Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

su ra doi of Dang

Chương I

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam

I. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

1. Tình hình thế giới

Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai

đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa).

Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó

chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia

phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản

phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư

bản của các nước đế quốc. Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức,

Mỹ, Nhật chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu

người (so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu). Riêng

diện tích các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện

tích nước Pháp là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người)

Chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận

tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho quan hệ xã hội của

các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản. Các nước thuộc địa bị lôi cuốn vào con

đường tư bản thực dân. Sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng

thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của

nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Và chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược,

thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và

phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh

dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế

giới chịu tác động sâu sắc của chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc

thực dân.

Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc châu á cùng với

phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ Cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành

một cao trào thức tỉnh của các dân tộc phương Đông. Hàng trăm triệu người hướng về

một cuộc sống mới với ánh sáng tự do.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đối với nước Nga, đó là

cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó

còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng "nước Nga là

nhà tù của các dân tộc". Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công, các dân tộc

thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, kể

cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra

đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922). Cách mạng Tháng Mười

đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã "mở ra trước mắt họ thời

đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc" Nó làm cho phong trào

cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng

dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc

đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng

sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc

địa của V.I. Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng đấu

tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga

và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều đảng cộng sản trên thế giới đã được thành lập.

Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.

2. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam

Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858

thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được

nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai

thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu

thụ hàng hóa.

Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ

nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình

khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ

nhanh.

Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt

Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị

mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du

nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì

quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong

kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên

chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong

vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp

nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ

toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ,

công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều

thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm

các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách

chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và

nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc

Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc,

Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các

dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.

Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti,

vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt

động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và

ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành

chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình

hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.

Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân

được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn

bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do

chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị

phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị

phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước

chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên

một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu

thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và

bọn phản động tay sai.

Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ

và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực dân

chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho

vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa

không lối thoát. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn

điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Còn số đông vẫn

phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề ngay trên mảnh đất

mà trước đây là sở hữu của chính họ.

Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và

phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu

cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là

bức thiết nhất. Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực

lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ

chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ

quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé.

Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị

tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều,

thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.

Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:

Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu

những công trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn

hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tô. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn

liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.

Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản

loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả

tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam,

nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển

được. Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước,

có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần

chống đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng

không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ

thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa

những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa

vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần

yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên rất

hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc,

dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những giá

trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông đã thức

tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đông đảo và đóng một vai

trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Giai cấp tiểu

tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của

dân tộc.

Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của

Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công

nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở

công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta.

Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đã

hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển

nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), trong

đó có hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than), và 81.200 công nhân đồn

điền.

Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số

dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các

trung tâm công nghiệp và các đồn điền.

Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân

quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức

bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần

cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công

nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị

phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền

thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu

được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để

bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.

Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho

phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách

mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và

khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc

cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức

lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học

thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân trở thành

người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông

Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về

kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo

dục, chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự khai

hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá" đó chính

là sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Hồ Chí Minh

từng nói về "nhà khai hoá" như sau: "Khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta

có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất" Và nếu dân bản xứ

không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hoá "điều quân đội, súng liên

thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ

tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy!"

Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa.

Mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành thuộc địa

thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt

trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó.

Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những

mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân

tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột

càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong

của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình

thức. Trái lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ

dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh

đã vạch rõ vấn đề này từ năm 1924 rằng: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống

như ở phương Tây... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó,

không thể chối cãi được"3.

II. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

1. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư

sản

Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước

ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân

Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần

Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết

phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc

không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu

Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát

triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của

Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-

1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra

cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm

1913.

Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong

kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.

Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu

là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình

quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông

Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không

thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng

lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập

hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc,

nhưng rồi cũng không thành công.

Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng

cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp,

làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt

Nam. ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và

phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có

cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào

đấu tranh chống thuế (1908).

Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,

cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể

tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của

dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế

lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam

đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ

thể với những hình thức khác nhau.

- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ

lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc

quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực

dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.

Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư

sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo

quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền

lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.

- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư

sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa

đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà

xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng

thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê

(Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị

gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để

tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng

với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận

động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên,

càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị

phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như

Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu

biểu là Phục Việt, Hưng Nam).

- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và

hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam

Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó

Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt

Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam

trong quân đội Pháp.

Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của

Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc,

xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường

lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng

các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức

thống nhất.

Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm

mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào

yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị

động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu

cuối cùng với tư tưởng "không thành công cũng thành nhân".

Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với

cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. ở một số địa phương như Thái Bình,

Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.

Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân

Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn

chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô

vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong

trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.

Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt

Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình

thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp

tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu

cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải

phóng dân tộc.

Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư

sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho

chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là

lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới,

một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của

nhân dân Việt Nam.

2. Nguyễn ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và sự phát triển

phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí

tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911 Nguyễn ái Quốc đã lên đường sang các

nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự

do, xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp đồng bào cởi ách xiềng xích nô lệ.

Với tên gọi Văn Ba, Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước

tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Anh. Người nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn

cách mạng đã có trên thế giới như cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, đồng thời tham gia

lao động và đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ

các màu da. Người nhận thấy các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp "chưa đến nơi" vì

quần chúng nhân dân vẫn đói khổ.

Vào cuối năm 1917, giữa lúc Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Người trở

lại nước Pháp. Tại đây, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp,

tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt

Nam hồn để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp. Trong những ngày hoạt động cách

mạng sôi nổi đó, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động

toàn cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng đến ánh sáng của Cách

mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị

Vécxay (1919) để phân chia quyền lợi. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống

ở Pháp, Người lấy tên là Nguyễn ái Quốc đưa đến Hội nghị này bản yêu sách đòi các

quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách đó không được

Hội nghị Vécxay chú ý đến, nhưng được báo chí tiến bộ Pháp công bố rộng rãi và gây

ảnh hưởng chính trị vang dội. Đó là đòn tiến công trực diện đầu tiên của Nguyễn ái

Quốc vào bọn trùm đế quốc. Kết luận quan trọng mà Nguyễn ái Quốc rút ra là: Những

lời tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc bị áp bức

muốn được độc lập tự do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình,

phải tự mình giải phóng cho mình.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát

triển mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản do Lênin đứng đầu thành lập (1919) và tuyên bố kiên

quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Tháng 7-1920,

Nguyễn ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và

vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết

mà Nguyễn ái Quốc đang ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Sau này

Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin

tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói

to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ!

Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!".

Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba"

Cuộc hành trình dài ngày, qua nhiều đại dương và lục địa là một cuộc khảo sát vô

cùng phong phú, đã đem lại cho Nguyễn ái Quốc một tình cảm cách mạng sâu sắc, một

vốn tri thức lớn, làm cơ sở cho Người đi đến một khám phá, một sự lựa chọn chính xác

con đường giải phóng dân tộc trong thời đại mới.

Tháng 12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours) đã nảy ra cuộc

tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế thứ ba hay ở lại Quốc tế thứ hai. Nguyễn ái

Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản

Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người,

từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở đường giải quyết đúng đắn về đường

lối giải phóng dân tộc của Việt Nam. Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của

mình, Nguyễn ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự

hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương

thời, Nguyễn ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa

chọn con đường cách mạng vô sản... Người nói: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc

không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"

Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với

phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc

nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa

Mác - Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ

chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam.

Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc cùng một

số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa

nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ

nghĩa thực dân. Hội quyết định xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), do Nguyễn

ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút...

Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây,

Nguyễn ái Quốc trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "Chủ nghĩa cộng sản và các

thuộc địa" và kiến nghị thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa trực thuộc ủy ban Trung

ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận. Năm 1922, Ban

Nghiên cứu thuộc địa được thành lập, Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban

nghiên cứu về vấn đề Đông Dương.

Nguyễn ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo Người cùng khổ (Le Paria),

Nhân đạo (L' Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân (La Vie

ouvrière) của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp. Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực

dân Pháp (Le Procès de la colonisation Franỗaise) và được xuất bản lần đầu tiên ở Pari

năm 1925. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh động, tác phẩm đã tố cáo trước dư luận

Pháp và thế giới những tội ác tày trời của bọn thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa.

"Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc

và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết

con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì

cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi

bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"

Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp công nhân ở "chính quốc" và nhân

dân lao động ở các thuộc địa. Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở các

nước "chính quốc" có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Phải thực hiện sự hợp tác chặt chẽ

với nhau để chống kẻ thù chung, vì chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp

công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.

Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Phải "làm cho các

dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết

lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là

một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"

Các dân tộc thuộc địa có sẵn trong bản thân mình một sức mạnh vô cùng to lớn.

Khi hàng triệu quần chúng ở các nước thuộc địa đã hiểu được giá trị của đoàn kết dân

tộc và đoàn kết quốc tế và quyết tâm vùng lên chiến đấu thì chủ nghĩa đế quốc nhất định

bị đánh đổ.

Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch trần bản chất phản động của đế quốc Pháp

đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh tinh thần dân tộc, hướng nhân dân các nước thuộc

địa tới con đường giải phóng dân tộc của thời đại cách mạng vô sản. Vận dụng công

thức của C. Mác: Công cuộc giải phóng của anh em (thuộc địa) chỉ có thể thực hiện

được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em, và góp phần vào việc thực hiện sự liên minh

giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động Pháp với các dân tộc thuộc địa nhằm đánh

đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc Pháp.

Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ tác

phẩm đó và các bài viết khác của Nguyễn ái Quốc trong thời kỳ ấy mà hướng tới con

đường cách mạng của Người để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân

dân Việt Nam.

Tháng 6-1923, Nguyễn ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để tham dự Hội nghị Quốc

tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng

Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản

Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tham gia

Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ

nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ. Trong hai bản tham luận quan trọng đọc tại

Hội nghị Quốc tế nông dân và Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc

đã đề cập hai vấn đề lớn sau:

1. Tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với

phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

2. Vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa.

Người thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đã

coi nhẹ vấn đề thuộc địa, chưa biết kết hợp phong trào cách mạng ở chính quốc và cách

mạng ở các nước thuộc địa để thành lập một mặt trận đấu tranh chung. Đối với vấn đề

nông dân, Người chỉ rõ rằng: Nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề, nạn đói luôn luôn xảy

ra, sự phẫn uất ngày càng lên cao. "Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi.

Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong

máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì

họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ

chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách

mạng và giải phóng"

Ngày 11-11-1924, Nguyễn ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây

Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia,

Malaixia, v.v., thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.

Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt nhân là

Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một bước

chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo

một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khoá học một số được chọn đi

học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học

trường quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước để "truyền bá lý luận giải phóng

dân tộc, và tổ chức nhân dân"

Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ

tại Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản

thành sách với tên gọi là Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn ái Quốc vạch

ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng

dân tộc ở Việt Nam.

Người nêu chân lý "muốn sống, phải làm cách mệnh", "cách mệnh là việc chung

của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người". Việc giải phóng dân tộc,

chủ yếu là do nhân dân ta tự làm lấy, vì vậy phải làm cho mọi người Việt Nam hiểu rõ

"vì sao làm cách mệnh", "không làm không được". Đường kách mệnh giới thiệu tính

chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách

mạng Tháng Mười Nga (1917), và khẳng định rằng chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga

là triệt để nhất, vì thế cách mạng Việt Nam cần phải đi theo con đường cách mạng của

học thuyết Mác - Lênin mới thành công. Đường kách mệnh nhấn mạnh tính chất và

nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc; lực lượng cách

mạng bao gồm "sỹ, nông, công, thương", trong đó công nông là "chủ cách mệnh", là

"gốc cách mệnh", còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị đế quốc áp bức, song

không cực khổ bằng công nông nên ba hạng ấy chỉ là "bầu bạn cách mệnh của công

nông".

Đường kách mệnh đã chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy

phải động viên, tổ chức và lãnh đạo đông đảo quần chúng vùng lên "đánh đuổi tụi áp

bức mình đi". Người phê phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh hướng cơ

hội chủ nghĩa khác chỉ "xúi dân bạo động mà không biết cách tổ chức, làm cho dân

quen thói ỷ lại mà quên tính tự cường". Quần chúng một khi được giác ngộ, có tổ chức

và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch.

Đường kách mệnh cũng còn chỉ rõ rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của

cách mạng thế giới, cần được sự giúp đỡ quốc tế, nhưng "muốn người ta giúp cho, thì

trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã". Cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng

giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng thúc

đẩy nhau trong quan hệ bình đẳng. "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản

Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ".

Đường kách mệnh khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, "Trước hết

phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người

cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong

đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa

như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". "Bây giờ học thuyết nhiều,

chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là

chủ nghĩa Lênin"

Đường kách mệnh dành một phần thích đáng để giới thiệu các tổ chức chính trị

của Quốc tế Cộng sản như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên... và hướng dẫn nhân

dân Việt Nam tham gia các tổ chức đó.

Đường kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập

chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.

Tháng 4-1927, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp những

đảng viên cộng sản và những người cách mạng. Nguyễn ái Quốc phải rời Quảng Châu

sang Liên Xô. Mùa thu năm 1928, Người về Thái Lan tiếp tục công việc chuẩn bị thành

lập Đảng.

Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng

mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng cứu nước giải

phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn ái Quốc ngày càng chiếm ưu thế.

Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương "Vô sản

hóa", đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước, cùng sống

và làm việc với công nhân, đồng thời cũng là phương thức truyền bá lý luận giải phóng

dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh .

Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng của Nguyễn

ái Quốc - Hồ Chí Minh đã phải "chọc thủng lưới sắt của bọn thực dân Pháp" mới đến

được với nhân dân Việt Nam ta.

Cùng với cuộc đấu tranh chống lại chính sách khủng bố của bọn đế quốc, những

người theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng của học thuyết

Mác-Lênin còn phải đấu tranh với các đề xướng và vận động thành lập các chính đảng

quốc gia, thành lập "khối dân tộc". Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng kiên

quyết đấu tranh chống lại quan điểm lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh,

thuyết "trực trị" của Nguyễn Văn Vĩnh. Cuộc đấu tranh chống lại đường lối của Việt

Nam Quốc dân Đảng, một đường lối dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản không kém

phần gay gắt.

Lập trường giải phóng dân tộc đúng đắn của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh

niên đã thắng lập trường giải phóng dân tộc tư sản. Nó đã giáo dục, giác ngộ nhiều

người yêu nước chân chính theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn

luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng trung thành làm nòng cốt cho việc thành lập

đảng cộng sản.

Sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào

phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây dựng các tổ chức cơ

sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan

trọng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929, có 1.700

hội viên. Tổ chức công hội cũng đã được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một

số đảng viên tiên tiến trong Tân Việt cũng ngả theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh

niên. Nhiều người đã trở thành hội viên của Hội.

Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức, vận động nhân dân đấu tranh

đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là

phong trào công nhân.

Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời.

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào đã diễn ra với những hình thức sơ khai

như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng, rồi tiến

dần lên những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi công. Năm 1907,

đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của 200 công nhân viên chức hãng Liên hiệp Thương

mại Đông Dương (LUCI) ở Hà Nội. Năm 1912, có cuộc bãi công của công nhân Ba Son

và cuộc bãi khóa của học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn... Ngoài ra, công nhân còn

tham gia các phong trào yêu nước khác: công nhân mỏ than Đông Triều tham gia đội

nghĩa quân của lãnh binh Pha và lãnh binh Hy (1892); công nhân làm đường Phủ Lạng

Thương - Lạng Sơn tham gia phong trào khởi nghĩa Yên Thế, tập kích các đạo quân

đóng dọc đường sắt và nhà ga (1894); những bồi bếp và công nhân làm trong quân đội

Pháp tham gia vụ đầu độc binh lính và sĩ quan Pháp ở Hà Nội (1908); công nhân tham

gia khởi nghĩa Duy Tân ở Huế (1916); trong cuộc binh biến ở Thái Nguyên, công nhân

tham gia trực tiếp chiến đấu, hoặc rèn vũ khí cho nghĩa quân (1917).

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân ở nước ta ngày càng đông

đảo và tập trung hơn. Trong những năm 1919-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu

là các cuộc bãi công của công nhân viên chức các sở công thương tư nhân Bắc Kỳ, công

nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn, Chợ Lớn (1922), các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam

Định, Hà Nội, Hải Dương (1924). Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của hơn 1.000 công

nhân Xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son, Sài Gòn (8-1925) do Tôn Đức Thắng tổ chức,

không chịu chữa chiến hạm Misơlê (Michelet) để thực dân Pháp chở quân đi đàn áp

phong trào nổi dậy chống xâm lược của nhân dân Trung Quốc tại các thành phố có tô

giới của đế quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20%, thu nhận những

công nhân bị sa thải được trở lại làm việc. Cuộc bãi công được công nhân nhiều xưởng

ở Sài Gòn - Chợ Lớn ủng hộ. Chủ hung hãn đe dọa, nhưng không khuất phục được, cuối

cùng chúng phải nhượng bộ, chịu tăng 10% lương cho công nhân. Mặc dù vậy, sau khi

trở lại làm việc công nhân Ba Son còn tìm cách lãn công, kéo dài thời hạn sửa chữa, làm

cho chiến hạm Misơlê phải nằm chờ 4 tháng trời mới nhổ neo đi lên hướng Bắc được.

Ngoài ra, trong phong trào dân chủ những năm 1925-1926, công nhân đã tham gia các

cuộc mít tinh, biểu tình, đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu

Trinh, v.v..

Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919-1925 đã có bước phát triển mới

so với trước chiến tranh. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô

lớn hơn và thời gian dài hơn.

Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra

đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong những năm

1926-1927, mỗi năm có hàng chục cuộc bãi công. Trong hai năm 1928-1929 nổ ra hơn

40 cuộc đấu tranh, tiêu biểu là các cuộc bãi công ở Nhà máy xi măng Hải Phòng, Nhà

máy sợi Nam Định, Nhà máy diêm và Nhà máy cưa Bến Thủy, Xưởng sửa chữa ô tô

Avia Hà Nội, Nhà máy sợi Hải Phòng, Mỏ than Hòn Gai, Nhà máy xe lửa Trường Thi

(Vinh), Xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son (Sài Gòn), Đồn điền cao su Phú Riềng, v.v..

Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính

trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều ngành,

nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên

rõ rệt tuy chưa được đều khắp. Phong trào phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu

phong trào yêu nước nói chung.

3. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời

Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát

triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng. Yêu

cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội

bộ và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở

Việt Nam.

Phong trào Vô sản hoá (1928) của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên diễn ra

mạnh nhất là ở Bắc Kỳ, làm cho phong trào cách mạng ở đây phát triển sôi nổi hơn, yêu

cầu thành lập đảng cộng sản cũng xuất hiện sớm hơn. Cuối tháng 3-1929, một số phần

tử tiên tiến họp ở nhà số 5 Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu

tiên, gồm 7 đảng viên*, do Trần Văn Cung làm Bí thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi

đến thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Tháng 5-1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp

tại Hương Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến

thành lập đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu kiên quyết đấu

tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu đó không được chấp nhận, đoàn

đại biểu Bắc Kỳ liền rút khỏi Đại hội về nước.

Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở

* Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn.

cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng,

thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp

hành Trung ương lâm thời của Đảng.

Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và với sự ra đời của Đông Dương Cộng

sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh

niên ở Trung Kỳ và Nam Kỳ vạch ra kế hoạch tổ chức đảng cộng sản. Ngày 25-7-1929,

các đồng chí trong bộ phận Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc

gửi Đông Dương Cộng sản Đảng một bức thư thông báo rằng họ quyết định lập một

đảng cộng sản bí mật, còn ""Thanh niên"... giữ nguyên để cải tổ dần..." Một số hội

viên giác ngộ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc

được tổ chức thành một chi bộ với danh nghĩa chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng. Một

số chi bộ cộng sản lần lượt thành lập ở Nam Kỳ. Theo Hồng Thế Công2, An Nam Cộng

sản Đảng ra đời vào tháng 8 năm 1929 và khoảng tháng 11-1929, An Nam Cộng sản

Đảng họp Đại hội tại Sài Gòn để thông qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban

Chấp hành Trung ương Đảng.

Tuy hai tổ chức cộng sản trên hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích lẫn

nhau, song từ sự ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến sự xuất hiện các tổ

chức cộng sản là một xu thế phát triển khách quan của phong trào cách mạng Việt Nam

lúc bấy giờ.

Cùng với sự phân hoá trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách

mạng Đảng cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ.

Tân Việt cách mạng Đảng ra đời là kết quả của sự phân hoá nội bộ các nhóm tiểu

tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cách mạng vô sản và tư sản

trong phong trào dân tộc Việt Nam. Tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng là Hội

Phục Việt (1925), đổi thành Hội Hưng Nam (1926). Để giao thiệp với Hội Việt Nam

Cách mạng Thanh niên, tháng 7-1926 Hội Hưng Nam đổi thành Việt Nam cách mạng

Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí Hội (7-1927). Trong khoảng thời gian 1926-

1928, nhiều lần Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Việt Nam cách mạng Đảng

bàn việc hợp nhất nhưng không đi đến kết quả. Vì thế, ngày 14-7-1928 Việt Nam cách

mạng đồng chí Hội họp Đại hội ở Huế, quyết định tổ chức ra một đảng "tự lập" lấy tên

là Tân Việt cách mạng Đảng. Tân Việt ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt

Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng phát triển, lý luận Mác - Lênin và tư tưởng cách

mạng của Nguyễn ái Quốc có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tân Việt, cuốn hút nhiều đảng

viên trẻ, tiên tiến đi theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong nội bộ Tân Việt

đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng và cải lương, cuối

cùng xu hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên

tiến của Tân Việt đã ngả sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Số tiên tiến còn lại

chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929) và An Nam cộng sản Đảng

(8-1929) tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt, những đảng viên tiên tiến

đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản.

Tháng 9-1929, họ công bố Tuyên đạt, nêu rõ "những người giác ngộ cộng sản

chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng

viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng

tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn" Đây là một chính đảng

cách mạng vô sản. Mục tiêu của đảng là đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho xứ Đông

Dương, xóa bỏ nạn người bóc lột người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến

lên chế độ cộng sản chủ nghĩa. Theo kế hoạch, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn sẽ họp

đại hội chính thức vào 1-1-1930 song trên đường đến địa điểm đại hội, các đại biểu đã

bị địch bắt, song Đảng vẫn tích cực hoạt động.

Chỉ trong bốn tháng ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, điều đó chứng tỏ

xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam.

Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở ở nhiều địa phương trong cả

nước và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng. Phong trào công nhân

kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống

cướp ruộng đất và phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạo thành

một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ khắp cả nước.

III. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

1. Hội nghị thành lập Đảng

Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có sự

lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ của ba tổ

chức cộng sản làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán.

Điều đó không phù hợp với

lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản.

Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài

liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, chỉ rõ: "Việc thiếu một Đảng

Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng

phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cuộc

cách mạng ở Đông Dương". Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: "Nhiệm vụ quan trọng nhất

và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng

cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính

chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy

nhất ở Đông Dương" Song, tài liệu này chưa đến tay những người cộng sản Việt Nam.

Lúc đó Nguyễn ái Quốc đang ở Xiêm tìm đường về nước thì nhận được tin Hội Việt

Nam Cách mạng Thanh niên phân liệt, "những người cộng sản chia thành nhiều phái",

Nguyễn ái Quốc rời Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc). "Với tư cách là phái viên của

Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào

cách mạng ở Đông Dương", Người chủ động triệu tập "đại biểu của hai nhóm (Đông

Dương và An Nam)" và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng,

Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp ngày 6-1-1930. Sau này, Đại hội toàn quốc lần thứ

III của Đảng (1960) căn cứ vào những tài liệu hiện có, đã ra Nghị quyết về ngày thành

lập Đảng, trong đó ghi rõ: "lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm

thành lập Đảng"

Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình

Cửu và Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu

và Châu Văn Liêm). Tổng số đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam

cộng sản Đảng cho tới Hội nghị hợp nhất là 310 đồng chí (ở Xiêm: 40, Bắc Kỳ: 204,

Nam Kỳ: 51, Trung Quốc và nơi khác: 15, Trung Kỳ thì ghép vào Bắc Kỳ và Nam Kỳ)

Hội nghị hoàn toàn nhất trí, tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương

Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng

Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình

tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn ái Quốc viết Lời

kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột hãy gia

nhập Đảng, đi theo Đảng để đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và tư sản phản

cách mạng "làm cho nước An Nam được độc lập"

Hội nghị cũng vạch kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước và thành

lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 8-2-1930 các đại biểu về nước thực hiện kế hoạch

hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng

được thành lập gồm có Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn

Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phan Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng

đầu. Tiếp đến các xứ uỷ cũng được thành lập. Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ,

Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ, Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ.

Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp

hành Trung ương Lâm thời họp và ra Quyết nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản

Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam

2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Chương trình tóm tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương

lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản như sau:

Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân

quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:

Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước

Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công

nông.

Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính

phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân

cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi

hành luật ngày làm tám giờ.

Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông

giáo dục theo hướng công nông hoá.

Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế

quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc

lập dân tộc.

Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công

nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng

ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với

phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải

lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng

(như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.

Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của

Hồ Chí Minh. "Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào

nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp"

Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. "Đảng là

đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,

phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, "liên kết với những

dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản

Pháp".

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng

đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển

của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai

cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân

quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương

lĩnh này.

Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời

Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt

Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở

thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa

nhận là đội tiền phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và trí tuệ của

dân tộc.

3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu

tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, Hồ Chí Minh viết:

Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong

trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch

sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam.

Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng

đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm

đầu thế kỷ XX. "Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch

sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ

sức lãnh đạo cách mạng"

Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của

cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham gia

một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.

Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho

những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam,

được mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh, người Việt Nam yêu nước tiên tiến đã tìm được

con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc Việt

Nam và xu thế của thời đại. Người đã tiếp thu và phát triển học thuyết Mác - Lênin về

cách mạng thuộc địa, xây dựng hệ thống lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tổ

chức truyền bá lý luận đó vào Việt Nam, ra sức chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ

chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vạch ra cương lĩnh chính trị đúng đắn nhằm

dẫn đường cho dân tộc ta tiến lên trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do.

Ngay từ ngày mới thành lập "Đảng ta liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn

kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.

Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường

dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #fao