Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ part 1

Mario Puzo

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

Người dịch: Đặng Thiền Mẫn

LỜI GIỚI THIỆU

Thời gian gần đây chúng ta thường nghe nói nhiều tới một tổ chức mà hoạt động của nó không chỉ bó gọn trong phạm vi một quốc gia, mà đã trở thành một thực thể liên quốc gia với những đường dây liên lạc vô cùng tinh vi và chặt chẽ, với những thủ đoạn vô cùng quỉ quyệt và tàn bạo, có dư sức khuynh đảo giới cầm quyền chóp bu của chính phủ - đó là tổ chức Mafia.

Vậy về thực chất Mafia là gì?

Trong tay các bạn có thể có nhiều loại hình dẫn liệu để tiếp cận thực thể đó: Mafia - một tác phẩm tư liệu, Bố Già - một hình tượng văn học ở một góc độ nào đó đã được coi là cổ điển và Bạch tuộc - một tác phẩm điện ảnh vô cùng cuốn hút người xem... Các tác phẩm này đã phần nào cho chúng ta một định nghĩa cơ bản về cái tổ chức khủng khiếp đó. Mới đây Mafia ở Côlômbia ngang nhiên thách đố nhà cầm quyền nước này và trắng trợn đe doạ giới luật sư và báo chí, ở đây lại càng khẳng định tính bạo ngược, vô nhân đạo, vô đạo lý, bất chấp pháp luật của chúng.

Trong ý niệm của đông đảo mọi người trên thế giới, Mafia là một tổ chức khủng bố bí mật ở Italia mà quê hương gốc gác của nó là đảo Sicily với thủ phủ là Palermo. Các biện pháp sở trường của Mafia là đe doạ phát giác, cưỡng bức và sát hại. Chúng hoạt động chủ yếu ở các thành phố lớn với những đường dây buôn lậu ma tuý, các ổ chứa gái mại dâm, các sòng bạc v.v... và điều đáng sợ hơn là hoạt động của chúng bao giờ cũng gắn liền với các mục tiêu chính trị.

Tuy nhiên, ta cũng cần hiểu thêm xuất xứ của các khái niệm Mafia. Mafia, theo Mario Puzo, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng Bố già nguyên là một từ gốc Ả Rập, có nghĩa là "nơi tôn nghiêm", "cung thánh". Từ này nhập vào Sicily khi con cháu của nhà tiên tri Mahomed xâm lược đảo này vào thế kỷ 10. Nhiều thế kỷ sau, Sicily bị nhiều thế lực khác nữa giày xéo, áp bức, bóc lột. Để trả thù, người dân Sicily đã thành lập các "hội kín" dưới tên gọi Mafia. Các "hội kín" này trở thành một chính quyền trong bóng tối, và được dân chúng nghe theo, trọng nể hơn cả chính quyền công khai. Các "hội kín" này thực thi suốt nhiều thế kỷ luật omerta mà theo luật này, đối với người Sicily, tội lớn nhất là tội cung cấp cho chính quyền bất cứ tin tức gì về bất cứ hành động nào của Mafia.

Sicily vào những năm 40 của thế kỷ chúng ta với hoạt động của Mafia và một lực lượng nhất thời tự phát dám đối mặt với Mafia và cả chính quyền Roma, chính là bối cảnh cuốn tiểu thuyết giàu sức hấp dẫn của Mario Puzo - Sicily, miền đất dữ.

Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết "Sicily-miền đất dữ". Nhà xuất bản Thanh niên không chỉ muốn đưa đến bạn đọc một tác phẩm có sức cuốn hút nữa của Mario Puzo, mà điều chúng tôi muốn các bạn chú ý là hãy cảnh giác với Mafia cùng mọi quan niệm, và thủ đoạn của cái tổ chức mà có thể len lách vào mọi lĩnh vực và có thể chi phối cả đường lối của giới cầm quyền không phải chỉ của một quốc gia, hãy cảnh giác qua việc làm quen một cách có phê phán những phẩm chất và số phận cuộc đời của chàng trai Turi Guiliano - người đứng đầu lực lượng dám đối mặt với Mafia cùng luật omerta hà khắc và chính quyền Rome lúc đó.

Vốn là một chàng trai thông minh, đẹp như tượng người Hy Lạp, Guiliano cũng đồng thời là một con người tốt bụng và nghĩa hiệp. Lẽ ra chàng được sinh ra ở đất Mỹ, nơi cha chàng đã từng được giúp việc đắc lực cho Bố Già Corleone lừng danh và được Bố Già ưu ái. Nhưng do buồn nhớ quê hương Sicily, cha mẹ chàng đã quyết định về đó sinh chàng và sống nốt những năm cuối đời, cũng như nằm xuống ở nơi chôn rau cắt rốn.

Vừa đến tuổi vào đời, nhu cầu kiếm tiền để nuôi thân và để giúp đỡ gia đình của chàng trai nghĩa hiệp đó đã bị những kẻ thừa hành công vụ của chính quyền Rome chặn đứng: chàng bị bắn tưởng chết.

Viên đạn của chính quyền nhằm giết chàng đã mở ra một bước ngoặt quyết định trong đời chàng, dẫn chàng đến con đường ăn cướp và chàng đã trở thành một tướng cướp kỳ tài: cướp của nhà giàu (mà các nhà giàu ở đây phần lớn đều là những thành viên cốt lõi của Mafia) chia cho người nghèo, chứ không phải cho riêng chàng hoặc băng cướp của chàng. Do được lòng dân, do thông minh và dũng cảm nên nhiều lần Turi Guiliano đã thoát khỏi những mưu toan hãm hại của chính quyền Rome ngoặc chặt với tổ chức Mafia ở đây. Không hãm hại được chàng, nhưng chúng đã lợi dụng băng của chàng để phá vỡ sự ủng hộ của dân nghèo đối với những người cộng sản và những người xã hội cánh tả ở Sicily. Và vô tình chàng đã bị tiếng oan trong công luận.

Lòng căm thù của chàng đối với Mafia, chính quyền Rome và những kẻ phản bội chàng càng tăng và được thể hiện bằng những sự trừng phạt để cảnh cáo và để trả thù. Tác giả có ý nhắc và bạn đọc chúng ta cũng nên tỉnh táo trước những "đam mê" trả thù bằng bạo lực của Guiliano và băng của chàng, để giữ cho những nét nhân bản luôn luôn là những nét riêng cao đẹp của mỗi con người và của cả loài người.

Nhưng Turi Guiliano cũng đã nắm được khá nhiều tư liệu của chính phủ, của giáo hội và của tổ chức Mafia về những hoạt động xấu xa, hèn hạ của họ. Những tư liệu này được gọi là "chúc thư" của Guiliano, mà mỗi trang của nó, kỳ lạ thay, là có chữ ký xác nhận của chính Hồng y giáo chủ Palermo. Nếu "chúc thư" được tung ra trước công luận, thì ngay cả chính quyền Rome và đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đang cầm quyền sẽ có nguy cơ bị sụp đổ. Việc thanh toán Guiliano càng trở nên cấp thiết đối với chính quyền Rome và tổ chức Mafia ở Sicily.

Bố già Corleone từ Mỹ nghĩ tình bạn với cha mẹ Guiliano, đã liên lạc với trùm Mafia ở Sicily để tìm mọi cách cứu Guiliano và đưa chàng sang Mỹ. Cả con trai của Bố Già cũng trực tiếp tham gia vụ ứng cứu này, vì càng ngày anh ta càng thấy quý mến Guiliano cùng với nhân cách của chàng đã trở thành huyền thoại trong đời sống tình cảm và tinh thần của dân đảo Sicily này.

Nhưng thế lực Mafia vẫn còn lớn, và mưu đồ của chúng hết sức xảo quyệt. Mafia phản bội Guiliano và tạo mầm phản bội ngay trong lòng tên phó tướng thân cận đồng thời là con bà dì ruột của Guiliano.

Guiliano bị giết chết, cái chết của chàng chấm dứt một băng cướp "từ thiện" nhưng tự phát, tuy nó "vì dân" (chia của cho dân nghèo), nhưng không biết dựa vào dân, không biết tổ chức, tập hợp và phát huy sức mạnh của nhân dân, không biết liên kết với các tổ chức cách mạng do những người cộng sản lãnh đạo.

Guiliano đã chết, dù có sự can thiệp, giúp đỡ của Bố Già Corleone lừng danh từ Mỹ. Vì dù rất thương yêu huyền thoại Guiliano, nhưng khi phải cân nhắc giữa mạng sống của "huyền thoại" và của đứa con trai cưng kế vị của mình, Bố già không mảy may đắn đo nghiêng về phía con mình... Bài học mà Bố Già muốn con phải ghi lòng tạc dạ, đó là: "Sống là để khỏi chết, chứ không phải là để trở thành anh hùng".

Với nội dung trên, Sicily - miền đất dữ đã được thể hiện qua nhiều loại nhân vật: từ các trùm Mafia đủ cấp bậc đến các đầu lĩnh của băng cướp, từ thủ tướng, bộ trưởng của chính quyền Rome đến Hồng y giáo chủ Palermo và các kiểu thầy tu khác, từ các cỡ chỉ huy cảnh sát đến đại diện cho các đảng phái chính trị... nhưng mỗi nhân vật đều không thể trộn lẫn với người khác được.

Các mưu đồ thanh toán nhau, các cuộc mưu phản thừa bẫy hiểm kế độc và cả các cuộc tình không kém phần lãng mạn và dữ dội... đều được gắn kết với tính cách của từng nhân vật, tạo nên một mạch đọc khó dứt trong bạn đọc.

Tuy khó dứt, nhưng mong bạn đọc lưu ý tinh thần mà chúng tôi giới thiệu ở những phần trên khi đọc cuốn sách này.

Mario Puzo

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

MICHAEL CORLEONE: NGƯỜI KẾ VỊ "BỐ GIÀ"

CHƯƠNG 1

Đứng trên cầu tàu bằng gỗ bến cảng Palermo, Michael Corleone nhìn con tàu xuyên đại dương đang sửa soạn nhổ neo đi Mỹ. Lẽ ra hắn đã phải đáp chuyến tàu đó. Nhưng Bố Già đã chỉ thị cho hắn phải ở lại, đợi.

Hắn đưa tay vẫy chào từ biệt những người đã đưa hắn đến đây và còn đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá. Cũng chính những người này đã bảo vệ hắn trong suốt thời gian sống lưu vong tại Sicily. Chiếc thuyền đánh cá chờn vờn bên hông chiếc tàu biển nom như một con vịt con bì bõm bên vịt mẹ. Những người ngồi trên thuyền đánh cá vẫy tay chào lại hắn. Rồi họ lại bơi thuyền đi mất hút.

Trên bến tàu, những người bốc vác, đầu đội mũ lưỡi trai, mặc những bộ quần áo rộng thùng thình, đang tới tấp dỡ hàng từ trên tàu và chất lên những chiếc xe vận tải dậu thành hàng dọc theo cầu tầu. Nom họ thoăn thoắt và có vẻ là người A Rập hơn là người Ý. Cái mũ lưỡi trai kéo sụp xuống gần như là che kín cả khuôn mặt. Trong đám ấy, chắc chắn là có những vệ sĩ ngầm bảo vệ hắn cho đến khi hắn gặp được ông Trùm Croce Malo, " Chúa Trùm" của tổ chức "Người anh em" ở xứ Sicily này. Chỉ có báo chí và mấy "người ngoài" mới gọi tổ chức ấy là Mafia, chứ tại chính trên xứ Sicily thì chẳng có ai sử dụng tên gọi ấy. Ngay cả thường dân Sicilian cũng vậy. Cũng như không bao giờ họ gọi Ông Trùm Croce Malo là Chúa Trùm cả, mà gọi là Ông Địa.

Trong hai năm sống lưu vong trên xứ Sicily này Michael đã được nghe nói nhiều về lão Croce này. Có những chuyện tưởng như hoang đường đến mức khiến cho hắn đã không còn tin là có thể có một con người như vậy. Nhưng chỉ thị của Bố Già gửi đến cho hắn thì ghi rõ là ngay chính ngày hôm nay, hắn sẽ phải dùng cơm trưa với Ông Trùm Groce Malo. Và cả hai trong số tay chân bộ hạ của lão sẽ bố trí để một tay anh chị lừng danh nhất của xứ Sicily - tức là Salvatore Guiliano - thoát khỏi vòng vây để cùng đi Mỹ với hắn. Michael Corleone được lệnh không được rời khỏi Sicily mà không có Guiliano đi theo.

Phía cuối cầu tàu, cách chỗ hắn đang đứng khoảng năm chục mét, có một chiếc xe hơi to sơn màu đậm đang đậu lù lù trên một đường phố nhỏ. Trước xe có ba người đàn ông đang đứng. Michael đi về phía họ. Đang đi, hắn bỗng dừng lại, giả bộ châm điếu thuốc để đưa mắt quan sát.

Thành phố Palermo nằm gọn trong thung lũng lòng chảo do núi lửa đã tắt tạo nên. Ba phía bị núi bao bọc, còn một phía thì chập chờn trong màu xanh lấp loáng của Địa Trung Hải. Thành phố lung linh trong ánh nắng chói chang của mặt trời ban trưa trên xứ Sicily. Những con đường đất đỏ ngoằn nghèo, nom như những dòng máu đã đổ ra trên đất Sicily từ bao thế kỷ nay. Nắng chói chang, rực rỡ chan hoà trên hàng cột cẩm thạch trắng toát của ngôi đền Hy Lạp, trên các ngọn tháp dăng đầy mạng nhện của các đền thờ Hồi giáo, trên các mặt tiền nhà thờ có những hoa văn rắc rối kiểu Tây Ban Nha. Và ở cả sườn núi phía kia, thấp thoáng bóng một pháo đài cổ, lỗ chỗ những lỗ châu mai của người phương Bắc. Tất cả những cái đó là di tích của nhiều đạo quân hung bạo kể từ trước cả thời công nguyên đã từng xâm lăng và cai trị xứ Sicily khốn khổ này. Phía bên bức tường pháo đài là dãy núi với những đỉnh nhọn hoắt, ôm choàng lấy thành phố Palermo như đôi tay của tình lang ghì siết tấm thân kiều nữ, cả hai như trong tư thế đắm say và đầu gối cũng từ từ khuỵu xuống, hoặc nom như một chuỗi ngọc đeo chểnh mảng trên vòng cổ người đẹp. Xa hơn nữa, tít trên cao trên thinh không, bầy diều hâu đỏ vun vút bay ngang nền trời trong xanh.

Michael đi về phía ba người đang đợi hắn ở cuối cầu tàu. Nét mặt và thân hình của họ nổi bật trong bóng nắng. Mỗi bước hắn lại nhìn thấy họ rõ hơn. Và, đang đứng chụm lại, họ như bỗng tách rời nhau ra, để quây lại đặng ôm hôn hắn.

Cả ba đều biết rất rõ lai lịch của Michael. Chẳng hạn, họ biết rằng hắn là con trai út của "Ông Trùm" Corleone, tiếng tăm lừng lẫy chẳng những trên khắp nước Mỹ, mà cánh tay quyền lực của lão còn vươn tới tận xứ Sicily này. Rằng, trong lúc thanh toán một kẻ thù của "Đế quốc Corleone" thì hắn cũng đã "lật gọng" một tay "cớm gộc" của thành phố New York. Rằng, chính vì cái thành tích động trời ấy mà hắn phải ẩn mặt, sống lưu vong tại Sicily này. Nay thì sự việc đã được "thu xếp" ổn thoả, nên hắn đang trên đường trở về quê nhà để đảm nhiệm ngôi vị "đông cung thái tử" trong "Đế quốc Corleone". Họ chăm chú nhìn Michael, cái cách di chuyển mau lẹ, nhẹ nhàng của hắn, cái bộ mặt nhăm nhúm, rúm ró của hắn khiến cho hắn có cái vẻ của một người đã từng trải nhiều đau khổ và hiểm nguy. Hiển nhiên, hắn là một tay tổ đáng gờm chớ không phải tay mơ, tài tử.

Khi Michael đi đến cuối cầu tàu thì người đầu tiên đến chào đón hắn là một "giáo sĩ". Ông ta mặc áo thầy tu, đầu đội chiếc nón đen bạc phếch dính đầy bụi bặm và cáu bẩn. Chiếc cổ "cồn" trắng của giáo sĩ đã đổi màu vì bụi đất đỏ của xứ Sicily. Cái mặt ngồn ngộn thịt của ông ta nom rất chi là trần tục, chẳng có vẻ gì là thầy tu. Đó là cha Benjamino, em trai của Ông Trùm Croce Malo. Điệu bộ của cha Benjamino thì đạo hạnh như thể nhút nhát. Nhưng thật ra ông rất táo tợn và rất nhiệt tình trong cái sự nghiệp đâm chém, dao búa của ông anh tăm tiếng lẫy lừng nọ. Và ông chẳng bao giờ ngần ngại khi phải tiếp xúc với quỷ dữ lúc nào cũng hờm sẵn trong lòng ông. Những đứa "thối mồm" còn dám kháo với nhau là ông đã dám tiết lộ cho ông anh của ông ta những điều mà con chiên bổn đạo đã xưng tội với ông trong toà giải tội. (1)

Cha Benjamino mỉm cười và nồng nhiệt bắt tay Michael. Ông ta dường như ngạc nhiên và bớt căng thẳng khi thấy nụ cười có vẻ hồn nhiên, cởi mở và thân thiện của Michael thật trái ngược với cái tiếng tăm giết người không chùn tay của hắn.

Người thứ hai đón Michael là một người lịch sự có thừa, nhưng không có vẻ thân thiện bằng cha Benjamino. Đó là ngài thanh tra Velardi, "sếp sòng" đám cớm trên toàn cõi Sicily. Ông ta là người duy nhất trong số ba người ra đón Michael đã không có được lấy một nụ cười xã giao trên môi. Vóc người mảnh khảnh, ăn mặc cực bảnh so với dân "cạo giấy" ăn lương nhà nước "ba cọc ba đồng". Đôi mắt xanh, lạnh của những người lai dòng máu Viking phương Bắc từ thời xa xưa đã từng xâm chiếm, cướp bóc xứ này. Thanh tra Velardi có lý để không khoái thằng "mẽo" này, vì nó đã "lật gọng" một "cớm gộc" nếu không hơn thì cũng ngang tầm cỡ ông ta chớ không ít. Hắn đến xứ Sicily chẳng qua là để đợi thời chớ đâu phải là mai danh ẩn tích để đi tu. Bắt tay Michael là một gã có khổ người to lớn dềnh dàng hơn hai người kia. Đứng bên cạnh hai người vừa nói, nom gã như một ông khổng lồ. Gã siết chặt tay Michael, buông ra, rồi thân mật ôm chầm lấy hắn.

- Chú em - gã nói, thật là mừng khi được gặp lại chú tại Palermo này. Rồi đẩy Michael xích ra, nhìn vào mặt Michael vừa âu yếm, vừa e dè:

- Tôi là Stefan Andolini. Ông già của chú và tôi cùng lớn lên tại làng Corleone. Tôi đã gặp chú ở bên Mỹ, lúc đó chú còn nhỏ xíu xiu. Chú có nhận ra tôi không?

Thật là kỳ diệu, Michael nhận ra gã. Có gì đâu, dân Sicilian rất hiếm người có râu tóc đỏ như râu bắp của gã. Và đó là điểm độc đáo của gã, và dân Sicilian cứ nhất định tin rằng Judas bán Chúa phản thầy xưa kia cũng có mái tóc đỏ như vậy. Và người nào đã nhìn thấy lão dù chỉ một lần thì cũng khó mà quên được. Cái miệng rộng toác hoác, lại bị méo, cặp môi trông như con đỉa trâu và đỏ lói như miếng thịt ngựa, bên trên cặp môi ấy là hai lỗ mũi có lông rậm rì thò dài ra, đôi mắt trũng sâu ẩn dưới hàng lông mày chổi xể rậm rì như hai con sâu róm. Ngay cả cái cười của gã cũng khiến người ta thấy rờn rợn và bắt người ta phải nghĩ đến chết chóc.

Với vị giáo sĩ, Michael còn hiểu được mối liên hệ, chứ với "cớm gộc" Velardi thì mắc mớ gì mà cũng có mặt ở đây? Andolini, người có trách nhiệm liên lạc, đã vội vã và cẩn thận giải thích cho Michael về tư cách của "cớm gộc" trong vụ này. Dù vậy, Michael vẫn cứ cảnh giác. Ngài thanh tra đã chẳng nổi tiếng là một tay săn đuổi gắt gao anh chàng Guiliano đó sao? Và rõ ràng là ngài thanh tra và cái gã Stefan Andolini chẳng ưa gì nhau. Cái lịch sự họ đối đãi với nhau là cái lịch sự của hai đối thủ sẵn sàng giao đấu chí tử một mất một còn.

Anh tài xế mở cửa xe cho họ. Cha Benjamino và Andolini vỗ vai trịnh trọng mời Michael ngồi vào ghế sau. Bằng cái giọng khiêm nhường của một con chiên của Chúa, cha Benjamino nhấn mạnh là cha ngồi vào giữa để Michael ngồi cạnh cửa "đặng ngắm phong cảnh thành phố Palermo cho tiện". Andolini ngồi phía cửa bên kia. Còn ông thanh tra thì ngồi ghế trước với tài xế. Michael để ý thấy ông thanh tra lúc nào cũng lăm lăm cầm cái núm cửa đặng có thể mở thật nhanh bất cứ lúc nào. Michael chợt thoáng nghĩ là cha Benjamino cố ý ngồi vào giữa để che bớt đạn cho hắn, nếu bất ngờ bị bắn lén.

Giống như một con hắc long, chiếc xe từ từ chuyển mình qua các phố xá của thành phố Palermo. Hai bên phố là nhà cửa xây theo kiểu Maure (2), những toà công thự với hàng cột kiểu Hy Lạp và nhà thờ kiểu Tây Ban Nha. Những ngôi nhà thường dân sơn vôi màu lục, màu trắng, màu vàng. Tất cả đều có ban công trồng các dây hoa leo, làm cho người đi dưới đường có cảm tưởng như đang đi luồn dưới gầm một giàn hoa. Phố xá có thể nói là đẹp, nếu đừng có những đội bảo an, những đội cảnh sát quốc gia Ý đang đi tuần trên từng góc phố. Và trên các ban công cũng có lính nữa. Những chiếc xe khác chạy bên xe của họ nom hoá ra lùn hẳn đi, nhất là những chiếc xe do lừa kéo của nông dân chở rau quả tươi từ quê ra tỉnh. Những chiếc xe này phết sơn sặc sỡ từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ cái càng xe cho đến cả những cây căm xe bằng gỗ. Phía hai bên xe thường vẽ cảnh một hiệp sĩ mặc áo giáp và ông vua đội vương miện. Ấy là tranh kể lại tích vua Charlemagne và hiệp sĩ Roland, vị anh hùng trong các truyện cổ tích dân gian Sicily. Nhưng ở một vài xe, Michael lại thấy vẽ nguệch ngoạc hình một anh chàng trông tuấn tú, mặc quần da, áo sơ - mi cụt tay, thắt lưng sề sệ hai cây súng lục và vai đeo lủng lẳng khẩu tiểu liên. Nhưng dù đó là cổ hay kim thì các bức tranh đó bao giờ cũng có một hàng chữ đỏ kính cẩn ghi tên "Guiliano".

Trong thời gian sống lưu vong ở Sicily, Michael đã được nghe kể nhiều điều về cái anh chàng Salvatore Guiliano này. Ngày nào trên báo chí cũng thấy có tên anh ta. Khắp cả cái xứ Sicily này, ai ai cũng nói về anh ta. Ngay cả Apollonia, cô bồ của Michael cũng thú nhận rằng hằng đêm, cô - cũng như hầu hết mọi đứa con nít và đám thanh thiếu niên choai choai của cái đảo Sicily này - vẫn cầu nguyện cho Guiliano được bình an. Chúng tôn thờ chàng ta và ngày đêm mơ ước được trở nên người như chàng. Còn trẻ mới ngoài hai mươi chứ mấy chàng đã được đám bình dân tôn phong là "tướng", vì đã đương cự nổi cả một đạo binh được chính phủ phái tới để tiêu diệt chàng. Đã đẹp trai thì chớ, tánh nết chàng lại còn hào hiệp, vì chàng đã đem phân phát lại cho đám dân nghèo gần hết những gì mà chàng đã kiếm được bằng tội ác của mình. Ngoài ra chàng còn tỏ ra đạo hạnh, đàng hoàng. Cánh đàn em của chàng, đứa nào dám làm phiền đến các giáo sĩ và các phụ nữ là biết tay chàng liền. Độc đáo hơn hết là mỗi khi chàng "hoá kiếp" cho một tên mật báo viên hoặc một tên phản bội, chàng đều dành cho bọn này ít phút để ăn năn tội lỗi và cầu nguyện đặng làm hoà với các vị cai quản thế giới bên kia. Tất cả những điều này, Michael đã nghe hết, nhưng không rõ chi tiết cụ thể.

Khi họ đã rời đại lộ về hướng khác, thì thấy một tờ áp - phích đã đập vào mắt Michael. Nhưng hắn cũng chỉ nhìn thoáng thấy chữ Guiliano ở phía trên. Cha Benjamino nghiêng mình tựa vào cửa nhìn ra xa và nói:

- Đó là một trong những bản tuyên cáo của Guiliano đấy. Nhà nước đã làm đủ cách rồi mà, ban đêm, Palermo vẫn dưới quyền kiểm soát của anh ta.

- Tuyên cáo ấy nói gì vậy? - Michael hỏi.

- Anh ta cho phép dân chúng lại được sử dụng xe điện, - cha Benjamino đáp.

- Cho phép? - Michael mỉm cười hỏi tiếp. - Một tên sống ngoài vòng pháp luật mà lại cho phép?

Ngồi phía bên kia, Stefan Andolini bật cười lớn:

- Mấy cha cảnh vệ lái xe điện thì Guiliano đặt mìn. Nhưng trước đó, dân chúng cũng được cảnh cáo trước chớ có đi xe điện. Bây giờ thì hứa không đặt mìn nữa, thế thôi.

Michael hỏi cộc lốc:

- Xe điện đầy "cớm" như vậy thì làm thế nào anh chàng Guiliano ấy đặt mìn được?

Ngài thanh tra quay đầu lại, đôi mắt xanh rờn chiếu thẳng vào Michael:

- Bởi vì, trong cơn xuẩn ngốc của mình, Rome (tức chánh phủ trung ương của Ý - ND) đã tống giam ông già, bà già nó vì cái tội "kết giao với đại trọng phạm" - tức là kết giao với ông con trai của họ. Chính quyền cộng hoà rồi mà vẫn chưa huỷ bỏ đạo luật phát - xít ấy.

Cha Benjamino nói với giọng ngầm kiêu hãnh:

- Ấy, cũng vì cái vụ ấy mà ông anh tôi, ông Croce ấy mà, trách Rome hết sức vậy đó.

- Trời đất! - Michael thầm nghĩ. - Trùm Croce mà lại dám trách Rome? Trùm Croce là cái quái quỉ gì, ngoài cái gọi là "điều hợp viên" trong đám Mafia với nhau?

Chiếc xe ngừng lại trước một toà nhà đồ sộ sơn vôi màu hồng. Mỗi góc đều có tháp kiểu Hồi giáo sơn xanh nhô cao lên. Trước lối vào, một tấm vải bạt lớn, sọc xanh viết chữ "Khách sạn Umberto", có cả hai tên gác cửa mặc gia phục có cài nút đồng sáng loáng. Tuy nhiên, Michael đâu có "ngợp" trước cái vẻ đồ sộ, huy hoàng, lộng lẫy và oai nghiêm ấy. Hắn đưa mắt "chụp" nhanh quang cảnh, đường phố phía trước khách sạn. Hắn nhận ra ngay có ít nhất một chục vệ sĩ, từng cặp đi đi lại lại dọc theo phía ngoài hàng rào song sắt. Bọn này chẳng thèm giấu giếm nhiệm vụ của mình, mở banh nút áo vét để lộ vũ khí lủng lẳng bên hông. Hai người hút thuốc lá đã chặn lối Michael khi hắn rời khỏi xe. Họ nhìn hắn, xoi mói như thể coi hắn là một nhân vật đáng lo ngại. Họ cũng tỏ ra chẳng cần biết Andolini và ngài thanh tra là ai.

Khi ba người đã đi vào bên trong thì lập tức, cửa đóng sập ngay lại phía sau lưng họ. Trên hành lang, bốn vệ sĩ khác xuất hiện và dẫn họ đến một hành lang khác. Bọn vệ sĩ này có điệu bộ vênh váo kiểu như bọn đầy tớ trong cung hoàng đế. Cuối dãy hành lang lại một cánh cửa gỗ sồi nặng nề chặn ngang, đóng kín. Một người ngồi trên cái ghế cao nom như cái ngai vội đứng dậy và rút chiếc chìa khoá bằng đồng sáng loang ra, mở cửa. Hắn cúi đầu cười và mỉm cười, cái cười ra vẻ ăn ý - với cha Benjamino. Ông này cũng mỉm cười chào lại.

Cánh cửa mở dẫn vào một dãy phòng lộng lẫy. Những cửa sổ kiểu Pháp mở trông ra vườn. Ngoài vườn, hoa chanh toả hương thơm ngào ngạt. Khi họ vào dãy phòng ấy, Michael thấy hai người ngồi sẵn phía trong. Michael tự hỏi tại sao Ông Trùm lại phải canh gác kỹ đến thế. Lão là bạn của Guiliano, đồng thời cũng là thủ túc thân tín của ngài bộ trưởng Bộ Tư Pháp ở Rome. Vả lại, chính cảnh vệ dăng dăng phủ kín đường phố Palermo. Vậy thì ai, cái gì đã khiến cho Ông Trùm phải "rét" đến thế? Kẻ thù của lão là ai vậy?

Đồ đạc trong phòng khách được chế tạo đặc biệt cho phù hợp với toà lâu đài kiểu Ý. Ghế bành lớn, ghế tràng kỷ dài và sâu như một chiếc tàu nhỏ, bàn cẩm thạch lớn như thể nó vừa được "rinh" từ viện bảo tàng về. Tất cả những thứ ấy đều ứng với khuôn khổ của một con người vừa từ ngoài vườn đi vào để chào đón họ.

Hai tay lão dang rộng, ôm chầm lấy Michael. Lúc đứng, Ông Trùm Croce Malo nom có chiều ngang hơn là chiều cao. Mái tóc rậm ngả màu và xoắn tít như tóc mấy anh "nhọ" nhưng được cắt tỉa cẩn thận. Mái tóc ấy phủ lên cái đầu to và tròn như đầu sư tử. Đôi mắt lão toát ra vẻ nham hiểm. Hai con mắt như hai trái nho gắn trên cặp má nung núc những thịt nom như hai mảnh gỗ gụ ốp vào mặt. Má bên phải thì nhẵn nhụi nhưng má bên trái thì hằn lên mấy vết thẹo. Nhưng cái miệng thì lại duyên không ngờ. Môi trên có một hàng ria con kiến. Dưới cằm một chòm râu rậm như để gắn chặt các bộ phận trên mặt của lão lại làm một.

Nhưng ngoại trừ cái đầu có vẻ vương giả ấy ra, từ cổ lão trở xuống thì đúng là nông dân "rặt nòi". Cái quần rộng thùng thình, mặc dù đã cố hết sức để ôm lấy cái bụng "bự" như cái thùng nước lèo của lão, nhưng vẫn cứ chực bung ra nếu không có hai sợi dây đeo choàng vắt lên vai. Cái áo sơ - mi cũng rộng thùng thình, tuy giặt sạch sẽ trắng bốc, nhưng nhàu nát như vừa lấy ở thùng đồ giặt ra và cứ thế mặc vào, chứ chẳng có ủi gì ráo. Lão không thắt cà - vạt, mà cũng chẳng mặc áo vét. Lại còn đi chân đất nữa chứ.

Cứ nhìn hình dạng bên ngoài, thì lão ta chẳng có cái vẻ gì của một người đã "nhúng mỏ" vào đủ mọi chuyện làm ăn lớn nhỏ, thượng vàng hạ cám, chợ đen chợ đỏ từ trên các đường phố cho đến các quảng trường của thành phố Palermo. Cứ nhìn điệu bộ của lão, thì khó mà tin rằng lão có trách nhiệm về cả ngàn cái chết, rằng lão lại có thể cai trị miền tây Sicily còn ngon lành hơn cả chính phủ trung ương tại Rome, rằng lão giàu có hơn cả mấy ngài quận công, bá tước chủ nhân các lãnh địa mênh mông ở Sicily.

Lão ôm hôn sơ qua Michael, rồi vội vã nói:

- Chú và ba của cháu quen nhau từ hồi hai người còn để chỏm. Chú thật vui khi thấy ba cháu có cậu con trai bảnh thế này.

Rồi ông ta quay ra hỏi han về những khổ cực mà Michael vừa trải qua trong chuyến đi ngày hôm ấy. Và hỏi xem hắn có cần gì không... Michael mỉm cười đáp mình đã lót dạ bằng khúc bánh mì và nhâm nhi lai rai vài ly rượu nho rồi. Lập tức sau đó, Ông Trùm dẫn hắn ra vườn. Cũng như mọi người dân Sicily, lão thích ăn ngoài trời mỗi khi có thể.

Bàn ăn được dọn ra gần một gốc cây chanh. Ly tách pha - lê sáng lấp lánh, khăn ăn, khăn trải bàn trắng muốt. Những chiếc ghế lớn bằng tre được các đầy tớ đem lại. Đích thân Ông Trùm kiểm tra lại cánh bày biện bàn ăn một cách lịch sự. Lão nom trẻ hơn cái tuổi ngoài lục tuần của lão. Lão kéo Michael ngồi xuống bên phải và ông em "giáo sĩ" ngồi phía bên trái lão. Ngài thanh tra và Stefan Andolini ngồi đối diện. Lão nhìn hai người này bằng đôi mắt lạnh nhạt.

Mọi người dân Sicilian đều là những tay ăn nhậu khoẻ, nếu họ có đủ thực phẩm. Và một trong những chuyện khôi hài về Ông Trùm mà người ta dám kể trước mặt lão là lão thích ăn hơn là thích giết kẻ thù. Lão ngồi vào bàn ăn, nụ cười đôn hậu nở trên khuôn mặt mãn nguyện, tay cầm thìa dĩa chờ đầy tớ đem thức ăn đến. Michael đưa mắt liếc nhanh khắp khu vườn. Khu vườn có tường đá cao bao kín và có ít nhất cũng một chục vệ sĩ rải rác trên khắp bàn ăn khác đặt quanh vườn, nhưng không bàn nào có quá hai tên và cách khá xa bàn ăn của Ông Trùm và các vị khách của lão. Khu vườn ngào ngạt hương hoa chanh và ô - liu.

Đích thân Ông Trùm sẻ thức ăn cho Michael. Món gà quay với khoai tây chiên bơ. Lão nếm thử món phó-mát nghiền, rồi mới sới vào đĩa mì Spaghetti, rót rượu nho "đặc sản địa phương" vào ly của Michael... Lão làm tất cả các động tác đó một cách hết sức thích thú và chân thành, cứ như thể điều quan trọng nhất của lão trong lúc này là làm sao để người bạn mới của lão cảm thấy thoải mái, ăn uống ngon lành. Michael cảm thấy đói, vì từ lúc rạng đông đến giờ hắn đã có cái gì nhét vào bụng đâu. Ông Trùm cứ rót thêm rượu, tiếp thêm thức ăn cho hắn. Lão cũng không quên đưa mắt nhìn đĩa của mấy người kia, để nếu cần thì đưa mắt ra hiệu cho đầy tớ tiếp thêm thức ăn hoặc tiếp thêm rượu cho họ.

Khi đã ăn xong, lúc ngồi nhâm nhi rượu tiêu thực, thì cũng là lúc Ông Trùm sẵn sàng để bắt tay vào việc. Lão nói với Michael:

- Vậy là cháu đến giúp Guiliano rời Sicily để đi Mỹ?

- Cháu đã nhận được chỉ thị như vậy, - Michael đáp. - Cháu phải làm thế nào để đảm bảo an toàn cho anh ta đi đến Hoa Kỳ, không được để cho có một sơ sẩy nào.

Lão Croce gục gặc đầu. Bộ mặt nung núc những thịt của lão bỗng ỉu xìu, chảy dài ra. Giọng nói ồm ồm của lão bỗng cất lên:

- Mọi sự đã được ba cháu và chú sắp xếp đâu đó xong xuôi rồi chớ. Chú sẽ giao Salvatore Guiliano cho cháu. Nhưng... Ở đời đâu có phải lúc nào mọi sự cũng xuôi chèo mát mái, không có những trục trặc bất ngờ, trái ý xảy ra. Bởi vậy, về phái chú bây giờ có phần khó thực hiện được giao ước với ba cháu.

Lão đưa tay ngăn Michael đang định ngắt lời lão, và tiếp:

- Lỗi không phải tại chú mà cũng chẳng phải tại ba cháu. - Qua cũng như ba cháu thì vẫn chẳng có gì thay đổi. Nhưng, Guiliano chẳng chịu tin ai, ngay cả chú đây nó cũng không tin. Từ mấy năm qua, nhất là cái thời gian đầu cuộc sống giang hồ, ngoài vòng pháp luật của nó, nhờ có chú mà nó thoát chết nhiều phen. Nó với chú có lúc kể như đồng hành, đồng sự đấy. Cũng nhờ có chú mà ngày nay, mới chưa đầy ba chục tuổi đầu, nó đã trở thành một tay giang hồ lừng danh vào bậc nhất của cái xứ Sicily này. Nhưng, lúc này nó cũng hết thời rồi. Năm ngàn lính bảo an và cảnh sát dã chiến đang ngày đêm lùng sục trên núi. Đến nước ấy, mà nó vẫn không chịu để cho chú đỡ nó một tay...

- Nếu vậy thì cháu cũng vô phương giúp đỡ gì cho anh ta, - Michael nói, - cháu được lệnh đợi hắn trong vòng không quá một tuần. Sau đó, được hay chăng, cháu cũng phải bay về Mỹ.

Tuy nói vậy, nhưng Michael vẫn thắc mắc tự hỏi không hiểu việc đào thoát của thằng cha Guiliano này có gì quan trọng đối với ông già hắn, mà đến nỗi... Sau mấy năm sống lưu vong, hắn nóng lòng mốn trở về nhà. Hắn rất e ngại tình hình sức khoẻ của ông già hắn. Lúc hắn rời Hoa Kỳ đi lưu vong thì ông già hắn bị lãnh một vố nặng, bị trọng thương phải nằm chết gí ở bệnh viện. Ít lâu sau thì ông anh thứ hai của hắn - Sonny - bị bọn kia ria cho một tràng, "đi tong" luôn. "Gia đình Corleone" bị bắt buộc phải lao vào cuộc chiến sinh tử và tuyệt vọng: chống lại cả năm "gia đình" khác ở New York. Cuộc chiến ấy không chỉ thu gọn trên đất Mỹ mà còn lan tới tận cái xó Sicily này bằng cuộc mưu sát chính cô vợ trẻ của hắn. Theo tin tức từ ông già cho biết, thì lúc này vết thương của ông đã lành và ông cũng đã làm hoà được với năm "gia đình" kia rồi. Và những rắc rối của hắn cũng đã được thu xếp êm xuôi bằng cách ém nhẹm nội vụ, rồi cho "chìm xuồng" luôn.

Nhưng, Michael cũng biết là ông già hắn đang nóng lòng chờ hắn về để đặng làm cánh tay mặt của ông. Mọi người trong nhà - từ cô em gái, thằng em trai và ông anh rể Tom Hagen, và nhất là bà già hắn vẫn còn đứt từng khúc ruột vì cái chết của Sonny - đều nôn nóng chờ hắn về. Michael thoáng nghĩ tới Kay. Không hiểu sao hai năm trời cách mặt hắn, cô nàng có "xa lòng" không, có lúc nào nghĩ tới hắn không. Nhưng điều làm cho hắn thắc mắc nhất vẫn là tại sao ông già trì hoãn ngày trở về của hắn. Nhất định là phải có cái gì đó hết sức quan trọng và có liên quan đến Guiliano.

Bỗng hắn thấy cặp mắt xanh rờn của "cớm gộc" Velardi đang chòng chọc nhìn vào hắn. Cái mặt xương xương có vẻ quí phái của ông ta khinh khỉnh nhìn Michael như thể nhìn một thằng "thỏ đế nhút nhát".

- Ấy, bình tĩnh, - lão Croce nói, - ông bạn Andolini đây chính là sợi dây liên lạc giữa chú và ông già của Guiliano và chính nó. Và, đâu phải là mọi người đã hoá điên cả. Khi rời khỏi đây, cháu sẽ đến gặp ông bà già nó hiện đang ở tại Montelepre. Cũng tiện, Montelepre nằm trên lộ trình của cháu đi Trapani. - Lão ngừng nói và mỉm cười. Nhưng nụ cười vẫn chưa đủ sức để lay động hai tảng thịt ú nú trên hai gò má của lão. - Chú đã được cho biết kế hoạch của cháu. Toàn bộ kế hoạch! - Lão nhấn mạnh vào chữ "toàn bộ". Nhưng, Michael nghĩ bụng: - "Dóc, biết thế đếch nào được toàn bộ kế hoạch của người ta." Vì, hắn luôn luôn hành động theo đúng phương châm hành động của "Bố Già" là trong mọi trường hợp không vì bất cứ lý do gì mà tiết lộ toàn bộ ý đồ, kế hoạch của mình cho bất cứ ai.

Ông Trùm Croce lại rỉ rả nói tiếp:

- Ở đây, ai thương Guiliano thì cũng thấy rằng một là nó không còn có thể dung thân tại Sicily này nữa, hai là nó phải di cư sang Mỹ "làm ăn" thôi. Ngài thanh tra đây cũng nhất trí như vậy!

- Cái xứ Sicily này thật lạ lùng, - Michael mỉm cười đáp. - Chính ngài thanh tra, đầu ngành cảnh sát an ninh của Sicily, đã thề bắt Guiliano cho bằng được. Thế mà bây giờ lại...

Ông Trùm bất giác cười lớn:

- Ai dám tự hào hiểu được cái xứ Sicily này chứ? Nhưng trong vụ này thì hoàn toàn đơn giản, chẳng có gì rắc rối, phức tạp cả. Rome muốn cho Guiliano sống "êm êm" ở bên Mỹ hơn là đưa nó ra làm ồn ào trước toà án ở Palermo trong tư cách... nhân chứng, để Rome khỏi bị đem ra làm trò cười cho thiên hạ. Cũng là chính trị cả đấy thôi!

Michael nghe mà ngớ ra. Chính trị? Hắn cảm thấy lúng túng, khó xử. Điều này thật là ngoài dự liệu, kế hoạch của hắn. "Tại sao thằng cha "cớm gộc" Velardi kia lại chịu để cho Guiliano "vọt" qua Mỹ? Cái chết của Guiliano có gì là nguy hiểm?"

Giọng khinh khỉnh, ngài thanh tra nói:

- Có thể đó là một giải pháp của tôi. Nhưng chính ông Croce đây thương cái thằng ấy như con trai cưng của ông vậy.

Stefan Andolini ném cái nhìn hằn học, đầy ác cảm của mình vào ngài thanh tra. Còn cha Benjamino thì giả bộ cầm ly rượu lên "nốc", đặng né cái nhìn ấy. Nhưng Ông Trùm đã vội nghiêm giọng nói với ngài thanh tra:

- Ngồi lại đây bây giờ đều là bạn bè, anh em cả. Do đó, chẳng có gì cần phải giấu giếm chú em Michael đây. Thế này, số là thằng Guiliano nó nắm được "cái tẩy" của ông nhà nước. Đại khái, nó có một tập "nhật ký", "nhật trình" gì đó mà nó phóng đại ra nào là "chúc thư" nào là "bảo bối" của nó, trong đó nó trưng ra được bằng chứng mấy ông bự trong chính phủ đã có sự "giúp đỡ" nào đó, đặng lợi dụng nó vào mục tiêu "chính chị chính em" riêng tư của mấy cha. Nếu tài liệu này mà được tung ra thì không những chính phủ hiện đương quyền của Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo "đi tong", mà ngay cả cái đảng ấy cũng "thân bại danh liệt" luôn. Và, thế là Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Ý sẽ lên nắm quyền, chắc ngài thanh tra cũng đồng ý với tôi là phải làm tất cả những gì có thể làm được, đặng ngăn tình hình ấy xảy ra. Bởi vậy, ngài thanh tra đây mới thuận để giúp cho Guiliano "vọt" qua Mỹ, với sự hiểu ngầm là cái tài liệu chết tiệt kia phải được ém nhẹm.

- Thế chú đã nhìn thấy "chúc thư" ấy chưa? - Michael hỏi. Đồng thời trong lòng hắn cũng tự hỏi là không hiểu ông già hắn ở bên Mỹ có biết cái chỗ lắt léo này không? Trong chỉ thị gửi cho hắn, không thấy ông đả động gì đến "chúc thư" hay "bảo bối" gì cả.

- Chú đã biết nội dung của chúc thư ấy, - Ông Trùm Croce đáp.

Lúc đó, ngài thanh tra cũng chen vào nói một cách cay cú:

- Nếu tôi mà toàn quyền quyết định, thì tôi cứ cho lệnh giết chết thằng Guiliano, rồi nó bị "chết chỉm" vì cái "chúc thư" của nó cũng cam.

Stefan nhìn chòng chọc vào ngài thanh tra với một sự căm thù không cần giấu giếm và một sự hằn học đến nỗi lần đầu tiên, Michael nhận chân được Andolini thật là một tay hiểm độc, bất nhân chẳng thua gì lão Croce. Andolini nói:

- Dứt khoát là Guiliano chẳng bao giờ chịu đầu hàng. Còn tài trí và tầm cỡ của ông, xin lỗi ông thanh tra, còn khuya mới đủ sức đưa hắn vào quan tài. Khôn ngoan ra thì chính ngài nên liệu cái phần hồn của ngài ấy thì hơn.

Lão Croce từ từ đưa tay lên ra hiệu yêu cầu mọi người im lặng. Và ai nấy quanh bàn đều nín bặt. Rồi, như không cần biết những người khác đang có mặt tại đó, lão quay ra nói với Michael:

- Có thể là chú không thể giữ lời hứa với ba của cháu là giao Guiliano cho cháu. Tại sao lão Croce này lại dính dáng vào vụ này làm gì, thì điều này chú chưa thể trả lời cháu bây giờ. Nhưng cháu cứ yên trí rằng lão Croce hành động như vậy là có lý do và lý do ấy là chính đáng, là tốt. Bây giờ thì chú có thể làm gì nhỉ? Chiều nay cháu sẽ đi gặp ông bà già của Guiliano. Cháu ráng thuyết phục họ khuyên con trai của họ nên tin chú. Và, nhắc cho họ nhớ là chính chú đã lôi họ ra khỏi nhà tù, chứ không phải ai khác. - Lão ngưng một chút, rồi lại nói tiếp: - Và nếu họ khuyên con trai của họ tin chú thì đó cũng là cách họ giúp đỡ chính con họ vậy.

Trong những năm sống lưu vong, lén lút, Michael đã tập và phát triển được cái bản năng của một con thú trước những cạm bẫy nguy hiểm. Hắn không ưa gì cha "cớm gộc" kia đã đành, mà cái lão Andolini hiểm độc này cũng chẳng phải là người mà hắn có thể tin cậy. Nhưng trong số những người đang có mặt tại bàn này thì Ông Trùm Croce vẫn là tay cần phải tỉnh táo đề phòng cẩn mật hơn hết. Khi nói với Croce, mọi người có mặt tại đây - kể cả cha Benjamino, em trai của lão - đều phải nói nhỏ nhẹ, đều phải quay mặt về phía lão mà nói, mà đầu phải hơi cúi xuống mà chờ đợi lão phán, thậm chí đang nhai thức ăn mà thấy lão nói thì cũng phải ngưng nhai. Đầy tớ vây quanh lão như hành tinh quay quanh mặt trời. Các vệ sĩ tản mát trong vườn, nhưng mắt vẫn lấm lét nhìn về phía lão và sẵn sàng nhảy bật lên như cái lò xo để xé xác bất cứ kẻ nào, theo lệnh của lão. Michael dè dặt nói:

- Chú Croce, cháu ở đây để sẵn sàng theo sự chỉ dạy của chú.

Ông Trùm gục gặc cái đầu tròn lu và đồ sộ ra điều mãn ý. Lão đan hai bàn tay và đặt lên cái bụng phệ, rồi nói bằng giọng kẻ cả:

- Mình phải tuyệt đối thành thật với nhau. Cháu cứ cho chú biết rõ cháu định sắp đặt cho Guiliano "vọt" như thế nào? Cháu cứ nói với chú như nói với ba cháu, vì chú với ba cháu thì...

Michael đưa mắt liếc nhanh ngài thanh tra. Đời nào hắn chịu nói thật trước mặt một thằng "cớm gộc", xếp sòng ngành cảnh sát an ninh của xứ Sicily. Ông Trùm hiểu ngay vấn đề.

- Ngài thanh tra đây cũng là người nhà thôi, - lão nói, - cháu cứ tự nhiên như nói với chú vậy, không sao.

Michael đưa ly rượu lên môi đặng tính kế. Qua ly rượu, hắn thấy đám vệ sĩ đang chòng chọc nhìn họ như đám khán giả dán mắt nhìn các diễn viên trên sân khấu. Hắn cũng thấy ngài thanh tra khẽ cau mặt coi bộ không khoái cái lối thân mật kiểu xỏ lá của Ông Trùm. Như vậy, rõ ràng là chính Ông Trùm đã lãnh đạo ngài thanh tra và lãnh đạo luôn cả cái cơ quan của ông ta nữa. Hắn cũng thấy cái vẻ khó chịu trên khuôn mặt có đôi môi như hai con đỉa trâu của gã Andolini hiểm độc. Chỉ có cha Benjamino là cúi đầu xuống tránh tia nhìn của hắn. Michael nốc cạn ly rượu nho trắng đục lờ đờ. Và đám đầy tớ rót tiếp đầy ly khác. Thoắt chốc, khu vườn bỗng trở thành khu hiểm địa đối với hắn.

Hắn thừa biết Ông Trùm mở miệng ra là "nói thật, thành thật...", chứ trong bụng ông nghĩ khác. Tại sao mọi người có mặt tại bàn ăn này chẳng ai tin cha cớm gộc kia, mà gã vẫn có mặt ở đây? Guiliano thì sao?

Lịch sử của Sicily dày đặc những vụ lừa lọc, phản trắc. Michael chua chát nhớ tới cái chết của cô vợ trẻ của hắn. Thì cũng chính tại cái xứ Sicily, chứ đâu phải nơi nào xa xôi. Vậy, tại sao "Ông Trùm" lại có vẻ thành thật như vậy? Lão là "Chúa Trùm" Mafia. Lão có những liên hệ chặt chẽ và đầy thế lực với các tay "bự" ở rome. Và thực tế, lão đã hành động như một đại biểu bán chính thức của Rome tại Sicily. Vậy, Ông Trùm Croce sợ cái gì? Nhất định chỉ có thể là lão sợ chính Guiliano.

Ông Trùm nhìn xoáy vào Michael, chờ đợi. Michael cũng ráng nói với cả vẻ hết sức chân thành:

- Kế hoạch của cháu cũng đơn giản thôi. Cháu sẽ chờ ở Trapani cho đến khi nào Salvatore Guiliano được chính chú hoặc người của chú trao lại. Một chiếc tàu tốc hành sẽ chở tụi cháu đi châu Phi, tụi cháu sẽ được một máy bay riêng "bốc" đi Mỹ. Tụi cháu sẽ được thu xếp để nhập cảnh Hoa Kỳ mà không cần phải qua những thủ tục thông thường. Cháu hy vọng là mọi sự trôi chảy êm xuôi... - Hắn ngừng một chút, rồi lại tiếp. - Ngoại trừ chú có lời chỉ dạy khác.

Ông Trùm thở dài hắt ra, và cầm lấy cái ly, uống. Rồi lão lại nhìn xoáy vào Michael. Lão chậm rãi và có vẻ tâm tình:

- Sicily là một vùng đất bi thảm, không bao giờ có sự tin cậy! Không bao giờ có trật tự. Chỉ có bạo lực, lừa lọc và phản trắc. Cháu dè dặt, cảnh giác là phải. Và cháu có quyền như vậy. Và Guiliano cũng vậy. Nhưng, để chú nói điều này cho cháu nghe: nếu đã không có sự che chở của chú thì chưa chắc gì Guiliano còn sống sót cho đến giờ này. Nó và chú đây như hai ngón tay trên một bàn tay. Thế mà bây giờ nó coi chú như kẻ thù của nó. Chà, cháu không thể nào biết thằng nhỏ này đã gây cho chú biết bao bực bội. Ước mơ của chú là một ngày nào đó, Turi Guiliano có thể ung dung quay trở về và được tung hô như một tay vô địch của xứ Sicily này. Thật ra, nó là một con chiên bổn đạo thuần hành và là một con người đảm lược với một trái tim dịu dàng khiến mọi người dân Sicilian quý mến.

Lão ngừng lại, tợp thêm một ly rượu nho nữa, rồi lại tiếp tục nói:

- Nhưng bây giờ thì gió đã xoay chiều bất lợi cho nó. Một mình ở trên núi với một dúm tay chân bộ hạ mà phải đương cự với cả một đạo quân được chính phủ phái tới để tiêu diệt: chịu gì thấu? Trong khi đó, mỗi bước nó đi là một cạm bẫy, mỗi lừa lọc, mỗi phản trắc. Vậy mà nó vẫn không chịu tin vào một ai, kể cả vào chính nó.

Trong giây lat, Ông Trùm lạnh lùng nhìn thẳng vào mặt Michael, rồi nói:

- Thật tình, giá như chú đã không quá thương xót cái thằng Ruri liều lĩnh dại dột ấy thì có lẽ chú đã phải nói thẳng cho cháu hay là cháu hãy về Mỹ đi, không có Guiliano đi theo đâu. Ở đây, tấn bi kịch đã kết thúc, nên chẳng dám làm phiền đến cháu nữa.

Ông Trùm lại ngừng nói, thở dài, rồi lại tiếp:

- Nhưng, dĩ nhiên, cháu là hy vọng độc nhất của chú, và chú nài nỉ cháu hãy ở lại, giúp chú một tay. Chú sẽ hỗ trợ cháu bằng mọi cách. Chú sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi Guiliano.

Ông Trùm lại nâng ly rượu nói:

- Ước gì nó sống đến ngàn tuổi.

Mọi người đều uống. Và Michael suy tính. Thực sự Ông Trùm muốn hắn ở lại hay bỏ rơi Guiliano? Stefan Andolini lên tiếng:

- Nên nhớ là tụi mình đã hứa với ông già Guiliano là mình sẽ đến thăm họ tại Montelepre.

Ông Trùm dịu dàng đáp:

- Dĩ nhiên là thế rồi, bằng mọi giá, mình phải cho ông già bà già nó một hy vọng gì đó chứ.

Cha Benjamino rụt rè góp ý:

- Và có lẽ họ cũng sẽ biết phần nào về cái "chúc thư" ấy chứ?

Ông Trùm thở dài:

- Phải, cái "chúc thư" của Guiliano. Nó cứ nghĩ là cái đó có thể cứu mạng nó, hay ít ra cũng báo thù được cho cái chết của nó. - Lão quay sang nói thẳng với Michael: - Cháu nên nhớ điều này, Rome có sợ bản chúc thư ấy thì sợ, chớ còn qua thì không. Cứ nói với ông già bà già nó là những gì viết trong "chúc thư" ấy có thể ảnh hưởng đến lịch sử, chứ có ăn nhằm gì đến cuộc đời này hay không lại là một chuyện khác.

Quãng đường từ Palermo đến Montelepre không quá một giờ lái xe. Nhưng chỉ trong khoảng thời gian ấy, Michael và Stefan Andolini đã từ thế giới văn minh hiện đại mà lùi về một nền văn hoá sơ khai của Sicily. Hai gò má cạo nhẵn nhụi, nhưng cái cằm thì đầy những chân râu đỏ rậm rì, nom như một đám lửa bám vào đấy, Andolini lái chiếc xe Fiat nhỏ một cách cẩn thận và chầm chậm như một người vừa học lái xe. Chiếc Fiat rì rầm như muốn hụt hơi khi bò ngoằn ngoèo qua những rặng núi lớn.

Dọc đường, họ bị năm chốt của cảnh sát chặn lại. Ở mỗi chốt như vậy có ít ra cũng một tiểu đội mười hai người, có cả xe thiết giáp bố trí súng đại liên yểm trợ. Nhưng giấy tờ của Andolini giúp họ qua trót lọt cả năm chốt.

Đối với Michael, cái xứ sở này thật là lạ lùng. Một vùng hoang sơ, bán khai như vậy lại chỉ ở cách một thành phố lớn như thành phố Palermo có một quãng đường ngắn. Họ đi qua những ngôi làng nhỏ với những căn nhà tường bằng đá đẽo sơ sài, nằm chênh vênh trên triền núi. Và, ngay cả những triền núi cũng được cẩn thận chia manh chia mún thành những mảnh vườn với những luống rau sít chặt vào nhau. Những ngọn đồi nhỏ thì lố nhố những tảng đá vôi ẩn hiện trong các bụi tre hoặc lấp lửng rêu phong. Xa xa, nom những tảng đá ấy chẳng khác gì những ngôi mộ không được đẽo gọt sửa sang. Và toàn cảnh thì nom như một cái nghĩa địa lộn xộn chẳng ra hàng lối gì cả.

Dọc đường, từng quãng lại có một cái miếu, hoặc một cái "trang thờ" bằng gỗ có khoá cẩn thận, bên trong là bức tượng Thánh Nữ Đồng Trinh Mary hoặc tượng một vị thánh nào đó. Ở mỗi miếu thờ như vậy, Michael đều thấy thấp thoáng một bóng người đàn bà quì cầu nguyện, trong khi đó ông chồng ngất ngưởng ngồi chờ trên một chiếc xe do lừa kéo chất đầy chai rượu óng ánh. Đầu con lừa rũ xuống như đầu vị thánh tuẫn đạo.

Stefan Andolini đưa tay thân mật vuốt tay Michael và nói:

- Tôi thật sự sung sướng được gặp lại chú em. Chú em có biết là gia đình nhà Guiliano với anh em mình có họ hàng bà con với nhau đấy.

Michael biết là nói xạo. Nụ cười toát ra từ đôi môi dày và đỏ lói như miếng thịt ngựa kia nom có vẻ láu vặt và đểu làm sao ấy. Michael đáp:

- Không, tôi chỉ biết là hồi còn bên Mỹ thì ông già của Guiliano có làm việc cho ông già tôi.

- Thì chính tôi cũng vậy, - Andolini nói, - tụi này đã giúp ông già của chú làm cái nhà ở Long Island đó. Lão Guiliano coi vậy chứ, một tay thợ nề ngon lành đó, nghen. Mặc dù ông già của chú có cho lão một chân làm ăn trong cái vụ dầu ô - liu, nhưng lão cứ bám chặt vào cái nghề thợ nề của lão, chứ không chịu nhận đề nghị của ông già chú. Lão làm hùng hục như trâu trong suốt mười tám năm trời và bóp mồm bóp miệng, dè sẻn từng đồng xu. Rồi lão quay về Sicily tính chuyện dưỡng già. Ai dè chiến tranh và Mussolini làm cho đồng tiền lạm phát. Thế là số tiền dành dụm của lão trở thành mớ giấy lộn. Hiện giờ lão chỉ còn có mỗi căn nhà nhỏ và vài mảnh ruộng nhỏ. Bây giờ, ngày ngày lão cứ ngồi tặc lưỡi, hít hà hối tiếc vì đã ngu dại rời bỏ nước Mỹ để quay về cái xứ "chó ăn đá, gà ăn sỏi" này. Lão cứ nghĩ thằng con trai của lão lớn lên sẽ làm vương làm tướng gì chứ, ấy thế mà bây giờ lại thành thằng ăn cướp.

Chiếc Fiat tung bụi mịt mù. Dọc đường, qua lớp bụi, những cây lê dại và những bụi tre chập chờn, mờ tỏ nom như những bóng ma. Và những chùm trái lê dại nom như những bàn tay người. Dưới thung lũng là những cây ô - liu hoặc nho. Bỗng, Andolini nói:

- Bà già thằng Turi có thai nó từ ở bên Mỹ, rồi về bên Sicily này mới sinh ra nó đấy chứ. Giá cứ đợi vài tháng nữa thì có phải bây giờ Turi đã là công dân Mỹ rồi không. - Gã ngập ngừng một lát, rồi lại nói tiếp: - Turi cứ nhắc vụ này hoài. Thật sự, chú có nghĩ là chú có thể giúp nó thoát không?

- Tôi cũng không rõ nữa, - Michael đáp. - Sau bữa ăn trưa với Ông Trùm Croce và thằng cha xếp cớm kia, tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra làm sao nữa. Có thật là họ muốn tôi giúp họ không? Ông già tôi thì nói là lão Croce quả có muốn vậy đó. Nhưng ông già tôi không hề đả động gì đến lão thanh tra cả.

Andolini hất ngược mái tóc ra đằng sau. Bất giác, gã đạp mạnh cần ga, chiếc Fiát chồm lên. Gã nói:

- Guiliano và Croce bây giờ là hai kẻ tử thù của nhau. Nhưng, tụi này đã có một kế hoạch để qua mặt lão Croce. Turi và ông già của nó thì tin vào chú. Họ biết là ông già chú không bao giờ chơi xấu bạn bè.

Michael chợt hỏi:

- Thực ra, bây giờ anh đứng về phía nào?

- Tôi chiến đấu cho Guiliano, - Andolini thở dài, nói. - Từ năm năm nay, tụi này là chiến hữu của nhau. Trước đó, chính Turi đã tha mạng cho tôi. Nhưng vì sống ở Sicily, tôi đâu có thể ra mặt công khai thách thức lão Croce được. Tôi phải chơi trò đu dây giữa hai bên. Nhưng, trong thâm tâm, tôi nghiêng về phía Guiliano.

Michael trầm ngâm. Cha này nói cái quỉ gì đây? Tại sao gã dám trả lời trực tiếp một câu hỏi liên quan đến bọn kia. Michael suy nghĩ. Đây là Sicily. Và dân Sicilian vốn ghê sợ sự thật. Qua mấy ngàn năm bị hết bọn bạo chúa đến bọn phán quan pháp đình tôn giáo dùng nhục hình tra tấn, hành hạ vì sự thật. Chính quyền ở Rome, với tất cả bền ngoài hợp pháp của nó, cũng muốn sự thật. Mấy ông cha ông cố cũng đem hình phạt hoả ngục ra hù doạ đề đòi sự thật. Nhưng sự thật là nguồn cội của sức mạnh, là đòn bẩy của quyền lực. Nếu vậy thì ai điên gì mà thổ lộ sự thật ra?

Michael nghĩ: hoặc hắn phải tìm ra con đường riêng, hoặc hắn phải bỏ qua cái sứ mạng của hắn và bán xới gấp khỏi cái xứ này, bay về Hoa Kỳ cho sớm. Vì, tại đây, hắn đang đứng trên một vùng đất hung hiểm. Như vậy là rõ ràng giữa Croce và Guiliano có một thứ nợ máu nào đó. Và để cho mình bị lôi cuốn vào cơn gió xoáy huyết thù của Sicily thì chẳng khác gì tự sát. Bởi vì trong tiềm thức của dân Sicilian thì chỉ có cách trả nợ máu mới thật sự là công lý. Và cuộc đòi nợ máu nào cũng luôn luôn tàn nhẫn. Trên hòn đảo công giáo toàn tòng này, nhà nhà đều có ảnh, tượng Chúa Jesus Christ đang than khóc. Nhưng sự khoan dung tha thứ kiểu Ki-tô giáo vẫn bị coi là kiểu cách đáng khinh bỉ của một tên hèn nhát.

Michael hỏi:

- Tại sao Guiliano và lão Croce lại trở thành hai kẻ tử thù của nhau vậy?

- Bởi tấn thảm kịch xảy ra cách đây hai năm ở Portella Ginestra, - Andolini đáp. - Từ đó đến nay không xảy ra vụ nào như vậy, nhưng Guiliano vẫn trách cứ lão Croce.

Bỗng thình lình chiếc xe như đâm đầu dựng ngược lên, vì con đường đổ dốc từ trên núi xuống thung lũng. Họ đi ngang cái pháo đài đổ nát xây từ thời những người Viking phương Bắc xâm lược vùng này. Họ xây pháo đài này làm cứ điểm xuất phát cho các cuộc chinh phạt, khủng bố người dân trong vùng. Ngày nay, pháo đài chỉ là nơi cho rắn rết bò ngổn ngang và lũ dê rừng lang thang. Nhìn xuống, Michael thấy thành phố Montelepre.

Nằm chìm sâu dưới đáy thung lũng và tứ phía bị núi cao bọc quanh, thành phố nom như một chiếc gàu múc nước nằm dưới đáy giếng. Khắp thành phố, không có một ngôi nhà nào nhô cao hẳn lên. Ánh hoàng hôn rọi lên những bức tường xây bằng đá nom đỏ rực như lửa. Chiếc Fiat men theo con đường nhỏ hẹp đi vào thành phố. Bỗng Andolini thắng gấp chiếc xe ngừng lại trước một thanh xà ngang do đám cảnh sát dựng lên làm chốt kiểm soát. Một chú cớm con dùng mũi súng ra hiệu cho họ xuống xe.

Michael quan sát Andolini trình giấy tờ cho cảnh sát. Hắn nhìn thấy trên giấy của gã có một sọc đỏ chạy vắt xéo. Hắn hiểu đó là thứ giấy đặc biệt do chính ông bộ trưởng tư pháp ở Rome cấp phát một cách rất hạn chế, vì chính hắn cũng có một tấm. Nhưng hắn được chỉ thị chỉ trình ra trong những trường hợp chẳng đặng đừng mà thôi. Tại sao một người như Andolini mà cũng có được thứ giấy "nặng ký" này nhỉ?

Sau khi trình giấy, họ quay trở lại chiếc xe và chiếc xe chầm chậm bò qua phố xá nhỏ hẹp của thành phố Montelepre.

Đường phố nhỏ đến nỗi nếu có hai chiếc xe chạy ngược chiều nhau thì bắt buộc phải có một xe chạy giật lùi trở lại, nếu không thì cứ đứng đó mà nhìn nhau. Nhà nào cũng có bao lơn và quét vôi đủ thứ màu. Phần đông sơn màu xanh da trời, một số ít sơn màu trắng, nhưng cũng có một số màu hồng. Vào giờ này thì đàn bà đang lúi húi trong bếp làm cơm chiều. Không có bóng của một đứa con nít nào ngoài đường. Góc phố nào cũng lúc nhúc những cớm và lính. Cứ từng cặp, từng cặp đi tới đi lui. Montelepre trông như một thành phố bị chiếm đóng trong giờ thiết quân luật. Chỉ có vài ông già nét mặt ngơ ngác đứng trên ban công nhìn xuống.

Chiếc Fiat ngừng lại trước một trong những ngôi nhà trong dãy nhà dài. Căn nhà ấy sơn vôi màu xanh nhạt. Trên cổng sắt có thanh sắt uốn hình chữ G. Một người đàn ông nhỏ thó, quắt queo, tuổi trạc sáu mươi ra mở cổng. Lão mặc quần áo kiểu Mỹ: chiếc quần màu đậm có sọc, áo sơ - mi trắng và thắt cà - vạt đen. Đó là ông bố của Guiliano. Lão ôm hôn Andolini thật nhanh, nhưng rất âu yếm. Lão thân mật vỗ vai Michael ra hiệu mời vào trong nhà

Ông già của Guiliano có nét mặt đau khổ của một người chờ đợi cái chết của một người thân đang bệnh nặng, sắp "tịch". Hiển nhiên là lão vẫn còn kiềm chế được cảm xúc của mình. Nhưng lão đưa tay lên vuốt mặt như thể cố giữ cho các cử động của mình không bị chới với. Thân thể lão khô đét, cử động hơi lờ đờ và hơi run run.

Họ bước vào phòng khách được coi là sang trọng đối với dân Sicilian ở cái tỉnh lẻ này. Một tấm ảnh phóng lớn lồng trong khung gỗ hình bầu dục, màu kem, treo sừng sững như muốn lấn át hết cả căn phòng. Bức ảnh đã nhàu nát và mờ khiến cho khó nhận rõ hình người. Nhưng Michael biết ngay đó không thể là hình ai khác ngoài hình của Salvatore Guiliano. Phía dưới tấm ảnh, trên chiếc bàn tròn nhỏ, màu đen có một ngọn đèn thờ cháy leo lét. Ở một chiếc bàn khác, có một tấm hình, cũng lồng khung cẩn thận. Tấm hình này rõ hơn và gồm có một ông, một bà và một cậu con trai đang ôm choàng lấy vai mẹ. Salvatore Guiliano nhìn thẳng vào máy ảnh như muốn thách thức cái máy. Guiliano đẹp trai cứ như tượng Hy Lạp, tuy diện mạo nom hơi "nặng" một chút: đôi môi hơi dày và gợi dục, đôi mắt bồ câu mở lớn. Đó là khuôn mặt của một người đầy tự tin và cương nghị và quyết tâm giành cho mình một vị trí cao trong xã hội. Nhưng cái mà chưa ai cho Michael biết là sự vui tính, sự dịu dàng trên khuôn mặt đẹp trai ấy. Còn một tấm hình nữa trong đó Guiliano chụp chung với vợ chồng cô em gái. Nhưng bức hình này để khuất trong góc bàn.

Ông già của Guiliano dẫn hai vị khách vào bếp. Bà già của Guiliano đang lúi húi nấu nướng. Bà quay ra chào họ. Bà Maria Lombardo Guiliano nom già hơn nhiều so với bức ảnh của bà treo trong một căn phòng khách. So hình ấy với bà bây giờ thì phải nói đó là hai người hoàn toàn khác nhau. Nụ cười lễ độ của bà như một kẽ nứt trên khuôn mặt khô héo, đờ đẫn, bạc nhược. Làn da nhăn nheo, nứt nẻ. Tóc dài phủ kín vai được hờ hững cột lại bằng một sợ dây thô, màu xám. Cái làm cho người ta phải sửng sốt chính là đôi mắt của bà. Từ đôi mắt ấy, bật ra những tia lửa căm hờn cái thế giới đang nghiền nát bà và con trai bà.

Như không cần biết đến sự hiện diện của chồng và của Andolini, bà nói thẳng với Michael:

- Có phải ông đây là người đến để giúp đỡ thằng nhỏ nhà tôi không đấy?

Hai người kia có vẻ bối rối vì câu hỏi bất ngờ và hơi cứng cỏi của bà. Nhưng Michael đã mỉm cười và nghiêm trang trả lời:

- Dạ phải, tôi đến đây với ý định đó.

Nghe vậy, vẻ căng thẳng nơi bà bớt đi thấy rõ. Bà cúi đầu, úp mặt vào hai bàn tay như thể muốn thở phào một cái thật mạnh. Andolini nhỏ nhẹ nói:

- Cha Benjamino nói là ông ấy cũng muốn đến. Nhưng tôi biểu là chị không muốn vậy.

Maria Lombardo ngẩng đầu lên. Michael kinh ngạc nhận thấy nét mặt của bà bộc lộ tất cả mọi cảm xúc đang chất chứa trong lòng: khinh bỉ, thù hận, sợ hãi. Rồi, bằng giọng mỉa mai kết hợp với tiếng cười nhạt và cái nhíu mày mà bà đã không thể kiềm chế được, bà nói:

- Ồ, cha Benjamino thật tốt bụng, đúng thế! Và, với cái tâm địa tốt lành ấy, ông ta như quan ôn quan dịch, cô hồn các đảng gì đâu ấy. Ông ta làm cho cả một làng chết ráo. Ông ta giống như cái cây gai ấy, cứ đụng vào là mình đổ máu. Ông ta tiết lộ cho ông anh những điều mà con chiên bổn đạo xưng tội trong toà giải tội. Ông ta bán linh hồn cho quỷ dữ.

Ông già của Guiliano nói một cách bình tĩnh và có vẻ biết điều hơn là để trấn an một người đang cơn xúc động:

- Ông Croce là bạn của gia đình mình. Chính ông đã cứu mình ra khỏi nhà tù đấy thôi.

Cơn tam bành lục tặc của bà già Guiliano nổi lên:

- A, Croce hả, "Ông Địa" hả, tốt gớm đi ấy chứ! Nhưng này, để tôi nói cho mà nghe, cái lão Croce ấy là một con rắn độc. Lão làm bộ chĩa súng phía trước nhưng bắn lén vào bên sườn mình. Lão ấy đang cùng với thằng con mình thống ngự xứ Sicily này, mà nay thì con mình phải trốn chui trốn lủi trong núi, còn lão thì thong dong, tự tại, thảnh thơi ngay tại Palermo với bầy đĩ điếm của lão. "Ông Địa" chỉ huýt gió một cái là Rome liếm gót lão liền. Tội ác của lão lút đầu lút cổ, còn bằng mấy con mình. Lão mới là thứ hung thần ác sát, chứ thằng Ruri nhà mình ấy hả, là phúc thần. Con mình mới là "Ông Địa". A, giá tôi mà là ông ấy hả, tôi đã chơi cho lão vài dao từ lâu rồi, tôi đã cho lão đi theo ông bà ông vải nó từ lâu rồi!

Bà phác một cử chỉ ghê tởm, rồi tiếp:

- Đàn ông đàn ang như ông, chẳng biết cái đếch gì!

Ông già của Guiliano nhẫn nhục chịu đựng bằng cách đánh trống lảng:

- Tôi đoán là các vị khách của mình vừa phải đi đường mấy giờ đồng hồ liền nên chắc phải có cái gì dằn bụng đã, rồi có chuyện trò gì thì chuyện trò!

Thoắt một cái, bà già của Guiliano thay đổi hẳn. Bà bỗng trở nên ân cần, vồn vã với Michael:

- Tội nghiệp, ông đã mất cả ngày để đi đến đây thăm chúng tôi. Ông đã phải rác tai vì những lời dối trá, láo toét, giả nhân giả nghĩa của lão Croce. Bây giờ lại phải nghe những lời quàng xiên của tôi. Xin lỗi ông nhé. Sau đây rồi ông lại đi đâu.

Trong phòng bỗng lặng như tờ. Michael cảm thấy mọi người trong nhà này đều đã biết rõ lai lịch của hắn rồi. Họ đã biết cái nỗi hận mà hắn đã phải chịu trong hai năm trời này, cũng như vết thẹo trên mặt hắn. Bà già của Guiliano bước lại gần và ôm choàng lấy hắn, nói:

- Ông dùng chút rượu nhé. Rồi, các ông rủ nhau đi dạo ngoài phố, chờ tôi chút. Chừng một giờ đồng hồ là có cơm thôi. Chắc lát nữa thì bạn của Turi cũng sẽ đến, rồi mình sẽ tâm tình...

Andolini và ông già của Guiliano để cho Michael đi giữa và cùng nhau bước xuống đường phố trải sỏi, nhỏ hẹp của thành phố Montelepre. Mặt trời đã lặn khiến cho những bức tường xây bằng đá lúc nãy đỏ rực như lửa bây giờ ngả màu xám đậm. Trong bầu không khí lam nhạt, mù hơi sương lúc chạng vạng tối, quanh họ, trên đường phố chỉ thấy những khuôn mặt cớm và vệ binh đi tới đi lui. Phố xá vắng tanh vắng ngắt.

- Ngày xưa, đã có thời thành phố này đông vui náo nhiệt lắm đấy chứ, - ông già Guiliano nói, - tuy luôn luôn, mãi mãi nghèo đói. Cũng như toàn thể cái xứ Sicily này chỉ là một khối nghèo mạt, nhưng luôn luôn sống động. Hiện nay có hơn bảy trăm dân của thành phố này bị tống giam vì bị nghi là tòng mưu, tòng đảng với thằng con tôi. Thật ra hầu hết trong đám này đều vô tôi. Nhưng cớm cứ bắt. Để dằn mặt những người khác, để hòng bắt họ cung cấp tin tức chống lại thằng Turi nhà tôi. Có hơn hai ngàn vệ binh quốc gia và cảnh sát sục sạo trong thành phố này và hơn hai ngàn khác lùng sục trong núi để săn đuổi thằng Turi. Bởi vậy, ngày nay chẳng còn ai dám ăn uống ngoài trời. Đến con nít cũng không dám chơi đùa ngoài phố. Mấy cha cảnh sát cũng dễ "giật mình" đến nỗi thấy bóng con thỏ chạy qua đường cũng xả súng xối xả. Mới chạng vạng tối là đã giới nghiêm. Và nếu một mụ đàn bà trong thành phố muốn đến thăm một người bạn nào đó có mà bị cớm vồ là cam đoan bị làm nhục, bị làm khó dễ đủ thứ. Còn đàn ông mà bị bắt hả, a lê hấp, cùm liền, đem tống lao ở Palermo tẩm quất cho giãn gân giãn cốt liền.

Lão thở dài rồi nói tiếp:

- Ở bên Mỹ, chưa bao giờ có chuyện như vậy được. Tôi thật hết sức ân hận vì đã bỏ đấy mà về đây!

Andolini ngừng lại, đốt điếu thuốc khiến cho hai người kia cũng phải ngừng lại theo. Gã thở khói ra, mỉm cười nói:

- Nói thật ra thì người dân Sicilian nào cũng vậy. Họ vẫn thích cái mùi khai thối trong làng họ hơn là cái mùi dầu thơm của thủ đô Paris. Tôi đây này, tôi làm cái giống gì ở đây chứ? Tôi thừa sức bay đi Brazil như chán vạn người khác. Kẹt cái mình là dân Sicilian, trót yêu cái nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ấy vậy mà chính cái xứ Sicily này lại đếch thương mình.

Ông già của Guiliano nhún vai nói:

- Tôi thật điên mới đâm đầu quay về đây. Nếu chỉ ở lại ít tháng nữa thôi thì có phải bây giờ thằng Turi nhà tôi đã có quốc tịch Mỹ rồi. Ấy, cũng chính bởi cái không khí của cái xứ sở Sicily khốn khổ này đã thấm sâu vào tận xương tuỷ của má nó, - lão lắc lắc cái đầu, như thể bối rối. - Không hiểu sao thằng nhỏ nhà tôi lại cứ luôn luôn để cho nó mắc mớ vào những chuyện vu vơ của thiên hạ, ngay cả những chuyện chả có dính líu gì đến đổ máu... Để làm gì không biết. Làm như, luôn luôn lúc nào nó cũng có những ý nghĩ cao cả, lúc nào cũng nói đến công bằng với chả công lý. Dân Sicilian thứ thiệt chỉ có nói đến bánh mì mà thôi.

Khi họ đi qua đường Via Bellla, Michael thấy là cấu trúc của thành phố thật là lý tưởng cho những trận phục kích và du kích chiến. Đường phố gì mà chật hẹp đến nỗi chỉ một cái xe hơi nhỏ đi cũng đã thấy khó lọt. Và nhiều đường khác hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một chiếc xe nhỏ đi. Mà dân Sicilian vẫn còn dùng xe lừa kéo để chuyên trở hàng hoá. Chỉ cần một ít người cũng đủ để cầm chân cả một lực lượng xâm lược lớn, rồi sau đó dễ dàng thoát ra những dãy núi đá vôi bao quanh thành phố.

Họ đi tới quảng trường trung tâm. Andolini chỉ vào một ngôi nhà thờ nhỏ đứng án ngữ trên quảng trường, và nói:

- Turi đã lẩn trốn trong chính ngôi nhà thờ này, khi lực lượng cảnh vệ vây bắt nó lần đầu tiên. Từ đó đến nay, nó cứ như bóng ma ấy thôi!

Ba người đứng ngắm cánh cửa nhà thờ như thể Salvatore có thể xuất kỳ bất ý hiện ra trước mặt họ. Mặt trời đã khuất sau rặng núi và họ trở về nhà trước giờ giới nghiêm. Có hai người lạ đang chờ họ ở nhà. Lạ là đối với Michael thôi, vì họ ôm hôn ông già của Guiliano và bắt tay Andolini.

Một trong hai người lạ là một thanh niên, dáng mảnh khảnh, nước da mét mét và đôi mắt to, đen, cuồng nhiệt. Y có bộ ria mép rất "trai lơ" và vẻ đẹp có vẻ hơi mái. Nhưng, tuyệt nhiên y không có vẻ yểu điệu tí nào. Trái lại, y có cái vẻ tàn bạo, lạnh lùng, ngang tàng, ngạo nghễ của một con người quyết tâm giành cho bằng được cái quyền sai khiến người khác.

Khi y được giới thiệu là Gaspare Pisciotta thì Michael hết sức kinh ngạc. Pisciotta vừa là một "phó tướng", vừa là em con dì con già và bạn chí cốt của Turi Guiliano. Vì kề cận với Guiliano, nên y cũng là một tay "đáng giá" lắm. Cái đầu của y cũng được ra giá năm triệu bạc chứ đâu phải ít. Qua những huyền thoại Michael nghe được, tên của Gaspare Pisciotta đã gợi lên hình ảnh của một con người nguy hiểm, tàn độc. Thế mà lúc này đây, nom thật chán! Y lẻo khoẻo, ốm nhách, với triệu chứng lao phổi hiện rõ trên nét mặt. Y có mặt nơi đây ngay tại thành phố đang có trên hai ngàn cảnh vệ và cớm quây kín để truy lùng y.

Một người khác cũng ngạc nhiên không kém, nhưng với lý do khác. Thoạt nhìn ông ta, Michael đã khựng lại. Khổ người ông ta thấp bé đến nỗi suýt nữa Michael tưởng ông là một thằng lùn. Nhưng với cung cách đàng hoàng của ông ta khiến cho Michael cảm thấy ngay là khi khựng lại, có lẽ Michael đã làm cho ông ta chạm tự ái ghê gơm. Ông ta vận đồ người lớn, rất trang nhã, may cắt rất khéo. Chiếc cà - vạt rộng bản, ánh lên màu bạc buông thõng trên chiếc sơ mi màu kem. Mái tóc rậm và hầu như đã ngả màu bạc. Nhưng ông ta không thể quá năm mươi. Ăn mặc rất thanh lịch, có phần chải chuốt như mọi người có vóc dáng nhỏ nhắn vẫn thường như vậy. Da mặt không mịn nhưng trông vẫn điển trai. Cái miệng thanh tú, hơi trề ra một cách khêu gợi. Ông ta nhận ra ngay vẻ lúng túng của Michael, nên đã chào hắn bằng nụ cười thân mật pha chút giễu cợt. Ông ta được giới thiệu là giáo sư Hector Adonis.

Bà Maria Lombardo dọn cơm trên chiếc bàn đặt trong bếp. Họ ngồi ăn bên cạnh một bao lơn, từ đó có thể nhìn thấy bầu trời hoàng hôn với những tia nắng dẻ quạt đỏ như máu chiếu ngang trời và màn đêm lam nhạt, xám mờ đang phủ trên các ngọn núi bao quanh thành phố. Michael ăn chầm chậm vì biết mọi con mắt đang nhìn vào mình, đánh giá mình. Thức ăn tuy đơn giản nhưng nấu khéo: mì Spaghetti xào với mực ống, thịt thỏ hầm với nước sốt cà chua và ớt đỏ tươi... Cuối cùng, Gaspare Pisciotta nói bằng thổ ngữ Sicilian:

- Vậy, người anh em đây là con trai ông Vito Corleone, như người ta đã nói với tôi, một Ông Trùm còn bự hơn cả Ông Trùm Croce của tụi này. Và người anh em là người sẽ cứu Turi của tụi này?

Giọng nói của y có vẻ lạnh lùng pha lẫn sự chế nhạo khiến cho người nghe muốn nổi xung. Nụ cười mỉm của y dường như chỉ là một lời tra hỏi về cái động lực ẩn tàng trong mỗi hành động của người khác, như thể muốn nói: "Phải, đúng là người anh em đang làm một việc coi được đấy, khá đấy. Nhưng, người anh em hành động như vậy với ý đồ gì, động lực gì?" . Tất nhiên, không phải y có ý xấc xược, khiêu khích gì. Vì y cũng dư biết lại lịch và thành tích của Michael. Họ đều là những sát thủ có hạng chứ đâu phải vừa. Michael đáp:

- Tôi theo lệnh của ông già tôi, tôi phải chờ tại Trapani cho đến khi nào Guiliano tới, và sau đó tôi sẽ đưa anh ta về Mỹ.

Pisciotta nói một cách nghiêm chỉnh hơn:

- Thế một khi Turi đã ở trong tay ông anh liệu ông anh có đảm bảo an toàn cho hắn được không? Ông anh có thể bảo vệ hắn chống lại Rome được không?

Michael biết là bà già của Guiliano đang chăm chăm nhìn mình. Nét mặt của bà hằn lên nỗi lo âu. Hắn nói một cách thận trọng:

- Tôi có thể đảm bảo đến cái mức một con người có thể làm và làm hết sức để chống lại số mệnh. Phải, tôi là người có thể tin cậy được.

Hắn thấy nét mặt của bà già giãn ra. Nhưng Pisciotta đã lại dằn giọng, nói:

- Tôi đếch tin. Hồi trưa này ông anh đã ngây thơ tin vào lão Croce, đã cho lão biết kế hoạch giải vây rồi.

- Tại sao lại không nhỉ? - Michael hơi xẵng giọng hỏi vặn lại.

Quái quỉ làm sao mà cái thằng Pisciotta chết tiệt này lại biết được các chi tiết trong bữa cơm trưa của hắn với lão Croce nhanh như vậy được nhỉ? Michael trầm giọng lại, nói:

- Chỉ thị của ông già tôi cho biết là Ông Trùm Croce sẽ thu xếp để trao Guiliano cho tôi. Vả lại, tôi cũng mới chỉ cho ông ta biết có một kế hoạch mà thôi.

- Thế ông anh còn những kế hoạch nào khác nữa? - Pisciotta hỏi. Y thấy Michael có vẻ ngần ngại, nên nói tiếp luôn: - Ông anh cứ nói tự nhiên. Nếu ngay cả những người trong phòng này cũng không dám để ông anh tin nữa, thì ông anh chẳng hy vọng gì có được Turi đâu.

Cái ông người nhỏ thó, ông giáo sư Hector Adonis, bấy giờ mới lên tiếng. Giọng nói của ông ta âm vang, đúng là giọng nói của một người bẩm sinh là nhà hùng biện, của một người bẩm sinh là một "thuyết khách" rồi:

- Anh bạn Michael thân mến này, anh bạn nên hiểu rằng lão Croce này là kẻ thù không đội trời chung của Turi Guiliano. Chỉ thị của ông cụ thân sinh của anh bạn không hợp thời nữa rồi. Tất nhiên là chúng tôi không thể trao Turi cho anh bạn mà không có những đề phòng, dè dặt và đảm bảo cần thiết.

Ông ta nói bằng thứ tiếng Ý của dân học thức chính cống ở Rome chớ không phải bằng thổ ngữ Sicilian. Ông già của Guiliano nói chen vào:

- Tôi tin vào lời của Ông Trùm Croce hứa giúp thằng con tôi. Bởi vậy, không có vấn đề nghi ngờ Ông Trùm ở đây.

- Tôi xin nhấn mạnh, - Hector Adonis nói, - Chúng tôi cần biết kế hoạch của anh bạn.

- Tôi chỉ có thể nói với các vị những gì tôi đã nói với lão Croce, - Michael nói - Tại sao tôi lại cứ phải nói cho bất cứ ai biết dự kiến, kế hoạch của tôi nhỉ? Nếu bây giờ tôi hỏi các vị hiện giờ Turi Guiliano đang lẩn trốn ở đâu thì, thử hỏi, các vị có cho tôi biết không nào?

Michael thấy Pisciotta mỉm cười như hoan hô câu trả lời của Michael mà y rất đắc ý. Nhưng Hector Adonis lại nói tiếp:

- Ấy, hai trường hợp này đâu có giống nhau. Anh bạn không có lý do gì để biết Turi đang lẩn trốn ở đâu. Nhưng chúng tôi, chúng tôi cần phải biết kế hoạch của anh bạn, để ... yểm trợ!

- Tôi chưa hề biết gì về các vị, - Michael bình tĩnh đáp.

Nụ cười rạng rỡ bỗng nở ra trên khuôn mặt đẹp trai của Adonis. Con người nhỏ bé ấy đứng bật dậy, nghiêng mình.

- Xin thứ lỗi, tôi thật quá sơ suất, - ông nói bằng một giọng hết sức chân thành, - tôi là thầy dạy Turi từ lúc nó còn nhỏ xíu. Chẳng những thế, ông bà thân sinh ra nó đây lại còn dành cho tôi cái vinh dự làm ' bố đỡ đầu" của nó. Hiện nay tôi là giáo sư sử học và văn chương tại đại học Palermo. Tuy vậy, cái lý lịch tốt nhất, đảm bảo nhất của tôi là sự xác nhận của tất cả mọi người có mặt ở đây. Tôi đã, đang và sẽ mãi mãi là một thành viên trong băng Turi.

Stefan Andolini cũng thản nhiên nói:

- Tôi cũng ở trong băng của Guiliano. Anh bạn đã biết tên của tôi, và còn biết tôi là anh em bà con của anh bạn. Nhưng chắc anh bạn không biết cái biệt danh "thầy dòng Diadavo" của tôi.

Đây cũng là một biệt danh đã trở thành thần thoại của Sicily mà Michael đã từng nghe. Andolini có bộ mặt cô hồn dễ sợ. Gã cũng là tay giang hồ có hạng đang phải lẩn trốn và cái đầu cũng được treo giá không phải nhỏ. Vậy mà lúc trưa này gã ngồi dùng cơm trưa ngay bên cạnh thanh tra Velardi.

Tất cả đang hau háu chờ câu trả lời của Michael. Hắn không có ý định nói ra cho họ biết kế hoạch cuối cùng của hắn, nhưng hắn hiểu rằng không thể không nói cho họ một cái gì đó. Bà già của Guiliano đang chòng chọc nhìn hắn. Hắn quay qua nói thẳng với bà ta:

- Cũng đơn giản thôi. Trước hết tôi xin cho các vị hay là tôi chỉ có thể chờ đợi ở đây không quá một tuần lễ. Tôi xa nhà đã quá lâu. Và hiện nay, ở nhà tôi cũng đang có nhiều chuyện rối rắm mà ông già tôi cần có tôi để đỡ đần một tay. Dĩ nhiên, bà hiểu vì sao tôi lại nôn nóng trở về nhà đến thế. Nhưng chính ông già tôi muốn tôi phải giúp đỡ anh con trai của bà. Chính ông chỉ thị cho tôi phải đến gặp lão Croce, sau đó đi Trapani những người của tôi ở bên ấy qua mà tôi tuyệt đối tin cậy. Toàn là những tay "có nghề" cả.

Hắn ngừng lại một chút. Ở Sicily, chữ "có nghề" mang một ý nghĩa đặc biệt và thường chỉ áp dụng cho những cao thủ đâm chém của Mafia mà thôi. Rồi hắn nói tiếp:

- Một khi Turi đã đến chỗ tôi rồi, thì anh ta sẽ hoàn toàn được an toàn. Ngôi biệt thự này đúng là một pháo đài. Và chỉ ở đó trong vài giờ. Vì sau đó sẽ có một chiếc khinh tốc đỉnh chở chúng tôi đi Châu Phi. Tại đó sẽ có một máy bay đặc biệt bốc chúng tôi đi Mỹ ngay lập tức. Và ở bên Mỹ, dưới sự bảo trợ của ông già tôi, thì bà khỏi lo gì nữa hết.

Hector Adonis hỏi:

- Khi nào thì anh bạn có thể sẵn sàng tiếp nhận Turi Guiliano?

- Sáng sớm mai tôi sẽ có mặt ở Trapani, - Michael đáp. - Cho tôi hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó.

Bỗng nhiên bà già của Guiliano bật khóc:

- Tội nghiệp! Thằng Turi nhà tôi không còn tin ai nữa. Nó sẽ không chịu đi Trapani đâu.

Dường như bà cố giấu nỗi thất vọng. Và bất ngờ chính Pisciotta đã đến an ủi bà. Y hôn và ôm lấy bà.

- Dì đừng lo, - Y nói. - Turi hãy còn nghe lời con. Con sẽ nói lại với nó là mọi người ở đây đều tin vào anh bạn Mỹ này, phải vậy không? - Y quay ra nhìn những người kia như dò hỏi. Và những người này gật đầu đồng ý. - Chính cháu sẽ dẫn Turi đi Trapani.

Mọi người có vẻ hài lòng. Michael hiểu rằng chính câu trả lời tỉnh bơ và lạnh lùng của hắn đã khiến mọi người tin hắn. Tất cả đều là dân Sicilian chính cống, nên họ rất nghi ngờ những gì có vẻ quá hào hiệp, vồ vập và nhiệt thành của người khác. Về phần mình, Michael cũng cảm thấy lo lo vì sự cẩn trọng của họ và sự đảo lộn kế hoạch của ông già hắn. Lão Croce này là kẻ thù. Rất có thể Guiliano sẽ không đến với hắn sớm. Và không chừng sẽ không đến nữa là khác. Nhưng, suy cho cùng, Turi Guiliano là cái gì đối với hắn, đối với ông già hắn? Về vấn đề này, Michael cứ tự lục vấn mình hoài.

Sau đó, họ mời Michael vào một căn phòng nhỏ khác, ở đó bà già của Guiliano đã dọn sẵn cà - phê và rượu hồi. Bà cứ xoắn xuýt xin lỗi vì rượu không được ngọt lắm. Họ nói cà - phê sẽ giúp cho Michael tỉnh táo và rượu hồi sẽ giúp cho ấm bụng trong cuộc hành trình dài hạn ban đêm để tới Trapani.

Hector Adonis rút từ túi áo may cắt rất khéo của ông ra một hộp thuốc lá mạ vàng và chìa ra mời mọi người. Rồi ông tự rút một điếu gắn lên môi. Cho đến lúc đó, ông ta quên hẳn rằng mình đã ngồi tựa vào lưng ghế hai chân bỏ thõng lửng lơ, không chấm đất. Lúc đó, trông ông ta như một con búp bê treo lủng lẳng ở một đầu dây, đong đưa, lúc lắc. Bà Maria Lombardo chỉ một tấm hình lớn treo trên tường và nói:

- Nom nó điển trai đấy chớ? Vừa đẹp trai lại vừa tốt bụng. Quả thật, lòng tôi tan nát khi nó bất ngờ bị hóa ra một người sống ngoài vòng pháp luật. Thầy Adonis, thầy nhớ cái ngày khủng khiếp ấy chứ. Và thầy cũng nhớ những điều bịa đặt láo toét mà bọn chúng gán cho thằng nhỏ nhà tôi trong vụ Portella della Ginestra chớ? Con tôi đâu có làm cái chuyện bất nhân, ác đức ấy bao giờ.

Mọi người có vẻ bối rối. Đây là lần thứ hai trong ngày Michael nghe nói đến Portella della Ginestra mà không hiểu cái gì xảy ra ở đó. Thắc mắc nhưng Michael thấy không tiện hỏi. Hector Adonis nói:

- Hồi Turi còn là học trò của tôi, nó ham đọc sách lắm. Nó thuộc lòng câu chuyện bằng thơ về vua Charlemagne và hiệp sĩ Roland. Và bây giờ chính nó cũng trở thành một thứ huyền thoại. Tôi cũng vậy, lòng tôi cũng tan nát, khi nó thành một tên sống ngoài vòng pháp luật.

Bà già Guiliano cay đắng nói:

- Nó sẽ gặp may nếu nó còn sống. Trời ơi, không hiểu sao lúc đó tôi lại cứ muốn sinh nó ra ở đây, ở Sicily này cơ chứ? À, phải, vì tôi cứ muốn nó là một người dân Sicilian chính cống, Sicilian thứ thiệt. - Rồi bà cười man dại và chua chát: - Và nó đã thật sự trở thành một Sicilian thứ thiệt! Mỗi bước nó đi là mỗi bước đáng lo sợ cho chính mạng sống của nó, với cái đầu bị đặt giá! - Bà ngưng một chút rồi lại sôi nổi nói tiếp. - Nhưng con tôi là một ông thánh!

Michael nhận thấy Pisciotta tủm tỉm cười hóm hỉnh, như một người nghe thấy bà mẹ theo dòng tình cảm tuôn trào mà "bốc thơm" con mình, tán tụng đức hạnh con mình. Ngay cả ông già của Guiliano cũng phải có những cử chỉ có vẻ bực bội. Andolini thì mỉm cười ranh mãnh. Pisciotta nói một cách dịu dàng, nhưng lạnh lùng với bà:

- Dì à, đừng có làm như tủi đã hết đường xoay trở vậy. Nó đã cho nhiều hơn là nó đã nhận. Chính vì vậy mà kẻ thù của nó ớn nó.

Bà già của Guiliano nói một cách bình tĩnh bơ:

- Tôi biết là nó đã giết nhiều người. Nhưng không bao giờ nó làm một điều gì bất công. Và nó luôn luôn dành cho kẻ thù của nó một giờ đặng ăn năn tội lỗi, cầu nguyện và làm lành với Chúa trước khi nó ra tay.

Và thình lình bà cầm tay Michael, dắt qua bếp đi qua phía ban công:

- Chẳng có một ai thật sự hiểu được thằng Turi nhà tôi cho bằng tôi, - bà nói với Michael. - Họ không hiểu được nó tốt lành và dễ thương đến thế nào. Có lẽ đối với người ta thì có thể nó thế này thế kia, chứ với tôi thì nó thật cứ như đếm ấy thôi. Nó không có giấu giếm tôi điều gì hết. Tôi nói gì nó nghe nấy. Không bao giờ nó dám nói xẵng với tôi chớ đứng nói là lỗ mãng, hỗn hào. Nó thật là đứa con hiếu thảo. Những ngày đầu tiên sống ngoài vòng pháp luật, nó ở trên núi nhìn xuống mà chẳng thấy gì. Tôi ở dưới này nhìn lên, cũng chẳng thấy gì. Nhưng, tôi vẫn cảm thấy sự có mặt của nó, cũng như nó vẫn cảm thấy sự có mặt của tôi. Tôi thương nó, nó thương tôi. Ngay lúc này đây, tôi cũng cảm thấy nó. Cứ nghĩ đến nó trơ trọi mọt mình trên núi, trong khi cả ngàn lính tráng đang sục sạo, săn lùng, mà lòng tôi cứ như lửa đốt, cứ như bị vò xé, tim tôi cứ như lăn lộn trong đám chông gai. Và chỉ có ông là cứu được cháu nhà tôi. Ông cứ hứa với tôi là ông sẽ chờ nó.

Bà siết chặt tay Michael trong hai bàn tay bà và hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Michael nhìn mênh mông vào bóng đêm. Thành phố Montelepre nép mình vào lòng rặng núi hùng vĩ. Chỉ tại quảng trường trung tâm mới thấy thấp thoáng ánh đèn vàng vọt. Bầu trời lấm tấm những vì sao. Ngoài phố thỉnh thoảng lại vọng lên tiếng vũ khí va chạm nhau lách cách và tiếng khàn khàn của đám lính cảnh vệ đi tuần. Thành phố chập chờn đầy những bóng ma quái. Bà Maria Lombardo và Michael bước nhẹ như lướt đi. Đêm mùa hè đượm hương thơm hoa chanh. Tiếng côn trùng rên rỉ. Thình lình lại có tiếng hô lớn của các toán cảnh vệ nổi lên rồi tắt ngúm.

- Tôi sẽ hết sức ráng chờ, được lâu bằng nào hay bằng nấy, - Michael nhỏ nhẹ nói với bà, - nhưng bên nhà, ông già tôi cũng cần tôi lắm. Bà phải bảo anh ấy đến gặp tôi gấp gấp.

Bà già của Guiliano gật đầu và dẫn hắn trở lại với mấy người kia. Piscitotta đi đi lại lại trong phòng. Y có vẻ bực bội.

- Tụi này quyết định là mình phải ở lại đây, đợi cho đến rạng sáng và hết giờ giới nghiêm, - Y nói. - Ngoài kia, trong bóng tối, có nhiều tên lính ưa bắn sảng lắm, và do đó, rất dễ bị tai nạn không đâu. - Y quay về phía Michael và hỏi: - Người anh em không phản đối chứ?

Michael đáp:

- Ồ, không, miễn là đừng có quá phiền ông bà chủ đây.

Họ gạt bỏ ý kiến này và cho là không thích đáng. Họ thường ngủ đêm ở đây nhiều lần rồi, mỗi khi Turi Guiliano lẻn về thăm nhà. Vả lại, họ cũng còn có nhiều điều phải bàn tính, nhiều chi tiết phải sắp đặt. Dù có thức suốt đêm họ vẫn cứ tỉnh như sáo.

Dù đã cởi áo vét, tháo cà vạt ra rồi, trông ông Hector Adonis vẫn bảnh bao, thanh lịch. Bà già của Guiliano pha thêm cà phê, Michael yêu cầu họ cho hắn biết những gì mà họ xét ra có thể cho biết về Turi Guiliano. Hắn cảm thấy cần phải tìm hiểu về anh chàng này. Ông bà già của Guiliano thì nói về cái vẻ thần kỳ của ông con trai họ. Andolini thì nói về chuyện Turi đã tha mạng cho mình. Pisciotta thì nói về những hành vi vừa hào hùng, táo bạo, vừa ranh mãnh, láu lỉnh của Turi, cũng như "Turi giết người thì giết chớ không có ác độc, tàn bạo, bất nhân. Mặc dù không một chút xót thương kẻ thù và những tên phản bội, nhưng không bao giờ Turi xúc phạm đến phẩm giá, sỉ nhục, tra tấn bọn này". Y đã kể lại tấn thảm kịch ở Portella della Ginestra và kết luận: - Hôm đó, nó khóc ngay trước mặt đám anh em trong băng.

Bà Maria Lombardo nói chen vào:

- Tôi đã nói là chính tay nó chẳng có giết ai ở Portella cả mà.

Ông Hector Adonis vỗ về bà ta:

- Anh em chúng tôi ai cũng biết vậy rồi. Turi vậy đó mà tâm địa nó hiền khô à. - Ông quay sang nói vơi Michael: - Nó ham sách lắm. Tôi nghĩ là nó có thể trở nên một thi sĩ hoặc một học giả kia đấy. Có thể là tính nó hơi nóng nẩy. Nhưng không bao giờ tàn bạo. Cái nóng của nó là thứ lửa rơm, bùng lên một cái là hết liền, và vô hại. Nó ghét những gì bất công. Nó ghét bọn cớm, bọn cảnh vệ. Vì đối với người nghèo thì bọn này tàn bạo, hống hách, còn đối với bọn giàu thì quỵ luỵ, khúm núm.

Pisciotta cười lớn, nói:

- Bây giờ thì Turi chẳng "thánh" vậy đâu. Còn phần ông, ông thầy, đừng có lên lớp anh em! Ông mà như tụi này thì ông cũng chẳng thua tụi này đâu, sợ còn hơn!

Hector Adonis nghiêm sắc mặt nhìn hắn.

- Aspanu, - ông nói, - chỗ này không phải là chỗ anh giỡn đâu!

Pisciotta sửng cồ liền:

- Này, - hắn nói, - bộ ông tưởng thằng này sợ ông đấy hẳn?

Thế là Michael biết cái hỗn danh của Pisciotta là "Aspanu". Pisciotta cứ xoáy vào cái chỗ "nhỏ con" của ông kia, còn Hector Adonis thì cứ cái giọng bề trên để nói với Pisciotta. Thật ra, đám này cũng không hoàn toàn tin cậy nhau. Đối với Andolini thì mọi người "kính như viễn chi". Bà già của Guiliano dường như chẳng tin ai hoàn toàn. Nhưng càng về khuya thì càng rõ là họ rất giống nhau ở một điểm: cả đám ai nấy đều rất thương Turi Guiliano.

Michael dò hỏi:

- Turi Guiliano có viết một bản chúc thư. Cái ấy bây giờ đâu rồi?

Mấy người kia nín thinh một lúc thật lâu và soi mói nhìn hắn. Và bất thình lình mọi người đâm ra nghi ngại chính hắn. Sau cùng, ông Hector Adonis lên tiếng:

- Nó mới khởi sự viết theo sự gợi ý của tôi. Và tôi cũng giúp đỡ nó trong việc ấy: mỗi trang đều có chữ ký của Turi. Tất cả mối liên hệ bí mật giữa lão Croce với chánh phủ ở Rome và những sự thật về vụ Portella della Ginestra. Nếu những cái đó được tung ra công luận thì chính phủ và cả Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo "dẹp tiệm" là cái chắc. Đó là con chủ bài cuối cùng của Guiliano, nếu sự thể xoay chiều tệ hại nhất.

- Tôi hy vọng là ông đã cất nó ở một nơi an toàn, - Michael nói.

- Phải, - Pisciotta nói chen vào, - chính thằng cha Croce rất muốn vồ được cái chúc thư ấy.

- Vào lúc thuận tiện, - bà già của Guiliano bỗng lên tiếng, - chúng tôi sẽ thu xếp để có cái chúc thư ấy trao cho ông. Có lẽ ông sẽ gửi cái ấy đi cùng với con nhỏ.

- Michael nhìn họ, ngạc nhiên: "Con nhỏ nào?"

Họ quay nhìn chỗ khác như thể bối rối hoặc e ngại. Họ hiểu đây là sự ngạc nhiên không lấy gì làm thích thú cho Michael và sợ phản ứng của hắn. Bà già của Guiliano thủng thỉnh nói:

- Con nhỏ đó là vợ của thằng Turi nhà tôi. Nó đang có bầu.

Rồi, bà quay về phía mấy người kia, nói:

- Bộ con nhỏ tan vào không khí được chắc? Liệu ông đây có chịu cho nó đi theo không đã? Cứ nói để ông đây biết, đặng ông nói xem sao.

Mặc dầu cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ là bà ta đang lo sợ phản ứng bất lợi của Michael. Bà quay sang phía Michael và nói:

- Con nhỏ ấy sẽ đến Trapani với ông trước. Turi nhờ ông cho con nhỏ ấy đi Mỹ trước nó. Khi con nhỏ đến nơi và có thư về là đã đến nơi bình an thì Turi sẽ đến gặp ông.

Michael nói một cách dè dặt:

- Tôi không được chỉ thị gì về việc này. Có lẽ tôi phải bàn với người của tôi ở Trapani về yếu tố thời gian. Tôi biết là bà và ông nhà chắc sẽ có lúc phải theo anh con trai của ông bà sang bên ấy. Thế thì sao không để cho cô này đợi để đi với ông bà?

Pisciotta nói một cách sỗ sàng:

- Chẳng nói giấu gì người anh em: con nhỏ này là một trắc nghiệm của tụi này đối với ông bạn. Nó sẽ gửi mật hiệu về và rồi qua đó Turi sẽ phán đoán có phải mình đang chơi với một người không những vừa lương thiện mà còn khôn ngoan nữa hay không? Chỉ đến lúc đó nó mới có thể quyết định mình có thể an toàn rời khỏi Sicily hay không.

Ông già của Guiliano giận dữ nói:

- Aspanu, tao đã nói với mày và thằng Turi rồi, là Ông Trùm Croce đã hứa giúp mình kia mà.

Pisciotta nhỏ nhẹ đáp lại:

- Đó là lệnh của Turi.

Michael suy nghĩ thật nhanh. Sau cùng hắn nói:

- Tôi nghĩ đó là điều rất hay. Ta có thể dùng con đường đào thoát này để trắc nghiệm xem nó có bị trục trặc gì không.

Thật ra chính hắn cũng không có ý định dùng con đường này để giúp chính Guiliano đào thoát. Trong thâm tâm, hắn đã hình dung một con đường khác. Hắn nói với ông bà già của Guiliano:

- Ngay trong chuyến này, tôi có thể gởi cả bà và ông nhà cùng cô gái đó đi.

Hắn nhìn họ, dò hỏi. Nhưng cả hai ông bà già của Guiliano đều lắc đầu. Hector Adonis nhẹ nhàng nói với họ:

- Đó không phải là một ý kiến dở đâu.

Nhưng bà già của Guiliano nói:

- Chúng tôi đâu có lòng dạ nào để rời khỏi Sicily trong lúc con chúng tôi thập tử nhất sinh ở đây.

Ông chồng cũng gật đầu đồng ý. Michael hiểu là họ nghĩ gì. Nếu Turi Guiliano chết ở Sicily này thì họ cũng chẳng muốn đi Mỹ làm gì. Họ phải ở đây để chôn cất, để đem hoa đến viếng mộ và để khóc than, tiếc thương nó. Thảm kịch cuối cùng phải và chỉ là của họ, thuộc về họ. Đứa con gái kia có thể đi vì sự ràng buộc giữa nó với Turi là ràng buộc bằng tình yêu, chứ không phải là máu mủ ruột rà.

Đêm hôm đó, thỉnh thoảng bà lại đưa cho Michael coi một tập dán những bài cắt ra từ các báo, những tấm áp - phích của chính phủ công bố giải thưởng cho ai lấy được đầu của Guiliano. Bà cũng cho coi một truyện bằng tranh in trên tờ báo "Life" của Mỹ năm 1948. Câu chuyện mô tả Guiliano như một tướng cướp lớn nhất thời đại, một thứ "anh hùng Lương Sơn Bạc"(3)

Tờ báo cũng in một bức thư nổi tiếng của Guiliano gửi cho báo chí, trong đó có đoạn như sau:

"Từ năm năm nay, tôi chiến đấu cho nền tự do của Sicily. Tôi đã chia cho người nghèo những gì tôi đã tước đoạt của bọn nhà giàu, cứ hỏi những người bình dân Sicilian xem họ coi tôi là một tên cướp hay coi tôi là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do? Nếu họ nói chống lại tôi, tôi xin sẵn sàng nạp mình cho các vị xét xử. Chừng nào họ còn nói tốt về tôi, chừng ấy tôi còn tiếp tục chiến đấu."

Chắc là quỷ dữ trong địa ngục cũng không thể huênh hoang, lớn tiếng bằng cái thằng ăn cướp đang bị cớm truy lùng này. Michael nghĩ vậy khi thấy nét mặt hãnh diện của bà Maria Lombardo đang nhìn hắn. Nhưng hắn cảm thấy có sự gắn bó chặt chẽ với bà ta vì bà ta nom rất giống bà mẹ hắn. Những nỗi lo buồn đã để lại những dấu tích rất rõ nét trên khuôn mặt của bà. Nhưng đôi mắt của bà vẫn hừng hực phản ánh lòng quyết tâm chống lại số mệnh của mình.

Trời đã rạng đông. Michael đứng dậy bắt tay từ biệt. Hắn ngạc nhiên khi thấy bà già của Guiliano đã ôm hôn hắn trong vòng tay nồng nhiệt của bà.

- Nhìn ông, tôi nhớ đến con tôi, - bà nói. - Tôi tin ông. Bà đi về phía kệ thờ và lấy xuống bức tượng Thánh Nữ Đồng Trinh Mary tạc bằng gỗ mun. Màu gỗ đen đã đành mà dáng dấp bức tượng ấy cũng là dáng dấp của một người da đen.

Trao cho Michael bức tượng, bà nói:

- Ông giữ lấy tượng này làm quà. Đó là vật độc nhất đáng già mà tôi có thể biếu ông.

Michael ráng từ chối, nhưng bà cứ ấn bức tượng vào tay hắn. Ông Hector Adonisnois:

- Cả đảo Sicily này chỉ có vài bức tượng như vậy thôi. Nom kỳ khôi thật đấy. Nhưng cũng chẳng lạ gì, vì chúng tôi chẳng ở rất gần Châu Phi đó sao?

Bà già của Guiliano nói:

- Vấn đề không phải là nom tượng ấy giống cái gì, mà là ông có thể cầu xin ơn thiêng của bức tượng ấy.

- Phải, - Pisciotta nói chen vào. - Bức tượng này có thể ban nhiều ơn lành hơn những bức tượng khác.

Cái giọng của y vừa có vẻ khinh thường vừa có vẻ giễu cợt. Michael nhìn Pisciotta chào từ biệt bà mẹ của Turi. Hắn thấy rõ mức độ tình cảm giữa hai người. Pisciotta hôn cả hai bên má của bà và vỗ nhè nhẹ chào bà để bà yên lòng. Bà tựa đầu vào vai hắn và nói:

- Aspanu, Aspanu, dì thương con như chính con đẻ của dì. Con đừng để tụi nó sát hại Turi nhé. - Và, bà khóc.

Pisciotaa bỗng mất hết cả vẻ lạnh lùng. Toàn thân y bỗng nhũn ra. Cái mặt xương xương, lầm lì của y bỗng dịu đi.

- Dì dượng và nó sẽ sống đến già ở bên Mỹ ấy chớ, - Y nói, rồi y quay ra nói với Michael: - Trong vòng một tuần lễ tôi sẽ dẫn Turi đến chỗ người anh em.

Hắn lặng lẽ bước lẹ ra khỏi cửa. Hắn có giấy thông hành đặc biệt có vạch chéo đỏ và lỉnh lẹ vào núi. Hector ở lại nhà của gia đình Guiliano, mặc dù ông ta có nhà riêng tại thành phố.

Michael và Andolini lại chui vào chiếc Fiat và lái qua quảng trường trung tâm để đi vào con đường dẫn đến Castelvetrano, và sau đó tới thành phố ven biển Trapani. Vì Andolini cố ý cho xe chạy chậm và vì có nhiều chốt của cảnh sát nên mãi đến trưa họ mới tới thành phố Trapani.

........

(1) Theo luật giáo hội thì nghe người ta xưng tội, linh mục không được tiết lộ - dù gián tiếp - cho bất cứ ai những điều mà người ta đã thú tội, ngay cả trong trường hợp bị tra tấn cũng không được tiết lộ "Ấn toà giải tội". Nếu tiết lộ thì ông cha đó bị tội trọng (ND).

(2) Maure: tiếng dùng để gọi người Hồi giáo Bắc Phi thời đó. ND.

(3) Một tướng cướp nghĩa hiệp đã cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Nguyên văn "một Robin Hood"

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 2

Tháng 9 năm 1943, lúc đó, Hector Adonis đang làm giáo sư sử học tại đại học Palermo. Tài năng của ông thì quá xứng đáng với địa vị ấy. Tuy nhiên, ngay cả các vị khoa bảng đồng sự với ông cũng có ý kém trọng nể, chỉ vì cái vóc dáng "nhỏ con" của ông. Nhưng, âu đó cũng là định mệnh! Vì, cả cái xứ Sicily khốn khổ này, sự thích thú khốn nạn và độc ác của thiên hạ vẫn là chế giễu, nhạo báng những người chẳng may thấp, nhỏ bằng những hỗn danh châm chọc, đểu cáng. Chỉ có một người, - đó là ngài viện trưởng viện đại học - nhận ra cái giá trị thực của ông.

Cũng trong tháng 9 năm 1943, cuộc đời của giáo sư Hector Adonis cũng sắp sửa thay đổi. Vì, ở miền Nam nước Ý, chiến tranh đã chấm dứt. Quân đội Mỹ đã chiếm được đảo Sicily và sửa soạn đổ bộ lên lục địa. Chủ nghĩa phát xít đã chết. Nước Ý hồi sinh. Lần đầu tiên từ bốn mươi năm qua, đảo Sicily trên thực tế là vô chủ. Nhưng, nhận thức được những trớ trêu của lịch sử, giáo sư Adonis nhìn xuống sân trường đại học, nhìn tới những toàn nhà gọi là ký túc xá sinh viên. Khác với truyền thống đại học Anh, Mỹ, đại học của Ý không có chế độ nội trú (trong khi chế độ này gần như bắt buộc ở các đại học Anh, Mỹ). Do đó, gọi là ký túc xá đại học, nhưng không có nhà ở tập thể. Ở đây, hầu hết mọi sinh viên đều học tập ở nhà và chỉ đến trường để thảo luận và tham vấn với giáo sư của mình vào những khoảng thời gian ấn định. Sinh viên không đi nghe giáo sư giảng bài cũng không sao. Chỉ cần họ quan tâm và tham dự các kỳ thi là đủ. Theo ý giáo sư Adonis thì chế độ đại học đó là không hay, và đối với riêng xứ Scily này thì đó là một chế độ tệ hại và ngu xuẩn. Bởi vì đối với sinh viên người Sicilian thì cần phải có một chế độ đại học chặt chẽ hơn nữa.

Từ trên cửa sổ văn phòng, giáo sư Adonis thấy các xếp sòng Mafia từ khắp các thành phố, các tỉnh trên đảo Sicily nườm nượp kéo tới viện đại học để vận động, chạy chọt. Dưới chế độ phát xít, các xếp sòng này không chết, nhưng cũng phải e dè, nhũn hơn. Nhưng nay, dưới sự cai trị ềm dẻo của nền dân chủ tập sự theo kiểu Mỹ, bọn này ngóc đầu dậy như giòi bọ dưới lỗ nẻ chui lên lúc trời mưa. Và bọn chúng lại ngang nhiên không cần e dè, giấu giếm bắt tay vào những việc mà dưới chế độ phát xít chúng phải tiến hành hết sức lén lút.

Ăn vận những bộ đồ xịn nhất của chúng, các xếp lớn, xếp bé của Mafia, từ tên đầu sỏ cỡ tỉnh cho đến những tên làng nhàng cỡ xã của các tổ chức "Người anh em" này, lũ lượt kéo đến viện đại học để xin xỏ cũng có, hù doạ làm áp lực cũng có cho bọn con, cháu xa gần của chúng, hoặc của bạn bè chúng và thậm chí của các chủ đất giàu có được chúng bảo trợ. Bọn này thi rớt vì lý do này hay lý do khác. Đối với bọn này, chữ nghĩa là đồ bỏ, nhưng bằng cấp thì cực kỳ quan trọng. Các gia đình đâu có cách nào để loại bỏ những đứa con bất tài vô tướng, ngu độn và tầm thường. Chẳng lẽ cột đá vào cổ chúng rồi đem buông sông hay đem câu cá sấu? Nuôi báo cô chúng suốt đời hay sao? Mà để chúng sống nghèo khổ tầm thường thì mất mặt quá. Nhưng, với bằng cấp - cái mảnh vứt đi của viện đại học chứ gì - bọn côn đồ lục lâm này cũng thành thầy giáo, bác sĩ, dân biểu, nghệ sĩ, hoặc tệ lắm thì cũng thành một anh công chức cọ giấy ở các công sở nhà nước. Cũng "oách" chán.

Giáo sư Adonis nhún vai. Nghĩ đi thì như thế, nghĩ lại thì... lịch sử đã an ủi ông. Cái nước Anh mà ông hằng nể phục kia - trong những ngày huy hoàng nhất của đế quốc - đã đặt quân đội của nó vào tay con cháu bọn nhà giàu, trong số đó có chán vạn đứa bất tài, nhưng đã được ông bô bà bô nó "chạy" cho những chức vụ chỉ huy trong quân đội hay hải quân. Ấy thế mà đế quốc Anh vẫn cứ cường thịnh. Đúng, rất nhiều khi các vị chỉ huy ấy đã "nướng" lính tráng của họ một cách ngu xuẩn, phí phạm và vô ích. Nhưng bọn chỉ huy ấy đã được tâng bốc và huấn dụ rằng: can đảm, cùng vào sinh ra tử với lính là tác phong phải có của các cấp lãnh đạo, chỉ huy. Bằng cách ấy, quốc gia đã thanh toán được một cách khá mau lẹ cái gánh nặng bọn con cháu nhà giàu bất tài, vô tích sự ấy mà vẫn chẳng mất mát thiệt hại gì bao nhiêu và dân Ý đâu có cái truyền thống hiệp sĩ kiểu đó, đâu có lối giải quyết thực tiễn và lạnh lùng kiểu đó. Dân Ý thương con, thương cháu mình lắm - tình cảm ấy quả là đáng quí - nên đã tìm mọi cách vun quén, thu lợi cho con cho cháu. Và, chẳng may vì cái tình cảm cao quí ấy mà tổn hại đến quốc gia thì mặc kệ quốc gia.

Từ trên cửa sổ văn phòng, giáo sư Adonis điểm mặt được ít ra cũng ba "ông kẹ" Mafia địa phương đang nhớn nhác, dáo dác đi tìm "nạn nhân" của họ, tức là các giáo sư dạy các môn mà con cháu họ thi rớt. Thời tiết hãy còn nóng mà họ đã bận áo vét bằng nhung, rồi lại còn áo khoác... trông quỷnh không chịu được. Nhưng họ cứ tưởng vậy là sang. Khệ nệ sách giỏ trái cây từ "vườn nhà" hoặc kè kè vò rượu "nhà nấu", họ ngơ ngác, chẳng bù cho họ lúc kè kè chiếc mã tấu, hoặc lăm lăm khẩu súng máy. Chẳng phải họ cần đút lót gì, nhưng ít ra thì vò rượu cũng giúp cho các giáo sư bớt kinh hãi khi thoạt trông thấy bộ mặt ác ôn, ma cô của chúng. Hầu hết các giáo sư đại học ở đây là người địa phương. Do đó, các vị hiểu rằng bản thân và vợ con các vị muốn sống yên ổn thì chớ có dại dột mà từ chối lời yêu cầu được đưa ra một cách lễ độ như thế.

Một trong những "ông kẹ" Mafia mà giáo sư trông thấy - mặc bộ đồ kiểu "cao bồi vườn" - bước vào toà nhà và đi lên thang. Với sự thích thú ranh mãnh - vì biết rằng không thể tránh được - giáo sư Adonis sửa soạn để đóng vở kịch sắp tới. Giáo sư có biết "ông kẹ" kia. Tên y là Bucilla. Y có một trang trại và một bầy cừu ở cái tỉnh gọi là Partinico, cách Montelepre không xa.

Họ bắt tay nhau. Bucilla đặt giỏ trái cây xuống và nói

- Cây trong vườn nhà tôi năm nay sai trái quá. Để nó chín, thối rụng xuống đất thì uổng. Bởi vậy, hái một chút đem cho ông giáo.

Trông y quê mùa, nhưng là thứ quê mùa thô lỗ, chứ không phải thứ quê mùa chất phác. Y không cao nhưng có bề ngang, có sức mạnh nhờ cả đời làm lụng hùng hục. Adonis biết y cũng được tiếng là lương thiện. Và nói chung thì y cũng là người có máu mặt ở địa phương, nhưng chưa thuộc loại "cọp" và có cái vẻ bề ngoài nhũn nhặn. Y có láu lỉnh thì cũng chỉ là láu lỉnh theo kiểu văn minh miệt vườn. Nhưng không phải vì thế mà y không biết lợi dụng cái sức khoẻ và sự tàn bạo ngầm của y để làm giàu. Y là một trong những kiểu mẫu thoái hoá của các sếp Mafia cựu trào. Bởi vì các vị này xưa kia dao búa không hẳn chỉ vì tiền mà còn vì lòng tôn kính và danh dự.

Giáo sư Adonis mỉm cười nhận giỏ trái cây. Ông thừa hiểu là đời nào có một anh nhà quê Sicilian lại để cho một cái gì hư, uổng. Chỉ một trái ô-liu rụng thì đã có cả trăm đứa trẻ tranh nhau làm thành một đám giặc non rồi. Lũ trẻ ấy đông như châu chấu. Bicilla thở dài. Y có vẻ nhũn nhặn đến độ ảo não. Nhưng Adonis cũng biết là chỉ trong một giây cũng đủ để sự nhũn nhặn ấy biến mất để nhường chỗ cho sự hầm hè, doạ nạt. Bởi vậy, ông cố nặn cho ra một nụ cười có vẻ tình cảm khi Bucilla mở miệng nói:

- Cuộc đời này thật phiền quá đi. Ấy, tôi đang làm vườn. Đã bận bỏ mẹ đi, thì cái ông hàng xóm lại đến nhờ một việc. Chả có cách nào từ chối. Ông già tôi với ông già hắn là chỗ quen biết. Ông nội tôi với ông nội hắn cũng vậy nữa. Vả lại cái tính tôi kỳ lắm, hay đó là cái rủi của tôi không chừng, là hễ cứ bạn bè nào, dù thân hay sơ, nhờ cái gì dù lớn hay nhỏ, thì mình cũng không có lòng dạ nào mà từ chối cho được. Nói cho cùng ra thì mình cũng đều là con cái Chúa cả.

- Thì người dân Sicilian mình ai mà chẳng vậy, - Hector Adonis nhẹ nhàng đáp. - Đã thế, ông anh lại còn quá hào hiệp nữa. Chính vì vậy mà bọn người Bắc ở Rome ấy nó cứ lợi dụng mình hoài.

Bucilla đắc ý, nhìn chòng chọc vào ông ta và thầm nghĩ " Vậy là không có chuyện làm khó, làm dễ rồi. Vả lại, nghe đâu ông thầy này cũng "phe ta". Có điều chắc chắn là ông ta chẳng có vẻ gì đáng ngại. Nếu ông ta cũng "phe ta", cũng là "người anh em", thì một người như Bucilla sao lại không biết nhỉ? Nhưng, tuy cũng là "người anh em" thì cũng có năm bảy hạng " người anh em". Có điều chắc chắn đây là một người biết tới biết lui, biết người biết của lắm.

- Tôi có chút việc nhỏ đến nhờ thầy giúp, - Bucilla nói. - Cũng như mọi người Sicillian khác, ông bạn lối xóm của tôi có thằng con trai năm nay thi rớt, và rớt ở môn của thầy. Ông bạn lối xóm của tôi cứ buồn mãi, cứ rên rỉ phàn nàn với tôi. Nhưng khi nghe thấy tên thầy, tôi đã nói với hắn thế này: "Cái gì? Thầy Adonis hả? Sao? Ông thầy này có từ tâm, nhân hậu, thương người nhất thế giới. Nếu biết rõ việc này thì không khi nào ông ấy lại nhẫn tâm. Không bao giờ!" Bởi vậy hắn khóc lóc nài nỉ tôi đến thưa với thầy sự thể đầu đuôi. Và xin thầy mở lượng hải hà cho con hắn đậu, đặng sau này nó ra đời nó có phương kế sanh nhai lương thiện, nuôi vợ nuôi con.

Hector Adonis đâu có bị phỉnh gạt vì cái sự quá ư lễ độ này. Ông lại nhớ đến dân "Hồng Mao" - mà ông rất nể phục - một dân tộc dù có chơi xỏ lá thì cũng tế nhị đến nỗi cả tháng sau mới hiểu là họ chửi cha của mình. Cách nói của Bucilla là một kiểu mẫu cho cách nói lịch sự kiểu người Anh. Nhưng khác ở chỗ nếu từ chối lời yêu cầu của y thì coi chừng, y lụi cho một vài nhát dao là rồi đời. Adonis chỉ giỏ trái cây, ậm a ậm ừ.

- A, tất nhiên là ai lại có thể đang tâm để cho đám trẻ này phải đói rét trong cái thế giới khốn khổ này được. Thế anh bạn trẻ ấy tên là gì?

Trong khi Bucilla nói, thì ông ta lôi từ dưới đáy ngăn kéo ra một cuốn sổ và giả bộ lật lật, chứ ông thừa biết cái tên rồi. Thằng nhóc ấy là một thằng cù lần, đần độn còn thua cả con lừa trong trại của lão Bucilla. Bẽn lẽn như con gái, mà lại huênh hoang khoác lác một cách ngu xuẩn. Một thằng dốt đặc cán mai không phân biệt nổi con ếch với con nhái. Dầu vậy, Hector Adonis vẫn mỉm cười dịu dàng với Bucilla. Và, bằng một giọng giả bộ ngạc nhiên, ông nói:

- A, cậu này có một vài trục trặc nhỏ ở một trong những bài thi vừa rồi đây. Nhưng cũng dễ thu xếp thôi. Ông bảo cậu ta đến đây. Tôi sẽ ôn tập cho cậu ta ngay tại phòng này, rồi sau đó thi lại, ngoại lệ. Và sẽ không rớt nữa đâu.

Họ bắt tay nhau. Ông kẹ ra về. Adonis nghĩ bụng: "Cũng là một cách thêm bạn, bớt thù. Cho dù tất cả những ông con vô tích sự ấy đậu những bằng cấp đại học mà chúng nó không đáng đậu thì đã sao? Ở cái nước Ý năm 1943 này, chúng dùng bằng cấp ấy để vênh vang, để "tráng men học thức" cho cái gia tài bất chính của ông bà già chúng. Vì chẳng lẽ giàu sụ mà trong nhà không có ai có "mác" đại học thì coi bộ "sệ" quá và mang tiếng là trọc phú. Hoặc chúng dùng bằng cấp ấy để kiếm một địa vị lèng xèng nào đấy.

Chuông điện thoại cắt đứt ngang ý nghĩ lan man của ông và đem đến cho ông nỗi bực dọc khác nữa. Một hồi chuông ngắn, rồi ngưng, tiếp theo là ba hồi chuông ngắn, gay gắt. Cô điện thoại viên đang nói chuyện tào lao với ai đó vẫn chưa chịu cắt đứt câu chuyện của cô. Cái đó càng làm ông bực. Đến nỗi ông ta "a lô" như hét vào máy. Rủi thay, đó lại là cú điện thoại của ngài viện trưởng viện Đại học. Ngài viện trưởng - một người nổi tiếng khắt khe về những nghi thức giao tế lịch sự - hiển nhiên là đang gặp cái gì đó quan trọng lắm, nên đã không chú ý đến sự gay gắt của ông giáo sư. Giọng ngài run run - có vẻ sợ hãi - như sắp khóc đến nơi:

- Giáo sư Adonis, - ông nói, - phiền ngài đến văn phòng tôi ngay bây giờ, được không? Viện đại học đang gặp một rắc rối nghiêm trọng mà chỉ có ông mới giải quyết được. Hết sức quan trọng. Tin tôi đi, giáo sư, tôi sẽ nhớ ơn ông.

Cái giọng cầu cạnh này càng làm cho ông thêm bực. Ông nghĩ bụng: "Lão già ngốc này muốn nhờ mình cái gì? Bộ nhảy qua nhà thờ chánh toà Palermo chắc? Nếu vậy thì lão ta nhảy chắc ngon lành hơn, - Adonis chợt chua chát nhớ tới cặp giò của mình - vì lão cao lớn như tượng. Thì lão cứ nhảy, mắc mớ gì mà lại bắt một thuộc cấp có giò ngắn nhất xứ Sicily này nhảy thay lão ta!" - Hình ảnh ví von chợt thoáng trong óc khiến cho Adonis bật cười và vui vui. Ông dịu dàng nói vào máy:

- Nếu có thể được, có lẽ ngài viện trưởng nói sơ qua cho tôi biết đặng tôi vừa đi lên gặp ngài vừa suy nghĩ được không?

Tiếng ngài viện trưởng trầm đi, chỉ thấy thì thào:

- Ông Trùm Croce hạ cố đến thăm viện. Thằng cháu ông ta học y khoa bị rớt. Ông ta đã đến xin tôi chiếu cố, xét lại. Nhưng ông giáo sư y khoa nhất định không chịu!

- Ai mà điên khùng vậy? - Adonis hỏi.

- Ấy, ngài tiến sĩ trẻ Nattore. Thực ra thì đó là một giáo sư y khoa khá đấy. Phải cái hơi lý tưởng.

- Năm phút nữa tôi xin có mặt tại văn phòng của ngài.

Khi vội vã đi ngang cái sân rộng mênh mông của viện để tới toà viện trưởng, Hector Adonis suy nghĩ cân nhắc xem phải hành động giải quyết thế nào cho ổn thoả. Cái khó tất nhiên không phải do ngài viện trưởng. Bởi vì ông vẫn thường được ngài triệu đến để giúp giải quyết những việc tương tự. Cái khó là bác sĩ Nattore kia. Ông biết Nattore quá mà. Một giáo sư y khoa kiệt xuất mà cái chết của ông ta sẽ là một mất mát lớn cho cái xứ Sicily này. Mà ngay cả sự từ chức của ông ta sẽ là một mất mát lớn cho viện Đại học Palermo. Tuy có huênh hoang, phù phiếm một chút, nhưng nói chung, ông ta là một người trọng nguyên tắc - trọng đến mức cứng nhắc - và trọng danh dự. Nhưng dù sao ông ta cũng đã phải nghe nói đến Ông Trùm Croce là ai và là người như thế nào chứ. Ông ta cũng phải có một chút lương tri trong cái bộ óc sáng láng của ông ta mới phải chứ? Phải có một cái gì khác, một chút linh động trong vụ này chứ?

Một chiếc xe hơi lớn màu đen đậu trước toà viện trưởng. Và đứng bên xe là hai tên cốt đột mặc đồ bảo hộ lao động, cho nên trông chúng cũng không đến nỗi cô hồn lắm. Chắc hẳn đó là tài xế và vệ sĩ của Ông Trùm. Để bọn này đứng ở đây, đối với Ông Trùm đã là một cách tỏ lòng trọng nể viện rồi đấy. Adonis cũng đọc được sự ngạc nhiên và sau đó là sự thích thú của hai tên cốt đột này khi chúng thấy vóc dáng nhỏ thó của ông. Ông đưa mắt nhìn lạnh lùng khiến chúng giật mình. Có thể nào một người nhỏ thó như vậy mà cũng là "Người anh em" được nhỉ?

Văn phòng viện trưởng trông có dáng như một thư viện hơn là một trung tâm điều hành công việc. Ngài viện trưởng là một học giả đúng hơn là một người quản lý. Các kệ sách kê kín các bức tường. Đồ đạc tuy có tiện nghi đấy, nhưng thô. Ông Trùm Croce ngồi trong một chiếc ghế bành lớn và đang nhâm nhi ly rượu. Cái mặt của lão gợi cho Adonis hình ảnh của cái mũi tàu bị vênh, méo vì những năm tháng chiến đấu và vì sóng biển dập vùi. Ông Trùm và Adonis đều làm bộ chưa quen biết, chưa gặp nhau bao giờ. Và Adonis cũng để cho người ta giới thiệu với Ông Trùm. Ngài viện trưởng thì biết cái trò giả bộ này, nhưng bác sĩ Nattore thì tưởng thật. Ngài viện trưởng là người cao lớn nhất viện. Giáo sư Adonis là người thấp nhỏ nhất viện. Không giữ lễ nữa, ngài viện trưởng ngồi ngay xuống, lọt thỏm trong chiếc ghế bành, rồi nói:

- Chúng tôi có một sự bất đồng nho nhỏ.

Nghe nói thế, bác sĩ Nattore khịt khịt mũi tỏ vẻ bực bội, trong khi lão Croce nhè nhẹ gật gật cái đầu tỏ vẻ đồng ý. Ngài viện trưởng nói tiếp:

- Ông Croce đây có đứa cháu cứ ao ước làm bác sĩ. Giáo sư Nattore đây thì bảo là nó không có đủ các chứng chỉ cần thiết để có thể cho tốt nghiệp được. Thế mới khổ! Thế mới rắc rối! Bởi vậy, ông Croce mới cất công đến đây và tình bày trường hợp của thằng cháu. Vì ông Croce đây đã từng giúp đỡ nhiều cho viện ta, nên tôi nghĩ rằng ta thử xem lại, xem có thể châm chước cho thằng cháu ông ta một chút được chăng?

Lão Croce lên tiếng. Lão nói có vẻ chân thành, chứ không có vẻ gì là xỏ xiên, châm chọc:

- Thú thật, tôi là người vô học. Ấy thế mà chẳng ai có thể nói là tôi lại không thành công trong việc kinh doanh.

Giáo sư Adonis nghĩ bụng: "Đúng, đâu có cần phải biết đọc, biết viết mới hối lộ, mua chuộc được các bộ trưởng, ra lệnh cho những tên sát nhân, hăm doạ được các chủ tiệm, chủ nhà máy...". Lão Croce trầm ngâm, thân mật nói, như thể lão đang tâm sự với người tình của lão, đồng thời có pha chút tự hào:

- Chỉ bằng kinh nghiệm, tôi đã tìm ra con đường riêng của tôi. Tại sao thằng cháu tôi lại không làm như vậy được nhỉ? Tại sao lại phải cứ làm bác sĩ mới được? Bộ không làm bác sĩ, thiên hạ chết ráo hay sao? Khổ nỗi, bà chị tội nghiệp của tôi cứ héo hắt, buồn khổ vì cái chuyện thằng con trai bà không có cái "mác" bác sĩ để in trên danh thiếp. Bà là con chiên ngoan đạo, bả cứ muốn giúp đời!

Như bất cứ ai cũng tin tưởng sắt đá rằng mình có lý, bác sĩ Nattore nói:

- Tôi không thể thay đổi lập trường được!

Lão Croce thở dài ra cái vẻ nhẫn nhục. Lão nói, giọng phỉnh phờ:

- Thì thằng cháu tôi cũng có làm thiệt hại gì ai đâu. Cho nó đậu, các ông cũng có mất mát, thiệt thòi gì đâu. Tôi sẽ thu xếp để nó có một chân trong quân đội, hoặc trong một nhà dưỡng lão. Ở đó nó không phải sờ đến cái ống chích, công việc của nó chỉ là cười, bắt tay và lắng nghe những lời than phiền của họ. Nó dễ thương và cũng khéo mồm khéo miệng lắm, chắc chắn nó sẽ chinh phục được lòng cảm mến của mấy người già tàn phế ấy. Tôi có mong gì hơn đâu? Một mảnh giấy bỏ đi mà ở đây các ông có vô số.

Lão đưa mắt khinh khỉnh nhìn những kệ sách kê kín bức tường. Giáo sư Hector Adonis bối rối trước cái vẻ hiền lành, chất phác lúc này của lão. Trung tâm bão lại là nơi êm ả nhất, và lặng gió.

Cái vẻ hiền lành chính là dấu hiệu nguy hiểm nhất của con người này. Lão trở mặt lẹ lắm. Bởi vậy, Adonis biết rằng ông phải tìm cách để gỡ cái thế bí này.

- Bác sĩ Nattore này, - Hector Adonis nói, - chắc là ông có thể giúp được việc này đấy. Chẳng hạn, kèm cặp nó thêm chút đỉnh, hay là bắt nó thực tập thêm ở một bệnh viện miễn phí nào chẳng hạn.

Mặc dầu sinh ra tại Palermo, nhưng bác sĩ Nattore lại chẳng có vẻ Sicilian chút nào. Ngay thẳng, bộc trực và tỏ ra giận dữ. Đó là điều mà không một người Sicilian chính hiệu nào làm trong những trường hợp tế nhị này. Có lẽ đó là một "gen" di truyền từ tổ tiên xa xăm người phương Bắc của ông.

- Giáo sư Adonis, - bác sĩ Nattore nói, - ông không hiểu, ngặt một cái là thằng khốn kiếp ấy lại cứ đòi làm bác sĩ phẫu thuật kia!

- "Giêsu, Maria Giuse(1) , lạy Chúa tôi, - Hector Adonis than thầm, - thế này thì rắc rối to rồi!". Lợi dụng lúc đồng nghiệp choáng váng vì sự tiết lộ của mình, bác sĩ Nattore nói tiếp:

- Đòi làm bác sĩ phẫu thuật mà thằng cháu của ông mù tịt, không biết tí gì về cơ thể học. Nó mổ cơ thể người ta mà cứ như thằng đồ tể mổ bò, mổ heo ấy. Nó có chịu nghe giảng bài, thực tập bao giờ đâu. Mà có đi thì cũng chẳng bao giờ trên tay có lấy một mảnh giấy để ghi chép hay làm bài phúc trình thu hoạch. Nó đi vào phòng giải phẫu mà cứ nhở nhơ còn hơn là đi vào tiệm nhảy đầm không bằng. Tôi công nhận là nó dễ thương. Ông không thể kiếm được một thằng nhỏ kháu hơn thế đâu. Nhưng, ở đây ta đang nói về một người ước mong một ngày nào đó cầm lưỡi dao mổ mà phải giải phẫu cơ thể người ta.

Hector Adonis biết rõ Ông Trùm đang nghĩ gì trong đầu. Đại khái là thằng nhỏ ấy có là bác sĩ phẫu thuật tồi đi chăng nữa thì cũng đếch cần. Vấn đề là thể diện gia đình. Thằng nhỏ mà thi rớt thì gia đình hết vênh vang. Nó có giải phẫu tồi đi nữa thì cũng đã sao. Nó có cần sống bằng cái nghề ấy đâu. Mà, cho dù có sống bằng cái nghề ấy thì nó cũng chẳng thể giết nhiều người hơn một tay em cỡ kha khá của lão. Thằng cháu của lão có là bác sĩ phẫu thuật hay là bác sĩ gì gì đi nữa, cũng được. Cứ bác sĩ là được. Có thế thôi mà cái ông bác sĩ giáo sư Nattore - tuy còn trẻ mà lẩn thẩn này - không hiểu được cái ý của người ta để chiều lòng người ta một chút.

Bây giờ đã đến lúc ông Hector phải "tháo ngòi" để gỡ cái thế bí này trước khi tình hình trở nên căng thẳng một cách nguy hiểm.

- Ông Croce quý mến, - Adonis nói, - tôi chắc là giáo sư Nattorre đây cũng chẳng ngại gì mà không chiều theo ý ông, nếu ta tiếp tục thuyết phục giáo sư thêm chút nữa. Nhưng, tại sao thằng cháu ông lại cứ mơ mông, đòi làm bác sĩ phẫu thuật làm gì? Cứ như lời ông thì thằng nhỏ này vốn dĩ hiền lành, dễ thương. Mà cái nghề phẫu thuật, - xin lỗi giáo sư Nattore, - không ít thì nhiều, phải nói là "tàn bạo". Vì mổ xẻ thế nào cũng dính máu dính me. Vả lại, ở Sicily này, có mấy ai sẵn lòng đưa thân cho người khác mổ xẻ đâu? - Ngừng một chút giáo sư Adonis nói tiếp: - Nếu ở đây chúng tôi cho nó đi qua chăng nữa, thì nó vẫn phải đi Rome thực tập tiếp. Ông còn lạ gì bọn người Bắc? Lúc nào cũng chẳng tìm đủ mọi cách để gạt người Sicilian mình ra rìa. Như thế là chính ông đã làm hại thằng nhỏ. Vậy tôi đề nghị một sự dung hoà như thế này.

Bác sĩ Nattore lẩm bẩm trong miệng: "Dung hoà thế quái nào được". Lần đầu tiên, đôi mắt rắn mối của lão Croce léo sáng lên một cái, như tia chớp. Giáo sư Adonis nói tiếp:

- Thằng cháu của ông vẫn được cấp bằng bác sĩ chứ không phải không. Điều trị hay phẫu thuật, nội khoa hay ngoại khoa thì cũng là bác sĩ cả, chớ đâu có kém cạnh gì. Chúng tôi sẽ nói là tâm địa thằng này dịu dàng quá đi, nên không làm bác sĩ phẫu thuật được.

Môi nở nụ cười, hai tay dang rộng, Ông Trùm hớn hở nói với Adonis:

- Thế là lòng tốt và lý sự của ông đã đánh bại tôi rồi. Thế là đủ. Khỏi cần phẫu thuật phẫu thiếc gì ráo. Bấy nhiêu đó cũng đủ để bà chị tôi yên lòng rồi.

Lão vội vã cáo từ. Vì mục tiêu thật sự của lão đã đạt, lão chẳng mong gì hơn. Ngài viện trưởng ra tận xe tiễn lão. Nhưng mọi người trong phòng đều thấy trước khi rời phòng, lão đã lườm bác sĩ Nattore một cái thật nhanh. Thật nhanh nhưng đó là một cái nhìn chăm chú, soi mói như cố ghi sâu vào ký ức để chắc chắn không thể quên được cái bản mặt của một thằng to gan đã dám trái ý lão.

Khi lão Croce và ngài viện trưởng ra khỏi phòng, giáo sư Adonis quay ra nói với bác sĩ Nattore:

- Ông bạn đồng nghiệp quí mến, ông bạn nên xin từ chức giáo sư và về Rome mà hành nghề. Đó là một lời khuyên - xin lỗi vì đó là từ đúng nhất trong trường hợp này - một lời khuyên đáng được ông bạn nghe theo nhất đời ông bạn.

Bác sĩ Nattore giận dữ nói:

- Ông có điên không đấy?

- Chắc chắn là điên hơn ông, - Adonis chậm rãi đáp. - Tối nay, tôi nhất định mời ông dùng cơm tối với tôi. Và tôi sẽ giải thích cho ông tại sao đảo Sicily không phải là đảo Thần Tiên, là chốn Bồng Lai.

- Nhưng tại sao tôi lại phải rời khỏi nơi đây kia chứ? - Bác sĩ Nattore phản đối.

- Bởi vì ông đã dám nói "không" với Croce Malo. Cũng một lúc, Sicily không đủ chỗ cho cả hai người.

- Nhưng ông ta đã được toại nguyện, chứ đâu phải không, - bác sĩ Nattore la lên, giọng thất vọng. - Cháu của ông ta sẽ thành bác sĩ. Ông và ngài viện trưởng đã chuẩn y điều đó mà.

- Nhưng ông thì không, - Hector Adonis nói. - Chúng tôi đã phải chuẩn y điều đó chính là để cứu mạng ông. Nhưng dù vậy, ông đã là người bị Croce Malo để ý.

Chiều hôm đó, giáo sư Hector Adonis chủ trì bữa tiệc gồm sáu giáo sư, trong đó có bác sĩ Nattore. Bữa tiệc đặt tại một nhà hàng sang nhất Palermo. Cũng ngày hôm đó, những vị giáo sư kia cũng được một người "đàng hoàng" đến thăm. Và tất cả các vị này cùng đồng ý sửa điểm cho mấy ông sinh viên thi rớt. Bác sĩ Nattore nghe câu chuyện của họ mà phát hoảng và ớn lạnh xương sống. Nhưng ông ta vẫn cứ gân cổ lên cãi, khiến cho các vị giáo sư khác phải nổi xung.

- Nhưng điều đó không thể để cho nó xảy ra ở một bác sĩ, - Nattore nói.

Giáo sư dạy triết đề nghị giáo sư Nattore cho biết:

- Tại sao chỉ trường y khoa mới không nên để cho điều đó xảy ra, còn các trường khác thì sao? Phải chăng sự thực hành y khoa lại quan trọng cho loài người hơn là tiến trình tư tưởng rất phức tạp của tinh thần con người và tính thiêng liêng bất tử của con người. Về mặt lý thuyết - dejure(2) - thì không một trường đại học nào được phép để cho điều đó xảy ra. Nhưng - de facto(3) trên thực tế... nhất là thực tế của Sicily...

Sau cùng, họ cũng thuyết phục được bác sĩ Nattore rời nhiệm sở để di cư sang Brazil, ở đó, theo sự đảm bảo của đồng nghiệp, một bác sĩ giải phẫu có cỡ thì có thể kiếm ra tiền.

Đêm đó, giáo sư Hector Adonis đã ngủ một giấc ngủ của một người vừa làm được điều thiện. Nhưng đến gần sáng, ông bị đánh thức bởi một cú điện thoại từ Montelepre gọi tới. Turi Guiliano, thằng con đỡ đầu của ông mà trí thông minh của nó đã được ông dưỡng dục, bản tính tốt lành của nó đã được ông cảm mến và quí hoá, tương lai của nó đã được ông sắp đặt - vừa mới hạ một tên cớm.

.........

(1) Tên của các vị thánh mà người theo đạo Thiên Chúa vẫn kêu cầu mỗi khi gặp khổ sở, khó khăn, nghịch cảnh, nguy hiểm

(2) (3) Dejure, de facto: tiếng La - tinh (đôi khi có phần làm dáng của giới khoa bảng) - có nghĩa là trên lý thuyết, trên thực tế

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 3

Montelepre là một thị trấn gồm bảy ngàn dân nằm chìm sâu dưới đáy thung lũng của dãy núi Gammarata, cũng như chìm sâu trong nghèo đói.

Ngày 2 tháng 10 năm 1943, dân thị trấn đang tưng bừng chuẩn bị lễ Kính Thánh Bổn Mạng (1) của thị trấn sẽ khởi đầu ngày hôm sau và kéo dài ba ngày.

Lễ Kính Thánh Bổn Mạng là một biến cố lớn nhất trong năm của toàn thị trấn, lớn còn hơn cả lễ Phục Sinh hay lễ Giáng Sinh, lớn còn hơn cả ngày kỷ niệm kết thúc cuộc đại chiến hay kỷ niệm ngày sinh của một vị anh hùng dân tộc. Lễ Kính Thánh Bổn Mạng của mỗi vùng một khác, tuỳ vùng đó chọn vị thánh nào đỡ đầu cho mình. Đó là một trong những tập tục lâu đời và mạnh mẽ mà ngay cả chính quyền phát - xít cũng không dám đụng đến, chứ đừng nói gì đến cấm cản.

Để tổ chức lễ Kính Thánh Bổn Mạng, mỗi năm người ta bầu ra một uỷ ban gồm ba vị thân hào danh sĩ có uy tín nhất trong thị trấn. Ba vị này sẽ chỉ định các uỷ viên lo quyên góp tiền bạc và hiện vật. Mỗi gia đình đóng góp tuỳ khả năng. Ngoài ra, còn có các uỷ viên đi quyên góp ngoài đường phố.

Gần đến ngày trọng đại ấy, uỷ ban "tam vị" bắt đầu xuất chi cái quỹ còn tồn tại từ những năm về trước. Họ thuê một phường kèn, một anh hề, treo những giải thưởng lớn cho các cuộc đua ngựa đủ kiểu, diễn ra trong suốt ba ngày, mướn những chuyên viên trang trí nhà thờ và đường phố. Dưới bàn tay của những chuyên viên này, thị trấn Montelepre tồi tàn, nghèo nàn, u ám thoắt chốc biến thành một thành trì thời Trung cổ. Một đoàn múa rối cũng được gọi tới. Những người bán hàng quà rong dựng lều, dựng quán... tấp nập.

Nhiều gia đình ở Montelepre có con gái đến tuổi cập kê cũng nhân ngày lễ này để kén rể hoặc cho làm lễ đính hôn. Quần áo mới, khăn choàng mới. Diêm dúa. Đám con gái điếm từ Palermo dựng lều ngay ngoài rìa thị trấn. Giấy phép hành nghề, chứng chỉ y khoa của đám con gái "Bạch Mi sư tổ" được treo ngoài vách lều bằng vải bố sọc trắng đỏ hoặc trắng xanh. Một vị thầy dòng nổi tiếng là thánh thiện cũng được mời tới để thuyết những bài giảng có tính cách lễ nghi chính thức. Sau cùng, vào ngày thứ ba cũng là ngày kết thúc dịp lễ, có cuộc rước kiệu di cốt của Thánh Bổn Mạng qua các thành phố. Toàn thể dân thị trấn - kể cả những người chỉ đến nhà thờ một lần duy nhất lúc mới lọt lòng được gia đình ẵm tới để làm phép rửa tội - đi theo hầu kiệu và dắt theo nào bò, nào ngựa, nào lừa, nào heo... để bán khoán cho thánh, đặng thánh ban phước cho ăn no chóng lớn, mạnh khoẻ dài dài để kéo xe, kéo cày cho khoẻ. Trên kiệu, chỗ để di cốt của Thánh, người ta tranh nhau chất lên đó nào là tiền, nào heo, nào bánh kẹo và cả những vò rượu nữa.

Những ngày này là những ngày ăn chơi xả láng của toàn dân thị trấn, để rồi cả năm có phải đói dài dài cũng mặc kệ, để rồi ngày ngày có phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm hùng hục như lừa trên đất của các quận công, bá tước, đặng đổi lấy một vài đồng bạc cũng "chấp". Chơi đã, mọi sự hậu xét.

Ngày đầu tiên trong dịp lễ Kính Thánh Bổn Mạng của thị trấn Montelepre năm đó, Turi Guiliano được chỉ định tham gia nghi thức khai mạc: đó là cuộc "thả nọc" giữa con la "mầu nhiệm" của thị trấn Montelepre với một con lừa đực to nhất và khoẻ nhất của thị xã. Thật ra, rất hiếm khi - có thể nói là không bao giờ - một con la cái có thể thụ tinh. Giống la được liệt vào loài thú không có khả năng sinh sản. Nhưng ở Montelepre đã có một con la cái ngoại lệ và do đó "mầu nhiệm" vì nó đã đẻ con. Trước đó hai năm, nó đã đẻ ra một con lừa. Chủ nhân của con la ấy đồng ý - coi như phần đóng góp của gia đình cho buổi lễ - dâng con la ấy để làm nghi lễ khai mạc. Và nếu sự lạ xảy ra lần nữa, thì con của nó sẽ được dùng vào dịp lễ này năm sau. Trong nghi thức này có một sự chế nhạo thâm thuý, chua cay và độc địa. Vì nghi thức "thả nọc" chỉ biểu hiện cái ý thức, ý nghĩa mà nông dân Montelepre nói lên.

Nông dân Sicilian cảm nhận sâu sắc sự tương đồng giữa mình và con la, con lừa. Hai con vật này luôn luôn phải làm lụng cực kỳ vất vả, mệt nhọc mà vẫn bị đánh đập tàn nhẫn và ăn uống thì đạm bạc mà vẫn thiếu thốn. Giống y như nông dân, hai con vật ấy có thể lầm lũi làm việc suốt mấy giờ đồng hồ mà vẫn dẻo dai. Thật khác với giống ngựa đỏm dáng, kênh kiệu nhưng mau xuống sức. Hai con vật ấy vững chân, có thể lẽo đẽo leo núi đá lởm chởm mà không bị té, bị gãy cẳng. Chẳng bù cho mấy con ngựa cái, chỉ được cái tốt mã, nhưng leo núi dở ẹc. Cũng vậy, nông dân giống lừa là ăn uống kham khổ, thiếu thốn mà vẫn sống, vẫn làm việc hùng hục, trong khi đó, loài vật khác và bọn nhà giầu mà như vậy thì chết nhăn răng từ lâu rồi. Nhưng sự tương đồng rõ nét nhất giữa nông dân Sicilian và con lừa, con la là: Phải đối đãi với nông dân, con lừa, con la một cách thân ái và trọng nể. Nếu không chúng sẽ trở thành nguy hiểm chết người, hay chí ít thì cũng lì ra, cứng đầu, bướng bỉnh.

Tinh thần của các ngày lễ của đạo Thiên Chúa - ít ra là ở Sicilian - có nguồn gốc từ các lễ của đa thần giáo thời rất cổ xưa, nhằm cầu khẩn phép mầu nhiệm của các thần. Chính vào ngày lễ Kinh Thánh Bổn Mạng của mình, thị trấn Montelepre cũng đã xảy ra một phép mầu nhiệm làm thay đổi số phận của bảy ngàn cư dân thị trấn này.

Dù mới hai mươi tuổi Turi Guiliano đã được coi như một người trưởng thành hay ít nhất cũng là một thanh niên đàng hoàng nhất, khoẻ mạnh nhất, chính trực nhất và được trọng nể nhất. Hắn là một người - dù mới hai mươi - nhưng rất trọng chữ tín. Nói tóm lại, đó là một người đối xử rất bặt thiệp với bạn bè, kính trên, nhường dưới. Nhưng không vì thế mà hắn chịu ngồi yên, chịu để cho người khác - dù quyền thế đến mức nào mặc kệ - nhục mạ.

Vụ gặt năm rồi, hắn nổi tiếng vì đã từ chối không chịu làm mướn với tiền công rẻ mạt do một tên cặp -rằng ấn định.

Hắn còn xúi các người khác đừng thèm làm để cho vụ mùa của các quận công, bá tước, đại điền chủ thối luôn cho bõ ghét. Cảnh sát đã bắt giam hắn theo lệnh khởi tố của ngài nam tước. Những người kia - vì sợ cũng có, vì đói cũng có - đã quay trở lại làm việc. Hắn chẳng trách gì mấy người kia và cũng chẳng trách gì cảnh sát vì theo ý hắn cảnh sát dù sao cũng chỉ là tay sai. Khi hắn được giáo sư Hector Adonis - bố đỡ đầu của hắn - can thiệp và được thả ra, hắn chẳng hận thù gì ai. Bản thân hắn kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của hắn và cho rằng thế là đủ.

Trong một dịp khác, hắn đã can ngăn được một cuộc "dao" chiến giữa Aspanu Pisciotta và một thanh niên khác chỉ bằng cách tay không đứng giữa hai con cọp đang nổi giận và bằng lời lẽ vừa hợp lý vừa khôi hài khiến cho cả hai dằn được cơn giận. Điều bất thường trong vụ này là không ai dám coi đó là dấu hiệu của trò lừa bịp hèn nhát, hoặc giả nhân, giả nghĩa vì ở Turi Guiliano có một cái gì đó khiến cho người ta không thể hiểu như vậy được.

Ngày thứ hai trong ba ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng, Salvatore Guiliano - gia đình và bè bạn vẫn thân mật gọi tắt là Turi - đã phải nghiền ngẫm về cái mà đối với hắn - với tư cách là một thằng con trai - là một sự mất thể diện mất nhân cách.

Nguyên nhân thì cũng nhỏ và thường thôi. Thị trấn Montelepre không có rạp chiếu phim, cũng không có rạp hát và các phương tiện giải trí khác. Chỉ có một quán cà - phê nhỏ có một bàn bi-a. Tối hôm trước, Turi cùng với thằng em họ là Gaspare "Aspanu" Pisciotta và vài thằng bạn khác chơi bi a trong quán. Lúc đó trong quán cũng có một vài người lớn vừa nhâm nhi ly rượu, vừa xem chúng chơi bi-a. Một người trong số đó tên là Quintana lúc đó đang hơi ngà ngà say. Đó là một tay anh chị cũng khá nổi tiếng. Gã bị Mussolini "cùm" một thời gian vì tình nghi là Mafia. Trong cuộc đổ bộ của quân đội Mỹ lên đảo Sicily gã được thả ra với tư cách là nạn nhân của chế độ phát - xít. Và có tin đồn là gã sắp được bổ nhiệm làm thị trưởng Moneleprre. Khiếp thế đấy!

Như bất cứ một người dân Sicily nào, Turi Guiliano còn lạ gì cái quyền lực đã thành thần thoại của Mafia. Vừa được tự do dưới sự cai trị của Mỹ, con rắn độc ấy - bị ngắc ngứ dưới chế độ phát - xít của Mussolini - bắt đầu ngo ngoe trên đảo như thể được chính quyền dân chủ kiểu Mỹ hà hơi tiếp sức cho. Đám chủ tiệm lớn, nhỏ trong thị xã được "người anh em" rỉ tai nhắc nhở đóng thuế. Dĩ nhiên, Turi biết chuyện đó, cũng như chuyện vô số nông dân bị cắt họng chỉ vì mỗi một tội là đã ráng đổ mồ hôi nước mắt trên ruộng đồng của các chủ đất và của các thân hào đầy thế lực để đổi lấy đồng lương chết đói, nên không có tiền đóng thuế "bảo vệ an ninh" cho "người anh em", cũng như chuyện Mafia tha hồ tác oai tác quái trên đảo Sicily khốn khổ trước khi bị Mussolini - "mo - phú" luật pháp - siết họng hết ráo, như cái kiểu một con rắn cực độc cắn cổ một con rắn độc khác yếu thế hơn. Bởi vậy, Turi cũng như vô số người dân thị xã Montelepre cảm thấy sự đe doạ của "người anh em" cứ lởn vởn trên đỉnh đầu.

Guido Quintana quay ra khinh khỉnh nhìn Guiliano và các bạn đang thụt bi-a. Có lẽ ma men đã làm cho gã ngứa ngáy. Gã cảm thấy đã đến lúc "phải bắt tay vào làm việc" sau khi bị chính quyền của Mussolini đày ra đảo hoang. Nay gã đã trở về quê nhà. Mục tiêu của gã trong mấy tháng gần đây là nhắc nhở cho bà con thị trấn nhớ gã là ai và thiên hạ phải nhìn gã bằng con mắt nể phục. Cũng có thể vì cái đẹp trai của Guiliano đã làm cho gã gai mắt. Vì mặt của Guido vốn cực kỳ xấu xí. Cái bề ngoài ma quái của gã không phải chỉ do bộ mặt quỉ dạ xoa tạo ra mà có lẽ còn do cái mặc cảm cứ phải cả đời chường cái mặt dễ sợ ấy cho thiên hạ quan chiêm. Cũng có thể đó là do sự tương phản tự nhiên giữa một thằng bẩm sinh đê tiện và một người bẩm sinh anh hùng.

Dù gì đi nữa, gã cũng thình lình đứng lên, giả bộ đi qua phía bên kia bàn bi - a nhằm đúng lúc húc vào Guiliano một cái. Vốn lịch sự một cách tự nhiên đối với người lớn tuổi hơn, Turi lễ phép và thành thật xin lỗi Guido Quintana cố ý gây sự, đã khinh khỉnh nhìn Turi từ đầu đến chân, rồi nói, giọng cha chú:

- Sao giờ này mà tụi bay không về nhà ngủ để mai chạy gạo. Đói dã họng ra không lo, mà cứ ham chơi. Mấy ông bạn tao chờ chơi bi - a cả tiếng đồng hồ rồi!

Gã nói rồi giật lấy cây "cơ" (2) trong tay Guiliano và mỉm cười chế giễu, thách thức và ra lệnh cho Guiliano: - "Lui!".

Ai nấy đều nhìn sững, lối chơi trịnh thượng này xem ra cũng chưa đến nỗi nặng lắm vì dù sao y cũng lớn tuổi hơn. Nếu là một người nhỏ tuổi hơn hoặc lối sỉ nhục nặng nề hơn, thì có lẽ đã bắt buộc Turi phải ra tay đặng bảo vệ sĩ diện và nhân phẩm của mình. Lúc nào Aspanu Pisciotta cũng thủ sẵn con dao trong người. Thấy sự thể đó, y đã đứng sẵn vào vị trí thuận lợi để có thể ngăn chặn mấy ông bạn của Quitana có thể ra tay can thiệp, tiếp sức. Pisciotta không có thói quen kính nể người lớn tuổi hơn. Nhưng y cũng không muốn cánh bạn bè và thằng anh họ huyết chiến trong tình huống bất lợi này.

Nhưng, đúng lúc đó, Guiliano cảm thấy trong cơ thể hắn một sự khó chịu lạ thường. Quintana nom hùng hổ và sẵn sàng gây hậu quả nghiêm trọng, nếu Guiliano cưỡng lại. Mấy ông bạn của gã ngồi gần đó - cũng là những người lớn tuổi - mỉm cười thích thú như thể họ biết chắc hậu quả. Một trong số những người ấy mặc đồ đi săn và có một khẩu súng, Guiliano tay không. Và, khốn nạn, chính trong lúc bị nhục ấy thì hắn lại cảm thấy sợ. Hắn không sợ bị thương, bị no đòn hoặc sợ vì thằng cha kia khoẻ bằng hai, mà hắn sợ vì mấy người kia biết họ sắp làm gì, vì họ nắm thế thượng phong, còn hắn thì không. Rằng một đêm tối trời nào đó, trong phố vắng trên đường trở về nhà, hắn có thể bị họ "đế" cho một phát, gục và ngày hôm sau, xác hắn nằm phơi bên đường như xác một thằng điên. Chính cái bản năng của một người bẩm sinh đã là bậc thầy của du kích chiến khiến cho hắn nuốt hận rút lui.

Turi nắm cánh tay kéo ra ngoài quán cà - phê. Pisciotta cũng ra theo mà không gây gổ gì. Nó ngạc nhiên vì thằng anh họ nó hôm nay lại chịu lui một cách dễ dàng thế, chứ không ngờ rằng thằng anh nó sợ. Nó cho rằng Turi tốt bụng và không muốn gây gổ với mấy thằng cha kia vì cái chuyện vặt ấy. Khi đi ngược đường Via Bella để trở về nhà, chúng còn nghe thấy tiếng bi - a lách cách sau lưng.

Suốt đêm đó, Turi Guiliano không sao nhắm mắt lại được. Có đúng là hắn sợ thằng cha có bộ mặt quái đản, xấu xí và cái thân xác bặm trợn hùng hổ, doạ nạt ấy không? Có phải hắn đã run không? Bọn kia có cười hắn không? Thằng bạn thân nhất và cũng là em họ hắn Aspanu - và những thằng bạn kia nghĩ sao về hắn. Hắn có phải là thằng "thỏ đế" không? Hắn, Turi Guiliano thủ lĩnh đám thanh niên ở Montelepre, được kính nể nhất, được tiếng là khoẻ nhất, không biết sợ hãi là gì... thế mà bây giờ vừa mới bị thằng cha kia "hù" cho có một tí mà đã "co vòi". Nhưng rồi hắn lại tự nhủ: dại gì mà đi gây thù chuốc oán - có thể đưa đến cái chết vô nghĩa - chỉ vì cái chuyện vặt vãnh ấy? Đây khác với cuộc cãi cọ với bọn trẻ. Nếu là với bọn trẻ mà như vậy, thì có chuyện là cái chắc. Hắn biết thằng cha già đó - Quintana là "Người anh em" hay ít nhất cũng liên hệ chặt chẽ với cái tổ chức giết người đó. Hắn sợ là sợ cái đó.

Guiliano cứ trằn trọc mãi và có lúc chợp mắt đi được thì cũng chỉ là ngủ chập chờn. Hắn thức dậy trong một trạng thái bần thần rất nguy hiểm đối với một thằng thanh niên. Hắn thấy mình kỳ cục. Cũng như hầu hết mọi chàng trai trẻ khác, lúc nào hắn cũng muốn làm anh hùng. Nếu sống ở một vùng khác trong nước Ý thì hắn đã đăng lính rồi. Nhưng không có một Sicilian "chính cống" nào lại tình nguyện vào lính bao giờ. Và, ông bố đỡ đầu của hắn, giáo sư Hector Adonis, đã thu xếp để hắn khỏi bị gọi đi lính. Sau cùng, mặc dù nước Ý bao gồm cả đảo Sicily, nhưng không một Sicilian chính cống nào lại cảm thấy mình là người Ý. Và, nếu đúng như người ta nói, chính quyền ở Rome cũng chẳng quan tâm đến việc gọi người Sicilian nhập ngũ, nhất là vào những năm cuối của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lý do là thế này: Người dân Sicilian có nhiều bà con thân thuộc bên Mỹ (lúc đó thù nghịch với Mussolini), người Sicilian bẩm sinh đã là những tên trọng phạm, tráo trở, phản bội, người Sicilian quá ngu đần, có đem huấn luyện cũng phí công vì không thể huấn luyện họ để có thể dùng trong chiến tranh kiểu hiện đại được, người Sicilian ưa lộn xộn, đi đến đâu là gây rối đến đó.

Ra ngoài đường, Turi Guiliano cảm thấy cái tâm trạng buồn rầu đã đè nặng trong lòng hắn suốt đêm qua, sáng nay cũng tan theo bóng đêm, khi mặt trời le lói xuất hiện. Ánh mặt trời rực rỡ. Không khí ngạt ngào mùi hương hoa chanh và ô - liu. Guiliano yêu thị trấn Montelepre với những đường phố quanh co, nhưng ngôi nhà có tường xây bằng đá, những ban - công rực rỡ dây hoa leo. Ở Sicily cằn cỗi này, mặc dù chẳng được chăm sóc, tưới bón, những dây hoa leo này vẫn cứ tươi tốt, vẫn cứ nở hoa rực rỡ. Guiliano yêu những mái ngói đỏ chạy dài tới cuối thị trấn chìm trong thung lũng là nơi mặt trời đang đổ ánh sáng, như đổ xuống một chất lòng bằng vàng xuống vậy.

Những đồ trang trí tỉ mỉ và rực rỡ của ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng - phố xá treo đầy những bức ảnh tô màu sặc sỡ vẽ hình Thánh Bổn Mạng hom hem, hốc hác, xanh xao, xác xơ, những căn nhà trang trí bằng những bông hoa to tướng đan bằng tre - tất cả đều nhằm che giấu sự nghèo mạt cố hữu của một thị trấn điển hình trên đảo Sicily. Dù vắt vẻo sườn non hay co quắp ẩn mình trong khe núi hoặc lụp xụp trong thị trấn thì nhà nào cũng giống nhau ở chỗ rực rỡ dây hoa leo và chật ních những người. Vợ chồng cùng cả bầy con cái và gia súc chia nhau ba, bốn gian nhỏ xíu. Nhiều nhà không có tiện nghi vệ sinh, cho nên dù có tràn ngập hoa, ngào ngạt hương và không khí trong lành, mát mẻ của gió núi, thì cũng vẫn không đủ sức để át cái mùi hôi thối của phân, rác, nước đái của người và gia súc thi nhau bốc lên cùng với ánh mặt trời.

Vào những ngày đẹp trời, thiên hạ kéo nhau ra ở ngoài trời. Đàn bà thì ngồi trên những chiếc ghế gỗ đặt trên sân lót đá sỏi để sửa soạn bữa ăn. Con nít tung tăng ngoài phố đuổi gà, lùa dê... Ở cuối đường Via Beclla, trước khi đổ vào quảng trường có một cái vòi nước hình mặt quỉ - do người Hy Lạp làm từ hơn hai ngàn năm trước - miệng đang đổ nước ra òng ọc. Bên sườn rặng núi bao quanh thị trấn, những mảnh vườn bậc thang xơ xác, tiêu điều. Trên đồng bằng nhỏ xíu dưới chân rặng núi ấy là các thị trấn Partinico, xây bằng đá đỏ nằm heo hút ở tít cuối chân trời.

Từ phía cuối đường Via Beclla, phía cuối phố, chỗ đưa đến con đường đi Castellammare, Turi nhìn thấy Aspanu. Bạn hắn sẽ đối xử với hắn như thế nào sau lần bị sỉ nhục tối hôm trước? Thằng bạn được Guiliano để ý vì cái trí khôn sắc sảo của nó. Y có dấu hiệu khinh thường không? Guiliano bỗng cảm thấy giận sôi lên và thề sẽ không bao giờ để cho một sự thể như thế tái diễn nữa. Hắn có thể bất chấp hậu quả để chứng tỏ cho bè bạn thấy hắn không phải là thằng "thỏ đế". Ở một xó xỉnh nào đó trong trí nhớ của hắn, hắn còn thấy rõ mồn một cái cảnh chiều tối hôm qua. Một trong số những ông bạn của Quitana ngồi uống rượu, ở đằng sau hắn có một khẩu súng. Bọn chúng là "Người anh em" và bọn chúng có thể trả thù tàn nhẫn. Guiliano không sợ chúng, mà chỉ sợ thua chúng. Và thua là cái chắc. Không phải chỉ vì chúng mạnh hơn mà chỉ vì chúng tàn bạo hơn.

Thấy hắn, Pisciotta nhăn nhở cười:

- Turi, - Pisciotta nói, - tự mình thấy, con lừa này không "mần" nổi con la đâu. Mình phải giúp nó một tay.

Guiliano chẳng buồn trả lời. Hắn tin rằng thằng bạn và cũng là em họ nó đã quên chuyện nhục nhã đêm rồi. Điều làm cho hắn cảm động nhất là Pisciotta ăn nói "xóc óc" với ai kia, châm chọc chế nhạo những lỗi lầm của ai kia, chứ với hắn thì lúc nào Pisciotta cũng tỏ ra trọng nể, quí mến. Hai đứa dắt con lừa đi về phía quảng trường. Lũ con nít rần rần bu quanh, chạy theo. Đối với chúng, đây là một trò chơi thú vị nhất, một biến cố kích thích nhất sau những ngày hè tẻ ngắt.

Ở quảng trường có một cái sân khấu lộ thiên xây bằng đá, cao khoảng 1,2m. Turi và Aspanu đẩy con lừa lên cái sân khấu đầy rác đó, rồi cột con lừa vào một thanh chấn song của sân khấu. Con lừa nằm xuống. Trên mí mắt và mõm của nó có miếng da màu trắng bịt kín khiến cho nó trông thật tức cười. Lũ trẻ bu quanh sân khấu, la hét, cười đùa chế nhạo.

Turi Guiliano đâu biết rằng hôm nay là ngày cuối cùng, hắn được sống như một anh trai làng vô danh tiểu tốt. Tuy vậy, hắn đưa mắt nhìn quan sân khấu với sự mãn nguyện của một kẻ cảm thấy mình được đặt đúng địa vị mong muốn. Nơi hắn sinh ra và lớn lên chỉ là một điểm nhỏ xíu trên mặt địa cầu. Thế giới bên ngoài chẳng bao giờ làm hại hắn. Ngay cả cái cảm thức nhục nhã đêm rồi cũng đã tan biến. Hắn biết rõ rặng núi đá vôi ẩn hiện lờ mờ bao quanh thị trấn như một đứa trẻ biết rõ món đồ chơi trong túi của nó. Trên núi có những cái hang lớn đủ cho cả một đạo quân trú ẩn. Turi biết rõ từng căn nhà, từng trang trại, từng nông dân trên núi đó. Hắn cũng biết rõ cái pháo đài đổ nát xây từ thời người phương Bắc và người Maure (Bắc Phi) xâm lược xứ này cũng như ngôi đền hoang phế người Hy Lạp đã xây dựng trên núi đó cách nay hơn hai ngàn năm. Người nông dân chủ nhân con la "mầu nhiệm" xuất hiện từ một lối khác dẫn đến quảng trường. Đó là người đã mướn Guiliano và Pisciotta vào việc đó sáng nay. Lão tên là Papera, được dân trong thị trấn nể gờm, chỉ vì lão đã thành công trong việc đòi nợ máu một người lối xóm. Họ cãi nhau chỉ vì tranh giành cây ô - liu mọc ở chỗ giáp ranh hai mảnh đất của họ. Cuộc tranh giành cãi cọ kéo dài suốt mười năm trời - còn lâu hơn cả cuộc chiến tranh do Musolini gây ra trên đất Ý. Thế rồi, chỉ ít lâu sau ngày quân đội Mỹ chiếm được đảo Sicily từ tay quân phát - xít và thiết lập chính quyền "dân chủ" - một đêm kia, người ta thấy xác anh hàng xóm bị chặt làm hai khúc. Mã tấu và súng săn - rất phổ biến ở Sicily - thường được dùng vào việc này. Người ta lập tức nghi ngờ Papera. Nhưng lão ta chỉ cãi qua loa với cảnh sát, sau đó thản nhiên để cho bọn này bắt và chỉ phải qua một đêm bình an trong xà lim tử tội của nhà tù Bellampo Baruks. Có tiếng xì xầm đồn rằng đó là dấu hiệu sự hồi sinh của tổ chức Mafia, rằng Papera có liên hệ hôn phối với Guido Quintana - đã giành được sự hộ trợ của "Người anh em" trong việc giải quyết sự tranh chấp này.

Khi Papera dắt con la đến trước sân khấu, lũ trẻ bu đen xung quanh, đến nỗi lão phải lấy roi quơ quơ trước mặt để lũ trẻ giạt ra lấy lối đi. Lũ trẻ dễ dàng nể cây roi của lão vừa cười vừa dứ dứ trên đầu chúng.

Dù bị bịt mắt bịt mũi, nhưng thấy mùi con la cái phía dưới sân khấu, con lừa cố bứt sợi dây cột nó vào sân khấu. Turi và Aspanu nhấc bổng con lừa lên cho nó chồm qua hàng rào chấn song và lão Papera cho con la ghé đít vào mép sân khấu. Lũ trẻ cười ré lên, reo hò.

Lúc đó, Frisella - thợ hớt tóc bước ra khỏi tiệm và đi đến chỗ sân khấu. Sau gã là Maressciallo, vẻ bộ khệnh khạng làm ra vẻ ta đây quan trọng, vừa đi vừa chà chà cái mặt nhẵn thín và đỏ ké vì mới cạo râu xong. Y là người độc nhất ở Montelepre này cạo râu hàng ngày. Đứng tít trên sân khấu mà Guiliano còn ngửi thấy mùi dầu thơm rẻ tiền toát ra từ thằng cha thợ cạo.

Maressciallo Roccofino đưa con mắt "nghề nghiệp" nhìn đám đông đang tụ tập ở quảng trường. Với tư cách là chỉ huy trưởng tiểu đội cảnh sát quốc gia gồm mười hai tên "cớm tép", y có trách nhiệm về luật pháp, an ninh, trật tự trong thị trấn. Thời gian lễ Kính Thánh Bổn Mạng luôn luôn là một thời gian có nhiều lộn xộn. Vì vậy, y đã ra lệnh cho một phân đội gồm bốn người đi tuần ở quảng trường. Nhưng bọn này vẫn chưa tới. Y nhìn lão Papera, người được coi là "ân nhân" của thị trấn, vì con la của lão được dùng làm lễ ngày hôm nay. Y cũng tin chắc là chính Papera đã hạ sát anh chàng hàng xóm. Mới được quân đội Mỹ "giải phóng" được ít này, bọn "dã thú" Sicilian đã vội vã lợi dụng tự do thiêng liêng của chúng. Maressciallo thầm nghĩ: Tất cả bọn dân đen Sicilian chắc là thương tiếc Mussolini lắm. Vì so với "Người anh em" thì nhà độc tài phát - xít chỉ là một người hiền lành, nhân hậu như thánh Phranxixco.

Tên thợ cạo Frisella là người ưa nói bông phèng. Mấy anh thất nghiệp ưa la cà trong tiệm của gã đặng nghe những câu nói giễu cợt rẻ tiền, những chuyện tào lao, ba xạo hoặc tiếu lâm tục tĩu của gã. Về khoản này, gã là người thợ cạo phục vụ khách hàng tận tình. Gã có bộ ria mép tỉa rất kỹ, rất công phu và mái tóc bết bi - dăng - tin láng bóng. Nhưng cái mặt của gã như một thằng hề trình diễn múa rối. Cái mũi củ hành, miệng rộng toang hoác và cái hàng dưới ngắn đến nỗi tưởng đầu gã không có cằm. Gã la lớn lên:

- Turi, dắt con lừa của mày vào tiệm, tao xức dầu thơm cho nó, đặng nó làm tình với bà quận chúa.

Turin, làm thinh như không quen biết gã Frisella cắt tóc cho nó hồi nó còn nhỏ. Gã cắt tồi đến nỗi bà già nó phải dắt nó đi cắt tóc chỗ khác. Nhưng ông già của Guiliano vẫn tìm đến tiệm của gã đặng hóng chuyện và kể về cái "thời huy hoàng" của lão hồi còn ở bên Mỹ đặng loè mấy anh cù lần. Turi không ưa anh thợ cạo vì gã là một tên phát - xít thứ thiệt, đồng thời là một tay sai tâm phúc của đám "Người anh em".

Maressciallo đốt điếu thuốc là và khệnh khạng đi ngược đường Via Bella, không thèm nhìn Guiliano. Đó là một lỗi lầm mà vài tuần sau, y sẽ phải hối tiếc không biết bao nhiêu mà kể.

Con lừa ráng nhảy qua khỏi hàng chấn song của sân khấu. Turi nới lỏng sợi dây cột nó, đặng kéo nó ra mé bìa sân khấu chỗ con la đang ghé đít vào đó. Đít con la nhô lên cao khỏi bìa sân khấu. Guiliano nới lỏng dây thêm chút nữa. Con la khịt khịt mấy cái. Lũ trẻ cười la, reo hò rầm rầm. Papera và Pisciotta cười bò ra trong khi Guiliano cố lôi con lừa xuống khỏi lưng con la. Papera ngừng cười và nói:

- Ê bay, sống mà được như con lừa thì mới nên sống!

Pisciotta nói đâm hông giọng xấc xược:

- Ông Papera à, để tôi chất lên lưng ông hai cái giỏ chứa đầy trái ô - liu, rồi quất vào mông đít, bắt đi quanh co trên núi một ngày tám tiếng đồng hồ, thì lúc đó ông mới thấy sống như con lừa ấy "đã như thế nào".

Lão lườm nó và kìm lại, chứ nếu không thì Pisciotta đã vuốt mặt không kịp vì những tràng chửi thề của lão. Lão trả công hai đứa quá rẻ. Lão không ưa thằng Pisciotta. Và thực ra lão chỉ giao việc này cho Guiliano. Cả thị xã ai cũng khoái Guiliano. Nhưng rồi Pisciotta thì lại làm khác. Cái miệng tía lia, hễ động nói là nói độc, nói hỗn, nói đâm hông, nói xóc óc châm chọc... Trong khi đó thì dáng điệu lại lử đử lừ đừ, làm biếng. Cái bệnh phổi của y không đủ để bào chữa cho cái thói làm biếng ấy, y vẫn hút thuốc lá và chơi gái như ranh. Ăn mặc thì cứ như công tử bột. Lại còn để ria mép theo kiểu Pháp nữa chớ. Y sẽ chết vì ho và xuống địa ngục với cái bệnh phổi của y. Lão Papera nghĩ thế. Lão trả cho hai đứa có hai trăm bạc. Guiliano lịch sự cảm ơn. Và lão dắt con la về nhà lão. Hai đứa dắt con lừa về nhà Guiliano. Công việc thật sự của con lừa bây giờ mới bắt đầu. Và công việc ấy chẳng vui sướng thú vị gì.

Bà mẹ của Guiliano làm cơm trưa sớm, đợi hai đứa. Hai chị gái của Turi: Mariannina và Giuseppina đang giúp mẹ nhồi bột cho bữa chiều. Trứng và bột trộn thành đống lù lù trên chiếc khay bằng gỗ lớn. Ông bố Guiliano đang làm việc ngoài đồng. Hôm nay ông chỉ làm việc buổi sáng để buổi chiều dự lễ. Hôm nay là ngày đính hôn cua Mariannina, cho nên, sẽ có một bữa tiệc đặc biệt tại nhà Guiliano.

Turi luôn luôn là một đứa con cưng nhất của bà Maria Lombardo Guiliano. Hai chị hắn cứ nhớ hắn qua cái hình ảnh ngày hắn còn bé được mẹ tắm cho. Thùng nước nóng đặt cạnh lò được mẹ cẩn thận nhúng tay vào để thử. Xà bông thơm mua tại Palermo. Lúc đầu, các chị hắn còn ganh. Nhưng rồi thấy mê thích sự dịu dàng của bà mẹ tắm cho thằng bé đang trần truồng. Hắn không bao giờ khóc nhề nhệ như những đứa trẻ khác. Trái lại, hắn cười sằng sặc khi má kì cọ cho. Và thân thể hắn thật là tuyệt. Hắn nhỏ nhất trong gia đình nhưng lớn lên lại mạnh khỏe nhất. Đối với các chị hắn luôn luôn là một sự lạ lùng. Hắn đọc sách nhiều và khoái nói đến chính trị. Nhưng hắn vẫn được các chị quí yêu vì tính nết tốt và lòng vị tha của hắn.

Sáng hôm đó, má và các chị bận tíu ít vì hắn. Và họ âu yếm nhìn hắn ăn bánh mỳ với phó - mát làm bằng sữa dê, nhấm nháp trái ô - liu, uống cà - phê... ăn trưa xong là hắn và Aspanu sẽ dắt lừa đi Corleone và buôn "chui" một ít pho - mát, ít thịt heo và dồi nướng. Hắn phải bỏ không tham gia một phần trò chơi trong ngày lễ để làm việc đó, đặng làm vui lòng bà mẹ và kiếm thêm chút đỉnh về làm bữa tiệc đính hôn của chị hắn ngày mai cho thêm phần long trọng, linh đình và vui vẻ.

Ba người đàn bà - mẹ và hai chị - cùng âu yếm nhìn hai cậu con trai. Chúng là bạn với nhau từ khi còn nhỏ xíu. Mặc dù khác nhau đến thế nhưng hai đứa lại thân nhau còn hơn anh em ruột. Aspanu Pisciotta, nước da hơi xanh một chút, vẻ mặt hết sức láu lỉnh, hàng ria mép lưa thưa, đôi mắt sáng và những lọn tóc nâu đen loăn xoăn trên cái sọ nho nhỏ. Sự hóm hỉnh của y luôn làm cho các bà, các cô vui thích, cười rúc rích. Vậy mà tất cả những cái đó vẫn bị vẻ đẹp trầm lặng kiểu Hy Lạp của Guiliano đánh bạt đi. Guiliano cao lớn và đẹp như một bức tượng Hy Lạp dựng rải rác trên khắp các quảng trường trên đảo Sicily. Nước da của hắn hơi nâu, sáng, mái tóc hung hung đen. Hắn luôn có vẻ trầm tĩnh, nhưng cử chỉ, đi đứng linh hoạt, nhanh nhẹn. Nổi bật hơn hết vẫn là đôi mắt. Trong mắt nâu vàng. Khi đôi mắt ấy nhìn chỗ khác thì trông bình thường, nhưng nếu nhìn thẳng vào bạn thì đôi mắt ấy thường lim dim như đôi mắt của các bức tượng. Và lúc đó toàn thể khuôn mặt hắn toát ra vẻ trầm tĩnh bình thản và oai nghi.

Trong khi Aspanu Pisciotta cố làm cho bà Maria Lombardo vui thì Guiliano chạy lên lầu sửa soạn chuyến đi mần ăn mà hắn thực hiện. Đặc biệt, hắn thủ theo khẩu súng lục. Nhớ tới sự sỉ nhục hôm trước, hắn quyết định phải võ trang khi đi làm công việc này. Hắn biết sử dụng võ khí vì khi đi săn, ông bố thường cho hắn đi theo. Trong bếp, bà mẹ đang đứng một mình đợi để giã từ hắn. Bà ôm hôn và cảm thấy khẩu súng lục hắn giắt ở lưng. Bà nói:

- Turi, cẩn thận nghe con. Đừng có cãi mấy người cảnh sát. Nếu bị họ "chộp" con cứ để cho họ muốn lấy gì thì lấy.

- Chúng có thể lấy hàng hoá - Turi trấn an bà - nhưng con sẽ không để cho chúng "uýnh" con hoặc tống con vô tù. Mẹ yên trí, đừng có lo.

Bà thông cảm điều đó. Trong niềm kiêu hãnh của một người Sicilian chính cống, bà tự hào về hắn. Từ bao năm rồi, niềm kiêu hãnh của riêng bà, sự giận dữ vì cảnh túng thiếu, quẫn bách của bà đã khiến bà xúi chồng đi Mỹ làm ăn chuyến nữa. Là một người mơ mộng, bà tin vào sự công bằng và địa vị xã hội mà bà tin mình xứng đáng và có quyền được hưởng. Lúc ở bên Mỹ, bà dè sẻn chắt bóp tằn tiện. Chính niềm kiêu hãnh đó đã khiến cho bà quay trở về Sicily với hy vọng sẽ sống như một bà hoàng. Thế rồi mọi sự đã tan thành mây khói. Bà phó thác cho số mệnh. Nhưng bà vẫn hy vọng ở đám con của bà. Và bà sung sướng khi thấy Turi biểu hiện chính cái tinh thần bà đã có. Nhưng bà kinh sợ cho cái ngày mà hắn phải lao vào đấu tranh với cái thực tế tàn nhẫn phũ phàng của cuộc đời trên cái xứ Sicily khốn cùng và khô cằn này.

Bà ngầm nhìn theo thằng con đang bước ra con đường Via Bella trải sỏi để đi với Aspanu Pisciotta đang chờ nó ở đó. Con trai bà có dáng đi của một con mèo khổng lồ. Ngực nở, tay chân rắn chắc, bắp thịt nở nang cuồn cuộn. Đứng bên hắn Aspanu trông càng thảm hại, chẳng khác gì một cọng cỏ. Aspanu có cái láu cá, quỷ quyệt mà con bà không có. Trong sự can đảm của Aspanu có sự liều lĩnh, độc ác, tàn bạo. Aspanu sẽ bảo vệ Turi chống lại cái thế giới lừa lọc, gian dối trong đó chúng phải sống. Bà cũng chuộng cái nước da màu vỏ trái ô - liu của Pisiciotta. Nhưng bà thấy Turi của bà đẹp trai hơn.

Bà nhìn chúng đi ngược đường Via Bella để đến chỗ dẫn tới con đường đi Castellammare. Con trai bà - Turi cùng với đứa con trai của người em gái - Gasparre Pisciotta, cả hai đứa mới chỉ vừa đôi mươi và nom trẻ hơn so với tuổi của chúng. Bà yêu hết cả hai và lo sợ cho cả hai.

Sau cùng, hai đứa cùng với con lừa đến cuối phố thì khuất đi, nhưng bà vẫn tiếp tục nhìn. Rồi chúng lại hiện ra trên dốc cao và đang đi vào rặng núi bao quanh thị trấn. Bà vẫn tiếp tục dõi con mắt nhìn theo chúng, như thể bà sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại chúng nữa cho đến khi chúng biến mất trong đám sương mù buổi sáng vẫn còn đang phủ trên núi.

Chúng đang tan biến vào đoạn mở đầu của những huyền thoại về chính chúng.

.........

(1) Theo truyền thuyết Công giáo, mỗi người, mỗi ngành nghề, mỗi công đoàn nhận vị thánh đỡ đầu cho mình, cho công đoàn mình.

(2) Cây gậy thụt bi-a

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 4

Tại Sicily, tháng 9 năm 1943, người ta không thể sống được nếu không "chạy chợ". Những qui định chặt chẽ về khẩu phần lương thực trong thời chiến vẫn còn áp dụng. Và nông dân vẫn phải bán sản phẩm cho các kho của nhà nước theo giá nhà nước ấn định và nhận lấy đồng tiền hầu như vô giá trị. Ngược lại, nhà nước có nhiệm vụ phải bán lại cho người dân lương thực với giá rẻ. Với chế độ "bao cấp" ấy, tất nhiên chẳng thể sống phè phỡn, nhưng cũng còn "ngáp ngáp" được. Thực ra, hễ giấu được cái gì là nông dân giấu cái đó. Bởi vì những gì họ bán được cho nhà nước thì trên thực tế lại chui vào kho của Ông Trùm Croce, và sau đó tuồn ra chợ đen với giá cắt cổ. Vì vậy, nếu họ có buôn chui thì cũng chỉ để sinh tồn, chứ chẳng phải làm giàu làm có gì. Nhưng nếu bị bắt quả tang buôn chui thì bị bắt, bị tống giam, bị đưa ra toà. Vậy thì cái chính quyền dân chủ được dựng lên ở Rome kia để làm gì? Dân chúng đi bỏ phiếu để được chết đói à?

Turi Guiliano và Aspanu đi buôn chui với tấm lòng phơi phới. Chính Pisciotta đã có những mối chợ đen - mua cũng như bán, và chính hắn đã tổ chức cuộc buôn chui hôm nay. Hắn đã tiếp xúc với một nông dân ở Castellammare, mua một tảng phó - mát để "đẩy" ra chợ đen ở Montelepre. Nếu trót lọt thì tiền lời sẽ đủ để mua

bốn cái chân giò lợn hun khói và một ký lạp xường. Bấy nhiêu đó cũng tạm đủ để làm một bữa tiệc linh đình cho buổi lễ đính hôn của chị hắn. Và làm như vậy thì cùng một lúc chúng vi phạm hai đạo luật: một, cấm chợ đen, chợ đỏ, hai, cấm buôn lậu từ nơi này sang nơi khác. Không đủ nhân viên nhà nước để thực thi hữu hiệu đạo luật cấm chợ đen chợ đỏ. Nhưng buôn lậu thì lại là chuyện khác. Nhân viên nhà nước có quyền tống giam bất cứ người nào ở Sicily. Những toán cảnh sát dã chiến, cảnh vệ lang thang tuần tiễu khắp hang cùng ngõ hẻm, thị xã cũng như vùng quê. Chúng tung chỉ điểm viên, mật thám và đặt các chốt kiểm soát cố định và lưu động. Tất nhiên bọn này đâu có dám động đến các đoàn xe chở hàng lậu của Ông Trùm Croce Malo. Lão dùng xe tải của quân đội Mỹ có quân cảnh hộ tống. Nhưng cảnh vệ giăng lưới bắt được khá nhiều những tay buôn chui " tép riu". Bọn cảnh vệ rất nhiệt tình sục sạo, ngày cũng như đêm, vì những hàng lậu bắt được chúng được xài, nếu xài không hết, chính chúng lại tung ra chợ đen.

Turi Guiliano và Gaspare Pisciotta phải mất bốn tiếng đồng hồ mới đi đến chỗ mua hàng. Hai đứa mua được một bánh pho - mát trắng và mấy thứ lặt vặt khác chất lên lưng con lừa. Chúng lấy cỏ khô phủ lên đặng nguỵ trang để nếu bọn cớm có nhìn thấy thì tưởng chúng chở cỏ khô cho súc vật chứa trong kho đặt rải rác ở các làng. Chúng vừa có cái hớ hênh của một tụi mớivào nghề lại vừa có sự ngây ngô của bọn trẻ - thật đúng là con nít - chôm đồ của chính bố mẹ chúng. Làm như thế chỉ nguyên cái ý định đánh lừa là đủ. Có vẻ lại chắc ăn hơn nữa, vì chúng tìm ra con đường mòn kín đáo khuất nẻo, len lỏi qua khe núi.

Trên đường về, Pisciotta đi trước dò đường, hễ thấy bóng bọn cảnh vệ thì báo cho Turi dắt lừa chở hàng đi xa xa đằng sau. Chúng đặt ra những qui ước huýt gió làm mật hiệu đàng hoàng. Con lừa chở hàng cũng đi dễ dàng vì món hàng trên lưng nhẹ bỗng, nó cũng tỏ ra ngoan ngoãn vì trước khi lên đường trở về, nó đã được cho ăn uống đầy đủ. Chúng đi được hai giờ đồng hồ, ngon lành, an toàn! Chúng chầm chậm xuống núi và phía trước không có dấu hiệu gì nguy hiểm. Thế rồi bỗng phía sau, cũng trên con đường đó và đi về phía hắn, Turi Guiliano thấy một đoàn sáu con la và một người cưỡi ngựa ở cách hắn khoảng ba dặm. Hắn nghĩ bụng: nếu bọn buôn chui khác cũng biết con đường mòn này, thì thể nào bọn cảnh vệ xũng biết và sẽ đặt chốt chặn. Cẩn thận, hắn cho Piscotta đi trước thật xa để thám thính.

Một giờ sau hắn bắt kịp Aspanu Pisciotta đang ngồi trên một tảng đá và ho rũ tượi. Aspanu nom xanh mét. Lẽ ra y không được hút thuốc nữa mới phải. Turi lại gần, ngồi xuống nghỉ chân bên cạnh Aspanu. Một trong những cam kết chặt chẽ nhất giữa chúng với nhau ngay từ lúc còn nhỏ là không có đứa nào chỉ huy đứa nào. Bởi vậy, dù muốn Aspanu đừng hút thuốc nữa, Guiliano vẫn không nói gì. Sau cũng, Aspanu giụi tắt điếu thuốc và cất mẩu thuốc đang hút dở vào túi. Chúng lại bắt đầu đi. Turi dắt con lừa. Pisciotta đi bên cạnh.

Chúng đang đi theo một đường mòn trên núi cắt ngang qua một con lộ lớn và một thôn ấp nhỏ. Con đường quanh co. Do đó chúng thấy khi ẩn, khi hiện cái giếng nước của người Hy Lạp cổ có nước chảy tuôn ra từ cái miệng nhăn nhúm của bức tượng, hoặc phế tích một pháo đài cổ của người phương Bắc xây từ bao thế kỷ trước để chặn đường quân xâm lược. Nhìn những phế tích đó, Turi nhớ tới quá khứ của Sicily và nghĩ tới tương lai của mình. Hắn nhớ tới việc ông bố đỡ đầu - giáo sư Hector Adonis - hứa sau lễ Kính Thánh Bổn Mạng sẽ về Montelepre để chuẩn bị cho hắn vào đại học. Nghĩ tới ông, Turi cảm thấy buồn. Không bao giờ giáo sư Adonis về Montelepre dự lễ Kính Thánh Bổn Mạng vì ngày đó, nhiều thằng say rượu cứ nhè cái vóc dáng thấp bé của ông mà châm chọc, chế nhạo. Con nít - có nhiều đứa còn cao lớn hơn ông - cũng giễu cợt, làm nhục ông. Turi tự hỏi làm sao mà Chúa oái oăm, đã cho ông một cái đầu óc thông minh, sáng láng như vậy, thì còn tiếc gì một vài tấc xương, thịt mà không cho ông đủ, để đến nỗi thân xác của ông còi cọc, thấp bé như vậy? Đối với Turi thì ông Hector Adonis là một người thông thái nhất thế giới. Và hắn thương ông vì ông đã tỏ ra tử tế, ân cần chăm lo cho hắn và gia đình hắn.

Hắn nghĩ tới ông bố hắn phải làm việc cực nhọc vất vả như một con lừa trên một mảnh đất nhỏ xíu mà lại cằn cỗi, tới các chị hắn tới tuổi cập kê rồi mà quần áo tả tơi. May mà Mariannina xinh đẹp nên dù nghèo kiết xác và không có thì giờ để chải chuốt, làm dáng mà vẫn kiếm được tấm chồng. Nhưng, buồn khổ nhất vẫn là lúc hắn nghĩ đến mẹ hắn. Ngay từ lúc còn nhỏ, hắn đã nhận thức được nỗi chua chát và sự bất hạnh của bà. Bà đã được nếm trải cái ngọt bùi lúc còn ở bên Mỹ, và nay thì phải chịu cảnh nghèo khổ ở cái xứ Sicily khổn khổ này. Mỗi khi nghe ông bố hắn nhắc lại cái ngày xưa huy hoàng thì mẹ hắn lại rấm rứt khóc. Nhưng, Turi suy nghĩ, hắn có thể xoay chuyển được số phận của gia đình hắn. Hắn sẽ làm việc cật lực, học hành "chết bỏ", để trở nên một nhân vật tài ba không thua gì ông bố đỡ đầu của hắn.

Bỗng chốc, chúng đi qua một đám cây - một khoảng rừng nhỏ - một trong số rất ít đám cây còn lại ở Sicily và dường như chỉ mọc trên những núi đá vôi và thạch cao. Qua bên kia sườn núi, chúng sẽ bắt đầu đổ dốc đi xuống Montelepre và phải cẩn thận cảnh giác vì những toán tuần tiễu của bọn cảnh vệ ăn cướp. Và, chúng đã đi bình an đến chỗ ngã tư. Lòng khấp khởi mừng vì sắp về tới đích an toàn, nhưng cũng vẫn phải cảnh giác. Guiliano kéo con lừa và ra hiệu cho Aspanu ngừng lại. Chúng lặng lẽ, nghe ngóng. Không nghe thấy tiếng động gì lạ. Chỉ có tiếng côn trùng rù rì trên mặt đất, tiếng đập cánh vo vo và soàn soạt như tiếng cưa gỗ xa xa. Chúng tiến lên, vượt qua ngã tư và lại khuất an toàn trong lùm cây của một cụm rừng khác. Turi lại nối tiếp lại giấc mộng tưởng tượng của mình.

Rừng cây đã thưa hẳn đi như thể nó bị đẩy lùi lại, vì chúng bắt đầu đi vào cụm rừng thưa chỉ có những bụi tre lơ thơ và những đám cỏ lèo tèo, xơ xác mọc trên nền đá vụn. Phía xa xa, mặt trời đã ngả bóng nom nhợt nhạt, lạnh lẽo và treo lơ lửng phía trên đỉnh núi. Qua khỏi khoảnh rừng thưa này, con đường mòn sẽ ngoằn nghèo đổ dốc đi xuống thung lũng Montelepre. Thình lình, Turi Guiliano tỉnh giấc mơ. Một tia sáng loé lên như người ta quẹt một que diêm. Tia sáng loé lên, rồi vụt tắt, nhưng cũng đủ đập vào mắt hắn. Hắn thình lình giật mạnh để con lừa ngừng lại và giơ cao tay ra hiệu cho Aspanu.

Chỉ cách đó khoảng ba chục mét, mấy người lạ bước ra khỏi bụi rậm. Bọn đó gồm ba tên. Và Turi nhìn thấy cái mũ đen cứng nhắc có viền trắng và bộ đồng phục màu đen. Hắn cảm thấy thất vọng và mắc cỡ muốn phát bệnh luôn. Thế là hắn bị cớm "vồ" rồi. Hai trong số ba tên cớm đó mặt non choẹt, búng ra sữa. Và hồng hào mũm mĩm. Cái mũ nhà binh lật ngược ra phía sau, để lộ gần hết mái tóc. Cớm oắt coi bộ sốt sắng đến độ khoái chí, khi chĩa khẩu súng lục vào Guiliano và Pisciotta. Tên cớm đứng giữa tuổi đã trung niên, tay lăm lăm khẩu tiểu liên, cái mũ kéo sụp xuống che gần kín cái mặt rỗ huê có vẻ hơi hoảng hốt hay ngỡ ngàng như một kẻ lượm được món tiền giữa đường. Phía ống tay áo gần chỗ cầu vai có phù hiệu và cái lon trung sĩ. ánh sáng loé lên mà Guiliano thấy ban nãy chỉ là ánh mặt trời phản chiếu trên các băng đạn của hắn.

- Thầy đội, - Trung sĩ mỉm cười vừa có vẻ nham hiểm vừa có vẻ chế giễu, khẩu tiểu liên chĩa thẳng vào Guiliano và Pisciotta. Nụ cười mỉm cười lặng lẽ và nham hiểu của gã đã biến nỗi thất vọng của Guiliano thành nỗi tức giận.

Vẫn khẩu tiểu liên chĩa thẳng vào hai đứa, thầy đội cớm bước lại gần Guiliano, hai cớm oắt hai bên. Bây giờ Guiliano đã hết choáng. Đối với Guiliano thì hai tên cớm oắt với hai khẩu súng lục không có gì đáng sợ lắm. Chúng xớn xơ xớn xác bước lại gần con lừa và chẳng mấy quan tâm đến hai "thằng tù" của chúng. Chẳng nói chẳng rằng, chúng lấy mũi súng ra hiệu cho Guiliano và Aspanu đứng cách xa con lừa. Một trong hai cớm oắt nhét khẩu súng vào bao đeo tòn teng trên thắt lưng, bước đến khui bó cỏ khô nguỵ trang trên lưng con lừa. Khi thấy "hàng" nó khoái chí huýt gió lên một tiếng, không để ý Pisciotta đang len lén lại gần nó. Nhưng thầy đội đã thấy và la lên:

- Cái thằng có râu mép kia, đứng ra xa!

Aspanu lùi lại gần Turi. Tên đội cớm tiến lại gần chúng thêm một chút nữa. Guiliano nhìn gã như dò xét và ước lượng khoảng cách. Cái mặt rỗ huê của gã coi bộ mệt mỏi, nhưng đôi mắt gã long lên sòng sọc khi gã nói:

- Rồi, mấy anh bạn trẻ, bánh phó - mát trắng ngon lành quá héng? Để tụi này đem về trại xài với mì ống thì ngon tuyệt. Cứ nói tên thằng "nhà quê" nào đã bán cho tụi bay là tao sẽ cho tụi bay dắt lừa về, khỏi làm khó dễ, lôi thôi gì!

Guiliano và Pisciotta nín thinh, và thầy đội cũng nín thinh. Chờ. Hai đứa vẫn chẳng nói chẳng rằng. Sau cùng, Turi rụt rè khẽ nói:

- Ông để cho tụi tôi đi, tụi tôi biếu ông một ngàn lire xài chơi.

Thầy đội cười khẩy, rồi nói:

- Tao đâu cần giấy chùi đít, mày? Đâu, giấy tờ đâu, đưa coi? Nếu giấy tờ tụi bay không hợp lệ, thì tao sẽ cho tụi bay té cứt luôn. Rồi tao lấy giấy tờ đó mà chùi.

Câu nói đểu cáng, mất dạy kèm theo cử chỉ xấc xược phách lối của mấy tên cớm đã làm cơn giận ngầm của Turi bốc lên. Lúc đó, hắn biết là hắn không được phép để cho mình bị bắt, đồng thời cũng không được phép để cho bọn chó đẻ này cướp cơm của gia đình mình.

Turi chìa căn cước và tiến lại gần thầy đội. Hắn tự biết là hiếm có ai cử động linh hoạt và lẹ làng bằng hắn. Và hắn tính liều. Nhưng họng súng ra lệnh cho hắn lùi. Thầy đội nói:

- Mày cứ ném căn cước xuống đất.

Guiliano làm theo.

Pisciotta đứng phía trái cách Guiliano khoảng năm mét. Y biết thằng bạn đang toan tính gì trong đầu và biết rằng bạn giắt khẩu súng lục ở thắt lưng, nên y tìm cách đánh lạc hướng sự chú ý của tên đội cớm. Tay luồn sau lưng, nắm lấy cán dao cài ở đó, Pisciotta tiến lên, miệng nói giọng cố ý châm chọc, xấc láo:

- Ê, sếp, nãy sếp bảo tụi này cứ nói tên thằng "nhà quê" đã bán phó - mát thì sếp thả, cho dắt lừa về. Vậy thì mắc mớ đếch gì mà lại đòi coi giấy tờ. Sao lại ăn đằng sóng, nói đằng gió vậy, sếp?

Ngưng một lúc rồi hắn lại nói móc họng tiếp:

- Ai mà chả biết bọn cớm nhà các anh lúc nào cũng giữ lời.

Nói tiếng cớm, y phun nước miếng cái "tẹc" một cái.

Không nổi đoá, sếp cớm thủng thỉnh bước về phía y vài bước, rồi ngừng lại mỉm cười chĩa súng vào y, nói:

- Còn mày, thằng điếm đực, căn cước đâu? Hay là mày cũng như con lừa này, đếch có giấy tờ? À, ít ai có bộ ria mép đẹp như của mày, lơ thơ ba sợi như lông chó ghẻ.

Hai cớm oắt cười hô hố. Mắt Pisciotta toé lửa. Y bước lại gần đội cớm , nói:

- Ồ, tôi đếch có giấy tờ gì hết, mà tôi cũng đếch biết thằng "nhà quê" nào cả. Tôi lượm được bánh phó - mát ai đánh rớt giữa đường, vậy thôi.

Nhưng, câu nói chọc tức đã làm hỏng ý đồ của y. Y muốn thầy đội bước lại gần trong tầm tay. Nhưng thầy đội lại lùi mấy bước, cười khẩy và nói:

- Chắc là mày chưa được nếm món bastinado(1) bao giờ phải không? Cho mày hay, nhiều thằng Sicily yêng hùng còn hơn mày nhiều mà cũng nuốt không vô cái món này. Tuy nhiên món bastinado này sẽ chữa cho mày khỏi cái bệnh ăn nói xấc xược, hỗn láo kiểu Sicilian tụi bay.

Gã ngưng một chút, rồi hét lên:

- Cả hai thằng nằm úp mặt xuống đất!

Guiliano biết nhiều người dân ở Montelepre đã bị tra tấn bằng đòn bastinado trong trai giam Bellampo Barracks. Trở về nhà, những người này bị gãy đầu gối, đầu bị sưng phình ra to bằng trái dưa hấu, nội tạng bị chấn thương, khiến cho họ từ đó đến chết không có thể đi đứng, làm ăn gì được. Nó biết mấy anh cớm chỉ lùi chứ không dám chơi đòn này với chúng nó, vì buôn chui cò con không phải là một tội chính trị mưu phản. Guiliano khuỵ gối, tay trái chống xuống đất giả bộ nằm xuống, tay phải luồn vào thắt lưng đặng rút khẩu súng lục nó giấu dưới áo.

Lúc đó, khoảng rừng thưa chơi vơi trong ánh sáng lờ mờ của bình minh vừa chớm. Mặt trời còn chìm sâu dưới rặng cây và dãy núi phía xa xa. Hắn thấy Pisciotta vẫn còn đứng sững, hiên ngang, không tuân lệnh đội cớm nằm sấp xuống. Chắc chắn bọn kia không dám xả súng bắn chúng chỉ vì buôn lậu một bánh nhỏ phó - mát. Hắn trong thấy khẩu súng lục rung rung trong tay chú cớm oắt.

Đúng lúc đó có những tiếng la kêu be be và tiếng vó ngựa kêu lộp cộp vang lên từ phía sau khoảng rừng thưa. Tiếp đó là đoàn la và tên cưỡi ngựa mà hắn thấy đi phía sau hắn lúc chiều tối. Tên cưỡi ngựa dẫn đoàn la vai đeo khẩu súng lủng lẳng. Chiếc áo khoác bằng da trùm bên ngoài làm cho người gã phình ra. Gã nhảy xuống ngựa, rút từ trong túi ra một cọc tiền và nói với thầy đội.

- Lần này ông chỉ hốt được một ít cá sộp.

Rõ ràng là bọn này đã từng "ăn chịu" với nhau nhiều lần rồi. Từ lúc đầu đến giờ, đây là lần đầu tiên, đội cớm mắc bận nhận tiền nên đã lơ là, không cảnh giác đối với chúng nó. Hai thằng tù coi bộ bị bỏ quên. Turi len lén lại gần chỗ tên cớm oắt đứng gần nhất. Pisciotta len lén lại gần bụi tre gần nhất. Bọn kia hớ hênh không để ý. Guiliano xô mạnh tên cớm oắt đứng gần hắn khiến cho tên này té lăn ù. Hắn hét to cho Pisciotta: "Vọt!"

Tên cớm oắt không bị té thì quá bất ngờ, đứng ngây ra không kịp đưa khẩu súng lục lên. Lúc lao vào chỗ nấp trong rừng, Guiliano bỗng thấy một thoáng hân hoan nhẹ nhõm, thơ thới. Hắn nhẩy cẫng lân, lao vào giữa hai cây có thể che đạn cho hắn, khẩu súng lục suýt bị rớt. Thầy đội buông bó tiền rớt xuống đất, chĩa khẩu súng tiểu liên về phía hắn, lạnh lùng ria một tràng. Gã không phải là một tay súng tồi.

Guiliano nghe tiếng nổ, đồng thời cảm thấy đau nhói như thể bị đập một gậy thiệt mạnh. Hắn lăn ra đất chỗ có hai cái cây và gượng đứng, nhưng không được. Cẳng hắn tê dại đi và không cử động được nữa. Khẩu súng lục trong tay, hắn nhằm vào thầy đội đang quơ quơ khẩu tiểu liên lên trời, dáng điệu bất đắc chí. Guiliano cảm thấy quần hắn ướt ướt, ẩm ẩm, dính dính.

Trong khoảnh khắc chưa tới một giây đồng hồ trước khi lảy cò, Turi chỉ cảm thấy ngạc nhiên. Vậy là bọn kia đã bắn hắn chỉ vì một cái bánh phó - mát nhỏ. Vậy là bọn kia đã đánh sụm cả gia đình nó một cách thản nhiên như giỡn chơi, nhưng tàn bạo như vậy chỉ vì hắn đã bỏ chạy khi bị bắt quả tang vì phạm sơ sơ đạo luật mà mọi người đều vi phạm. Mạng nó rẻ đến thế sao? Mẹ hắn chắc sẽ khóc cho đến mãn đời. Lúc này thân thể hắn máu me đầm đìa. Hắn chưa từng làm điều gì hại ai.

Hắn lẩy cò và nhìn thấy khẩu tiểu liên trong tay thầy đội rớt xuống đất, cái mũ viền trắng trên đầu bị hất tung lên trong không khí, trong khi thân thể gã với cái đầu nát bấy té lăn xuống đất, tay chân quờ quào trên mặt đất như thể đang bơi. Một phát súng lục không thể đạt kết quả đó. Nhưng, đối với Turi Guiliano dường như chính tay của hắn đã bay theo viên đạn và "bủa" vào đầu gã nên đầu gã mới bấy bá ra như vậy. Tiếng súng lục nổ đì đẹt nhưng đạn bay bổng, vô hại. Rồi im lặng! Ngay cả côn trùng cũng im tiếng rù rì.

Guiliano lăn vào bụi cây. Nhìn thấy mặt kẻ thù bê bết máu, hắn hy vọng. Hắn đã chứng tỏ được hắn đâu phải là thằng "gà chết" bất lực. Hắn gượng đứng dậy, nhưng lúc này chiếc cẳng không còn theo lệnh điều khiển của óc hắn nữa. Hắn bắt đầu chạy, nhưng chỉ một cẳng đưa về phía trước, còn cẳng kia cứ lết trên mặt đất khiến hắn ngạc nhiên. Hắn cảm thấy ấm ấm, dính dính ở háng, quần ướt đầm, mắt mờ đi. Khi chạy qua một chỗ quang đãng, hắn sợ là lại chạy ra chỗ rừng thưa trống trải, bởi vậy hắn quay trở lại. Hắn cảm thấy thân thể như bắt đầu rớt không phải là xuống mặt đất, mà là xuống khoảng không thăm thẳm không có đáy, màu đỏ đậm pha lẫn màu đen và rớt, rớt xuống hoài.

Chỗ khoảng rừng thưa, chú oắt con rời tay khỏi cò súng. Và tiếng đì đẹt ngưng hẳn. Thấy súng nổ, tên buôn lậu sợ cớm oắt lóng ngóng, có thể lạc đạn trúng gã nên hắn nằm mọp xuống đất. Thấy ngưng bắn, gã nhỏm dậy, lượm cọc tiền, đưa cho hai tên cớm oắt. Nhưng hai tên cớm oắt ấy chĩa mũi súng vào hắn và nói: "Anh bị bắt!". Tên buôn lậu nói: "Bây giờ chỉ còn hai chú, vậy hai chú cứ cưa đôi và để tôi đi".

Cớm oắt nhìn xác thầy đội nằm thẳng cẳng trên mặt đất. Chắc chắn là gã đã tịch rồi. Viên đạn xuyên qua tròng mắt, trổ lên đầu, bể sọ và óc bắn tung toé. Tên buôn lậu nói giọng bợ đỡ:

- Để tôi chạy đuổi theo nó. Nếu nó không chết thì cũng bị thương nặng rồi. Để tôi lôi xác nó lại đây và hai chú sẽ là anh hùng. Rồi, để tôi đi!

Một trong hai cớm oắt lượm tấm căn cước Turi liệng xuống đất theo lệnh của thầy đội lúc nãy, lớn tiếng đọc Salvatore Guiliano, thị trấn Montelepre, rồi bỏ vào túi.

- Không cần chú ý vào nó nữa, - cớm oắt nói. - Mình sẽ báo cáo lại sau, cái đó quan trọng hơn.

Tên buôn lậu buột miệng bực tức nói: "Đồ thỏ đế". Gã chợt định tháo khẩu súng đeo trên vai ra. Nhưng gã thấy hai cớm oắt nhìn gã trừng trừng. Gã vừa nhục mạ chúng. Vì vậy, chúng bắt gã đỡ xác thầy đội lên lưng ngựa và đi theo chúng về trại. Để ngừa hậu hoạ, chúng tước khẩu súng của gã. Chúng rất nhát, vì thế tên buôn lậu mong chúng đừng bắn sảng, lỡ đạn trúng gã. Ngoài ra gã chẳng liên can gì đến cái chết của đội cớm. Gã cũng rất quen biết Maressciallo Rocofino ở Montelepre. Trước đây, họ đã từng làm ăn với nhau và sau này sẽ còn dài dài.

Trong suốt thời gian đó, cả ba chẳng ai nghĩ tới Aspanu. Nhưng y đã nghe thấy tất cả những câu chúng trao đổi với nhau. Y nằm im re, ép sát dưới hố cỏ mọc um tùm, con dao đã rút ra khỏi bao. Y đợi bọn kia chia nhau săn tìm Turi, và y đã phác hoạ một kế hoạch phục kích một trong ba tên, cắt họng nó rồi tước súng. Tâm địa độc ác đã át cả nỗi sợ hãi, đến nỗi y chẳng biết sợ chết là gì nữa. Khi nghe thấy tên buôn lậu đề nghị để hắn đi lôi xác Turi về, y cố ghi sâu vào trí não, để không thể quên được bản mặt thằng khốn nạn đó. Y lấy làm tiếc vì bọn kia đã bỏ đi, để y ở lại.

Y cảm thấy đau nhói khi bọn kia cột con lừa của y vào bầy la và dắt đi.

Nhưng y biết Turi bị thương nặng và cần sự giúp đỡ của y. Y đi vòng khoảng rừng thưa và chạy đến chỗ đám cây mà ông anh họ đã nhảy vào lúc nãy. Không thấy xác Turi nằm đó. Y chạy trở lại con đường mòn chúng đã đi trước đấy. Cũng không thấy dấu tích gì. Y trèo lên mỏm đá cao nhô ra ngoài một chỗ trũng. Dưới đáy chỗ trũng có một vũng máu đọng và phía bên kia có những giọt máu chảy thành hàng còn tươi. Chạy theo vết máu đó, thình lình y thấy Turi nằm vắt ngang đường mòn, bất tỉnh nhân sự, tay vẫn còn nắm khẩu súng lục.

Y quỳ xuống, lượm khẩu súng cài vào thắt lưng. Lúc đó Turi mở mắt ra, đôi mắt còn hừng hực căm hờn, nhưng tránh không nhìn y. Y sụt sịt khóc và ráng nhấc không nổi. "Turi, Turi, ráng đứng dậy, tao sẽ đỡ cho!" Aspanu Pisciota nói. Turi tay chống đất, ráng nhấc thân thể của mình lên. Aspanu choàng tay mặt qua thắt lưng Turi và cảm thấy tay ấm ấm và ướt đẫm. Y rụt tay lại và lật áo sơ - mi của Turi lên. Y kinh hoàng thấy một vết thương hoác miệng chỗ mạng sườn Turi. Y đặt Turi dựa vào gốc cây, xé toạc áo của hắn nhét vào vết thương để cầm máu và cột hai tay áo vào thắt lưng Turi. Tay phải ôm ngang lưng Turi, tay trái nắm tay tay trái Turi vắt ngang vai y và cứ thế cẩn thận kè Turi loạng choạng bước theo đường mòn đi xuống. Đứng ở xa nom như ai đứa đang vừa đi vừa khiêu vũ.

Và, thế là Turi hụt mất hai ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng - Thánh Rosalie - mà nhân dân thị xã Montelepre cầu mong Thánh sẽ làm phép mầu cho thị xã.

Hắn cũng hụt mất cuộc thi đi săn mà chắc chắn hắn sẽ thắng. Hắn cũng hụt mất cuộc đua ngựa, không được xem đốt pháo bông, không được nếm miếng bánh ngon ngọt mà các chị hắn đã làm, cũng không được dự bữa tiệc đính hôn của chị hắn.

Cuộc "thả nọc" giữa con lừa và con la đã không có kết quả. Dân trong thị trấn thất vọng. Nhưng họ đâu biết rằng cũng chính ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng năm sau đã có một phép lạ bằng xương bằng thịt của chàng thanh niên năm trước đã nhấc bổng con lừa lên cho nó "thả nọc" vào con la.

..........

(1) Nguyên văn viết bằng tiếng Ý, bastinado là đòn tra tấn đánh vào gót và gan bàn chân làm cho người bị đòn lúc đó đau thốn, buốt đến tận óc, sau đó bị gãy đầu gối, sưng đầu, chấn thương nội tạng.

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 5

Cha bề trên vừa làm một vòng đi dạo buổi chiều quanh tu viện dòng khổ tu Phranxixco vừa để thúc mấy ông thầy dòng lười biếng, vô tích sự phải làm việc cho xứng với miếng cơm hàng ngày mà ngài phải bỏ ra nuôi các ông. Ngài kiểm tra lại sản phẩm của phân xưởng mạo chế di vật của các thánh, thăm lò bánh mì đang nướng những ổ bánh lớn, giòn để bán cho thị trấn bên cạnh. Ngài cũng ghé mắt thanh sát cả những giỏ lớn đựng trái cây như cà chua, trái ô - liu và những trái nho mọng, tím đen, bóng láng. Thấy bóng ngài, các thầy dòng làm bộ bận tíu tít như một đám trẻ nít tinh nghịch, nhưng không vui vẻ bằng. Thật ra, họ là một đám người mặt mày ủ rũ. Trong đám, chẳng thấy có ai có được cái vui tươi cần thiết của những người đang phụng sự Chúa. Cha bề trên móc một điếu xì - gà gộc màu nâu đen, dài mà ngài cất dưới lớp áo dòng ngài đang mặc. Ngài vừa phì phèo vừa đi tản bộ quanh tu viện cho nó đói bụng đặng lát nữa đến bữa ăn, ăn cho thêm ngon miệng.

Vào chính lúc đó, ngài thấy Aspanu dìu Turi lết qua cổng tu viện. Ông thầy dòng già giữ cửa sổ không cho hai đứa vào, nhưng Pisciotta rút súng lục ra, gí vào đầu ông ta. Khiếp quá, ông quì thụp xuống đất và đọc kinh sám hối.

Pisciotta đặt dưới chân cha bề trên cái xác của Guiliano bê bết máu và xuội lơ hầu như chết rồi. Cha bề trên vóc người cao, nhưng gầy, cái mặt xương xương, quắt quéo như mặt khỉ. Mũi củ hành, hai mắt như hai nút áo màu nâu lúc nào cũng toát ra cái nhìn soi mói, ngờ vực. Dù đã thất tuần, nom ngài vẫn quắc thước, tinh thần sáng suốt và xảo quyệt như ngày xưa - trước thời Mussolini - lúc ngài còn được tổ chức Mafia chuyên bắt cóc người đòi tiền chuộc thuê viết những bức thư tống tiền rất lịch thiệp, nhưng cũng rất hắc ám. Nay, mặc dù mọi người - từ anh nông dân cho đến chính quyền - đều biết tu viện là "Tổng hành dinh" của bọn buôn lậu, là "đầu lậu" của chợ đen đỏ, thế mà tuyệt nhiên, ngài chẳng hề bị làm khó dễ vì các hoạt động phi tôn giáo và rất bất hợp pháp này. Đó là vì người ta tôn trọng các chức thánh của ngài cũng có, đồng thời cũng vì người ta nghĩ rằng cũng nên để cho ngài hưởng chút phần thưởng vật chất đặng đền bù cho cái công ngài phải bỏ ra để dẫn dắt linh hồn các thầy dòng.

Bởi vậy, cha bề trên Manfredi cũng chẳng hoảng hốt khi thấy hai tên du côn "miệt vườn", mình mẩy máu me đầm đìa dắt díu nhau sấn vào lãnh địa thiêng liêng của con cháu Thánh Phranxixcô này. Thật ra, ngài đâu có lạ gì cái thằng Pisciotta kia. Trước đó, ngài đã dùng y vào một vài vụ buôn lậu và chợ đen chợ đỏ cả rồi. Cả ngài lẫn y đều giống nhau ở một điểm là cả hai đều rất xảo quyệt. Điểm chung này khiến cho cả hai vừa khoái chí vừa cảm phục nhau. Ông già thì kinh ngạc vì cái tuổi trẻ tài cao của thằng quái non này, không ngờ y còn quá trẻ mà tài năng đã phát triển gớm thế. Thằng nhỏ thì kinh ngạc vì không ngờ cha cố quyền cao chức rộng và tuổi đã cao mà vẫn ba que, xỏ lá và bợm đến thế.

Cha bề trên trấn an ông thầy dòng gác cửa, rồi nói với Pisiotta - chẳng cần giới thiệu mà ông đã réo đúng ngay tên y, chứng tỏ là ông biết y rất rõ:

- Thôi được, Pisciotta quí mến của cha, các con bị trục trặc vụ gì vậy?

Pisciotta cột chặt chiếc sơ - mi đẫm máu vào vết thương của Guiliano. Thấy nét mặt co rúm vì buồn thương của Pisciotta, ngài lấy làm ngạc nhiên vì không ngờ thằng quỷ này mà cũng có thể có được cảm xúc ấy. Nhìn vết thương to lớn của Guiliano, Aspanu Pisciotta nghĩ rằng thằng bạn, thằng anh họ sắp "đi tong" đến nơi, hay là "đi" rồi không chừng. Làm cách nào và báo tin như thế nào cho ông bà già của Guiliano bây giờ? Y sợ nhất là dì y sẽ đau khổ. Nhưng bây giờ, việc quan trọng nhất thì phải làm trước. Y phải thuyết phục thế nào để cha bề trên chịu cho giấu Guiliano vào nơi kín đáo trong tu viện.

Y nhìn thẳng vào mắt cha bề trên. Qua cái nhìn ấy, y muốn uỷ thác cho ngài một việc mà - tuy không ra mặt trực tiếp hăm he, đe doạ gì - nếu ngài từ chối thì chắc chắn sẽ có chuyện sinh tử chứ chẳng chơi. Y nói:

- Đây là người anh họ và cũng là người bạn chí cốt của con, Salvatore Guiliano. Như cha thấy đấy, nó bị xui xẻo. Và chỉ một lát sau đây thế nào lũ cớm cũng quây kín ngọn núi kia và lùng kiếm nó. Và cả con nữa. Cha là hy vọng độc nhất của tụi con. Con xin cha che giấu và che chở cho tụi con. Làm điều này cho tụi con, cha sẽ có người bạn thuỷ chung!

Y cố nhấn mạnh vào chữ "người bạn".

Có gì thoát được đôi mắt cáo già và cái trí khôn sắc sảo của cha bề trên? Bởi vậy, dù chỉ nói sơ sơ - thậm chí không nói ra - cha cũng thừa hiểu cái ý của nó. Cha cũng có nghe nói đến Turi Guiliano, một anh chàng rất được nể trọng ở Montelepre, một tay súng và tay săn có hạng, chín chắn, khôn ngoan trước tuổi. Ngay cả tổ chức "Người anh em" cũng đã "chấm" anh chàng và coi là một thành viên tương lai đầy hứa hẹn. Chính Ông Trùm Croce, trong một cuộc viếng thăm xã giao và làm ăn với tu viện cũng có lần nhắc đến tên anh chàng này. Một người có con mắt tinh đời, nhìn xa thấy rộng, có trí khôn sắc bén và xảo quyệt như cha bề trên thì làm gì mà chẳng nhận ra ngay con phượng hoàng giữa bầy gà, làm gì mà chẳng biết câu "trồng cây đặng có ngày hái quả".

Nhìn Guiliano nằm mê man bất tỉnh, ngài hầu như chắc chắn anh chàng này cần một cái gì quan trọng hơn là một nơi trú ẩn, cần một giáo sĩ để làm các bí tích lâm chung hơn là một bác sĩ. Đáp ứng lời yêu cầu của Pisciotta thì chẳng có gì là liều lĩnh , nguy hiểm. Bởi vì, ở cái xứ Sicily này, che giấu một tử thi thì chẳng phải là một trọng tội. Nhưng ngài muốn cho thằng quái kia hiểu rằng cái ân huệ mà ngài sắp ban cho nó không phải là nhỏ, là kém giá trị. Ngài hỏi:

- Tại sao các con lại bị truy lùng vậy?

Pisiciotta ngần ngại. Nếu ông cha bề trên này biết chúng đã "lật gọng" một thằng cớm thì có thể ông không dám chứa. Nhưng nếu ông không biết để lựa lời ăn nói khi bọn cớm đến truy lùng thì cũng kẹt. Y suy nghĩ rất nhanh và quyết định nói thật.

Cha bề trên cúi xuống nhìn, như thể buồn vì một linh hồn sắp sa địa ngục, nhưng thật ra chỉ là để nhìn cho gần hơn, đặng quan sát rõ hơn và đánh giá đúng mức tình trạng mê man của Guiliano. Máu thấm qua chiếc áo sơ - mi buộc quanh người hắn. Nếu chàng thanh niên tội nghiệp kia chết thì vấn đề càng đơn giản, càng dễ giải quyết.

Với tư cách là một thầy dòng khổ tu dòng Phranxixcô, cha bề trên cũng đầy lòng bác ái của Chúa. Nhưng, trong thời buổi khó khăn này, cha cũng phải xét tới những khía cạnh và hậu quả thực tiễn, cụ thể của việc làm bác ái của ngài. Nếu cho hắn trú ẩn và hắn chết thì ngài chỉ có lợi mà thôi. Nhà cầm quyền sẽ bằng lòng với cái thây ma và gia đình người chết thì sẽ mãi mãi mang ơn, hay mắc nợ ngài.

Dĩ nhiên, ngài cũng có thể giao hai thằng lưu manh côn đồ này cho cảnh sát, bọn này sẽ tính gọn ngay thôi. Nhưng làm vậy thì có lợi gì cho ngài? Nhà cầm quyền cũng chẳng làm gì cho ngài nhiều hơn những gì họ đã và đang làm cho ngài. Khu vực làm ăn của ngài đã được họ giữ an ninh cho rồi, chẳng có đứa nào dám léng phéng. Tuy nhiên, trong trường kinh doanh của phi nghĩa, thì thêm bạn bớt thù vẫn là thượng sách. Phản bội những anh bạn trẻ này chỉ tổ gây thù chốc oán với bọn nhà quê và gây nợ máu - chắc chắn, không thể không được - với gia đình của hai tên cô hồn các đảng này. Cha bề trên đâu đến nỗi ngu để nghĩ rằng cái áo dòng sẽ che chở cho cha khỏi trả món nợ máu chắc chắn sẽ có nếu cha phản bội. Cha cũng dư biết thằng khốn nạn Pisciotta kia nghĩ gì trong đầu. Trước khi xuống địa ngục thì nó cũng phải quậy cho nát nước ra đã. Phải, chớ bao giờ dại dột xem thường sự thù hận của bọn nhà quê Sicilian. Là con chiên bổn đạo đến mụ cả người đi thật và chẳng bao giờ cảm thấy mắc cỡ vì tội lỗi của mình khi quì trước tượng Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary thật đó, nhưng nếu bép xép, phạm luật Omerta (1) thì dù có là đức Giáo Hoàng cũng vẫn bị chúng vặt cổ như thường. Trên đảo Sicily có vô số tượng Đức Chúa Giesu thì cũng vẫn chẳng có người dân Sicilian nào chịu tin vào lời răn dạy của Chúa: " Nếu nó tát con vào má bên phải, thì con hãy chìa nốt má bên trái cho nó tát". Ở cái xứ sở tốt lành và rất sùng đạo này, sự tha thứ được đồng nghĩa với sự hèn nhát. Dân Sicilian chính cống không tài nào hiểu được ý nghĩa của chữ xót thương.

Trong tất cả những điều cha bề trên biết về Pisciotta, có điều này là ngài biết rõ nhất: Pisciotta sẽ không phản ngài. Bởi vì, ngài đã có dịp thử thách và kiểm chứng điều này. Trong một vụ buôn lậu cò con, ngài đã bố trí để Pisciotta bị bắt và bị điều tra. Thẩm sát viên là một tay cớm an ninh, chuyên viên có hạng - chứ đâu phải thứ cớm vườn ở Montelepre này - đã làm đủ tình đủ tội, giở đủ mánh khoé ngón nghề, cương có nhu có, ấy thế mà vẫn không cậy được răng Pisciotta lấy một lời khai nào. Y cứ câm như hến. Hoặc nếu có thì chỉ là "không biết'. Thẩm sát viên ấy thả y ra và đảm bảo với cha bề trên rằng thằng cha đó có thể dùng được trong những vụ làm ăn lớn. Từ đó, cha bề trên vẫn dành cho Aspanu Pisciotta một chỗ đặc biệt trong trái tim của ngài và hằng ngày ngài vẫn cầu nguyện cho y.

Cha bề trên đưa hai ngón tay gầy guộc trơ xương lên bóp môi dưới chúm lại và "huýt huýt" mấy tiếng. Các thầy dòng vội vã chạy lại. Ngài sai họ khiêng Guiliano vào một khu xa và khuất nẻo trong tu viện. Ngài có một khu đặc biệt trong tu viện để chứa chấp đám con cháu nhà giầu trốn quân dịch trong thời chiến. Rồi, ngài sai một thầy dòng đi mời bác sĩ ở San Giuseppe, cách đó năm dặm.

Pisciotta ngồi cạnh giường và cầm bàn tay bạn mình. Vết thương không còn rỉ máu nữa. Và Turi đã mở mắt, nhưng đôi mắt nom đã mờ rồi. Pisciotta khóc sụt sịt, không nói năng gì, y lau trán Guiliano lấm tấm mồ hôi. Da của Guiliano tái xanh, lợt lạt.

Mãi một giờ sau bác sĩ mới tới. Lúc đi tới đây, bác sĩ đã thấy cả bầy cớm lùng sục trên núi, nên ông đã chẳng ngạc nhiên khi thấy ông bạn của ông - tức cha bề trên - đang giấu giếm một người bị thương. Điều này chẳng liên can gì đến ông ta. Cha bề trên - bạn đồng hương Sicilian của ông - cần đến sự giúp đỡ của ông, thế là quá đủ. Quan tâm đến cớm, đến chính quyền làm gì cho nó mệt, mà lại chẳng ăn cái giải gì. Chính cha bề trên - Chứ chẳng phải cớm nào, chính quyền nào - cứ mỗi chủ nhật lại cho ông cả giò trứng gà, cứ mỗi lễ Giáng Sinh là một vò rượu và lễ Phục Sinh là một con cừu non béo nung núc. Dù cả năm chẳng phải chữa bệnh cho nhà dòng một lần nào, thì cha bề trên vẫn cứ lệ thường mà cho một cách hữu nghị như vậy.

Bác sĩ khám và điều trị vết thương cho Guiliano. Đạn trúng bụng và có lẽ xuyên thủng vài cơ quan nào đó nữa - Chắc chắn nhất là gan. Mất nhiều máu quá, chàng thanh niên lợt lạt, xanh xám, nom như cái thây ma, nhất là khoé miệng lợt lạt đến gần như trắng bệch ra. Bác sĩ biết đó là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Ông thở dài nói với cha bề trên:

- Còn nước thì còn tát thôi, chứ ít hy vọng lắm. Máu không rỉ ra nữa, vì nó đã mất có đến một phần ba lượng máu rồi. Và như vậy thì cứ sự thường là "xong" thôi. Cố giữ cho nó ấm, xem sao. Có thể cho nó uống chút sữa, nếu nó uống được. Và tôi để lại vài ống mooc - phin.

Ông nhìn thân thể của Guiliano và có vẻ tiếc rẻ. Pisciotta thì thầm hỏi:

- Tôi có thể nói thế nào với ông bà già nó? Liệu còn có cơ may gì không, bác sĩ?

- Anh muốn nói với họ sao thì nói, - bác sĩ thở dài, - nhưng vết thương này nặng lắm, chết người đấy. Vì là một thanh niên khoẻ mạnh, nên nó có thể kéo dài ít ngày. Nhưng tốt hơn là chẳng nên hy vọng gì.

Nhìn thấy vẻ tuyệt vọng trong đôi mắt của Pisciotta và nỗi buồn thoáng qua trên khuôn mặt cha bề trên, ông nói một cách khôi hài:

- Dĩ nhiên, một nơi thiêng liêng như ở đây thì luôn luôn có thể xảy ra phép mầu nhiệm!

Cha bề trên và ông bác sĩ đi ra ngoài. Pisciotta cúi xuống bạn để lau mồ hôi đọng trên lông mày và nó kinh ngạc vì đôi mắt ấy lộ ra cái vẻ giễu cợt. Đôi mắt màu nâu sậm, nhưng có viền trắng bạc. Pisciotta cúi sát hơn nữa. Turi Guiliano thì thào. Rõ ràng là hắn đang gắng gượng để nói:

- Nói với bà già là tao sẽ về nhà, - Turi thều thào nói. Rồi hắn làm một cử chỉ mà suốt những năm tháng về sau này, không bao giờ Pisciotta quên được. Hắn bỗng đưa hai tay lên túm chặt lấy tóc của Pisciotta. Bàn tay còn có sức sống, chứ không phải là bàn tay của người đang hấp hối. Bàn tay ấy nắm lấy tóc Pisciotta kéo sát xuống và thều thào: - Mày hãy nghe lời tao!

Buổi sáng hôm sau, được ông bà già Guiliano gọi điện thoại báo cho biết, giáo sư Hector và Adonis vội vã tức tốc đi về Montelepre. Ông có nhà riêng ở Montelepre, nhưng rất ít khi ông sử dụng ngôi nhà này. Ông ghét nơi ông sinh ra và đã sống qua thời thơ ấu. Đặc biệt ông tránh trở về nơi chôn rau cắt rốn vào ngày Lễ Kính Thánh Bổn Mạng. Sự trang trí thị trấn chỉ làm cho ông buồn. Bởi vì cái vẻ hào nhoáng tạm thời ấy chỉ che giấu một cách vụng về tồi tệ sự nghèo mạt kinh niên của thị xã. Ngày lễ cũng là ngày nhục nhã của ông: bọn bợm nhậu cứ nhè cái vóc dáng thấp bé của ông mà châm chọc, chế giễu. Và ngay cả đàn bà nhìn thấy ông cũng mỉm cười vừa có vẻ rẻ rúng vừa có vẻ thương hại tội nghiệp.

Ông thông minh và hiểu biết hơn họ bội phần. Nhưng cái đó cũng chẳng giúp ích gì cho ông, chẳng làm cho ông được kính nể hơn. Chẳng hạn, dân ở đây hãnh diện ở chỗ trải qua bao đời, nhà của họ đã sơn màu nào thì cứ truyền tử lưu tôn mà sơn màu đó. Họ đâu biết rằng màu sắc ấy đã nói lên cái gốc gác, cội nguồn dòng máu mà họ đã thừa hưởng. Qua bao thế kỷ, những người có dòng máu gốc gác phương Bắc thì bao giờ cũng sơn màu trắng, người Hy Lạp màu xanh da trời, người Ả Rập thờ màu hồng và người Do Thái màu vàng. Nhưng ngày nay tất cả đều tự coi mình là người Ý nói chung, là người Sicilian nói riêng. Các dòng máu ấy từ hàng ngàn năm nay đã pha trộn với nhau đến nỗi ngày nay không thể căn cứ vào ngoại hình của một người nào để có thể đoán sắc màu ngôi nhà của họ. Nếu bây giờ có ai nói với một người Sicilian sơn nhà màu vàng rằng y có gốc gác Do Thái thì coi chừng, dao lụi không vào lưng thì bụng là cái chắc.

Aspanu Pisciotta sống trong một ngôi nhà sơn vôi màu trắng, mặc dù hình dạng của nó giống với Ả Rập hơn. Ngôi nhà của Turi Guiliano sơn màu xanh da trời, và quả thật là diện mạo của Guiliano thì như một bức tượng Hy Lạp, nhưng khung người của hắn thì lại cao và to như một người phương Bắc. Nhưng có một điểm chung giữa những người gốc gác cội nguồn khác nhau ấy là dòng máu sôi sục một cách kỳ lạ và nguy hiểm mà ta có thể gọi là "chất Sicilian", "tính cách Sicilian". Chính cái đó đã làm cho họ thành Sicilian chính cống. Và chính cái đó đã làm cho Hector Adonis trở về Montelepre hôm nay.

Mỗi đường phố dù lớn hay nhỏ - nhất là phố Via Bella đều có lính cảnh vệ hoặc là cớm mặt mày lầm lì dữ tợn, tay lăm lăm khẩu tiểu liên hoặc súng lục và sẵn sàng nhả đạn. Ngày thứ hai trong ba ngày lễ Kinh Thánh Bổn Mạng - theo thường lệ lẽ ra ngoài đường phải đông vui tấp nập - nhưng năm nay lại buồn thiu, vắng vẻ một cách lạ thường. Đường phố không có cả trẻ nít nô đùa. Hector Adonis cho xe hơi leo lên lề, đậu trước cửa nhà Turi Guiliano. Hai tên cảnh vệ lom lom nhìn một cách nghi ngờ cho đến khi ông ra khỏi xe, thì chúng lại mỉm cười vì cái vóc dáng thấp bé của ông.

Chính Pisciotta ra mở cửa và dẫn ông vào nhà. Ông bà già Guiliano đang đợi ông trong bếp. Bữa ăn sáng gồm bánh mì, thịt nguội và cà phê đã dọn sẵn trên bàn.

Maria Lombardo Guiliano trầm tĩnh, vì thằng cháu cưng của bà đảm bảo là thằng con trai cưng của bà chắc chắn sẽ bình phục. Bà tức giận hơn là sợ sệt. Ông bố của Guiliano thì lại kiêu hãnh hơn là buồn. Con trai ông đã chứng tỏ nó là một thằng đàn ông Sicilian thứ thiệt, con trai ông thì sống mà kẻ thù của nó thì chết.

Aspanu kể lại câu chuyện cho giáo sư Adonis nghe. Lần này có pha thêm chút hài hước so với lần đầu kể cho ông bà già của Turi. Y giảm nhẹ vết thương của Guiliano và tô đậm thêm cái chất anh hùng của y khi y dìu Guiliano vào tu viện. Nhưng Hector Adonis hiểu rằng dìu một người cao to bị thương như Turi Guiliano đã đi dặm đường sỏi đá lởm chởm, lại xuống dốc, chắc chắn là phải mệt đến đứt hơi đối với một Aspanu Pisciotta cà khẳng cà kheo lại thêm cái bệnh ho lao, đâu phải chuyện đùa. Ông cũng nhận xét thấy Pisciotta liến thoắng kể lướt qua cái vết thương. Adonis sợ tình hình thực tế chắc là tệ hại hơn. Ông lên tiếng hỏi ông bà già của Guiliano, nhưng chủ yếu là hỏi Pisciotta.

- Làm sao mà lính cảnh vệ lại biết mà đến đây tra hỏi?

Pisciotta kể lại việc Guiliano đã chìa cái căn cước ra cho thằng đội cớm. Bà mẹ Guiliano giọng rền rĩ nói chen vào:

- Sao Turi không để cho bọn chúng lấy phó - mát cho rồi, mà lại đi sinh sự, rồi lại "ghè" nó là chi cho khổ?

Ông bố Guiliano hỏi móc bà vợ:

- Thế bà bảo nó phải làm sao? Tố cáo tên người đã bán phó - mát cho nó à? Bộ muốn bôi tro trát trấu vào thanh danh nhà mình sao chứ?

Hector Adonis vừa thú vị vừa thắc mắc về sự khác biệt gần như mâu thuẫn giữa hai ý kiến của hai vợ chồng. Ông biết xưa nay bà vợ vẫn sôi nổi, táo bạo hơn ông chồng. Thế mà bây giờ bà vợ lại đưa ra ý kiến chịu lép, trong khi ông chồng thì lại ra cái giọng thách thức? Và Aspanu lại cho rằng mình đã anh hùng giải cứu được thằng bạn và dìu hắn đến trốn ở một nơi an toàn. Thế mà bây giờ y tỉnh bơ nói dối ông bà già của Guiliano về tình trạng vết thương của thằng con họ.

Ông bố Guiliano nói:

- Giá nó đừng chìa cái căn cước của nó ra thì đỡ quá. Sẽ có thiếu gì anh em bè bạn của nó sẵn sàng thề rằng lúc đó nó đang có mặt ở thị trấn này với họ.

Bà mẹ Guiliano nói:

- Thế nào trước sau thì nó cũng bị bắt. - Và bắt đầu mếu máo: - Đến nước này thì nó sẽ phải lên núi ở mất thôi!

Hector Adonis nói:

- Mình phải làm cái gì, làm thế nào để chắc chắn - trong mọi trường hợp - cha bề trên không giao nộp nó cho nhà chức trách.

Pisciotta nóng nảy nói:

- Cho ăn kẹo ông ấy cũng không dám. Ông ấy dư biết là tôi sẽ treo cổ ông ấy nếu ông ấy làm như vậy.

Adonis nhìn nó chòng chọc. Cái giọng của thằng nhỏ này không phải là đe doạ suông, mà là chết người thật đó. Adonis ngẫm nghĩ trong bụng: "Làm tổn thương "cái tôi" của một thanh niên thì không phải là điều khôn ngoan. Mấy anh cớm làm sao mà hiểu được rằng nhiều khi người ta vẫn bình an vô sự khi nhục mạ một người đã lớn tuổi, nhất là khi người đó đã bị ê chề vì cuộc đời và chẳng thèm để tâm đến sự trọng, khinh của người khác. Nhưng, với đám trẻ thì chỉ một sự rẻ rúng thôi cũng đã bị coi là một sự xúc phạm không thể tha thứ được".

Ông bà già của Guiliano đang chờ sự cứu giúp của giáo sư Hector Adonis, người trước kia đã bao phen giúp đỡ con họ. Hector Adonis trầm ngâm, rồi sau đó cất tiếng vừa như nói với mọi người vừa như nói với chính mình:

- Nếu nhà chức trách biết chắc nó đang ở đâu thì cha bề trên sẽ chẳng có cách nào khác. Chính bản thân ông ta cũng đã và đang bị nghi ngờ về một vài vấn đề. Tôi nghĩ tốt hơn hết - nếu ông bà bằng lòng - là nhờ đến người bạn của tôi. Ông Trùm Croce Malo mà đã ra tay can thiệp thì trời gầm cha bề trên cũng không thả thằng Turi ra, chứ đừng nói nhà chức trách mà đòi được Turi từ tay ông ta.

Ông bà già của Guiliano rất ngạc nhiên khi biết ông giáo sư có quen biết - mà lại là chỗ bạn bè - với "tay tổ" này. Nhưng Pisciotta mỉm cười tỏ cho ông Hector Adonis biết là y đã rõ chuyện này. Adonis quay ra nói xẵng với nó:

- Chính anh cũng sẽ bị nhận diện và bị bắt. Tụi nó đã có bản tướng mạo của anh rồi!

Pisciotta khinh khỉnh đáp:

- Nhìn thấy thằng cớm già giãy đành đạch rồi chết thẳng cẳng, thì hai thằng cớm oắt đã sợ té cứt ra rồi, còn nhìn thấy gì nữa mà tướng mạo với chả tướng muội. Giá lúc đó con mụ đẻ ra nó có đứng ở đó, thì nó cũng không nhận ra được nữa là. Vả lại, tôi thiếu đếch gì người sẵn sàng làm chứng, thề rằng lúc đó tôi đang có mặt ở đó với họ. Mà chẳng cần phiền đến bè bạn làm chứng, chỉ cần thảy ra vài chục bạc cho mấy con điếm bảo nó thề rằng lúc đó tôi đang làm tình với nó, thì nó thề ngay chứ có đếch gì mà phải ồn lên cái chuyện vặt đó.

Adonis ngạc nhiên không hiểu Pisciotta học được ở đâu, học được bao giờ cái ngôn ngữ giang hồ đểu cáng ấy. Nhưng ông phải nể phục cái cung cách tỉnh bơ rất nghề nghiệp của y trước mọi nguy hiểm. Ông nói với ông bà già của Guiliano:

- Ông bà không được tìm cách thăm nom nó, không được nói với bất cứ ai, ngay cả với bạn bè thân nhất là nó đang ở đâu. Bọn cớm giăng chỉ điểm và mật thám khắp nơi. Aspanu, anh cũng chỉ đến thăm nó ban đêm. Hễ khi nào nó nhúc nhích được, tôi sẽ thu xếp để nó lẩn tránh an toàn ở một nơi khác trong thành phố cho đến khi sự việc lắng dịu xuống. Lúc đó, với chút tiền là mọi sự ổn thoả và Turi có thể trở về nhà sống bình thường. Đừng lo lắng gì về nó, chị Maria, hãy giữ gìn sức khoẻ. Và anh, Aspanu, hãy giữ liên lạc giữa nó với tôi.

Ông ôm hôn ông bà già của Guiliano. Khi giáo sư Hector Adonis rời khỏi nhà, bà Maria vẫn khóc rấm rứt.

Hector Adonis có nhiều việc phải làm. Quan trọng nhất là phải nói với Ông Trùm và tìm cách để hiện nay Turi có thể trốn an toàn trong tu viện. Nếu trời thương thì chính quyền ở Rome sẽ không trao giải thưởng cho kẻ nào cung cấp tin tức về tên sát nhân đã giết chết một cảnh sát đang thi hành công vụ, và cái ông cha bề trên quỉ sứ kia sẽ không vội bán Turi như ông ta bán đồ mạo chế các di vật thánh.

Turi nằm liệt trên giường, không nhúc nhích cục cựa gì được. Nhưng hắn còn tỉnh và còn nghe thấy ông bác sĩ nói vết thương của hắn nặng lắm, khó qua khỏi. Tuy nhiên hắn không tin rằng mình sắp chết. Thân thể hắn như bị treo lơ lửng trong không khí. Không đau đớn mà cũng chẳng sợ hãi. Hắn chỉ biết hắn không thể nào chết được. Hắn không hiểu rằng tình trạng hưng phấn của hắn trong lúc này chỉ là hậu quả của tình trạng mất máu nhiều quá.

Trong nhiều ngày sau đó, hàng ngày có một ông thầy dòng chăm sóc, cho hắn uống sữa. Chiều chiều, cha bề trên và bác sĩ đến thăm. Ban đêm, Pisciotta đến thăm, cầm tay hắn, săn sóc hắn suốt đêm. Sau hai tuần lễ, bác sĩ phải nói rằng đúng là phép mầu nhiệm.

Turi Guiliano đã bắt buộc được thân thể phải lành vết thương, phải bù lại lượng máu đã mất, phải hàn lại những lỗ thủng do đạn gây ra. Trong cơn hưng phấn, hậu quả của tình trạng mất máu, hắn đã mơ đến cái tương lai xán lạn của hắn. Hắn cảm thấy một niềm tự do mới, rằng kể từ lúc hắn bị bắn, hắn không còn phải chịu trách nhiệm về bất cứ những gì hắn sẽ làm. Luật pháp của xã hội, luật lệ khắt khe hơn của gia đình đều không có thể ràng buộc được hắn nữa. Rằng hắn tự do phạm bất cứ tội gì rằng máu của hắn đã đổ ra sẽ rửa sạch cho hắn hết và làm cho hắn thành vô tội, và, trớ trêu thay, hắn có được tất cả những điều đó lại là do một thằng cớm khốn kiếp đã bắn hắn chỉ vì hắn buôn chui có vài ký pho - mát.

Trong những ngày dưỡng bệnh, trong đầu óc hắn cứ diễn đi diễn lại cái cảnh hắn và các bạn bè trong phố tụ tập ở quảng trường để đợi thằng cặp - rằng, tay sai của một lãnh chúa đến chọn một vài đứa trong đám đi làm công nhật và trả cho đồng lương chết đói. Nếu có ai nài nỉ xin thêm thì sẽ được nghe những lời nói kênh kiệu, mỉa mai, hách dịch: "Bấy nhiêu đó, không chịu thì thôi, cút xéo, đừng có eo sèo rác tai ông" của những thằng có đủ thứ quyền thế. Sự phân phối bất công các vụ thu hoạch khiến cho có những đứa ngồi mát ăn bát vàng, trong khi có những kẻ quanh năm suốt tháng đầu tắt mặt tối làm hùng hục, cực nhọc như lừa, mà đói vẫn hoàn đói, khổ vẫn hoàn khổ. Những kẻ có trách nhiệm cầm cân nảy mực trong xã hội thì cứ nhè thằng khố rách áo ôm mà hành, mà phạt. Trong khi đó, những thằng có của thì tha hồ muốn làm gì thì làm, muốn ức hiếp ai thì ức hiếp.

Nếu hắn lành vết thương, hắn thề rằng chính tay hắn sẽ thực thi công lý. Hắn không còn là một thằng bé bất lực trước định mệnh. Hắn tự vũ trang cả về tinh thần lẫn vật chất. Hắn chắc chắn điều này: sẽ không bao giờ hắn chịu bó tay trước kẻ khác, chẳng hạn như trước thằng Guido Quintana, chẳng hạn như thằng cớm đã bắn hắn.

Cái anh chàng thanh niên Guiliano khi xưa đã không còn nữa.

Vào cuối tháng, sau bốn tuần lễ nằm chết gí trên giường, nay theo lời khuyên của bác sĩ, Guiliano phải vận động đôi chút. Và, thế là Guiliano được trao cho một cái áo thầy dòng, mặc vào, rồi đi tà tà quanh tu viện. Cha bề trên đâm ra mến anh bạn trẻ này, thường cặp kè với anh trong lúc đi dạo và kể cho anh nghe những cuộc phiêu lưu dữ dội trong các cuộc làm ăn ở các miền đất xa xôi lúc ngài còn trai trẻ. Sự quí mến của cha bề trên chẳng giảm đi, khi giáo sư Hector Adonis gửi đến ngài món tiền đặng "xin ngài cầu nguyện cho kẻ nghèo" và chính Ông Trùm đã ngỏ ý cho cha bề trên biết là ông ta cũng quan tâm đến anh bạn trẻ này.

Về phần Guiliano, hắn cũng kinh ngạc trước lối sống của mấy ông thầy dòng. Trong lúc ở nhà quê, người ta đói khát, người ta làm lụng đến đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mà chỉ đổi lấy được 50 xu một ngày, thì các thầy dòng khổ tu Phranxixcô sống như những ông hoàng. Tu viện đúng là một lãnh địa rộng lớn và giàu có. Nào vườn chanh cam, nào những gốc ôliu có lẽ mọc từ hồi Chúa Jesus còn thò lò mũi xanh, nào đồn điền trồng tre... Rồi, còn trại chăn nuôi bò, heo, cừu, gà, vịt, gà trống, gà mái, gà tây vô vàn vô số chạy lểnh nghểnh. Ngày nào cũng như ngày nào, các thầy giòng xơi mì ống với thịt và uống rượu nho "nhà làm" từ những hầm rượu to tổ bố. Ngoài việc chăn nuôi đồng áng ra, họ còn chợ đen chợ đỏ đủ thứ, trong đó có thuốc lá, mà họ nhả khói cứ như ống khói tàu.

Nhưng họ làm việc cũng "ác liệt" lắm. Ban ngày, lúc làm việc, họ đi chân đất, áo dòng xắn lên đến tận đầu gối và mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Để che kín cái đầu gần như trọc lóc khỏi bị ánh mặt trời gay gắt nướng chín, họ đội những cái mũ rộng vành kỳ cục đủ màu, đen có, nâu có, kiểu như mũ của các cao bồi Mỹ mà cha bề trên đã sắm cho họ bằng cách khéo léo giao thiệp với các sĩ quan tiếp liệu của quân đội Mỹ, đổi lấy vài chai rượu "nhà làm". Và các thầy dòng giàu sáng kiến và khiếu thẩm mỹ đã chế ra đủ kiểu mũ đội đầu. Có ông thì cho vành mũ cum cúp xuống như các cao bồi Mỹ chánh hiệu, có ông thì lại cho vểnh một bên, vểnh hai bên như cái máng xối, ở đó gài dăm điếu thuốc lá. Cha bề trên ghét mấy cái mũ ấy lắm, và cấm đội, chỉ trừ khi làm việc ngoài trời. Ghét thì ghét, nhưng ngài vẫn sắm về, vì nó rẻ mạt lại che nắng rất tốt.

Vào tháng thứ hai tại tu viện, Guiliano cũng thành một ông thầy dòng. Trước sự ngạc nhiên của cha bề trên, hắn làm việc cật lực ở ngoài đồng, giúp mấy ông thầy già bưng các giỏ trái cây và ôliu chất vào kho. Càng phục hồi sức khoẻ, Guiliano càng vui vẻ làm việc, nặng nhẹ chẳng nề hà. Các thầy dòng hoặc muốn thử sức hắn hoặc muốn cho đáng đồng tiền bát gạo - miếng cơm mà hắn ăn hàng ngày, đã chất đầy giỏ của hắn. Nhưng hắn vui vẻ thi thố sức mạnh và chẳng bao giờ chùn đầu gối. Cha bề trên hãnh diện vì hắn. Không hiểu vì cảm mến hay vì muốn khai thác sức lao động của hắn, mà cha bề trên đã vui vẻ bảo hắn "muốn ở lại đây đến bao giờ thì ở. Hắn đúng là người Chúa đã chọn".

Guiliano còn được sung sướng thêm bốn tuần lễ nữa. Hắn đã trở về từ cõi chết. Và nhân đó, người ta đã thêu dệt biết bao phép lạ và vô số những điều tào lao vớ vẩn khác. Cha bề trên khoái hắn lắm, hết lòng tin cậy hắn và tiết lộ cho hắn từ những bí mật của chính đời ngài cho đến bí mật của tu viện, Ngài đã khoe với hắn rằng tất cả những sản phẩm do tu viện làm ra, chỉ để lại một ít đủ xài, còn bao nhiêu đều được đẩy thẳng ra chợ đen, chứ không có bán cho kho nhà nước theo luật định, trừ cái khoản rượu. Tu viện làm ra được bao nhiêu rượu là các thầy dòng nốc hết ráo. Đêm đến trong tu viện có vô số các thầy dòng tụ tập đánh bài sát phạt nhau, nếu không thì nhậu nhoẹt, say, ói mửa cả đống. Và ngay cả đàn bà cũng được đưa lén vào tu viện. Trước thực trạng đó, Cha bề trên nhắm mắt cho qua.

- Họ làm lụng cực nhọc, vất vả quá mà - Cha bề trên thủ thỉ tâm sự với Guiliano, - Phần thưởng thiên đường đời sau thì cũng quá xa, mà chờ thì cũng quá lâu cho nên ngay bây giờ cũng phải để cho người ta hưởng chút gọi là. Vả lại, quỉ ma thì tinh quái mà thân xác con người thì yếu hèn. Chúa chắc cũng miễn xá cho họ.

Vào một buổi chiều mưa, cha bề trên dẫn Turi đến một khu khác của tu viện được dùng làm nhà kho. Tại đây, có vô số "thánh tích" do các thầy dòng khéo tay mạo chế. Như bất cứ một tay chủ tiệm, chủ nhà máy nào khác, cha bề trên cũng than phiền thời buổi khó khăn:

- Trước kia, công việc làm ăn này phát đạt lắm, - Ngài thở dài, - Lúc đó cái kho này bao giờ cũng chỉ dùng có một nửa, vì hàng sản xuất không kịp thì lấy đâu mà tồn kho. Này, nhìn cái kho tàng thiêng liêng mà ta có này. Đây, đây là cái xương cá mà Chúa đã làm phép lạ như sách thánh đã chép "từ hai cái bánh và năm con cá, Chúa đã làm phép lạ cho hoá ra nhiều, đủ cho năm ngàn người ăn no, và gom các mẩu bánh dư thừa cũng còn chất đầy năm thúng". Con có nhớ đoạn kinh Thánh ấy không? Ấy, xương cá ấy đấy. Đây, đây là cây gậy của Moise(2) đã biến thành con rắn (3) và con rắn lại thành cây gậy. - Ngừng một lát, cha bề trên nhìn vẻ kinh ngạc của Turi với sự thích thú. Rồi cái mặt xương xương, quắt queo như mặt khỉ của cha bị nụ cười nhăn nhở, tai quái làm cho méo xệch đi. Đưa chân hất hất đống gỗ thanh, ngài vui vẻ nói: - Cái này là khoản ngon lành nhất đó à con! Hàng trăm mảnh gỗ cây thánh giá mà Chúa bị đóng đinh trên đó là do đống gỗ này mà ra. Và đây là hộp đựng di cốt của bất cứ đấng thánh nào con muốn. Ở Sicily này, không có một nhà nào mà lại không có hộp đựng di cốt một vị thánh nào đó. Nhưng mà này, di cốt các thánh chớ có phải cốt bò, cốt heo đâu mà sẵn thế. Ấy thế mà vẫn có dư. Thì đây này, nó đây. Và cứ mở khoá cái kho này ra là con có ngay trên một chục cây thánh giá của thánh An Rê, ba cái xương đầu lâu của Thánh Jeanne d'Arc. Vào mùa đông, công việc đồng áng rảnh rỗi, các thầy dòng của ta chịu khó lặn lội đi xa chào hàng. Hàng này đem bán ở nước ngoài mới lại càng vớ bẫm đó à con, hốt bạc đó à con! Turi Guiliano toét miệng cười, còn cha bề trên chỉ cười mủm mỉm. Turi nghĩ mà thấy thương mấy người nghèo mê tín bị lừa bịp biết chừng nào! Mà lại bị lừa bịp bởi chính các vị có trách nhiệm chỉ dẫn con đường giải thoát mới đau chứ?! Đó cũng là một sự kiện quan trọng mà nó cần ghi nhớ.

Cha bề trên còn khoe với nó cả một thùng phuy chứa đầy những ảnh tượng đã được chính Đức Hồng Y Giáo chủ Palermo ban phép thánh nữa. Rồi, là ba chục tấm vải liệm Chúa Jesus, hai tấm vải liệm Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary. Guiliano nói với cha bề trên về bức tượng bằng gỗ mun có hình dạng người da đen Châu Phi mà bà mẹ hắn có và quí hoá lắm. Nghe đâu bức tượng này hay ban ơn Thánh và được bà mẹ hắn quí còn hơn đồ gia bảo, được lưu truyền từ mấy đời nhà hắn. Ở đây, có thể mạo chế ra những tượng như vậy không? Cha bề trên cười hềnh hệch, thân mật vỗ vai và nói với hắn:

- Từ trên một trăm năm nay, tu viện này đã chế tạo được hàng trăm phiên bản như vậy bằng gỗ cây ô liu thứ tốt, giết ai cho ra gỗ mun bây giờ, và gỗ cây ôliu thứ tốt đã là hiếm, và giá trị một cây ôliu đâu có phải ít.

Tuy nhiên ngài cũng quả quyết dù là phiên bản, những bức tượng ấy vẫn có giá trị vì.... số lượng chế tạo rất ít.

Cha bề trên thấy là tiết lộ cho một tên sát nhân những tội lỗi độc địa của những con người thánh thiện thì cũng chẳng hại gì. Tuy nhiên, sự im lặng có vẻ không đồng ý của Turi làm cho cha bề trên hơi bối rối. Ngài nói chống chế:

- Con nên nhớ rằng ngay cả khi đã dâng mình cho Chúa thì con người vẫn phải sống bằng cái xác phàm hèn, yếu đuối của mình. Mà cái xác phàm hèn này đâu có đủ kiên nhẫn để chờ đợi cái phần thưởng đời sau trên cõi vinh phước. Mỗi chúng ta đều có gia đình bà con anh em, không ít thì nhiều ta phải lo, phải bao bọc, phải giúp đỡ. Nhiều thầy dòng của ta là những người nghèo khổ hoặc xuất thân từ những gia đình nghèo khổ. Mà, như lời sách thánh đã day: người nghèo là muối (4) của trần gian. Đức bác ái không cho phép ta được để cho người khác - ít nhất là bà con, anh em, con cháu ta - phải đói khát trong thời buổi khó khăn này. Ngay cả Hội Thánh phải tự vệ trước sự tấn công của kẻ thù, phải chống lại mấy thằng cộng sản, mấy thằng xã hội nguỵ trang dưới chiêu bài dân chủ tự do chứ? Mà, muốn chống lại bọn đó một cách hữu hiệu thì phải có điều kiện "đầu tiên" chứ. Ấy, bán mấy cái món mạo chế này là để lấy tiền làm việc là rất cần thiết và rất có ích đó. Thật an ủi cho Hội thánh, mẹ của chúng ta, khi chúng ta trung hiếu với người, giúp đỡ Người trong lúc người đang nguy khốn, đang đấu tranh trước bao nhiêu kẻ thù nham hiểm, mưu lược đang hãm hại Người. Ta phải bán những món thánh tích này đặng lấy tiền giúp Hội Thánh diệt bọn bất trung, "Những kẻ làm nghịch cùng Hội thánh". Vả lại, bán các thánh tích, dù là các thánh tích mạo chế, cũng là để đáp ứng nhu cầu của tâm hồn các tín hữu, các con chiên bổn đạo. Nếu ta không đáp ứng những nhu cầu ấy thì họ cũng phung phí tiền bạc vào sòng bài, vào nhậu nhẹt, đĩ điếm, hư thân mết nết đi thôi. Con đồng ý không?

Guiliano gật đầu đồng ý, nhưng tủm tỉm cười. Hắn đã học được cái thói quen không lộ nét mặt và cử chỉ bất cứ tình cảm, cảm xúc nào, chứ thật ra trong lòng hắn kinh ngạc đến rụng rời. Đúng cái tâm trạng của một người trẻ tuổi trong trắng, lý tưởng đụng phải tay đại bịp, bậc thầy về mặt đạo đức.

Cha bề trên bực bội vì nụ cười tủm tỉm của hắn. Bởi vì, ngài chờ đợi ở thằng khốn sát nhân ấy một câu trả lời sao cho nghe lọt tai một người đã lôi hắn từ ngưỡng cửa tử thần trở về, đã che giấu, cưu mang, chăm sóc hắn cả tháng trời. Thế mà bây giờ nghe nói thế hắn lại cười tủm tỉm thì không ức sao được. Ừ, câu trả lời của hắn có ba xạo đi chăng nữa, thì ít ra, vì lòng tôn kính, hàm ơn, đầu môi chót lưỡi hắn cũng phải làm ra cái vẻ thành thật. Chẳng lẽ cái thằng buôn lậu sát nhân này lại "quê rít quê róng" đến nỗi không biết được cái xã giao tối thiểu đó? Cha bề trên lạnh lùng nói:

- Con nên nhớ rằng dù ta có như thế nào đi chăng nữa thì ta vẫn có lòng trung tín với Hội Thánh, mẹ của ta. Và lòng trung tín ấy đặt trên cơ sở niềm tin vào sự mầu nhiệm!

- Bẩm vâng, - Guiliano đáp, - Và con cũng cảm thấy bằng tất cả trái tim con rằng bổn phận của Cha là giúp con tìm được phép mầu nhiệm ấy.

Hắn nói mà vẻ mặt không có một chút ma mãnh, giễu cợt nào làm như chỉ do cái ý muốn tốt lành và chân thành là làm đẹp lòng vị ân nhân của hắn. Nhưng hắn đã phải hết sức dằn lòng mới khỏi bò ra mà cười.

Cha bề trên mãn ý. Và ngài lại nhìn hắn âu yếm. Đây là một anh chàng dễ mến. Ngài đã lấy làm thú vị được có hắn làm bầu làm bạn, chuyện trò rỉ rả trong tháng qua. Nhưng điều làm cho ngài khoan khoái nhất là ngài biết rằng anh chàng này cảm thấy mang ơn ngài sâu xa lắm. Về khoản này, quả thật, Guiliano không phải là phường vong ân bạc nghĩa. Trái lại, hằng ngày, mỗi khi có dịp, hắn sẵn sàng tỏ lòng tôn kính và lòng nhớ ơn của hắn bằng lời nói và việc làm đối với cha bề trên. Hắn không hề cảm thấy hối hận về điều hắn đã phạm, tức là khử một thằng cớm.

Cha bề trên ngẫm nghĩ: "Cái gì có thể xảy ra cho một con người như vậy trên cái đất Sicily đầy rẫy những chỉ điểm, mật thám, nghèo đói, ăn cướp và vô vàn, vô số tội phạm "tép riu" khác! A, được, ngựa quen đường cũ. Một kẻ đã giết người được một lần thì sẽ tiếp tục giết nữa, nữa, nữa. Tội ác cứ như cái kềm càng ngày càng siết chặt lấy hắn". Bởi thế, cha bề trên đã quyết định nói với Ông Trùm Croce Malo dẫn hắn vào con đường - mà theo ý của ngài - rất phù hợp với khả năng và khuynh hướng của hắn.

Một ngày kia, lúc đang nằm nghỉ trên giường, Guiliano thấy có một vị khách lạ được cha bề trên đưa đến thăm. Người khách đó được cha bề trên giới thiệu là cha Benjamino Malo, một người bạn thân thiết của cha. Rồi, cha để chào hai người ngồi nói chuyện riêng với nhau. Bằng giọng ân cần, niềm nở, cha Benjamino nói:

Anh bạn trẻ, cha bề trên cho cha biết là con bị thương rất nặng, nhưng con đã bình phục như thể do phép mầu nhiệm. Cha bề trên thánh thiện ở đây khẳng định rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể làm cho vết thương của con nặng như vậy mà lành được.

Guiliano lễ phép đáp:

- Nhờ ơn Chúa rủ lòng thương.

Và cha Benjamino hơi cúi đầu như thể chính người cũng được hưởng "ké" ân sủng đó.

Guiliano chăm chú nhìn ông ta. Đây là một ông cha chưa từng phải làm lụng nắng mưa ngoài vườn, ngoài ruộng. Cái áo thụng đen của cha - cho đến tận cái gấu áo - sạch sẽ quá chừng. Mặt cha béo phúng phính, trắng nõn. Hai bàn tay mềm mại quá. Nhưng chỉ cái vẻ nghiêm trang của cha cũng đủ thánh thiện rồi. Nom cha nhu mì, hiền hậu và tưởng như cha chẳng còn thiết gì đến sự đời trần tục nữa. Và cha lại còn có vẻ khiêm nhường, hạ mình. Tiếng nói ấm áp, dịu dàng, phúc hậu của cha lại rủ rỉ bên tai Guiliano:

- Con à, cha muốn ban phép giải tội và sau đó ban Thánh Thể cho con. Con hãy xưng tội đi để con có thể ra sống ngoài đời với tấm lòng trong sạch và thanh thản.

Turi Guiliano chăm chú nhìn vị giáo sĩ vận dụng đến quyền năng siêu phàm. Hắn nói:

- Thưa cha, xin cha tha lỗi, con chưa có tâm trạng ăn năn sám hối, nếu con xưng tội mà không có tâm trạng sám hối, con e rằng tội của con không được Chúa tha mà còn mắc thêm một trọng tội nữa là làm hư phép bí tích giải tội. Đó là tội phạm thánh, phải không, thưa cha? Tuy nhiên con hết sức cảm kích vì hảo ý của cha và hết lòng cảm tạ cha.

Vị giáo sĩ gật gật nhè nhẹ cái đầu ra vẻ đồng ý và nói:

- Ừ, nếu như thế thì thêm tội nữa thật. Đúng, tội phạm thánh!

Nhưng cha lại có một đề nghị khác với con. Và đề nghị này có lẽ thực tế hơn với con ở đời này. Anh của cha là Ông Trùm Croce nhờ cha đến hỏi xem con có muốn đến nương náu đằng nhà anh ấy, ở Villiba ấy mà. Với con thì anh trả lương hậu hĩ, ưu đãi, và tất nhiên - như con đã biết - chính quyền không dám đụng đến cái lông chân của con khi con được anh bao che.

Guiliano kinh ngạc vì việc mình làm đã đến tai một người như ÔngTrùm Croce. Hắn biết là từ nay hắn phải cẩn thận, hết sức cẩn thận. Hắn ghét Mafia thậm tệ, ghét cay ghét đắng. Và hắn không muốn để cho mình bị dính vào cái lưới của chúng:

- Thật là một vinh dự lớn cho con, - hắn nói. - Tạ ơn cha và tạ ơn Ông Trùm. Nhưng con còn ông bà già. Mặc áo sao qua khỏi đầu. Ông bà già con còn, thì con phải theo ý của ông bà già con. Do đó xin cha ban cho con thời gian để lãnh ý ông bà già con đã. Ngay lúc này xin cho phép con được từ chối ân huệ của cha.

Hắn thấy vị giáo sĩ ngạc nhiên. Ở Sicily này, người ta cầu cạnh không được, chớ có ai lại từ chối sự che chở của "tay tổ" Croce nhỉ? Mà dù không muốn đi chăng nữa, cũng chẳng có ai dám từ chối một khi "tay tổ" đã yêu cầu. Bởi vậy, hắn nói thêm:

- Có thể ngày mai, ngày mốt con sẽ nghĩ khác đi. Và nếu vậy con sẽ xin đến Villaba gặp cha.

Lúc bấy giờ cha Benjamino mới hết cơn choáng do sự ngạc nhiên gây ra. Ngài đưa tay ban phép lành cho Turi Guiliano.

- Con à, hãy đi theo chân Chúa. Con sẽ luôn luôn được nồng nhiệt tiếp đón ở nhà người anh của cha.

Ngài đưa tay làm dấu thánh giá, rồi đi ra.

Turi Guiliano biết rằng đã đến lúc hắn phải rời tu viện. Tối hôm đó, lúc Aspanu Pisciatta đến thăm Guiliano bảo y phải chuẩn bị sẵn các thứ cần thiết để hắn rời tu viện và dấn thân vào cõi giang hồ. Hắn biết rằng khi cuộc sống thay đổi, hắn chỉ có Pisciotta làm bầu bạn. Pisciotta cũng chẳng có vẻ ngần ngại hoặc phản đối khi nhận được lệnh mà y biết rằng sẽ làm thay đổi một cách sâu xa cuộc sống của chính bản thân y. Sau cùng, Guiliano nói:

- Aspanu, mày muốn đi theo tao hay mày cứ ở lại gia đình mày cũng được, tuỳ ý mày!

- Bộ mày tưởng tao lại sẵn lòng nhường để cho mày hốt hết vinh quang, hưởng hết sự thú vị chắc? Để cho mày rong chơi trên núi, còn tao ở dưới này dắt lừa đi làm quần quật, đi hái ôliu mướn hả? Thế mà cũng đòi nói tình nghĩa anh em, bầu bạn. Phần tao, tao đâu có lòng dạ nào để cho mày một mình trơ trọi trên núi, khi mà từ nhỏ đến giờ, hai đứa mình - đi chơi hay đi làm - lúc nào cũng có nhau. Chỉ khi nào mày có thể tự do, thảnh thơi trở về Montelepre thì tao cũng mới trở về đó. Bởi vậy, đừng có nói chuyện điên khùng nữa đi, "cha"! Bốn ngày nữa "con" sẽ rước "cha". "Con" cần một thời gian ngắn để lo liệu và làm tất cả những gì mà "cha" vừa ra lệnh khi nãy đó!

Trong bốn ngày đó, Aspanu Pisciotta bận tíu tít. Y đã dò ra tung tích của thằng buôn lậu cưỡi ngựa đã đề nghị đuổi theo bắt Turi khi hắn bị thương. Thằng chó đẻ ấy tên là Marcuji. Và thằng ấy cũng là một tay đáng gờm, buôn lậu vào loại có hạng, tay em dưới trướng của Ông Trùm Croce, ông kẹ Quintana. Hắn cũng có một người chú ruột cùng tên, cũng có cỡ trong băng "Người anh em".

Pisciotta phát hiện ra là Marcuji có những chuyến buôn lậu đều đặn giữa Castellammare và Montelepre. Y cũng dò ra tên thằng "nhà quê" đã giữ gìm bầy la của thằng buôn lậu và mỗi khi bầy la được dắt từ trên núi xuống chuồng ở gần thị trấn Montelepre thì ngày hôm sau thằng buôn lậu sẽ có chuyến đi tải hàng.

Hôm đó, lúc vừa tảng sáng, Pisciotta đứng sẵn bên lề đường mà y biết chắc thằng Marcuji lát nữa thế nào cũng đi qua. Gã có một khẩu súng. Nhiều gia đình ở Sicily đều có súng và coi như một món đồ gia dụng cần thiết. Thật ra, dân Sicilian thường xài súng để thanh toán lẫn nhau và phổ biến đến nỗi khi diệt Mafia, Mussolini đã ra lệnh phải phá tất cả các bức tường xây bằng đá, không để cho bức tường nào cao quá 3 tấc để ngừa bọn sát nhân dùng tường làm nơi ẩn núp, phục kích.

Pisciotta quyết định khử Marcuji không phải chỉ vì thằng buôn lậu ấy đã tấn công, và đề nghị giúp bọn cớm bắt Guiliano lúc hắn bị thương, mà còn vì thằng này đã huênh hoang, khoác lác kể lại với bạn của nó. Bằng cách khử thằng buôn lậu này, Pisciotta muốn cảnh cáo bất cứ kẻ nào phản, chống lại Guiliano. Vả lại, y cũng cần khẩu súng mà y biết chắc thế nào thằng đó cũng mang theo. Y không phải chờ lâu.

Marcuji đang lùa bầy la đi Castellammare tải hàng nên gã thấy không cần đề phòng, cảnh giác. Vì thế, gã đeo khẩu súng trên vai, chứ không cầm tay sẵn sàng. Khi thấy Pisciotta đứng bên lề đường trước mặt, thằng buôn lậu cũng không cảnh giác. Tất cả những gì gã thấy chỉ là một thằng lỏi ốm o, xanh xao, có hàng ria mép trai lơ đang mỉm cười, châm chọc nhìn gã. Chỉ đến khi Pisciotta rút súng ra khỏi áo vét, chĩa vào gã thì gã mới giật mình. Gã tính phủ đầu Pisciotta và áp đảo tinh thần nó bằng một câu nói vừa hách dịch cha chú, vừa đểu cáng, xỏ lá. Gã xẵng giọng nói:

- Gõ lộn cửa rồi, con ơi! Nhìn coi mấy con la đi không, chứ làm gì đã có hàng. Bố mày mới đi, chứ chưa chở hàng về. Còn mấy con la này, nói cho con hay là của mấy ông nội mày đó. Mày mà đụng vào thì mồ tổ mà cũng không yên đâu. Kiếm chỗ khác làm ăn đi, con!

Thằng buôn lậu những tưởng đem oai mấy ông kẹ Mafia hù doạ thì thằng nhỏ này "teo" ngay. Ai dè, y không "teo" thì chớ, mà còn giở giọng ba que để đối đáp trả lại:

- Ê, thằng chó đẻ, tao không thèm lấy hàng, mà chỉ muốn lấy cái mạng chó của mày. - Điểm nụ cười độc ác y nói tiếp: - Mày đã có lần muốn làm anh hùng của bọn cớm. Mới cách nay hai tháng chớ có lâu la gì đâu, nhớ không, thằng khốn?

Marcuji nhớ ra. Gã trở đầu con la quay sang một bên làm như thể tình cờ con la lồng, quay như vậy. Nhưng thực ra là để che không cho Pisciotta thấy gã thò tay vào thắt lưng móc khẩu súng lục ra. Cùng lúc đó, gã giật mạnh dây cương cho con la quay một vòng cho tiện thể bắn. Điều cuối cùng mà gã nhìn thấy là nụ cười vừa nham hiểm vừa tai quái, châm chọc của Pisciotta. Phát đạn của gã chưa kịp bắn, thì phát đạn của Pisciotta đã lật gã khỏi yên con la và hất gã xuống đất.

Với sự thoả mãn độc ác, Pisciotta đứng giạng hai chân trên xác thằng buôn lậu, thí cho gã một phát ân huệ, rồi cúi xuống nhặt khẩu súng lục còn nằm trong tay Marcuji và tháo khẩu tiểu liên còn đeo choàng qua vai gã. Y moi hết đạn trên người thằng buôn lậu bỏ vào bao đạn của mình. Rồi tuần tự, mau lẹ, có phương pháp, y "đế" cho mỗi con la một phát, như một sứ điệp chuyển lời cảnh cáo đến cho bất cứ kẻ nào có manh tâm giúp đỡ kẻ thù của Guiliano, dù là giúp gián tiếp. Y lên đường, khẩu súng lục của y trong tay, khẩu súng lục của Marcuji thì nhét vào cạp quần và khẩu tiểu liên thì đeo lủng lẳng trên vai.

Y thanh thản, chẳng cảm thấy xót thương, ái ngại hay hối hận, áy náy gì ráo. Sự độc ác làm cho y mãn nguyện. Mặc dù y rất thương Guiliano, thằng anh họ và đồng thời là bạn chí cốt của y, nhưng mỗi đứa vẫn có lối cảm nghĩ riêng và hành xử riêng. Và mặc dù coi Guiliano là sếp, y vẫn cảm thấy phải chứng tỏ y vừa can đảm, khéo léo vừa có năng lực không thua gì Turi. Bây giờ, với bàn tay dính máu, y cũng bước ra khỏi cái vòng "yêu quái" của tuổi con trai và dứt bỏ mọi cương toả của xã hội để cùng với Turi vùng vẫy trên chốn giang hồ. Với hành động vừa rồi, y đã vĩnh viễn đứng về phía Turi Guiliano.

Hai ngày sau khi Pisciotta khử thằng buôn lâu, đúng bữa cơm tối. Guiliano rời khỏi tu viện. Hắn ôm hôn tất cả các thầy dòng tụ tập ở phòng ăn và cám ơn lòng tốt của họ. Các thầy dòng cũng cảm thấy bùi ngùi, buồn vì sự ra đi của hắn, dù rằng chẳng bao giờ hắn dự các nghi lễ tôn giáo với họ, chẳng xưng tội và cũng chẳng hề hối hận về cái tội sát nhân hắn đã phạm. Nhưng trong số các thầy dòng cũng có một vài vị đồng cảm với hắn, vì tuổi trưởng thành của họ cũng được đánh dấu bằng những tội ác tương tự và cũng chẳng cảm thấy bị xét xử gì.

Cha bề trên tiễn Guiliano ra tận cổng tu viện, nơi Pisciotta đang chờ. Ngài đã tặng nó một món quà từ biệt. Đó là bức tượng đen Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary mà bà Maria Lambardo Guiliano cũng có một phiên bản. Pisciotta thì được tặng một chiếc ba lô màu ôliu của nhà binh Mỹ. Guiliano cất bức tượng vào ba lô ấy.

Pisciotta nhìn cảnh cha bề trên và Guiliano từ biệt nhau bằng con mắt giễu cợt. Y biết cha bề trên cũng là trùm buôn lậu, một thành viên bí mật của Mafia và ông chủ khắc nghiệt của các nô lệ tức các thầy dòng. Bởi vậy y không sao hiểu được tình cảm bịn rịn, lưu luyến lúc chia tay của cha bề trên. Pisciotta cảm thấy có tình yêu, có sự cảm mến và nể trọng đối với Turi Guiliano. Nhưng y chẳng cảm thấy những tình cảm ấy đối với ai, dù người ấy vừa già cả, vừa có uy quyền như cha bề trên.

Dù sự cảm mến của cha bề trên đối với Guiliano có chân thành đi nữa thì cũng vẫn đượm vẻ vị kỷ. Ngài biết chắc chắn anh chàng thanh niên này một ngày kia sẽ trở thành một lực lượng không thể không tính đến ở Sicily. Phải là một tay lão luyện trong nghề dao búa, đồng thời có con mắt sành sỏi bậc thầy và một bộ óc sắc sảo nhìn xa trông rộng của một chiến lược gia có tài, thì mới có thể nhìn ra con phượng hoàng vừa chui ra khỏi vỏ trứng này. Về phần Guiliano, hắn biết ơn một cách chân thành, thuần khiết cha bề trên đã cứu sống hắn, và trên hết đã mở cho hắn thấy một thế giới mới - vừa quái gở, độc ác, lại vừa thâm trầm, quyến rũ, - cho hắn hiểu nhiều điều kỳ bí của mặt trái cuộc đời và đồng thời đã là người bạn gây cho hắn nhiều hứng thú. Trong thời gian hắn lẩn trốn tại tu viện, cha bề trên lại còn có nhã ý cho hắn sử dụng cả thư viện riêng của ngài. Điều đáng ngạc nhiên là hắn cảm mến chính cái mâu thuẫn, đối chọi giữa cái tốt và cái xấu hội tụ nơi con người này. Đối với hắn, cuộc đời như vậy cũng hồi hộp, thú vị và hấp dẫn như đi trên dây: làm điều tốt công khai đồng thời làm điều xấu kín đáo. Sự thăng bằng quyền lực giữa cái thiện và cái ác sẽ làm cho cuộc đời êm ả.

Cha bề trên và Turi ôm hôn lẫn nhau. Turi nói:

- Con mang ơn Cha nhiều lắm. Cha cứ cho gọi bất cứ khi nào Cha cần đến sự giúp đỡ của con. Con không hề từ nan bất cứ một sợ giúp đỡ nào mà Cha cần đến ở nơi con. Cha bảo gì con làm nấy.

Cha bề trên thân mật vỗ vai hắn và nói:

- Đức bác ái Ki - tô giáo không cho phép đòi hỏi sự đội ơn. Con hỡi, hãy quay trở lại con đường của Chúa và hãy kính sợ Chúa.

Nói vậy, nhưng Cha cũng biết rằng chính mình nói như một con vẹt. Cha cũng dư hiểu sự ngây thơ trong anh bạn trẻ này là thứ ngây thơ nào. Nhưng ngài rất nhớ lời hứa của Guiliano.

Guiliano khoác cái ba - lô lên vai, mặc dù Pisciotta không chịu nhận. Hai đứa sóng vai nhau bước qua cổng tu viện mà không ngoái cổ lại.

...........

(1)Nguyên văn tiếng ý: đại khái là một loạt 1 không: không biết, không nghe, không thấy, không nói, nghĩa là nín thinh trước mọi tội ác cho dù có bị tra tấn.

(2)Moise là người được Chúa Trời uỷ thác giải phóng người Do Thái bị làm nô lệ cho người Ai Cập cách đây mấy nghìn nưm (N.D).

(3)Giavê (Chúa Trời) phán với Moise: Người cầm cái gì ở tay đó? - Bẩm, cây gậy. Giavê phán: - Hãy quăng nó xuống đất. Moise liệng cây gậy xuống đất. Lập tức, cây gậy biến thành con rắn bò ngo ngoe. Moise hết hồn, chạy trốn con rắn. Giavê lại phán: - Hãy lấy tay chụp lấy đuôi nó. Moise làm theo, đưa tay chụp lấy đuôi con rắn. Và con rắn lại biến thành cây gậy trong tay ông (Kinh Cựu ước, sách Xuất hành, đoạn 4, câu 2 - 5)

(4)Muối để ướp thịt cá cho khỏi thối. Chuyển sang nghĩa bóng, nhờ người nghèo mà loài người bớt tội lỗi (N.D).

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 6

Từ một mỏm đá nhô ra trên đỉnh núi Ora, Turi Guiliano và Aspanu Pisciotta có thể nhìn xuống thị trấn Montelepre ở phía dưới và chỉ cách chúng vài dặm. Ánh đèn le lói từ những ngôi nhà trong thị trấn như đang cố gắng một cách tuyệt vọng để chống lại màn đêm đang từ từ buông xuống. Guiliano tưởng như mình còn nghe thấy tiếng nhạc từ máy phóng thanh ở quảng trường vọng lên, tiếng rao của người bán hàng rong trước mỗi bữa cơm chiều.

Nhưng, không khí trên núi thật khó chịu. Phải mất hai giờ để đi xuống và bốn giờ để đi lên chỗ mỏm đá ấy. Lúc nhỏ, Turi Guiliano và Pisciotta đã từng chơi đùa ở đây. Chúng biết rõ từng mỏm đá, đường hầm, khe núi, cái hang. Xa xa, phía sau mỏm đá chúng đang đứng, có một cái hang. Khi còn nhỏ, chúng rất thích hang này và tự đặt tên nó là Bianca. Hang rộng hơn bất cứ ngôi nhà nào ở Montelepre.

Aspanu đã tuân lệnh hắn, Turi nghĩ thế. Trong hang có túi ngủ, có xoong chảo, thùng đựng đạn, giỏ lương thực. Có cái thùng gỗ đựng đèn pin, đèn dầu và dao. Cũng có cả một thùng dầu hoả. Guiliano vừa cười vừa nói với Pisciotta:

- Tụi mình có thể sống hoài ở đây được.

- Vài ngày thôi, - Aspanu nói. - Đây sẽ là chỗ đầu tiên bọn cảnh vệ ập tới, nếu chúng đi lùng mình.

- Bọn thỏ đế đó chỉ dám đi ban ngày thôi, - Turi đáp. - Ban đêm thì tụi mình bình an vô sự.

Bóng tối như một tấm màn lớn từ từ buông phủ trên rặng núi. Nhưng trời đầy sao đến nỗi chúng có thể nhìn thấy nhau, Pisciotta mở ba - lô, lôi vũ khí và quần áo ra. Turi cởi chiếc áo dòng mà hắn vẫn mặc từ lúc rời khỏi tu viện và mặc chiếc quần nhung, áo sơ - mi... bên ngoài khoác áo jaket da cừu, chậm rãi, trang nghiêm như ông cố đạo làm lễ, Turi mang vũ khí vào: hai khẩu súng lục lủng lẳng hai bên hông, một khẩu đeo trong bao kẹp dưới nách, một khẩu súng nhỏ nhét trong túi áo jaket, lưng thắt sợi dây nịt gần đầy đạn, bên ngoài áo jaket là sợi dây nịt khác gắn băng đạn, khẩu tiểu liên đeo lủng lẳng trên vai. Turi mỉm cười nhìn Aspanu chỉ có con dao giắt sau lưng và khẩu tiểu liên cầm tay. Ngắm nghía Turi võ trang như vậy, Pisciotta bật cười:

- Nhìn mày với bấy nhiêu thứ đồ giết người đeo chằng chịt, tao có cảm tưởng như tao ở truồng vậy. Mang bấy nhiêu thứ trên người thì làm sao mày đi được, chớ đừng nói là chạy nữa. Vả lại, lỡ khi mày té, thì với cái xác "voi" của mày, cộng với thêm bấy nhiêu thứ đó nữa thì làm sao tao đỡ mày dậy cho nổi?

Guiliano mỉm cười, nụ cười khó hiểu. Dường như đó là nụ cười của một đứa trẻ tin rằng mình đã bị đẩy vào đường cùng. Vũ khí cà lên vết thẹo làm cho hắn cảm thấy đau đau. Nhưng hắn lại khoái cái đau đó. Vì, đối với hắn, cái đau đó chính là lời miễn xá cho tất cả những tội lỗi mà hắn sẽ phạm. Vì vết thẹo đó là món nợ hắn cho xã hội vậy. Những tội lỗi mà hắn sẽ phạm chẳng qua chỉ là cách hắn đòi lại món nợ đó mà thôi. Hắn nói với Pisciotta:

- Tao đã sẵn sàng đi gặp kẻ thù.

Từ đỉnh núi Ora dưới vòm trời đầy sao lấp lánh, hai đứa lần theo con đường mòn ngoằn ngoèo dẫn xuống thị trấn Montelepre. Được vũ trang để chống lại tử thần và chống lại đồng loại độc ác, hai đứa bước đi hân hoan. Mùi hương hoa chanh và mùi hoa dại ngào ngạt trong không gian. Guiliano cảm thấy một sự bình thản mà hắn chưa từng bao giờ cảm thấy. Hắn không còn bất lực trước kẻ thù ngang tàng, càn quấy và cũng chẳng phải đối diện với kẻ nội thù khủng khiếp nhất đối với hắn là sự nghi ngờ lòng can đảm của chính hắn. Phát đạn đã kết thúc cuộc đời của tên cớm kia, cũng đã kết thúc cuộc đời của kẻ nội thù ghê gớm nhất nằm ngay trong chính nội tâm hắn. Hắn cảm thấy từ nay không còn sợ bất kỳ ai, bất kỳ cái gì. Nghênh ngang, ngạo nghễ, hiên ngang đi gặp mọi kẻ thù. Nếu đã có một lần hắn khiến được đời hắn phải sống, cho thân thể bị đạn bắn lủng phải lành, số lượng máu đã mất phải tự bù lại cho đủ .... thì hắn tin rằng, hắn sẽ còn có thể tiếp tục ra lệnh như vậy nhiều lần nữa. Hắn không hề nghi ngờ mình có số hên. Và, sẽ còn hên dài dài. Hắn tin rằng rồi ra hắn cũng sẽ như các anh hùng trong các truyện cổ tích dân gian: chỉ chết khi đã hoàn thành nhiệm vụ, chỉ chết khi đã chiến thắng vinh quang! Hắn sẽ không bao giờ từ bỏ dãy núi này, gốc ôliu này và xứ Sicily khốn khổ và nghèo đói này. Hắn chỉ có một ý tưởng mơ hồ về cái tương lai huy hoàng của hắn. Hắn không thể nào lại trở thành một chàng thanh niên quê mùa, nghèo nàn, thấy bóng thằng cớm là đã mặt mày tái mét, lấm la lấm lét, thấy bóng quan toà là khép nép run sợ, mặc dù mình chẳng làm gì nên tội, mặc dù lũ cớm và quan toà thực ra cũng chỉ là những thằng còn tệ hơn mình bội phần, những thằng đã làm cho luật pháp, cho xã hội trở nên ung thối.

Hai đứa đã đi xuống đến con đường dẫn vào thị trấn Montelepre. Chúng đi qua một miếu thờ bên lề đường. Bên trong miếu thờ có tượng Đức Thánh Mẫu Mary đang ẵm Đức Chúa Con. Màu áo xanh da trời của Đức Thánh Mẫu sáng lên như mặt biển dưới ánh trăng. Không khí ngạt ngào mùi hương hoa chanh làm cho Guiliano ngây ngất. Hắn thấy Pisciotta dừng lại, hái một trái lê dại ngào ngạt vì không khí mát lạnh ban đêm. Hắn cảm thấy tràn ngập lòng yêu người bạn, đồng thời là thằng em họ, đã cứu hắn thoát chết, một tình yêu đã có gốc rễ từ lúc cả hai đứa còn là những đứa trẻ thơ dại. Hắn muốn chia sẻ cho bạn mình sự bất tử của hắn. Số mệnh của chúng không phải là sẽ chết như một anh nông dân vô danh tiểu tốt sống trên sườn núi ở Sicily. Trong niềm hứng khởi đó, hắn đã la lớn tiếng:

- Aspanu, Aspanu! Tao đã tin! Tao đã tin.

Chúng đã đi tới con dốc cuối cùng và sắp đi ra khỏi những tảng đá vôi chập chờn như bóng ma quái, đi qua khỏi miếu thờ có tượng Đức Chúa Jesus và tượng các thánh tuẫn đạo. Aspanu Pisicotta chạy bên cạnh Turi Guiliano, cười giỡn, tung tăng chạy nhảy dưới ánh trăng non đang soi đường cho chúng đi tới thị trấn Montelepre...

Dưới chân núi là một dải đất trống để chăn thả súc vật, qua bãi đất trống là bức tường sau của những ngôi nhà. Đằng sau những bức tường xây bằng đá ấy là những mảnh vườn trồng cà chua, và đôi khi vài gốc chanh hoặc một gốc ôliu. Cửa sau vườn của nhà Guiliano khép hờ. Hai đứa lặng lẽ lẻn vào, thì đã thấy bà mẹ Guiliano đứng chờ. Bà lao vào vòng tay của con, trên má bà, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Bà ôm hắn thật chặt, hôn hắn thật sát và thì thầm: "Cục cưng của mẹ, cục cưng của mẹ!" Và, lần đầu tiên trong đời. Turi Guiliano thấy mình đứng trơ dưới ánh trăng, trong lòng không gợn lên một chút xúc động, không có những cử chỉ đáp ứng lại sự vồ vập của mẹ.

Lúc đó đã gần nửa đêm. Trăng hãy còn sáng. Họ vội vã đi vào trong nhà để tránh con mắt rình rập của bọn mật thám. Các cửa sổ đều đóng lại. Những người thân trong gia đình Guiliano và gia đình Pisciotta đứng rải rác ngoài đường để canh chừng và báo động, nếu có toán tuần tiễu của cảnh sát. Trong nhà, người thân và bạn bè của hai gia đình chờ đợi đón mừng chúng trở về. Một bữa ăn còn lớn hơn cả bữa tiệc lễ Phục Sinh được dọn ra. Sau bữa ăn chung vui này, Turi và Aspanu sẽ phải "cắm trại" trên núi.

Ông bố Guiliano ôm hôn và vỗ vỗ lên lưng hắn, tỏ ý tán thưởng. Hai chị hắn, giáo sư Hector Adonis và cả một chị hàng xóm tên là La Venera cũng có mặt ở đó. La Vennera là một người đàn bà goá chồng mới khoảng 35 tuổi. Chồng chị là một tên cướp khét tiếng: Candelaira - bị phản bội và bị cớm phục kích bắn chết mới cách đó khoảng hơn hai năm. Tuy chị ta là người bạn thân nhất của bà mẹ Guiliano, nhưng Turi vẫn ngạc nhiên về sự có mặt của chị ta ở đây vào lúc này. Chỉ có bà già của hắn mới dám mời chị ta vào dịp này mà thôi. Trong giây lát, hắn tự hỏi tại sao? Hắn định hỏi bà mẹ, nhưng lại thôi vì thấy không tiện.

Họ ăn, uống, đối đãi với Turi như thể hắn vừa trở về sau một thời gian dài sống ở nước ngoài. Ông bố hắn muốn xem vết thẹo. Guiliano kéo áo lên để lộ vết thẹo to tướng, đỏ lói, xung quanh có vết bầm, xanh chàm do hậu quả thịt chỗ đó không bị thủng, nhưng cũng bị viên đạn làm chấn thương. Nhìn vết thẹo, bà già bật khóc, Guiliano mỉm cười và nói:

- Bộ má muốn con ở trong tù với vết thương do đòn bastinado hơn hay sao?

Mặc dù bầu không khí gia đình có vẻ vui gấp hai những ngày vui nhất hồi hắn còn bé, Guiliano vẫn cảm thấy không hoà nhập được hoàn toàn, vẫn cảm thấy một khoảng cách nào đó giữa hắn và gia đình. Thức ăn ngon: mực ống xào với mì, nước sốt cà chua, thịt cừu non rô ti và nướng, một chén lớn dầu ôliu trong vắt béo ngậy, tinh khiết, đĩa xalat... và một vò rượu vang. Tất cả đều là sản phẩm của Sicily. Bố và mẹ Guiliano lại kể lại những ngày huy hoàng hồi còn ở bên Mỹ. Giáo sư Hector Adonis đã làm cho họ say mê với những trang sử oai hùng của đảo Sicily, của Garibaldi (1) với cái áo sơ - mi đỏ nổi tiếng của ông, của những ngày toàn dân Sicilian nổi lên chống lại bọn Pháp dưới sự lãnh đạo Vespers trước đó cả trăm năm, cũng như tất cả những chuyện về dân Sicilian bị áp bức, bóc lột, đày đoạ bắt đầu từ Rôme, rồi đến Maure, người Viking phương Bắc, bọn Pháp, Đức, Tây Ban Nha ... Ôi, những tai hoạ của Sicily! Sicily không bao giờ được tự do, hạnh phúc mà chỉ được đói, được nghèo, được khổ và được... đổ máu!

Và ngày nay, không một người dân Sicily chính cống nào còn tin vào chính phủ, vào luật pháp, vào cơ cấu tổ chức trật tự xã hội. Vì, trong quá khứ, gần cũng như xa, tất cả những thứ đó chỉ được dùng để biến họ thành những con vật kéo xe, kéo cày. Qua bao năm, Guiliano đã từng được nghe, được biết và đã nhớ như in vào óc những chuyện này. Thế mà, hôm nay nghe lại, hắn vẫn còn thấy máu căm hờn sôi lên. Và hắn nghĩ hắn sẽ làm cho tất cả những cái đó phải thay đổi.

Guiliano nhìn Pisciotta ngồi nín thinh hút thuốc và lặng lẽ nhả khói qua ly cà - phê. Đối với Pisciotta thì cuộc đời này chẳng có gì là quan trọng, là trang nghiêm. Bởi vậy ngay trong cuộc họp mặt này, y chỉ làm thinh, giữ trên môi nụ cười tủm tỉm - không phải là nó có tính ít nói, trái lại cái miệng nó tía lia, hoặc vì nó lo lắng, bẽn lẽn - nụ cười mỉa mai, chế giễu. Nhìn nụ cười ấy, Guiliano biết được nó đang nghĩ gì trong đầu. Đại khái như thế này:

"Có đếch gì đâu mà cứ bốc thơm nhắng cả lên. Ngu thấy mẹ đi nên mới để cho thằng cớm "đòm" cho một phát. Cũng may là không đi tong luôn. Và cũng hên là đã kịp "lật gọng" thằng cớm đó mà trả thù, chứ không thì lấy mã tấu đẽo mặt cả đời chưa hết nhục. Nhưng, lại bị chúng săn như săn thỏ ấy. Vậy mà ông bà già mày và mấy người kia - thối thấy mẹ - cứ làm như mày là ông thánh vừa trên thiên đường sa xuống không bằng".

Guiliano nhìn sang La Venera. Chị đàn bà nạ dòng này, bà già mời làm gì, và tại sao chị ta lại đến? Hắn thấy chị ta không đẹp nhưng vẫn còn có nét lắm, táo bạo, nhưng hơi lẳng, ý chí kiên quyết lộ qua cặp lông mày như hai nét vẽ bạo tay và dứt khoát của một hoạ sĩ có tài, đôi môi đỏ xám như thể màu đỏ được nhìn qua một làn khói mỏng. Khó mà nói được khuôn mặt chị ta giống cái gì vì chị ta choàng khăn tang đen theo kiểu goá phụ Sicilian.

Turi kể lại đầu đuôi câu chuyện "tai nạn" của hắn. Ông bố của Guiliano - hơi ngà ngà - cất cái giọng lè nhè lên hoan hô vì hắn chỉ "nổ" có một phát một mà thằng cớm kia "đứt bóng" ngay. Bà mẹ hắn làm thinh. Ông bố hắn kể lại chuyện anh nông dân đến đòi lại con lừa, nhưng lão đã nói: "Anh mất có con lừa, còn tôi mất thằng con trai thì sao?". Aspanu nói chen vào: "Thật đúng là đồ lừa lại đi tìm đồ lừa". Mọi người cười ồ. Ông bố Guiliano cao hứng nói tiếp: "Thằng cha đó nghe chuyện thằng cớm bị "đứt bóng", bèn sợ té đái ra. Vì nếu đòi con lừa thì sẽ bị cớm hỏi thăm, lôi thôi dám bị no đòn bastinado lắm. Vì vậy nó mới thôi, chứ dễ à?" Turi thủng thỉnh nói: "Con sẽ tìm cách trả cho ông ta con lừa khác".

Sau cùng, giáo sư Hector Adonis phác hoạ kế hoạch cứu Turi. Theo ông thì sẽ bồi thường cho gia đình tên cớm bị "lật gọng" kia chút ít tiền. Vậy, ông bà già của Guiliano sẽ bán một thửa đất đi, và ông sẽ bù thêm chút ít vào đó. Nhưng, cũng phải đợi cho bên đó (gia đình tên cớm) nó nguôi ngoai đi đã. Ông Trùm sẽ làm áp lực với chánh quyền để nhận chìm vụ này và để gia đình tên cớm kia khỏi làm lôi thôi. Tóm lại là coi vụ đó như một tai nạn nghề nghiệp không hơn không kém. Làm sao để cả hai phía - chánh quyền cũng như gia đình tên cớm - đừng có bươi ra nữa, nhưng bề ngoài thì hai bên vẫn làm ra cái vẻ này nọ. Chỉ còn lại một việc phải giải quyết là cái căn cước mà Guiliano để lại hiện trường. Cái đó, trong vòng một hôm, Ông Trùm sẽ tìm cách để cho nó "thất lạc" khỏi hồ sơ phòng dự thẩm của ông biện lý. Điều quan trọng nhất là trong suốt năm nay, Turi cứ phải ẩn náu trên núi và không được lộn xộn gì. Turi kiên nhẫn nghe, mỉm cười đầu gật gù, không lộ vẻ bực bội. Thì ra họ vẫn cứ coi Guiliano hôm nay cũng vẫn chỉ là một Guiliano của mấy tháng trước đây. Hắn cởi áo jaket, tháo vũ khí, nhưng khẩu tiểu liên thì vẫn để dưới chân bàn chỗ hắn ngồi. Tuy nhiên, những cái đó chẳng gây cho họ ấn tượng gì. Cũng như vết thẹo đỏ lói trên thân thể hắn chẳng làm cho họ ghê sợ. Họ đâu có hiểu rằng viên đạn bắn lủng thân thể hắn thì cũng lúc cũng xé nát tâm hồn hắn. Bởi vậy hắn không còn là một thanh niên như họ tưởng.

Lúc này, tại nhà, hắn còn được an toàn. Những ngừơi tin cậy vẫn còn lởn vởn canh chừng ngoài phố, đồn cảnh sát báo tin nếu có động dạng gì. Ngay chính căn nhà - tuy xây cả trăm năm - nhưng tường bằng đá, song cửa tuy bằng gỗ nhưng là gỗ tốt và lớn bản, cửa ra vào thì chắc chắn và cài then sắt kiên cố, không tia sáng lọt ra ngoài và kẻ thù cũng không dễ gì mà đột nhập bất ngờ, ấy vậy mà Turi vẫn cảm thấy thấp thỏm, phấp phỏng. Những người thân cứ muốn ép hắn vào khuôn khổ sống trước kia, khuyến khích hắn trở thành một anh nông dân cù lần, quê mùa, hạ khí giới trước kẻ thù và chịu bó tay trước pháp luật. Lúc đó, hắn hiểu rằng có thể hắn sẽ phải tàn nhẫn ngay cả với người thân của hắn. Trước kia, hắn ước mơ được yêu hơn là có quyền lực trước đã. Hắn nhẹ nhàng nói với giáo sư Adonis và những người trong nhà:

- Thưa bố, con biết là do lòng yêu thương và lo lắng cho con mà bố đã đề ra kế hoạch như vừa rồi. Nhưng con thấy là không nên để cho má con phải bán đất đi để giải quyết những chuyện rắc rối do con gây ra. Xin bố và tất cả những người thân ở đây đừng quá lo lắng cho con. Con đã lớn rồi. Và, do đó, con phải tự lo lấy, phải tự trả giá cho sự bất cẩn của mình, không thể để cho bất cứ ai phải bồi thường cái chết của thằng cớm do chính con gây ra. Nên nhớ là con chỉ buôn chui có một chút pho-mát, chẳng phải chỉ có con đi buôn chui mà cả đảo Sicily này buôn chui, thế mà nó cũng đang tâm xả súng vào con. Chắc con cũng sẽ chẳng bán hạ nó, nếu con không thấy là nó bắn con sắp chết. Và nếu vậy, con phải trả thù. Nếu không, con là một thằng hèn, con không là một thằng đáng nhìn một ai nữa. Nhưng đó là chuyện đã qua. Từ nay về sau con sẽ không nổ súng dễ dàng như vậy nữa.

Pisicotta cố làm cho bầu không khí bớt căng thẳng. Y cười cười:

- Dù sao thì sống trên núi vẫn khoái hơn là ở dưới này mà cứ phải khép na khép nép, lấm la lấm lét mỗi khi thấy bóng mấy thằng cớm chó đẻ.

Nhưng câu nói ấy cũng không làm cho cha mẹ Guiliano bớt lo lắng. Đôi mắt sáng rực của bà lộ nét hốt hoảng, sợ sệt. Bà nói, giọng tuyệt vọng:

- Đừng có làm thằng ăn cướp, đừng có cướp của người nghèo. Họ đã quá nghèo, quá khổ rồi, đừng làm cho họ khổ thêm nữa. Sống ngoài vòng pháp luật có khoái hay không thì cứ để cô La Venera đây nói cho mà nghe.

La Venera ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào Turi. Hắn bị xúc động không phải bởi cái vẻ buồn thảm, mà bởi cái nét khêu gợi, đắm đuối. Đôi mắt hơi lẳng của chị ta chiếu thẳng vào Guiliano như thể lôi cuốn, mời gọi vào cơn đam mê khoái lạc. Trước kia, Guiliano chỉ nghĩ đến chị ta như một người đàn bà lớn tuổi hơn nó, nhưng nay, nhìn chị ta, nó thấy lửa dục bừng bừng. Bằng giọng nói đầy xúc động, chị ta nói:

- Cũng chính trên dãy núi mà cậu muốn sống ở đó, thì nhà tôi cũng đã ở. Nhưng, như một con thú. Lúc nào cũng nơm nớp, lúc nào cũng thấp thỏm, ăn ngủ không được. Hai vợ chồng đang ân ái trên giường mà chỉ một tiếng động nhỏ cũng làm anh ấy giật mình, chồm dậy, dáo da dáo dác. Nằm ngủ tại nhà mà súng anh ấy vẫn để sát bên mình. Nhưng cũng chẳng vì thế mà bớt sợ, cho đến khi con bé cháu nó ốm, anh ấy ráng lén về thăm nó. Và bọn cớm biết anh ấy là người rất từ tâm, thương con, nên chúng phục sẵn, và chúng đã bắn chết anh ấy như bắn con chó ngoài đường. Chúng đá vào xác anh ấy rồi nhìn tôi mà cười hô hố.

Guiliano thấy trên mặt Pisciotta có thoáng nét giễu cợt. Tên cướp khét tiếng tàn bạo mà lại có lòng từ tâm? Gã đã mần thịt liền một mạch sáu mạng người, chỉ vì nghi họ là mật báo viên. Gã cướp của đám nông dân khá giả đã đành, mà còn bóp nặn cả đám dân nghèo mạt, gieo rắc khủng bố khắp vùng. Ấy vậy mà vợ gã lại nghĩ khác, cho gã là thằng từ tâm.

Chẳng để ý đến nụ cười tủm tỉm của Pisciotta, La Venera nói tiếp:

- Tôi chôn chồng xong, thì một tuần lễ sau cũng chôn luôn đứa con. Người ta nói là cháu nó bị sưng phổi. Nhưng tôi nghĩ là nó chết, bởi lòng dạ nó cũng tan nát vì buồn, vì lo. Cái làm cho tôi nhớ nhất là lúc tôi lén lên thăm anh ấy trên núi. Anh ấy bị lạnh, đói và có lúc bị ốm nữa. Nhưng anh ấy vẫn không tìm cách trở về sinh sống như một người nông dân bình thường. Tệ nhất là lòng dạ anh ấy trở nên chai đá, không còn tính người, tâm hồn không còn an tĩnh được nữa. Bởi vậy, cậu Turi, đừng có quá tự ái và kiêu hãnh. Tụi tôi sẽ giúp cậu trong lúc hoạn nạn. Đừng sống như nhà tôi trước khi chết.

Mọi người im lặng. Pisicotta không tủm tỉm cười nữa. Ông bố Guiliano thì lầm bẩm trong miệng là bán thửa đất đi ông càng khoẻ, khỏi phải làm, sáng sáng có thể ngủ đến tám chín giờ. Hector Adonis nhíu mày và cúi nhìn tấm khăn bàn. Không ai nói năng gì. Bỗng, tiếng gõ cửa dồn dập đột nhiên phá tan sự im lặng. Đó là dấu hiệu báo nguy, Pisicotta đi ra nói gì đó với người báo tin. Trở lại, y ra hiệu cho Turi mang vũ khí vào và nói:

- Đèn trong trại của bọn cớm bỗng bật sáng trưng, chắc là tụi nó đang chuẩn bị. - Im lặng một chút, y nói tiếp. - Thôi, chào giã từ, rồi chuồn lẹ cho rồi.

Cái gây ấn tượng cho mọi người là cái bình tĩnh của Turi khi hắn chuẩn bị đào tẩu. Bà mẹ lao mình vào vòng tay của hắn. Tay Turi vẫn còn cầm cái áo da cừu, nhưng cũng đã sẵn sàng ôm hôn bà. Hắn chào từ giã mọi người. Cử động của hắn chẳng có gì là lýnh quýnh hấp tấp, nhưng cũng chưa đầy năm phút sau, hắn đã súng ống sẵn sàng đầy đủ trên người. Hắn cũng chẳng có vẻ gì vội vã, mà đứng đó mỉm cười với mọi người, rồi nói với Pisciotta:

- Aspanu, cứ ở lại đây rồi lên trên với tao sau, hay là đi với tao bây giờ cũng được.

Chẳng nói chẳng rằng, Pisciotta đi ra phía cửa sau và mở cửa đi ra.

Pisciotta đi trước dẫn đường. Đi qua dải đất nằm giữa chân núi và thị trấn, Guiliano khẽ huýt gió. Pisciotta dừng lại để Guiliano bắt kịp y. Vào đến gần núi, thì trời lại có vẻ sáng hơn nhờ những tảng đá vôi phản chiếu ánh trăng. Những người canh chừng cảnh sát đã cho hai đứa biết là không có cớm tuần tiễu ở hướng đó. Chúng có thể bình yên trở lại hang Bianca sau bốn tiếng đồng hồ leo núi. Nếu bọn cớm dám đuổi theo chúng ban đêm, thì phải kể đó là một ngoại lệ đòi hỏi vừa can đảm vừa điên khùng. Guiliano nói:

- Nè, Aspanu, trong đồn có bao nhiêu thằng cớm?

- Mười hai, chưa kể Maresciallo.

- Mười ba, con số xúi quẩy - Guiliano cười. - Có vài ngoe như vậy thì việc đếch gì mình phải chạy trốn? - Hắn im lặng một chút rồi nói tiếp: - Theo tao.

Hai đứa quay trở lại và đi xuyên vào thị trấn. Qua đường Via Bella, chúng có thể nhìn thấy căn nhà của Guiliano nằm im lìm trong bóng tối. Hắn nấp vào một chỗ khuất, chờ.

Năm phút sau, chúng thấy tiếng xe Jeep ào ào chạy tới. Sáu thằng cớm, kể cả Maresciallo, chất trên chiếc xe ấy. Hai tên từ trên xe nhảy xuống chặn lối ra vào nhà. Còn Maresciallo và ba tên kia tiến lên đập cửa rầm rầm. Cùng lúc đó, một chiếc xe bít bùng chạy đến đậu sát đằng sau xe Jeep. Hai thằng cớm, tay lăm lăm khẩu tiểu liên từ trên xe nhảy xuống chặn hai đầu đường. Turi chăm chú nhìn quang cảnh đó và nhận xét: cuộc bố ráp được đặt trên giả thuyết là đối tượng không bao giờ phản công được, vì bọn cớm có ưu thế về quân số và võ khí. Turi luôn hành động theo nguyên tắc: khi bị săn đuổi, phải tìm cách để ở vào vị thế có thể phản công, bất kể sự chênh lệch lực lượng. Và có lẽ càng chênh lệch càng tốt.

Đây là cuộc "ra quân" đầu tiên của Guiliano. Và, hắn lấy làm ngạc nhiên là - Nếu hắn định gây cuộc đổ máu - hắn lại có thể dễ dàng chế ngự tình hình đến thế. Tất nhiên là hắn không thể bắn vào Maresciallo và ba người đang đứng trước cửa nhà hắn, vì sợ đạn lạc vào người nhà. Nhưng hắn có thể dễ dàng hạ hai thằng tài xế và bốn thằng đứng chặn ngoài đường. Nếu muốn, hắn có thể ra tay ngay khi Maesciallo và mấy thằng kia bước vào bên trong nhà. Khi súng đã nổ thì cho ăn kẹo thằng Maresciallo và mấy thằng kia cũng không dám thò đầu ra. Và lúc đó, hắn và Pisciotta tha hồ làm mưa làm gió. Còn bọn cớm ở cái xe chặn tuốt dưới cuối phố thì còn xa, do đó, đâu kịp đỡ đòn cho bọn này. Và chúng cũng chẳng dám chạy lên, nếu không có lệnh.

Nhưng, hắn không muốn gây đổ máu. Hắn vẫn còn "quân tử Tàu". Hơn thế nữa, hắn vẫn muốn xem Maresciallo giở những trò gì nữa. Vì thằng cha này có thể sẽ là đối thủ chính của nó trong tương lai. Đúng lúc đó, chính ông già nó ra mở cửa. Và Maresciallo đã hùng hổ, thô bạo nắm cánh tay ông già nó, lôi xềnh xệch ra đường và quát: "Đứng đó".

Một người như Maresciallo mà leo lên được cấp trung sĩ trong ngành cảnh sát quốc gia Ý thì đã là quá rồi, nhứt rồi. Và, nếu có leo lên được đến đó thì cũng chỉ được chỉ huy một tiểu đội cớm ở một cái thị trấn sơn lâm cùng cốc nào đó, như Montelepre chẳng hạn. Nhưng, ở những nơi ấy thì thầy đội cớm cũng "oách" chán, chẳng thua gì ông cha sở họ đạo, hoặc thậm chí, ông thị trưởng. Ấy vậy mà bà già Guiliano chẳng cung kính tiếp đón thì chớ, trái lại còn chặn ngang lối vào, nhổ nước miếng cái "tẹc" đặng tỏ dấu khinh bỉ. Gã và ba người của gã phải dùng sức gạt bà ra để vào nhà và lục soát, trong khi bị bà Guiliano mắng nhiếc, sỉ vả thậm tệ. Mọi người trong nhà đều bị lùa ra đường. Đàn ông, đàn bà ở các nhà bên cạnh cũng đổ xô ra ngoài để xem và la trách bọn cớm. Lục soát không có kết quả, Maresciallo quay ra hỏi cung những người trong nhà. Ông bố Guiliano đã hỏi ngược lại Maresciallo:

- Bộ ông tưởng là tôi sẽ tố cáo con tôi hay sao chứ?

Câu hỏi làm cho mọi người ngạc nhiên, thích thú và cười ồ cả lên. Maresciallo "quê" quá, ra lệnh cho mọi người quay vào trong nhà.

Trong chỗ đang nấp, Pisciotta thì thào nói với Guiliano:

- May mà bà già mày không có võ khí, chứ nếu có bà dám....

Nhưng, Guiliano không trả lời. Máu bốc rần rần lên đầu hắn. Hắn phải hết sức tự kiềm chế. Maressciallo dùng dùi cui quất một người trong đám đông đã dám phản đối hành động thô bạo của chúng đối với người trong gia đình Guiliano. Hai tên cớm khác túm đại mấy người, vừa quất dùi cui, vừa đấm đá túi bụi và đẩy lên xe bít bùng, bất chấp tiếng kêu la, sợ hãi phản đối. Có một người đứng một mình giữa đường bỗng thình lình đá mạnh vào Marescialo. Tiếng súng nổ, người đó té lăn trên đường trải sỏi. Từ một trong những căn nhà có bắn đang quằn quại. Turi nhận ra bà ta. Đó là bạn cố hữu của mẹ hắn và thường đem bánh trái sang cho bà.

Turi vỗ vai Pisiciotta, thì thào:

- Theo tao.

Hai đứa luồn lối quanh theo con đường dẫn tới quảng trường ở đầu đàng kia phố Via Bella. Pisciotta gay gắt khẽ hỏi:

- Mày làm cái quỉ gì vậy.

Nhưng, rồi y lại im lặng. Thình lình, y hiểu ra thằng Guiliano muốn gì. Chiếc xe chở những người bị bắt nhất định phải vòng xuống đây mới quay đầu xe trở về đồn được. Khi chạy len lỏi trong bóng tối, Guiliano cảm thấy mình vô hình như bóng ma. Hắn biết là địch thủ không bao giờ tưởng tượng được hắn sắp làm gì, mà cứ nghĩ là chắc giờ này hắn đang cao chạy xa bay lên núi rồi. Hắn cảm thấy phấn khởi một cách dữ dội. Chúng sẽ phải học bài học kinh nghiệm này: không thể nào lục soát nhà của Guiliano mà lại bình yên vô sự. Để mỗi khi chúng muốn làm như vậy, chúng phải suy đi tính lại. Chúng không thể lạnh lùng nổ súng, coi mạng người như ngoé, như đồ chơi được. Hắn sẽ bắt bọn cớm phải kiêng nể những người lối xóm cũng như gia đình hắn.

Guiliano và Pisciotta đã đến phía cuối quảng trường, chỗ có ngọn đèn độc nhất và chiếc xe cảnh sát đậu chặn lối đi vào đường Via Bella. Cứ như thể chúng đang bị vây trong rọ: đầu kia là bọn Maresciallo, đầu này là xe cớm đứng trấn. Bọn chúng đang nghĩ gì? Đó có phải là một kiểu mẫu hành quân vây hãm hay không? Chúng rẽ qua phía bên kia đường và chạy tọt vào cửa hậu nhà thờ. Ngôi nhà thờ đứng sừng sững trước quảng trường. Vào bên trong, cả hai nhảy qua hàng rào chấn song chỗ cung thánh và ngừng lại chút xíu trước bàn thờ. Đây là nơi mà trước kia, lúc còn nhỏ, hắn đã từng làm tiểu lễ sinh giúp ông cha ban bánh thánh cho giáo dân vào các ngày lễ và ngày chủ nhật. Vũ khí trong tay, hắn quỳ gối, tay quơ quào làm dấu thánh giá trước ngực. Thoáng trong một giây, hình như quyền lực toát ra từ tượng Chúa Jesus trên đầu đội mão gai, bị đóng đinh trên cây thập tự, tượng của Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary mặc áo màu da trời và từ tượng các chư thánh khác đã làm cùn nhụt cái ý chí chiến đấu của chúng. Nhưng, chúng bỗng đứng phắt dậy và chạy dọc theo lối giữa nhà thờ và đi đến cánh cửa lớn bằng gỗ sồi trông ra quảng trường. Nơi đây, chút xíu nữa thôi sẽ thành chiến trường. Chúng quì xuống, chuẩn bị vũ khí.

Chiếc xe chặn lối vào phố Via Bella đã lùi lại, lấy lối cho xe bít bùng chở người bị bắt vào quảng trường để quay đầu xe. Đúng lúc đó Guiliano mở hé cửa và khẽ nói với Pisciotta:

- Bắn bổng trên đầu chúng nó thôi.

Đồng thời, hắn chĩa súng bắn vào bánh xe và thùng xăng của chiếc xe. Lập tức, bánh xe xẹp lép và bắt lửa. Hai tên cớm ngồi trên xe nhảy nhào ra ngoài nom như hai con búp bê bị đứt dây cột. Sự ngạc nhiên đã không cho chúng thì giờ để hoàn hồn! Bên cạnh Turi, Pisciotta đang bắn vào đầu chiếc xe bít bùng. Turi thấy tên tài xế nhoài người ra rồi nằm luôn. Những tên cớm có vũ trang khác nhảy ra và Pisciotta bắn tiếp. Thêm một tên cớm nữa bị "lật". Turi quay sang phía Pisciotta định trách. Nhưng tiếng súng máy nổ giòn và kính rớt loảng xoảng mảnh vỡ bắn tứ tung. Turi hiểu rằng không thể động lòng trắc ẩn, xót thương nữa. Aspanu có lý. Hoặc giết hoặc bị giết. Có thế thôi.

Guiliano kéo tay Posciotta chạy lại chỗ bàn thờ, chuồn qua cửa hậu và lẻn ra ngoài, len lỏi quanh co trong bóng tối trên đường quay về núi. Hắn biết đêm nay hắn không hy vọng giải cứu những người bị bắt. Hai đứa đã đi tới dải đất ngăn thị xã và chân núi. Chúng chạy lúp xúp băng qua dải đất đó cho đến khi leo lên đến dốc an toàn vì có đầy những tảng đá vôi che chắn cho chúng.

Bình minh vừa chớm trên đỉnh Ora trong dãy núi Cammarata bao quanh thị trấn.

Gần hai ngàn năm trước đó, Spartacus đã cùng đạo quân nô lệ của ông trú ẩn tại đây và từ đây phóng ra những đợt tấn công vào đạo binh La Mã. Đứng trên đỉnh Ora, nhìn mặt trời đang mọc, Turi Guiliano cảm thấy tràn ngập, rộn rã niềm vui tuổi trẻ vì hắn đã thoát khỏi tay kẻ thù. Hắn đã có quyền để cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì phải chết. Trong tinh thần, hắn không còn cảm thấy hoài nghi về những gì hắn sẽ làm, không còn băn khoăn về việc có phải là hắn đã làm cho Sicily được tự do và vinh quang, hoặc việc nào là xấu, việc nào là tốt. Tất cả những gì hắn sẽ làm chỉ là chiến đấu cho công lý, là phụng sự người nghèo khổ. Hắn sẽ bách chiến bách thắng. Hắn sẽ chinh phục được lòng mến mộ, cảm phục của những người bị áp bức, bị bóc lột, bị khinh miệt.

Năm đó, Turi Guiliano mới chỉ vừa hai mươi mốt.

.........

(1) Garibaldi (1807 - 1882): nhà ái quốc người Ý, đã cùng với Mazzini giải phóng đất nước và đấu tranh cho sự thống nhất của Ý. Ông cũng là tay giang hồ phiêu lưu, ba chìm bẩy nổi và là một "hiệp sĩ" hễ thấy sự bất công là ra tay. Chính vì vậy mà năm 1870 - 1871 ông đã đứng về phía Pháp chiến đấu chống Hoàng đế Phổ (Đức)

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 7

Ông Trùm Croce Malo sinh ra tại làng Villaba, bên một đầm lầy mà ông đã làm cho tươi tốt và nổi tiếng khắp đảo Sicily.

Ở Sicily, chẳng có gì gọi là trớ trêu khi "cha mẹ hiền lành sinh con quỉ sứ". Ông Trùm sinh ra trong một gia đình đạo ròng. Lúc y còn nhỏ, gia đình tính cho y đi tu làm linh mục kia đấy. Chả thế mà lại đặt tên cho y là Crocefiso (1) - gọi tắt là Croce - một cái tên mà chỉ những gia đình nào sùng đạo lắm mới dùng để đặt cho con. Lúc nhỏ, y là tiểu lễ sinh ở nhà thờ để giúp lễ cho cha cố. Và đến tuần Lễ Thánh (2), nhờ thân thể mảnh khảnh, nét mặt xương xương nhu mì, hiền hậu, nên y đã được chọn để đóng vai Chúa chịu nạn (3).

Nhưng đến tuổi trưởng thành thì rõ ràng là Croce Malo rất khó chấp nhận một uy quyền nào khác ngoài chính y. Y buôn lậu, tống tiền, ăn cướp. Sau cùng, và tệ nhất, y đã tặng cho cô thôn nữ thủ vai Magdalenna (4) trong các lễ kịch Chúa chịu nạn một cái bầu, rồi quất ngựa truy phong. Y nhất định không chịu cưới cô gái kia, lấy cớ là cô ấy đã nhiễm sâu cái vai trò của cô, nên y không thể lấy làm vợ được. Gia đình của cô gái thấy lối giải thích đó nghe khó lọt tai quá, cho nên đã hạ tối hậu thư: một, cưới cô bé; hai, bị thanh toán. Croce Malo quá kiêu hãnh, không chịu cưới cô gái "mang tai tiếng" ấy, nhưng cũng không muốn bị "mần thịt", bèn dông tuốt lên núi làm ăn cướp. Sau một năm làm nghề dao búa, y đã may mắn tiếp xúc được với các đàn anh trong nghề là tổ chức Mafia.

Mafia là một từ có nguồn gốc Ả Rập có nghĩa là "nơi tôn nghiêm", "cung thánh". Từ này nhập vào Sicily khi con cháu tiên tri Mahomet xâm lược đảo này vào thế kỷ thứ 10. Suốt dòng lịch sử, người dân Sicilian bị hết người La Mã đến chế độ dân quyền của Giáo hoàng, rồi đến người phương Bắc, người Pháp, Đức, Tây Ban Nha giày xéo, áp bức, bóc lột tàn nhẫn. Các chính quyền ấy không làm cho người dân Sicilian cái gì khác hơn là nô lệ hoá họ, hãm hiếp vợ con của họ, thủ tiêu các nhà lãnh đạo của họ. Ngay cả những người Sicilian khá giả cũng không thoát được những tai hoạ ấy. Tôn giáo pháp đình kiểu Tây Ban Nha đã vu cáo họ là dị giáo để tước đoạt tài sản của họ. Bởi vậy, Mafia được thành lập như một hội kín để trả thù. Khi nhà vua từ chối can thiệp, không chịu hành động để chống lại bọn quí tộc người Bắc đã hãm hiếp vợ con của họ, thì một nhóm nông dân Sicilian đã giết luôn tên hôn quân nhu nhược đó. Khi bọn cảnh sát dùng nhục hình cassetta (5) để trừng phạt một người Sicilian trộm cắp vặt thì người dân Sicilian tìm cách giết tên cảnh sát trưởng đó, dù tên trộm kia không phải là bà con ruột thịt gì của họ. Dần dần, nông dân và những ngoời nghèo khổ hình thành một tổ chức tự vệ. Và tổ chức này trở thành một chính quyền trong bóng tối. Nhưng người dân nghe theo, trọng nể chánh quyền trong bóng tối này hơn là chính quyền công khai, chính thức, khi giữa đám dân có sự bất hoà với nhau, họ không bao giờ cậy đến cảnh sát hay chính quyền chính thức phân xử giùm, mà nhờ đến thủ lãnh Mafia địa phương đứng làm trung gian hoà giải.

Tội lớn nhất đối với người Sicilian là cung cấp cho chính quyền bất cứ tin tức gì về bất cứ hành động nào của Mafia. Trước bất cứ hành động nào của Mafia, người dân phải tuyệt đối im lặng. Đó là luật omerta. Được thực thi qua bao nhiêu thế kỷ, luật omerta được mở rộng sang cả những trường hợp chính người thân của mình bị Mafia sát hại. Sự bất hợp tác của người dân với chính quyền công khai đã lên tới mức ngay cả những đứa con nít cũng được dạy cho biết không chỉ đường cho một người lạ khi người này hỏi thăm đường đến một làng nào hay nhà của một người nào.

Qua bao thế kỷ Mafia ngầm thống trị đảo Sicily đến nỗi không một chính quyền nào có thể ngăn chặn được quyền lực của Mafia. Cho đến tận thế chiến thứ hai, người dân cũng không bao giờ nói ra miệng cái tên "Mafia".

Sau năm năm hành nghề dao búa trên núi, Croce Malo được coi như một tay tổ lục lâm, nghĩa là một tay "có nghề", coi việc cắt cổ mổ bụng, thiên hạ không hơn việc cắt cổ một con gà, một chuyện vặt vãnh không đáng bận tâm. Y cũng được coi là một người "đàng hoàng", nghĩa là một tay đáng nể, đáng gờm. Sau một vài "dàn xếp", y an nhiên trở về sống nơi quê nhà ở Villaba, cách thủ phủ Palermo khoảng 40 dặm về phía Nam. Sự "dàn xếp" này bao gồm cả việc trả tiền cho gia đình cô thôn nữ bị hắn tặng cho cái bầu, rồi không chịu cưới, lấy cớ cô này "mang tai mang tiếng" quá. Hành động này được "bốc thơm" như một hành vi nghĩa hiệp của y. Để tránh sự nhục nhã, cô gái ấy đã phải sang Mỹ tha phương cầu thực dưới danh nghĩa một góa phụ trẻ. Bởi vậy - dù là một tên giết người không gớm tay, một tên cướp tàn nhẫn, một tay anh chị của đám "Người anh em" (tên gọi các thành viên của tổ chức Mafia - N.D) - Y - Croce vẫn không tin rằng bấy nhiêu danh hiệu là đã đủ để đảm bảo an toàn cho y trước sự trả thù của gia đình cô gái đã bị y làm nhục. Bởi vì đây là vấn đề danh dự - nếu y không bồi thường - gia đình ấy bắt buộc phải giết y, bất chấp hậu quả ra sao. Nếu không, gia đình ấy không còn mặt mũi nào mà nhìn lại. Vì, không dám trả thù, rửa nhục, ở Sicily này, được coi là một con người đê tiện, hèn mạt đáng khinh.

Bằng cách phối hợp sự hào hiệp với sự quỉ quyệt, Croce Malo đã được coi như một Ông Trùm. Dù chỉ mới vào khoảng tứ tuần mà y đã được coi là "Người anh em" có uy tín và uy thế đến nỗi được mời đến để phân giải những tranh chấp rất tế nhị và gay cấn có thể đưa đến những thanh toán giữa hai hay nhiều sếp Mafia khác. Là một con người vừa lý sự, vừa khéo léo, như thể bẩm sinh đã là nhà ngoại giao có tài, y được đám Mafia ở Sicily tôn là "Ông Trùm hoà giải". Nhưng, quan trọng hơn hết vẫn là cái tài giết người của y: giết bất cứ ai khi thấy cần, giết rất "ngọt" tay, bình tĩnh, lạnh lùng và không hề áy náy, xót thương.

Dưới "triều" của y, đám Mafia làm ăn phất lên như diều. Những tên cứng đầu cứng cổ cách mấy cũng nhũn như con chi chi, nếu không được thì được "hoá kiếp" hết. Ông Trùm Croce ngày càng giàu có. Ngay cả em trai của y - cha Benjamino Croce - tuy là bí thư chánh văn phòng toà Hồng y giáo chủ của Palermo, nhưng bàn tay của cha nhúng vào máu người ta nhiều hơn là nhúng vào nước thánh, trung thành với Đức Hồng y giáo chủ thì ít, mà với ông anh ruột dao búa thì nhiều.

Ông Trùm lấy vợ và có được một mụn con trai mà y cưng còn hơn trứng mỏng, đến độ tôn thờ "ông" con trai. Lúc đó, y chưa đạt đến trình độ siêu đẳng, và cáo già như sau này và cũng chưa bị các đối thủ chơi cho đòn nào đích đáng nên vẫn còn "bình" lắm, do đó y đã tính chơi một vố liều mạng. Nhưng, thời đó y nổi danh như cồn, không chỉ trên khắp đảo Sicily mà còn chấn động đến cả giới cầm quyền chóp bu ở Rome. Vố đó bắt nguồn từ một sự việc cũng rất tầm thường - một bất hoà nho nhỏ trong gia đình - mà, ngay cả những nhân vật tai to mặt lớn trong lịch sử cũng đành phải chịu.

Số là, với cái địa vị "Chúa Trùm" (Caph di capi: sếp của các sếp - N.D) trong đám anh chị Mafia, Don Croce tuy xuất thân bần hàn nhưng đã "vồ" được một em thuộc gia đình danh gia vọng tộc. Thật ra cái "vọng tộc" mà gia đình này có được chẳng phải vì tổ tiên năm đời mười đời của họ là ông hoàng bà chúa gì, mà là nhờ đã bỏ ra một món tiền lớn, nên đã biến máu đỏ thành "máu xanh" (6) chỉ ít lâu sau ngày cưới, cô vợ đâm ra ngủng nghỉnh, ỷ vào cái máu xanh "mua" của mình, cô nàng tỏ ra coi thường y, chê y đủ thứ, nào là gốc gác bần tiện quê mùa, nào là nói năng không tao nhã, mở miệng ra thì cứ như là đấm vào tai người ta, nào là chỉ quen giao thiệp với phường đầu trộm đuôi cướp, chỉ quen ra lệnh cho bọn đầu trâu mặt ngựa, nên không có những cử chỉ thanh lịch, không biết nịnh đầm. v.v. và v.v... Cô "tiểu thư vôi" ấy nhớ lại cái ngày mà những tay hào hoa phong nhã đã từng đeo đuổi mình phải dạt ra vì Ông Trùm tuyên bố xin cưới nàng. Nàng cứ tưởng như mình là nàng công chúa Bạch Tuyết, nhưng không có bảy chú lùn, mà chỉ có một bầy sát nhân ăn cướp bao quanh. Ông Trùm biết, cay lắm, nhưng không làm gì được. Vì, tuy chê bai vậy, nàng đâu có dại gì mà ra mặt rẻ rúng y. Đây là Sicily, chớ đâu phải là Paris hay Luân Đôn mà bảo là đàn ông không được đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một bông hoa. Và đàn ông Sicilian cũng không có cái kiểu nịnh đầm như mấy thằng cha hiệp sĩ dỏm chốn đế đô. Bởi vậy, y quyết định phải làm một cái gì đó khiến cho con mụ đỏng đảnh này phải biết oai để rồi kính sợ, luỵ phục cho đến trót đời đặng y còn rảnh trí mà chuyên tâm vào lo công việc làm ăn chớ. Ngày đêm, y cố vắt óc tìm cách giải quyết vấn đề. Và cái bộ óc quái quỉ của y đã giúp y đề ra được một kế hoạch "thần sầu" mà đến tổ sư bồ đề Machiavel (7) sống lại cũng phải chào thua.

Có tin đức vua sắp tuần du phương nam để xem thần dân Sicilian của ngài trung thành và tôn kích ngài đến mức nào. Tất cả mọi người dân ở Sicily đều ghét thậm tệ nhà cầm quyền ở Rome và đều sợ Mafia. Nhưng họ lại rất tôn kính đức vua vì ngài luôn mở rộng hoàng tộc bằng các liên hệ máu mủ, bằng các cuộc hôn nhân và nhận làm "bố đỡ đầu". Và cũng giống như những người dân Sicilian, ngài được tiếng là kính sợ Chúa và sùng kính Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary.

Đảo Sicily tưng bừng tổ chức lễ nghênh đón đức vua. Chủ nhật đầu tiên khi đặt chân đến Sicily, đức vua dự lễ Missa tại nhà thờ chánh toà Palermo. Sau lễ Missa, sẽ có lễ báp-têm (8) cho công tử Ollorto là hoàng thân Ollorto, một danh gia vọng tộc lâu đời ở Sicily. Thật ra, đức vua đã từng đỡ đầu cho vô số con vua cháu chúa khác và cũng đã đỡ đầu cho cả hàng trăm đứa trẻ con của các ngài thống chế, quận công, hầu tước.... và cả con của các ngài tai to mặt lớn trong chính quyền phát - xít của Mussolini. Đó là một thủ đoạn chính trị nhằm liên kết chặt chẽ vương triều với chính quyền hành pháp. Khi được nhà vua nhận đỡ đầu thì cậu công tử vương tôn đó đương nhiên trở thành "Hiệp sĩ của Hoàng gia", có giấy tờ chứng thực đàng hoàng. Về mặt vật chất cụ thể thì được đức vua ban cho một cái cúp bằng bạc.

Ông Trùm sẵn sàng hành động hớt tay trên hoàng thân Ollorto. Hôm đó, y đã cài vào buổi lễ tới 300 "tay em". Em ruột của y - cha Benjamino Croce - hôm đó cũng là giáo sĩ trợ tế cho đức ngài Hồng y giáo chủ Palermo chủ tế.

Theo nghi thức thì lễ báp-têm bao giờ cũng bắt đầu từ ngoài cửa nhà thờ. Vì lúc chưa làm báp têm - thì chưa phải là con Chúa. Và giếng nước để làm báp - têm bao giờ cũng ở cuối nhà thờ, ngay chỗ cửa ra vào.

Sau lễ Missa trong nhà thờ, hoàng thân Ollorto hãnh diện bước ra cửa nhà thờ - tay ôm cậu công tử còn nhỏ xíu. Đám đông đứng ngoài hoan hô ầm trời, vì hoàng thân Ollorto - một người mảnh khảnh, đẹp trai - là một quí tộc ít bị dân Sicilian ghét nhất. Đúng lúc hoàng thân bước ra khỏi cửa nhà thờ thì mấy trăm "tay em" của Ông Trùm ùa vào, chặn lối ra của đức vua, bao vây và cô lập ngài khỏi giáo sĩ cử hành lễ báp - têm là Hồng y giáo chủ Palermo.

Đức vua là người có vóc dáng thấp bé với bộ râu rậm hơn mái tóc. Ngài vận binh phục kỵ binh với dây chiến thắng chằng chịt và huân chương kín ngực, xuống đến tận gần rốn, khiến ngài trông như một thằng lính chì, đồ chơi của con nít. Bề ngoài coi ngài oai vệ vậy, chứ thật ra tâm địa của ngài rất dịu dàng, nhân hậu. Bởi vậy, khi cha Benjamino giúi vào tay ngài một cái bọc có đứa con nít đỏ hỏn, thì ngài chưng hửng mất chút xíu, chứ không có cự nự gì. Cha Benjanmino vội vã đổ nước thánh lên đầu đứa nhỏ, quơ quào qua quít vài dấu thánh giá, lẩm bẩm ba xí ba tú dăm ba câu kinh, thế là xong và ẵm đứa bé từ tay đức vua trao cho Ông Trùm ăn cướp của đảo Sicily, trở thành "Hiệp sĩ của Hoàng gia". Khóc vì cảm động và sướng quá, mụ vợ của Ông Trùm quì sụp trước mặt đức vua, tạ ơn đức vua đã nhận là "bố đỡ đầu" cho con trai mụ. Mụ chẳng ao ước gì hơn - vì tuy là cũng "máu xanh" đấy, nhưng là máu xanh "mua" - nên chẳng bao giờ mụ dám mơ tưởng một hạnh phúc bất ngờ mà lại quá lớn, quá cả sức tưởng tượng của mụ như vậy.

Ông Trùm Croce ngày càng phát tướng ra. Cái mặt xương xương của lão bây giờ sệ ra. Hai gò má rung rinh, nung núc như hai tảng thịt mông ốp vào đó. Mũi của lão trở thành một cái mỏ bự, một cái "ăng - ten" thu phát quyền lực. Mái tóc xoăn, cứng như dây kẽm gai đã ngả màu muối tiêu. Bụng phệ ra một cách oai vệ. Mắt híp lại và lúc nào cũng láo liên, loé lên những tia chớp, phóng ra những cái nhìn vừa sắc, vừa nham hiểm, độc ác. Cùng với tuổi tác, quyền lực của lão cũng tăng lên, đến cái mức trở thành một tượng đài bất khả xâm phạm. Dường như lão không có những nhược điểm mà mọi người không nhiều thì ít đều có; không khi nào lão tỏ ra giận dữ, không khi nào tỏ ra tham lam, lão tỏ ra niềm nở, lịch sự một cách khó tính toán, trìu mến một cách máy móc, vô hồn và đặc biệt không bao giờ có lòng yêu thương, trắc ẩn với một ai. Lão ý thức rất rõ hậu quả nặng nề và tình trạng nguy hiểm thường xuyên của lão, thêm vào đó, rất đa nghi, nhưng dù nằm trên giường với vợ, chớ hề bao giờ lão hé răng chia sẻ với vợ nỗi lo sợ của lão.

Lão đúng là ông vua không ngai của đảo Sicily. Nhưng, đứa con trai độc nhất của lão - vị "Hiệp sĩ của Hoàng gia", kẻ nối nghiệp lão - lại là nỗi thất vọng ê chề. Không phải vì kẻ thừa kế này ngu si, đần độn gì, mà chỉ vì nó thấm nhiễm đến mức bệnh hoạn cái lý tưởng tôn giáo. Đến nỗi, nó mò sang tận nước Brasil - trong khi Rome là trung tâm của công giáo - để tầm sư học đạo, rồi lặn lội vào tận trong rừng sâu Amazon để truyền giáo cho mấy thằng mọi ở truồng. Thế có đau cho lão không chứ. Lão lấy làm xấu hổ về điều này lắm và chẳng bao giờ nhắc đến dù chỉ là cái tên, thằng con ngu dại đó.

Mussolini lên nắm chính quyền. Ông Trùm không thấy có gì đáng lo ngại lắm. Lão đã quan sát rất kỹ "cái thằng hề mị dân" đó và đi đến kết luận đại khái như thế này:

"Thằng ấy đếch có đởm lược mà cũng chẳng sâu hiểm gì, chỉ được cái bẻm mép. Một thằng như vậy mà còn leo lên được chóp bu quyền hành ở cái nước Ý này, thì tao thừa sức làm vua không ngai ở cái đất Sicily này!"

Nhưng, rồi tai hoạ giáng xuống. Mãi mấy năm sau khi nắm và củng cố xong địa vị, Missolini mới có thì giờ đưa đôi mắt hiểm độc của hắn chiếu cố đến đảo Sicily và mấy "Người anh em". Hắn khẳng định Mafia là một tổ chức tội ác kinh khủng. Nhưng, nếu chỉ như vậy thôi thì chắc cũng không sao. Cái mà Mussolini không thể tha thứ cho Mafia là tổ chức này, dù núp trong bóng tối, nhưng đã thực sự kiểm soát và giới hạn phần nào quyền lực của hắn trong đế quốc của hắn. Hắn cũng thừa nhận là trong suốt dòng lịch sử, Mafia đã chống lại bất cứ thứ quyền hành nào ở Rome. Tất cả các nhà cai trị ở Sicily trong hàng ngàn năm qua đã trổ đủ thứ ngón nghề, mánh khoé để nắm lấy quyền hành cai trị thực sự ở Sicily mà vẫn không làm nổi. Húc đầu vào Mafia như húc đầu vào đá. Nhưng, nhà độc tài này đã thề rằng "sẽ quất cho bọn Mafia gục luôn, gục vĩnh viễn". Chính quyền phát xít đâu có thèm coi định chế thủ tục dân chủ ra cái cóc khô gì. Nó sẵn sàng, bằng mọi cách, làm bất cứ việc gì, miễn là đạt được mục đích của mình. Cái được mệnh danh một cách lừa bịp là "lợi ích quốc gia". Nghĩa là, nó cũng xài những biện pháp của chính Ông Trùm, có phần còn bạo hơn nữa là khác.

Mussolini đã đặc phái và trao quyền cho Caesare Mori, một tay chân tín cẩn nhất của hắn làm thống đốc toàn quyền đảo Sicily. Mori bắt tay vào việc bằng cách trước hết là dẹp cái hệ thống toà án, pháp lý ở Sicily, dẹp luôn cả cái lực lượng bán quân sự gồm toàn người địa phương Sicilian và đưa quân đội từ miền Bắc nước Ý tới. Và bằng đạo quân này, Mori đã cho dân Sicilian tắm máu. Y bắt giữ và lưu đày cả làng, già, trẻ, lớn, bé tuốt luốt, nếu bị nghi là dính dáng xa gần với Mafia.

Trước khi có chế độ độc tài của Mussolini, nước Ý Thiên Chúa giáo không có án phạt tử hình, Điều đó gây trở ngại không ít cho việc chống lại Mafia, vì các tên Mafia ác ôn côn đồ khét tiếng lẽ ra bị tử hình, nhưng vì không có án tử hình nên chỉ bị tù chung thân. Tuy nhiên chỉ ở tù được ít lâu thì hoặc được đồng bọn tổ chức phá ngục giải cứu, hoặc "vượt ngục" một cách rất đáng nghi ngờ. Tổ chức Mafia lại coi cái án tử hình như một biện pháp chủ yếu. Nhưng với Mori thì khác. Những tên Mafia gan lì - dù bị tra tấn bằng hình phạt casetta mà vẫn không khai - thì "đọp" liền. Những kẻ được coi là a tòng, đồng đảng, âm mưu... đều bị đem đi đày ở một hoang đảo trong Địa Trung Hải và bỏ đó ở đó "cho mềm xương". Chỉ trong một năm, đảo Sicily tả tơi, tổ chức Mafia manh mún, không còn là một lực lượng cai trị nữa. Chính quyền Rome coi như đánh lộn sòng hàng chục ngàn người dân vô tội bị "đọp", bị bắt bớ, tra tấn, tù đày oan với bọn Mafia chính hiệu.

Ông Trùm Croce lại khoái cái trò chơi dân chủ với cái lối cai trị màu mè nhân đạo. Do đó, lão rất tức giận trước những hành động bạo ngược. Các chiến hữu của lão bị "đọp", bị kìm kẹp, bị tra tấn, tù đày, còn lão, tuy không nhởn nhơ, nhưng vẫn sống. Lão vẫn chép miệng than thầm: "Tụi nó ngu quá, lộ liễu quá, ăn vụng mà đếch biết chùi mép". Nhiều đứa bị tù mà chẳng được đưa ra toà xét xử - toà đã bị dẹp sạch rồi còn đâu - chỉ vì chính quyền của Mori chỉ cần nghe tin đồn thì cũng đã làm tới rồi. Những bọn vô lại làm chỉ điểm mà các chiến hữu không dò ra manh mối bọn này để mà diết, thì "đứt bóng" là đáng rồi. Đối với bọn phát - xít thì toà án làm gì cho thêm tốn công, tốn của, mà lại rách việc ra. Chúng đẩy lùi lịch sử trở lại cái thời tôn giáo pháp đình, cái thời quyền năng thiên định của các bạo vương chuyên chế. Ông Trùm tuy chẳng hề tin tưởng tí ti nào vào cái gọi là dân chủ - bất kể dân chủ kiểu nào - nhưng dứt khoát, lão cũng không tin vào quyền năng thiên định. Lão còn dám quả quyết rằng chẳng ai có lý trí lành mạnh mà lại đi tin vào cái quyền năng thiên định ấy, trừ khi bị tứ mã phanh thây.

Tệ hơn nữa, bọn phát - xít lại xài cái hình phạt "tắm nắng" - tức là hình phạt cassetta - khiến cho nhiều, rất nhiều tên Mafia gan lì cũng đành phải phun hết các bí mật ra. Ông Trùm đã khoe một cách căm phẫn rằng ông không bao giờ thèm xài cái hình phạt lạc hậu và dã man ấy. Nếu cần phải giết người nào theo ý Ông Trùm - thì cũng nên cho người ấy "đi" một cách mau lẹ mát mẻ, không nên hành hạ đau đớn thể xác người ta. Đấy, "chủ nghĩa nhân đạo" của Ông Trùm đấy. Theo ông thì cứ "đọp". Giết là đủ. Cứ giết là khối đứa sợ.

Trong lúc Mori tung ra cuộc khủng bố trắng các Mafioso(9), thì giống như một loại cá mập lặn sâu dưới bùn - Ông Trùm cũng mai danh ẩn tích. Lão không đi lưu vong nước ngoài, mà chỉ chuồn vào một tu viện dòng khổ tu Phranxixcô - dưới sự che chở của cha bề trên Manfredi. Từ lâu hai người đã có quan hệ mật thiết và thân hữu. Khi bắt đầu làm ăn theo kiểu bắt cóc đòi tiền chuộc - mặc dầu rất tự hào về sự mù chữ của mình, vì nhu cầu, Ông Trùm đã phải mướn một tay "văn chương chữ nghĩa bề bề" là cha bề trên Manfredi để viết những bức thư tống tiền. Hai người tỏ ra rất thân thiện và rất tương đắc ở chỗ cả hai cùng có "tam khoái": một là phá trinh con gái, hai là uống rượu nho thượng hảo hạng, ba là tổ chức trộm cướp một cách tinh vi. Ông Trùm thường mời cha bề trên cùng lão vi hành sang Thuỵ Sĩ chữa bệnh, đồng thời thưởng thức "mùi đời" ở cái xứ sở xinh đẹp và hiền hoà ấy. Một sự nghỉ ngơi hợp lý và cần thiết cũng như là một phần thưởng phải có sau những tính toán căng thẳng của những vụ "làm ăn" nguy hiểm. Vả lại, ở Thuỵ Sĩ thì kín đáo hơn ở Palermo hay ở lục địa Ý.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Mussolini không còn đủ tâm trí và thời gian để "chăm sóc" đảo Sicily nữa. Ông Trùm lập tức nắm lấy thời cơ: đặt lại các đường dây liên lạc với các chiến hữu may mắn lọt lưới của Mori, báo những tin lạc quan cho những "Người anh em" trung kiên đang bị đày ngoài hoang đảo, tỏ tình hữu nghị với các "sếp" Mafia còn bị giam trong tù, cổ vũ bọn này kiên trì chịu đựng ít lâu đợi ngày ca khúc khải hoàn.

Ông Trùm biết rằng hy vọng độc nhất và tối hậu của lão là sự thắng trận của quân đội đồng minh Tây Âu. Bởi vậy, lão dồn hết nghị lực vào mục đích ấy, chớ chẳng phải lão thân Mỹ hay xót thương gì đám dân Sicilian đang rên xiết trong kìm kẹp của Mori và chế độ phát - xít. Lão tiếp xúc với các nhóm kháng chiến, ra lệnh cho lâu la của lão giúp đỡ các phi công quân đồng minh bị bắn rơi và nhảy dù sống sót. Chính trong những giờ phút quyết liệt ấy, Ông Trùm chuẩn bị kế hoạch hậu chiến của mình.

Tháng 7 năm 1943, quân đội Mỹ đã chiếm được đảo Sicily làm đầu cầu để đổ bộ lên vùng Nam Tây Âu. Ông Trùm đã rộng tay giúp đỡ. Trong quân đội Mỹ thiếu gì con em người Sicilian di cư sang Mỹ làm ăn? Chẳng lẽ người Sicilian lại đi chống lại người Sicilian đặng bảo vệ quyền lợi của bọn Đức quốc xã? Ông Trùm xúi giục hàng ngàn lính của Mussolini đào ngũ và trốn vào một nơi mà Mafia đã chuẩn bị cho họ. Bản thân lão móc nối với nhân viên mật vụ Mỹ và dẫn đường cho quân đội Mỹ qua các khe núi để đánh thọc vào sườn binh đoàn trọng pháp của liên đoàn Đức - Ý. Trong khi quân đội Anh đổ bộ bờ phía đông đảo Sicily bị tổn thất nặng nề và tiến quân rất chậm, thì ở bờ phía Tây quân Mỹ đã hoàn thành phần đầu kế hoạch với tổn thất không đáng kể.

Chính bản thân Ông Trùm - lúc này đã gần 65 tuổi và đã sồ sề lắm rồi - dẫn một toán dân quân gồm toàn các "tay em" vào tân Palermo bắt cóc viên tướng Đức, tư lệnh lực lượng phòng ngự của Đức và giấu viên tướng tù binh này ngay tại Palermo cho đến khi quân đội Mỹ tiến vào thủ phủ này. Bộ tư lệnh tối cao quân đội Mỹ tại Nam Tây Âu thông báo cho Ông Trùm biết là họ đã báo công của lão với Washington dưới danh nghĩa "Mafia tướng quân", và những tháng tiếp theo, Ông Trùm cũng được các sĩ quan tham mưu của Mỹ biết dưới danh hiệu đó.

Thống đốc quân quản Mỹ ở Sicily lúc đó là đại tá Alfonso La Ponto. Là một chính trị gia có thế ở New Jersey, ông ta đã được sự uỷ thác đặc biệt và trực tiếp của Wasshington. Ông ta cũng được huấn luyện để đảm nhận chức vụ đặc biệt này. Tài năng lớn nhất của ông ta là tánh lịch thiệp. Và ông ta đã biết vận dụng tài năng này vào các cuộc thương lượng chính trị. Các sĩ quan tham mưu trong guồng máy quân quản Mỹ cũng được lựa chọn kỹ cho phù hợp với vai trò này. Bộ tham mưu gồm hai mươi sĩ quan và năm mươi hạ sĩ quan và binh lính. Phần lớn bọn này là người Mỹ gốc Ý. Ông Trùm đã đối với bọn này hết sức thân tình, cứ như anh em ruột thịt, luôn tỏ ra bao dung, trìu mến. Đã thế, lão còn tỏ ra "tứ hải giai huynh đệ" vì "tất cả anh em mình đều là con cái Chúa cả".

Nhưng Ông Trùm - theo cách gọi của người Mỹ - cũng là một nhà thầu. Đại tá La Ponto đã coi ông là cố vấn và là ông bạn hào phóng. Đại tá thường đến nhà lão dùng cơm và nức nở khen những món ăn ở nhà lão.

Vấn đề đầu tiên mà Thống đốc quân quản Mỹ phải giải quyết là chỉ định các thị trưởng cho các thị trấn trên toàn đảo Sicily. Các cựu thị trưởng dưới chế độ phát - xít của Mussolini tất nhiên phải là đảng viên phát - xít và do đó phải nếm cơm tù của Mỹ. Ông Trùm gợi ý ngài đại tá bổ nhiệm các sếp Mafia vào các chức vụ ấy. Và đó là cách Ông Trùm thi ân bố đức cho các sếp này đồng thời biến các sếp này thành tay "đệ tử" của mình. Thành tích hiển nhiên nhất của bọn này là cái "mác" nạn nhân của Mussolini, đã bị hành hạ, tù đày vì đã "phản nghịch, chống lại các mục tiêu và lợi ích của nhà nước phát - xít". Còn những tội như cướp của giết người của bọn này, theo Ông Trùm báo cáo cho ngài La Ponto, chỉ là do bọn phát - xít chụp mũ, để làm nhục các sếp Mafia mà thôi.... Ông Trùm thường khoe món cá tuyệt hảo do đích thân vợ lão nấu, ngoài ra lão còn kể cho ngài đại tá và bộ tham mưu của ông ta nhiều đức tính cao cả, quí báu của những "Người anh em" của lão - thực ra gồm toàn một lũ sát nhân, đầu trộm đuôi cướp - trong đó cao quý nhất và sắc nét nhất là niềm tin của lũ này vào những nguyên tắc dân chủ, tự do, công lý. Ngài đại tá mừng rơn vì nhờ Ông Trùm mà ngài đã mau mắn tìm ra những con người đúng tiêu chuẩn để cai trị một dân tộc văn minh dưới sự lãnh đạo của ngài. Chỉ trong vòng một tháng hầu hết các thị trấn đã có thị trưởng. Tất cả các thị trưởng đều là những tay Mafioso trung kiên vừa được đem từ nhà tù phát - xít ra và đều được Ông trùm xác minh lý lịch và bảo lãnh là Mafioso thứ thiệt.

Bọn thị trưởng này cũng phục vụ tận tình và đắc lực cho quân đội Mỹ. Chẳng thế mà chỉ với một dúm sĩ quan và lính Mỹ mà cũng đủ để trị an cả hòn đảo Sicily rộng lớn. Chiến tranh vãn còn tiếp diễn và ngay trên đất , Mussolini vẫn còn ngự trị. Ấy thế mà chỉ với một dúm sĩ quan và lính Mỹ mà các điệp viên của Đức và Ý đành bó tay, trên đảo không hề xảy ra một vụ phá hoại nào, không một tên gián điệp nào dám hó hé. Chợ đỏ đen được giới hạn ở mức tối thiểu. Để tuyên dương thành tích ấy, Washington đã ban cho ngài đại tá huân chương đặc biệt và vinh thăng thiếu tướng.

Các thị trưởng Mafia của Ông Trùm đã tận tình, tận lực thực thi đạo luật cấm buôn lậu. Các toán cảnh vệ tuần tiễu ngày đêm, gắt gao lùng sục từ đường phố lớn cho đến ngõ hẻm, từ miền quê cho đến khe núi khuất nẻo. Tuy dưới sự cai quản của quân đội Mỹ, nhưng chế độ khẩu phần lương thực của chế độ phát - xít đặt ra do nhu cầu chiến tranh vẫn còn được áp dụng. Mọi sự vẫn như xưa, nghĩa là nhà nước vẫn thu mua lương thực của nông dân theo giá do nhà nước ấn định. Ông Trùm ra lệnh cho các thị trưởng, bọn cớm, cảnh vệ và các thanh tra nhà nước phải làm thế nào để những tên nông dân đầu bò đầu bướu phải đưa nông sản và dầu ôliu đến bán cho các kho nhà nước theo giá ấn định. Để bảo đảm việc này, Ông Trùm yêu cầu và được ngài đại tá La Ponto hoan hỉ chấp thuận cho lão mướn những xe tải của quân đội Mỹ để chở những lương thực ấy đến thủ phủ Palermo cũng như các thành phố, thị trấn khác như Monreale, Trapani, Syracuse, Catania và thậm chí cho cả thành phố Naples trên lục địa đang bị thiếu lương thực trầm trọng. Người Mỹ kinh ngạc trước tài năng tổ chức và sự hữu hiệu của Ông Trùm và đã không tiếc ban khen về việc lão đã hỗ trợ quân đội Mỹ hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp quá cả sự mong muốn.

Tuy nhiên, Ông Trùm đâu có ăn được những cái bằng khen đó. Và cũng chẳng đọc được những lời lẽ tâng bốc trong cái bằng khen đó. Bởi một lẽ đơn giản là ngay chữ Ý mà lão đã "mù" rồi, nói gì đến tiếng Mỹ! Và những cái vỗ vai khen ngợi của ngài đại tá cũng chẳng làm no được cái bụng phệ của lão. Đâu có ngây thơ đến nỗi tin vào lòng biết ơn của đám con cháu chú Sam này, hoặc tin vào những ân sủng chúa ban cho sau này trên cõi thiên đường để tưởng thưởng cho những việc lành lão đã làm "vì lòng nhân đạo và vì sùng thượng tinh thần dân chủ". Tất nhiên, lão không chê phần thưởng - bất cứ là do ai ban cho - nhưng phải ban thưởng theo kiểu của lão, và thưởng những món lão chịu kia. Mà lão có muốn "gan rồng đào tiên" đâu. Cái lão muốn, khiêm nhường và tầm thường lắm - thì cũng chỉ là nông phẩm, là dầu ôliu thôi. Bởi vậy, những xe tải của Mỹ chở đầy cứng lương thực - với tài xế có võ trang và giấy thông thành đặc biệt do chính ngài đại tá La Ponto ký - lại chạy về những địa điểm, nhập vào những kho do chính Ông Trùm chỉ định tại những thị trấn xa xôi, hẻo lánh như Montelepro, Partinico, Villaba chẳng hạn, từ đó Ông Trùm và đồng bọn tung ra bán giá cao gấp 50 lần giá chính thức trên thị trường chợ đen mà lão nắm độc quyền. Nhờ đó, lão gắn chặt được mối liên hệ và chia sớt mối lợi của lão cho các sếp đầy quyền lực của cái tổ chức Mafia đang hồi sinh. Chẳng phải lão thương xót hoặc quí hoá hay sợ sệt gì mấy sếp này mà vì các triết lý sống của lão là sự tham lam là cái hại lớn nhất và chắc chắn nhất đưa đến sự thất bại của con người.

Lão chia sẻ mối lợi cho đám đàn em cũng rất thoải mái. Lão còn có cơ hội khác nữa để bày tỏ sự hào phóng của lão. Ngài đại tá La Ponto nhận được nhiều món quà rất vô hại về mặt pháp lý, nhưng lại rất nặng về mặt tài chính, đồng thời lại được biểu lộ khát vọng cao quí của con người là lòng khát khao cái đẹp. Đó là những bức tượng cổ, tranh cổ, và nữ trang cổ. Cho là một trong những cái thú của lão. Các sĩ quan, nhất là bọn lính trơn đối với lão, thôi thì cứ "bố bố, con con" ngậu sị cả lên. Và chúng chẳng bao giờ chê những món quà mà lão tặng cho. Do đó, lão cũng được chúng dành cho lão quyền "ưu tiên hành quân" nghĩa là ưu tiên số một. Những xe tải chở hàng cho lão là những xe tốt nhất hoặc được sửa chữa cẩn thận nhất. Ông Trùm còn bố trí cho chúng được đi dự những bữa tiệc, ở đó chúng được cặp kè với những cô gái Sicilian mơn mởn với con mắt bốc lửa dục tình và với trái tim nóng bỏng là một trong những "đặc sản" của Sicily. Phần lớn bọn này đều có gốc gác Sicilian. Được đón tiếp trong những gia đình Sicilian "thuần chủng", được ăn những món ăn mà ông bà già ruột của chúng ở bên Mỹ - tuy cũng gốc gác Sicilian đấy, nhưng vì tha phương cầu thực đã lâu hoặc vì lý do nào đó - đã quên mất cách nấu rồi. Nhiều đứa còn thề non hẹn biển với các ả giang hồ hoặc ái nữ của các trùm ăn cướp, giết người, đâm thuê, chém mướn.

Ông Trùm đã có đủ mọi điều kiện trong tay để tái lập cái giang san của lão, để tổ chức lại mạng lưới quyền lực của lão và để tái thu hoạch các nguồn lợi trước kia lão đã hưởng. Các sếp Mafia trên khắp đảo Sicily đều là người mang ơn lão. Có làm được thị trưởng thì cũng do lão "vẽ mặt, đeo râu" cho, chớ ngoài cái tài đao búa ra thì lũ ấy, một chữ bẻ đôi cũng không biết, bình thường làm sao mà leo lên được cái chức thị trưởng vừa oai quyền mà lại vừa nhiều bổng lộc béo bở kia.

Lão kiểm soát tất cả các nguồn nước trên đảo và bán lại cho dân với giá cắt cổ. Bấy nhiêu đó cũng đã bộn bạc rồi. Lão còn chiếm độc quyền thị trường lương thực, lão nâng thuế đánh vào các tiệm trái cây, vào tất cả các lò sát sinh và các cửa hàng thịt, các tiệm cà - phê thường và cà - phê "ôm" và ngay cả mấy phường kèn đám ma cũng được lão để mắt tới. Ngay cả xăng dầu - do một nguồn độc nhứt là Mỹ - lão cũng độc quyền kiểm soát. Lão cung cấp cặp rằng cho các lãnh địa rộng lớn của các quí tộc và thỉnh thoảng - rẻ thì mua chơi - mua lại đất của các chủ đất có cơ phá sản. Với bấy nhiêu thứ quan tâm, thế mà lão vẫn còn đủ thời gian và tâm trí để phác hoạ kế hoạch tái lập cái "quyền lực đen", quyền lực trong bóng tối trên toàn cõi nước Ý mà lão đã từng nắm giữa trước khi Musolini lên nắm chính quyền. Lão quyết định phải giàu, mạnh trở lại. Vì dưới thời Missolini, lão gần như trắng tay về cả tài sản lẫn quyền lực. Trong những năm sắp tới - như người ta nói - lão sẽ đặt Sicily vào cái máy ép như trái ôliu.

Chỉ có một điều là cho lão buồn phiền lắm mà không làm sao giải quyết được. Đó là thằng con trai độc nhất của lão. Cái thằng điên khùng lẽ ra theo lão mà học tập "làm ăn" đặng mai sau nối nghiệp lão thì không lo, mà cứ lo "làm việc phúc đức". Cái cơ nghiệp đồ sộ này để cho ai đây. Ông em trai của lão - cha Benjamino - con rơi con vãi thì cả bầy đó, nhưng không được phép lập gia đình chính thức thì cũng như không. Ông Trùm không có một người nào ruột thịt máu mủ để truyền nghề và trao lại cái đế quốc của lão. Điểm lại mặt các sếp sòng Mafia hiện tại thì không có mặt nào vừa có bản lãnh lại vừa có liên hệ huyết tộc, xa gần gì cũng được, và còn trẻ để trước mắt làm cái "quả đấm sắt" một khi bàn tay bọc nhung của lão tỏ ra không đủ sức thuyết phục.

Người thân tín của Ông Trùm đã "chấm" Turi Guiliano vào vai trò đó. Tuy không phải huyết thống, nhưng chính ông em trai của ông và cả cha bề trên Manfredi cũng khẳng định với lão về năng lực và bản lãnh của hắn. Càng ngày càng có nhiều huyền thoại lan rộng trên khắp đảo Sicily về những việc làm táo bạo đến mức tưởng như thần thoại của anh chàng này, thì đủ biết rằng nhận xét của cha Benjamino và cha bề trên là "con mắt tinh đời".

Ông Trùm đã đánh hơi được giải pháp cho vấn đề của mình.

........

(1) Nguyên văn tiếng Ý và có nghĩa là cây thập tự.

(2) Tuần lễ trước ngày lễ Phục Sinh.

(3) Trong tuần lễ Thánh, các nhà thờ thường tổ chức các buổi lễ kịch diễn lại tấn bi kịch Chúa Jesus bị bắt, bị đưa ra toà, bị tra tấn trước khi "bị đóng đinh trên cây thập tự". Và y đã được hoan nghênh hết sức vì nhập vai rất có "thần".

(4) Magdalena nguyên là một cô gái điếm, nhưng có lòng ăn năn sám hối nên được Chúa tha tội. Khi Chúa bị nạn, bị đóng đinh, Magdalena đã theo Chúa đến tận nơi Chúa bị hành hình và sau ba ngày Chúa chết, Magdalena là một trong những người đầu tiên phát hiện Chúa đã Phục Sinh (N.D)

(5) Cassetta: hình phạt đại khái như nhốt một người vào trong một thùng thiếc nhỏ, rồi đem ra phơi nắng.

(6) Máu xanh (blue blood): người âu vẫn gọi một cách chế giễu giai cấp quí tộc (high birth or high descent là có "máu xanh". (N.D)

(7) Machiavel: tác giả cuốn "Ông Hoàng" trong đó đề cập đến các thủ đoạn bá đạo mà các nhà cầm quyền nên áp dụng để chiếm đoạt củng cố và nắm vững chính quyền. Các thủ đoạn ấy vô cùng quỉ quyệt thâm hiểm, bất nhân và tàn bạo. (N.D)

(8) Lễ báp têm: lễ rửa tội

(9) Mafioso: thành viên của tổ chức Mafia - N.D

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 8

Buổi sáng ngay sau đêm phục kích và trốn thoát khỏi Montelepre, Turi Guiliano và Aspanu tắm nắng ở dòng suối sau hang Bianca trên đỉnh núi Ora. Chúng dựng súng vào vách đá và trải mền ra, nằm duỗi dài để tắm nắng ban mai.

Hang Bianca dài và sâu. Ở cuối hang có tảng đá lớn đụng trần chặn ngang. Lúc nhỏ Turi và Aspanu đã tìm cách nhích được tảng đá đó ra một chút đủ cho người chui lọt. Và chúng đã thấy một lối thông sang sườn núi bên kia. Lối đó có từ thời trước Công nguyên và do đạo quân nô lệ đào để lẩn trốn và phục kích đạo quân La Mã. Xa phía dưới thị trấn Montelepre trông nhỏ bằng bàn tay. Những đường mòn dẫn đến rặng núi trông như những con giun ngoằn ngoèo bám vào vách núi. Mặt trời đang mọc nhuộm vàng rực rỡ những mảnh tường xây bằng đá màu xám và những mái nhà.

Không khí ban mai trong trẻo, trái lê dại trên mặt đất mát lạnh và ngọt. Turi bóc một trái, cẩn thận cắn để hút nước xấp giọng. Vài giờ nữa, sức nóng mặt trời sẽ làm cho những trái này khô xác như bông gòn. Những con tắc kè đầu tròn như trái banh, bốn cẳng nhỏ xíu hốt hoảng bò tới, bò lui trên tay, trên người họ. Những con vật này trông dữ tợn nhưng vô hại. Guiliano hất chúng ra.

Trong khi Aspanu lau chùi vũ khí, Turi nhìn xuống thị trấn bên dưới. Mắt hắn phân biệt được những chấm đen đen là những nông dân đang làm việc trên ruộng. Nó cố định vị nhà nó ở chỗ nào. Trước đó đã lâu - lúc chúng còn nhỏ - hắn và Aspanu đã trương hai lá cờ - một lá cờ Sicily và một lá cờ Mỹ - trên nóc nhà chúng. Tuy là những đứa trẻ ranh ma, nhưng lại thích được coi là những nhà ái quốc. Nhưng cái ý đồ thực sự của chúng khi trương cờ lên như vậy là để cho chúng leo lên những đỉnh núi cao này, chúng có thể nhìn thấy nhà của chúng.

Bỗng nhiên, chúng nhớ lại câu chuyện mười năm trước, chính quyền phát - xít trong thị trấn đã bắt chúng hạ cờ Mỹ xuống. Hai đứa tức điên, bèn hạ luôn cả hai lá cờ Sicily và Mỹ, rồi đem lên hang Bianca chôn dưới gần chỗ tảng đá ở cuối hang.

Guiliano nói với Pisciotta:

- Mày trông chừng chỗ mấy đường mòn.

Rồi nó đi vào hang. Mặc dầu đã qua mười năm, Guiliano vẫn còn nhớ chỗ đã chôn hai lá cờ. Một lớp rêu mỏng, màu xanh đen, xác xơ phủ trên chỗ chúng đã đào để chôn hai lá cờ, Guiliano lấy hòn đá làm cuốc để đào. Chỉ trong một hai phút, hai lá cờ đã lộ ra. Lá cờ Mỹ hơi bị nhàu nát và dính đất bọc ngoài lá cờ Sicily. Và cái bao hai lá cờ cũng vẫn còn. Lá cờ Sicily màu đỏ tươi và vàng vẫn còn rõ nét như hồi hắn mười tuổi và không bị thủng lỗ nào. Hắn đem ra ngoài hang, vừa cười vừa nói với Pisciotta:

- Aspanu, mày còn nhớ cái này không?

Pisciotta nhìn lá cờ và cả hai cười thích thú.

- Thật đúng là định mệnh. - Pisciotta la lên và nhảy lên giật lấy lá cờ trong tay Guiliano. Y đi lại phía mỏm núi cắm lá cờ vẫy vẫy. Rồi, cả hai đứa đứng lặng thinh chẳng nói chẳng rằng như thể mỗi đứa chìm vào trong những ý nghĩ riêng tư của mình. Guiliano bẻ một nhánh cây gần đó, cắm nhánh cây xuống và chèn mấy hòn đá cho chắc, rồi treo lá cờ vào đó. Lá cờ bay phấp phới. Từ dưới thị xã cũng có thể nhìn thấy. Và chúng ngồi xuống mỏm đá, chờ.

Cho đến tận trưa, chúng chẳng nhìn thấy gì. Nhưng, rồi chúng thấy một người cưỡi lừa đi trên đường mòn bụi bặm dẫn đến vách núi. Chúng nhìn thêm một giờ nữa cho đến khi con lừa đi vào rặng núi và bắt đầu leo dốc. Pisciotta nói:

- Mẹ kiếp, người cưỡi nhỏ hơn con lừa thì chỉ có thể là ông bố đỡ đầu của mày, chứ không ai!

Guiliano nhận ra ý khinh thường trong giọng nói của Pisciotta. Y dù ốm o, mảnh khảnh, nhưng lanh lợi, hoạt bát và trông cũng khá điển trai - nên rất tởm những người dị dạng. Bênh ho lao khiến đôi khi ho ra máu cũng làm y gớm, nhưng không phải vì y cho rằng bệnh ấy nguy đến tính mạng, mà vì sợ rằng bệnh ấy làm cho y mất đẹp trai đi. Dân Sicilian có cái khoái đểu cáng là dựa vào kỳ hình dị tướng của người ta để đặt cho những cái hỗn danh châm chọc, chế giễu, mỉa mai đến độ tàn nhẫn. Đã có lần, bị thằng bạn gọi là "ngực lép", Pisciotta đã xỉa cho thằng đó một dao. May mà Guiliano kịp can ra, chớ không thì thằng đó cũng rồi đời.

Guiliano chạy xuống vài dặm và nấp đằng sau một tảng đá lớn. Đó là lối chơi ngày còn bé, hắn và Aspanu hay chơi. Hắn đợi cho Adonis đi qua, rồi chĩa súng phía sau lưng và thình lình quát to: "Đứng im! Cấm nhúc nhích!". Lại một trò chơi hồi bé. Adonis từ từ quay lại để che cái tay đang rút súng lục. Đứng đằng sau tảng đá, Guiliano cười và lên tiếng:

- Turi đây mà, bố! - Và đợi cho đến khi Adonis nhét súng vào beo và cởi ba - lô ra, Guiliano mới hạ nòng súng và rời khỏi chỗ nấp. Biết là vì cặp giò quá ngắn, nên ông Adonis lên, xuống ngựa khá khó khăn, Guiliano định chạy ra đỡ ông xuống. Nhưng khi tới nơi thì ông đã tuồn được xuống đất rồi và vội vã ôm hôn hắn. Họ đi ngược lên, Guiliano dắt lừa.

- Khá đấy, nhỏ, mầy đã đốt giai đoạn rồi, - Hector Adonis nói bằng cái giọng nghề nghiệp của ông. - Đêm hôm rồi, thêm hai mạng cảnh sát nữa. Không phải chuyện giỡn chơi đâu, nghe con!

Khi họ tới chỗ mỏm đá, Pisciotta chào ông.

- Nhìn ngọn cờ Sicilian. - Adonis nói, - Thầy biết là tụi con ở quanh quẩn đâu gần đó thôi.

Pisciotta toét miệng ra cười:

- Turi và con cùng với ngọn núi này đã tách ra khỏi nước Ý và tuyên bố độc lập.

Hector Adonis nguýt một cái và nghĩ bụng: "Thật đúng cái thói duy ngã của bọn thanh niên ngông cuồng, cứ cho mình là cái rốn của vũ trụ".

- Tận dưới thị xã cũng còn nhìn thấy lá cờ này, kể cả Maresciallo và đám cảnh vệ. Thế nào tụi nó cũng lên đây tước lá cờ đó!

- Lúc nào cũng giở cái giọng dạy đời ra được! - Pisciotta nói một cách xấc xược. - Chúng sẽ đến đây để chào cờ. Và chúng sẽ chỉ gặp lá cờ này mà thôi. Ban đêm thì tụi này hoàn toàn bình an, vô sự. Bọn cớm mà dám mò lên đây ban đêm thì có hoạ là trời sập.

Adonis làm như không biết đến y. Ông tháo cái túi đeo trên lưng con lừa ra và lấy từ trong túi ấy một cái ống nhòm loại tốt, nhìn xa, rồi mấy bộ quần áo, kể cả đồ lót, bộ đồ cạo râu của ông bố hắn và sáu bánh xà - phòng. Trao cho Guiliano, ông nói:

- Ở đây thì con cần mấy thứ nầy!

Guiliano khoái nhất cái ống nhòm. Chúng nó liệt kê những thứ chúng cần và nhờ ông tuần sau mang lên. Guiliano biết là mẹ hắn ưa tích trữ xà - phòng đủ xài cho cả năm.

Ở một cái túi khác, ông Adonis lôi ra một tảng phó mát có trộn tiêu, một ổ bánh mì và một ổ bánh gì đó nhồi đầy thịt heo, rồi lại phó - mát và trứng gà luộc. Chỉ tay vào cái bánh nhồi thịt, ông Adonis nói:

- Cô La Venera gửi cái bánh này cho con, nói là ngày trước, mỗi khi lên núi thăm chồng, chị ta đều làm bánh này. Với cái bánh này, anh chồng chị ăn cả tuần lễ, không bị hư.

Pisciotta nheo con mắt ra hiệu vừa thân mật vừa châm chọc và nói với Guiliano:

Càng già càng dẻo càng dai.

Bà càng kinh nghiệm, thì trai càng mòn,

Bà càng lắm phép nhiều đòn,

Vài đêm ân ái, trai còn bộ xương!

Đúng không? Guiliano? - Và, Pisciotta lăn ra cười hô hố.

Hai đứa ngồi xuống vệ cỏ, bẻ bánh ra ăn. Pisciotta lấy con dao y vẫn dùng để "lụi" người ra cắt phó mát. Đám cỏ chúng ngồi có nhiều côn trùng, nên chúng dọn lên chỗ mỏm đá. Ăn xong, chúng uống nước suối trong vắt chảy ở phía dưới chúng chừng ba chục mét. Rồi chúng lại lên chỗ mỏm đá, ngồi. Ông Adonis thở dài:

- Hai đứa tụi con cứ nhởn nhơ tự mãn. Nhưng đây đâu phải là chuyện giỡn chơi, mà là chuyện giết người. Nếu chúng bắt được tụi con là chúng "phơ" liền tại chỗ.

- Nếu tụi con bắt được tụi nó cũng vậy, - Guiliano trầm tĩnh nói, - cũng "phơ" liền.

Ông Adonis rất xúc động về điều này. Vậy là hết hy vọng dàn xếp:

- Đừng có liều lĩnh, - ông nói, - Tụi con còn trẻ quá mà.

Guiliano nhìn ông thật lâu, rồi trầm tĩnh nói:

- Tụi con còn quá trẻ đối với bố, nhưng đối với tụi nó thì chắc là đủ lớn để tụi nó xả súng bắn chỉ vì buôn chui phó - mát. Tụi nó đối dãi với tụi con như vậy, bộ bố muốn tụi con phải cong đuôi chạy à? Để gia đình tụi con chết đói à? Để hàng tuần bố đem thức ăn cho tụi con, còn tụi con nhởn nhơ ở đây chơi à? Tụi nó đến đây để giết tụi con, bộ tụi con phải quỳ xuống để cho tụi nó giết à? Và thưa bố, khi con còn nhỏ, bố đã chẳng nói cho con nghe về đời sống khốn khổ, khốn nạn của người nông dân Sicilian đó sao? Họ đã bị bọn người Rome, bọn thu thuế, bọn quí tộc, bọn địa chủ áp bức, bóc lột như thế nào khi đi làm thuê làm mướn cho chúng nó, làm quần quật còn hơn con lừa mà chỉ nhận được đồng lương vừa đủ để khỏi chết đói đó sao? Bản thân con đây này, con cùng với 200 người dân ở thị trấn đến quảng trường để cho chúng mặc cả giá tiền công như thể chúng con là súc vật không bằng. "Một trăm lire công một buổi sáng, chịu thì chịu, không chịu thì thôi, cút, xéo, về nhà mà chết đói nhăn răng ra, đừng có đứng ở đó mà lải nhải xin xỏ, rác tai ông!" Đấy, chúng nó nói với chúng con như thế đấy! Chúng nó đối đãi với chúng con như thế đấy. Ấy thế mà vô số anh em chúng con biết rằng nó bóc lột mình mà vẫn phải cắn răng chấp nhận đồng lương chết đói ấy. Ai sẽ là vô địch ở Rome, nếu không phải là Guiliano?

Nghe vậy, giáo sư Adonis hết hồn vía. Là một thằng ăn cướp đã là quá mạo hiểm, nhưng là một nhà cách mạng thì lại còn mạo hiểm hơn.

- Trong văn chương thì mọi sự đều hay, đều đẹp cả, - ông Adonis nói. - Nhưng trong thực tế cuộc đời thì làm vậy là mau xuống mồ lắm, con ơi! - Ông im lặng một chút, rồi ông nói: - Đêm hôm qua con làm anh hùng có ích hay không thì chưa biết nhưng mấy người lối xóm của con hiện ở tù oan, cái đó thì chắc chắn.

- Con sẽ giải cứu họ - Guiliano bình tĩnh, thản nhiên nói.

Những tưởng ông bố sẽ cổ vũ, hay ít ra cũng thông cảm thì Guiliano lại chỉ thấy sự sửng sốt đến hốt hoảng trên khuôn mặt ông ta. Hắn biết rằng trong đầu óc và tâm trí của Adonis, hắn vẫn chỉ là một thằng Guiliano, một thanh niên nhà quê tốt bụng thuở nào.

- Bố nên hiểu con hiện nay như thế nào. - Nói đến đó, hắn bỗng ngưng không nói nữa, có thể nào hắn đoán đúng ý nghĩ của ông? Có lẽ ông nghĩ là hắn kiêu căng vô lối. Nhưng rồi hắn lại nói tiếp. - Con không sợ chết, con chỉ sợ sống nhục và chết nhục thôi!

Hắn mỉm cười với ông, nụ cười mà ông rất thích:

- Thật ra chính con cũng phải ngạc nhiên về những thay đổi trong lòng con nữa là ai. Nhưng, con không sợ bị giết. Vì con linh cảm con sẽ không thể bị như vậy. - Hắn cười lớn: - Bọn cảnh sát dã chiến, xe bọc thép có súng đại liên... tất cả những thứ giết người đó của bọn cầm quyền ở Rome đều không làm cho con sợ. Con có thể đánh bại chúng. Trên cái rặng núi ở Sicily này, đã và đang có đầy rẫy các băng cướp. Băng này tan rã thì băng khác hình thành. Passatempo và băng của hắn. Rồi, Terranova. Chúng thách thức bọn cầm quyền ở Rome đó. Tại sao con lại không thể làm như bọn đó được nhỉ? Con thừa sức làm và con làm hay hơn bọn đó nữa kìa!

Ông Adonis cảm thấy vừa vui mừng, vừa lo lắng. Phải chăng ngoài vết thương trên người, nó còn bị thương ở não bộ? Hoặc nó lãng mạn, tưởng thời buổi này cũng giống như những ngày khởi đầu của lịch sử các anh hùng như Alexandre đại đế, như các Caesare, các hiệp sĩ kiểu Roland? Khi nào thì giấc mơ làm anh hùng khởi đầu, nếu không phải là lúc ngồi một mình, nghĩ vẩn nghĩ vơ ở một khe núi hay là lúc ngồi tán dóc với bạn bè rồi cao hứng, bốc đồng nói cho đã rồi thôi? Nhưng, ông Adonis nói một cách hững hờ:

- Thôi, bỏ cái chuyện Pasatempo với Terranova đi, chúng đã bị bắt và hiện đang bị giam ở ngay nhà lao trong trại Bellatapo kia. Vài ngày nữa chúng sẽ bị giải đi nhà lao Palermo.

- Con sẽ phải cứu họ, - Guiliano nói - Con hy vọng họ sẽ nhớ ơn con!

Cái vẻ quyết liệt, chắc ăn trong cách ăn nói của Guiliano đã thực sự làm cho Pisciotta khoái chí. Cả hai đều giật mình vì thấy rõ ràng sự thay đổi ở Guiliano tuy mỗi người thấy ở những khía cạnh khác nhau. Cả hai lý do và cái cách yêu thương, trọng nể ấy khác nhau, Guiliano luôn có cái vẻ đĩnh đạc, đàng hoàng, nói năng mực thước so với cái tuổi và cái vốn sống của hắn. Nhưng đây là lần đầu tiên cả hai thấy rõ cái xu hướng về quyền lực của nó. Ông Adonis nói:

- Họ nhớ ơn con? Thế con có biết là Passatempo đã giết người chú ruột của nó, người đã cho nó con lừa đầu tiên để làm vốn, làm kế sinh nhai không?

- Nếu vậy thì con sẽ dạy cho hắn biết thế nào là lòng biết ơn. - Ngưng một lát, Guiliano nói tiếp: - Bây giờ, con xin bố một ân huệ. Bố suy nghĩ cho kỹ đi, rồi hãy trả lời. Nhưng, dù bố cho con cái ân huệ ấy hay không thì con cũng vẫn là đứa con đỡ đầu hiếu thảo và kính trọng bố. Bố đừng quên rằng bố là bạn thân của cha mẹ con, và cũng đừng quên lòng trìu mến mà con dành cho bố, con cũng xin nói rõ: con xin bố ân huệ này không phải cho lợi ích cá nhân con, mà là cho xứ sở Sicily mà bố dạy con phải yêu nó. Ân huệ đó là: bố hãy là tai, là mắt của con ở Palermo.

- Điều mà con xin bố. - Adonis nói, - Có nghĩa là một giáo sư đại học Palermo phải trở thành một thành viên một "băng" gồm những tên sống ngoài vòng pháp luật?

- Điều đó thì có lạ gì ở cái xứ Sicily này kia chớ, - Pisciotta nóng nảy nói chen vào, - Ở đây, ai mà chẳng dính dáng xa gần đến cái lũ "Người anh em" chó đẻ ấy. Và có ở đâu mà một giáo sư đại học lại có súng lục nhét cạp quần như ở Sicily này không?

- Hector Adonis chăm chú nhìn cả hai đứa trong khi ông suy nghĩ câu trả lời. Ông có thể dễ dàng hứa rồi quên hay lờ đi không thực hiện lời hứa ấy. Ông cũng có thể từ chối hoặc chỉ hứa lâu lâu giúp đỡ một lần như một người bạn có thể giúp đỡ một người bạn, kiểu như ông làm ngay hôm nay. Sau cùng, nếu có hứa như hắn yêu cầu thì cái vở kịch này cũng không kéo dài vì Guiliano có thể bị giết trong lúc chiến đấu hay bị phản bội. Hắn cũng có thể di cư sang Mỹ, và thế là vấn đề được giải quyết. Ông suy nghĩ một cách buồn bã.

Hector Adonis nhớ lại một ngày hè cách đó đã lâu lắm rồi, một ngày hè cũng như ngày hôm nay, lúc đó Turi và Aspanu mới chừng tám tuổi, chúng đang chơi trên mảnh đất phía sau nhà để đợi bữa ăn chiều. Ông Hector Adonis đem về cho Turi một ít sách ấy là thiên anh hùng ca " Hiệp sĩ Roland". Ông đã đọc cho chúng nó nghe.

Ông Adonis hầu như thuộc lòng cả thiên anh hùng ca đó. Và cuốn đó được những người Sicilian có học thức mê say đã đành mà ngay cả những người vô học cũng mê nữa. Cuốn đó là trụ cột, là cái đinh của các gánh hát múa rối búp bê lưu diễn khắp thành thị, thôn quê. Và các tích truyện của cuốn đó được chuyển thành hình vẽ trên các bánh xe lừa kéo ngược xuôi trên khắp xứ Sicily. Hoàng đế Charlemagne có hai hiệp sĩ - Roland và Oliver - tử thủ để chặn hậu cho cuộc rút lui của mình. Adonis đã kể lại trận đánh ở đèo Ronceveaux, hai hiệp sĩ đó đã chết như thế nào, Oliver đã ba lần năn nỉ Roland thổi tù và để gọi quân của Charlemagne trở lại như thế nào, và Roland đã hiên ngang từ chối ra sao. Và rồi quân Hồi đã áp đảo, đã tràn ngập. Đến lúc đó, Roland mới thổi tù và. Nhưng, đã quá trễ. Khi hoàng đế Charlemagne quay lại cứu hai hiệp sĩ, ngài chỉ thấy thi thể của họ lẫn lộn trong đám hàng ngàn xác chết của quân Hồi giáo. Và ngài đã bứt tóc, bứt râu, vật vã trách mình và than tiếc hai người tôi trung thành đã anh dũng hy sinh. Adonis nhớ những giọt nước mắt long lanh của Guiliano khi nghe kể chuyện. Nhưng cũng khá kỳ cục là trong khi Guliano cảm động, khóc, thì trên vẻ mặt của Pisciotta lại lộ ra cái vẻ khinh thường, giễu cợt. Đối với đứa này thì đó là giờ phút đáng sống nhất của một con người, đối với đứa kia thì đó là một cái chết nhục nhã của những người bất trung và ngu xuẩn.

Hai đứa trẻ đứng dậy chạy vào nhà để ăn cơm. Turi khoác tay Pisciotta. Ông Adonis mỉm cười nhìn cử chỉ đó. Chính Roland đã đỡ Oliver đứng dậy để cả hai cùng chết đứng trước cuộc tấn công của quân Hồi. Khi chết, Roland đã chĩa thẳng mũi giáo của mình lên trời xanh. Và một thiên thần đã lượm lấy mũi giáo đó. Thiên anh hùng ca và các huyền thoại dân gian đều kết thúc như vậy.

Cách nay cả ngàn năm rồi, nhưng Sicily vẫn triền miên bị đau khổ trong cái khung cảnh tàn bạo của một cái máy ép dầu ôliu, của những cánh đồng cháy sém, của những miếu thờ bên đường xây từ hồi những người Siciclian đầu tiên theo Thiên Chúa giáo, của vô vàn những cây thập tự được dựng lên để đóng đinh đoàn quân gồm những người nô lệ nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Spartacuss. Và đứa con đỡ đầu của ông có thể là một anh hùng khác nữa thêm vào số những anh hùng đã quá nhiều ở cái xứ Sicily này. Nhưng nó không hiểu rằng, để có thể cho Sicily thay đổi thì cần phải có ngọn núi lửa tinh thần phun lên, thiêu trụi hòn đảo này.

Bây giờ, mười mấy năm sau, nhìn ngắm chúng trên mỏm đá trên đỉnh núi Ora, Guiliano đang chiếu đôi mắt màu nâu đậm vào ông Adonis, miệng mỉm cười như thể muốn nói hắn biết rõ ông bố đang nghĩ gì trong đầu, ông Adonis thấy một sự thay đổi kỳ lạ đang diễn ra, Ông thấy chúng như những bức tượng chạm nổi trên cẩm thạch, nhưng thân thể chúng bị đánh văng ra khỏi cuộc sống bình thường. Giữa Guiliano và Pisciotta có cái dáng dấp của một con người hiểm độc hung ác chỉ chuyên gieo rắc trên thế giới dao găm và chất độc. Trong khi đó, Guiliano - thân hình cao lớn của một người Mỹ, khuôn mặt có vẻ đẹp của tượng thần Apollo Hy Lạp - tỏa ra cái vẻ thơ ngây, chân chất của một anh hùng huyền sử.

Ngay từ lúc còn nhỏ, Pisiotta đã tự ra thực tiễn. Xảo quyệt, lạnh lùng, tàn nhẫn, coi thường mọi sự. Guiliano, trái lại sẵn sàng tin vào thiện tâm của con người và kiêu hãnh vì sự thành thật của mình. Ngay từ những ngày đó, Hector Adonis đã nghĩ rằng rồi ra Pisciotta sẽ là người lãnh đạo và Guiliano chỉ là kẻ thực hiện. Nhưng, ông cũng chỉ biết đến thế và dự đoán đến thế chứ không biết gì hơn.

Nhưng, một người tin vào đức hạnh của mình thì có thể nguy hiểm và tàn bạo hơn một người tin vào sự xảo quyệt của mình. Bởi vì cơn cám dỗ của điều thiện đã cho ta sức mạnh và an tâm lao vào sự tàn bạo mà vẫn tưởng mình là hiệp sĩ của cái thiện. Lịch sử đã có nhiều tấm gương như vậy mà Robespierre chỉ là một.

Cái giọng chế giễu, châm chọc, xấc xược của Pisciotta đã phá vỡ cơn mơ màng của Adonis.

- Thôi, giáo sư cứ ừ đại đi cho rồi! Tôi sẽ làm phó tướng trong cái băng cướp của Guiliano. Nhưng, dưới tôi, không có thằng nào để ra lệnh. - Y toét miệng cười, nói tiếp: - Tuy nhiên, tôi muốn khởi nghiệp một cách khiêm nhường.

Mặc dầu không bị khiêu khích, đôi mắt của Guiliano vẫn lóe lên ngọn lửa tức giận. Nhưng, hắn lại điềm tĩnh nói:

- Câu trả lời của bố là thế nào?

Hector Adonis đáp:

- Được. Một ông bố đỡ đầu có thể nào trả lời khác trong trường hợp này?

Rồi Guiliano dặn ông Adonis làm gì khi ông trở về, và phác họa kế hoạch hành động cho ngày hôm sau. Một lần nữa, ông Adonis lại sửng sốt về sự liều lĩnh và táo bạo trong kế hoạch của hai chàng thanh niên này. Nhưng, khi Guiliano đỡ ông lên lưng lừa, ông đã tự vào đứa con đỡ đầu của mình và hôn nó.

Pisciotta và Guiliano đứng nhìn ông lần theo đường mòn đi xuống để trở về Montelepre.

- Người gì đâu mà nhỏ thó! - Pisciotta nói, - Vóc dáng như vậy chơi trò ăn cướp với tụi mình lúc bé là vừa.

Guiliano quay về phía y, nói một cách nhẹ nhàng:

- Còn mày thì từ nay nên ăn nói đứng đắn, đàng hoàng chút. Lúc nào giỡn thì giỡn, lúc nào cần bàn những chuyện nghiêm túc thì phải nghiêm túc chứ. Lúc nào cũng cái giọng chớt nhả, xấc xược.

Nhưng, nói gì thì nói, chúng vẫn ôm hôn nhau trước khi đi ngủ và Guiliano thủ thỉ với Pisciotta:

- Mày là em tao, nhớ điều đó!

Chúng quấn mền nằm ngủ đêm cuối cùng với cuộc sống vô danh của chúng. Ngày mai, cùng với mặt trời lên, bóng tối vô danh đó vĩnh viễn chấm dứt.

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 9

Turi và Aspanu thức dậy trước lúc bình minh, dù chẳng muốn dậy. Nhưng, vì bọn cảnh vệ cũng có thể khởi hành sớm để bất ngờ chộp hai đứa lúc đang tắm nắng ban mai. Lúc sẩm tối hôm qua, chúng đã nhìn thấy một chiếc xe võ trang liên thanh hạng nặng cùng với hai xe Jeep nữa chạy vào trại Bellampo để tăng cường. Ban đêm, Guiliano tuần khám phía bên kia sườn núi và lắng nghe xem có tiếng động gì khác thường không. Pisciotta châm chọc sự đề phòng đó:

- Lúc tụi mình còn nhỏ thì may ra tụi mình mới dám liều mạng vậy. Bộ mày tưởng bọn cớm lười như hủi, nhát như thỏ đế ấy lại chịu liều mạng đi rình mò trong đêm tối hơn là quấn mền nằm trên giường nệm đánh một giấc cho đến sáng bảnh mắt ra, rồi lại còn khệnh khạng cà - phê cà pháo hay sao?

- Mình phải tập có thói quen tốt, và nhất là cảnh giác thì không bao giờ thừa! - Turi đáp.

Hắn biết rằng sẽ có ngày nó phải đối đầu với kẻ thù khá hơn bọn này.

Turi và Aspanu lại miệt mài kiểm tra lại vũ khí, từng món và từng chi tiết. Nó ăn vài miếng bánh bằng hớp rượu nho do Hector Adonis để lại cho chúng. Miếng bánh, với những gia vị cay, nóng, đã làm cho chúng cảm thấy ấm bao tử, tăng thêm sức lực để dựng chướng ngại vật và ngụy trang cành lá chỗ mép bìa mỏm đá. Đứng đằng sau chướng ngại vật, chúng chiếu ống nhòm xuống thành phố. Guiliano khoác tiểu liên lên vai, từ tốn nhét đạn vào đầy các túi áo. Hắn cũng cẩn thận chôn tất cả các thứ khác rồi phủ đất lên, bên trên chèn một tảng đá lớn. Hắn có thói quen tự mình kiểm tra lại các chi tiết, chứ không hoàn toàn tin một ai. Qua ống nhòm, Pisciotta nhìn thấy chiếc xe có võ trang đại liên ra khỏi trại.

- Mày có lý, - Pisciotta nói. - Chiếc xe đi vòng xuống thung lũng Castellammarra để đánh bọc hậu tụi mình.

Chúng toét miệng cười với nhau, Guiliano cảm thấy một niềm vui phơi phới. Pisciotta nói tiếp:

- "Chơi" lại bọn cớm, nói cho cùng, đếch có gì là khó! Chỉ là trò trẻ nít chơi lại bọn trẻ nít quỉ quyệt hơn một chút vậy thôi. Chắc tụi nó cũng biết cái hang này có đường hầm thông qua sườn núi bên kia, và chắc tụi nó nghĩ là mình sẽ chuồn qua đó khi bị chúng nó lùa đuổi bên này, cho nên, chúng nó cho xe gắn súng đại liên phục sẵn để "đón tiếp" tụi mình.

Một giờ đồng hồ nữa có thể sẽ có một đơn vị cảnh vệ đến phía dưới chân núi, chỗ đỉnh Ora, tấn công trực diện. Nếu giết được chúng ta càng hay, nếu không thì lùa qua sườn núi bên kia cho súng đại liên. Bọn cớm nghĩ chúng ta chỉ là lũ con nít mới lớn ngông cuồng mà lại nông nổi, dại dột, tập sự làm ăn cướp, khờ khạo ít kinh nghiệm. Chính lá cờ Sicilian treo đó là một bằng chứng "lạy ông tôi ở bụi này". Hớ hênh, ngây ngô, ngu dại.

Y như rằng, một giờ đồng hồ sau, một chiếc xe tải chở cớm và một chiếc xe Jeep chở Marseciallo vượt qua cổng trại Bellampo. Hai chiếc xe tà tà đến chân núi, ngừng lại và đổ quân xuống. Mười hai tên cớm đeo tiểu liên dò dẫm, lò mò theo đường mòn lên dốc. Maresciallo gỡ cái mũ đen viền trắng và chỉ tay về phía lá cờ cắm trên mỏm đá.

Turi Guiliano đứng đằng sau chướng ngại vật, chiếu ống nhòm quan sát. Bỗng hắn chợt nhớ đến chiếc xe có súng đại liên ở phía bên kia núi, không biết ở bên đó có bao nhiêu thằng. Nhưng rồi hắn lại an tâm, vì lúc đó có leo lên được đến nơi thì cũng mất cả nửa giờ nữa, cho nên, không sợ bị đánh tập hậu, không quan tâm đến bọn bên kia sườn núi nữa, hắn quay ra nói với Pisicotta:

- Nếu tụi mình không thực hiện khéo, đúng với kế hoạch thì chắc sẽ khỏi về nhà ăn tô mì nóng tối nay như lúc mình còn bé đi chơi trên núi về vậy, đúng không?

- Nhưng, mày nhớ không? - Pisciotta nói. - Tụi mình vẫn không thích về nhà. Tuy nhiên, phải công nhận, chơi lần này vui hơn, thú vị hơn. Mình phải hóa kiếp cho một vài thằng chứ?

- Đừng, Guiliano nói. Nghĩ đến chuyện đêm hôm trước, Pisciotta đã không nghe lời nó, nên Guiliano nói chẳng có ích gì cho mục tiêu của tụi mình trong giai đoạn này.

Hai đứa kiên nhẫn chờ thêm một giờ nữa. Guiliano chĩa khẩu súng ra ngoài chướng ngại vật, bắn hai phát. Bọn lính đang đi thành hàng, bỗng chạy tán loạn và mau lẹ tản ra, nấp và các tảng đá và bụi rậm như những con kiến chui và đám cỏ. Pisciotta bắn bốn phát, khói bay lên ở những chỗ khác nhau. Bọn cảnh vệ nổ súng như mưa, nhưng nổ cầu may chứ có nhìn thấy chúng đâu.

Guiliano bỏ súng xuống, đưa ống nhòm lên, nhìn. Hắn thấy Maresciallo và tên lính đang mở máy truyền tin, chúng tiếp xúc với chiếc xe ở sườn núi bên kia, chắc là để báo tin cho bọn kia chuẩn bị, chúng có thể sắp chuồn qua bên đó. Guiliano cầm súng lên, bắn hai phát nữa, rồi nói với Pisciotta:

- Đã đến lúc tụi mình chuồn được rồi đó!

Hai đứa lủi qua phía bên kia mỏm đá, khuất tầm nhìn của bọn cớm đang tiến lên, rồi tuồn xuống một mỏm đá dốc và lăn xuống dốc cách đó khoảng năm chục mét rồi đứng dậy, súng ống sẵn sàng. Chúng lom khom chạy luồn phía dưới và chỉ ngừng lại để Guiliano chiếu ống nhòm quan sát bọn cớm. Đến một chỗ dốc khác, chúng lại lăn xuống hai cái dốc như vậy nữa và thế là chúng đã ở phía dưới bọn Maresciallo.

Phía trên chỗ Pisciotta và Guiliano đang đứng, qua ống nhòm, chúng thấy Maresciallo vừa đì đụp bắn bâng quơ vừa rón rén bò lên. Chúng cứ thi nhau bắn vào chỗ lá cờ, mà đâu ngờ rằng hai thằng ranh đang đứng ở cạnh sườn chúng. Hai đứa, khi thì lom khom luồn lỏi, khi thì lúp xúp chạy qua các tảng đá lớn che khuất phía dưới và đi vào vạt rừng nhỏ. Đứng nghỉ một chút, chúng lại rón rén lần theo đường mòn chạy xuống. Khoảng một giờ sau chúng đã đến dải đất tiếp giáp chân núi và thị xã. Chúng giấu vũ khí dưới lớp áo khoác và bình thản đi qua dải đất như thể nông dân đi làm về. Chúng vào thị xã qua chỗ cuối đường Via Bella chỉ cách trại Bellampo chừng hơn trăm mét.

Cũng trong thời gian đó, Maresciallo ra lệnh cho đám lính của gã tiếp tục tiến lên chỗ mỏm đá có cắm cờ. Nhưng không thấy súng bắn trả, gã tin rằng hai thằng ranh con đã chuồn theo đường hầm qua phía sườn núi bên kia. Gã muốn bao vây để sập bẫy. Gã ra lệnh cho lính mon men bò lên tiếp. Mất cả tiếng đồng hồ sau gã mới lên đến chỗ mỏm đá và xé lá cờ. Maresciallo chui vào hang, đẩy tảng đá chặn ở cuối hang qua sườn núi bên kia. Gã chưng hửng khi thấy con mồi của gã đã chuồn đâu mất. Tức điên lên, gã cứ đinh ninh con mồi của gã không thể thoát được, mà chỉ là ẩn nấp đâu đó. Bởi vậy gã đốc thúc đám lính hì hục lục soát khắp hai bên sườn núi và từng tảng đá, quyết lùa cho được con mồi ra khỏi nơi ẩn náu. Hector Adonis đã theo đúng chỉ dẫn của Guiliano. Ở đầu đường Via Bella đã có một cái xe lừa đậu sẵn ở đó. Cái xe đúng kiểu mẫu truyền thống, sơn lòe loẹt, sặc sỡ với các tấm tranh kể các tích truyện anh hùng hiệp sĩ. Xe sơn lòe loẹt từ trước ra sau từ trên xuống dưới, từ càng xe cho đến những nan hoa bánh xe. Cái xe trông loang lổ sặc sỡ như hình xăm trên thân thể một tay anh chị, chỉ khác là xăm kín hết không để hở lấy một phân vuông. Đứng giữa càng xe là một con lừa đang hình như ngủ gà ngủ gật. Guiliano nhảy lên ngồi vào chỗ người lái và nhìn vào bên trong xe xếp đầy những vò rượu. Hắn đưa mắt thoáng nhìn về phía đường đi Castellammare xem chiếc xe gắn súng đại liên có quay về không, nhưng không thấy tăm dạng. Thoáng liếc mắt lên phía ngọn núi: chẳng thấy gì hết ngoài ngọn cờ vẫn phất phới tung bay. Hắn toét miệng cười với Pisciotta:

- Đúng y kế hoạch, đầy đủ phương tiên, đúng vị trí. Thôi, đi "múa" chút, coi!

Pisciotta đưa tay phác chào vừa có vẻ trang nghiêm vừa có vẻ giỡn giỡn. Y đóng nút áo lại để che kín khẩu súng lục gài bên hông và chệnh choạng đi về phía trại Bellampo.

Ngồi trên chỗ người đánh xe, Turi nhìn Pisciotta chậm chạp lướt qua thửa đất trống dẫn tới con đường mòn có đá dẫn vào cổng trại. Cũng từ đó, hắn nhìn về phía cuối đường phía nhà hắn. Không thấy ai ra đứng ngoài cửa. Hắn mong được thoáng thấy bóng bà mẹ hắn. Trước cửa của một trong những căn nhà gần đó có một vài "bợm nhậu" đang khề khà quanh một cái bàn trên có vò rượu. Chỗ cái bàn được bóng của một ban công che nắng. Bỗng hắn giật mình sực nhớ ra cái ống nhòm vẫn lủng lẳng đeo trước ngực, cũng may, quãng đường chỗ đó không có ai qua lại. Hắn vội vã tháo ra và nhét vào khe mấy vò rượu.

Một chú cớm đang đứng gác ở cổng. Đó là một cớm oắt mặt non choẹt chưa thể nào quá 18 tuổi. Hai má hồng hào, nhẵn thín, chứng tỏ chú là người ở các tỉnh phía Bắc nước Ý. Bộ đồng phục màu đen viền trắng, túi trên, túi dưới, may vừa dối vừa vụng. Cái mũ lính mỏ vịt chụp hờ hững trên đầu làm cho chú vừa có vẻ một búp - bê vừa có vẻ một anh hề. Trái với quân kỳ, điếu thuốc phì phèo trên cặp môi dày, trông có dáng vừa tham lam vừa dâm dục. Bước lại gần, Pisciotta bỗng cảm thấy trong lòng nổi lên một cái cảm tưởng khinh lờn và cái ý muốn trêu trọc, bỡn cợt và vờn chú cớm oắt như mèo vờn chuột. Chỉ mới cách đây có vài ngày, đám cớm ở đây bị một vố như vậy mà chú cớm oắt cũng chẳng có tí gì gọi là cảnh giác, đề phòng, khẩu súng tiểu liên vẫn đeo lủng lẳng ngang lưng.

Cớm oắt thấy một tên nhà quê ăn mặc xốc xếch thế mà dám ngạo ngược để bộ ria mép rậm rì trông không xứng tí nào. Chú ta quát lên:

- Ê, thằng kia, đồ cà chớn, xớ xa xớn xác đi đâu vậy? Bộ không biết đây là đâu sao chớ?

Quát ngậu xị lên như vậy, nhưng chú ta cũng chẳng buồn hạ khẩu súng và giữ tư thế sẵn sàng tác chiến. Pisciotta ta có thể cắt họng chú trong nháy mắt. Nhưng thay vì thế, y lại làm ra vẻ rụt rè, khúm núm. Y phải cố nén để khỏi bật cười trước cái vẻ vênh váo con nít và ra cái điều ta đây oai vệ của cớm oắt.

- Cậu Hai. - Y rụt rè nói. - Cậu làm ơn cho tôi gặp ông sếp, tôi có một cái tin quan trọng muốn báo cho sếp.

- Cứ nói cho tao cũng được, - Cớm oắt nói.

Không nén được cơn tức trước câu nói xấc của cớm oắt, Pisciotta bèn giở giọng cha chú liền:

- Bộ mày tưởng mày có đủ tiền đặng trả cho cái tin này sao chớ? Cho mày hay, mười năm lương của mày cũng không đủ đâu!

Chưng hửng trước cái giọng thay đổi xấc láo một cách đột ngột của thằng nhà quê, cớm oắt hơi chột dạ, nhưng vẫn đáp lại bằng cái giọng khinh khỉnh, tuy đã có chút e dè:

- Bây giờ chú có nói cho tôi trời sập chỗ nào thì tôi cũng đếch có tiền trả cho chú!

- Còn hơn trời sập nữa kìa, - Pisciotta toét miệng cười, đổi mặt làm vui, - Cho cậu Hai hay, tôi biết chỗ thằng Guiliano đang trốn né, cái thằng mà mới cách đây mấy bữa đã cho mấy cậu ở đây "lỗ mũi ăn trầu" đó. Cậu Hai không cho tôi vô gặp sếp gấp, nó đi mất, cậu Hai chịu trách nhiệm đó.

Cớm oắt nói một cách ngờ vực:

- Đời thuở nào mà ở cái đất trời đánh này lại có một thằng Sicilian cộng tác, báo tin cho chính quyền thế này. Hôm nay đúng là trời sập chỗ nào rồi.

Pisciotta tiến lại gần hơn chút nữa:

- Nhưng tôi có ý đồ. Tôi định xin đăng lính cảnh vệ như chú vậy đó. Tháng sau tôi đi Palermo xin khám sức khỏe nên tôi nghĩ là phải có một cái lễ gì đó ra mắt. Nhưng, vì nghèo quá nên lấy cái tin này đề làm lễ ra mắt đặng "sếp" ở đây chiếu cố. Ai biết đâu đấy, không chừng tôi và cậu Hai có ngày cùng mặc bộ đồ cảnh phục này.

Cớm oắt nhìn Pisciotta vừa có chút thích thú, cảm tình lại vừa có chút thương hại tội nghiệp. Thật ra thì có thiếu gì thằng dân Sicilian muốn xin đăng lính cảnh vệ. Đó là một lối để thoát khỏi cái cảnh nghèo kinh niên, sạch gạch mà lại có tí ti quyền hành, quát nạt, làm phách với bọn nhà quê, cũng oai chán và ít nhất cũng được no cái bụng. Bữa nào trúng mối, gặp được thằng cù lần buôn chui thì cũng được đấm cho tí tiền còm, nếu không thì "tóm" cái tang vật về chia chác với nhau hoặc đớp thả ga miễn phí. Trong truyện tiếu lâm bình dân của người Bắc nước Ý mà ai cũng biết, tất cả những thằng đàn ông con trai nào cũng thế - tất nhiên, phải loại từ những thằng "nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi" ra - cũng chỉ có thể hoặc là làm ăn cướp, hoặc là làm cớm. Và ở phía nào thì chúng cũng làm hại ngang nhau.

Pisciotta cười thầm trong bụng với cái ý nghĩ có ngày mình xin làm cớm. Là một tay ưa ăn diện, chẳng thế mà quần áo Pisciotta phải đặt may tại thủ phủ Palermo chứ không chịu mấy anh thợ may "vườn" ở cái thị trấn Montelpre này. Chỉ có mấy thằng khùng mới cho bộ cảnh phục đen viền trắng và cái mũ mỏ vịt là đẹp, chớ cỡ Pisciotta thì còn lâu.

Có lẽ trong thâm tâm cớm oắt có lòng ái ngại thật sự hay là không muốn cho ai cũng "đi lên" bằng mình, nên chú ta nói:

- Chú suy nghĩ cho kỹ chưa mà xin đăng lính cảnh vệ? Lương bổng cảnh vệ "yếu" lắm. Tụi này có ngày phải trễ miệng, nếu không kiếm chác được ở mấy thằng buôn chui. Và cũng nguy hiểm lắm. Đó, mấy hôm nay, ngay ở thị trấn này, hai tay trong trại này - trong đó có một đứa là bạn tôi - bị cái thằng trời đánh khốn kiếp " lật gọng" chết ngay đứ đừ.

Pisciotta đáp lại, giọng giỡn giỡn:

- Mẹ kiếp, bắt được tụi nó, trước khi "phơ", phải cho tụi nó no đòn bastinado..., để cho tất cả những thằng khác trông thấy sợ té đái ra quần, thì chúng mới biết cách ăn ở cho phải phép, phải không cậu Hai.

Rồi, bằng cái giọng thân mật như thể tự hồi nào tới giờ, y với cớm oắt đã là anh em hay đồng đội thân thích, Pisciotta chép chép cái miệng, háy háy bộ ria, rồi nói:

- Đằng ấy có thuốc lá không, cho xin điếu?

Để đáp lại cái vẻ phởn chí, được đằng chân, lân đằng đầu của Pisciotta, cớm oắt thấy thân mật với thằng nhà quê này coi bộ không ổn, nó bèn sửng cồ với Pisciotta:

- Cho mày thuốc lá? - Vừa có vẻ xấc láo vừa có vẻ ngờ vực, nó nói tiếp: - Mẹ kiếp, một thằng Sicilian trời đánh nào đó mà nó dám há cái mõm thối tha của nó ra xin thuốc lá tôi chớ. Thiên địa, trời đất ơi!

Và nó gỡ súng ra khỏi vai. Lập tức, Pisciotta cảm thấy như có một sức thúc đẩy phải chồm lên lìa cho nó một nhát vào cổ họng để nó câm cái mõm chó của nó lại. Nhưng, Pisciotta dằn lại, nói bả lả:

- Bởi vì tôi có thể chỉ chỗ cho mà bắt thằng Guiliano. Mấy cha kia ngu thấy mẹ, giờ này lên núi có mà tìm tắc kè ở trên ấy. Mà này, cậu Hai không đưa tôi vào gặp "sếp" gấp, chậm trễ, nó đi mất, cậu Hai chịu à, nghe chưa!

Cớm oắt ngó sững. Câu nói xấc láo của nó vừa rồi khiến cho nó bối rối. Loại tin tức mà thằng nhà quê không chừng thuộc loại có cỡ đối với thượng cấp của nó. Và cái vẻ câng câng, xấc xấc của thằng cha này có thể làm cho nó bị thượng cấp sờ gáy nếu thằng cha này "tâu rỗi" là nó đã xấc với hắn. Nghĩ vậy, cớm oắt lặng lẳng ra mở cửa và lấy mũi súng ra hiệu cho Pisciotta đi vào. Tên cớm oắt và Pisciotta vừa quay lưng lại, thì lập tức Guiliano ra roi quất con lừa cho chạy về phía cổng trại.

Doanh trại Bellampo rộng đến 4.000 mét vuông. Trên có một dãy nhà lớn hình chữ L. Cách sau là nhà giam. Phía sau nữa là nhà ở tập thể của cớm, rộng có thể chứa cả trăm người. Có cả khu đặc biệt dành làm nơi ở cho Maresciallo. Phía bên phải là nhà để xe. Thật ra, trước kia nhà để xe vốn là cái chuồng ngựa và hiện vẫn còn dành một phần để nhốt mấy con lừa và la cho cớm dùng trong trường hợp phải lên núi hoặc đến những nơi xe hơi không tới được. Phía xa đằng sau nữa là kho quân trang, vũ khí, kho này có cửa sắt. Quanh doanh trại là hàng rào kẽm gai chằng chịt cao có đến ba mét. Có mấy tháp canh, nhưng từ mấy tháng nay tháp canh không có lính gác nữa vì trại giảm quân số chỉ còn có một tiểu đội. Doanh trại được xây dưới thời Musolini và được mở rộng trong chiến dịch càn quét Mafia. Lúc đó, các tháp canh có lính gác ngày đêm rất cẩn mật.

Khi qua cổng trại. Pisciotta đã để ý xem có dấu hiệu gì nguy hiểm không. Không có tiếng nô đùa ồn ào của bọn cớm. Doanh trại im lặng như một trang trại bỏ hoang. Trong nhà xe, không có xe và cũng không có một cái xe nào đậu ở bất cứ chỗ nào. Đó là điều làm cho y ngạc nhiên và hơi lo, vì có thể có một cái xe nào đó về bất chợt. Y không thể nào quan niệm được Maresciallo mà lại ngu đến mức để doanh trại trống không như vậy, và không có một cái xe nào để trực. Y sẽ phải tìm cách báo cho Turi biết tình hình, rất có thể chúng gặp những vị khách bất ngờ.

Cớm oắt đang gác cửa đã bỏ vọng gác, dẫn Pisciotta đi qua một cửa lớn để vào phòng làm việc. Đây là căn phòng rộng mênh mông, có quạt trần. Nhưng cái quạt cũng chẳng làm cho căn phòng mát đi được là bao. Có một cái bàn lớn, cao như thể muốn chế ngự căn phòng. Hai bên bàn lớn có hai dãy bàn nhỏ, chắc là cho các thư ký. Tất cả các bàn đều trống, trừ chỗ bàn lớn. Ngồi phía sau bàn ấy là thầy cai cảnh vệ. Trông thầy cai thật khác hẳn với cớm oắt vừa dẫn Pisciotta vào. Trước bàn thầy cai ngồi có tấm bảng ghi chữ "Hạ sĩ Canio Silvestro". Phần thân của thầy cai nhô lên khỏi mặt bàn trông thật dễ sợ: vai rộng cái đầu to như một tảng đá đè trên một cái cổ có ngấn nần nẫn. Vết thẹo đỏ sậm - gần như đen - chạy dài suốt từ mang tai xuống tận cái cằm bạnh. Bộ ria mép rậm, vểnh lên trông như cặp cánh đại bàng gắn trên miệng của hắn. Hắn mặc cảnh phục, cánh tay trái gần via gắn cái lon hạ sĩ, khẩu súng lục trong bao đeo lủng lẳng ở thắt lưng. Khi nghe tên lính gác báo cáo hắn nhìn Pisciotta với vẻ ngạc nhiên, rồi nghi ngờ và không tin. Khi thầy cai mở miệng nói, thì biết ngay là dân Sicilian chánh gốc.

- Đồ ba xạo, - hắn nói với Pisciotta.

Nhưng hắn chưa kịp nói gì thêm, thì từ ngoài cổng, tiếng của Guiliano ong óng vọng vào đến tận văn phòng.

- Ê nè, mấy ông lính, có ra mà lấy rượu cho không! Có hay không thì biểu!

Pisciotta rất phục cái giọng nói của Guiliano, cái giọng khàn khàn đặc sệt âm sắc thổ ngữ, đến nỗi nếu không phải là người địa phương thì khó mà hiểu nó nói gì. Thêm vào đó là cái lối nói gàn gàn, hách hách của mấy anh trọc phú nhà quê. Thầy cai cũng từ trong phòng la lớn lên:

- Thằng quỉ nào làm cái gì ở ngoài đó mà rống lên như bò vậy?

Và thầy cai hùng hổ đứng lên, đi ra. Pisciotta và cớm oắt cũng theo ra. Chiếc xe sơn sặc sỡ, lòe loẹt và con lừa trắng đứng chặn ngay cổng doanh trại. Áo mở banh hết cúc, mồ hôi nhễ nhại, Turi ngồi vắt vẻo ôm vò rượu. Hắn toét miệng cười giả bộ khờ khờ, quê mùa. Toàn thân hắn trông có vẻ ngây ngô. Nhìn mặt hắn, không ai có thể nghi ngờ gì. Trên người không có vũ khí, lại có vẻ ngà ngà say, giọng nói đặc sệt âm sắc thổ ngữ. Thầy cai rời tay khỏi bao súng và cớm oắt cũng đeo súng vào vai. Pisciotta lùi lại đằng sau, trong tư thế sẵn sàng rút súng ra tác chiến.

- Tôi có cả một xe rượu nho cho mấy ông nè.

Guiliano cất giọng oang oang. Rồi nó đưa tay lên mũi, hỉ cái 'ret" và chùi tay vào ngay cánh cổng doanh trại.

- Ai bảo đem đến? - Thầy cai vừa hỏi vừa bước tới.

Guiliano biết thầy cai sẽ mở tung thùng xe đặng nhìn vào.

- Ba tôi bảo tôi mang đến cho ông đội Maresciallo, - Guiliano vừa nói vừa nháy mắt ra hiệu cho thầy cai.

Thầy cai nhìn chòng chọc vào hắn. Thật ra thì mấy tay buôn lậu - ngoài món tiền lót tay - vẫn thường hay "vi thiềng" các sản phẩm, nhất là rượu, đặng cớm thông cảm nhắm mắt làm ngơ. Nhưng thầy cai cũng thắc mắc là thường thì chính cái lão già buôn lậu ấy đích thân đem rượu hay đồ biếu xén đến để thầy chú biết mặt mà thông cảm cho lúc bắt gặp tại trận, chứ ai hơi sức đâu mà nhớ tên mấy thằng chó chết ấy làm gì cho bận trí. Nhưng thầy cai cũng quá hiểu cái "nết" của thầy đội Maresciallo, nên thầy cũng nhún vai, ra lệnh:

- Để mấy vò đó xuống, rồi mang vào trong kia!

- Tôi để xuống? Tôi mang vào trong? Xí, xin kiếu đi!

Một lần nữa thầy cai lại thoáng gợn một chút nghi ngờ, như có một thứ linh cảm mơ hồ gì đó chẳng lành. Hiểu được điều đó, Guiliano giả bộ nhảy xuống khỏi chỗ ngồi, giả bộ lôi vò rượu để có thể dễ dàng rút khẩu tiểu liên ra. Hắn nâng một vò lên và nói:

- Tôi có tới hai chục vò như thế này cho mấy ông! Hai chục!

Thầy cai quay ra phía doanh trại kêu lớn:

- Mấy thằng ở trong kia, ra tao bảo!

Có hai tên chạy ra, áo banh cúc, đầu trần, chẳng có đứa nào mang vũ khí. Guiliano đưa hai vò cho hai tên mới ra và một vò cho thằng gác tay còn cầm khẩu súng. Tên này định không đỡ lấy, nhưng Guiliano đã nói và giỡn:

- Chừng này rượu ông đội nhậu gì hết, thế nào mấy chú chẳng được nhậu ké, vậy thì hãy đỡ lấy đi.

Ba tên cớm ôm ba vò rượu. Nhìn cảnh ấy, Guiliano mỉm cười: đúng như hắn muốn. Pisciotta đứng ngay phía sau lưng thầy cai, tên cớm duy nhất hai tay chưa ôm vò rượu. Guiliano liếc nhanh về phía dốc hướng đi Castellammare: không thấy dấu hiệu chiếc xe có gắn súng đại liên trở về. Nhìn về phía dốc núi: cũng không có dấu hiệu toán tuần tiễu của Maresciallo. Phía cuối đường Via bella chỉ thấy mấy đứa con nít đang chơi. Hắn quay vào thùng xe, rút khẩu tiểu liên, chĩa ngay vào mặt thầy cai. Ngay lúc đó, Pisciotta cũng thọc tay vào trong áo rút khẩu súng lục của mình, ra lệnh cho thầy cai quay vào:

- Đừng có nhúc nhích nghe cha, nếu không, tôi lấy đạn hớt bộ ria thì cha đừng trách!

Guiliano chĩa súng vào ba cớm oắt đang sợ quá đứng ngây người ra:

- Ba đứa cứ ôm ba vò rượu, - Guiliano nói; - Anh kia bỏ cây súng xuống. Tất cả quay trở lại văn phòng.

Tên gác thả súng xuống đất. Lúc đi ngang, Pisciotta cúi xuống lượm khẩu súng ấy. Vào đến văn phòng, Guiliano cầm lấy tấm biển tên của thầy cai, gật gù ngắm nghía, rồi quay nhìn thầy cai và ra lệnh:

- Hạ sĩ Canio Silvestro, làm ơn đưa chìa khóa, tất cả chìa khóa!

Tay của thầy cai đặt trên bao súng, mắt nhìn chòng chọc vào Guiliano. Pisciotta hất tay hắn ra và thò tay móc khẩu súng lục hắn ra. Hắn nhìn y, lườm lườm như muốn xé xác y ra. Pisciotta nở nụ cười tủm tỉm, chế giễu:

- Xin lỗi nhé!

Thầy cai quay về phía Guiliano, và nói:

- Này lỏi, hãy chạy đi và tìm gánh hát nào đó mà xin làm diễn viên. Trông mày đẹp trai, hy vọng ăn khách đấy. Nhưng, đi thì chớ có mang theo những thứ giết người đó. Tụi bay không thoát đâu. Maresciallo và lính của ông sắp về. Ông sẽ săn đuổi tụi bay cho đến tận cùng trời đất. Nghĩ kỹ đi, con. Chơi cái trò kẻ cướp làm gì để cái đầu bị treo giải thưởng. Chính tao cũng sẽ săn đuổi tụi bay và sẽ không bao giờ quên cái bản mặt tụi bay. Tao sẽ tìm ra tên tụi bay, dù tụi bay có chui xuống địa ngục tao cũng sẽ moi tụi bay ra cho bằng được.

Guiliano mỉm cười với thầy cai. Vì một lý do nào đó, hắn lại thấy có cảm tình với con người này. Hắn nói:

- Muốn biết tên tụi này, sao không hỏi?

Thầy cai nhìn chòng chọc vào nó, giọng khinh bỉ:

- Đời nào tụi bay dám nói, hay nếu có thì cũng bịa ra một cái tên vớ vẩn nào đó.

- Tôi không bao giờ nói dối. - Guiliano nói: - Tên tôi là Guiliano.

Thầy cai quên mất là súng đã bị tước mất rồi, nên vẫn đưa tay lên bao súng. Nhưng đưa tay lên rồi mới nhớ ra và bỏ tay xuống. Guiliano lại càng thấy thích con người này hơn vì cái phản ứng tự nhiên ấy. Hắn đánh giá thầy cai là người can đảm vì có ý thức bổn phận rất cao. Ba cớm oắt sợ, mặt mày tái xanh tái xám, run run đứng không muốn vững. Đây là Guiliano, người đã hắn hạ ba đồng đội của chúng. Không có lý do gì để tin rằng hắn sẽ để cho chúng sống.

Thầy cai nhìn kỹ vào mặt Guiliano và Pisciotta như để ghi sâu vào trí nhớ cái bản mặt của chúng, rồi từ từ, rụt rè lấy chùm chìa khóa trong ngăn kéo ra. Hắn phải làm vậy, vì Guiliano đã gí súng vào lưng hắn. Guiliano cầm lấy chùm chìa khóa, ném cho Pisciotta và nói:

- Thả tù ra.

Trong nhà tù, có nhiều người bị bắt đêm hôm Guiliano trốn thoát khỏi Montelepre. Trong một xà lim nhỏ, có hai tên cướp khét tiếng trong vùng là Passtempo và Teranova. Pisciotta mở luôn cửa xà lim này và chúng hớn hở theo Pisciotta đến các phòng khác.

Những thị dân Montelepre bị bắt, tất cả đều là người hàng xóm của Guiliano. Họ đổ dồn vào phòng và ôm hôn Guiliano, tỏ lòng biết ơn. Guiliano để họ ôm hôn, nhưng vẫn cảnh giác, mắt vẫn nhìn về phía mấy tên cớm. Những người hàng xóm rất sung sướng và rất phục cách hành động của Guiliano. Làm như vậy, nó đã hạ nhục mấy tên cớm đáng ghét. Trước mặt họ, Guiliano là vô địch. Họ nói với Guiliano là tên Marsciallo đã ra lệnh cho họ ăn đòn bastinado. Nhưng, ông hạ sĩ đã ngăn lại kịp. Do tánh ngay thẳng và bằng lập luận vững chắc, hạ sĩ đã cho Maresciallo thấy là làm vậy sẽ chỉ gây tình hình nguy hiểm và bất lợi cho an ninh doanh trại. Bởi vậy, thay vì tra tấn bằng đòn bastinado thì sáng hôm sau, họ sẽ bị giải đi Palermo để dự thẩm lấy cung.

Guiliano chĩa súng xuống đất, vì sợ lỡ ra trúng phải người những người hàng xóm. Những người này đều lớn tuổi hơn hắn, họ biết hắn từ lúc còn nhỏ xíu. Bây giờ cũng như trước kia, với họ, hắn đều nói năng lễ độ, có ý có tứ.

- Các chú, các bác có thể lên núi theo tôi, - hắn nói - hay là đi ẩn náu ở một người bà con nào đó càng xa Montelepre càng tốt, đợi cho nhà cầm quyền tỉnh trí, không còn bắt giam ẩu nữa thì hãy về.

Hắn đợi. Nhưng mọi người im lặng. Hai tên cướp - Passatempo va Teranova - đứng cạnh nhau. Chúng rất cảnh giác, lúc nào cũng như cái lò xo sẵn sàng bung ra. Passatempo là một người mập, lùn, xấu xí, mặt bự, rỗ huê, môi dày và méo mó. Nông dân trong vùng gọi là "đồ tể". Teranova vóc dáng nhỏ nhắn, săn gọn như con chồn sương, tuy nhiên, dáng dấp dễ nhìn, đôi môi lúc nào cũng he hé như đang mỉm cười. Passatempo là điển hình cho một tên cướp Sicilian tham lam, chỉ chuyên cướp của giết người vì tiền. Terranova nguyên là một nông dân cần cù. Y trở thành ăn cướp chỉ vì hai thằng thu thuế đã tịch thu mất của y hai con heo có giá trị lớn. Y giết luôn hai tên đó, kế đó, giết luôn hai con heo, mời tất cả bà con lối xóm đến nhậu một bữa tơi bời, còn dư, ai muốn đem về xin cũng cứ tự nhiên. Sau bữa đó, y lên núi làm kẻ cướp. Terranova và Passatempo liên kết lực lượng với nhau. Nhưng chúng bị phản bội và bị bắt khi đang lẩn trốn tại một nhà kho bỏ hoang ngoài cánh đồng thị trấn Corleone.

Guiliano nói với hai tên cướp:

- Hai anh thì chắc đâu còn cách nào khác. Tôi đồng ý cho các anh theo lên núi. Và ở đó, nếu chịu ở dưới sự chỉ huy của tôi thì ở. Hay là lại muốn ra đi làm ăn riêng thì tùy ý. Nhưng hôm nay, tôi cần hai anh giúp tôi một tay, ít ra cũng là để trả cái ơn mà tôi đã giải thoát các anh hôm nay. Đồng ý chứ?

Hắn mỉm cười với chúng như thể muốn làm dịu cái đòi hỏi chúng phải tuân lệnh hắn.

Trước khi hai tên cướp kịp trả lời, thầy cai đã hành động khinh suất một cách tai hại. Hành động đó có thể do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như lòng kiêu hãnh của một người Sicilian bị tổn thương, hoặc do lòng lang dạ thú ác đôc bẩm sinh, hoặc tức giận vì hai tên cướp khét tiếng đang bị giam dưới sự canh giữ của hắn được thả ra khiến cho hắn phải chịu trách nhiệm hoặc nghĩ rằng hai tên cướp được thả sẽ lại tiếp tục cướp bóc giết chóc người dân...

Đứng trước mặt Guiliano và chỉ cách vài bước, hắn bất ngờ tiến lên, tay rút lẹ khẩu súng lục nhỏ giấu trong người chĩa thẳng vào Guiliano. Guiliano kịp nâng khẩu súng của mình lên nhưng cũng quá trễ, thầy cai đã lảy cò, viên đạn bay xẹt qua đầu Guiliano chỉ cách đầu chừng một, hai xăng ti met. Mặt thầy cai đỏ lên vì tức giận, các bắp thịt trên mặt hắn xoắn, vặn cuồn cuộn như những con rắn uốn khúc. Nhưng rồi khẩu súng trở nên lờ đờ, chậm chạp, từ từ rớt xuống trong cơn ác mộng của hắn. Và rớt xuống đất luôn, vì hắn đã nhận ra cuồng vọng của mình. Hắn cảm thấy như đất dưới chân hắn sụp xuống và hắn rớt xuống một cái hang không đáy. Một nhấp nháy trước khi thầy cai lảy cò, Guiliano nhìn thấy họng súng của thầy cai chĩa vào mặt mình mà ý thức được những gì có thể xảy ra, nhưng hắn vẫn cảm thấy lòng mình bình thản một cách lạ thường. Không cảm thấy sợ hãi gì. Hắn không chớp mắt khi thầy cai lẩy cò và còn tiến lên thêm một bước. Sau tiếng nổ là tiếng "tách" khô khan của òc súng "suông". Và cũng chỉ trong nhấp nháy, thầy cai bị Terranova vặn ngược tay hắn lên, giật lấy khẩu súng. Passatempo nắm tóc giật ngửa mặt hắn lên, đưa ngón tay định móc mắt. Pisciotta rút dao định lụi vào ngực hắn. Nhưng, Guiliano kịp thời cản lại. Hắn lôi thầy cai ra khỏi ba người và bình thản nói!

- Đừng giết ông ta!

Thầy cai cúi mặt xuống đất, mất hết tinh thần khi ý thức được những tai họa xảy ra cho mình do đám người giận dữ kia gây ra, nếu không có sự can thiệp kịp thời của Guiliano. Trong lúc xo xát, lỗ tai của hắn bị tét, mí mắt cũng bị tét, máu chảy ròng ròng, cánh tay bị vặn tréo ra sau một cách thô bại khiến cho hắn cảm thấy đau. Tuy nhiên, hắn vẫn giữ được dáng vẻ không sợ hãi, không hốt hoảng và bình tĩnh chờ chết. Trong khi ấy, Guiliano cảm thấy lòng mình tràn ngập lòng trìu mến và cảm phục đối với thầy cai. Guiliano cho rằng con người này đúng là một thử thách, một trắc nghiệm, một bằng chứng chứng tỏ sự bất kha tử của hắn, củng cố cái niềm tin của hắn rằng hắn không thể chết. Guiliano kéo thầy cai lại phía mình. Và trước sự kinh ngạc cảu mọi người, hắn đã ôm hôn thầy cai. Lúc đó, hắn có cảm tưởng hắn phải đỡ cho thầy cai thì hắn mới đứng vững.

Terranova xem xét khẩu súng lục mà thầy cai đã dùng để bắn Guiliano, và nói:

- Anh thật là hên! Trong băng đạn chỉ còn đúng có một viên đó thôi!

Guiliano đưa tay cầm khẩu súng. Terranova hơi do dự, nhưng cũng trao cho hắn. Guiliano quay lại phía thầy cai trao cho y khẩu súng lục và nói:

- Ông cứ giữ lấy. Ông và mấy người của ông sẽ không sao đâu. Tôi đảm bảo điều đó.

Đờ người ra vì kinh ngạc, thầy cai ú ớ không nói nên lời và cũng chẳng biết nói gì. Passatempo ghé vào tai Pisciotta nói nhỏ:

- Đưa tao con dao, tao cho nó vài nhát cho rồi.

- Ở đây, Guiliano là người ra lệnh, - Pisciotta đáp, - và mọi người có mặt ở đây phải tuân lệnh.

Pisciotta nói, thực tế là để cảnh cáo Passatempo rằng chính y cũng có thể giết chết ngay Passatempo nếu gã có manh tâm vọng động.

Những thị dân Montelepre vội vã rời khỏi doanh trại, một phần vì họ sợ Maresciallo và bọn kia có thể trở về bất chợt, một phần vì họ không muốn chứng kiến cuộc tàn sát những tên cớm có thể xảy ra. Guiliano bảo Pisciotta đưa thầy cai và ba tên cớm oắt vào giam trong xà lim, khóa cửa lại. Sau đó, hắn, Pisciotta, Passatempo và Terranova lùng sục khắp các phòng trong doanh trại. Đến kho vũ khí, chúng thấy nào súng trường, súng lục, tiẻu liên... và đạn dược. Chúng lấy hết súng chia nhau đeo lên người và khiêng đạn chất lên xe. Qua phòng ngủ, chúng lấy thêm mấy cái mền và túi ngủ. Pisciotta còn quơ thêm hai bộ cảnh phục ném lên xe, miệng nói: "Để lấy hên". Guiliano ngồi lên chỗ đánh xe, ba người lăm lăm vũ khí, hộ tống sẵn sàng khai hỏa chống lại bất cứ cuộc tấn công nào. Họ đi nhanh về hướng Castellammare. Phải mất một giờ sau họ mới tới nhà của người nông dân mà ông Hector Adonis đã mướn xe. Họ chôn giấu chiến lợi phẩm dưới chuồng heo.

Mãi đến giờ cơm tối Marescillo và toán cảnh vệ tuần tiễu mới trở về. Tuy mặt trời đã khuất bóng, nhưng nếu còn thì ánh mặt trời cũng không thể nóng hơn cơn tức giận điên cuồng của Maresciallo khi thấy tù thì sổng, mà người trong tù lại là Silvestro và ba cớm oắt. Gã điên cuồng lồng lộn ra lệnh cho xe và lính truy kích. Nhưng lúc đó, Guiliano và đồng bọn đã an toàn trên núi rồi.

Báo chí Ý làm rùm beng vụ này. Mới chỉ ba ngày trước kẻ đã giết thêm hai cảnh vệ sau hai tháng giết chết một cớm sếp, đã chiếm những hàng tít lớn và những cột báo trên trang nhất của tất cả các tờ báo ở Sicily và trên toàn nước Ý. Nhưng lúc đó, Guiliano chỉ được mô tả như một tên cướp xứ Sicilian chỉ muốn được nổi tiếng bằng sự tàn bạo, độc ác của mình. Nhưng, đến vụ này thì lại khác, Guiliano được mô tả như một người anh hùng đầy đảm lược và mưu trí, đã thắng lực lượng cảnh sát Ý một cách oanh liệt bằng chiến thuật vừa táo bạo vừa khôn ngoan, tài tình. Hắn đã giữ lời hứa giải thoát những người hàng xóm bị chính quyền giam ẩu và bất công. Các phóng viên từ Palermo, Naples, Rome và cả thành phố Milan tít phía bắc nước Ý. Cũng đổ xô nhau đến Montelepre, phỏng vấn gia đình và bè bạn của Turi Guiliano. Bà mẹ của Guiliano được chụp ảnh tay đang cầm tấm hình Guiliano gảy đàn ghi ta mà theo lời bà "nó chơi hay không thua gì các thiên thần" (thật ra, do cao hứng mà bà bốc thơm lên vậy, chớ nó mới chỉ biết chơi gọi là). Ông thầy cũ của nó nói nó là người say mê đọc sách đến nỗi bạn bè tặng cho cái biệt danh là "mọt sách". Báo chí vồ ngay lấy những chi tiết ấy, phóng đại lên với những hàng tít giật gân đại khái như một tên cướp "học giả", một tên cướp "nghệ sĩ". Pisciotta cũng được báo chí đề cập đến là em họ và là chiến hữu trung thành với Guiliano. Với tấm hình chụp năm nó 17 tuổi, với dáng đẹp trai, đúng kiểu mẫy lý tưởng Địa Trung Hải, Guiliano đã khiên scho những gì mà giới báo chí đã nói trở thành một sự thật không thể phủ nhận được đối với độc giả. Nưhng trong số tất cả những câu chuyện đó thì câu chuyện Guiliano đã tha mạng cho Canio Silvestro, một người đã cố ý giết hắn, là câu chuyện làm cho cả nước Ý cảm phuc. Đối với họ, câu chuyện đó còn hơn anh hùng ca, còn hơn kịch rối àm dân nước Ý rất mê. Khuôn mặt bằng gỗ trong kịch rối làm soa sánh được với "người thật, việc thật", con người bằng xương bằng thịt, việc diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật... Trong kịch làm gì có đạn thật bay sướt ngang đầu, làm gì có vết thương toác hoác, làm gì có vết thẹo đỏ lói?

Báo chí chỉ hơi phàn nàn việc Guiliano thả luôn cả hai tên cướp khét tiếng độc ác và tàn bạo là Terranova và Passatempo, đồng thời ngụ ý hành động này đã phần nào làm lu mờ cái hình ảnh hiệp sĩ chói sáng của Guiliano. Chỉ có một tờ báo ở Milan nhấn mạnh, Salvatore "Turi" Guiliano đã sát hại ba nhân viên cảnh sát đang lúc thi hành công vụ và gợi ý phải áp dụng những biện pháp đặc biệt để bắt hắn cho bằng được. Bởi vì tội sát nhân của hắn không thể được miễn xá chỉ vì nó đẹp trai, mê đọc sách và biết chơi đàn.

SICILY - MIỀN ĐẤT DỮ

PHẦN HAI: 1943

TURI GUILIANO: CON PHƯỢNG HOÀNG ĐEN

CHƯƠNG 10

Ông Trùm được báo cáo đầy đủ chi tiết về Turi Guiliano và lão phục "thằng nhỏ ấy"sát đất. Lão phải thốt lên: "Thế mới đúng là Mafioso thứ rặt nòi". Lão có ý muốn nói đến những Mafioso theo truyền thống: một tay giang hồ hành hiệp, "giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha", chớ không cần phải bị khiêu khích hay chính mình bị ức hiếp.

Ông Trùm ao ước có chàng thanh niên này làm "quả đấm sắt" cho lão, làm thủ lãnh cánh quân sự của lão. Mặc dù hiện nay Guiliano đang là cái gai đâm vào sườn lão, nhưng lão vẫn bỏ qua được. Hai tên cướp bị giam ở Montelepre - Passatempo tàn bạo và Terranova tinh quái - đã bị bắt với sự thỏa thuận và âm mưu của lão. Nhưng, tất cả những cái đó, lão vẫn có thể tha thứ cho Guiliano được - "Cái gì đã qua thì hãy để cho nó qua luôn, nhắc lại làm gì và nhất là lưu giữ trong tâm trí làm gì cho nó bận trí" - Ông Trùm không có thói quen thâm thù, ác cảm khi những tình cảm này không có ảnh hưởng bất lợi cho lợi ích, tương lai của lão. Lão theo dõi Guiliano rất sát.

Ẩn sâu trong núi, Guiliano đâu có biết là trên khắp nước Ý, tên tuổi hắn nổi như cồn. Hắn đang bận tâm phác họa kế hoạch phát triển quyền lực của mình. Vấn đề đầu tiên của hắn là hai tên cướp khét tiếng Terranova và Passatempo. Hắn hỏi rất kỹ về trường hợp chúng bị bắt và đi đến kết luận là chúng bị phản bội, bị mật báo. Chúng thề rằng tay chân, bộ hạ của chúng rất trung thành. Và nhiều đứa đã bỏ mạng trong cuộc bao vây đó. Guiliano đã suy nghĩ, cân nhắc rất kỹ các yếu tố, nhưng vẫn đi đến kết luận là Mafia đã cài người vào trong đám bộ hạ của chúng và chính bọn "điệp viên hai mang" này đã tiết lộ, đã báo hành tung của chúng để bọn cớm cài bẫy. Guiliano nói điều này cho chúng nghe, nhưng chúng vẫn không tin. Chúng vẫn tin tưởng rằng đã là "Người anh em" - dù có đốn mạt cách mấy đi chăng nữa - cũng không bao giờ phạm luật omerta. Chúng có thể, và dễ dàng phạm luật, giới điều của Chúa, nhưng luật omerta thì không bao giờ. Vì đó là luật sinh tử. Guiliano không muốn nhấn mạnh để chúng tin lập luận của mình. Guiliano chấp thuận cho chúng gia nhập băng của mình.

Hắn giải thích cho chúng hiểu mục tiêu của hắn không phải là sự sống còn của bản thân hắn mà là trở thành một lực lượng chính trị. Hắn nhấn mạnh là tuyệt đối không được hãm hiếp đàn bà con gái, không được cướp bóc người nghèo. Trái lại, một nửa số thu hoạch của băng kiếm được sẽ đem phân phát cho người nghèo trong các thị trấn "khu vực ảnh hưởng" của hắn, từ Montelepre cho đến tận ngoại ô của thủ phủ Palermo. Terranova và Passatempo vẫn có thể giữ lại các "tay em" cũng của mình, nhưng phải chịu sự chỉ huy chung của Guiliano. Những nhóm này không được xé lẻ làm ăn riêng bất cứ vụ nào dù lớn hay nhỏ mà không được sự đồng ý trước của Guiliano. Tất cả bọn chúng đều có quyền cai trị "tuyệt đối" trên khắp các thị trấn lớn nhỏ và ngay cả Palermo. Hắn nhấn mạnh là không được tấn công trước lực lượng cảnh vệ, không phải vì hắn sợ, mà vì hắn không muốn những cuộc tàn sát không cần thiết. Chính bọn cảnh sát dã chiến phải lo sợ cho mạng sống của mình, chứ không phải là băng của Guiliano.

Passatempo, một tên cướp mạt hạng chỉ nghĩ đến cướp bóc, hãm hiếp, tống tiền cò con, giết cả người chăn cừu... nghe Guiliano nói vậy, đã nghĩ thầm trong bung: "Vậy thì đi với thằng này đếch có lợi gì nhiều, có chia chác thì cũng chẳng được bao nhiêu, mà lại gò bó đủ thứ...". Còn Terranova - tâm địa phần nào cũng giống với Guiliano và nhớ ơn nó đã giải thoát mình - thì tự hỏi: " Làm thế nào mà một tên cướp trẻ, dù có tài lại có thể lèo lái cả băng đi theo con đường khôn ngoan và cao quý đó được?" Như đọc được ý nghĩ trong đầu của chúng, Guiliano mỉm cười, thấy vui vui vì các ý nghĩ ấy.

Chơi với Turi từ tấm bé, Aspanu còn lạ gì những "tư tưởng lớn" của Guiliano. Nhưng, dù những tư tưởng lớn ấy, có vẻ thơ mộng, lý tưởng, thậm chí điên khùng, thì Aspanu vẫn tin. Bởi vì chính nó đã được chứng nghiệm nhiều lần: một khi Turi nói sẽ làm điều gì thì y như rằng hắn sẽ làm điều ấy. Bởi vậy, khi Turi muốn biến băng cướp thành một lực lượng chính trị, Aspanu không hề thắc mắc, không hề hỏi để làm gì, làm được không.

Trong ánh nắng vàng rực rỡ ban mai chiếu rọi trên núi, cả ba - Pisciotta, Terranova và Passatempo - lắng nghe Guiliano giải thích: hắn sẽ lãnh đạo chúng đấu tranh cho tự do của Sicily, nâng cao mức sống của dân nghèo, hủy diệt quyền lực của bon Mafia, của bọn quý tộc và của ngay cả chính quyền ở Rome. Chúng có thể cười mà cho rằng hắn nói huyên thuyên những vấn đề trên mây trên gió gì đó. Và chúng sẵn sàng, dễ dàng quên những gì hắn nói. Nhưng mà chúng không thể nào quên là hình ảnh tên hạ sĩ cảnh sát chĩa súng bắn vào đầu hắn mà hắn vẫn bình tĩnh, tuyệt đối tự tin và tin rằng mình không thể chết. Hắn nhìn vào họng súng như thể hắn chờ đợi tên cớm lảy cò. Và, nhất là sự tha thứ cho tên cớm đã bắn hụt hắn. Đó chỉ có thể là hành vi của một người tuyệt đối tin vào sự bất tử của mình. Và, hắn đã chia sẻ niềm tin ấy cho người khác. Và, bây giờ, ba đứa đăm đăm nhìn vào khuôn mặt đẹp trai của hắn, chúng lại bị thu hút bởi vẻ đẹp, sự can đảm, sự ngây thơ trong trắng toát ra từ khuôn mặt hắn.

Sáng hôm sau, Guiliano dẫn ba người của mình xuống núi và đi theo con đường mòn dẫn tới cánh đồng gần thị trấn Castelvetrano. Hắn đến rất sớm để dò đường. Cả bọn đều ăn mặc giả nông dân.

Hắn biết các đoàn xe chở lương thực đến các chợ Palermo đều sẽ phải đi qua đây. Vấn đề là làm thế nào chặn được đoàn xe này lại. Chúng phải rảo bước để ngừa những bọ lục lâm khác ra tay trước và đối phó với những tài xế có võ trang.

Guiliano bảo người của mình nấp ở các bụi rậm, tảng đá bên lề đường bên ngoài thị xã Castelvetrano, còn chính hắn ngồi nghênh ngang, khơi khơi trên mỏm tảng đá vôi trơ trụi. Những người đi làm ruộng rẫy nhìn thấy hắn, người nào người nấy sợ tái xanh tái xám. Họ nhìn thấy hắn lăm lăm khẩu súng máy. Guiliano tự hỏi trong số ấy có ai nhận ra hắn không?

Rồi, nó nhận thấy chiếc xe sơn màu sặc sỡ như truyền thống, do một lừa kéo. Guiliano nhận ra lão đánh xe. Lão là một trong những tay đánh xe chuyên nghiệp kiếm ăn đầy ra ở Montelepre cũng như ở tất cả các thị trấn và đồng quê ở Sicily. Lão chở mướn những thanh trẻ từ các ấp bên ngoài thị trấn về các xí nghiệp trong thị trấn. Lão cư ngụ đã lâu tại Montelepre và nhiều lần chở đồ cho ông bố của Guiliano. Guiliano bước xuống giữa đường, tay đong đưa khẩu súng. Dù khuôn mặt không lộ ra, nhưng trong trí lão đã nhận ra hắn ngay trong nháy mắt. Guiliano chào lão lễ độ và thân mật như lúc hắn còn là đứa trẻ nít, và gọi lão là "dượng".

- Dượng Peppino, - Hắn nói, - Con hên lắm nên người đầu tiên con gặp hôm nay là dượng. Bữa nay con "làm ăn" ở đây. Dượng ở đây chờ chút đặng giúp con chở đồ về giúp cho bà con nghèo.

Hắn ranh mãnh nhìn ông lão ngơ ngác và hắn cười thích thú. Ông lão chẳng trả lời. Lão nhìn chòng chọc vào Guiliano, nét mặt lộ vẻ sợ hãi. Hắn đặt một khẩu súng lên thùng xe và lại cười như nắc nẻ. Bởi vậy, hắn nghĩ rằng người đầu tiên hắn gặp hôm đó là dượng Peppino thì nhất định phải là một ngày may mắn.

Guiliano thưởng thức cái mát lạnh của thời tiết cuối thu, thưởng thức vẻ đẹp của rặng núi xa xa phía chân trời và biết rằng người - theo lệnh hắn - đang núp ở mấy bụi rậm kia với súng máy sẵn sàng yểm trợ. Hắn giải thích cho ông Peppino nghe kế hoạch của hắn. Ông lão nghe, chẳng nói chẳng rằng, nét mặt cũng không đổi. Mãi cho đến khi Guiliano nói cho lão biết là hắn sẽ thưởng cho lão một xe chất đầy lương thực, lão mới lúng túng trong miệng:

- Turi, lúc nào cháu cũng tốt bụng, hào hiệp và tử tế. Ngay từ lúc còn nhỏ, cháu đã vậy. Bây giờ thành người lớn, cháu vẫn vậy, chẳng thay đổi gì cả. Vẫn rộng rãi, từ tâm, dễ thương.

Bây giờ, Guiliano mới nhớ lại là dượng Peppino là người Sicilian theo "trường phái cổ điển", nghĩa là ưa ăn nói văn hoa.

- Cháu cứ tin ở dượng, - Lão nói tiếp, - Lần này cũng như những lần khác. Dượng thèm được như ông già cháu, có thằng con khá quá hà!

Đến khoảng trưa thì một đoàn ba chiếc xe tải xuất hiện. Chưa qua khỏi khúc quẹo để rẽ về Partinico, thì chúng phải dừng lại. Một dãy xe lừa kéo đậu chình ình giữa đường, choán hết lối đi. Đó là theo kế của Peppino, một người rất được các tay đánh xe trong vùng nể vì.

Tên lái xe đi đầu bóp còi inh ỏi và cứ cho xe từ từ tiến tới, suýt nữa đụng phải chiếc xe lừa cuối dãy. Người đánh xe quay lại lườm gã một cái khiến gã phải tắt máy xe, và kiên nhẫn chờ, Gã biết rõ mấy cha đánh xe này lắm. Tuy chỉ làm cái nghề coi bộ mạt hạng này, nhưng họ rất hãnh diện, tự ái, sẵn sàng "ăn thua đủ" để bảo vệ cái quyền lưu thông của họ đối với các loại xe cơ giới, lơ mơ là "chơi đến cùng, chết bỏ", rồi bình thản ra đi, miệng còn u ử ngâm khúc dân ca như không có gì xảy ra vậy.

Hai chiếc xe kia cũng ngừng lại. Các tài xế xuống xe. Một trong hai người cũng là người Sicilian nhưng ở miền đông, người kia "ngoại quốc" dù y chỉ là người Bắc (nước Ý). Anh chàng lái xe người Bắc lại gần mấy tay đánh xe, banh cúc áo ngực ra, giận dữ, la hét om sòm về mấy con lừa thổ tả, yêu cầu mấy người đánh xe dẹp đường cho y đi. Y thò tay vào túi. Guiliano nhảy ra khỏi một chiếc xe kéo, hắn cũng chẳng thèm rút khẩu súng tiểu liên của hắn để trên xe mà cũng chẳng thèm rút súng lục ở thắt lưng ra, mà chỉ ra hiệu cho mấy người của hắn nấp ở các bụi rậm, tay cầm vũ khí, chạy tới. Terranova lấy đá chèn bánh chiếc xe thứ nhất để chiếc xe này khỏi nhúc nhích gì được Pisciotta thì lướt qua đường và nhìn trừng trừng vào tên lái xe người Bắc đang nổi giận. Trong khi đó, Pasatempo - nóng nảy hơn Pisciotta và Terranova - lôi người lái xe thứ nhất ra khỏi ca - bin và ném gã xuống dưới chân Guiliano. Guiliano đưa tay đỡ gã dậy, trong khi Pisciotta lùa tên lái xe lên đứng chung với hai đứa kia. Tên người Bắc rút tay không ra khỏi túi nét mặt giận dữ biến thành sợ hãi. Guiliano mỉm cười có vẻ thành thật và vô hại:

- Bữa nay là ngày hên cho cả ba anh. Ba anh khỏi phải đi Palermo nữa. Mấy người đánh xe này sẽ dỡ hàng để phân phát cho mấy người nghèo trong khu vực này, tất nhiên là dưới sự giám sát của tôi. Cho phép tôi được tự giới thiệu, tôi là Guiliano.

Ba anh tài xế lập tức tỏ ra hối tiếc về sự nóng nảy vừa qua của minh,và họ cũng tỏ ra niềm nở, ít ra là bề ngoài. Họ nói họ cũng chẳng vội vã gì, họ còn dư chán thì giờ, và thực ra thì cũng đã đến giờ ăn trưa của họ. Xe của họ cũng tiện nghi lắm. Thật đúng là họ hên, gặp "thần thiện".

Thấy họ nói vậy, nhưng coi bộ còn có vẻ sợ sệt, Guiliano nói:

- Đừng sợ, tôi không bao giờ giết những ai đổ mồ hôi mình ra để kiếm miếng ăn. Tôi mời các anh dùng cơm trưa với tôi, trong khi chờ đợi người của tôi dỡ hàng, rồi các anh về nhà bình yên với vợ con. Và nói với họ về sự may mắn của các anh hôm nay. Khi bọn cớm có hỏi các anh thì các anh giúp đỡ chúng càng ít càng tốt, như vậy, các anh sẽ được chúng tôi nhớ ơn.

Guiliano ngừng nói. Đối với hắn, điều quan trọng là đừng làm cho họ phải hổ thẹn vì bị khinh ghét. Phải làm sao để cho họ về kể lại cho mọi người quen biết của họ rằng họ đã được đối xử đàng hoàng, tôn trọng, lịch sự. Bởi vì, sau những người này sẽ còn những người khác nữa.

Họ được đưa vào tránh nắng dưới bóng một tảng đá bên lề đường. Họ tự ý đưa súng lục của họ cho Guiliano, chớ không cần phải chờ khám xét, họ bình thản ngồi nhìn những người đánh xe dỡ hàng. Khi những người đánh xe đã chất đầy cứng các xe lừa kéo, mà vẫn còn là một xe tải chưa đụng tới, Guiliano bảo Pisciotta và Passatempo cùng với người tài xế đi phân phát cho những người làm ruộng ở Montelepre. Chính Guiliano và Terranova trông coi việc phân phát thực phẩm trong hạt Castelvetrano và Partinico. Mãi tới tối chúng mới về đến sào huyệt trên núi.

Việc làm đó, Guilino đang trên đường chinh phục được sự ủng hộ của toàn thể những người dân trong vùng, kể cả những người vì lý do nào đó không nhận được lương thực hôm đó. Có đám cướp nào phân phát lại những thứ mà chúng đã cướp được cho dân bao giờ. Ngay hôm sau, báo chí ở Sicily lại rùm beng về chuyện đám anh hùng "Lương Sơn Bạc" này. Chỉ có Passatempo lầm bầm trong bụng là "mệt nhọc cả ngày mà chẳng nước non mẹ gì, chỉ được cái danh hão". Nhưng Pisciotta và Terranova hiểu rằng băng của chúng có thêm hàng chục ngàn người ủng hộ để chống lại chính quyền ở Rome.

Có một điều mà tất cả chúng không biết, đó là những xe thực phẩm đó được chở tới kho của Ông Trùm Croce Malo.

Chỉ trong một tháng, những mật báo viên của Guiliano đã cho nó biết là những tay làm giàu nhờ chợ đen chợ đỏ sắp đi đâu, lúc nào, qua tuyến đường nào. Rồi, nào là thói quen của các phú ông, địa chủ các nhà quyền quí và lai lịch của những thằng mạt hạng vẫn thì thọt với các thầy cớm gộc. Nó cũng được nghe bàn tán về những món nữ trang quí giá mà công tước phu nhân Alcamo thường đem ra khoe. Người ta nói là gần như suốt năm, những món nữ trang đó nằm trong két của nhà băng ở Palermo. Và bà ta chỉ lấy ra đeo để khoe của trong những dịp đi dự yến tiệc. Để biết rõ hơn về những món nữ trang ấy - mà Guiliano dự đoán là rất đắt giá - hắn đã phái Aspanu Pisciotta đến lãnh địa Alcamo.

Nằm cách thị trấn Montelepre khoảng 20 dặm về phía tây nam, lãnh địa của công tước Alcamo có vòng tường cao bao bọc, cổng có lính võ trang canh gác. Ngài công tước đã "thuê bao" đám "Người anh em" của Ông Trùm để được đảm bảo rằng bầy gia súc của ngài không bị tỉa dần, lâu đài của ngài không bị bọn trộm cướp thăm viếng và không có bất cứ thân nhân nào của ngài bị bắt cóc. Trong thời buổi bình thường, thì cái giá "thuê bao" đó giúp ngài sống an toàn còn hơn cả Đức Giáo hoàng sống trong điện Vatican.

Khoảng đầu tháng mười một là mùa hái nho của các lãnh địa Sicicly. Vì vậy, các lãnh địa này phải thuê mướn thêm những người ở vùng khác đến. Pisciotta cũng đến xin việc và cũng được mướn làm ở lãnh địa Alcamo. Có đến hơn hai trăm người đàn ông, đàn bà và cả con nít - làm việc trong vườn nho, vừa hái nho vừa ca hát om sòm. Đến trưa thì mọi người được cho bữa cơm, ăn ở giữa trời.

Qua một ngày làm việc mệt muốn đứt hơi vì những giỏ chứa đầy trái nho đen chín mọng, buổi trưa hôm sau Pisciotta ngồi một mình nhìn những người khác tíu tít ăn nói cười đùa. Y chú ý đến một em bưng khay bánh mì từ trong lâu đài đi ra. Em bé này trông kháu đáo để, phải cái hơi xanh, có lẽ do quanh năm chỉ làm việc trong nhà, ít ra ngòai nắng. Em bé ăn mặc nom cũng tươm tất hơn những cô gái nông thôn khác. Nhưng, cái làm cho Pisciotta bực là cái mặt em cứ vác lên, vênh vênh váo váo, ra vẻ ta đây, kênh kiệu không thèm tiếp xúc với ngay cả những đàn bà con gái khác. Pisciotta dò hỏi và được biết em là đứa hầu gái của công tước phu nhân.

Pisciotta thấy ngay em bé này là đối tượng có thể giúp cho y thực hiện mục tiêu hơn bất cứ ai khác. Quá biết cái "máu" của Pisciotta, nên trước khi y ra đi, Guiliano cấm ngặt y không được bờm xơm, chọc ghẹo lỗ mãng, làm nhục đàn bà con gái địa phương. Nhưng, Pisciotta cho rằng Guiliano quá ư lý tưởng, quá ư ngây ngô, đếch biết sự đời. Nữ trang quí và đắt quá! Đồng ý. Nhưng em này cũng kháu quá chứ, bỏ qua rất uổng!

Khi con bé trở lại với một khay bánh mì khác, Pisciotaa đứng dậy, làm điệu tài tử giằng lấy khay bánh bưng giùm em. Thoạt tiên, em giật mình, rồi cự nự. Khi Pisciotta hỏi tên, em nguýt một cái, kèm theo tiếng "xí" đầy khinh miệt và ngoe nguẩy quay đi. Pisciotta đâu phải tay vừa. Y đặt khay bánh xuống, túm chặt hai cổ tay em, nhìn chòng chọc vào hai mắt em, mỉm cười ranh mãnh:

- Khi anh hỏi thì cưng phải trả lời, nếu không, anh quẳng vào cái núi nho kia cho mà chết ngộp.

Rồi nó cười lớn để tỏ cho em biết là nó giỡn. Sau đó, mỉm cười rất duyên dáng - nụ cười duyên của Pisciotta làm cho bao nhiêu con tim thổn thức rồi - và bằng giọng nói duyên dáng nhất y nói:

- Em là cô gái đẹp nhất ở Sicily mà anh được thấy, anh phải nói chuyện với em mới được.

Con bé vừa sợ lại vừa khóai. Vả lại, nó cũng chú ý đến con dao Pisciotta cài ở thắt lưng. Nó cũng thấy cái cách xử sự của Pisciotta cứ như thể là một ông công tước thứ hai, nghĩa là vừa thân mật vừa oai nghiêm. Bấy giờ con bé mới thấy Pisciotta trông cũng ngồ ngộ. Và, nó nói cho y biết tên mình là Graziela.

Đến lúc hết giờ làm việc, Pisciotta liều lĩnh gõ đại phía cửa của nhà bếp lâu đài. Một mụ sồn sồn mở cửa ra, nghe y hỏi Graziela, mụ nói cộc lốc:

- Đầy tớ nhà này không được phép tiếp khách - rồi mụ đóng sầm cửa vào mặt y.

Ngày hôm sau, Pisciotta lại bưng khay bánh cho Graziela và nói nhỏ với em bé là y gặp em sau giờ làm việc. Vừa vuốt cổ tay em, y vừa luồn vào đó một chiếc lắc vàng. Em hứa sẽ chuồn ra gặp y vào lúc tối tại vườn nho, sau khi sửa soạn giường cho bà công tước xong.

Đến tối, Aspanu diện áo sơ - mi lụa may thật khéo tại Palermo. Khi Graziela tới, y ôm chặt lấy em. Khi em ngửa mặt lên nhìn, đôi môi he hé cười, thì Pisciotta gắn chặt đôi môi của mình vào. Và một tay ép sát Graziela vào người, tay kia "soạng" ngay bắp vế em. Con bé hơi nhổng mông ra để khỏi sát vào nó, nhưng tay nó cứ ép chặt. Trong khi đó môi nó vẫn không rời môi em. Hai đứa hôn nhau thật lâu, thật mùi mẫn. Và thằng láu cá ấy đốt giai đoạn. Nó ngạc nhiên vì thấy em mặc silíp bằng lụa. Pisciotta nghĩ bụng: "Con quái non này gớm thật, dám lấy đồ lót của công tước phu nhân để mặc đặng khoe với mình đây. Con quái non này nhí nhảnh, táo tợn và cũng từng trải gớm".

Pisciotta đỡ em xuống tấm mền y đã trải sẵn ở đó. Hai đứa nằm xuống. Em chủ động hôn nó như điên trong khi hai tay nó sờ soạng tới tấp trên ngực và bắp vế em. Y cảm thấy ngực và bụng em phập phồng, giục giã dưới làn áo lụa mỏng. Hai đứa vẫn cứ gắn chặt đôi môi vào nhau, nhưng Pisciotta đã lăn lên trên người em. Y cảm thấy thân thể em như sóng gợn dưới thân thể của y, và y cũng cảm thấy bồng bềnh. Pisicotta thầm nghĩ "Mục đích chính của y là moi tin tức về món nữ trang của bà công tước. Nhưng kết quả tức thời không phải là không "đã"."

Hai đứa quấn mền và ôm nhau chặt cứng. Pisciotta ba hoa với em: y đi làm thế này vừa để vận động tay chân, vừa để có tiền đi học đại học, rằng gia đình y muốn y học luật nhưng y lại thích học khoa học. Y muốn em tưởng là đã vớ được món bở. Rồi y gạ gẫm về chính em, chẳng hạn như em có thích việc làm hiện nay của em không, ai trong đám gia nhân là người bạn thân nhất của em. Và Pisciotta khéo léo hướng em đến chỗ nói về công tước phu nhân. Em đã tả bà công tước mặc quần áo, đeo nữ trang vào, nom bà đẹp như thế nào, em đã được bà chủ cưng như thế nào và bà đã cho em những đồ lót của bà thải ra như thế nào. Vừa nói em vừa lấy bàn tay của Pisciotta đặt vào giữa hai bắp vế của em rồi kẹp chặt lấy. Được thể, nó lấy tay day day. Nhột quá, em cười rú lên.

- Bà bá tước có cho em đeo nữ trang của bà không? - Pisciotta thủ thỉ bên tai em. - Giá anh mà được nhìn thấy em đeo nữ trang của bà, thì chắc anh phải tưởng em là tiên giáng trần mất.

- Có chứ, - Graziela kiêu hãnh đáp, - buổi chiều hôm trước lễ Giáng Sinh là bà cho em mang sợi dây chuyền của bà suốt cả buổi.

Vậy là đúng như Guiliano dự đoán, nữ trang được đem về nhà vào những dịp lễ tết. Pisciotta cũng muốn biết thêm vài chi tiết nữa, nhưng thình lình em nhỏm dậy, ngồi chồm hỗm lên người nó, rồi cứ thế day tới day lui. Nhột quá, Pisciotta nhỏm dậy, em vùng lên chạy. Hai đứa đuổi giỡn nhau đến chỗ đống nho thì cả hai đều té nhào vào đống nho.

- Không khí mát mẻ này thật dễ chịu. - Pisciotta nói. - Nhưng khi nào anh đến phòng em được thì mới thoải mái!

- Trong lúc ngài công tước ở nhà thì không thể được, - Graziela đáp, - Chỉ khi nào ngài công tước đi vắng, thì kỷ cương trong nhà mới hơi nới ra chút. Tháng sau, trước lễ Giáng Sinh ngài sẽ đi chừng vài tuần.

Aspanu mỉm cười. Bây giờ thì nó đã có đủ tin tức cần thiết. Nó rất chú ý đến công việc sắp tới của nó. Nhưng, thình lình nó lại ôm chầm lấy Graziela...

Năm ngày trước lễ Giáng Sinh, Guiliano, Pisciotta, Passatempo và Terranova chen chúc nhau trên một chiếc xe lừa kéo đến cổng lãnh địa Alcamo. Chúng ăn mặc như những nông dân khá giả đi săn. Tên gác cổng lãnh địa chặn chúng lại. Vì là giữa ban ngày ban mặt nên lính gác cũng lơ là, không cảnh giác, có súng nhưng đeo toòng teng trên vai.

Guiliano mau lẹ rảo bước đi về phía hai tên gác cổng. Hắn không võ trang, ngoại trừ khẩu súng lục cài trong người, bên ngoài phủ áo. Hắn mỉm cười làm thân với hai tên lính gác và trịnh trọng nói:

- Thưa quí huynh, tôi tên là Guiliano. Hôm nay tôi đến xin công tước phu nhân tiếp kiến và ban cho ít phẩm vật cứu trợ dân nghèo để họ ăn mừng lễ Giáng Sinh.

Nghe tên Guiliano, hai tên lính gác vừa kinh ngạc vừa sợ, cứ đứng ngây người ra. Ngay lúc đó, Pisciotta và Terranova chĩa súng lục vào chúng, Pisciotta tước súng và đẩy chúng lên thùng xe đóng chặt cửa lại. Teranova và Passatempo được để lại canh hai tên lính gác và canh chừng động tĩnh bên ngoài.

Để đi tới tòa lâu đài, phải đi qua một sân rộng có lát đá, ở một góc sân, có một bầy gà con tíu tít bên một mụ già đang rắc lúa cho chúng. Cách đó có mấy đứa con nhỏ của công tước đang chơi dưới sự trông coi của một bà bảo mẫu già. Phía bên kia vườn là một khoảng đất trống, rộng, trồng cây ăn trái và cây ôliu. Trong vườn có sáu người đang làm việc. Guiliano có Pisciotta đi bên cạnh, rảo bước đi về phía lâu đài. Những tin tức mà hắn nhận được thật chính xác. Guiliano rung chuông, nhưng không đợi người ra mở cửa. Hắn mở cửa vào đúng lúc người đầy tớ gái ra mở cửa. Graziela giật mình vì sự xuất hiện của Pisciotta ở ngay trước cửa. Guiliano nói nhỏ nhẹ:

- Đừng có báo động. Vào bẩm với lệnh bà chúng tôi là người được đức ngài công tước sai về đây có chút việc. Tôi có điều muốn bẩm với lệnh bà.

Hãy còn bối rối, nhưng Graziela cũng dẫn hai người tới phòng khách, ở đó, công tước phu nhân đang đọc sách. Ra hiệu cho đứa tớ gái lui, phu nhân có vẻ hơi bực vì nó đã dẫn khách vào mà không bẩm cho bà trước. Bà nghiệm giọng nói:

- Quan lớn đi vắng, các người muốn gì đây?

Như thể bàng hoàng trước vẻ đẹp sang trọng và lộng lẫy của phu nhân và của cả căn phòng, Guiliano đã không trả lời bà ta được. Đó là căn phòng rộng lớn mà hắn chưa từng thấy bao giờ và quái lạ hơn đối với hắn, là căn phòng này lại hình tròn và rộng hơn cả một quảng trường nữa. Cửa sổ kiểu Pháp treo màn thêu kim tuyến. Trên trần có hình nổi hoa văn và các thiên thần. Nơi nào cũng la liệt những sách: trên các kệ sách đã đành mà cả trên bàn cà phê, trên ghế tràng kỷ... Những bức họa sơn dầu khổ lớn treo trên tường. Những hình hoa lớn khắp nơi. Những hộp mạ vàng, mạ bạc rải rác trên mặt bàn chân quì đặt trước những ghế bành lớn. Phòng có thể chứa trên trăm người. Ấy thế mà trong lúc này lại chỉ có một người đàn bà đẹp. Bà ta mặc đồ bằng lụa. Ánh sáng mặt trời, không khí và tiếng cười trong trẻo thơ ngây của các cậu ấm cô chiêu lọt vào qua cửa sổ. Lần đầu tiên Guiliano mới hiểu thế nào là sức quyến rũ của sự giàu sang, mới hiểu rằng thế lực của kim tiền lại có thể làm ra nhiều thứ đẹp đẽ sang trọng như thế này. Và hắn lại tự nhủ phải chống lại bất cứ kẻ thô lỗ, tàn bạo nào đang tay phá hủy cái đẹp, cái sang trọng này, dù không phải là của hắn. Hắn sẵn lòng làm bất cứ điều gì hắn có thể làm được, để khung cảnh đẹp đẽ này không bị sứt mẻ.

Kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời, công tước phu nhân cũng xúc động trước vẻ đẹp hùng tráng của người thanh niên này. Bà thấy rõ sự xúc động của hắn trước vẻ đẹp và sự sang trọng của căn phòng. Bà nghĩ thật đáng tiếc hắn lại tỏ ra quá sức quê mùa, vụng về. Cũng phải thôi, bởi vì từ thuở cha mẹ sinh đẻ đến giờ chưa có lần nào hắn được đặt chân đến những nơi như thế này, được giao tiếp với giai cấp thượng lưu, mà trong những trường hợp như thế này, sự vuốt ve, tán tỉnh chẳng những không bị coi là khiếm nhã, mà còn được coi là một tác phong phải có. Nhìn cái vẻ ngơ ngác của Guiliano lộ qua khuôn mặt đẹp trai của hắn, công tước phu nhân vừa buồn cười vừa thấy tội nghiệp cho hắn. Bà đổi giọng bà lớn thành giọng dịu dàng, thân mật, gia đình:

- Này, cậu em, tôi xin lỗi, nếu cậu em đến đây để bàn chuyện làm ăn trong lãnh địa thì để khi khác nhé. Lúc này, ông nhà tôi không có nhà.

Guiliano nhìn vào bà ta. Hắn cảm thấy sâu sắc sự đối nghịch mà một thằng đàn ông nghèo cảm thấy, khi đối diện với một người đàn bà giàu có, mà bằng một cách nào đó, chỉ cảm thấy chứ không thể diễn tả bằng lời sự khẳng định của bà ta hơn hẳn về mặt tài sản và địa vị xã hội. Hắn lễ phép cúi đầu, chú ý đến cái chuông nhỏ (để gọi người hầu) kế bên tay bà ta, rồi cười thầm trong bụng và bắt đầu nói bằng một giọng vừa chế giễu vừa phục tùng:

- Kính bẩm lệnh bà, tôi có điều muốn thưa với chính lệnh bà, tôi là Guiliano.

Nhưng cái dáng bộ khúm núm tuy có vẻ giễu cợt của hắn chẳng có nghĩa lý gì đối với công tước phu nhân. Vì bà ta đã quá quen với những cử chỉ khúm núm, lụy phục của đám gia nhân đầy tớ. Bà ta coi cử chỉ khúm núm của người khác trước mặt bà ta là hòan toàn tự nhiên. Bà là một người có văn hóa cao, có học thức, thích âm nhạc, ham đọc sách và hòan tòan dửng dưng với những việc hàng ngày ở Sicily, vì bà coi nó như đồ mọi rợ. Cũng rất ít khi bà đọc báo của ngay cả Rôme. Bà đọc báo của London, của Paris. Bởi thế, khi nghe Guiliano xưng danh, theo phép lịch sự, bà cũng đáp lại:

- Rất hân hạnh được biết cậu. Ta đã gặp nhau ở Palermo phải không nhỉ? - Bà không nói gặp nhau ở London hay Paris và ngay cả ở Rome bởi vì bà nghĩ bụng: "Cái ngữ này thì Palermo đã là thiên đường của nó rồi" - Hay là ta đã gặp nhau ở nhà hát nào nhỉ?

Nhìn và nghe đối đáp giữa Guiliano và công tước phu nhân, Pisciotta đã cố bấm bụng, nhưng không thể nín được nữa, nó phá ra cười hô hố và đi ra phía cửa sổ giả bộ nhìn xuống sân, nhưng thực ra là để xem có đứa gia nhân đầy tớ nào chạy tới không.

Guiliano bực mình vì tiếng cười của Pisciotta, còn công tước phu nhân thì ngạc nhiên. Nhưng Guiliano lại lấy làm thích thú vì phu nhân không biết hắn là ai. Hắn nói một cách nghiêm chỉnh:

- Kính bẩm lệnh bà, ta chưa hề gặp nhau bao giờ. Tôi là một tên cướp. Tên đầy đủ của tôi là Salvatore Guiliano. Tôi cứ đinh ninh mình là tay vô địch ở Sicily này và ai cũng biết tiếng kia đấy. Mục đích của tôi đến xin yết kiến lệnh bà hôm nay là xin lệnh bà mớ nữ trang của lệnh bà đặng cho người nghèo để họ có cái ăn mừng lễ kỷ niệm Chúa Giáng Sinh.

Công tước phu nhân mỉm cười trong bụng khen hắn đóng kịch có "thần", vì bà vẫn không tin hắn là tên cướp. Phu nhân còn trẻ, rất trẻ. Khuôn mặt đẹp trai và thân thể cường tráng của chàng trai này đã khiến cho công tước phu nhân cảm thấy con tim xao xuyến, cơ thể rạo rực, thèm khát một cách mãnh liệt khác thường. Sự liên tưởng tới những khoái cảm xác thịt mà phu nhân hình dung ra khi được cùng chàng trai này ân ái đã khiến cho mạch máu trên đầu phu nhân nảy tưng tưng và làm cho ngực phu nhân thở dồn dập, phập phồng. Phu nhân liếc nhìn Pisciotta, rồi liếc nhìn Guiliano và tiếc rẻ: giá không có cái thằng ria mép mắc dịch kia thì có lẽ phu nhân đã không kìm hãm nổi lòng xuân phơi phới của mình. Công tước phu nhân chợt tỉnh cơn mơ khóai lạc vì cái ý tưởng tên cướp đã trở lại đầu óc bà. Không, bà thầm nghĩ, thằng thanh niên có bộ ria mép thô lỗ kia thì có thể, chớ chàng thanh niên tuấn tú xưng danh là Guiliano này không thể là mối nguy của bà. Và bà cũng thoáng cảm thấy bóng dáng của sự nguy hiểm pha lẫn sự ngạc nhiên và hiếu kỳ. Bà nghĩ: "Lại có một chuyện vui và hồi hộp để kể trong một bữa tiệc nào đó ở Palermo". Bởi vậy, bà mỉm cười ngây thơ và nói:

- Tiếc quá, nữ trang tôi để cả ở Palermo rồi. Tại két trong nhà hiện nay, cậu muốn lấy gì thì lấy, tôi sẵn lòng.

Trong đời, chưa có ai nghi ngờ lời nói của bà. Ngay từ lúc còn nhỏ, bà cũng đã không hề nói dối bao giờ. Đây là lần đầu tiên. Thế mà bà nói cũng khá tự nhiên. Nhưng, cũng không qua được con mắt của Guiliano. Hắn nhìn chuỗi kim cương đang đeo ở cổ bà. Hắn biết là bà nói dối, nhưng hắn cũng đang phân vân chưa biết phải làm gì. Hắn gật đầu ra hiệu cho Pisciotta. Thằng này đưa hai ngón tay lên, bóp chúm môi dưới lại và "hoét hoét" lên mấy tiếng. Một hai phút sau đã thấy Pasatempo thập thò ngoài cửa sổ. Cái vóc dáng mập lùn và thô kệch, cái mặt đầy thẹo ngang dọc nom dữ dằn gớm ghiếc, cả khuôn mặt bành bạch như cái thớt, nhưng lại hầu như không có trán, nom rất cổ quá, dị dạng mà ngay cả mặt nạ búp bê cũng không có, mái tóc đen, cứng tua tủa. Lởm chởm, cặp lông mày chổi sể trùm bên trên đôi mắt ốc nhồi khiến hắn giống như con khỉ đột.

Sự xuất hiện của tên cướp thứ ba với hình dạng kinh khủng gớm ghiếc như vậy đã khiến cho công tước phu nhân khiếp đảm. Bà run run tháo sợi dây chuyền cẩn kim cương đang đeo ở cổ ra và trao cho Guiliano:

- Đây, cậu đã bằng lòng chưa?

- Kính bẩm lệnh bà, chưa, - Guiliano vẫn nhỏ nhẹ. - Nhưng tôi cũng xin bẩm để lệnh bà rõ: tôi là người có từ tâm. Tuy nhiên mấy "Người anh em" của tôi đây thì khác. Anh Aspanu của tôi đây, coi đẹp trai vậy đó nhưng ác không thua gì bộ ria mép của anh ta. Bộ ria ấy đã làm cho biết bao con tim tan nát rồi đấy. Và cái tên đang đứng ngoài cửa sổ kia, tuy là bộ hạ của tôi thật, nhưng nó cũng làm cho ngay cả tôi đây nhiều phen cũng hết hồn và đem lại nhiều cơn ác mộng. Lệnh bà đừng để tôi thả lỏng chúng nó. Chúng sẽ nhào vô vườn của lệnh bà như bầy diều hâu vồ gà con để mời mấy công tử lên núi nghỉ mát chơi ít ngày. Thôi, xin lệnh bà vui lòng đem tất cả hộp nữ trang của lệnh bà ra đây.

Công tước phu nhân chạy như bay vào phòng ngủ và chỉ ít phút sau trở lại với hộp nữ trang trên tay. Phu nhân cũng nhanh trí khôn và nhanh tay giấu vội vài món đắt giá nhất trước khi bưng cả hộp ra ngoài. Phu nhân trao hộp đó cho Guiliano. Hắn nhận một cách hết sức lịch sự, và quay về phía Aspanu, nói:

- Aspanu, có lẽ trong lúc vội vã, lệnh bà còn làm rớt hoặc bỏ sót một vài món chăng. Xinh lệnh bà cho phép nó vào phòng xem lại chút cho chắc chắn.

Hầu như ngay lập tức Pisciotta đã tìm được mấy món nữ trang mà công tước phu nhẫn đã giấu.

Trong khi đó, Guiliano mở hộp nữ trang ra. Tim hắn muốn nhảy ra ngoài khi nhìn thấy những viên ngọc quí. Hắn biết là giá trị của cái hộp này đủ nuôi tất cả dân thị trấn Montelepre trong cả năm ròng chưa hết. Một nguồn vui lớn khác nữa là đức ngài công tước đã sắm được những món nữ trang này bằng cách bóc lột công sức, mồ hôi của biết bao nông dân trong bao năm trời. Nhìn thấy công tước phu nhân thu thu hai bàn tay vào nhau như có vẻ e lệ, Guiliano đã chú ý đến chiếc cà rá ở ngón tay đeo nhẫn của bà:

- Kính bẩm lệnh bà, - Hắn vẫn giữ giọng vừa giễu cợt, vừa khúm núm, e dè, - Tại sao lệnh bà lại dại dột đi giấu mấy món kia? Kẻ hèn này tưởng là chỉ có mấy thằng khố rách áo ôm, mấy tên nông dân ngu muội mới làm nô lệ cho tài sản của mình chứ? Thế mà sao lệnh bà lại liều tấm thân ngọc ngà của mình và thí mạng cả mấy công tử chỉ vì mấy món nữ trang vô tri này. Có mất mấy cái của này thì lệnh bà cũng chẳng thiệt hại nhiều hơn đức ngài công tước làm mất một cái mũ đội trên đâu. Thôi, đừng có lôi thôi, om sòm lên làm gì, xin lệnh bà vui lòng trao nốt cho tôi chiếc cà rá đang đeo trên tay lệnh bà kia kìa.

- Xin các cậu hãy thương tôi, - Bà sụt sùi khóc, - Hãy để lại cho tôi cái cà rá này. Nó chẳng đáng giá gì nhiều, nhưng là vật kỷ niệm đính hôn của vợ chồng tôi. Tôi xin bù lại bằng một món tiền. Tôi không thể nào chịu nổi nếu không có nó. Lòng tôi tan nát, nếu không có nó.

Pisciotta cười khẩy. Y cố ý cười như vậy, vì y sợ Turi có thể động lòng trắc ẩn, mềm lòng vì nước mắt đàn bà để cho bà ta giữ lại cái cà rá hiển nhiên là rất có giá ấy.

Nhưng Guiliano đâu có mủi lòng kiểu ấy. Pisciotta nhớ mãi ánh mắt của Turi khi hắn nắm lấy bàn tay run rẩy của công tước phu nhân và tháo cái cà rá ra. Khi quay trở lại hắn liền đeo chiếc cà rá ấy vào ngón tay út bàn tay trái của hắn.

Turi nhìn thấy công tước đỏ mặt lên vì tức giận và đôi mắt ngấn lệ của bà ta. Cung cách của hắn lại trở nên khúm núm e dè một cách giễu cợt. Giơ bàn tay có đeo chiếc cà rá lên, hắn nói:

- Để luôn tưởng nhớ đến lệnh bà, tôi xin long trọng hứa với lệnh bà rằng tôi sẽ không bao giờ bán cái cà rá này trong bất cứ trường hợp nào, và cũng không cho bất cứ ai. Tôi sẽ luôn mang nó trong tay tôi.

Công tước phu nhân muốn thấy cái vẻ châm biếm, chế nhạo trên khuôn mặt hắn. Nhưng không, hắn rất trang trọng.

Nhưng, đó là giây phút thần kỳ đối với Turi. Bởi vì khi đeo chiếc cà rá ấy vào ngón tay, hắn cũng thấy quyền lực qua đó mà ùa tràn, thâm nhập vào hắn. Với chiếc cà rá ấy, hắn có cảm tưởng đã kết hôn với chính thần số mệnh. Đó là biểu tượng của quyền lực mà hắn đã thâu đoạt được từ thế giới của bọn nhà giàu. Viên ngọc xanh đậm viền vàng ấy hãy còn vương mùi thơm của người đàn bà ngọc ngà đã mang nó luôn trong mình từ bao năm qua chính là lời tuyên bố rõ ràng và dứt khoát rằng hắn, Turi Guiliano đã nắm được cái tinh túy của đời sống mà trước đó hắn chưa từng được biết, và cái đời sống ấy là của chính hắn hiện nay và sau này.

Ông Trùm Croce lẳng lặng ngồi nghe.

Ngài công tước Alcamo đang phàn nàn ra ý phiền trách chính bản thân Ông Trùm. Ngài đã chẳng phải trả tiền "thuê bao" hàng năm cho đám "Người anh em" để chúng đảm bảo không đụng chạm đến tài sản của ngài đó sao? Thế mà bọn đó lại chẳng đảm bảo được? Tại sao sự thể lại xảy ra như vậy? Thời xưa ấy hả, đố thằng nào dám vuốt râu cọp. Và bây giờ, liệu Ông Trùm có đủ sức để truy tìm cho ra và thâu hồi trả ngài mớ nữ trang kia không? Ngài công tước đã báo vụ cướp này cho nhà cầm quyền, mặc dầu ngài biết là vô ích và còn có thể làm cho Ông Trùm phiền lòng. Nhưng, chẳng thà làm vậy mà còn có chút ít hy vọng may ra vớt vát được chút gì chăng. Vả lại, có như vậy thì may ra chính quyền ở Rome mới để tâm đến cái "họa" Guiliano này một cách thích đáng hơn, đúng mức hơn.

Ông Trùm cũng nghĩ rằng đã đến lúc phải coi Guiliano là một vấn đề nghiêm trọng. Lão thủng thỉnh nói với ngài công tước:

- Nếu tôi lấy lại được những món nữ trang đó thì ngài có vui lòng chi một khoản tiền bằng giá trị một phần tư những món ấy không?

Ngài công tước trợn tròn đôi mắt, ngạc nhiên, rồi nổi xung la lớn:

- Trước hết, ta đã trả đủ cho các người số tiền "thuê bao" để đảm bảo an toàn tánh mạng và tài sản của gia đình ta. Thế mà mấy người đã không đảm bảo được. Đúng ra mấy người phải bồi thường thiệt hại cho ta, chứ lẽ nào còn dám mở miệng đòi ta tiền chuộc là làm sao? Trong công việc kinh doanh, làm ăn mà mấy người ăn nói đảo điên như vậy thì liệu mấy người dám hy vọng có được sự tín nhiệm của khách hàng nữa hay không?

- Tôi phải công nhận ngài có lý. - Ông Trùm gật gù đồng ý, - Nhưng ngài nên coi Salvatore Guiliano như một thiên tai. Chắc chắn ngài sẽ không trông đợi "Người anh em" bảo vệ ngài khỏi các thiên tai như động đất, núi lửa, lụt lội... Nếu có ai dám đảm bảo kiểm soát, kiềm chế được thiên tai thì tôi cũng dám bảo đảm với ngài là sẽ kiểm soát, kiềm chế được Salvatore Guiliano. Nhưng thôi cứ gạt chuyện thiên tai đó đã, cho đến khi nào kiểm soát, kiểm chế được thì sẽ tính. Bây giờ hãy tính chuyện thực tiễn trước mắt đây. Xin ngài nghĩ coi: nếu ngài chịu chi số tiền đó thì tôi mới có phương tiện để thương lượng dàn xếp. Và tôi cũng đành phải chịu thiệt thòi để chia sẻ cái xui xẻo của ngài bằng cách ngài khỏi trả tiền "thuê bao" cho năm năm tới mà tôi vẫn phải đảm bảo an toàn chongài như từ trước đến nay. Đồng thời tôi cũng phải thương lượng để trong khoảng thời gian đó, Guiliano cũng đồng ý không làm phiền ngài nữa. Vả lại sau vố này, hắn sẽ chẳng làm gì nữa, nếu ngài đủ khôn ngoan để cất giữ những món nữ trang quí giá ấy trong két của nhà băng ở Palermo? Các bà thì cứ ngây thơ lắm kia, họ đâu có biết rằng cái thói dâm đãng và lòng tham lam là những động lực mạnh - đến nỗi hầu như không thể cưỡng lại được - đã thúc đẩy bọn đàn ông lăn xả vào chém giết nhau để giành giật lấy của cải vật chất đời này? - Lão ngừng một chút, nhếch mép cười khi thấy vẻ thất vọng lộ trên khuôn mặt ngài công tước, rồi lão tiếp tục thủ thỉ: - Nếu ngài tính số tiền "thuê bao" để bảo vệ lãnh địa này cho năm năm sắp tới trong lúc mỗi ngày mỗi thêm nhiễu nhương thì ngài sẽ thấy, qua cái rủi ro này, ngài thiệt hại cũng chẳng đáng là bao.

Ngài công tước suy nghĩ, đã thấy Ông Trùm hòan toàn có lý về cái thời gian nhiễu nhương sắp tới đây. Hậu chiến mà. Nhà máy, xí nghiệp bị chiến tranh tàn phá, hàng triệu lính giải ngũ về, công ăn việc làm không có, mà thằng nào cũng quen bắn súng rồi, có thằng chết hụt đã dăm phen rồi, thì cái gì mà chúng chẳng dám liều. Như vậy, cái món tiền chuộc nữ trang so với tiền "thuê bao" năm năm sắp tới... tính coi... ngài công tước thấy cũng khá lớn chớ đâu phải ít. Vả lại, ai dám đảm bảo Ông Trùm sẽ sống được hết năm năm đó. Nửa chừng lão "đứt bóng" thì sao? Hoặc giả ai dám đảm bảo là Guiliano sẽ không quay trở lại làm vài ba vố nữa? Nhưng chẳng thà mất vậy còn hơn mất hết. Cái điều kiện Ông Trùm đưa ra dù sao cũng là cuộc mặc cả có lợi nhất trong hòan cảnh này. Và cái đó cũng khiến cho công tước phu nhân giảm bớt cái thói nhí nhảnh, đòi đem nữ trang vào lãnh địa để khoe mẽ với mấy đứa đầy tớ. Nhưng cái lợi lớn hơn là ngài công tước sẽ vin vào cái cớ an toàn để phu nhân không dám mè nheo đòi mua sắm thêm nữ trang. Như vậy đỡ tốn khối tiền. Có lẽ ngài công tước phải bấm bụng bán đi vài ba mảnh đất. Nhưng, từ bao đời nay rồi, tổ tiên của ngài cũng đã từng bán đi như vậy để trả giá cho những sự điên rồ của họ. Ấy vậy mà các cụ còn để lại cho ngài cả mấy ngàn mẫu.

Ngài gật đầu chấp thuận.

Ông Trùm cho mời giáo sư Hector Adonis tới. Ngày hôm sau cuộc hội kiến với Ông Trùm, gái sư làm một chuyến thăm thằng con đỡ đầu. Ông giải thích cho hắn cái sứ mạng của ông. Ông hết sức thành thật:

- Con sẽ không được cái giá cao hơn đâu, ngay cả nếu con đem bán cho bọn chuyên mua đồ gian ở Palermo. Và rồi con cũng phải mất một thời gian, chắc chắn là con không thể có tiền trước lễ Giáng sinh, nếu con đem bán cho bọn mua đồ gian. Ngoài ra, cho chuộc lại, con sẽ chinh phục được cảm tình của lão Croce. Cái đó rất quan trọng đối với con. Sau cùng, con đã làm lão ta mất mặt ít nhiều vì lão ta nhận "thuê bao" cho gia đình Alcamo mà. Nhưng, nếu con giúp lão ta giải quyết việc này, thì lão ta cũng sẵn sàng bỏ qua hết.

Guiliano mỉm cười nhìn ông bố đỡ đầu của mình. Hắn có coi cái ý muốn, ước nguyện và ngay cả sự đe dọa của Ông Trùm ra gì đâu. Sau cùng, ước mơ của chính hắn là diệt được con quái vật Mafia ở Sicily này. Ngoài ra, hắn cũng đã cho người đi Palermo dò hỏi giá cả mấy món nữ trang đã cướp được. Và hắn cũng thấy giá cả cũng không hơn giá cả mà Ông Trùm đề nghị, hơn nữa còn thêm rắc rối, nhiêu khê, lâu lắc lắm, chắc chắn không kịp trước lễ Giáng Sinh. Bởi vậy hắn đồng ý thương lượng, nhưng nhất định không trả lại chiếc cà rá ngọc.

Trước khi từ giã, Adonis cũng tuyên bố với hắn xin thôi luôn cái vai trò làm thầy dạy cho hắn những thiên anh hùng ca và văn học lý tưởng cách mạng, bởi vì hắn là hiện thân bằng xương bằng thịt những cái đó. Lần đầu tiên, ông nói với hắn về thực tế đời sống của người Sicilian:

- Con à, không có ai cảm mến những đức tính của con hơn thầy. Thầy cảm phục cái khát vọng hào hùng của con mà thấy hy vọng được góp phần của mình vào sự thực hiện khát vọng ấy. Tuy nhiên, bây giờ ta cũng phải xét đến sự sống còn, bởi vì sự sống còn là điều kiện tiên quyết, cơ bản của mọi hiện thực. Sự sống mà tắt thì khát vọng dù có hào hùng, cao cả cách mấy cũng tắt theo. Cũng như lửa tắt thì ánh sáng cũng phải tắt. Chưa nói đến sự thực hiện. Con không có hy vọng gì thắng được bọn "Người anh em" đâu. Từ hàng ngàn năm nay chúng cũng như hàng triệu con nhện dăng lưới dày đặc, phủ kín khắp Sicily, khắp mọi người và mọi mặt của đời sống, của xã hội. Ông Trùm Croce đang đứng giữa cái lưới nhện đó. Lão ta rất cảm phục con và rất muốn giữ tình hữu nghị với con. Lão ta muốn con và lão cùng làm giàu. Nhưng có đôi lúc, con phải chiều ý lão một chút. Thầy không nói con phải nhượng bộ, phải mất thể diện ở một khía cạnh nào đó. Con vẫn có giang sơn riêng của con, nhưng giang sơn của con phải nằm trong cái lưới nhện ấy. Có điều chắc chắn là con không thể trực tiếp đương đầu với lão ta được đâu. Nếu con cứ quyết tâm làm như vậy thì chính lịch sử sẽ giúp lão tiêu diệt con.

Vậy là "Châu về Hợp Phố" với món tiền chuộc của ngài công tước. Guiliano chia một nửa số tiền cho Pisciotta, Terranova và Passatempo. Chúng nhìn nhìn cái cà rá đeo ở ngón tay út của Guiliano, nhưng không thằng nào dám hó hé nói năng gì. Bởi vì, Guiliano tuyên bố không thèm đụng đến một xu trong khoản tiền đó. Một nửa số tiền còn lại, Guiliano quyết định phân phát cho đám chăn cừu, cho những cô nhi, quả phụ và những người nghèo khổ trong vùng.

Hắn luôn luôn trao tiền qua trung gian. Nhưng, có một hôm, hắn nhét tiền vào đầy các túi áo và đầy cái ba lô mà cha bề trên đã cho khi hắn rời khỏi tu viện. Hắn đi vào các làng quanh thị xã Montelepre, Piani dei Greci... Cùng đi, có Terranova.

Tại một làng có ba bà già sắp chết đói. Hắn cho mỗi bà cả cọc tiền. Họ cảm động quá, khóc và hôn tay hắn. Tại một làng khác, một nông dân sắp bị "siết" mất thửa ruộng anh ta đã đem "cầm" vì vợ ốm trong lúc gia đình lại quá quẫn bách, nay đến thời hạn, anh ta không có tiền để chuộc. Guiliano đã cho anh ta số tiền đủ để chuộc lại thửa ruộng. Tại một làng khác, hắn mua hết ráo hàng hóa trong tiệm bánh và tiệm tạp hóa, rồi phân phát bánh, phó - mát và kẹo... cho cả làng. Tại một làng gần thị trấn, hắn đã tặng cho cha mẹ một đứa trẻ đang ốm nặng để có tiền đi điều trị tại bệnh viện ở Palermo và trả tiền cho bác sĩ ở địa phương. Hắn cũng dự một đám cưới và tặng cho cặp vợ chồng trẻ một số tiền làm vốn.

Nhưng hắn thích nhất là tặng tiền cho đám trẻ nhà nghèo sống lang thang trên khắp các nẻo đường, trên khắp các tỉnh thành của Sicily. Hầu hết, bọn trẻ này trong vùng đều quen biết Guiliano. Chúng bu lấy Guiliano. Khi trao tiền cho chúng, Guiliano sung sướng nhìn chúng hớn hở chạy về nhà.

Chỉ còn lại chút ít tiền khi hắn quyết định về thăm bố mẹ hắn vào lúc chập tối. Khi đi qua dải đất phía sau nhà, Guiliano gặp hai đứa trẻ, một trai, một gái, ngồi khóc. Chúng mất số tiền mà má chúng trao cho chúng đi mua cái gì đó. Chúng nói là "thằng cớm đã cướp mất của tụi cháu". Guiliano thấy vui vui trước tấn bi kịch nhỏ bé ấy, và cho chúng một món tiền gấp bội số tiền chúng mất. Thấy đứa bé gái xinh quá, hắn không thể chịu được khi nghĩ rằng bé này sẽ bị ba má nó đánh vì sơ ý để cớm cướp mất tiền, nên hắn đã ngồi lại, viết một bức thư yêu cầu ba má bé đừng đánh bé.

Không phải chỉ ba má con bé đó biết ơn Guiliano, mà dân ở các thị trấn Borgetto, Corleone, Partinico, Moreale, Piani dei Greci... cũng biết ơn hắn. Để tỏ lòng biết ơn, họ đã gọi hắn là "Quốc vương Montelepre".

Mặc dù mất năm năm tiền "thuê bao" của ngài công tước, nhưng cái đầu óc quái quỉ của "Ông Trùm" đâu có để lão thiệt thòi, trái lại còn có lời nữa là khác. Bởi vì, một mặt lão đòi ngài công tước tiền chuộc bằng 25 phần trăm gái trị các món nữa trang, một mặt lão nói với ông Adonis là ngài công tước chỉ chịu trả bằng 20 phần trăm. Ở giữa, lão sớt lại 5 phần trăm bỏ túi. Chỉ 5 phần trăm nhưng cũng gấp mấy lần cái giá "thuê bao" năm năm mà đối với ngài công tước, lão vẫn được cái tiếng là chịu thiệt thòi và đối với Guiliano, lão được tiếng trung gian vất vả.

Nhưng, điều làm cho lão tự hào và khóai hơn cả là lão đã sớm phát hiện và đánh giá đúng tài năng của Guiliano, đồng thời qua việc chịu thương lượng - theo ý lão - Guiliano bước đâu đi vào quĩ đạo mà lão đã định. Guiliano đúng là một ngôi sao đang lên. Ai dám tin được một thanh niên có cái nhìn sáng suốt, hành động khôn ngoan và có tính tự hào đến mức kiêu hãnh như vậy, mà lại biết nghe lời một người lớn tuổi hơn và tinh khôn hơn là lão vậy?

Nhưng, về phần Guiliano, qua cuộc thương lượng này, nghe thì nghe - với trí thông minh và tính tóan lạnh lùng - hắn vẫn giữ được phần riêng của hắn. Điều này càng làm cho lão cảm phục hắn và càng đắc ý vì "Ai ngu dại gì mà đi liên kết với một thằng khùng?'

Ông Trùm gật gù thú vị với ý nghĩ một ngày kia, Guiliano có thể là cánh tay mặt của lão. Và với thời gian, hắn sẽ là đứa con kế nghiệp lão.

Turi nhìn thấu suốt những ý đồ đang bao quanh hắn. Hắn biết rõ ông bố đỡ đầu chân thành quan tâm và lo lắng cho lợi của hắn. Nhưng điều đó không có nghĩa là hắn hoàn toàn phó thác sinh mệnh và tương lai của hắn cho sự phán đóan và thẩm định của người lớn. Guiliano cũng thừa biết hắn chưa đủ lực lượng để ăn thua và chơi trực diện với đám "Người anh em" của Ông Trùm. Và, thật ra, hắn còn cần sự giúp đỡ của bọn này trong một thời gian. Nhưng hắn không hề có ảo tưởng về sự liên kết lâu dài với bọn đó. Nếu nghe lời ông bố đỡ đầu, rất có thể hắn chỉ trở thành một thứ bồi thần cho hoàng đế Ông Trùm Croce Malo. Và, đối với nó, điều đó không bao giờ có thể xảy ra. Nhưng, bây giờ hắn cần hoãn binh chi kế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: