Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ss che do chinh tri

 

MỤC LỤC

1.  MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP VÀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM   2

1.1     . MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM.. 2

1.1.1. Định nghĩa. 2

1.2.1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1946, 1992. 2

1.2.1.1. Hiến pháp 1946. 2

1.2.1.2. Hiến pháp 1992. 3

1.2.    MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM.. 13

2. SO SÁNH CƠ CẤU TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ TRONG HIẾN PHÁP NĂM 1946 VỚI NĂM 1992. 15

2.1. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ TRONG HIẾN PHÁP NĂM 1946 VỚI NĂM 1992. 15

2.2. ĐIỂM KHÁC BIỆT VỀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA TRONG HIẾN PHÁP 1946 VÀ HIẾN PHÁP 1992. 19

2.3. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA CƠ CẤU CÁC BỘ VÀ CƠ QUAN NGANG BỘ GIỮA HIẾN PHÁP 1946 VÀ HIẾN PHÁP 1992 VỀ THÀNH PHẦN TỔ CHỨC.. 22

3.KẾT LUẬN. 25

 

 

 

 

1.     MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP VÀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM

1.1.1. Định nghĩa

Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước (những mối quan hệ xã hội có liên quan đến việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách quốc phòng, an ninh, chính sách ngoại giao, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và những nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước).

1.2.1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1946, 1992

1.2.1.1. Hiến pháp 1946

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp. Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ".

Ngày 20-9-1945, Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người (Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh)) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11-1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của nhân dân ta về độc lập và tự do.

Ngày 2-3-1946, Quốc hội đã nghe Chính phủ trình bày bản dự thảo Hiến pháp. Trên cơ sở đó, Quốc hội (Khoá I, Kỳ họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người (Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên), đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân dân và xây dựng bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét và thông qua.

Ngày 28-10-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I đã khai mạc. Ngày 9-11-1946, sau hơn mười ngày làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống.

1.2.1.2. Hiến pháp 1992

        Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã trải qua nhiều thử thách, gian nan. Trong hoàn cảnh đó lịch sử lập hiến Việt Nam cũng có những bước thăng trầm nhất định. Đánh giá thật khách quan, chính xác, đúng đắn hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và quốc tế đã ảnh hưởng đến lịch sử lập hiến Việt Nam là một việc làm cần thiết. Vì nếu không hiểu quá khứ thì không thể hiểu được hiện tại và không thể định hướng được tương lai.

Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chan hoà khí thế lạc quan của cuộc đại thắng mùa Xuân 1975; tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội đã xuất hiện; không kịp thời khắc phục cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong thời chiến. Hiến pháp 1980 đã không tránh khỏi những nhược điểm nhất định.

        Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu ra và vạch rõ phương hướng khắc phục những sai lầm và nhược điểm đó. Đường lối kinh tế coi công nghiệp hoá là trung tâm của thời kỳ quá độ (Điều 16) về cơ bản là đúng. Nhưng do tưtưởng nóng vội, xuất phát từ tưtưởng muốn đi nhanh, không tính đến khả năng thực tế, nên chủ trương "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng"; bởi vậy, trong thực tế, chúng ta thiên về xây dựng những công trình công nghiệp nặng và với quy mô lớn. Không coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Không tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Nhiều quy định vượt quá điều kiện kinh tế xã hội cho phép như"Học không phải trả học phí" (Điều 60) "Khám bệnh không phải mất tiền" (Điều 61).

        Do chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Liên Xô 1977 và quan niệm giáo điều về nền tảng kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tưliệu sản xuất nên Hiến pháp 1980 quy định về cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tưliệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18). Một số quy định của Hiến pháp đã cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước như"Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài" (Điều 21), "Những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tưsản mại bản đều bị quốc hữu hoá không bồi thường" (Điều 25).

        Trong thực tế, quan niệm coi việc giải quyết xong vấn đề sở hữu thì coi nhưcăn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa là một sai lầm, phải trả giá. Bởi vậy, Đại hội VI và các đại hội sau này đều coi cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ lâu dài suốt cả thời kỳ quá độ, phải trải qua những bước đi, những hình thức trung gian thích hợp. Một thực tế nữa là: Khi chủ trương làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế, không có nghĩa là phải nhanh chóng xoá bỏ tất cả thành phần kinh tế khác. Trong khi chúng ta tích cực xây dựng các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, làm cho chúng đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhưkinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tưbản tưnhân vẫn tồn tại có mức độ và có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một tồn tại khách quan. Về tổ chức bộ máy Nhà nước, sau một thời gian kiểm nghiệm bằng thực tế nhiều thiết chế Nhà nước tỏ ra kém hiệu quả, chế độ thẩm phán bầu không đảm bảo được tính ổn định và phẩm chất nghề nghiệp của thẩm phán. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước chưa được phân định rõ ràng. Vai trò của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - người đứng đầu Chính phủ, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất chưa được nổi bật vì có rất ít thẩm quyền. Chế định Chủ tịch tập thể làm cho các quyết định của cơ quan này chậm chạp, không nhanh nhạy với những thay đổi của đời sống xã hội và khó khăn trong việc ngoại giao.

        Tóm lại, sau một thời gian có hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

        Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới ở đất nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những thiếu sót sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tưduy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

        Với đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định, khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

        Trong lĩnh vực kinh tế , Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách này nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, khơi dậy năng lực trí tuệ, sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân lao động, khắc phục cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Thực chất của bước chuyển đổi kinh tế là cuộc cải cách cấu trúc lại nền kinh tế, bắt đầu từ sở hữu:

        a) Mở đầu quá trình cấu trúc lại kinh tế là những chính sách quan trọng, đột phá về nông nghiệp. Tháng 4-1988, Bộ Chính trị (Khoá VI) ra Nghị quyết 10. Theo Nghị quyết này xã viên hợp tác xã chỉ còn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Sản phẩm còn lại được tự do lưu thông, được bán lúc nào, nơi nào có lợi nhất. (Trước đây Nhà nước thu mua theo giá quy định). Nhờ chính sách này mà thu nhập bình quân của nông dân tăng lên đáng kể. Tốc độ thu nhập bình quân của nông dân từ năm 1987 trở về trước là 1,18%, nhưng chỉ hai năm 1988-1989 tốc độ này đã tăng lên 4,5%. Chỉ sau một năm khi Nghị quyết 10 của Đảng được thực hiện sản lượng lương thực đã tăng từ 19,583 triệu tấn (năm 1988) lên 21,439 triệu tấn (năm 1989). Từ năm 1988 đến năm 1990, diện tích gieo trồng tăng 3,9%1 . Trong nông thôn, số hộ nghèo đói năm 1990 là 34,4%, đến năm 1992, đã giảm xuống 19,6%2 .

        b) Bên cạnh đổi mới chính sách nông nghiệp, Đảng ta chủ trương đổi mới chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đó là chính sách chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước: Từ năm 1987, các xí nghiệp quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh. Ngày 14-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 217-HĐBT về đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-12-1989, Hội đồng Bộ trưởng lại ban hành quyết định về những quy định bổ sung Quyết định 217-HĐBT chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Những quyết định này đã chấm dứt tình trạng người lao động thờ ơ với tưliệu sản xuất, thờ ơ với nhu cầu thị trường và sự tiêu thụ sản phẩm.

        c) Chính sách quan trọng thứ ba trong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

        Trước cải cách năm 1988, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được chấp nhận. (Trừ các doanh nghiệp hợp doanh với Nhà nước). Từ năm 1988, các công ty tưnhân bắt đầu hình thành. Các công ty tưnhân có nhiều hình thức: Công ty do một tưnhân làm chủ gọi là doanh nghiệp tư nhân, một số tư nhân làm chủ gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn; hoặc bằng cổ phiếu gọi là công ty cổ phần; hoặc công ty theo hình thức hợp tác xã. Năm 1990 đã có 340 công ty tư nhân được thành lập; năm 1991 có 163 và năm 1992 có 1.868 công ty tư nhân được thành lập.

        d) Chính sách quan trọng thứ tưtrong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là chính sách kinh tế mở cửa với nước ngoài.

        Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế khép kín. Vấn đề xuất khẩu không được Nhà nước quan tâm, không có đầu tư nước ngoài, không hoà nhập được với kinh tế thế giới. Với chính sách kinh tế mở cửa năm 1991, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 2,08 tỷ USD . Thực hiện chính sách thu hút đầu tưnước ngoài vào Việt Nam. Ngày 29-12-1987, Quốc hội đã thông qua "Luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam". Tiếp đó, ngày 30-6-1990, lại thông qua, "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam" nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút đầu tưcủa nước ngoài vào nước ta. Ví dụ, khu vực nội địa trả thuế lợi tức doanh nghiệp là 25% đến 45% trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài chỉ trả 10% đến 25%. Hơn nữa khu vực nước ngoài lại được hưởng 1 năm đến 4 năm miễn thuế và sau đó 1 đến 4 năm giảm thuế 50%. Nhờ chính sách này mà sự đầu tưnước ngoài vào Việt Nam ngày một gia tăng.

        Nhờ những chính sách cải cách kinh tế nói trên mà tốc độ phát triển kinh tế của nước ta từ năm 1986 đến năm 1990 là 4,9% và tốc độ lạm phát giảm từ 775% - năm 1986 xuống 17,5% - năm 19922 .

        Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều mặt yếu, kém và những khó khăn lớn phải khắc phục. Sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đã có nhưng chưa vững chắc. Kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xác định về mặt pháp lý vị trí, vai trò và sự bình đẳng của chúng trước pháp luật. Trong quản lý kinh tế còn nhiều sơ hở, pháp luật còn thiếu sự đồng bộ, còn mâu thuẫn chồng chéo và thiếu sự ổn định tương đối. Nạn tham nhũng và buôn lậu vẫn tiếp tục hoành hành. Trong lĩnh vực cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đề ra những định hướng nhất định. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: "Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lơn về tổ chức bô máy của các cơ quan Nhà nước" . Về vấn đề này đồng chí Đỗ Mười đã viết: "Cần phải đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước ta cũng nhưcủa toàn bộ hệ thống chính trị xã hội. Đổi mới căn bản không có nghĩa là thay đổi bản chất của Nhà nước ta, mà chính là làm cho nó thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất dân chủ, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng xã hội mới. Đổi mới căn bản có nghĩa là không những phải xác định lại chức năng, mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy Nhà nước, mà còn phải đổi mới toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của chúng, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý kinh tế - xã hội có hiệu quả; hoạt động trên cơ sở pháp luật và thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật".

        - Việc cải cách bộ máy Nhà nước được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước thể hiện được quyền lực của nhân dân, bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền tự do dân chủ của nhân dân. ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy, phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; cần phải thay đổi tổ chức và hoạt động của các cơ quan này bảo đảm cho chúng thực sự là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân. Để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có đủ năng lực thực hiện vai trò, chức năng của mình, phải xây dựng cơ chế bầu cử thật sự dân chủ, bảo đảm chọn được những đại biểu xứng đáng bầu vào các cơ quan này. Việc giới thiệu người ra ứng cử phải làm từ dưới lên, phổ biến tuyên truyền rộng rãi tiêu chuẩn và yêu cầu đối với người được giới thiệu ra ứng cử, nhưng phải tôn trọng ý kiến của nhân dân, không gò ép.

        - Yêu cầu dân chủ trong thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước còn đòi hỏi phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp, tưpháp và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước trung ương với chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập trong việc thực hiện chức năng của mình, bảo đảm cho chính quyền địa phương, cơ sở chủ động, sáng tạo và toàn quyền quản lý trên lãnh thổ. Khác với các Nhà nước tưsản, nơi mà bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực, các quyền lập pháp, hành pháp và tưpháp được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau, độc lập, chế ngự và đối trọng lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực: "Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi cơ quan bắt nguồn từ cơ quan quyền lực, nhận quyền lực từ nó và chịu sự kiểm tra, giám sát của nó. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng, các cơ quan hành pháp và tư pháp thực hiện chức năng của mình đều nhân danh quyền lực Nhà nước bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện thống nhất trên các lĩnh vực này. Như vậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có quyền lập pháp và kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tưpháp. Mặt khác, cũng cần nhận thức rằng, để Nhà nước hoạt động có hiệu quả phải có thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động sao cho vừa bảo đảm được sự tập trung thống nhất quyền lực, vừa có sự phân công, phân biệt rõ ràng về mặt chức năng giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước; đồng thời phải có cơ sở pháp lý và tổ chức bảo đảm cho mỗi hệ thống cơ quan độc lập và chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình, không có sự lấn át giữa cơ quan này với cơ quan khác".

        - Yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước đòi hỏi Nhà nước phải thể chế hoá một cách đầy đủ các quyền tự do dân chủ cũng như các nghĩa vụ của công dân vào Hiến pháp và tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó trên thực tế.

        - Cùng với việc đổi mới chế độ kinh tế, cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Cần phải phân định chức năng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước. "Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng vững mạnh, kiên cường là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, sự phân định chức năng của Đảng và Nhà nước ngày càng trở nên cấp thiết. Sự lẫn lộn chức năng giữa Đảng và Nhà nước dẫn đến tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay vừa buông trôi, khoán trắng cho Nhà nước làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò của mình". Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị, nhưng vai trò đó trong giai đoạn giành được chính quyền thể hiện khác với giai đoạn chưa giành được chính quyền. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền Đảng định ra đường lối chiến lược, sách lược đấu tranh đồng thời Đảng là bộ chỉ huy, bộ tham mưu của cuộc đấu tranh đó. Đảng trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Khi đã giành được chính quyền Đảng không thể lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội với tưcách là trung tâm điều hành trực tiếp nhưtrước. Không thể hiểu một cách giản đơn và siêu hình rằng, "Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng trực tiếp quyết định mọi việc của Nhà nước có thể lấy nghị quyết, chỉ thị của Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước, cơ quan Đảng là cấp trên của cơ quan Nhà nước" , v.v..

        - Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã hoạch định một đường lối đối ngoại rộng mở. Đó là thiết lập các quan hệ hoà bình, hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

Với tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá VII, tại Kỳ họp thứ 3 ngày 22-12-1988 đã ra nghị quyết sửa đổi lời nói đầu, không chỉ rõ đích danh thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bành trướng Trung Quốc cho phù hợp với quan hệ đối ngoại tốt đẹp đang mở ra giữa ta với nước Cộng hoà Pháp, hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ngày 30-6-1989, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125, để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm Thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Đồng thời trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

        Cuối năm 1991 đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình Quốc hội khoá VIII, tại Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý, bổ sung nhất định, ngày 15-4-1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng nhưnhận xét của đồng chí Đỗ Mười Tổng Bí thưBan Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Hiến pháp 1992 là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".

Vào thời điểm Quốc hội thông qua Hiến pháp, thực dân Pháp phản bội các hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lập lại ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Trước tình hình đó, trong phiên họp ngày 9-11-1946, sau khi tuyên bố Hiến pháp đã trở thành chính thức, Quốc hội ra Nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo Nghị quyết của Quốc hội trong điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày 19-12-1946, mười ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 (TNĐL) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được mở đầu bằng câu nổi tiếng về nhân quyền trích Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Hiến pháp năm 1946 (HP 46), hiến pháp đầu tiên của nước ta đã cụ thể hoá các quyền con người mà bản Tuyên ngôn Độc lập đã long trọng xác nhận. Nội dung Hiến pháp được xuyên suốt bởi quan điểm như đã được ghi ở điều 1: "Nước VN là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân VN, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Ngay từ khi ra đời, Nhà nước cách mạng VN đã là một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là nhà nước mà toàn bộ hoạt động của nó chỉ hướng tới mục đích duy nhất là xác lập, bảo vệ và không ngừng mở rộng quyền làm người cho công dân VN.

Quá trình tồn tại, phát triển của Nhà nước Cách mạng VN gắn liền với quá trình mở rộng không ngừng và bảo vệ nghiêm ngặt nhân quyền được thể hiện trong các hiến pháp tiếp theo HP 46. Quyền làm người của công dân VN còn được cụ thể hoá và được bảo vệ bằng toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước VN. Mọi bộ luật, mọi đạo luật, mọi điều luật của hệ thống pháp luật của Nhà nước VN đều hưóng tới sự mở rộng và bảo vệ nghiêm ngặt quyền làm người của công dân VN. Mọi hoạt động của Đảng cầm quyền, của các cơ quan nhà nước, của mọi viên chức đều phải lấy việc mở rộng và bảo vệ nghiêm ngặt quyền làm người của công dân VN làm mục tiêu phục vụ cao nhất. Các hành vi như: quan liêu, cậy quyền,cấm đoán... về bản chất đều là những hành vi vi phạm quyền con người, cho dù người vi phạm chưa nhận thức ra điều đó.

Đấu tranh xác lập, bảo vệ và mở rộng quyền con người là cuộc trường chinh của cả nhân loại. Đó cũng là động lực, mục tiêu đấu tranh để đưa loài người phát triển đến những đỉnh cao mới. Cuộc đấu tranh giành quyền làm người của nhân dân và các dân tộc VN đã được bắt đầu từ thuở Vua Hùng dựng nước. Nhưng phải đến khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền làm người của công dân VN mới được ghi nhận rõ ràng trong HP 46. Từ đó đến nay đã 60 năm trôi qua. Quyền con người được ghi trong HP 46 không ngừng được mở rộng. Tuy vậy công cuộc đấu tranh nhằm xác lập, bảo vệ quyền con người của công dân VN vẫn đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Đó là âm mưu của các thế lực thù địch từ nước ngoài lợi dụng chiêu bài bảo vệ nhân quyền để vi phạm chủ quyền của VN.Sự vi phạm nhân quyền còn xảy ra trong nội bộ dưới những hành vi vi phạm pháp luật của những phần tử thoái hoá trong bộ máy nhà nước và trong nhân dân.

Cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền với cuộc đấu tranh phát triển đất nước luôn luôn phải được tiến hành một cách hài hoà, cân đối. Đó là bài học bất biến của xã hội VN mà HP 46 đã đặt nền móng cho sự phát triển đi lên không ngừng của nước VN.

1.2.         MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

        Đã  có nhiều những định nghĩa, mô hình tổ  chức Chính  phủ  khác nhau  trên  thế  giới, nhưng  được  quy  về  những  mô  hình  nhất định,  thực  chất  là  đi  tìm  điểm  chung  của những Chính  phủ  cụ  thể  để  mà  nhận  thức, còn  trên  thực  tế dù với mô hình Tổng  thống P.H. Thái / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 201-205 202 (chế  độ  hành  pháp một  đầu)  hay mô  hình hành  pháp  hai  đầu  (Tổng  thống  và  Chính phủ), v.v...  thì cũng có vô số những biến  thể của nó, không nước nào giống nước nào một cách nguyên mẫu và  cũng  sẽ  chẳng bao giờ có được một mô hình hoàn bị nhất trên thực tiễn, nếu có chỉ  là  trong sự  tưởng  tượng của con  người.  Do  đó,  trong  nhận  thức  không nên  thần  thánh  hóa  bất  kỳ  một  mô  hình Chính  phủ  nào, mỗi mô  hình  có  những  ưu điểm và hạn chế nhất định của nó, cùng một mô  hình  nhưng  phù  hợp  với  quốc  gia  này, nhưng lại không phù hợp với quốc gia khác, điều này do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan quyết định, đặc biệt là yếu tố văn hóa. Về  Chính  phủ,  chỉ  nói  riêng  Việt  Nam mỗi Hiến pháp có một quan niệm khác nhau, Hiến pháp 1946: Chính phủ  là cơ quan hành chính  cao  nhất  của  nước;  Hiến  pháp  1959: Hội  đồng Chính phủ  là  cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Hiến pháp 1980: Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là  cơ  quan  chấp  hành  và  hành  chính  nhà nước  cao  nhất  của  cơ  quan  quyền  lực nhà nước cao nhất; Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi,  bổ  sung năm  2001)  lại quy định: Chính phủ là cơ quan  chấp hành  của Quốc hội,  cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng Hòa  Xã  hội Chủ nghĩa Việt  Nam. Những quy định Hiến pháp khác nhau này là điểm đánh dấu cho những  tìm tòi suy ngẫm đã được đúc kết cả về mặt nhận thức và thực tiễn và đồng thời cũng phản ánh xu hướng lý thuyết mà chúng  ta  tiếp nhận để hình  thành nên lý thuyết của mình về Chính phủ. Nhưng những quy định này  cũng  chỉ  ra điều là chúng ta đang nhận thức lại Chính phủ, lại phương thức tổ chức thực  hiện quyền lực nhà nước, về địa vị chính trị - hiến pháp của Chính  phủ. Về  địa  vị  chính  trị  - hiến  pháp  của  Chính  phủ  theo Hiến  pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có những tương đồng với địa vị chính trị - hiến pháp của Hiến pháp 1959, ở đây thể hiện tính chu kỳ  của nhận  thức, đã quay được ½  chu kỳ nếu lấy Hiến pháp 1946 làm mốc và coi đó là một chu kỳ, giống như một chu kỳ của  tự nhiên, của đời người là 60 năm. Với những quy định của Hiến pháp 1992 về Chính phủ nhiều  tài  liệu đã bình  luận là Hiến pháp 1992 đã đi theo hướng đề cao vai trò của người  đứng  đầu Chính  phủ,  nhưng vẫn đảm bảo Chính phủ  là một  thể chế  làm việc theo chế độ tập thể, nhưng những người nghiên cứu đều nhận thấy rằng chế độ lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách của Thủ tướng, các Phó  thủ  tướng, Bộ trưởng đều không có sự rõ ràng về mặt pháp lý. Khi Chính  phủ là một  tập  thể  thì  mọi thành viên Chính phủ đều ngang quyền, đều có quyền bàn bạc và biểu quyết để thông qua mọi quyết định  thuộc  thẩm quyền, theo quy tắc đa số, những  cũng  có  ngoại  lệ khi  số phiếu đồng ý và không đồng ý ngang nhau thì quyết định sẽ thuộc vào bên nào có ý kiến của Thủ tướng. Một quy phạm có  tính hình thức,  thực  tiễn  khó có thể  xảy ra  điều này. Nếu Chính phủ là một tập thể thì mọi vấn đề thuộc  thẩm  quyền  của Chính phủ đều phải được bàn bạc tập  thể, và biểu quyết theo đa số  (ở đây không có khái niệm việc  lớn, việc nhỏ). Chính  vì  lôgic  đó  nên  quy  định:  có những vấn đề  thuộc  thẩm quyền của Chính phủ, nhưng xét thấy không cần thiết phải bàn bạc tập thể thì do Thủ tướng quyết định. Cái không  rõ ràng, minh bạch mập mờ về pháp lý và tất yếu diễn ra trên thực  tế  là ở  chính điểm này, và như vậy Thủ tướng lại chính là Chính  phủ,  chứ  không  phải  là  “bộ  trưởng thứ nhất” để lãnh đạo, điều hành Chính phủ. Cũng chính do Chính phủ  làm việc  theo chế độ  tập thể  và  để  đảm  bảo  sự  hoạt  động thường  xuyên  liên  tục  của thể  chế  này  nên Chính  phủ  phải  thường  xuyên  họp. Họp  là một hình  thức của quản  lý nhà nước, không thể  coi nhẹ hình  thức này. Thời phong  kiến có hình  thức  thiết  triều,  thời nay gọi  là họp để giải quyết những vấn đề phát  sinh  trong hoạt động, điều hành đất nước.

2. SO SÁNH CƠ CẤU TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ TRONG HIẾN PHÁP NĂM 1946 VỚI NĂM 1992

2.1. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ TRONG HIẾN PHÁP NĂM 1946 VỚI NĂM 1992

Điều 1 hiến pháp năm 1946 viết : “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hình thức nhà nước theo hiến pháp năm 1946 có nhiều nét độc đáo đáng chú ý là: chủ tịch nước vừa là người đứng đầu chính phủ, vừa là người đứng đầu nhà nước. Chủ tịch nước có quyền phủ quyết. Quyền đó thể hiện ở điều 31 và điều 54 hiến pháp năm 1946. Điều 31 hiến pháp năm 1946 qui định: “ những luật đã được nghị viện biểu quyết, chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 ngày khi nhận được thông tin. Nhưng trong thời hạn ấy, chủ tịch có quyền yêu cầu nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại nếu vẫn được nghị viện công nhận thì chủ tịch nước bắt buộc phải ban bố. Còn ở điều 54 hiến pháp năm 1946 qui định: “ trong thời gian 24 giờ sau khi nghị viện biểu quyết không tín nhiệm nội các thì chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra nghị viện thảo luận lại”. Như vậy hình thức chính thể của nhà nước ta theo hiến pháp 1946 phần nào giống hình thức cộng hòa tổng thống. Nhưng chủ tịch nước ta theo hiến pháp không do cử tri trực tiếp bầu ra mà do nghị viện bầu ra. Mặt khác chủ tịch nước chọn thủ tướng trong nghị viện và đưa ra nghị viện biểu quyết. Thủ tướng chọn bộ trưởng trong nghị viện và đưa ra nghị viện biểu quyết. Chính phủ chịu sự khảo sát của nghị viện. Bộ trưởng nào không được nghị viện tín nhiệm phải từ trước. Những qui đinh trên cho ta thấy hình thức chính thể của nhà nước ta theo hiến pháp năm 1946 là hình thức kết hợp giữa cộng hòa tổng thống và cộng hòa nghị viện. Đến hiến pháp năm 1992 hình thức nhà nước đã được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyền lực đều được tập trung vào quốc hội – cơ quan quyền lực tối cao do nhân dân đề ra. Hiến pháp năm 1992 kế thừa hiến pháp năm 1959 xây dưng theo quan điểmtập quyền “mềm” nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy hiến pháp năm 1992 quy định chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nhà nước CHXHCNVN”. Với quy định này chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Quyền hạn của thủ tướng chính phủ được tăng cường hơn trước so với hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Như vậy bắt đầu từ sự thay đổi trong hình thức tổ chức nhà nước cơ cấu chính phủ của HP 1946 với cơ cấu chính phủ của HP 1992 có những nét khác nhau khá cơ bản. Sau đây ta đi so sánh sự khác nhau của chúng ở những điểm cơ bản sau:

 

 

 

 

Cơ cấu tổ chức chính phủ

HP

1946

1992

vị trí

Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (43)

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (109)

Thành viên, cơ quan

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các.

Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng. (44)

Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.

Nhiệm kỳ

Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại. (45)                                                                                                    Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ của Nghị viện. (46)

Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. (113) (5 năm)

Hình thành chính phủ

-   Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận.

-   Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối.

-   Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ, không phải chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính phủ do Nghị viện thành lập và Nội các phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện.

-   Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội đồng Chính phủ duyệt y.

-   Nhân viên Ban thường vụ Nghị viện không được tham dự vào Chính phủ

-   Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch mới.

-   Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong nhân dân và bầu theo lệ thường.

Khi Chủ tịch từ trần hay từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền Chủ tịch. Chậm nhất là hai tháng phải bầu Chủ tịch mới.

Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Thủ tướng thoả thuận với Ban thường vụ để chỉ định ngay người tạm thay cho đến khi Nghị viện họp và chuẩn y. (48)

-   Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra.

-    Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng phải là đại biểu Quốc hội.

-    Các thành viên khác của Chính phủ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Căn cứ vào đó, Chủ tịch nước tiến hành bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức.

Các thành viên này không nhất thiết là đại biểu Quốc hội

-    Chính phủ: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (3-114)

-    Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với QH, UBTVQH, Chủ tịch nước

-    Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng.

-     Các bộ, cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định thành lập theo đề nghị của Thủ tướng

-    Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý NN về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước. Có quyền ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.

-     Bộ trưởng và các thành viên khác của CP chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.

2.2. ĐIỂM KHÁC BIỆT VỀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA TRONG HIẾN PHÁP 1946 VÀ HIẾN PHÁP 1992

Hiến pháp 1946 gọi nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước. Theo quy định của hiến pháp Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 do Nghị viện (Quốc hội) bầu ra và phải được 2/3 tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Chỉ tịch nước được bầu trong 5 năm và có thể bầu lại. Nội dung này được thể hiện tại điều 45 - Hiến pháp 1946. Chủ tịch nước được Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền hạn rất lớn ( Điều 49): có quy định Chủ tịch nước là người thay mặt cho nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm thủ tướng, nhân viên nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay đình chiến khi Nghị viện không họp được. Vai trò của Chủ tịch nước còn được đề cao tại Điều 36 - Hiến pháp 1946 khi có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận những luật đã được Nghị viện biểu quyết. Quy định này của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các quyền lực trong cơ cấu quyền lực để tránh sự lạm quyền của Nghị viện và đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và tính khả thi của các đạo luật. Với cương vị là người đứng đầu cơ quan hành pháp - cơ quan trực tiếp thự hiện pháp luật thì việc Hiến pháp quy định quyền này cho Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng mềm dẻo về sự phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp trong điều kiện lúc đó. Nhiệm kì của Chủ tịch nước là 5 năm.

Xét về hình thức, việc ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia thành một chương riêng trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp 1992 có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp 1946. Nguyên thủ quốc gia tại Hiến pháp 1992 được coi là Chủ tịch nước. Hiến pháp 1992 coi Chủ tịch nước và Chính phủ là hai chế định khác nhau, lúc này Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ nữa mà chỉ là người thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, trong Hiến pháp 1992 quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn như thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh (Điều 103); Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 105); Hiến pháp 1992 với mục đích đề cao vai trò của tập thể đã chuyển một số quyền hạn của Chủ tịch nước được ghi nhận tại Hiến pháp 1946 sang cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bên cạnh đó lại quy định những quyền hạn khác của Chủ tịch nước mang tính chất thủ tục như công bố luật, pháp lệnh, công bố các lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ,…(Điều 103). Nhìn chung, Hiến pháp 1992 không quy định Chủ tịch nước có quyền giải quyết những vấn đề cụ thể mà Chủ tịch nước chỉ có quyền công bố các quyết định được thông qua bởi cơ quan khác. Tại điều 102 Hiếp pháp 1992 quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, có nhiệm kỳ bằng nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Đây là điểm khác biệt của Hiến pháp 1992 với Hiếp pháp 1946. Trong Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước còn hạn chế bởi việc không quy định ứng cử viên Chủ tịch nước phải là đại biểu Quốc hội, được chọn trong số các nghị sỹ của Nghị viện nhân dân như Hiến pháp 1946. Với việc quy định và ghi nhận chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp 1992 thực sự là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động, do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân.

        Như vậy, theo HP 1946 thì nguyên thủ quốc gia (chủ tịch nước) thuộc cơ cấu chính phủ và đứng đầu chính phủ. Nhưng trong Hiến pháp 1992, chủ tịch nước được quy định thành một chế định riêng tại “Chương VII. Chủ tịch nước ”. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, mà không đứng đầu chính phủ, lãnh đạo chính phủ như trước. Vì vậy, thẩm quyền của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992 bị hạn chế nhiều so với Hiến pháp 1946. Những đặc quyền của Chủ tịch nước được quy định trong Hiến pháp 1946 như: quyền yêu cầu nghị viện thảo luận lại những luật và nghị quyết mà Nghị việc đã thông qua; quyền không phải chịu một trách nhiệm nào ngoài tội phản bội Tổ quốc…đến Hiến pháp năm 1992 thì là đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;"…

Trong hiến pháp 1992 thì thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;

2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;

3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên;

5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;

6- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết.

2.3. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA CƠ CẤU CÁC BỘ VÀ CƠ QUAN NGANG BỘ GIỮA HIẾN PHÁP 1946 VÀ HIẾN PHÁP 1992 VỀ THÀNH PHẦN TỔ CHỨC

               

Các bộ, cơ quan thuộc chính phủ

(nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX (1992-1997)

Các bộ, cơ quan thuộc chính phủ (3/11/1946)

Bộ Quốc phòng;

Bộ Quốc phòng;

Bộ Công an;

Bộ Ngoại giao;

Bộ Ngoại giao;

Bộ Tư pháp;

Bộ Tư pháp;

Bộ Tài chính;

Bộ Tài chính;

Bộ Công thương;

Bộ kinh tế

Bộ Xây dựng

Bộ LĐ, TB và XH

Bộ lao động

Bộ Giao thông vận tải;

Bộ Giao thông Công chính

Bộ Văn hoá - Thông tin    

Bộ GD và ĐT

Bộ giáo dục

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Bộ Canh nông

Ủy ban Kế hoạch Nhà nước:            

(từ 10-1995 đổi là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư)  

Bộ Y tế;

Bộ Y tế;

Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường

Bộ Thủy sản

Bộ Nội vụ.

Bộ Nội vụ.

Bộ văn hoá,thể thao và du lịch

Bộ Cứu tế (giải thể năm 1947)

Thanh tra Chính phủ

Quốc vụ khanh

Ngân hàng Nhà nước

Văn phòng Chính phủ

Ủy ban Dân tộc và Miền núi

Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em   

Ủy ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình

 

Bộ Quốc phòng Việt Nam là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, quản lý và điều hành Quân đội Nhân dân Việt nam, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, phòng thủ quốc gia. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, điều hành quân đội đồng thời là ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh quốc gia, phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (Việt Nam).

Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; tổ chức chính quyền địa phương, quản lý địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; tổ chức hội và tổ chức phi Chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước và quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: việc làm, dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), an toàn lao động, người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới, phòng, chống tệ nạn xã hội (sau đây gọi chung là lĩnh vực lao động, người có công và xã hội) trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực do Bộ quản lý.

Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục phápluật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

 Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: tài chính (bao gồm: ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước, dự trữ nhà nước, tài sản nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Bộ Giao thông vận tải là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng hải và hàng không trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.

Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bao gồm các lĩnh vực: y tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh; phục hồi chức năng; giám định y khoa, pháp y, pháp y tâm thần; y dược cổ truyền; dược; mỹ phẩm; an toàn vệ sinh thực phẩm; trang thiết bị y tế; bảo hiểm y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình; sức khỏe sinh sản; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà n­ước về giáo dục và đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và các cơ sở giáo dục khác về các lĩnh vực: mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch, chất lượng giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; quy chế thi, tuyển sinh; hệ thống văn bằng, chứng chỉ; cơ sở vật chất và thiết bị trường học; quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ

Bộ Ngoại giao là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại, gồm: công tác ngoại giao, biên giới lãnh thổ quốc gia, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế, quản lý các Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, hoạt động của các Cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

3.KẾT LUẬN

        Vì tầm quan trọng của chính phủ trong cấu trúc quyền lực nhà nước, mỗi lần thay đổi hay sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, thì việc xác định lại vị trí, vai trò của Chính phủ - hành pháp lại nổi lên một cách gay gắt. Cuối cùng cả 4 bản Hiến Pháp của nhà nước ta và kể cả lần sửa đổi mới đây của năm 2001, có tới 5 định nghĩa khác nhau về chính phủ - hành pháp, mỗi lần thay đổi Hiến pháp lại có sự thay đổi về mặt ngôn từ. Nhưng suy cho cùng thì định nghĩa của Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thông qua dưới sự chỉ đạo một cách sát sao của chủ tịch Hồ Chí Minh là có phần đúng và cô đọng hơn cả.

        Tóm lại qua những phân tích ở trên ta có thể thấy được phần nào sự phát triển của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ việc so sánh có thể thấy, tuy định hướng nhưng tổ chức quyền lực nhà nước vẫn nhất quán thể hiện bản chất nhân dân, dân tộc giai cấp một cách quyện chặt nhằm “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” thể hiện tính kế thừa trong sự phát triển và tính phát triển trong sự kế thừa của Chính phủ Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: