SỐ LẦN XUẤT TINH VÀ CÁC THUỐC TRỊ LIỆU
SỐ LẦN XUẤT TINH VÀ CÁC THUỐC TRỊ LIỆU
Hoàng Đế hỏi: "Nguyên tắc giao hợp theo Tố Nữ là ái tinh, thương quý cái tinh khí của mình, mà tránh xuất tinh, vậy thời khi muốn có con thì phải làm như thế nào ?"
Tố Nữ đáp: "Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng trẻ già khác nhau cho nên người ta phải tùy theo khí lực của mình mà giao hợp, không được cưỡng quyết (bắt ép thân thể mình làm quá sức chịu đựng của nó), cượng quyết tất tổn hại đến thân. Tốt nhất là:
Ø Ở vào tuổi 15 mà khí lực dồi dào mỗi ngày giao hợp và có thể xuất tinh hai lần, ốm yếu thì mỗi ngày một lần thôi.
Ø Ở tuổi 20 cũng vậy, không nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ thì một ngày hai lần, trong mình không được khỏe thì mỗi ngày một lần.
Ø Ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày một lần, người ốm yếu thì hai ngày một lần.
Ø Ở tuổi 40 mà khỏe mạnh thì ba ngày một lần, người ốm yếu thì bốn ngày một lần.
Ø Ở tuổi 50 thì năm ngày một lần nếu khỏe mạnh, ốm yếu thì mười ngày một lần.
Ø Ở tuổi 60 mà khỏe mạnh thì cỡ mười ngày một lần, ốm yếu thì hai mươi ngày một lần.
Ø Ở tuổi 70 mà khỏe mạnh thì mỗi tháng một lần, ốm yếu thì nên kiêng cữ không nên xuất tinh.
GHI CHÚ:
1. Sách "Ngọc Phòng Bí Kiếp" có ghi như sau:
Người ở tuổi 20 thường 2 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 30 thường 3 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 40 thường 4 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 50 thường 5 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 60 thì không bao giờ nên xuất tinh.
2. Một chỗ khác của kinh Tố Nữ có ghi:
Người 20 tuổi thường 4 ngày giao hợp một lần.
Người 30 tuổi thường 8 ngày giao hợp một lần.
Người 40 tuổi thường 16 ngày giao hợp một lần.
Người 50 tuổi thường 21 ngày giao hợp một lần.
Người 60 tuổi thì không nên bế tinh không nên xuất tinh nữa. Nhưng là nếu thân thể quá mạnh khỏe, cường tinh thì một tháng giao hợp một lần vẫn được. Nếu đã đến tuổi này mà cò sung sức cũng nên giao hợp, không nên quá kiềm chế. Con người thể lực khác nhau không đều, nếu sung sức mà quá kiềm chế thành ra mắc bệnh u uất, có hại hơn là xuất tinh khi giao hợp.
Ta thấy đoạn này có những con số khác với đoạn trên. Sự khác biệt là do qua các thời đại người ta viết nhiều sách, khắc đi khắc lại mà ra. Đại khái các sách về thuật phòng trung có: "Ngọc Phòng Bí Kiếp", "Thiên Kim Phương", "Ngự Nữ Chi Pháp", "Tố Nữ Chi Pháp", các con số nói trên đều tương tự như hai bản trên.
3. Sách "Dưỡng Danh Huấn" của ông Bố Nguyên Ích Hiên cho rằng một đời người chỉ được phép giao hợp tối đa là 1.800 lần mà thôi. Con số này là căn cứ trên quan điểm (2) của sách Tố Nữ.
4. Mới đây người Nhật nghiên cứu trên con người thời đại mới thì thấy rằng con số nói trên khác hơn nhiều. Bác sỹ Kim Soai cho biết trung bình một người trải qua 55 tuổi thì cũng đã trải qua 3.831 lần giao hợp. Tuy nhiên cũng có người cho rằng con số này vẫn quá ít, họ cho rằng khi một người đến 40 tuổi thì số lần giao hợp của họ đã ngang ngửa với con số do ông Kim Soai đưa ra rồi.
5. Sự khác biệt của hai con số thật ra không sai và cũng không khó hiểu. Người xưa giải quyết vấn đề theo nguyên lý âm dương, tất cả do âm dương bảo tồn tinh khí (xúc nhi bất tiết), từ đó có một con số về lần giao hợp nhỏ, ít. Người thời nay theo nguyên lý thực tế mà tính, vả lại người thời nay cường tráng hơn người thời xưa, bệnh tật cũng ít hơn do đó số lần giao hợp nhiều hơn. Một đàng thiên về "thể" (cái bản thể, căn cơ của giao hợp); một đàng thiên về "nhục" (cái thực tế, ước muốn của vấn đề giao hợp) cho nên lý lẽ của bên là rất khác biệt nhau.
6. Một người Nhật tên là "Tiểu Lâm Nhất Trà" ghi trong nhật ký của mình về chuyện phòng sự của ông ta vì ông ta cưới vợ vào năm 52 tuổi.
...8/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 5 lần.
...12/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...15/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...16/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...17/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...18/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...19/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...20/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
...21/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 4 lần.
...22/8... Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
Cúc Nữ là vợ của "Tiểu Lâm Nhất Trà", nhật ký này ghi lúc ông 54 tuổi, nên nhớ lúc đó Cúc Nữ chỉ mới 28 tuổi.
7. Nhật Ký cũng ghi lại rằng Tiểu Lâm Nhất Trà bị vô năng về tình dũc (bất lực), nên ông dùng một thảo dược trợ lực. Thảo dược đó gọi là "Dâm dương thảo", thứ này có hiệu lực thúc đẩy, tăng cường tính dục và tạo ra tinh trùng cho nam nhân. Về tác dụng của thứ thảo dược này ở Trung Quốc người ta cũng đã biết từ lâu cho nên trong dân gian có câu tục ngữ:" kể cả con dê ăn phải thứ thảo dược này cũng lập tức muốn giao hợp ngay" ("Liên liên khuất liễu dâm dương thảo, dã hội nhiệt trung ư giao tiếp"). Các kinh nghiệm về thứ cây này cho biết tinh dịch sẽ biến thành đặc nếu người nào được ăn loại cây này. Cho thỏ, chuột ăn dâm dương thảo thì chúng hăng hái sinh hoạt tính dục không biết mệt mỏi đêm ngày. Ngày xưa thứ cỏ này là thuốc kích dâm hạng nhất cho các bậc vua chúa.
Ở Nhật Bản, người Nhật Bản đã biết được dược tính của loại cây này từ lâu, họ chế thành một loại thuốc trợ dâm rất thông dụng.
Ông Thái Nhất Phan kể trong sách của ông về một chuyện người chăn dê già một hôm nhận thấy trong bầy dê có một con dê đực làm tình cả ngày hàng trăm lần, theo dõi nó người chăn dê thấy nó ăn một loại cỏ đặc biệt mà mấy co dê khác không ăn. Ông ta mới ăn thử kết quả là xuân tình ông trở nên phơi phới và đang yếu về tính dục ông này bỗng trở thành một người mạnh mẽ, chơi không biết mệt.
8. Tiểu Lâm Nhất Trà dùng dâm dương thảo để trị tính vô năng của mình, nhưng ông cũng cho biết rằng dâm dương thảo cũng là thần dược để trị bệnh già yếu suy nhược. Vì tính chất đặc biệt của nó loại thảo dược này được dùng để chế thuốc rượu đặc biệt dùng tăng cường tính năng của người uống thuốc gọi là "Tiên Linh Tì Tửu". Đây là loại rượu thuốc căn bản gồm dâm dương thảo nên còn được gọi là "Dâm Dương Tửu".
9. Toa thuốc cường tinh cường tráng của Thái Nhất Phan bao gồm:
- Dâm dương thảo : 20 mgr.
- Phục Linh : 10 mgr.
- Táo : 3 trái.
- Nước : 3 chén rưỡi.
Tất cả nấu trên lửa riu riu cho tới khi còn lại một chén. Những thứ thuốc khác một gốc như kích dâm, thúc dâm, tiên linh tỳ tửu đều căn bản trên toa thuốc của Thái Nhất Phan với chút ít gia giảm.
10. Tiên Linh Tỳ Tửu:
Ba thứ dược liệu trên mỗi thứ được tăng liều lượng lên gấp ba. Dùn lửa riu riu chưng cách thuỷ cho tới khi ráo nước rồi đem phơi khô. Đổ nước thêm vô rồi đem chưng như trước, đoạn đem ra phơi nắng như trước. làm như vậy tới lần thứ 3 thì được một chất khô quánh. Đem chất này ngâm trong rượu rồi thêm độ 100mgr mật ong rồi niêm phong lại, cất vào tối độ một tháng thì ta có loại tiên tửu nói trên.
CÁCH HẠN CHẾ XUẤT TINH
Đây là chương nói về điều hòa tinh khí, tiết khí mà vẫn có giao hợp. Con người vẫn là bị ám ảnh bằng cái sợ quan trọng là bị hao phí tinh dịch. Vì vậy nên phải bão tồn nó và hấp thụ thêm phần bổ dưỡng của đối phương. Nhờ hai cách thế này, con người tránh được tuổi già.
Sách "Bí quyết ngọc phòng " có nghi:
Tuổi 20 có thể giao hợp và xuất tinh hai ngày một lần
Tuổi 30 có thể giao hợp và xuất tinh 3 ngày một lần
Tuổi 40 có thể giao hợp và xuất tinh 4 ngày một lần
Tuổi 50 có thể giao hợp và tinh 5 ngày một lần
Đã đến khi tuổi 60 dù có giao hợp cũng không nên xuất tinh nữa.
Khi Hoàng Đế hỏi về số lần xuất tinh của một đời người thì Tố Nữ trả lời là "số lần căn cứ trên:
- sức khoẻ
- tuổi tác
- khí lực của người đó
Cho nên không thể có sẵn một con số nhất định được."
Ghi chú:
1. Hoàng Đế trong cung có một ngàn hai trăm cung nữ, nên thuật phòng trung vô cùng thông thạo. Trong các yếu tố nói trên yếu tố tuổi tác là quan trọng nhất vì tuổi tác kéo theo kết quả cùng khí lực. Đàn ông tới khi 60 tuổi thì tinh ít dần cho đến khi 70 tuổi thì chỉ còn một phần ba so với khi mình vào lúc 30 tuổi. Vì vậy kiên cữ xuất tinh lúc 60 tuổi là điều vô cùng hợp lý.
2. Bác sĩ Kim Soai cho rằng đàn ông 75 tuổi ba tuần mới giao hợp một lần. Khi đến 80 tuổi thì hai tháng mới nên lâm trận. So sánh với kinh Tố Nữ thì có sự khác biệt. Điều này dễ hiểu vì có sự biến chuyển của đời sống con người qua thời gian. Con người từ lúc kinh Tố Nữ xuất hiện đến nay đã mạnh hơn về nhiều phương diện, nhất là phương diện sức khoẻ.
3. Sách vở có ghi triết gia Hy Lạp Socrate giao hợp cách mười ngày một lần. Trong khi đó đạo cơ Đốc ghi là nên mỗi tuần một lần thôi. Hai con số này khác nhau và lời khuyên lại không căn cứ trên tuổi tác của con người, một vấn đề quan trọng mà kinh Tố Nữ có nói.
4. Sách "Dưỡng Sinh Yếu Luận", một quyển sách của đạo gia có ghi chuyện đạo sĩ Lưu Kinh.
· Mùa xuân 3 ngày giao hợp có xuất tinh một lần.
· Mùa hạ, mùa thu thì một tháng hai lần
· Mùa đông không nên xuất tinh.
Lưu Kinh cho rằng sinh hoạt phòng trung tuỳ theo mùa mà phù hợp với sinh hoạt của thiên nhiên. Nguyên tắc của thiên nhiên là "Xuân xanh Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn". Mùa Đông thì thu về, tàng trữ, không cho ra vì không thể sinh sôi nẩy nở được. Quan niệm giao hợp liên hệ với mùa trong năm chỉ thấy ở đạo gia mà thôi.
Sách "Dưỡng Sinh Tập"cũng có ghi tương tự như sách "Dương sinh yếu luận"chỉ thêm một điều là:"Mùa Đông xuất tinh một lần bằng mùa Xuân xuất tinh một trăm lần"vì mùa Xuân dương khí hạnh mậu, sung mãn, trong khi đó mùa đông là mùa của âm khí. Đáng lẽ mùa này nên tránh giao hợp để phù hợp với thiên nhiên.
5. Sách "Động Huyền Tử"nói rằng phải bão tín và bão tinh nên trong khi giao hợp thì phải quan sát nữ nhân một cách cẩn thận. Đừng quá chú trọng đến tiết giảm xuất tinh mà quên đi sự hoan lạc của phái nữ. Cần phải cho hai bên cùng đạt đến cực đĩnh mà vẫn tiết tinh thì mới tốt.
Nhưng làm thế nào để đạt tiêu chuẩn đó? Sách đưa ra phương pháp như sau:
· Dương vật đâm nhè nhẹ, không xốc nỗi, không hùn hụt.
· Chỉ đâm cạn vùng âm hạch và thành âm đạo không cần lút cán tới đầu tử cung.
· Nhắm mắt dưỡng thần trong khi đâm rút
· Cong lưng, cúi đầu.
· Nở rộng lổ mũi.
· Mở rộng hai vai ra
· Ngậm miệng hít hơi vào buồng phổi, càng hít vào nhiều càng tốt.
Nếu áp dụng phương pháp này mà vẫn xuất tinh thì chỉ xuất tinh ba phần mười tinh dịch mà thôi. Như vậy cũng đạt được khoái lạc đồng thời vẫn đạt được nguyên tắc tiết giãm tinh khí (tiết tinh).
6. Ta thấy đây chỉ là phương pháp hô hấp. Thực hành phương pháp hô hấp thì thần kinh điều khiển sự xuất tinh không còn hoạt động hữu hiệu nữa, ngày nay người ta dùng nhiều phương pháp này.Nhưng điều quan trọng nằm ở chỗ vừa luyện tập vừa tự tin. Luyện tập thuần thục vì đây là tập hợp của nhiều động tác chống lại một phút tràn trề của cơ thể. Có ý chí để tin rằng mình thắng cơ thể mình, mình làm được chuyện đó.
PHƯƠNG PHÁP KHÔNG XUẤT TINH KHI
HỨNG TÌNH LÊN TỘT ĐỈNH
Hoàng Đế hỏi: "Khi giao hợp, lúc khoái lạc lên cực đỉnh gần xuất tinh mà cố kềm lại một ít lâu để kéo dài cuộc vui. Như vậy có hại gì không ?".
Tố Nữ đáp: Không hại mà lợi
Lần đầu: muốn xuất tinh cố kềm lại ít lâu, đến khi ý ta muốn xuất tinh mà cơ thể không thể xuất được nữa, sức lực trong người ta sẽ tăng mạnh mẽ hơn.
Lần thứ hai: mắt, tai sẽ tỏ thính hơn.
Lần thứ ba: nhiều bệnh sẽ không mắc phải.
Lần thứ tư: ngũ tạng sẽ bình an.
Lần thứ năm: máu huyết sẽ thông suốt, điều hòa.
Lần thứ sáu: bộ phận ở chỗ thắt lưng là chỗ dễ đau khi giao hợp nhiều, được cường tráng nên mặc dầu giao hoan nhiều vẫn bình thường, không đau mỏi.
Lần thứ bảy: mông và đùi sẽ được nở nang, sức lực tăng cường tối đa.
Lần thứ tám: toàn thân sẽ cường kiện, dũng mãnh.
Lần thứ chín: sẽ được trường thọ, sống lâu.
Lần thứ mười: cửa thiên đình sẽ mở rộng nghĩa là người đó có một đời sống sảng khoái, tâm hồn luôn được hân hoan, thơ thới".
GHI CHÚ:
1. Thuật dưỡng sinh của phép thai tức - phái thai tức là môn phái dưỡng sinh rất lâu đời ở Trung Quốc - có nói đến vấn đề này: "Nhả ra, thở ra ít hơn khi hít vào thì khí sẽ tồn tại trong cơ thể. Đó là bí quyết làm cho trẻ mãi không già". Nguyên tắc hô hấp áp dụng vào thuật giao hợp cũng vậy thôi bởi vì hai bên có sự giống nhau. Hô hấp là "ái khí", nghĩa là giữ khí tồn tại lại trong mình. Thuật giao hợp gọi là hành động giữ tinh khí lại trong mình là "bửu tinh ái khí", nghĩa là coi trọng "cái tinh", qúy "cái khí" của mình. nguyên tắc "bửu tinh ái khí" chú trọng ở chỗ giữ sao cho tinh khí của mình càng ít xuất ra càng tốt.
2. Y học Trung Quốc xưa cho rằng máu là một hình dạng khác của tinh khí, nói cách khác khí là sự biến hóa của máu mà thành (người ta thường nói khí huyết). Bảo vệ máu thì phải baỏ vệ khí. Tinh là hình thức cao hơn của máu, do đó xuất tinh đi sẽ làm cho mình mất máu đi. Sẽ bị tổn thọ.
3. Hấp khí là thu khí mà thải ra ít hoặc không thải ra. Bởi thế khi giao hợp, nam nhân cố kéo dài thời gian và không xuất tinh là đã tuân theo nguyên tắc trường sinh trong thuật phòng trung vì đã hấp được cái khí của người nữ mà không tổn cái khí của mình.
4. Vấn đề quan trọng là: giao hợp mà không xuất tinh thì có khoái lạc hay không, ông Bành Tổ trả lời là có, mình càng kềm chế thì càng được khoái lạc.
5. Giao hợp mà kéo dài không xuất tinh (xúc nhi bất tiết) là để thỏa mãn khoái cảm, nhưng nếu luyện được xuất tinh theo ý muốn thì sẽ hưởng được mười điều lợi như Tố Nữ đã nói ở trên. Những điều Tố Nữ nói, Y học Trung Quốc cũng nói tương tự: " Tiết dục để tồn trữ tinh lực, tăng cường hoạt năng của tinh trùng, luyện tập sức đề kháng và duy trì trí lực. Tiết dục có lợi cho cả thân thể và tinh thần".
6. Lão Tử nói: "Tri túc vi phú" (biết đủ thì làm giàu), sách Lễ Ký cũng nói: "Lương nhập vi xuất" (tùy theo sự thu nhập mà chi tiêu, xuất phát). Đem hai câu trên áp dụng vào việc phòng trung và việc xuất tinh thì rất đúng. Không biết qúy khí, trọng tinh có bao nhiêu cũng trút thì không thể nào tráng kiện được.
Ông Khang Đức có nói: "Ấu tiểu thời bất giáo, dĩ ngưỡng dục ngã, chân thị bất hạnh" có nghĩa là: "Bất hạnh thay cho ai lúc trẻ không được dạy dỗ nên lớn lên ham mê điều nhục dục. Ham mê buông thả mà không biết kiềm chế đó là tự mình bỏ máu của mình vậy".
7. Y học Trung Quốc khi nói về hô hấp cũng nói tới khả năng trừ áp huyết cao của hô hấp. Bị bệnh này, dùng phương pháp hít thở thật chậm, thật dài để thông suốt kinh mạch thì có thể khỏi bệnh.
8. Phương pháp này do Nhật Bản phát động khởi thủy từ bác sỹ Hát Phu Ba, như là một món thể thao trị liệu, trong đó bệnh nhân làm nhiều cử động hô hấp, càng hô hấp nhiều thì phổi sẽ mạnh và dưỡng khí vào máu càng nhiều.
9. Trung Hoa còn thuật trừ già nua bằng cách hít thở (hố hấp). Tập thở ra mà bụng phình lên và hít vô bụng xẹp xuống. Điều này nghe thì khó nhưng thực hiện không khó vì hít vô thì hít vào phổi, bụng đương nhiên sẽ xẹp xuống.
10. Phép dưỡng sinh bằng hô hấp của Trang Tử có câu quan trọng: "Người chân nhân đạt đạo dưỡng sinh, hô hấp tới gót chân, thường nhân chỉ hô hấp tới cổ họng. Hô hấp đúng thì bảo toàn được thân, như một người đầu bếp khéo dùng dao cắt chặt lâu ngày mà dao vẫn không mòn ". "Người đầu bếp giỏi cũng phải mỗi năm thay dao một lần, người kém hơn thì mỗi tháng một lần. Ta cũng dùng dao để cắt da, cắt thịt thế mà đã chín mười năm nay rồi mà con dao dùng từ đó đến nay vẫn còn mới toanh ". Đó là câu nói thời danh của Trang Tử áp dụng vào thuật giao hợp tiết khí rất là hữu ích.
11. Phép Yoga của Ấn Độ có dùng xương sống để hô hấp. Phép này không khác gì dùng gót chân để hô hấp của Trang Tử của Trung Hoa. Yoga căn bản là hít thật nhiều khí vào trong bụng. Từ bụng chuyển không khí vào đan điền (lỗ rốn).
12. Về thuật "xúc nhi bất tiết", giao hợp mà không xuất tinh, sách Ngọc Phòng chủ yếu có đoạn quan trọng như sau: "Lúc sắp xuất tinh không cử động dương vật nữa, thở ra một hơi thật dài, đồng thời cắn chặt răng lại, ngước đầu lên thật lẹ ngó chung quanh, hít vào một hơi dài để phùng bụng lớn lên, tập trung tinh thần vào việc thở hít này, rồi thót bụng lại đồng thời thả hế hơi trong bụng ra. Luôn ngó mắt chung quanh, kỵ ngó người ban ngọc đang ở dưới mình mình, hàm răng cắn chặt. Khi trong tai nghe tiếng gió thổi ù ù thì thót bụng lại".
Phương pháp này còn lợi ích cho việc chữa trị các chứng mắt kém và điếc tai, làm cho thị lực được tăng cường và thính lực được phát triển.
13. Mắt ngó chung quanh là cách thế để phân tán sự chú ý của ta vào ngoại cảnh khỏi phải chú ý vào dục tình. Hứng thú lúc đó không bị khơi động, tinh khí do vậy không thể dễ dàng xuất được.
14. Hô hấp có thể kết hợp với đọc kinh có thể luyện cho khả năng hô hấp kéo dài hơn. Ở Nhật Bản có một chi phái Phật Giáo thực hành phép tu dưỡng sau:
Sáng sớm thức dậy đọc kinh ba mươi phút, mỗi khi đọc hết một đoạn kinh thì hô hấp và uống một ly nước lạnh. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy tín đồ của giáo phái này:
· Đường đại tiện, tiểu tiện rất thông suốt.
· Hô hấp rất dài hơi.
· Tập trung ý chí dễ dàng.
· Tinh thần an tịnh, không biết lo âu hồi hộp.
15. Tục ngữ Trung Quốc có câu: "Hô hấp thi ích dã" nghĩa là sự hít thở rất có ích lợi. Ở đây chỉ có sự hít thở đúng phương pháp, còn sự hít thở bình thường của thường nhân thì chỉ để duy trì sự sống thôi, không có ích lợi nào khác.
16. Cười cũng là một phương pháp hô hấp để tinh thần an tịnh cho nên cười cũng là một trong những phương pháp dưỡng sinh và có tác dụng làm cho con người tươi trẻ. Những người thường hay vui cười thì thâm tâm được quân bình, tinh thần được an định.
17. Những người quý tộc Ấn Độ thường hay luyện tiết dục bằng phương pháp đè nén. Họ lấy tay đè một vùng gần niếu đạo, gần chỗ con đường dẫn nước tiểu, tức là vùng dẫn tinh khi tinh khí xuất ra ngoài. Theo họ thì phương pháp này làm cho tinh khí xuất ra không xuất được mà phải chạy trở vô lại.
18. Một đặc tính để kiềm chế xuất tinh là giao hợp nhiều lần mà mỗi lần đều với người đẹp trẻ tuổi khác nhau.
19. Sách "Thiên Kim Phương" là sách nói về các phương pháp áp dụng để tìm hoan lạc trong phòng trung có nói rằng: "Con gnười trước 30 tuổi thì khí huyết dồi dào, tình dục phong phú, khi quá 30 tuổi khí thế so lại hơi giảm. Lúc này thân thể đã yếu nên khám bệnh để coi mình có bị bệnh hay không để trị vì để lâu sau này hậu quả sẽ khó lường. Lúc này cũng là lúc luyệ̣n bí thuật phòng trung. Phương pháp thì dễnhưng phương tiện lại khó; đó là mỗi đêm giao hợp với mười người con gái khác nhau và không được xuất tinh. ăn uống những thức bổ dược (phần cuối sách có nóivề những thức bổ dược này). Luyện phép này trong một năm thì tự nhiên khí lực và thể lực tăng tiến vô cùng, trí óc lúc này lại minh mẫn".
Tiếp xúc với nhiều người con gái trẻ đẹp là ước vọng từ lậu của con người, nhưng đối với cuôc sống ngày nay thì không còn phù hợp nữa.
20. Bác sỹ Kim Soai có nhận xét rằng phụ nữ sau khi có hôn nhân vẫn có ước vọng giao hợp với nhiều đàn ông khác nhau. Họ cũng thích sướng khoái và thay đổi như nam giới. Nhưng nam giới cũng như nữ giới nếu chỉ thuần túy đi tìm khoái lạc thì rất dễ hại thân. Quan niệm cổ điển về tình dục của Trung Quốc cho rằng tinh khí là thứ quý trọng của con người, bằng mọi giá ta không thể xuất tinh.
21. Y học có một câu rất hay: "Người nam trong giai đoạn 20 tuổi, giao hợp nhiều hay ít quyết định suy thoái tình dục hay không, vào khoảng 30 tuổi sự hay ho của cách giao hợp quyết định sự thất bại hay không, vào khoảng 40 tuổi thì khoảng cách giữa hai lần giao hợp quyết định sự thất bại hay không".
22. Trung Hoa cũng có câu về sinh lý của phụ nữ: "Tam thập quả phụ bất khả thông", nghĩa là đàn bà góa chồng lâu mà tuổi còn trẻ thì sinh lý không còn mạnh mẽ như nam giới nữa. Điều này cho thấy sinh lý của phụ nữ mâu thuẫn với sinh lý của nam nhân.
23. Sách "Thiên Kim Phương" có nói về sự hiệu dụng của cách chữa bệnh bằng phương pháp tọa thiền và hô hấp thật sâu. Thực hành phương pháp này thì dầu cho thời gian trôi qua tóc râu cũng không mọc ra dài. Sách cổ có ghi lại chuyện một vị hòa thượng dùng phương pháp "nội quan" để trị bệnh phổi kết hạch của mình. Thật ra đây chỉ là một phương pháp kết hợp giữa sự toạ thiền và sự hít thở sâu đúng phương pháp mà thôi.
24. Đời Hán có một cuốn dã sử tựa là "Châu lâm dã sử", chuyện viết về đời của nàng Hạ Cơ là một nhân vật sống vào đời Xuân Thu. Hạ Cơ trong một giấc mơ chiêm bao thấy mình học được phương pháp trẻ mãi không già của tiên gia bằng hai phương pháp "Hấp Tinh Đạo Khí" và "Tố Nữ Chiến Thuật". Hai bí quyết này là liên tục không ngừng ngẫm nghĩ hấp thụ tinh khí của nam nhân. Khi được Trần Linh Công ôm ấp ân ái, nàng sử dụng phép "Nội Thị" là một bí thuật khác của phòng trung mà người đời sau cho là thuật điều tức dựa trên nguyên lý "Xúc nhi bất tiết", nghĩa là giao hợp kềm hãm không cho xuất tinh của phái nữ.
25. Theo "Ca Xuyên đại nhã thị" thì cái hạch lý tưởng của một người theo Lạt Ma giáo là đạt đến sự "linh nhục nhất chí " nghĩa làtinh dịch từ phần của bộ phận sinh được dùng ý chí điều khiển theo đường xương sống mà chạy lên đỉnh đầu. trong quá trình thực hành động tác đôi nam nữ đều phải tập trung tinh thần theo kiểu thiền định sao cho đạt được trình độ không xuất tinh. Phái này lấy việc hãm tinh làm cứu cánh cho sự sung sướng.
26. Không phải ai cũng cổ võ sự bế tinh, có rất nhiều người cho "Xúc nhi bất tiết" là có hại cho thân thể. Thật ra đây có thể coi như là sự tiết dục và phương pháp luyện cho giao hợp được dài lâu. Các chương sau của kinh Tố Nữ sẽ đề cập đến số lần xuất tinh cần thiết, nghĩa là kinh Tố Nữ không bảo tuyệt đối không được xuất tinh.
TẠI SAO SẮC ĐẸP LÀM NGƯỜI SAY MÊ?
Hoàng Đế hỏi: "Tại sao sắc đẹp nữ nhân làm cho nam say đắm? Yếu tố gì trong đó làm cho con người đắm say?"
Tố Nữ nói: "Các yếu tố để làm say đắm nam nhân do trời phú riêng cho nữ nhân đó là:
- Tiếng nói ngọt ngào.
- Tính nết dịu hiền.
- Đầu tóc trơn láng, đen huyền.
- Thịt da trắng, mềm.
- Xương cốt yểu điệu mãnh mai.
- Thân hình thon dẽ vừa tầm.
- Âm hộ không có lông dài mà tinh dịch dồi dào.
Các nàng có những điều kiên này mà ở vào tuổi chưa quá 30 thì gọi là đầy đủ các yếu tố hấp dẫn nam nhân.
Ngoài ra trong khi giao hợp nữ nhân nào có nước nôi linh láng. Thân hình biết uốn éo chuyển động. Mồi hôi đượm ra và biết để cho nam nhân chủ động dìu vào cuộc hoan lạc nam nhân không bị mệt nhọc khi giao hợp thì rất được ưa thích".
GHI CHÚ
1. Các điều Tố Nữ đưa ra về một người con gái thu hút nam nhân quá rõ ràng ta không thể thêm thắt gì nữa. Nếu thêm vài yếu tố nữa thì cũng là thêm vào vài chi tiết mà thôi.
2. Kinh nghiệm người xưa thường nói, đàn bà có nhiều dâm tính, thì âm hộ có lông dài không thì xem lông và lông tay lông chân, các thứ này có quan hệ song phương với nhau. Hễ ngoài dài thì trong dài.
3. Trung Hoa xưa thường điều tra lông âm hộ bằng cách coi lông nách của nữ nhân. Nếu lông nách mịn màng không xoắn tít thì ta có một người đàn bà cao sang.
4. Tóc cũng là yếu tố quan trọng. Nếu tóc nàng hun hun đỏ thì giao hợp sẽ tổn hại tinh lực của nam nhân.
5. Âm thanh của giọng nói cũng là yếu tố khác. Tiếng nói ngọt ngào, êm dịu nhẹ nhàng là điều làm cho nam nhân đạt được sung sướng khi giao hợp mà không bị mệt mỏi ốm yếu, không hao tổn tinh khívà còn được sống lâu.
6. Sách "Tạp sự bí tân" có ghi các tiêu chuẩn chọn phi tần của vua Hậu Hán, ghi cả kích thước lý tưởng của tất cả các bộ phận từ mông, đùi, tay, chân, vai đến ngón chân ngón tay. Tất cả thước tất này thiết nghĩ ngày nay người thường chúng ta không thể nào chọn lựa được nên dịch giả miễn không ghi chép lại đây.
7. Sách về thuật phòng trung hiện đại đưa ra lý thuyết rằng các phép tu tiên ngày xưa chẳng qua các phép về hưởng lạc trong nghệ thuật giao hợp của người xưa mà thôi. Sách tiên đạo có nói rằng nam nhân có một loại dương khí đó là "biến một mỹ̃ nhân thành một nữ nhân khi nữ nhân đó được ưa thích." Không được nam nhân ưa thích người đàn bà chỉ là người tầm thường. Theo cổ thư thì người xưa khi chọn đối tượng giao hợp họ dựa trên những tiêu chuẩn sau:
- chân mày xanh (mi thanh).
- cặp mắt đẹp (mục tú).
- đôi mi đỏ (thân hồng).
- hàm răng trăng (xỉ bạch).
8. Bàn về chân mày cổ thư có nhiều ý kiến thú vị:
- Đàn bà có chân mày hình chữ rất kém cõi trong sự giao hợp, kỹ thuật của họ tầm thường không đem lại sự khoái lạc cực điểm cho người giao tiếp.
- Đàn bà mà có chân mày mà hai đầu có khoé nhăn thi thể lực không còn mạnh mẽ nữa nếu không nói là suy yêu.
- Đàn bà có chân mày rậm là người thiện nghệ trong viêc phòng the, đem đến cho sự hoan lạc không cùng, đàn ông chết mê chết mệt vì những người đàn bà như thế này. Mày đậm được gọi là mày xanh (thanh mi).
9. Mắt: Mắt đàn bà mà con ngươi hướng lên, cặp mắt làm cho nam nhân nhìn vào tiêu hồn lạc phách thì kêu là mục tú là những người là cho thân thể nam nhân suy nhược, cần phải cẩn thận khi giao tiếp.
10. Môi: Môi đỏ như huyết hay đỏ tía là những người đàn bà làm cho đàn ông si mê, tâm hồn dễ rối loạn không tự chủ được. Nữ nhân có cặp môi hồng là cường kiện dồi dào sinh lực.
11. Răng: Răng trắng là người có nhiều dương khí. Răng và mông có liên hệ với nhau. Răng trắng thì mông nở. Người phụ nữ răng không đẹp chứng tỏ tình trạng sức khoẻ suy, bệnh hoạn và việc phòng trung không dồi dào nữa.
12. Sách "Nhục Bồ Đoàn" trái lại không chú trọng mấy đến các chi tiết mi, mắt... kể trên mà chỉ là những người bình thường nhưng trẻ trung tươi mát là được (bình phàm nhi tân tiển). Điều cần thiết là thông thạo những kỹ xảo của thuật phòng trung.
13. Có một người nữ rất thông thạo việc phòng the, tương truyền nàng thụ đắc chân truyền từ Vị Ương tiên sanh một câu châm ngôn: " Trước tiên phải xem hình (Vẽ sự giao hợp), sau đó vừa thực hành đạo lý âm dương giao tiếp (nam nữ), vừa đọc sách vừa nghe những tiếng động (do giao hợp phát sinh ra)".
Phải xem thật nhiều hình ảnh để hứng nổi lên thật cao, không nên thượng mã ngay, chỉ lên khi thật hứng không còn kềm chế nổi. Trong khi đâm rút cũng đọc sách và nghe những âm thanh tính dục để đến khi hứng tràn mới vận động thật sự. Nhiều khi phải nghỉ trên lưng ngựa, cứ để nó ngâm trong âm đạo và tiếp tục đọc sách.
Chuyện của Vị Ương và Hoa Thần chỉ là chuyện trợ thêm cho việc giao hợp hứng hơn mà thôi.Hiện đại người ta sử dụng thêm phim ảnh, dụng cụ kích thích, âm nhạc tiếng động cũng trong nhiều hướng của Hoa Thần.
THỜI GIAN GIAO HỢP TỐT ĐỐI VỚI NỮ NHÂN
Hoàng Đế hỏi: "Có người muốn sanh con và muốn có một đứa con thông minh mẫn tiệp, vậy có phương pháp gì giúp đạt thành ý nguyện không?".
Tố Nữ đáp: "Có những nguyên tăc để được có con. Nguyên tăc đó là thân thể nhẹ nhàng, thân tâm bình thản, không lo âu, áo quần ăn mặc tề chỉnh, thành tâm trai lạt trước thời kỳ có kinh. Khi kinh kỳ xong xuôi đợi ba ngày sau thì là thời gian tốt nhất để giao hợp. Trước tiên nam nhân phải rờ rẫm tạo hứng khởi tối đa cho người đàn bà. Khi giao hợp thì cứ theo nguyên tắc của việc phòng trung mà thực hành nghĩa là phải "cộng đồng hưởng thụ", cuộc giao hợp không phải là mua vui cũng không phải là miễn cưỡng làm cho có.
Khi xuất tinh xong nam nhân phải ngâm trong bộ phận nữ nhân, không được rút ra liền. Sự kiện này ngoài khả năng làm thoả mãn tâm lý nữ nhân còn giữ cho tinh trùng không theo âm đạo thoát ra ngoài hay chạy xa ra ngoài đầu tử cung. Theo cách này thì đứa con sinh ra sẽ thông minh, đĩnh ngộ, mạnh khoẻ, sống lâu..."
GHI CHÚ:
Ý kiến trên của Tố Nữ phù hợp với lời dạy của Ông Bành Tổ: "Đàn bà đếm từ ngày có đường kinh đến ngày thứ 15 là thời gian tốt để thụ thai, đứa con sinh ra do trường hợp này rất thông minh, sáng suốt lại là người có nhân dáng cao quý". So với ý kiến của Tố Nữ, ý kiến của Bành Tổ lại có ngày giao hợp lý tưởng để thụ thai hơi xa. Y khoa hiện đại cho rằng ý kiến của Tố Nữ khả dụng hơn.
Sách thuốc Trung Hoa nhấn mạnh đến giờ thụ thai lý tưởng là giờ Tý (mười một giờ khuya đến một giờ sáng) hay giờ Sửu (từ một tới ba giờ sáng). Khoảng thời gian này Can mạch (mạch liên quan tới Gan) hoạt động, trong các mạch đó có mạch nối với cơ quan sinh dục làm cho sự giao hợp dễ thoải mái và lâu. Can mạch hoạt động lên đến tuyệt đỉnh là lúc hai giờ sáng, vậy nếu có thể được nên canh vào lúc này mà xuất tinh.
Kinh Tố Nữ cũng có nhắc là khi giao hợp để thụ thai thì dương cụ đâm vào âm đạo nên nhẹ nhàng từ tốn sự thụ thai mới dễ thành tựu. Không thấy Tố Nữ đưa ra lý do biện minh cho lời khuyên, rất có thể là kinh nghiệm của người xưa trogn khi quan sát cuộc phòng trung sinh hoạt chớ chưa đưa ra được nguyên tắc.
LÀM SAO CÓ THAI TỐT
Tố Nữ nói: "Con người muốn phù hợp đạo âm dương phải biết tránh những cấm kỵ và phù hợp với đạo âm dương thì có được khí thế tốt nhất để sinh ra con mạnh khoẻ sống lâu".
Ghi chú:
1. Khí thế tốt nhất là Nam Nữ phải ở vào tuổi sung mãn, còn trẻ. Nếu lớn tuổi thì dầu cho có thụ thai thì đứa trẻ sinh ra cũng không mạnh mẽ sống lâu được.
Khí thế tốt nhất là để giao hợp mà sinh ra con cái là kiện toàn, mạnh khoẻ. Một cặp vợ chồng trẻ mà thân thể không khoẻ mạnh khi giao hợp nếu thụ thai đứa con sinh ra cũng èo uột, ốm yếu, người say rượu mà làm tình thì đứa con sanh ra nhiều bệnh tật.
2. Kinh Tố Nữ không nói thẳng rằng tuổi tác là một vấn đề trong việc sinh con mạnh khoẻ nhưng cuốn "Bí Kiếp Ngọc Phòng" cho rằng nam nữ luống tuổi thì sinh con ra yểu mệnh.
3. Một trong hai người còn trẻ thì vẫn sanh con được. Nam nhân dẫu 80 tuổi cưới vợ 18 tuổi vẫn sanh được con như thường. Nữ nhân dầu đã hơn 50 có chồng sung sức, trẻ mạnh vẫn thụ thai và sinh con như người còn trẻ.
4. Tài liệu còn ghi một vị quản trường ở Nhật vào năm 76 tuổi lấy một cô vợ trẻ mới có 23 tuổi tới khi ông ta được 86 tuổi thì người vợ sanh con đầu lòng.
DƯỢC LIỆU VÀ TOA THUỐC CƯỜNG DƯƠNG
Nguyên tắc chủ điểm của thuật phòng trung "dĩ nhân bổ thân" hay "dĩ nhân trị nhân"nghĩa là áp dụng nghệ thuật thế nào có thể hút tinh khí của người đang giao hợp với mình để bảo tồn mình. Nguyên tắc này không thích đáng với sinh lý, bởi vậy để bổ khuyết người đời dùng thêm dược liệu để bổ tinh.
Ngày xưa người ta có thể áp dụng những điều mà con mắt ngày nay có thể coi là dị đoan. Bỏ đi yếu tố này, dược liệu và những toa thuốc đưa ra tronh kinh Tố Nữ có thể dùng như những toa thuốc bổ tinh cường dương rất tốt.
Thái Nữ hỏi: "Đạo giao hợp ta đã nghe, đã biết, ta cũng biết rằng muốn dưỡng tinh cần phải phục dược (uống thuốc) vậy thì dùng những dược liệu nào thì có hiệu quả?"
Bành Tổ đáp: "Nếu muốn cường tráng, trẻ mãi không già, việc phòng sự vui thú mãi mà không mệt mỏi, khí lực và dung mạo lúc nào cũng sinh tươi không suy giãm thì dùng nhung lộc (sừng nai) là tốt nhất."
GHI CHÚ:
1. Đơn thuốc dùng sừng nai như thế nào ?
Lấy sừng nai cưa ngang cho bằng mặt, mài thành bột rồi thấm vào sanh phù tử (loại hình bát giác). Mỗi ngày dùng hai lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. Kết quả trông thấy trong một thời gian ngắn độ hai mươi ngày.
Để cho đơn giản người ta chỉ dùng sừng nai không mà thôi. Đem sừng nai đốt tới khi sừng trở thành màu vàng thì cà ra thàng bột, mỗi lần dùng thì pha vào nước. Dùng cách này thì cũng có hiệu quả nhưng chậm, không thể mau như cách dùng sanh phù tử.
Người ta còn dùng phục linh sản xuất tại tỉnh Cam Túc bên trong Trung Quốc thêm vào bột sừng nai, mỗi thứ một dung lượng ngang nhau. Mỗi ngày dùng ba lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. Kết quả cũng rất khả quan.
2. Sách xưa cũng ghi cách chế và công dụng của sừng nai theo lời chỉ dẫn của Thái Nữ.
· Sừng nai muốn loại tốt thì phải lựa thứ sản xuất ở miền Bắc Trung Hoa. Loại nai con có sừng mới nhú màu đỏ, sừng loại này kêu là lộc nhung, lộc nhung thì hữu hiệu vô song. Các loại khác không thể nào sánh bằng.
· Các bộ phận khác của nai cũng có công những dụng cho cường dương, tráng tinh: thịt nai, máu nai, bào thai nai con trong bụng, gân, đuôi, dương vật đều là những thứ có tác dụng.
3. Vua chúa xưa ở Trung Hoa thường ưa dùng thịt nai. Sách Tiền Hán thư chép Hán Cao Tổ mỗi ngày hai lần sáng chiều ăn bao tử nai (lộc tì). Ông cho rằng ăn thứ này làm cho con người mạnh mẽ hăng hái, khi "lâm trận" không khi nào chiến bại. Đối với Cao Tổ thứ bao tử nai là thứ bổ dược cường dương vô địch.
· Dương vật nai thì phải cắt thật xa lên tận ngọn, cắt cả sợ gân trong mình nai chớ không phải chỉ phần ngoài cùng của dương vật mà thôi. Đem sợi gân đó thái ra từng miếng mỏng phơi khô dùng làm mồi nhắm rượu.
· Huyết nai thỉ phải lấy kim chích nơi đầu sóng mũi của nai để máu chảu ra mà hứng. Thêm vào máu này nhân sâm, pha thêm chút rượu cho đễ uống. Mỗi ngày uống một chung nhỏ. Có thứ thuốc này thì mỗi ngày "trèo đèo" một lần vẫn không thấy mệt.
4. Trong giới săn bắn còn tương truyền là ăn thường thịt nai và uống máu nai thì mỗi ngày giao hợp và xuất tinh hai lần mà vẫn không thấy hề hấn gì, vẫn mạnh khoẻ như thường không mệt mỏi. Sách Nhật có chép chuyện một người thợ săn ở vùng Bắc Hải đảo có cả thảy mười một người vợ mà tất cả đều ly dị lý do vì ông ta rất mạnh trong việc giao hợp, các bà lần lần rút lui, vì không sao chịu nỗi sự đồi hỏi của ông ta. Họ quảng sợ về sự cường dương vô địch, có thể lên bất cứ lúc nào của ông ta.
5. Bên trong có nói dùng sừng nai vơí sinh phù tử. Sinh phù tử là một chất độc, nhưng phối hợp với lộc nhung hay phục linh thì không còn độc nửa mà còn bổ dương cường tinh.
6. Quan niệm của Trung Quốc về thuật phòng trung là tự ta là cho ta mạnh tinh cường dương, không ai sinh ra đời mà sinh lý tự nhiên mạnh. Phải tập luyện, phải dùng đúng thuốc, phải theo những cách điều chế được chỉ dẫn. Bành Tổ nói dùng dược liệu là trong ý nghĩa đó.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro