Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Siêu hình học

Khoa học và các huyền thoại mới

Thoạt nhìn vào tiêu đề bài viết chắc có bạn đọc sẽ đặt câu hỏi: "Tại sao có sự lẫn lộn khoa học với huyền thoại?", hoặc: "Phải chăng đây chỉ là chuyện trà dư tửu hậu?".

Nếu coi nội dung bài viết này là câu chuyện trà dư tửu hậu, thì cũng không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, bạn đọc sẽ thấy vấn đề được đề cập là chuyện văn hóa nghiêm túc của xã hội đương đại.

Cho đến nay, chúng ta đều hiểu huyền thoại hay thần thoại là những câu chuyện có tính hoang đường, là sản phẩm dân gian trong đó các hiện tượng tự nhiên và văn hóa được thể hiện dưới hình thức nhân cách hóa một cách ngây thơ. Nói cách khác, huyền thoại là sự phản ánh thực tại một cách méo mó trong ý thức của người cổ đại và thường được thể hiện trong sáng tác dân gian truyền miệng, là sản phẩm văn hóa tinh thần tiêu biểu cho thời kỳ cổ đại nhằm cố gắng giải thích các hiện tượng khác nhau trong tự nhiên và xã hội. Có thể nói, huyền thoại là hình thức biểu hiện độc đáo của thế giới quan cổ đại và có sự pha trộn những quan niệm duy vật chất phác với những nhân tố tôn giáo. Cũng cần lưu ý sự khác nhau giữa huyền thoại và chuyện thần tiên, chuyện cổ tích. Đặc trưng cốt lõi của mọi huyền thoại là luôn luôn cô gắng giải thích hiện tượng bằng ngôn ngữ khoa học hay phi khoa học. Chuyện thần tiên hoàn toàn là những câu chuyện hoang đường thể hiện ước mơ không tưởng của con người. Huyền thoại khác với chuyện cổ tích ở chỗ không cần dựa vào các sự kiện lịch sử được ghi thành văn hay truyền khẩu.

Từ cách giải thích ở trên về khái niệm huyền thoại chúng ta thấy huyền thoại không có dính dáng gì với khoa học, nên có ai thắc mắc tiêu đề bài viết cũng là điều dễ hiểu. Song vấn đề huyền thoại trình bày dưới đây không phải là huyền thoại theo cách hiểu thông thường, mà là "huyền thoại mới", huyền thoại có liên quan với những gì khoa học đang nghiên cứu nhưng chưa giải thích được trong thời kỳ cận đại và hiện đại. Các huyền thoại mới không liên quan gì với các lý thuyết huyền bí mượn màu khoa học, nhưng thực chất là phản khoa học.

Theo dõi lịch sử phát triển của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên, chúng ta nghiệm ra rằng: nơi nào và khi nào khoa học lặng thinh, thì huyền thoại bắt đầu trỗi dậy. Tất nhiên, các huyền thoại cổ xưa đã đi vào quá khứ, nhường bước cho thế giới quan khoa học. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải thừa nhận rằng khoa học ngày nay bao gồm cả khoa học cổ điển và khoa học hiện đại chưa thể nào giải thích đầy đủ mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội dựa trên các lý thuyết khoa học hiện có. Và chính tình trạng này đã làm nảy sinh các huyền thoại mới. Hiện nay có rất nhiều loại huyền thoại mới, nên trong bài viết ngắn này chúng tôi chỉ nêu lên các huyền thoại với chủ đề: "Vũ trụ và Con người".

Thế giới quan khoa học và thế giới quan huyền thoại là hai mặt đối lập. Huyền thoại cũng dựa trên thực tại, nhưng làm méo mó đi một cách tùy tiện, rồi nâng lên thành lý luận. Nói như vậy không có nghĩa là khoa học và huyền thoại loại trừ nhau, bởi vì cả hai cách tiếp cận thế giới đều thuộc tiềm năng văn hóa chung của nên văn minh hiện đại. Thực tế, không ít huyền thoại được suy ra (tất nhiên là thái quá) từ những thành tựu khoa học lớn. Liên quan với chủ đề "Vũ trụ và Con người", chúng ta có thể phân chia các huyền thoại mới thành các nhóm dưới đây.

Huyền thoại về nguồn gốc trái đất và các hành tinh

Vũ trụ học hiện đại chỉ mới vạch được những nét khái quát về con đường hình thành và tiến triển của các sao trong Thiên Hà chúng ta sau vụ nổ lớn (lý thuyết Big Bang) cách nay khoảng 12-15 tỉ năm. Hệ mặt trời, trong đó có trái đất, đã ra đời như thế nào, còn chưa có lời giải đáp khoa học đầy đủ dựa trên các lý thuyết khoa học hiện hữu. Và thế là có nhiều huyền thoại mới xuất hiện nhằm giải thích kiến trúc cổ xưa của hệ mặt trời. Chẳng hạn, có huyền thoại cho rằng thời xa xưa ở trung tâm của hệ mặt trời, ngoài mặt trời còn có một ngôi sao khác, mà sự suy sụp của nó thành "lỗ đen" đã quyết định số phận của hệ mặt trời hiện tại. Lại có huyền thoại cho rằng tại vị trí của vành đai tiểu hành tinh và thiên thạch nằm giữa sao hỏa và sao mộc đã từng tồn tại một hành tinh lớn. Các vệ tinh của hành tinh đó đã trở thành trái đất, sao hỏa, sao kim và mặt trăng. Và còn nhiều huyền thoại khác cố gắng chứng minh sự tồn tại của "đấng sáng tạo" tức Thượng đế, nghĩa là lại sa vào thế giới quan của tôn giáo.

Huyền thoại mới hậu thế luận (eschatology)

Mọi lý thuyết tôn giáo đều chứa đựng hậu thế luận, nghĩa là luận thuyết về cuộc đời sau khi chết. Các huyền thoại mới về chủ đề này chủ yếu muốn giải thích rằng trong vũ trụ chứa đầy "chất tinh thần", cũng có nghĩa là "linh hồn" theo cách gọi của tôn giáo. Tác giả của các loại huyền thoại này cho rằng sở dĩ người sống có thể liên lạc với người chết, vì "chất tinh thần" vẫn tồn tại trong vũ trụ tĩnh mịch và sâu thẳm. Có lẽ chúng ta không cần dẫn ra các huyền thoại loại này, vì có thể tìm thấy quá nhiều trên các trang báo và Tạp chí. Điều chúng ta cần thừa nhận là có nhiều hiện tượng dị thường không xảy ra thường xuyên hay hiện tượng cận tâm lý (parapsychoiogical phenomena) mà khoa học hiện đại chưa giải thích được. Nhưng ai đó cố tình biến các huyền thoại này thành những điều mê tín thì đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

Huyền thoại về sinh vật thông minh đến từ thế giới khác

Hiện nay các huyền thoại về người ngoài hành tinh đến thăm chúng ta trên các đĩa bay và những chuyến thăm của họ trong quá khứ đang lan truyền khá rộng rãi. Đã có những cuộc triển lãm trưng bày các hình ảnh đĩa bay chụp được hay được vẽ lại theo mô tả. Ở một số nước có những tổ chức chuyên thu thập các tin tức về đĩa bay. Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay chưa có thông tin nào được kiểm chứng một cách khoa học. Hiện nay, các nhà thiên văn vô tuyến đang tích cực săn lùng các tín hiệu "nhân tạo" phát ra từ các nền văn minh cao ngoài trái đất. Nhưng chương trình khoa học nghiêm túc này không liên quan gì với các huyền thoại về đĩa bay. Nhân đây, chúng ta có thể nhắc lại chuyện "các kênh đào nhân tạo trên sao hỏa" và "người sao hỏa" đã từng sôi động một thời vào cuối thế kỷ XIX bắt đầu từ ảnh chụp chi tiết Sao Hỏa của V.Schiaparelli vào một dịp sao hỏa tới gần trái đất (1877). Ngày nay chắc không ai nhắc đến huyền thoại đó, vì con người đã đưa thiết bị lên khảo sát trực tiếp trên sao hỏa.

Để thấy rõ sự khác biệt giữa huyền thoại mới và khoa học, chúng ta hãy so sánh câu chuyện đĩa bay với sự tồn tại của "lỗ đen" đã được nhắc tới. Theo các tin tức thu thập được, thì số lần quan sát được đĩa bay có lẽ không dưới 10 vạn lần (mỗi tin được tính một lần). Trong khi đó chưa một lần chứng minh trực tiếp sự tồn tại của "lỗ đen". Thế nhưng tuyệt đại đa số các nhà khoa học tin rằng "lỗ đen" tồn tại thực sự trong vũ trụ, bởi vì nó được tiên đoán bởi một lý thuyết khoa học nghiêm túc và hoàn chỉnh. Nhưng cũng tuyệt đại đa số các nhà khoa học cho rằng "hiện tượng đĩa bay" không dính dáng gì với người ở hành tinh khác. Và huyền thoại liên quan đến các cuộc viếng thăm trong quá khứ của những "người trời" cũng ở tình trạng tương tự, cũng chỉ là truyền thuyết mơ hồ chưa có các chứng minh khoa học.

Huyền thoại về sự thống nhất tuyệt đối của vũ trụ

Ý tưởng về sự thống nhất hoàn hảo giữa con người và vũ trụ không phải là mới. Các nhà triết học cổ Trung Hoa còn nâng lên thành nguyên lý "thiên, địa, nhân hợp nhất". Các huyền thoại mới về chủ đề này thực tế đã bắt nguồn từ những công trình khoa học chứng minh sự tồn tại của rất nhiều mối quan hệ giữa các quá trình diễn ra trong hệ sinh quyển, trong cơ thể con người và các hiện tượng vũ trụ. Các huyền thoại mới gán ghép tùy tiện phương pháp tiếp cận khoa học với thuật chiêm tinh để dự đoán số mệnh con người và tương lai nhân loại huyền thoại về tận thế do sự sắp xếp các thiên thể được rêu rao vào cuối thế kỷ XX cũng chính là loại huyền thoại xuất phát từ quan niệm "Vũ trụ thống nhất tuyệt đối".

Bốn nhóm huyền thoại nêu trên có thể chưa bao quát toàn bộ các huyền thoại về vũ trụ và con người đang nở rộ trong vài thập kỷ gần đây. Khoa học càng phát triển thì số huyền thoại nói trên đi vào quên lãng càng nhiều. Nhưng rồi sẽ có những huyền thoại mới hơn xuất hiện. Con người muốn hiểu tất cả, biết tất cả, nhưng khoa họe không thể đáp ứng được. Đó chính là nguyên nhân tâm lý của sự xuất hiện các huyền thoại.

Cùng triết học vững bước tiến vào kỷ nguyên mới

Chúng ta vừa giã từ thế kỷ XX, bước vào thiên niên kỷ mới với rất nhiều những biến động xã hội và môi trường sống cùng với vô vàn thành công và những phát minh trong nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ phục vụ con người. Kho tàng tri thức của chúng ta đang tăng lên hết sức nhanh chóng.

Để tiến vào tương lai, chắc chắn chúng ta không chỉ dựa vào khoa học hiện đại, vào kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, mà còn nhất thiết cần phải dựa vào tư duy khoa học và tư duy lý luận ở trình độ cao và hiện đại. Tuy nhiên, có một thực tế khách quan là các nền văn hoá hiện tại đang thiếu sự hợp nhất chung. Sự thể hiện của văn hoá đang rất đa dạng: những hệ tư tưởng, các dòng tôn giáo, những hệ thống tư duy, những ngành nghề, những lý thuyết & phương pháp luận... Chúng thiếu mạch lạc, phần lớn mâu thuẫn lẫn nhau và làm nảy sinh một tình trạng là có nhiều hệ thống tri thức cung cấp cùng một chủ đề tri thức nhưng không có sự chỉ đạo để có thể chọn một cái thích hợp nhất.

Mặt khác, chúng ta lại đang quan sát và tư duy về một thế giới phức tạp, biến đổi nhanh và đầy những bất ngờ... Rất nhiều kiến thức, trí khôn do chúng ta tích luỹ được có thể sẽ mất đi tính hợp lý bởi kiến thức bị phân đoạn, quá tải thông tin, nội dung thay đổi liên tục thậm chí có khi trái ngược hoàn toàn, thông tin thiếu chắc chắn... Tất cả làm cho tâm lý của con người trong xã hội hiện đại thiếu ổn định, không vững chắc.

Trong những bước chuyển to lớn của đời sống xã hội, thế giới quan triết học thể hiện tầm vóc lớn lao của mình. Công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, cách mạng tri thức của nhân loại... đòi hỏi mỗi chúng ta phải có một thế giới quan đúng đắn, khoa học và cách mạng, một thế giới quan thống nhất.

Chúng ta tìm đến và đề cao vai trò quan trọng của Triết học với mỗi người và nền văn hoá chung của nhân loại. Như lời K. Marx nói, Tư tưởng triết học ở mỗi thời đại là "sự kết tinh tinh thần của thời đại". Triết học vốn không chỉ là thành quả của tư duy và văn minh nhân loại, có ý thức hoặc không có ý thức mà còn là nhu cầu không thể thiếu của con người từ xưa đến nay. Dù là con người của các thời đại trước hay của thế giới hôm nay thì cũng đều phải tự tìm câu trả lời về ý nghĩa cuộc sống, về hiện tại và tương lai của mình, về cách thức đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân và của mọi người. Ý tưởng triết học luôn là những kết luận sâu sắc, sáng sủa, toàn diện, trả lời không có giới hạn cho các vấn đề mà "tinh thần của thời đại" đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết.

Đã từng có lúc con người bất lực trong việc tự đi tìm câu trả lời cho các vấn đề đó cho nên đã phải nhờ đến truyền thuyết, tôn giáo... Nếu triết học không giúp con người tự thuyết phục được mình bằng luận cứ khoa học chặt chẽ thì người ta dễ ngả theo đi tìm niềm an ủi, sự tự giải thoát về tinh thần, niềm hạnh phúc ảo trong giáo lý của tôn giáo hay mê tín hoặc các tín ngưỡng dân gian của các dân tộc đã từng tồn tại hàng nghìn năm.

Từ khi có triết học, con người được cung cấp Thế giới quan của thời đại mình. Nó ghép nối nhuần nhuyễn theo phương thức của mình những kiến thức rải rác giúp cho chúng ta xác định rõ sự tương tác của mình với thế giới. Điều hết sức quan trọng là triết học còn cung cấp cho con người phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức. Lịch sử đã từng chứng kiến những bước ngoặt trong khoa học và trong sản xuất của xã hội, gắn liền với bước ngoặt trong phương pháp nhận thức mà ở một số giai đoạn nhất định chính các nhà triết học là người có công đầu. Điều đó có nghĩa là thông qua Triết học, con người được cung cấp một đôi mắt mới của trí tuệ và tâm thức để nhìn thế giới rõ hơn. Nhà văn Pháp Marcel Proust từng nói: "Một cuộc thám hiểm thật sự... không ở chỗ tìm kiếm những vùng đất mới, mà ở chỗ có những đôi mắt mới".

Bước vào thế kỷ XXI, nhu cầu về triết học của con người trong tương lai sẽ không ngừng tăng lên và cũng sẽ vô cùng phức tạp, thậm chí do sự pha tạp của cuộc sống, có phần sẽ hỗn độn hơn. Tuy vậy, một số kiến thức cụ thể nhất định nào đó có thể sẽ lạc hậu dần theo thời gian nhưng phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy là cái khá bền vững.

Người trẻ tuổi dễ bị sa vào những thông tin tầm thường, thiếu chiều sâu của tư duy. Trong khi cuộc sống mới đầy biến động và nhiều mâu thuẫn, cái thiện đang bị cái ác rình rập, đe doạ, những bi kịch của con người chưa chấm dứt, con người còn vấp phải trăm ngàn khó khăn, rủi ro đủ loại... thì trước thực tế mới, nhiệm vụ mới họ lại dễ đánh mất tự tin, dễ hoang mang, chao đảo vì thiếu nền tảng, thiếu căn bản trong những vấn đề thế giới quan, nhận ra những giá trị quan trọng của các học thuyết lớn của nhân loại.

Tư tưởng, thế giới quan cuộc sống được trao đổi, chuyển giao trong các cộng đồng, giữa các thế hệ. Qua thực tế có thể nhận thấy đa số những cuộc tranh luận các vấn đề cụ thể, đều bắt nguồn và dẫn tới tranh luận về một vài câu hỏi của Thế giới quan. Trong các cộng đồng trực tuyến, các môi trường truyền thông tương tác, nhiều cuộc tranh luận rất dễ nổ ra và kéo dài bất tận mà những người tham gia không ý thức được đó là sự tranh luận về những chủ đề Triết học, Thế giới quan.

Bởi vậy, để vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới, cần phải thực sự tôn trọng và tin cậy triết học, đối xử với triết học như một công cụ quan trọng. Mỗi người cần có sự chuẩn bị quan trọng cho mình là phải hình thành một bức tranh tổng quát, vững chắc, một cách nhìn thế giới theo quan điểm triết học của thời đại.

Dưới sự tác động của các quá trình dân chủ hoá, nhân văn hoá, tin học hoá và toàn cầu hoá, việc xác định tình trạng hiện thời của đời sống xã hội và vạch ra con đường phát triển của nó trong tương lai, xây dựng một thế giới quan tốt đẹp cho từng người và toàn xã hội không chỉ là công việc riêng của các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, mà còn cuốn hút sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp đại chúng. Hơn ai hết, thế hệ trẻ cần phải được định hướng, trang bị một thế giới quan tốt nhất cùng với khả năng tự suy xét, chọn lọc kiến thức và định hướng hành động cho bản thân. Các kiến thức lẫn phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức của triết học đều rất bổ ích, giúp cho bạn trẻ lựa chọn đúng các khả năng, khẳng định được hướng đi và cách làm phù hợp để đạt đến mục tiêu mong ước.

Trong khung cảnh như thế, việc xác định, xây dựng và phổ biến một thế giới quan khoa học và cách mạng sẽ mang lại một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chỉ khi có một thế giới quan như vậy, quần chúng mới trở thành động lực lớn lao của quá trình lịch sử, và mỗi con người mới thực sự trở thành một thực thể tự do và sáng tạo. Một thế giới quan của thời đại mới phải được nỗ lực chuẩn bị và xây dựng thận trọng dựa trên những đỉnh cao của khoa học thời đại, tư tưởng triết học duy vật vĩ đại của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác ở thế kỷ XX. Hơn bao giờ hết, tri thức triết học nói chung, tri thức triết học biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật biện chứng nói riêng có vai trò hết sức quan trọng đối với tương lai. Đó cũng là cách để chúng ta luôn đứng vững và đi vào thế kỷ mới dựa trên tầm cao của văn minh nhân loại.

Mun-Đa-Sép, chiếc cầu nối giữa khoa học và huyền học

Từ trước tới nay, trong quan niệm của nhiều người, khoa học và huyền học (Mystique hoặc Mysticisme) là hai lĩnh vực hoàn toàn riêng biệt thậm chí đối lập lẫn nhau. Một bên thuộc lĩnh vực lý trí đòi hỏi phải có sự phân tích chứng minh và dựa trên một nền tảng thực nghiệm vững chắc và một bên lại đề cao thứ cảm thức có tính chất trực giác, bí nhiệm về một loại đối tượng không hoặc khó có thể xác định bằng bất cứ một phạm trù khoa học nào. Thậm chí, từ một quan điểm thuần lý và cực đoan, có ý kiến cho rằng huyền học là một biến tướng của chủ nghĩa duy tâm ngu dân, một loại tàn dư của mê tín dị đoan từ thời xa xưa.

May thay, trên thế giới hiện nay, ngày càng có nhiều người không những có tư cách khoa học chân chính mà còn có đủ "tố chất" cần thiết để nếu không trở thành một nhà huyền học đích thực thì chí ít cũng là một người có khả năng nghiên cứu những vấn đề hóc búa thuộc lĩnh vực huyền bí, nơi mà ánh sáng khoa học nhất là khoa học hiện theo nghĩa đơn giản là "một hệ thống suy luận hợp lý", không phải luôn luôn có thể soi rọi tới. Vê vấn đề này, nếu trước kia chúng ta có thể kể đến như Blaise Pascal, Teilhard de Chardine, Lecomte du Nouy... thì hiện nay có thể đề cập đến một số tác giả như Anagarica Goviđa, David Bohm và gần đây nhất là Ê-rơ-no Mun-đa-sép, một nhà bác học lớn người Nga có tên tuổi trên trường quốc tế.

Là một giáo viên, tiến sĩ y học, giám đốc trung tâm phẫu thuật mắt và tạo hình Liên bang Nga, E. Mun-đa-sép được biết đến trước hết như là một chuyên gia lớn về nhãn khoa, người có công khai sáng một phương hướng mới trong y học phẫu thuật tái sinh, tức phẫu thuật "cấy ghép" mô người. Ông là người đầu tiên trên thế giới tiến hành phẫu thuật cấy ghép mắt thành công và hiện nay đang nghiên cứu những cơ sở của phẫu thuật tái sinh hàng loạt các bộ phận cơ thể người.

Điểm đặc biệt ở Mun-đa-sép là ông không dừng lại ở những vấn đề thuần tuý chuyên môn về nhãn khoa như phần lớn các bác sĩ khác, mà do một thứ nhận thức lô gíc có tính chất trực cảm, ông lại sử dụng nhãn khoa đặc biệt là hình học nhãn khoa, như một điểm xuất phát từ trong thế giới vật chất để bước sang nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực huyền học, tín ngưỡng, tôn giáo, từ những vấn đề về năng lượng tâm thần, trường sinh học, "con mắt thứ ba", cõi bên kia, cho đến những vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người và vũ trụ. Để nghiên cứu những vấn đề thuộc lĩnh vực huyền học, Mun-đa-sép không chỉ đọc những tác phẩm của các "bậc được bí truyền', những người phát triển tâm linh ở trình độ cao như E.P Bia-vat-cai-a, E.Rê-rích, A.Bây-li... mà còn nghiên cứu ngay tại thực đại, tại những nơi được xem là quê hương của tâm linh như Ấn Độ, Nepal và đặc biệt là Tây Tạng. Nếu con đường nghiên cứu khoa học của ông trong lĩnh vực y học diễn ra tương đối dễ dàng suôn sẻ và được nhiều người chấp nhận thì trong lĩnh vực huyền môn, những khám phá "động trời" của ông khiến cho không ít người phải hoài nghi, thậm chí phản đối mạnh mẽ. (Những khám phá của ông được công bố trong các bài báo đăng trong Luận chứng và sự kiện, một tờ báo rất phổ biến ở nước Nga, và sau được in trong tác phẩm Chúng ta thoát thai từ đâu? xuất bản năm 2001. Xem: Chúng ta thoát thai từ đâu, bản dịch tiếng Việt, NXB Thế giới, 2002).

Trước hết, về mặt phương pháp và quan điểm nghiên cứu, Mun-đa-sép khẳng định: là một nhà khoa học, ông không thể loại bỏ và không quan tâm tới những gì các bậc được bí truyền đã viết và tôn giáo đã khẳng định cách đây hàng mấy nghìn năm. Mặc dù ngày nay, tôn giáo đã đứng ngoài khoa học và đóng vai trò tác động lên hành vi và lối sống của con người (so sánh cách xử sự của người Thiên chúa giáo và Hồi giáo) nhiều hơn là bổ sung kiến thức, nhưng Mun-đa-sép tin rằng tôn giáo sẽ dần dần được chứng minh về mặt khoa học, và tù một "bản tính thuần tuý niềm tin", tôn giáo sẽ trở thành một loại hình khoá học, bổ sung thêm kiến thức mà loài người hiện đang có. Nếu theo Swami Manaan, "tôn giáo là sự cảm nghiệm cái đại thể" thì dưới cái nhìn khoa học của Mun-đa-sép, "tôn giáo chính là những lành nghiệm của các nền văn minh trước đây", và có thể nói rằng trên thế giới tồn tại một nguồn kiến thức thống nhất có đặc điểm chung là huyền bí, một loại kiến thức mà khoa học duy vật âu châu không hề biết tới hoặc bác bỏ, nhưng mọi người ở các nước, từ nơi sâu thẳm trong tâm hồn đều biết tới, và từ thế hệ này sang thế hệ khác, không ai bảo ai vẫn tiếp tục tìm kiếm nguồn tri thức đó. Xét về mặt xác suất, sự tồn tại một nguồn kiến thức chung như vậy xem ra thực tế hơn là ý kiến cho rằng mọi người ở các nước, từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đồng thanh bịa đặt như nhau.

Tất nhiên, đối với các vấn đề huyền học, không thể luôn luôn áp dụng các phương pháp thực chứng hoặc thực nghiệm như đối với các hiện tượng vật lý tự nhiên nhưng không phải là quả táo không rơi trúng đầu mà chúng ta lại có thể phủ nhận định luật hấp dẫn của Newton. Nói cách khác, muốn ăn trứng nhạn thì phải luồng hang mai, nhưng không thể vì không thích ăn trứng nhạn mà lại cho rằng trong hang mai không có trứng nhạn! Đối với những lãnh vực khó áp dụng phương pháp thực chứng, điều quan trọng là phải biết áp dụng những lập luận lô gích và sử dựng các sự kiện gián tiếp, sắp xếp các sự kiện này theo một trật tự có tính hệ thống cao để từ đó có thể đưa ra một giả thuyết. Theo Mun- đa-sép, phép lô gích chính là bà hoàng của khoa học và việc đưa ra được một giả thuyết tất là đã hoàn thành được nửa công việc.

Với một quan niệm về phương pháp luận khoa học như vậy, Mun-đa-sép đã chính thức công bố một số "khám phá" khiến cho nhiều người phải sững sờ (đúng hơn nên gọi những "khám phá" này là những giả thuyết được đưa ra như một công cụ để làm việc).

Trước hết, về một vấn đề hết sức hóc búa, một vấn đề đã làm đau đầu biết bao các nhà khoa học và các nhà triết học từ hàng nghìn năm nay, tức vấn đề nguồn gốc của loài người căn cứ vào "đôi mắt thống kê trung bình" (kết quả của việc tính toán, đo đạc đôi mắt) và số liệu hình học nhãn khoa, Mun-đa-sép cho rằng loài người có một nguồn gốc duy nhất tù Tây Tạng và chính xuất phát từ đây, loài người đã toả ra khắp trái đất theo bốn hướng chính là Xi-bi-ri - châu Mỹ-Niu-di-lân (hướng 1), Thái Lan - In-đô-nê-xi-a-châu Úc (hướng 2), Pamia - châu Phi (hướng 3), Cáp-ca-dơ - châu Phi-Aixlen (hướng 4). Từ kết quả phân tích toán học con mắt của các chủng tộc khác nhau trên thế giới, Mun-đa-sép thấy rằng các thông số hình học nhãn khoa trung bình hoàn toàn thuộc về chủng tộc Tây Tạng (giống như quan niệm của Nhi-cô-lai Rê-rích, người mà ông coi như thần tượng của khoa học nước Nga. Vào các năm 1925-35, Rê-rích đã tiến hành các cuộc thám hiểm ở Tây Tạng và Hi-ma-lai-a và đã cho ra đời giả thuyết nói trên).

Chính tại các vùng đất Tây Tạng này và các vùng đất thiêng liêng, huyền bí khác nhau trên trái đất, theo Mun-đa-sép, đã tồn tại một thứ mà ông gọi là "quỹ đen của nhân loại" (Gene pool of humanity). Quỹ này thể hiện qua các hình nhân trong trạng thái sô-ma-chi (tức nhập định theo chiều sâu), có hai vai trò cụ thể: thứ nhất, đó chính là khâu bảo hiểm cho loài người không bị diệt vong hoàn toàn và sự sống trên trái đất luôn luôn được bảo đảm kế tục dù cho trái đất có bị bất cứ thảm hoạ nào, thứ hai, quỹ gen nhân loại chính là kho tàng tri thức của các nền văn minh trái đất (theo Mun-đa-sép, lịch sử loài người đã trải qua ít nhất là ba nền năn minh với ba chủng tộc lớn là Lê-mu-ri, Át-lan và A-ri-an), và cứ định kỳ, lại có đại diện của nền văn minh này hoặc nền văn minh kia ra khỏi quỹ đạo để hoạt động tiên tri. Về cơ cấu, quỹ gen nhân loại bao gồm những người đang trong trạng thái sô-ma-chi (Mun-đa-sép cho rằng ông đã tiếp cặn trực tiếp với những người này trong các hang động ở Tây Tạng), trong đó, người Át-lan, một loại chủng tộc có trình độ phát triển tâm linh khá cao chiếm một tỷ lệ lớn nhất.

Dưới mắt của Mun-đa-sép có thể coi một phần địa cầu bao gồm Ấn Độ, Nê-pal, Tây Tạng là trung tâm tinh thần của nền văn minh chúng ta. Dù có suy yếu về phương diện vật chất kỹ thuật, sự phát triển tâm linh ở vùng đất này nhắc cho chúng ta nhớ rằng sự phát huy năng lượng tâm thần phải được coi là một nguyên tắc tối quan trọng của bất kỳ nền văn minh nào, nếu nền văn minh ấy không muốn lâm vào ngõ cụt, bế tắc như nền văn minh phương Tây hiện nay. Từ sự phân tích một trong những "khái niệm" chủ đạo của nền minh triết cổ truyền là "không gian thông tin toàn thể" (thuật ngữ do Mun-đa- sép đặt ra dùng để chỉ "cõi kia"), Mun-đa-sép cho rằng nội dung chủ yếu của kiến thức cổ xưa là làm chủ năng lượng tâm thần, và tất cả mọi việc xảy ra dù lạ lùng đến đâu (như hiện tượng "vật chất hoá" và "phi vật chất hoá") cũng đều bắt nguồn từ tâm thức và có thể được giải thích qua trạng thái của tâm (trong tác phẩm "Huyền học và đạo sĩ Tây Tạng", bà Aiexandra David Neel cũng đã đưa ra nhiều dẫn chứng do chính bà kinh nghiệm trực tiếp ở Tây Tạng). Tâm hồn con người là sản phẩm của thế giới tế vi, có nhiều khả năng to lớn chưa bộc lộ, và cổ nhân chính là những người nắm năng tượng của thế giới tế vi, tức tâm năng vững hơn chúng ta. Năng lượng của thế giới tế vi không chỉ là hiệu quả của thần giao cách cảm và thôi miên, đó còn là các phương pháp chữa bệnh mới, tác động lên sức hút (di chuyển các vật nặng), các nguyên lý mới của hàng không học... Nhưng điều quan trọng đặc biệt cần phải nhấn mạnh ở đây là để làm chủ năng lượng tâm thần thật sự, và để tránh sa vào ác đạo, điều cần thiết là phải giữ cho tâm hồn cao cả và tư tưởng được trong sạch, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nền tôn giáo chân chính đều chủ trương "tịnh hoá" tâm hồn (Phật giáo) hoặc sự "thanh khiết" nội tâm (Thiên chúa giáo). Đó cũng là một thứ "huyền học tích cực" chủ trương sự thức ngộ đầy cảm giác an lạc của cá nhân không đồng nghĩa với sự hư vô hoá cá nhân trong vòng hào quang của Cõi Sáng.

Ngay cả những khái niệm tôn giá quen thuộc như "cái thiện", "cái ác" tình yêu thương" cũng được Mun-đa -sép giải thích bằng phương pháp khoa học. Đây là những khái niệm quen thuộc đối với nhiều người, nhưng đối với Mun-đa-sép chúng có một ý nghĩa rất lớn lao và sâu sắc. Theo ông, phát sinh từ tuyệt đối, vật chất được phân chia thành hai thế giới: thế giới tế và thề giới vật thể. Thế giới vật thể thay đổi dần trong quá trình hình thành các hệ ngân hà, sao, hành tinh và khí giữa các hành tinh. Còn thế giới tế vi là thế giới 'tần số cực cao' thế giới này tiến hoá thông qua sự phát triển của các đường xoắn siêu cao. Chính các đường xoắn đó là khởi nguyên của những tình cảm chủ yếu của chúng ta. Bên trong các trường xoắn có chứa đựng thông tin, và nhân lực xoắn các trường đó là những lực có ích (tích cực) tức làm việc thiện bới tạo điều kiện bảo tồn thông tin. Còn những lực tháo lơi các trường xoắn là những lực ác, tiêu cực vì xoá bỏ thông tin. Mun-đa-sép đi đế kết luận là con người muốn tiến bộ thật sự thì không chỉ phát triển về mặt vật chất mà cần phải biết cách thanh lọc tâm hồn để đạt tới một trạng thái tâm hồn trong sạch thật sự và chỉ vi điều kiện này, con người mới điều khiển và làm chủ được năng lượng tích cực của thế giới tế vi. Vì vậy, tu nhân không phải là một bổn phận đạo đức tẻ nhạt, khô khan mà đó chính là tương lai của loài người.

Chắc chắn rằng những giả thuyết và luận điểm của Mun-đa-sép còn có phải được kiểm chứng một các nghiêm ngặt để tính khoa học và lô gích của nó có sức thuyết phục hơn. Nhưng dẫu sao thì ông cũng là một trong những người phá vỡ bức tường ngăn cách giữa khoa học và huyền học trong hàng nghìn năm nay. Vả lại, như chính ông đã nói, câu chuyện tới đây vẫn chưa kết thúc và sẽ còn có "những chuyến thám hiểm mới cùng với những công trình mới".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: