Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

sao den tap 2 trieu huan

CHƯƠNG I

CHẠY TRỐN

Những trận mưa dữ dội đần mùa đã cuốn đi lớp bụi của mùa khô làm cho thành phố sạch bóng. Nhìn xa mặt đường láng như gương. Màu xanh non của những chùm lá mới bừng nở trên tán cây hai bên đường. Mùa xuân vượt qua ranh giới lịch thời gian tràn sang mùa hạ. Điều mong ước sánh vai nhau đi trên đường phố Sài Gòn giải phóng của chúng tôi không được thực hiện. Không được phép để cho ai "hiểu lầm" chúng tôi là một cặp vợ chồng. Chỉ có Bạch Kim thỉnh thoảng đưa cháu Trung đi thăm thú nơi này nơi khác. Chẳng bao lâu nữa cháu sẽ phải xa Tổ Quốc một thời gian không hạn định nên cô cũng muốn cháu ghi sâu vào tâm hồn thơ bé của nó hình ảnh thân yêu của quê hương xứ sở. Còn tôi thì không dám đến thăm ai, dù là những người đồng chí cùng hoạt động trước đây hay những người quen trong giới chức ngụy quyền cũ.

Tất cả là chờ đón nhiệm vụ.

Rồi một bữa tôi nhận được giấy gọi đi cải tạo tập trung.

- Pháo hiệu đã nổ rồi! Các chiến binh hãy xốc lê lao vào trận đánh? - Tôi nói vui với Bạch Kim.

- Đấy mới là tín hiệu của riêng anh. Má con em vẫn đang còn nằm ở tuyến đợi.

Đêm hôm đó chúng tôi thao thức không sao ngủ nổi. Có thể còn lâu chúng tôi mới lại gặp nhau. Điểm hẹn ở tận bên kia quả đất. Con đường trước mắt sẽ vô cùng lạ lẫm. Tôi chưa hình dung nổi phương thức hoạt động trong môi trường mới... Chúng tôi thống nhất với nhau là trong thời gian tôi ở trại cải tạo hai mẹ con không phải lên thăm. Có gì cần tôi sẽ viết thư về. Tôi tin cậu Đức sẽ là đường dây liên lạc cho chúng tôi.

Cuối tháng 8 năm 1975 tôi đến tập trung ở Quận. Chỉ có một số ít sĩ quan hiện dịch. Không ai quen biết tôi. Xe tải đưa chúng tôi đi Bình Dương. Ở dây chúng tôi viết lý lịch và tường thuật lại con đường binh nghiệp của mình. Sau bảy ngày học chính trị chúng tôi được biết sẽ phải ở lại trại một thời gian không hạn định. Tuỳ tình hình cụ thể, người nào tỏ ra tiến bộ sẽ được xét cho về với gia đình.

Một bữa tôi được gọi lên Ban quản trị Trại cùng hai sĩ quan khác. Người phụ trách cải huấn hỏi tôi:

- Anh là sĩ quan điện toán. Chúng tôi cần trưng dụng anh ít ngày để phối hợp với chuyên gia của chúng tôi cho vận hành tổ hợp máy ở Bộ Tổng tham mưu. Anh làm được chứ?

- Dạ thưa cán bộ, đó là hệ thống máy quen thuộc đối với tôi.

Hai sĩ quan thông tin cùng đi với tôi được gọi đến giúp việc ở trung tâm tuyền tin Phú Lâm.

Xe đến Sài Gòn, một người đưa tôi vào cổng Phi Long trình giấy tờ. Năm phút sau tôi đã gặp đại tá Nguyễn Hữu Đức trong một căn phòng riêng kín đáo.

- Thế nào, cải tạo tiến bộ đến đâu rồi? - Đại tá cười, vỗ vai tôi.

- Thưa cậu nhất định là phải tiến bộ hơn chứ ạ?

- Cậu báo cáo toàn bộ kế hoạch "hậu chiến" của chúng ta lên cấp trên. Về cơ bản đã được xét duyệt, nhưng cậu cháu mình cũng phải bàn bạc thêm nhiều chi tiết cụ thể. Vì vậy cậu phải gọi cháu lên đây ít nhất một tuần. Với Bạch Kim thì sẽ bàn riêng sau.

- Vâng, cháu sẵn sàng nghe cậu nói. Suốt nửa tháng "học tập cải tạo" cháu tiếp thụ được ít quá. Tâm tư cháu cứ cuốn hút vào nhiệm vụ sắp tới. Cháu mong được gặp cậu để nghe cậu chỉ bảo thêm.

- Cách đây hai mươi năm, giao nhiệm vụ cho cháu cậu thấy dễ dàng hơn bây giờ nhiều. Lúc đó kẻ thù trực tiếp hiệp rõ nguyên hình, sào huyệt của chúng công khai trước mặt mọi người. Địa bàn tập trung, phương tiện thông tin liên lạc đơn tuyến, đa tuyến đều có thể thiết lập. Nay thì khác hẳn. Đế quốc Mỹ, đã bại trận, tất nhiên mối hận thù còn nóng bỏng, nó sẽ không để ta yên ổn. Bọn tay sai từng đem quân đến nước ta, cho Mỹ sử dụng đất đai, làm căn cứ xuất phát gây biết bao tội ác với nhân dân ta nay chắc chắn không thể vui mừng nhìn ta thống nhất vững mạnh. Bọn ngụy quân ngụy quyền, các tổ chức phản động lượt vong còn nuối tiếc thiên đường đã mất. Khi hồi tỉnh biết đâu chúng chẳng tập trung lại lực lượng lo tính phục thù. Nếu có điều kiện phá hoại ta, hạn chế ta là chúng không từ. Chưa nói đến những người trước đây giúp ta định dùng ta như một con bài, nay mất cả chì lẫn chài, họ sẽ thay đối sách, gây cho ta những khó khăn mới. Tất cả những phân lực đó liên hệ với nhau thế nào, tâm lực hướng vào đâu… ta cần phải biết.

- Thưa cậu cháu cũng đã nhiều đêm trăn trở cho nhiệm vụ nhưng vẫn chưa hình dung nổi được một đường dây chiến thuật rõ ràng, đáng tin cậy để khi hành động là có hiệu quả thực sự.

- Ta có thể vạch ra những con đường trong tưởng tượng. Nhưng cũng có thể cứ phải đi trên thực địa, vết chân sẽ tạo nên một con đường. Những lối mòn đầu tiên đó được gọi là đường khai phá. Chắc chắn nó còn gập ghềnh khúc khuỷu nhưng ta sẽ dần dần uốn nắn lại. Nếu có phải quay một trăm tám mươi độ thì ta cũng chẳng nản lòng. Chí ít ta cũng làm được cái việc treo lên tấm biển cấm để đồng đội khỏi phải lặp lại. Trong toán học chứng minh được đầu bài sai thì cũng có thể coi như giải được bài toán đó. Cho nên nếu cháu chưa hình dung ra thì cũng không được phép lo sợ. Cậu nghĩ muốn có được một kế hoạch chính xác vẫn phải kết hợp giữa sự phân tích và suy lý của bộ óc với những phát hiện trên con đường thực hành. Vì vậy cậu cứ tung cháu vào trong lòng địch, ở đấy cháu sẽ tìm ra những hướng đi cụ thể, mục tiêu cụ thể.

- Dạ nhưng "lòng địch" lúc này rộng quá. Bọn chiến bại tan nát ra khắp thế giới tư bản. Chúng sẽ hội tụ ở đâu, trung tâm chỉ huy ở đâu?

- Dù ở đâu thì cuống nhau của chúng cũng phải nối với Washington. Không có đồng đô-la chúng sẽ không hoạt động nổi.

- Có thể do một trung tâm khác đài thọ thì sao ạ?

- Cậu cũng không loại trừ, nhưng muốn gì nó cũng phải căn cứ vào thái độ của Washington.

Sau một hồi suy nghĩ tôi đề xuất ý kiến:

- Trước tiên ta có thể mở một chiến dịch thăm dò rộng lớn.

- Đúng thế. Cháu có thể làm một chuyến đi thăm quan ba châu lục. Khoác bộ áo nhà báo sẽ ngụy trang tốt cho hành vi quan sát, phỏng vấn, săn tin, chụp ảnh. Vai trò đó thích lợp với cháu đấy.

- Nhà báo! Trời, từ nhỏ cháu chưa bao giờ viết báo.

- Phải tập thôi. Lúc đầu có thể viết còn dở, sau tiến bộ dần...

- Thưa cậu có tờ báo nào dám nhận một ký giả như cháu vào làm rồi chi cho một khoản phí tổn giao thông khổng lồ để đi vòng quanh thế giới.

- Ngay từ đầu thì không thể là phóng viên thực thụ của một tờ báo nào. Nhưng cháu cứ mạnh dạn gửi bài cho vài tờ báo tiếng Việt nào đó. Hãy chọn những đề tài ngắn về Việt Nam. Hiện nay đang có những cuộc tranh luận khá sôi động về nguyên nhân bại trận. Cháu hãy nhảy vào cuộc bút chiến một cách cuồng nhiệt sao cho dư luận chú ý. Từ đó cháu tập viết bằng tiếng nước ngoài. Đích đầu tiên là kiếm cho được cái "các" ký giả. Nếu tòa báo chưa cử cháu tới những mục tiêu cần tiếp cận thì tự bỏ tiền ra mà đi. Bạch Kim sẽ lo cho cháu vấn đề tài chính.

- Vâng cháu sẽ cố gắng theo phương hướng đó.

- Hai địa điểm Paris và Québec của các anh các chị cháu ở hiện nay không thích hợp với hoạt động của cháu. Cậu thấy Washington hoặc New York thuận tiện hơn.

- Chúng cháu sẽ thu xếp. Phải có một cuộc vận động anh chị cháu chuyển chỗ ở.

Vấn đề thông tin liên lạc trở nên gay cấn nhất. Với cự ly như thế không thể có chiếc máy xách tay nào có đủ công suất thu phát nổi. Nếu dùng phương tiện điện thoại và điện báo quốc tế thì không sao giữ được bí mật. Cũng không thể có mạng giao liên như hồi chiến tranh. Làm thế nào để có được mối liên hệ báo cáo chỉ huy kịp thời được?

Cuối cùng cũng đành bằng lòng với những cách thức cổ điển như viết thư bằng mực không màu, giấu mật mã vào trong hàng hóa theo đường quà biếu v.v... Tuy nó đảm bảo được bí mật ở mức độ nhất định nhưng điểm không khắc phục nổi là tính thời gian.

Có điều dáng mừng là nết tôi có mặt ở vùng Đông Nam Á thì được phép bắt liên lạc với ba cơ sở của ta. Tôi sẽ nhận chỉ thị của Trung tâm và báo cáo tình hình qua họ.

Như đoán ra nỗi băn khoăn của tôi cậu Đức nhấn đi nhấn lại vấn đề chủ động linh hoạt.

- Lần trước cháu là người mới vào nghề, phải có sự chỉ dẫn từng bước của cấp trên. Kèm bên cháu có Phương Dung là người biết việc. Giờ đây sau hai mươi năm lăn lộn với công tác tình báo chán đã trở thành một cán bộ chỉ huy vững vàng rồi. Cháu phải dìu dắt Bạch Kim. Sau này tổ chức phát triển cậu sẽ giao cho cháu chỉ đạo những phân vụ rộng lớn hơn. Do đó cháu phải biết điều khiển bộ máy của mình có sức sống, sức chiến đất tốt trồi có khi chính cháu lại trang bị cho tổ chức những phương tiện thông tin cự li xa hiện đại hơn nhiều so với khả năng của chúng ta hiện nay.

- Thưa cậu, bất cứ một việc gì cậu giao cho, chát cũng xin chấp nhận và cố gắng hết sức để hoàn thành. Nhưng cháu cũng xin trình bày để cậu nắm rõ trình độ của cháu. Suốt hơn hai chục năm công tác cháu mới chuyên hoạt động chiều sâu chứ chưa quen chiền rộng. Dĩ nhiên là những kinh nghiệm hoạt động chiều sâu cũng có ích rất nhiều cho hoạt động chiều rộng, cho trình độ tổ chức chỉ huy. Nhưng phải nói rằng đây vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ đối với cháu. Nay thì chiều rộng của chiến trường không bó hẹp trong một thành phố hay một miền nữa mà nó tan loãng trên nửa phần Tây bán cầu cùng gần nửa phần Đông bán cầu. Dĩ nhiên là không phải chỉ có riêng mũi của cháu. Thế nào rồi cũng sẽ gặp phải những khó khăn, bỡ ngỡ chưa hề lường trước. Lúc đó cháu sẽ rất cần đến sự chỉ giáo của cậu. Xin cậu hãy quan tâm đến bọn cháu như trong thời kỳ chiến tranh trước đây.

- Cái đó thì cậu không từ chối. Nhưng chính cháu mới là người tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề. Vì vậy một lần nữa cậu lại nhắc cháu phải luôn luôn tự tin, chủ động linh hoạt để nhanh chóng đạt mục đích của mình.

Những đêm đó hai cậu cháu tôi thường nằm chung với nhau trong căn buồng có máy điều hòa nhiệt độ cùng nhiều tiện nghi sinh hoạt sang trọng khác. Nhưng chúng tôi cũng không thể quên được cái lán nhỏ trong khu rừng Đại Từ cách đây mấy chục năm. Bên tai tôi như vẫn văng vẳng tiếng nai tác buồn buồn trong đêm mùa thu. Hoàn cảnh đã thay đổi nhưng những cảm xúc về ngày lên đường vẫn lặp lại gần như nguyên vẹn trong tôi. Mặc dù đã ở độ tuổi mọi tình cảm đều như đã sơ cứng mà sao tôi vẫn thấy tâm hồn mình mềm lại...

Ngày cuối cùng tôi được về nhà thăm vợ con. Bạch Kim đã chuẩn bị cho tôi đầy đủ đô-la và vàng chỉ đợi tôi về để mang đi. Nhưng theo kế hoạch hành quân thì chúng tôi vẫn còn dịp gặp nhau một lần nữa. Tôi mang những thứ này vào trại đâu có tiện.

Cháu Trung hỏi tôi:

- Bao giờ ba lại phải đi cải tạo ba?

- Mai con ạ. Con có nhớ ba không?

- Con mong ba lắm. Cả má cũng mong. Bao giờ ba lại về?

- Chưa biết được, nhưng con phải vâng lời má. Má đi đâu con đi đấy nghe. Thế nào ba con mình cũng lại gặp nhau thôi.

Mắt con tôi long lanh những giọt nước. Cháu không nói chỉ ôm chặt lấy tôi như thông hiểu những ý nghĩ của bố. Khi cháu đi ngủ rồi Bạch Kim mới lo lắng nói với tôi:

- Em sợ nhất là hôm ra đi Quang Trung phá bĩnh không chịu theo em thì nguy hiểm quá. Nó là một chàng trai thực sự rồi, đâu phải con nít mà chúng ta cứ đóng kịch với nó mãi.

- Có thể nó cũng đã đoán ra được một phần sự thật. Việc này để anh nhờ cậu Đức nói với nó. Cần đến đâu ông sẽ nói cho cháu đến đó tiện hơn.

Về Bình Dương năm ngày tôi được chuyển đi T75 cùng với một sĩ quan khác. Đó là một trại lao động lâm nghiệp nằm trên cao nguyên Lâm Viên. Mười hai dãy lán dựng bên bờ sông Đắc Két. Tôi được chuyển về C5. Người "chiến hữu" gặp lại đầu tiên là tướng Tùng Lâm.

- Anh ôm chầm lấy tôi, nhưng lần này không có mùi rượu, mùi son phấn đàn bà, chỉ có mùi mồ hôi tỏa ra từ chiếc áo lính dày cộp. Cặp mắt anh ứa lệ.

- Moa tưởng toa đã được tự do!

- Tôi có đặc ân gì khác anh đâu! Đã là sĩ quan hiện dịch thì đều đi cải tạo thôi.

- Toa khác chớ, toa được dẫn đường cho Quân giải phóng uýnh vô Sài Gòn. Họ phải tưởng lệ công lao của toa chớ!

Tôi nhún vai không trả lời vào câu hỏi của anh. Đám sĩ quan đứng xung quanh nhìn tôi với cặp mắt khó hiểu. Kẻ còn lưu luyến chế độ cũ tỏ ra khinh bỉ cái thái độ quay quắt của tôi. Người lại them muốn cái dịp may hiếm có như tôi để sớm được trở về đoàn tụ gia đình.

- Anh dẫn dường cho cánh quân nào? – Viên trung tá tham mưu phó sư đoàn 42 tò mò hỏi tôi.

- Tôi đi theo cánh quân hướng Bắc. Thực ra họ dẫn đường tôi chứ đâu cần tôi dẫn đường họ. Mọi ngõ ngách họ dầu thông thạo. Sau khi Sư 5 tan rã, Bình Dương thất thủ, tướng Vĩ tự sát thì hướng Bắc hầu như bỏ trống. Quân xa của họ cứ việc mở lết tốc lực thẳng xa lộ 13 tiến vào cầu Bình Triệu. Dân dừng đón kín hai bên đường, họ hỏi ai mà chẳng được.

- Sau đó họ cho anh về nhà chứ?

- Đâu có. Tôi bị giam với những sĩ quan khác. Tôi khai là sĩ quan điện toán nên họ gọi tôi về vận hành tổ máy ở Bộ Tổng tham mưu.

- Nay họ không them dung anh nữa sao?

- Thực ra họ đã tự vận hành được. Tổ hợp Apple system thế hệ hai chẳng có gì là mới lạ nữa. Trong lĩnh vực này họ cũng có những chuyên viên giỏi.

Tất cả đảm sĩ quan cười ồ.

- Thế mà bọn tôi tưởng anh đã đeo lon trung tá cách mạng rồi đó!

Tôi nghiêm mặt nhìn thẳng vào mắt từng người:

- Quý vị định sỉ nhục tôi đó sao. Ở hoàn cảnh này liệu quý vị có thể làm gì được hơn?

Thấy thái độ nổi khùng của tôi họ không dám làm rách chuyện ra nữa. Tình hình này đến tai Ban cải huấn có thể bất lợi cho họ.

Ba hôm sau tôi được lên gặp trại trung. Một người tóc đã điểm bạc vẻ mặt nghiêm nghị và bình thản. Ông bảo tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện ở phòng làm việc. Ngoài sân một toán tù binh đang sửa sang lại các luống hoa.

- Anh là Phan Quang Nghĩa nguyên là tham mưu trưởng Sư 97?

- Dạ.

- Anh bị bắt ngày nào?

- Dạ tôi ra trình diện ở thành phố ngày 28 tháng 6.

- Tôi hỏi anh bị bắt ngày nào? - ông quát giọng giận dữ.

- Dạ... tôi chưa bị bắt.

- Anh nói dối. Anh có tên trong danh sách tù binh từ ngày 14 tháng 4 ở Nam sông Đan Li cùng với chuẩn tướng Tùng Lâm, trung tá Vũ Trọng Hiến và trung tá Bình Nhật Nam.

- Dạ tôi đã đầu hàng ở quốc lộ 1 và được Quân giải phóng giao cho công vụ dẫn đường đại quân tiến vào Sài Gòn.

- Rồi sau đó anh bỏ trốn?

- Dạ không.

- Anh giải thích tại sao mãi 28 tháng 6 anh mới ra trình diện?

- Dạ thưa quý ông, khi tôi theo bộ phận tiên phong của Quân Giải phóng qua cầu Bình Triệu thì dân chúng đổ ra hai bên đường hoan nghênh bộ đội. Tôi thấy mình không xứng đáng đứng trong đội ngũ đó nên đứng tách ra. Quần chúng vây kín xe. Khi xe chạy tôi không thấy ai gọi nữa. Tôi tin là thành phố đã quy hàng trong trật tự nên đã về nhà để chờ ngày quý ông gọi lại.

- Nhưng sư đoàn dùng anh dẫn đường ấy báo về là anh bỏ trốn ngay trong rừng từ ngày 22 tháng 4 – Ông đưa tôi tờ giấy truy nã - Anh có thể cải chính được điều này không?

Tôi im lặng cúi đầu. Ông trại trưởng dằn từng tiếng.

- Thực sự là anh đã chạy trốn về Sài Gòn để báo cho Bộ chỉ huy ngụy về tình hình tiến quân của Quân Giải phóng, giúp bọn ngụy có cơ chống lại. Nhưng chúng đã không còn khả năng cưỡng nổi sự sụp đổ. Đến bước không còn đường tẩu thoát anh mới chịu ra trình diện lần thứ hai. Tôi buộc phải coi anh là phần tử ngoan cố. Anh sẽ không được đi lao động ngoài trại như anh em khác. Tương lai của anh hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ tiếp thụ cải tạo của anh. Anh nghe rõ chưa?

- Dạ. Tôi xin chấp hành kỷ luật - Tôi đứng nghiêm vẻ mặt không có chút gì là hối lỗi.

Tôi về lán im lặng không nói một câu, nhưng cuộc thẩm vấn được lan truyền ra cả trại. Nhiều tù binh nhìn tôi với vẻ mặt lảng tránh. Vì kẻ ngoan cố tỏ ra thán phục tôi. Mấy người khiêu khích bữa qua bí mật chào tôi với nụ cười nhận lỗi. Riêng Tùng Lâm không dám vồ vập tôi như bữa qua nữa. Giữa tôi và anh vốn đã có nhiều "duyên nợ". Lúc này gần tôi anh sợ vạ lây.

Hàng ngày mọi người đi rừng, tôi làm công vụ trong trại như dọn vệ sinh, sửa nhà tắm, khiêng nước, vác gạo, chăn lợn. Có một bữa vắng vẻ tôi lân la đến bên viên chuẩn tướng.

- Anh Tư à, số tôi hẩm hiu quá. Quả tình là tôi đã bỏ trốn ngay bữa 22 tháng 4. Về Sài Gòn tôi định đem con xuất dương luôn, nhưng không sao thoát. Quân luật không cho phép tôi lấy hộ chiếu xuất cảnh. Trong những ngày khủng khiếp đó tâm trí tôi bất định, tôi không tìm ra kế sách nào dứt khoát. Tôi sống ẩn náu loanh quanh. Đến 28 tháng 6 tôi đành phải ra trình diện. Chuyện vỡ lở thế này chắc tôi bị lưu đày suốt đời thôi.

- Biết làm sao được! - Tùng Lâm nhìn tôi vẻ mặt áy náy - Chúng ta cùng chung số phận với nhan thôi. Chẳng ai có tương lai sáng sủa hơn ai.

- Chẳng lẽ bó tay chịu chết sao?

- Phải chờ đợi thôi.

- Mối hận thù quá lớn. Ta đã giết quá nhiều người của họ. Họ cho ta sống là may rồi. Nhưng sống không tự do thì cũng như chết.

- Đúng thế.

Sau vài phút suy tư tôi nói nhỏ với anh.

- Tôi định thử lại một lần nữa. Kỳ này đành đi một mình bỏ thằng bé lại. Cứ lấn bấn hai cha con thì đến chết cả.

- Vợ con mình đi cả rồi.

- Trời, sao anh Tư biết. Mình viết thư về không có người nhận, họ chuyển trả lại. Mình đành viết cho cô em gái. Nó lên thăm và cho hay cả nhà đã vượt biên rồi. Không biết họ đi đâu.

- Anh không có bà con ở ngoại quốc sao?

- Có đó nhưng là bà con xa thôi.

- Có tiền bạc gửi ngân hàng ngoại quốc không?

- Đâu có. Mình đông sắp nhỏ, xài hết trọi, chẳng có dư thừa gởi ngân hàng.

Tôi thở dài:

- Anh chị tôi ra đi cả. Họ chuyển tài sản sang Pháp sang Thụy Sĩ từ nhiều năm nay. Có cô em coi thằng cháu cứ nấn ná chờ tôi nên kẹt lại. Tai hại quá. Tôi mà một mình như anh Tư, tôi đi dễ ợt.

Tùng Lâm nhìn tôi vẻ thăm dò:

- Tất cả đều muộn rồi. Đi sao thoát.

- Vẫn còn thời cơ. Mỗi người chỉ cần ba "cây" là đủ.

- Bây giờ chỉ còn hai bàn tay trắng. – Tùng Lâm nhún vai.

- Đi với đệ? Đệ sẽ giúp anh Tư, cốt cứu lấy mạng người, vàng bạc giờ đây còn có ý nghĩa gì.

- Ngay cái chuyện ra khỏi hàng rào này đã khó khăn rồi nói chi vượt biển.

- Khó khàn nhất là cái hàng rào mỏng manh này thôi. Hàng ngàn kilômét bờ biển ta sẽ tìm được một khe hở.

- Cảm ơn chiến hữu, để mình suy nghĩ thêm. Biết vậy, chớ nói với ai nữa, nghe.

- Dạ.

Ba ngày sau Tùng Lâm nháy mắt rủ tôi đi tắm. Khi vắng người anh hỏi nhỏ:

- Toa thử phác qua cái lặng nghe chơi.

- Thứ nhất phải xong hai bộ đồ bộ đội. Ta sẽ nhằm lúc vệ binh hay tập trung họp hành, quãng mười chín đến hai mươi giờ. Ta lẻn vào lấy hai bộ đồ rồi vượt rào đi luôn. Ta đi suốt đêm theo hướng Đông. Đến lúc trời sáng ta đã ở khá xa trại rồi. Men theo bờ sông Đắc Két gặp đoạn nông ta sẽ vượt. Gặp đường 16 ta vẫy xe đi nhờ. Cần thì cướp xe mà đi. Thứ hai: về đến Sài Gòn ta đến ở nhờ người bà con thân nào đó ít ngày. Đệ sẽ đi tìm mối thuê thuyền nhập bọn với những người tị nạn khác. Gặp tình huống trái với dự tính ta sẽ tuỳ cơ ứng biến.

Nghe tôi nói, mặt Tùng Lâm vẫn đượm vẻ nghi ngại.

- Kế hoạch của toa nghe ngon quá khiến mình không an tâm.

- Phải liều thôi anh Tư ạ. Thà chết liều còn hơn sống mòn sống mỏi. Nếu anh Tư còn e ngại xin cứ suy nghĩ tiếp. Một khi đã quyết định hành động thì không còn đường lui đâu.

Từ phút đó chúng tôi không nói gì với nhau nữa. Khi tắm xong Tùng Lâm mới đưa bàn tay hộ pháp của anh ngầm nắm chặt bàn tay tôi dưới nước.

- Xét cho cùng thì cũng chẳng còn phương sách nào hay hơn. Ta thề sanh tử có nhau!

- Xin thề!

Tôi phác thảo lại kế hoạch "Chim biển" của tôi gửi lên cậu Đức để cậu xét duyệt và hỗ trợ. Hai hôm sau tôi nhận được một kế hoạch tỉ mỉ và hợp lý hơn.

Tôi đã báo cho Tùng Lâm ngày J. Nếu Tùng Lâm do dự rút lui thì tôi cũng phải hoãn lại. Khi ấy tôi sẽ có mật hiệu với người của cậu Đức. May sao ý chí của anh vẫn được giữ vững.

Đó là một đêm trăng sáng.

Sau một ngày làm việc mệt mỏi những người cải tạo ngồi chuyện trò khắp trên sân trại. Tùng Lâm buông màn đi nằm sớm. Đúng hai mươi giờ kém lười lăm anh lẻn ra phía sau nhà ăn. Tôi đã chờ anh ở đấy. Tôi chỉ cho anh lối vượt rào. Ban ngày làm bếp tôi đã lựa được một vị trí thuận lợi. Tôi yêu cầu anh đứng cảnh giới. Tôi mặc bộ đồ lót đi theo bóng hàng cây, bình thản thẳng tiến về ngôi nhà của bộ đội cảnh vệ...

Năm phút sau tôi đã gọn gàng trong bộ đồ bộ đội lẻn ra sau nhà ăn. Tôi ra hiệu cho Tùng Lâm theo tôi. Khổ người to lớn lại dễ xúc động nên Tùng Lâm lúng túng mãi mới vượt qua được cái hàng rào nứa. Khi ra thoát anh mới vội vàng thay quần áo. Chúng tôi mang bộ đồ ngụy đi một đoạn xa mới quăng vào bụi rậm. Bỗng nhiên phía trại ré lên những hồi còi, rồi bóng đèn pin lấp loáng, tiếng chó sủa inh ỏi.

- Lộ rồi chăng? - Tùng Lâm hỏi với giọng lo lắng nặng nề.

- Cũng có thể. Ta không theo lộ chính nữa. Chạy theo tôi anh Tư.

- Chết mất! Bình tĩnh anh Tư.

Tùng Lâm thở dốc. Tuổi năm mươi hơi mập lại ít chịu vận động luồn lách nên anh chóng xuống sức.

Mười phút sau chúng tôi xuống đến bờ sông.

- Ta vượt thôi anh Tư. Ở bên này nguy hiểm lắm. Nếu họ thả chó ra để lần theo vết thì không thoát nổi.

- Trời, chắc chi qua nổi, nưởc chảy dữ quá!

- Nước chảy bơi càng nhẹ, tôi sẽ dìu anh.

Đâm lao phải theo lao. Chúng tôi gói quần áo vào tấm vải nhựa.

- Anh ôm chắc lấy cái phao này, tôi bơi theo.

Cái phương tiện ứng dụng thô sơ này làm cho Tùng Lâm yên tâm hơn. Chúng tôi tạo một đường vát khá xa để cập bờ bên kia.

- Mặc quần áo vào rồi đi luôn, không nghỉ được đâu anh Tư à.

- Có thể họ không ngờ mình qua ngả này.

- Nhưng chó nó thính mũi lắm.

- Đàn chó còn phải lúng túng với bộ đồ ta quăng trong lùm cây - Tùng Lâm hi vọng.

- Cũng có thể, nhưng tốt nhất là ta đi ngay. Ta cần giành lấy một khoảng an toàn tối thiểu.

Chúng tôi theo con đường mòn ven sông. Đôi chỗ gặp một xóm nhỏ thưa thớt chúng tôi tìm đường tránh. Một giờ sau tôi quyết định bỏ sông Đắc Két rẽ về hướng Nam tìm đường 16. Tùng Lâm cắn răng vừa đi vừa thở, bước thấp bước cao.

- Mai về Sài Gòn ta kiếm chai Whisky bồi bổ lại sức lực.

Nghe đến rượu đôi chân Tùng Lâm cũng lẹ lên đồi chút. Khi đến đường 16 tôi kéo anh đến một tảng đá bên bờ suối ngồi nghỉ để tôi đi quan sát đường.

- Lạc nhau thì sao? – Tùng Lâm lo lắng hỏi tôi.

- Anh Tư cứ nghỉ, đệ đi quan sát đường đi cho chắc chắn, kéo anh đi càng thêm mệt. Chút xíu đệ quay lại thôi. Sinh tử có nhau, anh Tư yên tâm.

Tùng Lâm bằng lòng ngồi chờ. Tôi đánh dấu lối rẽ rồi theo lộ đi tìm điểm hẹn theo chỉ dẫn của cậu Đức. Chỉ vài phút sau tôi gặp cây cầu và tiếp đó một ngã ba. Tôi tìm được ba hòn đá ở vệ đường bên trái. Tôi yên tâm quay lại chỗ Tùng Lâm. Thấy tôi về anh mừng lắm.

- Đi tiếp chứ?

- Dạ. Đến quá ngã ba ta nghỉ lại chờ đi nhờ xe. Tùng Lâm đứng dậy. Không đi bộ quen, bàn chân chúng tôi đều rát bỏng. Cực quá trời, đau muốn chết luôn.

- Ráng lên anh, con đường đến tự do đâu có dễ dàng.

Anh cố lết đến ngã ba cơ hồ như không còn đi nổi nữa. Cũng may là đã đến điểm chờ. Tôi dìu anh xuống bờ suối, trải tấm ni lông lên mặt cát và cả hai nằm xuống. Đồng hồ chỉ người hai giờ, trăng thượng tuần đã lặn, cao nguyên se lạnh, tiếng chim tử quy vẫn đều đều gọi bạn trong rừng khuya. Vài phút sau Tùng Lâm đã cất tiếng ngáy nặng nề...

Sáng hôm sau tôi dậy sớm. Qua một đêm mà đầu tóc Tùng Lâm như bạc thêm ra, râu mọc lởm chởm, da mặt tái xanh trông thật thảm hại. Tôi kêu anh dậy rửa mặt để lên mặt đường chờ xe. Nỗi lo sợ đè nặng lên tâm hồn viên tướng thất thế.

- Bộ dạng thế này tránh sao khỏi sự nghi ngờ.

- Anh Tư an tâm. Trời Phật sẽ cứu ta. Còn nếu như mệnh ta đã hết thì dù không chạy trốn cũng sẽ chết thôi anh Tư ạ.

Nghe có tiếng xe rú xa xa, tôi nói nhỏ với Tùng Lâm:

- Ta lên đường đi. Anh Tư phải đóng vai người ốm.

Có vậy nhờ xe mới dễ.

Tùng Lâm ngồi dựa vào gốc cây vệ đường. Bộ mặt của anh lúc này rất thích hợp với vai sốt rét. Một chiếc xe Gát từ cao nguyên đi về phía Đà Lạt mang biển số QS 5407. Tôi đứng ra giữa đường chặn lại.

- Làm ơn cho chúng tôi đưa nhờ một đồng chí về Đà Lạt. Bọn tôi đang khai thác gỗ, anh bị sốt rét ác tính. Người lái xe ngần ngừ một lát rồi nói:

- Được thôi nhưng ca-bin hẹp chỉ ngồi được một người...

- Tôi ngồi đằng sau cũng được. Nhờ anh giúp một tay dìu đồng chí ốm lên ca-bin.

Anh lái xe tắt máy, gài phanh nhảy xuống định dìu Tùng Lâm thì tôi liền cho anh một cú vào mạng sườn. Anh ta lảo đảo và nhận tiếp thêm cú thứ hai.

- Anh Tư lên xe nổ máy đi.

Tôi kéo người lái xe trẻ xuống bờ suối, thì thầm vào tai anh. Chịu được chứ?

- Yên tâm - Anh trả lời tôi - Giấy tờ tiền bạc trong túi áo đó.

Tôi quăng anh xuống đoạn suối sâu nhất rồi chạy lên, đẩy Tùng Lâm sang phải và ngồi vào vòng lái. Tôi chụp chiếc mũ cối lên đầu Tùng Lâm và đưa anh chiếc vi. Tôi rú ga, xe lao xuống dốc. Tùng Lâm gí mãi cặp mắt già vào mấy tờ giấy lôi ra từ trong ví.

- Anh đọc to lên xem những giấy gì.

- Giấy công tác: Chuẩn úy Nguyễn Văn Niên đơn vị 4602. Giấy giới thiệu Niên về Trạm 17B Tân Sơn Nhất nhận hàng. Một phiếu lĩnh hai máy phát điện 1,5 KVA.

- Từ giờ phút này tôi là chuẩn úy Nguyễn Văn Niên, còn anh Tư là thượng úy Lâm tranh thủ theo xe về thăm thành phố nghe.

- Liệu chuẩn úy Nguyễn Văn Niên có thể hồi tỉnh lần tới trạm điện thoại gần nhất gọi về Đà Lạt chặn đường chúng ta không?

- Tiêu rồi. Nó sẽ sang bên kia thế giới để gọi điện thoại.

Chúng tôi đến Sài Gòn êm thấm. Quẳng xe trước cổng sân bay Tân Sơn Nhất tôi đi theo Tùng Lâm đến nhà em gái anh ở đường Lê Văn Duyệt. Anh bấm chuông, cửa mở, hai chúng tôi lẻn vào rất nhanh.

Người em gái lúc đầu còn ngỡ ngàng tròn xoe mắt... rồi bỗng reo lên:

- Trời! Anh Tư, anh Tư đã về!

Tùng Lâm đặt tay lên miệng ra hiệu cho chị ta im lặng. Khi cả nhà xúm quanh phòng khách, Tùng Lâm mới giới thiệu tôi với mọi người.

- Đây là trung tá Nghĩa, chiến hữu của anh. Bọn anh vượt ngục về đây lánh tạm ít ngày, nhờ cô chú che chở cho. Sau đó anh sê ra đi.

Hai vợ chồng người em và lũ trẻ đến sáu bảy đứa đều im lặng. Vẻ lo lắng căng thẳng trùm lên căn phòng.

- Cô chú lo lắng là phải. Bọn tôi không còn con đường nào khác. Chỉ phiền cô chú giữ kín cho vài bữa. Nếu chẳng may họ phát hiện ra thì chúng tôi cũng không khai gì để liên lụy đến cô chú.

Hồi lâu người em rể mới nói:

- Anh Tư và ông bạn đây đã về với bọn em thì sống chết cũng phải cư mang nhau thôi, biết làm sao được.

- Sao mà anh phải trốn? - Người em gái thắc mắc - Em nghe nói nếu học tập cải tạo tốt thì sớm muộn cũng được chánh phủ khoan hồng cho về thôi mà.

- Không có hạn định nào được công bố. Còn bọn anh thì đã nhúng tay vào quá nhiều vụ bắn giết - Tùng Lâm thở dài - Chờ đến một tòa án kiểu Nuremberg thì quá muộn.

Nhìn bộ đồ bộ đội của chúng tôi gia đình này càng lo lắng, không yên long. Có lẽ bọn tôi vừa gây ra một tội lỗi gì cũng nên.

- Thôi hai anh đi tắm đi - Người chồng quay lại nói với vợ - Em lựa hai bộ đồ cho hai anh xài tạm, mặc thứ này đâu có được.

Sau mươi lăm phút tắm rửa, cạo râu, hình hài bọn tối cũng đỡ khủng khiếp hơn. Gia đình dọn cơm cho bọn tôi ăn uống trên lầu thượng. Sau nhiều tháng Tùng Lâm mới nhìn thấy chai rượu. Nâng chiếc li tay anh run run cảm động:

- Xài đại đi rồi chết cũng đã, chú em!

- Không chết được đâu! Tối nay tôi đi lấy tền, kiếm người manh mối để thuê thuyền. Phật tổ phù trợ thì vài bữa thôi ta sẽ ra biển.

- Toa về nhà không nổi đâu. Có thể an ninh đã phục sẵu để bắt toa. Toa sa lưới thì moa đâu có thoát. Nên nhờ con nhỏ đến gọi giúp người thân ra gặp ở một nơi nào đó.

- Dạ anh Tư nói chí phải.

Tối đó tôi kèm đứa cháu con người em về gần nhà. Tôi lảng vảng ở đầu phố chờ cháu vào gọi giúp Bạch Kim.

Mươi phút sau chúng tôi gặp nhau. Tôi cảm ơn và để cháu về trước. Khi cháu bé đi khuất chúng tôi lỉnh về nhà rất nhanh. Cháu Trung đã đón tôi ở cửa. Cháu rất vui mừng vì đã được ông Đức báo cho biết trước tin này.

- Ba khỏe chứ ba? Con trông ba ốm đi chút ít đó.

- Có thể gầy đi nhưng ba rất khỏe.

- Bữa nay ba về tạm biệt má con đó ba.

- Sao con biết?

- Ông Đức nói cho con biết rồi!

- Con có hiểu ý nghĩa công việc của chúng ta không?

- Con hiểu. Xin ba tin con.

- Ngoan lắm. Chúng ta chỉ xa nhau ít ngày. Vài tháng nữa chúng ta sẽ gặp nhau. Từ nay con đừng gọi là má Kim nửa nhé.

- Dạ, con gọi là cô như mọi lần. Nhưng bên trong cô vẫn là má của con.

- Ngoan lắm! - Bạch Kim ôm chặt lấy cháu, xoa xoa khuôn mặt thanh tú của con - Con phải biết nhập vai cho chính xác. Nhiệm vụ của con lúc này vẫn chỉ là giữ bí mật, chịu khó học tập và vâng lời ba má thôi.

- Dạ.

Sau mấy phút hàn huyên cháu biết ý lảng về buồng riêng cho chúng tôi bàn công việc.

- Cậu Đức nhắn anh cứ đến liên lạc với người mối thuyền theo địa chỉ đã dặn. Chiếc thuyền chở theo bốn gia đình. Họ định xuất phát cuối tuần. Họ không muốn chở thêm ai, nhưng do sức ép của người mối, họ nể nên đồng ý để hai anh đi. Nhưng họ rất lo không biết hai anh là người thế nào.

- Cậu có nói ai là người lái hay chỉ huy chiếc thuyền này không?

- Một đại úy hải quân. Người môi giới cũng là người bán thuyền.

- Người bán thuyền là ai? Là người của ta. Anh ta sẽ theo thuyền ra đến Cáp, thu nốt khoản tiền cuối cùng rồi quay lại.

Mọi chuyện trên chỉ là một màn kịch lớn nên nó đã trôi đi đúng theo ý định của người đạo diễn. Tôi chưa phải đối phó thực sự với bất cứ vấn đề gì. Tâm lực của tôi dành cho đoạn đường phía ngoài phao số không.

Hai mươi ba giờ ba mươi tôi trở về chỗ Tùng Lâm. Anh rất vui mừng khi thấy tôi mang về một số vàng và đô-la khá lớn.

- Có tiền rồi, còn chuyện thuyền ghe ra sao?

- Tôi đã đi hỏi. Khó đấy, sáng mai tôi lại đi nữa. Tình thế này không liều không được.

- Mình cũng đã dò hỏi mối manh con đường di tản qua cô em mình nhưng cô chẳng biết gì. Cô còn khuyên mình quay lại nhận lỗi với trại vì thèm rượu nên đi liều vài bữa. Cô nói ngon ợt. Cô có biết đâu bọn mình đã giết người cướp xe. Riêng tội đó cũng đủ lãnh án tử hình rồi.

- Ở đây có lẽ cũng không tiện đâu anh Tư ạ. Tôi thấy anh chị Nhơn (em anh) quá lo lắng vì chúng ta. Mai tôi tìm một nơi khác.

- Đổi chỗ ở luôn cũng là một biện pháp chống truy nã - Tùng Lâm đồng ý theo tôi nếu như tôi có nơi nào tin cậy, an toàn hơn.

Sáng hôm sau tôi tới nhà người mối. Một người chừng sáu chục tuổi tiếp tôi. Ông được báo trước nên tin nhau ngay. Ông lấy hon-đa kèm tôi đến gặp viên đại úy hải quân ở khu Khánh Hội. Một người cao, to, da bánh mật, mày râu nhẵn nhụi ra tiếp. Anh ta nhìn tôi với vẻ mặt thăm dò liễn cưỡng.

- Tôi là Phan Quaưg Nghĩa, trung tá phụ tá giám đốc Trung tâm điện toán Bộ Tổng tham mưu.

- Tôi, Trương Tấn Hào, đại úy, thuyền trưởng thuộc Hải đoàn 11.

Hai bên bắt tay nhau. Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt người đối thoại. Sau khi chủ khách ngồi xuống ghế, tôi mở đầu cuộc nói chuyện.

- Cùng đi với tôi còn có chuẩn tướng Tùng Lâm, nguyên Trưởng phòng Hành quân tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Để đảm bảo bí mật cho chuyến đi hôm nay ông không có mật nhưng đã ủy nhiệm tôi đại diện cho ông đến thưa chuyện cùng đại úy: Hai chúng tôi muốn được là bạn đồng hành với đại úy trong chuyến viễn du này.

- Rất hân hạnh. Ông San (người bán thuyền) cũng đã nói trước với tôi. Nay gặp nhau, biết danh tính, cấp bậc tôi mới bớt lo vì chúng ta nguyên là chiến hữu của nhau, cùng chung số phận. Cuộc hàuh trình sẽ rất nguy hiểm, nhưng chúng ta không còn cách lựa chọn khác. Xin quý anh đóng góp cho mỗi người ba lượng, khoản tiền phí tổn mua thuyền và dầu, nhớt.

- Tôi xin nộp trước anh một nửa. Số còn lại sẽ đưa ngay khi nhập cuộc. Xin đại úy cho biết chương trình hành quân.

- Hành khách lựa chọn phương tiện riêng để có đủ mặt ở Cáp vào mười hai giờ ngày mười lăm. Sẽ có người đón ở Khách sạn Thiên Hương đến điểm hẹn chờ thuyền. Tôi, ông San và một trong hai ông xuống thuyền ngay từ địa điểm X gần cảng Sài Gòn, mười bốn giờ xuất phát. Đến Cáp ta sẽ đón mọi người ra khơi.

Một kế hoạch chưa có gì cụ thể nhưng tôi thấy không cần hỏi thêm. Cẩn thận quá sẽ làm cho viên đại úy nghi ngờ.

- Anh cho phép tôi gặp lại lần thứ hai để nhận kế hoạch cuối cùng vào lúc nào?

- Hai mươi giờ ngày mười bốn tức là tối mai.

- Để tránh nhưng trục trặc, tốt nhất là hai ông nên có mặt ở nhà ông San từ đêm nay. Liên lạc giữa chúng tôi bao giờ cũng chặt chẽ.

- Được chứ ông San? - Tôi hỏi.

- Dạ được.

Xong việc tôi tranh thủ về nhà, cho Bạch Kim rõ tình hình. Kim sẽ báo lại với cậu Đức vào chiều nay để cậu có kế hoạch hỗ trợ. Nếu không có gì thay đổi thì đây sẽ là báo cáo cuối cùng của tôi để chia tay nhau.

Cuộc hành quân của hai chúng tôi theo kế hoạch chỉ so le có ít ngày thôi mà sao cũng thấy bịn rịn, nhớ thương... Khi chỉ có hai đứa trong phòng, Kim ôm lấy tôi nước mắt đầm đìa.

- Mọi việc đã được cậu Đức chuẩn bị chu đáo mà em vẫn thấy lo lắng cho anh. Một chiếc thuyền con lênh đênh trên biển cả, sóng gió bất kỳ làm sao lường hết. Đó là chưa kể đến chuyện hải tặc ngày càng hoành hành dữ dội trên vịnh Thái Lan.

- Tất nhiên là có nguy hiểm, nhưng còn an toàn gấp trăm lần người lính xung kích ra trận. Phải đánh giặc mà đi, mở đường mà tiến, đó là phương châm truyền thống của chúng ta.

- Anh lấy hai bàn tay không để mở đường sao?

- Bàn tay và bộ óc! Tất nhiên anh sẽ mang theo khẩu súng ngắn.

- Một khẩu súng ngắn có ý nghĩa gì?

- Nó làm tăng tư thế của mình lên nhiều chứ! - Tôi nói mạnh cho Bạch Kim yên tâm.

Chiều hôm đó tôi về tin cho Tùng Lâm hay: sẽ di chuyển ngay trong đêm. Anh răm rắp làm theo ý tôi. Chúng tôi cảm ơn và từ biệt anh chị Nhơn. Vẻ mặt ông bà chủ cũng ái ngại cho số phận của chúng tôi. Người em gái nước mắt lưng tròng nắm chặt đôi bàn tay Tùng Lâm không biết nói gì. Nhưng sự ra đi của hai tên tội phạm cũng trút cho họ được gánh nặng quá lớn.

Chúng tôi đến nhà ông San ở đường Bạch Đằng trước hai mươi giờ. Ông nhường cho chúng tôi căn buồng trên lầu. Nhìn ánh đèn lấp lánh trên bờ sông Sài Gòn, Tùng Lâm bỗng động lòng trắc ẩn.

- Suốt cuộc đời binh nghiệp mấy chục năm, mình gắn liền với thành phố này. Chưa bao giờ mình ra ngoại quốc dù chỉ là một cuộc du lịch. Đến lúc ra đi thì lại phải chui lẩn như một con chuột với những cái túi rỗng. Vợ con không biết lưu lạc nơi đâu. Chẳng có xu nào gởi ngân hàng ngoại quốc! Khó khăn nan giải, triển vọng mịt mờ làm tôi đau khổ.

- Không nên buồn anh Tư à. Tôi sẽ chia sẻ với anh những khó khàn trước mắt. Trong tương lai nếu gặp may tôi sẽ không quên anh.

Hôm sau ông San cho biết, kế hoạch hành quân không có gì thay đổi. ông gửi Tùng Lâm theo xe của gia đình Hào đi Vũng Tàu trước. Ông cũng yêu cầu tôi đưa nốt số vàng còn thiếu cho chủ tàu.

Mười ba giờ tôi theo ông San đến bến. Một chiếc thuyền cỡ ba chục tấn buông neo bên một vườn cây vắng vẻ. Ông San bắc cầu mở khóa ca- bin và mời tôi và Hào xuống thuyền.

- Từ giờ phút này hai ông là người làm thuê cho tôi. Chúng ta ra Vũng Tàu lấy hàng. Tôi sẽ trình giấy tờ nếu có người xét hỏi. Các ông cứ ngồi trong khoang máy. Hiện giờ trên tàu không có thứ gì bất hợp pháp. Với một trăm hai mươi cân dầu cặn không thể là thuyền vượt biển được. Quý vị cứ yên tâm.

- Dạ.

Ông San cho nổ máy. Vài phút sau chúng tôi tháo dây rút cầu cho thuyền rời bến. Thuyền lướt nhẹ trên mặt sông Sài Gòn. Ba mươi sức ngựa, không tải nên thuyền ghếch cao mũi như sắp bay lên khỏi mặt nước.

Khi con thuyền đã xa thành phố tôi mới quay sang hỏi chuyện người bạn đồng hành mới quen biết.

- Tôi chưa được đại uý phổ biến kế hoạch đối phó bằng sức mạnh với kẻ ngăn chặn hay đuổi bắt.

- Trên mặt sông này ta phải sống hợp pháp. Ông San sẽ đối phó với nhà cầm quyền bằng sự dối trá. Khi tôi bắt đầu lái con thuyền thì tất cả chúng ta sẽ là bất hợp pháp. Ở thời điểm đó tôi sẽ trình quý vị kế hoạch tác chiến của tôi.

Nhìn vẻ lặt bình thản của viên sĩ quan hải quân tôi thần nghĩ: Y là một tay có tài tổ chức. Chỉ có điều lạ là tại sao có phương tiện thuyền bè trong tay mà y lại quyết định ra đi quá chậm như vậy? Tôi hỏi lảng sang chuyện khác:

- Là chỉ huy hải quân chắc anh thông thạo sông nước vùng này?

Viên đại úy mỉm cười, có một chút kiêu hãnh:

- Tôi là con đẻ của sông nước, của biển khơi - Như sợ tôi không hiểu nổi câu nói mơ hồ và hơi văn vẻ đó, anh ta giải thích thêm - ông già tôi xưa là hoa tiêu phụ cho tàu buôn Crussot của hãng Dauphin. Anh hai tôi là thuyền trưởng pháo hạm Hàm Tử của Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Còn anh Ba tôi lại là thiếu tá Hải quân Bắc Việt.

- Trời, câu chuyện kỳ cục quá nhỉ?

- Ông già tôi theo kháng chiến ngay từ khỉ Pháp quay lại Sài Gòn. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc. Anh Hai tôi lúc đó đã học nghề lái tàu ở Sài Gòn. Tôi còn nhỏ nên ông già mang anh Ba đi theo. Má con tôi trở về thành phố với anh Hai. Chúng tôi chờ hoài không thấy ngày thống nhất Tôi lớn lên được gọi vô lính. Anh Hai lúc đó là đại úy hải quân, xin cho tôi đi học trường hàng hải. Anh nói, dù sao hải quân cũng đỡ chết hơn lục quân. Học xong tôi về giang đoàn 12. Hồi chiến tranh tôi lãnh nhiệm vụ tuần tra vùng ven biển và các kinh rạch vùng Ba rồi vùng Bốn. Thủy vực này tôi thuộc trơn trọi như lòng bàn tay. Có thời kỳ phải tuần thám suốt đêm. Bắc Việt dung các loại tàu nhỏ cỡ một đến hai trăm tấn thâm nhập vào vùng đồng bằng sông Cửu Long. Họ đổ vũ khí vào Bến Tre, Trà Vinh, Gò Công. Anh Ba tôi đã nhiều lần chở hàng trăm tấn hàng từ Hải Phòng vô. Họ đổ lên rừng Sát, từ đấy họ chuyển bộ, vượt sông Soài Rạp, qua Hát Dịch rồi dùng xe bò chuyển vào các Cánh rừng miền Đông. Giang đoàn tôi nhận nhiệm vụ phong tỏa suốt ngày đêm nhưng đâu có nổi. Hồi đó nếu chẳng may anh em đụng nhau là nổ súng liền chứ tài gì nhận ra nhau được!

- Anh có người nhà là cộng sản thì việc gì phải ra đi?

- Cộng sản khác đằng mình. Một người làm quan cả họ đâu có được nhờ. Hồi về gặp lại gia đình ảnh cũng thương tôi lắm. Ông già tôi bị chết vì B52 oanh tạc Hải Phòng. Bà già cũng mất từ năm 1968. Anh Hai tôi ra đi ngay hồi tháng tư. Chỉ còn hai anh em ruột thịt thôi chi mà không thương nhau. Anh làm giấy xin bảo lãnh cho tôi không phải đi cải tạo đợt đầu. Anh cũng chạy đi kiếm chỗ xin việc cho tôi, nhưng chẳng nơi nào nhận. Lái tàu cho Nhà nước rồi đi luôn thì sao? Ai hiểu được bụng mình. Thế là tôi thất nghiệp. Nhà đông cháu nhỏ. Má nó lại đau luôn, chẳng biết làm chi kiếm tiền. Mọi thứ ngày càng mắc, cực quá. Anh Ba tôi cũng nghèo, nghèo hơn tôi nữa, làm sao anh cưu mang nổi mình. May mà có thằng bạn tốt. Hồi chiến tranh chí cốt với nhau. Nó biết cách kiếm tiền. Tôi giúp nó chở hàng đi khắp nơi. Nhưng thứ đó chở xe đâu có được. Nó phát đạt nó cũng nhớ đến mình. Mấy tháng qua vợ con đau nó bao hết... Gần đây thấy người ta nói: Sĩ quan hải quân sẽ đi cải tạo vô thời hạn vì tất cả các vụ di tản bất hợp pháp đều do sĩ quan hải quân điều khiển nên không thể cho loại này tự do ngoài vòng pháp luật được. Thằng bạn rủ tôi đi. Nó nhờ tôi mua thuyền, tôi lái và đưa cả hai gia đình đi. Phí tổn nó chịu cả. Lúc đầu tôi cũng ngần ngại, chưa dám nhận ngay. Nó nói nếu tôi không đi nó cũng sẽ đi. Nó nhờ người khác lái. Nó đi rồi tôi biết nhờ vào ai? Tôi quyết định nhận lời. Tôi không dám nói cho anh Ba tôi hay. Tôi đợi ra được nước ngoài, sẽ viết thư về tạ tội với anh sau.

Nét mặt của viên đại úy chứa đựng một nỗi day dứt nội tâm mạnh mẽ. Hai chúng tôi im lặng nhìn ra ngoài. Đồng bằng bát ngát trải ra tận chân trời. Những xóm ấp trù phú rợp bóng cây trái ven sông. Vẻ đẹp thanh bình của đất nước xao xuyến lòng tôi. Một nỗi buồn tha phương choán ngập.

Mười chín giờ ông San cho thuyền ghé vào neo trước một vườn dừa, cách đó chục mét có một ngôi nhà lợp tôn thấp tè, nép mình trong tán lá. Ông San nói với bọn tôi:

- Địa điềm một. Lấy dần cặn, dầu nhớt, nước ngọt và lương thực.

Chúng tôi lên bờ. Đã có hai người giúp sức khuân hàng xuống khoang. Họ xếp lên trên cùng một loạt can nước mắm để nghi trang.

- Thế bao giờ hành khách đến đủ? - Tôi hỏi.

- Chỉ chờ thằng bạn mình lên thuyền ở đây thôi. Đó là người chủ của chuyến đi. Ta sẽ đón khách ở Mũi Cát.

Sau khi thuyền nhận đủ mọi thứ, ông San thanh toán tiền rồi từ biệt chúng tôi.

- Trách nhiệm của tôi đã hết. Chúc quý vị thượng lộ bình an.

- Cảm ơn ông. Hy vọng có ngày gặp lại.

Chúng tôi bắt tay ông.

Chờ đến hai mươi mốt giờ vẫn chưa thấy “người bạn". Vẻ mặt Hào trở nên lo lắng. Có sự cố gì chăng? Tôi cũng không thể yên tâm được. Tùng Lâm và tôi mỗi người một hướng, kẻ ở người đi là lỡ hết, kế hoạch. Mãi hai mươi hai giờ tôi mới thấy ánh đèn pin lấp loáng trong vườn cây. Có tiếng gọi nhè nhẹ.

- Hào đâu?

- Hào đây! - Viên đại úy đi vội về phía anh đèn... Tôi nhìn thấy bóng hai người đàn ông xách những chiếc va-li nặng nề tiến lại gần.

- Thế nào có gì trục trặc không mà giờ mới tới? Hào hỏi. Xuống thuyền sẽ nói chuyện sau - Tiếng người khách lạ.

- Nghĩa đâu?

Nghe tiếng Tùng Lâm tôi mừng quá.

- Nghĩa đây, anh Tư đấy ạ?

Ba người theo cầu xuống thuyền. Sau khi những chiếc va-li xếp gọn vào khoang, người chủ thuyền ra lệnh:

- Nổ máy, rút cầu lẹ lên!

Hào nổ máy. Tôi tháo dây và rút cầu. Ánh đèn trong khoang bật sáng tôi mới nhìn rõ người chỉ huy chuyến đi. Y trạc bốn mươi, thấp mập, chắc khỏe. Mặt vuông, lông mày, râu tóc đều rậm. Cặp mắt u tối...

- Khởi hành.

Hào tăng lực đẩy, chiếc thuyền từ từ rẽ nước lao ra giữa sông. Hào làm việc thành thạo, nhẹ nhàng. Khuôn mặt anh vẫn đượm vẻ lo âu nhưng không dám hỏi.

- Chờ anh Tư lâu qúa, đệ rất lo! - Tôi nói nhỏ với Tùng Lâm.

- Có trục trặc - Anh nhìn tôi rồi liếc mắt sang phía tay chủ thuyền một cách bí hiểm. Có lẽ họ đã thống nhất với nhau không tiết lộ mối hiểm nguy trong lúc này. Còn tôi thì lại rất yên tâm đã gặp được Tùng Lâm. Mọi chuyện nằm trong phao số không đều đã có cậu Đức lo.

Chạy được nửa tiếng, Hào quay lại hỏi:

- Sắp đến Mũi Cát rồi. Liệu khách đến đủ chưa hay lại phải chờ?

- Đi thẳng, không ai đến Mũi Cát đâu mà chờ?

- Sao!? - Hào sửng sốt, da mặt tái nhợt dưới ánh đèn.

- Đổ bể hết! Bọn tôi bị vây ngay từ Vũng Tàu. Tôi và tướng Tùng Lâm phải khôn khéo lắm mới lọt nổi tới điểm hẹn.

- Còn vợ con tôi?

- Cả vợ con tôi nữa, tất cả đều phải quay trở lại.

- Thế thì tôi cũng không đi nữa. Tôi quay lại.

- Muộn rồi bạn thân yêu ạ! - Tay chủ thuyền nhún vai - Tôi chỉ là thường dân, tôi chẳng lo. Nhưng anh là đại úy hải quân; là thuyền trưởng di tản, họ sẽ chặt đầu anh thôi.

- Ai sẽ nuôi vợ con tôi?

- Anh quá lo xa đấy. Đâu chỉ mình anh có vợ con.

- Nhưng anh biết đấy. Vợ tôi đau luôn, nuôi sao nổi bốn cháu. Anh cho tôi ở lại.

- Có ở lại cũng không ai để anh sống mà nuôi con kia mà. Tôi đã lo điều đó giúp anh. Biết được tình hình đổ bể, tôi liền phân tán số vàng mang theo cho mọi người. Cũng đã có phần cho chị Tư. Số vàng đủ để chị góp cho một chuyến đi khác. Nếu chị chưa muốn đi thì số đó cũng đủ cho chị và các cháu sống trong mười năm. Mười năm nữa sẽ có biết bao nhiêu biến đổi. Chúng ta đã có thời gian chuẩn bị một cái tổ ấm ở quốc ngoại để đón vợ con ra. Anh lo gì? Anh nên nhớ rằng quay lại lúc này là chết. Sau gáy ta là lưỡi hái của tử thần. Anh quay lại bây giờ là anh nộp cả ba chúng tôi cho Cộng sản đó!... Anh phải nghĩ đến tình chiến hữu chí cốt của chúng ta chứ? Thôi tăng tốc lên. Hai giờ nữa chúng ta sẽ đến vùng biển quốc tế, chúng ta sẽ được tắm mình trong tự do. Đại úy hải quân Trương Tấn Hào hãy kiêu hùng tiến lên!

Hào đã hơi xuôi xuôi khi biết vợ đã có một số vàng để tạm sống. Tùng Lâm cũng nói thêm vào:

- Tôi và anh Bảy Dĩ không khôn ngoan thì sa lưới rồi. Tiền bạc ghe thuyền bị tịch thâu ráo trọi, chưa nói đến chuyện vô tù đâu. Nếu anh muốn quay lại cũng được, nhưng xin anh hãy đưa ba anh em tôi đến Thái Lan hoặc Mã Lai Á. Chúng tôi sẽ kiếm dầu để anh về. Anh vắng mặt vài ba ngày với một con thuyền là chuyện làm ăn bình thường, ai để ý đến. Nếu cùng quẫn anh cứ khai bị bọn tôi cưỡng bức bằng vũ lực buộc anh phải di tản. Ai bắt tội anh? Thậm chí hành động trở về của anh còn nổi tiếng, còn được Cộng sản viết tên anh lên báo để tuyên dương. Chưa chừng họ còn nhận anh vào làm việc ở những con tàu vượt đại dương là khác?

- Đường cùng rồi tôi nghĩ chẳng thể nào làm khác được. Tôi xin trung thành với tình bạn, với lời cam kết lúc ra đi. Việc vợ con tôi đành để tính sau.

- O.K.! - Bảy Dĩ vui vẻ, thân mật vỗ vai Hào - "Chàng từ dứt áo ra đi. Cánh chim bằng tiện đã lìa dặm khơi?" Ha! Ha! Người anh hùng đâu có để tình nhi nữ tầm thường cản gót, phải không anh Tư? Bây giờ anh có thể cho chúng tôi xem bản đồ hải trình của chúng ta.

- Không có bản đồ nào. Bản đồ nằm trên bầu trời sao, nằm trong óc tôi.

- Giỏi đa! Có được một thuyền trưởng như anh bọn tôi an tâm quá đó. Vậy anh nói qua cho bọn tôi biết chúng mình đang ở đâu và bao giờ thì chúng ta tới đích?

- Hiện giờ chúng ta đang ở trong cửa Lạch Nhì, nam cồn Cát Đen bốn kilômét. Biển Đông ở phía trước mười hải lý. Chúng ta còn đi trong vòng nguy hiểm chừng một giờ hai mươi phút nữa. Tôi đoán đó là vùng tuần thám của khinh hạm Cộng sản. Ngoài vùng nước sâu một trăm tám mươi bộ có thể gặp những pháo hạm lớp Komar có ra-đa kiểm soát bề mặt nhưng loại này họ có ít nên mối hiểm nguy cũng giảm đi. Trong vùng ven này ta phải tắt đèn pha, quan sát tàu tuần tiễu bằng mắt thường để tránh họ. Nếu bị đuổi, ta sẽ tăng lực chạy với tốc độ hai mươi hải lý một giờ. Tàu ta nhẹ, máy khỏe, họ dễ bị mất mục tiêu. Ra vùng biển quốc tế ta an tâm hơn.

- Thôi được, bây giờ ta cứ phải chuẩn bị đối phó với những trạng huống xấu nhất!

Bảy Dĩ xách chiếc va-li to đại ra đặt giữa ca-bin.

- Của cải chi mà nặng dữ thế anh Bảy? - Hào hỏi.

- Vàng đó! Xài hết mấy thứ này là vừa đến lúc về bên Chúa? Ha! Ha! Ta phải mở sẵn ra để hối lộ cán binh Cộng sản nếu có cuộc đụng độ không mong đợi xảy ra? Quý anh em đồng tình chớ!

Bảy Dĩ hì hục mở khoá rồi bật nạp va-li ra. Bọn tôi trố quắt nhìn. Y nhẹ nhàng tháo một lớp vải bạt: hai cây M.79, một cây AR.15 và những băng đạn sáng chói.

- Trời, anh Bảy nói vàng, bọn tôi mừng quá, té ra mấy thứ này.

- Vàng đó chớ. Tôi phải bỏ ra cả chục lượng vàng mới mua nổi mấy thứ quốc cấm này. Với chúng ta nhiều lúc quý hơn vàng - Mặt Bảy Dĩ trở nên nghiêm trang - Tôi đã phải lo tính kỹ cho chuyến đi sanh tử này. Nếu gặp cộng quân thì chỉ có thể xảy ra hai điều. Một là ta phải đạp lên xác chúng mà chạy thoát. Hai là nộp mình cho chúng để rồi nhận những viên đạn vào sọ. Thưa tướng quân - Y quay lại nói với Tùng Lâm - Tướng quân là người cao cấp nhứt ở đây. Nhưng hôm nay tôi là người vạch kế hoạch cuộc hành quân, xin cho phép được chỉ huy.

- Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh của ông. Trong trường hợp này vị trí thích hợp của tôi là một chiến binh - Tùng Lâm khiêm tốn nói.

- Xin cảm ơn tướng quân. Thứ này tướng quân xài được chớ? - Y chỉ hai cây rốc-két chống tăng làm cho Tùng Lâm lúng túng. Là tướng lục quân anh đâu có chú ý đến những thú vũ khí mà anh coi là lặt vặt đó. Tôi vội vàng đỡ lời anh.

- Để tôi xài cho. Thứ này đối với lục quân cũng khoái như sâm-banh trong bữa tiệc vậy. Để anh Tùng Lâm dùng cây AR.15.

Tôi muốn giữ lấy thứ hỏa lực mạnh này để chủ động trong trường hợp có đụng độ. Lỡ đâu gặp tàu hải quân, do một sự hợp đồng thiếu chặt chẽ giữa tình báo với hạm đội có thể gây ra những hiểm nguy không cần thiết.

Trao súng cho chúng tôi xong, Bảy Dĩ phân công nhiệm vụ.

- Tôi cảnh giới phía sau. Anh Hào vừa lái vừa quan sát phía trước. Tướng Tùng Lâm bên phải, trung tá Nghĩa bên trái... Có tàu thuyền nào xuất hiện từ xa cũng phải thông báo cho nhau nghe!

- Tuân lệnh!

Tôi ngạc nhiên về cách thức tổ chức của cái tay "dân sự" này. Nó biết chỉ huy như một sĩ quan thực thụ...

Biển sáng lấp lánh dưới trăng. Những con sóng bạc đầu đuổi nhau, đập vào mạn thuyền tung bọt trắng xoá. Con thuyền chồm lên, lao xuống như ngựa phi. Mênh mông trời nước. Mặt biển vắng vẻ, đất liền biến mất. Đèn Vũng Tàu ánh lên nền mây xa xa như một dải ngân nhũ nổi trên màu sẫm của một bức tranh sơn mài.

Mọi việc gần như trót lọt. Trương Tấn Hào quay lại thông báo với mói người:

- Chúng ta đã ra đến hải phận quốc tế, cách đất liền mười hai hải lý. Thuyền sẽ quay mũi về hướng đông nam tạo một góc một trăm chín mươi hai độ với bắc địa cực.

- Liệu có thể nâng cốc chúc mừng tự do được chưa? - Bảy Dĩ hỏi.

- Kể thì hơi sớm nhưng không sao! - Tùng Lâm tươi tỉnh và nhiệt tình khi nói đến chuyện nâng li.

Bảy Dĩ mở chai sâm-banh. Bọt trắng trào ra cổ chai. Y giờ lên cao:

- Tự do vạn tuế! Vie la libertél! À notre victoire1 (Tự do muôn năm! Chúc mừng thắng lợi của chúng ta!):

- Bravo! Bravo! - Tôi và Tùng Lâm vỗ tay.

Bảy Dĩ lịch sự đưa chai rượu cho Tùng Lâm.

- Xin mời tướng quân dùng trước?

- Cảm ơn, xin mời ông chỉ huy. - Tùng Lâm cũng đáp lại một cách khiêm nhường mặc dù đôi mắt anh nhìn vào bọt rượu NHƯ thôi miên.

Dĩ ngửa miệng rót rượu ồng ộc. Y chuyển chai cho Tùng Lâm. Tùng Lâm đưa cho tôi, tôi không uống mà mang lên cho Hào. Hào từ chối:

- Người say không thể điều khiển con tàu chính xác.

- Một chút tượng trưng thôi! Nghe nói mỗi khi qua xích đạo, những người lính thủy đều nâng cốc tạ ơn Hải Vương Tinh?

- Nhưng thuyền trưởng và hoa tiêu đang thực thi nghiệp vụ thì không được phép.

Hào từ chối, tôi hiểu không phải vì lý do an toàn. Một nỗi buồn tha hương, thương vợ, nhớ con đang đè nặng lên tâm hồn anh ta. Hào không thể hòa vào cuộc vui chung được.

Bảy Dĩ phân công người thức người ngủ. Riêng Trương Tấn Hào thì không ai thay thế được. Aanh ta sẽ phải thức suốt cuộc đi. Bảy Dĩ đặt trước mặt anh một chai Nestcafé pha sẵn để anh chống chọi với cơn buồn ngủ.

CHƯƠNG II

LÁ THƯ CHỮ HÁN

Tôi tỉnh dậy khi mặt trời đang nổi lềnh bềnh trên mặt sóng. Mũi thuyền chếch theo hướng Tây Nam. Tiếng máy nổ đều đều và Trương Tấn Hào vẫn ngồi im lặng như pho tượng trước vòng lái. Tùng Lâm nằm ngáy ngon lành, nước dãi chảy ra bên mép. Còn Bảy Dĩ thì đang xem lại đống hành trang lộn xộn của y trong chiếc túi xách to xù mà y luôn đeo kề bên hông. Liếc thấy tôi tỉnh dạy, Dĩ thu vội lọi thứ vào trong túi rồi kéo phéc-mơ-tuya, khoá lại. Tôi lần đến bên vòng lái tò mò:

- Hiện nay chúng ta đang ở đâu thưa đại úy?

Như bừng tỉnh khỏi những ý nghĩ đang theo đuổi, Tư Hào lúng túng đến một phút mới trả lời tôi:

- Hiện giờ ta đang ở khoảng 7,6 vĩ độ bắc, 105 kinh độ đông. Cách hòn Nhạn hơn bốn mươi hải lí về phía Đông Nam. Bên trái chúng ta gần trăm hải lí là quần đảo san hô Scowfell Shool. Phía trước hai trăm hải lí là hoang đảo Charlotte Bank.

- Không có hải đồ, nghe anh nói tôi vẫn chưa hình dung nổi.

- Dạ có chi là khó - Anh lộn trái vỏ bao thuốc lá lấy bút bi vẽ qua hình bờ biển - Cà Mau đây nhé. Phú Quốc đây, ta đang ở chỗ này.

- Thế là ta sắp vào vịnh Thái Lan?

- Dạ.

Nhìn sang chân trời phía Tây Bắc, mặt biển lấm tấm những chấm đen. Đó là những ngư thuyền đi khơi. Trên bầu trời một đàn chim hàng ngàn con dang bay về hướng Đông.

- Ôi đàn chim biển đông quá.

Hào nhìn theo tay tôi chỉ, anh mỉm cười:

- Chim trời đấy. Lợi dụng những dòng khí nóng đối lưu, đường bay của chúng kéo từ lục địa này sang lục địa khác. Chim biển không hành binh theo đội hình đó. Nó bay loạn xạ chao đảo trên mặt sóng. Gặp chim biển là đoán được khoảng cách đến đất liền, đến những đảo san hô hay những hòn núi đá. Ó biển ưa những hòn đảo cô đơn. Hải âu thích những cửa sông, bến cảng, đảo san hô. Hải yến quần tụ trên những vách đá dựng đứng... Mỗi thứ chim có một thói quen, một xứ sở sinh tồn khác biệt.

Hào châm thuốc hút, cặp mắt mất ngủ mệt mỏi buồn bã mờ ảo trong làn khói. Nếu thuyền cứ chạy thẳng thì anh để tôi giữ lái cho, anh nằm nghỉ đi ít phút.

- Liệu thế có được không? - Bảy Dĩ cũng hỏi xen vào.

- Trong vòng hai trăm cây số nữa mặt biển vẫn mênh mông ở độ sâu trên bốn trăm bộ. Chỉ cần giữ nguyên góc phương vị như thế này là được. Nếu gặp tàu phía trước thì các anh gọi tôi dậy. Biển tuy rộng nhưng cũng phải biết luật tránh nhau đó.

- Anh cứ yên tâm nghỉ đi.

Tôi ngồi vào vòng lái. Hào xuống khoang xem lái máy móc rồi rút trong túi xách ra chiếc bánh mỳ kẹp thịt nhai ngon lành. Ăn xong anh tu một hơi nước rồi lăn ra chiếc đi-văng trên ca-bin ngủ thiếp đi.

Giữa biển khơi mênh mông con thuyền như nổ máy đứng yên. Đặt tay lên vòng lái tâm hồn tôi bỗng nao nao xúc động. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến mình sẽ lái con tàu đi giữa đại dương, giữa một vùng ngắt xanh trời nước.

Tám giờ mời bảy phút tôi thấy chân trời phía trước ánh lên một chấm sáng như bạc. Tôi thích thú ngắm nhìn cái hiện tượng lạ lùng do chính mình phát hiện ra. Chỉ vài phút sau, cái hiện tượng được coi là lạ lùng đó rõ dần hình dáng một con tàu. Điểm sáng sẫm dần lại. Hai động tử chuyển động ngược chiều cùng phương nên khoảng cách rút lại nhanh chóng. Tôi đưa chiếc ống nhòm bội số mười hai lên mắt. Hình con tàu hiện ra lồ lộ. Nó đang đi thẳng về phía chúng tôi. Tôi buộc phải gọi Hào. Anh mở cặp mát đỏ hoe ngơ ngác rồi vục dậy. Anh nheo mắt quan sát tàu lạ rồi đánh tay lái cho con thuyền chếch trái vài độ. Qua ống nhòm tôi cũng thấy chiếc tàu kia quặt phải để lộ ra cái sườn bên trái. Trương Tấn Hào giằng lấy cái ống nhòm. Bằng một tay anh làm một động tác mạnh mẽ quặt hướng tàu sang phải. Chiếc tàu lạ cũng chuyển hướng đi như có ý định chặn đầu con thuyền của chúng tôi.

- Anh Bảy gọi anh Tùng Lâm dậy mau. Chiếc tàu lạ có vẻ muốn khiêu khích chúng ta.

Tùng Lâm bừng tỉnh, anh xách cây tiểu liên lên đạn "roạt" rồi tìm một tư thế bắn thuận lợi hướng về phía trước. Tôi mở nắp rốc-két, kéo dài ống phóng về tư thế sẵn sàng chiến đấu. Hào chạy theo một đường chếch, cố tăng khoảng cách đến con tàu lạ nhưng không biểu hiện ý định bỏ chạy để thăm dò đối phương. Một lần nữa tàu lạ lại tìm hướng đón đầu để tiếp cận.

- Tàu nó khoảng hơn trăm tấn, không lớn hơn tàu mình là bao ta không để cho nó bắt. Có thể đó là tàu của bọn hải tặc. Không cờ, không số.

- Ta phải kiềm chế, cố gắng đừng để xảy ra đụng độ. Trường hợp không sao thoát nổi mới phải nổ súng. Các chiến hữu nghe lệnh tôi - Bảy Dĩ hét to để bọn tôi nghe rõ. Tiếng máy tàu tăng lực nổ dữ dội. Bảy Dĩ nghển ra cửa sổ để quan sát tình hình.

Khi khoảng cách rút lại trong vòng trăm mét. Hào tạo một đường cát táo bạo, con thuyền lượn nghiêng một góc độ rất nguy hiểm. Con tàu lạ bất ngờ theo đà lao thẳng, cự li đã mở rộng. Thuyền chúng tôi táng tốc tháo chạy về hướng Nam. Bị mất mồi tàu lạ mở vòng lượn lớn quay mũi bám đuôi tăng tốc đuổi theo. Chúng mở mê-ga-phôn oang oang ra  lệnh "Stop! Stop''!. Hào vẫn cố gắng tăng tốc chạy miết. Nhưng rõ ràng tàu địch mạnh hơn, khoảng cách đã thu lại. Tôi đã tính đến nước phải nổ súng, nhưng Bảy Dĩ chưa cho lệnh. Bỗng một tràng súng máy ré lên nã vào buồng lái. Bảy Dĩ trúng đạn ngã vật xuống. Hào phải nằm xuống tránh đạn, tay với lên vòng lái điều khiển con thuyền. Tùng Lâm muốn bắn lại nhưng tàu địch cao, mũi nghếch lên che cho khoang lái. Địch đang lợi thế. Tôi không dám nổ súng vì hai tàu còn trên một đường thẳng, tia lửa phản lực sẽ thiêu cháy cả con tàu của chúng tôi.

- Quay ngang ra anh Hào ơi. Khẩn cấp.

Hào kéo mạnh vòng lái. Con thuyền tạo ra một góc bốn nhăm độ với hướng cũ. Sườn tàu cướp hiện ra, tôi bấm cò. Viên rốc-két xé gió lao vào khoang máy tàu địch. Một ánh chớp màu da cam cùng tiếng nổ dữ dội xô nghiêng chiếc tàu trăm tấn. Nó bốc cháy ngùn ngụt. Lúc đó Tùng Lâm mới dùng tiểu liên tỉa gọn những tên sống sót nhô lên boong.

Hào định lái thuyền chạy thẳng nhưng tôi ngăn anh lại:

- Đánh rắn phải đánh giập đầu. Nếu để thoát, nó kêu đồng đảng lại báo thù.

- Đúng đấy - Tùng Lâm góp ý kiến thêm – Chúng mình sẽ đến đất Thái. Nếu nhận biết số thuvền của chúng mình chúng có thể vu cáo mình tiến công trước. Giữa biển, sans loi, sans témoin1 (Không luật pháp, không nhân chứng)… Tòa án của chúng, mình đâu đủ lý để chống nổi chúng.

Hào vòng thuyền lại. Tùng Lâm tỉa nốt hai tên cướp còn cố bám lấy ca-bin chống lại chúng tôi. Chiếc tàu chìm dần. Mặt biển loang ra một mảng dầu nhờn bóng loáng.

Tôi quay lại chỗ Bảy Dĩ. Y bị đạn xuyên qua bả vai sang ngực. Máu sủi bọt trên vết thương có thể đạn xuyên qua phổi. Tôi xé cuốn băng và mảnh gạc băng cho anh ta. Chúng tôi đặt Dĩ nằm ngay ngắn trong khoang thủy thủ rồi tiêm kháng sinh cho anh ta. Dĩ rên rỉ:

- Tôi chết mất. Hãy cứu tôi...

Chín giờ hai mươi lăm phút cuộc hành trình tiếp tục. Tôi thu dọn, xóa mọi dấu vết trận hải chiến trên con thuyền. Tôi bỗng thể ý đến chiếc túi da khá lớn mà Bảy Dĩ vẫn kè kè đeo bên người đang nằm trên sàn tàu. Bảy Dĩ là người thế nào vẫn là dấu hỏi lớn đối với tính tò mò nghề nghiệp của tôi. Có thể những thứ đựng trong chiếc túi da kia sẽ giải thích được phần nào hành tung bí ẩn của anh ta.

Chờ lúc Tùng Lâm lên ca-bin nống rượu mừng thắng lợi và tán chuyện ba láp với viên đại lý hải quân, tôi mới mở chiếc túi da của Bảy Dĩ ra.

- Vàng, rất nhiều, được đựng trong nhũng chiếc hộp nhỏ.

Đô-la vài xấp, có tới hàng chục ngàn. Những thứ này không ngoài dự đoán của tôi...

Vài bộ quần áo. Một cuốn tiểu thuyết A la recherche du temps perdu2 (“Tìm lại thời gian đã mất" của nhà văn Pháp Mác-xen P.rút) của M.Proust - Khá thú vị.

Một tập an-bom gắn ảnh gia đình bè bạn không dày lắm (chuyện thường tình). Không có bộ mặt nào quen thuộc.

Hết.

Tất cả không có thứ gì thỏa mãn tính tò mò của tôi. Vàng, đô-la, quần áo... không chứa đựng điều gì. Hãy loại ra. Còn cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp dày cộm này anh ta mang theo làm gì? Tôi lật lại vài trang rồi giũ ra. Không có gì. Mở tờ bìa phụ bọc ngoài tôi thấy có lá thư gài bên trong. Ngoài bì đề địa chỉ:

Xuy Kin Hua

Woong-Te-Tsien street 7652 Nrd Hong Kong.

Không có tên người gửi. Cũng thú vị đấy. Tôi sẽ mượn lá thư này vài giờ. Tôi xem lại tập an-bom bìa mia-ca trong suốt. Có năm tấm ảnh màu cỡ 6 X 9 làm tôi chú ý. Tôi bóc ra một chiếc. Tờ bìa an-bom đen bồi phía sau, trên mép có vết hồ bóng. Tôi khẽ nạy bằng lưỡi ca-níp thì giữa hai lần giấy xuất hiện mẩu phim mỏng chụp những dãy số li-ti không có kính phóng không thể đọc nổi. Hơn nữa nó là bản mật mã, không có khóa cũng đành chịu. Tuy hấp dẫn nhưng tôi cũng đành nhét trả lại như cũ vào an-bom. Ba tấm ảnh sau có chứa ba giấy chứng chỉ nhỏ xíu. Một mặt có vết lăn hai ngón tay. Mặt sau chỉ đề mấy chứ lẫn với số N3P7. D4K2L3. MGK2B1. Cả ba tấm ảnh dán trên chứng chỉ đều bị bóc. Nhìn con dấu nổi hằn sang mặt trái tôi thấy rõ hình đầu con ó, tấm mộc và chiếc kim la bàn. Đó là biểu tượng của cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Tôi ghi mấy chứ số và đặt mọi thứ vào chỗ cũ.

Tôi tiếp tục tiêm kháng sinh cho Bảy Dĩ. Tôi cũng cho anh uống thuốc an thần để anh ngủ ngon đỡ cơn đau buốt. Trong cơn mơ tỉnh, thỉnh thoảng Dĩ lại kêu “Cái xắc của tôi đâu?". "Đưa cho tôi cái túi".

Chờ cho Tùng Lâm nằm ngáy trên ca-bin tôi mới nhấp nước bọt mở lá thu ra đọc trộm. Tai ác thay lá thư lại viết toàn bằng chữ Hán. Làm sao bây giờ? Không có máy ảnh. Chép cũng không nổi. Sau một hồi suy nghĩ, tôi viết liều một lá thư bằng chữ in hoa để giấu bút tích:

BẠN CÓ LÁ THƯ GỬI TAY RẤT QUAN TRỌNG. TÔI KHÔNG ĐẾN CHỖ BẠN ĐƯỢC VÌ VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH, CHỜ CÓ NGƯỜI TIN CẨN ĐI HONG KONG TÔI SẼ CHUYỂN ĐẾN TAY BẠN, CÙNG LẮM TÔI MỚI GỬI BƯU ĐIỆN.

Tôi nhét vào phong bì dán lại và để vào chỗ cũ. Lá thư chính tôi giấu vào gói hành trang của mình.

Theo dự tính ban đầu, chúng tôi định đến Thái Lan. Nhưng do xảy ra trận hải chiến, dầu mỡ bị tiêu hao nhiều lại có người bị thương nên Hào khuyên chúng tôi đổ bộ vào nơi nào gần nhất.

Bảy Dĩ đã khá hơn. May mà cầm được máu. Câu hỏi đầu tiên sau một thời gian dài mê mệt là:

- Cái túi của tôi đâu?

- Ở ngay đầu anh đó. Anh yên tâm, bọn tôi phải giữ gìn cho anh chứ.

- Cảm ơn, rất cảm ơn các chiến hữu đã cứu sống tôi. Liệu ta sắp tới đích chưa?

- Sắp rồi. Thế giới tự do đang dang tay chào đón ta đó!

Sau gần hai ngày đêm lênh đênh trên biển cả, vật lộn với sóng gió, chiến đấu với hải tặc, chúng tôi đã nhìn thấy dải đất xanh mờ hiện lên phía trước.

- Đất liền kia rồi? - Tôi vui sướng reo lên.

- Chưa phải. Đấy mới là đảo Kivaj. Mười lăm dặm nữa mới là lãnh hải của Mã Lai. Tôi sẽ đưa các vị đến cửa sông Majali.

Khi thấy an ninh tạm thời không còn bị đe dọa nữa, chúng tôi quyết định quăng xuống biển tất cả vũ khí còn lại để dễ bề ăn nói với nhà cầm quyền địa phương.

Mặt biển đã thấv nhộn nhịp nhàng tàu thuyền đánh cá. Chúng tôi tiến thẳng vào cửa sông. Phong cảnh đất nước này cũng không khác lạ với nền duyên hải của chúng ta là bao. Những vườn dừa bát ngát. Những ngôi nhà mái tôn lè tè nằm bên cồn cát, chen chúc nhau ven sông. Dân chài ngồi vá lưới, phơi cá bên bãi cát. Không ai để ý đến chiếc thuyền lạ xâm nhập lãnh hải của họ. Trương Tấn Hào lái thuyền vào sát một thị trấn nhỏ. Chúng tôi tìm một chỗ thuận lợi buông neo và bắc cầu. Tùng Lâm ở lại trông coi Bảy Dĩ, còn tôi và Hào thì lên bờ. Đám trẻ con nước da màu bánh mật với cặp mắt tò mò xúm quanh chúng tôi. Tôi đi thẳng vào đường phố để tìm gặp một viên cảnh sát sở tại Hào hỏi thăm vài người bằng tiếng Anh, họ đều lắc cầu không hiểu. Đất nước này trước đây là thuộc địa của Vương quốc Hồng Mao nhưng bọn thực dân đã ra đi từ lâu nên ảnh hưởng văn hóa ở vùng thôn đã này xem ra đã phai nhạt.

Chúng tôi đã nói chuyện được với người chủ mọt hiệu buôn. Ông ta chỉ cho chúng tôi đến cơ quan hành chính của quận Majali.

Viên đại diện của nhà chức trách địa phương tiếp chúng tôi không lấy gì làm niềm nở lắm. Ông ta nói:

- Có nhiều người Việt Nam di tản bằng đường biển vào đất nước chúng tôi một cách bất hợp pháp gây cho chúng tôi những rắc rối về ngoại giao và kinh tế. Chính phủ chúng tôi quy định mọi người tị nạn đều được hướng dẫn tới đảo Kivaj. Hội đồng thập tự sẽ giúp họ lều bạt và thực phẩm để họ chờ đợi giấy phép nhập cư vào một nước nào đó chịu nhận.

- Cảm ơn ngài đã hướng dẫn chúng tôi. Có điều không may là trên đường chạy trốn, chúng tôi bị tàu tuần tiễu bắn đuổi. Một trong bốn chúng tôi bị thương nặng cần được cấp cứu. Mong ngài giúp đỡ chúng tôi khi nào người đồng hương của chúng tôi bình phục, chúng tôi sẽ đến Kivaj.

Thấy vẻ mặt của người đôi thoại ngần ngại, tôi phải nêu ra đề nghị cụ thể để ông ta để trình lên cấp trên.

- Xin ngài cho phép chúng tôi thuê một bác sĩ đến khám và chữa chạy cho người bạn của chúng tôi ở dưới thuyền. Tốt hơn nữa là xin cho anh vào nhà thương. Còn ba chúng tôi xin được thuê một buồng ở khách sạn nào đó ít ngày. Phí tổn chúng tôi sẽ thanh toán bằng đô-la! Xin các ngài tạm thời coi chúng tôi như khách du lịch ngoại quốc.

Đề nghị đó làm cho vẻ mặt quan chức này nhẹ nhõm hơn. Ông ta bảo chúng tôi chờ cho mươi phút.

Cuối cùng thì họ hướng dẫn chúng tôi làm một đơn tạm trú để cấp cứu vì tai nạn cùng với một biên bản xâm phạm lãnh thổ bất hợp pháp vì lý do tị nạn chính trị. Hai viên cảnh sát theo chúng tôi xuống thuyền khám xét qua loa rồi cho phép chúng tôi thuê xe về trọ trong một khách sạn nhỏ ở thị trấn.

Bảy Dĩ không đến bệnh viện. Anh muốn cùng chúng tôi ở khách sạn và thuê bác sĩ đến chữa. Một thày thuốc đến thăm bệnh, tiêm, rửa vết thương và thay băng hàng ngày cho Dĩ. Viên đạn đã không gây ra hiểm họa. Những bộ phận quan trọng không bị thương tổn lớn. Không khí ngoài biển trong lành, tôi lại tiêm kháng sinh đều đặn nên vết thương khô miệng không bị nhiễm khuẩn.

Mặc dù còn yếu, Dĩ đã kéo chiếc máy điện thoại đến bên mình. Anh ta dò hỏi các tổng đài để tìm ra số diện thoại của viên đại diện đại sứ quán Mỹ ở đó. Và anh đã tìm ra. Bảy Dĩ nhờ viên đại diện cho anh ta được bắt liên lạc với ông Wrarrens, trợ lý Viễn đông vụ của công ty Albert E.C.

- Xin ông cho biết quý danh. Ông Warrens hiện không có mặt ở đây.

- Tôi là Lê Văn Dĩ B.P. 321N Sài Gòn (Dĩ nhắc lại hai lần). Cùng đi với tôi còn có ba quân nhân thuộc quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tướng Tùng Lâm, trung tá Nghĩa và đại úy Hào. Chúng tôi hiện đang nằm ở khách sạn Thaman thị trấn Majali. Chúng tôi mong được sự che chở của ngài Warrens và quý quốc.

- Chúng tôi sẽ trả lời ông trong vòng hai mươi bốn giờ.

Kết quả của cú điện thoại thật bất ngờ với tôi và Tùng Lâm. Ngay cả Hào, người bạn chí cốt của Bảy Dĩ cũng không dám hy vọng: Nhờ sự can thiệp của tòa đại sứ Hoa Kỳ với Bộ Ngoại giao nước này, cả bốn chúng tôi đều được cấp hộ chiếu để đến thủ đô chứ không phải quay ra nằm chờ ở đảo Kivaj nữa.

Tôi và Tùng Lâm làm đơn xin nhập cư vào Mỹ. Bảy Dĩ chưa có chủ định rõ rệt. Anh còn chờ gặp Warrens xem công ty còn đảm bảo quyền lợi gì cho anh không. Trương Tấn Hào không biết đi đâu. Ở Mỹ chẳng quen ai, vợ con thì lỡ chuyến, tiền bạc chẳng có, anh rất buồn. Dĩ khuyên Hào ở lại với mình, tìm chỗ làm ăn ở vùng Đông Nam Á đợi có dịp cuốn nốt vợ con ra. Hào cũng phải dựa Dĩ vì Dĩ quen biết nhiều, hy vọng sẽ kiếm cho Hào một công việc thích hợp.

Trước khi chia tay tôi rủ Hào đi chơi phố. Tôi muốn qua anh để hiểu biết thêm về Bảy Dĩ. 

- Nhờ có anh Bảy chư không bọn mình còn phải nằm bẹp trên đảo Kivaj không biết đến ngày nào.

- Ồ, cha là người rất tháo vát. Bọn tôi phải chịu ơn cha nhiều lắm.

- Trước đây anh ấy lành việc ở Bộ Ngoại giao à?

- Không. Phó thường dân suốt. Không làm gì cho quân đội, cũng chẳng phải quan chức chánh quyền. Có thời Bảy rao hàng cho một công ty điện tử của Mỹ. Chỉ đơn thuần buôn bán thôi, ảnh không ưa chánh trị, Nhưng ảnh kiếm được khá.

- Anh quen anh Bảy lâu chưa?

- Lâu rồi, từ lồi tôi bắt đầu làm việc với ngành hàng hải.

- Anh chở hàng cho anh Bảy à? Chở cho anh Bảy, chở cả cho người Mỹ. Khi quân Mỹ vào đông các nhà kinh doanh Mỹ cũng theo chân binh lính. Những vụ buôn bán không qua Hải quan đó lớn lắm.

- Anh Bảy đông con không?

- Anh ta sống độc thân mãi. Mới lấy vợ vài năm nay, sinh được con nhỏ lại bị dị tật ở mắt phải. Thiệt tội.

Nhận được giấy nhập cư vào Mỹ tôi vẫn chưa viết thư báo cho anh chị tôi ở Qúebec biết tin. Tôi sợ nếu biết trước anh chị tôi sẽ làm giấy đảm bảo cho tôi cư trú ở Canađa thì sẽ lỡ ý đồ của tôi. Cuối năm 1975, tôi và Tùng Lâm đến New York. Đó là một mùa đông đầy tuyết phủ. Đám dân tị nạn người Việt sống trong nhiều chưng cư tạm thời ở nhiều vùng trên đất Mỹ. Họ chờ đoàn tụ gia đình, chờ công ăn việc làm, chờ nơi định cư lâu dài. Họ được nhận một khoản trợ cấp hai trăm đô-la để duy trì mức sống tối thiểu. Tôi và Tùng Lâm là tướng tá cả, nhưng sự tan rã hoàn toàn của chế độ Sài Gòn đã không còn một tổ chức nào phải chịu trách nhiệm đến số phận chúng tôi. Người Mỹ tiếp nhận dưới khía cạnh nhân đạo. Tất nhiên đối với những sĩ quan đã từng cùng hội cùng thuyền họ cũng có sự ưu đãi nhất định.

Số phận của tướng Tùng Lâm còn đáng buồn hơn tôi. Anh không tìm thấy tin tức vợ con hiện lang bạt nơi đâu. Mục tiêu trước mắt của anh là đi tìm kiếm họ. Trái đất tuy chẳng to lớn gì so với tốc độ của thời đại, nhưng với những người "vô danh tiểu tốt" thì lần tìm ra họ đâu phải dễ. Tùng Lâm buồn bã nói với tôi:

- Mình rất cảm ơn Nghĩa đã hết lòng giúp đỡ mình để đến được đây. Nhưng mình không thể bám vào bạn mãi được. Mình sẽ phải lo tính chuyện gia đình, chuyện kiếm sống lâu dài.

- Nơi đất khách quê người, ta phải tựa vào nhau mà sống. Anh Tư chẳng cần nói đến điều ân huệ. Vì thương vợ con mà anh Tư cứ đi hoài nhưng tình kiếm thì sao thấy nổi. Phải nghĩ ra một phương sách đáng tin cậy thì mới hy vọng tới đích.

- Đúng là đáy biển mò kim. Giá như phạm vi trong một nước, thì ta có thể nhắn tin qua đài, qua báo chí. Nay chẳng biết ở nước nào thì đành chịu thôi. Chỉ có cách đi gặp bạn bè cũ, từ người này lần ra người kia may ra có ai họ biết.

- Đó cũng là phương cách hợp lý hiện nay. Theo tôi anh có thể gửi thư nhờ hỏi qua tổ chức HCR ở mấy nước mà người di tản hay đến. Hy vọng họ có danh sách và họ tìm giúp. Anh Tư nhớ đi đâu thì đi nhưng thỉnh thoảng phai viết thư cho đệ - Tôi ghi địa chỉ ở Canađa cho anh - Gặp khó khăn gì trên đường đời hãy báo tin cho đệ. Có cánh tay bè bạn mọi vấn đề trên đời đều bớt phần nan giải.

Chúng tôi từ biệt nhau mỗi người đi một ngả.

Trước khi bay đi Montrea, tôi đến thăm gia đình họa sĩ Bạch Vân ở New York. Thấy tôi đến, cả nhà đều vui mừng và ngạc nhiên.

- Anh sang đây từ hồi nào mà bữa nay mới đến với chúng tôi?

- Dạ thưa bác, cháu mới đến nước Mỹ được một tuần nay.

- Thế trước đó?

- Ở Việt Nam.

- Ở Việt Nam? Nghĩa là anh đi sau biến cố 30 tháng 4.

- Dạ, cháu lên đường ngày 16 tháng 10.

- Bằng đường nào?

- Trốn tù rồi vượt biển.

- Trời! Thế mà thoát nổi. May mắn quá.

Tôi tường thuật lại cuộc hành trình. Chuyện phiêu lưu đó kích thích tâm lý mọi người và tôi luô luôn nhận được những lời thán phục nhất là ở những đứa trẻ. Ông bà ân cần hỏi đến dự định tương lai của tôi.

- Cháu mới nhập cư vào nước Mỹ và sống tạm bằng trợ cấp tị nạn. Dĩ nhiên là cháu sẽ phải tìm ra một công việc thích hợp. Nhưng trước mắt cháu phải sang Canada vì anh chị cháu đều sống bên đó.

Con trai ông bà Bạch Vân khuyên tôi:

- Nếu anh muốn, anh hãy ở đây với chúng tôi. Anh có thể chọn một công việc anh thích. Chúng tôi sẽ giúp anh.

- Cảm ơn anh đã quan tâm đến tôi. Tôi rất thích New York một thành phố gắn liền với nhịp đập chính trị của trái tim nhân loại. Nhưng dù sao cũng còn phải chờ ỷ kiến của anh chị tôi.

Thực ra trong ý định đến thăm, tôi cũng có dụng ý nhờ vả ông già một chút nhưng không phải chuyện tìm việc. Khi chỉ còn ngồi riêng với họa sĩ tôi mọi lấy lá thư chữ Hán ra.

- Bác ạ, khi ra đi vội vàng có một người Tàu nhờ cháu gửi hộ lá thư cho ngươi bà con. Thư ngỏ, kèm theo mẩu giấy ghi địa chỉ. Vội vàng lúng túng cháu để lộn đâu mất mảnh giấy. Xin bác làm ơn đọc giúp có thấy nói gì đến nơi làm ăn của người nhận không.

Ông già lấy kính lúp soi, đôi chỗ phải mở cả từ điển ra tra cứu. Cuối cùng ông nói lại đại ý của bức thư như sau:

Bức thư của ông Thanh gửi cho người bà con ở Hồng Kông nhờ chuyển cho con gái là Hứa Quế Lan báo tin: ông vẫn sống mạnh khỏe và tin tưởng vào chế độ mới. Chưa có lãnh sự của Trung Quốc ở Sài Gòn nên cộng đồng người Hoa ở đây còn lo lắng ai sẽ bảo vệ quyền lợi cho họ. Công cuộc kinh doanh giảm nhịp độ, ông báo cho Hứa Quế Lan biết là chồng cô ta vẫn sống tự do và rất muốn liên lạc với cô nhưng chưa biết địa chỉ chính xác. Anh ta hỏi nhưng ông Thanh cũng không biết gì hơn. Anh không biết cô đã mang đi đầy đủ giấy tờ về ngân khoản anh ta gửi vào ngân hàng Mahattan hay chưa. Sớm muộn thì anh cũng phải tìm cách đến với vợ, nhưng trước mắt anh ta còn dở một số việc chưa thể ra đi ngay. Anh mong thư và địa chỉ của cô. Hiện anh chưa có địa chỉ cố định, cô cứ gửi thư qua chỗ ông Thanh. Còn ông Thanh thì khuyên con gái: nếu còn trung thành với chồng thì hãy cho y địa chỉ. Còn nếu đã định đi tìm một cuộc đời khác thì chẳng nên báo địa chỉ cho chồng làm gì. Ông ta cũng mong thư con gái. Ông nhắc là nếu ông P muốn giữ mối quan hệ cũ với ông L thì có thể đến gặp ông Đ ở Hồng Kông. Vì P và Đ chưa quen nhau do đó Quế Lan có thể đứng ra làm trung gian môi giới. Hỏi địa chỉ ông Đ. ở Hứa Kim Hoa. Đại khái lá thư là như vậy. Phần dưới  khó hiểu và chàng có gì để tìm nổi địa chỉ của Hứa Kim Hoa hay Hứa Quế Lan.

- Thật đáng tiếc! - Tôi nhận lại lá thư và cảm ơn họa sĩ.

Tôi thấy rõ tầm quan trọng của lá thư. Phải chăng Hoàng Quý Nhân vẫn còn sống. Thế thì cái xác chết cháy thu trong biệt thự Vie du Château là ai? Hắn đã tạo ra một "hình nhân thế mạng” để thoát thân, tại sao hắn chưa ra đi còn ở lại làm gì? Ai giao nhiệm vụ cho hắn ở lại hay vì ra đi không kịp. Quan hệ giữa Bảy Dĩ và Hoàng Quý Nhân. Giữa Nhân và Warrens ra sao... Cứ như thế hàng chục câu hỏi liên tiếp hiện ra. Như vậy là phía địch vẫn có ít nhất một kẻ nắm được tung tích của tôi. Tôi phải cảnh giác nếu vô tình xảy ra một cuộc đối mặt mới. Lúc này hiệp ước "bất khả tương xâm" sẽ hết ý nghĩa. Chuyện buôn lậu ma tuý quá khứ không đe dọa được hắn nữa. Hắn sẽ không để tôi yên một khi lợi thế nghiêng về hắn. Vì vậy hành tung của tôi phải khép kín lại.

Công việc buộc tôi phải hành động ngay.

Thứ nhất: Tôi phải báo cáo về Trung tâm nội dung bức thư Hồng Kông đề nghị thẩm xét lại vụ Hoàng Quý Nhân xem y còn sống hay đã chết. Hỏi thêm về tên Lê Văn Dĩ.

Thứ hai: Phải tìm địa chỉ hiện tại của Hứa Quế Lan. Ông L, ÔNG Đ, ÔNG P là ai. P có phải là tiến sĩ Price không?

Một người nữa tôi khao khát muốn gặp không phải là chuyện công tác mà do một tình cám rất tự nhiên. Đó là người Mỹ John Antonie. Không biết số điện thoại riêng của anh tôi phải điện thoại về bưu diện Fort Worth nhờ họ tìm hộ trong tập danh bạ. Và tôi đã tìm thấy tiếng nói của John ở đầu dây bên kia.

- Hello! Tôi đang nói chuyện với ai đó?

- Trung tá Phan Quang Nghĩa! Xin chào Antonio.

- Ôi, bạn thân mến! Hiện anh đang ở đâu?

- New York - Đại lộ số 5.

- Tuyệt vời! Hãy bay đến Olive với chúng tôi nhé.

- Cảm ơn. Tôi vừa từ Sài Gòn đến đây được một tuần. Tôi còn phải đi Canađa gặp gia đình. Vấn đề tài chính không cho phép tôi ở lại dây lâu hơn.

- Ngày nào bạn bay? Hai ngày nữa à? Thế thì tôi sẽ đến với bạn. Xin đừng lo vấn đề tài chính. Hãy tin ở sự giúp đỡ của bè bạn. Ngay bây giờ tôi sẽ gọi điện ra sân bay. Một người vừa từ Việt Nam đến thật hấp dẫn đối với tôi.

Chúng tôi đã gặp nhau ở khách sạn Atlantic.

- Cái ngày đáng có mặt ở Sài Gòn nhất là ngày 30 tháng 4. Thế mà tôi không sao xin được hộ chiếu. Người ta còn bận chuyển đi những người Mỹ ra khỏi đấy. Thật đáng tiếc! – Antonio buồn rầu nói với tôi - Còn anh, lúc đó anh ở đâu?

- Ở Sài Gòn.

- Trong tư thế kháng cự?

- Không. Tôi bị Vixi bắt cùng với Bộ tư lệnh Sư 97 ở nam sông Đan Ly cách sài Gòn gần hai trăm dặm về phía bắc. Họ bắt tôi dẫn đường cho cánh quân hướng Bắc đánh vào thành phố. Nhưng tôi đã bỏ trốn về trình diện ở Bộ Tổng tham mưu. Người ta trả lời là ở đây không còn việc gì cho tôi nữa! Tôi về nhà nằm chờ sự sụp đổ.

- Tại sao lại ngồi chờ? Sao anh không mang chiếc máy ảnh ra mà chụp. Những tấm ảnh lúc đó rất cao giá.

- Tôi chưa từng là phóng viên nên không quen chụp những bức ảnh tài liệu, thời sự.

- Một sự nghiệp có thể bắt đầu từ một công việc chưa quen biết. Lần đầu tiên tôi viết báo vì phẫn nộ muốn gào thét lên cho mọi người nghe thấy một đìều phi lý. Sau đó viết quen thì không phải chờ đến lúc phẫn nộ mới viết. Lúc vui cũng muốn viết, muốn hát vang lên. Tôi phát ghen lên với anh, còn anh lại chẳng nhận ra mình may mắn. Hạnh phúc lớn nhất của Hemingway có lẽ là lúc ông cưỡi chiến xa vào Paris, của Polévoi khi vào Berlin, của Burchett, khi ông leo qua năm trăm dặm Trường Sơn vào vùng Việt cộng... Còn tôi, tôi chưa làm được cái gì. Tôi sinh ra vào cái thời nước Mỹ không có chiến công, nước Mỹ dại dột.

- Chẳng lẽ anh lại thích thú khi chứng kiến ngày toàn thắng của Vixi!

- Tôi thích thú vì chân lý đã thắng. Tôi đã tiên đoán cái kết cục bi thảm của chúng ta từ cách đây năm năm. Chiến tranh đã kết thúc một cách ngoạn mục ngoài sự chứng kiến của tôi.

- Anh không nên thất vọng. Nếu anh quan tâm đến dân tộc chúng tôi anh còn nhiều điều đáng viết. Nước Mỹ ra khỏi Việt Nam nhưng hội chứng Việt Nam vẫn nằm trong nước Mỹ.

- Đúng thế. Bây giờ các nhà chiến lược bắt đầu viết hồi ký để thanh minh cho sự ngu xuẩn của mình. Tôi cũng sẽ viết một cuốn sách về Việt Nam. Tôi mong được anh cộng tác. Tôi thấy những ý kiến của anh trước đây rất sâu sắc.

- Tôi sẵn sàng giúp anh làm sáng tỏ những vấn đề của chúng tôi. Mức độ công tác của tôi chỉ ở phạm vi đó. Hiện nay anh là phóng viên của báo nào?

- Của tờ Kansas Journal là chính. Tôi cũng còn viết cho một số báo khác. Anh sẽ chọn nghề gì để sống?

Tôi nhún vai nói đùa:

- Tôi chỉ biết đánh nhau. Có lẽ tôi xin làm lính đánh thuê cho Mỹ. Tôi có thể đến giúp Zomoza ở Nicaragoa, đến El Salvador hay Honduras! Antonio ngạc nhiên và nghi ngờ.

- Bài học ở chính nước anh còn chưa đủ cho anh sao?

- Tôi muốn đi tìm sự phẫn nộ, để gào thét lên cho có cảm hứng viết được một bài báo như anh.

John ôm lấy tôi cười vui vẻ.

- Anh muốn viết báo à? Thế thì chẳng cần phải trả cái giá đó. Trước khi đến Việt Nam tôi có một quan điểm sai lạc. Thực tế giúp tôi rút ra kết luận mới. Đó là một quá trình đau khổ, một con đường riêng biệt mà không phải ai bước vào nghề báo chí cũng phải đi qua.

Antonio sẵn sàng giúp đỡ tôi về tài chính nhưng tôi cảm ơn và từ chối. Tôi chỉ hỏi anh xem thể thức gia nhập quốc tịch Mỹ có khó khăn lắm không. Một người có quốc tịch Mỹ thường dễ dàng xin visa qua nước này nước khác. Antonio hứa sẽ hỏi giúp tôi việc này. Tôi hẹn sẽ đến thăm anh ở trại Olive một ngày gần đây.

Sự xuất hiện của tôi ở Qúebec làm cho anh chi tôi hết sức bất ngờ. Niềm vui bừng lên sôi sục, nhưng khi chị nhìn thấy có tôi là người duy nhất thì không khí gia đình lại trầm hẳn xuống.

- Bạch Kim và Tôtô đâu?

- Bạch Kim và cháu còn kẹt chưa đi được.

- Còn em thì bằng cách nào mà đến được đây?

Tôi kể lại mọi chuyện từ lúc bị bắt cho đến giờ…

- Trời ơi, thế mà em đến được đây toàn vẹn, thật hồng phúc nhà ta còn lớn lắm. Hôm ra đi anh chị cứ cố khuyên bảo Bạch Kim đưa Tôtô đi trước, nhưng nó cứ một mực ở lại để chờ em. Cuối cùng thì chính nó và Tôtô lại bị kẹt.

- Em tin là sớm muộn thì hai cô cháu cũng sẽ đến đây với chúng ta. Hôm vượt biển chúng em cũng định đi cả với nhau nhưng suy đi xét lại thấy rất nguy hiểm. Lọt khỏi vòng phong tỏa của hải quân lại vào vùng hải tặc. Rồi thì dông bão của biển khơi. Chỉ riêng chuyện say sóng cũng muốn chết rồi. Chúng em bàn Bạch Kim và Tôtô sẽ đi theo đường hợp pháp.

- Nhưng chắc gì đã kiếm nổi visa1 (Chiếu kháng).

- Anh Cả có thể làm giấy bảo đảm cho hai cô cháu đi Paris. Pháp và Bắc Việt vẫn duy trì quan hệ ngoại giao từ trước đây. Hiện nay các cơ quan ngoại giao của Pháp ở Sài Gòn vẫn hoạt động bán chính thức. Việc nhập cư vào Pháp có lẽ là phương sách dễ được chấp nhận nhất. Hôm em đi Bạch Kim đã làm đơn rồi. Họ hứa sẽ làm thủ tục cho. Một khi được chấp nhận thì việc ra đi bằng máy bay sẽ rất an toàn và nhẹ nhàng.

- Thôi đành chịu vậy chứ biết làm sao. Từ ngày sang đây anh chị nhớ thằng bé quá. Cuộc sống tha hương, ít bạn bè, hai người lớn sống với nhau, bên ngoài chỉ một màn tuyết trắng sao mà buồn thế. Có thằng bé căn nhà sẽ sống động hẳn lên. Mai chị phải điện cho anh Cả để anh ấy tích cực làm đơn kêu Chính phủ Pháp can thiệp cho hai mẹ con nó sớm sang dây với chúng ta. Chị thương chúng nó quá.

- Em hy vọng gia đình chúng ta sẽ mau chóng được đoàn tụ. Có điều không hiểu sao anh chị lại chọn nơi đây để sống lâu dài.

Anh tôi cười:

- Đâu phải mình lựa chọn. Hồi chuyển ngân ra nước ngoài anh chị thấy ngân hàng Canada có lãi suất cao hơn cả. Thủ tục giấy tờ đều dùng Pháp văn nên mình thông thạo. Thế là đại bộ phận tài sản nhà mình nằm ở đầy. Có bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ Sài Gòn ra đi đâu? Đến khi bỏ chạy thì nghĩ rằng người đâu của đấy vì vậy anh chị mới nhập cư vào đây.

- Tại anh Ân thôi chứ chị bao giờ cũng thích Pháp hoặc Thụy Sĩ. Anh lại cho rằng ở Canađa an toàn hơn. Giả dụ có xảy ra thế chiến ba thì châu Âu chết trước, sau đến nước Mỹ. Canađa có hy vọng sống sót.

- Lo thế thì không cùng. Em thấy mình nên chọn một vùng khí hậu thích hợp với thể lực ngươi Việt.

- Theo chú thì ở đâu là tốt nhất? - Anh tôi hỏi.

- Em thấy mình nên đến Mỹ. New York, Washington đều tốt. Nhưng hơn cả vẫn là những bang miền Nam hoặc Tây Nam, Florida, hay California. Ở đấy cộng đồng người Việt định cư đông đúc, khí hậu ấm áp.

- Muốn đi đâu thì cũng phải chờ Bạch Kìm và Tôtô đã - Chị Ngọc tôi khẳng định.

Chị đã dành cho chúng tôi hai căn phòng đầy đủ tiện nghi trên lầu.

- Đây là buồng Tô tô. Cháu lớn rồi phải để nó ở riêng. Em và Bạch Kim buồng này - Chị đưa chìa khoá cho tôi.

- Sao lại em với Bạch Kim? - Tôi mỉm cười nhìn chị làm cho chị ngạc nhiên - Chúng em đã cưới nhau đâu mà ở chung?

- À chuyện đó thì quan trọng gì. Ta sẽ làm lễ cưới mời bạn bè, cho nó chính thức chuyện này đi.

- Em cũng muốn thế nhưng sợ Bạch Kim còn phải suy nghĩ. Biết đâu cô ấy lại chẳng muốn sống hoàn toàn tự do.

Chị nhìn tôi vẻ áy náy.

- Được rồi, để chị bảo nó thêm. Hai đứa lấy nhau là tốt đẹp lắm rồi. Các em phải nghĩ đến Tôtô nữa chứ. Dù sao thằng bé cũng quấn quít Bạch Kim. Nó coi Kim như mẹ đẻ từ bảy, tám năm nay. Tình cảm đó lớn lao lắm, các em phải biết cho lòng con trẻ mới được. Liệu nó có chịu chấp nhận một người đàn bà khác làm mẹ không?

- Em cũng nghĩ như thế. Nhưng xin chị cứ để cho Bạch Kinh tự do lựa chọn. Em không muốn cô ấy phải hy sinh vì thương hại ba con em.

- Muốn suy nghĩ gì thì suy. Nhưng lần này sang đây là tôi nhốt hai cô cậu vào buồng này để mà cùng nhau suy nghĩ nghe chưa? - Chị cười - Chị thấy nó rất yêu em đấy. Không yêu sao nó cứ nhất quyết ở lại chờ em. Anh chị dỗ dành mãi nó chẳng chịu ra đi. Chị cứ tưởng là hai đứa đã chung sống với nhau như vợ chồng rồi cho nên tình cảm mới sâu nặng như vậy.

- Đúng là chúng em rất quý nhau nhưng chúng em vẫn chưa vượt qua cái giới hạn cuối cùng. Em hy vọng thời gian sẽ gắn bó số phận chúng em với nhau hơn nữa.

- Nhất định là phải thế. Anh chị khó khăn về đường con cái thì đành chịu vậy. Hai đứa cũng phải sinh đẻ lấy một đứa cho Tôtô có anh có em, anh chị cũng thêm vui cửa vui nhà chứ.

Thế là cái việc chúng tôi vờ không phải vợ chồng đâu có đơn giản!

Có phòng riêng là tôi bắt tay vào công việc ngay. Tôi tháo chiếc khuy áo đặc biệt ra. Cắt bỏ lớp vỏ nhựa bên ngoài tôi thấy xuất hiện lớp hóa chất màu vàng nhạt. Pha với mươi mililít nước cất tôi được một dung dịch nước trong suốt không màu.

Tôi viết một báo cáo dài cho cậu Đức, sau đó đè lên một lá thư thông thường để gửi qua đường bưu điện. Tôi mạnh bạo khai thác phương pháp cổ điển này. Tôi lo thất lạc hơn là lo bại lộ. Phương pháp tuy cổ điển nhưng chất liệu lại mới mẻ.

Tôi cũng chụp lại lá thư của Hứa Vĩnh Thanh rồi gửi lại bản chính cho người nhận là Xuy Kin Hua ở Hồng Kông.

CHƯƠNG III

TRUY LÙNG MỘT BÓNG MA?

Việc xin giấy tờ xuất cảnh cho Bạch Kim và cháu Phan Quang Trung cũng không đơn giản. Mặc dù đã được phía Pháp chấp nhận, mẹ con cô vẫn nằm trong một bản danh sách khá dài của những người “ra đi trong trật tự". Dưới sự tài trợ của HCR, việc thuê muớn phương tiện thường là chậm trễ. Đại tá Nguyễn Hữu Đức đã đề nghị cơ quan ngoại vụ cho cô đi sớm nhưng ông cũng không thể chỉ đích danh. Làm như vậy coi như công khai vai trò của điệp viên, vi phạm nguyên tắc nghiệp vụ. Đại tá chỉ có thể nói với những đồng chí cấp hộ chiếu là trong bản danh sách A hay B có người cần được cho đi trước. Nhưng chẳng may trong bản đó có một người vi phạm một điều của thủ tục thôi thì cô cũng vẫn phải chờ họ đến chuyến sau hoặc lâu hơn. Vì vậy đến mùa xuân năm 1976 hai mẹ con mới lên đường được.

Đại tá Nguyễn Hữu Đức mặc thường phục đứng lẫn vào đám người đưa tiễn ở sân bay Tân Sơn Nhất. Ba cậu cháu ông con không nói gì với nhau. Họ chỉ chào nhau bằng ánh mắt liếc nhanh và nụ cười vô cớ? Khí chiếc Caravelle của hãng Air France cất cánh, đại tá mới thở dài nhẹ nhõm. Kế hoạch HB 5 khép lại giai đoạn 1.

Một tuần sau đại tá Nguyễn Hữu Đức nhận được bức thư đặc biệt từ Québec gửi về. Nhìn qua phong bì ông vui mừng vì N5 đã đến đích. Đại tá mở thư theo đúng qui tắc an toàn. Phần viết công khai chỉ để ngụy trang không chứa đựng điều gì quan trọng. Một kỹ thuật viên giúp ông kiểm tra lại máy phát từ trường chuyên dụng. Loại mực không màu K 16 rất nhạy cảm. Nếu để lá thu vào một từ trường sai lệch quá cường độ má khóa +- 0,2m - A thì toàn bộ hóa chất sẽ bị phân hủy, bức thư không bao giờ hiện màu nữa.

Năm phút sau một lá thư mực đỏ hiện lên rất lõ nét. Ông ghi lại những vấn đề chủ chốt vào hồ sơ HB 5. Vấn đề Hoàng Quý Nhân tưởng như đã loại bỏ ra ngoài vòng chiến thì nay bỗng hiện lên với nhiều dấu hỏi lớn. Đại tá quay máy gọi số điện thoại 64625.

- Alô. Tôi luyện gặp Trung tá Nguyễn Văn Bền.

- Bền đây. Ai gọi tôi đấy?

- Đức đây. Chào đồng chí. Mười bốn giờ anh lại chỗ tôi làm việc nhé. Một nửa tiếng thôi... À, có việc đột xuất cần mang theo hồ sơ X 472, tôi nhắc lại X 472.

- Dạ.

Khó khăn lắm cơ quan lưu trữ bảo mật mới tìm nổi cho anh Hai hồ sơ X 472. Nó được xếp vào loại "đã kết thúc". Trên mặt tờ bìa có hai nét chì đỏ gạch chéo. Anh đến gặp cấp trên sớm hai phút. Sau khi chào hỏi theo lễ nghi quân đội, đại tá mời anh ngồi. Ông ra khép cửa rồi quay lại hỏi đồng sự.

- Anh đem theo cả tài liệu đấy chứ?

- Dạ có đây. Liệu cái thây ma này còn cần thiết gì cho chúng ta - Hai Bền cười và đặt tập hồ sơ ngay ngắn trước mặt cấp trên.

- Nến nó bật áo quan ngồi dậy thì sao?

- Lại có chuyện kỳ lạ thế kia ạ? – Hai Bền tròn mắt ngạc nhiên. Ở trong nhà xác cũng có trường hợp người chết sống lại. Nhưng đã cháy thui rồi đem chôn chín tháng mười ngày mà còn nhổm dậy thì chỉ là chuyện thần thoại.

- Có lúc nào đồng chí nghĩ rằng cái xác cháy thui chỉ là một Hoàng Quý Nhân giả không?

Trung tá hơi lúng túng.

- Dạ tất cả các dấu vết đều chứng minh là xác của y.

- Khi tất cả những dấu vết đó lại đều là giả tạo thì sao?

- Dạ nếu vậy thì... thưa đại tá ít nhất phải có dấu hiệu nào chứng tỏ y còn sống.

- Có đấy! Tôi vừa nhận được nguồn tin của N5 báo về. Chính N5 đã được đọc lá thư của Hứa Vĩnh Thanh bố vợ của Nhân viết cho con gái ở Hồng Kông. Ông Thanh báo tin là Nhân vẫn còn sống tự do. Đồng chí hãy đọc kỹ lá thư này - Đại tá chuyển lá thư của N5 cho anh Hai - Trước mắt ta cần quan tâm đến hai vấn đề. Thứ nhất: Hoàng Quý Nhân ở lại vì không ra đi kịp hay y được lệnh phải nằm lại nên phải chuẩn bị cho mình một màn kịch? Thứ hai: Công việc y còn mắc mà chưa thể ra đi được là việc gì?

Sau khi đọc kỹ lá thư trung tá Bền nêu ý kiến của mình:

- Thưa đại tá, theo tôi giả thiết là lá thư N5 tình cờ đọc được là đúng sự thật thì ta chỉ cần tiến hành điều tra hai vấn đề trên là đủ. Nhưng nếu đây là lá thư giả thì sao? Ta sẽ sa đà vào một mục tiêu không có thực. Tôi đề nghị đồng thời với hai mục tiêu trên ta cần chứng minh lại cái chết của Hoàng Quý Nhân là đúng. Nếu chứng minh được điều này thì không cần bận tâm đến bất cứ một tin tức gì về y nữa.

- Tôi đồng ý với đồng chí. Nhưng tôi cho khả năng Hoàng Quý Nhân còn sống là mạnh, thậm chí rất quạnh. Một tên như y vừa cơ hội vừa thực dụng chưa chịu chết khi tình thế còn cho phép y lẩn trốn. Lá thư của Hứa Vĩnh Thanh là sự thực. Nếu ta coi đó là giả thì cái giả đó chẳng để làm gì, đánh lừa ai? Lừa ta hay con gái ông ta? Chỉ có một điều e ngại duy nhất là N5 không đọc được trực tiếp lá thư. Lá thư cũng không nói rõ tên Nhân. Sợ người dịch có sai sót mà N5 đoán sai ý tứ của lá thư thôi. Vì vậy tôi vẫn để đồng chí chứng minh thêm cái chết của Nhân.

- Vụ "Vie du Château” hồi đó tôi làm không được kỹ - Hai Bền thừa nhận - Nó xảy ra đúng vào ngày giải phóng Sài Gòn thành ra tâm trí tôi bị lôi cuốn vào nhiều vấn đề quá. Không ngờ bây giờ lại phải quay lại nó.

- Cũng may mà chúng ta còn sớm biết đường quay lại. Mới bảy tám tháng trời dù sao cũng còn nhiều cái chưa phai mờ hẳn. Bây giờ ta có thể phác thảo ra mấy nét cho chiến dịch này. Thứ nhất: Phong tỏa Hứa Vĩnh Thanh. Thư từ trong và ngoài nước. Người ra vào nhà ông ta hàng ngày phải được theo dõi. Chụp ảnh tất cả những người đàn ông trên hai mươi tuổi xem Nhân có xuất hiện không. Ta không có ảnh y nên phải làm như vậy. Chỉ mình đồng chí biết mặt nó nhưng không thể để đồng chí đi làm việc theo dõi được. Chưa có lệnh tôi tuyệt đối không đánh động tới ông Hứa Vĩnh Thanh. Ông ta còn là đối tượng của chúng ta ở một bình diện khác. Thứ hai: Phải tìm xem trong số những người làm việc với Nhân ở "Vie du Château” có ai còn lại không. Khai quật cái xác chết cháy xem xương có bị vết gì không, hóa nghiệm đất, nước nơi mai táng. Thứ ba: Tìm người đàn bà độ hai mươi bốn tuổi xinh đẹp có đứa còn gái nhỏ dị tật ở mắt phải, chồng là Bảy Dĩ di tản ngày 16 tháng 10 năm 1975. Lập hồ sơ riêng về Bảy Dĩ. Dựa trên những nội dung đó đồng chí làm một kế hoạch cụ thể để bộ chỉ huy thông qua vào giờ này ngày mai.

- Dạ, tôi sẽ làm ngay.

Trung tá Nguyễn Văn Bền thu các thứ vào tập hồ sơ X 472 rồi xin phép ra về.

Chiến dịch truy tìm tung tích Hoàng Quý Nhân được tiến hành ngay tức khắc sau khi có sự chấp nhận của bộ chỉ huy.

Khi công việc “phong tỏa" ngôi nhà của Hứa Vĩnh Thanh ở Chợ Lớn được thực hiện thì nhà tư bản ngưởi Hoa này hình như đã biến mất khỏi địa bàn. Tòa lâu đài đồ sộ năm tầng vẫn sáng ánh đèn, vẫn có người ra vào bình thường nhưng không thấy ông chủ xuất hiện. Trinh sát viên tìm cách dò la tin tức mấy cô gái làm công trong nhà nhưng họ đều nhận được một câu trả lời gần như thống nhất "không piếc, không piếc". Họ chụp được một số ảnh nhưng khỉ soát lại thì đó chỉ là những khách buôn quen thuộc. Tấm ảnh Hoàng Quý Nhân lấy từ hồ sơ lưu trữ sĩ quan cảnh sát chụp năm 1958 phóng ra trông rất trẻ. Khó mà so sảnh nổi với con rắn đã lột xác lần thứ hai. Trong các cuộc báo cáo giao ban, tin tức ở hướng này thật nghèo nàn, kém hấp dẫn.

- Hứa Vĩnh Thanh đi đâu? Di tản ra nước ngoài hay lánh mặt tới một địa điểm khác? Ta phải trả lời câu hỏi gián tiếp này trước đã - Đại tá Nguyễn Hữu Đức nêu vấn đề.

- Ta có thể phối hợp với bên công an cho kiểm tra hộ khẩu cả khu phố trong đó có nhà ông Thanh - Một ý kiến đề nghị.

- Mục tiêu số một của ta là Nhân. Bất cứ một hành động khác thường nào của chúng ta ở khu vực Hứa Vĩnh Thanh đều làm cho Nhân lỉnh xa cái bẫy duy nhất của ta.

- Tại sao ta lại phải kiêng nể biện pháp hành chính. Ta có thể cho lệnh bắt và hỏi cung chính ông ta về thắng tích của Nhân. Một trận đánh chớp nhoáng sẽ không cho phép Nhân kịp trở tay!

Mọi người bật cười về đề án tốc chiến tốc quyết đó. Đại tá Nguyễn Hữu Đức tỏ ra thận trọng hơn.

- Ta chẳng có lý do gì để bắt Hứa Vĩnh Thanh. Nên nhớ rằng ông ta còn là đối tượng theo dõi của chúng ta ở một bình diện khác. Dĩ nhiên ta có thể mời ông ta đến hỏi chuyện. Ta hãy nêu ra hai giả thuyết đối lập. Nếu ông Thanh trả lời có thấy Nhân xuất hiện thì giá trị của lời khai là khẳng định lại điều ta đã biết qua lá thư. Không chắc gì ông ta đã biết sào huyệt hiện tại của Nhân. Nến biết chưa chắc ông ta đã nói vì ông ta biết rõ điều gì sẽ xảy ra với con rể ông ta. Còn nếu Hứa Vĩnh Thanh trả lời là không gặp thì ta cũng không có lá thư của ông ta ở đây làm đối chứng. Nếu ta nói đã đọc được bức thư ở một nơi khác thì có khác gì ta thông báo cho ông ta vùng hoạt động của N5 để địch khoanh vùng bủa lưới. Sau cuộc nói chuyện ta phải để cho ông ta về nhà thì mục tiêu chiến dịch X 472 bị bại lộ. Hoàng Quý Nhân sẽ biết cách đối phó. Đó là chưa nói đến chuyện ngay lúc này ta cũng chưa biết ông ta nằm đâu mà đưa giấy mời!

Quyết định của bộ chỉ huy là tiếp tục “phong tỏa" địa bàn cũ.

Mục tiêu thứ hai là khai quật xác chết được coi là của Hoàng Quý Nhân. Tổ kỹ thuật của Phòng giám định pháp y đã có một báo cáo khá đầy đủ. Xác chết cháy nhiều đoạn làm xương bị hủy hoại. Không có dấu vết của đạn hoặc bất cứ sự gịâp gãy nào. Hội đồng xét nghiệm khẳng định nạn nhân bị đầu độc hoặc tự sát bằng một hóa chất độc cực mạnh mà ta chưa từng gặp. Kỹ thuật hiện có chưa xác định được công thức của nó. Mặc dù bị thiêu cháy và chôn dưới đất qua một mùa mưa, các độc tố cũng chưa phân hủy hết. Chiết suất chất đó từ nước trong quan tài đem thí nghiệm với chuột bằng đường tiêu hóa chuột chết trong vòng năm phút, bằng đường máu chuột chết trong vòng hai phút. Vô hại đối với đường hô hấp ở nồng độ hiện tại.

Đại tá Nguyễn Hữu Đức nhận xét:

- Sự việc trên cho ta một tia sáng nho nhỏ. Nếu nạn nhân tự tử bằng thuốc độc thì không cần thiết phải tự thiêu. Với liều lượng đó không cho phép kẻ tự sát tiến hành hỏa táng. Nếu y định tìm cái chết thì việc gì y phải thu dọn các dấu vết tội ác kỹ lưỡng như vậy. Theo tôi nạn nhân là kẻ bị đầu độc để làm hình nhân thế mạng cho tên tội phạm. Khả năng Hoàng Quý Nhân còn sống mạnh lên nhiều.

Tất cả những tin tức thu được hầu như cũng chỉ bổ trợ cho quyết tâm của các cán bộ phản gián mà thôi. Nhịp độ truy lùng thực sự bị chùng lại.

Mục tiêu thứ ba có một chút liên hệ đến hồ sơ X 472 là công việc điều tra lai lịch của Bảy Dĩ.

Trung tá Nguyễn Văn Bền đã phải liên hệ với cơ quan an ninh và hộ khẩu ở tất cả các quận trong thành phố xin bản danh sách những người trốn đi nước ngoài trong tháng 7. Anh lựa được hai người tên là Dĩ. Người có cô vợ xinh đẹp và đứa con gái dị tật ở mắt trái nguyên sống ở ngôi nhà 48- 2/5B phố Trần Hưng Đạo. Hai Bền đã đến gặp chị vợ của Dĩ để hỏi han tình hình. Cũng may có lá đơn của một người kiện Dĩ về tội lừa đảo ba lạng vàng. Người mất của yêu cầu nhà chức trách can thiệp để vợ anh ta phải bồi hoàn số tiền này.

Anh Hai mặc thường phục đứng trước ngôi nhà ba tầng năm hơi hụt sâu vào phía trong vỉa hè. Một chiếc cổng lớn đủ để lọt những xe tải hạng nặng, đóng kín. Hai Bền bấm chuông. Con chó béc-giê to lớn chồm lên sủa hai tiếng. Nửa phút sau có tiếng hỏi từ bên trong.

- Ai hỏi chi đó?

- Tôi muốn được gặp bà Lê Văn Dĩ.

- Xin lỗi ông là ai?

- Dạ, tôi là Hai Bền cán bộ của cơ quan kiểm sát quận. Tôi cần gặp bà Dĩ có chút việc.

- Tiếng dây xích rồi tiếng khóa lạch sạch. Một cánh cửa nhỏ khoét trong cánh lớn hé mở.

- Xin mời ông vào.

Hai Bền theo người đàn bà vào phòng khách. Chị ta mời anh ngồi rồi xin phép vào nhà trong ít phút. Anh liếc nhìn căn phòng khách khá rộng có treo những bức tranh phiên bản lớn của các danh họa châu Âu, những chao đèn sang trọng. Một chiếc tủ kính bày toàn bật lửa. Hàng trăm thứ bật lửa đủ kiểu, loại, từ chiếc bùi nhùi và hòn đá đến những thứ tân kỳ lạ mắt với những đường trang trí chạm gọt độc đáo... Năm phút sau người đàn bà đi xuống với chiếc áo dài lộng lẫy. Chị ta vừa thay đổi trang phục và tô điểm lại. Đó là một thiến phụ trạc hai nhăm tuổi xinh đẹp, mảnh mai với cặp mắt hơi buồn. Theo sau chị ta là người hầu gái bê chiếc khay đặt hai cốc đá. Thiếu phụ mở tủ lấy chai Chablis đặt xuống bàn.

- Ông dùng được thứ này chứ ạ?

- Xin lỗi, cho tôi uống nước lạnh thôi. Tôi dùng được mọi thứ rượu nhưng không bao giờ uống trong lúc thi hành nhiệm vụ.

- Quý ông chặt chẽ quá. Thứ này nhẹ thôi, vang vùng Bonrgogne mà. Quý ông không thể ban cho tôi một ngoại lệ được ạ? Hay ông dùng chút cà phê. Thứ đó không nguy hại gì đến sự minh mẫn.

- Vâng, xin cảm ơn chị.

Chị ta lắc chuông gọi cô giúp việc.

- Cho hai cà phê, em.

Chị quay lại phía khách.

- Dạ thưa ông, chẳng hay có công chuyện chi mà nhà chức trách cần gặp tôi?

- Có đơn kiện ông Dĩ lừa đảo một số vàng. Họ yêu cầu luật pháp buộc gia đình ông Dĩ phải bồi hoàn.

- Lê Văn Dĩ là chồng tôi, nhưng nay ảnh đã di tản đi quốc ngoại. Người gây tội phải chịu tội chứ chúng tôi đâu biết chuyện ai đã đưa tiền bạc cho chồng tôi mà bắt tôi bồi hoàn.

- Có gì chắc chắn là ông Dĩ đã trốn ra nước ngoài?

- Chồng tôi biệt tăm từ ngay 16 tháng 10 năm 1975.

- Chị có biết chuyện di tản đó không? Tôi muốn hỏi anh ta đã nói gì với chị trước lúc ra đi. Chẳng lẽ có hai vợ chồng với một đứa con lại chia đôi người đi kẻ ở.

Thiếu phụ cúi xuống rơm rớm nước mắt.

- Thưa ông, đúng là vợ chồng chúng tôi cũng đã bàn bạc với nhau sẽ ra đi. Anh ấy nói với tôi rằng anh chỉ có thể kiếm sống bằng buôn bán. Nay cách mạng về, xuất nhập khẩu nhà nước độc quyền không sao sống nổi. Chỉ có cách ra đi.

- Thế tại sao bữa ra đi anh ấy không mang hai má con theo?

- Dạ có đấy. Anh biểu tôi thu xếp tiền bạc, những gì quý và nhẹ thì mang theo, còn thì bỏ tất. Đến phương trời khác anh xây lại từ đầu. Tôi nhìn lại nhà cửa, đồ đạc, cái gì cũng thân thích với mình. Lao vào cuộc ruit may mới, biết có gặp điều tốt lành hay lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Sáng 15 tháng 10 anh nói đã kiếm được thuyền máy. Anh Trương Tấn Hào, đại úy hải quân vốn là bạn cũ của ảnh sẽ điều hành cuộc vượt biển. Có mười hai người nữa cũng chờ ở tiệm ăn Liên Hương. Những người này giao tiền bạc cho ảnh nhờ chuyển cho thuyền trưởng. Anh lấy xe ra đi cùng một người đàn ông to lớn theo sát bên anh từ sớm. Khách đi thuyền yên tâm chờ vì vợ con anh cùng vợ và bốn con của thuyền trưởng còn ngồi cả đấy. Chờ mãi, suốt đêm bọn tôi không ngủ được. Nhiều người khóc dở mếu dở. Sáng hôm sau họ quay lại đòi tiền tôi, nhưng tôi đâu có nhận tiền bạc chi của họ. Tôi còn ngồi đây chứ đi được đâu. Chúng tôi thuê xe về Sài Gòn và đoán là mấy người đàn ông và ghe máy bị an ninh bắt.

- Thế là bặt tin từ bữa ấy?

- Dạ, ba bữa sau tôi nhận được lá thư gửi qua bưu điện - Chị đứng dậy mở ngăn lấy lá thư đưa cho anh Hai Bền. Lá thư viết.

“Khánh Chi thương yêu.

Anh bị ba người đàn ông cưỡng bức ra đi không cho quay lại đón gia đình. Bọn anh van nài cũng không nổi vì chuyến đi đã bị lộ. Anh chỉ được phép việt về vài chữ cho em yên tâm. Tìm được chỗ làm ăn anh sẽ tin về để em tìm đường đi chuyến sau vậy. Em giúp cho chị Hào ba cây. Tội quá mấy má con chẳng còn chỗ nương tưa. Anh Hào cũng không ngờ tình thế đổ bể như vậy. Bọn anh cũng phải liều mạng thôi".

“Thương em và con nhiều"

“Dĩ”

[/i]

Hai Bền có hỏi thêm về quan hệ bạn bè của Bảy Dĩ, nhưng những điều khai của Khánh Chi không có gì quan trọng. Cuối cùng anh nói với người đàn bà này:

- Chúng tôi cần giữ lá thư này để chứng tỏ Lê Văn Dĩ bị bắt buộc ra đi theo một tổ chức di tản chứ không phải anh ấy có ý định lừa đảo.

- Xin cảm ơn quý ông.

Chiến dịch X 472 chẳng những không tiến lên mà hình như bị đẩy lùi lại. Tin mới nhất cho hay Hứa Vĩnh Thanh và đứa con trai út đã biến mất. Ngôi nhà năm tầng đèn điện sáng trưng đó chỉ còn có một bà già, vợ cả của Hứa và mấy cô hầu gái. Sự dò lỏi tin tức cho biết là Hứa đã vắng mặt từ ba tháng nay. Lão đi đâu thì không ai biết. Người đoán lão vượt biển, người nói lão ra Hà Nội tìm họ hàng, và cũng có người nghi Hứa Vĩnh Thanh lẩn trốn ở một địa điểm nào đó vì lão chưa thể thu xếp được tài sản khổng lồ khắp thành phố này. Trong cái khu đông đúc phức tạp ở Chợ Lớn, đối với cách mạng nhiều "lãnh địa" chưa tràn vào nổi.

Nguyễn Văn Bền không phút nào được thanh thản. Sự bế tắc nhiều lúc làm anh nóng nảy. Anh muốn tiến hành một cuộc truy nã công khai, xét hỏi hàng loạt để tìm ra một hưởng đi nhanh chóng, nhưng không có một tổ chức nào được gọi là Phòng nghiên cứu hay khảo nghiệm về thẩm vấn hình sự do Hoàng Quý Nhân điều khiển. Vì vậy Hai Bền chưa tìm ra được danh sách nhân viên của nó. Anh cũng tìm đến trại cải tạo gặp nhiều sĩ quan cảnh sát cấp tá hỏi về tổ chức của Nhân ở Vie du Château nhưng không ai hay biết về cái phòng thí nghiệm kỳ quặc đó. Có thể đây đơn thuần chỉ là một trung tâm nghiên cứu tư nhân do một tổ chức bí mật, một ông bự nào đó bảo trợ, đài thọ về tài chính, chứ không phải của quốc gia. Các sĩ quan không có nhiệm vụ không được phép biết. Có lẽ phải đi thăm hỏi những người quanh khu vực tòa biệt thự. Biết đâu chẳng có người quen mặt nhưng nhân viên trước đây.

Hai Bền mặc bộ thường phục lấy xe máy lượn qua phía biệt thự Vie du Châteu. Anh thấy cánh cổng, tường bao mới sơn quét lại. Một tấm biển lởn đề "Trường mẫu giáo Chim non". Ôi, tại sao Quận lại lấy ngôi nhà này làm trường mẫu giáo nhỉ. Họ không biết được trước đây là địa ngục sao. Trong các căn buồng chỗ nào cũng thấm máu những người cách mạng, cũng có hóa chất độc. Công việc tẩy uế xét nghiệm đã đảm bảo chưa mà để trẻ nhỏ vào đấy. Anh định phóng xe về Quận góp ý kiến với các đồng chí lãnh đạo nhưng lại thấy ngài ngại. Anh sẽ phải gặp cô Năm Ngân.

Năm Ngân là báo vụ viên của A59 trước đây, dưới quyền chỉ huy của anh. Trong suốt hai mươi năm công tác, chị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Khi giải phóng Sài Gòn, nhu cầu cán bộ cơ sở rất lớn, tổ chức quyết định cho chị chuyển ngành. Hai Bền lại muốn giữ chị lại, chị phản ứng, cuối cùng chị vẫn được chuyển ra. Khi thấy phần nhận xét trong hồ sơ lý lịch của mình anh Hai đề "chưa quen công tác lãnh đạo, công tác vận động quần chúng”, thì chị càng giận anh. Giờ đây Năm Ngân đã là Phó chủ tịch Quận, phụ trách vấn đề an ninh xã hội, phụ vận, Hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em... Công tác lãnh đạo, công tác vận động quần chúng chị đều làm tốt, trái với nhận xét của anh. Nhiều lần Hai Bền định đến thăm cô để "làm lành" nhưng công việc cứ cuốn anh đi. Nay có việc anh phải đến, ngượng cũng phải đến, âu cũng là dịp tốt để cô Năm thông cảm cho anh.

Khi Hai Bền đến trước phòng làm việc của Phó chủ tịch thì cánh cửa đóng. Anh hỏi thăm, cô thư ký đánh máy vui vẻ trả lời:

- Bữa nay cô Năm xuống phường, chiều họp quận ủy. Chú cần chi để cháu ghi vô chương trình làm việc của cô.

- Tôi đến thăm cô Năm thôi. Tôi là Hai Bền bạn cũ của cô Năm mà.

- Sao chú không lại nhà riêng?

- Ở dưới Bàn Cờ?

- Dạ không. Quận mới xếp cô Năm ở 196/35-2 Phan Châu Trinh. Tối nay mời chú lại, con sẽ thưa trước với cô. Cô con sống một mình buồn hiu, cứ nhủ bọn con lại chơi hoài. Tối nay nhé, con biểu cô con chờ.

- Cảm ơn cháu.

Đúng tám giờ Hai Bền phóng xe đến Phan Châu Trinh. Anh bấm chuông, cánh cửa mở. Năm Ngân xuất hiện trong bộ đồ mầu thiên thanh. Anh cảm thấy một cái gì nồng ấm tỏa ra từ người đồng chí từ gần nửa năm nay anh mới gặp lại.

- Mời anh Hai vô nhà.

Hai người ngồi đối diện nhau qua một cái bàn nhỏ.

- Nhà cô Năm đẹp quá!

- Nhà cơ quan đó. Anh em xếp em ở tạm cho gần nơi làm việc. Sống ở Bàn Cờ với cô bác thì vui hơn nhưng xa.

- Ở đây có mình cô Năm thôi à?

- Dạ! - Năm Ngân cười - Bạn với con mèo và chú vẹt Lora. Còn anh bây giờ ở đâu? Có nhà riêng chưa?

- Nhà riêng làm gì, một thân một mình! - Anh thở dài.

Năm Ngân nghiêm trang chuyển hướng câu chuyện:

- Anh Hai đến thăm em hay có công chuyện chi nữa đấy?

- Thăm cô Năm là chính, đồng thời cũng có một chút việc. Sáng nay tôi đi qua biệt thự Vie du Château thấy vừa trương lên tấm biển lớn "Trường Mẫu giáo Chim non". Cô Năm có biết ngôi nhà đó trước đây là cái gì không?

- Ngân nghe nói trước đây ngôi nhà thuộc sở hữu của một tên đại tá cảnh sát ngụy. Nó đã bỏ chạy ra nước ngoài.

- Điều đó thì không quan trọng. Cái chính là nó dùng làm nơi thí nghiệm tra tấn các cán bộ cách mạng bằng những phương pháp dã man nhất. Ở tầng dưới chúng tàng trữ nhiều loại thuốc độc hệ thần kinh, tiêu hoá và hô hấp rất nguy hiểm. Đêm 29 tháng 4 chúng đã đốt đi để phi tang tội ác nhưng khi tôi vào đấy nhiều thứ cháy chưa hết kể cả xác người. Nay ta định làm nhà trẻ thì công việc vệ sinh tẩy uế tiến hành ra sao cô Năm phải cho kiểm tra rất nghiêm ngặt.

- Cảm ơn anh Hai, anh nói em mới biết. Mai em sẽ bàn nhờ y tế xét nghiệm thiệt cẩn thận từng lầu từng buồng rồi mới khai trương.

- Đối tượng tuyển lựa giáo viên và học sinh như thế nào?

Năm Ngân cười:

- Anh Hai định xin cho chị Hai vào công tác hay cho cháu vào học?

- Trời, cô Năm cứ giỡn hoài. Bộ tôi thì có ai thương mà có chị Hai với con cái. Tôi hỏi là vì nhiệm vụ thiệt đó.

- Dạ, đây là nhà trẻ của phường nên các cô bảo mẫu cũng tuyển chủ yếu trong phường. Các cháu cũng thuộc trước hết là con em cán bộ và nhân dân lao động trong phường.

- Tôi muốn cô Năm hỏi giúp xem có cô giáo nào hoặc phụ huynh học sinh nào quen biết hoặc nhận mặt được một vài người đã làm việc ở biệt thự này trước ngày giải phóng mà nay vẫn còn ở lại đây không?

- Em sẽ giới thiệu anh Hai xuống gặp mấy cô giáo dưới đó. Bọn nó liên hệ với phụ huynh nhiều nên may ra có cơ hội giúp được anh Hai.

- Tôi muốn cô Năm làm trực tiếp thì nó kín đáo hơn. Cô Năm có thể nói lý do là hồ sơ ngôi nhà bị mất nên hy vọng những người cũ họ có biết gì thì họ chỉ bảo cho, kẻo đến lúc hỏng điện, hỏng nước không biết đường tu sửa.

- Em lo là mình chưa có kinh nghiệm công tác lãnh đạo, công tác quần chúng thì đâu có làm nổi việc đó mà dám nhận với anh Hai - Năm Ngân nhắc lại chuyện cũ với một vẻ châm chọc nhẹ nhàng.

- Trời, cô Năm "thù dai" tôi quá đó. Nếu nhận xét của tôi trước đây về cô Năm có sai lầm thì tôi xin lỗi, đừng giận tôi nghen.

- Em đâu có "thù” anh Hai. Em muốn anh Hai cũng phải làm quen với công tác quần chúng. Dưới đó có mấy con nhỏ dễ thương lắm. Biết đâu một công lại được đôi việc!

- Ôi, tôi đáng tuổi nội tuổi ngoại mấy con nhỏ đó mà cô Năm lại nói vậy thì nguy hiểm quá xá.

- Bây giờ đàn ông lấy vợ trẻ nhiều chớ. Nghe có một ông nhà văn đàng mình vừa bỏ vợ Hà Nội, vô đây lấy một cô hai ba tuổi làm chấn động dư luận.

- Bọn vô đạo đức đó thì kể chi. Cô Năm có thương tôi thì hãy làm mai cho tôi bà nào chừng bốn chục đó.

Câu nói của Hai Bền bỗng làm cho mặt cô Năm đỏ chín. Cô đành chịu lui:

- Nói giỡn vậy thôi chứ em sẽ giúp anh chuyện đó. Cùng nghề nghiệp với nhau mấy chục năm, anh nhờ có một việc đâu dám từ chối, phải không anh Hai.

- Cảm ơn cô Năm nhiều lắm. Xin phép cô Năm tôi về. Có điều chi cô Năm điện thoại cho tôi nghen.

- Dạ.

Hai Bền đứng dậy cúi chào người bạn gái rất trân trọng. Ra đến cửa anh còn quay lại chào lần nữa.

- Bộ anh Hai định không đến đây nữa sao mà chào hoài vậy - Chị Năm cười.

- Có chớ, công chuyện mới bắt đầu mà.

Khi anh đi rồi, chị Năm còn trông theo anh mãi. Hơn hai mươi năm công tác trong một tổ mà chằng để ý chi đến nỗi lòng của người bạn gái. Anh cứ giao việc cho chị như một cái máy. Anh say mê công việc, dồn hết tâm lực đối phó vời kẻ thù đến mức không kịp nghĩ đến mình. Anh trở nên khô khan, đôi lúc nóng nảy như lửa rồi lại quay sang trạng thái sắc lạnh như lưỡi gươm. Thực lòng Năm Ngân đã yêu anh. Thời còn trẻ chị là một cô gái xinh đẹp. Đã có nhiều chàng trai ướm hỏi nhưng chị phải cố tình xa lánh. Chị cũng nghĩ đến tình yêu đến hạnh phúc nhưng công việc của một điệp viên thu phát vô tuyến trong lòng địch không cho phép chị quan hệ rộng rãi được. Chị phải đóng cửa tâm hồn và năm tháng cứ qua đi. Mỗi lần gặp chị trong vài phút ngắn ngủi, Hai Bền chỉ nói đến nhiệm vụ, đến tình hình thế giới, trong nước và vài câu động viên chính trị chung chung rồi lại ra đi như một cái bóng. Lúc anh bị bắt, chị đau đớn lo lắng cho anh. Đôi mắt chị nhiều đêm đẫm lệ. Khi anh ra tù chị kể lể lại nỗi lòng mình nhưng anh không hiểu nổi. Anh lại "phê" chị là "yếu đuối tiểu tư sản". Thậm chí có lúc anh còn giáo dục chị: “Có người chịu đựng dược mọi khó khăn gian khổ, thậm chí bị tù dầy tra tấn cũng không khuất phục. Nhưng chính con người đó thấy tổ chức tạm thời bị thiệt hại, đồng đội bị hy sinh lại hoảng hốt dao động! Tại sao vậy? Đó là do họ không vượt qua được nhưng thử thách về tinh thần"! Kể ra anh nói cũng có điều đúng nhưng để ám chỉ nỗi lo âu của chị đối với anh thì thật là lạc đề, thật vô nghĩa. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng anh cũng vẫn sống với tác phong của những ngày chiến tranh, dồn hết tâm trí cho nhiệm vụ chung. Bốn mươi nhăm tuổi, chưa một lần được nhấp li rượu ngọt ngào êm dịu của tình yêu. Cuộc gặp lại người bạn gái hôm nay lòng anh bỗng như mềm lại. Anh cảm nhận thấy cái hơi men say đắm đó, cái hơi men mà anh chưa từng thấy được ở ai, ở một nơi nào. Giống như một hạt cây, mầm sống nằm ngủ quên trong lớp vỏ cứng khô nhiều năm tháng. Rồi bỗng một cơ may nào đó, hạt gặp mưa xuân ấm áp, lớp vỏ mềm đi, tách ra, xôn xao lòng đất. Mầm cây cựa quậy vươn lên đón ánh mặt trời. Chính Năm Ngân bữa nay cũng nhận ra điều mới lạ ở "người đàn ông có trái tim đá" này. Nỗi hờn giận của chị cũng vơi đi, chị bỗng thấy thương anh hơn. Chị nhìn theo cho tới lúc chiếc Honđa mất hút trong phố vắng.

Một tuần sau Hai Bền nghe tiếng tiếng Năm Ngân trong máy điện thoại:

- Anh Hai đó à?

- Dạ, Bền đây, chào cô Năm! Khỏe chớ?

- Vẫn bình thường anh Hai à. Tối nay anh Hai lại chỗ Ngân nghẹn. Ngân đã tìm được cô mẫu giáo anh Hai muốn gặp đó!(Tiếng chị cười vui vẻ trong ống nghe).

- Trời ơi, cứ giỡn hoài. Bao giờ tôi đến?

- Sáu giờ! Cắt cơm tập thể đi, đến đây em chiêu đãi đó. Chịu không?

- Chịu chớ?

Anh Hai Bền một lúc lại liếc đồng hồ. Anh sốt một muốn biết tình hình một phần, phần muốn được gặp Năm Ngân cùng thôi thúc anh không kém. Và anh đã đến sớm năm phút vì lo cơn mưa chiều ập tới.

Chị đã đứng đón sẵn, mở cửa, giúp anh đẩy xe máy vào vườn. Chị cũng bị lây cái lúng túng của anh, gương mặt hai người đều đỏ bừng. Hóa ra không phải chỉ anh muốn đến sớm mà chị cũng mong anh từng phút.

- Con nhỏ đến chưa?

- Chưa kịp ngồi đã hỏi con nhỏ liền! - Năm Ngân mỉm cười liếc Hai Bền rất tế nhị.

- Tại cô Năm gọi điện cho tôi...

- Em giỡn anh thôi chứ chẳng có con nhỏ nào đâu mà mong. Em đã hỏi chuyện người thợ già sửa chữa ngôi nhà. Hồi ngụy cũng đã có lần ổng đến quét vôi ở đây ông cho biết một người tên là Hoàn, bác sĩ đeo kiếng trắng, cao, ốm, đã từng làm việc nhiều năm ở ngôi nhà này. Không biết nhà ông ở đâu. Nhưng hiện nay ông xin vào làm việc ở nhà thương Saint Mathieu. Đấy là tất cả những gì người thợ nề biết được.

Anh Hai Bền ghi tất cả vào sổ tay.

- Cảm ơn cô Năm. Xin cô Năm giữ kín cho chuyện này. Chỉ một mẩu tin nhỏ thôi đủ vạch cho tôi một hướng đi.

Năm Ngân cười:

- Anh thấy em xa lạ với anh lắm sao? Xưa kia mỗi lần đưa những bức mật điện quan trọng và đầy nguy hiểm cho em có bao giờ anh Hai phải dặn em "giữ kín" đâu?

- Xin lỗi, có một sự khác nhau nào đó về quan hệ hiện tại làm cho người ta dễ quên quá khứ. Trước cô Năm là đội viên của tôi thì cô Năm phải thuộc những nguyên tắc của tôi. Còn giờ đây cô Năm là Phó Chủ tịch quận tôi phải đề nghị chứ.

- Có anh hay quên thôi, chứ em, em chẳng quên gì.

Hai người bỗng trở nên yên lặng. Họ đều phải suy nghĩ về những câu nói của nhau.

- Chắc anh Hai đói bụng rồi, em dọn cơm nhé.

- Có phải làm gì để tôi vào bếp cùng làm cho vui.

- Dạ xong rồi. Em chỉ làm mấy món anh Hai thích ăn thôi.

Vài phút sau chị bưng mâm cơm lên. Một đĩa tôm chiên. Bát canh cá lóc nấu chua, thịt gà rán và đĩa rau sống. Chị đặt xị rượu đế và cái li đá về phía Hai Bền, rót và mời anh.

- Em chúc sức khỏe anh Hai!

- Dạ, tôi cầu chúc cô Năm hạnh phúc.

- Thứ này em biết anh Hai ít xài, nhưng bứa nay vui, em cũng mua vài li.

- Khi vui tôi đâu có cần thứ này. Ở cờ quan đôi khi anh em cũng rủ nhậu vui nhưng ít khi tôi tham gia. Khi buồn, một mình lại hay uống.

- Em nhớ hồi chiến đấu gian nguy có khi nào em thấy anh Hai buồn đâu?

- Đúng thế. Đau đớn, lo lắng thì có, nhưng buồn thì không. Không có thì giờ để buồn. Bây giờ được hoà bình, thống nhất, có đôi chút thì giờ nghĩ đến cái riêng thì lại thấy buồn buồn - Anh thở dài.

Năm Ngân ăn rất ít. Chị gắp thức ăn cho anh, chờ đón bát xới cơm cho anh. Hai Bền ăn chậm chạp vừa ăn vừa suy nghĩ như để nhấm nháp, thưởng thức cái phút giây hạnh phúc chưa từng gặp trong đời.

- Anh ăn ngon miệng không?

- Ngon chớ. Thiệt ngon đó cô Năm à. Cô Năm nấu giỏi lắm. Ăn cơm cô Năm nấu tôi mời cảm thấy mình thực sự được sống cho mình.

Năm Ngân cảm động, chị mân mê tà áo. Ít phút sau chị mới nói:

- Nếu anh Hai muốn thì thỉnh thoảng lại đây em nấu anh Hai ăn. Em ăn một mình cũng buồn hiu đó.

- Thiệt chớ? - Hai Bền nhìn Năm Ngân như bốc lửa - Tôi muốn được ăn chung, được... ở chung bên cô Năm mãi mãi…

Mặt Năm Ngân đỏ bừng lên, chị sung sướng về câu nói mộc mạc thiết tha từ đáy lòng một con người mà lâu nay chị vẫn tưởng trái tim anh đã trở thành băng giá.

- Anh Hai say rồi đó?

- Không đâu. Ba cái li rượu đế này đâu quật đổ được tôi. Tôi tỉnh lắm. Tôi nói thiệt lòng đó, cô Năm có ưng không?

Năm Ngân nhìn anh mỉm cười rồi lắc đầu:

- Muộn rồi!

- Sao?

- Có một người khác hứa đến ở chung với em rồi.

- Ai thế?

- Bảy Kiểm bên Thành ủy. Sao anh không nói trước điều này với em?

- Trời! Suốt hai mươi năm trời công tác bên nhau, tôi thương yêu cô Năm mà cô Năm chẳng hiểu lòng tôi. Thế mà cha Bảy nào đó từ trên xanh về hay từ Hà Nội vô mới có ít bữa đã chiếm được trái tim cô Năm. Tôi thiệt vô duyên hết chỗ... - Anh buông bát đũa đứng dậy, nét mặt thất vọng, đau khổ.

Năm Ngân ôm mặt cười:

- Anh hai chưa nghe hết câu chuyện đã vội trách Ngân. Bảy Kiểm là bạn gái thôi mà.

- Là bạn gái? Ôi thế thì đâu có muộn! - Hai Bền quỳ xuống chân Năm Ngân, ôm ngang người chị làm cho chị luống cuống, mặt đỏ bừng, chân tay tê dại.

- Đứng dậy đi anh, đứng làm thế... em sợ. Hai Bền áp mặt vào đôi bàn tay liềm mại của chị. Năm Ngân cảm thấy những giọt nước mắt nóng ấm của anh trào ra. Những giọt nước hiếm hoi lần đầu tiên chị thấy. Ngay cả những trận đòn ác hiểm trong tù ngục kẻ thù cũng không thổ tìm thấy một giọt nước trong đôi mắt ráo hoảnh như bốc lửa của anh.

- Người gì mà kỳ cục thế? Mấy chục năm không hề nói một câu. Nay vừa nói thì đã như mưa như gió.

- Tôi muốn đòi lại thời gian đã mất. Tôi yêu Ngân!

Năm Ngân không nói gì, nhưng chị sung sướng, lặng lẽ đón nhận tình yêu của anh bằng một cử chỉ dịu dàng. Chị nép mình trong vòng tay anh.

Chỉ có tiếng gió đùa trên tán lá, mấy ngôi sao thức dậy sau cơn mưa, những bông hồng tỏa hương thầm trong bóng đêm, đôi mắt vốn tò mò của con vẹt Lora đang khép lại, mơ màng...

Tình yêu đến muộn nhưng vẫn lấp lánh sắc màu như ánh sáng chiếu qua tấm lăng kính thuần khiết.

Nguồn tin của người thợ nề cung cấp về viên bác sĩ đã từng làm việc dưới quyền Hoàng Quý Nhân làm cho niềm lạc quan trong hội nghị giao ban của Trung tâm phản gián tăng lên đôi chút. Đại tá Nguyễn Hữu Đức quyết định điều tra trực tiếp viên chức này. Ông chỉ thị cho trung tá Nguyễn Văn Bền phối hợp với bên Công an thành phố tiến hành cuộc thẩm vấn. Địa điểm được bố trí tại phòng làm việc của ông Phó giám đốc bệnh viện Saint Mathieu.

Kế hoạch được thực hiện ngay. Một buổi sáng dự thẩm viên đến chờ sẵn tại phòng Giám đốc bệnh viện. Bác sĩ Hà Quang Hoàn được mời lên bàn công tác. Đại tá Đức và trung tá Bền không trực tiếp tham gia cuộc thẩm vấn nhưng đều quan sát được diễn biến qua một ca-mê-ra truyền hình đạt khéo léo trong phòng Giám đốc.

- Đúng tám giờ mười lăm phút, một người cao gày, má hóp, mày rậm, mắt sâu, râu quai nón cạo nhẵn... bước vào, cúi chào ông Phó Giám đốc một cách lễ phép. Ông phó giám đốc đứng lên giới thiệu:

- Đây là ông dự thẩm của Sở Công an thành phố. Ông dự thẩm muốn hỏi bác sĩ Hoàn một số việc ông Hoàn hãy trả lời nhà chức trách những gì ông biết.

Nói xong ông Phó Giám đốc đi ra khỏi căn phòng. Nét mặt viên bác sĩ tái xám đi. Ông ta xúc động mạnh.

- Mời ông ngồi. Chúng tôi có một số việc cần ông làm sáng tỏ. Ông hãy bình tĩnh và coi đây là một cuộc nói chuyện thông thường. Chúng tôi cần ở ông sự chân thực và minh mẫn vì công việc này có liên quan đến an ninh quốc gia.

- Dạ thưa quý ông, tôi xin trả lời những điều gì tôi biết - Giọng nói của ông ta run run, dáng điệu lóng ngóng.

Dự thẩm viên đẩy đến trước mặt ông ta một cốc nước lạnh. Hà Quang Hoàn uống vội rồi rút khăn tăy ra thấm mồ hôi trên trán.

- Ông làm việc ở biệt thự Vie du Château từ năm nào đến năm nào.

- Dạ... (ông ta im lặng một phút). Từ năm 1972 đến năm 1975.

- Ông giữ vai trò gì trong phòng thí nghiệm?

- Thưa ông tôi là bác sĩ, tôi chỉ có nhiệm vụ chữa những vết thương cho lành, cố định những khớp xương cho liền. Cứu người, thưa ông tôi chỉ làm công việc cứu người.

- Để làm thí nghiệm tiếp.

- Dạ... nhưng đó là việc của người khác.

- Ông có tiêm các chất X24OB, TOX35, N6 vào tù nhân chứ?

- Dạ không! Không bao giờ thưa quý ông. Đây là công việc của ông Nghiêm Bửu Châu. Tôi chỉ có trách nhiệm xem xét lại thể trạng tinh thần người đó trên bình diện y học. Tôi xin thề. Nhiều lần tôi đã cố công chữa chạy cho những bệnh nhân này để giảm thiểu những cơn hoảng loạn của họ.

- Thôi được, bây giờ tôi muốn biết các đồng sự của ông. Ông hãy nói về họ.

- Dạ, ngoài ông đại tá Hoàng Quý Nhân ra chúng tôi còn bốn sĩ quan cảnh sát. Trung úy Lê Vĩnh Lâm, chánh văn phòng, đại úy Bửu Mỹ, chuyên viên thẩm vấn, thiếu tá Huỳnh Văn Lừng phụ trách ba phòng: Cơ, Quang, điện. Đại úy Nghiêm Bủu Châu phụ trách phòng hóa học. Tôi là bác sĩ dân sự coi phòng y.

- Ông hãy ghi địa chỉ từng người vào đây.

Hà Quang Hoàn nhận tờ giấy và cây bút bi. Viết xong ông ta đưa lại cho dự thẩm viên.

- Những người này còn ở địa chỉ cũ không?

- ông Lừng, ông Mỹ, ông Bửu Châu đều đã ra đi. Ông Lâm thì tôi không biết rõ. Riêng tôi, tôi quyết định ở lại. Tôi nghĩ là mình chỉ chữa bịnh cứu người thôi. Trong chiến tranh người ta miễn tố cho các bác sĩ dù họ đã hành nghề bên phía đối phương.

- Nhưng họ sẽ bị truy tố bởi những hành động phản y học hoặc nhân danh y học để chống lại con người. Nhưng ở đây ta chưa nói đến chuyện đó. Giờ phút này tôi coi ông là nhân chứng chứ không phải bị cáo. Ông có bổn phận giúp đỡ chúng tôi làm sáng tỏ vấn đề.

- Dạ.

- Còn ông Hoàng Quý Nhân?

- Tôi nghe nói ông ấy đã chết trong đám cháy vào đêm 29 tháng 4.

- Ông tin chắc là như thế chứ?

- Dự thẩm viên nhìn thẳng vào cặp mắt người đối thoại khiến viên bác sĩ phải cúi mặt xuống né tránh.

- Dạ tôi tin vì ngoài chúng tôi ra thì chỉ còn ông ấy trong ngôi biệt thự.

- Nếu người đó là Lê Vĩnh Lâm thì sao?

- Dạ, tôi chưa bao giờ đặt ra giả thuyết này nên không thể trả lời chắc chắn.

- Nghĩa là suốt từ ngày đó ông không thấy dấu vết gì chứng tỏ Nhân còn sống?

- Dạ. Tôi không đi lại nhiều ngoài đoạn đường từ nhà đến bịnh viện.

- Có người nào quen biết trong ngạch cảnh sát đi lại thăm hỏi ông không?

- Dạ không. Ngay thời ngụy tôi cũng ít quen biết loại người này ngoài mấy ông làm việc trong biệt thự. Labo này hoàn toàn biệt lập với Sở Cảnh sát thành phố.

- Chúng tôi muốn ông giúp chính quyền một việc. Nếu ông phát hiện thấy một dấu vết gì trái với điều khẳng định trên của ông phải báo ngay với chính quyền.

- Dạ. Cách báo tin quy định như sau: ông quay điện thoại 64625 gặp ông Hai Bê nói là "ông Quý sắp lành bịnh, cho xe đến đón". Ông Hai Bê sẽ nói chuyện với ông. Ông nhớ kỹ mật khẩn trên. Ông có thể giúp chúng tôi việc đó không?

- Dạ, tôi xin hết lòng.

Dự thẩm viên đưa cho viên bác sĩ mẩu giấy ghi số điện thoại và mật khẩu yêu cầu ông ta học thuộc tại chỗ.

Đại tá Nguyễn Hữu Đức và trung tá Nguyễn Văn Bền theo dõi diễn trình thẩm vấn đều có một nhận định chung. Bác sĩ Hoàn lo sợ. Ông ta là một người yếu đuối. Những lời khai của ông ta có thể tin được.

Cần phải có kế hoạch đưa ông ta vào cuộc. Nếu chỉ để ông ta thụ động gặp Hoàng Quý Nhân ở đâu mới báo thì xác suất đó quá nhỏ so với một thành phố lớn như thế này. Việc tìm ra Hoàng Quý Nhân là rất cấp thiết. Vì vậy Hai Bền phải xuất hiện để giao việc cụ thể cho ông ta.

Thấy Bền vào, cả hai đều đứng dậy.

- Xin mời ông Hoàn nán lại, tôi cần bàn thêm chút xíu.

- Dạ.

- Tôi có thể về được - Dự thẩm viên đứng dậy báo cáo.

- Vâng, cảm ơn đồng chí. Chúng ta sẽ gặp nhau sau.

Anh Hai quay lại phía bác sĩ Hoàn:

- Ông Hoàn ạ, tôi thấy ông nên đến thăm một số gia đình đồng sự hay những nơi có quan hệ giao tiếp với đại tá Hoàng Quý Nhân. Việc này có gì khó khăn đối với ông không? Chúng tôi cần phải hỗ trợ ông những gì trong việc này.

- Dạ quý ông đã tin tưởng ở tôi thì tôi không có gì từ nan. Nếu gặp khó khăn không vượt nổi, tôi sẽ trình lên quý ông san. Liệu những cuộc đi thăm viếng như vậy có phải báo sẵn hành trình lên quý ông không?

- Nếu tiện thì ông báo trước càng hay. Không tiện xin ông cứ tuỳ nghi lựa chọn.

- Dạ. Bây giờ chúng ta tạm biệt nhau. Lời yêu cầu cuối cùng của tôi là: Ông hãy giữ bí mật tuyệt đối cuộc nói chuyện hôm nay. Nó không những ảnh hưởng tới thành bại của nhiệm vụ chung mà còn quan hệ đến an ninh của chính bản thân ông nữa. Chúng tôi sẽ hỗ trợ ông một cách kín đáo trong mọi tình huống khó khăn.

- Xin cảm ơn ông.

Hai người bắt tay. Hai Bền nhìn rõ ánh mắt cảm động và yên tâm của người bác sĩ.

Đám cưới của Hai Bền và Năm Ngân là một sự kiện vui mừng đặc biệt trong cơ quan. Mọi người đền cảm thấy nhẹ nhõm mong mỏi của chính mình được thực hiện. Đại tá Nguyễn Hữu Đức quyết định để anh nghỉ phép một tháng nhưng anh nhất định không chịu.

- Sau ba ngày tôi sẽ đến cơ quan!

- Cận cứ yên tâm mà nghỉ. Hăng hái với nhiệm vụ như thế là rất quý, nhưng còn chị ấy nữa chứ. Ngân sẽ hiểu lầm tình yêu của cậu. Với phụ nữ phải hết sức tế nhị.

- Dạ, nhưng tôi sống ở nhà rồi, đến bữa ăn và buổi tối bên nhau là đủ.

- Ông bạn ơi, ông đơn giản quá đấy! Các bạn phải đi chơi đây đó, thăm bà con, bạn bè, bàn bạc chuyện tương lai. Đâu chỉ hai bữa ăn là đủ!

- Tôi làm việc quen rồi. Nghỉ là mất thăng bằng ngay. Ban ngày cả hai chẳng còn chuyện chi để nói. Lúc này chiến dịch X 472 lại đang bế tắc...

- Thôi được. Ông phải nghỉ liền một tuần. Sau đó, ba tuần còn lại thấy nhớ cơ quan thì mỗi ngày đến phòng làm việc độ một tiếng.

- Dạ được.

Nhưng rồi chính trong dịp Hai Bền nghỉ phép đó lại xảy ra một sự kiện rất nghiêm trọng.

Một buổi tối có điện thoại gặp ông Hai Bê. Người trực máy trả lời "Anh Hai mới cưới vợ, còn nghỉ phép". Người kia nhắn lại anh trực máy nói giúp "ông Quý sắp lành bịnh, cho xe đến đón". Người trực máy không biết mật hiệu. Anh gọi điện đến nhà riêng nhưng đôi vợ chồng "trẻ" lại đi dạo. Thế là mãi hôm sau gặp Hai Bền đến cơ quan anh trực máy mới nói lại chuyện trên. Hai Bền chạy bổ đến gặp Hữu Đức. Nét mặt anh hầm hầm đỏ bừng:

- Anh cứ bắt tôi nghỉ phép để công việc đổ bể hết trọi. Bác sĩ Hoàn gọi điện cho tôi từ bữa kia mà hôm nay tôi mới được thường trực nhắn lại.

Đại tá Hữu Đức cũng giật mình:

- Nhưng tại sao ông ta không điện tiếp? Thôi bây giờ đồng chí phải đến gặp ông ta xem sao?

Hai Bền phóng xe đi ngay. Ở bệnh viện người ta nói bác sĩ Hoàn bữa nay không đến làm việc. Anh yêu cầu bệnh viện cho một xe hồng thập tự đến đón bác sĩ với lý do có ca cấp cứu.. Nửa giờ sau xe quay về cùng tin: Bác sĩ Hoàn vắng nhà từ chiều qua. Gia đình cũng lo lắng không biết ông đi đâu.

Hai Bền đành phóng xe đến thẳng nhà bác sĩ Hoàn. Người vợ chừng bốn nhăm tuổi, nét mặt lo ân tiếp anh. Bà kể lại trạng thái tâm lý của người chồng trong nhưng ngày qua như sau:

- Hơn hai tháng nay ba cháu trở nên trầm tư, ít nói. Hình như có điều gì làm ông bận tâm. Tôi hỏi, ông không nói. Buổi tối ông hay đi chơi, có bữa mười hai giờ đêm mới trở về. Xưa kia chuyện đó ít xảy ra, và nếu có ông cũng thường kéo tôi hay bọn nhỏ di theo. Cũng có vài người bạn đến đây nói chuyện di tản, vượt biển, nhưng thường ông chỉ nghe chứ không biểu lộ ý định của mình. Bữa kia ông đi chơi về tôi thấy ông vui vẻ lắm. Hình như nhưng lo nghĩ bấy lâu của ông bỗng vơi đi. Sáng qua ông đi làm sớm và hẹn tôi nếu ai đến tìm thì mời họ lưu lại chờ ông về. Tôi hỏi ai tìm, ông không nói. Chiều qua về đến nhà được biết không có ai tìm thì ông tỏ ra bồn chồn không yên. Bảy giờ ông đi dạo chơi như mọi lần và còn dặn lại có ai đến tìm thì bảo họ chờ. Đêm qua không thấy ông về, chúng tôi lo lắng lắm. Sáng nay tôi cho các cháu đến nhà những người quen tìm nhưng không thấy ông đâu.

- Tại sao bà không báo ngay cho bệnh viện nơi ông làm việc?

- Dạ lúc đầu tôi cũng có ý định báo, nhưng tôi lại lo là nếu ông nghe ai bỏ đi di tản mà tôi báo với cơ quan thì lại xảy ra nguy hiểm cho ông.

Trung tá Nguyễn Văn Bền về báo cáo lại với đại tá Nguyễn Hữu Đức những tin tức trên. Hai người đi đến nhận định sau:

Thứ nhất: Bác sĩ Hoàn đã phát hiện ra tung tích Hoàng Quý Nhân. Ông gọi điện thì không gặp được người cần báo cáo. Ông chờ suốt ngày hôm qua. Sợ mất mục tiêu, bác sĩ Hoàn lại đơn phương độc mã tiếp tục cuộc theo dõi. Thấy lộ Nhân đã bắt cóc hoặc thủ tiêu đối thủ.

Thứ hai: Hoàn quá lo sợ quá khứ của mình, nay lại nhận một công việc ít khả năng hoàn thành nên đã tìm cách trốn đi nước ngoài. Khả năng thứ hai này yếu hơn, vì cú điện thoại gọi Hai Bê có ý nghĩa gì khi ông ta quyết định cắt đứt sự hợp tác?

Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải tổ chức một cuộc truy lùng nóng. Tìm được viên bác sĩ lúc này đều đáp ứng cả hai giả định nêu ra.

Hàng trăm tấm ảnh và bản tóm tắt nhận dạng của Hà Quang Hoàn được chuyển đến các trạm công an thành phố, thị trấn, cửa biển, ga xe... Hai hôm sau người ta phát hiện thấy xác viên bác sĩ trên đoạn sông Sài Gòn gần Sở thú. Cuộc xét nghiệm pháp y cho thấy không có thương tích nào trên cơ thê. Hiện trạng xung quanh không có dấu vết gì của cuộc hành hung. Không thấy có hiện tượng bị đầu độc dù ở dạng thần kinh, tiêu hóa hay hô hấp. Xác chết giống như một trường hợp tự tử hoặc một tai nạn sông nước thôi.

Thế là cơ quan tình báo quân sự lại tiếp nhận một tổn thất mới. Vấn đề loang ra nhưng phương hướng lại mờ nhạt đi. Trong buổi giao ban khi nhắc đến chiến dịch X472, vẻ mặt mọi người đều trầm tư Đại tá Nguyễn Hữu Đức tóm tắt lại vấn đề:

- Cái chết của bác sĩ Hoàn chứng tỏ kẻ địch đối phó một cách tích cực chứ không phải là chịu thu mình lẩn trốn. Giả thuyết ông ta tự tử cũng không loại trừ nhưng rất yếu vì cú điện thoại cho đồng chí Bền và thái độ của Hoàn trước lúc ra đi được người vợ mô tả có sức bác bỏ giả thuyết trên. Theo tôi thì Hà Quang Hoàn đã phát hiện ra Nhân hoặc ít ra là dấu vết của y. Hoàn gọi điện cho ta nhưng không có hiệu quả.  Ông ta nóng ruột, một mình mạo hiểm lần đến hang ổ chúng. Lo sợ bị bại lộ chúng đã thủ tiêu ông để bịt kín một khe hở mới. Việc hạ thủ Hoàn không phải là một người mà phải là một tổ. Không có dấu vết gì chứng tỏ Hoàn kịp chống cự. Chúng giữ ông ta ở một nơi rồi đen xác vất xuống sông. Ta có thể khẳng định không phải chúng ta đang truy lùng một bóng ma, mà là một tên tội phạm nguy hiểm đang tồn tại bất hợp pháp. Chúng đã chặn đứng hướng đi của ta. Tạm thời chiến dịch bị chùng lại. Hướng nghiên cứu của ta lúc này là những người quen biết bác sĩ Hoàn. Phạm vi mở rộng và công sức đổ ra càng nhiều. Ta phải dựa vào tai mắt quần chúng. Đó là sức mạnh truyền thống của chúng ta. Cái chết của bác sĩ Hoàn cho ta một bài học lớn về công tác tổ chức chỉ huy. Tôi để đồng chí Bền nghỉ phép nhưng đã không quyết định dứt khoát người thay thế. Đồng chí Bền nghỉ nhưng lại quá nhiệt tình, bao biện, không chịu bàn giao tỉ mỉ lại. Thế là khi sự vụ xảy ra, người trực máy kém nhạy cảm về nghiệp vụ đã bỏ lỡ cơ hội lớn. Mặt khác, khi đã giao việc cho ông ta là phải có kế hoạch yểm trợ chu đáo. Suốt những ngày đó ta đã bỏ lỏng để ông ta hành động khinh xuất và đơn độc. Là người chỉ huy, tôi có khuyết điểm lớn nhất trong chuyện này.

Đây là một bài học đã phải trả giá bằng máu. Chúng ta phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình bác sĩ Hoàn.

CHƯƠNG IV

CUỘC GẶP GỠ BÊN HỒ GREEN LAKE

Vừa bước chân xuống sân bay Bourget, Bạch Kim đã tìm cách gọi điện báo tin cho tôi. Hai mẹ con sẽ còn lưu lại Paris ít lâu. Việc chính là cô sẽ cùng người anh ruột ở Pháp nhờ luật sư lo liệu hợp pháp hóa quyền sở hữu món gia tài thừa kế của ông Cự Phách ghi lại trong di chúc hiện gửi ở ngân hàng Pháp quốc. Rồi cô còn phải lo liệu các thủ tục nhập cư vào Hoa Kỳ. Ngoài ra, hai mẹ con còn muốn đi thăm những di tích lịch sử của Thành phố ánh sáng, thành phố của những danh nhân văn hóa nổi tiếng. Như vậy sớm ra màu hè năm 1976 chúng tôi mới có thể gặp nhau. Tôi muốn anh chị tôi nhanh chóng thu xếp chỗ ở mới ở Hoa Kỳ. Có như vậy thì việc xin nhập cư của tất cả chúng tôi mới tiến hành cùng một lúc được.

Anh chị tôi cũng chấp nhận ý kiến của tôi. Chị nói:

- Cả nhà ta cần phải đi du lịch một chuyến, ta phải thăm dò, lựa chọn để sau này không phải ân hận.

- Đúng đấy, nhưng ta không thể đi thăm khắp nước Mỹ để chọn nơi cư trú. Theo ý anh thì chúng mình sẽ đến California. Ở đấy có nhiều bạn bè hơn cả. Cụ Huỳnh Quốc Bửu ở San Diago. Cụ Hoàng Cơ Bảo, tướng Thiết Vũ, luật sư Bùi Hạnh, kỹ SƯ Nghiêm Bửu Châu... đều ở Los Angeles. Giáo sư Huỳnh Lanh ở San Francisco. Ta lại có dịp chia sẻ vui buồn với nhau. Hơn nữa khí hậu ở Cali nằm bên bờ Thái Bình Dương rất tốt. Vĩ độ 35 chắc cũng ấm áp.

Chúng tôi đến Cali vào mùa du lịch. Hàng trăm nghìn khách từ khắp nơi tràn đến. Khách sạn đầy ắp, xe cộ đầy đường và những cuộc tắc nghẽn khổng lồ. Chúng tôi thuê buồng khách sạn Hilton ở Los Angesles. Sau đó đến thăm luật sư Bùi Hạnh. Vị luật sư đón tiếp chúng tôi rất chân tình. Ông ta sang Mỹ từ đầu những năm 70 nên gia đình của cải không mất mát tí gì. Ở đây ông không làm nghề luật mà mở tiệm buôn. Ông Hạnh khuyên anh tôi nên chuyển về đây. Nếu anh tôi không thích buôn bán, tránh nơi ồn ào thì có thể mua một căn nhà xa xa trung tâm thành phố, giá cả ở đây rẻ hơn nhiều so với những nơi khác. Ông quen biết khá rộng nên sẵn sàng đứng ra thu xếp giúp đúng theo lật lệ của nước này với những điều kiện có lợi nhất.

Ông Bùi Hạnh đã bỏ cả ngày trời lái xe đưa chúng tôi đi thăm các vùng xung quanh. Những dải rừng phong, rừng thông nằm bạt ngàn hai bên lộ ông Hạnh đưa chúng tôi đến vùng bán đảo Nelson. Một thị trấn nhỏ nằm bên bờ vịnh, ẩn mình trong những vườn cây xanh rờn, sạch sẽ. Khí hậu nóng ấm hơi khô gần giống như mùa thu ở vịnh Hạ Long làm cho tâm hồn tôi náo nức dễ chịu vì nhớ đến quê hương. Giữa thị trấn có một hoa viên rực rỡ sắc màu. Các tòa biệt thự nho nhỏ đủ kiểu cách xây nhấp nhô ở những bình độ cao thấp khác nhau làm cho cảnh quan thật mỹ lệ. Ở đây không có những bin-đinh chọc trời, những xa lộ đầy ô tô nên rất thích hợp với những người đứng tuổi.

- Làm sao đủ tiền để mua nổi một biệt thự ở đây?

- Chị tôi vừa thích thú vừa khiêm tốn ướm hỏi ông bạn.

- Thưa bà, bà có thể lựa một cái vừa túi tiền. Chỉ cần bà muốn đến đây với chúng tôi thôi! - Luật sư Bùi Hạnh trả lời rất lôi cuốn.

Cuối cùng ông luật sư đã tìm giúp cho chúng tôi một biệt tự xinh xinh nằm sâu trong dết liên hơn. Bù lại, nó ở bên hồ Green Lake, một cái hồ nước nước ngọt, xanh biếc, xung quanh lởm chởm những tảng đá trông giống như những hòn non bộ trong bể cảnh.

Công việc chuyển nhà cũng đơn giản. Chúng tôi thu xếp tất cả trong vòng một tháng. Tôi viết thư cho Bạch Kim và cháu Quang Trung à "bên này" rất mong hai mẹ con. Tôi mô tả biệt thự bên hồ xinh đẹp và tuyệt vời nhưng nó vẫn buồn tẻ vì thiếu hai mẹ con.

Mùa thu năm đó Bạch Kim và cháu Trung mới rời nước Pháp bay sang đây với chúng tôi. Cả nhà gặp nhau ở sân bay mừng mừng tủi tủi. Trừ tôi ra hình như ai cũng đẫm nước mắt. Trước mặt mọi người, tôi và Bạch Kim vẫn chỉ là “người dưng" nên chưa thể có một cử chỉ gì vượt qua vòng lễ giáo! Nhưng mỗi lần hai cặp mắt gặp nhau là chúng tôi kín đáo biểu hiện một tình cảm yêu thương tha thiết.

Lại một lần nữa chị Lệ Ngọc thu xếp buồng ngủ.

- Nghĩa và Kim nghỉ buồng này.

Mặc dù rất cảm động, đỏ mặt lên vì vui sướng, nhưng Kim vẫn ra vẻ ngạc nhiên:

- Sao lại thế chị?

- Còn sao nữa ? Đó là cái kết cục hợp lý hợp tình nhất chứ sao.

Bạch Kim ôm lấy chị mỉm cười:

- Cảm ơn chị nhưng xin chị cứ cho em phòng riêng. Anh Nghĩa phòng bên rồi đến phòng Tôtô. Chúng em đã có quyết định gì đâu!

Chị Ngọc cau mặt:

- Sao lại thế được. Chị tưởng hai em...

- Sự xếp đặt của chị là rất hợp lý. Nhưng em còn muốn thử thách anh Nghĩa hơn nữa xem anh đã thực sự yêu em chưa. Lỡ ra anh ấy lại mê cô gái trẻ trung nào khác thì sao chị? Đàn ông thường khó hiểu, kinh nghiệm như với Vĩnh Quốc trước đây làm em phải thận trọng hơn.

- Tuỳ em thôi. Nhưng theo chị thì Nghĩa rất tốt. Chú ấy giống tính anh Ân, suốt đời không biết lừa dối vợ!

Kể là phòng riêng cho phải phép thôi chứ chúng tôi ở hai phòng liền nhau lại có cửa thông. Muốn lẻn sang lúc nào chẳng được.

Bạch Kim tự trang trí cho phòng mình. Cô đem theo những bức tranh sơn mài từ căn buồng cũ ở Sài Gòn sang. Tôi muốn vào thăm xem cô bày biện ra sao nhưng Kim đóng chặt cửa nhất định không cho sang. Tôi sốt ruột không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng gặp tôi ngoài hành lang Bạch Kim lại nháy mắt cười vẻ bí mật. Tôi trách:

- Sao hồi này em khó tính thế? Em mới học được những gì ở Paris đấy?

- Đến tối anh sẽ biết.

Mãi đến chín giờ Bạch Kim mới mở cửa thông hai buồng. Cô xuất hiện trong bộ đồ phương Tây lộng lẫy mà tôi chưa từng thấy.

- Xin mời!

Chỉ đợi câu đó là tôi lẻn vào rất nhanh. Kim trang trí căn buồng khác xưa nhưng vẫn gợi nhớ quá khứ. Đặc biệt ở vị trí trên chiếc dương cầm cô treo bức ảnh Phương Dung lồng kính. Đó là bức ảnh duy nhất trong căn buồng. Sự kiện này làm cho tôi xúc động đến ứa nước mắt. Tôi quay lại ôm lấy Kim.

- Cảm ơn tấm lòng cao đẹp của em. Em là hiện thân của Dung. Anh và Tôtô sẽ yêu quý em suốt đời.

Bạch Kim thì thầm:

- Em sẽ sống tiếp phần đời của chị Dung để lại. Tôi bế cô mà cảm thấy nhẹ nhàng như mình đang bay bổng...

Anh chị tôi chỉ đợi Bạch Kim và cháu Tôtô sang là tổ chức một bữa tiệc mời bạn bè, vừa mừng đoàn tụ gia đình, vừa mừng nhà mới.

Nhìn bản danh bạ điện thoại anh tôi gọi đi, tôi yên tâm vì số người này đều không gây nguy hiểm gì cho tôi. Vẫn những bộ mặt cũ. Nhà "cách mạng lão thành" Huỳnh Quốc Bửu và ái nữ Huỳnh Liên. Cụ Hoàng Cơ Bảo, lãnh tụ "chuyên nghiệp" của phe đối lập và con trai. Vợ chồng viên tướng đẹp trai Thiết Vũ, người đỡ đầu cho cuộc đời binh nghiệp của tôi! Luật sư Bùi Hạnh. Ông bà kỹ sư Nghiêm Bửu Châu (nhân vật mới mẻ này tôi chưa quen).

Phần lớn những người này đều vô công rồi nghề hay sao mà họ nhận lời ngay và đến rất đúng giờ. Họ ôm nhau thắm thiết. Có thể là đến hơn một năm rồi họ mới lại gặp nhau. Mối tình cố quốc, tha hương làm cho họ hân hoan thực sự.

Hoàng Quốc Bửu đã bỏ hẳn bộ quốc phục (khăn xếp áo dài), trông ông trẻ hẳn ra. Ái nữ của ông, cô Huỳnh Liên ba mươi nhăm tuổi chưa chồng, người dày son phấn và nhung lụa nhưng nhìn vẫn khô như một cái xác ướp. Ông Bảo vẫn giữ cái dáng điệu của con Nhất Sách. Tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch con trai ông Bảo đã thay đổi trang phục cho thích ứng với môi trường: tóc dài, râu rậm, quần áo bò, kính cận màu choán nửa phần mặt. Tướng Thiết Vũ bỏ bộ đồ nhà binh trông có vẻ hiền lành. Kỹ sư Nghiêm Bửu Châu là người đàn ông trẻ nhất trong đám quan khách. Anh ta chỉ độ bốn chục tuổi, cao thước bảy, dáng thể thao, nhanh nhẹn, da ngăm ngăm. Vợ viên kỹ sư là một thiếp phụ xinh đẹp, người Nhật Bản.

Hôm đó Bạch Kim phải trang điểm thật đẹp để làm nổi bật vai trò chủ nhà.

- Xin giới thiệu cùng quý khách, đây là em gái tôi, vợ góa của người phi công anh hùng, trung tá Huỳnh Vĩnh Quốc - Chị Ngọc tôi vui vẻ nói với bạn bè.

- Bravo! Bravo! - Cử tọa vỗ tay nhiệt liệt.

Sau cái màn lễ nghi dạo đầu, quan khách nâng cốc chúc ngày hội ngộ, chúc sức khỏe, chúc phúc cho gia chủ, cho sự may mắn của những người sống sót sau tai biến 1975 tụ tập ở đây.

Anh tôi, vẻ mặt chân thành xúc động ngỏ lời cùng bạn hữu:

- Thưa quý vị, tôi rất vui mừng có được cuộc gặp mặt thân mật của chúng ta hôm nay. Chúng ta vẫn tồn tại và được nhìn thấy nhau, đó là điều quý báu nhất, không gì sánh nổi. Sau cái ngày tưởng như tận thế đó quay lại nhìn thân quyến bạn bè thấy vẫn bằng an cả. Thật đáng kinh ngạc! Ông Vượng, ông Nghị, ông Thạc không kịp ra đi, nhưng qua tin của các em tôi vừa tử Sài Gòn sang thì cũng vẫn sống cả. Cuộc tắm máu mà chúng ta tiên đoán đã không xay ra.

- May mắn hơn nữa là chúng ta đều đã chuyển gần như trọn vẹn tài sản ra nước ngoài trong cái tình trạng hỗn loạn chung nên không phải chịu sự kiểm soát của bất cứ chánh phủ nào - ông Bùi Hạnh thích thú.

Nhà cách mệnh lão thành Huỳnh Quốc Bửu nhăn nhó phàn nàn:

- Quý ông ra đi từ năm 1972. Quý ông có cơ hội thanh lý toàn bộ tài sản ở quốc nội. Bọn tôi đâu có được thời gian để thu xếp. Như tôi đây, gần như phá sản hoàn toàn. Một ngàn hai trăm mẫu điền trang, lâm trang ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một. Sáu xí nghiệp, công nghệ chế biến đồ gỗ, đường, bột ngọt, nước mắm, cao su. Hơn một trăm ngư thuyền... tất cả rơi vào tay Cộng sản. Không biết rồi đây chúng tôi sống ra sao.

- Nghe người ta nói cụ ra đi với cả một hạm đội thương thuyền với sức rẽ nước trên ba vạn tấn kia mà! Chẳng lẽ nó không chở nổi vài trăm ki-lô-vàng?

Mọi người cười vang vì lời tố cáo của ông Hoàng Bảo Thạch.

- Ôi miệng thế gian thật là độc ác. Đúng là có kéo đi được sáu cái tàu. Nhưng toàn là thứ đồ cổ cả. Tôi phải bán cho hãng S.T.A.J Nhật Bản theo giá đồng nát. Còn vàng thì tôi không có. Xin thề. Tôi là nhà kinh doanh, tôi không chịu để đọng vốn trong két sắt.

- Chỉ có tôi mới là mất trắng. Tôi ra đi gần phút cuối cùng. Khi có thể nghe thấy tiếng xích xe tăng của Cộng sản nghiến trên đường phố! - Tướng Thiết Vũ nhún vai mỉm cười kiêu hãnh – nhưng thôi, tiếc làm gì. Cả một quốc gia sụp đổ, cả một siêu cường bại trận. Riêng ta có gì là đáng kể.

- Thưa tướng quân, nếu tôi không lầm thì số tiền tướng quân gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ, ngân hàng Mahattan thừa nuôi vài thế hệ ngồi ăn không! Ha ha! - Cô Huỳnh Liên ái nữ của cụ Bửu cũng nháy mắt cười duyên châm chọc viên tướng hai sao.

- Tôi cũng ra đi vào giây phút cuối cùng trong cảnh hỗn loạn của quân Lưu Bị khi thất thu Hạ Bì. Nhưng tôi chẳng mất cái gì vì tôi giàu có như vua Lear1 (Ông vua trong bi kịch của Sếch-Xpia, chia cả vương quốc cho con trở nên nghèo khó), chẳng có gì để mất. Suốt ba chục năm hoạt động trên chính trường, tôi đem toàn bộ tâm huyết ra hiến dâng cho sự nghiệp tự do, cho lý tưởng dân chủ đại nghị, cho nền độc lập của dân tộc suốt mấy chục năm "Van nợ lăm khi trào nước mắt, chạy ăn từng bữa toát mồ hôi!"...

- Tôi tiếc cho cụ quá. Giá cụ theo Cộng sản thì được coi là giai cấp vô sản?

- Nhưng Cộng sản thiếu rượu Cognac và không có người đấm lưng!

ụ bảo bỏ ngoài tai những câu đùa châm chọc của bạn bè. Cụ vẫn bình thản nói tiếp:

- Việt Minh kết án tử hình vắng mặt tôi. Pháp bắt tôi nhốt vào Hỏa Lò mấy lần. Cựu Hoàng quở trách và bỏ qua lời can gián của tôi. Ông Diệm nghi ngờ tôi. Ông Khánh lo sợ tôi. Ông Thiệu theo dõi tôi... Đến khi ông Minh, ông Mậu vời tôi ra gánh vác việc chung, làm rường cột cho xã tắc thì vận nước đã hết. Tôi từ chối - Cụ Hoàng Cơ Bảo thở dài đau đớn - Chỉ có bạn bè, chỉ có công chúng là yêu thương, kính trọng tôi. Tôi sẽ không bao giờ phụ họ. Tôi ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng tôi thấy vai mình vẫn nặng nợ quốc dân. Mình tôi không thể để vàng bạc vinh hoa chiếm chỗ của nghĩa vụ. Tôi sẽ chịu đựng cuộc sống thanh bần đến hết đời, nhưng nguyện sẽ hiến nốt nắm tương tàn cho cố quốc - Nói đến đây cụ Bảo lấy khăn tay thấm thấm nước mắt - Tôi không thể sống an nhàn khi năm mươi triệt đồng bào mình còn bị đầy dọa dưới gót sắt Cộng sản. Phải tìm đường mà cứu lấy non sông. Các đấng tiên liệt như cụ Nguyễn Thái Học, cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, cụ Cường Để há chẳng phải là những tấm gương để chúng ta noi theo? Các cụ tuy công chưa thành nhưng danh bất diệt. Ở nơi quốc ngoại xa xôi này đêm đêm tôi vẫn đốt nén hương trầm vái về đất tổ Tôi sẽ kêu gọi cộng đồng người Việt nơi hải ngoại hướng về quốc nội. Tôi sẽ cảnh giác cộng đồng quốc tế hậu thuẫn cho những người Việt Nam tự do đấu tranh chống cộng đến cùng, ngõ hầu chuyển thay được tình thế bi thảm hiện nay.

Tướng Thiết Vũ tỏ ra thất vọng.

- Khó lắm cụ ơi! Đã có lúc trong tay ta có cả triệu quân, dưới sự yểm trợ của sáu trăm ngàn quân Hoa Kỳ, trên năm ngàn phi cơ hàng trăm pháo hạm mà chúng ta còn chịu bó tay nữa là bây giờ.

- Nhưng chưa bao giờ quý ngài biết điều khiển cuộc chiến - Cụ Hoàng Cơ Bảo nóng nảy cắt ngang lời viên tướng - Các ngài đã biến nội chiến thành chiến tranh xâm lược. Chính các ngài đã tạo cho Cộng sản tư thế chiến thắng.

- Các chính khách dân sự đã là đồng minh tự nhiên của cộng quân. Họ đã làm tan vỡ khối thống nhứt quốc gia. Họ đánh vào sau lưng quân đội. Hàng triệu người lính đã đổ máu cho họ tranh giành quyền lực.

- Thôi, xin quý vị hãy bớt nóng. Hôm nay chúng ta đến đây với mục đích khác. Hãy giữ cho cuộc gặp gỡ này những tình cảm tốt đẹp - Luật sư Bùi Hạnh can gián hai người - Tôi nghĩ là chúng ta có thể tổ chức cả một cuộc hội thảo về cuộc chiến tranh này nhưng không phải hôm nay và ở đây.

- Xin tha lỗi cho tôi - Cụ Bảo trở lại bộ mặt điềm đạm và ân hận - Sự thất bại lớn lao quá, mỗi lần nhắc lại là thần kinh tôi dễ bị tổn thương.

- Tốt nhất là ta quay về với rượu đế, với món gà xé, món nấm nhồi... mà quý bà đã cố công làm cho chúng ta nhớ tới quốc hồn quốc tuý...

Tiệc tan, quan khách được mời ra ngồi chơi ngoài vườn cây ngắm hồ Green Lake vào ban đêm. Mặt nước như láng thủy ngân phản chiếu muôn ngàn ánh đèn màu lấp lánh... Vẻ đẹp thiên nhiên cũng chỉ thu hút mọi người trong chốc lát. Đàn bà nhanh chóng chuyển sang chuyện tiện nghi, chuyện thời trang, chuyện hòa đồng y phục với dân bản địa... Đàn ông thì bàn chuyện kinh doanh, chuyện kiếm công ăn việc làm, chuyện thuê người hầu và có cả chuyện hộp đêm, sòng bạc...

Cụ Bảo thì không sao dứt được câu chuyện chính trị. Cụ thì thầm với anh tôi:

- Tôi già rồi, tiền bạc thì không, sống bằng đồng tiền trợ cấp di tản thực là eo hẹp và nhục nhã. Nhờ bạn bè mãi cũng hổ thẹn. Hồi trong nước tôi dựa vào tiền đảng phí, tiền đóng góp của các doanh gia, quỹ dân biểu của phe đối lập và cả bằng lòng từ thiện của ngoại bang. Nay thì biết tin cậy vào ai.

- Bác sĩ mở cliniqu!

- Trời ơi ba mươi năm bỏ nghề, chân tay lóng ngóng, đến tên thuốc cũng quên nói chi chữa bệnh.

- Bác đứng ra trông nom còn thì thuê bác sĩ làm công.

- Ở đây không giỏi không cạnh tranh nổi. Huống hồ bệnh kín ở nước Mỹ đã phát triển tới mức dễ sợ. Mới đây người ta phát hiện ra bệnh Sida1 (Hội chứng suy giảm khả năng miễn nhiễm) là một thứ dịch trong giao lưu tình dục. Chín mươi phần trăm tử vong. Mình không giỏi làm sao dám chữa. Hơn nứa mình cũng già rồi, các bà các cô đâu cần mình khám! Chỉ có nghề chính trị là càng già càng nhiều mưu mẹo, giàu kinh nghiệm. Tôi đã nghĩ đến một phương hướng mới, luật sư có thể cộng tác với tôi không?

- Dạ xin bác cứ nói.

- Hậu quả của cuộc chiến tranh ba mươi năm làm cho cộng đồng người Việt tan ra khắp thế giới. Không ai thống kê được số dân hải ngoại, nhưng có thể ước tính không dưới hai triệu. Khắp Tây Âu, bắc Mỹ và vùng Đông Nam Á, nước nào cũng có Việt kiều cư trú. Nhìn khái lược thôi ta cũng nhận ra rằng đây là cái vốn không nhỏ. Ta cần liên minh những người này lại, không để cho Cộng sản thao túng. Đó cũng là một cuộc tranh chấp quyết liệt. Nó không chỉ có tầm quan trọng bên ngoài mà còn ảnh hưởng đến nền an ninh của cộng sản ở chính quốc. Người Mỹ nhận thấy điều này sớm hơn chúng ta và họ đã cảnh cáo chúng ta. Vấn đề Việt kiều ở Pháp trước đây cho chúng ta một bài học. Chính những người tị nạn Việt Minh sang Pháp nay lại gia nhập những tổ chức do Hà Nội kiểm soát. Mặt khác chúng ta cũng cần phải có tầm nhìn xa hơn. Người Mỹ tuy đã ra đi khỏi Việt Nam nhưng họ không thể bỏ nốt Đông Nam Á. Họ cũng không thể để cho nước Việt Nam cộng sản mạnh lên để thao túng nốt vùng này. Tôi đã gặp Warrens, một quan chức có thế lực phụ trách Viễn Đông Vụ, ông ta cho biết "Mỹ vẫn là cường quốc Thái Bình Dương. Mỹ sẽ không bỏ quên Đông Nam Á. Mỹ tiếp tục duy trì lực lượng răn đe ở vùng này". Còn tiến sĩ Price thì cho rằng "Mỹ sẽ phải tạo ra một đối trọng mới đủ để giữ thế cân bằng chiến lược ở vùng này nhằm ngăn chặn người Nga". Ông ta còn tiên đoán "có thể sẽ xảy ra cuộc chiến tranh Dông Dương lần thứ ba". Trung cộng thì dịu giọng hơn "Xin chú Sam hãy đứng lại. Không có ai đuổi đằng sau đâu mà phải chạy!". Xem ra ý đồ của họ đã gặp nhau ở một điểm. Chẳng lẽ là người Việt Nam chúng ta lại thờ ơ với những vấn đề này chăng?

- Về phương diện này thì chúng ta hoàn toàn trắng tay và vì vậy mà không đủ tư cách để lợi dụng tình thế.

- Ông đã chuyển sang kinh doanh kỹ nghệ, tài chính. Nhưng tôi xin nhắc ông là không có cuộc kinh doanh nào đem lài lợi nhuận bằng kinh doanh quyền lực, đầu tư chính trị. Khi ra đi ông Thiệu đã mang theo một số vàng mà kim ngạch dự trữ trong ngân khố của nhiều quốc gia không sánh kịp.

- Nhưng vẫn có người ra đi tay trắng? - Anh tôi cười ý nhị.

- Ông muốn nói tôi phải không? Đó là vì chưa một lần nào tôi nắm được quyền lực trong tay. Phe đối lập cũng chỉ là vật hiến tế thần linh ở thánh đường chính trị. Nó tô vẽ cho bộ mặt dân chủ của phe chấp chính. Kể ra nếu chịu ăn non thì nhiều lúc tôi cũng có thể thỏa hiệp với họ. Nhưng cái tính tôi ham được ăn cả ngã về không. Suốt ba mươi năm tôi tung đồng tiền lên nó đều lật sấp, mà theo quy luật tự nhiên thì tỷ lệ sấp ngửa phải dần đến một. Ôi số tôi đen quá. Mặc dù tuổi đã cao, nhưng tôi vẫn muốn chơi nốt ván bài cuối cùng. Tôi sẽ đứng ra thành lập “Liên minh Việt kiều Hải ngoại". Nếu được sự ủng hộ của người Mỹ thì ta lại có tất cả. Ông thấy thế nào?

- Tôi sợ cụ đã lầm giữa quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.

- Chẳng lẽ ông tin rằng có cái tuyệt đối trong quy luật xã hội? Không có cái gì tuyệt đối. Nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi của một cuộc đời có những cái gần tuyệt đối. Tôi không tin là cái Liên minh của cụ có thể làm cho đồng tiền lật ngửa.

- Thôi được, mọi việc tôi sẽ làm. Bước đầu tôi chỉ mượn cái tên của ông vào ban trù bị thôi. Tôi sẽ soạn thảo cương lĩnh, tôi sẽ gửi điện mời tất cả các tổ chức Việt kiền trên thế giới (dĩ nhiên là không kể những tổ chức thân cộng). Mùa xuân năm tới sẽ có cuộc hội thảo ở California. Nếu ta tập hợp được ý chí của các cộng đồng thì hiến chương Cali sẽ là ngọn cờ Phục quốc của chúng ta. Ta liên minh với lực lượng hữu phái còn tồn tại trong nội địa rồi thành lập chính phủ lưu vong. Lúc đó tôi sẽ kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng Việt kiều Hải ngoại, tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia tự do, Hoa Kỳ chắc chắn sẽ tài trợ bí mật hay công khai cho chúng ta. Bộ máy kinh doanh của ta sẽ thực sự sinh lợi từ đấy.

- Bác có tin rằng ngọn cờ phục quốc của chúng ta có thể tìm nổi một chỗ cắm trên đất Việt không?

- Sao lại không? Ta phải truyền được tín điều đó cho mọi người, mọi thế hệ. Nếu tôi không cắm được thì con tôi, cháu tôi cắm... - Cụ Bảo ghé sát vào tai anh tôi thì thầm - Nhưng trước mắt ngọn cờ thiêng liêng đó muôi sống chúng ta.

Trong khi mọi người trò chuyện dưới vườn cây thì Hoàng Bảo Thạch theo Bạch Kim lên lầu ba. Anh ta tha thiết yêu cầu Bạch Kim đàn cho nghe bản Polonaise của Chopin.

- Dạ, xin lỗi đã lâu lắm tôi không đánh Polonaise cho ai nghe. Sống dưới chế độ cộng sản tôi toàn chơi những bài của họ.

Ngồi vào đàn Bạch Kim dạo bài Giải phóng miền Nam rồi cô quay lại hỏi Bảo Thạch:

- Anh nghe thế nào?

Vốn không phải người "sành nhạc", lại bị hỏi bất ngờ nên Hoàng Bảo Thạch vội lẩy câu Kiều thay cho lời bình luận:

- Khúc đâu Hán Sở chiến trưởng

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau!

Bạch Kim đánh bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao. Âm thanh lấp lánh như những hạt châu rơi trên mâm bạc. Hoàng Bảo Thạch mắt lim dim, đầu gật gù. Chờ cho âm thanh cuối cùng tan vào thinh không anh ta mới nhận xét:

- Hay đấy nhưng tôi không thích nghe âm nhạc của họ. Thực tình tôi không chịu đựng nổi.

- Cứ y như họ muốn hát nước vào mặt mình phải không anh? - Bạch Kim cười vui vẻ - Về mặt này họ cũng đứng trên ta một tầm. Ta toàn đi mượn cái đẹp của thiên hạ để đắp điếm cho mình. Không hiểu tại sao mỗi lần nghe các cô ca sĩ của chúng ta gào lên "đừng bỏ em một mình, đừng bỏ em một mình"1 (Lời một bản tình ca thời nguỵ) là trong óc tôi lại hiện ra cái hình ảnh các bà mẹ Tây ngửa mặt lên trời nhìn theo những ông chồng ngoại quốc bay đi mãi mãi. Và sau đó đến lượt các chính khách, các nhà lãnh đạo quốc gia cũng gào lên "đừng bỏ em một mình, đừng bỏ em một mình!". Nhưng ngươi Pháp và người Mỹ vẫn phải gạt lệ ra đi! Thật nhục nhã cho đàn ông đằng mình!

- Tôi hy vọng rằng Bạch Kim sẽ không kết án tất cả mọi người.

- Tôi thương hại chồng tôi đã đổ máu cho một sự nghiệp ngu ngốc và tôi rất buồn.

- Bạch Kim đã làm lây nỗi buồn sang tôi rồi đấy. Nhiều năm nay tôi cũng sống cô đơn như chị. Năm tháng trôi qua tôi chẳng biết mình đang chờ đợi một cái gì - Bảo Thạch lái câu chuyện di một hướng khác.

- Chẳng lẽ anh không còn mục đích nào để theo đuổi?

- Tôi là một người đa cảm, yếu đuối. Ba tôi thường trách tôi mới ở tuổi bốn mươi mà đã sớm mất nhuệ khí. Ông khích lệ tôi đi theo con đường của ông. Ông luôn luôn bị cuốn hút bởi "vận may sắp đến".

- Còn anh, anh có tin không?

- Tôi cũng mong một cơ hội thành đạt, mong giàu có như mọi người. Nhưng tôi cảm thấy mình không có trạng mạo chính trị. Tôi thích hợp với thi ca hơn.

- Với thi ca?

- Vâng. Ôi nếu tôi có được mười lăm ngàn đô-la lợi tức thường niên thì tôi sẽ từ bỏ tất cả để suốt đời ca ngợi, tôn thờ vẻ đẹp của Bạch Kim!

- Của tôi? - Bạch Kim ngạc nhiên và hơi tức cười vì câu nói vô duyên đó.

- Đúng thế, Bạch Kim không tin là mình đẹp sao?

- Tôi không tin cái đẹp của mình đáng giá mười lăm ngàn đồng lợi tức thường niên? - Cô mỉm cười châm biếm - Rất tiếc tôi lại là một người không ưa ngợi ca hoặc tôn thờ. Nếu tôi thích được tôn thờ tôi thừa sức nuôi bốn anh hề làm việc đó. Tôi được thừa kế một gia sản cho số lợi tức gấp mười lần anh đánh giá! - Bạch Kim tỏ ra kiêu căng và đanh đá.

- Bạch Kim hoàn toàn hiểu lầm tôi. Tôi quý trọng, tôn thờ chị chứ không hề đánh giá chị. Biết nói thê lào để Bạch Kim hiểu cho lòng tôi.

Vẻ mặt Hoàng Bảo Thạch đau khổ và nhẫn nhục.

Cuộc nói chuyện của hai người trở nên nhạt nhẽo hơn. Thạch tìm đường cáo lui về phòng mình.

Tôi ngồi tiếp chuyện viên kỹ sư trẻ tuổi Nghiêm Bửu Châu. Trông vẻ mặt anh ta quen quen mà không nhớ đã gặp anh ở đâu. Hình như về phía anh ta cũng có một cảnh giác như vậy.

- Trước đây anh học ở đâu? - Tôi hỏi.

- Tôi du học Nhật Bổn tám năm. Tốt nghiệp đại học Yokohama lấy vợ rồi về nước năm 1972.

- Lấy vợ Nhật, sao anh không ở luôn bên ấy, về nước làm gì để rồi lại phải ra đi.

- Tôi thấy khó hoà nhập nổi với một xã hội đóng kín kiểu Nhật Bổn. Việt Kiều ở đấy rất ít nên không mấy bạn bè. Khí hậu không thích hợp với tôi một người sinh ra ở vùng nhiệt đới. Tôi thuyết phục mãi, vợ tôi mới theo tôi về Sài Gòn. Bây giờ lại phải hòa nhập vào xã hội Mỹ, con đường của tôi quanh co như vậy.

- Anh định sẽ làm gì ở đây?

- Có bằng kỹ sư hoá chất Nhật Bổn đến đây rất dễ kiếm việc. Tôi đã làm ở tổ hợp công nghiệp hóa chất California (C.C.C) để nghiên cứu chất độc chiến tranh.

Tôi chợt nhớ ra đã gặp người này trong labo của Hoàng Quý Nhân ở Vie du Château.

- Công việc đó có thú vị không anh? - Tôi hỏi.

- Tôi không hiểu ý anh hỏi về phương diện nào. Mọi công việc sáng tạo đều thú vị. Những phát minh dùng cho kỹ nghệ chiến tranh thường bán được giá cao gấp ba lần một phát minh tương tự ứng dụng trong đời sống. Có lẽ đấy là điều thú vị nhất.

- Tài năng của anh có lẽ chỉ ở đấy mới có điều kiện phát triển. Trình độ kỹ thuật ở Sài Gòn trước đây làm sao đủ phương tiện cho anh nghiên cứu.

- Đúng vậy. Những năm sống trong nước tôi étdue trên một quy mô nhỏ. Nhưng hồi đó cũng có lợi thế là được thí nghiệm trực tiếp trên cơ thể con người. Ở nước Mỹ điều kiện này khó khăn hơn nhiều.

- Thuê người thí nghiệm ở đây đắt lắm sao?

- Không phải tốn mà là bất hợp pháp. Hồi ở Sài Gòn nhiều tù binh, tù chính trị cộng sản. Chánh quyền sẵn sàng cấp cho chúng tôi hàng tá để tiến hành thí nghiệm đâu có phải thuê. Một công đôi việc, mình có lợi chánh phủ cũng có lợi.

- Suốt ngày tiếp xúc với hóa chất độc liệu có nguy hiểm cho người nghiên cứu không?

- Ồ, anh chẳng hiểu gì đến công việc của chúng tôi. Chắc anh hình dung nó giống như một nhà luyện đan hay một ông lang cao đơn hoàn tán! Không đúng đâu. Người phát minh tiếp xúc trước hết với sách vở, giấy bút. Sau đó là những cuộc quan sát qua màn ảnh. Công việc pha chế đều do robot làm trong buồng kính. Thành phần được đựng trong những dụng cụ bảo hiểm an toàn tuyệt đối. Hàng ngày anh tiếp xúc với thuốc men cũng là đụng tới hóa chất. Anh dùng sai liều lượng hoặc quên không làm test thì lọ trụ sinh cũng có thể giết gọn một mạng người. Đại thể hóa chất độc cũng vậy thôi. Nó nguy hiểm nhưng ta có những quy tắc an toàn, giống như tiếp xúc với lửa, với điện, với nhiên liệu phóng xạ vậy. Nếu có dịp xin mời anh lại nhà chúng tôi chơi anh sẽ được thấy cái thế giới kỳ diệu của chúng tôi qua kính phóng đại hàng vạn lần. Lúc đó anh sẽ thấy công việc của chúng tôi thật thú vị.

Buổi tiếp tân hôm đó cho chúng tôi một hình ảnh đáng chú ý. Những kẻ bại trận đang muốn vá víu lại lá cờ rách mướp. Việc làm cụ thể thì chưa biết ra sao nhưng ý định tập hợp lại trên phạm vi toàn cầu để gây rối cho quá trình xây dựng đất nước là hiện thực. Mấy vị khách có mặt ở đây cũng chỉ là số nhỏ trong cái mớ hỗn tạp của đám người lưu vong thôi. Hãy chờ đợi xem cái "hiến chương Cali" của họ ra sao.

Khi quan khách ra về hết cả, hai chúng tôi mới lại chuyện trò tự nhiên với nhau. Bạch Kim mỉm cười nhìn tôi:

- Hôm qua tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch cứ lẽo đẽo bám theo bà quả phụ Huỳnh Vĩnh Quốc lên tận buồng riêng đây! Anh có ghen không?

- Không? - Tôi cười - Anh luôn luôn tin tưởng em. Có chuyện gì vui kể nghe chơi.

- Y bắt đầu giở trò tán tỉnh ra và bị em cho một vố nên thân!

Kim kể lại cho tôi nghe mọi chuyện đã xảy ra. Tôi cười:

- Em nóng tính quá đấy! Một bà quả phụ xinh đẹp có quyền thừa kế một tài sản hàng triệu quan thì sự xuất hiện những kẻ tôn thờ là điều có thể giải thích được. Em nên nhớ đây mới là trường hợp đầu tiên. Em phải dịu dàng với họ và em sẽ thấy được nhiều điều lạ lùng.

- Toàn là trò giả dối. Hoàng Bảo Thạch đã hai lần li hôn và hàng chục vụ quyến rũ những người đàn bà nhẹ dạ. Lúc nào y cũng khoác bộ áo nghi lễ, thi ca, trang điểm một nét buồn cô đơn để khai thác tình cảm yếu mềm của phụ nữ. Nhưng khi đã đạt được mục đích, đã chán chường thì y trở thành một tên nhẫn tâm, phủi tay lật mặt rất nhẹ nhàng. Anh ta đã là khách ăn nhậu của nhà này hai chục năm nay rồi em lạ gì đâu.

- Ta đề phòng những động cơ xấu của anh ta không chỉ trong chuyện ái tình, chuyện tiền bạc mà quan trọng hơn là ở trong những ván bài chính trị sắp tới. Thông qua y ta có thể biết được nhiều sự thật.

Bạch Kim nói giọng buồn buồn.

- Anh định dùng mỹ nhân kế đấy à?

- Cách mạng không bao giờ dùng kế mỹ nhân. Với riêng anh thì lại càng không. Anh yêu em và không bao giờ chịu đổi em để lấy bất cứ thứ gì. Nhưng anh vẫn muốn em tỏ ra dịu dàng trong mọi cuộc đối thoại. Em có hiểu anh không?

- Em hiểu anh - Cô vòng cánh tay lên cổ tôi, gục đầu vào vai tôi một cách tin cậy.

CHƯƠNG V

CÔ HẦU PHÒNG CƯ XÁ OVERNIGHT

Lili không biết cha mẹ là ai, ông bà cô bác, quê quán ở đâu. Hình ảnh thời thơ ấu chỉ còn sót lại trong ký ức mờ nhạt của cô những vườn dừa, lá xuồng nhỏ, chiếc cầlt khỉ cheo leo qua dòng kinh, những bông trang, bông súng sáng lên như ngọn nến trong bầu nước xanh thẫm. Mạnh mẽ hơn là những tiếng nổ, biển lửa sôi réo tràn vào thôn ấp và hình hài người mẹ bê bết máu nằm bất động bên bầu nước.

Đứa bé hai tuổi được ném lên chiếc xe hồng thập tự nhà binh Pháp đưa về đồn Tân Mai. Khi biết không còn ai là thân nhân trong số người bị bắt, con nhỏ được đưa vào trại mồ côi Gia Định và sau đó là trường của hội từ thiện Thánh Đa-minh. Ở đây hàng trăm trẻ mồ côi được nuôi dạy đến tuổi trưởng thành.

Năm mười sáu tuổi, cô gái có dáng người cân đối chắc lẳn. Cặp mắt ướt như mắt ngựa với hàng mi dài và cong. Hàng lông mày đen và rậm, cặp môi đỏ mọng, hơi dày. Cái mũi thanh tú rất ăn với khuôn mặt trái xoan ửng hồng mỗi khi cười nói. Lili có vẻ đẹp nổi bật trong đám bạn bè nên người ưa cũng nhiều, kẻ ghét cũng lắm. Chúng đặt thêm cái đuôi vào tên cô bé. Lili lặng lẽ, vì cô ít nói. Lili lầm lì, vì cô bé có sức chịu đựng dồn nén những cảm xúc. Lili liều lĩnh, vì cô biết che giấu lòng căm giận rồi bất ngờ lao vào kẻ thù, mạnh mẽ quyết liệt như một trái nổ. Lili lẳng lơ, vì cô có cái nhìn long lanh, đắm đuối ướp đẫm dục vọng. Còn Lili lừa lọc, Lili lêu lổng thì hình như chỉ cốt để cho cùng vần hoặc đơn thuần để bôi nhọ mà thôi.

Lili chuẩn bị bước vào đời thì được cơ quan an ninh quốc gia đến tận trường tuyển lựa đi đào tạo một lớp điệp viên sơ cấp. Đúng ra nó mới chỉ là một lớp vỡ lòng trong ngành tình báo. Nội dung chỉ có mấy chủ đề. Tiến công thì có dò xét, nghe ngóng, ăn cắp, mua chuộc, mật báo... Phòng ngự thì có ngụy trang, đóng kịch, đánh lạc hướng, tung tin vịt, v.v. Sau hai năm Lili nhận được chứng chỉ tốt nghiệp và được điều về làm việc dưới quyền một người được gọi tên là ông Năm Oăn. Năm Oăn là ông "số dách”, ông trùm, ông sếp, ông số một "Number-one" - Một con người đẹp trai, lịch thiệp, mặc thường phục. Lili nhận việc của Năm Oăn không phải ở văn phòng mà lúc thì ở tiệm ăn, khi ở vườn hoa, ở rạp hát hoặc ở một tư thất mà ông Năm Oán bố trí.

Lili vẫn nhớ cái ngày đầu tiên bước vào nghề. Ông Năm dịu dàng nói:

- Em sẽ vào làm việc ở cư xá Overnight. Nơi đây dành riêng cho sĩ quan và viên chức Hoa Kỳ. Công việc của em là hầu phòng. Em sẽ lãnh lương như mọi người ở khách sạn, nhưng đồng thời em cung lãnh khoản lương thứ hai ở sở cảnh sát thành phố, nhưng được chuyển qua ngân hàng Tín Doanh. Những món tiền thưởng cho mỗi chiến công tôi sẽ trao tay cho em.

- Dạ, xin cảm ơn ông.

- Nhiệm vụ của em là thuộc mặt tất cả những người làm trong cư xá, những người có mặt thường nhật và những người có mặt định kỳ. Dần dần em phải nắm được nguồn gốc gia đình của họ. Em quan sát hành động hàng ngày, nghe chuyện trò giữa họ với nhau, nhất là những thứ họ đem theo vào đem ra khỏi cư xá, liệu đó có thể là chất nổ, chất cháy, chất độc hay súng đạn... không. Gần đây Vixi tăng cường đánh vào các điểm cư trú của người Mỹ, cư xá Overnight cũng đã có lần bị đánh bom. Em có trách nhiệm vô hiệu hóa những âm mưu này. Có kẻ nào muốn mua chuộc em em cứ nhận lời, dĩ nhiên là phải khéo léo. Thấy điều gì khẩn cấp em gọi điện cho tôi.

- Dạ.

- Em cũng có một việc nữa là phải theo dõi những người Mỹ và cả một số người ngoại quốc. Em phải chụp ảnh tất cả những người Việt đến gặp họ bất cứ người đó là ai. Đôi khi em còn có nhiệm vụ đặt máy nghe, chụp tài liệu hồ sơ của họ nếu tôi giao. Tại sao ta lại phải làm như vậy? Hoa Kỳ là bạn ta nhưng cũng có vài người trong bọn họ chống lại cuộc chiến tranh mà chính phủ họ giúp ta. Vì vậy ta phải biết để đề phòng. Nhưng việc này là tế nhì và tuyệt mật. Làm tốt em sẽ được tiền thưởng. Em tiết lộ bí mật cho người khác thì em phải chịu tội trước quân luật.

- Dạ.

Trong suốt thời gian Lili làm chỉ điểm không có vụ nổ nào ở cư xá Overnight. Lili chỉ mật báo hai nhân viên có hành động khả nghi. Đó là một tay đầu bếp và một ả giặt đồ dơ. Năm Oăn nhận báo cáo với vẻ mặt thờ ơ. Ông ta mỉm cười, không khen cũng không chê. Nhưng Lili đã chụp ảnh được rất nhiều người, thậm chí còn ghi được cả địa chỉ, tên tuổi của họ nữa. Bốn mươi ba lần Lili đặt máy ghi âm. Hai mươi tám lần chụp các giấy tờ cả người ngoại quốc mà cô ta không hiểu nội dung những thứ đó. Ông Năm Oăn khen ngợi và bao giờ lời khen cũng kèm tiền thưởng.

Làm trong cư xá đầy bọn sĩ quan, Lili cố giữ mình. Nhưng dần dần đô-la cũng quyến rũ được cô bé. Lúc đầu chỉ là những giờ xoa bóp cho nhưng cơ thể đầy lông lá, cuồn cuộn bắp thịt của bọn võ quan. Rồi sau đó Lili cũng liều ngậm thuốc để bán mình. Lili cố kiềm chế nhưng dục vọng cứ níu kéo cô xuống cái hố đen thăm thẳm. Lili hoàn toàn hình dung được những hậu quả lâu dài, nhưng cô gái không sao cưỡng nổi.

Đối với Năm Oăn đôi lúc Lili cũng phải có những nhượng bộ chiều theo sự ham muốn của ông "sếp", nhưng không phải thứ cho không. Năm Oăn bao giờ cũng sòng phẳng như người đi xe tắc-xi. Khi biết Lili dành dụm được số tiền gần đủ mua một ngôi nhà nho nhỏ trong hẻm. Năm Oăn liền ngỏ lời giúp đỡ ngay. Y bỏ thêm cho vừa đủ khoản chi để đẹp lòng người tình. Từ đó Năm Oăn đi lại đây với Lili gần như vợ chồng.

- Thực tình anh đã có vợ nhưng anh không yêu vợ. Anh muốn ly dị để suốt đời sống với em Lili ạ. Anh có đủ tiền để đảm bảo hạnh phúc cho em. Em sẽ không phải lo lắng gì cho tương lai.

Lili nửa tin nửa ngờ. Cô ta chưa hiểu chút gì về con người này ngoài bộ mặt đẹp trai và cái quyền lực bí hiểm bao trùm lên mọi công việc và cuộc đời riêng của cô.

- Sao em yên lặng thế? Bộ em không tin anh sao? Thì tùy em thôi. Anh yêu em nhưng anh không cưỡng bức em. Nếu em nói là không, thì ngoài công việc ra anh sẽ không bao giờ làm phiền em nũa. Em coi anh như đã chết rồi.

- Trời ơi anh nói chi mà nghe dữ vậy - Đã có bao giờ em từ chối anh đâu? Nhưng cái em không từ chối thì lại chẳng phải là tình yêu.

- Em yêu anh nhưng em sợ... Em ngán chuyện đổ bể trong gia đình anh. Chuyện ghen tuông, thù hận...

- Bây giờ chúng ta sống trong bí mật. Khi nào anh thu xếp xong cuộc ly hôn chúng ta sẽ công khai chung sống với nhau.

Tình trạng đó kéo dài cho đến đêm 29 tháng 4, cái đêm Lili sống trong lo âu và hoảng hốt. Không phải cô ta sợ vì đã từng là một con chỉ điểm. Cô ta cho rằng sẽ chẳng có ai biết chuyện đó. Hơn nữa trong suốt những năm hành nghề, Lili chưa chỉ ra được một Việt cộng nào. Hai lần phát hiện ra kẻ khả nghi thì hóa ra đều là mật vụ của Năm Oăn! Cuộc tình duyên vụng trộm với tên sếp cũng chẳng làm cô nuối tiếc. Cái sợ là mất việc, là thích nghi với cuộc sống mới ra sao. Còn ra đi thì chẳng biết đi đâu, bốn phương chẳng có ai thân thích mà mong nương tựa.

Gần nửa đêm Lili nghe chuông gọi cổng.

- Ai đó?

- Anh đây, mở cửa cho anh - Tiếng Năm Oăn cô nhận ra ngay.

Lili mở cửa cho chiếc Tôyota chui vào ga ra.

- Anh chưa đi sao?

- Đi đâu thì cũng phải có em, anh đi một mình sống sao nổi.

- Còn gia đình anh?

- Đi cả rồi. Từ nay chúng ta sống tự do bên nhau, không ai làm phiền chúng ta nữa!

- Ở lại anh không sợ Việt cộng trả thù sao?

- Sợ chứ, nhưng muộn rồi. Em thấy còn hàng ngàn người đứng trước sứ quán Mỹ, trước cổng sân bay xin đi theo.

- Nếu em muốn thì chúng ta sẽ thử đi một lần xem. Được thì tốt nhất, nếu lỡ ta đành quay lại rồi tính sau.

Hai người thu dọn đồ đạc trong xe vào nhà.

Bốn giờ sáng đã nghe tiếng đại bác bắn ầm ầm phía Biên Hòa, phía Thủ Dầu Một, phía Củ Chi và cả phía Mỹ Tho. Đôi lúc có cả tiếng liên thanh rộ lên từng tràng mờ nhạt lẫn vào tiếng động ầm ầm của bình minh thành phố. Năm Oăn và Lili xách mấy chiếc vali ra xe, khóa cửa rồi phóng về phía sân bay Tân Sơn Nhất. Cảnh hỗn độn đã bớt hơn hôm qua nhung lại đáng sợ hơn. Sự suy giảm đó chứng tỏ nỗi tuyệt vọng đã xua đuổi đám người chờ đợi. Không thấy một ai len nổi qua được hàng cự mã trước mặt bọn Hải quân lục chiến Mỹ gác. Khi hai chiếc "hiệp sĩ biển cả" nhấp nháy đèn đỏ bay trên đầu, họ đã thấy những loạt súng bắn lên, đạn kẻ đỏ bầu trời. Không phải súng Việt cộng mà của mấy cậu lính ngụy bị bỏ rơi tức khí nổ súng bắn theo cho đỡ hận.

- Hay ta quay lại phía sứ quán? - Lili gợi ý.

- Thì quay lại.

Phải khó khăn lắm Năm Oăn mới quay nổi xe.

Trước sứ quán Mỹ tình hình càng bi thảm. Hôm nay nỗi tuyệt vọng được biểu hiện bằng những tiếng gào thét, kêu khóc thảm thiết, tiếng chửi thề và váng tục. Cửa sứ quán đóng im ỉm, lại còn bị che kín để không nhìn thấy gì bên trong. Những bức tường cao quét tráng đứng sừng sững ngăn cản mọi cố gắng vượt qua. Trên nóc nhà mấy người Mỹ đi lại quay phim chụp ảnh đám người hỗn loạn đứng kín lòng đường, nhìn những chiếc xe bóng lộn bị phóng hỏa. Những chiếc trực thăng tiếp tục hạ xuống nóc nhà nuốt vội số khách bên trong sứ quán. Có lẽ đó là những chuyến trực thăng cuối cùng.

Năm Oăn kéo Lili.

- Thôi về!

Lili nhảy lên xe. Khi chiếc Toyota bị tắc lại trên đường Hai Bà Trưng thì Năm Oăn đã nghe tiếng rú của xe tăng nhưng không thấy tiếng súng nổ. Y đỗ xe bên đường nhìn về phía cầu Thị Nghè thì thấy dân chúng đổ kín lòng đường. Cờ Giải phóng, từ các cửa sổ, từ nóc nhà, từ các hẻm... nở bùng lên. Chiếc xe tăng đầu tiên hiện ra phun khói xanh, nòng pháo, nòng trọng liên nâng cao lên không bắn. Những người lính ngồi quanh tháp pháo tươi cười vẫy vẫy quần chúng. Một cuộc hành quân hòa bình, không có sự kháng cự nào nữa. Trong lòng Năm Oăn trào lên một nỗi chua xót, đau đớn và căm giận. Ôi cái đám dân chúng đê tiện kia. Mới cách đây vài ngày thì sao chúng im lặng thế, ngoan ngoãn thế. Chúng thừa biết giá mỗi lá cờ kia là một bản án tù chung thân, thậm chí giản dị hơn, một viên đạn, một nhát lê. Thế mà bữa nay chúng lôi đâu ra lắm thế. Y cứ ngồi như vậy khi đoàn xe tăng diễu qua trước mặt để quan sát làn sóng cờ tràn qua chỗ y. Y quay sang bên thấy Lili giơ tay lên vẫy với một nụ cười thực sự vui vẻ. Năm Oăn bỗng thấy kinh tởm, y muốn nhổ nước miếng nhưng không biết sao y lại cố nuốt cái kinh tởm đó đi vẻ mặt xám ngoét của y bỗng thay đổi. Y giơ tay lên vẫy vẫy một cách gượng gạo...

Năm Oăn lái xe vào ga-ra, xách va-li lên gác, lục ra một gói giấy tờ đốt luôn trên chiếc gạt tàn. Một số nữa y để vào nơi dễ thủ tiêu khi tình thế cấp bách. Y mở chai Whisky uống một li rồi nằm lăn ra ngủ.

Bốn ngày, rồi năm ngày không có ai đến xét hỏi. Cuộc sống trở lại bình thường. Riêng với bọn trẻ, nhất là trẻ con chúng đón chào cách mạng với một nhiệt tình sôi sục. Chúng coi cách mạng là của chúng, lịch sử thuộc về chúng. Không có cuộc tắm máu tập thể, không có trả thù, nhưng Uỷ ban Quân quản ra lời kêu gọi viên chức và sĩ quan chính quyền cũ ra trình diện. Y nhìn thấy nhiều sĩ quan mặc quân phục deo cả cấp hàm phù hiệu nghiêm chỉnh ra bàn đăng ký, nhưng y thản nhiên coi đó là công việc của người khác. Lúc này y chỉ là người lái xe bình thường với cái tên Lê Văn Oăn chứ dấu còn là đại tá cảnh sát Hoàng Quý Nhân mà phải ra trình diện.

Chỉ vài tuần sau Hoàng Quý Nhân đã lấy lại được trạng thái tâm lý bình thường, bộ râu dài, tỉa xén công phu, mải tóc kiểu "phi-lô-dốp", đeo kiếng hai tròng màu xanh làm cho y hơi già hơn và... hiền lành hơn. Liếc nhìn mình trong guồng thật đã hệt như bức ảnh trên căn cước giả, lúc đó y mới yên tâm bước ra đường. Y đi khắp nơi, để ý mọi thứ, nghe ngóng, thăm dò xem lại những bộ mặt quen thuộc ai đi ai ở. May mắn sao những kẻ quen biết y đều đã ra đi hoặc lẩn đâu mất cả. Không ai chú ý đến y. Công an chẳng thèm hỏi giấy y, đơn giản hơn là nhắc nhở y phải tuân theo thứ luật lệ nào đó của nền trật tự mới mà trước đây y quen gọi là trật tự sau bức màn sắt. Nỗi lo sợ duy nhất còn tồn tại trong y là Phan Quang Nghĩa bây giờ làm gì? Ở đâu?

Lili vui vẻ mở cửa đón chồng. Cô muốn biết sau ba tiếng đồng hồ đi thị sát tình hình thì cảm tưởng của anh ta ra sao.

- Trước mắt thì vẫn có thể sống được - Năm Oăn gật gù nói - Nhưng khi đã xài hết bộ đồ cuối cùng, chiếc ti-vi, chiếc tủ lạnh cuối cùng, máy móc, xe cộ, chai Champagne cuối cùng thì tình hình sẽ đáng sợ đấy.

- Anh và em sẽ tìm việc làm. Có việc thì chúng ta sẽ sống như xưa.

- Em ngây thơ quá đấy - Sống như xưa đâu có được.

- Em chỉ mong một cuộc sống vừa đủ, chỉ cần có anh ở bên. Em sẽ chi tiêu tần tiện...

Năm Oăn cười vang rồi nhìn vợ một cách thương hại. Cưng không phải lo, cô Lọ Lem của anh. Số tiền mà anh có đủ cho hai ta sống đến trọn đời không phải làm gì. Anh muốn nói chung cả cái xã hội này kia.

Lili không quan tâm đến những cái rộng lớn đó.

- Em chỉ cần có anh thôi. Bây giờ anh là của riêng em. Chẳng có gì làm em lo lắng cả.

Y vuốt ve vợ, không nói gì rồi đứng dậy đi lên buồng riêng. Y đang theo đuổi một ý nghĩ khác.

Sự đổ vỡ quá nhanh chóng khiến cho phía bại trận không chuẩn bị được tí gì gọi là kế hoạch hậu chiến. Việt Nam Cộng hòa thì đã đành, ngay Mỹ cũng trắng tay. Cứ đà này thì một nước Việt Nam thống nhất với số dân ngang tầm nước Anh, nước Pháp sẽ giữ một vai trò chiến lược rất quan trọng ở vùng Đông Nam Á. Đâu có thể bỏ trống một vùng như vậy được. C.I.A sẽ phải làm lại từ đầu trong điều kiện khó khăn gấp trăm lần. Hoàng Quý Nhân có cái hứng thú say mê sưu tầm. Những người sưu tầm lúc - đầu thường xuất phát từ hứng thú, từ những niềm vui nhỏ bé vụn vặt. Họ bòn góp, trao đổi, nhặt nhạnh; săn đuổi kiên trì suốt đời để có được bộ sưu tập. Có khi chỉ là những thứ rất bình thường: con tem, nhãn hiệu, bật lửa, chuông cong, v.v... đến những thứ đắt tiền như nhạc cụ, tranh vẽ, phù điêu, đồ cổ... Một lúc nào họ sẽ bất ngờ hoặc dần dần ý thức được những thứ đó đã trở thành một tài sản khổng lồ, thậm chí vượt qua tất cả thành quả lao động khác trong cuộc đời của họ. Và cũng có thể bộ sưu tập đó chẳng đáng giá là bao ngoài sự đáp ứng niềm vui thầm lặng.

Hoàng Quý Nhân thích sưu tầm danh sách điệp viên, mật khẩu, mật ngữ hay nhưng bộ khóa mật mã... Đây là một cuộc săn đuổi thầm lặng kiên trì nhưng liều lĩnh, nguy hiểm và đầy lãng mạn, chẳng kém gì nhưng kẻ bắn trộm voi ở Hạ Lào, kiếm sừng tê giác ở Nigieria, câu cá sấu ở sông Amazôn, bẫy gấu trắng ở Bắc Cực, hay đánh cá voi xanh ở Nam Thái Bình Dương. Đó là nhưng thú vui không thể đem ra khoe mẽ, chia sẻ cùng ai, kể cả vợ con thân thiết. Nếu tìm đúng khách bán đúng thời gian thì nhưng bộ sưu tập này là vô giá, bởi lẽ nó không những được đo bằng vàng mà còn đo bằng máu.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất (1946-1954) Hoàng Quý Nhân mới bước vào nghề mà y đã kiếm được một bộ sưu tầm kha khá. Bản mật danh 2B vừa đánh đổi được mạng sống cho cha hắn, vừa đánh lừa được Bop Edison để kiếm hàng ngàn đô-la. Nhưng không sao có thể so sánh được với bộ sưu tập lần này của y. Tuy không làm việc cho CIA nhưng Hoàng Quý Nhân đã có trong tay bản mật danh mật ngữ không kém gì bản của Sneff phải ném vội vào "lò thiêu” trong cải ngày rút chạy cuối cùng. Dĩ nhiên là CIA vẫn còn bản gốc nằm trong bộ nhớ của máy tính điện tử đặt ở trung tâm lưu trữ Blackhouse. Nhưng làm sao họ có thể với bàn tay da trắng vào hàn gắn những rạn nứt to lớn sau "trận động đất 30 tháng 4"? Không một tên nào trong bọn họ làm nổi việc này vì bộ máy đó hoạt dộng theo nguyên tắc chỉ có một liên hệ đơn tuyến duy nhất.

CIA sẽ hiểu nổi nếu bản mật danh rơi vào tay Cộng sản thì đây sẽ là thảm họa thứ hai sau thảm họa 30 tháng 4. Tất cả công trình bí mật xây dựng mấy chục năm của họ sẽ bị quét sạch. Họ sẽ phải đi từ con số 0.

Nếu CIA tỏ ra không biết người biết của thì y có thể bán bản mật danh này cho Cộng sản. Nhưng y lại cười thầm: "Cộng sản đâu đủ tiền để mua. Có chăng họ tha cho mình tội chết rồi cấp cho mình cái giấy khen là hào phóng lắm rồi? Mình chưa quen biết thị trường này trừ một lần tiếp xúc với Phan Quang Nghĩa. Nhưng chắc gì Nghĩa là người của Cộng sản? Dù sao thì cũng phải thăm dò, cũng phải sưu tầm về họ. Hiểu được họ mình sẽ định được giá của mình mà không sơ hở. Cùng quẫn thì cũng phải bán tháo cho họ để tự cứu mình".

Hoàng Quý Nhân còn có cái hứng thú thứ hai là buôn bạch phiến. Mãi tớii cuối những năm 60 Nhân mới bước vào nghề này. Lúc đầu y chơi cò con, buôn đầu chợ bán cuối chợ. Nhưng khi quân Mỹ rút về nước, đem theo cái dịch ma túy vào Hoa Kỳ thì đã có thêm hàng chục cecret connections: Sài Gòn - Washington, Sài Gòn - Guam, Sài Gòn - New York, Sài Gòn – Los Angeles... chuyển cái chất "lâng lâng khoái lạc" vào thị trường béo bở này. Nhân đã ở trong băng của Kỳ. Dĩ nhiên là thu nhập khá, nhưng "chung voi với đức ông thì chỉ có cưỡi đít". Kỳ xơi tám chín. Nhân chỉ được một hai. Trong khi đó Nhân phải đứng mũi chịu sào, luôn luôn bị băng Thiệu đe dọa. Nhân quyết định lẩn đi làm ăn một nịnh. Nhân gài bẫy để bắt chim mồi. Bảy Dĩ sa lưới với toàn bộ tang chứng trong tay. Dĩ là người của CIA, Nhân biết, Bảy Dĩ lạy van xin hối lộ. Nhân gạt đi và quyết định truy tố trước tòa. Dĩ hoảng hồn vì ra tòa với mười ki-lô bạch phiến là vừa chẵn hai cái án tù chung thân. Dĩ đành thú nhận là người của CIA, y chuyển những thứ này cho Wareens và xin Nhân vì Warrens mà tha cho Dĩ. Nhân chỉ đợi có thế. Nhân chưa được biết mặt Warrens nhưng đã nghe nói đến thế lực của người Mỹ này. Nhân nếu ra điều kiện hợp tác với Dĩ. Dĩ được Nhân cứu, hàm ơn y và lại còn tìm được một lỗ thủng trong bức tường ngàn chặn của cảnh sát, y mừng quá. Thế là cả hai đều có lợi. Một đường dây Phủi thăn (Viếng Chăn) – Quý Nhân - Bảy Dĩ (Sài Gòn) – Warrens rồi đi đâu thì không ai biết, được hình thành. Nó hoạt động nhộn nhịp tới mức át cả những đường băng danh tiếng trước đây. Nhưng tiếc thay, chiến tranh chấm dứt quá sớm?

Nếu bây giờ tạo được lột đường dây như thế vẫn có cơ làm ăn to. Vùng "tam giác vàng" bị phong tỏa rất chặt ở ai cạnh Thái Lan và Miến Điện. Bắc Lào chắc còn nhiều khoảng trống. Nếu cả ba nước Đông Dương lọt vào tay Cộng sản thì khó khăn đấy. Nhưng trước mắt tình hình Lào chưa ngã ngũ thì lại nhiều thuận lợi. Trong lúc tranh tối tranh sáng này mà ta lập được đường dây Thượng Lào - Viên Chăn – Savanakhet - Đông Hà - Sài Gòn; hoặc Vân Nam - Lao Kai - Hà Nội - Sài Gòn, hoặc theo dòng chảy sông Mékông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ta chuyển ra lửa biển cho Warrens, hoặc là lập một cái chợ trời ngoài biển. Nó chẳng thuộc quốc gia nào, thật tuyệt vời! Thời vận thì biết thế nào được. Cái ngẫu nhiên sẽ len lỏi qua muôn trùng cái tất nhiên!... Những khát vọng cứ bùng lên rồi lại tan đi trong tưởng tượng. Hoàng Quý Nhân đang cố tìm ra những kỳ tích mới.

Y với tay lấy chai rượu nhấm nháp một li rồi mở cuốn sổ, phác ra những lược đồ, những ký hiệu nhằng nhịt mà không ai hiệu nổi.

Ngôi nhà nhỏ của Lili nằm trong hẻm 42. Cổng mở, xe hơi nhỏ có thể qua sân chui thẳng vào tầng trệt. Gian trong là phòng khách. Sâu nữa là bếp núc, toa-lét và cầu thang. Ở tầng một cũng có ba buồng. Một hành lang nhỏ tạo cho các buồng cuộc sống độc lập, tiện nghi riêng biệt. Trên cùng là một buồng "chuồng cu”, còn lại là sân thượng được căng lưới mắt cáo dày để chống muỗi bốn xung quanh. Trong sân bày la liệt hàng chục chậu địa lan, bông sứ, bông lài...

Hai vợ chồng ở chung một buồng, có máy điều hòa nhiệt độ, có toa-lét, có lô-gia và cả ban công. Nhưng Quý Nhân vẫn lấy một buồng riêng trên lầu thượng để làm việc. Y giữ chìa khóa và mỗi lần Lili vào đều có mặt chồng trong buồng, Lili lầm lì chứ không tò mò nên hầu như cô ta không mấy khi leo lên. Nhân nói đùa.

- Buồng đó anh thờ ma xó cưng à. Ngán không?

- Ma xó là gì anh Năm?

- Em không hiểu à? Hay là buồng Yêu Tinh Râu Xanh cũng được.

- Trời, đẹp trai thế này mà kêu là Yêu Tinh Râu Xanh ai chịu.

Quý Nhân cười mở cửa đưa vợ vào. Chỉ có cái bàn, cái ghế, bức tranh "chiếu bạc”, cái ra-đi-ô, đống sách, mấy pho tượng bằng gỗ, bằng sứ xinh xinh là mới đưa vào, còn mọi thứ khác đều đã có từ hồi mới mua nhà.

- Tưởng để tiền bạc chi chớ mấy thứ này có chi là quý báu mà không cho em vô.

Tiền bạc giao cho cưng hết trọi rồi. Đây là phòng làm việc. Khi anh đang làm việc ở đây thì bất cứ khách nào đến em đều phải báo cho anh rồi mới mở cửa nghe cưng.

- Dạ - Cặp mắt Lili nhìn chồng như chứa đựng một dấu hỏi.

- Anh đang học ngoại ngữ. Nếu ở đây không sống nổi chúng ta sẽ ra đi Lili ạ. Anh không thích mọi người biết chuyện này, tránh họ làm phiền mình. Thế thôi.

- Dạ, em hiểu.

Một lần hai vợ chồng ngồi trong một tiệm ăn ở phố Trần Nhân Tôn, Nhân bấm vợ, liếc mắt sang một người ở bàn bên trái và hỏi nhỏ.

- Em có nhận ra gã kia không?

Lili quay sang, im lặng vài giây và cô đã xác định ngay được đối tượng.

- Dạ có - Em đã chụp ảnh ông ta ở cửa cư xá Overnight khi Mc Dovan ra nhận với lính gác cho ông ta vào cư xá.

- Em có nhớ tên không?

- Dạ không. Nhưng sau ông ta là chiếc Datsun có rõ cả số.

- Trí nhớ em tốt lắm.

Trả tiền xong hai người đi lướt qua dãy xe đậu ngoài của tiệm. Y tìm ra chiếc Datsun màu đen. Vẫn biển số cũ B.14206. Một lần khác trong tiệm Mỹ Cảnh Lili chỉ cho chồng một người đàn ông to béo, mặt nhẵn bóng, không có râu, lông mày thưa đội chiếc mũ lưỡi trai trắng sụp xuống nửa mặt, đang ngồi bên một cô gái trẻ mặt bự phấn.

- Ba Heo đó, anh nhớ gã không?

- …? Quý Nhân im lặng lắc đầu.

- Em chụp được tấm ảnh y trao cho William Crowson cuốn Man Man. Anh bắt em chụp cho anh "tài liệu” đó nhưng chẳng có gì quan trọng: Anh bực mình quăng cho em cả tập ảnh khỏa thân và gắt: "Những thứ này chỉ để dùng cho cô thôi."... Nhớ chưa?

- À à… Nhớ ra rồi.

Thì ra những cuộc đi chơi chẳng phải là vô ích. Không bao lâu Hoàng Quý Nhân đã lựa ra một danh sách kha khá trong bộ sưu tập. Y quyết định một cuộc săn đuổi trực diện những "con mồi" trên. Thực chất là y bắt tay vào sửa chữa, thay thế, bơm tiếp nhiên liệu vào cái bộ máy CIA tinh vi rồi khởi động lại nó, biến nó thành tài sản của y. Việc làm đó là rất nguy hiểm. Y đi một mình với đầy đủ phương tiện tự vệ. Biết đâu chẳng có những kẻ vì quá yếu đuối tâm thần, quá hoảng sợ mà làm liều.

Quý Nhân chờ một bữa Ba Heo ngồi một mình trước ly cà phê. Nhân đến lễ phép.

- Xin lỗi, ghế này có ai ngồi chưa ạ?

- Xin mời ông, ghế vắng đấy ạ.

Sau khi châm thuốc hút, quan sát phòng ăn một lượt y nhìn thẳng vào mắt tên béo nói nhỏ.

- William Crowson muốn gửi quà cho ông.

Lão béo giật mình, mặt hơi biến sắc một chút, nhưng y cố lấy lại được bình tĩnh.

- Tôi không quen Crowson nào, ông để tôi yên.

- Không quen, thôi được nhưng đừng nóng nảy như vậy. Người ta nuôi ông chỉ cần ông trong lúc này thôi. Ông quên cả thứ này chứ?

Quý Nhân đưa cho Ba Heo tấm ảnh làm tình cắt đôi in trên tờ Man Man.

Tên béo kín đáo lục trong ví ra nửa còn lại. Khớp vào nhau hai mảnh lệch 2mm.

- Đẹp chứ? - Quý Nhân mỉm cười hỏi lại.

- Đẹp - Tên béo yên tâm trả lời. Chúng đổi mật hiệu cho nhau và cất đi. Uống gần hết ly cà phê tên béo mới hỏi.

- Ông là ai?

- Xin cứ gọi tôi là Năm. Tôi là đại diện của Crowson. Từ giờ phút này ông làm việc dưới quyền tôi. Ở đây không cho phép ta nói nhiều. Hẹn mười chín giờ ba mươi ngày mai ở đường Bạch Đằng, trước số nhà 124. Nhớ đem theo chứng chỉ. Tôi thu để cấp loại khác.

Tối hôm sau cả hai đã đến đúng hẹn. Chúng chọn một ghế đá bên bờ sông Sài Gòn.

- Anh Năm à, tôi chưa thể hình dung công việc sắp tới của chúng ta ra sao. Trước kia tôi có nhiệm vụ dò la tin tức, theo dõi những phần tử chống Mỹ trong các giới thương gia, trí thức, phát hiện Việt Cộng và cơ sở của chúng là công sở cũ của ta. Tên tuổi của chúng ai cũng biết, vậy thì mật báo cái mẹ gì?

- Trước mắt anh phải xin vào làm việc ở một cơ sở hạ tầng của chánh quyền mới. Tốt nhất là anh lọt được vào Cảng. Anh chăm chỉ ngoan ngoãn để lấy được niềm tin. Crowson chưa giao việc nhưng vẫn trả lương anh như cũ ở ngân hàng New Jersey. Anh cần tiêu ngay có thể lĩnh bằng vàng qua tôi. Cấp trên sẽ đảm bảo quyền lợi cho anh nếu anh vẫn trung thành.

- Dạ.

- Còn nhiệm vụ sắp tới sẽ được chỉ vẽ đúng lúc. Anh chỉ việc chấp hành. Chúng ta đang đứng trước một thay đổi to lớn. Nhưng nhiệm vụ của ta vẫn là chống Cộng. Xưa kia anh giấu mình thì nay phải giấu kỹ hơn. Trước kia ta hướng vào phòng ngự, vào phản gián thì nay phải hướng vào tiến công phá hoại, vào điệp báo. Trước kia ta chỉ chú trọng quân sự, chánh trị thì nay chú trọng toàn diện cả kinh tế, tài chính, văn hóa xã hội... Trước kia anh bắn vào mặt Việt cộng thì nay anh phải bắn vào làng. Trước kia anh theo dõi cả bạn bè thì nay anh vẫn khống chế họ, khuyến khích họ trung thành với lý trưởng tự do. Và nếu họ phản bội, họ bán mình cho chế độ mới thì anh sẽ phải mời họ lên thiên đường sớm hơn để họ đỡ vướng chân chúng ta.

- Dạ tôi hiểu.

- Về tổ chức, về phương pháp hoạt động sẽ phải thay đổi cho thích nghi với hoàn cảnh mới. Bất cứ sự khinh xuất nào cũng có thể dẫn tới tổn thất, tới thảm họa. Đường dây liên lạc, điểm hẹn, hòm thư mật ngữ, mật hiệu, mật mã, điện đài đều phải thay đổi và tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt, kỷ lật rắn chắc như thép.

- Dạ.

- Chứng chỉ cũ của anh phải làm lại. Anh nộp cho tôi để đổi cái mới. Tổ chức của chúng ta sẽ thanh lọc cho trong sạch và sẽ thủ tiêu hết bọn hèn nhát thối trí.

- Dạ.

Sau khi Ba Heo đưa lại cho Nhân mảnh chứng chỉ nhân viên CIA, chúng tạm biệt nhau.

Hoàng Quý Nhân đã lần lượt đến gặp những nhân vật được lựa ra từ bộ sưu tập. Nhưng không phải lần nào cũng gặp may mắn.

Cái tên có chiếc xe B.14206 đã phản ứng quyết liệt, không thèm để ý gì đến mật khẩu Nhân đưa ra. Y dọa nếu còn bị khiêu khích thì y sẽ làm tới, sẽ kéo Nhân ra toà. Có lẽ y định đào nhiệm. Tình thế đó buộc Nhân phải rút lui nhưng chưa chịu bỏ mồi.

"Được mày cứ quẫy đi. Đã cắn vào cái móc câu của CIA thì tháo ra khó lắm. Càng quẫy càng móc sâu, càng đau con ạ" - Quý Nhân mỉm cười một mình với những ý nghĩ độc ác. Kể từ đó y không rời bóng tên dao động và chiếc Datsun bóng lộn của hắn. Nhân nhận định trong trường hợp này càng phải săn lùng không để đối thủ có ảo tưởng là sẽ thoát. Đâm lao phải theo lao. Để một tên phản bội biết mặt mình là vô cùng nguy hiểm. Y tra cứu lại bộ sưu tập và biết Doãn Kế Lâm ngụ ở 15E Tự Đức. Y phải tiến hành một công việc mạo hiểm nhưng cần thiết. Y bảo Lili:

- Chúng mình đến nhà Doãn Kế Lâm đi.

- Không quen biết, đến làm chi cho mất thì giờ.

- Trước lạ sau quen! Hay em chờ anh ngoài xe, mình anh vào thôi - y đưa cho Lili khẩu Révolver nhỏ xíu - Em chỉ nổ súng khi anh bị de dọa thực sự.

- Trời! Anh vẫn còn giữ những thứ này sao - Mặt Lili tái xanh.

- Sẽ chẳng có chuyện gì đâu - Nhân cười - Anh cũng muốn sống hòa bình. Nhưng thằng cha này biết mặt chúng ta. Anh phải bảo nó không được bép xép. Muốn nó vâng lời thì phải có cái gì cho nó nể. Thế thôi.

Chiếc Toyota được thay biển số đỗ bên phía số chẵn chếch cửa nhà 15E hai chục mét. Ngồi bên vòng lái nhìn thấy mấy khuôn cửa tầng trên đèn sáng lấp ló san vòm cây hoa xác pháo. Quý Nhân xuống xe đi một đoạn rồi rẽ sang đường. Y nhìn đồng hồ (hai mươi giờ mười lăm), rồi bấm chuông.

- Ai hỏi chi đó? - Tiếng phụ nữ vọng ra.

- Dạ tôi. Tôi muốn đến thăm ông Lâm. Xin cô làm ơn đưa giúp tôi tấm danh thiếp.

Doãn Kế Lâm nhìn qua, danh thiếp đề kỹ sư Hoàng Văn Luận. Ngần ngừ một chút y bảo người hầu gái:

- Mời ông ta vào phòng khách.

Quý Nhân điềm tĩnh bước vào căn phòng rộng tràn đầy ánh sáng. Lâm bước ra và y giật mình. Không phải kỹ sư Luận mà là cái tên tìm bắt liên lạc với y một tuần trước đây. Lâm không bắt tay, vẻ mặt khó chịu chỉ xuống ghế:

- Mời ông ngồi. Té ra lại là ông.

- Vâng chính tôi. Tôi cũng chẳng muốn tiếp kiến ông làm gì một khì ông đã không thích. Nhưng xin ông cho phép tôi nói chuyện hòa bình với ông lần cuối cùng.

- Ông có thể bắt đầu đi.

Lâm khép cửa lại, mở nhạc rồi nhìn Nhân bằng cặp mắt đe dọa. Trái lại Nhân tỏ ra nhún nhường thu mình lại, thành thật.

- Mc Dovan rất tiếc là ông đã quên ông ta. Dovan trả lại ông tấm ảnh và xin lại ông cái chứng chỉ D4K2L3, coi như ông đã hủy bỏ hợp đồng và ông ta sẽ không đảm bảo mọi quyền lợi và an ninh cho ông nữa. Tài khoản của ông ở ngân hàng New Jersey sẽ đóng lại. Người ta sẽ chuyển toàn bộ khoản tiền đó lại cho Mc Dovan coi như tiền bồi thường về hành động tự ý hủy bỏ hợp đồng trước hạn.

Nhìn tấm ảnh đặt trên bàn Doãn Kế Lâm không còn đường nào lẩn tránh. Y hoàn toàn thất vọng và lúng túng. Y chỉ có thể đào nhiệm khi chính Mc Dovan để mất y thôi. Điều ngược lại thì không được. Y đã hiểu được sự cắt bỏ hợp đồng trước thời hạn có nghĩa là phản bội.

- Thôi được, tôi sẽ tiếp tục làm hết hợp đồng này.

- Nhưng bây giờ thì đã muộn rồi - Quý Nhân làm cao - Việc ông không đáp lại mật khẩu làm Mc tức giận. Trong tình thế hiện nay ông ta đòi hỏi luộc kỷ luật sắt.

Doãn Kế Lâm ngồi lặng im. Ít phút sau y quay lại với người khách lạ, vẻ thân tình:

- Đồng nghiệp có thể cho tôi một lời khuyên được không?

- Ông hãy cứ chấp hành mệnh lệnh này. Ông đưa cho tôi tờ chứng chỉ. Thực ra nó cũng sắp phải hủy rồi. Người ta sẽ cấp cho ông cái khác. Tôi sẽ báo cáo với Mc là hôm tôi bắt liên lạc ở chỗ đông, sợ có "đuôi” nên anh cẩn thận không muốn tiếp. Tình thế chung của chúng ta hiện nay là phải cảnh giác gấp trăm lần xưa kia. Vì tình đồng sự tôi sẽ làm cho Mc vui lòng.

Lâm đứng dậy vào buồng trong lấy mảnh chứng chỉ nhỏ xíu đưa cho Nhân.

- Cảm ơn anh. Xin anh coi cuộc trao đổi hôm nay không phải là sự đoạn tuyệt.

- Tôi cũng phải cảm ơn anh vì anh đã giúp tôi hoàn thành một công vụ hoàn hảo. Giả sử như anh vẫn khăng khăng không chịu chắp nối thì không biết Mc Dovan còn bắt tôi phải làm những gì tiếp theo nữa. Tôi mà không làm thì số phận tôi sẽ ra sao? Chúng ta chỉ có thể dựa vào nhau mà sống thôi anh Lâm ạ. Thôi xin chào anh. Tôi xin đem danh dự ra bảo vệ an ninh cho anh. Mong rằng anh cũng sẽ vẫn trung thành với sự nghiệp của chúng ta.

Lâm với chai rượu rót ra ly mời Nhân nhưng Nhân từ chối. Lâm nháy mắt nhìn Nhân và nhún vai. Cả hai đứng dậy. Lâm tiễn Nhân ra cổng, bắt tay nhau. Cánh cửa hé mở Nhân lẻn ra rất nhanh. Chiếc Toyota nổ máy. Y nhảy lên, liếc nhìn quanh xem có cái "đuôi" nào không. Xe lướt qua đám đông ra phía Sở Thú rồi phóng nhanh trên đường 30 tháng 4.

Một bữa Hoàng Quỷ Nhân đến bắt mối với Chín Hủi. Chín nguyên là một phế binh ngụy. Hắn bị cụt hai ngón tay không phải vì bệnh cùi bệnh hủi mà vì trúng đạn Việt Cộng hay do hắn tự ý chặt đi để khỏi phải ra trận, nhưng hắn rất nổi tiếng. Hắn luôn luôn dẫn đầu cái đám biểu tình của các phe phái kình chống nhau trong chế độ cũ. Người ta thuê hắn vào những việc khiêu khích la hét, đập phá đe dọa, ăn vạ, vu cáo, bôi nhọ... Một phần hắn ỷ vào cái danh hiệu thương phế binh đổ máu vì Tổ Quốc, mọi người phải tri ân hắn. Phần hắn dựa vào những người chủ có vai vế trong giới chính khách hứa bảo vệ hắn nên hắn rất yên tâm. Chín Hủi còn là dân anh chị ở khi Vân Đông cầm đầu một băng cướp, một công ty hành hung trả thù, ám sát nên ngay cả cảnh sát cũng phải kiêng nể. CIA đã dùng tên này để tìm hiểu những hành động cụ thể của các phe phái để đạo diễn những tiết mục ly kỳ trên sân khấu chính trị. Những cuộc biểu tình do Chín Hủi dẫn đầu thường là để làm lạc hướng đấu tranh, xuyên tạc mục đích, gây rối để cảnh sát có cớ khủng bố đẫm máu. Chín Hủi cũng phải đóng vai cái bị thịt cho cảnh sát đấm đá, cũng bị bắt vào tù nhưng vẫn được đảm bảo an toàn. Nay Nhân muốn dùng con bài này vào những nhiệm vụ phá hoại gây rối hoặc vật thí mạng thôi chứ Nhân không tin Chín Hủi có thể làm được công việc gì quan trọng.

Trong một tiệm ău nhỏ, Chín Hủi ngồi ngửa trên ghế tựa. Đầu trọc, mặt đen, bộ phận nào của cơ thể cũng dài ngoằng như những bức tranh minh họa Đôn Kihôtê. Trên mặt bàn là chai rượu đế, li bia, đĩa đồ nhắm và hai bàn chân bẩn thỉu của y. Chín Hủi cho cả nắm hạt dưa vào mồm chỉ một loáng y đã phun phù phù hàng nắm vỏ giống như cái quạt hòm phun trấu. Y thích ngồi nhậu lai rai một mình.

Hoàng Quý Nhân mon men đến ngồi cạnh đưa bao thuốc ba số và chiếc bật lửa xuống bàn. Chín Hủi liếc nhìn ông khách mặc sang trọng ngồi cạnh. Cặp môi dày thâm sì của y nở nụ cười thân thiện. Nhân cũng mỉm cười đáp lại. Không đợi Nhân mời Chín Hủi xé luôn bao thuốc lấy một điếu hút và lại ngửa dầu ra mơ màng nhìn làn khói. Quý Nhân liền đưa ra mật khẩu. Chín Hủi như bị điện giật. Đôi bàn chân trên mặt bàn kéo xuống, y ngồi nhổm dậy đôi mắt đỏ lừ gườm gườm nhìn sát vào mặt Nhân.

- Cái gì? Mày nói cải gì?

- Hãy bình tĩnh nghe đây. Otto Kingsley...

- Kingsley cái mẹ gì! Hãy cút đi! Tao nhổ vào cái mặt cái thằng mang con bỏ chợ.

Quý Nhân trừng mắt nhìn lại. Kinh nghiệm muốn khuất phục một tay anh chị thì phải cho y thấy được bản lĩnh của mình đã. Y dồn toàn bộ sức mạnh tinh thần lên đôi mắt như muốn thôi miên Chín Hủi. Bỗng một cú đấm trời giáng nện vào quai hàm Quý Nhân làm y ngã quay ra mặt đất. Trần nhà bàn ghế quay cuồng. Mọi người xô lại còn Chín Hủi vẫn gào thét.

- Quân đê tiện, bẩn thỉu... (và hàng tá những câu thô tục). Hai chiến sĩ công an chạy vào. Quý Nhân đã tỉnh lại và y thấy hết sự nguy hiểm treo trên đầu. Y lổm ngổm vực dậy.

- Làm sao lại đánh nhau? - Một chiến sĩ công an hỏi.

Chín Hủi đứng im mặt hầm hầm nhưng cũng có vẻ sợ công an. Quý Nhân vội đỡ lời:

- Dạ, xin lỗi, tại tôi, vâng tôi đã nhận lầm cái bật lửa. Chính là của ông bạn đây. Xin lỗi nhé... Chín Hủi luống cuống một chút và y chợt hiểu. Y cầm cái bật lửa và gói thuốc trên bàn đút vào túi. Mọi người cười ồ.

- Không bao giờ được phép nhầm lẫn với anh Chín nghe!

Một người nào đó cho Nhân một lời khuyên và cả bọn lại cười. Hai đồng chí công an lắc đầu nhún vai:

- Chỉ do một chút hiểu lầm!

Mọi người giải tán. Hoàng Quý Nhân cũng lùi lũi ôm mặt đi thẳng. Y nằm năm hôm ở nhà với cái mặt sưng vù. Thật là hú vía. Y không tiếc thằng Chín Hủi. Trong hoàn cảnh hiện nay thứ cặn bã ấy chẳng thể dùng vào việc gì.

Lili vừa chám sóc chồng vừa khóc mếu lo lắng. Quý Nhân vỗ vai an ủi vợ.

- Có chuyện chi mà em lo. Thằng cha phóng Hon-đa ẩu quá, mình cố tránh mà đâu có nổi.

- Từ nay anh không được đi đâu một mình nữa. Muốn đi đâu em đưa đi.

Khi vết sưng biến mất, cái máu mạo hiểm lại cuốn hút y. Bài học y rút ra là không nên dùng áp lực mạnh. Tư thế của y đang trong trạng thái suy giảm ngày càng nhanh. Nếu y không tự biết mình thì sẽ có lúc sa lưới.

Buổi lễ sớm chủ nhật ở nhà thờ Đồng Thiệu đã tan mà một con chiên vẫn còn quỳ bên bục gỗ. Anh ta chờ cho vị linh mục thu xếp Kinh thánh từ trên lầu giảng đi xuống. Vị linh mục đang đi dần lại phía người quỳ làm cho anh ta xúc động.

- Trình cha, con là bầy tôi tội lỗi của chúa. Con đã bị quỷ dữ làm vẩn đục đức tín. Con muốn được xưng tội trước đấng chăn chiên - Quý Nhân nói nhỏ nhẹ, cố che lấp cái vụng về lúng túng của mình. Y chưa bao giờ là tín đồ Cơ Đốc giáo nên y không quen nói những câu ước lệ như vậy.

Vị linh mục nhìn y từ đầu đến chân vẻ lạ lùng. Ông thuộc mặt gần hết con chiên trong địa phận mình cai quản. Nhưng linh mục vẫn dịu dàng nói với kẻ lạ mặt:

- Lạy Chúa, nếu con biết ăn năn dưới chân Người thì niềm thương xót bao dung của Người sẽ tha thứ cho con, làm cho nỗi đau của con dịu lại, cho tâm hồn con thư rỗi, cho con có sức đi tiếp đoạn đường đời mệt mỏi của chúng ta để hướng toàn tâm về nước Chúa. Hãy đi theo cha vào phòng lễ.

- Dạ.

Quý Nhân liếc mắt nhìn xung quanh rồi rảo bước theo vị cha xứ. Lần đầu tiên trong đời Nhân bước vào một buồng xưng tội. Căn buồng hẹp lát đá hoa. Một cửa sổ vòm gô-tích cao gần sát trần nhà rọi xuống một lớp ánh sáng yếu ớt làm cho căn buồng thêm huyền bí. Giữa buồng kê một chiếc bàn có bục quỳ. Trước mặt kẻ xưng tội treo một bức màn đen. Sau tấm màn là ghế của vị chủ lễ. Linh mục đóng cửa lại trở về vị trí của mình.

Quý Nhân không quỳ xuống bục. Kẻ tội lỗi rón rén đến sát tấm màn đen thì thầm:

- Thưa cha con không biết Chúa Hài Đồng đã giáng thế vào lúc mấy giờ trên máng cỏ?

Một phút im lặng trôi qua. Vị linh mục như muốn nghe lại câu hỏi lần nữa, Quý Nhân nhắc lại và lần này thì y nghe rất rõ câu la tinh:

- Hora petits quota sit - Dum petits illa fugit1 (Con hỏi mấy giờ, trong lúc con hỏi thì thời gian ấy đã trôi đi" - (Ở đây chỉ có nghĩa làm mật hiệu)).

Quý Nhân vạch luôn tấm màn đen ra. Y đưa cho vị linh mục một mảnh quảng cáo nhỏ in chiếc đồng hồ của hãng Sonac trên bức tranh Chúa Hài đồng trên máng cỏ. Vị linh mục bắt chặt tay người khách lạ.

- Ngài Mc Dovan gửi lời chào đến cha!

Vị linh mục đặt tay lên môi ra hiệu cho Nhân im lặng rồi vẫy y đi theo, qua cửa sau hai người đi dọc hành lang ra khu vườn cây của nhà xứ. Vị linh mục mời Nhân ngồi xuống chiếc ghế dưới bóng cây rồi mời nói:

- Ông là ai?

- Xin cứ gọi tôi là Năm.

- Chín giờ tối nay ta hẹn nhau dưới chân tượng Trần Hưng Đạo. Ở đây là mục tiêu theo dõi của Cộng sản, không tiện nói chuyện nhiều.

Quý Nhân gật đầu hiểu ý. Y được chỉ đi ra một lối khác.

Đúng giờ hẹn Nhân đến chân bức tượng thì vị linh mục đã xuất hiện dưới một hình hài khác hẳn. Kính trắng, sơ-mi kẻ cà-vạt to bản, quần jean... Khi bắt tay nhau, Quý Nhân bật cười:

- Trời! Hoàn toàn đúng mốt. Không ai có thể ngờ một vị đã đỗ bảy chức Thánh mà lại trẻ trung đáng yêu như thế này!

Vị linh mục cũng vui vẻ:

- Tòa Thánh La Mã đã cho phép tu sĩ được tự do hơn. Ngoài giờ hành lễ linh mục có thể mặc bò Levi’s, thậm chí cho lấy vợ. Bà xơ có thể diện mini jupe! Nếu cứ theo quan niệm bảo thủ mãi thì có lúc hết mất kẻ chăn chiên!

Chỉ sau vài tháng Quý Nhân đã nhóm lại ngọn lửa phục thù, khởi động được cái guồng máy vô chủ mà CIA bỏ lại ở Sài Gòn. Bây giờ y tính đến chuyện chắp nối với thượng cấp và mở rộng đến các tỉnh khác. Muốn cho nó trở lại hoạt động được thì vấn đề tài trợ phải đặt ra hàng đầu. Lúc mới y có thể bỏ vốn riêng ra chu cấp cho bọn đàn em. Nhưng về lâu dài thì phải có CIA đảm nhiệm. Do đó chắp nối với bên ngoài trở thành cấp bách. Y quyết định giao việc này cho Bảy Dĩ.

Nhân đến gặp Dĩ vào một buổi sáng. Là bạn cũ nên không cần mật danh mật hiệu gì. Hai tên ôm nhau thắm thiết. Sau khi đã khép cửa phòng khách, Dĩ mới nói lên sự kinh ngạc của mình.

- Anh vẫn sống ngoài vòng pháp luật?

- Cũng như anh thôi.

- Nhưng anh là đại tá cảnh sát ai chẳng biết anh. Chính phủ đã ra lệnh cho các anh phải đi cải tạo mà. Tôi chỉ là dân sự, phó thường dân thôi!

Quý Nhân cười:

- Dân “Xịa"1 (“Xịa” tiếng lóng chỉ CIA) chứ? Bộ anh tưởng "Xia" nhẹ tội hơn bọn tôi sao?!

- Nhưng có ai biết tôi là "Xịa".

- Anh cũng như tôi thôi. Chúng ta đều ngoài vòng pháp thuật. Chỉ có điều ngạc nhiên là sao đến bữa nay anh vẫn còn chưa đi.

- Chưa có cơ hội.

- Anh hùng tạo thời thế mà. Phải tạo ra cơ hội chứ. Tôi biết là anh còn tiếc của, còn đọng hàng, đúng không? Anh định đi cả một chuyến chứ gì? Không được đâu.

- Anh thông minh lắm! Nhưng anh cũng chẳng tìm ra đường thoát! - Dĩ cười châm biếm.

- Có đấy. Hông nay tôi đến định bàn với anh. Ta cứ lúng túng thế này thì đến chết cả nút.

- Anh nói kế hoạch của anh nghe chơi.

- Tôi thấy anh nêu đi thăm dò trước. Chuyến đầu chỉ mang vàng hoặc đô-la thôi. Thứ này vào nước nào cũng lọt. Còn bạch phiến thì không thể mang theo được. Anh ra liên lạc với Warrens trước. Anh quen hắn, dễ nói chuyện. Tuy đã làm ăn với nhau nhiều chuyện nhưng Warrens chưa biết mặt tôi nó cũng sợ chứ. Thứ hai, anh lại là người của CIA, anh sẽ ra chắp nối với Warrens. Mỹ ra đi vội vàng đá buông con giữa chợ. Cả một tổ chức mấy chục năm xây dựng nay tan nát cả. Ít nữa Đông Dương sẽ là một khối. Với vị trí chiến lược tiềm năng quân sự như thế thì liệu Mỹ có thể nhắm mắt được trước những biến đổi nội tại của Đông Dương không? Chắc là không. Đó là tôi chưa nói Việt Nam có thể cho đồng minh của họ đặt căn cứ quân sự ở vùng này, uy hiếp toàn bộ đường hàng hải quốc tế từ Trung Đông qua Ấn Độ Dương vượt eo Alacca đến tận bờ biển Nhật Bổn. Hà Nội – Manille hai giờ bay. Cam Ranh – Bornéc hai giờ bay. Sài Gòn – Băngkok chín mươi phút bay. Sài Gòn – Kuala Lumpur chín mươi phút. Sài Gòn - Singapour hai giờ. Vị trí chiến lược của Đông Dương là như vậy. Do đó tốn mấy thì cũng phải duy trì sức sống của dân "Xịa" ở xứ này. Anh nói thẳng cho Warrens biết là chỉ có tôi, ngoài Hoàng Quý Nhân này ra không ai có thể bày lại thế cờ cũ. Mặc dù tôi không phải là CIA nhưng tôi có kinh nghiệm tổ chức. Nếu nước Mỹ tin ở tôi, tôi sẽ làm sống lại sức mạnh bí mật của họ trên những vùng đã mất. Vậy thì họ phải chi tiền cho chúng ta theo nhịp điệu cũ. Để ông ta tin lời tôi nói, tôi sẽ gửi cho ông ta một món quà. Đó là một mảng của lá cờ có cái đầu ó, chiếc mộc và cái la bàn bị quăng vào sọt rác trong những ngày cuối tháng tư. Tôi đã lôi ra vá lại rồi giặt là sạch sẽ. Nó sẽ có ý nghĩa thực sự cho tương lai chung của chúng ta. Nếu quả là Warrens không cần nữa thì ông ta sẽ phải đi lại từ A, B, C. Làm thế chẳng khác nào quay lại kỷ Đê-vôn, thời mông muội, hay ít ra cũng là thời kỳ đồ đá! Và khi tôi quăng lại cái mảnh cờ cũ nát đó vào sọt rác lịch sử thì cũng có nghĩa là chính độc tố của nó tiết ra sẽ chống lại cái mà Warrens định xây lại sau này. Ai còn tin vào sự trung thành với các hợp đồng của CIA nữa?... Mặt khác làm việc với chúng ta, cá nhân Warrens cũng có lợi. Ta sẽ lập lại con đường "tơ lụa" từ tam giác Vàng tới Washington. Đường sông Mékong sẽ rẻ hơn con đường Chiang Rai – Bănkok đã bị phong tỏa. Con đường Vân Nam còn hấp dẫn hơn. Nước Trung Hoa Đỏ cần ngoại tệ sẽ bán phá giá bạch phiến mua các con đường buôn lậu và bất chấp sức ép ngoại giao của nước nào. Warrens thực sự sẽ kiếm được khá hơn trước vì không còn bị băng của ông Thiệu ông Kỳ nào cạnh tranh nữa! Nếu mọi sự đều trôi chảy thì chẳng những số hàng tồn kho của anh, của tôi đều lọt hết mà ta còn mua vét tất cả số bạch phiến của các băng khác đọng lại rót nốt cho Warrens.

- Tôi lo nhất khâu giao hàng cho Warrens.

- Anh yên tâm. Về phương tiện này tôi hoàn toàn tín nhiệm ông ta. Warrens sẽ có đủ phương tiện để đón ta từ ngoài khơi. Xuồng chiến, máy bay trực thăng, có thể cả tàu ngầm sẽ cẩu hàng từ những con thuyền bí mật của ta. Sau đó Warrens sẽ đưa về Mỹ bằng máy bay, tên lửa, tiềm thủy đĩnh hay tàu con thoi của Nasa thì đó là công việc của ông ta, chúng mình đâu cần biết. Nhu cầu bạch phiến hiện nay ở Mỹ còn mạnh hơn nhu cầu rượu của những năm bị cấm. Warrens sẽ trở thành tỉ phú!

- Anh là người quá lạc quan đấy. Nghe anh nói mà tôi sướng cả tai.

- Hãy hành động đi chứ chỉ nghe không thì rồi sẽ chán ngay. Tôi đề nghị anh mua một con thuyền và tìm một hoa tiêu đáng tin cậy.

- Hoa tiêu thì dễ thôi. Tôi quen một đại úy hải quân. Anh ta cũng đang muốn kéo cả gia đình đi liền.

- Một mình anh ta thôi. Không cần lôi đàn bà trẻ con đi cho vướng chân, vì đó là chuyến đi sinh tử gặp tàu cộng sản phải gạt ra mà đi, phải nổ súng mà đi. Nếu để bị bắt thì còn tệ hơn là bị bắn chìm trên biển.

- Nhưng chắc chi hắn chịu đi một mình.

- Anh phải nghĩ ra kế gì gạt tất cả lại. Cả vợ con anh cũng phải thu xếp chuyến sau.

Một tuần sau Dĩ đã mua được chiếc thuyền máy khá tốt, nhưng chủ thuyền cứ một mực xin cho kèm hai người mới chịu bán.

- Anh đã điều tra xem hai người đó là thế nào chưa? - Nhân hỏi.

- Hai sĩ quan. Một chuẩn tướng và một trung tá. Họ cũng hỏi mua chiếc thuyền đó nhưng họ ít tiền hơn.

- Nếu là quân nhân thì được. Sẽ giao cho họ nhiệm vụ tác chiến khi đụng tàu tuần tiễu địch. Sẽ có người lo cho anh vũ khí.

Quý Nhân vạch cho Bảy Dĩ kế hoạch hành quân, vừa đánh lừa sự theo dõi của đối phương, vừa lừa cả đám đàn bà trẻ con lẫn một số khách chung vốn để giảm chi phí cho chuyến đi. Đồng thời cũng lừa luôn cả viên hoa tiêu.

Thực tình Hoàng Quý Nhân cũng muốn giữ vợ con những người này lại làm con tin. Những tài liệu y giao cho Bảy Dĩ là số vốn rất lớn. Y đâu chịu để cho Dĩ tự do hoàn toàn.

Và chuyến đi đã diễn ra cách đó không lâu.

Một buổi tối Quý Nhân vắng nhà, Lili đang ngồi đọc tiểu thuyết thì có tiếng bấm chuông. Cô ta ra cửa cất tiếng hỏi:

- Ai đấy?

- Tôi, tôi đến thăm cô Lili. Lili thận trọng hé nhìn qua cái ô vuông bằng quân bài trên cánh cổng thấy một người cao lớn đứng bên ngoài. Vẻ mặt ông ta quen nhưng vì ánh sáng yếu nên Lili không thể nhận ra ai.

- Xin cho biết quý danh.

- Tôi là bác sĩ Hoàn. Đã nhiều lần đến thăm bệnh cho cô Lili.

Nhận ra người quen cũ, Lili niềm nở:

- Mời bác sĩ vô chơi. Xin lỗi, tối quá tôi không thể nhận ra.

Cánh cửa hé mở, Lili đưa bác sĩ vào phòng khách.

- Lâu lắm bác sĩ mới lại đến thăm tôi.

- Đó là điều đáng mừng! - Bác sĩ nói vui - tôi cầu chúc cho cô không bao giờ phải mong bác sĩ đến thăm.

- Dạ, nhờ bác sĩ chữa giúp cho từ độ ấy tôi không còn bị đau nữa.

- Bịnh đó cón phải thử thách. Chỉ khi nào có gia đình rồi mà vẫn không tái phát thì mới yên tâm được.

- Dạ tôi đã kết hôn được nửa năm này mà tình hình vẫn tốt đẹp!

- Xin chúc mừng Lili!

Bác sĩ Hoàn nhìn quanh cán phòng và dừng lại trước tấm ảnh cặp uyên ương, ông giật mình:

- Dạ đó là tấm ảnh ngày cưới của chúng tôi – Lili khoe.

Hoàn đứng dậy đi về phía bức ảnh, sửa lại cặp kính nhìn cho kỹ. Tuy đã để râu tóc dài, đeo kính, nhưng khuôn mặt Hoàng Quý Nhân không thể ngụy trang nổi con mắt của một người quen biết lâu năm.

- Trời, té ra bà kết hôn cùng đại tá Hoàng Quý Nhân?

- Không ạ, chồng tôi là ông Năm Oăn - Lê Văn Oăn.

- Chính ông nhà đã đón tôi đến chứa bệnh cho bà.

- Dạ đúng ạ.

- Thế là tôi lại hân hạnh đến thăm cả ông. Bữa nay ông Năm đi đâu ạ?

- Dạ chồng tôi chạy đi có chút việc.

Sau nửa giờ thăm hỏi xã giao, bác sĩ Hoàn cáo lỗi ra về. Ông hẹn dịp khác sẽ lại thăm.

- Tôi gửi lời chào sức khỏe tới ông Năm và chúc gia đình hạnh phúc.

Hoàn đi được một tiếng thì Nhân về. Y vào toa-lét tắm rửa sạch sẽ thay bộ Pijama, nhưng sắc mặt không được vui vẻ như mọi khi. Lili thấy chồng không vui thì vội vàng kể lại chuyện ông khách vừa đến thăm. Nghe xong Quý Nhân nổi giận đùng đùng:

- Thật là ngu xuẩn. Tại sao cô lại mở cửa cho thằng cha đó vào nhà mình?

- Ông ta đã chữa bịnh cho em. Ông lại là bạn cũ của anh chứ đâu của riêng em.

- Bạn bè gì?... à mà dù có là bạn thì thời buổi này cũng phải coi chừng. Nay là bạn, mai là thù, nó thay đổi như trở bàn tay đó cô biết không?

- Dạ anh đâu có bảo em điều đó.

- Thật là tệ hại. Không bảo thì cũng phải biết chứ. Cô có thấy tôi tiếp bất cứ ai trong căn nhà này bao giờ không?

Lili im lặng nước mắt lưng tròng. Cô ta tủi thân. Đây là lần đầu tiên cô bị chồng nặng lời. Mươi phút sau bỗng Quý Nhân đến ngồi sát bên cạnh, ôm vai vưốt tóc vẻ tự tội:

- Anh lo cho cái tổ ấm của chúng mình thôi. Anh thương cưng mà. Nước mắt của em làm cho anh đau đớn, anh ân hận. Cho anh xin lỗi nhé. Quay lại với anh đi!

Quý Nhân giở hết cái ngón "cao trào tình cảm” ra, thế là Lili lại vui vẻ coi như chẳng có chuyện gì. Đàn bà vốn dễ tha thứ...

Lili đã yên giấc trong nhịp thở đều đều, còn Quý Nhân thì không sao chợp mắt được. Trong nhiều năm dùng Hoàn, Nhân biết Hoàn là một tay nhát gan. Viên bác sĩ luôn luôn bị cái thuyết "luân hồi qua báo" của đạo Phật mê hoặc. Nhưng Hoàn lại là một chuyên gia có tài về thần kinh, lại biết vâng lời ít bép xép nên trong điều kiện quyền lực của Nhân còn là tuyệt đối thì việc dùng Hoàn là có lợi. Sự kiện 30 tháng 4 đến quá nhanh làm cho Nhân không chuẩn bị đầy đủ kế hoạch hậu chiến. Y tưởng là tên nhát gan này sẽ tìm đường lẩn ra nước ngoài từ đầu, ai ngờ nó vẫn ở lại kiếm việc ở bệnh viện Saint-Mathielt, thực chất là cộng tác với chế độ mới. Từ xưa hắn có chuyện bồ bịch trăng hoa gì đâu mà bỗng nhiên lại mò đến thăm Lili. Việc hắn biết Hoàng Quý Nhân tức Năm Oăn thì chính là hắn đã nắm được mã số sinh tử của cuộc đời Nhân rồi. Dù hắn không có ý định hại Nhân thì điều bí mật đó được giấu trong nhột bộ óc hèn nhát là vô cùng nguy hiểm. Hơn nữa nhà Lili còn là tổng hành dinh lâu dài của Nhân. Nay phải chuyển đến một chỗ mới là y rất lo. Vì vậy giải pháp của Nhân là bịt ngay cái lỗ rò từ Hoàn.

Nhân rón rén mò dậy lần lên gác ba. Y mở chiếc hòm "luyện đan" ra chọn lấy một liều thuốc độc cực mạnh. Y lo Hoàn đã cảnh giác với các chất độc thần kinh là Nhân đã thử nghiệm hàng ngàn lần ở Vie du Château, nên lần này Nhân dùng chất T10-20 mà Nghiêm Bửu Châu mới tìm ra còn giữ trong vòng bí mật. Nó có sức gây ngừng hoạt động của các tế bào ngay tức khắc, làm cho cơ thể không kịp phản ứng sưng tấy ở bất cứ bộ phận nào. Mươi phút sau chất T10-20 trung hòa với ôxy trong máu tạo thành một thứ muối vi lượng vốn có trong cơ thể. Chưa có loại máy móc nào tìm nổi nguyên nhân nhiễm độc.

Sáng hôm sau Nhân dậy sớm. Y dặn vợ nếu có người lạ đến nhà thì để ngỏ lỗ vuông trên cánh cổng, rồi Nhân lái xe đi ngay. Nhân đến gặp Hai Đen và Tám Sẹo, hai tên cướp trong băng "Phục thù” để mặc cả vụ thủ tiêu. Chúng ngã giá hai lạng vàng. Quý Nhân thích dùng bọn này hơn là dùng nhân viên của mình. Có bại lộ thì vụ án cũng chỉ mang tính chất thù hằn, cướp bóc. Quý Nhân giao chất độc và phổ biến cách hạ thủ cho bọn cướp. Chúng phục sẵn, theo dõi viên bác sĩ để nhận mặt. Kế hoạch của chúng là đến mời bác sĩ đến thăm bệnh cho người nhà, nhưng xe đến cửa thì thấy Hà Quang Hoàn cắm cúi ra đi. Chúng đã bám theo ông đi đến đoạn đường đôi gần Sở thú. Bất ngờ hai tên rút súng đe dọa buộc viên bác sĩ lên xe. Là một người to lớn nhưng nhát gan nên ông ta không tự chủ nổi, phải làm theo lệnh bọn cướp Chúng phóng xe qua cầu Thị Nghè rồi rẽ vào một hẻm vắng bên bờ sông. Kiểm tra lại xác chết lần chót, chúng đưa xuống một cái xuồng đợi sẵn. Khi xuồng ra giữa sông, chúng vất xác người xấu số xuống sông…

…Quý Nhân cứ lởn vởn quanh nhà nghe động tĩnh. Ba ngày sau y mới dám về. Mặt Lili gày xanh đi vì lo sợ.

- Lạy Chúa, sao mãi bữa nay anh mới về, em lo cho anh quá.

- Tất cả là tại em thôi. Em cho cái thằng bác sĩ ấy vào nhà. Anh sợ nó phản bội anh phải lẩn tránh vài ngày xem tình hình ra sao.

- Anh cứ lo vậy thôi chớ bạn bè có phải ai cũng hại nhau đần. Có thể là như vậy.

- Nhân mỉm cười mệt mỏi - Thôi để cho anh nghỉ đôi chút nhé.

Y đi tắm rồi lăn ra ngủ như chết. Lili ngồi bên chồng nhìn cái đầu hắn hơi ngoẹo về một bên, mắt nhắm nghiền, bộ ngực phập phồng theo nhịp thở trông hắn thật hiền. Bỗng nhiên miệng hắn méo đi thở như kéo bễ rồi ú ớ như bị tắc cổ. Hắn giật mình ngoẹo đầu sang bên kia rồi ngủ tiếp. Lili cảm thấy như có chuyện gì xảy ra với chồng. Nỗi lo lắng âm thầm trong cô ngày một tăng lên. Từ ngày Sài Gòn giải phóng, Lili lấy chồng và mong cuộc đời có một bước ngoặt tốt đẹp. Cô hy vọng sẽ có con với Năm Oăn. Một gia đình yên tĩnh, ấm cúng là cái hình ảnh cuốn hút cô. Cô không cần gì ngoài cái ước vọng giản dị đó. Chỉ sau một tháng trăng mật (!) Năm Oăn đã thay đổi hẳn. Y ít chú ý đến vợ hơn. Nhiều đêm y làm việc rất khuya trong căn phòng khóa trái trên lầu thượng. Đôi lần y yêu cầu Lili nhận mặt người này người khác, cô nghĩ là y chỉ nhớ lại những kỷ niệm cũ cuộc đua tranh của những con người cùng của một thời xa xưa. Nhưng dần dần y hay đi một mình, lúc dùng ô-tô, lúc xe máy, xe đạp, cả những lần lang thang cuốc bộ. Có bữa rất khuya y mới về, dáng điệu mệt mỏi lạnh lùng. Y quăng bộ đồ dơ trong toa-lét, chẳng chuyện trò gì nằm lăn ra ngủ. Lili buồn bã xách cái gối sang phòng bên, nằm một mình, nước mắt trào ra đẫm gối.

Từ bữa xảy ra chuyện viên bác sĩ vào phòng khách cô mới biết Năm Oăn là đại tá Hoàng Quý Nhân. Đó là một tia sáng mới lọt ra từ toàn bộ cuộc đời bí hiểm của chồng. Chưa lúc nào Hoàng Quý Nhân tâm sự với Lili về quá khứ của mình một cách cởi mở. Có lẽ những cái đó mới làm cô khao khát nhất. Tình yêu chỉ có được khi cánh cửa trái tim của cả hai đều rộng mở. Nếu chỉ quanh đi quẩn lại với những cái vuốt ve nịnh hót cả tinh thần lẫn thể xác thì chẳng bao lâu sẽ dẫn tới nhàm chán. Và giờ đây cô cảm thấy nỗi cô đơn như một lưỡi cưa vô hình đang cứa vào tình yêu của cô.

Hôm sau Lili đọc báo tình cờ gặp mấy dòng cáo phó "... Bác sĩ Hà Quang Hoàn lâm nạn và qua đời…". Cô giật mình và xúc động mạnh mẽ. Thì ra cái ông bác sĩ mới đến thăm cô cách đây năm bữa đã chết. Lili nhớ lại bốn năm trước đây, khi Quý Nhân có ý định chung đụng với cô lần đầu, y đã cẩn thận cho bác sĩ Hoàn đến khám bệnh cho cô Bác sĩ đã phát hiện ra những dấu hiệu cần điều trị gấp. Chính viên bác sĩ đã tận tụy chữa cho cô lành lặn. Và cũng từ đấy cô kiềm chế không để cho bọn sĩ quan Mỹ thuê cô làm đệm thịt. Lẽ ra Quý Nhân phải biết ơn ông ta, nhưng thái độ của Nhân làm cho cô nghi ngờ. Tại sao ông ta lại lâm nạn nhanh chóng và kỳ quặc như vậy? Cái tính lầm lì đã ngăn cản Lili đưa tờ báo cho chồng. Cô ngại nhắc lại chuyện viên bác sĩ sợ có thể làm chồng nổi nóng.

Cô dọn bữa sáng mời chồng đi ăn. Quý Nhân ngồi đối diện với vợ, tay cầm con dao ăn bóng loáng nhưng không để ý đến miếng bíp-tếch nóng hổi trên đĩa. Y nhìn thẳng vào mắt Lili:

- Khi anh đi vắng em đã mở cửa buồng làm việc của anh?

Lili im lặng ít phút, đầu hơi cúi xuống, dáng điệu lúng túng.

- Dạ.

- Em lấy đâu ra thìa khóa?

- Em vẫn có mà. Buồng nào cũng có một thìa dự trữ.

- Sao trước đây anh hỏi em không đưa cả cho anh?

… Lili không trả lời.

- Em không tin anh?

- Nhưng anh đâu có tin em? Em là vợ, là chủ căn nhà, là người nội trợ, em phải săn sóc anh, phải giữ gìn, quét dọn thì em mở cửa buồng đâu phải là tội lỗi.

- Nhưng anh đã dặn em là không mở. Khi anh có nhà anh đón em vào. Không có mặt anh thì tuyệt đối không mở.

- Đúng là có lần anh nói, nhưng em nghĩ là anh nói chơi thôi. Anh bảo là buồng thờ ma xó, là buồng của yêu tinh râu xanh. Em đâu có tin vào những chuyện trẻ con đó.

- Là cha con hay vợ chồng, mỗi người cũng còn có một mảnh trời riêng, một không gian biệt lập. Đó là cái tự do tuyệt đối mà không ai được phép xâm phạm.

- Em xin lỗi anh. Nhưng mấy bữa liền anh đi mà không cho em biết đi đâu. Em lo lắng quá. Em mở cửa buồng xem anh có viết chứ nào để lại cho em không. Em nghe nói nhiều người bí mật di tản bỏ cả vợ con ở lại...

- Thôi cô hãy dẹp nhưng chuyện lảnh nhảm đó đi. Cô định tìm gì trong phòng, cô hãy nói thực đi.

- …! – Lili im lặng.

- Nói đi! - Quý Nhân đập nắm tay xuống bàn, con dao ăn va vào thành đĩa làm nước sốt bắn tung toé.

Lili kinh ngạc trước thái độ đe dọa. Cô nhìn thẳng vào mặt tên "Yêu Tinh Râu Xanh” không một chút sợ hãi.

- Được rồi, tôi sẽ nói... Tôi muốn có một cuộc sống bình lặng, êm ấm. Giản dị thế thôi. Nhưng tôi thấy anh khác xa ngày mới cưới. Anh đang lao vào một cuộc đỏ đen mới mà tôi cảm thấy mối nguy hiểm. Nghĩa vụ làm vợ buộc tôi phải lo lắng, phải bảo vệ anh. Tôi không ngờ anh lại đập bàn với tôi. Nếu nhất nhất mọi thứ tôi đều phải im lặng thì tôi. Chỉ là đứa ở của anh, cái đệm thịt cho anh, chứ đâu còn là vợ nữa?

- Thời thế buộc chúng ta phải đối phó, phải sống có nguyên tắc. Nếu không khôn ngoan thì chúng sẽ giết ta.

Lili quăng tờ báo, chỉ vào những dòng chữ cáo phó:

- Bộ khôn ngoan như thế này sao?

Quý Nhân đọc qua, mặt y hơi biến sắc. Hắn dịu giọng:

- Chuyện này đâu có liên quan tới anh.

- Nếu không liên quan thì càng may mắn. Tôi cầu mong là tôi đã lo lắng một chuyện không đâu.

- Thôi từ nay anh chẳng chơi bời với ai nữa. Mình sẽ ở nhà. Bộ em tường anh bồ bịch với ai nên em ghen sao?

- Đâu có... Theo em thì anh không nên sống lẩn lút bất hợp pháp nữa. Anh ra trình diện đi cho rồi. Đành là mình đi cải tạo ít lâu còn hơn sống trong lo lắng. Em thấy nhiều vị được về rồi đó. Đại uý Sinh , thiếu tá quân cảnh Đẩu nè... Nghe nói cả tướng Giao cũng mới được tự do. Em sẽ chờ anh đến cái ngày tươi sáng đó.

- Bộ em điên rồi! Em định nộp anh cho Cộng sản sao?

- Em yêu anh, em thương anh. Em muốn cho anh hoàn toàn tự do không còn bị ai đe dọa nữa.

- Thôi được, dẹp chuyện đó lại. Dù sao thì anh cũng phải suy nghĩ cho kỹ nghe. Vừa rồi anh quá nóng, mong em tha lỗi cho anh.

- Đàn bà bao giờ cũng dễ tha thứ.

Sau cái bữa sáng đáng buồn hôm đó, Hoàng Quy Nhân cảm thấy quan hệ giữa y và Lili đang suy đồi đến mức nguy hiểm. Thực ra y đâu có yêu Lili. Y chỉ cần đóng kịch với con nhỏ để tìm chỗ giấu mình. Y đã đi một nước cờ sai lầm là định đe dọa để tìm kiếm sự phục tùng tuyệt đối. Nhưng không ngờ Lili lầm lì chẳng biết sợ là gì. Y đã rút ra bài học về uy lực trong bữa gặp Chín Hủi, nhưng y lại có ảo vọng đối với người vợ mà y coi là yếu đuối. Y vẫn chưa đánh giá đúng quyền lực của mình. Y đi đâu bây giờ? Có vài cơ sở nữa nhưng chẳng đáng tin cậy lắm. Ở đây mà cứ phát triển theo cái lô gích hiện tại thì chẳng mấy lúc con nhỏ sẽ nộp y cho chính quyền mất thôi. Hay cho Lili sớm về bên Chúa? Không được. Y không thể sống một mình ở đây mà thoát được cặp mắt của quần chúng. Cuối cùng y đã tìm ra một giải pháp mà y cho là tối ưu.

Đêm hôm đó y không đi chơi nữa. Y quấn quít bên cô vợ trẻ. Y biểu diễn tất cả thủ pháp của một kẻ si tình để lấy lại niềm tin cho Lili. Cô gái đã say sưa quá sớm cái chiến thắng dễ dàng của mình. Cô tưởng anh chồng hư đốn đã biết nghĩ nên không còn đề phòng gì nữa.

Sáng hôm sau tỉnh dậy Lili đã trở thành một con người khác. Cô bị nhiễm độc chất "Gamma 424". Đó là một chất độc thần kinh xóa nhòa quá khứ, "san bằng" những nếp nhăn trên vỏ não. Những động hình, con đường mòn của bộ nhớ bị đứt đoạn hủy hoại, nhưng nó vẫn giữ lại những bản năng như ăn uống, phản ứng tự vệ, sinh lý... Người bệnh không cảm thấy mình bị bệnh. Tu duy suy đồi, ngôn ngữ nghèo nàn. Bất cứ một hình thức nào tác động đến quá khứ của người bệnh, bộ óc lập tức phản ứng quyết liệt bằng sự gào thét hung dữ, cấu xé đối thủ. Lúc đó trạng thái điên rồ biểu hiện mạnh mẽ, rõ nét nhất.

Tuy nhiên chất "Gamma 424" không phá hủy được cấu trúc của bộ óc. Nó như một thứ thuốc màu quét lên tờ giấy in. Vài tuần sau chất màu phai nhạt thì nét chứ lại hiện ra, cho nên Hoàng Quý Nhân gọi chất độc thần kinh đó bằng cái tên thơ mộng: "Giấc ngủ của Hằng Nga".

Muốn để cho Lili hoạt động bình thương trong công việc hàng ngày, Quý Nhân luyện tập cho Lili, phục hồi lại bản năng và những thói quen cần thiết. Cô gái khốn khổ vẫn có thể đi chợ mua bán các thứ theo một thực đơn định sẵn. Vẫn giặt giũ, quét dọn nhà cửa cần mẫn như con chim gõ kiến. Vẫn giữ nhà như một con chó và báo động như một con vẹt. Khi tất cả năng lực của bộ óc chị dồn cho sự chỉ đạo bản năng thì bỗng nhiên một số hoạt động của người bệnh trội hẳn lên. Lili ăn uống rất khỏe. Làm việc giản đơn rất bền bỉ. Những đòi hỏi tình dục rất trơ trẽn theo đúng chu kỳ của giống cái. Tóm lại Lili đã trở thành một con vật một người máy theo đúng ý muốíl của con "Yêu Tinh Râu Xanh". Cái chất Gam ma 424 "kỳ diệu” đó đã là niềm kiêu hãnh của đồng tác giả Hoàng Quý Nhân và Nghiêm Bửu Châu. Chúng đã cao ngạo so sánh phát minh đó với tầm vóc của những công trình được trao giải Nobel về hóa học!

Lili lanh lợi, Lili lộng lẫy, Lili lịch lãm đã chết đi, chỉ còn lại một Lili lầm lì, làm lụng lam lũ. Một Lili lố lắng, lòe loẹt, lõa lồ, lầm lẫn...

Hai tuần một lần Hoàng Quý Nhân nhuộm lại bộ óc của Lili bằng một liều "giấc mộng Hằng Nga" mới và sau đó Lili tự chích cho mình rất đúng kỳ hạn như kẻ nghiện Héroinne. Thế là y có thể yên trí theo đuổi mục đích của mình không còn sợ Lili can ngăn nữa .

CHƯƠNG VI

CƯƠNG LĨNH CALI

Mùa hè là mùa của du lịch.

Hàng triệu du khách tràn về các thành phố miền Tây và miền Nam chan hòa ánh nắng. "Ngựa xe như nước áo quần như nêm". Các khách sạn lớn đều hết chỗ. Bãi tắm rừng cây chen chúc những người. Lều bạt, ôtô bên nhau san sát.

Nhưng có một số người từ châu Âu, châu Á, châu Đại Dương đến đây không phải để thưởng thức những ngày hè tươi đẹp, những phong cảnh kỳ thú... Họ tụ tập đến đây để ôn lại những thất bại đau đớn, để tìm hướng đi cho tương lai. Đó là những "đại biểu” của một số cộng đồng người Việt lưu vong, phần lớn chạy khỏi Việt Nam sau tháng 4 năm 1975. Gọi là đại biểu thì cũng chưa thật trọn nghĩa bởi vì có người thay mặt cho một nhóm, một tổ chức, một đảng, có người chỉ "đại biểu” cho cá nhân mình. Họ nhận được giấy mời từ mùa thu năm ngoái của ban trù bị. Một số được mời không đến, bù vào đó là một số không mời cũng xin đến. Tổng cộng khoảng hai trăm người. Nhìn ra thì không thấy vị tai to mặt lớn nào của chính quyền cũ. Những người này dại gì đem bộ mặt thất trận đến đây cho những người tranh ăn trước kia xỉ vả. Ông Thiệu thì không rõ địa chỉ ở đâu mà mời. Ông Kỳ còn bận kinh doanh. Ông Đôn đang bận viết hồi ký, ông Lắm cáo bịnh... Tóm lại các vị này nhờ những năm cầm quyền đã kiếm ăn to. Họ đã chuẩn bị cho mình một gia sản kếch xù để đủ sống phè phỡn dăm ba thế hệ, họ cần gì phải bận tâm đến thời cuộc nữa. Một số khác như Nguyễn Ngọc, Trần Kim... thực chất là tội phạm chiến tranh, họ phạm tội giết chóc, đánh đập, tra tấn quá nhiều người, họ cũng không muốn xuất đầu lộ diện. Giống như những tên Quốc xã sau chiến tranh, họ muốn mai danh ẩn tích. Biết đâu chẳng có một viên đạn nằm sẵn trong nòng súng chờ đợi họ. Điểm mặt thì phần lớn đại biểu là những kẻ đối lập trước đây, những kẻ mất ăn, còn cay cú, những kẻ ngu ngốc đầy ảo vọng, những kẻ háo danh và nhẹ dạ, những tay ma cô và phù thủy chính trị... Tuy tuổi họ cũng chẳng trẻ gì nhưng cứ tạm gọi là đội hình mới của mặt trận phản quốc.

Đã là liên minh, là mặt trận thì phải có tiếng nói, có công cụ tuyên truyền thông tin, trao đổi, giáo dục, v.v... Vì vậy phải ra một tờ báo. Ban trù bị đã đề cử luật sư Bùi Hạnh lo cho việc này. Nhờ có anh tôi giới thiệu, tôi đã xin được chân phóng viên cho tờ "Chim Việt". Ban trù bị quyết định phải ra số đầu vào dịp cuộc hội thảo khai mạc. Vì vậy tôi được phép tìm gặp phỏng vấn, quay phim, chụp ảnh các đại biểu. Họ được ban trù bị đón tiếp long trọng ở khách sạn Hilton.

Ở đây tôi được gặp lại tướng Tùng Lâm. Anh ôm chầm lấy tôi và tôi cảm thấy ngay cái mùi phấn son quen thuộc.

- Rất vui miệng được gặp lại anh! Bây giờ anh ở đâu?

- Ở Westland, ở tiền tuyến?

- Ôi thật kỳ. Anh đã nhập cư vào Mỹ rồi kia mà?

Anh kéo tôi ra chỗ vắng thì thầm.

- Mình đã nhập cư vào Mỹ. Nhưng sau đó mình hỏi tin tức gia đình thì được biết vợ con vẫn kẹt trong trại tị nạn ở Westland. Mình phải nhờ mấy tay có thế lực giúp đỡ để đưa sang đây. Hôm mình bay sang Voca City để lo công chuyện này thì gặp lại Bảy Dĩ ở khách sạn. Anh ta hỏi mình “Có muốn làm việc với Warrens không?". Mình hỏi "việc gì?". Dĩ bảo "huấn luyện quân sự cho lính". "Ô việc huấn luyện là nghề nghiệp của tôi" - "Thế thì tướng quân ở lại đây luôn. Trời, ở đây đã lắm. Sang Mỹ chắc gì đã kiếm nổi việc". Đúng vậy mình chẳng biết làm gì ngoài nghề đánh nhau. Nhưng mình cẩn thận hỏi lại "chỉ huấn luyện thôi chứ?" - "Hợp đồng này chỉ có huấn luyện. Muốn chiến đấu ký hợp đồng sau".

“Lương tháng bao nhiêu?" - "Năm trám đô-la" - "Đồng ý. Năm trăm đô-la một tháng là mình yên tâm rồi". Ở đây nhiều gái làng chơi lắm. Thế là mình ký luôn với Dĩ, người đại diện của Warrens, một hợp đồng mười tám tháng. Mình được đưa về chỉ huy mật cứ Béta ở Pandon.

- Mật cứ Béta?

- Nói cho quan trọng chứ thực ra chí là một trại lính nhỏ trong một cánh rừng cách thị trấn Pandon bốn kilômét về phía Đông. Hết giờ làm việc có thể về Pandon giải trí xả láng. Il y a beancoup de files pour le soir1 (Đấy có rất nhiều gái làng chơi). Hiền đệ có muốn sang đó với mình không? Nói chơi vậy thôi chứ đây đâu có thiếu. Với bọn gái da trắng giá cả có lẽ mắc hơn! – Tùng Lâm cười nói rất cởi mở.

- Hiện nay tôi làm cho báo Chim Việt. Thế nào tôi cũng bay sang bên ấy để viết về các trại tị nạn. Tôi sẽ đến thăm anh.

- Thiệt chứ! Mình mong đó - Tùng Lâm bá chặt vai tôi rất nhiệt tình - Đúng là tình bạn sanh tử suốt từ năm 60 nhỉ. Mình vẫn nhớ cuộc hành quân Khủng Long chó đẻ. Dù sao thì vẫn là những năm tháng không thể quên được.

- Anh có gặp bạn bè nào bên ấy không?

- Mình ở vùng hẻo lánh, ít về thành phố nên không gặp ai. A có Trương Tấn Hào, anh bạn lái thuyền vượt biển cho bọn ta đó. Hào cũng ký một hợp đồng huấn luyện hải thuyền với Warrens. Thằng cha hiền khô, chẳng bồ bịch chi, mặt lúc nào cũng "đưa ma", thương vợ, nhớ con suốt. Hào ở cách bọn mình có hai chục kilômét, gần ợt. Hôm nào toa sang, chúng mình sẽ đến chơi.

- Dạ, - Tôi chuyển sang đề tài khác - Anh là đại biểu của kiều bào ở Westland à?

- Đại biểu mẹ gì! Có ai bầu mình đâu mà kêu là đại biểu. Ha ha! Bảy Dĩ bảo mình đi đến diễn đàn này chửi cho mấy ông giàu có một trận về cái tội bỏ bạn bè sống no béo ở Mỹ... Mình cứ đi đại thôi chứ từ xưa có đăng đàn diễn thuyết bao giờ. Chỉ có uýnh và uýnh hoài thôi! Quan trọng là Warrens tài trợ cho chuyến đi, nên mình có dịp về thăm má con nó vài bữa.

Tôi mời Tùng Lâm đến nhà chơi. Anh hẹn sau hội thảo sẽ đến. Anh Ân tôi cũng có may mắn gặp lại Mlle Eugénie Mộng Vân, người tình, người bạn chính trị thời xa xưa.

Khi Pháp ra đi, chị Mộng Vân bị chính quyền Diệm trục xuất vì coi chị là phần tử thân Pháp, là mật vụ của tướng Hình, là nhân viên của 2B của DGSE, của MI.51 (Phòng Nhì, cơ quan An ninh đối ngoại Pháp, cơ quan tình báo Anh) là người phụ nữ nguy hiểm. Thế là chị phải sống lưu vong. Từ đó anh tôi không có một liên hệ nào với người đàn bà vang bóng một thời này nữa. Hôm nay gặp nhau ở đây, hai mái đầu đã điểm bạc. Họ bắt tay nhau xúc động. Anh tôi mời chị về nhà chơi, chị nhận lời ngay. Qua Mlle Mộng Vân, anh tôi làm quen với giáo sư Vũ Quốc Anh đại biểu của Cộng đồng tị nạn ở Canberra, với nhà kinh doanh Hoàng Đình Thân đại biểu của một nhóm chính khách lưu vong ở Anh quốc. Rồi từ ông Thân, anh tôi biết luật sư Huỳnh Bá Kiên đại biểu Việt kiều ở Tây Đức. Cứ như thế, bà Claudine Phương Mai đại biểu nhóm Brucxelle, thương gia Đinh Xuân Lễ thay mặt cho làng Việt kiều ở Toulon, bà Diễm Châu ở Toronto kéo đến tay bắt mặt mừng như những người thân lâu ngày gặp lại. Họ từ khắp nơi trên mặt đất hội tụ đến đây nhân danh những người vong quốc!

Đúng tám giờ sáng ngày 20 tháng 7 năm 1977 cuộc hội thảo bắt đầu. Cụ Hoàng Cơ Bảo long trọng đọc lời khai mạc. Một trám sáu mươi chín đại biểu. Ba trăm mười lăm người dự thính gồm phần lớn những kẻ vô công rồi nghề, một số nhà báo người Việt và ngoại quốc. Tiếng vỗ tay ào ào khi giới thiệu các đoàn đại biểu từ khắp các châu lục về Cali để dự “Hội nghị Diên Hồng" của thời đại mưu cầu nghiệp lớn.

Các bản tham luận đều có xu hướng đổ lỗi cho các chế độ độc tài từ Diệm đến Thiệu luôn luôn chia rẽ khối cộng đồng dân tộc, làm suy yếu tinh thần và sức mạnh chống Cộng. Họ chửi bới Thiệu đã lì lợm độc tài, rẻ rúng người hiền, khinh khi nghĩa sĩ để phút chốc tan tành nghiệp lớn! Họ cũng oán Mỹ mang con bỏ chợ, phản bội bạn bè. Một số chê Mỹ là không biết điều khiển chiến tranh, vừa đánh vừa run, bộc lộ quá rõ vai trò xâm lược để cho Cộng sản cao rao chính nghĩa dân tộc, đánh lừa dân chúng, mê hoặc dư luận năm châu...

Hội nghị bỗng xôn xao khi thấy cụ Bảo dắt tay một người to lớn lên diễn đàn. Ông chủ tịch trang trọng giới thiệu:

- "… Tướng Tùng Lâm, người anh hùng trên phòng tuyến sông Đan Li, người chiến đần đến viên đạn cuối cùng mới chịu để Cộng sản bắt sống. Người vượt ngục, cướp xe của Cộng sản rồi vượt biển ra đi, đã đến được diễn đàn này với chúng ta!...".

Hội nghị vỗ tay như pháo. Tùng Lâm giơ tay chào kiểu nhà binh rồi lại cúi rạp như vái về ba phía. Đợi mọi người im lặng anh mới bắt đầu đọc bài diễn văn.

- Thưa quý bà, thưa quý ông, thưa quý anh em. Lời giới thiệu của ngài Chủ tịch làm tôi vô cùng xúc động. Là một quân nhân, tôi đến đây với tư cách đại diện cho các chiến hữu của tôi, từ các tướng lĩnh đến người lính vừa nhập cuộc ở chiến trường. Đồng thời cũng thay mặt cho hàng vạn sĩ quan hiện đang bị giam giữ trong ngục tù Cộng sản. Cuộc chiến tưởng như đã chấm dứt cách đây ba năm, thực ra nó vẫn đang tiếp diễn. Hàng ngàn chiến hữu chúng tôi vẫn hàng ngày đổ máu cho đại nghĩa dân tộc. Vừa rồi nhiều đại biểu tham luận đã đổ lỗi cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa quá hèn nhát nên nhanh chóng tan rã trước áp lực chưa có gì là mạnh lắm của Cộng quân. Sự thất bại cuối cùng là cái cớ để quý vị tha hồ giễu cợt tha hồ bêu xấu hàng triệt sinh linh đã bỏ mình cho sự giàu có của quý vị. Nói cho cùng thì chúng tôi cũng chỉ như con tốt trên bàn cờ chiến lược. Thảm bại cuối cùng chính là do sự tan rã của kiến trúc thượng tầng. Các chính khách phải chịu trách nhiệm. Họ đã tranh giành quyền lực, xâu xé nội tình đất nước. Đến khi tiền tuyến gặp khó khăn thì quý vị chuồn trước, quý vị ra đi trong trật tự vì quý vị đã đầy túi đã chuyển hết tiền bạc qua các ngân hàng châu Âu và Bắc Mỹ, để mặc chúng tôi sống chết với Cộng sản (có tiếng xì xào kinh ngạc, tiếng huýt sáo và cả tiếng vỗ tay lộp bộp). Cộng sản đã chiếm được Nam Việt, nhưng chúng tôi đâu có tuyệt vọng. Hàng ngàn chiến hữu của chúng tôi văn chưa buông tay súng. Hàng ngàn người khác còn nằm gai nếm mật, mưu kế phục thù. Hàng vạn sĩ quan tài năng kiêu hùng vẫn còn bị giam trong các trại cải tạo. Các vị oán trách nước Mỹ đã đem con bỏ chợ, nhưng thử hỏi có ai trong quý vị chịu bỏ ra một đồng xu nhỏ để cứu vớt gia đình họ trong các trại tị nạn?... Chuyện cũ chẳng nên nói nhiều. Nói bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu. Ở cuộc hội thảo này, chúng ta cần phải tìm ra một tiếng nói chung giữa những người tiến hành cuộc tranh đấu đến cùng nơi quốc nội với những người có may mắn hơn được sống tự do nơi quốc ngoại. Chúng ta phải quên đi những thảm bại đau thương để lo tính cho tương lai quốc gia, dân tộc. Khi ai đó chỉ còn biết khóc thương cho quá khứ xa xưa thì ở đây ta phải mưu tính cho tương lai sắp tới. Sự liên minh giữa các cộng đồng người Việt tự do sẽ cho phép ta có đủ sức mạnh để xoay chuyển tình thế. Cộng sản đã chiếm được Nam Việt nhưng họ đâu có mạnh. Họ chưa có kinh nghiệm quản lý một đất nước trên năm mươi triệu dân. Những khó khăn về kinh tế hiện nay đang biến thành những phân hóa chánh trị gay gắt làm thay đổi lòng dân. Những người quá tin Cộng sản trước đây đang vỡ mộng. Họ phải đi tìm một niềm tin mới. Thay mặt những người quốc nội, những người ngoài tiền tuyến, tôi kêu gọi sự đóng góp tài lực của quý vị, của đồng bào hải ngoại. Chúng tôi sẽ tạo nên một cao trào vũ trang tranh đấu mới ngay trên đất nước thân yêu của chúng ta.

(Tiếng vỗ tay vang lên dữ dội làm cho Tùng Lâm phải ngừng lại chắp tay vái bốn phương để tỏ lòng biết ơn)

- Là người lính tôi không quen nói nhiều. Chúng ta sẽ tận tâm tận lực phục vụ cho sự nghiệp cao thượng của chúng ta!

Đám cử tọa được kích thích mạnh mẽ, tiếng vỗ tay, tiếng hò reo sôi sục. Tướng Tùng Lâm bước khỏi diễn đàn đã có hàng chục người ùa lên bắt tay, công kênh anh ta lên. Đám thanh niên thau tháu ngồi dự thính hò hét inh ỏi "Tùng Lâm! Tùng Lâm!" y như trò cổ vũ ngoài sân banh. Trong khi mọi người ồn ào nhu vỡ chợ thì nữ sĩ Mộng Vân len lên diễn đàn. Chị rung chuông lấy lại trật tự, cướp cả quyền điều khiển của Chủ tịch. Bị phấn khích mạnh mẽ, Mộng Vân không thèm chờ theo thứ tự của chương trình đã xếp đặt. Chị diễn thuyết luôn. Cụ Bảo và anh Ân tôi trố mắt ngạc nhiên nhưng cũng không dám ngán cản. Dù sao cũng phải giữ cái tình bạn bè, đồng đảng cũ.

- Thưa quý vị, thưa quý anh chị em! - Người đàn bà xinh đẹp đã luống tuổi nhưng biết che giấu cái lỡ thời bằng son phấn mỉm cười duyên dáng với thính giả - Tôi vô cùng cảm kích trước lời kêu gọi của tướng Tùng Lâm. Nhưng tôi cũng vẫn thấy cần phải nói đến quá khứ, đến nỗi nhục thua trận. Suốt ba mươi năm chiến tranh với Cộng sản, chúng ta cứ thua liên tiếp hết trận này đến trận khác, hết năm này đến năm khác. Chúng ta đâu có thua kém về binh khí tối tân, về quân đông, tướng đủ. Chúng ta lại được những cường quốc tự do hùng mạnh nhất giúp đỡ tiền bạc, vũ khí, xương máu, thế mà thua vẫn hoàn thua? Tại sao vậy? Nếu ta chưa trả lời được câu hỏi này thì dù ta có tiếp tục hy sinh chiến đấu cũng trở thành dã tràng xe cát! Theo tôi nghĩ, các nhà lãnh đạo trước đây của chúng ta đã quá dựa vào ngoại bang. Đã biến chủ thể quốc gia thành tay sai đế quốc. Biến cuộc nội chiến ý thức hệ thành chiến tranh xâm lược. Biến các chiến sĩ "thập tự chinh" của thế giới tự do thành những tên thực dân giết người man rợ. Thế là ngay từ đầu chúng ta đã để mất lá cờ chánh nghĩa vào tay cộng sản. Họ đã nắm được cái bửu bối thiêng liêng nhất của lịch sử để đánh bại chúng ta. Tôi nhớ có lần tướng Kỳ mơ ước có được một Điện Biên Phủ đảo ngược. Tất cả chúng ta đều thèm khát một chiến thắng vĩ đại như vậy. Nhưng mưốn có một Điện Biên Phủ đảo ngược thì trước hết chúng ta cần có một tướng Giáp đảo ngược, một Che Guevara đảo ngược, một con tàu Grânm đảo ngược. Trong đội ngũ chúng ta ở đây liệu có ai dám tự chứng minh là mình đang muốn có được tầm cỡ ấy? Chỉ muốn thôi? (Có tiếng xì xào và tiếng cười rộ lên) Sao quý vị lại cười? Sao quý vị lại không nói gì? Chúng ta không thể chỉ hội thảo để than thở cho những bất hạnh. Chúng ta đi nửa vòng quả đất tới đây gặp nhau không phải để than thở mà là tìm ra cách thức hành động. Có nhiều vị nghĩ được ra cái từ thành lập chính phủ lưu vong? Riêng tôi, tôi chán ngấy cái trò ấy rồi. Ở Pháp hai mươi năm tôi đã từng thấy hàng tá chính phủ lưu vong nghỉ trọ ở đây. Họ thuê những căn phòng sang trọng trong các khách sạn. Họ tiệc tùng hội họp, nhưng cuối cùng họ cũng chỉ là những hội đồng chuột, suốt năm tháng gặm nhấm niềm hy vọng của những người nhẹ dạ mà sống. Không một ai trong lũ chuột ấy dám mang cái chuông đến buộc vào cổ mèo đâu. Tôi không muốn quý vị, những người đáng kính ngồi ở đây biến thành một đàn chuột! (tiếng cười ồ, tiếng xì xào và cả tiếng huýt gió). Tôi kêu gọi quý vị hãy trở về Tổ Quốc tham gia cuộc chiến đấu. Chúng ta căm ghét chủ thuyết Cộng sản, nhưng chúng ta phải học phương pháp cách mạng của Cộng sản. Chúng ta phải dám ngồi trên con tàn Granma! Vị Chủ tịch họ Mao nói "Ngọn lửa nhỏ đủ đốt cháy cánh đồng". Chúng ta không sợ lực lượng ban đầu nhỏ bé mà chỉ sợ ý chí của chúng ta thấp hèn không mang nổi hoài vọng cao cả!

Tiếng cười và tiếng vỗ tay vang lên. Cụ Hoàng Cơ Bảo có vẻ không thích thú gì chủ trương quá khích này. Cụ đang muốn thành lập chính phủ lưu vong để có cơ sở pháp lý đi xin viện trợ của các nước đế quốc. Cụ lắc chuông giữ lại trật tự cũng để kìm lại bầu nhiệt huyết cuồng loạn của đám trẻ.

- Thưa quý vị? - Mộng Vân nói tiếp - Chắc nhiều đại biểu đáng kính sẽ nghĩ "Nếu chúng tôi là chuột đực thì chị cũng chẳng hơn gì con chuột cái!" (Cả hội trường cuời vui vẻ). Không, thưa quý vị, tôi không muốn là con chuột cái. Tôi cũng không phải là phù thủy xui dại âm binh nhảy vào giàn lửa. Tôi sẽ trở về Tổ Quốc cùng chiến đấu với đạo quân của tướng Tùng Lâm? (Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò ầm ĩ. Tùng Lâm tiến lên diễn đàn bắt tay Mộng Vân và cúi xuống hôn tay người đàn bà này với một cử chỉ rất kính trọng). Có vị nào muốn đi với tôi không? (Một số hét lên "tôi", "tôi'" và tiếng reo hò cuồng nhiệt như đám Hồng Vệ binh trước Thiên An Môn! Cụ Bảo tái mặt vì xu thế hội thảo đi theo chiều hướng không kiểm soát nổi) - Không phải tất cả chúng ta đây đều trở về Tổ Quốc. Nhiều vị quá già rồi không thể ra mặt trận. Các vị không thể buộc chuông vào cổ mèo, nhưng các vị có đủ sức mở rộng cái miệng hầu bao ra ủng hộ cho những người chiến đấu. Các vị có thể keo kiệt từng giọt máu, nhưng xin quý vị vui lòng dốc những đồng đô-la lẻ vào Quỹ Cứu nguy dân tộc... Tôi muốn trở thành một chiến sĩ chống Cộng kiến mới có thể tôi sẽ không sống cho đến lúc niềm vui của tôi thành đạt. Nhưng tôi không một chút ân hận vì một trong những hoài vọng lớn lao của tôi là được gửi nắm xương tàn nơi cố quốc!

Tiếng vỗ tay vang lên hồi lâu. Đến lượt cụ Bảo lên diễn thuyết nhưng theo kinh nghiệm lâu năng ở nghị trường, cụ thấy lên diễn đàn lúc này bất lợi. Tùng Lâm và Mộng Vân vừa được hoan nghênh dữ dội như vậy mà bài tham luận của cụ phải thua kém thì sẽ ảnh hưởng tới vị trí của cụ trong việc bầu bán sau này. Cụ liền đẩy luật sư Phan Quang Ân lên diễn đàn trước. Anh tôi lên diễn đàn với một vẻ mặt bình thản:

- Thưa quý đại biểu! Theo thiển kiến của tôi, cuộc hội thảo hôm nay có một mục đích cao cả là hướng tất cả cộng đồng người Việt ở quốc ngoại về quê cha đất tổ. Nhưng cái quan niệm hướng về của chúng ta ở đây rõ ràng không đồng nhất. Dân tộc ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh liên miên ba chục năm. Những người Cộng sản thắng, còn chúng ta bại trận. Chúng ta là những người tự do, chúng ta đau lòng. Nhưng chúng ta là những người tôn thờ lý tưởng dân chủ, chúng ta phải chấp nhận thực tế đó. Chúng ta thừa nhận Cộng sản thắng vì họ nắm được ngọn cờ đại nghĩa, họ được đa số quốc dân ủng hộ, thế thì tại sao chúng ta lại không tôn trọng sự lựa chọn của đa số? Nếu chế độ hiện nay ngày càng mất lòng tin thì chỉ có những người theo nó mới có quyền phán quyết nó bằng lá phiếu của họ, chứ không phải chúng ta, những người tử thử của họ trước đây nói thay lời họ (có tiếng xì xào, tiếng la ó giận dữ, anh tôi phải ngừng lại vài phút mới tiếp tục được). Tôi và quý vị, chúng ta không yêu thích gì chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta đã ra đi, chúng ta đã bỏ phiếu bằng đôi chân rồi. Chúng ta phải tôn trọng ý chí của quốc dân, của đa số, của những người ở lại. Nếu chúng ta là người yêu nước, chúng ta còn nghĩ đến đồng bào ruột thịt của mình thì trên diễn đàn này chúng ta kêu gọi cộng đồng người Việt hải ngoại thuộc mọi xu hướng chính trị hãy đóng góp công của của mình gửi về giúp đất nước khôi phục lại đời sống bình thường, ngõ hầu kiến tạo nên một nước Việt Nam hùng hậu ở vùng Đông Nam Á. Nếu quý vị không ưa chính quyền đương thời thì quý vị cứ để họ tự lo lấy công việc của họ. Tùng Lâmnói hiện nay cưộc chiến vẫn còn tiếp diễn, nhưng tôi nghĩ rằng đó chỉ là một vài cuộc manh động lẻ tẻ. Hòa bình là tuyệt đối. Hai mươi vạn quân Pháp, năm mươi vạn quân Mỹ đã không làm thay đổi được tình hình thì vài tiếng súng bắn lén đó có gì đáng khích lệ. Bất cứ một hành động nào muốn nhóm lại ngọn lửa chiến tranh đều là vô vọng, đều là tội ác đối với đất nước. (Tiếng la ó, huýt gió dữ dội. Có tiếng hét "im đi", "luận điệu Cộng sản". Nhưng anh tôi không rút lui. Chờ cho những giọng điệu khiêu khích giảm bớt, anh lại nói tiếp). Những lời tướng Tùng Lâm và chị Mộng Vân nói có gì mới mẻ đâu. Các chiến lược gia bại trận đều cũng đã nói mãi rồi. Bây giờ tôi nói ngược lại thì quý vị lạ tai, quý vị la ó, nhưng tiếc rằng đó lại là chân lý. Hiểu ra chân lý này tôi cũng đã trải qua biệt bao nhiêu sai lầm, thất bại bi thảm. Nếu quý vị coi những lời tôi nói là luận điệu Cộng sản, quý vị phản đối, thì làm sao quý vị có thể học tập nổi phương pháp cách mạng của họ để chống lại họ...

Anh tôi bước khỏi diễn đàn. Có vài chục người đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt. Trong số đó tôi nhận ra bà Claudine Phương Mai, Việt kiều ở Bỉ. Tôi không ngờ anh tôi lại có thể nói được những lời như vậy. Tôi cảm động đến rơi nước mắt vì vui sướng. Đây là một bước ngoặt lớn trọng tâm hồn anh tôi. Nó hoàn toàn tự giác không cần đến một sự tuyên truyền lôi kéo nào. Cả chân lý và thực tiễn mạnh mẽ mới đủ sức lay động bộ óc ấy. Nhưng một khi đã lay động, nó sẽ chuyển biến một cách quyết liệt, không gì cưỡng nổi.

Một người trẻ tuổi trong nhóm những người tự nhận là đại biểu cho Việt kiều ở Australia nhảy lên diễn đàn. Y gào thét:

- Không thể như thế được. Không thể chấp nhận chủ thuyết đầu hàng Cộng sản. Một chế độ độc tài một chế độ ngục tù không thể tượng trưng cho Tổ Quốc của chúng ta được. Nếu anh em chúng tôi chưa có điều kiện về nước thì chúng tôi vẫn chiến đấu bên cạnh đội quân của tướng Tùng Lâm. Chúng tôi sẽ đánh bom vào các sứ quán của Việt cộng. Chúng tôi sẽ bắt cóc các nhân viên ngoại giao, các đoàn vàn hóa của chúng để đổi lấy những người bị giam. Chúng tôi sẽ kêu gọi tẩy chay Việt cộng ở các diễn đàn quốc tế. Và chúng tôi sẽ xử tội những kẻ nào có liên hệ chính thức với Hà Nội...

Tên khủng bố tuôn ra một tràng những biện pháp tội ác. Nó tưởng được mọi người hoan nghênh. Nó nói như gào thét, mép sùi bọt. Một người nào đó hét lên “im đi", “đủ rồi"... làm cho nó giận dữ, đảo mắt tìm kiếm. Nhưng một chuỗi cười chế giễu vang lên làm nó cụt hứng. Nó lùi lũi bỏ về chỗ ngồi.

Đến như cụ Bảo cũng không nuốt nổi cái luận điệu này. Vị chủ tịch đứng lên tuyên bố.

- Ở cuộc hội thảo hôm nay chúng ta không bàn tới phương sách khủng bố vì nó bị các nước văn minh lên án. Hành hung các nhân viên ngoại giao, phá phách các sứ quán là vi phạm luật pháp của nước chúng ta cư trú. Chúng ta không nhắc lại chủ trương đó ở đây...

Nhiều vị khác tham luận đã đồng ý kiến với anh tôi, nhưng những phần tử phục thù vẫn chiếm ưu thế. Cụ Hoàng Cơ Bảo đã cố gắng hàn gắn những bất đồng, dung hòa các ý kiến đối lập để có thể thông qua một cương lĩnh theo ý mình. Anh tôi đã bỏ cuộc hội thảo ra về. Anh không muốn dính vào một âm mưu nhơ bẩn.

Cương lĩnh Cali đã được thông qua với một đa số áp đảo.

Họ coi Liên minh Việt kiều Hải ngoại là một tổ chức độc tôn của những người Việt lưu vong. Là một nhân tố song song với Mặt trận tự do quốc nội đấu tranh nhằm đánh đổ ách thống trị cộng sản để xây dựng một quốc gia Việt Nam mới. Mục tiêu trước mắt là đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Đòi Hà Nội cho những người di tản ra đi trong trật tự. Đòi tự do cho tù chính trị, cho tù binh. Chúng kêu gọi cộng đồng quốc tế gây sức ép mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, ngoại giao với Hà Nội và hậu thuẫn cho Liên minh về tinh thần, vật chất nhằm thành đạt những mục tiêu trên. Chúng còn thông qua lời tâm quyết gửi đồng bào quốc nội bằng giọng điệu vừa đạo đức giả vừa khiêu khích. Chúng cử đại biểu đến trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York để trao yêu sách cho Uỷ ban Nhân quyền, cho cao ủy những người tị nạn... thúc đẩy sự can thiệp, gây rối và bôi nhọ tình hình nội bộ Việt Nam.

Ban lãnh đạo được bầu ra và cụ Hoàng Cơ Bảo hả hê kiếm được ghế chủ tịch của Liên minh.

Tôi đã viết các bài tường thuật cuộc hội thảo trên tờ Chim Việt. Là chiến sĩ tình báo, ngoài việc tìm biết những âm mưu của kẻ thù, tôi thấy mình cần phải hạn chế ngay trong trứng những nọc độc tư tưởng của bọn phục thù. Tuy phải giữ kín quan điểm tư tưởng của mình nhưng tôi vẫn phải phản ánh sao cho quần chúng thấy rõ tính chất phiêu lưu độc ác của bọn người này đang cố dẫn dắt những người Việt lưu vong vào một mê cung mới thông qua chính những lời nói của họ trên diễn đàn.

Sau khi hội thảo bế mạc, tôi mời Tùng Lâm đến nhà chơi. Tôi hỏi anh:

- Anh định tiến hành cuộc đổ bộ vào Việt Nam đó sao?

- Ai nói kỳ vậy! Ra thoát là may rồi đâu tính đến chuyện vô!

- Sao bài diễn văn của anh hùng hồn thế?

- Đâu phải của mình. Mình có viết mẹ gì đâu. Cha Bảy Dĩ viết sẵn, chi cho mình một ngàn đô-la. Mình chỉ là cái loa của ổng. Mình đâu ngờ được hoan nghênh dữ vậy!

- Anh đã tự hại mình rồi đấy. Có đánh nữa thì chúng lại xui bọn ta thôi, chứ chúng đâu có dám buộc chuông vào cổ mèo! Lần sau nó chi hai ngàn đô-la buộc anh chỉ huy một cuộc đổ bộ, anh chịu chứ?

- Xin xá ông nội cả nón thôi. Đủ rồi. Mình mới ký có một hợp đồng huấn luyện cho bốn mươi lính biệt kích thôi.

- Lính Westland?

- Không, lính Việt chớ. Chúng tuyển từ trong các trại tị nạn.

- Tư lệnh sư đoàn mà chỉ huấn luyện có bốn mươi lính thì ngon quá.

- Ớn lắm hiền đệ ơi. Mình đâu có dạy những giáo lịnh xưa. Toàn huấn luyện cách đánh du kích kiểu Trung Quốc. Mình chưa xài quen thứ này. Đại loại có các khoa: ám sát, bắt cóc, đầu độc, đốt nhà của kho tàng. Đặt mìn phá đường sắt, cầu cống, xe cộ. Cướp máy bay, tàu thủy... Thấy mình lo ngại, Bảy Dĩ khích lệ mình: - Tướng quân yên tâm. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc sẽ giúp ngài. Nhưng chưa thấy vị nào đến.

- Huấn luyện tác chiến ở địa hình nào?

- Tác chiến ở đồng bằng nông thôn và thành thị là chính. Nhưng cũng phải biết xây dựng mật cứ trong rừng.

Qua câu chuyện riêng tư tôi cũng hiểu Tùng Lâm thêm. Thực tình anh cũng chỉ vì sinh kế mà dấn thân thôi. Bằng những hợp đồng ngắn hạn anh cố giữ cho mình một khoảng cách an toàn, một đường rút lui khi cần thiết. Anh đâu phải là người "anh hùng mẫu mực" như bọn phục thù mong đợi. Nhưng liệu anh có đủ khôn ngoan để khỏi bị buộc chặt vào cái bộ máy quân sự do CIA điều khiển không thì tương lai mới có thể trả lời được.

Mlle Eugénie Mộng Vân lưu lại chơi ở nhà chúng tôi một tuần. Hai người bạn đối lập chính kiến trên diễn đàn lại vui vẻ nâng cốc lâm li chúc tụng nhau trên bàn tiệc. Anh tôi và Mộng Vân hoàn toàn không đả động gì đến chuyện chính trị nữa. Họ coi sự bất đồng ở cuộc hội thảo chỉ là một màn kịch. Trong cuộc sống họ vẫn giữ những kỷ niệm của tình bạn cũ. Tôi mới quen chị lần đầu nên chẳng tiện khêu gợi những vấn đề tế nhị đó. Ở người đàn bà này chắc còn nhiều chuyện ly kỳ cuốn hút tính tò mò của tôi.

Bạch Kim thì chẳng có gì phải giữ ý với chị. Kim quen chị từ ngày còn là cô học sinh bé nhỏ. Là khách, là bạn của anh nên cô phải tiếp chị rất thân tình. Những ngày lưu lại, hai chị em ở liền buồng có cửa thông nên suốt ngày họ chuyện trò.

- Em thích nước Pháp lắm. Năm ngoái em sang đấy có năm tháng để thu xếp chút việc với nhà băng thôi, thế mà em cứ muốn ở đấy mãi. Gía như anh chị Ân em không mua nhà ở đây thì có lẽ em đã xin nhập cư vĩnh viễn ở Dinan.

- Chị đã chán ngấy nước Pháp rồi. Chán đến buồn nôn?

- Trời ơi! - Bạch Kim kinh ngạc - Trước kia em thấy chị yêu Hugo, Verlaine, yêu anh Fournier lắm kia mà?

- Cả đến mấy vị ấy cũng làm cho chị chán ngắt. Ai mà chịu được cái ông thánh sống Hugo. Bây giờ người ta không buồn hiểu Verlaine. Còn tình yêu trong Grand Meaumes không tác động chút nào tới niềm hứng khởi của chị nữa rồi.

- Chị là con người của thi ca kia mà. Em đã đọc cuốn La commète de  Médicis chị viết năm 1958, em nghĩ nếu cứ theo con đường ấy sẽ có lúc chị được nhận Prix Goncòrt1 (Một giải thưởng văn học lớn ở Pháp).

- Khi còn trẻ thì đúng là như vậy. Chị yêu quá sớm để rồi chết quá sớm đúng như người ta thường nói "Yêu là chết ở trong lòng một ít". Vào tuổi hai mươi cho tới nay chị chẳng còn yêu ai nữa.

- Chị kỳ dị thật. Chị sống độc thân mà không thấy buồn sao?

- Cái tên George Bernard đã dạy chị nhiều điều chị coi là thánh thi. Khi hiểu ra thằng ma cô đó nói láo thì mình đã già rồi. Tuổi trẻ ích kỷ, khi già cô đơn, lẽ thường là như vậy.

- Em nghĩ rằng dù sống độc thân mà tìm ra được một công việc để say mê thì cũng đỡ buồn chứ?

- Ồ, chị say mê nhiều lắm chứ. Yêu văn học, say đàn ông, rồi mê làm thám tử. Chị cộng tác với 2 ème Bureau sau đó là DGSE mấy chục năm. Chị bỗng ham mê kinh doanh và đã cóp nhặt được một tài sản khá lởn. Cách làu ăn của mafiaA kích thích tham vọng của chị mạnh mẽ. Chị quyết định đưa toàn bộ tài sản góp cổ phần cho một connection d’optium2 (Đường dây buôn lậu thuốc phiện) lừng danh ở châu Âu. Nhưng Rossino đã phản bội chị. Nước Pháp đã tước đoạt toàn bộ tài sản của chị vì món hàng bất hợp pháp này. May mà chị được miễn tố trước tòa. Chị toan tự tử nhưng Kim Dung đã cứu chị.

- Kim Dung là ai?

- Là tác giả của những truyện chưởng của Tàu. Chị bỗng tin vào sự màu nhiệm của một hành động phiêu lưu nào đó. Chị quyết định đến Mỹ để thay đổi cái môi trường già cỗi của châu Âu. Tình cờ chị gặp lại cụ Bảo. Cụ giúi cho chị một tờ giấy mời. Thế là nghiễm nhiên chị trở thành một đại biểu Việt kiều ở Pháp. Cụ Bảo khuyên chị nên quay lại nghề cũ, một cuộc kinh doanh không phải góp cổ phần, không cần một đồng xu vốn liếng. Đó là kinh doanh máu!

- Chị nói em khó hiểu quá.

- Nói khác đi là kinh doanh chính trị! Phần lớn các chính khách đều biết là đổ bộ vài trăm tên biệt kích vào Việt Nam lúc này là phiêu lưu và vô vọng. Nhưng nó vẫn cứ làm vì nó đang là một thực đơn cao giá cho chủ trương làm mất ổn định, làm suy yếu Việt Nam của một trục quân sự mới đang hình thành. Muốn sản xuất món hàng này họ phải mở tiệm, phải thành lập Liên minh, phải quảng cáo. Họ đâu có chịu chui đầu vào cái thòng lòng. Sẽ có hàng ngàn tên lưu vong thất nghiệp, hàng ngàn tên nhẹ dạ ngu ngốc tập hợp dưới cái gậy chỉ huy của họ để bán máu cho họ. Họ sẽ đứng rất xa để hò hét xúi giục, xui dại. Chị đâu phải là đứa ngu ngốc, nhưng lại là kẻ phá sản, nên chị phải tận dụng cái sémineire1 (Cuộc hội thảo) này. Chị phải đóng vai một người hùng, một kẻ cuồng chiến cho nó thích hợp với cái Kermesse des Revanchards2 (Hội của những kẻ phục thù). Chiến thuật của chị quả là hữu hiệu. Họ đã dồn cho chị một số phiếu gần như tuyệt đối. Nhưng tiếc là chị không nắm được cái chân ủy viên tài chính của Liên minh? Cụ Bảo đã khéo đẩy cho chị ghế ủy viên tuyên truyền thông tin để đưa con trai mình vào vị trí béo bở ấy. - Mlle Mộng Vân nhún vai mỉm cười - Nhưng chị đâu chịu để cho thằng cha này nuốt được nhẹ nhàng nếu không chịu chia phần?

- Liên minh có tiền đâu mà chia? Khi tổ chức cuộc hội thảo anh Ân em cùng với một số người trong ban trù bị phải bỏ vốn riêng ra chi phí mọi khoản đấy chứ.

- Bây giờ thì chưa, nhưng tương lai quỹ của nó rất lớn. Các chi hội của Liên minh ở khắp các nước phải đóng góp. Sau đó họ sẽ nhận tiền của các chính phủ thù địch với Việt Nam. Theo tướng Tùng Lâm cho biết thì Warrens sẵn sàng xin chi cho các hoạt động phá hoại ở Việt Nam năm triệu đô-la, nếu các tổ chức chống đối hoạt động hữu hiệu. Bây giờ chưa có tiền mà cụ Bảo đã dự kiến chi lương cho các ủy viên của Ban lãnh đạo rồi thì tương lai chắc sẽ rất tốt đẹp.

- Như thế là chị lại sắp giàu đến nơi rồi!

- Không thể làm giàu bằng tiền lương được đâu em ạ. Muốn giàu cần phải có những mánh khóe khác. Em có muốn kinh doanh chung với chị không?

- Em thích nhưng em ít vốn lắm.

- Bao nhiêu?

- Của riêng em chỉ có nửa triệu quan thôi.

- Kể cũng ít, nhưng mèo nhỏ bắt chuột con. Nếu trôi chảy chỉ một vụ em sẽ có gấp rưỡi số đó, và cứ thế...

- Nghe chị nói em thất hấp dẫn quá? Nhưng cái đó cũng làm cho em nhớ đến chuyện "cô Pê-rét bưng liễn sữa".

- Dĩ nhiên là có thể gặp điều không may, nhưng biết làm sao được. Em phải tập làm quen dần với những cuộc phiêu lưu thì mới có gan chung vốn với chị được.

- Sau đây chị lại về Paris chứ?

- Không, chị chán ghét Paris rồi. Cả Quatier Latin đến Ile de Côté, cả Théâtre du Palais de Chaillot đến Quảng trường Concorde... Tất cả cái mê cung lộng lẫy đó đã vắt kiệt tuổi thanh xuân của chị, biến chị thành cô gái già cô đơn với cái túi rỗng tuếch.

- Thế chị ở lại đây với chúng em vậy.

- Không. Ở đây êm đềm quá, thơ mộng quá chị sẽ chết mất, khi đã quen với những canh bạc đỏ đen, những chuyến hàng liều lĩnh, những hy vọng phi lý... Chị sẽ đi Hồng Kông. Con cừu non trong trắng của chị, em có thích đi theo chị không?

- Em cũng thích đi, nhưng em còn phải xin phép anh chị Ân em đã.

Mlle Mộng Vân nhún vai mỉm cười:

- Là bà quả phụ thì em cũng hoàn toàn tự do như chị thôi. Cần gì xin phép ai!

Ngày cuối cùng Antonio mới đến dự cuộc hội thảo Cali. Không biết tiếng Việt nên John chỉ chụp vài bức ảnh, xin mấy văn kiện dịch ra tiếng Anh rồi anh kéo tôi đi chơi để nghe tôi tường thuật lại không khí hội thảo và giải thích tinh thần "Cương lĩnh Cali". Nghe xong Antonio tỏ ra bực bội: - Họ đã chẳng rút ra được bài học lịch sử nào. Họ lại muốn lôi kéo dân tộc mình vào một cuộc đổ máu vô nghĩa. Xu thế gần đây cho thấy một số người có thế lực trong chính giới Mỹ vẫn tỏ ra thù địch với Việt Nam. Buộc phải ra đi nhưng họ chưa chịu buông tha cái đất nước vừa thoát khỏi ba mươi năm chiến tranh liên miên này. CIA đang cố gắng hình thành một đường dây vững chắc với những người Việt lưu vong giàu có ở Mỹ để phung phí tiền bạc của nhân dân Mỹ vào những mục đích riêng tư bí mật của họ. Đứng sau lưng Liên minh Việt kiều hải ngoại rất có thể là CIA. Có điều làm cho tôi ngạc nhiên là tại sao anh lại nhận cái việc truyền bá tư trang phục thù của họ.

- Tôi sẽ không bao giờ là cái loa cho những tư tưởng đó.

- Nhưng anh đã cộng tác với tờ báo của tổ chức này.

- Trước hết tôi muốn trở thành một nhà báo. Tôi muốn chân lý phải sáng tỏ, sự thật phải được phản ánh trung thực dể người đọc rút ra được nhưng kết luận có ích. Tiếc là anh không đọc được những bài báo đó qua tiếlig Việt.

Antonio nhìn tôi với vẻ mặt làm lành.

- Tôi luôn luôn muốn tranh luận với anh nhưng vấn đề về Việt Nam, về vùng Đông Nam Á. Tôi nghĩ rằng anh có nhiều hiểu biết về vùng này hơn tôi. Mùa xuân năm tới tôi sẽ đi Bangkok. Nếu có thể anh đi cùng với tôi thì thú vị lắm.

- Chưa dám hứa với anh, nhưng tôi rất vui sướng được đi với anh. Tôi sẽ đề đạt chuyện này với tổng biên tập báo "Chim Việt".

Chúng tôi tiễn Mlle Mộng Vân ra sân bay. Chị đi New York thu xếp một số công việc theo yêu cầu của cụ Bảo. Trước khi lên máy bay chị còn rủ Bạch Kinh đi Hồng Kông với chị một chuyến. Kim hẹn cuối tuần sẽ gọi điện trả lời để chị khỏi mong. Trên đường về, Bạch Kim nói với tôi:

- Em không thể hiểu nổi người đàn bà kỳ cục đó.

- Có năm ngày chuyện trò để hiểu cả một cuộc đời thì khó đấy. Mlle Eugénie đã là một nhà văn nên chị ta có thể bịa đặt ra những điều hệt như sự thật. Nhưng chị lại làm nghề tình báo lâu năm nên chị biết che giấu những điều bí mật. Nếu ta biết gạn đục khơi trong thì ta vẫn có thể rút ra những điều đáng tin.

- Tất nhiên là cũng có được một số chuyện vặt không biết có giúp gì cho chúng ta không?

Cả hai chúng tôi đều quan tâm tới chuyến đi Hồng Kông của chị. Chị ta đến với ai, có việc gì ở Hồng Kông? Đi buôn chăng? Chị ta làm gì còn vốn mà tính chuyện buôn bán. Một chuyến đi chơi đối với chị ta lúc này là không thích hợp. Hay cụ Bảo cử chị ta đi về vấn đề Việt kiều? Nhưng ở Hồng Kông rất ít người Việt tị nạn. Họ bị xua đuổi ngay ra khỏi mảnh đất chật hẹp này, trừ một số rất ít người đã định cư lâu năm. Chúng tôi chưa đưa ra được một giả thuyết đáng tin cậy nào vào cuộc đi này.

- Em nhận lời đi Hồng Kông với chị ấy đi.

- Em sẽ chấp hành ý kiến của đồng chí chỉ huy!

- Thứ nhất, nhân dịp này em bắt liên lạc với cậu Đức qua ngả Hồng Kông. Thứ hai, em làm quen với phương thức hoạt động độc lập ở một mũi. Mục tiêu của em là tìm hiểu hoạt động của Mộng Vân ở đấy. Còn anh, anh sẽ đi với John Aantonio. Anh cũng muốn đến Wesland với Tùng Lâm để biết thêm cái hình hài "Mặt trận tự do" ra làm sao. Với danh nghĩa nhà báo, anh có lý do để tò mò những điều bí mật. Cón em, cũng cần chọn một mục tiêu công khai cho chuyến đi của mình.

Đơn giản là đi tìm hiểu thị trường đầu tư với chị Mộng Vân.

- Dù sao cũng phải thận trọng với chị ta cả trong những chuyện buôn bán.

- Dạ.

Buổi tối hôm đó, "lợi dụng" chuyện sắp phải đi xa một thời gian dài nên tôi sang thăm Kim để tạm biệt nhau.

- Bao giờ thì anh trở về? - Kim hỏi tôi.

- Anh không hẹn trước, nhưng không lâu hơn hai tháng.

- Anh có nhớ em không?

- Anh nhớ lắm. Ngay như ở đây, cách nhau có một khuôn cửa thôi mà nỗi nhớ vẫn dày vò anh.

Bạch Kim cười.

- Thế là anh lại bày ra cái trò “người dưng nước lã"!

- Đã gọi là trò thì nó chỉ có ý nghĩa hình thức bề ngoài để cho em tự do giao du thôi, chứ bên trong thì chúng ta không thể là người dưng nước lã được. Vì vậy anh yêu cầu em cho anh một chiếc chìa khoá cửa bên!

- Trước kia sống với chị Dung anh nghiêm thế, mà với em thì anh "hư" quá!

- Nói đúng ra là Dung rất nghiêm, Dung là chỉ huy nên anh phải phục tùng. Còn bây giờ anh là chỉ huy kia mà!

- Là người chỉ huy thì có thể vi phạm kỷ luật à?

Lời nói của Bạch Kim làm tôi lúng túng. Nhưng chỉ nhột phút thôi tôi đã tìm ra cách giải thích.

- Vấn đề kỷ luật ở đây chỉ là không để lộ chuyện "đóng kịch" ra ngoài thôi. Mình ngụy trang kín thì làm gì có vấn đề kỷ luật. Còn đối với Dung trước kia khác. Dù có ngụy trang được cấp trên thì vẫn là vi phạm kỷ luật, do đó anh không dám liều!

- Anh khéo chống chế lắm! Nhưng anh cũng quan liêu lắm! Em có bao giờ khóa cửa bên đâu mà anh đòi chìa khóa! Nhưng cẩn thận đấy, kẻo lỡ ra là không có gì nguỵ trang nổi đâu nhé.

CHƯƠNG VII

TỪ MẬT CỨ BÉTA ĐẾN NGÔI NHÀ

SỐ 18 PHỐ LISOW

Báo nguyệt san Chim Việt đã ra được số thứ năm. Số người cộng tác ngày càng đông, nhưng lựa bài để đăng cũng là một công việc chẳng dễ dàng. Ông chủ bút, luật sư Bùi Hạnh thường giao cả cho tôi. Đành rằng ở vị trí đó tôi có thể lái cho tư tưởng của tờ báo đì theo một xu hướng đúng đắn hơn, bớt độc hại hơn. Nhưng rõ ràng nó sẽ buộc chặt chân tôi vào cái chức thư ký tòa soạn mà tôi không hề mong đợi, tôi cần phải đến nhưng mục tiêu cần thiết cho công việc của tôi. Khi tôi đề đạt nguyện vọng đi Viễn Đông thì ông chủ bút do dự.

- Ông Hoài Việt ạ (ông gọi theo bút danh), ông muốn đi tiền tuyến để tìm hiểu sự thật thì có gì quý bằng. Nhưng công việc ở nhà sẽ ra sao. Không có ông thì mình tôi không thể đảm nhiệm nổi.

- Thưa ông chủ bút, ông có thể tìm một thư ký tòa soạn.

- Tôi dự kiến người đó là ông đấy.

- Xin cảm ơn ông. Tôi chỉ là một phóng viên mới vào nghề. Tôi cần được viết nhiều hơn nữa. Lúc đó tôi mới có hy vọng trở thành thư ký tòa soạn vững vàng dược.

- Ông khiêm tốn đó thôi. Những bài viết mà ông coi là mới bước vào nghề đó đã gây được dư luận sôi nổi trong độc giả. Chính tiến sĩ Phan Quang Ân cũng phải ngạc nhiên trước giọng văn giàu hình ảnh của ông. Tôi tin là ông có đủ năng lực làm thư ký tòa soạn cho báo Chim Việt.

- Dù sao thì tôi cũng muốn được viết. Nếu ông cứ nhất định giao cho tôi trọng trách đó thì tôi xin ông một đặc ân: Cho tôi đi viết ở những nơi tôi muốn. Tất cả cũng chỉ nhằm nâng cao chất lượng tờ báo của chúng ta thôi. Trước khi đi tôi sẽ chuẩn bị những bài chính cho ba số liền. Như vậy cũng đỡ cho tòa soạn những công việc thuộc về cấu trúc chủ yếu. Nhưng bài vở tin tức có tính thời sự ông sẽ xử lý linh hoạt sau. Như vậy là vừa có lợi cho tôi cũng vừa đảm bảo công việc chung của chúng ta.

- Vấn dề tài chính làm cho tôi lo lắng. Tờ báo non trẻ của chúng ta chưa đủ sức tài trợ cho nhũng chuyến đi xa của phóng viên. Như ông biết đấy ngân quỹ của Liên minh chỉ trông vào quyên góp, còn tiền bán báo thì lờ lài chưa đáng là bao...

- Tôi sẽ tự lo liệu lấy. Trong khi đi viết tôi sẽ không nhận lương của tòa soạn. Tuỳ theo giá trị của bài viết mà ông trả nhuận bút để bù lại một phần chi phí hành trình cho tôi sau.

Ông Bùi Hạnh đành phải chấp thuận đề nghị của tôi. Ông giúp tôi mọi thủ tục để xin xuất cảnh. Tôi có thể tới các nước Đông Nam Á với cái thẻ nhà báo. Bạch Kim phải lo mua sắm cho tôi mọi thứ phương tiện lỉnh kỉnh: Máy ảnh, máy quay phim, ghi âm, phương tiện chiếu sáng... kèm theo đó một khoản chi phí dọc đường khá lớn.

Tôi gọi điện cho John Antonio hẹn ngày lên đường.

Tôi và Antonio lần dầu tiên đến Voca City. Chúng tôi tìm đến khách sạn Pyramid, một khách sạn sang trọng cho khách du lịch ngoại quốc với giá thuê buồng cắt cổ. Hai trăm năm mươi đô-la một ngày.

Đến đây tôi mới hỏi John.

- Đề tài trọng tâm anh định viết trong chuyến đi này là vấn đề gì?

- Đó là điền bí mật, nhưng tôi có thể nói riêng với anh được. Tôi muốn viết về những con đường buôn lậu ma túy vào Mỹ. Bọn ganster chẳng thuốn ai tò mò vào công việc của chúng, nhất là lại định phanh phui tội ác của chúng ra trước công luận. Vì vậy công việc này sẽ bất lợi nếu mình ba hoa về mục đích chuyến đi quá sớm, chúng sẽ bao vây, che mắt mình. Nếu chúng biết mình nắm được những chứng cớ bất lợi cho chúng, chúng có thể đánh cắp phá hủy hoặc tệ hại hơn nữa là thủ tiêu mình luôn.

- Trong trường lợp này nghề phóng viên cũng có cái gì mạo hiểm giống như nghề thám từ!

- Đúng vậy. Viết một bài điều tra loại này là một văn kiện cảnh giác các giới hữu trách và giúp họ hiểu biết để chống lại bọn tội phạm. Nhà báo có vai trò như một người cộng tác tự nhiên của pháp luật. Tôi đến đây với tư cách một người khách du lịch. Tôi đã chọn một khách sạn đắt tiền chứ không muốn đến nhà bạn bè. Edmond Boss tùy viên thương mại, Albert Schleyer đại diện cho hãng Dupont cũng là bạn bè cũ, nhưng tôi chỉ có thể đến thăm xã giao thôi chứ không thể làm việc ở nhà họ được.

- Ngay như ở đây anh cũng không thể để tài liệu ly thân được. Những tủ két trong khách sạn chỉ đủ an toàn cho hành lý. Còn tài liệu thì rất dễ bị thất thoát.

- Anh yên tâm. Tôi sẽ cảnh giác... Còn chủ đề chuyến đi của anh?

- Tôi sẽ viết về dân tị nạn Đông Dương trên đất này. Một đề tài về nạn hải tặc trên vịnh Sima. Nếu có những tin tức gì về đường dây ma túy, tôi sẽ cung cấp cho anh.

- Cảm ơn. Về phần mình tôi cũng sẽ chia sẻ với anh những thông tin về các chủ đề trên nếu tình cờ tôi nhận được.

Hôm sau tôi quyết định đi bắt liên lạc với một cơ sở của ta. Tôi đi taxi đến hoa viên Méno. Công chúng đến đây giải trí bằng những trò chơi ít tiền. Nơi tập trung những trò chơi tôm-bô-la, trò chơi "một đồng xứ' kiểu Mỹ, trò bắn bia, ném cổ chai... Một vài đồng cũng có thể mua nổi một hy vọng to lớn nhưng... mong manh. Nơi tập trung những tay chụp ảnh để in lên vải, lên khăn, lên đĩa sứ mà vành ngoài đã vẽ sẵn những mô-tip mỹ nghệ dân gian rất vui mắt của xứ này. Cũng có chỗ tập trung những người làm xiếc như ném dao, phun lửa, ảo thuật và những chú khỉ nghịch ngợm, tinh khôn ăn mặc lòe loẹt. Tôi chú ý đến một người đàn ông ngoài sáu mươi tuổi... tóc bạc trắng mắt trũng sâu người gày gò nhưng bắp thịt lằn lên rắn chắc như cuộn thừng. Ông ngồi bên con cá sấu to lớn hàm răng nhọn nhe ra trông dễ sợ. Ông làm trò ôm con cá sấu dữ tợn đó để nó trườn hẳn nủa người lên ngực ông, nép cái đầu bên cổ ông như một đôi bạn thân thiết. Người xem tặng ông một số tiền nhỏ tuỳ theo khả năng của mình. Ông lặp đi lặp lại trò này chỉ để kiếm tiền khách lạ thôi chứ dân ở đây quen mắt quá rồi nên họ chẳng thèm xem nữa. Vì vậy nhiều lúc ông ngồi chơi để đợi, tôi đề nghị ông biểu diễn mấy pha cho tôi chụp ảnh. Khi chi tiền tôi để lẫn tấm ảnh đặc biệt vào tờ đô-la. Người làm xiếc nhận ra mật hiệu. Ông trả lại tấm ảnh và nói nhỏ với tôi bằng tiếng Việt:

- Hai mươi giờ hôm nay ở quán cà phê "Bacchus" đường Sathit, bạn anh sẽ đón anh. Anh nhớ mặc như hiện nay.

Tôi cảm ơn ông.

Đúng giờ hẹn tôi có mặt trong tiệm cà phê. Một người đàn ông độ bốn mười tuổi đến ngồi trước mặt tôi. Anh hỏi tôi bằng tiếng địa phương. Tôi lắc đầu ra hiệu không hiểu. Anh nói nhỏ bằng tiếng Việt:

- Tôi định bay đi Hồng Kông vào thứ ba tới.

- Nếu tôi không lầm thì không có lịch bay vào thứ ba. Chỉ có các chuyến bay thứ hai, thứ tư và thứ sáu thôi.

- Chắc mới có thay đổi. Tôi đã ghi rồi mà - Anh rút trong ví ra mảnh giấy có kẹp tấm ảnh có chữ ký của tôi đằng sau cho tôi nhìn thấy.

Chúng tôi tin và làm quen nhau.

- Tôi là N5.

- Xin anh gọi tôi là Tám. Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh của anh.

- Trước mắt, anh truyền giúp tôi bức điện về nhà.

- Tôi sẵn sàng. Một ngày có một phiên trực. Ngày chẵn báo cáo. Ngày lẻ nhận chỉ thị. Nếu không hết việc có thể xin buổi bổ sung nhưng phải được trung tâm chấp thuận.

Chúng tôi quy định phương thức trao đổi tài liệu. Địa điểm và thời gian, và cả hộp thư mật, đề phòng trường hợp không thể gặp nhau được. Có cả tín hiệu báo động khi bị theo dõi...

Việc bắt liên lạc thuận lợi. Tôi đã báo cáo tất cả tình hình và công việc trước mắt của tôi với đại tá Nguyễn Hữu Đức. Hai hôm sau tôi nhận được điện trả lòi. Trong khuôn khổ chật hẹp của bức mật điện, cậu tôi vẫn biểu lộ sự vui mừng khi chắp nối được liên lạc. Cậu cũng dành vài dòng thông báo tình hình sức khỏe của mẹ tôi cho tôi yên tâm. Cậu hiểu được những cố gắng của chúng tôi trong điều kiện "độc lập tác chiến" mà vẫn chủ động sáng tạo trong mọi phương thức hoạt động để thu lượm được những tin tức rất cần thiết. Cậu cũng báo cho tôi: Tin Hoàng Quý Nhân còn sống đã được khẳng định. Nhưng dấu vết của con ma này, đều đẫm máu. Nhưng tiếc là vẫn chưa nhìn thấy chính nó. Cậu cũng nhắc tôi là có khó khăn gì về tài chính thì cứ bảo cáo. Cậu sẽ chỉ thị cho Tám lo giúp. Ngân sách còn nghèo nhưng cậu vẫn cố chi viện cho những mũi chủ yếu để đỡ cho anh em được phần nào hay phần đó.

Tôi đã điện cảm ơn và báo cáo với cấp trên biết tôi sẽ đi Pandon để thăm mật cứ Béta.

Tạm biệt Antonio, tôi rời Voca City đi thị trấn Pandon. Phong cảnh miền Đông Westland gợi cho tôi nỗi nhớ quê hương. Những cánh đồng lúa, vườn cây, đặc biệt những rặng dừa nằm sát bên bờ biển. Vịnh Sima hiền lành, hầu như phẳng lặng. Những con sóng lăn tăn rì rào êm dịu vỗ vào bờ đá, tràn nhẹ lên mặt cát phẳng lì. Thyền lưới đỗ san sát bên những làng chài. Những ngôi nhà sàn gỗ đóng cọc xuống lòng kinh rạch. Thị trấn Pandon cũng có dáng vẻ quen thuộc của cái tỉnh lị ven sông Tiền sông Hậu của ta. Du khách cũng có đến đây nhưng rất ít. Tôi thuê căn buồng nhỏ trong một khách sạn tiện nghi tồi tàn của một người Hoa, giá rẻ hơn rất nhiều so với Hotel Pyramid. Tôi không hy vọng nói chuyện với Tùng Lâm qua điện thoại vì tôi không biết số máy 'của anh. Tôi dò hỏi đường đến mật cứ Béta, nhưng không ai hiểu nó là gì. Người chủ khách sạn tỏ ra nghi ngờ tôi nên y đã đi báo cho viên cảnh sát địa phương biết chuyện này. Viên chánh cẩm đã đến gặp tôi xét hỏi giấy tờ. Tôi đưa hộ chiếu và tấm thẻ nhà báo Hoa Kỳ với cái tên Mc Gill. Tôi trình bày luôn với y là tôi có người bạn Việt Nam là tướng Tùng Lâm. Hiện nay ông là chỉ huy mật cứ Béta cách Pandon bốn kilômét về phía Đông. Tướng Tùng Lâm lời tôi đến chơi nhưng tiếc là khách sạn không có danh bạ điện thoại. Liệu ông chánh cẩm có thể chỉ đường giúp tôi không? Viên chức này tỏ ra kính trọng tôi. Ông hứa sẽ gọi điện thoại giúp và khuyên tôi không nên hỏi thăm dân địa phương. Một là họ không biết. Hai nữa, chính phủ cũng giữ kín những tin tức về trại lính đặc biệt này. Tôi cảm ơn viên chánh cẩm và tiện thể mời ông ta dùng bữa trưa luôn. Ông ta vui vẻ nhận lời.

Chiều hôm đó Tùng Lâm nhận được tin tôi đến Pandon. Anh vội vàng phóng xe lên đón tôi. Chúng tôi vui vẻ ôm nhau.

- Về chỗ mình nghẹn! Dưới đó không được vui vẻ như ở đây nhưng dễ chuyện trò hơn.

- Tôi đến quân doanh như vậy liệu có tiện không?

- Trời ơi, hiền đệ cũng là nhà binh. Mình là chỉ huy căn cứ, chi mà không tiện.

Nói xong anh thu xếp đồ đạc cho tôi. Tôi trao thìa khoá cho chủ khách sạn nhưng vẫn giữ buồng. Tôi dự định còn ở lại đây ít lâu nữa.

Mật cứ Béta nằm trong một khu rừng thưa. Một diện tích chìm mười hec-ta được chăng kín dây kẽm gai. Giữa khu đất là một cụm nhà mái tôn thấp được bao quanh bởi một bức tường chắc chắn. Một chiếc cổng sắt kín mít không thấy bóng lính gác. Tùng Lâm bấm còi xe, hai cánh cửa từ từ mở ra. Bên trong hiện ra một cái sân rộng. Bốn nếp nhà quây thành hình vuông. Xe chúng tôi lao qua cổng đến thẳng ngôi nhà đối diện. Có mấy người cả nam lẫn nữ chạy ra cúi đầu chào. Tùng Lâm bảo một cô gái ra xách đồ đạc của tôi vào một căn phòng khá rộng rãi.

- Toa là thượng khách, toa nghỉ đây. Buồng tư lịnh liền bên thôi. Bảy Dĩ thỉnh thoảng cũng đến nghỉ ở đây vài bữa. Có một lần Warrens đến kiểm tra rồi đi ngay. Thằng Mẽo chê bẩn không chịu ở căn phòng kém tiện nghi này. Hắn về Voca City đã hơn. Ở đây không có gì để giải trí.

Tùng Lâm bấm chuông. Một cô gái mặc mini Jupe môi son má phấn bước vào. Cô ta gật đầu chào tôi rất lễ phép rồi quay sang Tùng Lâm:

- Thưa tướng quân cần gì ạ?

- Cho mấy chai la-ve và ít trái cây, nghe.

- Dạ.

Khi cô gái mang đồ uống vào, Tùng Lâm nói nửa như ra lệnh nửa như đùa vui:

- Đây là nhà báo Mc Gill (Đúng không hiền đệ anh hỏi lại tôi) - Mc Gill, nghe tường chưa? Quý khách của trại Béta đó. Diệu Lan phải tiếp đãi anh bạn của chúng ta thiệt chu đáo nghe!

- Dạ.

- Không được từ chối bất cứ yêu cầu gì nghe!

Tùng Lâm nháy mắt nhìn tôi vui vẻ. Còn Diệu Lan thì tỏ ra e lệ khép nép làm duyên.

- Bây giờ cho lui nghẹn. Khi cần, qua sẽ gọi.

- Ở đây cũng có cả nữ?

- Có chứ? Không có thứ này thì sống sao nổi, lấy chi mà giữ vững tinh thần. Binh sĩ ở đây coi như cảm tử quân. Sống ngày nào biết ngày đó. Khi cần ra trận là đi ngay. Bảo chết phải chết. Do đó khi chưa chết cần được cung phụng đầy đủ. Ngoài số bồi bếp, thầy thuốc ra, Warrens cho phép tuyển mười cavalières1 (Vũ nữ). Vừa là giúp vui cho binh sĩ, vừa phục vụ cho chủ tướng.

- Họ sẽ dùng những binh sĩ ở đây vào việc gì?

- Việc giết người. Đơn giản như thế thôi, giết thế nào cho nhiều, cho lẹ, cho gọn. Duyệt binh đâu cần loại này!

- Họ định đưa về nước sao?

- Có ai nói với mình điều đó đâu. Nhưng mình đoán là như vậy.

- Thế binh lính cũng không hay họ sẽ được đưa đi đâu?

- Họ cũng không nói gì trước với binh lính. Điều kiện tuyển lựa của họ là dùng vào bất cứ mục tiên nào và người lính chỉ có chấp hành mệnh lệnh. Họ gọi bọn này là những chiến sĩ tự do chuyên nghiệp. Lương cao. Gia đình được trợ cấp và định cư tập trung vào một vùng. Thực chất những thân nhân của binh sĩ là otages1 (Con tin). Họ phải chịu trách nhiệm về sự trung thành của con em họ.

Tùng Lâm tỏ ra rất hiếu khách. Anh coi tôi như ân nhân. Anh mở tiệc chiêu đãi tôi. Ba hạ sĩ quan và năm vũ nữ được gọi lên hầu tiệc. Nhân tối thứ bảy Tùng Lâm cho phép mở vũ hội ngoài trời. Âm nhạc vang lên, binh lính được phép vui đùa thoải mái. Những cô gái nhảy cũng tận dụng những đêm xả láng như thế để tăng thu nhập. Họ nhận được những khoản “puốc-boa” nho nhỏ tùy theo sắc đẹp của từng người.

Tôi ngỏ ý với Tùng Lâm sẽ viết một bài báo ca ngợi các chiến sĩ tự do của mật cứ Béta để đăng trên báo “Chim Việt", cơ quan tuyên truyền ngôn luận của Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Tùng Lâm rất hoan nghênh. Nhưng chợt nhớ ra điều gì anh vội bảo tôi nên hỏi qua Bảy Dĩ xem sao. Lỡ Warrens không cho phép công bố những tin tức này thì anh sẽ bị khiển trách. Nhưng đã cất công đến đây thì cứ quan sát, chuẩn bị tài liệu đi. Nếu Bảy Dĩ bằng lòng cho đăng thì hãy đăng.

- Đã mời được các chuyên gia chiến tranh du kích của Trung Cộng đến giúp đỡ lần nào chưa?

- Chưa. Mình nghe nói Liên minh còn cử bà Mộng Vân làm thuyết khách đi Thượng Hải hay Bắc Kinh để đàm phán với người Tàu nhưng chưa rõ kết quả ra sao. Đấy là chuyện của mấy ông bà chính trị gia, mình đâu có quan tâm tới.

- Hồi này anh có hay gặp đại úy Huỳnh Tấn Hào không?

- Không gặp, nhưng cha cũng ở gần đây thôi. Mai chúa nhựt ta có thể đến thăm người bạn cùng hội cùng thuyền chốc lát.

- Dạ.

Trò chuyện tới khuya. Tùng Lâm trở về phòng mình.

- Có việc gì toa cử bấm chuông. Diệu Lan sẽ phục vụ chu đáo nghe.

- Cảm ơn anh Tư.

Tùng Lâm đi được vài phút, tôi đang ghi nhật ký thì Diệu Lan, trong bộ đồ lụa trắng mỏng như sương đẩy cửa vào. Cô ta mỉm cười trước vẻ ngạc nhiên của tôi.

- Dạ, cho phép em buông màn - Vừa nói cô vừa leo lên giường xếp đặt chăn gối.

- Cảm ơn Diệu Lan.

- Thưa ông Mc Gill, thiếu tướng lịnh cho em phải hầu ông đêm nay.

Tôi mỉm cười thân mật vỗ lên vai cô gái:

- Rất hân hạnh.

- Em làm Massage cho ông là dễ chịu ngay.

- Cảm ơn. Được người đẹp xoa bóp cho thì làm sao ngủ nổi! Thôi, em cứ về nghỉ. Khi cần tôi sẽ bấm chuông.

Tôi thơm nhẹ lên má cô gái, giúi cho cô một chút tiền lót tay để cô ta không coi tôi là người keo kiệt.

- Em cảm ơn ông!

Diệu Lan mỉm cười cúi đầu chào rồi nhẹ nhàng mở cửa đi ra.

Sáng hôm sau, điểm tâm xong Tùng Lâm lái xe đưa tôi đi thăm Hào. Chiếc xe Gíp phóng như bay trên con đường vắng vẻ buổi sớm. Xa xa đã thấp thoáng nhìn thấy biển. Mặt sóng óng ánh nhạt thiếc lỏng. Gió thổi mát rượi. Màn sương mỏng tan dần để lộ ra vừng mặt trời vàng nhạt. Ba mươi phút sau chúng tôi rẽ theo con đường nhỏ chạy men bờ sông Sipa. Cửa sồng mở rộng dần ra trước biển. Vượt qua vài cây số đường xấu, Tùng Lâm đỗ xe lại trước một cái cổng sắt của khu nhà. mái tôn nho nhỏ.

- Đến nơi rồi!

Tùng Lâm đến trước cổng bấm chuông. Anh hỏi một người nào đó bên trong bằng thứ tiếng "giả cầy" Chúng tôi chờ dăm phút thì có một người Việt ra tiếp. Sau khi hiểu được ý định của chúng tôi người này mới mở cửa cho xe vào.

Trương Tấn Hào nhận ngay ra Tùng Lâm. Hào chào viên tướng theo kiểu nhà binh rồi ôm chầm lấy Tùng Lâm. Nhưng Lâm đẩy Hào ra và chỉ sang tôi:

- Bộ không nhận ra ai đây sao?

- A! Anh... anh Nghĩa. Trời ơi lâu quá mới gặp lại, trông anh khác trước nhiều quá.

- Bây giờ là ký giả Mc Gill, người Mỹ gốc Việt nên nhìn có khác đi đôi chút - Tùng Lâm giới thiệu thêm.

Tôi bắt chặt tay Hào và nhìn thẳng vào mắt anh. Anh cũng đã già đi so với cái ngày vượt biển.

- Thôi cho xe vô trong kia rồi ta nói chuyện tiếp.

Tùng Lâm đưa xe vào sân sau. Trước mặt chúng tôi biển hiện ra lồng lộng. Hào kéo tôi và Tùng Lâm vào phòng khách. Anh mở tủ lạnh lấy mấy hộp Coca-cola đặt lên bàn.

- Các anh có thể ở chơi với tụi tôi bao lâu?

Tùng Lâm liếc mắt thìn tôi. Tôi nhìn lại anh tỏ ra là tất cả đều tùy thuộc vào anh.

- Mc Gill hoàn toàn tự do, còn tôi chỉ ở chơi đến chiều.

- Xin các anh cứ gọi tôi là Hoài Việt. Các bài báo tôi đều ký là Hoài Việt. Nhập quốc tịch Mỹ nên trong hộ chiếu xuất cảnh phải ghi cái tên rắc rối đó. Tôi trở về Dông Nam Á để viết một số bài về dân di tản và nạn hải tặc. Tôi có thể ở đây ít ngày. Hiện tôi đã thuê phòng ở khách sạn Yankin trên Pandon. Mời các anh lại chơi với tôi. Tôi ở với các anh cũng được nhưng các anh đâu có tư thất. Trong quân doanh vào ra chẳng tiện.

- Trên biệt cứ Béta thì đúng là không tiện, còn ở chỗ bọn tôi thì chẳng có chuyện gì bí mật cả! - Hào cườl - Anh có thể ở đây vại tháng với tôi cũng được!

Tùng Lâm cười lớn:

- Tôi là biệt cứ Béta, còn anh là hải cứ Gamma! Chà có khác nhau là bao.

Huỳnh Tấn Hào thết chúng tôi bữa nhậu gồm các thứ bánh tráng, bánh gỏi, mắm cá, thịt vịt, tái nhúng... đặc Nam Bộ. Tùng Lâm uống rất nhiều rượu. Tôi lo cho anh lái xe về một mình mà say thì nguy hiểm lắln. Nhưng Tùng Lâm gạt đi.

- Mình đâu có say vì ba xị đế. Bà già huấn luyện luống rượu cho mình từ hồi bả mang bầu! Ha ha. Xin quý anh em cạn ly.

Ăn uống xong Tùng Lâm lăn ra ngủ, ngáy như sấm. Hai giờ tỉnh dậy, anh lại hoạt bát nhanh nhẹn nhu không có chuyện gì. Anh về biệt cứ Béta trước và hẹn bữa mai đưa xe xuống đón tôi. Nhưng Hào bảo anh không phải đón. Khi nào về Hào sẽ đưa tôi đi.

Đêm hôm đó Hào đưa tôi xuống thuyền. Chúng tôi ngồi trên boong ngắm trời ngàm biển. Trăng sáng, mặt biển mênh mông rợn sóng lấp lánh như ngân nhũ. Con thuyền dập dềnh nhè nhẹ theo nhịp sóng. Hào thích những nơi vắng vẻ êm ả để sống với thế giới nội tâm, tái hiện quá khứ. Anh say sưa kể chuyện mình:

- Sau khi chúng ta chia tay nhau, tôi theo Bảy Dĩ đi Wesland. Ở đây chúng tôi được gặp Albert Schleyer người đại diện của Warrens. Người Mỹ này khuyên tôi nên ở lại Đông Nam Á. Anh ta sẽ giúp tôi một công việc làm ăn với số thương kha khá. Chưa biết là việc gì nhưng tôi rất mừng vì có một thân một mình, nghề nghiệp chẳng có, dựa vào anh Bảy mãi cũng không tiện. Anh Hai tôi ở Pháp nhưng tôi chẳng muốn sang vì giữa tôi và chị dâu, đôi lần có chuyện bất hòa. Hơn nữa tôi còn muốn đón vợ con ra nên việc cư trú quanh vùng này có nhiều thuận lợi. Tôi ngỏ ý muốn biết rõ công việc. Albert nói với tôi:

- Anh giúp chúng tôi thành lập một hải đội vận tải nhỏ. Bắt đầu từ việc đóng tàu, lập căn cử, tuyển mộ và huấn huyện thủy thủ. Sau đó sẽ làm công việc vận chuyển người hoặc hàng hóa cho hãng Albert S.T.C.

Công việc này thích hợp với tôi. Tôi lại được biết Bảy Dĩ cũng xin làm việc với hãng này nên tôi nhận lời. Tôi ký một hợp đồng ba năm với hương năm trăm đô-la một tháng. Dĩ có vai trò như một xử lý thường vụ của hãng, trông nom toàn bộ công việc xây dựng hải đội của chúng tôi. Như vậy càng tốt. Tôi chẳng cần biết tiếng Albert đặt trụ sở ở đâu, ai là giám đốc, hình thức kinh doanh của nó ra sao. Tôi chỉ biết là thực thi chương trình và xin lãnh tiền qua anh Bảy.

Tôi cùng Bảy đi thuê đóng năm chiếc tàu nhỏ theo thiết kế đặc biệt của hãng. Mỗi chiếc một kiểu có trọng tải khác nhau. Cái ta đang ngồi là chiếc lớn nhất tải trọng tám mươi tấn lắp máy đẩy Kobé 100 cv của Nhật. Những chiếc khác nhỏ hơn, cỡ sáu mươi, năm mươi, bốn mươi tấn thôi. Chúng tôi đến các trại tị nạn tuyển mộ thủy thủ. Chúng tôi chọn người Việt để dễ huấn luyện và chỉ huy sau này. Phần lớn là những anh em binh lính, sĩ quan cũ nhưng còn trẻ và khỏe. Mỗi thuyền lựa đủ hai kíp hoa tiêu và thợ máy. May mà trong số anh em, phân nửa là lính của Hải lực Việt Nam Cộng hòa cũ nên việc huấn luyện cũng nhẹ nhàng và nhanh chóng. Chỉ nửa năm là anh em đã làm chủ được hải thuyền, quen thuộc biển khơi sông nước vùng Đông Nam Á.

- Các anh đã bước vào công việc kinh doanh rồi chứ?

- Chưa. Thực ra Bảy Dĩ cũng đã giao cho chúng tôi đi đánh cá vài vụ để bán cho vài hãng đồ hộp, nhưng sản lượng chẳng đáng là bao. Vịnh Sima bị đánh bắt đến kiệt quệ nên chúng tôi phải đến những vùng biển gần Việt Nam, gần Cam-bốt, vùng hạ lưu của các nhánh sông Mékông tìm dòng cá. Chúng tôi tính toán thì thấy tiền cá chẳng đủ chi phí cho thuyền máy. Nhưng hãng Albert hình như chẳng chú ý đến lỗ lãi. Gần đây chúng tôi còn ra khơi vào ban đêm đem theo cả vũ khí và các phương tiện truyền tin với nhiệm vụ chống hải tặc, giúp đỡ những con thuyền di tản bất hạnh ngoài khơi. Công cuộc cứu trợ nhân đạo này do các tổ chức từ thiện thông qua HCR1 (Cao ủy Liên hiệp quốc về những người tị nạn)  thuê hãng Albert S.T.C. Chúng tôi có cứu giúp được một số thuyền nhưng xem ra chưa phải là mục đích chính của công vụ. Năm nay bọn tôi luyện tập xa hơn. Tầm hoạt động vượt quá một ngàn kilômét. Có lần tôi đưa chiếc D.182 và chiếc C.5801 đến sát bờ biển Kiên Giang. Có bữa được sự hướng dẫn bằng vô tuyến điện của một tàu lớn của hãng chúng tôi đã ra đến vùng biển quốc tế cách Nha Trang ba mươi hải lý rồi mới quay về.

- Chỉ đi không chứ không chuyên chở gì?

- Dạ trong khoang chỉ có nhiên liệu, nước ngọt và phao lưới thôi. Chúng tôi đi lẫn vào các ngư thuyền khác. Chỉ có điều đi qua gần nhà mà không được rẽ vào - Hào mỉm cười rồi lại buồn buồn kể tiếp - Tháng tới bọn tôi sẽ tập chở người. Trại Béta của anh Tùng Lâm sẽ phối hợp luyện tập với bọn tôi. Chúng tôi ngày càng đi xa các mục đích kinh doanh. Chưa biết họ sẽ dẫn dắt bọn tôi đi đến đâu!

- Bảy Dĩ không nói gì về chuyện đó với anh à?

- Không, nhưng vừa rồi anh Tùng Lâm đi Mỹ về nói chuyện riêng với tôi. Nghe nói tình hình trong nước hồi này rối loạn lắm. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã bắt đầu. Khơ-me đỏ tiến công Việt Nam ở phía Nam. Trung cộng gây sức ép ở phía Bắc. Hàng triệu Hoa kiều phá hoại bên trong... Không hiểu sự thực ra sao, tôi lo lắng quá.

- Thế anh có nhận được tin tức gì của chị và các cháu không?

- Dạ có. Tôi vẫn viết thư về luôn đó. Tôi cũng tiết kiệm chi tiêu thỉnh thoảng mua ít quà gửi về đỡ cho quấy má con. Hồi tôi mới đi má xắp nhỏ vì lo lắng mà đau liệt giường. Anh ba tôi về thấy vậy, giận tôi lắm. Anh cũng nghèo không giúp đỡ được nhiều. Ông cố cậy cục xin cho má nó vô bịnh viện của đơn vị điều trị. Vài tháng sau má nó lành bịnh trở về, xin được việc làm. Con cháu lớn vừa đi học vừa làm thêm đỡ má. Thế mà cháu vẫn thi vô được đại học sư phạm. Nhờ có con ngoan mà bà sống nổi. Tôi viết thư kêu bà đưa con vượt biển nhưng má con nó không chịu. Má nó bảo giờ kiếm đâu ra tám lượng vàng mà thuê thuyền. Hơn nữa biết ai đáng tin mà giao tiền cho họ. Đến như chồng lái thuyền mà còn bị lỡ chuyến nữa là người ngoài? Nếu có tám lượng vàng bà cũng chẳng đi, bà để nuôi con cho nên người. Con cháu lớn nhất định không đi. Cháu đang học hành thuận lợi, bỏ đến nước khác, ngôn ngữ bất đồng sức đâu học lại từ đầu để vô đại học.

- Đó là tấn bi kịch lớn anh Hào ạ. Tạm thời thì vẫn phải chấp nhận sự chia li. Tôi tin tình hình sau này sẽ tốt đẹp hơn.

Hào không nói gì. Dưới ánh trăng, tôi thấy cặp mắt anh long lanh những giọt nước.

Hôm san Hào lấy Honđa đưa tôi về chỗ Tùng Lâm. Tôi mời hai anh lên Pandon để có dịp thù tiếp hai anh trong khách sạn Yankin...

Nhờ Hào cho địa chỉ, tôi đã tìm đến một số trong những người di tản sống sót qua những vụ hải tặc khủng khiếp trên mặt biển, những vụ trôi giạt vì dông bão, những vụ lừa lọc, trả thù... mà tôi có được một bài phóng sự chân xác. Tôi còn chụp ảnh các nhân chứng của sự kiện để minh họa cho bài báo của mình.

Tôi mò đến trại tị nạn Chumanthan điều tra tại chỗ cuộc sống cơ cực của những người lưu vong bị các quan chức của chính quyền, của tổ chức cứu trợ ở đấy ăn chặn. Họ đứng ra độc quyền bao thầu các khoản cứu trợ của HCR, của các tổ chức từ thiện quốc tế rồi cấp phát thức ăn đồ dùng cho những người di tản với giá cắt cổ. Một mặt chính quyền sở tại than phiền về sự gánh chịu của họ với làn sóng người di tản nhưng mặt khác họ lại lợi dụng những trại này như những con gà đẻ trứng vàng.

Trong khi tôi đi Pandon thì Antonio bay sang Bangkok rồi đi lên vùng núi phía bắc Thái Lan. Anh ở thị trấn Chiang Rai, một đỉnh của "triangle-d’or". Anh muốn tìm hiểu về "tam giác vàng" này, nhưng rất ít kết quả. Phương tiện giao thông khó khăn. Các băng cướp và các tổ chức buôn lậu tiến công những người da trắng không có phân biệt. Anh không biết tiếng Thái, tiếng Trung Quốc nên rất khó tiếp xúc với dân địa phương. John trở lại Voca City với cái túi rỗng. Anh cố gắng săn lùng nhưng chỉ được một số chuyện ít quan trọng. Gặp lại tôi anh tỏ ra thất vọng. Tôi thông cảm và an ủi anh.

- Trước khi viết được bài báo "Tôi đã nhìn thấy Vi xi. Tôi đã nhìn rõ kẻ thù” anh đã phải tốn bao công sức. Nhưng bài báo có sức mạnh bão tố. Đề tài anh lựa chọn hiện nay cũng rất khó khăn. Có thể anh còn phải lăn lộn với đất này hơn nữa.

- Tôi sẽ không nản lòng đâu. Sớm muộn tôi cũng phải tìm ra một cái gì đó. Nhưng bây giờ thì không thể vui vẻ được.

- Anh có biết hoạt động của hãng ALBERT – S.T.C. không? Tôi nghe người ta nói đến những hoạt động mờ ám của nó. Nhưng sự thực nó là gì thì không ai biết.

- Tôi chưa nghe đến nó lần nào. Tôi sẽ cố tìm xem.

- Tiện chuyến đi này anh có thể viết về các trại tị nạn của người Việt ở đây. Có hàng tá chuyện mờ ám, bê bối, tàn ác nhưng lại được che đậy bằng những mỹ từ nhân đạo.

Tôi cung cấp cho anh nhiều tư liệu. Antonio rất hoan nghênh nhưng anh ngạc nhiên vì sự chia sẻ này.

- Tại sao anh không viết?

- Anh là người Mỹ, anh viết chuyện này khách quan hơn và dễ gây ấn tượng. Tôi đang theo đuổi một đề tài khác rồi.

Ngay hôm sau Antonio đi lấy tin sâu hơn ở những địa điểm tôi chỉ dẫn. Anh còn đến gặp cả các quan chức HCR để xin những số liệu cụ thể. Thế là hai chúng tôi đều có bài để bay về Mỹ.

Bạch Kim cùng đi Hồng Kông với Mộng Vân. Hai người đàn bà đi tìm hiểu thị trường kinh doanh. Bạch Kim tỏ ra dè dặt, nhưng cũng hào hứng một cách ngây thơ về những món lợi nhuận hấp dẫn mà Mlle Eugénie Mộng Vân đã khéo vẽ trong tưởng tượng của cô. Dù sao thì cũng là một chuyến đi thú vị, một cuộc thực tập vào nghề, xét cả về mọi phương diện. Lần thứ hai Bạch Kim đến Hồng Kông kể từ chuyến Voyage de noce với Vĩnh Quốc. Lần này cô cũng tìm thẳng đến khách sạn - Auriga, nơi cô đã ở đó một tuần. Hai chị em thuê một buồng mãi trên lầu thứ mười hai.

Bạch Kim bỗng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên cô nằm chung giường với phụ nữ? Cô cảm thấy ngượng ngùng. Cô để ý thấy trước khi đi nằm Mộng Vân chích một ống thuốc vào cánh tay.

- Chị ốm hay sao mà phải chích thuốc?

- C’est drogue1 (Chất ma tuý đấy)

- Chị cũng dùng ma túy?

- Em ngạc nhiên làm à? Đến thế kỷ sau cả nhân loại sẽ dùng ma túy. Tại các bữa tiệc chiêu đãi các vị nguyên thủ quốc gia, người ta sẽ bày những xi-lanh chất héroine, cocaine bên cạnh  những chai champagne! Người ta sẽ không chạm ly nữa mà sẽ nâng những chiếc xi-lanh để chúc tụng nhau!

Bạch Kim bật cười trước sự tưởng tượng kỳ quặc của người bạn đồng hành:

- Em thật không sao hình dung nổi. Ngay từ bây giờ, tất cả các nước đều coi ma tuý là thứ hàng bất hợp pháp. Mua bán ma túy là một trọng tội đối với nhân loại.

- Em nên nhớ là trước năm 1933 hiến pháp nước Mỹ coi uống rượu là bất hợp pháp. Buôn bán rượu là trọng tội, giống hệt như ngày nay họ cấm bạch phiến. Khi họ cấm thứ gì là các vị tai to mặt lớn, những vị duy trì luật pháp lại được dịp làm giàu về thứ đó. Bọn buôn lậu bao giờ cũng biết bước qua luật pháp bằng cách giúi cho nhà chức trách một khoản béo bở. Kết quả là thuốc lá, rượu mạnh và ma túy vẫn tồn tại và song song phát triển với lịch sử nhân loại! Em dùng một chút mà xem, thật tuyệt vời? Tinh thần lâng lâng phấn khích, thể xác cường tráng cuồng si, đôi mắt sẽ sáng ra như kẻ cạn thị tìm thấy kính!

- Em sợ lắm. Nghiện ngập còn đáng sợ hơn bệnh tật.

- Em ngốc lắm. "Cái chết trắng" chỉ là trò hù họa của bọn nhát gan chứ đâu có đáng sợ. Thử một chút thôi đâu có nghiện. Đưa tay chị chích cho một mũi!

- Không đâu. Em xin chị!

Bạch Kim giãy nẩy còn Mlle Mộng Vân thì cười ngặt nghẹo. Đôi mắt dâm đãng của chị nhìn Bạch Kim trừng trừng làm cô phát khiếp. Mộng Vân ôm chầm lấy Bạch Kim. Cánh tay trần to béo nhẽo mỡ vuốt ve cô một cách thô bạo. Bạch Kim thấy ghê tởm và hổ thẹn nhưng cô cũng tò mò để mặc, cô không muốn làm mất lòng chị ta.

- Chị âu yếm em kiểu này thì đến chồng em cũng phát ghen.

- Ở bên kia thế giới thiếu gì đàn bà thà nó phải ghen với em. Hãy mặc xác bọn đàn ông cho chết. Chị cầu mong cho sáng mai tỉnh dậy trên trái đất chẳng còn tên đàn ông nào nữa. Hành tinh này chỉ còn do phái đẹp ngự trị. Chỉ yêu em hơn bất cứ ai. Đừng lấy chồng nữa Bạch Kim ạ. Hãy sống với chỉ.

- Vẫn có những người đàn ông tốt chứ.

- Không có đâu em ạ. Nhân danh một người đàn bà đã sống qua tuổi thanh xuân chị đoan chắc với em như vậy. Tướng Jean Cartier nghị sĩ Champlin, tên đồ tể Rossino đến đức giám mục Antone de Guignot đáng kính, từ nhà thơ Vercheres, huân tước Michel Hubert đến thằng hề Andrés Fouques... tất cả đều là bọn khốn nạn, bọn đê tiện những tên đạo đức giả trơ tráo, láu cá...

- Một phép quy nạp không hoàn toàn chưa cho ta kết luận chính xác được.

- Đây không phải là lô gích hình thức mà là kinh nghiệm cuộc sống. Em mới biết một phần năm thằng đàn ông (nó chết quá sớm, đúng không?). Còn chị thì vàng, trắng, đỏ, đen, nâu, xám, hung hung đều đã trải qua... Bây giờ chị thù ghét bọn chúng... Mlle Mộng Vân nói hùng hồn, say sưa cho đến lúc mệt lả. Cặp môi son nhòe đi, nước miếng nhểu ra hai bên mép hồng hồng như giọt máu loãng... Liều bạch phiến tan dần. Chị ngủ thiếp đi và cất lên tiếng ngáy như sấm... Bạch Kim nằm xoay lưng lại hai tay bịt lấy tai không sao ngủ được. Thỉnh thoảng chị lại nói mê lảm nhảm không rõ câu gì. Đúng là một cuộc tra tấn!

Sáng hôm sau, điểm tâm, trang điểm xong, Mộng Vân rủ Bạch Kim đi chơi. Họ thuê xe taxi đến Fuk Wah street. Xe đỗ trước một building cao ngất. Mộng Vân dẫn Bạch Kim lên tầng tám, căn hộ 812. Họ bấm chuông, cánh cửa hé mở, Kim nhận ngay ra người bên trong là Hứa Quế Lan.

- Chị Lan!

- Bạch Kim!

Hai người ôm chặt lấy nhau trước sự ngạc nhiên của Mộng Vân.

- Hai người quen nhau từ lâu rồi sao? - Mộng Vân hỏi.

Bây giờ đến lượt Hứa Quế Lan ngạc nhiên. Bạch Kim phải giới thiệu.

- Đây là chị Mộng Vân, bạn cũ của gia đình em. Chính chị Vân đưa em đến đây làm cho em bất ngờ.

- Mình chưa bao giờ quen Hứa Quế Lan. Mình được tiến sĩ Price giới thiệu đến gặp Lan có chút việc.

- Trời! Tưởng ai xa lạ. Em cũng biết ông Price. Té ra Price cũng là bạn của chị Vân nữa.

Má Quế Lan đỏ ửng, chị ta vội mời hai người ngồi xuống ghế rồi sẽ nói chuyện sau. Chủ nhân pha trà Long Tỉnh mời khách. Mộng Vân mở ví rút lá thư của Price trao cho Quế Lan.

- Xin cô đọc ngay cho. Tôi nghĩ là trong đó có những việc mà tôi cần được Quế Lan trả lời sớm.

- Dạ, thế xin lỗi chị cho em vài phút.

Quế Lan mang lá thư vào buồng trong. Mươi phút sau cô ta đi ra dáng điệu vui vẻ. Cô gọi Mlle Mộng Vân ra một chỗ rồi nói nhỏ:

- Việc này em còn phải bàn với ba em thêm. Chắc là ba em sẽ cố thu xếp được thôi. Em sẽ gọi điện thoại báo cho chị chương trình làm việc chị nhé!

- Cảm ơn Quế Lan.

Hai người ghi số điện thoại cho nhau rồi quay ra ngồi xuống bên Bạch Kim.

- Thế nào Bạch Kim lấy chồng chưa hay vẫn sống một mình?

- Cũng sắp chị ạ! - Bạch Kim cười và nháy mắt với Mộng Vân - Thế hiện nay anh ở đâu chị?

- Vẫn ở lại với Cộng sản! - Quế Lan cười vui vẻ.

- Chị có nhận được tin của anh không?

- Có, nhưng từ lâu làm rồi.

- Thế Quế Lan sống một mình ở đây thôi à? - Mộng Vân hỏi.

- Dạ có hai mẹ con. Cháu Jimi (quay lại với Kim), cháu lớn lắm rồi cô Kim ạ. Cháu đi học và nói thạo tiếng Anh rồi!

Quế Lan lấy tay che đôi má ửng hồng và nụ cười ý nhị của mình.

- Chị Vân có biết anh Nhân chồng chị Lan không ạ?

- Nhân nào nhỉ?

- Đại tá cảnh sát Hoàng Quý Nhân!

- À… chị nhớ ra rồi, Cái cậu đẹp trai có vết sẹo nhỏ ở thái dương bên trái chứ gì. Bọn mình cùng học Sarrut nhưng khác Promotion1 (Khóa học). Mình học trên cật ta hai lớp, sau lại cùng làm ở 2B với nhau. Tên chính của cậu ấy là Lê Trọng Đạo. Hoàng Quý Nhân chỉ là cái lốt giả.

- Chị Vân biết về anh Nhân có khi còn kỹ hơn chúng mình. Chưa chừng anh Nhân có lúc đã là amant1 (Người tình) của chị! - Bạch Kim nói đùa.

- Bậy nào. Nó thuộc loại đàn em? - Mộng Vân cười - Thú thật có lúc mình đã là người tình của bố hắn, M. Lê Trọng Trình.

Cả ba cùng cười vui vẻ. Nửa giờ sau họ chia tay nhau.

Chiều hôm đó lợi dụng lúc Mlle Mộng Vân bận chờ tin bên máy điện thoại, Bạch Kim đi dạo phố một mình. Cô đến khu Kow - Loon tìm một cửa hàng sách cũ. Sau một hồi quan sát cái giá sách, cô hỏi người bán hàng:

- Thưa ông tôi muốn tìm một cuốn thơ Đỗ Phủ xuất bản từ xưa nhất mà ông có.

Người bán hàng già nhìn cô từ đầu đến chân rồi hỏi lại:

- Bà có vừa lòng với cuốn xuất bản vào triều Thanh, năm 1792 không? Chỉ có hai bài bị mất. Tôi phải chép tay dán vào.

Bạch Kim cầm cuốn sách ông già đưa cho. Cô xem qua rồi nói:

- Phần chép tay của ông hình như sai mất ba chữ.

- Dạ có nhiều dị bản. Tôi ghi theo cưốn của Nam Hải Tùng Thư xuất bản năm 1846. Nếu bà ưng xin mời vào trong phòng ta thỏa thuận giá cả.   

- Dạ.

Bạch Kim theo ông già vào phía trong. Một căn buồng nhỏ chất đầy những sách báo cũ. Chờ ông già khép cửa lại cô mới rút ra tấm ảnh đưa ông xem. Ông già cẩn thận lấy chiếc ảnh thứ hai đặt sát lại bên nhau rồi lấy kính lúp soi. Thấy mép cắt trùng khít ông mới cười vui vẻ bảo Kim cất ảnh đi và bắt đầu nói chuyện:

- Đồng chí gặp tôi có việc gì?

- Cháu muốn nhờ bác chuyển giúp bức mật điện về nhà có được không ạ.

- Được chứ nhưng không quá một ngàn chữ. Đồng chí có ở đây chưa?

- Dạ chưa. Cháu phải chờ tình hình ngày mai đã.

- Có cần tôi giúp thêm việc gì nữa không?

- Bác có biết Vương Phúc Đạt là người thế nào không ạ.

- Ai chẳng nghe tên ông ta. Vương sinh năm 1920 ở Quảng Đông. Cao một mét sáu bảy đầu hói, mắt cận thị, mũi gồ, vành tai hẹp. Một nốt ruồi ở giữa nhân trung. Tốt nghiệp trung học Quế Lâm. Tham gia cách mạng 1 939. Chính ủy trung đoàn trong chiến tranh Triều Tiên sau là chính ủy sư 42 Giải phóng quân nhân dân. Năm 1965 vụ phó vụ tổ chức Bộ Ngoại giao, rồi vụ trưởng An ninh đối ngoại. Thất sủng với Mao bị Hồng vệ binh cho đi cải tạo khổ sai. Mới được phục hồi và hiện là cố vấn cho tổng bộ Hoa kiều Hải ngoại. Ông ta thường có mặt ở Hồng Kông.

- Có thể ngày mai có cuộc họp mặt giữa Vương Phúc Đạt với Mộng Vân, ủy viên thường vụ của Liên minh Việt Kiều Hải ngoại, một tổ chức phục thù mới được đẻ ra ở Mỹ. Họ đang đi tìm kiếm sự ủng hộ của các giới phản động quốc tế thù địch với Việt Nam, để thực hiện chủ trương làm chảy máu liên tục Tổ Quốc ta. Tiến sĩ Price, một yếu nhân của Bộ Ngoại giao Mỹ, người chủ trương đến cùng tăng cường mối quan hệ Trung-Mỹ, phụ tá của cựu Tổng thống Nixon và Kissinger về các vấn để Trung Quốc đã có mật thư giới thiệu Mộng Vân với Vương Phúc Đạt thông qua một nhân vật thứ hai. Ông này là Hứa Vĩnh Thanh, tư bản Hoa kiều Chợ Lớn có vị trí quan trọng trong các cuộc môi giới chính trị. Có lẽ Hứa cũng tham gia cuộc họp với tư cách trợ tá cho Mộng Vân hoặc là phiên dịch gì đó. Không rõ nội dung cuộc họp đề cập đến những vấn đề gì và sự thỏa thuận của họ đến đâu. Cháu mới đến đây, đơn thương độc mã, không biết làm sao tiếp cận được họ.

Ông già chủ hiệu sách cũ không trả lời ngay, vẻ mặt trầm tư, ít phút sau ông mới nói:

- Địa điểm gặp mặt có thể dự đoán được. Họ thường hay tiếp khách tại cơ quan xử lý thường vụ của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ở 8 Li-sow Street. Nhưng tiếp cận họ rất khó vì nó được canh phòng cẩn mật. Có hệ thống báo động chống ngoại nhập, có tường cách âm chống nghe trộm. Nhân viên phục vụ cũng không được phép ra vào tự nhiên mà phải theo những quy tắc chặt chẽ. Ở đây về mặt công khai chỉ là nơi tiếp xúc với những cá nhân hoặc tổ chức Hoa kiều Hải ngoại, nhưng thực ra là đầu mối thu lượm tin tức tình báo, truyền mật lệnh cho thuộc hạ, nơi ký kết những mật ước chính thức và bán chính thức. Về phần tôi, tôi sẽ cố gắng theo dõi. Nhưng chị cũng cứ chủ động theo kế hoạch của mình.

- Dạ, cháu đi Hồng Kông cùng với Mộng Vân. Hai người ở chung buồng 120 Khách sạn Auriga. Nhưng Mộtng Vân là một gián điệp già đời rất khó moi nổi những tin tức mà chị ta cần giữ.

- Hay là thế này vậy... - ông già thì thầm vào tai Bạch Kim một kế hoạch tuy không có độ tin cậy cao nhưng còn hơn là bó tay.

Bạch Kim đồng ý với ông. Ông gọi cô con gái trong nhà ra để hai bên gặp mặt nhau.

- Đây là con gái tôi. Chị em làm quen đi để tôi phân công nhiệm vụ...

- Mười phút sau Bạch Kim ra khỏi hiệu sách, trở về khách sạn.

Mộng Vân vẫn ngồi hút thuốc lá dáng điệu nôn nóng:

- Em đi đến những đâu?

- Dạ, cũng quanh quẩn mấy siêu thị gần đây là đủ hết giờ rồi. Không có người quen hướng dẫn nên em cứ lang thang gặp chỗ nào hay hay lại đứng ngắm. Nhưng cuối cùng cũng chẳng mua thứ gì.

Hai chị em đang trò chuyện thì chuông điện thoại réo vào Mộng Vân chộp lấy ống nghe. Chị ta đã nhận ra tiếng Hứa Quế Lan ở đầu dây bên kia.

- Chị Mộng Vân ạ, ba em đã chuẩn bị tiếp chị. Sáng mai đúng tám giờ mời chị qua chỗ em, chị nhé. Em sẽ đưa chị đi.

- Xin cảm ơn. Em nói lại với ba là chị Mộng Vân sẽ đến đúng giờ! Goodbye!

Mộng Vân bỏ máy xuống quay lại vui vẻ nói với Bạch Kim:

- Mai chị sẽ đến công ty xuất nhập khẩu Greed Wall để tìm hiểu thị trường. Có chuyện gì chị sẽ kể cho em nghe. Công ty này doanh số xuất khẩu mỹ phẩm, hàng dệt hàng năm sang Mỹ tới trên một trăm triệt đô-la đấy.

- Em chẳng biết sau này buôn bán ra sao, nhưng trong chuyến du lịch này ta phải mua vài thứ lặt vặt làm kỷ niệm chứ ạ.

- Em thích gì thì mua ngay đi kẻo về Mỹ rồi lại tiếc. Tối nay chị em mình đi chơi nhé!

- OK!

Tối hôm đó Mộng Vân và Bạch Kim đến siêu thị Asiatic. Họ dừng trước quầy mỹ phẩm. Bạch Vân muốn mua hộp son môi loại đắt tiền. Cô gái bán hàng vui vẻ đưa cho họ xem hai loại Super quality. Bạch Kim mua mỗi thứ một hộp.

- Em mua làm gì làm thế?

- Em biếu chị một hộp. Chị dùng quen những siêu phẩm của Pháp, nay thử dùng của Hồng Kông xem sao!

- Cám ơn em.

Hai người dắt nhau đi. Thấy Kim không mang túi cứ phải cầm hai hộp sáp Mộng Vân khẽ nhắc:

- Đưa chị bỏ vào túi cho. Em cứ khư khư hai cái hộp trông "nhà quê" quá.

- Em quên mang cái "xắc" chị cất giúp em.

Bạch Kim nhét mấy thứ vào túi phụ bên ngoài của cái xắc Mộng Vân đang đeo. Họ mua thêm vài thứ lặt vặt rồi trở về khách sạn.

Trước khi đi ngủ thấy Mộng Vân chích ma túy, bỗng nhiên Bạch Kim xin chị chích thử cho một mũi. Nhưng khi Mộng Vân lấy tiếp ống thuốc để tiêm cho cô thì Bạch Kim lại rụt tay lại, thay đổi ý kiến. Có lẽ vì tiếc ống thuốc nên Mộng Vân không ngần ngại chích tiếp cho mình liều thứ hai. Cơn phấn khích tăng lên gấp bội. Mộng Vân ôm lấy Bạch Kim như cuồng dại. Mười một giờ đêm chị ta mệt mỏi ngủ thiếp đi... Tám giờ kém mười lăm phút sáng hôm sau Bạch Kim mới đánh thức. Chị ta vội vàng trang điểm qua loa, xách cái túi đến nhà Quế Lan. Hứa Vĩnh Thanh đã đợi Mộng Vân ở đây. Họ đi xe đến Li-sow street. Vĩnh Thanh trao cho chị tấm giấy giới thiệu giả với cái tên Xuy Kin Ling Hoa kiều ở Pháp về thăm Tổ Quốc để che mắt người gác cổng.

Vương Phúc Đạt ra tận tiền sảnh đón Mộng Vân. Ông ta giơ cả hai bàn tay ra bắt tay người khách lạ với dáng điệu vồn vã đặc biệt. Ba người vào trong nhà và cánh cửa đóng kín lại...

Chiều hôm đó Mộng Vân mới trở về, mặt đỏ bừng sặc mùi rượu Mai Quế Lộ. Chị ta lăn ra ngủ. Bạch Kim nhẹ nhàng đánh tráo hộp son thứ ba vào vị trí hộp son đặc biệt nằm trong túi phụ chiếc xắc của Mộng Vân. Cô con gái ông chủ hiệu sách đã nhận lại hộp son đặc biệt này ở cầu thang máy.

Hôm sau nhân lúc Mộng Vân tiếp một bạn hàng của mình, Bạch Kim lịch sự tạm lánh mặt. Cô đến chỗ người bán sách cũ. Chiếc máy ghi âm đặt trong hộp son đã phát lại toàn bộ cuộc mật đàm giữa Vương Phúc Đạt với Eugénie Mộng Vân. Bạch Kim tóm tắt những vấn đề lớn để điện về cho Trung tâm nghiên cứu, khi mà cuốn băng chưa kịp chuyển.

Thứ nhất. Phía Trung Quốc nhận định rằng Việt Nam đã ngả về phía Liên Xô, phản bội lợi ích của Trung quốc. Việc Mỹ rút khỏi Đông Dương tạo ra sự chênh lệch cán cân chiến lược ở vùng Đông Nam Á có lợi cho Liên Xô. Trung Quốc chưa đủ hải lực để lấp nói cái lỗ hổng này vì vậy chính sách của Trung Quốc là: Mỹ một siêu cường ở Thái Bình Dương thì việc duy trì sự có mặt của họ ở Tây Thái Bình Dương lúc này là tuyệt đối cần thiết.

Thứ hai. Vì lợi ích chiến lược song song nên hai bên có chăng một mục tiêu là: Kiềm chế làm suy yếu Việt Nam, buộc Việt Nam phải tách khỏi ảnh hưởng của Liên Xô. Vì vậy Trung Quốc sẽ cắt mọi khoản viện trợ, xóa bỏ mọi hiệp định thương mại, sẽ bao vây phong tỏa kinh tế bàng cách cắt đường xe lửa quá cảnh. Dùng đạo quân thứ năm gây mất ổn định bên trong, giúp đỡ cam-pu-chia dân chủ chống lại tiểu bá Việt Nam.

Thứ ba. Trung Quốc sẽ ủng hộ mọi lực lượng, mọi xu thế nào đang hoạt động chống lại tiểu bá Việt Nam dù họ không cùng chung lý tưởng xã hội chủ nghĩa với Trung Quốc. Trung Quốc hoan nghênh nhiệt liệt sự ra đời của Mặt trận Tự do và Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Ngay trong điều kiện chưa có sự công nhận lẫn nhau chính thức phía Trung Quốc sẽ cố gắng giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho cái tổ chức trên. Những phương án viện trợ sẽ được phía Trung Quốc cứu xét khẩn cấp.

Thứ tư. Cuộc hội kiến giữa ủy viên thường vụ cơ quan An ninh đối ngoại Trung Quốc Vương Phúc Đạt với bà Mộng Vân đại diện cho lực lượng cách mạng chân chính của Việt Nam là bước khởi đầu cho những kế hoạch hợp tác cụ thể to lớn và lâu dài trong tương lai. Hai bên mong muốn phát triển quan hệ láng giềng thân thiết giữa hai quốc gia có nhiều điểm chung về lịch sử và văn hóa. Bà Mộng Vân cũng thay mặt cho những người yêu nước Việt Nam cảm ơn sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với sự nghiệp đấu tranh chống tiểu bá của mình. Bà đánh giá cao sự hợp tác chiến lược Trung Mỹ ở vùng Tây Thái Bình Dương...

Hà Nội đã nhận được bức điện trên. Nó chỉ khẳng định thêm những dự báo của cơ quan tham mưu chiến lược. Về những hành động cụ thể của sự câu kết còn phải được tìm hiểu sâu hơn nữa. Đại tá Nguyễn Hữu Đức chí thị cho Bạch Kim chuyển ngay cuốn băng từ về nước càng sớm càng tốt. Đồng thời ông cũng ra lệnh cho cô cháu phải tìm được đường dây liên hệ cụ thể giữa các tổ chức bên ngoài và bọn phản động nội địa. Mệnh lệnh đó buộc Bạch Kim phải nghĩ đến chuyện cần có một cơ sở lâu dài ở Hồng Kông dưới một hình thức kinh doanh nào đó.

Mộng Vân đã thông báo cho Bạch Kim biết có những khả năng đầu tư ở thị trường Hồng Kông. Có thể tham gia cổ phần với công ty xuất khẩu hàng dệt. Lãi xuất ổn định và có lợi hơn nhiều so với gửi ở ngân hàng Pháp.

Một công ty lắp ráp hàng điện tử Nhật Bản cũng đang phát triển nhanh, có khả năng cạnh tranh với nhiều nước châu Âu... Nhưng tất cả những cách làm giàu đó không thể đạt tốc độ một lãi một như món bạch phiến.

- Thằng Tomado-le Loup hôm qua đến thăm chị đó. Nó có thể làm được mọi việc nếu chúng ta muốn!

- Trông ông ta đến phát sợ lên được?

- Hình hài nó thoạt nhìn dễ sợ, nhưng đối với chị nó là con thú được thuần dưỡng rất đáng yêu. Nó chỉ cắn xé người khác thôi, nhưng biết vâng lời chủ?

- Ông ta già rồi! - Bạch Kim cười - Lông mày dài như lá cỏ rủ xuống hai hố mắt sâu như lang chồn. Mũi gồ, râu ria hoang dã. Cái đầu hói đến tận gáy. Cái trán dô, nhẵn bóng như sừng. Còn răng hình như đã rụng nhiều...

- Tất nhiên là về chuyện làm tình hắn không còn hấp dẫn như con trai, Nhưng em không nên coi thương sức mạnh của hắn. Sức mạnh con người đặt trong bộ óc của nó. Cơ bắp yếu có thể nhờ vào công cụ. Một con dao sắc vượt xa sức mạnh của quả dấm. Không một cơ thể nào chịu nổi sức xuyên của viên đạn. Hai kẻ có vũ khí tương đương thì sự thắng bại thuộc về kẻ tinh ranh. Ngoài vòng pháp luật Tomado khôn ngoan gấp chục lần kẻ khác. Sinh ra ở đảo Malta trong một gia đình nghèo Tomado đến Rome làm nghề chào hàng lang thang. Chiến tranh thứ hai Tomado là lính thuộc trung đoàn xung kích số 7 của Mussolini. Cuộc chiến gần kết thúc y lẩn trốn vào vùng du kích, sau đó y gia nhập một băng cướp ở Naples nhiều lần can tội giết người. Năm 1960 Tomado bị bắt và lãnh án khổ sai chung thân. Đồng đảng của y đã bắt cóc một du khách, con một nhà tỷ phú người xứ Ecosse. Cuộc trao đổi bí mật diễn ra. Tomado được cứu khỏi nhà tù. Y chuyển địa bàn làm ăn sang Pháp với cái căn cước giả do cảnh sát Naples cấp. Chị đã quen hắn trong một vũ hội ở Cannes. Hắn mê chị. Hắn đã chuyển cho chị mấy chuyến hàng sang Chicago thật hoàn hảo. Năm 1965 Tomado rủ chị sang Brésil, chị không theo vì lúc đó chị đã chuyển sang bắt bồ với Alain Rossino một tay Mafia đồng thời là võ sĩ quyền Anh loại lông, một tên đẹp trai và giàu có, một kẻ ăn chơi có tiếng ở Paris. Chiến tranh Việt Nam giúp cho bọn buôn ma tuý có nhiều cơ hội làm ăn ở Viễn Đông. Tomado sang Thái Lan sống rất tài tử. Y làm cho các connections không phải để làm giàu mà có thể vì muốn được mạo hiểm, được chiến thắng, được hiến dâng cho một người đàn bà nào đó. Biết bao lần chị tưởng hắn đã chết vì những hành động liều lĩnh nhưng không biết có quý nhân phù trợ hay sao mà Tomado-le Loup luôn luôn kịp rụt đầu trước lưỡi hái của tử thần. Hôm qua y đến đây ngỏ ý muốn giúp chị, nhưng chị chẳng còn vốn nữa. Nếu em trao cho hắn mười nghìn... tháng sau em sẽ có gấp rưỡi số đó ở ngân hàng Manhattan!

- Em đâu có quen ông ta. Một sự cộng tác như thế bao giờ cũng phải kèm theo điều kiện.

- Dĩ nhiên. Chị sẽ giới thiệu. Chị già rồi, chị khánh kiệt rồi, nay "đem duyên chị buộc vào duyên em". Hắn sẽ coi em như Nữ thần bảo mệnh cho hắn. Hắn chỉ cần một đặc ân được quì dưới chân em để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang dã, cái vẻ đẹp hoàn toàn tự nhiên không che đậy của em thôi. Sau đó em bảo hắn nhảy vào lửa hắn cũng nhảy.

- Nhẹ nhàng thế thôi hả chị? - Bạch Kim cười vui ve.

- Thế thôi. Nếu em bằng lòng, chị gọi điện thoại ngay cho hắn.

- Vội vàng quá chị ạ. Em phải về Los Angeles để thu xếp tiền nong đã chứ. Ít ra thì cũng phải làm quen nhau vài lần... Mà đã chắc gì ông ta coi em như thần Vệ nữ ở Milan mà thèm ngắm?

- Em đẹp lắm. Đến chị còn muốn ngắm nữa là Tomado-le Loup!

Bạch Kim đỏ mặt vì xấu hổ.

- Trước mắt em phải lo chuyện kinh doanh hợp pháp đã. Hàng dệt có thể là một mục tiêu hấp dẫn...

CHƯƠNG VIII

CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI THỢ CHỮA MÁY NƯỚC

Hoàng Quý Nhân đang đứng trước một mối lo lớn. Tình hình tổ chức mở rộng cần đến những khoản chi lớn. Warrens đã hứa tài trợ cho mọi hoạt động của lực lượng trong nước, nhưng đó mới chỉ là những ngân khoản được thông báo qua những bức mật điệp. Quý Nhân yêu cầu CIA chuyển số tiền đó vào ngân hàng cho y, còn y sẽ bỏ tài sản riêng còn đọng ở trong nước ra chi phí cho công vụ. Nhưng CIA lại đòi phải có chứng từ mới thanh toán hợp pháp được. Điều này làm cho Quý Nhân tức điên lên. Y điện cho Warrens là nếu Mỹ không tin thì y sẽ bỏ mặc bọn đàn em "chết đói". Cuối cùng Warrens phải nhân nhượng. Hắn sẽ tạo ra những phép thuật để đều đặn chuyển tiền vào tài khoản của Nhân ở Thụy Sĩ và ở Italia. Warrens cũng hối thúc Nhân nhanh chóng chuyển cho y món hàng mà Bảy Dĩ đã hứa.

Quý Nhân đã khôi phục được một màng lưới xuống đến một số tỉnh ven biển. Y thiết lập mật cứ Anpha để khi cần có thê rút vào bí mật hoàn toàn trong những điều kiện bất lợi. Bây giờ y phải tính chuyển cái kho báu chôn sân trong vườn biệt thự Vie du Château. Lili ở trong trạng thái tâm thần rồi nên y có thể mang về chôn ngay tại nhà này mà không sợ lộ.

Một buổi chiều Hoàng Quý Nhân đi bộ lảng vảng trước tòa biệt thự. Y nhổ nước bọt khi nhìn thấy tấm biển làu xanh với hàng chữ tươi mát: “Nhà trẻ Chim non" treo trên nóc cổng. Y chờ đến giờ tan tầm. Cùng với những bậc cha mẹ đến đón con. Quý Nhân trà trộn vào đám đông. Y đã đến khu vườn có giấu cái kho báu. Sân chơi đã làm nhẵn lì đám cỏ dưới gốc cây trắc bách diệp. Cách đấy vài chục mét người ta bắc dãy vòi nước cho các cháu rửa tay trước khi vào nhà ăn. Quý Nhân vờ như đang chờ con để xác định lại vị trí chôn giấu của quý. Tấm bản đồ nhỏ xíu ghi cẩn thận các vật chuẩn để đã đào là trúng. Sau đó y bước theo vài đưa trẻ em nhà ai đó và ra cổng đi thẳng.

Đi một đoạn ngắn y bỗng thấy một người thợ chữa máy nước đang dùng bàn ren, ren ống nước cạnh cái hố tiêu nước vỉa hè. Quý Nhân liền quay lại, la cà ngồi xuống bên người thợ vui vẻ hỏi:

- Chào cậu! Hồi này sao nước non trục trặc quá vậy cậu?

- Chuyện chi anh Hai?

- Tôi là thứ Năm. Tôi ở lầu ba mà nước lúc lên lúc không. Tôi muốn đặt chiếc máy bom 1KW. Cậu có thể làm giúp được không?

- Sao lại không, anh năm. Nghề bọn em mà.

- Nhà riêng cậu ở đâu, tối tôi lại ta bàn tính giá cả.

- 51/7D Đinh Tiên Hoàng. Anh Năm hỏi thằng Hai Tân.

Quý Nhân ghi địa chỉ, đặt điếu thuốc 555 lên miệng người thợ rồi bật lửa.

Tối hôm đó Nhân phóng Honđa tới Hai Tân.

Tôi đưa cậu đến xem địa thế rồi mới tính được Hai Tân ngồi lên sau xe nhưng Qnỷ Nhân không đưa về nhà mà rẽ vào quán nhậu.

- Anh Năm muốn bàn cách làm ăn với chú em. Trước hết ta phải nâng ly kết ngãi đã.

Hai Tân chưa tường công chuyện làm ăn, nhưng được mời thì cứ nhậu chơi. Ăn uống xong Nhân đưa người thợ trẻ ra ngồi ngoài ghế đá bên sông Sài Gòn.

- Chú em phụ trách sửa chữa nước khu Đồn Đất?

- Dạ.

- Chú em có thể làm tắc nước một ngôi nhà nào đó ít ngày được không?

- Dạ đâu có khó. Đảm bảo có nước mới khó chứ làm tắc thì chỉ cần đóng van là xong liền.

- Sau đó sở nước sẽ gọi chú em đi chữa. Nhưng chú em không tìm ra sự ngắt dòng từ bên ngoài mà phải tìm sửa bên trong. Được không?

- Dạ được chớ!

- Nhà đó lại không có sơ đồ ống dẫn, mà nhu cầu nước thì rất khẩn cấp. Thí dụ như một công sở, một bịnh viện chẳng hạn, nước còn quan trong hơn gạo. Lúc đó chúng ta sẽ đưa ra một kế hoạch: phải thăm dò. Họ chịu chớ?

- Dạ không còn bản đồ thì chỉ có cách đào thăm dò.

- Dĩ nhiên là họ phải trả công đào cao cho chúng ta.

- Trời đào bới cực lắm anh Năm ơi? Thằng em ngán thấy mồ chuyện đó. Mà cuối cùng họ có trả cho mình mấy tiền bạc. Không bõ!

- Trời, thằng em hiền quá. Việc đó để anh Năm nhận làm thuê cho chớ. Cậu cứ việc ngồi chơi. Anh Năm đào vờ vịt thôi. Vài bữa chú em mở van, thế là chú em có tiền xài. Anh Năm đây cũng đỡ thất nghiệp!

- Em chưa tính làm ăn kiểu này bao giờ!

- Chỉ có sự khôn ngoan mới giúp ta khỏi đói. Tiền của Nhà nước thôi mà, có thấm chi? Ta làm thử coi. Cứ một "phi vụ” như vậy anh chi chú em năm ngàn, còn bao nhiêu mặc anh. Chịu chớ?

- Dạ. Ta tạm thử một vụ xem sao anh Nam à. Anh định nhằm vào nhà nào.

- Cái nhà gần chỗ chú sửa bữa qua đó. Nhà trẻ "Chim non". Nhà trẻ mà thiếu nước một ngày là không chịu nổi đâu.

- Tội bọn trẻ quá!

- Cũng tội, nhưng người ta phải cho xi-téc chở nước đến. Ta chỉ "chữa" sau 36 giờ. Nếu cần ta vờ làm cả đêm. Ưng chưa?

- Dạ được, nhưng ta bắt đầu vào lúc nào.

- Vào đêm thứ năm. Sáng thứ sáu họ phải kêu nhà máy nước. Chiều thứ sáu chú em đến chữa không xong. Sáng thứ bảy phải thuê đào thăm dò. Chú em cứ báo cáo với trạm cấp nước là đang sửa gần xong. Anh sẽ làm cả đêm thứ bảy hoặc nếu cần kéo qua chúa nhựt. Bọn trẻ chỉ khó khăn một ngày thôi vì thứ sáu trong sa-tô-đô thế nào cũng còn chút ít...

Sau một chầu nhậu nữa chúng mới chia tay nhau.

Phó chủ tịch quận, chị Năm Ngân phải chuẩn chi một khoản tiền bất thường để chữa đường dẫn nước cho nhà trẻ Chim Non. Mất bản đồ đường ống nên công việc trở nên phức tạp. Người nhận đào thăm dò cũng chỉ xin một số công vừa phải vì ông ta coi việc này như là nghĩa vụ đối với mầm non đất nước.

Sau bữa cơm chiều chị Năm đạp xe đến nhà trẻ Chim Non xem công việc sửa chữa tiến hành đến đâu. Tối thứ bảy nhà trường vắng ngắt. Chỉ có gia đình bà gác cổng sống ở gian buồng bên cạnh phòng thường trực là có mặt đông đủ. Các phòng học đều tắt đèn và khóa của. Chị Năm đi ra vườn sau, người ta đã bắc ra đây ba ngọn điện sáng trưng để làm cả đêm. Chị thấy chiếc xích lô máy chất dụng cụ đào bới đỗ ở giữa sân. Chỉ có một người thợ đang lúi húi đào sau gốc cây trắc bạch diệp. Lá cây che mất ánh đèn nên chị chỉ nhận ra người thợ khi nghe thấy tiếng xẻng đào hối hả. Khi phát hiện có người vào người thợ ngừng tay nghe ngóng.

- Bác ơi, chỉ có mình bác làm thì bao giờ mới chữa xong?

- Dạ còn có chú hai nữa ạ. Chú làm cùng với tôi! - Người thợ cười để lộ hàm răng trắng trong bóng cây - Thưa bà, xin bà thông cảm cho tuổi trẻ. Tối thứ bảy chắc cậu Hai còn đi nhậu, đi chơi chút xíu. Có lẽ độ tám giờ mới đến. Dạ tôi cứ làm trước, việc nặng nhọc này tôi quen hơn. Cậu Hai thì chuyên về thông lắp đường ống.

- Liệu có hoàn thành trong ngày mai để sớm thứ hai xắp nhỏ có nước cùng được không ạ.

- Dạ bọn tôi sẽ ráng hết sức. Chưa thể hứa với bà được vì hệ thống nước trong nhà này quá phức tạp. Cứ phải lần từng bước. Xin bà cứ an tâm. Anh em tôi sẽ mần suốt đêm.

Thấy thái độ nhiệt tình của người thợ, chị phó chủ tịch cũng tin tưởng. Chị nói với bà gác nhà chuẩn bị nước uống đầy đủ cho những người thợ làm đêm rồi đạp xe về nhà.

Ngôi nhà tắt đèn nên chị đoán anh Hai chưa về, Năm Ngân mở cửa dắt xe vào tự nhiên thấy chóng mặt nôn nao. Chị đóng cửa rồi lần vào nằm xuống đi-văng. Chị cố nôn, nhưng không nôn được, mồ hồi toát ra, mệt mỏi, hơi thở đứt ra từng đoạn. Chị mỉm cười sung sướng vì những biến chuyển trong cơ thể mấy ngày gần đây. Niềm hạnh phúc sắp được làm mẹ hiện rõ trên khuôn nhặt xanh tái. Giá như lúc này có anh Hai ở bên, hỏi han chăm sóc chị... Năm Ngân bỗng thấy tủi thân, hai giọt nước mắt lăn xuống gối. Tâm tính chị cứ đổi thay, buồn vui bất chợt, dễ xúc động như vậy. Một lúc sau chị thấy dễ chịu hơn. Chị lại thu dọn nhà cửa. Chị thấy mảnh giấy nhỏ Hai Bền viết vội để lại trên bàn.

“Anh về ăn không thấy em. Ăn xong anh lại phải đến cơ quan có việc. Em cứ khoá cửa nghỉ trước đi. Khi về anh tự mở, không phải chờ anh. Hôn em".

Nhưng Năm Ngân đâu có ngủ được. Chị buông màn nằm thao thức mãi.

Đồng hồ điểm mười hai tiếng chị mới nghe tiếng xe Honda quen thuộc tắt máy ngoài cửa. Tiếng mở khóa và ánh đèn buồng ngoài bật sáng. Hai Bền rón lén đi vào toa-lét. Năm Ngân xoay mặt vào trong thở nhè nhẹ. Thay quần áo xong Hái Bền len lén đến nằm sát xuống bên vợ.

- Đi chơi đâu, bộ vui lắm sao mà mười hai giờ mới về?

- Đâu có thì giờ đi chơi!

Thực tình anh đang phải bù đầu vì một vụ việc mới. Giám đốc tổng kho vật tư chiến lược của khu vực phía Nam mất tích với một số tài liệu quan trọng. Bên Công an coi vụ này vượt ra ngoài mục đích kinh tế và liên quan nhiều đến quân sự nữa. Vì vậy hồ sơ được chuyển sang cơ quan tình báo quân sự để phối hợp điều tra. Cấp trên giao cho anh nghiên cứu để sáng thứ hai báo cáo. Thế mà vợ chẳng thông cảm cho chồng.

Anh nghe tiếng chị khóc thút thít.

- Để mặc người ta một mình đau tưởng muốn chết! - Giọng chị lạc đi, chị òa lên khóc.

- Đau sao? Anh đâu có biết, anh xin lỗi - Anh đặt tay lên trán chị - Mát thôi!

- Chỗ khác kia!

- Chỗ này à?

...

- Chỗ này? ... Hay đây?

Chị bật cười, đấm vào lưng chồng rồi kéo tay anh:

- Đây nè!

- Đau bụng à, để anh lấy thuốc cưng uống nghen.

- Anh chẳng biết gì cả, bịnh này đâu có xài được thuốc.

- Sao em?

- Em đau nghén đó.

- Trời ơi! Sao bữa nay em mới báo tin cho anh.

- Sợ anh mừng hụt, em đợi thiệt chắc chắn mới báo!

- Ôi anh vui quá, hạnh phúc quá!

Anh ôm lấy chị như muốn bế bổng chị lên.

- Đừng! Đừng làm thế anh, phải kiêng đấy. Ôi phải thiệt nhẹ nhàng, thiệt nhẹ thôi.

- Đã thế mà buổi tối còn đi đâu?

- Em đến nhà trẻ Chim non.

- Tối thứ bảy đến đấy làm chi?

- Nhà trẻ mất nước hai ngày rồi. Không có bản đồ ống dẫn phải thuê thợ đến đào thăm dò chỗ tắc. Nhà trẻ trọng điểm của quận, hơn ba trăm cháu nhỏ, không có nước chịu sao nổi. Em đến chỉ thấy một ông thợ đào bới tùm lum ngán quá.

- Một ông thợ đào bới tùm lum?

- Dạ.

- Mặt mũi ra sao?

Năm Ngân cười.

- Anh bị mắc bịnh nghề nghiệp hay sao mà nói đến ai cũng phải mô tả nhận dạng.

- Có cái gì đó làm anh nghĩ đến Hoàng Quý Nhân.

Hai Bền bật dậy. Anh quay điện thoại. Khi đầu dây bên kia lên tiếng hỏi thì anh bỗng ngần ngại.

- À, tôi Bền đây. Bảo cậu Lê đến nhà trẻ Chim Non gặp tôi ngay nhé. Nhớ mang theo súng và con Miki.

Hai Bền quay lại nói với vợ:

- Em chịu khó ở nhà một mình nhé. Có chuyện chi anh gọi điện về.

Nói xong anh phóng xe máy đi ngay.

Đến cửa nhà trẻ không thấy đèn sáng trong vườn. Anh gõ cửa, bà gác cổng mắt nhắm mắt mở hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Mấy ông thợ chữa máy nước còn làm việc không.

- Họ về nghỉ lâu rồi.

- Bà cho tôi vô. Có công vụ mà.

- Ông là ai?

Hai Bền đưa chiếc chứng minh thư qua khe cửa. Vừa lúc đó chiếc xe Gíp của Lê phóng đến. Lê nhảy xuống cùng con Miki. Bà gác cổng mở cửa cho họ vào.

- Có chuyện gì anh Hai?

- Mình kiểm tra một giả thuyết thôi. Nhưng cẩn thận giữ nguyên hiện trường.

Bà gác cổng bật đèn làm cho khu vườn sáng trưng. Hai Bền cùng Tư Lê dắt con Miki đi qua từng hố đất. Khi đến bên cây trắc bạch diệp, con chó bỗng sủa váng lên. Họ nhìn thấy trên mặt đất có hai chiếc vỏ chai. Con Miki xông đến bên cái hố vừa dùng chân bới lộn vừa sủa. Nó hít mạnh rồi sục mõm xuống hố đất.

- Miki nằm im!

Con chó ngoan ngoãn nằm tại chỗ quay đầu lên nhìn chủ bằng đôi mắt ướt, cái đuôi vẻ vẩy rất vui vẻ.

- Cậu vào gọi điện cho anh Định bên Sở Công an xin một chuyên gia về hiện trường, một chuyên gia về vũ khí đến ngay. Đề nghị anh cho lệnh giữ lại tất cả những xe cộ, nhất là xích lô máy đi trên đường trong giờ này.

- Rõ.

Mười phút sau chiếc xe chuyên dụng của cơ quan điền tra hình sự đưa hai chuyên gia và các phương tiện đến. Họ lần lượt chụp ảnh hiện trạng rắc bột lên vỏ chai, chụp dấu giầy dép, vết lốp xe.

Cuộc đào bới vùng đất được tiến hành thận trọng theo hướng đánh hơi của Miki. Dưới ba chục phân, họ phát hiện ra chiếc dép rồi cả bàn chân và toàn bộ xác người đàn ông mới chết còn nguyên vẹn, vừa bị vùi lấp sơ sài. Họ nhận ra người thợ chữa máy nước Trần Văn Tân.

- Mình chậm mất rồi! - Hai Bền thất vọng và bực tức thốt lên.

Ba giờ làm xong biên bản và thu dọn hiện trạng. Anh trở về Sở công an để nhận định sơ bộ vụ án, rồi quay về cơ quan mình báo cáo lại tình hình cho đại tá Nguyễn Hữu Đức.

- Chẳng lẽ nó cứ tự do tác yêu tác quái, còn chúng ta chỉ có việc đến thu dọn hiện trường cho nó hay sao?

Đại tá tỏ vẻ bực tức. Từ công tác tình báo nay ông chuyển sang chỉ đạo cả công tác phản gián, ông cảm thấy rất nhiều khó khăn, lúng túng, bị động. Đúng là trình độ chưa theo kịp tình hình. Ông chợt nghĩ: Nếu chỉ phòng ngự thôi thì sẽ luôn luôn bị kẻ địch chọc thủng lưới. Phải tiến công, nghĩa là phải lấy công tác tình báo khám phá địch để hỗ trợ cho công tác phản gián. Mặt này mình vốn có kinh nghiệm vốn có thế mạnh mà giờ đây mình chưa biết kết hợp...

Ông cho phép Hai Bền về nghỉ đến mười giờ rồi sẽ làm việc tiếp.

Chị Ngân cứ ngong ngóng chờ chồng nhưng không thấy. Chị phấp phỏng nhưng chưa dám gọi điện đến cơ quan anh để hỏi tình hình. Sáng ngày mới thấy anh về. Chị toan trách nhưng nhìn vẻ mặt mệt mỏi buồn bã của anh chị lại thấy thương.

- Tình hình có tốt đẹp không anh?

- Hỏng mất rồi. Anh đến chậm bốn mươi phút nên chỉ còn thấy xác người thợ máy nước. Hung thủ đã tẩu thoát.

- Trời ơi, thợ máy nước nào? Cái ông nói chuyện với em tối qua à?

- Không, chính nó là hung thủ. Cậu thợ này rất trẻ. Mãi mười một giờ cậu ta mới đến làm và nó đã đầu độc cậu ta rồi vùi xác xuống hố.

- Tại sao hắn giết cậu ta?

- Để bịt đầu mối! Nó đã chuyển khỏi đây cái kho báu của nó.

- Kho gì.

- Vàng bạc, kim cương, đá quí... Nhưng cao giá hơn nữa là bộ tài liệu lưu trữ của nó, những thứ rất cần cho chúng ta. Ôi, tại sao anh lại không đoán nổi ra điều này. Suốt mấy năm anh đặc trách theo dõi nó mà anh không tính đến giả thuyết này. Mãi đến lúc em nói đến chuyện "đào bới tùm lum" anh mới chợt hé ra... Bây giờ thì nó lại lẩn sâu vào trong một cái màn bí mật mới.

Thực ra Hoàng Quý Nhân đã nhanh hơn Nguyễn Văn Bền một giờ ba mươi hai phút. Hai mươi giờ mười lăm tối thứ bảy y đã thu dọn toàn bộ kho báu lên chiếc xích-lô máy. Vừa lúc đó thì Hai Tân đến. Cậu ta cũng cốt có mặt chiếu lệ thôi. Nhưng khi nhìn thấy Nhân chất lên xe những hòm bê bết đất thì Hai Tân đã sinh nghi.

- Anh Năm về nghỉ thôi chứ? - Hai Tân hạ thấp giọng - Mấy thứ gì thế này?

- À… anh Năm nhạt quấy thứ đồng nát bậy bạ đó đem về xem có xài được vào việc chi không. Giờ thì anh Năm chia tiền để cậu Hai đi nhậu nghe.

- Dạ.

Quý Nhân đưa cho Hai Tân xếp bạc. Tân cầm lấy nhưng vẻ mặt vẫn chưa thỏa mãn. Hai Tân đoán người cộng tác với y phải kiếm được cái gì hấp dẫn lắm. Y nhìn mấy cái hòm trên chiếc xích-lô một cách thèm thuồng:

- Anh Năm không chia mấy thứ kia cho thằng em sao?

- Có chớ, nhưng chờ bán xong đã. Chia ngay bây giờ sao được!

Y mở một chai bia đưa cho Tân và chai thứ hai cho mình. Hai đứa cụng chai rồi cùng nốc.

Mười giây sau Hai Tân lảo đảo. Nhân đỡ lấy cây thịt và nhẹ nhàng dốc đầu nó xuống cái hố đào sẵn. Hắn xúc vội mấy xẻng đất đắp lên cái xác chết. Nhân nhẹ nhàng mở cánh cổng đẩy xe ra rồi khép lại như cũ. Đạp một đoạn rồi y mới nổ máy phóng về chỗ chiếc Toyota đứng đợi. Lili chờ y ở đây. Y chuyển mấy thứ sang xe Toyota rồi ra hiệu cho Lili lái theo mình. Đến vườn cây Lăng Cha Cả, Quý Nhân chọn một bóng tối quăng chiếc xích-lô máy lại. Y ngồi vào vòng lái thay cho Lili. Y đã về đến nhà trước hai mươi tư giờ. Y cho Lili đi nghỉ với một liều "giấc mộng Hằng Nga" mới. Một mình y thu dọn kho báu chôn xuống mảnh đất trong sân. Xong việc y mới tắm rửa, ăn uống rồi lăn ra ngủ như chết...

Mười bốn giờ sau người ta mới lôi được chiếc xích-lô máy về cơ quan chấp pháp hình sự. Tất cả dấu tay trên cán cuốc, cán xẻng, tay lái đều bị xóa hết. Hung thủ tỏ ra một tay sành sỏi trong thủ thuật phi tang.

CHƯƠNG IX

GIÀNH GIẬT NHỮNG LINH HỒN

Nguyễn Hùng Thắng là người thế nào?

Bản lý lịch ghi: Tên thật là Nguyễn Văn Mẹo, sinh năm 1932. Quê quán xã Đại Cát, huyện Phú Thương, tỉnh Hà Đông. Thành phần cố nông. Cha Nguyễn Văn Mịt (đã chết). Mẹ Hoàng Thị Rõ làm nương. Vợ Lê Thị Kim Thi, giáo viên.

Quá trình hoạt động cách mạng: Đi bộ đội năm 1950. Công tác ở đơn vị vận tải Liên khu 4, Năm 1952 coi kho. Năm 1953 là cán bộ trung đội chỉ huy dân công vận tải xe thồ. Năm 1954 thủ kho Mường Si chiến sĩ thi đua. Cuối năm 1954 Nguyễn Hùng Thắng đi học trường hậu cần rồi trở về làm trợ lý quân nhu sư đoàn. Năm 1958 trưởng ban hậu cần trung đoàn, đi học văn hóa rồi chuyển ngành. Năm 1960 phụ trách kho vật tư K.12. Năm 1965 Phó tổng kho 424B. Năm 1972 Giám đốc công ty cung ứng vật tư K.12. Năm 1965 Phó tổng kho 424B. Năm 1972 Giám đóc công ty cung ứng vật tư cấp 1. Năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hùng Tháng được cử làm quyền Tổng giám đốc tổng kho vật tư chiến lược phía Nam. Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng ba. Huân chương Lao động hạng nhì. Bảy lần chiến sĩ thi đua. Rất nhiều bằng khen, giấy khen. Kỷ lật: Không.

Những nét cơ bản đó cho thấy anh là một cán bộ có quá khứ tốt. Những bước đi đều đặn, chắc chắn và không một điều gì có thể nghi ngờ được anh ta. Vì chuyện Hùng Thắng mất tích, cơ quan an ninh phải cử người về tận quê quán để tìm hiểu thêu. Những người dân làng Đại Cát cho biết một số chuyện ngoài lề bản lý lịch.

Bà Hoàng Thị Rõ mẹ Thắng, thuở trẻ là một cô gái xinh đẹp, nhưng vì là con gái của "thằng mõ" nên trai làng không ai dám lấy. Năm ngoài ba mươi tuổi, cô gái quá thì này đành lấy một ông già tứ cố vô thân làm nghề câu cá bên sông Hồng.

Cách mạng thành công, giải phóng con người đã xóa bỏ tủi nhục, giành lại cho mọi người quyền bình đẳng thiêng liêng. Mẹo được đi học, được đào luyện thành một cán bộ cao cấp của Nhà nước. Đó chính là sự đổi đời thực sự, sự mầu nhiệm của Cách mạng.

Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hùng Thắng trở về làm việc ở thành phố. Cơ quan anh đến tiếp quản một công sở lớn thưộc Bộ Kinh tế ngụy quyền. Tất cả các tiện nghi hầu như còn nguyên vẹn. Người ta vẫn giữ nguyên cảnh trí cũ ngoại trừ vài bức ảnh chụp Tổng thống Thiệu được tháo gỡ đi. Hùng Thắng choáng mắt trước những tiện nghi sang trọng đó. Mặc dù anh ta đã điều hành một cơ quan quản lý những tài sản quý của Nhà nước giá hàng tràm triệu đô-la, nhưng lại thực sự ngạc nhiên và hứng thú trước những hàng tiêu dùng có cái chỉ đáng vài chục đô-la, bởi lẽ trong đời anh chưa bao giờ đụng đến. Từ bộ xa lông bọc da đến tấm thảm trải lối đi. Từ cái máy điều hòa nhiệt độ đến bộ đèn trần... tất cả đều tuyệt vời. Thậm chí cả đến cái bể tắm và chiếc hố xí cũng làm cho anh xuýt xoa thán phục. Anh ta phải bỏ ra cả mấy ngày để học cách làm người chủ, người thưởng thức những tiện nghi sinh hoạt đó.

Chỉ còn chiếc xe Datsun de luxe đen bóng nằm trong ga-ra là chưa thể thử được. Người chủ nó đã không để lại chùm chìa khóa. Hùng Thắng chỉ thị văn phòng phải nhanh chóng kiếm một người thợ khóa lành nghề đến làm cho bộ chìa mới, cả khóa cửa lẫn khóa điện. Một nhân viên của cơ quan vật tư phải đi ngó rất nhiều tiệm sửa chữa và cuối cùng người ta đã mách giúp cho một tay thợ chữa khóa ô-tô tài tử giỏi nhất Sài Gòn. Anh thư ký riêng của Hùng Thắng đã mời bằng được con người nổi tiếng đó về.

Đó là một anh chàng đẹp trai, nói tiếng Bắc, ăn mặc sạch sẽ, chừng độ ba mươi tuổi. Anh ta đến với hai bàn tay không làm cho mọi người phải ngạc nhiên. Đến bên chiếc Datsun, anh ta rút trong túi ra chùm chìa khóa chỉ độ vài ba cái. Anh lấy một chiếc mỏng như cặp tóc lựa vào ổ khóa, nét mặt ưu tư như chăm chú nghe ngóng một âm thanh mờ nhạt nào đó. Vài phút sau cánh cửa ô-tô bật thở trước vẻ kinh ngạc của mọi người.

- Anh có sẵn chìa khóa chiếc xe này? - Hùng Thắng hỏi.

- Dạ không.

- Thế làm sao anh có thể mở nhanh như vậy?

- Em mở bằng cái này! - Anh giơ cho mọi người xem chiếc lá kim loại mỏng sáng loáng.

- Nghĩa là cái khóa xe này vô tác dụng. Người ta có thể mở nó bằng bất cứ lá sắt mỏng nào?

- Dạ cũng tùy từng người! Các anh thử mở chơi!

Người thợ khóa đóng cửa lại rồi đưa cái công cụ nhỏ bé đó cho Hùng Thắng. Anh ta luồn vào ổ nhưng không sao quay nổi. Người thứ hai rồi người thứ ba đều toát mồ hôi và chịu bỏ cuộc...

Người thợ khóa ngồi vào vòng lái. Vẫn cái lá kim loại đó, anh ta mở tiếp khóa điện rồi khởi động. Xe nổ máy. Anh ta thử còi, thử đèn, thử phanh.

- Các anh cho phép xe chạy một đoạn.

- Vâng. Hùng Thắng ngồi xuống đệm, nửa thân anh như lút xuống lớp mút dày. Một mùi thơm tỏa ra từ lớp bọc. Ra-di-ô, máy điều hòa nhiệt đều tốt. Chiếc xe mới tuyệt diệu làm sao. So với chiếc com-măng-ca dã chiến của anh thì thật là một trời một vực.

Chiếc xe nhẹ nhàng lăn khỏi ga-ra. Ra ngoài đường, người thợ khóa tăng ga, xe lao đi vun vút, lướt nhẹ trên mặt đường nhựa bóng loáng. Những chiếc bánh nảy lên nảy xuống nhưng thân xe vẫn ở một độ thăng bằng lý tưởng. Bộ giảm xóc thật hoàn hảo. Mười phút sau xe trở về chỗ cũ. Hùng Thắng mời người thợ khóa lên phòng khách uống nước.

- Anh chữa khóa giỏi, nhưng lái xe cũng rất tài.

- Dạ nghề của em là lái xe, sau đó mới tập chữa khóa. Thế mà bây giờ cũng thất nghiệp. Chủ bỏ đi nước ngoài nên không có xe để lái.

- Nhà nước thiếu gì việc. Chỉ có điền lương ít nên các anh chẳng muốn làm đó thôi.

- Đâu có! Bọn em chẳng dám chê công việc của Nhà nước. Các anh sống được thì bọn em cũng sống được. Nếu như Cách mạng tin tưởng ở chúng em thì em sẵn sàng đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp chẳng. Các anh hy sinh bao nhiêu năm cho Cách mạng, chúng em chưa được đóng góp gì thì đâu dám đòi hưởng thụ.

- Nếu anh bằng lòng thì tôi sẽ tuyển dùng anh vào cơ quan này.

- Em xin tình nguyện phục vụ Cách mạng. Em chỉ có bằng lái của chế độ cũ không biết có còn giá trị không.

- Không sao. Anh chỉ cần viết cho tôi một tờ lý lịch, một đơn xin việc, nhờ chính quyền phường chứng nhận, thế là tôi có thể thu xếp cho anh.

- Dạ.

Anh bí thư riêng ngồi cạnh cũng góp thêm ý kiến:

- Báo cáo giám đốc, có thể bố trí anh ấy lái luôn chiếc xe này. Anh ấy thông thạo đường phố Sài Gòn, giám đốc có đi họp hành cũng nhanh chóng.

- Thôi được, lái xe nào thì ta bàn sau. Trước mắt nhờ anh lành cho bộ chìa khóa đã.

- Dạ.

- Hôm nay mới coi như đến thăm bệnh, có chữa nổi mới dám nhận. Cấu tạo loại khóa này cũng không phức tạp lắm. Ngày mai em sẽ đem chìa khóa lại.

- Vẫn có những loại anh phải chịu bó tay?

- Có nhiều loại hiện đại lắm. Nếu đưa chìa lạ vào là hệ thống báo động bật còi inh ỏi, hệ thống đèn tín hiệu chớp liên hồi... Có loại phải phát tín hiệu vô tuyến đúng mã số, khóa mới chịu cho mở... Nhưng loại nào hỏng hóc đã đến tay em thì đều ổn thỏa.

Câu chuyện của anh thợ khóa thu hút cảm tình của mọi người.

Hôm sau anh đem đến bộ chìa mới, sau vài lần giũa sửa sơ sơ là mở đóng rất êm. Anh không nhận tiền công mà chỉ mong giám đốc chấp nhận lá đơn xin việc có kèm theo bản kê khai lý lịch hợp lệ của anh. Hùng Thắng cảm ơn anh thợ khóa và hẹn là cuối tuần sẽ trả lời chính thức việc tuyển mộ. Khi bắt tay tạm biệt ông giám đốc còn hẹn nhỏ:

- Cứ chuẩn bị để thứ năm sau đến nhận việc.

Bùi Đức Tạo quê ở Bắc Ninh theo gia đình vào Nam năm 1954. Cha làm nghề thợ may (đã chết), mẹ buôn bán ở chợ Bến Thành. Anh ruột là thày giáo tiểu học ở một trường tư. Tạo đỗ tú tài 1 rồi bỏ học, trốn quân dịch, chưa vợ con. Trước ngày 30 tháng 4, Tạo lái xe cho một giáo sư đại học Lê Huy Thục... Bản lý lịch cũng không quên ghi: Bùi Đức Tạo có người chú ruột hiện là cán bộ nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh.

Xem qua Hùng Thắng rất hài lòng. Lý lịch không có vấn đề gì đáng phân vân. Ở trong vùng địch, tìm được người có quá khứ trong sạch như thế này là rất khó. Anh ghi vào bên cạnh "Ban Bảo vệ xác minh thêm để có thể nhận vào biên chế Nhà nước. Trả lời ngay". Hai ngày sau cơ quan nhân sự đã làm hồ sơ tiếp nhận vào lái xe cho Tổng Giám đốc.

Chỉ vài tuần thôi, Bùi Đức Tạo đã làm cho Hùng Thắng hài lòng về kỹ thuật chuyên môn thành thạo, về cách thức làm ăn cần cù cẩn thận kỷ lật, về thái độ nhã nhặn, khéo léo, lịch sự. Chiếc xe lúc nào cũng được lau chùi bóng loáng từ trong đến ngoài. Đi lúc nào là máy nổ tốt lúc đó. Trên đường, chân ga rất đều, tốc độ nhanh nhưng rất tỉnh táo, an toàn. Ra vào ga-ra, lui tới các công sở, kho tàng, xe lượn rất nhẹ nhàng, tinh tế, không phải lùi đi, tiến lại làm cho người ngồi trên hoàn toàn yên tâm và hứng khởi.

Mỗi khi Hùng Thắng nhắc nhở điều gì, Tạo đều ghi cẩn thận vào cuốn sổ tay đạt trong cốp. Chữ anh ta rất đẹp, ngay ngắn, rõ ràng. Cách trình bày khoa học, làm nổi bật những chủ đề cần nghi nhớ. Do đó Chưa lần nào Tạo để cho cấp trên phải chờ đợi đến một phút. Rất nhiều lần Hùng Thắng bận việc quên lãng điều này, điều nọ, đều được anh lái xe nhắc lại rát kịp thời. Sự tin cậy tăng lên khiến cho nhiều việc không liên quan đến lái xe mà Giám đốc vẫn thản nhiên nói cho anh ta hay.

- Mười ba giờ ba mươi nhắc tôi đến làm việc với Ba Tâm nhé.

- Dạ.

- Tối mai, đúng bảy giờ tôi đến Sở Công nghiệp Thành phố, nhớ nhắc tôi mang theo chỉ thị 113.

- Dạ.

- Sáng thứ bảy tôi đi Biên Hòa bàn về kế hoạch an ninh khu kho Bình Lâm. Nhớ đến sớm mười làm phút nhé.

- Dạ.

- Ghi vào, tám giờ ba mươi ngày 14 nhắc tôi đi báo cáo về tình hình nhập khẩu năm tới nhé.

- Dạ.

Nhiều việc đáng ra chỉ nên nhắc bí thư thì cứ tiện mồm nói với lái xe. "Thì có gì quan trọng đâu. Cậu bí thư nhiều việc cũng có lúc quên. Tay Tạo suốt ngày chỉ lao động chân tay nên óc nó thanh thản dễ nhớ!". Tạo chẳng những giỏi trong việc lái xe mà mọi thứ khác anh ta cũng sành sỏi. Hùng Thắng mua được một chiếc máy quay nhạc định gửi về cho vợ. Chưa quen sử dụng nên Thắng nhờ Tạo hướng dẫn.

- Giám đốc mua thứ này bao nhiêu?

- Ba ngàn.

- Trời, sao mắc quá vậy? Thứ này cũ lắm rồi, trong này không thấy người xài. Máy mô-nô 412K, xê-ri 1959 khó bán lắm. Bọn nó chỉ lừa mấy chú ngoài Bắc vô thôi. Nếu Giám đốc bảo em trước thì chỉ cần bỏ thêm chút nữa mua một chiếc máy stê-rê-ô tốt hơn nhiều - Tạo cười - Thứ này đưa về tặng chị em là chị không ưng đâu!

- Biết làm thế nào, mình ít tiền thì phải mua thứ xấu...

- Nếu Giám đốc không vội thì để em đi đổi cho. Có hóa đơn đây mà. Em sẽ đến cửa hiệu mắng cho nó một trận. Ai lại đi lừa cả mấy chú cách mệnh!

- Chắc gì họ đã chịu. Mua đứt bán đoạn rồi.

- Chỉ nài đổi cái khác thôi. Cần mình bù thêm bạc, nó phải nghe chứ.

Hôm sau Tạo đã xách về chiếc Sony Stéréo rất đẹp Thắng rất vui mừng vì theo hóa đơn mới chỉ phải bù thêm một nghìn năm trăm đồng.

Để tỏ lòng biết ơn Tạo, một bữa đi họp về khuya, Thắng muốn rủ Tạo vào hiệu "nhậu” một chút. Nhưng những việc này anh đâu có quen. Lúng túng mãi anh mới nói được với Tạo:

- Chúng ta vào quán ăn một chút gì đi, mình thấy đói.

- Dạ mời thủ trưởng vào, em chờ.

- Mình muốn Tạo cùng đi chứ riêng mình thì chẳng cần.

- Dạ em cũng vừa ăn.

- Ta đi uống ly cà phê vậy.

- Dạ được. Nhưng ta đến tiệm nào tiện trông xe.

Tạo đưa Thắng đến một quán giải khát ở phố Nguyễn Đình Chiếu, có bàn kê ngoài cứa. Thấy Thắng lúng túng, Tạo nói nhỏ:

- Thủ trưởng cứ ngồi, để em gọi cho.

Tạo đi vào bên trong vài phút rồi quay ra. Người hầu bàn bưng ra hai phin cà phê, một hộp đường và đĩa bánh ngọt đặt xuống bàn. Tạo mở bao thuốc lá. Bỗng có một cô gái trẻ, má hồng, môi son bóng lộn, kéo ghế ngồi sát Thắng. Đôi lông mày kẻ cong vút, quầng mi xanh làm cho đôi con ngươi sáng lấp lánh. Cô gái nhìn Thắng mỉm cười. Cô đặt bàn tay trắng mũm mĩm với những cái móng hồng hồng lên vai vị cán bộ cách mạng rất tự nhiên khiến cho anh cố nông làng Đại Cát muốn rụt cổ xuống vì xấu hổ.

- Chú muốn "ngồi" không?

- Không đâu! - Tạo nghiêm khắc nhìn cô gái, trả lời thay cho thủ trưởng - Xin lỗi, chúng tôi đang bàn công chuyện.

Cô gái không có vẻ gì là sượng sùng. Cô ta đứng dậy mỉm cười gật đầu chào Thắng rất lễ phép rồi đi vào phía trong. Cái mông núng nính như cố kéo lệch cái mini jupe cũn cỡn làm cho Hùng Thắng không dám nhìn theo.

- Chẳng hiểu nó nói gì!

- Dạ mấy con nhỏ này trước đây làm trong các ba, các hộp đêm. Nay thất nghiệp đi làm bậy bạ ở các quán nhậu. "Ngồi" là nó muốn mời chú ngồi ôm nó để uống bia, uống cà-phê mà trong này gọi là bia ôm, cà-phê ôm, để kiếm chút bạc xài tạm - Tạo chỉ mấy đôi trai gái ngồi trong căn buồng tối mờ mờ ánh đèn vàng đục - Đó. Bọn chúng tiếp khách kiểu đó.

- Thế mà vẫn kiếm ăn được?

- Dạ cũng tàm tạm. Thời ngụy bọn chủ tiệm giàu có nhờ bọn này. Bọn chúng bày ra đủ trò ăn chơi tầm bậy để lôi kéo cả thanh niên lẫn ông già vào những trò trác táng. Xưa kia cứ tối đến là đàn ông đều đi chơi. Mấy ông có vợ con cũng đi suốt. - Các bà cố trang điểm để cầm chân chồng nhưng đâu có nổi. Em lái xe cho giáo sư Thục. Bà Thục ghen dữ lắm. ông bảo em đưa đến những nơi rất kín đáo. Bà cũng thuê thám tử đi lùng. Em đã phóng gấp thì chẳng xe nào đuổi kịp. ÔNG sợ bà mò đến làm tùm lum lên, ông sẽ mất uy tín.

- Chắc ông ấy phải thưởng cho cậu nhiều tiền?

- Có đôi lần thôi ạ vì đó là nhiệm vụ của em. Em đã lĩnh hương thì em phải trung thành với chủ - Tạo cười – Nhưng mấy con nhỏ cũng phải chia cho em chút ít em có công đưa khách. Thế thì cậu quen biết hết bọn đó?

- Dạ có hàng chục ngàn, quen sao cho hết. Nhưng em cũng biết nhiều chỗ rất sang trọng. Cả những nơi gọi là "nhất dạ đế vương" dưới Chợ Lớn.

- "Nhất dạ đế vương" chắc phải tốn tiền lắm?

- Dạ. Đó là thứ ăn chơi siêu hạng của bọn giàu có. Hàng ngàn đô-la một đêm. Nem công, chả phụng đủ hết, Whisky xứ Scotch, vang vùng Bourgogne, cà phê Brésil, thịt bê non Texas, cam California, trà Long Tỉnh, gà gô Lâm Viên, nho tươi Italia, xì gà Cléopac... Hàng chục mỹ nữ cung tần trẻ đẹp hiến dâng cho đức vua nhưng vũ khúc mê hồn. Tất cả đều thuộc về người. Gái Tàu, gái Tây, cả gái da đen nếu cần cũng có. Bọn tư sản, bọn công chức cao cấp phải có chỗ để xài chứ cất đâu hết tiền.

Hùng Thắng cứ trố mắt ngạc nhiên về nhưng thú vui lạ lùng được Tạo mô tả một cách hấp dẫn.

- Bây giờ bọn đó phải chuồn thôi chứ, ở đây chúng sống sao nổi!

- Bọn chủ, những ông vua đã ra đi nhưng mỹ nữ cung tần, của ngon vật lạ thì vẫn hãy còn.

- Ở chế độ này, ai cho phép chúng hành nghề.

- Dạ, từ hồi giải phóng ta dẹp hết. Bọn điếm được đi lao động cải tạo. Nhưng dù sao thì cũng vẫn còn nhiều đứa lọt lưới. Chúng hành nghề lén lút. Không còn "nllất dạ đế vương" nhưng nhưng “tổ quỷ” nho nhỏ thì vẫn đầy... Thủ trưởng nhìn xem, thí dụ như cái căn phòng đầy ánh sáng trên lầu tư kia, ai biết trong đó đang xảy ra chuyện gì. Công an có leo lên đến đấy để kiểm soát thì cũng chỉ thấy vài người ăn mặc rất lịch sự ngồi nói chuyện vui vẻ thôi. Bọn Mỹ-ngụy đã thua, nhưng tàn dư của nó đâu đã quét sạch được.

Tâm sự với người hiểu biết nhiều cũng thú vị. Hùng Thắng ngày càng say sưa những "câu chuyện bổ ích và lý thú” của anh lái xe. Thỉnh thoảng họ lại vào hàng cà-phê. Chỉ có ở đấy họ mới dễ dàng tâm sự những chuyện ba láp...

Và rồi một bữa Hùng Thắng đã được Tạo dẫn đi tham quan cái “tàn dư của chế độ cũ”.

- Xem thôi, xem để biết mà tránh, thủ trưởng ạ. Như em đây, em đã biết rồi, em chẳng bao giờ bị chúng nó chài nữa. Chẳng đứa nào moi được của em một xu.

Hùng Thắng được Tạo kèm Honđa đến Cầu Bông. Một cô gái trẻ đã chờ sẵn bên đường.

- Đây là anh Hai mình mới ở Hà Nội vô. Em tiếp anh Hai hết mình nghe?

- Dạ! - Cô gái mỉm cười liếc Hùng Thắng.

- Tất cả đã thanh toán rồi. Không được vòi vĩnh gì của anh Hai nghe.

- Dạ.

Tạo nói nhỏ với Thắng.

- Mười một giờ em đón ở đây. Cần phải về cơ quan đúng giờ.

- Được!

Tạo đã không sai hẹn quá một phút. Hùng Thắng hơi sượng sùng khi bắt gặp cặp mắt của người lái xe. Khi xe đã phóng nhanh, Tạo mới quay lại hỏi Thắng:

- Đã chứ, thủ trưởng?

- Đã làm!

Cả hai cười vang, nhưng hai tiếng cười không cùng chung một niềm vui.

Hai hôm sau vẫn không thấy Tạo nói tới khoản chi đêm nọ. Thắng đành lỏi:

- Chú chi cho tôi hết bao nhiêu để tôi hoàn lại chú?

- Chi gì ạ?

- Tối hôm thứ bảy đó.

- À, chẳng mất gì đâu. Con nhỏ quen em mà. Nó đâu dám lấy tiền. Em giúp đỡ nó nhiều, cái đó có đáng gì.

Hùng Thắng áy náy:

- Cái kia thì coi như tình cảm thôi, nhưng riêng khoản ăn uống cũng đã tốn kém bạc ngàn.

- Thủ trưởng yên tâm. Đi một lần cho biết thôi chứ có phải ngày nào cũng đến đâu mà lo chuyện tổn phí cho họ.

Gần một tháng sau thoáng chừng thủ trưởng cũng muốn tham quan một lần nữa nhưng chẳng dám nói ra, nên anh lái xe đã khéo léo gợi ý một cách khác:

- Hồi này công an bố ráp dữ, bọn điếm thất nghiệp hoài. Hương Lan lại phải đến xin em trợ cấp tội thật.

- Tôi sẽ thanh toán cho cô ấy cái khoản hôm nọ.

- Khỏi cần. Thủ trưởng có đến an ủi nó và cho nó tí chút thì lại là chuyện khác. Chuyện hôm nọ coi như xong rồi.

- Bữa nào đến?

- Thủ trưởng yên tâm, em sẽ thu xếp.

Một hôm Hùng Thắng đi họp với các đầu mối cấp phát vật tư năm 1979, trên đường về Tạo nhắc khẽ:

- Thủ trưởng có muốn đến nghỉ trưa chỗ Hương Lan không?

- Ban ngày sao tiện.

- Ngày an toàn hơn đêm chứ ạ.

Thắng đang ngần ngừ thì xe đã đỗ kít bên đường. Thắng nhận ngay ra Hương Lan đang đứng cùng một cô gái trẻ khác trước tiệm may. Tạo vẫy tay, cả hai đứa chạy đến tíu tít.

- Mời hai anh vô nhà chơi! Lâu không gặp hai anh, bọn em mong hoài Mặt Hùng Thắng đỏ bừng luống cuống. Tạo quay lại nói nhỏ:

- Anh Hai vô đi, em cho xe đi tìm chỗ đỗ. Đúng mười bốn giờ em quay lại đón.

Thắng bước xuống lúng túng cái cặp trong tay. Đi vài bước vị Giám đốc quay lại quàng chiếc cặp cho Tạo:

- Chú giữ hộ cái này.

- Chết! Có tiền bạc gì không đó anh Hai?

- Không. Chỉ có giấy tờ thôi, nhưng cẩn thận đấy.

- Dạ - Tạo vẫy hai cô gái lại nói nhỏ - Mấy đứa không được vòi vĩnh gì anh Hai, nghe.

- Dạ.

Thắng đi theo hai cô gái. Phong thái lần này có vẻ "tiến bộ" hơn. Anh ta đã mất dần đi cái dáng rụt rè lúng túng ban đầu...

Đúng hai giờ chiều, Tạo đã đến đón Thắng về phòng họp với cái cặp trong tay.

Cái “lòng tốt" một chiều của tay lái xe làm cho Hùng Thắng vừa áy náy vừa lo sợ. Thắng muốn trả ơn Tạo, coi như thanh toán nợ nần rồi từ bỏ những trò chơi nguy hiểm để được sống những ngày thanh thản như xưa, nhưng chẳng có cơ hội nào để làm việc đó. Còn người lái xe thì hầu như đã quên đi mọi chuyện, chẳng bao giờ nhắc đến tiền bạc. Anh ta vẫn làm việc cần mẫn, với tinh thần trách nhiệm như trước.

Có một lần nhân chuyện Thắng nhắc đến quê hương, Tạo cũng tâm sự: Đất nước đã thống nhất mà chưa có dịp nào được về Bắc Ninh thăm quê cha đất tổ. Tạo đề nghị có chuyến đi công tác ra Bắc nào mà dùng đến xe con thì xin Giám đốc cho được đi theo.

- Được thôi. Ta sẽ bố trí một chuyến đi chừng nửa tháng. Năm qua mình chưa lần nào đi kiểm tra các kho tàng. Ra đến Hà Nội mình sẽ để cậu về thăm Bắc Ninh ít ngày.

- Dạ, em rất cảm ơn thủ trưởng. Đó là điều mong ước từ ba năm nay của em.

Hoàng Quý Nhân đã hẹn gặp Doãn Kế Lâm ở Thảo Cầm Viên. Sau khi quan sát không thấy ai theo dõi, Lâm trao cho Nhân một gói nhỏ:

- Đây là chốn phim chụp toàn bộ tình hình nhập nội, phân phối vật tư cho các tỉnh từ Phan Rang đến Cà Mau.

- Cảm ơn. X3 có yêu cầu gì không?

- Tiền, thế thôi. Anh có thể coi như thằng “sếp” của nó đã ăn lương của chúng ta. X3 phải bao hết mọi khoản nhưng chưa nhận được xu nào của ta.

- Sẽ có ngay đây. Tôi chi tạm hai "cây". Anh ký vào biên lai cho tôi.

- Riêng cuốn phim cũng đáng hai lượng rồi.

Quý Nhân nghiên nét mặt:

- Đây là nghĩa vụ của mỗi điệp viên. Người ta phải biết được giá trị thực sự của tài liệu rồi mới xét đến thưởng. Anh nên dạy cho cấp dưới quen với những nguyên tắc đó.

- Dạ, tôi cũng chỉ nói vui với anh thôi chứ đâu dám vòi cấp trên.

- Kỳ này đi ra Bắc, bảo nó chụp lấy những kho tàng mới thiết lập trên trục đường xuyên Việt. Chụp các sân bay Cam Ranh, Nha Trang, Đà Nẵng... xem có xuất hiện những phi cơ kiểu mới không. Chụp quân cảng xem có các tàu chiến Nga Xô hay không…

- Tôi tưởng những thứ này thì vệ tinh viễn thám làm cả rồi chứ ạ.

- Đó là việc của nó ở trên cao hàng trăm ki-lô-mét. Việc của mình là chụp gần từ mặt đất. Ngoài giá trị quân sự nó còn mang giá trị về tâm lý, về chính trị nữa chứ. Những tấm ảnh đó chứng minh cho sự tồn tại của chúng ta. Mc Dovan chỉ chi tiền khi thấy chúng ta hoạt động hữu hiệu.

- Dạ, điều anh Năm dạy bảo quả là chí lý.

Những vụ lấn chiếm, tập kích, xâm nhập lãnh thổ vào dọc biên giới Tây Nam kéo dài suốt năm 1978. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn trước hành động phản bội của bọn Pôn Pốt. Chúng đã tàn sát hàng triệu người cam-pu-chia, nay chúng lại gieo rắc tội ác sang đất nước ta. Hàng ngàn dân ở biên giới đã bị bọn Pôn Pốt giết hại hết sức dã man.

Trung Quốc đã gây sức ép về kinh tế và bắt đầu dùng các phương tiện thông tin đại chúng chống Việt Nam, kích động người Hoa gây rối loạn, khiêu khích quân sự ở nhiều nơi trên tuyến biên giới phía Bắc.

Ngày 7 tháng 1 năm 1979 được sự giúp đỡ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhân dân và các chiến sĩ yêu nước cam-pu-chia đã vùng dậy đập tan chế độ Pôn Pốt. Chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc bị một đòn đau. Đội quân “vu hồi" của họ bị tiêu diệt, Bắc Kinh tức tối khởi sự cuộc chiến tranh xâm lược sáu tỉnh biên giới phía Bắc với cái luận điệu sặc mùi bá quyền là: để dạy cho Việt Nam một bài học! Hành động tội ác đó là món quà để Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ, trước là để rửa hận cho Mỹ, sau là chứng minh cho tấm lòng thành thực của Trung Quốc muốn ngả sang phương Tây.

Báo chí ở Mỹ và các nước tư bản khác in những hàng tít lớn: "Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã bắt đầu". "Nước cộng sản vĩ đại nhất đã dạy cho Việt Nam một bài học!". "Trung Quốc mở cửa sang phương Tây". "Việt Nam đang bị cô lập với thế giới bên ngoài". Mỹ chơi con bài Trung Quốc. Các nước phương Tây hòa theo với bản hợp xướng "Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia". Một số nước trong khối EEC cắt viện trợ và phá bỏ một số hợp đồng kinh tế. Bọn phản động từng tiếp tay cho Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thấy Mỹ chơi con bài Trung Quốc thì sung sướng reo hò và đua nhau ké vào canh bạc này. Chúng gọi cái thời điểm lịch sử vui vẻ này là “Những ngày Trung Quốc". "Làm cho Việt Nam chảy máu liên tục, không để cho Việt Nam hồi sức" là khẩu hiệu chung của chúng ta.

Tháng 3 năm 1979 cơ quan phản gián của ta thu và dịch được hai bức mật điện với nội dung rất quan trọng:

“Thưa ngài Thủ lãnh"

“Những diễn biến chánh trị ở Việt Nam trong thời gian qu cho thấy nền thống trị cộng sản đang đứng trước nguy cơ sống còn. Đó là cơ may mà ta cần phải tận dụng. Các chiến sĩ tự do cần phải có một tổ chức rộng lớn để thu hút sức mạnh của toàn dân tộc. Các ngài phải chứng tỏ cho thế giới biết rằng làn sóng chống đối trong nước không phải là những hành động tự phát, lẻ tẻ tuyệt vọng, mà do một tổ chức rộng lớn mạnh mẽ chỉ đạo.

Tôi muốn các ngài công khai tổ chức của mình dưới hình thức một Mặt trận Tự do hoặc Chính phủ lâm thời. Ban lãnh đạo phải bao gồm những nhân vật mà tên tuổi của họ biểu hiện được sự tập họp của khối đoàn. kết toàn dân. Nó phải bao gồm những người sống trong nước và những người lưu vong. Có thêm cả những nhân vật cộng sản ly khai thì càng tốt. Một tổ chức như thế sẽ có tiếng vang rộng lớn trong dư luận. Mỹ, nó có thể tranh thủ được sự ủng hộ của lưỡng viện để hy vọng giành được một khoản viện trợ nhất định. Chí ít sự kiện này cũng tạo thuận lợi cho sự tài trợ hào phóng của CIA đối với quí vị.

Vì vậy tôi trân trọng mời ngài đến với chúng tôi để ta bàn tiếp công việc này kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra chúng ta còn phải thỏa thuận thêm những công việc riêng của chúng ta. Sẽ có một kế hoạch chi tiết cho việc xuất dương của ngài một khi ngài chấp nhận yêu cầu này.

Cuối cùng xin cảm ơn ngài và các chiến hữu đã cung cấp cho chúng tôi những tin tức quan trọng. Tất cả những chi phí của ngài ở quốc nội chúng tôi đã chuyển vào tài khoản ngân hàng của ngài để bồi hoàn cho lợi ích cá nhân ngài. Mong rằng chúng ta sớm được gặp nhau. Kính chào ngài".

W.

Bức điện phúc đáp hai ngày sau đó:

"Thưa ngài W!

Cộng sản hiện đang gặp rất nhiều khó khăn. Họ giành được thắng lợi ở Cam-bốt nhưng họ lại buộc phải phân tán sức mạnh ra hai mặt trận. Sự phân cực này làm cho khoảng giữa trống rỗng. Chúng tôi đã tận dụng cơ may này để củng cố thế đứng của mình cả ở nông thôi lẫn thành thị. Việc công khai tổ chức lúc này là một yêu cầu bức bách nhưng cần phải được chuẩn bị chu đáo. Tôi thấy cần có cuộc thương thuyết với các chính trị gia lưu vong, vì vậy tôi sẽ chấp nhận lời thỉnh cầu của ngài tới dự một cuộc hội nghị để liên minh các lực lượng ái quốc lại thành một khối. Khi nào kế hoạch xuất dương của tôi chuẩn bị xong tôi sẽ liên lạc với ngài. Những việc riêng của chúng ta thì không thể nói trong một bức điện ngắn ngủi. Mong ngài hiểu cho.

Kính chào ngài".

Tổ mã thám của ta đã dịch được cả hai bản mật điện trên, nhưng những bản trước và sau đó thì lại không khám phá nổi. Chúng đã dùng xen kẽ nhiều khóa để đảm bảo bí mật tuyệt đối.

Trong cuộc họp giao ban ở trung tâm chỉ huy, đại tá Nguyễn Hữu Đức nhận định:

- Đây có thể là bức điện trao đổi giữa Warrens và Hoàng Quý Nhân. Như vậy là trong một ngày gần đây thôi tên Nhân sẽ vượt biên. Sau đó chúng sẽ cho ra đời một cái quái thai chính trị. Chỉ có điều làm tôi phân vân là tại sao hai bức điện rất quan trọng này ta lại dịch được, còn những bức trước và san đó thì không sao hiểu nổi. Phải chăng chúng muốn cho ta nghe được điều này để lừa ta? Chúng mong ta dàn mỏng lực lượng phong tỏa bờ biển để bọn chúng tính toán một mưu đồ gì trong các thành phố nội địa. Cũng có thể Hoàng Quý Nhân đang bị truy lùng ráo riết, chúng phải đánh lạc hướng tiến công của ta để được yên ổn?

- Có thể là như vậy. - Hai Bền thêm ý kiến – Nhưng tôi xin nêu ra một giả thuyết nữa. Đây là bức điện của Warrens gửi cho một nhân viên mới. Lời lẽ ở đây là sự trao đổi bình đẳng chứ không giống một chỉ thị cho cấp dưới. Người mang biệt danh số 1 có vẻ là một thủ lĩnh chính trị hàng đầu chứ không phải một tên điệp viên trình báo tình hình lên thượng cấp. Vì vậy Hoàng Quý Nhân và tên mang biệt danh số một là hai nhân vật riêng biệt. Rõ ràng mã khóa lần này khác hẳn với những mật điện trước đây.

- Ta có thể nhờ hiệu thính viên kiểm tra xem nhịp ma-níp của các bức điện là của một người hay hai người khác nhau đánh đi?

Đồng chí trung tá phụ trách mã thám xin phát biểu:

- Đến hôm nay những bức điện đánh đi đều mang dấi ấn của một báo vụ viên duy nhất. Vì vậy nếu là hai nhân vật độc lập thì chúng cũng dùng chung nhau một điện đài, nghĩa là chúng trùng nhau hoặc là đồng đảng mật thiết với nhau. Không có khái niệm khóa mã này khó hơn khóa mã kia. Tất cả chúng đều có độ tin cậy như nhau. Chỉ có những bản mật mã dùng quá nhiều thì dễ bị khám phá bởi lẽ người ta biết tận dụng những nguồn tin khác có cùng nội dung với mật điện để dò ra. Còn việc khám phá ra những bản mật mã dùng cũng có khi là do sự may rủi ngẫu nhiên. Người có kỹ thuật cao thấp là nhờ kinh nghiệm công tác nhưng với hai khóa mã nguyên khai thì anh ta không thể đánh giá cái nào dễ dịch hơn cái nào. Trường hợp cụ thể này tôi nhận định như sau: Vì nội dung hai bức điện trên rất quan trọng nên chúng dùng khóa mới. Sau đó chúng cất đi để dùng cho những sự kiện có liên quan đến hai bức điện trên trong tương lai. Vì vậy ta có thể tin vào tính chân thực của hai bức điện này.

Ý kiến của chuyên gia làm cho hội nghị chuyển nhanh sang kế hoạch đối phó. Đại tá Nguyễn Hữu Đức kết luận:

- Ta không thể có đủ lực lượng để tiến hành phong tỏa đồng thời trên hàng ngàn kilômét đường biển. Nhưng ta có thể thông báo với Hải quân đề nghị các hải vụ tuần tiễu lưu ý cho. Ta cũng phối hợp với lực lượng công an và các tổ chức vũ trang nhân dân vùng ven biển để kiểm soát chặt chẽ những người vùng khác đến tạm trú ở những làng ven biển. Ta hy vọng sẽ nhận được những mật điện mới hợp đồng cho chuyến vượt biên đặc biệt này của chúng. Ta phải tìm cách báo ngay cho N5 biết tin này để theo dõi những hoạt động ở bên kia đại dương mà tìm cách phối hợp.

Hoàng Quý Nhân hiểu được công việc của mình rất khẩn trương. Y phải cho người Mỹ biết rằng tổ chức của y là mạnh. Nhưng khi kiểm lại những tên tay chân thì hầu như chẳng có ai được gọi là trí thức, là có danh tiếng. Cha Antonine Vũ Xuân Trinh thì "tai tiếng" nhiều hơn "danh tiếng". Nhưng thôi cũng tạm được. Chấm hết! Thật đáng lo. Cần phải dụ dỗ khuynh đảo được một vài trí thức nào nữa. Kiếm đâu trong hàng ngũ cộng sản vài ông Hoàng Văn Hoan nữa thì tuyệt vời. À được rồi. Tổng giám đốc Nguyễn Hùng Thắng. Sẽ cho tay này xuất dương. Sẽ tổ chức họp báo. Các phương tiện thông tin đại chúng của thế giới tự do sẽ thổi bùng vụ này lên và thế là nhân vật ly khai tha hồ nổi tiếng.

Vốn là một tên mật vụ, Hoàng Quý Nhân khó giao du với giới trí thức. Những nhà hoạt động chính trị dù theo chủ thuyết nào cũng thường kỵ mặt và khinh bỉ những thằng "còm". Ngay cả những chính khách cầm quyền cũng không thích công khai vồ vập mấy tay đặc vụ vì sẽ tai tiếng. Cho nên lúc này Hoàng Quý Nhân thấy bí quá. Bóp trán nghĩ mãi y bỗng nhớ đến Đỗ Thúc Vượng. Nhân biết Vượng là một phần tử dễ khích động nhưng cũng hay ba hoa. Nhân không thể đến lôi kéo trực tiếp được. Nhân quen Vượng qua các vụ bắt bớ, qua chuyện Nhân lấy vợ của Vượng chứ chưa bao giờ họ là bạn với nhan. Nhân quyết định giao việc khuynh đảo này cho cha Antoninne Vũ Xuân Trinh. Nhân hy vọng từ Trinh từ Vượng sẽ tạo vết dầu loang ra nhiều tri thức lừng chừng khác, để tạo nên một thế lực chính trị chống đối trong các thành phố lớn.

Một kế hoạch tổng quát được Nhân vạch ra nhằm xúc tiến việc thành lập Mặt trận Tự do và Chánh phủ lâm thời.

Đỗ Thúc Vượng từ bỏ chính trường sau những biến cố bi thảm của gia đình. Anh đã vượt qua thời kỳ yếm thế và chuyển sang dạy học ở Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phú Thọ. Có đôi lần anh đứng về phía sinh viên bãi khóa, chiếm giảng đường, nhưng cũng chỉ là những tình cảm thoảng qua thôi. Vượng bỗng nhận ra năng khiếu của mình không phải là triết học, là chính trị mà lại là kỹ thuật. Tuy đã bỏ con đường khoa học từ lâu, nhưng quay lại anh vẫn thấy mình còn dư sức. Cái danh hiệu "cựu sinh viên Cao đẳng Sư phạm Paris" làu cho anh tự hào. Anh trình bày những chủ đề khoa học cơ bản rất sáng sủa và hấp dẫn.

Cách mạng về, Đỗ Thúc Vượng vẫn mặc cảm mình là kẻ bại trận. Thì ra trong nhiều năm anh cũng đã hò hét chống Cộng, chống chủ nghĩa Mác, phản đối Bắc Việt xâm lược miền Nam. Anh không tiếc sức cổ động đấu tranh cho nền dân chủ đại nghị Tây âu nhưng anh đều thất bại. Suốt những năm đó Vượng cũng chỉ là đứa trẻ mồ cô, cù bơ cù bất trên sân khấu chính trị. Anh không bao giờ có lực lượng trong tay. Anh hò hét cô đơn trong dòng nước thủ đoạn, lừa lọc, cơ hội, bẩn thỉu của những trào lưu chính trị phản động. Ngày giải phóng, anh vừa lo sợ, vừa hổ thẹn nhưng cũng bị lây lan cái niềm phấn khích của nhân dân thành phố. Đỗ Thúc Vượng không bỏ đi, anh muốn được chứng kiến một sự kiện vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại mà người ta thường mô tả bằng một hình tượng văn học: David1 (David vua Do Thái (1010 - 970 trước Công nguyên). Người chiến thắng quân Philistins và xây dựng thành Jérusalem. David cũng là nhà thơ để lại nhiều bản thánh thi mang những cảm hứng trữ tình tuyệt diệu. Trong một cuộc đấu đối David đã giết tên khổng lồ Goliath) đánh lại tên khổng lồ Goliath. Nước Mỹ hùng mạnh lần đầu tiên thua trận!

Đỗ Thúc Vượng trùm chăn xem thế cuộc. Vài người bạn thân: Tiến sĩ Phan Quang Ân, Bác sĩ Jordan, nhà thơ Liễu Châu... đã ra đi. Chỉ có ông luật sư già Trương Công Nghị là ở lại. Một bữa Vượng đến thăm ông bạn già.

- Anh vẫn chưa đi à? – Ông Nghị vui vẻ hỏi.

- Đi đâu.

- Ra nước ngoài, sang Pháp, sang Mỹ... Chỗ nào kiếm ăn được thì đi.

- Ở đây tôi đã bị đói đâu? - Vượng cười.

Ông Nghị vỗ vai bạn vẻ thân mật:

- Nhưng đã ở lại thì phải làm việc. Anh đã già đâu mà cần phải dưỡng sức? Phải hòa vào mọi người mà sống. Chưa chừng còn phải lấy vợ nữa đấy!

- Chế độ này đâu có thèm dùng tôi.

- Anh đã đến hỏi họ chưa? Anh hãy đến Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phú Thọ khai là giáo sư cũ ở đây và đang muốn trở lại làm việc. Chẳng lẽ trước kia anh viết sách viết báo chống chủ nghĩa cộng sản, nay anh lại nằm chờ họ đến tận nhà mời anh như "tam cố thảo lư”1 (Ba lần Lưu Bị đến lều cỏ (Thảo lư) mời Khổng Minh giúp Thục) hay sao?

- Chính vì chuyện cũ mà tôi thấy mình chẳng xứng đáng đứng trên bục giảng đường dạy bảo cho người khác.

- Anh vẫn còn đủ tư cách là một nhà khoa học. Anh cũng còn cả cái bằng kỹ sư nông học ở Michigan nữa kia mà.

- Đúng thế. Hồi đó tôi có ý định trở thành nhà điền chủ nên tôi học quản lý chứ không chuyên sâu về kỹ thuật. Khoa quản lý của chủ nghĩa tư bản khác với khoa quản lý của chủ nghĩa xã hội.

- Cái phần lợi nhuận thuộc về ai thì khác nhau, nhưng điều hành sản xuất để đạt lợi nhuận cao thì nó cũng gần giống nhau. Như tôi đây, học luật của nhà nước bảo hộ, tưởng sẽ chẳng ai dùng, tuổi lại cao, nhưng tôi cứ ra xin việc. Chị Ngân phó chủ tịch quận bảo tôi: “Cháu sẽ xếp việc bác làm. Bác có thể vừa học vừa làm. Chủ nghĩa xã hội cũng phải có luật pháp, có công bằng xã hội. Chỉ có khác là nó không bảo vệ quyền lợi cho bọn bóc lột thôi". Thế là tôi đi làm. Làm không phải vì lương mà vì yêu lẽ phải, yêu sự công bằng. Nếu anh muốn tôi sẽ đưa anh đi tìm việc. Anh ngại không dám nói, tôi nói giúp anh.

Có sự khích lệ của ông già Nghị, Vượng đã đến xin việc ở phòng Quy hoạch thuộc Sở Nông nghiệp thành phố. Nhưng người ta còn đang hẹn tháng sau sẽ trả lời.

Một buổi tối, Vượng đang đọc sách thì có tiếng chuông reo. Anh ra mở cổng. Một người cao, gầy tóc cắt ngắn xuất hiện.

- Thưa ông, có lẽ ông nhầm nhà?

Người khách mỉm cười:

- Ông quên tôi rồi sao, thưa giáo sư.

- Xin lỗi tôi vẫn chưa nhớ ra, xin mời ông vào.

Vượng vừa rót nước vừa suy nghĩ xem mình đã quen vị khách này từ ngày nào.

- Thực tình tôi không nhớ nổi chúng ta đã gặp nhau ở đâu.

- Giáo sư đã chóng quên quá khứ! - Người khách nhún vai tỏ vẻ tiếc rẻ - Khi giáo sư bị đánh bất tỉnh nhân sự thì chính tôi là người chăm sóc cho giáo sư. Chúng ta đã cùng nằm chung sà lim của chế độ Diệm vì chúng ta có chung lý tưởng tự do. Tôi hy vọng những kỷ niệm đó giáo sư còn nhớ được.

- Lạy Chúa, ngài là cha Antoinne Vũ Xuân Trinh! Nhưng làm sao tôi có thể nhận ra vị linh mục trong bộ trang phục trẻ trung như thế này!

- Xin giáo sư hiểu cho. Chúng ta đang sống trong một thể chế mà bộ áo thày tu cũng đủ khép tội đe dọa an ninh của chế độ. Bộ áo thày tu cũng không dám tự do mặc ra đường. Nếu người ta biết có một tu sĩ đến thăm ông thì chẳng những tôi bị theo dõi mà ông cũng bị nghi ngờ.

- Tôi tưởng các cha vẫn được tự do hành đạo đấy chứ?

- Đó là những lời nói công khai theo sách lược. Thực tế thì một trăm hai mươi chín linh mục bị gọi đi tẩy não. Hàng vạn con chiên phải vào trại tập trung.

- Chắc là tính cả các cha tuyên úy từ cấp trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn đến các vùng chiến thuật của quân lực Việt Nam Cộng hòa?

Vũ Xuân Trinh hơi lúng túng. Ông ta nói lửng lơ không ra cải chính, không ra bổ sung:

- Ngay cả những người không tham gia quân lực cũng bị tước đoạt niềm tin.

- Chắc là Cộng sản đã làm cho họ mất hoặc phai lạt niềm tin vào giáo lý, vào đấng thiêng liêng chứ làm sao tước đoạt nổi niềm tin? Tâm hồn con người là một khái niệm đóng kín tuyệt đối. Không thể có sự lẻn vào từ bên ngoài để tước đoạt được của nó cái gì trừ khi nó tự vất bỏ. Tôi nghe nói những người khôn ngoan trong giáo hội Thiên Chúa đã có một chủ trương chung sống ôn hoà với những người cầm quyền ở các nước Cộng sản kia mà?

- Nhưng những người Cộng sản cho rằng không có sự chung sống hoà bình giữa các ý thức hệ. Đó là cuộc đấu tranh một mất một còn.

- Cha tin rằng nếu họ cầm quyền thì tới một lúc nào đó tôn giáo sẽ biến mất?

- Hoặc họ hoặc chúng tôi sẽ biến mất. Cái đó tùy thuộc ở cơ may bên nào có được.

- Trong lịch sử đã từng có những cuộc chiến tranh tôn giáo nhằm tận diệt bọn dị giáo lẫn bọn vô thần, những cuộc hiến tế thần linh bằng máu của bọn ngoại đạo. Nhưng tôi chua thấy Đảng Cộng sản tuyên bố tiêu diệt các tín đồ tôn giáo dù chỉ ở phương diện ý thức hệ.

- Xin ông hãy nhìn vào thực tế. Còn lịch sử thì có thể bị bóp méo bởi những kẻ viết ra nó.

- Cha có tin vào những cuốn lịch sử do chính giáo hội viết ra không? Xưa kia họ cho đó là một chiến công, là vinh quang của Chúa. Còn bây giờ thì cha coi đó là sự thật lịch sử bị bóp méo!

- Xưa kia tôi thấy ông chống Cộng bằng những luận thuyết rất sắc bén. Còn bây giờ ông chỉ trích tôn giáo bằng chính những vũ khí độc ác của Cộng sản.

- Tôi chưa phải đi tẩy não, tôi cũng chưa đọc quyển sách nào của Cộng sản từ sau biến cố 30 tháng 4. Giá sách của tôi bây giờ chỉ có khoa học và kỹ thuật. Ngay cả trước đây tôi với Cha cũng chống Cộng bởi những lý do khác nhau, ngồi tù với những tội khác nhau, nhận thức lịch sử khác nhau, phấn đấu cho những hy vọng khác nhau... Cuối cùng thì tất cả chúng ta đều bị lịch sử gạt ra lề đường.

- Bây giờ ông còn tiếp tục chống Cộng nữa không?

- Nếu Cha không coi đây là câu hỏi có tính chất khiêu khích thì tôi xin đặt lại cho cha chính câu hỏi ấy! "Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, mời tiên sinh đối trước"1 (Dùng từ câu: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối" của Trạng Mạc Đĩnh Chi khi gặp viên quan Tàu ra câu đối "Qúa quan từ, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan").

Cha Trinh cười và không trực diện trả lời câu lỏi của chính mình đặt ra:

- Tình hình của chúng ta thật đáng buồn, nhưng chính quyền cộng sản cũng đang đứng trước những hiểm họa mới. Người bạn đồng minh khổng lồ của họ thực chất là đã tuyên chiến với họ. Nội tình của họ cng không yên. Cựu Uỷ viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan đào tẩu. Kinh tế khó khăn, tài chính khô kiệt, vật tư khan hiếm. Họ không đủ sức điều hành một nền sản xuất hữu hiệu. Cuộc bao vây kinh tế, cấm vận thương mại sẽ dẫn họ đến bước sụp đổ. Có những thực thể bền vững chống đỡ được mọi ngoại lực rất mạnh, nhưng lại rạn nứt bởi những nội lực nhỏ bé hơn nhiều. Đó là sự lão hóa, sự phân hủy tiệm tiến, sự tự hoại.

- Phần nhận xét tình hình của Cha có nhiều điểm đúng. Các thí dụ Cha nêu ra cũng khá thú vị. Nhưng phần kết luận, phần tiên đoán tương lai thì không có sức thuyết phục. Trong quá khứ những người Cộng sản đã từng phải đương đầu với những ngoại lực và cả những nội lực khủng khiếp nhất. Ai cũng tiên đoán họ sẽ bị nghiền nát, nhưng cuối cùng thì...

- Chúng ta thất bại không phải vì họ mạnh. Cái chính là những người quốc gia không gắn bó được với nhau. Họ hay cố chấp và thù vặt nhau trong những vấn đề nhỏ nhặt và vô bổ. Bây giờ thì chúng ta lại phải đi từ đầu.

- Từ chỗ nào?

- Họ đã bắt đầu rồi. Nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ là những người nhập cuộc.

- Liệu ai là minh chủ? Người xưa nói: "Quân tử phải biết chọn chúa mà thờ". Già nửa đời người, tôi đã đi theo bao nhiêu người, bao nhiêu chủ thuyết. Giờ đây ngồi nghĩ lại thì thấy mình toàn bị lừa, bị xui dại.

- Lý trưởng tự do là minh chủ của chúng ta. Chúng ta nhập cuộc và chính chúng ta sẽ chọn ra minh chủ. Có thể là anh, là tôi, ai mà nói trước được!

- Tôi muốn biết tên người đề xướng.

- À, điều này thì tôi cũng chưa được biết.

Vượng đứng dậy, bẻ ngón tay, đi chậm chạp trong phòng, vẻ mặt tư lự:

- Thưa Cha. Bây giờ tôi là nhà khoa học. Bài toán muốn giải được phải có đủ dữ kiện. Nếu chưa đủ thì đừng lao vào giải làm gì, mất công vô ích. Tôi chỉ có thể nói là tôi rất thích nói chuyện với Cha. Tôi sống cô đơn nên cần có bạn bè. Nếu Cha thích thảo luận xin mời cứ đến. Cha mặc áo chùng đen cũng được, không có gì nguy hiểm cho tôi đâu. Tôi thích sự minh bạch.

- Cảm ơn giáo sư. Xin giáo sư cứ suy nghĩ kỹ đi. Cuộc sống bi thảm này chưa đủ cho giáo sư tìm ra dữ kiện sao?

- Đúng là cuộc sống đã cho tôi thêm nhiều dữ kiện nhưng không phải là để giải bài toán của Cha. Cha hiểu tôi chứ?

Họ từ biệt nhau. Cha Trinh không hoàn toàn tuyệt vọng. Khuynh đảo một con người có học thức như Vượng không dễ dàng như đối với một tên ngu đần vô học...

Mấy hôm sau Vượng nói lại chuyện trên với lật sư Trương Công Nghị. Ông già giật mình: Anh đã thông báo chuyện trên với công an chưa?

- Bác muốn tôi trở thành một tay chỉ điểm hay sao? - Vượng cười - Xin lỗi, tôi không quen nghề này.

- Nếu Vũ Xuân Trinh chỉ nói giáo lý, nói đến quan điểm chính trị của cá nhân ông ta thì đó là quyền của ông ta. Nhưng nếu họ tụ tập thành tổ chức với mưu đồ chống lại Nhà nước thì đó là bất hợp pháp. Nhìn thấy một tên ăn cướp thì anh có thể nhắm mắt bỏ qua không?

- Kẻ cướp là tội phạm hiện hành.

- Tổ chức nổi loạn là tội phạm hình sự, là phạm pháp hiện hành. Trong khi giặc ngoài xâm lược bờ cõi mà lại đi tuyên truyền xúi giục phá hoại bên trong gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia là trọng tội. Bất cứ công dân nào phát hiện ra chuyện này đều phải có nghĩa vụ báo cho cơ quan hữu trách để ngăn chặn kịp thời tội ác.

- Tôi nghĩ rằng mọi công dân đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lập hội...

- Hiến pháp bảo vệ quyền tự do lập hội, nhưng bất cứ tổ chức nào cũng phải đăng ký hợp pháp. Tôi thấy anh nên trình bày chuyện này với công an.

- Tôi cảm thấy việc này như có cái gì thiếu đạo đức…

- Luật pháp là đạo đức tối thiểu. Nếu anh ngại tôi sẽ đi cùng anh.

- Câu chuyện chỉ có vậy thôi, nếu bác thấy cần thiết phải cho công an biết thì xin bác cứ kể cho họ đề phòng.

Trước khi phản ánh với công an, luật sư Nghị đã nói chuyện này với đồng chí Năm Ngân phó chủ tịch quận. Chị Năm cảm ơn ông già và xin ông giữ kín chuyện này cho. Chị sẽ tự báo với cơ quan an ninh.

Hai ngày sau Hai Bền đến thăm Đỗ Thúc Vượng tại nhà riêng. Sau những lời chào hỏi xã giao, Bền đi vào chủ đề chính:

- Cơ quan an ninh muốn được ông giúp đỡ một việc.

- Những công việc công khai tôi sẽ không từ chối. Nhưng những việc bí mật thì tôi không quen làm. Tôi rất vụng về xin ông hiểu cho.

- Chúng tôi cũng thích những việc công khai. Cái đích của chúng tôi là phải làm cho sự việc sáng tỏ trước nhân dân cả nước, trước con mắt của thế giới. Còn bọn phản động thì bí mật chống chúng tôi, chống cả đất nước này. Chỉ có ông mới giúp nổi bọn tôi việc này vì chúng tôi không thể lọt vào đội ngũ của chúng. Nếu họ mời, ông cứ gia nhập tổ chức của họ. Ông giúp chúng tôi tìm ra vị "minh chủ".

Đỗ Thúc Vượng tỏ ra khó chịu với yêu cầu của Bền:

- Nghĩa là tôi phải uốn giọng lưỡi theo họ. Phải ngụy biện, phải che giấu lòng mình để được họ tin cậy rồi đi mật báo với quý vị?!

- Không cần. Ông cứ nói như ông nghĩ. Tôi nghĩ là họ cũng không cần ông phải nói như họ. Còn chúng tôi cũng không yêu cầu ông nói theo chúng tôi. Tóm lại là ông không cần phải bán rẻ nhân phẩm, bán rẻ những quan điểm hiện hờn cho bên nào. Họ hiểu ông là người thế nào rồi, ông sẽ không đóng kịch nổi với họ. Tôi tin là họ cần ông không phải vì quan điểm của ông. Chính ông đã nhiều lần là nạn nhân chính trị của họ, hay ít ra là của quan thày họ. Họ cần ông chỉ vì tên tuổi của ông thôi. Nếu họ thành công (điều mà không thể xảy ra) thì rồi ông cũng sẽ đối lập với họ thôi. Điều quan trọng số một hiện nay là mong ông nhận cộng tác với họ. Nếu ông không thích mật báo cho chúng tôi thì xin ông cứ lẳng lặng mà theo họ. Cứ nhìn ông là tôi biết được họ là ai, họ ở đâu và họ định làm gì. Tất nhiên là sẽ không dễ dàng tốt đẹp bằng có sự giúp đỡ của ông. Về phần mình, chúng tôi chỉ dám yêu cầu ông ở mức độ không lớn lắm. Chúng tôi sẽ tránh né mọi nguy hiểm và hết sức bảo vệ ông. Sự cộng tác giữa chúng ta có hay không, lỏng lẻo hay chặt chẽ là tùy ông. Chúng tôi không bao giờ cưỡng bức ông.

Đỗ Thúc Vượng không nói gì, vẻ mặt ưu tư. Vài phút sau Hai Bền đứng dậy:

- Chắc là ông cần thời gian để đi đến quyết định cuối cùng. Một lần nữa tôi tha thiết yêu cầu ông giúp đỡ cơ quan an ninh. Chúng tôi hứa sẽ không ép ông làm nhân chứng cho bất cứ sự việc nào ông không muốn. Đã ba năm đất nước thống nhất, nhưng chưa bao giờ ông muốn cởi mở với những người Cộng sản. Nếu tôi không lầm thì bữa nay mới có cuộc nói chuyện lâu nhất của ông với một viên chức Nhà nước. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ là bạn với nhau, một tình bạn thực sự và ông sẽ thấy chúng tôi không phải là những tay chán ngắt, những tên cực đoan ngu ngốc như ông tưởng. Cái mà chúng tôi mong đợi hình như cũng trùng hợp với điều ông kỳ vọng. Chỉ có là nó còn ở xa nên trên chặng đường hiện tại ông không thích thú gì chúng tôi thôi.

- Xin cảm ơn về những lời nói thẳng thắn của ông. Chúng ta chưa thể hiểu được nhau nhiều qua vài chục phút tiếp xúc. Tôi kính trọng các ông và xúc động trước thiện chí của riêng ông. Nhưng việc tôi có cộng tác với họ không thì xin ông cho tôi được suy nghĩ thêm.

Họ nói chuyện với nhau chỉ độ nửa giờ, Đỗ Thúc Vượng tiễn người cán bộ an ninh ra cửa. Sau khi bắt tay Hai Bền, Đỗ Thúc Vương hỏi thêm:

- Tôi chưa biết số điện thoại của ông. Nếu có thể, xin ông ghi lại cho.

- 64625! Nếu tôi đi vắng ông có thể nói qua ông Đức số máy 64328 - Vừa nói anh vừa ghi vào một mảnh giấy nhỏ, đưa cho Vượng.

Tiện chuyến đi Hà Nội báo cáo công tác, Nguyễn Hùng Thắng đã giúp Tạo về Bắc Ninh thám quê cũ. Mọi việc đều tốt đẹp khiến cho Thắng cảm thấy phần nào đã đền đáp được lòng tốt của người lái xe đối với mình. Còn Tạo thì lại tỏ ra rằng sự quan tâm của thủ trưởng lớn lao quá khiến cho tất cả tấm lòng tận tụy của mình từ trước đến nay thật là bé nhỏ và vô nghĩa. Cái sự biểu hiện tình cảm kiểu thù tạc đó làm cho họ thêm gắn bó với nhau.

Khi trở về Thành phố Hồ Chí Minh. Tạo ngỏ ý mời Thắng ở lại nhà mình vài bữa cho khỏe rồi hãy đến cơ quan. Thắng nhận lời. Nhưng khi xe chui vào hành lang của một ngôi nhà rất to ở Chợ Lớn thì Thắng biết đây không phải là nhà Tạo.

- Vào đây làm gì?

- Dạ em cho xe đi rửa, xem lại máy, cho thêm dầu mỡ sau chuyến đi dài.

Chiếc Datsun len lỏi qua những hành lang tối như đường hầm dưới tầng trệt và đỗ lại trong một căn buồng rộng. Tạo vừa xuống xe đã thấy hai thanh niên chạy lại.

- Giao xe cho mấy chú làm đó. Lau thật cẩn thận giúp anh nhé.

- Dạ, anh Hai khỏi lo. Bọn em làm thiệt tốt.

Tạo mở cửa xách đồ đạc rồi mời Thắng lên lầu. Đến tầng ba, họ gặp một lão già thấp béo, đầu trọc, không râu, mắt một mí, mặc bộ đồ bà ba trắng. Lão cúi chào hai người rất lễ phép.

- Cho một buồng nghỉ nhé. Quý khách đấy!

- Dạ xin mời. - Lão già rút trong túi ra một xâu chìa khóa, lựa một chiếc đưa cho Tạo - Thưa, buồng bốn mươi.

Tạo quay lại nói với Hùng Thắng.

- Dạ, đây là khách sạn Olimpic nổi tiếng, nay đã đóng cửa một trăm buồng chuẩn bị đưa vào hợp doanh. Chủ xin lại ít buồng để ở và đôi lúc cũng có tiếp khách quen.

Tạo mở cửa buồng số bốn mươi. Một căn phòng rộng, đầy đủ tiện nghi sang trọng. Hai ban-công nhìn ra bầu trời rộng lớn, một vùng cây xanh và những mái nhà thành phố nhấp nhô cao thấp, thật đẹp mắt.

- Thủ trưởng nghỉ đây. Em ở dưới nhà còn trông nom bọn nó lau xe. Cần gọi em, thủ trưởng cứ bảo qua cô hầu phòng.

Thắng còn đang lúng túng thì Tạo đã hướng dẫn thêm:

- Đây là chuông gọi hầu phòng, bấm là có người đến ngay - Y mở ngăn kéo lấy ra tập ảnh. Chỉ còn hình bốn cô gái - Đây là số một, số hai, số ba, số bốn. Cần gọi cô nào ta gạt cần gạt vào số đó rồi bấm chuông. Cửa khép lại tức là đã khóa. Chỉ có bên trong mở được, bên ngoài không thể tự tiện vào.

Hướng dẫn xong Tạo bấm chuông gọi và nhìn đồng hồ. Hai phút sau một cô gái mặc bộ đồ trắng sạch sẽ xuất hiện.

- Thưa quy ông cần gì ạ?

- Chuẩn bị để “sếp” tắm nhé.

- Dạ.

Tạo nhìn Thắng mỉm cười rồi quay ra đóng trái cửa lại...

Tối hôm đó Thắng bấm chuông thì thấy hai cô gái đã làm tình với anh trước đây xuất hiện. Thắng ngạc nhiên:

- Trời, làm sao các em biết anh ở đây mà lại thăm?

- Thủ trưởng ở đâu mà chúng em chẳng biết? Chúng em có máy ra-đa.

- Chắc anh Tạo bảo chứ gì?

Hai cô cười rồi thân mật ngồi xuống bên Thắng, cô bá vai, cô ôm sườn.

- Chúng em có cái này hay lắm, muốn đem đến cho anh xem.

- Cái gì thế?

- Bí mật! - Cô gái chạy đến bên chiếc video casstte lắp vào cuốn băng hình rồi bấm máy. Màn ảnh hiện lên toàn bộ "Những giây phút hoan lạc" giữa Thắng và hai cô gái lần trước. Cái trò đó làm anh ta vừa xấu hổ vừa hoảng hồn.

- Ghi lại những cái này làm gì?

- Bọn em muốn giữ cho chúng mình một kỷ niệm. Dù anh có là ông Tổng giám đốc thì cũng là một con người, cũng thác loạn như bọn em. Đâu chỉ có bọn em mới xấu xa, mới đáng khinh như mọi người vẫn quan niệm.

Một cảm giác bị bao vây, bị sa lưới làm cho Hùng Thắng lo lắng và tức giận. Tuy vậy anh ta không dáng nổi nóng. Phải bình tĩnh mà gỡ cho ra.

- Thôi, tắt máy đi em!

- Sắp hết phần của chúng ta rồi. Ta xem chuyện của người khác.

Phần sau cuốn băng còn những pha tân kỳ kích động hơn, làm cho Thắng quên cả lo sợ.

- Cho anh cuốn băng này nhé?

- Anh cũng phải hứa cho chúng em một chút gì chứ!

- Tất nhiên là phải có đi có lại. Nhưng anh không giàu có gì mà các em hy vọng nhiều.

- Anh giàu mà anh không biết đấy. Trong tay anh có biết bao nhiêu của quý. Một chữ ký của anh đáng giá hàng chục ngàn đô-la! Chúng em thèm những chữ ký của anh.

- Hùng Thắng lặng người đi vì đây không còn là chuyện cá nhân anh nữa mà sự thối ruỗng đã lan đến lĩnh vực công tác.

- Anh sợ à. Chẳng có gì nguy hiểm đâu. Nó chỉ giản dị như thế này thôi. Khi nào cấp dưới của anh lên xin duyệt các lệnh phân cấp vật tư thì xin anh cứ ký vào những phiếu có dấu chừ thập đỏ ở góc phải. Anh có thể vặn vẹo, thậm chí đập bàn đập ghế cũng được. Nhưng cuối cùng thì anh cũng cứ ký. Thế là xong.

- Các em có liên quan gì đến những giấy tờ đó?

- Dễ hiểu thôi. Có một cơ quan nhà máy nào muốn lĩnh được vật tư nguyên liệu sớm để kịp sản xuất, họ nhờ bọn em nói hộ rồi chi cho bọn em chút ít công. Bọn em sẽ đến nói khó với phòng kế hoạch của anh và họ sẽ trình lên anh. Đằng nào anh cũng phải duyệt. Của Nhà nước lại phát cho Nhà nước. Toàn là ô-tô, máy ủi, vòng bi, xéc-măng, pít-tông, xúp-páp... chúng em đâu có xài tới thứ đó.

- Nhưng phải có trong kho thì anh mới cấp được chứ.

- Có, nhất định là phải có trong kho thì bọn em mới nhờ đến anh chứ. Anh có thứ gì mà bọn em chẳng biết - Cô gái cười giòn tan, lúng liếng nhìn Thắng với cặp mắt dâm đãng - Bộ anh tưởng giấu nổi bọn em sao?

- Hùng Thắng cảm thấy những điều kiện trên cũng nhẹ nhàng thôi. Có chứng cớ gì để kết tội anh ta được? Trách nhiệm được chia sẻ cho nhiều người và họ phải biết cách bảo vệ cho anh ta. Tất nhiên phạm vi càng mở rộng thì nguy cơ bại lộ càng tăng. Nhưng biết làm sao được.

Ba hôm sau Thắng về cơ quan đã có hàng lô giấy tờ đưa lên xin chứ ký. Anh liếc thấy có ba chứng từ, hóa đơn... có dấu chữ thập đỏ với nội dung: thanh lý mười hai ô-tô chiến lợi phẩm, xuất một nghìn năm trăm vòng bi, mười hai tấn đồng lá. Thắng giật mình nhưng không sao cưỡng nổi. Anh ta đành nhắm mắt ký liều.

Con người vốn có phản xạ thích nghi với môi trường. Lúc đầu Thắng còn lo sợ những hành động bất chính. Nhưng lo mãi, chờ mãi mà chẳng thấy hậu quả gì thì tính cảnh giác lại trơ mòn, và anh ta lại coi thường hiểm nguy, tiếp tục dấn thân mãi vào vòng tội lỗi.

Một buổi tối anh ta đang lặn lộn trác táng trong lột tổ quỷ thì có một người đàn ông chừng bốn chục tuổi, cao to, da ngăm ngăm, râu tóc như Robinson trên hoang đảo xuất hiện.

- Xin chào ông Hùng Thắng. Mong ông tha lỗi cho sự đường đột của tôi. Tình hình quá khẩn cấp buộc tôi phải thông báo với ông một tin quan trọng - Y quay sang bọn gái điếm - Các em mặc quần áo vào và ra ngoài một lát.

- Thưa ông, tôi muốn biết rõ thêm những điều ông vừa nói.

- Ông đang bị đe dọa. Những việc làm của ông đã bại lộ. Công an đang hình thành hồ sơ về ông. Ông có thể bị bắt trong một vài ngày tới.

- Trời! Tôi bị bắt vì tội gì? Ai đã tố cáo tôi?

- Về tội làm tiệc cho cơ quan tình báo Trung ương Hoa Kỳ.

- Đâu có chuyện đó! Bịa đặt hết! - Hùng Thắng hoảng hốt, sợ hãi tưởng phát điên. Thực tế thì ông đã nhận lương của CIA. Nếu không, làm sao ông có thể sống phè phỡn trong những tổ quỷ đầy rượu ngon gái đẹp như thế này được. Lương cả năm của ông liệu có đủ chi nổi vài đêm hoan lạc kiểu siêu hạng? Nếu ông bị bắt họ có thể buộc tội ông là phản đảng, phản quốc và không sao tránh được cái án tử hình. Chúng tôi thấy cần phải cứu ông vì chúng tôi từ lâu đã coi ông là người của chúng tôi. Ông đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.

- Họ đâu có nắm được bằng chứng gì để kết luận là tôi phản quốc. Ngay bản thân tôi cũng chưa bao giờ nghĩ là mình phản quốc...

- Đúng là như vậy. Chúng tôi còn coi ông là một người tự do, một người yêu nước chân chính là khác. Nhưng với cơ quan an ninh của Cộng sản thì họ đâu có quan niệm như chúng ta được. Thí dụ như họ thấy toàn bộ tài liệu bí mật về phân cấp vật tư chiến lược, về viện trợ, nhập khẩu thường niên bỗng nhiên bị lộ ra ngoài. Họ theo dõi thì thấy ông lén lút đi lại những tổ quỷ đắt tiền. Như vậy là họ có cơ sở để bắt ông lắm chứ!

- Tôi có tội nhưng không ở mức đó. Tôi chỉ sa ngã trong cuộc sống tình dục thôi chứ tôi không phản quốc, không làm gì cho CIA! Họ vu cáo!

Người lạ mặt cười ầm lên.

- Ông dành hơi sức để ra toà mà thanh minh. Bây giờ tôi đến đây để cứu ông kia mà? Việc gì ông phải hoảng sợ như vậy!

- Cứu tôi?

- Vâng. Cứu ông. Tôi sẽ đưa ông ra nước ngoài. Ông sẽ được an toàn tuyệt đối, ông sẽ tiếp tục cuộc sống đế vương. Ông có chịu không?

- Hùng Thắng bàng hoàng.

- Ông cho tôi suy nghĩ đã.

- Không còn thời giờ để suy nghĩ. Ông hãy quyết định đi. Ông phải mang theo một số tài liệu về tình hình vật tư hiện nay. CIA sẽ mua cho ông món hàng đó. Ông có thể viết một cuốn sách về sự khốn cùng của chế độ cộng sản Việt Nam. Dĩ nhiên là sẽ có người viết cho ông. Ông chỉ cần đứng tên thôi. Ông sẽ nhận được một khoản tiền nhuận bút khá lớn để mà ăn chơi cho thỏa thích. Đừng nghĩ nhiều mà lỡ mất cơ may. Chúng tôi đã nghĩ hộ ông mọi đường rồi.

Người lạ mặt phác ra một kế hoạch đào nhiệm và vượt biên khá tỉ mỉ. Hùng Thắng chỉ còn vâng dạ để chấp hành. Chúng đã chuẩn bị cho Thắng một lỗ chui duy nhất.

Ba ngày sau Nguyễn Hùng Thắng đã có mặt ở Westland. Sau hai tuần chuẩn bị, tên phản bội đã ra trước cuộc họp báo để nói xấu chế độ theo kịch bản của Bảy Dĩ. Lúc đó việc tìm kiếm một cán bộ quan trọng mất tích mới ngừng lại. Tất cả đều đã muộn.

CHƯƠNG X

CUỘC HỌP KÍN CỦA BỌN PHỤC THÙ

Tôi đã nhận được bức điện hiếm hoi của Trung tâm chỉ huy từ Tổ Quốc phát đi. Tôi nói là hiếm hoi vì đây là lần đầu tiên sau hơn ba chục phiên trực vô hiệu. Sự chuyển tải phức tạp máy tiếp sóng công suất yếu nên các tín hiệu đều mờ nhạt rất khó nhận. Nhưng may sao chúng tôi vẫn hiểu được những gì cậu tôi muốn nói với chúng tôi. Tôi không thể nói lại điều gì với cậu vì chúng tôi không thể phát tin theo chiều ngược lại, nhưng chúng tôi hy vọng cậu hiểu được tấm lòng thương nhớ của chúng tôi.

"Hoàng Quý Nhân sẽ ra nước ngoài". Đó là điều hoàn toàn có thể. Qua câu chuyện với Tùng Lâm, tôi thấy anh ta nói nhiều đến lực lượng mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo tài ba của một thủ lĩnh mới đã gây cho nhà cầm quyền rất nhiều khó khăn. Lực lượng quốc nội đó sẽ liên hệ chặt chẽ với những người lưu vong để chơi lại ván bài từ đầu với Cộng sản.

Phải chăng nhà lãnh đạo tài ba này chính là Hoàng Quý Nhân? Không! Tôi tự bác bỏ phán đoán của mình. Tướng mạo Nhân không thích hợp với một chính trị gia. Y là một tên đao phủ, một kẻ khủng bố thì hoàn toàn có thể. Ngữ ấy mà giương ngọn cờ chính trị lên thì làm sao thu hút được quần chúng? Nhưng Bạch Kim đã không đồng ý với tôi.

- Anh quan niệm bộ mặt chính khách tay sai phải như thế nào? Tướng Thiệu, tướng Kỳ còn làm được tổng thống, thủ tướng thì tại sao Hoàng Quý Nhân lại không có thể?

- Thì chính những tên quân phiệt đó đã trở thành biểu tượng cho thảm bại, thế thì một tên mật thám thờ ba đời chủ làm sao đủ uy tín tập hợp lôi kéo được những lực lượng chính trị?

- Trâu tìm trâu, ngựa sẽ tìm ngựa. Anh chẳng đã từng nói mục tiêu chiến lược trước mắt của kẻ thù là làm chảy máu Việt Nam. Chúng chưa có cơ hội tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược mới, hoặc gây bạo loạn lật đổ Nhà nưởc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Như vậy chúng lựa một tên đao phủ, hay tên khủng bố chuyên nghiệp lãnh đạo tổ chức phản động này là thích hợp chứ sao nữa.

Nhận xét của Bạch Kim rất lô gích làm cho tôi không thể loại trừ. Tôi cười dàn hòa:

- Thôi được. Dù Hoàng Quý Nhân ở cương vị nào thì ta cũng phải đối phó với tình huống này. Có ba điểm ta phải quan tâm. Thứ nhất: Nhân có thế qua Westland, nơi tụ tập những tổ chức gọi là “lực lượng chi viện tiền tuyến". Ở đây Nhân có thể gặp Warrens để tiếp thụ những kế hoạch phá hoại rộng lớn hơn. Thứ hai: Nhân có thể đến gặp vợ ở Hồng Kông. Việc Trung Quốc tiến công sáu tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy bọn bành trướng rất quan tâm đến chuyện câu kết với bọn phản động nội địa. Và bọn phản quốc cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội bắt tay với kẻ thù mới của dân tộc. Thứ ba là ngay tại đây, Los Angeles là trụ sở thường trực của Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Nhân có thể đến đây tìm kiếm sự ủng hộ của nhiều thế lực phục thù ở Mỹ, tranh thủ sự tài trợ của bọn lưu vong giàu có. “Mọi con đường đều dẫn tới Washington". Đồng đô-la vẫn là thần bảo mệnh của bọn chúng. Chỉ có một khó khăn là cả hai chúng ta đều không có khả năng điều tra trực diện Hoàng Quý Nhân.

- Ta nhờ anh Ân được không?

- Ngay từ cuộc hội thảo lần trước anh Ân đã chống lại quan điểm của bọn phục thù. Anh cũng không có trong ban lãnh đạo. Dĩ nhiên ta cũng thông qua anh Ân để biết thêm hoạt động của Hoàng Cơ Bảo. Còn mối tình của em với Hoàng Bảo Thạch hồi này ra sao?

Bạch Kim đấm vào lưng tôi rồi nguýt dài:

- Nói thế mà nghe được!

- Anh xin lỗi, anh muốn nói "mối tình vờ" đó ra sao?

- Hoàng Bảo Thạch vẫn ve vãn em. Y tỏ ra rất chú ý đến chuyện em định bỏ ra hai trăm ngàn đô-la đầu tư vào ngành dệt ở Hồng Kông. Thạch mê em có lẽ cũng vì món hồi môn đó!

- Em sẽ qua hắn mà thu lượm mọi tin tức về Hoàng Quý Nhân.

- Còn anh?

- Anh sẽ đi Voca City chuyến nữa. Ở đấy còn nhiều việc lắm.

Tôi bay đi Forthworth thăm Antonio. Vợ chồng anh thân tình đón tiếp tôi. Hai anh chị và cháu gái nhỏ sống ở thành phố này. Thỉnh thoảng họ mới trở về trại Oliver.

Tôi được Antonio cho biết; tiểu thư Miguel đã lấy chồng. Chồng cô, Ramiro Alonzo trước đây là một điền chủ giàu có ở Del Joinville. Anh ta đã bỏ ra hai chục năm trời để sưu tập những di vật văn hóa của thổ dân sống trên dãy Andes thuộc vùng núi lửa Veneltéla. Ramiro đã bán hết gia sản đi để có được một viện bảo tàng. Chẳng bao lâu nguồn tài chính của anh khô kiệt, anh phải đi vay nợ để tiếp tục công việc. Nhưng món nợ lãi đó đã làm anh phá sản. Nếu anh chịu bán bộ sưu tập đồ sộ của mình cho những kẻ sán lùng cổ vật ở Mỹ thì chẳng những thừa sức để trả nợ mà số dư còn đủ sống suốt đời, nhưng Ramiro đã không làm như thế. Anh lo những di vật vô giá đó lọt vào tay bọn giàu có Bắc Mỹ. Anh cầu cứu chính phủ giúp đỡ nhưng bị từ chối. Không còn cách nào khác, Ramiro Alonzo đành viết giấy hiến toàn bộ tài sản của mình cho thành phố Del Joinville với yêu cầu duy nhất là giữ lại những thứ đó cho nhân dân địa phương. Anh phải trốn sang Mỹ với cái tên giả Vera Sauna. Con người nghèo khổ lang thang đó đã gặp được một tâm hồn đồng điệu. Alonzo đã cùng Miguel lập nên một hội từ thiện lấy biểu tượng "Rắn lông chim". Họ đang có chủ trương đến Việt Nam để điều tra những hậu quả của chất độc màu da canh đối với môi trường sống và những di chứng trên cơ thể con người. Họ sẽ vận động quyên góp tiền bạc để giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh.

- Cảm ơn các anh chị, những người Mỹ nhân hậu bao giờ cũng quan tâm đến đất nước Việt Nam chúng tôi - Tôi nói với Antonio.

- Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Bất cứ nơi nào tội ác còn ngự trị hoặc để lại những di họa thì nơi đó vẫn phải là nỗi đau chung của nhân loại.

- Anh làm cho tôi nhớ đến câu thơ của John Donne.

… Cái chết mỗi con người làm ta bé nhỏ đi

Ta hòa nhập với Nhân quần rộng lớn.

Xin đừng hỏi: Chuông nguyện hồn ai thế?

Chuông nguyện cầu cho chính cả hồn anh.

- Đúng như vậy. Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, nhưng vẫn mang trên mình những vết thương tinh thần và thể xác nạng nề. Tôi yêu nước Mỹ của tôi, tôi muốn hiến dâng cả cuộc đời cho nước Mỹ, nước Mỹ tự do của Washington, của Lincoln... chứ không phải của bọn 3K, bọn tỉ phú. Tôi đi viết ở những vùng nguy hiểm không phải do tính hiếu kỳ, phiêu lưu thúc đẩy. Tôi muốn cho hình ảnh nước Mỹ tốt đẹp lên.

- Tôi định đi Bangkok rồi đi Westland một lần nữa. Anh có muốn đi với tôi không?

- Chuyến đi vừa rồi tôi mới đến được Chiang Rai. Tôi muốn vượt biên giới sang Mae Sai nhưng không được. Một người da trắng không thể trà trộn vào đám dân bản xứ. Tôi mới đến được cạnh của vùng "tam giác vàng" chứ chưa lọt vào nổi.

- Anh có tìm được điều gì thú vị không?

- Qua chuyện trò với những người ở Chiang Rai tôi được biết vùng ba biên giới này vốn là nơi cư trú của người H’mông, người Yao, người Shan... Họ có nghề trồng thuốc phiện từ lâu đời. Khi Quốc Dân đảng Trung Hoa bị quét khỏi lục địa, tàn quân của quân đoàn 93 của tướng Li Mi đến trú ngụ ở vùng này. Những người Tàu đã biết tăng nhanh sản lượng thuốc phiện và tiêu thụ thuốc phiện bằng cách thiết lập những đường dây thương mại với Bangkok, Hongkong, Ma Cao, Chợ Lớn, Đài Bắc, Singapor... Không ai dám đến vùng núi cao hiểm trở này kể cả quân đội của chính phủ. Đó là nơi tị nạn của bọn cướp thuộc nhiều chủng tộc, được trang bị mạnh. Hai nhân vật nổi lên chi phối vùng này là Le-wen Fan và Tuan Si Wan. Chúng lập đại bản doanh ở Tham Ngob và Mac Salong. Chính phủ Bangkok làm ngơ vì họ cần tận dụng bọn này để vô hiệu hóa các lực lượng thâm nhập của Bắc Kinh. Mặt khác sự gia tăng sản lượng thuốc phiện cũng làm tăng nguồn ngoại tệ của Thái, tăng tốc độ làm giàu của nhiều sĩ quan cao cấp. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, quân viễn chinh Pháp cũng đã tiếp tay cho đường dây buôn lậu quốc tế này. Suốt từ năm 1946 đến năm 1954 rất nhiều máy bay Dakota của Pháp chuyển nhiều thuốc phiện từ Bắc Lào về Tân Sơn Nhất về Nông Pênh. Một đường dây mặt đất từ Luông Pha Băng đến Phonxavan, Séno, Paksé đưa thuốc phiện tới Huế... Những tên buôn lậu người bản xứ như Sananicon, Kà Tày, Bảy Viễn, v.v... làm giàu rất nhanh chóng.

Trong thời kỳ Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh bí mật ở Đông Dương, CIA đã liên hệ chặt chẽ với những thủ lĩnh của nhiều bộ tộc, những tên tướng cướp và bọn trùm buôn lậu ở vùng Tam Giác Vàng. Đã có nhiều cuốn phim vào báo chí phương Tây phanh phủi chuyện này nhưng họ chưa nêu nổi danh tính những kẻ đã nhúng tay vào việc hình thành những đường dây buôn lậu héroine vào nước Mỹ.

- Điều quan trọng là phải biết được những tên "trùm hiện đại".

- Muốn đến được cái đích đó, tôi phải lần theo đường dây của lịch sử. Sau sự sụp đổ của Lo Hsing Han, "chiến trường ma tuý" nổi lên ba lực lượng. Lực lượng thứ nhất của người Shan do những người phái hữu Miến Điện cầm đầu. Lực lượng thứ hai dưới quyền Kuan Cheung đáng sợ, một người lai Sion-Shan, cụt tay. Lực lượng thứ ba mạnh nhất với ba nghìn tay súng được coi là đoàn hùng binh của chiến trường ma tuý hiện đại. Ngay san khi Quốc Dân đảng rút đi, Bắc Kinh đã dần dần kiểm soát được nhiều bộ tộc ở Đông Miến dưới danh nghĩa những phong trào giải phóng dân tộc, nhưng thực chất là những tổ chức buôn lậu quốc doanh ở Yannam. Trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương, thị trường ma tuý có một cơ hội vàng. Những nhà máy tinh chế bạch phiến được xây cất trong vùng này đã đem lại lãi suất rất lớn. Một gam bạch phiến nguyên chất giá một nghìn phăng (ở thị trường Paris) thì chất thuốc phiện màu vàng nhạt ở Thái gọi là "Kay" chỉ đạt sáu trăm F/kg. Các đường dây ma túy tràn vào Nam Việt Nam phục vụ cho quân viễn chinh Mỹ quên đi những cơn ác mộng. Rồi từ Nam Việt Nam, ma túy theo lính Mỹ đi Nhật Bản, đi Guam vào nước Mỹ. Với sản lượng năm mươi tấn một năm, vùng Tam Giác Vàng cung cấp hàng năm cho Thái Lan một số ngoại tệ khá lớn. "Thai connection1 (Đường dây Thái chuyên buôn lậu ma tuý) chuyển héroine sang Italia. Rồi “French connection2 (Đường dây Pháp chuyên buôn lậu ma tuý)  Sicile chuyển tiếp đến Marseille. Tam giác Madrid – Amsterdam - New York đã mở rộng thị trường ma túy với một gia tốc chưa từng có.

- Nhưng đó chỉ là chuyện cũ. Còn chuyện hôm nay? - Tôi hỏi Antonio.

- Đó chính là vấn đề mà tôi quan tâm nhất. Nhưng tiếc là nó vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Anh thử xem những mối liên hệ giữa Mc Dovan và Shiadej, viên lãnh sự Thái ở Chicago. Mối liên hệ giữa Warrens với người đàn bà Tàu giàu có Lee-Chon-Yan, chủ nhà băng Banville mà người ta thường gọi là "bà tỉ phú đỏ". Tôi có nhiều bằng chứng là bà ta có liên hệ với Khan Sa, một nhân vật đầy quyền lực ở vùng Tam Giác Vàng hiện nay. Anh cũng nên để ý đến nhột người Mỹ tên là Mendel Strong và tên Tomado-le-Loup một tên Mafia hiện đang có mặt ở Hongkong và Bangkok từ nhiều tháng nay.

- Sao anh lại biết những chuyện này? – Antonio ngạc nhiên.

- Tôi tập làm báo nên tôi thu lượm mọi nguồn tin vào cuốn sổ.

- Anh có thể nói rõ hơn được không.

Tôi đã cung cấp cho Antonio tất cả những hiểu biết của tôi, của Bạch Kim và cả những gì còn lại trong bộ sưu tập của Phương Dung về vấn đề ma túy. Tôi không tiếc anh điều gì vì nó không thuộc lĩnh vực của tôi. Đó chỉ là những tin tức hỗ trợ cho hoạt động bề rộng. Antonio rất thú vị và thế là anh quyết định bay đi Băngkok một chuyến nữa.

Hoàng Quý Nhân đã vượt biển ở một địa điểm thuộc Phan Trang. Xuất phát từ mũi Mang, chúng kẻ một đường ngắn nhất ra hải phận quốc tế. Warrens đã bố trí cho tàu chiến Mỹ chờ sẵn ở đây. Ngày hôm sau một cuộc đón tiếp long trọng đã diễn ra ở Voca City.

R. Warrens, Mc. Dovan, M. Strong, Bảy Dĩ, tướng Southit thuộc lục quân Westland và nhiều nhân vật quan trọng đã đến chào mừng con người hùng từ Việt Nam đến. Warrens không làm ồn ào như vụ Nguyễn Hùng Thắng nên chẳng có nhà báo nào được phép tìm đến.

- Thưa ông Warrens, thưa quý vị. Trước hết tôi xin cảm ơn sự tiếp đón thân hữu của quý vị. Sự có mặt của tôi hôm nay tại đây, bản thân nó đã là một chiến công. Hải lực Hoa Kỳ đã vớt tôi lên từ biển cả sau khi tôi vượt qua hàng rào thép của Cộng sản. Có một điều vui mừng là chúng tôi đến đây không phải với hai bàn tay trắng, với danh nghĩa của kẻ chạy trốn khối lưỡi hái của tử thần, mà là người được quốc dân ủy nhiệm đi tìm một cố gắng chung ngõ hầu xoay chuyển cục diện chiến lược trên vùng đất mà những người tự do tưởng như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Bản thân tôi cũng không còn là một cá nhân cô đơn nữa. Tôi thực sự trở thành đại diện của cả một dân tộc đang bị tù đày. Con đường trước mặt của chúng ta còn rất dài, nhưng ngay từ hôm nay tôi đã có thể tuyên bố với quý vị rằng tương lai của nó rất sán lạn. Sở dĩ có được niềm lạc quan trên là bởi lẽ tôi, chính tôi đã làm sống lại những con người, những bộ máy tưởng như đã bị lịch sử chôn vùi sau thảm họa 30 tháng 4. Những con người dũng cảm thực sự có năng lực này chẳng những cần thiết cho sự nghiệp của dân tộc tôi, ulà còn vô cùng có ích cho thế giới tự do, cho nước Mỹ vĩ đại, người bạn lý tưởng của những dân tộc bị Cộng sản nô dịch...

Những tràng vỗ tay nổi lên ầm ỹ nhưng những bức tường cách âm tốt không để một gợn sóng âm thanh nào lọt nổi ra ngoài. Hoàng Quý Nhân không trình tất cả món quà của y ra trước mặt các quan chức Mỹ. Y gặp riêng từng người, và với từng người y có một chiến thuật mà y cho là thích hợp. Cuộc đàm phán với Warrens đã đi đến những thỏa thuận tổng quát:

Một là: Khôi phục nhanh chóng lại bộ máy cũ của CIA. Phát triển thêm mạng lưới điệp viên săn tìm tin thứ cấp trên toàn lãnh thổ từ Nam đến Bắc Việt Nam. Đưa guồng máy đó vào hoạt động thực sự trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế van hóa...

Thứ hai: Thành lập Mặt trận Tự do và một chính phủ lâm thời chỉ đạo cuộc khởi nghĩa trong nước để thu hút sự quan tâm của dư luận Mỹ. Có thể công khai các nhân vật lãnh đạo đã gây được thanh thế thật sự trong quốc nội lẫn quốc ngoại. Một danh sách chính phủ lâm thời đã được sắp đạt. Quý Nhân muốn dành cho những phần tử trong nước nhiều ghế hơn. Nhưng y cũng gặp nhiều khó khăn vì danh sách y đưa ra quá nghèo nàn. Toàn là những tên vô danh tiểu tốt, ít hiệu quả tâm lý. Warrens khuyên y nên lựa thêm những nhân vật lưu vong. Để nâng cao uy tín cho họ có thể tổ chức cuộc cuộc thâm nhập lớn vào nội địa, tổ chức "ra mắt quốc dân" của cái nội các lâm thời này. Sẽ quay phim, chụp ảnh phân phát cho các tổ chức thông tin quốc tế. Sau đó lại đưa các vị nhát gan ấy ra công cán ở nước ngoài. Chỉ cần mượn cái danh, cái thực vẫn là Nhân và bọn chân tay ở trong nước. Kế đó của Warrens xem ra là hay nhất. Vì vậy Quý Nhân sẽ đi Mỹ cùng với Bảy Dĩ và tên phản bội Hùng Thắng để tiến hành hiệp thương với phái lưu vong.

Khi mà có được chính phủ lâm thời thì Warrens sẽ chính thức xin Chính phủ Mỹ viện trợ cho nó. Trước mắt CIA có thể chi thẳng năm triệu đô-la của quỹ mật giúp cho những hoạt động này.

Nhân cũng hứa sẽ chuyển giao chuyến hàng đầu tiên cho Warrens. Đó là mười ki-lô-gam chất héroine hảo hạng theo một con đường bảo đảm mà hai bên lựa chọn. Warrens cảm ơn Nhân và hứa sẽ chuyển ngân đầy đủ cho tài khoản của Nhân ngay san khi "phi vụ” được thực hiện.

Hai ngày sau đó một phái đoàn đặc biệt do Hoàng Quý Nhân dẫn đầu bay đi Washington. Họ được chính Price, đại diện của Bộ Ngoại giao cùng nhiều quan chức khác tiếp đón.

Tôi và Antonio đến Voca City vào mùa hè 1979. John Antonio gặp lại người bạn cũ là Mendel Strong. Anh chưa biết Warrens nên định thông qua Mendel để tiếp cận Warrens nhưng không may cho anh là ông trùm này đã về Mỹ. Anh tìm cách lân là làm quen với người đàn bà Tàu Lee-Chou-Yan.

Còn tôi thì đến mật cứ Béta. Tùng Lâm đi vắng! Cô gái hầu phòng Diệu Lan cho hay Tùng Lâm đã đi Voca City một tuần rồi. Có thể anh còn bay đi Washington. Buồn quá tôi quyết định đến thảm Trương Tấn Hào. Gặp lại tôi, Hào mừng lắm.

- Trời, lâu quá không thấy anh lại. Tôi ở đây hẻo lánh quá, ít bạn bè đến thăm buồn lắm.

- Anh có nhận được tin chị và các cháu không?

- Dạ trước đây hai tháng có một lá thư. Ở nhà vẫn bình thường và lần này họ lại kêu tôi quay về mới ngán chứ!

- Vợ kêu chồng về là chuyện vui chứ sao lại ngán?

- Đâu phải chỉ về với bả và xắp nhỏ mà là về sống với chế độ Cộng sản. Mình đã bỏ đi, nay về đâu có nổi.

- Có ông anh ruột là Cộng sản bảo lãnh thì sợ chi.

- Dạ là nghe bọn trẻ viết thư nói bậy bạ vậy thôi chớ ổng đâu có viết cho tôi.

- Thế anh Tùng Lâm hồi này có hay lại thăm anh không?

- Dạ có. Cách đây mươi bữa anh có lại. Nằm với tôi vài hôm. Coi bộ ông tướng đang bị kẹt đó?

- Sao?

- Họ đang biểu ông ra làm Tổng trưởng quốc phòng chi đó. Nghe bự lắm!

- Làm bộ trưởng thì có gì mà kẹt. Cho tôi làm bộ trưởng tôi cảm ơn ngay!

- Kẹt chớ. Vừa qua nghe nói có một ông cỡ bự đằng mình từ Sài Gòn sang. Họ nói lực lượng quốc gia đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của ổng và giải phóng được nhiều vùng khỏi tay Cộng quân. Họ còn nói quân Cộng sản nay bị phân tán ra hai đầu, ở Cam-bốt và ở biên giới Việt-Trung, nên trong nội địa chống trơn cả. Trung Cộng đang ngả sang phía Mỹ và định cho Hà Nội bài học thứ hai. Chưa chừng kỳ này họ vô Thăng Long cho coi. Miền Nam Việt Nam đang có cơ may để định đoạt số phận của mình. Washington và Bắc Kinh cùng hợp sức thì Hà Nội chịu sao nổi. Họ đang khẩn cấp xúc tiến thành lập nội các. Do đó tướng Tùng Lâm có cơ được mời ra làm Tổng trưởng.

- À ra thế! Vận may đã tới sao gọi là kẹt được?

- Ông đâu có khoái chức vụ này ông không tin có thể hạ nổi quân Cộng sản Việt Nam. Quay trở lại lúc này là đeo cái án tử hình vào cổ. Nhưng từ chối ctĩng dở vì ông vừa ký thêm một hợp đồng ba năm với Warrens. Thế là ông đành bay đi Mỹ để khởi sự một chương trình rất mạo hiểm nhưng quang vinh.

- Còn anh, có lẽ họ cũng sắp bổ nhiệm làm Đô đốc Tư lịnh Hải quân đó! - Tôi thăm dò Hào.

- Đâu có. Tôi chỉ có ba cái tàu chở hàng nhỏ xíu, lấy đâu ra chiến thuyền mà gọi là hải quân đô đốc? Nghe nói Hải quân của họ được Nga Xô trang bị cả tàu tuần dương cỡ Frégat mang hỏa tiễn đối hạm và đối không rất mạnh.

- Biết đâu rồi Mỹ lại trang bị cho các anh thứ mạnh hơn! Chỉ mới huấn luyện bốn mươi lăm tên lính đã trở thành Tồng trưởng quốc phòng thì chỉ huy bốn chiếc ghe thừa sức là Tư lịnh Hải quân!

Cả hai chúng tôi đều cười vui vẻ. Tôi tạm biệt Hào và hẹn khi nào tân Bộ trưởng Quốc phòng về tôi sẽ kéo xuống thăm anh.

Tôi quay về Voca City bắt liên lạc với Tám để điện về Trung tâm những tin tức trên. Tôi cũng báo cáo với đại tá Đức là tôi còn làm việc ở Westland một thời gian dài nữa để theo dõi tình hình này. Qua đường bưu điện tôi cũng đà "nói lóng" cho Bạch Kim biết là Hoàng Quý Nhân đã có mặt ở Washington và có thể đến Cali mật hội với cụ Hoàng Cơ Bảo trong một thời gian gần đây. Cần phải hữu ý sự kiện này.

Thực ra Bạch Kim đã nhận biết tình hình này trước khi lá thư tới. Hoàng Bảo Thạch đã khoe với cô là anh có thể sẽ phải đứng ra đảm nhiệm những trọng trách lớn lao của quốc dân giao phó. Thường vụ Liên minh Việt kiều Hải ngoại sẽ hiệp thương với lãnh tụ Mặt trận Tự do quốc nội để thành lập chánh phủ lâm thời chung, nhằm điều hành hữu hiệu công cuộc chiến đấu chống cộng sản, giải phóng Tổ Quốc.

- Nghĩa là chúng ta sẽ có một chính phủ lưu vong?

- Không, không thể gọi là một chính phủ lưu vong được. Nó sẽ có mặt ngay trong nước, ở tiền tuyến để lãnh đạo quốc dân, chỉ huy nghĩa sĩ.

- Trời ơi, thế là anh lại ra đi, anh trở lại Việt Nam trong cảnh hoang tàn một lần nữa.

- Cũng có thể - Vẻ mặt Bảo Thạch được pha trộn giữa niềm kiêu hãnh và một nỗi buồn man mác rất nghệ sĩ.

- Nhưng liệu có thể thắng nổi Cộng quân không?

- Trước đây chúng ta thua Trung Quốc chứ đâu phải thua Việt Cộng. Nay Mỹ đã nắm được con bài Trung Quốc trong tay, Việt Cộng đang bị bao vây từ bốn mặt. Cơ hội cho sự bùng nổ bên trong đã mở ra. Ta cần phải giành lấy tay lái của con tàu lịch sử. Một khi đã có sự trao phó của quốc dân, anh sẵn sàng trở lại quê hương dù có phải buông mình trên chiến địa!

Để đáp lại vẻ mặt đầy kịch tính của Hoàng Bảo Thạch, Bạch Kim cũng biểu lộ tình cảm bi lụy của mình một cách xa xôi bằng hai câu thơ Chinh phụ ngâm trích dịch trong cuốn sách giáo khoa tiếng Pháp:

O ciel d’un bleu magigue aux pro-fondeurs sublines

Qui donc est lauteur de ce facheux état de choses?

1 (xanh kia thăm thẳm từng trên. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này)!

Cảm kích trưởc tâm hồn đa cảm của mỹ nhân, tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch cũng ứng đối lại bằng mẩu thơ tình của Bạch Cư Dị qua ngôn từ mẫu quốc:

Vous êtes en amont du Tương

Je suis en aval du même fleuve

Quoique nous buvions tout deux de I’eau du Tương

Nous nous regardons, mais nous he nous voyonls pas2

(Chàng ở đầu sông Tương,

Thiếp ở cuối sông Tương,

Cùng uống nước sông Tương,

Nhớ nhau mà chẳng thấy)

Người ta nói “săn đuổi tình yêu là một cuộc săn đuổi kiêu căng" nhưng ở đây không có tình yêu nên cuộc săn đuổi chỉ chứa đựng những mánh khóe giả dối. Cái tình cảm lòe loẹt mà cả hai bên đem ra phô diễn đều nhằm che giấu một điều bí mật bên trong. Mục tiêu của Hoàng Bảo Thạch là món hồi môn nửa triệu đô-la nằm ở ngân hàng Manhattan. Còn Bạch Kim thì nhằm tới những chuyện gì sắp xảy ra ở cuộc họp kín của những kẻ phục thù.

Warrens, Price, Mc Dovan... là những người bảo trợ cho cuộc hội nghị này. Họ đã quyết định chiến lược chung ở ĐÔNG Dương, đặc biệt là ở Việt Nam trong bối cảnh Trung Quốc ngả sang phương Tây. Mỹ và Trung quốc thừa nhận họ có lợi ích chiến lược song song là ngăn cản ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Việc làm suy yếu Việt Nam, tiến tới làm thay đổi chiều hưởng chính trị ở đây là mục tiêu đầy tham vọng của họ. Việc thành lập chính phủ của lực lượng nổi loạn lúc này là cần thiết. Đó là cái bàn đạp chính trị để Mỹ quay trở lại Đông Nam Á như điều Trung Quốc mong muốn. Họ đã mặc cả để chọn ra một danh sách những nhân vật hàng đầu. Cụ Hoàng Cơ Bảo già quá nên chỉ có thể giữ được cái chức Chủ tịch Liên minh. Nhưng cụ đã khôn khéo tiến cử người con trai vào nội các. Nhà cách mạng Hoàng Quý Nhân lãnh tụ của Mặt trận Tự do dân tộc được cử làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng chiến tranh. Tướng Tùng Lâm được bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng quân lực, Hoàng Bảo Thạch Tổng trưởng ngoại giao. Mlle Mộng Vân nay gọi là bà Lê Mộng Vân, Tổng trưởng thông tin tuyên truyền. Ông Lê Ván Dĩ, Tổng trưởng tài chánh. Ông Nguyễn Hùng Thắng, đảng viên cộng sản li khai được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục tác chiến tinh thần. Năm vị tổng trưởng thuộc các bộ Nội vụ, Kỹ nghệ, Thương mại, Canh nông và Giáo dục buộc phải giấu tên vì hiện đang hoạt động ở Việt Nam. Tóm lại, một nội các hoàn chỉnh với những bộ mặt mới đứng ra lãnh trách nhiệm trước quốc dân sẽ chính thức công khai ra mắt tại quốc nội một ngày gần đây. Để có tiếng vang lớn trên trường quốc tế, Thủ tướng Hoàng Quý Nhân quyết định những thành viên nội các sẽ trở về nước, rồi sau đó tuỳ theo từng nhiệm vụ họ có thể hoạt động trong nước hay sẽ lại ra nước ngoài tiếp tục công vụ cao cả của chánh phủ lâm thời.

Cái lý thuyết buộc chuông vào cổ mèo lúc này không đủ sức kích thích tinh thần các yến nhân trong nội các. Chỉ có Mộng Vân là hăng máu nhất. Tướng Tùng Lâm im lặng chờ đợi xu thế chung. Nguyễn Hùng Thắng thì mặt không còn hạt máu. Y tưởng đi thoát ra mrớc ngoài là được trả công, được tận hưởng lạc thú, được viết hồi ký bôi nhọ chế độ cộng sản kiếm món tiền lớn, thỏa thích sống cuộc đời con heo! Ai ngờ nay phải quay lại, lên rừng lập chiến khu để chống lại những người đã đưa y từ bùn đen lên bệ Phật! Tuy nhiên y cũng không thể lùi vì khi đến Voca City y đã ba hoa quá nhiều về cái luận điệu đi tìm chân lý của Bảy Dĩ mớm cho. Hoàng Bao Thạch đã được ông bố chuẩn bị tinh thần từ trước "Muốn có miếng đỉnh chung thì phải lăn vào lửa". Hãy cứ hăng hái trở về ít ngày, sau đó đề xuất mở chuyến công du năm châu quảng bá đại nghĩa, tìm hiểu sự đồng tình của các quốc gia tự do. Lúc đó thì tha hồ sung sướng. "Công thành, danh toại, hầu bao rủng rỉnh". Còn Lê Văn Dĩ thì chẳng có gì phải lo sợ. Dù sao y cũng được Nhân giao cho đứng bên ngoài để giải quyết các vấn đề tài chính với Warrens.

Bạch Kim biết rằng những ngày ở Cali, Hoàng Quý Nhân lành việc ở khách sạn Hilton. Nhưng y hay đi lại nhà Nghiêm Bửu Châu, người công sự cũ ở biệt thự Vie du Château. Kim đã tìm hiểu tình hình cuộc họp kín qua Hoàng Bảo Thạch, nhưng thực tình cô chưa tin vào tất cả những điều Thạch nói. Có thể vì động cơ riêng mà Thạch đã ba hoa hoặc cắt xén sự thật đi để tranh thủ tình cảm của Bạch Kim.

Kim quyết định tiếp cận Hoàng Quý Nhân thông qua người đàn bà Nhật Bản vợ của Nghiêm Bửu Châu. Nhưng cô lại sợ phải đối mặt với Hoàng Quý Nhân lỡ ra y hỏi thăm Phan Quang Nghĩa thì cô biết trả lời ra sao? Giấu cũng dở mà nói thật cũng không xong. Vì vậy Kim phải chờ lúc Châu và Nhân đến cuộc họp cô mới vào nhà Châu. Do đã quen biết từ trước nên câu chuyện của Kim và Kenji rất thoải mái. Bạch Kinh vui thích reo lên:

- Ôi, Kenji cắm hoa đẹp quá. Chẳng có bình hoa nào giống bình nào. Mỗi cái có một vẻ đẹp riêng. Người Nhật có nghệ thuật cắm hoa nổi tiếng gọi là Ikébana. Nó đã trải qua nhiều thế kỷ gắn với lịch sử phát triển nghệ thuật. Nó tồn tại không chỉ ở mặt truyền thống mà còn do nó đã trở thành một trong những nguyên tố nghệ thuật chủ yếu của thế giới hiện đại.

- Phải có sự suy nghĩ thì mới tạo nên được những đường nét, màu sắc hoà hợp như thế này.

- Vâng, phải học cả đấy Kim ạ, Ikébana trước hết biểu hiện quan niệm triết học về nhân sinh và vũ trụ quan của người Nhật. Bông cao tượng trưng cho trời, bông thấp là đất, những bông vừa phải là con người, là sự sống. Sự sống hòa quyện trong thiên nhiên. Con người là trung tâm của vũ trụ... ở Nhật có nhiều trường dạy Ikébana. Mỗi trường một phong cách. Thí dụ như cành hoa mận trắng như tuyết cắm nghiêng trên chiếc bình hợp kim đen xù xì như tảng đá nguyên thủy. Hoa mận sáng lên như ngọn nến trước gió. Còn bông hoa mỏ hạc đỏ thẫm giống như ngọn bấc, như trái tim nồng cháy, tỏa sáng. Mình thể hiện bình hoa này theo trường phái Sogetsu-ryu. Còn chiếc đĩa gốm hình tròn này lại cắm mấy cành sồi, vài lá thông và những bông cúc mốc, tạo dáng một đảo hoa trên hồ nước theo phong cách Ohara-ryu. Đây thì là vài lá duỗi chồn màu mận chín cùng với cành thông dù trên chiếc đĩa nhựa trắng giản dị làm cho tâm hồn con người thư giãn như tắm trong ánh trăng. Đó là phong cách Ikenobo...

- Nghĩa là phải có cả sự dung hợp giữa hoa và bình, giữa chủ đề thể hiện và việc đi kiếm hoa tìm lá.

- Đúng thế. Thế thì mình phải đến học Kenji, Kenji dạy mình nhé!

- Được thôi. Nhưng Kim có đủ kiên nhẫn không?

- Đủ chứ. Mình có công việc gì đâu. Nghệ thuật cắm hoa Ikébana sẽ làm cho mình yêu đời hơn.

Bạch Kim ra về trong đầu óc cứ lẩn quẩn với những bình hoa. Cô đi chọn mua mấy chiếc bình gốm rất độc đáo. Dáng thấp, có đáy rộng rất vững. Cô khéo léo gắn máy ghi âm nhỏ vào bên trong bàn chông chì rồi láng một lớp thiếc mỏng bên ngoài. Cô lấy băng nhựa trám kỹ vào đáy mà nhìn bên ngoài không thấy được. Cô đưa bình đến hỏi Kenji:

- Kenji xem bình này thì phải mua hoa gì?

- Bạn phải chọn đề tài đã. - "Niềm vui bất chợt".

Sau vài phút suy nghĩ, Kenji bảo:

- Kiếm lấy một cành thông mụn cóc và bông mẫu đơn. Vài bông hoa mỏ hạc.

Bạch Kim về. Mãi tám giờ sáng hôm sau Kim mới đem hoa lại, Kenji đã khéo léo hướng dẫn Kim tạo nên một vòng cung những lá thông già khắc khổ. Mấy bông mỏ hạc lan trên mặt nước. Bông mẫu đơn đỏ chói như vừa lộ ra khỏi cái hang động của mụ phù thủy vươn lên trước ánh mặt trời. Đó là bài học đầu tiên của cô học trò Ikébana người Việt.

- Đẹp quá! Còn chiếc bình mới này Kim định lấy đề tài gì?

- "Đêm trắng". Một đêm lạnh lẽo trên hồ Green Lake. Một đêm thương nhớ không sao ngủ được.

- Hãy kiếm về đây vài bông tú cầu trắng, vài bông alstroe-mérina. Mình sẽ giúp Kim tạo hình theo trường phái Sogetsu-ryu. Cái bình này của bạn có dáng một con tàu cô đơn. Tiếc là màu nó hơi nhạt.

Bạch Kim gửi lại chiếc bình lên giá và hôm sau mang hoa lại. Cô học trò Ikébana chăm chỉ đổi hết bình hoa này đến bình hoa khác. Khi cô cảm thấy đã lĩnh hội được nghệ thuật kỳ diệu này, cô hứa sẽ làm những bài tập rồi chụp ảnh màu gửi lại cho cô giáo Kenji nhận xét sau.

Bạch Kim tháo những băng từ ra kiểm tra lại kết quả. Một băng đã ghi được khá đầy đủ cuộc nói chuyện tay đôi giữa Nghiêm Bửu Châu và Hoàng Quý Nhân:

“… Chương trình của tôi ở Mỹ chỉ còn một tuần nữa. Tôi sẽ đi Bác Kinh. Chúng ta cũng phải biết chơi con bài Trung Quốc".

" Anh hy vọng gì ở họ?".

"- Họ cũng chẳng giàu có gì. Nhưng vị trí, địa lý của họ vô cùng quan trọng. Họ lại đông người, họ không tiếc máu như người Mỹ. Nếu ta biết điều hòa cái tỷ lệ giưa đô-la và máu, ta sẽ tạo ra được một phản ứng kết hợp hoàn toàn với hiệu suất tối ưu! (Nhân cố nói theo thuật ngữ của các nhà bác học).

"- Họ đã mời các anh”.

"- Price đứng ra làm môi giới. Trước đây Liên minh Việt kiều Hải ngoại đã có quan hệ không chính thức với họ. Bây giờ thì ta có đủ tư cách để liên minh với họ, thậm chí có thể ký những mật ước. Ông bố vợ mình đã giúp mình chuẩn bị nội dung cho chuyến đi này".

"- Xin chúc anh gặp được nhiều điều may mắn. Công việc của tôi hiện nay đang gặp khó khăn" (giọng Châu buồn buồn).

"- Sao? Có gì không ổn? Công trình Ultra-Gamma của anh tưởng đã đưa vào sản xuất".

“- Tổ hợp công nghiệp hóa chất Cali C.C.C. không tìm được nghiệm trường đủ tiêu chuẩn để thể nghiệm chất T20-20 của tôi. Tất cả mới chỉ được chứng tỏ trong phòng thí nghiệm. Họ sợ đưa ra địa hình tự nhiên kết quả sẽ thay đổi. Thử với súc vật thì hiệu lực, nhưng với con người thì ra sao? Họ không thừa nhận những kết quả của Labor Vie du Château vì theo họ chưa được một hội đồng khoa học của Pantagone chứng kiến".

"- Nước Mỹ rộng lớn thiếu gì nghiệm trường. Đối với họ thì dân da đen là thừa kia mà?".

"- Không. Luật pháp của họ không cho phép tiến hành thử nghiệm chất độc chiến tranh trên đất Mỹ. Họ buộc các tổ hợp hóa chất phải đi thuê nghiệm trường ở các nước khác. Từ nhiều năm nay các công ty công nghiệp hóa chất lớn phải mượn đất của các quốc gia Nam Mỹ để tiếng hành thí nghiệm. D.A.O đã bí mật thử ở thượng nguồn sông Amazon. Nhưng gần đây báo chí đã phanh phui chuyện này ra trước công luận nên D.A.O. phải chuyển sâu vào những vùng hoang vu thuộc dãy Andes. Còn C.C.C thì lại muốn có những nghiệm trường đông dân cư để kết quả thí nghiệm hấp dẫn mạnh những hợp đồng sản xuất của Ngũ Giác Đài. Tôi nghĩ chỉ có anh mới giúp đỡ được chúng tôi. Nhân danh thủ tướng chính phủ lâm thời, anh cho thuê một vùng nào đó...".

"- Tôi đang cần gây cái vốn chính trị đầu tiên. Nếu tôi cho thuê đất để thử nghiệm hoá chất độc chiến tranh thì có khác gì tự sát".

"- Anh lầm rồi. Tôi hy vọng điều ngược lại. Cuộc thí nghiệm này của chúng tôi lại làm tăng thêm uy tín chính trị của anh lên!”.

-…?

“- Hiện nay Washington đang tung ra một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ là Việt Nam dùng chất độc chiến tranh do Liên Xô chế tạo ở vùng biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan nhằm làm giảm nhẹ sự lên án những di hại của chất độc da cam do Mỹ gây ra ở Đông Dương trước đây. Lúc này mà ta đưa được chất T20-20 vào thử nghiệm ở một vùng nào đó thì thật tuyệt vời. Bộ máy thông tin đại chúng Hoa Kỳ sẽ hô hoán lên là hóa chất độc chiến tranh Xô Viết đưa sang Việt Nam đã thất thoát ra ngoài gây chết nhiều người. Thứ này chưa hề có trong danh mục của Ngũ Giác Dài nên rất dễ đánh lạc hướng công luận. Một mũi tên đồng thời đạt hai đích!”.

Sau ít phút im lặng, tiếng Hoàng Quý Nhân hỏi nhỏ:

"- Giá cả thuê nhượng thế nào?".

"- Tùy theo nghiệm trường, nhưng mỗi lần thủ không dưới một trăm ngàn đô-la".

"- Thôi được, chúng ta sẽ thỏa thuận cách thực thi. Dự án của anh ra sao?".

"- Từ California, những trái bom đặc biệt được USAF đưa đến Banville. Máy bay lên thẳng sẽ đưa ra vịnh Sima cho một hải đội đặc nhiệm thâm nhập theo sông Tiền hay sông Hậu đem bom đến nghiệm trường".

"- Tiêu chuẩn của nghiệm trường ra sao?".

"- Để dễ đánh lạc tướng ta cần chọn một địa điểm vừa gần kho của Cộng sản, vừa gần chợ. Chợ càng lớn càng tốt vì ta cần tìm ra hiệu quả tối đa. Trái bom sẽ được nổ đúng phiên, đúng lúc đông người nhất. Kết quả sẽ được ghi lại bằng siêu vi ảnh. Những nhà khoa học của Ngũ Giác Đài và C.C.C sẽ tìm cách đến Việt Nam bằng con đường hợp pháp với danh nghĩa một tổ chức nhân đạo đi điều tra sự hủy hoại môi trường lâu dài của chất độc màu da cam. Họ sẽ mang theo những máy móc tối tân và đến hiện trường sau khi trái bom T20- 20 nổ được mười lăm phút. Kế hoạch trên phải được phối hợp rất chặt chẽ bằng những phương tiện thông tin tinh vi nhất.

"- Việc này phải được điều hành dưới một kế hoạch thống nhất của Viễn Đông vụ CIA. Phần tôi, tôi sẽ lựa địa điểm, bố trí lực lượng đón tiếp. Bảy Dĩ và Tùng Lâm lo việc lựa người, huấn huyện, chọn hải đội thâm nhập. Riêng việc đưa đoàn khoa học vào kiểm chứng, anh phải phối hợp với CIA để thực hiện. Giờ nổ bom là tùy thuộc vào anh và hội đồng khoa học".

"- Dạ, tôi sẽ phải lo cho kế hoạch T20-20 vì đây là công trình khoa học của tôi. Tôi phải đến hiện trường chứ không thể trao cho ai. Nếu thành công C.C.C. sẽ phải trả tôi năm trăm ngàn đô-la, tôi sẽ không quên anh".

"- Cảm ơn. Tôi xin hứa với người đồng nghiệp cũ là sẽ giúp đỡ và đảm bảo an ninh tới mức cao nhất cho anh và đoàn. Bây giờ anh có thể thu xếp gấp cho tôi ký mật ước cho thuê nghiệm trường với C.C.C".

Nghe xong cuộn băng, mặt Bạch Kim tái đi, mồ hôi lam tấn trên vầng trán. Cô không ngờ Nghiêm Bửu Châu, một con người lúc nào cũng nói năng nhỏ nhẹ, dáng điệu thanh nhã, cặp mắt rụt rè sau vòng kính trắng, ngày ngày ngắm những bình hoa được tạo hình theo nghệ thuật Ikébana tuyệt mỹ đó lại chứa đựng một tâm địa khủng khiếp như vậy. Hắn đang muốn đổi mạng hàng ngàn đồng bào hắn để lấy năm trăm ngàn đô-la.

Bạch Kim muốn bay sang Voca City gặp chồng ngay nhưng công việc ở đây cũng đang bề bộn. Phái đoàn đi Bắc Kinh gồm bộ ba Nhân - Thạch - Vân đang thu hút tâm trí cô. Cô không thể thông báo những tin trên cho chồng qua thư từ hay điện thoại công khai được. Điện cho anh về chăng? Không được. Tình hình Đông Nam Á cũng sẽ mở đầu những diễn triến phức tạp. Bắc Kinh đang cố thiết lập một đường dây liên lạc nóng với Bangkok để làm sống lại chế độ diệt chủng của bọn Pôn Pốt ở Cam-pu-chia, khuyến khích, thúc đẩy Thái Lan theo đuổi một chính sách phiêu lưu mới.

Chỉ có hai vợ chồng hoạt động trên một địa bàn kéo dài nửa vòng trái đất thật vô cùng khó khán. Giá có một người thứ ba làm con thoi thì đỡ biết bao nhiêu. Bạch Kim đang ngồi suy tư thì Quang Trung bước vào.

- Má.

- Con vào đây với má!

Trung chạy vào ngồi xuống bên, ôm lấy vai má.

- Hôm nay sao má buồn thế má?

- Con trai ngoan của má má hơi khó ở một chút thôi. Con chuẩn bị thi cử sao rồi?

- Con vẫn gắng sức ở mức cao nhất. Má đừng lo cho con, con hiểu rõ nhiệm vụ của con. Niềm tin vào mục tiêu của con ngày càng vững chắc.

- Ngoan lắm. Ba đi xa, má cũng bận, hơn nửa trình độ của má cũng chẳng còn đủ giúp đỡ cho con. Tất cả chỉ trông cậy ở bác Ân thôi.

- Hôm nào bác cũng xem bài vở của con rất kỹ. Gặp khó khăn gì con đều hỏi bác.

- Bác có hứa dịp hè này cho con đi chơi đâu không?

- Dạ có. Bác định cho con đi thăm Montréal. Sau đó theo sông Saint  Laurent đến vùng thác Ningara. Chặng cuối cùng đến thành phố Chicago thăm những thắng cảnh trên hồ Michigan. Má đi với con nhé!

- Nhưng má lại đang bận. Ngay chuyện sang thăm ba mà má cũng chưa lựa được thời gian đây. Con có nhớ ba không?

- Con nhớ lắm má ạ. Hay hai má con ta cùng đi thàm ba vài bữa vậy. Khi trở về con sẽ đi Canađa với bác Ân sau.

Bạch Kim vụt nghĩ ra có thể để Quang Trung đi Voca City một mình chuyển tin khẩn cho chồng. Quang Trung đã trở thành một chàng trai thực sự rồi. Mười tám tuổi. Cao một mét sáu tám, đẹp trai và thông minh. Con đã thừa kế được những phẩm chất tốt nhất của Dung và Nghĩa, lại hấp thụ được một nền giáo dục nghiêm túc, khuôn phép, chặt chẽ của gia đình nên có vẻ chững chạc trước tuổi. Nó lại đã hiểu rõ được công việc của ba má nên có giao nhiệm vụ cho nó, Bạch Kim cũng yên tâm. Ở tuổi này, mẹ nó cũng đã bước vào cuộc chiến đấu thực sự.

- Hay là thế này nhé. Mai mẹ đến Assia Tourism mua vé cho con. Con sẽ đến thăm ba vài ngày. Có một việc cần má muốn con nói với ba. Được không?

- Dạ được chứ ạ. Má hãy tin con, con lớn rồi, con đi một mình có sao đâu.

Bạch Kim viết lại tình hình vào một mảnh giấy bắt con học thuộc rồi cô đốt đi. Cô kiểm tra lại nhận thức của con. Chuyến công tác đầu tiên phải vừa sức để chắc thắng. Nó sẽ khích lệ con những bước tiếp sau.

- Con sẽ nói đúng như vậy cho ba nghe, nhưng tuyệt đối không cho ai biết. Đây là những điền tuyệt mật, con hiểu chứ?

- Dạ, con hiểu.

Hôm sau cả nhà tiễn Bạch Kim và Quang Trung ra sân bay. Nhưng Quang Trung bay đi Westland, còn Bạch Kim thì đến Hồng Kông. Tôi nhận được điện báo con trai sang thăm mà hết sức ngạc nhiên. Tại sao má nó không đi lại để mình cháu đi. Hay Bạch Kim ốm? Hoặc giả có sự nghi ngờ nho nhỏ nào đó mà phải cử thằng bé đi giám sát chàng? Nếu đã định "kiểm tra" thì sao lại phải đánh điện báo trước? Thật không sao giải thích nổi.

Mười sáu giờ chiếc Boeing 707 của hãng Panam hạ cánh xuống sân bay Voca City. Tôi đứng ở lối ra để chờ cháu. Cháu trai của tôi xuất hiện như một khách du lịch thực sự. Hai bố con ôm nhau và cả hai đều rất xúc động. Cháu không nói lý do chuyến đi ở ngay sân bay. Về đến khách sạn, cháu cũng chỉ nói lâu ba không về, nhớ ba, cháu sang thăm và tiện thể đi giải trí vài ngày để cuối tháng bước vào mùa thi. Thế thôi. Mãi tới lúc hai ba con cuốc bộ đi chơi phố cháu mới nói rõ sứ mạng thông tin của cháu cho tôi nghe. Tôi vừa cảm động vừa sung sướng vì con trai tôi đã học thức bài học đầu tiên má nó giao cho. Cháu trình bày lại tất cả những tình tiết một cách sáng tỏ. Cháu chấp hành chỉ dẫn của má như một tình báo viên thực thụ. Tôi bắt chặt tay con. Chỉ mai thôi, ông Đức đã có thể nắm được một tin tức rất quan trọng. ông có biết trong chiến công này có cả thằng cháu nhỏ mà ông thường kể lại cuộc đời chiến dấu của mẹ cháu cho cháu nghe đó không? Liệu ông có biết rằng cháu đã một mình đi nửa vòng trái đất đến một chất nước xa lạ để chuyển tin đến cho ông với một niềm tin đầy hứng khởi hay không? Tôi không bộc lộ những ý nghĩ sâu kíntrong tâm hồn mình cho cháu biết, nhưng tôi cũng gợi lên những ý quan trọng cho cháu hiểu là nguồn tin của chúng tôi sẽ giúp chẩn cấp trên có thời gian để ngăn ngừa một tội ác khủng thiếp. Cháu đã góp phần để cứu hàng ngàn sinh mạng vô tội khỏi cái chết chất độc hóa học.

- Thưa ba, con không thể ngờ cái người khách vẫn đến nhà ta ăn uống vui vẻ, bình luận âm nhạc sôi nổi, nói chuyện văn chương say sưa đó lại không chút ngần ngại gây ra một vụ thảm sát để làm giàu. Không hiểu lần sau ông ta đến nhà, con có thể giữ được bộ mặt bình thản với ông ta hay không.

- Bao giờ con cũng phải làm chủ được tình cảm của mình. Con chưa phải là quan tòa. Vả lại, những cảm xúc bồng bột dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng và cả sự nghiệp chung nữa. Con nên nhớ rằng chúng ta đang sống trong vùng địch. Bí mật là vũ khí phòng thủ mạnh mẽ nhất của chúng ta.

Ba hôm sau tôi tiễn cháu bay trở lại bán đảo Nelson. Cậu Đức đã biểu dương Bạch Kim vì đã khôn khéo lấy được một tin tức quan trọng. Cậu giao cho tôi phải tìm bằng được hướng thâm nhập của chương trình T20-20 mà cậu gọi bằng mật danh: "Chiếc bình hoa Ikébana". Cậu cũng thông báo cho tôi tin mừng: Tôi được đề bạt trung tá và Bạch Kim được phong đại uý. Tiếc là cháu Quang Trung chưa được công nhận là binh nhì!

Một tuần sau Tùng Lâm trở lại Voca City. Chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Pyramid. Vẻ mặt của anh không được thanh thản.

- Anh bị bịnh hay sao mà coi bộ hốc hác thế?

- Đúng là ngọc thể bất an - Anh cười gượng - Mình đến Ca-li-phot-nha nhưng không qua chỗ hiền đệ được. Phong tỏa hết trọi.

- Chuyện chi mà kỳ vậy anh Tư?

Tùng Lâm liếc mắt nhìn quanh, ra đóng cửa buồng lại rồi thì thầm:

- Một cuộc họp kín!

Tôi mở băng nhạc Disco rồi kéo anh ra ban công.

-… Với ai?

- Thành lập chánh phủ lâm thời.

- Chánh phủ nào?

- Chánh phủ của đằng mình. Chính phủ chống Cộng chứ sao. Trời ơi, nhà báo chi mà chậm hiểu quá xá.

- Họp kín rồi lại phong toả thì nhà báo biết sao được. Anh cũng tham gia nội các chứ?

- Lúc đầu thì thế đó. Nhưng sau Thủ tướng kiêm luôn Tổng trưởng chiến tranh. Mình được chỉ định là Tổng tham mưu trưởng.

Tôi ôm lấy anh cười vui vẻ:

- Xin chúc mừng đại ca.

Tùng Lâm nghiêng nét mặt, rót ly rượu uống cạn rồi hầm hầm:

- Đ. cha cái thứ Tổng tham mưu trưởng đó. Mình đâu có thiết.

- Trời, sao anh Tư lại coi thường vinh quang vậy? Chắc anh Tư muốn cái ghế Tổng trưởng chiến tranh!

- Tổng trưởng mà làm gì với ba thằng biệt kích ấy. Nó sẽ đưa mình về Việt Nam. Hiền đệ biết đấy hai triệu quân Cộng hòa, nửa triệu quân Mỹ còn đo ván nữa là mấy thằng biệt kích!

- Thế thì anh nhận làm gì?

- Không nhận đâu có được. Sau khi mình ký tiếp cái hợp đồng ba năm nó mới đẻ ra cái chuyện chính phủ lâm thời. Lại trót đăng đàn diễn thuyết ở Cali nêu ra cái chủ thuyết con mèo con chuột gì tùm lum lên đó. Nay lui sao đặng. Nó beng đầu mình đi chứ giỡn được à?

Tùng Lâm uống thêm ly Cognac rồi lè nhè ngâm mấy cân thơ của Lý Bạch:

- Hán hạ Bạch Đăng Thành.

Hồ Khuy Thanh Hải độ.

Cổ lai chính chiến địa

Kỷ kiến hữu nhân hồi1.

(Quân Hán xuống thành Bạch Đằng

Quân Hồ Khuy về Thanh Hải.

Xưa nay đi chiên đấu xa

Có thấy mấy người trở lại)

Một lần nữa lại tự đem thân vào chỗ chết đây! Tùng Lâm nhếch mép cười chua chát – Nhưng cũng có điều khích lệ. Lương Tổng tham mưu trưởng tạm thời là một nghìn hai trăm đô-la.

- Chánh phủ lưu vong thì đâu có ngán!

- Phải về Việt Nam chớ. Ai cho mình ngồi ôm mấy con nhỏ ở mật cứ Béta để hưởng lương hoài?

- Nhưng cũng mới nói sẵn sàng thôi, còn lâu mới về nổi.

- Làm liền chớ! - Anh ghé sát vào mặt tôi, phả ra đầy hơi ruợư - Cuối tháng này cuộc hành quân "Đồi mồi' bắt đầu.

- Có cho nhà báo đi cùng không?

- Ồ không! Mình phải học Cộng sản, vật chất có trực tiếp liệu dẫn đầu. Gọi là cuộc hành quân “Đồi mồi" vì hành động thâm nhập của nó bí mật như con đồi mồi bò lên bãi cát đẻ trứng rồi vùi kín đi đó. Đằng này ta dùng hải thuyền đưa vũ khí vào vùi kín trong các căn cứ. Quân biệt kích sẽ đổ bộ sau. Lực lượng nội địa phối lợp với lực lượng ngoại nhập, phát động quần chúng đồng khởi giành quyền làm chủ y hệt Cộng sản! Hiền đệ nghe chiến thuật, chiến lược của Tổng tham mưu trưởng có khoái cái lỗ nhĩ không?

Tùng Lâm vỗ vai tôi và cả hai cùng cười, cười át cả bản nhạc "Looking at the midnight", cười đến chảy nước mắt...

Chúng tôi sống vui vẻ với nhau ở Voca City ba ngày thì Tùng Lâm được Warrens gọi đi nhận kế hoạch huấn luyện mời.

Chuyến công du của Hoàng Quý Nhân đi Bắc Kinh được hoạch định vào cuối tháng 8 năm 1979. Hứa Vĩnh Thanh đã đến Hồng Kông trước để thu xếp chương trình nghị sự cùng các thể thức tiếp kiến. Đoàn có hai phụ tá là tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch, Tổng trưởng ngoại giao, nữ sĩ Lê Mộng Vân, Tổng trưởng thông tin tuyên truyền.

Cuộc viếng thăm của họ được gọi là "thể theo" lời mời của Hội hữu nghị Quốc tế, một tổ chức đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Hình thức này đặt ra để thu xếp những cuộc đàm phán và ký kết những mật ước với đủ loại tổ chức phản động quốc tế cùng một số chính phủ mà Trung Quốc không hoặc chưa có quan hệ ngoại giao chính thức.

Cùng đi với đoàn Nhân - Thạch - Vân đến Hồng Kông còn có tiến sĩ Price, chuyên viên nghiên cứu Á Châu vụ thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Sự tháp tùng của Price làm cho phái đoàn Nhân thân sức nạng. Price là người bạn tốt của Trung Quốc. Ông ta thuộc phái "lục địa", người chủ trương chơi con bài Trung Quốc đến cùng. Người ta gọi Price là tấm Pa-ne giúp Trung Quốc bắc cầu sang phương Tây. Một nhân vật như thế chắc chắn sê được Bắc Kinh vì nể và ve vãn.

Người vui thứ nhất trong dịp này có lẽ là Hứa Quế Lan. Vừa được gặp tình nhân lại vừa được gặp cả chồng. Nhất là người chồng bỗng trở nên danh giá, nổi tiếng, vị thủ tướng của chánh phủ Lâm thời Việt Nam! Chưa bao giờ Hứa Quế Lan tỏ ra dịu dàng, lễ độ với Hoàng Quý Nhân như lần này. Chị ta hứa sẽ quản lý tốt lương bổng tài sản của vị thủ tướng đầu tư ở các ngân hàng nước ngoài một cách hữu hiệu. Nhưng Nhân cũng chẳng phải là người nhẹ dạ cả tin. Trong suốt những ngày ái ân nồng thắm Quế Lan mới chỉ nhận được ở chồng những lời hứa, những viễn ảnh huy hoàng lộng lẫy.

Mộng Vân thì đi tìm bằng được Bạch Kim. Trước khi đi chị ta đã đến bán đảo Nelson và được biết là cô bạn gái đáng yêu đã đi Hồng Kông từ tuần trước. Chị ta quyết định một lần nữa thu hút bằng được số vốn kha khá của Bạch Kim vào một chuyến áp-phe ma tuý ở Hồng Kông. Còn Hoàng Bảo Thạch cũng đi tìm Kim vì mối tình chưa ngã ngũ, vì cái mỏ lộ thiên chưa ai khai thác!

Họ đã tìm thấy Bạch Kim ở khách sạn Auriga. Hai vị tổng trưởng độc thân liền thuê hai lòng bên cạnh bao vây chặt lấy con mồi. Thực ra Bạch Kim đã nóng lòng chờ họ. Với cô, họ cũng là những con mồi, theo đúng như đánh giá của cô.

Cứ mỗi lần Bảo Thạch muốn tiếp cận Bạch Kim một cách tình tứ thì lại vướng phải người đàn bà quá tuổi giữ chằng chằng lấy mỹ nhân, vuốt ve hôn hít cô ta sỗ sàng ngay trước mặt kẻ si tình. Còn khi Mlle Mộng Vân muốn giương bẫy ra cho nàng quả phụ ngây thơ thì lại vấp ngay phải cái tay kính cận cò mồi ám quẻ!

Lần này họ bay đi Bắc Kinh nên Bạch Kim chẳng còn cách gì nhét máy ghi âm vào hành trang của họ. Cô bế tắc về chiến thuật. Ông già bán sách cũ cũng chẳng có mưu mẹo gì giúp đỡ được cô. Họ có hai, mình chỉ một, những cuộc gặp gỡ tay ba này thật vô tích sự. Cô quyết định phân tán họ ra thì mới hy vọng tìm nổi một cái gì sở hở ở họ.

Sau một tuần tiến hành mọi công việc chuẩn bị, phái đoàn Nhân - Thạch - Vân bay đi Bắc Kinh. R. Price ở lại vì cuộc gặp gỡ tay ba chẳng những hạ thấp vai trò của bọn tay sai mà còn gây khó khăn trong những cuộc đàm phán ký kết các mật ước song phương. Thế là Hứa Quế Lan có dịp đi lại tự do với người tình, còn Price thì tha hồ âu yếm Jimi, đứa con xinh đẹp ngoài giá thú của ông ta.

Bắc Kinh đã đón tiếp đoàn Nhân - Thạch - Vân bằng một nghi thức long trọng chẳng kém gì những cuộc đón tiếp chính thức. Cuộc hội đàm đã diễn ra trong phòng khánh tiết của Nhân dân đại lễ đường. Nhân vật cầm đầu phái đoàn Trung Quốc là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hàn Thế Phong. Phụ tá cho ông ta là vụ trưởng Vương Phúc Đạt và một viên tướng trong Tổng bộ hậu cần Nhân dân giải phóng quân. (Sở dĩ họ không thể đón long trọng hơn vì hiện tại họ vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với Hà Nội. Bên cạnh họ cũng còn một lực lượng tay sai lưu vong của Hoàng Văn Hoan nữa).

Hàn Thế Phong nhiệt liệt hoan nghênh những chiến sĩ tự do, lực lượng cách mạng chân chính của nhân dân Việt Nam anh em đang vùng lên chống lại chính quyền tiểu bá. Trung Quốc sẵn sàng giúp đỡ hết sức mình cho các dân tộc đấu tranh cho quyền độc lập của mình, Trung Quốc mong ở biên giới phía Nam của mình có những quốc gia tự do, thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, và đế quốc xã hội. Các phong trào giải phóng có thể tin tưởng ở Trung Quốc như tin vào người đồng minh bền vững, chung thủy của họ...

Đáp lại những lời đường mật trên, Hoàng Quý Nhân đã thay mặt cho phái đoàn tỏ lời cảm ơn chân thành đến chính phủ và một tỉ nhân dân Trung Quốc vĩ đại đã quan tâm đến số phận các dân tộc nhược tiểu láng giềng. Y tuyên bố:

"Chánh phủ của chúng tôi sẽ lãnh đạo nhân dân chiến đấu cho một quốc gia tự do dân chủ và phồn vinh. Chúng tôi kêu gọi sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Chúng tôi mở cửa với tất cả các chế độ. Chúng tôi liên minh với mọi lực lượng. Hàng ngũ của chúng tôi luyện nay cũng bao gồm cả những người cộng sản thức thời. Lý tưởng của chúng tôi có khác nhau nhưng chúng tôi có mục tiêu chung là phản đối cuộc xâm lược Cam-bốt, phản đối sự khiêu khích với các lân quốc, chống lại chính sách theo Liên Xô đại bá. Chúng tôi tin rằng với cương lĩnh đó, chúng tôi sẽ tập hợp được sức mạnh dân tộc để hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. (Quý Nhân cố bắt chước cái khẩu khí chính trị của Trung Quốc, nhưng xem ra nó cũng lúng túng như khi y dùng những ngôn từ Thiên chúa giáo để bắt liên lạc với cha Trinh. Y không ngờ là nó vẫn gây được một hiệu quả mạnh mẽ. Vị trưởng đoàn Trung Quốc đã chạy lại ôm lấy y mà hôn lấy hôn để. Sự biểu hiện tình cảm quá suồng sã đó cũng không làm cho Nhân thú vị gì. Nhưng y vẫn chịu đựng một cách nhã nhặn).

Khi bàn về những thể thức hợp tác cụ thể, phía Trung Quốc nêu ra một mật ước đòi tôn trọng chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa bao gồm các quần đảo ngoài khơi từ bán đảo Lôi Châu đến gần bờ biển Mã Lai. Hoàng Bảo Thạch sửng sốt liếc nhìn sang Nhân, Nhân nhìn Vân, Vân nhìn Thạch. Cuối cùng thì Nhân ra hiệu cho hai phụ tá cứ bình tĩnh. "Hãy để cho họ đặt giá, thuận mua, vừa bán, lo gì". Không thấy người đối thoại phản ứng gì, phía Trung Quốc liền nêu tiếp một bản thống kê những thứ mà Trung Quốc có thể chi viện cho quân khởi nghĩa. Đó là những vũ khí hạng nhẹ dùng cho chiến tranh du kích. Một số mìn, kíp nổ, hóa chất gây nhiễm độc nguồn nước. Một số phương tiện thông tin vô tuyến, vài chiếc thuyền máy, thuyền phao dùng cho các hoạt động thâm nhập ven biển... trị giá khoảng vài chục ngàn đô-la. Hàn Thế Phong tuyên bố sẵn sàng gửi đến các cố vấn quân sự, chính trị, kỹ thuật cho nghĩa quân khi chính phủ lâm thời yêu cầu.

Bản thống kê không có gì hấp dẫn lắm, Hoàng Quý Nhân có thể xin những thứ tốt hơn của CIA. Y muốn có tiền kia. Y đang cần để gửi vào nhà băng ngoại quốc. Bán cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không được đồng tiền mặt nào thì ai chịu.

- Thưa ngài Thứ trưởng Hàn Thế Phong. Liệu quý quốc có thể trợ giúp chúng tôi về mặt tài chính được không?

- Tài chính? Điều đó rất có thể - Hàn Thế Phong xoa tay cười híp cả mắt - Chúng tôi có thể giúp quý vị một tỉ.

Cả phái đoàn Nhân phải sửng sốt vì con số quá lớn. Có thể nghe lầm chăng? Cứ nói Trung Quốc nghèo mà sao họ hào phóng như vậy?

Ông Hứa Vĩnh Thanh cũng tưởng mình dịch lầm.

- Thưa, cho phép tôi hỏi lại. Một tỉ đây là đô-la hay nhân dân tệ ạ?

- Một tỉ tiền ngân hàng Việt Nam.

- Nhưng làm sao chúng tôi có thể lĩnh được số tiền lớn như vậy ở ngân hàng Hà Nội, khi đồng tiền này chưa đủ tiêu chuẩn làm phương tiện giao lưu và thanh toán quốc tế ạ?

- Chúng tôi sẽ trao cho các ngài tiền mặt? Tiền do chúng tôi in, còn mới nguyên mà!

- À!... Thưa quý ngài tôi hiểu, đó là tiền giả!

Tất cả ba nhân vật trong phái đoàn cười rũ ra, cười chảy nước mắt, vượt cả ra ngoài các nghi thức của phép lịch sự trong các mối quan hệ ngoại giao thông thường. Ngay như Hoàng Quý Nhân, một tên giết người không biết ghê tay, hay như Mlle Eugénie Mộng Vân trùm buôn lậu ma tuý quốc tế cũng cảm thấy thiếu đạo đức khi tung những đồng tiền giả ra để đánh lừa những người buôn bán khù khờ. Mỹ xưa kia cũng đã in tiền giả ném xuống Bắc Việt Nam. Nhưng có lẽ cũng cảmthấy xấu hổ về kiểu chơi bẩn thỉu gian lận nên phải in dưới dạng một tờ truyền đơn để hy vọng có một tay tham lam nào chịu chia sẻ cái hành động vô đạo đức đó bằng cách lấy kéo cắt phần tiền giả riêng ra mà tiêu! Đằng này đồng tiền giả do Trung Quốc in rất hoàn hảo, như thật. Đồng tiền giả biểu nện rất rõ nét bộ mặt thật của họ.

- Tại sao quý vị lại cười? - Hàn Thế Phong ngạc nhiên - Đối với kẻ thù thì không có một phương tiện nào ta không dám làm. Tung tiền giả vào nước địch là một mũi tên đạt hai mục tiêu. Thứ nhất, quý vị sẽ có thứ mà nuôi nghĩa quân, mua bán tin tức tình báo quân sự, thuê mướn kẻ phá hoại. Thứ hai, quý vị lại có thể đánh vào nền tài chính của nhà cầm quyền, làm cho đồng tiền của chúng mất giá. Chẳng lẽ đấy không phải là thắng lợi của các bạn. Trước đây nước Đức quốc xã cũng đã từng in đồng bảng Anh giả để mua tài liệu mật của sứ quán Anh ở Istambul qua một tên chăn ngựa đó sao?

- Xin lỗi quý vị, người Việt Nam chúng tôi bản tính hay cười - Nữ sĩ Mộng Vân dàn hòa - Vui cũng cười, buồn cũng cười. Sung sướng, đau khổ, quý trọng, khinh bỉ... đều nhe bộ răng ra cả! Thật là vô duyên. Ngài Hứa Vĩnh Thanh đã từng sống ở đất nước chúng tôi mấy chục năm trời có thể chứng thực cho điều đó.

Sau hai ngày đàm phán, họ đã đi đến một mật tước về sự viện trợ của Trung Quốc cho Mặt trận Tự do dân tộc và Chính phủ lâm thời của Hoàng Quý Nhân. Nhưng Nhân đã khéo léo trì hoãn những điều khoản về chủ quyền lãnh thổ và hải phận. Không phải vì Nhân yên nước mà là vì nó chưa tới giá. Những vị khách quý cũng được mời đi thăm nhà tưởng niệm Mao Chủ tịch, Cố cung và Di Hoà Viên trước khi bay về Hồng Kông.

Sau mấy ngày dự các buổi đón tiếp lịch sự, tiệc tùng linh đình, hội đàm trang trọng, cái máu quyền lực của Hoàng Quý Nhân bỗng nhiên tăng lên gấp bội. Y vốn chỉ quen với những chuyện thì thầm mờ ám, những buổi tiếp xúc bí mật, những trò buôn bán lén lút... lấy đồng tiền làm thước đo giá trị. Người Trung Quốc đã khéo tạo cho y lớp hào quang của một "chairman"1 (Nhà lãnh đạo), một món ăn tinh thần khá "lạ miệng". Y bỗng mơ tưởng một ngày nào đó sẽ sánh vai với các vị nguyên thủ quốc gia, đi duyệt hàng quân danh dự, gươm súng sáng lòa trong tiếng nổ vang rền của hai mốt phát đại bác. Y sẽ đứng trên xe mui trần lướt qua đám dân chúng hò hét cuồng nhiệt trong rừng cờ, rừng hoa!... Y thèm khát được đặt chân lên tấm thảm đỏ trải thềm điện Elysée, được đến dự tiệc ở ngôi nhà số mười phố Downing, được ký tuyên bố chung trong căn phòng hình ô-van của tòa Bạch Ốc... Biết thế nào được, tất cả là do thời vận quyết định! Nhưng nhân tố của quyền lực đã xuất hiện.

Khi Hoàng Bảo Thạch và Eugénie Mộng Vân trở lại khách sạn Auriga thì Bạch Kim chuyển sang thuê phòng ở Cao lâu John Bull. Cô gặp lại Bảo Thạch một cách “tình cờ”, gần một sòng bạc. Hoàng Bảo Thạch vui mừng nắm chặt tay Kim:

- Sao Bạch Kim không ở bên khách sạn Auriga nữa?

- Em sợ chị Mộng Ván lắm.

- Sao?

- Em không chịu nổi “cơn bệnh" Lesbianissm1 (Thói quen đồng tính nữ) của chị ấy. Em đành chuyển sang buồng tám mươi lăm khách sạn John Bull.

Hoàng Bảo Thạch nằn nì xin tiễn Bạch Kim về và lần đầu tiên anh ta tỏ tình với cô. Cô vờ ngạc nhiên và xin anh cho phép cô có một thời gian suy nghĩ. Một sự việc trọng đại như vậy không thể trả lời ngay một lúc. Họ trò chuyện với nhau rất lâu. Bạch Kim khéo léo gợi chuyện chuyến công du Bắc Kinh của vị Tổng trưởng ngoại giao làm cho Bảo Thạch khoái miệng tường thuật lại mọi chi tiết, thậm chí còn đánh giá cả triển vọng cách chơi con bài Trung Quốc của anh ta sau này nữa...

Hôm sau Bạch Kim lại tạo ra một cuộc gặp gỡ tình cờ với Mộng Vân.

- Trời ơi, em đi đâu để chị tìm hoài. Chị tưởng em bay về Los Angeles rồi. Thiếu em chị buồn lắm.

- Cảm ơn chị. Chị chẳng đoán nổi sao? Cái ông Tổng trưởng ngoại giao của chị đã tỏ tình với em và rồi cứ nhìn em như thôi miên ấy. Em ngượng lắm. Biết có thành vợ thành chồng hay không mà cứ cặp kè bên nhau, em sợ thiên hạ lại cho em là háo danh muốn quấn lấy ngài Tổng trưởng.

- Em yêu Hoàng Bảo Thạch à? Ôi cô bé tội nghiệp của chị. Hắn đích thị là một tên Sở khanh đó. Hai lần bòn của rồi lại phụ bạc con người ta. Điều đó chưa đủ cho em cảnh giác sao? Nó không thực lòng yêu em đâu. Hôm ở Bắc Kinh nó làm tình với mấy con Tàu đỏ như điên. Em không cần lấy ai cả. Sống tự do là hạnh phúc, hãy nghe chị.

Bạch Kim muốn thông qua Mộng Vân để đánh giá chất lượng những tin tức về cuộc mật đàm Bắc Kinh do Bảo Thạch tiết lộ. Nhưng cô đã không thành công. Người đàn bà già đời trong nghề tình báo chỉ toàn kể chuyện hết món ăn đồ uống lại đến phong cảnh và di tích. Chị ta không hề nói đến chuyện chính trị.

Kim vội thu xếp công việc, điện báo cáo về Trung tâm rồi lấy vé bay về Los Angeles. Cô đang nóng ruột về chuyện thi cử của cậu con trai.

CHƯƠNG XI

THÂM NHẬP

Trung tá Nguyễn Văn Bền rất bực bội vì tất cả các đề án của anh nhằm tìm ra tung tích Hoàng Quý Nhân đều thất bại. Nó gần giống như nghịch lý Achilli chạy đuổi rùa. Khi phát hiện đối thủ ở A, anh vội chạy đến A thì đối thủ đã đến B. Anh lần đến B thì đối thủ đến C và cứ như vậy, bao giờ anh cũng chậm... Thực vậy, việc Hoàng Quý Nhân vượt biển ta đã phát hiện được qua mã thám. Nhưng cuối cùng tên tội phạm đã lọt qua mắt lưới phong tỏa như một kẻ tàng hình. Khi biết tin Hoàng Quý Nhân lại quay về nội địa, ta báo động, đón lõng cũng không kết quả. Sự việc đó hình như đã diễn ra mất rồi. Tin tức chỉ xác định một điều: Cuộc truy lùng lại phải tiếp tục.

Nay thì Trung tâm nhận được mật báo đầy đủ về cuộc hành binh "Đồi mồi". Chuyến đầu tiên sẽ khởi sự từ Hải cứ Gamma vào đêm 14 tháng 10. Con tàu nhỏ, dài mười tám mét, trọng tải tám mươi tấn mang số hiện NT.4206 do đại lý hải quân Trương Tấn Hào chỉ huy sẽ đi vào hoang đảo Hòn Quy chờ thuyền nội địa ra đón. Sau đó NT.4206 sẽ trà trộn vào đám thuyền đánh cá theo cửa Rạch Lá vào bến đổ bộ. Một tin tức tình báo cụ thể tới mức như có điệp ngầm nằm trong Bộ Tổng tham mưu quân địch, làm cho tất cả những đồng chí lãnh đạo Trung tâm vui mừng đến ngạc nhiên. Bức điện cũng nói rõ cả tình hình tư trang của viên thuyền trưởng để Trung tâm có thể áp dụng những biện pháp đối phó đặc biệt.

Hai Bền được giao thêm nhiệm vụ phác thảo kế hoạch đón tiếp hải thuyền NT.4206. Sau một đêm suy nghĩ anh trình bày ý định của mình tnước Bộ Chỉ huy như sau:

- Tôi nghĩ đây mới là chuyến đi thí nghiệm đầu tiên. Kẻ địch còn tiếp tục thâm nhập với quy mô lớn hơn. Với vài chục tấn vũ khí, chúng chưa đủ sức tiến hành cuộc bạo loạn phản cách mạng lớn.  Tôi đề nghị một kế hoạch như sau:...

Qua hai giờ đồng hồ trao đổi, Bộ chỉ huy đã đồng ý với dự thảo của Trung tá Nguyễn Văn Bền.

Hải cứ Gamma mấy ngày qua bỗng trở nên nhộn nhịp. Nllứng chiếc xe hơi bóng loáng chui ra chui vào chiếc cổng phủ đầy hoa ti-gô. Dân địa phương có thể đoán là công việc kinh doanh của hãng Albert đang ở thời kỳ phát đạt.

Đại úy Trương Tấn Hào, "sếp" của căn cứ, tỏ ra hài lòng vì công việc mới thực sự bắt đầu từ hôm nay. Suốt mấy năm trời đóng thuyền mua lưới, luyện tập trên biển khơi cũng chỉ để dùng vào việc này. Thâm nhập vào Việt Nam là công việc rất nguy hiểm nhưng anh ta vẫn vui vì công việc đó chứa đựng một chút riêng tư. Anh hy vọng có cơ may gặp lại vợ con để đưa họ xuống thuyền đào tẩu ra nước ngoài. Lúc đó anh sẽ thôi việc ở đây đi kiếm một công việc an toàn hơn. Còn nếu chẳng may bị bắt thì sao? Hào tặc lưỡi, thôi thì phó mặc cho số phận. Chết đi còn hơn phải sống cô đơn heo hút nơi đất khách quê người.

Một tuần liền Bảy Dĩ đến nằm với Hào ở hải cứ để lo công việc chung. Dĩ tỏ ra rất thân tình với người bạn cố tri:

- Anh cứ chịu khó đi vài chuyến, thế nào cũng có dịp tôi đề nghị Albert cho phép anh về nhà đón chị và các cháu. Ngay bây giờ thì chưa thể được. Tôi cũng muốn đưa vợ con ra nhưng đâu có dễ dàng. Phải biết chờ đợi anh Hào ạ.

- Tôi biết, kỳ này đâu có qua Sài Gòn. Tôi chỉ ở lại Cần Thơ một ngày rồi quay lui thôi. Nhưng nếu anh cho phép, tôi sẽ lên thành phố bỏ lá thư qua bưu điện.

- Không được! Bỗng nhiên gia đình nhận được thư anh gửi từ Cần Thơ thì lộ hết công chuyện. Lên nhậu nhẹt chút xíu thì có thể nhưng tuyệt đối không được thăm hỏi người quen nghen. Đó là nguyên tắc, anh Tư rõ chưa - Những chuyến đi khó khăn như vậy Albert quyết định thưởng cho mỗi người năm trăm đô-la. Riêng anh, người thuyền trưởng thì được một nghìn. Chỉ vài chuyến trót lọt anh sẽ có một khoản kha khá để đón gia đình ra mà tiêu xài chớ.

- Dạ.

Một công-voa của lục quân Westland đưa hàng dện Hải cứ Gamma. Các hòm kim loại hàn kín được bốc xếp xuống khoang hàng đặc biệt dưới đáy tàu. Hàng nạp xong, chúng đóng nắp khoang lại sơn trám cẩn thận, con tàu trở thành hai đáy. Khi bị đuổi, tình thế khẩn cấp người chỉ huy có thể bấm nút, cửa tự động dưới đáy mở ra, hàng được trút mất tăm xuống biển, tàu nhẹ hơn, dễ dàng tẩu thoát.

Thủy thủ đoàn có sáu người. Họ ăn mặc kiểu ngư dân. Hào cho kiểm tra lại máy móc, dầu mỡ, nước ngọt, phương tiện thông tin liên lạc... rồi cho máy khởi động, hai mươi giờ được lệnh khởi hành. Trương Tấn Hào đã hình dung toàn bộ cuộc hành trình trong óc. Từ vùng Lean thuyền vượt vịnh Sima rồi tiến về bờ biển Việt Nam. Thuyền giừ tốc độ mười lăm hải lý một giờ. Suốt trên chặng đường dài đó họ im lặng trừ một lần bắt liên lạc với một tàu tuần thám của Hoa Kỳ ở vĩ độ 7.20, kinh độ 105,30. Đó là lúc chiếc trực thăng của Navy là sát mặt biển để xem có chiến hạm nào của Việt Nam gây nguy hiểu cho cuộc thâm nhập của con tàu NT.4206 không. Khi nhận được tín hiện an toàn. Trương Tấn Hào kẻ một đường thẳng đến hoang đảo Hòn Quy, nơi đã có một ngư thuyền chờ sẵn.

Đó là một ngày đẹp trời, biển lặng và xanh biếc. Những vân mây li ti như những cánh bông gạo tháng năm dán chặt vào nền trời bất động. Sương chiều pha loãng trên mặt biển. Mặt trời chìm dần xuống nước, để lại chân trời phía vịnh Sima một đám lửa tàn. Viên thuyền trưởng đã cảm thấy đất nước rất gần. Hào đã nhận ra một hoang đảo trơ trụi nổi bồng bềnh trên mặt sóng. Xa xa nó có hình dáng một con rùa biển khổng lồ. Viên thuyền trưởng định vị lại con tàu theo trí nhớ rồi điều chỉnh hướng đi và hồi hộp chờ mật hiệu liên lạc. Vài phút sau họ đã nhận được tín hiệu yết ớt trên chiếc máy PRC25, đó là thật hiệu hỏi của con thuyền đi đón. Thủy thủ đoàn đã nhìn thấy một con thuyền nhỏ tách rả khỏi hoang đảo Hòn Quý - Hào chăm chú theo dõi thì thấy đèn pha từ con thuyền phát ra tín hiệu hai số 3 và 7. Hào tăng tốc cho con tàu rút ngắn khoảng cách tới con thuyền. Khi chúng chỉ còn cách nhau vài sải nước Hào mới đáp lại mật khẩn bằng mồm: "năm, năm". Chiếc thuyền nhỏ cặp vào mạn tàu. Một người to lớn đu dây leo lên:

- Xin chào các chiến hữu!

- Chào quý anh!

- Tôi mang giấy tờ cho các anh đây! - Người lạ đưa cho Hào một tập giấy nhầu nát. Đó là những thứ giả mạo nhằm hợp pháp hóa con tàu khi bị xét hỏi. Người lạ mặt cũng hướng dẫn cho thủy thủ đoàn cách ứng đối khi gặp tàu hải quân hoặc các ngư thuyền địa phương.

- Các anh cứ theo thuyền của tôi mà đi. Cố giữ cự ly chừng trăm mét. Tôi sẽ dẫn các anh theo một con đường kín đáo nhất. Cấp trên đã bố trí lực lượng canh gác trên bộ. Nếu có chuyện gì trục trặc họ sẽ phát tín hiệu báo động, lúc đó tôi sẽ hướng dẫn các anh cách đối phó sau.

- Cảm ơn.

- Ta đi thôi. Thời điểm này thâm nhập là thuận lợi nhất. Ta sẽ đi lẫn vào dòng ngư thuyền khác.

Người lái nhảy về thuyền mình và phóng đi trước. Hào theo sau.

Nửa giờ sau họ đã nhận ra một dải đất xanh mờ nổi dần trên mặt sóng. Chân trời lấm tấu ánh đèn. Mặt biển thấp thoáng những con thuyền. Trăng tỏa sáng, cửa Rạch Lá hiện ra qua những cồn cát nhỏ. Con tàu phải giảm tốc, len lỏi lượn theo dòng sâu để tránh bị mắc cạn. Bỗng nhiên bên trái họ xuất hiện hai tàu tuần tiễu cao tốc của Hải quân. Họ như từ trong cồn cát chui ra làm cho Hào giật mình. Chiếc thuyền dẫn đầu đã bị chặn lại. Chiếc tàu tuần tiễu thứ hai tiếp cận tàu của Hào. Từ mạn thuyền Hải quân một quân nhân gọi loa phóng thanh:

- A lô. NT.4206 giảm tốc và dừng lại cho xét giấy tờ.

Hào bình tĩnh ra-lăng-ti máy rồi bật đèn sáng lên. Tàu Hải quân áp mạn.

- Yêu cầu thuyền trưởng 4206 sang bên tàu Hải quân.

Thủy thủ tàu Hải quân quăng dây cho NT.4206 cột lại Hào bước sang mạn bên kia gật đầu chào:

- Mời anh vào trong khoang - Một chiến sĩ vui vẻ chỉ cho Hào xuống khoang thuyền trưởng sau ca-bin lái.

Tay Hào hơi run run vì chưa thực sự tin vào hiện lực của những giấy tờ giả mạo. Anh ta vừa lọt vào trong khoang thì bỗng rụng rời chân tay khi thấy trước mặt mình là trung tá hải quân Trương Tấn Hùng, anh ruột của mình. Anh ta chưa hề chuẩn bị tinh thần cho một cuộc gặp mặt kỳ lạ như vậy.

- Trời, anh Ba.

Ba Hùng khẽ gật đầu không nói gì. Anh đóng cửa khoang lại rồi chỉ xuống ghế.

- Chú ngồi đây. Chú chuyển hàng gì?

- Dạ... - Hào lúng túng, mặt đỏ bừng, mồ hôi toát ra không biết nói sao.

- Thôi được, chúng ta không có thời gian để nói nhiều. Chú cứ đem những thứ đó đến nơi cần giao. Nhưng để đảm bảo an ninh cho chú tôi giao cho chú thứ này - Ba Hùng đưa cho Tư Hào chiếc đài Sony nhỏ xíu - Chú bấm nút này, máy sẽ phát tín hiệu và sẽ không có tàu Hải quân nào kiểm soát tàu của chú nữa. Chú nên mang theo người và tuyệt đối không để ai biết chuyện này. Đó là thứ bùa hộ mạng cho chú đó. Chuyển sang nút này nó sẽ là một ra-di-ô thông thường. Đêm mai chú nghỉ ở đâu, có muốn gặp cháu Thủy không?

- Dạ em cảm ơn anh Ba. Đêm mai giao hàng xong em về nghỉ ở Cần Thơ. Nếu anh cho phép em xin gặp anh mười giờ sớm bữa mốt ở nhà dì Ba Tân.

- Được chú về thuyền đi và phải tuyệt đối giữ bí mật.

Về đến tàu của mình mà Tư Hào vẫn chưa hết bàng hoàng. Thế này là thế nào? Anh Ba ở phe nào mà lại sẵn sàng giúp mình như vậy. Chẳng lẽ tình cốt nhục đã khiến anh liều mạng cứu mình; Hào tăng tốc độ và chẳng mấy chốc đã rượt kịp chiếc thuyền dẫn đường. Bây giờ tàu đã đi sâu vào trong rạch. Nước triều đang cường, lòng lạch sâu nên không sợ mắc cạn. Nỗi căng thẳng vì sợ bị khám xét đã vơi đi, nhưng thay vào đó phải căng mắt để quan sát cho con tàu đi êm gọn trong lòng lạch ngoằn nghèo, nhiều chỗ bờ đất sát vào mạn tàu, lá dừa phủ kín cả bầu trời, che lấp ánh trăng. Để bảo đảm bí mật Tư Hào không dám bật pha lớn. Con tàu len lỏi một đêm và tìm được đường ra sông Hậu.

Theo lệnh con thuyền dẫn đường, Hào cho tàu dừng lại ven sông, ăn uống nghỉ ngơi để đêm đó mang hàng vào mật cứ. Theo lời chỉ dẫn của Ba Hùng cứ mươi phút Hào lại mở máy phát tín một lần như để báo vị trí con tàu của mình cho Ba Hùng biết.

ối hôm đó Hào lại rượt theo con tàn dẫn đường. Đến hai mươi hai giờ thì tàu tới bến đỗ trong rừng dừa nước. Một toán người xuống tàu bốc hàng. Họ chuyển sang ghe lớn để đưa đi đâu không rõ. Trả hàng xong thuyền dẫn lại đưa anh ra sông Hậu. Đến gần Cần Thơ, Hào cho tàu neo lại. Sau hơn hai ngày đêm làm việc căng thẳng Hào đã lăn ra ngủ như chết. Sáng ra anh lần lượt cho phép từng người lên bờ một giờ để ăn nhậu. Hào nóng lòng mong đến giờ hẹn. Mười giờ đến lượt anh lên bờ. Anh nhảy lên xe ôm vào thành phố Cần Thơ.

Dì Ba Tân là em họ của mẹ hào. Hai gia đình ít đi lại nên chưa chừng bà Ba cũng chưa biết là Hào đã ra đi. Giả sử như bà có hỏi thì anh chàng có thể nói quanh là có vài lần định đi nhưng không thoát, nay thì không còn đủ tiền để đưa vợ con đi nữa.

Vừa xuống xe thì anh đã thấy Thủy, con gái anh đứng ngay trước cửa. Hào toan lao lại con, nhưng ánh mắt của Thủy đã ngăn anh lại.

- Ba đã về! Bà chờ ba mãi cứ tưởng ba bận bữa nay không xuống được.

Hào rơm rớm nước mắt nhìn con. Trời, sao con nhỏ lớn mau vậy. Từ một đứa trẻ ốm nhom, nay đã trở thành một cô gái óng ả xinh tươi. Anh nghe con gái nói nhỏ:

- Ba cứ giả đò như vẫn ở Sài Gòn đừng nói gì về chuyện di tản. Bà Ba không biết đâu.

- Bác Hùng có đến đây không?

- Bác đưa con xuống mà. Bác còn đi đâu có công chuyện gì đó. Bác bảo hai ba con cứ nói chuyện trước. Mười một giờ bác về.

Hào theo con vào nhà.

- Con chào dì Bạ!

- Thằng Tư đấy à? Mấy năm không thấy mặt mày, dì tưởng mày quên dì rồi.

- Dạ đâu có? Con cứ định xuống thăm dì nhiều lần đó, nhưng hết việc nọ đến việc kia, không sao đi được. Dì vẫn được mạnh chứ ạ?

- Tao già rồi, đau luôn đó. Thế sao năm trước nghe con Thảo nói mày đã đi Mỹ theo thằng Hai rồi?

- Hào cười: - Dạ, con cũng đi mấy lần đó nhưng đâu có thoát. Đi một mình thì dễ ợt nhưng đi cả nhà thì khó khăn quá. Giờ con quyết định ở lại.

- Ở lại mà lo lành ăn con ạ. Tao nghe nói nhiều đứa đưa vợ con sang rồi cũng kẹt bên Thái hay bên Ma-ni đó. Mỹ nó không nhận mà!

- Dạ... Thế bây giờ dì sống với ai?

- Thằng út đi bộ đội rồi. Còn con Hai lấy chồng bên Trà Nóc, đã có con. Chúa nhựt nó mới về. Ngày thường chỉ có mình tao thôi. Thỉnh thoảng có qua Cần Thơ con ghé vô thần di nghẹn.

- Dạ.

- Giờ thì con Thủy xuống coi bếp cho bà ra chợ chút xíu.

- Dạ.

Khi bà Ba ra khỏi cửa, Thủy mới òa lên khóc.

- Ba ơi ba đi thế ba có thương má con con không ba? Ngày nào, đêm nào má con cũng nhắc đến ba, cũng thương nhớ ba hoài. Em Châu, em Ngọc, em Kim trong giấc mơ cũng thường kêu ba nhưng ba đâu có nghe thấy. Thôi bây giờ ba đã về đây ba ở lại với má con con, ba đừng đi nữa.

Nước mắt Hào cũng trào ra. Anh xúc động nói với con:

- Ba cũng vậy, có phút nào quên được mấy má con đâu. Ba cũng muốn ra đi cả vợ cả con chứ đâu muốn thoát thân một mình. Ba có ý định là sẽ tình cách để chuyến sau đưa tất cả nhà đi.

- Trời ơi. Thế là ba lại đi nữa sao? Ba không sợ hiểm nguy sao?

- Tình thế của ba thật trăm đường khó khăn. Nếu ba ở lại ba sẽ bị chánh quyền kết tội. Nếu lần này ba có tự ý đưa gia đình xuống tàu ba sẽ bị cấp trên xử phạt.

- Thế ba làm cho ai? Con tưởng vì thương năm má con con ba về thăm, không dè ba vượt bao nguy hiểm về đây chỉ là để lo công chuyện cho người khác.

- Ôi sao con tôi lại nói như vậy. Ba không biết nghề nghiệp gì ngoài nghề lái tàu. Sang đó ba cũng chỉ kiếm được việc này thôi. Ba đã ký hợp đồng và nhận tiền của bác Bảy. Ba biết công việc nguy hiểm nhưng ba vẫn đi vì ba hy vọng là sẽ có chuyến phải qua Sài Gòn ba sẽ có dịp thăm nhà đón luôn mấy má con đi.

- Nhưng con đã thư cho ba, má và chúng con quyết định không đi đâu nữa. Lần này ba về luôn nhà thôi, con không để ba đi đâu nữa.

- Thế là con giết ba đó. Chính quyền đâu có để ba yên. Ba đừng lo. Bác Ba hứa là nếu ba về bác sẽ đảm bảo cho.

- Nhưng bây giờ thì không thể đảm báo được nữa. Con chưa hiểu được tình thế của ba. Hãy tha thứ cho ba... 

Hai ba con đang chuyện trò thì Ba Hùng và Hai Bền đến. Hùng giới thiệu Hào với Bền. Bắt tay nhau xong Hùng bảo Thủy xuống coi bếp để mấy người nói chuyện.

- Thời gian ngắn quá chắc hai ba con cũng chưa nói chuyện được nhiều.

- Dạ.

- Anh Tư đi chuyến hàng này kiếm được bao nhiêu? - Hai Bền nhìn thẳng vào mắt Hào hỏi một câu đột ngột.

- Dạ cũng chẳng nhiều lắm. Đã lĩnh lương của chủ thì phải làm thôi ạ.

- Anh Tư có biết mình chở những thứ gì không?

Mồ hôi toát ra, Hào thấy hai thái dương lạnh toát, nhưng cũng phải nói dối:

- Dạ không...

- Không biết mà dám nhận chở sao?

- Dạ cũng chỉ biết sơ sơ thôi ạ. Hòm đều hàn kín cả, họ nói là hàng quân nhu ạ...

- Tám chục tấn vũ khí đấy. Súng tiểu liên, trung liên, súng phóng rôc-két, mìn đánh xe, đánh cần, đánh kho, đánh tàu, chất cháy, chất nổ, chất độc… Anh có biết rằng khi tất cả những thứ này được dùng vào hành động khủng bố bạo loạn thì sẽ có bao nhiêu người bỏ mạng không?

- Tôi biết, tôi biết... Tôi có tội. Xin chính phủ hãy bắn tôi. Tôi không cầu xin một điều gì. Tôi đã tự dẫn mình đến bước đường cùng...

- Tội đó đủ cho nhiều cái án tử hình. Bắn anh thì đầu có khó nhưng vấn đề là anh cũng chỉ là những kẻ thừa hành. Kẻ đề xướng, kẻ chủ mưu xứng đáng với cả trăm cái án tử hình vẫn còn đứng ngoài vòng pháp luật. Chúng tôi thuốn bọn đó phải đền tội. Hai chúng tôi muốn vạch ra cho anh một lối thoát chứ không muốn dồn anh vào ngõ cụt. Không hiểu ý anh thế nào?

- Xin quý ánh cứu tôi, tôi muốn hiểu rõ những điều quý anh nói.

- Chú Hào ạ - Ba Hùng nhẹ nhàng nói với em - Chú bỏ vợ con ra đi chẳng nói với tôi một lời. Tôi trách mắng, chú có lẽ cũng chẳng khổ tâm lắm. Nhưng đừng để con Thủy, cái Châu, thằng Ngọc, thằng Kim và thím ấy phải trách chú. Bây giờ chú lại dấn thêm một bước vô cùng nguy hiểm nữa. Đó là tiếp tay cho CIA, cho bọn bành trướng Bắc Kinh chống lại Tổ Quốc mình. May là bữa ấy chú gặp tôi. Tôi cố giúp chú trên tình anh em ruột thịt nhưng cũng phải ngăn chặn cái hậu quả ghê gớm của món hàng chú đưa về. Tôi đã phải nhanh chóng báo cáo cấp trên để kịp tháo ngòi nổ cho tám mươi tấn vũ khí đó. Nay chú đã được gặp cháu Thủy, hai ba con đã chuyện trò với nhau. Tôi không muốn bọn trẻ bị mất cha nên tôi đã bàn kỹ với anh Hai Bền, cán bộ bên cơ quan An ninh nhà nước tìm cho chú một hướng đi lập công chuộc tội. Một khi chú ân hận với việc làm, thực lòng với Tổ Quốc thì chẳng những Tổ Quốc sẽ dang tay cứu vớt chú mà còn đảm bảo cho tương lai của chú và con cái chú sau này. Nhưng liệu chú có chịu nghe chúng tôi không?

- Dạ em xin cảm ơn anh Ba. Em thực có tội với Tổ Quốc, có lỗi với anh Ba. Nếu quý anh tha tội cho em sống để nuôi nấng các cháu thì em xin thề sẽ không bao giờ tái phạm những tội trên nữa. Các anh trao việc gì cho em, dù phải nhảy vào lửa em cũng chẳng từ nan.

- Việc chúng tôi giao cho anh bước đầu cũng đơn giản thôi. Anh cứ tiếp tục công việc hiện nay của mình. Chỉ cần mỗi khi chuyển hàng anh mang theo chiếc máy phát tín mà trung tá Hùng đã đưa cho anh hôm vừa rồi. Khi đi vào hải phận Việt Nam anh cho máy hoạt động, chúng tôi sẽ không kiểm soát hoặc nổ súng vào tàu của anh. Anh sẽ tới đích đổ hàng và ra đi an toàn. Cần chú ý máy dùng pin thông thường điện thế 4,5 V. Phát tín hiệu liên tục bảy mươi hai giờ phải thay pin.

- Dạ, thế em phải trình báo tình hình với ai ạ?

- Khi cần hỏi gì, chúng tôi sẽ chặn thuyền lại xét giấy. Chỉ khi nào gặp một trong hai chúng tôi anh mới báo cáo tình hình. Bất cứ người nào khác hỏi anh cứ trả lời như kịch bản của Bảy Dĩ.

- Dạ, nhưng ở bên kia nhận được tin gì đặc biệt muốn báo nhanh để các anh kịp thời đối phó thì làm thế nào ạ.

Sau ít phút suy nghĩ, Hai Bền nhìn thẳng vào mắt Hào.

- Chúng tôi cũng muốn nối một đường liên lạc với anh ở Hải cứ Gamma Nhưng có thể lúc này còn quá sớm. Cần phải giữ an toàn cho anh. Trường bợp có chuyện gì đặc biệt chúng tôi sẽ chủ động liên lạc với anh. Một người mang số hiệu A8 sẽ đến gặp anh với mật khẩu “Thời gian, không gian, +-8". Hai Bền giải thích tỉ mỉ cách thức trao đổi mật hiệu khi bắt liên lạc cho Tư Hào nghe - Anh nhớ được chứ?

- Dạ được ạ.

Câu chuyện kết thúc thì mâm cơm cũng bày xong. Má Tân kêu mọi người vào bàn. Hào thấy lòng mình nhẹ nhàng hẳn đi. Không khí đầm ấm của quê hương được gặp lại sau bốn năm xa cách làm cho Hào xúc động. Anh càng thấy khao khát được gặp bầy con nhỏ. Nhưng anh cũng yên tâm hơn vì con đường trở về với gia đình đã hiện rõ nét trong tưởng tượng. Hai ngày sau Trương Tấn Hào cùng thủy thủ đoàn tàu NT.4206 đã về đến Hải cứ Gamma. Bảy Dĩ bắt tay những người "chiến thắng" ngay trên cầu tàu. Warrens đã nhận được điện cảm ơn của Hoàng Quý Nhân về chuyến hàng đầu tiên tới đích an toàn. Họ chuẩn bị chuyến đi của cả đoàn trong tháng tới.

Tôi trở về bán đảo Nelson sau mùa thi. Cháu Quang Trung đã kết thúc chương trình phổ thông thật tốt đẹp. Hết hè cháu sẽ vào đại học với tuổi đời mười tám. Cả nhà chúng tôi vui mừng. Anh chị tôi quyết định đưa cháu đi du lịch một chuyến ở vùng Hồ Lớn, nhường lại giao cho tôi và Bạch Kim phải ở nhà trông nhà! Có lẽ đấy cũng là dụng ý của chị tôi muốn hai đứa có dịp được "gắn bó" với nhau hơn!

Chiều chiều ngồi trên ban-công chúng tôi nhìn ra mặt hồ Green Lake, nước trong xanh lồng lộng sắc trời. Rừng phong đã lốm đốm đỏ. Những cơn gió se lạnh đầu tiên từ Thái Bình Dương tràn vào lục địa báo hiệu mùa thu đang đến. Những giây phút đó chúng tôi thường ngồi bên nhau tưởng nhớ đến quê nhà, nhớ dáng điệu bình thản của người Sài Gòn dưới những trận mưa chiều xối xả nhớ mặt Hồ Gươm trầm tư trong sương lạnh, đến những dãy phố cổ Hội An nồng nặc mùi cá biển... Một cuộc sống vật chất dư thừa không thể quên đi nỗi đói khát của tâm hồn.

Một bữa Bạch Kim nói với tôi bằng vẻ mặt thật nghiêm trang.

- Quang Trung lớn rồi, không thể thể vuốt ve nó như một đứa trẻ nữa. Còn anh cũng cứ đi xa luôn. Có ở nhà thì cùng phải lén lút gặp nhau như quạ vào chuồng lợn! Em muốn chúng ta phải công khai chuyện này với mọi người. Ngoài bốn mươi tuổi rồi, em cũng muốn có con. Đây cũng là điều mong mỏi của cả anh chị Ân. Anh nghĩ thế nào?

- Anh đồng ý với em. Tuy nhiên về nguyên tắc chúng mình cũng phải báo cáo chuyện này với tổ chức.

- Cái trò "giả vờ" này do anh nghĩ ra thôi. Anh muốn em là bà quả phụ giàu có để thu hút nhưng "bạn bè bất đắc dĩ". Nhưng em thấy không cần thiết nữa. Chúng ta sẽ có hàng trăm cách khác để thu lượm tình hình.

- Chúng ta sẽ làm lễ cưới ngay sau khi đánh bại cuộc thử nghiệm T20-20, em có bằng lòng không? Ngay từ hôm nay chúng ta đã có thể công khai chuyện đính hôn cho anh chị chúng ta vui mừng. Còn chuyện có con thì chúng ta có thể hy vọng ngay từ bây giờ!

Tháng 10 năng 1979, ông Bùi Hạnh chủ bút báo Chim Việt gọi tôi lên giao việc. Sau khi bắt tay chặt chẽ... mời tôi ngồi, ông thì thào với tôi:

- Có một công việc thú vị, nhưng không phải ai cũng làm được. Tôi định rủ ông đi, nhưng không biết ý ông thế nào?

- Xin ông nói rõ hơn.

- Tình hình đất nước ta đang có những biến đổi quan trọng. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba thực tế đã nổ ra. Vận mệnh dân tộc đang được quyết định theo một chiều hướng mới. Lực lượng Tự do đang lớn mạnh và chính phủ của một Liên minh chống Cộng mới sẽ ra đời nay mai. Đó là một chính phủ hợp với nguyện vọng của quốc dân, được cộng đồng Việt kiều hải ngoại hậu thuẫn. Cuộc ra mắt của chính phủ lâm thời sẽ được long trọng tổ chức ở quốc nội vào tháng 1 năm 1980. Sẽ có nhiều nhà báo đến quay phim, chụp ảnh và viết bài về cái giờ phút lịch sử đó. Báo của chúng ta là tiếng nói của một cộng đồng lớn nhất của những người Việt lưu vong không thể thiếu mặt ở đây được. Tôi thấy ông là một người đầy nhiệt huyết, dũng cảm, luôn luôn gắn ngòi bút của mình với những sự kiện nóng bỏng, nên tôi muốn cử ông đi với tư cách thay mặt cho tòa báo chúng ta. Tòa báo sẽ lo liệu đầy đủ phí tổn về tài chính cho ông và nhuận bút cùng bản quyền về phim ảnh sẽ được tính với giá đặc biệt. Tôi muốn được ông cho biết ý kiến càng sớm càng tốt.

Ông chủ bút nhìn tôi như để thăm dò.

- Thưa ông chủ bút, chuyến đi hấp dẫn đấy nhưng cũng vô cùng nguy hiểm.

- Chắc chắn là có chút hiểm nguy. Nhưng cuộc hành hương này đâu phải chỉ mình ông. Nhiều yếu nhân chính trị cũng sẽ trở về Tổ Quốc.

- Thưa ông, ông có thể cho tôi biết được những người bạn đồng hành của tôi không?

- Tôi không được thông báo chính thức có những ai nhưng tôi có thể đoán mà không sợ lầm là các thành viên chính phủ phải về cả chứ!

- Thành viên là những ai? - Thí dụ như ông Thạch, bà Vân, ông Thắng, ông Hải, v.v... có thể họ còn phải ở lại lâu dài nơi tiền tuyến, còn ông thì sau buổi lễ ông phải trở lại với chúng tôi ngay để kịp có bài. Ta lo vậy thôi chứ những phái đoàn cỡ bự đó trở về thì phải được bảo đảm an toàn tuyệt đối.

- Vấn đề đó với tôi cũng không lớn lắm. Tôi quan tâm đến việc tổ chức chuyến đi. Vì một khi tôi lá thành viên thì tôi phải được tham gia những kế hoạch có liên quan đến sinh mệnh của mình. Tôi thường thiếu tin tưởng vào cách làm ăn của các chính khách dân sự. Họ ít hiểu biết về những lĩnh vực hành quân đổ bộ, nhưng lại hay ba hoa và chỉ muốn nắm quyền chỉ huy. Tôi muốn nói đây không phải là chuyến du lịch trên hồ Genève mà là một cuộc đổ bộ của "con tàu Gramma đảo ngược".

- Xin ông yên tâm. Việc này đâu phải do mấy ông dân sự lo nổi. Bộ máy của CIA ở Đông Nam Á mới là kiến trúc sư thực sự của kế hoạch này.

- Thưa ông, nếu vậy thì tôi tin tưởng và xin chấp nhận yêu cầu của tòa báo. Tôi chỉ xin một điều nhỏ: Tất cả giấy tờ và lai lịch của tôi mang tên Mc Gill, một người Mỹ gốc Á Châu. Nếu chẳng may có bị bắt thì về pháp lý tôi là công dân Mỹ làm nghề báo chí có thể nhờ hội Hồng Thập tự quốc tế giúp đỡ giải thoát giảm án. Nếu tôi mang tên Phan Quang Nghĩa, Vi-xi sẽ chặt đầu tôi ngay vì tôi chỉ là một tên tù vượt ngục lại còn gây án mạng.

- Điều đó chẳng có khó khăn gì, nhưng khi đã viết được bài đem về thì ông lấy lại bút danh Hoài Việt cho. Những tin tức quan trọng như vậy phải do đặc phái viên của bản báo tường thuật tại chỗ thì mới thực sự có ý nghĩa.

- Dạ nhất định là như vậy ạ. Tôi muốn thay đổi tên tuổi, tôn tích chỉ là đối phó với kẻ địch thôi Còn trong thâm tâm bao giờ tôi cũng sung sướng tự hào mình là người Việt Nam, một người Việt Nam chân chính.

- Cảm ơn ông, xin ông hãy sẵn sàng cho chuyến đi này.

- Vâng, nhưng để nắm trước được những diễn biến quốc nội, xin ông chủ bút cho phép tôi đến Westland sớm hơn. Tôi sẽ gia nhập "đoàn quân đổ bộ" bất cứ lúc nào ông ra lệnh.

- Tôi sẵn sàng chấp nhận yêu cầu này của ông. Nhưng xin ông nhớ cho rằng phải giữ bí mật chuyến công cán này với tất cả mọi người, kể cả những người thân yêu nhất. Và một khi ông đã nhận lời thì ông sẽ là người duy nhất của báo ta tham gia chuyến đi. Sẽ không có người dự bị đủ tin cẩn để thay thế ông đâu.

- Xin cảm ơn sự tín nhiệm và những lời khuyên của ông.

Tôi trở về nhà báo tin cho Bạch Kim về chuyến đi sắp tới của tôi. Bạch Kim vui mừng vì tôi sẽ đột nhập được vào hang ổ cuối cùng của bọn phản động, nhưng sau đó cô lại ỉu xìu ngay.

- Anh về hẳn bên đó bỏ mặc hai mẹ con em bên này sao?

- Anh sẽ quay lại chứ.

Cô thở dài.

- Chắc gì. Đã đến lúc phải lật lên con bài cuối cùng. Anh sẽ đối mặt với Hoàng Quý Nhân, sau đó thì làm sao quay trở lại với mẹ con em được.

- Anh có cách trở về thì cũng sẽ tìm được cách ra đi hợp pháp. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn tiếp diễn lâu dài.

- Hay cho hai mẹ con em cùng đi với?

- Đâu có được. Chuyến đi này nguy hiểm nhưng là một dịp may hiếm có. Anh tin tưởng là chúng ta sẽ làu lễ cưới vào mùa xuân tới ở bán đào Nelson.

Một buổi sáng anh Ân gọi tôi vào phòng riêng của anh. Nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của anh, tôi hơi ngạc nhiên. Từ xưa đến nay rất hiếm lần anh gọi tôi vào phòng riêng. Có chuyện gì anh em thường nói với nhau ở phòng khách hoặc phòng ăn. Đôi khi anh cũng đến phòng tôi ân cần tham gia ý kiến về những chuyện nuôi dạy, học hành của cháu Trung.

Tôi đi theo anh vừa xúc động vừa bồn chồn.

- Chú ngồi đây, tôi có câu chuyện muốn nói riêng với chú.

- Dạ, em xin nghe anh.

Ngồi được vài phút rồi mà anh tôi như vẫn còn thấy có điều gì băn khoăn khó diễn đạt.

- Công việc của chú có suôn sẻ lắm không?

- Dạ cũng quen dần. Em đã gây được tín nhiệm với ông chủ - Anh tôi mỉm cười buồn buồn:

- Chú đang làm việc cho ông chủ nào?

Tôi giật mình. Chẳng lẽ anh tôi lại đoán nổi ra nhiệm vụ tình báo của tôi sao? Tình cảm anh em khiến tôi không bao giờ giấu giếm anh những điều riêng tư. Nhưng về mặt công tác thì tôi luôn luôn giữ đúng nguyên tắc, cẩn trọng và bí mật. Hay tôi vô tình sơ xuất để lộ ra điều gì khiến anh tôi nghi ngờ? Ngập ngừng vài phút, tôi mới lấy lại được phong độ bình thường. Thật không có gì khó khăn bằng phải che giấu nội tâm với nhưng người thân yêu của mình.

- Chủ em là ông Bùi Hạnh. Thì chính anh đã giới thiệu em đến làm cho ông ta đó thôi.

- Đúng là tôi đã giới thiệu chú với Bùi Hạnh. Nhưng bây giờ thì tôi đã biết rằng Bùi Hạnh không phải ông chủ thực sự của chú.

- Em chỉ nhận công việc ông Hạnh giao và nhận lương hàng tháng của ông ta, ngoài ông ta ra em làm gì còn ông chủ nào?

- Bùi Hạnh làm gì có khả năng cung ứng cho chú các khoản chi phí lớn lao như vậy?

Tôi thấy lúng túng. Thực ra số nhuận bút của báo Chim Việt trao cho tôi không đáp ứng được nửa số chi phí cho nhưng chuyến đi Viễn Đông của tôi. Số còn lại đều do Bạch Kim giúi cho. Nhưng tôi chưa tiện nói ra chuyện này với anh tôi. Anh thân mật đặt bàn tay lên vai tôi:

- Ông chủ thực sự của chú bây giờ là Cục tình báo Trung ương Mỹ.

Tôi chợt hiểu ra ý anh và tôi cảm thấy nhẹ nhõm.

- Thưa anh, em thực chưa hiểu ý anh?

- CIA đã nắm toàn bộ hoạt động của Liên minh Việt kiều Hải ngoại và Mặt trận Tự do dân tộc ở quốc nội. Chính phủ lâm thời hay cái gì đó sau này cũng đều là sản phẩm của họ. Tờ Chim Việt cũng sẽ phải phụ họa với cái luận điệu phục thù thôi. Tôi thấy mình có lỗi là đã tiến cử chú vào công việc này. Dù muốn hay không chú cũng sẽ thành trợ thủ của CIA.

- Anh thấy những bài viết của em từ trước đến nay có gì phù hợp với quan điểm của họ đâu?

- Đó là từ trước đến nay chứ từ nay về sau thì chưa chắc. Hôm qua tôi đến thăm Bùi Hạnh. Ông ta khen chú và cho tôi biết là chú đã tình nguyện đi theo đám chủ xướng bạo loạn để đổ bộ vào Việt Nam. Có đúng thế không?

- Vâng ạ.

- Một việc quan trọng như vậy mà khi quyết định chú không tham khảo ý kiến của tôi

- Em xin lỗi anh. Thực tình em cũng không có ý định giấu giếm anh chị. Nhưng ông Bùi Hạnh nói chuyện này là tuyệt mật, cấm được tiết lộ cho ai, dù người đó là cha, mẹ, anh, em, vợ, con ruột thịt.

- Đúng là chuyện tuyệt mật vì đó là sự khởi đầu của một hành động tội ác chống lại cuộc sống ổn định của hàng chục triệu người nơi cố quốc. Chúng muốn máu lại đổ, lửa lại cháy. Máu lửa cần cho chúng chứ đâu có cần cho nhân dân, cho chú?

- Em cũng nghĩ như vậy.

- Thế thì chú nhận làm gì cái công việc ngậy hiểnl đó? Anh chị đâu có để chú thiếu thốn gì vài ngàn đô-la? Không làm việc này, chú tìm việc khác. Thậm chí chú cứ nghỉ ngơi thì chúng ta cũng vẫn đủ tiền để sống suốt đời rồi.

- Cảm ơn anh chị đã hết lòng vì em. Em nhận việc này không phải vì đồng tiền. Điều lôi cuốn em là sự thật. Em muốn tận mắt viết những điều có ích giúp cho công chúng khỏi bị những kẻ xấu lừa dối.

- Chú đi lần này là để viết những điều cần cho chiến lược tuyên truyền của họ. Bất cứ câu chữ nào đi ngược lại mục đích của họ sẽ không có chỗ đứng trên trang báo. Đó là mệnh lệnh của CIA khi tờ "Chim Việt" bắt đầu nhận trợ cấp tài chính của nó.

- Lần đầu tiên em biết chuyện này.

- Tôi cũng mới nghe tin này cách đây ít ngày. Tôi muốn nhắc lại quan điểm của tôi: Đối với những hành động chính trị ám muội, tốt nhất là nên lánh xa .

Ôi anh tôi đâu có hiểu nổi công việc của tôi. Tôi phải lăn vào miệng hùm, nanh sói đâu phải vì tôi thích hùm thích sói.

- Thưa anh, em ý thức được những điều anh dạy bảo. Nhưng lần này em đã nhận lời, dù nguy hiểm em cũng phải đi. Đó là vấn đề danh dự. nhưng em xin hứa với anh là em sẽ chẳng làm điều gì có lợi cho chính sách phiêu lưu của họ.

- Lại còn vấn đề danh dự? - Anh tôi nhún vai mỉm cười chua chát - Chú đã ở sát độ tuổi năm mươi, một lời khuyên cũng là quá đủ. Chú tự tìm ra quyết định của mình nhưng cũng phải nghĩ đến cả nhà. Anh chị rất thương chú, một mình, gà trống muôi con - Anh tôi im lặng một phút như cố nén xúc động - Anh chị cứ muốn chú với Bạch Kim thành đôi thành lứa... nhưng không rõ vì sao hai em vẫn chưa đi đến quyết định cuối cùng.

- Chúng em đã chính thức đính hôn. Hôm nay em xin thưa với anh chị điều này!

Nét mặt anh tôi rạng rỡ hẳn lên, anh vội vàng mở của tìm chị.

- Ngọc ơi, gọi Kim xuống đây anh hỏi, cả thằng Trung nữa.

Một vài phút sau hai chị em và thằng cháu bước vào phòng với vẻ mặt ngạc nhiên.

- Có chuyện gì mà cả nhà được mời đến họp mặt đấy anh?

- Chuyện quan trọng lắm... bây giờ Bạch Kim và Nghĩa... hai em công bố đi!

Tôi nhìn Kim, Kim nhìn tôi và cô đã hiểu ra. Kim không nói gì, đi lại bên tôi, vòng tay lên cổ và tựa đầu vào vai tôi, mỉm cười:

- Anh chị mở rượu mừng chúng em đi!

Trong khi anh tôi lúng túng cảm động cố bật nắp chai sâm-banh thì chị Ngọc chạy lại ôm lấy cả hai chúng tôi nước mắt lưng tròng.

- Chúc mừng hai em hạnh phúc. Đây là điều mong mỏi của anh chị từ nhiều năm nay.

Riêng cháu Trung thì chẳng lạ gì chuyện này. Chán giúp bác bày cốc ra bàn rồi vội lấy máy ảnh để mừng lễ đính hôn của... ba má!

Tôi đến Westland, công việc đầu tiên là gặp đồng chí Tám để chuyển những tin tức trên về nước. Ba ngày sau tôi nhận được điện trả lời. Trung tâm hứa sẽ chuẩn bị "đón tiếp” phái đoàn của tôi một cách hoàn chỉnh, chu đáo. Cấp trên chỉ thị cho tôi trước mắt phải theo sát chương trình T20-20 của C.C.C. vì đó là một hành vi tội ác rất nguy hiểm đối với sinh mạng của nhiều người.

Tôi quyết định chọn Pandon làm địa điểm thường trú. Tôi gọi điện cho Tùng Lâm và anh đã đến quán trọ thăm tôi ngay. Tôi cảm thấy anh già đi nhanh chóng. Bộ tóc ngắn đã bạc trắng, mi mắt hum húp, những nếp nhăn trên trán hằn sâu, cơ thịt trên má chảy sệ xuống. "Bộ râu Clark Gable"1 (Tài tử điện ảnh nổi tiếng của Mỹ có bộ râu đẹp) rất điển trai xưa kia của anh không được tỉa sửa, dài ra một cách hoang dã. Cái nhìn đượm vẻ lo âu, còn nụ cười của anh cũng buồn bã.

- Anh đau hay sao mà trông thay đổi vậy? - Tôi hỏi.

- Đâu có. Ôi nếu mình bị bịnh gan, bịnh phổi rồi đổ quách đi lại hay hơn. Bác sĩ kiểm tra bảo mình phải kiêng rượu và xa các em. Mình đã chữa bệnh như sau: Bỏ rượu trước, chỉ uống la-ve, coca-cola qua quít thôi. Nhưng buồn quá phải ôm các em cho quên rượu. Đến khi bỏ các em thì thấy mình cô đơn quá nên lại phải uống rượu để đỡ nhớ các em!

- Và cuối cùng thì...

- Cuối cùng thì chẳng bỏ được thứ nào mà lại có phần nghiền hơn khi chưa chữa! Ha ha. Đằng nào cũng chết thì chết bằng tửu sắc có lẽ êm dịu hơn chết bằng gươm đạn phải không hiền đệ?

Tâm trạng sống gấp đang hủy hoại con người này. Tôi quay sáng hỏi anh chuyện công việc. Sau khi uống cạn ly Whisky, tướng Tùng Lâm ghé sát vào tai tôi thì thào:

- Đang phải huấn luyện cách cho nổ một trái bom hóa học. Thứ võ khí này rất tối tân, nó còn nằm trong kho của Ngũ Giác Đài. Sức giết người của nó chẳng thua một trái bom nguyên tử.

- Hãy còn nằm trong bí mật sao anh lại biết được nó mạnh như một trái bom nguyên tử?

- Đoán ra chớ! Đặt bom xong để ngòi hẹn giờ rồi đương sự phải nhanh chóng di chuyển khỏi tâm nổ ba kilômét mới đảm bảo an toàn tuyệt đối. Như vậy bán kính hủy diệt của nó đâu có thua trái bom nguyên tử cỡ hai mươi ki-lô-ton ném xuống Thành phố Hiroshima.

- Anh đâu có biết thứ này mà huấn luyện?

- Huấn luyện mò theo giáo lịnh của Bảy Dĩ gửi xuống.

- Ít ra họ cũng phải cho anh một cái mô hình chớ?

- Đâu có, tuyệt mật mà. Chỉ biết nó nặng ba mươi ki-lô-gam thôi, còn hình dáng ra sao thì chịu.

- Bữa nào ta xuống thăm Trương Tấn Hào chứ? - Tôi rủ anh.

- Hồi này nó bận vận chuyển nên lâu chẳng gặp nhau. Hơn nữa Hải cứ Gamma bị phong tỏa, không ai được phép vô. Hình như ở đó đang thực thi một mật vụ gì quan trọng lắm. Tốt nhất là gọi điện cho nó lên chơi với bọn mình thì hơn.

- Cũng được. Xin mời hai anh lên đây với tôi - tôi rỉ tai Tùng Lâm - Mấy con Tàu lai ở khách sạn này coi bộ cũng ngon lành đấy chứ?

Cặp mắt Tùng Lâm linh động hẳn lên.

- OK! Thứ đó xài được!

Quả nhiên ba hôm sau Tùng Lâm đã kéo được Hào lên. Tôi thuê thêm một phòng để Tùng Lâm nghỉ riêng với lý do là anh ngáy hơi to! Còn tôi nghỉ chung buồng với Hào.

Tôi cảm thấy Hào vui vẻ hơn. Anh nói nhiều và trong ánh mắt đã mất đi cái nhìn u tối.

- Lần này gặp lại, tôi thấy anh mập hơn. Chắc công chuyện làm ăn phát đạt?

Hào cười nhìn tôi nháy mắt ý nhỉ:

- Cũng có khá hơn mọi lần. Công việc kinh doanh của hãng đang mở rộng nên chúng tôi có thêm tiền thưởng.

- Anh có nhận được tin tức của chị và các cháu không?

- Dạ có, tất cả đều bình an.

- Tôi sắp trở về Việt Nam, anh có muốn nhắn tin gì cho chị và cháu không?

- Anh trở về? - Tư Hào nhìn tôi vẻ mặt lạ lùng.

- Anh ngạc nhiên à? Tôi là nhà báo, người ta cử tôi đi viết bài. Người ta nói tình hình trong nước khó khăn nghèo đói lắm. Nhưng người Tự do đang tập trung lực lượng để lật đổ chế độ cộng sản.

- Anh không sợ nguy hiểm sao?

- Sợ chứ. Nhung tôi ăn lương thì tôi phải làm việc thôi. Vả lại tôi sẽ đi với một phái đoàn cỡ bự, nên chắc chắn người ta cũng phải tính đến chuyện bí mật an toàn chớ?

- Một phái đoàn cỡ bự?

- Đúng thế. Nhưng đây là chuyện tuyệt mật. Anh là người thân thiết lắm tôi mới nói. Lộ ra rất nguy hiểm.

Hào trầm tư một lúc rồi khuyên tôi:

- Đừng đi anh Hoài Việt ạ. Đi nguy hiểm lắm, mà rồi anh cũng chẳng viết được gì đâu. Nếu muốn nói xấu Cộng sản thì cứ việc ngồi đây bịa ra mà nói, cần gì phải đi. Đúng là cũng có chuyện khó khăn thiếu thốn, có chuyện vài chiến hữu cũ của chúng ta muốn chống lại chế độ mới, nhưng tôi không tin là họ có thể làm nổi trò gì lớn lao, cùng lắm cũng là vài cuộc đổ máu vô ích. Nếu anh viết đúng sự thật này thì báo nào đăng cho anh? Những vụ này ăn to lắm anh Hào ạ. Họ sẽ thành lập chính phủ lâm thời của Mặt trận Tự do dân tộc. Những tấm ảnh chụp lễ ra mắt, những bài tường thuật và những thước phim quay được giá hàng ngàn đô-la kia đây.

Hào nhún vai cười.

- Tôi coi anh là một người bạn tốt nên tôi khuyên anh không nên mạo hiểm. Là nhà báo, anh có thể xin vào Việt Nam theo con đường hợp pháp. Anh sẽ có đủ điều kiện để viết, khen chê tuỳ anh, không phải lệ thuộc vào ông chủ nào... Hai ba ngàn đô-la đâu sánh được với sinh mệnh của anh.

- Cảm ơn anh. Bây giờ tôi đã nghe ra, nhưng muộn mất rồi. Khi ký hợp đồng với "sếp" tôi không lường nổi mọi chuyện. Nhưng đã ký rồi thì không có đường lui, thế là phải dấn thân liều mạng. Tôi buộc phải chờ đợi những gì sắp đến.

- Họ sẽ cho anh thâm nhập vào vùng nào? - Tôi đâu được biết. Có thể khi đặt chân lên đất liền họ mới công bố địa danh...

Tôi đã báo cáo cuộc gặp gỡ giữa tôi và Hào Pandon. Tôi dự đoán cuộc hành quân "Đồi mồi" sắp đến giai đoạn cao điểm. Hào cũng chưa biết chính xác ngày giờ xuất phát của đợt hai. Tôi đề nghị cấp trên chú ý xem đợt này về, Hào có báo cáo nguồn tin quan trọng do tôi "vô tình" tiết lộ cho anh không. Đó cũng là cái thước đo tín nhiệm đối với Hào. Trước khi cho người đến bắt liên lạc trực tiếp với anh bằng mật khẩu, chúng tôi cần phải kiểm tra lòng trung thành của anh.

Đợt thứ hai của cuộc hành quân "Đồi mồi" diễn ra vào dần trần trăng. Tất cả bốn tàu của Hải cứ Gamma đều tham gia. Trước khi lên đường, Bảy Dĩ gọi Hào đi gặp riêng Warrens. Chiếc trực thăng H.41 đưa anh đến một biệt thự anh không hiểu nó nằm ở vùng nào trên đất này. Ngôi nhà ba tầng cấn trúc hiện đại ẩn mình giữa một vùng rừng rậm.

Đây là lần đầu Hào được giáp mặt ông chủ. Warrens lịch sự bắt tay Hào và kéo anh cùng ngồi chung chiếc đi-văng. Người Mỹ này cao lớn, hồng hào, tóc bạch kim, đeo kính râm, mày râu nhẵn nhụi. Vai Warrens to và hơi gù có dáng điệu một con gấu đứng bằng hai chân sau. Ông ta ít cười, vẻ mặt thận trọng, điềm đạm nhưng không lạnh nhạt. Sau khi rót Whisky chạm cốc với Hào, Warrens nói bằng tiếng Việt:

- Sự cộng tác của chúng ta bắt đầu từ lâu, nhưng bữa nay chúng ta mới có dịp gạp nhau. Tôi vui mừng vì chuyến đi mở đường của ông mở ra nhiều hứa hẹn. Chúng tôi không bao giờ ngừng cố gắng giúp đỡ Việt Nam, chừng nào trên đất nước này vẫn còn những người muốn chiến đấu cho quyền tự do của họ. Chuyến đi sắp tới của ông còn mang một tầm quan trọng lớn lao hơn. Ông sẽ bắc chiếc cầu cho người Trung Quốc nhảy vào cuộc. Dĩ nhiên chúng ta cũng chỉ cần sự tham gia của họ ở mức độ vừa đủ. Sự nghiệp của Việt Nam phải do chính các ông đảm nhiệm. Kinh nghiệm lịch sử cho biết, bất cứ sự can thiệp quá sâu của nước ngoài nào vào đất này đều dẫn đến những thảm họa cho chính người được giúp.

- Thưa ông Warrens, chúng tôi xin cảm ơn ông. Tôi chỉ là một quân nhân, một người ít am hiểu chính trị, nhưng tôi cũng đã ý thức được vấn đề. Sự hậu thuẫn của cộng đồng quốc tế đối với đất nước đau khổ của chúng tôi quan trọng nhất là sự tài trợ. Chúng tôi phải tự cứu mình bằng lòng dũng cảm và xương máu của mình. Mỗi chúng tôi đều cố gắng hành động phục vụ Tổ Quốc thì nhất định mọi cao vọng sẽ được thực hiện.

- Hiện nay ông có nỗi lo lắng riêng tư gì không?

- Dạ có. Nỗi lo lắng duy nhất của tôi hiện nay là vợ con vẫn còn nằm ở Sài Gòn.

- Chúng tôi cũng đà nghĩ đến điều đó. Không thể để Cộng sản biến họ thành con tin. Ông cứ yên tâm là tôi sẽ lo liệu để đón bà nhà và bọn trẻ sớm đến được với ông nhưng chưa thể là lúc này.

- Dạ, xin cảm ơn ông. Tôi hiểu được những khó khăn hiện tại.

- Riêng tôi, tôi cũng muốn ông hoàn thành cho một công vụ nữa. Có thể gọi là một công vụ đặc biệt. Trong chuyến đi này, khi ở Việt Nam quay trở về đây người ta sẽ giao cho ông một kiện hàng để ông chuyển cho tôi. Đó là những tài liệu mật mà chúng tôi chưa chuyển kịp trong biến cố tháng 4 năm 1975. Tất cả những thứ đó được niêm phong trong hòm thép. Họ sẽ cử một người đi hộ tống hàng nhưng không ai phép mở trừ tôi ra.

- Dạ.

- Kế hoạch vận chuyển như sau: ông giấu kín hàng trong khoang tàu đưa ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Đến tọa độ 7,8 - 102 sẽ có một chiếc máy bay lên thẳng đến tìm tàu của ông. Ông dùng cờ đánh cho máy bay tín hiệu 85. Máy bay sẽ thả thang dây xuống nhận hàng và người hộ tống. Họ sẽ trao cho ông vật này – Warrens đưa cho Hào xem một vật kim loại có khắc con sư tử có cánh - Như vậy là ông đã hoàn thành công vụ quan trọng đó ông sẽ được lãnh ba nghìn đô-la tiền thưởng khi ông trao lại vật này cho tôi.

- Dạ, tôi có thể được biết mặt người nhận hàng trước không ạ?

- Được, sau đây tôi sẽ gọi họ ra cho ông nhận diện. Warrens bấm chuông, cô thư ký xuất hiện ở khuôn cửa.

- Cho gọi S.5 vào đây!

Vài phút sau một người đầu hói, râu tóc rậm, mắt xanh, da đỏ như gà chọi, mặc bộ đồ bò đẩy cửa bước vào, cúi chào rất lễ phép:

- Hai ông nhận mặt nhau đi? Các ông sẽ không có thì giờ nói chuyện với nhau đâu mà cần biết tên... Ông Hào, liệu ông có thể nhầm lẫn ông này với một người khác được không?

- Thưa ông Warrens đủ rồi. Warrens ra hiệu cho người kia đi, và mời Hào dùng bữa trưa. Ăn xong Hào được máy bay lên thẳng đưa về Hải cứ Gamma.

Một buổi chiều cuối năm, hai con tàu 4206 và 1505 lặng lẽ vượt vịnh Sima tiến về hướng Đông. Tàu không tải nên lướt nhẹ nhàng trên sóng nước. Hào kẻ một đường thẳng tắp trên hải đồ. Đêm nay họ sẽ đi vào vùng biển mà bọn hải tặc luôn luôn hoành hành. Nhưng Hào không lo vì anh đã được thông báo có một hải vụ đặc biệt do thiết giáp hạm Dawson của hải lực Hoa Kỳ dẫn đầu đang tuần thám trong vịnh và dẫn đường cho hai tàu của Hào gặp được tàu Hồng Kỳ của Trung Quốc.

Sớm hôm sau khi đi vào vùng bắc quần đảo san hô Seowfill Shool, Hào thấy trên bầu trời xuất hiện chiếc PVC5 máy bay của Navy là thấp trên mặt biển. Hào chỉnh lái theo hướng chiếc máy bay. Nửa giờ sau trên đường chân trời xuất hiện một chấm đen. Hào đưa ống nhòm lên quan sát. Một con tàu to dần lên trong ống kính. Lá cờ đỏ năm sao in trên ống khói rất rõ nét. Và sau đó anh nhìn thấy chứ Hồng Kỳ trên mũi. Tàu đứng lặng yên trên mặt biển. Có lẽ nó buông neo trên một đảo ngầm để chờ khách ăn hàng. Khi còn cách nhau vài trăm mét, Hào cho đánh tín hiệu bằng cờ hai số 42. Tàu Hồng Kỳ đáp lại tín hiệu 58. Thế là hai bên đã hiểu nhau. Hào cho hai tàu của mình kẹp mạn vào hai bên hông tàn Trung Quốc. Hào ước tính tàu này vào cỡ ba ngàn tấn, chạy những đoạn đường ngắn ven biển. Trong cuộc chiến tranh trước đây, tàu Hồng Kỳ từng chở hàng giúp đỡ cho miền Bắc Việt Nam. Hải quân Sài Gòn cũng đã đôi lần gặp con tàu này ngoài khơi, chúng cũng đã chụp ảnh phóng to cho các hải đoàn tập nhận dạng. Nhưng hình như ngày nay tàu cũng có tân trang lại đôi chút. Ngả sang phương Tây nên màu sắc con tàu cũng phải thay đổi cho có bộ mặt mới, ra vào các cảng của Thái Lan.

Các thủy thủ tàu Hồng Kỳ quăng dây xuống cho hai con tàu nhỏ neo chặt lại. Họ thả thang dây xuống rồi ra hiệu mời các thuyền trưởng lên tàn. Hào thay mặt cho bên Mặt trận Tự do leo lên trình mật hiệu và giấy nhận hàng. Trên tàu đã có sẵn một thông ngôn tiếng Việt - Xin mời các đồng chí vào trong này - Viên sĩ quan giơ tay đón tiếp rất niềm nở. Họ dẫn hai thuyền trưởng người Việt vào trong khoang. Thuyền trưởng tàu Hồng Kỳ thân mật bắt tay và mời họ ngồi vào bàn.

- Thưa quý vị. Chúng tôi nhận lệnh cấp trên ra đây gặp quý vị để nhận chuyến hàng viện trợ đầu tiên của quý quốc giúp cho những người Việt Nam tự do. Tôi xin chuyển lời cảm ơn chân thành của những vị lãnh đạo quốc gia chúng tôi tới quý vị, tới nhân dân Trung Quốc vĩ đại, tới một lân quốc có tầm quan trọng lớn lao tới vận mệnh dân tộc chúng tôi...

Viên thuyền trưởng tàu Hồng Kỳ xoa tay, miệng cười hết cỡ, tỏ ra bằng lòng với bài diễn văn xã giao chí tình của Trương Tấn Hào. ông ta đáp lại một cách nhiệt thành:

- Chúng tôi vô cùng cảm động trước những lời hữu nghị của các đồng chí. Đảng và nhân dân Trung Quốc chúng tôi bao giờ cũng kính trọng nhân dân Việt Nam anh hùng, bao giờ cũng quan tâm đến nền độc lập tự do của các đồng chí. Hai nước chúng ta vốn có mối tình hữu nghị lâu đời vô cùng thắm thiết. Trung Quốc trước sau như một muốn vun đắp cho thối quan hệ quốc tế đó mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững. Nhưng giới lãnh đạo Việt Nam đã phản bội chủ nghĩa Mác - làm tay sai cho đế quốc xã hội, xâm lược Cam-pu-chia, khiêu khích biên giới Trung Quốc gây ra cuộc chiến tranh mà phía Trung Quốc không bao giờ mong muốn. Nay các đồng chí đã đoàn kết chống lại giới cầm quyền nước mình thì ắt các đồng chí phải là người bạn đồng minh chí cốt của nhân dân Trung Quốc. Vâng lời Đảng, chúng tôi mang tới các đồng chí những phương tiện chiến tranh này mong góp phần nào vào công cuộc giải phóng Việt Nam. Các đồng chí hãy tin rằng chúng tôi sẽ luôn luôn đứng bên các đồng chí, dù là mười năm, trăm năm hay lâu hơn nữa. Nhất định các đồng chí sẽ giành được thắng lợi cuối cùng...

Diễn văn kết thúc bằng mấy tiếng vỗ tay lộp bộp. Dù Trung Quốc đã ngả sang phương Tây, nhưng cái luận điệu của họ đầu thập kỷ 80 vẫn khó lọt nổi vào đôi tai của viên sĩ quan hải quân Sài Gòn trước đây. Hào trình vội tờ ủy nhiệm thư và cái biên lai Hoàng Quý Nhân kiếm được từ cuộc mật đàm Bắc Kinh hồi mùa thu. Viên thuyền trưởng tàu Hồng Kỳ ra lệnh cẩu hàng xuống thuyền và đồng thời mở tiệc chiêu đãi thủy thủ đoàn của hai tàu biệt kích.

Mười giờ sáng hôm sau Hào tạm biệt nhưng người Trung Quốc cho tàu quay mũi về hướng đất liền. Đúng như lần trước họ được một thuyền máy đón ở Hòn Quy. Hào mở máy phát tín định vị. Khi vào đến sông Hậu mới gặp một trạm kiểm soát chặn lại. Hào được lệnh lên bờ trình giấy.

Hào đã gặp Hai Bền. Anh trình bày tóm tắt lại các tin tức và công vụ chuyển kiện hàng tuyệt mật ra nước ngoài của chuyến đi này. Hào cũng báo tin còn hai tàu xuất phát sau tàu anh bốn giờ không biết chúng đổ hàng ở đâu.

- Ngày mai sẽ có cuộc kiểm soát ở Nhơn Khánh trên sông Hậu, tôi sẽ trao đổi với anh đối pháp cụ thể. Nếu chỉ là hàng lậu thì anh có thể hối lộ mà đi. Nhưng là tài liệu thì sẽ có cách xử lý sau. Chúng tôi đã bám sát được hai tàu MP.249 và S.863 rồi.

- Dạ.

- Anh mang giúp tôi chiếc máy này sang Westland - Bền đưa cho Hào chiếc máy phát tín định vị giống như chiếc trước đây - Sẽ có người đến nhận theo mật khẩu cũ. Anh có mang theo máy ảnh không?

- Dạ có.

- Anh cố chụp được người nhận hàng ở máy bay trực thăng nhé. Phim chụp được đưa cho người đến bắt liên lạc ngay. Anh nhớ chưa?

- Dạ nhớ.

- Thôi anh về thuyền đi.

Sau khi giao số hàng Trung Quốc cho bọn phản động nội địa, Hào được mời đến một cái lều cách đấy chừng một cây số. Có hai người trong lều chờ anh. Không có đèn đóm gì nên Hào không rõ mặt người đối thoại. Khi người dẫn đường được lệnh lui xa, người trong lều mới hỏi anh:

- Anh Hào đấy à?

- Dạ.

- Anh nhận nhiệm vụ của ông Warrens giao cho rồi chứ?

- Dạ.

- Anh nói lại xem có đúng không nào.

Hào trình bày lại những gì Warrens giao.

- Đúng như vậy. Người tháp tùng hòm tài liệu là Chín. Nó sẽ chịu trách nhiệm về chiếc hòm đó. Nếu chẳng may gặp Cộng sản kiểm soát, các anh có trách nhiệm che giấu chiếc hòm. Nếu lộ ra Chín sẽ hối lộ bọn khám xét. Nếu hối lộ không xong thì các anh phải nổ súng giết bọn kiểm soát mở đường mà chạy chứ không thể để lọt thứ này vào tay địch.

- Thưa ông, bọn tôi đâu có võ khí. Hơn nữa ông Warrens không giao cho tôi nhiệm vụ nổ súng. Làm trái lịnh ông Warrens tôi ớn lắm.

- Không sao! Làm tốt hơn thì có gì mà lo. Tôi sẽ báo cáo chuyện này với ông ấy. Còn súng đạn Chín sẽ mang cho các anh.

- Thế tôi phải đón Chín ở đâu?

- Anh cứ cho thuyền đi. Sẽ có nhột con thuyền nhỏ đón anh xin cạp mạn. Người đó sẽ gọi anh "Chú Tư ơi ba cháu đã về chưa?". Anh trả lời "Ba về bữa qua rồi, Chín lên đây với chú'. Nó sẽ đưa các thứ sang tàu anh.

- Dạ, ông còn chỉ thị thêm gì không ạ?

- Không. Từ phút này anh sẽ theo đúng hành trình của mình.

- Bây giờ tôi cho thuyền ra nghỉ ở sông Hậu đoạn gần Nhơn Khánh. Mười hai giờ trưa mai bọn tôi nhổ neo. Ông bảo Chín bám sát tôi.

- Anh yên tâm. Hàng trăm con mắt bám anh chứ chẳng riêng gì thằng Chín.

Bộ chỉ huy Trung tâm phản gián đã họp bàn về kiện hàng bọn phản động dự định chuyển ra nước ngoài. Tài liệu, vàng bạc, kim cương, thứ gì cất trong chiếc két sắt đó. Có đồng chí còn đặt giả thiết có thể là một trái mìn.

- Câu trả lời chắc chắn nhất là khi khám xét ta sẽ biết rõ hòm sắt đó đựng gì - Đại tá Đức phát biểu - Ta nêu ra giả thiết mìn là đề phòng kẻ địch sợ tài liệu quan trọng đó lọt vào tay ta. Chúng gài bẫy phòng khi ta mở. Mìn nổ sẽ hủy toàn bộ tài liệu lẫn người khám xét. Có thể là kẻ hộ tống cũng chết luôn, nếu vậy sẽ bịt kín mọi hướng đi của ta sau này.

- Tôi đề nghị ta đi vào từng giả thiết để có đối pháp cụ thể. Nếu khám thấy tài liệu mật thì xử trí thế nào? Vàng bạc, kim cương thì sao? v.v...

- Thứ nhất nếu là tài liệu mật thì ta phải bắt cả thuyền vì có tha thì nhân mối của ta cũng lộ, sẽ bị địch hành tội. Nếu là vàng bạc; kim cương thì ta cứ việc tịch thu rồi tha cho người và thuyền. Chúng có thể cho là người khám xét muốn chia nhau của nên không muốn đem tội phạm về xét xử.

- Còn nếu là ma tuý hay kỳ nam thì sao?

- Cũng cứ tịch thu thôi.

- Nếu là ma tuý thì không cần thiết phải tịch thu. Ta có thể gạ chúng hối lộ rồi tha - Bền đề nghị - Ta đang cần nhử chúng nên ta phải biết “Buông con săn sắt". Ta cần gây ảnh hưởng tốt cho Trương Tấn Hào. Theo tin Nghĩa điện về cũng như Hào vừa báo cáo, có thể chúng sẽ mở cuộc đổ bộ một tá chính khách lưu vong về lập chính phủ lâm thời. Chúng cũng sắp tiến hành kế hoạch T20-20. Nếu Hào là thuyền trưởng thì có lợi cho ta biết bao! Lờ đi mấy cân ma tuý để chặn đứng những âm mưu lớn hơn thì là việc đáng làm.

- Tôi cũng đồng ý với trung tá Bền. Ta có thể thu thập bằng chứng về vụ buôn lậu ma túy này để làm vũ khí chống Warrens khi cần thiết.

Cuộc thảo luận đã thống nhất ý định đối phó. Một kế hoạch bám sát NT.4206 và 1505 được triển khai khẩn cấp. Vùng Hải quân 4 đưa ba phân đội hải thuyền siêu tốc vào vị trí phong tỏa ở ngoài khơi.

Khi hai con tàu biệt kích đi vào kinh 13 thì trạm gác của dân quân yêu cầu dừng lại. Hào mang giấy tờ lên trình thì gặp ông dân quân Bền. Hào nói nhỏ: "Hàng chưa lên tàu. Có thể ra đến bờ biển chúng mới cho đưa hàng lên”. Bền phổ biến cho Hào một số việc rồi cho tàu đi...

Bốn giờ mười lăm phút hôm sau, một tàu siêu tốc của Hải quân đã chặn hai chiếc 4206 và 1505 lại ở tọa độ 1023-796. Sau khi xét hỏi giấy tờ, người ta phát hiện ra hợp tác xã đánh cá Hải Phú không có số tàu 4206, nên quyết định khám tàu. Người ta lôi ra một hòm sắt nặng giấu dưới đống phao lưới.

- Chiếc hòm này đựng gì?

- Dạ, thưa hộp đồ sửa chữa của chú Chín đó.

- Chín là ai?

- Dạ tôi.

Mặt Chín xám ngắt không còn hạt máu. Thái dương y giật giật.

- Thứ gì trong hòm?

- Dạ thưa tui hổng biết.

- Của anh sao anh lại không biết?

- Dạ người ta nhờ tôi mang ra khơi chuyển cho người di tản.

- Thôi được, ít phút nữa anh sẽ thấy trong đó đựng thứ gì.

Chín bị còng tay đưa sang chiếc sà lúp nhỏ có ba chiến sĩ đi kèm. Chiếc sà lúp lao vào phía đảo Hòn Ngao cách dó vài trăm mét. Thuyền NT.4206 bị giám sát chặt chẽ dưới họng súng.

Chiếc hòm sắt được đưa lên hoang đảo. Sau hai mươi phút nắp hòm bật ra. Nó chứa một thứ bột trắng như tuyết. Các chuyên gia xem xét kỹ lưỡng và kết luận nó là bạch phiến, nhưng các anh vẫn vờ như không biết gì.

- Anh có biết thứ này là gì không? - Một người hỏi Chín.

- Dạ em hổng biết. Em chỉ có nhiệm vụ mang đi thôi ạ.

- Ra tòa với món hàng này anh sẽ được lãnh án tử hình hiểu chưa?

- Dạ con hiểu, con lạy các chú, các chú tha cho con. Các chú bắt nộp phạt bao nhiêu con cũng xin nộp.

- Nộp phạt? - Một anh mỉm cười nhún vai - Anh có bao nhiêu tiền mà đòi nộp phạt?

- Dạ con có vàng. Con xin nộp các chú tất cả.

Mấy người lính nháy mắt với nhau rồi tháo khoá cho tên Chín. Tên Chính moi trong người ra một gói nhỏ nặng trịch đưa cho người lính. Anh ta mở ra. Những lá vàng "sư tử" lấp lánh. Anh ta gói lại.

- Thôi được, đóng hòm lại. Chúng tôi tha cho anh, không phải lập biên bản nghe.

- Dạ.

- Lẹ lên mà ra tàu. Ai hỏi thì bảo chỉ có vài ký kỳ nam thôi, hiểu chưa?

- Dạ con hiểu. Con đội ơn ba chú.

Chiếc sà lúp đưa họ trở lại tàu NT.4206.

Năm phút sau tàu Hải quân nổ máy chạy về hướng Đông. Hào cho tàu NT.4206 phóng nhanh về hướng Tây rượt theo chiếc 1505. Sáu giờ, ra đến hải phận quốc tế, họ đã thấy vè vè trên đầu chiếc trực thăng "Hiệp sĩ biển cả” to đại. Hai bên trao đổi tín hiện xong, chiếc trực thăng hạ sát xuống nóc tàu 4206, mặt nước cuộn sóng dữ dội làm con tàu chao đảo. Thang dây hạ xuống. Tên người Âu đầu hói da gà chọi lanh lẹn lao xuống. Hào nháy mắt với hắn rồi bảo Chín khuân chiếc hòm sắt ra giao cho hắn, để nhận lại chiếc huy hiệu. Nhưng tên gà chọi bắt Hào phải ký biên bản bàn giao vì chiếc hòm bị mất niêm phong.

- Chúng tôi bị hải thuyền cộng sản khám xét. Họ đưa Chín người tháp tùng lên bờ bắt mở hòm ra. Chú Chín phải nạp vàng hối lộ cho họ mới giữ nổi chiếc hòm. Xin ông trình lên ngải Warrens chuyện này giúp tôi. Tôi không được chứng kiến chuyện phá niêm.

Hào ghi lại chuyện trên vào biên bản bàn giao rồi mới ký và bắt Chín ký vào bên. Tên đầu hói cho kiện hàng vào túi lưới chắc chắn rồi ra hiệu cho chiếc trực thăng hạ xuống. Tên Chín được lệnh leo lên trước. Tên đầu hói khoác kiện hàng theo thang dây lên sau. Hào đã kín đáo chụp được những hình ảnh này cho tới lúc chiếc "Hiệp sĩ biển cả" nuốt chửng tên đầu hói và kiện hàng vào bụng nó rồi biến đi sau những đám mây thấp lang thang trên mặt biển.

Bốn giờ sau Hào thấy trước mũi tàu 4206 lập lờ một vật gì trên mặt sóng. Anh giảm tốc quay mũi tránh thì nhận ra một xác người đang bị đàn cá bâu đến rỉa. Bộ mặt nạn nhân đã biến dạng không còn ra hình thù gì nữa. Hào bỗng giật mình nhận ra bộ quần áo và mái tóc của thằng Chín. Ôi cái thằng tháp tùng kiện hàng bí mật vừa leo lên chiếc trực thăng sáng nay mà giờ đây đã thành người thiên cổ. Hào cho tàu lượn lại một vòng lấy máy ảnh chụp cái xác chết rồi mới tăng tốc đi thẳng. Thủy thủ đoàn, sau cơn căng thẳng thần kinh đã ngủ say như chết, không ai hay biết gì về cái xác chết trên biển.

Tại sao chúng giết thằng Chín rồi ném xuống biển? Có thể là chúng muốn bít kín mọi đường rò rỉ tin tức về những gì chứa trong chiếc hòm thép bí mật. Chắc thằng Chín đã tường thuật lại cuộc khám xét quá thành thật. Hay thằng Chín cũng có phần trong kiện hàng này nên bị thủ tiêu. Còn Hào số phận anh sẽ ra sao? Liên tưởng đến chuyện trên, anh thêm lo lắng và cảnh giác. Nhưng đêm hôm đó Hào vẫn lái con tàu vào Hải cứ Gamma chính xác. Hôm sau cả bốn con tàu đều quay trở về an toàn.

Bảy Dĩ đón tiếp các thủ thủ đoàn với những chai sâm-banh ướp lạnh. Ngay sau đó Hào đã được Bảy Dĩ mời đi Voca City. Lần này anh được gặp Warrens ở Văn phòng riêng của ông ta trong Sứ quán Mỹ. Warrens thân mật bắt tay Hào và khen:

- Công việc của ông được thực thi rất hoàn hảo. Tôi chỉ muốn hỏi ông thêm một điều: Liệu kẻ địch có biết được nội dung những tài liệu chứa trong két sát của tôi không?

- Thưa ông Warrens, tôi nghĩ là không. Khi chiếc hòm bị đưa lên đảo Hòn Ngao để kiểm tra thì chỉ có mặt ba người lính và chú Chín, người theo hàng mà thôi. Có thể khi chúng phá niêm định khám thì Chín đã kịp nêu ra đề nghị hối lộ. Những người lính này bị những lá vàng hấp dẫn nên họ làm việc chiếu lệ. Chúng tôi chỉ phải chờ đợi chừng hai chục phút thôi. Tôi không biết gì hơn ngoài điều Chín kể lại.

- Tại sao họ không khám tại chỗ mà phải đưa lên đảo?

- Tôi nghĩ là vì họ muốn dọa nạt, mặc cả khoản hối lộ. Họ không muốn làm việc công khai trước tất cả mọi người.

- Cảm ơn ông. Tôi tin vào lòng trung thành của ông - Warrrens rót rượu và nâng cốc - Chúc sức khỏe của ông và sự hợp tác lâu dài của chúng ta!

Warrens đặt trước mặt anh một tập đô-la:

- Đây là phần tiền của ông trong hải vụ này.

- Cảm ơn ông Warrens.

Trước khi nhận tiền Hào trao lại cho ông chủ cái huy hiệu nhận ở tay lão đầu hói.

- Ồ, cái này tôi tặng ông làm kỷ niệm. Có thể coi như chiếc huân chương tặng cho một chiến công. Có lúc nó hữu ích cho ông!

- Cảm ơn ngài Warrens.

Trên đường về Hải cứ Gamma. Hào vẫn còn thấy lo. Được nhận thưởng, được ban khen, được tiếp đón niềm nở, nhưng ý nghĩ bên trong của Warrens ra sao thì anh không đoán nổi. Mấy ngàn đô-la cứ nóng ran lên trong túi ngực khi anh nghĩ mình ngày càng bị lún sâu vào những âm mưu tội ác do CIA điều khiển và giám sát rất chặt chẽ. Anh rất khó có đường lui. Khi không còn có ích cho Warrens nửa, số phận của anh có lẽ cũng sẽ kết thúc bi thảm như thằng Chín thôi. Nhưng rồi Hào lại vững tâm hơn vì anh đã có điểm tựa từ phía Tổ Quốc. Anh không cô đơn nữa, và nếu cần anh sẽ có lối thoát.

CHƯƠNG XII

CHƯƠNG TRÌNH T20-20

Đại tá Nguyễn Hữu Đức đã chọn từ Ikébana là nghệ thuật cắm hoa - tượng trưng cho cuộc sống tốt đẹp, cho sự thanh khiết của môi trường sống, cho mối hên hệ giữa con người và thiên nhiên đầy hương sắc - để đặt tên cho chiến dịch ngan chặn cuộc thử nghiệm chất độc T20-20 của C.C.C. do tên tội phạm Nghiêm Bửu Châu tiến hành.

Do tính chất nguy hiểm dã man của cuộc thí nghiệm nên cơ quan Tình báo Quân sự đã báo cáo với cấp trên đề nghị sử dụng Hải quân của vùng, lực lượng công an nội địa căng ra ba tầng lưới ngăn chặn.

Tầng xa nhất là mạng lưới tình báo hải ngoại. Phải bám chắc con mồi từ xa, đánh dấu quỹ đạo của chúng từng thời điểm báo cáo về Trung tâm. Dsẵn sàng xét quy mô và phương thức hoạt động cụ thể của chúng.

Tầng lưới thứ hai do Hải quân và lực lượng ven biển dăng ra ngoài khơi, không để lọt mục tiêu, không bị bất ngờ trong mọi tình huống, mọi thời tiết.

Tầng thứ ba nằm trong nội địa bắt gọn bọn mật nhập, đập tan âm mưu phối hợp của bọn phản động bên trong.

Một kế hoạch to lớn như thế triển khai trên toàn lãnh thổ là rất khó khăn tốn kém nhưng vẫn có nhiều kẽ hở, chưa thể yên tâm. Do đó cấp trên quyết định tôi phải ở lại Voca City ngay cả trong dịp Noel. Tôi không thể về bán đảo Nelson để đón chào thập kỷ 80.

Trung tâm không cho phép được bắt liên lạc trực tiếp với Trương Tấn Hào. Tám được chỉ định là nhân vật đệm. Anh đã đến gặp Hào và nhận được chiếc máy phát tín định vị và cuốn phim Hào chụp trên mặt biển. Theo chỉ thị của Trung tâm, Tám chuyển những thứ này cho tôi.

Trung tuần tháng giêng năm 1980 tôi nhận được thư của Bạch Kim. Tôi vội mở ra đọc.

Anh thương yêu

Cả nhà đón lễ Noel thiếu anh nên chẳng thể vui được. Hai mẹ con đều buồn, nhưng biết làm sao? Em muốn gửi đến cho anh mấy bông tuyết vì nghĩ là dưới ánh mặt trời gay gắt ở Westland anh cần đón một cái gì dịu mát... Con trai chúng ta vẫn mạnh khỏe. Sau những ngày lễ cuối năm con lại xa em đến ở trường nội trú. Em xin báo cho anh một tin vui: Chúng ta ta sắp có con! Ôi em mong đợi điều này và nó đã đến! Có con trai rồi nên em mong có đứa con gái, anh có thích không? Ngoài bốn mươi rồi mới sinh nở nên em cũng hơi lo. Anh có lo cho em không? Mấy bữa nay em thấy đói, nhưng ngửi thấy mùi thức ăn lại không sao ăn được. Ôi sao mà em nhớ anh quá! Nếu lúc này có anh ở bên em sẽ bắt đền anh đấy. Em mong đợt viết bài này của anh chóng kết thúc và mọi dự tính của chúng ta đều thành đạt tốt đẹp. Còn chuyện tổ chức đám cưới thì có lẽ đã lỗi lỗi thời. Chúng ta ta sẽ lựa một hoàn cảnh thuận lọi để công bố với bạn bè còn hơn là bày trò cưới xin gây cười cho thiên hạ!

Châu đến thăm anh Ân và cho biết cuối tháng này sẽ sang Đông Nam Á. Nếu Châu đi, em sẽ gửi quà cho anh, chắc anh cũng mong điều đó. Em đã cho Châu đia chỉ anh. Nếu hai người gặp nhau thì vui biết mấy. Lâu lắm em không gặp Thạch, ông già nói Thạch đang đi Châu Âu.

Chuyện nhà chỉ có vậy. Tết ta chắc anh cũng chưa về được. Em chúc anh một năm tốt lành, mọi sự như.

Yêu thương anh,

Bạch Kim

Tôi áp lá thư vào ngực xúc động vì những tin quan trọng. Niềm vui, nỗi nhớ, sự lo lắng như cùng ập đến một lúc. Tâm tư tôi ngổn ngang bề bộn bao nhiêu bài toán.

Tất cả buộc tôi phải chiến thắng, thắng thật hoàn hảo từng trận và toàn chiến dịch để trở về với Bạch Kim, với nỗi lo âu và niềm mong đợi của cô.

Một buổi tối tôi đang ngồi viết bài thì John Antonio đến thăm. Chúng tôi bắt chặt tay nhau.

- Anh mới sang?

- Sáng nay.

- Anh ở buồng nào?

- Buồng mười sáu khách sạn Hilton. Ở đây có cả vợ chồng Ramiro và một đoàn các nhà khoa học của ba hội từ thiện tư nhân Mỹ. Họ định xin vào Việt Nam để điều tra tội ác hủy hoại môi trường sống ở các vùng Mỹ sử dụng chất độc màu da cam.

- Có thể gọi đây là chuyến đi của cả gia đình!

- Đúng thế. Mời anh đến chỗ chúng tôi. Theresa rất vui nếu được gặp anh.

- Rất hân hạnh! - Tôi vội vàng theo John Antonio đến khách sạn Hilton. Theresa giới thiệu tôi với cả phái đoàn Mỹ.

- Các bạn hãy làm quen nhau. Đây là nhà báo Hoài Việt người bạn Việt Nam thân thiết của gia đình tôi từ nhiều năm nay. Ramiro  Alonzo nhà nghiên cứu văn hóa cổ, chồng tôi, Mục sư Tin lành Willieam Dowson. Còn đây là tiến sĩ George Mirault chủ tịch hội từ thiện Saint-Louis. Ông Tom Miller trợ lý trung tâm hóa dược Los Angeles. Ông Michael Douglas cựu quân nhân không lực. Tất cả chúng tôi muốn đến Việt Nam để nghiên cứu những vùng bị chất độc da cam tàn phá. Sự thật này sẽ giúp cho chiến dịch quyên góp của chúng tôi giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh được đẩy mạnh hơn.

- Bao giờ thì các bạn bay đi Việt Nam?

- Điều đó tùy thuộc vào sự cho phép của Hà Nội. Chúng tôi rất lo lắng vì giấy phép của Bộ Ngoại giao Mỹ cấp cho chúng tôi chỉ có giá trị một tháng.

- Tôi tin là Hà Nội không dám từ chối một công việc từ thiện.

- Biết thế nào được anh. Chính trị luôn luôn can thiệp vào mọi chuyện. Chúng tôi xin phép sang Việt Nam từ mùa thu năm 1979. Bộ Ngoại giao Mỹ luôn luôn khước từ vì lý do hai quốc gia chưa có quan hệ ngoại giao. Mãi sau lễ Noel, vụ Á Châu mới gợi ý là nên sang Westland gặp Đại sứ Việt Nam mà xin nhập cảnh. Bộ Ngoại giao chỉ có thể giúp chúng tôi đến Voca City được thôi.

- Đến đấy các bạn sẽ thấy đất nước tôi là đáng yêu lắm. Tiếc là hậu quả của chiến tranh vẫn còn chưa buông tha những người dân vô tội. Sự giúp đỡ của những người Mỹ có thiện chí lúc này càng cần thiết. Mối ác cảm và thù địch cũng cần phải loại trừ khỏi môi trường sống tinh thần.

Sau cuộc gặp mặt thân mật chừng một giờ, tôi tạm biệt anh em Antonio trở về khách sạn Norodom. Bộ mặt lạnh lùng của Tom Miller và cặp kính đen u tối của Michael Douglas đặt cho tôi nhiều dấu hỏi. Hai người này mang theo những va-li dụng cụ, có thể coi như những phòng thí nghiệm di động, liệu có liên quan gì đến chất T20-20 không?

Tôi điện tin này về nước và yêu cầu cho phép phái đoàn này vào Việt Nam. Quy trình và thời điểm hoạt động của họ đáng cho ta lưu ý nghiên cứu. Điểm chú mục là Miller và Douglas. Tôi cảm thấy giờ khởi sự sắp điểm. Bức điện của tôi cũng là tín hiệu báo động đầu tiên cho những lực lượng tham gia chiến dịch Ikébana.

Ba hôm sau tôi đến Pandon gọi điện cho Tùng Lâm. Tôi định mời anh ra khách sạn Long Yan nhưng anh từ chối. Anh nói đang bận tiếp một nhóm kiểm tra kỹ thuật chứ không nói gì hơn. Anh xin lỗi và hẹn khi khác sẽ đến thăm tôi. Tôi đến Hải cứ Gamma thì người gác trả lời ông Hào bận công chuyện không tiếp khách. Tôi quay lại Pandon tìm một vị trí thuận lợi để quan sát con đường ôtô đi Voca City. Tôi hy vọng sẽ nhận ra một bộ mặt nào đó trong phái đoàn kiểm tra ở mật cứ Béta. Nhưng tôi đã thất bại. Ánh đèn pha chói mắt, tôi không thể nhìn thấy những người trong xe. Hôm sau tôi về Voca City. Tôi chờ đợi chỉ thị của ông chủ bút.

Đầu tháng 2, tôi nhận được bức điện ngắn từ Cali của luật sư Hạnh. Ông bảo tôi phải thường trực ở Voca City chờ người đến đón. Tôi báo tin cho Tám hàng ngày phải đến ba hòm thư mật đề phòng bất chợt tôi phải đi xa. Tôi hồi hộp chờ đón những diễn biến quyết liệt sắp xảy ra. Nó kết thúc một giai đoạn công tác bốn năm sôi động của chúng tôi.

Một buổi sáng tôi bừng tỉnh khi có tiếng chuông gọi cửa.

Người đến với tôi là Mlle Eugénie Mộng Vân. Chị vui vẻ bắt tay tôi.

- Tôi rất vui mừng được là người bạn cùng hội cùng thuyền với cậu. Khuôn mặt đáng yêu của cậu làm tôi nhớ lại thời học sinh thơ mộng của tôi. Lẽ ra tôi phải là chị dâu cậu mới đúng. Nhưng tiếc là hồi đó cả tôi và Phan Quang Ân đều nghèo. Chúng tôi đã chia tay nhau trong khung cảnh bi thảm đó.

- Thưa chị, đôi lần tôi cũng được nghe chị Ngọc tôi kể lại thiên diễm tình trên, nhưng có thêm một chi tiết nữa. Chính chị đã quên anh Ân tôi vì lúc đó Paul Thái Văn vừa giàu lại vừa có thế lực?

Chị Mộng Vân nhún vai mỉm cười.đại đội

- Thái Văn giàu nhưng không thể so với cái móng tay cha con ông Cự Phách! Khi đã phản bội nhau thì bao giờ người ta cũng tìm được lý do để đổ lỗi cho nhau! Nhưng thôi, nói cho vui chứ làm sao chống nổi được định mệnh. Mỗi người chỉ có một cuộc đời do Thượng đế an bài. Không thể tham lam được, phải không cậu. Sáng mai chúng ta sẽ bắt đầu lao vào cuộc chiến đấu mới. Nhìn nét mặt cậu không vẩn một chút lo âu mà tôi thấy phát ghen lên được!

- Camus đã nói "Kẻ nào biết phớt đời, chấp nhận phi lý, kẻ đó hoàn toàn tự do!". Đời là một canh bạc chị ạ. Nó hấp dẫn người ta ở sự thua được. Nếu không có thua có được có lẽ chẳng ai thiết đánh bạc, thậm chí thiết sống nữa.

- Cái triết lý đó có lẽ cũng chỉ thích hợp với một tuổi tác nào đó thôi. Thuở trẻ tôi thích phiêu lưu, liều lĩnh. Nhưng gần đây thôi, tôi hay hồi hộp, dễ hoảng hốt và đôi lúc thấy sợ. Bản năng lấn át lý trí. Có lẽ đó là sự báo hiệu của tuổi già, của cái quá thời. Nhưng tình thế lại thúc đẩy tôi phải lao vào canh bạc cuối cùng này. Tôi sẽ cố bình thản dấn thân đến cái kết thúc. Được làm vua, thua làm giặc.

- Tôi thì chẳng thích làm vua, cũng không bao giờ muốn làm giặc. Tôi thèm khát trở thành một nhân chứng của lịch sử. Đó là cái giá cho mọi sự liều lĩnh của tôi.

- Còn tiền thì sao? - Mlle Mộng Vân mỉm cười nhìn tôi vẻ chế giễu.

- Không. Cái đó chẳng có gì đáng hấp dẫn. Cùng lắm chuyến đi này họ trả cho tôi ba, bốn ngàn đô-la. Một tháng nằm chờ ở đây tôi đã tiêu hết số tiền tương tự.

- Cậu yên tâm. Nếu sau này cậu em chịu cộng tác với tôi, Bộ trưởng thông tin văn hóa, cậu sẽ chẳng phải cầm bút ký những hợp đồng rẻ mạt như thế đâu.

Chuyện trò hồi lâu chị Mộng Vân cáo từ ra về. Chị còn dặn tôi đừng đi đâu xa kẻo khi có lệnh xuất quân lại không tìm thấy nhau. Tôi vội đến thăm John Antonio. Anh cho biết đoàn của Theresa đã bay đi Thành phố Hồ Chí Minh sáng nay. Tôi đưa cho anh cuốn phim về chuyến trao hàng trên biển và câu chuyện về một đường dây ma túy mới do Warrens cầm đầu. Tôi yêu cầu chưa công bố tin này vội. Muốn chống Warrens phải chuẩn bị đầy đủ hơn nữa. Chờ khi nào tôi cung cấp thêm bằng chứng đủ mạnh anh hãy công bố. Antonio ôm lấy tôi vui sướng và hứa sẽ làm đúng những điều hai chúng tôi thỏa thuận.

Chuyến bay đặc biệt chở Trung tướng Công An, Cục trưởng An ninh nội địa cùng các chuyên viên kỹ thuật hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất lúc mười tám giờ. Hai chiếc xe Yaz đã chờ sẵn để đưa đoàn cán bộ về Sở chỉ huy của phân cục miền Nam. Một cuộc họp được tiến hành lúc mười chín giờ. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức báo cáo tình hình:

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Hải quân vùng 3 vùng 4, các phân đội ra đa trinh sát hàng hải mở máy thường trực hai mươi tư trên hai mươi tư giờ để quản lý lãnh hải chặt chẽ. Các đơn vị Công an, lực lượng An ninh vũ trang tự vệ miền ven biển, cửa sông tăng cường tuần hành để theo dõi mỏi tàu thuyền lạ. Có gì khả nghi phải báo cáo ngay lên trên, đồng thời quản lý chặt mục tiêu, nhưng không được phép xử lý trừ khi chúng có hành động phá hoại hoặc định rút chạy ra vùng biển quốc tế.

Tình hình địch nội địa.

Cha Vũ Xuân Trinh không thấy xuất hiện từ chủ nhật trước. Ông Đỗ Thúc Vượng báo tin qua cụ Trương Công Nghị là ông được mời đi dự một séminaire politìque nhưng chưa rõ địa điểm. Ta đã cho bám sát ông Vượng thấy ông đi xe ca về hướng Tây Ninh. Đến Gò Dầu Hạ xuống xe. Một chiếc Honđa đưa ông về vùng Trảng Sanh. Đó là tin cuối cùng về cuộc hành trình này.

Phái đoàn những nhà từ thiện Mỹ hiện đang ở khách sạn Thống Nhất. Bên Công an và Ngoại vụ đã bố trí một phiên dịch và một bác sĩ đi theo, theo yêu cầu của họ. Ngoài xe phục vụ của khách sạn, họ xin thuê riêng một xe dự trữ để đi lại, ngoài những hành trình đã định. Kế hoạch của họ là khảo sát ba địa điểm. Một khu vực ở rừng Miền Đông thuộc Sông Bé. Một khu vực thuộc chiến khu Dương Minh Châu Tây Ninh. Địa điểm thứ ba ở biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia thuộc vùng Mỏ Vẹt. Thời gian từng khu vực họ xin được tự do lựa chọn vì hiện nay nội bộ vẫn chưa thống nhất được chương trình. Nếu họ phải chia để đi hai nơi một ngày thì họ mong ta thông cảm cho. Ta đã chấp nhận yêu cầu này. Hôm qua vợ chồng Alonzo và mục sư Willieam Dowson đi Sông Bé còn Tom Miller – Douglas và tiến sĩ Mirault đi vùng Mỏ Vẹt. Ngày mai tất cả sẽ đi Tây Ninh. Chưa có chương trình ngày kia.

Cuộc họp đang tiếp diễn thì đồng chí cơ yếu xin phép chuyển đến bức điện khẩn. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức đọc chung trước hội nghị.

“Cô Châu sẽ đi Hương Cảng trong vòng tuần lễ này. Tôi chưa mua được vé nên ngày đi chưa định. Nhưng chị Vân đã hẹn chờ”.

N5

Sau khi nghe kỹ bức điện Trung tướng nhận định:

- Địch sẽ bắt đầu hai sự kiện cùng một lúc. Ta loại bỏ giả thiết một hướng thực, một hướng hư. Chúng muốn gây ra một tai họa khủng khiếp mở màn cho sự ra đời của cái gọi là chính phủ lâm thời. Nếu ta tin là có sự phối hợp giữa Hoàng Bửu Châu với Douglas và Miller thì ta dễ dàng tìm ra hướng chủ yếu của chương trình T20-20. Ta cần chú ý vào những điểm Douglas và Miller đã đến hoặc xung quanh những điểm đó. Có thể y phải khảo sát nghiệm trường cả trước lẫn sau khi thử để có đầy đủ những luận chứng khoa học. Căn cứ vào tình hình cụ thể hiện nay, tôi phân công trung tá Nguyễn Văn Bền đặc trách chiến dịch Ikébana. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức chịu trách nhiệm chỉ huy chiến dịch An-pha, đón bằng được toán chính khách lưu vong đổ bộ vào đất liền, từ đó tìm ra hang ổ của Hoàng Quý Nhân. Nếu đúng như dự báo thì mọi chuyện sẽ xảy ra trong vòng bốn mươi tám giờ tới.

Hai mươi giờ ngày 18 tháng 2 năm 1980 tổ trinh sát cửa sông Sài Gòn nhận được tín hiệu vô tuyến đặc biệt. Điều do báo hiệu tàu NT.4206 đang tiến vào đất liền. Nửa giờ sau họ đã quan sát được con tàu biệt kích đơn độc này qua ống kính hồng ngoại. Các đài quan sát bàn giao mục tiêu cho nhau bằng điện thoại. Lực lượng xung kích cơ động được lệnh sẵn sàng chiến đấu.

Cách thị xã Bà Rịa chừng mười lăm kilômét tàu NT.4206 nhận được mật hiệu quy ước đã cập bờ bên một vườn cây um tùm. Chờ cho bảy hành khách mang theo hết hàng lên bờ, tàu 4206 lại tiếp tục đi về hướng Thành phố Hồ Chí Minh.

Những người đổ bộ đã gặp được liên lạc viên và được thông báo là phải di chuyển nhanh ra đường lớn để lên ô-tô đi tiếp. Họ đang chuẩn bị hành trang thì ánh đèn pin lóe lên từ bốn phía. Có tiếng hỏi lớn:

- Đoàn ông Châu hay đoàn ông Thạch đấy?

Nghiêm Bửu Châu giật mình vì câu hỏi sai mật khẩu.

- Trưởng đoàn đâu?

- Mật khẩu?

- Mật khẩu mẹ gì? Xưng tên nhanh lên kẻo lại đi lầm xe!

Bỗng bốn chiếc đèn pha sáng bừng chiếu về phía những tên biệt kích.

- Đứng im, không được nhúch nhích.

Nghiêm Bửu Châu mất hồn. Thế là hết: Y từ từ giơ tay lên khỏi đầu. Những tên khác cũng đứng như cột chôn. Chúng lần lượt đưa tay vào khóa số tám.

- Những trái bom chứa chất T20-20 đâu?

- Dạ thưa... trong hai chiếc va-li đen.

Tất cả bọn biệt kích và tang vật được đưa lên xe ô-tô hòm kín đưa về nhà lao Biên Hòa. Hai trái bom được chuyển đến một nơi đặc biệt để đảm bảo an toàn.

Bọn Nghiêm Bửu Châu sa lưới quá nhanh và gọn làm cho Hai Bền rất phấn khởi. Đây là chiến công lớn sau nhiều năm săn đuổi. Nhưng nghĩ đến Hoàng Quý Nhân là tim anh lại sôi máu. Anh phóng xe về sở chỉ huy báo cáo toàn bộ tình hình lên Cục trưởng. Sau khi được đồng chí Cục trưởng bắt tay chúc mừng chiến công to lớn đầu tiên, Hai Bền liền đề nghị xin cho chuyển sang chiến dịch An-pha.

Cục trưởng nhìn anh mỉm cười:

- Ikébana đã kết thúc đâu?

- Thưa trung tướng, âm mưu gây tội ác của địch bị chặn đứng, tội phạm bị bắt gọn với đầy đủ tang chứng. Như vậy coi như vụ án đã bị phá.

- Đồng chí nên nhớ nhiệm vụ của ta là tình báo chứ không phải là điều tra hình sự! Đồng chí đã gặp lại Trương Tấn Hào chưa? Nguyện vọng của anh ta ra sao? Vai trò tiến công của anh ta đã kết thúc hay còn phải giao nhiệm vụ tiếp? Chúng ta sẽ hướng anh ta về phương nào? Chắc là chưa! Đồng chí đã tháo gỡ ngòi nổ hai trái bom chưa? Bí mật của chất T20-20 như thế nào? Đã bắt tên Nghiêm Bửu Châu viết lại công trình nghiên cứu của nó chưa? Nếu chẳng may nó tự sát mất thì Chúng ta tự mò ra cấu trúc của chất độc này à? Liệu có nên tổ chức một cuộc họp báo ở ngay chợ Bầu Trang thị trấn Vĩnh Cát vào sáng ngày kia để tố cáo tội ác này trước dư luận báo chí, trước cả những nhà từ thiện chân chính của nước Mỹ và vạch mặt cả những tên CIA đội lốt nhà từ thiện đến đây định biến mảnh đất thanh bình của chúng ta thành nghiện trường chết chóc? Chắc là nên làm! Vậy thì đồng chí hãy lo tiếp những việc đó đi. Tám giờ ngày mai báo cáo cho tôi những ý định cụ thể. Việc lùng bắt Hoàng Quý Nhân là rất quan trọng, nhưng không nóng vội được. Đây là những cố gắng chung của tất cả chúng ta chứ chuyện vồ hụt tên tội phạm này mấy năm nay không phải là trách nhiệm của riêng đồng chí. Nếu đồng chí hoàn thành thắng lợi chiến dịch Ikébana thì cũng là một kỳ tích!

Trung tá Nguyễn Văn Bền cảm thấy lúng túng. Mặt anh nóng bừng vì nhận ra cái tính nông nổi của mình. Anh đã quá say sưa với thắng lợi bước đầu mà quên suy nghĩ sâu hơn để đề xuất sự phát triển đúng hướng. Anh chân thành nói với đồng chí Trung tướng Tư lệnh chiến dịch:

- Tôi đã ý thức được vấn đề, tôi sẽ chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Trung tướng.

Thế là anh quyết định không đi ngủ. Anh suy nghĩ biện pháp, bố trí lực lượng ngay trong đêm để guồng máy trong tay anh tiếp tục hoạt động theo hướng gợi ý của cấp trên trước lúc trời sáng.

Ở trại giam người ta đã biệt lập bảy tên tội phạm và hai tên dẫn đường nội địa để hỏi cung sơ bộ.

Biên bản cung khai của Nghiêm Bửu Châu như sau:

- Tên anh là gì?

- Tôi là Vũ Văn Hơn.

- Nghề nghiệp?

- Lính đánh thuê cấp trung úy.

- Đơn vị nào?

- Biệt cứ Béta.

- Anh đổ bộ vào Việt Nam với mục đích gì?

- Tôi chuyển cho những người chống đối trong nội địa hai trái bom.

- Chuyển tới ai? Ở đâu?

- Một người có mật danh X5. Người đó đón chúng tôi ở cây số 42, đường Sài Gòn - Vũng Tàu.

- Loại bom gì?

- Dạ (Lúng túng) tôi không biết.

- Chuyển xong anh làm gì tiếp?

- Dạ làm theo chỉ thị của X5, nhưng tôi bị bắt trước khi đến địa điểm hẹn gặp.

- Những lời khai trên của anh là bịa đặt, sai sự thật với ý định trốn tránh trách nhiệm. Tên anh là Nghiêm Bửu Châu, kỹ sư hóa học, làm việc tại phòng thí nghiệm của Công ty hóa chất C.C.C. Anh là tác giả của phát minh chất độc chiến tranh cực mạnh T20-20. Anh đã chọn Việt Nam, đất nước sinh ra anh làm nghiệm trường cho vụ nổ trái bom hóa học đầu tiên chứa chất độc T20-20. Đúng không?

(Mặt Nghiêm Bửu Châu tái mét như một xác chết).

Đây là một tội ác vô cùng tàn bạo. Nhưng nó đã bị chặn đứng. Khi hành vi của tội nhân chưa được bộc lộ hoàn toàn, chưa gây ra thảm họa thì họ vẫn hy vọng thoát khỏi hình phạt cao nhất: Tội tử hình. Tôi nhắc lại điều này để mở cho anh một lối thoát. Anh hãy thành thực hơn để tự cứu mình. Nếu anh ngoan cố hòng che mắt nhà chức trách thì tôi báo trước: sự dối trá sẽ bất lợi cho anh rất nhiều.

- Thưa quý ông, tôi xin khai lại.

- Phần trên đã kết thúc. Tôi hỏi tiếp. Cấu trúc và tác hại của chất độc T20-20 với con người và môi trường sống?

- Dạ thưa câu hỏi này rộng lớn quá. Xin cho tôi thời gian để tôi viết lại từ đầu, vì nó là cả một luận văn khoa học.

- Phương thức và thuốc men cấp cứu nạn nhân nhiễm độc T20-20?

- Dạ... đây không phải là lĩnh vực nghiên cứu của tôi! (Người thẩm vấn bật cười).

- Kẻ chế ra cái "mâu”, không mong muốn ai có cái "thuẫn" đủ sức đỡ nổi?

(Nghiêm Bửu Châu cúi xuống không nói gì)

- Cách tháo gỡ những trái bom này?

- Thưa Quý ông đầu tiên là tháo bộ phận đầu nổ. Ở trái bom thí nghiệm, đầu nổ còn gắn với máy đo tốc độ gió, bộ phận hẹn giờ, bộ phân phát tín đếm lùi báo nguy cho người thí nghiệm. Tách được cụm này ra là trái bom không còn nguy hiểm nữa. Muốn tháo các ngăn hóa chất C1 và C2 ra cũng rất dễ dàng. Bom thí nghiệm nên không có bẫy chống tháo gỡ. Xin quý ông cho phép tôi làm việc này để đảm bảo an toàn tuyệt đối.

- Thôi được, chuyện đó tính sau. Anh định thử trái bom ở đâu?

- Dạ... (Châu ngần ngừ vài phút)

- Dạ ở thị trấn Vĩnh Cát ạ.

- Tại sao các anh lại chọn nơi này?

- Vì nó nằm trên con lộ chạy sang Cam-pu-chia. Nơi đây có một nhà kho quân sự lại gần chợ Bàu Trang. Đúng ngày phiên chợ mật độ dân đông. Sau khi thảm họa xảy ra chúng tôi có thể tung tin vũ khí hoá học Liên Xô dùng cho chiến tranh Cam-pu-chia bị thất thoát ra ngoài ngoài gây nhiễm độc cho dân chúng.

- Ngày mai sẽ có cuộc họp báo ở Vĩnh Cát. Anh sẽ trả lời các ký giả đúng như những điều anh đã cung khai với tôi hôm nay. Được chứ?

- Dạ được.

Đúng tám giờ sáng ngày thứ năm, khi tất cả phái đoàn nghiên cứu của những Hội từ thiện Mỹ đến thăm vùng Mỏ Vẹt cách biên giới ba kilômét  thì có hai người trong bọn họ tách ra. Họ tự lái ô-tô phóng về phía thị trấn Vĩnh Cát. Đến cách thị trấn một kilômét họ dừng xe lại, mở khí tài chuyên dụng ra quan sát, nghe ngóng.

Một chiến sĩ công an đến chào họ và yêu cầu họ xuất trình giấy tờ. Anh công an ngạc nhiên vì người Mỹ này nói tiếng Việt rất tốt. Họ nói trong thời chiến tranh họ cũng đã đến đây và có nhiều ky niệm đối với cái thị trấn biên giới nhỏ bé và xinh đẹp này. Anh công an vui vẻ chỉ đường cho nọ.

Họ lái xe về hướng thị trấn. Một buổi sáng đẹp trời, gió nhẹ. Mùi hoa cỏ từ cánh đồng hòa vào trong không khí dịu dịu. Người đi lại tấp nập. Đàn có tráng đậu kín những thửa rllộng đang cày bừa. Càng gần thị trấn ngttời đi lại càng đông vui. Những chú lợn nằm thở hổn hển trong rọ. Những lồng gà vịt ngan ngỗng, những gánh cá tươi rói, những rổ trái cây chín mọng, tất cả đều tràn đầy sức sống lành mạnh trong thanh bình.

Trước một ngôi nhà đúc hai tầng giữa thị trấn họ nhận thấy hàng chục xe ô-tô đỗ chật cả sân. Họ dừng xe bên đường để quan sát. Hết nghe trong máy lại liếc đồng hồ. Họ thất vọng vì đã quá giờ hành sự từ lâu mà không nhận ra tín hiệu nguy hiểm đếm lùi báo nổ. Một người Việt ăn mặc chải chuốt từ trong ngôi nhà đi ra hỏi họ:

- Thưa hai ông, các ông đến tham dự cuộc họp báo ạ? À thế thì mời hai ông vào tham dự luôn cuộc họp báo đặc biệt này. Các ông sẽ tìm được nhiều tư liệu cho công cuộc nghiên cứu của mình.

Miller và Douglas đưa xe vào sân, rồi theo sự chỉ dẫn vào hội trường. Ở đây đã đông đủ các nhà báo và đại diện nhiều cơ quan thông tấn trong và ngoài nước.

Sau lời giới thiệu mục đích cuộc họp báo của ví đại diện Vụ báo chí Bộ Ngoại giao, Miiller và Douglas hiểu rằng kế hoạch của họ đã phá sản. Đến khi vị đại diện của Bộ Nội vụ cho dẫn Nghiêm Bửu Chân và đồng bọn ra trước phòng thì mặt Miller và Douglas tái nhợt. Cặp mắt họ đã nhận ra nhau, kẻ thí nghiệm và quan sát viên của hội đồng khoa lọc Ngũ Giác Đài đã đến điểm hẹn đúng giờ, nhưng họ không thể nói được gì với nhau. Cuộc thí nghiệm bất thành. Trò vu cáo cũng phá sản. Miller và Douglas phải ngồi liền gần hai tiếng đồng hồ nghe bọn Nghiêm Bửu Châu thú nhận tội ác. Thật chẳng có gì thú vị! Các nhà từ thiện chân chính của nước Mỹ thì tỏ ra bất bình. Họ đặt nhiều câu hỏi với tội nhân, họ ghi chép tỉ mỉ bản cáo trạng. Đây chưa phải là phiên tòa tuyên xử các phạm nhân, nhưng nó buộc tội chủ nghĩa đế quốc Mỹ, các tổ hợp công nghiệp chiến tranh đã bất chấp đạo lý, mang sinh mệnh các dân tộc khác và môi sinh của họ làm vật thí nghiệm để làm giàu trong cuộc chạy đua vũ trang.

Trái bom mẫu T20-20 được đem ra làm tang vật. Nó làm bằng thứ kim loại sáng bóng với những chi tiết kỹ thuật tinh vi, làm cho người xem cảm thấy nó giống như những máy móc dân dụng, giúp ích cho đời sống của con người. Nhưng khi các nhân viên kỹ thuật giới thiệu vệ tính năng lý thuyết của thứ vũ khí khủng khiếp này thì mọi người đều xúc động. Kỹ thuật viên giới thiệu chi tiết cuối cùng.

- Là trái bom thí nghiệm cho nên nó kèm theo một số phụ kiện khác. Đây là bộ phận tự động điều khiển nổ. Khi đưa về tư thế hẹn nổ bom phát ra một tín hiện ở tần số 102 mégaHzt. Những người thí nghiệm có thể nhận được từ xa tín hiệu này. Máy đếm lùi cho họ biết còn bao lâu bom sẽ nổ. Người thí nghiệm có thể phát tín ngừng hoặc kéo dài thời gian khi thấy cần thay đổi giờ nổ. Chỉ có những chiếc máy chuyên dụng đặc biệt của hai ông Miller và Douglas hiện để ngoài xe mới nghe và điền khiển nổi những tín hiệu này.

Tất cả cử tọa ngạc nhiên dồn mắt về phía hai chuyên gia Mỹ. Vị chủ tọa cuộc họp báo không đả động gì thêm vì thiếu chứng cớ để buộc họ vào mối liên hệ này. Nhưng ai cũng hiểu rằng sự thực là những người Mỹ này có dính líu vào cuộc thí nghiệm. Miller và Douglas vờ như không biết tiếng Việt. Họ không thanh minh. Họ cố tạo ra bộ mặt "phớt ăng-lê", nhưng cũng không che nổi vẻ lúng túng thực sự.

Mười một giờ, cuộc họp báo kết thúc.

Cách Banville ba dặm về phía Bắc có một hồ mrớc tuyệt đẹp. Từ trên máy bay nhìn xuống mặt hồ như một cái khuyên bạc lấp lánh ôm lấy nhưng vách đá dựng đứng. Đôi chỗ xuất hiện một đường viền cát vàng lượn theo bờ nước. Tiếp đó là những cánh rừng nhiệt đới xanh rờn. Giữa vùng bán đảo mọc lên mộc lâu đài bằng đá trắng.

Người ta nói lâu đài này được Thân vương Bouthavi xây dựng từ đầu thế kỷ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thân vương qua đời, lâu đài trở thành hoang vắng, cỏ mọc ngút thềm, chim chóc kéo đến làm tổ dày đặc dưới vòm mái. Mãi đến những năm sáu mươi, người con trưởng của Bouthavi mới bảo trì, xây dựng thêm một số công trình phụ nhưng vẫn cố giữ vẻ cổ kính để biến nơi đây thành một khách sạn du lịch.

Năm 1965 công ty South-East Asia thuê toàn bộ lâu đài trong năm mươi năm. Theo khế ước họ được phép hiện đại hóa bên trong, xây dựng lại bức tường đá bên ngoài, làm đường xe hơi bao quanh lâu đài chạy xuống bãi tắm và nâng cấp con đường dẫn tới Banville. Từ đó toàn bán đảo được công bố là vùng cấm địa. Lối vào duy nhất được đặt một đồn cảnh sát. Bất cứ sự thâm nhập nào qua hàng rào kẽm gai đều bị coi là bất hợp pháp.

Không ai biết South-East Company sử dụng vùng bất này vào công việc gì. Banville không phải là một trung tâm thương mại. Đó là một thành phố nhỏ, yên tĩnh. Gần đây các dịch vụ du lịch có phát triến nhưng rõ ràng công ty không nhằm vào việc đó. Hàng ngày cũng chỉ có năm ba chiếc xe con chạy ra vùng bán đảo. Thỉnh thoảng có chiếc trực thăng không mang cờ hiệu hạ cánh xuống đây.

Vào bên trong bức tường này, người ta sẽ nhận ra những đường nét hiện đại đã lấn át toàn bộ vẻ cổ kính mà tòa lâu đài còn giữ được. Hai ngôi nhà ba tầng mới xây cất trong khuôn viên. Những hệ thống ăng-ten lấp lánh ánh kim hướng lên bầu trời. Sân quần vợt ga ra để xe, bãi hạ cánh cho máy bay lên thẳng, một vài ụ súng phòng thủ mặc dù được bố trí khéo léo, lâu đài vẫn mang dáng dấp của một trại lính đặc biệt.

Warrens có mặt ở đây liền ba ngày rồi. Căn phòng làm việc của ông ta rộng đến gần trăm mét vuông. Những cột ốp đá hoa cương mài nhẵn bóng. Những chùm đèn thầu sang trọng gắn trên tường, trên trần nhà tỏa sáng rực rỡ. Sau bàn giấy của Warrens có treo một lá cờ Mỹ lớn rủ bóng xuống pho tượng bán thân Roger Hilsman bằng đồng đen. Bên phải là chiếc phù hiệu "Con ó ôm chiếc mộc" có in hình kim la bàn, biểu trưng của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ.

Trong căn phòng rộng lớn im phăng phắc đó chỉ có mình Warrens đi lại chậm rãi, đầu hơi cúi xuống vẻ mặt trầm tư. Đã hai ngày nay chưa có báo cáo gì của Nghiêm Bửu Châu lẫn Hoàng Quý Nhân, mặc dù theo quy ước ít ra cũng đã có hai phiên phát tin. Tất cả các ăng-ten của hệ ra-đa viễn thông đều hướng lên vệ tinh địa tĩnh ngoài vũ trụ để sẵn sàng truyền đi những tin tức của cuộc hành quân X1, nhưng cho đến phút này vẫn tuyệt vô âm tín.

Warrens nhìn đồng hồ: tám giờ mười lăm.

Có chuông điện thoại. Ông ta vội cầm lấy ống nghe.

- Hello! Ai đó?

- Thưa ông Warrens, tôi Smith đây.

- Có tin gì mới chưa?

- X3 chỉ phát đi một tín hiệu duy nhất: "im lặng". Chưa nhận được tín hiện gì của X1. Nhưng Đài phát thanh Thành phố Hồ Chí Minh thông báo: chín giờ sáng nay sẽ có buổi phát thanh đặc biệt tường thuật tại chỗ cuộc họp báo ở Vĩnh Cát.

Warrens giật mình. Thế là có biến rồi.

- Smith, ông có nghe họ công bố nội dung cuộc họp báo không?

- Dạ, chưa công bố nhưng có thể là để tố cáo một thảm họa. Tôi nghĩ là vụ nổ thử nghiệm đã xảy ra.

- Lạy chúa, tôi hy vọng là như vậy. Nhưng tại sao đến bây giờ vẫn chưa có báo cáo của X1, còn X3 lại chỉ có một tín hiệu "im lặng"?

- Tôi cũng không thể giải thích nổi điều này. Có thể họ phải di chuyển để tránh đòn phản ứng của đối phương.

- OK! Chín giờ mời các ông tới chỗ tôi để nghe tường thuật cuộc họp báo.

Đặt máy xuống, tâm trạng Warrens vẫn bồn chồn không yên. Chắc chắn đã có một cái gì đó xảy ra. Nhưng tốt hay xấu, may hay rủi? Cuộc hành quân này gắn với uy tín của ông ta. Số tiền đặt cọc cho ván bài quá lớn nên con bạc hồi hộp, căng thẳng. Lo lắng và hy vọng, được và mất, thắng và thua… cuộn lên trong ý nghĩ của Warrens làm cho ông ta mất đi khả năng suy đoán. Ông ta chỉ còn biết chờ đợi. Cái gì xảy ra sẽ xảy ra!

Chín giờ kém năm nhóm quan chức chóp bu của Đông Nam Á vụ CIA đã quây tròn trong phòng họp. Warrens, Smith cao gầy mặt mày nhẵn nhụi. Edmon Boss, râu quai nón, kính đen, cánh tay trần đầy lông lá với những ngón to như quả chuối đeo đầy nhẫn mặt ngọc. Bên trái là Dickson tóc màu bạch kim để dài, râu con kiến, dáng người thanh mảnh tao nhã. Tiếp đến Tom Hardy đầu hói, mặt nhẵn bóng, đỏ như gà chọi, dáng hơi gù, người thấp đậm. Bảy Dĩ cũng được mới dự với tư cách phụ tá cho Warrens về những vấn đề Đông Dương.

Đúng chín giờ ra-đi-o phát ra nhạc hiệu của Đài Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc họp báo bắt đầu và được phóng viên quốc tế của đài tường thuật bằng tiếng Anh. Bộ Tham mưu của Warrens dỏng tai nghe.

- Thưa quý vị thính giả. Đài chúng tôi xin tường thuật tại chỗ cuộc họp báo của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao, của vị đại diện Bộ Nội vụ, và vị uỷ Viên ủy ban điều tra về việc sử dụng hóa chất độc của Mỹ ở Việt Nam nhân một hành động tội ác mới của toán gián điệp biệt kích do Nghiêm Bửu Châu cần đầu dưới sự điều khiển của CIA đã bị phát giác và chặn đứng...

Mặt Warrens từ từ chuyển màu, mồ hôi toát ra. Smith ngơ ngác. Boss rung rung hàm râu, tháo kính ra lau. Khuôn mặt điển trai của Dickson ỉu xìu. Tom Hardy xoa xoa chiếc sọ nhẵn bóng, còn Bảy Dĩ thì bẹp gí xuống đệm ghế như quả bóng xì hơi...

Lời khai của Nghiêm Bửn Châu được người phóng viên dịch lại đầy đủ. Khi tên của Miller và Douglas được nêu lên thì cả Bộ Tham mưu của Warrens nhổm cả dậy như ngồi phải gai.

Một giờ đồng hồ nặng nề căng thẳng trôi qua. Không người nào trong bọn họ thốt lên một lời bình luận.

Warrens chống nắm tay xuống mặt bàn từ từ đứng dậy.

- Đúng là một thảm họa!

Bao nhiêu dấu hỏi hiện lên trong óc ông ta. Warrens chậm chạp đi trong phòng như không chú ý gì đến những phụ tá của mình. Tại sao Nghiêm Bửu Châu vẫn tồn tại để ra họp báo? Cộng sản đã không giao cho ông ta tháo gỡ trái bom. Làm sao họ có thể tìm ra mã số an toàn? Đến phút cuối cùng của chuyến đi, các chuyên gia vũ khí đã để lệch mã an toàn đi ba đơn vị. Chẳng lẽ chỉ sau vài chục giờ mà Cộng sản có đủ sức tìm ra mọi điều bí mật trên? Phải chăng trái bom đem ra họp báo chỉ là một mô hình phục chế. Nếu bom chưa tháo thì nó vẫn còn chứa đựng một nguy cơ, một cái bẫy, một sự chết chóc tiềm ẩn. Còn nếu Nghiêm Bửu Châu vẫn sống mà bom được tháo gỡ an toàn thì thất bại của Mỹ sẽ là rất lớn. Cộng sản sẽ nắm được toàn bộ bí mật của chất T20-20. Nó sẽ trở thành vũ khí đánh lại hoặc ít ra họ cũng tìm ra biện pháp phòng tránh hữu hiệu trong cuộc chiến tương lai.

Warrens quay lại nói với những người dưới quyền.

- Bây giờ đến lượt chúng ta phải thu hẹp hậu quả. Thật đáng buồn! Ông Smith phải theo dõi đối sách của Hà Nội đối với Miller và Douglas. Nếu họ bắt giữ để truy tố hai người này thì ta phải thở một cuộc vận động ngoại giao lớn từ diễn đàn Liên Hợp Quốc đến thủ đô các nước bè bạn và thù địch. Từ phái đoàn thường trực của Hà Nội ở New York đến các tổ chức từ thiện quốc tế để bảo vệ và giải thoát cho họ.

- Xin tuân lệnh! – Smith đứng thẳng như kiểu nhà binh trước mặt "Sếp" làm cho nét mặt Warrens hơi dịu đi.

- Ông Boss, ông chuyển cuốn băng ghi âm buổi họp báo về Washington kèm theo lời bình luận của tôi. Chúng ta đề nghị mở một đợt phản công trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Quan điểm của chúng ta là Hà Nội đã tổ chức một chiến dịch khiêu khích và vu cáo Hoa Kỳ nhằm đánh lạc hướng dư luận đang lên án họ sử dụng chất độc màu da cam do Liên Xô chế tạo ở biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan. Đó là một mánh khóe tuyên truyền không hơn không kém.

- Thưa ông Warrens, xin ông chỉ rõ cho mức độ đáp lại của chúng ta ở cấp bậc nào?

- Người phát ngôn của đại diện chúng ta tại Liên Hợp Quốc là đủ. Chỉ trả lời ngắn gọn như trên, không bình luận nhiều. Phần còn lại do báo chí họ làm.

- Tôi hiểu.

- Ông Dickson. Ông cho mở đài theo thường trực hai mươi tư giờ trên hai mươi tư để đón nhận tín hiệu của X1. Sự im lặng tạm thời của họ báo hiệu những hiểm nguy đang đe dọa họ. Có thể X1 phải di chuyển để đảm bảo an toàn. Có thể họ sẽ nối lại liên lạc với chúng ta bằng cách phát chệch giờ quy định để lừa đối phương.

- Xin tuân lệnh.

- Tuy toán đặc nhiệm của ông Châu bị bắt nhưng ta đã biết chuyện đó xảy ra trên mặt đất. Vì vậy cho đến phút này tôi vẫn hy vọng con thuyền NT.4206 thoát nạn. Vì vậy ta vẫn nhắc lại kế hoạch hiệp đồng với Hải đội 15 cho khinh hạm Polard tuần thám trên các tọa độ 4265-7932 HN-6453-P20. Cho máy bay P205 rà soát vùng biển quốc tế tìm vết tích của con thuyền NT4206. Nếu thấy thì phải báo ngay cho chúng ta để cho trực thăng đón.

- Dạ.

- Các vị có thể về được. Riêng ông Dĩ xin mời ngồi lại tôi bàn thêm ít việc.

Khi bốn quan chức mật vụ đi ra. Bảy Dĩ đứng thẳng người chờ lệnh một cách lo lắng. Anh ta chuẩn bị đón nhận cơn thịnh nộ của Warrens như đã được chứng kiến vài lần trước đây. Nhưng lần này với Dĩ thì ông ta lại giữ một vẻ mặt điềm tĩnh kỳ lạ. Warrens đi lại bên Dĩ, chỉ tay xuống ghế.

- Xin mời.

Dĩ rụt rè ngồi xuống.

- Chẳng cần đánh giá đầy đủ thì chúng ta cũng ý thức được tầm mức thiệt hại của cuộc hành quân X1. Tôi cần tìm ra nguyên nhân của thảm bại. Muốn vậy ta buộc phải chờ đợi để có thêm những dữ kiện mới nữa. Nhưng ngay bây giờ ông có thể phán đoán được một vài nguyên nhân nào dẫn đến tai họa đó không?

Sau một phút suy nghĩ, Bảy Dĩ nói:

- Kế hoạch X1 là tuyệt mật. Từ bên kia đại dương tổ hợp hóa chất C.C.C. Ngũ Giác Đài và cơ quan tình báo Trung ương đã bàn bạc với hai ông Hoàng Quý Nhân và Nghiêm Bửu Châu. Khi thực thi chương trình, đến như tôi cũng không được biết nội dung cụ thể. Tôi chỉ được lệnh thông báo cho tướng Tùng Lâm chọn lấy bốn chiến binh huấn luyện thêm một vài tuần rồi trao cho đại úy Hào. Hải cứ Gamma cũng chỉ biết chuẩn bị thuyền máy bình thường như các vụ thâm nhập khác. Cuộc đổ bộ đã được thực hiện đúng như dự định. Theo điện báo cuối cùng của X1 gửi cho Hộ tống hạm Polard thì toán đạc nhiệm đã tách khỏi thuyền NT.4206. Vì vậy sự sơ xuất đã diễn ra trên đất liền...

- Ta không bàn đến những sai sót nằm ngoài tầm tay kiểm soát của ta. Tôi muốn nói liệu có nội phản nằm trong đội ngũ của chúng ta không?

Ngần ngừ giây lát, Bảy Dĩ nói:

- Chỉ có ba người Việt Nam ở đây biết được chút ít công chuyện này. Tôi còn biết là toán thâm nhập đến tăng cường lực lượng cho nghĩa quân chứ chưa biết ông Châu, lẫn kế hoạch T20-20. Khi tàu xuất phát rồi ngài mới tiết lộ cho tôi chương trình thực nghiệm to lớn này...

- Khi bàn chuyện này với ông có nghĩa là tôi đã loại trừ nghi vấn với riêng ông. Tôi luôn luôn tin tưởng vào lòng trung thành và tận tụy của ông Warrens thân mật vỗ vai Bảy Dĩ - Hãy nói về hai con người còn lại.

- Tùng Lâm là một chiến sĩ chống Cộng trưởng thành từ người lính. Ông ta phục vụ trong đội Ngự lâm quân của Cựu Hoàng, sau đó là vệ sĩ của tướng Vĩ và sĩ quan tuỳ tùng của Thống tướng Tỵ. Người ta có thể trách cứ ông về phần đạo đức tư cách vì ông hay uống rượu hay trong mối quan hệ giới tính bừa bãi chứ không thể nghi ngờ tinh thần chống Cộng của ông. Tất cả các tướng lĩnh trong Bộ Tổng tham mưu đều coi ông là người trung thành và dũng cảm.

- Còn ông Hào?

- Hào là bạn tôi từ thời học sinh. Anh ta có ông già là cộng sản đi tập kết, đã chết và một người anh là thiếu tá hải quân Bắc Việt. Nhưng lại Có ngườỉ anh lớn là phó đô đốc hải quân Việt Nam Cộng hòa. Anh ta sống với người anh lớn và tòng sự ở Hải đoàn 12. Trong chiến tranh là một sĩ quan trung thành và quả cảm, hai lần được gắn bội tinh. Anh đã giúp tôi, nói đúng hơn là giúp chúng ta chuyên chở bạch phiến từ giữa thập kỷ sáu mươi. Chuyến hàng vừa rồi biểu lộ tinh thần trách nhiệm cao cả của anh đối với ngài. Nếu Hào có ý định phản bội thì anh ta đã ở lại với vợ con cùng tám triệu đô-la bạch phiến. Có gì ngăn cản được anh ta?

- Nếu anh ta là cộng sản thì tám triện đô-la có thể mua được anh ta không? Có thể anh ta không phải là cộng sản nhưng tám triệu đô-la cũng không mua nổi. Con người vẫn còn là một điều bí mật đối với khoa học. Ta không nên tuyệt đối hóa quyền lực của đồng tiền. Điều quan trọng là phải đọc được ý nghĩ của anh ta. Bố là cộng sản, anh là cộng sản thì ta phải đặt dấu hỏi vào người em. Đó là cách suy luận rất Việt Nam đấy ông Dĩ ạ!

Dĩ không nói gì thêm. Anh ta chờ quyết định của Warrens.

- Nếu anh ta không bao giờ trở về sau chuyến đi này thì chính sự kiện đó đã chứng minh cho giả thuyết của tôi. Nếu Hào đưa được con thuyền trở lại, dù anh ta có thực thi được nhiệm vụ chuyên chở kiện hàng bí mật của chúng ta thì vấn đề theo dõi cũng vẫn phải đặt ra. Chính ông phải chọn lấy một người gài vào Hải cứ Gamma. Nếu Hào là người trung thành thì điều đó chẳng có hại gì cho anh ta.

- Xin tuân lệnh.

Tôi nóng lòng chờ đợi kế hoạch đổ bộ của Warrens khởi sự. Nhưng suốt hai tuần liền không thấy chuyện gì xảy ra. Chị Mộng Vân cũng không quay lại như đã hẹn. Trung tâm cứ điện hỏi tôi hoài. Có lẽ Trung tâm cũng quá căng thẳng vì thời gian báo động cấp một lâu quá.

Tôi bỗng nhận được điện của ông chủ bút báo Chim Việt kêu tôi trở về Cali. Ông không nói lý do nhưng tôi đoán là cuộc thí nghiệm T20-20 thất bại làm cho Hoàng Quý Nhân và Warrens phải hoãn lễ thành lập "chính phủ lâm thời" lại. Chúng phải kiểm tra kỹ lưỡng bộ máy bên trong cũng như bên ngoài để tìm ra khe hở nào đã dẫn tới thảm bại.

Tôi báo cáo lại nhận định trên với Trung tâm.

Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức đã chỉ thị cho tôi quay về bán đảo Nelson ngay. Có thể địch sẽ phản ứng gay gắt vì vậy hơn lúc nào hết phải cảnh giác để tìm ra những bước đi tiếp theo của chúng.

Dù sao thì sau một đợt công tác dài, bận rộn và căng thẳng, tôi cũng muốn được xả hơi. Tôi nhắm mắt lim lim, cho thần kinh chùng lại. Tôi muốn thư giãn tâm hồn đôi chút. Trong óc tôi không còn mang một chương trình kế hoạch nào, ít ra là trong suốt chuyến bay.

Đối với cả hai bên trận chiến đấu lớn nhất chưa xảy ra. Số phận của nhiều nhân vật trong chuyện này còn chưa được định đoạt rõ ràng, Nhưng biết làm sao? Chỉ có tương lai mới đủ sức trả lời. Tôi chỉ có thể nói về một điều chắc chắn: Tháng 5 này tôi và Bạch Kim sẽ làm lễ cưới (Xin các bạn đừng cười) đám cưới của người đàn ông tục huyền với người đàn bà tái giá. Một đám cưới tiền hôn hậu thú, cô dâu đã mang bầu! Thật chẳng có gì đáng mô tả tỉ mỉ thêm mất thì giờ của bạn đọc.

CHƯƠNG I

CHẠY TRỐN

Những trận mưa dữ dội đần mùa đã cuốn đi lớp bụi của mùa khô làm cho thành phố sạch bóng. Nhìn xa mặt đường láng như gương. Màu xanh non của những chùm lá mới bừng nở trên tán cây hai bên đường. Mùa xuân vượt qua ranh giới lịch thời gian tràn sang mùa hạ. Điều mong ước sánh vai nhau đi trên đường phố Sài Gòn giải phóng của chúng tôi không được thực hiện. Không được phép để cho ai "hiểu lầm" chúng tôi là một cặp vợ chồng. Chỉ có Bạch Kim thỉnh thoảng đưa cháu Trung đi thăm thú nơi này nơi khác. Chẳng bao lâu nữa cháu sẽ phải xa Tổ Quốc một thời gian không hạn định nên cô cũng muốn cháu ghi sâu vào tâm hồn thơ bé của nó hình ảnh thân yêu của quê hương xứ sở. Còn tôi thì không dám đến thăm ai, dù là những người đồng chí cùng hoạt động trước đây hay những người quen trong giới chức ngụy quyền cũ.

Tất cả là chờ đón nhiệm vụ.

Rồi một bữa tôi nhận được giấy gọi đi cải tạo tập trung.

- Pháo hiệu đã nổ rồi! Các chiến binh hãy xốc lê lao vào trận đánh? - Tôi nói vui với Bạch Kim.

- Đấy mới là tín hiệu của riêng anh. Má con em vẫn đang còn nằm ở tuyến đợi.

Đêm hôm đó chúng tôi thao thức không sao ngủ nổi. Có thể còn lâu chúng tôi mới lại gặp nhau. Điểm hẹn ở tận bên kia quả đất. Con đường trước mắt sẽ vô cùng lạ lẫm. Tôi chưa hình dung nổi phương thức hoạt động trong môi trường mới... Chúng tôi thống nhất với nhau là trong thời gian tôi ở trại cải tạo hai mẹ con không phải lên thăm. Có gì cần tôi sẽ viết thư về. Tôi tin cậu Đức sẽ là đường dây liên lạc cho chúng tôi.

Cuối tháng 8 năm 1975 tôi đến tập trung ở Quận. Chỉ có một số ít sĩ quan hiện dịch. Không ai quen biết tôi. Xe tải đưa chúng tôi đi Bình Dương. Ở dây chúng tôi viết lý lịch và tường thuật lại con đường binh nghiệp của mình. Sau bảy ngày học chính trị chúng tôi được biết sẽ phải ở lại trại một thời gian không hạn định. Tuỳ tình hình cụ thể, người nào tỏ ra tiến bộ sẽ được xét cho về với gia đình.

Một bữa tôi được gọi lên Ban quản trị Trại cùng hai sĩ quan khác. Người phụ trách cải huấn hỏi tôi:

- Anh là sĩ quan điện toán. Chúng tôi cần trưng dụng anh ít ngày để phối hợp với chuyên gia của chúng tôi cho vận hành tổ hợp máy ở Bộ Tổng tham mưu. Anh làm được chứ?

- Dạ thưa cán bộ, đó là hệ thống máy quen thuộc đối với tôi.

Hai sĩ quan thông tin cùng đi với tôi được gọi đến giúp việc ở trung tâm tuyền tin Phú Lâm.

Xe đến Sài Gòn, một người đưa tôi vào cổng Phi Long trình giấy tờ. Năm phút sau tôi đã gặp đại tá Nguyễn Hữu Đức trong một căn phòng riêng kín đáo.

- Thế nào, cải tạo tiến bộ đến đâu rồi? - Đại tá cười, vỗ vai tôi.

- Thưa cậu nhất định là phải tiến bộ hơn chứ ạ?

- Cậu báo cáo toàn bộ kế hoạch "hậu chiến" của chúng ta lên cấp trên. Về cơ bản đã được xét duyệt, nhưng cậu cháu mình cũng phải bàn bạc thêm nhiều chi tiết cụ thể. Vì vậy cậu phải gọi cháu lên đây ít nhất một tuần. Với Bạch Kim thì sẽ bàn riêng sau.

- Vâng, cháu sẵn sàng nghe cậu nói. Suốt nửa tháng "học tập cải tạo" cháu tiếp thụ được ít quá. Tâm tư cháu cứ cuốn hút vào nhiệm vụ sắp tới. Cháu mong được gặp cậu để nghe cậu chỉ bảo thêm.

- Cách đây hai mươi năm, giao nhiệm vụ cho cháu cậu thấy dễ dàng hơn bây giờ nhiều. Lúc đó kẻ thù trực tiếp hiệp rõ nguyên hình, sào huyệt của chúng công khai trước mặt mọi người. Địa bàn tập trung, phương tiện thông tin liên lạc đơn tuyến, đa tuyến đều có thể thiết lập. Nay thì khác hẳn. Đế quốc Mỹ, đã bại trận, tất nhiên mối hận thù còn nóng bỏng, nó sẽ không để ta yên ổn. Bọn tay sai từng đem quân đến nước ta, cho Mỹ sử dụng đất đai, làm căn cứ xuất phát gây biết bao tội ác với nhân dân ta nay chắc chắn không thể vui mừng nhìn ta thống nhất vững mạnh. Bọn ngụy quân ngụy quyền, các tổ chức phản động lượt vong còn nuối tiếc thiên đường đã mất. Khi hồi tỉnh biết đâu chúng chẳng tập trung lại lực lượng lo tính phục thù. Nếu có điều kiện phá hoại ta, hạn chế ta là chúng không từ. Chưa nói đến những người trước đây giúp ta định dùng ta như một con bài, nay mất cả chì lẫn chài, họ sẽ thay đối sách, gây cho ta những khó khăn mới. Tất cả những phân lực đó liên hệ với nhau thế nào, tâm lực hướng vào đâu… ta cần phải biết.

- Thưa cậu cháu cũng đã nhiều đêm trăn trở cho nhiệm vụ nhưng vẫn chưa hình dung nổi được một đường dây chiến thuật rõ ràng, đáng tin cậy để khi hành động là có hiệu quả thực sự.

- Ta có thể vạch ra những con đường trong tưởng tượng. Nhưng cũng có thể cứ phải đi trên thực địa, vết chân sẽ tạo nên một con đường. Những lối mòn đầu tiên đó được gọi là đường khai phá. Chắc chắn nó còn gập ghềnh khúc khuỷu nhưng ta sẽ dần dần uốn nắn lại. Nếu có phải quay một trăm tám mươi độ thì ta cũng chẳng nản lòng. Chí ít ta cũng làm được cái việc treo lên tấm biển cấm để đồng đội khỏi phải lặp lại. Trong toán học chứng minh được đầu bài sai thì cũng có thể coi như giải được bài toán đó. Cho nên nếu cháu chưa hình dung ra thì cũng không được phép lo sợ. Cậu nghĩ muốn có được một kế hoạch chính xác vẫn phải kết hợp giữa sự phân tích và suy lý của bộ óc với những phát hiện trên con đường thực hành. Vì vậy cậu cứ tung cháu vào trong lòng địch, ở đấy cháu sẽ tìm ra những hướng đi cụ thể, mục tiêu cụ thể.

- Dạ nhưng "lòng địch" lúc này rộng quá. Bọn chiến bại tan nát ra khắp thế giới tư bản. Chúng sẽ hội tụ ở đâu, trung tâm chỉ huy ở đâu?

- Dù ở đâu thì cuống nhau của chúng cũng phải nối với Washington. Không có đồng đô-la chúng sẽ không hoạt động nổi.

- Có thể do một trung tâm khác đài thọ thì sao ạ?

- Cậu cũng không loại trừ, nhưng muốn gì nó cũng phải căn cứ vào thái độ của Washington.

Sau một hồi suy nghĩ tôi đề xuất ý kiến:

- Trước tiên ta có thể mở một chiến dịch thăm dò rộng lớn.

- Đúng thế. Cháu có thể làm một chuyến đi thăm quan ba châu lục. Khoác bộ áo nhà báo sẽ ngụy trang tốt cho hành vi quan sát, phỏng vấn, săn tin, chụp ảnh. Vai trò đó thích lợp với cháu đấy.

- Nhà báo! Trời, từ nhỏ cháu chưa bao giờ viết báo.

- Phải tập thôi. Lúc đầu có thể viết còn dở, sau tiến bộ dần...

- Thưa cậu có tờ báo nào dám nhận một ký giả như cháu vào làm rồi chi cho một khoản phí tổn giao thông khổng lồ để đi vòng quanh thế giới.

- Ngay từ đầu thì không thể là phóng viên thực thụ của một tờ báo nào. Nhưng cháu cứ mạnh dạn gửi bài cho vài tờ báo tiếng Việt nào đó. Hãy chọn những đề tài ngắn về Việt Nam. Hiện nay đang có những cuộc tranh luận khá sôi động về nguyên nhân bại trận. Cháu hãy nhảy vào cuộc bút chiến một cách cuồng nhiệt sao cho dư luận chú ý. Từ đó cháu tập viết bằng tiếng nước ngoài. Đích đầu tiên là kiếm cho được cái "các" ký giả. Nếu tòa báo chưa cử cháu tới những mục tiêu cần tiếp cận thì tự bỏ tiền ra mà đi. Bạch Kim sẽ lo cho cháu vấn đề tài chính.

- Vâng cháu sẽ cố gắng theo phương hướng đó.

- Hai địa điểm Paris và Québec của các anh các chị cháu ở hiện nay không thích hợp với hoạt động của cháu. Cậu thấy Washington hoặc New York thuận tiện hơn.

- Chúng cháu sẽ thu xếp. Phải có một cuộc vận động anh chị cháu chuyển chỗ ở.

Vấn đề thông tin liên lạc trở nên gay cấn nhất. Với cự ly như thế không thể có chiếc máy xách tay nào có đủ công suất thu phát nổi. Nếu dùng phương tiện điện thoại và điện báo quốc tế thì không sao giữ được bí mật. Cũng không thể có mạng giao liên như hồi chiến tranh. Làm thế nào để có được mối liên hệ báo cáo chỉ huy kịp thời được?

Cuối cùng cũng đành bằng lòng với những cách thức cổ điển như viết thư bằng mực không màu, giấu mật mã vào trong hàng hóa theo đường quà biếu v.v... Tuy nó đảm bảo được bí mật ở mức độ nhất định nhưng điểm không khắc phục nổi là tính thời gian.

Có điều dáng mừng là nết tôi có mặt ở vùng Đông Nam Á thì được phép bắt liên lạc với ba cơ sở của ta. Tôi sẽ nhận chỉ thị của Trung tâm và báo cáo tình hình qua họ.

Như đoán ra nỗi băn khoăn của tôi cậu Đức nhấn đi nhấn lại vấn đề chủ động linh hoạt.

- Lần trước cháu là người mới vào nghề, phải có sự chỉ dẫn từng bước của cấp trên. Kèm bên cháu có Phương Dung là người biết việc. Giờ đây sau hai mươi năm lăn lộn với công tác tình báo chán đã trở thành một cán bộ chỉ huy vững vàng rồi. Cháu phải dìu dắt Bạch Kim. Sau này tổ chức phát triển cậu sẽ giao cho cháu chỉ đạo những phân vụ rộng lớn hơn. Do đó cháu phải biết điều khiển bộ máy của mình có sức sống, sức chiến đất tốt trồi có khi chính cháu lại trang bị cho tổ chức những phương tiện thông tin cự li xa hiện đại hơn nhiều so với khả năng của chúng ta hiện nay.

- Thưa cậu, bất cứ một việc gì cậu giao cho, chát cũng xin chấp nhận và cố gắng hết sức để hoàn thành. Nhưng cháu cũng xin trình bày để cậu nắm rõ trình độ của cháu. Suốt hơn hai chục năm công tác cháu mới chuyên hoạt động chiều sâu chứ chưa quen chiền rộng. Dĩ nhiên là những kinh nghiệm hoạt động chiều sâu cũng có ích rất nhiều cho hoạt động chiều rộng, cho trình độ tổ chức chỉ huy. Nhưng phải nói rằng đây vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ đối với cháu. Nay thì chiều rộng của chiến trường không bó hẹp trong một thành phố hay một miền nữa mà nó tan loãng trên nửa phần Tây bán cầu cùng gần nửa phần Đông bán cầu. Dĩ nhiên là không phải chỉ có riêng mũi của cháu. Thế nào rồi cũng sẽ gặp phải những khó khăn, bỡ ngỡ chưa hề lường trước. Lúc đó cháu sẽ rất cần đến sự chỉ giáo của cậu. Xin cậu hãy quan tâm đến bọn cháu như trong thời kỳ chiến tranh trước đây.

- Cái đó thì cậu không từ chối. Nhưng chính cháu mới là người tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề. Vì vậy một lần nữa cậu lại nhắc cháu phải luôn luôn tự tin, chủ động linh hoạt để nhanh chóng đạt mục đích của mình.

Những đêm đó hai cậu cháu tôi thường nằm chung với nhau trong căn buồng có máy điều hòa nhiệt độ cùng nhiều tiện nghi sinh hoạt sang trọng khác. Nhưng chúng tôi cũng không thể quên được cái lán nhỏ trong khu rừng Đại Từ cách đây mấy chục năm. Bên tai tôi như vẫn văng vẳng tiếng nai tác buồn buồn trong đêm mùa thu. Hoàn cảnh đã thay đổi nhưng những cảm xúc về ngày lên đường vẫn lặp lại gần như nguyên vẹn trong tôi. Mặc dù đã ở độ tuổi mọi tình cảm đều như đã sơ cứng mà sao tôi vẫn thấy tâm hồn mình mềm lại...

Ngày cuối cùng tôi được về nhà thăm vợ con. Bạch Kim đã chuẩn bị cho tôi đầy đủ đô-la và vàng chỉ đợi tôi về để mang đi. Nhưng theo kế hoạch hành quân thì chúng tôi vẫn còn dịp gặp nhau một lần nữa. Tôi mang những thứ này vào trại đâu có tiện.

Cháu Trung hỏi tôi:

- Bao giờ ba lại phải đi cải tạo ba?

- Mai con ạ. Con có nhớ ba không?

- Con mong ba lắm. Cả má cũng mong. Bao giờ ba lại về?

- Chưa biết được, nhưng con phải vâng lời má. Má đi đâu con đi đấy nghe. Thế nào ba con mình cũng lại gặp nhau thôi.

Mắt con tôi long lanh những giọt nước. Cháu không nói chỉ ôm chặt lấy tôi như thông hiểu những ý nghĩ của bố. Khi cháu đi ngủ rồi Bạch Kim mới lo lắng nói với tôi:

- Em sợ nhất là hôm ra đi Quang Trung phá bĩnh không chịu theo em thì nguy hiểm quá. Nó là một chàng trai thực sự rồi, đâu phải con nít mà chúng ta cứ đóng kịch với nó mãi.

- Có thể nó cũng đã đoán ra được một phần sự thật. Việc này để anh nhờ cậu Đức nói với nó. Cần đến đâu ông sẽ nói cho cháu đến đó tiện hơn.

Về Bình Dương năm ngày tôi được chuyển đi T75 cùng với một sĩ quan khác. Đó là một trại lao động lâm nghiệp nằm trên cao nguyên Lâm Viên. Mười hai dãy lán dựng bên bờ sông Đắc Két. Tôi được chuyển về C5. Người "chiến hữu" gặp lại đầu tiên là tướng Tùng Lâm.

- Anh ôm chầm lấy tôi, nhưng lần này không có mùi rượu, mùi son phấn đàn bà, chỉ có mùi mồ hôi tỏa ra từ chiếc áo lính dày cộp. Cặp mắt anh ứa lệ.

- Moa tưởng toa đã được tự do!

- Tôi có đặc ân gì khác anh đâu! Đã là sĩ quan hiện dịch thì đều đi cải tạo thôi.

- Toa khác chớ, toa được dẫn đường cho Quân giải phóng uýnh vô Sài Gòn. Họ phải tưởng lệ công lao của toa chớ!

Tôi nhún vai không trả lời vào câu hỏi của anh. Đám sĩ quan đứng xung quanh nhìn tôi với cặp mắt khó hiểu. Kẻ còn lưu luyến chế độ cũ tỏ ra khinh bỉ cái thái độ quay quắt của tôi. Người lại them muốn cái dịp may hiếm có như tôi để sớm được trở về đoàn tụ gia đình.

- Anh dẫn dường cho cánh quân nào? – Viên trung tá tham mưu phó sư đoàn 42 tò mò hỏi tôi.

- Tôi đi theo cánh quân hướng Bắc. Thực ra họ dẫn đường tôi chứ đâu cần tôi dẫn đường họ. Mọi ngõ ngách họ dầu thông thạo. Sau khi Sư 5 tan rã, Bình Dương thất thủ, tướng Vĩ tự sát thì hướng Bắc hầu như bỏ trống. Quân xa của họ cứ việc mở lết tốc lực thẳng xa lộ 13 tiến vào cầu Bình Triệu. Dân dừng đón kín hai bên đường, họ hỏi ai mà chẳng được.

- Sau đó họ cho anh về nhà chứ?

- Đâu có. Tôi bị giam với những sĩ quan khác. Tôi khai là sĩ quan điện toán nên họ gọi tôi về vận hành tổ máy ở Bộ Tổng tham mưu.

- Nay họ không them dung anh nữa sao?

- Thực ra họ đã tự vận hành được. Tổ hợp Apple system thế hệ hai chẳng có gì là mới lạ nữa. Trong lĩnh vực này họ cũng có những chuyên viên giỏi.

Tất cả đảm sĩ quan cười ồ.

- Thế mà bọn tôi tưởng anh đã đeo lon trung tá cách mạng rồi đó!

Tôi nghiêm mặt nhìn thẳng vào mắt từng người:

- Quý vị định sỉ nhục tôi đó sao. Ở hoàn cảnh này liệu quý vị có thể làm gì được hơn?

Thấy thái độ nổi khùng của tôi họ không dám làm rách chuyện ra nữa. Tình hình này đến tai Ban cải huấn có thể bất lợi cho họ.

Ba hôm sau tôi được lên gặp trại trung. Một người tóc đã điểm bạc vẻ mặt nghiêm nghị và bình thản. Ông bảo tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện ở phòng làm việc. Ngoài sân một toán tù binh đang sửa sang lại các luống hoa.

- Anh là Phan Quang Nghĩa nguyên là tham mưu trưởng Sư 97?

- Dạ.

- Anh bị bắt ngày nào?

- Dạ tôi ra trình diện ở thành phố ngày 28 tháng 6.

- Tôi hỏi anh bị bắt ngày nào? - ông quát giọng giận dữ.

- Dạ... tôi chưa bị bắt.

- Anh nói dối. Anh có tên trong danh sách tù binh từ ngày 14 tháng 4 ở Nam sông Đan Li cùng với chuẩn tướng Tùng Lâm, trung tá Vũ Trọng Hiến và trung tá Bình Nhật Nam.

- Dạ tôi đã đầu hàng ở quốc lộ 1 và được Quân giải phóng giao cho công vụ dẫn đường đại quân tiến vào Sài Gòn.

- Rồi sau đó anh bỏ trốn?

- Dạ không.

- Anh giải thích tại sao mãi 28 tháng 6 anh mới ra trình diện?

- Dạ thưa quý ông, khi tôi theo bộ phận tiên phong của Quân Giải phóng qua cầu Bình Triệu thì dân chúng đổ ra hai bên đường hoan nghênh bộ đội. Tôi thấy mình không xứng đáng đứng trong đội ngũ đó nên đứng tách ra. Quần chúng vây kín xe. Khi xe chạy tôi không thấy ai gọi nữa. Tôi tin là thành phố đã quy hàng trong trật tự nên đã về nhà để chờ ngày quý ông gọi lại.

- Nhưng sư đoàn dùng anh dẫn đường ấy báo về là anh bỏ trốn ngay trong rừng từ ngày 22 tháng 4 – Ông đưa tôi tờ giấy truy nã - Anh có thể cải chính được điều này không?

Tôi im lặng cúi đầu. Ông trại trưởng dằn từng tiếng.

- Thực sự là anh đã chạy trốn về Sài Gòn để báo cho Bộ chỉ huy ngụy về tình hình tiến quân của Quân Giải phóng, giúp bọn ngụy có cơ chống lại. Nhưng chúng đã không còn khả năng cưỡng nổi sự sụp đổ. Đến bước không còn đường tẩu thoát anh mới chịu ra trình diện lần thứ hai. Tôi buộc phải coi anh là phần tử ngoan cố. Anh sẽ không được đi lao động ngoài trại như anh em khác. Tương lai của anh hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ tiếp thụ cải tạo của anh. Anh nghe rõ chưa?

- Dạ. Tôi xin chấp hành kỷ luật - Tôi đứng nghiêm vẻ mặt không có chút gì là hối lỗi.

Tôi về lán im lặng không nói một câu, nhưng cuộc thẩm vấn được lan truyền ra cả trại. Nhiều tù binh nhìn tôi với vẻ mặt lảng tránh. Vì kẻ ngoan cố tỏ ra thán phục tôi. Mấy người khiêu khích bữa qua bí mật chào tôi với nụ cười nhận lỗi. Riêng Tùng Lâm không dám vồ vập tôi như bữa qua nữa. Giữa tôi và anh vốn đã có nhiều "duyên nợ". Lúc này gần tôi anh sợ vạ lây.

Hàng ngày mọi người đi rừng, tôi làm công vụ trong trại như dọn vệ sinh, sửa nhà tắm, khiêng nước, vác gạo, chăn lợn. Có một bữa vắng vẻ tôi lân la đến bên viên chuẩn tướng.

- Anh Tư à, số tôi hẩm hiu quá. Quả tình là tôi đã bỏ trốn ngay bữa 22 tháng 4. Về Sài Gòn tôi định đem con xuất dương luôn, nhưng không sao thoát. Quân luật không cho phép tôi lấy hộ chiếu xuất cảnh. Trong những ngày khủng khiếp đó tâm trí tôi bất định, tôi không tìm ra kế sách nào dứt khoát. Tôi sống ẩn náu loanh quanh. Đến 28 tháng 6 tôi đành phải ra trình diện. Chuyện vỡ lở thế này chắc tôi bị lưu đày suốt đời thôi.

- Biết làm sao được! - Tùng Lâm nhìn tôi vẻ mặt áy náy - Chúng ta cùng chung số phận với nhan thôi. Chẳng ai có tương lai sáng sủa hơn ai.

- Chẳng lẽ bó tay chịu chết sao?

- Phải chờ đợi thôi.

- Mối hận thù quá lớn. Ta đã giết quá nhiều người của họ. Họ cho ta sống là may rồi. Nhưng sống không tự do thì cũng như chết.

- Đúng thế.

Sau vài phút suy tư tôi nói nhỏ với anh.

- Tôi định thử lại một lần nữa. Kỳ này đành đi một mình bỏ thằng bé lại. Cứ lấn bấn hai cha con thì đến chết cả.

- Vợ con mình đi cả rồi.

- Trời, sao anh Tư biết. Mình viết thư về không có người nhận, họ chuyển trả lại. Mình đành viết cho cô em gái. Nó lên thăm và cho hay cả nhà đã vượt biên rồi. Không biết họ đi đâu.

- Anh không có bà con ở ngoại quốc sao?

- Có đó nhưng là bà con xa thôi.

- Có tiền bạc gửi ngân hàng ngoại quốc không?

- Đâu có. Mình đông sắp nhỏ, xài hết trọi, chẳng có dư thừa gởi ngân hàng.

Tôi thở dài:

- Anh chị tôi ra đi cả. Họ chuyển tài sản sang Pháp sang Thụy Sĩ từ nhiều năm nay. Có cô em coi thằng cháu cứ nấn ná chờ tôi nên kẹt lại. Tai hại quá. Tôi mà một mình như anh Tư, tôi đi dễ ợt.

Tùng Lâm nhìn tôi vẻ thăm dò:

- Tất cả đều muộn rồi. Đi sao thoát.

- Vẫn còn thời cơ. Mỗi người chỉ cần ba "cây" là đủ.

- Bây giờ chỉ còn hai bàn tay trắng. – Tùng Lâm nhún vai.

- Đi với đệ? Đệ sẽ giúp anh Tư, cốt cứu lấy mạng người, vàng bạc giờ đây còn có ý nghĩa gì.

- Ngay cái chuyện ra khỏi hàng rào này đã khó khăn rồi nói chi vượt biển.

- Khó khàn nhất là cái hàng rào mỏng manh này thôi. Hàng ngàn kilômét bờ biển ta sẽ tìm được một khe hở.

- Cảm ơn chiến hữu, để mình suy nghĩ thêm. Biết vậy, chớ nói với ai nữa, nghe.

- Dạ.

Ba ngày sau Tùng Lâm nháy mắt rủ tôi đi tắm. Khi vắng người anh hỏi nhỏ:

- Toa thử phác qua cái lặng nghe chơi.

- Thứ nhất phải xong hai bộ đồ bộ đội. Ta sẽ nhằm lúc vệ binh hay tập trung họp hành, quãng mười chín đến hai mươi giờ. Ta lẻn vào lấy hai bộ đồ rồi vượt rào đi luôn. Ta đi suốt đêm theo hướng Đông. Đến lúc trời sáng ta đã ở khá xa trại rồi. Men theo bờ sông Đắc Két gặp đoạn nông ta sẽ vượt. Gặp đường 16 ta vẫy xe đi nhờ. Cần thì cướp xe mà đi. Thứ hai: về đến Sài Gòn ta đến ở nhờ người bà con thân nào đó ít ngày. Đệ sẽ đi tìm mối thuê thuyền nhập bọn với những người tị nạn khác. Gặp tình huống trái với dự tính ta sẽ tuỳ cơ ứng biến.

Nghe tôi nói, mặt Tùng Lâm vẫn đượm vẻ nghi ngại.

- Kế hoạch của toa nghe ngon quá khiến mình không an tâm.

- Phải liều thôi anh Tư ạ. Thà chết liều còn hơn sống mòn sống mỏi. Nếu anh Tư còn e ngại xin cứ suy nghĩ tiếp. Một khi đã quyết định hành động thì không còn đường lui đâu.

Từ phút đó chúng tôi không nói gì với nhau nữa. Khi tắm xong Tùng Lâm mới đưa bàn tay hộ pháp của anh ngầm nắm chặt bàn tay tôi dưới nước.

- Xét cho cùng thì cũng chẳng còn phương sách nào hay hơn. Ta thề sanh tử có nhau!

- Xin thề!

Tôi phác thảo lại kế hoạch "Chim biển" của tôi gửi lên cậu Đức để cậu xét duyệt và hỗ trợ. Hai hôm sau tôi nhận được một kế hoạch tỉ mỉ và hợp lý hơn.

Tôi đã báo cho Tùng Lâm ngày J. Nếu Tùng Lâm do dự rút lui thì tôi cũng phải hoãn lại. Khi ấy tôi sẽ có mật hiệu với người của cậu Đức. May sao ý chí của anh vẫn được giữ vững.

Đó là một đêm trăng sáng.

Sau một ngày làm việc mệt mỏi những người cải tạo ngồi chuyện trò khắp trên sân trại. Tùng Lâm buông màn đi nằm sớm. Đúng hai mươi giờ kém lười lăm anh lẻn ra phía sau nhà ăn. Tôi đã chờ anh ở đấy. Tôi chỉ cho anh lối vượt rào. Ban ngày làm bếp tôi đã lựa được một vị trí thuận lợi. Tôi yêu cầu anh đứng cảnh giới. Tôi mặc bộ đồ lót đi theo bóng hàng cây, bình thản thẳng tiến về ngôi nhà của bộ đội cảnh vệ...

Năm phút sau tôi đã gọn gàng trong bộ đồ bộ đội lẻn ra sau nhà ăn. Tôi ra hiệu cho Tùng Lâm theo tôi. Khổ người to lớn lại dễ xúc động nên Tùng Lâm lúng túng mãi mới vượt qua được cái hàng rào nứa. Khi ra thoát anh mới vội vàng thay quần áo. Chúng tôi mang bộ đồ ngụy đi một đoạn xa mới quăng vào bụi rậm. Bỗng nhiên phía trại ré lên những hồi còi, rồi bóng đèn pin lấp loáng, tiếng chó sủa inh ỏi.

- Lộ rồi chăng? - Tùng Lâm hỏi với giọng lo lắng nặng nề.

- Cũng có thể. Ta không theo lộ chính nữa. Chạy theo tôi anh Tư.

- Chết mất! Bình tĩnh anh Tư.

Tùng Lâm thở dốc. Tuổi năm mươi hơi mập lại ít chịu vận động luồn lách nên anh chóng xuống sức.

Mười phút sau chúng tôi xuống đến bờ sông.

- Ta vượt thôi anh Tư. Ở bên này nguy hiểm lắm. Nếu họ thả chó ra để lần theo vết thì không thoát nổi.

- Trời, chắc chi qua nổi, nưởc chảy dữ quá!

- Nước chảy bơi càng nhẹ, tôi sẽ dìu anh.

Đâm lao phải theo lao. Chúng tôi gói quần áo vào tấm vải nhựa.

- Anh ôm chắc lấy cái phao này, tôi bơi theo.

Cái phương tiện ứng dụng thô sơ này làm cho Tùng Lâm yên tâm hơn. Chúng tôi tạo một đường vát khá xa để cập bờ bên kia.

- Mặc quần áo vào rồi đi luôn, không nghỉ được đâu anh Tư à.

- Có thể họ không ngờ mình qua ngả này.

- Nhưng chó nó thính mũi lắm.

- Đàn chó còn phải lúng túng với bộ đồ ta quăng trong lùm cây - Tùng Lâm hi vọng.

- Cũng có thể, nhưng tốt nhất là ta đi ngay. Ta cần giành lấy một khoảng an toàn tối thiểu.

Chúng tôi theo con đường mòn ven sông. Đôi chỗ gặp một xóm nhỏ thưa thớt chúng tôi tìm đường tránh. Một giờ sau tôi quyết định bỏ sông Đắc Két rẽ về hướng Nam tìm đường 16. Tùng Lâm cắn răng vừa đi vừa thở, bước thấp bước cao.

- Mai về Sài Gòn ta kiếm chai Whisky bồi bổ lại sức lực.

Nghe đến rượu đôi chân Tùng Lâm cũng lẹ lên đồi chút. Khi đến đường 16 tôi kéo anh đến một tảng đá bên bờ suối ngồi nghỉ để tôi đi quan sát đường.

- Lạc nhau thì sao? – Tùng Lâm lo lắng hỏi tôi.

- Anh Tư cứ nghỉ, đệ đi quan sát đường đi cho chắc chắn, kéo anh đi càng thêm mệt. Chút xíu đệ quay lại thôi. Sinh tử có nhau, anh Tư yên tâm.

Tùng Lâm bằng lòng ngồi chờ. Tôi đánh dấu lối rẽ rồi theo lộ đi tìm điểm hẹn theo chỉ dẫn của cậu Đức. Chỉ vài phút sau tôi gặp cây cầu và tiếp đó một ngã ba. Tôi tìm được ba hòn đá ở vệ đường bên trái. Tôi yên tâm quay lại chỗ Tùng Lâm. Thấy tôi về anh mừng lắm.

- Đi tiếp chứ?

- Dạ. Đến quá ngã ba ta nghỉ lại chờ đi nhờ xe. Tùng Lâm đứng dậy. Không đi bộ quen, bàn chân chúng tôi đều rát bỏng. Cực quá trời, đau muốn chết luôn.

- Ráng lên anh, con đường đến tự do đâu có dễ dàng.

Anh cố lết đến ngã ba cơ hồ như không còn đi nổi nữa. Cũng may là đã đến điểm chờ. Tôi dìu anh xuống bờ suối, trải tấm ni lông lên mặt cát và cả hai nằm xuống. Đồng hồ chỉ người hai giờ, trăng thượng tuần đã lặn, cao nguyên se lạnh, tiếng chim tử quy vẫn đều đều gọi bạn trong rừng khuya. Vài phút sau Tùng Lâm đã cất tiếng ngáy nặng nề...

Sáng hôm sau tôi dậy sớm. Qua một đêm mà đầu tóc Tùng Lâm như bạc thêm ra, râu mọc lởm chởm, da mặt tái xanh trông thật thảm hại. Tôi kêu anh dậy rửa mặt để lên mặt đường chờ xe. Nỗi lo sợ đè nặng lên tâm hồn viên tướng thất thế.

- Bộ dạng thế này tránh sao khỏi sự nghi ngờ.

- Anh Tư an tâm. Trời Phật sẽ cứu ta. Còn nếu như mệnh ta đã hết thì dù không chạy trốn cũng sẽ chết thôi anh Tư ạ.

Nghe có tiếng xe rú xa xa, tôi nói nhỏ với Tùng Lâm:

- Ta lên đường đi. Anh Tư phải đóng vai người ốm.

Có vậy nhờ xe mới dễ.

Tùng Lâm ngồi dựa vào gốc cây vệ đường. Bộ mặt của anh lúc này rất thích hợp với vai sốt rét. Một chiếc xe Gát từ cao nguyên đi về phía Đà Lạt mang biển số QS 5407. Tôi đứng ra giữa đường chặn lại.

- Làm ơn cho chúng tôi đưa nhờ một đồng chí về Đà Lạt. Bọn tôi đang khai thác gỗ, anh bị sốt rét ác tính. Người lái xe ngần ngừ một lát rồi nói:

- Được thôi nhưng ca-bin hẹp chỉ ngồi được một người...

- Tôi ngồi đằng sau cũng được. Nhờ anh giúp một tay dìu đồng chí ốm lên ca-bin.

Anh lái xe tắt máy, gài phanh nhảy xuống định dìu Tùng Lâm thì tôi liền cho anh một cú vào mạng sườn. Anh ta lảo đảo và nhận tiếp thêm cú thứ hai.

- Anh Tư lên xe nổ máy đi.

Tôi kéo người lái xe trẻ xuống bờ suối, thì thầm vào tai anh. Chịu được chứ?

- Yên tâm - Anh trả lời tôi - Giấy tờ tiền bạc trong túi áo đó.

Tôi quăng anh xuống đoạn suối sâu nhất rồi chạy lên, đẩy Tùng Lâm sang phải và ngồi vào vòng lái. Tôi chụp chiếc mũ cối lên đầu Tùng Lâm và đưa anh chiếc vi. Tôi rú ga, xe lao xuống dốc. Tùng Lâm gí mãi cặp mắt già vào mấy tờ giấy lôi ra từ trong ví.

- Anh đọc to lên xem những giấy gì.

- Giấy công tác: Chuẩn úy Nguyễn Văn Niên đơn vị 4602. Giấy giới thiệu Niên về Trạm 17B Tân Sơn Nhất nhận hàng. Một phiếu lĩnh hai máy phát điện 1,5 KVA.

- Từ giờ phút này tôi là chuẩn úy Nguyễn Văn Niên, còn anh Tư là thượng úy Lâm tranh thủ theo xe về thăm thành phố nghe.

- Liệu chuẩn úy Nguyễn Văn Niên có thể hồi tỉnh lần tới trạm điện thoại gần nhất gọi về Đà Lạt chặn đường chúng ta không?

- Tiêu rồi. Nó sẽ sang bên kia thế giới để gọi điện thoại.

Chúng tôi đến Sài Gòn êm thấm. Quẳng xe trước cổng sân bay Tân Sơn Nhất tôi đi theo Tùng Lâm đến nhà em gái anh ở đường Lê Văn Duyệt. Anh bấm chuông, cửa mở, hai chúng tôi lẻn vào rất nhanh.

Người em gái lúc đầu còn ngỡ ngàng tròn xoe mắt... rồi bỗng reo lên:

- Trời! Anh Tư, anh Tư đã về!

Tùng Lâm đặt tay lên miệng ra hiệu cho chị ta im lặng. Khi cả nhà xúm quanh phòng khách, Tùng Lâm mới giới thiệu tôi với mọi người.

- Đây là trung tá Nghĩa, chiến hữu của anh. Bọn anh vượt ngục về đây lánh tạm ít ngày, nhờ cô chú che chở cho. Sau đó anh sê ra đi.

Hai vợ chồng người em và lũ trẻ đến sáu bảy đứa đều im lặng. Vẻ lo lắng căng thẳng trùm lên căn phòng.

- Cô chú lo lắng là phải. Bọn tôi không còn con đường nào khác. Chỉ phiền cô chú giữ kín cho vài bữa. Nếu chẳng may họ phát hiện ra thì chúng tôi cũng không khai gì để liên lụy đến cô chú.

Hồi lâu người em rể mới nói:

- Anh Tư và ông bạn đây đã về với bọn em thì sống chết cũng phải cư mang nhau thôi, biết làm sao được.

- Sao mà anh phải trốn? - Người em gái thắc mắc - Em nghe nói nếu học tập cải tạo tốt thì sớm muộn cũng được chánh phủ khoan hồng cho về thôi mà.

- Không có hạn định nào được công bố. Còn bọn anh thì đã nhúng tay vào quá nhiều vụ bắn giết - Tùng Lâm thở dài - Chờ đến một tòa án kiểu Nuremberg thì quá muộn.

Nhìn bộ đồ bộ đội của chúng tôi gia đình này càng lo lắng, không yên long. Có lẽ bọn tôi vừa gây ra một tội lỗi gì cũng nên.

- Thôi hai anh đi tắm đi - Người chồng quay lại nói với vợ - Em lựa hai bộ đồ cho hai anh xài tạm, mặc thứ này đâu có được.

Sau mươi lăm phút tắm rửa, cạo râu, hình hài bọn tối cũng đỡ khủng khiếp hơn. Gia đình dọn cơm cho bọn tôi ăn uống trên lầu thượng. Sau nhiều tháng Tùng Lâm mới nhìn thấy chai rượu. Nâng chiếc li tay anh run run cảm động:

- Xài đại đi rồi chết cũng đã, chú em!

- Không chết được đâu! Tối nay tôi đi lấy tền, kiếm người manh mối để thuê thuyền. Phật tổ phù trợ thì vài bữa thôi ta sẽ ra biển.

- Toa về nhà không nổi đâu. Có thể an ninh đã phục sẵu để bắt toa. Toa sa lưới thì moa đâu có thoát. Nên nhờ con nhỏ đến gọi giúp người thân ra gặp ở một nơi nào đó.

- Dạ anh Tư nói chí phải.

Tối đó tôi kèm đứa cháu con người em về gần nhà. Tôi lảng vảng ở đầu phố chờ cháu vào gọi giúp Bạch Kim.

Mươi phút sau chúng tôi gặp nhau. Tôi cảm ơn và để cháu về trước. Khi cháu bé đi khuất chúng tôi lỉnh về nhà rất nhanh. Cháu Trung đã đón tôi ở cửa. Cháu rất vui mừng vì đã được ông Đức báo cho biết trước tin này.

- Ba khỏe chứ ba? Con trông ba ốm đi chút ít đó.

- Có thể gầy đi nhưng ba rất khỏe.

- Bữa nay ba về tạm biệt má con đó ba.

- Sao con biết?

- Ông Đức nói cho con biết rồi!

- Con có hiểu ý nghĩa công việc của chúng ta không?

- Con hiểu. Xin ba tin con.

- Ngoan lắm. Chúng ta chỉ xa nhau ít ngày. Vài tháng nữa chúng ta sẽ gặp nhau. Từ nay con đừng gọi là má Kim nửa nhé.

- Dạ, con gọi là cô như mọi lần. Nhưng bên trong cô vẫn là má của con.

- Ngoan lắm! - Bạch Kim ôm chặt lấy cháu, xoa xoa khuôn mặt thanh tú của con - Con phải biết nhập vai cho chính xác. Nhiệm vụ của con lúc này vẫn chỉ là giữ bí mật, chịu khó học tập và vâng lời ba má thôi.

- Dạ.

Sau mấy phút hàn huyên cháu biết ý lảng về buồng riêng cho chúng tôi bàn công việc.

- Cậu Đức nhắn anh cứ đến liên lạc với người mối thuyền theo địa chỉ đã dặn. Chiếc thuyền chở theo bốn gia đình. Họ định xuất phát cuối tuần. Họ không muốn chở thêm ai, nhưng do sức ép của người mối, họ nể nên đồng ý để hai anh đi. Nhưng họ rất lo không biết hai anh là người thế nào.

- Cậu có nói ai là người lái hay chỉ huy chiếc thuyền này không?

- Một đại úy hải quân. Người môi giới cũng là người bán thuyền.

- Người bán thuyền là ai? Là người của ta. Anh ta sẽ theo thuyền ra đến Cáp, thu nốt khoản tiền cuối cùng rồi quay lại.

Mọi chuyện trên chỉ là một màn kịch lớn nên nó đã trôi đi đúng theo ý định của người đạo diễn. Tôi chưa phải đối phó thực sự với bất cứ vấn đề gì. Tâm lực của tôi dành cho đoạn đường phía ngoài phao số không.

Hai mươi ba giờ ba mươi tôi trở về chỗ Tùng Lâm. Anh rất vui mừng khi thấy tôi mang về một số vàng và đô-la khá lớn.

- Có tiền rồi, còn chuyện thuyền ghe ra sao?

- Tôi đã đi hỏi. Khó đấy, sáng mai tôi lại đi nữa. Tình thế này không liều không được.

- Mình cũng đã dò hỏi mối manh con đường di tản qua cô em mình nhưng cô chẳng biết gì. Cô còn khuyên mình quay lại nhận lỗi với trại vì thèm rượu nên đi liều vài bữa. Cô nói ngon ợt. Cô có biết đâu bọn mình đã giết người cướp xe. Riêng tội đó cũng đủ lãnh án tử hình rồi.

- Ở đây có lẽ cũng không tiện đâu anh Tư ạ. Tôi thấy anh chị Nhơn (em anh) quá lo lắng vì chúng ta. Mai tôi tìm một nơi khác.

- Đổi chỗ ở luôn cũng là một biện pháp chống truy nã - Tùng Lâm đồng ý theo tôi nếu như tôi có nơi nào tin cậy, an toàn hơn.

Sáng hôm sau tôi tới nhà người mối. Một người chừng sáu chục tuổi tiếp tôi. Ông được báo trước nên tin nhau ngay. Ông lấy hon-đa kèm tôi đến gặp viên đại úy hải quân ở khu Khánh Hội. Một người cao, to, da bánh mật, mày râu nhẵn nhụi ra tiếp. Anh ta nhìn tôi với vẻ mặt thăm dò liễn cưỡng.

- Tôi là Phan Quaưg Nghĩa, trung tá phụ tá giám đốc Trung tâm điện toán Bộ Tổng tham mưu.

- Tôi, Trương Tấn Hào, đại úy, thuyền trưởng thuộc Hải đoàn 11.

Hai bên bắt tay nhau. Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt người đối thoại. Sau khi chủ khách ngồi xuống ghế, tôi mở đầu cuộc nói chuyện.

- Cùng đi với tôi còn có chuẩn tướng Tùng Lâm, nguyên Trưởng phòng Hành quân tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Để đảm bảo bí mật cho chuyến đi hôm nay ông không có mật nhưng đã ủy nhiệm tôi đại diện cho ông đến thưa chuyện cùng đại úy: Hai chúng tôi muốn được là bạn đồng hành với đại úy trong chuyến viễn du này.

- Rất hân hạnh. Ông San (người bán thuyền) cũng đã nói trước với tôi. Nay gặp nhau, biết danh tính, cấp bậc tôi mới bớt lo vì chúng ta nguyên là chiến hữu của nhau, cùng chung số phận. Cuộc hàuh trình sẽ rất nguy hiểm, nhưng chúng ta không còn cách lựa chọn khác. Xin quý anh đóng góp cho mỗi người ba lượng, khoản tiền phí tổn mua thuyền và dầu, nhớt.

- Tôi xin nộp trước anh một nửa. Số còn lại sẽ đưa ngay khi nhập cuộc. Xin đại úy cho biết chương trình hành quân.

- Hành khách lựa chọn phương tiện riêng để có đủ mặt ở Cáp vào mười hai giờ ngày mười lăm. Sẽ có người đón ở Khách sạn Thiên Hương đến điểm hẹn chờ thuyền. Tôi, ông San và một trong hai ông xuống thuyền ngay từ địa điểm X gần cảng Sài Gòn, mười bốn giờ xuất phát. Đến Cáp ta sẽ đón mọi người ra khơi.

Một kế hoạch chưa có gì cụ thể nhưng tôi thấy không cần hỏi thêm. Cẩn thận quá sẽ làm cho viên đại úy nghi ngờ.

- Anh cho phép tôi gặp lại lần thứ hai để nhận kế hoạch cuối cùng vào lúc nào?

- Hai mươi giờ ngày mười bốn tức là tối mai.

- Để tránh nhưng trục trặc, tốt nhất là hai ông nên có mặt ở nhà ông San từ đêm nay. Liên lạc giữa chúng tôi bao giờ cũng chặt chẽ.

- Được chứ ông San? - Tôi hỏi.

- Dạ được.

Xong việc tôi tranh thủ về nhà, cho Bạch Kim rõ tình hình. Kim sẽ báo lại với cậu Đức vào chiều nay để cậu có kế hoạch hỗ trợ. Nếu không có gì thay đổi thì đây sẽ là báo cáo cuối cùng của tôi để chia tay nhau.

Cuộc hành quân của hai chúng tôi theo kế hoạch chỉ so le có ít ngày thôi mà sao cũng thấy bịn rịn, nhớ thương... Khi chỉ có hai đứa trong phòng, Kim ôm lấy tôi nước mắt đầm đìa.

- Mọi việc đã được cậu Đức chuẩn bị chu đáo mà em vẫn thấy lo lắng cho anh. Một chiếc thuyền con lênh đênh trên biển cả, sóng gió bất kỳ làm sao lường hết. Đó là chưa kể đến chuyện hải tặc ngày càng hoành hành dữ dội trên vịnh Thái Lan.

- Tất nhiên là có nguy hiểm, nhưng còn an toàn gấp trăm lần người lính xung kích ra trận. Phải đánh giặc mà đi, mở đường mà tiến, đó là phương châm truyền thống của chúng ta.

- Anh lấy hai bàn tay không để mở đường sao?

- Bàn tay và bộ óc! Tất nhiên anh sẽ mang theo khẩu súng ngắn.

- Một khẩu súng ngắn có ý nghĩa gì?

- Nó làm tăng tư thế của mình lên nhiều chứ! - Tôi nói mạnh cho Bạch Kim yên tâm.

Chiều hôm đó tôi về tin cho Tùng Lâm hay: sẽ di chuyển ngay trong đêm. Anh răm rắp làm theo ý tôi. Chúng tôi cảm ơn và từ biệt anh chị Nhơn. Vẻ mặt ông bà chủ cũng ái ngại cho số phận của chúng tôi. Người em gái nước mắt lưng tròng nắm chặt đôi bàn tay Tùng Lâm không biết nói gì. Nhưng sự ra đi của hai tên tội phạm cũng trút cho họ được gánh nặng quá lớn.

Chúng tôi đến nhà ông San ở đường Bạch Đằng trước hai mươi giờ. Ông nhường cho chúng tôi căn buồng trên lầu. Nhìn ánh đèn lấp lánh trên bờ sông Sài Gòn, Tùng Lâm bỗng động lòng trắc ẩn.

- Suốt cuộc đời binh nghiệp mấy chục năm, mình gắn liền với thành phố này. Chưa bao giờ mình ra ngoại quốc dù chỉ là một cuộc du lịch. Đến lúc ra đi thì lại phải chui lẩn như một con chuột với những cái túi rỗng. Vợ con không biết lưu lạc nơi đâu. Chẳng có xu nào gởi ngân hàng ngoại quốc! Khó khăn nan giải, triển vọng mịt mờ làm tôi đau khổ.

- Không nên buồn anh Tư à. Tôi sẽ chia sẻ với anh những khó khàn trước mắt. Trong tương lai nếu gặp may tôi sẽ không quên anh.

Hôm sau ông San cho biết, kế hoạch hành quân không có gì thay đổi. ông gửi Tùng Lâm theo xe của gia đình Hào đi Vũng Tàu trước. Ông cũng yêu cầu tôi đưa nốt số vàng còn thiếu cho chủ tàu.

Mười ba giờ tôi theo ông San đến bến. Một chiếc thuyền cỡ ba chục tấn buông neo bên một vườn cây vắng vẻ. Ông San bắc cầu mở khóa ca- bin và mời tôi và Hào xuống thuyền.

- Từ giờ phút này hai ông là người làm thuê cho tôi. Chúng ta ra Vũng Tàu lấy hàng. Tôi sẽ trình giấy tờ nếu có người xét hỏi. Các ông cứ ngồi trong khoang máy. Hiện giờ trên tàu không có thứ gì bất hợp pháp. Với một trăm hai mươi cân dầu cặn không thể là thuyền vượt biển được. Quý vị cứ yên tâm.

- Dạ.

Ông San cho nổ máy. Vài phút sau chúng tôi tháo dây rút cầu cho thuyền rời bến. Thuyền lướt nhẹ trên mặt sông Sài Gòn. Ba mươi sức ngựa, không tải nên thuyền ghếch cao mũi như sắp bay lên khỏi mặt nước.

Khi con thuyền đã xa thành phố tôi mới quay sang hỏi chuyện người bạn đồng hành mới quen biết.

- Tôi chưa được đại uý phổ biến kế hoạch đối phó bằng sức mạnh với kẻ ngăn chặn hay đuổi bắt.

- Trên mặt sông này ta phải sống hợp pháp. Ông San sẽ đối phó với nhà cầm quyền bằng sự dối trá. Khi tôi bắt đầu lái con thuyền thì tất cả chúng ta sẽ là bất hợp pháp. Ở thời điểm đó tôi sẽ trình quý vị kế hoạch tác chiến của tôi.

Nhìn vẻ lặt bình thản của viên sĩ quan hải quân tôi thần nghĩ: Y là một tay có tài tổ chức. Chỉ có điều lạ là tại sao có phương tiện thuyền bè trong tay mà y lại quyết định ra đi quá chậm như vậy? Tôi hỏi lảng sang chuyện khác:

- Là chỉ huy hải quân chắc anh thông thạo sông nước vùng này?

Viên đại úy mỉm cười, có một chút kiêu hãnh:

- Tôi là con đẻ của sông nước, của biển khơi - Như sợ tôi không hiểu nổi câu nói mơ hồ và hơi văn vẻ đó, anh ta giải thích thêm - ông già tôi xưa là hoa tiêu phụ cho tàu buôn Crussot của hãng Dauphin. Anh hai tôi là thuyền trưởng pháo hạm Hàm Tử của Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Còn anh Ba tôi lại là thiếu tá Hải quân Bắc Việt.

- Trời, câu chuyện kỳ cục quá nhỉ?

- Ông già tôi theo kháng chiến ngay từ khỉ Pháp quay lại Sài Gòn. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc. Anh Hai tôi lúc đó đã học nghề lái tàu ở Sài Gòn. Tôi còn nhỏ nên ông già mang anh Ba đi theo. Má con tôi trở về thành phố với anh Hai. Chúng tôi chờ hoài không thấy ngày thống nhất Tôi lớn lên được gọi vô lính. Anh Hai lúc đó là đại úy hải quân, xin cho tôi đi học trường hàng hải. Anh nói, dù sao hải quân cũng đỡ chết hơn lục quân. Học xong tôi về giang đoàn 12. Hồi chiến tranh tôi lãnh nhiệm vụ tuần tra vùng ven biển và các kinh rạch vùng Ba rồi vùng Bốn. Thủy vực này tôi thuộc trơn trọi như lòng bàn tay. Có thời kỳ phải tuần thám suốt đêm. Bắc Việt dung các loại tàu nhỏ cỡ một đến hai trăm tấn thâm nhập vào vùng đồng bằng sông Cửu Long. Họ đổ vũ khí vào Bến Tre, Trà Vinh, Gò Công. Anh Ba tôi đã nhiều lần chở hàng trăm tấn hàng từ Hải Phòng vô. Họ đổ lên rừng Sát, từ đấy họ chuyển bộ, vượt sông Soài Rạp, qua Hát Dịch rồi dùng xe bò chuyển vào các Cánh rừng miền Đông. Giang đoàn tôi nhận nhiệm vụ phong tỏa suốt ngày đêm nhưng đâu có nổi. Hồi đó nếu chẳng may anh em đụng nhau là nổ súng liền chứ tài gì nhận ra nhau được!

- Anh có người nhà là cộng sản thì việc gì phải ra đi?

- Cộng sản khác đằng mình. Một người làm quan cả họ đâu có được nhờ. Hồi về gặp lại gia đình ảnh cũng thương tôi lắm. Ông già tôi bị chết vì B52 oanh tạc Hải Phòng. Bà già cũng mất từ năm 1968. Anh Hai tôi ra đi ngay hồi tháng tư. Chỉ còn hai anh em ruột thịt thôi chi mà không thương nhau. Anh làm giấy xin bảo lãnh cho tôi không phải đi cải tạo đợt đầu. Anh cũng chạy đi kiếm chỗ xin việc cho tôi, nhưng chẳng nơi nào nhận. Lái tàu cho Nhà nước rồi đi luôn thì sao? Ai hiểu được bụng mình. Thế là tôi thất nghiệp. Nhà đông cháu nhỏ. Má nó lại đau luôn, chẳng biết làm chi kiếm tiền. Mọi thứ ngày càng mắc, cực quá. Anh Ba tôi cũng nghèo, nghèo hơn tôi nữa, làm sao anh cưu mang nổi mình. May mà có thằng bạn tốt. Hồi chiến tranh chí cốt với nhau. Nó biết cách kiếm tiền. Tôi giúp nó chở hàng đi khắp nơi. Nhưng thứ đó chở xe đâu có được. Nó phát đạt nó cũng nhớ đến mình. Mấy tháng qua vợ con đau nó bao hết... Gần đây thấy người ta nói: Sĩ quan hải quân sẽ đi cải tạo vô thời hạn vì tất cả các vụ di tản bất hợp pháp đều do sĩ quan hải quân điều khiển nên không thể cho loại này tự do ngoài vòng pháp luật được. Thằng bạn rủ tôi đi. Nó nhờ tôi mua thuyền, tôi lái và đưa cả hai gia đình đi. Phí tổn nó chịu cả. Lúc đầu tôi cũng ngần ngại, chưa dám nhận ngay. Nó nói nếu tôi không đi nó cũng sẽ đi. Nó nhờ người khác lái. Nó đi rồi tôi biết nhờ vào ai? Tôi quyết định nhận lời. Tôi không dám nói cho anh Ba tôi hay. Tôi đợi ra được nước ngoài, sẽ viết thư về tạ tội với anh sau.

Nét mặt của viên đại úy chứa đựng một nỗi day dứt nội tâm mạnh mẽ. Hai chúng tôi im lặng nhìn ra ngoài. Đồng bằng bát ngát trải ra tận chân trời. Những xóm ấp trù phú rợp bóng cây trái ven sông. Vẻ đẹp thanh bình của đất nước xao xuyến lòng tôi. Một nỗi buồn tha phương choán ngập.

Mười chín giờ ông San cho thuyền ghé vào neo trước một vườn dừa, cách đó chục mét có một ngôi nhà lợp tôn thấp tè, nép mình trong tán lá. Ông San nói với bọn tôi:

- Địa điềm một. Lấy dần cặn, dầu nhớt, nước ngọt và lương thực.

Chúng tôi lên bờ. Đã có hai người giúp sức khuân hàng xuống khoang. Họ xếp lên trên cùng một loạt can nước mắm để nghi trang.

- Thế bao giờ hành khách đến đủ? - Tôi hỏi.

- Chỉ chờ thằng bạn mình lên thuyền ở đây thôi. Đó là người chủ của chuyến đi. Ta sẽ đón khách ở Mũi Cát.

Sau khi thuyền nhận đủ mọi thứ, ông San thanh toán tiền rồi từ biệt chúng tôi.

- Trách nhiệm của tôi đã hết. Chúc quý vị thượng lộ bình an.

- Cảm ơn ông. Hy vọng có ngày gặp lại.

Chúng tôi bắt tay ông.

Chờ đến hai mươi mốt giờ vẫn chưa thấy “người bạn". Vẻ mặt Hào trở nên lo lắng. Có sự cố gì chăng? Tôi cũng không thể yên tâm được. Tùng Lâm và tôi mỗi người một hướng, kẻ ở người đi là lỡ hết, kế hoạch. Mãi hai mươi hai giờ tôi mới thấy ánh đèn pin lấp loáng trong vườn cây. Có tiếng gọi nhè nhẹ.

- Hào đâu?

- Hào đây! - Viên đại úy đi vội về phía anh đèn... Tôi nhìn thấy bóng hai người đàn ông xách những chiếc va-li nặng nề tiến lại gần.

- Thế nào có gì trục trặc không mà giờ mới tới? Hào hỏi. Xuống thuyền sẽ nói chuyện sau - Tiếng người khách lạ.

- Nghĩa đâu?

Nghe tiếng Tùng Lâm tôi mừng quá.

- Nghĩa đây, anh Tư đấy ạ?

Ba người theo cầu xuống thuyền. Sau khi những chiếc va-li xếp gọn vào khoang, người chủ thuyền ra lệnh:

- Nổ máy, rút cầu lẹ lên!

Hào nổ máy. Tôi tháo dây và rút cầu. Ánh đèn trong khoang bật sáng tôi mới nhìn rõ người chỉ huy chuyến đi. Y trạc bốn mươi, thấp mập, chắc khỏe. Mặt vuông, lông mày, râu tóc đều rậm. Cặp mắt u tối...

- Khởi hành.

Hào tăng lực đẩy, chiếc thuyền từ từ rẽ nước lao ra giữa sông. Hào làm việc thành thạo, nhẹ nhàng. Khuôn mặt anh vẫn đượm vẻ lo âu nhưng không dám hỏi.

- Chờ anh Tư lâu qúa, đệ rất lo! - Tôi nói nhỏ với Tùng Lâm.

- Có trục trặc - Anh nhìn tôi rồi liếc mắt sang phía tay chủ thuyền một cách bí hiểm. Có lẽ họ đã thống nhất với nhau không tiết lộ mối hiểm nguy trong lúc này. Còn tôi thì lại rất yên tâm đã gặp được Tùng Lâm. Mọi chuyện nằm trong phao số không đều đã có cậu Đức lo.

Chạy được nửa tiếng, Hào quay lại hỏi:

- Sắp đến Mũi Cát rồi. Liệu khách đến đủ chưa hay lại phải chờ?

- Đi thẳng, không ai đến Mũi Cát đâu mà chờ?

- Sao!? - Hào sửng sốt, da mặt tái nhợt dưới ánh đèn.

- Đổ bể hết! Bọn tôi bị vây ngay từ Vũng Tàu. Tôi và tướng Tùng Lâm phải khôn khéo lắm mới lọt nổi tới điểm hẹn.

- Còn vợ con tôi?

- Cả vợ con tôi nữa, tất cả đều phải quay trở lại.

- Thế thì tôi cũng không đi nữa. Tôi quay lại.

- Muộn rồi bạn thân yêu ạ! - Tay chủ thuyền nhún vai - Tôi chỉ là thường dân, tôi chẳng lo. Nhưng anh là đại úy hải quân; là thuyền trưởng di tản, họ sẽ chặt đầu anh thôi.

- Ai sẽ nuôi vợ con tôi?

- Anh quá lo xa đấy. Đâu chỉ mình anh có vợ con.

- Nhưng anh biết đấy. Vợ tôi đau luôn, nuôi sao nổi bốn cháu. Anh cho tôi ở lại.

- Có ở lại cũng không ai để anh sống mà nuôi con kia mà. Tôi đã lo điều đó giúp anh. Biết được tình hình đổ bể, tôi liền phân tán số vàng mang theo cho mọi người. Cũng đã có phần cho chị Tư. Số vàng đủ để chị góp cho một chuyến đi khác. Nếu chị chưa muốn đi thì số đó cũng đủ cho chị và các cháu sống trong mười năm. Mười năm nữa sẽ có biết bao nhiêu biến đổi. Chúng ta đã có thời gian chuẩn bị một cái tổ ấm ở quốc ngoại để đón vợ con ra. Anh lo gì? Anh nên nhớ rằng quay lại lúc này là chết. Sau gáy ta là lưỡi hái của tử thần. Anh quay lại bây giờ là anh nộp cả ba chúng tôi cho Cộng sản đó!... Anh phải nghĩ đến tình chiến hữu chí cốt của chúng ta chứ? Thôi tăng tốc lên. Hai giờ nữa chúng ta sẽ đến vùng biển quốc tế, chúng ta sẽ được tắm mình trong tự do. Đại úy hải quân Trương Tấn Hào hãy kiêu hùng tiến lên!

Hào đã hơi xuôi xuôi khi biết vợ đã có một số vàng để tạm sống. Tùng Lâm cũng nói thêm vào:

- Tôi và anh Bảy Dĩ không khôn ngoan thì sa lưới rồi. Tiền bạc ghe thuyền bị tịch thâu ráo trọi, chưa nói đến chuyện vô tù đâu. Nếu anh muốn quay lại cũng được, nhưng xin anh hãy đưa ba anh em tôi đến Thái Lan hoặc Mã Lai Á. Chúng tôi sẽ kiếm dầu để anh về. Anh vắng mặt vài ba ngày với một con thuyền là chuyện làm ăn bình thường, ai để ý đến. Nếu cùng quẫn anh cứ khai bị bọn tôi cưỡng bức bằng vũ lực buộc anh phải di tản. Ai bắt tội anh? Thậm chí hành động trở về của anh còn nổi tiếng, còn được Cộng sản viết tên anh lên báo để tuyên dương. Chưa chừng họ còn nhận anh vào làm việc ở những con tàu vượt đại dương là khác?

- Đường cùng rồi tôi nghĩ chẳng thể nào làm khác được. Tôi xin trung thành với tình bạn, với lời cam kết lúc ra đi. Việc vợ con tôi đành để tính sau.

- O.K.! - Bảy Dĩ vui vẻ, thân mật vỗ vai Hào - "Chàng từ dứt áo ra đi. Cánh chim bằng tiện đã lìa dặm khơi?" Ha! Ha! Người anh hùng đâu có để tình nhi nữ tầm thường cản gót, phải không anh Tư? Bây giờ anh có thể cho chúng tôi xem bản đồ hải trình của chúng ta.

- Không có bản đồ nào. Bản đồ nằm trên bầu trời sao, nằm trong óc tôi.

- Giỏi đa! Có được một thuyền trưởng như anh bọn tôi an tâm quá đó. Vậy anh nói qua cho bọn tôi biết chúng mình đang ở đâu và bao giờ thì chúng ta tới đích?

- Hiện giờ chúng ta đang ở trong cửa Lạch Nhì, nam cồn Cát Đen bốn kilômét. Biển Đông ở phía trước mười hải lý. Chúng ta còn đi trong vòng nguy hiểm chừng một giờ hai mươi phút nữa. Tôi đoán đó là vùng tuần thám của khinh hạm Cộng sản. Ngoài vùng nước sâu một trăm tám mươi bộ có thể gặp những pháo hạm lớp Komar có ra-đa kiểm soát bề mặt nhưng loại này họ có ít nên mối hiểm nguy cũng giảm đi. Trong vùng ven này ta phải tắt đèn pha, quan sát tàu tuần tiễu bằng mắt thường để tránh họ. Nếu bị đuổi, ta sẽ tăng lực chạy với tốc độ hai mươi hải lý một giờ. Tàu ta nhẹ, máy khỏe, họ dễ bị mất mục tiêu. Ra vùng biển quốc tế ta an tâm hơn.

- Thôi được, bây giờ ta cứ phải chuẩn bị đối phó với những trạng huống xấu nhất!

Bảy Dĩ xách chiếc va-li to đại ra đặt giữa ca-bin.

- Của cải chi mà nặng dữ thế anh Bảy? - Hào hỏi.

- Vàng đó! Xài hết mấy thứ này là vừa đến lúc về bên Chúa? Ha! Ha! Ta phải mở sẵn ra để hối lộ cán binh Cộng sản nếu có cuộc đụng độ không mong đợi xảy ra? Quý anh em đồng tình chớ!

Bảy Dĩ hì hục mở khoá rồi bật nạp va-li ra. Bọn tôi trố quắt nhìn. Y nhẹ nhàng tháo một lớp vải bạt: hai cây M.79, một cây AR.15 và những băng đạn sáng chói.

- Trời, anh Bảy nói vàng, bọn tôi mừng quá, té ra mấy thứ này.

- Vàng đó chớ. Tôi phải bỏ ra cả chục lượng vàng mới mua nổi mấy thứ quốc cấm này. Với chúng ta nhiều lúc quý hơn vàng - Mặt Bảy Dĩ trở nên nghiêm trang - Tôi đã phải lo tính kỹ cho chuyến đi sanh tử này. Nếu gặp cộng quân thì chỉ có thể xảy ra hai điều. Một là ta phải đạp lên xác chúng mà chạy thoát. Hai là nộp mình cho chúng để rồi nhận những viên đạn vào sọ. Thưa tướng quân - Y quay lại nói với Tùng Lâm - Tướng quân là người cao cấp nhứt ở đây. Nhưng hôm nay tôi là người vạch kế hoạch cuộc hành quân, xin cho phép được chỉ huy.

- Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh của ông. Trong trường hợp này vị trí thích hợp của tôi là một chiến binh - Tùng Lâm khiêm tốn nói.

- Xin cảm ơn tướng quân. Thứ này tướng quân xài được chớ? - Y chỉ hai cây rốc-két chống tăng làm cho Tùng Lâm lúng túng. Là tướng lục quân anh đâu có chú ý đến những thú vũ khí mà anh coi là lặt vặt đó. Tôi vội vàng đỡ lời anh.

- Để tôi xài cho. Thứ này đối với lục quân cũng khoái như sâm-banh trong bữa tiệc vậy. Để anh Tùng Lâm dùng cây AR.15.

Tôi muốn giữ lấy thứ hỏa lực mạnh này để chủ động trong trường hợp có đụng độ. Lỡ đâu gặp tàu hải quân, do một sự hợp đồng thiếu chặt chẽ giữa tình báo với hạm đội có thể gây ra những hiểm nguy không cần thiết.

Trao súng cho chúng tôi xong, Bảy Dĩ phân công nhiệm vụ.

- Tôi cảnh giới phía sau. Anh Hào vừa lái vừa quan sát phía trước. Tướng Tùng Lâm bên phải, trung tá Nghĩa bên trái... Có tàu thuyền nào xuất hiện từ xa cũng phải thông báo cho nhau nghe!

- Tuân lệnh!

Tôi ngạc nhiên về cách thức tổ chức của cái tay "dân sự" này. Nó biết chỉ huy như một sĩ quan thực thụ...

Biển sáng lấp lánh dưới trăng. Những con sóng bạc đầu đuổi nhau, đập vào mạn thuyền tung bọt trắng xoá. Con thuyền chồm lên, lao xuống như ngựa phi. Mênh mông trời nước. Mặt biển vắng vẻ, đất liền biến mất. Đèn Vũng Tàu ánh lên nền mây xa xa như một dải ngân nhũ nổi trên màu sẫm của một bức tranh sơn mài.

Mọi việc gần như trót lọt. Trương Tấn Hào quay lại thông báo với mói người:

- Chúng ta đã ra đến hải phận quốc tế, cách đất liền mười hai hải lý. Thuyền sẽ quay mũi về hướng đông nam tạo một góc một trăm chín mươi hai độ với bắc địa cực.

- Liệu có thể nâng cốc chúc mừng tự do được chưa? - Bảy Dĩ hỏi.

- Kể thì hơi sớm nhưng không sao! - Tùng Lâm tươi tỉnh và nhiệt tình khi nói đến chuyện nâng li.

Bảy Dĩ mở chai sâm-banh. Bọt trắng trào ra cổ chai. Y giờ lên cao:

- Tự do vạn tuế! Vie la libertél! À notre victoire1 (Tự do muôn năm! Chúc mừng thắng lợi của chúng ta!):

- Bravo! Bravo! - Tôi và Tùng Lâm vỗ tay.

Bảy Dĩ lịch sự đưa chai rượu cho Tùng Lâm.

- Xin mời tướng quân dùng trước?

- Cảm ơn, xin mời ông chỉ huy. - Tùng Lâm cũng đáp lại một cách khiêm nhường mặc dù đôi mắt anh nhìn vào bọt rượu NHƯ thôi miên.

Dĩ ngửa miệng rót rượu ồng ộc. Y chuyển chai cho Tùng Lâm. Tùng Lâm đưa cho tôi, tôi không uống mà mang lên cho Hào. Hào từ chối:

- Người say không thể điều khiển con tàu chính xác.

- Một chút tượng trưng thôi! Nghe nói mỗi khi qua xích đạo, những người lính thủy đều nâng cốc tạ ơn Hải Vương Tinh?

- Nhưng thuyền trưởng và hoa tiêu đang thực thi nghiệp vụ thì không được phép.

Hào từ chối, tôi hiểu không phải vì lý do an toàn. Một nỗi buồn tha hương, thương vợ, nhớ con đang đè nặng lên tâm hồn anh ta. Hào không thể hòa vào cuộc vui chung được.

Bảy Dĩ phân công người thức người ngủ. Riêng Trương Tấn Hào thì không ai thay thế được. Aanh ta sẽ phải thức suốt cuộc đi. Bảy Dĩ đặt trước mặt anh một chai Nestcafé pha sẵn để anh chống chọi với cơn buồn ngủ.

CHƯƠNG II

LÁ THƯ CHỮ HÁN

Tôi tỉnh dậy khi mặt trời đang nổi lềnh bềnh trên mặt sóng. Mũi thuyền chếch theo hướng Tây Nam. Tiếng máy nổ đều đều và Trương Tấn Hào vẫn ngồi im lặng như pho tượng trước vòng lái. Tùng Lâm nằm ngáy ngon lành, nước dãi chảy ra bên mép. Còn Bảy Dĩ thì đang xem lại đống hành trang lộn xộn của y trong chiếc túi xách to xù mà y luôn đeo kề bên hông. Liếc thấy tôi tỉnh dạy, Dĩ thu vội lọi thứ vào trong túi rồi kéo phéc-mơ-tuya, khoá lại. Tôi lần đến bên vòng lái tò mò:

- Hiện nay chúng ta đang ở đâu thưa đại úy?

Như bừng tỉnh khỏi những ý nghĩ đang theo đuổi, Tư Hào lúng túng đến một phút mới trả lời tôi:

- Hiện giờ ta đang ở khoảng 7,6 vĩ độ bắc, 105 kinh độ đông. Cách hòn Nhạn hơn bốn mươi hải lí về phía Đông Nam. Bên trái chúng ta gần trăm hải lí là quần đảo san hô Scowfell Shool. Phía trước hai trăm hải lí là hoang đảo Charlotte Bank.

- Không có hải đồ, nghe anh nói tôi vẫn chưa hình dung nổi.

- Dạ có chi là khó - Anh lộn trái vỏ bao thuốc lá lấy bút bi vẽ qua hình bờ biển - Cà Mau đây nhé. Phú Quốc đây, ta đang ở chỗ này.

- Thế là ta sắp vào vịnh Thái Lan?

- Dạ.

Nhìn sang chân trời phía Tây Bắc, mặt biển lấm tấm những chấm đen. Đó là những ngư thuyền đi khơi. Trên bầu trời một đàn chim hàng ngàn con dang bay về hướng Đông.

- Ôi đàn chim biển đông quá.

Hào nhìn theo tay tôi chỉ, anh mỉm cười:

- Chim trời đấy. Lợi dụng những dòng khí nóng đối lưu, đường bay của chúng kéo từ lục địa này sang lục địa khác. Chim biển không hành binh theo đội hình đó. Nó bay loạn xạ chao đảo trên mặt sóng. Gặp chim biển là đoán được khoảng cách đến đất liền, đến những đảo san hô hay những hòn núi đá. Ó biển ưa những hòn đảo cô đơn. Hải âu thích những cửa sông, bến cảng, đảo san hô. Hải yến quần tụ trên những vách đá dựng đứng... Mỗi thứ chim có một thói quen, một xứ sở sinh tồn khác biệt.

Hào châm thuốc hút, cặp mắt mất ngủ mệt mỏi buồn bã mờ ảo trong làn khói. Nếu thuyền cứ chạy thẳng thì anh để tôi giữ lái cho, anh nằm nghỉ đi ít phút.

- Liệu thế có được không? - Bảy Dĩ cũng hỏi xen vào.

- Trong vòng hai trăm cây số nữa mặt biển vẫn mênh mông ở độ sâu trên bốn trăm bộ. Chỉ cần giữ nguyên góc phương vị như thế này là được. Nếu gặp tàu phía trước thì các anh gọi tôi dậy. Biển tuy rộng nhưng cũng phải biết luật tránh nhau đó.

- Anh cứ yên tâm nghỉ đi.

Tôi ngồi vào vòng lái. Hào xuống khoang xem lái máy móc rồi rút trong túi xách ra chiếc bánh mỳ kẹp thịt nhai ngon lành. Ăn xong anh tu một hơi nước rồi lăn ra chiếc đi-văng trên ca-bin ngủ thiếp đi.

Giữa biển khơi mênh mông con thuyền như nổ máy đứng yên. Đặt tay lên vòng lái tâm hồn tôi bỗng nao nao xúc động. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến mình sẽ lái con tàu đi giữa đại dương, giữa một vùng ngắt xanh trời nước.

Tám giờ mời bảy phút tôi thấy chân trời phía trước ánh lên một chấm sáng như bạc. Tôi thích thú ngắm nhìn cái hiện tượng lạ lùng do chính mình phát hiện ra. Chỉ vài phút sau, cái hiện tượng được coi là lạ lùng đó rõ dần hình dáng một con tàu. Điểm sáng sẫm dần lại. Hai động tử chuyển động ngược chiều cùng phương nên khoảng cách rút lại nhanh chóng. Tôi đưa chiếc ống nhòm bội số mười hai lên mắt. Hình con tàu hiện ra lồ lộ. Nó đang đi thẳng về phía chúng tôi. Tôi buộc phải gọi Hào. Anh mở cặp mát đỏ hoe ngơ ngác rồi vục dậy. Anh nheo mắt quan sát tàu lạ rồi đánh tay lái cho con thuyền chếch trái vài độ. Qua ống nhòm tôi cũng thấy chiếc tàu kia quặt phải để lộ ra cái sườn bên trái. Trương Tấn Hào giằng lấy cái ống nhòm. Bằng một tay anh làm một động tác mạnh mẽ quặt hướng tàu sang phải. Chiếc tàu lạ cũng chuyển hướng đi như có ý định chặn đầu con thuyền của chúng tôi.

- Anh Bảy gọi anh Tùng Lâm dậy mau. Chiếc tàu lạ có vẻ muốn khiêu khích chúng ta.

Tùng Lâm bừng tỉnh, anh xách cây tiểu liên lên đạn "roạt" rồi tìm một tư thế bắn thuận lợi hướng về phía trước. Tôi mở nắp rốc-két, kéo dài ống phóng về tư thế sẵn sàng chiến đấu. Hào chạy theo một đường chếch, cố tăng khoảng cách đến con tàu lạ nhưng không biểu hiện ý định bỏ chạy để thăm dò đối phương. Một lần nữa tàu lạ lại tìm hướng đón đầu để tiếp cận.

- Tàu nó khoảng hơn trăm tấn, không lớn hơn tàu mình là bao ta không để cho nó bắt. Có thể đó là tàu của bọn hải tặc. Không cờ, không số.

- Ta phải kiềm chế, cố gắng đừng để xảy ra đụng độ. Trường hợp không sao thoát nổi mới phải nổ súng. Các chiến hữu nghe lệnh tôi - Bảy Dĩ hét to để bọn tôi nghe rõ. Tiếng máy tàu tăng lực nổ dữ dội. Bảy Dĩ nghển ra cửa sổ để quan sát tình hình.

Khi khoảng cách rút lại trong vòng trăm mét. Hào tạo một đường cát táo bạo, con thuyền lượn nghiêng một góc độ rất nguy hiểm. Con tàu lạ bất ngờ theo đà lao thẳng, cự li đã mở rộng. Thuyền chúng tôi táng tốc tháo chạy về hướng Nam. Bị mất mồi tàu lạ mở vòng lượn lớn quay mũi bám đuôi tăng tốc đuổi theo. Chúng mở mê-ga-phôn oang oang ra  lệnh "Stop! Stop''!. Hào vẫn cố gắng tăng tốc chạy miết. Nhưng rõ ràng tàu địch mạnh hơn, khoảng cách đã thu lại. Tôi đã tính đến nước phải nổ súng, nhưng Bảy Dĩ chưa cho lệnh. Bỗng một tràng súng máy ré lên nã vào buồng lái. Bảy Dĩ trúng đạn ngã vật xuống. Hào phải nằm xuống tránh đạn, tay với lên vòng lái điều khiển con thuyền. Tùng Lâm muốn bắn lại nhưng tàu địch cao, mũi nghếch lên che cho khoang lái. Địch đang lợi thế. Tôi không dám nổ súng vì hai tàu còn trên một đường thẳng, tia lửa phản lực sẽ thiêu cháy cả con tàu của chúng tôi.

- Quay ngang ra anh Hào ơi. Khẩn cấp.

Hào kéo mạnh vòng lái. Con thuyền tạo ra một góc bốn nhăm độ với hướng cũ. Sườn tàu cướp hiện ra, tôi bấm cò. Viên rốc-két xé gió lao vào khoang máy tàu địch. Một ánh chớp màu da cam cùng tiếng nổ dữ dội xô nghiêng chiếc tàu trăm tấn. Nó bốc cháy ngùn ngụt. Lúc đó Tùng Lâm mới dùng tiểu liên tỉa gọn những tên sống sót nhô lên boong.

Hào định lái thuyền chạy thẳng nhưng tôi ngăn anh lại:

- Đánh rắn phải đánh giập đầu. Nếu để thoát, nó kêu đồng đảng lại báo thù.

- Đúng đấy - Tùng Lâm góp ý kiến thêm – Chúng mình sẽ đến đất Thái. Nếu nhận biết số thuvền của chúng mình chúng có thể vu cáo mình tiến công trước. Giữa biển, sans loi, sans témoin1 (Không luật pháp, không nhân chứng)… Tòa án của chúng, mình đâu đủ lý để chống nổi chúng.

Hào vòng thuyền lại. Tùng Lâm tỉa nốt hai tên cướp còn cố bám lấy ca-bin chống lại chúng tôi. Chiếc tàu chìm dần. Mặt biển loang ra một mảng dầu nhờn bóng loáng.

Tôi quay lại chỗ Bảy Dĩ. Y bị đạn xuyên qua bả vai sang ngực. Máu sủi bọt trên vết thương có thể đạn xuyên qua phổi. Tôi xé cuốn băng và mảnh gạc băng cho anh ta. Chúng tôi đặt Dĩ nằm ngay ngắn trong khoang thủy thủ rồi tiêm kháng sinh cho anh ta. Dĩ rên rỉ:

- Tôi chết mất. Hãy cứu tôi...

Chín giờ hai mươi lăm phút cuộc hành trình tiếp tục. Tôi thu dọn, xóa mọi dấu vết trận hải chiến trên con thuyền. Tôi bỗng thể ý đến chiếc túi da khá lớn mà Bảy Dĩ vẫn kè kè đeo bên người đang nằm trên sàn tàu. Bảy Dĩ là người thế nào vẫn là dấu hỏi lớn đối với tính tò mò nghề nghiệp của tôi. Có thể những thứ đựng trong chiếc túi da kia sẽ giải thích được phần nào hành tung bí ẩn của anh ta.

Chờ lúc Tùng Lâm lên ca-bin nống rượu mừng thắng lợi và tán chuyện ba láp với viên đại lý hải quân, tôi mới mở chiếc túi da của Bảy Dĩ ra.

- Vàng, rất nhiều, được đựng trong nhũng chiếc hộp nhỏ.

Đô-la vài xấp, có tới hàng chục ngàn. Những thứ này không ngoài dự đoán của tôi...

Vài bộ quần áo. Một cuốn tiểu thuyết A la recherche du temps perdu2 (“Tìm lại thời gian đã mất" của nhà văn Pháp Mác-xen P.rút) của M.Proust - Khá thú vị.

Một tập an-bom gắn ảnh gia đình bè bạn không dày lắm (chuyện thường tình). Không có bộ mặt nào quen thuộc.

Hết.

Tất cả không có thứ gì thỏa mãn tính tò mò của tôi. Vàng, đô-la, quần áo... không chứa đựng điều gì. Hãy loại ra. Còn cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp dày cộm này anh ta mang theo làm gì? Tôi lật lại vài trang rồi giũ ra. Không có gì. Mở tờ bìa phụ bọc ngoài tôi thấy có lá thư gài bên trong. Ngoài bì đề địa chỉ:

Xuy Kin Hua

Woong-Te-Tsien street 7652 Nrd Hong Kong.

Không có tên người gửi. Cũng thú vị đấy. Tôi sẽ mượn lá thư này vài giờ. Tôi xem lại tập an-bom bìa mia-ca trong suốt. Có năm tấm ảnh màu cỡ 6 X 9 làm tôi chú ý. Tôi bóc ra một chiếc. Tờ bìa an-bom đen bồi phía sau, trên mép có vết hồ bóng. Tôi khẽ nạy bằng lưỡi ca-níp thì giữa hai lần giấy xuất hiện mẩu phim mỏng chụp những dãy số li-ti không có kính phóng không thể đọc nổi. Hơn nữa nó là bản mật mã, không có khóa cũng đành chịu. Tuy hấp dẫn nhưng tôi cũng đành nhét trả lại như cũ vào an-bom. Ba tấm ảnh sau có chứa ba giấy chứng chỉ nhỏ xíu. Một mặt có vết lăn hai ngón tay. Mặt sau chỉ đề mấy chứ lẫn với số N3P7. D4K2L3. MGK2B1. Cả ba tấm ảnh dán trên chứng chỉ đều bị bóc. Nhìn con dấu nổi hằn sang mặt trái tôi thấy rõ hình đầu con ó, tấm mộc và chiếc kim la bàn. Đó là biểu tượng của cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Tôi ghi mấy chứ số và đặt mọi thứ vào chỗ cũ.

Tôi tiếp tục tiêm kháng sinh cho Bảy Dĩ. Tôi cũng cho anh uống thuốc an thần để anh ngủ ngon đỡ cơn đau buốt. Trong cơn mơ tỉnh, thỉnh thoảng Dĩ lại kêu “Cái xắc của tôi đâu?". "Đưa cho tôi cái túi".

Chờ cho Tùng Lâm nằm ngáy trên ca-bin tôi mới nhấp nước bọt mở lá thu ra đọc trộm. Tai ác thay lá thư lại viết toàn bằng chữ Hán. Làm sao bây giờ? Không có máy ảnh. Chép cũng không nổi. Sau một hồi suy nghĩ, tôi viết liều một lá thư bằng chữ in hoa để giấu bút tích:

BẠN CÓ LÁ THƯ GỬI TAY RẤT QUAN TRỌNG. TÔI KHÔNG ĐẾN CHỖ BẠN ĐƯỢC VÌ VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH, CHỜ CÓ NGƯỜI TIN CẨN ĐI HONG KONG TÔI SẼ CHUYỂN ĐẾN TAY BẠN, CÙNG LẮM TÔI MỚI GỬI BƯU ĐIỆN.

Tôi nhét vào phong bì dán lại và để vào chỗ cũ. Lá thư chính tôi giấu vào gói hành trang của mình.

Theo dự tính ban đầu, chúng tôi định đến Thái Lan. Nhưng do xảy ra trận hải chiến, dầu mỡ bị tiêu hao nhiều lại có người bị thương nên Hào khuyên chúng tôi đổ bộ vào nơi nào gần nhất.

Bảy Dĩ đã khá hơn. May mà cầm được máu. Câu hỏi đầu tiên sau một thời gian dài mê mệt là:

- Cái túi của tôi đâu?

- Ở ngay đầu anh đó. Anh yên tâm, bọn tôi phải giữ gìn cho anh chứ.

- Cảm ơn, rất cảm ơn các chiến hữu đã cứu sống tôi. Liệu ta sắp tới đích chưa?

- Sắp rồi. Thế giới tự do đang dang tay chào đón ta đó!

Sau gần hai ngày đêm lênh đênh trên biển cả, vật lộn với sóng gió, chiến đấu với hải tặc, chúng tôi đã nhìn thấy dải đất xanh mờ hiện lên phía trước.

- Đất liền kia rồi? - Tôi vui sướng reo lên.

- Chưa phải. Đấy mới là đảo Kivaj. Mười lăm dặm nữa mới là lãnh hải của Mã Lai. Tôi sẽ đưa các vị đến cửa sông Majali.

Khi thấy an ninh tạm thời không còn bị đe dọa nữa, chúng tôi quyết định quăng xuống biển tất cả vũ khí còn lại để dễ bề ăn nói với nhà cầm quyền địa phương.

Mặt biển đã thấv nhộn nhịp nhàng tàu thuyền đánh cá. Chúng tôi tiến thẳng vào cửa sông. Phong cảnh đất nước này cũng không khác lạ với nền duyên hải của chúng ta là bao. Những vườn dừa bát ngát. Những ngôi nhà mái tôn lè tè nằm bên cồn cát, chen chúc nhau ven sông. Dân chài ngồi vá lưới, phơi cá bên bãi cát. Không ai để ý đến chiếc thuyền lạ xâm nhập lãnh hải của họ. Trương Tấn Hào lái thuyền vào sát một thị trấn nhỏ. Chúng tôi tìm một chỗ thuận lợi buông neo và bắc cầu. Tùng Lâm ở lại trông coi Bảy Dĩ, còn tôi và Hào thì lên bờ. Đám trẻ con nước da màu bánh mật với cặp mắt tò mò xúm quanh chúng tôi. Tôi đi thẳng vào đường phố để tìm gặp một viên cảnh sát sở tại Hào hỏi thăm vài người bằng tiếng Anh, họ đều lắc cầu không hiểu. Đất nước này trước đây là thuộc địa của Vương quốc Hồng Mao nhưng bọn thực dân đã ra đi từ lâu nên ảnh hưởng văn hóa ở vùng thôn đã này xem ra đã phai nhạt.

Chúng tôi đã nói chuyện được với người chủ mọt hiệu buôn. Ông ta chỉ cho chúng tôi đến cơ quan hành chính của quận Majali.

Viên đại diện của nhà chức trách địa phương tiếp chúng tôi không lấy gì làm niềm nở lắm. Ông ta nói:

- Có nhiều người Việt Nam di tản bằng đường biển vào đất nước chúng tôi một cách bất hợp pháp gây cho chúng tôi những rắc rối về ngoại giao và kinh tế. Chính phủ chúng tôi quy định mọi người tị nạn đều được hướng dẫn tới đảo Kivaj. Hội đồng thập tự sẽ giúp họ lều bạt và thực phẩm để họ chờ đợi giấy phép nhập cư vào một nước nào đó chịu nhận.

- Cảm ơn ngài đã hướng dẫn chúng tôi. Có điều không may là trên đường chạy trốn, chúng tôi bị tàu tuần tiễu bắn đuổi. Một trong bốn chúng tôi bị thương nặng cần được cấp cứu. Mong ngài giúp đỡ chúng tôi khi nào người đồng hương của chúng tôi bình phục, chúng tôi sẽ đến Kivaj.

Thấy vẻ mặt của người đôi thoại ngần ngại, tôi phải nêu ra đề nghị cụ thể để ông ta để trình lên cấp trên.

- Xin ngài cho phép chúng tôi thuê một bác sĩ đến khám và chữa chạy cho người bạn của chúng tôi ở dưới thuyền. Tốt hơn nữa là xin cho anh vào nhà thương. Còn ba chúng tôi xin được thuê một buồng ở khách sạn nào đó ít ngày. Phí tổn chúng tôi sẽ thanh toán bằng đô-la! Xin các ngài tạm thời coi chúng tôi như khách du lịch ngoại quốc.

Đề nghị đó làm cho vẻ mặt quan chức này nhẹ nhõm hơn. Ông ta bảo chúng tôi chờ cho mươi phút.

Cuối cùng thì họ hướng dẫn chúng tôi làm một đơn tạm trú để cấp cứu vì tai nạn cùng với một biên bản xâm phạm lãnh thổ bất hợp pháp vì lý do tị nạn chính trị. Hai viên cảnh sát theo chúng tôi xuống thuyền khám xét qua loa rồi cho phép chúng tôi thuê xe về trọ trong một khách sạn nhỏ ở thị trấn.

Bảy Dĩ không đến bệnh viện. Anh muốn cùng chúng tôi ở khách sạn và thuê bác sĩ đến chữa. Một thày thuốc đến thăm bệnh, tiêm, rửa vết thương và thay băng hàng ngày cho Dĩ. Viên đạn đã không gây ra hiểm họa. Những bộ phận quan trọng không bị thương tổn lớn. Không khí ngoài biển trong lành, tôi lại tiêm kháng sinh đều đặn nên vết thương khô miệng không bị nhiễm khuẩn.

Mặc dù còn yếu, Dĩ đã kéo chiếc máy điện thoại đến bên mình. Anh ta dò hỏi các tổng đài để tìm ra số diện thoại của viên đại diện đại sứ quán Mỹ ở đó. Và anh đã tìm ra. Bảy Dĩ nhờ viên đại diện cho anh ta được bắt liên lạc với ông Wrarrens, trợ lý Viễn đông vụ của công ty Albert E.C.

- Xin ông cho biết quý danh. Ông Warrens hiện không có mặt ở đây.

- Tôi là Lê Văn Dĩ B.P. 321N Sài Gòn (Dĩ nhắc lại hai lần). Cùng đi với tôi còn có ba quân nhân thuộc quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tướng Tùng Lâm, trung tá Nghĩa và đại úy Hào. Chúng tôi hiện đang nằm ở khách sạn Thaman thị trấn Majali. Chúng tôi mong được sự che chở của ngài Warrens và quý quốc.

- Chúng tôi sẽ trả lời ông trong vòng hai mươi bốn giờ.

Kết quả của cú điện thoại thật bất ngờ với tôi và Tùng Lâm. Ngay cả Hào, người bạn chí cốt của Bảy Dĩ cũng không dám hy vọng: Nhờ sự can thiệp của tòa đại sứ Hoa Kỳ với Bộ Ngoại giao nước này, cả bốn chúng tôi đều được cấp hộ chiếu để đến thủ đô chứ không phải quay ra nằm chờ ở đảo Kivaj nữa.

Tôi và Tùng Lâm làm đơn xin nhập cư vào Mỹ. Bảy Dĩ chưa có chủ định rõ rệt. Anh còn chờ gặp Warrens xem công ty còn đảm bảo quyền lợi gì cho anh không. Trương Tấn Hào không biết đi đâu. Ở Mỹ chẳng quen ai, vợ con thì lỡ chuyến, tiền bạc chẳng có, anh rất buồn. Dĩ khuyên Hào ở lại với mình, tìm chỗ làm ăn ở vùng Đông Nam Á đợi có dịp cuốn nốt vợ con ra. Hào cũng phải dựa Dĩ vì Dĩ quen biết nhiều, hy vọng sẽ kiếm cho Hào một công việc thích hợp.

Trước khi chia tay tôi rủ Hào đi chơi phố. Tôi muốn qua anh để hiểu biết thêm về Bảy Dĩ. 

- Nhờ có anh Bảy chư không bọn mình còn phải nằm bẹp trên đảo Kivaj không biết đến ngày nào.

- Ồ, cha là người rất tháo vát. Bọn tôi phải chịu ơn cha nhiều lắm.

- Trước đây anh ấy lành việc ở Bộ Ngoại giao à?

- Không. Phó thường dân suốt. Không làm gì cho quân đội, cũng chẳng phải quan chức chánh quyền. Có thời Bảy rao hàng cho một công ty điện tử của Mỹ. Chỉ đơn thuần buôn bán thôi, ảnh không ưa chánh trị, Nhưng ảnh kiếm được khá.

- Anh quen anh Bảy lâu chưa?

- Lâu rồi, từ lồi tôi bắt đầu làm việc với ngành hàng hải.

- Anh chở hàng cho anh Bảy à? Chở cho anh Bảy, chở cả cho người Mỹ. Khi quân Mỹ vào đông các nhà kinh doanh Mỹ cũng theo chân binh lính. Những vụ buôn bán không qua Hải quan đó lớn lắm.

- Anh Bảy đông con không?

- Anh ta sống độc thân mãi. Mới lấy vợ vài năm nay, sinh được con nhỏ lại bị dị tật ở mắt phải. Thiệt tội.

Nhận được giấy nhập cư vào Mỹ tôi vẫn chưa viết thư báo cho anh chị tôi ở Qúebec biết tin. Tôi sợ nếu biết trước anh chị tôi sẽ làm giấy đảm bảo cho tôi cư trú ở Canađa thì sẽ lỡ ý đồ của tôi. Cuối năm 1975, tôi và Tùng Lâm đến New York. Đó là một mùa đông đầy tuyết phủ. Đám dân tị nạn người Việt sống trong nhiều chưng cư tạm thời ở nhiều vùng trên đất Mỹ. Họ chờ đoàn tụ gia đình, chờ công ăn việc làm, chờ nơi định cư lâu dài. Họ được nhận một khoản trợ cấp hai trăm đô-la để duy trì mức sống tối thiểu. Tôi và Tùng Lâm là tướng tá cả, nhưng sự tan rã hoàn toàn của chế độ Sài Gòn đã không còn một tổ chức nào phải chịu trách nhiệm đến số phận chúng tôi. Người Mỹ tiếp nhận dưới khía cạnh nhân đạo. Tất nhiên đối với những sĩ quan đã từng cùng hội cùng thuyền họ cũng có sự ưu đãi nhất định.

Số phận của tướng Tùng Lâm còn đáng buồn hơn tôi. Anh không tìm thấy tin tức vợ con hiện lang bạt nơi đâu. Mục tiêu trước mắt của anh là đi tìm kiếm họ. Trái đất tuy chẳng to lớn gì so với tốc độ của thời đại, nhưng với những người "vô danh tiểu tốt" thì lần tìm ra họ đâu phải dễ. Tùng Lâm buồn bã nói với tôi:

- Mình rất cảm ơn Nghĩa đã hết lòng giúp đỡ mình để đến được đây. Nhưng mình không thể bám vào bạn mãi được. Mình sẽ phải lo tính chuyện gia đình, chuyện kiếm sống lâu dài.

- Nơi đất khách quê người, ta phải tựa vào nhau mà sống. Anh Tư chẳng cần nói đến điều ân huệ. Vì thương vợ con mà anh Tư cứ đi hoài nhưng tình kiếm thì sao thấy nổi. Phải nghĩ ra một phương sách đáng tin cậy thì mới hy vọng tới đích.

- Đúng là đáy biển mò kim. Giá như phạm vi trong một nước, thì ta có thể nhắn tin qua đài, qua báo chí. Nay chẳng biết ở nước nào thì đành chịu thôi. Chỉ có cách đi gặp bạn bè cũ, từ người này lần ra người kia may ra có ai họ biết.

- Đó cũng là phương cách hợp lý hiện nay. Theo tôi anh có thể gửi thư nhờ hỏi qua tổ chức HCR ở mấy nước mà người di tản hay đến. Hy vọng họ có danh sách và họ tìm giúp. Anh Tư nhớ đi đâu thì đi nhưng thỉnh thoảng phai viết thư cho đệ - Tôi ghi địa chỉ ở Canađa cho anh - Gặp khó khăn gì trên đường đời hãy báo tin cho đệ. Có cánh tay bè bạn mọi vấn đề trên đời đều bớt phần nan giải.

Chúng tôi từ biệt nhau mỗi người đi một ngả.

Trước khi bay đi Montrea, tôi đến thăm gia đình họa sĩ Bạch Vân ở New York. Thấy tôi đến, cả nhà đều vui mừng và ngạc nhiên.

- Anh sang đây từ hồi nào mà bữa nay mới đến với chúng tôi?

- Dạ thưa bác, cháu mới đến nước Mỹ được một tuần nay.

- Thế trước đó?

- Ở Việt Nam.

- Ở Việt Nam? Nghĩa là anh đi sau biến cố 30 tháng 4.

- Dạ, cháu lên đường ngày 16 tháng 10.

- Bằng đường nào?

- Trốn tù rồi vượt biển.

- Trời! Thế mà thoát nổi. May mắn quá.

Tôi tường thuật lại cuộc hành trình. Chuyện phiêu lưu đó kích thích tâm lý mọi người và tôi luô luôn nhận được những lời thán phục nhất là ở những đứa trẻ. Ông bà ân cần hỏi đến dự định tương lai của tôi.

- Cháu mới nhập cư vào nước Mỹ và sống tạm bằng trợ cấp tị nạn. Dĩ nhiên là cháu sẽ phải tìm ra một công việc thích hợp. Nhưng trước mắt cháu phải sang Canada vì anh chị cháu đều sống bên đó.

Con trai ông bà Bạch Vân khuyên tôi:

- Nếu anh muốn, anh hãy ở đây với chúng tôi. Anh có thể chọn một công việc anh thích. Chúng tôi sẽ giúp anh.

- Cảm ơn anh đã quan tâm đến tôi. Tôi rất thích New York một thành phố gắn liền với nhịp đập chính trị của trái tim nhân loại. Nhưng dù sao cũng còn phải chờ ỷ kiến của anh chị tôi.

Thực ra trong ý định đến thăm, tôi cũng có dụng ý nhờ vả ông già một chút nhưng không phải chuyện tìm việc. Khi chỉ còn ngồi riêng với họa sĩ tôi mọi lấy lá thư chữ Hán ra.

- Bác ạ, khi ra đi vội vàng có một người Tàu nhờ cháu gửi hộ lá thư cho ngươi bà con. Thư ngỏ, kèm theo mẩu giấy ghi địa chỉ. Vội vàng lúng túng cháu để lộn đâu mất mảnh giấy. Xin bác làm ơn đọc giúp có thấy nói gì đến nơi làm ăn của người nhận không.

Ông già lấy kính lúp soi, đôi chỗ phải mở cả từ điển ra tra cứu. Cuối cùng ông nói lại đại ý của bức thư như sau:

Bức thư của ông Thanh gửi cho người bà con ở Hồng Kông nhờ chuyển cho con gái là Hứa Quế Lan báo tin: ông vẫn sống mạnh khỏe và tin tưởng vào chế độ mới. Chưa có lãnh sự của Trung Quốc ở Sài Gòn nên cộng đồng người Hoa ở đây còn lo lắng ai sẽ bảo vệ quyền lợi cho họ. Công cuộc kinh doanh giảm nhịp độ, ông báo cho Hứa Quế Lan biết là chồng cô ta vẫn sống tự do và rất muốn liên lạc với cô nhưng chưa biết địa chỉ chính xác. Anh ta hỏi nhưng ông Thanh cũng không biết gì hơn. Anh không biết cô đã mang đi đầy đủ giấy tờ về ngân khoản anh ta gửi vào ngân hàng Mahattan hay chưa. Sớm muộn thì anh cũng phải tìm cách đến với vợ, nhưng trước mắt anh ta còn dở một số việc chưa thể ra đi ngay. Anh mong thư và địa chỉ của cô. Hiện anh chưa có địa chỉ cố định, cô cứ gửi thư qua chỗ ông Thanh. Còn ông Thanh thì khuyên con gái: nếu còn trung thành với chồng thì hãy cho y địa chỉ. Còn nếu đã định đi tìm một cuộc đời khác thì chẳng nên báo địa chỉ cho chồng làm gì. Ông ta cũng mong thư con gái. Ông nhắc là nếu ông P muốn giữ mối quan hệ cũ với ông L thì có thể đến gặp ông Đ ở Hồng Kông. Vì P và Đ chưa quen nhau do đó Quế Lan có thể đứng ra làm trung gian môi giới. Hỏi địa chỉ ông Đ. ở Hứa Kim Hoa. Đại khái lá thư là như vậy. Phần dưới  khó hiểu và chàng có gì để tìm nổi địa chỉ của Hứa Kim Hoa hay Hứa Quế Lan.

- Thật đáng tiếc! - Tôi nhận lại lá thư và cảm ơn họa sĩ.

Tôi thấy rõ tầm quan trọng của lá thư. Phải chăng Hoàng Quý Nhân vẫn còn sống. Thế thì cái xác chết cháy thu trong biệt thự Vie du Château là ai? Hắn đã tạo ra một "hình nhân thế mạng” để thoát thân, tại sao hắn chưa ra đi còn ở lại làm gì? Ai giao nhiệm vụ cho hắn ở lại hay vì ra đi không kịp. Quan hệ giữa Bảy Dĩ và Hoàng Quý Nhân. Giữa Nhân và Warrens ra sao... Cứ như thế hàng chục câu hỏi liên tiếp hiện ra. Như vậy là phía địch vẫn có ít nhất một kẻ nắm được tung tích của tôi. Tôi phải cảnh giác nếu vô tình xảy ra một cuộc đối mặt mới. Lúc này hiệp ước "bất khả tương xâm" sẽ hết ý nghĩa. Chuyện buôn lậu ma tuý quá khứ không đe dọa được hắn nữa. Hắn sẽ không để tôi yên một khi lợi thế nghiêng về hắn. Vì vậy hành tung của tôi phải khép kín lại.

Công việc buộc tôi phải hành động ngay.

Thứ nhất: Tôi phải báo cáo về Trung tâm nội dung bức thư Hồng Kông đề nghị thẩm xét lại vụ Hoàng Quý Nhân xem y còn sống hay đã chết. Hỏi thêm về tên Lê Văn Dĩ.

Thứ hai: Phải tìm địa chỉ hiện tại của Hứa Quế Lan. Ông L, ÔNG Đ, ÔNG P là ai. P có phải là tiến sĩ Price không?

Một người nữa tôi khao khát muốn gặp không phải là chuyện công tác mà do một tình cám rất tự nhiên. Đó là người Mỹ John Antonie. Không biết số điện thoại riêng của anh tôi phải điện thoại về bưu diện Fort Worth nhờ họ tìm hộ trong tập danh bạ. Và tôi đã tìm thấy tiếng nói của John ở đầu dây bên kia.

- Hello! Tôi đang nói chuyện với ai đó?

- Trung tá Phan Quang Nghĩa! Xin chào Antonio.

- Ôi, bạn thân mến! Hiện anh đang ở đâu?

- New York - Đại lộ số 5.

- Tuyệt vời! Hãy bay đến Olive với chúng tôi nhé.

- Cảm ơn. Tôi vừa từ Sài Gòn đến đây được một tuần. Tôi còn phải đi Canađa gặp gia đình. Vấn đề tài chính không cho phép tôi ở lại dây lâu hơn.

- Ngày nào bạn bay? Hai ngày nữa à? Thế thì tôi sẽ đến với bạn. Xin đừng lo vấn đề tài chính. Hãy tin ở sự giúp đỡ của bè bạn. Ngay bây giờ tôi sẽ gọi điện ra sân bay. Một người vừa từ Việt Nam đến thật hấp dẫn đối với tôi.

Chúng tôi đã gặp nhau ở khách sạn Atlantic.

- Cái ngày đáng có mặt ở Sài Gòn nhất là ngày 30 tháng 4. Thế mà tôi không sao xin được hộ chiếu. Người ta còn bận chuyển đi những người Mỹ ra khỏi đấy. Thật đáng tiếc! – Antonio buồn rầu nói với tôi - Còn anh, lúc đó anh ở đâu?

- Ở Sài Gòn.

- Trong tư thế kháng cự?

- Không. Tôi bị Vixi bắt cùng với Bộ tư lệnh Sư 97 ở nam sông Đan Ly cách sài Gòn gần hai trăm dặm về phía bắc. Họ bắt tôi dẫn đường cho cánh quân hướng Bắc đánh vào thành phố. Nhưng tôi đã bỏ trốn về trình diện ở Bộ Tổng tham mưu. Người ta trả lời là ở đây không còn việc gì cho tôi nữa! Tôi về nhà nằm chờ sự sụp đổ.

- Tại sao lại ngồi chờ? Sao anh không mang chiếc máy ảnh ra mà chụp. Những tấm ảnh lúc đó rất cao giá.

- Tôi chưa từng là phóng viên nên không quen chụp những bức ảnh tài liệu, thời sự.

- Một sự nghiệp có thể bắt đầu từ một công việc chưa quen biết. Lần đầu tiên tôi viết báo vì phẫn nộ muốn gào thét lên cho mọi người nghe thấy một đìều phi lý. Sau đó viết quen thì không phải chờ đến lúc phẫn nộ mới viết. Lúc vui cũng muốn viết, muốn hát vang lên. Tôi phát ghen lên với anh, còn anh lại chẳng nhận ra mình may mắn. Hạnh phúc lớn nhất của Hemingway có lẽ là lúc ông cưỡi chiến xa vào Paris, của Polévoi khi vào Berlin, của Burchett, khi ông leo qua năm trăm dặm Trường Sơn vào vùng Việt cộng... Còn tôi, tôi chưa làm được cái gì. Tôi sinh ra vào cái thời nước Mỹ không có chiến công, nước Mỹ dại dột.

- Chẳng lẽ anh lại thích thú khi chứng kiến ngày toàn thắng của Vixi!

- Tôi thích thú vì chân lý đã thắng. Tôi đã tiên đoán cái kết cục bi thảm của chúng ta từ cách đây năm năm. Chiến tranh đã kết thúc một cách ngoạn mục ngoài sự chứng kiến của tôi.

- Anh không nên thất vọng. Nếu anh quan tâm đến dân tộc chúng tôi anh còn nhiều điều đáng viết. Nước Mỹ ra khỏi Việt Nam nhưng hội chứng Việt Nam vẫn nằm trong nước Mỹ.

- Đúng thế. Bây giờ các nhà chiến lược bắt đầu viết hồi ký để thanh minh cho sự ngu xuẩn của mình. Tôi cũng sẽ viết một cuốn sách về Việt Nam. Tôi mong được anh cộng tác. Tôi thấy những ý kiến của anh trước đây rất sâu sắc.

- Tôi sẵn sàng giúp anh làm sáng tỏ những vấn đề của chúng tôi. Mức độ công tác của tôi chỉ ở phạm vi đó. Hiện nay anh là phóng viên của báo nào?

- Của tờ Kansas Journal là chính. Tôi cũng còn viết cho một số báo khác. Anh sẽ chọn nghề gì để sống?

Tôi nhún vai nói đùa:

- Tôi chỉ biết đánh nhau. Có lẽ tôi xin làm lính đánh thuê cho Mỹ. Tôi có thể đến giúp Zomoza ở Nicaragoa, đến El Salvador hay Honduras! Antonio ngạc nhiên và nghi ngờ.

- Bài học ở chính nước anh còn chưa đủ cho anh sao?

- Tôi muốn đi tìm sự phẫn nộ, để gào thét lên cho có cảm hứng viết được một bài báo như anh.

John ôm lấy tôi cười vui vẻ.

- Anh muốn viết báo à? Thế thì chẳng cần phải trả cái giá đó. Trước khi đến Việt Nam tôi có một quan điểm sai lạc. Thực tế giúp tôi rút ra kết luận mới. Đó là một quá trình đau khổ, một con đường riêng biệt mà không phải ai bước vào nghề báo chí cũng phải đi qua.

Antonio sẵn sàng giúp đỡ tôi về tài chính nhưng tôi cảm ơn và từ chối. Tôi chỉ hỏi anh xem thể thức gia nhập quốc tịch Mỹ có khó khăn lắm không. Một người có quốc tịch Mỹ thường dễ dàng xin visa qua nước này nước khác. Antonio hứa sẽ hỏi giúp tôi việc này. Tôi hẹn sẽ đến thăm anh ở trại Olive một ngày gần đây.

Sự xuất hiện của tôi ở Qúebec làm cho anh chi tôi hết sức bất ngờ. Niềm vui bừng lên sôi sục, nhưng khi chị nhìn thấy có tôi là người duy nhất thì không khí gia đình lại trầm hẳn xuống.

- Bạch Kim và Tôtô đâu?

- Bạch Kim và cháu còn kẹt chưa đi được.

- Còn em thì bằng cách nào mà đến được đây?

Tôi kể lại mọi chuyện từ lúc bị bắt cho đến giờ…

- Trời ơi, thế mà em đến được đây toàn vẹn, thật hồng phúc nhà ta còn lớn lắm. Hôm ra đi anh chị cứ cố khuyên bảo Bạch Kim đưa Tôtô đi trước, nhưng nó cứ một mực ở lại để chờ em. Cuối cùng thì chính nó và Tôtô lại bị kẹt.

- Em tin là sớm muộn thì hai cô cháu cũng sẽ đến đây với chúng ta. Hôm vượt biển chúng em cũng định đi cả với nhau nhưng suy đi xét lại thấy rất nguy hiểm. Lọt khỏi vòng phong tỏa của hải quân lại vào vùng hải tặc. Rồi thì dông bão của biển khơi. Chỉ riêng chuyện say sóng cũng muốn chết rồi. Chúng em bàn Bạch Kim và Tôtô sẽ đi theo đường hợp pháp.

- Nhưng chắc gì đã kiếm nổi visa1 (Chiếu kháng).

- Anh Cả có thể làm giấy bảo đảm cho hai cô cháu đi Paris. Pháp và Bắc Việt vẫn duy trì quan hệ ngoại giao từ trước đây. Hiện nay các cơ quan ngoại giao của Pháp ở Sài Gòn vẫn hoạt động bán chính thức. Việc nhập cư vào Pháp có lẽ là phương sách dễ được chấp nhận nhất. Hôm em đi Bạch Kim đã làm đơn rồi. Họ hứa sẽ làm thủ tục cho. Một khi được chấp nhận thì việc ra đi bằng máy bay sẽ rất an toàn và nhẹ nhàng.

- Thôi đành chịu vậy chứ biết làm sao. Từ ngày sang đây anh chị nhớ thằng bé quá. Cuộc sống tha hương, ít bạn bè, hai người lớn sống với nhau, bên ngoài chỉ một màn tuyết trắng sao mà buồn thế. Có thằng bé căn nhà sẽ sống động hẳn lên. Mai chị phải điện cho anh Cả để anh ấy tích cực làm đơn kêu Chính phủ Pháp can thiệp cho hai mẹ con nó sớm sang dây với chúng ta. Chị thương chúng nó quá.

- Em hy vọng gia đình chúng ta sẽ mau chóng được đoàn tụ. Có điều không hiểu sao anh chị lại chọn nơi đây để sống lâu dài.

Anh tôi cười:

- Đâu phải mình lựa chọn. Hồi chuyển ngân ra nước ngoài anh chị thấy ngân hàng Canada có lãi suất cao hơn cả. Thủ tục giấy tờ đều dùng Pháp văn nên mình thông thạo. Thế là đại bộ phận tài sản nhà mình nằm ở đầy. Có bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ Sài Gòn ra đi đâu? Đến khi bỏ chạy thì nghĩ rằng người đâu của đấy vì vậy anh chị mới nhập cư vào đây.

- Tại anh Ân thôi chứ chị bao giờ cũng thích Pháp hoặc Thụy Sĩ. Anh lại cho rằng ở Canađa an toàn hơn. Giả dụ có xảy ra thế chiến ba thì châu Âu chết trước, sau đến nước Mỹ. Canađa có hy vọng sống sót.

- Lo thế thì không cùng. Em thấy mình nên chọn một vùng khí hậu thích hợp với thể lực ngươi Việt.

- Theo chú thì ở đâu là tốt nhất? - Anh tôi hỏi.

- Em thấy mình nên đến Mỹ. New York, Washington đều tốt. Nhưng hơn cả vẫn là những bang miền Nam hoặc Tây Nam, Florida, hay California. Ở đấy cộng đồng người Việt định cư đông đúc, khí hậu ấm áp.

- Muốn đi đâu thì cũng phải chờ Bạch Kìm và Tôtô đã - Chị Ngọc tôi khẳng định.

Chị đã dành cho chúng tôi hai căn phòng đầy đủ tiện nghi trên lầu.

- Đây là buồng Tô tô. Cháu lớn rồi phải để nó ở riêng. Em và Bạch Kim buồng này - Chị đưa chìa khoá cho tôi.

- Sao lại em với Bạch Kim? - Tôi mỉm cười nhìn chị làm cho chị ngạc nhiên - Chúng em đã cưới nhau đâu mà ở chung?

- À chuyện đó thì quan trọng gì. Ta sẽ làm lễ cưới mời bạn bè, cho nó chính thức chuyện này đi.

- Em cũng muốn thế nhưng sợ Bạch Kim còn phải suy nghĩ. Biết đâu cô ấy lại chẳng muốn sống hoàn toàn tự do.

Chị nhìn tôi vẻ áy náy.

- Được rồi, để chị bảo nó thêm. Hai đứa lấy nhau là tốt đẹp lắm rồi. Các em phải nghĩ đến Tôtô nữa chứ. Dù sao thằng bé cũng quấn quít Bạch Kim. Nó coi Kim như mẹ đẻ từ bảy, tám năm nay. Tình cảm đó lớn lao lắm, các em phải biết cho lòng con trẻ mới được. Liệu nó có chịu chấp nhận một người đàn bà khác làm mẹ không?

- Em cũng nghĩ như thế. Nhưng xin chị cứ để cho Bạch Kinh tự do lựa chọn. Em không muốn cô ấy phải hy sinh vì thương hại ba con em.

- Muốn suy nghĩ gì thì suy. Nhưng lần này sang đây là tôi nhốt hai cô cậu vào buồng này để mà cùng nhau suy nghĩ nghe chưa? - Chị cười - Chị thấy nó rất yêu em đấy. Không yêu sao nó cứ nhất quyết ở lại chờ em. Anh chị dỗ dành mãi nó chẳng chịu ra đi. Chị cứ tưởng là hai đứa đã chung sống với nhau như vợ chồng rồi cho nên tình cảm mới sâu nặng như vậy.

- Đúng là chúng em rất quý nhau nhưng chúng em vẫn chưa vượt qua cái giới hạn cuối cùng. Em hy vọng thời gian sẽ gắn bó số phận chúng em với nhau hơn nữa.

- Nhất định là phải thế. Anh chị khó khăn về đường con cái thì đành chịu vậy. Hai đứa cũng phải sinh đẻ lấy một đứa cho Tôtô có anh có em, anh chị cũng thêm vui cửa vui nhà chứ.

Thế là cái việc chúng tôi vờ không phải vợ chồng đâu có đơn giản!

Có phòng riêng là tôi bắt tay vào công việc ngay. Tôi tháo chiếc khuy áo đặc biệt ra. Cắt bỏ lớp vỏ nhựa bên ngoài tôi thấy xuất hiện lớp hóa chất màu vàng nhạt. Pha với mươi mililít nước cất tôi được một dung dịch nước trong suốt không màu.

Tôi viết một báo cáo dài cho cậu Đức, sau đó đè lên một lá thư thông thường để gửi qua đường bưu điện. Tôi mạnh bạo khai thác phương pháp cổ điển này. Tôi lo thất lạc hơn là lo bại lộ. Phương pháp tuy cổ điển nhưng chất liệu lại mới mẻ.

Tôi cũng chụp lại lá thư của Hứa Vĩnh Thanh rồi gửi lại bản chính cho người nhận là Xuy Kin Hua ở Hồng Kông.

CHƯƠNG III

TRUY LÙNG MỘT BÓNG MA?

Việc xin giấy tờ xuất cảnh cho Bạch Kim và cháu Phan Quang Trung cũng không đơn giản. Mặc dù đã được phía Pháp chấp nhận, mẹ con cô vẫn nằm trong một bản danh sách khá dài của những người “ra đi trong trật tự". Dưới sự tài trợ của HCR, việc thuê muớn phương tiện thường là chậm trễ. Đại tá Nguyễn Hữu Đức đã đề nghị cơ quan ngoại vụ cho cô đi sớm nhưng ông cũng không thể chỉ đích danh. Làm như vậy coi như công khai vai trò của điệp viên, vi phạm nguyên tắc nghiệp vụ. Đại tá chỉ có thể nói với những đồng chí cấp hộ chiếu là trong bản danh sách A hay B có người cần được cho đi trước. Nhưng chẳng may trong bản đó có một người vi phạm một điều của thủ tục thôi thì cô cũng vẫn phải chờ họ đến chuyến sau hoặc lâu hơn. Vì vậy đến mùa xuân năm 1976 hai mẹ con mới lên đường được.

Đại tá Nguyễn Hữu Đức mặc thường phục đứng lẫn vào đám người đưa tiễn ở sân bay Tân Sơn Nhất. Ba cậu cháu ông con không nói gì với nhau. Họ chỉ chào nhau bằng ánh mắt liếc nhanh và nụ cười vô cớ? Khí chiếc Caravelle của hãng Air France cất cánh, đại tá mới thở dài nhẹ nhõm. Kế hoạch HB 5 khép lại giai đoạn 1.

Một tuần sau đại tá Nguyễn Hữu Đức nhận được bức thư đặc biệt từ Québec gửi về. Nhìn qua phong bì ông vui mừng vì N5 đã đến đích. Đại tá mở thư theo đúng qui tắc an toàn. Phần viết công khai chỉ để ngụy trang không chứa đựng điều gì quan trọng. Một kỹ thuật viên giúp ông kiểm tra lại máy phát từ trường chuyên dụng. Loại mực không màu K 16 rất nhạy cảm. Nếu để lá thu vào một từ trường sai lệch quá cường độ má khóa +- 0,2m - A thì toàn bộ hóa chất sẽ bị phân hủy, bức thư không bao giờ hiện màu nữa.

Năm phút sau một lá thư mực đỏ hiện lên rất lõ nét. Ông ghi lại những vấn đề chủ chốt vào hồ sơ HB 5. Vấn đề Hoàng Quý Nhân tưởng như đã loại bỏ ra ngoài vòng chiến thì nay bỗng hiện lên với nhiều dấu hỏi lớn. Đại tá quay máy gọi số điện thoại 64625.

- Alô. Tôi luyện gặp Trung tá Nguyễn Văn Bền.

- Bền đây. Ai gọi tôi đấy?

- Đức đây. Chào đồng chí. Mười bốn giờ anh lại chỗ tôi làm việc nhé. Một nửa tiếng thôi... À, có việc đột xuất cần mang theo hồ sơ X 472, tôi nhắc lại X 472.

- Dạ.

Khó khăn lắm cơ quan lưu trữ bảo mật mới tìm nổi cho anh Hai hồ sơ X 472. Nó được xếp vào loại "đã kết thúc". Trên mặt tờ bìa có hai nét chì đỏ gạch chéo. Anh đến gặp cấp trên sớm hai phút. Sau khi chào hỏi theo lễ nghi quân đội, đại tá mời anh ngồi. Ông ra khép cửa rồi quay lại hỏi đồng sự.

- Anh đem theo cả tài liệu đấy chứ?

- Dạ có đây. Liệu cái thây ma này còn cần thiết gì cho chúng ta - Hai Bền cười và đặt tập hồ sơ ngay ngắn trước mặt cấp trên.

- Nến nó bật áo quan ngồi dậy thì sao?

- Lại có chuyện kỳ lạ thế kia ạ? – Hai Bền tròn mắt ngạc nhiên. Ở trong nhà xác cũng có trường hợp người chết sống lại. Nhưng đã cháy thui rồi đem chôn chín tháng mười ngày mà còn nhổm dậy thì chỉ là chuyện thần thoại.

- Có lúc nào đồng chí nghĩ rằng cái xác cháy thui chỉ là một Hoàng Quý Nhân giả không?

Trung tá hơi lúng túng.

- Dạ tất cả các dấu vết đều chứng minh là xác của y.

- Khi tất cả những dấu vết đó lại đều là giả tạo thì sao?

- Dạ nếu vậy thì... thưa đại tá ít nhất phải có dấu hiệu nào chứng tỏ y còn sống.

- Có đấy! Tôi vừa nhận được nguồn tin của N5 báo về. Chính N5 đã được đọc lá thư của Hứa Vĩnh Thanh bố vợ của Nhân viết cho con gái ở Hồng Kông. Ông Thanh báo tin là Nhân vẫn còn sống tự do. Đồng chí hãy đọc kỹ lá thư này - Đại tá chuyển lá thư của N5 cho anh Hai - Trước mắt ta cần quan tâm đến hai vấn đề. Thứ nhất: Hoàng Quý Nhân ở lại vì không ra đi kịp hay y được lệnh phải nằm lại nên phải chuẩn bị cho mình một màn kịch? Thứ hai: Công việc y còn mắc mà chưa thể ra đi được là việc gì?

Sau khi đọc kỹ lá thư trung tá Bền nêu ý kiến của mình:

- Thưa đại tá, theo tôi giả thiết là lá thư N5 tình cờ đọc được là đúng sự thật thì ta chỉ cần tiến hành điều tra hai vấn đề trên là đủ. Nhưng nếu đây là lá thư giả thì sao? Ta sẽ sa đà vào một mục tiêu không có thực. Tôi đề nghị đồng thời với hai mục tiêu trên ta cần chứng minh lại cái chết của Hoàng Quý Nhân là đúng. Nếu chứng minh được điều này thì không cần bận tâm đến bất cứ một tin tức gì về y nữa.

- Tôi đồng ý với đồng chí. Nhưng tôi cho khả năng Hoàng Quý Nhân còn sống là mạnh, thậm chí rất quạnh. Một tên như y vừa cơ hội vừa thực dụng chưa chịu chết khi tình thế còn cho phép y lẩn trốn. Lá thư của Hứa Vĩnh Thanh là sự thực. Nếu ta coi đó là giả thì cái giả đó chẳng để làm gì, đánh lừa ai? Lừa ta hay con gái ông ta? Chỉ có một điều e ngại duy nhất là N5 không đọc được trực tiếp lá thư. Lá thư cũng không nói rõ tên Nhân. Sợ người dịch có sai sót mà N5 đoán sai ý tứ của lá thư thôi. Vì vậy tôi vẫn để đồng chí chứng minh thêm cái chết của Nhân.

- Vụ "Vie du Château” hồi đó tôi làm không được kỹ - Hai Bền thừa nhận - Nó xảy ra đúng vào ngày giải phóng Sài Gòn thành ra tâm trí tôi bị lôi cuốn vào nhiều vấn đề quá. Không ngờ bây giờ lại phải quay lại nó.

- Cũng may mà chúng ta còn sớm biết đường quay lại. Mới bảy tám tháng trời dù sao cũng còn nhiều cái chưa phai mờ hẳn. Bây giờ ta có thể phác thảo ra mấy nét cho chiến dịch này. Thứ nhất: Phong tỏa Hứa Vĩnh Thanh. Thư từ trong và ngoài nước. Người ra vào nhà ông ta hàng ngày phải được theo dõi. Chụp ảnh tất cả những người đàn ông trên hai mươi tuổi xem Nhân có xuất hiện không. Ta không có ảnh y nên phải làm như vậy. Chỉ mình đồng chí biết mặt nó nhưng không thể để đồng chí đi làm việc theo dõi được. Chưa có lệnh tôi tuyệt đối không đánh động tới ông Hứa Vĩnh Thanh. Ông ta còn là đối tượng của chúng ta ở một bình diện khác. Thứ hai: Phải tìm xem trong số những người làm việc với Nhân ở "Vie du Château” có ai còn lại không. Khai quật cái xác chết cháy xem xương có bị vết gì không, hóa nghiệm đất, nước nơi mai táng. Thứ ba: Tìm người đàn bà độ hai mươi bốn tuổi xinh đẹp có đứa còn gái nhỏ dị tật ở mắt phải, chồng là Bảy Dĩ di tản ngày 16 tháng 10 năm 1975. Lập hồ sơ riêng về Bảy Dĩ. Dựa trên những nội dung đó đồng chí làm một kế hoạch cụ thể để bộ chỉ huy thông qua vào giờ này ngày mai.

- Dạ, tôi sẽ làm ngay.

Trung tá Nguyễn Văn Bền thu các thứ vào tập hồ sơ X 472 rồi xin phép ra về.

Chiến dịch truy tìm tung tích Hoàng Quý Nhân được tiến hành ngay tức khắc sau khi có sự chấp nhận của bộ chỉ huy.

Khi công việc “phong tỏa" ngôi nhà của Hứa Vĩnh Thanh ở Chợ Lớn được thực hiện thì nhà tư bản ngưởi Hoa này hình như đã biến mất khỏi địa bàn. Tòa lâu đài đồ sộ năm tầng vẫn sáng ánh đèn, vẫn có người ra vào bình thường nhưng không thấy ông chủ xuất hiện. Trinh sát viên tìm cách dò la tin tức mấy cô gái làm công trong nhà nhưng họ đều nhận được một câu trả lời gần như thống nhất "không piếc, không piếc". Họ chụp được một số ảnh nhưng khỉ soát lại thì đó chỉ là những khách buôn quen thuộc. Tấm ảnh Hoàng Quý Nhân lấy từ hồ sơ lưu trữ sĩ quan cảnh sát chụp năm 1958 phóng ra trông rất trẻ. Khó mà so sảnh nổi với con rắn đã lột xác lần thứ hai. Trong các cuộc báo cáo giao ban, tin tức ở hướng này thật nghèo nàn, kém hấp dẫn.

- Hứa Vĩnh Thanh đi đâu? Di tản ra nước ngoài hay lánh mặt tới một địa điểm khác? Ta phải trả lời câu hỏi gián tiếp này trước đã - Đại tá Nguyễn Hữu Đức nêu vấn đề.

- Ta có thể phối hợp với bên công an cho kiểm tra hộ khẩu cả khu phố trong đó có nhà ông Thanh - Một ý kiến đề nghị.

- Mục tiêu số một của ta là Nhân. Bất cứ một hành động khác thường nào của chúng ta ở khu vực Hứa Vĩnh Thanh đều làm cho Nhân lỉnh xa cái bẫy duy nhất của ta.

- Tại sao ta lại phải kiêng nể biện pháp hành chính. Ta có thể cho lệnh bắt và hỏi cung chính ông ta về thắng tích của Nhân. Một trận đánh chớp nhoáng sẽ không cho phép Nhân kịp trở tay!

Mọi người bật cười về đề án tốc chiến tốc quyết đó. Đại tá Nguyễn Hữu Đức tỏ ra thận trọng hơn.

- Ta chẳng có lý do gì để bắt Hứa Vĩnh Thanh. Nên nhớ rằng ông ta còn là đối tượng theo dõi của chúng ta ở một bình diện khác. Dĩ nhiên ta có thể mời ông ta đến hỏi chuyện. Ta hãy nêu ra hai giả thuyết đối lập. Nếu ông Thanh trả lời có thấy Nhân xuất hiện thì giá trị của lời khai là khẳng định lại điều ta đã biết qua lá thư. Không chắc gì ông ta đã biết sào huyệt hiện tại của Nhân. Nến biết chưa chắc ông ta đã nói vì ông ta biết rõ điều gì sẽ xảy ra với con rể ông ta. Còn nếu Hứa Vĩnh Thanh trả lời là không gặp thì ta cũng không có lá thư của ông ta ở đây làm đối chứng. Nếu ta nói đã đọc được bức thư ở một nơi khác thì có khác gì ta thông báo cho ông ta vùng hoạt động của N5 để địch khoanh vùng bủa lưới. Sau cuộc nói chuyện ta phải để cho ông ta về nhà thì mục tiêu chiến dịch X 472 bị bại lộ. Hoàng Quý Nhân sẽ biết cách đối phó. Đó là chưa nói đến chuyện ngay lúc này ta cũng chưa biết ông ta nằm đâu mà đưa giấy mời!

Quyết định của bộ chỉ huy là tiếp tục “phong tỏa" địa bàn cũ.

Mục tiêu thứ hai là khai quật xác chết được coi là của Hoàng Quý Nhân. Tổ kỹ thuật của Phòng giám định pháp y đã có một báo cáo khá đầy đủ. Xác chết cháy nhiều đoạn làm xương bị hủy hoại. Không có dấu vết của đạn hoặc bất cứ sự gịâp gãy nào. Hội đồng xét nghiệm khẳng định nạn nhân bị đầu độc hoặc tự sát bằng một hóa chất độc cực mạnh mà ta chưa từng gặp. Kỹ thuật hiện có chưa xác định được công thức của nó. Mặc dù bị thiêu cháy và chôn dưới đất qua một mùa mưa, các độc tố cũng chưa phân hủy hết. Chiết suất chất đó từ nước trong quan tài đem thí nghiệm với chuột bằng đường tiêu hóa chuột chết trong vòng năm phút, bằng đường máu chuột chết trong vòng hai phút. Vô hại đối với đường hô hấp ở nồng độ hiện tại.

Đại tá Nguyễn Hữu Đức nhận xét:

- Sự việc trên cho ta một tia sáng nho nhỏ. Nếu nạn nhân tự tử bằng thuốc độc thì không cần thiết phải tự thiêu. Với liều lượng đó không cho phép kẻ tự sát tiến hành hỏa táng. Nếu y định tìm cái chết thì việc gì y phải thu dọn các dấu vết tội ác kỹ lưỡng như vậy. Theo tôi nạn nhân là kẻ bị đầu độc để làm hình nhân thế mạng cho tên tội phạm. Khả năng Hoàng Quý Nhân còn sống mạnh lên nhiều.

Tất cả những tin tức thu được hầu như cũng chỉ bổ trợ cho quyết tâm của các cán bộ phản gián mà thôi. Nhịp độ truy lùng thực sự bị chùng lại.

Mục tiêu thứ ba có một chút liên hệ đến hồ sơ X 472 là công việc điều tra lai lịch của Bảy Dĩ.

Trung tá Nguyễn Văn Bền đã phải liên hệ với cơ quan an ninh và hộ khẩu ở tất cả các quận trong thành phố xin bản danh sách những người trốn đi nước ngoài trong tháng 7. Anh lựa được hai người tên là Dĩ. Người có cô vợ xinh đẹp và đứa con gái dị tật ở mắt trái nguyên sống ở ngôi nhà 48- 2/5B phố Trần Hưng Đạo. Hai Bền đã đến gặp chị vợ của Dĩ để hỏi han tình hình. Cũng may có lá đơn của một người kiện Dĩ về tội lừa đảo ba lạng vàng. Người mất của yêu cầu nhà chức trách can thiệp để vợ anh ta phải bồi hoàn số tiền này.

Anh Hai mặc thường phục đứng trước ngôi nhà ba tầng năm hơi hụt sâu vào phía trong vỉa hè. Một chiếc cổng lớn đủ để lọt những xe tải hạng nặng, đóng kín. Hai Bền bấm chuông. Con chó béc-giê to lớn chồm lên sủa hai tiếng. Nửa phút sau có tiếng hỏi từ bên trong.

- Ai hỏi chi đó?

- Tôi muốn được gặp bà Lê Văn Dĩ.

- Xin lỗi ông là ai?

- Dạ, tôi là Hai Bền cán bộ của cơ quan kiểm sát quận. Tôi cần gặp bà Dĩ có chút việc.

- Tiếng dây xích rồi tiếng khóa lạch sạch. Một cánh cửa nhỏ khoét trong cánh lớn hé mở.

- Xin mời ông vào.

Hai Bền theo người đàn bà vào phòng khách. Chị ta mời anh ngồi rồi xin phép vào nhà trong ít phút. Anh liếc nhìn căn phòng khách khá rộng có treo những bức tranh phiên bản lớn của các danh họa châu Âu, những chao đèn sang trọng. Một chiếc tủ kính bày toàn bật lửa. Hàng trăm thứ bật lửa đủ kiểu, loại, từ chiếc bùi nhùi và hòn đá đến những thứ tân kỳ lạ mắt với những đường trang trí chạm gọt độc đáo... Năm phút sau người đàn bà đi xuống với chiếc áo dài lộng lẫy. Chị ta vừa thay đổi trang phục và tô điểm lại. Đó là một thiến phụ trạc hai nhăm tuổi xinh đẹp, mảnh mai với cặp mắt hơi buồn. Theo sau chị ta là người hầu gái bê chiếc khay đặt hai cốc đá. Thiếu phụ mở tủ lấy chai Chablis đặt xuống bàn.

- Ông dùng được thứ này chứ ạ?

- Xin lỗi, cho tôi uống nước lạnh thôi. Tôi dùng được mọi thứ rượu nhưng không bao giờ uống trong lúc thi hành nhiệm vụ.

- Quý ông chặt chẽ quá. Thứ này nhẹ thôi, vang vùng Bonrgogne mà. Quý ông không thể ban cho tôi một ngoại lệ được ạ? Hay ông dùng chút cà phê. Thứ đó không nguy hại gì đến sự minh mẫn.

- Vâng, xin cảm ơn chị.

Chị ta lắc chuông gọi cô giúp việc.

- Cho hai cà phê, em.

Chị quay lại phía khách.

- Dạ thưa ông, chẳng hay có công chuyện chi mà nhà chức trách cần gặp tôi?

- Có đơn kiện ông Dĩ lừa đảo một số vàng. Họ yêu cầu luật pháp buộc gia đình ông Dĩ phải bồi hoàn.

- Lê Văn Dĩ là chồng tôi, nhưng nay ảnh đã di tản đi quốc ngoại. Người gây tội phải chịu tội chứ chúng tôi đâu biết chuyện ai đã đưa tiền bạc cho chồng tôi mà bắt tôi bồi hoàn.

- Có gì chắc chắn là ông Dĩ đã trốn ra nước ngoài?

- Chồng tôi biệt tăm từ ngay 16 tháng 10 năm 1975.

- Chị có biết chuyện di tản đó không? Tôi muốn hỏi anh ta đã nói gì với chị trước lúc ra đi. Chẳng lẽ có hai vợ chồng với một đứa con lại chia đôi người đi kẻ ở.

Thiếu phụ cúi xuống rơm rớm nước mắt.

- Thưa ông, đúng là vợ chồng chúng tôi cũng đã bàn bạc với nhau sẽ ra đi. Anh ấy nói với tôi rằng anh chỉ có thể kiếm sống bằng buôn bán. Nay cách mạng về, xuất nhập khẩu nhà nước độc quyền không sao sống nổi. Chỉ có cách ra đi.

- Thế tại sao bữa ra đi anh ấy không mang hai má con theo?

- Dạ có đấy. Anh biểu tôi thu xếp tiền bạc, những gì quý và nhẹ thì mang theo, còn thì bỏ tất. Đến phương trời khác anh xây lại từ đầu. Tôi nhìn lại nhà cửa, đồ đạc, cái gì cũng thân thích với mình. Lao vào cuộc ruit may mới, biết có gặp điều tốt lành hay lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Sáng 15 tháng 10 anh nói đã kiếm được thuyền máy. Anh Trương Tấn Hào, đại úy hải quân vốn là bạn cũ của ảnh sẽ điều hành cuộc vượt biển. Có mười hai người nữa cũng chờ ở tiệm ăn Liên Hương. Những người này giao tiền bạc cho ảnh nhờ chuyển cho thuyền trưởng. Anh lấy xe ra đi cùng một người đàn ông to lớn theo sát bên anh từ sớm. Khách đi thuyền yên tâm chờ vì vợ con anh cùng vợ và bốn con của thuyền trưởng còn ngồi cả đấy. Chờ mãi, suốt đêm bọn tôi không ngủ được. Nhiều người khóc dở mếu dở. Sáng hôm sau họ quay lại đòi tiền tôi, nhưng tôi đâu có nhận tiền bạc chi của họ. Tôi còn ngồi đây chứ đi được đâu. Chúng tôi thuê xe về Sài Gòn và đoán là mấy người đàn ông và ghe máy bị an ninh bắt.

- Thế là bặt tin từ bữa ấy?

- Dạ, ba bữa sau tôi nhận được lá thư gửi qua bưu điện - Chị đứng dậy mở ngăn lấy lá thư đưa cho anh Hai Bền. Lá thư viết.

“Khánh Chi thương yêu.

Anh bị ba người đàn ông cưỡng bức ra đi không cho quay lại đón gia đình. Bọn anh van nài cũng không nổi vì chuyến đi đã bị lộ. Anh chỉ được phép việt về vài chữ cho em yên tâm. Tìm được chỗ làm ăn anh sẽ tin về để em tìm đường đi chuyến sau vậy. Em giúp cho chị Hào ba cây. Tội quá mấy má con chẳng còn chỗ nương tưa. Anh Hào cũng không ngờ tình thế đổ bể như vậy. Bọn anh cũng phải liều mạng thôi".

“Thương em và con nhiều"

“Dĩ”

[/i]

Hai Bền có hỏi thêm về quan hệ bạn bè của Bảy Dĩ, nhưng những điều khai của Khánh Chi không có gì quan trọng. Cuối cùng anh nói với người đàn bà này:

- Chúng tôi cần giữ lá thư này để chứng tỏ Lê Văn Dĩ bị bắt buộc ra đi theo một tổ chức di tản chứ không phải anh ấy có ý định lừa đảo.

- Xin cảm ơn quý ông.

Chiến dịch X 472 chẳng những không tiến lên mà hình như bị đẩy lùi lại. Tin mới nhất cho hay Hứa Vĩnh Thanh và đứa con trai út đã biến mất. Ngôi nhà năm tầng đèn điện sáng trưng đó chỉ còn có một bà già, vợ cả của Hứa và mấy cô hầu gái. Sự dò lỏi tin tức cho biết là Hứa đã vắng mặt từ ba tháng nay. Lão đi đâu thì không ai biết. Người đoán lão vượt biển, người nói lão ra Hà Nội tìm họ hàng, và cũng có người nghi Hứa Vĩnh Thanh lẩn trốn ở một địa điểm nào đó vì lão chưa thể thu xếp được tài sản khổng lồ khắp thành phố này. Trong cái khu đông đúc phức tạp ở Chợ Lớn, đối với cách mạng nhiều "lãnh địa" chưa tràn vào nổi.

Nguyễn Văn Bền không phút nào được thanh thản. Sự bế tắc nhiều lúc làm anh nóng nảy. Anh muốn tiến hành một cuộc truy nã công khai, xét hỏi hàng loạt để tìm ra một hưởng đi nhanh chóng, nhưng không có một tổ chức nào được gọi là Phòng nghiên cứu hay khảo nghiệm về thẩm vấn hình sự do Hoàng Quý Nhân điều khiển. Vì vậy Hai Bền chưa tìm ra được danh sách nhân viên của nó. Anh cũng tìm đến trại cải tạo gặp nhiều sĩ quan cảnh sát cấp tá hỏi về tổ chức của Nhân ở Vie du Château nhưng không ai hay biết về cái phòng thí nghiệm kỳ quặc đó. Có thể đây đơn thuần chỉ là một trung tâm nghiên cứu tư nhân do một tổ chức bí mật, một ông bự nào đó bảo trợ, đài thọ về tài chính, chứ không phải của quốc gia. Các sĩ quan không có nhiệm vụ không được phép biết. Có lẽ phải đi thăm hỏi những người quanh khu vực tòa biệt thự. Biết đâu chẳng có người quen mặt nhưng nhân viên trước đây.

Hai Bền mặc bộ thường phục lấy xe máy lượn qua phía biệt thự Vie du Châteu. Anh thấy cánh cổng, tường bao mới sơn quét lại. Một tấm biển lởn đề "Trường mẫu giáo Chim non". Ôi, tại sao Quận lại lấy ngôi nhà này làm trường mẫu giáo nhỉ. Họ không biết được trước đây là địa ngục sao. Trong các căn buồng chỗ nào cũng thấm máu những người cách mạng, cũng có hóa chất độc. Công việc tẩy uế xét nghiệm đã đảm bảo chưa mà để trẻ nhỏ vào đấy. Anh định phóng xe về Quận góp ý kiến với các đồng chí lãnh đạo nhưng lại thấy ngài ngại. Anh sẽ phải gặp cô Năm Ngân.

Năm Ngân là báo vụ viên của A59 trước đây, dưới quyền chỉ huy của anh. Trong suốt hai mươi năm công tác, chị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Khi giải phóng Sài Gòn, nhu cầu cán bộ cơ sở rất lớn, tổ chức quyết định cho chị chuyển ngành. Hai Bền lại muốn giữ chị lại, chị phản ứng, cuối cùng chị vẫn được chuyển ra. Khi thấy phần nhận xét trong hồ sơ lý lịch của mình anh Hai đề "chưa quen công tác lãnh đạo, công tác vận động quần chúng”, thì chị càng giận anh. Giờ đây Năm Ngân đã là Phó chủ tịch Quận, phụ trách vấn đề an ninh xã hội, phụ vận, Hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em... Công tác lãnh đạo, công tác vận động quần chúng chị đều làm tốt, trái với nhận xét của anh. Nhiều lần Hai Bền định đến thăm cô để "làm lành" nhưng công việc cứ cuốn anh đi. Nay có việc anh phải đến, ngượng cũng phải đến, âu cũng là dịp tốt để cô Năm thông cảm cho anh.

Khi Hai Bền đến trước phòng làm việc của Phó chủ tịch thì cánh cửa đóng. Anh hỏi thăm, cô thư ký đánh máy vui vẻ trả lời:

- Bữa nay cô Năm xuống phường, chiều họp quận ủy. Chú cần chi để cháu ghi vô chương trình làm việc của cô.

- Tôi đến thăm cô Năm thôi. Tôi là Hai Bền bạn cũ của cô Năm mà.

- Sao chú không lại nhà riêng?

- Ở dưới Bàn Cờ?

- Dạ không. Quận mới xếp cô Năm ở 196/35-2 Phan Châu Trinh. Tối nay mời chú lại, con sẽ thưa trước với cô. Cô con sống một mình buồn hiu, cứ nhủ bọn con lại chơi hoài. Tối nay nhé, con biểu cô con chờ.

- Cảm ơn cháu.

Đúng tám giờ Hai Bền phóng xe đến Phan Châu Trinh. Anh bấm chuông, cánh cửa mở. Năm Ngân xuất hiện trong bộ đồ mầu thiên thanh. Anh cảm thấy một cái gì nồng ấm tỏa ra từ người đồng chí từ gần nửa năm nay anh mới gặp lại.

- Mời anh Hai vô nhà.

Hai người ngồi đối diện nhau qua một cái bàn nhỏ.

- Nhà cô Năm đẹp quá!

- Nhà cơ quan đó. Anh em xếp em ở tạm cho gần nơi làm việc. Sống ở Bàn Cờ với cô bác thì vui hơn nhưng xa.

- Ở đây có mình cô Năm thôi à?

- Dạ! - Năm Ngân cười - Bạn với con mèo và chú vẹt Lora. Còn anh bây giờ ở đâu? Có nhà riêng chưa?

- Nhà riêng làm gì, một thân một mình! - Anh thở dài.

Năm Ngân nghiêm trang chuyển hướng câu chuyện:

- Anh Hai đến thăm em hay có công chuyện chi nữa đấy?

- Thăm cô Năm là chính, đồng thời cũng có một chút việc. Sáng nay tôi đi qua biệt thự Vie du Château thấy vừa trương lên tấm biển lớn "Trường Mẫu giáo Chim non". Cô Năm có biết ngôi nhà đó trước đây là cái gì không?

- Ngân nghe nói trước đây ngôi nhà thuộc sở hữu của một tên đại tá cảnh sát ngụy. Nó đã bỏ chạy ra nước ngoài.

- Điều đó thì không quan trọng. Cái chính là nó dùng làm nơi thí nghiệm tra tấn các cán bộ cách mạng bằng những phương pháp dã man nhất. Ở tầng dưới chúng tàng trữ nhiều loại thuốc độc hệ thần kinh, tiêu hoá và hô hấp rất nguy hiểm. Đêm 29 tháng 4 chúng đã đốt đi để phi tang tội ác nhưng khi tôi vào đấy nhiều thứ cháy chưa hết kể cả xác người. Nay ta định làm nhà trẻ thì công việc vệ sinh tẩy uế tiến hành ra sao cô Năm phải cho kiểm tra rất nghiêm ngặt.

- Cảm ơn anh Hai, anh nói em mới biết. Mai em sẽ bàn nhờ y tế xét nghiệm thiệt cẩn thận từng lầu từng buồng rồi mới khai trương.

- Đối tượng tuyển lựa giáo viên và học sinh như thế nào?

Năm Ngân cười:

- Anh Hai định xin cho chị Hai vào công tác hay cho cháu vào học?

- Trời, cô Năm cứ giỡn hoài. Bộ tôi thì có ai thương mà có chị Hai với con cái. Tôi hỏi là vì nhiệm vụ thiệt đó.

- Dạ, đây là nhà trẻ của phường nên các cô bảo mẫu cũng tuyển chủ yếu trong phường. Các cháu cũng thuộc trước hết là con em cán bộ và nhân dân lao động trong phường.

- Tôi muốn cô Năm hỏi giúp xem có cô giáo nào hoặc phụ huynh học sinh nào quen biết hoặc nhận mặt được một vài người đã làm việc ở biệt thự này trước ngày giải phóng mà nay vẫn còn ở lại đây không?

- Em sẽ giới thiệu anh Hai xuống gặp mấy cô giáo dưới đó. Bọn nó liên hệ với phụ huynh nhiều nên may ra có cơ hội giúp được anh Hai.

- Tôi muốn cô Năm làm trực tiếp thì nó kín đáo hơn. Cô Năm có thể nói lý do là hồ sơ ngôi nhà bị mất nên hy vọng những người cũ họ có biết gì thì họ chỉ bảo cho, kẻo đến lúc hỏng điện, hỏng nước không biết đường tu sửa.

- Em lo là mình chưa có kinh nghiệm công tác lãnh đạo, công tác quần chúng thì đâu có làm nổi việc đó mà dám nhận với anh Hai - Năm Ngân nhắc lại chuyện cũ với một vẻ châm chọc nhẹ nhàng.

- Trời, cô Năm "thù dai" tôi quá đó. Nếu nhận xét của tôi trước đây về cô Năm có sai lầm thì tôi xin lỗi, đừng giận tôi nghen.

- Em đâu có "thù” anh Hai. Em muốn anh Hai cũng phải làm quen với công tác quần chúng. Dưới đó có mấy con nhỏ dễ thương lắm. Biết đâu một công lại được đôi việc!

- Ôi, tôi đáng tuổi nội tuổi ngoại mấy con nhỏ đó mà cô Năm lại nói vậy thì nguy hiểm quá xá.

- Bây giờ đàn ông lấy vợ trẻ nhiều chớ. Nghe có một ông nhà văn đàng mình vừa bỏ vợ Hà Nội, vô đây lấy một cô hai ba tuổi làm chấn động dư luận.

- Bọn vô đạo đức đó thì kể chi. Cô Năm có thương tôi thì hãy làm mai cho tôi bà nào chừng bốn chục đó.

Câu nói của Hai Bền bỗng làm cho mặt cô Năm đỏ chín. Cô đành chịu lui:

- Nói giỡn vậy thôi chứ em sẽ giúp anh chuyện đó. Cùng nghề nghiệp với nhau mấy chục năm, anh nhờ có một việc đâu dám từ chối, phải không anh Hai.

- Cảm ơn cô Năm nhiều lắm. Xin phép cô Năm tôi về. Có điều chi cô Năm điện thoại cho tôi nghen.

- Dạ.

Hai Bền đứng dậy cúi chào người bạn gái rất trân trọng. Ra đến cửa anh còn quay lại chào lần nữa.

- Bộ anh Hai định không đến đây nữa sao mà chào hoài vậy - Chị Năm cười.

- Có chớ, công chuyện mới bắt đầu mà.

Khi anh đi rồi, chị Năm còn trông theo anh mãi. Hơn hai mươi năm công tác trong một tổ mà chằng để ý chi đến nỗi lòng của người bạn gái. Anh cứ giao việc cho chị như một cái máy. Anh say mê công việc, dồn hết tâm lực đối phó vời kẻ thù đến mức không kịp nghĩ đến mình. Anh trở nên khô khan, đôi lúc nóng nảy như lửa rồi lại quay sang trạng thái sắc lạnh như lưỡi gươm. Thực lòng Năm Ngân đã yêu anh. Thời còn trẻ chị là một cô gái xinh đẹp. Đã có nhiều chàng trai ướm hỏi nhưng chị phải cố tình xa lánh. Chị cũng nghĩ đến tình yêu đến hạnh phúc nhưng công việc của một điệp viên thu phát vô tuyến trong lòng địch không cho phép chị quan hệ rộng rãi được. Chị phải đóng cửa tâm hồn và năm tháng cứ qua đi. Mỗi lần gặp chị trong vài phút ngắn ngủi, Hai Bền chỉ nói đến nhiệm vụ, đến tình hình thế giới, trong nước và vài câu động viên chính trị chung chung rồi lại ra đi như một cái bóng. Lúc anh bị bắt, chị đau đớn lo lắng cho anh. Đôi mắt chị nhiều đêm đẫm lệ. Khi anh ra tù chị kể lể lại nỗi lòng mình nhưng anh không hiểu nổi. Anh lại "phê" chị là "yếu đuối tiểu tư sản". Thậm chí có lúc anh còn giáo dục chị: “Có người chịu đựng dược mọi khó khăn gian khổ, thậm chí bị tù dầy tra tấn cũng không khuất phục. Nhưng chính con người đó thấy tổ chức tạm thời bị thiệt hại, đồng đội bị hy sinh lại hoảng hốt dao động! Tại sao vậy? Đó là do họ không vượt qua được nhưng thử thách về tinh thần"! Kể ra anh nói cũng có điều đúng nhưng để ám chỉ nỗi lo âu của chị đối với anh thì thật là lạc đề, thật vô nghĩa. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng anh cũng vẫn sống với tác phong của những ngày chiến tranh, dồn hết tâm trí cho nhiệm vụ chung. Bốn mươi nhăm tuổi, chưa một lần được nhấp li rượu ngọt ngào êm dịu của tình yêu. Cuộc gặp lại người bạn gái hôm nay lòng anh bỗng như mềm lại. Anh cảm nhận thấy cái hơi men say đắm đó, cái hơi men mà anh chưa từng thấy được ở ai, ở một nơi nào. Giống như một hạt cây, mầm sống nằm ngủ quên trong lớp vỏ cứng khô nhiều năm tháng. Rồi bỗng một cơ may nào đó, hạt gặp mưa xuân ấm áp, lớp vỏ mềm đi, tách ra, xôn xao lòng đất. Mầm cây cựa quậy vươn lên đón ánh mặt trời. Chính Năm Ngân bữa nay cũng nhận ra điều mới lạ ở "người đàn ông có trái tim đá" này. Nỗi hờn giận của chị cũng vơi đi, chị bỗng thấy thương anh hơn. Chị nhìn theo cho tới lúc chiếc Honđa mất hút trong phố vắng.

Một tuần sau Hai Bền nghe tiếng tiếng Năm Ngân trong máy điện thoại:

- Anh Hai đó à?

- Dạ, Bền đây, chào cô Năm! Khỏe chớ?

- Vẫn bình thường anh Hai à. Tối nay anh Hai lại chỗ Ngân nghẹn. Ngân đã tìm được cô mẫu giáo anh Hai muốn gặp đó!(Tiếng chị cười vui vẻ trong ống nghe).

- Trời ơi, cứ giỡn hoài. Bao giờ tôi đến?

- Sáu giờ! Cắt cơm tập thể đi, đến đây em chiêu đãi đó. Chịu không?

- Chịu chớ?

Anh Hai Bền một lúc lại liếc đồng hồ. Anh sốt một muốn biết tình hình một phần, phần muốn được gặp Năm Ngân cùng thôi thúc anh không kém. Và anh đã đến sớm năm phút vì lo cơn mưa chiều ập tới.

Chị đã đứng đón sẵn, mở cửa, giúp anh đẩy xe máy vào vườn. Chị cũng bị lây cái lúng túng của anh, gương mặt hai người đều đỏ bừng. Hóa ra không phải chỉ anh muốn đến sớm mà chị cũng mong anh từng phút.

- Con nhỏ đến chưa?

- Chưa kịp ngồi đã hỏi con nhỏ liền! - Năm Ngân mỉm cười liếc Hai Bền rất tế nhị.

- Tại cô Năm gọi điện cho tôi...

- Em giỡn anh thôi chứ chẳng có con nhỏ nào đâu mà mong. Em đã hỏi chuyện người thợ già sửa chữa ngôi nhà. Hồi ngụy cũng đã có lần ổng đến quét vôi ở đây ông cho biết một người tên là Hoàn, bác sĩ đeo kiếng trắng, cao, ốm, đã từng làm việc nhiều năm ở ngôi nhà này. Không biết nhà ông ở đâu. Nhưng hiện nay ông xin vào làm việc ở nhà thương Saint Mathieu. Đấy là tất cả những gì người thợ nề biết được.

Anh Hai Bền ghi tất cả vào sổ tay.

- Cảm ơn cô Năm. Xin cô Năm giữ kín cho chuyện này. Chỉ một mẩu tin nhỏ thôi đủ vạch cho tôi một hướng đi.

Năm Ngân cười:

- Anh thấy em xa lạ với anh lắm sao? Xưa kia mỗi lần đưa những bức mật điện quan trọng và đầy nguy hiểm cho em có bao giờ anh Hai phải dặn em "giữ kín" đâu?

- Xin lỗi, có một sự khác nhau nào đó về quan hệ hiện tại làm cho người ta dễ quên quá khứ. Trước cô Năm là đội viên của tôi thì cô Năm phải thuộc những nguyên tắc của tôi. Còn giờ đây cô Năm là Phó Chủ tịch quận tôi phải đề nghị chứ.

- Có anh hay quên thôi, chứ em, em chẳng quên gì.

Hai người bỗng trở nên yên lặng. Họ đều phải suy nghĩ về những câu nói của nhau.

- Chắc anh Hai đói bụng rồi, em dọn cơm nhé.

- Có phải làm gì để tôi vào bếp cùng làm cho vui.

- Dạ xong rồi. Em chỉ làm mấy món anh Hai thích ăn thôi.

Vài phút sau chị bưng mâm cơm lên. Một đĩa tôm chiên. Bát canh cá lóc nấu chua, thịt gà rán và đĩa rau sống. Chị đặt xị rượu đế và cái li đá về phía Hai Bền, rót và mời anh.

- Em chúc sức khỏe anh Hai!

- Dạ, tôi cầu chúc cô Năm hạnh phúc.

- Thứ này em biết anh Hai ít xài, nhưng bứa nay vui, em cũng mua vài li.

- Khi vui tôi đâu có cần thứ này. Ở cờ quan đôi khi anh em cũng rủ nhậu vui nhưng ít khi tôi tham gia. Khi buồn, một mình lại hay uống.

- Em nhớ hồi chiến đấu gian nguy có khi nào em thấy anh Hai buồn đâu?

- Đúng thế. Đau đớn, lo lắng thì có, nhưng buồn thì không. Không có thì giờ để buồn. Bây giờ được hoà bình, thống nhất, có đôi chút thì giờ nghĩ đến cái riêng thì lại thấy buồn buồn - Anh thở dài.

Năm Ngân ăn rất ít. Chị gắp thức ăn cho anh, chờ đón bát xới cơm cho anh. Hai Bền ăn chậm chạp vừa ăn vừa suy nghĩ như để nhấm nháp, thưởng thức cái phút giây hạnh phúc chưa từng gặp trong đời.

- Anh ăn ngon miệng không?

- Ngon chớ. Thiệt ngon đó cô Năm à. Cô Năm nấu giỏi lắm. Ăn cơm cô Năm nấu tôi mời cảm thấy mình thực sự được sống cho mình.

Năm Ngân cảm động, chị mân mê tà áo. Ít phút sau chị mới nói:

- Nếu anh Hai muốn thì thỉnh thoảng lại đây em nấu anh Hai ăn. Em ăn một mình cũng buồn hiu đó.

- Thiệt chớ? - Hai Bền nhìn Năm Ngân như bốc lửa - Tôi muốn được ăn chung, được... ở chung bên cô Năm mãi mãi…

Mặt Năm Ngân đỏ bừng lên, chị sung sướng về câu nói mộc mạc thiết tha từ đáy lòng một con người mà lâu nay chị vẫn tưởng trái tim anh đã trở thành băng giá.

- Anh Hai say rồi đó?

- Không đâu. Ba cái li rượu đế này đâu quật đổ được tôi. Tôi tỉnh lắm. Tôi nói thiệt lòng đó, cô Năm có ưng không?

Năm Ngân nhìn anh mỉm cười rồi lắc đầu:

- Muộn rồi!

- Sao?

- Có một người khác hứa đến ở chung với em rồi.

- Ai thế?

- Bảy Kiểm bên Thành ủy. Sao anh không nói trước điều này với em?

- Trời! Suốt hai mươi năm trời công tác bên nhau, tôi thương yêu cô Năm mà cô Năm chẳng hiểu lòng tôi. Thế mà cha Bảy nào đó từ trên xanh về hay từ Hà Nội vô mới có ít bữa đã chiếm được trái tim cô Năm. Tôi thiệt vô duyên hết chỗ... - Anh buông bát đũa đứng dậy, nét mặt thất vọng, đau khổ.

Năm Ngân ôm mặt cười:

- Anh hai chưa nghe hết câu chuyện đã vội trách Ngân. Bảy Kiểm là bạn gái thôi mà.

- Là bạn gái? Ôi thế thì đâu có muộn! - Hai Bền quỳ xuống chân Năm Ngân, ôm ngang người chị làm cho chị luống cuống, mặt đỏ bừng, chân tay tê dại.

- Đứng dậy đi anh, đứng làm thế... em sợ. Hai Bền áp mặt vào đôi bàn tay liềm mại của chị. Năm Ngân cảm thấy những giọt nước mắt nóng ấm của anh trào ra. Những giọt nước hiếm hoi lần đầu tiên chị thấy. Ngay cả những trận đòn ác hiểm trong tù ngục kẻ thù cũng không thổ tìm thấy một giọt nước trong đôi mắt ráo hoảnh như bốc lửa của anh.

- Người gì mà kỳ cục thế? Mấy chục năm không hề nói một câu. Nay vừa nói thì đã như mưa như gió.

- Tôi muốn đòi lại thời gian đã mất. Tôi yêu Ngân!

Năm Ngân không nói gì, nhưng chị sung sướng, lặng lẽ đón nhận tình yêu của anh bằng một cử chỉ dịu dàng. Chị nép mình trong vòng tay anh.

Chỉ có tiếng gió đùa trên tán lá, mấy ngôi sao thức dậy sau cơn mưa, những bông hồng tỏa hương thầm trong bóng đêm, đôi mắt vốn tò mò của con vẹt Lora đang khép lại, mơ màng...

Tình yêu đến muộn nhưng vẫn lấp lánh sắc màu như ánh sáng chiếu qua tấm lăng kính thuần khiết.

Nguồn tin của người thợ nề cung cấp về viên bác sĩ đã từng làm việc dưới quyền Hoàng Quý Nhân làm cho niềm lạc quan trong hội nghị giao ban của Trung tâm phản gián tăng lên đôi chút. Đại tá Nguyễn Hữu Đức quyết định điều tra trực tiếp viên chức này. Ông chỉ thị cho trung tá Nguyễn Văn Bền phối hợp với bên Công an thành phố tiến hành cuộc thẩm vấn. Địa điểm được bố trí tại phòng làm việc của ông Phó giám đốc bệnh viện Saint Mathieu.

Kế hoạch được thực hiện ngay. Một buổi sáng dự thẩm viên đến chờ sẵn tại phòng Giám đốc bệnh viện. Bác sĩ Hà Quang Hoàn được mời lên bàn công tác. Đại tá Đức và trung tá Bền không trực tiếp tham gia cuộc thẩm vấn nhưng đều quan sát được diễn biến qua một ca-mê-ra truyền hình đạt khéo léo trong phòng Giám đốc.

- Đúng tám giờ mười lăm phút, một người cao gày, má hóp, mày rậm, mắt sâu, râu quai nón cạo nhẵn... bước vào, cúi chào ông Phó Giám đốc một cách lễ phép. Ông phó giám đốc đứng lên giới thiệu:

- Đây là ông dự thẩm của Sở Công an thành phố. Ông dự thẩm muốn hỏi bác sĩ Hoàn một số việc ông Hoàn hãy trả lời nhà chức trách những gì ông biết.

Nói xong ông Phó Giám đốc đi ra khỏi căn phòng. Nét mặt viên bác sĩ tái xám đi. Ông ta xúc động mạnh.

- Mời ông ngồi. Chúng tôi có một số việc cần ông làm sáng tỏ. Ông hãy bình tĩnh và coi đây là một cuộc nói chuyện thông thường. Chúng tôi cần ở ông sự chân thực và minh mẫn vì công việc này có liên quan đến an ninh quốc gia.

- Dạ thưa quý ông, tôi xin trả lời những điều gì tôi biết - Giọng nói của ông ta run run, dáng điệu lóng ngóng.

Dự thẩm viên đẩy đến trước mặt ông ta một cốc nước lạnh. Hà Quang Hoàn uống vội rồi rút khăn tăy ra thấm mồ hôi trên trán.

- Ông làm việc ở biệt thự Vie du Château từ năm nào đến năm nào.

- Dạ... (ông ta im lặng một phút). Từ năm 1972 đến năm 1975.

- Ông giữ vai trò gì trong phòng thí nghiệm?

- Thưa ông tôi là bác sĩ, tôi chỉ có nhiệm vụ chữa những vết thương cho lành, cố định những khớp xương cho liền. Cứu người, thưa ông tôi chỉ làm công việc cứu người.

- Để làm thí nghiệm tiếp.

- Dạ... nhưng đó là việc của người khác.

- Ông có tiêm các chất X24OB, TOX35, N6 vào tù nhân chứ?

- Dạ không! Không bao giờ thưa quý ông. Đây là công việc của ông Nghiêm Bửu Châu. Tôi chỉ có trách nhiệm xem xét lại thể trạng tinh thần người đó trên bình diện y học. Tôi xin thề. Nhiều lần tôi đã cố công chữa chạy cho những bệnh nhân này để giảm thiểu những cơn hoảng loạn của họ.

- Thôi được, bây giờ tôi muốn biết các đồng sự của ông. Ông hãy nói về họ.

- Dạ, ngoài ông đại tá Hoàng Quý Nhân ra chúng tôi còn bốn sĩ quan cảnh sát. Trung úy Lê Vĩnh Lâm, chánh văn phòng, đại úy Bửu Mỹ, chuyên viên thẩm vấn, thiếu tá Huỳnh Văn Lừng phụ trách ba phòng: Cơ, Quang, điện. Đại úy Nghiêm Bủu Châu phụ trách phòng hóa học. Tôi là bác sĩ dân sự coi phòng y.

- Ông hãy ghi địa chỉ từng người vào đây.

Hà Quang Hoàn nhận tờ giấy và cây bút bi. Viết xong ông ta đưa lại cho dự thẩm viên.

- Những người này còn ở địa chỉ cũ không?

- ông Lừng, ông Mỹ, ông Bửu Châu đều đã ra đi. Ông Lâm thì tôi không biết rõ. Riêng tôi, tôi quyết định ở lại. Tôi nghĩ là mình chỉ chữa bịnh cứu người thôi. Trong chiến tranh người ta miễn tố cho các bác sĩ dù họ đã hành nghề bên phía đối phương.

- Nhưng họ sẽ bị truy tố bởi những hành động phản y học hoặc nhân danh y học để chống lại con người. Nhưng ở đây ta chưa nói đến chuyện đó. Giờ phút này tôi coi ông là nhân chứng chứ không phải bị cáo. Ông có bổn phận giúp đỡ chúng tôi làm sáng tỏ vấn đề.

- Dạ.

- Còn ông Hoàng Quý Nhân?

- Tôi nghe nói ông ấy đã chết trong đám cháy vào đêm 29 tháng 4.

- Ông tin chắc là như thế chứ?

- Dự thẩm viên nhìn thẳng vào cặp mắt người đối thoại khiến viên bác sĩ phải cúi mặt xuống né tránh.

- Dạ tôi tin vì ngoài chúng tôi ra thì chỉ còn ông ấy trong ngôi biệt thự.

- Nếu người đó là Lê Vĩnh Lâm thì sao?

- Dạ, tôi chưa bao giờ đặt ra giả thuyết này nên không thể trả lời chắc chắn.

- Nghĩa là suốt từ ngày đó ông không thấy dấu vết gì chứng tỏ Nhân còn sống?

- Dạ. Tôi không đi lại nhiều ngoài đoạn đường từ nhà đến bịnh viện.

- Có người nào quen biết trong ngạch cảnh sát đi lại thăm hỏi ông không?

- Dạ không. Ngay thời ngụy tôi cũng ít quen biết loại người này ngoài mấy ông làm việc trong biệt thự. Labo này hoàn toàn biệt lập với Sở Cảnh sát thành phố.

- Chúng tôi muốn ông giúp chính quyền một việc. Nếu ông phát hiện thấy một dấu vết gì trái với điều khẳng định trên của ông phải báo ngay với chính quyền.

- Dạ. Cách báo tin quy định như sau: ông quay điện thoại 64625 gặp ông Hai Bê nói là "ông Quý sắp lành bịnh, cho xe đến đón". Ông Hai Bê sẽ nói chuyện với ông. Ông nhớ kỹ mật khẩn trên. Ông có thể giúp chúng tôi việc đó không?

- Dạ, tôi xin hết lòng.

Dự thẩm viên đưa cho viên bác sĩ mẩu giấy ghi số điện thoại và mật khẩu yêu cầu ông ta học thuộc tại chỗ.

Đại tá Nguyễn Hữu Đức và trung tá Nguyễn Văn Bền theo dõi diễn trình thẩm vấn đều có một nhận định chung. Bác sĩ Hoàn lo sợ. Ông ta là một người yếu đuối. Những lời khai của ông ta có thể tin được.

Cần phải có kế hoạch đưa ông ta vào cuộc. Nếu chỉ để ông ta thụ động gặp Hoàng Quý Nhân ở đâu mới báo thì xác suất đó quá nhỏ so với một thành phố lớn như thế này. Việc tìm ra Hoàng Quý Nhân là rất cấp thiết. Vì vậy Hai Bền phải xuất hiện để giao việc cụ thể cho ông ta.

Thấy Bền vào, cả hai đều đứng dậy.

- Xin mời ông Hoàn nán lại, tôi cần bàn thêm chút xíu.

- Dạ.

- Tôi có thể về được - Dự thẩm viên đứng dậy báo cáo.

- Vâng, cảm ơn đồng chí. Chúng ta sẽ gặp nhau sau.

Anh Hai quay lại phía bác sĩ Hoàn:

- Ông Hoàn ạ, tôi thấy ông nên đến thăm một số gia đình đồng sự hay những nơi có quan hệ giao tiếp với đại tá Hoàng Quý Nhân. Việc này có gì khó khăn đối với ông không? Chúng tôi cần phải hỗ trợ ông những gì trong việc này.

- Dạ quý ông đã tin tưởng ở tôi thì tôi không có gì từ nan. Nếu gặp khó khăn không vượt nổi, tôi sẽ trình lên quý ông san. Liệu những cuộc đi thăm viếng như vậy có phải báo sẵn hành trình lên quý ông không?

- Nếu tiện thì ông báo trước càng hay. Không tiện xin ông cứ tuỳ nghi lựa chọn.

- Dạ. Bây giờ chúng ta tạm biệt nhau. Lời yêu cầu cuối cùng của tôi là: Ông hãy giữ bí mật tuyệt đối cuộc nói chuyện hôm nay. Nó không những ảnh hưởng tới thành bại của nhiệm vụ chung mà còn quan hệ đến an ninh của chính bản thân ông nữa. Chúng tôi sẽ hỗ trợ ông một cách kín đáo trong mọi tình huống khó khăn.

- Xin cảm ơn ông.

Hai người bắt tay. Hai Bền nhìn rõ ánh mắt cảm động và yên tâm của người bác sĩ.

Đám cưới của Hai Bền và Năm Ngân là một sự kiện vui mừng đặc biệt trong cơ quan. Mọi người đền cảm thấy nhẹ nhõm mong mỏi của chính mình được thực hiện. Đại tá Nguyễn Hữu Đức quyết định để anh nghỉ phép một tháng nhưng anh nhất định không chịu.

- Sau ba ngày tôi sẽ đến cơ quan!

- Cận cứ yên tâm mà nghỉ. Hăng hái với nhiệm vụ như thế là rất quý, nhưng còn chị ấy nữa chứ. Ngân sẽ hiểu lầm tình yêu của cậu. Với phụ nữ phải hết sức tế nhị.

- Dạ, nhưng tôi sống ở nhà rồi, đến bữa ăn và buổi tối bên nhau là đủ.

- Ông bạn ơi, ông đơn giản quá đấy! Các bạn phải đi chơi đây đó, thăm bà con, bạn bè, bàn bạc chuyện tương lai. Đâu chỉ hai bữa ăn là đủ!

- Tôi làm việc quen rồi. Nghỉ là mất thăng bằng ngay. Ban ngày cả hai chẳng còn chuyện chi để nói. Lúc này chiến dịch X 472 lại đang bế tắc...

- Thôi được. Ông phải nghỉ liền một tuần. Sau đó, ba tuần còn lại thấy nhớ cơ quan thì mỗi ngày đến phòng làm việc độ một tiếng.

- Dạ được.

Nhưng rồi chính trong dịp Hai Bền nghỉ phép đó lại xảy ra một sự kiện rất nghiêm trọng.

Một buổi tối có điện thoại gặp ông Hai Bê. Người trực máy trả lời "Anh Hai mới cưới vợ, còn nghỉ phép". Người kia nhắn lại anh trực máy nói giúp "ông Quý sắp lành bịnh, cho xe đến đón". Người trực máy không biết mật hiệu. Anh gọi điện đến nhà riêng nhưng đôi vợ chồng "trẻ" lại đi dạo. Thế là mãi hôm sau gặp Hai Bền đến cơ quan anh trực máy mới nói lại chuyện trên. Hai Bền chạy bổ đến gặp Hữu Đức. Nét mặt anh hầm hầm đỏ bừng:

- Anh cứ bắt tôi nghỉ phép để công việc đổ bể hết trọi. Bác sĩ Hoàn gọi điện cho tôi từ bữa kia mà hôm nay tôi mới được thường trực nhắn lại.

Đại tá Hữu Đức cũng giật mình:

- Nhưng tại sao ông ta không điện tiếp? Thôi bây giờ đồng chí phải đến gặp ông ta xem sao?

Hai Bền phóng xe đi ngay. Ở bệnh viện người ta nói bác sĩ Hoàn bữa nay không đến làm việc. Anh yêu cầu bệnh viện cho một xe hồng thập tự đến đón bác sĩ với lý do có ca cấp cứu.. Nửa giờ sau xe quay về cùng tin: Bác sĩ Hoàn vắng nhà từ chiều qua. Gia đình cũng lo lắng không biết ông đi đâu.

Hai Bền đành phóng xe đến thẳng nhà bác sĩ Hoàn. Người vợ chừng bốn nhăm tuổi, nét mặt lo ân tiếp anh. Bà kể lại trạng thái tâm lý của người chồng trong nhưng ngày qua như sau:

- Hơn hai tháng nay ba cháu trở nên trầm tư, ít nói. Hình như có điều gì làm ông bận tâm. Tôi hỏi, ông không nói. Buổi tối ông hay đi chơi, có bữa mười hai giờ đêm mới trở về. Xưa kia chuyện đó ít xảy ra, và nếu có ông cũng thường kéo tôi hay bọn nhỏ di theo. Cũng có vài người bạn đến đây nói chuyện di tản, vượt biển, nhưng thường ông chỉ nghe chứ không biểu lộ ý định của mình. Bữa kia ông đi chơi về tôi thấy ông vui vẻ lắm. Hình như nhưng lo nghĩ bấy lâu của ông bỗng vơi đi. Sáng qua ông đi làm sớm và hẹn tôi nếu ai đến tìm thì mời họ lưu lại chờ ông về. Tôi hỏi ai tìm, ông không nói. Chiều qua về đến nhà được biết không có ai tìm thì ông tỏ ra bồn chồn không yên. Bảy giờ ông đi dạo chơi như mọi lần và còn dặn lại có ai đến tìm thì bảo họ chờ. Đêm qua không thấy ông về, chúng tôi lo lắng lắm. Sáng nay tôi cho các cháu đến nhà những người quen tìm nhưng không thấy ông đâu.

- Tại sao bà không báo ngay cho bệnh viện nơi ông làm việc?

- Dạ lúc đầu tôi cũng có ý định báo, nhưng tôi lại lo là nếu ông nghe ai bỏ đi di tản mà tôi báo với cơ quan thì lại xảy ra nguy hiểm cho ông.

Trung tá Nguyễn Văn Bền về báo cáo lại với đại tá Nguyễn Hữu Đức những tin tức trên. Hai người đi đến nhận định sau:

Thứ nhất: Bác sĩ Hoàn đã phát hiện ra tung tích Hoàng Quý Nhân. Ông gọi điện thì không gặp được người cần báo cáo. Ông chờ suốt ngày hôm qua. Sợ mất mục tiêu, bác sĩ Hoàn lại đơn phương độc mã tiếp tục cuộc theo dõi. Thấy lộ Nhân đã bắt cóc hoặc thủ tiêu đối thủ.

Thứ hai: Hoàn quá lo sợ quá khứ của mình, nay lại nhận một công việc ít khả năng hoàn thành nên đã tìm cách trốn đi nước ngoài. Khả năng thứ hai này yếu hơn, vì cú điện thoại gọi Hai Bê có ý nghĩa gì khi ông ta quyết định cắt đứt sự hợp tác?

Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải tổ chức một cuộc truy lùng nóng. Tìm được viên bác sĩ lúc này đều đáp ứng cả hai giả định nêu ra.

Hàng trăm tấm ảnh và bản tóm tắt nhận dạng của Hà Quang Hoàn được chuyển đến các trạm công an thành phố, thị trấn, cửa biển, ga xe... Hai hôm sau người ta phát hiện thấy xác viên bác sĩ trên đoạn sông Sài Gòn gần Sở thú. Cuộc xét nghiệm pháp y cho thấy không có thương tích nào trên cơ thê. Hiện trạng xung quanh không có dấu vết gì của cuộc hành hung. Không thấy có hiện tượng bị đầu độc dù ở dạng thần kinh, tiêu hóa hay hô hấp. Xác chết giống như một trường hợp tự tử hoặc một tai nạn sông nước thôi.

Thế là cơ quan tình báo quân sự lại tiếp nhận một tổn thất mới. Vấn đề loang ra nhưng phương hướng lại mờ nhạt đi. Trong buổi giao ban khi nhắc đến chiến dịch X472, vẻ mặt mọi người đều trầm tư Đại tá Nguyễn Hữu Đức tóm tắt lại vấn đề:

- Cái chết của bác sĩ Hoàn chứng tỏ kẻ địch đối phó một cách tích cực chứ không phải là chịu thu mình lẩn trốn. Giả thuyết ông ta tự tử cũng không loại trừ nhưng rất yếu vì cú điện thoại cho đồng chí Bền và thái độ của Hoàn trước lúc ra đi được người vợ mô tả có sức bác bỏ giả thuyết trên. Theo tôi thì Hà Quang Hoàn đã phát hiện ra Nhân hoặc ít ra là dấu vết của y. Hoàn gọi điện cho ta nhưng không có hiệu quả.  Ông ta nóng ruột, một mình mạo hiểm lần đến hang ổ chúng. Lo sợ bị bại lộ chúng đã thủ tiêu ông để bịt kín một khe hở mới. Việc hạ thủ Hoàn không phải là một người mà phải là một tổ. Không có dấu vết gì chứng tỏ Hoàn kịp chống cự. Chúng giữ ông ta ở một nơi rồi đen xác vất xuống sông. Ta có thể khẳng định không phải chúng ta đang truy lùng một bóng ma, mà là một tên tội phạm nguy hiểm đang tồn tại bất hợp pháp. Chúng đã chặn đứng hướng đi của ta. Tạm thời chiến dịch bị chùng lại. Hướng nghiên cứu của ta lúc này là những người quen biết bác sĩ Hoàn. Phạm vi mở rộng và công sức đổ ra càng nhiều. Ta phải dựa vào tai mắt quần chúng. Đó là sức mạnh truyền thống của chúng ta. Cái chết của bác sĩ Hoàn cho ta một bài học lớn về công tác tổ chức chỉ huy. Tôi để đồng chí Bền nghỉ phép nhưng đã không quyết định dứt khoát người thay thế. Đồng chí Bền nghỉ nhưng lại quá nhiệt tình, bao biện, không chịu bàn giao tỉ mỉ lại. Thế là khi sự vụ xảy ra, người trực máy kém nhạy cảm về nghiệp vụ đã bỏ lỡ cơ hội lớn. Mặt khác, khi đã giao việc cho ông ta là phải có kế hoạch yểm trợ chu đáo. Suốt những ngày đó ta đã bỏ lỏng để ông ta hành động khinh xuất và đơn độc. Là người chỉ huy, tôi có khuyết điểm lớn nhất trong chuyện này.

Đây là một bài học đã phải trả giá bằng máu. Chúng ta phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình bác sĩ Hoàn.

CHƯƠNG IV

CUỘC GẶP GỠ BÊN HỒ GREEN LAKE

Vừa bước chân xuống sân bay Bourget, Bạch Kim đã tìm cách gọi điện báo tin cho tôi. Hai mẹ con sẽ còn lưu lại Paris ít lâu. Việc chính là cô sẽ cùng người anh ruột ở Pháp nhờ luật sư lo liệu hợp pháp hóa quyền sở hữu món gia tài thừa kế của ông Cự Phách ghi lại trong di chúc hiện gửi ở ngân hàng Pháp quốc. Rồi cô còn phải lo liệu các thủ tục nhập cư vào Hoa Kỳ. Ngoài ra, hai mẹ con còn muốn đi thăm những di tích lịch sử của Thành phố ánh sáng, thành phố của những danh nhân văn hóa nổi tiếng. Như vậy sớm ra màu hè năm 1976 chúng tôi mới có thể gặp nhau. Tôi muốn anh chị tôi nhanh chóng thu xếp chỗ ở mới ở Hoa Kỳ. Có như vậy thì việc xin nhập cư của tất cả chúng tôi mới tiến hành cùng một lúc được.

Anh chị tôi cũng chấp nhận ý kiến của tôi. Chị nói:

- Cả nhà ta cần phải đi du lịch một chuyến, ta phải thăm dò, lựa chọn để sau này không phải ân hận.

- Đúng đấy, nhưng ta không thể đi thăm khắp nước Mỹ để chọn nơi cư trú. Theo ý anh thì chúng mình sẽ đến California. Ở đấy có nhiều bạn bè hơn cả. Cụ Huỳnh Quốc Bửu ở San Diago. Cụ Hoàng Cơ Bảo, tướng Thiết Vũ, luật sư Bùi Hạnh, kỹ SƯ Nghiêm Bửu Châu... đều ở Los Angeles. Giáo sư Huỳnh Lanh ở San Francisco. Ta lại có dịp chia sẻ vui buồn với nhau. Hơn nữa khí hậu ở Cali nằm bên bờ Thái Bình Dương rất tốt. Vĩ độ 35 chắc cũng ấm áp.

Chúng tôi đến Cali vào mùa du lịch. Hàng trăm nghìn khách từ khắp nơi tràn đến. Khách sạn đầy ắp, xe cộ đầy đường và những cuộc tắc nghẽn khổng lồ. Chúng tôi thuê buồng khách sạn Hilton ở Los Angesles. Sau đó đến thăm luật sư Bùi Hạnh. Vị luật sư đón tiếp chúng tôi rất chân tình. Ông ta sang Mỹ từ đầu những năm 70 nên gia đình của cải không mất mát tí gì. Ở đây ông không làm nghề luật mà mở tiệm buôn. Ông Hạnh khuyên anh tôi nên chuyển về đây. Nếu anh tôi không thích buôn bán, tránh nơi ồn ào thì có thể mua một căn nhà xa xa trung tâm thành phố, giá cả ở đây rẻ hơn nhiều so với những nơi khác. Ông quen biết khá rộng nên sẵn sàng đứng ra thu xếp giúp đúng theo lật lệ của nước này với những điều kiện có lợi nhất.

Ông Bùi Hạnh đã bỏ cả ngày trời lái xe đưa chúng tôi đi thăm các vùng xung quanh. Những dải rừng phong, rừng thông nằm bạt ngàn hai bên lộ ông Hạnh đưa chúng tôi đến vùng bán đảo Nelson. Một thị trấn nhỏ nằm bên bờ vịnh, ẩn mình trong những vườn cây xanh rờn, sạch sẽ. Khí hậu nóng ấm hơi khô gần giống như mùa thu ở vịnh Hạ Long làm cho tâm hồn tôi náo nức dễ chịu vì nhớ đến quê hương. Giữa thị trấn có một hoa viên rực rỡ sắc màu. Các tòa biệt thự nho nhỏ đủ kiểu cách xây nhấp nhô ở những bình độ cao thấp khác nhau làm cho cảnh quan thật mỹ lệ. Ở đây không có những bin-đinh chọc trời, những xa lộ đầy ô tô nên rất thích hợp với những người đứng tuổi.

- Làm sao đủ tiền để mua nổi một biệt thự ở đây?

- Chị tôi vừa thích thú vừa khiêm tốn ướm hỏi ông bạn.

- Thưa bà, bà có thể lựa một cái vừa túi tiền. Chỉ cần bà muốn đến đây với chúng tôi thôi! - Luật sư Bùi Hạnh trả lời rất lôi cuốn.

Cuối cùng ông luật sư đã tìm giúp cho chúng tôi một biệt tự xinh xinh nằm sâu trong dết liên hơn. Bù lại, nó ở bên hồ Green Lake, một cái hồ nước nước ngọt, xanh biếc, xung quanh lởm chởm những tảng đá trông giống như những hòn non bộ trong bể cảnh.

Công việc chuyển nhà cũng đơn giản. Chúng tôi thu xếp tất cả trong vòng một tháng. Tôi viết thư cho Bạch Kim và cháu Quang Trung à "bên này" rất mong hai mẹ con. Tôi mô tả biệt thự bên hồ xinh đẹp và tuyệt vời nhưng nó vẫn buồn tẻ vì thiếu hai mẹ con.

Mùa thu năm đó Bạch Kim và cháu Trung mới rời nước Pháp bay sang đây với chúng tôi. Cả nhà gặp nhau ở sân bay mừng mừng tủi tủi. Trừ tôi ra hình như ai cũng đẫm nước mắt. Trước mặt mọi người, tôi và Bạch Kim vẫn chỉ là “người dưng" nên chưa thể có một cử chỉ gì vượt qua vòng lễ giáo! Nhưng mỗi lần hai cặp mắt gặp nhau là chúng tôi kín đáo biểu hiện một tình cảm yêu thương tha thiết.

Lại một lần nữa chị Lệ Ngọc thu xếp buồng ngủ.

- Nghĩa và Kim nghỉ buồng này.

Mặc dù rất cảm động, đỏ mặt lên vì vui sướng, nhưng Kim vẫn ra vẻ ngạc nhiên:

- Sao lại thế chị?

- Còn sao nữa ? Đó là cái kết cục hợp lý hợp tình nhất chứ sao.

Bạch Kim ôm lấy chị mỉm cười:

- Cảm ơn chị nhưng xin chị cứ cho em phòng riêng. Anh Nghĩa phòng bên rồi đến phòng Tôtô. Chúng em đã có quyết định gì đâu!

Chị Ngọc cau mặt:

- Sao lại thế được. Chị tưởng hai em...

- Sự xếp đặt của chị là rất hợp lý. Nhưng em còn muốn thử thách anh Nghĩa hơn nữa xem anh đã thực sự yêu em chưa. Lỡ ra anh ấy lại mê cô gái trẻ trung nào khác thì sao chị? Đàn ông thường khó hiểu, kinh nghiệm như với Vĩnh Quốc trước đây làm em phải thận trọng hơn.

- Tuỳ em thôi. Nhưng theo chị thì Nghĩa rất tốt. Chú ấy giống tính anh Ân, suốt đời không biết lừa dối vợ!

Kể là phòng riêng cho phải phép thôi chứ chúng tôi ở hai phòng liền nhau lại có cửa thông. Muốn lẻn sang lúc nào chẳng được.

Bạch Kim tự trang trí cho phòng mình. Cô đem theo những bức tranh sơn mài từ căn buồng cũ ở Sài Gòn sang. Tôi muốn vào thăm xem cô bày biện ra sao nhưng Kim đóng chặt cửa nhất định không cho sang. Tôi sốt ruột không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng gặp tôi ngoài hành lang Bạch Kim lại nháy mắt cười vẻ bí mật. Tôi trách:

- Sao hồi này em khó tính thế? Em mới học được những gì ở Paris đấy?

- Đến tối anh sẽ biết.

Mãi đến chín giờ Bạch Kim mới mở cửa thông hai buồng. Cô xuất hiện trong bộ đồ phương Tây lộng lẫy mà tôi chưa từng thấy.

- Xin mời!

Chỉ đợi câu đó là tôi lẻn vào rất nhanh. Kim trang trí căn buồng khác xưa nhưng vẫn gợi nhớ quá khứ. Đặc biệt ở vị trí trên chiếc dương cầm cô treo bức ảnh Phương Dung lồng kính. Đó là bức ảnh duy nhất trong căn buồng. Sự kiện này làm cho tôi xúc động đến ứa nước mắt. Tôi quay lại ôm lấy Kim.

- Cảm ơn tấm lòng cao đẹp của em. Em là hiện thân của Dung. Anh và Tôtô sẽ yêu quý em suốt đời.

Bạch Kim thì thầm:

- Em sẽ sống tiếp phần đời của chị Dung để lại. Tôi bế cô mà cảm thấy nhẹ nhàng như mình đang bay bổng...

Anh chị tôi chỉ đợi Bạch Kim và cháu Tôtô sang là tổ chức một bữa tiệc mời bạn bè, vừa mừng đoàn tụ gia đình, vừa mừng nhà mới.

Nhìn bản danh bạ điện thoại anh tôi gọi đi, tôi yên tâm vì số người này đều không gây nguy hiểm gì cho tôi. Vẫn những bộ mặt cũ. Nhà "cách mạng lão thành" Huỳnh Quốc Bửu và ái nữ Huỳnh Liên. Cụ Hoàng Cơ Bảo, lãnh tụ "chuyên nghiệp" của phe đối lập và con trai. Vợ chồng viên tướng đẹp trai Thiết Vũ, người đỡ đầu cho cuộc đời binh nghiệp của tôi! Luật sư Bùi Hạnh. Ông bà kỹ sư Nghiêm Bửu Châu (nhân vật mới mẻ này tôi chưa quen).

Phần lớn những người này đều vô công rồi nghề hay sao mà họ nhận lời ngay và đến rất đúng giờ. Họ ôm nhau thắm thiết. Có thể là đến hơn một năm rồi họ mới lại gặp nhau. Mối tình cố quốc, tha hương làm cho họ hân hoan thực sự.

Hoàng Quốc Bửu đã bỏ hẳn bộ quốc phục (khăn xếp áo dài), trông ông trẻ hẳn ra. Ái nữ của ông, cô Huỳnh Liên ba mươi nhăm tuổi chưa chồng, người dày son phấn và nhung lụa nhưng nhìn vẫn khô như một cái xác ướp. Ông Bảo vẫn giữ cái dáng điệu của con Nhất Sách. Tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch con trai ông Bảo đã thay đổi trang phục cho thích ứng với môi trường: tóc dài, râu rậm, quần áo bò, kính cận màu choán nửa phần mặt. Tướng Thiết Vũ bỏ bộ đồ nhà binh trông có vẻ hiền lành. Kỹ sư Nghiêm Bửu Châu là người đàn ông trẻ nhất trong đám quan khách. Anh ta chỉ độ bốn chục tuổi, cao thước bảy, dáng thể thao, nhanh nhẹn, da ngăm ngăm. Vợ viên kỹ sư là một thiếp phụ xinh đẹp, người Nhật Bản.

Hôm đó Bạch Kim phải trang điểm thật đẹp để làm nổi bật vai trò chủ nhà.

- Xin giới thiệu cùng quý khách, đây là em gái tôi, vợ góa của người phi công anh hùng, trung tá Huỳnh Vĩnh Quốc - Chị Ngọc tôi vui vẻ nói với bạn bè.

- Bravo! Bravo! - Cử tọa vỗ tay nhiệt liệt.

Sau cái màn lễ nghi dạo đầu, quan khách nâng cốc chúc ngày hội ngộ, chúc sức khỏe, chúc phúc cho gia chủ, cho sự may mắn của những người sống sót sau tai biến 1975 tụ tập ở đây.

Anh tôi, vẻ mặt chân thành xúc động ngỏ lời cùng bạn hữu:

- Thưa quý vị, tôi rất vui mừng có được cuộc gặp mặt thân mật của chúng ta hôm nay. Chúng ta vẫn tồn tại và được nhìn thấy nhau, đó là điều quý báu nhất, không gì sánh nổi. Sau cái ngày tưởng như tận thế đó quay lại nhìn thân quyến bạn bè thấy vẫn bằng an cả. Thật đáng kinh ngạc! Ông Vượng, ông Nghị, ông Thạc không kịp ra đi, nhưng qua tin của các em tôi vừa tử Sài Gòn sang thì cũng vẫn sống cả. Cuộc tắm máu mà chúng ta tiên đoán đã không xay ra.

- May mắn hơn nữa là chúng ta đều đã chuyển gần như trọn vẹn tài sản ra nước ngoài trong cái tình trạng hỗn loạn chung nên không phải chịu sự kiểm soát của bất cứ chánh phủ nào - ông Bùi Hạnh thích thú.

Nhà cách mệnh lão thành Huỳnh Quốc Bửu nhăn nhó phàn nàn:

- Quý ông ra đi từ năm 1972. Quý ông có cơ hội thanh lý toàn bộ tài sản ở quốc nội. Bọn tôi đâu có được thời gian để thu xếp. Như tôi đây, gần như phá sản hoàn toàn. Một ngàn hai trăm mẫu điền trang, lâm trang ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một. Sáu xí nghiệp, công nghệ chế biến đồ gỗ, đường, bột ngọt, nước mắm, cao su. Hơn một trăm ngư thuyền... tất cả rơi vào tay Cộng sản. Không biết rồi đây chúng tôi sống ra sao.

- Nghe người ta nói cụ ra đi với cả một hạm đội thương thuyền với sức rẽ nước trên ba vạn tấn kia mà! Chẳng lẽ nó không chở nổi vài trăm ki-lô-vàng?

Mọi người cười vang vì lời tố cáo của ông Hoàng Bảo Thạch.

- Ôi miệng thế gian thật là độc ác. Đúng là có kéo đi được sáu cái tàu. Nhưng toàn là thứ đồ cổ cả. Tôi phải bán cho hãng S.T.A.J Nhật Bản theo giá đồng nát. Còn vàng thì tôi không có. Xin thề. Tôi là nhà kinh doanh, tôi không chịu để đọng vốn trong két sắt.

- Chỉ có tôi mới là mất trắng. Tôi ra đi gần phút cuối cùng. Khi có thể nghe thấy tiếng xích xe tăng của Cộng sản nghiến trên đường phố! - Tướng Thiết Vũ nhún vai mỉm cười kiêu hãnh – nhưng thôi, tiếc làm gì. Cả một quốc gia sụp đổ, cả một siêu cường bại trận. Riêng ta có gì là đáng kể.

- Thưa tướng quân, nếu tôi không lầm thì số tiền tướng quân gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ, ngân hàng Mahattan thừa nuôi vài thế hệ ngồi ăn không! Ha ha! - Cô Huỳnh Liên ái nữ của cụ Bửu cũng nháy mắt cười duyên châm chọc viên tướng hai sao.

- Tôi cũng ra đi vào giây phút cuối cùng trong cảnh hỗn loạn của quân Lưu Bị khi thất thu Hạ Bì. Nhưng tôi chẳng mất cái gì vì tôi giàu có như vua Lear1 (Ông vua trong bi kịch của Sếch-Xpia, chia cả vương quốc cho con trở nên nghèo khó), chẳng có gì để mất. Suốt ba chục năm hoạt động trên chính trường, tôi đem toàn bộ tâm huyết ra hiến dâng cho sự nghiệp tự do, cho lý tưởng dân chủ đại nghị, cho nền độc lập của dân tộc suốt mấy chục năm "Van nợ lăm khi trào nước mắt, chạy ăn từng bữa toát mồ hôi!"...

- Tôi tiếc cho cụ quá. Giá cụ theo Cộng sản thì được coi là giai cấp vô sản?

- Nhưng Cộng sản thiếu rượu Cognac và không có người đấm lưng!

ụ bảo bỏ ngoài tai những câu đùa châm chọc của bạn bè. Cụ vẫn bình thản nói tiếp:

- Việt Minh kết án tử hình vắng mặt tôi. Pháp bắt tôi nhốt vào Hỏa Lò mấy lần. Cựu Hoàng quở trách và bỏ qua lời can gián của tôi. Ông Diệm nghi ngờ tôi. Ông Khánh lo sợ tôi. Ông Thiệu theo dõi tôi... Đến khi ông Minh, ông Mậu vời tôi ra gánh vác việc chung, làm rường cột cho xã tắc thì vận nước đã hết. Tôi từ chối - Cụ Hoàng Cơ Bảo thở dài đau đớn - Chỉ có bạn bè, chỉ có công chúng là yêu thương, kính trọng tôi. Tôi sẽ không bao giờ phụ họ. Tôi ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng tôi thấy vai mình vẫn nặng nợ quốc dân. Mình tôi không thể để vàng bạc vinh hoa chiếm chỗ của nghĩa vụ. Tôi sẽ chịu đựng cuộc sống thanh bần đến hết đời, nhưng nguyện sẽ hiến nốt nắm tương tàn cho cố quốc - Nói đến đây cụ Bảo lấy khăn tay thấm thấm nước mắt - Tôi không thể sống an nhàn khi năm mươi triệt đồng bào mình còn bị đầy dọa dưới gót sắt Cộng sản. Phải tìm đường mà cứu lấy non sông. Các đấng tiên liệt như cụ Nguyễn Thái Học, cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, cụ Cường Để há chẳng phải là những tấm gương để chúng ta noi theo? Các cụ tuy công chưa thành nhưng danh bất diệt. Ở nơi quốc ngoại xa xôi này đêm đêm tôi vẫn đốt nén hương trầm vái về đất tổ Tôi sẽ kêu gọi cộng đồng người Việt nơi hải ngoại hướng về quốc nội. Tôi sẽ cảnh giác cộng đồng quốc tế hậu thuẫn cho những người Việt Nam tự do đấu tranh chống cộng đến cùng, ngõ hầu chuyển thay được tình thế bi thảm hiện nay.

Tướng Thiết Vũ tỏ ra thất vọng.

- Khó lắm cụ ơi! Đã có lúc trong tay ta có cả triệu quân, dưới sự yểm trợ của sáu trăm ngàn quân Hoa Kỳ, trên năm ngàn phi cơ hàng trăm pháo hạm mà chúng ta còn chịu bó tay nữa là bây giờ.

- Nhưng chưa bao giờ quý ngài biết điều khiển cuộc chiến - Cụ Hoàng Cơ Bảo nóng nảy cắt ngang lời viên tướng - Các ngài đã biến nội chiến thành chiến tranh xâm lược. Chính các ngài đã tạo cho Cộng sản tư thế chiến thắng.

- Các chính khách dân sự đã là đồng minh tự nhiên của cộng quân. Họ đã làm tan vỡ khối thống nhứt quốc gia. Họ đánh vào sau lưng quân đội. Hàng triệu người lính đã đổ máu cho họ tranh giành quyền lực.

- Thôi, xin quý vị hãy bớt nóng. Hôm nay chúng ta đến đây với mục đích khác. Hãy giữ cho cuộc gặp gỡ này những tình cảm tốt đẹp - Luật sư Bùi Hạnh can gián hai người - Tôi nghĩ là chúng ta có thể tổ chức cả một cuộc hội thảo về cuộc chiến tranh này nhưng không phải hôm nay và ở đây.

- Xin tha lỗi cho tôi - Cụ Bảo trở lại bộ mặt điềm đạm và ân hận - Sự thất bại lớn lao quá, mỗi lần nhắc lại là thần kinh tôi dễ bị tổn thương.

- Tốt nhất là ta quay về với rượu đế, với món gà xé, món nấm nhồi... mà quý bà đã cố công làm cho chúng ta nhớ tới quốc hồn quốc tuý...

Tiệc tan, quan khách được mời ra ngồi chơi ngoài vườn cây ngắm hồ Green Lake vào ban đêm. Mặt nước như láng thủy ngân phản chiếu muôn ngàn ánh đèn màu lấp lánh... Vẻ đẹp thiên nhiên cũng chỉ thu hút mọi người trong chốc lát. Đàn bà nhanh chóng chuyển sang chuyện tiện nghi, chuyện thời trang, chuyện hòa đồng y phục với dân bản địa... Đàn ông thì bàn chuyện kinh doanh, chuyện kiếm công ăn việc làm, chuyện thuê người hầu và có cả chuyện hộp đêm, sòng bạc...

Cụ Bảo thì không sao dứt được câu chuyện chính trị. Cụ thì thầm với anh tôi:

- Tôi già rồi, tiền bạc thì không, sống bằng đồng tiền trợ cấp di tản thực là eo hẹp và nhục nhã. Nhờ bạn bè mãi cũng hổ thẹn. Hồi trong nước tôi dựa vào tiền đảng phí, tiền đóng góp của các doanh gia, quỹ dân biểu của phe đối lập và cả bằng lòng từ thiện của ngoại bang. Nay thì biết tin cậy vào ai.

- Bác sĩ mở cliniqu!

- Trời ơi ba mươi năm bỏ nghề, chân tay lóng ngóng, đến tên thuốc cũng quên nói chi chữa bệnh.

- Bác đứng ra trông nom còn thì thuê bác sĩ làm công.

- Ở đây không giỏi không cạnh tranh nổi. Huống hồ bệnh kín ở nước Mỹ đã phát triển tới mức dễ sợ. Mới đây người ta phát hiện ra bệnh Sida1 (Hội chứng suy giảm khả năng miễn nhiễm) là một thứ dịch trong giao lưu tình dục. Chín mươi phần trăm tử vong. Mình không giỏi làm sao dám chữa. Hơn nứa mình cũng già rồi, các bà các cô đâu cần mình khám! Chỉ có nghề chính trị là càng già càng nhiều mưu mẹo, giàu kinh nghiệm. Tôi đã nghĩ đến một phương hướng mới, luật sư có thể cộng tác với tôi không?

- Dạ xin bác cứ nói.

- Hậu quả của cuộc chiến tranh ba mươi năm làm cho cộng đồng người Việt tan ra khắp thế giới. Không ai thống kê được số dân hải ngoại, nhưng có thể ước tính không dưới hai triệu. Khắp Tây Âu, bắc Mỹ và vùng Đông Nam Á, nước nào cũng có Việt kiều cư trú. Nhìn khái lược thôi ta cũng nhận ra rằng đây là cái vốn không nhỏ. Ta cần liên minh những người này lại, không để cho Cộng sản thao túng. Đó cũng là một cuộc tranh chấp quyết liệt. Nó không chỉ có tầm quan trọng bên ngoài mà còn ảnh hưởng đến nền an ninh của cộng sản ở chính quốc. Người Mỹ nhận thấy điều này sớm hơn chúng ta và họ đã cảnh cáo chúng ta. Vấn đề Việt kiều ở Pháp trước đây cho chúng ta một bài học. Chính những người tị nạn Việt Minh sang Pháp nay lại gia nhập những tổ chức do Hà Nội kiểm soát. Mặt khác chúng ta cũng cần phải có tầm nhìn xa hơn. Người Mỹ tuy đã ra đi khỏi Việt Nam nhưng họ không thể bỏ nốt Đông Nam Á. Họ cũng không thể để cho nước Việt Nam cộng sản mạnh lên để thao túng nốt vùng này. Tôi đã gặp Warrens, một quan chức có thế lực phụ trách Viễn Đông Vụ, ông ta cho biết "Mỹ vẫn là cường quốc Thái Bình Dương. Mỹ sẽ không bỏ quên Đông Nam Á. Mỹ tiếp tục duy trì lực lượng răn đe ở vùng này". Còn tiến sĩ Price thì cho rằng "Mỹ sẽ phải tạo ra một đối trọng mới đủ để giữ thế cân bằng chiến lược ở vùng này nhằm ngăn chặn người Nga". Ông ta còn tiên đoán "có thể sẽ xảy ra cuộc chiến tranh Dông Dương lần thứ ba". Trung cộng thì dịu giọng hơn "Xin chú Sam hãy đứng lại. Không có ai đuổi đằng sau đâu mà phải chạy!". Xem ra ý đồ của họ đã gặp nhau ở một điểm. Chẳng lẽ là người Việt Nam chúng ta lại thờ ơ với những vấn đề này chăng?

- Về phương diện này thì chúng ta hoàn toàn trắng tay và vì vậy mà không đủ tư cách để lợi dụng tình thế.

- Ông đã chuyển sang kinh doanh kỹ nghệ, tài chính. Nhưng tôi xin nhắc ông là không có cuộc kinh doanh nào đem lài lợi nhuận bằng kinh doanh quyền lực, đầu tư chính trị. Khi ra đi ông Thiệu đã mang theo một số vàng mà kim ngạch dự trữ trong ngân khố của nhiều quốc gia không sánh kịp.

- Nhưng vẫn có người ra đi tay trắng? - Anh tôi cười ý nhị.

- Ông muốn nói tôi phải không? Đó là vì chưa một lần nào tôi nắm được quyền lực trong tay. Phe đối lập cũng chỉ là vật hiến tế thần linh ở thánh đường chính trị. Nó tô vẽ cho bộ mặt dân chủ của phe chấp chính. Kể ra nếu chịu ăn non thì nhiều lúc tôi cũng có thể thỏa hiệp với họ. Nhưng cái tính tôi ham được ăn cả ngã về không. Suốt ba mươi năm tôi tung đồng tiền lên nó đều lật sấp, mà theo quy luật tự nhiên thì tỷ lệ sấp ngửa phải dần đến một. Ôi số tôi đen quá. Mặc dù tuổi đã cao, nhưng tôi vẫn muốn chơi nốt ván bài cuối cùng. Tôi sẽ đứng ra thành lập “Liên minh Việt kiều Hải ngoại". Nếu được sự ủng hộ của người Mỹ thì ta lại có tất cả. Ông thấy thế nào?

- Tôi sợ cụ đã lầm giữa quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.

- Chẳng lẽ ông tin rằng có cái tuyệt đối trong quy luật xã hội? Không có cái gì tuyệt đối. Nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi của một cuộc đời có những cái gần tuyệt đối. Tôi không tin là cái Liên minh của cụ có thể làm cho đồng tiền lật ngửa.

- Thôi được, mọi việc tôi sẽ làm. Bước đầu tôi chỉ mượn cái tên của ông vào ban trù bị thôi. Tôi sẽ soạn thảo cương lĩnh, tôi sẽ gửi điện mời tất cả các tổ chức Việt kiền trên thế giới (dĩ nhiên là không kể những tổ chức thân cộng). Mùa xuân năm tới sẽ có cuộc hội thảo ở California. Nếu ta tập hợp được ý chí của các cộng đồng thì hiến chương Cali sẽ là ngọn cờ Phục quốc của chúng ta. Ta liên minh với lực lượng hữu phái còn tồn tại trong nội địa rồi thành lập chính phủ lưu vong. Lúc đó tôi sẽ kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng Việt kiều Hải ngoại, tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia tự do, Hoa Kỳ chắc chắn sẽ tài trợ bí mật hay công khai cho chúng ta. Bộ máy kinh doanh của ta sẽ thực sự sinh lợi từ đấy.

- Bác có tin rằng ngọn cờ phục quốc của chúng ta có thể tìm nổi một chỗ cắm trên đất Việt không?

- Sao lại không? Ta phải truyền được tín điều đó cho mọi người, mọi thế hệ. Nếu tôi không cắm được thì con tôi, cháu tôi cắm... - Cụ Bảo ghé sát vào tai anh tôi thì thầm - Nhưng trước mắt ngọn cờ thiêng liêng đó muôi sống chúng ta.

Trong khi mọi người trò chuyện dưới vườn cây thì Hoàng Bảo Thạch theo Bạch Kim lên lầu ba. Anh ta tha thiết yêu cầu Bạch Kim đàn cho nghe bản Polonaise của Chopin.

- Dạ, xin lỗi đã lâu lắm tôi không đánh Polonaise cho ai nghe. Sống dưới chế độ cộng sản tôi toàn chơi những bài của họ.

Ngồi vào đàn Bạch Kim dạo bài Giải phóng miền Nam rồi cô quay lại hỏi Bảo Thạch:

- Anh nghe thế nào?

Vốn không phải người "sành nhạc", lại bị hỏi bất ngờ nên Hoàng Bảo Thạch vội lẩy câu Kiều thay cho lời bình luận:

- Khúc đâu Hán Sở chiến trưởng

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau!

Bạch Kim đánh bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao. Âm thanh lấp lánh như những hạt châu rơi trên mâm bạc. Hoàng Bảo Thạch mắt lim dim, đầu gật gù. Chờ cho âm thanh cuối cùng tan vào thinh không anh ta mới nhận xét:

- Hay đấy nhưng tôi không thích nghe âm nhạc của họ. Thực tình tôi không chịu đựng nổi.

- Cứ y như họ muốn hát nước vào mặt mình phải không anh? - Bạch Kim cười vui vẻ - Về mặt này họ cũng đứng trên ta một tầm. Ta toàn đi mượn cái đẹp của thiên hạ để đắp điếm cho mình. Không hiểu tại sao mỗi lần nghe các cô ca sĩ của chúng ta gào lên "đừng bỏ em một mình, đừng bỏ em một mình"1 (Lời một bản tình ca thời nguỵ) là trong óc tôi lại hiện ra cái hình ảnh các bà mẹ Tây ngửa mặt lên trời nhìn theo những ông chồng ngoại quốc bay đi mãi mãi. Và sau đó đến lượt các chính khách, các nhà lãnh đạo quốc gia cũng gào lên "đừng bỏ em một mình, đừng bỏ em một mình!". Nhưng ngươi Pháp và người Mỹ vẫn phải gạt lệ ra đi! Thật nhục nhã cho đàn ông đằng mình!

- Tôi hy vọng rằng Bạch Kim sẽ không kết án tất cả mọi người.

- Tôi thương hại chồng tôi đã đổ máu cho một sự nghiệp ngu ngốc và tôi rất buồn.

- Bạch Kim đã làm lây nỗi buồn sang tôi rồi đấy. Nhiều năm nay tôi cũng sống cô đơn như chị. Năm tháng trôi qua tôi chẳng biết mình đang chờ đợi một cái gì - Bảo Thạch lái câu chuyện di một hướng khác.

- Chẳng lẽ anh không còn mục đích nào để theo đuổi?

- Tôi là một người đa cảm, yếu đuối. Ba tôi thường trách tôi mới ở tuổi bốn mươi mà đã sớm mất nhuệ khí. Ông khích lệ tôi đi theo con đường của ông. Ông luôn luôn bị cuốn hút bởi "vận may sắp đến".

- Còn anh, anh có tin không?

- Tôi cũng mong một cơ hội thành đạt, mong giàu có như mọi người. Nhưng tôi cảm thấy mình không có trạng mạo chính trị. Tôi thích hợp với thi ca hơn.

- Với thi ca?

- Vâng. Ôi nếu tôi có được mười lăm ngàn đô-la lợi tức thường niên thì tôi sẽ từ bỏ tất cả để suốt đời ca ngợi, tôn thờ vẻ đẹp của Bạch Kim!

- Của tôi? - Bạch Kim ngạc nhiên và hơi tức cười vì câu nói vô duyên đó.

- Đúng thế, Bạch Kim không tin là mình đẹp sao?

- Tôi không tin cái đẹp của mình đáng giá mười lăm ngàn đồng lợi tức thường niên? - Cô mỉm cười châm biếm - Rất tiếc tôi lại là một người không ưa ngợi ca hoặc tôn thờ. Nếu tôi thích được tôn thờ tôi thừa sức nuôi bốn anh hề làm việc đó. Tôi được thừa kế một gia sản cho số lợi tức gấp mười lần anh đánh giá! - Bạch Kim tỏ ra kiêu căng và đanh đá.

- Bạch Kim hoàn toàn hiểu lầm tôi. Tôi quý trọng, tôn thờ chị chứ không hề đánh giá chị. Biết nói thê lào để Bạch Kim hiểu cho lòng tôi.

Vẻ mặt Hoàng Bảo Thạch đau khổ và nhẫn nhục.

Cuộc nói chuyện của hai người trở nên nhạt nhẽo hơn. Thạch tìm đường cáo lui về phòng mình.

Tôi ngồi tiếp chuyện viên kỹ sư trẻ tuổi Nghiêm Bửu Châu. Trông vẻ mặt anh ta quen quen mà không nhớ đã gặp anh ở đâu. Hình như về phía anh ta cũng có một cảnh giác như vậy.

- Trước đây anh học ở đâu? - Tôi hỏi.

- Tôi du học Nhật Bổn tám năm. Tốt nghiệp đại học Yokohama lấy vợ rồi về nước năm 1972.

- Lấy vợ Nhật, sao anh không ở luôn bên ấy, về nước làm gì để rồi lại phải ra đi.

- Tôi thấy khó hoà nhập nổi với một xã hội đóng kín kiểu Nhật Bổn. Việt Kiều ở đấy rất ít nên không mấy bạn bè. Khí hậu không thích hợp với tôi một người sinh ra ở vùng nhiệt đới. Tôi thuyết phục mãi, vợ tôi mới theo tôi về Sài Gòn. Bây giờ lại phải hòa nhập vào xã hội Mỹ, con đường của tôi quanh co như vậy.

- Anh định sẽ làm gì ở đây?

- Có bằng kỹ sư hoá chất Nhật Bổn đến đây rất dễ kiếm việc. Tôi đã làm ở tổ hợp công nghiệp hóa chất California (C.C.C) để nghiên cứu chất độc chiến tranh.

Tôi chợt nhớ ra đã gặp người này trong labo của Hoàng Quý Nhân ở Vie du Château.

- Công việc đó có thú vị không anh? - Tôi hỏi.

- Tôi không hiểu ý anh hỏi về phương diện nào. Mọi công việc sáng tạo đều thú vị. Những phát minh dùng cho kỹ nghệ chiến tranh thường bán được giá cao gấp ba lần một phát minh tương tự ứng dụng trong đời sống. Có lẽ đấy là điều thú vị nhất.

- Tài năng của anh có lẽ chỉ ở đấy mới có điều kiện phát triển. Trình độ kỹ thuật ở Sài Gòn trước đây làm sao đủ phương tiện cho anh nghiên cứu.

- Đúng vậy. Những năm sống trong nước tôi étdue trên một quy mô nhỏ. Nhưng hồi đó cũng có lợi thế là được thí nghiệm trực tiếp trên cơ thể con người. Ở nước Mỹ điều kiện này khó khăn hơn nhiều.

- Thuê người thí nghiệm ở đây đắt lắm sao?

- Không phải tốn mà là bất hợp pháp. Hồi ở Sài Gòn nhiều tù binh, tù chính trị cộng sản. Chánh quyền sẵn sàng cấp cho chúng tôi hàng tá để tiến hành thí nghiệm đâu có phải thuê. Một công đôi việc, mình có lợi chánh phủ cũng có lợi.

- Suốt ngày tiếp xúc với hóa chất độc liệu có nguy hiểm cho người nghiên cứu không?

- Ồ, anh chẳng hiểu gì đến công việc của chúng tôi. Chắc anh hình dung nó giống như một nhà luyện đan hay một ông lang cao đơn hoàn tán! Không đúng đâu. Người phát minh tiếp xúc trước hết với sách vở, giấy bút. Sau đó là những cuộc quan sát qua màn ảnh. Công việc pha chế đều do robot làm trong buồng kính. Thành phần được đựng trong những dụng cụ bảo hiểm an toàn tuyệt đối. Hàng ngày anh tiếp xúc với thuốc men cũng là đụng tới hóa chất. Anh dùng sai liều lượng hoặc quên không làm test thì lọ trụ sinh cũng có thể giết gọn một mạng người. Đại thể hóa chất độc cũng vậy thôi. Nó nguy hiểm nhưng ta có những quy tắc an toàn, giống như tiếp xúc với lửa, với điện, với nhiên liệu phóng xạ vậy. Nếu có dịp xin mời anh lại nhà chúng tôi chơi anh sẽ được thấy cái thế giới kỳ diệu của chúng tôi qua kính phóng đại hàng vạn lần. Lúc đó anh sẽ thấy công việc của chúng tôi thật thú vị.

Buổi tiếp tân hôm đó cho chúng tôi một hình ảnh đáng chú ý. Những kẻ bại trận đang muốn vá víu lại lá cờ rách mướp. Việc làm cụ thể thì chưa biết ra sao nhưng ý định tập hợp lại trên phạm vi toàn cầu để gây rối cho quá trình xây dựng đất nước là hiện thực. Mấy vị khách có mặt ở đây cũng chỉ là số nhỏ trong cái mớ hỗn tạp của đám người lưu vong thôi. Hãy chờ đợi xem cái "hiến chương Cali" của họ ra sao.

Khi quan khách ra về hết cả, hai chúng tôi mới lại chuyện trò tự nhiên với nhau. Bạch Kim mỉm cười nhìn tôi:

- Hôm qua tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch cứ lẽo đẽo bám theo bà quả phụ Huỳnh Vĩnh Quốc lên tận buồng riêng đây! Anh có ghen không?

- Không? - Tôi cười - Anh luôn luôn tin tưởng em. Có chuyện gì vui kể nghe chơi.

- Y bắt đầu giở trò tán tỉnh ra và bị em cho một vố nên thân!

Kim kể lại cho tôi nghe mọi chuyện đã xảy ra. Tôi cười:

- Em nóng tính quá đấy! Một bà quả phụ xinh đẹp có quyền thừa kế một tài sản hàng triệu quan thì sự xuất hiện những kẻ tôn thờ là điều có thể giải thích được. Em nên nhớ đây mới là trường hợp đầu tiên. Em phải dịu dàng với họ và em sẽ thấy được nhiều điều lạ lùng.

- Toàn là trò giả dối. Hoàng Bảo Thạch đã hai lần li hôn và hàng chục vụ quyến rũ những người đàn bà nhẹ dạ. Lúc nào y cũng khoác bộ áo nghi lễ, thi ca, trang điểm một nét buồn cô đơn để khai thác tình cảm yếu mềm của phụ nữ. Nhưng khi đã đạt được mục đích, đã chán chường thì y trở thành một tên nhẫn tâm, phủi tay lật mặt rất nhẹ nhàng. Anh ta đã là khách ăn nhậu của nhà này hai chục năm nay rồi em lạ gì đâu.

- Ta đề phòng những động cơ xấu của anh ta không chỉ trong chuyện ái tình, chuyện tiền bạc mà quan trọng hơn là ở trong những ván bài chính trị sắp tới. Thông qua y ta có thể biết được nhiều sự thật.

Bạch Kim nói giọng buồn buồn.

- Anh định dùng mỹ nhân kế đấy à?

- Cách mạng không bao giờ dùng kế mỹ nhân. Với riêng anh thì lại càng không. Anh yêu em và không bao giờ chịu đổi em để lấy bất cứ thứ gì. Nhưng anh vẫn muốn em tỏ ra dịu dàng trong mọi cuộc đối thoại. Em có hiểu anh không?

- Em hiểu anh - Cô vòng cánh tay lên cổ tôi, gục đầu vào vai tôi một cách tin cậy.

CHƯƠNG V

CÔ HẦU PHÒNG CƯ XÁ OVERNIGHT

Lili không biết cha mẹ là ai, ông bà cô bác, quê quán ở đâu. Hình ảnh thời thơ ấu chỉ còn sót lại trong ký ức mờ nhạt của cô những vườn dừa, lá xuồng nhỏ, chiếc cầlt khỉ cheo leo qua dòng kinh, những bông trang, bông súng sáng lên như ngọn nến trong bầu nước xanh thẫm. Mạnh mẽ hơn là những tiếng nổ, biển lửa sôi réo tràn vào thôn ấp và hình hài người mẹ bê bết máu nằm bất động bên bầu nước.

Đứa bé hai tuổi được ném lên chiếc xe hồng thập tự nhà binh Pháp đưa về đồn Tân Mai. Khi biết không còn ai là thân nhân trong số người bị bắt, con nhỏ được đưa vào trại mồ côi Gia Định và sau đó là trường của hội từ thiện Thánh Đa-minh. Ở đây hàng trăm trẻ mồ côi được nuôi dạy đến tuổi trưởng thành.

Năm mười sáu tuổi, cô gái có dáng người cân đối chắc lẳn. Cặp mắt ướt như mắt ngựa với hàng mi dài và cong. Hàng lông mày đen và rậm, cặp môi đỏ mọng, hơi dày. Cái mũi thanh tú rất ăn với khuôn mặt trái xoan ửng hồng mỗi khi cười nói. Lili có vẻ đẹp nổi bật trong đám bạn bè nên người ưa cũng nhiều, kẻ ghét cũng lắm. Chúng đặt thêm cái đuôi vào tên cô bé. Lili lặng lẽ, vì cô ít nói. Lili lầm lì, vì cô bé có sức chịu đựng dồn nén những cảm xúc. Lili liều lĩnh, vì cô biết che giấu lòng căm giận rồi bất ngờ lao vào kẻ thù, mạnh mẽ quyết liệt như một trái nổ. Lili lẳng lơ, vì cô có cái nhìn long lanh, đắm đuối ướp đẫm dục vọng. Còn Lili lừa lọc, Lili lêu lổng thì hình như chỉ cốt để cho cùng vần hoặc đơn thuần để bôi nhọ mà thôi.

Lili chuẩn bị bước vào đời thì được cơ quan an ninh quốc gia đến tận trường tuyển lựa đi đào tạo một lớp điệp viên sơ cấp. Đúng ra nó mới chỉ là một lớp vỡ lòng trong ngành tình báo. Nội dung chỉ có mấy chủ đề. Tiến công thì có dò xét, nghe ngóng, ăn cắp, mua chuộc, mật báo... Phòng ngự thì có ngụy trang, đóng kịch, đánh lạc hướng, tung tin vịt, v.v. Sau hai năm Lili nhận được chứng chỉ tốt nghiệp và được điều về làm việc dưới quyền một người được gọi tên là ông Năm Oăn. Năm Oăn là ông "số dách”, ông trùm, ông sếp, ông số một "Number-one" - Một con người đẹp trai, lịch thiệp, mặc thường phục. Lili nhận việc của Năm Oăn không phải ở văn phòng mà lúc thì ở tiệm ăn, khi ở vườn hoa, ở rạp hát hoặc ở một tư thất mà ông Năm Oán bố trí.

Lili vẫn nhớ cái ngày đầu tiên bước vào nghề. Ông Năm dịu dàng nói:

- Em sẽ vào làm việc ở cư xá Overnight. Nơi đây dành riêng cho sĩ quan và viên chức Hoa Kỳ. Công việc của em là hầu phòng. Em sẽ lãnh lương như mọi người ở khách sạn, nhưng đồng thời em cung lãnh khoản lương thứ hai ở sở cảnh sát thành phố, nhưng được chuyển qua ngân hàng Tín Doanh. Những món tiền thưởng cho mỗi chiến công tôi sẽ trao tay cho em.

- Dạ, xin cảm ơn ông.

- Nhiệm vụ của em là thuộc mặt tất cả những người làm trong cư xá, những người có mặt thường nhật và những người có mặt định kỳ. Dần dần em phải nắm được nguồn gốc gia đình của họ. Em quan sát hành động hàng ngày, nghe chuyện trò giữa họ với nhau, nhất là những thứ họ đem theo vào đem ra khỏi cư xá, liệu đó có thể là chất nổ, chất cháy, chất độc hay súng đạn... không. Gần đây Vixi tăng cường đánh vào các điểm cư trú của người Mỹ, cư xá Overnight cũng đã có lần bị đánh bom. Em có trách nhiệm vô hiệu hóa những âm mưu này. Có kẻ nào muốn mua chuộc em em cứ nhận lời, dĩ nhiên là phải khéo léo. Thấy điều gì khẩn cấp em gọi điện cho tôi.

- Dạ.

- Em cũng có một việc nữa là phải theo dõi những người Mỹ và cả một số người ngoại quốc. Em phải chụp ảnh tất cả những người Việt đến gặp họ bất cứ người đó là ai. Đôi khi em còn có nhiệm vụ đặt máy nghe, chụp tài liệu hồ sơ của họ nếu tôi giao. Tại sao ta lại phải làm như vậy? Hoa Kỳ là bạn ta nhưng cũng có vài người trong bọn họ chống lại cuộc chiến tranh mà chính phủ họ giúp ta. Vì vậy ta phải biết để đề phòng. Nhưng việc này là tế nhì và tuyệt mật. Làm tốt em sẽ được tiền thưởng. Em tiết lộ bí mật cho người khác thì em phải chịu tội trước quân luật.

- Dạ.

Trong suốt thời gian Lili làm chỉ điểm không có vụ nổ nào ở cư xá Overnight. Lili chỉ mật báo hai nhân viên có hành động khả nghi. Đó là một tay đầu bếp và một ả giặt đồ dơ. Năm Oăn nhận báo cáo với vẻ mặt thờ ơ. Ông ta mỉm cười, không khen cũng không chê. Nhưng Lili đã chụp ảnh được rất nhiều người, thậm chí còn ghi được cả địa chỉ, tên tuổi của họ nữa. Bốn mươi ba lần Lili đặt máy ghi âm. Hai mươi tám lần chụp các giấy tờ cả người ngoại quốc mà cô ta không hiểu nội dung những thứ đó. Ông Năm Oăn khen ngợi và bao giờ lời khen cũng kèm tiền thưởng.

Làm trong cư xá đầy bọn sĩ quan, Lili cố giữ mình. Nhưng dần dần đô-la cũng quyến rũ được cô bé. Lúc đầu chỉ là những giờ xoa bóp cho nhưng cơ thể đầy lông lá, cuồn cuộn bắp thịt của bọn võ quan. Rồi sau đó Lili cũng liều ngậm thuốc để bán mình. Lili cố kiềm chế nhưng dục vọng cứ níu kéo cô xuống cái hố đen thăm thẳm. Lili hoàn toàn hình dung được những hậu quả lâu dài, nhưng cô gái không sao cưỡng nổi.

Đối với Năm Oăn đôi lúc Lili cũng phải có những nhượng bộ chiều theo sự ham muốn của ông "sếp", nhưng không phải thứ cho không. Năm Oăn bao giờ cũng sòng phẳng như người đi xe tắc-xi. Khi biết Lili dành dụm được số tiền gần đủ mua một ngôi nhà nho nhỏ trong hẻm. Năm Oăn liền ngỏ lời giúp đỡ ngay. Y bỏ thêm cho vừa đủ khoản chi để đẹp lòng người tình. Từ đó Năm Oăn đi lại đây với Lili gần như vợ chồng.

- Thực tình anh đã có vợ nhưng anh không yêu vợ. Anh muốn ly dị để suốt đời sống với em Lili ạ. Anh có đủ tiền để đảm bảo hạnh phúc cho em. Em sẽ không phải lo lắng gì cho tương lai.

Lili nửa tin nửa ngờ. Cô ta chưa hiểu chút gì về con người này ngoài bộ mặt đẹp trai và cái quyền lực bí hiểm bao trùm lên mọi công việc và cuộc đời riêng của cô.

- Sao em yên lặng thế? Bộ em không tin anh sao? Thì tùy em thôi. Anh yêu em nhưng anh không cưỡng bức em. Nếu em nói là không, thì ngoài công việc ra anh sẽ không bao giờ làm phiền em nũa. Em coi anh như đã chết rồi.

- Trời ơi anh nói chi mà nghe dữ vậy - Đã có bao giờ em từ chối anh đâu? Nhưng cái em không từ chối thì lại chẳng phải là tình yêu.

- Em yêu anh nhưng em sợ... Em ngán chuyện đổ bể trong gia đình anh. Chuyện ghen tuông, thù hận...

- Bây giờ chúng ta sống trong bí mật. Khi nào anh thu xếp xong cuộc ly hôn chúng ta sẽ công khai chung sống với nhau.

Tình trạng đó kéo dài cho đến đêm 29 tháng 4, cái đêm Lili sống trong lo âu và hoảng hốt. Không phải cô ta sợ vì đã từng là một con chỉ điểm. Cô ta cho rằng sẽ chẳng có ai biết chuyện đó. Hơn nữa trong suốt những năm hành nghề, Lili chưa chỉ ra được một Việt cộng nào. Hai lần phát hiện ra kẻ khả nghi thì hóa ra đều là mật vụ của Năm Oăn! Cuộc tình duyên vụng trộm với tên sếp cũng chẳng làm cô nuối tiếc. Cái sợ là mất việc, là thích nghi với cuộc sống mới ra sao. Còn ra đi thì chẳng biết đi đâu, bốn phương chẳng có ai thân thích mà mong nương tựa.

Gần nửa đêm Lili nghe chuông gọi cổng.

- Ai đó?

- Anh đây, mở cửa cho anh - Tiếng Năm Oăn cô nhận ra ngay.

Lili mở cửa cho chiếc Tôyota chui vào ga ra.

- Anh chưa đi sao?

- Đi đâu thì cũng phải có em, anh đi một mình sống sao nổi.

- Còn gia đình anh?

- Đi cả rồi. Từ nay chúng ta sống tự do bên nhau, không ai làm phiền chúng ta nữa!

- Ở lại anh không sợ Việt cộng trả thù sao?

- Sợ chứ, nhưng muộn rồi. Em thấy còn hàng ngàn người đứng trước sứ quán Mỹ, trước cổng sân bay xin đi theo.

- Nếu em muốn thì chúng ta sẽ thử đi một lần xem. Được thì tốt nhất, nếu lỡ ta đành quay lại rồi tính sau.

Hai người thu dọn đồ đạc trong xe vào nhà.

Bốn giờ sáng đã nghe tiếng đại bác bắn ầm ầm phía Biên Hòa, phía Thủ Dầu Một, phía Củ Chi và cả phía Mỹ Tho. Đôi lúc có cả tiếng liên thanh rộ lên từng tràng mờ nhạt lẫn vào tiếng động ầm ầm của bình minh thành phố. Năm Oăn và Lili xách mấy chiếc vali ra xe, khóa cửa rồi phóng về phía sân bay Tân Sơn Nhất. Cảnh hỗn độn đã bớt hơn hôm qua nhung lại đáng sợ hơn. Sự suy giảm đó chứng tỏ nỗi tuyệt vọng đã xua đuổi đám người chờ đợi. Không thấy một ai len nổi qua được hàng cự mã trước mặt bọn Hải quân lục chiến Mỹ gác. Khi hai chiếc "hiệp sĩ biển cả" nhấp nháy đèn đỏ bay trên đầu, họ đã thấy những loạt súng bắn lên, đạn kẻ đỏ bầu trời. Không phải súng Việt cộng mà của mấy cậu lính ngụy bị bỏ rơi tức khí nổ súng bắn theo cho đỡ hận.

- Hay ta quay lại phía sứ quán? - Lili gợi ý.

- Thì quay lại.

Phải khó khăn lắm Năm Oăn mới quay nổi xe.

Trước sứ quán Mỹ tình hình càng bi thảm. Hôm nay nỗi tuyệt vọng được biểu hiện bằng những tiếng gào thét, kêu khóc thảm thiết, tiếng chửi thề và váng tục. Cửa sứ quán đóng im ỉm, lại còn bị che kín để không nhìn thấy gì bên trong. Những bức tường cao quét tráng đứng sừng sững ngăn cản mọi cố gắng vượt qua. Trên nóc nhà mấy người Mỹ đi lại quay phim chụp ảnh đám người hỗn loạn đứng kín lòng đường, nhìn những chiếc xe bóng lộn bị phóng hỏa. Những chiếc trực thăng tiếp tục hạ xuống nóc nhà nuốt vội số khách bên trong sứ quán. Có lẽ đó là những chuyến trực thăng cuối cùng.

Năm Oăn kéo Lili.

- Thôi về!

Lili nhảy lên xe. Khi chiếc Toyota bị tắc lại trên đường Hai Bà Trưng thì Năm Oăn đã nghe tiếng rú của xe tăng nhưng không thấy tiếng súng nổ. Y đỗ xe bên đường nhìn về phía cầu Thị Nghè thì thấy dân chúng đổ kín lòng đường. Cờ Giải phóng, từ các cửa sổ, từ nóc nhà, từ các hẻm... nở bùng lên. Chiếc xe tăng đầu tiên hiện ra phun khói xanh, nòng pháo, nòng trọng liên nâng cao lên không bắn. Những người lính ngồi quanh tháp pháo tươi cười vẫy vẫy quần chúng. Một cuộc hành quân hòa bình, không có sự kháng cự nào nữa. Trong lòng Năm Oăn trào lên một nỗi chua xót, đau đớn và căm giận. Ôi cái đám dân chúng đê tiện kia. Mới cách đây vài ngày thì sao chúng im lặng thế, ngoan ngoãn thế. Chúng thừa biết giá mỗi lá cờ kia là một bản án tù chung thân, thậm chí giản dị hơn, một viên đạn, một nhát lê. Thế mà bữa nay chúng lôi đâu ra lắm thế. Y cứ ngồi như vậy khi đoàn xe tăng diễu qua trước mặt để quan sát làn sóng cờ tràn qua chỗ y. Y quay sang bên thấy Lili giơ tay lên vẫy với một nụ cười thực sự vui vẻ. Năm Oăn bỗng thấy kinh tởm, y muốn nhổ nước miếng nhưng không biết sao y lại cố nuốt cái kinh tởm đó đi vẻ mặt xám ngoét của y bỗng thay đổi. Y giơ tay lên vẫy vẫy một cách gượng gạo...

Năm Oăn lái xe vào ga-ra, xách va-li lên gác, lục ra một gói giấy tờ đốt luôn trên chiếc gạt tàn. Một số nữa y để vào nơi dễ thủ tiêu khi tình thế cấp bách. Y mở chai Whisky uống một li rồi nằm lăn ra ngủ.

Bốn ngày, rồi năm ngày không có ai đến xét hỏi. Cuộc sống trở lại bình thường. Riêng với bọn trẻ, nhất là trẻ con chúng đón chào cách mạng với một nhiệt tình sôi sục. Chúng coi cách mạng là của chúng, lịch sử thuộc về chúng. Không có cuộc tắm máu tập thể, không có trả thù, nhưng Uỷ ban Quân quản ra lời kêu gọi viên chức và sĩ quan chính quyền cũ ra trình diện. Y nhìn thấy nhiều sĩ quan mặc quân phục deo cả cấp hàm phù hiệu nghiêm chỉnh ra bàn đăng ký, nhưng y thản nhiên coi đó là công việc của người khác. Lúc này y chỉ là người lái xe bình thường với cái tên Lê Văn Oăn chứ dấu còn là đại tá cảnh sát Hoàng Quý Nhân mà phải ra trình diện.

Chỉ vài tuần sau Hoàng Quý Nhân đã lấy lại được trạng thái tâm lý bình thường, bộ râu dài, tỉa xén công phu, mải tóc kiểu "phi-lô-dốp", đeo kiếng hai tròng màu xanh làm cho y hơi già hơn và... hiền lành hơn. Liếc nhìn mình trong guồng thật đã hệt như bức ảnh trên căn cước giả, lúc đó y mới yên tâm bước ra đường. Y đi khắp nơi, để ý mọi thứ, nghe ngóng, thăm dò xem lại những bộ mặt quen thuộc ai đi ai ở. May mắn sao những kẻ quen biết y đều đã ra đi hoặc lẩn đâu mất cả. Không ai chú ý đến y. Công an chẳng thèm hỏi giấy y, đơn giản hơn là nhắc nhở y phải tuân theo thứ luật lệ nào đó của nền trật tự mới mà trước đây y quen gọi là trật tự sau bức màn sắt. Nỗi lo sợ duy nhất còn tồn tại trong y là Phan Quang Nghĩa bây giờ làm gì? Ở đâu?

Lili vui vẻ mở cửa đón chồng. Cô muốn biết sau ba tiếng đồng hồ đi thị sát tình hình thì cảm tưởng của anh ta ra sao.

- Trước mắt thì vẫn có thể sống được - Năm Oăn gật gù nói - Nhưng khi đã xài hết bộ đồ cuối cùng, chiếc ti-vi, chiếc tủ lạnh cuối cùng, máy móc, xe cộ, chai Champagne cuối cùng thì tình hình sẽ đáng sợ đấy.

- Anh và em sẽ tìm việc làm. Có việc thì chúng ta sẽ sống như xưa.

- Em ngây thơ quá đấy - Sống như xưa đâu có được.

- Em chỉ mong một cuộc sống vừa đủ, chỉ cần có anh ở bên. Em sẽ chi tiêu tần tiện...

Năm Oăn cười vang rồi nhìn vợ một cách thương hại. Cưng không phải lo, cô Lọ Lem của anh. Số tiền mà anh có đủ cho hai ta sống đến trọn đời không phải làm gì. Anh muốn nói chung cả cái xã hội này kia.

Lili không quan tâm đến những cái rộng lớn đó.

- Em chỉ cần có anh thôi. Bây giờ anh là của riêng em. Chẳng có gì làm em lo lắng cả.

Y vuốt ve vợ, không nói gì rồi đứng dậy đi lên buồng riêng. Y đang theo đuổi một ý nghĩ khác.

Sự đổ vỡ quá nhanh chóng khiến cho phía bại trận không chuẩn bị được tí gì gọi là kế hoạch hậu chiến. Việt Nam Cộng hòa thì đã đành, ngay Mỹ cũng trắng tay. Cứ đà này thì một nước Việt Nam thống nhất với số dân ngang tầm nước Anh, nước Pháp sẽ giữ một vai trò chiến lược rất quan trọng ở vùng Đông Nam Á. Đâu có thể bỏ trống một vùng như vậy được. C.I.A sẽ phải làm lại từ đầu trong điều kiện khó khăn gấp trăm lần. Hoàng Quý Nhân có cái hứng thú say mê sưu tầm. Những người sưu tầm lúc - đầu thường xuất phát từ hứng thú, từ những niềm vui nhỏ bé vụn vặt. Họ bòn góp, trao đổi, nhặt nhạnh; săn đuổi kiên trì suốt đời để có được bộ sưu tập. Có khi chỉ là những thứ rất bình thường: con tem, nhãn hiệu, bật lửa, chuông cong, v.v... đến những thứ đắt tiền như nhạc cụ, tranh vẽ, phù điêu, đồ cổ... Một lúc nào họ sẽ bất ngờ hoặc dần dần ý thức được những thứ đó đã trở thành một tài sản khổng lồ, thậm chí vượt qua tất cả thành quả lao động khác trong cuộc đời của họ. Và cũng có thể bộ sưu tập đó chẳng đáng giá là bao ngoài sự đáp ứng niềm vui thầm lặng.

Hoàng Quý Nhân thích sưu tầm danh sách điệp viên, mật khẩu, mật ngữ hay nhưng bộ khóa mật mã... Đây là một cuộc săn đuổi thầm lặng kiên trì nhưng liều lĩnh, nguy hiểm và đầy lãng mạn, chẳng kém gì nhưng kẻ bắn trộm voi ở Hạ Lào, kiếm sừng tê giác ở Nigieria, câu cá sấu ở sông Amazôn, bẫy gấu trắng ở Bắc Cực, hay đánh cá voi xanh ở Nam Thái Bình Dương. Đó là nhưng thú vui không thể đem ra khoe mẽ, chia sẻ cùng ai, kể cả vợ con thân thiết. Nếu tìm đúng khách bán đúng thời gian thì nhưng bộ sưu tập này là vô giá, bởi lẽ nó không những được đo bằng vàng mà còn đo bằng máu.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất (1946-1954) Hoàng Quý Nhân mới bước vào nghề mà y đã kiếm được một bộ sưu tầm kha khá. Bản mật danh 2B vừa đánh đổi được mạng sống cho cha hắn, vừa đánh lừa được Bop Edison để kiếm hàng ngàn đô-la. Nhưng không sao có thể so sánh được với bộ sưu tập lần này của y. Tuy không làm việc cho CIA nhưng Hoàng Quý Nhân đã có trong tay bản mật danh mật ngữ không kém gì bản của Sneff phải ném vội vào "lò thiêu” trong cải ngày rút chạy cuối cùng. Dĩ nhiên là CIA vẫn còn bản gốc nằm trong bộ nhớ của máy tính điện tử đặt ở trung tâm lưu trữ Blackhouse. Nhưng làm sao họ có thể với bàn tay da trắng vào hàn gắn những rạn nứt to lớn sau "trận động đất 30 tháng 4"? Không một tên nào trong bọn họ làm nổi việc này vì bộ máy đó hoạt dộng theo nguyên tắc chỉ có một liên hệ đơn tuyến duy nhất.

CIA sẽ hiểu nổi nếu bản mật danh rơi vào tay Cộng sản thì đây sẽ là thảm họa thứ hai sau thảm họa 30 tháng 4. Tất cả công trình bí mật xây dựng mấy chục năm của họ sẽ bị quét sạch. Họ sẽ phải đi từ con số 0.

Nếu CIA tỏ ra không biết người biết của thì y có thể bán bản mật danh này cho Cộng sản. Nhưng y lại cười thầm: "Cộng sản đâu đủ tiền để mua. Có chăng họ tha cho mình tội chết rồi cấp cho mình cái giấy khen là hào phóng lắm rồi? Mình chưa quen biết thị trường này trừ một lần tiếp xúc với Phan Quang Nghĩa. Nhưng chắc gì Nghĩa là người của Cộng sản? Dù sao thì cũng phải thăm dò, cũng phải sưu tầm về họ. Hiểu được họ mình sẽ định được giá của mình mà không sơ hở. Cùng quẫn thì cũng phải bán tháo cho họ để tự cứu mình".

Hoàng Quý Nhân còn có cái hứng thú thứ hai là buôn bạch phiến. Mãi tớii cuối những năm 60 Nhân mới bước vào nghề này. Lúc đầu y chơi cò con, buôn đầu chợ bán cuối chợ. Nhưng khi quân Mỹ rút về nước, đem theo cái dịch ma túy vào Hoa Kỳ thì đã có thêm hàng chục cecret connections: Sài Gòn - Washington, Sài Gòn - Guam, Sài Gòn - New York, Sài Gòn – Los Angeles... chuyển cái chất "lâng lâng khoái lạc" vào thị trường béo bở này. Nhân đã ở trong băng của Kỳ. Dĩ nhiên là thu nhập khá, nhưng "chung voi với đức ông thì chỉ có cưỡi đít". Kỳ xơi tám chín. Nhân chỉ được một hai. Trong khi đó Nhân phải đứng mũi chịu sào, luôn luôn bị băng Thiệu đe dọa. Nhân quyết định lẩn đi làm ăn một nịnh. Nhân gài bẫy để bắt chim mồi. Bảy Dĩ sa lưới với toàn bộ tang chứng trong tay. Dĩ là người của CIA, Nhân biết, Bảy Dĩ lạy van xin hối lộ. Nhân gạt đi và quyết định truy tố trước tòa. Dĩ hoảng hồn vì ra tòa với mười ki-lô bạch phiến là vừa chẵn hai cái án tù chung thân. Dĩ đành thú nhận là người của CIA, y chuyển những thứ này cho Wareens và xin Nhân vì Warrens mà tha cho Dĩ. Nhân chỉ đợi có thế. Nhân chưa được biết mặt Warrens nhưng đã nghe nói đến thế lực của người Mỹ này. Nhân nếu ra điều kiện hợp tác với Dĩ. Dĩ được Nhân cứu, hàm ơn y và lại còn tìm được một lỗ thủng trong bức tường ngàn chặn của cảnh sát, y mừng quá. Thế là cả hai đều có lợi. Một đường dây Phủi thăn (Viếng Chăn) – Quý Nhân - Bảy Dĩ (Sài Gòn) – Warrens rồi đi đâu thì không ai biết, được hình thành. Nó hoạt động nhộn nhịp tới mức át cả những đường băng danh tiếng trước đây. Nhưng tiếc thay, chiến tranh chấm dứt quá sớm?

Nếu bây giờ tạo được lột đường dây như thế vẫn có cơ làm ăn to. Vùng "tam giác vàng" bị phong tỏa rất chặt ở ai cạnh Thái Lan và Miến Điện. Bắc Lào chắc còn nhiều khoảng trống. Nếu cả ba nước Đông Dương lọt vào tay Cộng sản thì khó khăn đấy. Nhưng trước mắt tình hình Lào chưa ngã ngũ thì lại nhiều thuận lợi. Trong lúc tranh tối tranh sáng này mà ta lập được đường dây Thượng Lào - Viên Chăn – Savanakhet - Đông Hà - Sài Gòn; hoặc Vân Nam - Lao Kai - Hà Nội - Sài Gòn, hoặc theo dòng chảy sông Mékông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ta chuyển ra lửa biển cho Warrens, hoặc là lập một cái chợ trời ngoài biển. Nó chẳng thuộc quốc gia nào, thật tuyệt vời! Thời vận thì biết thế nào được. Cái ngẫu nhiên sẽ len lỏi qua muôn trùng cái tất nhiên!... Những khát vọng cứ bùng lên rồi lại tan đi trong tưởng tượng. Hoàng Quý Nhân đang cố tìm ra những kỳ tích mới.

Y với tay lấy chai rượu nhấm nháp một li rồi mở cuốn sổ, phác ra những lược đồ, những ký hiệu nhằng nhịt mà không ai hiệu nổi.

Ngôi nhà nhỏ của Lili nằm trong hẻm 42. Cổng mở, xe hơi nhỏ có thể qua sân chui thẳng vào tầng trệt. Gian trong là phòng khách. Sâu nữa là bếp núc, toa-lét và cầu thang. Ở tầng một cũng có ba buồng. Một hành lang nhỏ tạo cho các buồng cuộc sống độc lập, tiện nghi riêng biệt. Trên cùng là một buồng "chuồng cu”, còn lại là sân thượng được căng lưới mắt cáo dày để chống muỗi bốn xung quanh. Trong sân bày la liệt hàng chục chậu địa lan, bông sứ, bông lài...

Hai vợ chồng ở chung một buồng, có máy điều hòa nhiệt độ, có toa-lét, có lô-gia và cả ban công. Nhưng Quý Nhân vẫn lấy một buồng riêng trên lầu thượng để làm việc. Y giữ chìa khóa và mỗi lần Lili vào đều có mặt chồng trong buồng, Lili lầm lì chứ không tò mò nên hầu như cô ta không mấy khi leo lên. Nhân nói đùa.

- Buồng đó anh thờ ma xó cưng à. Ngán không?

- Ma xó là gì anh Năm?

- Em không hiểu à? Hay là buồng Yêu Tinh Râu Xanh cũng được.

- Trời, đẹp trai thế này mà kêu là Yêu Tinh Râu Xanh ai chịu.

Quý Nhân cười mở cửa đưa vợ vào. Chỉ có cái bàn, cái ghế, bức tranh "chiếu bạc”, cái ra-đi-ô, đống sách, mấy pho tượng bằng gỗ, bằng sứ xinh xinh là mới đưa vào, còn mọi thứ khác đều đã có từ hồi mới mua nhà.

- Tưởng để tiền bạc chi chớ mấy thứ này có chi là quý báu mà không cho em vô.

Tiền bạc giao cho cưng hết trọi rồi. Đây là phòng làm việc. Khi anh đang làm việc ở đây thì bất cứ khách nào đến em đều phải báo cho anh rồi mới mở cửa nghe cưng.

- Dạ - Cặp mắt Lili nhìn chồng như chứa đựng một dấu hỏi.

- Anh đang học ngoại ngữ. Nếu ở đây không sống nổi chúng ta sẽ ra đi Lili ạ. Anh không thích mọi người biết chuyện này, tránh họ làm phiền mình. Thế thôi.

- Dạ, em hiểu.

Một lần hai vợ chồng ngồi trong một tiệm ăn ở phố Trần Nhân Tôn, Nhân bấm vợ, liếc mắt sang một người ở bàn bên trái và hỏi nhỏ.

- Em có nhận ra gã kia không?

Lili quay sang, im lặng vài giây và cô đã xác định ngay được đối tượng.

- Dạ có - Em đã chụp ảnh ông ta ở cửa cư xá Overnight khi Mc Dovan ra nhận với lính gác cho ông ta vào cư xá.

- Em có nhớ tên không?

- Dạ không. Nhưng sau ông ta là chiếc Datsun có rõ cả số.

- Trí nhớ em tốt lắm.

Trả tiền xong hai người đi lướt qua dãy xe đậu ngoài của tiệm. Y tìm ra chiếc Datsun màu đen. Vẫn biển số cũ B.14206. Một lần khác trong tiệm Mỹ Cảnh Lili chỉ cho chồng một người đàn ông to béo, mặt nhẵn bóng, không có râu, lông mày thưa đội chiếc mũ lưỡi trai trắng sụp xuống nửa mặt, đang ngồi bên một cô gái trẻ mặt bự phấn.

- Ba Heo đó, anh nhớ gã không?

- …? Quý Nhân im lặng lắc đầu.

- Em chụp được tấm ảnh y trao cho William Crowson cuốn Man Man. Anh bắt em chụp cho anh "tài liệu” đó nhưng chẳng có gì quan trọng: Anh bực mình quăng cho em cả tập ảnh khỏa thân và gắt: "Những thứ này chỉ để dùng cho cô thôi."... Nhớ chưa?

- À à… Nhớ ra rồi.

Thì ra những cuộc đi chơi chẳng phải là vô ích. Không bao lâu Hoàng Quý Nhân đã lựa ra một danh sách kha khá trong bộ sưu tập. Y quyết định một cuộc săn đuổi trực diện những "con mồi" trên. Thực chất là y bắt tay vào sửa chữa, thay thế, bơm tiếp nhiên liệu vào cái bộ máy CIA tinh vi rồi khởi động lại nó, biến nó thành tài sản của y. Việc làm đó là rất nguy hiểm. Y đi một mình với đầy đủ phương tiện tự vệ. Biết đâu chẳng có những kẻ vì quá yếu đuối tâm thần, quá hoảng sợ mà làm liều.

Quý Nhân chờ một bữa Ba Heo ngồi một mình trước ly cà phê. Nhân đến lễ phép.

- Xin lỗi, ghế này có ai ngồi chưa ạ?

- Xin mời ông, ghế vắng đấy ạ.

Sau khi châm thuốc hút, quan sát phòng ăn một lượt y nhìn thẳng vào mắt tên béo nói nhỏ.

- William Crowson muốn gửi quà cho ông.

Lão béo giật mình, mặt hơi biến sắc một chút, nhưng y cố lấy lại được bình tĩnh.

- Tôi không quen Crowson nào, ông để tôi yên.

- Không quen, thôi được nhưng đừng nóng nảy như vậy. Người ta nuôi ông chỉ cần ông trong lúc này thôi. Ông quên cả thứ này chứ?

Quý Nhân đưa cho Ba Heo tấm ảnh làm tình cắt đôi in trên tờ Man Man.

Tên béo kín đáo lục trong ví ra nửa còn lại. Khớp vào nhau hai mảnh lệch 2mm.

- Đẹp chứ? - Quý Nhân mỉm cười hỏi lại.

- Đẹp - Tên béo yên tâm trả lời. Chúng đổi mật hiệu cho nhau và cất đi. Uống gần hết ly cà phê tên béo mới hỏi.

- Ông là ai?

- Xin cứ gọi tôi là Năm. Tôi là đại diện của Crowson. Từ giờ phút này ông làm việc dưới quyền tôi. Ở đây không cho phép ta nói nhiều. Hẹn mười chín giờ ba mươi ngày mai ở đường Bạch Đằng, trước số nhà 124. Nhớ đem theo chứng chỉ. Tôi thu để cấp loại khác.

Tối hôm sau cả hai đã đến đúng hẹn. Chúng chọn một ghế đá bên bờ sông Sài Gòn.

- Anh Năm à, tôi chưa thể hình dung công việc sắp tới của chúng ta ra sao. Trước kia tôi có nhiệm vụ dò la tin tức, theo dõi những phần tử chống Mỹ trong các giới thương gia, trí thức, phát hiện Việt Cộng và cơ sở của chúng là công sở cũ của ta. Tên tuổi của chúng ai cũng biết, vậy thì mật báo cái mẹ gì?

- Trước mắt anh phải xin vào làm việc ở một cơ sở hạ tầng của chánh quyền mới. Tốt nhất là anh lọt được vào Cảng. Anh chăm chỉ ngoan ngoãn để lấy được niềm tin. Crowson chưa giao việc nhưng vẫn trả lương anh như cũ ở ngân hàng New Jersey. Anh cần tiêu ngay có thể lĩnh bằng vàng qua tôi. Cấp trên sẽ đảm bảo quyền lợi cho anh nếu anh vẫn trung thành.

- Dạ.

- Còn nhiệm vụ sắp tới sẽ được chỉ vẽ đúng lúc. Anh chỉ việc chấp hành. Chúng ta đang đứng trước một thay đổi to lớn. Nhưng nhiệm vụ của ta vẫn là chống Cộng. Xưa kia anh giấu mình thì nay phải giấu kỹ hơn. Trước kia ta hướng vào phòng ngự, vào phản gián thì nay phải hướng vào tiến công phá hoại, vào điệp báo. Trước kia ta chỉ chú trọng quân sự, chánh trị thì nay chú trọng toàn diện cả kinh tế, tài chính, văn hóa xã hội... Trước kia anh bắn vào mặt Việt cộng thì nay anh phải bắn vào làng. Trước kia anh theo dõi cả bạn bè thì nay anh vẫn khống chế họ, khuyến khích họ trung thành với lý trưởng tự do. Và nếu họ phản bội, họ bán mình cho chế độ mới thì anh sẽ phải mời họ lên thiên đường sớm hơn để họ đỡ vướng chân chúng ta.

- Dạ tôi hiểu.

- Về tổ chức, về phương pháp hoạt động sẽ phải thay đổi cho thích nghi với hoàn cảnh mới. Bất cứ sự khinh xuất nào cũng có thể dẫn tới tổn thất, tới thảm họa. Đường dây liên lạc, điểm hẹn, hòm thư mật ngữ, mật hiệu, mật mã, điện đài đều phải thay đổi và tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt, kỷ lật rắn chắc như thép.

- Dạ.

- Chứng chỉ cũ của anh phải làm lại. Anh nộp cho tôi để đổi cái mới. Tổ chức của chúng ta sẽ thanh lọc cho trong sạch và sẽ thủ tiêu hết bọn hèn nhát thối trí.

- Dạ.

Sau khi Ba Heo đưa lại cho Nhân mảnh chứng chỉ nhân viên CIA, chúng tạm biệt nhau.

Hoàng Quý Nhân đã lần lượt đến gặp những nhân vật được lựa ra từ bộ sưu tập. Nhưng không phải lần nào cũng gặp may mắn.

Cái tên có chiếc xe B.14206 đã phản ứng quyết liệt, không thèm để ý gì đến mật khẩu Nhân đưa ra. Y dọa nếu còn bị khiêu khích thì y sẽ làm tới, sẽ kéo Nhân ra toà. Có lẽ y định đào nhiệm. Tình thế đó buộc Nhân phải rút lui nhưng chưa chịu bỏ mồi.

"Được mày cứ quẫy đi. Đã cắn vào cái móc câu của CIA thì tháo ra khó lắm. Càng quẫy càng móc sâu, càng đau con ạ" - Quý Nhân mỉm cười một mình với những ý nghĩ độc ác. Kể từ đó y không rời bóng tên dao động và chiếc Datsun bóng lộn của hắn. Nhân nhận định trong trường hợp này càng phải săn lùng không để đối thủ có ảo tưởng là sẽ thoát. Đâm lao phải theo lao. Để một tên phản bội biết mặt mình là vô cùng nguy hiểm. Y tra cứu lại bộ sưu tập và biết Doãn Kế Lâm ngụ ở 15E Tự Đức. Y phải tiến hành một công việc mạo hiểm nhưng cần thiết. Y bảo Lili:

- Chúng mình đến nhà Doãn Kế Lâm đi.

- Không quen biết, đến làm chi cho mất thì giờ.

- Trước lạ sau quen! Hay em chờ anh ngoài xe, mình anh vào thôi - y đưa cho Lili khẩu Révolver nhỏ xíu - Em chỉ nổ súng khi anh bị de dọa thực sự.

- Trời! Anh vẫn còn giữ những thứ này sao - Mặt Lili tái xanh.

- Sẽ chẳng có chuyện gì đâu - Nhân cười - Anh cũng muốn sống hòa bình. Nhưng thằng cha này biết mặt chúng ta. Anh phải bảo nó không được bép xép. Muốn nó vâng lời thì phải có cái gì cho nó nể. Thế thôi.

Chiếc Toyota được thay biển số đỗ bên phía số chẵn chếch cửa nhà 15E hai chục mét. Ngồi bên vòng lái nhìn thấy mấy khuôn cửa tầng trên đèn sáng lấp ló san vòm cây hoa xác pháo. Quý Nhân xuống xe đi một đoạn rồi rẽ sang đường. Y nhìn đồng hồ (hai mươi giờ mười lăm), rồi bấm chuông.

- Ai hỏi chi đó? - Tiếng phụ nữ vọng ra.

- Dạ tôi. Tôi muốn đến thăm ông Lâm. Xin cô làm ơn đưa giúp tôi tấm danh thiếp.

Doãn Kế Lâm nhìn qua, danh thiếp đề kỹ sư Hoàng Văn Luận. Ngần ngừ một chút y bảo người hầu gái:

- Mời ông ta vào phòng khách.

Quý Nhân điềm tĩnh bước vào căn phòng rộng tràn đầy ánh sáng. Lâm bước ra và y giật mình. Không phải kỹ sư Luận mà là cái tên tìm bắt liên lạc với y một tuần trước đây. Lâm không bắt tay, vẻ mặt khó chịu chỉ xuống ghế:

- Mời ông ngồi. Té ra lại là ông.

- Vâng chính tôi. Tôi cũng chẳng muốn tiếp kiến ông làm gì một khì ông đã không thích. Nhưng xin ông cho phép tôi nói chuyện hòa bình với ông lần cuối cùng.

- Ông có thể bắt đầu đi.

Lâm khép cửa lại, mở nhạc rồi nhìn Nhân bằng cặp mắt đe dọa. Trái lại Nhân tỏ ra nhún nhường thu mình lại, thành thật.

- Mc Dovan rất tiếc là ông đã quên ông ta. Dovan trả lại ông tấm ảnh và xin lại ông cái chứng chỉ D4K2L3, coi như ông đã hủy bỏ hợp đồng và ông ta sẽ không đảm bảo mọi quyền lợi và an ninh cho ông nữa. Tài khoản của ông ở ngân hàng New Jersey sẽ đóng lại. Người ta sẽ chuyển toàn bộ khoản tiền đó lại cho Mc Dovan coi như tiền bồi thường về hành động tự ý hủy bỏ hợp đồng trước hạn.

Nhìn tấm ảnh đặt trên bàn Doãn Kế Lâm không còn đường nào lẩn tránh. Y hoàn toàn thất vọng và lúng túng. Y chỉ có thể đào nhiệm khi chính Mc Dovan để mất y thôi. Điều ngược lại thì không được. Y đã hiểu được sự cắt bỏ hợp đồng trước thời hạn có nghĩa là phản bội.

- Thôi được, tôi sẽ tiếp tục làm hết hợp đồng này.

- Nhưng bây giờ thì đã muộn rồi - Quý Nhân làm cao - Việc ông không đáp lại mật khẩu làm Mc tức giận. Trong tình thế hiện nay ông ta đòi hỏi luộc kỷ luật sắt.

Doãn Kế Lâm ngồi lặng im. Ít phút sau y quay lại với người khách lạ, vẻ thân tình:

- Đồng nghiệp có thể cho tôi một lời khuyên được không?

- Ông hãy cứ chấp hành mệnh lệnh này. Ông đưa cho tôi tờ chứng chỉ. Thực ra nó cũng sắp phải hủy rồi. Người ta sẽ cấp cho ông cái khác. Tôi sẽ báo cáo với Mc là hôm tôi bắt liên lạc ở chỗ đông, sợ có "đuôi” nên anh cẩn thận không muốn tiếp. Tình thế chung của chúng ta hiện nay là phải cảnh giác gấp trăm lần xưa kia. Vì tình đồng sự tôi sẽ làm cho Mc vui lòng.

Lâm đứng dậy vào buồng trong lấy mảnh chứng chỉ nhỏ xíu đưa cho Nhân.

- Cảm ơn anh. Xin anh coi cuộc trao đổi hôm nay không phải là sự đoạn tuyệt.

- Tôi cũng phải cảm ơn anh vì anh đã giúp tôi hoàn thành một công vụ hoàn hảo. Giả sử như anh vẫn khăng khăng không chịu chắp nối thì không biết Mc Dovan còn bắt tôi phải làm những gì tiếp theo nữa. Tôi mà không làm thì số phận tôi sẽ ra sao? Chúng ta chỉ có thể dựa vào nhau mà sống thôi anh Lâm ạ. Thôi xin chào anh. Tôi xin đem danh dự ra bảo vệ an ninh cho anh. Mong rằng anh cũng sẽ vẫn trung thành với sự nghiệp của chúng ta.

Lâm với chai rượu rót ra ly mời Nhân nhưng Nhân từ chối. Lâm nháy mắt nhìn Nhân và nhún vai. Cả hai đứng dậy. Lâm tiễn Nhân ra cổng, bắt tay nhau. Cánh cửa hé mở Nhân lẻn ra rất nhanh. Chiếc Toyota nổ máy. Y nhảy lên, liếc nhìn quanh xem có cái "đuôi" nào không. Xe lướt qua đám đông ra phía Sở Thú rồi phóng nhanh trên đường 30 tháng 4.

Một bữa Hoàng Quỷ Nhân đến bắt mối với Chín Hủi. Chín nguyên là một phế binh ngụy. Hắn bị cụt hai ngón tay không phải vì bệnh cùi bệnh hủi mà vì trúng đạn Việt Cộng hay do hắn tự ý chặt đi để khỏi phải ra trận, nhưng hắn rất nổi tiếng. Hắn luôn luôn dẫn đầu cái đám biểu tình của các phe phái kình chống nhau trong chế độ cũ. Người ta thuê hắn vào những việc khiêu khích la hét, đập phá đe dọa, ăn vạ, vu cáo, bôi nhọ... Một phần hắn ỷ vào cái danh hiệu thương phế binh đổ máu vì Tổ Quốc, mọi người phải tri ân hắn. Phần hắn dựa vào những người chủ có vai vế trong giới chính khách hứa bảo vệ hắn nên hắn rất yên tâm. Chín Hủi còn là dân anh chị ở khi Vân Đông cầm đầu một băng cướp, một công ty hành hung trả thù, ám sát nên ngay cả cảnh sát cũng phải kiêng nể. CIA đã dùng tên này để tìm hiểu những hành động cụ thể của các phe phái để đạo diễn những tiết mục ly kỳ trên sân khấu chính trị. Những cuộc biểu tình do Chín Hủi dẫn đầu thường là để làm lạc hướng đấu tranh, xuyên tạc mục đích, gây rối để cảnh sát có cớ khủng bố đẫm máu. Chín Hủi cũng phải đóng vai cái bị thịt cho cảnh sát đấm đá, cũng bị bắt vào tù nhưng vẫn được đảm bảo an toàn. Nay Nhân muốn dùng con bài này vào những nhiệm vụ phá hoại gây rối hoặc vật thí mạng thôi chứ Nhân không tin Chín Hủi có thể làm được công việc gì quan trọng.

Trong một tiệm ău nhỏ, Chín Hủi ngồi ngửa trên ghế tựa. Đầu trọc, mặt đen, bộ phận nào của cơ thể cũng dài ngoằng như những bức tranh minh họa Đôn Kihôtê. Trên mặt bàn là chai rượu đế, li bia, đĩa đồ nhắm và hai bàn chân bẩn thỉu của y. Chín Hủi cho cả nắm hạt dưa vào mồm chỉ một loáng y đã phun phù phù hàng nắm vỏ giống như cái quạt hòm phun trấu. Y thích ngồi nhậu lai rai một mình.

Hoàng Quý Nhân mon men đến ngồi cạnh đưa bao thuốc ba số và chiếc bật lửa xuống bàn. Chín Hủi liếc nhìn ông khách mặc sang trọng ngồi cạnh. Cặp môi dày thâm sì của y nở nụ cười thân thiện. Nhân cũng mỉm cười đáp lại. Không đợi Nhân mời Chín Hủi xé luôn bao thuốc lấy một điếu hút và lại ngửa dầu ra mơ màng nhìn làn khói. Quý Nhân liền đưa ra mật khẩu. Chín Hủi như bị điện giật. Đôi bàn chân trên mặt bàn kéo xuống, y ngồi nhổm dậy đôi mắt đỏ lừ gườm gườm nhìn sát vào mặt Nhân.

- Cái gì? Mày nói cải gì?

- Hãy bình tĩnh nghe đây. Otto Kingsley...

- Kingsley cái mẹ gì! Hãy cút đi! Tao nhổ vào cái mặt cái thằng mang con bỏ chợ.

Quý Nhân trừng mắt nhìn lại. Kinh nghiệm muốn khuất phục một tay anh chị thì phải cho y thấy được bản lĩnh của mình đã. Y dồn toàn bộ sức mạnh tinh thần lên đôi mắt như muốn thôi miên Chín Hủi. Bỗng một cú đấm trời giáng nện vào quai hàm Quý Nhân làm y ngã quay ra mặt đất. Trần nhà bàn ghế quay cuồng. Mọi người xô lại còn Chín Hủi vẫn gào thét.

- Quân đê tiện, bẩn thỉu... (và hàng tá những câu thô tục). Hai chiến sĩ công an chạy vào. Quý Nhân đã tỉnh lại và y thấy hết sự nguy hiểm treo trên đầu. Y lổm ngổm vực dậy.

- Làm sao lại đánh nhau? - Một chiến sĩ công an hỏi.

Chín Hủi đứng im mặt hầm hầm nhưng cũng có vẻ sợ công an. Quý Nhân vội đỡ lời:

- Dạ, xin lỗi, tại tôi, vâng tôi đã nhận lầm cái bật lửa. Chính là của ông bạn đây. Xin lỗi nhé... Chín Hủi luống cuống một chút và y chợt hiểu. Y cầm cái bật lửa và gói thuốc trên bàn đút vào túi. Mọi người cười ồ.

- Không bao giờ được phép nhầm lẫn với anh Chín nghe!

Một người nào đó cho Nhân một lời khuyên và cả bọn lại cười. Hai đồng chí công an lắc đầu nhún vai:

- Chỉ do một chút hiểu lầm!

Mọi người giải tán. Hoàng Quý Nhân cũng lùi lũi ôm mặt đi thẳng. Y nằm năm hôm ở nhà với cái mặt sưng vù. Thật là hú vía. Y không tiếc thằng Chín Hủi. Trong hoàn cảnh hiện nay thứ cặn bã ấy chẳng thể dùng vào việc gì.

Lili vừa chám sóc chồng vừa khóc mếu lo lắng. Quý Nhân vỗ vai an ủi vợ.

- Có chuyện chi mà em lo. Thằng cha phóng Hon-đa ẩu quá, mình cố tránh mà đâu có nổi.

- Từ nay anh không được đi đâu một mình nữa. Muốn đi đâu em đưa đi.

Khi vết sưng biến mất, cái máu mạo hiểm lại cuốn hút y. Bài học y rút ra là không nên dùng áp lực mạnh. Tư thế của y đang trong trạng thái suy giảm ngày càng nhanh. Nếu y không tự biết mình thì sẽ có lúc sa lưới.

Buổi lễ sớm chủ nhật ở nhà thờ Đồng Thiệu đã tan mà một con chiên vẫn còn quỳ bên bục gỗ. Anh ta chờ cho vị linh mục thu xếp Kinh thánh từ trên lầu giảng đi xuống. Vị linh mục đang đi dần lại phía người quỳ làm cho anh ta xúc động.

- Trình cha, con là bầy tôi tội lỗi của chúa. Con đã bị quỷ dữ làm vẩn đục đức tín. Con muốn được xưng tội trước đấng chăn chiên - Quý Nhân nói nhỏ nhẹ, cố che lấp cái vụng về lúng túng của mình. Y chưa bao giờ là tín đồ Cơ Đốc giáo nên y không quen nói những câu ước lệ như vậy.

Vị linh mục nhìn y từ đầu đến chân vẻ lạ lùng. Ông thuộc mặt gần hết con chiên trong địa phận mình cai quản. Nhưng linh mục vẫn dịu dàng nói với kẻ lạ mặt:

- Lạy Chúa, nếu con biết ăn năn dưới chân Người thì niềm thương xót bao dung của Người sẽ tha thứ cho con, làm cho nỗi đau của con dịu lại, cho tâm hồn con thư rỗi, cho con có sức đi tiếp đoạn đường đời mệt mỏi của chúng ta để hướng toàn tâm về nước Chúa. Hãy đi theo cha vào phòng lễ.

- Dạ.

Quý Nhân liếc mắt nhìn xung quanh rồi rảo bước theo vị cha xứ. Lần đầu tiên trong đời Nhân bước vào một buồng xưng tội. Căn buồng hẹp lát đá hoa. Một cửa sổ vòm gô-tích cao gần sát trần nhà rọi xuống một lớp ánh sáng yếu ớt làm cho căn buồng thêm huyền bí. Giữa buồng kê một chiếc bàn có bục quỳ. Trước mặt kẻ xưng tội treo một bức màn đen. Sau tấm màn là ghế của vị chủ lễ. Linh mục đóng cửa lại trở về vị trí của mình.

Quý Nhân không quỳ xuống bục. Kẻ tội lỗi rón rén đến sát tấm màn đen thì thầm:

- Thưa cha con không biết Chúa Hài Đồng đã giáng thế vào lúc mấy giờ trên máng cỏ?

Một phút im lặng trôi qua. Vị linh mục như muốn nghe lại câu hỏi lần nữa, Quý Nhân nhắc lại và lần này thì y nghe rất rõ câu la tinh:

- Hora petits quota sit - Dum petits illa fugit1 (Con hỏi mấy giờ, trong lúc con hỏi thì thời gian ấy đã trôi đi" - (Ở đây chỉ có nghĩa làm mật hiệu)).

Quý Nhân vạch luôn tấm màn đen ra. Y đưa cho vị linh mục một mảnh quảng cáo nhỏ in chiếc đồng hồ của hãng Sonac trên bức tranh Chúa Hài đồng trên máng cỏ. Vị linh mục bắt chặt tay người khách lạ.

- Ngài Mc Dovan gửi lời chào đến cha!

Vị linh mục đặt tay lên môi ra hiệu cho Nhân im lặng rồi vẫy y đi theo, qua cửa sau hai người đi dọc hành lang ra khu vườn cây của nhà xứ. Vị linh mục mời Nhân ngồi xuống chiếc ghế dưới bóng cây rồi mời nói:

- Ông là ai?

- Xin cứ gọi tôi là Năm.

- Chín giờ tối nay ta hẹn nhau dưới chân tượng Trần Hưng Đạo. Ở đây là mục tiêu theo dõi của Cộng sản, không tiện nói chuyện nhiều.

Quý Nhân gật đầu hiểu ý. Y được chỉ đi ra một lối khác.

Đúng giờ hẹn Nhân đến chân bức tượng thì vị linh mục đã xuất hiện dưới một hình hài khác hẳn. Kính trắng, sơ-mi kẻ cà-vạt to bản, quần jean... Khi bắt tay nhau, Quý Nhân bật cười:

- Trời! Hoàn toàn đúng mốt. Không ai có thể ngờ một vị đã đỗ bảy chức Thánh mà lại trẻ trung đáng yêu như thế này!

Vị linh mục cũng vui vẻ:

- Tòa Thánh La Mã đã cho phép tu sĩ được tự do hơn. Ngoài giờ hành lễ linh mục có thể mặc bò Levi’s, thậm chí cho lấy vợ. Bà xơ có thể diện mini jupe! Nếu cứ theo quan niệm bảo thủ mãi thì có lúc hết mất kẻ chăn chiên!

Chỉ sau vài tháng Quý Nhân đã nhóm lại ngọn lửa phục thù, khởi động được cái guồng máy vô chủ mà CIA bỏ lại ở Sài Gòn. Bây giờ y tính đến chuyện chắp nối với thượng cấp và mở rộng đến các tỉnh khác. Muốn cho nó trở lại hoạt động được thì vấn đề tài trợ phải đặt ra hàng đầu. Lúc mới y có thể bỏ vốn riêng ra chu cấp cho bọn đàn em. Nhưng về lâu dài thì phải có CIA đảm nhiệm. Do đó chắp nối với bên ngoài trở thành cấp bách. Y quyết định giao việc này cho Bảy Dĩ.

Nhân đến gặp Dĩ vào một buổi sáng. Là bạn cũ nên không cần mật danh mật hiệu gì. Hai tên ôm nhau thắm thiết. Sau khi đã khép cửa phòng khách, Dĩ mới nói lên sự kinh ngạc của mình.

- Anh vẫn sống ngoài vòng pháp luật?

- Cũng như anh thôi.

- Nhưng anh là đại tá cảnh sát ai chẳng biết anh. Chính phủ đã ra lệnh cho các anh phải đi cải tạo mà. Tôi chỉ là dân sự, phó thường dân thôi!

Quý Nhân cười:

- Dân “Xịa"1 (“Xịa” tiếng lóng chỉ CIA) chứ? Bộ anh tưởng "Xia" nhẹ tội hơn bọn tôi sao?!

- Nhưng có ai biết tôi là "Xịa".

- Anh cũng như tôi thôi. Chúng ta đều ngoài vòng pháp thuật. Chỉ có điều ngạc nhiên là sao đến bữa nay anh vẫn còn chưa đi.

- Chưa có cơ hội.

- Anh hùng tạo thời thế mà. Phải tạo ra cơ hội chứ. Tôi biết là anh còn tiếc của, còn đọng hàng, đúng không? Anh định đi cả một chuyến chứ gì? Không được đâu.

- Anh thông minh lắm! Nhưng anh cũng chẳng tìm ra đường thoát! - Dĩ cười châm biếm.

- Có đấy. Hông nay tôi đến định bàn với anh. Ta cứ lúng túng thế này thì đến chết cả nút.

- Anh nói kế hoạch của anh nghe chơi.

- Tôi thấy anh nêu đi thăm dò trước. Chuyến đầu chỉ mang vàng hoặc đô-la thôi. Thứ này vào nước nào cũng lọt. Còn bạch phiến thì không thể mang theo được. Anh ra liên lạc với Warrens trước. Anh quen hắn, dễ nói chuyện. Tuy đã làm ăn với nhau nhiều chuyện nhưng Warrens chưa biết mặt tôi nó cũng sợ chứ. Thứ hai, anh lại là người của CIA, anh sẽ ra chắp nối với Warrens. Mỹ ra đi vội vàng đá buông con giữa chợ. Cả một tổ chức mấy chục năm xây dựng nay tan nát cả. Ít nữa Đông Dương sẽ là một khối. Với vị trí chiến lược tiềm năng quân sự như thế thì liệu Mỹ có thể nhắm mắt được trước những biến đổi nội tại của Đông Dương không? Chắc là không. Đó là tôi chưa nói Việt Nam có thể cho đồng minh của họ đặt căn cứ quân sự ở vùng này, uy hiếp toàn bộ đường hàng hải quốc tế từ Trung Đông qua Ấn Độ Dương vượt eo Alacca đến tận bờ biển Nhật Bổn. Hà Nội – Manille hai giờ bay. Cam Ranh – Bornéc hai giờ bay. Sài Gòn – Băngkok chín mươi phút bay. Sài Gòn – Kuala Lumpur chín mươi phút. Sài Gòn - Singapour hai giờ. Vị trí chiến lược của Đông Dương là như vậy. Do đó tốn mấy thì cũng phải duy trì sức sống của dân "Xịa" ở xứ này. Anh nói thẳng cho Warrens biết là chỉ có tôi, ngoài Hoàng Quý Nhân này ra không ai có thể bày lại thế cờ cũ. Mặc dù tôi không phải là CIA nhưng tôi có kinh nghiệm tổ chức. Nếu nước Mỹ tin ở tôi, tôi sẽ làm sống lại sức mạnh bí mật của họ trên những vùng đã mất. Vậy thì họ phải chi tiền cho chúng ta theo nhịp điệu cũ. Để ông ta tin lời tôi nói, tôi sẽ gửi cho ông ta một món quà. Đó là một mảng của lá cờ có cái đầu ó, chiếc mộc và cái la bàn bị quăng vào sọt rác trong những ngày cuối tháng tư. Tôi đã lôi ra vá lại rồi giặt là sạch sẽ. Nó sẽ có ý nghĩa thực sự cho tương lai chung của chúng ta. Nếu quả là Warrens không cần nữa thì ông ta sẽ phải đi lại từ A, B, C. Làm thế chẳng khác nào quay lại kỷ Đê-vôn, thời mông muội, hay ít ra cũng là thời kỳ đồ đá! Và khi tôi quăng lại cái mảnh cờ cũ nát đó vào sọt rác lịch sử thì cũng có nghĩa là chính độc tố của nó tiết ra sẽ chống lại cái mà Warrens định xây lại sau này. Ai còn tin vào sự trung thành với các hợp đồng của CIA nữa?... Mặt khác làm việc với chúng ta, cá nhân Warrens cũng có lợi. Ta sẽ lập lại con đường "tơ lụa" từ tam giác Vàng tới Washington. Đường sông Mékong sẽ rẻ hơn con đường Chiang Rai – Bănkok đã bị phong tỏa. Con đường Vân Nam còn hấp dẫn hơn. Nước Trung Hoa Đỏ cần ngoại tệ sẽ bán phá giá bạch phiến mua các con đường buôn lậu và bất chấp sức ép ngoại giao của nước nào. Warrens thực sự sẽ kiếm được khá hơn trước vì không còn bị băng của ông Thiệu ông Kỳ nào cạnh tranh nữa! Nếu mọi sự đều trôi chảy thì chẳng những số hàng tồn kho của anh, của tôi đều lọt hết mà ta còn mua vét tất cả số bạch phiến của các băng khác đọng lại rót nốt cho Warrens.

- Tôi lo nhất khâu giao hàng cho Warrens.

- Anh yên tâm. Về phương tiện này tôi hoàn toàn tín nhiệm ông ta. Warrens sẽ có đủ phương tiện để đón ta từ ngoài khơi. Xuồng chiến, máy bay trực thăng, có thể cả tàu ngầm sẽ cẩu hàng từ những con thuyền bí mật của ta. Sau đó Warrens sẽ đưa về Mỹ bằng máy bay, tên lửa, tiềm thủy đĩnh hay tàu con thoi của Nasa thì đó là công việc của ông ta, chúng mình đâu cần biết. Nhu cầu bạch phiến hiện nay ở Mỹ còn mạnh hơn nhu cầu rượu của những năm bị cấm. Warrens sẽ trở thành tỉ phú!

- Anh là người quá lạc quan đấy. Nghe anh nói mà tôi sướng cả tai.

- Hãy hành động đi chứ chỉ nghe không thì rồi sẽ chán ngay. Tôi đề nghị anh mua một con thuyền và tìm một hoa tiêu đáng tin cậy.

- Hoa tiêu thì dễ thôi. Tôi quen một đại úy hải quân. Anh ta cũng đang muốn kéo cả gia đình đi liền.

- Một mình anh ta thôi. Không cần lôi đàn bà trẻ con đi cho vướng chân, vì đó là chuyến đi sinh tử gặp tàu cộng sản phải gạt ra mà đi, phải nổ súng mà đi. Nếu để bị bắt thì còn tệ hơn là bị bắn chìm trên biển.

- Nhưng chắc chi hắn chịu đi một mình.

- Anh phải nghĩ ra kế gì gạt tất cả lại. Cả vợ con anh cũng phải thu xếp chuyến sau.

Một tuần sau Dĩ đã mua được chiếc thuyền máy khá tốt, nhưng chủ thuyền cứ một mực xin cho kèm hai người mới chịu bán.

- Anh đã điều tra xem hai người đó là thế nào chưa? - Nhân hỏi.

- Hai sĩ quan. Một chuẩn tướng và một trung tá. Họ cũng hỏi mua chiếc thuyền đó nhưng họ ít tiền hơn.

- Nếu là quân nhân thì được. Sẽ giao cho họ nhiệm vụ tác chiến khi đụng tàu tuần tiễu địch. Sẽ có người lo cho anh vũ khí.

Quý Nhân vạch cho Bảy Dĩ kế hoạch hành quân, vừa đánh lừa sự theo dõi của đối phương, vừa lừa cả đám đàn bà trẻ con lẫn một số khách chung vốn để giảm chi phí cho chuyến đi. Đồng thời cũng lừa luôn cả viên hoa tiêu.

Thực tình Hoàng Quý Nhân cũng muốn giữ vợ con những người này lại làm con tin. Những tài liệu y giao cho Bảy Dĩ là số vốn rất lớn. Y đâu chịu để cho Dĩ tự do hoàn toàn.

Và chuyến đi đã diễn ra cách đó không lâu.

Một buổi tối Quý Nhân vắng nhà, Lili đang ngồi đọc tiểu thuyết thì có tiếng bấm chuông. Cô ta ra cửa cất tiếng hỏi:

- Ai đấy?

- Tôi, tôi đến thăm cô Lili. Lili thận trọng hé nhìn qua cái ô vuông bằng quân bài trên cánh cổng thấy một người cao lớn đứng bên ngoài. Vẻ mặt ông ta quen nhưng vì ánh sáng yếu nên Lili không thể nhận ra ai.

- Xin cho biết quý danh.

- Tôi là bác sĩ Hoàn. Đã nhiều lần đến thăm bệnh cho cô Lili.

Nhận ra người quen cũ, Lili niềm nở:

- Mời bác sĩ vô chơi. Xin lỗi, tối quá tôi không thể nhận ra.

Cánh cửa hé mở, Lili đưa bác sĩ vào phòng khách.

- Lâu lắm bác sĩ mới lại đến thăm tôi.

- Đó là điều đáng mừng! - Bác sĩ nói vui - tôi cầu chúc cho cô không bao giờ phải mong bác sĩ đến thăm.

- Dạ, nhờ bác sĩ chữa giúp cho từ độ ấy tôi không còn bị đau nữa.

- Bịnh đó cón phải thử thách. Chỉ khi nào có gia đình rồi mà vẫn không tái phát thì mới yên tâm được.

- Dạ tôi đã kết hôn được nửa năm này mà tình hình vẫn tốt đẹp!

- Xin chúc mừng Lili!

Bác sĩ Hoàn nhìn quanh cán phòng và dừng lại trước tấm ảnh cặp uyên ương, ông giật mình:

- Dạ đó là tấm ảnh ngày cưới của chúng tôi – Lili khoe.

Hoàn đứng dậy đi về phía bức ảnh, sửa lại cặp kính nhìn cho kỹ. Tuy đã để râu tóc dài, đeo kính, nhưng khuôn mặt Hoàng Quý Nhân không thể ngụy trang nổi con mắt của một người quen biết lâu năm.

- Trời, té ra bà kết hôn cùng đại tá Hoàng Quý Nhân?

- Không ạ, chồng tôi là ông Năm Oăn - Lê Văn Oăn.

- Chính ông nhà đã đón tôi đến chứa bệnh cho bà.

- Dạ đúng ạ.

- Thế là tôi lại hân hạnh đến thăm cả ông. Bữa nay ông Năm đi đâu ạ?

- Dạ chồng tôi chạy đi có chút việc.

Sau nửa giờ thăm hỏi xã giao, bác sĩ Hoàn cáo lỗi ra về. Ông hẹn dịp khác sẽ lại thăm.

- Tôi gửi lời chào sức khỏe tới ông Năm và chúc gia đình hạnh phúc.

Hoàn đi được một tiếng thì Nhân về. Y vào toa-lét tắm rửa sạch sẽ thay bộ Pijama, nhưng sắc mặt không được vui vẻ như mọi khi. Lili thấy chồng không vui thì vội vàng kể lại chuyện ông khách vừa đến thăm. Nghe xong Quý Nhân nổi giận đùng đùng:

- Thật là ngu xuẩn. Tại sao cô lại mở cửa cho thằng cha đó vào nhà mình?

- Ông ta đã chữa bịnh cho em. Ông lại là bạn cũ của anh chứ đâu của riêng em.

- Bạn bè gì?... à mà dù có là bạn thì thời buổi này cũng phải coi chừng. Nay là bạn, mai là thù, nó thay đổi như trở bàn tay đó cô biết không?

- Dạ anh đâu có bảo em điều đó.

- Thật là tệ hại. Không bảo thì cũng phải biết chứ. Cô có thấy tôi tiếp bất cứ ai trong căn nhà này bao giờ không?

Lili im lặng nước mắt lưng tròng. Cô ta tủi thân. Đây là lần đầu tiên cô bị chồng nặng lời. Mươi phút sau bỗng Quý Nhân đến ngồi sát bên cạnh, ôm vai vưốt tóc vẻ tự tội:

- Anh lo cho cái tổ ấm của chúng mình thôi. Anh thương cưng mà. Nước mắt của em làm cho anh đau đớn, anh ân hận. Cho anh xin lỗi nhé. Quay lại với anh đi!

Quý Nhân giở hết cái ngón "cao trào tình cảm” ra, thế là Lili lại vui vẻ coi như chẳng có chuyện gì. Đàn bà vốn dễ tha thứ...

Lili đã yên giấc trong nhịp thở đều đều, còn Quý Nhân thì không sao chợp mắt được. Trong nhiều năm dùng Hoàn, Nhân biết Hoàn là một tay nhát gan. Viên bác sĩ luôn luôn bị cái thuyết "luân hồi qua báo" của đạo Phật mê hoặc. Nhưng Hoàn lại là một chuyên gia có tài về thần kinh, lại biết vâng lời ít bép xép nên trong điều kiện quyền lực của Nhân còn là tuyệt đối thì việc dùng Hoàn là có lợi. Sự kiện 30 tháng 4 đến quá nhanh làm cho Nhân không chuẩn bị đầy đủ kế hoạch hậu chiến. Y tưởng là tên nhát gan này sẽ tìm đường lẩn ra nước ngoài từ đầu, ai ngờ nó vẫn ở lại kiếm việc ở bệnh viện Saint-Mathielt, thực chất là cộng tác với chế độ mới. Từ xưa hắn có chuyện bồ bịch trăng hoa gì đâu mà bỗng nhiên lại mò đến thăm Lili. Việc hắn biết Hoàng Quý Nhân tức Năm Oăn thì chính là hắn đã nắm được mã số sinh tử của cuộc đời Nhân rồi. Dù hắn không có ý định hại Nhân thì điều bí mật đó được giấu trong nhột bộ óc hèn nhát là vô cùng nguy hiểm. Hơn nữa nhà Lili còn là tổng hành dinh lâu dài của Nhân. Nay phải chuyển đến một chỗ mới là y rất lo. Vì vậy giải pháp của Nhân là bịt ngay cái lỗ rò từ Hoàn.

Nhân rón rén mò dậy lần lên gác ba. Y mở chiếc hòm "luyện đan" ra chọn lấy một liều thuốc độc cực mạnh. Y lo Hoàn đã cảnh giác với các chất độc thần kinh là Nhân đã thử nghiệm hàng ngàn lần ở Vie du Château, nên lần này Nhân dùng chất T10-20 mà Nghiêm Bửu Châu mới tìm ra còn giữ trong vòng bí mật. Nó có sức gây ngừng hoạt động của các tế bào ngay tức khắc, làm cho cơ thể không kịp phản ứng sưng tấy ở bất cứ bộ phận nào. Mươi phút sau chất T10-20 trung hòa với ôxy trong máu tạo thành một thứ muối vi lượng vốn có trong cơ thể. Chưa có loại máy móc nào tìm nổi nguyên nhân nhiễm độc.

Sáng hôm sau Nhân dậy sớm. Y dặn vợ nếu có người lạ đến nhà thì để ngỏ lỗ vuông trên cánh cổng, rồi Nhân lái xe đi ngay. Nhân đến gặp Hai Đen và Tám Sẹo, hai tên cướp trong băng "Phục thù” để mặc cả vụ thủ tiêu. Chúng ngã giá hai lạng vàng. Quý Nhân thích dùng bọn này hơn là dùng nhân viên của mình. Có bại lộ thì vụ án cũng chỉ mang tính chất thù hằn, cướp bóc. Quý Nhân giao chất độc và phổ biến cách hạ thủ cho bọn cướp. Chúng phục sẵn, theo dõi viên bác sĩ để nhận mặt. Kế hoạch của chúng là đến mời bác sĩ đến thăm bệnh cho người nhà, nhưng xe đến cửa thì thấy Hà Quang Hoàn cắm cúi ra đi. Chúng đã bám theo ông đi đến đoạn đường đôi gần Sở thú. Bất ngờ hai tên rút súng đe dọa buộc viên bác sĩ lên xe. Là một người to lớn nhưng nhát gan nên ông ta không tự chủ nổi, phải làm theo lệnh bọn cướp Chúng phóng xe qua cầu Thị Nghè rồi rẽ vào một hẻm vắng bên bờ sông. Kiểm tra lại xác chết lần chót, chúng đưa xuống một cái xuồng đợi sẵn. Khi xuồng ra giữa sông, chúng vất xác người xấu số xuống sông…

…Quý Nhân cứ lởn vởn quanh nhà nghe động tĩnh. Ba ngày sau y mới dám về. Mặt Lili gày xanh đi vì lo sợ.

- Lạy Chúa, sao mãi bữa nay anh mới về, em lo cho anh quá.

- Tất cả là tại em thôi. Em cho cái thằng bác sĩ ấy vào nhà. Anh sợ nó phản bội anh phải lẩn tránh vài ngày xem tình hình ra sao.

- Anh cứ lo vậy thôi chớ bạn bè có phải ai cũng hại nhau đần. Có thể là như vậy.

- Nhân mỉm cười mệt mỏi - Thôi để cho anh nghỉ đôi chút nhé.

Y đi tắm rồi lăn ra ngủ như chết. Lili ngồi bên chồng nhìn cái đầu hắn hơi ngoẹo về một bên, mắt nhắm nghiền, bộ ngực phập phồng theo nhịp thở trông hắn thật hiền. Bỗng nhiên miệng hắn méo đi thở như kéo bễ rồi ú ớ như bị tắc cổ. Hắn giật mình ngoẹo đầu sang bên kia rồi ngủ tiếp. Lili cảm thấy như có chuyện gì xảy ra với chồng. Nỗi lo lắng âm thầm trong cô ngày một tăng lên. Từ ngày Sài Gòn giải phóng, Lili lấy chồng và mong cuộc đời có một bước ngoặt tốt đẹp. Cô hy vọng sẽ có con với Năm Oăn. Một gia đình yên tĩnh, ấm cúng là cái hình ảnh cuốn hút cô. Cô không cần gì ngoài cái ước vọng giản dị đó. Chỉ sau một tháng trăng mật (!) Năm Oăn đã thay đổi hẳn. Y ít chú ý đến vợ hơn. Nhiều đêm y làm việc rất khuya trong căn phòng khóa trái trên lầu thượng. Đôi lần y yêu cầu Lili nhận mặt người này người khác, cô nghĩ là y chỉ nhớ lại những kỷ niệm cũ cuộc đua tranh của những con người cùng của một thời xa xưa. Nhưng dần dần y hay đi một mình, lúc dùng ô-tô, lúc xe máy, xe đạp, cả những lần lang thang cuốc bộ. Có bữa rất khuya y mới về, dáng điệu mệt mỏi lạnh lùng. Y quăng bộ đồ dơ trong toa-lét, chẳng chuyện trò gì nằm lăn ra ngủ. Lili buồn bã xách cái gối sang phòng bên, nằm một mình, nước mắt trào ra đẫm gối.

Từ bữa xảy ra chuyện viên bác sĩ vào phòng khách cô mới biết Năm Oăn là đại tá Hoàng Quý Nhân. Đó là một tia sáng mới lọt ra từ toàn bộ cuộc đời bí hiểm của chồng. Chưa lúc nào Hoàng Quý Nhân tâm sự với Lili về quá khứ của mình một cách cởi mở. Có lẽ những cái đó mới làm cô khao khát nhất. Tình yêu chỉ có được khi cánh cửa trái tim của cả hai đều rộng mở. Nếu chỉ quanh đi quẩn lại với những cái vuốt ve nịnh hót cả tinh thần lẫn thể xác thì chẳng bao lâu sẽ dẫn tới nhàm chán. Và giờ đây cô cảm thấy nỗi cô đơn như một lưỡi cưa vô hình đang cứa vào tình yêu của cô.

Hôm sau Lili đọc báo tình cờ gặp mấy dòng cáo phó "... Bác sĩ Hà Quang Hoàn lâm nạn và qua đời…". Cô giật mình và xúc động mạnh mẽ. Thì ra cái ông bác sĩ mới đến thăm cô cách đây năm bữa đã chết. Lili nhớ lại bốn năm trước đây, khi Quý Nhân có ý định chung đụng với cô lần đầu, y đã cẩn thận cho bác sĩ Hoàn đến khám bệnh cho cô Bác sĩ đã phát hiện ra những dấu hiệu cần điều trị gấp. Chính viên bác sĩ đã tận tụy chữa cho cô lành lặn. Và cũng từ đấy cô kiềm chế không để cho bọn sĩ quan Mỹ thuê cô làm đệm thịt. Lẽ ra Quý Nhân phải biết ơn ông ta, nhưng thái độ của Nhân làm cho cô nghi ngờ. Tại sao ông ta lại lâm nạn nhanh chóng và kỳ quặc như vậy? Cái tính lầm lì đã ngăn cản Lili đưa tờ báo cho chồng. Cô ngại nhắc lại chuyện viên bác sĩ sợ có thể làm chồng nổi nóng.

Cô dọn bữa sáng mời chồng đi ăn. Quý Nhân ngồi đối diện với vợ, tay cầm con dao ăn bóng loáng nhưng không để ý đến miếng bíp-tếch nóng hổi trên đĩa. Y nhìn thẳng vào mắt Lili:

- Khi anh đi vắng em đã mở cửa buồng làm việc của anh?

Lili im lặng ít phút, đầu hơi cúi xuống, dáng điệu lúng túng.

- Dạ.

- Em lấy đâu ra thìa khóa?

- Em vẫn có mà. Buồng nào cũng có một thìa dự trữ.

- Sao trước đây anh hỏi em không đưa cả cho anh?

… Lili không trả lời.

- Em không tin anh?

- Nhưng anh đâu có tin em? Em là vợ, là chủ căn nhà, là người nội trợ, em phải săn sóc anh, phải giữ gìn, quét dọn thì em mở cửa buồng đâu phải là tội lỗi.

- Nhưng anh đã dặn em là không mở. Khi anh có nhà anh đón em vào. Không có mặt anh thì tuyệt đối không mở.

- Đúng là có lần anh nói, nhưng em nghĩ là anh nói chơi thôi. Anh bảo là buồng thờ ma xó, là buồng của yêu tinh râu xanh. Em đâu có tin vào những chuyện trẻ con đó.

- Là cha con hay vợ chồng, mỗi người cũng còn có một mảnh trời riêng, một không gian biệt lập. Đó là cái tự do tuyệt đối mà không ai được phép xâm phạm.

- Em xin lỗi anh. Nhưng mấy bữa liền anh đi mà không cho em biết đi đâu. Em lo lắng quá. Em mở cửa buồng xem anh có viết chứ nào để lại cho em không. Em nghe nói nhiều người bí mật di tản bỏ cả vợ con ở lại...

- Thôi cô hãy dẹp nhưng chuyện lảnh nhảm đó đi. Cô định tìm gì trong phòng, cô hãy nói thực đi.

- …! – Lili im lặng.

- Nói đi! - Quý Nhân đập nắm tay xuống bàn, con dao ăn va vào thành đĩa làm nước sốt bắn tung toé.

Lili kinh ngạc trước thái độ đe dọa. Cô nhìn thẳng vào mặt tên "Yêu Tinh Râu Xanh” không một chút sợ hãi.

- Được rồi, tôi sẽ nói... Tôi muốn có một cuộc sống bình lặng, êm ấm. Giản dị thế thôi. Nhưng tôi thấy anh khác xa ngày mới cưới. Anh đang lao vào một cuộc đỏ đen mới mà tôi cảm thấy mối nguy hiểm. Nghĩa vụ làm vợ buộc tôi phải lo lắng, phải bảo vệ anh. Tôi không ngờ anh lại đập bàn với tôi. Nếu nhất nhất mọi thứ tôi đều phải im lặng thì tôi. Chỉ là đứa ở của anh, cái đệm thịt cho anh, chứ đâu còn là vợ nữa?

- Thời thế buộc chúng ta phải đối phó, phải sống có nguyên tắc. Nếu không khôn ngoan thì chúng sẽ giết ta.

Lili quăng tờ báo, chỉ vào những dòng chữ cáo phó:

- Bộ khôn ngoan như thế này sao?

Quý Nhân đọc qua, mặt y hơi biến sắc. Hắn dịu giọng:

- Chuyện này đâu có liên quan tới anh.

- Nếu không liên quan thì càng may mắn. Tôi cầu mong là tôi đã lo lắng một chuyện không đâu.

- Thôi từ nay anh chẳng chơi bời với ai nữa. Mình sẽ ở nhà. Bộ em tường anh bồ bịch với ai nên em ghen sao?

- Đâu có... Theo em thì anh không nên sống lẩn lút bất hợp pháp nữa. Anh ra trình diện đi cho rồi. Đành là mình đi cải tạo ít lâu còn hơn sống trong lo lắng. Em thấy nhiều vị được về rồi đó. Đại uý Sinh , thiếu tá quân cảnh Đẩu nè... Nghe nói cả tướng Giao cũng mới được tự do. Em sẽ chờ anh đến cái ngày tươi sáng đó.

- Bộ em điên rồi! Em định nộp anh cho Cộng sản sao?

- Em yêu anh, em thương anh. Em muốn cho anh hoàn toàn tự do không còn bị ai đe dọa nữa.

- Thôi được, dẹp chuyện đó lại. Dù sao thì anh cũng phải suy nghĩ cho kỹ nghe. Vừa rồi anh quá nóng, mong em tha lỗi cho anh.

- Đàn bà bao giờ cũng dễ tha thứ.

Sau cái bữa sáng đáng buồn hôm đó, Hoàng Quy Nhân cảm thấy quan hệ giữa y và Lili đang suy đồi đến mức nguy hiểm. Thực ra y đâu có yêu Lili. Y chỉ cần đóng kịch với con nhỏ để tìm chỗ giấu mình. Y đã đi một nước cờ sai lầm là định đe dọa để tìm kiếm sự phục tùng tuyệt đối. Nhưng không ngờ Lili lầm lì chẳng biết sợ là gì. Y đã rút ra bài học về uy lực trong bữa gặp Chín Hủi, nhưng y lại có ảo vọng đối với người vợ mà y coi là yếu đuối. Y vẫn chưa đánh giá đúng quyền lực của mình. Y đi đâu bây giờ? Có vài cơ sở nữa nhưng chẳng đáng tin cậy lắm. Ở đây mà cứ phát triển theo cái lô gích hiện tại thì chẳng mấy lúc con nhỏ sẽ nộp y cho chính quyền mất thôi. Hay cho Lili sớm về bên Chúa? Không được. Y không thể sống một mình ở đây mà thoát được cặp mắt của quần chúng. Cuối cùng y đã tìm ra một giải pháp mà y cho là tối ưu.

Đêm hôm đó y không đi chơi nữa. Y quấn quít bên cô vợ trẻ. Y biểu diễn tất cả thủ pháp của một kẻ si tình để lấy lại niềm tin cho Lili. Cô gái đã say sưa quá sớm cái chiến thắng dễ dàng của mình. Cô tưởng anh chồng hư đốn đã biết nghĩ nên không còn đề phòng gì nữa.

Sáng hôm sau tỉnh dậy Lili đã trở thành một con người khác. Cô bị nhiễm độc chất "Gamma 424". Đó là một chất độc thần kinh xóa nhòa quá khứ, "san bằng" những nếp nhăn trên vỏ não. Những động hình, con đường mòn của bộ nhớ bị đứt đoạn hủy hoại, nhưng nó vẫn giữ lại những bản năng như ăn uống, phản ứng tự vệ, sinh lý... Người bệnh không cảm thấy mình bị bệnh. Tu duy suy đồi, ngôn ngữ nghèo nàn. Bất cứ một hình thức nào tác động đến quá khứ của người bệnh, bộ óc lập tức phản ứng quyết liệt bằng sự gào thét hung dữ, cấu xé đối thủ. Lúc đó trạng thái điên rồ biểu hiện mạnh mẽ, rõ nét nhất.

Tuy nhiên chất "Gamma 424" không phá hủy được cấu trúc của bộ óc. Nó như một thứ thuốc màu quét lên tờ giấy in. Vài tuần sau chất màu phai nhạt thì nét chứ lại hiện ra, cho nên Hoàng Quý Nhân gọi chất độc thần kinh đó bằng cái tên thơ mộng: "Giấc ngủ của Hằng Nga".

Muốn để cho Lili hoạt động bình thương trong công việc hàng ngày, Quý Nhân luyện tập cho Lili, phục hồi lại bản năng và những thói quen cần thiết. Cô gái khốn khổ vẫn có thể đi chợ mua bán các thứ theo một thực đơn định sẵn. Vẫn giặt giũ, quét dọn nhà cửa cần mẫn như con chim gõ kiến. Vẫn giữ nhà như một con chó và báo động như một con vẹt. Khi tất cả năng lực của bộ óc chị dồn cho sự chỉ đạo bản năng thì bỗng nhiên một số hoạt động của người bệnh trội hẳn lên. Lili ăn uống rất khỏe. Làm việc giản đơn rất bền bỉ. Những đòi hỏi tình dục rất trơ trẽn theo đúng chu kỳ của giống cái. Tóm lại Lili đã trở thành một con vật một người máy theo đúng ý muốíl của con "Yêu Tinh Râu Xanh". Cái chất Gam ma 424 "kỳ diệu” đó đã là niềm kiêu hãnh của đồng tác giả Hoàng Quý Nhân và Nghiêm Bửu Châu. Chúng đã cao ngạo so sánh phát minh đó với tầm vóc của những công trình được trao giải Nobel về hóa học!

Lili lanh lợi, Lili lộng lẫy, Lili lịch lãm đã chết đi, chỉ còn lại một Lili lầm lì, làm lụng lam lũ. Một Lili lố lắng, lòe loẹt, lõa lồ, lầm lẫn...

Hai tuần một lần Hoàng Quý Nhân nhuộm lại bộ óc của Lili bằng một liều "giấc mộng Hằng Nga" mới và sau đó Lili tự chích cho mình rất đúng kỳ hạn như kẻ nghiện Héroinne. Thế là y có thể yên trí theo đuổi mục đích của mình không còn sợ Lili can ngăn nữa .

CHƯƠNG VI

CƯƠNG LĨNH CALI

Mùa hè là mùa của du lịch.

Hàng triệu du khách tràn về các thành phố miền Tây và miền Nam chan hòa ánh nắng. "Ngựa xe như nước áo quần như nêm". Các khách sạn lớn đều hết chỗ. Bãi tắm rừng cây chen chúc những người. Lều bạt, ôtô bên nhau san sát.

Nhưng có một số người từ châu Âu, châu Á, châu Đại Dương đến đây không phải để thưởng thức những ngày hè tươi đẹp, những phong cảnh kỳ thú... Họ tụ tập đến đây để ôn lại những thất bại đau đớn, để tìm hướng đi cho tương lai. Đó là những "đại biểu” của một số cộng đồng người Việt lưu vong, phần lớn chạy khỏi Việt Nam sau tháng 4 năm 1975. Gọi là đại biểu thì cũng chưa thật trọn nghĩa bởi vì có người thay mặt cho một nhóm, một tổ chức, một đảng, có người chỉ "đại biểu” cho cá nhân mình. Họ nhận được giấy mời từ mùa thu năm ngoái của ban trù bị. Một số được mời không đến, bù vào đó là một số không mời cũng xin đến. Tổng cộng khoảng hai trăm người. Nhìn ra thì không thấy vị tai to mặt lớn nào của chính quyền cũ. Những người này dại gì đem bộ mặt thất trận đến đây cho những người tranh ăn trước kia xỉ vả. Ông Thiệu thì không rõ địa chỉ ở đâu mà mời. Ông Kỳ còn bận kinh doanh. Ông Đôn đang bận viết hồi ký, ông Lắm cáo bịnh... Tóm lại các vị này nhờ những năm cầm quyền đã kiếm ăn to. Họ đã chuẩn bị cho mình một gia sản kếch xù để đủ sống phè phỡn dăm ba thế hệ, họ cần gì phải bận tâm đến thời cuộc nữa. Một số khác như Nguyễn Ngọc, Trần Kim... thực chất là tội phạm chiến tranh, họ phạm tội giết chóc, đánh đập, tra tấn quá nhiều người, họ cũng không muốn xuất đầu lộ diện. Giống như những tên Quốc xã sau chiến tranh, họ muốn mai danh ẩn tích. Biết đâu chẳng có một viên đạn nằm sẵn trong nòng súng chờ đợi họ. Điểm mặt thì phần lớn đại biểu là những kẻ đối lập trước đây, những kẻ mất ăn, còn cay cú, những kẻ ngu ngốc đầy ảo vọng, những kẻ háo danh và nhẹ dạ, những tay ma cô và phù thủy chính trị... Tuy tuổi họ cũng chẳng trẻ gì nhưng cứ tạm gọi là đội hình mới của mặt trận phản quốc.

Đã là liên minh, là mặt trận thì phải có tiếng nói, có công cụ tuyên truyền thông tin, trao đổi, giáo dục, v.v... Vì vậy phải ra một tờ báo. Ban trù bị đã đề cử luật sư Bùi Hạnh lo cho việc này. Nhờ có anh tôi giới thiệu, tôi đã xin được chân phóng viên cho tờ "Chim Việt". Ban trù bị quyết định phải ra số đầu vào dịp cuộc hội thảo khai mạc. Vì vậy tôi được phép tìm gặp phỏng vấn, quay phim, chụp ảnh các đại biểu. Họ được ban trù bị đón tiếp long trọng ở khách sạn Hilton.

Ở đây tôi được gặp lại tướng Tùng Lâm. Anh ôm chầm lấy tôi và tôi cảm thấy ngay cái mùi phấn son quen thuộc.

- Rất vui miệng được gặp lại anh! Bây giờ anh ở đâu?

- Ở Westland, ở tiền tuyến?

- Ôi thật kỳ. Anh đã nhập cư vào Mỹ rồi kia mà?

Anh kéo tôi ra chỗ vắng thì thầm.

- Mình đã nhập cư vào Mỹ. Nhưng sau đó mình hỏi tin tức gia đình thì được biết vợ con vẫn kẹt trong trại tị nạn ở Westland. Mình phải nhờ mấy tay có thế lực giúp đỡ để đưa sang đây. Hôm mình bay sang Voca City để lo công chuyện này thì gặp lại Bảy Dĩ ở khách sạn. Anh ta hỏi mình “Có muốn làm việc với Warrens không?". Mình hỏi "việc gì?". Dĩ bảo "huấn luyện quân sự cho lính". "Ô việc huấn luyện là nghề nghiệp của tôi" - "Thế thì tướng quân ở lại đây luôn. Trời, ở đây đã lắm. Sang Mỹ chắc gì đã kiếm nổi việc". Đúng vậy mình chẳng biết làm gì ngoài nghề đánh nhau. Nhưng mình cẩn thận hỏi lại "chỉ huấn luyện thôi chứ?" - "Hợp đồng này chỉ có huấn luyện. Muốn chiến đấu ký hợp đồng sau".

“Lương tháng bao nhiêu?" - "Năm trám đô-la" - "Đồng ý. Năm trăm đô-la một tháng là mình yên tâm rồi". Ở đây nhiều gái làng chơi lắm. Thế là mình ký luôn với Dĩ, người đại diện của Warrens, một hợp đồng mười tám tháng. Mình được đưa về chỉ huy mật cứ Béta ở Pandon.

- Mật cứ Béta?

- Nói cho quan trọng chứ thực ra chí là một trại lính nhỏ trong một cánh rừng cách thị trấn Pandon bốn kilômét về phía Đông. Hết giờ làm việc có thể về Pandon giải trí xả láng. Il y a beancoup de files pour le soir1 (Đấy có rất nhiều gái làng chơi). Hiền đệ có muốn sang đó với mình không? Nói chơi vậy thôi chứ đây đâu có thiếu. Với bọn gái da trắng giá cả có lẽ mắc hơn! – Tùng Lâm cười nói rất cởi mở.

- Hiện nay tôi làm cho báo Chim Việt. Thế nào tôi cũng bay sang bên ấy để viết về các trại tị nạn. Tôi sẽ đến thăm anh.

- Thiệt chứ! Mình mong đó - Tùng Lâm bá chặt vai tôi rất nhiệt tình - Đúng là tình bạn sanh tử suốt từ năm 60 nhỉ. Mình vẫn nhớ cuộc hành quân Khủng Long chó đẻ. Dù sao thì vẫn là những năm tháng không thể quên được.

- Anh có gặp bạn bè nào bên ấy không?

- Mình ở vùng hẻo lánh, ít về thành phố nên không gặp ai. A có Trương Tấn Hào, anh bạn lái thuyền vượt biển cho bọn ta đó. Hào cũng ký một hợp đồng huấn luyện hải thuyền với Warrens. Thằng cha hiền khô, chẳng bồ bịch chi, mặt lúc nào cũng "đưa ma", thương vợ, nhớ con suốt. Hào ở cách bọn mình có hai chục kilômét, gần ợt. Hôm nào toa sang, chúng mình sẽ đến chơi.

- Dạ, - Tôi chuyển sang đề tài khác - Anh là đại biểu của kiều bào ở Westland à?

- Đại biểu mẹ gì! Có ai bầu mình đâu mà kêu là đại biểu. Ha ha! Bảy Dĩ bảo mình đi đến diễn đàn này chửi cho mấy ông giàu có một trận về cái tội bỏ bạn bè sống no béo ở Mỹ... Mình cứ đi đại thôi chứ từ xưa có đăng đàn diễn thuyết bao giờ. Chỉ có uýnh và uýnh hoài thôi! Quan trọng là Warrens tài trợ cho chuyến đi, nên mình có dịp về thăm má con nó vài bữa.

Tôi mời Tùng Lâm đến nhà chơi. Anh hẹn sau hội thảo sẽ đến. Anh Ân tôi cũng có may mắn gặp lại Mlle Eugénie Mộng Vân, người tình, người bạn chính trị thời xa xưa.

Khi Pháp ra đi, chị Mộng Vân bị chính quyền Diệm trục xuất vì coi chị là phần tử thân Pháp, là mật vụ của tướng Hình, là nhân viên của 2B của DGSE, của MI.51 (Phòng Nhì, cơ quan An ninh đối ngoại Pháp, cơ quan tình báo Anh) là người phụ nữ nguy hiểm. Thế là chị phải sống lưu vong. Từ đó anh tôi không có một liên hệ nào với người đàn bà vang bóng một thời này nữa. Hôm nay gặp nhau ở đây, hai mái đầu đã điểm bạc. Họ bắt tay nhau xúc động. Anh tôi mời chị về nhà chơi, chị nhận lời ngay. Qua Mlle Mộng Vân, anh tôi làm quen với giáo sư Vũ Quốc Anh đại biểu của Cộng đồng tị nạn ở Canberra, với nhà kinh doanh Hoàng Đình Thân đại biểu của một nhóm chính khách lưu vong ở Anh quốc. Rồi từ ông Thân, anh tôi biết luật sư Huỳnh Bá Kiên đại biểu Việt kiều ở Tây Đức. Cứ như thế, bà Claudine Phương Mai đại biểu nhóm Brucxelle, thương gia Đinh Xuân Lễ thay mặt cho làng Việt kiều ở Toulon, bà Diễm Châu ở Toronto kéo đến tay bắt mặt mừng như những người thân lâu ngày gặp lại. Họ từ khắp nơi trên mặt đất hội tụ đến đây nhân danh những người vong quốc!

Đúng tám giờ sáng ngày 20 tháng 7 năm 1977 cuộc hội thảo bắt đầu. Cụ Hoàng Cơ Bảo long trọng đọc lời khai mạc. Một trám sáu mươi chín đại biểu. Ba trăm mười lăm người dự thính gồm phần lớn những kẻ vô công rồi nghề, một số nhà báo người Việt và ngoại quốc. Tiếng vỗ tay ào ào khi giới thiệu các đoàn đại biểu từ khắp các châu lục về Cali để dự “Hội nghị Diên Hồng" của thời đại mưu cầu nghiệp lớn.

Các bản tham luận đều có xu hướng đổ lỗi cho các chế độ độc tài từ Diệm đến Thiệu luôn luôn chia rẽ khối cộng đồng dân tộc, làm suy yếu tinh thần và sức mạnh chống Cộng. Họ chửi bới Thiệu đã lì lợm độc tài, rẻ rúng người hiền, khinh khi nghĩa sĩ để phút chốc tan tành nghiệp lớn! Họ cũng oán Mỹ mang con bỏ chợ, phản bội bạn bè. Một số chê Mỹ là không biết điều khiển chiến tranh, vừa đánh vừa run, bộc lộ quá rõ vai trò xâm lược để cho Cộng sản cao rao chính nghĩa dân tộc, đánh lừa dân chúng, mê hoặc dư luận năm châu...

Hội nghị bỗng xôn xao khi thấy cụ Bảo dắt tay một người to lớn lên diễn đàn. Ông chủ tịch trang trọng giới thiệu:

- "… Tướng Tùng Lâm, người anh hùng trên phòng tuyến sông Đan Li, người chiến đần đến viên đạn cuối cùng mới chịu để Cộng sản bắt sống. Người vượt ngục, cướp xe của Cộng sản rồi vượt biển ra đi, đã đến được diễn đàn này với chúng ta!...".

Hội nghị vỗ tay như pháo. Tùng Lâm giơ tay chào kiểu nhà binh rồi lại cúi rạp như vái về ba phía. Đợi mọi người im lặng anh mới bắt đầu đọc bài diễn văn.

- Thưa quý bà, thưa quý ông, thưa quý anh em. Lời giới thiệu của ngài Chủ tịch làm tôi vô cùng xúc động. Là một quân nhân, tôi đến đây với tư cách đại diện cho các chiến hữu của tôi, từ các tướng lĩnh đến người lính vừa nhập cuộc ở chiến trường. Đồng thời cũng thay mặt cho hàng vạn sĩ quan hiện đang bị giam giữ trong ngục tù Cộng sản. Cuộc chiến tưởng như đã chấm dứt cách đây ba năm, thực ra nó vẫn đang tiếp diễn. Hàng ngàn chiến hữu chúng tôi vẫn hàng ngày đổ máu cho đại nghĩa dân tộc. Vừa rồi nhiều đại biểu tham luận đã đổ lỗi cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa quá hèn nhát nên nhanh chóng tan rã trước áp lực chưa có gì là mạnh lắm của Cộng quân. Sự thất bại cuối cùng là cái cớ để quý vị tha hồ giễu cợt tha hồ bêu xấu hàng triệt sinh linh đã bỏ mình cho sự giàu có của quý vị. Nói cho cùng thì chúng tôi cũng chỉ như con tốt trên bàn cờ chiến lược. Thảm bại cuối cùng chính là do sự tan rã của kiến trúc thượng tầng. Các chính khách phải chịu trách nhiệm. Họ đã tranh giành quyền lực, xâu xé nội tình đất nước. Đến khi tiền tuyến gặp khó khăn thì quý vị chuồn trước, quý vị ra đi trong trật tự vì quý vị đã đầy túi đã chuyển hết tiền bạc qua các ngân hàng châu Âu và Bắc Mỹ, để mặc chúng tôi sống chết với Cộng sản (có tiếng xì xào kinh ngạc, tiếng huýt sáo và cả tiếng vỗ tay lộp bộp). Cộng sản đã chiếm được Nam Việt, nhưng chúng tôi đâu có tuyệt vọng. Hàng ngàn chiến hữu của chúng tôi văn chưa buông tay súng. Hàng ngàn người khác còn nằm gai nếm mật, mưu kế phục thù. Hàng vạn sĩ quan tài năng kiêu hùng vẫn còn bị giam trong các trại cải tạo. Các vị oán trách nước Mỹ đã đem con bỏ chợ, nhưng thử hỏi có ai trong quý vị chịu bỏ ra một đồng xu nhỏ để cứu vớt gia đình họ trong các trại tị nạn?... Chuyện cũ chẳng nên nói nhiều. Nói bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu. Ở cuộc hội thảo này, chúng ta cần phải tìm ra một tiếng nói chung giữa những người tiến hành cuộc tranh đấu đến cùng nơi quốc nội với những người có may mắn hơn được sống tự do nơi quốc ngoại. Chúng ta phải quên đi những thảm bại đau thương để lo tính cho tương lai quốc gia, dân tộc. Khi ai đó chỉ còn biết khóc thương cho quá khứ xa xưa thì ở đây ta phải mưu tính cho tương lai sắp tới. Sự liên minh giữa các cộng đồng người Việt tự do sẽ cho phép ta có đủ sức mạnh để xoay chuyển tình thế. Cộng sản đã chiếm được Nam Việt nhưng họ đâu có mạnh. Họ chưa có kinh nghiệm quản lý một đất nước trên năm mươi triệu dân. Những khó khăn về kinh tế hiện nay đang biến thành những phân hóa chánh trị gay gắt làm thay đổi lòng dân. Những người quá tin Cộng sản trước đây đang vỡ mộng. Họ phải đi tìm một niềm tin mới. Thay mặt những người quốc nội, những người ngoài tiền tuyến, tôi kêu gọi sự đóng góp tài lực của quý vị, của đồng bào hải ngoại. Chúng tôi sẽ tạo nên một cao trào vũ trang tranh đấu mới ngay trên đất nước thân yêu của chúng ta.

(Tiếng vỗ tay vang lên dữ dội làm cho Tùng Lâm phải ngừng lại chắp tay vái bốn phương để tỏ lòng biết ơn)

- Là người lính tôi không quen nói nhiều. Chúng ta sẽ tận tâm tận lực phục vụ cho sự nghiệp cao thượng của chúng ta!

Đám cử tọa được kích thích mạnh mẽ, tiếng vỗ tay, tiếng hò reo sôi sục. Tướng Tùng Lâm bước khỏi diễn đàn đã có hàng chục người ùa lên bắt tay, công kênh anh ta lên. Đám thanh niên thau tháu ngồi dự thính hò hét inh ỏi "Tùng Lâm! Tùng Lâm!" y như trò cổ vũ ngoài sân banh. Trong khi mọi người ồn ào nhu vỡ chợ thì nữ sĩ Mộng Vân len lên diễn đàn. Chị rung chuông lấy lại trật tự, cướp cả quyền điều khiển của Chủ tịch. Bị phấn khích mạnh mẽ, Mộng Vân không thèm chờ theo thứ tự của chương trình đã xếp đặt. Chị diễn thuyết luôn. Cụ Bảo và anh Ân tôi trố mắt ngạc nhiên nhưng cũng không dám ngán cản. Dù sao cũng phải giữ cái tình bạn bè, đồng đảng cũ.

- Thưa quý vị, thưa quý anh chị em! - Người đàn bà xinh đẹp đã luống tuổi nhưng biết che giấu cái lỡ thời bằng son phấn mỉm cười duyên dáng với thính giả - Tôi vô cùng cảm kích trước lời kêu gọi của tướng Tùng Lâm. Nhưng tôi cũng vẫn thấy cần phải nói đến quá khứ, đến nỗi nhục thua trận. Suốt ba mươi năm chiến tranh với Cộng sản, chúng ta cứ thua liên tiếp hết trận này đến trận khác, hết năm này đến năm khác. Chúng ta đâu có thua kém về binh khí tối tân, về quân đông, tướng đủ. Chúng ta lại được những cường quốc tự do hùng mạnh nhất giúp đỡ tiền bạc, vũ khí, xương máu, thế mà thua vẫn hoàn thua? Tại sao vậy? Nếu ta chưa trả lời được câu hỏi này thì dù ta có tiếp tục hy sinh chiến đấu cũng trở thành dã tràng xe cát! Theo tôi nghĩ, các nhà lãnh đạo trước đây của chúng ta đã quá dựa vào ngoại bang. Đã biến chủ thể quốc gia thành tay sai đế quốc. Biến cuộc nội chiến ý thức hệ thành chiến tranh xâm lược. Biến các chiến sĩ "thập tự chinh" của thế giới tự do thành những tên thực dân giết người man rợ. Thế là ngay từ đầu chúng ta đã để mất lá cờ chánh nghĩa vào tay cộng sản. Họ đã nắm được cái bửu bối thiêng liêng nhất của lịch sử để đánh bại chúng ta. Tôi nhớ có lần tướng Kỳ mơ ước có được một Điện Biên Phủ đảo ngược. Tất cả chúng ta đều thèm khát một chiến thắng vĩ đại như vậy. Nhưng mưốn có một Điện Biên Phủ đảo ngược thì trước hết chúng ta cần có một tướng Giáp đảo ngược, một Che Guevara đảo ngược, một con tàu Grânm đảo ngược. Trong đội ngũ chúng ta ở đây liệu có ai dám tự chứng minh là mình đang muốn có được tầm cỡ ấy? Chỉ muốn thôi? (Có tiếng xì xào và tiếng cười rộ lên) Sao quý vị lại cười? Sao quý vị lại không nói gì? Chúng ta không thể chỉ hội thảo để than thở cho những bất hạnh. Chúng ta đi nửa vòng quả đất tới đây gặp nhau không phải để than thở mà là tìm ra cách thức hành động. Có nhiều vị nghĩ được ra cái từ thành lập chính phủ lưu vong? Riêng tôi, tôi chán ngấy cái trò ấy rồi. Ở Pháp hai mươi năm tôi đã từng thấy hàng tá chính phủ lưu vong nghỉ trọ ở đây. Họ thuê những căn phòng sang trọng trong các khách sạn. Họ tiệc tùng hội họp, nhưng cuối cùng họ cũng chỉ là những hội đồng chuột, suốt năm tháng gặm nhấm niềm hy vọng của những người nhẹ dạ mà sống. Không một ai trong lũ chuột ấy dám mang cái chuông đến buộc vào cổ mèo đâu. Tôi không muốn quý vị, những người đáng kính ngồi ở đây biến thành một đàn chuột! (tiếng cười ồ, tiếng xì xào và cả tiếng huýt gió). Tôi kêu gọi quý vị hãy trở về Tổ Quốc tham gia cuộc chiến đấu. Chúng ta căm ghét chủ thuyết Cộng sản, nhưng chúng ta phải học phương pháp cách mạng của Cộng sản. Chúng ta phải dám ngồi trên con tàn Granma! Vị Chủ tịch họ Mao nói "Ngọn lửa nhỏ đủ đốt cháy cánh đồng". Chúng ta không sợ lực lượng ban đầu nhỏ bé mà chỉ sợ ý chí của chúng ta thấp hèn không mang nổi hoài vọng cao cả!

Tiếng cười và tiếng vỗ tay vang lên. Cụ Hoàng Cơ Bảo có vẻ không thích thú gì chủ trương quá khích này. Cụ đang muốn thành lập chính phủ lưu vong để có cơ sở pháp lý đi xin viện trợ của các nước đế quốc. Cụ lắc chuông giữ lại trật tự cũng để kìm lại bầu nhiệt huyết cuồng loạn của đám trẻ.

- Thưa quý vị? - Mộng Vân nói tiếp - Chắc nhiều đại biểu đáng kính sẽ nghĩ "Nếu chúng tôi là chuột đực thì chị cũng chẳng hơn gì con chuột cái!" (Cả hội trường cuời vui vẻ). Không, thưa quý vị, tôi không muốn là con chuột cái. Tôi cũng không phải là phù thủy xui dại âm binh nhảy vào giàn lửa. Tôi sẽ trở về Tổ Quốc cùng chiến đấu với đạo quân của tướng Tùng Lâm? (Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò ầm ĩ. Tùng Lâm tiến lên diễn đàn bắt tay Mộng Vân và cúi xuống hôn tay người đàn bà này với một cử chỉ rất kính trọng). Có vị nào muốn đi với tôi không? (Một số hét lên "tôi", "tôi'" và tiếng reo hò cuồng nhiệt như đám Hồng Vệ binh trước Thiên An Môn! Cụ Bảo tái mặt vì xu thế hội thảo đi theo chiều hướng không kiểm soát nổi) - Không phải tất cả chúng ta đây đều trở về Tổ Quốc. Nhiều vị quá già rồi không thể ra mặt trận. Các vị không thể buộc chuông vào cổ mèo, nhưng các vị có đủ sức mở rộng cái miệng hầu bao ra ủng hộ cho những người chiến đấu. Các vị có thể keo kiệt từng giọt máu, nhưng xin quý vị vui lòng dốc những đồng đô-la lẻ vào Quỹ Cứu nguy dân tộc... Tôi muốn trở thành một chiến sĩ chống Cộng kiến mới có thể tôi sẽ không sống cho đến lúc niềm vui của tôi thành đạt. Nhưng tôi không một chút ân hận vì một trong những hoài vọng lớn lao của tôi là được gửi nắm xương tàn nơi cố quốc!

Tiếng vỗ tay vang lên hồi lâu. Đến lượt cụ Bảo lên diễn thuyết nhưng theo kinh nghiệm lâu năng ở nghị trường, cụ thấy lên diễn đàn lúc này bất lợi. Tùng Lâm và Mộng Vân vừa được hoan nghênh dữ dội như vậy mà bài tham luận của cụ phải thua kém thì sẽ ảnh hưởng tới vị trí của cụ trong việc bầu bán sau này. Cụ liền đẩy luật sư Phan Quang Ân lên diễn đàn trước. Anh tôi lên diễn đàn với một vẻ mặt bình thản:

- Thưa quý đại biểu! Theo thiển kiến của tôi, cuộc hội thảo hôm nay có một mục đích cao cả là hướng tất cả cộng đồng người Việt ở quốc ngoại về quê cha đất tổ. Nhưng cái quan niệm hướng về của chúng ta ở đây rõ ràng không đồng nhất. Dân tộc ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh liên miên ba chục năm. Những người Cộng sản thắng, còn chúng ta bại trận. Chúng ta là những người tự do, chúng ta đau lòng. Nhưng chúng ta là những người tôn thờ lý tưởng dân chủ, chúng ta phải chấp nhận thực tế đó. Chúng ta thừa nhận Cộng sản thắng vì họ nắm được ngọn cờ đại nghĩa, họ được đa số quốc dân ủng hộ, thế thì tại sao chúng ta lại không tôn trọng sự lựa chọn của đa số? Nếu chế độ hiện nay ngày càng mất lòng tin thì chỉ có những người theo nó mới có quyền phán quyết nó bằng lá phiếu của họ, chứ không phải chúng ta, những người tử thử của họ trước đây nói thay lời họ (có tiếng xì xào, tiếng la ó giận dữ, anh tôi phải ngừng lại vài phút mới tiếp tục được). Tôi và quý vị, chúng ta không yêu thích gì chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta đã ra đi, chúng ta đã bỏ phiếu bằng đôi chân rồi. Chúng ta phải tôn trọng ý chí của quốc dân, của đa số, của những người ở lại. Nếu chúng ta là người yêu nước, chúng ta còn nghĩ đến đồng bào ruột thịt của mình thì trên diễn đàn này chúng ta kêu gọi cộng đồng người Việt hải ngoại thuộc mọi xu hướng chính trị hãy đóng góp công của của mình gửi về giúp đất nước khôi phục lại đời sống bình thường, ngõ hầu kiến tạo nên một nước Việt Nam hùng hậu ở vùng Đông Nam Á. Nếu quý vị không ưa chính quyền đương thời thì quý vị cứ để họ tự lo lấy công việc của họ. Tùng Lâmnói hiện nay cưộc chiến vẫn còn tiếp diễn, nhưng tôi nghĩ rằng đó chỉ là một vài cuộc manh động lẻ tẻ. Hòa bình là tuyệt đối. Hai mươi vạn quân Pháp, năm mươi vạn quân Mỹ đã không làm thay đổi được tình hình thì vài tiếng súng bắn lén đó có gì đáng khích lệ. Bất cứ một hành động nào muốn nhóm lại ngọn lửa chiến tranh đều là vô vọng, đều là tội ác đối với đất nước. (Tiếng la ó, huýt gió dữ dội. Có tiếng hét "im đi", "luận điệu Cộng sản". Nhưng anh tôi không rút lui. Chờ cho những giọng điệu khiêu khích giảm bớt, anh lại nói tiếp). Những lời tướng Tùng Lâm và chị Mộng Vân nói có gì mới mẻ đâu. Các chiến lược gia bại trận đều cũng đã nói mãi rồi. Bây giờ tôi nói ngược lại thì quý vị lạ tai, quý vị la ó, nhưng tiếc rằng đó lại là chân lý. Hiểu ra chân lý này tôi cũng đã trải qua biệt bao nhiêu sai lầm, thất bại bi thảm. Nếu quý vị coi những lời tôi nói là luận điệu Cộng sản, quý vị phản đối, thì làm sao quý vị có thể học tập nổi phương pháp cách mạng của họ để chống lại họ...

Anh tôi bước khỏi diễn đàn. Có vài chục người đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt. Trong số đó tôi nhận ra bà Claudine Phương Mai, Việt kiều ở Bỉ. Tôi không ngờ anh tôi lại có thể nói được những lời như vậy. Tôi cảm động đến rơi nước mắt vì vui sướng. Đây là một bước ngoặt lớn trọng tâm hồn anh tôi. Nó hoàn toàn tự giác không cần đến một sự tuyên truyền lôi kéo nào. Cả chân lý và thực tiễn mạnh mẽ mới đủ sức lay động bộ óc ấy. Nhưng một khi đã lay động, nó sẽ chuyển biến một cách quyết liệt, không gì cưỡng nổi.

Một người trẻ tuổi trong nhóm những người tự nhận là đại biểu cho Việt kiều ở Australia nhảy lên diễn đàn. Y gào thét:

- Không thể như thế được. Không thể chấp nhận chủ thuyết đầu hàng Cộng sản. Một chế độ độc tài một chế độ ngục tù không thể tượng trưng cho Tổ Quốc của chúng ta được. Nếu anh em chúng tôi chưa có điều kiện về nước thì chúng tôi vẫn chiến đấu bên cạnh đội quân của tướng Tùng Lâm. Chúng tôi sẽ đánh bom vào các sứ quán của Việt cộng. Chúng tôi sẽ bắt cóc các nhân viên ngoại giao, các đoàn vàn hóa của chúng để đổi lấy những người bị giam. Chúng tôi sẽ kêu gọi tẩy chay Việt cộng ở các diễn đàn quốc tế. Và chúng tôi sẽ xử tội những kẻ nào có liên hệ chính thức với Hà Nội...

Tên khủng bố tuôn ra một tràng những biện pháp tội ác. Nó tưởng được mọi người hoan nghênh. Nó nói như gào thét, mép sùi bọt. Một người nào đó hét lên “im đi", “đủ rồi"... làm cho nó giận dữ, đảo mắt tìm kiếm. Nhưng một chuỗi cười chế giễu vang lên làm nó cụt hứng. Nó lùi lũi bỏ về chỗ ngồi.

Đến như cụ Bảo cũng không nuốt nổi cái luận điệu này. Vị chủ tịch đứng lên tuyên bố.

- Ở cuộc hội thảo hôm nay chúng ta không bàn tới phương sách khủng bố vì nó bị các nước văn minh lên án. Hành hung các nhân viên ngoại giao, phá phách các sứ quán là vi phạm luật pháp của nước chúng ta cư trú. Chúng ta không nhắc lại chủ trương đó ở đây...

Nhiều vị khác tham luận đã đồng ý kiến với anh tôi, nhưng những phần tử phục thù vẫn chiếm ưu thế. Cụ Hoàng Cơ Bảo đã cố gắng hàn gắn những bất đồng, dung hòa các ý kiến đối lập để có thể thông qua một cương lĩnh theo ý mình. Anh tôi đã bỏ cuộc hội thảo ra về. Anh không muốn dính vào một âm mưu nhơ bẩn.

Cương lĩnh Cali đã được thông qua với một đa số áp đảo.

Họ coi Liên minh Việt kiều Hải ngoại là một tổ chức độc tôn của những người Việt lưu vong. Là một nhân tố song song với Mặt trận tự do quốc nội đấu tranh nhằm đánh đổ ách thống trị cộng sản để xây dựng một quốc gia Việt Nam mới. Mục tiêu trước mắt là đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Đòi Hà Nội cho những người di tản ra đi trong trật tự. Đòi tự do cho tù chính trị, cho tù binh. Chúng kêu gọi cộng đồng quốc tế gây sức ép mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, ngoại giao với Hà Nội và hậu thuẫn cho Liên minh về tinh thần, vật chất nhằm thành đạt những mục tiêu trên. Chúng còn thông qua lời tâm quyết gửi đồng bào quốc nội bằng giọng điệu vừa đạo đức giả vừa khiêu khích. Chúng cử đại biểu đến trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York để trao yêu sách cho Uỷ ban Nhân quyền, cho cao ủy những người tị nạn... thúc đẩy sự can thiệp, gây rối và bôi nhọ tình hình nội bộ Việt Nam.

Ban lãnh đạo được bầu ra và cụ Hoàng Cơ Bảo hả hê kiếm được ghế chủ tịch của Liên minh.

Tôi đã viết các bài tường thuật cuộc hội thảo trên tờ Chim Việt. Là chiến sĩ tình báo, ngoài việc tìm biết những âm mưu của kẻ thù, tôi thấy mình cần phải hạn chế ngay trong trứng những nọc độc tư tưởng của bọn phục thù. Tuy phải giữ kín quan điểm tư tưởng của mình nhưng tôi vẫn phải phản ánh sao cho quần chúng thấy rõ tính chất phiêu lưu độc ác của bọn người này đang cố dẫn dắt những người Việt lưu vong vào một mê cung mới thông qua chính những lời nói của họ trên diễn đàn.

Sau khi hội thảo bế mạc, tôi mời Tùng Lâm đến nhà chơi. Tôi hỏi anh:

- Anh định tiến hành cuộc đổ bộ vào Việt Nam đó sao?

- Ai nói kỳ vậy! Ra thoát là may rồi đâu tính đến chuyện vô!

- Sao bài diễn văn của anh hùng hồn thế?

- Đâu phải của mình. Mình có viết mẹ gì đâu. Cha Bảy Dĩ viết sẵn, chi cho mình một ngàn đô-la. Mình chỉ là cái loa của ổng. Mình đâu ngờ được hoan nghênh dữ vậy!

- Anh đã tự hại mình rồi đấy. Có đánh nữa thì chúng lại xui bọn ta thôi, chứ chúng đâu có dám buộc chuông vào cổ mèo! Lần sau nó chi hai ngàn đô-la buộc anh chỉ huy một cuộc đổ bộ, anh chịu chứ?

- Xin xá ông nội cả nón thôi. Đủ rồi. Mình mới ký có một hợp đồng huấn luyện cho bốn mươi lính biệt kích thôi.

- Lính Westland?

- Không, lính Việt chớ. Chúng tuyển từ trong các trại tị nạn.

- Tư lệnh sư đoàn mà chỉ huấn luyện có bốn mươi lính thì ngon quá.

- Ớn lắm hiền đệ ơi. Mình đâu có dạy những giáo lịnh xưa. Toàn huấn luyện cách đánh du kích kiểu Trung Quốc. Mình chưa xài quen thứ này. Đại loại có các khoa: ám sát, bắt cóc, đầu độc, đốt nhà của kho tàng. Đặt mìn phá đường sắt, cầu cống, xe cộ. Cướp máy bay, tàu thủy... Thấy mình lo ngại, Bảy Dĩ khích lệ mình: - Tướng quân yên tâm. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc sẽ giúp ngài. Nhưng chưa thấy vị nào đến.

- Huấn luyện tác chiến ở địa hình nào?

- Tác chiến ở đồng bằng nông thôn và thành thị là chính. Nhưng cũng phải biết xây dựng mật cứ trong rừng.

Qua câu chuyện riêng tư tôi cũng hiểu Tùng Lâm thêm. Thực tình anh cũng chỉ vì sinh kế mà dấn thân thôi. Bằng những hợp đồng ngắn hạn anh cố giữ cho mình một khoảng cách an toàn, một đường rút lui khi cần thiết. Anh đâu phải là người "anh hùng mẫu mực" như bọn phục thù mong đợi. Nhưng liệu anh có đủ khôn ngoan để khỏi bị buộc chặt vào cái bộ máy quân sự do CIA điều khiển không thì tương lai mới có thể trả lời được.

Mlle Eugénie Mộng Vân lưu lại chơi ở nhà chúng tôi một tuần. Hai người bạn đối lập chính kiến trên diễn đàn lại vui vẻ nâng cốc lâm li chúc tụng nhau trên bàn tiệc. Anh tôi và Mộng Vân hoàn toàn không đả động gì đến chuyện chính trị nữa. Họ coi sự bất đồng ở cuộc hội thảo chỉ là một màn kịch. Trong cuộc sống họ vẫn giữ những kỷ niệm của tình bạn cũ. Tôi mới quen chị lần đầu nên chẳng tiện khêu gợi những vấn đề tế nhị đó. Ở người đàn bà này chắc còn nhiều chuyện ly kỳ cuốn hút tính tò mò của tôi.

Bạch Kim thì chẳng có gì phải giữ ý với chị. Kim quen chị từ ngày còn là cô học sinh bé nhỏ. Là khách, là bạn của anh nên cô phải tiếp chị rất thân tình. Những ngày lưu lại, hai chị em ở liền buồng có cửa thông nên suốt ngày họ chuyện trò.

- Em thích nước Pháp lắm. Năm ngoái em sang đấy có năm tháng để thu xếp chút việc với nhà băng thôi, thế mà em cứ muốn ở đấy mãi. Gía như anh chị Ân em không mua nhà ở đây thì có lẽ em đã xin nhập cư vĩnh viễn ở Dinan.

- Chị đã chán ngấy nước Pháp rồi. Chán đến buồn nôn?

- Trời ơi! - Bạch Kim kinh ngạc - Trước kia em thấy chị yêu Hugo, Verlaine, yêu anh Fournier lắm kia mà?

- Cả đến mấy vị ấy cũng làm cho chị chán ngắt. Ai mà chịu được cái ông thánh sống Hugo. Bây giờ người ta không buồn hiểu Verlaine. Còn tình yêu trong Grand Meaumes không tác động chút nào tới niềm hứng khởi của chị nữa rồi.

- Chị là con người của thi ca kia mà. Em đã đọc cuốn La commète de  Médicis chị viết năm 1958, em nghĩ nếu cứ theo con đường ấy sẽ có lúc chị được nhận Prix Goncòrt1 (Một giải thưởng văn học lớn ở Pháp).

- Khi còn trẻ thì đúng là như vậy. Chị yêu quá sớm để rồi chết quá sớm đúng như người ta thường nói "Yêu là chết ở trong lòng một ít". Vào tuổi hai mươi cho tới nay chị chẳng còn yêu ai nữa.

- Chị kỳ dị thật. Chị sống độc thân mà không thấy buồn sao?

- Cái tên George Bernard đã dạy chị nhiều điều chị coi là thánh thi. Khi hiểu ra thằng ma cô đó nói láo thì mình đã già rồi. Tuổi trẻ ích kỷ, khi già cô đơn, lẽ thường là như vậy.

- Em nghĩ rằng dù sống độc thân mà tìm ra được một công việc để say mê thì cũng đỡ buồn chứ?

- Ồ, chị say mê nhiều lắm chứ. Yêu văn học, say đàn ông, rồi mê làm thám tử. Chị cộng tác với 2 ème Bureau sau đó là DGSE mấy chục năm. Chị bỗng ham mê kinh doanh và đã cóp nhặt được một tài sản khá lởn. Cách làu ăn của mafiaA kích thích tham vọng của chị mạnh mẽ. Chị quyết định đưa toàn bộ tài sản góp cổ phần cho một connection d’optium2 (Đường dây buôn lậu thuốc phiện) lừng danh ở châu Âu. Nhưng Rossino đã phản bội chị. Nước Pháp đã tước đoạt toàn bộ tài sản của chị vì món hàng bất hợp pháp này. May mà chị được miễn tố trước tòa. Chị toan tự tử nhưng Kim Dung đã cứu chị.

- Kim Dung là ai?

- Là tác giả của những truyện chưởng của Tàu. Chị bỗng tin vào sự màu nhiệm của một hành động phiêu lưu nào đó. Chị quyết định đến Mỹ để thay đổi cái môi trường già cỗi của châu Âu. Tình cờ chị gặp lại cụ Bảo. Cụ giúi cho chị một tờ giấy mời. Thế là nghiễm nhiên chị trở thành một đại biểu Việt kiều ở Pháp. Cụ Bảo khuyên chị nên quay lại nghề cũ, một cuộc kinh doanh không phải góp cổ phần, không cần một đồng xu vốn liếng. Đó là kinh doanh máu!

- Chị nói em khó hiểu quá.

- Nói khác đi là kinh doanh chính trị! Phần lớn các chính khách đều biết là đổ bộ vài trăm tên biệt kích vào Việt Nam lúc này là phiêu lưu và vô vọng. Nhưng nó vẫn cứ làm vì nó đang là một thực đơn cao giá cho chủ trương làm mất ổn định, làm suy yếu Việt Nam của một trục quân sự mới đang hình thành. Muốn sản xuất món hàng này họ phải mở tiệm, phải thành lập Liên minh, phải quảng cáo. Họ đâu có chịu chui đầu vào cái thòng lòng. Sẽ có hàng ngàn tên lưu vong thất nghiệp, hàng ngàn tên nhẹ dạ ngu ngốc tập hợp dưới cái gậy chỉ huy của họ để bán máu cho họ. Họ sẽ đứng rất xa để hò hét xúi giục, xui dại. Chị đâu phải là đứa ngu ngốc, nhưng lại là kẻ phá sản, nên chị phải tận dụng cái sémineire1 (Cuộc hội thảo) này. Chị phải đóng vai một người hùng, một kẻ cuồng chiến cho nó thích hợp với cái Kermesse des Revanchards2 (Hội của những kẻ phục thù). Chiến thuật của chị quả là hữu hiệu. Họ đã dồn cho chị một số phiếu gần như tuyệt đối. Nhưng tiếc là chị không nắm được cái chân ủy viên tài chính của Liên minh? Cụ Bảo đã khéo đẩy cho chị ghế ủy viên tuyên truyền thông tin để đưa con trai mình vào vị trí béo bở ấy. - Mlle Mộng Vân nhún vai mỉm cười - Nhưng chị đâu chịu để cho thằng cha này nuốt được nhẹ nhàng nếu không chịu chia phần?

- Liên minh có tiền đâu mà chia? Khi tổ chức cuộc hội thảo anh Ân em cùng với một số người trong ban trù bị phải bỏ vốn riêng ra chi phí mọi khoản đấy chứ.

- Bây giờ thì chưa, nhưng tương lai quỹ của nó rất lớn. Các chi hội của Liên minh ở khắp các nước phải đóng góp. Sau đó họ sẽ nhận tiền của các chính phủ thù địch với Việt Nam. Theo tướng Tùng Lâm cho biết thì Warrens sẵn sàng xin chi cho các hoạt động phá hoại ở Việt Nam năm triệu đô-la, nếu các tổ chức chống đối hoạt động hữu hiệu. Bây giờ chưa có tiền mà cụ Bảo đã dự kiến chi lương cho các ủy viên của Ban lãnh đạo rồi thì tương lai chắc sẽ rất tốt đẹp.

- Như thế là chị lại sắp giàu đến nơi rồi!

- Không thể làm giàu bằng tiền lương được đâu em ạ. Muốn giàu cần phải có những mánh khóe khác. Em có muốn kinh doanh chung với chị không?

- Em thích nhưng em ít vốn lắm.

- Bao nhiêu?

- Của riêng em chỉ có nửa triệu quan thôi.

- Kể cũng ít, nhưng mèo nhỏ bắt chuột con. Nếu trôi chảy chỉ một vụ em sẽ có gấp rưỡi số đó, và cứ thế...

- Nghe chị nói em thất hấp dẫn quá? Nhưng cái đó cũng làm cho em nhớ đến chuyện "cô Pê-rét bưng liễn sữa".

- Dĩ nhiên là có thể gặp điều không may, nhưng biết làm sao được. Em phải tập làm quen dần với những cuộc phiêu lưu thì mới có gan chung vốn với chị được.

- Sau đây chị lại về Paris chứ?

- Không, chị chán ghét Paris rồi. Cả Quatier Latin đến Ile de Côté, cả Théâtre du Palais de Chaillot đến Quảng trường Concorde... Tất cả cái mê cung lộng lẫy đó đã vắt kiệt tuổi thanh xuân của chị, biến chị thành cô gái già cô đơn với cái túi rỗng tuếch.

- Thế chị ở lại đây với chúng em vậy.

- Không. Ở đây êm đềm quá, thơ mộng quá chị sẽ chết mất, khi đã quen với những canh bạc đỏ đen, những chuyến hàng liều lĩnh, những hy vọng phi lý... Chị sẽ đi Hồng Kông. Con cừu non trong trắng của chị, em có thích đi theo chị không?

- Em cũng thích đi, nhưng em còn phải xin phép anh chị Ân em đã.

Mlle Mộng Vân nhún vai mỉm cười:

- Là bà quả phụ thì em cũng hoàn toàn tự do như chị thôi. Cần gì xin phép ai!

Ngày cuối cùng Antonio mới đến dự cuộc hội thảo Cali. Không biết tiếng Việt nên John chỉ chụp vài bức ảnh, xin mấy văn kiện dịch ra tiếng Anh rồi anh kéo tôi đi chơi để nghe tôi tường thuật lại không khí hội thảo và giải thích tinh thần "Cương lĩnh Cali". Nghe xong Antonio tỏ ra bực bội: - Họ đã chẳng rút ra được bài học lịch sử nào. Họ lại muốn lôi kéo dân tộc mình vào một cuộc đổ máu vô nghĩa. Xu thế gần đây cho thấy một số người có thế lực trong chính giới Mỹ vẫn tỏ ra thù địch với Việt Nam. Buộc phải ra đi nhưng họ chưa chịu buông tha cái đất nước vừa thoát khỏi ba mươi năm chiến tranh liên miên này. CIA đang cố gắng hình thành một đường dây vững chắc với những người Việt lưu vong giàu có ở Mỹ để phung phí tiền bạc của nhân dân Mỹ vào những mục đích riêng tư bí mật của họ. Đứng sau lưng Liên minh Việt kiều hải ngoại rất có thể là CIA. Có điều làm cho tôi ngạc nhiên là tại sao anh lại nhận cái việc truyền bá tư trang phục thù của họ.

- Tôi sẽ không bao giờ là cái loa cho những tư tưởng đó.

- Nhưng anh đã cộng tác với tờ báo của tổ chức này.

- Trước hết tôi muốn trở thành một nhà báo. Tôi muốn chân lý phải sáng tỏ, sự thật phải được phản ánh trung thực dể người đọc rút ra được nhưng kết luận có ích. Tiếc là anh không đọc được những bài báo đó qua tiếlig Việt.

Antonio nhìn tôi với vẻ mặt làm lành.

- Tôi luôn luôn muốn tranh luận với anh nhưng vấn đề về Việt Nam, về vùng Đông Nam Á. Tôi nghĩ rằng anh có nhiều hiểu biết về vùng này hơn tôi. Mùa xuân năm tới tôi sẽ đi Bangkok. Nếu có thể anh đi cùng với tôi thì thú vị lắm.

- Chưa dám hứa với anh, nhưng tôi rất vui sướng được đi với anh. Tôi sẽ đề đạt chuyện này với tổng biên tập báo "Chim Việt".

Chúng tôi tiễn Mlle Mộng Vân ra sân bay. Chị đi New York thu xếp một số công việc theo yêu cầu của cụ Bảo. Trước khi lên máy bay chị còn rủ Bạch Kinh đi Hồng Kông với chị một chuyến. Kim hẹn cuối tuần sẽ gọi điện trả lời để chị khỏi mong. Trên đường về, Bạch Kim nói với tôi:

- Em không thể hiểu nổi người đàn bà kỳ cục đó.

- Có năm ngày chuyện trò để hiểu cả một cuộc đời thì khó đấy. Mlle Eugénie đã là một nhà văn nên chị ta có thể bịa đặt ra những điều hệt như sự thật. Nhưng chị lại làm nghề tình báo lâu năm nên chị biết che giấu những điều bí mật. Nếu ta biết gạn đục khơi trong thì ta vẫn có thể rút ra những điều đáng tin.

- Tất nhiên là cũng có được một số chuyện vặt không biết có giúp gì cho chúng ta không?

Cả hai chúng tôi đều quan tâm tới chuyến đi Hồng Kông của chị. Chị ta đến với ai, có việc gì ở Hồng Kông? Đi buôn chăng? Chị ta làm gì còn vốn mà tính chuyện buôn bán. Một chuyến đi chơi đối với chị ta lúc này là không thích hợp. Hay cụ Bảo cử chị ta đi về vấn đề Việt kiều? Nhưng ở Hồng Kông rất ít người Việt tị nạn. Họ bị xua đuổi ngay ra khỏi mảnh đất chật hẹp này, trừ một số rất ít người đã định cư lâu năm. Chúng tôi chưa đưa ra được một giả thuyết đáng tin cậy nào vào cuộc đi này.

- Em nhận lời đi Hồng Kông với chị ấy đi.

- Em sẽ chấp hành ý kiến của đồng chí chỉ huy!

- Thứ nhất, nhân dịp này em bắt liên lạc với cậu Đức qua ngả Hồng Kông. Thứ hai, em làm quen với phương thức hoạt động độc lập ở một mũi. Mục tiêu của em là tìm hiểu hoạt động của Mộng Vân ở đấy. Còn anh, anh sẽ đi với John Aantonio. Anh cũng muốn đến Wesland với Tùng Lâm để biết thêm cái hình hài "Mặt trận tự do" ra làm sao. Với danh nghĩa nhà báo, anh có lý do để tò mò những điều bí mật. Cón em, cũng cần chọn một mục tiêu công khai cho chuyến đi của mình.

Đơn giản là đi tìm hiểu thị trường đầu tư với chị Mộng Vân.

- Dù sao cũng phải thận trọng với chị ta cả trong những chuyện buôn bán.

- Dạ.

Buổi tối hôm đó, "lợi dụng" chuyện sắp phải đi xa một thời gian dài nên tôi sang thăm Kim để tạm biệt nhau.

- Bao giờ thì anh trở về? - Kim hỏi tôi.

- Anh không hẹn trước, nhưng không lâu hơn hai tháng.

- Anh có nhớ em không?

- Anh nhớ lắm. Ngay như ở đây, cách nhau có một khuôn cửa thôi mà nỗi nhớ vẫn dày vò anh.

Bạch Kim cười.

- Thế là anh lại bày ra cái trò “người dưng nước lã"!

- Đã gọi là trò thì nó chỉ có ý nghĩa hình thức bề ngoài để cho em tự do giao du thôi, chứ bên trong thì chúng ta không thể là người dưng nước lã được. Vì vậy anh yêu cầu em cho anh một chiếc chìa khoá cửa bên!

- Trước kia sống với chị Dung anh nghiêm thế, mà với em thì anh "hư" quá!

- Nói đúng ra là Dung rất nghiêm, Dung là chỉ huy nên anh phải phục tùng. Còn bây giờ anh là chỉ huy kia mà!

- Là người chỉ huy thì có thể vi phạm kỷ luật à?

Lời nói của Bạch Kim làm tôi lúng túng. Nhưng chỉ nhột phút thôi tôi đã tìm ra cách giải thích.

- Vấn đề kỷ luật ở đây chỉ là không để lộ chuyện "đóng kịch" ra ngoài thôi. Mình ngụy trang kín thì làm gì có vấn đề kỷ luật. Còn đối với Dung trước kia khác. Dù có ngụy trang được cấp trên thì vẫn là vi phạm kỷ luật, do đó anh không dám liều!

- Anh khéo chống chế lắm! Nhưng anh cũng quan liêu lắm! Em có bao giờ khóa cửa bên đâu mà anh đòi chìa khóa! Nhưng cẩn thận đấy, kẻo lỡ ra là không có gì nguỵ trang nổi đâu nhé.

CHƯƠNG VII

TỪ MẬT CỨ BÉTA ĐẾN NGÔI NHÀ

SỐ 18 PHỐ LISOW

Báo nguyệt san Chim Việt đã ra được số thứ năm. Số người cộng tác ngày càng đông, nhưng lựa bài để đăng cũng là một công việc chẳng dễ dàng. Ông chủ bút, luật sư Bùi Hạnh thường giao cả cho tôi. Đành rằng ở vị trí đó tôi có thể lái cho tư tưởng của tờ báo đì theo một xu hướng đúng đắn hơn, bớt độc hại hơn. Nhưng rõ ràng nó sẽ buộc chặt chân tôi vào cái chức thư ký tòa soạn mà tôi không hề mong đợi, tôi cần phải đến nhưng mục tiêu cần thiết cho công việc của tôi. Khi tôi đề đạt nguyện vọng đi Viễn Đông thì ông chủ bút do dự.

- Ông Hoài Việt ạ (ông gọi theo bút danh), ông muốn đi tiền tuyến để tìm hiểu sự thật thì có gì quý bằng. Nhưng công việc ở nhà sẽ ra sao. Không có ông thì mình tôi không thể đảm nhiệm nổi.

- Thưa ông chủ bút, ông có thể tìm một thư ký tòa soạn.

- Tôi dự kiến người đó là ông đấy.

- Xin cảm ơn ông. Tôi chỉ là một phóng viên mới vào nghề. Tôi cần được viết nhiều hơn nữa. Lúc đó tôi mới có hy vọng trở thành thư ký tòa soạn vững vàng dược.

- Ông khiêm tốn đó thôi. Những bài viết mà ông coi là mới bước vào nghề đó đã gây được dư luận sôi nổi trong độc giả. Chính tiến sĩ Phan Quang Ân cũng phải ngạc nhiên trước giọng văn giàu hình ảnh của ông. Tôi tin là ông có đủ năng lực làm thư ký tòa soạn cho báo Chim Việt.

- Dù sao thì tôi cũng muốn được viết. Nếu ông cứ nhất định giao cho tôi trọng trách đó thì tôi xin ông một đặc ân: Cho tôi đi viết ở những nơi tôi muốn. Tất cả cũng chỉ nhằm nâng cao chất lượng tờ báo của chúng ta thôi. Trước khi đi tôi sẽ chuẩn bị những bài chính cho ba số liền. Như vậy cũng đỡ cho tòa soạn những công việc thuộc về cấu trúc chủ yếu. Nhưng bài vở tin tức có tính thời sự ông sẽ xử lý linh hoạt sau. Như vậy là vừa có lợi cho tôi cũng vừa đảm bảo công việc chung của chúng ta.

- Vấn dề tài chính làm cho tôi lo lắng. Tờ báo non trẻ của chúng ta chưa đủ sức tài trợ cho nhũng chuyến đi xa của phóng viên. Như ông biết đấy ngân quỹ của Liên minh chỉ trông vào quyên góp, còn tiền bán báo thì lờ lài chưa đáng là bao...

- Tôi sẽ tự lo liệu lấy. Trong khi đi viết tôi sẽ không nhận lương của tòa soạn. Tuỳ theo giá trị của bài viết mà ông trả nhuận bút để bù lại một phần chi phí hành trình cho tôi sau.

Ông Bùi Hạnh đành phải chấp thuận đề nghị của tôi. Ông giúp tôi mọi thủ tục để xin xuất cảnh. Tôi có thể tới các nước Đông Nam Á với cái thẻ nhà báo. Bạch Kim phải lo mua sắm cho tôi mọi thứ phương tiện lỉnh kỉnh: Máy ảnh, máy quay phim, ghi âm, phương tiện chiếu sáng... kèm theo đó một khoản chi phí dọc đường khá lớn.

Tôi gọi điện cho John Antonio hẹn ngày lên đường.

Tôi và Antonio lần dầu tiên đến Voca City. Chúng tôi tìm đến khách sạn Pyramid, một khách sạn sang trọng cho khách du lịch ngoại quốc với giá thuê buồng cắt cổ. Hai trăm năm mươi đô-la một ngày.

Đến đây tôi mới hỏi John.

- Đề tài trọng tâm anh định viết trong chuyến đi này là vấn đề gì?

- Đó là điền bí mật, nhưng tôi có thể nói riêng với anh được. Tôi muốn viết về những con đường buôn lậu ma túy vào Mỹ. Bọn ganster chẳng thuốn ai tò mò vào công việc của chúng, nhất là lại định phanh phui tội ác của chúng ra trước công luận. Vì vậy công việc này sẽ bất lợi nếu mình ba hoa về mục đích chuyến đi quá sớm, chúng sẽ bao vây, che mắt mình. Nếu chúng biết mình nắm được những chứng cớ bất lợi cho chúng, chúng có thể đánh cắp phá hủy hoặc tệ hại hơn nữa là thủ tiêu mình luôn.

- Trong trường lợp này nghề phóng viên cũng có cái gì mạo hiểm giống như nghề thám từ!

- Đúng vậy. Viết một bài điều tra loại này là một văn kiện cảnh giác các giới hữu trách và giúp họ hiểu biết để chống lại bọn tội phạm. Nhà báo có vai trò như một người cộng tác tự nhiên của pháp luật. Tôi đến đây với tư cách một người khách du lịch. Tôi đã chọn một khách sạn đắt tiền chứ không muốn đến nhà bạn bè. Edmond Boss tùy viên thương mại, Albert Schleyer đại diện cho hãng Dupont cũng là bạn bè cũ, nhưng tôi chỉ có thể đến thăm xã giao thôi chứ không thể làm việc ở nhà họ được.

- Ngay như ở đây anh cũng không thể để tài liệu ly thân được. Những tủ két trong khách sạn chỉ đủ an toàn cho hành lý. Còn tài liệu thì rất dễ bị thất thoát.

- Anh yên tâm. Tôi sẽ cảnh giác... Còn chủ đề chuyến đi của anh?

- Tôi sẽ viết về dân tị nạn Đông Dương trên đất này. Một đề tài về nạn hải tặc trên vịnh Sima. Nếu có những tin tức gì về đường dây ma túy, tôi sẽ cung cấp cho anh.

- Cảm ơn. Về phần mình tôi cũng sẽ chia sẻ với anh những thông tin về các chủ đề trên nếu tình cờ tôi nhận được.

Hôm sau tôi quyết định đi bắt liên lạc với một cơ sở của ta. Tôi đi taxi đến hoa viên Méno. Công chúng đến đây giải trí bằng những trò chơi ít tiền. Nơi tập trung những trò chơi tôm-bô-la, trò chơi "một đồng xứ' kiểu Mỹ, trò bắn bia, ném cổ chai... Một vài đồng cũng có thể mua nổi một hy vọng to lớn nhưng... mong manh. Nơi tập trung những tay chụp ảnh để in lên vải, lên khăn, lên đĩa sứ mà vành ngoài đã vẽ sẵn những mô-tip mỹ nghệ dân gian rất vui mắt của xứ này. Cũng có chỗ tập trung những người làm xiếc như ném dao, phun lửa, ảo thuật và những chú khỉ nghịch ngợm, tinh khôn ăn mặc lòe loẹt. Tôi chú ý đến một người đàn ông ngoài sáu mươi tuổi... tóc bạc trắng mắt trũng sâu người gày gò nhưng bắp thịt lằn lên rắn chắc như cuộn thừng. Ông ngồi bên con cá sấu to lớn hàm răng nhọn nhe ra trông dễ sợ. Ông làm trò ôm con cá sấu dữ tợn đó để nó trườn hẳn nủa người lên ngực ông, nép cái đầu bên cổ ông như một đôi bạn thân thiết. Người xem tặng ông một số tiền nhỏ tuỳ theo khả năng của mình. Ông lặp đi lặp lại trò này chỉ để kiếm tiền khách lạ thôi chứ dân ở đây quen mắt quá rồi nên họ chẳng thèm xem nữa. Vì vậy nhiều lúc ông ngồi chơi để đợi, tôi đề nghị ông biểu diễn mấy pha cho tôi chụp ảnh. Khi chi tiền tôi để lẫn tấm ảnh đặc biệt vào tờ đô-la. Người làm xiếc nhận ra mật hiệu. Ông trả lại tấm ảnh và nói nhỏ với tôi bằng tiếng Việt:

- Hai mươi giờ hôm nay ở quán cà phê "Bacchus" đường Sathit, bạn anh sẽ đón anh. Anh nhớ mặc như hiện nay.

Tôi cảm ơn ông.

Đúng giờ hẹn tôi có mặt trong tiệm cà phê. Một người đàn ông độ bốn mười tuổi đến ngồi trước mặt tôi. Anh hỏi tôi bằng tiếng địa phương. Tôi lắc đầu ra hiệu không hiểu. Anh nói nhỏ bằng tiếng Việt:

- Tôi định bay đi Hồng Kông vào thứ ba tới.

- Nếu tôi không lầm thì không có lịch bay vào thứ ba. Chỉ có các chuyến bay thứ hai, thứ tư và thứ sáu thôi.

- Chắc mới có thay đổi. Tôi đã ghi rồi mà - Anh rút trong ví ra mảnh giấy có kẹp tấm ảnh có chữ ký của tôi đằng sau cho tôi nhìn thấy.

Chúng tôi tin và làm quen nhau.

- Tôi là N5.

- Xin anh gọi tôi là Tám. Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh của anh.

- Trước mắt, anh truyền giúp tôi bức điện về nhà.

- Tôi sẵn sàng. Một ngày có một phiên trực. Ngày chẵn báo cáo. Ngày lẻ nhận chỉ thị. Nếu không hết việc có thể xin buổi bổ sung nhưng phải được trung tâm chấp thuận.

Chúng tôi quy định phương thức trao đổi tài liệu. Địa điểm và thời gian, và cả hộp thư mật, đề phòng trường hợp không thể gặp nhau được. Có cả tín hiệu báo động khi bị theo dõi...

Việc bắt liên lạc thuận lợi. Tôi đã báo cáo tất cả tình hình và công việc trước mắt của tôi với đại tá Nguyễn Hữu Đức. Hai hôm sau tôi nhận được điện trả lòi. Trong khuôn khổ chật hẹp của bức mật điện, cậu tôi vẫn biểu lộ sự vui mừng khi chắp nối được liên lạc. Cậu cũng dành vài dòng thông báo tình hình sức khỏe của mẹ tôi cho tôi yên tâm. Cậu hiểu được những cố gắng của chúng tôi trong điều kiện "độc lập tác chiến" mà vẫn chủ động sáng tạo trong mọi phương thức hoạt động để thu lượm được những tin tức rất cần thiết. Cậu cũng báo cho tôi: Tin Hoàng Quý Nhân còn sống đã được khẳng định. Nhưng dấu vết của con ma này, đều đẫm máu. Nhưng tiếc là vẫn chưa nhìn thấy chính nó. Cậu cũng nhắc tôi là có khó khăn gì về tài chính thì cứ bảo cáo. Cậu sẽ chỉ thị cho Tám lo giúp. Ngân sách còn nghèo nhưng cậu vẫn cố chi viện cho những mũi chủ yếu để đỡ cho anh em được phần nào hay phần đó.

Tôi đã điện cảm ơn và báo cáo với cấp trên biết tôi sẽ đi Pandon để thăm mật cứ Béta.

Tạm biệt Antonio, tôi rời Voca City đi thị trấn Pandon. Phong cảnh miền Đông Westland gợi cho tôi nỗi nhớ quê hương. Những cánh đồng lúa, vườn cây, đặc biệt những rặng dừa nằm sát bên bờ biển. Vịnh Sima hiền lành, hầu như phẳng lặng. Những con sóng lăn tăn rì rào êm dịu vỗ vào bờ đá, tràn nhẹ lên mặt cát phẳng lì. Thyền lưới đỗ san sát bên những làng chài. Những ngôi nhà sàn gỗ đóng cọc xuống lòng kinh rạch. Thị trấn Pandon cũng có dáng vẻ quen thuộc của cái tỉnh lị ven sông Tiền sông Hậu của ta. Du khách cũng có đến đây nhưng rất ít. Tôi thuê căn buồng nhỏ trong một khách sạn tiện nghi tồi tàn của một người Hoa, giá rẻ hơn rất nhiều so với Hotel Pyramid. Tôi không hy vọng nói chuyện với Tùng Lâm qua điện thoại vì tôi không biết số máy 'của anh. Tôi dò hỏi đường đến mật cứ Béta, nhưng không ai hiểu nó là gì. Người chủ khách sạn tỏ ra nghi ngờ tôi nên y đã đi báo cho viên cảnh sát địa phương biết chuyện này. Viên chánh cẩm đã đến gặp tôi xét hỏi giấy tờ. Tôi đưa hộ chiếu và tấm thẻ nhà báo Hoa Kỳ với cái tên Mc Gill. Tôi trình bày luôn với y là tôi có người bạn Việt Nam là tướng Tùng Lâm. Hiện nay ông là chỉ huy mật cứ Béta cách Pandon bốn kilômét về phía Đông. Tướng Tùng Lâm lời tôi đến chơi nhưng tiếc là khách sạn không có danh bạ điện thoại. Liệu ông chánh cẩm có thể chỉ đường giúp tôi không? Viên chức này tỏ ra kính trọng tôi. Ông hứa sẽ gọi điện thoại giúp và khuyên tôi không nên hỏi thăm dân địa phương. Một là họ không biết. Hai nữa, chính phủ cũng giữ kín những tin tức về trại lính đặc biệt này. Tôi cảm ơn viên chánh cẩm và tiện thể mời ông ta dùng bữa trưa luôn. Ông ta vui vẻ nhận lời.

Chiều hôm đó Tùng Lâm nhận được tin tôi đến Pandon. Anh vội vàng phóng xe lên đón tôi. Chúng tôi vui vẻ ôm nhau.

- Về chỗ mình nghẹn! Dưới đó không được vui vẻ như ở đây nhưng dễ chuyện trò hơn.

- Tôi đến quân doanh như vậy liệu có tiện không?

- Trời ơi, hiền đệ cũng là nhà binh. Mình là chỉ huy căn cứ, chi mà không tiện.

Nói xong anh thu xếp đồ đạc cho tôi. Tôi trao thìa khoá cho chủ khách sạn nhưng vẫn giữ buồng. Tôi dự định còn ở lại đây ít lâu nữa.

Mật cứ Béta nằm trong một khu rừng thưa. Một diện tích chìm mười hec-ta được chăng kín dây kẽm gai. Giữa khu đất là một cụm nhà mái tôn thấp được bao quanh bởi một bức tường chắc chắn. Một chiếc cổng sắt kín mít không thấy bóng lính gác. Tùng Lâm bấm còi xe, hai cánh cửa từ từ mở ra. Bên trong hiện ra một cái sân rộng. Bốn nếp nhà quây thành hình vuông. Xe chúng tôi lao qua cổng đến thẳng ngôi nhà đối diện. Có mấy người cả nam lẫn nữ chạy ra cúi đầu chào. Tùng Lâm bảo một cô gái ra xách đồ đạc của tôi vào một căn phòng khá rộng rãi.

- Toa là thượng khách, toa nghỉ đây. Buồng tư lịnh liền bên thôi. Bảy Dĩ thỉnh thoảng cũng đến nghỉ ở đây vài bữa. Có một lần Warrens đến kiểm tra rồi đi ngay. Thằng Mẽo chê bẩn không chịu ở căn phòng kém tiện nghi này. Hắn về Voca City đã hơn. Ở đây không có gì để giải trí.

Tùng Lâm bấm chuông. Một cô gái mặc mini Jupe môi son má phấn bước vào. Cô ta gật đầu chào tôi rất lễ phép rồi quay sang Tùng Lâm:

- Thưa tướng quân cần gì ạ?

- Cho mấy chai la-ve và ít trái cây, nghe.

- Dạ.

Khi cô gái mang đồ uống vào, Tùng Lâm nói nửa như ra lệnh nửa như đùa vui:

- Đây là nhà báo Mc Gill (Đúng không hiền đệ anh hỏi lại tôi) - Mc Gill, nghe tường chưa? Quý khách của trại Béta đó. Diệu Lan phải tiếp đãi anh bạn của chúng ta thiệt chu đáo nghe!

- Dạ.

- Không được từ chối bất cứ yêu cầu gì nghe!

Tùng Lâm nháy mắt nhìn tôi vui vẻ. Còn Diệu Lan thì tỏ ra e lệ khép nép làm duyên.

- Bây giờ cho lui nghẹn. Khi cần, qua sẽ gọi.

- Ở đây cũng có cả nữ?

- Có chứ? Không có thứ này thì sống sao nổi, lấy chi mà giữ vững tinh thần. Binh sĩ ở đây coi như cảm tử quân. Sống ngày nào biết ngày đó. Khi cần ra trận là đi ngay. Bảo chết phải chết. Do đó khi chưa chết cần được cung phụng đầy đủ. Ngoài số bồi bếp, thầy thuốc ra, Warrens cho phép tuyển mười cavalières1 (Vũ nữ). Vừa là giúp vui cho binh sĩ, vừa phục vụ cho chủ tướng.

- Họ sẽ dùng những binh sĩ ở đây vào việc gì?

- Việc giết người. Đơn giản như thế thôi, giết thế nào cho nhiều, cho lẹ, cho gọn. Duyệt binh đâu cần loại này!

- Họ định đưa về nước sao?

- Có ai nói với mình điều đó đâu. Nhưng mình đoán là như vậy.

- Thế binh lính cũng không hay họ sẽ được đưa đi đâu?

- Họ cũng không nói gì trước với binh lính. Điều kiện tuyển lựa của họ là dùng vào bất cứ mục tiên nào và người lính chỉ có chấp hành mệnh lệnh. Họ gọi bọn này là những chiến sĩ tự do chuyên nghiệp. Lương cao. Gia đình được trợ cấp và định cư tập trung vào một vùng. Thực chất những thân nhân của binh sĩ là otages1 (Con tin). Họ phải chịu trách nhiệm về sự trung thành của con em họ.

Tùng Lâm tỏ ra rất hiếu khách. Anh coi tôi như ân nhân. Anh mở tiệc chiêu đãi tôi. Ba hạ sĩ quan và năm vũ nữ được gọi lên hầu tiệc. Nhân tối thứ bảy Tùng Lâm cho phép mở vũ hội ngoài trời. Âm nhạc vang lên, binh lính được phép vui đùa thoải mái. Những cô gái nhảy cũng tận dụng những đêm xả láng như thế để tăng thu nhập. Họ nhận được những khoản “puốc-boa” nho nhỏ tùy theo sắc đẹp của từng người.

Tôi ngỏ ý với Tùng Lâm sẽ viết một bài báo ca ngợi các chiến sĩ tự do của mật cứ Béta để đăng trên báo “Chim Việt", cơ quan tuyên truyền ngôn luận của Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Tùng Lâm rất hoan nghênh. Nhưng chợt nhớ ra điều gì anh vội bảo tôi nên hỏi qua Bảy Dĩ xem sao. Lỡ Warrens không cho phép công bố những tin tức này thì anh sẽ bị khiển trách. Nhưng đã cất công đến đây thì cứ quan sát, chuẩn bị tài liệu đi. Nếu Bảy Dĩ bằng lòng cho đăng thì hãy đăng.

- Đã mời được các chuyên gia chiến tranh du kích của Trung Cộng đến giúp đỡ lần nào chưa?

- Chưa. Mình nghe nói Liên minh còn cử bà Mộng Vân làm thuyết khách đi Thượng Hải hay Bắc Kinh để đàm phán với người Tàu nhưng chưa rõ kết quả ra sao. Đấy là chuyện của mấy ông bà chính trị gia, mình đâu có quan tâm tới.

- Hồi này anh có hay gặp đại úy Huỳnh Tấn Hào không?

- Không gặp, nhưng cha cũng ở gần đây thôi. Mai chúa nhựt ta có thể đến thăm người bạn cùng hội cùng thuyền chốc lát.

- Dạ.

Trò chuyện tới khuya. Tùng Lâm trở về phòng mình.

- Có việc gì toa cử bấm chuông. Diệu Lan sẽ phục vụ chu đáo nghe.

- Cảm ơn anh Tư.

Tùng Lâm đi được vài phút, tôi đang ghi nhật ký thì Diệu Lan, trong bộ đồ lụa trắng mỏng như sương đẩy cửa vào. Cô ta mỉm cười trước vẻ ngạc nhiên của tôi.

- Dạ, cho phép em buông màn - Vừa nói cô vừa leo lên giường xếp đặt chăn gối.

- Cảm ơn Diệu Lan.

- Thưa ông Mc Gill, thiếu tướng lịnh cho em phải hầu ông đêm nay.

Tôi mỉm cười thân mật vỗ lên vai cô gái:

- Rất hân hạnh.

- Em làm Massage cho ông là dễ chịu ngay.

- Cảm ơn. Được người đẹp xoa bóp cho thì làm sao ngủ nổi! Thôi, em cứ về nghỉ. Khi cần tôi sẽ bấm chuông.

Tôi thơm nhẹ lên má cô gái, giúi cho cô một chút tiền lót tay để cô ta không coi tôi là người keo kiệt.

- Em cảm ơn ông!

Diệu Lan mỉm cười cúi đầu chào rồi nhẹ nhàng mở cửa đi ra.

Sáng hôm sau, điểm tâm xong Tùng Lâm lái xe đưa tôi đi thăm Hào. Chiếc xe Gíp phóng như bay trên con đường vắng vẻ buổi sớm. Xa xa đã thấp thoáng nhìn thấy biển. Mặt sóng óng ánh nhạt thiếc lỏng. Gió thổi mát rượi. Màn sương mỏng tan dần để lộ ra vừng mặt trời vàng nhạt. Ba mươi phút sau chúng tôi rẽ theo con đường nhỏ chạy men bờ sông Sipa. Cửa sồng mở rộng dần ra trước biển. Vượt qua vài cây số đường xấu, Tùng Lâm đỗ xe lại trước một cái cổng sắt của khu nhà. mái tôn nho nhỏ.

- Đến nơi rồi!

Tùng Lâm đến trước cổng bấm chuông. Anh hỏi một người nào đó bên trong bằng thứ tiếng "giả cầy" Chúng tôi chờ dăm phút thì có một người Việt ra tiếp. Sau khi hiểu được ý định của chúng tôi người này mới mở cửa cho xe vào.

Trương Tấn Hào nhận ngay ra Tùng Lâm. Hào chào viên tướng theo kiểu nhà binh rồi ôm chầm lấy Tùng Lâm. Nhưng Lâm đẩy Hào ra và chỉ sang tôi:

- Bộ không nhận ra ai đây sao?

- A! Anh... anh Nghĩa. Trời ơi lâu quá mới gặp lại, trông anh khác trước nhiều quá.

- Bây giờ là ký giả Mc Gill, người Mỹ gốc Việt nên nhìn có khác đi đôi chút - Tùng Lâm giới thiệu thêm.

Tôi bắt chặt tay Hào và nhìn thẳng vào mắt anh. Anh cũng đã già đi so với cái ngày vượt biển.

- Thôi cho xe vô trong kia rồi ta nói chuyện tiếp.

Tùng Lâm đưa xe vào sân sau. Trước mặt chúng tôi biển hiện ra lồng lộng. Hào kéo tôi và Tùng Lâm vào phòng khách. Anh mở tủ lạnh lấy mấy hộp Coca-cola đặt lên bàn.

- Các anh có thể ở chơi với tụi tôi bao lâu?

Tùng Lâm liếc mắt thìn tôi. Tôi nhìn lại anh tỏ ra là tất cả đều tùy thuộc vào anh.

- Mc Gill hoàn toàn tự do, còn tôi chỉ ở chơi đến chiều.

- Xin các anh cứ gọi tôi là Hoài Việt. Các bài báo tôi đều ký là Hoài Việt. Nhập quốc tịch Mỹ nên trong hộ chiếu xuất cảnh phải ghi cái tên rắc rối đó. Tôi trở về Dông Nam Á để viết một số bài về dân di tản và nạn hải tặc. Tôi có thể ở đây ít ngày. Hiện tôi đã thuê phòng ở khách sạn Yankin trên Pandon. Mời các anh lại chơi với tôi. Tôi ở với các anh cũng được nhưng các anh đâu có tư thất. Trong quân doanh vào ra chẳng tiện.

- Trên biệt cứ Béta thì đúng là không tiện, còn ở chỗ bọn tôi thì chẳng có chuyện gì bí mật cả! - Hào cườl - Anh có thể ở đây vại tháng với tôi cũng được!

Tùng Lâm cười lớn:

- Tôi là biệt cứ Béta, còn anh là hải cứ Gamma! Chà có khác nhau là bao.

Huỳnh Tấn Hào thết chúng tôi bữa nhậu gồm các thứ bánh tráng, bánh gỏi, mắm cá, thịt vịt, tái nhúng... đặc Nam Bộ. Tùng Lâm uống rất nhiều rượu. Tôi lo cho anh lái xe về một mình mà say thì nguy hiểm lắln. Nhưng Tùng Lâm gạt đi.

- Mình đâu có say vì ba xị đế. Bà già huấn luyện luống rượu cho mình từ hồi bả mang bầu! Ha ha. Xin quý anh em cạn ly.

Ăn uống xong Tùng Lâm lăn ra ngủ, ngáy như sấm. Hai giờ tỉnh dậy, anh lại hoạt bát nhanh nhẹn nhu không có chuyện gì. Anh về biệt cứ Béta trước và hẹn bữa mai đưa xe xuống đón tôi. Nhưng Hào bảo anh không phải đón. Khi nào về Hào sẽ đưa tôi đi.

Đêm hôm đó Hào đưa tôi xuống thuyền. Chúng tôi ngồi trên boong ngắm trời ngàm biển. Trăng sáng, mặt biển mênh mông rợn sóng lấp lánh như ngân nhũ. Con thuyền dập dềnh nhè nhẹ theo nhịp sóng. Hào thích những nơi vắng vẻ êm ả để sống với thế giới nội tâm, tái hiện quá khứ. Anh say sưa kể chuyện mình:

- Sau khi chúng ta chia tay nhau, tôi theo Bảy Dĩ đi Wesland. Ở đây chúng tôi được gặp Albert Schleyer người đại diện của Warrens. Người Mỹ này khuyên tôi nên ở lại Đông Nam Á. Anh ta sẽ giúp tôi một công việc làm ăn với số thương kha khá. Chưa biết là việc gì nhưng tôi rất mừng vì có một thân một mình, nghề nghiệp chẳng có, dựa vào anh Bảy mãi cũng không tiện. Anh Hai tôi ở Pháp nhưng tôi chẳng muốn sang vì giữa tôi và chị dâu, đôi lần có chuyện bất hòa. Hơn nữa tôi còn muốn đón vợ con ra nên việc cư trú quanh vùng này có nhiều thuận lợi. Tôi ngỏ ý muốn biết rõ công việc. Albert nói với tôi:

- Anh giúp chúng tôi thành lập một hải đội vận tải nhỏ. Bắt đầu từ việc đóng tàu, lập căn cử, tuyển mộ và huấn huyện thủy thủ. Sau đó sẽ làm công việc vận chuyển người hoặc hàng hóa cho hãng Albert S.T.C.

Công việc này thích hợp với tôi. Tôi lại được biết Bảy Dĩ cũng xin làm việc với hãng này nên tôi nhận lời. Tôi ký một hợp đồng ba năm với hương năm trăm đô-la một tháng. Dĩ có vai trò như một xử lý thường vụ của hãng, trông nom toàn bộ công việc xây dựng hải đội của chúng tôi. Như vậy càng tốt. Tôi chẳng cần biết tiếng Albert đặt trụ sở ở đâu, ai là giám đốc, hình thức kinh doanh của nó ra sao. Tôi chỉ biết là thực thi chương trình và xin lãnh tiền qua anh Bảy.

Tôi cùng Bảy đi thuê đóng năm chiếc tàu nhỏ theo thiết kế đặc biệt của hãng. Mỗi chiếc một kiểu có trọng tải khác nhau. Cái ta đang ngồi là chiếc lớn nhất tải trọng tám mươi tấn lắp máy đẩy Kobé 100 cv của Nhật. Những chiếc khác nhỏ hơn, cỡ sáu mươi, năm mươi, bốn mươi tấn thôi. Chúng tôi đến các trại tị nạn tuyển mộ thủy thủ. Chúng tôi chọn người Việt để dễ huấn luyện và chỉ huy sau này. Phần lớn là những anh em binh lính, sĩ quan cũ nhưng còn trẻ và khỏe. Mỗi thuyền lựa đủ hai kíp hoa tiêu và thợ máy. May mà trong số anh em, phân nửa là lính của Hải lực Việt Nam Cộng hòa cũ nên việc huấn luyện cũng nhẹ nhàng và nhanh chóng. Chỉ nửa năm là anh em đã làm chủ được hải thuyền, quen thuộc biển khơi sông nước vùng Đông Nam Á.

- Các anh đã bước vào công việc kinh doanh rồi chứ?

- Chưa. Thực ra Bảy Dĩ cũng đã giao cho chúng tôi đi đánh cá vài vụ để bán cho vài hãng đồ hộp, nhưng sản lượng chẳng đáng là bao. Vịnh Sima bị đánh bắt đến kiệt quệ nên chúng tôi phải đến những vùng biển gần Việt Nam, gần Cam-bốt, vùng hạ lưu của các nhánh sông Mékông tìm dòng cá. Chúng tôi tính toán thì thấy tiền cá chẳng đủ chi phí cho thuyền máy. Nhưng hãng Albert hình như chẳng chú ý đến lỗ lãi. Gần đây chúng tôi còn ra khơi vào ban đêm đem theo cả vũ khí và các phương tiện truyền tin với nhiệm vụ chống hải tặc, giúp đỡ những con thuyền di tản bất hạnh ngoài khơi. Công cuộc cứu trợ nhân đạo này do các tổ chức từ thiện thông qua HCR1 (Cao ủy Liên hiệp quốc về những người tị nạn)  thuê hãng Albert S.T.C. Chúng tôi có cứu giúp được một số thuyền nhưng xem ra chưa phải là mục đích chính của công vụ. Năm nay bọn tôi luyện tập xa hơn. Tầm hoạt động vượt quá một ngàn kilômét. Có lần tôi đưa chiếc D.182 và chiếc C.5801 đến sát bờ biển Kiên Giang. Có bữa được sự hướng dẫn bằng vô tuyến điện của một tàu lớn của hãng chúng tôi đã ra đến vùng biển quốc tế cách Nha Trang ba mươi hải lý rồi mới quay về.

- Chỉ đi không chứ không chuyên chở gì?

- Dạ trong khoang chỉ có nhiên liệu, nước ngọt và phao lưới thôi. Chúng tôi đi lẫn vào các ngư thuyền khác. Chỉ có điều đi qua gần nhà mà không được rẽ vào - Hào mỉm cười rồi lại buồn buồn kể tiếp - Tháng tới bọn tôi sẽ tập chở người. Trại Béta của anh Tùng Lâm sẽ phối hợp luyện tập với bọn tôi. Chúng tôi ngày càng đi xa các mục đích kinh doanh. Chưa biết họ sẽ dẫn dắt bọn tôi đi đến đâu!

- Bảy Dĩ không nói gì về chuyện đó với anh à?

- Không, nhưng vừa rồi anh Tùng Lâm đi Mỹ về nói chuyện riêng với tôi. Nghe nói tình hình trong nước hồi này rối loạn lắm. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã bắt đầu. Khơ-me đỏ tiến công Việt Nam ở phía Nam. Trung cộng gây sức ép ở phía Bắc. Hàng triệu Hoa kiều phá hoại bên trong... Không hiểu sự thực ra sao, tôi lo lắng quá.

- Thế anh có nhận được tin tức gì của chị và các cháu không?

- Dạ có. Tôi vẫn viết thư về luôn đó. Tôi cũng tiết kiệm chi tiêu thỉnh thoảng mua ít quà gửi về đỡ cho quấy má con. Hồi tôi mới đi má xắp nhỏ vì lo lắng mà đau liệt giường. Anh ba tôi về thấy vậy, giận tôi lắm. Anh cũng nghèo không giúp đỡ được nhiều. Ông cố cậy cục xin cho má nó vô bịnh viện của đơn vị điều trị. Vài tháng sau má nó lành bịnh trở về, xin được việc làm. Con cháu lớn vừa đi học vừa làm thêm đỡ má. Thế mà cháu vẫn thi vô được đại học sư phạm. Nhờ có con ngoan mà bà sống nổi. Tôi viết thư kêu bà đưa con vượt biển nhưng má con nó không chịu. Má nó bảo giờ kiếm đâu ra tám lượng vàng mà thuê thuyền. Hơn nữa biết ai đáng tin mà giao tiền cho họ. Đến như chồng lái thuyền mà còn bị lỡ chuyến nữa là người ngoài? Nếu có tám lượng vàng bà cũng chẳng đi, bà để nuôi con cho nên người. Con cháu lớn nhất định không đi. Cháu đang học hành thuận lợi, bỏ đến nước khác, ngôn ngữ bất đồng sức đâu học lại từ đầu để vô đại học.

- Đó là tấn bi kịch lớn anh Hào ạ. Tạm thời thì vẫn phải chấp nhận sự chia li. Tôi tin tình hình sau này sẽ tốt đẹp hơn.

Hào không nói gì. Dưới ánh trăng, tôi thấy cặp mắt anh long lanh những giọt nước.

Hôm san Hào lấy Honđa đưa tôi về chỗ Tùng Lâm. Tôi mời hai anh lên Pandon để có dịp thù tiếp hai anh trong khách sạn Yankin...

Nhờ Hào cho địa chỉ, tôi đã tìm đến một số trong những người di tản sống sót qua những vụ hải tặc khủng khiếp trên mặt biển, những vụ trôi giạt vì dông bão, những vụ lừa lọc, trả thù... mà tôi có được một bài phóng sự chân xác. Tôi còn chụp ảnh các nhân chứng của sự kiện để minh họa cho bài báo của mình.

Tôi mò đến trại tị nạn Chumanthan điều tra tại chỗ cuộc sống cơ cực của những người lưu vong bị các quan chức của chính quyền, của tổ chức cứu trợ ở đấy ăn chặn. Họ đứng ra độc quyền bao thầu các khoản cứu trợ của HCR, của các tổ chức từ thiện quốc tế rồi cấp phát thức ăn đồ dùng cho những người di tản với giá cắt cổ. Một mặt chính quyền sở tại than phiền về sự gánh chịu của họ với làn sóng người di tản nhưng mặt khác họ lại lợi dụng những trại này như những con gà đẻ trứng vàng.

Trong khi tôi đi Pandon thì Antonio bay sang Bangkok rồi đi lên vùng núi phía bắc Thái Lan. Anh ở thị trấn Chiang Rai, một đỉnh của "triangle-d’or". Anh muốn tìm hiểu về "tam giác vàng" này, nhưng rất ít kết quả. Phương tiện giao thông khó khăn. Các băng cướp và các tổ chức buôn lậu tiến công những người da trắng không có phân biệt. Anh không biết tiếng Thái, tiếng Trung Quốc nên rất khó tiếp xúc với dân địa phương. John trở lại Voca City với cái túi rỗng. Anh cố gắng săn lùng nhưng chỉ được một số chuyện ít quan trọng. Gặp lại tôi anh tỏ ra thất vọng. Tôi thông cảm và an ủi anh.

- Trước khi viết được bài báo "Tôi đã nhìn thấy Vi xi. Tôi đã nhìn rõ kẻ thù” anh đã phải tốn bao công sức. Nhưng bài báo có sức mạnh bão tố. Đề tài anh lựa chọn hiện nay cũng rất khó khăn. Có thể anh còn phải lăn lộn với đất này hơn nữa.

- Tôi sẽ không nản lòng đâu. Sớm muộn tôi cũng phải tìm ra một cái gì đó. Nhưng bây giờ thì không thể vui vẻ được.

- Anh có biết hoạt động của hãng ALBERT – S.T.C. không? Tôi nghe người ta nói đến những hoạt động mờ ám của nó. Nhưng sự thực nó là gì thì không ai biết.

- Tôi chưa nghe đến nó lần nào. Tôi sẽ cố tìm xem.

- Tiện chuyến đi này anh có thể viết về các trại tị nạn của người Việt ở đây. Có hàng tá chuyện mờ ám, bê bối, tàn ác nhưng lại được che đậy bằng những mỹ từ nhân đạo.

Tôi cung cấp cho anh nhiều tư liệu. Antonio rất hoan nghênh nhưng anh ngạc nhiên vì sự chia sẻ này.

- Tại sao anh không viết?

- Anh là người Mỹ, anh viết chuyện này khách quan hơn và dễ gây ấn tượng. Tôi đang theo đuổi một đề tài khác rồi.

Ngay hôm sau Antonio đi lấy tin sâu hơn ở những địa điểm tôi chỉ dẫn. Anh còn đến gặp cả các quan chức HCR để xin những số liệu cụ thể. Thế là hai chúng tôi đều có bài để bay về Mỹ.

Bạch Kim cùng đi Hồng Kông với Mộng Vân. Hai người đàn bà đi tìm hiểu thị trường kinh doanh. Bạch Kim tỏ ra dè dặt, nhưng cũng hào hứng một cách ngây thơ về những món lợi nhuận hấp dẫn mà Mlle Eugénie Mộng Vân đã khéo vẽ trong tưởng tượng của cô. Dù sao thì cũng là một chuyến đi thú vị, một cuộc thực tập vào nghề, xét cả về mọi phương diện. Lần thứ hai Bạch Kim đến Hồng Kông kể từ chuyến Voyage de noce với Vĩnh Quốc. Lần này cô cũng tìm thẳng đến khách sạn - Auriga, nơi cô đã ở đó một tuần. Hai chị em thuê một buồng mãi trên lầu thứ mười hai.

Bạch Kim bỗng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên cô nằm chung giường với phụ nữ? Cô cảm thấy ngượng ngùng. Cô để ý thấy trước khi đi nằm Mộng Vân chích một ống thuốc vào cánh tay.

- Chị ốm hay sao mà phải chích thuốc?

- C’est drogue1 (Chất ma tuý đấy)

- Chị cũng dùng ma túy?

- Em ngạc nhiên làm à? Đến thế kỷ sau cả nhân loại sẽ dùng ma túy. Tại các bữa tiệc chiêu đãi các vị nguyên thủ quốc gia, người ta sẽ bày những xi-lanh chất héroine, cocaine bên cạnh  những chai champagne! Người ta sẽ không chạm ly nữa mà sẽ nâng những chiếc xi-lanh để chúc tụng nhau!

Bạch Kim bật cười trước sự tưởng tượng kỳ quặc của người bạn đồng hành:

- Em thật không sao hình dung nổi. Ngay từ bây giờ, tất cả các nước đều coi ma tuý là thứ hàng bất hợp pháp. Mua bán ma túy là một trọng tội đối với nhân loại.

- Em nên nhớ là trước năm 1933 hiến pháp nước Mỹ coi uống rượu là bất hợp pháp. Buôn bán rượu là trọng tội, giống hệt như ngày nay họ cấm bạch phiến. Khi họ cấm thứ gì là các vị tai to mặt lớn, những vị duy trì luật pháp lại được dịp làm giàu về thứ đó. Bọn buôn lậu bao giờ cũng biết bước qua luật pháp bằng cách giúi cho nhà chức trách một khoản béo bở. Kết quả là thuốc lá, rượu mạnh và ma túy vẫn tồn tại và song song phát triển với lịch sử nhân loại! Em dùng một chút mà xem, thật tuyệt vời? Tinh thần lâng lâng phấn khích, thể xác cường tráng cuồng si, đôi mắt sẽ sáng ra như kẻ cạn thị tìm thấy kính!

- Em sợ lắm. Nghiện ngập còn đáng sợ hơn bệnh tật.

- Em ngốc lắm. "Cái chết trắng" chỉ là trò hù họa của bọn nhát gan chứ đâu có đáng sợ. Thử một chút thôi đâu có nghiện. Đưa tay chị chích cho một mũi!

- Không đâu. Em xin chị!

Bạch Kim giãy nẩy còn Mlle Mộng Vân thì cười ngặt nghẹo. Đôi mắt dâm đãng của chị nhìn Bạch Kim trừng trừng làm cô phát khiếp. Mộng Vân ôm chầm lấy Bạch Kim. Cánh tay trần to béo nhẽo mỡ vuốt ve cô một cách thô bạo. Bạch Kim thấy ghê tởm và hổ thẹn nhưng cô cũng tò mò để mặc, cô không muốn làm mất lòng chị ta.

- Chị âu yếm em kiểu này thì đến chồng em cũng phát ghen.

- Ở bên kia thế giới thiếu gì đàn bà thà nó phải ghen với em. Hãy mặc xác bọn đàn ông cho chết. Chị cầu mong cho sáng mai tỉnh dậy trên trái đất chẳng còn tên đàn ông nào nữa. Hành tinh này chỉ còn do phái đẹp ngự trị. Chỉ yêu em hơn bất cứ ai. Đừng lấy chồng nữa Bạch Kim ạ. Hãy sống với chỉ.

- Vẫn có những người đàn ông tốt chứ.

- Không có đâu em ạ. Nhân danh một người đàn bà đã sống qua tuổi thanh xuân chị đoan chắc với em như vậy. Tướng Jean Cartier nghị sĩ Champlin, tên đồ tể Rossino đến đức giám mục Antone de Guignot đáng kính, từ nhà thơ Vercheres, huân tước Michel Hubert đến thằng hề Andrés Fouques... tất cả đều là bọn khốn nạn, bọn đê tiện những tên đạo đức giả trơ tráo, láu cá...

- Một phép quy nạp không hoàn toàn chưa cho ta kết luận chính xác được.

- Đây không phải là lô gích hình thức mà là kinh nghiệm cuộc sống. Em mới biết một phần năm thằng đàn ông (nó chết quá sớm, đúng không?). Còn chị thì vàng, trắng, đỏ, đen, nâu, xám, hung hung đều đã trải qua... Bây giờ chị thù ghét bọn chúng... Mlle Mộng Vân nói hùng hồn, say sưa cho đến lúc mệt lả. Cặp môi son nhòe đi, nước miếng nhểu ra hai bên mép hồng hồng như giọt máu loãng... Liều bạch phiến tan dần. Chị ngủ thiếp đi và cất lên tiếng ngáy như sấm... Bạch Kim nằm xoay lưng lại hai tay bịt lấy tai không sao ngủ được. Thỉnh thoảng chị lại nói mê lảm nhảm không rõ câu gì. Đúng là một cuộc tra tấn!

Sáng hôm sau, điểm tâm, trang điểm xong, Mộng Vân rủ Bạch Kim đi chơi. Họ thuê xe taxi đến Fuk Wah street. Xe đỗ trước một building cao ngất. Mộng Vân dẫn Bạch Kim lên tầng tám, căn hộ 812. Họ bấm chuông, cánh cửa hé mở, Kim nhận ngay ra người bên trong là Hứa Quế Lan.

- Chị Lan!

- Bạch Kim!

Hai người ôm chặt lấy nhau trước sự ngạc nhiên của Mộng Vân.

- Hai người quen nhau từ lâu rồi sao? - Mộng Vân hỏi.

Bây giờ đến lượt Hứa Quế Lan ngạc nhiên. Bạch Kim phải giới thiệu.

- Đây là chị Mộng Vân, bạn cũ của gia đình em. Chính chị Vân đưa em đến đây làm cho em bất ngờ.

- Mình chưa bao giờ quen Hứa Quế Lan. Mình được tiến sĩ Price giới thiệu đến gặp Lan có chút việc.

- Trời! Tưởng ai xa lạ. Em cũng biết ông Price. Té ra Price cũng là bạn của chị Vân nữa.

Má Quế Lan đỏ ửng, chị ta vội mời hai người ngồi xuống ghế rồi sẽ nói chuyện sau. Chủ nhân pha trà Long Tỉnh mời khách. Mộng Vân mở ví rút lá thư của Price trao cho Quế Lan.

- Xin cô đọc ngay cho. Tôi nghĩ là trong đó có những việc mà tôi cần được Quế Lan trả lời sớm.

- Dạ, thế xin lỗi chị cho em vài phút.

Quế Lan mang lá thư vào buồng trong. Mươi phút sau cô ta đi ra dáng điệu vui vẻ. Cô gọi Mlle Mộng Vân ra một chỗ rồi nói nhỏ:

- Việc này em còn phải bàn với ba em thêm. Chắc là ba em sẽ cố thu xếp được thôi. Em sẽ gọi điện thoại báo cho chị chương trình làm việc chị nhé!

- Cảm ơn Quế Lan.

Hai người ghi số điện thoại cho nhau rồi quay ra ngồi xuống bên Bạch Kim.

- Thế nào Bạch Kim lấy chồng chưa hay vẫn sống một mình?

- Cũng sắp chị ạ! - Bạch Kim cười và nháy mắt với Mộng Vân - Thế hiện nay anh ở đâu chị?

- Vẫn ở lại với Cộng sản! - Quế Lan cười vui vẻ.

- Chị có nhận được tin của anh không?

- Có, nhưng từ lâu làm rồi.

- Thế Quế Lan sống một mình ở đây thôi à? - Mộng Vân hỏi.

- Dạ có hai mẹ con. Cháu Jimi (quay lại với Kim), cháu lớn lắm rồi cô Kim ạ. Cháu đi học và nói thạo tiếng Anh rồi!

Quế Lan lấy tay che đôi má ửng hồng và nụ cười ý nhị của mình.

- Chị Vân có biết anh Nhân chồng chị Lan không ạ?

- Nhân nào nhỉ?

- Đại tá cảnh sát Hoàng Quý Nhân!

- À… chị nhớ ra rồi, Cái cậu đẹp trai có vết sẹo nhỏ ở thái dương bên trái chứ gì. Bọn mình cùng học Sarrut nhưng khác Promotion1 (Khóa học). Mình học trên cật ta hai lớp, sau lại cùng làm ở 2B với nhau. Tên chính của cậu ấy là Lê Trọng Đạo. Hoàng Quý Nhân chỉ là cái lốt giả.

- Chị Vân biết về anh Nhân có khi còn kỹ hơn chúng mình. Chưa chừng anh Nhân có lúc đã là amant1 (Người tình) của chị! - Bạch Kim nói đùa.

- Bậy nào. Nó thuộc loại đàn em? - Mộng Vân cười - Thú thật có lúc mình đã là người tình của bố hắn, M. Lê Trọng Trình.

Cả ba cùng cười vui vẻ. Nửa giờ sau họ chia tay nhau.

Chiều hôm đó lợi dụng lúc Mlle Mộng Vân bận chờ tin bên máy điện thoại, Bạch Kim đi dạo phố một mình. Cô đến khu Kow - Loon tìm một cửa hàng sách cũ. Sau một hồi quan sát cái giá sách, cô hỏi người bán hàng:

- Thưa ông tôi muốn tìm một cuốn thơ Đỗ Phủ xuất bản từ xưa nhất mà ông có.

Người bán hàng già nhìn cô từ đầu đến chân rồi hỏi lại:

- Bà có vừa lòng với cuốn xuất bản vào triều Thanh, năm 1792 không? Chỉ có hai bài bị mất. Tôi phải chép tay dán vào.

Bạch Kim cầm cuốn sách ông già đưa cho. Cô xem qua rồi nói:

- Phần chép tay của ông hình như sai mất ba chữ.

- Dạ có nhiều dị bản. Tôi ghi theo cưốn của Nam Hải Tùng Thư xuất bản năm 1846. Nếu bà ưng xin mời vào trong phòng ta thỏa thuận giá cả.   

- Dạ.

Bạch Kim theo ông già vào phía trong. Một căn buồng nhỏ chất đầy những sách báo cũ. Chờ ông già khép cửa lại cô mới rút ra tấm ảnh đưa ông xem. Ông già cẩn thận lấy chiếc ảnh thứ hai đặt sát lại bên nhau rồi lấy kính lúp soi. Thấy mép cắt trùng khít ông mới cười vui vẻ bảo Kim cất ảnh đi và bắt đầu nói chuyện:

- Đồng chí gặp tôi có việc gì?

- Cháu muốn nhờ bác chuyển giúp bức mật điện về nhà có được không ạ.

- Được chứ nhưng không quá một ngàn chữ. Đồng chí có ở đây chưa?

- Dạ chưa. Cháu phải chờ tình hình ngày mai đã.

- Có cần tôi giúp thêm việc gì nữa không?

- Bác có biết Vương Phúc Đạt là người thế nào không ạ.

- Ai chẳng nghe tên ông ta. Vương sinh năm 1920 ở Quảng Đông. Cao một mét sáu bảy đầu hói, mắt cận thị, mũi gồ, vành tai hẹp. Một nốt ruồi ở giữa nhân trung. Tốt nghiệp trung học Quế Lâm. Tham gia cách mạng 1 939. Chính ủy trung đoàn trong chiến tranh Triều Tiên sau là chính ủy sư 42 Giải phóng quân nhân dân. Năm 1965 vụ phó vụ tổ chức Bộ Ngoại giao, rồi vụ trưởng An ninh đối ngoại. Thất sủng với Mao bị Hồng vệ binh cho đi cải tạo khổ sai. Mới được phục hồi và hiện là cố vấn cho tổng bộ Hoa kiều Hải ngoại. Ông ta thường có mặt ở Hồng Kông.

- Có thể ngày mai có cuộc họp mặt giữa Vương Phúc Đạt với Mộng Vân, ủy viên thường vụ của Liên minh Việt Kiều Hải ngoại, một tổ chức phục thù mới được đẻ ra ở Mỹ. Họ đang đi tìm kiếm sự ủng hộ của các giới phản động quốc tế thù địch với Việt Nam, để thực hiện chủ trương làm chảy máu liên tục Tổ Quốc ta. Tiến sĩ Price, một yếu nhân của Bộ Ngoại giao Mỹ, người chủ trương đến cùng tăng cường mối quan hệ Trung-Mỹ, phụ tá của cựu Tổng thống Nixon và Kissinger về các vấn để Trung Quốc đã có mật thư giới thiệu Mộng Vân với Vương Phúc Đạt thông qua một nhân vật thứ hai. Ông này là Hứa Vĩnh Thanh, tư bản Hoa kiều Chợ Lớn có vị trí quan trọng trong các cuộc môi giới chính trị. Có lẽ Hứa cũng tham gia cuộc họp với tư cách trợ tá cho Mộng Vân hoặc là phiên dịch gì đó. Không rõ nội dung cuộc họp đề cập đến những vấn đề gì và sự thỏa thuận của họ đến đâu. Cháu mới đến đây, đơn thương độc mã, không biết làm sao tiếp cận được họ.

Ông già chủ hiệu sách cũ không trả lời ngay, vẻ mặt trầm tư, ít phút sau ông mới nói:

- Địa điểm gặp mặt có thể dự đoán được. Họ thường hay tiếp khách tại cơ quan xử lý thường vụ của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ở 8 Li-sow Street. Nhưng tiếp cận họ rất khó vì nó được canh phòng cẩn mật. Có hệ thống báo động chống ngoại nhập, có tường cách âm chống nghe trộm. Nhân viên phục vụ cũng không được phép ra vào tự nhiên mà phải theo những quy tắc chặt chẽ. Ở đây về mặt công khai chỉ là nơi tiếp xúc với những cá nhân hoặc tổ chức Hoa kiều Hải ngoại, nhưng thực ra là đầu mối thu lượm tin tức tình báo, truyền mật lệnh cho thuộc hạ, nơi ký kết những mật ước chính thức và bán chính thức. Về phần tôi, tôi sẽ cố gắng theo dõi. Nhưng chị cũng cứ chủ động theo kế hoạch của mình.

- Dạ, cháu đi Hồng Kông cùng với Mộng Vân. Hai người ở chung buồng 120 Khách sạn Auriga. Nhưng Mộtng Vân là một gián điệp già đời rất khó moi nổi những tin tức mà chị ta cần giữ.

- Hay là thế này vậy... - ông già thì thầm vào tai Bạch Kim một kế hoạch tuy không có độ tin cậy cao nhưng còn hơn là bó tay.

Bạch Kim đồng ý với ông. Ông gọi cô con gái trong nhà ra để hai bên gặp mặt nhau.

- Đây là con gái tôi. Chị em làm quen đi để tôi phân công nhiệm vụ...

- Mười phút sau Bạch Kim ra khỏi hiệu sách, trở về khách sạn.

Mộng Vân vẫn ngồi hút thuốc lá dáng điệu nôn nóng:

- Em đi đến những đâu?

- Dạ, cũng quanh quẩn mấy siêu thị gần đây là đủ hết giờ rồi. Không có người quen hướng dẫn nên em cứ lang thang gặp chỗ nào hay hay lại đứng ngắm. Nhưng cuối cùng cũng chẳng mua thứ gì.

Hai chị em đang trò chuyện thì chuông điện thoại réo vào Mộng Vân chộp lấy ống nghe. Chị ta đã nhận ra tiếng Hứa Quế Lan ở đầu dây bên kia.

- Chị Mộng Vân ạ, ba em đã chuẩn bị tiếp chị. Sáng mai đúng tám giờ mời chị qua chỗ em, chị nhé. Em sẽ đưa chị đi.

- Xin cảm ơn. Em nói lại với ba là chị Mộng Vân sẽ đến đúng giờ! Goodbye!

Mộng Vân bỏ máy xuống quay lại vui vẻ nói với Bạch Kim:

- Mai chị sẽ đến công ty xuất nhập khẩu Greed Wall để tìm hiểu thị trường. Có chuyện gì chị sẽ kể cho em nghe. Công ty này doanh số xuất khẩu mỹ phẩm, hàng dệt hàng năm sang Mỹ tới trên một trăm triệt đô-la đấy.

- Em chẳng biết sau này buôn bán ra sao, nhưng trong chuyến du lịch này ta phải mua vài thứ lặt vặt làm kỷ niệm chứ ạ.

- Em thích gì thì mua ngay đi kẻo về Mỹ rồi lại tiếc. Tối nay chị em mình đi chơi nhé!

- OK!

Tối hôm đó Mộng Vân và Bạch Kim đến siêu thị Asiatic. Họ dừng trước quầy mỹ phẩm. Bạch Vân muốn mua hộp son môi loại đắt tiền. Cô gái bán hàng vui vẻ đưa cho họ xem hai loại Super quality. Bạch Kim mua mỗi thứ một hộp.

- Em mua làm gì làm thế?

- Em biếu chị một hộp. Chị dùng quen những siêu phẩm của Pháp, nay thử dùng của Hồng Kông xem sao!

- Cám ơn em.

Hai người dắt nhau đi. Thấy Kim không mang túi cứ phải cầm hai hộp sáp Mộng Vân khẽ nhắc:

- Đưa chị bỏ vào túi cho. Em cứ khư khư hai cái hộp trông "nhà quê" quá.

- Em quên mang cái "xắc" chị cất giúp em.

Bạch Kim nhét mấy thứ vào túi phụ bên ngoài của cái xắc Mộng Vân đang đeo. Họ mua thêm vài thứ lặt vặt rồi trở về khách sạn.

Trước khi đi ngủ thấy Mộng Vân chích ma túy, bỗng nhiên Bạch Kim xin chị chích thử cho một mũi. Nhưng khi Mộng Vân lấy tiếp ống thuốc để tiêm cho cô thì Bạch Kim lại rụt tay lại, thay đổi ý kiến. Có lẽ vì tiếc ống thuốc nên Mộng Vân không ngần ngại chích tiếp cho mình liều thứ hai. Cơn phấn khích tăng lên gấp bội. Mộng Vân ôm lấy Bạch Kim như cuồng dại. Mười một giờ đêm chị ta mệt mỏi ngủ thiếp đi... Tám giờ kém mười lăm phút sáng hôm sau Bạch Kim mới đánh thức. Chị ta vội vàng trang điểm qua loa, xách cái túi đến nhà Quế Lan. Hứa Vĩnh Thanh đã đợi Mộng Vân ở đây. Họ đi xe đến Li-sow street. Vĩnh Thanh trao cho chị tấm giấy giới thiệu giả với cái tên Xuy Kin Ling Hoa kiều ở Pháp về thăm Tổ Quốc để che mắt người gác cổng.

Vương Phúc Đạt ra tận tiền sảnh đón Mộng Vân. Ông ta giơ cả hai bàn tay ra bắt tay người khách lạ với dáng điệu vồn vã đặc biệt. Ba người vào trong nhà và cánh cửa đóng kín lại...

Chiều hôm đó Mộng Vân mới trở về, mặt đỏ bừng sặc mùi rượu Mai Quế Lộ. Chị ta lăn ra ngủ. Bạch Kim nhẹ nhàng đánh tráo hộp son thứ ba vào vị trí hộp son đặc biệt nằm trong túi phụ chiếc xắc của Mộng Vân. Cô con gái ông chủ hiệu sách đã nhận lại hộp son đặc biệt này ở cầu thang máy.

Hôm sau nhân lúc Mộng Vân tiếp một bạn hàng của mình, Bạch Kim lịch sự tạm lánh mặt. Cô đến chỗ người bán sách cũ. Chiếc máy ghi âm đặt trong hộp son đã phát lại toàn bộ cuộc mật đàm giữa Vương Phúc Đạt với Eugénie Mộng Vân. Bạch Kim tóm tắt những vấn đề lớn để điện về cho Trung tâm nghiên cứu, khi mà cuốn băng chưa kịp chuyển.

Thứ nhất. Phía Trung Quốc nhận định rằng Việt Nam đã ngả về phía Liên Xô, phản bội lợi ích của Trung quốc. Việc Mỹ rút khỏi Đông Dương tạo ra sự chênh lệch cán cân chiến lược ở vùng Đông Nam Á có lợi cho Liên Xô. Trung Quốc chưa đủ hải lực để lấp nói cái lỗ hổng này vì vậy chính sách của Trung Quốc là: Mỹ một siêu cường ở Thái Bình Dương thì việc duy trì sự có mặt của họ ở Tây Thái Bình Dương lúc này là tuyệt đối cần thiết.

Thứ hai. Vì lợi ích chiến lược song song nên hai bên có chăng một mục tiêu là: Kiềm chế làm suy yếu Việt Nam, buộc Việt Nam phải tách khỏi ảnh hưởng của Liên Xô. Vì vậy Trung Quốc sẽ cắt mọi khoản viện trợ, xóa bỏ mọi hiệp định thương mại, sẽ bao vây phong tỏa kinh tế bàng cách cắt đường xe lửa quá cảnh. Dùng đạo quân thứ năm gây mất ổn định bên trong, giúp đỡ cam-pu-chia dân chủ chống lại tiểu bá Việt Nam.

Thứ ba. Trung Quốc sẽ ủng hộ mọi lực lượng, mọi xu thế nào đang hoạt động chống lại tiểu bá Việt Nam dù họ không cùng chung lý tưởng xã hội chủ nghĩa với Trung Quốc. Trung Quốc hoan nghênh nhiệt liệt sự ra đời của Mặt trận Tự do và Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Ngay trong điều kiện chưa có sự công nhận lẫn nhau chính thức phía Trung Quốc sẽ cố gắng giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho cái tổ chức trên. Những phương án viện trợ sẽ được phía Trung Quốc cứu xét khẩn cấp.

Thứ tư. Cuộc hội kiến giữa ủy viên thường vụ cơ quan An ninh đối ngoại Trung Quốc Vương Phúc Đạt với bà Mộng Vân đại diện cho lực lượng cách mạng chân chính của Việt Nam là bước khởi đầu cho những kế hoạch hợp tác cụ thể to lớn và lâu dài trong tương lai. Hai bên mong muốn phát triển quan hệ láng giềng thân thiết giữa hai quốc gia có nhiều điểm chung về lịch sử và văn hóa. Bà Mộng Vân cũng thay mặt cho những người yêu nước Việt Nam cảm ơn sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với sự nghiệp đấu tranh chống tiểu bá của mình. Bà đánh giá cao sự hợp tác chiến lược Trung Mỹ ở vùng Tây Thái Bình Dương...

Hà Nội đã nhận được bức điện trên. Nó chỉ khẳng định thêm những dự báo của cơ quan tham mưu chiến lược. Về những hành động cụ thể của sự câu kết còn phải được tìm hiểu sâu hơn nữa. Đại tá Nguyễn Hữu Đức chí thị cho Bạch Kim chuyển ngay cuốn băng từ về nước càng sớm càng tốt. Đồng thời ông cũng ra lệnh cho cô cháu phải tìm được đường dây liên hệ cụ thể giữa các tổ chức bên ngoài và bọn phản động nội địa. Mệnh lệnh đó buộc Bạch Kim phải nghĩ đến chuyện cần có một cơ sở lâu dài ở Hồng Kông dưới một hình thức kinh doanh nào đó.

Mộng Vân đã thông báo cho Bạch Kim biết có những khả năng đầu tư ở thị trường Hồng Kông. Có thể tham gia cổ phần với công ty xuất khẩu hàng dệt. Lãi xuất ổn định và có lợi hơn nhiều so với gửi ở ngân hàng Pháp.

Một công ty lắp ráp hàng điện tử Nhật Bản cũng đang phát triển nhanh, có khả năng cạnh tranh với nhiều nước châu Âu... Nhưng tất cả những cách làm giàu đó không thể đạt tốc độ một lãi một như món bạch phiến.

- Thằng Tomado-le Loup hôm qua đến thăm chị đó. Nó có thể làm được mọi việc nếu chúng ta muốn!

- Trông ông ta đến phát sợ lên được?

- Hình hài nó thoạt nhìn dễ sợ, nhưng đối với chị nó là con thú được thuần dưỡng rất đáng yêu. Nó chỉ cắn xé người khác thôi, nhưng biết vâng lời chủ?

- Ông ta già rồi! - Bạch Kim cười - Lông mày dài như lá cỏ rủ xuống hai hố mắt sâu như lang chồn. Mũi gồ, râu ria hoang dã. Cái đầu hói đến tận gáy. Cái trán dô, nhẵn bóng như sừng. Còn răng hình như đã rụng nhiều...

- Tất nhiên là về chuyện làm tình hắn không còn hấp dẫn như con trai, Nhưng em không nên coi thương sức mạnh của hắn. Sức mạnh con người đặt trong bộ óc của nó. Cơ bắp yếu có thể nhờ vào công cụ. Một con dao sắc vượt xa sức mạnh của quả dấm. Không một cơ thể nào chịu nổi sức xuyên của viên đạn. Hai kẻ có vũ khí tương đương thì sự thắng bại thuộc về kẻ tinh ranh. Ngoài vòng pháp luật Tomado khôn ngoan gấp chục lần kẻ khác. Sinh ra ở đảo Malta trong một gia đình nghèo Tomado đến Rome làm nghề chào hàng lang thang. Chiến tranh thứ hai Tomado là lính thuộc trung đoàn xung kích số 7 của Mussolini. Cuộc chiến gần kết thúc y lẩn trốn vào vùng du kích, sau đó y gia nhập một băng cướp ở Naples nhiều lần can tội giết người. Năm 1960 Tomado bị bắt và lãnh án khổ sai chung thân. Đồng đảng của y đã bắt cóc một du khách, con một nhà tỷ phú người xứ Ecosse. Cuộc trao đổi bí mật diễn ra. Tomado được cứu khỏi nhà tù. Y chuyển địa bàn làm ăn sang Pháp với cái căn cước giả do cảnh sát Naples cấp. Chị đã quen hắn trong một vũ hội ở Cannes. Hắn mê chị. Hắn đã chuyển cho chị mấy chuyến hàng sang Chicago thật hoàn hảo. Năm 1965 Tomado rủ chị sang Brésil, chị không theo vì lúc đó chị đã chuyển sang bắt bồ với Alain Rossino một tay Mafia đồng thời là võ sĩ quyền Anh loại lông, một tên đẹp trai và giàu có, một kẻ ăn chơi có tiếng ở Paris. Chiến tranh Việt Nam giúp cho bọn buôn ma tuý có nhiều cơ hội làm ăn ở Viễn Đông. Tomado sang Thái Lan sống rất tài tử. Y làm cho các connections không phải để làm giàu mà có thể vì muốn được mạo hiểm, được chiến thắng, được hiến dâng cho một người đàn bà nào đó. Biết bao lần chị tưởng hắn đã chết vì những hành động liều lĩnh nhưng không biết có quý nhân phù trợ hay sao mà Tomado-le Loup luôn luôn kịp rụt đầu trước lưỡi hái của tử thần. Hôm qua y đến đây ngỏ ý muốn giúp chị, nhưng chị chẳng còn vốn nữa. Nếu em trao cho hắn mười nghìn... tháng sau em sẽ có gấp rưỡi số đó ở ngân hàng Manhattan!

- Em đâu có quen ông ta. Một sự cộng tác như thế bao giờ cũng phải kèm theo điều kiện.

- Dĩ nhiên. Chị sẽ giới thiệu. Chị già rồi, chị khánh kiệt rồi, nay "đem duyên chị buộc vào duyên em". Hắn sẽ coi em như Nữ thần bảo mệnh cho hắn. Hắn chỉ cần một đặc ân được quì dưới chân em để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang dã, cái vẻ đẹp hoàn toàn tự nhiên không che đậy của em thôi. Sau đó em bảo hắn nhảy vào lửa hắn cũng nhảy.

- Nhẹ nhàng thế thôi hả chị? - Bạch Kim cười vui ve.

- Thế thôi. Nếu em bằng lòng, chị gọi điện thoại ngay cho hắn.

- Vội vàng quá chị ạ. Em phải về Los Angeles để thu xếp tiền nong đã chứ. Ít ra thì cũng phải làm quen nhau vài lần... Mà đã chắc gì ông ta coi em như thần Vệ nữ ở Milan mà thèm ngắm?

- Em đẹp lắm. Đến chị còn muốn ngắm nữa là Tomado-le Loup!

Bạch Kim đỏ mặt vì xấu hổ.

- Trước mắt em phải lo chuyện kinh doanh hợp pháp đã. Hàng dệt có thể là một mục tiêu hấp dẫn...

CHƯƠNG VIII

CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI THỢ CHỮA MÁY NƯỚC

Hoàng Quý Nhân đang đứng trước một mối lo lớn. Tình hình tổ chức mở rộng cần đến những khoản chi lớn. Warrens đã hứa tài trợ cho mọi hoạt động của lực lượng trong nước, nhưng đó mới chỉ là những ngân khoản được thông báo qua những bức mật điệp. Quý Nhân yêu cầu CIA chuyển số tiền đó vào ngân hàng cho y, còn y sẽ bỏ tài sản riêng còn đọng ở trong nước ra chi phí cho công vụ. Nhưng CIA lại đòi phải có chứng từ mới thanh toán hợp pháp được. Điều này làm cho Quý Nhân tức điên lên. Y điện cho Warrens là nếu Mỹ không tin thì y sẽ bỏ mặc bọn đàn em "chết đói". Cuối cùng Warrens phải nhân nhượng. Hắn sẽ tạo ra những phép thuật để đều đặn chuyển tiền vào tài khoản của Nhân ở Thụy Sĩ và ở Italia. Warrens cũng hối thúc Nhân nhanh chóng chuyển cho y món hàng mà Bảy Dĩ đã hứa.

Quý Nhân đã khôi phục được một màng lưới xuống đến một số tỉnh ven biển. Y thiết lập mật cứ Anpha để khi cần có thê rút vào bí mật hoàn toàn trong những điều kiện bất lợi. Bây giờ y phải tính chuyển cái kho báu chôn sân trong vườn biệt thự Vie du Château. Lili ở trong trạng thái tâm thần rồi nên y có thể mang về chôn ngay tại nhà này mà không sợ lộ.

Một buổi chiều Hoàng Quý Nhân đi bộ lảng vảng trước tòa biệt thự. Y nhổ nước bọt khi nhìn thấy tấm biển làu xanh với hàng chữ tươi mát: “Nhà trẻ Chim non" treo trên nóc cổng. Y chờ đến giờ tan tầm. Cùng với những bậc cha mẹ đến đón con. Quý Nhân trà trộn vào đám đông. Y đã đến khu vườn có giấu cái kho báu. Sân chơi đã làm nhẵn lì đám cỏ dưới gốc cây trắc bách diệp. Cách đấy vài chục mét người ta bắc dãy vòi nước cho các cháu rửa tay trước khi vào nhà ăn. Quý Nhân vờ như đang chờ con để xác định lại vị trí chôn giấu của quý. Tấm bản đồ nhỏ xíu ghi cẩn thận các vật chuẩn để đã đào là trúng. Sau đó y bước theo vài đưa trẻ em nhà ai đó và ra cổng đi thẳng.

Đi một đoạn ngắn y bỗng thấy một người thợ chữa máy nước đang dùng bàn ren, ren ống nước cạnh cái hố tiêu nước vỉa hè. Quý Nhân liền quay lại, la cà ngồi xuống bên người thợ vui vẻ hỏi:

- Chào cậu! Hồi này sao nước non trục trặc quá vậy cậu?

- Chuyện chi anh Hai?

- Tôi là thứ Năm. Tôi ở lầu ba mà nước lúc lên lúc không. Tôi muốn đặt chiếc máy bom 1KW. Cậu có thể làm giúp được không?

- Sao lại không, anh năm. Nghề bọn em mà.

- Nhà riêng cậu ở đâu, tối tôi lại ta bàn tính giá cả.

- 51/7D Đinh Tiên Hoàng. Anh Năm hỏi thằng Hai Tân.

Quý Nhân ghi địa chỉ, đặt điếu thuốc 555 lên miệng người thợ rồi bật lửa.

Tối hôm đó Nhân phóng Honđa tới Hai Tân.

Tôi đưa cậu đến xem địa thế rồi mới tính được Hai Tân ngồi lên sau xe nhưng Qnỷ Nhân không đưa về nhà mà rẽ vào quán nhậu.

- Anh Năm muốn bàn cách làm ăn với chú em. Trước hết ta phải nâng ly kết ngãi đã.

Hai Tân chưa tường công chuyện làm ăn, nhưng được mời thì cứ nhậu chơi. Ăn uống xong Nhân đưa người thợ trẻ ra ngồi ngoài ghế đá bên sông Sài Gòn.

- Chú em phụ trách sửa chữa nước khu Đồn Đất?

- Dạ.

- Chú em có thể làm tắc nước một ngôi nhà nào đó ít ngày được không?

- Dạ đâu có khó. Đảm bảo có nước mới khó chứ làm tắc thì chỉ cần đóng van là xong liền.

- Sau đó sở nước sẽ gọi chú em đi chữa. Nhưng chú em không tìm ra sự ngắt dòng từ bên ngoài mà phải tìm sửa bên trong. Được không?

- Dạ được chớ!

- Nhà đó lại không có sơ đồ ống dẫn, mà nhu cầu nước thì rất khẩn cấp. Thí dụ như một công sở, một bịnh viện chẳng hạn, nước còn quan trong hơn gạo. Lúc đó chúng ta sẽ đưa ra một kế hoạch: phải thăm dò. Họ chịu chớ?

- Dạ không còn bản đồ thì chỉ có cách đào thăm dò.

- Dĩ nhiên là họ phải trả công đào cao cho chúng ta.

- Trời đào bới cực lắm anh Năm ơi? Thằng em ngán thấy mồ chuyện đó. Mà cuối cùng họ có trả cho mình mấy tiền bạc. Không bõ!

- Trời, thằng em hiền quá. Việc đó để anh Năm nhận làm thuê cho chớ. Cậu cứ việc ngồi chơi. Anh Năm đào vờ vịt thôi. Vài bữa chú em mở van, thế là chú em có tiền xài. Anh Năm đây cũng đỡ thất nghiệp!

- Em chưa tính làm ăn kiểu này bao giờ!

- Chỉ có sự khôn ngoan mới giúp ta khỏi đói. Tiền của Nhà nước thôi mà, có thấm chi? Ta làm thử coi. Cứ một "phi vụ” như vậy anh chi chú em năm ngàn, còn bao nhiêu mặc anh. Chịu chớ?

- Dạ. Ta tạm thử một vụ xem sao anh Nam à. Anh định nhằm vào nhà nào.

- Cái nhà gần chỗ chú sửa bữa qua đó. Nhà trẻ "Chim non". Nhà trẻ mà thiếu nước một ngày là không chịu nổi đâu.

- Tội bọn trẻ quá!

- Cũng tội, nhưng người ta phải cho xi-téc chở nước đến. Ta chỉ "chữa" sau 36 giờ. Nếu cần ta vờ làm cả đêm. Ưng chưa?

- Dạ được, nhưng ta bắt đầu vào lúc nào.

- Vào đêm thứ năm. Sáng thứ sáu họ phải kêu nhà máy nước. Chiều thứ sáu chú em đến chữa không xong. Sáng thứ bảy phải thuê đào thăm dò. Chú em cứ báo cáo với trạm cấp nước là đang sửa gần xong. Anh sẽ làm cả đêm thứ bảy hoặc nếu cần kéo qua chúa nhựt. Bọn trẻ chỉ khó khăn một ngày thôi vì thứ sáu trong sa-tô-đô thế nào cũng còn chút ít...

Sau một chầu nhậu nữa chúng mới chia tay nhau.

Phó chủ tịch quận, chị Năm Ngân phải chuẩn chi một khoản tiền bất thường để chữa đường dẫn nước cho nhà trẻ Chim Non. Mất bản đồ đường ống nên công việc trở nên phức tạp. Người nhận đào thăm dò cũng chỉ xin một số công vừa phải vì ông ta coi việc này như là nghĩa vụ đối với mầm non đất nước.

Sau bữa cơm chiều chị Năm đạp xe đến nhà trẻ Chim Non xem công việc sửa chữa tiến hành đến đâu. Tối thứ bảy nhà trường vắng ngắt. Chỉ có gia đình bà gác cổng sống ở gian buồng bên cạnh phòng thường trực là có mặt đông đủ. Các phòng học đều tắt đèn và khóa của. Chị Năm đi ra vườn sau, người ta đã bắc ra đây ba ngọn điện sáng trưng để làm cả đêm. Chị thấy chiếc xích lô máy chất dụng cụ đào bới đỗ ở giữa sân. Chỉ có một người thợ đang lúi húi đào sau gốc cây trắc bạch diệp. Lá cây che mất ánh đèn nên chị chỉ nhận ra người thợ khi nghe thấy tiếng xẻng đào hối hả. Khi phát hiện có người vào người thợ ngừng tay nghe ngóng.

- Bác ơi, chỉ có mình bác làm thì bao giờ mới chữa xong?

- Dạ còn có chú hai nữa ạ. Chú làm cùng với tôi! - Người thợ cười để lộ hàm răng trắng trong bóng cây - Thưa bà, xin bà thông cảm cho tuổi trẻ. Tối thứ bảy chắc cậu Hai còn đi nhậu, đi chơi chút xíu. Có lẽ độ tám giờ mới đến. Dạ tôi cứ làm trước, việc nặng nhọc này tôi quen hơn. Cậu Hai thì chuyên về thông lắp đường ống.

- Liệu có hoàn thành trong ngày mai để sớm thứ hai xắp nhỏ có nước cùng được không ạ.

- Dạ bọn tôi sẽ ráng hết sức. Chưa thể hứa với bà được vì hệ thống nước trong nhà này quá phức tạp. Cứ phải lần từng bước. Xin bà cứ an tâm. Anh em tôi sẽ mần suốt đêm.

Thấy thái độ nhiệt tình của người thợ, chị phó chủ tịch cũng tin tưởng. Chị nói với bà gác nhà chuẩn bị nước uống đầy đủ cho những người thợ làm đêm rồi đạp xe về nhà.

Ngôi nhà tắt đèn nên chị đoán anh Hai chưa về, Năm Ngân mở cửa dắt xe vào tự nhiên thấy chóng mặt nôn nao. Chị đóng cửa rồi lần vào nằm xuống đi-văng. Chị cố nôn, nhưng không nôn được, mồ hồi toát ra, mệt mỏi, hơi thở đứt ra từng đoạn. Chị mỉm cười sung sướng vì những biến chuyển trong cơ thể mấy ngày gần đây. Niềm hạnh phúc sắp được làm mẹ hiện rõ trên khuôn nhặt xanh tái. Giá như lúc này có anh Hai ở bên, hỏi han chăm sóc chị... Năm Ngân bỗng thấy tủi thân, hai giọt nước mắt lăn xuống gối. Tâm tính chị cứ đổi thay, buồn vui bất chợt, dễ xúc động như vậy. Một lúc sau chị thấy dễ chịu hơn. Chị lại thu dọn nhà cửa. Chị thấy mảnh giấy nhỏ Hai Bền viết vội để lại trên bàn.

“Anh về ăn không thấy em. Ăn xong anh lại phải đến cơ quan có việc. Em cứ khoá cửa nghỉ trước đi. Khi về anh tự mở, không phải chờ anh. Hôn em".

Nhưng Năm Ngân đâu có ngủ được. Chị buông màn nằm thao thức mãi.

Đồng hồ điểm mười hai tiếng chị mới nghe tiếng xe Honda quen thuộc tắt máy ngoài cửa. Tiếng mở khóa và ánh đèn buồng ngoài bật sáng. Hai Bền rón lén đi vào toa-lét. Năm Ngân xoay mặt vào trong thở nhè nhẹ. Thay quần áo xong Hái Bền len lén đến nằm sát xuống bên vợ.

- Đi chơi đâu, bộ vui lắm sao mà mười hai giờ mới về?

- Đâu có thì giờ đi chơi!

Thực tình anh đang phải bù đầu vì một vụ việc mới. Giám đốc tổng kho vật tư chiến lược của khu vực phía Nam mất tích với một số tài liệu quan trọng. Bên Công an coi vụ này vượt ra ngoài mục đích kinh tế và liên quan nhiều đến quân sự nữa. Vì vậy hồ sơ được chuyển sang cơ quan tình báo quân sự để phối hợp điều tra. Cấp trên giao cho anh nghiên cứu để sáng thứ hai báo cáo. Thế mà vợ chẳng thông cảm cho chồng.

Anh nghe tiếng chị khóc thút thít.

- Để mặc người ta một mình đau tưởng muốn chết! - Giọng chị lạc đi, chị òa lên khóc.

- Đau sao? Anh đâu có biết, anh xin lỗi - Anh đặt tay lên trán chị - Mát thôi!

- Chỗ khác kia!

- Chỗ này à?

...

- Chỗ này? ... Hay đây?

Chị bật cười, đấm vào lưng chồng rồi kéo tay anh:

- Đây nè!

- Đau bụng à, để anh lấy thuốc cưng uống nghen.

- Anh chẳng biết gì cả, bịnh này đâu có xài được thuốc.

- Sao em?

- Em đau nghén đó.

- Trời ơi! Sao bữa nay em mới báo tin cho anh.

- Sợ anh mừng hụt, em đợi thiệt chắc chắn mới báo!

- Ôi anh vui quá, hạnh phúc quá!

Anh ôm lấy chị như muốn bế bổng chị lên.

- Đừng! Đừng làm thế anh, phải kiêng đấy. Ôi phải thiệt nhẹ nhàng, thiệt nhẹ thôi.

- Đã thế mà buổi tối còn đi đâu?

- Em đến nhà trẻ Chim non.

- Tối thứ bảy đến đấy làm chi?

- Nhà trẻ mất nước hai ngày rồi. Không có bản đồ ống dẫn phải thuê thợ đến đào thăm dò chỗ tắc. Nhà trẻ trọng điểm của quận, hơn ba trăm cháu nhỏ, không có nước chịu sao nổi. Em đến chỉ thấy một ông thợ đào bới tùm lum ngán quá.

- Một ông thợ đào bới tùm lum?

- Dạ.

- Mặt mũi ra sao?

Năm Ngân cười.

- Anh bị mắc bịnh nghề nghiệp hay sao mà nói đến ai cũng phải mô tả nhận dạng.

- Có cái gì đó làm anh nghĩ đến Hoàng Quý Nhân.

Hai Bền bật dậy. Anh quay điện thoại. Khi đầu dây bên kia lên tiếng hỏi thì anh bỗng ngần ngại.

- À, tôi Bền đây. Bảo cậu Lê đến nhà trẻ Chim Non gặp tôi ngay nhé. Nhớ mang theo súng và con Miki.

Hai Bền quay lại nói với vợ:

- Em chịu khó ở nhà một mình nhé. Có chuyện chi anh gọi điện về.

Nói xong anh phóng xe máy đi ngay.

Đến cửa nhà trẻ không thấy đèn sáng trong vườn. Anh gõ cửa, bà gác cổng mắt nhắm mắt mở hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Mấy ông thợ chữa máy nước còn làm việc không.

- Họ về nghỉ lâu rồi.

- Bà cho tôi vô. Có công vụ mà.

- Ông là ai?

Hai Bền đưa chiếc chứng minh thư qua khe cửa. Vừa lúc đó chiếc xe Gíp của Lê phóng đến. Lê nhảy xuống cùng con Miki. Bà gác cổng mở cửa cho họ vào.

- Có chuyện gì anh Hai?

- Mình kiểm tra một giả thuyết thôi. Nhưng cẩn thận giữ nguyên hiện trường.

Bà gác cổng bật đèn làm cho khu vườn sáng trưng. Hai Bền cùng Tư Lê dắt con Miki đi qua từng hố đất. Khi đến bên cây trắc bạch diệp, con chó bỗng sủa váng lên. Họ nhìn thấy trên mặt đất có hai chiếc vỏ chai. Con Miki xông đến bên cái hố vừa dùng chân bới lộn vừa sủa. Nó hít mạnh rồi sục mõm xuống hố đất.

- Miki nằm im!

Con chó ngoan ngoãn nằm tại chỗ quay đầu lên nhìn chủ bằng đôi mắt ướt, cái đuôi vẻ vẩy rất vui vẻ.

- Cậu vào gọi điện cho anh Định bên Sở Công an xin một chuyên gia về hiện trường, một chuyên gia về vũ khí đến ngay. Đề nghị anh cho lệnh giữ lại tất cả những xe cộ, nhất là xích lô máy đi trên đường trong giờ này.

- Rõ.

Mười phút sau chiếc xe chuyên dụng của cơ quan điền tra hình sự đưa hai chuyên gia và các phương tiện đến. Họ lần lượt chụp ảnh hiện trạng rắc bột lên vỏ chai, chụp dấu giầy dép, vết lốp xe.

Cuộc đào bới vùng đất được tiến hành thận trọng theo hướng đánh hơi của Miki. Dưới ba chục phân, họ phát hiện ra chiếc dép rồi cả bàn chân và toàn bộ xác người đàn ông mới chết còn nguyên vẹn, vừa bị vùi lấp sơ sài. Họ nhận ra người thợ chữa máy nước Trần Văn Tân.

- Mình chậm mất rồi! - Hai Bền thất vọng và bực tức thốt lên.

Ba giờ làm xong biên bản và thu dọn hiện trạng. Anh trở về Sở công an để nhận định sơ bộ vụ án, rồi quay về cơ quan mình báo cáo lại tình hình cho đại tá Nguyễn Hữu Đức.

- Chẳng lẽ nó cứ tự do tác yêu tác quái, còn chúng ta chỉ có việc đến thu dọn hiện trường cho nó hay sao?

Đại tá tỏ vẻ bực tức. Từ công tác tình báo nay ông chuyển sang chỉ đạo cả công tác phản gián, ông cảm thấy rất nhiều khó khăn, lúng túng, bị động. Đúng là trình độ chưa theo kịp tình hình. Ông chợt nghĩ: Nếu chỉ phòng ngự thôi thì sẽ luôn luôn bị kẻ địch chọc thủng lưới. Phải tiến công, nghĩa là phải lấy công tác tình báo khám phá địch để hỗ trợ cho công tác phản gián. Mặt này mình vốn có kinh nghiệm vốn có thế mạnh mà giờ đây mình chưa biết kết hợp...

Ông cho phép Hai Bền về nghỉ đến mười giờ rồi sẽ làm việc tiếp.

Chị Ngân cứ ngong ngóng chờ chồng nhưng không thấy. Chị phấp phỏng nhưng chưa dám gọi điện đến cơ quan anh để hỏi tình hình. Sáng ngày mới thấy anh về. Chị toan trách nhưng nhìn vẻ mặt mệt mỏi buồn bã của anh chị lại thấy thương.

- Tình hình có tốt đẹp không anh?

- Hỏng mất rồi. Anh đến chậm bốn mươi phút nên chỉ còn thấy xác người thợ máy nước. Hung thủ đã tẩu thoát.

- Trời ơi, thợ máy nước nào? Cái ông nói chuyện với em tối qua à?

- Không, chính nó là hung thủ. Cậu thợ này rất trẻ. Mãi mười một giờ cậu ta mới đến làm và nó đã đầu độc cậu ta rồi vùi xác xuống hố.

- Tại sao hắn giết cậu ta?

- Để bịt đầu mối! Nó đã chuyển khỏi đây cái kho báu của nó.

- Kho gì.

- Vàng bạc, kim cương, đá quí... Nhưng cao giá hơn nữa là bộ tài liệu lưu trữ của nó, những thứ rất cần cho chúng ta. Ôi, tại sao anh lại không đoán nổi ra điều này. Suốt mấy năm anh đặc trách theo dõi nó mà anh không tính đến giả thuyết này. Mãi đến lúc em nói đến chuyện "đào bới tùm lum" anh mới chợt hé ra... Bây giờ thì nó lại lẩn sâu vào trong một cái màn bí mật mới.

Thực ra Hoàng Quý Nhân đã nhanh hơn Nguyễn Văn Bền một giờ ba mươi hai phút. Hai mươi giờ mười lăm tối thứ bảy y đã thu dọn toàn bộ kho báu lên chiếc xích-lô máy. Vừa lúc đó thì Hai Tân đến. Cậu ta cũng cốt có mặt chiếu lệ thôi. Nhưng khi nhìn thấy Nhân chất lên xe những hòm bê bết đất thì Hai Tân đã sinh nghi.

- Anh Năm về nghỉ thôi chứ? - Hai Tân hạ thấp giọng - Mấy thứ gì thế này?

- À… anh Năm nhạt quấy thứ đồng nát bậy bạ đó đem về xem có xài được vào việc chi không. Giờ thì anh Năm chia tiền để cậu Hai đi nhậu nghe.

- Dạ.

Quý Nhân đưa cho Hai Tân xếp bạc. Tân cầm lấy nhưng vẻ mặt vẫn chưa thỏa mãn. Hai Tân đoán người cộng tác với y phải kiếm được cái gì hấp dẫn lắm. Y nhìn mấy cái hòm trên chiếc xích-lô một cách thèm thuồng:

- Anh Năm không chia mấy thứ kia cho thằng em sao?

- Có chớ, nhưng chờ bán xong đã. Chia ngay bây giờ sao được!

Y mở một chai bia đưa cho Tân và chai thứ hai cho mình. Hai đứa cụng chai rồi cùng nốc.

Mười giây sau Hai Tân lảo đảo. Nhân đỡ lấy cây thịt và nhẹ nhàng dốc đầu nó xuống cái hố đào sẵn. Hắn xúc vội mấy xẻng đất đắp lên cái xác chết. Nhân nhẹ nhàng mở cánh cổng đẩy xe ra rồi khép lại như cũ. Đạp một đoạn rồi y mới nổ máy phóng về chỗ chiếc Toyota đứng đợi. Lili chờ y ở đây. Y chuyển mấy thứ sang xe Toyota rồi ra hiệu cho Lili lái theo mình. Đến vườn cây Lăng Cha Cả, Quý Nhân chọn một bóng tối quăng chiếc xích-lô máy lại. Y ngồi vào vòng lái thay cho Lili. Y đã về đến nhà trước hai mươi tư giờ. Y cho Lili đi nghỉ với một liều "giấc mộng Hằng Nga" mới. Một mình y thu dọn kho báu chôn xuống mảnh đất trong sân. Xong việc y mới tắm rửa, ăn uống rồi lăn ra ngủ như chết...

Mười bốn giờ sau người ta mới lôi được chiếc xích-lô máy về cơ quan chấp pháp hình sự. Tất cả dấu tay trên cán cuốc, cán xẻng, tay lái đều bị xóa hết. Hung thủ tỏ ra một tay sành sỏi trong thủ thuật phi tang.

CHƯƠNG IX

GIÀNH GIẬT NHỮNG LINH HỒN

Nguyễn Hùng Thắng là người thế nào?

Bản lý lịch ghi: Tên thật là Nguyễn Văn Mẹo, sinh năm 1932. Quê quán xã Đại Cát, huyện Phú Thương, tỉnh Hà Đông. Thành phần cố nông. Cha Nguyễn Văn Mịt (đã chết). Mẹ Hoàng Thị Rõ làm nương. Vợ Lê Thị Kim Thi, giáo viên.

Quá trình hoạt động cách mạng: Đi bộ đội năm 1950. Công tác ở đơn vị vận tải Liên khu 4, Năm 1952 coi kho. Năm 1953 là cán bộ trung đội chỉ huy dân công vận tải xe thồ. Năm 1954 thủ kho Mường Si chiến sĩ thi đua. Cuối năm 1954 Nguyễn Hùng Thắng đi học trường hậu cần rồi trở về làm trợ lý quân nhu sư đoàn. Năm 1958 trưởng ban hậu cần trung đoàn, đi học văn hóa rồi chuyển ngành. Năm 1960 phụ trách kho vật tư K.12. Năm 1965 Phó tổng kho 424B. Năm 1972 Giám đốc công ty cung ứng vật tư K.12. Năm 1965 Phó tổng kho 424B. Năm 1972 Giám đóc công ty cung ứng vật tư cấp 1. Năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hùng Tháng được cử làm quyền Tổng giám đốc tổng kho vật tư chiến lược phía Nam. Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng ba. Huân chương Lao động hạng nhì. Bảy lần chiến sĩ thi đua. Rất nhiều bằng khen, giấy khen. Kỷ lật: Không.

Những nét cơ bản đó cho thấy anh là một cán bộ có quá khứ tốt. Những bước đi đều đặn, chắc chắn và không một điều gì có thể nghi ngờ được anh ta. Vì chuyện Hùng Thắng mất tích, cơ quan an ninh phải cử người về tận quê quán để tìm hiểu thêu. Những người dân làng Đại Cát cho biết một số chuyện ngoài lề bản lý lịch.

Bà Hoàng Thị Rõ mẹ Thắng, thuở trẻ là một cô gái xinh đẹp, nhưng vì là con gái của "thằng mõ" nên trai làng không ai dám lấy. Năm ngoài ba mươi tuổi, cô gái quá thì này đành lấy một ông già tứ cố vô thân làm nghề câu cá bên sông Hồng.

Cách mạng thành công, giải phóng con người đã xóa bỏ tủi nhục, giành lại cho mọi người quyền bình đẳng thiêng liêng. Mẹo được đi học, được đào luyện thành một cán bộ cao cấp của Nhà nước. Đó chính là sự đổi đời thực sự, sự mầu nhiệm của Cách mạng.

Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hùng Thắng trở về làm việc ở thành phố. Cơ quan anh đến tiếp quản một công sở lớn thưộc Bộ Kinh tế ngụy quyền. Tất cả các tiện nghi hầu như còn nguyên vẹn. Người ta vẫn giữ nguyên cảnh trí cũ ngoại trừ vài bức ảnh chụp Tổng thống Thiệu được tháo gỡ đi. Hùng Thắng choáng mắt trước những tiện nghi sang trọng đó. Mặc dù anh ta đã điều hành một cơ quan quản lý những tài sản quý của Nhà nước giá hàng tràm triệu đô-la, nhưng lại thực sự ngạc nhiên và hứng thú trước những hàng tiêu dùng có cái chỉ đáng vài chục đô-la, bởi lẽ trong đời anh chưa bao giờ đụng đến. Từ bộ xa lông bọc da đến tấm thảm trải lối đi. Từ cái máy điều hòa nhiệt độ đến bộ đèn trần... tất cả đều tuyệt vời. Thậm chí cả đến cái bể tắm và chiếc hố xí cũng làm cho anh xuýt xoa thán phục. Anh ta phải bỏ ra cả mấy ngày để học cách làm người chủ, người thưởng thức những tiện nghi sinh hoạt đó.

Chỉ còn chiếc xe Datsun de luxe đen bóng nằm trong ga-ra là chưa thể thử được. Người chủ nó đã không để lại chùm chìa khóa. Hùng Thắng chỉ thị văn phòng phải nhanh chóng kiếm một người thợ khóa lành nghề đến làm cho bộ chìa mới, cả khóa cửa lẫn khóa điện. Một nhân viên của cơ quan vật tư phải đi ngó rất nhiều tiệm sửa chữa và cuối cùng người ta đã mách giúp cho một tay thợ chữa khóa ô-tô tài tử giỏi nhất Sài Gòn. Anh thư ký riêng của Hùng Thắng đã mời bằng được con người nổi tiếng đó về.

Đó là một anh chàng đẹp trai, nói tiếng Bắc, ăn mặc sạch sẽ, chừng độ ba mươi tuổi. Anh ta đến với hai bàn tay không làm cho mọi người phải ngạc nhiên. Đến bên chiếc Datsun, anh ta rút trong túi ra chùm chìa khóa chỉ độ vài ba cái. Anh lấy một chiếc mỏng như cặp tóc lựa vào ổ khóa, nét mặt ưu tư như chăm chú nghe ngóng một âm thanh mờ nhạt nào đó. Vài phút sau cánh cửa ô-tô bật thở trước vẻ kinh ngạc của mọi người.

- Anh có sẵn chìa khóa chiếc xe này? - Hùng Thắng hỏi.

- Dạ không.

- Thế làm sao anh có thể mở nhanh như vậy?

- Em mở bằng cái này! - Anh giơ cho mọi người xem chiếc lá kim loại mỏng sáng loáng.

- Nghĩa là cái khóa xe này vô tác dụng. Người ta có thể mở nó bằng bất cứ lá sắt mỏng nào?

- Dạ cũng tùy từng người! Các anh thử mở chơi!

Người thợ khóa đóng cửa lại rồi đưa cái công cụ nhỏ bé đó cho Hùng Thắng. Anh ta luồn vào ổ nhưng không sao quay nổi. Người thứ hai rồi người thứ ba đều toát mồ hôi và chịu bỏ cuộc...

Người thợ khóa ngồi vào vòng lái. Vẫn cái lá kim loại đó, anh ta mở tiếp khóa điện rồi khởi động. Xe nổ máy. Anh ta thử còi, thử đèn, thử phanh.

- Các anh cho phép xe chạy một đoạn.

- Vâng. Hùng Thắng ngồi xuống đệm, nửa thân anh như lút xuống lớp mút dày. Một mùi thơm tỏa ra từ lớp bọc. Ra-di-ô, máy điều hòa nhiệt đều tốt. Chiếc xe mới tuyệt diệu làm sao. So với chiếc com-măng-ca dã chiến của anh thì thật là một trời một vực.

Chiếc xe nhẹ nhàng lăn khỏi ga-ra. Ra ngoài đường, người thợ khóa tăng ga, xe lao đi vun vút, lướt nhẹ trên mặt đường nhựa bóng loáng. Những chiếc bánh nảy lên nảy xuống nhưng thân xe vẫn ở một độ thăng bằng lý tưởng. Bộ giảm xóc thật hoàn hảo. Mười phút sau xe trở về chỗ cũ. Hùng Thắng mời người thợ khóa lên phòng khách uống nước.

- Anh chữa khóa giỏi, nhưng lái xe cũng rất tài.

- Dạ nghề của em là lái xe, sau đó mới tập chữa khóa. Thế mà bây giờ cũng thất nghiệp. Chủ bỏ đi nước ngoài nên không có xe để lái.

- Nhà nước thiếu gì việc. Chỉ có điền lương ít nên các anh chẳng muốn làm đó thôi.

- Đâu có! Bọn em chẳng dám chê công việc của Nhà nước. Các anh sống được thì bọn em cũng sống được. Nếu như Cách mạng tin tưởng ở chúng em thì em sẵn sàng đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp chẳng. Các anh hy sinh bao nhiêu năm cho Cách mạng, chúng em chưa được đóng góp gì thì đâu dám đòi hưởng thụ.

- Nếu anh bằng lòng thì tôi sẽ tuyển dùng anh vào cơ quan này.

- Em xin tình nguyện phục vụ Cách mạng. Em chỉ có bằng lái của chế độ cũ không biết có còn giá trị không.

- Không sao. Anh chỉ cần viết cho tôi một tờ lý lịch, một đơn xin việc, nhờ chính quyền phường chứng nhận, thế là tôi có thể thu xếp cho anh.

- Dạ.

Anh bí thư riêng ngồi cạnh cũng góp thêm ý kiến:

- Báo cáo giám đốc, có thể bố trí anh ấy lái luôn chiếc xe này. Anh ấy thông thạo đường phố Sài Gòn, giám đốc có đi họp hành cũng nhanh chóng.

- Thôi được, lái xe nào thì ta bàn sau. Trước mắt nhờ anh lành cho bộ chìa khóa đã.

- Dạ.

- Hôm nay mới coi như đến thăm bệnh, có chữa nổi mới dám nhận. Cấu tạo loại khóa này cũng không phức tạp lắm. Ngày mai em sẽ đem chìa khóa lại.

- Vẫn có những loại anh phải chịu bó tay?

- Có nhiều loại hiện đại lắm. Nếu đưa chìa lạ vào là hệ thống báo động bật còi inh ỏi, hệ thống đèn tín hiệu chớp liên hồi... Có loại phải phát tín hiệu vô tuyến đúng mã số, khóa mới chịu cho mở... Nhưng loại nào hỏng hóc đã đến tay em thì đều ổn thỏa.

Câu chuyện của anh thợ khóa thu hút cảm tình của mọi người.

Hôm sau anh đem đến bộ chìa mới, sau vài lần giũa sửa sơ sơ là mở đóng rất êm. Anh không nhận tiền công mà chỉ mong giám đốc chấp nhận lá đơn xin việc có kèm theo bản kê khai lý lịch hợp lệ của anh. Hùng Thắng cảm ơn anh thợ khóa và hẹn là cuối tuần sẽ trả lời chính thức việc tuyển mộ. Khi bắt tay tạm biệt ông giám đốc còn hẹn nhỏ:

- Cứ chuẩn bị để thứ năm sau đến nhận việc.

Bùi Đức Tạo quê ở Bắc Ninh theo gia đình vào Nam năm 1954. Cha làm nghề thợ may (đã chết), mẹ buôn bán ở chợ Bến Thành. Anh ruột là thày giáo tiểu học ở một trường tư. Tạo đỗ tú tài 1 rồi bỏ học, trốn quân dịch, chưa vợ con. Trước ngày 30 tháng 4, Tạo lái xe cho một giáo sư đại học Lê Huy Thục... Bản lý lịch cũng không quên ghi: Bùi Đức Tạo có người chú ruột hiện là cán bộ nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh.

Xem qua Hùng Thắng rất hài lòng. Lý lịch không có vấn đề gì đáng phân vân. Ở trong vùng địch, tìm được người có quá khứ trong sạch như thế này là rất khó. Anh ghi vào bên cạnh "Ban Bảo vệ xác minh thêm để có thể nhận vào biên chế Nhà nước. Trả lời ngay". Hai ngày sau cơ quan nhân sự đã làm hồ sơ tiếp nhận vào lái xe cho Tổng Giám đốc.

Chỉ vài tuần thôi, Bùi Đức Tạo đã làm cho Hùng Thắng hài lòng về kỹ thuật chuyên môn thành thạo, về cách thức làm ăn cần cù cẩn thận kỷ lật, về thái độ nhã nhặn, khéo léo, lịch sự. Chiếc xe lúc nào cũng được lau chùi bóng loáng từ trong đến ngoài. Đi lúc nào là máy nổ tốt lúc đó. Trên đường, chân ga rất đều, tốc độ nhanh nhưng rất tỉnh táo, an toàn. Ra vào ga-ra, lui tới các công sở, kho tàng, xe lượn rất nhẹ nhàng, tinh tế, không phải lùi đi, tiến lại làm cho người ngồi trên hoàn toàn yên tâm và hứng khởi.

Mỗi khi Hùng Thắng nhắc nhở điều gì, Tạo đều ghi cẩn thận vào cuốn sổ tay đạt trong cốp. Chữ anh ta rất đẹp, ngay ngắn, rõ ràng. Cách trình bày khoa học, làm nổi bật những chủ đề cần nghi nhớ. Do đó Chưa lần nào Tạo để cho cấp trên phải chờ đợi đến một phút. Rất nhiều lần Hùng Thắng bận việc quên lãng điều này, điều nọ, đều được anh lái xe nhắc lại rát kịp thời. Sự tin cậy tăng lên khiến cho nhiều việc không liên quan đến lái xe mà Giám đốc vẫn thản nhiên nói cho anh ta hay.

- Mười ba giờ ba mươi nhắc tôi đến làm việc với Ba Tâm nhé.

- Dạ.

- Tối mai, đúng bảy giờ tôi đến Sở Công nghiệp Thành phố, nhớ nhắc tôi mang theo chỉ thị 113.

- Dạ.

- Sáng thứ bảy tôi đi Biên Hòa bàn về kế hoạch an ninh khu kho Bình Lâm. Nhớ đến sớm mười làm phút nhé.

- Dạ.

- Ghi vào, tám giờ ba mươi ngày 14 nhắc tôi đi báo cáo về tình hình nhập khẩu năm tới nhé.

- Dạ.

Nhiều việc đáng ra chỉ nên nhắc bí thư thì cứ tiện mồm nói với lái xe. "Thì có gì quan trọng đâu. Cậu bí thư nhiều việc cũng có lúc quên. Tay Tạo suốt ngày chỉ lao động chân tay nên óc nó thanh thản dễ nhớ!". Tạo chẳng những giỏi trong việc lái xe mà mọi thứ khác anh ta cũng sành sỏi. Hùng Thắng mua được một chiếc máy quay nhạc định gửi về cho vợ. Chưa quen sử dụng nên Thắng nhờ Tạo hướng dẫn.

- Giám đốc mua thứ này bao nhiêu?

- Ba ngàn.

- Trời, sao mắc quá vậy? Thứ này cũ lắm rồi, trong này không thấy người xài. Máy mô-nô 412K, xê-ri 1959 khó bán lắm. Bọn nó chỉ lừa mấy chú ngoài Bắc vô thôi. Nếu Giám đốc bảo em trước thì chỉ cần bỏ thêm chút nữa mua một chiếc máy stê-rê-ô tốt hơn nhiều - Tạo cười - Thứ này đưa về tặng chị em là chị không ưng đâu!

- Biết làm thế nào, mình ít tiền thì phải mua thứ xấu...

- Nếu Giám đốc không vội thì để em đi đổi cho. Có hóa đơn đây mà. Em sẽ đến cửa hiệu mắng cho nó một trận. Ai lại đi lừa cả mấy chú cách mệnh!

- Chắc gì họ đã chịu. Mua đứt bán đoạn rồi.

- Chỉ nài đổi cái khác thôi. Cần mình bù thêm bạc, nó phải nghe chứ.

Hôm sau Tạo đã xách về chiếc Sony Stéréo rất đẹp Thắng rất vui mừng vì theo hóa đơn mới chỉ phải bù thêm một nghìn năm trăm đồng.

Để tỏ lòng biết ơn Tạo, một bữa đi họp về khuya, Thắng muốn rủ Tạo vào hiệu "nhậu” một chút. Nhưng những việc này anh đâu có quen. Lúng túng mãi anh mới nói được với Tạo:

- Chúng ta vào quán ăn một chút gì đi, mình thấy đói.

- Dạ mời thủ trưởng vào, em chờ.

- Mình muốn Tạo cùng đi chứ riêng mình thì chẳng cần.

- Dạ em cũng vừa ăn.

- Ta đi uống ly cà phê vậy.

- Dạ được. Nhưng ta đến tiệm nào tiện trông xe.

Tạo đưa Thắng đến một quán giải khát ở phố Nguyễn Đình Chiếu, có bàn kê ngoài cứa. Thấy Thắng lúng túng, Tạo nói nhỏ:

- Thủ trưởng cứ ngồi, để em gọi cho.

Tạo đi vào bên trong vài phút rồi quay ra. Người hầu bàn bưng ra hai phin cà phê, một hộp đường và đĩa bánh ngọt đặt xuống bàn. Tạo mở bao thuốc lá. Bỗng có một cô gái trẻ, má hồng, môi son bóng lộn, kéo ghế ngồi sát Thắng. Đôi lông mày kẻ cong vút, quầng mi xanh làm cho đôi con ngươi sáng lấp lánh. Cô gái nhìn Thắng mỉm cười. Cô đặt bàn tay trắng mũm mĩm với những cái móng hồng hồng lên vai vị cán bộ cách mạng rất tự nhiên khiến cho anh cố nông làng Đại Cát muốn rụt cổ xuống vì xấu hổ.

- Chú muốn "ngồi" không?

- Không đâu! - Tạo nghiêm khắc nhìn cô gái, trả lời thay cho thủ trưởng - Xin lỗi, chúng tôi đang bàn công chuyện.

Cô gái không có vẻ gì là sượng sùng. Cô ta đứng dậy mỉm cười gật đầu chào Thắng rất lễ phép rồi đi vào phía trong. Cái mông núng nính như cố kéo lệch cái mini jupe cũn cỡn làm cho Hùng Thắng không dám nhìn theo.

- Chẳng hiểu nó nói gì!

- Dạ mấy con nhỏ này trước đây làm trong các ba, các hộp đêm. Nay thất nghiệp đi làm bậy bạ ở các quán nhậu. "Ngồi" là nó muốn mời chú ngồi ôm nó để uống bia, uống cà-phê mà trong này gọi là bia ôm, cà-phê ôm, để kiếm chút bạc xài tạm - Tạo chỉ mấy đôi trai gái ngồi trong căn buồng tối mờ mờ ánh đèn vàng đục - Đó. Bọn chúng tiếp khách kiểu đó.

- Thế mà vẫn kiếm ăn được?

- Dạ cũng tàm tạm. Thời ngụy bọn chủ tiệm giàu có nhờ bọn này. Bọn chúng bày ra đủ trò ăn chơi tầm bậy để lôi kéo cả thanh niên lẫn ông già vào những trò trác táng. Xưa kia cứ tối đến là đàn ông đều đi chơi. Mấy ông có vợ con cũng đi suốt. - Các bà cố trang điểm để cầm chân chồng nhưng đâu có nổi. Em lái xe cho giáo sư Thục. Bà Thục ghen dữ lắm. ông bảo em đưa đến những nơi rất kín đáo. Bà cũng thuê thám tử đi lùng. Em đã phóng gấp thì chẳng xe nào đuổi kịp. ÔNG sợ bà mò đến làm tùm lum lên, ông sẽ mất uy tín.

- Chắc ông ấy phải thưởng cho cậu nhiều tiền?

- Có đôi lần thôi ạ vì đó là nhiệm vụ của em. Em đã lĩnh hương thì em phải trung thành với chủ - Tạo cười – Nhưng mấy con nhỏ cũng phải chia cho em chút ít em có công đưa khách. Thế thì cậu quen biết hết bọn đó?

- Dạ có hàng chục ngàn, quen sao cho hết. Nhưng em cũng biết nhiều chỗ rất sang trọng. Cả những nơi gọi là "nhất dạ đế vương" dưới Chợ Lớn.

- "Nhất dạ đế vương" chắc phải tốn tiền lắm?

- Dạ. Đó là thứ ăn chơi siêu hạng của bọn giàu có. Hàng ngàn đô-la một đêm. Nem công, chả phụng đủ hết, Whisky xứ Scotch, vang vùng Bourgogne, cà phê Brésil, thịt bê non Texas, cam California, trà Long Tỉnh, gà gô Lâm Viên, nho tươi Italia, xì gà Cléopac... Hàng chục mỹ nữ cung tần trẻ đẹp hiến dâng cho đức vua nhưng vũ khúc mê hồn. Tất cả đều thuộc về người. Gái Tàu, gái Tây, cả gái da đen nếu cần cũng có. Bọn tư sản, bọn công chức cao cấp phải có chỗ để xài chứ cất đâu hết tiền.

Hùng Thắng cứ trố mắt ngạc nhiên về nhưng thú vui lạ lùng được Tạo mô tả một cách hấp dẫn.

- Bây giờ bọn đó phải chuồn thôi chứ, ở đây chúng sống sao nổi!

- Bọn chủ, những ông vua đã ra đi nhưng mỹ nữ cung tần, của ngon vật lạ thì vẫn hãy còn.

- Ở chế độ này, ai cho phép chúng hành nghề.

- Dạ, từ hồi giải phóng ta dẹp hết. Bọn điếm được đi lao động cải tạo. Nhưng dù sao thì cũng vẫn còn nhiều đứa lọt lưới. Chúng hành nghề lén lút. Không còn "nllất dạ đế vương" nhưng nhưng “tổ quỷ” nho nhỏ thì vẫn đầy... Thủ trưởng nhìn xem, thí dụ như cái căn phòng đầy ánh sáng trên lầu tư kia, ai biết trong đó đang xảy ra chuyện gì. Công an có leo lên đến đấy để kiểm soát thì cũng chỉ thấy vài người ăn mặc rất lịch sự ngồi nói chuyện vui vẻ thôi. Bọn Mỹ-ngụy đã thua, nhưng tàn dư của nó đâu đã quét sạch được.

Tâm sự với người hiểu biết nhiều cũng thú vị. Hùng Thắng ngày càng say sưa những "câu chuyện bổ ích và lý thú” của anh lái xe. Thỉnh thoảng họ lại vào hàng cà-phê. Chỉ có ở đấy họ mới dễ dàng tâm sự những chuyện ba láp...

Và rồi một bữa Hùng Thắng đã được Tạo dẫn đi tham quan cái “tàn dư của chế độ cũ”.

- Xem thôi, xem để biết mà tránh, thủ trưởng ạ. Như em đây, em đã biết rồi, em chẳng bao giờ bị chúng nó chài nữa. Chẳng đứa nào moi được của em một xu.

Hùng Thắng được Tạo kèm Honđa đến Cầu Bông. Một cô gái trẻ đã chờ sẵn bên đường.

- Đây là anh Hai mình mới ở Hà Nội vô. Em tiếp anh Hai hết mình nghe?

- Dạ! - Cô gái mỉm cười liếc Hùng Thắng.

- Tất cả đã thanh toán rồi. Không được vòi vĩnh gì của anh Hai nghe.

- Dạ.

Tạo nói nhỏ với Thắng.

- Mười một giờ em đón ở đây. Cần phải về cơ quan đúng giờ.

- Được!

Tạo đã không sai hẹn quá một phút. Hùng Thắng hơi sượng sùng khi bắt gặp cặp mắt của người lái xe. Khi xe đã phóng nhanh, Tạo mới quay lại hỏi Thắng:

- Đã chứ, thủ trưởng?

- Đã làm!

Cả hai cười vang, nhưng hai tiếng cười không cùng chung một niềm vui.

Hai hôm sau vẫn không thấy Tạo nói tới khoản chi đêm nọ. Thắng đành lỏi:

- Chú chi cho tôi hết bao nhiêu để tôi hoàn lại chú?

- Chi gì ạ?

- Tối hôm thứ bảy đó.

- À, chẳng mất gì đâu. Con nhỏ quen em mà. Nó đâu dám lấy tiền. Em giúp đỡ nó nhiều, cái đó có đáng gì.

Hùng Thắng áy náy:

- Cái kia thì coi như tình cảm thôi, nhưng riêng khoản ăn uống cũng đã tốn kém bạc ngàn.

- Thủ trưởng yên tâm. Đi một lần cho biết thôi chứ có phải ngày nào cũng đến đâu mà lo chuyện tổn phí cho họ.

Gần một tháng sau thoáng chừng thủ trưởng cũng muốn tham quan một lần nữa nhưng chẳng dám nói ra, nên anh lái xe đã khéo léo gợi ý một cách khác:

- Hồi này công an bố ráp dữ, bọn điếm thất nghiệp hoài. Hương Lan lại phải đến xin em trợ cấp tội thật.

- Tôi sẽ thanh toán cho cô ấy cái khoản hôm nọ.

- Khỏi cần. Thủ trưởng có đến an ủi nó và cho nó tí chút thì lại là chuyện khác. Chuyện hôm nọ coi như xong rồi.

- Bữa nào đến?

- Thủ trưởng yên tâm, em sẽ thu xếp.

Một hôm Hùng Thắng đi họp với các đầu mối cấp phát vật tư năm 1979, trên đường về Tạo nhắc khẽ:

- Thủ trưởng có muốn đến nghỉ trưa chỗ Hương Lan không?

- Ban ngày sao tiện.

- Ngày an toàn hơn đêm chứ ạ.

Thắng đang ngần ngừ thì xe đã đỗ kít bên đường. Thắng nhận ngay ra Hương Lan đang đứng cùng một cô gái trẻ khác trước tiệm may. Tạo vẫy tay, cả hai đứa chạy đến tíu tít.

- Mời hai anh vô nhà chơi! Lâu không gặp hai anh, bọn em mong hoài Mặt Hùng Thắng đỏ bừng luống cuống. Tạo quay lại nói nhỏ:

- Anh Hai vô đi, em cho xe đi tìm chỗ đỗ. Đúng mười bốn giờ em quay lại đón.

Thắng bước xuống lúng túng cái cặp trong tay. Đi vài bước vị Giám đốc quay lại quàng chiếc cặp cho Tạo:

- Chú giữ hộ cái này.

- Chết! Có tiền bạc gì không đó anh Hai?

- Không. Chỉ có giấy tờ thôi, nhưng cẩn thận đấy.

- Dạ - Tạo vẫy hai cô gái lại nói nhỏ - Mấy đứa không được vòi vĩnh gì anh Hai, nghe.

- Dạ.

Thắng đi theo hai cô gái. Phong thái lần này có vẻ "tiến bộ" hơn. Anh ta đã mất dần đi cái dáng rụt rè lúng túng ban đầu...

Đúng hai giờ chiều, Tạo đã đến đón Thắng về phòng họp với cái cặp trong tay.

Cái “lòng tốt" một chiều của tay lái xe làm cho Hùng Thắng vừa áy náy vừa lo sợ. Thắng muốn trả ơn Tạo, coi như thanh toán nợ nần rồi từ bỏ những trò chơi nguy hiểm để được sống những ngày thanh thản như xưa, nhưng chẳng có cơ hội nào để làm việc đó. Còn người lái xe thì hầu như đã quên đi mọi chuyện, chẳng bao giờ nhắc đến tiền bạc. Anh ta vẫn làm việc cần mẫn, với tinh thần trách nhiệm như trước.

Có một lần nhân chuyện Thắng nhắc đến quê hương, Tạo cũng tâm sự: Đất nước đã thống nhất mà chưa có dịp nào được về Bắc Ninh thăm quê cha đất tổ. Tạo đề nghị có chuyến đi công tác ra Bắc nào mà dùng đến xe con thì xin Giám đốc cho được đi theo.

- Được thôi. Ta sẽ bố trí một chuyến đi chừng nửa tháng. Năm qua mình chưa lần nào đi kiểm tra các kho tàng. Ra đến Hà Nội mình sẽ để cậu về thăm Bắc Ninh ít ngày.

- Dạ, em rất cảm ơn thủ trưởng. Đó là điều mong ước từ ba năm nay của em.

Hoàng Quý Nhân đã hẹn gặp Doãn Kế Lâm ở Thảo Cầm Viên. Sau khi quan sát không thấy ai theo dõi, Lâm trao cho Nhân một gói nhỏ:

- Đây là chốn phim chụp toàn bộ tình hình nhập nội, phân phối vật tư cho các tỉnh từ Phan Rang đến Cà Mau.

- Cảm ơn. X3 có yêu cầu gì không?

- Tiền, thế thôi. Anh có thể coi như thằng “sếp” của nó đã ăn lương của chúng ta. X3 phải bao hết mọi khoản nhưng chưa nhận được xu nào của ta.

- Sẽ có ngay đây. Tôi chi tạm hai "cây". Anh ký vào biên lai cho tôi.

- Riêng cuốn phim cũng đáng hai lượng rồi.

Quý Nhân nghiên nét mặt:

- Đây là nghĩa vụ của mỗi điệp viên. Người ta phải biết được giá trị thực sự của tài liệu rồi mới xét đến thưởng. Anh nên dạy cho cấp dưới quen với những nguyên tắc đó.

- Dạ, tôi cũng chỉ nói vui với anh thôi chứ đâu dám vòi cấp trên.

- Kỳ này đi ra Bắc, bảo nó chụp lấy những kho tàng mới thiết lập trên trục đường xuyên Việt. Chụp các sân bay Cam Ranh, Nha Trang, Đà Nẵng... xem có xuất hiện những phi cơ kiểu mới không. Chụp quân cảng xem có các tàu chiến Nga Xô hay không…

- Tôi tưởng những thứ này thì vệ tinh viễn thám làm cả rồi chứ ạ.

- Đó là việc của nó ở trên cao hàng trăm ki-lô-mét. Việc của mình là chụp gần từ mặt đất. Ngoài giá trị quân sự nó còn mang giá trị về tâm lý, về chính trị nữa chứ. Những tấm ảnh đó chứng minh cho sự tồn tại của chúng ta. Mc Dovan chỉ chi tiền khi thấy chúng ta hoạt động hữu hiệu.

- Dạ, điều anh Năm dạy bảo quả là chí lý.

Những vụ lấn chiếm, tập kích, xâm nhập lãnh thổ vào dọc biên giới Tây Nam kéo dài suốt năm 1978. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn trước hành động phản bội của bọn Pôn Pốt. Chúng đã tàn sát hàng triệu người cam-pu-chia, nay chúng lại gieo rắc tội ác sang đất nước ta. Hàng ngàn dân ở biên giới đã bị bọn Pôn Pốt giết hại hết sức dã man.

Trung Quốc đã gây sức ép về kinh tế và bắt đầu dùng các phương tiện thông tin đại chúng chống Việt Nam, kích động người Hoa gây rối loạn, khiêu khích quân sự ở nhiều nơi trên tuyến biên giới phía Bắc.

Ngày 7 tháng 1 năm 1979 được sự giúp đỡ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhân dân và các chiến sĩ yêu nước cam-pu-chia đã vùng dậy đập tan chế độ Pôn Pốt. Chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc bị một đòn đau. Đội quân “vu hồi" của họ bị tiêu diệt, Bắc Kinh tức tối khởi sự cuộc chiến tranh xâm lược sáu tỉnh biên giới phía Bắc với cái luận điệu sặc mùi bá quyền là: để dạy cho Việt Nam một bài học! Hành động tội ác đó là món quà để Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ, trước là để rửa hận cho Mỹ, sau là chứng minh cho tấm lòng thành thực của Trung Quốc muốn ngả sang phương Tây.

Báo chí ở Mỹ và các nước tư bản khác in những hàng tít lớn: "Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã bắt đầu". "Nước cộng sản vĩ đại nhất đã dạy cho Việt Nam một bài học!". "Trung Quốc mở cửa sang phương Tây". "Việt Nam đang bị cô lập với thế giới bên ngoài". Mỹ chơi con bài Trung Quốc. Các nước phương Tây hòa theo với bản hợp xướng "Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia". Một số nước trong khối EEC cắt viện trợ và phá bỏ một số hợp đồng kinh tế. Bọn phản động từng tiếp tay cho Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thấy Mỹ chơi con bài Trung Quốc thì sung sướng reo hò và đua nhau ké vào canh bạc này. Chúng gọi cái thời điểm lịch sử vui vẻ này là “Những ngày Trung Quốc". "Làm cho Việt Nam chảy máu liên tục, không để cho Việt Nam hồi sức" là khẩu hiệu chung của chúng ta.

Tháng 3 năm 1979 cơ quan phản gián của ta thu và dịch được hai bức mật điện với nội dung rất quan trọng:

“Thưa ngài Thủ lãnh"

“Những diễn biến chánh trị ở Việt Nam trong thời gian qu cho thấy nền thống trị cộng sản đang đứng trước nguy cơ sống còn. Đó là cơ may mà ta cần phải tận dụng. Các chiến sĩ tự do cần phải có một tổ chức rộng lớn để thu hút sức mạnh của toàn dân tộc. Các ngài phải chứng tỏ cho thế giới biết rằng làn sóng chống đối trong nước không phải là những hành động tự phát, lẻ tẻ tuyệt vọng, mà do một tổ chức rộng lớn mạnh mẽ chỉ đạo.

Tôi muốn các ngài công khai tổ chức của mình dưới hình thức một Mặt trận Tự do hoặc Chính phủ lâm thời. Ban lãnh đạo phải bao gồm những nhân vật mà tên tuổi của họ biểu hiện được sự tập họp của khối đoàn. kết toàn dân. Nó phải bao gồm những người sống trong nước và những người lưu vong. Có thêm cả những nhân vật cộng sản ly khai thì càng tốt. Một tổ chức như thế sẽ có tiếng vang rộng lớn trong dư luận. Mỹ, nó có thể tranh thủ được sự ủng hộ của lưỡng viện để hy vọng giành được một khoản viện trợ nhất định. Chí ít sự kiện này cũng tạo thuận lợi cho sự tài trợ hào phóng của CIA đối với quí vị.

Vì vậy tôi trân trọng mời ngài đến với chúng tôi để ta bàn tiếp công việc này kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra chúng ta còn phải thỏa thuận thêm những công việc riêng của chúng ta. Sẽ có một kế hoạch chi tiết cho việc xuất dương của ngài một khi ngài chấp nhận yêu cầu này.

Cuối cùng xin cảm ơn ngài và các chiến hữu đã cung cấp cho chúng tôi những tin tức quan trọng. Tất cả những chi phí của ngài ở quốc nội chúng tôi đã chuyển vào tài khoản ngân hàng của ngài để bồi hoàn cho lợi ích cá nhân ngài. Mong rằng chúng ta sớm được gặp nhau. Kính chào ngài".

W.

Bức điện phúc đáp hai ngày sau đó:

"Thưa ngài W!

Cộng sản hiện đang gặp rất nhiều khó khăn. Họ giành được thắng lợi ở Cam-bốt nhưng họ lại buộc phải phân tán sức mạnh ra hai mặt trận. Sự phân cực này làm cho khoảng giữa trống rỗng. Chúng tôi đã tận dụng cơ may này để củng cố thế đứng của mình cả ở nông thôi lẫn thành thị. Việc công khai tổ chức lúc này là một yêu cầu bức bách nhưng cần phải được chuẩn bị chu đáo. Tôi thấy cần có cuộc thương thuyết với các chính trị gia lưu vong, vì vậy tôi sẽ chấp nhận lời thỉnh cầu của ngài tới dự một cuộc hội nghị để liên minh các lực lượng ái quốc lại thành một khối. Khi nào kế hoạch xuất dương của tôi chuẩn bị xong tôi sẽ liên lạc với ngài. Những việc riêng của chúng ta thì không thể nói trong một bức điện ngắn ngủi. Mong ngài hiểu cho.

Kính chào ngài".

Tổ mã thám của ta đã dịch được cả hai bản mật điện trên, nhưng những bản trước và sau đó thì lại không khám phá nổi. Chúng đã dùng xen kẽ nhiều khóa để đảm bảo bí mật tuyệt đối.

Trong cuộc họp giao ban ở trung tâm chỉ huy, đại tá Nguyễn Hữu Đức nhận định:

- Đây có thể là bức điện trao đổi giữa Warrens và Hoàng Quý Nhân. Như vậy là trong một ngày gần đây thôi tên Nhân sẽ vượt biên. Sau đó chúng sẽ cho ra đời một cái quái thai chính trị. Chỉ có điều làm tôi phân vân là tại sao hai bức điện rất quan trọng này ta lại dịch được, còn những bức trước và san đó thì không sao hiểu nổi. Phải chăng chúng muốn cho ta nghe được điều này để lừa ta? Chúng mong ta dàn mỏng lực lượng phong tỏa bờ biển để bọn chúng tính toán một mưu đồ gì trong các thành phố nội địa. Cũng có thể Hoàng Quý Nhân đang bị truy lùng ráo riết, chúng phải đánh lạc hướng tiến công của ta để được yên ổn?

- Có thể là như vậy. - Hai Bền thêm ý kiến – Nhưng tôi xin nêu ra một giả thuyết nữa. Đây là bức điện của Warrens gửi cho một nhân viên mới. Lời lẽ ở đây là sự trao đổi bình đẳng chứ không giống một chỉ thị cho cấp dưới. Người mang biệt danh số 1 có vẻ là một thủ lĩnh chính trị hàng đầu chứ không phải một tên điệp viên trình báo tình hình lên thượng cấp. Vì vậy Hoàng Quý Nhân và tên mang biệt danh số một là hai nhân vật riêng biệt. Rõ ràng mã khóa lần này khác hẳn với những mật điện trước đây.

- Ta có thể nhờ hiệu thính viên kiểm tra xem nhịp ma-níp của các bức điện là của một người hay hai người khác nhau đánh đi?

Đồng chí trung tá phụ trách mã thám xin phát biểu:

- Đến hôm nay những bức điện đánh đi đều mang dấi ấn của một báo vụ viên duy nhất. Vì vậy nếu là hai nhân vật độc lập thì chúng cũng dùng chung nhau một điện đài, nghĩa là chúng trùng nhau hoặc là đồng đảng mật thiết với nhau. Không có khái niệm khóa mã này khó hơn khóa mã kia. Tất cả chúng đều có độ tin cậy như nhau. Chỉ có những bản mật mã dùng quá nhiều thì dễ bị khám phá bởi lẽ người ta biết tận dụng những nguồn tin khác có cùng nội dung với mật điện để dò ra. Còn việc khám phá ra những bản mật mã dùng cũng có khi là do sự may rủi ngẫu nhiên. Người có kỹ thuật cao thấp là nhờ kinh nghiệm công tác nhưng với hai khóa mã nguyên khai thì anh ta không thể đánh giá cái nào dễ dịch hơn cái nào. Trường hợp cụ thể này tôi nhận định như sau: Vì nội dung hai bức điện trên rất quan trọng nên chúng dùng khóa mới. Sau đó chúng cất đi để dùng cho những sự kiện có liên quan đến hai bức điện trên trong tương lai. Vì vậy ta có thể tin vào tính chân thực của hai bức điện này.

Ý kiến của chuyên gia làm cho hội nghị chuyển nhanh sang kế hoạch đối phó. Đại tá Nguyễn Hữu Đức kết luận:

- Ta không thể có đủ lực lượng để tiến hành phong tỏa đồng thời trên hàng ngàn kilômét đường biển. Nhưng ta có thể thông báo với Hải quân đề nghị các hải vụ tuần tiễu lưu ý cho. Ta cũng phối hợp với lực lượng công an và các tổ chức vũ trang nhân dân vùng ven biển để kiểm soát chặt chẽ những người vùng khác đến tạm trú ở những làng ven biển. Ta hy vọng sẽ nhận được những mật điện mới hợp đồng cho chuyến vượt biên đặc biệt này của chúng. Ta phải tìm cách báo ngay cho N5 biết tin này để theo dõi những hoạt động ở bên kia đại dương mà tìm cách phối hợp.

Hoàng Quý Nhân hiểu được công việc của mình rất khẩn trương. Y phải cho người Mỹ biết rằng tổ chức của y là mạnh. Nhưng khi kiểm lại những tên tay chân thì hầu như chẳng có ai được gọi là trí thức, là có danh tiếng. Cha Antonine Vũ Xuân Trinh thì "tai tiếng" nhiều hơn "danh tiếng". Nhưng thôi cũng tạm được. Chấm hết! Thật đáng lo. Cần phải dụ dỗ khuynh đảo được một vài trí thức nào nữa. Kiếm đâu trong hàng ngũ cộng sản vài ông Hoàng Văn Hoan nữa thì tuyệt vời. À được rồi. Tổng giám đốc Nguyễn Hùng Thắng. Sẽ cho tay này xuất dương. Sẽ tổ chức họp báo. Các phương tiện thông tin đại chúng của thế giới tự do sẽ thổi bùng vụ này lên và thế là nhân vật ly khai tha hồ nổi tiếng.

Vốn là một tên mật vụ, Hoàng Quý Nhân khó giao du với giới trí thức. Những nhà hoạt động chính trị dù theo chủ thuyết nào cũng thường kỵ mặt và khinh bỉ những thằng "còm". Ngay cả những chính khách cầm quyền cũng không thích công khai vồ vập mấy tay đặc vụ vì sẽ tai tiếng. Cho nên lúc này Hoàng Quý Nhân thấy bí quá. Bóp trán nghĩ mãi y bỗng nhớ đến Đỗ Thúc Vượng. Nhân biết Vượng là một phần tử dễ khích động nhưng cũng hay ba hoa. Nhân không thể đến lôi kéo trực tiếp được. Nhân quen Vượng qua các vụ bắt bớ, qua chuyện Nhân lấy vợ của Vượng chứ chưa bao giờ họ là bạn với nhan. Nhân quyết định giao việc khuynh đảo này cho cha Antoninne Vũ Xuân Trinh. Nhân hy vọng từ Trinh từ Vượng sẽ tạo vết dầu loang ra nhiều tri thức lừng chừng khác, để tạo nên một thế lực chính trị chống đối trong các thành phố lớn.

Một kế hoạch tổng quát được Nhân vạch ra nhằm xúc tiến việc thành lập Mặt trận Tự do và Chánh phủ lâm thời.

Đỗ Thúc Vượng từ bỏ chính trường sau những biến cố bi thảm của gia đình. Anh đã vượt qua thời kỳ yếm thế và chuyển sang dạy học ở Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phú Thọ. Có đôi lần anh đứng về phía sinh viên bãi khóa, chiếm giảng đường, nhưng cũng chỉ là những tình cảm thoảng qua thôi. Vượng bỗng nhận ra năng khiếu của mình không phải là triết học, là chính trị mà lại là kỹ thuật. Tuy đã bỏ con đường khoa học từ lâu, nhưng quay lại anh vẫn thấy mình còn dư sức. Cái danh hiệu "cựu sinh viên Cao đẳng Sư phạm Paris" làu cho anh tự hào. Anh trình bày những chủ đề khoa học cơ bản rất sáng sủa và hấp dẫn.

Cách mạng về, Đỗ Thúc Vượng vẫn mặc cảm mình là kẻ bại trận. Thì ra trong nhiều năm anh cũng đã hò hét chống Cộng, chống chủ nghĩa Mác, phản đối Bắc Việt xâm lược miền Nam. Anh không tiếc sức cổ động đấu tranh cho nền dân chủ đại nghị Tây âu nhưng anh đều thất bại. Suốt những năm đó Vượng cũng chỉ là đứa trẻ mồ cô, cù bơ cù bất trên sân khấu chính trị. Anh không bao giờ có lực lượng trong tay. Anh hò hét cô đơn trong dòng nước thủ đoạn, lừa lọc, cơ hội, bẩn thỉu của những trào lưu chính trị phản động. Ngày giải phóng, anh vừa lo sợ, vừa hổ thẹn nhưng cũng bị lây lan cái niềm phấn khích của nhân dân thành phố. Đỗ Thúc Vượng không bỏ đi, anh muốn được chứng kiến một sự kiện vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại mà người ta thường mô tả bằng một hình tượng văn học: David1 (David vua Do Thái (1010 - 970 trước Công nguyên). Người chiến thắng quân Philistins và xây dựng thành Jérusalem. David cũng là nhà thơ để lại nhiều bản thánh thi mang những cảm hứng trữ tình tuyệt diệu. Trong một cuộc đấu đối David đã giết tên khổng lồ Goliath) đánh lại tên khổng lồ Goliath. Nước Mỹ hùng mạnh lần đầu tiên thua trận!

Đỗ Thúc Vượng trùm chăn xem thế cuộc. Vài người bạn thân: Tiến sĩ Phan Quang Ân, Bác sĩ Jordan, nhà thơ Liễu Châu... đã ra đi. Chỉ có ông luật sư già Trương Công Nghị là ở lại. Một bữa Vượng đến thăm ông bạn già.

- Anh vẫn chưa đi à? – Ông Nghị vui vẻ hỏi.

- Đi đâu.

- Ra nước ngoài, sang Pháp, sang Mỹ... Chỗ nào kiếm ăn được thì đi.

- Ở đây tôi đã bị đói đâu? - Vượng cười.

Ông Nghị vỗ vai bạn vẻ thân mật:

- Nhưng đã ở lại thì phải làm việc. Anh đã già đâu mà cần phải dưỡng sức? Phải hòa vào mọi người mà sống. Chưa chừng còn phải lấy vợ nữa đấy!

- Chế độ này đâu có thèm dùng tôi.

- Anh đã đến hỏi họ chưa? Anh hãy đến Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phú Thọ khai là giáo sư cũ ở đây và đang muốn trở lại làm việc. Chẳng lẽ trước kia anh viết sách viết báo chống chủ nghĩa cộng sản, nay anh lại nằm chờ họ đến tận nhà mời anh như "tam cố thảo lư”1 (Ba lần Lưu Bị đến lều cỏ (Thảo lư) mời Khổng Minh giúp Thục) hay sao?

- Chính vì chuyện cũ mà tôi thấy mình chẳng xứng đáng đứng trên bục giảng đường dạy bảo cho người khác.

- Anh vẫn còn đủ tư cách là một nhà khoa học. Anh cũng còn cả cái bằng kỹ sư nông học ở Michigan nữa kia mà.

- Đúng thế. Hồi đó tôi có ý định trở thành nhà điền chủ nên tôi học quản lý chứ không chuyên sâu về kỹ thuật. Khoa quản lý của chủ nghĩa tư bản khác với khoa quản lý của chủ nghĩa xã hội.

- Cái phần lợi nhuận thuộc về ai thì khác nhau, nhưng điều hành sản xuất để đạt lợi nhuận cao thì nó cũng gần giống nhau. Như tôi đây, học luật của nhà nước bảo hộ, tưởng sẽ chẳng ai dùng, tuổi lại cao, nhưng tôi cứ ra xin việc. Chị Ngân phó chủ tịch quận bảo tôi: “Cháu sẽ xếp việc bác làm. Bác có thể vừa học vừa làm. Chủ nghĩa xã hội cũng phải có luật pháp, có công bằng xã hội. Chỉ có khác là nó không bảo vệ quyền lợi cho bọn bóc lột thôi". Thế là tôi đi làm. Làm không phải vì lương mà vì yêu lẽ phải, yêu sự công bằng. Nếu anh muốn tôi sẽ đưa anh đi tìm việc. Anh ngại không dám nói, tôi nói giúp anh.

Có sự khích lệ của ông già Nghị, Vượng đã đến xin việc ở phòng Quy hoạch thuộc Sở Nông nghiệp thành phố. Nhưng người ta còn đang hẹn tháng sau sẽ trả lời.

Một buổi tối, Vượng đang đọc sách thì có tiếng chuông reo. Anh ra mở cổng. Một người cao, gầy tóc cắt ngắn xuất hiện.

- Thưa ông, có lẽ ông nhầm nhà?

Người khách mỉm cười:

- Ông quên tôi rồi sao, thưa giáo sư.

- Xin lỗi tôi vẫn chưa nhớ ra, xin mời ông vào.

Vượng vừa rót nước vừa suy nghĩ xem mình đã quen vị khách này từ ngày nào.

- Thực tình tôi không nhớ nổi chúng ta đã gặp nhau ở đâu.

- Giáo sư đã chóng quên quá khứ! - Người khách nhún vai tỏ vẻ tiếc rẻ - Khi giáo sư bị đánh bất tỉnh nhân sự thì chính tôi là người chăm sóc cho giáo sư. Chúng ta đã cùng nằm chung sà lim của chế độ Diệm vì chúng ta có chung lý tưởng tự do. Tôi hy vọng những kỷ niệm đó giáo sư còn nhớ được.

- Lạy Chúa, ngài là cha Antoinne Vũ Xuân Trinh! Nhưng làm sao tôi có thể nhận ra vị linh mục trong bộ trang phục trẻ trung như thế này!

- Xin giáo sư hiểu cho. Chúng ta đang sống trong một thể chế mà bộ áo thày tu cũng đủ khép tội đe dọa an ninh của chế độ. Bộ áo thày tu cũng không dám tự do mặc ra đường. Nếu người ta biết có một tu sĩ đến thăm ông thì chẳng những tôi bị theo dõi mà ông cũng bị nghi ngờ.

- Tôi tưởng các cha vẫn được tự do hành đạo đấy chứ?

- Đó là những lời nói công khai theo sách lược. Thực tế thì một trăm hai mươi chín linh mục bị gọi đi tẩy não. Hàng vạn con chiên phải vào trại tập trung.

- Chắc là tính cả các cha tuyên úy từ cấp trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn đến các vùng chiến thuật của quân lực Việt Nam Cộng hòa?

Vũ Xuân Trinh hơi lúng túng. Ông ta nói lửng lơ không ra cải chính, không ra bổ sung:

- Ngay cả những người không tham gia quân lực cũng bị tước đoạt niềm tin.

- Chắc là Cộng sản đã làm cho họ mất hoặc phai lạt niềm tin vào giáo lý, vào đấng thiêng liêng chứ làm sao tước đoạt nổi niềm tin? Tâm hồn con người là một khái niệm đóng kín tuyệt đối. Không thể có sự lẻn vào từ bên ngoài để tước đoạt được của nó cái gì trừ khi nó tự vất bỏ. Tôi nghe nói những người khôn ngoan trong giáo hội Thiên Chúa đã có một chủ trương chung sống ôn hoà với những người cầm quyền ở các nước Cộng sản kia mà?

- Nhưng những người Cộng sản cho rằng không có sự chung sống hoà bình giữa các ý thức hệ. Đó là cuộc đấu tranh một mất một còn.

- Cha tin rằng nếu họ cầm quyền thì tới một lúc nào đó tôn giáo sẽ biến mất?

- Hoặc họ hoặc chúng tôi sẽ biến mất. Cái đó tùy thuộc ở cơ may bên nào có được.

- Trong lịch sử đã từng có những cuộc chiến tranh tôn giáo nhằm tận diệt bọn dị giáo lẫn bọn vô thần, những cuộc hiến tế thần linh bằng máu của bọn ngoại đạo. Nhưng tôi chua thấy Đảng Cộng sản tuyên bố tiêu diệt các tín đồ tôn giáo dù chỉ ở phương diện ý thức hệ.

- Xin ông hãy nhìn vào thực tế. Còn lịch sử thì có thể bị bóp méo bởi những kẻ viết ra nó.

- Cha có tin vào những cuốn lịch sử do chính giáo hội viết ra không? Xưa kia họ cho đó là một chiến công, là vinh quang của Chúa. Còn bây giờ thì cha coi đó là sự thật lịch sử bị bóp méo!

- Xưa kia tôi thấy ông chống Cộng bằng những luận thuyết rất sắc bén. Còn bây giờ ông chỉ trích tôn giáo bằng chính những vũ khí độc ác của Cộng sản.

- Tôi chưa phải đi tẩy não, tôi cũng chưa đọc quyển sách nào của Cộng sản từ sau biến cố 30 tháng 4. Giá sách của tôi bây giờ chỉ có khoa học và kỹ thuật. Ngay cả trước đây tôi với Cha cũng chống Cộng bởi những lý do khác nhau, ngồi tù với những tội khác nhau, nhận thức lịch sử khác nhau, phấn đấu cho những hy vọng khác nhau... Cuối cùng thì tất cả chúng ta đều bị lịch sử gạt ra lề đường.

- Bây giờ ông còn tiếp tục chống Cộng nữa không?

- Nếu Cha không coi đây là câu hỏi có tính chất khiêu khích thì tôi xin đặt lại cho cha chính câu hỏi ấy! "Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, mời tiên sinh đối trước"1 (Dùng từ câu: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối" của Trạng Mạc Đĩnh Chi khi gặp viên quan Tàu ra câu đối "Qúa quan từ, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan").

Cha Trinh cười và không trực diện trả lời câu lỏi của chính mình đặt ra:

- Tình hình của chúng ta thật đáng buồn, nhưng chính quyền cộng sản cũng đang đứng trước những hiểm họa mới. Người bạn đồng minh khổng lồ của họ thực chất là đã tuyên chiến với họ. Nội tình của họ cng không yên. Cựu Uỷ viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan đào tẩu. Kinh tế khó khăn, tài chính khô kiệt, vật tư khan hiếm. Họ không đủ sức điều hành một nền sản xuất hữu hiệu. Cuộc bao vây kinh tế, cấm vận thương mại sẽ dẫn họ đến bước sụp đổ. Có những thực thể bền vững chống đỡ được mọi ngoại lực rất mạnh, nhưng lại rạn nứt bởi những nội lực nhỏ bé hơn nhiều. Đó là sự lão hóa, sự phân hủy tiệm tiến, sự tự hoại.

- Phần nhận xét tình hình của Cha có nhiều điểm đúng. Các thí dụ Cha nêu ra cũng khá thú vị. Nhưng phần kết luận, phần tiên đoán tương lai thì không có sức thuyết phục. Trong quá khứ những người Cộng sản đã từng phải đương đầu với những ngoại lực và cả những nội lực khủng khiếp nhất. Ai cũng tiên đoán họ sẽ bị nghiền nát, nhưng cuối cùng thì...

- Chúng ta thất bại không phải vì họ mạnh. Cái chính là những người quốc gia không gắn bó được với nhau. Họ hay cố chấp và thù vặt nhau trong những vấn đề nhỏ nhặt và vô bổ. Bây giờ thì chúng ta lại phải đi từ đầu.

- Từ chỗ nào?

- Họ đã bắt đầu rồi. Nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ là những người nhập cuộc.

- Liệu ai là minh chủ? Người xưa nói: "Quân tử phải biết chọn chúa mà thờ". Già nửa đời người, tôi đã đi theo bao nhiêu người, bao nhiêu chủ thuyết. Giờ đây ngồi nghĩ lại thì thấy mình toàn bị lừa, bị xui dại.

- Lý trưởng tự do là minh chủ của chúng ta. Chúng ta nhập cuộc và chính chúng ta sẽ chọn ra minh chủ. Có thể là anh, là tôi, ai mà nói trước được!

- Tôi muốn biết tên người đề xướng.

- À, điều này thì tôi cũng chưa được biết.

Vượng đứng dậy, bẻ ngón tay, đi chậm chạp trong phòng, vẻ mặt tư lự:

- Thưa Cha. Bây giờ tôi là nhà khoa học. Bài toán muốn giải được phải có đủ dữ kiện. Nếu chưa đủ thì đừng lao vào giải làm gì, mất công vô ích. Tôi chỉ có thể nói là tôi rất thích nói chuyện với Cha. Tôi sống cô đơn nên cần có bạn bè. Nếu Cha thích thảo luận xin mời cứ đến. Cha mặc áo chùng đen cũng được, không có gì nguy hiểm cho tôi đâu. Tôi thích sự minh bạch.

- Cảm ơn giáo sư. Xin giáo sư cứ suy nghĩ kỹ đi. Cuộc sống bi thảm này chưa đủ cho giáo sư tìm ra dữ kiện sao?

- Đúng là cuộc sống đã cho tôi thêm nhiều dữ kiện nhưng không phải là để giải bài toán của Cha. Cha hiểu tôi chứ?

Họ từ biệt nhau. Cha Trinh không hoàn toàn tuyệt vọng. Khuynh đảo một con người có học thức như Vượng không dễ dàng như đối với một tên ngu đần vô học...

Mấy hôm sau Vượng nói lại chuyện trên với lật sư Trương Công Nghị. Ông già giật mình: Anh đã thông báo chuyện trên với công an chưa?

- Bác muốn tôi trở thành một tay chỉ điểm hay sao? - Vượng cười - Xin lỗi, tôi không quen nghề này.

- Nếu Vũ Xuân Trinh chỉ nói giáo lý, nói đến quan điểm chính trị của cá nhân ông ta thì đó là quyền của ông ta. Nhưng nếu họ tụ tập thành tổ chức với mưu đồ chống lại Nhà nước thì đó là bất hợp pháp. Nhìn thấy một tên ăn cướp thì anh có thể nhắm mắt bỏ qua không?

- Kẻ cướp là tội phạm hiện hành.

- Tổ chức nổi loạn là tội phạm hình sự, là phạm pháp hiện hành. Trong khi giặc ngoài xâm lược bờ cõi mà lại đi tuyên truyền xúi giục phá hoại bên trong gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia là trọng tội. Bất cứ công dân nào phát hiện ra chuyện này đều phải có nghĩa vụ báo cho cơ quan hữu trách để ngăn chặn kịp thời tội ác.

- Tôi nghĩ rằng mọi công dân đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lập hội...

- Hiến pháp bảo vệ quyền tự do lập hội, nhưng bất cứ tổ chức nào cũng phải đăng ký hợp pháp. Tôi thấy anh nên trình bày chuyện này với công an.

- Tôi cảm thấy việc này như có cái gì thiếu đạo đức…

- Luật pháp là đạo đức tối thiểu. Nếu anh ngại tôi sẽ đi cùng anh.

- Câu chuyện chỉ có vậy thôi, nếu bác thấy cần thiết phải cho công an biết thì xin bác cứ kể cho họ đề phòng.

Trước khi phản ánh với công an, luật sư Nghị đã nói chuyện này với đồng chí Năm Ngân phó chủ tịch quận. Chị Năm cảm ơn ông già và xin ông giữ kín chuyện này cho. Chị sẽ tự báo với cơ quan an ninh.

Hai ngày sau Hai Bền đến thăm Đỗ Thúc Vượng tại nhà riêng. Sau những lời chào hỏi xã giao, Bền đi vào chủ đề chính:

- Cơ quan an ninh muốn được ông giúp đỡ một việc.

- Những công việc công khai tôi sẽ không từ chối. Nhưng những việc bí mật thì tôi không quen làm. Tôi rất vụng về xin ông hiểu cho.

- Chúng tôi cũng thích những việc công khai. Cái đích của chúng tôi là phải làm cho sự việc sáng tỏ trước nhân dân cả nước, trước con mắt của thế giới. Còn bọn phản động thì bí mật chống chúng tôi, chống cả đất nước này. Chỉ có ông mới giúp nổi bọn tôi việc này vì chúng tôi không thể lọt vào đội ngũ của chúng. Nếu họ mời, ông cứ gia nhập tổ chức của họ. Ông giúp chúng tôi tìm ra vị "minh chủ".

Đỗ Thúc Vượng tỏ ra khó chịu với yêu cầu của Bền:

- Nghĩa là tôi phải uốn giọng lưỡi theo họ. Phải ngụy biện, phải che giấu lòng mình để được họ tin cậy rồi đi mật báo với quý vị?!

- Không cần. Ông cứ nói như ông nghĩ. Tôi nghĩ là họ cũng không cần ông phải nói như họ. Còn chúng tôi cũng không yêu cầu ông nói theo chúng tôi. Tóm lại là ông không cần phải bán rẻ nhân phẩm, bán rẻ những quan điểm hiện hờn cho bên nào. Họ hiểu ông là người thế nào rồi, ông sẽ không đóng kịch nổi với họ. Tôi tin là họ cần ông không phải vì quan điểm của ông. Chính ông đã nhiều lần là nạn nhân chính trị của họ, hay ít ra là của quan thày họ. Họ cần ông chỉ vì tên tuổi của ông thôi. Nếu họ thành công (điều mà không thể xảy ra) thì rồi ông cũng sẽ đối lập với họ thôi. Điều quan trọng số một hiện nay là mong ông nhận cộng tác với họ. Nếu ông không thích mật báo cho chúng tôi thì xin ông cứ lẳng lặng mà theo họ. Cứ nhìn ông là tôi biết được họ là ai, họ ở đâu và họ định làm gì. Tất nhiên là sẽ không dễ dàng tốt đẹp bằng có sự giúp đỡ của ông. Về phần mình, chúng tôi chỉ dám yêu cầu ông ở mức độ không lớn lắm. Chúng tôi sẽ tránh né mọi nguy hiểm và hết sức bảo vệ ông. Sự cộng tác giữa chúng ta có hay không, lỏng lẻo hay chặt chẽ là tùy ông. Chúng tôi không bao giờ cưỡng bức ông.

Đỗ Thúc Vượng không nói gì, vẻ mặt ưu tư. Vài phút sau Hai Bền đứng dậy:

- Chắc là ông cần thời gian để đi đến quyết định cuối cùng. Một lần nữa tôi tha thiết yêu cầu ông giúp đỡ cơ quan an ninh. Chúng tôi hứa sẽ không ép ông làm nhân chứng cho bất cứ sự việc nào ông không muốn. Đã ba năm đất nước thống nhất, nhưng chưa bao giờ ông muốn cởi mở với những người Cộng sản. Nếu tôi không lầm thì bữa nay mới có cuộc nói chuyện lâu nhất của ông với một viên chức Nhà nước. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ là bạn với nhau, một tình bạn thực sự và ông sẽ thấy chúng tôi không phải là những tay chán ngắt, những tên cực đoan ngu ngốc như ông tưởng. Cái mà chúng tôi mong đợi hình như cũng trùng hợp với điều ông kỳ vọng. Chỉ có là nó còn ở xa nên trên chặng đường hiện tại ông không thích thú gì chúng tôi thôi.

- Xin cảm ơn về những lời nói thẳng thắn của ông. Chúng ta chưa thể hiểu được nhau nhiều qua vài chục phút tiếp xúc. Tôi kính trọng các ông và xúc động trước thiện chí của riêng ông. Nhưng việc tôi có cộng tác với họ không thì xin ông cho tôi được suy nghĩ thêm.

Họ nói chuyện với nhau chỉ độ nửa giờ, Đỗ Thúc Vượng tiễn người cán bộ an ninh ra cửa. Sau khi bắt tay Hai Bền, Đỗ Thúc Vương hỏi thêm:

- Tôi chưa biết số điện thoại của ông. Nếu có thể, xin ông ghi lại cho.

- 64625! Nếu tôi đi vắng ông có thể nói qua ông Đức số máy 64328 - Vừa nói anh vừa ghi vào một mảnh giấy nhỏ, đưa cho Vượng.

Tiện chuyến đi Hà Nội báo cáo công tác, Nguyễn Hùng Thắng đã giúp Tạo về Bắc Ninh thám quê cũ. Mọi việc đều tốt đẹp khiến cho Thắng cảm thấy phần nào đã đền đáp được lòng tốt của người lái xe đối với mình. Còn Tạo thì lại tỏ ra rằng sự quan tâm của thủ trưởng lớn lao quá khiến cho tất cả tấm lòng tận tụy của mình từ trước đến nay thật là bé nhỏ và vô nghĩa. Cái sự biểu hiện tình cảm kiểu thù tạc đó làm cho họ thêm gắn bó với nhau.

Khi trở về Thành phố Hồ Chí Minh. Tạo ngỏ ý mời Thắng ở lại nhà mình vài bữa cho khỏe rồi hãy đến cơ quan. Thắng nhận lời. Nhưng khi xe chui vào hành lang của một ngôi nhà rất to ở Chợ Lớn thì Thắng biết đây không phải là nhà Tạo.

- Vào đây làm gì?

- Dạ em cho xe đi rửa, xem lại máy, cho thêm dầu mỡ sau chuyến đi dài.

Chiếc Datsun len lỏi qua những hành lang tối như đường hầm dưới tầng trệt và đỗ lại trong một căn buồng rộng. Tạo vừa xuống xe đã thấy hai thanh niên chạy lại.

- Giao xe cho mấy chú làm đó. Lau thật cẩn thận giúp anh nhé.

- Dạ, anh Hai khỏi lo. Bọn em làm thiệt tốt.

Tạo mở cửa xách đồ đạc rồi mời Thắng lên lầu. Đến tầng ba, họ gặp một lão già thấp béo, đầu trọc, không râu, mắt một mí, mặc bộ đồ bà ba trắng. Lão cúi chào hai người rất lễ phép.

- Cho một buồng nghỉ nhé. Quý khách đấy!

- Dạ xin mời. - Lão già rút trong túi ra một xâu chìa khóa, lựa một chiếc đưa cho Tạo - Thưa, buồng bốn mươi.

Tạo quay lại nói với Hùng Thắng.

- Dạ, đây là khách sạn Olimpic nổi tiếng, nay đã đóng cửa một trăm buồng chuẩn bị đưa vào hợp doanh. Chủ xin lại ít buồng để ở và đôi lúc cũng có tiếp khách quen.

Tạo mở cửa buồng số bốn mươi. Một căn phòng rộng, đầy đủ tiện nghi sang trọng. Hai ban-công nhìn ra bầu trời rộng lớn, một vùng cây xanh và những mái nhà thành phố nhấp nhô cao thấp, thật đẹp mắt.

- Thủ trưởng nghỉ đây. Em ở dưới nhà còn trông nom bọn nó lau xe. Cần gọi em, thủ trưởng cứ bảo qua cô hầu phòng.

Thắng còn đang lúng túng thì Tạo đã hướng dẫn thêm:

- Đây là chuông gọi hầu phòng, bấm là có người đến ngay - Y mở ngăn kéo lấy ra tập ảnh. Chỉ còn hình bốn cô gái - Đây là số một, số hai, số ba, số bốn. Cần gọi cô nào ta gạt cần gạt vào số đó rồi bấm chuông. Cửa khép lại tức là đã khóa. Chỉ có bên trong mở được, bên ngoài không thể tự tiện vào.

Hướng dẫn xong Tạo bấm chuông gọi và nhìn đồng hồ. Hai phút sau một cô gái mặc bộ đồ trắng sạch sẽ xuất hiện.

- Thưa quy ông cần gì ạ?

- Chuẩn bị để “sếp” tắm nhé.

- Dạ.

Tạo nhìn Thắng mỉm cười rồi quay ra đóng trái cửa lại...

Tối hôm đó Thắng bấm chuông thì thấy hai cô gái đã làm tình với anh trước đây xuất hiện. Thắng ngạc nhiên:

- Trời, làm sao các em biết anh ở đây mà lại thăm?

- Thủ trưởng ở đâu mà chúng em chẳng biết? Chúng em có máy ra-đa.

- Chắc anh Tạo bảo chứ gì?

Hai cô cười rồi thân mật ngồi xuống bên Thắng, cô bá vai, cô ôm sườn.

- Chúng em có cái này hay lắm, muốn đem đến cho anh xem.

- Cái gì thế?

- Bí mật! - Cô gái chạy đến bên chiếc video casstte lắp vào cuốn băng hình rồi bấm máy. Màn ảnh hiện lên toàn bộ "Những giây phút hoan lạc" giữa Thắng và hai cô gái lần trước. Cái trò đó làm anh ta vừa xấu hổ vừa hoảng hồn.

- Ghi lại những cái này làm gì?

- Bọn em muốn giữ cho chúng mình một kỷ niệm. Dù anh có là ông Tổng giám đốc thì cũng là một con người, cũng thác loạn như bọn em. Đâu chỉ có bọn em mới xấu xa, mới đáng khinh như mọi người vẫn quan niệm.

Một cảm giác bị bao vây, bị sa lưới làm cho Hùng Thắng lo lắng và tức giận. Tuy vậy anh ta không dáng nổi nóng. Phải bình tĩnh mà gỡ cho ra.

- Thôi, tắt máy đi em!

- Sắp hết phần của chúng ta rồi. Ta xem chuyện của người khác.

Phần sau cuốn băng còn những pha tân kỳ kích động hơn, làm cho Thắng quên cả lo sợ.

- Cho anh cuốn băng này nhé?

- Anh cũng phải hứa cho chúng em một chút gì chứ!

- Tất nhiên là phải có đi có lại. Nhưng anh không giàu có gì mà các em hy vọng nhiều.

- Anh giàu mà anh không biết đấy. Trong tay anh có biết bao nhiêu của quý. Một chữ ký của anh đáng giá hàng chục ngàn đô-la! Chúng em thèm những chữ ký của anh.

- Hùng Thắng lặng người đi vì đây không còn là chuyện cá nhân anh nữa mà sự thối ruỗng đã lan đến lĩnh vực công tác.

- Anh sợ à. Chẳng có gì nguy hiểm đâu. Nó chỉ giản dị như thế này thôi. Khi nào cấp dưới của anh lên xin duyệt các lệnh phân cấp vật tư thì xin anh cứ ký vào những phiếu có dấu chừ thập đỏ ở góc phải. Anh có thể vặn vẹo, thậm chí đập bàn đập ghế cũng được. Nhưng cuối cùng thì anh cũng cứ ký. Thế là xong.

- Các em có liên quan gì đến những giấy tờ đó?

- Dễ hiểu thôi. Có một cơ quan nhà máy nào muốn lĩnh được vật tư nguyên liệu sớm để kịp sản xuất, họ nhờ bọn em nói hộ rồi chi cho bọn em chút ít công. Bọn em sẽ đến nói khó với phòng kế hoạch của anh và họ sẽ trình lên anh. Đằng nào anh cũng phải duyệt. Của Nhà nước lại phát cho Nhà nước. Toàn là ô-tô, máy ủi, vòng bi, xéc-măng, pít-tông, xúp-páp... chúng em đâu có xài tới thứ đó.

- Nhưng phải có trong kho thì anh mới cấp được chứ.

- Có, nhất định là phải có trong kho thì bọn em mới nhờ đến anh chứ. Anh có thứ gì mà bọn em chẳng biết - Cô gái cười giòn tan, lúng liếng nhìn Thắng với cặp mắt dâm đãng - Bộ anh tưởng giấu nổi bọn em sao?

- Hùng Thắng cảm thấy những điều kiện trên cũng nhẹ nhàng thôi. Có chứng cớ gì để kết tội anh ta được? Trách nhiệm được chia sẻ cho nhiều người và họ phải biết cách bảo vệ cho anh ta. Tất nhiên phạm vi càng mở rộng thì nguy cơ bại lộ càng tăng. Nhưng biết làm sao được.

Ba hôm sau Thắng về cơ quan đã có hàng lô giấy tờ đưa lên xin chứ ký. Anh liếc thấy có ba chứng từ, hóa đơn... có dấu chữ thập đỏ với nội dung: thanh lý mười hai ô-tô chiến lợi phẩm, xuất một nghìn năm trăm vòng bi, mười hai tấn đồng lá. Thắng giật mình nhưng không sao cưỡng nổi. Anh ta đành nhắm mắt ký liều.

Con người vốn có phản xạ thích nghi với môi trường. Lúc đầu Thắng còn lo sợ những hành động bất chính. Nhưng lo mãi, chờ mãi mà chẳng thấy hậu quả gì thì tính cảnh giác lại trơ mòn, và anh ta lại coi thường hiểm nguy, tiếp tục dấn thân mãi vào vòng tội lỗi.

Một buổi tối anh ta đang lặn lộn trác táng trong lột tổ quỷ thì có một người đàn ông chừng bốn chục tuổi, cao to, da ngăm ngăm, râu tóc như Robinson trên hoang đảo xuất hiện.

- Xin chào ông Hùng Thắng. Mong ông tha lỗi cho sự đường đột của tôi. Tình hình quá khẩn cấp buộc tôi phải thông báo với ông một tin quan trọng - Y quay sang bọn gái điếm - Các em mặc quần áo vào và ra ngoài một lát.

- Thưa ông, tôi muốn biết rõ thêm những điều ông vừa nói.

- Ông đang bị đe dọa. Những việc làm của ông đã bại lộ. Công an đang hình thành hồ sơ về ông. Ông có thể bị bắt trong một vài ngày tới.

- Trời! Tôi bị bắt vì tội gì? Ai đã tố cáo tôi?

- Về tội làm tiệc cho cơ quan tình báo Trung ương Hoa Kỳ.

- Đâu có chuyện đó! Bịa đặt hết! - Hùng Thắng hoảng hốt, sợ hãi tưởng phát điên. Thực tế thì ông đã nhận lương của CIA. Nếu không, làm sao ông có thể sống phè phỡn trong những tổ quỷ đầy rượu ngon gái đẹp như thế này được. Lương cả năm của ông liệu có đủ chi nổi vài đêm hoan lạc kiểu siêu hạng? Nếu ông bị bắt họ có thể buộc tội ông là phản đảng, phản quốc và không sao tránh được cái án tử hình. Chúng tôi thấy cần phải cứu ông vì chúng tôi từ lâu đã coi ông là người của chúng tôi. Ông đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.

- Họ đâu có nắm được bằng chứng gì để kết luận là tôi phản quốc. Ngay bản thân tôi cũng chưa bao giờ nghĩ là mình phản quốc...

- Đúng là như vậy. Chúng tôi còn coi ông là một người tự do, một người yêu nước chân chính là khác. Nhưng với cơ quan an ninh của Cộng sản thì họ đâu có quan niệm như chúng ta được. Thí dụ như họ thấy toàn bộ tài liệu bí mật về phân cấp vật tư chiến lược, về viện trợ, nhập khẩu thường niên bỗng nhiên bị lộ ra ngoài. Họ theo dõi thì thấy ông lén lút đi lại những tổ quỷ đắt tiền. Như vậy là họ có cơ sở để bắt ông lắm chứ!

- Tôi có tội nhưng không ở mức đó. Tôi chỉ sa ngã trong cuộc sống tình dục thôi chứ tôi không phản quốc, không làm gì cho CIA! Họ vu cáo!

Người lạ mặt cười ầm lên.

- Ông dành hơi sức để ra toà mà thanh minh. Bây giờ tôi đến đây để cứu ông kia mà? Việc gì ông phải hoảng sợ như vậy!

- Cứu tôi?

- Vâng. Cứu ông. Tôi sẽ đưa ông ra nước ngoài. Ông sẽ được an toàn tuyệt đối, ông sẽ tiếp tục cuộc sống đế vương. Ông có chịu không?

- Hùng Thắng bàng hoàng.

- Ông cho tôi suy nghĩ đã.

- Không còn thời giờ để suy nghĩ. Ông hãy quyết định đi. Ông phải mang theo một số tài liệu về tình hình vật tư hiện nay. CIA sẽ mua cho ông món hàng đó. Ông có thể viết một cuốn sách về sự khốn cùng của chế độ cộng sản Việt Nam. Dĩ nhiên là sẽ có người viết cho ông. Ông chỉ cần đứng tên thôi. Ông sẽ nhận được một khoản tiền nhuận bút khá lớn để mà ăn chơi cho thỏa thích. Đừng nghĩ nhiều mà lỡ mất cơ may. Chúng tôi đã nghĩ hộ ông mọi đường rồi.

Người lạ mặt phác ra một kế hoạch đào nhiệm và vượt biên khá tỉ mỉ. Hùng Thắng chỉ còn vâng dạ để chấp hành. Chúng đã chuẩn bị cho Thắng một lỗ chui duy nhất.

Ba ngày sau Nguyễn Hùng Thắng đã có mặt ở Westland. Sau hai tuần chuẩn bị, tên phản bội đã ra trước cuộc họp báo để nói xấu chế độ theo kịch bản của Bảy Dĩ. Lúc đó việc tìm kiếm một cán bộ quan trọng mất tích mới ngừng lại. Tất cả đều đã muộn.

CHƯƠNG X

CUỘC HỌP KÍN CỦA BỌN PHỤC THÙ

Tôi đã nhận được bức điện hiếm hoi của Trung tâm chỉ huy từ Tổ Quốc phát đi. Tôi nói là hiếm hoi vì đây là lần đầu tiên sau hơn ba chục phiên trực vô hiệu. Sự chuyển tải phức tạp máy tiếp sóng công suất yếu nên các tín hiệu đều mờ nhạt rất khó nhận. Nhưng may sao chúng tôi vẫn hiểu được những gì cậu tôi muốn nói với chúng tôi. Tôi không thể nói lại điều gì với cậu vì chúng tôi không thể phát tin theo chiều ngược lại, nhưng chúng tôi hy vọng cậu hiểu được tấm lòng thương nhớ của chúng tôi.

"Hoàng Quý Nhân sẽ ra nước ngoài". Đó là điều hoàn toàn có thể. Qua câu chuyện với Tùng Lâm, tôi thấy anh ta nói nhiều đến lực lượng mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo tài ba của một thủ lĩnh mới đã gây cho nhà cầm quyền rất nhiều khó khăn. Lực lượng quốc nội đó sẽ liên hệ chặt chẽ với những người lưu vong để chơi lại ván bài từ đầu với Cộng sản.

Phải chăng nhà lãnh đạo tài ba này chính là Hoàng Quý Nhân? Không! Tôi tự bác bỏ phán đoán của mình. Tướng mạo Nhân không thích hợp với một chính trị gia. Y là một tên đao phủ, một kẻ khủng bố thì hoàn toàn có thể. Ngữ ấy mà giương ngọn cờ chính trị lên thì làm sao thu hút được quần chúng? Nhưng Bạch Kim đã không đồng ý với tôi.

- Anh quan niệm bộ mặt chính khách tay sai phải như thế nào? Tướng Thiệu, tướng Kỳ còn làm được tổng thống, thủ tướng thì tại sao Hoàng Quý Nhân lại không có thể?

- Thì chính những tên quân phiệt đó đã trở thành biểu tượng cho thảm bại, thế thì một tên mật thám thờ ba đời chủ làm sao đủ uy tín tập hợp lôi kéo được những lực lượng chính trị?

- Trâu tìm trâu, ngựa sẽ tìm ngựa. Anh chẳng đã từng nói mục tiêu chiến lược trước mắt của kẻ thù là làm chảy máu Việt Nam. Chúng chưa có cơ hội tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược mới, hoặc gây bạo loạn lật đổ Nhà nưởc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Như vậy chúng lựa một tên đao phủ, hay tên khủng bố chuyên nghiệp lãnh đạo tổ chức phản động này là thích hợp chứ sao nữa.

Nhận xét của Bạch Kim rất lô gích làm cho tôi không thể loại trừ. Tôi cười dàn hòa:

- Thôi được. Dù Hoàng Quý Nhân ở cương vị nào thì ta cũng phải đối phó với tình huống này. Có ba điểm ta phải quan tâm. Thứ nhất: Nhân có thế qua Westland, nơi tụ tập những tổ chức gọi là “lực lượng chi viện tiền tuyến". Ở đây Nhân có thể gặp Warrens để tiếp thụ những kế hoạch phá hoại rộng lớn hơn. Thứ hai: Nhân có thể đến gặp vợ ở Hồng Kông. Việc Trung Quốc tiến công sáu tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy bọn bành trướng rất quan tâm đến chuyện câu kết với bọn phản động nội địa. Và bọn phản quốc cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội bắt tay với kẻ thù mới của dân tộc. Thứ ba là ngay tại đây, Los Angeles là trụ sở thường trực của Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Nhân có thể đến đây tìm kiếm sự ủng hộ của nhiều thế lực phục thù ở Mỹ, tranh thủ sự tài trợ của bọn lưu vong giàu có. “Mọi con đường đều dẫn tới Washington". Đồng đô-la vẫn là thần bảo mệnh của bọn chúng. Chỉ có một khó khăn là cả hai chúng ta đều không có khả năng điều tra trực diện Hoàng Quý Nhân.

- Ta nhờ anh Ân được không?

- Ngay từ cuộc hội thảo lần trước anh Ân đã chống lại quan điểm của bọn phục thù. Anh cũng không có trong ban lãnh đạo. Dĩ nhiên ta cũng thông qua anh Ân để biết thêm hoạt động của Hoàng Cơ Bảo. Còn mối tình của em với Hoàng Bảo Thạch hồi này ra sao?

Bạch Kim đấm vào lưng tôi rồi nguýt dài:

- Nói thế mà nghe được!

- Anh xin lỗi, anh muốn nói "mối tình vờ" đó ra sao?

- Hoàng Bảo Thạch vẫn ve vãn em. Y tỏ ra rất chú ý đến chuyện em định bỏ ra hai trăm ngàn đô-la đầu tư vào ngành dệt ở Hồng Kông. Thạch mê em có lẽ cũng vì món hồi môn đó!

- Em sẽ qua hắn mà thu lượm mọi tin tức về Hoàng Quý Nhân.

- Còn anh?

- Anh sẽ đi Voca City chuyến nữa. Ở đấy còn nhiều việc lắm.

Tôi bay đi Forthworth thăm Antonio. Vợ chồng anh thân tình đón tiếp tôi. Hai anh chị và cháu gái nhỏ sống ở thành phố này. Thỉnh thoảng họ mới trở về trại Oliver.

Tôi được Antonio cho biết; tiểu thư Miguel đã lấy chồng. Chồng cô, Ramiro Alonzo trước đây là một điền chủ giàu có ở Del Joinville. Anh ta đã bỏ ra hai chục năm trời để sưu tập những di vật văn hóa của thổ dân sống trên dãy Andes thuộc vùng núi lửa Veneltéla. Ramiro đã bán hết gia sản đi để có được một viện bảo tàng. Chẳng bao lâu nguồn tài chính của anh khô kiệt, anh phải đi vay nợ để tiếp tục công việc. Nhưng món nợ lãi đó đã làm anh phá sản. Nếu anh chịu bán bộ sưu tập đồ sộ của mình cho những kẻ sán lùng cổ vật ở Mỹ thì chẳng những thừa sức để trả nợ mà số dư còn đủ sống suốt đời, nhưng Ramiro đã không làm như thế. Anh lo những di vật vô giá đó lọt vào tay bọn giàu có Bắc Mỹ. Anh cầu cứu chính phủ giúp đỡ nhưng bị từ chối. Không còn cách nào khác, Ramiro Alonzo đành viết giấy hiến toàn bộ tài sản của mình cho thành phố Del Joinville với yêu cầu duy nhất là giữ lại những thứ đó cho nhân dân địa phương. Anh phải trốn sang Mỹ với cái tên giả Vera Sauna. Con người nghèo khổ lang thang đó đã gặp được một tâm hồn đồng điệu. Alonzo đã cùng Miguel lập nên một hội từ thiện lấy biểu tượng "Rắn lông chim". Họ đang có chủ trương đến Việt Nam để điều tra những hậu quả của chất độc màu da canh đối với môi trường sống và những di chứng trên cơ thể con người. Họ sẽ vận động quyên góp tiền bạc để giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh.

- Cảm ơn các anh chị, những người Mỹ nhân hậu bao giờ cũng quan tâm đến đất nước Việt Nam chúng tôi - Tôi nói với Antonio.

- Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Bất cứ nơi nào tội ác còn ngự trị hoặc để lại những di họa thì nơi đó vẫn phải là nỗi đau chung của nhân loại.

- Anh làm cho tôi nhớ đến câu thơ của John Donne.

… Cái chết mỗi con người làm ta bé nhỏ đi

Ta hòa nhập với Nhân quần rộng lớn.

Xin đừng hỏi: Chuông nguyện hồn ai thế?

Chuông nguyện cầu cho chính cả hồn anh.

- Đúng như vậy. Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, nhưng vẫn mang trên mình những vết thương tinh thần và thể xác nạng nề. Tôi yêu nước Mỹ của tôi, tôi muốn hiến dâng cả cuộc đời cho nước Mỹ, nước Mỹ tự do của Washington, của Lincoln... chứ không phải của bọn 3K, bọn tỉ phú. Tôi đi viết ở những vùng nguy hiểm không phải do tính hiếu kỳ, phiêu lưu thúc đẩy. Tôi muốn cho hình ảnh nước Mỹ tốt đẹp lên.

- Tôi định đi Bangkok rồi đi Westland một lần nữa. Anh có muốn đi với tôi không?

- Chuyến đi vừa rồi tôi mới đến được Chiang Rai. Tôi muốn vượt biên giới sang Mae Sai nhưng không được. Một người da trắng không thể trà trộn vào đám dân bản xứ. Tôi mới đến được cạnh của vùng "tam giác vàng" chứ chưa lọt vào nổi.

- Anh có tìm được điều gì thú vị không?

- Qua chuyện trò với những người ở Chiang Rai tôi được biết vùng ba biên giới này vốn là nơi cư trú của người H’mông, người Yao, người Shan... Họ có nghề trồng thuốc phiện từ lâu đời. Khi Quốc Dân đảng Trung Hoa bị quét khỏi lục địa, tàn quân của quân đoàn 93 của tướng Li Mi đến trú ngụ ở vùng này. Những người Tàu đã biết tăng nhanh sản lượng thuốc phiện và tiêu thụ thuốc phiện bằng cách thiết lập những đường dây thương mại với Bangkok, Hongkong, Ma Cao, Chợ Lớn, Đài Bắc, Singapor... Không ai dám đến vùng núi cao hiểm trở này kể cả quân đội của chính phủ. Đó là nơi tị nạn của bọn cướp thuộc nhiều chủng tộc, được trang bị mạnh. Hai nhân vật nổi lên chi phối vùng này là Le-wen Fan và Tuan Si Wan. Chúng lập đại bản doanh ở Tham Ngob và Mac Salong. Chính phủ Bangkok làm ngơ vì họ cần tận dụng bọn này để vô hiệu hóa các lực lượng thâm nhập của Bắc Kinh. Mặt khác sự gia tăng sản lượng thuốc phiện cũng làm tăng nguồn ngoại tệ của Thái, tăng tốc độ làm giàu của nhiều sĩ quan cao cấp. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, quân viễn chinh Pháp cũng đã tiếp tay cho đường dây buôn lậu quốc tế này. Suốt từ năm 1946 đến năm 1954 rất nhiều máy bay Dakota của Pháp chuyển nhiều thuốc phiện từ Bắc Lào về Tân Sơn Nhất về Nông Pênh. Một đường dây mặt đất từ Luông Pha Băng đến Phonxavan, Séno, Paksé đưa thuốc phiện tới Huế... Những tên buôn lậu người bản xứ như Sananicon, Kà Tày, Bảy Viễn, v.v... làm giàu rất nhanh chóng.

Trong thời kỳ Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh bí mật ở Đông Dương, CIA đã liên hệ chặt chẽ với những thủ lĩnh của nhiều bộ tộc, những tên tướng cướp và bọn trùm buôn lậu ở vùng Tam Giác Vàng. Đã có nhiều cuốn phim vào báo chí phương Tây phanh phủi chuyện này nhưng họ chưa nêu nổi danh tính những kẻ đã nhúng tay vào việc hình thành những đường dây buôn lậu héroine vào nước Mỹ.

- Điều quan trọng là phải biết được những tên "trùm hiện đại".

- Muốn đến được cái đích đó, tôi phải lần theo đường dây của lịch sử. Sau sự sụp đổ của Lo Hsing Han, "chiến trường ma tuý" nổi lên ba lực lượng. Lực lượng thứ nhất của người Shan do những người phái hữu Miến Điện cầm đầu. Lực lượng thứ hai dưới quyền Kuan Cheung đáng sợ, một người lai Sion-Shan, cụt tay. Lực lượng thứ ba mạnh nhất với ba nghìn tay súng được coi là đoàn hùng binh của chiến trường ma tuý hiện đại. Ngay san khi Quốc Dân đảng rút đi, Bắc Kinh đã dần dần kiểm soát được nhiều bộ tộc ở Đông Miến dưới danh nghĩa những phong trào giải phóng dân tộc, nhưng thực chất là những tổ chức buôn lậu quốc doanh ở Yannam. Trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương, thị trường ma tuý có một cơ hội vàng. Những nhà máy tinh chế bạch phiến được xây cất trong vùng này đã đem lại lãi suất rất lớn. Một gam bạch phiến nguyên chất giá một nghìn phăng (ở thị trường Paris) thì chất thuốc phiện màu vàng nhạt ở Thái gọi là "Kay" chỉ đạt sáu trăm F/kg. Các đường dây ma túy tràn vào Nam Việt Nam phục vụ cho quân viễn chinh Mỹ quên đi những cơn ác mộng. Rồi từ Nam Việt Nam, ma túy theo lính Mỹ đi Nhật Bản, đi Guam vào nước Mỹ. Với sản lượng năm mươi tấn một năm, vùng Tam Giác Vàng cung cấp hàng năm cho Thái Lan một số ngoại tệ khá lớn. "Thai connection1 (Đường dây Thái chuyên buôn lậu ma tuý) chuyển héroine sang Italia. Rồi “French connection2 (Đường dây Pháp chuyên buôn lậu ma tuý)  Sicile chuyển tiếp đến Marseille. Tam giác Madrid – Amsterdam - New York đã mở rộng thị trường ma túy với một gia tốc chưa từng có.

- Nhưng đó chỉ là chuyện cũ. Còn chuyện hôm nay? - Tôi hỏi Antonio.

- Đó chính là vấn đề mà tôi quan tâm nhất. Nhưng tiếc là nó vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Anh thử xem những mối liên hệ giữa Mc Dovan và Shiadej, viên lãnh sự Thái ở Chicago. Mối liên hệ giữa Warrens với người đàn bà Tàu giàu có Lee-Chon-Yan, chủ nhà băng Banville mà người ta thường gọi là "bà tỉ phú đỏ". Tôi có nhiều bằng chứng là bà ta có liên hệ với Khan Sa, một nhân vật đầy quyền lực ở vùng Tam Giác Vàng hiện nay. Anh cũng nên để ý đến nhột người Mỹ tên là Mendel Strong và tên Tomado-le-Loup một tên Mafia hiện đang có mặt ở Hongkong và Bangkok từ nhiều tháng nay.

- Sao anh lại biết những chuyện này? – Antonio ngạc nhiên.

- Tôi tập làm báo nên tôi thu lượm mọi nguồn tin vào cuốn sổ.

- Anh có thể nói rõ hơn được không.

Tôi đã cung cấp cho Antonio tất cả những hiểu biết của tôi, của Bạch Kim và cả những gì còn lại trong bộ sưu tập của Phương Dung về vấn đề ma túy. Tôi không tiếc anh điều gì vì nó không thuộc lĩnh vực của tôi. Đó chỉ là những tin tức hỗ trợ cho hoạt động bề rộng. Antonio rất thú vị và thế là anh quyết định bay đi Băngkok một chuyến nữa.

Hoàng Quý Nhân đã vượt biển ở một địa điểm thuộc Phan Trang. Xuất phát từ mũi Mang, chúng kẻ một đường ngắn nhất ra hải phận quốc tế. Warrens đã bố trí cho tàu chiến Mỹ chờ sẵn ở đây. Ngày hôm sau một cuộc đón tiếp long trọng đã diễn ra ở Voca City.

R. Warrens, Mc. Dovan, M. Strong, Bảy Dĩ, tướng Southit thuộc lục quân Westland và nhiều nhân vật quan trọng đã đến chào mừng con người hùng từ Việt Nam đến. Warrens không làm ồn ào như vụ Nguyễn Hùng Thắng nên chẳng có nhà báo nào được phép tìm đến.

- Thưa ông Warrens, thưa quý vị. Trước hết tôi xin cảm ơn sự tiếp đón thân hữu của quý vị. Sự có mặt của tôi hôm nay tại đây, bản thân nó đã là một chiến công. Hải lực Hoa Kỳ đã vớt tôi lên từ biển cả sau khi tôi vượt qua hàng rào thép của Cộng sản. Có một điều vui mừng là chúng tôi đến đây không phải với hai bàn tay trắng, với danh nghĩa của kẻ chạy trốn khối lưỡi hái của tử thần, mà là người được quốc dân ủy nhiệm đi tìm một cố gắng chung ngõ hầu xoay chuyển cục diện chiến lược trên vùng đất mà những người tự do tưởng như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Bản thân tôi cũng không còn là một cá nhân cô đơn nữa. Tôi thực sự trở thành đại diện của cả một dân tộc đang bị tù đày. Con đường trước mặt của chúng ta còn rất dài, nhưng ngay từ hôm nay tôi đã có thể tuyên bố với quý vị rằng tương lai của nó rất sán lạn. Sở dĩ có được niềm lạc quan trên là bởi lẽ tôi, chính tôi đã làm sống lại những con người, những bộ máy tưởng như đã bị lịch sử chôn vùi sau thảm họa 30 tháng 4. Những con người dũng cảm thực sự có năng lực này chẳng những cần thiết cho sự nghiệp của dân tộc tôi, ulà còn vô cùng có ích cho thế giới tự do, cho nước Mỹ vĩ đại, người bạn lý tưởng của những dân tộc bị Cộng sản nô dịch...

Những tràng vỗ tay nổi lên ầm ỹ nhưng những bức tường cách âm tốt không để một gợn sóng âm thanh nào lọt nổi ra ngoài. Hoàng Quý Nhân không trình tất cả món quà của y ra trước mặt các quan chức Mỹ. Y gặp riêng từng người, và với từng người y có một chiến thuật mà y cho là thích hợp. Cuộc đàm phán với Warrens đã đi đến những thỏa thuận tổng quát:

Một là: Khôi phục nhanh chóng lại bộ máy cũ của CIA. Phát triển thêm mạng lưới điệp viên săn tìm tin thứ cấp trên toàn lãnh thổ từ Nam đến Bắc Việt Nam. Đưa guồng máy đó vào hoạt động thực sự trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế van hóa...

Thứ hai: Thành lập Mặt trận Tự do và một chính phủ lâm thời chỉ đạo cuộc khởi nghĩa trong nước để thu hút sự quan tâm của dư luận Mỹ. Có thể công khai các nhân vật lãnh đạo đã gây được thanh thế thật sự trong quốc nội lẫn quốc ngoại. Một danh sách chính phủ lâm thời đã được sắp đạt. Quý Nhân muốn dành cho những phần tử trong nước nhiều ghế hơn. Nhưng y cũng gặp nhiều khó khăn vì danh sách y đưa ra quá nghèo nàn. Toàn là những tên vô danh tiểu tốt, ít hiệu quả tâm lý. Warrens khuyên y nên lựa thêm những nhân vật lưu vong. Để nâng cao uy tín cho họ có thể tổ chức cuộc cuộc thâm nhập lớn vào nội địa, tổ chức "ra mắt quốc dân" của cái nội các lâm thời này. Sẽ quay phim, chụp ảnh phân phát cho các tổ chức thông tin quốc tế. Sau đó lại đưa các vị nhát gan ấy ra công cán ở nước ngoài. Chỉ cần mượn cái danh, cái thực vẫn là Nhân và bọn chân tay ở trong nước. Kế đó của Warrens xem ra là hay nhất. Vì vậy Quý Nhân sẽ đi Mỹ cùng với Bảy Dĩ và tên phản bội Hùng Thắng để tiến hành hiệp thương với phái lưu vong.

Khi mà có được chính phủ lâm thời thì Warrens sẽ chính thức xin Chính phủ Mỹ viện trợ cho nó. Trước mắt CIA có thể chi thẳng năm triệu đô-la của quỹ mật giúp cho những hoạt động này.

Nhân cũng hứa sẽ chuyển giao chuyến hàng đầu tiên cho Warrens. Đó là mười ki-lô-gam chất héroine hảo hạng theo một con đường bảo đảm mà hai bên lựa chọn. Warrens cảm ơn Nhân và hứa sẽ chuyển ngân đầy đủ cho tài khoản của Nhân ngay san khi "phi vụ” được thực hiện.

Hai ngày sau đó một phái đoàn đặc biệt do Hoàng Quý Nhân dẫn đầu bay đi Washington. Họ được chính Price, đại diện của Bộ Ngoại giao cùng nhiều quan chức khác tiếp đón.

Tôi và Antonio đến Voca City vào mùa hè 1979. John Antonio gặp lại người bạn cũ là Mendel Strong. Anh chưa biết Warrens nên định thông qua Mendel để tiếp cận Warrens nhưng không may cho anh là ông trùm này đã về Mỹ. Anh tìm cách lân là làm quen với người đàn bà Tàu Lee-Chou-Yan.

Còn tôi thì đến mật cứ Béta. Tùng Lâm đi vắng! Cô gái hầu phòng Diệu Lan cho hay Tùng Lâm đã đi Voca City một tuần rồi. Có thể anh còn bay đi Washington. Buồn quá tôi quyết định đến thảm Trương Tấn Hào. Gặp lại tôi, Hào mừng lắm.

- Trời, lâu quá không thấy anh lại. Tôi ở đây hẻo lánh quá, ít bạn bè đến thăm buồn lắm.

- Anh có nhận được tin chị và các cháu không?

- Dạ trước đây hai tháng có một lá thư. Ở nhà vẫn bình thường và lần này họ lại kêu tôi quay về mới ngán chứ!

- Vợ kêu chồng về là chuyện vui chứ sao lại ngán?

- Đâu phải chỉ về với bả và xắp nhỏ mà là về sống với chế độ Cộng sản. Mình đã bỏ đi, nay về đâu có nổi.

- Có ông anh ruột là Cộng sản bảo lãnh thì sợ chi.

- Dạ là nghe bọn trẻ viết thư nói bậy bạ vậy thôi chớ ổng đâu có viết cho tôi.

- Thế anh Tùng Lâm hồi này có hay lại thăm anh không?

- Dạ có. Cách đây mươi bữa anh có lại. Nằm với tôi vài hôm. Coi bộ ông tướng đang bị kẹt đó?

- Sao?

- Họ đang biểu ông ra làm Tổng trưởng quốc phòng chi đó. Nghe bự lắm!

- Làm bộ trưởng thì có gì mà kẹt. Cho tôi làm bộ trưởng tôi cảm ơn ngay!

- Kẹt chớ. Vừa qua nghe nói có một ông cỡ bự đằng mình từ Sài Gòn sang. Họ nói lực lượng quốc gia đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của ổng và giải phóng được nhiều vùng khỏi tay Cộng quân. Họ còn nói quân Cộng sản nay bị phân tán ra hai đầu, ở Cam-bốt và ở biên giới Việt-Trung, nên trong nội địa chống trơn cả. Trung Cộng đang ngả sang phía Mỹ và định cho Hà Nội bài học thứ hai. Chưa chừng kỳ này họ vô Thăng Long cho coi. Miền Nam Việt Nam đang có cơ may để định đoạt số phận của mình. Washington và Bắc Kinh cùng hợp sức thì Hà Nội chịu sao nổi. Họ đang khẩn cấp xúc tiến thành lập nội các. Do đó tướng Tùng Lâm có cơ được mời ra làm Tổng trưởng.

- À ra thế! Vận may đã tới sao gọi là kẹt được?

- Ông đâu có khoái chức vụ này ông không tin có thể hạ nổi quân Cộng sản Việt Nam. Quay trở lại lúc này là đeo cái án tử hình vào cổ. Nhưng từ chối ctĩng dở vì ông vừa ký thêm một hợp đồng ba năm với Warrens. Thế là ông đành bay đi Mỹ để khởi sự một chương trình rất mạo hiểm nhưng quang vinh.

- Còn anh, có lẽ họ cũng sắp bổ nhiệm làm Đô đốc Tư lịnh Hải quân đó! - Tôi thăm dò Hào.

- Đâu có. Tôi chỉ có ba cái tàu chở hàng nhỏ xíu, lấy đâu ra chiến thuyền mà gọi là hải quân đô đốc? Nghe nói Hải quân của họ được Nga Xô trang bị cả tàu tuần dương cỡ Frégat mang hỏa tiễn đối hạm và đối không rất mạnh.

- Biết đâu rồi Mỹ lại trang bị cho các anh thứ mạnh hơn! Chỉ mới huấn luyện bốn mươi lăm tên lính đã trở thành Tồng trưởng quốc phòng thì chỉ huy bốn chiếc ghe thừa sức là Tư lịnh Hải quân!

Cả hai chúng tôi đều cười vui vẻ. Tôi tạm biệt Hào và hẹn khi nào tân Bộ trưởng Quốc phòng về tôi sẽ kéo xuống thăm anh.

Tôi quay về Voca City bắt liên lạc với Tám để điện về Trung tâm những tin tức trên. Tôi cũng báo cáo với đại tá Đức là tôi còn làm việc ở Westland một thời gian dài nữa để theo dõi tình hình này. Qua đường bưu điện tôi cũng đà "nói lóng" cho Bạch Kim biết là Hoàng Quý Nhân đã có mặt ở Washington và có thể đến Cali mật hội với cụ Hoàng Cơ Bảo trong một thời gian gần đây. Cần phải hữu ý sự kiện này.

Thực ra Bạch Kim đã nhận biết tình hình này trước khi lá thư tới. Hoàng Bảo Thạch đã khoe với cô là anh có thể sẽ phải đứng ra đảm nhiệm những trọng trách lớn lao của quốc dân giao phó. Thường vụ Liên minh Việt kiều Hải ngoại sẽ hiệp thương với lãnh tụ Mặt trận Tự do quốc nội để thành lập chánh phủ lâm thời chung, nhằm điều hành hữu hiệu công cuộc chiến đấu chống cộng sản, giải phóng Tổ Quốc.

- Nghĩa là chúng ta sẽ có một chính phủ lưu vong?

- Không, không thể gọi là một chính phủ lưu vong được. Nó sẽ có mặt ngay trong nước, ở tiền tuyến để lãnh đạo quốc dân, chỉ huy nghĩa sĩ.

- Trời ơi, thế là anh lại ra đi, anh trở lại Việt Nam trong cảnh hoang tàn một lần nữa.

- Cũng có thể - Vẻ mặt Bảo Thạch được pha trộn giữa niềm kiêu hãnh và một nỗi buồn man mác rất nghệ sĩ.

- Nhưng liệu có thể thắng nổi Cộng quân không?

- Trước đây chúng ta thua Trung Quốc chứ đâu phải thua Việt Cộng. Nay Mỹ đã nắm được con bài Trung Quốc trong tay, Việt Cộng đang bị bao vây từ bốn mặt. Cơ hội cho sự bùng nổ bên trong đã mở ra. Ta cần phải giành lấy tay lái của con tàu lịch sử. Một khi đã có sự trao phó của quốc dân, anh sẵn sàng trở lại quê hương dù có phải buông mình trên chiến địa!

Để đáp lại vẻ mặt đầy kịch tính của Hoàng Bảo Thạch, Bạch Kim cũng biểu lộ tình cảm bi lụy của mình một cách xa xôi bằng hai câu thơ Chinh phụ ngâm trích dịch trong cuốn sách giáo khoa tiếng Pháp:

O ciel d’un bleu magigue aux pro-fondeurs sublines

Qui donc est lauteur de ce facheux état de choses?

1 (xanh kia thăm thẳm từng trên. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này)!

Cảm kích trưởc tâm hồn đa cảm của mỹ nhân, tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch cũng ứng đối lại bằng mẩu thơ tình của Bạch Cư Dị qua ngôn từ mẫu quốc:

Vous êtes en amont du Tương

Je suis en aval du même fleuve

Quoique nous buvions tout deux de I’eau du Tương

Nous nous regardons, mais nous he nous voyonls pas2

(Chàng ở đầu sông Tương,

Thiếp ở cuối sông Tương,

Cùng uống nước sông Tương,

Nhớ nhau mà chẳng thấy)

Người ta nói “săn đuổi tình yêu là một cuộc săn đuổi kiêu căng" nhưng ở đây không có tình yêu nên cuộc săn đuổi chỉ chứa đựng những mánh khóe giả dối. Cái tình cảm lòe loẹt mà cả hai bên đem ra phô diễn đều nhằm che giấu một điều bí mật bên trong. Mục tiêu của Hoàng Bảo Thạch là món hồi môn nửa triệu đô-la nằm ở ngân hàng Manhattan. Còn Bạch Kim thì nhằm tới những chuyện gì sắp xảy ra ở cuộc họp kín của những kẻ phục thù.

Warrens, Price, Mc Dovan... là những người bảo trợ cho cuộc hội nghị này. Họ đã quyết định chiến lược chung ở ĐÔNG Dương, đặc biệt là ở Việt Nam trong bối cảnh Trung Quốc ngả sang phương Tây. Mỹ và Trung quốc thừa nhận họ có lợi ích chiến lược song song là ngăn cản ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Việc làm suy yếu Việt Nam, tiến tới làm thay đổi chiều hưởng chính trị ở đây là mục tiêu đầy tham vọng của họ. Việc thành lập chính phủ của lực lượng nổi loạn lúc này là cần thiết. Đó là cái bàn đạp chính trị để Mỹ quay trở lại Đông Nam Á như điều Trung Quốc mong muốn. Họ đã mặc cả để chọn ra một danh sách những nhân vật hàng đầu. Cụ Hoàng Cơ Bảo già quá nên chỉ có thể giữ được cái chức Chủ tịch Liên minh. Nhưng cụ đã khôn khéo tiến cử người con trai vào nội các. Nhà cách mạng Hoàng Quý Nhân lãnh tụ của Mặt trận Tự do dân tộc được cử làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng chiến tranh. Tướng Tùng Lâm được bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng quân lực, Hoàng Bảo Thạch Tổng trưởng ngoại giao. Mlle Mộng Vân nay gọi là bà Lê Mộng Vân, Tổng trưởng thông tin tuyên truyền. Ông Lê Ván Dĩ, Tổng trưởng tài chánh. Ông Nguyễn Hùng Thắng, đảng viên cộng sản li khai được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục tác chiến tinh thần. Năm vị tổng trưởng thuộc các bộ Nội vụ, Kỹ nghệ, Thương mại, Canh nông và Giáo dục buộc phải giấu tên vì hiện đang hoạt động ở Việt Nam. Tóm lại, một nội các hoàn chỉnh với những bộ mặt mới đứng ra lãnh trách nhiệm trước quốc dân sẽ chính thức công khai ra mắt tại quốc nội một ngày gần đây. Để có tiếng vang lớn trên trường quốc tế, Thủ tướng Hoàng Quý Nhân quyết định những thành viên nội các sẽ trở về nước, rồi sau đó tuỳ theo từng nhiệm vụ họ có thể hoạt động trong nước hay sẽ lại ra nước ngoài tiếp tục công vụ cao cả của chánh phủ lâm thời.

Cái lý thuyết buộc chuông vào cổ mèo lúc này không đủ sức kích thích tinh thần các yến nhân trong nội các. Chỉ có Mộng Vân là hăng máu nhất. Tướng Tùng Lâm im lặng chờ đợi xu thế chung. Nguyễn Hùng Thắng thì mặt không còn hạt máu. Y tưởng đi thoát ra mrớc ngoài là được trả công, được tận hưởng lạc thú, được viết hồi ký bôi nhọ chế độ cộng sản kiếm món tiền lớn, thỏa thích sống cuộc đời con heo! Ai ngờ nay phải quay lại, lên rừng lập chiến khu để chống lại những người đã đưa y từ bùn đen lên bệ Phật! Tuy nhiên y cũng không thể lùi vì khi đến Voca City y đã ba hoa quá nhiều về cái luận điệu đi tìm chân lý của Bảy Dĩ mớm cho. Hoàng Bao Thạch đã được ông bố chuẩn bị tinh thần từ trước "Muốn có miếng đỉnh chung thì phải lăn vào lửa". Hãy cứ hăng hái trở về ít ngày, sau đó đề xuất mở chuyến công du năm châu quảng bá đại nghĩa, tìm hiểu sự đồng tình của các quốc gia tự do. Lúc đó thì tha hồ sung sướng. "Công thành, danh toại, hầu bao rủng rỉnh". Còn Lê Văn Dĩ thì chẳng có gì phải lo sợ. Dù sao y cũng được Nhân giao cho đứng bên ngoài để giải quyết các vấn đề tài chính với Warrens.

Bạch Kim biết rằng những ngày ở Cali, Hoàng Quý Nhân lành việc ở khách sạn Hilton. Nhưng y hay đi lại nhà Nghiêm Bửu Châu, người công sự cũ ở biệt thự Vie du Château. Kim đã tìm hiểu tình hình cuộc họp kín qua Hoàng Bảo Thạch, nhưng thực tình cô chưa tin vào tất cả những điều Thạch nói. Có thể vì động cơ riêng mà Thạch đã ba hoa hoặc cắt xén sự thật đi để tranh thủ tình cảm của Bạch Kim.

Kim quyết định tiếp cận Hoàng Quý Nhân thông qua người đàn bà Nhật Bản vợ của Nghiêm Bửu Châu. Nhưng cô lại sợ phải đối mặt với Hoàng Quý Nhân lỡ ra y hỏi thăm Phan Quang Nghĩa thì cô biết trả lời ra sao? Giấu cũng dở mà nói thật cũng không xong. Vì vậy Kim phải chờ lúc Châu và Nhân đến cuộc họp cô mới vào nhà Châu. Do đã quen biết từ trước nên câu chuyện của Kim và Kenji rất thoải mái. Bạch Kinh vui thích reo lên:

- Ôi, Kenji cắm hoa đẹp quá. Chẳng có bình hoa nào giống bình nào. Mỗi cái có một vẻ đẹp riêng. Người Nhật có nghệ thuật cắm hoa nổi tiếng gọi là Ikébana. Nó đã trải qua nhiều thế kỷ gắn với lịch sử phát triển nghệ thuật. Nó tồn tại không chỉ ở mặt truyền thống mà còn do nó đã trở thành một trong những nguyên tố nghệ thuật chủ yếu của thế giới hiện đại.

- Phải có sự suy nghĩ thì mới tạo nên được những đường nét, màu sắc hoà hợp như thế này.

- Vâng, phải học cả đấy Kim ạ, Ikébana trước hết biểu hiện quan niệm triết học về nhân sinh và vũ trụ quan của người Nhật. Bông cao tượng trưng cho trời, bông thấp là đất, những bông vừa phải là con người, là sự sống. Sự sống hòa quyện trong thiên nhiên. Con người là trung tâm của vũ trụ... ở Nhật có nhiều trường dạy Ikébana. Mỗi trường một phong cách. Thí dụ như cành hoa mận trắng như tuyết cắm nghiêng trên chiếc bình hợp kim đen xù xì như tảng đá nguyên thủy. Hoa mận sáng lên như ngọn nến trước gió. Còn bông hoa mỏ hạc đỏ thẫm giống như ngọn bấc, như trái tim nồng cháy, tỏa sáng. Mình thể hiện bình hoa này theo trường phái Sogetsu-ryu. Còn chiếc đĩa gốm hình tròn này lại cắm mấy cành sồi, vài lá thông và những bông cúc mốc, tạo dáng một đảo hoa trên hồ nước theo phong cách Ohara-ryu. Đây thì là vài lá duỗi chồn màu mận chín cùng với cành thông dù trên chiếc đĩa nhựa trắng giản dị làm cho tâm hồn con người thư giãn như tắm trong ánh trăng. Đó là phong cách Ikenobo...

- Nghĩa là phải có cả sự dung hợp giữa hoa và bình, giữa chủ đề thể hiện và việc đi kiếm hoa tìm lá.

- Đúng thế. Thế thì mình phải đến học Kenji, Kenji dạy mình nhé!

- Được thôi. Nhưng Kim có đủ kiên nhẫn không?

- Đủ chứ. Mình có công việc gì đâu. Nghệ thuật cắm hoa Ikébana sẽ làm cho mình yêu đời hơn.

Bạch Kim ra về trong đầu óc cứ lẩn quẩn với những bình hoa. Cô đi chọn mua mấy chiếc bình gốm rất độc đáo. Dáng thấp, có đáy rộng rất vững. Cô khéo léo gắn máy ghi âm nhỏ vào bên trong bàn chông chì rồi láng một lớp thiếc mỏng bên ngoài. Cô lấy băng nhựa trám kỹ vào đáy mà nhìn bên ngoài không thấy được. Cô đưa bình đến hỏi Kenji:

- Kenji xem bình này thì phải mua hoa gì?

- Bạn phải chọn đề tài đã. - "Niềm vui bất chợt".

Sau vài phút suy nghĩ, Kenji bảo:

- Kiếm lấy một cành thông mụn cóc và bông mẫu đơn. Vài bông hoa mỏ hạc.

Bạch Kim về. Mãi tám giờ sáng hôm sau Kim mới đem hoa lại, Kenji đã khéo léo hướng dẫn Kim tạo nên một vòng cung những lá thông già khắc khổ. Mấy bông mỏ hạc lan trên mặt nước. Bông mẫu đơn đỏ chói như vừa lộ ra khỏi cái hang động của mụ phù thủy vươn lên trước ánh mặt trời. Đó là bài học đầu tiên của cô học trò Ikébana người Việt.

- Đẹp quá! Còn chiếc bình mới này Kim định lấy đề tài gì?

- "Đêm trắng". Một đêm lạnh lẽo trên hồ Green Lake. Một đêm thương nhớ không sao ngủ được.

- Hãy kiếm về đây vài bông tú cầu trắng, vài bông alstroe-mérina. Mình sẽ giúp Kim tạo hình theo trường phái Sogetsu-ryu. Cái bình này của bạn có dáng một con tàu cô đơn. Tiếc là màu nó hơi nhạt.

Bạch Kim gửi lại chiếc bình lên giá và hôm sau mang hoa lại. Cô học trò Ikébana chăm chỉ đổi hết bình hoa này đến bình hoa khác. Khi cô cảm thấy đã lĩnh hội được nghệ thuật kỳ diệu này, cô hứa sẽ làm những bài tập rồi chụp ảnh màu gửi lại cho cô giáo Kenji nhận xét sau.

Bạch Kim tháo những băng từ ra kiểm tra lại kết quả. Một băng đã ghi được khá đầy đủ cuộc nói chuyện tay đôi giữa Nghiêm Bửu Châu và Hoàng Quý Nhân:

“… Chương trình của tôi ở Mỹ chỉ còn một tuần nữa. Tôi sẽ đi Bác Kinh. Chúng ta cũng phải biết chơi con bài Trung Quốc".

" Anh hy vọng gì ở họ?".

"- Họ cũng chẳng giàu có gì. Nhưng vị trí, địa lý của họ vô cùng quan trọng. Họ lại đông người, họ không tiếc máu như người Mỹ. Nếu ta biết điều hòa cái tỷ lệ giưa đô-la và máu, ta sẽ tạo ra được một phản ứng kết hợp hoàn toàn với hiệu suất tối ưu! (Nhân cố nói theo thuật ngữ của các nhà bác học).

"- Họ đã mời các anh”.

"- Price đứng ra làm môi giới. Trước đây Liên minh Việt kiều Hải ngoại đã có quan hệ không chính thức với họ. Bây giờ thì ta có đủ tư cách để liên minh với họ, thậm chí có thể ký những mật ước. Ông bố vợ mình đã giúp mình chuẩn bị nội dung cho chuyến đi này".

"- Xin chúc anh gặp được nhiều điều may mắn. Công việc của tôi hiện nay đang gặp khó khăn" (giọng Châu buồn buồn).

"- Sao? Có gì không ổn? Công trình Ultra-Gamma của anh tưởng đã đưa vào sản xuất".

“- Tổ hợp công nghiệp hóa chất Cali C.C.C. không tìm được nghiệm trường đủ tiêu chuẩn để thể nghiệm chất T20-20 của tôi. Tất cả mới chỉ được chứng tỏ trong phòng thí nghiệm. Họ sợ đưa ra địa hình tự nhiên kết quả sẽ thay đổi. Thử với súc vật thì hiệu lực, nhưng với con người thì ra sao? Họ không thừa nhận những kết quả của Labor Vie du Château vì theo họ chưa được một hội đồng khoa học của Pantagone chứng kiến".

"- Nước Mỹ rộng lớn thiếu gì nghiệm trường. Đối với họ thì dân da đen là thừa kia mà?".

"- Không. Luật pháp của họ không cho phép tiến hành thử nghiệm chất độc chiến tranh trên đất Mỹ. Họ buộc các tổ hợp hóa chất phải đi thuê nghiệm trường ở các nước khác. Từ nhiều năm nay các công ty công nghiệp hóa chất lớn phải mượn đất của các quốc gia Nam Mỹ để tiếng hành thí nghiệm. D.A.O đã bí mật thử ở thượng nguồn sông Amazon. Nhưng gần đây báo chí đã phanh phui chuyện này ra trước công luận nên D.A.O. phải chuyển sâu vào những vùng hoang vu thuộc dãy Andes. Còn C.C.C thì lại muốn có những nghiệm trường đông dân cư để kết quả thí nghiệm hấp dẫn mạnh những hợp đồng sản xuất của Ngũ Giác Đài. Tôi nghĩ chỉ có anh mới giúp đỡ được chúng tôi. Nhân danh thủ tướng chính phủ lâm thời, anh cho thuê một vùng nào đó...".

"- Tôi đang cần gây cái vốn chính trị đầu tiên. Nếu tôi cho thuê đất để thử nghiệm hoá chất độc chiến tranh thì có khác gì tự sát".

"- Anh lầm rồi. Tôi hy vọng điều ngược lại. Cuộc thí nghiệm này của chúng tôi lại làm tăng thêm uy tín chính trị của anh lên!”.

-…?

“- Hiện nay Washington đang tung ra một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ là Việt Nam dùng chất độc chiến tranh do Liên Xô chế tạo ở vùng biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan nhằm làm giảm nhẹ sự lên án những di hại của chất độc da cam do Mỹ gây ra ở Đông Dương trước đây. Lúc này mà ta đưa được chất T20-20 vào thử nghiệm ở một vùng nào đó thì thật tuyệt vời. Bộ máy thông tin đại chúng Hoa Kỳ sẽ hô hoán lên là hóa chất độc chiến tranh Xô Viết đưa sang Việt Nam đã thất thoát ra ngoài gây chết nhiều người. Thứ này chưa hề có trong danh mục của Ngũ Giác Dài nên rất dễ đánh lạc hướng công luận. Một mũi tên đồng thời đạt hai đích!”.

Sau ít phút im lặng, tiếng Hoàng Quý Nhân hỏi nhỏ:

"- Giá cả thuê nhượng thế nào?".

"- Tùy theo nghiệm trường, nhưng mỗi lần thủ không dưới một trăm ngàn đô-la".

"- Thôi được, chúng ta sẽ thỏa thuận cách thực thi. Dự án của anh ra sao?".

"- Từ California, những trái bom đặc biệt được USAF đưa đến Banville. Máy bay lên thẳng sẽ đưa ra vịnh Sima cho một hải đội đặc nhiệm thâm nhập theo sông Tiền hay sông Hậu đem bom đến nghiệm trường".

"- Tiêu chuẩn của nghiệm trường ra sao?".

"- Để dễ đánh lạc tướng ta cần chọn một địa điểm vừa gần kho của Cộng sản, vừa gần chợ. Chợ càng lớn càng tốt vì ta cần tìm ra hiệu quả tối đa. Trái bom sẽ được nổ đúng phiên, đúng lúc đông người nhất. Kết quả sẽ được ghi lại bằng siêu vi ảnh. Những nhà khoa học của Ngũ Giác Đài và C.C.C sẽ tìm cách đến Việt Nam bằng con đường hợp pháp với danh nghĩa một tổ chức nhân đạo đi điều tra sự hủy hoại môi trường lâu dài của chất độc màu da cam. Họ sẽ mang theo những máy móc tối tân và đến hiện trường sau khi trái bom T20- 20 nổ được mười lăm phút. Kế hoạch trên phải được phối hợp rất chặt chẽ bằng những phương tiện thông tin tinh vi nhất.

"- Việc này phải được điều hành dưới một kế hoạch thống nhất của Viễn Đông vụ CIA. Phần tôi, tôi sẽ lựa địa điểm, bố trí lực lượng đón tiếp. Bảy Dĩ và Tùng Lâm lo việc lựa người, huấn huyện, chọn hải đội thâm nhập. Riêng việc đưa đoàn khoa học vào kiểm chứng, anh phải phối hợp với CIA để thực hiện. Giờ nổ bom là tùy thuộc vào anh và hội đồng khoa học".

"- Dạ, tôi sẽ phải lo cho kế hoạch T20-20 vì đây là công trình khoa học của tôi. Tôi phải đến hiện trường chứ không thể trao cho ai. Nếu thành công C.C.C. sẽ phải trả tôi năm trăm ngàn đô-la, tôi sẽ không quên anh".

"- Cảm ơn. Tôi xin hứa với người đồng nghiệp cũ là sẽ giúp đỡ và đảm bảo an ninh tới mức cao nhất cho anh và đoàn. Bây giờ anh có thể thu xếp gấp cho tôi ký mật ước cho thuê nghiệm trường với C.C.C".

Nghe xong cuộn băng, mặt Bạch Kim tái đi, mồ hôi lam tấn trên vầng trán. Cô không ngờ Nghiêm Bửu Châu, một con người lúc nào cũng nói năng nhỏ nhẹ, dáng điệu thanh nhã, cặp mắt rụt rè sau vòng kính trắng, ngày ngày ngắm những bình hoa được tạo hình theo nghệ thuật Ikébana tuyệt mỹ đó lại chứa đựng một tâm địa khủng khiếp như vậy. Hắn đang muốn đổi mạng hàng ngàn đồng bào hắn để lấy năm trăm ngàn đô-la.

Bạch Kim muốn bay sang Voca City gặp chồng ngay nhưng công việc ở đây cũng đang bề bộn. Phái đoàn đi Bắc Kinh gồm bộ ba Nhân - Thạch - Vân đang thu hút tâm trí cô. Cô không thể thông báo những tin trên cho chồng qua thư từ hay điện thoại công khai được. Điện cho anh về chăng? Không được. Tình hình Đông Nam Á cũng sẽ mở đầu những diễn triến phức tạp. Bắc Kinh đang cố thiết lập một đường dây liên lạc nóng với Bangkok để làm sống lại chế độ diệt chủng của bọn Pôn Pốt ở Cam-pu-chia, khuyến khích, thúc đẩy Thái Lan theo đuổi một chính sách phiêu lưu mới.

Chỉ có hai vợ chồng hoạt động trên một địa bàn kéo dài nửa vòng trái đất thật vô cùng khó khán. Giá có một người thứ ba làm con thoi thì đỡ biết bao nhiêu. Bạch Kim đang ngồi suy tư thì Quang Trung bước vào.

- Má.

- Con vào đây với má!

Trung chạy vào ngồi xuống bên, ôm lấy vai má.

- Hôm nay sao má buồn thế má?

- Con trai ngoan của má má hơi khó ở một chút thôi. Con chuẩn bị thi cử sao rồi?

- Con vẫn gắng sức ở mức cao nhất. Má đừng lo cho con, con hiểu rõ nhiệm vụ của con. Niềm tin vào mục tiêu của con ngày càng vững chắc.

- Ngoan lắm. Ba đi xa, má cũng bận, hơn nửa trình độ của má cũng chẳng còn đủ giúp đỡ cho con. Tất cả chỉ trông cậy ở bác Ân thôi.

- Hôm nào bác cũng xem bài vở của con rất kỹ. Gặp khó khăn gì con đều hỏi bác.

- Bác có hứa dịp hè này cho con đi chơi đâu không?

- Dạ có. Bác định cho con đi thăm Montréal. Sau đó theo sông Saint  Laurent đến vùng thác Ningara. Chặng cuối cùng đến thành phố Chicago thăm những thắng cảnh trên hồ Michigan. Má đi với con nhé!

- Nhưng má lại đang bận. Ngay chuyện sang thăm ba mà má cũng chưa lựa được thời gian đây. Con có nhớ ba không?

- Con nhớ lắm má ạ. Hay hai má con ta cùng đi thàm ba vài bữa vậy. Khi trở về con sẽ đi Canađa với bác Ân sau.

Bạch Kim vụt nghĩ ra có thể để Quang Trung đi Voca City một mình chuyển tin khẩn cho chồng. Quang Trung đã trở thành một chàng trai thực sự rồi. Mười tám tuổi. Cao một mét sáu tám, đẹp trai và thông minh. Con đã thừa kế được những phẩm chất tốt nhất của Dung và Nghĩa, lại hấp thụ được một nền giáo dục nghiêm túc, khuôn phép, chặt chẽ của gia đình nên có vẻ chững chạc trước tuổi. Nó lại đã hiểu rõ được công việc của ba má nên có giao nhiệm vụ cho nó, Bạch Kim cũng yên tâm. Ở tuổi này, mẹ nó cũng đã bước vào cuộc chiến đấu thực sự.

- Hay là thế này nhé. Mai mẹ đến Assia Tourism mua vé cho con. Con sẽ đến thăm ba vài ngày. Có một việc cần má muốn con nói với ba. Được không?

- Dạ được chứ ạ. Má hãy tin con, con lớn rồi, con đi một mình có sao đâu.

Bạch Kim viết lại tình hình vào một mảnh giấy bắt con học thuộc rồi cô đốt đi. Cô kiểm tra lại nhận thức của con. Chuyến công tác đầu tiên phải vừa sức để chắc thắng. Nó sẽ khích lệ con những bước tiếp sau.

- Con sẽ nói đúng như vậy cho ba nghe, nhưng tuyệt đối không cho ai biết. Đây là những điền tuyệt mật, con hiểu chứ?

- Dạ, con hiểu.

Hôm sau cả nhà tiễn Bạch Kim và Quang Trung ra sân bay. Nhưng Quang Trung bay đi Westland, còn Bạch Kim thì đến Hồng Kông. Tôi nhận được điện báo con trai sang thăm mà hết sức ngạc nhiên. Tại sao má nó không đi lại để mình cháu đi. Hay Bạch Kim ốm? Hoặc giả có sự nghi ngờ nho nhỏ nào đó mà phải cử thằng bé đi giám sát chàng? Nếu đã định "kiểm tra" thì sao lại phải đánh điện báo trước? Thật không sao giải thích nổi.

Mười sáu giờ chiếc Boeing 707 của hãng Panam hạ cánh xuống sân bay Voca City. Tôi đứng ở lối ra để chờ cháu. Cháu trai của tôi xuất hiện như một khách du lịch thực sự. Hai bố con ôm nhau và cả hai đều rất xúc động. Cháu không nói lý do chuyến đi ở ngay sân bay. Về đến khách sạn, cháu cũng chỉ nói lâu ba không về, nhớ ba, cháu sang thăm và tiện thể đi giải trí vài ngày để cuối tháng bước vào mùa thi. Thế thôi. Mãi tới lúc hai ba con cuốc bộ đi chơi phố cháu mới nói rõ sứ mạng thông tin của cháu cho tôi nghe. Tôi vừa cảm động vừa sung sướng vì con trai tôi đã học thức bài học đầu tiên má nó giao cho. Cháu trình bày lại tất cả những tình tiết một cách sáng tỏ. Cháu chấp hành chỉ dẫn của má như một tình báo viên thực thụ. Tôi bắt chặt tay con. Chỉ mai thôi, ông Đức đã có thể nắm được một tin tức rất quan trọng. ông có biết trong chiến công này có cả thằng cháu nhỏ mà ông thường kể lại cuộc đời chiến dấu của mẹ cháu cho cháu nghe đó không? Liệu ông có biết rằng cháu đã một mình đi nửa vòng trái đất đến một chất nước xa lạ để chuyển tin đến cho ông với một niềm tin đầy hứng khởi hay không? Tôi không bộc lộ những ý nghĩ sâu kíntrong tâm hồn mình cho cháu biết, nhưng tôi cũng gợi lên những ý quan trọng cho cháu hiểu là nguồn tin của chúng tôi sẽ giúp chẩn cấp trên có thời gian để ngăn ngừa một tội ác khủng thiếp. Cháu đã góp phần để cứu hàng ngàn sinh mạng vô tội khỏi cái chết chất độc hóa học.

- Thưa ba, con không thể ngờ cái người khách vẫn đến nhà ta ăn uống vui vẻ, bình luận âm nhạc sôi nổi, nói chuyện văn chương say sưa đó lại không chút ngần ngại gây ra một vụ thảm sát để làm giàu. Không hiểu lần sau ông ta đến nhà, con có thể giữ được bộ mặt bình thản với ông ta hay không.

- Bao giờ con cũng phải làm chủ được tình cảm của mình. Con chưa phải là quan tòa. Vả lại, những cảm xúc bồng bột dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng và cả sự nghiệp chung nữa. Con nên nhớ rằng chúng ta đang sống trong vùng địch. Bí mật là vũ khí phòng thủ mạnh mẽ nhất của chúng ta.

Ba hôm sau tôi tiễn cháu bay trở lại bán đảo Nelson. Cậu Đức đã biểu dương Bạch Kim vì đã khôn khéo lấy được một tin tức quan trọng. Cậu giao cho tôi phải tìm bằng được hướng thâm nhập của chương trình T20-20 mà cậu gọi bằng mật danh: "Chiếc bình hoa Ikébana". Cậu cũng thông báo cho tôi tin mừng: Tôi được đề bạt trung tá và Bạch Kim được phong đại uý. Tiếc là cháu Quang Trung chưa được công nhận là binh nhì!

Một tuần sau Tùng Lâm trở lại Voca City. Chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Pyramid. Vẻ mặt của anh không được thanh thản.

- Anh bị bịnh hay sao mà coi bộ hốc hác thế?

- Đúng là ngọc thể bất an - Anh cười gượng - Mình đến Ca-li-phot-nha nhưng không qua chỗ hiền đệ được. Phong tỏa hết trọi.

- Chuyện chi mà kỳ vậy anh Tư?

Tùng Lâm liếc mắt nhìn quanh, ra đóng cửa buồng lại rồi thì thầm:

- Một cuộc họp kín!

Tôi mở băng nhạc Disco rồi kéo anh ra ban công.

-… Với ai?

- Thành lập chánh phủ lâm thời.

- Chánh phủ nào?

- Chánh phủ của đằng mình. Chính phủ chống Cộng chứ sao. Trời ơi, nhà báo chi mà chậm hiểu quá xá.

- Họp kín rồi lại phong toả thì nhà báo biết sao được. Anh cũng tham gia nội các chứ?

- Lúc đầu thì thế đó. Nhưng sau Thủ tướng kiêm luôn Tổng trưởng chiến tranh. Mình được chỉ định là Tổng tham mưu trưởng.

Tôi ôm lấy anh cười vui vẻ:

- Xin chúc mừng đại ca.

Tùng Lâm nghiêng nét mặt, rót ly rượu uống cạn rồi hầm hầm:

- Đ. cha cái thứ Tổng tham mưu trưởng đó. Mình đâu có thiết.

- Trời, sao anh Tư lại coi thường vinh quang vậy? Chắc anh Tư muốn cái ghế Tổng trưởng chiến tranh!

- Tổng trưởng mà làm gì với ba thằng biệt kích ấy. Nó sẽ đưa mình về Việt Nam. Hiền đệ biết đấy hai triệu quân Cộng hòa, nửa triệu quân Mỹ còn đo ván nữa là mấy thằng biệt kích!

- Thế thì anh nhận làm gì?

- Không nhận đâu có được. Sau khi mình ký tiếp cái hợp đồng ba năm nó mới đẻ ra cái chuyện chính phủ lâm thời. Lại trót đăng đàn diễn thuyết ở Cali nêu ra cái chủ thuyết con mèo con chuột gì tùm lum lên đó. Nay lui sao đặng. Nó beng đầu mình đi chứ giỡn được à?

Tùng Lâm uống thêm ly Cognac rồi lè nhè ngâm mấy cân thơ của Lý Bạch:

- Hán hạ Bạch Đăng Thành.

Hồ Khuy Thanh Hải độ.

Cổ lai chính chiến địa

Kỷ kiến hữu nhân hồi1.

(Quân Hán xuống thành Bạch Đằng

Quân Hồ Khuy về Thanh Hải.

Xưa nay đi chiên đấu xa

Có thấy mấy người trở lại)

Một lần nữa lại tự đem thân vào chỗ chết đây! Tùng Lâm nhếch mép cười chua chát – Nhưng cũng có điều khích lệ. Lương Tổng tham mưu trưởng tạm thời là một nghìn hai trăm đô-la.

- Chánh phủ lưu vong thì đâu có ngán!

- Phải về Việt Nam chớ. Ai cho mình ngồi ôm mấy con nhỏ ở mật cứ Béta để hưởng lương hoài?

- Nhưng cũng mới nói sẵn sàng thôi, còn lâu mới về nổi.

- Làm liền chớ! - Anh ghé sát vào mặt tôi, phả ra đầy hơi ruợư - Cuối tháng này cuộc hành quân "Đồi mồi' bắt đầu.

- Có cho nhà báo đi cùng không?

- Ồ không! Mình phải học Cộng sản, vật chất có trực tiếp liệu dẫn đầu. Gọi là cuộc hành quân “Đồi mồi" vì hành động thâm nhập của nó bí mật như con đồi mồi bò lên bãi cát đẻ trứng rồi vùi kín đi đó. Đằng này ta dùng hải thuyền đưa vũ khí vào vùi kín trong các căn cứ. Quân biệt kích sẽ đổ bộ sau. Lực lượng nội địa phối lợp với lực lượng ngoại nhập, phát động quần chúng đồng khởi giành quyền làm chủ y hệt Cộng sản! Hiền đệ nghe chiến thuật, chiến lược của Tổng tham mưu trưởng có khoái cái lỗ nhĩ không?

Tùng Lâm vỗ vai tôi và cả hai cùng cười, cười át cả bản nhạc "Looking at the midnight", cười đến chảy nước mắt...

Chúng tôi sống vui vẻ với nhau ở Voca City ba ngày thì Tùng Lâm được Warrens gọi đi nhận kế hoạch huấn luyện mời.

Chuyến công du của Hoàng Quý Nhân đi Bắc Kinh được hoạch định vào cuối tháng 8 năm 1979. Hứa Vĩnh Thanh đã đến Hồng Kông trước để thu xếp chương trình nghị sự cùng các thể thức tiếp kiến. Đoàn có hai phụ tá là tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch, Tổng trưởng ngoại giao, nữ sĩ Lê Mộng Vân, Tổng trưởng thông tin tuyên truyền.

Cuộc viếng thăm của họ được gọi là "thể theo" lời mời của Hội hữu nghị Quốc tế, một tổ chức đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Hình thức này đặt ra để thu xếp những cuộc đàm phán và ký kết những mật ước với đủ loại tổ chức phản động quốc tế cùng một số chính phủ mà Trung Quốc không hoặc chưa có quan hệ ngoại giao chính thức.

Cùng đi với đoàn Nhân - Thạch - Vân đến Hồng Kông còn có tiến sĩ Price, chuyên viên nghiên cứu Á Châu vụ thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Sự tháp tùng của Price làm cho phái đoàn Nhân thân sức nạng. Price là người bạn tốt của Trung Quốc. Ông ta thuộc phái "lục địa", người chủ trương chơi con bài Trung Quốc đến cùng. Người ta gọi Price là tấm Pa-ne giúp Trung Quốc bắc cầu sang phương Tây. Một nhân vật như thế chắc chắn sê được Bắc Kinh vì nể và ve vãn.

Người vui thứ nhất trong dịp này có lẽ là Hứa Quế Lan. Vừa được gặp tình nhân lại vừa được gặp cả chồng. Nhất là người chồng bỗng trở nên danh giá, nổi tiếng, vị thủ tướng của chánh phủ Lâm thời Việt Nam! Chưa bao giờ Hứa Quế Lan tỏ ra dịu dàng, lễ độ với Hoàng Quý Nhân như lần này. Chị ta hứa sẽ quản lý tốt lương bổng tài sản của vị thủ tướng đầu tư ở các ngân hàng nước ngoài một cách hữu hiệu. Nhưng Nhân cũng chẳng phải là người nhẹ dạ cả tin. Trong suốt những ngày ái ân nồng thắm Quế Lan mới chỉ nhận được ở chồng những lời hứa, những viễn ảnh huy hoàng lộng lẫy.

Mộng Vân thì đi tìm bằng được Bạch Kim. Trước khi đi chị ta đã đến bán đảo Nelson và được biết là cô bạn gái đáng yêu đã đi Hồng Kông từ tuần trước. Chị ta quyết định một lần nữa thu hút bằng được số vốn kha khá của Bạch Kim vào một chuyến áp-phe ma tuý ở Hồng Kông. Còn Hoàng Bảo Thạch cũng đi tìm Kim vì mối tình chưa ngã ngũ, vì cái mỏ lộ thiên chưa ai khai thác!

Họ đã tìm thấy Bạch Kim ở khách sạn Auriga. Hai vị tổng trưởng độc thân liền thuê hai lòng bên cạnh bao vây chặt lấy con mồi. Thực ra Bạch Kim đã nóng lòng chờ họ. Với cô, họ cũng là những con mồi, theo đúng như đánh giá của cô.

Cứ mỗi lần Bảo Thạch muốn tiếp cận Bạch Kim một cách tình tứ thì lại vướng phải người đàn bà quá tuổi giữ chằng chằng lấy mỹ nhân, vuốt ve hôn hít cô ta sỗ sàng ngay trước mặt kẻ si tình. Còn khi Mlle Mộng Vân muốn giương bẫy ra cho nàng quả phụ ngây thơ thì lại vấp ngay phải cái tay kính cận cò mồi ám quẻ!

Lần này họ bay đi Bắc Kinh nên Bạch Kim chẳng còn cách gì nhét máy ghi âm vào hành trang của họ. Cô bế tắc về chiến thuật. Ông già bán sách cũ cũng chẳng có mưu mẹo gì giúp đỡ được cô. Họ có hai, mình chỉ một, những cuộc gặp gỡ tay ba này thật vô tích sự. Cô quyết định phân tán họ ra thì mới hy vọng tìm nổi một cái gì sở hở ở họ.

Sau một tuần tiến hành mọi công việc chuẩn bị, phái đoàn Nhân - Thạch - Vân bay đi Bắc Kinh. R. Price ở lại vì cuộc gặp gỡ tay ba chẳng những hạ thấp vai trò của bọn tay sai mà còn gây khó khăn trong những cuộc đàm phán ký kết các mật ước song phương. Thế là Hứa Quế Lan có dịp đi lại tự do với người tình, còn Price thì tha hồ âu yếm Jimi, đứa con xinh đẹp ngoài giá thú của ông ta.

Bắc Kinh đã đón tiếp đoàn Nhân - Thạch - Vân bằng một nghi thức long trọng chẳng kém gì những cuộc đón tiếp chính thức. Cuộc hội đàm đã diễn ra trong phòng khánh tiết của Nhân dân đại lễ đường. Nhân vật cầm đầu phái đoàn Trung Quốc là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hàn Thế Phong. Phụ tá cho ông ta là vụ trưởng Vương Phúc Đạt và một viên tướng trong Tổng bộ hậu cần Nhân dân giải phóng quân. (Sở dĩ họ không thể đón long trọng hơn vì hiện tại họ vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với Hà Nội. Bên cạnh họ cũng còn một lực lượng tay sai lưu vong của Hoàng Văn Hoan nữa).

Hàn Thế Phong nhiệt liệt hoan nghênh những chiến sĩ tự do, lực lượng cách mạng chân chính của nhân dân Việt Nam anh em đang vùng lên chống lại chính quyền tiểu bá. Trung Quốc sẵn sàng giúp đỡ hết sức mình cho các dân tộc đấu tranh cho quyền độc lập của mình, Trung Quốc mong ở biên giới phía Nam của mình có những quốc gia tự do, thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, và đế quốc xã hội. Các phong trào giải phóng có thể tin tưởng ở Trung Quốc như tin vào người đồng minh bền vững, chung thủy của họ...

Đáp lại những lời đường mật trên, Hoàng Quý Nhân đã thay mặt cho phái đoàn tỏ lời cảm ơn chân thành đến chính phủ và một tỉ nhân dân Trung Quốc vĩ đại đã quan tâm đến số phận các dân tộc nhược tiểu láng giềng. Y tuyên bố:

"Chánh phủ của chúng tôi sẽ lãnh đạo nhân dân chiến đấu cho một quốc gia tự do dân chủ và phồn vinh. Chúng tôi kêu gọi sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Chúng tôi mở cửa với tất cả các chế độ. Chúng tôi liên minh với mọi lực lượng. Hàng ngũ của chúng tôi luyện nay cũng bao gồm cả những người cộng sản thức thời. Lý tưởng của chúng tôi có khác nhau nhưng chúng tôi có mục tiêu chung là phản đối cuộc xâm lược Cam-bốt, phản đối sự khiêu khích với các lân quốc, chống lại chính sách theo Liên Xô đại bá. Chúng tôi tin rằng với cương lĩnh đó, chúng tôi sẽ tập hợp được sức mạnh dân tộc để hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. (Quý Nhân cố bắt chước cái khẩu khí chính trị của Trung Quốc, nhưng xem ra nó cũng lúng túng như khi y dùng những ngôn từ Thiên chúa giáo để bắt liên lạc với cha Trinh. Y không ngờ là nó vẫn gây được một hiệu quả mạnh mẽ. Vị trưởng đoàn Trung Quốc đã chạy lại ôm lấy y mà hôn lấy hôn để. Sự biểu hiện tình cảm quá suồng sã đó cũng không làm cho Nhân thú vị gì. Nhưng y vẫn chịu đựng một cách nhã nhặn).

Khi bàn về những thể thức hợp tác cụ thể, phía Trung Quốc nêu ra một mật ước đòi tôn trọng chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa bao gồm các quần đảo ngoài khơi từ bán đảo Lôi Châu đến gần bờ biển Mã Lai. Hoàng Bảo Thạch sửng sốt liếc nhìn sang Nhân, Nhân nhìn Vân, Vân nhìn Thạch. Cuối cùng thì Nhân ra hiệu cho hai phụ tá cứ bình tĩnh. "Hãy để cho họ đặt giá, thuận mua, vừa bán, lo gì". Không thấy người đối thoại phản ứng gì, phía Trung Quốc liền nêu tiếp một bản thống kê những thứ mà Trung Quốc có thể chi viện cho quân khởi nghĩa. Đó là những vũ khí hạng nhẹ dùng cho chiến tranh du kích. Một số mìn, kíp nổ, hóa chất gây nhiễm độc nguồn nước. Một số phương tiện thông tin vô tuyến, vài chiếc thuyền máy, thuyền phao dùng cho các hoạt động thâm nhập ven biển... trị giá khoảng vài chục ngàn đô-la. Hàn Thế Phong tuyên bố sẵn sàng gửi đến các cố vấn quân sự, chính trị, kỹ thuật cho nghĩa quân khi chính phủ lâm thời yêu cầu.

Bản thống kê không có gì hấp dẫn lắm, Hoàng Quý Nhân có thể xin những thứ tốt hơn của CIA. Y muốn có tiền kia. Y đang cần để gửi vào nhà băng ngoại quốc. Bán cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không được đồng tiền mặt nào thì ai chịu.

- Thưa ngài Thứ trưởng Hàn Thế Phong. Liệu quý quốc có thể trợ giúp chúng tôi về mặt tài chính được không?

- Tài chính? Điều đó rất có thể - Hàn Thế Phong xoa tay cười híp cả mắt - Chúng tôi có thể giúp quý vị một tỉ.

Cả phái đoàn Nhân phải sửng sốt vì con số quá lớn. Có thể nghe lầm chăng? Cứ nói Trung Quốc nghèo mà sao họ hào phóng như vậy?

Ông Hứa Vĩnh Thanh cũng tưởng mình dịch lầm.

- Thưa, cho phép tôi hỏi lại. Một tỉ đây là đô-la hay nhân dân tệ ạ?

- Một tỉ tiền ngân hàng Việt Nam.

- Nhưng làm sao chúng tôi có thể lĩnh được số tiền lớn như vậy ở ngân hàng Hà Nội, khi đồng tiền này chưa đủ tiêu chuẩn làm phương tiện giao lưu và thanh toán quốc tế ạ?

- Chúng tôi sẽ trao cho các ngài tiền mặt? Tiền do chúng tôi in, còn mới nguyên mà!

- À!... Thưa quý ngài tôi hiểu, đó là tiền giả!

Tất cả ba nhân vật trong phái đoàn cười rũ ra, cười chảy nước mắt, vượt cả ra ngoài các nghi thức của phép lịch sự trong các mối quan hệ ngoại giao thông thường. Ngay như Hoàng Quý Nhân, một tên giết người không biết ghê tay, hay như Mlle Eugénie Mộng Vân trùm buôn lậu ma tuý quốc tế cũng cảm thấy thiếu đạo đức khi tung những đồng tiền giả ra để đánh lừa những người buôn bán khù khờ. Mỹ xưa kia cũng đã in tiền giả ném xuống Bắc Việt Nam. Nhưng có lẽ cũng cảmthấy xấu hổ về kiểu chơi bẩn thỉu gian lận nên phải in dưới dạng một tờ truyền đơn để hy vọng có một tay tham lam nào chịu chia sẻ cái hành động vô đạo đức đó bằng cách lấy kéo cắt phần tiền giả riêng ra mà tiêu! Đằng này đồng tiền giả do Trung Quốc in rất hoàn hảo, như thật. Đồng tiền giả biểu nện rất rõ nét bộ mặt thật của họ.

- Tại sao quý vị lại cười? - Hàn Thế Phong ngạc nhiên - Đối với kẻ thù thì không có một phương tiện nào ta không dám làm. Tung tiền giả vào nước địch là một mũi tên đạt hai mục tiêu. Thứ nhất, quý vị sẽ có thứ mà nuôi nghĩa quân, mua bán tin tức tình báo quân sự, thuê mướn kẻ phá hoại. Thứ hai, quý vị lại có thể đánh vào nền tài chính của nhà cầm quyền, làm cho đồng tiền của chúng mất giá. Chẳng lẽ đấy không phải là thắng lợi của các bạn. Trước đây nước Đức quốc xã cũng đã từng in đồng bảng Anh giả để mua tài liệu mật của sứ quán Anh ở Istambul qua một tên chăn ngựa đó sao?

- Xin lỗi quý vị, người Việt Nam chúng tôi bản tính hay cười - Nữ sĩ Mộng Vân dàn hòa - Vui cũng cười, buồn cũng cười. Sung sướng, đau khổ, quý trọng, khinh bỉ... đều nhe bộ răng ra cả! Thật là vô duyên. Ngài Hứa Vĩnh Thanh đã từng sống ở đất nước chúng tôi mấy chục năm trời có thể chứng thực cho điều đó.

Sau hai ngày đàm phán, họ đã đi đến một mật tước về sự viện trợ của Trung Quốc cho Mặt trận Tự do dân tộc và Chính phủ lâm thời của Hoàng Quý Nhân. Nhưng Nhân đã khéo léo trì hoãn những điều khoản về chủ quyền lãnh thổ và hải phận. Không phải vì Nhân yên nước mà là vì nó chưa tới giá. Những vị khách quý cũng được mời đi thăm nhà tưởng niệm Mao Chủ tịch, Cố cung và Di Hoà Viên trước khi bay về Hồng Kông.

Sau mấy ngày dự các buổi đón tiếp lịch sự, tiệc tùng linh đình, hội đàm trang trọng, cái máu quyền lực của Hoàng Quý Nhân bỗng nhiên tăng lên gấp bội. Y vốn chỉ quen với những chuyện thì thầm mờ ám, những buổi tiếp xúc bí mật, những trò buôn bán lén lút... lấy đồng tiền làm thước đo giá trị. Người Trung Quốc đã khéo tạo cho y lớp hào quang của một "chairman"1 (Nhà lãnh đạo), một món ăn tinh thần khá "lạ miệng". Y bỗng mơ tưởng một ngày nào đó sẽ sánh vai với các vị nguyên thủ quốc gia, đi duyệt hàng quân danh dự, gươm súng sáng lòa trong tiếng nổ vang rền của hai mốt phát đại bác. Y sẽ đứng trên xe mui trần lướt qua đám dân chúng hò hét cuồng nhiệt trong rừng cờ, rừng hoa!... Y thèm khát được đặt chân lên tấm thảm đỏ trải thềm điện Elysée, được đến dự tiệc ở ngôi nhà số mười phố Downing, được ký tuyên bố chung trong căn phòng hình ô-van của tòa Bạch Ốc... Biết thế nào được, tất cả là do thời vận quyết định! Nhưng nhân tố của quyền lực đã xuất hiện.

Khi Hoàng Bảo Thạch và Eugénie Mộng Vân trở lại khách sạn Auriga thì Bạch Kim chuyển sang thuê phòng ở Cao lâu John Bull. Cô gặp lại Bảo Thạch một cách “tình cờ”, gần một sòng bạc. Hoàng Bảo Thạch vui mừng nắm chặt tay Kim:

- Sao Bạch Kim không ở bên khách sạn Auriga nữa?

- Em sợ chị Mộng Ván lắm.

- Sao?

- Em không chịu nổi “cơn bệnh" Lesbianissm1 (Thói quen đồng tính nữ) của chị ấy. Em đành chuyển sang buồng tám mươi lăm khách sạn John Bull.

Hoàng Bảo Thạch nằn nì xin tiễn Bạch Kim về và lần đầu tiên anh ta tỏ tình với cô. Cô vờ ngạc nhiên và xin anh cho phép cô có một thời gian suy nghĩ. Một sự việc trọng đại như vậy không thể trả lời ngay một lúc. Họ trò chuyện với nhau rất lâu. Bạch Kim khéo léo gợi chuyện chuyến công du Bắc Kinh của vị Tổng trưởng ngoại giao làm cho Bảo Thạch khoái miệng tường thuật lại mọi chi tiết, thậm chí còn đánh giá cả triển vọng cách chơi con bài Trung Quốc của anh ta sau này nữa...

Hôm sau Bạch Kim lại tạo ra một cuộc gặp gỡ tình cờ với Mộng Vân.

- Trời ơi, em đi đâu để chị tìm hoài. Chị tưởng em bay về Los Angeles rồi. Thiếu em chị buồn lắm.

- Cảm ơn chị. Chị chẳng đoán nổi sao? Cái ông Tổng trưởng ngoại giao của chị đã tỏ tình với em và rồi cứ nhìn em như thôi miên ấy. Em ngượng lắm. Biết có thành vợ thành chồng hay không mà cứ cặp kè bên nhau, em sợ thiên hạ lại cho em là háo danh muốn quấn lấy ngài Tổng trưởng.

- Em yêu Hoàng Bảo Thạch à? Ôi cô bé tội nghiệp của chị. Hắn đích thị là một tên Sở khanh đó. Hai lần bòn của rồi lại phụ bạc con người ta. Điều đó chưa đủ cho em cảnh giác sao? Nó không thực lòng yêu em đâu. Hôm ở Bắc Kinh nó làm tình với mấy con Tàu đỏ như điên. Em không cần lấy ai cả. Sống tự do là hạnh phúc, hãy nghe chị.

Bạch Kim muốn thông qua Mộng Vân để đánh giá chất lượng những tin tức về cuộc mật đàm Bắc Kinh do Bảo Thạch tiết lộ. Nhưng cô đã không thành công. Người đàn bà già đời trong nghề tình báo chỉ toàn kể chuyện hết món ăn đồ uống lại đến phong cảnh và di tích. Chị ta không hề nói đến chuyện chính trị.

Kim vội thu xếp công việc, điện báo cáo về Trung tâm rồi lấy vé bay về Los Angeles. Cô đang nóng ruột về chuyện thi cử của cậu con trai.

CHƯƠNG XI

THÂM NHẬP

Trung tá Nguyễn Văn Bền rất bực bội vì tất cả các đề án của anh nhằm tìm ra tung tích Hoàng Quý Nhân đều thất bại. Nó gần giống như nghịch lý Achilli chạy đuổi rùa. Khi phát hiện đối thủ ở A, anh vội chạy đến A thì đối thủ đã đến B. Anh lần đến B thì đối thủ đến C và cứ như vậy, bao giờ anh cũng chậm... Thực vậy, việc Hoàng Quý Nhân vượt biển ta đã phát hiện được qua mã thám. Nhưng cuối cùng tên tội phạm đã lọt qua mắt lưới phong tỏa như một kẻ tàng hình. Khi biết tin Hoàng Quý Nhân lại quay về nội địa, ta báo động, đón lõng cũng không kết quả. Sự việc đó hình như đã diễn ra mất rồi. Tin tức chỉ xác định một điều: Cuộc truy lùng lại phải tiếp tục.

Nay thì Trung tâm nhận được mật báo đầy đủ về cuộc hành binh "Đồi mồi". Chuyến đầu tiên sẽ khởi sự từ Hải cứ Gamma vào đêm 14 tháng 10. Con tàu nhỏ, dài mười tám mét, trọng tải tám mươi tấn mang số hiện NT.4206 do đại lý hải quân Trương Tấn Hào chỉ huy sẽ đi vào hoang đảo Hòn Quy chờ thuyền nội địa ra đón. Sau đó NT.4206 sẽ trà trộn vào đám thuyền đánh cá theo cửa Rạch Lá vào bến đổ bộ. Một tin tức tình báo cụ thể tới mức như có điệp ngầm nằm trong Bộ Tổng tham mưu quân địch, làm cho tất cả những đồng chí lãnh đạo Trung tâm vui mừng đến ngạc nhiên. Bức điện cũng nói rõ cả tình hình tư trang của viên thuyền trưởng để Trung tâm có thể áp dụng những biện pháp đối phó đặc biệt.

Hai Bền được giao thêm nhiệm vụ phác thảo kế hoạch đón tiếp hải thuyền NT.4206. Sau một đêm suy nghĩ anh trình bày ý định của mình tnước Bộ Chỉ huy như sau:

- Tôi nghĩ đây mới là chuyến đi thí nghiệm đầu tiên. Kẻ địch còn tiếp tục thâm nhập với quy mô lớn hơn. Với vài chục tấn vũ khí, chúng chưa đủ sức tiến hành cuộc bạo loạn phản cách mạng lớn.  Tôi đề nghị một kế hoạch như sau:...

Qua hai giờ đồng hồ trao đổi, Bộ chỉ huy đã đồng ý với dự thảo của Trung tá Nguyễn Văn Bền.

Hải cứ Gamma mấy ngày qua bỗng trở nên nhộn nhịp. Nllứng chiếc xe hơi bóng loáng chui ra chui vào chiếc cổng phủ đầy hoa ti-gô. Dân địa phương có thể đoán là công việc kinh doanh của hãng Albert đang ở thời kỳ phát đạt.

Đại úy Trương Tấn Hào, "sếp" của căn cứ, tỏ ra hài lòng vì công việc mới thực sự bắt đầu từ hôm nay. Suốt mấy năm trời đóng thuyền mua lưới, luyện tập trên biển khơi cũng chỉ để dùng vào việc này. Thâm nhập vào Việt Nam là công việc rất nguy hiểm nhưng anh ta vẫn vui vì công việc đó chứa đựng một chút riêng tư. Anh hy vọng có cơ may gặp lại vợ con để đưa họ xuống thuyền đào tẩu ra nước ngoài. Lúc đó anh sẽ thôi việc ở đây đi kiếm một công việc an toàn hơn. Còn nếu chẳng may bị bắt thì sao? Hào tặc lưỡi, thôi thì phó mặc cho số phận. Chết đi còn hơn phải sống cô đơn heo hút nơi đất khách quê người.

Một tuần liền Bảy Dĩ đến nằm với Hào ở hải cứ để lo công việc chung. Dĩ tỏ ra rất thân tình với người bạn cố tri:

- Anh cứ chịu khó đi vài chuyến, thế nào cũng có dịp tôi đề nghị Albert cho phép anh về nhà đón chị và các cháu. Ngay bây giờ thì chưa thể được. Tôi cũng muốn đưa vợ con ra nhưng đâu có dễ dàng. Phải biết chờ đợi anh Hào ạ.

- Tôi biết, kỳ này đâu có qua Sài Gòn. Tôi chỉ ở lại Cần Thơ một ngày rồi quay lui thôi. Nhưng nếu anh cho phép, tôi sẽ lên thành phố bỏ lá thư qua bưu điện.

- Không được! Bỗng nhiên gia đình nhận được thư anh gửi từ Cần Thơ thì lộ hết công chuyện. Lên nhậu nhẹt chút xíu thì có thể nhưng tuyệt đối không được thăm hỏi người quen nghen. Đó là nguyên tắc, anh Tư rõ chưa - Những chuyến đi khó khăn như vậy Albert quyết định thưởng cho mỗi người năm trăm đô-la. Riêng anh, người thuyền trưởng thì được một nghìn. Chỉ vài chuyến trót lọt anh sẽ có một khoản kha khá để đón gia đình ra mà tiêu xài chớ.

- Dạ.

Một công-voa của lục quân Westland đưa hàng dện Hải cứ Gamma. Các hòm kim loại hàn kín được bốc xếp xuống khoang hàng đặc biệt dưới đáy tàu. Hàng nạp xong, chúng đóng nắp khoang lại sơn trám cẩn thận, con tàu trở thành hai đáy. Khi bị đuổi, tình thế khẩn cấp người chỉ huy có thể bấm nút, cửa tự động dưới đáy mở ra, hàng được trút mất tăm xuống biển, tàu nhẹ hơn, dễ dàng tẩu thoát.

Thủy thủ đoàn có sáu người. Họ ăn mặc kiểu ngư dân. Hào cho kiểm tra lại máy móc, dầu mỡ, nước ngọt, phương tiện thông tin liên lạc... rồi cho máy khởi động, hai mươi giờ được lệnh khởi hành. Trương Tấn Hào đã hình dung toàn bộ cuộc hành trình trong óc. Từ vùng Lean thuyền vượt vịnh Sima rồi tiến về bờ biển Việt Nam. Thuyền giừ tốc độ mười lăm hải lý một giờ. Suốt trên chặng đường dài đó họ im lặng trừ một lần bắt liên lạc với một tàu tuần thám của Hoa Kỳ ở vĩ độ 7.20, kinh độ 105,30. Đó là lúc chiếc trực thăng của Navy là sát mặt biển để xem có chiến hạm nào của Việt Nam gây nguy hiểu cho cuộc thâm nhập của con tàu NT.4206 không. Khi nhận được tín hiện an toàn. Trương Tấn Hào kẻ một đường thẳng đến hoang đảo Hòn Quy, nơi đã có một ngư thuyền chờ sẵn.

Đó là một ngày đẹp trời, biển lặng và xanh biếc. Những vân mây li ti như những cánh bông gạo tháng năm dán chặt vào nền trời bất động. Sương chiều pha loãng trên mặt biển. Mặt trời chìm dần xuống nước, để lại chân trời phía vịnh Sima một đám lửa tàn. Viên thuyền trưởng đã cảm thấy đất nước rất gần. Hào đã nhận ra một hoang đảo trơ trụi nổi bồng bềnh trên mặt sóng. Xa xa nó có hình dáng một con rùa biển khổng lồ. Viên thuyền trưởng định vị lại con tàu theo trí nhớ rồi điều chỉnh hướng đi và hồi hộp chờ mật hiệu liên lạc. Vài phút sau họ đã nhận được tín hiệu yết ớt trên chiếc máy PRC25, đó là thật hiệu hỏi của con thuyền đi đón. Thủy thủ đoàn đã nhìn thấy một con thuyền nhỏ tách rả khỏi hoang đảo Hòn Quý - Hào chăm chú theo dõi thì thấy đèn pha từ con thuyền phát ra tín hiệu hai số 3 và 7. Hào tăng tốc cho con tàu rút ngắn khoảng cách tới con thuyền. Khi chúng chỉ còn cách nhau vài sải nước Hào mới đáp lại mật khẩn bằng mồm: "năm, năm". Chiếc thuyền nhỏ cặp vào mạn tàu. Một người to lớn đu dây leo lên:

- Xin chào các chiến hữu!

- Chào quý anh!

- Tôi mang giấy tờ cho các anh đây! - Người lạ đưa cho Hào một tập giấy nhầu nát. Đó là những thứ giả mạo nhằm hợp pháp hóa con tàu khi bị xét hỏi. Người lạ mặt cũng hướng dẫn cho thủy thủ đoàn cách ứng đối khi gặp tàu hải quân hoặc các ngư thuyền địa phương.

- Các anh cứ theo thuyền của tôi mà đi. Cố giữ cự ly chừng trăm mét. Tôi sẽ dẫn các anh theo một con đường kín đáo nhất. Cấp trên đã bố trí lực lượng canh gác trên bộ. Nếu có chuyện gì trục trặc họ sẽ phát tín hiệu báo động, lúc đó tôi sẽ hướng dẫn các anh cách đối phó sau.

- Cảm ơn.

- Ta đi thôi. Thời điểm này thâm nhập là thuận lợi nhất. Ta sẽ đi lẫn vào dòng ngư thuyền khác.

Người lái nhảy về thuyền mình và phóng đi trước. Hào theo sau.

Nửa giờ sau họ đã nhận ra một dải đất xanh mờ nổi dần trên mặt sóng. Chân trời lấm tấu ánh đèn. Mặt biển thấp thoáng những con thuyền. Trăng tỏa sáng, cửa Rạch Lá hiện ra qua những cồn cát nhỏ. Con tàu phải giảm tốc, len lỏi lượn theo dòng sâu để tránh bị mắc cạn. Bỗng nhiên bên trái họ xuất hiện hai tàu tuần tiễu cao tốc của Hải quân. Họ như từ trong cồn cát chui ra làm cho Hào giật mình. Chiếc thuyền dẫn đầu đã bị chặn lại. Chiếc tàu tuần tiễu thứ hai tiếp cận tàu của Hào. Từ mạn thuyền Hải quân một quân nhân gọi loa phóng thanh:

- A lô. NT.4206 giảm tốc và dừng lại cho xét giấy tờ.

Hào bình tĩnh ra-lăng-ti máy rồi bật đèn sáng lên. Tàu Hải quân áp mạn.

- Yêu cầu thuyền trưởng 4206 sang bên tàu Hải quân.

Thủy thủ tàu Hải quân quăng dây cho NT.4206 cột lại Hào bước sang mạn bên kia gật đầu chào:

- Mời anh vào trong khoang - Một chiến sĩ vui vẻ chỉ cho Hào xuống khoang thuyền trưởng sau ca-bin lái.

Tay Hào hơi run run vì chưa thực sự tin vào hiện lực của những giấy tờ giả mạo. Anh ta vừa lọt vào trong khoang thì bỗng rụng rời chân tay khi thấy trước mặt mình là trung tá hải quân Trương Tấn Hùng, anh ruột của mình. Anh ta chưa hề chuẩn bị tinh thần cho một cuộc gặp mặt kỳ lạ như vậy.

- Trời, anh Ba.

Ba Hùng khẽ gật đầu không nói gì. Anh đóng cửa khoang lại rồi chỉ xuống ghế.

- Chú ngồi đây. Chú chuyển hàng gì?

- Dạ... - Hào lúng túng, mặt đỏ bừng, mồ hôi toát ra không biết nói sao.

- Thôi được, chúng ta không có thời gian để nói nhiều. Chú cứ đem những thứ đó đến nơi cần giao. Nhưng để đảm bảo an ninh cho chú tôi giao cho chú thứ này - Ba Hùng đưa cho Tư Hào chiếc đài Sony nhỏ xíu - Chú bấm nút này, máy sẽ phát tín hiệu và sẽ không có tàu Hải quân nào kiểm soát tàu của chú nữa. Chú nên mang theo người và tuyệt đối không để ai biết chuyện này. Đó là thứ bùa hộ mạng cho chú đó. Chuyển sang nút này nó sẽ là một ra-di-ô thông thường. Đêm mai chú nghỉ ở đâu, có muốn gặp cháu Thủy không?

- Dạ em cảm ơn anh Ba. Đêm mai giao hàng xong em về nghỉ ở Cần Thơ. Nếu anh cho phép em xin gặp anh mười giờ sớm bữa mốt ở nhà dì Ba Tân.

- Được chú về thuyền đi và phải tuyệt đối giữ bí mật.

Về đến tàu của mình mà Tư Hào vẫn chưa hết bàng hoàng. Thế này là thế nào? Anh Ba ở phe nào mà lại sẵn sàng giúp mình như vậy. Chẳng lẽ tình cốt nhục đã khiến anh liều mạng cứu mình; Hào tăng tốc độ và chẳng mấy chốc đã rượt kịp chiếc thuyền dẫn đường. Bây giờ tàu đã đi sâu vào trong rạch. Nước triều đang cường, lòng lạch sâu nên không sợ mắc cạn. Nỗi căng thẳng vì sợ bị khám xét đã vơi đi, nhưng thay vào đó phải căng mắt để quan sát cho con tàu đi êm gọn trong lòng lạch ngoằn nghèo, nhiều chỗ bờ đất sát vào mạn tàu, lá dừa phủ kín cả bầu trời, che lấp ánh trăng. Để bảo đảm bí mật Tư Hào không dám bật pha lớn. Con tàu len lỏi một đêm và tìm được đường ra sông Hậu.

Theo lệnh con thuyền dẫn đường, Hào cho tàu dừng lại ven sông, ăn uống nghỉ ngơi để đêm đó mang hàng vào mật cứ. Theo lời chỉ dẫn của Ba Hùng cứ mươi phút Hào lại mở máy phát tín một lần như để báo vị trí con tàu của mình cho Ba Hùng biết.

ối hôm đó Hào lại rượt theo con tàn dẫn đường. Đến hai mươi hai giờ thì tàu tới bến đỗ trong rừng dừa nước. Một toán người xuống tàu bốc hàng. Họ chuyển sang ghe lớn để đưa đi đâu không rõ. Trả hàng xong thuyền dẫn lại đưa anh ra sông Hậu. Đến gần Cần Thơ, Hào cho tàu neo lại. Sau hơn hai ngày đêm làm việc căng thẳng Hào đã lăn ra ngủ như chết. Sáng ra anh lần lượt cho phép từng người lên bờ một giờ để ăn nhậu. Hào nóng lòng mong đến giờ hẹn. Mười giờ đến lượt anh lên bờ. Anh nhảy lên xe ôm vào thành phố Cần Thơ.

Dì Ba Tân là em họ của mẹ hào. Hai gia đình ít đi lại nên chưa chừng bà Ba cũng chưa biết là Hào đã ra đi. Giả sử như bà có hỏi thì anh chàng có thể nói quanh là có vài lần định đi nhưng không thoát, nay thì không còn đủ tiền để đưa vợ con đi nữa.

Vừa xuống xe thì anh đã thấy Thủy, con gái anh đứng ngay trước cửa. Hào toan lao lại con, nhưng ánh mắt của Thủy đã ngăn anh lại.

- Ba đã về! Bà chờ ba mãi cứ tưởng ba bận bữa nay không xuống được.

Hào rơm rớm nước mắt nhìn con. Trời, sao con nhỏ lớn mau vậy. Từ một đứa trẻ ốm nhom, nay đã trở thành một cô gái óng ả xinh tươi. Anh nghe con gái nói nhỏ:

- Ba cứ giả đò như vẫn ở Sài Gòn đừng nói gì về chuyện di tản. Bà Ba không biết đâu.

- Bác Hùng có đến đây không?

- Bác đưa con xuống mà. Bác còn đi đâu có công chuyện gì đó. Bác bảo hai ba con cứ nói chuyện trước. Mười một giờ bác về.

Hào theo con vào nhà.

- Con chào dì Bạ!

- Thằng Tư đấy à? Mấy năm không thấy mặt mày, dì tưởng mày quên dì rồi.

- Dạ đâu có? Con cứ định xuống thăm dì nhiều lần đó, nhưng hết việc nọ đến việc kia, không sao đi được. Dì vẫn được mạnh chứ ạ?

- Tao già rồi, đau luôn đó. Thế sao năm trước nghe con Thảo nói mày đã đi Mỹ theo thằng Hai rồi?

- Hào cười: - Dạ, con cũng đi mấy lần đó nhưng đâu có thoát. Đi một mình thì dễ ợt nhưng đi cả nhà thì khó khăn quá. Giờ con quyết định ở lại.

- Ở lại mà lo lành ăn con ạ. Tao nghe nói nhiều đứa đưa vợ con sang rồi cũng kẹt bên Thái hay bên Ma-ni đó. Mỹ nó không nhận mà!

- Dạ... Thế bây giờ dì sống với ai?

- Thằng út đi bộ đội rồi. Còn con Hai lấy chồng bên Trà Nóc, đã có con. Chúa nhựt nó mới về. Ngày thường chỉ có mình tao thôi. Thỉnh thoảng có qua Cần Thơ con ghé vô thần di nghẹn.

- Dạ.

- Giờ thì con Thủy xuống coi bếp cho bà ra chợ chút xíu.

- Dạ.

Khi bà Ba ra khỏi cửa, Thủy mới òa lên khóc.

- Ba ơi ba đi thế ba có thương má con con không ba? Ngày nào, đêm nào má con cũng nhắc đến ba, cũng thương nhớ ba hoài. Em Châu, em Ngọc, em Kim trong giấc mơ cũng thường kêu ba nhưng ba đâu có nghe thấy. Thôi bây giờ ba đã về đây ba ở lại với má con con, ba đừng đi nữa.

Nước mắt Hào cũng trào ra. Anh xúc động nói với con:

- Ba cũng vậy, có phút nào quên được mấy má con đâu. Ba cũng muốn ra đi cả vợ cả con chứ đâu muốn thoát thân một mình. Ba có ý định là sẽ tình cách để chuyến sau đưa tất cả nhà đi.

- Trời ơi. Thế là ba lại đi nữa sao? Ba không sợ hiểm nguy sao?

- Tình thế của ba thật trăm đường khó khăn. Nếu ba ở lại ba sẽ bị chánh quyền kết tội. Nếu lần này ba có tự ý đưa gia đình xuống tàu ba sẽ bị cấp trên xử phạt.

- Thế ba làm cho ai? Con tưởng vì thương năm má con con ba về thăm, không dè ba vượt bao nguy hiểm về đây chỉ là để lo công chuyện cho người khác.

- Ôi sao con tôi lại nói như vậy. Ba không biết nghề nghiệp gì ngoài nghề lái tàu. Sang đó ba cũng chỉ kiếm được việc này thôi. Ba đã ký hợp đồng và nhận tiền của bác Bảy. Ba biết công việc nguy hiểm nhưng ba vẫn đi vì ba hy vọng là sẽ có chuyến phải qua Sài Gòn ba sẽ có dịp thăm nhà đón luôn mấy má con đi.

- Nhưng con đã thư cho ba, má và chúng con quyết định không đi đâu nữa. Lần này ba về luôn nhà thôi, con không để ba đi đâu nữa.

- Thế là con giết ba đó. Chính quyền đâu có để ba yên. Ba đừng lo. Bác Ba hứa là nếu ba về bác sẽ đảm bảo cho.

- Nhưng bây giờ thì không thể đảm báo được nữa. Con chưa hiểu được tình thế của ba. Hãy tha thứ cho ba... 

Hai ba con đang chuyện trò thì Ba Hùng và Hai Bền đến. Hùng giới thiệu Hào với Bền. Bắt tay nhau xong Hùng bảo Thủy xuống coi bếp để mấy người nói chuyện.

- Thời gian ngắn quá chắc hai ba con cũng chưa nói chuyện được nhiều.

- Dạ.

- Anh Tư đi chuyến hàng này kiếm được bao nhiêu? - Hai Bền nhìn thẳng vào mắt Hào hỏi một câu đột ngột.

- Dạ cũng chẳng nhiều lắm. Đã lĩnh lương của chủ thì phải làm thôi ạ.

- Anh Tư có biết mình chở những thứ gì không?

Mồ hôi toát ra, Hào thấy hai thái dương lạnh toát, nhưng cũng phải nói dối:

- Dạ không...

- Không biết mà dám nhận chở sao?

- Dạ cũng chỉ biết sơ sơ thôi ạ. Hòm đều hàn kín cả, họ nói là hàng quân nhu ạ...

- Tám chục tấn vũ khí đấy. Súng tiểu liên, trung liên, súng phóng rôc-két, mìn đánh xe, đánh cần, đánh kho, đánh tàu, chất cháy, chất nổ, chất độc… Anh có biết rằng khi tất cả những thứ này được dùng vào hành động khủng bố bạo loạn thì sẽ có bao nhiêu người bỏ mạng không?

- Tôi biết, tôi biết... Tôi có tội. Xin chính phủ hãy bắn tôi. Tôi không cầu xin một điều gì. Tôi đã tự dẫn mình đến bước đường cùng...

- Tội đó đủ cho nhiều cái án tử hình. Bắn anh thì đầu có khó nhưng vấn đề là anh cũng chỉ là những kẻ thừa hành. Kẻ đề xướng, kẻ chủ mưu xứng đáng với cả trăm cái án tử hình vẫn còn đứng ngoài vòng pháp luật. Chúng tôi thuốn bọn đó phải đền tội. Hai chúng tôi muốn vạch ra cho anh một lối thoát chứ không muốn dồn anh vào ngõ cụt. Không hiểu ý anh thế nào?

- Xin quý ánh cứu tôi, tôi muốn hiểu rõ những điều quý anh nói.

- Chú Hào ạ - Ba Hùng nhẹ nhàng nói với em - Chú bỏ vợ con ra đi chẳng nói với tôi một lời. Tôi trách mắng, chú có lẽ cũng chẳng khổ tâm lắm. Nhưng đừng để con Thủy, cái Châu, thằng Ngọc, thằng Kim và thím ấy phải trách chú. Bây giờ chú lại dấn thêm một bước vô cùng nguy hiểm nữa. Đó là tiếp tay cho CIA, cho bọn bành trướng Bắc Kinh chống lại Tổ Quốc mình. May là bữa ấy chú gặp tôi. Tôi cố giúp chú trên tình anh em ruột thịt nhưng cũng phải ngăn chặn cái hậu quả ghê gớm của món hàng chú đưa về. Tôi đã phải nhanh chóng báo cáo cấp trên để kịp tháo ngòi nổ cho tám mươi tấn vũ khí đó. Nay chú đã được gặp cháu Thủy, hai ba con đã chuyện trò với nhau. Tôi không muốn bọn trẻ bị mất cha nên tôi đã bàn kỹ với anh Hai Bền, cán bộ bên cơ quan An ninh nhà nước tìm cho chú một hướng đi lập công chuộc tội. Một khi chú ân hận với việc làm, thực lòng với Tổ Quốc thì chẳng những Tổ Quốc sẽ dang tay cứu vớt chú mà còn đảm bảo cho tương lai của chú và con cái chú sau này. Nhưng liệu chú có chịu nghe chúng tôi không?

- Dạ em xin cảm ơn anh Ba. Em thực có tội với Tổ Quốc, có lỗi với anh Ba. Nếu quý anh tha tội cho em sống để nuôi nấng các cháu thì em xin thề sẽ không bao giờ tái phạm những tội trên nữa. Các anh trao việc gì cho em, dù phải nhảy vào lửa em cũng chẳng từ nan.

- Việc chúng tôi giao cho anh bước đầu cũng đơn giản thôi. Anh cứ tiếp tục công việc hiện nay của mình. Chỉ cần mỗi khi chuyển hàng anh mang theo chiếc máy phát tín mà trung tá Hùng đã đưa cho anh hôm vừa rồi. Khi đi vào hải phận Việt Nam anh cho máy hoạt động, chúng tôi sẽ không kiểm soát hoặc nổ súng vào tàu của anh. Anh sẽ tới đích đổ hàng và ra đi an toàn. Cần chú ý máy dùng pin thông thường điện thế 4,5 V. Phát tín hiệu liên tục bảy mươi hai giờ phải thay pin.

- Dạ, thế em phải trình báo tình hình với ai ạ?

- Khi cần hỏi gì, chúng tôi sẽ chặn thuyền lại xét giấy. Chỉ khi nào gặp một trong hai chúng tôi anh mới báo cáo tình hình. Bất cứ người nào khác hỏi anh cứ trả lời như kịch bản của Bảy Dĩ.

- Dạ, nhưng ở bên kia nhận được tin gì đặc biệt muốn báo nhanh để các anh kịp thời đối phó thì làm thế nào ạ.

Sau ít phút suy nghĩ, Hai Bền nhìn thẳng vào mắt Hào.

- Chúng tôi cũng muốn nối một đường liên lạc với anh ở Hải cứ Gamma Nhưng có thể lúc này còn quá sớm. Cần phải giữ an toàn cho anh. Trường bợp có chuyện gì đặc biệt chúng tôi sẽ chủ động liên lạc với anh. Một người mang số hiệu A8 sẽ đến gặp anh với mật khẩu “Thời gian, không gian, +-8". Hai Bền giải thích tỉ mỉ cách thức trao đổi mật hiệu khi bắt liên lạc cho Tư Hào nghe - Anh nhớ được chứ?

- Dạ được ạ.

Câu chuyện kết thúc thì mâm cơm cũng bày xong. Má Tân kêu mọi người vào bàn. Hào thấy lòng mình nhẹ nhàng hẳn đi. Không khí đầm ấm của quê hương được gặp lại sau bốn năm xa cách làm cho Hào xúc động. Anh càng thấy khao khát được gặp bầy con nhỏ. Nhưng anh cũng yên tâm hơn vì con đường trở về với gia đình đã hiện rõ nét trong tưởng tượng. Hai ngày sau Trương Tấn Hào cùng thủy thủ đoàn tàu NT.4206 đã về đến Hải cứ Gamma. Bảy Dĩ bắt tay những người "chiến thắng" ngay trên cầu tàu. Warrens đã nhận được điện cảm ơn của Hoàng Quý Nhân về chuyến hàng đầu tiên tới đích an toàn. Họ chuẩn bị chuyến đi của cả đoàn trong tháng tới.

Tôi trở về bán đảo Nelson sau mùa thi. Cháu Quang Trung đã kết thúc chương trình phổ thông thật tốt đẹp. Hết hè cháu sẽ vào đại học với tuổi đời mười tám. Cả nhà chúng tôi vui mừng. Anh chị tôi quyết định đưa cháu đi du lịch một chuyến ở vùng Hồ Lớn, nhường lại giao cho tôi và Bạch Kim phải ở nhà trông nhà! Có lẽ đấy cũng là dụng ý của chị tôi muốn hai đứa có dịp được "gắn bó" với nhau hơn!

Chiều chiều ngồi trên ban-công chúng tôi nhìn ra mặt hồ Green Lake, nước trong xanh lồng lộng sắc trời. Rừng phong đã lốm đốm đỏ. Những cơn gió se lạnh đầu tiên từ Thái Bình Dương tràn vào lục địa báo hiệu mùa thu đang đến. Những giây phút đó chúng tôi thường ngồi bên nhau tưởng nhớ đến quê nhà, nhớ dáng điệu bình thản của người Sài Gòn dưới những trận mưa chiều xối xả nhớ mặt Hồ Gươm trầm tư trong sương lạnh, đến những dãy phố cổ Hội An nồng nặc mùi cá biển... Một cuộc sống vật chất dư thừa không thể quên đi nỗi đói khát của tâm hồn.

Một bữa Bạch Kim nói với tôi bằng vẻ mặt thật nghiêm trang.

- Quang Trung lớn rồi, không thể thể vuốt ve nó như một đứa trẻ nữa. Còn anh cũng cứ đi xa luôn. Có ở nhà thì cùng phải lén lút gặp nhau như quạ vào chuồng lợn! Em muốn chúng ta phải công khai chuyện này với mọi người. Ngoài bốn mươi tuổi rồi, em cũng muốn có con. Đây cũng là điều mong mỏi của cả anh chị Ân. Anh nghĩ thế nào?

- Anh đồng ý với em. Tuy nhiên về nguyên tắc chúng mình cũng phải báo cáo chuyện này với tổ chức.

- Cái trò "giả vờ" này do anh nghĩ ra thôi. Anh muốn em là bà quả phụ giàu có để thu hút nhưng "bạn bè bất đắc dĩ". Nhưng em thấy không cần thiết nữa. Chúng ta sẽ có hàng trăm cách khác để thu lượm tình hình.

- Chúng ta sẽ làm lễ cưới ngay sau khi đánh bại cuộc thử nghiệm T20-20, em có bằng lòng không? Ngay từ hôm nay chúng ta đã có thể công khai chuyện đính hôn cho anh chị chúng ta vui mừng. Còn chuyện có con thì chúng ta có thể hy vọng ngay từ bây giờ!

Tháng 10 năng 1979, ông Bùi Hạnh chủ bút báo Chim Việt gọi tôi lên giao việc. Sau khi bắt tay chặt chẽ... mời tôi ngồi, ông thì thào với tôi:

- Có một công việc thú vị, nhưng không phải ai cũng làm được. Tôi định rủ ông đi, nhưng không biết ý ông thế nào?

- Xin ông nói rõ hơn.

- Tình hình đất nước ta đang có những biến đổi quan trọng. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba thực tế đã nổ ra. Vận mệnh dân tộc đang được quyết định theo một chiều hướng mới. Lực lượng Tự do đang lớn mạnh và chính phủ của một Liên minh chống Cộng mới sẽ ra đời nay mai. Đó là một chính phủ hợp với nguyện vọng của quốc dân, được cộng đồng Việt kiều hải ngoại hậu thuẫn. Cuộc ra mắt của chính phủ lâm thời sẽ được long trọng tổ chức ở quốc nội vào tháng 1 năm 1980. Sẽ có nhiều nhà báo đến quay phim, chụp ảnh và viết bài về cái giờ phút lịch sử đó. Báo của chúng ta là tiếng nói của một cộng đồng lớn nhất của những người Việt lưu vong không thể thiếu mặt ở đây được. Tôi thấy ông là một người đầy nhiệt huyết, dũng cảm, luôn luôn gắn ngòi bút của mình với những sự kiện nóng bỏng, nên tôi muốn cử ông đi với tư cách thay mặt cho tòa báo chúng ta. Tòa báo sẽ lo liệu đầy đủ phí tổn về tài chính cho ông và nhuận bút cùng bản quyền về phim ảnh sẽ được tính với giá đặc biệt. Tôi muốn được ông cho biết ý kiến càng sớm càng tốt.

Ông chủ bút nhìn tôi như để thăm dò.

- Thưa ông chủ bút, chuyến đi hấp dẫn đấy nhưng cũng vô cùng nguy hiểm.

- Chắc chắn là có chút hiểm nguy. Nhưng cuộc hành hương này đâu phải chỉ mình ông. Nhiều yếu nhân chính trị cũng sẽ trở về Tổ Quốc.

- Thưa ông, ông có thể cho tôi biết được những người bạn đồng hành của tôi không?

- Tôi không được thông báo chính thức có những ai nhưng tôi có thể đoán mà không sợ lầm là các thành viên chính phủ phải về cả chứ!

- Thành viên là những ai? - Thí dụ như ông Thạch, bà Vân, ông Thắng, ông Hải, v.v... có thể họ còn phải ở lại lâu dài nơi tiền tuyến, còn ông thì sau buổi lễ ông phải trở lại với chúng tôi ngay để kịp có bài. Ta lo vậy thôi chứ những phái đoàn cỡ bự đó trở về thì phải được bảo đảm an toàn tuyệt đối.

- Vấn đề đó với tôi cũng không lớn lắm. Tôi quan tâm đến việc tổ chức chuyến đi. Vì một khi tôi lá thành viên thì tôi phải được tham gia những kế hoạch có liên quan đến sinh mệnh của mình. Tôi thường thiếu tin tưởng vào cách làm ăn của các chính khách dân sự. Họ ít hiểu biết về những lĩnh vực hành quân đổ bộ, nhưng lại hay ba hoa và chỉ muốn nắm quyền chỉ huy. Tôi muốn nói đây không phải là chuyến du lịch trên hồ Genève mà là một cuộc đổ bộ của "con tàu Gramma đảo ngược".

- Xin ông yên tâm. Việc này đâu phải do mấy ông dân sự lo nổi. Bộ máy của CIA ở Đông Nam Á mới là kiến trúc sư thực sự của kế hoạch này.

- Thưa ông, nếu vậy thì tôi tin tưởng và xin chấp nhận yêu cầu của tòa báo. Tôi chỉ xin một điều nhỏ: Tất cả giấy tờ và lai lịch của tôi mang tên Mc Gill, một người Mỹ gốc Á Châu. Nếu chẳng may có bị bắt thì về pháp lý tôi là công dân Mỹ làm nghề báo chí có thể nhờ hội Hồng Thập tự quốc tế giúp đỡ giải thoát giảm án. Nếu tôi mang tên Phan Quang Nghĩa, Vi-xi sẽ chặt đầu tôi ngay vì tôi chỉ là một tên tù vượt ngục lại còn gây án mạng.

- Điều đó chẳng có khó khăn gì, nhưng khi đã viết được bài đem về thì ông lấy lại bút danh Hoài Việt cho. Những tin tức quan trọng như vậy phải do đặc phái viên của bản báo tường thuật tại chỗ thì mới thực sự có ý nghĩa.

- Dạ nhất định là như vậy ạ. Tôi muốn thay đổi tên tuổi, tôn tích chỉ là đối phó với kẻ địch thôi Còn trong thâm tâm bao giờ tôi cũng sung sướng tự hào mình là người Việt Nam, một người Việt Nam chân chính.

- Cảm ơn ông, xin ông hãy sẵn sàng cho chuyến đi này.

- Vâng, nhưng để nắm trước được những diễn biến quốc nội, xin ông chủ bút cho phép tôi đến Westland sớm hơn. Tôi sẽ gia nhập "đoàn quân đổ bộ" bất cứ lúc nào ông ra lệnh.

- Tôi sẵn sàng chấp nhận yêu cầu này của ông. Nhưng xin ông nhớ cho rằng phải giữ bí mật chuyến công cán này với tất cả mọi người, kể cả những người thân yêu nhất. Và một khi ông đã nhận lời thì ông sẽ là người duy nhất của báo ta tham gia chuyến đi. Sẽ không có người dự bị đủ tin cẩn để thay thế ông đâu.

- Xin cảm ơn sự tín nhiệm và những lời khuyên của ông.

Tôi trở về nhà báo tin cho Bạch Kim về chuyến đi sắp tới của tôi. Bạch Kim vui mừng vì tôi sẽ đột nhập được vào hang ổ cuối cùng của bọn phản động, nhưng sau đó cô lại ỉu xìu ngay.

- Anh về hẳn bên đó bỏ mặc hai mẹ con em bên này sao?

- Anh sẽ quay lại chứ.

Cô thở dài.

- Chắc gì. Đã đến lúc phải lật lên con bài cuối cùng. Anh sẽ đối mặt với Hoàng Quý Nhân, sau đó thì làm sao quay trở lại với mẹ con em được.

- Anh có cách trở về thì cũng sẽ tìm được cách ra đi hợp pháp. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn tiếp diễn lâu dài.

- Hay cho hai mẹ con em cùng đi với?

- Đâu có được. Chuyến đi này nguy hiểm nhưng là một dịp may hiếm có. Anh tin tưởng là chúng ta sẽ làu lễ cưới vào mùa xuân tới ở bán đào Nelson.

Một buổi sáng anh Ân gọi tôi vào phòng riêng của anh. Nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của anh, tôi hơi ngạc nhiên. Từ xưa đến nay rất hiếm lần anh gọi tôi vào phòng riêng. Có chuyện gì anh em thường nói với nhau ở phòng khách hoặc phòng ăn. Đôi khi anh cũng đến phòng tôi ân cần tham gia ý kiến về những chuyện nuôi dạy, học hành của cháu Trung.

Tôi đi theo anh vừa xúc động vừa bồn chồn.

- Chú ngồi đây, tôi có câu chuyện muốn nói riêng với chú.

- Dạ, em xin nghe anh.

Ngồi được vài phút rồi mà anh tôi như vẫn còn thấy có điều gì băn khoăn khó diễn đạt.

- Công việc của chú có suôn sẻ lắm không?

- Dạ cũng quen dần. Em đã gây được tín nhiệm với ông chủ - Anh tôi mỉm cười buồn buồn:

- Chú đang làm việc cho ông chủ nào?

Tôi giật mình. Chẳng lẽ anh tôi lại đoán nổi ra nhiệm vụ tình báo của tôi sao? Tình cảm anh em khiến tôi không bao giờ giấu giếm anh những điều riêng tư. Nhưng về mặt công tác thì tôi luôn luôn giữ đúng nguyên tắc, cẩn trọng và bí mật. Hay tôi vô tình sơ xuất để lộ ra điều gì khiến anh tôi nghi ngờ? Ngập ngừng vài phút, tôi mới lấy lại được phong độ bình thường. Thật không có gì khó khăn bằng phải che giấu nội tâm với nhưng người thân yêu của mình.

- Chủ em là ông Bùi Hạnh. Thì chính anh đã giới thiệu em đến làm cho ông ta đó thôi.

- Đúng là tôi đã giới thiệu chú với Bùi Hạnh. Nhưng bây giờ thì tôi đã biết rằng Bùi Hạnh không phải ông chủ thực sự của chú.

- Em chỉ nhận công việc ông Hạnh giao và nhận lương hàng tháng của ông ta, ngoài ông ta ra em làm gì còn ông chủ nào?

- Bùi Hạnh làm gì có khả năng cung ứng cho chú các khoản chi phí lớn lao như vậy?

Tôi thấy lúng túng. Thực ra số nhuận bút của báo Chim Việt trao cho tôi không đáp ứng được nửa số chi phí cho nhưng chuyến đi Viễn Đông của tôi. Số còn lại đều do Bạch Kim giúi cho. Nhưng tôi chưa tiện nói ra chuyện này với anh tôi. Anh thân mật đặt bàn tay lên vai tôi:

- Ông chủ thực sự của chú bây giờ là Cục tình báo Trung ương Mỹ.

Tôi chợt hiểu ra ý anh và tôi cảm thấy nhẹ nhõm.

- Thưa anh, em thực chưa hiểu ý anh?

- CIA đã nắm toàn bộ hoạt động của Liên minh Việt kiều Hải ngoại và Mặt trận Tự do dân tộc ở quốc nội. Chính phủ lâm thời hay cái gì đó sau này cũng đều là sản phẩm của họ. Tờ Chim Việt cũng sẽ phải phụ họa với cái luận điệu phục thù thôi. Tôi thấy mình có lỗi là đã tiến cử chú vào công việc này. Dù muốn hay không chú cũng sẽ thành trợ thủ của CIA.

- Anh thấy những bài viết của em từ trước đến nay có gì phù hợp với quan điểm của họ đâu?

- Đó là từ trước đến nay chứ từ nay về sau thì chưa chắc. Hôm qua tôi đến thăm Bùi Hạnh. Ông ta khen chú và cho tôi biết là chú đã tình nguyện đi theo đám chủ xướng bạo loạn để đổ bộ vào Việt Nam. Có đúng thế không?

- Vâng ạ.

- Một việc quan trọng như vậy mà khi quyết định chú không tham khảo ý kiến của tôi

- Em xin lỗi anh. Thực tình em cũng không có ý định giấu giếm anh chị. Nhưng ông Bùi Hạnh nói chuyện này là tuyệt mật, cấm được tiết lộ cho ai, dù người đó là cha, mẹ, anh, em, vợ, con ruột thịt.

- Đúng là chuyện tuyệt mật vì đó là sự khởi đầu của một hành động tội ác chống lại cuộc sống ổn định của hàng chục triệu người nơi cố quốc. Chúng muốn máu lại đổ, lửa lại cháy. Máu lửa cần cho chúng chứ đâu có cần cho nhân dân, cho chú?

- Em cũng nghĩ như vậy.

- Thế thì chú nhận làm gì cái công việc ngậy hiểnl đó? Anh chị đâu có để chú thiếu thốn gì vài ngàn đô-la? Không làm việc này, chú tìm việc khác. Thậm chí chú cứ nghỉ ngơi thì chúng ta cũng vẫn đủ tiền để sống suốt đời rồi.

- Cảm ơn anh chị đã hết lòng vì em. Em nhận việc này không phải vì đồng tiền. Điều lôi cuốn em là sự thật. Em muốn tận mắt viết những điều có ích giúp cho công chúng khỏi bị những kẻ xấu lừa dối.

- Chú đi lần này là để viết những điều cần cho chiến lược tuyên truyền của họ. Bất cứ câu chữ nào đi ngược lại mục đích của họ sẽ không có chỗ đứng trên trang báo. Đó là mệnh lệnh của CIA khi tờ "Chim Việt" bắt đầu nhận trợ cấp tài chính của nó.

- Lần đầu tiên em biết chuyện này.

- Tôi cũng mới nghe tin này cách đây ít ngày. Tôi muốn nhắc lại quan điểm của tôi: Đối với những hành động chính trị ám muội, tốt nhất là nên lánh xa .

Ôi anh tôi đâu có hiểu nổi công việc của tôi. Tôi phải lăn vào miệng hùm, nanh sói đâu phải vì tôi thích hùm thích sói.

- Thưa anh, em ý thức được những điều anh dạy bảo. Nhưng lần này em đã nhận lời, dù nguy hiểm em cũng phải đi. Đó là vấn đề danh dự. nhưng em xin hứa với anh là em sẽ chẳng làm điều gì có lợi cho chính sách phiêu lưu của họ.

- Lại còn vấn đề danh dự? - Anh tôi nhún vai mỉm cười chua chát - Chú đã ở sát độ tuổi năm mươi, một lời khuyên cũng là quá đủ. Chú tự tìm ra quyết định của mình nhưng cũng phải nghĩ đến cả nhà. Anh chị rất thương chú, một mình, gà trống muôi con - Anh tôi im lặng một phút như cố nén xúc động - Anh chị cứ muốn chú với Bạch Kim thành đôi thành lứa... nhưng không rõ vì sao hai em vẫn chưa đi đến quyết định cuối cùng.

- Chúng em đã chính thức đính hôn. Hôm nay em xin thưa với anh chị điều này!

Nét mặt anh tôi rạng rỡ hẳn lên, anh vội vàng mở của tìm chị.

- Ngọc ơi, gọi Kim xuống đây anh hỏi, cả thằng Trung nữa.

Một vài phút sau hai chị em và thằng cháu bước vào phòng với vẻ mặt ngạc nhiên.

- Có chuyện gì mà cả nhà được mời đến họp mặt đấy anh?

- Chuyện quan trọng lắm... bây giờ Bạch Kim và Nghĩa... hai em công bố đi!

Tôi nhìn Kim, Kim nhìn tôi và cô đã hiểu ra. Kim không nói gì, đi lại bên tôi, vòng tay lên cổ và tựa đầu vào vai tôi, mỉm cười:

- Anh chị mở rượu mừng chúng em đi!

Trong khi anh tôi lúng túng cảm động cố bật nắp chai sâm-banh thì chị Ngọc chạy lại ôm lấy cả hai chúng tôi nước mắt lưng tròng.

- Chúc mừng hai em hạnh phúc. Đây là điều mong mỏi của anh chị từ nhiều năm nay.

Riêng cháu Trung thì chẳng lạ gì chuyện này. Chán giúp bác bày cốc ra bàn rồi vội lấy máy ảnh để mừng lễ đính hôn của... ba má!

Tôi đến Westland, công việc đầu tiên là gặp đồng chí Tám để chuyển những tin tức trên về nước. Ba ngày sau tôi nhận được điện trả lời. Trung tâm hứa sẽ chuẩn bị "đón tiếp” phái đoàn của tôi một cách hoàn chỉnh, chu đáo. Cấp trên chỉ thị cho tôi trước mắt phải theo sát chương trình T20-20 của C.C.C. vì đó là một hành vi tội ác rất nguy hiểm đối với sinh mạng của nhiều người.

Tôi quyết định chọn Pandon làm địa điểm thường trú. Tôi gọi điện cho Tùng Lâm và anh đã đến quán trọ thăm tôi ngay. Tôi cảm thấy anh già đi nhanh chóng. Bộ tóc ngắn đã bạc trắng, mi mắt hum húp, những nếp nhăn trên trán hằn sâu, cơ thịt trên má chảy sệ xuống. "Bộ râu Clark Gable"1 (Tài tử điện ảnh nổi tiếng của Mỹ có bộ râu đẹp) rất điển trai xưa kia của anh không được tỉa sửa, dài ra một cách hoang dã. Cái nhìn đượm vẻ lo âu, còn nụ cười của anh cũng buồn bã.

- Anh đau hay sao mà trông thay đổi vậy? - Tôi hỏi.

- Đâu có. Ôi nếu mình bị bịnh gan, bịnh phổi rồi đổ quách đi lại hay hơn. Bác sĩ kiểm tra bảo mình phải kiêng rượu và xa các em. Mình đã chữa bệnh như sau: Bỏ rượu trước, chỉ uống la-ve, coca-cola qua quít thôi. Nhưng buồn quá phải ôm các em cho quên rượu. Đến khi bỏ các em thì thấy mình cô đơn quá nên lại phải uống rượu để đỡ nhớ các em!

- Và cuối cùng thì...

- Cuối cùng thì chẳng bỏ được thứ nào mà lại có phần nghiền hơn khi chưa chữa! Ha ha. Đằng nào cũng chết thì chết bằng tửu sắc có lẽ êm dịu hơn chết bằng gươm đạn phải không hiền đệ?

Tâm trạng sống gấp đang hủy hoại con người này. Tôi quay sáng hỏi anh chuyện công việc. Sau khi uống cạn ly Whisky, tướng Tùng Lâm ghé sát vào tai tôi thì thào:

- Đang phải huấn luyện cách cho nổ một trái bom hóa học. Thứ võ khí này rất tối tân, nó còn nằm trong kho của Ngũ Giác Đài. Sức giết người của nó chẳng thua một trái bom nguyên tử.

- Hãy còn nằm trong bí mật sao anh lại biết được nó mạnh như một trái bom nguyên tử?

- Đoán ra chớ! Đặt bom xong để ngòi hẹn giờ rồi đương sự phải nhanh chóng di chuyển khỏi tâm nổ ba kilômét mới đảm bảo an toàn tuyệt đối. Như vậy bán kính hủy diệt của nó đâu có thua trái bom nguyên tử cỡ hai mươi ki-lô-ton ném xuống Thành phố Hiroshima.

- Anh đâu có biết thứ này mà huấn luyện?

- Huấn luyện mò theo giáo lịnh của Bảy Dĩ gửi xuống.

- Ít ra họ cũng phải cho anh một cái mô hình chớ?

- Đâu có, tuyệt mật mà. Chỉ biết nó nặng ba mươi ki-lô-gam thôi, còn hình dáng ra sao thì chịu.

- Bữa nào ta xuống thăm Trương Tấn Hào chứ? - Tôi rủ anh.

- Hồi này nó bận vận chuyển nên lâu chẳng gặp nhau. Hơn nữa Hải cứ Gamma bị phong tỏa, không ai được phép vô. Hình như ở đó đang thực thi một mật vụ gì quan trọng lắm. Tốt nhất là gọi điện cho nó lên chơi với bọn mình thì hơn.

- Cũng được. Xin mời hai anh lên đây với tôi - tôi rỉ tai Tùng Lâm - Mấy con Tàu lai ở khách sạn này coi bộ cũng ngon lành đấy chứ?

Cặp mắt Tùng Lâm linh động hẳn lên.

- OK! Thứ đó xài được!

Quả nhiên ba hôm sau Tùng Lâm đã kéo được Hào lên. Tôi thuê thêm một phòng để Tùng Lâm nghỉ riêng với lý do là anh ngáy hơi to! Còn tôi nghỉ chung buồng với Hào.

Tôi cảm thấy Hào vui vẻ hơn. Anh nói nhiều và trong ánh mắt đã mất đi cái nhìn u tối.

- Lần này gặp lại, tôi thấy anh mập hơn. Chắc công chuyện làm ăn phát đạt?

Hào cười nhìn tôi nháy mắt ý nhỉ:

- Cũng có khá hơn mọi lần. Công việc kinh doanh của hãng đang mở rộng nên chúng tôi có thêm tiền thưởng.

- Anh có nhận được tin tức của chị và các cháu không?

- Dạ có, tất cả đều bình an.

- Tôi sắp trở về Việt Nam, anh có muốn nhắn tin gì cho chị và cháu không?

- Anh trở về? - Tư Hào nhìn tôi vẻ mặt lạ lùng.

- Anh ngạc nhiên à? Tôi là nhà báo, người ta cử tôi đi viết bài. Người ta nói tình hình trong nước khó khăn nghèo đói lắm. Nhưng người Tự do đang tập trung lực lượng để lật đổ chế độ cộng sản.

- Anh không sợ nguy hiểm sao?

- Sợ chứ. Nhung tôi ăn lương thì tôi phải làm việc thôi. Vả lại tôi sẽ đi với một phái đoàn cỡ bự, nên chắc chắn người ta cũng phải tính đến chuyện bí mật an toàn chớ?

- Một phái đoàn cỡ bự?

- Đúng thế. Nhưng đây là chuyện tuyệt mật. Anh là người thân thiết lắm tôi mới nói. Lộ ra rất nguy hiểm.

Hào trầm tư một lúc rồi khuyên tôi:

- Đừng đi anh Hoài Việt ạ. Đi nguy hiểm lắm, mà rồi anh cũng chẳng viết được gì đâu. Nếu muốn nói xấu Cộng sản thì cứ việc ngồi đây bịa ra mà nói, cần gì phải đi. Đúng là cũng có chuyện khó khăn thiếu thốn, có chuyện vài chiến hữu cũ của chúng ta muốn chống lại chế độ mới, nhưng tôi không tin là họ có thể làm nổi trò gì lớn lao, cùng lắm cũng là vài cuộc đổ máu vô ích. Nếu anh viết đúng sự thật này thì báo nào đăng cho anh? Những vụ này ăn to lắm anh Hào ạ. Họ sẽ thành lập chính phủ lâm thời của Mặt trận Tự do dân tộc. Những tấm ảnh chụp lễ ra mắt, những bài tường thuật và những thước phim quay được giá hàng ngàn đô-la kia đây.

Hào nhún vai cười.

- Tôi coi anh là một người bạn tốt nên tôi khuyên anh không nên mạo hiểm. Là nhà báo, anh có thể xin vào Việt Nam theo con đường hợp pháp. Anh sẽ có đủ điều kiện để viết, khen chê tuỳ anh, không phải lệ thuộc vào ông chủ nào... Hai ba ngàn đô-la đâu sánh được với sinh mệnh của anh.

- Cảm ơn anh. Bây giờ tôi đã nghe ra, nhưng muộn mất rồi. Khi ký hợp đồng với "sếp" tôi không lường nổi mọi chuyện. Nhưng đã ký rồi thì không có đường lui, thế là phải dấn thân liều mạng. Tôi buộc phải chờ đợi những gì sắp đến.

- Họ sẽ cho anh thâm nhập vào vùng nào? - Tôi đâu được biết. Có thể khi đặt chân lên đất liền họ mới công bố địa danh...

Tôi đã báo cáo cuộc gặp gỡ giữa tôi và Hào Pandon. Tôi dự đoán cuộc hành quân "Đồi mồi" sắp đến giai đoạn cao điểm. Hào cũng chưa biết chính xác ngày giờ xuất phát của đợt hai. Tôi đề nghị cấp trên chú ý xem đợt này về, Hào có báo cáo nguồn tin quan trọng do tôi "vô tình" tiết lộ cho anh không. Đó cũng là cái thước đo tín nhiệm đối với Hào. Trước khi cho người đến bắt liên lạc trực tiếp với anh bằng mật khẩu, chúng tôi cần phải kiểm tra lòng trung thành của anh.

Đợt thứ hai của cuộc hành quân "Đồi mồi" diễn ra vào dần trần trăng. Tất cả bốn tàu của Hải cứ Gamma đều tham gia. Trước khi lên đường, Bảy Dĩ gọi Hào đi gặp riêng Warrens. Chiếc trực thăng H.41 đưa anh đến một biệt thự anh không hiểu nó nằm ở vùng nào trên đất này. Ngôi nhà ba tầng cấn trúc hiện đại ẩn mình giữa một vùng rừng rậm.

Đây là lần đầu Hào được giáp mặt ông chủ. Warrens lịch sự bắt tay Hào và kéo anh cùng ngồi chung chiếc đi-văng. Người Mỹ này cao lớn, hồng hào, tóc bạch kim, đeo kính râm, mày râu nhẵn nhụi. Vai Warrens to và hơi gù có dáng điệu một con gấu đứng bằng hai chân sau. Ông ta ít cười, vẻ mặt thận trọng, điềm đạm nhưng không lạnh nhạt. Sau khi rót Whisky chạm cốc với Hào, Warrens nói bằng tiếng Việt:

- Sự cộng tác của chúng ta bắt đầu từ lâu, nhưng bữa nay chúng ta mới có dịp gạp nhau. Tôi vui mừng vì chuyến đi mở đường của ông mở ra nhiều hứa hẹn. Chúng tôi không bao giờ ngừng cố gắng giúp đỡ Việt Nam, chừng nào trên đất nước này vẫn còn những người muốn chiến đấu cho quyền tự do của họ. Chuyến đi sắp tới của ông còn mang một tầm quan trọng lớn lao hơn. Ông sẽ bắc chiếc cầu cho người Trung Quốc nhảy vào cuộc. Dĩ nhiên chúng ta cũng chỉ cần sự tham gia của họ ở mức độ vừa đủ. Sự nghiệp của Việt Nam phải do chính các ông đảm nhiệm. Kinh nghiệm lịch sử cho biết, bất cứ sự can thiệp quá sâu của nước ngoài nào vào đất này đều dẫn đến những thảm họa cho chính người được giúp.

- Thưa ông Warrens, chúng tôi xin cảm ơn ông. Tôi chỉ là một quân nhân, một người ít am hiểu chính trị, nhưng tôi cũng đã ý thức được vấn đề. Sự hậu thuẫn của cộng đồng quốc tế đối với đất nước đau khổ của chúng tôi quan trọng nhất là sự tài trợ. Chúng tôi phải tự cứu mình bằng lòng dũng cảm và xương máu của mình. Mỗi chúng tôi đều cố gắng hành động phục vụ Tổ Quốc thì nhất định mọi cao vọng sẽ được thực hiện.

- Hiện nay ông có nỗi lo lắng riêng tư gì không?

- Dạ có. Nỗi lo lắng duy nhất của tôi hiện nay là vợ con vẫn còn nằm ở Sài Gòn.

- Chúng tôi cũng đà nghĩ đến điều đó. Không thể để Cộng sản biến họ thành con tin. Ông cứ yên tâm là tôi sẽ lo liệu để đón bà nhà và bọn trẻ sớm đến được với ông nhưng chưa thể là lúc này.

- Dạ, xin cảm ơn ông. Tôi hiểu được những khó khăn hiện tại.

- Riêng tôi, tôi cũng muốn ông hoàn thành cho một công vụ nữa. Có thể gọi là một công vụ đặc biệt. Trong chuyến đi này, khi ở Việt Nam quay trở về đây người ta sẽ giao cho ông một kiện hàng để ông chuyển cho tôi. Đó là những tài liệu mật mà chúng tôi chưa chuyển kịp trong biến cố tháng 4 năm 1975. Tất cả những thứ đó được niêm phong trong hòm thép. Họ sẽ cử một người đi hộ tống hàng nhưng không ai phép mở trừ tôi ra.

- Dạ.

- Kế hoạch vận chuyển như sau: ông giấu kín hàng trong khoang tàu đưa ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Đến tọa độ 7,8 - 102 sẽ có một chiếc máy bay lên thẳng đến tìm tàu của ông. Ông dùng cờ đánh cho máy bay tín hiệu 85. Máy bay sẽ thả thang dây xuống nhận hàng và người hộ tống. Họ sẽ trao cho ông vật này – Warrens đưa cho Hào xem một vật kim loại có khắc con sư tử có cánh - Như vậy là ông đã hoàn thành công vụ quan trọng đó ông sẽ được lãnh ba nghìn đô-la tiền thưởng khi ông trao lại vật này cho tôi.

- Dạ, tôi có thể được biết mặt người nhận hàng trước không ạ?

- Được, sau đây tôi sẽ gọi họ ra cho ông nhận diện. Warrens bấm chuông, cô thư ký xuất hiện ở khuôn cửa.

- Cho gọi S.5 vào đây!

Vài phút sau một người đầu hói, râu tóc rậm, mắt xanh, da đỏ như gà chọi, mặc bộ đồ bò đẩy cửa bước vào, cúi chào rất lễ phép:

- Hai ông nhận mặt nhau đi? Các ông sẽ không có thì giờ nói chuyện với nhau đâu mà cần biết tên... Ông Hào, liệu ông có thể nhầm lẫn ông này với một người khác được không?

- Thưa ông Warrens đủ rồi. Warrens ra hiệu cho người kia đi, và mời Hào dùng bữa trưa. Ăn xong Hào được máy bay lên thẳng đưa về Hải cứ Gamma.

Một buổi chiều cuối năm, hai con tàu 4206 và 1505 lặng lẽ vượt vịnh Sima tiến về hướng Đông. Tàu không tải nên lướt nhẹ nhàng trên sóng nước. Hào kẻ một đường thẳng tắp trên hải đồ. Đêm nay họ sẽ đi vào vùng biển mà bọn hải tặc luôn luôn hoành hành. Nhưng Hào không lo vì anh đã được thông báo có một hải vụ đặc biệt do thiết giáp hạm Dawson của hải lực Hoa Kỳ dẫn đầu đang tuần thám trong vịnh và dẫn đường cho hai tàu của Hào gặp được tàu Hồng Kỳ của Trung Quốc.

Sớm hôm sau khi đi vào vùng bắc quần đảo san hô Seowfill Shool, Hào thấy trên bầu trời xuất hiện chiếc PVC5 máy bay của Navy là thấp trên mặt biển. Hào chỉnh lái theo hướng chiếc máy bay. Nửa giờ sau trên đường chân trời xuất hiện một chấm đen. Hào đưa ống nhòm lên quan sát. Một con tàu to dần lên trong ống kính. Lá cờ đỏ năm sao in trên ống khói rất rõ nét. Và sau đó anh nhìn thấy chứ Hồng Kỳ trên mũi. Tàu đứng lặng yên trên mặt biển. Có lẽ nó buông neo trên một đảo ngầm để chờ khách ăn hàng. Khi còn cách nhau vài trăm mét, Hào cho đánh tín hiệu bằng cờ hai số 42. Tàu Hồng Kỳ đáp lại tín hiệu 58. Thế là hai bên đã hiểu nhau. Hào cho hai tàu của mình kẹp mạn vào hai bên hông tàn Trung Quốc. Hào ước tính tàu này vào cỡ ba ngàn tấn, chạy những đoạn đường ngắn ven biển. Trong cuộc chiến tranh trước đây, tàu Hồng Kỳ từng chở hàng giúp đỡ cho miền Bắc Việt Nam. Hải quân Sài Gòn cũng đã đôi lần gặp con tàu này ngoài khơi, chúng cũng đã chụp ảnh phóng to cho các hải đoàn tập nhận dạng. Nhưng hình như ngày nay tàu cũng có tân trang lại đôi chút. Ngả sang phương Tây nên màu sắc con tàu cũng phải thay đổi cho có bộ mặt mới, ra vào các cảng của Thái Lan.

Các thủy thủ tàu Hồng Kỳ quăng dây xuống cho hai con tàu nhỏ neo chặt lại. Họ thả thang dây xuống rồi ra hiệu mời các thuyền trưởng lên tàn. Hào thay mặt cho bên Mặt trận Tự do leo lên trình mật hiệu và giấy nhận hàng. Trên tàu đã có sẵn một thông ngôn tiếng Việt - Xin mời các đồng chí vào trong này - Viên sĩ quan giơ tay đón tiếp rất niềm nở. Họ dẫn hai thuyền trưởng người Việt vào trong khoang. Thuyền trưởng tàu Hồng Kỳ thân mật bắt tay và mời họ ngồi vào bàn.

- Thưa quý vị. Chúng tôi nhận lệnh cấp trên ra đây gặp quý vị để nhận chuyến hàng viện trợ đầu tiên của quý quốc giúp cho những người Việt Nam tự do. Tôi xin chuyển lời cảm ơn chân thành của những vị lãnh đạo quốc gia chúng tôi tới quý vị, tới nhân dân Trung Quốc vĩ đại, tới một lân quốc có tầm quan trọng lớn lao tới vận mệnh dân tộc chúng tôi...

Viên thuyền trưởng tàu Hồng Kỳ xoa tay, miệng cười hết cỡ, tỏ ra bằng lòng với bài diễn văn xã giao chí tình của Trương Tấn Hào. ông ta đáp lại một cách nhiệt thành:

- Chúng tôi vô cùng cảm động trước những lời hữu nghị của các đồng chí. Đảng và nhân dân Trung Quốc chúng tôi bao giờ cũng kính trọng nhân dân Việt Nam anh hùng, bao giờ cũng quan tâm đến nền độc lập tự do của các đồng chí. Hai nước chúng ta vốn có mối tình hữu nghị lâu đời vô cùng thắm thiết. Trung Quốc trước sau như một muốn vun đắp cho thối quan hệ quốc tế đó mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững. Nhưng giới lãnh đạo Việt Nam đã phản bội chủ nghĩa Mác - làm tay sai cho đế quốc xã hội, xâm lược Cam-pu-chia, khiêu khích biên giới Trung Quốc gây ra cuộc chiến tranh mà phía Trung Quốc không bao giờ mong muốn. Nay các đồng chí đã đoàn kết chống lại giới cầm quyền nước mình thì ắt các đồng chí phải là người bạn đồng minh chí cốt của nhân dân Trung Quốc. Vâng lời Đảng, chúng tôi mang tới các đồng chí những phương tiện chiến tranh này mong góp phần nào vào công cuộc giải phóng Việt Nam. Các đồng chí hãy tin rằng chúng tôi sẽ luôn luôn đứng bên các đồng chí, dù là mười năm, trăm năm hay lâu hơn nữa. Nhất định các đồng chí sẽ giành được thắng lợi cuối cùng...

Diễn văn kết thúc bằng mấy tiếng vỗ tay lộp bộp. Dù Trung Quốc đã ngả sang phương Tây, nhưng cái luận điệu của họ đầu thập kỷ 80 vẫn khó lọt nổi vào đôi tai của viên sĩ quan hải quân Sài Gòn trước đây. Hào trình vội tờ ủy nhiệm thư và cái biên lai Hoàng Quý Nhân kiếm được từ cuộc mật đàm Bắc Kinh hồi mùa thu. Viên thuyền trưởng tàu Hồng Kỳ ra lệnh cẩu hàng xuống thuyền và đồng thời mở tiệc chiêu đãi thủy thủ đoàn của hai tàu biệt kích.

Mười giờ sáng hôm sau Hào tạm biệt nhưng người Trung Quốc cho tàu quay mũi về hướng đất liền. Đúng như lần trước họ được một thuyền máy đón ở Hòn Quy. Hào mở máy phát tín định vị. Khi vào đến sông Hậu mới gặp một trạm kiểm soát chặn lại. Hào được lệnh lên bờ trình giấy.

Hào đã gặp Hai Bền. Anh trình bày tóm tắt lại các tin tức và công vụ chuyển kiện hàng tuyệt mật ra nước ngoài của chuyến đi này. Hào cũng báo tin còn hai tàu xuất phát sau tàu anh bốn giờ không biết chúng đổ hàng ở đâu.

- Ngày mai sẽ có cuộc kiểm soát ở Nhơn Khánh trên sông Hậu, tôi sẽ trao đổi với anh đối pháp cụ thể. Nếu chỉ là hàng lậu thì anh có thể hối lộ mà đi. Nhưng là tài liệu thì sẽ có cách xử lý sau. Chúng tôi đã bám sát được hai tàu MP.249 và S.863 rồi.

- Dạ.

- Anh mang giúp tôi chiếc máy này sang Westland - Bền đưa cho Hào chiếc máy phát tín định vị giống như chiếc trước đây - Sẽ có người đến nhận theo mật khẩu cũ. Anh có mang theo máy ảnh không?

- Dạ có.

- Anh cố chụp được người nhận hàng ở máy bay trực thăng nhé. Phim chụp được đưa cho người đến bắt liên lạc ngay. Anh nhớ chưa?

- Dạ nhớ.

- Thôi anh về thuyền đi.

Sau khi giao số hàng Trung Quốc cho bọn phản động nội địa, Hào được mời đến một cái lều cách đấy chừng một cây số. Có hai người trong lều chờ anh. Không có đèn đóm gì nên Hào không rõ mặt người đối thoại. Khi người dẫn đường được lệnh lui xa, người trong lều mới hỏi anh:

- Anh Hào đấy à?

- Dạ.

- Anh nhận nhiệm vụ của ông Warrens giao cho rồi chứ?

- Dạ.

- Anh nói lại xem có đúng không nào.

Hào trình bày lại những gì Warrens giao.

- Đúng như vậy. Người tháp tùng hòm tài liệu là Chín. Nó sẽ chịu trách nhiệm về chiếc hòm đó. Nếu chẳng may gặp Cộng sản kiểm soát, các anh có trách nhiệm che giấu chiếc hòm. Nếu lộ ra Chín sẽ hối lộ bọn khám xét. Nếu hối lộ không xong thì các anh phải nổ súng giết bọn kiểm soát mở đường mà chạy chứ không thể để lọt thứ này vào tay địch.

- Thưa ông, bọn tôi đâu có võ khí. Hơn nữa ông Warrens không giao cho tôi nhiệm vụ nổ súng. Làm trái lịnh ông Warrens tôi ớn lắm.

- Không sao! Làm tốt hơn thì có gì mà lo. Tôi sẽ báo cáo chuyện này với ông ấy. Còn súng đạn Chín sẽ mang cho các anh.

- Thế tôi phải đón Chín ở đâu?

- Anh cứ cho thuyền đi. Sẽ có nhột con thuyền nhỏ đón anh xin cạp mạn. Người đó sẽ gọi anh "Chú Tư ơi ba cháu đã về chưa?". Anh trả lời "Ba về bữa qua rồi, Chín lên đây với chú'. Nó sẽ đưa các thứ sang tàu anh.

- Dạ, ông còn chỉ thị thêm gì không ạ?

- Không. Từ phút này anh sẽ theo đúng hành trình của mình.

- Bây giờ tôi cho thuyền ra nghỉ ở sông Hậu đoạn gần Nhơn Khánh. Mười hai giờ trưa mai bọn tôi nhổ neo. Ông bảo Chín bám sát tôi.

- Anh yên tâm. Hàng trăm con mắt bám anh chứ chẳng riêng gì thằng Chín.

Bộ chỉ huy Trung tâm phản gián đã họp bàn về kiện hàng bọn phản động dự định chuyển ra nước ngoài. Tài liệu, vàng bạc, kim cương, thứ gì cất trong chiếc két sắt đó. Có đồng chí còn đặt giả thiết có thể là một trái mìn.

- Câu trả lời chắc chắn nhất là khi khám xét ta sẽ biết rõ hòm sắt đó đựng gì - Đại tá Đức phát biểu - Ta nêu ra giả thiết mìn là đề phòng kẻ địch sợ tài liệu quan trọng đó lọt vào tay ta. Chúng gài bẫy phòng khi ta mở. Mìn nổ sẽ hủy toàn bộ tài liệu lẫn người khám xét. Có thể là kẻ hộ tống cũng chết luôn, nếu vậy sẽ bịt kín mọi hướng đi của ta sau này.

- Tôi đề nghị ta đi vào từng giả thiết để có đối pháp cụ thể. Nếu khám thấy tài liệu mật thì xử trí thế nào? Vàng bạc, kim cương thì sao? v.v...

- Thứ nhất nếu là tài liệu mật thì ta phải bắt cả thuyền vì có tha thì nhân mối của ta cũng lộ, sẽ bị địch hành tội. Nếu là vàng bạc; kim cương thì ta cứ việc tịch thu rồi tha cho người và thuyền. Chúng có thể cho là người khám xét muốn chia nhau của nên không muốn đem tội phạm về xét xử.

- Còn nếu là ma tuý hay kỳ nam thì sao?

- Cũng cứ tịch thu thôi.

- Nếu là ma tuý thì không cần thiết phải tịch thu. Ta có thể gạ chúng hối lộ rồi tha - Bền đề nghị - Ta đang cần nhử chúng nên ta phải biết “Buông con săn sắt". Ta cần gây ảnh hưởng tốt cho Trương Tấn Hào. Theo tin Nghĩa điện về cũng như Hào vừa báo cáo, có thể chúng sẽ mở cuộc đổ bộ một tá chính khách lưu vong về lập chính phủ lâm thời. Chúng cũng sắp tiến hành kế hoạch T20-20. Nếu Hào là thuyền trưởng thì có lợi cho ta biết bao! Lờ đi mấy cân ma tuý để chặn đứng những âm mưu lớn hơn thì là việc đáng làm.

- Tôi cũng đồng ý với trung tá Bền. Ta có thể thu thập bằng chứng về vụ buôn lậu ma túy này để làm vũ khí chống Warrens khi cần thiết.

Cuộc thảo luận đã thống nhất ý định đối phó. Một kế hoạch bám sát NT.4206 và 1505 được triển khai khẩn cấp. Vùng Hải quân 4 đưa ba phân đội hải thuyền siêu tốc vào vị trí phong tỏa ở ngoài khơi.

Khi hai con tàu biệt kích đi vào kinh 13 thì trạm gác của dân quân yêu cầu dừng lại. Hào mang giấy tờ lên trình thì gặp ông dân quân Bền. Hào nói nhỏ: "Hàng chưa lên tàu. Có thể ra đến bờ biển chúng mới cho đưa hàng lên”. Bền phổ biến cho Hào một số việc rồi cho tàu đi...

Bốn giờ mười lăm phút hôm sau, một tàu siêu tốc của Hải quân đã chặn hai chiếc 4206 và 1505 lại ở tọa độ 1023-796. Sau khi xét hỏi giấy tờ, người ta phát hiện ra hợp tác xã đánh cá Hải Phú không có số tàu 4206, nên quyết định khám tàu. Người ta lôi ra một hòm sắt nặng giấu dưới đống phao lưới.

- Chiếc hòm này đựng gì?

- Dạ, thưa hộp đồ sửa chữa của chú Chín đó.

- Chín là ai?

- Dạ tôi.

Mặt Chín xám ngắt không còn hạt máu. Thái dương y giật giật.

- Thứ gì trong hòm?

- Dạ thưa tui hổng biết.

- Của anh sao anh lại không biết?

- Dạ người ta nhờ tôi mang ra khơi chuyển cho người di tản.

- Thôi được, ít phút nữa anh sẽ thấy trong đó đựng thứ gì.

Chín bị còng tay đưa sang chiếc sà lúp nhỏ có ba chiến sĩ đi kèm. Chiếc sà lúp lao vào phía đảo Hòn Ngao cách dó vài trăm mét. Thuyền NT.4206 bị giám sát chặt chẽ dưới họng súng.

Chiếc hòm sắt được đưa lên hoang đảo. Sau hai mươi phút nắp hòm bật ra. Nó chứa một thứ bột trắng như tuyết. Các chuyên gia xem xét kỹ lưỡng và kết luận nó là bạch phiến, nhưng các anh vẫn vờ như không biết gì.

- Anh có biết thứ này là gì không? - Một người hỏi Chín.

- Dạ em hổng biết. Em chỉ có nhiệm vụ mang đi thôi ạ.

- Ra tòa với món hàng này anh sẽ được lãnh án tử hình hiểu chưa?

- Dạ con hiểu, con lạy các chú, các chú tha cho con. Các chú bắt nộp phạt bao nhiêu con cũng xin nộp.

- Nộp phạt? - Một anh mỉm cười nhún vai - Anh có bao nhiêu tiền mà đòi nộp phạt?

- Dạ con có vàng. Con xin nộp các chú tất cả.

Mấy người lính nháy mắt với nhau rồi tháo khoá cho tên Chín. Tên Chính moi trong người ra một gói nhỏ nặng trịch đưa cho người lính. Anh ta mở ra. Những lá vàng "sư tử" lấp lánh. Anh ta gói lại.

- Thôi được, đóng hòm lại. Chúng tôi tha cho anh, không phải lập biên bản nghe.

- Dạ.

- Lẹ lên mà ra tàu. Ai hỏi thì bảo chỉ có vài ký kỳ nam thôi, hiểu chưa?

- Dạ con hiểu. Con đội ơn ba chú.

Chiếc sà lúp đưa họ trở lại tàu NT.4206.

Năm phút sau tàu Hải quân nổ máy chạy về hướng Đông. Hào cho tàu NT.4206 phóng nhanh về hướng Tây rượt theo chiếc 1505. Sáu giờ, ra đến hải phận quốc tế, họ đã thấy vè vè trên đầu chiếc trực thăng "Hiệp sĩ biển cả” to đại. Hai bên trao đổi tín hiện xong, chiếc trực thăng hạ sát xuống nóc tàu 4206, mặt nước cuộn sóng dữ dội làm con tàu chao đảo. Thang dây hạ xuống. Tên người Âu đầu hói da gà chọi lanh lẹn lao xuống. Hào nháy mắt với hắn rồi bảo Chín khuân chiếc hòm sắt ra giao cho hắn, để nhận lại chiếc huy hiệu. Nhưng tên gà chọi bắt Hào phải ký biên bản bàn giao vì chiếc hòm bị mất niêm phong.

- Chúng tôi bị hải thuyền cộng sản khám xét. Họ đưa Chín người tháp tùng lên bờ bắt mở hòm ra. Chú Chín phải nạp vàng hối lộ cho họ mới giữ nổi chiếc hòm. Xin ông trình lên ngải Warrens chuyện này giúp tôi. Tôi không được chứng kiến chuyện phá niêm.

Hào ghi lại chuyện trên vào biên bản bàn giao rồi mới ký và bắt Chín ký vào bên. Tên đầu hói cho kiện hàng vào túi lưới chắc chắn rồi ra hiệu cho chiếc trực thăng hạ xuống. Tên Chín được lệnh leo lên trước. Tên đầu hói khoác kiện hàng theo thang dây lên sau. Hào đã kín đáo chụp được những hình ảnh này cho tới lúc chiếc "Hiệp sĩ biển cả" nuốt chửng tên đầu hói và kiện hàng vào bụng nó rồi biến đi sau những đám mây thấp lang thang trên mặt biển.

Bốn giờ sau Hào thấy trước mũi tàu 4206 lập lờ một vật gì trên mặt sóng. Anh giảm tốc quay mũi tránh thì nhận ra một xác người đang bị đàn cá bâu đến rỉa. Bộ mặt nạn nhân đã biến dạng không còn ra hình thù gì nữa. Hào bỗng giật mình nhận ra bộ quần áo và mái tóc của thằng Chín. Ôi cái thằng tháp tùng kiện hàng bí mật vừa leo lên chiếc trực thăng sáng nay mà giờ đây đã thành người thiên cổ. Hào cho tàu lượn lại một vòng lấy máy ảnh chụp cái xác chết rồi mới tăng tốc đi thẳng. Thủy thủ đoàn, sau cơn căng thẳng thần kinh đã ngủ say như chết, không ai hay biết gì về cái xác chết trên biển.

Tại sao chúng giết thằng Chín rồi ném xuống biển? Có thể là chúng muốn bít kín mọi đường rò rỉ tin tức về những gì chứa trong chiếc hòm thép bí mật. Chắc thằng Chín đã tường thuật lại cuộc khám xét quá thành thật. Hay thằng Chín cũng có phần trong kiện hàng này nên bị thủ tiêu. Còn Hào số phận anh sẽ ra sao? Liên tưởng đến chuyện trên, anh thêm lo lắng và cảnh giác. Nhưng đêm hôm đó Hào vẫn lái con tàu vào Hải cứ Gamma chính xác. Hôm sau cả bốn con tàu đều quay trở về an toàn.

Bảy Dĩ đón tiếp các thủ thủ đoàn với những chai sâm-banh ướp lạnh. Ngay sau đó Hào đã được Bảy Dĩ mời đi Voca City. Lần này anh được gặp Warrens ở Văn phòng riêng của ông ta trong Sứ quán Mỹ. Warrens thân mật bắt tay Hào và khen:

- Công việc của ông được thực thi rất hoàn hảo. Tôi chỉ muốn hỏi ông thêm một điều: Liệu kẻ địch có biết được nội dung những tài liệu chứa trong két sát của tôi không?

- Thưa ông Warrens, tôi nghĩ là không. Khi chiếc hòm bị đưa lên đảo Hòn Ngao để kiểm tra thì chỉ có mặt ba người lính và chú Chín, người theo hàng mà thôi. Có thể khi chúng phá niêm định khám thì Chín đã kịp nêu ra đề nghị hối lộ. Những người lính này bị những lá vàng hấp dẫn nên họ làm việc chiếu lệ. Chúng tôi chỉ phải chờ đợi chừng hai chục phút thôi. Tôi không biết gì hơn ngoài điều Chín kể lại.

- Tại sao họ không khám tại chỗ mà phải đưa lên đảo?

- Tôi nghĩ là vì họ muốn dọa nạt, mặc cả khoản hối lộ. Họ không muốn làm việc công khai trước tất cả mọi người.

- Cảm ơn ông. Tôi tin vào lòng trung thành của ông - Warrrens rót rượu và nâng cốc - Chúc sức khỏe của ông và sự hợp tác lâu dài của chúng ta!

Warrens đặt trước mặt anh một tập đô-la:

- Đây là phần tiền của ông trong hải vụ này.

- Cảm ơn ông Warrens.

Trước khi nhận tiền Hào trao lại cho ông chủ cái huy hiệu nhận ở tay lão đầu hói.

- Ồ, cái này tôi tặng ông làm kỷ niệm. Có thể coi như chiếc huân chương tặng cho một chiến công. Có lúc nó hữu ích cho ông!

- Cảm ơn ngài Warrens.

Trên đường về Hải cứ Gamma. Hào vẫn còn thấy lo. Được nhận thưởng, được ban khen, được tiếp đón niềm nở, nhưng ý nghĩ bên trong của Warrens ra sao thì anh không đoán nổi. Mấy ngàn đô-la cứ nóng ran lên trong túi ngực khi anh nghĩ mình ngày càng bị lún sâu vào những âm mưu tội ác do CIA điều khiển và giám sát rất chặt chẽ. Anh rất khó có đường lui. Khi không còn có ích cho Warrens nửa, số phận của anh có lẽ cũng sẽ kết thúc bi thảm như thằng Chín thôi. Nhưng rồi Hào lại vững tâm hơn vì anh đã có điểm tựa từ phía Tổ Quốc. Anh không cô đơn nữa, và nếu cần anh sẽ có lối thoát.

CHƯƠNG XII

CHƯƠNG TRÌNH T20-20

Đại tá Nguyễn Hữu Đức đã chọn từ Ikébana là nghệ thuật cắm hoa - tượng trưng cho cuộc sống tốt đẹp, cho sự thanh khiết của môi trường sống, cho mối hên hệ giữa con người và thiên nhiên đầy hương sắc - để đặt tên cho chiến dịch ngan chặn cuộc thử nghiệm chất độc T20-20 của C.C.C. do tên tội phạm Nghiêm Bửu Châu tiến hành.

Do tính chất nguy hiểm dã man của cuộc thí nghiệm nên cơ quan Tình báo Quân sự đã báo cáo với cấp trên đề nghị sử dụng Hải quân của vùng, lực lượng công an nội địa căng ra ba tầng lưới ngăn chặn.

Tầng xa nhất là mạng lưới tình báo hải ngoại. Phải bám chắc con mồi từ xa, đánh dấu quỹ đạo của chúng từng thời điểm báo cáo về Trung tâm. Dsẵn sàng xét quy mô và phương thức hoạt động cụ thể của chúng.

Tầng lưới thứ hai do Hải quân và lực lượng ven biển dăng ra ngoài khơi, không để lọt mục tiêu, không bị bất ngờ trong mọi tình huống, mọi thời tiết.

Tầng thứ ba nằm trong nội địa bắt gọn bọn mật nhập, đập tan âm mưu phối hợp của bọn phản động bên trong.

Một kế hoạch to lớn như thế triển khai trên toàn lãnh thổ là rất khó khăn tốn kém nhưng vẫn có nhiều kẽ hở, chưa thể yên tâm. Do đó cấp trên quyết định tôi phải ở lại Voca City ngay cả trong dịp Noel. Tôi không thể về bán đảo Nelson để đón chào thập kỷ 80.

Trung tâm không cho phép được bắt liên lạc trực tiếp với Trương Tấn Hào. Tám được chỉ định là nhân vật đệm. Anh đã đến gặp Hào và nhận được chiếc máy phát tín định vị và cuốn phim Hào chụp trên mặt biển. Theo chỉ thị của Trung tâm, Tám chuyển những thứ này cho tôi.

Trung tuần tháng giêng năm 1980 tôi nhận được thư của Bạch Kim. Tôi vội mở ra đọc.

Anh thương yêu

Cả nhà đón lễ Noel thiếu anh nên chẳng thể vui được. Hai mẹ con đều buồn, nhưng biết làm sao? Em muốn gửi đến cho anh mấy bông tuyết vì nghĩ là dưới ánh mặt trời gay gắt ở Westland anh cần đón một cái gì dịu mát... Con trai chúng ta vẫn mạnh khỏe. Sau những ngày lễ cuối năm con lại xa em đến ở trường nội trú. Em xin báo cho anh một tin vui: Chúng ta ta sắp có con! Ôi em mong đợi điều này và nó đã đến! Có con trai rồi nên em mong có đứa con gái, anh có thích không? Ngoài bốn mươi rồi mới sinh nở nên em cũng hơi lo. Anh có lo cho em không? Mấy bữa nay em thấy đói, nhưng ngửi thấy mùi thức ăn lại không sao ăn được. Ôi sao mà em nhớ anh quá! Nếu lúc này có anh ở bên em sẽ bắt đền anh đấy. Em mong đợt viết bài này của anh chóng kết thúc và mọi dự tính của chúng ta đều thành đạt tốt đẹp. Còn chuyện tổ chức đám cưới thì có lẽ đã lỗi lỗi thời. Chúng ta ta sẽ lựa một hoàn cảnh thuận lọi để công bố với bạn bè còn hơn là bày trò cưới xin gây cười cho thiên hạ!

Châu đến thăm anh Ân và cho biết cuối tháng này sẽ sang Đông Nam Á. Nếu Châu đi, em sẽ gửi quà cho anh, chắc anh cũng mong điều đó. Em đã cho Châu đia chỉ anh. Nếu hai người gặp nhau thì vui biết mấy. Lâu lắm em không gặp Thạch, ông già nói Thạch đang đi Châu Âu.

Chuyện nhà chỉ có vậy. Tết ta chắc anh cũng chưa về được. Em chúc anh một năm tốt lành, mọi sự như.

Yêu thương anh,

Bạch Kim

Tôi áp lá thư vào ngực xúc động vì những tin quan trọng. Niềm vui, nỗi nhớ, sự lo lắng như cùng ập đến một lúc. Tâm tư tôi ngổn ngang bề bộn bao nhiêu bài toán.

Tất cả buộc tôi phải chiến thắng, thắng thật hoàn hảo từng trận và toàn chiến dịch để trở về với Bạch Kim, với nỗi lo âu và niềm mong đợi của cô.

Một buổi tối tôi đang ngồi viết bài thì John Antonio đến thăm. Chúng tôi bắt chặt tay nhau.

- Anh mới sang?

- Sáng nay.

- Anh ở buồng nào?

- Buồng mười sáu khách sạn Hilton. Ở đây có cả vợ chồng Ramiro và một đoàn các nhà khoa học của ba hội từ thiện tư nhân Mỹ. Họ định xin vào Việt Nam để điều tra tội ác hủy hoại môi trường sống ở các vùng Mỹ sử dụng chất độc màu da cam.

- Có thể gọi đây là chuyến đi của cả gia đình!

- Đúng thế. Mời anh đến chỗ chúng tôi. Theresa rất vui nếu được gặp anh.

- Rất hân hạnh! - Tôi vội vàng theo John Antonio đến khách sạn Hilton. Theresa giới thiệu tôi với cả phái đoàn Mỹ.

- Các bạn hãy làm quen nhau. Đây là nhà báo Hoài Việt người bạn Việt Nam thân thiết của gia đình tôi từ nhiều năm nay. Ramiro  Alonzo nhà nghiên cứu văn hóa cổ, chồng tôi, Mục sư Tin lành Willieam Dowson. Còn đây là tiến sĩ George Mirault chủ tịch hội từ thiện Saint-Louis. Ông Tom Miller trợ lý trung tâm hóa dược Los Angeles. Ông Michael Douglas cựu quân nhân không lực. Tất cả chúng tôi muốn đến Việt Nam để nghiên cứu những vùng bị chất độc da cam tàn phá. Sự thật này sẽ giúp cho chiến dịch quyên góp của chúng tôi giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh được đẩy mạnh hơn.

- Bao giờ thì các bạn bay đi Việt Nam?

- Điều đó tùy thuộc vào sự cho phép của Hà Nội. Chúng tôi rất lo lắng vì giấy phép của Bộ Ngoại giao Mỹ cấp cho chúng tôi chỉ có giá trị một tháng.

- Tôi tin là Hà Nội không dám từ chối một công việc từ thiện.

- Biết thế nào được anh. Chính trị luôn luôn can thiệp vào mọi chuyện. Chúng tôi xin phép sang Việt Nam từ mùa thu năm 1979. Bộ Ngoại giao Mỹ luôn luôn khước từ vì lý do hai quốc gia chưa có quan hệ ngoại giao. Mãi sau lễ Noel, vụ Á Châu mới gợi ý là nên sang Westland gặp Đại sứ Việt Nam mà xin nhập cảnh. Bộ Ngoại giao chỉ có thể giúp chúng tôi đến Voca City được thôi.

- Đến đấy các bạn sẽ thấy đất nước tôi là đáng yêu lắm. Tiếc là hậu quả của chiến tranh vẫn còn chưa buông tha những người dân vô tội. Sự giúp đỡ của những người Mỹ có thiện chí lúc này càng cần thiết. Mối ác cảm và thù địch cũng cần phải loại trừ khỏi môi trường sống tinh thần.

Sau cuộc gặp mặt thân mật chừng một giờ, tôi tạm biệt anh em Antonio trở về khách sạn Norodom. Bộ mặt lạnh lùng của Tom Miller và cặp kính đen u tối của Michael Douglas đặt cho tôi nhiều dấu hỏi. Hai người này mang theo những va-li dụng cụ, có thể coi như những phòng thí nghiệm di động, liệu có liên quan gì đến chất T20-20 không?

Tôi điện tin này về nước và yêu cầu cho phép phái đoàn này vào Việt Nam. Quy trình và thời điểm hoạt động của họ đáng cho ta lưu ý nghiên cứu. Điểm chú mục là Miller và Douglas. Tôi cảm thấy giờ khởi sự sắp điểm. Bức điện của tôi cũng là tín hiệu báo động đầu tiên cho những lực lượng tham gia chiến dịch Ikébana.

Ba hôm sau tôi đến Pandon gọi điện cho Tùng Lâm. Tôi định mời anh ra khách sạn Long Yan nhưng anh từ chối. Anh nói đang bận tiếp một nhóm kiểm tra kỹ thuật chứ không nói gì hơn. Anh xin lỗi và hẹn khi khác sẽ đến thăm tôi. Tôi đến Hải cứ Gamma thì người gác trả lời ông Hào bận công chuyện không tiếp khách. Tôi quay lại Pandon tìm một vị trí thuận lợi để quan sát con đường ôtô đi Voca City. Tôi hy vọng sẽ nhận ra một bộ mặt nào đó trong phái đoàn kiểm tra ở mật cứ Béta. Nhưng tôi đã thất bại. Ánh đèn pha chói mắt, tôi không thể nhìn thấy những người trong xe. Hôm sau tôi về Voca City. Tôi chờ đợi chỉ thị của ông chủ bút.

Đầu tháng 2, tôi nhận được bức điện ngắn từ Cali của luật sư Hạnh. Ông bảo tôi phải thường trực ở Voca City chờ người đến đón. Tôi báo tin cho Tám hàng ngày phải đến ba hòm thư mật đề phòng bất chợt tôi phải đi xa. Tôi hồi hộp chờ đón những diễn biến quyết liệt sắp xảy ra. Nó kết thúc một giai đoạn công tác bốn năm sôi động của chúng tôi.

Một buổi sáng tôi bừng tỉnh khi có tiếng chuông gọi cửa.

Người đến với tôi là Mlle Eugénie Mộng Vân. Chị vui vẻ bắt tay tôi.

- Tôi rất vui mừng được là người bạn cùng hội cùng thuyền với cậu. Khuôn mặt đáng yêu của cậu làm tôi nhớ lại thời học sinh thơ mộng của tôi. Lẽ ra tôi phải là chị dâu cậu mới đúng. Nhưng tiếc là hồi đó cả tôi và Phan Quang Ân đều nghèo. Chúng tôi đã chia tay nhau trong khung cảnh bi thảm đó.

- Thưa chị, đôi lần tôi cũng được nghe chị Ngọc tôi kể lại thiên diễm tình trên, nhưng có thêm một chi tiết nữa. Chính chị đã quên anh Ân tôi vì lúc đó Paul Thái Văn vừa giàu lại vừa có thế lực?

Chị Mộng Vân nhún vai mỉm cười.đại đội

- Thái Văn giàu nhưng không thể so với cái móng tay cha con ông Cự Phách! Khi đã phản bội nhau thì bao giờ người ta cũng tìm được lý do để đổ lỗi cho nhau! Nhưng thôi, nói cho vui chứ làm sao chống nổi được định mệnh. Mỗi người chỉ có một cuộc đời do Thượng đế an bài. Không thể tham lam được, phải không cậu. Sáng mai chúng ta sẽ bắt đầu lao vào cuộc chiến đấu mới. Nhìn nét mặt cậu không vẩn một chút lo âu mà tôi thấy phát ghen lên được!

- Camus đã nói "Kẻ nào biết phớt đời, chấp nhận phi lý, kẻ đó hoàn toàn tự do!". Đời là một canh bạc chị ạ. Nó hấp dẫn người ta ở sự thua được. Nếu không có thua có được có lẽ chẳng ai thiết đánh bạc, thậm chí thiết sống nữa.

- Cái triết lý đó có lẽ cũng chỉ thích hợp với một tuổi tác nào đó thôi. Thuở trẻ tôi thích phiêu lưu, liều lĩnh. Nhưng gần đây thôi, tôi hay hồi hộp, dễ hoảng hốt và đôi lúc thấy sợ. Bản năng lấn át lý trí. Có lẽ đó là sự báo hiệu của tuổi già, của cái quá thời. Nhưng tình thế lại thúc đẩy tôi phải lao vào canh bạc cuối cùng này. Tôi sẽ cố bình thản dấn thân đến cái kết thúc. Được làm vua, thua làm giặc.

- Tôi thì chẳng thích làm vua, cũng không bao giờ muốn làm giặc. Tôi thèm khát trở thành một nhân chứng của lịch sử. Đó là cái giá cho mọi sự liều lĩnh của tôi.

- Còn tiền thì sao? - Mlle Mộng Vân mỉm cười nhìn tôi vẻ chế giễu.

- Không. Cái đó chẳng có gì đáng hấp dẫn. Cùng lắm chuyến đi này họ trả cho tôi ba, bốn ngàn đô-la. Một tháng nằm chờ ở đây tôi đã tiêu hết số tiền tương tự.

- Cậu yên tâm. Nếu sau này cậu em chịu cộng tác với tôi, Bộ trưởng thông tin văn hóa, cậu sẽ chẳng phải cầm bút ký những hợp đồng rẻ mạt như thế đâu.

Chuyện trò hồi lâu chị Mộng Vân cáo từ ra về. Chị còn dặn tôi đừng đi đâu xa kẻo khi có lệnh xuất quân lại không tìm thấy nhau. Tôi vội đến thăm John Antonio. Anh cho biết đoàn của Theresa đã bay đi Thành phố Hồ Chí Minh sáng nay. Tôi đưa cho anh cuốn phim về chuyến trao hàng trên biển và câu chuyện về một đường dây ma túy mới do Warrens cầm đầu. Tôi yêu cầu chưa công bố tin này vội. Muốn chống Warrens phải chuẩn bị đầy đủ hơn nữa. Chờ khi nào tôi cung cấp thêm bằng chứng đủ mạnh anh hãy công bố. Antonio ôm lấy tôi vui sướng và hứa sẽ làm đúng những điều hai chúng tôi thỏa thuận.

Chuyến bay đặc biệt chở Trung tướng Công An, Cục trưởng An ninh nội địa cùng các chuyên viên kỹ thuật hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất lúc mười tám giờ. Hai chiếc xe Yaz đã chờ sẵn để đưa đoàn cán bộ về Sở chỉ huy của phân cục miền Nam. Một cuộc họp được tiến hành lúc mười chín giờ. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức báo cáo tình hình:

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Hải quân vùng 3 vùng 4, các phân đội ra đa trinh sát hàng hải mở máy thường trực hai mươi tư trên hai mươi tư giờ để quản lý lãnh hải chặt chẽ. Các đơn vị Công an, lực lượng An ninh vũ trang tự vệ miền ven biển, cửa sông tăng cường tuần hành để theo dõi mỏi tàu thuyền lạ. Có gì khả nghi phải báo cáo ngay lên trên, đồng thời quản lý chặt mục tiêu, nhưng không được phép xử lý trừ khi chúng có hành động phá hoại hoặc định rút chạy ra vùng biển quốc tế.

Tình hình địch nội địa.

Cha Vũ Xuân Trinh không thấy xuất hiện từ chủ nhật trước. Ông Đỗ Thúc Vượng báo tin qua cụ Trương Công Nghị là ông được mời đi dự một séminaire politìque nhưng chưa rõ địa điểm. Ta đã cho bám sát ông Vượng thấy ông đi xe ca về hướng Tây Ninh. Đến Gò Dầu Hạ xuống xe. Một chiếc Honđa đưa ông về vùng Trảng Sanh. Đó là tin cuối cùng về cuộc hành trình này.

Phái đoàn những nhà từ thiện Mỹ hiện đang ở khách sạn Thống Nhất. Bên Công an và Ngoại vụ đã bố trí một phiên dịch và một bác sĩ đi theo, theo yêu cầu của họ. Ngoài xe phục vụ của khách sạn, họ xin thuê riêng một xe dự trữ để đi lại, ngoài những hành trình đã định. Kế hoạch của họ là khảo sát ba địa điểm. Một khu vực ở rừng Miền Đông thuộc Sông Bé. Một khu vực thuộc chiến khu Dương Minh Châu Tây Ninh. Địa điểm thứ ba ở biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia thuộc vùng Mỏ Vẹt. Thời gian từng khu vực họ xin được tự do lựa chọn vì hiện nay nội bộ vẫn chưa thống nhất được chương trình. Nếu họ phải chia để đi hai nơi một ngày thì họ mong ta thông cảm cho. Ta đã chấp nhận yêu cầu này. Hôm qua vợ chồng Alonzo và mục sư Willieam Dowson đi Sông Bé còn Tom Miller – Douglas và tiến sĩ Mirault đi vùng Mỏ Vẹt. Ngày mai tất cả sẽ đi Tây Ninh. Chưa có chương trình ngày kia.

Cuộc họp đang tiếp diễn thì đồng chí cơ yếu xin phép chuyển đến bức điện khẩn. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức đọc chung trước hội nghị.

“Cô Châu sẽ đi Hương Cảng trong vòng tuần lễ này. Tôi chưa mua được vé nên ngày đi chưa định. Nhưng chị Vân đã hẹn chờ”.

N5

Sau khi nghe kỹ bức điện Trung tướng nhận định:

- Địch sẽ bắt đầu hai sự kiện cùng một lúc. Ta loại bỏ giả thiết một hướng thực, một hướng hư. Chúng muốn gây ra một tai họa khủng khiếp mở màn cho sự ra đời của cái gọi là chính phủ lâm thời. Nếu ta tin là có sự phối hợp giữa Hoàng Bửu Châu với Douglas và Miller thì ta dễ dàng tìm ra hướng chủ yếu của chương trình T20-20. Ta cần chú ý vào những điểm Douglas và Miller đã đến hoặc xung quanh những điểm đó. Có thể y phải khảo sát nghiệm trường cả trước lẫn sau khi thử để có đầy đủ những luận chứng khoa học. Căn cứ vào tình hình cụ thể hiện nay, tôi phân công trung tá Nguyễn Văn Bền đặc trách chiến dịch Ikébana. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức chịu trách nhiệm chỉ huy chiến dịch An-pha, đón bằng được toán chính khách lưu vong đổ bộ vào đất liền, từ đó tìm ra hang ổ của Hoàng Quý Nhân. Nếu đúng như dự báo thì mọi chuyện sẽ xảy ra trong vòng bốn mươi tám giờ tới.

Hai mươi giờ ngày 18 tháng 2 năm 1980 tổ trinh sát cửa sông Sài Gòn nhận được tín hiệu vô tuyến đặc biệt. Điều do báo hiệu tàu NT.4206 đang tiến vào đất liền. Nửa giờ sau họ đã quan sát được con tàu biệt kích đơn độc này qua ống kính hồng ngoại. Các đài quan sát bàn giao mục tiêu cho nhau bằng điện thoại. Lực lượng xung kích cơ động được lệnh sẵn sàng chiến đấu.

Cách thị xã Bà Rịa chừng mười lăm kilômét tàu NT.4206 nhận được mật hiệu quy ước đã cập bờ bên một vườn cây um tùm. Chờ cho bảy hành khách mang theo hết hàng lên bờ, tàu 4206 lại tiếp tục đi về hướng Thành phố Hồ Chí Minh.

Những người đổ bộ đã gặp được liên lạc viên và được thông báo là phải di chuyển nhanh ra đường lớn để lên ô-tô đi tiếp. Họ đang chuẩn bị hành trang thì ánh đèn pin lóe lên từ bốn phía. Có tiếng hỏi lớn:

- Đoàn ông Châu hay đoàn ông Thạch đấy?

Nghiêm Bửu Châu giật mình vì câu hỏi sai mật khẩu.

- Trưởng đoàn đâu?

- Mật khẩu?

- Mật khẩu mẹ gì? Xưng tên nhanh lên kẻo lại đi lầm xe!

Bỗng bốn chiếc đèn pha sáng bừng chiếu về phía những tên biệt kích.

- Đứng im, không được nhúch nhích.

Nghiêm Bửu Châu mất hồn. Thế là hết: Y từ từ giơ tay lên khỏi đầu. Những tên khác cũng đứng như cột chôn. Chúng lần lượt đưa tay vào khóa số tám.

- Những trái bom chứa chất T20-20 đâu?

- Dạ thưa... trong hai chiếc va-li đen.

Tất cả bọn biệt kích và tang vật được đưa lên xe ô-tô hòm kín đưa về nhà lao Biên Hòa. Hai trái bom được chuyển đến một nơi đặc biệt để đảm bảo an toàn.

Bọn Nghiêm Bửu Châu sa lưới quá nhanh và gọn làm cho Hai Bền rất phấn khởi. Đây là chiến công lớn sau nhiều năm săn đuổi. Nhưng nghĩ đến Hoàng Quý Nhân là tim anh lại sôi máu. Anh phóng xe về sở chỉ huy báo cáo toàn bộ tình hình lên Cục trưởng. Sau khi được đồng chí Cục trưởng bắt tay chúc mừng chiến công to lớn đầu tiên, Hai Bền liền đề nghị xin cho chuyển sang chiến dịch An-pha.

Cục trưởng nhìn anh mỉm cười:

- Ikébana đã kết thúc đâu?

- Thưa trung tướng, âm mưu gây tội ác của địch bị chặn đứng, tội phạm bị bắt gọn với đầy đủ tang chứng. Như vậy coi như vụ án đã bị phá.

- Đồng chí nên nhớ nhiệm vụ của ta là tình báo chứ không phải là điều tra hình sự! Đồng chí đã gặp lại Trương Tấn Hào chưa? Nguyện vọng của anh ta ra sao? Vai trò tiến công của anh ta đã kết thúc hay còn phải giao nhiệm vụ tiếp? Chúng ta sẽ hướng anh ta về phương nào? Chắc là chưa! Đồng chí đã tháo gỡ ngòi nổ hai trái bom chưa? Bí mật của chất T20-20 như thế nào? Đã bắt tên Nghiêm Bửu Châu viết lại công trình nghiên cứu của nó chưa? Nếu chẳng may nó tự sát mất thì Chúng ta tự mò ra cấu trúc của chất độc này à? Liệu có nên tổ chức một cuộc họp báo ở ngay chợ Bầu Trang thị trấn Vĩnh Cát vào sáng ngày kia để tố cáo tội ác này trước dư luận báo chí, trước cả những nhà từ thiện chân chính của nước Mỹ và vạch mặt cả những tên CIA đội lốt nhà từ thiện đến đây định biến mảnh đất thanh bình của chúng ta thành nghiện trường chết chóc? Chắc là nên làm! Vậy thì đồng chí hãy lo tiếp những việc đó đi. Tám giờ ngày mai báo cáo cho tôi những ý định cụ thể. Việc lùng bắt Hoàng Quý Nhân là rất quan trọng, nhưng không nóng vội được. Đây là những cố gắng chung của tất cả chúng ta chứ chuyện vồ hụt tên tội phạm này mấy năm nay không phải là trách nhiệm của riêng đồng chí. Nếu đồng chí hoàn thành thắng lợi chiến dịch Ikébana thì cũng là một kỳ tích!

Trung tá Nguyễn Văn Bền cảm thấy lúng túng. Mặt anh nóng bừng vì nhận ra cái tính nông nổi của mình. Anh đã quá say sưa với thắng lợi bước đầu mà quên suy nghĩ sâu hơn để đề xuất sự phát triển đúng hướng. Anh chân thành nói với đồng chí Trung tướng Tư lệnh chiến dịch:

- Tôi đã ý thức được vấn đề, tôi sẽ chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Trung tướng.

Thế là anh quyết định không đi ngủ. Anh suy nghĩ biện pháp, bố trí lực lượng ngay trong đêm để guồng máy trong tay anh tiếp tục hoạt động theo hướng gợi ý của cấp trên trước lúc trời sáng.

Ở trại giam người ta đã biệt lập bảy tên tội phạm và hai tên dẫn đường nội địa để hỏi cung sơ bộ.

Biên bản cung khai của Nghiêm Bửu Châu như sau:

- Tên anh là gì?

- Tôi là Vũ Văn Hơn.

- Nghề nghiệp?

- Lính đánh thuê cấp trung úy.

- Đơn vị nào?

- Biệt cứ Béta.

- Anh đổ bộ vào Việt Nam với mục đích gì?

- Tôi chuyển cho những người chống đối trong nội địa hai trái bom.

- Chuyển tới ai? Ở đâu?

- Một người có mật danh X5. Người đó đón chúng tôi ở cây số 42, đường Sài Gòn - Vũng Tàu.

- Loại bom gì?

- Dạ (Lúng túng) tôi không biết.

- Chuyển xong anh làm gì tiếp?

- Dạ làm theo chỉ thị của X5, nhưng tôi bị bắt trước khi đến địa điểm hẹn gặp.

- Những lời khai trên của anh là bịa đặt, sai sự thật với ý định trốn tránh trách nhiệm. Tên anh là Nghiêm Bửu Châu, kỹ sư hóa học, làm việc tại phòng thí nghiệm của Công ty hóa chất C.C.C. Anh là tác giả của phát minh chất độc chiến tranh cực mạnh T20-20. Anh đã chọn Việt Nam, đất nước sinh ra anh làm nghiệm trường cho vụ nổ trái bom hóa học đầu tiên chứa chất độc T20-20. Đúng không?

(Mặt Nghiêm Bửu Châu tái mét như một xác chết).

Đây là một tội ác vô cùng tàn bạo. Nhưng nó đã bị chặn đứng. Khi hành vi của tội nhân chưa được bộc lộ hoàn toàn, chưa gây ra thảm họa thì họ vẫn hy vọng thoát khỏi hình phạt cao nhất: Tội tử hình. Tôi nhắc lại điều này để mở cho anh một lối thoát. Anh hãy thành thực hơn để tự cứu mình. Nếu anh ngoan cố hòng che mắt nhà chức trách thì tôi báo trước: sự dối trá sẽ bất lợi cho anh rất nhiều.

- Thưa quý ông, tôi xin khai lại.

- Phần trên đã kết thúc. Tôi hỏi tiếp. Cấu trúc và tác hại của chất độc T20-20 với con người và môi trường sống?

- Dạ thưa câu hỏi này rộng lớn quá. Xin cho tôi thời gian để tôi viết lại từ đầu, vì nó là cả một luận văn khoa học.

- Phương thức và thuốc men cấp cứu nạn nhân nhiễm độc T20-20?

- Dạ... đây không phải là lĩnh vực nghiên cứu của tôi! (Người thẩm vấn bật cười).

- Kẻ chế ra cái "mâu”, không mong muốn ai có cái "thuẫn" đủ sức đỡ nổi?

(Nghiêm Bửu Châu cúi xuống không nói gì)

- Cách tháo gỡ những trái bom này?

- Thưa Quý ông đầu tiên là tháo bộ phận đầu nổ. Ở trái bom thí nghiệm, đầu nổ còn gắn với máy đo tốc độ gió, bộ phận hẹn giờ, bộ phân phát tín đếm lùi báo nguy cho người thí nghiệm. Tách được cụm này ra là trái bom không còn nguy hiểm nữa. Muốn tháo các ngăn hóa chất C1 và C2 ra cũng rất dễ dàng. Bom thí nghiệm nên không có bẫy chống tháo gỡ. Xin quý ông cho phép tôi làm việc này để đảm bảo an toàn tuyệt đối.

- Thôi được, chuyện đó tính sau. Anh định thử trái bom ở đâu?

- Dạ... (Châu ngần ngừ vài phút)

- Dạ ở thị trấn Vĩnh Cát ạ.

- Tại sao các anh lại chọn nơi này?

- Vì nó nằm trên con lộ chạy sang Cam-pu-chia. Nơi đây có một nhà kho quân sự lại gần chợ Bàu Trang. Đúng ngày phiên chợ mật độ dân đông. Sau khi thảm họa xảy ra chúng tôi có thể tung tin vũ khí hoá học Liên Xô dùng cho chiến tranh Cam-pu-chia bị thất thoát ra ngoài ngoài gây nhiễm độc cho dân chúng.

- Ngày mai sẽ có cuộc họp báo ở Vĩnh Cát. Anh sẽ trả lời các ký giả đúng như những điều anh đã cung khai với tôi hôm nay. Được chứ?

- Dạ được.

Đúng tám giờ sáng ngày thứ năm, khi tất cả phái đoàn nghiên cứu của những Hội từ thiện Mỹ đến thăm vùng Mỏ Vẹt cách biên giới ba kilômét  thì có hai người trong bọn họ tách ra. Họ tự lái ô-tô phóng về phía thị trấn Vĩnh Cát. Đến cách thị trấn một kilômét họ dừng xe lại, mở khí tài chuyên dụng ra quan sát, nghe ngóng.

Một chiến sĩ công an đến chào họ và yêu cầu họ xuất trình giấy tờ. Anh công an ngạc nhiên vì người Mỹ này nói tiếng Việt rất tốt. Họ nói trong thời chiến tranh họ cũng đã đến đây và có nhiều ky niệm đối với cái thị trấn biên giới nhỏ bé và xinh đẹp này. Anh công an vui vẻ chỉ đường cho nọ.

Họ lái xe về hướng thị trấn. Một buổi sáng đẹp trời, gió nhẹ. Mùi hoa cỏ từ cánh đồng hòa vào trong không khí dịu dịu. Người đi lại tấp nập. Đàn có tráng đậu kín những thửa rllộng đang cày bừa. Càng gần thị trấn ngttời đi lại càng đông vui. Những chú lợn nằm thở hổn hển trong rọ. Những lồng gà vịt ngan ngỗng, những gánh cá tươi rói, những rổ trái cây chín mọng, tất cả đều tràn đầy sức sống lành mạnh trong thanh bình.

Trước một ngôi nhà đúc hai tầng giữa thị trấn họ nhận thấy hàng chục xe ô-tô đỗ chật cả sân. Họ dừng xe bên đường để quan sát. Hết nghe trong máy lại liếc đồng hồ. Họ thất vọng vì đã quá giờ hành sự từ lâu mà không nhận ra tín hiệu nguy hiểm đếm lùi báo nổ. Một người Việt ăn mặc chải chuốt từ trong ngôi nhà đi ra hỏi họ:

- Thưa hai ông, các ông đến tham dự cuộc họp báo ạ? À thế thì mời hai ông vào tham dự luôn cuộc họp báo đặc biệt này. Các ông sẽ tìm được nhiều tư liệu cho công cuộc nghiên cứu của mình.

Miller và Douglas đưa xe vào sân, rồi theo sự chỉ dẫn vào hội trường. Ở đây đã đông đủ các nhà báo và đại diện nhiều cơ quan thông tấn trong và ngoài nước.

Sau lời giới thiệu mục đích cuộc họp báo của ví đại diện Vụ báo chí Bộ Ngoại giao, Miiller và Douglas hiểu rằng kế hoạch của họ đã phá sản. Đến khi vị đại diện của Bộ Nội vụ cho dẫn Nghiêm Bửu Chân và đồng bọn ra trước phòng thì mặt Miller và Douglas tái nhợt. Cặp mắt họ đã nhận ra nhau, kẻ thí nghiệm và quan sát viên của hội đồng khoa lọc Ngũ Giác Đài đã đến điểm hẹn đúng giờ, nhưng họ không thể nói được gì với nhau. Cuộc thí nghiệm bất thành. Trò vu cáo cũng phá sản. Miller và Douglas phải ngồi liền gần hai tiếng đồng hồ nghe bọn Nghiêm Bửu Châu thú nhận tội ác. Thật chẳng có gì thú vị! Các nhà từ thiện chân chính của nước Mỹ thì tỏ ra bất bình. Họ đặt nhiều câu hỏi với tội nhân, họ ghi chép tỉ mỉ bản cáo trạng. Đây chưa phải là phiên tòa tuyên xử các phạm nhân, nhưng nó buộc tội chủ nghĩa đế quốc Mỹ, các tổ hợp công nghiệp chiến tranh đã bất chấp đạo lý, mang sinh mệnh các dân tộc khác và môi sinh của họ làm vật thí nghiệm để làm giàu trong cuộc chạy đua vũ trang.

Trái bom mẫu T20-20 được đem ra làm tang vật. Nó làm bằng thứ kim loại sáng bóng với những chi tiết kỹ thuật tinh vi, làm cho người xem cảm thấy nó giống như những máy móc dân dụng, giúp ích cho đời sống của con người. Nhưng khi các nhân viên kỹ thuật giới thiệu vệ tính năng lý thuyết của thứ vũ khí khủng khiếp này thì mọi người đều xúc động. Kỹ thuật viên giới thiệu chi tiết cuối cùng.

- Là trái bom thí nghiệm cho nên nó kèm theo một số phụ kiện khác. Đây là bộ phận tự động điều khiển nổ. Khi đưa về tư thế hẹn nổ bom phát ra một tín hiện ở tần số 102 mégaHzt. Những người thí nghiệm có thể nhận được từ xa tín hiệu này. Máy đếm lùi cho họ biết còn bao lâu bom sẽ nổ. Người thí nghiệm có thể phát tín ngừng hoặc kéo dài thời gian khi thấy cần thay đổi giờ nổ. Chỉ có những chiếc máy chuyên dụng đặc biệt của hai ông Miller và Douglas hiện để ngoài xe mới nghe và điền khiển nổi những tín hiệu này.

Tất cả cử tọa ngạc nhiên dồn mắt về phía hai chuyên gia Mỹ. Vị chủ tọa cuộc họp báo không đả động gì thêm vì thiếu chứng cớ để buộc họ vào mối liên hệ này. Nhưng ai cũng hiểu rằng sự thực là những người Mỹ này có dính líu vào cuộc thí nghiệm. Miller và Douglas vờ như không biết tiếng Việt. Họ không thanh minh. Họ cố tạo ra bộ mặt "phớt ăng-lê", nhưng cũng không che nổi vẻ lúng túng thực sự.

Mười một giờ, cuộc họp báo kết thúc.

Cách Banville ba dặm về phía Bắc có một hồ mrớc tuyệt đẹp. Từ trên máy bay nhìn xuống mặt hồ như một cái khuyên bạc lấp lánh ôm lấy nhưng vách đá dựng đứng. Đôi chỗ xuất hiện một đường viền cát vàng lượn theo bờ nước. Tiếp đó là những cánh rừng nhiệt đới xanh rờn. Giữa vùng bán đảo mọc lên mộc lâu đài bằng đá trắng.

Người ta nói lâu đài này được Thân vương Bouthavi xây dựng từ đầu thế kỷ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thân vương qua đời, lâu đài trở thành hoang vắng, cỏ mọc ngút thềm, chim chóc kéo đến làm tổ dày đặc dưới vòm mái. Mãi đến những năm sáu mươi, người con trưởng của Bouthavi mới bảo trì, xây dựng thêm một số công trình phụ nhưng vẫn cố giữ vẻ cổ kính để biến nơi đây thành một khách sạn du lịch.

Năm 1965 công ty South-East Asia thuê toàn bộ lâu đài trong năm mươi năm. Theo khế ước họ được phép hiện đại hóa bên trong, xây dựng lại bức tường đá bên ngoài, làm đường xe hơi bao quanh lâu đài chạy xuống bãi tắm và nâng cấp con đường dẫn tới Banville. Từ đó toàn bán đảo được công bố là vùng cấm địa. Lối vào duy nhất được đặt một đồn cảnh sát. Bất cứ sự thâm nhập nào qua hàng rào kẽm gai đều bị coi là bất hợp pháp.

Không ai biết South-East Company sử dụng vùng bất này vào công việc gì. Banville không phải là một trung tâm thương mại. Đó là một thành phố nhỏ, yên tĩnh. Gần đây các dịch vụ du lịch có phát triến nhưng rõ ràng công ty không nhằm vào việc đó. Hàng ngày cũng chỉ có năm ba chiếc xe con chạy ra vùng bán đảo. Thỉnh thoảng có chiếc trực thăng không mang cờ hiệu hạ cánh xuống đây.

Vào bên trong bức tường này, người ta sẽ nhận ra những đường nét hiện đại đã lấn át toàn bộ vẻ cổ kính mà tòa lâu đài còn giữ được. Hai ngôi nhà ba tầng mới xây cất trong khuôn viên. Những hệ thống ăng-ten lấp lánh ánh kim hướng lên bầu trời. Sân quần vợt ga ra để xe, bãi hạ cánh cho máy bay lên thẳng, một vài ụ súng phòng thủ mặc dù được bố trí khéo léo, lâu đài vẫn mang dáng dấp của một trại lính đặc biệt.

Warrens có mặt ở đây liền ba ngày rồi. Căn phòng làm việc của ông ta rộng đến gần trăm mét vuông. Những cột ốp đá hoa cương mài nhẵn bóng. Những chùm đèn thầu sang trọng gắn trên tường, trên trần nhà tỏa sáng rực rỡ. Sau bàn giấy của Warrens có treo một lá cờ Mỹ lớn rủ bóng xuống pho tượng bán thân Roger Hilsman bằng đồng đen. Bên phải là chiếc phù hiệu "Con ó ôm chiếc mộc" có in hình kim la bàn, biểu trưng của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ.

Trong căn phòng rộng lớn im phăng phắc đó chỉ có mình Warrens đi lại chậm rãi, đầu hơi cúi xuống vẻ mặt trầm tư. Đã hai ngày nay chưa có báo cáo gì của Nghiêm Bửu Châu lẫn Hoàng Quý Nhân, mặc dù theo quy ước ít ra cũng đã có hai phiên phát tin. Tất cả các ăng-ten của hệ ra-đa viễn thông đều hướng lên vệ tinh địa tĩnh ngoài vũ trụ để sẵn sàng truyền đi những tin tức của cuộc hành quân X1, nhưng cho đến phút này vẫn tuyệt vô âm tín.

Warrens nhìn đồng hồ: tám giờ mười lăm.

Có chuông điện thoại. Ông ta vội cầm lấy ống nghe.

- Hello! Ai đó?

- Thưa ông Warrens, tôi Smith đây.

- Có tin gì mới chưa?

- X3 chỉ phát đi một tín hiệu duy nhất: "im lặng". Chưa nhận được tín hiện gì của X1. Nhưng Đài phát thanh Thành phố Hồ Chí Minh thông báo: chín giờ sáng nay sẽ có buổi phát thanh đặc biệt tường thuật tại chỗ cuộc họp báo ở Vĩnh Cát.

Warrens giật mình. Thế là có biến rồi.

- Smith, ông có nghe họ công bố nội dung cuộc họp báo không?

- Dạ, chưa công bố nhưng có thể là để tố cáo một thảm họa. Tôi nghĩ là vụ nổ thử nghiệm đã xảy ra.

- Lạy chúa, tôi hy vọng là như vậy. Nhưng tại sao đến bây giờ vẫn chưa có báo cáo của X1, còn X3 lại chỉ có một tín hiệu "im lặng"?

- Tôi cũng không thể giải thích nổi điều này. Có thể họ phải di chuyển để tránh đòn phản ứng của đối phương.

- OK! Chín giờ mời các ông tới chỗ tôi để nghe tường thuật cuộc họp báo.

Đặt máy xuống, tâm trạng Warrens vẫn bồn chồn không yên. Chắc chắn đã có một cái gì đó xảy ra. Nhưng tốt hay xấu, may hay rủi? Cuộc hành quân này gắn với uy tín của ông ta. Số tiền đặt cọc cho ván bài quá lớn nên con bạc hồi hộp, căng thẳng. Lo lắng và hy vọng, được và mất, thắng và thua… cuộn lên trong ý nghĩ của Warrens làm cho ông ta mất đi khả năng suy đoán. Ông ta chỉ còn biết chờ đợi. Cái gì xảy ra sẽ xảy ra!

Chín giờ kém năm nhóm quan chức chóp bu của Đông Nam Á vụ CIA đã quây tròn trong phòng họp. Warrens, Smith cao gầy mặt mày nhẵn nhụi. Edmon Boss, râu quai nón, kính đen, cánh tay trần đầy lông lá với những ngón to như quả chuối đeo đầy nhẫn mặt ngọc. Bên trái là Dickson tóc màu bạch kim để dài, râu con kiến, dáng người thanh mảnh tao nhã. Tiếp đến Tom Hardy đầu hói, mặt nhẵn bóng, đỏ như gà chọi, dáng hơi gù, người thấp đậm. Bảy Dĩ cũng được mới dự với tư cách phụ tá cho Warrens về những vấn đề Đông Dương.

Đúng chín giờ ra-đi-o phát ra nhạc hiệu của Đài Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc họp báo bắt đầu và được phóng viên quốc tế của đài tường thuật bằng tiếng Anh. Bộ Tham mưu của Warrens dỏng tai nghe.

- Thưa quý vị thính giả. Đài chúng tôi xin tường thuật tại chỗ cuộc họp báo của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao, của vị đại diện Bộ Nội vụ, và vị uỷ Viên ủy ban điều tra về việc sử dụng hóa chất độc của Mỹ ở Việt Nam nhân một hành động tội ác mới của toán gián điệp biệt kích do Nghiêm Bửu Châu cần đầu dưới sự điều khiển của CIA đã bị phát giác và chặn đứng...

Mặt Warrens từ từ chuyển màu, mồ hôi toát ra. Smith ngơ ngác. Boss rung rung hàm râu, tháo kính ra lau. Khuôn mặt điển trai của Dickson ỉu xìu. Tom Hardy xoa xoa chiếc sọ nhẵn bóng, còn Bảy Dĩ thì bẹp gí xuống đệm ghế như quả bóng xì hơi...

Lời khai của Nghiêm Bửn Châu được người phóng viên dịch lại đầy đủ. Khi tên của Miller và Douglas được nêu lên thì cả Bộ Tham mưu của Warrens nhổm cả dậy như ngồi phải gai.

Một giờ đồng hồ nặng nề căng thẳng trôi qua. Không người nào trong bọn họ thốt lên một lời bình luận.

Warrens chống nắm tay xuống mặt bàn từ từ đứng dậy.

- Đúng là một thảm họa!

Bao nhiêu dấu hỏi hiện lên trong óc ông ta. Warrens chậm chạp đi trong phòng như không chú ý gì đến những phụ tá của mình. Tại sao Nghiêm Bửu Châu vẫn tồn tại để ra họp báo? Cộng sản đã không giao cho ông ta tháo gỡ trái bom. Làm sao họ có thể tìm ra mã số an toàn? Đến phút cuối cùng của chuyến đi, các chuyên gia vũ khí đã để lệch mã an toàn đi ba đơn vị. Chẳng lẽ chỉ sau vài chục giờ mà Cộng sản có đủ sức tìm ra mọi điều bí mật trên? Phải chăng trái bom đem ra họp báo chỉ là một mô hình phục chế. Nếu bom chưa tháo thì nó vẫn còn chứa đựng một nguy cơ, một cái bẫy, một sự chết chóc tiềm ẩn. Còn nếu Nghiêm Bửu Châu vẫn sống mà bom được tháo gỡ an toàn thì thất bại của Mỹ sẽ là rất lớn. Cộng sản sẽ nắm được toàn bộ bí mật của chất T20-20. Nó sẽ trở thành vũ khí đánh lại hoặc ít ra họ cũng tìm ra biện pháp phòng tránh hữu hiệu trong cuộc chiến tương lai.

Warrens quay lại nói với những người dưới quyền.

- Bây giờ đến lượt chúng ta phải thu hẹp hậu quả. Thật đáng buồn! Ông Smith phải theo dõi đối sách của Hà Nội đối với Miller và Douglas. Nếu họ bắt giữ để truy tố hai người này thì ta phải thở một cuộc vận động ngoại giao lớn từ diễn đàn Liên Hợp Quốc đến thủ đô các nước bè bạn và thù địch. Từ phái đoàn thường trực của Hà Nội ở New York đến các tổ chức từ thiện quốc tế để bảo vệ và giải thoát cho họ.

- Xin tuân lệnh! – Smith đứng thẳng như kiểu nhà binh trước mặt "Sếp" làm cho nét mặt Warrens hơi dịu đi.

- Ông Boss, ông chuyển cuốn băng ghi âm buổi họp báo về Washington kèm theo lời bình luận của tôi. Chúng ta đề nghị mở một đợt phản công trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Quan điểm của chúng ta là Hà Nội đã tổ chức một chiến dịch khiêu khích và vu cáo Hoa Kỳ nhằm đánh lạc hướng dư luận đang lên án họ sử dụng chất độc màu da cam do Liên Xô chế tạo ở biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan. Đó là một mánh khóe tuyên truyền không hơn không kém.

- Thưa ông Warrens, xin ông chỉ rõ cho mức độ đáp lại của chúng ta ở cấp bậc nào?

- Người phát ngôn của đại diện chúng ta tại Liên Hợp Quốc là đủ. Chỉ trả lời ngắn gọn như trên, không bình luận nhiều. Phần còn lại do báo chí họ làm.

- Tôi hiểu.

- Ông Dickson. Ông cho mở đài theo thường trực hai mươi tư giờ trên hai mươi tư để đón nhận tín hiệu của X1. Sự im lặng tạm thời của họ báo hiệu những hiểm nguy đang đe dọa họ. Có thể X1 phải di chuyển để đảm bảo an toàn. Có thể họ sẽ nối lại liên lạc với chúng ta bằng cách phát chệch giờ quy định để lừa đối phương.

- Xin tuân lệnh.

- Tuy toán đặc nhiệm của ông Châu bị bắt nhưng ta đã biết chuyện đó xảy ra trên mặt đất. Vì vậy cho đến phút này tôi vẫn hy vọng con thuyền NT.4206 thoát nạn. Vì vậy ta vẫn nhắc lại kế hoạch hiệp đồng với Hải đội 15 cho khinh hạm Polard tuần thám trên các tọa độ 4265-7932 HN-6453-P20. Cho máy bay P205 rà soát vùng biển quốc tế tìm vết tích của con thuyền NT4206. Nếu thấy thì phải báo ngay cho chúng ta để cho trực thăng đón.

- Dạ.

- Các vị có thể về được. Riêng ông Dĩ xin mời ngồi lại tôi bàn thêm ít việc.

Khi bốn quan chức mật vụ đi ra. Bảy Dĩ đứng thẳng người chờ lệnh một cách lo lắng. Anh ta chuẩn bị đón nhận cơn thịnh nộ của Warrens như đã được chứng kiến vài lần trước đây. Nhưng lần này với Dĩ thì ông ta lại giữ một vẻ mặt điềm tĩnh kỳ lạ. Warrens đi lại bên Dĩ, chỉ tay xuống ghế.

- Xin mời.

Dĩ rụt rè ngồi xuống.

- Chẳng cần đánh giá đầy đủ thì chúng ta cũng ý thức được tầm mức thiệt hại của cuộc hành quân X1. Tôi cần tìm ra nguyên nhân của thảm bại. Muốn vậy ta buộc phải chờ đợi để có thêm những dữ kiện mới nữa. Nhưng ngay bây giờ ông có thể phán đoán được một vài nguyên nhân nào dẫn đến tai họa đó không?

Sau một phút suy nghĩ, Bảy Dĩ nói:

- Kế hoạch X1 là tuyệt mật. Từ bên kia đại dương tổ hợp hóa chất C.C.C. Ngũ Giác Đài và cơ quan tình báo Trung ương đã bàn bạc với hai ông Hoàng Quý Nhân và Nghiêm Bửu Châu. Khi thực thi chương trình, đến như tôi cũng không được biết nội dung cụ thể. Tôi chỉ được lệnh thông báo cho tướng Tùng Lâm chọn lấy bốn chiến binh huấn luyện thêm một vài tuần rồi trao cho đại úy Hào. Hải cứ Gamma cũng chỉ biết chuẩn bị thuyền máy bình thường như các vụ thâm nhập khác. Cuộc đổ bộ đã được thực hiện đúng như dự định. Theo điện báo cuối cùng của X1 gửi cho Hộ tống hạm Polard thì toán đạc nhiệm đã tách khỏi thuyền NT.4206. Vì vậy sự sơ xuất đã diễn ra trên đất liền...

- Ta không bàn đến những sai sót nằm ngoài tầm tay kiểm soát của ta. Tôi muốn nói liệu có nội phản nằm trong đội ngũ của chúng ta không?

Ngần ngừ giây lát, Bảy Dĩ nói:

- Chỉ có ba người Việt Nam ở đây biết được chút ít công chuyện này. Tôi còn biết là toán thâm nhập đến tăng cường lực lượng cho nghĩa quân chứ chưa biết ông Châu, lẫn kế hoạch T20-20. Khi tàu xuất phát rồi ngài mới tiết lộ cho tôi chương trình thực nghiệm to lớn này...

- Khi bàn chuyện này với ông có nghĩa là tôi đã loại trừ nghi vấn với riêng ông. Tôi luôn luôn tin tưởng vào lòng trung thành và tận tụy của ông Warrens thân mật vỗ vai Bảy Dĩ - Hãy nói về hai con người còn lại.

- Tùng Lâm là một chiến sĩ chống Cộng trưởng thành từ người lính. Ông ta phục vụ trong đội Ngự lâm quân của Cựu Hoàng, sau đó là vệ sĩ của tướng Vĩ và sĩ quan tuỳ tùng của Thống tướng Tỵ. Người ta có thể trách cứ ông về phần đạo đức tư cách vì ông hay uống rượu hay trong mối quan hệ giới tính bừa bãi chứ không thể nghi ngờ tinh thần chống Cộng của ông. Tất cả các tướng lĩnh trong Bộ Tổng tham mưu đều coi ông là người trung thành và dũng cảm.

- Còn ông Hào?

- Hào là bạn tôi từ thời học sinh. Anh ta có ông già là cộng sản đi tập kết, đã chết và một người anh là thiếu tá hải quân Bắc Việt. Nhưng lại Có ngườỉ anh lớn là phó đô đốc hải quân Việt Nam Cộng hòa. Anh ta sống với người anh lớn và tòng sự ở Hải đoàn 12. Trong chiến tranh là một sĩ quan trung thành và quả cảm, hai lần được gắn bội tinh. Anh đã giúp tôi, nói đúng hơn là giúp chúng ta chuyên chở bạch phiến từ giữa thập kỷ sáu mươi. Chuyến hàng vừa rồi biểu lộ tinh thần trách nhiệm cao cả của anh đối với ngài. Nếu Hào có ý định phản bội thì anh ta đã ở lại với vợ con cùng tám triệu đô-la bạch phiến. Có gì ngăn cản được anh ta?

- Nếu anh ta là cộng sản thì tám triện đô-la có thể mua được anh ta không? Có thể anh ta không phải là cộng sản nhưng tám triệu đô-la cũng không mua nổi. Con người vẫn còn là một điều bí mật đối với khoa học. Ta không nên tuyệt đối hóa quyền lực của đồng tiền. Điều quan trọng là phải đọc được ý nghĩ của anh ta. Bố là cộng sản, anh là cộng sản thì ta phải đặt dấu hỏi vào người em. Đó là cách suy luận rất Việt Nam đấy ông Dĩ ạ!

Dĩ không nói gì thêm. Anh ta chờ quyết định của Warrens.

- Nếu anh ta không bao giờ trở về sau chuyến đi này thì chính sự kiện đó đã chứng minh cho giả thuyết của tôi. Nếu Hào đưa được con thuyền trở lại, dù anh ta có thực thi được nhiệm vụ chuyên chở kiện hàng bí mật của chúng ta thì vấn đề theo dõi cũng vẫn phải đặt ra. Chính ông phải chọn lấy một người gài vào Hải cứ Gamma. Nếu Hào là người trung thành thì điều đó chẳng có hại gì cho anh ta.

- Xin tuân lệnh.

Tôi nóng lòng chờ đợi kế hoạch đổ bộ của Warrens khởi sự. Nhưng suốt hai tuần liền không thấy chuyện gì xảy ra. Chị Mộng Vân cũng không quay lại như đã hẹn. Trung tâm cứ điện hỏi tôi hoài. Có lẽ Trung tâm cũng quá căng thẳng vì thời gian báo động cấp một lâu quá.

Tôi bỗng nhận được điện của ông chủ bút báo Chim Việt kêu tôi trở về Cali. Ông không nói lý do nhưng tôi đoán là cuộc thí nghiệm T20-20 thất bại làm cho Hoàng Quý Nhân và Warrens phải hoãn lễ thành lập "chính phủ lâm thời" lại. Chúng phải kiểm tra kỹ lưỡng bộ máy bên trong cũng như bên ngoài để tìm ra khe hở nào đã dẫn tới thảm bại.

Tôi báo cáo lại nhận định trên với Trung tâm.

Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức đã chỉ thị cho tôi quay về bán đảo Nelson ngay. Có thể địch sẽ phản ứng gay gắt vì vậy hơn lúc nào hết phải cảnh giác để tìm ra những bước đi tiếp theo của chúng.

Dù sao thì sau một đợt công tác dài, bận rộn và căng thẳng, tôi cũng muốn được xả hơi. Tôi nhắm mắt lim lim, cho thần kinh chùng lại. Tôi muốn thư giãn tâm hồn đôi chút. Trong óc tôi không còn mang một chương trình kế hoạch nào, ít ra là trong suốt chuyến bay.

Đối với cả hai bên trận chiến đấu lớn nhất chưa xảy ra. Số phận của nhiều nhân vật trong chuyện này còn chưa được định đoạt rõ ràng, Nhưng biết làm sao? Chỉ có tương lai mới đủ sức trả lời. Tôi chỉ có thể nói về một điều chắc chắn: Tháng 5 này tôi và Bạch Kim sẽ làm lễ cưới (Xin các bạn đừng cười) đám cưới của người đàn ông tục huyền với người đàn bà tái giá. Một đám cưới tiền hôn hậu thú, cô dâu đã mang bầu! Thật chẳng có gì đáng mô tả tỉ mỉ thêm mất thì giờ của bạn đọc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: