Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 19. Việc lành

VIỆC LÀNH

Tin mừng theo thánh Luca kể: "Có một người phú hộ kia được trúng mùa rất khá, nên suy tính trong lòng: tôi phải làm gì đây? vì tôi không còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu được nữa". Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này: phá quách các lẫm kia đi, và xây nhiều kho lẫm lớn hơn, rồi chất tất cả lúa má cùng của cải vào đó. Rồi rôi sẽ nhủ hồn tôi: "Hồn tôi ơi, mày có của dư thừa, dự trữ đủ cho hàng mấy mươi năm; ăn đi, uống đi, hưởng đi!" Nhưng Thiên Chúa phán bảo ông ta: "Đồ ngốc! Ngay đêm ngay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại linh hồn ngươi, thế mọi điều ngươi tích trữ sẽ về tay ai? Đối với kẻ lo chất của cải cho mình mà không biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa cũng thế đấy!" (Lc 12:16-21). Của cải chúng ta trước mặt Thiên Chúa, chính là ơn thánh sủng. Kho tàng đó có thể tăng thêm. Trong chúng ta là những Kitô khác, nhờ ơn Thánh sủng, đời sống thần linh có thể gia tăng mãi. Tự nguồn gốc, chúng ta là những vị chúa đang hé nụ, theo như lời các giáo phụ đã nói, và được gọi để trở thành những "vị chúa đang nở

hoa". Thoạt tiên chúng ta chỉ có một chút "Bản chất Thiên Chúa" (Hb 3:14). Chúng ta phải "tiến đến chỗ nẩy nở hoàn toàn". (Col 2:19).

Ơn thánh sủng có thể tăng triển. Trong vòng bao lâu? Trong suốt đời chúng ta, đến giờ trút hơi cuối cùng. Mực độ ơn sủng chúng ta có trong giờ chết sẽ là mức độ vinh quang của chúng ta trong cõi đời đời. Thế mà bây giờ lại không thích khuyếch trương kho tàng ấy sao? Điều sẽ làm cho niềm vui chúng ta được cao tột bậc hoặc sẽ làm cho chúng ta đau khổ triền miên, trong giờ lìa đời, chính là cách chúng ta đã sử dụng thời giờ của chúng ta. Thời gian này, nếu muốn, chúng ta tích trữ vàng bạc để mua nước trời.

Cha xứ Ars đã nói: "Về một vài phương diện, chúng ta được hạnh phúc hơn các công dân Nước Trời; các Thánh chỉ có thể hưởng mối lợi sẵn có, còn chúng ta, hằng giây phút, chúng ta có thể tăng cường vốn liếng chúng ta".

Chúng ta sẽ lầm lạc lớn nếu qui định rằng ở dưới thế này chúng ta có thể đạt đến một bậc hoàn thiện cao độ đến không còn vươn mình lên được nữa. Tuy nhiên, dầu chúng ta leo cao đến đâu, luôn luôn chúng ta cũng vẫn còn xa Đức Trinh Nữ muôn dặm, huống hồ gì là Chúa Giêsu Kitô, là sự sung mãn và là nguồn Ơn Thánh Sủng.

Có mấy cách để làm tăng ơn thánh này? Có hai.

1) Nhờ các bí tích, bí tích người chết, hoặc bí tích người sống, nếu được lãnh trong tình trạng ơn thánh. Đó là trường hợp các người xưng tội, mà không mắc tội trọng nào, hoặc chịu phép Thánh Tẩy hay giải tội sau khi thật lòng ăn năn thống hối.

2) Nhờ các việc lành. Có ba việc lành bao gồm hết các việc khác:

- Cầu nguyện, bao gồm tất cả mọi việc đạo đức. - Ăn chay, bao gồm hết các hy sinh hãm mình.

- Làm phúc, đại diện cho mọi việc bác ái.

Mỗi việc lành điều có ba giá trị. Giá trị lập công: tăng thêm ơn thánh sủng và vinh phúc đời đời. Giá trị đền bồi: đền bồi các tội nhẹ cách gián tiếp, khi nhờ đó ăn năn tội ít nữa là cách chẳng trọn, và những hình phạt tạm. Giá trị khẩn cầu: mang lại cho chúng ta nhiều ân huệ thiêng liêng và thế trần.

Giá trị lập công dính liền với cá nhân chúng ta. Còn giá trị đền bồn và khẩn cầu, chúng ta có thể giữ cho mình hoặc thông chia cho tha nhân. Muốn một việc lành có giá trị lập công, chúng ta phải thực hiện việc lành đó trong tình trạng ơn thánh và với ý hướng ngay thẳng.

1. Tình trạng Ơn thánh.

Muốn bóng đèn điện cháy sáng, cần phải có gì? Dòng điện phải chạy qua, dòng điện không được bị cắt. Còn muốn cho một chi thể được nẩy nở? Chi thể đó phải dính liền với thân thể. Còn muốn cho cành cây sinh hoa kết trái? cành đó phải bám sát với cây. Còn muốn cho các việc của chúng ta được có công trạng? Chúng ta phải kết hiệp với Chúa Kitô bằng ơn Thánh sủng. Chính Người đã phán: "Vì xa Ta các con không làm được chi" (Jn 15:4) để đáng rỗi linh hồn.

Như thế phải chăng các việc lành thực hiện khi còn phạm tội trọng, đều vô ích? Không. nhờ chúng, chúng ta có thể nhận được nhiều lợi lộc đời này và cả ơn cải tà quy chánh. Một người vô tín ngưỡng, vô luật pháp vẫn phát đạt ở đời này? Vì sao? Vì họ làm việc lành, các việc đó Chúa sẽ không thưởng ở đời sau, vì Chúa thưởng ở đời này. Người đó đã cải tà quy chánh. Tại sao? Chính các việc đã đem lại cho họ ơn đó.

Chính vậy, vấn nạn này chẳng có gì khúc mắc cả: ai giầu thật sự, ai nghèo thật sự? Người giầu là người sống trong tình trạng ân sủng, người nghèo là kẻ tội lỗi. Đây hai người bạn đồng nghiệp, họ rước lễ vỡ lòng cùng ngày, họ lập gia đình cùng lúc, con cái của cải lại đều nhau, có trai có gái. Người thứ nhất luôn luôn sống trong ơn thánh, hoặc có lỡ phạm một tội trọng thì liền chỗi dậy ngay. Người kia sống năm mươi năm trong vũng tội, nhưng đến giờ chết đã trở lại. Cả hai đều chết trong ơn nghĩa Chúa. Người thứ nhất ra sao? Mỗi một việc lành, mỗi một kinh nguyện, giây phút cuộc đời ông đều tăng vinh quang đời đời của ông, đều đính thêm một hạt ngọc vào triều thiên bất diệt của ông. Còn người thứ hai? Ông cũng được vào Thiên Đàng, nhưng năm mươi năm cuộc đời trôi qua phung phí và không đem lại cho ông một phần thưởng nào. Năm mươi năm lao nhọc, năm mươi năm qua đi uổng công. Có buồn chăng?

Anh Thanh muốn cưới cô Lan. Theo đức khôn ngoan, chàng đến tham khảo ý kiến cha xứ, sau khi đã cầu nguyện nhiều và đã hỏi ý cha mẹ.

Trước hết chàng bảo: "Nàng không có của hồi môn". Cha xứ lấy quyển sổ tay ghi một con số không to tướng. "Nhưng nàng đẹp ghê". Cha xứ lai khoanh một con số không!..."Nàng lại biết chơi dương cầm và hội hoạ". Thêm một con số không thứ ba..."Nàng rất giỏi về việc nội trợ". Con số không thứ tư. "Gia đình nàng thuộc một trong số nhà kỳ cựu trọng vọng nhất trong xóm làng". Con "dêrô" thứ năm "Và nàng đã đậu cử nhân". Nối thêm con "dêrô" thứ sau. "

A, con quên, nàng là một người công giáo rất tốt". Nghe câu đó, cha xứ ghi ngay con số 1 trước đây số không rồi đưa quyển sổ cho chàng thanh niên và bảo: "Nhanh lên, cưới nàng đi, nàng đáng giá bạc triệu đấy" Không có ơn thánh, tất cả mọi việc lành chúng ta làm đều là những con số không trong cõi đời đời.

2. Ý hướng ngay lành.

Muốn gửi thư đến nơi, chúng ta phải đề địa chỉ ngoài phong bì. Nếu bạn muốn Chúa vui lòng chấp nhận các việc bạn làm, bạn hãy làm các việc đó vì Chúa. Khi chiều đến bạn có trả lương cho một người thợ chỉ làm công cho người láng giềng bạn không? Thiên Chúa không mắc nợ bạn gì cả, nếu bạn không làm việc cho Ngài. Phải làm các công việc với một ý hướng ngay thẳng, trong sạch, siêu nhiên. Làm vì Chúa. Về các người chỉ làm để được người đời dòm ngó, Kinh thánh có chép: "Họ đã lãnh phần thưởng rồi" (Mt 6), họ không còn gì ở trên trời nữa. Họ đã đặt gia tài của họ "trong một chiếc bao thủng đáy" (Ag 1:6). Đến ngày công phán, họ sẽ trình diện với đôi bạn tay trắng. Chịu cực khổ đấy, nhưng tuyệt nhiên chẳng được gì.

Muốn có ý hướng ngay thẳng luôn, phải làm thế nào? Mỗi sáng, bạn hãy dâng ngày cho Chúa. Rồi trong ngày, thỉnh thoảng, bạn nên dâng lại bằng những lời nguyện vắn tắt.

Kinh sáng! Mọi trẻ em được giáo dục mỗi sáng khi thức dậy đều nhớ chào cha mẹ.

Câu người Công giáo chào hỏi Chúa, lối người tín hữu bày tỏ lòng cung kính đối với Chúa, đó là kinh nguyện buổi sáng. Đọc kinh sáng thế nào? Khi thức dậy, bạn hãy làm dấu thánh giá rồi đọc kinh như có

chỉ trong các sách kinh nguyện: công thức đơn sơ, nhưng không có công thức nào đẹp hơn. Không cần đọc kinh nào khác; nhất là đừng thêm những công thức phiền toái dài dòng. Nhớ đọc thêm ba kinh Kính Mừng: Kinh rất hiệu nghiệm để giữ bạn sống suốt ngày trong ơn nghĩa thánh.

Tại sao lại cầu nguyện vào buổi sáng? Để ngày sống của chúng ta được nên công phúc. Công trạng: vâng. Một khi được siêu nhiên hóa nhờ sự dâng ngày, tất cả mọi hành động, vui buồn, cực khổ trong ngày đều biến thành kinh nguyện; do đó, hằng giây phút bạn hằng nguyện cầu, từ sáng tới tối. Hạnh phúc: Vâng. Bạn sẽ hài lòng hơn, bạn sẽ vui tính hơn. Có những người càu nhàu suốt ngày: thế giới, loài người, đời sống đè nặng trên vai họ. Tại sao vậy? Thường thường, vì họ biếng nhác không đọc kinh sáng. Cả ngày đều tùy thuộc vào kinh đó.

Kinh dâng ngày buổi sáng đủ lắm rồi, nếu trong ngày đó chúng ta không phạm tội gì nặng. Nếu buổi sáng bạn lên phố, bạn không cần phải cứ mỗi bước phải lẩm nhẩm: "Tôi đi lên phố" Không cần nói thế, bạn cũng đến nơi. Cũng vậy, nếu mỗi buổi sáng, nhờ sự dâng ngày cho Chúa bạn đã lên đường về Thiên đàng, và giả thiết bạn sống mãi trong tình trạng ơn thánh, thì tất cả mọi việc lành của mình dù tốt dù "trung lập" (như lao lực, dùng bữa, ngủ nghỉ), đều được công trạng và đáng phần thưởng đời đời, dầu sau đó bạn không nghĩ đến. Nhưng, nếu trong ngày, bạn lỡ sa ngã phạm một tội trọng, bạn phải trở lại ngay tình trạng ơn nghĩa bằng cách xưng tội hoặc ăn năn tội cách trọn với ý muốn xưng tội; rồi bạn hãy dâng ngày lại.

Ý hướng ngay lành là nguồn sinh nhiều công việc vô kể. Các bậc tôn sư trong đời sống thiêng liêng gọi ý hướng ngay lành và một thứ kim hóa học biến tất cả thành vàng. Thánh nữ Mađalêna Pazzi tuyên bố: "Kẻ nào làm mọi việc với ý hướng trong sạch, sẽ đi thẳng về Thiên đàng, mà không ghé qua luyện ngục". Thánh Anphongsô bảo: "Các việc đó đều là hành vi yêu Chúa; mà, kẻ chỉ sống vì tình yêu mến Chúa thì không thể đi đến nơi nào khác ngoài nước Thiên Đàng".

Trong một tu viện Phanxicô, có một thầy thợ may tuổi cao: thầy Leon. Ngày về nằm với đất đã quá gần. Và cũng từ lâu, lâu lắm rồi, thầy làm việc không ngừng, nhưng giờ đây, nằm trong căn phòng riêng, giữa các cha thầy bạn, thầy đang đợi bóng tử thần. Các lời kinh cuối cùng đã được đọc xong. Bỗng người già liệt chồm dậy bảo; "Xin các thầy đem cho tôi chiếc chìa khóa mở cửa Thiên Đàng của tôi". Người ta đem lại cho thầy một quyển sách cũ kỹ nhan đề "Chìa khóa mở cửa Thiên đàng". Người liệt lắc đầu. Người ta tuần tự đưa lại cho thầy Thánh giá, quyển luật, chuỗi hạt Mân Côi thầy vẫn quen dùng. Nhưng cũng không phải. Không phải, ai nấy đều ngỡ ngàng vì chẳng ai đoán ra được ý thầy muốn cái gì. Chiếc chìa khóa nước trời đó là cái gì bây giờ? Phải chăng lời kêu xin lạ lùng đó chỉ là hậu quả của cơn mê sảng?

Nhưng, này, một thầy già đã đoán được. Thầy đi tìm cây kim thầy Leon đã dùng từ bao năm qua. Bây giờ, mắt thầy sáng lên, trên đôi môi nhạt úa đã tươi nở một nụ cười ngây ngất! Hai tay thầy chụp lấy cây kim và miệng thầy than thở, tiếng nói đứt quãng: "Hỡi người bạn cũ kỹ, chúng ta đã làm việc nhiều: nhưng tôi đã hiến dâng mọi công việc của tôi cho vinh Danh Chúa, để được phần vinh phúc muôn đời. Giờ đây sợi dây ràng buộc đời tôi đã dứt, nơi cây kim được chúc phúc, bạn sẽ là chìa khóa nước trời của tôi và bạn sẽ mở cửa Thiên đàng cho tôi".

Rồi thầy tắt thở. Nụ cười trên môi. Cây kim thầy nắm trên lồng ngực. Mọi người quỳ gối bên giường thầy nhắn nhủ nhau: "Thầy Leon chết ngon lành quá nhỉ!"

Vị tu sĩ canh xác xúc động lên tiếng: "Kính thưa anh em tất cả, ước gì tất cả chúng ta đều được chết như thế! Chớ gì công việc của mỗi tu sĩ đều biến thành chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho mình".

3. Sự thánh thiện thuộc tầm sức của mọi người.

Dù công việc chúng ta có khiêm tốn đến đâu, chúng ta có thể tích trữ cho chúng ta những kho tàng công nghiệp siêu nhiên. Isiđôrô, một bác nông phu; Anna Taigi, một bà chủ gia đình nghèo khó; Zitô, người nô tỳ; Bênêdictô Labre, người ăn xin. Nhưng tất cả các người đã được Giáo Hội tôn phong lên bàn thờ. Matt Talbot, phu khuân vác; Margarita Sinclair, một nữ công nhân, thế mà thiên hạ ngày ngày vẫn khẩn cầu họ là thánh. Thường thường, cuộc đời tầm thường nhất ở dưới thế lại là cuộc đời đầy công phúc nhất trước mặt Thiên Chúa.

Thói quen nhàm chán lúc nào cũng mang lại cho bạn những công việc nho nhỏ mệt nhọc ư? Hai mươi tư giờ trong ngày bạn chỉ toàn đầy những công việc lặt vặt, tỉ mỉ ư? Bạn đang chạm trán, không phải với một nhiệm vụ lớn lao nhưng với phận sự vô nghĩa xoàng xĩnh bực bội ư? Chính đó là lúc bạn lập lại ý hướng ngay lành, nỗ lực tiến bước, và phát giác vẻ đẹp và giá trị thần linh dưới lớp vỏ xù xì của những công việc nhàm chán.

Rủi ro thay, chúng ta đặt sự thánh thiện trong các việc phi thường.

Một lầm lẫn khác: chúng ta ít hài lòng về cái hiện có, chúng ta khao khát điều khác lạ, chúng ta bị ám ảnh vì ý nghĩ muốn, đổi chỗ, dời nhà.

Ông bà "Tha Phương" xưa kia bị lâm cái bệnh rất phổ biến được mệnh danh là bệnh "thích cựa quậy" mà đặc tính không ngớt ao ước thay đổi chỗ ở. Nhà họ là một biệt thự xinh xắn, đối với họ lại là một nhà tù. Họ quyết định bán đi, tậu một căn nhà khác. Sau khi liên lạc với cơ quan mua nhà và thuê mước nhà ở, họ đi tìm một căn nhà mới. Trên mặt báo họ đọc thấy có hàng tin ngắn quyến rũ :"Cần bán: nhà nhỏ cổ kính. Giòng sông rất đẹp. Săn bắn. Câu cá. Khí hậu thơm lành. Di dưỡng sức khỏe. Xin liên lạc với..." Họ bảo: "Nè, nè ngon quá! Còn muốn gì hơn nữa?" Họ chạy xuôi chạy ngược và cuối cùng mới biết câu quảng cáo đó là chính quảng cáo cho chính căn nhà của họ. Quả là một mạc khải thật sự mở mắt cho họ. Họ bảo nhau: "Mà thực, nhà chúng mình như thế đấy. Thế mà ta lại định bán đi!" Rồi họ lại trở về, và hiện nay vẫn còn đang ở đó.

Bạn hãy ở lại nơi bạn đang ở. Không phải nghề nghiệp hay nơi chốn làm nên công nghiệp đâu: nhưng chính là ơn thánh và ý hướng ngay lành.

Đây, một thánh nhân tại xưởng thợ. Một đấng thánh trông thật đáng thương. Một người thợ giữa biển thợ mênh mông. Làm phu khuân vác tại một nhà buôn gỗ và làm thợ một tại Dublin. Khi dạo bước trên bến "Chương Dương" bạn gặp một anh khuân hàng, hoặc tại các ga xe lửa, bạn thấy một bác lao công chân tay lấm lem, thân người rã rợi vì công việc...biết đâu đó lại chẳng phải là một thánh nhân, một thánh nhân có thể làm cho tất cả mọi nhà đạo đức chuyên nghiệp phải hổ thẹn.

Matt Talbot, sinh tại Dublin. Ngày 2 tháng 5 năm 1856. Mãi tới năm 28 tuổi, trong đời không hề thấy có gì biểu lộ nghị lực bí mật mà một ngày kia, nhờ ơn Chúa giúp, sẽ nâng cao linh hồn ông. Cũng như bao nhiêu người khác, ông cũng bị cám dỗ nhậu nhẹt. Lương hàng tuần của ông chỉ trong một ngày là tiêu tán sạch. Dần dần, ông xa lìa đời sống đạo hạnh. Một hôm, ông nói với thân mẫu "Con sắp ký tờ "pledge", tức là tờ cam đoan sống điều độ, ở Ái Nhĩ Lan, ông tình nguyện sống như thế ba tháng, rồi một năm, rồi cả cuộc đời. Thiên Chúa đợi ông ở đấy. Một khi bị khuất phục, thân xác trở nên tên đầy tớ phục vụ linh hồn. Được lời cầu nguyện và sự rước lễ nâng đỡ, người công nhân dần dần tiến lên, từ chỗ kiêng khem giản dị, đến mức hy sinh anh hùng nhất.

Trước kia, Talbot đã học nghề thợ nề, nhưng vì không thể dự lễ trước khi khởi sự sống ngày hôm đó, nên ông đành làm chân thợ phụ để giữ phúc rước lễ hằng ngày. Làm thuê cho một tiệm buôn gỗ, ông phải khuân vác suốt đời.

Bên ngoài, Talbot là một công nhân gương mẫu. Làm việc tận tụy. Đầy nhiệt huyết và hết sức thanh liêm. Ngoài ra, còn là một người bạn tuyệt vời nhưng cũng biết dùng sự hiện diện để ngăn cản bất cứ một lời nói tục tằn thô lỗ nào.

Theo lời các ông cai, thì Talbot không bao giờ đi làm trễ giờ. Các giờ nghỉ, Talbot rút lui vào một nhà xe và cầu nguyện cho các bạn hữu mình. Luôn luôn nhã nhặn, giúp đỡ mọi người, vô vị lợi.

Một hôm, ông phải nhanh tay khuân vác hàng hóa ở tàu lên bờ. Để tưởng thưởng công việc phụ trội đó, mỗi người được lãnh thêm hai quan rưỡi. Matt không chịu trình diện để nhận tiền. Bác cai hỏi ông, ông trả lời rằng trong tuần ông thường được những phút nhàn rỗi: vậy chẳng phải là công bằng khi công việc gấp rút, mình phải cố gắng nhiều hơn một cách nhưng không sao? Xét tự bên trong, Talbotr quả là một vị tu hành. Đời sống là đời cầu nguyện và hãm xác đền tội.

Ra khỏi xưởng. Matt đi ngay vào nhà thờ viếng Mình Thánh Chúa, rồi vào phòng đóng cửa lại, ông nguyện ngắm liên tiếp ba tiếng đồng hồ. Sau giấc ngủ vắn vỏi trên một tấm ván trơ trụi, ông lại thức giấc, lúc đó chỉ mới hai giờ sáng, qùy gối, giang hai tay, cầu nguyện. Nhà thờ vừa mở cửa là đã thấy ông chực sẵn trước tiền đường, hai gối qùy trên nền gạch. Dự lễ và rước lễ xong, ông đến xưởng làm việc, nhưng đối với ông công việc nặng nhọc chỉ là một hình thức khác của việc cầu nguyện mà thôi.

Ngày Chúa Nhật, ông quỳ cả buổi sáng dưới chân bàn thờ, không cần ghế dựa, và mãi đến sau hai giờ trưa mới chịu về nhà dùng cơm nước. Rồi ông lại đến nhà dự các buổi cầu nguyện, cũng như các phiên họp Dòng Ba Phanxicô và Hiệp hội Thánh Mẫu. Thực vậy, cũng như mọi người Ái Nhĩ Lan đạo đức khác. Matt Talbot thật lòng tôn sùng Mẹ Maria cách sâu xa với lòng đầy tin tưởng.

Người nghèo đó lại là người nghèo tuyệt vời. Hầu như ông không xài phí gì cả cho chính mình, lại tìm ra phương tiện mỗi năm dâng cúng hơn 3,000 quan vào các bệnh viện miễn phí, các công cuộc xã hội và nhất là cho các xứ truyền giáo.

Matt Talbot còn sống giữa những tháng năm 1920 tới 1925, một thời gian còn ghi đậm nét lịch sử trong tâm não, một thời gian đã có biết bao nhiêu thánh nhân đang cứu chuộc cái thế giới tồi bại này bằng giá cuộc đời mai danh ẩn tích và thầm lặng, bằng giá hy sinh và nghèo khó. Talbot đã ghi lại nhận xét đơn sơ sau đây: "Con cái loài người không biết vẻ cao đẹp của vĩnh cửu cũng như chẳng hiểu cái hèn mạt của thế tục. Thời gian đời người chỉ là cuộc chạy đua đến chỗ chết và không ai được phép nán lại đó".

Ngày Chúa nhật 7 tháng 6 năm 1925, ông bị té xỉu trên đường tới nhà thờ. Một tai nạn thường. Dân chúng chạy tới. Người ta đi tìm một chút nước. "Ông ơi, ông sắp được vào thiên đàng rồi đấy!", một bà già lúc đó vừa nói vừa đưa tách nước lên môi Talbot. Và Matt Talbot đã tắt thở.

Nhưng, khi xác được chở tới bệnh viện để rửa, người ta đã thấy một dậy nịt sắt chung quanh bụng ông. Chính sợi dây lúc đầu ông đeo quanh cổ và lưng; song vì phải khuân gỗ suốt ngày dây xích sắt vướng mắc và đâm thủng vào thịt, nên buộc lòng ông phải cuốn quanh bụng.

Giáo quyền rất xúc động khi hay tin đó. Một cuộc điều tra bắt đầu. Nhờ đó chúng ta mới được biết các điều tuyệt diệu vừa được phác họa trên đây. Danh tánh của người công nhân nghèo khó đã được đưa ra ánh sáng. Các chứng cứ ùn ùn dồn tới. Sau cùng, với các nhân đức Matt đã thực hiện trong buổi thiếu thời, các chứng cứ đó đã bắt đầu minh chứng uy quyền Thiên Chúa đã ban cho ông sau khi ơn trở lại đạo thánh, ơn lành bệnh, ơn tìm được việc, ơn giao hoà trong gia đình, ơn chữa khỏi bệnh say rượu.

Được sống trong một thế giới có những vị thánh như thế và nhiều thánh như thế, thật vui sướng biết bao!

Thánh Isiđôrô, bổn mạng các bác nông phu, sinh tại Thủ Đô nước Tây Ban Nha (Madrid), vào hồi thế kỷ 11. Một phần lớn nước này lúc đó rơi trong tay đoàn quân Hồi Giáo (Maures). Người Công giáo phải tinh khéo mới giữ được đức tin và đời sống đạo. Cha mẹ người, cũng làm nghề cầy cấy, đã truyền lại cho người một đức tin tinh tuyền. Theo lời người chép sử thì người nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có đủ phương tiện để đi học. Người ở nhà giúp đỡ thân phụ trong việc đồng áng, rồi mãi sau muốn lập gia đình, người phải đi ở thuê cho một người ở trên phố và được phái tới làm tại đồng đền ở Ca-RaMăng-Ca (Caramancha).

Cũng như mọi bác nông phu người Việt, Isiđôrô phải cầy sâu cuối bẫm suốt ngày, mùa hè cam chịu sức nóng như thiêu đốt, mùa đông chịu hứng cơn lạnh như cắt da và những trận mưa tầm tã. Isiđôrô rất sợ các cơn giông phá hoại mùa màng và cảnh trời hạn hán rùng rợn. Isiđôrô cũng cảm thấy vang dội tận đáy lòng các niềm vui lành mạnh do đời sống nông thôn đem lại, yêu mến nghề nghiệp cao quý của mình, thích thú với bốn mùa thay đổi, với các dụng cụ và các thú vật chăm sóc. Các sử gia đã chẳng thuật rằng đối với súc vật, người có tình thương thắm thiết ư? Một hôm, người đã chữa lành bệnh cho con ngựa của người. Lần khác, người giải thoát con lừa cải của bác láng giềng khỏi miệng chó sói. Rồi một lần vào mùa đông, người đi ngang qua một đàn bồ câu đang đói, người động lòng trắc ẩn đổ hết cả túi lúa mì xuống đất cho đàn chim đáng thương đó.

Nhưng lòng yêu thích ruộng nương không chiếm trọn quả tim Isiđôrô. Người biết tự tách rời đúng lúc để dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi nồng nàn. Việc làm của người là một kinh cầu nguyện không ngừng. Chúng ta hãy ngắm người làm việc. Mỗi nhát cuốc, mỗi luống cầy, mỗi nhát liềm là một việc được tình yêu Thiên Chúa mà người đặt lên trên mọi sự.

Thức giấc trước khi mặt trời mọc, người đi dự lễ nguyện ngắm. Hằng ngày. Thỉnh thoảng, buổi nguyện ngắm được kéo dài. Công việc của người có phải vì thế mà thiệt thòi không? Các bạn người nghĩ thế và họ tàn nhẫn tố cáo với chủ. Ông chủ là người dễ tin và tọc mạch, muốn rình để xem sự thể. Từ sáng tinh sương, ông chui vào một cái hang để có thể tha hồ quan sát mà không sợ bị lộ tẩy. Mặt trời đã lên cao mà Isiđôrô vẫn chưa xuấn hiện. Ồ mà lạ nhỉ! Chiếc cầy của Isiđôrô đã nằm trên đám ruộng rồi kìa. Nó tiến đều, có cả hai con bò trắng tuyệt đẹp kéo cày theo sự điều khiển của một nhân vật huyền bí, một Thiên Thần. Ông chủ nhìn ngắm mà lòng kinh ngạc cũng như hổ thẹn khôn tả. Khi Isiđôrô đến, ông quỳ xuống dưới chân Isiđôrô xin lỗi vì đã tin nghe lời dèm pha nhạo báng. Ông đã hiểu rằng thời giờ dâng cho Thiên Chúa không phải là thời giờ vất đi và một đầy tớ như thế đối với ông là cả một kho tàng quý giá.

Yêu mến Chúa hết lòng, người nông phu nghèo khó đó cũng mến Ngài trong các hình ảnh sống động nhất của Ngài ở trần thế, tức là đám người bần khổ. Chính mình nghèo xơ xác Isiđôrô lại phân phát cho họ cả tiền lương đến nỗi không còn gì lại. Một chiều thứ bẩy, có người nghèo đến gõ cửa, Isiđôrô bảo vợ xem có còn gì trong nồi cơm trưa không. Maria, vợ người, biết rõ không còn gì cả. Tuy nhiên, bà vẫn đi coi và trở lại với chiếc nồi đầy ắp những món ăn ngon lành, khiến người hành khất được một mẻ no nê. Nhiều phép lạ khác thay phiền nhau phê chuẩn lòng đạo hạnh và đức bác ái tuyệt vời của Isiđôrô.

Isiđôrô yên nghỉ trong Chúa vào năm 1170, sau khi đã nhắn nhủ đứa con trai phải sống đạo hạnh và bác ái như người cha đã sống liên lỷ trước mặt nó. Di hài Người được gìn giữ trong Thánh Đường kinh Thánh Anrê. Tới năm 1719, vua nước Tây Ban Nha được lành bệnh lạ lùng nhờ động chạm tới xác Isiđôrô, nên đã thúc giục thỉnh cầu Giáo Hoàng tôn phong hiển thánh cho Người. Ba năm sau, Isiđôrô được đặt trên bàn thờ cho toàn thể giới Công giáo ngưỡng mộ, noi gương và cầu khẩn. (P. Marmoiton). Lạy Thánh Isiđôrô, xin giúp chúng con luôn sống trong tình trạng ơn thánh và luôn hành động với ý hướng ngay lành!

Vào thế kỷ 16 và 17, có nhiều vị thánh đã xuất hiện từ đám dân bán khai miền Paraguay, cực Nam châu Mỹ. Các vị quản đốc các địa phận truyền giáo có nói: "Có khi cả năm ở đây chẳng hề phạm tội trong nào!..."Có những vị Thánh, ở thế kỷ 20 sống giữa đám dân thôn quê và nông phu chúng ta. Họ không phàn nàn than trách vì áo quần xấu xí, vì nhà cửa thiếu tiện nghi. Họ không hổ thẹn vì ban tay chai cứng do công việc nặng nề được đưa lại. Công việc lao nhọc, họ không xem như việc cưỡng bách.

Họ không chửi thề khi phải dừng lại cho một chiếc xe hơi vui vút chạy qua. Họ không nhìn với khoé mắt thèm thuồng những nguy nga lộng lẫy của những nhà giầu có và các bàn ăn đầy cao lương mỹ vị. Họ bằng lòng với số lương hợp lý và tránh tỏ thái độ bất mãn hận thù. Họ không bán rao những câu nói văn chương, những lời hứa vàng ngọc. Họ không dùng óc mơ mộng hảo huyền về tương lai, vì họ cảm thấy mình là kẻ bất hạnh hoặc nạn nhân của bất công. Họ chuộng làm việc hơn là để phí mất thời giờ. Những ai ở nhưng không, những người ăn mày vì biếng lười, không tạo được chút thiện cảm nơi họ. Họ lương thiện như vàng ròng. Họ cầu nguyện bằng đôi môi với con tim, song nhất là bằng đôi tay. Họ cảm thấy gánh nặng cuộc đời đè trĩu trên hai vai nhưng vẫn tiến bước nhẹ nhàng trong cuộc sống. Họ ẩn thân dưới cánh tay ấm áp và mở rộng của Thiên Chúa. Họ biết rằng từ cảnh nghèo khổ của họ ở trần gian sẽ mọc lên mầm phong phú vô biên ở trên trời!.

Bên cạnh thánh Isiđôrô, các nông phu cũng nên khẩn cầu cùng thánh Hilariô (năm 450), Giám mục thành Arles. Người đã cầy ruộng để có thể làm việc bác ái dễ dàng hơn. Trí óc người minh mẫn khéo léo đến nỗi khi có một mình mà đã chế được những bộ máy tự động để hút nước ra khỏi các ruộng muối. Thêm một bác nông phu khác: Thánh Mariô ở Aventicum, từ trần vào năm 495.

Các nhà làm bánh cũng có một đấng thánh. Đó là Phaolô, sau này đã trở thành Giám Mục địa phận Verdun, qua đời khoảng năm 649. Tương truyền rằng, một hôm, vì qúa gấp, người đã nhảy vào lò nướng bánh đang cháy bừng để lấy chiếc mũ hơ trong đó.

Cậu chăn bò, Marcô, chết khoảng năm 300 vì đức tin. Cậu bị xử tử ở Bythynia, nhưng trước khi chết đã cải hóa ba bác thợ rèn có nhiệm vụ trói cậu.

Các bác đóng giầy cũng có quyền hãnh diện chứ. Ít nhất họ cũng đã có tới năm thánh quan thầy, thánh Arianô (+85), được chính thánh Marcô tấn phong Giám Mục Antiochia. Hai vị lừng danh khác; thánh Grépin và Créphinien (+287). Cả hai đều thuộc dòng quí tộc létien ra tay bắt đạo. Giống như thánh Phaolô, các người muốn tự tay nuôi sống, và nổi bật nhờ giá trị nghề nghiệp của mình. Khách hàng đông vô kể, mà phần nhiều là kẻ ngoại. Trước tiên các bác thợ giầy thánh đức đó lôi cuốn họ nhờ sự hiền lành và nhã nhặn luôn sẵn sàng phục vụ, rồi làm cho họ trở lại ngay giữa thời cấm cách. Các nhà đóng giầy này đã biến thành những nhà truyền giáo. Porphyrô thành Gaza (+421), chuyên viên vá dép tại Giêrusalem (+650) hành nghề đóng dép tại Rôma.

Các sử gia còn nói tới một thánh nhân hành nghề đốt than thánh Alexandres de Comée, miền Pont (+250). Là một thanh niên tuấn tú, khôi ngô, nên thánh nhân đã chọn nghề đó để thiên họ khỏi chú ý đến nhan sắc mình, nhưng nhân đức chói ngời của đấng thánh có giấu được ai. Do đó, Giáo Hội đã đặt người là Giám Mục và người đã được phúc chết vì đạo Chúa.

Một tay đầu bếp cả ngày quấn quít bên xoong chảo thành thánh được không? Ồ, được lắm! Thày Euphronysos là một người chuyên làm bếp vậy mà đã nên thánh (+950).

Và những bác thợ rèn Alexandre. Alphée, Zozime (+300) có nhiệm vụ trói cậu mục đồng Marcô chúng ta vừa nhắc tới trên kia, đã cảm thấy e ngại khi phải thi hành công tác, ba bác đã trở lại và chết vì đạo theo gương Marcô. Cả ba đều được phong thánh.

Có hai vị thánh làm nghề ép nỉ: thánh Ménigne, tử đạo tại Pariar xứ Hellespont vào khoảng năm 250 và thánh Anastase qua đời năm 304. Sử gia của thánh Anastasio đã viết về người như sau: "Tiệm của người biến thành một nguyện đường: chính nơi trước đây đã dùng để tẩy uế áo quần, ngày nay, được dùng làm chỗ để tẩy rửa các vết dơ bẩn trong linh hồn người ta nhờ lời cầu nguyện.

Nhưng cũng chẳng có ai ngạc nhiên khi ngheo nói tới những vị thánh sống nghề làm vườn. Các người vun trồng các nhân đức cách tự nhiên như vun trồng cay rau lá cả. Thánh Phô-ca đê Sy-Nô (Phocas de Sinope +300). Cô-Nông-Đệ-Mang-Đô-Na (Conno deandona) ở Pamphyly (Pamphylie) và thánh Sê-rênô (Serenus +307). Cả ba Đấng đều gục ngã vì đạo Thánh. Tương truyền thánh giáo phụ. Paulin de Nole, đã tra tay làm vườn tại Bắc Phi để giải cứu đứa con trai của một góa phụ trong địa phận người.

Một bác thợ nề. Thánh An-tô-Nanh (Autonin) tử đạo ở A-pa-ê nước Syri (Apamée, Syria).

Các Thánh đục đá vừa đông lại vừa danh tiếng hơn ai hết. Trước tiên đây: bốn vị Thánh rất lừng danh thời thái cổ và trung cổ: Clô-Đê (Claude). Ni-Côt-Tra (Nicostrade). Cát-tô (Castor) và Sym-phong-riêng (Symphorian) bị xử tử vào khoảng năm 306, chỉ vì đã từ khước khắc tượng Thần Asclépios. Sách thuật chuyện cho thấy các vị làm việc trong các hầm đá miền Pan-nô-ny (Pannonie), là những giáo hữu cương quyết sống giữa lương dân, bị bè bạn và nhất là các "triết gia", nghĩa là các kỹ sư, các vị giáo đốc, quản đốc nhạo cười, bắt bớ như trong các xưởng thợ ngày nay ra sao? Tuy nhiên, các vị đã biết làm cho mọi người kính mến và quý trọng dưới tư cách công nhân, nhờ gía trị nghề nghiệp của các vị. Sự thành công và tính tình của các thánh lao công đó đã gây thắc mắc cho nhiều người. Rồi, sau nhiều lần chuyện vãn lâu giờ đã có nhiều người xin theo đạo. Họ đã ôm ấp đức tin.

Bác sĩ Nơ-Nê (Neubner) một giáo sư có tiếng của đại học đường Lép-Zic (Leipzig), vừa cho xuất bản tiểu sử phê bình về 350 vị Thánh lao động. Tác phẩm có minh chứng một chân lý ít được người đời để ý là người ta vẫn có thể tự thánh hóa bản thân dù sống trong địa vị cảnh thấp hèn nhất. Hay nói đúng hơn, người ta có thể nên Thánh bằng cách có một đời sống nội tâm đã được giản dị hóa rất nhiều: tức là tình trạng ơn thánh và ý hướng ngay lành luôn luôn song hành với nếp sống thường nhật đầy ứ công việc vật chất.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro