyết cùng Định vương năm 1777.

(***) : - Cha Ánh là Nguyễn Phúc Luân, bị quyền thần Trương Phúc Loan hại, giam vào ngục, bệnh chết trong đó năm 1765 [Ánh 3 tuổi].

- Đại huynh là Phúc Hạo làm cai cơ, đánh nhau với Tây Sơn chết trận.

- Nhị huynh là Phúc Đồng, làm Đội trường, hộ giá Định vương Phúc Thuần. Năm 1777 cũng bị Tây Sơn giết ở Long Xuyên.

- Ngũ đệ Phúc Mân, đồn Giác Ngư thất thủ, chạy qua cầu phao thì bị Tây Sơn chặt cầu phao làm chết đuối năm 1783 [trong Sương là bị giết đó các bạn, coi lại các chap trước]

[ Cái này bạn beta nhiều chuyện, năm 1783 này, Ánh còn mất thêm 1 ng' cháu gọi bằng bác là Tôn Thất Cốc, 1 hoàng cô là trưởng công chúa Ngọc Chú, lục đệ Phúc Điển, ng' anh em ruột cuối cùng của Ánh, và anh rể lớn là cai cơ Lê Phước Điển. =_= số Ánh thiệt là hưởng. Cái này là mới tính trong năm mình đang nói, 1783 thôi, về sau còn nhiều]

Tags: Sương

oOo

Nguyễn Lữ vô cùng lo lắng, suốt từ sáng tới giờ, ông hết đi tới đi lui trong phòng rồi lại ngồi xuống ghế, nhúng đầu bút lông vào nghiêng mực, tính viết, nhưng lại thừ ra vì chẳng biết nên viết như thế nào.

Kể từ khi cùng Nguyễn Huệ kéo quân vào Gia Định, tâm trạng của Nguyễn Lữ lúc nào cũng bực bội không yên. Suốt hai tháng qua, Tây Sơn tung quân tỏa ra khắp nơi để dò xét động tĩnh cũng như triệt hạ vây cánh của Nguyễn Ánh, thế mà hắn vẫn ung dung trở về, tập trung quân tại Đồng Tuyên và phân bố nhiệm vụ cho các tướng để chuẩn bị phản công Tây Sơn. Hai lần kéo quân là hai lần để xổng con cá lớn, nguyên nhân tất cả đều tại sự mềm yếu của em trai ông đối với cô gái họ Bùi trong đội nữ binh. Ở Gia Định, vì cô ta mà Nguyễn Ánh thừa cơ biến mất vào đám khói mù, còn trong trận Đồng Tuyên, nếu em trai ông không vì tình riêng thì với sự phong tỏa chặt chẽ đó, Nguyễn Ánh có mọc cánh cũng không thể thoát được. Hệ quả của hai thất bại liên tiếp đó là giờ ông không biết phải báo lại với vua anh như thế nào về tình hình Gia Định trong những ngày vừa qua.

"Dù bị dồn đến tình cảnh hiểm nghèo nhưng hắn ta vẫn luôn thoát ngay trước mũi Tây Sơn. Vậy cho nên không phải hắn đại bại mà là cho đến giờ, hắn luôn thắng. Hắn luôn thắng chúng ta"

Nguyễn Lữ hừ mũi khi nhớ đến những lời Nguyễn Huệ nói trước lúc xuất quân, cây bút trong tay ông trĩu nặng. Biết phải báo cáo thế nào với vua anh đây, nói rằng Nguyễn Ánh lại thoát một lần nữa cho dù Tây Sơn đã trực tiếp tấn công trước ư? Không thể được! Nguyễn Lữ xiết chặt cây bút lông. Chuyến xuất quân lần này vua anh đã tin tưởng anh em ông sẽ nhổ cỏ tận gốc nên mới thuận theo lời đề nghị nán lại Gia Định của Nguyễn Huệ. Nếu biết đến nay Nguyễn Ánh vẫn chưa bị bắt, nếu biết đến nay hai anh em ông vẫn còn phải truy lùng tin tức của hắn, thì anh trai ông chắc chắn sẽ nổi trận lôi đình ngay.

Dưới trướng Nguyễn Nhạc đã lâu, Nguyễn Lữ thừa biết tính cách của anh trai mình thế nào. Anh trai ông thận trọng, điềm đạm, đối với người trong nhà xuề xòa, có thể không giữ lễ vua tôi, nhưng một khi nổi giận thì rất khó kiềm chế. Lần này, nếu nhận được thư báo của ông, biết mọi chuyện không như những gì mình mong muốn, thì chắc chắn ông sẽ bị khiển trách. Mà sự khiển trách của anh trai đối với ông còn nặng nề hơn hình phạt gấp nhiều lần.

Sau một khắc đắn đo suy nghĩ, Nguyễn Lữ quyết định viết thư báo tin về cho Nguyễn Nhạc, với nội dung báo cáo quân số, lương thực, việc chiêu dân ở Gia Định và nói giảm, nói tránh khi đề cập đến tình hình Nguyễn quân. Từ trước tới nay, việc viết thư báo cáo gần như là một trách nhiệm mà Nguyễn Nhạc giao cho ông, thế nên, dù muốn dù không thì lá thư này sớm muộn vẫn phải hoàn thành.

Hài lòng với nội dung đã định sẵn, Nguyễn Lữ bắt đầu cắm cúi viết, nhưng vừa hí hoáy được một lúc thì Nguyễn Huệ đột ngột bước vào. Em trai ông đã đi lấy khẩu cung của những tướng sĩ bắt được tại trận Đồng Tuyên, chẳng biết có lấy được tin tức nào không mà nét mặt chẳng lộ chút cảm xúc nào. Gật đầu chào ông, Nguyễn Huệ ngồi xuống chiếc đôn kê sát góc phòng, tay rót chén trà rồi đưa lên miệng uống, thật lâu mà chẳng nói lời nào khiến ông sốt ruột vô cùng.

Từ hôm diễn ra trận đánh ở Đồng Tuyên đến giờ, Nguyễn Huệ như trở thành một người khác. Sự ấm áp quen thuộc, nói năng chừng mực của em trai ông đã biến mất, thay vào đó là sự lạnh lùng, thẳng thắn đến đáng sợ. Đối với những thay đổi chóng váng đó ban đầu Nguyễn Lữ còn ngạc nhiên, nhưng dần dà ông lại nảy sinh một cảm giác rất lạ. Trước đây, ông chỉ cho rằng thời gian đã hàn gắn những vết thương và làm bản tính con người trở nên thay đổi, nhưng càng ngày, sự thay đổi ấy càng làm ông phải suy nghĩ đến nhiều vấn đề.

Trong những năm trở lại đây, Nguyễn Huệ hoàn toàn không giống với Nguyễn Huệ xưa kia, mà lại có phần giống với Văn Bình - đứa em trai đã mất trong một tai nạn thương tâm của ông. Đột ngột, mấy hôm trước Nguyễn Huệ lại đổi khác. Gương mặt em ông luôn ngự trị một nét cười thách thức, cứ như thể thế gian này chỉ là tro bụi với nó, ánh mắt u tối hơn vực sâu, khiến người khác cảm thấy bất an. Giọng nói trầm, lạnh, đanh thép, lại pha chút giễu cợt người đối diện. Em trai ông luôn là một câu hỏi mơ hồ cho những ai muốn khám phá nó. Rốt cuộc, bí mật của em trai ông là gì? Tại sao lại có sự thay đổi lớn lao tới mức ông phải ngỡ ngàng đến nghi hoặc? Bao lần Nguyễn Lữ tự hỏi, rồi cũng tự trả lời bằng cách đổ cho thời gian.. .Thời gian! Câu trả lời thật khiên cưỡng, nhưng lại không biết phải tìm lời giải đáp nào cho thích hợp hơn.

- Chú tám, chú có tra được gì từ bọn Huỳnh Đức về Nguyễn Ánh không?

- Không!

Lâu thật lâu mà vẫn không nghe Nguyễn Huệ báo cáo lại gì, dù đó là trách nhiệm của anh, Nguyễn Lữ không nhịn nổi, ông buộc phải lên tiếng. Nghe ông hỏi, Nguyễn Huệ thản nhiên đáp. Rất gọn, không thêm gì hơn. Câu trả lời của anh làm đôi mày rậm của Nguyễn Lữ nhướng lên, tạo thành dấu ngã, dấu hiệu của sự không hài lòng. Ngước mặt nhìn đứa em trai ngồi bắt chân chữ ngũ trước mặt, Nguyễn Lữ cảm thấy xa lạ. Sự tự tin, ung dung ấy khiến ông không giấu nổi sự ngạc nhiên trong lời nói.

- Không là thế nào, chẳng lẽ chúng không hé răng lấy một lời sao? Bên cai ngục không dùng biện pháp nào để lấy được lời khai à?

- Chúng sẽ không phản bội Nguyễn Ánh! Nếu có phản bội thì từ kẻ khác chứ không phải những người này, cho nên có tra tấn cũng chẳng được ích gì.

Nói đến đây, bờ môi Nguyễn Huệ vẽ thành một nụ cười khó hiểu, đôi mắt sao băng thường ngày nay lạnh lẽo và tăm tối như đáy biển, nơi ánh sáng không thể soi đến. Bí mật cất giấu trong đôi mắt ấy vĩnh viễn sẽ chẳng ai tìm ra, trừ bản thân của người trong cuộc. Và dù muốn dù không, Nguyễn Lữ cũng không thể đọc được suy nghĩ của Nguyễn Huệ như cái cách em trai ông đã làm, đặc biệt vào hoàn cảnh này.

- Nếu đã không khai, vậy chú tính làm gì với chúng?

- Đơn giản! Chúng ta còn thiếu nhân lực trong việc tu sửa thành trì, pháo đài, đóng thuyền bè và xây dựng các trạm liên lạc với nhau. Thêm sức lao động thì công việc sẽ nhanh hơn, huống chi chúng đều là thanh niên khỏe mạnh.

Thấy Nguyễn Huệ không có ý định xử tử tướng lĩnh của Nguyễn Ánh, mà ngược lại, còn biến chúng thành tay chân của mình, Nguyễn Lữ trợn mắt kinh ngạc.

- Nhưng chúng là thuộc hạ của Nguyễn Ánh! Vả lại chú cũng đã nói chúng sẽ không phản bội hắn ta, chú có thể đảm bảo chúng sẽ không ngấm ngầm khích động quân lính hay dân chúng tạo phản, chống lại chúng ta? Chú có thể đảm bảo chúng sẽ không mật báo tin tức của chúng ta về cho quân Nguyễn? Chú có thể đảm bảo chúng sẽ không liên lạc với tàn quân còn lại của Nguyễn Ánh, nội ứng ngoại hợp để tấn công chúng ta hay sao?

Nguyễn Lữ nói một hơi không ngừng nghỉ. Ông càng nói, chất giọng càng đanh lại và cuối cùng thì như một tiếng quát, khiến hai người lính đứng bên ngoài phải giật mình. Không vội trả lời Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ lim dim mắt nhìn ông, hai tay bàn tay anh đan vào nhau, tư thế vô cùng thoải mái, tựa như không bận tâm lắm với những gì ông vừa nói. Sau vài phút để Nguyễn Lữ trấn tĩnh sự kích động, Nguyễn Huệ chậm rãi đáp lời.

- Quân Nguyễn Ánh sẽ không phản bội lại hắn ta, vậy chẳng lẽ quân Tây Sơn lại phản bội lại chúng ta? Sau trận Đồng Tuyên, quân Nguyễn giờ tan tác muôn phương, muốn tập họp lại cũng không phải một sớm một chiều. Hơn nữa, dù có liên lạc thì cũng sẽ là bên ngoài liên lạc đến bọn tướng lĩnh tù nhân, đó chẳng phải cũng là cơ hội cho chúng ta dò tìm tin tức đến hang ổ của chúng hay sao? Trong thời gian đó, chẳng lẽ Tây Sơn ta không đủ vững mạnh sao mà phải lo sợ vì vài tên tù nhân kích động? Là anh không có lòng tin vào lực lượng chúng ta sau hai lần để Nguyễn Ánh chạy thoát, hay là bọn chúng thật sự đáng lo ngại như lời anh nói?

Trả lời câu hỏi của Nguyễn Lữ lại là những câu hỏi khác của Nguyễn Huệ, và cái cách anh hỏi khiến ông vô cùng khó chịu, nhưng lại không thể phản biện bởi vì em trai ông nói đúng. Trước đây, ông và Nguyễn Huệ chưa bao giờ phải tranh luận to tiếng với nhau lần nào, bởi em trai ông luôn biết dừng đúng lúc mỗi khi cả hai bất đồng ý kiến. Nhưng dạo gần đây, đặc biệt là lần này, Nguyễn Huệ không hề có ý định nhường ông. Cả hai thường xuyên tranh cãi, nhưng lần nào ông cũng là người thua cuộc vì lời lẽ sắc bén của Nguyễn Huệ. Em trai ông tinh tế, đọc được suy nghĩ người khác, giỏi bắt bẻ lời nói, lại toàn những vấn đề chạm vào lòng tự ái của ông, khiến ông cảm thấy trong Tây Sơn, mình chỉ có quyền mà không có hành.

- Hay cho câu "hai lần để Nguyễn Ánh thoát". Chú tám! Chú xem lại đi, là ai đã để cho hắn ta thoát. Trong trận Đồng Tuyên, nếu không phải vì chú lo cô gái đó bị Nguyễn Ánh làm hại, thì bây giờ ta đã có thể hãnh diện báo cho vua anh tin thắng trận, chẳng phải sao?

Những lời cuối cùng của Nguyễn Lữ vừa thốt ra, đôi mắt Nguyễn Huệ chợt thẫm lại. Vẫn tư thế bắt chân chữ ngũ, hai tay đan vào nhau, nhưng từ người anh toát ra một luồng khí lạnh lẽo, gương mặt phong sương băng giá, đôi mắt u tối nhìn xoáy vào Nguyễn Lữ không khoan nhượng. Cái nhìn vừa mạnh mẽ, vừa dữ dội, có thể làm người khác đông cứng chỉ bằng một ánh mắt uy quyền ấy khiến Nguyễn Lữ giật mình. Trước sự hoang mang trên nét mặt Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nhếch môi, tạo thành một nét cười.

- Phải! Chỉ vì cô gái đó nên Nguyễn Ánh mới có thể chạy thoát. Cô gái đó rất quan trọng, rất quan trọng...

Nguyễn Huệ chỉ nói đến đó rồi bỏ lửng, từng ngón tay gõ lốc cốc trên thành ghế, ánh mắt đen thẫm, thành thử Nguyễn Lữ không biết câu tiếp theo anh muốn nói gì. Ban nãy, nhắc đến trận Đồng Tuyên, cơn giận của ông lại bùng phát. Chung quy cũng chỉ tại Nguyễn Huệ vì tình riêng, cầm vàng còn để vàng rơi, hại ông không biết phải báo tin thế nào với vua anh. Những tưởng rằng Nguyễn Huệ sẽ phản bác lại lời ông nói, Nguyễn Lữ tính bồi thêm hai ba câu nữa cho hả cơn giận, ai ngờ em trai ông thẳng thắn nhận lỗi khiến ông mất hứng, lại thêm ánh mắt rực lửa ấy làm ông chẳng còn lòng dạ nào ngồi hạch sách chuyện cũ. Cơn giận trong đầu xẹp xuống, Nguyễn Lữ rảo bước về phía lá thư đang chờ được hoàn thành trên bàn, ông thở dài.

- Ta đang viết thư báo cáo tình hình Gia Định cho Thái Đức hoàng đế, mong rằng...

Lời Nguyễn Lữ còn chưa nói hết, Nguyễn Huệ đã đột ngột đứng dậy, tiến về phía ông. Liếc nhanh qua dòng chữ đen còn chưa ráo mực, anh vươn tay chụp lấy lá thư, rồi bất ngờ xé toạt. Trong đôi bàn tay rộng lớn của Nguyễn Huệ, tờ giấy hóa thành hàng trăm mảnh nhỏ. Đưa đám giấy vụn lên ngọn đèn đốt cháy, những mảnh vụn bén lửa, lả tả bay như những cánh bướm đỏ khi có cơn gió nhẹ thổi vào phòng. Trong phút chốc, tờ giấy đã trở thành hư không.

- Đó là là thư ta sẽ gởi cho Thái Đức hoàng đế, sao chú dám làm thế?

Trước hành động to gan và đột ngột của Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đứng bật dậy, quát lớn. Đôi mắt ông xuất hiện những tia máu đỏ ngoẳn nghèo, bàn tay tạo thành nắm đấm, nện mạnh lên chiếc bàn tre ọp ẹp. Hứng chịu cơn thịnh nộ của Nguyễn Lữ, chiếc bàn tre rên lên thảm thiết, rồi nhanh chóng đổ sụm xuống đất. Nhìn mu bàn tay rỏ máu của Nguyễn Lữ khi dằm tre đâm vào, đôi mày rậm dính hẳn vào nhau, Nguyễn Huệ chẳng biểu lộ cảm xúc nào. Lướt mắt lên đống tro tàn của lá thư rơi vãi trên sàn, rồi lại dời mắt đến gương mặt đỏ bừng vì giận của Nguyễn Lữ, ánh mắt đen thẫm, tăm tối của anh khiến ông toát mồ hôi. Với ánh mắt ấy, em trai ông đang nhìn thấu mọi suy nghĩ của ông.

- Anh đã biết Thái Đức hoàng đế chắc chắn nổi giận khi biết được tình hình Gia Định, vậy còn báo về làm gì? Trước khi xuất quân, em đã đề nghị được ở lại Gia Định để nhổ cỏ tận gốc, vua anh miễn cưỡng đồng ý chứ thực tâm không muốn chúng ta đóng quân ở đây quá lâu. Nếu báo việc hai lần đễ Nguyễn Ánh thoát, vua anh nhất định sẽ lấy đó làm lý do để triệu chúng ta trở về. Sau hai lần bị đánh tan, quân Nguyễn giờ đây đã phân rã, tướng sĩ bị bắt. Chúng ta đã cho người truy đuổi, bao vây khắp mọi ngõ ngách và xiết chặt mọi con đường thoát thân của Nguyễn Ánh. Nếu bị triệu về lúc này thì những gì đã làm trong hai tháng qua thật uổng phí, ta sẽ lại cho Nguyễn Ánh cơ hội và thời gian trỗi dậy, khả năng tập họp và tổ chức lại quân đội. Việc báo tin chúng ta sẽ làm, nhưng không phải lúc này.

Mặc dù cơn giận vẫn còn đang hoành hành vì Nguyễn Huệ to gan xé nát bức thư khi chưa có sự cho phép của mình, nhưng Nguyễn Lữ vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng em ông nói đúng. Tây Sơn đang ráo riết khép chặt vòng vây trong việc truy sát Nguyễn Ánh, nếu bị vua anh triệu về lúc này, chuyện trách phạt chỉ là chuyện nhỏ, nhưng chuyện tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh vùng dậy lại là chuyện lớn. Hai tháng vất vả đóng đô ở Gia Định đang đứng trước nguy cơ xôi hỏng bỏng không.

Nhưng dù nghĩ tường tận như thế, Nguyễn Lữ vẫn không thể không tức giận. Em trai ông táo bạo đến mức giật lấy lá thư ông đang viết mà đem xé và đốt đi. Quyền huynh thế phụ, Thái Đức hoàng đế không có ở đây thì đáng ra Nguyễn Huệ phải vâng lời ông, phải phục tùng ông, vậy mà tại sao em trai ông lại hoành hành bá đạo, không biết tôn ti trật tự là gì như vậy chứ?

- Thưa tiết chế, tướng quân, quân truy kích báo tin về, họ đã lục soát hết ven sông mà vẫn không thấy tung tích của Nguyễn Ánh đâu cả.

Đang trong cơn tức giận, lại nghe viên lính Tây Sơn vừa mới đến báo tin về, cơn giận trong đầu Nguyễn Lữ chẳng khác nào được đổ thêm lửa. Đôi vai bè rung lên vì giận, ông vung tay về phía tên lính, quát lớn.

- Vậy thì tăng thêm người, mở rộng vùng tìm kiếm đến thượng và hạ lưu, tiếp tục truy cho đến khi nào bắt được hắn thì thôi!!!

Thấy đôi mắt Nguyễn Lữ đỏ ngầu do tức giận, tên lính Tây Sơn run bắn. Trong khi hắn ta còn đang ấp úng vì sợ, thì Nguyễn Huệ đã cướp lời.

- Không cần! Báo lại cho các đô đốc rằng lệnh truy tìm đã được hủy, nhanh chóng thu quân về để tiến hành kế hoạch khác.

Quắc mắt nhìn Nguyễn Huệ, râu tóc Nguyễn Lữ như dựng ngược lên khi anh thản nhiên hủy lệnh mình vừa ban bố. Xoay người về phía Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nhìn ông. Đôi mắt tối và lạnh của anh lóe lên tia sáng, như những chiếc thuyền thắp đèn đi câu mực trong đêm.

- Anh cho rằng Nguyễn Ánh vẫn còn quanh quẩn ở đó sao? Thật phí công!

- Hay lắm! Chú càng ngày càng không coi ta ra gì. Được! Nếu không làm thế thì phải làm thế nào, chú nói ta nghe?

Nguyễn Lữ gằn từng tiếng, ông tiến sát lại gần Nguyễn Huệ, nhìn xoáy vào mắt anh như muốn tìm kiếm con người thật sự của em mình. Không né tránh ánh mắt ấy, Nguyễn Huệ để mặc cho Nguyễn Lữ dò xét từng ngóc ngách trong tâm hồn. Môi anh mấp máy tính nói gì đó, nhưng kịp thành lời thì ngừng lại, nghe người lính đang quỳ bên dưới rụt rè thưa.

- Dạ... dạ bẩm..., còn... còn một chuyện nữa, đó là thủ lĩnh Đông Sơn quân xin được yết kiến. Ông ta đang chờ ở góc lầu phía tây.

Nguyễn Lữ quay phắt người lại, ông nhìn đăm đăm vào mặt tên lính khiến hắn vội vã cúi đầu xuống, sẵn giọng.

- Hắn đến đây làm gì?

- Dạ thưa...

- Em đã chủ động mời hắn đến đây.

- Để làm gì?

- Để bàn chuyện hợp tác!

Nguyễn Huệ vừa nói vừa nhếch môi, đủ để tạo thành một nét cười lửng lơ. Không đợi Nguyễn Lữ nói thêm tiếng nào, anh quay người bước ra ngoài, những bước chân sải dài hướng đến góc lầu phía tây, nơi thủ lĩnh Đông Sơn quân đang đợi. Nhìn theo bóng Nguyễn Huệ khuất dần phía xa, đôi mày của Nguyễn Lữ xoắn lại. Lúc trước, chính Nguyễn Huệ là người đã từ chối lời đề nghị hợp tác của Đông Sơn quân, nay cũng lại chính anh chủ động mời chúng đến để nối lại chuyện hợp tác. Sự thay đổi nắng mưa thất thường ấy khiến Nguyễn Lữ nghi hoặc.

Trước đây, Nguyễn Huệ còn có một người anh sinh đôi là Văn Bình. Hai anh em thân với nhau đến nỗi ngay cả ông và Nguyễn Nhạc cũng không thể chen chân vào mối quan hệ của họ. Cách biệt tuổi tác và việc trưởng thành ở xa gia đình từ bé đã khiến cho tình cảm của Nguyễn Huệ và Văn Bình rất gắn bó với nhau, nhưng tình còn huynh đệ giữa ông và Nguyễn Nhạc đối với cặp sinh đôi này lại nhạt nhòa, tưởng chừng như không có. Văn Bình điềm đạm, mềm mỏng, lễ phép, biết tiến lui đúng lúc, ngược lại, Nguyễn Huệ thì ngang ngạnh, thẳng thắn, không kiêng nể một ai, ngoại trừ Văn Bình. Nhưng cho dù trái ngược về tính cách, cả hai lại rất ăn ý với nhau đến nỗi, ngay cả ông cũng vẫn khó mà nhận ra đứa nào là anh, đứa nào là em.

Thời gian trôi qua, hai anh em ngày càng gắn bó thân thiết. Chúng làm gì cũng có nhau, ngay cả trên chiến trường cũng sát cánh đồng hành. Văn Bình nổi tiếng là người tốc chiến tốc thắng, còn Nguyễn Huệ thì rất giỏi trong việc vạch định kế sách. Lẽ ra, chúng sẽ mãi là một cặp đôi ăn ý nếu như Văn Bình không mất trong một tai nạn thương tâm, để lại một mình Nguyễn Huệ. Có lẽ vì Văn Bình là người quan trọng nhất đối với Nguyễn Huệ, thế nên trước cái chết của Văn Bình, Nguyễn Huệ đã chịu đả kích rất mạnh, đến nỗi không thể nào chấp nhận được. Từ một người ngang tàng, ngạo nghễ, Nguyễn Huệ trong thoáng chốc đã thay đổi, trở thành một người điềm đạm, mềm mỏng, hệt như Văn Bình. Nhìn thấy những biến đổi đó, bản thân Nguyễn Lữ cũng thấy rất lạ lẫm, nhưng rồi năm tháng trôi qua, ông cũng quen dần với chuyện ấy. Đó có lẽ là cách mà Nguyễn Huệ giữ cho anh mình luôn sống, khi chẳng thể chấp nhận được sự ra đi của Văn Bình.

Nếu mọi chuyện chỉ có thế thì ông sẽ không phải bận tâm, điều đáng nói ở đây là dạo này, Nguyễn Huệ lại thay đổi, thay đổi một cách chóng vánh. Sự dịu dàng, điềm đạm biến mất, thay vào đó là sự ngang tàng, lạnh lùng hệt như xưa. Chẳng lẽ giờ đây em ông đang trở lại là chính mình, với những cá tính cách thật sự của mình, hay là nó đang che giấu một chuyện gì đó rất lớn mà không ai biết? Nguyễn Lữ tự hỏi, song rồi cũng tự lắc đầu. Chuyện gì đã xảy ra thì không một ai biết, chỉ có bản thân ông là thấy khó hiểu trước đứa em ngày càng xa cách của mình mà thôi...

Dù chỉ mới lưu lại nhà Hữu Huân mấy hôm, nhưng một là nhờ vị thầy thuốc tận tâm, hai là nhờ Linh Lan không ngại tốn công chăm sóc, vết thương của Nguyễn Ánh đã kéo da non và bắt đầu hồi phục, điều đó khiến Linh Lan như trút được mối lo ngại trong lòng.

Sỡ dĩ Linh Lan không còn lo ngại nữa là vì tính mạng của Nguyễn Ánh đã không còn nguy hiểm. Anh còn tức lịch sử còn, mà lịch sử còn thì người thân của nó cũng sẽ tồn tại khỏe mạnh. Dù bụng đã hết lo, nhưng để cho chắc ăn, Linh Lan quyết định lưu lại bên cạnh Nguyễn Ánh hai, ba hôm nữa, đợi vết thương của anh lành hẳn rồi nó mới tìm cách quay trở về Tây Sơn sau.

Trong thời gian chờ vết thương của Nguyễn Ánh lành lại, việc chăm sóc thuốc thang cho anh Linh Lan chẳng nề hà gì, điều duy nhất nó phiền lòng là không biết anh đã nói thế nào với Hữu Huân mà ông cứ gọi nó là vợ Nguyễn Ánh, mặc cho nó thanh minh hết lời. Để tiện cho đôi "vợ chồng son" mới cưới, Hữu Huân đã kín đáo nhường lại chiếc giường độc nhất cho anh và nó, còn mình thì ra hẳn ngoài hiên mà nằm hứng gió trời. Nếu như là chuyện khác thì có lẽ Linh Lan sẽ rất biết ơn sự lịch sự của ông, nhưng trong chuyện bất đắc dĩ này thì nó chỉ có nước than trời.

Do Nguyễn Ánh đang mang thương tích nên Linh Lan nhường lại chiếc giường cho anh, còn thân mình thì trải rơm kế bên mà nằm. Khí trời đêm trở lạnh, chiếc chăn lại khá mỏng, nền nhà thì lồi lõm, kết quả là sáng ra hai vai của Linh Lan mỏi nhừ, người thì rêm lên bởi cả đêm không sao ngủ được. Suốt cả ngày hôm đó, hai mắt Linh Lan thâm quầng, thậm chí lúc giặt đồ nó còn ngủ gục vì mệt mỏi, làm Hữu Huân cứ lâu lâu lại nhìn nó rồi tủm tỉm cười, mà ông cười gì thì có trời biết...

Tình trạng mệt mỏi bởi không ngủ được của Linh Lan chỉ kéo dài một ngày, đến sáng ngày thứ hai, khi tỉnh dậy thì nó đã thấy mình nằm trên giường,lại còn trong lòng Nguyễn Ánh từ bao giờ. Ban đầu, Linh Lan rất tức giận vì rõ ràng tối qua nó còn nằm ở dưới đất, nhưng bao giờ cũng thế, mỗi khi thức dậy là tình trạng cũ lại tiếp diễn, khiến nó vô cùng bực mình.

- Nguyễn Ánh, tôi hỏi anh, tại sao sáng nào tôi cũng ngủ trên giường trong khi tối qua rõ ràng tôi đã nằm ở dưới đất hả?

- Là tôi mang cô lên.

- Tại sao? - Linh Lan ngớ người ra khi Nguyễn Ánh thản nhiên trả lời - Tôi không cần anh lo. Tôi ngủ đâu cũng được, cần anh quan tâm làm gì chứ?

- Tôi đâu quan tâm tới cô!

Nguyễn Ánh đưa mắt nhìn Linh Lan, trong ánh mắt anh hiện rõ sự mỉa mai không che giấu, môi lại còn điểm nụ cười chế giễu khiến Linh Lan nóng mặt, la lớn.

- Được! Nếu vậy thì lần sau tôi ngủ ở đâu thì làm ơn cứ để mặc tôi ngủ ở đó!

- Không được!

- Sao không? - Nghe Nguyễn Ánh điềm nhiên trả lời, Linh Lan cau mày. Anh đã nói không quan tâm tới nó mà lại không cho nó ngủ đâu tùy thích dù không liên quan tới anh, thế nghĩa là làm sao đây?

- Bởi vì chúng ta là vợ chồng.

- Cái gì? - Linh Lan trợn mắt lên. Sực nhớ ra mình đã quá lớn tiếng, nó vội hạ giọng xuống, nhấn mạnh từng lời - Chúng ta không phải vợ chồng, cùng lắm chỉ là danh nghĩa anh em thôi, không gì hơn.

- Với cô là anh em, với tôi là vợ chồng. Nhưng cho dù là gì đi chăng nữa thì chuyện chồng lại để cho vợ ngủ dưới đất, hay anh trai nằm ngủ trên giường trong khi em gái co mình trên đống rơm cũng không thuận mắt với người ngoài. Khi nào cô còn ngủ dưới đất, tôi vẫn sẽ mang cô lên giường, nếu không muốn thế thì đừng ngủ.

Trước phản ứng của Linh Lan, Nguyễn Ánh chỉ nhếch môi, chẳng rõ là đang cười hay đang chế giễu. Ngược lại, Linh Lan thì tức muốn nổ đom đóm mắt khi anh thản nhiên tuyên bố như thế. Nhưng dù có tức giận cách mấy, Linh Lan cũng đủ ý thức để biết rằng Nguyễn Ánh đã nói là làm, và anh đã tuyên bố thế thì dù nó có nằm ngủ ở đâu, anh cũng sẽ mang nó về giường, họa hoằn chăng là nó thức suốt, không ngủ mà thôi.

Chính vì lời Nguyễn Ánh nói, cho nên Linh Lan dù uất ức nhưng cũng thôi không nằm dưới đất nữa, nó cũng không thèm để ý đến anh nữa mà tự động leo lên giường, nằm sát vách, tránh Nguyễn Ánh càng xa càng tốt và nhắm mắt ngủ một giấc cho đến sáng mai. Chẳng biết là cái tật khi ngủ phải ôm gối của Linh Lan có cải thiện được chút nào không, mà sáng nào nó cũng chết điếng khi thấy mình nằm trong lòng Nguyễn Ánh ngủ say sưa. Ngày qua ngày, chuyện đó vẫn cứ tiếp diễn, riết đến nỗiLinh Lan không còn bận tâm về nó nữa. Đơn giản, đối với nó, anh là một cái gối ôm không hơn, thế thôi.

Hôm nay đã là ngày thứ năm lưu trú tại đây. Trời nắng đẹp, Linh Lan dậy thật sớm. Tiếng chim hót líu lo, gió hây hây thổi cũng khiến tâm trạng nó phấn chấn lên nhiều. Hữu Huân đã dậy từ bao giờ, ông đang thổi cơm, nấu thuốc, những làn khói cuộn lên, thoát khỏi mái nhà tranh và tan vào bầu trời mây trắng. Phía sau nhà, Nguyễn Ánh đang chẻ củi để đun nước nấu trà. Nhìn anh, sẽ chẳng ai cho rằng đây là vị chúa Nguyễn đang bị Tây Sơn truy lùng ráo riết, ngoại trừ cái phong thái kiêu ngạo hiếm có vẫn không thay đổi. Khung cảnh thanh bình, yên ả đó khiến Linh Lan bất chợt mỉm cười. Gian khổ bao ngày thế là đã đủ, hôm nay nó phải đi bắt cá để bồi bổ sức khỏe cho Nguyễn Ánh và trả công Hữu Huân thôi.

Hài lòng với quyết định đó, Linh Lan quày quả xách chiếc giỏ đan bằng lạt bước ra ngoài. Trông thấy nó hăm hở, Hữu Huân bắc nồi gạo lên bếp lò hỏi với theo bằng giọng ngạc nhiên.

- Cô nhà đi đâu thế?

- Cháu ra ngoài kiếm đồ ăn chú ạ - Cố phớt lờ hai chữ "cô nhà" của Hữu Huân, Linh Lan mỉm cười - Mấy hôm nay chỉ toàn rau cháo, ít ra cũng phải có gì để thay đổi chứ.

- Ái chà! Cậu Phúc quả là có cô vợ đảm đang nhỉ!

Hữu Huân quay ra sân sau nháy mắt với Nguyễn Ánh. Khi ông hỏi tên, Nguyễn Ánh đã nói rằng anh tên Phúc, lấy từ tên Phúc Ánh, còn Linh Lan thì dù xưng tên gì thì ông cũng gọi nó là "cô nhà" hay "vợ cậu Phúc", cho dù nó đã giải thích hàng trăm lần. Vừa rồi, nghe Hữu Huân khen mà Linh Lan chẳng thể vui được, nó liếc Nguyễn Ánh, vừa hay đúng lúc anh nhìn nó. Ánh mắt nâu dịu dàng, lại lấp lánh sự chế giễu làm Linh Lan quay mặt đi, chân bước nhanh theo hướng bờ sông vì không muốn phải nghe Hữu Huân khen tiếp chuyện "vợ chồng son mặn nồng".

Đường ra bờ sông không quá xa, Linh Lan chỉ đi độ nửa tiếng là đã tới. Khúc sông này có khá nhiều bụi tre um tùm, Linh Lan chọn một thân tre đường kính vừa bằng bàn tay nắm lại rồi bắt đầu dùng rựa chặt. Sau mấy chục nhát, thân tre rung rinh, từng chiếc lá nảy lên bần bật rồi đổ nhào xuống đất. Không chậm trễ, Linh Lan tước hết phần cành lá rồi chẻ đầu tre ra làm tám phần, dài độ hai phần ba gang tay. Sau đó, nó dùng thanh tre nhỏ cố định để tám thanh ấy tách nhau ra rồi bắt đầu vót nhọn từng đầu. Thế là nó đã có được một cây chĩa để bắt cá ngon lành.

Ngắm nghía cây chĩa bắt cá như ý, Linh Lan hài lòng, ít ra nó đã nhớ và làm theo đúng hướng dẫn của Anh Tú khi ba cha con đi cắm trại, giờ chỉ còn xem bao nhiêu chú cá xấu số ngày hôm nay thôi. Xắn tay áo lên cao, Linh Lan bước xuống dưới nước. Trước đây, khi cả nhà đi cắm trại, Linh Lan do không biết bơi nên chỉ ở trên bờ nhóm lửa. Lúc ấy, Linh Lan chỉ việc ngồi ăn cá do cha và anh nướng cho, còn bây giờ đích thân ra trận, Linh Lan mới cảm thấy việc bắt cá chẳng dễ như nó đã tưởng.

Chẳng biết là do Linh Lan hậu đậu, hay do cá ở dòng sông này đều đã thành tinh mà nó lay hoay hoài cũng không đâm trúng con nào. Nước ở khúc sông này trong vắt, lại chẳng sâu, có thể thấy cá bơi lội tung tăng, và dù Linh Lan đã ngắm thật kỹ lưỡng trước khi phóng chĩa xuống, nhưng nó vẫn chậm hơn con cá một nhịp. Con cá vẫn luồn lách kịp và bơi nhởn nhơ trước ánh mắt bất lực của Linh Lan. Cứ mỗi lần phóng cây chĩa xuống, nước lại bắn lên tung tóe, hết lần này đến lần khác, cả người Linh Lan ướt sũng, hai bàn tay phồng rộp lên nhưng cá thì vẫn chưa bắt được con nào.

Mặt trời đã bắt đầu lên cao, Linh Lan cực chẳng đã phải trở lại bờ, nó tựa lưng vào gốc cây thở dốc. Nhìn dòng sông nước lấp lánh, Linh Lan chán nản. Ý định bắt cá đã nguội dần trong tâm trí nó, nhưng nếu quay về nhà Hữu Huân mà không có gì trong tay Linh Lan cũng cảm thấy ngại phần nào. Sực nhớ đến những trái dâu đất mà lúc trước nó đã hái ăn, đôi mắt Linh Lan sáng lên, nó vội vàng bật dậy và chạy vào rừng cây, lòng mong sẽ lại tìm được thứ trái cây ngọt dịu ấy để mang về nhà.

Rừng cây nhập nhòa ánh nắng, Linh Lan đi mãi, đến lúc nó tưởng chừng như loại cây này chẳng tồn tại thì những chùm trái vàng nhạt, đung đưa trên cao lại hiển hiện ngay phía trước, khiến Linh Lan mừng rỡ, quên hết cả cái mệt trong người. Lần này Linh Lan không chọi đá nữa mà dùng ngay cây chĩa để khều trái. Có dụng cụ hỗ trợ, Linh Lan làm nhanh hơn nhiều, chỉ loáng một cái là trái rơi rào rào xuống đất, nó chỉ việc nhặt lấy cho vào rổ, lòng sung sướng vì ít ra chuyến đi này cũng chẳng đến nỗi tay không trở về.

Ôm rổ dâu lần ra khỏi rừng cây, Linh Lan chợt nhớ tới lần Nguyễn Ánh đã chia dâu cho nó. Dù hơi phật lòng vì phần trái của anh nhiều hơn, nhưng nó vẫn để ý rằng dường như những trái bên Nguyễn Ánh có vỏ trơn, mượt hơn của nó. Chau mày suy nghĩ, Linh Lan lấy một quả dâu đất da trơn tương tự đưa lên miệng ăn. Phì một tiếng, Linh Lan thả vội trái dâu xuống đất, vị chua gắt đọng lại đầu lưỡi khiến nó nhăn mặt. Lựa trái dâu thứ hai, Linh Lan cẩn thận đưa lên miệng nếm, lần này, trái dâu lại ngọt, rất ngọt, hệt như những trái dâu mà Nguyễn Ánh đã chia cho nó.

Trong phút chốc, Linh Lan yên lặng, đôi mắt nó mông lung, rổ dâu trên tay rung nhẹ. Thì ra Nguyễn Ánh đã biết những trái dâu da trơn mượt rất chua, nên mới gom hết số dâu lại lựa và nhường những trái ngọt nhất cho nó. Linh Lan ngước nhìn lên bầu trời xanh, lòng thật sự không hiểu nổi Nguyễn Ánh là người như thế nào. Anh chính là người đã muốn giết chết nó, nhưng cũng chính anh lại là người đã cứu nó, nhường cho nó những gì ngon nhất. Tại sao? Nguyễn Ánh, tại sao vậy?

Linh Lan thẫn thờ tự hỏi, nhưng sự thẫn thờ ấy chỉ diễn ra trong thoáng chốc. Nó nắm chặt cây chĩa, đôi mắt ánh lên sự quyết tâm. Ôm lấy rổ dâu đất trong tay, Linh Lan tiếp tục bước, nhưng lần này bước chân của nó nó rẽ hướng về phía bờ sông, nơi những con cá béo mẫm bơi lội giữa dòng nước xanh trong.

oOo

Nguyễn Ánh ngồi trước cửa, tay anh cầm chén trà nhưng mãi vẫn chưa uống một giọt nào. Cơm nước đã xong xuôi đâu đó, vậy mà đến giờ bóng dáng Linh Lan vẫn biệt tăm, khiến Hữu Huân sốt ruột, luôn miệng lo lắng có chuyện gì đã xảy ra cho Linh Lan rồi.

Đưa mắt nhìn ra tàn cây xanh bên ngoài, Nguyễn Ánh không phản ứng khi Hữu Huân thúc giục anh đi tìm Linh Lan. Cô gái ấy không gặp nguy hiểm, anh là người biết rõ chuyện ấy hơn ai hết, còn lý do tại sao cô ta mãi vẫn chưa quay trở về thì Nguyễn Ánh không thích nghĩ đến. Ngẫm cũng kỳ lạ, dù anh không bao giờ muốn nghĩ tới chuyện Linh Lan sẽ rời khỏi anh, nhưng những suy nghĩ ấy cứ hiện lên trong đầu anh, và anh không có cách nào kiểm soát chúng trong những giấc mơ của mình.

Đêm nào cũng thế, mỗi khi ôm Linh Lan vào lòng, Nguyễn Ánh đều ôm rất chặt, nhưng dù ôm chặt đến đâu anh vẫn cảm thấy không đủ. Anh biết, chỉ cần nới lỏng tay, cô gái ấy nhất định sẽ biến mất. Dù biết thế, nhưng anh lại không quan tâm Linh Lan đi đâu và làm gì, anh chỉ cần khi mở mắt ra là nhìn thấy gương mặt trái xoan bướng bỉnh, chỉ cần vươn tay ra là có thể ôm được tấm thân bé nhỏ ấy vào lòng. Anh không quan tâm cô gái ấy là ai, là người bên phe nào, mà chỉ cần sự dễ chịu, bình yên mà cô gái ấy mang đến cho anh. Hôm nay, nếu cô gái ấy không quay trở về, nếu cô ấy mãi mãi rời xa anh, nếu cô ấy trở thành điểm yếu của anh và nếu vì cô ấy mà tình cảm của anh bất tuân lý trí, thì anh sẽ không do dự gì mà....

Nguyễn Ánh nhìn bóng mình qua chén trà, đôi mắt trong suốt của anh có một vệt tối. Anh nhếch môi, xòe lòng bàn tay, nơi có một vết sẹo rồi mỉm cười.

... giết chết người con gái anh yêu bằng chính đôi tay này.

Có tiếng Hữu Huân mừng rỡ, có tiếng bước chân giẫm lên những chiếc lá khô, Nguyễn Ánh chậm rãi ngẩng đâu lên. In trong đôi mắt anh là bóng dáng bé nhỏ ướt sũng nước của Linh Lan, trên tay là một rổ dâu cùng hai con cá. Thấy Hữu Huân và Nguyễn Ánh trước ngưỡng cửa, Linh Lan giơ cao hai con cá lên, nét mặt lộ vẻ đắc thắng, những giọt nước từ tóc rỏ xuống được ánh nắng chiếu vào khiến toàn thân Linh Lan như bừng sáng. Chén trà xao động, đôi mắt nâu lấp lánh, trái tim Nguyễn Ánh chợt nhẹ bỗng, từng ngón tay nắm chặt chén trà được nới lỏng, anh thở nhè nhẹ. Cún con của anh đã trở về.

Vừa bước vào nhà, Linh Lan xin lỗi Hữu Huân rối rít vì đã về trễ, sau đó ra sau bếp để nướng cá. Ngồi trong nhà, Hữu Huân bất giác nuốt nước bọt khi mùi cá nướng tỏa ra, thơm lừng cả gian nhà tranh. Bữa ăn hôm nay ngoài món rau luộc chấm mắm ruốc, thêm cá nữa là đã quá thịnh soạn. Hữu Huân không cần phải đợi lâu, lụi hụi một lúc ở góc bếp, Linh Lan đã mang hai con cá nướng lên. Ngay khi vừa nhìn thấy hai con cá cháy... đen thui trên lớp lá chuối, Hữu Huân chẳng biết nên khóc hay cười. Trong tất cả các món, nướng cá là dễ nhất, ấy thế mà cô gái này lại nướng cháy đến khét lẹt cả. Dù nghĩ thế, nhưng ông không đành nói ra khi trông thấy gương mặt lem luốc vì khói hun của Linh Lan đang rất tươi. Biết cô gái này bắt được cá chẳng dễ dàng gì, Hữu Huân không nỡ nặng nhẹ, hơn nữa, tuy có cháy nhưng cũng không đến nỗi phải bỏ đi, chỉ cần cạo phần cháy đen đi thì vẫn có thể ăn được như bình thường.

- Cô nhà cậu lạ thiệt, nướng cá mà không làm sạch cá sao?

- Ơ!... Cháu tưởng cá nướng thì phải nguyên con...

Trước câu trả lời thật thà của Linh Lan, Hữu Huân trố mắt. Ông liếc mắt nhìn Nguyễn Ánh rồi lại nhìn xuống mâm thức ăn, tủm tỉm cười và hỏi.

- Mà sao chỉ có hai con cá thôi, chúng ta có ba người mà, hay là cô cậu dùng...

- Không! Cháu... không thích ăn cá, cho nên chỉ bắt hai con thôi. Không sao. Chú cứ ăn đi.

Linh Lan nói dối khi Hữu Huân hỏi, nó không dám nói thật rằng vật lộn cả buổi sáng mà chỉ bắt được hai con trong khi cá lội tung tăng dưới sông. Lướt mắt nhìn lên mâm cơm, Linh Lan có hơi thất vọng. Trong tất cả các món, nó ghét trứng chiên nên chỉ có thể ăn rau cải và mắm ruốc. Không để lộ sự thất vọng ra mặt, Linh Lan ngồi xuống ghế, tay thoăn thoắt bới cơm cho cả ba rồi bắt đầu gắp ăn. Vừa mới ngửi thấy mùi ruốc, Linh Lan mím môi lại bởi vì mùi mắm... khá tanh, trong khi nó không thể chịu được mùi tanh vì rất khó ăn. Đã lỡ gắp vào chén, không thể lấy ra, Linh Lan đành nhắm mắt nhắm mũi lùa cơm vào miệng. Mùi tanh của ruốc sộc lên mũi, khiến nó nhăn mặt nhưng cũng không còn cách nào khác đành nuốt xuống cho êm.

Trong khi Linh Lan, đang cố nuốt trôi món rau chấm mắm ruốc, mọi hành động cũng như biểu hiện của nó đều không qua khỏi mắt Nguyễn Ánh. Không nói không rằng, anh cầm bát mắm ruốc đứng lên, tiến về phía bếp trước sự ngơ ngác của Hữu Huân và Linh Lan. Không biết Nguyễn Ánh sẽ làm gì với bát mắm đó, Linh Lan tò mò nhìn theo anh, đến khi anh quay lại thì bát ruốc đã được trộn thêm một số thứ mà Linh Lan nhìn mãi cũng chẳng biết đó là gì.

- Anh cho thêm cái gì vào vậy?

- Ăn đi, đừng hỏi nhiều.

Nguyễn Ánh đáp ngắn gọn, khiến Linh Lan tự ái và không thèm nói thêm gì nữa. Quết một miếng ruốc cho vào chén, lần này, miếng ruốc không còn tanh nữa, mà trái lại còn có một mùi thơm nhẹ. Nhấp một miếng, Linh Lan cảm nhận được những gia vị mà Nguyễn Ánh đã trộn thêm vào, nào là vị tiêu, tỏi cay cay, vị hồi hương thơm dịu (*). Món mắm ruốc lúc này không còn mặn như ban đầu mà trở nên dễ ăn, lại còn ngon đến không ngờ. Ngồi bên cạnh Linh Lan, Nguyễn Ánh mỉm cười khi nó đã bắt đầu ăn một cách ngon lành, đôi mày liễu thôi không cau lại nữa. Gắp lấy con cá nướng trên lá chuối, Nguyễn Ánh nhẹ nhàng bẻ làm hai và sớt qua chén Linh Lan. Trước ánh mắt ngạc nhiên của nó, anh lại tiếp tục sẻ nửa bát cơm cho Linh Lan khi chén cơm của nó đã vơi. Tất cả những hành động đó Hữu Huân đều nhìn thấy, ông gắp rau chấm vào bát mắm ruốc, miệng tủm tỉm cười khi nhớ đến vợ mình, đoạn nói ôn tồn.

- Chà! Đúng là vợ chồng son có khác.

Lại "vợ chồng son", Linh Lan nhăn mặt, tính phản bác lại lời Hữu Huân nói nhưng phút cuối lại im lặng. Cứ để Hữu Huân nghĩ thế cũng chẳng hề hấn gì, bởi nó và Nguyễn Ánh dẫu sao cũng chỉ là hữu danh vô thực, miễn sao ông không nghi ngờ tung tích cả hai là được. Sau khi ăn xong cơm, Linh Lan mang tất cả chén bát ra ngoài rửa. Trong khi nó đang rửa chén thì Hữu Huân xích lại gần Nguyễn Ánh, thì thầm.

- Này Phúc! Cậu về dạy lại vợ đi nhé, cưng chiều quá không tốt đâu. Ai đời nướng cá mà cũng không biết cách nướng thế kia.

- Không sao! Đó là cách nướng cá đặc biệt của cô ấy, tôi thích như thế.

Trước lời góp ý chân thành của Hữu Huân, Nguyễn Ánh mỉm cười đáp lại. Sở thích đặc biệt của anh khiến Hữu Huân chỉ biết lắc đầu, ông vỗ vai anh vài cái rồi ra sau vườn xem xét số thuốc đang được hong khô. Còn lại Nguyễn Ánh, anh lướt mắt về góc bếp, nơi Linh Lan xếp chén vào trong chạn. Nhìn gương mặt trái xoan vương nước, đôi bàn tay thoăn thoắt lau chén, Nguyễn Ánh cảm thấy vô cùng dễ chịu. Một sự dễ chịu nguy hiểm, nhưng lại êm đềm lan tỏa khắp ngõ ngách tâm hồn anh.

Không biết từ bao giờ, anh đã quen với hình ảnh ấy, đã quen nhìn thấy người con gái ấy quanh quẩn bên cạnh anh, làm các công việc lặt vặt rất đỗi bình thường. Nó ngồi rửa chén, anh ngồi pha trà, cả hai tuy không nói với nhau lời nào, nhưng anh lại cảm thấy những khoảnh khắc hiếm hoi thế này lại là nơi chốn bình yên nhất trong quãng đời đã qua của mình. Một nụ cười dịu dàng nở trên bờ môi thanh tú của Nguyễn Ánh. Khói lửa, chiến tranh đi qua trong đời anh, mang đến những vết sẹo khắc sâu trong lòng, mãi không lành, thế nhưng những ngày lưu lại nhà của Hữu Huân, Nguyễn Ánh chợt như thấy mình được sống trọn vẹn nhất. Anh có môt mái nhà êm ấm, anh có một gia đình nhỏ bé, có một người vợ "đảm đang" với món cá nướng còn... nguyên con.

oOo

Trời càng về chiều càng mát mẻ, rừng cây rì rào trong gió, lớp lá tranh kêu xào xạc trên mái. Nguyễn Ánh đang luyện kiếm sau vườn, trong khi Linh Lan đang ngồi sao thuốc giùm Hữu Huân khi ông ra ngoài tìm thuốc. Đang luyện đến đường kiếm thứ mười, Nguyễn Ánh liền ngừng lại khi nhìn thấy một con chim bồ câu trắng muốt đậu trên ngọn tre gần đó, trên chân là một mảnh giấy nhỏ được buộc cẩn thận. Trong phút chốc, đôi mắt nâu trong suốt thẫm lại. Nguyễn Ánh huýt nhẹ một tiếng, con chim bồ câu nghiêng đầu, rồi sau đó vỗ cánh xà xuống, đậu lên bàn tay đang vươn ra của anh.

Gỡ nhẹ lá thư đính trên chân chim rồi thả cho nó bay đi, đôi mày kiếm của Nguyễn Ánh nhíu lại khi đọc vỏn vẹn hai chữ đen thẫm trên mảnh giấy "Hủ tiếu". Trong tất cả các món ăn, hủ tiếu nổi tiếng ngon và đậm đà nhất chỉ có ở Mỹ Tho, vậy là Lê Văn Duyệt cùng các thuộc tướng thoát được đang tập trung tại đó, tất cả đều đã sẵn sàng, chì chờ anh đến. Những lần trước, Hậu Giang luôn là con đường để anh thoát, nhưng lần này anh sẽ xuống Mỹ Tho trước rồi mới tìm đường ra khơi sau, bởi chắc chắn Tây Sơn đã rút kinh nghiệm những lần truy kích trước đó mà phong tỏa mọi lối thoát của anh. Nguyễn Ánh nhếch môi, cho dù cái lưới của quân Tây Sơn đang thắt chặt lại, nhưng anh vẫn tìm ra được một kẽ hở để thoát, chẳng khó khăn gì.

Nguyễn Ánh đã nhận được tin báo, giờ anh phải tính đến thời điểm lên đường. Duyệt và các thuộc tướng đang ở Mỹ Tho, như vậy, anh phải nhanh chóng rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt để hội quân. Ngước nhìn bóng chim chao lượn trên bầu trời, đôi mắt nâu trong suốt của anh chợt trở nên mơ hồ. Mỹ Tho! Nơi gia quyến anh đang tạm trú, nơi có người mẹ hiền đang đặt kỳ vọng vào anh,

"Vì con là vị chúa cuối cùng"

Gia đình...

Xoẹt!

Nguyễn Ánh nắm chặt thanh kiếm, một nhát kiếm vung lên như rạch đôi bầu trời. Tiếng gió xé vun vút, gương mặt thanh tú trở nên lạnh lùng. Ngày mai anh sẽ lên đường đến Mỹ Tho hội quân. Ngày mai, anh lại trở về với cuộc sống của một vị chúa, một vị chúa đang tìm cách giành lại cơ đồ, nhằm đổi lại xương máu những người đã ngã xuống, đổi lại niềm kỳ vọng của tất cả mọi người. Nguyễn Ánh dừng kiếm, anh ngẩng lên nhìn bầu trời xanh, tà áo vàng bay phất phơ, ánh mắt nâu vụt trở nên thăm thẳm, sáng lấp lánh. Ngày mai tất cả mọi chuyện sẽ trở về guồng quay cố định, anh sẽ trở về với máu, với chiến tranh. Nhưng nếu có cô gái ấy ở bên cạnh, đối với anh, chiến trường cũng trở thành nơi bình yên...

Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười kiêu ngạo không bao giờ thay đổi. Anh tra vỏ kiếm vào bao rồi quay trở vào nhà. Vừa mới ngồi xuống, Nguyễn Ánh chưa uống chén trà đã rót thì Linh Lan từ dưới bếp đi lên, gương mặt tươi cười rạng rỡ, trên tay nó là một cái rổ đựng một thứ gì đó hình thù kỳ dị. Nhìn thấy thứ đó, Nguyễn Ánh lộ vẻ ngạc nhiên, anh chưa hỏi gì thì Linh Lan đã vọt miệng nói luôn.

- Thế nào, thơm không? Món này có tên gọi là bồ câu nướng đất. Ngon cực kỳ đó nha.

- Bồ câu?

- Phải ! Lúc nãy đột nhiên có con chim bồ câu bay ngang qua, đậu lại trên cành cây. Chỉ với một ít thóc và một cái thúng là con chim sa vào bẫy liền, nếu không thì lấy đâu ra món này.

Trông thấy nét mặt kỳ quái của Nguyễn Ánh, Linh Lan hồn nhiên đáp. Nó đặt cục đất sét hãy còn tỏa khói xuống bàn, rồi nhanh nhẹn bóc từng lớp ra. Không biết hành động của Linh Lan có gì ngộ nghĩnh, mà chỉ thấy Nguyễn Ánh tủm tỉm cười. Anh xoay cục đất sét về phía mình và bắt đầu bóc, đoạn nói lấp lửng.

- Cái gì của tôi cũng là của cô!

Nghe Nguyễn Ánh nói, Linh Lan tròn mắt. Nó nhìn anh, anh nhìn nó. Ánh mắt dịu dàng của anh làm Linh Lan vội chuyển hướng, chú mục vào món ăn trên bàn để tránh cái nhìn thăm thẳm ấy. Tuy chẳng hiểu câu nói của anh có hàm ý gì, nhưng khi nhớ đến những gì anh đã gây ra cho nó, thì nó lại cảm thấy lạnh cả người.

- Anh mà tốt đến thế sao? Hồi ở sông Lật ai đã có ý định dìm chết tôi?

- Ai?

- Anh chứ ai!

- Thế thì cô nhầm rồi, tôi không có ý định dìm chết cô...

Nguyễn Ánh nói đến đây liền ngưng lại, anh đột ngột xoay người Linh Lan lại và nâng mặt nó lên. Nhìn sự bỡ ngỡ trong ánh mắt của nó, Nguyễn Ánh nhếch môi, giọng nói anh sắc lại, trầm và lạnh.

- ... Mà là tôi muốn dìm chết cô!

Những chữ cuối cùng Nguyễn Ánh nói nhẹ như gió thoảng, nhưng lại làm cho Linh Lan rùng mình. Nó nhìn vào mắt anh, ngỡ ngàng.

- Tại sao?

- Câu này tôi hỏi cô mới phải. Cún con, tại sao cô lại cứu tôi?

Nhìn xoáy vào đôi mắt Linh Lan, Nguyễn Ánh lạnh lùng hỏi. Linh Lan vội gạt tay anh ra nhưng không được, nó đành nhẫn nhịn trả lời.

- Vì để đạt được mục đích riêng của tôi.

Khi Linh Lan vừa thốt ra câu đó, đôi mắt Nguyễn Ánh tối lại. Anh kéo Linh Lan lại sát gần mình, sát đến nỗi gương mặt của hai người kề nhau, nghe rõ cả hơi thở của nhau, khiến Linh Lan giật mình.

- Cún con, có điều này cô nên biết! Trong đời tôi vốn ghét nhất ba chuyện, đó là bị tổn thương, bị lợi dụng và bị xúc phạm. Trên vọng đài, cô nói thích tên Long Nhương đó, có nghĩa là đã tổn thương tôi, cô vì muốn đạt được mục đích riêng mà cứu tôi, đó chính là lợi dụng tôi, cô và hắn âu yếm nhau trước mặt tôi, đó chính là xúc phạm tôi! Cô trong một lúc phạm vào ba điều cấm kỵ lớn nhất, lẽ ra tôi đã bỏ mặc cô dưới lòng sông Lật, nhưng vì trước đó cô đã cứu tôi nên tôi mới mang cô lên. Tôi nhắc để cho cô nhớ, lần sau, tuyệt đối đừng tái phạm điều đó lần thứ hai với tôi. Nếu không, cô chắc chắn sẽ chết!

Linh Lan biết, Nguyễn Ánh không nói đùa, và nó cũng biết, bây giờ nó mà thốt ra câu nào thì chắc chắn sẽ bị tai họa giáng xuống đầu. Gương mặt Nguyễn Ánh lạnh băng nhưng bờ môi lại nhếch lên, tạo thành một nét cười tàn nhẫn. Sự êm ả ở đôi mắt trong suốt biến mất, thay vào đó là sát khí ẩn hiện, lấp lánh nguy hiểm như những tia sét rạch ngang bầu trời. Trong vô thức, bàn tay Nguyễn Ánh xiết chặt lại, bờ vai Linh Lan đau nhói. Nó nhăn mặt, chưa kịp phản ứng thì anh đã ôm nó vào lòng, xiết chặt, bờ môi thanh tú lướt trên mái tóc Linh Lan rồi dừng lại ở vành tai, thì thầm.

- Cún con! Đừng quên, cô vẫn còn nợ tôi một mạng.

Lần đầu tiên Linh Lan thấy Nguyễn Ánh đáng sợ như thế. Trong phút chốc, nó quên cả ý định phản kháng mà co người lại, vành mi run rẩy vì những gì Nguyễn Ánh vừa nói vào tai. Giọng Linh Lan thốt lên lo lắng.

- Tôi... Tôi đã trả đầy đủ cho anh rồi còn gì...

- Khi nào?

Thấy Nguyễn Ánh thản nhiên phủi bỏ hết mọi công lao của nó, Linh Lan cả giận. Nó vùng vẫy kịch liệt nhưng vòng tay anh vẫn không suy chuyển, trái lại còn xiết chặt thêm khiến nó khó thở, nói nhanh.

- Thì.. tôi đã đưa anh đi tìm thầy thuốc. Nếu không nhờ tôi thì anh làm gì còn sống tới ngày hôm nay mà đe dọa, so sánh thiệt hơn với tôi chứ!

- Cún con! Cô lại nhầm rồi. Tôi không cầu cô, mà chính cô đã tự động mang tôi đến đây.

- Cái gì?

- Vì cô đã tự nguyện cứu tôi, cho nên cô vẫn còn nợ tôi một mạng tại rạch Chanh.

- Được! Tôi thì chẳng muốn nợ anh gì cả, vậy nên anh muốn tôi trả nợ cho anh thế nào đây?

Đáp lại sự tức giận của Linh Lan chỉ là một nụ cười mỉm của Nguyễn Ánh. Anh hôn lên mái tóc đen của nó, rồi từ mái tóc đen lướt xuống vầng trán cao. Nụ hôn đột ngột ấy khiến Linh Lan giật bắn mình, nó vùng khỏi vòng tay Nguyễn Ánh nhưng anh đã thả nó ra trước, đồng thời nhìn sâu vào mắt nó, nói trong nụ cười nguy hiểm.

- Không! Tôi muốn cô nợ tôi. Nợ suốt đời!

Phớt lờ gương mặt sửng sốt của Linh Lan, Nguyễn Ánh quay trở về công việc bóc lớp đất bên ngoài món chim nướng. Khi lớp đất xám ghi rơi ra, mang theo cả lông của con chim bồ câu, những thớ thịt trắng ngà, béo ngậy, thơm phưng phức của con chim đưa tin tội nghiệp hiện ra dưới mắt anh. Ngón tay gầy ấn vào giữa ngực con chim, Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười lửng lơ, mắt lấp lánh những tia sáng lạ, chẳng hiểu anh đang suy tính những gì.

- Ngày mai chúng ta sẽ lên đường.

-------------

Chú thích :

(*) : Món này bạn author ko có chế nha mọi người, có thật đó, chính sử ghi chép đàng hoàng . Ai có nhã hứng thì làm ăn thử xem mùi vị thật nó thế nào, ăn xong kể bạn author nghe nữa nha, vì bạn cũng chưa thử :">. Nguyên văn món này như sau .

Sử nhà Nguyễn ghi chép, vua thích ăn cơm với mắm ruốc trộn tiêu, ớt, hồi hương, quế chi, tỏi, gừng, ô mai giã nhỏ trộn vào nhau, bữa nào cũng dùng.

A/N : Thể nào ở đây cũng đang có người thắc mắc thời này sao lại có món hủ tiếu để mà ông Duyệt đề cập trong thư cho anh Ánh, xin thưa, có rồi đấy ạ.

Tương truyền rằng hủ tiếu là món ăn của người Hoa đem tới xứ Mỹ Tho này. Các cụ kể, khi gánh người Hoa do Dương Ngạn Địch, tổng binh Long Môn, tướng nhà Minh không chịu đầu phục triều Thanh, dẫn bầu đoàn thê tử, tuỳ tùng sang Việt Nam lánh nạn được chúa Nguyễn cho vào cư ngụ làm ăn ở vùng Mỹ Tho hồi năm 1679, lập ra Mỹ Tho đại phố mua bán sầm uất, khi đó món hủ tiếu xuất hiện. Ai mà về Mỹ Tho nhớ ăn một tô hủ tiếu chính cống nhà mọi người. Không ngon không lấy tiền

Spoiler chap 5

Trong rừng thưa, có một chàng trai ngủ trên bờ vai một cô gái, không biết chàng trai ấy có mơ gì hay không mà chỉ thấy bờ môi nhẹ mỉm cười. Một nụ cười thật bình yên.

Đường đến Mỹ Tho khá xa xôi vất vả, nếu đi bằng ngựa thì sẽ nhanh hơn, nhưng vì đề phòng, cả hai chọn cách băng rừng mà đi nên không dùng đến ngựa. Chỉ trừ những phút nghỉ ngơi, Nguyễn Ánh và Linh Lan đi cả ngày lần đêm. Ban đầu, cả hai đi khá gấp gáp và sử dụng đường nhỏ để phòng quân Tây Sơn đuổi kịp, về sau, khi gần đến nơi, Nguyễn Ánh và Linh Lan đi chậm lại, thư thả nghỉ ngơi trước khi băng qua cánh rừng thưa, đến được địa phận Mỹ Tho.

Ngồi tựa vào thân cây nhỏ, Linh Lan lướt mắt về hàng dừa nước thấp thoáng phía xa, lòng rộn lên bao suy nghĩ miên man. Lẽ ra nó sẽ không đi cùng Nguyễn Ánh đến Mỹ Tho, nhưng suy đi tính lại thì vết thương của Nguyễn Ánh vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, lại thêm trên đường đi rất có thể anh sẽ gặp Tây Sơn. Dù sao, đưa anh đến nơi hội quân an toàn cũng là cách Linh Lan tự an ủi rằng việc làm của nó không vô ích. Nguyễn Ánh không còn lo ngại chi nữa thì nó có thể yên lòng quay trở về Tây Sơn, đối diện với Văn Bình, đối mặt với bản án lương tâm của mình.

Chính vì suy nghĩ đó nên Linh Lan mới đồng ý đi cùng Nguyễn Ánh. Trải qua đoạn đường dài, Linh Lan đã thấm mệt. Giờ đây, ngồi nghỉ chân dưới tán rừng thưa, mắt hướng về đất Mỹ Tho bên kia rặng dừa xanh, Linh Lan mới cảm thấy quyết định của mình hơi phiêu. Chuyện tìm đường về thì nó không sợ, bởi trên đường đi, nó đã ghi nhớ các lối rẽ, cũng như những dấu hiệu nhận biết khi tìm đường quay trở về. Cái mà nó lo lắng, thứ nhất là làm sao để thoát khỏi Nguyễn Ánh một khi đưa anh đến nơi hội quân, thứ hai là trên đường tìm về Tây Sơn, không biết nó có gặp phải trộm cướp hoặc những vấn đề phát sinh nào hay không. Linh Lan thở dài, dù thế nào đi chăng nữa thì nó cũng đã quyết định, giờ chỉ có thể lo giải quyết từng chuyện một chứ chẳng thể tính quá xa. Trước mắt nó phải tìm cách rời khỏi Nguyễn Ánh mà không gặp bất cứ trở ngại nào đã rồi mới có thể tính đến những tình huống phát sinh sau đó.

Trong khi Linh Lan đang tính kế, Nguyễn Ánh ngồi ngả lưng vào thân cây, hai tay anh khoanh trước ngực, chân bắt chữ ngũ, một phong thái vô cùng nhàn hạ. Chợt, đôi mày kiếm nhíu lại như đang suy nghĩ gì đó rồi giãn ra, Nguyễn Ánh xoay Linh Lan lại đối diện với anh. Đang còn ngơ ngác vì không hiểu Nguyễn Ánh làm gì, đến khi nhìn xuống thì Linh Lan đã thấy trên cổ mình lấp lánh một sợi dây kết bằng chỉ đỏ, mặt dây chuyền là một con chim phụng bằng bạc, vô cùng tinh xảo. Nhận ra đó là sợi dây chuyền mà Nguyễn Ánh đang đeo, Linh Lan vô cùng ngạc nhiên.

- Đây là gì vậy?

- Dây chuyền.

- Hở? Sao anh không đeo mà lại đưa tôi làm gì?

- Đeo nó, quân Nguyễn khi nhìn thấy sẽ không giết cô.

Nguyễn Ánh vừa nói vừa cười, nhưng Linh Lan biết anh không nói đùa. Vì tính mạng là chuyện quan trọng, Linh Lan không phản đối khi anh đeo cho nó. Cầm lấy mặt dây chuyền ngắm nghía, Linh Lan mở to mắt do nhận ra hai chữ được chạm khắc tinh tế nằm trên đầu con phụng hoàng. Giơ con phụng hoàng ra trước mặt Nguyễn Ánh, Linh Lan hỏi dò.

- Hai chữ này là gì?

Nguyễn Ánh nheo mắt nhìn sát vào con phượng hoàng, bờ môi thanh tú của anh vẽ thành một nụ cười lấp lửng, rồi anh đột ngột vươn tay ra, ôm choàng Linh Lan vào lòng. Quá bất ngờ trước hành động của Nguyễn Ánh, Linh Lan tính la lên phản đối như thường ngày, nhưng phút cuối nó lại im lặng và trân mình chịu đựng. Ba ngày qua nó đã suy nghĩ rất nhiều, sau khi đưa Nguyễn Ánh đến Mỹ Tho hội quân thì nó sẽ rời khỏi anh ngay lập tức, nhưng vấn đề là nó phải làm sao khi anh luôn để mắt tới nó, nó luôn trong tầm mắt anh thì làm sao có thể thực hiện kế hoạch cho riêng mình? Linh Lan cắn môi suy nghĩ, sau cùng, nó cũng đã tìm ra một biện pháp để giải quyết kế hoạch bất khả thi ấy. Nó cần phải lấy lòng tin của Nguyễn Ánh, cần phải ngoan ngoan làm theo lời anh, như thế anh mới không còn cảnh giác, không còn đề phòng và lơi lỏng kiểm soát với nó. Chỉ có như thế nó mới có thể dễ dàng trốn đi mà không gặp bất cứ trở ngại nào.

Vì đã quyết định từ trước, nên dù vô cùng khó chịu, Linh Lan vẫn để cho Nguyễn Ánh ôm vào lòng. Nó ngồi yên trong lòng anh, tay mân mê con phụng hoàng, lòng thắc mắc hai chữ chạm khắc đó có ý nghĩa gì mà Nguyễn Ánh không giải thích cho mình. Đang săm soi con phụng, Linh Lan ngẩng đầu lên khi Nguyễn Ánh chỉ tay về phía trước, anh nói nhẹ nhàng.

- Chỉ cần băng qua hàng dừa nước đó là chúng ta sẽ tới Mỹ Tho. Cún con, cô có biết ở đó, món nổi tiếng nhất của vùng là gì không?

- Không - Linh Lan lắc đầu. Nó sống ở thành phố Hồ Chí Minh, chưa bao giờ có dịp du lịch miền tây sông nước nên chẳng biết tý gì về đặc sản ở đó cả.

- Ở Mỹ Tho nổi tiếng nhất là hủ tiếu.

- Ơ! Thời này mà cũng có hủ tiếu sao?

Nghe Nguyễn Ánh nói, Linh Lan quay phắt người lại nhìn anh đầy ngạc nhiên. Nhẹ hôn lên vầng trán bướng bỉnh ấy, Nguyễn Ánh lại xiết chặt Linh Lan vào lòng, anh tựa cằm lên bờ vai của nó, nói thì thầm qua vành tai nhỏ nhắn.

- Tại sao lại không? Sợi hủ tiếu làm bằng thứ gạo Gò Cát của làng Mỹ Phong mới là ngon nhất, dai nhất. Tôi đã từng ăn qua một lần, chỉ một lần thôi nhưng vẫn còn nhớ cho đến bây giờ.

Lúc Nguyễn Ánh giơ tay lên chỉ về phía rừng dừa, Linh Lan tinh mắt thấy trong lòng bàn tay anh có một vết sẹo. Sẹo gì mà ở lòng bàn tay nhỉ? Linh Lan nghĩ thầm. Nó vốn không tính hỏi, nhưng có mấy ai được dịp nghe Gia Long hoàng đề nói về bản thân mình, thế nên sau phút ngần ngừ, nó bèn hỏi dò.

- Này, tay anh làm sao có vết sẹo vậy?

Nghe Linh Lan hỏi, đôi mắt Nguyễn Ánh sẫm lại, anh xòe lòng bàn tay ra thì Linh Lan nhướng mày lên do anh có tận hai vết sẹo. Một vết sẹo ở đầu ngón tay cái và một vết sẹo khá dài ở lòng bàn tay. Chỉ vào vết sẹo ở ngón tay cái, Linh Lan thắc mắc.

- Cái này là sao đây?

Nhìn vết sẹo bằng đôi mắt nâu, ký ức xưa như làn gió thổi, Nguyễn Ánh yên lặng, đến chừng Linh Lan tưởng anh sẽ không nói thì anh lại đáp lời.

- Hồi còn ở Phú Xuân, khi còn nhỏ, Định vương có phát cho tôi một cây pháo hoa rất đẹp đốt mừng năm mới. Khi giao thừa đến, tôi đã đốt cây pháo hoa đó, nhưng vì tôi thích cây pháo hoa đó nên tôi cứ nắm chặt lấy nó không buông. Pháo cháy, cháy cho đến khi nó đã cháy hết tôi vẫn không buông ra, kết cuộc tay tôi đã bị phỏng. Vết bỏng vẫn còn đến bây giờ nhưng cây pháo thì đã cháy từ lâu.

Linh Lan à lên một tiếng khi Nguyễn Ánh vừa dứt lời. Thì ra từ nhỏ anh ta đã cứng đầu, bướng bỉnh thế. Vì yêu thích cây pháo hoa nên cứ nắm chặt lấy dù nó đã cháy hết, không phỏng cũng uổng. Phì cười vì ý nghĩ đó, Linh Lan lại hỏi vu vơ.

- Anh vừa nhắc đến Định vương, thế Định vương là ai vậy?

- Là chú tôi!

- Chú anh còn sống không?

- Đã qua đời.

- Thế à? Tại sao qua đời?

- Bị Tây Sơn giết chết.

Do đang mải ngắm nghía con phụng hoàng, Linh Lan không nhận thấy giọng nói của Nguyễn Ánh sắc lại. Đến khi nghe việc Định vương bị quân Tây Sơn sát hại, Linh Lan im bặt, không nói gì nữa. Trong phút chốc, bầu không khí chợt trở nên cô đọng, chỉ nghe hơi thở nhẹ nhàng của Nguyễn Ánh trên vành tai Linh Lan. Dù không nhìn thấy nét mặt của Nguyễn Ánh, nhưng Linh Lan cảm nhận được anh đang xiết chặt lấy nó, những ngón tay dài co duỗi như đang nắm một thứ gì đó, rồi thả ra cho tan theo mây trời.

- Vậy... còn vết sẹo kia.

Linh Lan bối rối, nó vội chuyển sang đề tài khác để khỏa lấp bầu không khí lặng yên hiện thời. Chỉ tay vào vết sẹo còn lại của Nguyễn Ánh, nó hỏi nhanh. Từng ngón tay của Nguyễn Ánh duỗi ra, rồi bất chợt co lại, đan lấy bàn tay Linh Lan thật chặt, không rời.

- Vết sẹo ấy là do tôi muốn nhắc nhở bản thân mình, thế thôi.

Trong phút chốc, Linh Lan cảm thấy giọng nói của anh rất ấm, ấm và dịu dàng, điều đó khiến nó rất ngạc nhiên vì không ngờ Nguyễn Ánh cũng có những lúc dịu dàng như thế. Thời gian nhè nhẹ trôi qua, rừng cây rì rào trong gió, hàng dừa nước đung đưa những cánh tay xanh thẫm phía xa, khung cảnh thanh bình hệt như chưa từng có chiến tranh khiến Linh Lan cảm khái. Ngồi trong lòng Nguyễn Ánh, Linh Lan cảm thấy bờ vai nó nằng nặng, đến khi nhìn lại thì nó ngớ ra khi Nguyễn Ánh đã ngủ trên vai mình từ bao giờ.

Nguyễn Ánh đang ngủ, một tay anh ôm lấy Linh Lan, tay còn lại đan vào bàn tay nó, đôi mắt nhắm lại, gương mặt thanh tú nhẹ nhõm, như một đứa bé con. Chẳng biết anh ngủ thật hay chỉ nhắm mắt nghỉ ngơi mà vòng tay anh vẫn rất chặt, thật chặt, khiến Linh Lan không thể cựa quậy và cũng không nỡ cựa quậy mà ngồi yên.

Trong rừng thưa, có một chàng trai ngủ trên bờ vai một cô gái, không biết chàng trai ấy có mơ gì hay không mà chỉ thấy bờ môi nhẹ mỉm cười. Một nụ cười thật bình yên.

oOo

Phải đến xế chiều, Linh Lan và Nguyễn Ánh mới đặt chân đến được địa phận Mỹ Tho, và theo kế hoạch, từ Mỹ Tho anh sẽ đi Phú Quốc để che mắt Tây Sơn. Do đã đến được nơi hẹn, Nguyễn Ánh không cần đi nhanh nữa, anh vừa có một giấc ngủ ngon thế nên tâm trạng vô cùng dễ chịu. Nắm tay Linh Lan thả bộ dưới rặng dừa xanh, anh ngẩng mặt đón lấy những cơn gió mát dịu. Lúc này, ngay cả cái nắng hanh hao cũng trở nên hiền hòa. Chiều về mang theo bình yên.

Chợt, những bước chân của Nguyễn Ánh chậm lại, đôi mày thanh tú khẽ cau khi cảm nhận được mặt đất đang rung chuyển. Không hiểu tại sao Nguyễn Ánh dừng lại, Linh Lan phóng mắt nhìn về phía sau, trong phút chốc, gương mặt nó tỏ vẻ lo lắng khi nghe thấy tiếng vó ngựa phóng như bay trên đường. Chẳng lẽ quân của Lê Văn Duyệt đến? Nếu vậy thì Nguyễn Ánh đã không cau mày như thế, vậy... chẳng lẽ đó là quân Tây Sơn hay sao.

Đã đến đây còn bị bắt lại, Linh Lan quả thật không cam lòng, nó vội vàng nhìn quanh để tìm chỗ nấp nhưng vô cùng thất vọng. Xung quanh là ruộng lúa, chỉ có những bụi cây thấp lè tè, không đủ để một người ẩn nấp nói chi đến hai người. Linh Lan than thầm, nó chưa kịp tìm ra kế sách nào thì Nguyễn Ánh đã kéo nó tăng tốc. Hành động đó của Nguyễn Ánh càng làm Linh Lan thêm chắc rằng tiếng vó ngựa phía sau là của kẻ địch. Thật xui xẻo, gần đến chỗ hẹn với quân Nguyễn rồi mà lại gặp trục trặc. Căn cứ vào tiếng vó ngựa rầm rập, chứng tỏ đang đuổi theo phải là cả một đoàn trong khi nó và Nguyễn Ánh chỉ có hai người. Nếu trận chiến xảy ra, khỏi nói cũng biết kết quả chung cuộc sẽ như thế nào.

Linh Lan không cần phải phỏng đoán lâu, từ sau làn bụi đỏ, một đoàn người nhanh chóng lao về phía nó và Nguyễn Ánh như chớp. Dẫn đầu đoàn người là một gã có vết sẹo trên má trái. Cả toán người, ai nấy đều đằng đằng sát khí, tay lăm lăm gươm giáo. Nhìn cách ăn mặc của họ cũng đủ biết đó không phải là quân Nguyễn cùng Duyệt đi đón Nguyễn Ánh, và càng chẳng phải Tây Sơn.

Nhìn thấy đoàn người đó, khóe miệng Nguyễn Ánh khẽ nhếch lên, khoảng cách giữa anh và đoàn người ngựa ngày một thu hẹp lại, cuối cùng thì anh và Linh Lan đã bị bao vây. Cho ngựa đi vòng vòng đối thủ đã bị dồn vào giữa, tên thủ lĩnh đoàn quân săm soi từ đầu tới chân Linh Lan, như để đánh giá, rồi rà mắt về phía Nguyễn Ánh. Đôi mắt hẹp kéo dài ra như một sợi chỉ, sự thích thú hiện rõ trên gương mặt lưỡi cày của hắn. Hắn cất tiếng, giọng ồm ồm.

- Chúa công! Chẳng hay ngài có còn nhớ đến ta không?

Nhướng mày nhìn gã, Nguyễn Ánh chỉ mỉm cười mà không nói câu nào. Đối với tên thủ lĩnh, trên đời này hắn ghét nhất nụ cười tự tin đó, nụ cười luôn khiến hắn cảm thấy mình thật ngu ngốc khi ở dưới trướng vị chúa trẻ tuổi này.

- Nếu ngài không nhớ thì để ta nhắc cho ngài nhớ, ta là Đinh Hồ, thủ lĩnh Đông Sơn quân. Chắc ngài vẫn chưa biết, để tìm ra ngài, Đông Sơn chúng tôi đã hợp tác với kẻ thù không đội trời chung của ngài là Tây Sơn chứ.

Trong khi Đinh Hồ nói, đôi mắt Nguyễn Ánh lấp lánh bàng bạc. Anh kéo Linh Lan lại gần mình và đứng trước mặt nó, ngăn những cái nhìn soi mói của quân Đông Sơn lên người Linh Lan.

Tiết lộ của Đinh Hồ khiến trái tim Linh Lan khẽ đập nhanh. Tây Sơn đã liên kết với những người này sao? Đó là ý kiến của ai? Chẳng phải Văn Bình đã từ chối hợp tác khi phó tướng Đông Sơn là Lê Anh đến tìm anh hay sao? Tại sao giờ đây Tây Sơn lại liên kết với chúng? Sau khi Đinh Hồ nói dứt, hắn đinh ninh Nguyễn Ánh sẽ rất kinh ngạc hay nổi giận, nhưng không, viên chúa trẻ vẫn bình thản, chẳng chút cảm xúc nào trên gương mặt ấy ngoài sự mỉa mai, khiến hắn cảm thấy mình đang bị chế giễu vì thân là thủ lĩnh mà phải cầu cạnh Tây Sơn để trả mối thù xưa. Sự ngạo mạn, ngay cả trong những phút nguy hiểm, của viên chúa trẻ khiến Đinh Hồ khó chịu. Hắn quẹt mũi, cười gằn.

- Chúa công, lúc trước chúng tôi đã thề rằng nhất định sẽ báo thù cho Đỗ tướng quân, Võ tướng quân, cuối cùng, ngày đó đã đến. Nể tình lúc trước chúng tôi đã từng dưới trướng ngài, ta sẽ cho ngài một cái chết ít đau đớn nhất, còn cô gái kia thì ta sẽ mang về để hầu hạ...

Đinh Hồ chưa nói dứt lời, tức thì một ánh kiếm bạc lóe lên. Tiếng ngựa hí lên thảm thiết, Đinh Hồ thấy người chao đảo, ngay lập tức hắn vội nhảy xuống ngựa theo phản xạ. Vừa lúc đó, tiếng gió vun vút kéo tới và một tiếng keng chát chúa vang lên. Đinh Hồ định thần lại thì sống lưng của hắn ướt đẫm mồ hôi. Con tuấn mã hắn đang cưỡi bị chém đứt hai chân trước đang quoằn quại dưới đất, còn hắn thì giữ được mạng sống là do đồng bọn kịp thời nhoài người ra ngăn chặn lưỡi kiếm lạnh lùng của Nguyễn Ánh. Nếu chậm thêm một giây nữa thì hắn đã gặp Đỗ Nhàn Trập và Võ Bảng bên kia thế giới rồi.

Đinh Hồ vội lấy lại bình tĩnh và đứng vững. Viên chúa trẻ đang đứng trước mặt hắn, gương mặt ngang tàng điểm nụ cười ngạo nghễ, tay nắm thanh kiếm đẫm máu, ánh mắt nâu sắc lạnh như một lưỡi kiếm bạc. Một luồng hàn khí lạnh lẽo tỏa ra, phảng phất tử khí, khiến Đinh Hồ toát mồ hôi khi nhớ lại tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc vừa rồi.

- Tiến lên, giết Nguyễn Ánh để trả thù cho các vị cố tướng quân.

Đinh Hồ gào lớn, hắn gạt giọt mồ hôi ngang mắt rồi nhất tề xông về phía Nguyễn Ánh cùng các thuộc tướng, lòng quyết tâm lấy mạng viên chúa trẻ để cúng tế vong hồn chủ cũ. Đẩy Linh Lan lùi ra khỏi vòng chiến, Nguyễn Ánh nhếch môi, thanh kiếm trong tay anh loang loáng ánh bạc. Trong phút chốc, cánh đồng yên ả liền biến mất, thay vào đó là chiến trường đẫm máu. Tiếng ngựa hí giãy chết, tiếng gào thét báo thù, máu rơi nhuộm đỏ mặt đất nâu sẫm, làm Linh Lan vừa hoảng vừa lo vì sợ Nguyễn Ánh sẽ không chống lại được ngần ấy người.

Không thể để cho Nguyễn Ánh một mình đấu với đám quân Đông Sơn, Linh Lan chạy lại gần một tên lính đã bị chém chết để tìm vũ khí trợ giúp. Do tên lính nắm quá chặt, Linh Lan bặm môi gỡ từng ngón tay đầy máu của hắn ra để lấy kiếm. Sau phút chật vật, Linh Lan cũng đã nắm được thanh kiếm trong tay, dù vẫn hơi rờn rợn khi hơi ấm của từ thi còn vương lại trên đốc kiếm. Không lãng phí thêm một giây, Linh Lan vội lao vào khi thấy một tên lính thừa cơ tập kích sau lưng Nguyễn Ánh. Bao kiếm trong tay Linh Lan vung lên, giáng trúng lưng tên lính khiến hắn ối lên một tiếng đau đớn. Vừa gạt hết những kẻ đang lao vào vòng chiến, Linh Lan dần tiến lại bên cạnh Nguyễn Ánh, hơi thở nó nặng nể, đứt quãng do phải dùng sức quá nhiều.

Lúc này, tình hình Nguyễn Ánh vô cùng nguy hiểm. Dù có tài giỏi đến đâu, nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ. Trên người Nguyễn Ánh đã xuất hiện nhiều vết thương, tà áo vàng lấm máu, lưỡi kiếm từ màu bạc chuyển sang màu đỏ, sát khí rợn người. Nhìn thấy tình trạng đó, Linh Lan dù rất lo lắng nhưng lại không thể phân tâm bởi còn phải đối phó với những tên lính Đông Sơn đang ùa lên. Đã được Văn Bình huấn luyện, lại thêm sự kiên trì miệt mài luyện tập trong suốt mấy tháng qua, đối phó với đám người này cũng không quá khó đối với nó, nhưng ngặt nỗi, từ trước đến nay, Linh Lan chưa bao giờ trải qua trận thực chiến nào quyết liệt như thế này. Lớp này bị thương thì lớp khác lại xông lên, thêm Linh Lan chỉ đánh bằng bao kiếm nên chẳng gây sát thương được cho ai.

Với lối trực chiến như thế, Linh Lan càng đánh càng xuống sức, trong khi Đông Sơn càng đánh càng hăng. Quân Đông Sơn kéo lên, lớp này lớp khác, bao vây Nguyễn Ánh vào giữa và khiến Linh Lan hoang mang. Cứ mỗi lần muốn tiến lại gần Nguyễn Ánh, nó lại bị ba bốn tên lính Đông Sơn chặn đường và đánh bật lại phía sau. Liên tiếp bốn năm lần, Linh Lan đã bắt đầu cáu. Ngay giây phút ấy, một tiếng cười chói tai vang lên, thanh kiếm Đinh Hồ nhuốm máu, cánh tay trái của nguyễn ánh bị một vết chém dài. Trông thấy những gì đang diễn ra trước mặt, Linh Lan vô cùng tức giận. Nó dùng hết sức đánh bật những tên lính bao vây ra ngoài và lướt lại gần Nguyễn Ánh. Đúng lúc đó, một tên lính từ phía sau Nguyễn Ánh đánh bật lên, phối hợp với Đinh Hồ đang đánh xuống. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, Linh Lan tái mặt hốt hoảng vì Nguyễn Ánh chẳng thể chặn nổi hai đầu. Trong khoảnh khắc ấy, Linh Lan đã không thể suy nghĩ được gì nữa, đầu óc nó rối lên như một cuộn chỉ và vội vàng phóng tới bên cạnh anh. Ánh kiếm bạc trong tay lóe lên. Một vòi máu bắn thẳng vào mặt Linh Lan. Tên lính trợn trừng mắt khi bị lưỡi kiếm cắm ngập vào tận cán, hắn ta ôm lấy vùng bụng máu tuôn như suối rồi ngã vật ra đất, chết tươi.

Trong khoảnh khắc đó, Linh Lan có cảm giác như nó vừa đặt chân vào địa ngục. Đôi mắt của tên lính mở trừng trừng, nhìn xoáy vào mặt nó. Thanh kiếm trong tay nó đẫm máu, run run. Cả người nó đông cứng, tê dại khi ngửi thấy mùi máu tanh chảy ròng ròng trên mặt.

Mình vừa giết người, mình vừa giết người.

Linh Lan run lẩy bẩy, mắt nó nhòa đi, những tiếng gào thét, ong ong trong đầu Linh Lan. Tiếng gào ban đầu rất nhỏ, nhưng ngày một to dần, to dần khiến lồng ngực Linh Lan như muốn nổ tung. Cái cảm giác lấy đi một sinh mạng, cái cảm giác máu của người vừa tanh lại vừa nóng khiến đầu óc Linh Lan trống rỗng, tê liệt và bần thần.

Mình vừa giết người...

Lần đầu tiên ra tay giết người, tinh thần Linh Lan bị chấn động, kết quả là nó không thể nào nhấc nổi thanh kiếm lên để chiến đấu. Nhân cơ hội đó, một tên lính phía sau nhằm lúc nó hoảng loạn mà vung đao chém tới. Chỉ nghe phập một tiếng, tên lính ngã lăn ra đất chết không kịp ngáp, trên ngực là lưỡi kiếm cắm sâu, máu nhuộm đỏ cả chiếc áo màu chàm.

Vì để cứu Linh Lan, Nguyễn Ánh đã phóng mũi kiếm về phía tên lính, kết liễu đời hắn. Cùng lúc với hành động phóng kiếm, Nguyễn Ánh lướt về phía Linh Lan, một tay anh ôm ngang thắt lưng, tay còn lại nắm lấy tay nó, điều khiển thanh kiếm lia ngang người những tên lính Đông Sơn ùa vào.

Trong lúc tình thế vô cùng nguy ngập, vòng vây của Đông Sơn ngày càng xiết chặt, Nguyễn Ánh chợt cau mày khi nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng đến. Chẳng lẽ Đông Sơn lại có thêm viện quân? Suy nghĩ đó vừa bật lên khỏi đầu, Nguyễn Ánh liền dập tắt ngay. Đôi mày kiếm cau lại liền giãn ra khi nhìn thấy tà áo đen quen thuộc của người ngồi trên lưng ngựa, đó là Nguyễn Văn Thành, sau lưng là Nguyễn Phúc Điển, em trai anh, cùng những binh lính thoát được sau trận Đồng Tuyên.

Nhìn thấy quân Nguyễn, Đinh Hồ mặt biến sắc, hắn ta vô cùng tức giận khi kết quả hôm nay không được như mong muốn. Trong tích tắc, quân Nguyễn đã kéo tới và xông vào vòng chiến. Sự dũng mãnh của Nguyễn Văn Thành, một đao đã lấy mạng nhiều người, khiến quân Đông Sơn sợ hãi. Cuộc chiến diễn ra ngày càng kịch liệt, thế trận nghiêng dần về phía quân Nguyễn. Xác Nguyễn quân và Đông Sơn quân trong thoáng chốc phơi đầy cả mặt đất. Biết không thể kéo dài tình hình do đã hao binh tổn tướng, Đinh Hồ nghiến răng phóng lên ngựa tháo lui sau khi đám thuộc hạ yểm trợ phía sau. Lúc này, trận chiến đã tan, Văn Thành thu đao, tiến tới cạnh Nguyễn Ánh. Liếc mắt nhìn Linh Lan đang đứng ngẩn ngơ bên cạnh, trên cổ là sợi dây chuyền lấp lánh, Văn Thành nhíu mày, anh vòng tay khấu chào, đoạn lo lắng.

- Chúa công, những vết thương của ngài...

- Ta không sao - Nguyễn Ánh cắt lời Văn Thành, anh lướt mắt nhìn những thuộc tướng thân cũ một lượt, rồi nói tiếp - Tình hình bên Duyệt như thế nào?

- Bẩm chúa công, Lê Văn Duyệt đã đưa gia quyến ngài đến trước, hiện tất cả bọn họ đang chờ ngài ở mé tây cạnh con sông đầu làng ạ.

Nguyễn Ánh gật đầu không nói gì, tay vuốt ve con ngựa mà Thành đem tới. Dời mắt sang Linh Lan, Nguyễn Ánh nhíu mày khi thấy nó vẫn còn thẫn thờ vì chưa tỉnh cơn sốc. Đưa tay chùi những vệt máu hoen dài trên mặt Linh Lan, anh nhẹ nhàng đặt lên trán nó một nụ hôn thật lâu. Bế Linh Lan lên ngựa, một tay anh ôm lấy nó, một tay nắm lấy cương, Nguyễn Ánh thúc ngựa tiến về phía trước, theo sau là quân Văn Thành, Phúc Điển cùng các binh sĩ lục tục kéo đi.

Chứng kiến tình trạng chấn động đến đông cứng người của Linh Lan, không cần nó phải nói, Nguyễn Ánh cũng đã đoán ngay ra sực việc. Chắc chắn đây là lần đầu tiên nó giết người nên mới bị ám ảnh như thế. Sống trong thời chiến tranh phải tự biết bảo vệ bản thân mình, ta không giết họ thì họ sẽ giết ta, xung đột là điều không thể tránh khỏi. Nếu muốn được sống thì phải chấp nhận sống chung với máu cùng những mưu mô của riêng mình. Để cứu anh, Linh Lan đã phải ra tay giết người, anh biết chuyện này sẽ còn ảnh hưởng tới Linh Lan rất nhiều. Nhưng không sao, anh sẽ tập cho cún con của anh làm quen với chuyện này để có thể tồn tại được trong hoàn cảnh khắc nghiệt như hiện thời. Bất giác, Nguyễn Ánh ghì chặt Linh Lan vào lòng. Anh nhẹ mỉm cười và nói nhỏ vào tai nó, từng lời.

- Cún con, tôi đã cảnh báo, đừng khiến tôi yêu cô nhưng cô không nghe. Bây giờ thì cô sẽ phải lãnh nhận hậu quả mà cô gây ra đến suốt đời.

Spoiler chap 6

- Sợi dây chuyền đó là vật gia bảo truyền từ đời này sang đời khác trong hoàng tộc. Khi một vị chúa muốn gắn bó trọn đời với ai đó, họ sẽ trao cho người ấy sợi dây chuyền này

Bên trong căn nhà lá đơn sơ, quân Nguyễn thoát được ở trận Đồng Tuyên đang hội họp cùng Nguyễn Ánh. Ngồi trên một tấm phản, tay tựa hờ trên đầu gối, hai chân xếp bằng, anh lướt mắt qua những thuộc tướng đang đứng xung quanh. Thiếu đội quân Lương Sơn của Châu Văn Tiếp, đôi mày kiếm của Nguyễn Ánh nhíu lại, viên dũng tướng này sau thất bại ở đồn Giác Ngư đã chạy thẳng qua Xiêm, đến giờ vẫn chưa có tin tức gì.

- Duyệt, tình hình Nguyễn quân sau trận Đồng Tuyên thế nào rồi?

Vốn là người chuyên ghi chép cẩn thận tình hình sau trận chiến, Lê Văn Duyệt vội vã bước ra khi Nguyễn Ánh trầm giọng hỏi. Vòng tay khấu chào, ông thận trọng đáp lời.

- Bẩm chúa công, do bị tấn công bất ngờ, quân Nguyễn trở tay không kịp. Sau trận Đồng Tuyên, sĩ số quân ta thiệt hại khá nhiều. Nguyễn Đình Toàn, binh bộ Minh, tham mưu Trần Đại Huề, hữu chi Nguyễn Văn Quý chết tại trận. Lại bộ Hồ Đồng, Hậu ứng Nguyễn Huỳnh Đức đã bị bắt. Một trăm thuyền chiến của ta bị đánh chìm, chỉ còn lại được độ mười chiếc dự phòng. Hồ Văn Lân, Tôn Thất Hội cùng cánh quân của họ đã bị đứt liên lạc, hiện không biết trú ngụ nơi nào. Còn nữa...

Lê Văn Duyệt vừa báo cáo vừa thăm dò phản ứng của Nguyễn Ánh, đến khi thấy anh chẳng tỏ chút cảm xúc nào, ông mới liếm môi, nói tiếp.

- ...Theo những gì mật thám báo về, Đông Sơn đã phối hợp với Tây Sơn để báo thù cho chủ cũ. Hiện chúng đang hợp tác với nhau trong việc tìm kiếm chúng ta. Chúa công, người dự tính thế nào?

Nguyễn Ánh nhếch môi khi nghe Lê Văn Duyệt hỏi, những ngón tay gầy của anh gõ nhẹ lên tấm phản, tạo thành tiếng cóc cách trong gian nhà im phăng phắc. Thông tin Đông Sơn liên kết với Tây Sơn chẳng có gì lạ, bởi cách đây mấy canh giờ anh đã nghe chính miệng Đinh Hồ - thủ lĩnh Đông Sơn nói. Nhưng cho dù không biết trước, thì anh cũng chẳng làm lạ. Anh biết, mối thù Đỗ Thanh Nhơn, Đỗ Nhàn Trập và Võ Bảng bị giết vẫn chưa lúc nào nguôi trong ký ức quân Đông Sơn. Chúng chỉ trung thành với tướng quân của mình chứ không bao giờ tuân lệnh bất cứ ai. Sau cái chết của Đỗ Nhàn Trập và Võ Bảng, quân Đông Sơn phân tán, nhưng dần dà đã tập hợp lại lực lượng, chuyện chúng tìm đến Tây Sơn hợp tác chỉ là vấn đề thời gian, không lúc này cũng lúc khác.

- Đông Sơn muốn hợp tác với ai ta không quan tâm. Nếu không phải quân Tây Sơn mà là một thế lực khác mạnh hơn thì chúng cũng sẽ tìm đến, sau khi hợp tác xong chúng lại trở mặt với Tây Sơn như trước đó, thế thôi. Bây giờ, ngươi, Phúc Điển cùng Văn Thành tập trung tất cả lực lượng lại, sửa soạn thuyền bè và chuẩn bị lương thực, ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi Phú Quốc.

Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phúc Điển và Văn Thành cùng vòng tay nhận mệnh lệnh. Cuộc họp lại tiếp tục, Nguyễn Ánh ngồi nghe thuộc tướng báo cáo về tình hình Tây Sơn và những con đường mà Tây Sơn đã phong tỏa. Chốc chốc, anh lại đưa mắt nhìn ra ngoài, gương mặt lạnh lùng chợt nhẹ nhõm khi nhìn thấy Linh Lan đang ngồi chống tay lên cằm qua song cửa. Một nụ cười khẽ lướt qua trên bờ môi anh, sau đó, nụ cười đanh lại thành cái nhếch môi khi nhìn về phía đạo quân Hòa Nghĩa đang lơ đễnh ở hàng phía sau. Đám quân này từ lâu đã khó đồng hóa, nhưng anh vẫn để chúng trong quân Nguyễn để làm dày thêm lực lượng. Anh biết, nếu bị săn đuổi lâu, tất chúng sẽ trở lòng làm phản, anh sẽ bí mật, lệnh cho Tôn Thất Cốc trông coi để mắt đến đám binh Hòa Nghĩa đạo này.

Trong khi Nguyễn Ánh bàn việc quân cùng tướng sĩ, tại một gian nhà lá khác, Linh Lan ngồi thẫn thờ bên ngoài, cùng với gia đình anh. Một tay đặt lên gối, một tay chống cằm nhìn mông lung, dường như nó thẫn thờ vì mùi tanh nồng của máu người vẫn còn ám ảnh cho đến bây giờ.

- Cô gái, cô bị mệt à? Có phải bị trúng gió không?

Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên khiến Linh Lan giật mình, bừng tỉnh khỏi cơn mê. Người phụ nữ dịu dàng ngồi bên cạnh nó chính là chủ nhân của giọng nói êm êm khi nãy. Bà là mẹ Nguyễn Ánh, bà đang nhìn Linh Lan với đôi mắt quan tâm khi thấy nó ngơ ngác như người mất hồn. Gãi nhẹ sóng mũi, Linh Lan gượng cười.

- Dạ không, không có gì đâu bác. Cháu không sao.

Người phụ nữ mỉm cười, nụ cười hồn hậu khiến Linh Lan cảm thấy ấm lòng. Lúc Nguyễn Ánh dẫn nó đến trước gia đình giới thiệu, nó chỉ chào hỏi lấy lệ vì sự kiện lần đầu tiên nhuốm máu vẫn chưa phai nhòa trong nó, bây giờ, bình tâm trở lại, Linh Lan mới có thể quan sát từng gương mặt trong gia đình Nguyễn Ánh một cách rõ nét. Người đang ngồi bên cạnh nó là mẹ Nguyễn Ánh, bà ngồi cùng với ba thiếu nữ xinh đẹp mặc áo nâu, nước da mặn mà. Một nàng đang ôm đứa bé trong lòng, đứa còn lại mặt bầu bĩnh, khoảng ba, bốn tuổi, mặc áo xanh đang ngồi nghịch những viên đá cuội trước nhà.

Ban nãy, Linh Lan mang máng nghe Nguyễn Ánh giới thiệu, hình như người phụ nữ đang bế con là vợ anh. Quan sát kỹ người thiếu phụ ấy, Linh Lan công nhận cô gái này có vẻ đẹp mặn mà, một nét đẹp đơn giản, khỏe mạnh chứ không kiêu sa, đài các như những nàng cung phi khác trong giới hoàng tộc. Nguyễn Ánh đã có vợ con, cũng phải thôi, nữ thập tam nam thập lục, thời buổi này mà Nguyễn Ánh chưa có vợ mới là đáng ngạc nhiên. Linh Lan thầm nhủ, đúng lúc đó, thiếu phụ chợt ngẩng đầu lên nhìn nó. Bắt gặp ánh mắt của nó, nàng nở nụ cười dằm thắm làm Linh Lan lúng túng, nhưng theo phép lịch sự nó cũng nhoẻn cười.

- Mẫu thân, con đã về rồi đây!!

Từ phía xa, một giọng nói lảnh lót vang lên, liền sau đó, một cô gái mặc áo đỏ xuất hiện, trên tay là những chùm trái ngon lành. Vừa nhìn thấy chùm trái trên tay cô gái, cậu bé áo xanh vội vàng chạy ra, tíu tít, đôi mắt sáng rỡ vui mừng. Ôm cậu bé vào lòng, cô gái áo đỏ nhoẻn cười giúi chùm trái vào tay cậu, rồi dắt cậu trở về ngồi cùng với mọi người.

Vừa mới bước chân qua cái cổng xập xệ được kết bằng những lá dừa khô, gương mặt cô gái áo đỏ sa sầm khi trông thấy Linh Lan ngồi trên ghế. Không nói không rằng, cô gái áo đỏ xăm xăm đi về phía nó, sát khí từ người cô tỏa ra nặng nề, khiến Linh Lan nửa chờn chợn, nửa ngạc nhiên vì trông cô gái này quen quen, nhưng nhất thời nó chẳng thể nhớ ra mình đã gặp ở đâu.

- Tại sao ngươi lại có cái này?

- Cái gì kia?

- Sợi dây chuyền này, ở đâu ngươi có?

Chỉ còn cách Linh Lan ba bước chân, cô gái áo đỏ đột ngột vươn tay ra, chụp lấy sợi dây chuyền trên cổ Linh Lan, khiến nó theo đà phải đứng dậy đối diện với cô ta. Nhìn con chim phụng bằng bạc lấp lánh, đôi mắt cô gái tối lại, đầy đe dọa. Tâm trạng vốn không được tốt, nay bỗng nhiên ở đâu lại xuất hiện một cô gái lạ mặt, vô lý quát tháo, khiến Linh Lan rất đỗi bực mình. Giựt lại sợi dây chuyền từ tay cô gái, Linh Lan nhíu mày khi cô ta ghì lại, rất chặt. Sẵn cơn giận không biết xả đâu, Linh Lan rút phắt thanh trủy thủ giắt ngang thắt lưng cô gái và vung lên, nhằm vào sợi dây chuyền chém xuống. Ngay lúc đó, cô gái áo đỏ liền thả sợi dây chuyền ra và lùi lại một bước. Cánh tay Linh Lan khoa thành hình vòng cung rồi ngưng lại nửa chừng, sau đó liền hạ xuống, sợi dây chuyền đung đưa trước cổ nó như trêu ngươi. Nhìn thẳng vào gương mặt đanh lại của cô gái áo đỏ, Linh Lan nhấn mạnh từng chữ.

- Sợi dây chuyền này ở đâu tôi có không liên quan đến cô.

- Ngươi có biết sợi dây chuyền này mang ý nghĩa gì không?

Đăm đăm nhìn con chim phụng lấp lánh trên cổ Linh Lan, cô gái áo đỏ lạnh lùng. Quăng thanh trủy thủ xuống dưới đất, Linh Lan bắt chéo chân, hai tay khoanh vào nhau rồi nói êm ru.

- Không! Và tôi cũng không muốn biết nguồn gốc, xuất xứ, cũng như sự tích của nó như thế nào?

- Sợi dây chuyền đó là vật gia bảo truyền từ đời này sang đời khác trong Hoàng tộc. Khi một vị chúa muốn gắn bó trọn đời với ai đó, họ sẽ trao cho người ấy sợi dây chuyền này. Ngươi thật sự không biết hay giả vờ không biết?

Nghe cô gái áo đỏ nói một hơi không ngừng nghỉ, Linh Lan trố mắt ra vì không ngờ con chim phụng hoàng bé xíu này lại có nguồn gốc xâu xa đến thế. Cô ta nói thật hay giả vậy? Con chim phụng này là vật định ước trăm năm sao? Linh Lan la hoảng trong lòng. Đầu nó lại ong ong thêm một lần nữa khi vỡ lẽ ra những ý nghĩa hàm chứa ẩn sau con phụng đó. Trong phút chốc, từng sự kiện lần lượt diễn ra trong đầu Linh Lan, chuyện Nguyễn Ánh nhường dâu ngọt, chuyện Hữu Huân gọi nó là "cô nhà", câu nói "cái gì của tôi cũng là của cô", rồi lại đến vật đính ước đời đời trong dòng họ. Linh Lan choáng váng. Nó ngồi phịch xuống ghế, cả người bần thần vì vẫn chưa tin những gì mình đã nghe thấy. Lúc ở nhà Hữu Huân, nó đã ngờ ngợ ra rằng Nguyễn Ánh đối xử không bình thường với nó, nhưng vì sự vui buồn thất thường cũng như tính cách cổ quái, khi dịu dàng khi tử thần của anh đã làm nó gạt phắt ngay ý nghĩ đó. Bây giờ, nghe Ngọc Uyển nói về ý nghĩa của sợi dây chuyền bạc, Linh Lan dù muốn dù không cũng phải nghi ngờ rằng Nguyễn Ánh thật sự đã có tình cảm với nó, và vượt lên trên tất cả, rằng anh còn muốn gắn bó trọn đời với nó nên mới đeo cho nó sợi dây chuyền này. Hèn chi khi đeo cho nó, anh đã nói quân Nguyễn sẽ không làm hại nó. Họ làm sao có thể làm hại người mà chúa công họ muốn gắn bó suốt đời cơ chứ. Trời ạ! Chuyện này thật hay giả đây, mọi thứ đã đi quá xa rồi.

- Sợi dây này ở đâu ra? Là ngươi lợi dụng lúc Hoàng huynh ta gặp nguy khó mà ăn trộm phải không?

- Ngọc Uyển, không được vô lễ.

Tiếng quát khó chịu của Ngọc Uyển liền ngưng bặt khi âm thanh dịu dàng của bà Nguyễn Thị Hoàn, thân mẫu của Nguyễn Ánh, cất lên. Đưa mắt nhìn bà, Ngọc Uyển vội cúi đầu khi đọc được trong ánh mắt bà là sự không hài lòng. Dù vẫn còn đang ấm ức chuyện Hoàng huynh trao vật đính ước cho cô gái ngang ngạnh đã làm cô xém đứt lưỡi lúc ở nhà giam trong thành Gia Định, mà không phải là chị dâu Tống Thị Lan, người đã theo Nguyễn Ánh bôn ba khắp chốn, nhưng Ngọc Uyển vẫn ngoan ngoãn im lặng. Sau khi trách cứ Ngọc Uyển, Nguyễn Thị Hoàn hướng mắt về Linh lan, ân cần nói.

- Cô đừng trách Uyển nhi. Con bé vừa trải qua một hành trình dài, vẫn còn mệt, cô đừng chấp nhặt lời nó nói làm gì.

Phát hiện ra chuyện Nguyễn Ánh có tình cảm với mình, Linh Lan thật sự không thể nào chấp nhận chuyện đó được. Nó không yêu anh, nó không thích anh, cũng chẳng có chút tình cảm nào với anh cả, thử hỏi nó phải phản ứng như thế nào trong trường hợp này? Phút chốc, trong một ngày, trải qua hai sự kiện chấn động là lần đầu tiên giết người và phát hiện ra tình cảm của Nguyễn Ánh, dù chỉ là phỏng đoán, nhưng cũng làm đầu nó rối tung. Linh Lan bần thần, nó chỉ biết ngồi thẫn mặt ra mà chẳng biết phải trả lời Ngọc Uyển như thế nào. Ngọc Uyển! Cô gái đó là Ngọc Uyển! Linh Lan ngạc nhiên. Đến bây giờ nó mới nhận ra vì sao lại thấy cô gái này quen đến thế, hóa ra trước đây chính nó đã gặp qua cô nàng một lần trong nhà giam. Trước sự dịu dàng của Nguyễn Thị Hoàn, Linh Lan ngượng ngịu, nó tháo sợi dây chuyền trên cổ ra và chìa về phía bà, nói nhẹ nhàng.

- Cái này cháu trả lại cho cô.

Đọc được dấu hỏi trong đôi mắt hiền từ của bà, Linh Lan nói tiếp.

- Cháu không phải là người mà con trai cô muốn chung sống trọn đời đâu. Cháu nghĩ, người thích hợp với sợi dây chuyền này không phải cháu.

Linh Lan vừa nói, vừa đánh mắt về phía Tống Thị Lan, đang đăm đăm nhìn sợi dây chuyền trên tay nó. Nguyễn Thị Hoàn mỉm cười, bà đẩy nhẹ tay Linh Lan về phía nó, trong thoáng chốc, ánh mắt bà trở nên xa xăm, giọng nói như đang vọng về miền xa xôi.

- Nếu chính tay con trai ta đeo sợi dây chuyền này cho cô thì ta tin vào quyết định của nó. Cô hãy cứ giữ lấy, vì nó là của cô.

- Không đâu cô ạ. Nếu thế cháu càng không thể đeo sợi dây chuyền này, vì cháu không yêu Nguyễn Ánh. Cháu không yêu cũng như chẳng hề có chút xíu cảm tình nào với anh ta.

Linh Lan trả lời thành thật. Nét mặt của nó chẳng chút giả tạo, khiến Nguyễn Thị Hoàn king ngạc, bởi bà chẳng thể tin vào những gì nó vừa thốt ra.

- Ta nghe Duyệt nói cô từng là người trong Tây Sơn. Đã là người trong Tây Sơn tại sao lại giúp con trai ta, trong khi cô không hề có cảm tình với nó?

- Đúng! Cháu không phủ nhận cháu là người trong Tây Sơn, nếu muốn lĩnh công thì ngay từ đầu cháu đã báo tin cho Tây Sơn để họ đến đây bắt tất cả mọi người đưa về Gia Định, nhưng cháu không làm thế vì cháu có lý do riêng của mình chứ không phải vì cháu có tình cảm với Nguyễn Ánh. Những điều cháu vừa nói có thể cô không tin nhưng nó là sự thật. Cháu không thể giữ sợi dây chuyền quý giá như thế này, cô hãy cầm lấy và trả về cho Nguyễn Ánh đi ạ.

Linh Lan nhìn thẳng vào mắt người phụ nữ đang ngồi trước mặt, nói rành mạch từng chữ. Nghe xong những gì Linh Lan vừa nói, Nguyễn Thị Hoàn không phản ứng. Nén tiếng thở dài sâu vào tiềm thức, bà nhìn nó, lắc đầu.

- Nếu thế cô hãy tự tay giao nó lại cho con trai ta. Ta không thể giúp cô chuyện này được.

Linh Lan gượng cười khi Nguyễn Thị Hoàn từ chối. Nó không thể tự tay đưa lại cho Nguyễn Ánh vì anh chắc chắn sẽ không lấy, còn nếu quăng đi thì... Linh Lan không dám. Sợi dây chuyền này là vật định ước đời đời trong dòng tộc chúa Nguyễn, nếu nó đem vất tín vật linh thiêng này, chẳng khác nào nó đã chà đạp lên niềm tin của họ, còn nếu bảo đeo thì nó lại không thể. Linh Lan cau mày, ngẫm nghĩ một lúc, nó đem sợi dây chuyền bỏ tót vào túi. Không thể đeo, càng không thể vứt, chi bằng nó cứ để đó, tính sau vậy, huống hồ bây giờ nó còn chuyện to lớn khác phải nghĩ đến đó là bỏ trốn.

Linh Lan liếm môi, nó bí mật nhìn quanh. Quân Nguyễn đã chọn một căn nhà lá gồm ba căn liên tiếp. Nguyễn Ánh đang họp quân ở căn thứ nhất, nó cùng gia đình anh ở căn thứ hai và căn thứ ba là dành cho quân lính. Hầu như toàn bộ tướng lĩnh và quân lính đã vào họp nên nhất thời, bên ngoài chỉ có độ hai ba lính canh gác đi tuần. Phía sau gian nhà có khoảng chục con ngựa thu được của quân Đông Sơn đang được cột vào các thân cây. Nguyễn Ánh đang bận họp cùng tướng lĩnh thế nên chẳng có ai trông chừng, hơn nữa hình như anh đã bắt đầu yên tâm, lơi lỏng canh chừng khi hai ba lần nhìn sang đều thấy Linh Lan hiển hiện trong tầm mắt của mình. Trái tim Linh Lan đập khe khẽ, nó nhẹ nhàng đứng dậy. Nó biết quyết định của mình bây giờ rất táo bạo, nhưng nếu nó không nắm bắt cơ hội trời cho này thì may mắn sẽ chẳng bao giờ ghé thăm nó lần thứ hai.

- Cô đi đâu vậy?

- Hồi trưa chắc tôi ăn gì đó nên bụng không yên, tôi ra ngoài một lát.

Cố giữ giọng tự nhiên nhất khi Tống Thị Lan lên tiếng hỏi, Linh Lan khoan thai ra vườn sau, nơi có đàn ngựa đang nhởn nhơ gặm cỏ. Ngoài mặt ung dung nhưng trong lồng ngực thì tim nó đang đập thình thịch vì sợ bị ai đó phát giác ý định bỏ trốn. Giả vờ đi khuất sau một lùm cây để đánh lừa sự chú ý của mọi người trong nhà, Linh Lan rón rén vòng trở lại đàn ngựa sau khi đã quan sát kỹ càng. Cố gắng bước thật nhẹ nhàng để tránh làm bầy ngựa giật mình hí lên, Linh Lan vuốt nhẹ lên đầu chú ngựa đứng gần nó nhất với sự thân thiện. Có vẻ như chú ngựa cũng đã quen hơi người, chú cạ cạ đầu vào tay Linh Lan, làm đôi mắt nó lấp lánh vì ý định bỏ trốn đã thành công được nửa đường.

Nhìn quanh quất thêm một lần nữa, Linh Lan khá yên tâm vì chẳng ai chú ý tới nó. Nơi Nguyễn Ánh ngồi bị mấy bụi cây che khuất, trong nhà thì mọi người đang nghe Ngọc Uyển kể về chuyến phiêu lưu tìm đến doanh trại Nguyễn quân lúc ở Đồng Tuyên. Lạy trời phù hộ, Linh Lan khấn thầm trong bụng, nó nhẹ nhàng tháo sợi dây buộc con tuấn mã và leo lên lưng chú ngựa. Con tuấn mã giựt giựt vài cái rồi lộc cộc cất bước ra khỏi vườn sau. Linh Lan cúi thật thấp, ôm cổ chú ngựa, cố thúc thật nhẹ nhàng và hướng cho chú ngựa đi trên lớp cỏ êm để hạn chế gây ra tiếng động. Trái tim nó đập lô tô trong lồng ngực khi thúc ngựa tiến tới, nó rất lo sẽ có một ai nhìn thấy và báo động cho Nguyễn Ánh biết. Nó rất sợ lại có thêm một mũi tên xé gió, cắm phập vào lưng mình trong đêm tối mịt mù.

Trong sự hồi hộp của nó, con tuấn mã từ từ cất bước đi xa dần cùng với tiếng thở phào nhẹ nhõm của Linh Lan. Sau một quãng, đủ xa để người trong nhà không thể nghe tiếng vó ngựa, Linh Lan ngồi thẳng dậy, thúc ngựa tăng tốc rồi khuất dạng sau rừng dừa nước ven đường mà không biết rằng có một ánh mắt từ trong gian nhà lá đã chứng kiến tất cả sự việc đang diễn ra.

Cuối cùng, cuộc họp cũng kết thúc, Nguyễn Ánh đã phân bố nhiệm vụ cho các tướng sĩ chuẩn bị lên đường đến Phú Quốc vào ngày hôm sau. Để cho mọi người cùng được nghỉ ngơi sau chặng đường dài, Ánh ra lệnh giải tán. Đưa mắt sang gian nhà bên cạnh, mày kiếm Nguyễn Ánh nhíu lại khi không còn nhìn thấy Linh Lan ngồi bên song cửa nữa. Đứng dậy tiến ra ngoài, Nguyễn Ánh sải những bước dài về phía căn nhà. Vừa nhìn thấy anh, mọi người trong nhà đều đứng lên, cậu bé mặc áo xanh chạy về phía anh, líu ríu. Nhẹ xoa đầu đứa bé, Nguyễn Ánh đưa mắt nhìn khắp gian nhà, trái tim anh chợt cảm thấy một sự trống vắng mơ hồ. Anh không thấy Linh Lan.

- Chúa công, ngài ra sau vườn tìm thử xem, cô ấy nói có việc phải ra ngoài, đến giờ vẫn chưa thấy trở vào.

Bắt gặp ánh mắt tìm kiếm của Nguyễn Ánh, Tống Thị Lan nói, giọng đượm buồn vì rõ ràng cô gái có đôi mắt biết nói ấy rất quan trọng với phu quân của cô. Cô nhìn anh, anh lướt qua cô, ánh mắt xa vắng. Không nói không rằng, Nguyễn Ánh nhanh chóng bước ra ngoài vườn. Dù đã tìm khắp từng bụi cây, ngọn cỏ, lùng sục trong từng ngóc ngách, bóng dáng nhỏ bé ấy vẫn không thấy đâu. Trong phút chốc, đôi mắt Nguyễn Ánh tối sầm lại khi nhận ra đàn ngựa thiếu mất một con. Một tia chớp giáng thẳng xuống tâm trí Nguyễn Ánh. Anh phóng vụt lên lưng ngựa, giật mạnh dây cương khiến con tuấn mã chồm hai vó lên không trung và phóng như bay về con đường mòn phía trước, trong những tiếng kêu ngạc nhiên rơi rớt lại của mọi người.

Con đường mòn dài đằng đẵng, Nguyễn Ánh thúc ngựa như lướt trên mặt đất nhưng vẫn không tìm thấy được cô gái đã bỏ đi trước đó. Xiết chặt dây cương, kẽ tay anh ri rỉ máu. Rừng cây nhạt nhòa, tiếng gió thổi thốc, ù ù bên tai, con đường như không có điểm dừng khi đôi mắt anh mải miết nhìn về phía trước.

Không thấy...

Tiếng vó ngựa gõ điên cuồng trên mặt đất sầm sập, nghe như tiếng mưa rơi.

Vẫn chẳng thấy đâu...

Nguyễn Ánh nhếch môi cười, gương mặt anh lạnh lùng như sương. Đột ngột, tay anh ghì chặt sợ dây cương, con ngựa đang hối hả phóng như bay nay bị kiềm chế liền cất tiếng hí lồng lộng xé toạt không gian. Vó ngựa gỗ lốc cốc mấy tiếng rồi đứng im, chỉ còn ánh mắt nâu trong suốt vẫn vượt qua rừng cây xôn xao, tìm kiếm bóng dáng ai ở chân trời xa thẳm, mịt mờ.

Nguyễn Ánh ngồi bất động trên lưng ngựa. Không gian yên lặng. Trái tim anh đập từng nhịp khó khăn. Cô gái ấy đã ra đi. Cô ta đã rời khỏi vòng tay anh ngay vào lúc anh tin tưởng cô ấy sẽ ở lại bên cạnh mình. Anh đã tin tưởng cô gái ấy. Xưa nay anh chưa bao giờ tin tưởng ai nhiều như thế. Anh đã tin cô gái ấy sẽ luôn ở bên cạnh anh, sát cánh cùng anh. Anh đã luôn tin tưởng cô ấy sẽ mãi ở trong vòng tay anh, tin tưởng cô ấy sẽ là nơi chốn bình yên nhất của anh, là nơi anh có thể tìm lại được những giây phút êm đềm sau khói lửa tang thương trên chiến trường.

Anh đã tin tưởng cô gái ấy. Tin tưởng thật nhiều. Tin tưởng đến thương yêu, nhưng vào giờ phút cuối cùng, lúc anh cần cô ấy nhất thì cô ấy đã bay xa khỏi tầm tay anh. Cô ấy âm thầm ra đi, lặng lẽ biến mất mà chẳng để lại chút dấu vết nào. Cô ấy đã phản bội anh, phản bội lại lòng tin của anh.

Tại sao...?

Trái tim cồn cào của Nguyễn Ánh bật lên câu hỏi tha thiết.

Tại sao...?

Đôi mắt nâu trong suốt của anh giờ nổi giông tố như bão vần vũ trên đại dương.

Tại sao lại bỏ đi?

Chậm rãi, Nguyễn Ánh lướt mắt xuống vết sẹo trong lòng bàn tay. Vết sẹo giờ đang rỉ máu, cứa xát vào tay anh, trở nhức, và vĩnh viễn cũng không lành. Yên lặng thúc ngựa quay hướng, anh nhìn thấy Lê Văn Duyệt đang đứng đợi phía sau. Viên tướng ấy không dám thúc ngựa tiến đến gần anh mà chỉ cúi đầu khi anh lướt ngang qua, lạnh lùng như tượng đá.

Do sợ chúa công sẽ gặp nguy hiểm trên đường đi, Lê Văn Duyệt gấp rút lên ngựa đuổi theo. Thúc ngựa chạy như bay, Lê Văn Duyệt càng chạy càng lo lắng khi không nhìn thấy bóng dáng Nguyễn Ánh ở phía trước. Vì lo lắng, ông đã không ngừng thúc ngựa, kết quả là con tuấn mã của ông đã gần như kiệt sức, miệng sùi bọt mép vì chạy quá độ. Bụng ông nóng như lửa đốt, lo lắng cho con ngựa thì một nhưng lo lắng cho chúa công lại đến mười. Từ khi theo vị chúa trẻ ấy cho đến nay, ông chưa bao giờ thấy vị chúa ấy hành động khác lạ đến thế. Trong mắt ông, chúa công luôn điềm tĩnh, bình thản và trên môi luôn là nụ cười kiêu ngạo, khiến người khác phục tùng. Con đường ngày càng dài, gian nhà lá càng ngày càng xa tít tắp và bóng dáng của chúa công vẫn chẳng thấy đâu. Rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra? Cô gái ấy là ai mà lại khiến chúa công hành động như thế? Cô gái ấy là ai mà lại khiến chúa công đánh mất bản thân mình như thế? Cô gái ấy là ai?

Lê Văn Duyệt vừa thúc ngựa vừa suy nghĩ, đến khi nhìn thấy con tuấn mã của Nguyễn Ánh ở phía trước, ông mừng rỡ và không nén được tiếng thở dài nhẹ nhõm. Vội kềm ngựa lại, Lê Văn Duyệt giữ ý đứng ở phía sau chúa công ông một khoảng cách đủ xa để không phá vỡ bầu không khí xung quanh người, nhưng cũng đủ gần để ứng biến nếu chẳng may có bất trắc xảy ra.

Lặng lẽ quan sát Nguyễn Ánh từ phía xa, Lê Văn Duyệt ngạc nhiên khi lâu thật lâu mà chúa công của ông vẫn không quay trở lại. Ngài vẫn một mình đứng nhìn về phía chân trời xa, chiếc bóng cô độc đổ dài xuống trong ánh trăng hiu quạnh, bất động, tựa như thời gian đã ngừng trôi. Lê Văn Duyệt sốt ruột, ông nửa muốn lên tiếng, nửa lại muốn im lặng để tôn trọng không gian riêng tư đó. Đang lúc Lê Văn Duyệt phân vân, không biết nên làm thế nào thì đột ngột chúa công của ông thúc ngựa quay trở lại. Từ đằng xa, Lê Văn Duyệt nhận thấy chúa công có gì đó rất khác lạ. Bầu không khí bao trùm xung quanh ngài là yên lặng, sự yên lặng của chết chóc, khiến ông thoáng rùng mình.

Khi vị chúa trẻ tuổi tiến lại gần, Lê Văn Duyệt liền cúi đầu xuống, nhưng trong thoáng chốc đó, gương mặt của chúa công khiến ông hoang mang. Gương mặt ngài lạnh, rất lạnh, nhưng điều mâu thuẫn là ngự trị trên gương mặt lạng lùng ấy còn là một nụ cười nửa miệng tàn nhẫn, pha lẫn giữa sự ngạo nghễ và chua chát, xót xa. Sự mâu thuẫn đó khiến ông kinh ngạc vì cảm xúc ấy lần đầu tiên ông mới nhìn thấy ở chúa công. Chúa công ông đang cười đời, cười người, hay cười chính bản thân, ông không biết, chỉ biết sâu trong chúa công đã có một thứ gì đó thay đổi. Thay đổi đến nỗi khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng và gần như là sợ hãi vì tia nhìn băng giá từ đôi mắt nâu trong suốt ấy như xuyên thấu vào tim ông...

Đêm tịch mịch. Vầng trăng khuyết hiu quạnh treo giữa trời, phủ lên cánh rừng trước mặt màu của tàn phai

Cuối con đường, tà áo vàng bay lất phất. Cô độc. Và chênh vênh.

Spoiler 07:

...xiết chặt nó vào lòng, anh đặt môi hôn lên vầng trán cao của nó. Từ vầng trán, bờ môi thanh tú di chuyển xuống đôi mắt đang ướt nhòa, từ đôi mắt lại chuyển sang đôi má đẫm nước mắt và cuối cùng, nụ hôn của anh dừng lại ở bờ môi mềm mại ấy. Một nụ hôn thật lâu, thật sâu, khiến bờ môi anh vương nước mắt của Linh Lan...

Cáo's note:

Chap 7 tuần sau mới có nha mọi người, tuần này Cáo sẽ thu xếp cho Phong Tỏa trở lại như lời hứa, là hết lượt Ánh sẽ tới Phong Tỏa. Mọi người thông cảm ha

Trên góc lầu phía tây, Nguyễn Lữ đang đứng vịn tay vào lan can, gió thổi làm những sợi tóc trước trán ông bay lòa xòa. Phóng tầm mắt nhìn ra dòng sông Tân Bình cuồn cuộn nước khi chiều về, Nguyễn Lữ cảm thấy bâng khuâng. Ông nhớ Quy Nhơn, nhớ hoàng đế thành và nhớ con sông Côn chở nặng phù sa. Cắm rễ tại Gia Định hơn hai tháng, ông đã chán ngấy những luồng gió nóng bỏng rát và sự hoang tàn cô tịch nơi này. Giờ đây, ông chỉ muốn được quay trở về Quy Nhơn ngay lập tức, quay về bên mảnh vườn yêu quý với những giò hoa mà nếu không được chăm sóc đúng cách, sẽ héo rũ trước khi ông kịp trở về.

Phía sau lưng ông, Nguyễn Huệ đang ngồi xem những tin tức về tình hình của Nguyễn quân và Đông Sơn do thám báo Tây Sơn mang về. Lướt mắt lên những cuộn giấy nhỏ với năm sáu nếp gấp, khóe miệng anh khẽ mỉm cười. Nụ cười đó Nguyễn Lữ vừa quay lại đã trông thấy nên có phần ngạc nhiên.

- Tình hình thế nào rồi? Có chuyện gì mà chú có vẻ tâm đắc thế?

- Đã có tin tức của quân Nguyễn. Đông Sơn đã chạm trán với Nguyễn Ánh chiều qua rồi.

Nguyễn Huệ trả lời, nhưng mắt vẫn nhìn tờ giấy nhỏ trên tay. Quá quen với cách cư xử thất thường của Nguyễn Huệ sau lần tranh cãi hôm đó, Nguyễn Lữ chẳng buồn bắt bẻ. Ông quẹt ngón tay lên mũi, giọng sốt sắng, lòng hy vọng Đông Sơn đã giết được Nguyễn Ánh, như thế ông có thể rời khỏi Gia Định càng nhanh càng tốt để về Quy Nhơn.

- Kết quả thế nào?

- À! Thất bại rồi.

Nói đến thất bại, nhưng nét mặt của Nguyễn Huệ chẳng chút thất vọng hay tức giận, ngược lại còn mỉm cười như thể đó là chuyện đương nhiên, biểu hiện đó của anh khiến Nguyễn Lữ chưng hửng. Ghé mắt vào tờ giấy trên tay anh, Nguyễn Lữ dò từng chữ. Đọc đến đâu, đôi mày rậm của ông cau lại đến đó. Cuối cùng, Nguyễn Lữ không nhịn được, ông vỗ tay lên bàn một cái thật mạnh khiến chén trà sóng sánh nước đổ ra ngoài, loang trên những tờ giấy, làm nét mực nhòe ra thành những hình thù kỳ quái. Nguyễn Ánh lại thoát thêm một lần nữa, hy vọng hoàn thành sớm công việc ở Gia Định đã đi tong. Nguyễn Lữ tức giận, thật sự tức giận, hai vành tai ông đỏ lên và cơn giận của ông càng dâng cao khi nhìn vào ánh mắt điềm nhiên của Nguyễn Huệ. Thái độ của anh chẳng khác gì dầu đổ vào lửa, khiến ông lại càng cay cú.

- Chú đã biết tin thất bại, thế nhưng chẳng những chú không lo lắng mà dường như còn tươi tỉnh, hài lòng lắm đấy. Ta lấy làm khó hiểu, những lần trước Nguyễn Ánh luôn đi đường Hậu Giang, lần này hắn biết chúng ta sẽ xiết chặt vòng vây thì chẳng thể bỏ qua con đường này, tất nhiên, hẳn chẳng dại gì mà đâm đầu vào đó, phải chọn lấy một con đường khác. Chuyện đơn giản như thế ai cũng có thể đoán biết, vậy mà tại sao chú lại nhất quyết cho Tây Sơn ôm lấy con đường Hậu Giang và giao cho cái lũ Đông Sơn ô hợp ấy con đường Mỹ Tho. Kết quả là gì? Kết quả là Nguyễn Ánh lại ung dung thoát thân, còn Đông Sơn quân thì thất bại thảm hại khi con mồi đã ở ngay trước mắt. Chú tám, chú hợp tác với Đông Sơn để có kết quả này hay sao? Hay chú tin vào khả năng phán đoán của mình, rằng chú sẽ không bao giờ lầm hoặc thất bại?

Trước sự mỉa mai của Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ không phản ứng. Anh dựa lưng vào ghế, tay chống lên cằm, mắt nhìn ra bụi tre vàng óng xào xạc bên ngoài, dường như chẳng để tâm lắm đến những lời vừa rồi của Nguyễn Lữ. Thái độ điềm nhiên, phớt lờ của anh khiến Nguyễn Lữ sửng sốt. Ông hết nhìn ra bên ngoài, nơi ánh mắt của Nguyễn Huệ treo lại, rồi lại nhìn lên gương mặt em ông, cố tìm xem đằng sau cái lớp vỏ điềm đạm, thách thức đời với nụ cười ngạo nghễ đó ẩn chứa những suy nghĩ gì. Sau một hồi quan sát, Nguyễn Lữ chẳng thể kết luận được điều gì, ông tằng hắng một tiếng rồi cất lời, giọng nói dùng dằng trong cuống họng.

- Chú tám, chú có nghe ta nói gì không?

- Có!

- Vậy sao chú không trả lời?

- Vì em muốn để anh suy nghĩ... Nhưng có vẻ như, anh thì không suy nghĩ được gì ngoài việc chỉ biết hỏi người khác tại sao!

Nguyễn Lữ nhướng mắt, ông đứng thẳng lưng, cắt ngang tầm nhìn của Nguyễn Huệ. Không quan tâm đến hành động ấy, đôi mắt tăm tối của Nguyễn Huệ nhìn xuyên qua Nguyễn Lữ, tìm đến với vùng trời xanh bên ngoài, tựa như chẳng có vật cản nào. Thái độ của anh khiến ông vừa khó chịu vì sự thờ ơ ấy, vừa tức giận vì dường như em ông không coi ông là anh trai của mình.

- Chú nói thế nghĩa là sao?

Vừa nói xong, Nguyễn Lữ chợt cau mày khi nhận ra ông lại vừa hỏi "tại sao...?", hệt như những gì Huệ đã nói. Nhìn những nếp nhăn trên trán Nguyễn Lữ xếp lại với nhau, Nguyễn Huệ nhếch môi cười, anh từ tốn.

- Không phải những chuyện đó em không biết, mà là em không làm. Anh cũng biết quân Nguyễn sau trận Đồng Tuyên thoát được không bao nhiêu. Đụng độ Nguyễn Ánh, Đông Sơn tuy thất bại nhưng điều đó không có nghĩa là Nguyễn quân đuổi được chúng đi mà không hao tổn một binh một tốt nào. Chưa kể con đường tiếp theo Nguyễn Ánh chọn là ra khơi đến Phú Quốc, mà ngoài biển khơi thì anh cũng biết đang có các toán cướp biển người Xiêm hoành hành. Hắn sẽ còn phải đụng độ đám cướp biển đó, sớm thôi.

- ...

- Bố trí Tây Sơn chặn Hậu Giang, mục đích là buộc Nguyễn Ánh và quân đội của hắn phải đi đường Mỹ Tho. Qua nhiều chặn đường và chướng ngại như thế, muốn hay không muốn, vượt qua hay không vượt qua thì cái giá hắn phải trả chính là sự suy kiệt lực lượng dần dần. Chúng ta chỉ cần ngồi chờ và trông chừng bọn chúng, không phải động một binh một tốt nào mà khiến chúng tiêu hao sinh lực từ từ. Đến khi toàn quân hắn rệu rã thì đến lượt chúng ta ra tay, tung một mẻ lưới hốt sạch. Làm thế chẳng những lợi dụng các thế lực khác một cách triệt để, tránh hao binh tổn tướng của ta, mà còn từng bước khiến quân Nguyễn trở thành lũ chuột chạy trong mê cung đã được dựng nên, đẩy chúng dần tiến đến kết cục mà ta đã chuẩn bị ở lối ra. Vừa là một trò chơi thú vị, vừa là một kế sách hay, há chẳng phải vẹn toàn lắm sao?

Tuy không thích cá tính ngạo ngược của Nguyễn Huệ bây giờ, nhưng Nguyễn Lữ phải công nhận rằng em trai ông tính toán kế hoạch rất tỉ mỉ và chu đáo, đến độ không tìm thấy bất cứ sơ hở nào. Mấp máy môi tính nói gì đó, Nguyễn Lữ kịp thời ngưng lại khi một người lính Tây Sơn đang vội vã bước vào lầu với thái độ khẩn trương. Khấu đầu trước hai vị chủ tướng, người lính nói nhanh.

- Bẩm tiết chế, tướng quân, thuộc hạ vừa nhận được tin thủ lĩnh Đinh Hồ và nhiều binh sĩ của Đông Sơn được tìm thấy đã chết ở cánh rừng thưa phía tây, cách địa phận Mỹ Tho không xa. Chúng thuộc hạ nghi ngờ bọn họ đã bị Nguyễn quân truy kích và tiêu diệt ạ.

Nhận được tin tức mới nhất từ thuộc hạ bẩm báo, những lời Nguyễn Lữ tính nói, chưa thoát khỏi đầu môi đã vội bay hơi. Ông quay sang Nguyễn Huệ, nhìn em trai với ánh mắt chế giễu, đồng thời nhấn nhá từng lời.

- Chà! Chú tính toán thật chu đáo, chu đáo đến nỗi thủ lĩnh Đông Sơn chết khi nào cũng không biết. Như thế mà muốn tổn hao sinh lực của Nguyễn Ánh sao?

Trước sự mỉa mai của ông, Nguyễn Huệ yên lặng, không phản bác cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu mà chỉ nhìn vào mắt Nguyễn Lữ, điềm đạm. Ánh mắt u tối, thẫm lạnh chẳng chút ánh sáng của anh khiến trán Nguyễn Lữ rịn mồ hôi. Đến lúc Nguyễn Lữ tưởng chừng như nội tâm của ông đều phơi bày rõ rệt dưới ánh mắt tăm tối ấy thì đột ngột, Nguyễn Huệ đứng lên rời khỏi phòng mà không nói với ông câu nào. Anh chỉ dặn dò tên lính ngắn gọn rồi quay đi.

- Hãy thông báo những gì ngươi vừa nói với ta cho các phó tướng Lê Anh, Đình Toàn, Đặng Triệu của Đông Sơn. Nhớ, chính xác những gì ngươi vừa nói.

Hành động bất ngờ và khó hiểu ấy khiến Nguyễn Lữ ngạc nhiên, ông muốn hỏi như anh đã bước ra khỏi phòng. Nhìn theo bóng dáng Nguyễn Huệ, giờ chỉ còn là một chấm nhỏ, Nguyễn Lữ lại phân vân tự hỏi rằng, thật ra ẩn sau lớp ngoài gai góc ấy, em trai ông đang suy nghĩ những gì.

Rời khỏi lầu cao, Nguyễn Huệ ra khỏi thành, anh tìm đến bờ sông, nơi gió rì rào reo trong nắng chiều. Nơi này ít người qua lại nên rất yên tĩnh, và Nguyễn Huệ đặc biệt thích sự yên tĩnh, yên tĩnh như chính con người anh. Rút thanh kiếm giắt ngang thắt lưng, ánh kiếm lung linh phản chiếu, khiến đôi mắt thẫm tối của Nguyễn Huệ bàng bạc như phủ sương.

Thủ lĩnh Đông Sơn cùng thuộc hạ đã chết ở mé rừng phía tây.

Khóe miệng Nguyễn Huệ vẽ thành nụ cười mơ hồ. Mé rừng phía tây, đó là nơi Đinh Hồ và tàn quân của hắn đã hẹn anh đến chi viện sau khi để Nguyễn Ánh thoát đi...

oOo

Hoàng hôn nhanh chóng buông xuống, cánh rừng phía tây nhạt nhòa trong vạt nắng cuối ngày. Dưới những hàng dừa thì thào trong ánh tà dương, Nguyễn Huệ ngồi trên lưng ngựa, tấm áo bào bay phần phật trong gió, sắc đỏ như tan vào màu hoàng hôn. Đôi mắt anh lấp lánh tia sáng, nhìn về phía trước, lặng yên như một pho tượng đá. Phía sau lưng anh là năm viên lính Tây Sơn khác, tất cả đều ngóng mắt về phía trước, chờ đợi toán quân Đông Sơn của Đinh Hồ xuất hiện theo lời hẹn với chủ soái.

Họ không cần phải chờ đợi lâu. Trời vừa tắt nắng, sau rừng dừa thưa thớt, Đinh Hồ nhanh chóng xuất hiện cùng với đám thuộc còn lại của mình. Nét mắt hắn vô cùng mệt mỏi, nhưng trong sự mệt mỏi đó còn chất chứa sự thống hận vì cơ hội đã vuột qua tầm tay. Trông thấy Nguyễn Huệ đứng đợi ở phía trước, gương mặt vuông vức, chán chường của Đinh Hồ rạng dần lên. Hắn tiến về phía anh, vòng tay khấu chào đầy kiểu cách.

- Phiền đích thân tướng quân đến tận đây, chúng tôi thật áy náy quá!

Đinh Hồ vừa nói vừa cười, Nguyễn Huệ cũng mỉm cười. Đôi mắt lạnh và sâu thẫm lại, phản chiếu vệt đỏ cuối trời khiến ánh mắt ấy như có lửa. Lướt mắt nhìn dàn quân Đông Sơn còn sót lại chỉ hơn chục mạng, Nguyễn Huệ cất tiếng, giọng nói êm ru.

- Đã đụng độ với Nguyễn Ánh rồi sao?

- Vâng! Đã đụng độ, nhưng tiếc thay quân Nguyễn lại đến cứu viện kịp lúc, chứ không thì...

Nhắc đến chuyện đã xảy ra, Đinh Hồ không tránh khỏi tức giận. Hắn gằn từng tiếng một, trong khi Nguyễn Huệ lại vô cùng bình thản.

- Vậy là các ngươi đã thất bại?!

- Không! Là chúng tôi sẽ thành công nếu không có quân Nguyễn can thiệp vào - Đinh Hồ phản bác ngay lập tức, xưa nay hắn rất ghét hai từ thất bại, nhất là trong trường hợp này.

- Đối với ta, thành công là thành công, thất bại là thất bại. Không có chữ "nếu"

Nguyễn Huệ ném vào gương mặt đỏ phừng như tôm luộc vì tức giận của Đinh Hồ một nụ cười mỉa mai, khiến hắn phải im lặng. Hắn biết rằng lúc này, có nói gì đi nữa thì sự thật hiển nhiên là hắn đã để vuột mất Nguyễn Ánh ngay trước mũi. Khụt khịt hai ba cái, Đinh Hồ ướm lời.

- Phải! Tôi thừa nhận chúng tôi đã thất bại, nhưng chúng tôi cũng đã biết tung tích Nguyễn Ánh hiện đang ở đâu. Bây giờ chúng ta quay lại đó và đuổi theo cũng không muộn. Các cánh quân do các phó tướng của tôi chỉ huy giờ không thể đến kịp, nếu chỉ có mình chúng tôi thì không thể chọi lại quân Nguyễn, nhưng nếu có tướng quân giúp sức thì...

Đinh Hồ chưa nói hết câu, đột ngột, hắn cảm thấy bụng mình đau nhói. Đưa mắt ngó xuống, đôi mắt Đinh Hồ trợn lên như muốn rách khóe khi nhìn thấy một thanh đoản kiếm cắm sâu vào bụng, máu tuôn ra như suối. Những nếp nhăn trên mặt Đinh Hồ xếp chồng lại, giày xéo và đau đớn. Hắn khó khăn ngẩng đầu lên nhìn Nguyễn Huệ. In trong đáy mắt lạc dần đi của hắn là một gương mặt ngạo nghễ, khóe môi nhếch lên tạo thành một nụ cười lạnh lẽo, ánh mắt tối tăm lóe lên những tia sáng ma quái, những tia sáng bóp nghẹt trái tim Đinh Hồ khi hắn ngã lăn xuống đất. Hắn đã chết mà không hiểu tại sao mình lại chết, nên đôi mắt vẫn mở to, nhìn trân trân lên gương mặt phong sương của tử thần.

Mới thấy Đinh Hồ nói chuyện đôi ba câu, thế mà bỗng nhiên lăn đùng ra chết, cái chết nhanh chóng của chủ tướng khiến quân lính Đông Sơn kinh ngạc, hoảng hốt. Không biết tự bao giờ, Tây Sơn đã bao vây Đông Sơn vào giữa rồi ra tay ngay khi Đinh Hồ ngã vật ra và bọn chúng còn chưa hết bàng hoàng. Trong phút chốc, một cơn mưa máu rợp trời, những tiếng hự uất nghẹn cùng tiếng thây người đổ xuống đất như những bao gạo nặng nề vang lên. Đứng giữa vòng tròn tử thi, tử khí từ người Nguyễn Huệ tỏa ra, băng giá, đượm mùi chết chóc. Thanh kiếm trong tay anh đã chuyển sang màu đỏ, máu từ mũi kiếm nhỏ xuống mặt đất, tí tách từng nhịp như tiếng mưa rơi.

Sau khi hoàn thành công việc chủ tướng giao phó, những người lính Tây Sơn đá vào các xác chết không hồn của quân Đông Sơn trên mặt đất rồi tiến đến dàn thành hàng ngang trước mặt Nguyễn Huệ đợi lệnh. Một người lính tiến lên, vòng tay khấu đầu và nói sốt sắng.

- Bẩm tướng quân, toán quân Đông Sơn này đã bị tiêu diệt, tiếp theo thuộc hạ phải làm gì đây ạ?

Nguyễn Huệ mỉm cười, anh lướt mắt lên gương mặt hãy còn thiếu kinh nghiệm của người lính. Lưỡi kiếm trong tay nhanh như cắt, uốn éo như một con linh xà màu thẫm màu rồi cứa thẳng vào cổ tên lính đang đứng chờ đợi mệnh lệnh trước mặt mình. Giọng anh lạnh tanh, nói nhẹ nhàng từng tiếng như lời tử thần phán quyết.

- ...Giữ bí mật!

Một tia máu nóng phụt ra, viên lính Tây Sơn mở trừng mắt nhìn chủ tướng, rồi sau đó đổ vật xuống đất, trước những ánh mắt kinh hoàng của những người còn lại....

Không gian nhuộm mùi máu tanh nồng nặc, bóng tối lan xuống cánh rừng. Những thuộc hạ đi theo anh giờ chỉ còn là những tử thi nằm la liệt,không phân biệt trên mặt đất, bên cạnh những cái xác không hồn của Đinh Hồ và quân Đông Sơn. Máu đỏ hòa lẫn vào nhau trong ánh mắt hoang lạnh của Nguyễn Huệ. Anh đứng đó, cẩn thận từng bước chân để máu không dây vào người, mỉm cười ngạo nghễ, có phần tàn độc. Thanh kiếm lóng lánh máu nhuộm ánh trăng, đẹp hoang tàn trong đôi mắt của bóng đêm.

oOo

Nguyễn Huệ mỉm cười khi dòng hồi tưởng kết thúc. Anh nâng thanh kiếm lên cao rồi bất thần chém vào không khí. Tiếng lưỡi kiếm nuốt gió rin rít, tà áo nâu bay lất phất trong không gian. Ban nãy, trước chất giọng chế giễu đắc thắng của Nguyễn Lữ khi nghe tin báo thủ lĩnh Đông Sơn đã bị Nguyễn quân giết, anh không buồn phản bác lại, hay nói đúng hơn là anh không việc gì phải nói ra tất cả cho con người lúc nào cũng chỉ biết hỏi tại sao mà không suy nghĩ được điều gì đó. Anh rất ghét những kẻ không biết sử dụng đầu óc, lúc nào cũng chỉ muốn nghe sự lý giải từ người khác, và Nguyễn Lữ là một trong số đó, cho dù đó là anh trai của anh.

Đối với Nguyễn Huệ, tất cả những chuyện đã xảy ra đều nằm đúng trong sự tính toán của anh. Một cánh rừng không thể có hai hổ, Tây Sơn muốn làm chủ Gia Định thì không chỉ là Nguyễn Ánh mà Đông Sơn quân cũng phải bị tiêu diệt, không sớm thì muộn thôi.

Mà đã thế thì tại sao không phải là bây giờ....

Nguyễn Huệ nhếch môi, đối với anh, không có gì là không thể được, chỉ là kẻ trong cuộc liệu có nắm bắt được thế trận, thời cuộc và tạo ra luật chơi cho riêng mình hay không. Dù chỉ tiếp xúc với chủ tướng Đinh Hồ và ba phó tướng Lê Anh, Đình Toàn, Đặng Triệu của Đông Sơn quân mới một lần, nhưng Nguyễn Huệ đã tinh ý nhận ra đạo quân này không còn được tổ chức tốt như dưới thời Đỗ Thanh Nhơn. Chúng bằng mặt nhưng không bằng lòng, ai cũng có mưu đồ riêng, cũng muốn tranh phần lợi cho mình, riêng chỉ có mối thù với Nguyễn Ánh thì ai cũng có, và đó đang là thứ giữ chúng kết nối với nhau. Tin tức thủ lĩnh Đông Sơn bị giết hại truyền ra, chắc chắn kẻ bị tình nghi chỉ có thể là Nguyễn quân. Mượn danh nghĩa quân Nguyễn giết đi tên thủ lĩnh sẽ dẫn đến cục diện mới với hai điều lợi. Một là khắc sâu thêm mối thù của Nguyễn quân và Đông Sơn, hai là khiến chúng yếu đi từ bên trong vì nội loạn.

Hiện thời, ưu tiên trước mắt là tiêu diệt Nguyễn Ánh, nhưng điều đó không có nghĩa là anh phải bỏ qua Đông Sơn. Không có gì hủy hoại một lực lượng mạnh mẽ và nhanh chóng hơn những mâu thuẫn bên trong. Bất đồng quyền lợi và tham vọng đã là thứ sẵn có, việc anh cần làm chỉ là cho chúng một cơ hội, một lý do, rồi thản nhiên nhìn chúng chia phe cánh, tranh đoạt quyền lợi, tự tàn sát lẫn nhau. Quẳng một mồi lửa vào chảo dầu đang nóng rồi để mặc nó tự bùng nổ, anh có thể rảnh tay, yên tâm truy sát quân Nguyễn, sau đó quay lại thu dọn tàn cuộc hỗn loạn của Đông Sơn.

Trải qua một cuộc tranh giành nội bộ, nội lực của chúng sẽ không tránh khỏi thương tổn nặng nề. Lê Anh, Đình Toàn hay Đặng Triệu, ai là kẻ chiến thắng cuối cùng, anh chẳng quan tâm, đối với anh, đằng nào cũng có lợi. Dù có thắng, lên nắm quyền Đông Sơn thì trước mặt chúng cũng chỉ còn lại một đoàn quân rệu rã, nội bộ suy yếu. Nếu thấy cần thiết thì anh sẽ quét sạch bọn chúng, nếu thấy không cần thì anh sẽ tiếp tục lợi dụng chúng, biến chúng thành công cụ để đối phó với Nguyễn quân. Nói cho cùng, ai lên làm thủ lĩnh thì mối thù của Nguyễn quân và Đông Sơn vẫn ngày một sâu đậm mà thôi.

Tạo ra những ván cờ với luật lệ của riêng mình rồi ung dung theo dõi nghêu sò đánh nhau là một thú vui của anh. Ngồi xem kẻ thù của mình lay hoay như những con rối trên sấn khấu mà anh đã vạch sẵn cho chúng quả thật thú vị, thú vị nhất trong tất cả những thứ hay ho mà anh đã trải qua... bao gồm cả Văn Bình và cô gái ấy.

Văn Bình và cô gái ấy, cô gái đã khiến tinh thần của hắn ta xáo trộn, bất an. Chính vì những xáo trộn, bất an nhỏ nhất đó, anh mới có thể vùng lên và chiếm hữu thân xác này. Anh sẽ sử dụng thân xác này để tạo ra cuộc chơi thú vị của riêng mình. Và anh sẽ chừa phần cho cả cô ta nữa, người con gái mà hắn yêu.

Nguyễn Huệ mỉm cười, một nụ cười ngạo nghễ, cứ như thể xung quanh anh, mọi thứ chẳng khác chi những trò chơi mà anh dễ dàng thao túng. Dưới ánh nắng cuối tháng năm, thanh kiếm trong tay anh lia vun vút, phát ra những tia sáng bạc mềm mại, phóng khoáng và lấp lánh như con rồng vươn mình uốn lượn giữa bầu trời. Đột ngột, Nguyễn Huệ nhíu mày khi nghe thấy có tiếng vó ngựa phi nước đại sau hàng cây. Thanh kiếm trong tay anh lơ lửng nửa chừng, rồi bất thần bắn thẳng về phía phát ra tiếng vó ngựa, sắc lạnh như chính ánh mắt anh hiện giờ.

Một tiếng "ối" hoảng hốt vang lên, thanh kiếm cắm phập vào thân cây gần đó. Trong khoảnh khắc ấy, sự ngạc nhiên lướt nhanh qua gương mặt Nguyễn Huệ khi hiện ra dưới ánh nắng chiều là một cô gái mặt mày lem luốc, mái tóc đen xơ rối, đôi mắt to tròn nhìn anh không chớp. Đó chính là cô gái đã làm Văn Bình phải mất tự chủ, đó chính là cô gái đã khiến Văn Bình nắm chiến thắng trong tay rồi mà lại tự thả ra. Đó chính là Linh Lan.

Và cô ta vẫn còn sống để trở về đây.

Trong khi Nguyễn Huệ đang yên lặng quan sát nó từ đầu tới chân thì Linh Lan cũng ngại ngần với bộ dạng thê thảm của nó bây giờ. Từ lúc cưỡi ngựa trốn thoát khỏi Nguyễn Ánh, Linh Lan lần tìm về những nơi mà nó đã đi qua bằng trí nhớ của mình. Trên đường lẩn trốn, Linh Lan đã rất lo sợ sẽ chạm mặt quân Đông Sơn hay bị Nguyễn Ánh cho quân đuổi theo. Khỏi phải nói, nếu bị bắt lại, chắc chắn nó sẽ lãnh lấy hậu quả thảm khốc vì đã dám trốn khỏi anh. Mũi tên cắm phập vào lưng trong đêm Gia Định đen thẫm, nó vẫn chưa quên.

Chính vì mang tâm trạng sợ hãi như thế, Linh Lan đi cả đêm lẫn ngày không ngừng nghỉ, vượt qua bao nhiêu rừng rậm, sông suối, đến khi người ngựa cùng kiệt sức thì bóng dáng thành Gia Định quen thuộc mới hiện ra trước mắt nó. Sau bao ngày nơm nớp lo sợ, giờ đây Linh Lan như nhấc được tảng đá nặng nghìn cân đang đè nặng lên trái tim trong lồng ngực. Một nụ cười yếu ớt nở trên bờ môi khó nhọc của nó. Linh Lan cảm thấy vui mừng và ấm lòng khi nhìn thấy thành Gia Định nghiêng nghiêng trong bóng nắng chiều.

Đặt chân trở về Gia Định, Linh Lan không thể ngờ người đầu tiên mà nó nhìn thấy lại là Nguyễn Huệ. Ngồi trên lưng ngựa, nó nhìn anh không chớp mắt. Gương mặt phong sương lạnh lẽo, nụ cười bàng quang, thách thức đời trên môi anh nhắc Linh Lan nhớ, anh chính là người đã từng muốn giết chết nó.

Giết!

Dạ dày Linh Lan thốn lên. Đôi mắt trợn trừng của viên lính Đông Sơn lại hiển hiện trước mắt, thanh kiếm đẫm máu trong tay nó cắm sâu vào người anh ta. Tiếng thây người đổ vật xuống đất đến bây giờ nó vẫn chưa quên, và vĩnh viễn chẳng thể quên. Hình ảnh đó mãi vướng lại trong đầu nó, ám ảnh từng phút, từng giây.

Trên đường chạy trốn, mối lo sợ bị Nguyễn Ánh bắt được cứ lởn vởn trong đầu, nên nó không để tâm đến những chuyện khác. Nhưng giờ đây, về đến Gia Định, bỗng nhiên nhìn thấy Nguyễn Huệ, từng sự kiện xảy ra trong những ngày qua lũ lượt hiện về, rõ mồn một trong trí óc nó. Phải rồi, nó làm sao có thể quên được nó đã giết người, bàn tay nó đã nhuốm máu. Dòng máu ấm nóng dường như vẫn còn lăn trên mặt nó, tanh và nồng. Nó đã giết người.

Trong phút chốc, đôi mắt Linh Lan rưng rưng. Nó biết, đứng trước mặt nó không phải Văn Bình. Người ấy là Nguyễn Huệ, một Nguyễn Huệ tàn bạo với nụ cười ngạo mạn, thách thức cuộc đời trên môi.

Anh ta không phải Văn Bình.

Thế mà lại hay.

Vì anh ta không phải Văn Bình.

Linh Lan lẩm bẩm, đôi mắt nó ngân ngấn nước. Từng giọt lệ nóng hổi cứ thế dâng đầy, rồi chậm chạp lăn dài trên gò má nó. Từ một giọt nước mắt, bây giờ đã hóa thành một trận mưa nhạt nhòa. Linh Lan khóc. Nó bật khóc ngon lành. Từng mảng ký ức vỡ vụn, quay cuồng trong đầu nó. Sự chịu đựng, nỗi lo sợ nơm nớp trong từng giấc ngủ, mặc cảm tội lỗi dồn ép trong lòng nó nay bỗng nhiên vỡ òa theo những giọt nước mắt, tuôn tràn như thác vỡ bờ. Thế là Linh Lan khóc. Nó khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc như mưa. Đôi vai gầy nhỏ bé run run, nức nở theo những giọt nước mắt tan vỡ trên môi.

Đang nheo mắt quan sát Linh Lan với những đánh giá thú vị trong đầu, Nguyễn Huệ ngớ người ra khi nhìn thấy Linh Lan bật khóc tức tưởi. Nụ cười ngạo nghễ trên môi vụt tắt, làn sương bạc lạnh lùng trên gương mặt dần tan, chỉ còn lại sự ngạc nhiên hiện rõ trong ánh mắt anh. Lần đầu tiên anh nhìn thấy con gái khóc, lại là người con gái mà Văn Bình yêu quý. Nguyễn Huệ ngẩn ra, anh bỗng có một cảm giác rất lạ mà anh không thể gọi tên. Một cảm giác xa lạ, mơ hồ trước nay chưa từng có, len lỏi trong trái tim anh, rồi trở thành những sợi tơ mỏng, vươn tới lý trí của anh, báo cho anh biết rằng cảm giác lạ lẫm đó chính là khó chịu. Khó chịu? Anh đang khó chịu? Anh khó chịu vì điều gì cơ chứ?

Gạt phắt cảm giác khó chịu lạ lẫm, có lẽ là vì lần đầu tiên có sự việc diễn ra mà không nằm trong dự tính của mình, Nguyễn Huệ lên tiếng. Giọng nói anh lạnh lẽo, chẳng biểu lộ chút sắc thái nào. Chắc chắc cô gái này đã được Văn Bình chiều chuộng nên mới sinh tật khóc lóc vô lý như thế này. Không được! Anh phải nhanh chóng kiểm soát tình huống này, nếu cô ta cứ khóc lóc như thế, Văn Bình chắc chắn sẽ phản ứng và nôn nóng vùng dậy, thoát khỏi sự kềm chế của anh. Trò chơi vẫn còn chưa bắt đầu, anh sẽ không cho phép bất cứ ai làm cho những toan tính của anh rối tung lên.

- Cô có biết ta là ai không?

- Biết... Anh... Là Nguyễn Huệ...

Linh Lan vừa nói vừa khóc, giọng nó đứt quãng trong tiếng nấc nghẹn ngào. Không nghe Linh Lan trả lời thì thôi, khi đã nghe, Nguyễn Huệ lại càng ngạc nhiên. Cô gái này biết anh không phải là Văn Bình, cô gái này nhận ra anh là Nguyễn Huệ, biết anh là người từng muốn giết chết cô ta, thế tại sao cô ta lại khóc? Tại sao cô ta không trốn đi mà vẫn khóc trước mặt anh?

Thình thịch!

Nguyễn Huệ cau mày. Tiếng trái tim của anh... không, chính xác là của Văn Bình đang trở mình ngày một mạnh mẽ. Văn Bình đang xót xa khi nghe thấy tiếng khóc nức nở của cô ta, hắn đang phản kháng. Nguyễn Huệ nhếch môi, anh phải làm cho cô ta thôi khóc, phải làm cô ta im đi mới có thể kiểm soát lại Văn Bình hoàn toàn.

Không nói không rằng, Nguyễn Huệ sải những bước chân dài tiến về phía Linh Lan. Đột ngột, anh vươn tay vòng qua thắt lưng nó, rồi kéo nó rời khỏi lưng ngựa mà ngã hẳn vào lòng mình. Không để cho Linh Lan kịp phản ứng, Nguyễn Huệ xiết chặt nó vào lòng, rồi anh đặt môi hôn lên vầng trán cao của nó. Từ vầng trán, bờ môi thanh tú di chuyển xuống đôi mắt đang nhòa nước, từ đôi mắt lại chuyển sang đôi má đẫm nước mắt và cuối cùng, nụ hôn của anh dừng lại ở bờ môi mềm mại ấy. Một nụ hôn thật lâu, thật sâu, khiến bờ môi anh vương nước mắt của Linh Lan. Và từ đây, lần đầu tiên anh nếm được vị mằn mặn như muối biển từ những giọt nước mắt của con người.

Linh Lan chết sững người. Mọi việc diễn ra trong tích tắc khiến những sợi dây thần kinh trong đầu nó căng lên, tê liệt. Có nằm mơ Linh Lan cũng không thể ngờ lại xảy ra trường hợp này. Nguyễn Huệ đang ôm nó, chẳng những thế, anh còn hôn nó. Những nụ hôn của anh lấy đi những giọt nước mắt của nó, khiến nó hoảng, hoảng đến mức quên cả khóc. Anh đang dùng đúng cái cách mà nó đã thoát khỏi anh để khống chế lại nó. Và cho dù có hoảng loạn đến đâu thì Linh Lan cũng không quên rằng đây là nụ hôn đầu tiên của nó. Nụ hôn đầu tiên của nó lại xảy ra vào lúc này, trong trường hợp này, với người con trai này ư?

Những câu hỏi dồn dập ùa đến, đầu óc Linh Lan quay cuồng. Nó đã cưỡi ngựa về Gia Định suốt một ngày một đêm không ngừng nghỉ, chỉ có nước lã cầm hơi, thế nên sức lực của nó giờ đã cạn kiệt, tay chân bải hoải, nhấc còn không lên chứ đừng nói là động thủ. Gắng sức xô Nguyễn Huệ ra, nhưng vòng tay anh ôm lại thật chặt, chặt đến nỗi nó cảm thấy khó thở và không thể cựa quậy. Thấy Linh Lan đã hết khóc, ngược lại còn mở to mắt nhìn anh thảng thốt, Nguyễn Huệ mỉm cười, nụ cười đầy chất mỉa mai của anh khiến nó khó chịu. Anh nâng gương mặt nó lên thật sát mặt mình, đến nỗi sóng mũi cao của anh đụng vào mũi nó, khiến Linh Lan hoảng hốt. Gương mặt nó đỏ như gấc chín, vành tai nóng ran, tim đập nhanh vì sự gần gũi này.

- Nếu còn khóc, ta sẽ còn hôn cô. Hôn đến khi nào cô cạn nước mắt thì thôi.

Linh Lan vội vàng bụm miệng lại, tay gạt đi những giọt nước mắt hãy còn vương nơi rèm mi. Nó lắc đầu nguầy nguậy. Giọng nói run run của nó cất lên, thoát ra qua những kẽ tay.

- Không! Không khóc nữa. Tôi không khóc nữa. Thả tôi ra, thả tôi ra đi.

- Chắc không?

Nguyễn Huệ nheo mắt, ánh nhìn của anh lấp lánh tia sáng ma quái. Anh ghé mặt vào sát mặt nó, bờ môi mềm chạm vào sóng mũi Linh Lan khiến nó tái mặt và nghiêng đầu sang một bên, ngả người ra sau, giọng gào lên như lạc hẳn đi.

- Chắc! Chắc mà! Thả tôi ra mau đi.

Nguyễn Huệ lừ mắt nhìn nó. Ánh mắt anh như ánh kiếm bạc lạnh lẽo, tàn nhẫn, khiến Linh Lan rùng mình. Gật đầu lia lịa để xác nhận mình sẽ không khóc, Linh Lan nhanh chóng lùi tuốt ra xa khi Nguyễn Huệ nới lỏng vòng tay. Đầu nó vẫn còn váng vất vì dư âm của những nụ hôn, đôi vai Linh Lan run lẩy bẩy. Nó trừng mắt nhìn anh, nỗi căm hờn dâng đầy rồi quay người chạy vụt đi, để con ngựa đứng nhìn theo vì chẳng hiểu tại sao Linh Lan lại bỏ mặc mình đứng gặm cỏ ở đây.

Nhìn theo bóng dáng Linh Lan xa dần, Nguyễn Huệ nhếch môi. Anh tiến lại gần con ngựa trắng và vỗ nhẹ lên đầu nó. Cô gái này đã chạy trốn khỏi quân Nguyễn an toàn, lại còn vượt qua cả một chặng đường dài để trở về Gia Định. Cũng tốt, cô ta đã trở về rồi thì anh cũng có trò chơi dành riêng cho cô ta. Chà! Sẽ phải bắt đầu trò chơi nào trước đây? Nguyễn Huệ ngẫm nghĩ. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh lấp lánh ánh sáng, thứ ánh sáng kỳ lạ le lói trong ánh mắt tối thẫm như mặt biển đêm, khiến gương mặt phong sương đượm nét hoang tàn. Đang còn nghĩ ngợi, đột ngột, Nguyễn Huệ nghe thấy tiếng bước chân từ xa đang tiến về phía mình. Lướt mắt về phía tiếng bước chân, Nguyễn Huệ nhướng mày khi nhận ra đó là cô gái đã bị anh hôn khi nãy. Cô ta muốn làm gì, muốn trả thù anh vụ khi nãy sao?

Trong khi Nguyễn Huệ vừa vuốt ve chú ngựa trắng vừa phỏng đoán, thì Linh Lan từ xa xăm xăm tiến về phía anh. Khi chỉ còn cách anh độ ba bước chân, nó dừng lại. Đứng trước mặt Nguyễn Huệ, ánh mắt Linh Lan lấp lánh sự kiên quyết. Nó ngẩng cao đầu, hít vào một hơi thật sâu, trấn áp trái tim đập lô tô trong lồng ngực vì dư âm của chuyện ban nãy, Linh Lan cất cao giọng.

- Nguyễn Huệ! Tôi có chuyện muốn nói với anh.

Nhướng mày nhìn cô gái nhỏ bé đứng trước mặt, Nguyễn Huệ còn chưa trả lời thì Linh Lan đã nhìn sâu vào ánh mắt u tối của anh, nói rành rọt từng tiếng với một sự nghiêm túc không thể nào hơn.

- Tôi muốn anh dạy tôi cách làm quen với chuyện lấy mạng người!

108.

Tại góc lầu phía tây, Nguyên Thục ngồi rèn luyện chữ viết trên một chiếc bàn đá. Suốt cả buổi chiều, Nguyên Thục lay hoay mãi mà cũng chỉ được một tờ giấy, chung quy chỉ vì nó viết được một chữ, rồi lại ngồi thẫn thờ suy nghĩ một lúc, thế nên mãi mà chẳng luyện được bao nhiêu.

Sở dĩ Nguyên Thục mất tập trung như thế là vì nó đang nghĩ đến kết quả tranh cử ngôi vị Vương phi với Ngọc Xuân mấy tháng trước. Trong cuộc tranh cử ấy, nó đã thua cuộc và cái giá phải trả là suýt chút nữa nó đã bị Thánh mẫu vịn vào giao kèo của hai bên để đuổi nó ra khỏi phủ chúa. Mỗi lần nhớ đến hôm ấy, trái tim Nguyên Thục lại đập thình thịch trong lồng ngực. Nó đã hứa với Thánh mẫu là nếu thua trong cuộc đua tranh, thì nó vĩnh viễn sẽ không xuất hiện trước mặt bà. Sợ Nguyên Thục nuốt lời, Thánh mẫu đã bắt nó viết giấy điểm tên, và thật may mắn, chính nhờ cam kết đó mà Nguyên Thục vẫn còn được ở bên Trịnh Khải cho đến giờ.

Thật ra, ban đầu Nguyên Thục đã rối trí trước mệnh lệnh được ban ra của Thánh mẫu, nhưng rất nhanh sau đó, nó đã bình tĩnh trở lại và lắng nghe thật kỹ cam kết trong tờ giấy mà Thánh mẫu công bố trước mọi người.

"...Nếu thua sẽ vĩnh viễn không xuất hiện trước mặt Thánh mẫu và Dương thái phi".

Chỉ là Thánh mẫu và Dương thái phi thôi. Một tia sáng lóe lên trong đầu Nguyên Thục, nó đòi Thánh mẫu cho tất cả mọi người hiện diện ở đó được xem bản cam kết mà nó đã ký. Giơ cao tờ giấy lên khi mọi người đều đã xem qua, Nguyên Thục nói rành rọt.

- Thưa Thánh mẫu, những gì thần đã nói, thần nhất định sẽ thực hiện. Vì thần đã thua, ngôi vị Vương phi đã thuộc về Ngọc Xuân, vậy cho nên thần sẽ thực hiện những điều được ghi trong tờ cam kết này. Như mọi người đều đã đọc, theo thỏa thuận trong cam kết, từ nay thần sẽ không xuất hiện trước mặt người và Dương thái phi nữa, chứ không phải rời khỏi phủ chúa, xin người hãy xem xét kỹ càng ạ.

Trước gương mặt trắng sáp tái lại vì tức giận của Thánh mẫu, Nguyên Thục thản nhiên trao lại tờ cam kết cho Bùi Văn Bích để ông đem lên cho Dương thái phi tra xét. Đúng như lời Nguyên Thục nói, trong cam kết, nó chỉ hứa sẽ không xuất hiện trước mặt Thái phi và Thánh mẫu, chứ không nói sẽ rời xa Trịnh Khải. Bản cam kết tất cả mọi người đều đã đọc qua, giờ nếu tiếp tục làm khó Nguyên Thục, e sẽ khiến cho quần thần dị nghị, dèm pha. Đến nước này, Thánh mẫu và Dương thái phi chỉ biết thả rơi người xuống ghế, nhìn Nguyên Thục trừng trừng mà không nói được lời nào.

Về phần Nguyên Thục, bất đắc dĩ lắm nó mới phải dùng đến cách lách luật này. Căn cứ vào nét mặt của Thánh mẫu cùng Dương thái phi thì nó đã biết là khoảng cách giữa đôi bên đang ngày một sâu thêm, không sao lấp đầy được. Chuyện hòa hợp với hai người họ để Trịnh Khải vui lòng giờ đây quả thật quá khó, nếu không muốn nói là không nhiều hy vọng. Trước chuyện lách luật, Nguyên Thục cảm thấy áy náy, nhưng nó lại không còn cách nào khác hơn vì bản thân nó không hề muốn rời xa Trịnh Khải. Nó muốn được ở bên cạnh anh, cho nên nếu phải hy sinh thì nó đành hy sinh mối quan hệ giữa nó và Thánh mẫu, thái phi. Dẫu sao thì quan hệ của nó với hai người họ vốn cũng không tốt, nay có phát triển theo chiều hướng xấu đi cũng chẳng vấn đề gì.

Nghĩ đến đó, Nguyên Thục bất giác thở dài. Ngọc Xuân có hậu thuẫn, lại giỏi dang, đặc biệt cô gái ấy cũng rất yêu Trịnh Khải, tình yêu mà Nguyên Thục vô tình nhận ra qua ánh mắt e lệ, đằm thắm của cô dành cho anh. Ngọc Xuân xứng đáng là Vương phi hơn ai hết. Việc Ngọc Xuân làm Vương phi, Nguyên Thục không buồn, việc cô sẽ được tấn phong trong nay mai không làm nó bận tâm đến. Thế nhưng điều nó lo nhất, sợ nhất và đau lòng nhất đó là việc với địa vị của mình, không sớm thì muộn, Ngọc Xuân sẽ phải sinh con cho Trịnh Khải để ngôi chúa có người nối dõi. Mỗi lần nghĩ đến đó, tim Nguyên Thục nghẹn lại, nó không muốn bất kỳ cô gái nào ở trong vòng tay của Trịnh Khải, sinh cho anh những đứa con xinh xắn ngoài nó. Đã nói trước đây anh có bao nhiêu người nó không cần biết, chỉ biết đã có nó rồi thì anh không được có một ai khác. Trịnh Khải đồng ý, nó tin anh, nhưng liệu Thánh mẫu và Dương thái phi có đồng ý điều đó hay không?

Nguyên Thục nhìn những chữ viết nghệch ngoạc, lem nhem trên giấy trắng mà thở dài, nó không thể luyện chữ khi mà lòng dạ rối bời như thế. Xếp tất cả giấy bút, nghiên mực trao cho A Đào và A Vân mang vào phòng cất, Nguyên Thục rũ áo đứng lên, chân hướng về tòa Ngự lâu. Dẫu biết giờ này chắc chắn Trịnh Khải đang phê duyệt tấu chương, sẽ không có thời gian dành cho nó, nhưng nó vẫn muốn đến thăm anh bởi mỗi lần phiền muộn, chỉ cần nhìn thấy anh là Nguyên Thục đã cảm thấy những u uất trong lòng vơi đi phần nào.

Đối với mọi người, Ngự lâu là nơi cấm kỵ, không phải ai cũng có thề tự tiện đến, còn muốn đến thì phải có người báo tin cho Trịnh Khải trước, nhưng với Nguyên Thục thì không cần phải rườm rà thế. Trịnh Khải đã dành một ngoại lệ đặc biệt cho nó, đó là nó có thể đến Ngự lâu bất kỳ lúc nào mà không cần phải thông báo. Trong bóng chiều tà, mái ngói vàng óng của tòa Ngự lâu chiếu những tia sáng rực rỡ soi bóng xuống mặt hồ. Hoa sen tháng sáu nở, hương thơm nhè nhẹ đưa. Nguyên Thục thoáng vu vơ. Mỗi lần đến phòng Trịnh Khải nó đều mang theo hoa cắm, nhưng với tâm trạng u ám như hôm nay thì nó khó có thể hoàn thành tốt bất cứ việc gì.

Đúng với suy đoán của Nguyên Thục, Trịnh Khải đang ngồi trên một chiếc đôn bọc gấm, trước mặt là một chồng tấu chương cao ngất. Cây bút lông cán trúc trong tay anh không ngừng lay động, đôi mày kiếm chau lại, dường như đang gặp một vấn đề nan giải nào đó mà chưa thể phê duyệt. Nghe có tiếng mở cửa, Trịnh Khải ngẩng đầu lên, đôi mày chau lại giãn ra, trên môi nhẹ nở nụ cười khi nhìn thấy Nguyên Thục rón rén bước vào.

Cố gắng không phát ra trong tiếng động trong tòa Ngự lâu tĩnh lặng, Nguyên Thục nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh Trịnh Khải. Qua bờ vai rộng lớn của anh, nó nhìn thấy những dòng chữ đen thẫm, báo về nạn ruồi, muỗi tấn công trâu bò ở trấn Kinh Bắc với mật độ cao, xin được chỉ cách giải quyết, trong tấu chương anh đang phê duyệt. Ruồi muỗi tấn công trâu bò, còn truyền vô số bệnh tật cho vật nuôi, nếu như thế chăn nuôi sẽ giảm sút, nhân dân sẽ đói kém và không thể nộp tô thuế đầy đủ cho triều đình. Nguyên Thục chau mày, nạn ruồi muỗi này làm sao để giải quyết một cách nhanh chóng mà không ảnh hưởng gì đến gia súc, trong khi thời này không có thuốc hóa học hay trừ sâu.

Nguyên Thục ngẫm nghĩ, chỉ một phút sau, đôi mắt nó sáng lên vì một sáng kiến lóe lên trong đầu. Níu áo Trịnh Khải buộc anh quay người lại, Nguyên Thục hớn hở, nói nhanh.

- Anh này, chỉ cần đốt tầm một cân lá bầu khô hay hai cân bã chè búp khô để khói xông vào chuồng trại gia súc, gia cầm, khói của lá bầu khô và chè xanh có tác dụng xua đuổi ruồi khỏi chuồng trại. Sau đó sắc một cân rưỡi lá bầu tươi, lấy nước tắm cho một con trâu, bò trưởng thành hay hai con bê, nghé, lợn lớn. Mùi lá bầu tươi có tác dụng xua đuổi ruồi khỏi cơ thể vật nuôi, như vậy có thể hạn chế được phần nào bệnh tật từ gia súc rồi.

Trịnh Khải ngạc nhiên nhìn Nguyên Thục. Trước ánh mắt ấy, Nguyên Thục cười đằm thắm.

- Thật mà! Cách này có thể chống lại nạn ruồi muỗi đang hoành hành ở các vùng quê, tin em đi. Hồi em còn ở quê, em đã có lần thấy mọi người dùng cách này rồi, hiệu quả lắm...

Nghe Nguyên Thục trình bày cách giải quyết với sự hăm hở, Trịnh Khải mỉm cười. Cây bút lông trong tay anh lay động, ý kiến của Nguyên Thục đã được anh chấp nhận và phê vào tấu chương kèm theo cách giải quyết. Nhìn những dòng chữ nho nhã của Trịnh Khải, Nguyên Thục vui lắm, nó vui vì đề nghị của nó được phê duyệt, và vui vì cảm thấy mình có ích cho anh. Niềm vui ấy vừa dâng lên, khuôn mặt Thánh mẫu và Dương thái phi lại hiện ra khiến lòng Nguyên Thục chùng xuống. Do thua cuộc với Ngọc Xuân nên nó phải tuân thủ giao kèo giữa hai bên, tuy đã lách được luật nhưng hậu quả kèm theo là việc hai người họ ở đâu thì nó phải tránh mặt chỗ ấy, điều đó làm nó không được vui. Suốt mấy tháng qua, ngày nào Dương thái phi cũng cùng Ngọc Xuân đến ngự lâu của Trịnh Khải. Nó biết bà đang cố vun đắp cho Ngọc Xuân và anh, và nó cũng nghe rằng Thánh mẫu đã lựa được ngày lành tháng tốt làm lễ tấn phong Vương phi cho Ngọc Xuân.

Lễ tấn phong Vương phi cho Ngọc Xuân, và sau đó là...

Trái tim Nguyên Thục nhói lên, đau thắt. Nó nhắm tịt mắt, lắc mạnh đầu để tống khứ suy nghĩ ấy ra khỏi tâm trí, nhưng những ý nghĩ ấy cứ như rễ sâu bám chặt vào trái tim nó, khiến nó bứt rứt vì cảm giác khó chịu, nặng nề.

Khi sớ tấu cuối cùng đã phê duyệt, Trịnh Khải xếp tất cả tấu chương vào chiếc tráp vàng dùng cho buổi thiết triều ngày mai. Gác chiếc bút lông thẫm mực lên giá, Trịnh Khải quay sang Nguyên Thục, đôi mày thanh tú nhíu lại khi in vào đáy mắt thăm thẳm của anh là gương mặt ủ ê, sầu muộn của nó. Dù Nguyên Thục không nói ra, nhưng Trịnh Khải vẫn hiểu hết những u uất trong lòng nó. Đối với anh, ai có là Vương phi cũng không quan trọng, nhưng hình như Nguyên Thục lại không nghĩ thế. Qua sự việc vừa rồi, anh mới nhận ra rằng dường như anh không biết gì về Nguyên Thục, về xuất thân cũng như những sở thích của nó. Thói quen của anh Nguyên Thục đều ghi nhận hết, nó chăm sóc anh rất chu đáo. Nguyên Thục dành phần lớn thời gian của mình để làm bánh, nấu ăn, cắm hoa và tỉ mẩn làm những túi hương đặt dưới gối vỗ về giấc ngủ cho anh. Tất cả những chi tiết nhỏ nhặt đó anh đều ghi nhận, Nguyên Thục đang cố gắng vì anh, và anh, hình như chưa bao giờ thể hiện tình cảm hay chăm sóc Nguyên Thục một lần nào.

Trịnh Khải thở nhẹ, anh vươn tay gạt những sợi tóc mai rũ xuống trước trán Nguyên Thục, cử chỉ đó khiến nó ngạc nhiên. Ngước mặt lên, đôi má Nguyên Thục ửng hồng khi bóng hình nó lấp lánh trong ánh mắt trìu mến của anh. Nhẹ kéo Nguyên Thục ngã vào lòng, Trịnh Khải choàng tay vòng qua người Nguyên Thục, một cái ôm thật chặt, nhưng cũng thật dịu dàng.

Bỗng nhiên được Trịnh Khải ôm vào lòng, trái tim Nguyên Thục đập rộn ràng. Mùi trầm hương từ ống tay áo anh nhẹ vây lấy người nó, khiến phiền muộn trong nó tan theo những áng mây bay ngoài trời. Dựa hẳn vào lòng Trịnh Khải, Nguyên Thục đan những ngón tay nhỏ nhắn, lấp đầy khoảng cách giữa các ngón tay gầy của anh. Bàn tay ấm áp, rộng lớn này khiến trái tim nó trở nên yếu đuối. Từ trước tới nay Nguyên Thục luôn sống độc lập, không dựa dẫm vào một ai, nhưng kể từ khi lạc về quá khứ, gặp anh và yêu anh, nó cảm thấy mình sao yếu đuối đến thế, luôn lo sợ, luôn bất an và luôn muốn có anh bên cạnh chở che.

- Thục nhi, quê hương nàng ở đâu?

Giọng nói ấm áp của Trịnh Khải kề bên tai Nguyên Thục, khiến nó vừa thẹn thùng lại vừa ngạc nhiên. Bao lâu nay anh chưa bao giờ hỏi đến thân thế của nó, nay đột ngột lại muốn tìm hiểu, chẳng lẽ anh nghi ngờ lời khai của nó lúc Thánh mẫu truy vấn, chẳng lẽ đến cả anh cũng cho rằng nó không phải người thuộc về nơi này hay sao?

Thấy Nguyên Thục im lặng không trả lời, Trịnh Khải nhẹ nhàng lên tiếng., đôi mắt anh thẫm lại, như có bóng tối loang dần.

- Nàng không muốn trả lời cũng không sao!

Trong thoáng chốc, giọng nói của Trịnh Khải nhẹ tênh. Nguyên Thục cuống quýt, nó vội vã quay người lại đối diện với anh, miệng thanh minh vì sợ Trịnh Khải không vui.

- Không! không phải em không muốn trả lời, chỉ là không biết phải nói như thế nào thôi.

- Nàng nói đi! Ta sẽ nghe.

Trịnh Khải mỉm cười, nụ cười ấy khiến Nguyên Thục an tâm. Nó rúc vào vòng tay anh, lòng suy nghĩ sẽ phải nói như thế nào để Trịnh Khải hiểu, và cũng không lộ ra chuyện nó vì một làn sương đỏ kỳ lạ mà lạc chân về quá khứ xa xưa.

- Em ở một nơi xa lắm, rất xa. Quê hương em có nhiều tên gọi, thường thì người ta gọi nơi đó là thành phố Hồ Chí Minh, nhưng em lại thích cái tên Sài Gòn hơn.

- Thành phố Hồ Chí Minh?

Trịnh Khải cau mày khi nghe thấy một địa danh lạ lẫm từ Nguyên Thục. Anh hỏi lại với giọng ngạc nhiên, sự ngạc nhiên đó khiến Nguyên Thục thích thú. Nó bật cười khúc khích.

- Em đã nói là em ở một nơi xa lắm, rất xa, xa đến nỗi trên bản đồ không có đâu. Quê hương em rất đẹp, có sông Sài Gòn, có chợ Bến Thành, có nhà thờ đức bà, có bến Bạch Đằng, có hàng me xanh lá... Và còn rất nhiều những món ăn mà em thích nữa.

Nguyên Thục kể đến đâu, gương mặt nó rạng ngời đến đó. Nó say sưa kể cho Trịnh Khải về sài gòn, về quê hương yêu dấu của nó. "Nắng Sài Gòn anh đi chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trong thoáng chốc, Nguyên Thục tưởng như rằng nó đang dạo chơi ở chợ Bến Thành, đang hóng mát trên bến Bạch Đằng, đang đạp xe trên con đường rợp bóng cây hay đang chun mũi hít hà vì vị cay xé lưỡi của món bún bò Huế gần trường. Mọi ký ức lần lượt trôi qua, đọng lại trong tim Nguyên Thục là sự nhung nhớ. Tất cả chỉ là tưởng tượng. Và nó ngậm ngùi, tiếc nuối khi biết rằng sẽ không thể nào bước đi trên vỉa hè rợp bóng me xanh thêm lần nào nữa.

- Nàng nhớ quê hương lắm phải không?

Ôm Nguyên Thục trong vòng tay,Trịnh Khải nhẹ nhàng hỏi. Nguyên Thục trả lời, giọng bùi ngùi.

- Vâng! Nhớ lắm.

- Nàng có muốn trở về không?

- Em rất muốn, nhưng không thể được. Bởi vì... bởi vì...

Nguyên Thục nói đến đây liền ngập ngừng vì không biết phải nói như thế nào. Làm sao có thể trở về được khi quê hương nó cách đây những ba trăm năm, làm sao nó có thể trở về được khi làn sương đỏ kỳ lạ ấy biến mất như chưa từng tồn tại? Nhưng, nếu nó có thể trở về được thì nó có trở về không? Câu trả lời là không, bởi vì ở hiện tại không có Trịnh Khải. Chỉ nghĩ đến việc sẽ phải rời xa anh thôi là Nguyên Thục đã thấy khó thở, huống chi nếu mãi mãi không nhìn thấy anh nữa thì đối với nó đó trái đất này cũng chỉ là một đám bụi tàn. Nguyên Thục cắn môi, nó vùi mặt vào lòng Trịnh Khải, tay xiết chặt áo anh. Nó rất muốn trở về hiện tại, về với gia đình, về với góc phố, nơi nó đã trải qua thời thơ ấu đẹp tươi, nhưng nếu phải chọn lựa giữa quá khứ và hiện tại thì nó sẽ ở lại đây. Vượt qua ba trăm năm mới tìm thấy người mình yêu, nó không thể từ bỏ, cuộc sống xưa kia, gia đình êm ấm, nó sẽ trân trọng cất giữ vào một ngăn trong trái tim mình, đến suốt đời.

Thấy Nguyên Thục ngập ngừng rồi không nói tiếp, Trịnh Khải cũng thôi không gặng hỏi nữa. Anh không muốn làm nó khó xử vì nhận ra sự tiếc nuối, vương vấn trong giọng nói của Nguyên Thục. Dù biết rằng không phải, nhưng lòng anh chợt nhẹ nhõm, chợt vui khi Nguyên Thục bảo mình sẽ không đi, ít nhất là Nguyên Thục không rời xa anh. Nguyên Thục nhớ nhà, anh biết, nhưng anh cũng biết bản thân ích kỷ, chỉ muốn Nguyên Thục không đi mà ở lại bên cạnh anh, mãi mãi. Nhẹ vuốt mái tóc dài xõa trên đôi vai nhỏ nhắn, Trịnh Khải yên lặng nghe thời gian nhỏ giọt. Nguyên Thục rõ ràng rất nhớ làng, nhớ nhà, nhưng tại sao nó lại không thể trở về thì vẫn là một câu hỏi lớn. Nguyên Thục không nói, anh cũng không ép, bởi vì mỗi người đều có những bí mật riêng, nhưng thấy Nguyên Thục phiền muộn vì chuyện của Thánh mẩu và buồn bã vì không thể trở về quê hương anh cũng cảm thấy không vui.

- Anh này...

Đang chau màu suy nghĩ, Trịnh Khải cuối xuống nhìn Nguyên Thục khi giọng nói nhẹ như hơi thở của nó cất lên. Nguyên Thục đang nhìn anh, đôi mắt long lanh tựa có nước mắt. Đôi mắt ấy khiến Trịnh Khải mềm lòng, anh vuốt nhẹ gò má mịn màng của nó, nơi vết sẹo đã mờ dần và biến mất nhờ túi thảo dược của Ưu Phong.

- Chuyện gì?

- Anh... anh... Ngọc Xuân bây giờ đã trở thành Vương phi... liệu anh có...liệu có...

- Sao?- Trịnh Khải nhíu mày khi Nguyên Thục trở nên ấp úng, chỉ khi nào nói những chuyện quan trọng thì Nguyên Thục mới có biểu hiện xúc động như thế. Nhưng xúc động vì chuyện gì? Chẳng lẽ vì chuyện tấn phong Vương phi sẽ được cử hành trong nay mai hay sao?

- Khi Ngọc Xuân đã trở thành Vương phi rồi thì anh và cô ấy sẽ có con nối dõi, đúng không?

Khi nói đến chuyện này, trong đầu Nguyên Thục đã chuẩn bị tư tưởng trước, nhưng không hiểu sao nó vẫn không thể giữ được các ngón tay thôi run lên. Giọng nói nó run rẩy, đôi mắt nó nhìn anh thiết tha, chờ đợi câu trả lời. Trước sự căng thẳng, hồi hộp của Nguyên Thục, Trịnh Khải ngạc nhiên khi nó đột ngột đề cập đến chuyện nối dõi, rồi sau đó anh phì cười. Nụ cười ấy khiến Nguyên Thục lúng túng, chẳng lẽ nó đã nói gì sai?

- Tại sao nàng lại nghĩ thế?

- Vì... vì Thánh mẫu và Dương thái phi muốn dòng dõi chúa Trịnh có người kế tục, thế nên mới lựa chọn kỹ lưỡng và đưa Ngọc Xuân vào làm Vương phi...

- Nàng muốn Ngọc Xuân sinh con cho ta sao?

- Không đời nào!!

Trịnh Khải nheo mắt hỏi, đáp lại lời anh là phản ứng dữ dội của Nguyên Thục. Môi nó mím lại, mắt mở to trừng trừng, chẳng khác nào một chú mèo đang xù lông khi gặp kẻ thù. Trước phản ứng ấy của Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ mỉm cười, anh vuốt nhẹ bờ môi mềm mại của nó, ánh mắt trìu mến, dịu dàng khiến trái tim Nguyên Thục đập nhanh. Run rẩy khép mắt lại, chờ đợi, Nguyên Thục như muốn tan chảy khi Trịnh Khải đặt lên môi nó một nụ hôn ngọt ngào. Trong khoảnh khắc khát khao, Nguyên Thục vươn tay vòng qua cổ Trịnh Khải, xiết chặt. Nó nhắm mắt, cảm nhận từng nụ hôn của anh âu yếm lên trán, lên má, lên môi, và chuyển dần xuống chiếc cổ cao trắng ngần của nó. Một cảm giác rạo rực, khát khao bùng lên trong trái tim Nguyên Thục. Những lúc cả hai ở bên nhau, Trịnh Khải luôn ôm nó, luôn trao cho nó những nụ hôn ngọt ngào, nhưng chỉ dừng lại ở mức giới hạn. Hôm nay, ngoài những nụ hôn âu yếm, cơ thể Nguyên Thục nóng bừng lên khi anh hôn lên chiếc cổ run rẩy của nó. Nó không muốn Ngọc Xuân sinh con cho anh, nó không muốn bất kỳ cô gái nào ngoài nó ở trong vòng tay anh. Và, hơn tất cả, nó mong muốn mình là người phụ nữ duy nhất của anh, là mẹ của những đứa con anh và được làm một người vợ thật sự của anh, chứ không phải hữu danh vô thực như thế này.

Nguyên Thục khát khao đón nhận những nụ hôn của Trịnh Khải. Cả thân người nó nhẹ nhàng ngã xuống chiếc giường nệm êm ái, vòng tay nó ngày càng xiết chặt lấy anh, run rẩy, từng nụ hôn vẫn kéo dài ngọt ngào khiến nó chếnh choáng say. Nó nhắm mắt chờ đợi, chờ đợi, lâu thật lâu vẫn không có động tĩnh gì, Nguyên Thục liền nhè nhẹ mở mắt ra...

In trong đáy mắt của nó là gương mặt dịu dàng của Trịnh Khải. Anh đang nhìn nó. Cái nhìn sâu thẳm đến mức nó cảm thấy chơi vơi. Vuốt nhẹ bờ môi hé mở của Nguyên Thục, Trịnh Khải gỡ nhẹ cánh tay của nó khỏi cổ mình, anh ngồi dậy và tiến về giá sách. Hành động đó khiến Nguyên Thục ngỡ ngàng, lòng hoang mang tự hỏi nó đã làm gì sai để Trịnh Khải dừng lại mọi chuyện. Nó muốn được làm vợ anh, một người vợ thật sự, nhưng tại sao anh lại không tiến tới? Chẳng lẽ anh không yêu nó, chẳng lẽ anh cảm thấy thất vọng về nó vì đã quá dễ dãi với anh, và bây giờ anh đang lạnh nhạt với nó, có phải thế không?

Nguyên Thục tự chất vấn, bao nhiêu mối nghi hoặc dâng lên, khiến nó cảm thấy tủi thân và muốn khóc. Trong khi Nguyên Thục đang tự suy vấn thì Trịnh Khải đã quay lại, trên tay anh là một khối gỗ và một con dao nhỏ. Ngồi xuống cạnh Nguyên Thục, Trịnh Khải bắt đầu gọt. Con dao nhỏ trong tay anh thoăn thoắt chuyển động, khối gỗ dần dần thành hình. Và rồi với những nét khắc cuối cùng, Trịnh Khải xòe tay ra, trong lòng bàn tay anh là một con con thỏ bằng gỗ xinh xắn, khiến Nguyên Thục tròn mắt ngạc nhiên, những giọt lệ chưa kịp rơi vươn lại trên rèm mi.

- Ta tặng nàng!

Đặt vào tay Nguyên Thục con thỏ bằng gỗ xinh xắn, Trịnh Khải choàng tay ôm xiết Nguyên Thục vào lòng. Bao nhiêu cảm xúc, nghi hoặc, hờn giận, tủi thân của Nguyên Thục ban nãy dâng lên, và rồi vỡ òa trên bờ vai anh. Vỗ về bờ vai không ngừng run rẩy của Nguyên Thục, Trịnh Khải hôn lên mái tóc thoang thoảng hoa sen của nó, anh nói, giọng thật dịu dàng.

- Thục nhi, ta xin lỗi. Đừng khóc, đừng khóc.

Nguyên Thục thổn thức, nó đã chờ đợi ngày này biết bao lâu, chờ đợi sẽ trở thành một người vợ thật sự của anh biết bao lâu, nhưng anh đã không làm thế. Anh không làm thế và điều đó đã làm cho nó hoang mang vô cùng. Vùi mặt vào áo anh, Nguyên Thục cất tiếng, giọng nghẹn ngào.

- Tại sao?

- Vì bây giờ chưa phải lúc.

- Tại sao?

- Vì ta muốn tìm hiểu nhiều hơn về nàng. Ta muốn biết nàng thích gì, ghét gì. Ta muốn tạo cho nàng nhiều kỷ niệm thật vui vẻ, thật hạnh phúc. Rồi sau đó, ta muốn nàng sinh cho ta những đứa con thật đáng yêu như mẹ của nó!

Nguyên Thục ngẩng đầu lên. Trái tim của nó đập thật nhanh, thật rộn ràng khi nghe những lời Trịnh Khải vừa nói. "Ta muốn nàng sinh cho ta những đứa con thật đáng yêu như mẹ của nó". Thật thế không? Có thật thế không? Nguyên Thục nhìn đăm đăm vào gương mặt thanh tú của Trịnh Khải. Nó hỏi nhanh vì vẫn chưa thật sự tin vào tai mình...

- Thật không? Anh... thật sự muốn như thế thật không, có thật thế không?

- Tất nhiên là thật!

Trước sự cuống quýt của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười, đôi mắt anh lấp lánh bóng hình nó. Lau khô những giọt nước mắt trên má nó bằng những nụ hôn nồng nàn, Trịnh Khải nhẹ nhàng đáp lời. Những nụ hôn ấy khiến Nguyên Thục sung sướng. Nó nhìn anh, hỏi bằng giọng thiết tha.

- Nếu anh đã nghĩ như thế từ trước, vậy tại sao còn...

- Là vì....

Trịnh Khải đang nói liền ngưng nửa chừng, và lần đầu tiên Nguyên Thục phát hiện ra trên gương mặt anh là sự bối rối. Anh đang bối rối, Trịnh Khải đang bối rối, Nguyên Thục reo lên. Sự khám phá nho nhỏ ấy khiến Nguyên Thục thích thú, nó hỏi dồn.

- Là vì sao?

Trịnh Khải không trả lời mà đánh mắt sang nơi khác, anh càng tỏ ra ngập ngừng thì nó càng nôn nóng muốn biết câu trả lời.

- Vì sao? Anh nói đi? Vì sao nào?

- Vì... mỗi lần ôm nàng, ta luôn phải kiềm chế. Nhưng cũng có lúc ta không thể kiềm chế được, giống như khi nãy...

Nguyên Thục "A" lên một tiếng khi Trịnh Khải vừa nói dứt. Trước đây Nguyên Thục luôn tự hỏi tại sao khi cả hai ở bên nhau, Trịnh Khải vẫn chưa một lần nào làm gì quá giới hạn, đến bây giờ nó mới biết, thì ra những lúc ấy anh đang kiềm chế bản thân dữ lắm. Anh đang kiềm chế mà sao mặt vẫn tỉnh như thường, làm nó hiểu lầm rằng nó chẳng có sức hút nào với anh. Nguyên Thục cười tươi như hoa, lời thú nhận của anh như những mạch nước ngầm len lỏi vào trong trái tim nó, tưới mát tâm hồn nó. Anh thú nhận sự thật, rằng luôn phải kiềm chế mỗi khi cả hai gần nhau, nhưng điều này càng làm nó yêu anh nhiều hơn. Anh nói rằng có những lúc anh không kiềm chế được, nhưng cuối cùng anh cũng vẫn kiềm chế được, giống như ban nãy đó thôi.

Nguyên Thục tủm tỉm cười, nghĩ đến chuyện "rồi sau đó" của anh, đôi má Nguyên Thục lại hồng lên, nó vùi mặt vào lòng Trịnh Khải, lắng nghe trái tim đập ngỡ ngàng vì hạnh phúc. Trịnh Khải nói anh muốn tìm hiểu về nó, anh muốn biết những sở thích của nó, như vậy chứng tỏ anh có quan tâm đến nó, có yêu nó và... Nguyên Thục đỏ mặt, nó không nghĩ tiếp nữa. Tay mân mê con thỏ bằng gỗ, gương mặt Nguyên Thục rạng ngời niềm vui. Trịnh Khải biết gọt gỗ lại còn chạm khắc thành những con thú xinh xắn như thế này tặng cho nó. Những gì anh tặng cho nó đều là báu vật. Nó bây giờ đang rất hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc.

- Sao anh biết làm những con thú bằng gỗ thế này?

Nguyên Thục nằm trong lòng Trịnh Khải, nó giơ cao con thỏ lên, xoay xoay trước mặt anh. Nhìn gương mặt rạng rỡ của nó, Trịnh Khải mỉm cười.

- Mỗi lần buồn phiền, ta đều kiếm một việc gì đó làm, đặt tâm trí vào đẽo gọt những con thú này thì phiền muộn trong ta sẽ vơi đi phần nào.

Nguyên Thục im lặng, dù đang rất vui nhưng nó vẫn không quên trách nhiệm Trịnh Khải đang gánh trên vai cùng quá khứ đã khép của anh. Nén lòng không hỏi đến quá khứ ấy, Nguyên Thục nhoẻn cười.

- Vậy anh từ nay đẽo gỗ, còn em tô màu, được không?

- Nàng tô màu?

Trịnh Khải hỏi, giọng ngạc nhiên. Nguyên Thục ngước nhìn anh bằng đôi mắt long lanh.

- Không được sao?

- Không! Được chứ.

- Vậy thì ngày mai nhé, ngày mai em và anh đến ngự hoa viên. Anh đẽo gỗ, em tô màu. Xong có gì chúng ta đổi lại, em đẽo gỗ, anh tô màu. Anh sẽ không phải làm việc này chỉ có một mình nữa, được không?

Nguyên Thục vừa nói, vừa mơ màng vẽ ra khung cảnh khi ấy. Trong ngự hoa viên, muôn hoa đua nở, Trịnh Khải ngồi đẽo ra những con thú xinh xắn, sau khi anh đẽo xong con nào thì sẽ chuyền qua cho nó, rồi nó sẽ cặm cụi tô màu. Những hình ảnh êm đềm ấy mới chỉ hiện ra trong đầu nhưng đã khiến Nguyên Thục tự cười một mình, lòng mong sao chóng đến ngày mai. Nhìn nó hứng thú đến như thế, Trịnh Khải không nói gì, anh chỉ mỉm cười.

Anh sẽ không làm việc này chỉ có một mình nữa...

Người con gái này rất quan trọng với anh.

Spoiler

" ...Trong ánh nến hoàng lạp lung linh, đôi má Nguyên Thục đỏ hồng lên, không biết vì men rượu hay là vì niềm hạnh phúc đang dâng lên trong lòng.

Cuối cùng, giây phút này cũng đã đến rồi...."

9.

Phủ chúa đêm nay bừng sáng, tòa Ngự lâu lấp lánh bởi những chiếc đèn lồng rực rỡ treo trên cao, những dải lụa đỏ tươi trang hoàng trước cửa bay phấp phới như đang reo vui. Trong ánh hoàng lạp lung linh, đôi má Nguyên Thục đỏ hồng lên, không biết vì men rượu hay là vì niềm hạnh phúc đang dâng lên trong lòng.

Cuối cùng, giây phút này cũng đã đến rồi...

Giấc mơ đêm qua, Nguyên Thục chỉ nhớ được có vậy. Thế nên sáng nay, mặc dù vô cùng ấm ức vì chẳng thể nhớ nổi những tình tiết sau đó, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy hạnh phúc khi hồi tưởng lại giây phút thiêng liêng trọng đại của ngày tân hôn, cho dù đó chỉ mới là mơ. Trong giấc mơ, Nguyên Thục cảm nhận rất rõ tiếng trái tim đập rạo rực của mình, cảm nhận rõ sự sung sướng, e lệ và niềm hân hoan tràn ngập khắp châu thân. Chỉ là một giấc mơ thôi mà Nguyên Thục đã bồi hồi đến thế, nếu là sự thật thì chẳng biết nó sẽ còn hạnh phúc đến đâu.

Vì giấc mơ đẹp đêm qua nên tâm trạng của Nguyên Thục bây giờ rất tốt. Ngự hoa viên buổi sáng mát mẻ, trên bàn đá là những chiếc bánh đậu xanh kèm bình trà sen mà sáng nay Nguyên Thục đã dậy từ rất sớm để làm. Trịnh Khải giờ này đang thiết triều, nó phải ngồi đây đợi anh giải quyết công việc xong rồi mới đến ngự hoa viên tìm nó. Trong lúc đợi anh đến, Nguyên Thục lại lấy con thỏ bằng gỗ ra ngắm nghía, lòng rộn ràng.

- Tiệp dư! Chúa công đã đến rồi.

Không cần A Vân phải thông báo, Nguyên Thục đã nhận ra ngay tiếng bước chân giẫm lên lá vàng khô ấy là của ai, nó vội quay người lại, trên môi là nụ cười rạng rỡ. Dưới ánh nắng sớm, tà áo xanh lục của Trịnh Khải sáng lấp lánh như một giọt sương, anh nhìn nó và mỉm cười. Dù đã nhìn thấy nụ cười này rất nhiều lần, nhưng mỗi khi anh cười, tim Nguyên Thục lại đập rộn ràng như thưở ban đầu. Nụ cười của anh rất đẹp, đẹp và ấm áp. Chỉ cần nhìn thấy nụ cười ấy là bao lo lắng phiền muộn trong nó đều tiêu tan, bầu trời lại trong vắt như chưa từng có giông bão kéo qua.

Đặt những khối gỗ con con vào tay Nguyên Thục, Trịnh Khải lướt mắt lên những món đồ mà nó đã bày biện trên bàn. Một khay bánh đậu xanh, một bình trà sen tỏa khói và một hộp màu, tất cả đều đã chuẩn bị sẵn sàng chờ anh đến. Trịnh Khải bất giác mỉm cười. Để chuẩn bị những thứ này, Nguyên Thục chắc chắn phải dậy từ rất sớm. Bánh đậu xanh còn chưa khô, bình trà vẫn còn ấm nóng, đôi mắt Nguyên Thục lại có quầng thâm, có lẽ vì đêm qua nó đã ngủ rất muộn và sáng nay lại phải dậy thật sớm để tự tay chuẩn bị mọi thứ đâu vào đó như thế này.

Trịnh Khải yên lặng, những ngón tay thon dài của anh miết nhẹ lên quầng thâm dưới mắt Nguyên Thục, cử chỉ đó khiến đôi má Nguyên Thục ửng hồng. Nó nhìn anh, lặng lẽ. Có anh, nó rất hạnh phúc, duy chỉ một điều làm nó bận lòng là cánh cửa quá khứ đã khép của anh. Nó rất muốn anh hé lộ một chút thông tin, dù chỉ nhỏ nhoi, nó muốn anh mở rộng tấm lòng ra để đón lấy nó, muốn nó có thể cùng anh chia sớt buồn vui. Những vui buồn, giận hờn nó đều chia sẻ cho anh hết, vậy tại sao anh cứ ôm lấy quá khứ để làm nỗi niềm riêng.

- Thục nhi, nàng có tô màu không?

Nguyên Thục giật mình bừng tỉnh, giọng nói nhẹ nhàng đượm vẻ ngạc nhiên của Trịnh Khải đã đánh thức nó. Do mãi suy nghĩ, mắt nó đăm đăm nhìn anh mà không thấy chú gà con bằng gỗ xinh xắn đang nằm trên bàn. Thì ra trong lúc nó để tâm trí tận đẩu tận đâu, Trịnh Khải đã gọt xong chú gà con bằng gỗ. Cầm chú gà mân mê, Nguyên Thục nhoẻn cười, khỏa lấp sự bối rối vì đã trót nhìn anh quá lâu.

- Vâng! Em tô màu ngay đây.

Nói rồi, Nguyên Thục mở hộp gỗ ra, bên trong có các ngăn đựng bột màu. Rắc một ít bột màu vàng lên chiếc đĩa sứ, Nguyên Thục khéo léo hòa một ít nước và bắt đầu công việc tô màu cho chú gà con. Nhìn Nguyên Thục căng mắt, mím môi, cẩn thận tô vẽ từng lớp màu lên chú gà, Trịnh Khải mỉm cười, anh tiếp tục đẽo gọt những khối gỗ còn lại thành muôn hình vạn trạng cho Nguyên Thục thỏa thích tô màu.

Cứ thế, từng con thú sinh động lần lượt ra đời, nào mèo, nào công, nào chim hoàng yến. Trịnh Khải làm xong, anh lại tiếp tục đẽo những con thú mà Nguyên Thục hứng chí vẽ ra trên giấy. Theo lời Nguyên Thục giải thích, các con vật ấy rất quen thuộc, cũng là chó, là mèo, là chuột, thế nhưng chuyện chó, mèo, chuột mặc quần áo ngộ nghĩnh thì từ trước tới nay anh chưa bao giờ nhìn thấy bao giờ.

- Con này là con gì?

- Vịt Donad đó.

- Còn con này?

- Mèo Kitty!

- Còn đây?

- A ha! Là trâu vàng seagame.

Đứng hầu hai bên, A Đào và A Vân mắt tròn mắt dẹt do lần đầu tiên nhìn thấy những con vật ngộ nghĩnh mà Nguyên Thục vẽ ra. Và họ còn kinh ngạc hơn nữa khi lần đầu tiên trông thấy Đoan Nam vương như một đứa bé con bắt đầu nhận thức và tìm hiểu những chuyện xảy ra xung quanh mình. Đương nhiên Nguyên Thục cũng nhận thấy điều đó, nó nhận thấy sự tò mò ở anh, nhận thấy anh như một cậu bé con đang học hỏi nên rất hào hứng. Nó hết vẽ tờ này đến tờ khác, hết vẽ Pucca rồi đến chó Snoppy, chỉ duy nhất một điều là muốn làm anh vui.

Thời gian yên bình trôi qua, trong ngự hoa viên luôn rộn rã tiếng cười. Trịnh Khải ngồi gọt những con thú trong hình vẽ của Nguyên Thục, còn Nguyên Thục tỉ mỉ tô màu cho những con thú anh vừa đẽo ra. Chốc chốc anh và nó dừng tay ngắm nghía và bình luận tác phẩm của nhau, rồi cùng cười vì những ý tưởng ngộ nghĩnh nào đó. Khung cảnh đầm ấm này khiến Nguyên Thục hạnh phúc, nó những mong sao thời gian sẽ ngưng lại, để ở mãi bên cạnh anh, vui vẻ như thế này.

Mặt trời đã lên cao, chói chang. A Đào cùng A Vân thay phiên nhau dọn bữa rồi sau đó lẳn lặng rút lui, nhường lại không gian riêng cho hai người. Mâm thức ăn thịnh soạn, tỏa mùi hương quyến rũ mời gọi nhưng Nguyên Thục vẫn chưa chịu động đũa vì mãi chú ý vào tác phẩm của anh và nó. Anh gọt gỗ, nó tô màu, mà lại rất đẹp, thật là sự phối hợp ăn ý, trên cả tuyệt vời. Chợt nghĩ, những món đồ dễ thương này rồi sẽ trở thành đồ chơi cho con trẻ, Nguyên Thục lại đỏ mặt và tự cười khúc khích một mình. Một buổi sáng ngọt ngào, khởi đầu bằng giấc mơ hạnh phúc đêm qua, và giờ đây Trịnh Khải lại đang ngồi bên cạnh, gắp cho nó một chén đầy thức ăn, quả thật tâm trạng Nguyên Thục lúc này không còn gì vui bằng.

Không quá khó để nhận ra sự vui vẻ rạng ngời trên gương mặt Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ mỉm cười, anh không nói gì bởi anh cũng đang vui. Chưa bao giờ anh lại thấy vui như thế. Trước đây, cũng ngự hoa viên này, cũng buổi sáng trong trẻo này, cũng hương hoa sen thoang thoảng trong gió này, nhưng anh lại cảm thấy nó xa vời và quạnh hiu một cách ngột ngạt, nhưng bây giờ, cũng cảnh vật cũ, anh lại cảm thấy bình yên và êm đềm đến thế. Tiếng cười giòn tan của Nguyên Thục đã đánh thức những giác quan ngủ yên trong anh, khơi dậy những mong muốn mà anh vùi sâu trong lòng. Anh muốn được yêu thương. Anh muốn có một cuộc sống bình thường như bao người khác, muốn có một gia đình, một người vợ hiền cùng những đứa con ngoan. Thế nhưng lời nguyền từ chính phụ thân anh vẫn còn đó, nhắc nhở anh gánh nặng giang sơn mà anh đang mang trên vai, ngay cả họ Trịnh trong cái tên của anh cũng đã là một sự ràng buộc. Anh không phải đang sống cho bản thân mà sống vì cơ đồ này, vì trách nhiệm và những kỳ vọng của dòng tộc. Anh đang cố gắng làm hết khả năng của mình, đang cố gắng chống đỡ cho một vương triều sắp đổ nát. Anh và cơ đồ này đã hòa làm một, khi vương triều sụp đổ, bản thân anh cũng sẽ không còn. Trước đây anh không bận tâm về điều này cũng như chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về nó, nhưng còn bây giờ...

Đôi má ửng hồng của Nguyên Thục dưới nắng ban trưa in trong đôi mắt sâu thẳm của Trịnh Khải, từng sợi tóc mảnh mai vương trên áo anh, quyến luyến. Mùi hương ngọt ngào từ mái tóc đen mượt ấy khiến tâm hồn anh xao động. Giữa người con gái này và cơ đồ dòng họ, bên nào nặng hơn? Giữa tình yêu và trách nhiệm, bên nào sẽ khiến anh phải từ bỏ? Nguyên Thục yêu anh nhiều đến thế nào? Nếu như anh không còn thì nó sẽ ra sao, sẽ ra sao...?

- Thục nhi...

- Vâng!

Đang nhắm mắt tận hưởng ngụm trà sen mát dịu hương thơm, Nguyên Thục mở mắt ra, "vâng" một tiếng khi Trịnh Khải gọi tên nó. Anh đang nhìn nó, ánh mắt dịu dàng, nhưng lại sâu hun hút, lẩn khuất ưu phiền không tên khiến Nguyên Thục cảm thấy bất an. Khoảng không trong ánh mắt của anh làm nó lo lắng, cứ như thể anh sẽ đi đến một nơi rất xa, rất xa mà không thể mang nó theo được nên mới nhìn nó như thế. Đó là ánh mắt cùa sự phân ly.

- Hôm nay nàng muốn ra ngoài dạo chơi không, ta sẽ đưa nàng đi.

Nghe Trịnh Khải nói sẽ dẫn mình ra ngoài chơi, mắt Nguyên Thục sáng lên, nhưng sự bất an, lo lắng vẫn lẩn quất trong lòng khiến nó dè dặt hỏi lại.

- Ngày mai anh phải đi đâu sao?

- Sao nàng lại nghĩ thế?

- Vì ánh mắt anh lạ lắm, cứ như thể anh sẽ đi đâu thật xa vậy. Ánh mắt ấy làm em không yên tâm.

Nguyên Thục thành thật trả lời, nó không muốn giấu diếm những cảm xúc, suy nghĩ của mình với Trịnh Khải. Nếu muốn anh hé lộ quá khứ cho nó thì trước hết nó phải chân thật với anh. Nghe Nguyên Thục thổ lộ, giọng buồn hẳn, Trịnh Khải cau mày, anh nắm lấy tay nó, xiết chặt. Nguyên Thục rất tinh tế, nó đã mơ hồ biết được những gì mà anh chưa thể nói ra chỉ qua ánh mắt, và sự tinh tế của nó làm anh xao động khi biết rằng những phức tạp trong lòng anh đều có tác động không nhỏ đến nó. Bằng sự yêu thương của mình, Nguyên Thục đã nhận ra những chuyển biến nhỏ nhất từ anh.

- Đừng suy nghĩ nhiều về ánh mắt ta như thế, ngày mai ta vẫn sẽ ở bên nàng, sau này vẫn sẽ ở bên nàng.

Trịnh Khải nói ngày mai vẫn sẽ ở bên nó, sau này vẫn sẽ ở bên nó, nó tin, nhưng liệu mọi chuyện có được suôn sẻ như thế hay không. Trái tim nó thốn lên, đau nhói khi nghĩ đến chuyện anh sẽ đến một nơi mà nó không thể đến được. Đâu phải Nguyên Thục không nghĩ đến chuyện này, mà là cố tránh nghĩ đến chuyện ấy nhiều chừng nào hay chừng đó. Thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, nó cũng đã được học trong sách sử rằng Tây Sơn ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, đánh đuổi quân Thanh. Nguyên Thục rùng mình, phò Lê diệt Trịnh, vậy Trịnh Khải của nó thì sao, người mà nó yêu thì sao. Nó biết rằng anh không thể từ bỏ trách nhiệm trên vai, biết rằng anh không thể từ bỏ hết mọi thứ để đến với nó, và nó cũng nhận ra mình chưa thể khiến anh đủ hạnh phúc để nhìn lại quá khứ mà không phải bận lòng. Anh sẽ sống chết vì cơ nghiệp của mình, anh sống chết cho lý tưởng, cho trách nhiệm của anh, nhưng còn nó thì sao? Nó đã chấp nhận ở lại quá khứ này vì anh, nó sẽ ra sao khi anh không còn, nó sẽ thế nào khi mùi trầm hương luôn làm nó ấm lòng không còn ở bên?

- Anh này, hứa với em một chuyện được không?

Nguyên Thục khe khẽ lên tiếng, giọng nghẹn lại vì xúc động. Nó nhìn anh đôi mắt long lanh, biểu hiện ấy khiến Trịnh Khải nhíu mày. Anh yên lặng, một lúc sau mới trả lời.

- Chuyện gì?

- Anh hứa đi, hứa rồi em mới nói.

Thấy Nguyên Thục khăng khăng đòi mình hứa với sự nghiêm túc, Trịnh Khải mỉm cười. Anh kéo Nguyên Thục đến gấn, đặt nó ngồi vào lòng, những ngón tay mảnh khảnh vuột nhẹ trên má nó và đáp nhẹ nhàng.

- Được! Ta hứa!

- Bằng cả trái tim nhé?

- Bằng cả trái tim.

Nghe Trịnh Khải hứa chắc chắn, Nguyên Thục an tâm. Nó vòng tay ôm lấy cổ anh, nhìn sâu vào mắt anh rồi chậm rãi nói từng lời.

- Sau này anh có đi đến nơi nào thì hãy dẫn em theo với nhé.

Yên lặng!

Trịnh Khải không trả lời.

Điều đó lại càng làm Nguyên Thục bất an.

- Anh đã hứa rồi, đúng không, vậy thì em muốn anh đi đến đâu cũng dẫn em theo, đâu cũng được, chỉ cần nơi đó có anh.

Những lời cuối cùng của Nguyên Thục gần giống một tiếng nấc, như chỉ chực chờ anh lắc đầu là những giọt nước mắt sẽ vỡ ra. Trong phút chốc, đôi mắt Trịnh Khải thẫm lại, thăm thẳm như vực sâu, và Nguyên Thục đang chơi vơi trong vực sâu khôn cùng đó. Nguyên Thục đã nói muốn anh đi đâu cũng dẫn nó theo, nhưng nếu anh đi đến một nơi nào đó rất xa mà không thể mang theo Nguyên Thục thì sẽ thế nào? Đối với anh, lời hứa rất quan trọng, tuyệt đối quan trọng, anh không thể hứa bừa để làm Nguyên Thục vui lòng, càng không thể nào trả lời qua quýt được. Anh không thể dẫn Nguyên Thục đi theo, anh không thể để Nguyên Thục cùng sa lầy chung với anh. Anh muốn nó được hạnh phúc, được vui vẻ, luôn giữ nụ cười tươi tắn rạng ngời trên môi và không bị cuốn vào thời thế đảo điên này.

Nếu Nguyên Thục không yêu anh mà yêu một người khác, thì có lẽ cuộc sống của Nguyên Thục sau này sẽ hạnh phúc và êm đềm hơn, có lẽ người đó sẽ bảo vệ, che chở cho Nguyên Thục nhiều hơn anh bây giờ. Nhưng nếu Nguyên Thục không đến với anh, không xuất hiện trước mặt anh, thì anh sao có thể cảm nhận được thế nào là bình yên, thế nào là hạnh phúc. Nếu Nguyên Thục đến với người con trai khác thì liệu anh có vui không, nếu Nguyên Thục không yêu anh mà lại yêu một người khác thì liệu anh có còn đủ bình tĩnh để suy nghĩ đến những chuyện khác không. Và nếu Nguyên Thục thành hôn với một người con trai khác, có những đứa con xinh xắn với người khác, thì liệu anh có thể thành tâm chúc phúc cho họ và cảm thấy hạnh phúc hay không?

Câu trả lời là không.

Tuy biết làm thế là không phải, tuy biết không thể để Nguyên Thục cùng chịu đựng những gì anh đang chịu đựng, nhưng anh càng không hề muốn để Nguyên Thục rời xa mình. Anh không muốn nó yêu một người con trai nào khác ngoài anh, anh muốn Nguyên Thục ở bên cạnh anh, dù ích kỷ nhưng hãy là mãi mãi, cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Anh mong rằng trước khi nhắm mắt, anh vẫn còn có thể nhìn thấy ánh mắt ấy, nụ cười ấy, đôi môi ấy, vòng tay ấy, Nguyên Thục sẽ cười với anh, sẽ ôm lấy anh và sẽ trao cho anh những nụ hôn ngọt ngào.

- Anh hãy hứa đi, hứa với em là sau này dù anh có đi bất cứ đâu, anh sẽ vẫn đưa em theo nhé! Nhé anh!

Lâu thật lâu vẫn không nghe Trịnh Khải trả lời, Nguyên Thục lo sợ, nó vội vàng hối thúc anh, giọng tha thiết như sợ anh sẽ từ chối. Xiết chặt vòng tay lại, Nguyên Thục nhìn anh chờ đợi, cái nhìn nửa lo lắng, nửa bất an, nửa tuyệt vọng, ánh mắt khiến Trịnh Khải mềm lòng. Anh không muốn Nguyên Thục đến với người con trai khác, anh muốn giữ Nguyên Thục cho riêng mình và anh muốn nó sẽ mãi mãi ở bên cạnh anh, yêu anh, quan tâm anh như bây giờ.

- Ta hứa!

Đó là một lời nói dối chân thật. Ngoại trừ cõi chết, anh luôn muốn mang Nguyên Thục đi bất cứ đâu, chỉ cần nơi đó có anh và nó, có một mái nhà tranh êm ấm, với những đứa con xinh xắn, tách biệt với thế gian, tách biệt với thời thế loạn lạc bên ngoài.

- Thật không! Thật thế không, anh đã hứa thì anh phải giữ lời đấy nhé!

Cuối cùng, sự chờ đợi của Nguyên Thục đã có kết quả, nghe câu trả lời của Trịnh Khải, tim Nguyên Thục như vỡ ra vì sung sướng. Có được lời hứa của anh, nó sẽ không còn sợ gì nữa cả, không còn lo lắng gì nữa cả. Nguyên Thục nhoẻn cười rạng rỡ, nó rúc vào lòng anh, vùi gương mặt đang đỏ bừng dưới lớp áo ấm áp phảng phất mùi trầm hương dịu dàng. Khoảng trống chơi vơi trong đôi mắt anh nó sẽ cố gắng lấp đầy, nó sẽ cố gắng tìm hiểu nhiều về anh, cùng anh chia sẻ hoạn nạn, buồn vui. Chuyện Thánh mẫu và Dương thái phi, nó sẽ tìm cách hàn gắn mối quan hệ giữa hai bên, nó sẽ còn phải phấn đấu thật nhiều để trở nên xứng đáng với anh. Hình như Trịnh Khải thích chơi cờ, trong khi nó siêu tệ hại về môn này, mà trong phủ người chơi cờ giỏi nhất lại là Ngọc Xuân. Đã vậy, nó sẽ gạt hết tự ái, mặc cảm để đến chỗ Ngọc Xuân tầm sư học đạo, rồi sau đó cùng chơi cờ với Trịnh Khải. Rồi còn cùng đẽo gỗ với anh nữa chứ và nhất là nó mong sao giấc mơ ngọt ngào đêm qua sẽ sớm trở thành hiện thực.

- Thục nhi, nàng muốn ta đi đâu cũng dẫn nàng đi theo phải không?

- Vâng! - Nguyên Thục bẻn lẽn trả lời.

- Vậy bây giờ ta muốn đến thăm một người, nàng có muốn đi không?

- Một người ư? Ai thế?

Nguyên Thục vội ngẩng đầu hỏi nhanh khi nghe Trịnh Khải nói. Nó nhìn anh, lòng thầm tự hỏi không biết người mà anh muốn thăm là ai, là nam hay là nữ. Là nam thì không sao nhưng là nữ, lại thêm còn trẻ thì nó chẳng thích chút nào. Nhìn ánh mắt nghi hoặc của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười, anh bẹo má nó, nói dịu dàng.

- Đó là Quận Đông!

110.

Từ phủ chúa băng qua cửa chính môn, Trịnh Khải dẫn Nguyên Thục đi theo hướng sông Nhĩ hà để đến quần thể kiến trúc dinh thự ngoài phủ gần mạn bờ sông. Lẽ ra cả hai có thể đi kiệu, võng hoặc dùng ngựa, nhưng Nguyên Thục không muốn, nó muốn được đi bộ để dạo mát và thưởng ngoạn cảnh đẹp bên ngoài hơn.

Trời chiều gió mát, dải lụa trên áo Nguyên Thục bay phấp phới, gió thổi làm những sợi tóc mai nó phơ phất, cài qua làn môi mềm. Đưa tay vén lấy những sợi tóc rối của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười khi má nó ửng hồng vì những ngón tay thon dài của anh chạm khẽ vào vành môi nó. Vừa đi, Nguyên Thục vừa tiếp tục kể cho anh nghe về quê hương Sài Gòn yêu dấu, mỗi khi anh ngạc nhiên vì những thuật ngữ lạ lùng mà chỉ nó mới có thể hiểu như điện thoại di động hay game, Nguyên Thục lại rất thích thú bởi những lúc này nét mặt của anh như một đứa bé con lần đầu khám phá thế giới bên ngoài.

Trên đường đi, Nguyên Thục đã tự hỏi không biết cái người tên Quận Đông mà Trịnh Khải nói là ai, cho đến khi nhìn thấy một dinh thự rộng lớn, bãi sân trước là hàng trăm con voi thì đến lượt Nguyên Thục phải ngạc nhiên. Trong khi nó còn đang mắt tròn mắt dẹt thì Trịnh Khải đã dẫn nó ra phía sau phủ. Cạnh nhà chứa voi, một người đàn ông trung niên, gương mặt phúc hậu đang đứng quan sát xem đội quản tượng cho voi ăn bỗng ngẩn người ra khi nhìn thấy Trịnh Khải xuất hiện. Trong phút chốc, đôi mắt của ông vụt trở nên lấp lánh, ông vội chùi hai bàn tay vào gấu quần bạc phếch, môi nở nụ cười hiền hậu khi Trịnh Khải tiến đến gần.

- Quản Phúc, hôm nay ta đến thăm ông đây!

Trịnh Khải mỉm cười khi nhận ra sự xúc động trên gương mặt phúc hậu ấy, anh giơ tay ra và người đàn ông- tức Quản Phúc liền nắm chặt lấy. Với đôi mắt yêu thương, Quản Phúc nhìn anh từ đầu đến chân, ông nói, cố giữ giọng trung dung nhưng Nguyên Thục tinh ý nhận ra giọng nói của ông không hơn một tiếng thì thào.

- Chúa công, sao hôm nay người lại quá bộ đến thăm già thế này.

- Quản Phúc, chẳng phải ta đã nói với ông rằng khi nào tìm được người con gái ta yêu, ta sẽ dẫn nàng ấy đến ra mắt ông sao.

Đứng bên cạnh Trịnh Khải, Nguyên Thục thẹn thùng mân mê vạt áo khi nghe những gì anh vừa nói. "Người con gái ta yêu", năm chữ ấy chẳng khác nào Nguyên Thục đang ngậm một viên kẹo mật ong ngọt ngào trong miệng. Quản Phúc "à" một tiếng, ông chùi đôi bàn tay thô kệch của mình vào quần năm sáu cái, thói quen mỗi khi bối rối điều gì. Đưa mắt ngắm nghía Nguyên Thục, Quản Phúc nhướng mày, tuy cô gái này không phải là một mỹ nhân nhưng lại toát ra sự chân thành mộc mạc, còn có sự năng động, tự tin không giống với những tiểu thư khép nép e lệ, quan trọng nhất đó là người chúa công yêu. Quản Phúc gật gù, ông mừng thầm vì cuối cùng chúa công đã tìm thấy người con gái mình yêu, chứ không trước sau một mình cô độc như ông vẫn thường hay lo lắng.

- Cháu chào chú ạ, cháu là Nguyên Thục, Thục trong từ thục nữ dịu dàng.

Nguyên Thục lễ phép chào Quản Phúc, đồng thời giới thiệu tên mình. Lời giới thiệu của nó không khác gì lúc nó và Trịnh Khải gặp nhau lần đầu tiên, khiến anh tủm tỉm cười. vội xua tay khi Nguyên Thục gật đầu chào, Quản Phúc cười toe, để lộ một chiếc răng trống ở hàm trên.

- Già không dám. Cuối cùng chúa công cũng đã có ý trung nhân, thế là mong ước của già đã thành hiện thực, già này có thể nhắm mắt mà chết rồi.

Quản phúc nói mà mắt rưng rưng. Trong phút chốc, đôi mắt của Trịnh Khải trở nên sâu thẳm. Anh nhìn người quản tượng trung thành tóc đã hai màu trước mặt mà lòng mơ hồ nhớ về tuổi thơ đã chôn vùi sâu trong ký ức. Bóng tối lướt qua trong đôi mắt rồi tan biến, Trịnh Khải mỉm cười, anh hỏi nhẹ

- Quận Đông đâu rồi, quản phúc!

Nghe Trịnh Khải nhắc tới Quận Đông, gương mặt Quản Phúc chợt bừng sáng. Ông đứng thẳng lưng, tay chùi nhanh vào quần rồi chỉ về phía sân sau, lắc đầu.

- Bẩm chúa công, Quận Đông đang ở nhà sau đó. Mấy ngày nay không biết Quận Đông bệnh gì mà không ăn không uống cũng không chịu động đậy, già này cũng hết cách. Có chúa công đến, già xem Quận Đông còn bướng đến khi nào.

Quản Phúc vừa nói vừa cười, nhưng Nguyên Thục lại chẳng thể mở miệng cười nổi. Chắc chắn cái người tên Quận Đông này là con gái, chỉ có con gái mới ưa hờn dỗi, nhõng nhẽo với người yêu như thế. Dẫu biết Trịnh Khải yêu nó, anh đã dẫn nó ra mắt Quản Phúc với tư cách là người yêu, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy tưng tức khi nghe tin cô nàng Quận Đông nhịn ăn nhịn uống chờ Trịnh Khải đến, cho nên nó theo sau anh mà bước chân như đeo đá vì không được vui.

Dường như không để ý đến tâm trạng của Nguyên Thục, Trịnh Khải có vẻ rất vui, bước chân ngày thường vốn ung dung của anh nay sải dài gấp gáp. Bước qua cánh cổng bằng sắt, Trịnh Khải đột ngột dừng lại, Nguyên Thục chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì đã giật mình khi nghe thấy một tiếng rống ồ ồ vang lên. Từ đằng xa, một con voi to lớn, hùng dũng chạy sầm sậm lại, bốn chân nặng nề của nó khiến Nguyên Thục tưởng rằng những viên đá lót sân đều nẩy bật lên và vỡ vụn. Trong khi Nguyên Thục hốt hoảng thì Trịnh Khải lại rất bình thản, anh không né tránh con vật hung hãn đang tiến về phía anh như vũ bão mà môi lại còn nở một nụ cười.

- Anh à, đứng đây nguy hiểm lắm, chúng ta mau đi thôi!!

Nhác thấy khoảng cách giữa con voi và cả hai ngày một gần, Nguyên Thục run giọng, nó nắm lấy tay Trịnh Khải kéo qua một bên, thế nhưng trước những cố gắng lôi kéo của nó, Trịnh Khải không hề nhúc nhích, anh chỉ đứng bình thản nhìn con voi to lớn ấy chạy huỳnh huỵch về phía mình, tà áo xanh phơ phất như một cách hạc bay ngang trời.

Chứng kiến sự ung dung điềm đạm đó ,Nguyên Thục vô cùng sửng sốt, trái tim nó đông lại khi con voi ngày càng tiến lại gần, sừng sững như một trái núi. Khi khoảng cách giữa hai người và con voi ngày một thu hẹp, đến nỗi từng sợi lông trắng trên người con voi in trong đôi mắt của nó, thì con voi đột ngột dừng lại, quỳ xuống, hai tai ve vẩy khiến Nguyên Thục ngây người ra vì không nghĩ con voi sẽ hành động như thế này.

Dường như không lạ với điều ấy, Trịnh Khải mỉm cười, anh đưa tay ve vuốt cái đầu trọc lóc của con voi to lớn, khuôn mặt hòa hoãn như gặp lại bạn thân lâu ngày. Quay sang Nguyên Thục đang đứng ngơ ngẩn, Trịnh Khải nhẹ nhàng

- Giới thiệu với nàng, đây là Quận Đông!!

- Quận Đông?

Nguyên Thục ú ớ hai tiếng! Nó tưởng Quận Đông là một cô nàng hóa ra cái tên mỹ miều ấy lại là một con voi. Nguyên thục xấu hổ, hai vành tai nó ửng đỏ, bẽn lẽn vì đã nghi oan cho Trịnh Khải. Thấy Nguyên Thục ngại ngần đưa mắt nhìn Quận Đông nằm phủ phục dưới chân, Trịnh Khải liền nắm lấy tay nó chạm lên đầu Quận Đông. Lần đầu tiên sờ voi, lại là một con voi lớn đến thế, làn da dày ram ráp khiến Nguyên Thục thích thú, nó hết vuốt ve đầu chú voi rồi lại sờ hai cái tai to hệt như chiếc quạt nan xinh xắn đang phe phẩy. Chú voi này thật đáng yêu.

- Thục nhi, nàng có muốn Quận Đông đưa đi dạo không?

- Có được không ạ?!

- Sao lại không được!!

Trong khi hai người còn đang nói chuyện thì Quản Phúc đã đặt xong một cái bành có lọng che lên lưng chú voi. Vỗ nhẹ vào đầu Quận Đông hai ba cái, Trịnh Khải mỉm cười khi đôi tai Quận Đông ve vẩy tỏ ý vui mừng. Khi anh và nó đã yên vị trên bành voi, Quận Đông lúc lắc cái đầu rồi từ từ đứng lên khiến chiếc bành lắc lư, làm Nguyên Thục vội vàng níu tay Trịnh Khải vì chưa cưỡi voi bao giờ.

Quản Phúc vội vàng tiến về phía trước để dẹp lối cho Quận Đông. Chú voi to lớn thong thả bước ra khỏi phủ và bắt đầu đi dọc bờ sông Nhĩ hà. Lần đầu tiên cưỡi coi, lại ngồi cùng với Trịnh Khải, đối với Nguyên Thục thật không còn gì hơn. Phóng mắt qua bên kia sông, gió từ bờ sông lồng lộng thổi, Nguyên Thục nhìn thấy cánh cò chao liện cùng những bãi nương dâu rập rờn sóng. Sự êm đềm ấy khiến Nguyên Thục khoan khoái, nó ngả đầu vào vai Trịnh Khải, mắt nhắm lại, tận hưởng cảm giác bình yên.

Cứ như thế, Quận Đông đưa Nguyên Thục và Trịnh Khải đi dọc một vòng bờ sông Nhĩ hà. Ngồi trên lưng voi, thăm những cảnh cũ đã lâu anh không đặt chân tới, đôi mắt Trịnh Khải chợt trở nên mơ hồ. Thời gian như trang sách đã được lật qua, không ai muốn coi lại những trang cũ khi trang mới còn chưa lật đến. Anh cũng thế, quá khứ bây giờ đã là ký ức, đối với anh chỉ có hiện tại, nhưng mỗi khi đi qua những khung cảnh xưa cũ, lòng anh vẫn mênh mang và anh biết rằng quá khứ vẫn luôn nằm đâu đó một góc trong anh, chưa bao giờ phai nhòa.

- Anh này, làm sao anh có được quận đông vậy?

Đang trầm tư, giọng nói trong trẻo của Nguyên Thục vang lên, đưa Trịnh Khải trở về hiện tại, anh nhìn Nguyên Thục, bóng anh lung linh trong đôi mắt nó, sáng lấp lánh. Vuốt suối tóc mượt của Nguyên Thục đổ dài trên vai, Trịnh Khải đáp lời

- Năm ta lên mười tuổi, có một lần ta đến phủ ngoài bờ sông Nhĩ hà chơi, khi ấy ta đã gặp Quận Đông.

Ngày Trịnh Khải gặp quận đông là một ngày mưa phùn, bầu trời u ám. Khi đó, cậu bé mười tuổi Trịnh Khải đã nghe các cung nữ bàn tán về chuyện mẫu thân cậu không được Thịnh vương sủng ái như Tuyên phi nên cậu bị bỏ lơ. Nghe được những lời ấy, dù đã biết trước nhưng cậu vẫn cảm thấy buồn. Cậu biết mình không được phụ thân yêu, cậu biết những giọt nước mắt mẹ rơi là vì phụ thân cậu và cậu biết dù có cố gắng đến mức nào đi chăng nữa, phụ thân cũng không thương yêu cậu nhưng cậu vẫn hàng mong.

Đáng lo đảng ác!

Đáng sợ nịnh thần!

Thanh lọc triều chính

Dùng người đức nhân

Mệnh trời dằng dặc

Cơ đồ vạn xuân!(*)

Với tâm trạng không được vui, cậu đã lén rời khỏi phủ chúa ra ngoài dạo chơi. Phố phường đông vui làm cậu lạ lẫm, sự náo nhiệt làm cậu hứng thú, cậu mải miết đi và chỉ dừng chân lại khi thấy một tòa phủ lộng lẫy với hàng trăm con voi đang được những người quản tượng tắm ở bến sông. Tròn mắt nhìn những chú voi to lớn đùa nghịch dưới nước, cậu đi một vòng nhìn ngắm và rồi bắt gặp một người đàn ông đang ra sức lôi kéo một chú voi ra bến sông. Có vẻ như chú voi này không thích tắm, nên dù người đàn ông hết dọa nạt rồi ngon ngọt dụ dỗ bằng cây mía trong tay, nhưng chú voi vẫn nằm ì dưới đất không chịu đứng lên.

Chứng kiến cảnh tượng người đàn ông nhăn nhó năn nỉ chú voi đến ráo cả nước bọt, Trịnh Khải không nhịn được liền bật cười. Đang bực tức vì xoay đủ mọi cách mà vẫn không khiến chú voi làm theo lời mình, người đàn ông vô cùng bực tức khi nghe thấy tiếng cười trẻ con vọng vào tai. Quắc mắt nhìn quanh xem ai dám cả gan cười nhạo mình, gương mặt đang đỏ bừng vì giận dữ của người đàn ông liền dịu lại khi thấy một cậu bé con ăn vận sang trọng, gương mặt bầu bĩnh đáng yêu đang đứng phía sau. Nhướng đôi mày cụt ngủn lên, người đàn ông hỏi, để lộ ra một chiếc răng trống ở hàm trên.

- Nhóc con, ngươi cười gì?

- Tôi cười ông!

- Sao cười ta?

- Vì không phải ông bắt con voi đó làm theo ý mình mà là con voi đó đang bắt ông làm theo ý nó.

Trịnh Khải vừa nói vừa cười. Câu trả lời của cậu làm người đàn ông ngẩn ra, rồi chuyển sang lúng túng vì cậu nói đúng. Thật ra nếu có thể, ông đã cho con voi này nếm mùi roi vọt theo khuôn phép như những con khác trong phủ, thế nhưng ngặt nỗi đây là con voi mà Thịnh vương thích nhất. Con voi này là voi trắng, đôi mắt lại long lanh có thần, nổi tiếng bướng bỉnh không chịu thuần phục một ai thế nên Thịnh vương rất quý và cho đó là giống loài hợp với vương tướng vì không để ai khuất phục, khiến ông luôn phải chật vật vì không biết phải làm sao để khiến chú voi này nghe theo lời mình.

Chùi đôi tay vào lưng quần bạc phếch, người đàn ông lúng túng

- Thế ngươi bảo giờ phải làm sao mới khiến nó nghe theo ta đây?

Trịnh Khải mỉm cười, cậu lướt mắt lên chú voi đang nằm phục dưới đất như một hòn đá tảng, rồi nháy mắt

- Muốn nó nghe theo lời ông, thì trước hết, ông phải coi nó là con người chứ không phải là con vật.

Trịnh Khải vừa nói vừa ngồi xuống đối diện với chú voi, đưa tay vuốt ve đầu chú, cậu nhìn chú voi với ánh mắt dịu dàng.

- Voi ơi voi ơi, bây giờ ta đi tắm đây, ngươi có muốn tắm cùng với ta không?

Trịnh Khải nói, thật chậm rãi, đồng thời tay không ngừng vuốt đầu chú voi. Dường như con vật có linh tính, thế nên khi nghe Trịnh Khải nói cũng như cảm nhận được sự dịu dàng thân thiện của cậu, hai cái tai to đang rũ ra bất động của chú voi liền ve vẩy, rồi từ từ đứng lên trước sự kinh ngạc của người đàn ông đứng phía sau.

Dẫn chú voi ra bờ sông, Trịnh Khải cầm chiếc gáo dừa múc những gáo nước trong lành đổ lên người chú. Chiếc vòi của chú voi cong lên, chú cuối xuống bờ sông, hút nước và phun tun tóe lên người Trịnh Khải khiến cậu bật cười.

Đó là ngày đầu tiên Trịnh Khải gặp được Quận Đông, ấy thế mà chớp mắt mười năm đã qua đi, bài châm "Tri nhân" vẫn còn trong tâm trí nhưng để thực hiện được điều đó lại rất khó khăn khi nạn kiêu binh vẫn còn, con thuyền vương triều anh đang lái lại đứng trước bão giông. Năm tháng qua đi, thời gian thay đổi và anh biết mình cũng đã thay đổi, nhưng cho dù anh thay đổi đến mức nào thì Quận Đông vẫn nhận ra anh, vẫn vui mừng với anh và vẫn chở anh đi một vòng bờ sông Nhĩ hà, dù đó là ngày nắng hay mưa...

Đáng lo đảng ác!

Đáng sợ nịnh thần!

Thanh lọc triều chính

Dùng người đức nhân...

oOo

Nguyên Thục vừa đi vừa nhảy chân sáo, trong khi những lúc Nguyên Thiên làm thế, Nguyên Thục đã rầy la em mình vì cái tội con gái mà đi đứng không nên thân. Không để ý đến những ánh mắt và nụ cười tủm tỉm của các nàng cung nữ, trên đường trở về cung, Nguyên Thục vừa ve vẩy cành hoa dại Trịnh Khải tặng cho vừa khe khẽ hát hết sức yêu đời. Hôm nay nó rất vui, vui vì Trịnh Khải đã đưa nó đi chơi, vui vì anh đã giới thiệu nó với Quản Phúc, vui vì đã cùng anh cưỡi Quận Đông, vui vì anh đã ân cần chăm sóc nó và vui vì hôm nay anh đã cười rất nhiều. Nguyên Thục mong sao từ nay về sau, ngày nào anh cũng vui vẻ như thế, ngày nào anh cũng quan tâm tới nó như thế, chỉ thế thôi là nó đã hạnh phúc lắm rồi.

Đêm dần buông, Tiệp cung rực rỡ ánh lồng đèn đủ màu sắc do chính tay Nguyên Thục trang trí. Trước khi trở về ngự lâu, Trịnh Khải đã hứa với Nguyên Thục rằng tối nay sẽ đến dùng cơm với nó sau khi phê duyệt xong tấu chương. Hôm nay là một ngày vui, cho nên tối nay cũng đặc biệt hơn một chút, do thế Nguyên Thục mới cất công trang hoàng Tiệp cung thật rực rỡ để kỷ niệm ngày hạnh phúc hôm nay.

Theo lời nhờ của Nguyên Thục, A Đào và A Vân ra hồ để lựa chọn những búp sen đẹp nhất cắm vào bình. Còn một mình trong phòng, Nguyên Thục bày biện các đĩa thức ăn ra bàn sao cho đẹp mắt. Dù không phải những món sơn hào hải vị mà chỉ là đậu hũ kho sốt cà, cá chiên, rau muống luộc và một to canh rau dền thật to, nhưng những món ăn dân dã Nguyên Thục đã soạn ra và nấu nướng lại cung cấp rất nhiều chất dinh dưỡng bồi bổ cho Trịnh Khải. Tuy tay nghề nấu ăn không ngon như Bách Nhật, nhưng bản thân Nguyên Thục biết mình cũng nêm nếm được chứ không đến nỗi nào.

Đang khe khẽ hát, Nguyên Thục mừng rỡ quay đầu lại khi nghe có tiếng y phục loạt xoạt ở phía sau. Miệng nở nụ cười tươi tắn vì cho rằng Trịnh Khải đã đến, nhưng rất nhanh sau đó, nụ cười ấy đã tắt ngóm trên môi khi xuát hiện trước mặt nó là một cô gái mặc áo xanh. Vừa nhìn thấy cô gái ấy, Nguyên Thục tái mặt và lùi về phía sau mấy bước. Dù vết sẹo đã lành hẳn, nhưng Nguyên Thục vẫn còn nhớ như in cái ngày kinh hoàng ấy, ngày mà nó đột nhiên bị một cô gái trong đoàn ca múa tấn công xém chút đã mất mạng mà không hiểu tại sao.

Và bây giờ cô gái ấy đang ở trước mặt nó.

- Tiệp dư, chúng em đã hái hoa xong rồi đây, người xem có đẹp không?!

A Đào hớn hở ôm một bó sen hồng còn vương những giọt nước long lanh trong tay bước vào Tiệp cung. Đột ngột, bó sen trong tay cô rơi xuống, đôi mắt cô mở to khi nhìn thấy chiếc bình hoa vỡ tung tóe trên sàn nhà, còn Hồ tiệp dư thì đã biến mất không chút vết tích nào.

--------------------------

Chú thích.

(*)Bài châm "tri nhân"( biết người). Ngay từ bập bẹ tập nói, các hoàng tử, vương tử, vương tôn đã được quan A bảo dạy cho thuộc lòng bài châm "Tri nhân"

111.

Trong tòa ngự lâu thanh vắng, Trịnh Khải đang chăm chú phê duyệt tấu chương bên ánh đèn tịch mịch. Đồng hồ nhỏ giọt tí tách, cây bút lông trên tay anh không ngừng lay động do phải tìm cách giải quyết thiên tai khiến đân mất mùa đói kém, đồng thời tiễu trừ những thế lực nổi loạn đang hoành hành ở các miền núi cao. Khi đang phê duyệt tờ tấu chương cuối cùng của Bùi Văn Bích, những bước chân gấp gáp của ai đó vang lên trên hành lang khiến Trịnh Khải nhíu mày. Gác chiếc bút lông thẫm mực lên giá, Trịnh Khải thong thả đứng dậy, anh mở cửa bước ra ngoài, tiếng xì xào im bặt, chỉ còn lại gương mặt hốt hoảng của A Đào khiến Trịnh Khải ngạc nhiên. Lát nữa thôi là anh sẽ đến Tiệp cung, A Đào có chuyện gì gấp gáp mà phải tới tận đây?

- Chúa công.... chúa công... Tiệp dư.... Tiệp dư...

Do quá hoảng loạn, A Đào cứ lắp bắp mãi không tròn câu. Không để cho cô kịp nói hết, Trịnh Khải liền nhằm hướng Tiệp cung thẳng tiến, bỏ mặc viên công công hối hả chạy theo sau với chiếc áo khoác màu lục trong tay. Vẫn đăm đăm nhìn về phía trước, Trịnh Khải vừa đi vừa hỏi nhanh.

- Thục nhi thế nào?

- Bẩm... bẩm chúa công, ban nãy nô tì cùng A Vân đi hái sen, đến khi quay trở về cung thì Tiệp dư đã biến mất, chiếc bình hoa trong phòng thì vỡ tan tành dưới đất, nô tì sợ....

A Đào ngập ngừng bứt rứt, gương mặt thanh tú của Trịnh Khải liền hiện vẻ lo lắng, với những bước chân sải dài,Tiệp cung nhanh chóng hiện ra trong tầm mắt anh. Bước qua ngưỡng cửa, Trịnh Khải cau mày khi A Vân đang đứng khúm núm trong phòng, mặt hoa thất thần vì vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Rảo mắt nhìn quanh, Trịnh Khải nhận thấy đồ đạc trong phòng không bị xê dịch, chỉ có những mảnh gốm vỡ tung tóe dưới sàn còn Nguyên Thục đã biết mất từ bao giờ.

Trong phút chốc, đôi mắt sâu hun hút của Trịnh Khải thẫm lại, phủ đầy bóng tối. Anh đi khắp Tiệp cung, vạch từng tấm màn, hỏi từng cung nữ, nhìn từng ngõ ngách để xem Nguyên Thục có chơi trò trốn tìm với anh không. Nhưng không, anh đã tìm khắp nơi vẫn không thấy, Nguyên Thục đã biến mất, không vết tích, hệt như chưa từng tồn tại trên cõi đời này.

Không có Nguyên Thục, ở đây không có Nguyên Thục... Trong khoảnh khắc, trái tim Trịnh Khải như ngừng đập, không khí chợt trở nên ngột ngạt, hơi thở của anh trở nên khó khăn. Trịnh Khải vịn tay vào thành ghế, một cơn choáng kéo ngang, những giọt mồ hôi chậm chạp lăn trên vầng trán. Đưa tay bóp nhẹ hai vầng thái dương trở nhức, Trịnh Khải bỗng cảm thấy mệt mỏi, vô cùng mệt mỏi, trên vai anh là một sức nặng vô hình đè xuống và chưa bao giờ anh cảm thấy mình bất lực như thế này.

Từ trước tới nay, Trịnh Khải chưa bao giờ suy nghĩ về việc anh đang sống như thế nào, anh chưa bao giờ để ý đến việc sống một mình sẽ ra sao mà luôn đi theo lịch trình đã vạch sẵn: sáng thiết triều, trưa phê duyệt tấu chương và tối đọc sách cho đến hết ngày. Nhưng kể từ khi Nguyên Thục xuất hiện, từng chút một, cô gái ấy đã ảnh hưởng đến cuộc sống tiêng tư của anh, đã bước chân vào cuộc đời anh, và mặc nhiên, anh đã suy nghĩ rằng Nguyên Thục ở bên cạnh anh là lẽ đương nhiên, không ai có thể thay đổi. Anh chấp nhận điều đó, an tâm về ý niệm đó, yên lòng về suy nghĩ chỉ cần mở mắt ra là nhìn thấy nụ cười tươi tắn của Nguyên Thục kề bên...

Giống như mỗi sáng khi tỉnh dậy, ta đều thấy ánh nắng ấm áp trên cao, còn bây giờ khi thức dậy, ta chỉ thấy một màn đêm thăm thăm, Trịnh Khải bây giờ cũng thế, anh đang cảm thấy mất phương hướng. Mỗi ngày đều nhìn thấy nụ cười ấy, bóng dáng ấy đã thành một thói quen để bây giờ cái ý nghĩ Nguyên Thục đã tan biến làm anh lúng túng, rối loạn khi không biết phải làm gì

- Chúa công, người không sao chứ! Chúa công?

A Đào vội đỡ lấy tay Trịnh Khải, nhưng anh đã gạt ra trong vô thức, điều ấy khiến cô e ngại, đôi mắt đỏ hoe như sắp khóc. Vào phủ từ năm mười tuổi, chưa bao giờ A Đào nhìn thấy chúa công mất bình tĩnh như thế. Khi phủ chúa dậy sóng, khi thế thời biến động, nhưng chúa công vẫn luôn điềm tĩnh, chẳng chút rối loạn và xử lý mọi việc đâu vào đó một cách gọn gàng. Bây giờ, khi nghe tin Tiệp dư biến mất, thần sắc của chúa công đã thay đổi, ánh mắt sâu thẳm kia bỗng trở nên lạc lõng, vô định,chiếc bóng cô độc đổ dài xuống đất, chông chênh, khiến cô cảm thấy bất an và đau lòng.

Ngồi yên lặng trên ghế, Trịnh Khải nhắm mắt, đôi mày kiếm hằn sâu trên gương mặt thanh tú như một vết cắt, khi anh mở mắt, cả thế giới như chao ngiêng. Chợt, Trịnh Khải hơi nghiêng người về phía trước, anh phát hiện ngoài mùi hương hoa sen của Nguyên Thục còn xen lẫn một mùi hương khác. Mùi hương vừa ngọt ngào vừa thanh thoát đó lẩn khuất quanh phòng khiến giác quan của anh được đánh thức. Mùi hương rất quen, nhưng anh nhất thời không nhớ ra được mùi hương ấy là của ai. Trịnh Khải nhíu mày, anh bóp trán, anh phải bình tĩnh lại, phải thôi không hoang mang nữa để có thể tập trung vào ký ức, tìm ra được người sở hữu mùi hương này

Hoàng Thanh Loan...

Trong khoảnh khắc, ba chữ " Hoàng Thanh Loan" bật ra khỏi tâm trí Trịnh Khải, trái tim anh dao động khi ba từ xa xôi ấy bỗng nhiên nhắc đến. Chuyện cũ đã qua, nhưng xem ra người xưa vẫn còn nhớ đến. Tại bữa tiệc của thánh mẫu, cô gái ấy đã gây ra lộn xộn khiến Nguyên Thục phải khổ sở, bây giờ thêm một lần nữa, cô gái ấy can thiệp vào cuộc sống của anh, mang Nguyên Thục đi mất, và lần này thì anh không thể bỏ qua.

Biết được nguyên nhân vì sao Nguyên Thục lại biến mất, Trịnh Khải thở nhẹ, sự hoang mang trong lòng dần tan và anh dần bình tâm trở lại. Dù lo lắng cô gái ấy sẽ đổ những ân oán riêng tư giữa hai người lên Nguyên Thục, nhưng ít ra anh cũng đã tìm được phương hướng và cách giải quyết, nhất là khi cô gái ấy chỉ muốn lợi dụng Nguyên Thục để anh phải tìm đến Huyết ly cung.

Huyết ly cung...

Trịnh Khải nhắm mắt, một vệt mờ kéo qua tâm trí anh rồi nhanh chóng tan biến khi anh mở mắt ra. Muốn đến Huyết ly cung, anh phải nhanh chóng giải quyết hết những tấu chương cho hai ngày tới, ổn định việc triều chính. Quay sang A Đào đang đứng khép nép kế bên, trịnh khải mỉm cười, nhưng ánh mắt lại quá đỗi mênh mông.

- A Đào, cô mau dọn dẹp những mảnh vỡ trong phòng, chuyện Thục nhi mất tích đừng để người khác biết. Ta sẽ sớm đưa cô ấy quay trở về.

oOo

Nguyên Thục mở bừng mắt...

Đập vào mắt nó là chiếc lồng đèn đỏ đung đưa treo trên xà nhà, một cơn đau nhói ở cổ khiến Nguyên Thục nhăn nhó. Vừa đưa tay xoa gáy, Nguyên Thục vừa chống tay ngồi dậy. Rảo mắt nhìn quanh, đôi đồng tử của Nguyên Thục nở to ra khi phát hiện mình đang nằm trong một căn phòng lộng lẫy, khắp nơi đều trang hoàng một màu đỏ. Chiếc gường nó đang nằm màu đỏ, bộ bàn ghế màu đỏ, ấm tách màu đỏ, tấm mành trúc ngăn với phòng khách màu đỏ và ngay cả cánh cửa sổ đóng im ỉm cũng màu đỏ, thế nhưng điều đó không làm nó ngạc nhiên bằng việc ngửi thấy một mùi hương nhẹ nhàng quen thuộc lãng đãng trong phòng.

Đó là mùi trầm hương...

Mùi trầm hương dịu dàng quyến luyến mà nó yêu vô cùng vương trên áo Trịnh Khải, trong khi đây không phải là Tiệp cung, vậy tại sao mùi trầm hương ấy lại lẩn khuất quanh đây. Nguyên thục cau mày, nó vội nhảy xuống giường, thân người loạng choạng vì dư âm của cơn đau vẫn còn ảnh hưởng tới thần trí. Tấm rèm đỏ... cô gái áo đỏ... Nguyên Thục buột miệng kêu lên. Cách đây mấy phút, nó còn đang ở trong Tiệp cung bận bịu chuẩn bị bữa ăn, thế rồi đột ngột, cô gái áo đỏ đã gây ra náo loạn hôm sinh thần thánh mẫu bỗng nhiên xuất hiện. Không để Nguyên Thục kịp kêu cứu, cô gái áo đỏ đã lướt tới, kế đó tỉnh lại thì nó đã thấy mình nằm chơ vơ ở căn phòng sang trọng, lạ lẫm này.

Trong căn phòng nhung gấm màu đỏ, Nguyên Thục vô cùng nhức mắt, nó vội vã lại gần cửa sổ, mở toan và tức thì ngẩn người ra. Biển. Mặt biển xanh thăm thẳm như đôi mắt Trịnh Khải đang rì rào, gió từ mặt biển thổi vào lồng lộng, lạnh buốt khiến Nguyên Thục rùn mình. Phóng tầm mắt nhìn biển khơi mênh mông, Nguyên Thục bàng hoàng khi nhận ra rằng đây là một hòn đảo, chỗ nó đang đứng là sát mép vực, sóng biển tung trào trắng xóa phía dưới. Nguyên Thục chóng mặt, nó chầm chậm khép cửa lại, lòng vô cùng hoang mang. Đây là đâu? Tại sao cô gái áo đỏ lại đưa nó tới đây? Nó phải làm sao mới có thể thoát khỏi căn phòng này khi bốn bề là biển khơi?

Nguyên Thục bần thần, sự bối rối khiến đôi mắt nó dần đỏ hoe. Không được! Không được khóc! Không được hoảng loạn, bây giờ nó cần phải bình tĩnh, thật bình tĩnh để tìm ra cách thoát khỏi đây. Đến Tiệp cung mà không thấy nó, Trịnh Khải chắc chắn sẽ rất sốt ruột, cho nên nó phải nhanh chóng quay trở về để anh không phải lo lắng gì nhiều

- Cô đã tỉnh rồi sao?

Đang tự trấn an tinh thần, Nguyên Thục quay phắt người lại khi một giọng nói thanh tao từ phía sau bất chơt vang lên. Một bóng hình yểu điệu đứng trước ngưỡng cửa, đôi mắt đen lấp lánh nhìn ra mảnh trời xanh bao la qua cánh cửa sổ đang khép hờ. Đó là một nàng thiếu nữ xinh đẹp, gương mặt phù dung nhuộm vẻ u sầu, chiếc áo lụa màu đỏ phơ phất tựa một cánh bướm lửa. Dù đây là lần đầu tiên Nguyên Thục gặp cô gái, nhưng nó vẫn chưa quên làn thu ba rực sát khí lúc lưỡi dao lạnh lùng kề sát má nó. Là cô ta, cô gái đã gây náo loạn tại bữa tiệc, và là người đã làm Nguyên Thục phải một phen hoảng hồn

Không đế ý đến sắc mặt thay đổi của Nguyên Thục, cô gái áo đỏ bình thản tiến gần chiếc giường, nơi mùi trầm hương dịu dàng phảng phất. Ngồi xuống giường, cô gái áo đỏ vừa vuốt ve chiếc chăn thêu đôi chim loan phụng đang quấn quýt với nhau, vừa hỏi Nguyên Thục, giọng vu vơ

- Mùi trầm hương này có giống với người đó không?

Lợi dụng lúc cô gái áo đỏ quay lưng về phía mình, Nguyên Thục nhìn quanh quất để tìm chỗ trốn thoát, nhưng án ngữ ngay cửa là bốn tên hộ vệ thân hình lực lưỡng khiến nó thất vọng, thế nên trước câu hỏi của cô gái áo đỏ, Nguyên Thục lơ đãng trả lời.

- Ai?

- Người đó? Người duy nhất có mùi trầm hương này.

- Cô muốn nói đến...

- Có giống không?

Vẫn những lời nhẹ nhàng, cô gái áo đỏ mải miết vuốt ve từng đường chỉ thêu trên đôi loan phụng. Đứng chôn chân phía sau, Nguyên Thục vẫn còn chưa hết ngẩn ngơ về những gì mới nghe được. Người duy nhất có mùi trầm hương dịu dàng chẳng phải là Trịnh Khải hay sao, cô gái áo đỏ này là ai, có mối quan hệ gì với anh mà sao chất giọng lại trìu mến khi nhắc đến anh như thế.

Nguyên Thục cau mày, lần trước cô gái áo đỏ này đã đột nhập phủ chúa hành thích nó, lần này thì lại bắt nó về đây, rốt cuộc cô ta muốn gì. Mới nghĩ đến đó, lại thêm mùi hương phảng phất trong phòng giống mùi trầm hương từ ống tay áo của Trịnh Khải khiến nó cảm thấy bức bối. Chắc chắn quan hệ giữa cô gái này với anh không đơn giản, anh lại không bao giờ nhắc đến chuyện xưa với nó, phải chăng cô gái này cũng là một trong những chuyện xưa mà anh không bao giờ muốn nói ra.

- Không! Không hề giống chút nào!

Nguyên Thục đáp, giọng lạnh lùng. Sự phủ nhận của nó khiến bờ vai thon mảnh bất động ấy thoáng run nhẹ. Trong khi Nguyên Thục tưởng đối phương sẽ nổi giận thì cô gái áo đỏ chậm rãi đứng lên và quay người đối diện với nó, nét mặt u sầu phảng phất sát khí khiến Nguyên Thục bất giác lùi về phía sau mấy bước. Cô gái này có làn da trắng toát, đôi môi đỏ tươi như máu, mái tóc dài đen nhánh, trông chẳng khác nào một bóng ma.

- Tại sao lại không giống?

Cô gái áo đỏ mấp máy môi, ánh mắt giá lạnh nhìn xoáy vào Nguyên Thục như một mũi dao. Cố trấn tĩnh lại trái tim đang đập thình thịch trong lồng ngực, Nguyên Thục hít một hơi thật sâu, nó ngẩng cao đầu, đáp rành rọt

- Vì mùi trầm hương từ anh ấy rất dịu dàng, tựa có mà tựa không, còn mùi hương này ngửi thoáng qua thì rất giống, nhưng nó lại gắt hơn và nồng hơn!

Nguyên Thục đáp với giọng tự tin, câu trả lời của nó khiến đôi mắt cô gái áo đỏ như có ánh lửa bùng cháy, cô nhìn Nguyên Thục đăm đăm không chớp mắt, lâu thật lâu rồi mới buông lời

- Trên người cô cũng có mùi hương này.

Nguyên Thục ngẩn người ra, một chút thẹn thùng phớt hồng trên đôi má, nó chưa kịp nói gì thì cô gái áo đỏ lại tiếp lời

- Thế nên ta rất muốn biết người ấy sẽ vì cô như thế nào.

- Sao?

Nguyên Thục buột miệng hỏi lại, trong đầu nó đã lờ mờ đoán ra được nguyên nhân vì sao nó lại bị bắt tới đây. Nó không phải là mục tiêu của cô gái, ngược lại, người mà cô ta muốn nhắm tới có thể chính là Trịnh Khải. Trong khi còn chưa biết cô gái này có ý đồ gì, tốt hay xấu, thì bằng mọi cách nó nhất định phải thoát khỏi nơi này và trở về trước khi Trịnh Khải đến đây. Dường như biết được tính toán của nó, vành môi đỏ tươi của cô gái vẽ thành một nụ cười nửa miệng, cô ung dung rời khỏi phòng, tà áo bay phơ phất, vọng lại là giọng nói thanh tao khiến Nguyên Thục giật mình

- Đừng nghĩ đến chuyện thoát khỏi đây! Trước khi người ấy đến, ta hứa sẽ không làm gì hại đến cô!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: