sao den tap 1 trieu huan
SAO ĐEN - Tập 1 (Phương Dung và tôi)
Tác giả: Triệu HuấnNhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2000
Số hoá: ptlinh, saoden (www.quansuvn.net)
Bạn đọc kính mến!
Tôi đã nhận được nhiều thư của các bạn phê bình cả ưu điểm lẫn khuyết của Sao Đen bản in lần thứ nhất. Tôi cố gắng sửa cho bản in lần thứ ba này tốt đẹp hơn. Xin chân thành cảm ơn nhiệt tình và những lời chỉ giáo của bạn đọc.
TRIỆU HUẤN
CHƯƠNG IKHÚC NHẠC DẠO ĐẦU
Vừa hành quân từ Điện Biên Phủ về Phan Lương nghỉ ngơi được vài ngày thì đồng chí đại đội trưởng gọi tôi lên gặp riêng. Anh nói:
- Cấp trên có lệnh điều cậu đi nhận công tác mới. Mình cũng chưa biết nội dung công việc, nhưng mình cứ chúc cậu gặp nhiều may mắn. Chỉ có điều là cả trung đoàn ta trên chỉ gọi mình cậu, do đó cậu cũng không nên nói rộng chuyện này cho ai. Chia tay anh em thì cậu cứ nói ra được chuyển sang đơn vị khác.
Việc điều động quả bất ngờ với tôi. Thật tình tôi luôn luôn bị ám ảnh về thành phần giai cấp của của mình, khó mà có thể nhận được một sự tín nhiệm lớn lao. Tôi biết có một số con em địa chủ lúc đó buộc phải rời khỏi quân đội. Một số tuy là rất ít có vấn đề đối với nông dân được trả về địa phương để đối chứng với cuộc đấu tranh giai cấp. Phải chăng tôi cũng thuộc loại này? Tôi thấy tâm hồn mình u tối lại. Nhưng rồi lý trí cũng đánh thức tôi. Khi ở nhà tôi hãy còn trẻ đã làm nên tội lỗi gì. Hơn nữa vùng quê tôi còn trong địch hậu, chưa có cải cách ruộng đất. Như vậy làm gì có chuyện nông dân đòi tôi về. Thế là tôi lại yên tâm vui vẻ lên đường.
Tôi nhớ mãi hôm chia tay đồng đội. Anh em nhìn tôi lưu luyến, nhưng cũng có những cặp mắt chứa đựng những dấu hỏi im lặnng. Đã vào sinh ra tử với nhau ngoài mặt trận, đã chân thành với nhau trong chỉnh quân chính trị thì mối thiện cảm với nhau cũng đã được xây dựng bền vững. Chúng tôi ôm nhau xúc động. Tôi ra đi một mình không ai đưa tiễn. Chỉ khi lên đến Phòng chính trị sư đoàn đồng chí trợ lý cán bộ mới đưa cho tôi giấy tờ và một bức thư nhỏ. Tôi mở ra đọc vội. Bức thư chỉ vẻn vẹn có mấy dòng:
Cháu Phan Quang Nghĩa.
Mẹ cháu ốm. Cậu xin phép cho cháu về thăm, tiện chuyến về Khu Ba công tác. Cậu chờ cháu ở xóm Trung xã Hoàng Văn Thụ, Đại Từ - Thái Nguyên. Cháu phải thu xếp nhanh, cậu sợ không kịp.
Cậu của cháu - Nguyễn Hữu Đức
11 tháng 6 năm 1954
Thì ra câu chuyện chỉ có thế. Tôi vừa mừng vừa lo cho mẹ tôi. Không hiểu tại sao cậu Đức lại biết tôi hành quân về mà xin cấp trên cho tôi nghỉ phép. Câu chuyện đơn giản thế mà đại đội lại không thông báo cho tôi rõ ràng? Tại sao tôi lại phải mang toàn bộ tư trang và tấm giấy phép lại kèm theo cả giấy chuyển cung cấp về P.46? Khi tôi chưa thể lý giải được những sự kiện trên thì ký ức về người cậu họ lại dần dần tái hiện trong tôi lọc qua những lớp bụi thời gian mờ ảo.
Cậu Đức là em họ xa của mẹ tôi. Là người có học hành đỗ đạt nên cậu nổi bật trong số những người thân bên ngoại. Quê mẹ tôi ở xa nên từ nhỏ tôi chỉ về thăm vài lần và cũng chưa được gặp cậu. Nhưng lần nào về tôi cũng được nghe họ hàng nói về cậu. Mười hai tuổi đầu cậu đã học xong những bộ sách chữ nho Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung... dày cộp mà nhiều người khác sôi kinh nấu sử từ thuở thiếu thời tới lúc vợ con đàn đống mà vẫn chưa thông hiểu chữ nghĩa của Thánh hiền. Gia đình thấy cậu sáng dạ và cái chữ Nho cũng đến thời mạt vận nên quyết định cho cậu theo tân học. Nhà ông bà nghèo nhưng cả họ xúm vào giúp đỡ, cậu được ra tỉnh theo việc đèn sách và cậu đã không phụ lòng cha mẹ. Tám năm sau cậu kiếm được cái bằng “đíp-lôm", làm rạng danh tổ tông làng xóm. Cậu không tiếp tục học nữa mà đi kiếm việc làm. Nhưng hình như cậu cũng không gặp may vì tuy chí thú như vậy cậu cũng chẳng đưa được đồng nào về nuôi dưỡng mẹ cha, đền ơn họ mạc. Năm 1944 không còn ai gặp cậu. Người đồn cậu bị vào tù, người nói cậu trốn đi Xiêm. Năm 1945 cách mạng thành công mọi người mới vỡ lẽ là cậu theo Việt Minh lên chiến khu hoạt động. Tôi đã tưởng tượng ra cậu và luôn luôn tự hào qua những giai thoại về cậu được bà con kể lại. Mãi tới sau ngày kháng chiến toàn quốc, trong một lần đi công tác cậu mới tạt qua thăm gia đình chúng tôi. Tôi được nhìn cậu lần đần trong bộ ka ki màu vàng của Vệ quốc quân, một khẩu súng ngắn đeo lệch bên sườn, một chiếc thắt lưng tổ ong to bản "rất đúng mốt" vào những năm 47, 48. Mẹ tôi rất kiêu hãnh về người em họ của mình, đặc biệt khi cậu ngồi nói chuyện về thời sự đất nước và quốc tế trước đám cử tọa gọi là am hiểu nhất của cánh nội chúng tôi. Tôi thấv trái tim mình tràn đầy lòng yêu nước, và nếu như lúc này người ta chấp nhận cho tôi đứng dưới lá Quân kỳ thì tôi sẽ không bao giờ lùi bước trong những trận đánh đầu rơi máu chảy. Đêm hôm đó hai cậu cháu tôi nói chuyện với nhau đến khuya. Tôi ngỏ ý xin đi theo cậu nhưng cậu chê tôi còn nhỏ quá. Cậu khuyên tôi cố gắng học hành, sớm muộn nguyên vọng của tôi sẽ được thực hiện. Từ đó thỉnh thoảng tôi có thư từ qua lại với cậu theo nhiều địa chỉ.
Năm 1949 giặc Pháp đánh ra đồng bằng, tôi phải bỏ dở học hành phiêu bạt vào Thanh Hóa và xin tòng quân. Tôi viết thư báo tin cho cậu và mong đợi thư trả lời. Nhưng từ đó đến nay tôi mới nhận được mấy dòng ngắn ngủi của cậu. Tôi mong mỏi tới gặp cậu để kể cho cậu nghe những chuyện chiến đấu của tôi ở Điện Biên mà tôi tin là cậu tôi sẽ rất vui mừng.
Chỉ một ngày mà tôi cuốc bộ từ Phan Lương đến Đại Từ. Đôi chân của tôi tỏ ra thiện nghệ và ngoan ngoãn. Tôi phải lần theo địa chỉ trên và đến được nơi tiếp nhận. Khi tôi đưa mẩu giấy ra, chị thường trực vui vẻ nói với tôi:
- Anh Đức chờ chú mấy bữa nay rồi. Anh cứ lo là chú đã chuyển đi đơn vị khác. Tối nay chú cứ nghỉ đây. Tôi gọi điện và báo tin. Sớm mai thế nào cậu cháu cũng được gặp nhau.
Chị bảo người chuẩn bị cơm nước và chỗ ngủ tôi rồi xách đèn đi gọi điện thoại. Bữa cơm tối đó rất ngon miệng tuy chỉ có một đĩa măng luộc và mấv thìa muối vừng. Cứ nghĩ đến chuyện sắp được cùng cậu về quê thăm mẹ, lòng tôi lại phơi phới. Tôi mắc màn và nghĩ bụng đêm nay sẽ ngủ một giấc quên chết để phục hồi lại cái năng lượng cuốc bộ hơn năm mươi cây số thì có tiếng bước chân người và ánh đèn pin từ phía ngoài.
- Nghĩa đấy à, cậu mong mãi?
- Cậu! Cháu đấy ! - Tôi chạy ra đón cậu. Ánh đèn sáng lên khuôn mặt vui vẻ và nhiệt tình của cậu.
- Lớn quá! Đúng là một chiến sĩ Điện Biên Phủ! Cơm nước rồi chứ? Thôi cuốn màn lại, vào trong kia cậu cháu ta nói chuyện cho vui - Cậu quay lại phía chị thường trực - Chúng tôi vào K2 ngay bây giờ.
Cậu giúp tôi đeo chiếc ba lô nhẹ tênh lên vai. Dưới ánh đèn pin tôi theo cậu tôi đi một đoạn đường rừng chừng hai cây số thì đến một căn nhà lá của cơ quan. Một căn nhà đơn độc nằm giữa một vùng rừng rậm bao la. Một người, có lẽ là bộ đội, đã chờ sẵn.
- Báo cáo, tôi đã thu xếp đầy đủ.
- Tối nay tôi cũng ngủ đây - Cậu nhìn cái ca và chiếc bi đông đặt trên bàn - Có nước nóng đấy chứ?
- Dạ, có cả trà nữa ạ.
- Thế là đủ rồi, đồng chí có thể về bên A3 được đấy.
Anh bộ đội gật đầu chào nghiêm chỉnh rồi đi luôn.
Tôi thấy một cái màn buông sẵn trên sạp nứa. Cơ quan kháng chiến mà cũng có màn đôi. Nếp sống của lính gây cho tôi một cảm giác là lạ và mới mẻ.
- Cháu ra rửa chân tay đi.
Cậu tôi bấm đèn cho tôi ra suối. Dòng nước mát làm cho tôi tỉnh táo và dễ chịu. Chúng tôi trở về và hai cậu cháu ngồi đối diện nhau trước một chiếc bàn con kê bằng nứa. Một ngọn đèn nhỏ có chụp phòng không tỏa một vòng sáng hẹp trên bàn. Cậu rót nước ra hai chiếc ca.
- Uống nước đi rồi cậu cháu ta nói chuyện.Cậu nhìn thẳng vào cặp mắt tôi và tôi cũng nhận thấy tia sáng lấp lánh của đôi mắt cậu ánh lên từ trong khoảng tối của chiếc chao đèn.
- Chắc là cháu mệt lắm nhỉ? Đi bộ năm mươi cây số một ngày là giỏi lắm. Lẽ ra là để cháu nghỉ nhưng cật cháu ta đều ít thời gian quá. Cháu vui lòng nói chuyện với cậu độ một tiếng nhé. Sau đó cháu sẽ ngủ hay nằm suy nghĩ tùy cháu.
- Vâng, cháu có thể nói chuyện với cậu đến sáng. Cái mệt này có thấm đâu so với những đêm hành quân chiến đất ngoài mặt trận. Xin cậu hãy tin là cháu đã trở thành người chiến sĩ thực thụ rồi chứ không mềm yếu như một cậu học sinh nữa đâu.
- Tốt! À hồi đó cháu học đến đâu thì bỏ?
- Cháu học hết đệ nhị ở Khu Ba. Vào Khu Bốn học tiếp đệ tam được vài tháng là cháu đi bộ đội.
- Hồi đó có học tiếng Pháp, tiếng Anh không?
- Dạ… một tuần chỉ có bốn tiết sinh ngữ.
- Cháu còn nhớ được chút nào không?
- Dạ… Cháu cũng chưa kiểm tra lại. Chắc là bập bõm lắm. Vì trong kháng chiến môn này không được coi trọng.
- Đúng như vậy - im lặng một phút, cậu hỏi tôi với vẻ mặt rất nghiêm trang - Cậu đang muốn kéo chán về công tác với cậu, cháu thấy thế nào?
Tuy chưa biết cậu làm công việc gì tôi vẫn hồ hởi đáp:
- Cháu mừng quá chứ ạ. Được công tác gần cậu thì con gì bằng, cháu chỉ sợ là cháu không đủ khả năng thôi.
Tôi trả lời không do dự, với tất cả tấm lòng chân thành của mình.
- Tất nhiên là công việc đòi hỏi phải có một trình độ nhất định. Nhưng tiêu chuẩn cao nhất là sự trung thành.
- Cái đó thì cháu có đủ, xin cậu hãy tin ở cháu - Tôi biểu hiện tiếng nói của mình kiên quyết như một lời thề - Trong thư cậu nói mẹ cháu bị ốm, sao cậu biết được tin đó? Không biết đến nay sức khỏe mẹ cháu ra sao?
- À, đó là chuyện cũ. Cách đây bảy tháng cậu có nhận được thư của Huệ (Huệ là chị ruột tôi). Huệ nói mẹ cháu bị đau thấp qua loa, nhưng chắc là không quan trọng lắm - Cậu mỉm cười - Mấy dòng cậu viết cho cháu không có ý nghĩa gì về nội dung. Cậu không muốn ai biết công việc của cậu cháu mình, và cậu mong cháu về đây ngay để hỏi cháu xem cháu có thích công việc của cậu giao cho không?
- Việc gì thế cậu?
Tính tò mò của tôi bị kích thích ghê gớm. Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt của cậu để dò đoán nhưng tôi chỉ thấy sự trầm lặng nghiêm trang. Trước khi nói công việc cụ thể, cậu cần nói cho cháu nghe một số tình hình... Cháu ở Điện Biên về chắc cháu đã tận mắt thấy chiến thắng to lớn của ta?
- Vâng, thật là vĩ đại. Cháu cứ nghĩ là mình thật quay mắn được tham dự trận đánh lịch sử này từ đầu đến cuối. Đó là một vinh hạnh không phải ai cũng có được.
- Tầm vĩ đại của nó còn vượt xa những cái cháu nhìn tận mắt ở chiến trường. Tình hình đã dẫn đến những bước ngoặt lớn của lịch sử. Thua trận này quân Pháp có thể sẽ phải đau đớn lựa chọn những giải pháp trên bàn hội nghị những giải pháp mà từ trước đến nay họ luôn luôn khước từ. Như cháu thấy đấy cuộc đàm phán Giơ-ne-vơ đang đi đến những bước rất quan trọng và tế nhị. Về phía ta bao giờ cũng phải chuẩn bị cho cả hai khả nàng. Nếu giới hiếu chiến còn thao túng được chính trường nước Pháp đi theo cây gậy chỉ huy của Mỹ thì cuộc chiến tranh còn kéo dài và chúng còn phải nhận những thất bại quân sự lớn hơn. Nhưng nếu ý nguyện hòa bình của nhân dân Pháp thắng thế, phe chủ hòa nắm được quyền lực thì sẽ đi đến một thỏa hiệp. Tất nhiên do tương quan lực lượng như hiện nay, một hiệp định hòa bình nếu có cũng chưa cho phép ta giành được thắng lợi hoàn toàn. Cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc còn phải tiếp diễn trong một điều kiện mới. Sẽ có hai vùng tập kết quân đội và dĩ nhiên cũng sẽ là hai vùng khác nhau về chế độ và ảnh hưởng chính trị. Trong khi chờ đợi thống nhất đất nước, cuộc đấu tranh trong vùng quân Pháp kiểm soát sẽ rất gay go và quyết liệt. Nếu chúng ta không có sự chuẩn bị trước thì địch sẽ giành được lợi thế trên những phạm vi bỏ trống đó. Đấy là cậu chưa nói đến có thể tình hình còn diễn biến theo những chiều hướng khác phức tạp hơn. Vì ngay từ lúc này Mỹ đã cố ngăn chặn con đường đi đến giải pháp thì sau này biết đâu thừa lúc Pháp suy yếu chúng sẽ nhảy vào để tiếp tục nắm bọn Việt gian chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Về cả hai phía, một mặt trận mới đang tăng cường. Mặt trận thầm lặng đang dồn nén những sức mạnh ghê gớm và nó sẽ nổi bật lên sau khi tiếng súng chiến tranh chấm dứt. Cậu được cấp trên giao cho nhiệm vụ này. Dĩ nhiên là chỉ trên một lĩnh vực, một địa bàn nào đó. Cậu cũng cần có một đội quân, tuy nó không đông như những tiến đoàn, trung đoàn nhưng mỗi người lính ở đây đòi hỏi phải có một sự tự nguyện, một ý chí kiên định, một khả năng tự chủ rất lớn, cháu có biết không?
- Cháu biết.
- Tôi xúc động trả lời. Tuy tình hình khẩn trương, không không thể chiêu binh mãi mã ào ạt được. Cậu phải chọn từng người. Mỗi người thích hợp với một vai nhất định. Cậu bỗng nghĩ đến cháu. Hoàn cảnh của cháu có những mặt thuận lợi hiếm có. Liệu cháu có muốn đứng trong đội ngũ của những chiến sĩ đó không. Cậu chưa đòi hỏi cháu trả lời ngay. Cháu cứ suy nghĩ kỹ đi. Nhưng khi đã tự nguyện thì vì danh dự của một tình báo viên, cháu sẽ chấp nhận tất cả mọi thử thách và tuyệt đối trong thành với sự nghiệp cách mạng.
- Ngay giờ phút này xin cậu hãy ghi tên cháu vào đội ngũ. Cháu không phải suy nghĩ lâu làm gì. Cháu hoàn toàn vui sướng được nhận nhiệm vụ này. Nó lôi cuốn cháu không phải vì những pha ly kỳ mạo hiểm mà là cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Cháu biết nó không dễ dàng và có thể phải hy sinh cuộc sống. Nhưng cháu tự nguyện. Nếu có phải tuyên thệ, cháu xin sẵn sàng.
Giọng nói sôi nổi nhiệt tình và có vẻ bồng bột của tôi khiến cho cậu phải đặt hai bàn tay lên đôi vai tôi như cố nén những xúc cảm của tôi cho nó trở về với sự suy ngẫm của lý trí.
- Cháu không phải tuyên thệ, nhưng sự tự nguyện của cháu cũng thiêng liêng như một lời tuyên thệ. Kẻ hèn nhát có tuyên thệ cả ngàn lần gặp gian nguy họ vẫn phản bội. Danh dự của cháu đảng bảo cho sự trung thành. Cháu hăng lái như vậy là rất tốt. Nhưng cậu tin là cháu chưa hình dung công tác này một cách đầy đủ đâu. Cháu sẽ phải sống giữa bày sói, tự mình chèo chống. Cháu sẽ phải bước vào một cuộc đời đối lập với chính mình. Phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt, phải có kỷ luật tự giác cao, phải vững vàng trước mọi cám dỗ về linh hồn lẫn thể xác. Phải chịu cảnh cô đơn của một người trên hoang đảo giữa biển người chứ không phải là biển nước. Tất nhiên cháu cũng sẽ có những phút giây hạnh phúc mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ nhưng niềm vui này không dễ đem chia sẻ cùng ai. Cháu vẫn sẽ vô danh với chiến công của mình. Vinh quang của người chiến sĩ tình báo là vầng sáng không ai nhìn thấy được. Thậm chí họ còn phải chịu đựng cả sự phỉ báng của những người thân yêu chân chính.
- Cháu xin chấp nhận tất cả để đổi lấy niềm tin của cậu, đổi lấy sự tín nhiệm của Tổ Quốc.
- Cậu nảy ra ý định tuyển chọn cháu cũng đã là biểu hiện niềm tin của cậu. Dưới con mắt của một số đồng chí, cháu xuất thân từ giai cấp đối kháng đã gây cho anh em một số e ngại. Nhưng cậu hiểu cháu. Cậu tin ở lòng yêu nước, yêu cách mạng của cháu, ở một con người đã được tôi luyện trong chiến đấu. Cháu lại có một hoàn cảnh đặc biệt để tiến hành công tác này. Cậu hy vọng là cháu có thể chứng minh cho các đồng chí của cậu thấy nỗi phân vân của họ là vô nghĩa.
- Cháu sẽ chứng minh dù phải bằng cái chết.
- Không phải bằng cái chết mà bằng những chiến công. Tổ Quốc đòi hỏi ở mình chiến công chứ không phải là cái chết.
Cậu giải thích cho tôi hiểu rằng đưa một chiến sĩ tình báo tới địa bàn tác chiến là rất công phu. Nếu phải một đổi một thì cũng coi như thất bại. Phải bảo toàn lực lượng. Không thể khinh xuất trong mọi tình huống chưa cần thiết nhưng lại phải biết mạo hiểm trong những đột biến của thời cơ - Cậu tôi chuyển sang chuyện gia đình:
- Lâu nay cháu có biết tin tức gì của anh Ân cháu không?
- Không ạ. Suốt từ đầu năm 1948 anh cháu vào thành và biệt tin.
- Bây giờ Phan Quang Ân không còn hành nghề luật sư nữa. Anh ta chuyển sang hoạt động chính trị rồi.
Vừa nói cậu vừa rút trong xắc cốt ra một tập báo cắt vụn, ghim lại thành một tập hồ sơ.
- Đây là những diễn văn, những tuyên ngôn của anh ta. Nhưng thôi, để sáng mai cháu hãy xem. Ân tự xưng là không đảng phái nhưng anh ta đã bắt tay với nhiều tên đầu đảng phản động. Bọn này đang tập hợp lực lượng để thành lập một liên minh chống cộng rộng lớn nhất. Anh ta viết nhiều bài công kích chính sách của Pháp, nhưng hành động cụ thể anh ta tìm kiếm chỗ dựa ở Mỹ, ve vãn một số giới cực đoan hiếu chiến theo đuổi chủ trương đánh đến cùng.
Lướt qua vài mảnh báo, tôi nhận ra ngay chân dung ông anh tôi trong những giảng đường, những diễn đàn, trong những buổi tiếp tân và nhtíng phòng trà chính trị. Hình ảnh đó làm tái hiện lên cả một thời quá khứ của gia đình tôi.
Cha tôi là một trong những sĩ tử cuối cùng lều chõng đến trường thi để tìm kiếm công danh trong cái thời kỳ suy đồi của nho học. Ông đỗ cử nhân trong thập kỷ đầu của thế kỷ này và được bổ làm huấn đạo. Sau năm năm, ông được thăng tri huyện, cái cấp thấp nhất trong ngạch quan trường thời phong kiến. Vốn xuất thân từ con nhà bình dân, cha tôi là một người giản dị, dễ yên phận và thỏa mãn. Trong cảnh đất nước nộ lệ, viên quan huyện xuất thân từ nho học không được chính phủ bảo hộ ưu ái. Nhiều vị đồng môn, đồng khoa với cha tôi có tấc lòng tiết tháo đã đi theo tiếng gọi cứu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Cha tôi, thời trai trẻ có ảnh hưởng một phần và nghe đâu đã có lúc gắn bó với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Nhưng chỉ qua một đợt khủng bố là ông không còn can đảm để kiên định lý tưởng của mình nữa. Ông nằm im, an phận thủ thường và ít lâu sau về hưu sống ở quê nhà với số lợi tức nho nhỏ kiếm từ dăm mẫu ruộng.
Cha tôi có hai vợ. Bà cả chỉ sinh được một người con trai. Đó là anh Phan Quang Ân của tôi. Bà cả mất cha tôi nói lấy bà kế và sinh được thêm lai người con: chị Huệ tôi và tôi. Lúc ấy cha tôi tuổi tác đã cao. bổng lộc đã cạn. Chẳng bao lâu cha tôi mất. Đó là vào năm 1938 khi tôi mới lên sáu tuổi. Theo phương ngôn: "Giấy rách giữ lấy lề”, gia đình tôi rất chăm chút tới sự học hành của con cái. Anh tôi vẫn trọ học ở Hà Nội và anh đã leo lên các bậc thang kiến thức rất đều đặn. Giống cha tôi thuở xưa, anh rất chăm chỉ, cần cù và năm 1943 anh đỗ cử nhân. Là con chồng, nhưng anh tôi luôn luôn nhận được sự chăm sóc rất tận tình của mẹ tôi người dì ghẻ mà anh quý như mẹ đẻ. Lẽ ra anh cũng được bổ tri huyện nối nghiệp cha, nhưng trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình chính trị rất sôi động: gia đình tôi không muốn anh bước chân vào chốn huyện đường làm gì. Anh đã thụ giáo nghề luật sư và mong mỏi sau này mở một văn phòng bào chữa.
Một bước ngoặt quan trọng của đời anh có lẽ là sự kiện anh lấy vợ.
Đầu những năm bốn mươi hoàn cảnh gia đình tôi cũng không dư dật lắm. Tuy có mấy mẫu ruộng nhưng cùng một lúc nuôi ba anh em đi trọ học ở Hà Nội mẹ tôi cũng phải rất chật vật. Gạo, tiền hàng tháng đều có ngữ. Anh tôi phải chủ trì sự chi tiêu đèn sách cho cả ba anh em. Để đỡ túng bấn, anh tôi phải tính kiếm thêm chút ít. Buổi tối, anh tôi chạy theo mấy "cua prê-xép”. Nhà giàu thời đó thường thích thuê sinh viên đến dạy thêm cho con cái. Nhờ bạn bè mách bảo, anh tôi thường không thiếu công việc. Anh tôi là một người khỏe mạnh, đẹp trai, học giỏi có tiếng. Tuy ăn mạc không có gì sang trọng lắm, nhưng bao giờ cũng sạch sẽ gọn gàng. Một cô nữ sinh con nhà giàu đã "cảm” anh tôi. Lúc đó tôi còn nhỏ chưa hiểu rõ chuyện này. Tôi chỉ thấy đôi lần có chiếc xe Rơ-nô màu sữa đến đón anh tôi hoặc đưa anh về nhà. Những năm chiến tranh, ét xăng rất thiếu. Chỉ có những nhà giàu làm mới chạy xe ô tô nhà. Dùng ô tô để đi đón gia sư thì lại càng là chuyện đặc biệt. Vì vậy chúng tôi đều rất tự hào về anh của mình. Rồi có một lần bất chợt cô học sinh của anh tôi đến thăm chúng tôi. Hơn chục năm đi qua rồi mà cái ngày vui vẻ ấy vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi. Chị bước xuống xe trong bộ quần áo dài trắng muốt, đôi giày cũng trắng. Mái tóc dài làm nổi bật khuôn mặt hồng hào xinh đẹp của chị. Anh tôi lúng túng đến tội nghiệp trước cái cảnh lộn xộn chật chội của căn buồng ở chung của ba anh em. Một cái bàn học trò kê sát vào chân tường. Những chồng sách vở đầy bụi bám cao ngất ngưởng tới tận đỉnh màn. Bộ com-plê cũ được che bằng một tờ báo treo trên mắc. Tường vôi vàng lở ố từng mảnh lớn. Những cái hòm đen như quét hắc ín kê ngay trên đầu giường. Mấy cái ghế đẩu mỗi cái một kiểu, và ngay đến những cái chén vàng cặn nước chè cũng không trọn bộ. Nhìn bộ quần áo trắng tinh của chị, anh tôi không biết mời chị ngồi đâu. Cuối cùng chị cũng ghé xuống thành giường. Chị chia quà cho chúng tôi, những gói kẹo sô-cô-la mà con nhà nghèo ít khi được nếm. Và chẳng bao lâu chị đã là chị dâu của chúng tôi.
Đám cưới của anh tôi cũng là một sự kiện lớn trong vùng quê tôi. Đó là vào cuối năm 1944 khi anh tôi vừa giành được tấm văn bằng luật lọc. Đón dâu về làng với một đoàn xe mười chiếc thì thật là chưa từng có. Nhà trai chúng tôi chẳng có gì nhưng đám cưới vẫn linh đình. Ông bà thông gia hào phóng đã đưa cho anh tôi mọi khoản chi cần thiết. Cô dâu về đến nhà chồng chỉ ở lại ba tiếng. Sau khi tế tơ hồng, xe hoa lại đưa cặp vợ chồng trẻ về thành phố. Đã có một ngôi nhà riêng dành cho họ trong tuần trăng mật.
Lớn lên tôi mới hình dung nổi sự giàu có của gia đình ông bố vợ anh tôi. Ông Cự Phách là chủ của nhiều cửa hiệu buôn ở Hàng Ngang, Hàng Đào. Chủ hãng vận tải Phúc Lợi chiếm nửa cổ phần trong công ty thủy vận Long Vân, giám đốc công ty xuất nhập khẩu hàng tơ lụa, chủ nhà in Viễn Đông... ông là một nhà kinh doanh giàu kinh nghiệm. Ông thành công trong nhiều áp phe lớn, đánh gục nhiều đối thủ một cách nhẹ nhàng và... cao thượng như người ta thường nói. Ông muốn có một luật sư trong nhà để lo liệu những khía cạnh pháp lý trong kinh doanh. Ông đã chọn anh tôi một cách hài lòng và không chút tính đến sự chênh lệch về tài lực giữa hai gia đình. Ông cũng có về chơi nhà tôi một lần. Ông trèo cây hái quả, ngồi bệt xuống cầu ao câu cá, xuống bếp tán chuyện vui với mọi người trong nhà và tuyệt nhiên không bao giờ khoe mẽ sự giàu có của mình. Đó là một con người ngoài năm mươi tuổi, rất thực tế và am hiểu nhiều lĩnh vực, năng động trong mọi hoàn cảnh.
Cách mạng tháng Tám thành công, anh tôi cũng vui sướng hòa mình vào dòng người biểu tình, hô đến khản cổ những khẩu hiệu Độc lập, Tự do, Dân chủ, nhưng chỉ sau cái lừ mắt của ông bố vợ, anh đã tách mình khỏi hơi thở của dân tộc. "Chờ xem tình hình ngã ngũ ra sao đã. Cái đám người ồn ào hò hét như thác lũ đó không mạnh lắm đâu! Chỉ vài loạt liên thanh, mấy chục cây thịt đổ ra đấy là chạy như vịt cả thôi. Hãy đợi xem Việt Minh có võ khí gì và cường quốc nào đứng sau họ". Ông ta lấy kinh nghiệm trong những cuộc chống bãi công và những hành động khủng bố trắng làm cơ sở cho sự xét đoán. Anh tôi nửa tin ông bố vợ, nhưng nửa bị phong trào yêu nước lôi kéo đã trở nên hoang mang. Còn tôi và chị Huệ tôi thì vô tư hơn, chúng tôi ủng hộ cách mạng hết mình.
Ngày 23 tháng 9 nam 1945 Pháp khởi hấn ở Sài Gòn. Được quân Anh yểm trợ, chúng đã chiếu nhiều vị trí trong thành phố.
Quân Tưởng vào Bắc vĩ tuyến 16 giải giáp quân Nhật. Đi theo chân bọn Tàu là các phần tử Việt Nam quốc dân Đảng do Nguyễn Hải Thần cầm đầu, chúng đòi chia xẻ thắng lợi và mưu toan tiếm đoạt quyền hành. Những sự kiện trên củng cố sự hoài nghi của anh tôi.
Năm cách mạng cũng là năm nạn đói và dịch bệnh hoành hành dữ dội. Hai chị em tôi vẫn ở căn buồng cũ gần chùa Am. Hàng tuần anh tôi lại thăm và cho tiền khi chúng tôi thiếu thốn. Mặc dù rất quý anh, nhưng mẹ tôi không cho phép chúng tôi nhờ vả gì bên nhà thông gia vì sợ bị người ta khinh.
Nhà chúng tôi liền tường với một vị trí của quân Tàu. Một buổi sáng tỉnh dậy, tôi thấy một gói gì lập lờ trong chậu nước gạo, thì ra một tên Tàu ô nào đó đại tiện vào giấy gói lại và ném sang. Chờ chúng tôi lôi cái gói giấy ở thùng nước gạo ra, mấy tên Tàu mới ló đầu ra cửa sổ gác nhà tám mái cười hô hố. Tôi nhìn lên thất mấv cái đầu trọc. Trước sự căm giận của chúng tôi, bộ mặt của những tên đó càng nhăn nhở khả ố.
Tôi kể lại chuyện trên làm anh tôi lo sợ. Chị Huệ tôi lúc đó cũng đã mười sáu tuổi. Sống bên bọn lính ngoại quốc tồi tệ này lành sao lường trước được mọi sự nguy hiểm. Anh tôi quyết định để chúng tôi tạm lánh về quê chờ cho cái thời buổi nhiễu nhương này qua đi.
Từ ngày đó chúng tôi xa nhau. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ không thấy anh tôi trở về. Có người gặp anh tản cư với gia đình vợ sang bên Hưng Yên và đầu năm 1948 họ lại kéo nhau về Hà Nội. Sự thay đổi thái độ chính trị của anh tôi sau đó ra sao tôi không rõ.
- Nghĩa này cậu định cho cháu về với anh cháu. Trước mắt, trong vài năm tới cháu chưa phải làm công tác gì lớn. Cháu cần phải học hành thật tốt và tìm cho mình một chỗ đứng trong đội ngũ sĩ quan địch. Lúc đó cháu sẽ giúp được nhiều cho cách mạng. Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi phải kiên nhẫn mai phục, không thể vội vàng được.
- Vâng. Cháu chỉ muốn là trong thời gian đó, tuy chưa được giao việc nhưng cháu vẫn có được mối liên hệ chặt chẽ với tổ chức. Cháu sợ sự cô đơn hơn là sợ kẻ thù.
- Sẽ có một mối liên hệ rất chặt chẽ với tổ chức. Một mối liên hệ khăng khít và tế nhị đến mức mà cậu lo là cháu sẽ không dám chấp nhận.
Cậu mỉm cười nhìn tôi. Nụ cười khó hiểu càng kích thích tính tò mò của tôi.
- Xin cậu cứ nói. Cháu sẽ chấp nhận mọi giá để hoàn thành nhiệm vụ.
- Mọi chuyện sẽ chỉ được nói vào lúc thích hợp. Công tác này không thể nóng vội được. Cháu chỉ được phép biết những điều cần thiết vào một thời điểm chín muồi. Ngay cả cậu cũng vậy thôi. Đó là nguyên tắc của nghề nghiệp. Trong công tác tình báo, một việc giao cho A nay rút lại thì khi giao cho B phải dùng kế hoạch khác, dù rất tin A.
Câu chuyện giữa tôi và cậu tôi buổi tối hôm đó tuy ngắn ngủi nhưng nó chứa đựng rất nhiều chủ đề. Cách trình bày sáng tỏ của cậu làm cho tôi nhận thức được nhanh chóng và nó còn kích thích khát vọng của tôi rất mạnh mẽ. Tôi muốn cậu nói nhiều hơn nữa, nhưng cậu đã dừng lại.
- Cháu ngủ đi. Mệt rồi đấy. Cậu không làm quá chương trình đâu? Cháu sẽ chờ đón những điều mới mẻ ở ngày mai. Không được thao thức. Phải tập giữ cho thần kinh thăng bằng. Phải ổn định được tính cách thì mới bình tĩnh trong những tình thế đột biến.
Nói xong cậu ngủ luôn, còn tôi, cái mệt mỏi của một ngày đường bộ cũng không sao làm cho bộ óc tôi buồn ngủ. Tôi ôn lại toàn bộ câu chuyện buổi tối hôm đó. Tâm hồn tôi lang thang trong ký ức của tuổi thơ... Tôi chìa dần đi trong giấc ngủ chập chờn đầy mộng mị.
Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc tôi đã thấy cậu đứng ngoài sân tập quyền. Tôi vội choàng dậy. Nắng sớm đã nhuộm vàng những ngọn núi cao. Thấy tôi, cậu hỏi ngay:
- Đêm qua cháu ngủ ngon chứ?... Thao thức à? Muốn làm chủ giấc ngủ của mình cũng phải tập đấy. Cậu định ngủ là ngủ, định thức là thức.
Nhìn xung quanh chỉ có rừng mênh mông, không thấy cơ quan của cậu tôi đâu ngoài ngôi nhà bé nhỏ trơ vơ này. Như đoán ra thắc mắc của tôi, cậu nói:
- Đây là cán nhà đặc biệt dành cho cháu đấy. Cơ quan còn cách đây khá xa. Trong thời gian trao đổi nhiệm vụ với cháu, cháu không được đi đâu xa. Tắm giặt dưới suối. Cơm nước có người mang đến. Cần gì cháu cứ nói với cậu. Ai hỏi chuyện cháu đừng nói gì về lai lịch của mình và công việc của chúng ta. Đó là nguyên tắc để đảm bảo an toàn lâu dài cho cháu. Cháu rõ chưa?
- Vâng ạ. Bây giờ cậu về trong cơ quan. Tám giờ cậu cháu ta lại làm việc. Năm phút sau có một anh đứng tuổi mang cơm nước ra cho tôi. Anh rất hà tiện lời nói nhưng lại hào phóng những nụ cười. Nghe giọng nói tôi biết anh là người Tày. Sau khi lo cho tôi mọi thứ, anh chào tôi ra về. Đúng tám gờ cậu tôi ra. Cậu mặc bộ quần áo màu gụ, đội mũ lá, vai đeo cái xắc cốt vải bạt. Tôi bỗng nhớ lại hình ảnh cậu trước đây bảy năm và thấy thật là khác biệt. Giá mà gặp nhau ngoài đường thì tôi khó mà nhận ra cậu. Việc đầu tiên trong buổi sáng hôm đó là cậu kiểm tra tôi về kiến thức văn hóa. Tôi còn nhớ rõ, tuy đã bỏ học ba năm: bài toán hình tôi chỉ làm trong mười phút. Liếc qua két quả, cậu khen tôi là thông minh. Nhưng khi cậu dùng tiếng Pháp để hỏi chuyện thì tôi lúng túng quá. Cậu nói rất chậm và thể hiện cả ngữ điệu nhưng tôi đỏ mặt lên và không sao trả lời được.
- Không hiểu gì à?
Tôi trả lời là có hiểu một số nhưng không sao trả lời nổi. Cậu mở cặp đưa cho tôi một cuốn Lecture1 (Sách tập đọc) cũ kỹ. Cậu bảo tôi dịch bài "Tiếng súng trong rừng", tôi lại dịch thành "Ánh lửa trong rừng”. Gập sách lại, cậu hơi thất vọng:
- Nếu cháu cố gắng lắm thì hai năm nữa mới có được bằng tú tài. Quân trường ba năm, xuất sắc ra hai mươi lăm tuổi cháu mới leo lên được cấp trung úy. Bao giờ "ông" lên được đại tá cho tôi nhờ!
Hai cậu cháu tôi ôm nhau cười. Nhưng rồi cậu nhún vai trở lại tư thế nghiêm nghị.
- Có cái ngẫu nhiên len loi qua hàng rừng cái tất nhiên. Biết thế nào được. Sẽ có những nguồn xúc tác khác giúp cháu nhanh đến đích.
Cậu tôi kết thúc chuyện kiểm tra văn hóa sau một giờ nhưng cậu bắt tôi chép đi chép lại bài thơ Auore1 (Hừng đông bài thơ của Paul Valery. Trong sách này chúng tôi không phiên âm một số tiếng nước ngoài những tên riêng Anh Pháp...) cho đến lúc thuộc lòng không sai một lỗi. Mãi tới lúc ra đi tôi mới biết đó là một chiếc khuôn đúc mười chìa thoá thật mã khác nhau để tôi mang theo dùng cho hai mươi năm liên tục! Đó là mạch thần kinh duy nhất duy trì mối liên hệ hoàn toàn riêng biệt giữa tôi với tổ chức.
Trong những ngày ở biệt lập, ngoài cậu ra còn ba thày giáo nữa đến dạy tôi. Các anh đến đúng giờ và chỉ nói đến các vấn đề chuyên môn đơn thuần, ít lời và chính xác. Tôi làm quen với tám loại máy ảnh trong đó có những loại cực nhỏ chuyên để sao tài liệu. Loại có ống kính tê lê chụp xa, loại chuyên dùng phim cực nhạy để chụp những động tử có tốc độ cao hay những nơi thiếu ánh sáng. Sau này tôi biết là những thứ đó đã rất lạc hậu so với kỹ thuật hiện đại, nhưng những nguyên lý của nó giúp tôi rất nhiều cho việc tiếp xúc với những khí tài tối tân hơn.
Một giáo viên dạy tôi về nguyên lý các máy thu phát vô tuyến, về một số mẫu máy hiện đang thông dụng trong quân đội viễn chinh Pháp. Bài học còn nhằm giúp tôi tự lắp được máy thu phát bằng linh kiện thương mại trên thị trường. Tôi phải tập đánh móc để biến ngôn ngữ mật mã thành tín hiệu vô tuyến. Thật là bù đầu rối óc về những thứ này vì thời gian quá ngắn.
- Vào nghề vừa làm vừa học - Cậu tôi nói - Đợt huấn luyện ngắn ngày cũng chỉ giúp cháu nắm được khái quát nội dung công việc. Các môn kỹ thuật phải có thời gian thực luyện. Thí dụ như bắn súng, võ thuật cháu phải tập hàng ngày. Phải dựa vào thao trường, xạ trường của địch mà tập. Ngay cả các môn ghi hình, thu âm, sao chép cũng đều có thể tận dụng phương tiện của địch mà học. Không ai một lúc giỏi ngay, nhất là những tình báo viên kiểu của ta không có một trường chính quy nào đào tạo họ.
Cậu ân cần củng cố niềm tin của tôi.
Rồi một bữa cậu đến báo cho tôi một tin rất quan trọng: Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương đã được ký kết và vùng tập kết của quân Pháp sẽ là Nam vĩ tuyến 17. Công việc của tôi sẽ đặc biệt khẩn trương. Chương trình học tập phải rút ngắn lại. Tôi được chụp ảnh, lăn tay và hoàn thành các loại giấy tờ cần thiết.
CHƯƠNG IICẶP VỢ CHỒNG KHÔNG HÔN THÚ
Tôi nhớ đó là buổi sáng đầu thu rất đẹp. Không khí dịu mát. Những đợt gió may xào xạc làm lay động những đám bông lau trắng bạc bên bờ suối. Chương trình học tập của tôi đã kết thúc. Tôi mong mỏi đến cháy ruột công việc cụ thể mà cậu tôi sắp giao cho. Nhưng để chấp hành nguyên tắc và để cậu thấy tôi đã rèn luyện cho mình đức tình kiên nhẫn, khả năng chế ngự tình cảm, tôi đã cố giữ bộ mặt bình thản đến lạnh lùng. Và sự việc sẽ đến nó đã đến. Cậu tôi nhìn thẳng vào cặp mắt tôi hỏi:
- Cháu có chờ đón nhiệm vụ không?
- Thưa cậu có, cháu chờ mong từng giờ từng phút.
- Rất tốt. Hôm nay cậu có thể nói cho cháu công việc cụ thể. Cháu phải nhớ lấy từng chi tiết vì không có cái gì được ghi chép để đem theo đâu. Cháu sẽ là:
+ Một thanh niên yêu nước, chống chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, nhưng vì là con em nhà địa chủ quan lại nên cộng sản chẳng những kỳ thị giai cấp trong quân ngũ mà còn có nguy cơ bị gọi về nông thôn để chịu sự trừng phạt bằng hình thức đấu tố như đã diễn ra ở các vùng đang tiến hành cải cách ruộng đất. Vì vậy cháu đã đào ngũ.
+ Cháu đã yêu một cô gái xinh đẹp, con một nhà buôn vàng ở Thanh Hóa. Cả hai rủ nhau trốn vào khu tập kết ba trăm ngày để di cư vào Nam.
+ Cháu đi tìm anh là luật sư Phan Quang Ân để nương tựa vào anh. Cháu nhờ anh chị giúp đỡ để tiếp tục học hành, sau này có cơ hội lập thân.
Như vậy cháu không đi một mình mà cùng đi với một người vợ giả (sự việc vừa ly kỳ vừa mắc cỡ làm cho mặt tôi nóng bừng lên). Người vợ này vừa là đồng chí, vừa là bạn và cũng là cấp chỉ huy trực tiếp của cháu. Đó là một đồng chí hoạt động có kinh nghiệm. Cô ấy sẽ giúp cháu trong mọi tình huống khó khăn và giữ vững dây liên lạc giữa cháu và tổ chức. Cháu cũng có nhiệm vụ giúp đỡ cô ấy trong mọi việc, đặc biệt là nơi trú ngụ để hoạt động.
Cháu mới lên sân khấu mà cậu đã bắt cháu nhập vai vợ chồng thì khó quá. Có thể là chị, là em được không cậu?
- Cậu đã suy tính tới mọi mối quan hệ. Chỉ có là vợ chồng thì mới thuận lợi. Nếu cháu nhận là em thì bịt mắt thế nào được chính anh ruột cháu. Nếu cháu nhận là bạn thì cô ta không thể đến ở trong nhà của cháu được. Còn mỗi người một nơi thì không tiện. Cậu không muốn cô ấy đến luộc cơ sở khác vì cậu coi mũi của cháu là độc lập, là nguyên thủy, là lâu dài nên cần tuyệt mật.
- Vâng.
- Đây không phải là chuyện ép duyên đâu - Cậu cười - Cô ấy có chồng có con rồi mà vẫn phải đóng vai ấy thì cháu, con trai, cháu lo gì! Cô ấy hơn cháu một tuổi.
Cậu căn dặn tôi tất cả những nguyên tắc trong mối quan hệ công tác. Hai người chỉ có một mối quan hệ. Ba người ba mối quan hệ. Bốn người có sáu mối quan hệ. Mười người biết nhau thì lên tới bốn mươi lăm mối quan hệ sóng đôi, do đó rất dễ lộ. Chỉ cần một kẻ bội phản hoặc một anh yếu chịu đòn là chúng có thể lần ra cả cụm. Do đó càng ít biết nhau càng an toàn. Nhưng tất nhiên là muốn thông tin được nhanh chóng thì lại cần đến nhiều mối liên hệ. Vì vậy người ta phải tìm ra nhiều hình thức liên hệ. Liên hệ bằng hòm thư mật liên hệ một chiều, liên hệ qua trung gian, qua tín hiệu, ám hiệu, v.v... và hàng loạt kỹ thuật được đặt ra cho từng trường hợp. Cô bạn cháu là người có nhiều kinh nghiệm trong chuyện này sẽ lo cho cháu. Được một người chỉ huy nhlưr vậy cháu còn kén chọn gì hơn?
- Cháu đâu dám kén chọn. Cháu hỏi là mong cậu giải thích cho thêm được chừng nào hay chừng đó. Mai đây xa cậu chúng cháu biết hỏi ai.
- Cháu cẩn thận thế là tốt. Chiều nay cháu sẽ được gặp và làm quen với cô vợ mới của cháu.
Khi cậu tôi về rồi, ngồi một mình tôi mới thấy bồi hồi. Lúc đó tôi hai mươi mốt tuổi. Ngay chuyện yêu đương tôi cũng chưa kinh qua chứ nói chi đến chuyện vợ chồng. Thời học sinh, một vài nụ cười, vài cặp mắt đã làm tôi xúc động, tôi đau buồn, thương nhớ, tôi mơ ước, hy vọng. Có thể nói là tôi đã yêu. Nhưng đó chi là những mối tình một phía, mối tình thầm lặng, những "Phương trình vô nghiệm". Chưa bao giờ tôi dám ngỏ lời yêu đương với một cô gái. Ngay chuyện bạn bè trêu cợt cũng đã làm tôi xấll hổ bỏ chạy, nói chi đến chuyện tỏ tình. Tôi cứ cảm thấy mình lúng túng, vô duyên, nên việc kết bạn với các cô gái cùng lớp thôi cũng thật khó khăn. Đến nay bỗng nhiên tôi phải đóng vai một người chồng (đóng như thật mới chết chứ), không biết tôi sẽ xoay xở ra sao, sẽ đạt được ở mức độ nào?
Tôi ngồi tưởng tượng ra người "vợ hờ" đó... cậu tôi nói "Cháu yêu một cô gái xinh đẹp...". Như vậy chắc chị ấy có đôi mắt huyền mơ mộng, cặp môi trái tiện, mái tóc đen dài tết thành đuôi sam. Còn mình thì thế này... thật chẳng ra thế nào. Bất giác tôi muốn chải đầu, muốn cạo mặt, muốn soi gương để tu sửa cái dung nhan một chút, nhưng ở đây lại không có gương lược... và đúng là sau đó tôi đã xuống suối soi mình trên một vùng nước đứng, để cố vuốt cho lái tóc khỏi dâng lên như “Hoàng tử có bờm"!
Ăn cơm xong, tôi không đi nằm như mọi khi. Tôi ngồi thẫn thờ bên cửa sổ, thỉnh thoảng lại nhìn xuống con đường mòn ven suối. Tôi mong cậu tôi. Nói đúng ra tôi mong đến phút mở màn của một vở kịch. Vở kịch kéo dài theo suốt tuổi thanh xuân của tôi.
Đúng hai giờ có hai bóng người thấp thoáng trên đường mòn ven suối. Cậu tôi đến chính xác như một cải đồng hồ. Người con gái đội một chiếc nón lá có buộc những nơ dù ngụy trang, vai đeo một chiếc ba lô nhỏ. Tôi lui vào trong, tim đập mạnh, vờ như không chú ý gì đến họ. Khi nghe tiếng cậu Đức gọi, tôi mới bước ra. Khuôn mặt cô gái xuất hiện khác hẳn với những mẫu người tôi vừa tưởng tượng.
- Đây là Nghĩa - Cậu tôi giới thiệu - "chồng" của em đấy, bằng lòng không?
Mặt cô gái đỏ bừng, hai tay che miệng cười khúc khích.
- Còn đây là Dung, cấp trên trực tiếp của cháu đấy.
Chúng tôi chào nhau rồi cùng vào nhà. Tôi đỡ giúp chị Dung cái ba lô đặt xuống bàn.
- Từ bữa nay Dung sẽ ở đây - Cậu tôi chỉ vào cán buồng bỏ không phía đối diện - Hai ngày thuộc vai vợ chồng, các đồng chí sẽ chuyển địa điểm mới.
Gọi là gian buồng cho sang chứ nó cũng chỉ ngăn cách với hai gian còn lại một cái vách nứa lửng lơ. Một tấm liếp làm cửa nhấc ra nhấc vào rất cơ động. Phía trong có một cái sạp nứa, lâu ngày không ai nằm, đầy bụi và mọt. Tôi định đi thu dọn chỗ cho chị Dung, nhưng cậu tôi ngăn lại:
- Việc đó làm sau. Bây giờ các đồng chi nghe tôi phổ biến công việc chiều nay và ngày mai.
Chúng tôi ngồi quanh cái bàn nứa, nghiêm túc nghe lời cậu.
- Từ giờ phút này hai đồng chí phải đóng vai vợ chồng. Không phải biểu diễn cho những khán giả thân yêu của mình mà là công diễn trước mặt kẻ thù, không phải một vài giờ mà kéo dài trong nhiều năm tháng. Vì vậy sự thành bại có ý nghĩa sinh tử. Đã gọi là vợ chồng thì phải hiểu nhau rất sâu sắc và tỉ mỉ. Vì vậy hai người phải kể cho nhau đầy đủ hoàn cảnh gia đình mình, toàn bộ cuộc đời riêng tư. Đặc biệt phía gia đình Nghĩa có Phan Quang Ân là người trong nhà. Dung không được phép lầm lẫn sơ suất. Còn đời riêng của Dung thì Nghĩa chỉ cần biết những điều tôi nói là tạm đủ. Mối tình của hai người sẽ dựa vào những nét chủ yếu sau đây:
Năm 1949 Phan Quang Nghĩa phiêu bạt vào Thanh Hóa, theo học lớp đệ tam ở trường Nguyễn Thượng Hiền (có thật). Trong thời gian đó quen cô Lê Phương Dung (bịa). Dung là con ông Lê Mạnh Hảo và bà Nguyễn Thị Tâm quê ở Thái Bình (có thật). Nhà ông Hảo có nghề kim hoàn, từng mở cửa hiệu ở Hải Dương. Hồi chiến tranh về Đống Năm vẫn buôn bán vàng bạc. Nam 1948 tản cư vào Hậu Hiền - Thanh Hóa, mở cửa hàng giải khát sống qua ngày (có thật), Nghĩa và Dung yêu nhau tha thiết (bịa), nhưng khi Nghĩa đi bộ đội (có thật) thì gia đình Dung không muốn cho hai người quan hệ với nhau nữa (bịa). Nhưng ý định của cha mẹ không ngàn cản được họ. Vì đóng quân gần nên bọn trẻ vẫn lén lút gặp nhau. Giữa năm 1953 nghe tin sắp phải chuyển quân xa, Nghĩa đến chia tay với Dung và trong lần ấy họ đã sống với nhau như một cặp vợ chồng (bịa). Nghĩa lên Diện Biên Phủ, Dung có mang, cô cố giấu mọi người bằng cách thắt bụng, nhưng cuối cùng sự việc cũng bại lộ. Cô bị gia đình dày vò, hắt hủi. Cả nhà phải lên Cẩm Thủy làm ăn để cách biệt với những người thân quen (bịa). Cô sinh con gái. Khi Nghĩa ở Điện Biên về đến Nho Quan, anh nhận được thư Dung (bịa). Trong thời gian này, Nghĩa bị cán bộ chỉ huy thành kiến, kỳ thị thành phần giai cấp địa chủ nên anh quyết định đào ngũ về Cẩm Thủy bí mật tìm gặp Dung và thăm con. Hai người gửi con lại cho ông bà ngoại, vào Hà Nội xin di cư vào Nam (bịa).
Dó là những nét chủ yếu của một mối tình say đắm, ly kỳ. Các đồng chí sẽ thêm vào những tình tiết để thuyết phục được người nghe. Hai người phải hiểu thống nhất, kẻo nếu không may rơi vào tay địch, ông khai gà, bà khai vịt, nó sẽ tìm ra vấn đề ngay. Đừng bao giờ dùng cách mô tả hình ảnh, chúng lần theo đường dây tưởng tượng để lựa ra những điều trái ngược nhau. Tốt nhất là cứ nói sự kiện tròn trùng trục, kẻ hỏi cung sẽ rất khó xoay xở.
- Cậu ạ, cháu thấy tình tiết có con không cần thiết, đưa vào thêm rắc rối ra . Cứ để đôi vợ chồng son có hơn không ạ?
- Cô Dung đã sinh một lần. Trừ phi bây giờ lại sinh tiếp, nếu không pháp y sẽ tìm ra dấu vết này dễ dàng. Nếu không thống nhất trước, địch hỏi riêng từng người cháu trả lời sao? Sự thật là khi đi, Dung đã để cháu bé ở lại với ông bà Lê Mạnh Hảo. Và nếu địch có một cuộc thẩm tra, dĩ nhiên là phức tạp, thì tình hình cũng không đáng ngại.
Sau khi đã bài trí các lớp lang của vở kịch cho chúng tôi học, cậu Đức tạm biệt, về cơ quan. Hai chúng tôi tiễn cậu ra cửa.
- Anh về ạ .
- Cậu về ạ.
Tôi thấy cậu quay lại nhìn Dung với cặp mắt vui vẻ:
- Chào lại đi! Lấy cháu tôi phải chào tôi bằng cậu.
Dung đỏ mặt và chị vui vẻ chào lại:
- Cháu chào cậu ạ!
Khi cậu đi rồi, chỉ còn hai đứa chúng tôi mới thấy lúng túng. Nhưng chỉ vài phút sau, chị Dung đã lấy được tự chủ.
- Bây giờ ta quy ước cách xưng hô cho thống nhất, kẻo sau này tập lại khó, anh Nghĩa ạ.
- Vâng, chị hơn tôi một tuổi. Lẽ ra tôi phải gọi chị bằng chị. Nhưng chúng ta đóng vai vợ chồng nên chị cho phép chúng ta gọi tên và xưng tên.
- Bây giờ hãy bỏ qua chuyện tuổi tác. Trong quan hệ vợ chồng, chuyện đó không đáng gì phải nề hà. Gái hơn hai, trai hơn một mà. Em sẽ gọi anh bằng anh và xưng em, anh bộ đội nhé. Còn anh gọi và xưng với em như anh muốn. Tuỳ anh. Nhưng không bao giờ được lầm lẫn.
- Nghĩa xin chấp hành mệnh lệnh của đồng chí chỉ huy.
- Anh đùa thế là cậu Đức phê bình cho đấy - Chị cười - Em làm việc dưới quyền cậu gần hai năm em biết, cậu rất nghiêm khắc trong công tác.
Tôi vội vàng xin lỗi chị. Bây giờ tôi mới có dịp ngắm kỹ người con gái đó. Chị có mái tóc dài đen mềm mại như suối nước chảy trên đôi vai tròn lẳn. Khuôn mặt trái xoan trắng xanh lên trong bóng lá rừng già. Đôi gò má hồng và cặp môi đỏ thắm như tô son. Đôi mắt chị to đen, sâu thẳm dưới cặp lông mày xanh và đuôi này hơi uốn xuống làm cho vẻ mặt chị hơi tư lự thoáng một nét buồn man mác. Mỗi lần chị mỉm cười hai lúm đồng tiền hiện lên, cặp mắt long lanh bất chợt ánh lên một vẻ giễu cợt hóm hỉnh. Khi chị chăm chú vào một vấn đề gì, đôi lông mày hơi nhíu lại, cặp môi mím, mỏng đi như một lá liễn bộ mạt chị trở nên lạnh lùng, nghiêm khắc, bướng bỉnh và... khó hiểu.
Tôi kể lại cho chị nghe chi tiết lai lịch gia đình nhà tôi và cuộc đời riêng từ lúc xa nhà. Những đoạn nào thú vị chị bắt tôi kể lại. Chị có biệt tài khuyến khích người kể bằng cặp mắt nhiệt tình và chăm chú. Chị biết đật những câu hỏi đúng lúc và rất có duyên. Chỉ sau vài giờ ngắn ngủi chúng tôi đã tự nhiên hơn, như một đôi bạn tâm đầu ý hợp.
Chúng tôi phải buộc lòng tạm ngừng câu chuyện để chuẩn bị chỗ nghỉ cho chị. Tôi hăng hái quét dọn căn buồng, quơ mạng nhện, giũ chiếu cho sạch sẽ. Chị xếp gọn cái ba lô lên giá và buộc sơ lại cái phên che của. Tôi xuống bờ suối chặt cây tạm dựng lên một buồng tắm và những công trình vệ sinh riêng cho chị. Chúng tôi cùng làm, vừa làm vừa chuyện trò nu rít. Đôi lúc tôi buột miệng gọi chị xưng tôi liền bị chị phản đối:
- Anh gọi lại đi cho em nhờ!
Tôi vui sướng sửa lại và nhận được ở chị một nụ cười cổ vũ. Sau khi công việc hoàn thành, chị khen tôi:
- Anh đúng là một ông chồng tận tụy và ngoan ngoãn! -
- Liệu có được như "anh của chị" ở nhà không?
- Lại "chị” rồi! - Chị uốn nắn tôi, nhưng rồi chị cũng thông cảm vì câu nói đó thật khó đặt – Chồng em rất ngoan. Chúng em ít có dịp sống gần nhau nên nỗi lần sum họp anh rất chiều em.
Sau khi chúng tôi tắm giặt xong thì đồng chí phục vụ mang cơm ra. Anh chào chúng tôi bằng một nụ cười. Sau khi sắp đặt các thức ra bàn, anh gọi.
- Mời anh chị vào xơi cơm!
Chúng tôi vui vẻ cảm ơn anh. Khi chúng tôi ăn, anh lảng ra bờ suối cho chúng tôi tự nhiên. Bữa ăn chung đầu tiên có một món màng xào thịt, một bát, canh rau muống nấu khoai sọ, một nhúm muối ớt. Hai người đều nhường nhau thành ra món măng và mấy miếng thịt vẫn còn nguyên.
- Ăn đi anh! Anh có ăn em mới ăn.
Chị mạnh dạn gắp thức ăn cho tôi, chăm chút tôi như đối với trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng chị lại thúc giục:
- Ăn đi để lấy sức anh ạ. Chúng ta còn nhiều công việc phải đương đầu. Một người lăn ra ốm là chết dở.
Chúng tôi ăn hết hai suất cơm. Chị Dung thu các thứ định mang đi rửa thì đồng chí phục vụ xuất hiện.
Anh ngăn chị Dung:
- Các đồng chí uống nước đi - Anh đổi cho chúng tôi bi đông nước mới rồi đón lấy bát đĩa - Đây là nhiệm vụ của tôi.
Tôi đốt lên cây đèn. Chị Dung lấy trong ba lô ra một gói kẹo, chị mời đồng chí phục vụ nhưng anh nhất định từ chối. Anh chào chúng tôi và xách mọi thứ đi luôn không sao giữ được.
- Các anh ở cơ quan này rất "nguyên tắc". Chúng mình phải mời nhau vậy!
Chúng tôi ngồi chuyện trò mãi đến khuya mới đi nằm. Tôi không bao giờ quên cái đêm kỳ diện đó. Trong càn nhà vắng vẻ giữa rừng, nằm đây tôi nghe rõ cả hơi thở của Dung, tiếng cọt kẹt của sạp nứa mỗi lần chị trở mình, nghe tiếng lá rừng xào xạc, tiếng suối nước rì rào xa vắng, tiếng côn trùng rân ran, tiếng con hoẵng giác lên những âm thanh cô đơn đến cháy lòng trong đêm đần thần... Tâm hồn tôi đôi lúc trào lên một nỗi buồn dịu ngọt, một nỗi trống trải mênh mông, nhưng mạnh mẽ hơn, áp đảo hơn vẫn là một niềm hạnh phúc, một niềm yêu thương trong trắng tràn ngập con tim vì từ nay bên tôi, trên một đoạn đường dài, tôi đã có một người bạn dịu dàng, thanh cao, xinh đẹp và tin cậy. Chúng tôi, một trai, một gái sẽ luôn luôn bên nhau mà vẫn phải giữ một khoảng cách ngắn ngủi, khoảng cách danh dự và đạo lý. Sự thách thức đó kích thích lý trí tôi. Tôi cảm thấy một niềm tự hào thiêng liêng tới mức thần thánh, không vấn vương nhột chút gì trần tục. Tôi thấy mình chứa đựng một sức mạnh, một niềm tin lớn lao mà chưa bao giờ tôi có được. Tôi mỉm cười trong bóng đêm, để cho những cảm xúc trong sáng đó tỏa hương vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau vừa bừng tỉnh tôi đã thấy bóng Dung nhẹ nhàng quét căn nhà của chúng tôi. Tôi vùng dậy và đã nhận được ở chị một nụ cười và lời thăm hỏi.
- Anh Nghĩa ngủ ngon chứ ạ?
- Dạ. Một giấc ngủ thần tiên! - Tôi đã giấu đi cái phần trăn trở của mình - Còn Dung?
- Em... em cũng thao thức mất vài giờ. Phần vì lạ nhà, phần vì nhớ con - Dung cười nhưng tôi thấy mắt chị long lanh nhưng giọt nước.
Ngày hôm đó Dung đã kể cho tôi nghe những nét chính về cuộc đời của chị. Quê em ở Thái Bình bên bờ sông Luộc, nhưng em sinh ra ở đất Hải Dương. Bố em làm thợ kim hoàn nên đã đi tìm chốn thị thành để kiếm đường sinh sống. Từ một người thợ khéo tay, cha mẹ em đã dành dụm mở được một cửa hiệu nhỏ, vừa làm vừa buôn bán thêm đôi chút thành ra cuộc sống cũng bấm khá, có của ăn, của để. Em là con gái lớn, sau em còn ba đứa nửa, hai trai một gái. Em được đi học từ nhỏ và thỉnh thoảng cũng được cha em dạy cho nghề nghiệp của gia đình. Cha em cứ khen em là sáng ý. Chẳng mấy chốc em phân biệt được tuổi vàng, hiểu được hạt kim cương nào đáng giá. Cha mẹ rất thương em, bàn nhau là nếu em theo đuổi được nghề nghiệp của ông cha thì sẽ gây dựng cho một cửa hiệu riêng. Nhưng cuộc chiến tranh bùng nổ đã cắt đứt dự định đó. Tản cư về Đống Năm, cha em vẫn làm nghề vàng bạc. Em tiếp tục theo học trung học. Năm 1949 Pháp chiếm Tả Ngạn, có nhiều người cùng nghề quay về Hà Nội, Hải Phòng sinh sống, nhưng gia đình em vẫn đi theo kháng chiến. Tất cả lại kéo nhau vào Thanh Hóa. Ở đây nghề kim hoàn ế ẩm, gia đình em vừa tăng gia vừa mở một quán nước. Em học trường Nguyễn Thượng Hiền và ở đây em đã lấy chồng rồi bước vào con đường hoạt động.
- Dung lấy chồng năm nào?
- Năm năm mươi hai, lúc em vừa tròn hai mươi tuổi.
- Sớm thế?
Chị cười ngượng nghịu:
- Không sớm đâu. Hồi mười sáu, mười bảy đã có nhiều người nhắm nhe. Nếu em bằng lòng thì cha mẹ đã gả rồi. Nhưng năm hai mươi em đã gặp một người con trai mà em không sao từ chối được. Chúng em yêu nhau và lấy nhau. Cùng năm đó anh xin cho em vào công tác. Hoàn cảnh hoạt động không cho phép vợ chồng được gần nhau nhiều. Hai đứa cứ sống như Ngưu Lang Chức Nữ ấy.
- Bây giờ anh công tác ở đâu?
- Cũng như chúng ta thôi - Nét mặt chị trở nên buồn bã - Không có địa chỉ?
- Thế tên anh là gì?
Chị nhìn thẳng vào tôi, cặp mắt long lanh và một nụ cười tinh nghịch:
- Tên chồng em là Nghĩa.
- Cũng tên là Nghĩa?
- Vâng, Phan Quang Nghĩa. Từ nay em chỉ có một người chồng duy nhất là Phan Quang Nghĩa thôi!
Câu nói này làm tôi nóng bừng mặt vì xấu hổ. Điều đó nhắc cho tôi một nguyên tắc: không nên tò mò vào nhưng lĩnh vực không cần thiết. Mặt khác tôi cũng rất sung sướng vì chị đã đặt tên tôi vào một vị trí thật đáng mơ ước, thật đáng tự hào, dù nó chỉ là một ảo ảnh.
Tuyệt nhiên Dung không hề đả động đến bất cứ một công việc gì về tình báo mà chị đã làm hoặc cùng làm với ai. Chị cũng không kể về bất cứ chiến công nào. Những chuyện đó có thể báo chí đã đăng vào một ngày nào đó. Bản thân tác giả của những chiến công ấy cũng phải mai danh ẩn tích cho đến khi ngã xuống. Họ là những chiến sĩ vô danh đầy lãng mạn.
Ngày hôm đó chúng tôi cùng ngồi thêu dệt cho mối tình tưởng tượng của mình những chi tiết thật hợp lý và đẹp đẽ theo đúng đường dây kịch bản của cậu tôi đã chỉ thị. Sau đó chúng tôi thay nhau đóng vai thẩm vấn và bị cáo để kiểm tra lại trình độ ứng đối của nhau ra sao. Một sơ suất nào về lô-gích, về pháp lý dù nhỏ đều được phân tích để sửa chữa cho thật chặt chẽ, thật thống nhất.
Đến chiều cậu Đức ra, chúng tôi trình bày lại toàn bộ nội dung đã làm trong ngày. Cậu cũng phải ngạc nhiên và khen chúng tôi có nhiều sáng tạo đã làm cả những điều cậu chưa chỉ bảo. Cậu bổ sung cho một số tình hình đất nước lúc đó.
- Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết nhưng Mỹ đã không ký vào bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị. Đa-lét, ngoại trưởng Mỹ tuyên bố lấy làm tiếc về một vài yếu tố của thỏa ước ngừng bắn. Còn Trần Văn Đỗ, đại diện của chính quyền tay sai thì khóc và cũng không chịu ký. Xem thế đủ thấy đường lối của Mỹ đã thất bại. Nhưng liệu chúng có cam tâm chấp nhận hay không. Diệm là con bài của Mỹ đang củng cố quyền lực. Mỹ đang lôi kéo đồng minh và chư hầu thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) tạo chỗ dựa cho những tên bù nhìn trên bán đảo Đông Dương. Những hành động đó buộc chúng ta phải hết sức cảnh giác với âm mưu phá hoại hiệp định hòa bình của chúng. Ngày mai mồng 1 tháng 8, Hiệp định ngừng bắn sẽ có hiệu lực trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng bọn Việt gian ở Hà Nội đang gào thét thành lập Trung đoàn tử thủ Cố đô! Trong bản danh sách những tên đầu sỏ ký vào lời kêu gọi, ta thấy có Nghiêm Xuân Hảo, Nguyễn Đăng Thạc, Phan Quang Ân, Hoàng Cơ Bảo rồi Đỗ Thúc Vượng... Chúng sẽ tử thủ ra sao khi quân Pháp rút đi thì ta chưa tưởng tượng nổi. Nhưng hiển nhiên là bọn này đang cố kiếm một cái vốn chính trị nhân buổi tranh tối tranh sáng này để đặt giá cho cái thân tôi đòi của chúng trước vị chủ mới là người Mỹ. Ta chưa lường hết được sự phát triển phức tạp của tình hình. Nhưng ta phải tiên liệu, phải chuẩn bị để đánh bại mọi âm mưu của chúng. Cuộc hành quân "ngược chiều” của hai cháu sắp diễn ra là để đáp ứng cho những mục tiên đó. Các cháu sẽ xuất phát vào ngày hòa bình đầu tiên và tiến vào cuộc chiến đấu trầm lặng. Cậu hiểu được sự dũng cảm của các cháu. Sau tám năm kháng chiến, nhân dân ta tha thiết mong muốn độc lập thống nhất Tổ Quốc theo tinh thần của Hiệp định hòa bình đã ký kết. Cậu cháu mình đều không muốn lòng dũng cảm bị thách thức, không muốn một lần nữa phải "tuốt kiếm ra khỏi vỏ". Nhưng ước vọng thiêng liêng của chúng ta không hoàn toàn tùy thuộc ở nơi mình, nó còn lệ thuộc vào cả sự khôn ngoan hay ngu ngốc của kẻ thù. Trong mọi tình huống cậu đều mong mỏi các cháu phải tỏ ra là người chiến sĩ đáng tin cậy của cách mạng.
Những lời giản dị và thân tình của cậu tôi đã in sâu vào trí nhớ chúng tôi. Nó cổ vũ chúng tôi cả những khi hiểm nguy đe doạ hay những lúc bị dục vọng cám dỗ.
Hôm sau, một chiếc com-măng-ca của cơ quan đưa ba cậu cháu tôi về trạm 42 ở Trại Cờ. Đây là đầu mối giao thông thường xuyên đưa đón cán bộ ta ra vào vùng địch hậu. Phần lớn trạm bố trí khách trong nhà dân. Riêng chúng tôi được ở nhà cơ quan. Ở đây chúng tôi tiếp nhận một số quần áo và một số giấy tờ cần thiết. Đặc biệt cậu Đức còn chụp cho chúng tôi rất nhiều kiểu ảnh. Phần nhiều là những khung cảnh của một cuộc tình duyên thơ mộng. Người "đạo diễn" đã cố tìm nhưng góc độ, những bối cảnh sao cho có nhiều nét giống xứ Thanh.
Lịch hoạt động cụ thể của chúng tôi như sau:
Ngày 2 tháng 8, chúng tôi về Hà Nội, nhanh chóng tìm tới nhà anh ruột tôi thăm dò tình hình. Nếu họ di cư thì xin cuốn gói theo họ. Trước khi đi vợ chồng tôi sẽ về quê thăm mẹ và thăm chị tôi.
Ngày 15 tháng 8 cậu tôi cũng sẽ có mặt ở quê tôi để sơ bộ nắm tình hình và chỉ đạo những bước tiếp. Nếu do một hoàn cảnh cấp bách không thể về được quê thì chị Dung sẽ phải để lại báo cáo bằng mật mã ở Z.01.
CHƯƠNG III
CUỘC HÀNH QUÂN TRONG HÒA BÌNH
Sáng mồng 3 tháng 8 năm 1954, người ta thấy một đôi trai gái đứng chờ xe khách ở cây me còng gần đầu cầu Phủ Lỗ. Anh con trai mặc chiếc áo sơ mi màu be, quần tơ-rô màu gạch sẫm, chân đi săng đan da. Người con gái mặc áo cánh trắng, quần láng đen, cạp tóc dài. Hành lý của họ mang theo vẻn vẹn chỉ có chiếc làn xách tay, trong đựng mấy thứ lặt vặt cùng nải chuối tiêu cắt rời. Cách ăn mặc của họ có vẻ dân "phố huyện" hơn là người thành thị. Nghe cách xưng hô và những cái nhìn âu yếm xoắn xuýt của đôi trai gái, những người khách chờ xe biết ngay họ là một cặp vợ chồng.
Bên kia cầu là đồn Phủ Lỗ. Nghe nói cách đấy không xa còn có trụ sở của Uỷ ban giám sát đình chiến, và Phái đoàn Quân sự hai bên. Không khí vui tươi của những ngày hòa bình đầu tiên đã tràn ngập thị trấn này có thể đã làm cho việc gác sách của đám binh lính trong đồn trễ tràng hơn. Người ta nói chỉ có mấy ngày thôi mà đã có tới mấy chục bảo chính quân, nghĩa dũng quân trốn trại về nhà. Họ lo ở lại sẽ phải theo quân Pháp vào Nam Kỳ.
Mấy tên lính đen trắng lẫn lộn, không mang vũ khí từ bên kia cầu đi sang. Theo thói quen, mọi người chờ xe vội vàng mở túi lấy "tịt" ra cầm sán ở tay. Cặp vợ chồng trẻ cũng làng theo. Họ còn có thêm cả tờ giấy phép của lý trưởng xã Vân Lại cho đi án giỗ ở Hà Nội. Toán lính tới nơi, mọi người vội chìa giấy ra, nhưng bọn này vui vẻ xua tay:
- Tốt, tốt! Không phải xem. Hết chiến tranh rồi.
Chúng kéo nhau tới một tiệm ăn ở đầu phố.
Thế là chín năm trời rồi tôi mới lại trở về Hà Nội. Chiếc xe hàng lăn nhanh trên con đường nhựa láng bóng. Hai bên những cánh đồng hoang đầy cỏ dại trải ra ngút tầm mắt. Vùng trắng cứ gợi lại cho tôi cảm giác về một hành tinh chết khi đọc cuốn truyện cho trẻ con từ hồi nhỏ. Cứ vài trăm mét lại có một chiếc lô cốt cao lênh khênh với hàng lỗ châu mai như những con mắt đen ngòm nhìn chằm chằm ra xung quanh. Càng gần Hà Nội, đồn bốt càng dày, xe pháo càng lắm và đã có nhưng làng mạc xanh tươi. Xa xa đã thấy ống khói của nhà máy gạch Hương Ký dựng lên bầu trời. Tim tôi đập rộn khi cầu Long Biên hiện ra. Nhận ra vẻ lạ lùng và xúc động của tôi, chị Dung vội ấn khẽ vào lưng tôi và nói với tôi về chuyện may sắm!
Xuống Bến Nứa tôi cảm thấy thành phố nhỏ lại so với hồi tôi còn thơ ấu. Chị Dung gọi xích lô. Hai chúng tôi tới luộc gia đình cơ sớ ở ngõ Chân Cầm.
Một bà cụ gần bảy mươi tuổi ra mở cửa.
Nhận ra Dung, cụ vui vẻ đon đả:
- Các cháu đã ra đấy à. Bà mong mãi!
Chúng tôi vào nhà rất nhanh. Tôi còn bỡ ngỡ nhưng Dung thì đã quen thuộc lắm. Chị giới thiệu với với bà cụ.
- Lần này con mới đưa nhà con ra chào bà?
- Thế cháu rể của bà tên là gì?
- Con tên là Nghĩa ạ. - Biết thế để bảo cho trẻ nó biết nó gọi - Cụ quay vào nhà gọi đứa cháu nhỏ - Nguyệt à, đây là anh Nghĩa, chồng chị Dung cháu nhớ chưa?
Dung đưa tôi vào nhà trong để rửa chân tay thì cũng đến giờ hai vợ chồng bác Bách (con trai lớn của bà cụ) đi làm về. Thấy chúng tôi, bác trai reo lên vui vẻ:
- Cả nhà mong các cháu ra. Hòa bình rồi! Sắp giải phóng rồi, sung sướng quá? Theo báo đăng thì mồng mười tháng mười này quân Pháp sẽ rút hết mà.
- Vâng ạ. Chúng cháu về trước để chuẩn bị cho ngày ấy đấy ạ.
- Tôi biết, việc to lớn như thế không chuẩn bị sao được. Đã có chỉ thị cho các công đoàn và anh em công nhân viên chức trong các công sở phải đoàn kết đấu tranh giữ lại tài sản, thiết bị máy móc không cho chúng mang đi.
- Thằng Hai nhà tôi nếu còn sống chắc chuyến này được đoàn tụ gia đình đây!
Bà cụ hân hoan bộc lộ niềm mong đợi. Kẻ địch sắp cuốn gói nên mọi niềm vui sâu kín đều muốn bung ra hết. Ngoài đường người ta đã nói đến độc lập, đến giải phóng, đến cụ Hồ một cách công khai bất chấp lính kín hay cảnh sát, huống chi trong nhà, cơ sở của cách mạng suốt những năm kháng chiến.
Bữa cơm hôm đó rất thịnh soạn. Bác Cả còn mở rượu ra ép chúng tôi nâng cốc chúc mừng chiến thắng. Chúng tôi cũng uống một chút tượng trưng rồi xin cáo lỗi vì tối nay còn phải đi có chút việc. Mọi người thông cảm và khuyên chúng tôi nên về sớm. Lúc này không sợ mật thám bằng binh lính. Sắp rút đi nên chúng hay tranh thủ cướp bóc, bắt cóc đòi chuộc tiền, cưỡng bức phụ nữ, v.v...
Tối hôm ấy chúng tôi tìm đến nhà anh Ân tôi. Tôi vẫn còn nhớ ngôi nhà ở cuối phố Duvigneau anh chị tôi ở hồi năm 1949. Đáp tàu điện đến Chợ Hôm, chúng tôi xuống đi bộ tiếp. Không khí Hà Nội thật khác thường. Nhiều hiệu buôn lớn đã đóng cửa. Binh lính Pháp đổ ra đường phố, tụ tập đầy ở các "ba", các tiệm giải khát. Có thể chúng vui mừng được thoát chết vì cuộc chiến đã kết thúc. Cũng có thể chúng đi tìm những nguồn vui xả láng ở mảnh đất xinh đẹp mà chúng buộc lòng phải ra đi.
Cổng ngôi nhà 263 đóng kín. Cửa sổ trên các tầng lầu tối om không có ánh đèn. Tôi nhìn qua khe cổng thấy gian nhà phụ gần ga-ra có ánh điện. Sau một phút phân vân tôi bấm chuông. Bấm đến lần thứ ba lưới có tiếng của một người đàn bà nhiễn tuổi hỏi vọng ra:- Ai hỏi gì đấy?
- Xin làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút.
Đèn ga-ra bật sáng. Bóng người đàn bà chậm chạp bước ra:
- Ông hỏi ai? - Giọng bà ta hơi sẵng chứng tỏ bà không muốn tiếp chuyện. Ánh đèn chiếu từ đằng sau nên tôi không thấy rõ mặt.
- Bà làm ơn cho tôi hỏi thăm ông Phan Quang Ân còn ở đây không?
- Ông ta không có đây - Nói xong bà ta quay ngoắt vào không thèm mở cổng.
- Bà làm ơn... - Bà ta đã khuất vào khuôn cửa bên trong.
- Bỏ cuộc chăng? - Chị Dung hỏi nhỏ tôi.
- Không, tôi sẽ bấm chuông nữa, buộc bà ta phải tiếp chuyện.
Biện pháp quyết liệt của tôi quả là có hiệu lực. Người đàn bà quay ra với dáng điệu bực dọc thực sự.
- Đã bảo ông Ân không có ở đây mà còn bấm chuông mãi.
- Bà không mở cửa cũng được, nhưng xin cứ đứng lại cho tôi hỏi vài câu thôi. Nếu ông Ân vắng nhà thì cho tôi hỏi bà Ân hoặc con cái họ cũng được.
- Cả hai ông bà đều không còn ở đây nữa. Họ làm gì có con cái mà hỏi.
- Thế bà có thể chỉ giúp tôi địa chỉ mới của họ.
- Tôi không biết. Ông bà vắng nhà hơn một tuần nay và không cho tôi biết là đi đâu. Xin ông đừng hỏi gì thêm nữa.
Lần này bà ta quay vào một cách kiên quyết và tàn nhẫn.
Chúng tôi rất buồn. Mở màn chiến dịch đã có trắc trở.
- Mai chúng ta sẽ đến thẳng nhà ông Cự Phách để hỏi.
Tôi và chị Dung đành quay về Chân Cầm. Gia đình bác Bách vẫn ngồi chờ chúng tôi. Cả nhà lại quây quần trong phòng khám nói chuyện đến mlrời một giờ đêm.
- Bây giờ đã khuya, anh chị đi nghỉ kẻo mệt. Tôi đã thớt xếp căn buồng trên gác - Bác Bách tươi cười nhắc chúng tôi - Cứ tự nhiên như ở nhà, không kiêng kỵ gì đâu.
- Thôi đê cho nhà con ngủ trên ấy, con nghỉ dưới này với bà và em Nguyệt.
Bà cụ cười tủm tỉm:
- Tùy đấy. Chị Dung muốn nằm dưới này với bà cũng được.
Thế là chúng tôi thoát được một tình thế khó xử.
Hồi năm 1944 tôi nghe nói ông Cự Phách có hàng chục ngôi nhà ở Hà Nội, nhưng tôi chưa đến nơi nào ngoài ngôi nhà ông dành cho anh chị tôi. Nhà in Á Đông chỉ còn lơ mơ trong trí nhớ. Tôi đã đi dọc phố Hàng Bông để tìm và tôi đã nhận ra nó một cách dễ dàng. Một ngôi nhà không lớn lắm, có cửa sắt di động, có lối cho xe tải chạy thẳng vào xưởng. Tường chắn nóc còn hàng chữ nổi, lâu ngày mưa nắng làm hoen ố: Asie Orientale-Imprimerie1 (Nhà in Á Đông). Ngôi nhà cũng đóng của im ỉm.
Tôi bấm chuông. Một phút sau có tiếng chân bước và tiếng khóa cửa lách cách. Cánh cửa sắt hé mở. Một người đàn ông đầu hói, đeo kính lão xuất hiện.
- Chào ông. Xin ông làm ơn chỉ giúp tôi, đây có phải nhà ông Cự Phách không ạ? - Tôi lễ phép hỏi.
Người đàn ông nhìn tôi từ đầu đến chân.
- Anh quen ông ta à?
- Dạ không quen lắm, nhưng tôi có chút việc.
- Đây là xưởng in của ông nhưng ông ở chỗ khác và ít khi lại đây. Không phải ai muốn
gặp là ông ta tiếp đâu. Tôi không phải người tò mò. Tôi hỏi là để bày cách cho anh thôi.
- Xin cảm ơn ông. Tôi muốn gạp Luật sư Phan Quang Ân là con rể ông Cự Phách. Nếu ông biết địa chỉ nhà riêng, xin ông làm ơn chỉ giúp.
- Anh là thế nào với luật sư - Tôi là người bà con... là em ạ.
- Họ đi Sài Gòn cả rồi, thật đáng tiếc. Xử lý thường vụ của họ hiện nay là ông Lê Hàm ở 34B Hàng Đẫy.
- Vừa mới ký tên tên gọi thành lập Trung đoàn tử thủ cố đô xong mà đã đi nhanh thế. - Tôi cười làm cho ông già cũng cười theo.
- Họ xui người khác thôi còn họ có dám tử đâu mà thủ.
- Thưa ông, ông có biết địa chị của họ trong Sài Gòn không ạ?
- Buồng 115 Khách sạn Europe đường Ca-ti-na. Điện thoại 45276. - Ông già nhắc lại một lần nữa cho tôi ghi đầy đủ.
Tôi cảm ơn và chào ông.
Để xác minh lại tin tức trên, tôi tìm đến ông Lê Hàm và ông này cũng cho biết tương tự. Tôi còn hỏi ông thêm:
- Ngoài ra họ còn địa chỉ nào khác nữa không, thưa ông? Tôi nghĩ là địa chỉ này vẫn chưa phải là cố định.
- Đúng như vậy. Chắc là họ đang chọn mua hoặc thuê nhà riêng. Ngay từ hôm nay anh có thể điện cho họ biết và yêu cầu họ điện trả lời anh hàng ngày hoặc khi nào họ đổi chỗ. Ôi những người đó tìm họ có khó gì đâu. Vào sài Gòn anh có thể đến Tòa án tối cao. Đến trụ sở của Mặt trận Liên minh chống cộng, có thể tìm địa chỉ trong tập danh bạ các chủ tài khoản 9A42, 6B50, 3C16 ở nhà băng Đông Dương, cùng lắm thì anh đăng báo...
- Vâng. Tôi cứ hỏi phòng xa thôi chứ chắc là sẽ tìm thấy.
Tôi chào ông Lê Hàm và trở về báo cáo lại toàn bộ tình hình với chị Dung. Sự việc tuy không xảy ra đúng như điều mong muốn, nhưng cũng không phải là thất bại hoàn toàn.
- Công việc tìm anh Ân ở Hà Nội đã kết thúc. Chúng ta chuẩn bị bước thứ hai. Anh ở lại Hà Nội một mình chờ em ba ngày nhé. Cậu Đức cho phép em về thăm con một lần nữa. Em cũng muốn cả anh cùng đi, nhưng xét cho cùng thì sợ phía gia đình nhà chồng lại có chuyện này chuyện khác. Em mong anh thông cảm cho em nhé.
Đôi mắt dịu hiền của Dung nhìn thẳng vào mắt tôi và chị đã dễ dàng nhận được ở tôi một sự đồng tình hoàn toàn.
- Nghĩa hiểu ý Dung - Tôi nói nhỏ - Nghĩa muốn hỏi; anh ấy có hay ghen không?
- Ồ không, không đâu - Dung cười - Anh cứ yên trí.
Chỉ vắng chị có ba ngày mà tôi cảm thấy mình cô đơn trơ trọi quá. Mặc dù gia đình bác Bách rất nhiệt tình với tôi nhưng cũng không sao bù đắp được sự thiếu hụt này. Mặt khác, tôi cũng bồn chồn mong mỏi đến ngày về thăm mẹ và thăm chị tôi nữa. Lòng tôi cứ như lửa đốt. Tôi cố luyện tập giữ vẻ bình thản. Đôi lúc tôi cũng hòa vào dòng người ngoài đường phố để làm quen trở lại với cái dáng điệu thời học sinh và cố trút đi những cử chỉ thiếu tự nhiên của người mới ở rừng về. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy mình lúng túng vụng về quá.Hôm cuối cùng tôi cứ ngồi ngong ngóng, thỉnh thoảng lại nhìn ra cửa đến nỗi bé Nguyệt cũng phát hiện ra.
- Anh nhớ chị Dung quá hay sao mà trông anh thẫn thờ ra thế?
Tôi ngượng chín mặt nhưng vẫn chối:
- Đâu nào... anh cũng có mong thôi chứ không phải nhớ?
Bà cụ nghe hai anh em chuyện trò cũng phải bật cười.
Dung đã lên đúng hẹn. Nỗi vui mừng của tôi cũng làm cho chị đỏ mặt và cảm động. Tối hôm đó hai chúng tôi ra ngồi với nhau bên hồ Hoàn Kiếm, tôi mới thăm hỏi tình hình của gia đình Dung.
- Bố mẹ và các em vẫn được bình yên. Em cũng chưa dám nói là em phải đi nhưng hình như mẹ em cũng cảm thấy điều đó. Có lẽ em đã dặn đi dặn lại là ông bà, các cậu, các dì phải trông cháu ra sao, phải chú ý đến sự học hành của nó như thế nào mạc dù con bé mới một tuổi! Ôi em thương con quá anh ạ. Con mới xinh làm sao, ngoan làm sao. Nếu như anh gạp được con, em tin rằng anh cũng sẽ rất thương yêu nó. Con còn thơ dại quá, nó chưa biết mẹ đi xa, đi lâu, cử toét miệng ra cười trong lúc mrởc mắt em tràn ra. Hòa bình rồi, sắp giải phóng rồi, bố mẹ em cứ mong mỏi mẹ con bà cháu xum họp. Nhưng biết nói với người thân yêu của mình như thế nào để tất cả cùng hiểu như mình, cùng chia sẻ với mình. Anh ạ, ngay cái điều đó em cũng chưa thể làm được.
Qua ánh đèn mặt Dung đẫm nước. Tôi thấy quý chị vô cùng. Tôi thầm phục, trong con người mảnh dẻ dịu dàng đó đã chứa đựng biết bao nhiêu tình cảm cao quý, bao nhiêu sức mạnh của lý trí, bao nhiêu sự tận tụy trưởng thành với Tổ Quốc. Tôi muốn cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của chị với một tấm lòng trong trắng của một người đồng chí, một người bạn để được cùng chung với chị nỗi riêng tư nhưng tôi không dám. Có thể do tính nhút nhát mà tôi đã chàng làm đlrợc một chút gì. Ngay một lời an ủi tôi cũng kllông tìm ra . Tôi thấy rằng tất cả những ngôn ngữ tốt đẹp nhất mà tôi có thể diễn đạt được cũng trở thành tầm thường, tllành vô nghĩa trước nỗi buồn của chị. Lâu lắm tôi mới nói được một câu:
- Dung ạ, nhất định một ngày nào đó chúng ta sẽ được gặp con. Nghĩa linh cảm thấy điều đó. Con vắng mẹ nhưng đã có bố. Thỉnh thoảng bố sẽ về thăm cũng bù đắp lại được một phần.
Không ngờ lời an ủi của tôi ở điểm này nó lại gợi nhớ đến một nỗi buồn khác. Dung ngước mắt nhìn tôi và như cố giấu một tình cảm chua xót:
- Nhưng bố mẹ luôn luôn ở bên nhau, có ai được về thăm con nữa đâu?
Câu nói của chị như nhắc nhở tôi về "nguyên tắc quy định" nhưng sự lẫn lộn giữa "thực và ảo" giữa "sân khấu và cuộc đời" làm cho tội thêm lúng túng. Hai đứa ngồi mãi đến lúc sương thu làm ẩm đôi vai áo mới trở về nhà.
Ngày 10 tháng 8 theo đúng lời hẹn của cậu Đức, hai chúng tôi lên đường về thăm quê. Xe ô tô khách chạy theo quốc lộ chừng bốn mươi ki-lô-mét thì chúng tôi xuống để đi bộ tiếp độ nửa giờ nửa. Đây đã là vùng mới giải phóng. Chúng tôi không gặp một sự cản trở nào. Không khí hòa bình lan tỏa vùng đồng bằng. Sau năm năm xa cách, hình ảnh quê hương tràn ngập tâm hồn tôi một niềm vui rạo rực. Tôi đã gặp những người làng đầu tiên. Họ đều ngỡ ngàng khi nhận ra tôi. Tôi đã trở thành một chàng trai vạm vỡ khác xa cái tầm vóc lêu đêu của một cậu học trò thuở trước. Chúng tôi bước vào sân, gọi mẹ mà mẹ tôi vẫn sửng sốt thẫn thờ chưa biết chắc là tôi.
- Mẹ ơi, con đây mà, Nghĩa đây mà.
- Trời ơi con tôi? Huệ ơi, Nghĩa nó về, Huệ ơi, em con về!
Mẹ tôi ôm lấy tôi và òa lên khóc. Mẹ quên cả hỏi đến người bạn đường của tôi.
- Mẹ ơi, đây là Dung, bạn của con mẹ ạ!
Mẹ tôi quay lại phía chị. Dung chào mẹ tôi:
- Con chào bác ạ.
- Chào con. Bác mừng quá, tha lỗi cho bác nhé. Vào nhà đi các con.
Mẹ dắt tay chúng tôi vào nhà. Cùng lúc ấy chị Huệ từ vườn sau chạy về.
- Chị Huệ!
- Nghĩa!
Dung đứng chứng kiến cảnh ba mẹ con tôi đều trào nước mắt trong niềm vui sum họp.
- Bây giờ con ở đâu hả Nghĩa? Mấy năm rồi mẹ bạt tin con. Năm ngoái mẹ nhận được thư cậu Đức nói con đã đi bộ đội. Cậu ghi cho cái địa chỉ. Chị con viết liền ba lá thư nhờ người ra vùng tự do gửi hộ mà chẳng thấy con trả lời.
- Con đi chiến dịch mẹ ạ. Vả lại địa chỉ của con cũng luôn luôn thay đổi. Chúng con mới ở chỗ cậu Đức con về đây. Cậu hẹn mại sẽ xuống thăm gia đình nhà ta đấy. Nhưng mẹ đừng nói chuyện này với ai mẹ nhé.
Mẹ tôi hơi ngạc nhiên:
- Có chuyện gì mà phải giấu mọi người hả con?
- Cậu Đức bây giờ "to" rồi. Gia đình nhà ta lại thuộc "tầng lớp trên", mình nói ra e không tiện cho cậu, thế thôi. Còn chuyện tình cảm riêng tư trong nhà thì chẳng có gì là bí mật đâu mẹ ạ.
- Thế bao giờ con lại đi, hay hoà bình rồi con ở nhà hẳn với mẹ.
- Con chỉ được ở nhà ba ngày thôi mẹ ạ.
Nét mặt mẹ tôi hơi buồn, nhưng bà vẫn nói:
- Nhìn thấy con được như thế này là mẹ mừng rồi. Con ở nhà với mẹ càng lâu càng vui, nhưng nếu có công việc mà con phải đi thì mẹ cũng yên tâm.
Có chị Huệ tíu tít thăm hỏi nên Dung cũng đỡ lúng túng trong cái không khí hội ngộ của mẹ con tôi.
Bấy giờ tôi nhìn kỹ lại mẹ tôi. Tóc mẹ đã bạc nhiều tuy nước da vẫn còn đẹp. Hàm răng đen nhưng nhức nhất còn nguyên vẹn. Ở tuổi đó mẹ tôi là người khỏe. Sau này tôi biết rằng mẹ tôi vẫn đi làm đồng ruộng như những bà nông dân đứng tuổi khác.
Chỉ có chị tôi là thay đổi nhiều. Từ một cô học sinh thành thị, quần trắng áo dài, qua mấy năm kháng chiến đã trở thành cô gái nông thôn thực sự. Chị búi tóc, mặc áo nâu gụ, quần láng đen. Đôi bàn tay chị chai ráp. Chị tôi cũng cày cấy lao động và chiến đấu trong đội du kích xã như nhiều cô gái vùng quê tôi. Đã có lúc mẹ tôi thương chị bảo chị vào Hà Nội tìm anh Ân tôi thế nào anh chẳng cưu mang cho học hành tiếp tục, nhưng chị tôi nhất quyết không đi. Tính chị tôi giản dị và rất khí khái. Ngoài tấm lòng yêu nước, yêu quê chị tôi rất thương mẹ nên không muốn sung sướng lấy một mình. Bây giờ chị đã ở tuổi hai lăm. Giá như những cô gái nông dân khác có lẽ đã chồng con từ lâu rồi. Chiến tranh đã làm lỡ dở nhiều số phận. Chị không phải là một cô gái xinh đẹp, nhưng khỏe mạnh, nước da bánh mật, khuôn mặt gọn gàng dễ coi. Chị ăn nói đậm đà có duyên và đã được lọc hành qua bậc trung học. Tôi cũng lo lắng nếu sau này cải cách ruộng đất, gia đình tôi trong diện địa chủ quan lại thì chuyện chồng con của chị sẽ ra sao? Tôi bỗng thương chị tôi quá. Chờ lúc chỉ có hai chị em, chị hỏi nhỏ:
- Em với Dung là thế nào với nhau đấy?
- Là bạn chị ạ! - Tôi cười - Bạn rất thân đấy!
- Chị cũng nghĩ là rất thân... Có thể còn hơn thế nữa kia! Chị thấy đẹp đôi lắm. Nếu có gì em nói cho mẹ và chị cùng vui với.
- Chị thấy đẹp đôi lắm à?
- Ừ đẹp lắm... Chị còn muốn nói Dung cũng làm cho chị mê rồi đấy!
- Dung hơn em một tuổi đấy chị ạ, với lại chị còn chưa có gì nữa là em!
- Một tuổi có đáng gì. Còn chuyện của chị thì em đừng lo, đừng bận tâm. Chị không lấy chồng đâu. Chị đi thì mẹ ở nhà một mình à?
- Em cứ mong chị lấy được một người chồng tốt để mẹ có chỗ nương tựa. Còn em thì ở xa, nay đây mai đó, em chưa biết là sẽ làm gì để đỡ đần mẹ khi đau ốm.
- Em cứ yên tâm. Những năm kháng chiến gian khổ thế là chúng mình vẫn qua được thì nay hoà bình rồi, có gì đáng ngại đâu. Chị sẽ thay em đảm nhiệm tất cả để em phục vụ Tổ Quốc.
Không biết chị Huệ có nói với mẹ tôi điều gì không mà nét mặt của mẹ tôi rạng rỡ hẳn lên. Mẹ tôi săn sóc chị Dung chu đáo thân tình và đôi lúc bà còn xưng mẹ nữa. Còn Dung thì như đã hoàn toàn chiếm được mối thiện cảm của gia đình tôi. Với bản tính dịu dàng tự nhiên, chị đã nhanh chóng tự chủ trong mọi lúc chuyện trò và tham gia rất khéo vào nhưng việc nội trợ.
Hôm sau cậu Đức đã về đúng hẹn. Cậu cũng chỉ đi một hình như kín đến giao nhiệm vụ cho chúng tôi trước đây. Mẹ tôi vui mừng đón tiếp cậu. Tôi cũng kín đáo báo cáo lại toàn bộ tình hình công việc của hai chúng tôi. Cật nghe chăm chú rồi vỗ vai tôi:
- Không có gì đáng thất vọng. Cháu sẽ tới đích.
Mẹ tôi trách cậu sao không đưa mợ và cháu về chơi cậu chỉ cười. Chờ lúc vắng cật mới nói nhỏ với mẹ tôi:
- Tôi về thăm chị và cháu nhưng là có việc đây. Chưa phải là lúc có thì giờ đi chơi đâu mà chị vội trách không đưa vợ con về.
- Việc gì thế cậu?
- Quan trọng làm. Nghĩa đã nói chuyện gì với chị chưa? Chưa à?... Thế thì để tôi nói với chị vậy.
- Cậu nói ngay đi có gì mà cứ úp úp, mở mở vậy. Có phải chuyện vợ con của cháu không?
- Còn to lớn hơn nhiều... Bây giờ nó là quân của tôi, chị rõ chưa? Tôi sẽ giao cho nó một công việc rất quan trọng. Nhưng chuyện này chỉ có chị và tôi biết thôi nhé.
- Vâng! - Mẹ tôi nhìn đam đăm vào đôi mắt của cậu.
- Chị cũng chẳng cần biết công việc gì, nhưng nó sẽ phải đi xa và đi lâu. Tôi biết chị chỉ có nó là con trai. Chị đã chờ đợi nó đến mỏi mắt sau bao năm chiến tranh. Mới hòa bình có vài ngày nó vừa về thăm nhà, tôi lại đẩy nó đi, tôi sợ chị buồn...
Cậu dừng lại nhìn mẹ tôi như để thăm dò. Nhưng mẹ tôi đã trả lời rắn rỏi:
- Người mẹ nào mà chẳng thương nhớ con. Cháu lớn rồi chứ còn là đứa trẻ nữa đâu mà tôi phải buộc nó vào thắt lưng của mình!
- Công việc này là hoàn toàn tự nguyện chị ạ. Cháu nó tự nguyện rồi, nhưng tôi lại muốn cả chị cũng tự nguyện nữa. Nếu chị không bằng lòng thì tôi sẽ hủy bỏ ngay kế hoạch, tất nhiên kế hoạch này là rất hay và rất quan trọng, ít người làm được.
- Nếu là điều rất hay, là điều rất quan trọng ít người làm được thì tại sao tôi lại phản đối?
- Tôi nghĩ cái điều chị quan tâm nhất là công việc này có nguy hiểm không mà chị chưa muốn hỏi tôi. Nhưng tôi có thể trả lời ngay là: có nguy hiểm. Trong chiến tranh, cháu nó đã vượt qua nhột trận đánh năm mươi nhăm ngày đêm ở Điện Biên Phủ, một trận đánh lớn nhất trong cuộc kháng chiến, thì tôi thấy nó đã đi một chặng đường nguy hiểm hơn nhiều đoạn đường chán sắp vượt qua. Chỉ có điều là cháu sẽ không thể thư từ gì về cho chị, nhưng tôi, tôi là người chỉ huy nó, tôi hứa thỉnh thoảng đến nói riêng cho chị yên tâm. Chị thấy thế nào?
- Cậu là em tôi, cậu coi nó như con, tôi tin là cậu chỉ dạy nó làm những điều tốt đẹp. Tôi rất yêu thương con tôi. Nó đi chiến đấu, tôi và chị nó ở nhà cũng hầm hố che giấu cán bộ, bộ đội, cũng nhiều lần vào sinh ra tử chống càn phá tề chứ có sợ gì hy sinh, gian khổ. Nếu nay con tôi được Tổ Quốc giao cho nhiệm vụ phải bước tiếp mà nó chẳng từ nan, thì tôi không bao giờ để nó nhụt chí. Tôi nói thế chắc cậu hiểu ý tôi chứ?
- Vâng. Tôi hiểu chị. Không phải bây giờ mà ngay từ thời thơ ấu tôi cũng đã hiểu tấm lòng của chị đối với mọi người, với cái chung và cái riêng. Chỉ xin chị giữ kín việc này vì nó ảnh hưởng tới thành bại của công việc. Có ai hỏi chị cứ nói cháu đi bộ đội. Nó ở đâu, làm gì, chị không biết. Chị giao người cho chính phủ, ai muốn biết cứ đi mà hỏi chính phủ.
- Cậu cứ yên tâm. Có bao giờ người mẹ lại muốn làm gì có hại cho con mình.
Cậu nhìn ra sân thấy tôi và chị Dung ngồi nhặt rau với nhan, cậu chỉ cho mẹ tôi:
- Chị thấy chưa , chúng nó dắt tay nhau vào nhiệm vụ, chị xem trên khuôn mặt chúng có một nét gì gọi là ưu tư ngần ngại không?
Mẹ tôi kéo sát cậu lại gần và lỏi nhỏ:
- Tôi thấy nó xoắn xuýt với nhau lắm. Không biết có nên cơm cháo gì không?
- Bây giờ thì chưa, nhưng biết đâu được sau này...
Câu hỏi của mẹ tôi lửng lơ và câu trả lời của cật Đức cũng lơ lửng khiến cho cả hai cùng bật cười vui ve.
Tối hôm đó cậll Đức trao nhiệm vụ tiếp cho chúng tôi. Mục tiêu tiếp cận của chúng tôi là không thay đổi. Cậu trao cho chúng tôi một bức thư về Hà Nội lĩnh tiền, giấy tờ và hành trang để bay đi Sài gòn. Sớm hôm sau cật Đức tạm biệt gia đình chúng tôi.
Khi bắt tay Dung và tôi, cậu dặn thêm:
- Cậu chúc các cháu lên đường tới đích và có nhiều chiến công. Là người chỉ huy, cậu hy vọng có lúc được gặp mặt các cháu giữa trận tiền. Lời khuyên đầu tiên của cậu là: "Dũng cảm và cảnh giác". Lần chia tay tạm biệt này cậu cũng nhắc lại: "Cảnh giác và dũng cảm".
Chúng tôi đứng nhìn theo bóng cậu dần khuất trên con đường quê. Ba ngày trôi đi nhanh chóng, tôi mới kịp đi thăm viếng vài người thân trong họ. Hai chị em tôi, hai mẹ con tôi lại phải chia tay nhau rồi.
Chính lúc này mẹ tôi lại không khóc, vẻ mặt xúc động nhưng vui vẻ:
- Mẹ sung sướng lắm, hạnh phúc lắm nếu như hai con cứ sóng đôi với nhau trên con đường công tác và cả trên đường đời nữa. Mẹ mong các con thành công và đừng bao giờ để mẹ phải mất đi niềm hy vọng lớn lao đó.
Dung ôm chặt lấy mẹ, nước mắt giàn giụa:
- Mẹ ơi, mẹ cứ tin rằng chúng con sẽ luôn luôn bên nhau như hôm nay đứng trước mặt mẹ và chị Huệ con.
Chị Huệ tôi cũng ôm ghì lấy chúng tôi.
- Không phải như hôm nay mà phải hơn nữa. Chị và mẹ đều mong thế đấy.
Tôi quay lại bắt gặp cái nhìn của Dung và hai đứa đều đỏ mặt.
Ôi tôi đã phải đóng một vai kịch thật khó khăn và đau khổ cho tôi biết nhường nào. Cả mẹ tôi và chị tôi đều chúng với tôi một ảo ảnh lộng lẫy Có ai biết là Dung đã có chồng có con đâu. Thật tội nghiệp cho nỗi mong đợi của mẹ tôi.
CHƯƠNG IV
CÁI ĐÍCH ĐẦU TIÊN
Chúng tôi trở về Hà Nội. Ngay tối đó chị Dung và tôi đến phố Hàm Long đưa lá thư tay của cậu Đức cho một người của ta. Đã có hai đồng chí chờ chúng tôi tại đây. Họ giao cho chúng tôi một số tiền Đông Dương, một bộ giấy tờ mới của Tổng ủy di cư cấp cùng hai va li nhỏ đựng mấy bộ quần áo. Các giấy tờ cũ được thu lại để hủy đi. Chúng tôi thuê xe về ngõ Chân Cầm.
Sáng 15 tháng 8, chúng tôi đóng bộ rất diện. Chị Dung mặc quần lụa trắng, áo dài màu vàng nhạt, son phấn cẩn thận. Còn tôi, sơ mi cổ cứng, măng-sét đúp khuy vàng lấp lánh. Ca-vát sọc ba màu, quần len trô-pi-can xám, giày đánh xi bóng loáng. Lần đầu khoác những thứ này vào người tôi thấy lúng túng quá, chị Dung phải sửa sang, ngắm vuốt cho tôi. Bé Nguyệt nhìn thấy phải kêu lên:
- Anh chị đi đâu mà mặc đẹp thế? Giống như cô dâu chú rể!
- Anh chị đi dự đám cưới mà!
Chúng tôi phải bịa chuyện cho bé khỏi thắc mắc.
Tám giờ mười lăm theo đúng hẹn, một chiếc xe Rơ-nô 4CV lòng biển số 632 đỗ ở cửa. Tài xế đón chúng tôi lên xe. Ba phút sau chúng tôi đã đứng trước quầy bán vé của hãng Hàng không Việt Nam (Air VN). Người ban vé cho biết vé đã bán kín tất cả các chuyến bay tháng 8. Muốn đi, chúng tôi phải ghi tên chờ những chuyến đầu tháng 9. Chị Dung quyết định đến hãng Air France. Ở đây cũng đầy những người Pháp: công chức, nhà buôn, quân nhân cùng gia đình họ đang chờ đợi đến lượt mình. Tuyến Hà Nội - Sài gòn cũng ngừng bán vé. Họ cho biết vì tình hình chuyên vùng, tập kết thiếu phương tiện, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh đã trưng dụng nhiều chuyến bay nên trước mắt vé bán cho Pháp kiều, những bà me Tây, nhưng đám con lai cũng chưa đủ.
Hai chúng tôi đang thất vọng thì thấy một sĩ quan không quân người Việt từ trong đi ra. Chị Dung đã nhanh nhẹn đón anh ta bằng một nụ cười rất lịch sự:
- Thưa trung úy, trung úy có thể mua giúp chúng tôi hai tấm vé máy bay đi Sài Gòn được không ạ?
Viên sĩ quan dừng lại và khi nhận ra trước mặt mình là một cô gái xinh đẹp thì anh ta tỏ ra rất niềm nở:
- Thưa cô, cô muốn đi ngay ạ... Tình hình này tôi chưa dám hứa. Nhưng tôi sẽ cố gắng.
Chúng tôi nán chờ và năm phút sau, viên trung úy đã kéo theo một đại úy không quân người Pháp đến trước mặt Dung. Viên đại úy cúi chào rất kiểu cách. Dung bắt đầu nói chuyện bằng tiếng Pháp với hai phi công và tôi đã phải ngạc nhiên về cách diễn đạt lưu loát của chị.
- Thưa cô, cô đến hơi muộn, Hãng Air France chúng tôi đang đứng trước một đám hành khách khổng lồ. Lúc đầu chính phủ dự định dùng cả máy bay của không lực vào việc vận chuyển dân dụng. Nhưng cuối cùng thì không lực lại phải trưng dụng máy bay của hãng chúng tôi vào việc chuyển quân đội! Nếu cô vui lòng đi một mình thì tôi có thể thu xếp một chỗ duy nhất trong khoang hoa tiêu.
- Xin cảm ơn đại úy, rất tiếc là chúng tôi lại có những hai người. Viên phi công Pháp đi rồi, viên trung úy người Việt vẫn tần ngần đứng lại vẻ mặt áy náy:
- Hay là cô vui lòng đi trưóc. Tôi hứa là chuyến sau bay ra tôi sẽ đón nốt anh ấy.
- Xin cảm ơn, chúng tôi không dám phiền trung úy nhiều. Chúng tôi sẽ kiếm được đôi vé bên Air Việt Nam vào một ngày gần đây.
Viên phi công nói như thanh minh:
- Tôi là người của không lực chứ không phải phi công của hãng Air France thành ra cũng không có mấy ảnh hưởng ở đây. Tôi được tăng phái cho V.A.T.1 (Hàng không vận tải V.N) một thời gian để chuyên chở hàng chư không phải chở người. Tôi rất buồn là không giúp được các bạn.
- Không có gì - Dung cười vui vẻ - Tôi hoàn toàn hiểu trung úy.
- Vào Sài Gòn tôi hy vọng sẽ được tiếp các bạn ở nhà riêng của tôi.
- Chúng tôi rất vui lòng, nếu trung úy có nhã ý.
Viên trung úy lấy trong túi ra một tấm danh thiếp. Anh ta ghi luôn lời mời và trao cho chúng tôi. Chúng tôi bát tay anh ta và ra xe đi về.
- Không được vé máy bay nhưng kiếm ngay được cái danh thiếp - Dung mỉm cười thì thầm với tôi - ở một mảnh đất xa lạ thêm một người quen lắm lúc cũng được việc đấy anh ạ.
Đường bay gặp khó khăn nên chúng tôi đã quyết định đi đường biển. Quanh quẩn ở Hà Nội lúc này không có lợi. Chị Dung hoạt động ở địa bàn này nhiều nên cũng phải đề phòng gặp lại những người quen biết. Đấy là chưa nói mạng lưới tình báo của Phòng Nhì Pháp, của cảnh sát ngụy từ khắp các địa bàn thu gọn về đây để chuẩn bị ra đi. Như một cái ao cạn, cá dồn xuống cả điểm sâu, mật độ rất đặc. Biết đâu chẳng có một tên nào đó chợt nhận ra đối thủ và tiếp tục theo hút? Và như vậy thì nhiệm vụ lâu dài của tôi sẽ bị ảnh hưởng.
Hôm san chúng tôi lấy vé ô tô đi Hải Phòng sớm. Khi tạm biệt gia đình bác Bách, chúng tôi nói phải chuyển địa điểm theo yêu cầu công tác mới. Cả nhà cứ hẹn chúng tôi khi quân ta về tiếp quản Thủ đô thì nhớ đến Chân Cầm ăn mừng chiến thắng.
Ra Bến Nứa, vì đồ đạc gọn nhẹ nên chúng tôi kiếm một cái tắc xi cũng chẳng khó khăn lắm. Nhiều gia đình ngụy quân, ngụy quyền, một số dân công giáo ở các tỉnh lân cận cũng kéo ra bến xe chờ đi Hải Phòng. Đồ đạc chất đống, quần áo nhem nhuốc, con cái lê la khóc mếu, họ chen lấn để kiếm một chỗ cho gia đình. Tình cảnh thất hỗn loạn và bi thảm. Đó mới là những ngày hạ tuần tháng 8.
Xe chạy qua Hải Dương cặp mắt tư lự của Dung cứ chăm chăm nhìn ra ngoài. Phải chăng xe chúng tôi đang chạy qua những đường phố mà chị đã sống suốt thời thơ ấu hay giờ đây gia đình và đứa con thân yêu của chị đang ở đâu đây mà chị không thể giơ tay vẫy chào tạm biệt? Chắc Dung buồn lắm nhưng chị vẫn cố nén cảm xúc của mình. Khi xe sang bên kia cầu Lai Vu, tôi thấv chị bỏ kính xuống lấy khăn lau mắt. Tôi đặt bàn tay lên vai chị. Chị ngước nhìn tôi mỉm cười, cặp mắt đỏ hoe:
- Gió quá anh ạ! - Chị nói lảng sang chuyện khác.
Hải Phòng là thành phố xa lạ đối với tôi. Dung cũng quen biết vài người ở đây nhưng không phải là cơ sở của ta nên tốt nhất là chúng tôi tìm đến một quán trọ. Người lái xe đã đưa chúng tôi đến Khách sạn Đại Lục, một khách sạn vào loại sang nhất thành phố thời ấy. Các quán trọ nhỏ rẻ tiền đều nêm cứng những người di cư.
Chúng tôi thuê một căn phòng trên gác ba. Người bồi phòng dẫn chúng tôi đến buồng 18. Sau khi biếu anh ta một số tiền "puốc-boa" nhỏ, chúng tôi hỏi thăm anh ta nơi bán vé tàu biển đi Sài Gòn. Anh ta vui vẻ chỉ dẫn cho chúng tôi và còn nói thêm cho chúng tôi một tin rất quan trọng.
- Nếu cậu mợ không muốn mất tiền vé thì có thể xin đi nhờ tàu của Tổng ủy di cư. Chính phủ cho vé và cho cả ăn uống.
Chúng tôi cảm ơn anh ta và chiều hôm đó ra ngay quảng trường nhà hát thành phố, nơi tập trung dân di cư đủ loại. Nhìn cách ăn mặc của họ, chúng tôi nhận định đây phần lớn là vợ con binh lính những viên chức phố huyện hay bọn tề điệp nông thôn... Dân "bự" không thèm đi tàu bố thí. Họ cần có tiện nghi, có kẻ hầu hạ. Nếu nhẹ họ đi bằng đường không. Số đông hơn, giàu có hơn, họ còn phải thu xếp tài sản. Khu vực ba trăm ngày chưa câu thúc họ về thời gian. Cách ăn mặc của chúng tôi vì thế hơi nổi bật so với đám dân di cư. Tôi nói với chị Dung là nên thay đổi trang phục cho thích hợp, nhưng chị lại nhận định khác:
- Bọn viên chức dễ quan tâm đến những người sang trọng. Quan điểm giai cấp của họ là như vậy mà. Ta cứ xem sao.
Chúng tôi đến văn phòng đăng ký dân tị nạn. Chị Dung đi thẳng đến một viên chức người Pháp xin hỏi về thể lệ xin di cư bằng đường biển. Viên chức này tỏ ra lịch sự giới thiệu chúng tôi với một viên chức người Việt ở buồng bên. Thế là cuộc điều đình của chúng tôi rất thuận lợi.
- Thưa ông, chúng tôi có giấy của Tổng ủy di cư cấp ở Hà Nội. Gia đình chúng tôi đã đáp máy bay vào Sài Gòn trước. Chúng tôi bận thu xếp một số việc phải đi sau. Máy bay đã bán hết vé tháng 8 vì không lực trưng dụng để chuyển vận Pháp kiều. Nay chúng tôi muốn được đi bằng đường biển, mong quý ông làm ơn giúp đỡ cho.
Chúng tôi đưa giấy của Tổng ủy ra và quả là có hiệu lực. Dân di tản ở đây cũng đang làm thủ tục để xin loại giấy này ở Ban Di cư Hải Phòng. Có giấy rồi chúng tôi chỉ việc ghi tên vào chuyến tàu sớm nhất. Viên chức người Việt này đã dành cho vợ chồng tôi ghế nằm ở ca-bin tầng ba của tàu Monte Carlo và dĩ nhiên là không mất tiền!
Sau này tôi mới biết chiến dịch dụ dỗ cưỡng ép di cư này là do Hoa Kỳ đề xướng và đài thọ. Để tiến hành phá hoại lâu dài đất tước ta, Mỹ đã chi ra hàng chục triệu đô-la vào việc này. Các hãng vận tải đường biển của nhiều nước tranh nhau món thầu béo bở trên. Sau đó hãng vận tải Hàng không dân sự (CAT) do tướng Chenault chỉ huy cũng đã tham gia ào ạt vào chiến dịch vận chuyển này. CIA đã dùng máy bay của CAT chở ngược chiều những vũ khí phá hoại đặc nhiệm cho bọn phản động được gài lại để phá hoại miền Bắc.
Đêm hôm đó chúng tôi yên tâm nghỉ lại Khách sạn Đại Lục. Vì là đôi vợ chồng, chúng tôi chỉ thuê một căn buồng và do đó cũng chỉ có một cái giường. Chúng tôi ngồi bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Bầu trời đầy sao. Gió từ biển thổi vào, hơi thu se lạnh. Chúng tôi bàn nhau không nói chuyện công việc ở khách sạn và đi nghỉ sớm để lấy lại sức sau một ngày mệt mỏi. Nhưng khi nhìn thấy một cái giường thì cả hai cùng cảm thấy tình thế gay cấn.
- Dung ạ - Tôi chủ động nói trước - Hôm nay ta phải gác. Ta đem theo ít tiền, nhỡ có kẻ nào lẻn vào cuỗm mất thì biết xoay xở vào đâu. Dung đi ngủ đi mình gác trước cho.
- Anh ngủ trước đi, em chưa buồn ngủ đâu, mười hai giờ em sẽ gọi anh thật đấy.
- Mình khỏe hơn mà. Dung nghỉ trước đi.
Biết là hai đứa đun đẩy thêm mất thì giờ, chị cởi bỏ áo dài treo lên mắc rồi lên buông màn.
- Thế em đi nằm trước vậy. Sau hai tiếng ta lại đổi cho nhau anh nhé.
Dung lên giường, tôi ngồi trên ghế. Chị nằm nghiêng, mái tóc đen chảy mềm trên gối. Qua tấm màn tuyn, da dẻ chị vẫn ánh lên một màu hồng. Hơi thở đều đều làm cho đường cong trên người chị phập phồng như những làn sóng gợn. Tôi cứ ngồi nghểu dáng như thế và cảm thấy đầu óc mình trong suốt như pha lê, không một cơn buồn ngủ nào có thể làm cho vẩn đục.
Bỗng cặp mắt Dung từ từ mở ra. Chị ngồi dậy:
- Anh Nghĩa ơi, vào đây... vào đây em bảo.
Tôi ngoan ngoãn vén màn chui vào. Dung thì thầm vào tai tôi:
- Chúng ta không phải chỉ sống với nhau một đêm nay mà có thể phải cả nhiều năm tháng. Liệu chúng ta có thể cử kẻ thức người ngủ mãi thế này được không? Cái kiểu cách đó làm sao tránh được sự ngạc nhiên của mọi người. Đó là chưa kể người ngồi đã vậy, người nằm cũng không sao ngủ được. Chúng ta phải lành quen với hoàn cảnh mới anh ạ. Anh hãy coi em như bạn trai... như em gái của anh. Anh nằm xuống đây, giường rộng làm. Giữa chúng ta có một khoảng cách ngắn ngủi, nhưng em tin là chúng mình có đủ nghị lực để giữ gìn nó như giữ gìn một vật quý, nó sẽ trong suốt như tình bạn của hai anh em mình. Nằm xuống đi anh. Cửa em đóng kỹ rồi. Tiền bạc em giấu trong người cả, anh đừng lo!
Dung nhìn tôi, mỉm cười khuyến khích tôi như dỗ dành một đứa trẻ. Tôi chấp hành lệnh của chị một cách ngoan ngoãn.
- Anh cứ bỏ bộ đồ đi phố ra, không sợ mất đâu.
Ánh mắt chị lóe lên một chút tinh nghịch. Tôi lại ngồi dậy lật đật cởi bỏ quần áo dài. Tôi nằm xuống, người run bắn lên. Tôi phải quấn cái chăn mỏng lên người và nằm im như chết. Tôi vừa cảm thấv ngượng ngùng nhưng cũng thấy mình thật hạnh phúc. Mình đã tạo được một niềm tin lớn lao cho người bạn gái. Mãi tôi mới thiếp đi. Giấc ngủ bập bềnh trôi nổi trong thênh mông...
Khi tỉnh dậy, đã thấy Dung ngồi bên cạnh. Chị đặt bàn tay mềm mại lên vai tôi:
- Thế nào, anh ngủ được chứ?
Tôi mỉm cười thay cho câu trả lời.
- Anh thấy không, mọi cái đều có thể rèn luyện được. Một vài đêm là quen đi thôi, việc gì phải gác sách lôi thôi cho thêm mệt!
Chiếc tàu khách Monte Carlo có lẽ của hãng Messageries Maritimes buông neo bên cảng Hải Phòng thở khói hồng hộc. Những chiếc thang sắt được hạ xuống cố nuốt vợi đi đám người đông như kiến, mệt mỏi, xô đẩy, la thét ầm ĩ dưới cầu cảng. Những tay lính thủy cởi trần da đỏ như gà chọi, lông lá đầy ngực, râu ria xồm xoàm đứng khoanh tay trên boong ngắm nhìn đám dân di cư. Thỉnh thoảng vài tay lại cười rú lên khi những chiếc dùi cui của cảnh sát nện thẳng xuống đầu đám người chen lấn. Những trận đòn máu me đó cũng không sao lấy lại được trật tự. Tiếng khóc khét tiếng chửi bới, tiếng đổ vỡ vẫn vang lên. Một vài người bị dồn ra mép cầu và ngã xuống biển chơi vơi kêu cứu. Hầu như không ai chú ý đến số phận của họ. Sau đó họ đã xoay xở ra sao ai mà biết được. Trước tình cảnh đó, mấy chiếc thang đã được cần trục nhấc lên. Cuộc di tản ngừng lại. Sự thất vọng đã làm nguội đi cuộc xô đẩy. Cảnh sát dồn đám đông ô hợp đó vào sâu bên trong rồi mới tiếp tục điều khiển họ lên tàu.
Hai chúng tôi cũng đứng chờ đợi trong cái đám hỗn độn đó. Ngay bên tôi, một người đàn bà bụng chửa đội một thúng nặng có lẽ là cả tài sản của gia đình chị. Tay chị ôm một đứa trẻ chừng một năm. Bíu theo chị còn ba đứa nưa. Con bé lớn nhất mới độ mười tuổi mà đã phải gánh hai cái tay nải. Hai đứa con trai thì đứa xách cái ấm, đứa khoác chiếc bị cói đựng lỉnh kỉnh những nồi, xoong bát đĩa, cơm nắm muối vừng, những mẩu bánh mì gặm dở, mấv con cá khô kéo theo một đàn ruồi. Cái gia đình nheo nhóc đó nhiều lúc bị chen đẩy mỗi người một nơi, khóc mếu gọi nhau lạc cả giọng. Chị Dung bảo tôi xách cả hai va li để Dung bế hộ người đàn bà đứa bé trên tay. Lúc đầu chị ta không dám đưa vì sợ người lạ bế mất con. Sau chúng tôi phải giải thích là sẽ đi liền trước mặt chị, chị ta mới yên tâm. Chúng tôi trôi theo dòng người rồi leo dần lên đến những bậc thang sắt cuối cùng của con tàu cao lênh khênh như ngôi nhà ba tầng. Lên đến boong Dung trao lại đứa trẻ cho người mẹ làm cho chị ta cảm động nước mắt vòng quanh:
- Cháu cám ơn cậu mợ đã giúp đỡ mẹ con nhà cháu.
- Một chút việc nhỏ có gì mà chị phải cảm ơn!
Chúng tôi được chỉ dẫn đến một xen-luyn trên tầng ba. Ở đây thoáng mát, lịch sự, có giường nằm và ngay gần đấy là phòng ăn, quầy rượu, hành khách ở tầng ba không đông lắm. Hấn hết là các gia đình viên chức. Vài vị cố đạo, một số Tây đầm, những me Tây loại sang và nhưng nhà buôn người Hoa, người Ấn giàu có. Họ ra đi với những hành trang đắt tiền. Tầng hai và dưới hầm tàu lèn chặt những người phần lớn ở nông thôn, nghèo khó hơn hoặc ít thế lực hơn. Nhìn đống đồ đạc lộn xộn bày ra quanh người họ là có thể hiểu được hoàn cảnh của họ.
Mười hai giờ hôm đó chuyến tàu di cư thứ hai khởi hành. Một hồi còi vang lên, con tàu từ từ chuyển mình rời bến. Nhiều người đứng trên boong khóc sướt mướt nhìn thành phố cảng xa dần. Một vài người già chắp tay hướng về dải đất liền, vái mồ mả ông cha, vái đền miếu, từ đường, vái miền quê chôn rau cắt rốn một cách cung kính.
Người đàn bà chửa có bốn con nhỏ phân bua với mấy người xưng quanh:
- Những như cháu thì cháu chẳng đi làm gì. Từ bé có bao giờ ra khỏi làng. Đi kiếm được miếng cơm thiên hạ đâu có dễ. Nhưng bố nó đánh giấy về bảo phải đi không thì Việt Minh giết chết. Bố cháu là lính com-màng-đô thì sợ thật đấy, chứ như mẹ con nhà cháu thì ai thèm giết cho phí đạn.
- Bà này lẩn thẩn quá. Cần gì phải đạn mà sợ tốn. Một con dao là đủ.
Người đàn ông góp chuyện chừng ngoài ba mươi tuổi. Đầu húi cua, mặt lưỡi cày, lông mày rậm, mắt lá răm, mũi hếch, môi thâm còn hàm răng thì bịt vàng lấp lánh. Thân hình hắn nhỏ bé nhưng mọi cử động có vẻ nhanh nhẹn. Ngồi bên hắn là mọt thiếu phụ đẫy đà, trắng trẻo mặc bộ đồ đen. Cổ tay chị ta đeo đầy vòng xuyến. Chị ta ngồi tựa vào một đống va-li cao ngất. Một đứa con gái sứt môi chừng ba tuổi quặt quẹo xanh rớt, hai tay giữ chằng chằng hai gói kẹo xanh đỏ mà vẫn mếu mạo vòi vĩnh mẹ. Người đàn bà thỉnh thoảng lại nghiến răng lại mắng con bằng những lời độc địa tục tĩu.
Thấy tôi chú ý đến họ, một ông già thì thầm vào tai tôi:
- Ông ấy là trưởng đồn cảnh sát phố Mía đấy. Của ấy không đi thì chẳng cần đến Việt Minh mà chính anh em họ hàng ruột thịt nó cũng sẽ giết nó. Người đàn bà này trước là em dâu nó. Nó dựng tội đẩy em đi tù rồi cướp vợ em nên trời trừng phạt nó. Ba lần đẻ mới được một con bé dị tật. Nghe nói hắn bị bệnh giang mai.
- Sao cụ biết tường tận về ông ta như vậy?
- Cả huyện tôi ai mà không biết thằng sếp Tẩu.
- Cụ có bà con quen biết gì trong Nam không?
- Chẳng có ai thân thích, nhưng năm một nghìn chín trăm ba mươi hai tôi đã vào trong đó. Dễ làm ăn lắm cậu ạ. Ở ngoài này thì cũng chẳng ai động đến mình vì suốt đời có gây thù gây oán với ai. Chỉ vì nghèo, ruộng đất chẳng có nên tôi tính đi tìm chỗ rộng đất. Nhân dịp họ cho đi tàu không mất tiền nên tôi kéo gia đình đi thôi.
- Cụ dự tính sẽ vào định cư ở vùng nào?
- Tôi muốn vào Thủ Dầu Một, tôi có nghề cạo mủ cao su, không biết họ có cho mình được đúng ý nguyện hay không.
Trên sàn tàu đã phô bày ra tất cả hoàn cảnh riêng tư của đám người di tản. Kẻ có tội ác, kẻ phản bội, bọn lưu manh đĩ điếm, người bị lừa bịp, hù dọa. Cũng có người ra đi chỉ vì mưu kế sinh nhai đơn thuần. Và tôi thấy tự hào là trong cái sự phân cực đầy cặn bã rác rưởi ít nhất cũng còn có hai chúng tôi là những hạt giống tốt cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Sáng 22 tháng 8, tàu Monte Carlo cập bến cảng Sài Gòn. Hai chúng tôi xuống tàu và theo bước đoàn người mệt mỏi vì năm ngày đêm say sóng, đến trại đón tiếp những người Bắc di cư. Đã có những sọt bánh mì bố thí chia cho từng người. Chúng tôi nhận những của đó để giảm bớt chi tiêu vì trước mắt chia biết dựa vào đâu. Những người giàu có, họ đi thẳng tới khách sạn hoặc có bà con, xe cộ đón sẵn. Đến đây tôi mới biết là đám dân di cư sẽ được đưa tới Hố Nai chứ không phải ở trong thành phố. Người ta gọi tên từng người qua loa phóng thanh để lên xe ô tô tải. Hai chúng tôi bàn nhau lui lại. Chúng tôi đến xin các viên chức điều hành ở bến cảng cho phép chúng tôi dừng lại ở thành phố để tìm người nhà. Họ đưa cho chúng tôi luộc thảnh giấy:- Xin ông bà khai cho địa chỉ của thân nhân.
Nhìn tờ khai của tôi, người điều hành nhún vai:
- Địa chỉ ở khách sạn đâu có cố định. Nếu họ rời khỏi khách sạn rồi thì sao?
- Thưa ông, trường hợp đó thì tôi sẽ đi đăng báo nhắn tin và sau đó chúng tôi sẽ về ngay Hố Nai để trình diện và chờ đợi. Chỉ dám phiền ông cấp cho một giấy phép ở lại thành phố bảy mươi hai giờ đồng hồ là đủ ạ.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng được cấp một tờ giấy đúng như lời thỉnh cầu. Việc đầu tiên chúng tôi tìm thuê một căn buồng nhỏ ở một nhà trọ rẻ tiền. Tôi lo công việc tìm kiếm kéo dài sẽ ngốn hết khoản tiền ít ỏi mang theo. Chị Dung đã làm tôi yên lòng.
- Ngoài tiền cậu cho, em cũng mang theo một ít tiền riêng và đồ trang sức. Nếu cần bán đi chúng ta có thể trang trải được một thời gian.
Khách sạn Phúc Ninh là nhột ngôi lầu ba tầng cũ kỹ. Tầng dưới là tiệm ăn, còn hai tầng trên cho thuê. Những căn buồng ngăn nhỏ như những xà lim nhà tù với những bộ đồ trải giường hoen ố và bẩn thiu, những ngọn đèn mờ nhạt vì bụi bặm. Người ta có thể thuê từng giờ đến cả tháng. Khách trọ hầu hết là những người nghèo khó, nghiện ngập, những tay giang hồ lỡ bước, những cặp tình nhân hành lạc vụng trộm trong chốc lát. Tóm lại có thể nói nơi đây là cái đáy của xã hội Sài Gòn. Đêm đó căn buồng bé nhỏ của chúng tôi cũng phải chịu tác động của bao nhiêu âm thanh xa lạ từ bốn bề dội lại. Tiếng cười rũ rượi của nhưng cô gái từ ban công bên cạnh vọng sang. Tiếng khóc nức nở của một người đàn bà ở buồng trong tiếng lè nhè của mấy người say rượu ngoài hành lang. Tiếng cãi lộn tục tằn của "dân bẹp"1 (Những người nghiện thuốc phiện) từ lầu trên vọng xuống. Tiếng âm nhạc ầm ĩ của những bài hát A-rập ở quầy rượu phòng dưới vọng lên và đôi lúc cả tiếng còi ré lên dữ dội của cảnh sát. Nằm trên đất liền mà cái ảo giác bập bềnh nôn nao trên biển cả vẫn còn thâm nhiễm trong hệ thần kinh của tôi làm cho giấc ngủ nổi chìm trong mệt thỏi.
Sáng hôm sau tôi tìm số điện thoại và gọi cho anh tôi. Tôi đã được người bên kia đầu dây trả lời về luật sư Phan Quang Ân đã rời Khách sạn Europe từ thứ hai tuần trước và không để lại địa chỉ. Thế là lại bị mất hút. Tôi rất buồn. Liệu anh đã đến làm việc Tòa án tối cao chưa, hay còn mắc bận vì chuyện nhà chuyện cửa. Dù niềm hy vọng chỉ còn mờ nhạt như ngôi sao trên nền trời buổi sáng, chúng tôi cũng vẫn phải theo đuổi. Tôi quyết định đến thẳng Tòa án tối cao. Đường xá chưa quen nên việc đầu tiên là phải tìm mua một tấm bản đồ thành phố. Tôi hỏi thăm người chủ tiệm sách rồi đánh dấu từng vị trí trên bản đồ. Đem về phòng trọ, tôi và Dung cùng nhau học thuộc những đại lộ chính. Dung trông nhà, còn tôi sẽ bắt đầu một cuộc hành quân thực tập. Tôi đã đến được Tòa án một mình không cần hỏi ai. Hàng chục xe ô tô du lịch đỗ thẳng hàng trong sân. Cổng có lính canh làm cho công thự này mang thêm vẻ thâm nghiêm.
Hầu như mọi người từ trong Tòa án đi ra đều dùng xe riêng nên không tiện chặn họ lại để hỏi. Hơn nữa, cách phục sức trang trọng của những người này cùng với vẻ mặt nghiêm nghị lạnh lùng của họ làm cho tôi rụt rè. Tôi đứng vơ vẩn ở đây chừng nửa tiếng mới thấv một ông già gày gò, tóc bạc đeo kính trắng, xách một cái cặp mỏng từ trong tiền sảnh đi ra. Tôi vội tiến lại trước mặt ông cúi mình chào lễ phép:
- Thưa ông, tôi muốn tìm luật sư Phan Quang Ân ở Hà Nội mới vào trong này. Nếu ông biết xin ông làm ơn chỉ giúp tôi chỗ ông Ân làm việc.
- Anh cần ông Ân có việc gì? - ông nói giọng Bắc làm cho tôi thêm hy vọng.
- Dạ, một việc riêng thôi ạ.
- Nếu anh cần đến các việc tố tụng, bào chữa hoặc thảo các văn bản có liên quan đến pháp lý thì tôi sẵn sàng giúp anh. Xin tự giới thiệu tôi là lật sư Trương Công Nghị. Ông Ân không nhận những việc này đâu. Ông ta chuyển sang hoạt động chính trị là chủ yếu.
- Xin cảm ơn luật sư. Rất tiếc tôi không có việc gì liên quan đến pháp lý (lẽ ra phải nói rất may...). Tôi là người bà con với ông Ân. Chúng tôi mới di cư vào, tôi chỉ cần nhờ luật sư cho biết địa chỉ của ông ấy thôi ạ.
Ông già nhún vai mỉm cười:
- Anh có tin là người bà con ấy vui mừng được gặp anh không?... Ông ta vừa khai trương một Văn phòng lớn ở đường Phan Đình Phùng. Số nhà tôi không nhớ rõ nhưng anh có thể dễ dàng nhìn thấy tấm biển đồng khắc "Ván phòng - Tiến sĩ luật khoa Phan Quang Ân" ở khoảng gần ngã tư với phố Hai Bà Trương thì phải.
- Xin cảm ơn luật sư nhiều.
- Không có gì. Chúc anh may mắn.
Tôi nhìn mãi theo bóng ông già cao lêu đêu, chậm chạp đếm từng bước trên vỉa hè rợp bóng cây.
Tấm bản đồ giúp tôi nhanh chóng tới được ngã tư Phan Đình Phùng - Hai Bà Trưng. Tôi tìm ngay ra tấm biển dông. Nó gắn bên cửa chính của một tòa lầu ba tầng. Mặt tiền ngôi nhà không lớn lắm, nhưng được xây dựng hiện đại và kiên cố. Tôi mạnh dạn bước lên thềm nhìn vào trong cửa kính thấy càn phòng rất rộng trải thảm. Giữa phòng kê bộ ghế xa-lông bọc da. Sát tường bên trong là một bàn giấy rộng, bên trên treo một bức tranh phong cảnh lớn: Hoàng hôn Cửa Bắc. Bên phải bàn giấy là một tủ kính cao gần đến trần nhà, trên ngăn bày những bộ sách rất lớn, bìa bọc da, gáy in chừ vàng. Đó là những bộ luật cổ kim đông tây của nhiều quốc gia, bộ Đại Bách khoa toàn thư cùng những tác phẩm của nhiều nhà luật học nổi tiếng. Góc tường phía cửa sang buồng bên có chiếc bàn nhỏ dành cho người thư ký đánh máy.Văn phòng vắng ngắt, tôi bấm chuông. Cánh cửa vào buồng trong mở ra. Một cô gái xuất hiện, dung nhan của cô như in lại hình ảnh của chị dâu tôi cách đây mười năm. Điều đó làm cho tôi khẳng định đây là cô em chị Lệ Ngọc. Cô mở cửa ngoài và gật đầu chào tôi rất kiểu cách:
- Xin mời ông vào.
- Thưa cô, tôi xin được gặp luật sư Phan Quang Ân - Tôi vẫn đứng ở cửa.
- Xin mời ông ngồi chờ cho một phút. Tôi đi mời luật sư.
Cô gái đi vào buồng trong và chẳng bao lâu anh tôi xuất hiện trên khuôn cửa. Tám năm xa cách nhưng không có thay đổi gì lớn trên khuôn mặt anh. Tôi gật đầu chào và im lặng xem anh có nhận nổi tôi không. Cặp mắt anh dán vào tôi và một vẻ sửng sốt bùng lên...
- Anh không nhận nổi ra em à? Nghĩa đây mà.
- Trời! Em tôi! - Anh ôm chầm lấy tôi.
Tôi cảm thấy sức mạnh đôi cánh tay to béo của anh ghì lấy vai mình.
- Em từ đâu đến đây với anh thế ?
- Từ quê hương anh ạ. Em đã đi tìm anh khắp Hà Nội, em lần theo những lời chỉ bảo của nhiều người mà tới được đây.
- Thế dì và Huệ đâu?
- Mẹ em và chị Huệ vẫn ở quê.
- Ôi, thế em đi có một mình à?
- Có một người nữa anh ạ... Dung, vợ em! - Tôi thấy ngượng vì đây là lần đầu tiên tôi nói mệnh đề này.
- Thế cô Dung đâu? - Còn nằm ngoài khách sạn ạ. Em đi tìm anh chưa có hy vọng gặp ngay nên sợ kéo cả hai đi thêm tốn tiền xe.
- Thôi được, em hãy vào trong nhà rồi ta sẽ đi đón cô ấy sau.
Tôi theo anh vào trong, qua một vườn cây xanh đầy hoa đến một biệt thự hai tầng xinh xắn và rất lộng lẫy vì hàng trăm chậu cảnh đầy hương sắc.
- Anh chị ở trong này. Bên ngoài là văn phòng làm việc.
Vào đến cửa ngôi nhà trong, tôi thấy anh tôi gọi:
- Mình ơi! Lệ Ngọc ơi. Ra đây, ra đây nhanh lên.
Chị Ngọc và cô gái hồi nãy cùng bước ra. Tôi gật đầu chào chị.
- Có nhận ra ai đây không? - Anh tôi hỏi.
Chị nhìn tôi từ đần đến chân rồi mỉm cười lắc đầu:
- Em chịu không nhớ ra!
- Nghĩa! Em trai anh đấy mà.
- Trời, em Nghĩa! - Vẻ ngạc nhiên trùm lên khuôn mặt chị - Trong trí nhớ của chị, em chỉ là một chú bé gảy gò trắng xanh của cái năm bốn mươi lăm đen tối. Thế mà bây giờ em lớn thế này. Lạ quá ! Thế anh Ân có nhận nổi ra chú ấy ngay không?
- Ra ngay chứ? - Anh tôi khẳng định - Vẫn là chú bé gầy gò trắng xanh năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm phóng đại ra gấp đôi thôi, chứ có gì mà không nhận ra. Với lại ruột thịt bao giờ cũng có một linh cảm đặ biệt.
- Em thấy anh ấy hỏi lật sư Ân, em cứ tưởng là khách hàng! - Cô gái cũng thêm vào câu chuyện của chúng tôi
- Ba đâu nhỉ?
- Ba đang có khách - Chị cười - Các cụ đang xoa1 (Đánh mạt chược). Thôi để lên chào cụ sau. Em sẽ sắp đặt phòng cho chú Nghĩa nghỉ ngơi tắm rửa, sau đó ta sẽ nói chuyện nhiều. Đi xa chắc Nghĩa mệt lắm, em nhỉ.
- Dạ, em cũng bình thường thôi ạ.
- Còn phải đi đón cô ấy nứa chứ.
- Đón ai?
- Cô Dung, vợ chú Nghĩa còn đang ở ngoài khách sạn.
- Thế mà chị không biết. Kim, em gọi lái xe cho chị để đưa chú Nghĩa ra khách sạn đón cô Dung.
- Để em đi cho khỏi phải gọi - Cô gái có nụ cười rất hồn nhiên.
- Ừ hay Kim đi với Nghĩa cũng được.
Kim ra hiệu cho tôi theo ra phía ga-ra. Một cái Peugeot 203 đen bóng. Kim mở cửa cho tôi vào. Cô nổ máy và bấm còi. Một người đàn ông trong nhà chạy ra lễ phép.
- Thưa cô để tôi lái ạ.
- Anh mở cửa ga-ra giúp tôi. Tôi lái lấy.
Người tài xế nhanh nhẹn làm theo. Chiếc xe nhẹ nhàng lan bánh chửi ra cổng. Chị nghỉ ở Khách sạn Palace hay Continental ạ.
- Dạ ở Khách sạn Phúc Ninh - Tôi cảml thấy thảm hại khi phải đọc tên cái khách sạn tồi tàn đó.
- Em mới vào cũng chưa thuộc đường lắm nhưng không sao. Có đi có quen.
Tôi nhìn qna tấm bản đồ và hướng dẫn cô lái đến địa điểm rất chính xác.
Lúc đó đã mười một giờ. Ngồi chờ tôi từ sáng chắc Dung cũng nóng ruột. Thấy tôi trở về cùng với một cô gái ăn mặc sang trọng thì chị đã biết là tôi gặp may rồi. Tôi giới thiệu hai người với nhau:- Đây là cô Kim, em ruột chị Ân. Còn Dung... nhà tôi đấy?
Hai người bắt tay nhau thân thiện.
- Rất sung sướng được quen biết Kim.
- Em cũng vậy. Anh chị trả phòng thuê cho khách sạn đi. Em đưa anh chị về kẻo cả nhà mong.
Tất cả công việc thanh toán, thu dọn và trang điểm được làm trong vòng mười lăm phút. Chúng tôi ra xe với hai chiếc va-li nhẹ tênh.
Khi xe chui vào cổng tôi đã thấy cả nhà ngồi trên những chiếc ghế mây ở ngoài vườn. Anh tôi ra tận xe đón và dẫn chúng tôi đến trước mạt ông bố vợ. Chúng tôi cúi chào cụ.
- Thưa ba, đây là hai vợ chồng em Nghĩa con.
- Xin chào ! - Ông cụ Cự Phách đứng dậy, dáng hơi lom khom. Chỉ mười năm thôi mà ông đã già đi nhiều - Hồi tôi về thăm dưới quê, chú ấy còn bé tí tẹo. Cách nhau một cuộc chiến tranh mà anh em còn được hội ngộ là đại phúc đấy!
Ông hỏi thăm gia đình tôi qua loa rồi quay sang nhắc các con.
- Thôi đưa cô chú ấy về phòng nghỉ, tắm rửa đôi chút rồi còn đi ăn cơm.
Chúng tôi được đưa lên một căn buồng khá rộng ở tầng hai ngôi nhà ngoài. Căn buồng đầy đủ tiện nghi. Có một giường, một đi-văng, có tủ và bàn gương trang điểm. Có giá sách và bàn ghế. Có cả toa-lét riêng. Anh tôi chỉ bao tỉ mỉ cho chúng tôi cạch xếp đặt cuộc sống khi giúp chúng tôi xếp quần áo từ va-li vào tủ, anh thân mật bảo tôi:
- Các em nghèo quá. Cần phải may mặc thêm cho đầy đủ. Anh sẽ bảo chị Ngọc lo liệu chu đáo cho các em.
Chúng tôi thay nhau tắm rửa sạch sẽ và cảm thấy thoải mái sau một chuyến đi dài.
Mười hai giờ chúng tôi được mời xuống buồng ăn. Gia đình ngồi quanh một chiếc bàn bầu dục lớn. Ông Cự Phách ngồi ở phía đầu. Đối diện với ông là cô Kim. Anh chị tôi ngồi bên phải ông cụ. Chúng tôi ngồi bên trái. Bưa ăn thật thịnh soạn. Không hiển vì buổi đầu hội ngộ của chúng tôi mà bữa cơm trở nên đặc biệt hay cuộc sống bình thường của gia đình này là như vậy? Anh tôi mở một chai Martel rót ra những chiếc cốc pha lê. Trừ ông già, mọi người đều đứng dậy nâng cốc chúc mừng cuộc tái ngộ của anh em tôi sau gần mười năm bặt tin nhau. Tôi chưa bao giờ làm quen với những bữa tiệc tùng long trọng nên tuy chỉ có vài người trong nhà mà tôi vẫn lóng ngóng. Chị Dung thì tỏ ra thành thạo và duyên dáng hơn tôi. Mặc dù Dung chưa được điểm trang đầy đủ, ăn mặc những bổ đồ sang trọng và đúng kiểu nhưng Dung vẫn khá nổi trong bàn tiệc. Chị Lê Ngọc vốn cũng là một người đàn bà đẹp, nhưng ở tuổi ngoài ba mươi, chị cũng không còn giữ được cái vẻ rực rỡ của mười năm về trước. Cô Kim cũng rất xinh, nhưng cô đã để cho nước da lệ thuộc quá nhiều vào son phấn.
- Bây giờ em có thể vừa án vừa kể sơ lược cho cả nhà nghe về những gì đã xảy ra với em trong suốt cuộc chiến - Chị Lệ Ngọc nhắc tôi.
Tôi đã diễn theo đúng kịch bản dựng sẵn. Tuy nhiên vai của tôi gần giống hệt cuộc đời thực của tôi nên tôi kể rất lưu loát và nhiều đoạn tôi cảm thấy khá xúc động. Nó cũng dễ thuyết phục người nghe vì tính chân thực của nó. Khi tôi nói đến đoạn tôi đi lính và chiến đấu ở Điện Biên Phủ thì chị Lệ Ngọc vội hỏi xen vào:
- Em đi lính dù hay lính thuộc địa?
- Lính Việt Minh, bộ đội Cụ Hồ chị ạ.
Tôi thấy nét mật chị dâu tôi tái đi. Chị thốt lên vẻ kinh hoàng:
- Trời ơi ! Thế chú đã là Việt Minh Cộng sản?
- Vâng, mới là Việt Minh chưa chưa phải là Cộng sản.
Ông Cự phách cười vang lên rất vui vẻ:
- Xin chào người lính từ bên kia chiến tuyến? - Ông già vỗ vào vai tôi vẻ thân mật - Thế tại sao anh vẫn tìm đường vào đây với chúng tôi trong lúc các anh đang được thế giới gọi là những người chiến thắng?
- Thưa bác, cháu vẫn là người chiến thắng chứ ạ. Làm sao có thể biến đổi được lịch sử, xoay chuyển được quá khứ?
- Anh có tự hào về chiến tích đó không?
- Cháu rất tự hào. Một người lính trong đời anh ta được thắng một trận như Diện Biên hay Đống Đa, Wateploo, Xích-bích, Xta-lin-gơ-rát hay Normandie thì cũng đáng tự hào lắm chứ ạ.
- Bravo! Như vậy mới đáng gọi là một người lính! - Cô Kim ủng hộ ý kiến của tôi - Nhưng em trông anh Nghĩa chẳng giống người lính chút nào, nhất là một người lính Việt Minh!
- Chắc là lần đầu tiên cô trông thấy một người lính Việt Minh bằng xuống bằng thịt?
- Đúng vậy. Với em, họ chỉ mới xuất hiện trên báo chí, trên màn ảnh. Trông họ khát máu hơn, tàn ác hơn và xin lỗi... họ ngu xuẩn hơn nhiều.
- Họ là sản phẩm của những bộ óc như vậy mà!
Hình như câu nói mang hai nghĩa của tôi quá mạnh có thể làm cho tôi hiện rõ nguyên hình nên Dung vào câu chuyện:
- Anh Nghĩa đến hôm nay đã thay đổi ngoại hình đi nhiều lắm. Từ bỏ núi rừng, bỏ bộ đồ ka ki, trở về đồng bằng ăn mặc khác đi nên chẳng thể giống những người trong phim nữa.
- Xin lỗi cho tôi hỏi người lính Việt Minh một câu - ông già quay lại nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt vui vẻ - anh nói quá khứ là không thể lay chuyển, lịch sử là bất biến. Thế tại sao anh lại từ bỏ quá khứ, tách mình khỏi lịch sử mà anh thấy đáng tự hào?
- Dạ thưa bác, cháu chưa bao giờ và sẽ không bao giờ từ bỏ quá khứ, phủ nhận vinh quang của lịch sử. Cháu chỉ chưa chấp nhận tương lai người ta gán cho chết mà thôi. Cháu sẽ mãi mãi cho rằng kháng chiến chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp là một sứ mạng thiêng liêng của mỗi người Việt Nam. Chỉ có Việt Minh là có khả năng tập hợp được sức mạnh của dân tộc để chống Pháp. Một số chính đảng khác cũng đề ra cương lĩnh chống thực dân giành độc lập, nhưng trên thực tế họ không làm nổi điều này. Nhưng Việt Minh không phải chỉ có mục đích tối thượng chống giặc ngoài là thực dân Pháp mà họ còn chống cả nhiều người Việt Nam mà họ gọi là thù trong. Theo học thuyết đấu tranh giai cấp của họ thì cháu và hàng ngàn cán bộ Việt Minh khác xuất thân từ giai cấp địa chủ, tư sản hay tầng lớp quan lại trước đây đền được liệt vào đối tượng đấu tranh của một cuộc cách mạng long trời lở đất đã và sẽ diễn ra trên toàn bộ miền Bắc. Cháu không chấp nhận cảnh nồi da nấu thịt này. Vì vậy cháu đã chia tay với những người Cộng sản, một cuộc chia tay thầm lặng nhưng quyết liệt. Tương lai sẽ là một mất một còn.
- Chắc họ chỉ xử tội những người không đứng trong đội ngũ của họ thôi chứ? - Anh tôi hỏi.
- Dạ, không trừ một ai - Dung cũng tham gia vào cuộc nói chuyện - Trong lúc kháng chiến, cần có đông người trong đội ngũ thì họ cũng có một sách lược lôi kéo. Nghĩa là có lỏng tay chút ít những về nguyên tắc tư tưởng thì vẫn là thành kiến giai cấp, kỳ thị thành phần phi vô sản. Nhưng nay có chiến thắng, có hòa bình rồi hết “giặc ngoài", họ chẳng có gì phải chiếu cố, phải lôi kéo "thù trong" nữa. Hết thú rồi, người đi săn tính chuyện "thịt chó và chim mồi".
Câu chuyện từ trong bữa ăn lan sang bàn nước và kéo dài ra tận nơi hóng mát ngoài vườn cây. Qua nét mặt tôi cảm thấy rõ một lối lo lắng bao trùm lên bà chị dâu tôi. Trong ngôi nhà yên ấm và vui vẻ này bỗng nhiên xuất hiện một con người có gốc gác Việt Minh, tham gia kháng chiến có thể làm suy đồi cái vốn chính trị mà từ lâu chị đã cố gắng vun vén, mua bán cho chồng. Anh tôi thì vẫn bình thản, còn ông Cự Phách thì lại tỏ ra thú vị như một người hiếu kỳ được thấy tận mắt một dị nhân.
Chiều hôm đó, khi chỉ có hai anh em ngồi với nhau, anh tôi mới hỏi về những dự định tương lai của tôi. Tôi hỏi:- Nhưng nay chiến tranh đã làm gián đoạn sự học hành của em. Tuy vậy, đến nay em vẫn muốn được tiếp tục đi học. Không có mảnh bằng trong tay khó mà lập nghiệp nổi ở cái chốn đua tranh này.
- Thế em sẽ bắt đầu từ đâu?
- Từ đệ nhị chuyên khoa anh ạ. Em định gắng sức trong hai năm để có bằng tú tài.
- Em có chí như vậy là rất tốt. Tuổi em cũng đã lớn. Em phải đi học tư và thi tự do. Anh sẽ giúp đỡ em thêm.
- Em xin anh chị giúp đỡ cho chúng em một chỗ ở. Vợ em sẽ đi làm để kiếm sống. Dung có thể xin bán hàng cho một cửa tiệm nào đó. Cũng có thể làm thợ kim hoàn vì gia đình vợ em có nghề này từ lâu đời nên con cái đều có tay nghề cả.
- Chuyện này thì em đừng lo. Anh chị sẽ thu xếp cho em đầy đủ. Ngày hàn vi mấy anh em sống với nhau thiếu thốn vất vả dì còn lo liệu được cho anh em mình nữa là. Công lao dì to lớn lắm. Bây giờ em đã vào đây, anh sẽ có trách nhiệm gây dựng cho em. Anh chỉ mong em chăm chỉ tu thân thì thế nào em cũng thành đạt. Em không được bạn bè đi lại với những người ở phía bên kia nữa. Chẳng may có người vẫn dính líu đến quá khứ, họ sẽ lôi kéo xô đẩy em đến những chỗ không hay. Điều đó chẳng những có hại cho em mà còn ảnh hưởng xấu đến gia đình này nữa.
- Xin anh yên tâm, mọi việc sẽ tốt đẹp.
- Thế em đã mang những giấy tờ gì mà vào được Sài Gòn?
- Chỉ có giấy của Tổng ủy di cư cấp thôi ạ - Tôi đưa các thứ cho anh xem.
- Thế thì mai em cứ quay lại Hố Nai để khai báo toàn bộ, làm đầy đủ thủ tục xin định cư với anh chị ở Sài Gòn. Như vậy chúng ta mới được đảm bảo đầy đủ về mặt pháp lý.
Tôi vâng lời anh và hứa sẽ đi thu xếp đầy đủ những giấy tờ này. Chúng tôi đến Hố Nai, tìm cơ quan tiếp nhận dân di cư.
Thủ tục xin giấy tờ của chị Dung không có chuyện gì khó khăn. Với tôi thì vấn đề phiền toái hơn. Sau khi nghe tôi kể về nguồn gốc của mình, những nhân viên phụ trách về định cư đã xác định trường hợp này phải chuyển sang cơ quan chiêu hồi. Tôi năn nỉ xin được coi như mọi người dân di cư khác nhưng vô hiệu. Thế là Dung phải lấy giấy tờ về trước một mình.
Viên thiến tá phụ trách chiêu hồi đón tiếp tôi một cách hoan hỉ.
Năm ngày sau, có lẽ nóng ruột về tình hình “cải tạo” của tôi nên Dung đã xin phép lên thăm tôi. Cô Kim đã tình nguyện lái xe đưa Dung đi. Khi chiếc Pellgeot 203 bóng lộn đỗ ngoài cửa trại rồi hai cô gái xinh đẹp và sang trọng xin vào thăm tôi thì cả trại nhốn nháo hẳn lên. Đến ngay vị trại trưởng và một số lính gác cũng nhìn tôi bằng cặp mắt đặc biệt. Khi nghe tôi kể anh ruột tôi là tiến sĩ luật khoa Phan Quang Ân, nguyên Phó Chánh án Tòa Thượng thẩm Hà Nội thì viên trại trưởng tỏ ra rất vui vẻ. Trong các bài giảng sau đó y đã nhiều lần nhắc đến tên tôi như là điển hình của những người khôn ngoan, có học thức đã biết chọn cho tương lai của mình một con đường thênh thang đầy hy vọng!
Sau một tuần nhồi sọ, tôi đã được cấp đủ giấy tờ hợp pháp để về định cư ở Sài Gòn. Anh chị tôi đã thu xếp cho tôi một tương lai gần đúng như yêll cầu của tôi. Tôi sẽ đi học tại một trường tư, còn Dung sẽ là thư ký cho Văn phòng bào chữa của anh tôi. Lúc đầu chị Dung cũng không hình dung nổi công việc này ra sao. Nhưng khi bàn tính kỹ, chúng tôi thấy rằng trong hoàn cảnh trước mắt cách thu xếp đó là hợp lý và hợp tình nữa. Dung chỉ học thêm đánh máy, còn cung cách làm việc thì anh tôi chỉ bảo dần. Là người trong nhà những yếu kém ban đầu có thể được châm chước dễ dàng hơn.
Chỉ một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy rằng công việc tố tụng bào chữa ở đây không nhiều lắm. Những người lui tới gặp gỡ anh tôi hầu hết là những chính khách. Họ ít nói về luật pháp mà thường là đàm đạo về chính trị. Ở văn phòng này có thể đặt được một cái “nhiệt biểu” về chính trị. Những nguồn thông tin thu lượm được nếu biết phân tích thì cũng có nhũng chi tiết giúp cho công tác của chúng tôi, ngoài giờ làm việc, Dung vẫn có những khe hở dành cho công tác của mình.
Tôi chưa được Dung giao cho việc gì. Nhiệm vụ chính lúc đó là học tập. Tôi là học sinh lớn nhất mấy lớp đệ nhị của tư thục Phan Châu Trình cả về tuổi tác lẫn tầm vóc. Khi xin học tôi đã phải nói thực với các thày là tôi theo học ở "hậu phương" nên không có chứng chỉ học lực. Các môn tự nhiên tôi có thể theo kịp, nhưng về sinh ngữ cả Anh van và Pháp vàn tôi đều rất yếu. Tôi hứa sẽ cố gắng để đuổi kịp. Vì là trường tư nên các thày cũng có phần châm chước cho. Tôi sẽ học dự bị một thời gian. Nến theo được nhà trường sẽ chấp nhận chính thức.
Ý thức được nhiệm vụ lâu dài, tôi lao vào việc học tập chăm chỉ say sưa khác thường. Trong tôi đã mang sẵn tính di truyền của cha tôi ngày xưa nên sự miệt mài "học gạo" không làm cho tôi mệt mỏi. Anh tôi cũng rất hài lòng.
- Đáng tiếc là em phải đứng lại trong mấy nạm chiến tranh. Nếu không em đã đi đến tận đâu rồi!
Buổi tối, anh tôi thường dành cho tôi nửa tiếng. Anh rất nghiêm túc trong việc này. Ngay cả những hôm có khách anh cũng kiếu lỗi và nhờ chị tôi tiếp hộ. Anh xem bài vở và chỉ bảo cho tôi giống hệt như ngày chúng tôi còn ở bên chùa Am. Có điều đáng ngạc nhiên là anh tôi chẳng quên một môn gì, kể cả những môn toán, lý, hóa... mà anh đã bỏ hàng chục năm không ngó tới. Tôi cảm thấy một không khí gia đình êm ấm của tuổi thơ sống lại. Chính những lúc đó anh tôi cũng hồn nhiên hơn, chân thật hiền lành và cởi mở hơn. Ở trong môi trường này tôi học sinh ngữ cũng rất thuận lợi. Anh chị tôi hay nói tiếng Pháp. Cô Kim nói cả tiếng pháp, tiếng Anh đều tốt. Dung cũng nói được trong sinh hoạt, tuy chị không thể trực tiếp giảng cho tôi. Tôi có nhiều cơ hội để nghe, để trả lời hoặc hỏi lại. Chẳng mấy chốc tôi đã thấy vững tâm trước những giờ sinh ngữ. Dần dần tôi đã vượt lên và thoát khỏi cái danh vị đội sổ.
Chúng tôi đã gia nhập cuộc sống xa lạ này một cách trót lọt êm ả.
CHƯƠNG VANH TÔI
Khi cuộc sống đã trở thành bình thường rồi thì những câu chuyện trong bữa cơm của gia đình không còn sôi nổi nứa. Ông Cự Phách cũng không hỏi gì về những chuyện hậu phương, chuyện cộng sản. Xen lẫn với những chuyện vui như mua ô tô mới, chuyện vui liên hoan, chuyện nghỉ cuối tuần, chuyện Đại Thế Giới... cũng có cả những chuyện đáng buồn. Thỉnh thoảng tôi lại thấy cbị Lệ Ngọc than thở về bao nhiêu bất động sản ở Hà Nội thế là mất trắng. Vào Sài Gòn cái gì cũng phải mua, cũng tốn phí mà vẫn thiếu thốn chứ không như hồi còn ở ngoài Bắc. Mối tâm sự đó được nhắc đi nhắc lại nhiễn lần đã làm cho "môi trường tinh thần" của bữa ăn bị ô nhiễm. Đã có lúc ông Cự Phách phải gạt đi.
- Ôi tiếc làm gì cho nó già người đi. Của thiên lại trả địa thôi mà. Mình có phải đổ mồ hôi, đổ máu cho những bất động sản đó đâu mà phải tiếc. Bất động sản này đẻ ra bất động sản khác. Mình kéo nhau ra đi thì chúng nó ở lại. Cuộc đời như một canh bạc thôi. Có được có thua, có vay có trả...
- Ba cứ nói thế chứ, của đau con xót. Đang từ biển phải vào hồ, ai mà không thấy khó chịu.
- Tôi đã để cho ai thiếu thốn cái gì nào? Ngoài kia biệt thự, vào đây cũng biệt thự. Ngoài kia xe hơi, vào đây cũng xe hơi, lại còn mới hơn, tốt hơn nữa chứ! Quân Pháp bại trận chứ tôi, tôi chưa bại trận đâu!
Thực ra ông già chưa hiểu ý con gái mình muốn nói gì. Còn chúng tôi thì chúng tôi hiểu. Sự chăm sóc của anh tôi đối với chúng tôi có thể làm cho chị không vừa lòng chăng? Hay lợi tức hàng tháng thấp hơn các khoản chi nên đã làm cho chị lo lắng?
Sau này chúng tôi mới biết ràng gia đình không coi trọng khoản thu ở Văn phòng này. Nguồn chủ yếu của họ là ở lợi tức Ngân hàng. Lãi mẹ đẻ lãi con, tài sản của ông Cự Phách cứ mỗi ngày một lớn ra trong lúc ông chỉ việc nghỉ ngơi xoa mạt chược.
Thu nhập ở Vàn phòng luật sư chỉ là món vặt vãnh so với toàn bộ lợi tức của gia đình thì tạo sao họ lại phải mở cửa và duy trì hoạt động cho thêm bận việc. Tôi không hỏi và anh tôi cũng chưa bao giờ giải thích điền này, nhưng theo tôi đoán thì nguyên nhân là ở chỗ gia đình muốn anh tôi trở thành một trí thức có tên tuổi. Văn phòng là nơi giao tiếp với nhiều tầng lớp xã hội. Nó là cục nam châm thu hút nhiều bạn bè đại diện cho nhiều xu hướng chính trị khác nhau.
Sự quen biết sẽ tạo cho anh tôi những cơ hội tốt để giành giật những tham vọng còn đang ấp ủ.
Anh tôi là một con người thiếu bản lĩnh. Có một cái gì giống với cha tôi thuở xưa: Chăm chỉ, cần cù, dễ yên phận. Cũng có lúc cha tôi được lôi cuốn vào phong trào Cần Vương chống Pháp, nhưng khi bị khủng bố là ông bỏ cuộc ngay và yên phận đến chết với chức quan bé nhỏ đó. Xưa kia anh tôi cũng mong mỏi học hành thành đạt để có được một phương tiện sinh sống, được mát mặt. Anh đã gặp được một cơ hội hiếm hoi và thay mắn là lấy được con nhà giàu. Từ đó số phận của anh tôi được trôi đi một cách êm đềm theo cái bánh lái của gia đình nhà vợ. Ông Cự Phách là một người khôn ngoan trong kinh doanh. Ông rất táo bạo thậm chí liều lĩnh trong nhưng áp phe lớn. Nhưng trong đời sống chính trị, ông là người thận trọng và rất cơ hội. Ông ta có một câu phương ngôn nghiêm khắc để chỉ đạo mọi hành động của mình, đó là: "Người làm ra của chứ của không làm ra người". "Sẩy chân trên thị trường thì cùng lắm là thua lỗ, mất của nhưng vẫn còn có cơ hội kiếm lại được Nhưng sảy chân trên chính trường thì dễ bị tù đày, thậm chí cụt cả cái đầu”. “Thượng đế sình ra con người lại quên chế tạo cho nó đồ phụ tùng, vì vậy không nên mạo hiểm". Hồi cách mạng tháng Tám, ông đã làm nguội đi bầu nhiệt huyết của anh tôi một cách nhanh chóng. Chị dâu tôi cũng thừa hưởng của ông cái gien di truyền này. Chị cũng có nhiều tham vọng nhưng nhát gan. Những năm đầu chiến tranh chị để chồng "trùm chăn" chỉ có mình chị ló ra buôn bán. Ngay lúc đó công việc kinh doanh cũng đã gắn chặt với chính trị và người ta đã rút ra rằng không có ngành kinh doanh nào lại phát bằng "kinh doanh quyền lực". Chủ nghĩa thực dân mới nhảy vào, cái lợi ích của hai mặt phối hợp: Kinh tế và chính trị lại thống nhất hơn bao giờ hết. Người nào nắm được chức vụ lớn trong chính quyền thì đồng thời họ cũng cầm chắc những vụ áp phe kinh tế lớn mà không một chuyện kinh doanh đơn thuần nào có thể so sánh với nó về mặt lợi tức cao.
Dần dần chính trường cũng lôi cuốn, kích thích chị Ngọc tôi như thị trường vậy. Chị đã cố thu xếp cho anh tôi nhột cái vốn chính trị nhỏ nhỏ trên nguyên tắc là phải an toàn. Việc đầu tiên phải là một trí thức có danh tiếng. Một nhà hướng dẫn dư luận và thời cuộc. Một người dễ được các chính đảng lôi kéo để làm cân bằng thế đứng trên trường chính trị. Một người không có những vụ bê bối, những vết nhơ trong đời tất. Và tất nhiên phải là một nglrời chống Cộng nhiệt thành. Tất cả những hoạt động chính trị của anh tôi đều phải dựa vào những mẫu mực trên mà phấn đấu.
Khi rời Hà Nội vào Sài Gòn để bước vào chính trường hậu chiến, anh tôi đã làm một cú áp phe chính trị nổi tiếng. Đó là việc thuận ghi tên nịnh vào danh sách Trung đoàn tử thủ cố đô. Ai cũng biết cái trung đoàn ma đó chỉ là một trò hề, nhưng bản thân sự ghi tên lại là một lời tuyên thệ đứng vào đội ngũ cực đoan nhất chống lại cách mạng. Ghi xong là thu vội hành lý bay hôn vào Sài Gòn, hang ổ kiên cố nhất thì có mất quái gì đâu mà lại được tiếng là người quốc gia chủ nghĩa, người yêu nước, một chiến sĩ chống lại mọi thế lực nô dịch, cả cộng sản lẫn thực dân, cả phương Đông lẫn phương Tây!
Nói anh tôi là một người hoàn toàn độc lập không đảng phái thì cũng không đúng. Đã có lần anh tôi đứng ra thành lập một đảng hẳn hoi. Một đảng có tên tuổi, có tuyên ngôn, có cương lĩnh, có phù hiệu và cũng được trình tòa như ai!Đó là vào năm 1952 khi bọn Pháp cho phép Thành phố Hà Nội được bầu ra một hội đồng dân biểu. Một cử chỉ dân chủ hào hiệp, và hiếm hoi đó đã làm nức lòng nhiều chính khách. Muốn màng tới cái miếng đỉnh chung thì phải có vây cánh, có liên minh. Lúc đó đã có nhiều chính đảng lâu năm hoạt động trên sân khấu chính trị như Đại Việt, Phục quốc, Việt Nam Quốc dân đảng, Xã hội quốc gia v.v. Anh tôi có thể xin gia nhập một đảng nào đấy tùy thích với điều kiện là sẽ được đứng vào liên danh tranh cửa của đảng đó thì chắc là cũng không khó khăn làm. Nhưng kiểm lại một loạt danh sách thì chẳng thấy đảng nào còn có được một bộ mặt sạch sẽ. Anh tôi chủ trương thành lập một đảng mới toanh. Đương nhiên anh tôi sẽ có vai trò của người lãnh tụ, người cha đẻ. Và thế là anh đi lục tìm lại trong ký ức những bạn bè cũ xem có những ai mải mê chính trị để chiêu mộ.
Người đầu tiên anh tôi bái yết là kỹ sư hóa học Nguyễn Đăng Thạc, ông này có học nhưng nhà nghèo. Ông ta cũng đã tiến thân nhiều nơi nhưng chưa gặp vận. Ông đang xoay trần ra làm tương làm xì dầu, trong một ngôi nhà cổ với cái sân đầy chum, vại, chậu, bình, gáo phễu... ở gần dốc Hàng Than. Thấy ông bạn giàu có bỗng nhiên phóng ô tô hạ cố tới thăm thì cảm động quá suýt vấp vào mấy cái bình cổ cong đựng toàn nấm mốc.
- Anh mạnh khỏe chứ?
- Cảm ơn, tôi mạnh khỏe lắm!
Hai ông bạn ôm chầm lấy nhau sung sướng. Một cảm thấy mùi nước hoa "Rêve d'or". Một thì thấy mùi mốc tương muốn hắt hơi. Chỉ sau mười lăm phút thuyết giáo, anh tôi đã làm cho nhà bác học ngã lòng và xin tự nguyện bỏ tất cả nấm, mốc, chum, vại, xì dầu, xáng xấu để gia nhập đảng ngõ hầu cứu vớt quốc dân, cứu vớt nền sản xuất nước chấm đang đứng trước nguy cơ phá sản.
Người thứ hai anh tôi đến gặp là võ sư Hoàng Bá Lâm, bạn học từ hồi "đệ tam”. Lâu học dốt nhưng đánh nhau giỏi. Anh ta bỏ học và ít lâu sau thấy xuất hiện trên võ đài không hiểu thuộc loại ruồi hay loại lông. Anh tôi ít chú ý đến kỹ thuật thể thao nhưng lại rất quan tâm đến sự nổi tiếng. Và có một lần bỗng nhiên vợ Lâm đến gặp anh tôi nhờ bào chữa cho một vụ ngộ sát. Lâm đã quá tay nện chết một võ sinh và bị kiện là do tình địch. Vì tình bạn cũ anh tôi đã trổ hết tài nghệ ra để cứu bạn trước vành móng ngựa. Từ đó lai người rất thân nhau không phải vì ý hợp tâm đồng mà do ơn cứu mạng.
- Anh muốn tôi gia nhập đảng gì?
- Đảng của tôi! Hiện nay chưa có tên. Nếu thành lập được ta sẽ bàn cách đặt tên. Vì vội cho kịp lập liên danh tranh cử nên tôi chưa dự kiến.
- Đảng của anh thì được. Anh cứ ghi tên tôi vào… À nhưng còn chuyện đóng góp ra sao?...
- Góp gì?
- Cổ phần...
- À, đóng nguyệt liễm để gây quỹ phải không? Thì cũng chẳng đáng là bao. Lúc đầu kể ra cũng cần một số tiền đấy, kẻ ít người nhiều tuỳ tâm góp lại. Vấn đề sẽ đƯợc bàn ở đại hội.
Thế là dụ được hai người rồi.
Anh tôi chợt nảy ra một ý: Trong đảng cần phải có những người thuộc phái đẹp. Trong lịch sử chính trị thế giới, nhiều người đàn bà đẹp đã làm nên chuyện. Nhưng cái bà vợ ông Hậu này thì không thể gọi là phái đẹp được. Tóc lông bò, mắt sâu, gò má cao, mũi hếch, răng đen, người gầy và khô như que củi, vào đảng thêm xấu cả đảng! Anh tôi nghĩ ngay đến Eugénie Lê Mộng Vân, người bạn tình thời niên thiếu. Gọi là cô nhưng Mộng Vân đã ngoài ba mươi tuổi, chưa chồng, tài sắc vang bóng một thời. Người ta gọi cô là Mộng Vân nữ sĩ. Cô dịch thơ cổ điển Pháp như của Charles Baudelaire, Stéphane Mallarmé, Pan Verlaine... Báo chí gọi cô là nữ ký giả vì Mộng Vân đã từng theo chân quân viễn chinh trong các cuộc hành quân để viết các bài phóng sự ca ngợi nhưng con người lùng như Langlais, Bigeard... Khi anh bàn chuyện lôi kéo cô vào đảng của mình với vợ thì chị Ngọc tôi giãy nảy lên.
- Đó là một người đàn bà đáng sợ. Nghe nói nó là nhân tình của cả tướng Salan, lẫn đại tá Brohon.
- Cô ta chưa chồng, đó là quyền của cô ta!
- Nghe nói nó cũng là người của sở mật thám.
- Càng hay. Đảng của ta mới thành lập. Ta đang cần thanh thế.
Cuối cùng chị tôi phải chấp nhận việc mời Mộng Vân tham gia đảng. Khi anh tôi đến tuyên truyền, Mộng Vân đòi xem toàn bộ danh sách những thành viên đã chiêu mộ. Cô kênh kiệu tuyên bố. Chỉ gia nhập đảng với mật danh Bạch Trà. Anh tôi đang cần tên tuổi của cô nay cô không cho phép nêu tên thì là một thiệt thòi lớn cho đảng. Nhưng nghĩ đến lợi ích lâu dài, anh tôi cũng đồng ý. Sau mấy ngày chạy vạy, anh lôi kéo được mười hai người, nhưng điểm mặt thì ít danh nhân quá Muốn cho đảng có thanh thế hơn, anh tôi quyết định đi mời thêm các bác sĩ Hoàng Cơ Bảo. Ông ta có dáng người béo lùn giống con Nhất Sách. Đầu ông hói, mắt đeo kính cận, mặt đỏ như say rượu. Vốn là thày thuốc chữa bệnh kín, ông đã bỏ nghề y theo đuổi công danh bằng con đường hoạt động chính trị. Ông ta đã tham gia nhiều đảng và cũng đã từng làm lãnh tụ nhiều đảng. Ông là một nhà hùng biện cho nên tất cả những lần lừa thày phản bạn đều được ông lý giải một cách thỏa đáng trong các buồi đăng đàn hay viết bài trên báo chí. Khi anh tôi mời ông gia nhập đảng của mình thì điều kiện nhất thiết ông đưa ra là ông phải làm lãnh tụ. Anh tôi không hài lòng. Như thế chẳng hóa ra cốc mò có xơi! Nhưng vị bác sĩ này cứ khăng khăng là mình quen làm lãnh tụ mất rồi.
- Anh làm lãnh tụ thì phải do đại hội bầu, đó là nguyên tắc dân chủ, bình đẳng! - Anh tôi nhấn mạnh.
- Phải có ngoại lệ với những người sáng lập chứ. Nếu tôi gia nhập một đảng mới thì có được lãnh đạo, tôi mới bõ tham gia.
Cuối cùng thì cuộc mật đàm cũng đi đến một giải pháp dung hòa. Ông Bảo sẽ là Chủ tịch còn anh tôi sẽ là Tổng thư ký!
Đại hội đảng họp ở Khách sạn Grand Palais. Có mười bốn đại biểu. Trước khi tụ tập, anh tôi đã phải đến đăng ký thủ tục ở Sở Cảnh sát. ông "còm" liếc qua cái danh sách của một chính đảng chỉ có mười bốn đảng viên thì lão không khỏi nhếch mép cười khinh bỉ:
- May mà qua được con số mười ba.
Đầu tiên đại hội phải bàn việc đặt tên đảng. Người nêu ra tên Cộng hòa, nhưng nhiều vị lại sợ làm mếch lòng Cựu hoàng đế Bảo Đại. Lấy tên đảng Xã hội thì nghe có vẻ thiên tả. Cuối cùng đại hội quyết định gọi là đảng Tự do. Về tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh tuyên ngôn, anh tôi cũng đã sao chép được một bản dự thảo khá dài gồm hơn mười chương thì phải. Đảng là của giai cấp nào thì khó mà biết được. Đảng tranh đấu quyền lợi cho những người cần lao, những thương nhân, những nông gia nhưng cũng bảo vệ quyền lợi cho những nhà điền chủ, nhà tư sản, binh lính và trí thức. Tóm lại là đảng của những người Việt Nam yêu nước yêu tự do.
Cương lĩnh của đảng cũng nêu lên phải xóa bỏ chế độ thực dân giành độc lập, xây dựng nền dân chủ đưa đất nước đến phồn vinh, vàn minh ngang hàng với các quốc gia tân tiến trên thế giới.Cũng có một chương chống cộng rất mạnh mẽ để biểu lộ tư tưởng chính trị chủ đạo của đảng.
Tuyên ngôn tranh cử của đảng tập trung vào ba điểm: Nếu liên danh của đảng đắc cử thì đảng sẽ ra sức khuếch trương kỹ nghệ, giảm thuế đầu tư ba mươi phần trăm. Bảo đảm tám giờ làm việc một ngày. Tăng lương hai mươi phần trăm cho công chức. Đảng chủ trương xóa bỏ Nhà Tiền, một di sản xấu xa của chủ nghĩa thực dân nam chính giữa Thủ đô ngàn năm văn vật. Điểm cuối cùng là đảng đòi tăng thuế mãi dâm lên bốn mươi phần trăm để dần dần thu hẹp tệ nạn này ngõ hầu cứu lấy sự tồn vong của dân tộc.
Tất cả cuộc tranh lận dồn vào cái điểm cuối cùng này. Thật là gay cấn.
- Nến ta đòi tăng thuế mãi dâm tức là ta tự sát - Nữ sĩ Mộng Vân đại diện quyền lợi cho phái đẹp nhấn nạnh - Con số gái điếm chính thức có thể hiện nay đã là bảy mươi ngàn. Cộng với ít nhất bảy mươi ngàn cảm tình viên của họ nữa là ta mất béng đi một trăm năm mươi ngàn phiếu bầu! Xin quý vị hãy tỉnh táo trong quyết định này.
- Nhưng ta lại kiếm được số phiếu của những người có giáo dục của các bà vợ đức hạnh!
Hai quan điểm đó cuối cùng cũng đi đến một sự dung hòa. Nghĩa là sẽ kiểm tra chặt chẽ để chữa bệnh cho gái điếm nhằm tránh những bệnh hoạn làm tai hại cho sự tồn vong của giống nòi. Thế là vừa lòng gái điếm, cũng là vừa lòng khách làng chơi. Mục kết thúc là tìm biểu tượng cho đảng Tự do. Các đảng lớn như đảng Cộng hòa, đảng Dân chủ bên Mỹ đều có biểu tượng cả. Cộng hòa lấy con voi Dân chủ là con lừa. Thế thì đảng Tự do lấy con gì cho có ý nghĩa. Con bò thì dốt. Con trâu, con ngựa sợ các đảng đối lập sẽ khoét sân vào cái ý tay sai nô lệ. Con chó thì thông minh, bên Tây coi chó là bạn (nhất trẻ con, nhì đàn bà, ba chó, thứ tư mới đến đàn ông), nhưng ở nước ta, cái xứ lạc hậu này, con chó gắn liền với cái sự ăn tục, mất vệ sinh! Chỉ còn con lợn, con dê, con gà được đem ra tuyển chọn. Một cuộc tranh luận nữa lại nổ ra. Cũng may mà có được bộ óc thông minh của vị lãnh tụ tài năng: Bác sĩ Hoàng Cơ Bảo. Ông đưa ra một con vật không có trong thực tế làm biểu tượng: Con rồng. Rồng tượng trưng cho sức mạnh vĩ đại, cho vương quyền, cho thần quyền và cả cho mỹ học. Nó lại là một hình tượng rất phương Đông, rất dân tộc. Chỉ vài lời phân tích là đại hội nhất trí được ngay. Đúng là ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo! Hội nghị vỗ tay như pháo!
Để đảm bảo cho đảng có sức mạnh tài chính chi tiêu cho tranh cử đại hội tổ chức quyên góp kẻ ít người nhiều tùy tâm cúng vào quỹ đảng. Mười ba đại biểu đã hưởng ứng. Chị dâu tôi trong lúc cao hứng đã tuyên bố: Nếu đảng mà sống được, chị tôi sẽ chẳng tiếc gì mà không hiến cả ngôi nhà ba tầng ở phố Hàng Kèn cho đảng làm trụ sở. Riêng bác sĩ Hoàng Cơ Bảo thì chẳng thèm góp xu nào. Ông ta cho sự gia nhập của mình, và lĩnh trọng trách chèo lái đã đáng bạc triệu rồi.
Cuộc vận động tuyển cử của đảng được tổ chức khá linh đình. Đảng in hàng vạn truyền đơn, áp-phích thuê máy bay tung xuống thành phố. Dùng loa phóng thanh cỡ lớn từ trên phi cơ chõ xuống kêu gọi cử tri dồn phiến cho "liên danh Con Rồng". Thuê hàng giờ phát thanh của đài Con Nhạn để quảng cáo. Lễ ra mắt ứng cử viên của đảng được tổ chức ở rạp Quảng Lạc. Sau ba bài diễn văn hùng hồn của bác sĩ Hoàng Cơ Bảo, luật sư Phan Quang Ân và kỹ sư Nguyễn Đăng Thạc có diễn tích Lương Sơn Bạc không mất tiền rất chi là vui vẻ Đảng tin vào sự thành công của các phương tiện cổ động tân kỳ. Một bữa dạ tiệc được mở để chúc mừng các nghị sĩ tương lai. Rượu sâm banh nổ lốp bốp. Ngà ngà say, ngài chủ tịch thì thầm to nhỏ cùng đồng đảng.
- Sắp tới sẽ phải có quốc hội lập hiến. Đảng Tự do chúng ta sẽ ra tranh cử. Nếu thắng quốc trưởng sẽ chỉ định tôi đứng ra thành lập nội các. ông Ân sẽ là Quốc vụ khanh kiêm Tổng trưởng ngoại giao. Ông Thạc tổng trưởng kỹ nghệ. Ông Hậu Tổng trưởng tài chính. Mộng Văn nữ sĩ Tổng trưởng y tế. Võ sư Hoàng Bá Lâm, Tổng trưởng quốc phòng...
- Đúng. - Ông Lâm cướp lời - Tôi là môn đồ Giuđô của võ sư Nhật Bổn Kamasu, là học trò quyền Anh của bốc-xơ Chapuy. Không ai làm Tổng trưởng quốc phòng giỏi hơn tôi!
Chưa có quốc hội, chưa có chính phủ mà họ đã lo chuyện chia ghế. Viễn tưởng thật rực rỡ. Nhưng khốn khổ cho họ, ngay cuộc tuyển cừ thành phố đã thất bại. Nghe nói phe đối lập không thèm vận động cử tri. Họ dồn quỹ vận động cho những kẻ kiểm phiếu thế là họ tháng cử dễ dàng. Cũng có người nói: Các ông nghị đã được Tây lựa trước rồi, bầu cho vui chuyện thôi Đảng Tự do thất vọng và mâu thuẫn. Họ cãi vã nhau đến thức độ không thể hàn gắn được. Họ tuyên bố giải tán đảng và theo thủ tục phải thanh toán ngân quỹ. Ông Hậu khăng khăng đòi lại khoản tiền quyên góp (ông đóng nhiều hơn một số người). Thực ra những món chi quá sang của đảng cho tiệc tùng và vận động đã vượt quá số đống góp. Chị dâu tôi phải bù vào giúp đảng. Nhưng ông Hậu không biết điều. Ông muốn bán cả ngôi nhà Hàng Kèn mà chị tôi hứa ủng hộ đảng để chia nhau (?) vì ông coi đây là bất động sản của đảng. Ông ta còn dọa nếu không giải quyết ông sẽ kiện trước tòa. Võ sư Hoàng Bả Lâm phải nhứ nhứ quả đấm vào mũi ông ta và dọa: "Nếu còn đả động đến ngân quỹ một lần nữa thì sẽ được "miệng nhai cốt trầu, đầu xơi tào phở ngay!". Không ngờ cái biện pháp dọa đánh cho mồm hộc máu, đầu phọt óc hơi du côn của ông Lâm lại hữu hiệu tức khắc. Các đại biểu im lặng rồi lần lượt cáo lui.
Từ sau cái vụ buôn bán chính trị thua lỗ đó, anh tôi đã thay đổi lập trường quyết định sẽ là một chính khách độc lập đứng ngoài đảng phái cho đến chết.
Biết được câu chuyện trên là vì tôi đã ngồi đọc lại những tập báo cũ năm 1952 còn lưu trữ trong thư viện. Có thể các phóng viên đã mô tả các sự kiện một cách méo mó rồi phóng đại hoặc thu nhỏ đi. Để khôi phục lại bức chân dung của anh tôi, tôi đã tước bỏ những tình tiết vô lý, và tôi cũng được cô Kim xác nhận lại một số sự kiện mà cô còn nhớ được.
CHƯƠNG VI
ĐÊM THIÊN CHÚA GIÁNG SINH
Mãi sau này tôi mới biết rằng cuộc hành quân thầm lạng vào Năm năm đó không phải quá ít, hoặc càng không phải chi đơn độc có tốp của chúng tôi. Hàng chục, hàng trăm tốp cán bộ khác, trong đó có cả những đồng chí giàu kinh nghiệm chỉ huy lãnh đạo, bằng nhiều con đường công khai hoặc bí mật khác nhau và độc lập với nhau đã trở vào miền Nam Tổ Quốc.
Sau thi ký Hiệp đình Giơ-ne-vơ, ta chủ trương triệt để thi hành Hiệp định và kiên quyết đấu tranh để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh. Ta không có ý định một tay ký, một tay phá vì ta coi hiệp định hòa bình là một thắng lợi của dân tộc. Ta tin rằng nếu như mọi điều khoản được thi hành đầy đủ thì đó sẽ là hòa bình thống nhất đất nước, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta, đồng thời cũng là mục tiêu lớn nhất của cách mạnng dân tộc dân chủ.
Nhưng tất cả những hành động phá đám của Mỹ trên con đường dẫn tới hòa bình và những bước dọn đường thay chân Pháp buộc ta phải đặt ra những giả thuyết mới.
Sau khi phân vùng tập kết lực lượng vũ trang hai bên, quân Pháp trì hoãn không thực hiện những điều khoản chính trị thì tình hình tiếp theo sẽ ra sao?
Nếu chúng ngoan cố chiếm đóng miền Nam, lập ra một nhà nước riêng biệt vĩnh viễn chia cắt nước ta về lãnh thổ và chính trị thì ta phải làm gì?
Ngay cả đến tình huống xấu nhất là Mỹ nhảy vào thay chân Pháp cũng phải tính đến.
Câu trả lời duy nhất cho những tình huống phản trắc là: Cuộc cách mạng miền Nam vẫn sẽ tiếp diễn dù có phải từ bỏ sự bình yên, dù phải tiến hành thêm một cuộc chiến tranh nữa, dân tộc ta vẫn sẽ chấp nhận. Muốn theo đuổi quyết tâm trên ta phải có chuẩn bị trước. Chính từ những dự báo đó, từ tầm nhìn xa đó mà chúng ta phải có những cuộc hành quân thầm lặng. Nó sẽ chỉ là những cuộc hành binh hòa bình thôi, nếu như các điều khoản chính trị của hiệp định được thực hiện như đã ký. Tôi nhớ lại suốt hai năm chờ đợi mục tiêu hiệp thương tổng tuyển cử, Ngô Dình Diệm phá hoại khủng bố dữ dội như vậy mà tất cả những chỉ thị chúng tôi nhận được đều nói lên rằng phía ta hết sức kiềm chế, biết tôn trọng chữ ký của mình và chỉ giáng trả khi tình thế hết phương cứu vãn.
Có một tốp bốn đồng chí mang biệt danh A.59 đi sau chúng tôi vài tháng. Những đồng chí này có nhiều thời gian chuẩn bị hơn chúng tôi. Họ được vào Thanh Hóa để dự một lớp huấn luyện ngắn ngày. Người chỉ huy trưởng là một cán bộ chính trị cấp tiểu đoàn mới được đưa vào "nghề". Một nữ hiệu thính viên thạo việc, một thày thuốc, và một tình báo viên đã hoạt động trong ngành này từ hồi đầu kháng chiến. Tốp này lấy danh nghĩa là sĩ quan liên lạc đình chiến. Lúc đầu định tổ chức đi theo con đường hàng không của Quân đội liên hiệp Pháp. Nhưng sau thấy phải chụp ảnh giao cho đối phương làm thủ tục giấy tờ thì cấp trên đành phải chuyển hướng thâm nhập. Họ đi theo tàu Ác-khăng-ghen của Liên Xô để vào Cà Mau đón đồng bào và chiến sĩ tập kết. Vì đi theo đường của ta nên họ mang theo một điện đài mười lăm oát mới, bốn súng ngắn và một số vũ khí đặc nhiệm.
Sau khi đổ bộ A.59 được tổ chức điệp báo miền Tây đón. Ở đây dù được trang bị các loại giấy tờ hợp pháp, nhận mật hiệu liên lạc, xác định các biện pháp hoạt động cụ thể. Họ hòa tan vào nhân dân, độc lập tiếp cận các mục tiêu được chỉ định để xây “tổ". Vũ khí và điện đài được gửi lại ở Đất Mũi. Tổ chức miền Tây sẽ đảm nhiệm việc chuyên chở đến vị trí khi thời cơ cho phép.
Đồng chí chỉ huy của tốp được giao liên đưa về một cơ sở ở Chợ Lớn. Về mặt hợp pháp, anh là công nhân sửa ô tô Nguyễn Văn Bền.
Chị Ngân, hiệu thính viên vô tuyến điện trở về nhà mình ở khu Bàn Cờ. Chị làm nghề uốn tóc.
Y sĩ Đoàn Bá Mạo định cư ở Hóc Môn. Anh đang tìm việc gì cho thích hợp nhưng chưa được.
Người thứ tư mang biệt hiệu N.12 sẽ cơ động trên nhiều địa bàn qua các cơ sở mà anh đã thiết lập. Anh là người duy nhất liên hệ trực tiếp được với cấp trên ở Sài Gòn.
Khi đi, cậu Đức đã giao mật hiệu cho chị Dung để tìm liên lạc với A.59. Tổ này có nhiều vụ hỗ trơ cho chúng tôi (A.18) nhưng họ không biết công việc và địa chỉ chúng tôi. Chúng tôi không có điện đài nên việc báo cáo về Trung tâm phải qua A.59. Chậm nhất là 20 tháng 12 chúng tôi phải báo cáo tình hình về cho cậu tôi. Vì vậy từ đầu tháng 12, Dung đã phải dõi tìm dấu vết của A.59.
Một hôm tôi đi học về, Dung chạy ra đón tôi với vẻ mặt vui sướng khác thường. Sau khi khóa trái cửa lại chị đưa cho tôi tờ báo Công Luận.
- Có chuyện gì thế Dung?
- Anh xem đi rồi sẽ biết.
Tôi đọc một lượt các tít lớn, nhìn qua các bức ảnh.
- Chẳng tìm thấy một tin gì đáng ngạc nhiên!
- Không đáng ngạc nhiên đâu, nhưng là tin mừng.
Chị chỉ cho tôi mấy dòng nho nhỏ in cuối trang ba lẫn vào những mục quảng cáo, rao vặt:
CHÚC MỪNG
Được tin hai em Lê Công Trứ và Nguyễn Thị Thái Vân sẽ làm lễ thành hôn vào ngày 15 tháng 12 năm 1954. Anh chi xin chúc hai em trăm năm hạnh phúc.
LÊ ĐỨC HẢI VÀ HÀ PHƯƠNG DUNG
- Mình chịu không biết Lê Công Trứ và Nguyễn Thị Thái Vân là ai?
- Điều anh em mình đang mong đấy - Dung cười - Lời chúc mừng này có nghĩa là đúng giờ quy ước ngày 15 tháng 12 em phải đến trước số nhà 343 phố Nguyễn Công Trứ tìm gặp người của A.59 để nối liên lạc với Trung tâm!
- À ra thế. Làm sao mình có thể hiểu nổi khi mình không được biết mật ước.
- Anh còn nhớ bài thơ Aurore của Paul Valéry không?
- Không bao giờ quên.
- Anh dùng khoá số một để dịch cho em bản báo cao nhé.
- Thưa đồng chí chỉ huy, tôi sẵn sàng!
Dung mỉm cười nhìn tôi bằng cặp mát âu yếm. Chị tóm tắt toàn bộ tình hình của chúng tôi từ đầu cuộc hành quân cho đến nay trong một mảnh giấy nhỏ. Tôi lập khóa số một, kiểm tra đi lại cho chính xác rồi bắt tay vào dịch. Sau hai giờ đồng hồ, bản báo cáo được mã hóa hoàn toàn. Tôi đốt bản gốc và "chìa khóa" đi luôn. Bây giờ những tin tức của chúng tôi nấp dưới số hạng những con toán cộng trừ của một tờ giấy nháp học sinh. Nó sẽ được chuyển tới bộ phận điện đài để hóa thân thành sóng điện lan trong không gian vào đúng giờ quy ước.
…
Tối 15 tháng 12, Dung đến phố Nguyễn Công Trứ. Chờ cho kim đồng hồ chỉ đúng hai mươi giờ, cô lướt qua cửa ngôi nhà 343. Cô thấy một phụ nữ xách chiếc làn, miệng làn lộ ra một chiếc khăn màu lục thêu hoa trắng. Dung tiến đến gần chị ta và khẽ gọi:
- Chị Đức Hải!
- Phương Dung đấy à?
- Chị hẹn mười ba đến chơi chỗ em mà sao để em chờ mãi không thấv.
- Hẹn mười ba đâu, cô nhớ lầm đấy, mình hẹn mười tám kia mà!
Trao đổi xong mật khẩu, họ vẫy xe tắc-xi đi ra đường Lê Lợi. Họ hòa tan vào đám đông rồi rủ nhau đến một quãng vắng. Dung trao cho chị Hải bức mật điện. Họ hẹn gặp lại nhau vào đêm Nô-en (24 tháng 12) nước Nhà thờ Đức Bà. Trường hợp bất trắc bị "ma ám" sẽ có một địa điểm và thời gian dự bị. Ngoài mấy lời trao đổi ngắn ngủi trên ra, họ không hề hỏi han gì nhau thêm, họ từ biệt nhau và mỗi người biến vào một ngả. Mười phút sau Dung vẫy xích lô máy đi ra phía bưu điện thành phố. Ở đây một lần nữa cô lại xóa đạo trình của mình trong những đám người đông đúc nhộn nhịp. Khi tin là không còn ai để ý đến mình cô mới về nhà. Lần đầu tiên bắt liên lạc ở một thành phố còn xa lạ, cô tỏ ra rất thận trọng nhưng cũng yên tâm vì khả năng bị theo dõi là rất nhỏ bé.
Nhìn nụ cười trên môi Dung, tôi đã đoán công việc được giải quyết êm thấm.
Năm 1954 qua đi nhanh chóng. Thấm thoát đã đến lễ Thiên chúa giáng sinh. Mặc dù không đi đạo nhưng trong căn phòng chính ngôi biệt thự của ông Cự Phách cũng cho dựng một cây thông Nô-en đồ sộ. Hàng trăm ngọn điện màu thay thế cho những ngọn nến lấp lánh. Đêm nay sẽ có tiệc rượu, sẽ có vũ hội, nhưng tôi vẫn thấy có một cái gì lạc lõng đối với miền đất nhiệt đới này. Người ta cũng làm cả ông già tuyết bằng bông nhưng tiếc là không có trẻ con. Ngôi nhà đồ sộ này toàn người lớn nên thật buồn tẻ. Chúng tôi xin phép anh chị đi xem lễ ở nhà thờ Đức Bà. Lần đầu tiên tôi vào một nhà thờ công giáo thiên chúa biết lễ nghi kiểu cách ra sao, nhưng chị Dung bảo tôi cứ yên tâm. Những người ngoại đạo cũng đến đây rất đông. Sẽ chẳng có ai để ý đến mình đâu.
Đêm cuối năm mà thời tiết Sài Gòn vẫn nóng. Bầu trời đầy sao còn mặt đất thì đèn boa lộng lẫy. Cái đêm Nô-en đầu tiên của chính quyền họ Ngô, chính quyền của Thiên chúa giáo, nên con chiên của Chúa đã tổ chức ngày lễ long trọng khác thường.
Cũng đêm nay từ Hà Nội xa xôi, cậu Đức của chúng tôi sẽ cho tung lên không gian bức điện đầu tiên. Nếu không có sự cố kỹ thuật nào xảy ra thì chỉ trong vòng một giờ nữa, chúng tôi sẽ nhận được tiếng nói thân yêu từ trái tim Tổ Quốc.
Mười một giờ chúng tôi từ trong nhà thờ đi ra. Dung dẫn tôi đến gần bức tượng Đức Bà và dặn nhỏ:
- Anh đứng đây chờ em ít phút nhé, em đi mua mấy bông hoa. Dung biến vào trong đám đông. Cô đã gặp được người đàn bà hôm trước ở gần một quầy bán hoa. Họ rủ nhau chọn hoa và mỗi người mua một bó nhỏ.
Dung quay lại tìm tôi, cô đưa bó hồng nhung thơm phức cho tôi.
- Chúc chúng ta thành công trong mọi ước vọng.
Chúng tôi nhìn nhau mỉm cười và ra về. Đến chỗ vắng, Dung mới ghé sát vào tai tôi thì thầm:
- Chúng mình đã bắt liên lạc được với Trung tâm rồi!
Chị rút ra một ống nhỏ nằm lẫn trong bó hoa. Ngay đêm đó tôi cặm cụi giải mã bức điện ngàn ngủi đó. Lại phải "đúc" lại chìa khóa. Lại phải lần từng con số. Công việc không khó khăn gì, nhưng ít làm nên chưa thạo, tôi cứ phải dò dẫm mãi. Cuối cùng thì những lời nói của cậu tôi cũng hiện dần lên trang giấy.
“Cậu rất mừng là đã nhận được tin của hai cháu đúng ngày giờ quy ước. Công việc tiến triến như vậy là rất thuận lợi. Các cháu cứ làm theo chương trình đã định. Phải thận trọng. Hai gia đình đều khỏe mạnh bình yên. Thu Hiền nhắc đến mẹ luôn. Mong thư các cháu".
C.Đ
Xem xong, chúng tôi đốt luôn cả điện lẫn khóa mã. Mùi hoa hồng tỏa ngát căn phòng. Chúng tôi cảm thấy hạnh phúc vì từ nay không còn là một đôi chim cô đơn nữa. Nhưng rồi tôi bỗng nhận thấy giọt nước mắt lung linh trên khóe mắt Dung.
- Làm sao thế Dung? Tình hình tốt đẹp như vậy có chuyện gì làm Dung buồn?
- Em nhớ con quá. Đêm nào em cũng nghĩ đến nó. Con đang ở tuổi tập nói, có lẽ ngày nào nó cũng bi bô "mẹ", "mẹ”! Hình ảnh con hiện lên và nước mắt em lại trào ra. Chắc anh chẳng để ý gì đến tâm trạng của em và em cũng chẳng muốn anh biết để làm gì. Những cảm xúc yết đuối đó thực chẳng thích hợp với công việc của chúng ta. Nhưng dù sao thì em cũng là một người đàn bà. Xa đứa con bé bỏng hơn bốn tháng rồi, lòng người mẹ nào mà chẳng nhớ nhung thương xót. Cứ mỗi lần thấy một đứa trẻ quấn quýt quanh bà mẹ, cứ mỗi lần bắt gặp một khung cảnh ấm cúng gia đình là em lại thấy tim mình nhói lên, lòng mình trống trải.
Tôi không biết làm gì để an ủi chị, để chia sẻ với chị những nỗi riêng tư. Ôi nếu tôi là một người con gái thì có thể mối đồng cảm của tôi sẽ dễ dàng hơn, dịu ngọt hơn, gần gũi hơn. Từ ngày vào Sài Gòn chúng tôi sống chung trong một căn buồng, nhưng cái không gian này vẫn chia cắt chúng tôi như hai hòn đảo. Tôi nằm trên chiếc đi văng và thường là đi ngủ muộn sau những giờ học miệt mài, căng thẳng đến mệt lử. Bao giờ Dung cũng chăm chút chu đáo cho tôi, khi thì một ly cà phê sữa, khi thì một cốc ca cao, một chai nước quả để sẵn bên bàn rồi chị mới đi nằm. Khi tôi bừng mắt tỉnh dậy thì đã thấy Dung đang đứng trước gương chải tóc hay thu vén nhà cửa. Tôi đâu có biết được những gì diễn ra trong tâm hồn chị.
Đêm nay tôi cứ nấn ná bên giường chị đến gần hai giờ sáng để mong đợi chị bảo tôi nằm xuống bên chị như cái đêm ở Khách sạn Đại Lục hay phòng trọ Phúc Ninh. Tôi không muốn trở về cái lòn đảo cô đơn của tôi nửa.
Có lẽ Dung cũng hiểu ý tôi. Chị lặng lẽ xếp hai chiếc gối song song rồi nói nhỏ với tôi:
- Nghỉ đi anh.
Tôi ngả mình xuống. Dung đắp cho tôi một chiếc mền mỏng rồi mới kéo chiếc mền của mình lên cổ và nằm xuống sau. Dưới ánh sáng dịu hồng của cây đèn ngủ, tôi vẫn nhìn thấy đôi mắt chị mở tròn lấp lánh, cặp môi mỉm cười mọng lên như quả chín. Tôi cứ nhìn như vậy lâu lắm... Sau này tôi nghĩ rằng nếu lúc ấy một trong hai người với tay sang bên kia thì cái khoảng cách đạo đức mỏng manh đó nhất định sẽ biến mất. Cả hai đều sẽ tha thứ cho nhau và sẽ cùng buông thả để tận hưởng khát vọng yêu đương với một sức mạnh bùng nổ. Nhưng không ai làm chuyện đó cả. Cái lý trí thần thánh đã giữ tay chúng tôi lại. Tôi cứ nhìn Dung đấm đuối như ngắm một bức tranh cho tới lúc hình ảnh Dung nhòe đi, lung linh và biến mất... Tôi bay bổng trong giấc mơ êm đềm, mờ nhạt đến nỗi không còn nhớ nổi chuyện gì.
Sáng hôm sau tôi dậy muộn. Dung phải lay vào vai tôi. Tôi nghe thấy một âm thanh dịu dàng:
- Dậy đi anh, dậy ăn uống để rồi còn học bài chứ!
Tôi làm như không nghe thấy. Tôi chờ đợi bàn tay mềm mại ấy một lần nữa.
- Dậy đi anh, mở mắt ra mà xem, mặt trời đang nhòm vào cửa sổ mà cười anh chàng ngủ trưa kia kìa!
Tôi mở mắt và bắt gặp đôi mắt đen láy, nụ cười lấp lánh và một khuôn mặt rất gần.
- Mặt trời của mình đây rồi!
Câu nói của tôi làm cho Dung ngượng nghịu:
- Anh ngủ say thế, làm em phải lay mãi.
- Mình giả vờ đấy - Tôi cười - Bàn tay mềm mại cửa Dung đặt vào vai là mình biết ngay mà. Minh là nhột con người rất nhạy cảm.
- Thế là em biết rồi, bận sau em không phải lay nữa, em mặc kệ! - Dung cười.
- Thế thì mình cứ nằm gan lì ra đấy xem Dung làm thế nào.
- Em sẽ nhờ cô Kim xuống lay hộ! - Dung trêu tôi.
- Không đánh thức nổi chồng, phải đi nhờ thiên hạ, không biết xấu hổ à!
Thế là cả hai chúng tôi đều cười dàn hòa.
CHƯƠNG VIIBẠCH KIM
Bạch Kim là một cô gái hồn nhiên và xinh đẹp. Thi tú tài phần một xong, cô bỏ học và cũng chẳng cần phải làm gì. Cô chỉ việc đánh đàn, vẽ, đọc tiểu thuyết, rong chơi và kén chồng. Riêng cái chuyện tiếp bạn bè cũng đã làm cô thiếu thời gian rồi. Khi vợ chồng tôi xuất hiện trong ngôi nhà này, Bạch Kim đối xử với chúng tôi rất nhiệt tình. Cô sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi ngay cả những khi chúng tôi chưa yêu cầu. Tấm lòng của cô còn cởi mở và chân thành hơn cả chị dâu tôi. Tuy cùng ở trong lột khu nhà, nhưng không mấy khi tôi đến buồng riêng của cô. Tôi biết căn buồng của cô không phải luôn luôn đóng kín trước những người đàn ông, nhưng tôi vẫn có phần giữ ý. Một bữa cô nói với tôi ở buồng ăn:
- Anh Nghĩa có thích tiểu thuyết không? Em có một bộ tuyệt vời, anh có muốn đọc em cho mượn.
- Tôi cũng thích, nhưng bận học quá, sợ không đủ thì giờ để đọc.
- Đọc cái này cũng giúp cho vốn Pháp văn của anh giàu thêm chứ có thiệt gì đâu.
- Quyển gì? Có dễ đọc không Kim?
- Autallt en emporte le vent1 (Tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió của nhà văn Mỹ Margaret Mitchell). Đoạn nào khó anh hỏi, nhà này thiếu gì tự điển sống.
Kim vui vẻ rủ tôi lên phòng cô.
Không phải cô ở một căn buồng mà là hai căn thông nhau. Buồng ngoài có kê một đàn dương cầm, một giá sách lớn. Trên mặt lò sưởi giả có đặt những pho tượng đồng đen nhỏ tạc những nhân vật thần thoại của Ấn Độ, Miến Điện. Trên tường treo nhiều bức họa và một tấm thảm lớn. Có một bộ bàn ghế cho học trò bằng gỗ gụ đen bóng.
Kim mời tôi ngồi, chúng tôi vẫn đứng ngắm nghía những bức tranh.
- Anh thích tranh lắm à? Đây là tác phẩm của Nguyễn Gia Trí. Bức tranh này ông vẽ năm 1936 hồi em chưa ra đời. Ba mua để treo ở phòng khách. Hồi ở Hà Nội có người trả mười lăm ngàn để làm quà biếu Cao ủy De Jean, nhưng ba không bán. Còn đây là bức sơn mài của Lê Phổ, ba mới mua của một người bạn thân trước khi đi Sài Gòn. Chỉ có mấy con cá vàng thôi mà hai mươi ngàn đấy. Số tiền ấy đủ mua một cái Sim ca 8. Mua xong ba còn biếu thêm ông bạn một két Cognac nữa. Tấn thảm này dệt theo bức tranh Fatata te Miti, còn gọi là những người đàn bà Tahiti tắm của Goguin mua ở Saint - Denis trong chuyến du lịch sang Pháp năng 1952. Còn đây là tranh cóp-pi bức Vệ nữ soi gương của Titian. Khi qua Rome em cứ đòi ba mua một bức nguyên bản thời Phục hưng. Em ngốc quá. Những bức tranh loại đó rất đắt đã đành, mà dù mình có đủ tiền cũng không mua nổi. Để bảo vệ di sản văn hóa của mình, Chính phủ Ý cấm bán những kiệt tác của các danh họa cổ điển ra nước ngoài khi chưa được phép của Nhà nước. Thế là ba đành phải mua nhột bức tranh sao lại. Rẻ thôi, nhưng những người không sành khó mà phân biệt được với tranh thật. Anh thấy đấy, cả những vết rạn trên tranh họ cũng làm giả được... Mấy bức tượng kia em mua ở Canquytta, khi máy bay hạ cánh nghỉ dọc đường. Còn bức này - (cô chỉ cho tôi một bức thuốc nước vẽ chùa Trấn Quốc) là của họa sĩ Bạch Kim !
- Giỏi lắm ! Kim có năng khiếu hội họa đấy, sao không học vẽ?
Mắt cô sáng lên, long lanh một niềm vui.
- Em cũng đã có đi học vẽ... nhưng em không thể chịu được cái giờ a-na-tô-mi, không thể ngồi hàng tiếng trước những người đàn ông hay đàn bà khỏa thân - Kim cười - Em không ngượng đâu. Em cũng có thể ngồi như thế cho mọi người vẽ, nhưng ngồi cũng phải có tâm hồn. Còn như chỉ phơi bày ra như một cái xác chết trống rỗng thì thật ghê tởm. Không thể có một bức tranh đẹp được, không thể có nghệ thuật được. Thế là em bỏ luôn.
- Thật đáng tiếc.
- Anh Nghĩa có thích âm nhạc không?
- Có thích... nhưng ít hiểu biết quá!
Cô ngồi vào ghế và mở nắp đàn:
- Hãy nghe đây, anh lính Việt Minh!
Cô bắt đầu dạo bản Tiến quân ca. Đôi bàn tay cô lướt trên phím đàn như vũ bão. Ôi, tôi chưa bao giờ xúc động như vậy. Ngay giữa Thành phố Sài Gòn mà cái âm thanh thiêng liêng và quen thuộc đó bỗng vang lên mãnh liệt như muốn đập vỡ nhưng ô cửa kính để tràn ra vườn cây đầy hoa và ánh nắng, tràn ra đường phố đông vui. Nó bất chấp tất cả. Bất chấp cảnh sát, bất chấp Lại Văn Sang, Giám đốc công an đô thành, bất chấp cả Ngô Đình Diệm...
Bản nhạc kết thúc, cô ngồi im lặng, bàn tay từ từ hạ xuống cặp đùi, đầu cô hơi cúi xuống. Một phút sau cô quay lại nhìn tôi:
- Anh hiểu rồi chứ?
Tôi vỗ tay:
- Hoan hô! Tôi hiểu. Bản nhạc này tôi đã thuộc lòng đã nghe hàng ngàn lần nhưng chưa bao giờ tôi xúc động như lần này... Có lẽ vì âm thanh ấy đã bay lên từ đôi bàn tay xinh đẹp của Bạch Kim.
- Anh quá khen em đấy thôi anh lính Việt Minh ạ. Âm nhạc chứ không phải do hai bàn tay. Tâm hồn chứ không phải là nghệ thuật.
- Ai dạy cô đấy?
- Anh chứ còn ai nữa!
Cô nhìn tôi cười rất hóm hỉnh làm cho tôi phải giật mình. Có lẽ tôi đã bộc lộ nguyên hình con người thật của tôi. Tôi đã vô tình rời khỏi màn - kịch lớn lúc nào để cho người con gái thông minh này nắm bắt được.- Anh không dám nhận là thày giáo của em à? Dũng khí của người chiến sĩ để đâu rồi?... Nói chính xác ra là em học âm nhạc qua đài miền Bắc. Hôm anh mới về, nghe anh nói về người lính của Chi Lăng, của Đống Đa, Bạch Đằng, của Điện Biên Phủ, em rất cảm động. Ngay đêm hôm đó, em viết thêm vào đoạn phối âm cho thích hợp với pi-a- nô. Em định bụng sẽ đàn cho anh nghe, tặng anh để anh đồng cảm với tiếng đàn của lòng em. Nhiều lần em cứ muốn mời anh chị lên chơi nhưng em lại ngần ngại. Em là một con bé tự do, mẹ mất sớm, không ai rèn cặp cho cách xử thế ý tứ, em sợ chị Dung không thông cảm nổi. Nhưng em vẫn hy vọng là một ngày nào đó, chúng ta sẽ là bạn tốt của nhau.
- Xin cảm ơn Bạch Kim về quà tặng bữa nay. Thực tình chúng tôi chưa hiểu hết Kim và có thể Kim cũng chưa hiểu hết chúng tôi. Dung của tôi cũng rất yêu tự do. Cô đã từ bỏ tất cả, bất chấp tất cả để theo đuổi tiếng gọi của trái tim. Chúng tôi tin ở nhau. Chúng tôi là một.
- Em sống không thiếu thốn một chút gì, nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. anh cả em đã trở thành công dân nước Pháp và chẳng bao giờ còn trở lại quê hương. Anh chị Ân thì suốt ngày bận rộn với thời cuộc, với kinh doanh và chính trị, với những tham vọng tẻ nhạt và vô nghĩa. Chỉ có ba là đôi lúc còn chú ý đến em, nhưng ba già rồi.
- Chắc là bác còn mắc bận công chuyện kinh doanh.
- Không, từ khi lúc mẹ mất, ba em ít chú ý đến làm giàu. Mọi việc đều giao cho chị Lệ Ngọc. Ba chỉ trông vào lợi tức ngân hàng để sống. Mười năm trước đây còn khỏe, ba cũng sống phóng đãng với vài người đàn bà, nhưng không lấy ai. Bây giờ thì chỉ mạt chược suốt ngày. Hết thời rồi. Ba em đang bước chậm chạp tới nghĩa địa...
Câu nói của Kim trở nên buồn buồn như khúc nhạc tang lễ.
- Tôi trông bác vẫn tráng kiện làm.
- Cũng đã là kết thúc. Con người đã phải từ bỏ lui hoạt động, vùi đầu vào nhưng trò tiêu sầu tẻ nhạt để giết thời gian thì cũng tức là bước vào cõi chết. Ôi chắc anh chẳng biết thời trai trẻ của ba em đâu. Tuy không phải là một con người hùng, nhưng ông cũng xứng đáng được gọi là một người đàn ông tuyệt vời. Rất năng động và hiểu biết, khôn ngoan và thực dụng. Biết bao nhiêu đổi thủ trong kinh doanh đã phải ngã gục và thán phục ba em.
- Trước năm 1945 bác cũng về quê tôi. Bác trèo cây hái quả, bắn chim và câu cá đều giỏi.
- Đấy chỉ là những chuyện vặt. Ba là người chứa đầy những triết lý trái ngược, chứa đầy những mâu thuẫn. Nhưng trong hành động thì mâu thuẫn nào cũng bị ông san bằng, triết lý nào cũng phải phục tùng lợi ích của ông. Nếu không nó chẳng có ý nghĩa gì hết.
- Kim nói tôi thực khó hiểu.
- Chẳng hạn một chuyện nhỏ thế này thôi: Khi những người thợ làm ren đòi tăng lương, ba kì kèo với họ từng đồng xu nhỏ. Ba biết rõ cảnh nheo nhóc túng thiến của họ. Ông sẵn sàng bỏ vào quỹ cứu tế một số tiền gấp năm lần tiền tăng hương để chia cho chính những người thợ ấy. Ba giải thích là cũng vẫn một đồng tiền, nhưng một đằng là nhân đạo, một đằng là pháp lý. Tăng lương là thừa nhận mình thiếu tiền của họ. Cứu tế là buộc họ chấp nhận sự ban ơn của mình. Tăng lương là cố định ở mặt bằng mới sẽ bền vững theo năm tháng, là nền tảng cho một cuộc leo thang đòi tăng lương mới. Còn cứu tế là nhất thời và nó tô thắm uy tín của người chủ. Hay như ba biết kháng chiến là anh hùng như ba thường nói, nhưng ai làm thì xin cứ việc. Riêng phần mình, ba không chấp nhận sự hy sinh. Cái kiểu nói của anh ở buổi gặp mặt đầu tiên là rất hợp với ba. Anh coi thắng trận Điện Biên Phủ là vinh quang của anh và anh từ bỏ Cộng sản khi lợi ích anh bị tổn thương thế là anh thức thời, anh khôn ngoan, anh thông nịnh. Nhưng dù sao thì anh cũng chưa bằng được cái móng tay của ba đâu. Giả sử như biết Pháp ngày mai thua, hôm nay cộng tác với Pháp có lợi, ba vẫn cộng tác. Mai ba sẽ tìm cách tuột khỏi bàn tay trừng phạt của Việt Minh cho chơi. Nói như vậy chứ ba không phải là người mạo hiểm. Bao giờ ba cũng tìm cho mình một khoảng cách an toàn bền vững. Khó mà nói được ba là một người tốt hay xấu, người nhân đạo hay tàn ác. Một người keo kiệt hay hào phóng. Nhưng chắc chắn ông là một người làm chủ được những quy luật phức tạp nhất, là một người khôn ngoan.
- Ở nhà ta thì ai giống được ông cụ nhiều nhất?
- Không ai giống được đến một nửa. Nhưng giống ba nhất có lẽ là em. Thật đấy, anh cười cái gì. May mà em chỉ giống được một nửa. Giống hoàn toàn thì chán lắm. Em cũng phải có cái riêng của em nữa chứ phải không anh?
- Đúng như vậy, nhưng cái tỉ lệ Kim đưa ra thì thật mơ hồ.
- Thí dụ em và ba đều thích tranh, bỏ tiền ra mua không hề tiếc. Nhưng em thì chú trọng đến vẻ đẹp, còn ba thì chú ý đến sự sang trọng và giá cả. Ba biết Cộng sản, Quốc gia đúng sai thế nào là một chuyện, còn ba cộng tác với ai thì còn tùy. Còn em, một khi biết ai đúng ai sai thì dù chết em cũng theo người đúng.
- Như thế thì không gọi là Kim giống ba một nửa mà phải nói rằng Kim giống những cái tốt đẹp của ông cụ.
- Anh lại khen em rồi. Có thể em còn giống cả cái xấu của ông cụ mà em chưa biết là xấu hoặc chưa kể được ra với anh thôi.
Chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu. Tôi cảm thấy sự chân thực của cô bé và có nhiều điều cô làm tôi ngạc nhiên và thú vị. Sau khi đưa quyển "Cuốn theo chiều gió" cho tôi, cô còn dặn lại:
- Anh chị cần gì đến em thì cứ bảo. Thỉnh thoảng mời anh chị lên chơi cho em bớt vắng vẻ nhé. Em coi anh chị cũng như anh Ân chị Ngọc em thôi. Có khi chúng mình nó chuyện với nhau lại hợp hơn đấy. Tiến sĩ luật khoa của chúng ta không thể nghe được Tiến quân ca đâu!
- Kim củng nên xuống chỗ bọn tôi tôn. Kim đến với chúng tôi có khi còn thuận lợi hơn nhiều. Chắc chắn chúng ta sẽ là bạn tốt của nhau.
Tôi đã tường thuật lại toàn bộ cuộc chuyện trò cho Dung nghe. Chúng tôi đều có một ý nghĩ tốt về cô gái đó. Ngay dù tính cảnh giác nghề nghiệp của chúng tôi luôn luôn phải lật đi lật lại vấn đề thì trong trường hợp này, chúng tôi cũng xếp cô vào loại tiến bộ nhất ở nhà này. Dung nhắc tôi:- Anh cũng phải luôn luôn gần gụi cô ấy. Mình phải để ý đến bạn bè của Kim nữa. Trong tầng lớp cô ấy giao du có rất nhiều kẻ xấu. Đừng để chúng cướp mất của mình cô bé đáng yêu ấy.
Từ đấy hai chúng tôi năng đến thăm Kim và cô cũng thường lui tới căn phòng của chúng tôi hơn. Có thể thái độ vui vẻ của tôi làm cho chị Dung hiểu lầm chăng, nên đôi lúc chị cũng hay trêu tôi. (Tất nhiên là những lúc vắng vẻ chỉ có hai đứa). Đùa vui thì cũng là chuyện thường tình, nhưng nếu để Dung nghĩ rằng tôi thấy mất tự do vì Dung thì thật là tệ hại. Lời thanh minh của tôi thật khó mà sáng tỏ. Tôi không thể nói rõ tình yêu của tôi ra đối với Dung vì chị đã có chồng. Nhưng đó là một tình yêu có thật. Tôi kiềm chế nó, nhưng tôi cũng "dung túng" nó, "nâng niu" nó và "thả nổi” nó! Tôi âm thầm giữ gìn nó dù trong lý trí tôi hiếu nó chỉ là mối tình một phía, mộc ảo vọng êm dịu. Nó bền vững trong tôi như niềm tin của một tín đồ tôn giáo vào đức tối linh của họ, mặc dù đó chỉ là một điều không tưởng.
Bản chất tôi là một người kém giao du. Khi tôi xác định được mục đích học tập tôi rất tập trung sức lực vào bài vở. Tôi trường học đến khuya và rất ít bỏ phí thời gian. Tôi từ chối mọi trò chơi vô bổ. Toán học đối với tôi cũng là một niềm vui, một trò giải trí. Mỗi con số đều mang một màu sắc riêng và nó biến đổi như ảo thuật trước mát tôi. Mới nửa năm quay lại "nghiên bút", tôi đã vượt lên nhiều bạn bè. Mục tiên của tôi là phải thi đỗ tú tài phần một trong năm nay, nếu không tuổi sẽ muộn và tôi sẽ lỡ thời cơ để làm nhưng công việc lớn hơn.
Dung rất thương tôi. Chị chăm lo cho tôi mọi thứ. Có bữa thấy tôi làm việc khuya quá, Dung rón rén ra đứng sau lưng tôi. Tôi cảm thấy đôi bàn tay nhè nhẹ đặt lên vai mình. Tôi bỏ bút xuống, tìm đến đôi tay Dung, tôi quay mặt lại và tôi nhận được một nụ cười, một ánh mát mà tôi tin đó là cái nhìn của một tình yêu có thật. Tim tôi đập mạnh, tôi áp má vào đôi bàn tay Dung.
- Chịu khó học cho vợ con nhờ! - Dung thì thào vào tai tôi.
- Dung nhắc lại đi! Mình thích nghe câu đó lắm.
Dung cười và lảng sang chuyện khác:
- Đi ngủ đi anh! Anh học quá sức sinh bệnh thì còn khổ hơn là thi trượt. Tất cả em đều trông cậy vào anh đấy!
Tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh ý kiến của người chỉ huy. Mặc dù quan hệ giữa chúng tôi lâu nay rất gia đình, nhưng tôi vẫn luôn luôn ý thức mình còn là chiến sĩ của Dung.
Sự chăm chỉ của tôi đã trở thành nổi tiếng trong gia đình ông Cự Phách. Cô Kim cũng phải phục tôi.
- Anh là ông thánh sống trong địa ngục hay là con qủy ở trên thiên đường? Anh chẳng có gì ăn nhập với nhà này cả. Mọi người thì lúc nào cũng lo tiếp khách, xoa mạt chược, hòa nhạc, nhà hát, vũ trường, kermesse, week-end, còn anh thì chỉ thấy vùi đầu vào mấy cái công thức nát óc và chán ngấy!
- Tôi là một người kiên định cho mục đích của mình. Khi đã có cái đích thì tôi cắm cổ đi một mạch cho tới nơi.
- Cuộc đời của chúng ta thật ngắn ngủi anh ạ Trời phật chỉ cho chúng ta có sáu bảy chục năm. Chúng ta ngủ mất hơn hai mươi năm, hai mươi năm dành cho nhưng trò trẻ con ngu ngốc. Chỉ có hai mươi năm ta sống cho ta, hai mươi năm đó là đáng sống thôi.
- Với tôi, sống có mục đích là sống hạnh phúc. Tôi còn thấy thực sự vui thú khi phải vật lộn với những con số và định luật.
- Nhưng đàn ông thì phải biết lái xe, phải biết cưỡi ngựa, biết khiêu vũ nữa.
- Nhưng tôi làm gì có xe, có ngựa mà cần phải biết. Còn vũ trường thì không bao giờ mở cửa cho anh học trò nghèo.
- Xin mời anh đi với em. Em dạy anh lái xe. Em chỉ kèm chị Dung có vài trăm cây số mà bây giờ chị sắp có thể thi lấy bằng rồi đấy. Anh phải đi Đà Lạt với cả nhà một tuần. Ta sẽ thuê ngựa tập cưỡi. Còn vũ trường thì em chưa muốn rủ anh. Nhưng trước tiên anh phải học khiêu vũ. Anh hãy tham gia những vũ hội gia đình trước, sau đó anh chị có thể đến mọi nơi mình muốn.
- Cảm ơn Kim.
- Em hỏi thực anh điều này nhé - Kim cười.
- Chị Dung có hay ghen không? Đàn bà mà... chắc là có, dù nhiều hay ít. Nhưng không sao.
Tôi nói lại câu chuyện đó với Dung. Rồi một hôm Dung thì thầm với Kim:
- Ông chồng mình hiền lành quá, đúng là một thư sinh, Kim hãy giúp cho anh ấy trở thành một chàng trai của thời đại. Mình không ghen đâu!
Hai người ôm nhau quay một vòng và cười rũ. Một sáng chủ nhật Kim đến rủ bọn tôi đi Cáp1 (Vũng Tàu). Dung cáo có chuyện đặc biệt nhưng lại đẩy bằng được tôi đi với Kim. Chị nói riêng với tôi:
- Đi với Kim anh sẽ có nhiều bạn và sẽ có lợi cho công việc sau này.
Tôi nhiễn cưỡng ra đi, nhưng khi ngồi lên xe thì tôi lại lấy được một niềm hứng khởi nồng nhiệt. Tôi phải tận dụng thời gian và tôi biết rằng bộ mặt miễn cưỡng của thình là lạc lõng. Chiếc Sim ca màu xanh ra khỏi ga ra đã tăng tốc độ lao vun vút. Trên đường đi Biên Hòa, Kim cho xe lao với tốc độ tám mươi ki-lô-mét một giờ. Mái tóc cô trung bay cuộn lên quanh khuôn mặt hồng hào lúc nào cũng in một nụ cười tinh nghịch. Cô nổi còi và vượt nhiều xe. Mỗi lần bỏ một chiếc xe lại đằng sau, Kim lại ngoái nhìn nó luộc cách thách thức. Đường đi Vũng Tàu ngày chủ nhật rất đông. Những chiếc Ford V8, Renault, Citroen, Chambord, Peugeot bóng loáng lao như tên. Thấy xe Kim vượt lên, bọn con trai bị kích động ghê gớm. Họ bắt đầu tàng tốc độ và thế là một cuộc đua ô tô vô tình xảy ra. Mặt Kim bắt đầu căng thẳng. Cô đăm đăm nhìn về phía trước. Xe cô bay trên mặt đường và tôi có ý nghĩ là chỉ một sơ xuất nhỏ của tay lái cũng đủ làm cho chúng tôi tan nát. Nhưng Kim điều khiển rất chính xác. Xe của Kim mới nên cơ cấu máy móc còn rất bền vững và ổn định. Chỉ có một chiếc xe Jép vượt lên khỏi và biến mất ở con đường vòng. Lúc đó Kim mới cho xe dừng lại bên đường gần lối rẽ vào thị xã Bà Rịa. Cô đứng đếm lần lượt những chiếc xe tụt hậu chạy qua với một cái nhìn kiêu ngạo.
- Bây giờ đến lượt anh đấy.
- Tôi đã biết lái đâu.
- Tập mà. Em hướng dẫn anh.- Anh ngồi vào vòng lái đi.
- Chân trái là côn, chân phải ga và phanh. Đây là số và phanh tay bổ trợ. Ta phải bắt đầu từ nổ máy. Anh mở khóa xăng, khóa điện đi... thế... đề ma-rê. Thế, cho ga lên một chút đừng vào côn vội. Thế... Không sợ, có em ngồi bên rồi... Làm lại từ đầu.
Kim rất hài lòng vì tôi không phải là anh học trò dốt và nhát. Sự phối hợp chân tay chưa tốt làm cho xe bị gằn. Tôi cho nhẹ ga để thần kinh quen dần với những phản xạ mới mẻ. Bây giờ thì đến hàng loạt xe khác vượt lên nhìn chúng tôi với vẻ mặt chế nhạo.
- Kệ chúng nó. Ai cũng phải qua những bước chập chững đầu tiên - Kim cổ vũ tôi.
Tôi vật lộn với chiếc xe một tiếng đồng hồ và cảm thấy hứng thú thật sự. Nhưng bãi tắm đã kích thích cô giáo của tôi. Kim đưa xe vào bãi đỗ và chúng tôi chuẩn bị thay quần áo.
Kim che những tấm màn kính xe lại. Một cuộc lột xác nhanh chóng. Khi cô trong xe bước ra, tôi mới ý thức được sức mạnh của Kim. Cô đẹp trong một cơ thể khỏe mạnh cân đối của một nhà thể thao, một vẻ đẹp đầy quyền lực ngay cả đối với những chàng trai kiêu hãnh. Chiếc áo tắm với những mảng mầu đối lập và kích động làm cho cô nổi bật trong đám những người đi tắm. Tôi theo cô với một dáng điệu vụng về đến nỗi cô phải khoác - tay như dìu tôi đi.
Nhưng xuống nước thì tôi bỗng nhiên trở thành kẻ mạnh. Tôi bơi rất khỏe, bơi tự do không ra một kiểu cách nào cả, nhưng tôi cứ vượt những con sóng lao tít ra xa bỏ mặc Kim một mình. Lúc sau cô phải hét lên tôi mới bơi vòng lại. Sau này tôi mới thấy ngượng nghịu về cái pha độc diễn vô duyên của mình. Tôi đã bỏ mặc cô gái xinh đẹp một mình trên bãi tắm. Nhưng cô không chút bực mình mà lại còn tỏ ra tự hào về anh học trò lái xe của mình.- Em sợ quá. Anh mà bị nước cuốn mất thì em biết lấy gì đền chị Dung?
- Tôi khó có thể bị chết vì nước cũng như Kim không thể dễ dàng chết vì ô tô. Lúc nãy cô phóng làm cho tôi tối mắt, nhưng tôi vẫn tin vào tay lái của Kim.
- Em sẽ dạy anh lái xe thật tốt, còn bây giờ anh phải dạy em bơi nhé. Bằng lòng không?
- Xin sẵn sàng.
Cô cũng đã biết bơi chứ không đến nỗi phải đỡ cô (thật đáng tiếc!). Tôi đứng ra một chỗ xa làm tiêu và khuyến khích cô bơi lại. Trong khi cô bơi, tôi cứ lùi dần làm cho cô mệt lử phải kêu lên tôi mới chịu đứng lại đỡ lấy cô. Kim bám lấy tôi, mặt tái nhợt vì mệt. Cô thở mạnh, trái tim rung lên lan truyền sang tôi một lực cộng hưởng. Tim tôi cũng đập dồn dập. Chỉ một vài phút cô lại hồi sức, khuôn mặt lại hồng lên như trái đào chín. Chúng tôi đùa với nước rồi lên ăn uống.
Chị Dung đã nhét vào túi tôi một số tiền. Tôi gọi người hầu bàn ra thanh toán thì Kim kéo tay tôi lại.
- Anh học trò ngoan ơi, đây không phải là công việc của anh.
- Như vậy tôi sẽ không được tập làm người đàn ông mẫu mực - Tôi cười.
- Anh để dành chuyện đó cho một cô gái khác. Còn em, em làm nhiệm vụ thay chị Dung. Em phải trông nom anh như trông nom cậu học trò nhỏ!
Chúng tôi mải vui với bãi biển đến bốn giờ chiều mới tính chuyện về. Kim lại nhường tôi ngồi vào trước vòng lái. Tôi đã quen hơn và rõ ràng là tôi đã tự điều khiển được tay lái, không cần thêm bàn tay thứ ba. Tuy vậy, để bảo hiểm Kim vẫn ngồi sát bên tôi.
Nhưng khi đổi lại tay lái cho Kim thì xe sinh chuyện. Kim khởi động mãi mà xe không nổ. Cả Kim và tôi đều không biết chữa. Cô chỉ thuộc một điều khi xe chết thì xem lại điện và xăng. Nhưng cụ thể phải làm những việc gì thì cô chịu. Chúng tôi mở nắp máy dò dẫm toát mồ hôi mà tình thế vẫn không thay đổi. Ở đoạn này không có tiệm sửa. Nhiều chiếc xe khác vượt qua chúng tôi nhưng không tiện nhờ họ. Trời gần tối, một chiếc xe Jeep vượt lên đỗ trước chúng tôi.
- Xin chào, xe các bạn làm sao, có cần giúp đỡ không?
- Xe chúng tôi không nổ mà chưa tìm ra nguyên nhân. Chúng tôi mong có sự giúp đỡ - Kim thất vọng nói với anh ta.
Anh ta nhìn vào máy, lấy chiếc vặn vít loay hoay sửa cái gì đó.
- Cô khởi động đi.
Kim mở khóa điện, đề-ma-rê. Xe nổ. Anh ta mỉm cười vất chiếc vặn vít cho tôi. Kim nhảy xuống bắt tay anh ta.
- Cảm ơn ông nhiều. Không có ông, chúng tôi chẳng biết làm gì.
- Mauvais contac1 (Tiếp điện kém) chuyện vặt thôi!
- Nếu có thể xin ông cho biết quý danh.
- Trung úy Hoàng Quý Nhân. Rất hân hạnh. Chúng tôi là Bạch Kim và Quang Nghĩa.
- Nếu tôi không lầm thì sáng nay cô Kim phóng nhanh như mộc tay đua.
- Dạ tôi lái không tồi, nhưng sửa thì rất kém.
- Thế thì chưa đủ. Người lái xe giỏi là phải biết chữa giỏi. Tôi sẽ hộ tống các bạn về tận nhà đề phòng có một sự trục trặc nếu các bạn bằng lòng.
- Rất cảm ơn. Nếu có thể xin mời trung úy lại dùng bữa tối vời chúng tôi.
- Tôi chỉ nhận một nửa lời mời. Một nửa xin hẹn khi khác.
Chúng tôi về đến nhà đã tám giờ tối. Viên trung úy bắt tay chúng tôi chứ không vào nhà. Anh ta hẹn đến thăm trong một dịp khác.
Thấy chúng tôi về, cả nhà thở phào nhẹ nhõm. Ông Cự Phách nói:
- Tôi đoán là xe pan mà. Bạch Kim không mấy khi sai hẹn.
- Xe mới thế mà vào tay em đã có chuyện! - Chị Lệ Ngọc phàn nàn.
- Có lẽ chỉ lỏng một cái dây điện nào đó. Bọn em chẳng biết sửa nên cứ lúng túng mãi. Viên trong úy chỉ chạm tay vào là máy lại tốt ngay.
Tôi nhận ra một thoáng buồn trên nét mặt chị Dung. Tôi thấy như mình có lỗi. Lẽ ra khi về tôi mua một chút quá cho chị. Dung chăm sóc tôi hết lòng mà tôi thì vụng về quá. Tôi biết Dung không đòi hỏi những thứ đó, nhưng một tình cảm ân cần đối với chị chắc cũng rất quan trọng.
- Anh về muộn, em chờ anh mãi. Ruột như lửa đốt.
- Sao, có gì đáng lo đâu Dung?
- Kim lái tốt, nhưng em sợ cô ấy hơi mạo hiểm. Tình hình an ninh quanh Sài Gòn cũng rất xấu. Có chuyện gì em biết làm thế nào. Với em, anh là tất cả.
- Đã lo thế mà sáng nay cứ xui "người ta" đi? - Tôi nói dỗi.
- Xui thì vẫn xui, mà lo thì vẫn lo. Đó là một cái mâu thuẫn là chẳng bao giờ anh hiểu nổi.
Mắt Dung bỗng nhiên đẫm nước. Tôi ngồi xuống bên chị, lấy khăn thấm nước mắt cho Dung. Cả hai cùng im lặng.
Tôi cứ phải suy nghĩ mãi về những gì xảy ra tối hôm đó. Phải chăng đó là ánh sáng của một tình yêu có thật? Màn kịch của nhiệm vụ đã gắn cuộc đời chúng tôi với nhau rồi chăng? Tôi có thể hiểu được mình nhưng không thể đoán được những gì xảy ra trong tâm hồn chị. Với tôi, Dung vừa là một bí ẩn dày đặc, vừa là một tấm lòng chân thực sáng trong. Tôi phải chờ đợi và tôi luôn luôn tin ở sự kiên nhẫn của mình.
CHƯƠNG VIIICÁI NHIỆT BIỂU CHÍNH TRỊ
Từ ngày vào Sài Gòn quan hệ bạn bè của anh tôi cũng có nhiều thay đổi. Số trí thức đứng đắn phần đông ở lại Hà Nội. Những người tham gia các tổ chức chính trị thì đều ra đi. Họ tụ tập lại rất nhanh ở Sài Gòn. Nhưng vào đây muốn làm ăn được họ cần phải quan hệ với những chính khách gốc người Nam Bộ nữa. Những người này không những có thế lực về chính trị mà họ còn nắm giữ những động mạch kinh tế và tài chính quan trọng.
Ngoài các đảng phái chính trị miền Nam còn có nhiều cộng đồng tôn giáo khá lớn. Những người lãnh đạo tôn giáo cũng có nhiều tham vọng quyền lực. Có những người còn muốn tôn giáo của mình trở thành quốc đạo để tòa thánh của họ chi phối mọi hoạt động của chính quyền.
Điểm mặt trên sân khấu chính trị miền Nam lúc đó, ngoài bè đảng và tôn giáo của Ngô Đình Diệm ra người ta thấy nổi lên một số tổ chức: Việt Nau Quốc dân đảng, Đại Việt, đảng Xã lội, đảng Phục quốc, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo. Bình Xuyên...
Khi Diệm từ Mỹ về nhiều đảng phái tôn giáo muốn ra cộng tác với Diệm để hy vọng được chia quyền, nhưng họ đã "nhỡ tàu” vì Diệm là một tên độc tài chẳng tin ai hết. Chẳng những không cộng tác, Diệm còn nện luôn!
Đòn đầu tiên Diệm nện cho đảng Đại Việt. Đòn thứ hai, Diệm nện vào Việt Nam Quốc dân đảng.
Tại cuộc hội nghị ở điện Matignon (Pa-ri) tháng 3 năm 1953, Mỹ buộc Pháp phải duy trì Diệm, thế là ngày 28 tháng 5 cuộc chiến tranh chống giáo phái nổ ra. Giữ lời hứa với Mỹ, Pháp không can thiệp. Diệm dần dần thanh toán nốt ba lực lượng giáo phái.
Năm 1955 là năm tình hình chính trị Sài Gòn luôn luôn nóng bỏng trong không khí đàn áp, khủng bố, ám sát thanh trừng và đánh nhau. Lúc đầu anh tôi định lập ra cái văn phòng để tìm người giao du tạo nơi quen biết chuẩn bị nhảy ra hoạt động chính trị. Nhưng tình hình rối ren trên đã buộc anh chị tôi phải điều hòa mục tiêu cho thích nghi với thời cuộc. Một cuộc thảo luận trong bữa cơm gia đình làm tôi nhớ mãi.
- Hoàng Cơ Bảo bị bắt rồi. - Chị Lệ Ngọc thông báo tin trên cho mọi người với vẻ mặt buồn thảm. Chị đưa tờ báo cho anh tôi.
- Sao ông ta lại có thể bị bắt? Nếu ông bị Việt cộng bắt thì có thể hiểu được. Ông ta là một người yêu nước. Ông ta chống Cộng sản bài phong kiến, phản đồi chế độ thực dân, có gì sai với lý trưởng quốc gia? - Anh tôi nói như phân trần cho ông Bảo.
- Có tất cả những cái đó vẫn chưa đủ! - ông Cự Phách mỉm cười góp chuyện - Cái quan trọng nhất ông ta thiếu là sự trung thành với Thủ tướng Diệm!
- Còn có tin bốn yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng cũng mất tích. Không hiểu bị bắt hay chạy trốn. Liệu ông Hoàng Trọng Cát có dính líu vào vụ này không?
- Hai tuần nay tôi chưa gặp ông ta.
- Gặp làm gì? - Ông bố vợ nói nghiêm khắc - Cần đóng cửa ngay cái phòng khách của anh lại. Các vị đó cứ tưởng mình mạnh, cứ tập hợp lực lượng, nhưng khi làm những công việc này các vị đã mời cả mật thám của ông Diệm vào đội ngũ. Người Mỹ đã đứng sau ông Diệm thì mấy cái đảng đối lập đó phải coi chừng.
- Ba nói đúng đấy. Tình hình này chưa thể ngã ngũ đâu. Cứ nói ông Diệm bị cô lập, nhưng khi ông ta thẳng tay bóp chết các chính đảng thì các giáo phái lại ủng hộ ông ta, dân di cư theo ông ta, những người công giáo bảo vệ ông ta. Cuối cùng thì không phải là ông ta bị cô lập. Cái mạnh của ông ta là có người Mỹ đứng đằng sau.
- Không phải người Mỹ chỉ đứng sau ông Diệm. Phan Quang Đán cũng đã sang Mỹ. Ông ta cũng đã từng làm việc cho cơ quan tình báo Trung ương ở Phi-luật-tân, dưới quyền tướng Donoval. Đỗ Thúc Vượng cũng ở Mỹ về, quen biết cả ông Lansdale. Những người đó cũng đều dựa vào Mỹ, nhưng đâu có ưa ông Diệm. Theo con, người Mỹ không cam kết ủng hộ một cá nhân nào. Họ cam kết ủng hộ một Nam Việt Nam độc lập. Một thể chế dân chủ, một xã hội tự do!
Ông Cự Phách cười ầm lên.
- Bao giờ anh cũng bị lầm lẫn giữa đạo đức và chính trị. Người ta không thể nói tôi ủng hộ các chế độ độc tài. Người Mỹ coi thể chế dân chủ của họ là mẫu mực cho thế giới nhưng họ đã vẫn bỏ hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỉ đô-la để duy trì Magsaysay, Batista, Lý Thừa Vãn. Họ ve vãn tướng Franco và hàng tá những nhân vật độc tài tàn bạo khác. Tại sao? Vì họ cần nhưng con người này để lái nhưng quốc gia đó vào trong vòng ảnh hưởng của họ, đảm bảo quyền lợi và an ninh cho họ. Nết họ thực sự muốn Nam Việt Nam có một thể chế dân chủ thì tại sao họ lại phản đối tổng tuyển cử trong cả nước theo Hiệp định Giơ-ne-vơ? Vì họ biết thừa là nếu tôn trọng lý tưởng dân chủ để cho mọi người có quyền tự do lựa chọn thì họ sẽ thua cuộc. Ông Hồ Chí Minh sẽ thắng và họ sẽ bị đẩy ra khỏi Đông Dương. Đó là cái khác nhau giữa đạo lý và chính trị. Điều đó giải thích tại sao họ cần duy trì một chính quyền độc tài, cứng rắn, tập trung mọi quyền lực vào tay một gia đình.
- Nhưng thưa ba con thấy phe đối lập cũng đều chống cộng, chống hiệp thương với Bắc Việt và họ đại diện cho một quảng đại quần chúng thuộc nhiều cộng đồng, nhiều xu hướng chính trị, họ sẽ mạnh hơn ông Diệm. Người Mỹ phải nhìn thấy sức mạnh này, nếu họ biết tận dụng thì có lợi cho họ hơn.
- Đó là một mớ những chính khách xa-lông. Họ hò hét chống cộng, bài phong phản thực trên báo chí thì giỏi đấy nhưng họ không dám cầm súng và đi bộ ra trận. Chẳng qua là một đám quan viên xôi thịt, nhiều mưu mẹo vặt tranh nhau miệng đỉnh chung thôi. Ông Diệm thì cũng chẳng sạch sẽ hơn nhưng trong tay có cả một đạo quân, một bộ máy mật vụ một cộng đồng công giáo ủng hộ. Ông ta sẽ trở thành người hùng.
Cuộc tranh luận đó đã dẫn đến một chính sách trùm chăn chờ thời. Anh tôi ngồi thảo cả một bản danh sách đưa cho Dung:- Kể từ nay những người này đến hỏi anh thì em trả lời là anh đi vắng nhé. Phải nói sao cho họ vui vẻ ra đi và đừng bao giờ để họ ngồi chờ. Muốn vậy thì em phải thuộc bản danh sách này. Họ xưng tên hoặc đưa danh thiếp là em có thể chặn họ ở ngay ngoại cửa. Em nhớ chưa?
- Dạ, em nhớ ạ.
Cái danh sách tuy khá dài nhưng số người đến thăm viếng anh tôi thực tế đã giảm đi nhiều. Những cuộc bắt bớ, khám xét, ám sát của chính- quyền Diệm đã làm nguội đi cái thái độ hung hăng ban đầu của nhiều chính khách đối lập. Một số phải trốn ra các tỉnh nhỏ để khỏi vào tù. Một số khác đầu hàng Diệm một cách hèn hạ và thảm hại. Những người gọi là “ôn hòa" chưa bị đụng tới cũng thưa giao du, tụ tập vì biết đâu lòng dạ bạn bè. Liên minh đấy nhưng phản trắc cũng đấy.
Thực ra phòng khách của anh tôi cũng không đóng cửa hoàn toàn. Có hai người ngoài danh sách trên vẫn năng đi lại. Người thứ nhất dáng cao lớn, khuôn mặt vuông, trắng xanh, lúc nào cũng ăn mặc chải chuốt, đó là kỹ sư Đỗ Thúc Vượng.
Người thứ hai là nhà điền chủ kiêm chủ thuyền đánh cá Huỳnh Quốc Bửu.
Tháng 5 năm 1955 khì quân Bình Xuyên bị đánh bật ra khỏi thành phố, tư thế của Diệm mạnh lên. Những người chống Diêm phân hóa mạnh mẽ. Bọn chính khách xa-lông một phen vỡ mộng. Họ phải tìm ra lối thoát. Chính lúc đó Mỹ đã giúp Diệm tập hợp lực lượng.
Đỗ Thúc Vượng nói với anh tôi:
- Đang có cuộc vận động lớn thành lập "Hội nhân dân cách mạng”.
- Ai sẽ là người lãnh đạo? Họ chống ai, hậu thuẫn ai?
- Họ chống bạo động, chống lại các phe nhóm quấy phá làm mất ổn định quốc gia, họ chống chế độ quân chủ hiện hành, chống thực dân Pháp, chống Cộng sản lật đổ. Họ hậu thuẫn tự do dân chủ.
- Họ được ai hậu thuẫn?
- Người Mỹ hậu thuẫn, chính phủ hậu thuẫn, nhân dân hậu thuẫn.
- Chẳng lẽ chính phủ của chế độ quân chủ hiện hành lại chống chế độ quân chủ.
- Thực ra là chống Quốc trưởng Bảo Đại. Thưa luật sư, đã đến lúc chúng ta phải có luật trong phong trào này.
Anh tôi đang lưỡng lự thì Vượng đã kể ra một số nhân vật và đảng phái sẽ đứng trong Hội nhân dân cách mạng: Đảng Phục quốc Mặt trận Quốc gia kháng chiến, Đảng Xã hội, Phong trào Cách mạng quốc gia, Tập đoàn công dân, Phong trào tranh thủ tự do... và cả những người không đảng phái. Thế là anh tôi và Đỗ Thúc Vượng quyết định gia nhập hàng ngũ Hội nhân dân cách mạng.
Họ tụ tập trước tòa thị sảnh Sài Gòn để nêu ra cương lĩnh chung.
Báo chí được một phen tung hô ầm ỹ về lý trưởng cách mạng, lý tưởng dân chủ.
Vài ngày sau, một hội nghị dân chính toàn quốc được tiến hành. Hội nghị này cũng đi đến một quyết định tương tự. Nhưng chí sĩ họ Ngô lại do dự trước sự tín nhiệm của quốc dân. Ngày 9 tháng 5, ông ta phát hành bản hiệu triệu quốc dân về lý trưởng quốc gia và tinh thần dân chủ. Ngô thấy cần phải có một cuộc trưng cầu dân ý để hợp pháp hóa sự ủy nhiệm của quốc dân đối với ông. Nếu như quốc dân còn lưu luyến Quốc trưởng Bảo Đại thì ông không bao giờ chống lại cựu vương và ông sẽ tôn trọng truyền thống.
Nhân dịp này anh tôi đã viết một bài báo rất dài để ca ngợi lý tưởng dân chủ và tinh thần luật pháp.
Tháng 9 năm 1955, một ủy ban vận động trưng cầu dân ý được thành lập để lật Bảo Đại. Anh tôi được cử vào tiểu ban pháp lý nhằm đảm bảo tính chất công bằng cho cuộc bỏ phiếu. Thật là một vinh dự lớn lao!
Ngô Đình Diệm cũng hứa hẹn trên đài là xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ, đồng quyền, đồng tiến, đồng lối... và ông ta đã thắng cử với chín mươi phần trăm số phiếu trong số chín mươi tám phần trăm cử tri đi bỏ phiếu. Những con số đó biển hiện tính hợp pháp của cuộc trưng cầu. Ngay sau đó, ngày 24 tháng 10 nước Mỹ đã công nhận cuộc trưng cầu dân ý.
Không phải mọi người đều nhẹ dạ cả tin vào cái màn kịch bẩn thìu do Mỹ đạo diễn đó. Chính anh tôi, người vừa tâng bốc Ngô chí sĩ đến tận mây xanh, luật sư trong tiểu ban pháp lý của Ban tổ chức cũng không thể chịu đựng được cái kết quả trắng trợn của ban kiểm phiếu công bố qua đài phát thanh. Có hàng ngàn lá đơn gửi lên tiểu ban pháp lý chất vấn và kháng nghị. Họ hỏi đưa ra hai vị Diệm và Bảo Đại bắt chọn một thì dân chủ ở chỗ nào? Như vậy có khác gì buộc phải lựa chọn giữa quỷ xứ và yêu tinh? Tại sao không có quyền phủ định cả hai? Lấy đâu ra mươi tám phần trăm phiếu bầu?....
Trước những tình thế đó, anh tôi thường tìm ra được một giải pháp thích hợp. Cả gia đình làm một chuyến đi chơi Đà Lạt một tuần. Văn phòng luật sư tạm đóng cửa. Nhân dịp đó tôi và Dung cũng theo đi chơi hai ngày. Tôi đã thi xong tú tài phần một khá tốt đẹp. Trước mắt tôi đã có hai hướng đi. Học tiếp hoặc xin vào học võ bị. Chưa có bằng tú tài toàn phần, muốn vào được trường sĩ quan phải có sự đỡ đầu của một viên tướng. Anh tôi đã hứa lo cho chuyện này. Nhưng thôi... hãy đón nhận một vài ngày nghỉ cho thanh thản...
CHƯƠNG IX
VIÊN TRUNG UÝ CÔ ĐƠN
Lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt, thành phố nghỉ mát nổi tiếng này. Không khí se lạnh hơi thu làm tôi nhớ tới quê hương ngoài Bắc. Không biết mẹ tôi và chị tôi hồi này ra sao? Những bức điện công tác của cậu tôi có một lần nhắc đến là chị Huệ đã di dạy học. Ngoài ra không biết gì thêm. Tôi vẫn giữ nếp báo cáo hàng tháng, nhưng chúng tôi cũng không lạm dụng để nói nhưng chuyện riêng tư.
Anh chị tôi được mời đến nghỉ trong một dã thự của nhà điền chủ Huỳnh Quốc Bửu. Đó là một tòa lầu hai tầng xinh xắn xây theo kiến trúc Ý. Những khuôn cửa gô-tích, những bao lơn rộng tràn đầy ánh sáng và những giàn hoa giấy. Ngoài vườn có những pho tượng bằng đá trắng, những bể nước có vòi phun. Nhưng cũng có cả những bộ chậu cảnh bằng sứ phương Đông nhiều hình nhiều vẻ và phong phú như một bộ sưu tập. Những thứ sang trọng sạch sẽ này hoàn toàn tương phản với dáng điệu và phục sức khắc khổ của người chủ nó. Hai đứa con ông cũng giống cha như đúc, trừ bộ quần áo bên ngoài. Chúng tôi làm quen với nhau rất nhanh. Khi Kim ngỏ ý muốn được có cỗ xe ngựa để đi thăm rừng cao nguyên thì cậu con lớn Huỳnh Thái và cô em Huỳnh Liên hứa sẽ cố tìm được những thứ đó cho chúng tôi.
Đúng như điều mong đợi, sáng hôm sau đã có một chiếc xe ngựa đỗ trước dã thự. Hai con ngựa một bạch, một hồng rất đẹp đang giậm chân chờ xuất phát. Người xà ích mời chúng tôi lên xe.
Tôi, Dung, Kim, Thái và Liên vào rừng Lâm Viên. Anh chị tôi không thích trò này bằng ngồi nhà xoa mạt chược với vợ chồng ông Bửu. Chúng tôi mang theo súng sàn, rượu, cà-phê, bánh mì, thức ăn nguội và nhiều thứ lặt vạt như đi cắm trại.
Chiếc xe ngựa chuyên cho thuê để chụp ảnh này không phải là một công cụ "dã chiến". Nó không thể leo lên những con đường rừng gập ghềnh, và chúng tôi phải hạ trại bên một con suối chưa xa thành phố là bao. Kim yêu cầu người xà ích cho cô được cưỡi ngựa. Họ đóng yên cương nhưng Kim không thể leo lên lưng ngựa. Cô chưa bao giờ là kỵ sĩ. Thái được vinh dự đỡ cô lên yên, còn tôi thì giúp cho Dung. Hai con ngựa hiền lành đã quen với những pha biểu diễn trước ống kính, chúng nhẹ nhàng sải bước trên đồng cỏ. Tóc hai cô gái từng bay lên in vào nền trời loang lổ những vân mây trắng bạc. Mặt họ đầy hào hứng, một cảm giác bay bổng và pha chút mạo hiểm choán ngợp tâm hồn họ. Chúng tôi chụp hết cuốn phim này đến cuốn phim khác.
Tôi và Thái vác khẩu súng săn vào rừng kiếm mấy con chim trong khi những cô gái đi tắm suối rồi lên phơi nắng trên thảm cỏ như những con cá sấu bằng sứ trắng.
Buổi trưa chúng tôi làm một bữa cơm trong rừng. Rượu, thịt chim nướng và đồ nguội đem từ nhà. Chúng tôi đang ăn uống vui vẻ thì có tiếng động cơ ô tô. Một chiếc xe Jeep chạy ngoằn ngoèo trong cánh rừng thưa và đỗ lại gần chỗ chúng tôi. Một quân nhân bước xuống xe và anh ta tiến về phía bờ suối. Tôi nhận ra ngay viên trung úy đã chữa xe giúp chúng tôi trên đường Vũng Tàu - Sài Gòn cách đây ít lâu.
- Xin chào các bạn!
- Chào trung úy, chắc anh chưa quên chúng tôi? - Tôi chỉ cô Kim - Anh còn nhớ ai đây không?
- Chào Bạch Kim! Làm sao tôi có thể quên một tay đua ô tô đáng sợ?
- Dây là Dung, vợ tôi. Các bạn Huỳnh Thái và Huỳnh Liên của chúng tôi.
Trung uý Hoàng Quý Nhân lần lượt bắt tay từng người. Chúng tôi rót rượu mời anh nâng cốc với món thịt chim rừng để chúc mừng cho sự quen biết.
- Do vô tình hay trung uý biết chúng tôi ở đây mà đến chơi? - Kim hỏi.
- Xưa thì vô tình, nay thì hữu ý. Năm giờ chiều qua xe tôi vượt các bạn ở cây số 126. Chiếc Sim ca màu xanh mang biển số B4280 làm tôi nhớ đến các bạn ngay. Vì đông người tôi không tiện gọi. Tôi tin là sẽ tìm được các bạn trong cái thành phố nhỏ bé này. Các bạn thấy đấy, có trốn vào rừng bằng xe ngựa tôi cũng vẫn kiếm ra.
- Trung uý giỏi thật! Hệt như một thám tử! - Kìm khen vui vẻ.
- Cảm ơn về lời khen của cô. Con ong sẽ chẳng giỏi nếu bông hoa không có hương sắc - Viên trung uý mỉm cười và liếc mắt một cách ý nhị.
- Lái xe trong rừng một mình đi tìm chúng tôi mà không sợ lạc, chắc trung uý phải quen thuộc vùng này lắm!
- Tôi đã vài lần đi bắn lợn rừng và bò tót trên cao nguyên Lâm Viên. Hôm nay tôi lại được ăn thịt chim rừng. Chúng ta là đồng nghiệp.
- Lần đầu tiên tôi hạ được vài con chim bằng khẩu "ca-líp đui" của bạn Thái. Liệu như vậy có thể gọi là thợ săn chưa? Có xứng đáng được gọi là đồng nghiệp của trung uý không?
- Còn tôi thì đã vài lần bắn hươu, nai!? - Thái kiêu hãnh góp chuyện.
- Tôi lại không bắn nai hay bắn chim. Cái thú săn bắn là phải pha một chút mạo hiểm. Nai và chim không biết chống cự. Chúng không kích thích ham muốn của tôi. Tôi muốn nói đồng nghiệp theo nghĩa rộng.
- Thú dữ? Nhưng đàng sau trung uý lại có người lính khoác liên thanh yểm trợ thì còn đâu là nguy hiểm!
- Lần đầu tiên Dung góp chuyện và tất cả chúng tôi đều cười. Viên trung uý vẫn giữ vẻ mặt bình thản.
- Tôi đi một mình. Như các bạn thấy đấy, tôi là một người cô đơn. Tôi thích những cuộc săn đuổi cô đơn. Kỷ nguyên chúng ta là kỷ nguyên cô đơn. Tôi cô đơn, anh cô đơn, nó cô đơn. Chúng ta thích tự do tuyệt dối. Chúng ta chỉ đạt được điều đó khi chúng ta từ bỏ lui sự ràng buộc của gia đình, xã hội. Chúng ta trần trụi giữa thiên nhiên rộng lớn, chúng ta trở về với nguyên thuỷ hoang sơ, với dã thú. Ôi nếu tôi được sống một mình trên hoang đảo như Robinson nhỉ? Tôi hoàn toàn cô đơn, nhưng tất nhiên tôi tuyệt đối tự do!
- Sợ lúc đó Bạch Kim lại mong đợi một cánh buồm xuất hiện trên đường chân trời. Trên thuyền có một chàng trai duy nhất. Chàng muốn cùng Bạch Kim chia sẻ nỗi cô đơn...
- Cao thượng nhỉ! Nhưng kết cục đó là tầm thường. Phải nói là chàng đã xâm lược hòn đảo cô đơn của tôi, chàng định giết chết tự do của tôi. Và tôi sẽ chống lại chàng như chống lại thú dữ!
…
Hai giờ chiều chúng tôi quay về rừng. Hoàng Quý Nhân chia tay với chúng tôi ngay bìa rừng. Anh ta hứa đến chơi nhưng không hẹn trước.Buổi tôi đó, sau cuộc khiêu vũ nhỏ trong gia đình, chúng tôi về buồng riêng. Đóng cửa lại chị Dung mới hỏi tôi:
- Theo anh thì sự quen biết với viên trung úy là ngẫu nhiên hay có một sự sắp đặt nào đó? Liệt đây có phải là "cái đuôi" của chúng ta không?
- Theo thình thì sự việc trên chỉ là vô tình thôi. Hôm hỏng xe mình và Kim loay hoay mãi mới thấy xe của nó phóng qua...
- Chỉ có điều nét mặt nó trông quen lắm. Nếu không lầm thì em đã nhìn thấy trong một khoảnh khắc đặt biệt. Không biết trong giây lát ngắn ngủi đó nó có nhận ra em không?
- Sợ quen biết lâu chứ trong khoảnh khắc thì khó mà nhớ nổi.
- Em không sợ nhưng khuôn mặt quen biết kỹ vì em đã đề phòng và thường không nguy hiểm. Nhưng bộ mặt này làm em không yên tâm.
- Dung cẩn thận cũng phải thôi. Nhưng theo mình trường hợp này là ngẫu nhiên không đáng ngại.
- Có thể bắt đầu từ ngẫu nhiên, nhưng rồi từ đó lại hiện lên một dấu vết.
- Sao?
- Giả thử như nó đã nhận ra nét mặt của em trong ánh chớp của một phát súng nổ cách đây hai năm thì sao?
- Phát súng nào?
Tôi hỏi nhưng Dung không trả lời điều tôi muốn biết. Nét mặt chị tư lự. chị nhấn mạnh:
- Ta phải cảnh giác con người này. Muốn có được lời giải đáp, chúng mình phải tìm ra lai lịch của viên trung úy.
Tôi hiểu được tính chất nghiêm trọng của sự việc Tôi muốn chia sẻ với Dung những lo âu nhưng chị đã đóng kín cánh cửa của tâm hồn lại. Dung nhìn tôi với cặp mắt long lanh và an ủi tôi:
- Chẳng có chuyện gì lớn đâu. Nghề nghiệp của chúng ta, nỗi lo thường bất chợt đến rồi lại đi. Giả sử như em đã nhớ lầm, hoặc em nhớ đúng, nhưng ánh lửa do em chủ động bóp cò chỉ đủ để cặp mắt em nhận ra đối phương thôi thì những lo lắng trên đều trở thành vô nghĩa. Dù sao thì ta cũng phải chú ý đến cái khả năng bé nhỏ xảy ra trong khoảnh khắc một vài phần trăm giây đó.
Trở về Sài Gòn, chúng tôi viết một bản báo cáo dài về Trung tâm. Chúng tôi kể lại chuyện viên trung úy Hoàng Quý Nhân và đề nghị cấp trên kiểm tra lại trong danh bạ của Phòng Nhì Pháp trước đây xem có tên đó không.
…
Có một hôm đại tá Lê Thiết Vũ đến thăm viếng xã giao anh chị tôi. Vốn là bạn cũ nên anh tôi đã giới thiệu tôi với viên đại tá và nói nguyện vọng của tôi là muốn theo đường binh nghiệp. Anh ta hứa sẽ giúp đỡ cho tôi nếu như tôi có đủ nghị lực để vượt quà những thử thách nặng nề của đời sống quân ngũ. Để có một tương lai tốt đẹp, trước tiên tôi vào học Trường sĩ quan Thủ Đức. Với tư cách là cục phó Quân lực thuộc Bộ Tổng tham mưu, đại tá Lê Thiết Vũ sẽ đỡ đầu cho tôi thì những thủ tục gia nhập quân trường cũng sẽ dễ dàng hơn. Đây là một tin mừng thực sự đối với tôi, một sự ưu đãi ngoại lệ giúp cho tôi cơ hội đi tới đích đúng như dự kiến.
Sau này tôi mới biết rằng ngoài sự giúp đỡ của đại tá Thiết Vũ ra, thời điểm tôi xin đi học trung sĩ quan cũng vào đúng lúc tình thế chung có nhiều thuận lợi, Ngô Đình Diệm đang có một chương trình rộng lớn xây dựng quân ngụy Sài Gòn thành một lực lượng to lớn để thay thế vào khoảng trống mà quân Pháp sẽ ra đi. Việc đào tạo sĩ quan chỉ huy trở thành cấp bách. Vốn là một đội quân tay sai, đội ngũ sĩ quan từ cấp tiểu đoàn trở lên trước đây phần lớn đều là người Pháp. Số còn lại là người Việt thì cũng chịu ảnh hưởng nhiều của Pháp. Trong các cuộc thanh trừng tướng Nguyễn Văn Hinh và chống lại âm mưu phản loạn của Nguyễn Văn Vĩ, nhiều sĩ quan đã không được Diệm tin nữa. Diệm muốn có một đội ngũ mới, được Mỹ huấn luyện đào tạo và trung thành với cá nhân ông ta. Phương hướng này khẩn trương và rộng lớn khiến cho việc lựa chọn cũng có dễ dàng hơn. Tất cả các giấy tờ kiểm tra về học lực và y tế của tôi đều hợp thức. Tôi đã được tòng sự tại đại đội 2 khoa lục quân.
Bộ quân phục học viện sĩ quan lục quân làm cho bộ mặt của tôi thay đổi hẳn đi. Anh tôi tự hào vì tôi Chị Lệ Ngọc hình như cũng chúng tôi. Cô Kim khen tôi đã có tư thế của kẻ mạnh. Còn ông Cự Phách thì tiên đoán tôi sẽ trở thành một con người hùng. Riêng Dung thì không được vui lắm. Khoác bộ quân phục của địch lên mình đâu phải là một niềm vinh dự. Mặt khác ba năm tới chúng tôi sẽ phải tạm xa nhau trừ nhưng ngày nghỉ lễ. Tuy chỉ là một cặp vợ chồng trên sân khấu, nhưng tháng ngày sống bên nhau đã tạo cho chúng tôi một cảm giác rất tự nhiên là chúng tôi đã thuộc về nhau, nó gắn chặt tâm hồn hai đứa với nhau. Sự kiềm chế dục vọng tuy làm cho cả hai đều căng thảng đến nhức nhối, nhưng nó lại là cái căng thẳng của dây đàn muôn điệu... Nay bỗng nới lỏng sợi dây đó đi, cả hai chúng tôi đều mất thăng bằng. Tôi thấy mình buồn bao nhiều thì lại thương Dung bấy nhiêu.
Tôi nhập cuộc với chế độ quân trường không khó khăn gì lắm. Tôi đã có một ý thức phấn đấu rõ rệt. Tất cả các môn học tôi phải cố giành được vị trí xuất sắc. Ngoài ra tôi còn phải luyện tập thêm cho mình nhưng môn kỹ thuật chung nữa. Phải bắn súng ngắn giỏi. Phải sử dụng thành thạo nhưng khí tài thông tin vô tuyến. Phải vẽ bản đồ nhanh và chính xác. Phải chụp ảnh tốt. Phải lái xe thiện nghệ. Phải rèn luyện võ thuật đều đặn. Tất cả nhưng môn này đều được nhà trường khuyến khích, các phương tiện và học cụ của nó thì thật là tốt và đầy đủ.
Thế là tôi lại cặm cụi cứ hướng vào mục tiêu đã định mà đi.
Hoàng Quý Nhân đến thăm chúng tôi lần này với cấp bậc đại úy. Anh ta cũng xuất hiện một mình và bất ngờ như mọi lần. Bạch Kim đã giới thiệu viên đại úy với cả nhà và chúng tôi đã có được một bứa cơm thân mật với ngườì bạn mới.Chúng tôi nâng cốc chúc mừng anh ta vừa được vinh thăng. Anh cũng chúc mừng tôi từ nay đã trở thành chiến hữu của anh. Quý Nhân vẫn luôn luôn giữ được bộ mặt bình thản, không mấy khi biểu lộ những xúc cảm ra ngoài. Những bông mai bạc lấp lánh trên ve áo làm cho anh ta trẻ hẳn ra. Khuôn mặt trái xoan, cặp lông mày xếch và mảnh. Đôi mắt đại lúc rất linh hoạt, nhưng thông thường thì mơ màng bình lặng như mắt mèo ngái ngủ. Chiếc tẩu thường trực trên cặp môi hơi sẫm màu. Mái tóc rậm và xanh phủ xuống vừng trán thấp như cố che đi một vết sẹo nhỏ gần thái dương bên phải. Sự hấp dẫn của anh ta có lẽ là ở cái bí ẩn mà ta chưa hiểu được chưa đoán nổi. Giọng nói của anh ta trầm, rõ ràng, có một chút gì trang nghiêm. Thỉnh thoảng mới thấy trên khuôn mặt anh một nụ cười nhếch mép, ngắn ngủ, nhưng đúng lúc làm cho câu chuyện của anh ta rất có duyên.
Lúc đầu tôi tưởng viền đại úy là một người kín đáo, bí hiểm nhưng ít lâu sau những dự đoán của tôi lại bị lung lay. Chỉ cần một sự khêu gợi đúng chỗ là anh có thể dốc cạn bầu tâm sự với mọi người. Điều thổ lộ đó hình như được bung ra khỏi nỗi cô đơn dồn nén anh trong nhiều năm tháng.
Trong căn buồng chỉ có vợ chồng tôi và Kim, viên đại úy đã trầm trầm để lại dòng dõi của mình:
- Quê tôi ở Sơn Tây, một vùng quê nghèo, đất đai cằn cỗi. Cha tôi cũng chịu khó học hành nhưng đường công danh lận đận. Mấy khoa thi đều uổng công lều chõng. Ông bỏ nhà ra đi, lần đường vào Huế tìm chỗ tiến thân. Bạn bè cũ có một vài người đã làm quan trong triều, mũ cao áo dài, vinh hoa phú quý. Nghĩ đến tình bạn cũ, một vị quan đã chuyên cha tôi nên chấp nhận một chức hoạn quan, vì lúc đó trong cung cấm đang cần vài người có chút ít học thức để quản giáo đám vương thân, tôn nữ của hoàng tộc. Các bạn biết đấy, chấp nhận điều này có nghĩa là phải từ bỏ dục vọng, từ bỏ đường con cái, chấp nhận một cuộc sống cô đơn vĩnh cửu. Cha tôi đã phải suy nghĩ rất lung. Giả sử như ông đã có vợ có con nối dõi thì sự hy sinh cũng có niềm an ủi. Nhưng tình thế của cha tôi lúc đó cũng thật bi thảm. Tiền bạc không còn, nhờ vả bạn bè cưng có giới hạn. Trở về quê hương với hai bàn tay trắng thì tương lai cũng không có gì hứa hẹn mà lại còn hổ thẹn với xóm làng. Thế là cha tôi đã nhắm mắt chấp nhận con đường công danh khắc nghiệt đó. Quan tuần vũ Lê Quốc Khanh đã dâng biển tiến cử cha tôi lên đức Khải Định. Lúc đó cha tôi mới hai mươi nhăm tuổi, một chàng trai tuấn tú, chưa vợ, đầy sức lực.
Tất cả chúng tôi đều cười.
- Cha anh là hoạn quan thì làm sao có mặt anh trên đời này?
- Đó là một tấn hài kịch lớn - Viên đại úy nhún vai, mỉm cười rồi vui vẻ kể tiếp - Cha tôi là một người khôn ngoan. Trước khi chấp nhận việc trên, ông đã bí mật tìm viên quan pháp y chuyên làm cái công việc thiến người dã man này. Cha tôi xin nếu phải tiến hành cuộc giải phẫu bất đắc dĩ đó thì ông hãy gia ân để sót lại cho con người bất hạnh này một cái "loạt ngô". Cha tôi sẽ đời đời biết ơn ông. Viên pháp quan nghèo xác và hiếm hoi được dịp làm điều phúc đức. Ông ta đã chấp nhận lời thỉnh cầu của cha tôi. Giao kèo tuyệt luật đó được thực thi. Cha tôi đã trở thành vị quan hoạn quyền thế nhất trong các vị quan hoạn, vĩ đại nhất, khôn ngoan nhất và được sủng ái nhất trong các vị công bộc của hoàng gia, vì trong tay ông có một "vũ khí bí mật" hơn hẳn đồng nghiệp, đó là cái "hạt ngô" còn sót lại. Cha tôi đã giúp đức vua và hoàng hậu cai quản đám công bộc trong cấm cung một cách hữu hiệu. Ông được lòng các bà vương phi, thứ phi, cung tần, mỹ nữ. Ông đã ban phát thầm vụng cho họ niềm vui của người đời mà họ luôn luôn khao khát. Ông còn dần dần lấn át một số quan chức trong triều. Ai cần kền gì lên đức Hoàng thượng, nhờ đến ông công việc cũng mau máu hơn. Ai mật tâu điều gì ông đều biết. Trong một thời gian không lâu lắm, chừng hai mươi năm gì đó ông đã thu vén cho mình một gia tài kha khá. Ông xin từ quan trở về quê hương. Lúc đó chế độ hoạn quan cũng đã trở thành hủ bại trước thế giới bên ngoài nên Đức Vua cũng không giữ ông. Ngài phong cho ông một tước quan nhỏ và ra chiếu chỉ cấp cho ông ba mươi mẫu công điền ở quê hương. Cha tôi trở về làng xây nhà dựng trại. Ông sống như một ông vua trong cái vương quốc bé nhỏ của mình. Các bạn thấy đất tất cả là thành thực, là rõ ràng, những chỉ cần chứa đựng một chút giả dối, một chút bí mật thôi thì cái bí mật nhỏ bé đó có giá trị lớn lao biết nhường nào? - Viên đại úy triết lý.
- Ông về quê và lấy vợ? - Tôi hỏi.
- Còn lâu. Ông có khả năng hoạt động tình dục nhưng không tin là mình có con nên ông không chấp nhận ai là vợ. Ông sống buông thả. Ông thuê những cô gái trẻ xinh đẹp đến hầu hạ, nhưng không mấy người chịu đựng nổi ông lâu. Ông không biết đến mỏi mệt vì những cuộc hành lạc không tốn nhiều năng lượng. Người này thôi việc người khác thay vào, tiếng đồn đại về ông lan khắp vùng. Thôi thì đủ loại con gái lẳng lơ, những mụ nạ dòng, những cô ả dâm đãng đều tìm đến đấy để thử sức. Họ không sợ hậu quả gì vì họ biết ông là hoạn quan. Và người đàn bà vượt lên tất cả mọi người đàn bà là mẹ tôi.
Mẹ tôi là người ở tỉnh lỵ Sơn Tây. Ông ngoại xuất thân là một đồ tể mổ lợn kiêm bán cháo lòng. Hai ông bà sinh được bốn con. Hai cô gái lớn đều đến tuổi cập kê, cả hai đều hồng hào khỏe mạnh đã thu bút đám khách si tình. Cửa hàng ông ngoại tôi lúc nào cũng đầy ắp lính tráng thợ thuyền và đám công chức nhỏ. Mẹ tôi đã phải lòng một người thợ nghèo mà không được phép của cha mẹ, nên bị ông ngoại tôi đánh cho một trận rất đau. Chán đời, mẹ tôi bỏ nhà ra đi. Trong lúc phẫn chí, bà đã đến xin làm thuê cho ông quan hoạn. Bà biết nơi đây là một tổ quỷ. Khác với nhiều người, mẹ tôi đến đây không phải để tìm những thú vui thể xác. Bà giữ gìn tấm thân ngọc ngà của mình một cách lạnh lùng và kiên quyết. Bà biết ẩn nấp vào những người khác trong nhà đến nỗi bố tôi phải cố tách bà ra bằng cách đuổi tất cả mọi người ra khỏi tòa nhà chính của ông chỉ để riêng mình mẹ tôi cho ông sai bảo. Nhưng bao giờ mẹ tôi cũng giữ cho mình một khoảng cách an toàn. Nhiều tháng trời ông quên hết mọi người con gái khác, ông chỉ săn đuổi bà, cầu xin bà. Ông ve vãn, ông hứa hẹn, ông dọa nạt nhưng chỉ nhận được ở mẹ tôi một sự khước từ, lẩn tránh. Dần dần bà nhận ra một tình yêu say đắm trong trái tim của người đàn ông già trác táng đó, bà bỗng thấy thương ông; nhưng bà vẫn chưa dễ dàng buông thả cho ông. Bà đã khéo léo thổi bùng ngọn lửa dục tình của ông tới đỉnh cao mãnh liệt nhất, lúc đó mẹ tôi mới hiến thân cho cha tôi. Điều kỳ diệu đó dẫn đến sự ra đời của tôi.
Khi biết mình có mang, bà bắt ông phải cưới xin tử tế. Ông vui mừng đến phát khóc và hứa sẽ chiều ý bà. Mẹ tôi trở về nhà thông báo cho ông ngoại tôi biết tin đó. Ông ngoại tôi sung sướng như vớ được của. "Tao sẽ cho thằng già này một vố".
Khi cha tôi đến gặp ông hàng cháo lòng người chỉ đưrợc ông đón tiếp lạnh nhạt. Ông đưa ra một khoản thách cưới khổng lồ so với nhưng đám cưới lớn nhất trong vùng thời bấy giờ.
"- Một ngàn!"
“- Một ngàn đồng? ông không đùa đấy chứ?" - Cha tôi hỏi.
"Một cuộc đời đâu phải chuyện đùa?".
"- Năm trăm cũng đủ làm cho tôi sạt nghiệp rồi. Xin ông vui lòng với món lễ đó".
"- Phải gả con cho một vị quan hoạn tức là hủy hoại cả cuộc đời con gái tôi. Ông nhìn nó xem, nó xinh đẹp biết nhường nào. Ông tìm đâu nổi một con người như thế?".
“-Tôi biết rồi, tôi đã xem kỹ, tôi biết tất cả!...”.
"Thế thì cứ đúng một nghìn!".
Ông tôi kiên quyết, nhưng cha tôi cũng không phải tay vừa. Ông giàu có nhưng cái gia tài làm nên đã phải trả bằng cái giá khủng khiếp nên ông cũng không vung tay quá trán. Cha tôi bèn làm cao:
"-Con gái ông có mang rồi đấy, không lấy tôi thì lấy ai?"
"- Có mang? Có mang với ai? Ông đừng nói láo?".
"- Với tôi chứ với ai.”
"- Với một tên quan hoạn."
"- Vâng thưa ngài, hoạn sót?".
Thế là ông ngoại tôi đùng đùng nổi gian:
"-Cút ngay ! Đồ khốn nạn, đồ gà thiến đểu giả, đồ vu cáo, ra khỏi nhà tao ngay!".
Cha tôi ra di. Vẻ mặt ông ngoại tôi đỏ như lửa. Ông gọi mẹ tôi lại để dò hỏi thực hư:
"- Nó định dẫn cưới năm trăm đồng, cái thằng quan hoạn keo kiệt. Con gái tao là vàng là - bạc. Thà cho không thằng ăn mày còn hơn gả cho thằng gà thiến để lấy năm trăm bạc?".
"- Thầy ơi, thầy thương con thầy nhận lời đi, con lạy thầy!".
"- Sao? Mày cũng mê nó à?".
"- Dạ con đã trót dại... con đã..." - Mẹ tôi khóc nức nở.
"- Với thằng nào? - ông tôi đập bàn quát.
"- Dạ với lão ta, lão quan hoạn?".
"- Trời ơi! Sao lại thế được nhỉ??!".
Mắt ông tôi trợn tròn, kinh ngạc. Một sự thật ngoài sức tưởng tượng của ông. Ông không hiểu được sự "hồi sinh và phát triển" của cái nhóm tế bào còn sót lại bằng hạt ngô đó đã tạo ra một sự đột biến. Ông nghĩ đó là cái "của trời cho". Và cái "của trời cho" đó đã làm cho ông ngoại tôi trở nên vui mừng hớn hở.
“- Thế thì được rồi, nó sẽ phải quay lại. Nó không thể bỏ mặc đứa con kỳ lạ trong bụng mày được đâu. Đó là giọt máu hiếm hoi của nó, nó không thể dễ gì làmn lại?".
“-, Con chỉ lo nó đi tìm đứa khác!".
“- Số phận đã định sẵn, trời cho ai người ấy được. Nó có đi tìm suốt đời cũng chẳng được đứa nào như con gái tao".
Ông đồ tể đã đoán không sai. Hôm sau cha tôi đã quay trở lại. Tính keo kiệt của cha tôi đã bị trả giá. Ông không những phải đưa đủ một ngàn đồng như lúc đầu mà thêm vào đó còn bốn con lợn và hàng tấm vải vóc làng đồ sính lễ. Ông ngoại tôi nhận xong đã đuổi thẳng mẹ tôi về nhà chồng, không chịu bỏ một xu ra làm lễ cưới. Hay ho gì cái chuyện gả con gái cho một gã quan hoạn mà bày biện ra cho thiên hạ họ chửi.
Mấy tháng sau tôi ra đời trong sự dị nghị của làng xóm. Họ cho rằng mẹ tôi đã tằng tịu với ai có mang rồi buộc phải lấy cha tôi. Còn cha tôi thì cần một đứa con hờ để nương tựa tuổi già. Họ đã lầm! Dung nhan của tôi, cái di sản huyết thống tuyệt vời của ông đã in dấu lên toàn bộ cơ thể của tôi. Tôi giống cha như đúc. Chính điều đó đã đập tan mọi dư luận.
Mẹ tôi đã tổ chức lại cuộc sống, nhanh chóng làm giàu và bà không chấp nhận một kẻ hầu người ở nào là đàn bà con gái. Bà gánh chịu cái nghĩa vụ làm vợ nặng nề trước người chồng không bao giờ thỏa mãn đó. Bà không thể ngờ rằng đó là cái giá khắc nghiệt mà bà phải trả cho số phận. Bà bị ốm đau kiệt sức và kinh hoàng trước sức mạnh của người chồng già. Mười năm sau mẹ tôi chết. Lúc đó cha tôi đã ngoài bảy mươi. Tôi được gửi về thành phố để học hành. Cha tôi quay lại sống cuộc đời phóng đãng, nhưng không lần nào ông gặp may nữa. Tôi là đứa con duy nhất của ông.
Nói đến đây mặt viên đại úy đượm một nét buồn. Đôi mắt màu đồng đỏ mờ sau làn khói thuốc nhấp nháy như một cục than tàn.
- Thế bây giờ ông nhà ra sao? - Tôi hỏi.
- Ông vẫn còn ở quê một thân một mình. Ông luyến tiếc cái gia sản cóp nhặt suốt cuộc đời. Ông không còn sức lực để theo đuổi nhưng trò trác táng nữa. Nguyện vọng cuối cùng của ông là được chết ở nơi quê cha đất tổ. Tôi đã cố lôi ông đi nhưng không sao nhổ rễ ông khỏi cái mảnh đất đau buồn đó. Tôi ra đi một mình và bây giờ thấy thương ông vô hạn. Tôi sống cô đơn với ký ức bi thảm đó. Vào trong nạy đã mấy năm tôi vẫn ở trại lính, không vợ con, ít bạn bè. Tôi chờ đợi cái ngày Bắc tiến để được nhìn ông lần cuối cùng, nhưng tương lại vẫn còn mờ mịt làm.
Câu chuyện của viên đại úy hấp dẫn chúng tôi và tạo cho chúng tôi một ấn tượng về sự tin cậy vào tấm lòng thành thật cởi mở. Song những ấn tượng đó thường mạnh ở khía cạnh nghệ thuật hơn là xã hội. Tôi chú ý xem anh ta có tài bịa đặt không. Nhưng cuộc tiếp xúc ngắn ngủi thường không đủ cho tôi tìm ra những bí ẩn này.
Tôi tóm tắt lại lai lịch Hoàng Quý Nhân, điện về Trung tâm nhờ cậu Đức điều tra giúp.
CHƯƠNG X
TẶNG PHẨM CỦA NỀN CỘNG HÒA
Nhân có việc Pháp rút quân, Diệm ra tuyên bố đại thắng lợi về ngoại giao. Các cơ quan tuyên truyền của Diệm ầm ĩ ca tụng Ngô chí sĩ đã giành lại độc lập cho Tổ Quốc. Được Mỹ ủng hộ, Diệm càng độc tài, gia đình trị. Hành động cực đoan của Diệm khiến cho cả cái “Hội đồng nhân dân cách mạng" cũng quay ra chống Diệm. Ngay cả đám bạn bè của anh tôi cũng đã có sự phân hóa lớn. Trong bầu cử quốc hội, anh tôi là ứng cử viên với danh nghĩa không đảng phái. Nhưng nhờ những bài báo ca ngợi vị chí sĩ quốc gia đến tận mây xanh nên đã được phe Diện cho trúng cử. Diệm cũng cần vài ghế độc lập để làm mẽ cho cái quốc hội dân cử Đỗ Thúc Vượng, người cổ vũ cho anh tôi nhảy vào cái Uỷ ban trưng cầu dân ý thì lại thất cử! Anh ta quay ra chửi Diệm và nhập bọn với Phan Quang Đán, Nguyễn Xuân Huy, Lê Phụng Thời... Đỗ Thúc Vượng trở thành người bất đắc chí. Anh đến thàm anh tôi luôn và định lôi kéo anh tôi viết bài công kích chế độ độc tài. Anh tôi không phản đối nhưng cũng không ngả theo Vượng. Anh bất đồng với một số đối sách cụ thể của Diệm nhưng lại ca ngợi chủ thuyết Cần lao Nhân vị, Duy linh. Theo anh: đó là thứ triết học khuynh hướng tinh thần. Nó là trung tâm quy tụ tất cả nhân sinh quan, vũ trụ quan của các học thuyết, tôn giáo, xã hội cổ kim. Đất nước đang cần một chế độ thích hợp. Nhân vị là chế độ kinh tế không theo nguyên tắc tổ chức tư bản tự do chủ nghĩa cũng không theo chế độ cộng sản cưỡng bức. Nó là một chế độ xã hội đồng tiến, thăng tiến cần lao (?). Anh tôi phụ họa lại cái luận điệu của Ngô Dình Nhu: Chủ nghĩa nhân vị sẽ thực hiện cái gì tốt đẹp mà cộng sản chỉ có hứa!
Nghe những luận điểm đó, Vượng chỉ nhún vai khinh bỉ:
- Ông Nhu coi học thuyết nhân vị là trung tâm quy tụ những "tinh hoa" của các nền triết học, các thuyết tôn giáo cổ kim đông tây thì cũng đúng. Trước hét nó sao chép gần nguyên vàn cái personnalisme communautaire1 (Thuyết cộng đồng nhân vị) của Munier, trộn vào đó một số tư tưởng phong kiến phương Đông mà ông ta gọi là: "Việc nước do vua có tể tướng sáng suốt phụ tá". Thêm nhưng bài kinh ru ngủ và những hình luật tàn bạo của giáo hội công giáo La-mã thế kỷ thứ XV và tưới đẫm vào đó cái thủ đoạn khủng bố trắng kiểu Him-le… Chỉ có điều đáng tiếc là cái recette1 (Món ăn) này lại hợp với gout2 (Khẩu vị) của anh!
- Trước sự đe dọa của cộng sản, Tổng thống phải tập trung quyền lực để tiến hành chiến tranh hữu hiệu.
- Mình ông ta chẳng thể chống được cộng sản. Bao nhiêu năm nay chỉ có tiếng nói độc tôn của Tổng thống trong mọi lĩnh vực của đời sống đất nước. Trong khi ông ta ra sức chống lại chúng ta bằng tất cả sức mạnh trong tay thì ông ta đã để cho cộng sản mở cuộc phản công trên khắp mọi vùng nông thôn và rừng núi.
- Anh cho rằng tình hình nông thôn hiện nay là đáng lo ngại à?
- Nghiêm trọng! Ông Diệm khước từ hiệp thương tổng tuyển cử. Việt cộng đã chuyển chiến lược của họ sang vũ trang tranh đấu. Họ đang phá hủy từng bước hạ tầng cơ sở của Việt Nam cộng hòa.
- Người Mỹ sẽ không thể đứng ngoài cuộc nếu tình hình quá xấu.
- Tất nhiên, nhưng chúng ta phải biết tập hợp lực lượng quốc nội thì vũ khí Mỹ quốc viện trợ mới hữu hiệu. Trở lực chính hiện nay là nền độc tài của ông Diệm.
Huỳnh Quốc Bửu chỉ im lặng ngồi nghe, tuyệt nhiên chẳng tham gia ý kiến nào. Ông ta vốn không phải là nhà lý thuyết. Ông theo Diệm chỉ vì bố ông ta đã hầu hạ cụ lớn từ thời cụ là Thượng thư Bộ Lại. Nay ông ta nối nghiệp cha. Thế thôi. Đỗ Thúc Vượng không hiểu nổi sự im lặng của Bửu mang tính chất theo dõi để mật báo.
…
Một mối hiềm nguy trùm lên Vượng mà anh ta không hề nhận thấy. Một buổi sớm, Vượng còn nằn trên giường bỗng nghe tiếng bấm chuông dồn dập. Không hiểu chuyện gì, anh vội vàng ra mở cửa. Hai họng súng chĩa vào nách Vượng.
- Ông bị bắt.
Vượng từ ngạc nhiên đến kinh hoàng.
- Xin các ông giải thích.
- Chúng tôi không có nhiệm vụ giải thích. Xin mời ông đi.
- Xin cho tôi thay bộ đồ.
- Không cần thiết. Ông sẽ được thay bộ py-gia-ma khác.
Vợ Vượng đã kịp xuống, thấy tình cảnh của chồng như vậy, chị ta òa lên khóc sướt mướt.
- Em cứ yên tâm. Anh không có tội gì cả. Sớm muộn anh sẽ về.
Chiếc xe hòm kín đưa Vượng phóng như bay. Sáu mườơi tám giờ sau chiếc xe quay lại trả anh về chỗ cũ thì Đỗ Thúc Vượng chỉ còn như là một cái bao tải rách!
Vượng lết vào đến cửa bấm chuông. Vợ anh ta không nhận nổi ra chồng... Chị ta òa lên khóc và dìu anh vào nhà.
- Hãy tắm rửa cho anh. Anh vừa từ địa ngục trở về.
Khi cởi bỏ bộ quần áo hôi hám rách nát người vợ mới nhận thức hết nỗi đau đớn của chồng. Vết tích của món quà đầu tiên của nền "dân chủ” dành cho anh ta thật khủng khiếp.
- Trước hết em hãy mời cho anh luật sư Phan Quang Ân và bác sĩ Jordan lại đây ngay.
Mười phút sau, chị vợ Đỗ Thúc Vượng đã đến gõ cửa nhà anh tôi. Trông nét mặt người đàn bà này, anh tôi đã tước đoán được những gì đã xảy ra với chị.
- Xin anh làm ơn lại ngay cho, nhà tôi rất cần đến anh.
Mặt anh tôi tái nhợt, nhưng trong trường hợp này không thể bỏ bạn được.
- Xin chị cứ về trước cho - Anh nhìn đồng hồ - Mười làm phút nữa tôi sẽ có mặt.
Khi vợ Vượng đi rồi, anh tôi vừa kể sơ lại cho chị Lệ Ngọc vừa xác định thái độ của mình.- Bây giờ không phải chuyện đến hay không mà là đến và làm những gì.
- Anh sẽ làm như một luật sư trước một tai nạn - Chị tôi nhấn mạnh.
Anh tôi tới nhà Vượng thì may là bác sĩ Jordan đã đang ngồi xem những vết đòn trên mình chủ nhân. Họ gật đầu chào nhau và rồi lại im lặng để tiếp tục công việc. Jordan đã từng là bác sĩ pháp y chuyên nghiệp nên ông ta dễ dàng lập được một bệnh án đầy đủ về thương tích của nạn nhân.
Đến lượt anh tôi nghe lại toàn bộ những điều Vượng kể.
- Đây là một hành động phi pháp, là một cuộc khủng bố thực sự - Luật sư khẳng định - Cần phải tố cáo trước pháp luật.
- Phải tố cáo trước công chúng! - Đỗ Thúc Vượng nêu vấn đề theo một hướng khác - Tôi muốn anh chủ trì cho một cuộc họp báo vào sáng mai.
Đề nghị đột ngột của Vượng làm anh tôi bối rối.
- Một cuộc họp báo? Anh hỏi lại để giành lấy vài phút suy nghĩ.
- Vâng, một cuộc họp báo để tố cáo hành động khủng bố chính trị đê tiện của chính quyền, của phe ông Diệm.
- Liệu có quá sớm không? Theo tôi, trước hết hãy tố cáo trước luật pháp để tìm ra thủ phạm, sau đó ta mới có lý do để tố cáo thủ phạm trước công chúng.
- Kẻ khủng bố là mật vụ của chinh quyền chứ còn ai.
- Nhưng có bằng chứng gì để nói tổ chức khủng bố đó thuộc chính quyền. Ai bắt anh, anh không biết, ai đánh anh, anh không hay, thế mà anh lại tố cáo chính quyền khủng bố anh? Nếu bọn khủng bố là Việt cộng thì sao?
- Việt Cộng! Trời ơi. Nếu là Việt cộng thì tại sao chúng lại đánh tôi về tội "chống đường lối của Tổng thống”?
- Tôi hiểu là anh nói lên sự thật. Nhưng một khi không có bằng chứng, người ta vẫn có quyền đặt câu hỏi như vậy. Còn tại sao Việt cộng lại làm thế thì người ta cũng có thể giải thích, đó là một âm mưu nhằm ly gián giữa trí thức và chính quyền.
- Cảm ơn luật sư đã có những lời chỉ bảo quý giá? - Đỗ Thúc Vượng mỉm cười khinh bỉ và xoay mình nằm quay vào trong. Anh tôi ra về với tấm lòng nậng trĩu. Anh thấy xấu hổ với bạn, nhưng anh không muốn bị lôi kéo vào một cuộc đối mặt nguy hiểm với quyền lực. Xe lao trên đường phố ngợp nắng làm cho tinh thần anh dịu đi.
Không có anh tôi, Vượng vẫn tìm được bạn bè để thực hiện ý định của mình. Bác sĩ người Pháp Jordan cùng ông luật sư già Trương Công Nghị đã giúp cho anh ta một bệnh án và một bản mô tả toàn bộ sự kiện này dưới góc độ thẩm định của công pháp. Luật sư Nghị cũng khuyên Vượng không nên tổ chức họp báo ở trụ sở của Tổng hội báo chí và thay bằng những cuộc tiếp khách thường xuyên ở nhà riêng. Như vậy thì sẽ không có sự tập trung của công chúng, nhưng vẫn tạo ra sự chú ý của dư luận.
…
Trước nhà Vượng, ô tô đỗ san sát. Chính khách, nhà báo đủ loại kéo đến, trong số đó có thể cả mật vụ của Diệm. Trong phòng khách, Vượng nằm trên chiếc đi-văng phủ tấm mền trắng chỉ để hở ra cái đầu thâm tím hốc hác và những lớp băng quấn dày trên vầng trán. Ông luật sư già và viên bác sĩ nglrời Pháp thay nạn nhân trả lời những câu hỏi. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt Vượng mới thêm vào vài câu.
Sáng hôm sau, hàng chục tờ báo Sài Gòn tường thuật lại vụ trên với nhiều đầu đề khác nhau: "Một tặng phẩm của nền cộng hòa đệ nhất", "Một vụ khủng bố chính trị", "Sau cái mặt nạ của nền công lý", "Đánh cho chừa những khát vọng tự do"... Những báo thân Diệm thì mang những đầu đề có tính chất hỏa mù hoặc xuyên tạc: "qua vụ Đỗ Thúc Vượng, cần tỉnh táo với những âm mưu ly gián của Việt cộng', "Tư thù hay chánh trị?", "Liệu Việt cộng có thể đóng già cảnh sát được không?"... Hầu hết những tờ báo có xu thế tố cáo nhà cầm quyền đều bị tịch thu tnrớc lúc phát hành. Một số nhỏ lọt ra ngoài bán rất chạy.
Trưa hôm đó, một xe cảnh sát đỗ trước nhà Vượng. Một viên trung úy đường bệ bước xưống trước hàng trăm con mắt công chúng. Y bước vào nhà Vượng đưa trát đòi Vượng lên trung tâm thầm vấn của Sở cảnh sát đô thành.
- Chúng tôi phản đối? - Luật sư Nghị nói với viên trong úy - tình trạng sức khỏe của ông Vượng đang rất xấu. Yêu cầu chánh quyền hủy bỏ lệnh bắt!
Bác sĩ Jordan cũng đồng tình với ông Nghị và chỉ cho viên cảnh sát những vết thương trên khắp người nạn nhân, viên trung úy nhìn qua và giằng luôn tập bệnh án trong tay Jordan. Hành động bất lịch sự với người Pháp lúc này được coi là hợp thời.
- Thứ nhất: Chúng tôi được lệnh điều tra tìm ra thủ phạm gây thương tích trên mình ông Vượng để nghiêm trị. Thứ hai: ông Vượng sẽ phải trả lời trước lật pháp về những lời ông tố cáo chánh phủ và xin ông cung cấp cho những bằng chứng. Chúng tôi thừa nhận những vết thương trên mình ông Vượng là hiện hữu. Chánh quyền có trách nhiệm bảo vệ tính mạng của ông. Chúng tôi sẽ đưa ông đến nhà thương để chăm sóc. Xin quý vị an tâm.
Nói xong viên trung úy ra hiệu cho bọn mã tà xông vào xốc Vượng ra xe. Vượng đau đớn quằn quại. Ngươi vợ chạy ra ôm lấy chồng nhưng vô hiệu.- Xin bà hãy tin tưởng nơi chánh quyền. Chúng tôi đưa ông đi chỉ là để đảm bảo an toàn cho ông, cho quý bà. Những cuộc tụ tập liên nên trong tình hình bất ổn hiện nay bản thân nó đã lấ bất hợp pháp. Đó là chưa kể Việt cộng lợi dụng khai thác. Thưa bà, bà đã bao giờ nghĩ đến một trái nổ bất chợt liệng vào phòng khách của quý bà để gây ra những xáo động về chánh trị chưa? Còn chúng tôi, những người giữ gìn an ninh, chúng tôi không thể làm ngơ.
Năm phút sau, Đỗ Thúc Vượng đã được dẫn đến một căn phòng rộng đầy ánh sáng với bộ bàn ghế sang trọng. Vượng được ngồi tựa đầu ngay ngắn vào chiếc đệm ghế phô-tơi và cảm thấy dễ chịu. Có một sự khác biệt hoàn toàn với lần bị bắt trước đây. Một phút sau, cửa mở nhẹ nhàng, một viên đại tá xuất hiện. Đó là một người cao to cân đối trắng trẻo đeo kính râm có bộ ria mép xén tỉa cầu kỳ như ria tài tử điện ảnh Clark Gable. Trên môi một nụ cười thường trực, y nhẹ nhàng tới trước mặt Vượng vồn vã:
- Chào ông kỹ sư. Ôi trông ông gầy quá. Ông bị đau lắm phải không? Xin lỗi là chúng tôi đã không bảo vệ được ông - Viên đại tá nhún vai và ngồi xuống chiếc ghế sát bên Vượng - An ninh của mọi công dân là mục tiêu tối thượng của chúng tôi. Nhưng ông biết đấy, dù có một bộ máy hữu hiệu đến mấy cũng vẫn còn những rủi ro. Mọi người phải biết giữ mình. Tôi xin nhắc lại: Mọi người phải biết tự bảo vệ. Khi đã phải nhờ đến cảnh sát can thiệp thì thường đã quá muộn đã bị trả giá. À mà xin lỗi ông, tôi chưa tự giới thiệu với ông. Tôi Trần Linh, đại tá phụ trách trung tâm thẩm vấn. Hôm nay tôi định nghe ông nói nhưng tin là ông đang mệt. Tôi đã liếc qua mười hai tờ báo sáng nay. Mỗi người nhìn sự việc theo cái lăng kính của họ. Với con quắt nghề nghiệp, tôi tin là thình đã hình dung sự vụ gần với sự thật. Trước khi hỏi ông, tôi xin cung cấp cho ông thêm mộc số tin tức có ích: Tất cả mọi việc bắt bớ, tra xét trong phạm vi đô thành đều nằm dưới quyền điều khiển của chúng tôi. Và cho đến giờ này tôi chưa nhận được nơi nào trình lên trường hợp của ông. Vì vậy tôi có thể nói là chúng tôi không dính líu gì vào vụ này. Nhưng theo báo chí thì ông đã tố cáo cơ quan an ninh tiến hành nhưng cuộc khủng bố chánh trị bí mật. Như vậy là ông đã vu cáo và lăng mạ chúng tôi gây thất thiệt cho uy tín của chánh quyền nhằm mục đích chánh trị. Như ông biết đấy, muốn bắt ông thì chỉ cần mười lăm phút là ông đã phải có mặt ở đây. Chúng tôi có cả mọi phương tiện tối tân, biện pháp hiệu nghiệm nhứt để tìm ra điều cần tìm. Chúng tôi không cần đến một hành động bí mật nào cả. Lần đầu tiên được tiếp xúc với ông, mong ông hiểu cho công việc của chúng tôi. Nếu ai cũng cộng tác với chúng tôi thì mọi chuyện đều có thể tìm ra và giải quyết ổn thỏa. Đại loại nó sẽ rất lịch sự và êm dịu như chúng ta đang nói chuyện với nhau dây thôi. Không có một công cụ nào tác động đến cơ thể vàng ngọc của quý vị. Nhưng với những người không muốn cộng tác với chúng tôi thì đôi khi chúng tôi cũng phải dùng đến những biện pháp cứng rắn. Nhưng xin thưa đó là một nỗi khổ tâm lớn lao luôn luôn đè nặng lên tâm hồn chúng tôi. Bao giờ chúng tôi cũng mong muốn không phải tiếp quý vị trước phòng thẩm vấn. Người thày thuốc có thể không mong muốn bệnh nhân giảm đi vì lý do kiếm sống của họ. Còn chúng tôi dù số can phạm có tụt xuống số không, chúng tôi vẫn được quốc gia trọng dụng và có thể còn được ân thưởng mề-đay nữa kia - Viên đại tá cười vui vẻ. Bây giờ tôi sẽ đưa ông đến bệnh viện. Xin ông cứ an tâm điều trị. Chúng ta sẽ có dịp nói chuyện lại...
Viên đại tá không cho Vượng nói được câu nào. Y kết thúc câu chuyện bằng cú bấm chuông gọi mấy tên vệ sĩ đưa Vượng đến phòng điều trị đặc biệt của phạm nhân.
Khi cánh cửa khép lại, Trần Linh mới thong thả châm điếu xì gà, một mình thả làn khói thuốc và suy nghĩ. Quả thật vụ khủng bố chính khách Đỗ Thúc Vượng không do bàn tay của Sở Cảnh sát đô thành. Của Tổng nha hay của đức Giám mục? Sáng nay có cú điện thoại của giám đốc Cảnh sát đô thành chỉ thị cho Trung tâm thần vấn lập hồ sơ vụ Đỗ Thúc Vượng, nhưng lại nhấn mạnh khía cạnh hoạt động chánh trị của anh ta hơn là tìm ra thủ phạm gây thương tích cho Vượng: Linh đã giao cho thiếu tá Hoàng Quý Nhân đặc trách vụ này. Linh biết Nhân là mật vụ cua Phủ tổng thống, Nhân có thể nắm rõ ý định của cấp trên. Kinh nghiệm lâu năm trong công vụ đã cho Trần Linh biết rằng tạo dựng mộc hồ sơ phù hợp với ý định quan thầy là một nghệ thuật. Có khi cấp trên cần sự thật, nhưng có lúc lại muốn bóp méo sự thật.
Có tiếng gõ cửa và Linh đã có thể phân biệt tiếng gõ của ai. Y ấn mẩu xì gà còn lại vào cái gạt tàn, đặt tập hồ sơ ngay ngắn trước mặt, lúc đó mới dõng dạc lên tiếng:
- Xin mời vào.
Cửa mở. Hoàng Quý Nhân xuất hiện trong bộ đồng phục với bộ lon thiếu tá mới tinh, lấp lánh. Đáp lại động tác chào rất kiểu cách của Nhân, đại tá Linh vui vẻ chỉ tay ra hiệu mời Nhân ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
- Tôi vừa gặp Đỗ Thúc Vượng nhưng đương sự còn yếu lắm, tôi chưa hỏi gì ông ta và cho đưa xuống nhà thương. Thiếu tá đã đọc bệnh án của Vượng chưa?
- Thưa đại tá, theo hồ sơ bệnh án do bác sĩ Jordan lập ra thương tích phần lớn là tụ máu phần mềm. Có hai điều chú ý là xương chân phải nghi là giập và gan bị chấn thương nề tấy. Tưy nhiên không có hiện trạng chảy máu trong. Chúng tôi đã niêm phong bệnh án vì nó được làm theo yêu cầu của Vượng. Tôi yêu cầu bác sĩ của ta cho X. quang ngay và lập hồ sơ mới. Nến được điều trị cẩn thận, tôi tin là nạn nhân sẽ được hồi phục sau một tuần. Trong khi chờ đợi, cần tiến hành các công việc bổ trợ. Tôi xin phép được khám nhà Vượng ngay bây giờ.
- Liệu có ích gì không? Nếu như có những tư liệu gì bất hợp pháp có lẽ đến hôm nay nó đã được tiêu hủy hoặc chuyến đi mất rồi.
- Tôi hoàn toàn đồng ý như vậy. Nhưng theo thủ tục, chúng ta cũng vẫn phải tiến hành để khép kín hồ sơ trình lên Tổng nha.
- Thiếu tá cứ thực hiện mọi biện pháp cần thiết. Thiếu tá đã có dự đoán nào về thủ phạm khủng bố ông Vượng chưa?
Hoàng Quý Nhân mỉm cười nhún vai:
- Tôi có thể phỏng đoán mà không sợ sai lầm. Nhưng xin lỗi, đây không phải nhiệm vụ của chúng ta!
…
Mười lăm giờ cùng ngày, ngôi nhà Vượng đã bị cảnh sát bao vây.
Thiếu tá Hoàng Quý Nhân đưa lệnh khám nhà cho Hứa Quế Lan, y bỗng sửng sốt vì vẻ đẹp của người thiếu phụ đau khổ đang đứng trước mạt y.
- Thưa bà, chúng tôi sẽ làm đúng như công pháp quy định. Bà cho phép tôi.
- Xin mời các ông. Quả thật nhà tôi oan ức và vô tội. Tất cả những hoạt động của nhà tôi đều nhằm phục vụ nền cộng hòa, tất cả đều hợp hiến.
- Chỉ có sự thật mới minh chứng được cho ông nhà. Về phần cá nhân, tôi hoàn toàn mong mỏi ông nhà vô tội.
Hoàng Quý Nhân cho hai tên tùy tùng lục lọi ở phòng khách, phòng làm việc, còn y đi theo người đàn bà. Quế Lan mở cửa phòng ngủ chỉ cho viên thiếu tá vào, còn mình đứng ngoài nhưng Hoàng Quý Nhân đã từ chối:
- Thưa bà, chỉ có bà cùng đi tôi mới có thể thực thi công vụ được. Quế Lan lần lượt mở những tủ đựng quần áo, đựng đồ trang sức, của cải cho viên thiếu tá kiểm tra nhưng y chỉ nhìn lướt qua, thậm chí ngay đến nhưng hộp đồ vàng bạc, kim cương lộng lẫy đắt tiền cũng không có gì lôi cuốn y.
Quế Lan thoáng nhìn qua tấm gương, chị ta bắt gặp cặp mắt viên sĩ quan cảnh sát nhìn mình đắm đuối. Chị bỗng đỏ bừng mặt lên… và vẻ thẹn thùng càng làm cho người đàn bà lai ấy đẹp đến kỳ lạ. Sau khi cánh cửa các tủ đã đóng lại. Hoàng Quý Nhân chậm chạp đi quanh buồng như một người thăm bảo tàng. Y bỗng ngồi xuống đầu giường và với tay kéo ngăn chiếc bàn ngủ. Vẻ mặt Quế Lan bỗng đỏ bừng rồi tái nhợt đi. Chị ta chạy lại giữ lấy đôi bàn tay viên thiếu tá.
- Xin ông đừng mở ra, không có gì đâu... tôi xin thề...
Hoàng Qltý Nhân quay lại, y bắt gặp đôi mắt hoảng lốt van lơn của Quế Lan. Y buông tập ảnh xuống mặt bàn rồi nắm lấy đôi cánh tay trần nõn nà của người đàn bà xa lạ.
- Không có gì đâu thưa ông, đó chỉ là những thứ hoàn toàn riêng tư.
- Nhưng chính sự ngăn cản của bà lại kích thích tính tò mò nghề nghiệp của tôi mạnh mẽ... Nhưng thôi... vì vẻ đẹp lộng lẫy của bà, tôi sẵn sàng quên những thứ gì trong cái ngăn kéo bí ẩn kia đi. Mong bà hiểu cho sự chôn vùi đó đối với tôi là một nỗi đau khổ...
Quế Lan thực sự cảm động vì thái độ gia ân đột ngột đó và chị ta cảm thấy một cái gì rất kỳ lạ từ đôi bàn tay viền thiếu tá truyền sang đôi cánh tay mình. Quế Lan hoàn toàn lúng túng, nửa muốn vùng ra, nửa muốn giữ yên.
Vài phút sau Hoàng Quý Nhân bỗng đứng dậy. Y đã chủ động dồn nén được dục vọng xuống một ngăn bé nhỏ của đáy lòng. Công vụ làm y tỉnh táo trở lại. Hắn biết những thứ trong ngăn chỉ là những tấm ảnh khỏa thân của đôi vợ chồng trẻ không có gì nguy hiểm cho an ninh của Tổng thống.
- Bây gờ bà có thể cho tôi đi xem tiếp các phòng khác.
Quế Lan như bừng tỉnh. Hai người đi sóng đôi hết bốn buồng còn lại. Căn nhà tắm buồng quá thừa cho một cặp vợ chồng son.
Khi họ quay về phòng làm việc đã thấy hồ sơ sách vở, giấy tờ tung tóe ra khắp mặt đất. Hai tên tùy tùng đã lựa ra được mấy cuốn sách có in hình Mác ngoài bìa của thấy tay cải lương, vô chính phủ hay xét lại viết về chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội. Hoàng Quý Nhân liếc qua, y nhún vai mỉm cười với một thái độ châm biếm hơn là lạ lùng:
- Kết quả nghèo nàn thế thôi à?
Y ghi lại vài dòng vào biên bản cuộc khám xét và yêu cầu chủ nhà ký vào đó.
- Tôi không ghi mấy cuốn sách này vào biên bản. Thưa bà nếu bà vui lòng cho tôi mượn ít hôm dể nghiên cứu xem học thuyết Mác-xít có gì đáng lôi cuốn không?
- Vâng xin ông cứ tự nhiên. Đó là mấy cuốn sách của giáo sư Nghiêm Đức Quỳnh tặng. Thực tình tôi chưa thấy anh ấy đọc lần nào. Có lẽ chỉ vì quý tình bạn với giáo sư nên anh ấy để lên giá sách. Không ngờ nó lại trở thành nhột tai họa.
- Thưa bà xin bà yên tâm. Chúng ta sống trong nhột thể chế tự do, một chủ thuyết đa nguyên, quốc gia không can thiệp vào các khuynh hướng tư tưởng. Chỉ có những gì trực tiếp chống lại luật pháp hiện hành mới thực sự bị ngăn cấm.
…
Vài ngày sau Hoàng Quý Nhân đã hoàn thành bản hồ sơ về Đỗ Thúc Vượng để đưa cho Trần Linh ký.- Thiếu tá có nhận xét riêng gì về ông Vượng?
- Sớm muộn thì cũng phải thả ông ta ra. Theo tôi nên thả trước khi có sự can thiệp của Sứ quán Mỹ thì vẫn tốt hơn.
- Tại sao Sứ quán Mỹ lại can thiệp? - Trần Linh ngạc nhiên.
Vượng là bạn thân của một nhà báo Mỹ có thế lực, tiến sĩ Edward Price. Từ khi Vượng bị bắt cóc, đã hai lần Price đến nhà riêng thăm hỏi.
Trần Linh cảm phục về sự hiểu biết tỉ mỉ của viên phụ tá dưới quyền mình. Y muốn giấu đi sự nông cạn bằng cách không hỏi gì thêm về lai lịch của người Mỹ nọ. Nhưng như hiểu rõ sự thèm muốn của cấp trên, viên thiếu tá kể tiếp.
- Price tốt nghiệp khoa ngữ văn đại học đường Sorbonne Paris. Năm 1954 trở về Mỹ làm trợ giáo đại học đường Havard ít lâu sau ông ta được tuyển dụng vào cơ quan tình báo chiến lược của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và làm việc ở bộ phận nghiên cứu Đông Nam Á. Có lẽ Vượng đã quen Price hồi ở Pháp nên gây cho người Mỹ này những hứng thú đến Việt Nam. Tháng 7 năm 1959 Price đến Sài Gòn với danh nghĩa nhà báo nhưng thực chất ông ta là một quan chức của tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Vì vậy, một chừng mực nào đó ta có thể coi Vượng là người của Price.
- Là người của Price tại sao nhà ông ta lại tàng trữ sách báo cộng sản? Hoàng Quý Nhân bỗng bật cười thành tiếng.
- Đó là món hàng giả, chủ nghĩa Mác - Lênin giả của mấy tay cộng sản giả viết ra. Ở phương Tây, người ta đã tổng kết những cuốn sách cộng sản nửa vời này có tác dụng chống cộng mạnh hơn những buổi phát thanh của đài Châu Âu tự do. Nó giống như một thứ vắc-xin trong đó các độc tố cộng sản đã bị làm yết đi tới thức vô hại. Ai đọc nó sẽ tạo cho mình mộc kháng nguyên mà sau đó chủ nghĩa cộng sản chính hiệu không thể xâm nhập được Tôi thiết nghĩ chúng ta cũng nên cho ấn hành các loại sách trên, thậm chí cho thành lập những đảng cộng sản giả hiệu để thu hút quần chúng. Đáng tiếc là chánh quyền của chúng ta ngán cộng sản quá đến cộng sản giả cũng ngán nốt? Đúng là "kinh cung chi điều”.
- Theo thiếu tá thì ông Vượng không phải là một người đáng ngán
- Tôi nghĩ Vượng chưa phải là kẻ nguy hại trực tiếp đến an ninh. Ông ta có thể kích động kẻ khác hành động chứ bản thân ông ta không có bản lĩnh hành động. Ta cảnh cáo ông ta là đủ. Sau khi được nếm những cái gậy “khủng bố", nhân danh chánh quyền ta quẳng cho ông ta củ cà rốt. Nếu ông ta tỏ ra nguy hiểm hơn, thưa đại tá, chúng ta đã có sẵn một hồ sơ trong tay để hạ nhiệt độ của ông ta xuống số không nếu ta muốn.
Từ khi chồng bị bắt lần thứ hai, Quế Lan rất lo lắng. Nhiều lần chị đã được chồng trấn an: "Không có gì mà phải sợ chúng nó. Không được quỵ luỵ chúng nó. Anh vô tội. Nếu anh bị bắt anh sẽ vạch mặt chúng trước công lý. Trước sau chúng cũng không làm gì nổi anh đâu. Em không được bỏ ra một đồng nào để cầu xin đút lót. Làm thế là thừa nhận mình có tội, là nhục nhã!".
Tiến sĩ Price đến thăm làm chị yên lòng hơn. Bạn bè của anh toàn là những người danh tiếng có thế lực, họ sẽ không bỏ mặc anh. Nhưng mãi chẳng thấy được tha, niềm tin của Quế Lan vào sức mạnh của chồng suy giảm.
Bố Quế Lan là nhà buôn Hứa Vĩnh Thanh người Tàu Chợ Lớn, mẹ là người Việt. Họ có nhiều tiệm buôn rất lớn ở khắp Sài Gòn. Ông Hứa cũng nhiều lần bị đe dọa vì buôn bán bất hợp pháp nhưng ông ta đều tuột khỏi tay thần công lý nhờ sức mạnh của đồng tiền. Lời khuyên của bố mẹ Quế Lan là hãy tìm thầy thợ đút lót cho anh sớm ra tù ngày nào hay ngày ấy. Chị có thể tận dụng được thế mạnh tài chính của gia đình nhưng nghĩ đến lời chồng, Quế Lan lại không biết nên làm hay không, thật tơ vò trăm mối. Chị đã lại sống một tuần trong lo sợ cô đơn. Căn nhà vắng lạng chỉ có chị và người hầu gái. Chiều chiều Quế Lan ra tựa ban công nhìn xuống đường mong đợi và hy vọng.
Bóng một chiếc xe Renauit màu trắng đỗ trước cửa. Một người đàn ông nhanh nhẹn bước vo bấm chuông. Con chó béc-giê chồm lên sủa mấy từng. Người hầu gái vội vã chạy ra, ít phút sau cô lên báo:
- Thưa bà, ông Hoàng Quý Nhân xin được gặp bà để trả mấy cuốn sách ạ.
- Xuống mở cửa, mời ông ta vào phòng khách và xin chờ cho ít phút.
Quế lan đứng trước gương, thay bộ quần áo và trang điểm lại đôi chút. Cái cảm giác kỳ diệu lan trên cánh tay bữa nào bỗng nhiên sống lại trong cơ thể chị, mặt Quế Lan bỗng đỏ ủng lên và chị ta thấy dung nhan mình bừng sáng sau bao ngày héo hon đau khổ.
Xuống đến phòng khách, Quế Lan đã thấy Hoàng Quý Nhân chào mình bằng một nụ cười hơi bối rối. Cái lạnh lùng đáng sợ của viên thiếu tá cảnh sát hôm trước biến đâu mất. Giờ đây trước mắt Quế Lan chỉ là một chàng trai lịch sự, cặp măt si tình và hơi chút u buồn.
- Thưa bà, tôi xin đem trả lại bà mấy cuốn sách, tiện thể cũng báo để bà yên tâm, ông Vượng đã hồi phục nhanh chóng.
- Xin cảm ơn ông về những tin tốt lành. Còn những cuốn sách thì thực tình tôi chẳng muốn ông phải cầm lại. Ôi những cuốn sách tội nợ chúng chẳng có lợi gì thà chỉ thêm phiền cho chúng tôi.
Nét mặt Hoàng Quý Nhân bỗng thay đổi từ nồng nhiệt đến lạnh lùng.
- Thưa bà, điều nguy hiểm không phải ở những cuốn sách này. Việt cộng cũng chẳng thèm đọc của ấy. Đại loại họ chỉ có vài ba câu rất giản dị: đánh đổ Tổng thống Diệml, tự do dân chủ, Bắc Nam thống nhất... thế thôi. Ông nhà lại hợp xướng với họ hai câu trên rồi. Thế thì có gì đảm bảo ông nhà không gào nốt với họ câu thứ ba!
- Thưa ông tôi là đàn bà, tôi không am hiểu gì về chánh trị. Nhưng tôi tin là chồng tôi chỉ nói những gì mà thể chế dân chủ cho phép. Tôi mong ông hiểu cho. Số phận anh ấy nằm trong tay các ông. Thưa thiếu tá, xin ông hãy giúp đỡ chúng tôi.
Quế Lan nức nở ôm mặt khóc.
- Thưa bà, những giọt nước mắt của bà làm tan nát trái tim tôi - Y xích lại gần và đạt hai bàn tay lên tôi vai Quế Lan - Tôi sẽ hết lòng giúp đỡ để ông Vượng sớm được tự do... Nhưng...
Quế Lan cảm thấy đôi bàn tay người đàn ông vòng ra sau lưng, chị ta hốt hoảng vùng đứng dậy:
- Xin ông đừng làm như vậy.
Hoàng Quý Nhân trở về tư thế ban đầu, mặt y đau khổ, bối rối, thất vọng. Tự nhiên Quế Lan lại thấy thương hại y. Viên thiếu tá ngước đôi mắt mơ màng lên nhìn Quế Lan:
- Xin lỗi bà, tôi đã không cưỡng nổi tình cảm của mình trước vẻ đẹp lộng lẫy của bà... Xin bà cảm thông cho tôi, một người đàn ông cô đơn.
Quý Nhân đứng dậy cáo từ. Quế Lan tiễn Hoàng Quý Nhân ra cửa và nhắc lại lời cầu khẩn:
- Thiếu tá hãy giúp đỡ chúng tôi! Hứa với tôi đi!
- Thưa bà, chưa bao giờ tôi từ chối nhưng yêu cầu của bà. Ngay cả những lúc công vụ buộc con tim tôi phải trở thành sắt đá, tôi cũng đã không làm trái ý bà... Còn bà?
Mặt Quế Lan ửng hồng, chị nói ấp úng:
- Ông nên nhớ ràng, căn nhà này không phải chỉ có hai chúng ta.
Viên thiếu tá hiểu nghĩa câu nói đó.
- Nếu bà muốn, tôi xin đưa bà đến thăm ông ngay bây giờ.
- Xin cảm ơn ông, ông chờ cho chút xíu.
Quế Lan thu xếp một số quà rồi lên xe lái theo Hoàng Quý Nhân.
Trước khi đến được chỗ giam chồng, chị được Hoàng Quý Nhân dẫn đến một tòa biệt thự trên đường Đồn Đất. Ở đây mọi thứ đều lạ lùng cuốn hụt, đều khêu gợi si mê, đều mạnh mẽ cuồng nhiệt hơn căn buồng tổ ấm của mình. Bằng một niềm an ủi nho nhỏ hy sinh cứu vớt tự do cho chồng, chị cố che lấp đi cái tội lỗi phản bội của mình.
- Quế Lan ơi! - Viên thiếu tá thì thầm vào tai chị - Nếu em có mặt ở Thiên đường thì A-đam sẽ ăn vội quả cấm trước khi có lời khuyên của con rắn.
CHƯƠNG XIKẾ HOẠCH FARMHAND
Sau một thời gian láo vào hoạt động chính trường, anh chị tôi thấy rằng không thể bỏ lơi được việc kinh doanh, một sở trường mạnh nhất của gia đình. Vấn đề lợi nhuận thôi thúc chị Ngọc tôi phải bỏ vốn đầu tư. Nếu chỉ nhìn vào lãi suất Ngân hàng không thôi thì sự tăng trưởng tư bản không đủ kích thích niềm vui của gia đình. Ông Cự Phách nêu ra một hướng đi mà ông cho là thích hợp nhất:
- Sự phát triển đô thị là một quy luật mạnh mẽ của thời đại. Pháp đã ra đi, nhưng Thế giới tự do không thể bỏ trống một vùng đất màu mỡ, một vị trí chiến lược quan trọng như thế này. Nếu người ta ví Tân-gia-ba có tầm quan trọng như Gibraltar ở phía nam Châu Âu thì Sài Gòn cũng quan trọng chẳng kém gì đảo Síp ở Địa Trung Hải. Người Mỹ sẽ vào và họ cần phải sống và làm việc ở đây trong nhiều năm. Nếu ta bỏ vốn đầu tư ra sản xuất hàng hóa thì còn lâu mới cạnh tranh được với Nhật Bản, Đài Loan, Hương Cảng... Chi bằng ta mua lấy bin-đinh, mở khách sạn hoặc đơn giản hơn là cất những cư xá cho người ngoài quốc thuê theo các hợp đồng ngắn hạn. Nghề này chăng sợ lỗ vốn. Ít thuê nhân công, chẳng phải bận tâm đến chuyện đình công bãi thị. Chẳng có anh Tây anh Tàu nào vác nổi khách sạn đến đây cạnh tranh với ta. Còn dân quốc nội thì ta không có đối thủ để thử sức về tiềm năng tài chính!
Chị Ngọc tôi đã nhanh chóng mua tòa lầu bốn tầng: ba mươi hai buồng của một Pháp kiếu ở 142 Gustave Roussel. Sau khi hiện đại hóa một số tiện nghi cho phù lợp, chị đã khai trương Khách sạn Phoénic. Công việc quản lý khách sạn ngoài một nhân viên chuyên nghiệp, chị giao cho Phương Dung làm đại diện cho chị trong nhiệm vụ xử lý thường vụ. Chưa bao giờ quản lý kinh doanh lớn, Dung rất lo lắng nhưng không dám chối.
Người Mỹ đầu tiên đến thuê một căn hộ hai phòng ở tầng ba là tiến sĩ Price, một nhà báo danh tiếng. Sau đó không lâu, khách sạn đã kín khách ngoại quốc. Sự thu nhập đã vượt quá xa lợi tức Ngân hàng. Vì làm ăn phát đạt nên quan hệ chị em cũng tốt hơn và chị Ngọc tôi đã tín nhiệm tính cẩn thận của cô em dâu.
…
Một bữa thiếu tá Hoàng Quý Nhân đến thăm, tôi không có mặt ở nhà. Nhân viên yêu cần Phương Dung giúp anh ta một công việc quan trọng:
- Có một việc mà chỉ có chị giúp thì chúng tôi mới làm nổi. Vì lợi ích quốc gia tôi khẩn thiết yên cầu chị.
Dung hơi chột dạ, nhưng chị vẫn giữ được vẻ bình tĩnh.
- Có việc gì xin anh cứ nói. Nếu có thể tôi không dám từ chối.
- Chị biết đấy chúng ta là một quốc gia độc lập. Chúng ta hành động vì lợi ích tối thượng của Tổ Quốc. Chúng ta không bao giờ chịu sức ép của ngoại bang. Dù nước đó có là bạn thân của chúng ta. Vừa qua tờ Times tờ New's week có đăng một số bài của Price xúc phạm đến danh dự của Tổng thống, người lãnh đạo tối cao của chúng ta, cũng tức là danh dự quốc gia của chúng ta. Vì vậy ta cần phải có những biện pháp đáp lại thích ứng nhưng tế nhị. Muốn vậy chúng ta cần biết những việc ông ta đang làm. Chị hiểu tôi chứ?
- Vâng, tôi hiểu.
- Chúng tôi muốn đột nhập vào căn buồng ông ta ở Khách sạn Phoénic và không để lại sự rắc rối nào dĩ nhiên là về mặt kỹ thuật, chúng tôi có thể tình cách vượt qua ổ khóa nhưng nó đòi hỏi thời gian dài hơn. Nhưng nếu có thêm bàn tay dịu dàng của chị thì công việc sẽ êm và nhanh hơn nhiều.
- Chết nỗi - Vẻ mặt Dung như tái nhợt đi - Bàn tay tôi, trời! Tôi có giỏi giang gì hơn các ông đâu.
- Tôi biết mọi ổ khoá trong bin-đinh đều có hai chìa. Một giao cho khách thuê. Một dự trữ. Bộ chìa dự trữ nằm trong két của chị - Viên thiếu tá cười - Chị chỉ việc in chiếc chìa khóa lên một mẩu sáp. Mẩu sáp đó đáng giá một trăm ngàn đồng.
- Nhưng hậu quả của nó lớn hơn nhiều khoản tiền thiến tá thưởng cho tôi - Dung nghiêm nét mặt - Việc này tôi phải trình với chị tôi đã. Để ngỏ cửa vĩnh viễn một căn phòng khách sạn là điều nguy hiếm. Nó sẽ mất tín nhiệm với khách hàng và ảnh hưởng lâu dài đến công cuộc kinh doanh của chúng tôi.
- Chỉ là mộc cuộc mật nhập trong vòng hai mươi phút, sau đó chiếc chìa khóa thứ ba sẽ được hủy đi.
- Có gì đảm bảo cho điều đó?
- Đúng là vẫn còn một khe hở về mặt lý thuyết để chị không thể tin được chúng tôi, vì khi đã sao được một bản thì người ta sẽ sao ra hàng ngàn bản... Hay như thế này vậy: chị sẽ đột nhập, chị chụp cho chúng tôi tất cả những tài liệu trong chiếc cặp xách tay của Price. Những cuốn phim đó đáng giá hai trăm ngàn. Xin chị vui lòng giúp tôi.
- Quả tình là một công việc rất mạo hiểm mà tôi chưa quen. Lúc này tôi đang xúc động mạnh nên không thể nhận lời. Xin thiếu tá cho tôi có một thời gian suy nghĩ.
- Chị cứ suy nghĩ, nhưng không thể quá lâu. Chị hiểu cho, chúng tôi không có nhiều thời gian đâu.
"Một thời gian suy nghĩ" mà Dung cần chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Đây là một cơ hội rất tốt cần khai thác. Nếu chị bỏ lỡ. Hoàng Quý Nhân chọn hướng hoạt động khác, thì có muốn "tìm lại thời gian đã mất" cũng không được. Việc ngửa tay xin việc sau này càng nguy hiếm. Sự việc đó sẽ đánh thưc tính hoài nghi của tên mật thám lõi đời này.
Dung thoáng nghĩ đến cuộc chạm súng ở Cầu Giấy cách đây bảy năm. Và ngay dù có ở trong tình trạng bị theo dõi thì vẫn phải chủ động tiến công. Do dự, cố thủ, tránh né là tự vô hiệu hóa mình. Công việc này lại do Nhân khẩn khoản yêu cầu chị giúp chứ đâu phải do chị đề xuất. Y phải chịu trách nhiệm chính về mật pháp lý. Dù y có giương bẫy thì mình cũng phải khôn khéo để tháo lấy mồi. Không dám vào hang thì làm sao bắt được hổ.Tuy vậy chị cũng không để cho đối phương thấy mình “hám” quá.
Hoàng Quý Nhân ngồi im lặng hút thuốc chờ đợi quyết định của chị. Viên thiếu tá khích lệ chị:
- Chị yên tâm. Khi chị là bà chủ của khách sạn thì công việc đó giản dị và hấp dẫn như một trò chơi. Chúng tôi sẽ bố trí canh gác. Thậm chí cần gây ra một tai nạn xe hơi nho nhỏ để cản bước ông ta, chúng tôi cũng có thể làm.
- Xin để tôi bàn thêm với nhà tôi xem đã.
- Ồ không. Chị chẳng cần hỏi ai làm gì. Chị cứ làm và sau đó chị im lặng mở sâm-banh mời anh ấy là đủ rồi. Công việc của người gián điệp bao giờ cũng nên để ở đáy lòng mình - Hoàng Quý Nhân mỉm cười - Xin lỗi chị, nó giống như trò ngoại tình, không ai đem ra để bàn hoặc để phô đâu!
Phương Dung nghiêm trang:
- Tôi hoàn toàn không thích gì cách so sánh đó. Vì Tổ Quốc mà thiếu tá kêu gọi thì tôi sẽ cố gắng phục vụ. Nó chỉ đơn thuần là lòng yêu nước của một công dân mà tôi chấp nhận thôi. Xin ông hiểu cho là khoản tiền ông nêu ra không đủ kích thích thần kinh của tôi. Thu nhập của chúng tôi không đến nỗi tồi - Dung kiêu hãnh trả lời.
- Xin lỗi, tôi hoàn toàn hiểu chị. Thế là chúng ta đã thỏa thuận được với nhau.
- Tôi chỉ quen chụp máy Leika hay Contact đối với phong cảnh ngoài trời. Không biết chụp tài liệu thì có dễ không, xin thiếu tá chỉ bảo cho.
- Về mặt kỹ thuật, xin chị đừng lo, tôi sẽ giao cho chị một loại máy đặc biệt để chị tập làm quen. Một lần nữa tôi xin bày tỏ sự xúc động lớn lao trước tấm lòng cao cả của chị đối với Tổng thống, đối với nền cộng hòa thân yên của chúng ta. Chiều hôm đó chị Dưng đã thông báo cho tôi tin tức quan trọng này. Chúng tôi nhận định là hiện đang có một sức ép đòi thay Diệm trong chính giới Mỹ vì tên độc tài này hoàn toàn bất lực trong việc ngăn chặn sự phát triển của cách mạng. Vì vậy một mặt phải bám vào Mỹ, nhưng mặt khác Diệm cũng phải lo đối phó với con bài khác của Mỹ. Dung nhận làm cho Nhân là một việc mạo hiểm cần thiết. Ta phải xen vào việc này để khai thác những lợi thế cho cách mạng. Nhưng khi cộng tác không để lộ sự tinh khôn nghề nghiệp của mình và nhất là không được tỏ ra quá sốt sắng với cái trò chơi đó.
Quế Lan đã phải hiến thân cho Hoàng Quý Nhân để hy vọng chồng sớm được thả, nhưng cho đến lay tình hình vẫn không có biến chuyển gì. Chị vừa cho xe ra khỏi ga-ra thì đã thấy chiếc Renault màu trắng của Hoàng Quý Nhân xuất hiện. Y ra hiệu cho Quế Lan theo y. Mặt Quế Lan đỏ ửng vừa e ngại, vừa lôi cuốn. Sự chờ đợi cô đơn thúc đẩy chị. Quế Lan đã băng theo viên thiếu tá như bị thôi miên. Hoàng Quý Nhân lại đưa chị vào căn buồng mộng ảo lần trước.
- Em đã không khước từ thiếu tá một điều gì. Thế mà đến nay chồng tôi vẫn chưa được tự do!
Quế Lan nói với một ý trách móc nhưng không có vẻ gì là quyết liệt.
- Với quyền hạn của mình, anh chỉ có thể đảm bảo cho anh Vượng sống an toàn đầy đủ về mặt thể xác. Việc thả tự do còn tùy thuộc vào thượng cấp. Anh muốn bàn thêm với em một phương cách. Hình như anh Vượng có quen một người Mỹ thì phải.
- Tiến sĩ Price, ông ta làm bạn với nhà em từ hồi còn ở khu La tinh Pa-ri.
- Em có quen ông ta không.
- Từ hồi anh Vượng bị bắt, ông cũng có lại thăm em.
- Em đã nhờ cậy gì đến sự giúp đỡ của Price chưa?
- Chưa, ông ta chỉ là một nhà báo, có thế lực gì đâu.
- Có thể là ông ta cũng quen biết một vài nhân vật nào trong tòa Đại sứ Mỹ. Chỉ cần một cú điện thoại của ông Nolting yêu cầu thả Vượng thì mọi sự sẽ tốt đẹp ngay. Quế Lan ạ, anh rất yêu em, anh phát ghen lên với số phận của Vượng. Nhưng anh cũng thành thực khuyên em: Ngay tối nay em nên điện thoại cho Price mời ông đến nhà. Em cầu khẩn ông ta. Nhớ là đừng nói qua điện thoại, họ rất ngại vi phạm những thể thức ngoại giao tế nhị. Không ai có thể từ chối người đàn bà đẹp trong càn phòng của bà ta đâu. Một người Mỹ cô đơn cũng sẽ là một người Mỹ tốt bụng với phái yếu đấy.
Hoàng Quý Nhân vuốt ve Quế Lan, nhưng bỗng y đột nhiên đứng dạy:
- Xin lỗi em anh có một chút công vụ phải đi ngay. Quế Lan hãy gọi điện cho Price nhé. Anh hy vọng là Vượng sớm được tự do.
Về đến nhà Quế Lan nằm vật xuống giường. Nỗi cô đơn choán ngợp cõi lòng. Chị điện thoại đến khách sạn.
- A-lô- ai gọi tôi? - Giảng đàn ông nói tiếng Pháp.
- Thưa ông, tôi muốn gặp ông tiến sĩ Price.
- Thưa bà tôi đây. Tôi đang hân hạnh nói chuyện với ai đây?
- Tôi là Quế Lan, vợ của Đỗ Thúc Vượng. Đến llôln nay chồng tôi vẫn chưa được tự do. Nếu có thể xin mời tiến sĩ đến chỗ chúng tôi. Tôi có một việc muốn phiền đến ngài.
- Thưa bà, nếu bà cho phép, tám giờ tối nay tôi sẽ đến thăm bà.
- Tôi chờ ngài, thưa tiến si Price.
Mười tám giờ Hoàng Qúy Nhân đến gặp Phương Dung.
- Chúng ta sẽ hành động vào hai mươi giờ mười phút hôm nay. Tôi giao cho chị ba máy nhỏ. Chị lần lượt chụp không cần phải tháo lắp phim. Chiếc máy ghi âm này chị đặt vào một chỗ nào thích hợp, nhớ là đưa nó về tư thế làm việc. Nguyên tắc cao nhất là không để ai phát hiện ra. Tài liệu quan trọng nằm trong cái cặp đen. Thường thì đi đâu Price cũng mang theo. Nhưng tôi hy vọng là tối nay Price sẽ để nó ở nhà.
- Tôi lo nhất là chưa xong việc ông ta đã về.
- Chúng tôi sẽ có xe bám theo Price. Nếu ông ta quay về, tôi sẽ gọi điện cho chị. Chị cứ bình tĩnh xếp đặt lại lại như cũ rồi thoát ra ngoài. Nếu điện thoại hỏng sẽ có một xe chữa cháy chạy qua nhà rú còi báo động theo nhịp hai tiếng một. Chị đeo găng tay và đi đôi giày này. Chúng ta không được để lại một dấu vết nào. Vì nếu cần chúng ta còn mật nhập nhiều lần.
Dung trở lại khách sạn lúc mười chín giờ như thường lệ. Vào ngăn buồng của mình kiểm lại toàn bộ máy móc, trang bị. Chị mở két lấy bộ chìa khóa căn buồng 12 đã treo sẵn trên sơ đồ. Chị kiểm mặt tất cả những nhân viên làm việc trong giờ này sau đó đi tắm và thay quần áo. Dung ra ban công nhìn sang thấy ánh đèn bên buồng 12 vẫn sáng.
Hai mươi giờ kém mười lăm, Price tắt bớt đi một ngọn đèn, đóng cửa rồi lặng lẽ xuống ga-ra. Dung để ý không thấv Price mang theo chiếc cặp đen quen thuộc.
Tiếng máy khởi động. Chiếc Falcon màu sữa chui ra khỏi ga -ra lao về phía ngã năm...
Dung đi đôi giày đặc biệt, mang găng tay, đeo chiếc xắc đỏ hàng ngày chị vẫn xách theo. Vào giờ này nơi đây thường vắng vẻ. Dung dừng lại cửa buồng mười hai. Chị liếc mắt quan sát rồi nhanh nhẹn mở khoá lẻn vào tròng. Cửa tự động khóa trái lại. Chị đi về phía bàn giấy. Tất cả đều ngăn lắp. Những tập bản thảo xếp gọn trong ngăn kéo. Dung liếc qua những nội Dung và chị bắt đầu chụp với mộc động tác lành nghề.. Đó là những bài Price viết cho báo chí và các Hãng thông tấn phương Tây về việc Diệm khủng bố những người chống Cộng nhưng khác biệt quan điền với chính quyền, về vụ Đỗ Thúc Vượng và một bài điều tra về nông thôn vùng Châu Thổ. Tất cả vừa gọn một cuốn phim. Sau đó Dung quay ra tìm chiếc cặp. Nguyên tắc của chị là cái dễ làm trước. Dung mở tủ. Bên trong là két sắt nhỏ gắn liền vào trường hậu. Dung mở két dễ dàng và lôi ra chiếc cặp. Bây giờ mới là khó khăn. Khóa cặp mang một cấu trúc khác hẳn với tất cả những cái chị đã từng biết. Dung loay hoay mười lăm phút vẫn chưa lần ra hướng đi. Mồ lôi chị toát ra. Có năm nút. Mỗi nút tám nấc. Sẽ có ít nhất hai triệt bảy mươi tám ngàn cách xếp đặt. Vậy mật mã của nó là gì? Tất nhiên chủ nó phải ghi lại vì nếu quên đi ông ta cũng phải đến phá cặp. Dung phải quay lại ngăn kéo buy-rô lần lượt lật những trang sổ tay nhưng tuyệt nhiên không tìm ra những con số bí mật. Có thể y cất trong ví. Một tia sáng mong manh vụt lóe trong óc Dung. Liệu nó có thể trùng với con số trên tờ hộ chiếu? Chị mở cuốn sổ đăng ký khách trọ trong xắc ra và tìm được con số 1470.362. Dung đặt hàng số đó nhưng then khóa vẫn không kéo nổi. Nhưrng hình như có một sự chuyển dịch mơ hồ nào đó chuyển số khác thì rõ ràng độ ràng cơ học khác hẳn. Đành phải dùng đến biện pháp kết hợp. Chị rút ra một lá kim loại theo then khóa. Vừa luồn chị vừa vặn nút điều chỉnh. Lá kim loại vào sâu thêm một nấc. Dung làm tiếp, gặp nấc thứ lai then khóa bỗng bật ra. Một niềm vui tràn ngập.
1470362 - 41 = 1470321
Số hộ chiếu - Số tuổi của Price = mã khóa.
Liếc qua đống tài liệu, nhiều tiêu đề làm Dung giật mình. Chị đưa máy riêng chụp những cái cần cho mình trước. Sau mới đến những tài liệu cho Hoàng Quý Nhân. Chị liếc đồng hồ hai mươi hai giờ mười. Dung xếp lại đúng như lúc mở ra. Chị đóng khóa cặp, khóa két, khóa tủ rồi lấy máy ghi âm đưa về tư thế hoạt động. Dung đặt nó dưới lớp sỏi trên chậu địa lan đặt giữa nhà.
Chị áp tai vào cánh cửa nghe động tĩnh rồi lẻn ra ngoài rất nhanh, khóa cửa phòng số mười hai rồi trở về phòng mình. Thay quần áo xếp đặt các thư gọn gàng, Dung mới quay điện cho Quý Nhân.
- Tôi đã mua thuốc cho Thím Tư (Chị nói theo mật khẩu quy ước của viên thiếu tá cảnh sát).
- Cảm ơn. Tôi chờ chị ở nhà Thím Tư.
Tôi đã đỗ xe ở chỗ hẹn. Thấy xe của Dung, tôi lái theo. Đến chỗ vắng, tôi vượt lên. Khi hai xe ở vị trí song song, Dung quăng cho tôi cái máy ảnh. Tôi phóng về nhà và tháo phim ra ngay. Tôi tráng phim vì nóng lòng muốn biết những gì trong đó.
Mườì phút sau thì Dung đến của Nhà thờ lớn. Chị cho xe đỗ sát cái Reenault màn trắng của Quý Nhân. Dung trao cho y cái gói nhỏ trong đó có ba máy ảnh.
- Chỉ dùng hết cuốn số một, số hai. Máy nghe tôi đạt trong chậu địa lan. Hàng ngày có người đưa chậu địa lan ra ban công sau tắm nắng, lúc đó tôi sẽ đổi lấy.
- Cảm ơn chị đã giúp đỡ chúng tôi. - y đưa cho Dùng tờ ngân phiếu - Chị sẽ lĩnh khoản tiền này ở Ngân hàng Thương Tín vào tuần tới. Hẹn gặp lại!
Dung về đến nhà đã mười giờ ba mươi hai phút. Tôi đã tráng xong phim và đang hong khô bằng máy sấy ly tâm.
- Tài liệu rất giá trị anh ạ. Em chụp được toàn bộ những đề án của bộ phận đặc nhiệm soạn thảo để trình lên ủy ban 303 của Phủ Tổng thống Mỹ. Bây giờ đến lượt anh nhé. Em đi nằm đây. Lâu mới làu việc này thần kinh căng thẳng quá.
- Dung cứ nghỉ đi. Mọi việc còn lại mình sẽ làm tiếp. Sáng mai ta bàn bạc với nhau thêm.
Phim khô nhưng không có máy chiếu để đọc. Tôi phải dùng máy phóng ảnh chiếu lên một tờ giấy trắng. Qua bản phác thảo của CIA và cơ quan tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ, tôi đã hiểu được ý đồ chiến lược trước mắt của Mỹ trên bốn phương trình lớn:
- Kế hoạch Farmhand.
- Kế hoạch huấn luyện biệt kích người Thượng.
- Các cuộc tuần tiễu De Soto của Hải quân trên biển vịnh Bắc bộ và…
- Các kế hoạch 34A.
Kế hoạch Farmhand là một chương trình bí mật tung những nhân viên người Việt vào Bắc Việt Nam để móc nối với những tên gián điệp mà Conein, nhân viên cơ quan tình báo chiến lược (OSS) gài lại ở miền Bắc từ năm 1955 để trực tiếp phá loại miền Bắc. Những tổ biệt kích này sẽ được bộ phận đặc biệt của lục quân huấn luyện dưới sự kiểm soát của CIA. Nó đặt càn cứ ở ba sân bay: Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và Phú Bài.
Chương trình huấn luyện người Thượng đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của CIA, độc lập với ngụy quyền Sài gòn. Những lực lượng này gọi tắt là CIDG được dùng vào nhiều hoạt động khác nhau. Nó biểu hiện nổi bật ở tính hung bạo trong các hoạt động khủng bố. CIDG là công cụ đàn áp nông dân Nam việt chống chính quyền và đột kích vào Lào, vào Bắc Việt Nam, vào các đường thâm nhập bí mật của Bắc Việt. CIDG cũng là lực lượng chống du kích và có khả năng luồn rừng ngụy trang và có thể trà trộn vào các lực lượng Việt cộng. Chúng cho rằng không có gì sử dụng làm bia đỡ đạn dể chống lại dân chúng bằng đám người cổ sơ đó. Tính man rợ cộng với nền kỹ thuật vũ khí hiện đại của Mỹ sẽ có thể đối chọi thắng thế với đông đảo dân chúng châu Á và những tổ chức du kích của họ.
Chương trình thứ ba được nêu trong tài liệu là những cuộc tuần thám của Hải quân De Soto trên vịnh Bắc Bộ sẽ được các khu trục hạm Mỹ tiến hành dọc hải phận Bắc Việt để nghe ngóng các hoạt động quân sự và dân sự, khiêu khích mạng lưới ra-đa của dối phương để phát hiện ghi nhận, xác định bước sóng và vị trí đài phát để làm dữ kiện cho cuộc chiến tranh điện tử sau này. Tư lệnh các lực lượng Thái Bình Dương ở Ha-oai sẽ ra lệnh cho hạm đội 7 tiến hành.
Chương trình 34A là một dự án bí mật tiến công miền Bắc bằng các hoạt động chiến tranh tâm lý và các hành động tập kích bằng đường biển: Mật tập hoặc cường tập, đánh rồi chạy. Mục tiêu là các vùng ven biển.
Những tài liệu này mới bao gồm những chủ trương chiến lược chứ chưa có chi tiết cụ thể. Tuy nhiên nó cũng giúp cho Trung tâm nắm được ý định rộng lớn của địch. Tôi dịch và tóm tắt lại, làm báo cáo rồi mã hóa luôn. Còn cuốn phim tôi cho vào luộc cái lọ nhỏ gắn sáp, gắn chặt nút đem chôn vào một vị trí đặc biệt trong vườn cây. Ba giờ sáng tôi mới đi ngủ.
Năm giờ Dung đã đánh thức tôi dậy để kịp về quân trường. Tôi vùng dậy vào buồng xối nước lạnh cho tỉnh táo. Dung chuẩn bị bứa sáng cho tôi. Khi hai đứa ngồi vào bàn, chị mới hỏi:
- Anh làm đến đâu rồi?
- Xong hết. Mình chôn phim ở ô mười hai, nhớ nhé.
- Ôi, anh làm nhanh quá. Anh thấy nội dung thế nào?
- Rất tốt cho trên. Chúng ta cần gửi sớm nhưng không phải là hôm nay. Có thể mật vụ của Quý Nhân còn bám theo Dung. Đề phòng nó nghi Dung cuỗm được những thứ quý hơn. Hoặc tệ hơn nữa là nó giương bẫy ra với chúng ta. Tốt nhất là nên đặt tài liệu vào hòm thư mật. Những cuộc tiếp xúc lúc này nên hạn chế.
Dung đồng ý, nhưng chị vẫn nói để tôi yên tâm:
- Em nói với nó là em không biết tiếng Anh, em cứ chụp bừa, không biết tài liệu có quan trọng không. Trừ anh ra chưa ai biết em đọc được Anh ngữ đâu.
- Cứ tạm yên tâm là mọi sự đều ổn.
Một tuần sau chúng tôi nhận được điện biểu dương của Trung tâm. Cậu Đức chỉ thị cho chúng tôi nhanh chóng hướng hoạt động vào kế hoạch Farmhand.
CHƯƠNG XIIW. COLBY VÀ NHỮNG CHAI SÂM BANH ƯỚP LẠNH
Mục tiêu và hướng tiến công chủ yếu của chúng tôi lúc đó là khám phá kế hoạch Farmhand. Chúng tôi tin chắc là sẽ có một cơ quan đặc trách thực thi kế hoạch này. Nhưng tổng hành dinh nó ở đâu và ai chỉ huy? Câu hỏi đó đã ám ảnh tâm tư chúng tôi trong nhiều ngày.
Một bữa tôi ở quân trường về, Dung vui vẻ thì thầm:
- Anh thử hỏi dò các bạn bè ở quân trường xem may ra họ có thể biết được điều gì mới mẻ chăng?
- Mình đã gợi ý nhiều đứa có cha anh là cỡ bự trong chính quyền, nhưng chẳng đứa nào biết tí gì về cái kế hoạch bí mật đó. Dĩ nhiên là mình không hỏi trực tiếp mà thường xuất phát từ cái tâm sự nhớ Hà Nội mong muốn có một cuộc "Bắc tiến". Nhưng bọn học viên này còn ngớ ngẩn hơn mình. Chúng nói về CIA như về một chuyện thần bí, đầy huyền thoại, ly kỳ nhưng cũng vô lý đến ngu ngốc. Tóm lại, chúng chưa biết gì về CIA thực sự là như thế nào.
- Cái từ ngốc nghếch đó nên dùng cho chúng ta mới đúng. Nó là đối tượng tác chiến của mình mà mình chưa biết nó ở đâu, nói gì đến nhưrng người họ chẳng có liên quan gì đến. Mình cứ lấy kinh nghiệm cũ, lấy cái hình mẫu Phòng Nhì của Pháp trước kia để suy lận, để tưởng tượng ra đối thủ thì rồi mình sẽ sai lầm đó! Em thấy là chúng ta có thể đi theo một con đường vòng. Nhưng trong lĩnh vực này nhiều khi đường vòng mới là con đường ngắn nhất đấy anh ạ.
- Nếu xác định được mục tiên thì dù có vòng vèo cũng phải đi. Chúng mình đâu phải những người lười biếng.
- Chưa có mục tiêu chính, nhưng em đã chọn luộc mục tiêu phụ. Muốn tung được những toán biệt kích vào nền Bắc, chúng phải dùng ba con đường: đường không, đường bộ và đường thủy. Nếu dùng đường bộ chúng phải vượt giới tuyến, một việc làm rất khó vì ít khi lọt nổi. Chúng có thể qua Lào nhưng địa hình phức tạp, mang vác nặng nề. chúng không thể có dũng khí như những người cách mạng để làm nổi việc này. Đường biển có nhiều khả nàng hơn, nhưng tàu thì khó cập bến mà dùng thuyền thì thường hay để lại dấu vết. Địa hình lựa chọn đổ bộ cũng hạn chế. Đường không, theo em là chúng có nhiều khả năng nhất. Muốn dùng đường không, chúng phải dựa vào phi công, máy bay và phi trường của không lực Việt Nau cộng hòa. Vì vậy theo em, mục tiêu thàm dò đầu tiên của chúng ta là không quân.
- Đồng ý, chủ trương đó là hợp lý.
Tôi chợt nhớ ra viên trung úy phi công và tấm danh thiếp của anh ta đưa từ cái ngày chúng tôi đi mưa vé máy bay ở Hà Nội.
- Dung còn nhớ cái anh chàng "Pi-lốt" mà chúng ta định nhờ mua vé máy bay không?
- Có nhở chứ! Chỉ có điều là mấy năm nay chúng ta chẳng đến thăm anh ta. Nay bỗng nhiên mang tấm danh thiếp cũ mèm đến thì hơi vô duyên - Dung cười - Nhưng dù sao thì ta cũng nghĩ ra cách tiếp cận hợp lý.
- Thế là chúng ta có hướng đi rồi!
Tôi vui vẻ ôm chân lấy Phương Dung để biểu hiện sự mừng rỡ tìm ra lối thoát. Thực ra là trong đó có phần nửa đùa nửa thật! Tôi khát khao một cái gì say đắm yêu thương toát ra từ con người Dung... Một phút trôi qua Dung vẫn ngồi im trong cánh tay tôi, nhưng Dung không biểu lộ cái mà tôi mong đợi: Sự hưởng ứng. Tim tôi đập mạnh và như có phần hoảng sợ. Tôi buông Dung ra, đứng dậy khát vọng lạnh đi, một nỗi trống rỗng loang ra trong con tim... tôi đau buồn...
Tôi bỗng thấy Dung ôm mặt cười khúc khích:
- Ôi người chồng đau khổ của tôi!
Tôi không rõ chị nói về người chồng của chị hay về tôi. Anh chồng trên sân khấu? Khi Dung bỏ tay xuống, tôi thấy mặt chị ướt đầm. Tôi lo lảng và cảm thấy mình có lỗi:
- Tha lỗi cho mình nhé!
- Không có gì đâu anh ạ.
Dung nhìn tôi mỉm cười, một cái nhìn mà tôi không sao hiểu nổi. Tôi cứ phải suy nghĩ, phải khám phá… và chính cái đó lại thu hút tôi, xô đẩy khát vọng của tôi, kiên nhẫn, dạt dào như sóng biên ngày đêm đập vào lục địa.
…
Dung đã lướt qua nhiều lần trước tòa biệt thự lộng lẫy của viên “trung úy phi công" và chị đã nhận ra anh ta trong bộ quân phục gắn cấp hàm thiếu tá. Dung lái xe bám theo anh ta và thấy viên thiếu tá vào ăn sáng ở tiệm Mỹ Hương. Dung ghi lại giờ và chị tìm ra quy lật là buổi sáng trước khi đến sân bay, anh ta thường rẽ vào ăn sáng nói đôi ba câu tầm phào với mấy cô chiêu đãi viên.Dung đã cố quảng cáo món vịt tần Mỹ Hương để kéo Bạch Kim đi cùng. Một buổi sáng, hai người bước vào tiệm ăn. Dung chọn một bàn gần chỗ viên phi công đang ngồi. Vẻ đẹp của họ đã gây được sự chú ý của dám khách nhậu. Viên phi công quay sang và bắt gặp cặp mắt của Dung. Cô biểu hiện kín đáo một niềm vui gặp lại để cố gợi nhớ cho viên thiếu tá. Anh ta cũng hơi sửng sốt nhưng vẫn còn lưỡng lự. Thỉnh thoảng Dung lại liếc quắt nhìn anh ta với nụ cười làm thân. Viên thiếu tá bỗng đứng dậy tiến sang bàn hai cô gái, giơ tay chào kiểu nhà binh và lịch sự nói với Dung:
- Xin lỗi, tôi nhìn cô quen quá . Hình như chúng ta đã gặp nhau ở đâu?
- Thưa thiến tá... - Dung mỉm cười - Cách đây năm năm chúng tôi đã… có một sự quen biết tình cờ với một trung úy phi công. Anh có đưa danh thiếp mời chúng tôi đến chơi nhà... Dạ, nếu tôi không lầu thì...
- A, tôi nhớ ra rồi!... Chúng ta đã có một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trước quầy bán vé của Air France ngoài Hà Nội.
- Thiếu tá đã nhớ đúng. Rất vui mừng được gặp lại anh!
Bạch Kim ngạc nhiên theo dõi cuộc gặp gỡ của hai người. Dung giới thiệu:
- Cô Bạch Kim, người bạu gái thân thiết của tôi Thiếu tá Huỳnh Vĩnh Quốc nguyên là phi công của Air France!
- Dạ, thưa tôi chưa bao giờ làm cho Air France, tôi là phi công của không lực.
Kim đứng dậy bắt tay viên thiếu tá:
- Rất hân bạnh.
Hai bên không có thì giờ nói chuyện nhiều. Viên thiếu tá phải vội về phi trường. Anh ta đã mời hai cô gái đến thăm nhà. Nhưng Dung đã ghi cho viên thiếu tá địa chỉ của mình:
- Thiếu tá đến với bọn tôi thì tiện hơn. Con em tôi rất hân hạnh được đón tiếp.
…
Huỳnh Vĩnh Quốc có một thân hình cân đối ở chiều cao thước bảy. Nước da trắng trẻo, cặp lông mày rậm giao nhau đen mượt như nhung. Chiếc răng khểnh làm cho nụ cười của anh rất có duyên. Hàm râu quai nón được cạo nhẵn hiện lên một vệt xanh mờ quanh cái cằm vuông bướng bỉnh. Anh ta là con một điền chủ giàu có ở Trà Vinh. Sau khi đỗ tú tài, Vĩnh Quốc vào học quân trường Đà Lạt. Nhờ có sức khỏe tốt, anh được chuyển sang Pháp học trường không quân Salon. Anh học điều hành lái bay vận tải quân sự C.47. Sau đó cũng bổ túc thêm về các loại máy bay cường kích ném bom ở căn cứ Avorce và ở Marrakech Ma-rốc. Năm 1954 anh về nước và được biên chế vào không đoàn 12.
Quê Trà Vinh, nhưng gia đình anh hầu như sống ở Sài Gòn, Quốc là mộc người thích giao du, ăn chơi có tiếng. Đã ở tuổi ba mươi anh vẫn sống tự do. Người ta nói anh có rất nhiều nhân tình, nhưng chưa dám nói ai sẽ là vợ tương lai của anh.
Anh ta đến thăm chúng tôi vài lần và sau đó anh thành khách riêng của Bạch Kim. Bạch Kim là một cô gái kiêu hãnh. Cả về sắc đẹp phong thái lịch thiệp, duyên dáng lẫn sự giàu sang cô đều hiếm có đổi thủ. Khi thấy viên thiếu tá chú ý đến mình, Bạch Kim liền tạo ra một khoảng cách hợp lý để anh thấy rằng cô không quấn vào anh như những cô gái khác. Cô không bao giờ mời Vinh Quốc đến buồng riêng, nếu không có mặt người thứ ba. Có lẽ chính vì cử chỉ đó càng làm cho cô có một sức thu hút mạnh mẽ đối với anh ta.
Người thứ ba trong cuộc nói chuyện thường là Dung hoặc tôi. Ngồi nghe họ nói chuyện, tôi cảm thấy mình là thừa, nhưng Kim không muốn tôi đi. Hơn nữa nhiệm vụ đôi khi đẩy tôi đến một tư thế rất vô duyên, nhưng tôi vẫn phải chế ngự tình cảm.
Khi vắng Quốc, bạch Kim nói với tôi:
- Anh coi sự có mặt của mình là thừa. Nhưng với em thì có anh mới đủ. Vĩnh Quốc cũng là bạn của anh chị kia mà!
- Tôi hy vọng là đến một lúc nào đó Bạch Kim sẽ cảm thấy thừa.
Bạch Kim nguýt dài rồi mỉm cười.
- Nếu có chuyện gì em sẽ nói hết với anh.
Em muốn nghe những lời khuyên của anh. Vĩnh Quốc có một giọng nam cao khá tốt. Lúc cao hứng Bạch Kim đệm pi-a-nô cho anh hát. Bạch Kiêu rất thích những bản tình ca, đặc biệt là bài Les belles étoiles1 (Những ngôi sao xinh đẹp). Cô vừa đàn vừa nhè nhẹ hát theo anh. bài hát kết thúc, họ im lặng, tôi nghe rõ tiếng thở dài của cô gái.
- Ôi những ngôi sao xinh đẹp!
- Nếu em được bay trong bầu trời đêm, em mới có thể thấy hết cái vẻ đẹp lộng lẫy của những ngôi sao, của vũ trụ - Viên thiếu tá kiêu hãnh nói.
- Em phát ghen lên với anh rồi đó. Đã có lần em bay trong đêm sao. Nhưng em còn nhỏ quá, máy bay chở khách đèn sáng trưng nhìn ra bầu trời chỉ là một màu đen sân thẳm.
- Còn anh thì hầu như đêm nào cũng phải giáp mặt với bầu trời sao. Trong khoang máy đèn phải tắt hết, trừ mấy chiếc đồng hồ dạ quang mờ nhạt. Lúc đó thậm chí phải dùng những ngôi sao để định hướng bay.
- Tôi tưởng bay đêm như vậy phải có hệ thống dẫn đạo từ dưới đất chứ ạ? - Tôi xen vào câu chuyện.
- Thông thường thì như vậy. Ra-đa dẫn đạo chỉ điều hành được ở độ cao ứng với một cự ly nhất định. Nhưng khi bọn mình tiến hành những phi vụ đặc biệt thì tất cả là nhờ vào tài năng vào kinh nghiệm và cả vào những xúc giác kỳ lạ của phi công.
- Những phi vụ đạc biệt? - Cặp mắt xinh đẹp của cô gái tròn ra vì kinh ngạc và thán phục.
- Đó là những phi vụ bọn anh phải bay ở độ cao dê-rô!
- Đó là dộ cao sát mặt biển? - Tôi hỏi.
- Sự thực thì không phải là sát mặt biển. Đó là ngôn ngữ hài hước của bọn mình. Có lần mình và Nguyễn Cao Kỳ chở Colby đi Nha Trang. Người Mỹ này muốn kiểm tra biển. Máy bay tạo nên một dải sóng bạc giống như vết lướt của một con tàu phóng lôi. Mặt Colby tái xanh nhưng cha trùm tình báo CIA vẫn nói đùa: "Tiếc là các ông không báo trước để tôi mang cần câu đi theo?".
- Có gì nguy hiểm khiến cho người Mỹ đó tái mặt.
- Ồ, nguy hiểm lắm chứ! Chỉ cần gặp một "ổ gà" không khí loãng, sức nâng thay đổi đột ngột, máy bay tụt xuống vài bộ, bụng đặt vào nước biển là vỡ tan như xác pháo.
- Thế tại sao các anh lại phải bay như vậy?
- Đó là một sự mạo hiểm thú vị. Colby đã thưởng bọn anh một chai sâm-banh ướp lạnh.
- Chỉ vì một chầu sâm banh ướp lạnh mà các anh phải liều mạng như vậy?
- Đâu phải vì một chầu sâm-banh! Thứ nhất để ông ta biết tài năng những pi-lốt đã tốt nghiệp trường không quân Salon. Hai nữa nó thể hiện không lực luôn luôn sẵn sàng hoàn thành công vụ trước Tổ Quốc. Thứ ba, mỗi phi vụ bọn anh được hai trăm đô-la tiền hậu thưởng.
- Hai trăm đô-la cũng lớn đấy, nhưng em nghĩ là sinh mạng còn đáng quý hơn chứ!
- Tất nhiên, đó là một điều nguy hiểm, nhưng chưa phải là nguy hiểm nhất. Bay trong đêm ở độ cao thấp trên đất đối phương mới thực sự nguy hiểm.
Vẻ mặt vừa kiêu hãnh vừa bí hiểm của viên thiếu tá không quân kích thích sự khâm phục của Bạch Kiêu và tính tò mò của tôi. Tôi vờ đề cao sự hiểu biết của mình bàng một nhận định ngốc nghếch để làm nổi bật vai trò Vĩnh Quốc.- Trên đất liền chắc chắn không thể bay ở độ cao không.
- Đúng vậy. Nhưng cũng phải dưới một trăm mét. Trong đêm không dễ nhận ra những vật chướng ngại. Một mỏm núi, một cột điện, một con dơi hay cánh vạc ăn đêm cũng có thể gây ra tai họa. Máy bay DC3 của bọn mình cấu trúc khá vững chắc và ổn định nhưng nó đã thuộc loại cổ. Không có thiết bị bay đêm, không có hệ tự dẫn, không có bộ phận xác định tọa độ. Nếu phi công ít kinh nghiệm, chỉ bị lạc trong bầu trời đêm thôi cũng có thể mất mạng vì hết nhiên liệu.
- Nhưng máy bay vận tải thì cần gì phải bay trong những tình huống phức tạp như vậy?
- Đó là máy bay vận tải quân sự. Người ta vẫn phải dùng vào những nhiệm vụ tác chiến thực sự. Hiện nay chúng ta đang hưởng ứng lời kêu gọi "Sẵn sàng lấp sông Bên giải", "Sẵn sàng Bắc tiến tận diệt Cộng quân thống nhất Tổ Quốc" nên không lực đã có những nhiệm vụ quan trọng. Tuy báo chí không nói đến nhưng thực tế bọn mình vẫn luyện tập để tung những toán com-măng-đô vào hậu phương địch để khi cuộc chiến nổ ra chúng ta đã có sẵn những con ngựa thành T'roa!
Vẻ mặt viên thiếu tá trở nên bí hiểm.
- Dù sao thì chúng ta cũng phải tập tành để chuẩn bị. Tại các khoa của trường võ bị đều đã có giảng về những địa hình Bắc Việt và các giả định diễn tập chiến thuật đều coi các sư đoàn Bắc Việt là đối tượng tiến công tận diệt!
Tôi cũng phụ họa vào đề tài này để gây phấn khích cho anh ta. Vĩnh Quốc hứng chí kể tiếp:
- Bọn mình đã qua thời kỳ diễn tập mà có thể nói đang bước vào thời kỳ hành động. Dĩ nhiên không lực chỉ làu nhiệm vụ chuyên chở, còn việc huấn luyện những quân nhân lành nghề làm nhiệm vụ thâm nhập là do CIA. Ông Colby là người cấu trúc toàn bộ chương trình này. Phụ tá cho ông có những nhân vật lừng danh: E.G. Lansdale, Lucien Conein, Richardson... ông ta đã đến thăm bọn mình cũng là để kiểm tra khả năng của không lực.
- Em nghe người ta nói nhiều về CIA. Phần lớn là những con người hùng có trái tim lạnh như thép, những tay espion1 (Gián điệp) siêu hạng đeo kính đen, bắn súng cả hai tay, có bộ mặt của Kinh-kông, đúng không anh?
- Bạch Kinh mô tả chân dung CIA bằng sự trạng tượng được qua các tiểu thuyết trinh thám minh họa.
- Trái lại. Ông Colby là một người rất đẹp trai, dáng mảnh khảnh, đeo kính trắng với cặp mắt linh lợi, cái liệng ít nói luôn luôn mỉm cười và pha trò đúng lúc. Ấn tượng đầu tiên anh tiếp xúc với ông là mình đang nói chuyện với một nhà bác học. Ông ta nói tiếng Pháp như người Pháp, cử chỉ lịch thiệp và hoàn toàn đối lập với những tay găng-xtơ ta thấy trên màn ảnh. Ông nói với bọn anh:
"Sự nghiệp an ninh quốc gia của Nam Việt Nam lúc này đang đặt trên đôi cánh của không quân. Các bạn phải buộc Bắc Việt lo lắng đến sự sụp đổ của họ. Lúc đó họ mới chịu tôn trọng nền an ninh của các bạn. Nước Mỹ sẽ trợ giúp tất cả những phương tiện hữu hiệu cho các bạn. Nhưng chính các bạn phải tự tay hành động. Tôi tin tưởng là những chiến sĩ yêu tự do sẽ lập được những kỳ tích mà Tổng thống của họ mong đợi.
- Khi nào thì phi vụ đặc biệt của các anh được tiến hành?
- Đó là điều bí mật. Nhưng anh biết là chương trình huấn luyện đã kết thúc và anh được lệnh "cấm trại" từ tuần sau. Nói vậy thôi chứ trước khi bay thế nào anh cũng đến thăm Bạch Kim, vì biết đâu đó chẳng là chuyến bay cuối cùng của đời anh.
- Ôi sao anh lại nói ra điều gở đó. Em cầu chúc cho anh vượt qua được nhưng công vụ nặng nề để trở về an toàn.
- Có thể một viên đạn từ mặt đất bay lên chui vào khoang lái, hay tệ hơn chỉ là một sự lạc đường trong đêm tối mênh mông. Thế là kết thúc. Nhưng anh đâu có sợ. Nhưng gì phải đến nó sẽ đến, số phận đã được định sàn, thượng đế đã an bài. Thân phận chúng ta cũng chỉ nhu cái phòi bào trong cỗ máy vô biên của tạo hóa. Tất cả những âu lo và hy vọng đều vô nghĩa. Chỉ có cái đang xảy ra là tồn tại và đáng nói.
Viên thiếu tá đứng dậy. Anh đi ra cửa sổ, thở dài, mắt nhìn vào bầu trời đêm đầy mơ mộng...
…
Tối hôm đó tôi và Phương Dung đã chắp lại toàn bộ những tin tức để được mộc bản báo cáo về Trung tâm. Giống như những mảnh sứ vỡ lẫn lộn, chúng tôi đã lựa chọn, so sánh gắn lại để có hình hài một cái bình. Chúng tôi cũng nêu lên những phán đoán riêng của mình độc lập với những nguồn tin đối lập nhau để cấp trên tiện xử lý. Kế hoạch Farmhand đã hiện dần lên bộ mặt thực của nó. Tuy chưa có thời gian và địa điểm cụ thể nhưng riêng những yếu tố trên thôi cũng đủ để Trung tâm có được một kế hoạch đối phó hữu hiệu.
Những câu chuyện ly kỳ và mạo hiểm của Vĩnh Quốc không những kích thích tính hiếu kỳ của Bạch Kim mà còn gây cho cô một mối xúc động mạnh mẽ. Cô bỗng có cảm tình khá đặc biệt với anh ta, cái thứ tình cảm lẫn lộn giữa yêu thương và cảm phục. Mấy ngày sau đó không thấy anh đến, không riêng gì Bạch Kim mong mà chúng tôi, có lẽ còn mong anh hơn.
Một bữa Bạch Kim tâm sự với Phương Dung:
- Chị thấy thiếu tá Huỳnh Vĩnh Quốc thế nào?
Sau vài phút im lặng Dung nói với Kim:
- Nhận xét về một con người thật không dễ, nhất là nhận định để có một quyết định quan trọng... Anh ta đẹp trai và hào hoa, đó là một điều không phải tranh cãi. Một người nhiệt tình, năng động... một người mạo hiểm, rất... đàn ông. Anh ta có nhiều cái mạnh, nhưng có một điểm mà theo mình, đó là cái yếu cốt tử của anh ta. Một người không khoa học, quá tin vào định mệnh, một người dễ bị cảm xúc chi phối. Nếu mình không lầm thì Bạch Kim đã yêu Vĩnh Quốc - Dung mỉm cười nhìn cô bạn.
- Em không giấu chị mối thiện cảm mới mẻ và lạ lùng đối với anh ta. Nhưng nói là yêu thì chưa đủ. Em cảm thấy thiết anh ta, nhưng có anh ta vẫn là chưa đủ. Đó là sự trùng hợp không hoàn toàn. Quốc săn đón em nhưng chưa tỏ tình. Do đó câu chuyện tâm sự của chị em mình vẫn chỉ là điều bí mật. Xin chị đừng nói với ai, kể cả với anh Nghĩa chị Dung nhé.
- Mình hứa là sẽ như vậy.
Ba hôm sau Vĩnh Quốc được "giải tỏa". Anh được phép về nhà trời lai giờ trước khi làm nhiệm vụ đặc biệt. Anh lái xe như bay đến với Bạch Kim.
Lần đầu tiên cô tiếp riêng viên thiếu tá trong phòng của mình và sau đó Kim kể lại cho Dưng nghe cuộc gặp gỡ:
"Vĩnh Quốc đã tỏ tình với em chị ạ. Anh ấy yêu em và em tin đó là một sự thật. Em không biết trả lời anh ra sao. Em hoàn toàn chưa chuẩn bị cho cuộc đời của mình. Em sống tự do từ nhỏ, em yêu hết thảy, em muốn hết thảy và hình như mọi cái em đều đạt được nếu em muốn. Có điều là chưa bao giờ em có ý định trao cuộc đời của mình cho một con người cụ thể. Ngay cái người đàn ông lý trưởng của em nó cũng chưa định hình. Đây không phải là lần đầu tiên em nghe tiếng gọi của tình yêu. Tuy nhiên Vĩnh Quốc đã làm em xúc động khi anh nói tới lời vĩnh biệt. Em đọc trên nét mặt người đàn ông ấy nỗi lo sợ thật sự, và em thấy thương thương. Em chưa chấp nhận tình yêu của anh nhưng em bỏ ngỏ cho anh niềm hy vọng. Anh ấy phải đưa sáu người đàn ông để ném họ xuống một cái vực thẳm tuyệt vọng. Anh nói với em là anh ấy linh cảm thấy anh sẽ đưa họ đến chỗ chết. Sáu người này được huấn luyện nhiều tháng nay. Họ lãnh năm trăm đô-la mỗi tháng. Họ đã được suy tôn là những người hùng. Họ được nuông chiều suốt một tháng nay như những phi công Nhật Bản lái láy bay Thần Phong trước khi làm nhiệm vụ lao vào ống khói chiến hạm quân thù. Chính sự nuông chiều đó dấy lên trong họ tâm trạng thèm sống. Nhưng khi đã nhận lương hậu của ông Colby rồi, họ không có đường lui. Trong chuyến bay tập cuối cùng, họ tỏ ra mất hết nhuệ khí. Họ uống rượu say mèm để lấy lại can đảm, nhưng men say đã làm nỗi đau khổ của họ khủng khiếp hơn. Họ khóc như những kẻ bị bức tử. Hầu hết họ có gia đình, vợ con. Những người độc thân hứa được gửi lại lương ở bất cứ ngân hàng nào họ muốn. Ngày chiến tháng, cái ngày mà Ngô Tổng thống ra duyệt binh tại Hà Nội, họ sẽ được đứng bên ngài như những vị tử vì đạo được về bên Chúa trong ngày phán xử cuối cùng. Ông Richardson đã đến úy lạo họ. Ông ta nói: dân chúng Bắc Việt sống trong tấm màn sắt của Cộng sản đang mỏi mắt trông đợi họ. Những điệp viên của CIA gài lại từ năm 1954 đã sẵn sàng đón họ. Mọi việc đều được xếp đặt chính xác như một chiếc đồng hồ. Họ sẽ nằm trong Bộ Tham mưu của những người khởi nghĩa... Đối với vinh Quốc thì dù sao vẫn còn nhiều hy vọng trở về hơn bọn người kia. Anh sẽ bay một đường thông thường ra Phú Bài, lấy thêm dầu và kiểm tra máy móc. Từ đây họ thực hiện một chuyến bay song đôi ở độ cao trung bình trên mặt biển. Khi đến ngang vĩ độ 19, chiếc nháy bay nghi binh vẫn giữ độ cao tạo ra một đường ngoặt vào gần bờ thu hút sự chú ý của ra-đa đối phương. Máy bay của Vĩnh Quốc hạ độ cao, xác định tọa độ và hướng bay nhằm vào cửa Ba Lạt. Từ lúc đó sẽ ngừng mọi liên lạc vô tuyến với trạm điều hành mặt đất. Một hoa tiêu dùng mắt thường quan sát địa hình cứ năm phút lại cho viên thiếu tá biết tọa độ. Vào tuần trăng, mặt sông phản chiếu ánh sáng, phi công có thể đối chiếu với bản đồ bay. Khi máy bay đến ngã ba sông Hồng và sông Thái Bình, Vĩnh Quốc sẽ chuyển hướng bay sang phải 35˚. Sau mười lăm phút Vĩnh Quốc sẽ đột ngột cho máy bay cất lên để đội com-măng-đô có thể nhảy dù ở độ cao một ngàn mét. Khi người cuối cùng lao ra khỏi máy bay, viên phi công sẽ cho hạ độ cao và lao ra phía biển. Bay khỏi bờ biển chừng năm mươi ki-lô-mét máỵ bay tăng dần độ cao bắt liên lạc vời Phú Bài đế ra-da dẫn đường về căn cứ. Anh ta chỉ bay trong vòng nguy hiểm chừng một giờ mười hai phút.
Trung tá Nguyễn Hữu Đức nhận được bức mật điện báo trước phi vụ 05 có một trăm năm mươi phút. Tin tức được chuyển thẳng sang Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu. Mười lăm phút sau nó biến thành mệnh lệnh. Trưởng đoàn ra-đa 15, Trạm Rú Trầm, Trạm Chuông Nai được lệnh quản lý bầu trời các tọa độ X2 B4. Các đội theo dõi tiếng động cơ ở Cửa Ba Lạt mở máy trực liên tục để báo cáo tình hình. Khu vực nam Hưng Yên được lệnh báo động.
Ông Richardson điều khiển cuộc hành quân chính xác như một cái đồng hồ. Chỉ có điều là đối phương cũng có một cái đồng hồ tương tự. Không giờ ba mươi làm phút chiếc dù đầu tiên tiếp đất ngay trước mũi súng của dân quân xã Bắc Xá. Có lẽ chiếc dù mang diện đài nặng nên tiếp đất sớm chăng? Tên biệt kích đầu hàng nhanh tới mức tưởng như ý định hạ vũ khí đã được xếp đạt sẵn. Phải đến sáng mới bắt được đủ sáu tên. Một tên bị thương vì rơi vào ngọn tre, một tên bị bắn gãy chân vì có hành động chống cự, bốn tên nguyên vẹn. Tất cả mọi trang bị đều an toàn. Tên toán trưởng, nhân vạt quan trọng nhất hứa sẽ cung khai toàn bộ khi nhà chức trách hỏi cung.
Các đơn vị bắt không được phép hỏi câu gì. Tất cả đưa vào xe hòm kín chuyển lên trên và cố gắng phong tỏa tin tức vụ biệt kích này đến mức cao nhất.
Trước bàn thẩm vấn, câu hỏi đầu tiên đến với tên toán trưởng là:
- Anh có nhiệm vụ bắt liên lạc với những ai dưới mặt đất?
- Thưa quý ông, người thứ nhất số hiệu P15. Địa điển liên lạc qua ông Phạm Văn Thạc cư ngụ ở ngõ số 6 đường Hành Kênh, Hải Phòng.
- Mật khẩu?
- Hỏi: "Ông cả Phàm sai tôi đến thưa với ông nhờ ông mua giúp hai lạng cao hổ cốt". Đáp: "Giờ thì kiếm đâu ra cao hổ. Ông có dùng tạm cao sơn dương thì lấy. Thứ ấy tôi cũng chỉ còn một lạng".
- Địa điểm phụ?
- Dạ, địa điểm hai: 912 Hàng Mã, Hà Nội. Hỏi bà Dương Diệu Lan. Mật khẩu: "Thưa bà, bà còn nhớ ông Qảng Lợl không?”. Đáp: "Tôi không quen ông ta". Hỏi tiếp: "Một người tài hoa như ông Quảng Lợi mà bà không biết, thật đáng tiếc". Đáp: "Đối với tôi ông ấy như đã chết rồi!”.
Người thẩm vấn ngừng lại. Những tin trên được xử lý hầu như tức khắc.
Ba ngày sau, qua đài chuyển tiếp Đông Hà, Bộ chỉ huy kế hoạch Farmhand nhận được tín hiệu an toàn của 05.
Một thành công tuyệt vời và có thể mở sâm banh ngay lập tức!
CHƯƠNG XIIICUỘC HÀNH QUÂN “KHỔNG LONG"
Năm 1961 tôi tốt Nghiệp quân trường Thủ Đức với điển ưu. Thành tích đó giúp tôi được đặc cách phong trung úy. Anh chị tôi rất hài lòng về sự cần mẫn và kỷ luật của tôi. Chị tôi muốn tôi được ra thẳng đơn vị chiến đấu để có nhiều cơ hội lập công tạo điều kiện thăng tiến mau lẹ, còn anh tôi lại muốn em mình được chuyển về Bộ Tổng tham mưu. Là một sĩ quan ở Sở chỉ huy đầu não, với đặc tính kiên trì điềm đạm, tôi rất dễ tìm được những người đỡ đầu thuận lợi. Sự có mặt thường xuyên của tôi ở nhà cũng là một thứ trang trí cho công việc kinh doanh thương mại và chính trị của gia đình. Nhưng đại tá Lê Thiết Vũ lại khuyên tôi về tập sự sĩ quan tham mưu ở một sư đoàn nào đó. Công việc đó thích hợp với tôi hơn là néml vào làm tên "loong-toong" ở cơ quan chỉ huy chiến lược. Cả nhà đền tôn trọng ý kiến của viên võ quan nhiều kinh nghiệm này. Có một sự thu xếp nên tôi được điều về làm trợ lý cho trưởng ban hành quân tác chiến sư đoàn 97, thiếu tá Võ Tùng Lâm.
Tôi phải lập tức tìm hiểu người sĩ quan chỉ huy trực tiếp của mình. Tùng Lâm xuất thân từ hạ sĩ quan trong đại đội Ngự lâm quân của Bảo Đại. Anh ta có một thân hình cao to, khuôn mặt tròn bự, râu quai nón và cái mũi Ả-rập. Tính tình viên thiếu tá thất thường. Đôi lúc anh ta nóng nảy gầm thét như hổ báo. Nhưng bình thường thì lại rất vui vẻ: cười nói bô bô, kể chuyện tiếu lâm, ca cải lương, và cả những bài lính tẩy rất thoai mái. Anh ta tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt, đã từng chỉ huy đại đội, tiểu đoàn nhưng thường là nhưng đơn vị xây dựng thời bình chưa kinh qua chiến trận. Trong công tác tham mưu, viên thiếu tá cũng không có gì xuất sắc. Tác phong vội vàng và sơ lược nhưng lại chủ quan, tự kiêu và ưa nghe những lời tâng bốc. Anh ta thường gọi tôi là hiền đệ, là chú em, là công tử, là thằng nhỏ... Và anh ưng kêu theo thứ bậc: Anh Tư.
- Là thiến tá nhưng tao làm việc của đại tá, của chuẩn tướng! Tham mưu trưởng thì cứ nằm Sài Gòn suốt, hết chữa bịnh lại nhảy đầm, hết chọi gà lại đánh bạc. Chuẩn tướng thì chỉ có ra lịnh. Chung cục là tao làm ráo trọi! Đ. mẹ, thế mà mãi chưa được vinh thăng!
Bộ chỉ huy sư đoàn đóng ở căng Bảo Khánh. Đó là một căn cứ lớn được xây lắp bằng khung sắt lợp tôn, rất thấp. Những nhà vòm của Phòng tham mưu được điện khí hóa nhưng mùa khô nóng như rang rất khó chịu. Các sĩ quan đều mong mỏi có ngày xuất trại, sống tự do ở Biên Hòa hay Sài Gòn cho đã. Đó là những "ngày lên bờ của lính thủy".
Viên thiếu tá không cần đi xa. Gần ngay doanh trại anh ta cững đã có quá nhiều bồ bịch. Có những dư luận bê bối về anh ta, nhưng anh ta vẫn vui vẻ, nửa đùa bỡn, nửa thú nhận. Đôi lần chị vợ từ Sài gòn lên làm dữ nhưng khi chị về là mọi chuyện đâu lại vào đấy. Anh ta nhún vai, cười hô hố: "C'est la vie?", thế mới là cuộc sống chớ, bay!
Lớp sĩ quan trẻ coi thường Tùng Lâm, cho anh là loại vô học. Tuy vậy họ chỉ thì thầm sau lưng thôi. Ngay một số thiếu tá, trung tá tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng cùng phải vì nể.
Đã có lần anh ta nổi nóng đánh lộn với đồng cấp, bạt tai cấp dưới suýt dẫn đến những vụ đọ súng. Anh ta thườug áp đảo đối phương vì thân hình hộ pháp và những đường quyền thuật anh ta học được từ hồi còn làm vệ sĩ cho tướng Hình.
"- Canh gác cẩn thận nghe bay! Để Việt cộng nhào vô là không còn cái đội nón đó. Tua hai đâu có nhỏ thế mà chỉ một đêm là sạch trọi. Cảnh giác nghen!".
Với tư cách là trưởng ban 1, anh ta nhắc đại vậy thôi chứ thực sự không kiểm tra tỉ mỉ theo các phương án phòng thủ được vạch sẵn. Cấp dưới có làm khác đi anh cũng không biết vì những văn bản ký xong là hết, anh ta ít nhớ.
Một nhân vật nữa thu hút sự chú ý của tôi là viên chuẩn tướng sư đoàn trưởng Lâm Quang Thới. Ông này thuộc lớp kỳ cựu, công tác lâu năm vời Pháp, một trong số người hiếm hoi vẫn được Diệm tin dùng. Trong đại chiến thế giới thứ 2, Lâm Quang Thới là thiếu úy của Lữ đoàn thuộc địa thứ 5. Ông ta chiến đấu trên tuyến phòng ngự Maginot. Đức chiếm nước Pháp, đơn vị ông ta tan tác, một bộ phận lưu vong sang Bắc Phi tiếp tục chiến đấu dưới quyền tướng Leclerc. Chiến tranh kết thúc, Thới được tu nghiệp tại trường kỵ binh cơ giới Saumur, và sau đó là khoa tham mưu trường Võ bị Saint Cyr. Là một sĩ quan chuyên nghiệp, ông ta không tham gia đảng phái và luôn luôn tự hào về quan điểm phi chính trị của mình. Diệm còn dùng ông ta cũng vì tư tưởng bảo thủ này. Thứ nhất, ông ta là người có uy tín trong giới sĩ quan được Pháp đào tạo những sĩ quan cao cấp mà không một lúc Diện có thể thay thế đồng loạt được. Thứ hai, khó có kẻ nào lôi kéo được ông vào những mưu đồ đảo chính. Ông ta lại cũng là bầy tôi của Chúa nên Diệm còn tin tưởng ở sự trung thành tôn giáo của ông ta.
Lâm Quang Thới là một người tầm vóc trung bình, trắng trẻo, ăn mặc chải chuốt, trong tay vung vẩy cây gậy chỉ huy nạm bạc xinh xinh. Ở tuổi bốn nhăm, tóc đã điểm bạc, thêm vào một phong thái bệ vệ, đĩnh đạc, ông ta có vẻ già trước tuổi. Viên chuẩn tướng thích gọi binh lính là các con (mes enfants) và ưng được cấp dưới gọi ông là "pa pa". Ông khuyên các sĩ quan phải biết thương lính (binh tướng chí tình). Binh kỷ phải nghiêm minh nhưng cư xử phải nhơn nghĩa. Có như vậy khi lâm trận mới trăm người như một để chiến thắng quân thù được. Lớp sĩ quan cấp dưới có vài huyền thoại về ông ta. Đại loại như ông ta đã tham gia cuộc đổ bộ lớn nhất của thế kỷ (?) ở Normandie, đánh chiếm Strasbourg trên vùng Alsace để tiến vào nước Đức. Ông đã được tướng De Gaulle gắn huy chương ! Ông thuộc "trường phái Saumure", trường phái của mũi nhọn và tốc độ. Tướng Lâm Quang Thới muốn thử sức mình bằng một cuộc chiến tranh quy ước nhưng đáng tiếc là không có nơi thi thố. Việt cộng không phải là đối thủ của ông ta. Ông ta đang mơ ước có một Waterloo, một Lư cầu kiều...
Tôi được đại tá Thiết Vũ viết thư giới thiệu, được anh tôi đích thân đến thăm ông tại tư thất để gửi gắm nên ông Thới cũng có cảm tình riêng với tôi. Nhìn cốt cách của ông, tôi thấy ít điều gắn với nhưng huyền thoại mà họ kể, mặc dù bề ngoài viên chuẩn tướng có vẻ như một Carpentier, một Tassigny, một Navarre phương Đông.Để xây dựng một mối quan hệ thuận lợi với ông chuẩn tướng, tôi đề ra cho mình một phương châm: Phải độc lập suy nghĩ, tránh lập lại một cách tẻ nhạt những ý kiến của những phụ tá khác. Thà im lặng còn hơn lấy cảm tình bằng những lời tâng bốc rẻ tiền.
Sư đoàn 97 được trang bị nhưng xe bọc thép M113 đầu tiên. Tính năng của nó vượt xa những loại thiết giáp hạng nhẹ từ trước đến nay. Máy khỏe, độ leo dốc cao, khả năng vượt đồng lầy lý tương, vỏ hợp kim nhẹ, hỏa lực mạnh dễ điều khiển là những ưu điểm nổi bật. Báo chí Sài Gòn đã được một phen bình luận tán tụng khả năng hữu hiệu của thứ phương tiện siêu đẳng này. Họ tin là nó sẽ đẩy Việt cộng vào chân tường? Đó là những "con quái vật" được thuần hóa, là mơ tước của những nhà quân sự... Tướng Lâm Quang Thới cũng muốn thể nghiệm loại xe này và ông ta chờ đợi một cơ hội.
Tháng 4 năm 1961 có một sự kiện nghiêm trọng xảy ra. Dung bị mất liên lạc với A.59. Điện đài của Ngân phải di chuyển vì đồng chí Hai Bền, tổ trưởng bị bắt. Ở hòm thư mật để lại cho Dung một tín hiệu: Im lặng! Ít bữa sau đồng chí mang bí số N.12 thay mặt A.59 báo sẽ có mật hiệu và quy định liên lạc mới. Chị Dung rất lo lắng vì đây là con đường thông tin duy nhất của chúng tôi với Trung tâm. Đồng chí tổ trưởng sơ xuất hay có nội phản?
Một tuần sau Dung gặp lại được Ngân. Ngân thông báo: Ngôi nhà cô ở cũ vẫn chưa bị khám chứng tỏ Hai Bền không khai.
- Kẻ nào đã báo địch bắt Hai Bền?
- Đến lúc này thì chưa có lời giải đáp. Trước khi bị bắt anh Hai có giao nhiệm vụ cho Đoàn Bá Mạo đến bắt liên lạc trực tiếp với tỉnh ủy Phước Nghĩa theo chí thị của Trung tâm. Chúng ta đang cố tạo ra một mối liên hệ chiến thuật trực tiếp để có thể nhanh chóng xử lý những tin tức trong phạm vi địa phương. Đến nay vẫn chưa thấy Mạo về.
- Thế thì chị phải điện hỏi Trung tâm ngay và xin liên hệ vô tuyến trực tiếp với tỉnh ủy Phước Nghĩa theo mật mã 15s.
Cùng lúc ấy sư đoàn 97 nhận được một tin quan trọng. Một điệp viên Việt cộng đầu hàng đã cung cấp cho bọn Ban 2 một tấm sơ đồ mật cứ T.13 của tỉnh ủy Phước Nghĩa, nằm trong một vùng trên lưu vực Sông Mang. Bộ chỉ huy coi đây là một dịp hiếm có để sư đoàn 97 giành một chiến tích vang dội.
- Xin phép cho tôi giấu tên người đầu thú này để đảm bảo an ninh cho anh ta - Viên đại úy trưởng ban thám báo vui vẻ nói với hội nghị tham mưu - Anh ta lấy sinh mệnh ra đảm bảo cho sự trung thực của tin tức này. Để chứng minh cho sự thành khẩn, anh ta đã khai địa chỉ người chỉ huy trực tiếp và cơ quan an ninh đã nhanh chóng bắt được tên Việt cộng cỡ bự này. Muốn tận dụng được nguồn tin tình báo quan trọng của anh ta cung cấp, ta phải xin phép hành động ngay kẹo Việt cộng thấy động sẽ chuồn mất.
- Một tấm sơ đồ đơn giản như thế này chưa đủ cho ta vạch ra một kế hoạch hành quân để đệ trình lên trên - Tướng Thới hơi do dự.
- Thưa tướng quân, tôi đã vẽ lại những chi tiết này lên bản đồ quân sự để chính xác hóa những chỉ dẫn của anh ta. Xin quý vị phân tích theo tư liệu nghiên cứu của Ban 2 - Viên đại úy chỉ lên tấm bản đồ một phần hai trăm năm mươi nghìn đã tác nghiệp. Mọi chi tiết được tô màu nổi bật trước những cặp mắt của các sĩ quan tham mưu.
- Cũng đã rõ hơn, nhưng tôi muốn nhìn tận mắt tên chỉ điểm. Nếu chỉ căn cứ vào một mảnh giấy lộn mà cứ ôm đầu nhào vô thì dễ mất mạng lắm đó! - Thiếu tá Tùng Lâm nói vui vẻ.
- Nếu chuẩn tướng cho phép mười lăm phút nữa y sẽ có mặt tại đây. Sinh mạng y là con tin của chúng ta - Viên đại úy quả quyết.
- Sau cú điện thoại không lâu một chiếc xe hòm đã đưa tên chỉ điểm lại. Hắn khúm núm bước vào tác chiến thất, gật đầu chào khắp lượt.
- Xin giới thiệu cùng quý vị, anh bạn Việt cộng vừa quy thuận chánh nghĩa quốc gia sẽ trình lên chuẩn tướng tư lệnh và quý anh em những tin tức quan trọng nhứt mà chúng ta đang cần.
- Anh có thể ngồi - Viên tướng chỉ cho tên đầu thú một chiếc ghế ở góc phòng - Anh ta sẽ trả lời những câu lỏi của quý vị.
Bây giờ tôi có thể nhìn kỹ bộ mặt y. Một người cao to, hơi thập, nước da trắng, lông mày thưa, không râu, con mắt lá dăm và cái nhìn hơi ngơ ngác. Một vết sẹo nhỏ dưới cằm trái, mũi gãy, dáng hơi gù. Y lần lượt kể lại toàn bộ hành trình đến mật cứ T.13.
Đến lượt các sĩ quan tham mưu hỏi lại những điều chưa thỏa mãn. Tôi là người thứ ba giơ tay xin hỏi:
- Cương vị anh là gì mà người ta cho phép tiếp anh ở mật cư?
- Tôi là điệp viên của A.59 thuộc tổ chức tình báo Sài gòn Gia Định được lịnh chuyên đến tỉnh ủy Phước Nghĩa một tài liệu.
- Anh có biết nội dung tài liệu đó không?
- Dạ thưa trung úy, tài liệu được niêm phong và mã hóa nên tôi không mở ra. Nhưng chắc là tài liệu quan trọng!
- Anh trao tài liệu đó cho ai?
- Dạ, cho phó bí thơ tỉnh ủy tên là Tư Cao Su.
- Sao anh biết người đó là phó bí thơ?
- Khi đến trạm tiếp đón, người giao liên biểu tôi chờ gặp đồng chí phó bí thơ ạ.
- Như vậy là anh mới tới trạm thường trực chứ chưa phải vào mật cứ? - Dạ.
- Làm sao anh có thể vẽ được tấm sơ đồ khi anh chưa đến đó.
- Dạ tôi ở trạm trực ba ngày trò chuyện với giao liên và vài người khác họ đã nói ra điều đó. Tôi cũng có đi loanh quanh và gặp nhiều bộ đội Việt cộng của tiểu đoàn 195.
- Bằng cách nào anh vẽ được vị trí đóng quân của ba đại đội trên sơ đồ?
- Dạ khi đi tắm với lính trên sông Mang, thấy tôi là người trong thành vừa ra, mấy đứa dân thành phố kéo đến thăm tôi chuyện trò cho đã nhớ. Từ trong câu chuyện, tôi lần ra chỗ chúng ở.
- Anh đã tin là mình vẽ chính xác?
- Dạ, chính xác ở một mức độ cao. Tôi đã được học cách vẽ sơ đồ từ hồi còn ngoài Bắc Việt. Các yếu tố để hình thành sơ đồ là: Nhìn để ghi những cái bên ngoài, nghe để ghi những cái bên trong.
- Giỏi đa! - Viên đại úy thám báo khen làm cho cả phòng họp bật cười.
- Người chỉ huy giao tài liệu cho anh có biết mật cứ T.13 không?
- Dạ không chắc Va đã biết. Va cho tôi biết vị trí chờ người dẫn đường và mật khẩu bắt liên lạc.
Cuộc thẩm vấn kết thúc. Tên chỉ điểm được dẫn đi. Hội nghị tham mưu giải tán. Viên chuẩn tướng chỉ giữ Tùng Lâm và viên đại úy thám báo ở lại.
Trở về nhà, lòng tôi như lửa đốt. Làm sao tin được cho tỉnh uỷ Phước Nghĩa biết mật cứ T.13 đang bị đe dọa để anh em di chuyển? Nếu bên mình nắm được kế hoạch hành quân của địch mà bố trí quật lại thì tuyệt vời biết bao. Tuy vậy tôi cũng chưa vội vàng. Theo thông lệ, tổ chức một cuộc hành quân cỡ trung đoàn trở lên, dù khẩn cấp họ cũng phải có thời gian chuẩn bị. Phải hình thành quyết tâm, lập kế hoạch tác chiến, báo cáo lên thượng cấp, phổ biến nhiệm vụ, tổ chức hiệp đồng binh, quân chủng, trinh sát lại, lúc đó mới khởi sự. Muốn kéo địch vào bẫy, ta cũng không nên động binh quá sớm, quân ngụy sẽ thay đổi ý định.Một giờ sau tôi được viên thiếu tá giao cho tác nghiệp các văn kiện theo ý định của chỉ huy. Tôi thường được giao việc này vì tôi có thể đồng thời làm một bản tiếng Anh để trình lên cố vấn: Trung tá Risner.
Sư đoàn 97 sẽ dùng hai trung đoàn mở cuộc hành quân theo hai hướng dọc lưu vực sông Mang. Tiểu đoàn 1 thiết kỵ mở mũi nhọn quyết định từ hướng Tây Nam đánh thẳng vào trung tâm mật cứ Tiểu đoàn 3 bộ binh được trực thăng không vận đổ xuống xóm Bàng đánh vào làng tiểu đoàn 195 Việt cộng. Hướng trung đoàn 2 đảm nhiệm sẽ bịt kín đường rút của đối phương vào rừng cao su phía Đông Bắc. Pháo binh và không quân sẽ oanh kích dữ dội vào các vị trí Cộng quân yểm trợ cho bộ binh.
Với nhưng tin tình báo thu được, kế hoạch tiến công này theo tôi là tối ưu. Khi thể hiện nó trên bản đồ tôi cũng phác thảo một kế hoạch đối lập với kế hoạch trên.
Toàn bộ văn kiện được tướng Thới xem lại, ký và đóng dấu để chíều nay ông đem về Sài Gòn trình lên Bộ Tổng tham mưu. Thời đó Diệm, Nhu kiểm soát tất cả các cuộc hành binh cỡ trung đoàn trở lên để đề phòng đảo chính. Thủ tục này gây phiền hà và rất mất thời gian. Mỹ đã gây sức ép để Diệm nới rộng quyền cho cấp dưới nhưng vẫn chưa được chấp thuận. Do đó tôi dự tính kế hoạch này muốn thực thi phải mất ba ngày nữa. Chiều nay thứ bảy. Ít ra sáng thứ hai Bộ Tổng tham mưu mới ngó tới. Tôi hy vọng là vẫn đủ thời gian đối phó.
Mười ba giờ Tư lệnh triệu tập các trung đoàn trưởng, chỉ huy pháo binh, thiết kthực hiện, thông tin... tới để trình bày ý đồ tổng quát. Trung tá cố vấn Risner cũng có mặt, tôi ngồi ở vị trí thông dịch. Tướng Lâm Quang Thới mô tả ý định dụng binh của mình trên bàn cát. Tất cả địa danh vẫn được giữ kín. Ông nói tỉ mỉ từng mũi từng hướng, diễn trình của cuộc hành quân với một niềm tin vừng chắc vào thắng lợi. Hầu như không có ý kiến nào trái với ông ta. Thiếu tá Tùng lâm tỏ ra rất tự hào vì anh đâu có những đóng góp sáng tạo. Tôi là người duy nhất đưa ra một ý kiến gần như lật ngược. Tôi muốn khiêu khích Tùng Lâm để anh ta bảo vệ kiên quyết thực thi kế hoạch này.
- Thưa chuẩn tướng tư lệnh, thưa trung tá cố vấn, thưa quý vị. Theo thiển ý của tôi, lầu đầu tiên ta tung một chi đoàn thiết kỵ tối tân vào một trận đánh lại giao cho nó nhiệm vụ chọc thẳng vào trung tâm mật cứ, nơi chỉ có mộc số cán bộ chính trị của Việt cộng. Chúng chỉ có tìm đường lẩn xuống địa đạo bí thật trên địa hình mà thiết xa không phát huy được hỏa lực và sức cơ động. Trong khi đó lại đưa tiểu đoàn trực thăng không vận, không có vỏ thép ra đối đầu với tiểu đoàn 195 thiện chiến của họ, mà thực chất ta chưa nắm vững vị trí phòng thủ của chúng. Như thế là ta đã đen cái yếu ra thi thố với cái mạnh.
Tôi liếc nhìn Tùng Lâm thấy anh ta nhấp nhổm, mặt đỏ bừng, hàng ria mép rung rung một cách bực tức.
- Còn việc đưa trung đoàn 2 vào việc cắt đường rút của Việt cộng thì thật vô hiệu. Một trung đoàn trải dài trên một tuyến bốn ki-lô-mét trong rừng cao su thì không bao vây được bất cứ cái gì. Ở địa hình đó Việt cộng nhanh hơn ta nhiều. Theo tôi trung đoàn 2 cần tận dụng con đường X chạy dọc tả ngạn sông M tạo một vòng hẹp ôm lấy mật cứ T ở phía Đông Nam. Ta bỏ ngỏ hướng bắc bằng phẳng trống trải cho họ chạy. Khi phát hiện ra đường rút của chúng, ta mới cho pháo binh và không quân phong tỏa, sau đó cho trực tháng đổ quân xuống đầu chúng mà bắt gọn.
Ý kiến của tôi thu hút sự chú ý của viên chuẩn tướng, nhưng Tùng Lâm phản đối ngay:
- Thứ nhất anh bạn trẻ coi thường những cán bộ chánh trị Việt cộng. Nên nhớ những tên tỉnh ủy của chúng có sức mạnh như những trung đoàn. Tiêu diệt cả một cơ quan đầu não một tỉnh là một chiến tích lừng lẫy nhất của Quân lực Việt Nam cộng hòa từ trước đến nay. Thứ hai, trước khi tiểu đoàn 3 được không vận đến, chúng ta đã oanh kích nát nhừ ba cụm điểm tựa của địch ở khu vực 42, 56 và 74. Tiểu đoàn 3 chỉ có việc bắt tù binh. Đếm xác và thâu vũ khí. Thứ ba, ta không thể mạo hiểm đưa trung đoàn 2 tiến trên con đường X. Chỉ riêng việc khắc phục mìn trên đoạn tráng K cũng đủ thời gian cho cả ngàn Việt cộng biến vào rừng cao su rồi!
Tướng Lâm Quang Thới kết luận hội nghị trong đó có một nhận xét:
- Phát kiến của trung úy Phan Quang Nghĩa cũng cần được lưu ý. Tôi coi đây là đề án dự bị. Thứ hai chúng ta sẽ bay thám sát thực địa kỹ lưỡng để đi đến quyết định cuối cùng. Các vị phải giữ kín ý định này. Tối nay thứ bảy phải canh gác nghiêm mật, nhưng mọi hoạt động vẫn bình thường, không để !ộ ra dấu hiệu gì đặc biệt.
- Xin tuân lịnh.
Tất cả ra về. Tôi đến trước mặt viên thiếu tá tỏ thái độ cầu hòa. Thế là anh lại vui vẻ vỗ vai tôi hẹn tối nay đi Biên Hòa nhậu. Tôi cảm ơn và kiếu lỗi vì tối nay có vợ lên thăm, viên thiếu tá nháy mắt cười và chào luôn:
- Bonne soirée!
Mười bảy giờ ba mươi tôi đã có mặt trong căn buồng thuê sẵn ở Khách sạn Donai. Mười phút sau Dung đã tới. Chúng tôi mừng rỡ đóng trái cửa lại và ngồi sát vào nhau để... bàn công tác.
- Kẻ phản bội ở A.59 là Đoàn Bá Mạo. Y đã khai báo về mật cứ T.13 của tỉnh ủy Phước Nghĩa và chỉ điểm bắt Hai Bền.
- Anh có đủ bằng chứng chưa?
- Mình đã gặp hắn - Tôi mô ta lại đặc điểm nhận dạng để Dung báo cho Ngân kiểm tra và cảnh giác với tên này, một mặt tôi cũng sẽ tìm cách thanh toán với hắn. Tôi báo cho Dung mừng là Hai Bền rất anh dũng và địch chưa moi được anh tí gì. Nhưng dù sao tổ chức vẫn phải cảnh giác đề phòng. Có người tốt nhưng bị hành hạ đau đớn lâu ngày nên đã không bảo toàn được khí tiết.
Tôi tóm tắt lại hai kế hoạch bủa lưới chụp T.33. Tôi gọi kế hoạch của Tùng Lâm là A của tôi là B. Dung sẽ cố tìm cách báo cho T.13 để kịp đối phó. Tốt nhất là bố trí lại lực lượng quật lại đập tan cuộc hành quân. Nết không đủ sức thì cũng gài mìn, bẫy rồi mới rút. Cứ chuẩn bị đối phó cả hai kế hoạch. Chủ yếu là A, dự bị là B. Khi nào tôi nắm chắc được chúng thực thi kế hoạch nào tôi sẽ báo tiếp. Tôi quy ước với Dung tôi sẽ chỉ đề chừ A hay chữ B ở hòm thư mật. Khi gọi được điện thoại thì tín hiệu A là “Anh hôn em”. Tín hiệu B là “Hôn anh đi Dung!".Dung bấm vào vai tôi rồi mỉm cười:
- Tín hiệu gì mà hay thế?
- Hay lắm hả Dung?
Tôi vòng cánh tay lên vai chị.
- Anh nhớ Dung quá, em có nhớ anh không? - Tôi xưng anh em rất ngọt, rất bạo dạn.
- Em cũng nhớ anh lắm. Không nhớ anh em lên đây làm gì?
- Có thể chỉ vì công việc.
- Không phải. Công việc là một chuyện. Em nhớ anh dù có công việc hay khi không có công việc. Lúc nào anh cũng ở trong tim em.
Ôi những lời nói của Dung làm tôi xúc động biết bao! Tôi bỗng nhận ra rằng khi sống bên nhau chúng tôi dễ dàng đè nén những cảm xúc hơn vì nó được thử sức hàng ngày. Một mối căng thẳng thường xuyên sẽ trở thành bão hòa. Bẵng đi một thời gian khá dài không gặp nhau, nay phải lập lại cái thế thăng bằng ban đầu thật là khó khăn... Tôi xoay vai Dung lại, nhìn thẳng vào cặp mắt thăm thẳm của người bạn gấi. Tôi cảm thấy cặp mắt xinh đẹp sẽ tha thứ cho tôi tất cả nếu như tôi cứ liều lĩnh phá bỏ cái khoảng cách mong manh ngăn trở khát vọng của tôi suốt sáu bảy năm trời. Tôi ôm lấy Dung và cái cơ thể đầy sức sống đó gắn chặt vào người tôi, tôi nhận ra sự hưởng ứng, hai cặp môi đã tìm đến nhau...
Nhưng Dung cũng không buông thả hoàn toàn. Dung vẫn giữ lại cái giới hạn cuối cùng mà tôi khát khao muốn tới.
- Hôm nay anh "hư” quá. Mấy năm qua anh rất ngoan kia mà!
- Bao giờ anh cũng ngoan vì anh yêu Dung, anh yêu Dung vô cùng.
- Nhưng em có chồng, có con rồi.
- Anh vẫn yêu em. Bây giờ và mãi mãi yêu Dung, hãy tha thứ cho anh...
- Anh không sợ à?
- Sợ gì?
- Sợ kỷ luật.
- Em định kỷ lật anh à?
- Em "đồng lõa" với anh thì có, em kỷ lật gì được anh. Anh không nhận ra điều đó sao?
- Có anh cảm thấy từ lâu, và hôm nay thì anh vô cùng sung sướng vì nó là sự thực.
- Anh có sợ cậu Đức không?
- Sợ nhưng.
- Nhưng vẫn làm liều - Dung giụi đầu vào cổ tôi cười khúc khích - Nếu sợ thì từ nay chúng mình không được vi phạm nữa nhé.
- Nói cho cùng thì anh sợ cậu Đức một phần thôi. Cái chính là anh sợ Dung. Thật đây, nếu em cho phép thì...
- Thì sao? - Dung ngửa đầu nhìn tôi cười tinh nghịch.
- Thì chúng ta sẽ sống như vợ chồng thật.
- Thế lúc này chẳng như vợ chồng thật à?
- Chưa! Hoàn toàn chưa. Chúng ta vẫn cô đơn, cả linh hồn lẫn thể xác.
Cặp mắt Dung bỗng trở nên tư lự, xa xăm. Ít phút sau cô mới hỏi tôi.
- Anh yêu em thật hay đó chỉ là những xúc cảm nhất thời lấn át lý trí do hoàn cảnh khắc nghiệt của chúng ta đưa lại.
- Ôi, anh yêu em thật sự. Hoàn cảnh chỉ làm sáng ngời cái quý giá vô cùng mà em có, chứ tuyệt nhiên không làm sai lạc cái nhìn duy lý của anh.
- Anh có dám lấy một người đã có chồng, có con không?
- Ôi em cứ đặt cho anh những câu hỏi mà anh không sao trả lời được. Anh chỉ biết là anh yêu em tha thiết, tình yêu đó gắn vào lẽ sống của anh. Cái mâu thuẫn em nêu ra làm anh đau khổ. Chẳng lẽ anh cứ phải sống như "hồn bướm mơ tiên" đến trọn đòi chăng.
- Có gì buộc anh phải sống cô đơn như thế. Anh sẽ có vợ, anh sẽ hạnh phúc.
- Yêu anh Dung nhé, chúng ta sẽ lấy nhau chính thức.
- Anh thấy Kim thế nào? Cô bé xinh và ngoan đấy chứ.
- Em hỏi thế để làm gì? Lúc này nghe chuyện đó thật lạc lõng.
- Kim rất cảm tình với anh. Anh lấy cô ấy đẹp đôi lắm!
- Đừng làm khổ anh nữa. Tình yêu đâu phải chỉ là ngoan, là xinh đẹp, là tình cảnh mà còn là những cái gì thiêng liêng không thể mô tả được. Bạch Kim đã thuộc về Vĩnh Quốc. Đấy là chưa kể đến nhiệm vụ của chúng ta, lý tưởng của chúng ta đâu có phù hợp với Bạch Kim.
- Chúng ta sẽ cảm hóa để Kim có cùng lý tưởng với chúng ta.
- Thế Dung không yêu anh tí nào hay sao mà lại khuyên anh như vậy?
Dung ôm cổ tôi thì thầm:
- Em yêu anh, yêu anh lắm anh Nghĩa ạ. Em hoàn toàn thấy hạnh phúc khi có anh ở bên. Em lo sợ khi nghĩ đến, vì một hoàn cảnh nào đó chúng ta phải xa nhau - Những giọt nước mắt nóng hổi của Dung ướt đẫm má tôi - Những ngày sống bên anh em càng hiểu anh, tin yêu, mến phục anh. Điều lo buồn duy nhất của em là số phận đã không cho em được trao cho anh mối tình đầu trọn vẹn. Hãy coi em như người tình bất hạnh trong đường đời của anh. Tôi thấy thương Dung vô cùng, thương cho số phận éo le của hai đứa.
- Không, Dung phải là vợ của anh.
- Nhưng chưa phải là lúc này. Khi em muốn chúng mình là một cặp tình nhân thì có nghĩa là em chỉ muốn anh giữ lại cho em một... chút xíu cuối cùng... Em không tiếc gì anh đâu, ngay cả cuộc sống nữa. Nếu anh chấp nhận những gì còn lại của đời em thì sẽ có lúc em trao hoàn toàn lại cho anh. Anh hiểu em chưa? Ngay lúc này thì em chưa thể nói hết với anh được!
Tôi đã ý thức được trong tâm hồn sâu kín của Dung còn có những gì tôi chưa hiểu, chưa được phép biết. Sự vội vàng chỉ làm cho Dung thêm đau khổ. Tôi nói cho Dung yên tâm:
- Anh sẽ làm đúng những điều em muốn. Anh sẽ chờ đợi và anh hoàn toàn cảm thấy hạnh phúc trong niềm hy vọng đó.
Đêm hôm ấy, cả hai đứa chúng tôi đều không nghỉ. Trái tim tôi chìm đắm trong niềm hạnh phúc được yêu lần đầu. Ôi cái đêm Biên Hòa đầy sao và những làn gió biển tràn vào vùng châu thổ ngọt ngào hương cây cỏ. Chúng tôi thức và cảm thấy cả nhân loại đang chìm trong giấc ngủ. Chiến tranh cũng ngủ say vì lời ru êm dịu của thanh bình. Bây giờ, bao năm tháng đã qua đi, ngồi nghĩ và viết lại những dòng này tôi vẫn thấy trái tim mình rạo rực yêu thương... Có lẽ cuộc đời của mỗi con người chỉ được tạo hóa ban cho một vài đêm như thế!
…
Chín giờ sáng, hai chiếc xe Jeep đưa viên tư lệnh và đoàn cán bộ tham mưu sang sân bay Biên Hòa. Tên chỉ điểm cũng được kéo theo.
Chiếc OV.10A và một tốp lái người Mỹ chờ sẵn Tướng Thới thông báo nhiệm vụ thám sát cho viên phi công trên bản đồ bay.
- Chúng ta sẽ vòng đi vòng lại nhiều lần đoạn sông Mang từ Trảng Xanh đến Bến Đá. Điểm quan sát là tọa độ 7654. Nhưng khi bay các ông đừng để mặt đất nghi ngờ gì ý định của chúng ta.
Viên phi công hiểu được ý định.
Máy bay lướt nhẹ trên đường băng rồi vút lên không trung. Thời tiết đẹp. Cảnh vật dưới đất lưới chậm dần lại. Ở độ cao một ngàn mét nhìn xuống thành phố, làng mạc mờ đi trong một biển sương lạnh nhạt. Máy bay định hướng và kẻ một đường thẳng tắp tới lưu vực sông Mang.
- Anh nhận xem mật cứ T.13 nằm ở đâu?
Viên đại úy thám báo ghé sát vào tai tên chỉ điểm nhắc hắn. Viên phi công thông báo cho mọi người biết máy bay vòng trên khu vực Trảng Xanh, vùng đất được đánh dấu bằng đường chì đỏ trên bản đồ tham mưu. Tên chỉ điểm dán quát vào cửa kính.
Tôi thấy một dòng sông nhỏ màu bạc lượn men theo một vùng đồng cỏ xen lẫn với nhữrng ruộng lúa. Xóm làng xơ xác vì bom đạn. Nấp dưới những lùm cây xanh còn loáng thoáng những ngôi nhà lá nhỏ bé. Ghe thuyền trên sông thưa thớt. Dọc theo bờ nước, cây xanh tốt hơn. Phía Đông Bắc sông địa hình không đều. Nhưng dải đồi làn làn liên tiếp đến những cánh rừng cao su xanh biếc. Con đường 18 như sợi chỉ trắng đứt đoạn qua nhưng lùm cây chạy dọc theo lưu vực.
Máy bay vòng lại.
- Mật cứ T.13 nằm chỗ kia, cái xóm nằm sát bờ sông là trạm khách. Tên Mạo chỉ và những cặp mắt dồn về phía đó. Máy bay thu hẹp vòng lượn, hạ bớt độ cao và người ta dễ dàng nhận ra địa hình phức tạp của vùng này. Đồng ruộng xen lẫn với đồi cây và khe lạch. Tuy nhiên ở hướng Nam xe M.113 vẫn có thể triển khai được trên một chính diện đến ba bốn trăm mét. Nếu không có một cản trở nhân tạo nào thì mũi thọc sâu cơ giới có thể gây bất ngờ lúc nó đạt được tốc độ hành quân hai mươi ki-lô-nlét một giờ khi tách khỏi đường 18 ở ngã ba Phước Trạch. Triền đồi phía Đông Bắc nhìn từ trên cao xuống là những vị trí đổ bộ trực thăng tốt. Nhưng chiếc OV 10 sà xuống thấp, tôi nhận ra là khó có một mặt bằng đồng thời hạ nổi sáu trực thăng, một yêu cần tối thiểu trong giáo lệnh. Nơi đánh dấu khu trú quân của tiểu đoàn 195 rất khó nhận ra. Những lùm cây thưa thớt không có dấu vết gì của nơi có thể tập trung nổi một đại đội. Tiếng động cơ không cho phép tiến hành cuộc đàm thoại trên không. Nhưng tất cả đều có thiể ý niệm được địa hình dưới đất so với bản đồ tác chiến. Máy bay vòng về phía Bến Đá và ngã ba Phước Trạch lượn nhiều lượt để Tùng Lâm đánh dấu lại những trận địa pháo binh đủ khả năng tác xạ hiệu quả yểm trợ cho lực lượng tiến công.
Mười một giờ chúng tôi về đến căn cứ.
Mười hai giờ nhận được lệnh phê chuẩn kế hoạch tác chiến của cuộc hành quân với mật danh "Khổng Long".
Mười ba giờ, tướng Lâm Quang Thới hạ đạt mệnh lệnh và kế hoạch hiệp đồng cho các đơn vị. Bốn sĩ quan của Bộ Tư lệnh hành quân tác chiến Bộ Tổng tham mưu và ba sĩ quan không trợ cũng có mặt. Kế hoạch A chính thức thực thi và tôi đã phát bản đồ quyết tâm của sư trưởng cho các đơn vị. Công việc chuẩn bị khởi diễn từ tám giờ sáng mai. Tôi vui mừng tối nay vẫn chưa có lệnh cấu trại.
Tối hôm đó tôi gạ thiếu tá Tùng Lâm:
- Tôi muốn mời anh Tư một chầu nhậu xả láng lấy lại sức sau mấy ngày bù đầu, không biết anh Tư có ưng không?
- D'accord, je suis libre ce soir1 (Ưng chứ, chiều nay mình rỗi mà).
...
Tôi lái xe đưa anh lướt qua thấy tiệm quen thuộc. Vài cô chiêu đãi thấy mặt Tùng Lâm đã vẫy rối rít và gửi theo anh những cái luôn gió. Tôi đã đưa anh tới một tiệm sang hơn vì tôi biết chắc chắn ở đó có máy điện thoại.
Khi người hầu bàn đưa tập mơ-nuy ra tôi nói với Tùng Lâm:
- Hôm nay thằng em vinh dự được chiêu đãi anh Tư. Thích món gì xin anh cứ gọi.
- Công tử đã có lòng, qua đâu có chối từ. Thực ra anh chỉ uống nhiều, ăn qua loa thôi.
Hơi men vào là anh nhấp nhổm muốn đi thăm bồ. Thanh toán xong. tôi ra cạnh cô bán rượu nhờ điện thoại. Đầu dây bên kia không phải là Dung mà là Kim.
- Alô, anh Nghĩa đấy a, chào anh. Chị Dung vừa đi. Tiếc quá. Anh gọi sang khách sạn xem... Hay anh có nhắn gì để em nói lại cho.
- À (tôi cười) Mình gửi cho Dung cái hôn thôi!
- Chỉ một cái thôi à? Ít thế?
- Một cái thôi! Còn em không có gì à?
Có viên thiếu tá ở đấy nên tôi cũng tếu kiểu: nhà binh:
- Có một cái thôi hai em chung vậy! Nhớ chuyển hộ nhé! Ghi vào kẻo quên!
- Không quên được đâu (tiếng Kim cười giòn tan) - Tạm biệt nhé.
Tôi bỏ máy xuống. Tùng Lâm vỗ vai tôi:
- Chuyện vui quá ta! - Anh nháy mắt chỉ cho tôi thấy cô gái bên phòng nhảy - Hiền đệ ở đây nhé. Chà mấy con nhỏ ngon quá ta ! Moa đi thăm người bà con chút xíu. Chín giờ moa quay lại đón toa về căng nghe!
- Anh Tư cứ đi. Đệ cũng muốn xả láng đôi chút.
Đúng chín giờ. Tôi sang phòng nhảy, đi một bài tăng gô... đến vũ điệu rốc-en-rôn ồn ào tôi chuồn ngay ra công viên nơi quy định đặt tín hiện. Tuy đã gọi điện cho Dung qua Kim, nhưng sợ Kim vô tâm quên đi, tôi vẫn lấy dao con khắc một chữ A lên thân cây phượng.
Sau bốn giờ triển khai cuộc hành quân "Khổng Long", các đơn vị thiết kỵ, không vận cùng trung đoàn 2 bộ binh đã ở vị trí xuất phát tiến công một cách trật tự và đúng kế hoạch. Những tin tức đầu tiên điện về Sở chỉ huy là tốt đẹp. Chưa có thương vong. Một vài trục trặc kỹ thuật được khắc phục. Pháo binh hiện chỉnh điểm chạm. Không lực sẵn sàng cất cánh. Mật cứ T.13 giống như một đĩa bíp-tếch đặt trên bàn ăn. Giai đoạn bủa lưới đã kết thúc. Chỉ còn chờ lệnh công kích là giai đoạn phóng lao bắt đầu.
Nét mặt từ chuẩn tướng Lâm Quang Thới đến các sĩ quan tham mưu đều tỏ ra rất hài lòng. Ít có cuộc cuộc hành quân được điều khiển ăn khớp giữa bài bản lý thuyết và hoạt động thực binh nghệ thuật như vậy. Sau khi hất bàn tay ra lệnh tiến công, tướng Lâm Quang Thới quyết định đưa sở chỉ huy ra phía trước để trực tiếp đốc chiến. Hai máy bay HU.1 trực sẵn ở sân khởi động gió bụi mịt mù. Lên máy bay!
Trung tá Risner và tướng Thới ngồi hàng đầu rồi đến thiếu tá Tùng Lâm và một sĩ quan truyền tin. Máy bay thứ hai chở trung tá pháo binh, đại úy thám báo, hai sĩ quan không trợ, tên Báo Mạo cũng đi theo để chỉ điểm và nhận diện tù binh quan trọng.
Trên không chúng tôi gặp những đội hình AD6 bốn chiếc một hai cánh mang đầy bom bay vào khu vực oanh kích. Những chiếc CH.54 do phi công Mỹ lái nặng nề tha những khẩu 105 dưới bụng đưa pháo đội dự bị vào chiếm lĩnh.
Cách mục tiêu vài cây số đã nhìn thấy những cột khói đen sì lan kín mặt sông, những ngọn lửa na-pan cháy rực lan rộng trên đồng cỏ. Máy bay hạ độ cao và tôi nhìn rõ những chiếc thiết xa màu xám bò lổm ngổm, tạo thành một mũi dùi tiến vào trung tâm mật cứ. Những cột khói vàng đánh dấu vị trí đổ quân của tiểu đoàn 3. Những điểm được lựa chọn pháo kích đang trở thành những vườn nấm xám đày đặc. Hai mươi bốn nòng pháo từ Bến Đá bắn cấp tập đã tạo thành một cái lưới chết chụp xuống tưởng như không sinh vật nào sống sót. Tim tôi hồi hộp, không hiểu anh em mình dưới đó đã nhận được tin mật báo của chúng tôi chưa?
Risner và Lâm Quang Thới ghé sát vào nhau trao đổi có vẻ hài lòng về bức tranh lửa vẽ trên mặt đất. Tiếng vô tuyến điện thanh léo nhéo phát ra qua các tổ hợp máy đưa tin tức từ dưới đất lên: Tiểu đoàn 3 bắt đần tiến công. Viên chuẩn tướng cho lệnh láy bay hạ xuống nam tọa độ 6415. Chúng tôi tiếp đất nhanh chóng.
Tất cả vừa nhảy ra khỏi máy bay thì một loạt đạn cối từ đâu rót tới. Tiếng xé gió của cánh đạn rú lên rợn tóc gáy, những tiếng nổ chát chúa đập mạnh vào mang tai. Chúng tôi vừa kịp nằm xuống thì một chiếc HU.1 bốc cháy. Chiếc kia bốc vội để thoát vòng nguy hiểm. Viên sĩ quan pháo binh to bụng chậm chạp lại gặp may! Y chuồn thẳng theo chiếc máy bay.
- Tạt xuống ven hồ theo tôi !
Viên tướng hét lên và lôi theo đám tùy tùng. Nhưng có hai người không hết đi được, họ phải nằm lại vĩnh viễn dưới chân chiếc máy bay bị cháy: Trung tá Risner và viên sĩ quan không trợ.
Nhưng thảm họa không phải chỉ có thế. Đạn cối cứ rượt theo chúng tôi mà nổ. Không thấy bóng dáng đại đội tổng hành dinh đâu! Tướng Lâm Quang Thới bị thương vào ngực và chân trái. Tôi quay lại xé băng quấn vết thương cho ông ta rồi dìu ông ta xuống một cái khe. Ông mất sức khá nhanh nên sức nặng đè lên vai tôi ngày càng tăng. Phải ra được đường lớn thì mới hy vọng thoát chết. Tôi không thể để bị bắt làm "tù binh" vì nhiệm vụ của tôi mới chỉ là bước đầu. Cứu viên trang bị tướng này là một chiến tích rất quan trọng, do đó tôi gượng nhẹ để ông đỡ choáng vì quá đau. Chín mươi phút sau tôi mới tha nổi cái "của nợ" này ra đến đường 18 và gặp được một toán lính của trung đoàn 2. Chiếc xe cứu thương đã đón chúng tôi về sở chỉ huy trung đoàn. Viên sư trưởng rất yếu. Ông giao quyền chỉ huy cho trung tá Lê Văn Báu rồi lên máy bay tải thương về Sài Gòn.
Thiếu tá Tùng Lâm còn khốn nạn hơn bọn tôi. Anh ta quá tin vào khả năng thông thạo địa hình của tên Mạo nên đã cùng với viên đại úy thám báo bắt Mạo dẫn đường. Sang đến ven rừng cao su họ gặp ngay cây trung liên cản đường, Mạo vội dẫn hai người tạt sang trái men theo những thửa ruộng cày mà toài. Mười phút san họ nhận ra phía trước mặt vài trăm mét là một trận địa súng cối của Quân Giải phóng. Tùng Lâm nổi nóng. Anh ta thộp ngực tên Mạo, nghiến răng gằn từng tiếng:
- Tên A-giăng đúp1 (Gián điệp hai mang) khốn kiếp. Mày đã giương bẫy để lừa chúng tao!
Tên Mạo quỳ xuống vừa thanh minh vừa xin tha chết, nhưng y cũng không thoát khỏi viên đạn của Tùng Lâm. Cuộc đời phản bội của nó đã kết thúc.
Khi chúng tôi gặp nhau thì hầu như trận đánh đã tàn. Tùng Lâm đau khổ kể lại:
- Việt cộng đã nằm im cho phi cơ và trọng pháo oanh kích vào chỗ không người. Khi tiểu đoàn 3 tràn vào các điểm được gọi là vị trí trú quân của tiểu đoàn 195 thì không thấy một bóng ma vào. Họ chưa hình thành được thế đứng thì Việt cộng đã từ đâu nã cối tới tấp rồi ào lên đánh giáp lá cà? Đội hình tiểu đoàn 3 tan vỡ. Từ trên cao đại liên cứ nã vào đầu họ. Một số quay trở lại, rối loạn bỏ vũ khí lội qua sông Mao.
Tiểu đoàn thiết kỵ lao vào mật cứ chỉ thấy hầm hố bỏ không. Ba xe vấp mìn. Nhưng chiếc đi sau dồn lại, tắc ùn đội hình. Lúc đó Việt cộng mới dùng ĐKZ.75 bắn vào sườn họ như bắn vịt. Vừa sửa chửa, vừa chống trả, cuối cùng cũng chiếm được mật cứ nhưng phải kéo về bốn chiếc M.113 hỏng nặng.
Sau khi khi quân kiểm tra lại lực lượng thì kết quả là: tử trận bốn mươi ba, mất tích mười sáu, bị thương hai trăm hai mươi bảy, hỏng bốn M.113, hai trực thăng. Trong số đó có bảy sĩ quan ngụy, hai sĩ quan Mỹ.
Tuy vậv, hôm sau tại trụ sở Nha Chiến tranh tâm lý ở Sài Gòn vẫn công bố tin chiến thắng Sông Mang. Trung tá Tùng Lâm (vừa được vinh thăng Tham mưu trưởng sư đoàn 97) thay mặt những người chỉ huy cuộc hành quân "Khổng Long" trả lời các nhà báo.
- Sư đoàn 97 Quân lực Việt Nam cộng hòa được yểm trợ của không quân và pháo binh đã bất ngờ bao vây mật cứ T.13, nơi ẩn náu của cơ quan tỉnh ủy Phước Nghĩa cùng tiểu đoàn chủ lực 195 Việt cộng chiếm giữ. Do có mật báo của một cán bộ Cộng sản quy thuận chính nghĩa quốc gia nên trận đánh đã diễn ra nhanh chóng và ngoạn mục. Sư đoàn 97 đã tận diệt mật cứ quan trọng này. Hơn năm mươi cán bộ đầu não của tỉnh uỷ Phước Nghĩa đã bị chôn vùi ngay trong những tầng địa đạo của chúng. Khi đếm xác người ta nhận ra viên phó bí thơ tên là Trần Văn Cao tức Tư Cao Su còn tiểu đoàn chủ lực 195 thì bị loại khỏi vòng chiến. Chín mươi phần trăm quân số của nó đã bị tử trận. Đây là một thất bại lớn nhất của Việt cộng kể từ hai năm nay!
...
Sau khi ổn định lại tổ chức tôi được "vinh thăng" đại uý. Tôi xin phép về thăm tướng Lâm Quang Thới nằm ở bệnh viện Cộng Hòa. Ông đã tỉnh táo nhưng không nói được nhiều vì vết thương ở phổi ông cảm động bắt chặt tay tôi, người đã đưa ông từ cõi chết trở về.- Nếu tôi nghe anh thì mọi sự không đến nỗi đổ bể. Đúng là tên đầu thú đã lừa ta.
- Thưa tướng quân, tôi tin là nó đã khai báo thành thực. Chỉ có là tình hình sau đó đã thay đổi. Việt cộng lập lại thế đứng của họ. Nếu đề án B của tôi được chấp thuận thì tình thế có thể lật ngược.
- Tôi có lỗi trong việc này. Đây là trận đánh cuối cùng của đời tôi. Sau đây tôi sẽ về hưu để nhường bước cho các bạn trẻ.
- Thưa tướng quân, các sĩ quan trẻ vẫn kính trọng và tin tưởng ở tài năng của tướng quân? - Tôi kể lại những giai thoại về ông.
Tướng Lâm Quang Thới gạt đi.
- Niềm tự hào duy nhất của tôi là được thâm gia cuộc chiến tranh chống phát xít Đức. Dân thuộc địa dù có tốt nghiệp Saumur hay Saint Cyr thì cũng chỉ là trường phái "groupe mercenaire"1 (Lính đánh thuê) thôi. Nói Việt cộng không phải là đối trọng của ta là láo toét. Phải nói ngược lại, ta chưa xứng là đối thủ của họ. Cách đây bảy năm, tướng giáp đã thắng cả các trường phái Sanmur và Saint Cyr, lẫn võ bị Đà Lạt. Lúc đó ông mới chỉ là nhà sử học. Nay thì ông có cả Phơ-run-de và Vô-rô-si-lốp. Còn ta thì vẫn chỉ quay lại cái đia hát cũ. Tôi sẽ không đáng đau khổ vì trước ta Tassigny, Salan, Navarre đã bị đo ván rồi. Bây giờ đến lượt các bạn trẻ. Tôi kỳ vọng ở những trường phái quân sự mới. Liệu West Point hay Fort Leavenworth có giúp gì cho các bạn lá bùa chiến thắng không? Còn Thompson và Vanuxem1 (Thompson tướng Anh, Vanuxem đại tá Pháp đều là cố vấn cho Tổng thống ngụy) thì chỉ là những tên lang vườn, đừng bao giờ nghe bọn họ xui dại.
Khi tạm biệt ông, ông tướng già còn nắm mãi tay tôi. Bại trận đã làm cho cái nhìn của ông sáng sủa hơn.
Tất nhiên tôi trở về thăm nhà và dưới con mắt mọi người tôi đã là kẻ chiến thắng. Ông Cự Phách rồi anh chị tôi đều nâng cốc chúc tụng chiến tích của tôi và mừng tôi được vinh thăng!
Dung cũng vui mừng khôn xiết trước thành công của tôi, đó là một chiến thắng thực sự.
- Anh gửi cho em "một cái hôn" quan trọng và đúng lúc biết bao!
- Đâu mà được cả cái. Chỉ có nửa thôi! - Dung cười - Hôm ấy em vừa ở khách sạn về thì Kim chạy lại ôm chầm lấy em, hôn em một cái thật kêu vào bên má và nói anh gửi cho em một cái hôn nhưng lại bảo Kim cũng có phần trong đó. Thế là em hôn trả lại cho Kim nhột cái nhẹ hơn. Chúng em chia nhau kiểu đó chẳng biết có công bằng không mà chẳng đứa nào tị đứa nào!
- Em có ghen không?
- Không. Bây giờ tất cả là của em!
CHƯƠNG XIVĐÁM CƯỚI
Trận thảm bại của sư đoàn 97 trên lưu vực sông Mang lại làm cho tôi nổi bật. Các sĩ quan đều cho rằng nếu chấp nhận phương án của tôi thì chẳng những tránh được thất bại mà còn có khả năng chụp gọn tiểu đoàn 195 vì địa hình đó cho phép phát huy được sức mạnh của chi đoàn thiết kỵ. Tôi cũng không tỏ ra kiêu ngạo mà còn có thái độ rất hữu hảo với trung tá Tùng Lâm. Tuy vậy sự có mặt của tôi thường gợi lại trong ký ức của anh cái không khí của buổi thảo luận kế hoạch tác chiến. Vì vậy khi tướng Lâm Quang Thới gợi ý anh về việc cử tôi đi học lớp sĩ quan tham mưu ở Fort Leavenworth thì anh hoàn toàn ủng hộ. Tướng Thới đã nói tốt cho tôi khi gặp các bạn bè ở Bộ Tổng tham mưu. Hai tháng sau tôi được thông báo đi dự khóa bổ trợ nghiệp vụ ở Mỹ quốc. Cả gia đình anh chị tôi sửng sốt vui mừng. Phần mình tôi chưa nghĩ là có đáng mừng hay không. Trước mắt là công tác sẽ gián đoạn, tôi phải xa Dung. Nhưng Dung đã khuyên tôi:
- Anh nên đi. Đây là một thời cơ lớn để anh có điều kiện tiếp cận với cơ quan tham mưu chiến lược. Tối nay em sẽ điện cho cậu Đức để xin ý kiến. Em tin là cậu sẽ ủng hộ ý kiến của em.
- Nhưng đi thì anh bỏ vợ anh cho ai? - Tôi nói đùa.
- Sao lại bỏ cho ai? Rõ lẩn thẩn! - Dung cười - Để dành!
- Anh muốn trước khi đi chúng mình phải cưới. Chưa cưới anh chưa đi (tôi quay đi vờ dỗi).
- Vâng nếu anh muốn thì điều đó sẽ đến. Nhưng hãy nghe em kể lại những điều chưa bao giờ em nói với anh. Đó là câu chuyện chồng con của em.
Cả một mang đời quá khứ của Dung hiện lên theo dòng tâm sự: Như anh đã biết, em lấy chồng năm tròn mười tám tuổi. Chồng em là Lê Thanh Hải. Vốn là một sinh viên y khoa, kháng chiến bùng nổ, sự học hành của anh dang dở. Anh tản cư vào Thanh Hóa xin dạy Anh văn cho một trường trung học. Em là cô học trò cưng của anh và thày đã... yêu trò. Năm 1951 cậu Đức vào Thanh tình cờ gập người giáo viên này. Qua câu chuyện tâm tình cậu thấy anh có nguyện vọng muốn đóng góp sức mình cho kháng chiến, nhưng anh không thể tham gia bộ đội vì mắt đeo kính cận số ba. Cậu Đức ngỏ ý tuyển anh vào làm việc với cậu anh vui vẻ nhận lời ngay. Một ngày sau anh đã khán gói lên đường theo cậu ra khu ba, không kịp từ biệt đàn học trò nhỏ. Ba tháng sau em mới nhận được thư Hải. Anh hẹn em cuối năm sẽ về cưới em rồi đưa em đi theo anh luôn. Nhưng anh lại dặn em giữ kín điều này không lên cho ai biết sớm. Dĩ nhiên là em vẫn phải tiết lộ với cha mẹ. Cả nhà chẳng ai đồng ý vì không rõ anh sẽ lôi em đi đâu. Hai người không cùng quê quán, hai gia đình chưa quen nhau, gả con như vậy ai mà yên tâm được. Còn em thì em thực sự yêu anh, đi đâu em cũng đi. Anh biết đấy, em là một con bé nhiệt tình và cứng rắn.
Em về cơ quan được ít lâu, ai cũng quý vợ chồng em. Chúng em nhận được lệnh vào Hà Nội. Cậu Đức chuẩn bị thế đứng cho chúng em. Anh Hải về ở nhờ một người bạn cũ, y làm việc ở sở mật thám. Còn em thì ở một cơ sở và đi làm văng-đơ cho một cửa hàng kim hoàn. Hải tiếp tục đi học trường thuốc đồng thời chơi bời với nhiều người khác, bạn của tên mật thám. Anhl thu được rất nhiều tin tức quan trọng chuyển cho em. Từ em nó theo nhiều ngả để trở về với kháng chiến. Những tin tức lúc đầu chỉ nằm trong lĩnh vực phản gián, nhưng kháng chiến cũng cần rất nhiều những tin tức loại điệp báo. Với dáng điệu rụt rè chậm chạp, với cặp kính cận dày cộp, anh đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình sang những nhân viên người Pháp trong tổng hành dinh tướng Cogny. Những tin tức của anh rất có giá trị nhưng do một sơ xuất nhỏ anh đã bị bại lộ. Tên quan ba mật thám Michel de Roy đã đánh hơi thấy đối thủ. Anh phải bỏ trốn đến với em ở một căn gác xép gần Cầu Giấy. Chúng em sống hạnh phúc với nhau trong những ngày lẩn tránh để chờ tình hình lắng dịu anh sẽ về hậu phương.
Nhưng một đêm bỗng có tiếng đập cửa dữ dội "Mở của mau!" em vơ vội khẩu súng ngắn lên đạn, tụt xuống khỏi gác xép đứng trong tư thế phòng thủ. Cánh cửa bật tung, ánh đèn pin quét loang loáng. Em nổ phát súng đầu tiên, một cây thịt đổ xuống. Em đứng nép vào cái tủ, anh nhảy được ra cửa sau. Em cố nán lại chống cự để anh tẩu thoát. Tên thứ hai thấp thoáng sau cánh cửa. Em bắn viên thứ hai nhưng đạn chỉ sượt vào thái dương đối thủ. Trong chớp lửa, bộ mặt của nó in sâu vào trí nhớ em, nó rất giống "người bạn" Hoàng Quý Nhân của chúng ta.
Em luồn ra cửa sau, tưởng chồng đã chạy xa nên em cứ men theo những ngõ hẻm ra cánh đồng phía làng Láng. Nhưng em không bao giờ còn được gặp chồng nữa. Sau này em mới biết là khi bừng tỉnh anh không mò thấy chiếc kính cận. Ra khỏi nhà anh không sao tìm ra lối thoát. Anh đành nép vào một bụi cây và bị chúng bắn chết.
Cậu Đức đã cho người đưa em ra. Em đã có nghén cháu Hiền được bốn tháng. Sinh cháu ít lâu em bế cháu về Thanh gặp gia đình. Bố mẹ em cũng đã nhận được thư báo từ trước. Bố mẹ bàn với em để con ở nhà với ông bà để có điều kiện tiếp tục công tác. Thực ra ông bà thương em còn trẻ, muốn em son rỗi để có cơ hội bước đi bước nữa. Em rất thương con nhưng thấy cách giải quyết của cha mẹ cũng là lợp lý. Để đổi địa bàn công tác cho em cậu Đức đã bố trí để cha mẹ em trở về Hải Dương. Nhưng tình hình lại biến đổi theo hướng khác.
Khi nhận nhiệm vụ đi công tác với anh lần này, em đã có một yêu cầu tha thiết với cậu Đức là đừng tiết lộ với ai là em góa chồng. Nỗi thương tiếc anh Hải mạnh mẽ tới mức em tưởng bình không thế nào nguôi, em sẽ suốt đời ở vậy. Em cũng không muốn vì hoàn cảnh công tác khắc nghiệt, em lại lôi cuốn một người đàn ông khác phải chia sẻ cùng mình, phải bù đắp cho mình.
Nhưng rồi em gặp anh! - Dung ngước mắt nhìn tôi, nước măt lưng tròng - Ôi anh Nghĩa... em đã yêu anh. Thế đấy, em yêu trước cả khi anh yêu em, một tình yêu không sao cưỡng nổi... Nhưng khi một tình yêu đã quá lớn lao thì nó càng buộc em phải giữ mình trong sáng.
- Dung ơi! Em nói không đúng đâu, chính là anh yêu em trước.
- Em yêu trước, thật đấy.
- Thôi thì chúng ta cùng yêu nhau một lúc vậy, ngày khi mới nhìn thấy nhau! Và như vậy thì chẳng còn một trớ ngại đạo lý nào ngăn cản chúng ta lấy nhau. Hôm nay sẽ là ngày cưới của chúng ta.
- Vâng, tư nay em hoàn toàn thực về anh là vợ anh hoàn toàn. Nhưng em vẫn muốn anh chiều em một lần nữa nhé! Em muốn ngày cưới là ngày mai. Ngày mai mới tốt ngày?
- Ôi người chiến sĩ cộng sản mà còn thê tín à? Ngày nào chẳng như ngày nào?
- Em muốn kết hợp hai sự kiện đáng ghi nhớ. Ngày mai anh sẽ chính thức thành đảng viên cộng sản. Như đã nhiền lần em "tuyên truyền" điều lệ và cương lĩnh, còn anh thì đã tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng. Vì vậy cậu Đức điện cho em mai sẽ làm lễ kết nạp. Chúng ta sẽ gặp cấp trên ở Vũng Tàu. Nhân đợt nghỉ phép, chúng ta sẽ làm một cuộc "voyage de noce"1 (Du ngoạn tuần trăng mật). Anh thấy thế nào?
- Anh hoàn toàn đồng ý.
Một điều gì to lớn choán ngập tâm hồn tôi. Được tin, được yêu đối với tôi là hạnh phúc, cũng lã khát vọng.
...
Sáng hôm sau chúng tôi đi Vũng Tàu. Chiếc Renault mới mua tuy không còn "mốt" nửa nhưng máy khỏe, và nhất là nó thuộc quyền mình. Chúng tôi cũng nuốn có một phương tiện riêng để được tự do trong công tác. Tôi cố hình dung ra cấp trên của mình. Tuy đã có mật khẩu liên lạc nhưng Dung vẫn đề phòng. Dung phân công tôi cảnh giới để mình cô đi bắt liên lạc.
Chúng tôi đỗ xe dưới bóng một cây dương. Xe quay mũi sẵn để lao ra đường thuận lợi. Hai chúng tôi ngồi trong xe như một cặp uyên ương say đắm nhưng mắt vẫn liếc ra điểm hẹn. Ngày nghỉ, bãi biển Vũng Tàu chỗ nào cũng đông nghịt người qua lại.
Một chiếc Citroen đen bóng lướt tới đỗ trước quầy giải khát "thiên Đường". Một người đàn ông từ trong xe bước ra, đội mũ vải trắng, đeo kính đen, áo ca rô ngắn tay, xách chiếc túi màu xanh, trên vai trái vát chiếc khăn tắm sọc đỏ.
Dung bấm nhẹ vào cánh tay tôi rồi ra khỏi xe. Tôi lên đạn khẩu côn đề phòng có "cái đuôi" nào bám theo. Dung tiến về phía người đàn ông. Bỗng nhiên cô xô lại chỗ ông khách, nắm chặt cánh tay ông. Nét mặt tươi vui hớn hở. Cô lôi người khách về phía tôi. Khi khoảng cách còn chừng mười mét, tôi bỗng vui sướng nhận ra cậu Đức. Tôi nhảy ra khỏi xe nhào lại.
- Cậu, trời ơi, thế mà cháu tưởng là ai.
Cậu Đức lừ mắt ra hiệu cho chúng tôi không nên để tình cảm biểu hiện lộ liễu quá. Hai chúng tôi vẫn bám vào hai tay cậu như ba cha con.
- Cậu mới vào trong này ạ? - tôi hỏi nhỏ.
Cậu khẽ gật và bảo chúng tôi:
- Ta ra bãi đi, giờ này tắm nắng thì tuyệt.
Chúng tôi thay quần áo, khóa xe và kéo ra bãi tắm. Chúng tôi lựa một chỗ thích hợp để vừa tắm nắng vừa nói chuyện. Lúc đó cậu Đức mới vỗ vai chúng tôi cười:
- Gián điệp gì mà chẳng tuân theo nguyên tắc nào cả. Mật khẩu vứt đâu hết. Chưa chi đã ôm chầm lấy "Cậu Đức! Cậu Đức !'" Chán cho tinh thần cảnh giác của các cháu. Lỡ "cậu Đức giả" thì sao?
- Ôi, cháu nhìn cậu là cháu nhận ra ngay? - Dung láu táu - Đôi mắt và trí nhở của cháu còn tốt lắm đóng giả ai thì được chứ không thể đóng giả cậu được.
- Còn cháu thì rất cảnh giác. Cháu cầm súng gác cho Dung. Cháu thực không ngờ gặp cậu. Hạnh phúc quá. Cậu vào trong này từ bao giờ ạ?
- Cậu vào gần một năm nay rồi. Nói chung cậu ở ngoài cứ, chỉ có việc đặc biệt mới phải vào đô thành. Hôm nay theo điện của trên là người khác đến gặp các cháu. Cậu tranh việc này vì cậu rất nhớ và mong gặp chúng mày. Hơn nữa cậu cố gắng hạn chế số người biết nhặt các cháu, ít chừng nào hay chừng ấy.
Cậu kể ngay chuyện gia đình chúng tôi trước tiên. Mẹ tôi vẫn khỏe và sống với vợ chồng chị Huệ ở Hà Nội. Trước khi đi B cậu cũng đến chơi vài ngày. Cậu cũng xuống Hải Dương thăm ông bà bên Dung và bên anh Hải. Cậu báo tin cháu Thu Hiền rất giống bố, xinh gái, học giỏi và cũng đeo kính cận. Cậu kể về miền bắc. Chúng tôi khát khao nuốt từng lời của cậu. Cậu có mang ảnh của gia đình chúng tôi vào nhưng hôm nay không mang theo. Ngân sẽ chuyển đến Dung sau.
Cậu khen ngợi những thành tích chúng tôi đã đạt được. Đó là những tin tức rất có ích cho Bộ chỉ huy Quân Giải phóng và Bộ Tổng Tham mưu. Cậu biểu dương tinh thần dũng cảm, tận tụy, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh của bọn tôi. Tôi đã thưa với cậu:
- Đúng là hoàn cảnh công tác của chúng cháu có những khó khăn căng thẳng về tinh thần nhưng không thấm vào đâu với những chiến sĩ ngoài mặt trận. Chúng cháu đâu có phải chịu đựng nhữrng thiếu thốn về vật chất, trái lại còn dư thừa. Nguy hiểm cũng có nhưng nếu khôn khéo thì vẫn an toàn. Do đó chúng cháu cũng vẫn cứ bảo nhau phải lấy gương người chiến sĩ ngoài mặt trận mà phấn đấu.
- Về phía mình, các cháu nghĩ thế là rất tốt - Cậu nói - Nhưng Tổ Quốc khi đánh giá những đứa con của mình không thể so sánh đơn giản như thế được. Ngoài sự đe dọa, các cháu phải đấu tranh với nhưng cám dỗ. Các cháu sống trong một môi trường "vương giả", nhưng vì Tổ Quốc, các cháu không tiếc một thứ gì, kể cả sự sống của mình. Thế thì sự thử thách, sự dũng cảm hy sinh đó có kém gì người chiến sĩ ngoài mặt trận? Cậu nhắc lại sự thử thách quyết liệt đối với mỗi con người là cuộc sống chứ không phải bằng cái chết. Cái chết chỉ đến trong khoảnh nhắc, nhưng ta có cả trăm năm để sống để làm tròn nghĩa vụ với đời, để giữ gìn phẩm giá của mình đâu phải là chuyện dễ dàng? Rất nhiều người ngã gục không phải vì viên đạn. Trong công việc của chúng ta, câu đó lại càng đúng.
Cậu thông báo Đảng đã chấp nhận đơn xin gia nhập của tôi. Cậu và Dung là hai người giới thiệu. Trong điền kiện đặc biệt, vấn đề nguyên tắc cũng được vận dụng cho thích hợp. Tôi xin thề là sẽ trung thành suốt đời với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, của Bác Hồ vĩ đại và xin cậu báo tin này cho mẹ tôi mừng.
Cậu đồng ý để cho tôi đi Mỹ học. Cậu nói:
- Trong lãnh đạo cũng đã có bàn bạc rất kỹ về nhiệm vụ của các cháu. Căn cứ vào những thành tích và bước trưởng thành của Nghĩa. Trung tâm đã định bố trí cháu nắm và chỉ đạo một mạng lưới mới. Nhưng khi nhận được tin Bộ Tổng tham mưu địch có ý định cử cháu đi thụ giáo công tác tham mưu ở Mỹ thì cạp trên lại phải bàn lại. Vấn đề là nên để Nghĩa phát triển theo bề rộng hay bề sâu? Hai vấn đề đều quan trọng. Phát triển một cán bộ theo bề rộng chủ yến căn cứ vào điều kiện chủ quan. Nhưng phát triển theo bề sâu thì rất khó vì nó lệ thuộc vào nhiều vào yếu tố khách quan. Ta muốn nhưng địch chưa "cho phép" cũng không làm được. Hoàn cảnh hiện nay của Nghĩa là rất thuận lợi để leo cao hơn. Do đó phương hướng lại phải thay đổi cho phù hợp. Cậu quyết định sự phát triển bề rộng sẽ giao cho Dung đảm nhiệm. Một mình lo toan chắc sẽ rất nặng nề, nhưng cấp trên sẽ hỗ trợ. Nghĩa cứ việc yên tâm lên đường học tập...
Sau khí điểm qua tình hình hiện tại, cậu phân tích thêm:
- Cuộc chiến tranh chưa dễ gì kết thúc trong thời gian một sớm một chiều. Có hai khả năng: Nếu Mỹ không vào thì chắc chắn Diệm sẽ sụp đổ để mở đường cho việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ. Nếu Mỹ nhảy vào thì tình hình sẽ phức tạp hơn nhiều. Cuộc chiến tranh sẽ rất ác liệt và chúng ta sẽ có rất nhiều việc cần làm để thắng Mỹ. Lúc đó vị trí của cháu sẽ rất có ích cho cách mạng.
Sau gần hai giờ chuyện trò, giao nhiệm vụ, cậu tạm biệt chúng tôi.
Lúc đó tôi mới nhớ đến có một chuyện cực kỳ quan trọng chúng tôi chưa nói với cậu:
- Thưa cậu chúng cháu có câu chuyện muốn thưa với cậu.
- Có chuyện gì các cháu cứ nói.
Tôi nháy Dung:
- Em nói với cậu đi !
Dung đỏ bừng mặt lấy tay đẩy tôi:
- Anh nói đi, em chịu thôi.
Cậu Đức cười:
- Có chuyện gì mà cứ lúng ta lúng túng đun đẩy nhau thế ?
- Thưa cậu, cậu vừa là thay mặt cho tổ chức, vừa là bậc cha mẹ chúng cháu. Hôm nay xin cậu công nhận cuộc hôn nhân chính thức cho chúng cháu. Chúng cháu thực sự yêu thương nhau.
Cậu quàng tay lên vai chúng tôi, vẻ mặt xúc động:
- Được các cháu ủy thác cậu rất sung sướng chứng kiến cho sự kiện tốt đẹp này. Mấy năm theo dõi bước đường công tác của hai cháu cậu nghĩ rằng chuyện đó rồi sẽ đến vì các cháu rất hoà hợp với nhau. Nhưng chưa thấy các cháu báo cáo nên cậu cũng cứ day dứt về chuyện này. Nếu như hai cháu không thương yêu nhau, một trong hai đứa muốn lấy người khác thì tổ chức cũng có những biện pháp thích hợp là tổ chức một cuộc ly hôn vờ rồi chuyển vị trí công tác cho các cháu. Ta tổ chức được một màn kịch vợ chồng thì ta cũng có thể dựng nổi một màn ly hôn hoàn hảo. Nhưng không có gì tốt đẹp bàng hai cháu thương yêu nhau. Lý tưởng tình yêu là một. Sân khấu, cuộc đời là một... Đẹp lắm chứ. Cậu xin chúc mừng hai cháu. Cậu sẽ báo tin về gia đình để mọi người cùng chia vui với các cháu.
- Thưa cậu, chúng cháu xin cảm ơn cậu. Chúng cháu sẽ sống chung tình yêu, chết chung lý tưởng. Nhân có những niềm vui lớn, cháu mong cậu nâng với chúng cháu chén rượu mừng.
- Cậu sẵn sàng ! Chúng ta hãy đến một tiện nào gần gần.
Ba cậu cháu vào khách sạn. Chúng tôi gọi một bữa ăn rất sang. Trông cậu Đức lúc này hệt như một thương gia Sài Gòn đưa các con đi Week- end, chẳng còn tí gì là "dân trên xanh" nữa.
Chúng tôi chạm cốc chúc tụng. Cậu Đức không uống nhiều, cậu phải tự lái xe về Sài Gon nên chúng tôi không dám ép. Nửa tiếng sau, chúng tôi tiễn cậu ra xe. Cận nhìn chúng tôi bàng cặp mắt thương yêu tin tưởng. Xe nổ máy lao đi với một gia tốc lớn, tay lái của cậu vững vàng và quả quyết.
Chúng tôi ở lại Khách sạn Palace để sống tuần trăng mật.
Mùa thu năm 1961 tôi lên đường đi Mỹ.
Chương trình tu nghiệp của tôi kéo dài hai năm, do đó những ngày sắp lên đường, tình cảm của hai chúng tôi đều rất bịn rịn. Những ngày sống tràn đầy hạnh phúc bên nhau tạm thời chấm dứt. Chúng tôi cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Khi từ miền Bắc vào đây chúng tôi cũng cảm thấy lẻ loi, nhưng dù sao cũng còn có hai người để mở cửa tâm hồn, để chia sẻ với nhau những lo âu hoài vọng. Giờ đây tôi phải đến một xứ sở xa lạ, một thân một mình, một bầu tâm sự. Còn Dung cũng sẽ phải âm thầm chịu cảnh cô đơn. Tôi thương Dung vô cùng. Hình như cô lại đang có nghén, công việc trong nhà bận rộn, khối lượng công tác của cả hai dồn lại mình Dung, không hiểu cô sẽ xoay xở ra sao?
Rồi đây qua thư từ, chúng tôi cũng có thể chăm sóc động viên nhau, nhưng chỉ là những chuyện công khai. Bàn công tác là không thể được. Cả lai đều thuộc mật mã, nhưng khoảng cách nửa vòng trái đất không có điện đài loại thông thường với tới. Mã hóa lá thư là một việc mạo hiểm vô cùng. Dĩ nhiên chúng tôi cũng có quy ước một số thuật ngữ nói lóng. Nhưng thứ ngôn ngữ nghèo nàn này cũng chỉ giúp chúng tôi một phần nhỏ nhu cầu.
Cùng đoàn với tôi có bảy sĩ quan cấp tá. Tôi là người thứ tám cấp đại úy và ít tuổi nhất. Tôi chưa quen biết ai trong số sĩ quan này. Tất nhiên là trước lạ sau quen nhưng với họ tôi cũng chỉ có thể biểu hiện thân tình trong những câu chuyện phiếm, những trò giải trí nhà binh. Tôi cũng phải hòa nhập với họ những buổi uống rượu, đánh bài, tán gái, gây sự ở một mức độ nhất định. Khi đàm đạo thời cuộc, chiến tranh, danh dự, Tổ Quốc, tôi cũng phải uốn giọng theo họ cho dẻo và điều đó thật là mệt!
Tuy nhiên tôi cũng đã đặt cho mình một mục tiêu thật nghiêm túc phải đạt được trong hai năm. Thứ nhất phải học cho giỏi. Sự cần cù vẫn là thế mạnh của tôi. Việc xếp đặt các sĩ quan vào bộ máy chiến tranh điều chủ yếu phải nhìn vào tài năng, học vấn, nhất là khi quân đội Sài Gòn được Mỹ hiện đại hóa. Thứ hai, tôi sẽ lắp một bộ điện đài thu phát thật tối tân để sử đụng độc lập trực tiếp với Trung tâm để báo cáo các tin tức chiến thuật cho kịp thời. Thứ ba, tôi sẽ kiếm những máy ảnh vi hình và loại phim siêu nhạy để thu thập tài liệu. Và thứ tư tôi sẽ mua những máy ghi âm nghe trộm tối tân là thị trường trong nước không có bán.
Chúng tôi bay đi Guam bằng máy bay của USAF. Nghỉ lại hòn đảo này một ngày, chúng tôi bay đến Thành phố Los Angeles bên bờ Đông Thái Bình Dương và sau đó là Kansas City.
Fort Leavenworth là một trường quân sự nổi tiếng trên thế giới. Ở đây đã đào tạo ra nhiều thế hệ tướng lĩnh tài năng của nước Mỹ. Chúng tôi là một trong số những đoàn sĩ quan ngoại quốc, không nhiều lắm, đến thụ giáo ở trường này. Đó là một niềm tự hào, là ngay ở tôi, một người chống đế quốc, một chiến sĩ cộng sản cũng cảm thấy.
Mặc dù là nhưng sĩ quan đã từng tham chiến, được tuyển chọn ở một nước bạn liệt vào loại ưu tiên tối huệ quốc, bọn tôi vẫn phải dự một đợt kiểm tra trình độ. May cho tôi là mới rời ghế nhà trường chưa lâu nên mấy bài toán tôi làm rất tốt. Bài ngữ văn cũng không phải xoàng. Nhiều sĩ quan có bằng cấp cao nhưng bỏ lâu nên gặp khó khăn.
Kết quả cuối cùng là tôi được lựa vào học Ban điện toán của khoa tham mưu chiến lược. Sự may mắn đã vượt qua điều mong ước của tôi. Chỉ có hai người vào ban này. Tôi sẽ có nhiều cơ hội để tiếp thụ nhưng kiến thức mới nhất của khoa tham mưu, hiện đại cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật chỉ huy.
Phương tiện học tập của nhà trường là những thành quả tôi tân của nhiều ngành khoa học kỹ thuật mũi nhọn của nước Mỹ đế quốc. Muốn theo học có kết quả, tôi phải cố gắng rất cao.
Để có điều kiện bố túc ngôn ngữ thêm, tôi được bố trí ở cùng phòng với một sĩ quan Mỹ: Đại úy lục quân John Antonio. Đây là con người đầu tiên tôi làm quen trên đất nước xa lạ này.
Antonio là một chàng trai có tầm vóc trung bình, tóc đen, rậm và quản, nước da không trắng lắm. Anh ta có đôi lông mày xếch, cặp lông mi dài và cong đôi mắt màu hổ phách. Antonio để ria mép, cặp môi mỏng và tươi dễ bắt chuyện, bước đần gây cho tôi nhột cảm giác dễ chịu.
Qua những buổi tiếp xúc đầu tiên tôi đã có thể hiểu được tường tận nguồn gốc gia đình người Mỹ này.
Tổ tiên của Antonio là người Tây Ban Nha. Họ chuyển cư sang Mê-hi-cô từ thế kỷ XVI, khi đất này còn là thuộc quốc của Tây Ban Nha dưới triều phó vương Antonio de Mendoza. Cuộc chiến tranh Hoa Kỳ - Mê-hi-cô năm 1846-1848 đã cắt mất của nước Mê-hi-cô một vùng đất rộng lớn gồm các bang Texas, New Mexico và California sát nhập vào Hoa Kỳ theo Hiệp ước Guadalupe Hidalgo. Gia đình, dòng họ Antonio trở thành công dân Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. John Antonio là con cháu của một gia đình có truyền thống binh nghiệp. Cha anh tướng Davis Antonio đã từng tham gia chiến tranh thế giới thứ hai chiến tranh Triều Tiên. Ông ta đã về hưu và hiện sống ở trại Olive gần Fortworth bang Texas.
John Antonio nối nghiệp cha. Từ thiếu sinh quân, anh theo học trường sĩ quan Forbrag và nay thành học viên sĩ quan tham mưu Fort Leavenworth. Tuổi trẻ của anh ta hầu như gắn liền với quân trường.
Antonio thông minh và năng động. Anh rất quan tâm đến Nam Việt Nam, một đất nước xa lạ theo cái tình cảm được hệ thống thông tin lại chúng Hoa Kỳ hướng dẫn. Anh nói với tôi bằng một vẻ ân cần đặc biệt:- Làm sao giúp Nam Việt Nam thoát khỏi sự sụp đổ, tránh rơi vào tay Cộng sản là quan tâm hàng đần của Tổng thống và của Chính phủ Mỹ. Tôi sẽ sẵn sàng sang chiến đấu bên cạnh các bạn nếu chính phủ chúng tôi cho phép.
- Cảm ơn nhiệt tình của bạn. Nhưng bạn có biết sang Nam Việt Nam bạn sẽ phải chiến đấu với ai không?
- Với Vi-xi, hiển nhiên là với bọn phiến loạn, bọn Bắc Việt.
- Nhưng làm sao bạn có thể biết họ là Vi-xi. Ngay như bọn tôi cũng không thể biết nổi ai là Vi-xi, ai không phải là Vi-xi. Khi biết được họ là Vi-xi thì thường đã muộn, quá muộn.
- Tôi hiểu, đó là nhưng toán dn kích. Họ không thể là những binh đội lớn đủ để đè bẹp chúng ta dễ dàng. Họ chỉ có thể tiến hành những chiến dịch khủng bố, các cuộc ám sát, bắn lén. Chúng ta có chất lượng và số lượng áp đảo. Tỷ lệ bảy trên một sẽ dẫn họ đến sự tàn lụi. Vấn đề là chúng ta phải có một chiến lược thích hợp, một đội ngũ sĩ quan chỉ huy giỏi, một đội quân trang bị tốt. Ba yếu tố để cấu thành thắng lợi trên hình như đang được giải quyết tốt?
- Gần đây báo chí thường đưa những tin lạc quan về chủ trương chiến lược của tướng Taylor. Chúng ta định đưa những người nông dân vào bảy ngàn ấp chiến lược để cô lập họ với Vi-xi. Thế nhưng chúng ta lại gặp một mâu thuẫn mới. Có rất nhiều ấp lại trở thành làng xã chiến đấu với tất cả những phương tiện ta cung cấp cho họ. Vì tất cả những người chúng ta nhốt vào lại là Vi-xi hoặc cảm tình với Vi-xi? Thế là tướng Taylor đã giúp họ có một hệ thống phòng ngự tốt.
- Nhưng bạn phải biết ráng quân đội Mỹ cũng có những truyền thống đè bẹp những cuộc chiến tranh du kích. Chẳng hạn như ở vùng Seminon, người da đỏ cũng đã nổi tiếng với những đội du kích Apacha, của "người ngáp" Goyahla. Trong những năm 1885, 1886 Geronimo và quân của ông ta đã làm cho cả miền Tây Nam nước Mỹ phải kinh hoàng. Nhưng rồi họ cũng chẳng thoát được bàn tay truy lùng của các tướng Olive Howard, George, Nelson... Quân đội Mỹ quét sạch họ như dập tắt những ngọn lửa do họ đốt lên trên những thảo nguyên mênh mông.
- Những đội du kích da đỏ rất dễ nhận ra bởi trang bị màu da, sắc tộc của họ. Hơn nữa nếu quân đội có giết nhầu du kích da đỏ với dân da đỏ thì cũng là một điều tốt vì người ta có ý định loại bớt hắn những bộ tộc này trên mặt đất. Nhưng quân Anh thì lại không làm được điều này đối với những đội quân du kích của Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1776). Trung tá Marian, người mang danh "con cáo đồng lầy" ở Nam Caroline đã làm cho quân Anh thiệt hại nạng nề. Chính tướng George Waghington cũng đã nắm những nguyên tắc của chiến tranh du kích đem vận dụng vào rất nhiều trận đánh để thắng đội quân xâm lược có trang bị vũ khí mạnh hơn.
- Nhưng có một điều rất quan trọng là cuộc cách mạng kỹ thuật đã làm thay đổi nhanh chóng toàn bộ trang bị vũ khí của quân đội. Nó sẽ dẫn ta đến những quan điểm quân sự hết sức mới mẻ. Còn chiến tranh du kích thì cứ vẫn cổ lỗ như cái thời mới sinh ra nó. Nghĩa là họ vẫn len lỏi trong bóng đêm, vẫn đi bộ, vẫn khẩu súng trường, gói thuốc nổ. Kính ngắm hồng ngoại, máy báo tiếng động và pháo sáng sẽ tước đi của họ màn đêm. Máy bay lên thẳng dễ dàng mở những cuộc truy lùng nóng làm cho đôi chân tài len lủi của họ bất lực. Bom bi sẽ tạo ra những vùng chết rộng lớn đối với những cơ thể không được bọc thép. Đó là chưa kể đến những vũ khí có sức hủy diệt khủng khiếp khác như bom hạt nhân, vũ khí hóa học vũ khí vi trùng. Tôi tin tưởng là sớm muộn chúng ta cũng sẽ nghiền nát họ.
Cuộc nói chuyện của chúng tôi thường bỏ ngỏ phần kết tận chung. Tôi không có ý định tranh cãi đến cùng. Không dễ gì thuyết phục những người Mỹ hiếu thắng giàu có bằng lý luận. Ít ra cũng phải có những đòn trực diện của thực tiễn mới giúp họ bớt ngạo mạn.
Trong khi học kỹ thuật điện toán, tôi nghĩ ra trò chơi lắp láy vô tuyến điện nghiệp dư. Tôi mời Antonio cùng chơi, anh vui vẻ hưởng ứng ngay. Anh còn giới thiệu tôi đến thư viện của một Câu lạc bộ vô tuyến điện nghiệp dư ở Kanasas City để tôi nghiên cứu các phương tiện của họ. Tôi mua sách nghiêng cứu những sơ đồ vừa vững chắc vừa có công suất thích hợp, hiệu suất cao. Tôi phải kiếm những linh kiện điện tử. Tôi đưa một bản thống kê cho John Antonio:
- Liệu có thể mua được những thứ này không?
Không cần nhìn, John cười và trả lời tôi:
- Nưởc Mỹ sản xuất sáu mươi phần trăm linh kiện điện tử của thế giới, trong đó nhiều thứ chưa một nước nào sản xuất được. Riêng tổ hợp công nghiệp điện tử bang Texas ngay gần chúng ta thôi đã làm chủ nhiều thị trường ở Châu Âu và Trung Đông.
- Ồ đấy là nói số lượng lớn. Tôi muốn hỏi là liệu mình có thể mua lẻ lặt vặt ở các cửa hàng...
- Không có gì khó cả. Người ta thường nói: "Ở Hoa Kỳ có thể mua các thứ phụ tùng để lắp lấy một trái bom nguyên tử!".
Thấy tôi ngạc nhiên, John nhún vai hào hứng kể tiếp một chuyện:
- Ở thành phố Chicago có lần cảnh sát nhận được một bưu kiện nặc danh. Kẻ khủng bố yêu cần nhà cầm quyền thành phố nộp cho chúng một trăm triệu đô-la (khoảng vài ô tô tiền giấy) đến Lake Forest bên bờ hồ Michigan phía Bắc thành phố chừng vài chục dặm, vào một ngày giờ nhất định. Nếu không chúng sẽ cho nổ tung thành phố bằng một trái bom nguyên tử cỡ một trên ngàn ki-lô-ton (đương lượng TNT). Dĩ nhiên đó là trò đùa. Nhưng khi người ta xem kỹ tập sơ đồ kỹ thuật kèm theo và bản chỉ dẫn nơi mua bán các thứ nguyên liệu phụ tùng (mà chúng gửi đến) thì các nhà bác học đều thừa nhận: hoàn toàn có thể lắp được một trái bom nguyên tử "thủ công" kiểu đó! Tuy nhiên hiệu suất của nó chắc chắn thua kém những trái bom của Ngũ giác đài.
- Câu chuyện đó rất thú vị nhưng còn một chi tiết chưa thỏa đáng. - Tôi vui vẻ nhận xét - Họ có thể mua được mọi thứ nhưng không thể mua được U-ra-ni-um!
Ở thị trường chợ đen U-ra-ni-um từ Cong Léopolville từ Nam Phi, từ Israel được các tổ chức buôn lậu quốc tế, các chế độ độc tài, các liên minh tôn giáo cúc đoan chuyển đến. Họ mang đến vì lợi nhuận, cũng có thể làm vật trao đổi lấy vũ khí, kỹ thuật nguyên tử. Có hàng tá nước muốn có vũ khí hạch tâm. Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc gia hàng ngày phải đưa nhiều xe chuyển U-ra-ni-um cho các lò phản ứng. Đó là những chuyến xe đạc biệt. Theo sau mỗi xe có một tiểu đội cảnh vệ quốc gia, trang bị đến răng đi hộ tống. Thế mà cuối năm kiểm lại trong số bốn trăm bảy mươi chuyến xe người ta thấy mất biến hai chuyến! CIA, FBI... và các trung tâm điện toán xô vào điều tra nhưng kết quả cũng không thấy tăm hơi. Không thấy khe hở nào để cho hai chiếc xe chở U-ra-ni-um đi lọt! Người ta nói số lượng đó thừa sức cho một năng lượng phá trụi nhưng thành phố cỡ Chicago, Detroi...!
Tôi hoàn toàn thích thú nhưng không tin gì vào những truyện trinh thám của anh ta vì nó rất... Mỹ. Nhưng đại úy Antonio đã chiếm được lòng tin của tôi ở một phạm vi hẹp hơn. Chỉ một cuộc dạo chơi ngắn ngủi bằng ô tô trong thành phố Kansas City anh đã mua giúp tôi tất cả các linh kiện phụ tùng đủ lắp chiếc máy thu phát nghiệp dư. Tôi cố lôi anh vào trò chơi này vì một mình tôi không thể chơi được.Gần suốt năm đầu chúng tôi học chủ yếu là kỹ thuật điện toán. Những máy tính thế hệ hai có tốc độ cao và bộ nhớ rộng sẽ là công cụ rất tốt cho chiến tranh hiện đại. Máy thu nhận xử lý hàng trăm nguồn tin từ khắp các trung tâm ra-đa trinh sát, thám không vệ tinh do thám, hàng hải, đạo lành, tình báo chiến thuật và chiến lược. Khi hạ quyết tâm các bộ xử lý chương trình sẽ cung cấp cho chỉ huy những số liệu chính xác và tối ưu.
Đó là một hệ thống đồng bộ, nhạy cảm, độ tin cậy cao. Nhưng nó phải được nhận ở các nguồn, các người điều khiển nó những dữ kiện chính xác. Trong hàng trăm dữ kiện chính xác có kèm theo một vài dữ kiện sai lầm thì: Hoặc là máy trả lời không làm được, vì sao, hoặc là cho ta những kết quả sai lầm một cách rất chính xác. Nói chung, máy không biết phản ứng bằng cảm giác trực quan, bằng nghi vấn. Vai trò của con người vẫn rất lớn.
Những tháng đầu xa quê hương, tôi rất nhớ nhà, nhớ Dung. Tôi cứ ngong ngóng người phu trạm. Mỗi lá thư đến làm cho lòng tôi ấm lại. được cái Dung cũng rất chăm viết thư. Chúng tôi đang chờ đón một đứa con ra đời. Sự kiện đó không chỉ là mong đợi của vợ chồng tôi mà cũng còn là sự mong đợi của anh chị tôi nữa. Ngôi nhà đồ sộ đó không có tiếng trẻ nhỏ gây cho mọi người một cảm giác lạnh lẽo hoang vắng. Anh chị tôi hình như đã không còn hy vọng ở đường con cái. Lấy nhau hai chục năm rồi mà chưa lần nào chị Ngọc tôi thấy được dấu hiệu của niềm hạnh phúc được làm mẹ.
Mặc dù thai nghén nhưng Dung vẫn tận tụy với công việc. Cô không thể thông báo cho tôi những kết quả trong thư từ nhưng tôi biết là Dung vẫn khai thác tình hình qua hai nguồn gián tiếp là Quý Nhân và Vĩnh Quốc.
Rồi một bữa tôi nhận được thư Kim báo tin: Vĩnh Quốc đã cùng một số sĩ quan phải trốn đi nước ngoài vì dính líu vào một âm mưu đảo chính bất thành. Tòa án của Diệm đã kết án nặng nề những sĩ quan trên, trong đó Vĩnh Quốc lãnh trọn bản án tử hình vắng mặt. Bạch Kim rất xúc động khi viết cho tôi những dòng chữ trên. Trước kia cô chỉ mới có cảm tình với anh qua những tài hoa lặt vặt, những câu chuyện phiêu lưu thì nay cô thực sự khâm phục anh về một hành động dũng cảm vang dội chống lại nền độc tài. Bây giờ có lẽ cô đã hoàn toàn tin yêu anh và cô sẵn sàng trao trái tim mình cho anh. Nhưng tình yêu chỉ đến khi nó đã trở thành bất hạnh. Anh bị kết án và phải lưu lạc quê người, biết bao giờ gạp lại. Cô đã có ý định bỏ Sài Gòn đi tìm người bạn tình chia sẻ với anh nỗi cô đơn, những khó khăn thất vọng, nhưng không rõ anh đi đâu, cư trú ở nước nào. Anh có cùng chiến hữu ra một bản tuyên bố ở Phnôm Pênh lên án chế độ Diệm và bác bỏ bản án bất công của chúng, nhưng họ cũng không cho các nhà báo biết địa chỉ của mình vì sợ mật vụ của Diệm theo dõi ám hại. Kim nói với mọi người cô sẽ chờ đợi Vĩnh Quốc, chiến sĩ của tự do, con người hùng của lòng cô cho tới ngày gặp lại, mặc dù tuổi của Kim cũng không còn trẻ lắm. Giờ đây, mỗi lần mở đĩa nhạc Les belles étoiles do Tin Rossi hát, cô lại nhớ tới anh, nhớ tới những ngôi sao lưu lạc cô đơn trong bầu trời câm lặng, Bạch Kim lại muốn khóc.
Tant qu’il y aura des étoiles...
Solts la voute ales cteux...1
(Lời của bài hát: Những ngôi sao xinh đẹp. Tạm dịch.
Chừng nào còn những vì sao
(Lung linh sáng) dưới (đỉnh cao) vòm trời...)
Tôi rất thương Bạch Kim và tôi thấy tình yêu của cô thật lãng mạn, sáng trong, vị tha... nhưng đặt không đúng chỗ. Cô sẽ không đi tới hạnh phúc. Tuy nhiên tôi đã không thể có được một lời khuyên chân thực. Tôi chỉ viết thư an ủi cô.
Vĩnh Quốc là nhột người nhiệt tình dũng cảm nhưng thường không quyết định điều gì theo bộ óc của mình. Anh cả tin, hoang tưởng và rất dễ bị kích động, bị lôi kéo. Nghe tin anh tổ chức đảo chính chống Diệm, tôi cũng thấy hay hay nhưng vẫn không có cảm tình với anh ta. Một công việc quan trọng như vậy lại do một người ba hoa và phiêu lưu tham gia chỉ đạo thì khó mà thành đạt.
Sau này tôi mới biết thêm rằng nhóm của anh cũng khá đông do mấy sĩ quan không quân cầm đầu. Họ cũng được sự ủng hộ của một số sĩ qnan trẻ trong lục quân. Họ đọc trên báo chí Mỹ những lời chỉ trích Ngô Đình Diệm và anh em hắn khá mạnh mẽ. Một số quan chức Mỹ ở Sài Gòn cũng đổ trách nhiệm nặng nề lên đầu Ngô qua nhưng thất bại to lớn trên chiến trường. Chính quyền Mỹ chính thức gây sức ép với Diệm. Một số chính khách nổi tiếng muốn thay Diệm, đại biếu cho phải này là Cabot Lodge. Có dư luận Lodge sắp sang nhận chức đại sứ nên số phận Diệm càng bị đe dọa. Nhóm sĩ quan trẻ coi đây là một cơ hội tốt để giành quyền lực. Họ tin là chỉ cần giết Diệm là mọi người sẽ theo ngay. Nhưng công việc tổ chức của họ vội vàng, bất cẩn. Trong khi vui chuyện ở nhà tôi, Vĩnh Quốc đã khinh xuất hở ra nhiều chi tiết đáng nghi. Quý Nhân vừa nghe vừa khéo léo gợi chuyện và y chuyển những tin tức đó cho Trần Kim Tuyến. Một mặt khc, người của nhóm đảo chính đã tiếp xúc với những quan chức ở cơ quan tình báo, của Bộ Ngoại giao và giới phóng viên báo chí Hoa Kỳ để thăm dò và tìm kiếm sự ủng hộ. Price, William Roger, Handerson hứa ủng hộ Harald Smith không ủng hộ nhưng hứa không can thiệp. Lansdale và nhất là Richardson thì không tán thành đảo chính mà còn sốt sắng bảo vệ Diệm. Vì thế họ hay lui tới gặp Price ở khách sạn Phoénic. Nhưng một cuộc nói chuyện đã được ghi vào băng từ. Vì không có máy khuếch đại chuyên dụng nên Dlulg không kiểm soát được tin này để lọt vào tay Hoàng Quý Nhân. Mãi đến khi Nhân yên cầu cô kiêm tra xem ai nói chuyện với Price cô nới hiểu nội dung câu chuyện. Dung trả lời không nắm được vì việc phong tỏa Price là việc riêng của Quý Nhân, cô không nhận giúp y. Dung rất muốn giúp nhóm đảo chính, nhưng những lời bóng gió của cô không sao lọt nổi vào tai Vĩnh Quốc. Anh ta con mải ba hoa và dỏng tai nghe tiếng nói dịu dàng của Bạch Kim. Họ lại tiến hành một cuộc tiếp xúc nữa với Price và lần này chân tay của Hoàng Quý Nhân nhận được mặt đối tượng. Cơ quan an ninh ra lệnh bắt ngay viên sĩ quan này. Nhóm đảo chính lo sợ người của mình yếu chịu đòn khai ra thì vỡ chuyện, họ quyết định hành động ngay. Hai máy bay đem bom đi yểm trợ đã ném thẳng vào dinh Gia Long. Lính bảo vệ Diệm đề phòng trước đã bắn hạ một chiếc. Diệm không chết và ra lệnh thiết quân luật. Nhân cốt của nhóm đảo chính nằm trong các đơn vị bộ binh bị bất ngờ không hành động kịp. Số sĩ quan không quân cầm đầu cuộc đảo chính nhìn thấy thất bại đành kéo nhau lên một chiếc C.47 bay ra nước ngoài. Cuộc đảo chính bị đập tan.Ba ngày sau Diệm yêu cầu sứ quán Mỹ triệu hồi tức khắc tiến sĩ Price vì ông ta đã có những hành động không thân thiện!
Việc ra đi của Price làm cho Đỗ Thúc Vượng mất một chỗ dựa quan trọng. Từ ngày được tha, anh ta vẫn bí mật tìm kiến một liên minh chống Diệm. May mà anh ta chưa bắt tay với nhóm Huỳnh Vĩnh Quốc. Nhưng trong nhà anh ta đã có kẻ phản bội. Đó là vợ anh: Hứa Quế Lau. Từ ngày trở thành người tình của Hoàng Quý Nhân, Lan luôn luôn can ngăn chồng không cho anh ta dính líu vào những nhóm chống đối. Tình yêu của chị ta với chồng càng ngày càng giảm. Chị ta không còn thán phục sự hiểu biết cao siêu của chồng như trước nửa. Hứa Quế Lan bỗng thấy những bài diễn thuyết hùng luồn của chồng trên giảng đường, trước công chúng trở nên vô duyên. Ngay cả đến những cái vuốt ve âu yếm của chồng cũng chỉ còn thấm vào dục vọng của chị như một ly rượu nhạt. Mỗi lần người đàn bà lai này muốn được thỏa mãn tính cuồng si, chị chỉ việc nháy mắt với Hoàng Quý Nhân là nhà chính khách của lý tưởng tự do lại được mời lên an trí ở nhà lao vài ngày. Anh ta vẫn được ăn uống tử tế, đêm nằm màn và ngày đi dạo ngoài trời hai giờ. Những khi anh cô đơn với thế giới bên ngoài thì cô vợ đẹp lại tìm đến tòa biệt thự phố Đồn Đất.
Hứa Quế Lan có mang, điều mà chị ta không cầu mong, nhưng với Dỗ Thúc Vượng, đó là một niềm vui lớn. Họ đã lấy nhau tám năm nay mới có đứa con đầu. Hoàng Quý Nhân cũng có một niềm vui độc ác. Y tin tưởng cái bào thai nằm trong bụng Quế Lan là con mình. Y nhớ đến chuyện Lã Bất Vi cấy được dòng máu của mình vào vương cung.
Sự mong đợi của những người đàn ông này dẫn đến một kết quả kinh ngạc! Bó hoa từ tay Đỗ Thúc Vượng bỗng rơi xuống đất khi anh nhận ra mái tóc đứa bé màu vàng ánh bạch kim, cặp mắt xanh lơ và cái mũi nhọn. Đó là kết quả những cuộc ái ân vụng trộm với Price!
Đứa con lai này mang trong mình nó nhiều dòng máu. Ông ngoại nó người Tàu Phúc Kiến. Bà ngoại người Việt, bố người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan!
Họ đã thu xếp gửi đứa trẻ cho một người nhũ mẫu nuôi riêng.
Khi nghe chồng căn vặn cái nguyên nhân của tấn bi hài kịch nói trên Hứa Quế Lan vừa kiêu lãnh vừa trơ tráo trả lời chồng:
- Đấy là cái giá phải trả để cứu anh khỏi chết rục trong tù. Tôi cũng chẳng vui thú gì ở sự hy sinh này. Nếu anh cảm thất quá đắt thì chúng ta có thể từ biệt nhau ngay ở thời điểm này của cuộc đời.
Đỗ Thúc Vượng chấp nhận cách giải quyết sự việc trên trong danh dự. Họ ly dị nhau. Anh Ân tôi nhân danh "luật sư của gia đình” đã cố gàng thu xếp mọi khía cạnh của sự vụ trên cho đúng tinh thần công pháp: Một nỗi thất vọng sâu sắc in hằn lên nét mặt của Vượng, nhuộm sương lên mái tóc anh ta. Anh thấy căm giận cuộc đời, khinh ghét bè bạn. Những bài báo khảng khái của anh bạn cố tri người Mỹ tha thiết ủng hộ nền dân chủ mà anh say sưa kính trọng té ra lại là tấm màn che cho sự can thiệp vào đến tận... giường ngủ của anh. Anh biết lấy ai hậu thuẫn. Một nỗi khủng hoảng tinh thần sâu sắc nhấn chìm anh trong trận ốm. Anh thấy cô đơn, tuyệt vọng, yếm thế và đôi lúc đã nghĩ đến chuyện quyên sinh. Bác sĩ Jordan, anh tôi, cùng ông luật sư già hàng ngày đến tham nom giúp đỡ anh.
Còn Hứa Quế Lan đẻ xong hơi béo ra, hồng hào trổ mã phây phây, một vẻ đẹp dâm đãng và trơ trẽn. Chính những cái đó tạo ra cho chị ta một sức quyến rũ lạ lùng. Khi đã hoàn toàn tự do, người đàn bà ấy trở nên kiêu ngạo. Đến lúc này thì chính Hoàng Quý Nhân phải cúi đầu trước "quyền lực" của chị ta. Quế Lan chuyển thành một nhà kinh doanh chứ không còn là người vợ hiền nấp dưới bóng tùng quân nữa. Cái "gien" truyền thống của người "Tàu hải ngoại" (Oversea chinese) bỗng trội lên ở tuổi này của chị ta. Hoàng Quý Nhân thực sự muốn cưới Quế Lan. Tình yêu của viên thiếu tá không đặt cơ sở trên sự trinh bạch, bởi lẽ y đã tước đoạt quá nhiều sự trinh bạch rồi. Anh ta muốn có một sản nghiệp lớn, một chút "địa" cho tương lai. Anh ta không thể "sê-li-bát-te" mãi được. Nhân biết ông Hứa Vĩnh Thanh là một nhà kinh doanh nổi tiếng ở Chợ Lớn. Sự cấu kết giữa mật thám và thương mại là một cuộc hôn nhân lý tưởng và hợp thời.
Mùa xuân năm 1962 đến với tin vui chúng tôi đã có đứa con trai. Chúng tôi quyết định đặt tên cháu là Phan Quang Trung.
Dung viết: “Con của chúng ta rất giống anh. Từ nay bên em đã có con, cũng đỡ cho em những tháng ngày đơn lẻ. Nhưng chính vì thế mà em càng thêm thương thớ anh...”.
Anh tôi viết:
“Cháu Quang Trung rất ngoan. Cháu trở thành trung tâm, thành điểm hội tụ niềm vui của gia đình. Em cứ yên tâm học hành. Dung và anh chị, cô Kim và cả ông nữa, tất cả sẽ chăm sóc cháu”.
Chị Ngọc tôi viết:
“Tô tô của chúng ta ngoan lắm (chị gọi yêu cháu bằng cái tên chung với con chó con trong nà). Chị rất mê hỏi chuyện cháu để nó đáp lại bằng cái vẻ mặt hơn hớn rất đáng yêu”.
Cô Kim kể:
“Tô tô rất háu ăn. Hơi đói là cu cậu đã khóc ngằn ngặt làm cả nhà dù bận mấy cũng phải chạy đến với cháu. Có hôm ba đang xoa mạt chược, nghe thấy cháu khóc, ông cũng lọm khọm chống gậy mò vào bế cháu lên nựng! Chị Dung đã trao cho em công việc làm mẹ đỡ đầu của Quang Trung đấy, anh có bằng lòng không?”.
Ôi, tôi yêu con tôi biết nhường nào. Cháu hiện lên trong tưởng tượng của tôi và toét miệng cười với tôi! Mặc dù tôi đã có mấy tấu ảnh nhưng tôi vẫn thèm được nhìn tận mắt, được giơ tay đón con từ tay mẹ nó.
“Dung và con trai thương yêu của anh!
Anh vừa đi thăm New York nhân dịp Giáng sinh. Mọi người không muốn ở lại quân trường trong dip này. Người Mỹ muốn về với gia đình, còn người ngoại quốc thì đi chơi. Sau Nô-en, anh bay về Leavenworth ngay vì nóng lòng được đọc thư em. Đúng như dự đoán ba lá thư của cả nhà đã nằm chờ anh. Anh sung sướng nhận được ảnh con và em, được biết là cả nhà vẫn bình yên mạnh khỏe. Dung nhìn. kỹ con mà xem, nó cũng giống cả em nữa đấy! Tất cả nỗi vất vả đều dồn vào đôi vai em, anh thương em rất nhiều. Hãy chăm sóc con thay anh.
Anh hy vọng gói quà Nô-en anh gửi về cho hai mẹ con và cả nhà đã về đến nơi và được mọi người vừa lòng. Anh mua bán rất vụng, lỡ ra có gì không thích hợp thì xin mọi người đừng cười!
Chuyến đi thăm New York của anh cũng gặp nhiều may mắn. Anh đến thăm lâu đài Liên Hiệp Quốc. Nhân dip năm mới UNESSCO có mở một cuộc triển lãm hội họa phương Đông. Anh tưởng chỉ có tranh của các danh họa Nhật Bản, Trung Quốc thôi, không ngờ lại có cả phòng tranh của các hoạ sĩ Bạch Vân người Việt. Những bức tranh vẽ phong cảnh, cây cỏ, muông thú làm cho anh rất xúc động. Tình quê ấm lại. Anh có díp làm quen với họa sĩ. Khi nhận ra anh là người Việt Nam, không có ai thân thiết ở cái thành phố xa lạ này, ông bà Bạch Vân đã nhiệt tình mời anh đến chơi nhà ông bà trong dip Nô-en. Anh nhận lời. Những người Việt sang Mỹ không nhiều lắm. Ra đường gặp nhiều người châu Á nhưng thường là những người Mỹ gốc Trung Quốc, những người du lịch Nhật Bản hay du học sinh Nam Triều Tiên, Phi-líp-pin. Cuộc hạnh ngộ với một ngườỉ đồng hương là hiếm có.
Anh được biêt ông bà Bạch Vân sang đây từ năm năm nay. Gia đình có sáu người. Ông bà, vợ chồng con trai và hai đứa cháu. Họ sống trong căn hộ năm buồng của một binh-đinh mấy chục tầng ở đại lộ số 8...
Anh đã đi thăm Nhà bảo tàng hội họa hiện đại, Công viên Medison, Quảng trường Thời Báo. Có thể gọi nơi đây là khu vực sầm uất và sang trọng nhất thành phố vĩ đại này. Anh thíh đi ngó tủ kính để... không mua một thứ gì. Có những bữa ăn hàng trăm đô-la, những tấm vé xem hát hàng chục đô-la, những sòng bạc, những hộp đêm xa hoa nhất thế giới. Đố với anh, sự hiểu biết còn quan trọng hưn thưởng thức. Anh tìm đến Công viên Washington, hỏi thăm cái làng cổ kính Greenwiht để “chiêm ngưỡng” những cái buồng xép sát nóc kiểu Hà Lan mà O’ Henri đã mô tả trong “Chiếc lá cuối cùng". Nhưng chẳng còn ai nhớ ra ngôi làng đó. Chắc là nhà văn đã hư cấu nên. Đâu đâu cũng là những đại lộ đầy ô tô và những ngôi nhà chọc trời. Anh cứ một mình lặng lẽ lang thang như vậy dưới trời lất phất những bông tuyết. Một nỗi buồn tràn ngập và anh nhớ sao cái nắng, rực rỡ của quê mình...
… Anh mong ngày tháng trôi đi nhanh chóng để được bay về gặp em và con, gặp gia đình và bè bạn. Em có gửi thư cho cậu, cho anh gửi lời thăm gia đình. Nhân sắp đến tết Nguyên đán, anh cầu chúc cho cả gia đình ta mạnh khỏe, hạnh phúc. Hẹn thư sau.
Hôn con và em nhiều".
...
Đến vụ nghỉ hè 1963 Antonio rủ tôi về thăm trang trại Olive phía Tây Bắc Thành phố Fort Worth vài chục dặm. Tôi không quên mang theo chiếc máy thu phát vô tuyến để thẩm tra lại hiệu năng của nó.Gia đình Antonio sở hữu một trang trại rất lớn. Viên tướng về hưu có nhiều nhà máy chế biến sữa, pho mát và các sản phẩm thịt đóng hộp. Họ sống trong một lâu đài kiến trúc nặng nề vững chắc như một pháo đài cổ. Tấm gia huy gắn bên của lâu đài còn mang những biểu tượng thần bí của rắn lông chim và những mặt nạ dữ tợn.
Viên tướng tiếp tôi theo một nghi thức nghiêm trang mà tôi thực tình không mong đợi. Khi John dẫn tôi vào, bố mẹ anh ta đã ngồi sẵn ở phòng khách. Đó là một căn phòng lớn lát đá hoa cương. Trên tường đầy tranh cổ, những chùm đèn và những bộ sừng thu. Ngay sau chỗ ngồi của tướng Davis có dựng một lá cờ Mỹ rất lớn. Tôi chào ông theo kiểu nhà binh và viên tướng đứng dậy bắt tay tôi. Phải mười phút sau không khí nghiêm trang mời dịu đi.
Tướng Davis kể cho tôi nghe qua cuộc đời binh nghiệp của ông. Ông đặc biệt phấn khích khi mô tả lại chiến dịch Châu Phi năm 1942, khi trung đoàn thiết kỵ của ông tiến vào Tuy-ni-di. Năm 1943 họ đô bộ lên đảo Sicile. Dưới quyền chỉ huy của tướng Eisenhowwer, Divis Antonio đã tham dự cuộc đổ bộ lừng danh ở Normandie vùng bờ biển phía Tây Bắc nước Pháp.
- Đó là hồi chuông cáo chung chủ nghĩa phát xít Đức Viên tướng khẳng định - Quân đội Mỹ đã cứu nhân loại khỏi thảm họa Na-di. Bây giờ lại chính họ có sứ mệnh bảo vệ thế giới tự do trước hiểm họa Cộng sản(!).
Vẻ mặt ông bình thản tự tin như chính ông là hiện thân của lịch sử, của chân lý.
- Chính các bạn tự bảo vệ được mình, đó là điền tốt nhất. Nước Mỹ sẽ đứng bên các bạn. Khoảng cách tuy xa nhưng chúng ta có tất cả các phương tiện để gần nhau.
- Bây giờ thì hình như chỉ đứng bên chưa đủ - Jhon Antonio tỏ vẻ nghi ngờ - Tình hình của các bạn ấy ngày càng xấu đi. Con nghe nói tướng Taylor tính toán là phải đưa hai trăm ngàn quân Mỹ vào thì mới có cơ hội rút ra khỏi cái vũng lầy này.
- Ồ nhiều quá, nhiều quá, hoàn toàn không cần thiết. Ở Triều Tiên, để đối phó với một triệu hai trăm ngàn quân Trung cộng, chúng ta cũng chỉ đưa một trăm tám mươi ngàn là đủ. Ở Đô-mi-ních có sáu ngàn lính thủy đánh bộ là tình hình đã quay ngoắt.
- Thưa tướng quân, tôi cũng nghĩ là quá nhiều. Người Việt Nam chúng tôi phải có nghĩa vụ chết cho sự nghiệp của mình. Chúng tôi thấy không cần thiết để người Mỹ phải đổ máu.
- Ồ không. Tôi không nói đến nghĩa vụ vì lẽ các bạn mà sụp đổ thì cả Đông Nam Á sẽ đổ theo và mặt nước Thái Bình Dương sẽ là màu đỏ. Lúc đó những đợt sóng vỗ vào niềm Tây nước Mỹ, trên những bãi cát vàng, những mỏm đá, những rừng cây sẽ là sóng đỏ. Chẳng lẽ lại đợi đến lúc đó chúng tôi mới xây dựng những chiến lũy để bảo vệ Thành phố San Francisco. Thành phố Los Angeles hoặc San Diego hay sao? Vấn đề là phải ngăn chặn từ xa, phải phòng ngự có chiều sâu, phải bảo vệ lợi ích sống còn của chúng ta ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
- Tám ngàn như hiện nay mà đã sa lầy thì ném thêm hai trăm ngàn vào cái vùng ngập nước đó làm sao có thể rút ra được? Đó là chưa tính những hiểm họa về chính trị. Người Việt Nam vốn đa nghi. Họ vẫn lởn vởn cái hình ảnh đáng nguyền rủa của những tên thực dân da trắng trước đây. Họ sẽ dễ lầm lẫn vai trò của một chiến sĩ tự do với một tên xâm lược. Một khi hai trăm ngàn quân đã phát huy toàn bộ hỏa lực của họ thì sự tàn phá sẽ là không có phân biệt. Liệu có thể cứu một con người bằng cách thở cửa thiên đường quá sớm cho họ không?
- Đối với dân chúng, chiến thắng sẽ là cái giá cuối cùng bù đắp cho họ, giải thích cho họ. Còn với Việt cộng họ hiểu lầm hay hiểu đúng để rồi thất bại rồi bị tiêu diệt thì chẳng có gì đáng quan tâm - John Antonio lạnh lùng phân tích - Một khía cạnh khác cần lưu ý. Cuộc đổ bộ của hai trăm ngàn quân, biểu hiện ý chí sắt đá của người Mỹ có thể sẽ là một cuộc đổ bộ hòa bình. Sức mạnh đó chẳng những làm cho Việt cộng nản lòng, Bắc Việt thoái chí mà cả anh bạn đồng minh phương Bắc của họ phải run sợ. Lúc đó thì vai trò giành chiến thắng sẽ không phải là chiến tranh nữa mà là sự có mặt. Ta vào Đô-mi-ních năm ngàn nhưng chưa phải nổ súng mà trật tự đã tự nó trở lại. Chẳng lẽ đấy là một sự kiện không thể lặp lại?
- Các con đều có lý và mọi ý kiến đều phải được cân nhắc - Tướng Davis vui vẻ nói - Nhưng dù sao con số hai trăm ngàn cũng là quá nhiều. Ta không nên làm cái gì lớn hơn Normandie. Như vậy Việt cộng dù có thất bại họ cũng sẽ điên lên vì hãnh diện mất! Hiện nay họ có bao nhiêu tay súng nhỉ?
- Người ta ước đoán độ ba mươi ngàn.
- Ồ, lột con số không có gì đáng sợ. Ba chợt nghĩ ra một cách khác không phải chiến tranh. Không tốn lán mà cũng rất thú vị. Nếu ta đưa 200 ngàn quân Mỹ vào Nam Việt Nam, chưa kể đánh chác gì, chi phí vận chuyển đã vượt quá sát trăm triệu đô-la. Nay ta dùng sáu trăm triệu đô-la đó để mua ba mươi ngàn Việt cộng? Liệu họ có bằng lòng với giá đó không? Hai mươi ngàn đô-la một đầu người đâu phải chuyện ít tiền. Với hai mươi ngàn đô-la, đôi khi chúng ta mua được cả một bộ trưởng một thủ tướng, thậm chí cả một tổng thống một ông vua. Chí ít cũng ngang tiền một đại sứ. Tại sao ta lại không mua chiến thắng bằng sáu trăm triệt đô-la? Chỉ riêng bang Texas này sản xuất một tuần cũng đủ số tiền trên.
- Hoan hô ba! Một ý kiến hết sức độc đáo. Và các nhà quân sự sẽ phải giải nghệ vì cái kiến chiến tranh của ba.
- Thưa tướng quân, lúc đó sẽ có rất nhiều kẻ giả danh Vi-xi đến bán mình cho tướng quân. Và chắc chắn con số sáu trăm triệu đô-la sẽ không đủ.
- Gấp đôi số đó lên! bấp ba cũng được. Nên nhớ rằng nước Mỹ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn!
Tôi không muốn cuộc đàm đạo kéo dài tuy rằng ý kiến của tướng Davis có chứa đựng rất nhiều tính hài hước.
Đến bữa ăn, tôi được biết mặt và làm quen với tiểu thư Theres Antonio, em gái của John. Cuộc sống ở trang trại khá... nhưng tôi nóng ruột về cái trò thí nghiệm máy vô tuyến điện nên ba hôm san tôi đã bay về Kansas City. Khoảng cách từ Fonworth đến Leavenworth khoảng ba trăm dặm, thích hợp với những máy tôi tự lắp. Đúng giờ hẹn, tôi thở máy phát sóng liên lạc với John. Chúng tôi đã nhận được tín liệu của nhau khá nạnh. Tôi thay đổi nhiều sơ đồ để tình ra mạch tối ưu. Hôm ở trại Olive tôi đã lôi cuốn được cả tiểu thư Theres vào trò chơi này. Khi John bận, tôi vẫn tiến hành được cuộc thí nghiệm. Khi đã chọn được sơ đồ tốt nhất, tôi mua một cái quay đĩa tự động. Tôi lựa những khoảng không gian trống, bên trong gắn vào đấy toàn bộ cơ cấu chiếc láy thu phát vô tuyến của tôi. Tôi đóng hòm cẩn thận chờ khi về nước sẽ xách theo.
Tôi cũng tìm mua được chiếc máy chụp ảnh cực nhỏ micro Rollet 3 để chụp thử. Khi về tôi mới mua chiếc chính thức cùng phim và thuốc tráng. Mua sớm sợ hỏng mất.
Nhưng việc tìm mua những máy ghi âm nghe trộm thì thật khó khăn. Tôi đọc khắp các quảng cáo, lùng khắp các cửa hiệu điện tử ở Kansaz City nhưng những chiếc máy gọi là mini đều không thích họp với nghề gián điệp. Tôi không tiện hỏi John Antonio sợ bại lộ chân tướng. Tôi lại phải đi New York để tìm mua. Nơi trú chân của tôi lại là nhà họa sĩ Bạch Vân. Những hôm đó xảy ra một việc không vui. Chị con dâu của ông bà nghi ngờ chồng có bồ bịch gì đó, vì anh hay tiếp một vài cô gái trẻ người Việt trong phòng làm việc của anh. Ông bà Bạch Vân khuyên can càng làm chị tủi thân. Nhưng tuyệt nhiên chị chẳng có bằng chứng gì để tin chắc là anh có lỗi.
- Cái tổn thất đầu tiên của tình yêu là sự nghi ngờ - Tôi nói với chị - Chị muốn khẳng định một điều gì thì phải kiểm tra chứ đừng nghi ngờ.
- Làm sao có thể kiểm tra được? Khi cánh của buồng mở ra thì mọi sự lại trở về tư thế cũ.
- Hãy đặt máy ghi âm nghe trộm! - Tôi và cả hai ông bà Bạch Vân đều cười.
- Không làm gì có thứ máy đó.
- Người ta nói ở nước Mỹ có thể mua đủ phụ tùng để tự lắp một trái bom hạt nhân!
Không ngờ gợi ý trên đã thúc đẩy người phụ nữ có máu ghen đó tìm mua bằng được chiếc máy ghi âm kỳ diệu đó. Chị đã đặt nó trong bàn giấy của chồng và hạnh phúc thay nhưng điều ghi lại các cuộc tiếp khách chỉ thuần túy mang nội dung nghề nghiệp! Chị đã gạt bỏ được sự nghi ngờ, tự kỷ ám thị dày vò tâm hồn bao tháng nay. Còn tôi thì kiếm được cái nhãn hiệu và địa chỉ để mua chiếc nháy này: ERM 1062 của hãng DUPONTEC. Tôi chuẩn bị cho mình đầy đủ hành trang để bước vào cuộc chiến đấu mới.
Tháng 11 năm 1963 ở Sài Gòn xảy ra cuộc đảo chính lật Ngô Đình Diệm. Sự sụp đổ của "nền cộng hòa đệ nhất” đã phải là một tin thật đáng vui mừng chưa? Tuy chưa có được những tin tức thật đầy đủ để phân tích nhưng tôi cho rằng đó là một sự kiện có lợi cho cách mạng. Dù đây có là một chủ trương thay ngựa của người Mỹ đi nữa thì nó cũng đánh dấu một thất bại to lớn của họ về chính trị. Họ đã liều lĩnh cắt bỏ đi một khối u, nhưng nền chinh trị của chủ nghĩa thực dân mới sẽ không thể mạnh thêm vì tính di căn của nó. Tướng Minh lên cầm quyền tuyên bố chống Cộng, cứu vãn nền tự do. Thực ra chỉ là đổi tên độc tài thành ngài quân phiệt. Những gì diễn ra sau đó cần phải xem tiếp, nhưng trước mắt cách mạng sẽ tranh thủ mở rộng địa bàn và thế đứng của mình khi kẻ địch còn đang mải giành nhau những miếng bánh đẫm máu trên bàn tiệc.
CHƯƠNG XV
HÀNH LANG BỘ TỔNG THAM MƯU
Thế là tôi lại trở về đất nước sau hai năm xa cách. Chiếc Bô-ing hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất lúc mười bảy giờ. Tôi hồi hộp xúc động theo dòng người tiến ra cửa khoang. Tám sĩ quan ở Mỹ về đã có điện báo trước nên chắc chắn mọi gia đình đều có người ra đón.
Bầu trời xanh ngắt, nắng chiều rực rỡ, cái nóng ấm miền nhiệt đới ùa vào khoang máy bay khi cánh cửa bật mở. Chúng tôi lần lượt xuống thang và nhìn ra ngoài. Có nhiều bó hoa vẫy vẫy, tôi cố tìm ra người thân trong cảnh ồn ào nhộn nhạo đó. Kia rồi! Tôi đã nhận ra Dung đang ôm con nhỏ, anh chị tôi vẫy hoa còn Bạch Kim đang che chiếc dù cho cháu bé. Bên cô là trung tá không quân Huỳnh Vĩnh Quốc. Tôi chạy ào lại sững sờ bắt tay anh chị, bạn bè rồi cuối cùng hôn con hôn vợ.
- Nắng thế mà cũng cho con đi đón ba.
- Cho con dạn dày nắng gió đi.
Tôi bế lấy con và cả những bó hoa. Sau nửa giờ làm thủ tục và lấy hàng, chúng tôi lên xe về nhà. Việc đầu tiên là tôi lên chào cụ Cự Phách. Tôi ngạc nhiên là chỉ sau hai năm mà ông cụ thay đổi hẳn. Da mồi tóc bạc và những cử động hơi ngắt quãng.
- Tất cả những tiên đoán của tôi hầu như đã đến. Cậu đang trở thành một con người hùng thật sự! Cậu còn đi xa hơn nửa.
Ông đưa bàn tay khô héo cho tôi. Tôi thực sự xúc động không phải vì lời khen ngợi của ông mà vì một thứ tình cảm khác. Tôi nhớ lại câu nói của Kim khi mới đến ngôi nhà này:
“Ba em đang đi chậm chạp tới cái cửa huyệt của mình". Tôi thấy thương ông già quá.
Một bữa tiệc linh đình trong căn nhà khách của anh chị tôi.
Mọi người đều chúc mừng tôi và yêu cầu tôi kể chuyện về Hoa Kỳ. Tôi đã có sẵn hàng tá chuyện lạ về cái đất nước vĩ đại ấy, nhưng lúc này tôi không nói được gì. Không phải tôi mệt mà thú thực tôi muốn mãn tiệc để trở về căn phòng ấm cúng của mình với con, với vợ. Tuy vậy tôi vẫn tỏ ra vui tươi lịch thiệp. Tôi nhờ trung tá Huỳnh Vĩnh Quốc kể chuyện Pa-ri, Hồng Công, Đài Bắc. Tôi xin khất cả nhà vì hôm nay tôi hạnh phúc quá, tôi xúc động quá, tôi không thể nói hay được. Và thế là Vĩnh Quốc được dịp "mở máy" về những chuyện lạ. Với tính hài hước và phóng đại của người phương Nam anh làm cho mọi người cười bò. Cuối cùng anh trở thành người nổi nhất trong bữa tiệc.
Vĩnh Quốc cũng mới được về nước sau ngày Diệm đổ. Cùng với nhiều sĩ quan chính khách lưu vong khác, anh được báo chí nhắc tới với những bản án của chính quyền độc tài trước đây càng làm cho họ nổi bật. Vĩnh Quốc và Bạch Kim đã định làm lễ clưrới. Nhưng theo yêu cầu cuối cùng của Kim, họ chờ tôi về nữa cho vui. Hôm nay anh mới là "rể hờ", tuy vậy anh rất tự nhiên và bao sân. Hình như anh đã bước hơi quá xa những điều cần thiết.
…
Khi cánh cửa buồng riêng của tôi khép lại, tôi mới thực sự thấy mình hạnh phúc. Dung đã cất đi gánh nặng cô đơn đè lên vai tôi suốt mấy năm trời. Tôi ôm lấy con tôi, mắt cứ nhìn đắm đắm vào đứa trẻ khiến cho Dung phải lạ lùng. Cô nhẹ nhàng ngồi sát bên tôi hồi lâll mới hỏi:
- Sao anh nhìn Tô tô mãi thế?
Tôi như bừng tỉnh, tôi quàng cánh tay lên vai Dung:
- Em ngốc lắm. Vì Tô tô là con trai yêu quý của anh chứ sao nữa. Hôm nay anh mới được thấy mặt con, anh cứ muốn nhìn nó mãi.
Dung gục đầu vào vai tôi, giụi đôi mắt đẫm lệ vào cổ tôi:
- Ô, anh Nghĩa của em!
Chúng tôi cứ ngồi với nhau như thế, im lặng, thư giằn tâm hồn sau hai năm căng ra bằng một sợi dây liên lạc mong manh dài đến nửa vòng trái đất. Khi con tôi đã say trong giấc ngủ tôi mới hỏi Dung:
- Tình hình công tác ra sao em?
- Ồ, chuyện đó thì rất dài. Chắc anh cũng muốn nghe. Nhưng thôi em chưa nói với anh đâu. Đêm nay chúng ta dành trọn cho nhau anh nhé!
- Đúng như vậy, anh hoàn toàn đồng ý với em, cô vợ ngoan của anh, đồng chí chỉ huy thông minh của anh!
Tôi đã đến trình diện ở cơ quan quân lực Bộ Quốc phòng. Tướng Thiết Vũ tiếp tôi. Ông vui mừng báo tin tôi được thăng thiếu tá và được điều về Trung tâm Điện toán đặc vụ Bộ Tổng tham mưu.
- Cương vị đó có làm thiếu tá vui lòng không?
- Cảm ơn tướng quân nhiều, tướng quân lúc nào cũng quan tâu đến sự thành đạt của tôi. Tôi nguyện hết lòng phục vụ Tổ Quốc.
Hôm đến làm việc ở Trung tâm Điện toán, thì người quen đầu tiên tôi gặp lại ở hành lang Bộ Tổng tham mưu là đại tá Tùng Lâm. Thấy bóng tôi anh dang rộng cánh tay từ xa chạy đến. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Tôi nhận thấy cái mùi quen thuộc thì anh tỏa ra. Nếu không là mùi rượu thì chắc chắn phải là mùi son phấn của đàn bà.
- Cố tri! Cố tri! Ha ha! Trái đất tròn! Trông mày vẫn trẻ hoài à. Còn moa thì già mất rồi?
- Không đâu, đó là ý nghĩ của riêng anh thôi. Tôi tin là không cô gái nào dám bảo anh già.
- C'est vrai1 (Đúng vậy)! Về mặt ái tình thì moa vẫn đang ở độ tuổi thanh xuân! Vẫn thắng trong mọi cuộc thử sức!
Tùng Lâm được điền về làm việc ở Bộ Tư lệnh hành quân tác chiến. Do đó công việc của tôi và của anh sẽ liên quan với nhau rất nhiều.
Trung tâm Điện toán mới được thành lập cách đó không lâu. Một đại tá kỹ sư làm giám đốc. Tất cả có mời hai người làm việc. Tám sĩ quan và bốn chuyên gia. Trung tâm được trang bị hệ thống máy MCMES thuộc thế hệ thứ hai. Trước mắt, nó thới làm được những chức năng tạp vụ như tính toán cho những chương trình tiếp liệu, thống kê thương vong, quân địch, chi phí tài chính, lương bổng, quân lực, v.v... Các sĩ quan chỉ huy tác chiến chưa sử dụng nhiều vì trình độ và thói quen. Tuy nhiên dù mới ở mức độ hiện nay, tôi cũng đã có khả năng thu lượm được rất nhiều tin tức quan trọng.Vì tôi tu nghiệp ở trường Tham mưu Leavenworth nên nhiệm vụ của tôi là phục vụ cho sĩ quan chỉ huy xử lý những số lượng tham mưu.
Theo nguyên tắc thì cơ quan Hành quân tác chiến chỉ chuyển cho tôi những số liệu không tên tuổi, không địa chỉ để giữ bí mật cho ý đồ chỉ huy. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm nên nguyên tắc này rất lỏng lẻo. Người ta gọi tôi đến, giao luôn cho tài liệu nghiên cứu tìm dữ kiện, lập phương trình. Nhất là đại tá Võ Tùng Lâm thì coi tôi như là cánh tay phải của anh ta. Hơn nữa anh ta là một người lười suy nghĩ.
- Chú em gắng lên nghe. Làm quen với nhưng thứ này là lợi cho chú em đó. Moa là đại tá nhưng moa làm việc của tướng. Chẳng bao xa toa sẽ thay moa!
- Anh Tư đã lệnh là đệ phải tận tụy phục vụ thôi. Đâu phải vì cấp chức.
- Trọng nghĩa, kinh tài, khá lắm! Nhưng cái gì phải đến nó sẽ đến!
Anh vừa nói vừa quăng cho tôi một tập tài liệu Tùng Lân đóng trái cửa lại, rót rượu mời tôi. Tôi từ chối, anh uống luôn mặc dù quân luật cấm uống rượu trong khi hành sự. Anh ngồi thả người trên phô-tơi và ngáy như sấm. Tuy thế nhưng anh ta rất tỉnh. Thấy tiếng cô thư ký léo xéo là anh đã vùng dậy thở cửa mời cô vào, và anh bắt đầu tán như... sấm ngay.
Vừa làm việc cho anh ta tôi vừa suy nghĩ phân tích những tin tức cốt tử ghi lại trong trí nhớ về nhà viết thành văn bản rồi mã hóa để Dung điện đi.
Từ sau vụ Đoàn Bá Mạo phản bội, tổ chức quyết định điện đài của chị Ngân phải di chuyển thường xuyên. Đó là một tổ hợp máy cổ, cồng kềnh, nặng nề. Mỗi lần chuyển như thế phải tháo rời ra rồi lắp lại vào rất mất thời gian. Đôi khi máy còn trục trặc, buộc phải hủy bỏ nhiều phiên liên lạc.
Tôi đã xin phép cấp trên lên máy riêng coi như một đài dự bị bổ trợ cho đài chính. Lúc đầu cấp trên không cho phép vì sợ địch dùng máy tầm phương vi ba dò ra được điểm phát thì rất nguy hiểm. Vị trí của chúng tôi lúc này là giao điểm của hai trục hoạt động bề rộng và bề sâu nên cấp trên yêu cầu phải chấp hành quy tác bảo mật tuyệt đối.
Tôi phải giải thích là khu vực tôi ở kề liền các trung tâm phát sóng lớn của các đài truyền thanh, truyền hình, bưu điện cùng nhiều đài thu phát của các sứ quán. Tôi sẽ phát phiên thưa vào những thời điểm dễ "ngụy trang” nên vẫn có thể đảm bảo an toàn.
Sau nhiều lần cân nhắc, cấp trên mới cho phép chúng tôi mạo hiểm liên lạc trực tiếp.
Từ ngày lên được máy riêng, chúng tôi đã giúp trên nhận tin sớm hơn trước.
Trong số những tài liệu tôi được đọc có kế hoạch chuyển giao những lực lượng và kế hoạch phá hoại của CIA sang Lầu Năm Góc. Điều đó báo hiệu bộ máy quân sự Mỹ sẽ nắm toàn bộ công việc điều khiển chiến tranh ở Nam và Bắc Việt Nam. Những dấu hiệu này góp phần làm sáng tỏ thêm cho nhận định: Mỹ sẽ vào. Điều mà Trung tâm luôn luôn đòi hỏi thêm chứng liệu.
Kế hoạch De Soto bang tiến hành nay mở thêm nội dung mới. Hải quân Sài Gòn được các chiến hạm Mỹ yểm trợ sẽ tấn công những hòn đảo của miền Bắc và một vài vùng ven biển. Tàu Mỹ sẽ trở thành đầu trò khiêu khích Hải quân miền Bắc. Một vụ đụng độ trên biển là cái cớ cần thiết để Mỹ tiến hành những cuộc tiến công trả đũa. Kế hoạch này trước khi đến tay Đô dốc Hải quân Trung Tấn Cang, nó phải được Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn tính toán sử dụng lực lượng tiến công và yểm trợ trên biển. Từ một chỉ thị của Mỹ nó phải được Việt hóa và do đó Tùng Lâm kéo tôi luôn vào buồng anh ta.
- Hiền đệ đọc đi, thật hay hơn "Tam anh chiến Lã Bố". Nhưng hiền đệ phải dịch cho toa... hay tốt hơn hết là viết luôn mệnh lệnh cho Hải quân. Tập làm tướng đi! Thế nào? Mười lăm phút thì xong chớ?
- Dạ trình đại tá, không được ạ. Cả một kế hoạch lớn phải đọc kỹ rồi mới viết ra được. Lầm một chút là mất đầu như chơi, anh Tư à.
- Thôi được, gắng lên. Làm xong moa sẽ đưa toa xem mấy con nhỏ múa Sê-xy không thua gì Đường Bản Vân của Đài Loan nhé. Lõa thể hoàn toàn. Trời, ngon quá bay ơi!
Nói xong viên đại tá nuốt nước bọt đánh ực một cái. Tôi cũng cảm thấy ngon, nhưng đó là toàn bộ bản kế hoạch của CINPAC đang nằm "lõa thể” trước mặt tôi: phần của Hải quân Nam Việt được Tùng Lâm đặt cho cái tên "Cá voi xanh”. Tôi có định chụp bản tài liệu này nhưng Tùng Lâm ngồi ngay trước mặt.
- Anh Tư à, làm xong kế hoạch này anh Tư phải cho đệ đi "nhất dạ đế vương" mới xứng?
- Được được… nhưng "bán dạ" thôi. "Nhất dạ” thức trắng thì bữa sau làm việc sao được. Hơn nữa "nội tướng" không cho phép!
Tôi muốn kích thích phản xạ thèm ngủ của Tùng Lâm. Tôi ra đóng cửa lại rót ly rượu đạt trước mặt anh ta. Tùng Lâm uống một hơi cạn và ngồi lút xuống chiếc phô-tơi, kéo chiếc bê rê trùng xuống mặt. Một phút sau anh ta đã ngáy như sấm.
Tôi rút chiếc micro Rollet 3 nằm trong cánh tay áo ra. Nghe anh ta ngáy đều, tôi chống tay lên mắt. Công việc đầy mạo hiểm nhưng hứng thú. Chỉ tám giây tôi đã chụp gọn bản tài liệu. Tôi cất máy và tiếp tục ngồi viết thảo cho anh đầy đủ bản mệnh lệnh. Tôi ghi lại những dữ kiện vào tờ giấp để đưa sang máy điện toán.
Từ xưa tới nay tôi ít chụp tài liệu của địch mà thường là cố nhớ lấy nội dung chủ yếu ghi chép lại gọn gàng rồi điện về Trung tâm. Nhưng đôi lúc cấp trên cũng muốn có tài liệu nguyên bản. Sức mạnh của tài liệu nguyên bản hay sao chụp nguyên bản thường biểu hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất tâm lý người lãnh đạo bao giờ cũng tin tưởng hơn có đối sách thạnh mẽ và chính xác hơn. Thứ hai cấp trên còn muốn nghiên cứu sâu những vấn đề mà tầm vóc người khai thác chưa thấy hết hoặc không coi trọng. Hiểu được tâm lý của trên và có phương tiện trong tay nên mãi gần đây tôi mới chụp một số tài liệu có tầm xử lý chiến lược. Vì những phim đó phải gửi đi theo đường công văn, khó bảo quản và thường là rất chậm. Gửi xong tôi vẫn lo ngay ngáy không biết có an toàn không hay lại bị mất hoặc bị đánh tráo thì cũng nguy hiểm.
Thế rồi Mỹ đã dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ" và ngày 5 tháng 8 chúng mở cuộc ném bom gọi là "trả đũa" vào nhiều địa điểm trên miền Bắc. Tôi không hiểu cuốn phim tôi chụp kế hoạch "Cá voi xanh" có tới đích không. Liệu có giúp gì cho miền Bắc chuẩn bị chống lại âm mưul thâm độc của chúng không?Hành động trực tiếp chống lại miền Bắc của Mỹ tạo nên một luồng không khí hoan lạc lan nhanh trong hàng ngũ sĩ quan ngụy. Ở hành lang Bộ Tổng tham mưu, những viên tướng, những sĩ quan cấp tá tỏ ra hân hoan, ba hoa như chết đuối vớ được phao. Chúng tin là nhưng trái bom đó đã dạy cho Bắc Việt một bài học và họ sẽ bảo bọn đàn em của họ ở miền Nam biết điều hơn. Cái triết lý một khi người Mỹ đã muốn là họ sẽ làm và làm được được bọn tay sai đem ra hâm lại tinh thần. Nhưng thảm hại cho chúng là luồng sinh khí chiến thắng mà Mỹ truyền cho quân ngụy chẳng được bao lâu đã lại xẹp xuống. Căm thù giặc đánh phá miền Bắc, quân dân miền Nam càng đánh mạnh khắp nơi. Kết quả là Mỹ đỡ đòn cho ngụy nhưng ngụy lại bị đau hơn.
…
Một bữa tôi đi làm về, vừa dừng xe ở cửa thì đã thấy hai họng súng chĩa vào sườn tôi. Ở một tư thế hết sức bất lợi lại không mang vũ khí nên tôi buộc phải thúc thủ.
- Theo chúng tôi, nhanh!
Một chiếc Minicar lao đến đỗ trước xe tôi. Hai tên ấn tôi lên buồng xe sau. Một tên trói và nhét giẻ vào mồm tôi, trong khi ô tô phóng như điên. Tôi định thần lại, phân tích tình hình vừa diễn ra để xác định xem ai đã bắt tôi. Biết được đối thủ tôi mới có thể tìm ra đối sách khôn ngoan, chính xác được.
Cơ quan an ninh chăng? Tại sao chúng không bắt tôi tại nơi làm việc hoặc ở ngay nhà để khám xét luôn thể? Tại sao chúng không đưa lệnh bắt mà lại hành động như một bọn bát cóc? - Rất ít khả năng.
Một phe nhóm sĩ quan nào có liên quan đến những vụ đảo chính, họ cần tôi để khai thác tin tức ở Bộ Tổng thau mưu chăng? - Cũng có thể.
Một vụ bắt cóc của bọn cướp để tống tiền chuộc chăng? - Không loại trừ.
Quân Giải phóng bắt (nhầm) tôi để khai thác tình hình chăng? - Hoàn toàn có thể.
Hay cậu Đức bố trí một màn kịch gọi tôi ra giao nhiệm vụ chẳng hạn? - Không thể có. Đã định đóng kịch thì diễn viên phải được báo trước chứ, nếu không có thể gây nguy hiểm.
Bỗng có tiếng còi dữ dội của cảnh sát. Nhưng chiếc xe vẫn phóng với tốc độ lớn. Có tiếng súng nổ, đạn xé một vệt sáng trên mui xe. Chiếc xe quặt gấp làm tôi đập người vào thành trước.
- Các đồng chí sẵn sàng chiến đấu?
Tôi nghe tiếng nói của một người ngồi trên ca-bin. Có lẽ là người chỉ huy. Từ "đồng chí" nhắc cho tôi nhưng người bắt có thể là quân ta.
Hai người ngồi sát tôi lăm lăm hai khẩu súng ngắn. Tôi cảm thấy có xe khác đang đuổi theo rất gấp. Họ lại nổ súng, đạn bay chiu chíu. Có lẽ họ chỉ nổ thị uy để buộc xe này dừng lại thôi chứ ở cự ly đó họ không thể bắn trượt được. Pằng! Trên ca-bin đã nổ súng bàn lại. Vài giây sau. một người reo lên:
- Nó gục rồi!
Xe giảm tốc và tạo ra một đường vòng. Phút nguy hiểm hình như đã qua đi. Xe ra khỏi thành phố. Sự ồn ào xung quanh mất hẳn. Khoảng nửa giờ sau đó xe đỗ lại. Cửa hậu hé mở. Hai người gác nhảy xuống và đóng trái cửa lại ngay. Tôi nghe có tiếng đàn bà con gái:
- Bay ơi, các đồng chí xê hai đã về. Chào đồng chí Tạo.
- Ủa, cả chú Quốc Hùng nữa nè!
- Chào chị Hai, chào các đồng chí. Chúng tôi vừa lập được một chiến công tuyệt diệu. Bắt sống tên thiếu tá ngụy.
- Hoan hô các đồng chí biệt động! Thế nó đâu?
- Nằm trong hòm xe.
- Thôi đưa vào trong K2, ở đây gần đường lớn không an toàn đâu.
Chiếc xe nổ máy đi thêm một đoạn đường xóc nữa, thả người xuống rồi đi luôn. Họ dẫn tôi vào một ngôi nhà nằm giữa một làng quê trù phú, mái tôn san sát. Chỉ có thấy tên bắt tôi thôi, chẳng có đàn bà trẻ con hay người già nào trong ngôi nhà này cả. Lúc này họ mới lôi chiếc khăn trong mồm tôi ra, móc tất cả giấy tờ tiền bạc của tôi ra đặt lên bàn. Họ cho tôi uống một ly nước.
- Uống rồi có gì thì thành thực khai ra nghen!
Tôi quan sát ngôi nhà khá khang trang. Có một khẩu hiệu bằng giấy mới viết dán trên tường hậu: "Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam muôn năm".
Vài phút sau, một tay trong bọn họ dáng người cao cao, mặt mũi trắng trẻo tướng học trò cầm tập giấy đi vào. Anh ta chỉ cho tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
- Anh bị Quân Giải phóng bắt. Anh phải khai hết những bí mật mà anh nắm được. Tính mạng của anh có được đảm bảo hay không là do sự thành thật của anh quyết định. Anh rõ chưa?
- Dạ.
- Tên anh là gì?
- Tất cả ghi trong chứng minh thư sĩ quan của tôi.
Tôi quyết định không khai bất cứ thứ gì ngoài những giấy tờ đã ghi, dù họ có là Quân Giải phóng đi nữa.
- Anh được giao công vụ gì ở Bộ Tổng tham mưu?
- Kỹ sư vô tuyến điện ở trung tâm truyền tin.
- Như vậy anh phải biết được nhiều tin quan trọng?
- Chúng tôi chỉ truyền đi những tín hiệu. Tất cả đã mã hóa nên không thể biết nội dung có quan trọng hay không.
- Thế là anh không muốn khai ra với chúng tôi.
- Tôi sẽ khai những điều tôi biết, xin ông cứ hỏi. Còn những tin chúng tôi truyền đi thì họ còn bí mật với tôi hơn cả đối với mọi người. Một sĩ quan truyền tin mà hiểu được mật mã thì sẽ không gì nguy hiểm bằng. Anh ta biết được tất cả bí mật quốc gia... - Tôi giải thích rất dài cho viên thẩm vấn. Y phải cắt lời tôi.
- Tôi không cần anh giải thích tùm lum như vậy.
- Không hiểu ông cần gì ở tôi?
- Những bí thật của Bộ Tổng tham mưu.
- Xin ông hỏi rõ về một vấn đề nào. Có cái ông coi là bí mật còn với tôi thì chẳng có gì bí mật cả, làm sao có thể vui lòng ông.
- Các kế hoạch hành quân?
- Có rất nhiều kế hoạch. Một ngày có trên mười cuộc hành quân từ vùng giới tuyến đến mũi Cà Mau, tôi không sao nhớ hết. Điều này xin các ông đọc trên báo.
- Tôi muốn biết cuộc hành quân sáp xảy ra.
- Cái gì chưa xảy ra nó nằm trong két sắt ở Văn phòng Bộ Tổng tham mưu hoặc ở két sắt của Bộ Tư lệnh hành quân tác chiến. Chỉ có mấy sĩ quan trực tiếp làm mới biết nổi. Ngay những người giữ nó cũng chẳng muốn đọc, đọc nó rất buồn ngủ chứ không thú vị như tiếu ngạo giang hồ đâu. Khi những kế hoạch đó đến tay chúng tôi, nó đã bị chặt ra từng mảnh và mã hóa mất rồi!
Tôi trở thành một tay ba hoa vô tích sự. Còn viên thẩm vấn thì rõ ràng thiếu kinh nghiệm và bị tôi dồn vào thế tắc tị. Cuối cùng đương sự nổi nóng đập bàn:
- Anh bướng bỉnh thì tôi sẽ không thể ôn hòa với anh được.
Một tay ngồi gác bên ngoài góp lời vào:
- Cứ nện cho nó một trận là biết điều hết.
- Tôi xin nói để các ông biết, tôi là tù binh chiến tranh. Tôi phải được hưởng quy chế tù binh như công ước Giơ-ne-vơ quy định. Chỉ có sáu điều phải khai là: Họ tên, tuổi, quê quán, chức vụ, cấp bậc, đơn vị. Tôi đã khai đủ rồi. Các ông có hành hạ tôi cũng sẽ im lặng để chờ cái chết.
Tôi nói nghiêm trang, giọng khiêu khích, tôi chờ đón trận đòn chỉ để khẳng định một câu hỏi "Ai bắt tôi? Mục đích của vụ bắt cóc?".
- Thôi được, để nó đấy cho tôi. Đồng chí đi báo cáo thủ trưởng Tẩu để đồng chí ấy quyết định phê án tử hình cho rồi.
Và một tay đã đi mời thủ trưởng.
Có vài người dân đi qua ngó nghiêng nhìn vào đã bị người gác ngoài cổng đuổi.
- Đi đi các cha nội. Không có chuyện chi đâu mà tò mò.
Tôi chưa biết đây là đâu nhưng nghe tiếng máy bay cất cánh hạ cánh, tiếng còi nhà máy tôi khẳng định mình đang ở phía Tây thành phố. Trời tối hẳn. Một cây đèn măng-sông không có che chắn ánh sáng được thắp lên đặt giữa bàn. Cánh tay tôi bị trói vừa đau vừa mỏi.
Gần nửa giờ sau có một người mặc bộ đồ bà ba đen đeo chiếc xà cột từ ngoài bước vào, theo sau là tay gác ban nãy. Tay hỏi cung đứng dậy, lễ độ:
- Trình "thủ trưởng chánh ủy" tên thiếu tá ngụy này ngoan cố không chịu khai những điều quan trọng. Xin đồng chí cho lệnh để tôi hành quyết.
- Thôi được, để tôi hỏi anh ta vài câu nữa. Khi y quay sang tôi ánh sáng trực diện khiến tôi nhận ra ngay cái khuôn mặt quen thuộc của tên sếp Tẩu có người vợ béo trắng và đứa con gái sứt môi trên chuyến tàu di cư Monte Carlo cách đây mười năm. Thời gian đã làm nó già đi nhưng nét mặt đặc biệt của nó khiến tôi có thể không nhìn cũng vẫn vẽ được một bức biếm họa giống hệt. Tôi kiểm tra lại lần nữa sự hồi tưởng. Ông già đi đồn điền cao su kể về tên sệp Tẩu cướp vợ của em đã in đậm hình ảnh nó vào trí nhớ tôi. Vậy thì chính đây là một âm mưu thử thách của cơ quan an ninh quân đội đối với tôi. Tôi sẽ có đối sách.
- Tôi khuyên anh hãy thành thật. Cách mạng sẽ khoan hồng cho ai biết án năn hối lỗi. Anh nà kẻ có tội với Tổ quốc. Nếu anh không lập công cuộc tội, chúng tôi buộc phải trừng trị. Sống hay chết là do anh quyết định lấy.
- Thưa ông ông là chính ủy ạ? - Tôi làm ra bộ quan trọng - Xin cho tôi thưa riêng với ông...
- Được!
Y lừ mắt cho hai tên kia lui ra ngoài.
- Trước hết xin cho tôi đi tiểu đã.
- Đi! - Y rút súng ngắn trong quần ra thân đưa tôi ra ngõ.
- Đứng đấy được rồi. Trời tối không ai nhìn thấy đâu!
Tôi quan sát địa hình xung quanh một lượt rồi đi vào.
- Thưa ông, ông đừng bắt tôi phải nói. Tôi sẽ viết tất cả ra giấy để ông đọc.- Được, tốt lắm. Anh viết vào đây - Y đưa cho tôi tập giấy ghi cung ban nãy và một cây chì bi.
Tôi định viết nhưng không thể viết được vì tay bị trói chật. Y tự tay cởi dây cho tôi. Tôi vươn vai vặn mình cho thoải mái và bắt đầu ngồi viết. Tôi viết bằng tiếng Anh. Tên Tẩu đi qua liếc mắt nhìn, tôi đoán là y chẳng biết gì.
- Anh viết bàng tiếng "Tây" à?
- Dạ thưa ông chánh ủy, những điều này là tuyệt mật không phải để cho tất cả mọi người đọc. Nó rất quan trọng, xin ngài gửi lên Bộ chỉ huy tối cao càng sớm càng hay.
- Được được, tôi sẽ đọc tuốt tuột. Cứ viết đi - Vừa nói y vừa đi quanh bàn. Tôi viết khá dài. Vừa viết vừa chờ một thời cơ...
Khi tên Tẩu vừa cúi xuống sau lưng tôi, y sĩ diện tỏ ra ta cũng hiểu, tôi liền đưa cho y và thì thầm:
- Ngài xem tôi viết có được không?
Tên Tẩu cầm tờ giấy như chăm chú đọc. Thừa lúc nó lơi mắt, tôi đã thoi cho nó một cú móc trời giáng vào dưới mỏ ác, đồng thời tôi hất đổ bàn làm cho cây đèn tắt phụt. Tên Tẩu hự lên một tiếng rồi đổ xuống. Tôi lần luôn khẩu súng của nó, xóc nó dậy làm cái mộc đỡ đạn cho tôi. Hai tên gác lúng túng vì đèn tắt không thể phân biệt ai với ai. Chúng cũng không dám bắn vì tôi đương nhiên là một thiếu tá của quân lực. Chúng chỉ có nhiệm vụ thử thách chứ chắc chắn không được tuỳ tiện hạ sát tôi. Tôi đẩy tên sếp Tẩu ra cửa và giúi nó về phía hai tên kia đang lúng túng. Tôi nhảy vụt ra rồi chạy biến vào trong bóng đêm. Không thấy chúng nó bắn theo tôi càng yên tâm. Tôi lẩn trốn một cách thầm lặng qua các vườn cây rạch nước và chẳng mấy chốc tôi đã bám được một trục đường. Tôi cho rằng cứ bước liều có thể gặp những chuyện không hay. Tôi tìm một bụi cây nấp lại để nghe động tĩnh. Mấy phút sau, chúng huýt còi bấu đèn pin loang loáng truy lùng trong xóm. Tôi cứ thẳng đường ô tô mà chạy. Tôi bỗng thấy phía sau có một dãy đèn pha ô tô sáng loáng. Có thể là một công voa quân xa. Tôi sửa lại quân phục, gài súng trong túi rồi đứng ra giữa đường giơ tay chéo ra hiệu cho xe đỗ lại. May sao đây lại là một công voa của sư đoàn 97. Tôi yêu cầu viên chỉ huy đưa tôi về một căn cứ gần nhất. Mười phút sau tôi về đến trại 53. Tôi xưng tên và cấp bậc với viên chỉ huy chứ tuyệt nhiên không kể gì đến chuyện đã xảy ra. Tôi xin gọi nhờ điện thoại về Bộ Tổng tham mưu. Tôi cũng không quên báo tin an toàn cho Dung yên tâm.
Nửa giờ sau có xe của cơ quan đến đón tôi về. Tôi làm bản tường trình lại toàn bộ sự vụ lên cơ quan an ninh là tôi bị Việt cộng bắt và tôi đã chống lại chúng như thế nào để thoát thân. Tôi còn nộp lên trên cả khẩu súng ngàn chiến lợi phẩm nữa!
Chiều hôm ấy thấy xe vất ở cửa mà không biết tôi đi đâu, làm cả nhà tôi hoảng hồn. Đến như Dung vốn bình tĩnh như thế mà trong tình huống này cũng quá xúc động khóc như mưra. Một mặt cô gọi điện báo cho Trung tâm Điện toán Bộ Tổng tham mưu và cảnh sát khu vực biết chuyện này. Mặt khác cô cũng phải sơ tán giấy tờ tài liệu đề phòng những hậu quả khác. Mãi tới khi nhận được điện thoại của tôi, cả nhà mới hoàn hồn.
Chúng tôi đã báo cáo sự việc trên về Trung tâm ít lâu sau cấp trên cho chúng tôi biết một chi tiết: Cuốn phim chụp kế hoạch "Cả voi xanh" của tôi gửi về đã không tới đích. Đồng chí giao liên mang tài liệu bị địch phục kích bắn chết. Chúng lấy đi tất cả mọi thứ anh mang theo.
Thế thì rõ rồi. Cuốn phim đó đã quay về đến Cục an ninh quân đội. Cơ quan phản gián này đã khoanh vùng để tình kẽ hở. Và chúng đã nghi tôi, một khâu trong toàn bộ dây chuyền. Như vậy là tôi đã được đánh một dấu hỏi. Chúng làm cú bắt cóc này mục đích kiểm tra tôi.
Một bữa tôi tường thuật lại vụ trên cho trung tá cảnh sát Hoàng Quý Nhân nghe. Anh ta vỗ vai tôi cười ngất:
- Toa lầm rồi. Nếu rơi vào tay Việt cộng thì làm sao toa thoát được? Nhất là vào ban đêm, căn cứ của họ là một tấm màn sắt. Họ chi cần báo động là tất cả dân chúng ùa ra hỗ trợ họ tóm gọn toa ngay.
- Thế thì ai đã bắt tôi?
- Đó là một trò chơi quen thuộc của tướng Đỗ Mậu, Cục trưởng An ninh quân đội. Mỗi khi nghi ngờ lòng trung thành của ai, ông thường bày ra cái trò thử thách ngu xuẩn và nguy hiểm như vậy. Nếu hôm đó toa nổ súng thì chắc chắn là đổ máu rồi.
- Rõ ràng là có sự truy đuổi của quân cảnh hay cảnh sát là. Họ nổ súng và chiếc xe bị rách toạc xát xi, sau đó xe cảnh sát bị bắn gục. Chính tôi là người trong cuộc, làm sao có thể lầm lẫn được.
- Trò to-ruých cả? Những cuộc đuổi dượt kiểu Hollywood này diễn ra luôn. Nếu chưa chi toa đã khai mọi thứ ra với Việt cộng giả thì ông ta sẽ kết luận là toa thiếu trung thành. Nếu toa là a-giăng đúp thì sẽ vội vàng xin gập cấp trên hoặc toa tuôn ra một lô mật khẩu, thế là chết rồi ông Mậu sẽ mời toa về 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm nghỉ mát ngay! Có khi Mậu còn rủ cả những sĩ quan tình nghi đi xem bói. Tên thày bói cò mồi sẽ đoán đúng rất nhiều chuyện trong đời tư của anh ta. Cuối cùng nó bắt nọn vài câu có liên quan đến lòng trung thành. Nếu anh ta non gan thú nhận hoặc biến đổi sắc mặt thì lập tức Mậu sẽ coi đó là một cái nút cứ cầm vào đấy mà kéo, mà buộc tội. Nói chung là những mưu mẹo vặt đó thường rất ít thu được kết quả và còn gây nguy hiểm trong những trường hợp đụng với cảnh sát, nhưng ông ta không nghĩ ra được cái gì mới hơn.
- Mỗi khi định làm gì thì họ phải báo cho cảnh sát biết chứ.
- Đúng ra phải là như vậy, nhưng nhiều lần họ báo sai, hoặc sợ lộ nên không thèm báo.
- Làm giả như thế thì cũng phiền phức quá. Đã có chân tay làm - Quý Nhân cười - Đến đảo chính cũng còn làm giả được thì có thứ gì họ không làm.
- Đảo chính giả?
- Ông Nhu trước kia là khoái làm đảo chính giả lắm. Thủ tướng tự làm đảo chính lật đổ mình để thanh trừng rồi lại đứng ra lập chính phủ mới là cái mốt hiện đang thịnh hành ở nhiều nước. Thời thế này tìm người cộng tác lâu dài rất khó. Mình cũng phải thả nổi bản thân mình thì mới sống nổi. May mà toa thoát được cái trò chơi ngu ngốc của Mậu.
- Một người ngu ngốc sao còn để ở cương vị đó.
- Vì trong cái cơ quan phản gián này không còn ai thông minh hơn ông ta! À thế toa đã viết gì trong cái tờ khai cuối cùng đó.
- Tôi viết bằng tiếng Anh: "Quân khốn nạn? Ta biết rất nhiều điều bí mật quan trọng, nhưng ta sẽ không bao giờ khai ra cho bọn bay. Những điền bí mật đó là để tiến hành chiến tranh tiêu diệt bọn bay, để phục vụ Tổ Quốc ta, chúng mày có thể tìm thấy ở ta cái chết chứ không thể tìm thấy sự phản bội...". Đại loại tôi viết như vậy.
- Hay lắm! Thế là Mậu sẽ liệt toa vào loại trung thành. Có thể toa còn được xét thưởng mề-đay nữa cơ đấy!
CHƯƠNG XVI
GIEO GIÓ VÀ GẶT BÃO
Đám cưới Lê Bạch Kim và Huỳnh Vĩnh Quốc được cử hành linh đình ở lâu đài Météor. Đó là đám cưới nổi tiếng nhất, đám cưới được coi là lý tưởng, là đám cưới của thập kỷ. Trưởng nam của một gia đình điền chủ giàu có bậc nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long kết duyên với ái nữ của một nhà kinh doanh lớn, nhà triệu phú người Bác Kỳ. Chú rể là một chàng trai tuấn tú, mã thượng, một phi công siêu hạng, một sĩ quan ưu tú mang tư tưởng tự do đã dũng cảm chống lại nền độc tài của ông Diệm. Cô dâu là một hoa khôi học thức, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, giao thiệp rộng, đã sống và tiếp xúc nhiều với giới học thức Châu Âu. Họ sống tuần trăng mật ở Sài Gòn, tiếp theo là một cuộc voyage de noce qua Tân Gia Ba, Ma-ni và Hương Cảng.
Mọi người đều tin rằng một mối tình như thế hẳn phải đẹp lắm, hạnh phúc lắm. Chiều chiều từ trên khuôn cửa sổ táng ba của lâu đài Météor loang ra đường phố những âm thanh vui tươi của chiếc đàn dương cầm. Năm giờ khi viên trung tá lái chiếc Toyota de Luxe đen bóng từ phi trường trở về, đã thấy người vợ đẹp xuất nện trên bao lơn trong bộ quần áo hợp thời trang nhất. Cô chạy xuống đón chồng, họ hôn nhau và đi vào nhà. Mấy con chó Nhật xinh xinh chạy quanh đôi uyên ương sủa lên inh ỏi vui vẻ.
Trung tá không quân Huỳnh Vĩnh Quốc đã chuyển sang lái máy bay chiến đấu "Giặc nhà trời" từ mấy tháng nay. Sự kiện trên làm cho Bạch Kim không yên tâm. Đã nhiều lần cô định thổ lộ nỗi băn khoăn của mình, nhưng những niềm vui, nỗi bận rộn của hạnh phúc cứ lấn át đi, đến nỗi cô không tìm được cơ hội nói với chồng. Nỗi băn khoăn đó lớn dần lên như một bào thai trong tâm hồn cô, và đến một lúc nào đó cô không thể nào dồn nén được, không một niềm vui nào lấn át nổi.
- Anh Quốc ạ, tại sao anh lại không lái máy bay vận tải nữa?
- Anh muốn được chiến đấu, muốn tận diệt bọn cộng sản, đơn giản thế thôi.
- Em lại thấy nó chẳng đơn giản chút nào cả. Hầu như ngày nào, tuần nào anh cũng cứ giội bom xuống các làng mạc như thế, anh có nghĩ là sẽ có bao nhiêu người bị chết không?
- Ồ chiến tranh mà em! Đã là người lính là phải bắn giết. Người ta bỏ tiền của ra nuôi dạy họ, chế tạo vũ khí cho họ để họ bắn giết cho thực nhiều; thực hoàn hảo. Mục đích tối thượng của nó là bắn giết. Ngay cả lúc nó mặc những bộ đồ đẹp đẽ nhất, đội ngũ chỉnh tề, duyệt binh trên đường phố cũng chỉ để khoe mẽ cái khả năng bắn giết. Ra trận nếu anh không giết đối phương, đối phương cũng sẽ giết anh.
- Người lính mặt đất khác. Họ trông thấy rõ kẻ thù, ít ra họ cũng còn phân biệt được rõ đàn bà, trẻ con và binh lính địch chứ.
- Ồ không đâu. Đó là em hiểu theo khái niệm chiến tranh quy ước cổ điển. Cuộc chiến tranh này hoàn toàn khác xét về cả hai phía. Nếu họ chiến thắng, họ sẽ tước đoạt hết cả của chúng ta. Cha mẹ vợ con ta sẽ bị đấu tố và sau đó là một cuộc tắm máu tập thể. Họ đâu có phân biệt. Học thuyết đấu tranh giai cấp của họ là như vậy. Trong một làng do Việt cộng kiểm soát thi tất cả trẻ già lớn bé đều là Việt cộng. Những người không phải Việt cộng đã bị họ thanh toán rồi. Do đó người lính bộ binh cũng không còn phải phân biệt nửa. Nếu cần, quân đội cũng có thể cạo trọc cả một làng, một xã, một huyện... Một mất một còn mà!
- Trời ơi em sợ quá. Nếu một học thuyết như vậy được xem là tốt đẹp thì...
- Không có gì là tốt đẹp hết. Chiến tranh là một điều xấu. Nhưng ta cần đến nó để tránh một điều xấu hơn. Đó là chủ thuyết cộng sản.
- Nhưng chúng ta thường nói về chính nghĩa quốc gia, về nhân đạo, nhân quyền?
- Chiến tranh không có mục tiêu nhân đạo nào hết trọi. Bịa đặt hết. Mục tiên của nó là chiến thắng. Chiến thắng sẽ biện minh cho tất cả. Trật tự được lập lại sự bình yên lúc đó sẽ nói đến nhân đạo cũng chưa muộn. Lúc này mà khoác cái mục tiêu nhân đạo lên vai tức là làm quẩn chân người lính.
- Nhưng dù sao em cũng không muốn anh trở thành phi công chiến đấu. Đó là chiến tranh một phía. Lực lượng nổi loạn làm gì có máy bay. Đàn bà trẻ con có gì chống lại anh đâu, dù họ là Việt cộng chăng nữa.
- Em nhân đạo quá, thật đáng yêu? Nhưng em cũng ngây thơ quá. Đã gọi là chiến tranh thì đâu có kể phương tiện gì. Nếu họ có bom hạch tâm họ cũng chẳng tha gì chúng ta. Chúng ta đâu có hầm chông. Thế thà họ lại dùng cái thứ man rợ từ thời hồng hoang để chống lại chúng ta.
- Hầm chông là vũ khí phòng ngự. Chỉ khi nào quân chính phủ tiến đánh họ thì mới có thể bị thụt hầm chông. Còn những trái bom là vũ khí tấn công.
- Chiến tranh bằng không quân là loại chiến tranh sạch sẽ nhất đấy em ạ. Bàn tay anh không bao giờ vấy máu.
- Thật em không thể hiểu nổi anh nữa. Anh không nhìn thấy, nhưng anh phải tượng tưởng ra chứ? Nhận thức của con người đâu chỉ có một con đường trực giác.
- Thật đáng tiếc. Anh đâu phải là người khó hiểu. Anh là chiến sĩ của tự do. Tổng thống Diệm cưng bọn anh biết mấy. Nhưng một khi ông chà đạp tự do của mọi người thì anh cũng sẵn sàng thí mạng ta. Việt cộng mưu tìm quyền lực, muốn tước đoạt tự do của cả dân tộc anh đâu có chịu.
Bạch Kim cảm thấy không sao lay chuyển được những quan điển của chồng. Tại sao trước đây nhiều người lại nhận xét rằng anh ta là người dễ bị lôi kéo, không biết làm theo sự suy nghĩ của chính mình? Chẳng lẽ tình yêu của cô không đủ làm anh xúc động. Cô im lặng tự vấn...Sự rạn nứt của đôi vợ chồng trẻ bắt nguồn từ những chuyện diễn ra rất xa lâu đài Météor, cách biệt với cuộc sống hàng ngày của họ. Họ vẫn dắt nhau đến phòng trà, Snachk-bar, đi xem tranh nghệ thuật, vào rạp hát, đến vũ trường, thưởng thức món thịt thú rừng, nô đùa với sóng biển trong những ngày nghỉ week-end... Nhưng trong sâu xa của tiềm thức đã xuất hiện những hạt sạn nho nhỏ. Để tránh những cái gợn đó, giữa họ đã hình thành một khoảng cách, không ai nói ra nhưng họ thực sự cảm thấy.
Bạch Kim tìm ra niềm hạnh phúc trong lúc ngồi một mình yên tĩnh, trầm tư, mơ mộng thoát tục.
Còn Vĩnh Quốc lại thích đến những chỗ ồn ào, câu lạc bộ sĩ quan, hộp đêm, rượu mạnh, những cạp mông núng anh của ba cô vũ nữ, những canh bạc cháy túi.
Cuối năm 1964 ông Cự Phách ốm nắng. Người con trai cả và cô con dâu người Pháp cũng bay về thăm bố. Ông gọi các con lại bên giường nói lời trăng trối cuối cùng.
- Năm nay ba đã bảy mươi tám tuổi. Ba ra đi cũng hợp với lẽ trời. Cuộc sống của con người là hữu hạn, không có một ngoại lệ đối với bất cứ ai. Sinh ra và chết đi là hai con số trùng hợp tuyệt đối. Trong mấy chục năm trời bố mẹ đã tạo ra một sản nghiệp không phải nhỏ. Đó là công trình duy nhát để lại cho các con. Tuổi trẻ của ba trôi đi ồn ào, hối hả, may mắn đến lạ kỳ và ba chưa bao giờ phải lo nghĩ đến thất bại. Tưởng như khát vọng không bao giờ cạn, vinh quang không bao giờ tắt, hạnh phúc không bao giờ phai. Thế rồi tuổi già ập đến lúc nào không biết, bất ngờ như một tai họa. Lúc đó mới nghĩ đến cái chết, mới mơ ước đến cái bất tử. Chẳng có người nào không chết. Nhưng vẫn có những người được gọi là bất tử. Đó là những người không bao giờ phai mờ trong ý nghĩ của những người đang sống. Thế hệ này qua thế hệ khác bồi đắp giữ gìn cho niềm thương tiếc. cho niềm tự hào. Những người không có nợ nần gì với mọi người mà những ngườl sống luôn cảm thấy thình nợ họ. Đó là những người biết dâng hiến sự sống của mình cho lịch sử quang vinh của dân tộc, cho nền văn minh của nhân loại. Nếu ba không có được những điều trên thì ba là người bình thường, họ rất đông và điều đó chẳng có gì đáng xấu hổ cả. Nhưng đáng buồn hơn ba lại ở vào một đối cực với những người bất tử. Cái tài sản lớn lao ba có được là do ba khôn ngoan, ba biết thu góp lại một cách hợp pháp của biết bao nhiêu đối thủ. Đó không phải là sự giành giật từ tay tạo hóa mà từ bàn tay khối óc của đồng loại. Thế đấy các con ạ Nobel đã có lúc ân hận vì tài năng của mình. Còn ba, ba sám hối cho những mưu mẹo của mình. Ba để lại cho các con rất nhiều của cải, nhưng ba chẳng truyền lại cho các con một chút đi sản tinh thần nào. Về mặt này ba cũng giống vua Lia thôi, ba là một kẻ nghèo khó... Các con còn trẻ. Ba chỉ có một lời khuyên. Một nhà tỉ phú cũng không thể ngốn quá nửa cân thịt bò mỗi ngày, không thể tu hết vài lít sâm-banh một lúc, không ngồi đồng thời trên hai chiếc ô tô và cũng không thể ngủ trong căn buồng lớn như hí trường Phuốc-ten-ba-khơ được. Những cái đó đều hữu hạn, nó cũng hữu hạn như cuộc sống vậy. Các con phải lo lắng cho sự giàu có của tâm hồn nữa. Hãy dành một ít thời gian để mơ mộng cho một cái chết thanh thản. Người nào biết mơ mộng cho một cái chết thanh cao, người đó mới có cuộc sống tốt đẹp được!
Nói xong, mắt ông già ứa ra hai giọt lệ. Ông lần lượt cầm tay các con, ai cũng khóc thương. Đến Bạch Kim cô ôm chầm lấy cha không muốn buông ra. Ông quờ cánh tay gầy guộc khô khẳng lên lưng con gái mình, nhè nhẹ vỗ. Có lẽ sau người vợ quá cố của mình, đây là con người thứ hai ông yêu quý nhất trên đời.
Không phải ai cũng hiểu được câu nói của ông. Có khi người ta còn coi đó là biểu hiện cái tính lẩn thẩn của những người già trong cơn hấp hối.
Mấy ngày sau ông qua đời.
Bạch Kim đau buồn, cô ốm thực sự, mặt hốc hác, chỉ có cặp mắt lúc nào cũng long lanh đăm chiêu. Cô trở về căn buồng cũ của mình và như không còn muốn gần bó với lâu đài Météor lộng lẫy nữa. Vĩnh Quốc an ủi vợ:
- Thương ba, thiệt, nhưng đâu có giữ được ổng lại. Cuộc sống thật ngắn ngủi do đó ta phải tận hưởng nó. Vui lên em. Đau khổ mà làm chi cho mệt.
Ồn ào chốc lát anh ta lại ra đi. Con người hiếu động đó không sao ngồi yên lấy nổi một giờ.
Chúng tôi đưa cháu Trung lên thăm cô. Cháu đã biết bi bô trò chuyện cũng làm cho Kim khuây khỏa đổi phần. Kim nói với chúng tôi:
- Anh chị thật hạnh phúc. Ôi sao em chỉ ước ao một cuộc sống như thế thôi mà không được.
- Em sẽ chóng có con thôi, lúc đó sẽ vui như anh chị.
- Em chưa so sánh về đường con cái. Em mới bắt đầu cuộc sống gia đình chưa được bao lâu mà sao em đã có cảm giác mình đang đi vào cõi chết! Em cô đơn hơn cả khi sống một mình.
- Cuộc sống gia đình là niềm hạnh phúc có chia sẻ. Buồn vui lo lắng cùng chung chịu. Có lẽ vì Bạch Kim quen sống tự do rồi nên cảm thấy vướng víu. Phải biết hy sinh vì nhau và sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong sự hy sinh.
- Em không phải là con bé được nuông chiều nhiều nên chỉ muốn sống ích kỷ. Em mong ước lược trở thành người vợ tốt. Em muốn bàn tay em, trái tim em tạo ra hạnh phúc gia đình. Nhưng em vẫn không sao tìm được một sự đồng cảm, một sự hòa nhập.
- Kim nóng vội quá đấy. - Dung cười - Trời không sinh ra một người chồng sẵn cho mỗi chúng ta. Muốn có được sự hòa nhập trọn vẹn thì phải có sự cảm hóa, sự vun đắp lân dài. Khi yêu ta có thể làm được mọi chuyện.
- Thế anh chị đi đến sự hòa nhập tuyệt đối đó từ bao giờ?
- Ngay từ đầu! - Tôi khẳng định - Và Kim thấy đấy, chúng mình sống rất hạnh phúc.
- Không phải ngay từ đầu đâu? - Dung nháy tôi che miệng cười - Cũng phải mấy năm anh nhỉ? - Lúc đầu anh cũng chưa thực vừa ý, chị phải cảm hóa, phải cố gắng, anh cũng vậy và phải sáu năm mới có sự hòa nhập tuyệt đối!
- Trời ơi, năm sát năm kia ạ. Sao lâu thế!
- Chị nói dùa cho vui thôi chứ anh chị rất thương yêu nhau. Sáu năm mới có con thì cũng có thể nói sáu năm mới hòa nhập tuyệt đối.
Một kế hoạch ném bom miền Bắc Việt Nam đã được Uốn Rốt-xtâu vạch ra từ trước khi có tổng tuyển cử tháng 11 năm 1964 ở Mỹ. Johnson chưa muốn thực thi ngay vì sợ làm xáo động dư luận Mỹ trước ngày bầu cử có thể bất lợi cho ông ta.
Sau khi đã chắc chắn ngồi trong Nhà Trắng thêm một nhiệm kỳ. Tổng thống Mỹ quyết định giành thắng lợi bằng cuộc chiến tranh không quân.
Để giữ bí mật, gần đến phút chót Khánh mới được báo cho biết cụ thể về kế hoạch này. Không lực Việt Nam cộng hòa sẽ tham gia với tính chất tượng trưng, nhưng rất quan trọng về mặt chính trị. Phi đoàn cường kích AD.6 được điều ra các sân bay gần giới tuyến để tăng thêm cự ly hoạt động.
Những bí mật của cuộc ném bom không giữ được lâu. Các phi công Sài Gòn đã biết được những gì sắp xảy ra với họ. Cơ quan tình báo đã cho họ biết về khả năng chống trả của đối phương. Lực lượng không quân Bắc Việt coi như không đáng kể. Họ mới có một trung đoàn vận tải trang bị các máy bay hai động cơ của Nga. Một số máy bay huấn luyện không vũ trang. Lực lượng cao xạ mặt đất thì có chút ít kinh nghiệm chiến đấu, nhưng trang bị vẫn rất cổ lỗ và không đồng bộ. Đó là những cỗ pháo cao xạ 88 và 90 của Đức, của Nhật cũ Một số tiểu pháo 37 của Nga và Trung cộng. Có thể có cả một số ít pháo 57 tự động có ra-đa ngắm bắn. Nhưng thứ này thường tập trung phòng thủ quanh Hà Nội, Hải Phòng. Còn ở miền Trung, lực lượng đối không chủ yếu là súng máy cao xạ 12 ly 7.
Không lực và Hải quân Hoa Kỳ sẽ tung ra những phản lực cơ siêu thanh hiện đại. Máy bay tiên kích chặn đánh F.8U của hải quân sẽ bảo vệ tầng cao. Tầng thấp là A.4, F.100, A6. Như vậy, dưới cái ô này, không lực Việt Nam cộng hòa xen chiến tranh chỉ giống như cuộc dạo mát. Huỳnh Vĩnh Quốc rất hào hứng và mong đợi những phi vụ sắp tới Anh ta chia sẻ niềm vui đó với vợ.
- Công vụ này gắn với ngôi sao cấp tướng em ạ!
- Anh mong mỏi những ngôi sao cấp tướng lắm à?
- Tất nhiên. Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông. Anh đâu có thiếu tiền, thiếu tài. Anh chỉ thiếu danh thôi. Mấy thằng bạn anh đó, có hơn gì anh đâu, thế mà tướng ráo trọi. Nguyễn Cao Kỳ cùng đến Avorce với anh một ngày, cùng ở Marrakech về một ngày, thế mà...
- Họ làm đảo chính nên phát đạt hơn.
- Anh còn đảo chính trước bọn nó. Chỉ có điều mình xui xẻo quá xá.
- Anh làm đảo chính nữa đi - Bạch Kim cười lạnh lùng - Em muốn anh làm đảo chính thì em mới chóng nhìn thấy ngôi sao cấp tướng được. Bây giờ anh mới trung tá, biết bao giờ sờ được ngôi sao cấp tướng.
- Hết thời đảo chính rồi. Người Mỹ không ưng đảo chính nữa. Tướng Taylor đã bảo thẳng Kỳ, Thiệu, Thi, Cang hôm 20 tháng 12 là: "Nước Mỹ không còn muốn tha thứ cho bất kỳ ý đồ nào làm cho tình hình mất ổn định”. Bây giờ chỉ còn thấy ngôi sao cấp tưởng ở con đường binh nghiệp, trên cánh bay, trong cuộc chiến.
- Còn em thì muốn khác. Em muốn anh chuyển sang phi công dân sự. Anh làm thuê cho một hãng nào đó. Chúng ta sống yên tĩnh, xa những tham vọng điên rồ xa những cuộc bắn giết, xa những âm mưn những nỗi sợ hãi. Em chỉ muốn bên anh. Trước kia anh hát cho em nghe những bản tình ca, anh đọc cho em nghe những bài thơ của Valéry. của Charles Badudelaire. Còn bây giờ em chỉ nghe thấy tiếng khua của binh đao, tiếng nổ của bom đạn.
- Anh là một con người của những tham vọng. Anh ham mê sự chinh phục. Trước đây anh muốn được em, anh phải hát, phải ngâm thơ, thậm chí phải quỳ dưới chân em anh vẫn cứ làm. Bây giờ anh đã giành được em, anh lại muốn chinh phục một cái gì khác nữa. Xin em đừng ghen vì mảnh đất mới anh muốn giành cũng là để cho cả hai ta. Nếu như phải hát Santa Lucia, phải đọc thơ của Remy Belleau để có được ngôi sao cấp tướng anh cũng sẽ làm. Nhưng tiếc rằng bản tình ca của quyền lực lại là chiến tranh còn thi hứng của chiến tranh lại là bom đạn. Muốn đạt được mục đích thì đừng nên từ bỏ một phương tiện gì.
Câu chuyện của hai người kết thúc. Họ không có điểm chung.
Bạch Kim tiễn chồng bay ra giới tuyến trong một tâm trạng chua xót... Khi nỗi đau đã vượt lên sự cảm thụ nó sẽ không còn đau nữa.
Ngày 7 tháng 2 bắt đầu như mọi ngày bình thường. Một lớp mây ẩm của mùa xuân phủ nhẹ lên bầu trời ven biển miền Trung. Cái không khí tết nhất cổ truyền vẫn chưa tan hết trong sinh hoạt của mọi người. Nhưng tất cả đang đứng trước sự bắt đầu của một tai họa khủng khiếp kéo dài trong nhiều năm sau đó.
Chiến dịch "Mũi Lao lửa 1" bắt đầu.Khi Huỳnh Vĩnh Quốc bay vào đất miền của miền Bắc thì quanh y đã thấy hàng đàn A.4D của Navy mang đầy bom đạn dàn theo đội hình bốn chiếc một. Từ tư thế bay thấp tránh cánh sóng ra-đa, các tốp máy bay bắt đầu vọt lên lấy độ cao, chúng thổi lại phía sau những luồng khói đen đặc sánh. Mây đã quang, mặt đất rực rỡ ánh nắng. Một cảnh thanh bình bao trùm những xóm làng xinh xinh như đồ chơi trẻ con bày trên mặt đất. Ở đất nước nghèo này vẫn còn mang đầy sinh thái của buổi nguyên sơ. Không có những điểm dân cư lớn, không thành phố, không khu công nghiệp. Những ngôi nhà lộng lẫy khang trang nhất thường là những mái tường của trẻ nhỏ. Ở độ cao trên ngàn mét nhìn xuống nó cũng chẳng có tầm vóc gì. Sự nổi bật của nó là nhưng tường quét vôi trắng.
Trong tổ hợp máy vô tuyến điện đã nghe thấy tiếng léo nhéo của bọn Mỹ điều khiển đội hình.
Vĩnh Quốc chỉ huy trưởng của phi đội B, quan sát địa hình trên mặt đất để hướng đồng bọn vào mục tiêu công kích.
- Hướng Tây Bắc, 3542 độ cao 1500.
Viên trung tá đối chiếu bức không ảnh (do máy bay thám sát U2 chụp ở độ cao mười tám ki-lô-mét được phóng to ra) với thực địa. Người ta chú thích: Kho vũ khí của Bắc Việt. Trong ảnh có nhiều xe vận tải đỗ. Nhưng xe không cố định nên hôm nay nó chạy đi đâu hết. Mặt đất chỉ hiện ra một cụm nhà tập trung ngay bên quốc lộ 1.
- Mục tiêu oanh kích. Tọa độ 3542. Kho vũ khí bên đường cự ly 2000.
Bốn chiếc AD.6 lượn vòng quanh mục tiêu. Theo phương án tác chiến, hướng bổ nhào Tây Bắc - Đông Nam, ném bom xong là lao về hướng biển. Vĩnh Quốc tách khỏi đội hình đẩy cần lái cắm xuống khu nhà. Mục tiêu nằm trong kính ngắm. Y bấm nút, máy bay khẽ rung vì khối lượng giảm đột ngột. Bốn trái bom tách ra khỏi cánh, y kéo cần lái ngóc đầu lên. Y nghiêng đầu nhìn lại, đã thấy những cụm khói che lấp nhiều ngôi nhà. Những chiếc sau lặp lại tương tự và Vĩnh Quốc bỗng nhận ra có những loạt súng nhỏ bắn lên từ mặt đất. Những dám cháy đã lan rộng ra những khu nhà tranh xung quanh. Y quan sát thấy những bóng người li ti chạy loạn xạ như đàn kiến. Y sẽ bắn nốt hai thùng rốc két còn lại vào những con kiến đó. Từ cự ly 3000, y cắm xuống với góc độ nhỏ hơn. Y phóng từng loạt đạn đỏ lừ. Y mỉm cười thích thú vì cảnh thấy đối phương bị đè bẹp hoàn toàn. Không có ai bắn lại. Vĩnh Xuống cho máy bay bay là trên mục tiêu một cách kiêu hãnh như để chào tạm biệt. Y bỗng thấy một loạt đạn sáng chói vọt lên từ trái đồi phía đông, rất gần. Nguy hiểm... nhưng không còn thời gian để cơ động né tránh nữa, y đón nhận sự thay rủi... Một va chạm và lưỡi lửa lóe lên từ đầu máy... Vĩnh Quốc cảm thấy sự trục trặc rõ rệt. Y kéo cần lái lấy độ cao hướng ra biển.
- 303 - 452 trúng đạn, nhảy dù, xin tiếp cứu!
Y hét đi hét lại nhưng không thấy tiếng ai trả lời. Một nỗi kinh hoàng choán ngợp thần kinh viên phi công. Y không còn nhìn thấy đồng bọn vì khói trùm khoang lái. Tiếng lục cục giảm đi và máy bay hầu như chỉ lao theo quán tính. Y đã nhìn thấy cái ngấn xanh của biển Đông. Lạy Trời Phật, chỉ cần ra tới biển, máy bay trực thăng sẽ đến cứu... Cái ngấn xanh đầy mơ ước đó vẫn chập chờn ẩn hiện sau làn khói. Y bỗng nhận thấy độ cao giảm nhanh tới mức không nhảy dù sẽ chết tan xác. Vĩnh Quốc bấu vào chiếc nút khẩn cấp. Một tiếng nổ. Y bật ra khỏi khoang lái. Gió thổi ù ù và những ngọn cây chuyển động dưới chân y. Khi những tham vọng tụt xuống, cái vẻ đẹp thiên thần của Bạch Kim hiện ra lạnh lùng như buổi tiễn đưa. Vĩnh Quốc cố tưởng tượng ra nụ cười của nàng nhưng không sao y làm nổi. Dù vừa mở thì y đã bị giáng xuống mặt đất và ý nghĩ của y cũng vụt tắt đi từ phút đó. Cách đấy vài chục mét chiếc “Giặc nhà trời" đã tạo nên một cột khói hình nấm.
…
Ba hôm sau Bộ Quốc phòng Sài Gòn chuyển tấm giấy báo tử đến "bà quả phụ Huỳnh Vĩnh Quốc". Bạch Kim đón nhận tin này không chút xúc động. Hàng trăm cú điện thoại chia buồn, hàng chục bài báo phân ưu hoặc ca ngợi phi công siêu hạng Huỳnh Vĩnh Quốc đã oanh liệt hy sinh sau khi oanh kích nhiều kho tàng và vị trí quân sự của Bắc Việt trên vĩ tuyến 17 cũng không làm cho bạch Kim quan tâm. Hôm không lực làm lễ truy điệu cho “người anh hùng" ở sân bay Tân Sơn Nhất, họ đón Bạch Kim đến. Cô chờ hết bài điếu, thắp cho người chết một tuần hương nhưng tuyệt đối kháng nhỏ lệ, không nói một lời.
Mãi sau này Kim mới nói với tôi:
- Em đã linh cảm thấy điều đó sẽ xảy ra. Em đã hết sức can ngăn nhưng vô hiện. Anh ấy thèm khát một ngôi sao cấp tướng, chứ chẳng còn yêu em nữa. Em nghĩ đến tuần trăng mật ở lâu đài Météor và em cảm thấy nó báo hiệu điềm gở. Météor, ngôi sao băng, cái mong manh trong khoảnh khắc, cái "vang bóng một thời". Hạnh phúc của em xây dựng trên lâu đài Météor trước sau cũng tàn lụi. Em không luyến tiếc một chút nào... Còn anh nữa đấy, anh Nghĩa ạ. Em chẳng thích thú gì những bông mai trên ve áo anh đâu. Anh chị nên tìm đến một nơi nào yên tĩnh trên trái đất mà sống. Anh chị thiếu gì em sẽ giúp. Em không muốn một người tốt đẹp như anh phải chết cho nhưng trò điên rồ.
- Cảnh ơn Bạch Kim. Anh sẽ không bao giờ chết cho một mục đích điên rồ. Anh nhớ lời ông cụ trăng trối trước khi mất: Phải biết mơ mộng cho một cái chết thanh thản.
CHƯƠNG XVIICÔ ĐƠN GIỮA BIỂN NGƯỜI
Quân Mỹ ồ ạt kéo vào liền Nam như củi lụt. Johnson quyết định giành thắng lợi bằng quân sự. Không phải hai trăm ngàn như Taylor dự kiến mà tướng Davis coi là quá nhiều. Weotmoneland đã nâng lên mãi ba trăm rồi bốn trăm ngàn. Cũng không phải chỉ nhảy vào tạo ra sự có mặt để buộc đối phương thay đổi mục tiêu chiến lược như Antonio mong đợi mà quân Mỹ đã phải thực sự tham chiến và chịu đựng những thương vong nặng nề. Cuộc ném bom miền Bắc vẫn tiếp tục leo thang ngày càng ác liệt. Đã có lúc Johnson tin rằng đối phương đã ngấu đòn đang tìm cơ hội để bỏ cuộc nên y đã cho ngừng ném bom một tháng và đọc bài diễn văn ở Balitimore, Johnson giơ cái gậy và củ cà rốt ra để khuyến khích đối phương đến bàn hội nghị.
Đài tiếng nói Hoa Kỳ ngày đêm nhai nhải một luận điệu đại loại như sau:
"- Các ông chống trả đến như thế là dũng cảm lắm rồi. Nhân danh một cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới, chúng tôi tỏ lòng kính trọng các ông. Nhưng xin các ông đừng vì thế mà có ảo tưởng là cứ chịu đựng, cứ phiêu lưu một chút nữa là các ông có thể giành được một tư thế nào đó tốt hơn hiện nay. Thực tình chúng tôi phải tự kiềm chế, phải lết sức giới hạn những khả năng của mình, vì chúng tôi không mưu tìm một chiến thắng quân sự. Chúng tôi chỉ cầu nguyện sớm đi đến một nền hòa bình trong danh dự cho cả đôi bên. Chúng tôi chỉ yêu cầu các ông đừng xâm lược Nam Việt nữa. Các ông ngừng thâm nhập, vấn đề mất ổn định ở Nam Việt chúng tôi sẽ thu xếp với nhau. Thế là một nền hòa bình sẽ đến với các ông ngay. Thậm chí chỉ trong vài giờ. Chúng tôi nghĩ rằng các ông tuyên bố điều này ra cũng chẳng khó khăn gì vì từ xưa đến nay đã có lần nào các ông thừa nhận là mình xâm lược, mình đưa quân vào Nam Việt đâu. Còn như nếu các ông ngượng, các ông không nói gì cũng được, chỉ xin các ông cho chúng tôi một tín hiệu thiện chí, thông qua một đường ngoại giao bí mật hoặc gián tiếp tuỳ các ông chọn. Chúng ta sẽ hiểu được nhau thôi và một nền hòa bình sẽ đến với quý vị, có thể nó sẽ chậm hơn một chút.
- Một khi tin chắc là các ông đã từ bỏ mục tiêu của mình, Chính phủ Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ ra một tỷ đô-la để xây dựng lại những nơi bị tàn phá. Một tỉ đô-la không phải là ít đâu. Các ông chưa bao giờ có số tiền lớn như thế trong tay nên các ông không hình dung nổi sức mạnh của nó. Nếu một người nào đó đếm từng đồng đô-la để đến được con số một tỉ thì cả trăm năm cuộc đời họ cũng không đủ để làm việc đó đâu! Chắc chắn các thứ các ông bị mất đi chưa đến một tỉ đô-la. Thế là các ông còn lời ra được một số kha khá. Các ông sẽ dùng để xây dựng chủ nghĩa xã hội của các ông, xin tuỳ, chúng tôi hoàn toàn không can thiệp.
- Nếu có kẻ xấu mồm nào đó chửi các ông là đầu hàng thì xin các ông đừng tin. Có kẻ đầu hàng nào không phải nộp vù khí không bồi thường chiến phí mà còn được lĩnh thêm một tỉ đô-la viện trợ bao giờ đâu! Các ông cũng chẳng phản bội ai. Không ai có thể nói mình phản bội mình. Quay một trăm tám mươi độ là quyền thiêng liêng của mỗi con người khi anh ta nhận thấy phía trước là vô vọng, là tử lộ. Ngay như chúng tôi nhiều lúc cũng phải điều chỉnh chính sách, cũng phải uyển chuyển cho phù hợp với thực tiễn. Các ông học chủ nghĩa Mác mãi, học phép biện chứng mãi, các ông lạ gì điều này!...”.
Tôi nhớ những luận điệu của địch không nguyên văn, nhưng ý của nó trắng trợn như vây đấy. Sống trong vùng địch tôi phải đọc nhiều báo chí của chúng, chỗ nào cũng thấy cái giọng, điệu ngạo mạn trên. Đó là thời kỳ giới cầm quyền Mỹ tin tưởng vào thắng lợi quân sự hơn bao giờ hết. Vừa xây dựng được xã hội vĩ đại lại vừa chặn đứng hiểm họa cộng sản. Johnson sẽ trở thành một tổng thống vi đại, một con người hùng của lịch sử hiện đại.
Một số bè bạn ta, một số người có thiện chí cũng khuyên ta nên đàm phán - "Hòa với chúng đi. Chúng chúng biết điều rồi đấy! Ăn non một chút không sao! Không thắng nổi chúng đâu!...". Các bạn thành thực thương ta, lo cho ta chứ không phải có ý xui dại ta.
Không phải chúng ta điếc không sợ súng. Chúng ta cũng có những điều đáng sợ. Chúng giơ chiếc gậy buộc ta run sợ từ bỏ chân lý: nước Việt Nam là một dân tộc Việt Nanh là một. Chúng ném cho ta củ cà rốt để ta vồ lấy nhai ngấu nghiến nuốt trôi đi cái nỗi nhục ứ trong cổ họng! Ôi đó mới là điều đáng sợ. Sợ hơn cái chết cho chính bản thân ta. Sợ hơn trận đại hồng thủy mà không có con thuyền Nô-ê, sợ hơn cả ngày tận thế.
Đảng ta, Chính phủ ta và quân dân cả nước ta tỉnh táo biết bao trong những ngày gian khổ ác liệt đó! Trừ có bọn bán nước, không người Việt Nam có lý trí nào lại có thể lọt tai được những điều kiện của chúng. Đó là liều thuốc bức tử. Ta chưa bị chúng lừa, nhưng chúng lừa ai, ta đều đã biết. Ta không quen thuật ngữ: "đầu hàng trong danh dự" vì không thể tìm thấy danh dự trong sự đầu hàng. Một khi ta tỏ ra mềm yếu, kẻ thù sẽ lấn tới ngay để tước đoạt đến cái cuối cùng của niềm hy vọng. Kẻ nào đáng giá một tỷ đô-la sẽ bị kẻ có một tỷ linh một đô-la đánh bại. Đó là chân lý thông thường. Chúng đánh giá và muốn mua chúng ta bằng một tỷ đô-la!
- Không!
- Một trăm tỷ?
- Một ngàn tỷ cũng không, độc lập tự do của một dân tộc không có giá nào để mặc cả.
Chúng ta nói ngược lại. Mỹ rút quân: người Việt Nam sẽ giải quyết với nhau. Một nền hòa bình chân chính sẽ đến. Đó là tín hiện của chúng ta. Tín hiệu duy nhất, sắt đá mà chúng ta biểu hiện cho đến tàn cuộc.
…
Khi đội quân viễn chinh tăng lên gần đến mức kỷ lục, cuộc ném bom leo thang đến mức bão hòa thì chính trong nội tình những kẻ xâm lược lại nảy sinh vấn đề. Nhân dân Mỹ, những người có đầu óc minh mẫn trong chính quyền đã chống lại cuộc chiến tranh vô vọng và phi lý này.Antonio sang Việt Nam vào thời điểm đó. Anh điện cho tôi biết trước và vợ chồng tôi đã ra đón anh ở sân bay Tân Sơn Nhất. Chúng tôi giữ phép xã giao. Khi anh chưa nổ súng vào đồng bào tôi với tư cách cá nhân tôi vẫn coi anh như một người bạn cũ.
Chúng tôi mời người Mỹ này về nhà dùng bữa trưa. Chúng tôi mở sâm-banh nâng ly chúc tụng anh. Tôi vẫn còn kỳ vọng ở anh một con người thông minh, nhạy cảm và nhiệt thành một cái gì khác với những quan điểm anh đã có. Sau vài phút xã giao, anh vui vẻ tâm sự với chúng tôi.
- Tất cả mọi con đường đều dẫn tới Giê-ruy-da-lem. Việt Nam đã có thể cạnh tranh với đất thánh để trở thành Giê-ruy-da-lem của thời đại. Bao nhiên cuộc hành hương đều dẫn đến đây, xét cả về hai phía. Cùng bay với tôi ở Kansas City có mấy người Mỹ đi Hà Nội. Họ tuyên bố sẽ vận động đưa vài trạm trẻ em Mỹ sang để ngăn chặn chiến dịch ném bom của Thông thống. Còn tôi thì bay đến Sài Gòn đến với các bạn.
- Cảm ơn thiếu tá. Chúng tôi vô cùng biết ơn Chính phủ Mỹ, biết ơn các quân nhân Hoa Kỳ đã sang đây cứu giúp đất nước đau thương của chúng tôi. - Anh tôi đáp lễ rất lâm ly.
- Dĩ nhiên là có thêm tôi,tình hình không vì thế thà thay đổi. Ba tôi lại bảo tôi không nên đi nữa, không phải ông sợ nguy hiểm mà theo ông, đã có quá nhiều đi tìm kiếm vinh quang rồi. Dù sao ông cụ cũng không muốn người ta làm một cái gì vượt quá Normandie.
- Riêng trong trường hợp này thì lời khuyên của ông cụ là đúng. Tôi rất vin mừng được gạp anh, nhưng không muốn anh phải dính líu vào cái bãi lầy của chúng tôi.
- Đằng nào cũng phải tham gia chiến tranh! - Anh ta nháy mắt cười - Ở Mỹ cũng đang có một cuộc chiến tranh thực sự. Riêng cuộc tấn công hòa bình ở Chicago có tới bảy trăm thương vong, hàng trăm xe cộ, nhà cửa bị đốt phá! Nhưng cuộc chiến tranh tiến hành ở Mỹ là của những người hèn nhát. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam dành cho những người cũng cảm. Tôi đã lựa chọn nó như lựa chọn danh dự.
Antonio thích thú đến ngây thơ vào sự lựa chọn của mình.
Anh được điều về căn cứ Bình Đức.
Một tháng sau Antonio trở về Sài Gòn với một bộ mặt khác. Anh ta mất hết nhuệ khí.
- Anh có điều gì không vui? - Tôi hỏi.
- Chẳng có ai để mà đánh nhau cả. Tôi mới sang không thấy Vi-xi đã đành, nhưng khi tôi hỏi binh sĩ trong một đại đội cũng chưa ai thực sự nhìn thấy Vi-xi đâu. Đúng là họ đã nhìn thấy xác chết, nhưng không có giấy tờ hay vũ khí để mà đoán chắc đó là Vi-xi. Đại dội cũng đã có nhiều thương vong nhưng không ai nhìn thấy đối thủ bắn mình! Có cách gì khiêu thích họ để họ xuất hiện tiến hành chiến tranh quy ước với chúng ta không nhỉ?
- Có rất nhiều cách. Một khi anh ở tư thế yếu hơn họ thì họ sẽ xuất hiện ngay. Lúc đó họ không thèm bắn anh đâu, họ sẽ bắt sống! Chúng ta thường có những đòi hỏi vô lý. Trong khi chúng ta có đầy đủ máy bay thừa thãi bom đạn và hóa chất độc dược che chắn bằng vỏ thép dày chúng ta lại muốn tước đi cái ưu thế nhỏ nhoi của họ, đó là sự tránh đòn. Sự thách thức của chúng ta là bất công, là một mưu đồ xấu. Một trận đấu như vậy là gian lận, không có danh dự và đáng xấu hổ. Nếu bây giờ họ nêu ra một quy ước: quân số bằng nhau, vũ khí như nhau, liệu chúng ta có vui lòng chấp nhận trận đấu không?
John Antonio cảm thấy lúng túng và thất vọng.
- Cứ tiến hành kiểu này thì bao giờ ngã ngũ? Oét-ti có xin đến một triệu quân cũng không đủ khả năng giành thắng lợi. Chính vì thế mà tôi không muốn anh sang đây. Anh dính líu vào công việc của chúng tôi chỉ thêm khổ anh thôi. Tôi thành thực tin ở thiện chí của anh, nhưng anh đã đặt thiện chí đó vào một chỗ không thích hợp.
Antonio bỏ tất cả thời gian của hai ngày nghỉ để viết một bài gửi cho một tờ báo Mỹ. Anh rất vất vả vì đây là lần đầu, một công việc xa lạ với anh. Nhưng John cảm thấy cần gào thét lên cái suy nghĩ của mình cho mọi người nghe thấy. Chính cái nhiệt tình đó giúp anh vượt qua những khó khăn về kỹ thuật. Tên bài báo là "Cuộc đánh lộn của hai thằng mù”. Anh mô tả cuộc chiến tranh này là vô bổ, là điên rồ, chỉ gây ra tàn phá. Cả hai phía đều mù quáng về mục đích, ảo tưởng về thắng lợi và cuối cùng sẽ có chung thất bại. Đã thế họ còn phá nát những gì quanh họ và gây tổn thương cho cả nhân loại. Quan điểm của anh là bi thảm.
Là tiếng nói của một sĩ quan ở chiến trường, bài báo có tiếng vang rộng lớn và gây bất bình trong giới lãnh đạo quân sự. Vài viên tướng chỉ trích anh làm cho anh càng nổi tiếng càng muốn tranh cãi.
Tôi không đồng tình với anh đến quá nửa. Nhưng tôi chấp nhận anh bởi lẽ anh chưa thể có nhận định sâu khi anh mới thực sự bước vào cuộc chiến có vài tuần.
Gần cuối năm 1967 tôi mới lại gặp viên thiếu tá. Anh nhanh nhẹn và vui tươi hơn lần trước.
- Đã được nhìn thấy Vi-xi chưa? - Tôi hỏi Antonino.
- Rồi. Được nhìn thấy rất nhiều, rất nhiều - Anh vui vẻ kể - Căn cứ của bọn mình được chăng kín dây thép gai, những bãi mìn, máy nghe tiếng động, kính ngắm hồng ngoại, ra-đa phát hiện và định vị trận địa pháo binh. Thế mà ban đêm Vi-xi vẫn đột nhập và quăng những gói thuốc nổ vào nhà giết chết hai mươi hai GI’s1 (Lính Mỹ). Khi đơn vị hồi tỉnh để đối phó thì họ đã biến mất. Chiến tranh diễn ra bất cứ lúc nào và ở đâu. Nay một viên đạn bắn lén làm gãy tay viên thượng sĩ tuần tra. Mai một viên đạn chui vào lỗ châu mai giết chết một binh nhì đứng gác. Họ còn dùng súng cối thỉnh thoảng nện vài viên. Khi ra-đa kịp chuyển hướng để định vị trận địa thì Vi-xi lại không bắn nữa. Họ muốn biến đây thành địa ngục để xua đuổi bọn mình vì họ không đủ sức tràn ngập căn cứ. Bọn mình đáp lại cũng không nhẹ tay. Họ bắn ba viên cối mình trả lời một ngàn viên 105. Mình mất hai mươi hai người, một kho nhiên liệu. Họ mất bao nhiêu? Không biết. Mình quyết định bay đến khu vực vừa pháo kích. Một ấp nhỏ trơ trụi, những người dân đang thu dọn sự đổ vỡ. Vài người ngồi khóc lóc bên ba xác chết: một em bé, một ông già và một thiếu nữ. Họ nhìn bọn mình bằng cặp mắt rực lửa. Không thấy dấu vết gì của một trận địa súng cối. Đúng như bạn nói: chúng mình đã cứu vớt họ bằng cách mở cửa cho họ đến thiên đường quá sớm.
Một lần khác may mắn sao ra-đa định vị chắc chắn được trận địa súng cối của họ. Mình không bắn trả ngay mà quyết định đưa một tiểu đoàn không vận đổ ngay xuống khu vực này. Đó là một ấp nhỏ cách căn cứ chừng hơn một dặm. Sự phản ứng nhanh chóng đã vây gọn Vi-xi trong ấp. Nhưng cũng phải chiến đấu chín mươi phút mời chiếm được cái ấp đó. Tất cả dân làng được tập trung lại một chỗ. Không thấy còn tên Việt cộng nào. Ngay cả những xác chết cũng không thể phân biệt được với mọi người thường dân khác.
“Việt cộng đâu" - Tôi hỏi qua viên thông dịch người Việt. Anh ta dịch lại câu trả lời của tất cả mọi người.
"- Không biết".
"- Sao lại không biết? Chúng ở trong làng bắn lại quân Mỹ liền chín mươi phút cùng với các người, tại sao lại không biết".
"- Khi các ông bắn, chúng tôi ngồi nấp trong hầm. Cách đây chín mươi phút Việt cộng làm chủ ở đây. Bây giờ đến lượt các ông".
Những người Việt Nam này đều trả lời như vậy bất chấp những cực hình tra tấn. Người phiên dịch bất lực giải thích cho tôi:
“- Tất cả bọn chúng là Vi-xi. Có thể đem bắn tất mà không sợ lầm".
Câu nói thông minh của hắn làm tôi sướng điên lên. Thế là tôi đã được nhìn tận mắt thấy Vi- xi rất đông, từ đứa trẻ ẵm ngửa đến ông già tóc bạc. Tất cả là Vi-xi, tôi thành thật tin là như vậy. Tôi đến đây để tiêu diệt họ, để cứu người Việt Nam bị họ thống trị, đầy đọa khủng bố. Những người Việt Nam đó là những tướng lĩnh, những chính khách, những nhà buôn, những chủ tiệm rượu và chủ sòng bạc những chủ hãng xuất nhập khẩu và tàu buôn... Họ sống trong những bin-đinh sang trọng, uống rượu sâm-banh Pháp, nghe máy nhạc Nhật, ti-vi Mỹ và đi những chiếc xe de luxe. Họ sống sung túc hơn nhiều người Mỹ bình thường! Lạy Chúa, thật là thú vị. Sự hy sinh của nhưng người Mỹ mới thật đáng giá! - John Antonio cười chua chát.
- Tôi đã nói với anh từ ngày ở trại Olivơ kia mà. Cứ để chúng tôi thu xếp với nhau tiện hơn. Các bạn không đáng đổ máu cho cuộc chiến tranh này.
Antonio viết bài báo thứ hai thật xúc động:
"Tôi đã nhìn thấy Việt Cộng
Tôi đã nhìn thấy kẻ thù”.
Anh đã bị viên tư lệnh lữ đoàn kiện trước tòa về tội thóa mạ mục tiêu chiến đấu của quân đội Mỹ. Báo chí đã bênh vực anh. Những người trước kia được anh gọi là hèn nhát đã dũng cảm biểu tình, thuê mượn luật sư bào chữa cho anh. Antonio vô tội. Anh từ bỏ quân đội và trở lại Việt Nam ngay ngày hôm sau. Vợ chồng tôi không đón anh ở sân bay nhưng đã có cuộc gặp gỡ thân tình ở Khách sạn Phoenic.
- Cuộc hành hương đến đất thánh của tôi lần này không nhằm vào mục tiêu "cứu vớt" các bạn. Tôi mong muốn các bạn tự thu xếp với nhau đừng ảo tưởng vào những giải pháp từ bên ngoài. Tôi cần đến với những người bạn Mỹ của chúng tôi. Họ đang lặn ngụp trong cái vũng lầy của các bạn đã đành, tệ hơn nữa họ còn bị chìm đắm trong sự lừa gạt dối trá. Họ cần phải biết điều đó.
Mùa xuân năm 1968 đã đến.
Chiến tranh đang ở vào những cung bậc cao nhất của nó. Viễn cảnh hòa bình mờ nhạt. Quân Mỹ tăng lên xấp xỉ năm trên ngàn. Nước Mỹ đã bước đến giới hạn phải gọi quân trù bị.
…
Ngày 15 tháng 1, chúng tôi nhận được điện của Trung tâm thay đổi giờ lên máy nhận tin từ không giờ ba mươi ngày chẵn sang hai mươi ba giờ ngày lẻ. Cậu Đức còn cho tôi mật khẩu khi có ngươi đến gặp trực tiếp tại nhà. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được bắt liên lạc với một người ở nhà mình. Đó là một ngoại lệ, một sự khinh suất mà trong nghề nghiệp chúng tôi rất kỵ. Chắc là có chuyện gì đặc biệt đây?
Đêm giao thừa Sài Gòn thật tưng bừng, pháo nổ ran. Một làn khói xanh lam tràn ngập thành phố. Dưới ánh điện muôn màu, những bộ quần áo sang trọng nhất được đem ra trưng diện. Ô tô bóng loáng nối đuôi nhau trên các đại lộ. Vợ chồng tôi và cháu nhỏ cũngg lướt trên đường phố với dòng người hân hoan này. Hai mươi ba giờ chúng tôi đã có quạt ở nhà để kịp lên máy nhận tin. Bức điện ngắn ngủi: "Đêm nay nếu cần sẽ có người tìm cháu bàn việc. Mật khẩu: Cháu nói số a bất kỳ. Người đó trả lời b sao cho a + b = 15".
Thế là tôi phải sẵn sàng thức để chờ đợi một sự việc quan trọng.
Vào giờ này Đỗ Thúc Vượng vẫn còn quanh quẩn ở nhà anh tôi. Từ sau những thảm họa gia đình và xã hội to lớn, anh ta đã kiệt sức tưởng không sao sống nổi, nhưng nhờ có sự giúp đỡ của bạn bè, Vượng đã khỏe mạnh và ổn định tinh thần trở lại. Anh chưa quay lại hoạt động chính trường nhưng hình như những khát vọng bị tàn lịu lâu nay bỗng lại phục hưng cùng thể xác. Anh ta đã bắt đầu viết báo và giao du với một số phần tử Đại Việt. Anh ta hay đến đây thứ nhất là vì tình bạn lâu năm với anh tôi. Thứ hai là anh ta độc thân, đến đây ăn uống cho xong bữa. Nhưng tôi phát hiện ra lý do thứ ba: Anh đang muốn cầu hôn với Bạch Kim.
Từ ngày chồng chết, Kim sống tự do, bạn bè lại đông đúc. Hàng tá đàn ông quanh quẩn bên người "quả phụ” xinh đẹp đó. Người có vinh hạnh được Kim tiếp nhiều và lâu nhất là Đỗ Thúc Vượng. Anh ta không biết hát tình ca, không đọc thơ, cũng chẳng nghe âm nhạc hay bình luận hội họa bao giờ. Anh ta thích nói chuyện triết học. Anh ta nói say sưa nhiệt thành với người đẹp như khi anh đứng trước giảng đường. Còn Bạch Kim thì cứ tròn mắt ra nghe. Có lẽ Bạch Kim cũng thích thú những thứ này nên cô không bao giờ cắt lời anh hay bỏ dở buổi thuyết trình. Nhưng đôi lúc cô cũng đưa ra một câu hỏi bất ngờ hắc búa làm cho nhà hùng biện phải lúng túng. Những chủ đề anh trình bày thường rất khó hiểu. Không hiểu nội dung bản chất của vấn đề là khó biểu hay do cách trình bày của. anh. Tôi có cảm giác là anh ta mê say sự cao siêu, sự trừu tượng mờ ảo của vấn đề. Tôi nhớ một lần anh ta thuyết trình chủ nghĩa hiện sinh của Kiếc-cơ-gô. Anh ta cho rằng sự ra đời của con người và sự tồn tại của thế giới là cái phi lý tuyệt đối không sao hiểu được. Vì vậy con người phải chấp nhận phi lý, chịu đựng những bi kịch thì mới có tự do. Khi phát triển chủ để trên anh nhấn mạnh đến sự phục tùng số mệnh, thích nghi hoàn cảnh, chịu đựng lo âu đau khổ. Nhưng trên một bình diện khác của chủ đề này, anh lại coi con người bị ném vào cuộc sống nên nó phải dấn thân, nổi loạn hành động để tạo cho mình một cuộc sống thực sự nó mới có tự do. Ở đây anh lại nhấn mạnh đến tính tích cực, tính nổi loạn không buông xuôi chấp nhận định mệnh. Tóm lại, tôi thấy sự truyền bá tư tưởng của anh mang tính nguỵ biện mâu thuẫn. Hình như anh chỉ muốn đưa ngườỉ nghe vào một mê cung thần bí. Triết học của anh lại gần với những tà giáo. Đối với Bạch Kim có lẽ động cơ của anh cũng khác. Anh đang cố dẫn dắt trái tim cô đơn này vào mê cung của tình ái. Nhưng Kim cũng là cô gái bướng bỉnh. Cái hay, cái đẹp đối với cô phải là cái hiểu được.
Sự có mặt dai dẳng của anh ta ở đây hôm nay làm tôi sốt ruột, tôi không muốn anh giáp mặt với người khách của tôi. Tôi không nghi ngờ anh nhưng là người cẩn thận bao giờ tôi cũng muốn bịt kín mọi kẽ hở, tôi đành phải phá ngang cuộc nói chuyện của họ.
- Bạch Kim ơi! Ít phút nữa có điện gọi anh đi trực thì Dung phải đưa anh đi. Nhờ Bạch Kim coi Tô tô giúp anh ít phút nhé. Anh sợ pháo nổ chát giật mình tỉnh dậy không có ai nó khóc ầm lên thì dông cả năm đấy.
- Anh yên tâm. Em lên ngay bây giờ đây!
Thực ra Kim cũng mong có cơ hội này để thoát khỏi ông khách ngồi dai. Cô đã mệt mỏi rã rời vì đi chơi quá nhiều...
Không giờ mười lăm phút bỗng thấy tiếng súng rộ lên. Lúc đầu còn lẫn tiếng pháo, nhưng sau đó những tiếng nổ lớn làm rung cả cửa kính. Tôi không rõ chuyện gì xảy ra cụ thể nhưng cũng đoán được là quân ta đã khởi sự tiến công vào một vị trí nào đó.
Nửa giờ sau có một người đỗ hon-đa trước cửa vào bấm chuông. Tôi ra mở cửa. Sau khi trao đổi mật khẩu, anh nói với tôi:
- Anh chị đến gặp đồng chí Đức có nhiệm vụ gấp.
Anh cho tôi địa chỉ rồi phóng xe đi gọi người khác. Tôi bảo Dung nhờ Kim xuống với Tô tô và dặn Kim nếu thấy điện Bộ Tổng tham mưu gọi thì trả lời giúp là tôi vừa đi rồi.
Hai phút sau tôi đã cho xe ra khỏi ga-ra. Dung lái, tôi cầm súng cảnh giới. Xe chúng tôi lao về phía Cầu Bông, tôi nghe thấy tiếng súng nổ dữ dội phía đài phát thanh. Ngoài đường lúc đó rất vắng người. Xác pháo còn ngập bên vỉa hè. Vài phút sau tôi đến điển hẹn. Không thấy ai dừng chờ, Dung xuống xe đến bấm chuông một hiệu ăn đã đóng của. Cô dùng mật khẩu và đã bắt được liên lạc. Chúng tôi theo một cô gái đi sâu vào trong hẻm đến nhột ngôi nhà ba tầng. Chúng tôi lên tầng hai và gặp cậu Đức.
Cậu bắt tay chúng tôi nhưng nhìn vẻ mặt của cậu có vẻ bận rộn như có điều gì không thanh thản nên chúng tôi chỉ ngồi chờ. Năm phút sau cậu mới nói:
- Đêm nay chúng ta mở cuộc tiến công vào thành phố. Có năm mục tiêu quan trọng, trong đó có Bộ Tổng tham mưu. Tình hình ở đó hiện nay không thuận lợi. Quân ta không tiến công được vào hướng cổng Phi Long. Đã có hiệp đồng với nhân mối nhưng bộ đội đến chậm mất một giờ nên không còn bắt được liên lạc. Kiểm lại những người có mặt ở đây chỉ có cháu là quen biết địa hình ở đó. Bộ chỉ huy giao cho cháu dẫn đường đánh vào hướng cổng phụ. Khi quân ta chiếm được đầu cầu, cháu phải trở về đây ngay, cháu thấy thế nào?
- Cháu quen biết địa hình ở đây. Chỉ có mặt bố phòng thì cháu không đi sâu vì chưa được báo để chuẩn bị trước. Tuy vậy cháu cũng có thể giúp ích cho anh em được nhiều. Xin cậu cho cháu đi ngay.
- Cháu cũng xin đi! - Dung hăng hái xung phong.
- Tất cả đều có việc. Bây giờ Nghĩa đến chỗ trung đội một đại đội ba ở khu tập kết hai. Đồng chí liên lạc sẽ dẫn cháu đi. Nhanh kẻo gần sáng mất rồi.
Tôi bắt tay Dung rồi chạy ra xe chở đồng chí liên lạc đi. Tiếng súng trong thành phố nổ rất quyết liệt pháo binh địch đã hồi tỉnh bắt đầu bắn dữ dội vào các tuyến mà chúng nghi quân ta tiến quân vào. Tôi đến khu tập kết hai thì gặp đơn vị dự bị có mặt ở đây đang chờ. Sau khi được giới thiệu với đồng chí chỉ huy tôi trình bày ngay cách đánh mà tôi vừa dự kiến trên đường đi thì Sở chỉ huy đến đây.
- Tôi sẽ lái xe này vào thẳng cổng để xin vào làm việc theo lệnh gọi. Khi bọn gác ra mở cổng xem giấy thì đồng chí ngồi trong xe lia đạn vào chúng và chiếm bốt gác, mở cửa cho quân ta ào vào.
Ý kiến của tôi được anh em chấp nhận. Lúc này yếu tố bất ngờ chỉ còn trông vào mẹo vặt. Quân địch báo động. Tiểu đoàn tổng hành dinh đã triển khai bố phòng nghiêm mật. Chắc chắn chúng không cho ta nhưng khe hở lớn để đột nhập.
Trung đội một tiếp cận cổng phụ lúc một giờ ba mươi tám phút. Khoảng cách của hai bên chừng bảy mươi mét. Đó là những chiến sĩ đặc công nên họ giữ đợc bí mật hành động. Tôi để một đồng chí nằm trong xe với khẩu AK. Tôi bật pha sáng từ xa và lao thẳng xe về phía cổng phụ.- Đứng lại! - Có tiếng quát từ phía cổng và tiếng lên đạn lạch cạch. Tôi dừng xe cách cửa chừng chục mét.
- Cho tôi vào làm việc. Tôi là sĩ quan ở Bộ Tư lệnh hành quân tác chiến - Nói xong tôi cho xe tiến lên gần sát cổng tắt đèn pha và nhảy xuống. Thấy có mình tôi, tên lính gác mở cửa bên, tiến ra. Theo sau có hai tên nữa. Chúng hỏi mật khẩu, tôi quát luôn:
- Mật khẩu cái mẹ gì. Tôi đang nghỉ phép, có lịnh gọi thì phải vào. Tôi có trực đâu mà biết mật khẩu. Chỉ có chứng minh thư thôi, cho vào thì cho. Nếu không ký cho tôi một chữ tôi về.
Một tên tiến lên sát mặt tôi xem giấy. Tôi nổ súng ngay. Đồng chí trong xe cũng kịp phối hợp hành động. Không tên nào thoát chết. Đồng chí chiến sĩ quăng vào chòi gác một quả lựu đạn tấn công. Tôi đẩy bật cửa phụ và cả hai chúng tôi nhảy được vào trong. Tiểu đội gác bị tiến công bất ngờ, chúng chạy tóe vào phía trong, quay súng bắn lại. Lúc đó toàn trung dội đã ào lên nhanh chóng chiếm được cổng phụ, bốt gác và cán buồng trực bên trong. Có B.40, anh em dập tắt được mấy hỏa điểm, chuẩn bị phát triển tiếp. Tôi báo với đồng chí trung đội trưởng tôi phải về Sở chỉ huy nhận nhiệm vụ khác. Tôi quay ra, chiếc xe bị trúng nhiều vết đạn nhưng may là máy vẫn nổ. Vừa lái tôi vừa nghĩ cách giải thích nhưng vết đạn trên xe nếu như tôi còn phải tiếp tục hoạt động công khai.
Tôi bào cáo tình hình với cậu Đức và đề nghị phải có lực lượng tiếp viện thì trung đội mới phát triển được. Cậu Đức đăm chiêu suy nghĩ vì trong tay Bộ Chỉ huy không còn bao nhiêu lực lượng dự bị. Cậu cho tôi biết Dung đi với bộ phận tiếp viện cho mũi Đài phát thanh, chưa có tin gì báo về. Tôi ngồi ở căn phòng chờ của Sở Chỉ huy lòng như lửa đốt. Cậu Đức cũng rất bận nên không tiếp chuyện tôi.
Ba giờ ba mươi cậu chạy bổ ra phía tôi.
- Dung hy sinh rồi Nghĩa ơi!
- Trời ơi, bây giờ Dung ở đâu, cậu cho cháu ra với Dung ngay.
Một nỗi đau đớn đột ngột giáng vào tôi. Thần kinh tôi choáng váng như muốn gục xuống. Tôi không ngờ cách đây hai giờ đồng hồ chúng tôi đã bắt tay nhau lần cuối cùng. Tôi không nói được gì nữa và cứ ngồi câm lặng.
- Thôi, đau khổ cũng không thay đổi được cháu ạ, chiến đấu là phải có hy sinh, tổn thất. Nhưng tổn thất này là quá lớn, ở cương vị chỉ huy cậu cũng đã có lường trước, có đắn đo, nhưng do bức bách cửa tình hình, lực lượng dự bị cạn, cậu đã tung tình báo viên chiến lược vào nhiệm vụ tác chiến chiến thuật. Bài học này đã phải trả bằng máu. Nhưng thôi, bây giờ chưa phải là lúc rút kinh nghiệm. Chúng ta phải tính giải quyết hậu quả. Nhiệm vụ của cháu vẫn là phải hoạt động hợp pháp. Vì vậy phải tìm cách giải thích hợp lý những gì đã xảy ra...
Mười phút sau đấy, đơn vị đã đưa thi hài Dung về. Nhìn vợ, lòng tôi đau như cắt, tôi như muốn ngất đi.
Dung được đặt lên chiếc xe của tôi để chứng tỏ cô bị đạn khi lái xe cho tôi đến Bộ Tổng tham mưu. Tôi giật mình vì cái chứng minh thư của tôi còn trong tay tên ngụy bị giết. Không biết có ai nhặt giúp tôi không. Sơ xuất này đẩy tôi đến một tình thế khó khăn. Tôi phải tạo ra một kịch bản đủ bịt kín lỗ hổng đó.
Bốn giờ ba mươi tôi đưa xác vợ về nhà. Tự tay tôi lái chiếc xe trong hoàn cảnh tinh thần bị tổn thương lớn lao. Tôi lại còn lo đối phó với kẻ địch. Cả nhà đều bàng hoàng trước tin đau đớn này. Bạch Kim giữ chặt chán Trung trong buồng để cháu khỏi nhìn thấv hình ảnh mẹ trong lúc đó. Nhưng tôi vẫn phải bế con ra để cháu được vĩnh biệt mẹ, để cháu in sâu suốt đời hình ảnh đau thương này.
Tôi gọi điện báo về Bộ Tổng tham mưu toàn bộ tình tiết như sau:
“- Lúc mười hai giờ mười làm phút nghe tiếng súng nổ dữ dội, tôi đoán là có biến. Tôi nóng ruột muốn trở về nhiệm sở. Tôi gọi điện hỏi tin nhưng đường dây bị hỏng. Mười hai giờ bốn mươi lăm phút tôi bảo vợ lái xe đưa tôi đến cổng Phi Long… nhưng chiến sự đã diễn ra ác liệt khiến tôi không sao vào được. Tôi chờ đợi đến một giờ hai mươi tình hình vẫn không rõ rệt. Tôi lái xe về cổng phụ, một giờ ba mươi tôi trình giấy xin vào. Người gác đang xen thì lột loạt đạn đã bắn vào chúng tôi. Người lính gác trúng đạn. Tôi nhảy xuống. Địch bắn dữ dội và tôi kẹt giữa luồng đạn của đôi bên. Cửa phụ đóng kín, tôi bò ra phía xe nhìn vào thì vợ tôi đã bị trúng đạn nhưng chưa tắt thở. Tôi nhảy đại lên xe nổ máy quay xe định chở vợ đến một bệnh viện nào gần đấy. Nhưng hai phút sau vợ tôi tắt thở. Tôi xin phép được nghỉ để mai táng".
Đám tang được đưa vội vàng trong điều kiện thành phố còn tiếng súng. Dung hy sinh không những tôi mất một người vợ hiền, một người bạn đời yêu thương gắn bó mà còn mất một người chỉ huy sáng suốt, một người đồng chí trung thành tận tụy, thông minh gan dạ. Không gì có thể bù đắp nổi cho tôi tổn thất to lớn này. Với tôi, đó là những ngày đau đớn nhất trong đời. Kể từ nay tôi sẽ một mình vừa nuôi dạy con vừa chiến đấu. Tôi sẽ phải câm lặng cô đơn giữa biển người trong tất cả những lúc tình thế khó khăn phức tạp. Con tôi còn nhỏ quá, cháu làm sao có thể cùng tôi chia sẻ nỗi lòng.
Dung mất đi cũng làm cho chuyện kinh doanh của anh chị tôi sút kém. Chị Ngọc tôi không đủ sức quản lý nhiều cơ ngơi như vậy. Những lợi thế thu thập tin tức của chúng tôi ở các khách sạn, cư xá sẽ bỏ ngỏ.
Nỗi đau của tôi to lớn nhưng tôi cũng có một nguồn an ủi: Sự hy sinh của Dung đã đóng góp một phần nhỏ cho thắng lợi vĩ đại của Tết Mậu Thân. Trên toàn miền Nam, Mỹ ngụy bị giáng một đòn mạnh mẽ chưa từng có. Cuộc tiến công làm chấn động thế giới. Nước Mỹ kinh hoàng. Phong trào phản chiến bùng lên như núi lửa. Ý chí xâm lược của kẻ thù bị lung lay. Johnson tuyên bố ném bom hạn chế và không dám ra tranh cử tổng thống một lần nữa. Nhân dân ta giành được một thắng lợi mang ý nghĩa chiến lược. Tuy vậy cuộc chiến đấu trước mắt vẫn còn vô cùng gay go ác liệt.
…
Đêm đêm chờ cho cháu Tô tô ngủ ngon, tôi lại mò dậy một mình âm thầm tóm tắt những tin tức quan trọng để điện đi, đồng thời cũng nhận những chỉ thị mới. Trung tâm đã cho anh Hai Bền trực tiếp liên lạc và cộng tác với tôi. Chúng tôi có hòm thư mật và những cuộc gặp gỡ ở bảy địa điểm. Mỗi lần cần gặp, chúng tôi nói lóng qua điện thoại để hẹn nhau. Hai Bền có nhiệm vụ bảo vệ tôi trong trường hợp bất trắc hoặc tôi phải từ bỏ bộ đồ sĩ quan rút vào bí mật.Khi còn sống Dung cho tôi biết cô đã lập được một bộ sưu tập rất đặc biệt. Đó là những tin tức cô thu thập, tinh giản trong nhiều năm khi chúng tôi xa nhau. Có cả những tin cô mới kiếm được nhưng chưa trực tiếp giúp cho công việc của chúng tôi cô cũng góp lại. Cô chưa cho tôi hay vì sợ sự suy luận của tôi mất khách quan khi bị những tin đó chi phối. Dung ghi lại trong những bộ phim, cho vào lọ thủy tinh gắn xi và chôn ở ngoài vườn. Nắm được những tài liệu đó, hoặc ít ra là danh mục của nó lúc này đối với tôi là điều cần thiết vì "chiếc thư viện sống” của tôi không còn nữa. Đó là di sản quý báu Dung để lại cho tôi. Đêm đêm tôi lại đào lên để đọc. Tôi giật mình vì tài năng của Dung. "Ôi, nếu em còn sống, em sẽ còn giúp ích cho đất nước được bao nhiêu. Với cái vốn giàu có này, với bộ óc nhạy cảm và tài phân tích sắc sảo này, em sẽ trở thành một chiến sĩ tình báo tầm cỡ".
Hàng ngày đi làm, tôi để cháu ở nhà với Kim, Kim cũng thương cháu, cô lại không bận việc gì nên cháu cũng quấn bên cô, nghe cô kể chuyện cổ tích, xem cô vẽ, cô đánh đàn...
Một bữa tôi đi làm về không thấy Tô tô ra đón. Vào buồng tôi thấy mình Bạch Kim ngồi đó.
- Kim đấy à. Cháu đâu?
- Tô tô di chơi với bác Ân rồi.
Bạch Kim khép cửa lại nhìn tôi mỉm cười làm cho tôi chẳng hiểu gì.
- Em có chuyện này muốn nói với anh. Anh làm việc bận lắm phải không?
- Cũng bình thường thôi Bạch Kim ạ. Con mọn thì đã có anh chị Ân và Kim săn sóc dạy bảo giúp rồi. Có gì bận đâu.
- Đêm đêm anh vẫn phải làu việc khuya mà.
- Đâu mà! Kể ra đôi lúc cùng có đọc sách ít phút.
Bạch Kim cười:
- Tôtô khoe với em là một bữa nó bừng tỉnh, nó thấy ba đang mở cái máy quay đĩa ra ba ghịch. Nó kêu tích tích hay lắm. Thế rồi nó bắt trước anh mở máy ra đấy. May mà nó chỉ mới khoe với em thôi!
Tôi toát cả mồ hồi, nhưng vẫn trấn tĩnh:
- Ồ, đó chỉ là một trò chơi thôi mà!
- Anh ạ. Cứ coi như một trò chơi đi, nhưng em cũng vẫn cẩn thận. Em đã cấm Tôtô không được kể chuyện đó với ai. Nó đang ở tuổi tò mò mà. Anh để nó ở bên không tiện đâu. Từ nay anh cho cháu lên ở hẳn với em anh nhé. Hay anh thương cháu không muốn xa con thì anh gửi các thứ "đồ chơi" này lên phòng em. Khi nào anh muốn "chơi” thì anh lên "chơi". Xin cứ tự nhiên, em không tò mò đâu.
- Cảm ơn Bạch Kim nhiều lắm - Tôi cầm lấy bàn tay cô. Im lặng lồi lâu. Tôi không thể giấu được cô gái thông minh này khi mà sự việc đã vỡ lở như vậy - Bạch Kim ạ. Anh không sợ em tò mò đâu. Nhưng anh chẳng muốn đưa thứ đồ chơi này đến buồng em. Cái trò chơi này rất nguy hiểm. Nguy hiểm hơn cả phóng ô tô đua, hơn cả bay ở độ cao trong những đêm không sao...
- Em muốn chia sẻ với anh những nguy hiểm đó.
- Còn anh, anh chỉ muốn chia sẻ với Bạch Kinh niềm vui chứ không phải sự nguy hiểm. Em trông nom dạy bảo Tôtô cho nó nên người giúp anh.
- Em hiểu anh. Em sẽ coi Tôtô là con em. Thực đấy. Nếu anh tin ở em, anh cần gì ở em, em sẵn sàng giúp anh.
Tháng 4 năm 1968 Antonio về thăm tôi. Anh chia buồn cùng tôi khi biết tin Dung mất.
- Tất cả rồi sẽ kết thúc. Cái bướu của lịch sử sẽ vỡ tung ra. Tôi đã đến với binh lính Mỹ ở Huế. Họ đã phá tan cả một thành phố thơ mộng có một không hai đó. Các bạn được cứu giúp như thế đấy.
- Anh đến chỗ nguy hiểm đó làm gì?
- Tôi cần những tấm ảnh. Công chúng Mỹ phải biết con em họ làm gì ở đấy. Tôi còn theo họ lên thung lũng A Sầu. GI's gọi đó là cái "bánh nhồi thịt". Westmoreland muốn gỡ thể diện cho dịp tết Mậu Thân, ông ta mở cuộc hành quân Pegasus.
- Chắc anh đã gặp chiến tranh quy ước.
- Không, ở đây vẫn là những cuộc bắn lén, - nhưng bằng đại bác 130 và rốc két 122. Tôi cũng đã xem những trận đánh trả máy bay trực thăng. Việt cộng đã cho chúng ta biết tài đập ruồi của họ! Cuộc chiến tranh quy uớc đã diễn ra ở Khe Sanh.
- Anh cũng đến đấy?
- Tôi là khách của đại tá Cusman. Ông ta dành cho nhà báo một cuộc phỏng vấn trên chiến hào. Chúng ta đã mở một đợt ném bom ác liệt nhất trong lịch sử chiến tranh. Chiến dịch thác bom Niagara do B.52 đảm nhiệm lớn gấp bốn lần "Meeting house" ở Tô-ki-ô và gấp tám lần Lai-pơ-xích. Xung quanh cái thung lũng rộng lớn này toàn là màu đất đỏ. Nhưng lính cổ da vẫn phải sống cuộc đời chuột chũi. Sự đe dọa khủng khiếp đối với các loại máy bay Hercule Caribou, duy trì sự sống cho căn cứ này không hề suy giảm. Chuyến bay trước lúc tôi về đã lao xuống rừng rậm. Lính Mỹ viết lên mũ sắt bốn chứ U, những câu chửi tục cả tướng Oét lẫn tổng thống của họ. Tôi sẽ chẳng phải chú thích thêm cho những tấm ảnh của mình.
Anatonio chào tạm biệt tôi. Anh sẽ bay về Mỹ ngày mai. Anh cho rằng những bài báo và ảnh của anh đăng lên mặt báo có thể làm anh bị trục xuất.
Tôi gửi lời chào đến vợ chồng tướng Davis cùng tiểu thư Theresa và gửi biếu cô chiếc bình gốm Đà Lạt. Anatonio cũng hy vọng sẽ đưa tôi đi săn nai trong cánh rừng miền Olive. Chúng tôi bắt chặt tay nhau tạm biệt.
CHƯƠNG XVIIIBIỆT THỰ VIE DU CHÂTEAU
Tôi đã báo báo cáo toàn bộ sự khinh suất của tôi để cháu bé vô tình tiết lộ với Bạch Kim. Tôi mổ tả tỉ mỉ thái độ của Kim và nhận định cô là một quần chúng tốt. Tôi xin ý kiến trên liệu có thể đưa Kim vào tổ chức được không.
Cậu Đức trả lời tôi: "Tổ chức của ta là một tổ chức chiến đấu, tất nhiên sẽ có tổn thất, có phát triển. Vì tính chất tuyệt mật nên sự phát triển phải hết sức thận trọng và đúng nguyên tắc. Phải tin tưởng quần chúng và thử thách qua nhiệm vụ từ dễ đến khó. Chủ yếu là những người hoạt động cơ sở đánh giá quần chúng chứ cấp trên ở xa nên cũng chỉ nêu ra được những nguyên tắc thôi. Nếu quần chúng thực sự tự nguyện, lãnh đạo tin tưởng thì hãy đưa vào tổ chức. Nếu quần chúng còn lo lắng thì tốt hơn hết là để anh em vào diện cảm tình là thích hợp. Nhiều quần chúng không trong tổ chức vẫn bảo vệ cách mạng, thậm chí hy sinh cho cách mạng. Do đó ta phải bảo vệ giữ gìn quần chúng như chính tổ chức của mình. Để địch giành mất quần chúng, bắt mất quần chúng là rất nguy hại. Tổ chức cô đơn không có chỗ bám rễ sẽ không thể tồn tại để hoạt động được".
Sự hướng dẫn trên là bổ ích nhưng vẫn mang nặng tính lý thuyết. Tôi chưa biết xử trí trường hợp của Bạch Kim thế nào cho thích hợp. Tôi nghĩ là nếu để cô hoạt động cho cách mạng thì rất có lợi. Từ khi Dung hy sinh, điểm khai thác tin ở Khách sạn Phoeniccoi như bỏ ngỏ. Không ai cảnh giác với những hành động mật nhập của bọn Hoàng Quý Nhân. Mình không khai thác, địch tự do hoành hành. Rất nhiều quan chức của US mission VN của MACV, USOM, USAID, JUSPAO, OSA, CORDS... đến cư ngụ ở đây. Nếu Kim làm được nửa công việc của Dung thôi, tôi cũng sẽ có được nhiều báo cáo giá trị lên cấp trên. Đưa quần chúng đi từ dễ đến khó, tôi có ý định nhờ Kim đặt máy nghe ở một vài nơi thường có những cuộc chuyện trò. Với tư cách là chủ khách sạn, Kim làm việc này ít nguy hiểm và không khó khăn lắm.
Vào một buổi chiều chủ nhật cuối tháng 10. Tôi vừa bước ra khỏi nhà định đến chỗ hẹn với anh Hai Bền thì Hoàng Quý Nhân đến. Tôi mời y vào nhà nhưng y lại đon đả mời lại.
- Từ xưa đến nay tôi chưa mời anh đến nhà tôi lần nào vì tôi sống cuộc đời trại lính. Nay đã có vợ có nhà cửa đàng hoàng, tôi định lại đây mời anh. Tôi sẽ rất hân hạnh được đón tiếp anh. Anh có vui lòng đến nhà tôi không?
Tình thế khá đột ngột. Nếu tôi từ chối rồi đi gặp anh Hai Bền thì thật không an toàn. Mà đi theo y thì lỡ hẹn với anh Bền. Sau vài giây suy nghĩ tôi quyết định theo viên trung tá cảnh sát. May mà đường đến nhà Quý Nhân lại qua cửa công viên Tao Đàn. Anh Hai Bền chờ tôi ở đây. Thấy xe tôi, anh nhìn theo tôi đã đưa mắt để anh biểu là tôi đang bận bám theo chiếc xe trước mặt. Năm phút sau Quý Nhân và tôi đã dừng xe trước một biệt thự có tường cao vây kín mít. Cánh cổng sắt cũng không có một khe hở. Cửa mở ra, Quý Nhân ra hiệu cho tôi lái xe vào bên trong theo y. Khi xe tôi lọt vào, gia nhân đóng ngay cửa lại.
Một vườn cây xanh tốt bao lấy tòa lầu ba tầng kiến trúc đẹp mắt. Quý Nhân hướng dẫn tôi đi theo một cầu thang lộ thiên lên phòng khách ở tầng trên. Hình như chỉ còn hai chúng tôi, người đàn ông mở cửa cũng biến đâu mất.
- Mời anh ngồi! - Hoàng Quý Nhân tự đi bê cốc và mang ra một chai Cô-nhắc đạt trên bàn. Trong khi đó tôi quan sát căn phòng khách một lượt.
Không có một điển yếu nào về tiện nghi. Những tấm thảm sang trọng. Hai cánh màn nhung hoa che bức tường hậll một cách bí hiểm. Sau đó có cửa thông hay bịt kín?
Trên tường treo nhiều tranh lớn. Tôi chỉ nhận ra bức "chiếu bạc" của Tija. Một người đàn bà lập thể khỏa thân ngồi trên những con bài: con tây Píc, con đầm Cơ, con Giô kề. Đôi mắt người đàn bà ánh lêu sự đam mê đến rồ dại. Cánh tay ả ôm lấy cạp vúkhông biết để hiến dâng hay tự vệ, phô bầy hay che chắn, e lệ hay trơ tráo? Bức tranh toát ra cái không khí lừa lọc rủi may, được ăn cả, ngã về không...
- Ngôi nhà của anh đẹp quá!
- Đại tá Jean Potier cho xây cất từ năm 1935. Ông nhượng lại cho luật sư George. Khi về Pháp George bán lại cho tôi. Người ta gọi nó là biệt thự Vie du Château.
- Chị Hứa Quế Lan có nhà không ạ?
- À, nhà tôi ở chỗ khác. Đây là nơi ở riêng của tôi đồng thời cũng là Laboratorie1 (Phòng thí nghiệm). Tôi chỉ sống ba ngày với vợ trong một tuần thôi. Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau như vậy. Những ngày khác dành cho tự do của mỗi người.
- Liệu những thỏa thuận đó có được thực thi nghiêm chỉnh không? - Tôi cười.
- Hoàn toàn nghiêm chỉnh! Vợ góa Kennedy lấy nhà tỷ phú Hi Lạp, hôn thú ghi gần hai trăm điều quy định có khi còn nhiều hơn số điều khoản trong hiến pháp của nhiều nước, thế mà họ vẫn thực thi nghiêm chỉnh. Chúng tôi chỉ có một điều thì đáng kể gì.
- Anh ở một mình trong tòa biệt thự này?
- Không. Cả một la-bô của tôi. Tôi nghiên cứu về thẩm vấn hình sự.
- Công việc đó có thú vị không?
- Hoàn toàn thú vị. Một công việc khoa học. Một khám phá về con người. Đứng ngoài cuộc nhiều vị coi việc này là tàn bạo, là thất đức. Họ có biết đâu là mục đích của nó rất cao cả. Tất cả là để tìm ra sự thật. Mục tiêu của ngành khoa học nào mà chẳng là sự thật. Anh đã đọc cuốn "L'obscurité et la lumière1 (Bóng tối và ánh sáng) của Richard Frisman chưa? Một cuốn sách tuyệt vời của một nhà thẩm vấn kiệt xuất. Trong những chương viết về tra tấn, ông ta đã tổng kết được tất cả những điểm yếu, mạnh, chịu đựng và khuất phục trên cơ thể, đối với tuổi tác và giới tính của con người. Ông cũng vạch ra những giới hạn chịu đựng của bộ óc ở những vùng đặc biệt. Chỗ nào nhạy cảm với lửa, với sắt nung với điện. Chỗ nào thích hợp với dùi cuii, với hóa chất v.v... Tất cả đều được thống kê tỉ mỉ. Ông cũng nhắc ta, nếu quá lạm dụng sự đau đớn của can phạm thì sẽ làm họ phát điên, như vậy thì lời khai của họ sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Từ mục đích tìm ra ánh sáng ta lại gặp lại bóng tối. Không hiểu vì sao người ta không tặng giải Nobel cho Frisman.
- Giải Nobel chỉ để tặng cho những công trình phục vụ hòa bình thôi chứ!- Đây cũng là một công trình phục vụ hòa bình. Tìm ra sự thật, ra thủ phạm gây tội ác, gây bạo loạn, đảm bảo trật tự hiện hành thì có xa gì mục tiêu hòa bình. Ở chỗ này, xin lỗi có nhiều quan điểm rất thiển cận. Ví dụ như một công trình vật lý hạt nhân được giải Nobel. Ngay lập tức họ ứng dụng làm một loạn bom hạch tâm để giết hàng triệu người trong nháy mắt. Như vậy có bất công đối với Frisman không? Riêng tôi, tôi tin vào mục đích nhân đạo của ông. Ông ta cho rằng giáng một cú vào nơi đau đớn nhất của con người để khuất phục họ tìm ra sự thật nhanh chóng còn hơn đánh bừa bãi, lâu dài mà chẳng có hiệu quả. Đó là phương pháp tra tấn sạch sẽ. Tôi đã vận dụng tất cả kinh nghiệm của ông và tôi khâm phục hiệu quả của nó. Tuy nhiên đối với Việt cộng thì cũng còn nhiều ngoại lệ, nó không khớp với những tỉ số của ông nêu ra. Một vấn đề ta phải nghiên cứu thêm cho phù hợp với thể trạng người Việt.
- Liệu anh có làm được điều gì hơn Frisman không?
- À, có chứ, ở một phương diện nào đó. Tôi đã nên lên một phương pháp rất mới và được đồng sự thán phục. Đó là phương pháp tác động thần kinh gián tiếp. Nó cũng đơn giản thôi nhưng rất hiệu quả và đang được áp dụng phổ biến trong các phòng thẩm vấn. Đó là đánh chồng để hỏi vợ, đánh cha để hỏi con, đánh em để hỏi chị, vân... vân... và ngược lại. Anh đã được chứng kiến người ta cho đứa con nít "đi tàu bay" trước mặt mẹ nó chưa? Ít có người mẹ đứng vững được trước tiếng kêu thảm khốc của con nhờ đó mà ta tìm ra ánh sáng, tìm ra sự thật.
- Chính anh đã làm thí nghiệm đó.
- Không, sẽ có một số người làm việc đó. Tôi chỉ tư duy sáng tạo, quan sát nhiều lần để tìm những xác suất có ích. Anh không nên lầm lẫn giữa Nien Bo và những tên ném bom nguyên từ xuống Hi-rô-si-ma. Bàn tay tôi, anh xem tất cả đều sạch bóng. Ngay cả La-bô của tôi cũng tuyệt vời nó láng bóng như một bệnh viện hiện đại và chắc chắn là ít vi trùng hơn một bệnh viện. Anh có muốn sẵn sàng tham quan cái la-bô tuyệt vời của tôi không?
- Rất hân hạnh. Tính tò mò nghề nghiệp thúc đẩy tôi. Tôi muốn hiểu thêm tên trung tá cảnh sát ác ôn này một cách sâu sắc.
- Xin mời. Anh là sĩ quan điện toán, chắc anh ưa kỹ thuật hiện đại. Tiếc là la-bô của tôi chưa có máy điện toán. Tôi cũng muốn trang bị để nó tính toán thống kê lưu trữ giúp tôi.
- Bên Tổng nha cũng có máy điện toán chứ?
- Tất nhiên, nhưng không phải của riêng tôi. Y dẫn tôi theo một hành lang rộng rãi trải thảm, hai bên là những chùm đèn sáng dịu đẹp mắt. Đến một cầu thang, bấm chuông rồi ra hiệu cho tôi cùng xuống. Đến chân cầu thang, y dẫn tôi vào một căn phòng được xếp đặt theo kiểu buy-rô. Có ba chiếc bàn và gần một chục chiếc ghế ngồi. Trên bàn có máy điện thoại, những dụng cụ bàn giấy ngàn nắp đẹp mắt như văn phòng bộ trưởng. Hai nhân viên mặc áo blu trắng đứng nghiêm như tượng.
- Các anh chuẩn bị. Tôi mời thiến tá Nghĩa tham quan la-bô ở tất cả tám phòng.
Hai tên kia tuân lệnh. Chúng quàng lên vai Quý Nhân và tôi hai áo blu trắng như người vào thăm bệnh viện. Sau đó chúng đi trước.
- Đây là phòng thẩm vấn số một. Anh xem trên thế giới có căn phòng hỏi cung nào lại lịch sự thế này không? Ghế đệm nhung này là dành cho can phạm. Nếu ở đây họ chịu cộng tác vời chúng tôi để tìm ra sự thật thì coi như mọi việc kết thúc. Hồ sơ được đóng kín. Tiếc là cái hiệu quả của lòng tốt, của sự dịu dàng, nhân đạo lại quá thấp. Mời anh sang phòng hai.
Một căn phòng hẹp hơn, một bàn giấy nhỏ. Sàn đá hoa sạch bóng. Từ ba phía có tới vài trăm pha đèn như ở rạp hát hay trường quay. Một người đàn ông gầy yếu đứng trên cái bục như người làm mẫu trong xưởng họa. Tên phụ tá đưa cho tôi và Quý Nhân hai cái kính màu. Nhân phẩy tay một cái, cùng một lúc những luồng sàng lóe mắt rọi vào người đứng trên bục. Nạn nhân giật lên như chạm vào điện. Tên phụ tá đưa trước mặt tôi một bản thống kê.
Mười ba phần trăm chịu khai.
Bảy phân trăm mù.
Mười bốn phần trăm viêm da nặng.
…
Ba phần trăm loạn thần kinh.
Bảy phần trăm chết tại chỗ.
- Đây là phòng quang, còn gọi với là "buồng tắm hơi của Him-le". Cường độ ánh sáng xấp xỉ một phần mười độ chói của trái bom hạt nhân 50KT gây ra ở cự ly ba kilômét.
- Đây là phòng âm - Y chỉ cho tôi một cái thùng hình trụ bằng kim loại sáng loáng như gương - Kỹ thuật quốc nội đâu làm nổi thứ này? Can phạm ngồi vào trong. Khi bấm điện chiếc chuông này sẽ ngân lên đủ mọi cung bậc của giải tần số mà tai con người có thể nghe được với một cường độ tuỳ ý. Chúng tôi gọi nó là "cây đàn oóc của thánh đường Hamilton". 120 dB là tiếng sét. Còn cây đàn này có thể rung lên tới cường độ Max 200 dB. Cái tuyệt diệu của nó là ở chỗ có bộ phận cách âm hoàn hảo. Khi nó hoạt động, chúng ta vẫn có thể ngồi ngoài thì thầm với nhau.
- Đây là phòng Hóa - Quý Nhân chỉ cho tôi những tủ thuốc, những máy lạnh - Những loại hóa dược này không thể tìm thấy ở bất cứ Phác-ma-xi nào trên đất nước chúng ta. Đó là những chất kích thích thần kinh đặc hiệu của các công ty hóa chất AIC, M.C.C, D.A.O... sản xuất. Chất M4D2 ức chế nửa số tế bào thần kinh, nhưng lại làm hưng phấn số còn lại gây ra hiện tượng nửa mê nửa tỉnh. Chất K5B gây ra một cảm giác tự tội, ăn năn. Chất 2XX Bêta gây ra những ảo giác khủng khiếp, cô đơn, muốn nương tựa tin cậy vào một người nào đó để thổ lộ tâm tình.
- Hiệu quả ra sao?
- Một chủ đề rất tân kỳ! Đáng tiếc là tôi mới chỉ tìm ra những điểm sáng tối lẫn lộn. Sự thực biển hiện thành những chấm không liên tục. Ta phải biết nối nó lại theo một quy luật. Việc làm này đòi phải có kinh nghiệm.
Sang phòng Cơ, Hoàng Quý Nhân cho tôi xem bộ máy "bẻ xương sườn", những chiếc kim không gỉ để đóng vào móng tay. Những chiếc mũ áp suất đội lên đầu người tù rồi bơm căng cho nó bóp vào hộp sọ, lồi con ngươi ra.
Phòng Điện đơn giản hơn. Vài chiếc máy điều chỉnh cường độ và điện thế, những bộ gá lắp vững chắc các điện cực vào các điểm nhạy cảm của cơ thể như vú, lưỡi, cơ quan sinh dục.
Phòng nữ đã có sẵn cái giường trải đệm để kết hợp tra tấn với làm nhục.
Quý Nhân nháy mắt nhìn tôi:
- Toa có muốn đưa ngay một "con thỏ cái lên bàn thí nghiệm xem chơi không? Một "con thỏ" hoàn toàn không bệnh tật. Thí nghiệm xong có thể làm "bữa tối" luôn! Không cần thiết à? Thế ta xem phòng cuối cùng vậy.
Phòng cuối cùng đập vào trái tim tôi mạnh nhất. Y gọi đây là "Công viên Los Angeles". Trong phòng chỉ có hai thứ. Một cái cũi bằng kim loại sáng bóng, cách đấy hai mét đặt một chiếc ghế cao ngang tầm mặt có những bộ gá lắp điều chỉnh như ghế cắt tóc của trẻ con.
- Đây mới là công trình của moa. "Con thỏ mẹ" được nhốt vào đây. phải đề phòng nó nổi điên gây nguy hiểm cho người thí nghiệm. Con thỏ con được buộc vào chiếc ghế. Nó sẽ được đi tàu bay cho mẹ nó xem. Có điều đáng tiếc là tỷ lệ phát điên thể săng-ganh quá cao. Một lần tôi suýt bị "con thỏ mẹ" cắn chết khi thả nó ra khỏi cũi - Y giơ cánh tay có một vết sẹo nhỏ - Khoa học là một sự nghiệp gian khổ phải không anh?
Ra khỏi phòng này, y nói với tôi:
- Ta có thể kết thúc ở đây. Còn phòng nữa nhưng nó cũng giống như một bệnh viện thông thường, X. Quang xem xương gãy có đẹp không. Máy điện tim đo nhịp đập... Phải chữa khỏi cho những "con thỏ" để thí nghiệm lại mới có được những tham số đáng tin cậy. Thế nào? Cảm tưởng của anh ra sao?
- Thật không thể trạng tượng nổi!
- Đúng vậy, Himler, Selenbec, Mousolini hay Đông Điều cả ngay đến Dulles nữa, nằm mê cũng chưa có được những công cụ tân kỳ như của moa.
Trở lại phòng khách, y rót rượu mời tôi lần nữa. Tôi nhìn cốc rượu trong suốt màu hổ phách mà tưởng như có pha lẫn máu. Y cạn chén và đột nhiên quay sang nói với tôi bằng cái giọng sắc lạnh như dao:
- Anh có muốn cộng tác với tôi không, thiếu tá?
- Nghề của tôi không thích hợp với anh - Tôi vừa trả lời vừa thăm dò.
- Trước đây chị Phương Dung còn sống cũng có nói với tôi như vậy. Nhưng rồi chị cũng nhận cộng tác với tôi, và chị cũng giúp tôi được nhiều việc. Cầu trời phù hộ cho linh hồn chị! Nói cho công bằng, nhờ cái đó mà chị cũng kiếm được cái "vốn" kha khá, có khi còn hơn cả tôi đấy. Anh biệt chuyện ấy chứ?
- Vợ tôi có nói với tôi, mặc dù anh yêu cầu không được nói.
- Yêu cầu cho phải phép thôi, vợ chồng thì trước sau cũng sẽ nói.
Vài phút sau, y nhìn thẳng vào tôi với bộ mặt của thần chết:
- Tôi thấy anh có thể cộng tác với tôi tốt hơn chị Phương Dung đấy. Chúng ta là đàn ông dễ nói chuyện với nhau hơn. Anh khác nghề với tôi. Đúng, espionnage et contre espionnage1 (Điệp báo và phản gián), nó đối lập nhau, nhưng nó có cùng cái gốc espion! Chúng ta là âm bản của nhau thôi.
Viên trung tá nhấn mạnh từng từ làm cho tôi bị xúc động mạnh. Nhưng tôi vẫn cố gắng phân tích từng ý để kịp đối phó.
- Anh nói gì tôi thấy khó hiểu quá!
- Có gì khó hiển đâu. Tôi muốn anh cộng tác với tôi, thế thôi. Nếu anh từ chối sẽ chẳng có lợi gì cho anh đâu. Y vất ra trước mặt tôi tấm chứng minh thư rơi ở cổng phụ hồi tết Mậu Thân. Anh có nhớ anh quên nó ở đâu không?
- À tưởng chuyện gì? - Tôi kể lại đúng những điều tôi đã báo với cấp trên cho y nghe.
- Nhưng người ta lại coi đấy là một màn kịch, vì nó có vài chi tiết đáng lưu ý. Thứ nhất: anh nói anh ra đi lúc không giờ bốn mươi lăm và trước đó có gọi điện thoại về Bộ Tổng tham mưu. Nhưng người ta khẳng định là trung tâm điện tín vẫn hoạt động bình thường và bộ lưu trữ tự động không có cú điện thoại đó, là sĩ quan điện toán, anh giải thích sự kiện này ra sao? Thứ hai, anh khai một giờ anh đến cổng Phi Long, chiến sự diễn ra nên anh không vào được. Nhưng sự thực thì lúc đó tình hình lại yên tĩnh. Người ta đang sửa lại kịch bản của anh và đi đến kết luận là anh đã đưa đặc công Việt cộng đánh vào cổng phụ Bộ Tổng tham mưu.
- Tôi sẽ làm sáng tỏ vấn đề trên, nhưng không phải với anh. Ai cho phép anh quyền thẩm vấn một sĩ quan đương nhiệm?
- Tôi muốn giúp đỡ anh để tìm ra sự thật. Tập hồ sơ cũ rích này họ quăng cho tôi không phải để kết án anh, vì nó thiếu nhiều yếu tố. Tôi đã phải cho khai quật xác tên lính chết ở cổng. Một việc làm cầu kỳ nhưng thú vị. Tôi đã kiếm được viên đạn súng ngắn nằm trong hộp sọ tên lính - Y giơ lên trước mặt tôi viên đạn đã méo, rồi lại đặt nó vào một cái hộp có lót vải mềm như hộp đồ trang sức – Khó khăn như tìm ra nguyên tố thứ 106!
- Đáng tiếc là hôm nay tôi không đem súng để so luôn?
- Không cần vội vàng. Cái này thì dễ so hơn.
Viên trung tá cảnh sát đặt trước mạt tôi một tấm ảnh lúc tôi đang trao tay với anh Hai Bền. Cái này làm cho tôi giật mình thật sự, nhưng tôi vẫn bình thản trả lời:
- Người ta có thể chụp tôi với bất cứ ai. Điều đó có gì quan trọng.
- Nhưng cái tên chụp chung với anh lại rất quan trọng. Vừa rồi khi đi qua công viên Tao Đàn, tôi cũng thấv mặt nó, chắc nó đang chờ “nhân tình" - Y nhún vai cười nham hiểm - Thiếu tá Phan Quang Nghĩa ạ. Nếu tất cả ba thứ này gộp lại đưa sang An ninh quân đội, nó sẽ làm hỏng anh mất. Bọn đó là một lũ ngu ngốc. Anh là một người tài năng. Tôi muốn anh cộng tác với tôi. Anh vẫn có thể sống như hiện nay và sẽ rất có ích cho Tổ Quốc (tuỳ anh quan niệm). Anh không thích nghề phản gián thì anh làm gián điệp đôi (a-giăng đúp). Cái từ "đúp" nó rất tế nhị. Anh làm cho cả hai bên. Khi nào lợi cho anh, anh làm. Cũng chẳng cần trung thành tuyệt đối với ai. Như tôi chẳng hạn. Lúc người ta bảo tôi là người của "đơ bê”, lúc bảo tôi là của CIA, của OSA. LÚC tưởng là người của ông Diệm, lúc bảo của ông Khánh. Hơn nữa họ còn bảo tôi là có liên hệ với I.S.. Họ nói đúng cả, nhưng cũng sai tuốt. Tôi là của tôi. Tôi là một tay chuyên nghiệp, là một nhà khoa học thuần túy về điều tra thẩm vấn, là phi chính trị, Tổ Quốc, đảng phái đôi với tôi là một khái niệm trừu tượng... Dù sao thì ta cũng phải chuẩn bị kế hoạch hậu chiến anh ạ. Hòa đàm Ba-lê đang tiến triển, ông Thiệu còn ở đây hay Mặt trận về trung lập hay tự do, cộng sản hay tư bản thì ta vẫn cần sống anh ạ. Việc anh cộng tác với tôi chỉ có hai ta biết. Anh vẫn có thể báo cáo với cấp trên của anh là anh vờ cộng tác với tôi để khai thác tôi như anh để vợ cộng tác với tôi trước đây có sao đâu? Ai biết mà kiểm tra. Giả sử như có ông bự nào của anh muốn vào đây thị sát tình hình, anh cứ cho tôi biết tôi sẽ ra lệnh hộ tống ông ấy đi khắp Sài Gòn an toàn. Sao mà không tin anh. Tôi xin nói nhỏ với anh, nghề gián điệp của chúng ta cũng giống hệt như chuyện ngoại tình, không thể đem nói cho ai, kể cả cha mẹ vợ con mình.
- Anh định mua tôi đấy à?
- Sự thực là mua đấy. Nhưng tôi thích dùng từ hợp tác cho lịch sự.
- Anh đánh giá tôi là cái gì mà anh định mua?
- Anh là một gián điệp lợi hại của Việt cộng. Còn giá thì tôi cũng xin nói thẳng: Tôi sẽ trao lại cho anh toàn bộ hồ sơ, viên đạn và phim ảnh để anh hủy đi. Hàng tháng anh lĩnh năm tràm đô-la. Anh có thể lĩnh tiêu hoặc bí mật gửi vào ngân hàng nước ngoài phòng khi thất thế cũng được, chúng tôi sẽ đảm bảo quyền lợi lâu dài cho anh. Ngoài ra anh còn được thưởng tùy theo chiến tích. Không có huân chương gì dâu. Tất cả bằng đô-la!
- Rẻ thế thôi à? Mấy cái hồ sơ và viên đạn giả kia chỉ là trò trẻ con.
- Nó ngang giá cái án tử hình đấy. - Hắn cười nham hiểm.
- Xin lỗi, đã có người mua trước anh mất rồi. Cái giá anh đạt chỉ ngang tầm với chính anh thôi!
- Thưa thiếu tá, anh bán mình cho ai mà được giá cao thế. - Y mỉa mai.
- Walt Montague biệt hiệu "Cá heo trắng"!
Tôi nhìn thẳng vào mặt Quý Nhân bằng cạp mắt đàn anh. Không ngờ cái tên Monatague lại có uy lực mạnh mẽ đến tên ác ôn này như thế. Tôi tấn công luôn:- Thưa trung tá Vũ Trọng Đạo, anh nên bỏ cái mặt nạ Quý Nhân xuống cho dễ nói chuyện. Anh cũng chẳng phải là con lão hoạn quan. Bố anh, ông Vũ Trọng Trình hiện đang sống yên ổn ở Hà Nội. Trước khi vào đây, anh đã bản bản mật danh điệp viên 2B gài lại cho Bop Edixon lấy một nghìn đô-la. Nhưng anh cũng đã đánh đổi bản sao của bản mật danh đó để cứu bố anh khỏi chết rục trong tù của Bắc Việt. Bọn 2B nằm vùng bị bắt đã đành, nhưng Edixon còn thiệt hại hơn nhiều, vì thứ đồ thối của anh. Bốn toán com-măng-đô dùng mật danh mật hiệu của anh đều bị sa lưới. Hai mươi bốn quân nhân ưu tú của Việt Nam cộng hòa vào nhà đá vì một nghìn đô-la của anh. Liệu cái đó ngang với mấy án tử hình?
- Xin anh đừng vu cáo. Không có bằng chứng nào.
- Cho phép tôi đi lấy bằng chứng. Mười lăm phút thôi!
Mặt viên trung tá tái nhợt. Y thu mình lại nghĩ cách phản công. Nhưng tôi không để nó có thì giờ.
- Tôi cũng chẳng cần cái bằng chứng cũ rích đó làm gì. Tôi nói chuyện ngày hôm nay thôi. Tổng khống đang cần lấy đầu bọn buôn lậu Hê-rô-in vào Hoa Kỳ. Đây là yêu cầu gay gắt của phía Mỹ. CIA rồi FBI cũng phải mở mặt trận ngăn chặn chất ma túy. Nhưng mạng lưới của Tổng thống cũng có những lỗ hổng. Chính trung tá đã tạo ra bảng lỗ hổng đó. LAa-bô của anh có nghiên cứu về Hê-rô-in không mà anh tàng trữ tới hai mươi sáu ki-lô-gam. Anh vừa chuyển trái phép sang Ngân hàng Mahattan hai trăm bốn mươi ngàn đô-la. Dĩ nhiên không phải của anh tất cả. Có cả phần của một tay bự (tôi không tiện nói tên). Nếu Tổng thống biết, các vị sẽ không nuốt trôi đâu.
Tôi không thấy.viền trung tá phản ứng nữa, y ngồi im lặng không phải để phản công mà rút về phòng ngự.
- Những tin tức trên chẳng liên quan gì đến tôi. Nếu cần tiền tôi chỉ cần gọi cú điện thoại mật báo lấy thưởng là có ngay một khoản đô-la kha khá, chứ chẳng cần nhặt nhạnh từng tháng theo cái đồng lương anh chi đâu. Một khi tôi có trong tay những tin tức trên thì đó chính là cái giá của tôi. Bây giờ thì chúng ta thử so sánh xem tôi có thể mua anh, hay anh có thể mua tôi? Anh Trọng Đạo ạ, anh có muốn bán anh cho tôi không? Tôi đặt giá hai mươi sáu ki-lô-gam Hê-rô-in đấy.
- Chúng ta có thể hòa hoãn với nhau. Tôi thành thật muốn cộng tác với anh theo một ý nghĩa nào đó. Chẳng hạn chúng ta sẽ trao lại cho nhau toàn bộ những hồ sơ bất lợi về phương diện cá nhân. Chúng ta sẽ không làm hại nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào. Thiếu tá có thể coi tôi như một người bạn, dù là chúng ta khác biệt lý trưởng, khác biệt quan điểm. Một hiệp ước bất khả tương xâm của chúng ta lúc này là thích hợp cho cả đôi bên, là khôn ngoan nhất.
- Anh có kinh nghiệm chiến tranh một phía, chiến tranh với những người không vũ khí. Bây giờ anh tuyên bố hưu chiến. Tôi bỏ súng vào bao quay đi anh sẽ bắn vào lưng tôi. Tôi phải cảnh giác.
- Xin anh tin ở lòng thành thực của tôi. Tôi là một cảnh sát chuyên nghiệp. Tôi hiểu là hành động trong tư thế yếu là tự sát. Hơn nữa với tôi, tôi là của tôi, tôi phải biết tự bảo vệ. Tôi tin ở tính mã thượng của anh. Mong anh hiểu cho. Nếu chuyến áp phe của chúng tôi trót lọt, tôi sẽ không quên anh. Luật giang hồ là có ân có oán, có vay có trả. Thực tình tôi muốn cộng tác với anh. Nếu tôi định hại anh thì chỉ một cú điện thoại là xong, tôi mời anh đến đây làm gì?
- Tôi không quan tâm đến bất cứ cái gì không liên quan đến công việc của tôi. Tôi không phải kẻ giang hồ nên không bị luật lệ của nó ràng buộc. Tôi cũng chẳng có ý định chia gia tài với anh. Tôi chỉ muốn nhắc lại là bất cứ sự phản bội nào, dù trực tiếp hay gián tiếp đối với sự thỏa thuận chiều hôm nay, chúng tôi sẽ công bố tất cả những điều bí mật về anh và khi đó xin anh đừng trách tôi.
- Tôi xin lấy danh dự mà thề rằng, tôi coi an ninh của anh như an ninh của tôi.
- Không phải riêng của tôi mà cả người đồng sự của tôi anh đã chụp ảnh.
- Tôi chấp nhận. Khi nào thì chúng ta trao đổi với nhau hồ sơ cá nhân?
- Không cần thiết. Anh cứ giữ của tôi, tôi vẫn giữ của anh.
Quý Nhân có vẻ do dự. Nhưng y biết không thể đòi hỏi được gì hơn.
- Thế lấy gì đảm bảo cho sự cam kết của chúng ta?
- Bằng lòng tin. Anh có thể sao cho tôi cuộn băng ghi âm cuộc đối thoại của chúng ta hôm nay, coi như đó là văn bản của hiệp ước bất khả tương xâm.
Quý Nhân tỏ ra hết sức lúng túng. Y càng muốn thu hẹp mối đe dọa nguy hiểm giữa hai người chĩa vào nhau thì tôi lại càng làm tăng lên. Tôi đang sống trong vùng địch. Nếu mối đe dọa cá nhân của hai bên giảm xuống số không thì lợi thế thuộc về y.
- Không, tôi không ghi cuộc nói chuyện của chúng ta, xin anh hiểu cho.
- Thế bây giờ tôi có thể về được chứ?
- Hãy khoan, để anh tin tôi, tôi sẽ có một hành động đơn phương biểu hiện thiện chí của mình.
Hoàng Quý Nhân châm lửa đốt toàn bộ hồ sơ của tôi.
Y vui vẻ đưa cho tôi viên đạn và nói:
- Tôi tặng anh làm kỷ niệm. Dù thận trọng đến mấy, con người ta cũng có những phút giây sơ xuất!
Viên trung tá đưa tôi ra xe, thân mở cổng và bắt tay tôi rất chặt. Tôi phóng thẳng về nhà.
Cháu Tôtô chạy ra đón tôi. Tôi bế con lên và bỗng nhớ đến lời đe dọa của Hoàng Quý Nhân: "Đánh con hỏi bố" mà tim tôi se lại. Nhưng tôi đã xoay được tình thế. Tôi thầm cảm ơn Dung, người vợ thân yêu của tôi. Chính những di sản của Dung đã cứu được tôi hôm nay. Tôi bỗng hiểu ra rằng hiểu biết, rộng là vô cùng quan trọng. Phải có cho mình một thư viện tin thì mới nâng cao được bản lĩnh.
Nỗi ưu tư của tôi không qua nổi mắt cháu bé.
- Ba ơi, ba mệt hay sao mà ba chẳng nói chuyện với con như mọi bữa?
- Đúng là ba có hơi mệt một chút. Nhưng ba sẽ lại sức ngay thôi.
Tôi nhấc bổng cháu lên rồi lại đặt xuống.
- Cho ba đi tắm một chút nghe! Con tắm chưa?
- Mẹ Kim tắm cho con rồi.
Lần đầu tiên nghe cháu gọi Kim bằng mẹ, tôi giật mình:
- Con thích gọi cô Kim bằng mẹ à?
- Bác Ngọc bảo con gọi cô Kim bằng mẹ. Bác bảo con mồ côi cần có mẹ đỡ đầu.
- Nhưng con đã xin phép cô Kim chưa? Lỡ cô không ưng thì sao?
- Khi con gọi mẹ, cô Kim bồng con lên, thơm con rồi ôm chặt lấy con . Cô bảo "ôi con tôi".
Câu chuyện trẻ thơ làm cho tim tôi nhói lên. Hình ảnh Dung lại hiện về với tôi. Tôi thương Dung bao nhiêu lại càng thương đứa con côi cút bấy nhiêu.
…
Đêm hôm đó tôi báo cáo sự kiện nghiêm trọng trên về trung tâm để xin ý kiến chỉ đạo. Mối đe dọa đang treo lơ lửng trên đầu tôi. Làm sao có thể tin vào một "hòa ước" với một kẻ đã trăm lần thay thầy đổi chủ, độc ác như một con rắn, tàn bạo như con sói, ranh mãnh như con cáo. Tôi mở máy ghi âm nghe lại cuộc đàm thoại. Tôi để máy trong ngực sợ âm thanh của tôi rõ, của Quý Nhân mờ nên tôi đòi bản sao của hắn. Tôi phân tích vấn đề và quyết định trao cho y bản sao cuốn băng của tôi (rất nét) nhằm hai mục đích: Thứ nhất đe dọa hàn. Thứ hai: Làm cho nó tin ở lời cam kết của tôi, không đẩy hắn đến chỗ làm điều rồ dại.
Tôi gặp Hai Bền và nhờ anh đến trao trực tiếp cuốn băng và lá thư cho Quý Nhân. Tôi muốn phô trương thanh thế tổ chức của tôi rộng lớn, mất người này còn người khác. Trong thư một lần nữa tôi lại nhắc tới Walt Monatague. Tôi cũng chưa biết Monatague là ai, là tên tổ chức hay cá nhân. Nhưng tôi đoán Quý Nhân cũng chẳng biết hơn tôi. Nhưng Walt gắn liền với những cuộc thanh trừng khủng khiếp trong làng tình báo, buôn lậu và trộm cướp lúc bấy giờ. Những xác chết gắn với biểu tượng của Walt “chiếc đầu lâu ngậm tẩu" nhưng cảnh sát chẳng bao giờ tìm ra thủ phạm. Tôi tạm coi đây là một con ngoáo ộp, một âm binh, tôi dùng nó để hù dọa. Biết đâu những thủ thuật có tí chút mê tín này lại chẳng có ích lợi cho tôi. Tôi đã thấy nhiều anh chàng ngổ ngáo ngang tàng lại rất sợ chuột.
Aanh Hai Bền đến gặp Quý Nhân với một phong thái rất anh hai Nam Bộ đàng hoàng, mã thượng, trọng nghĩa khinh tài. Tôi nhắc anh đừng để nó biết mình thuộc tổ chức nào. Anh còn ba hoa với Nhân về chuyện tên vi-xi Đoàn Bá Mạo a-giăng đúp lừng danh lập mẹo hại anh mà cuối cùng chung thất bại phải chịu chết gục trước viên đạn oan cừu!
Bằng những cách trên, tôi phân tán sự suy luận, sức đối phó của Hoàng Quý Nhân.
Ba hôm sau tôi nhận được điện của cậu Đức. Thứ nhất cậu bắt tôi sơ tán hồ sơ, điện đài đề hòng địch đánh úp. Thứ hai, Tôi và anh Hai Bền phải tìm mọi cách "cắt cái đuôi" này đi. Để nó là đeo một nguy cơ bên người không thể hoạt động được. Cần chi viện, trên sẽ hỗ trợ.
Tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều để tìm ra giải pháp hợp lý nhất. Nếu ám sát y, mình cũng sẽ không thể tiếp tục hoạt động công khai được, vì trong hồ sơ lưu trữ riêng của Nhân chắc chắn tên tôi xếp ở hàng đầu.
Duy trì tình trạng hiện nay thì có hai khả năng: Một: hòa hoãn phù hợp với mục tiêu của mình. Hai: Nhân phản bội. Cả hai sẽ cùng thiệt hại. Giống như một khối u. Cắt đi chắc chắn sẽ di căn. Để lại thì có thể ổn định và cũng có thể biến thành thể cấp. Vì vậy tốt nhất là chưa nên động dao vào. Tôi hy vọng là Hoàng Quý Nhân cũng sẽ phần tích tình hình tương tự. Khả năng hòa hoãn là mạnh nhất.
Tôi báo cáo lại quyết tâm xử lý của tôi. Còn điện đài thì tôi sẽ chuyển. Nhưng đem đi đâu? Để xa không làm việc được. Cuối cùng tôi đành tạm đẩy thứ "đồ chơi" này lên buồng Kim. Cô cho phép tôi giấu trong hộp đàn pi-a-nô. Khi làm việc tôi xách lên gác ba. Cô sẽ canh gác cho. Tôi xin chuyển phiên lên máy thưa ra. Tài liệu lưu trữ tôi chôn ngoài vườn. Đề phòng tôi có thể bị bắt, hy sinh, tôi vẽ sơ đồ để vào trong phong bì dán lại. Tôi nói với Kim:
- Anh gửi Kim chiếc phong bì này. Kim cất giúp vào một chỗ bí mật nào đó. Khi nào anh chết, em mở ra và đọc những lời anh dặn.
- Trời ơi, tình hình nghiêm trọng đến thế cơ ạ?
- Chẳng có gì đáng lo đâu - Tôi cười cho cô yên tâm - Ai cũng nên bớt một chút thì giờ tiên liệt cho cái chết! Là người lính càng phải đề phòng bất trắc. Nghe anh nói Kim sợ lắm à?
- Tất nhiên là có sợ, vì chưa bao giờ em phải sợ. Nhưng em chịu đựng được anh ạ.
- Cảm ơn em đã lo lắng cho anh. May mà có em và Tôtô. Nếu không anh sẽ hoàn toàn cô đơn. Bạch Kiệu nắm lấy tay tôi như xoa dịu tâm hồn tôi.
CHƯƠNG XIX
CUỘC NGOẠI TÌNH THẾ KỶ
Cuộc “hưu chiến" giữa tôi và Hoàng Quý Nhân không ngờ đã kéo dài được lâu như vậy. Mỗi lần gặp Nhân không ai nhắc lại chuyện cũ, nhưng khi nâng cốc, bao giờ cũng nói "Xin chúc sức khoẻ Walt Montague của chúng ta". Y nói long trọng và thì thầm như lời cầu nguyện của một tà giáo. Tôi hiểu là y vẫn muốn giư đúng những lời cam kết cũ và nhắc tôi cũng phải tôn trọng.
Để cho y yên tâm. Tôi cũng giữ một thái độ không có gì khác với trước cuộc gặp gỡ ở Biệt thự Vie du Château.
Một hôm đi làm về thấy Bạch Kim đang ngồi tiếp Hứa Quế Lan, vợ của Hoàng Quý Nhân. Người đàn bà xinh đẹp ấy đeo đầy người những trang sức quý giá càng làm tôn vẻ quyến rũ. Chị ta còn đem theo cả chứa con gái lai ăn mặc rất diện. Trước kia chị ta phải nhờ nhũ mẫu nuôi giấu giếm đứa bé. Nay nó lớn chị ta luôn luôn đưa theo bên mình và giới thiệu với mọi người là con nuôi. Bạch Kim không phải là người cùng lứa tuổi và cũng chỉ quen chị ta sơ sơ khi chị ta còn là vợ của Đỗ Thúc Vượng. Hôm nay chị ta bỗng đến chơi và ngồi khá lâu chắc có chuyện gì đặc biệt lắm.
Tối hôm đó, sau phiên trực máy, tôi hỏi Bạch Kim:
- Người đàn bà xinh đẹp đến tham em chiều nay hình như à vợ Hoàng Quý Nhân?
- Vâng. Bà cả của em đấy! - Bạch Kim nháy mắt cười vui vẻ.
Tôi nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. Chẳng lẽ chị ta lại dám đến đây lôi kéo Kim lấy Hoàng Quý Nhân để làm lẽ cho chị ta?
- Chị ta là vợ cũ của Dỗ Thúc Vượng mà. Hôm nay chị ta đến đây làm hai việc. Thứ nhất chị ta tỏ ra rất thương Vượng. Từ ngày bỏ nhau anh ta vẫn sống độc thân âm thầm nhớ tiếc chị ta. Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng, nhưng gương vỡ làm sao lành được. Chị ta muốn cho Vượng khỏi cảnh cô đơn và có ý muốn mối em cho anh ta. Anh thấy có vui không?
Một cảm giác giá lạnh toát xương sống lan ra khắp cơ thể tôi, nhưng tôi vẫn thản nhiên:
- Vui quá đi chứ. Vượng là một người đáng yêu.
- Anh mà cũng nhận xét như vậy à? – Kim quay ngoắt đi, vẻ giận dữ - Chẳng lẽ số kiếp em bất hạnh đến thế sao? Người chồng trước là một kẻ phiên lưu. Còn anh thứ hai đầu óc chất đầy ảo vọng! Không. Thà sống cô đơn suốt đời chứ không bao giờ em trao cuộc đời mình một lần nửa cho con người trống rỗng đó. Em cứ mong đợi ở anh một lời khuyên, té ra nó là như vậy.
Tôi đến san lưng Kim, đặt đôi bàn tay lên hai vai cô. Một phút sau tôi mới nói:
- Vừa rồi là một nhận xét chứ không phải lời khuyên. Anh cũng có sẵn một lời khuyên. Anh đã chuẩn bị gọt giũa chau chuốt trong ý nghĩ của anh. Nhưng anh lại thấy nó không hẳn là một lời khuyên vì nó có một cái gì không vô tư nó mang một động cơ... anh sợ em sẽ coi là nó không hoàn toàn vì em.
- Thế nó còn vì ai nữa? - Kim nhìn thẳng vào tôi.
- Vì Tôtô, vì anh nữa.
- Thế thì càng tốt chứ sao.
- Đối với anh thì là rất tốt, là mơ ước. Nhưng với em liệu có có là Les belles étoiles, là Chant d'amour1 (tình ca) của em không?
- Trước đây em cứ lẫn lộn giữa mơ mộng và hiện thực, giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa cảm tính và lý tính, giữa hình thức và nội dung. Với riêng em, sự lẫn lộn đó không có nghĩa lý gì, không nguy hiểm, không phải trả giá. Và đôi khi nó lại còn rất thú vị là đằng khác. Nhưng nếu sự lầm lẫn đó xảy ra với cuộc đời của cả hai người thì thực là tệ hại. Em tin ở lời khuyên chưa nói của anh vì đó là điều anh chuẩn bị, anh suy nghĩ. Nó là tiếng nói của chính anh. Anh không phải vay mượn ở vĩ nhân, dù người đó là Paul Valéry hay Lamartine.
- Cảm ơn, rất cảm ơn sự tin cậy của em. Liệu em đã cho phép anh nói ra những suy nghĩ đó với em chưa?
Bạch Kim khẽ đặt bàn tay lên miệng tôi:
- Em rất muốn nghe, nhưng em lại muốn chờ đợi. Sắp đến giỗ đầu chị Dung rồi. Em rất thương chị, em đã nguyện để tang chị trọn một năm. Lúc đó ta sẽ nói với nhau cũng không muộn.
Bạch Kim gục đầu vào vai tôi im lặng và tin cậy. Cách cư xử của cô làm tôi vừa ngạc nhiên vừa xúc động, sung sướng. Không nói nhưng chúng tôi hoàn toàn hiểu nhau...
Kim kể lại công việc thứ hai Hứa Quế Lan muốn nhờ:
- Chị ấy tâm sự với em là, Jimi chính là con chị chứ không phải là con nuôi như chị thường nói với mọi người. Đó là kết quả của cuộc mặcc cả giữa chị và Price khi chị yêu cầu người Mỹ này can thiệp để cứu Vượng ra khỏi nhà tù. Không ngờ cuộc ngoại tình đó lại dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng làm đổ vỡ cuộc sống gia đình chị. Nay chị đã lấy chồng nhưng đứa bé lại vẫn là một thách thức đối với tính đố kỵ về huyết thống của Hoàng Quý Nhân. Chị ta lại rất thương đứa bé vì dù sao cũng do mình đẻ ra. Chị muốn thương lượng với Price để lão ta nhận lấy đứa con, hy vọng lão sẽ đưa nó về Mỹ cho nó đỡ khổ.
Em có khuyên chị ta cứ để nó lại mà nuôi tội gì. Con bé rất xinh. Đưa về Mỹ nó lại phải sống với những người xa lạ: vợ Price và đàn con y. Bên đó tệ kỳ thị chủng tộc còn ác hiểm hơn sự ghen tuông đâm chém còn dữ dội hơn. Thế nhưng chị ta vẫn nằng nặc nhờ em cho chị theo vào khách sạn để gặp người tình cũ.
- Thế em có nhận giúp chị ta không?
- Em nể quá đành phải hứa là hai giờ chiều mai. Em chỉ ngại chính bọn Mỹ gác cổng làm phiền. Khách sạn dành cho ngoại kiều luôn luôn lo sợ bị tiến công nên người lạ đến là phải qua nhiền thủ tục lắm.
- Em cố giúp chị ta. Có thể báo trước với Price để hắn thu xếp với bọn gác, biết đâu cuộc gặp gỡ này chẳng có nhiều điều quan trọng.
- Chỉ có việc của đứa con Jimi về Mỹ thôi mà phải cầu cạnh đến thế. Em ở địa vị đó, em thuê hẳn một người nuôi ở nhà riêng không liên quan gì đến Quý Nhân. Chị ấy thiếu gì tiền mà phải đầy đọa con mình.
- Biết đâu lý do đó chỉ để che giấu một ý định khác? Thí dụ như chị ta muốn ngoại tình chẳng hạn!
- Ngoại tình? Một lần gây hậu quả chưa đủ sao?
- Ngựa quen đường cũ.
- Thế thì việc gì em phải giúp chị ta làm việc xấu xa đó!
- Anh muốn tò mò - Tôi cười - Em hãy đặt giúp anh một cái máy ghi âm vào dưới chậu địa lan trong buồng Price!
Bạch Kim tròn mắt ngạc nhiên rồi bỗng cô bật cười rũ rượi:
- Anh mà cũng thích nghe lỏm những chuyện ấy à? Thật không biết xấu hổ?
- Nếu chỉ là những chuyện ngoại tình thông thường thì chẳng có gì đáng tò mò. Nhưng theo anh, chuyện này có thể gắn với một mưu đồ nào đó của Hoàng Quý Nhân nên buộc y phải cho vợ đến đây. Kinh nghiệm cho thấy đưa người đàn bà đẹp đó vào buồng riêng của Price phải là một hy sinh lớn lao. Thậm chí nó còn liên quan cả đến vận mệnh đất nước, Kim hiểu anh chưa?
Câu nói nghiêm trang của tôi làm cho Bạch Kim nhận ra đây không phải là một sự tò mò.
- Em cũng cứ đến khách sạn sáng mai như một cuộc kiểm tra bình thường. Em ra lệnh cho người phục vụ đổi chậu và tưới nước cho địa lan. Em khéo léo vùi chiếc máy vào trong đó, thế là xong.
Bạch Kim rất phấn khởi làm việc này. Tính mạo hiểm kích thích cô, và cô đã hoàn thành tốt đẹp công việc.Mới một giờ ba mươi chiều đã thấy chiếc President (de luxe) bóng lộn của Hứa Qnế Lan đỗ trước cửa. Hai mẹ con vào đón Bạch Kim.
- Chúng ta cùng đi xe này. Xong việc chị lại đưa cô về.
- Vâng, chị để em lái cho. Bọn lính gác quen mặt em sẽ ít gặp trở ngại
Họ lên xe đến Khách sạn Phoenic. Tên quân cảnh Mỹ nhìn thấy Bạch Kim, y giờ tay chào và mỉm cười. Cô gật đầu chào lại rồi đưa xe vào thẳng ga-ra. Price đã nói trước với lính gác nên nó không hỏi gì Quế Lan.
Price xuống đón Quế Lan tận cửa xe. Ông ta ôm lấy đưa bé hôn lấy hôn để làm cho nó hoảng sợ tụt xuống. Sau có sự dỗ khéo của mẹ nó mới yên tâm.
Bạch Kim tạm biệt họ trở về phòng mình chờ đợi cuộc "đàm phán”. Cô rất sốt ruột vì rất ít khi cô ngồi ở khách sạn đến nửa giờ, dù đó là phòng riêng của bà chủ. Bốn mươi phút sau cô mới thấy tiếng gõ cửa. Quế Lan dắt Jimi vào, mặt đỏ ửng nói ấp úng với Kim:
- Cô cho chị gửi Jimi chút xíu nhé. Chuyện người lớn cháu nghe e không tiện.
Trao con xong, Quế Lan biến nhanh đến phòng Price.
- Are you crying1 (Sao cháu khóc) - Bạch Kim hỏi, Jimi rơm rớm nước mắt. Nó không trả lời. Bạch Kim mỉm cười.
- Ồ, cháu tôi không biết tiếng Anh, tội nghiệp, thế mà lại sợ nó nghe nổi chuyện người lớn!
Không phải chút xíu mà gần một giờ sau mới thấy Price và Quế Lan đến đón con. Một lần nữa tiến sĩ Price lại ôm chặt đứa bé. Họ đi sóng đôi xuống ga-ra, bắt tay từ biệt nhau. Quế Lan đưa con lên xe. Bạch Kim khởi động, xe từ từ lăn ra khỏi cổng.
- Cho chị nhờ cái gương một chút! Kim chuyển cho chị ta cái túi đựng đồ trang điểm. Quế Lan tô lại cặp môi, thoa vội một lớp son phấn, vuốt lại cặp lông mày. Bạch Kim liếc nhìn chị ta qua chiếc gương phản xạ. Rõ ràng là chị ta vừa trong toa-lét chui ra. Khi xe về đến cửa nhà Bạch Kim xuống xe.
- Mời chị vào nhà em chơi đã.
- Cho chị kiếu lỗi hẹn lần khác. Bữa nay chị đi quá lâu - Chị ta bắt chặt tay Bạch Kim mặt bừng đỏ thì thầm - Tha lỗi cho chị. Dù sao chị cũng vẫn là một người đàn bà yếu đuối. Je vous demande de garder ce secret absolu1 (Chị yêu cầu em giữ giữ kín chuyện này cho chị nhé).
- D’accord2 (Em đồng ý).
Ngày hôm sau tôi đi làm về, Tôtô nói với tôi:
- Mẹ Kim cứ hỏi ba về chưa đến mấy lần. Chắc mẹ mong. Ba lên gặp mẹ đi.
- Cảm ơn con. Dù tính tò mò nghề nghiệp thôi thúc, tôi cũng không hấp tấp. Tắm rửa xong, hai ba con xuống phòng ăn. Gặp Kim, cô nhún vai mỉm cười và thì thầm:
- Nó câm rồi!
Tôi ngạc nhiên và hơi bực mình. Nhưng không biểu lộ ra ngoài. Chắc Kim quên không để máy ở tư thế làm việc. Ăn xong tôi ra bài cho con, bắt nó ngồi vào bàn rồi mới lỉnh lên phòng Kim.
- Hỏng hết rồi hả Kim?
Kim khép cửa lại đưa cho tôi chiếc máy rồi cười:
- Anh nghe thử xem. Em cũng tò mò muốn nghe nhưng không quen mở, sợ nó hỏng thì tiếc. Em phải trêu anh để kéo anh lên ngay!
- Em làm anh hết hồn!
Tôi mở nhẹ công tắc. Âm thanh phát ra khá nét. Cuộc "đàm thoại” của hai người như sau:
“- Thưa tiến sĩ Price, hôm nay tôi đưa con tôi đến để nó biết mặt cha nó. Ông có nhận ra nó là con ông không?".
"- Lạy Chúa! Có thể đây là con gái tôi?".
"- Ông không tin à. Ông đã quên đi những lần chúng ta gặp nhau ở... ".
"- Không, không, tôi không bao giờ quên đi những giây phút diệu kỳ đó... và tôi không ngờ...".
"- Ông đã không ngờ hay đã quên đi hậu quả của nó. Vì những phút giây mềm yếu mà gia đình tôi tan nát. Chúng tôi ly dị nhau. Tôi ầm thầm gửi con cho người khác nuôi để bảo toàn danh dự".
"- Tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Sau cuộc gặp Quế Lan lần cuối cùng, tôi phải rời Việt Nam theo yêu cầu của Tổng thống Diệm. Sau này tôi cũng có sang công cán vài lần. Tôi gọi điện thoại cho Vượng, nhưng ông ấy từ chối tiếp tôi. Tôi đoán đó chỉ vì lý do chính trị. Tồi không ngờ chỉ vài lần gặp gỡ mà chúng ta lại có chung một kỷ niệm tuyệt vời như vậy? Ra đây với ba, con gái yêu quý của ba.
"- Ra với tiến sĩ Price đi, Jimi con" (Quế Lan nói với con bằng tiếng Việt).
“- Không đâu, con chẳng biết ông ấy nói chi. (Tiếng Jimi).
"- Thật đáng tiếc, con không hiểu được tiếng của anh nên nó mắc cỡ”.
"- Chúng ta sẽ cho Jimi học tiếng Anh".
"- Cần gì nữa anh? Ngườị Mỹ sắp ra đi rồi (buồn rầu) và anh cũng sẽ vĩnh viễn ra đi. Jimi vẫn sẽ là một đứa con rơi. Tội nghiệp",
"- Chưa phải thế đâu. Người Mỹ sẽ ra đi từ từ để không xảy ra đổ vỡ. Tổng thống Nixon kiên quyết Việt Nam hóa chiến tranh. Quân Mỹ chỉ rút đi với điều kiện quân lực Nam Việt đảm nhiệm được vai trò tiến hành chiến tranh của họ".
"- Với thời biểu rút quân đều đều như hiện nay thì Nam Việt Nam không sao kịp mạnh để đứng vững. Cộng sản sẽ làm chủ mảnh đất này thôi”.
"- Vi-xi đang kiệt sức. Còn quân lực Nam Việt thì chưa bao giờ được Hoa Kỳ quan tâm tăng cường sức mạnh như hiện nay".
“- Nhưng họ không thể là đối thủ của Bắc Việt được ngay khi có năm trăm bốn mươi ngàn quân nhân Hoa Kỳ đứng bên, họ còn thua nữa là khi các vị triệt thoái hết. Đó là chưa kể Mỹ rút bao nhiêu thì người Trung Quốc lại hỗ trợ Bắc Việt tăng cường bấy nhiêu. Cán cân sẽ nhanh chóng lật ngược. Lúc đó thì không phải chỉ Đông Dương mà Thái Lan, Ma-lai-xi-a, rồi Sin-ga-po. Cộng sản sẽ xây cầu qua eo biển Malacka có thể cả In-đô-nê-xi-a cũng sụp đổ theo, đâu đâu cũng có sẵn người Trung Quốc, họ sẽ nhuộm đỏ lục địa này. Châu Âu mất vai trò chiến lược. Cái họa da vàng sẽ không còn là một huyền thoại nữa!".
Câu chuyện ngừng lại ít phút. Tôi và Bạch Kim kinh ngạc trước những câu nói sắc sảo về thời cuộc của Hứa Quế Lan. Chẳng lẽ Hoàng Quý Nhân đã nhanh chóng đào luyện chị ta thành một chính khách thực thụ?
"- Đó là những nguy cơ tiềm tàng từ nước cộng sản khổng lồ này. Nhưng họ đã từng nói "Mi không động đến ta ta không động đến mi". Họ đang bận ưu tiên cho những vấn đề quốc nội gay gắt”.
"- Thì cứ cho là họ không đem quân đi. Họ chỉ gửi vũ khí đều đặn cho Bắc Việt. Đội quân xung kích hiếu chiến gần hai triệu người này đủ quét sạch ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi vùng Đông Nam Á, và Jimi của chúng ta sẽ trở thành Hồng vệ binh!”.
(Cả hai cùng cười vui vẻ rất lâu).
"- Người Mỹ rất muốn ở lại, nhưng tư thế chiến lược của chúng ta đã yếu đi nhiều khi bị sa lầy ở Việt Nam. Tất cả để rút ra khỏi bãi lầy này. Là một điều xấu, nhưng nó tránh được một điều xấn hơn trong tương lai?".
"- Nếu người Mỹ thực tế hơn thì họ sẽ tìm ra lối thoát trong danh dự".
“- Chính sách hiện nay là tìm lối thoát trong danh dự".
"- Xin trả lời là không. Họ không nhìn thấy trở ngại lớn nhất để làm tiêu tan nó đi. Hãy thọc lưỡi dao vào lưng kẻ thù!".
"- Mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia? Sang Lào chăng? Tất cả đều nằm trong những khả năng có thể".
"Cũng vô ích. Đấy không phải là lưng họ. Chính sách ngoại giao thiển cận của Hoa Kỳ làm cho họ không nhìn thấy nước Trung Hoa đỏ khổng lồ mà chỉ thấv hòn đảo Đài Loan bé bằng cái móng chân lục địa".
“- Mở rộng chiến tranh vào lục địa chăng?".
"- Điên à! Không phải chiến tranh mà là một cuộc đàm phán".
(Tiếng cười của Price giòn tan).
“- Đàm phán với Trung cộng! Một cuộc đàm phán với Bắc Việt ở Pa-ri đã đủ chán ngấy rồi. Nay lại còn đối thoại với Bắc Kinh nữa! Ôi toàn những bọn cực đoan cả. Chúng chỉ có một đòi hỏi chứ không hề thương lượng. Quay đi quay lại vẫn cái đĩa hát cũ. Hoa Kỳ cũng đã nói chuyện với Trung cộng hàng mấv trăm phiên ở Vác-xô-vi rồi. Có đi đến kết quả gì đâu!".
"- Đó là Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thập kỷ năm mươi. Lúc đó họ có vốn liếng gì đâu mà mặc cả. Bây giờ chúng ta bước sang thập kỷ bảy mươi, họ có trong tay con bài Việt Nam".
"- Bao giờ họ cũng coi Mỹ là kẻ thù!".
"- Nhưng "số dách" đã dành cho người Nga. Họ bị cô lập với thế giới bên ngoài và đang muốn tìm đường thoát ra".
"- Bằng cách giúp Bắc Việt tràn xuống Đông Nam Á?"
"- Đúng là họ đã giúp Bắc Việt nhưng ta phải xem động cơ bên trong của họ. Mỹ đã chắn lối của họ ra Đài Loan. Những thuyền buồm không đủ sức vượt qua cái eo biển dày đặc chiến hạm của hạm đội 7. Họ muốn nói chuyện với Mỹ về vấn đề này, Mỹ không thèm tiếp. Họ phải tạo cho họ một con bài. Họ giúp bắc Việt hai mươi tỷ nhân dân tệ đâu phải vô tư! Nay thì Bắc Việt đang đạt được một tư thế chiến lược đáng sợ. Vì vậy con bài Trung Quốc ở vào thời điểm cao giá nhất. Giả sử như họ đồng ý với Mỹ đóng cửa biên giới phía Bắc thì sao? Đó mới thực sự là lưỡi dao đâm vào lưng Bắc Việt?!".
"- Chắc gì họ đã phản bội đồng minh của họ!”.
"- Thì hãy nói chuyện với họ. Tất nhiên là phải trả cho họ một cái giá nào mà họ cảm thấy có lợi. Thí dụ như coi Đài Loan là cái giá để trao đổi với Đông Dương".
"- Đáng tiếc là cho đến phút này, nền ngoại giao Mỹ chưa nhận được một tín hiệu nào biểu hiện thiện chí của họ".
“- Thì đấy là tín hiệu!".
"- Đây là tín hiệu?".
“- Thưa tiến sĩ Price, tôi là một công dân Trung Quốc. Nói đúng ra là người Tàu lai Việt. Nhưng trong tim tôi mang già nửa máu Tàu”.
"- Trời! Lần đầu tiên tôi được tiếp chuyện với một công dân Trung Quốc đó?".
“- Cái đó thì ông Tiến sĩ lầm rồi. Tôi căm ghét cộng sản. Nhưng tôi hy vọng sự hợp tác chiến lược giữa hai quốc gia sẽ làm cho màu sắc nước tôi thay đổi!".
"- Làm sao có thể tin được đây là tín hiệu từ Bắc Kinh?".
"- Cái này hiệu có đáng tin chưa, thưa ông Price".
"- Một bức mật thư? Chồng em đã trao nó cho em?”.
“- Không. Anh ta không thể biết chuyện này. Với em, viên trung tá chỉ là một tên vệ sĩ, kiêm làm cái việc thuần túy đàn ông ba lần trong một tuần!".
"- Thế thì ai?”.
"- Ba em. Ông vừa về thăm quê hương với tư cách đại biểu của Trung Hoa hải ngoại (O.C.O.) khu vực ba. Ông được thứ trưởng ngoại giao tiếp. Ông thứ trưởng hỏi han tình hình Nam Việt và (một số tiếng mất không nghe rõ vì nó lấp vào những tiếng cười, tiếng xô đẩy...).
"- Đừng làm thế trước mặt Jimi... Đừng... Để em gửi nó sang bên chỗ người bạn. Jimi (bằng tiếng Việt) con sang bên kia chút xíu nghe. Đi theo má”.
(Máy im lặng)...
- Đoạn này chị ta đưa Jimi sang chỗ em. Sau đó chắc chỉ còn là những chuyện bậy bạ.
- Thì cứ chịu khó nghe tiếp... lỡ ra.
- Anh tò mò lắm. - Bạch Kim đỏ mặt mỉm cười đứng dậy đi ra phía cửa sổ.
"- Em gửi Jimi cho bà chủ khách sạn rồi. Bây giờ xin anh cầm lá mật thư cho em chụp. Bức ảnh này coi như giấy biên nhận để em báo cáo cấp trên. Anh phải đưa tận tay Tiến sĩ Kissinger. Một cuộc gặp gỡ cấp Đại sứ để hoạch định chương trình chung sẽ diễn ra ở một nước nào đó mà cả hai đều có quan hệ ngoại giao. Nhưng tránh các nước cộng sản và các nước phương Tây vì rất dễ lộ... Phía Trung Quốc đề nghị ở Răng-gun hay Ca-ra-si".
"- Anh sẽ bay về Washington ngay ngày mai. Hy vọng Hoa Kỳ có sự đáp ứng nhanh chóng. Thôi bây giờ ta chụp ảnh".
(Tôi ra hiệu cho Kim lại nghe tiếp).
"- Thế, được rồi, em bấm đấy. Một kiểu nữa cho chắc chắn... xong".
"- Đến lượt anh chụp em. Cấp trên cũng cần biết mật người chuyển đến cho họ lá thư quan trọng này".
"- Sẵn sàng". (Tiếng máy bấm...).
"- Không, không chụp thế đâu... Đừng làm thế, tiến sĩ Price".
"- Anh yêu em!”.
"- Một cuộc ngoại tình chính trị lớn thế chưa đủ thỏa mãn hay sao, ông Price?".
"- Đó là cuộc ngoại tình của ông Mao và ông Nixon? Đây mới là cuộc ngoại tình của chúng ta".
"- Ôi người Mỹ tham lam biết bao!”.
Bạch Kim ngắt luôn máy. Nét mặt cô bất bình.
- Thôi đủ rồi đấy! Thế là người Trung Quốc đã phản bội chúng ta!
Tôi cũng cảm thấy bàng hoàng vì từ xưa tôi vẫn tin tưởng nhất mực vào người bạn vĩ đại này. Họ đã giúp đỡ mình có khi cả bằng máu. Tôi bình tĩnh nói với Kim: Ta cũng phải cảnh giác những âm mưu ly gián, làm đổ vỡ niềm tin của những người đang chiến đấu. Trước đây Hoàng Quý Nhân đã từng thu được nhiều tin tức ở căn buồng này. Có thể y đã tạo dựng nên một màn kịch do chính vợ mình đóng một cách lộ liễu để khuynh đảo chúng ta chăng. Anh chưa tin Trung Quốc lại dễ dàng bán rẻ đồng minh của họ như vậy.
- Anh nói cũng có lý. Em thấy chị ta rất trơ tráo, không thèm che giấu. Từ chuyện nhờ em tổ chức gặp gỡ Price cho đến lúc gửi đứa bé và mượn gương trên xe đều như cuốn hút sự chú ý của em vào cái trò dâm đãng của chị ta.
Về phòng riêng tôi lại mở tiếp đoạn băng còn lại.
…
"- Em sấy tóc trang điểm lại đi!"
"- Không cần thiết".
"- Cứ để thế ra ngoài à!".
"- Em cần cho mọi người biết là chúng ta đã ngoại tình".
"- Trời! Em điên à?".
"- Không. Cuộc ngoại tình thông thường này phải là màn khói mù che lấp cuộc ngoại tình tuyệt mật Mỹ - Trung.
Đêm hôm đó tôi làm báo cáo đầy đủ về Trung tâm tôi không quên ghi những nhận định của tôi: Có thể là nguồn tin giả. Hai hôm sau tôi nhận được điện của cậu Đức: "Phải triệt để bám sát sự kiện này, dù phải bỏ những việc khác". Như vậy là trên đã đánh giá cao nguồn tin này.
Price bay về Mỹ. Những sự kiện diễn ra sau đó như mọi người đã biết. Bản thông cáo Thương Hải là một sự phản bội trắng trợn, nhưng Trung Quốc không đủ sức điều khiển con bài của họ. Còn Mỹ thì chưa trả đúng giá: hơn nữa Mỹ cũng chưa thực tin vào tính chất thất thường của nền ngoại giao Trung Quốc. Hiệp trịnh Pa-ri vẫn đến đích bằng những điều khoản không vui vẻ gì cho Mỹ.
CHƯƠNG XXGIẢI PHÓNG VÀ CÁI BẮT ĐẦU CỦA SỰ KẾT THÚC
Cách đây hai mươi mốt năm, Trần Văn Đỗ khóc không chịu ký vào Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Giờ đến lượt Trần Văn Lâu mang bộ mặt đưa tang ký hiệp định Pa-ri. Thiệu hoàn toàn không tán thành những điều khoản của nó. Nhưng sự ra đi của Mỹ là không thể cưỡng nổi. Lợi dụng lời cam kết của Nixon: "Mỹ sẽ dùng sức mạnh đầy đủ trở lại nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định". Thiệu bắt đầu một kế hoạch lấn chiếm quy mô lớn để giành ưu thế. Nếu ta phản ứng, chúng sẵn sàng gây lại chiến tranh để kéo Mỹ vào cuộc. Chúng là những kẻ chuyên sống bằng chiến tranh, bằng viện trợ. Rời những thứ đó ra chúng sống không nổi. Quân ngụy được tăng cường bằng kho vũ khí Mỹ để lại bắt đầu các cuộc hành quân lấn chiếm các vùng da báo. Những tháng đầu chúng đã giành được một số vùng do ta sơ hở.
Tùng Lâm trở về làm sư trưởng sư 97. Gặp tôi ở hành lang, viên chuẩn tướng ôm chầm lấy tôi, mùi rượu, mùi son phấn sặc lên!
- Ở đây hòa bình quá ta. Bọn tau vẫn phải uýnh hoài. Chà, nhưng sao hồi này Việt cộng mất tinh thần quá xá. Uýnh ngon quá bay ơi! Về làm tham mưu trưởng cho tau nghe! Tau đang cần một phụ tá trẻ khỏe, tài năng. Thế nào, ưng không?
- Ưng quá chứ anh Tư - Tôi trả lời xã giao cho qua chuyện. Tôi không ngờ ý kiến của anh được đưa lên cơ quan quân lực. Trung tâm điện toán lúc này cũng được tăng cường thêm một số sĩ quan trẻ, nên họ muốn đưa một số có trình độ chỉ huy ra nắm đơn vị. Tôi nhận lệnh điều động và được nghỉ phép mười ngày. Sự biến động này làm cho công tác của tôi gặp khó khăn. Tôi tiến cử Bạch Kim vào tổ chức. Kim sẽ phụ trách điện đài và làm trung chuyển giữa tôi với cấp trên. Anh Hai Bền cũng sẽ cộng tác với Kim, nhưng không trực tiếp vì anh đã lộ. Một khó khăn nữa là Kim chỉ biết đánh pi-a-nô chứ chưa bao giờ đánh moóc và nhận tín hiệu. Tôi phải giúp Bạch Kim học. Lúc đầu tôi hoàn toàn thiếu tin tưởng vào cô. Suốt từ nhỏ Kim sống lười nhác. Kẻ hầu người hạ. Nay hơn ba mươi tuổi mới bắt tay vào một công việc vừa bận rộn vừa nguy hiểm, biết cô có làm nổi không. Nhưng thật lạ lùng, Kim nhận công việc này với một niềm hứng khởi thực sự. Cô học hành nghiêm túc và rất thông minh. Tiếng ma-níp của cô còn non nớt nhưng đầy hứa hẹn. Có nhiều đêm chúng tôi học đến khuya.
- Anh thấy chưa, em đã hứa với anh, em sẽ sống tiếp cuộc đời của chị Dung. Chẳng những em nuôi dạy được Tôtô, chia sẻ với anh những vui buồn mà còn bước treo anh trên con đường chiến đấu… Em đã trở thành đồng chí của anh.
- Anh rất cảm ơn em. Nếu như ngày đầu tiên chúng ta đi với nhau trên bãi biển anh nhận ra ngay vẻ đẹp mang đầy quyền lực của em thì sau mười năm sống bên nhau anh cũng chưa nhận ra đầy đủ sức mạnh tinh thần của em. Chỉ vài hôm trước đây thôi, anh còn nghĩ rằng em thừa khả năng làm người bạn đời đức hạnh của anh; nhưng em không thể sóng bước với anh trong cuộc chiến đấu, thì đến hôm nay anh sung sướng mà nói rằng, em cũng hoàn toàn có đủ sức mạnh cùng anh đi trên con đường cách mạng. Hồi còn sống, Dung rất quý em - tin em và nhiều lúc Dung còn khuyên anh lấy em.
- Trời ơi! Chị Dung mà lại muốn cưới vợ lẽ cho chồng sao? - Kim ngạc nhiên.
- Không phải. Lúc đó anh chị chưa lấy nhau, thậm chí chưa phải người tình của nhau. Anh chị là hai người bạn công tác phải đóng vai vợ chồng. Mãi đến lúc anh lên đường đi Mỹ mới chính thức lấy nhau và có được Tôtô.
- Ôi lạ lùng quá! Sao lại có thể sống trong sạch bên nhau năm sáu năm trời?
- Nhưng anh thì hư hơn. Đôi lúc anh cũng đòi lọt vào "khu vườn cấm thiêng liêng của Chúa". Nhưng chị đã giữ được anh một cách nhẹ nhàng êm dịu.
- Anh thế là ngoan lắm rồi đấy. Em phục anh chị quá! Còn em thì...! Xấu hổ quá anh nhỉ?
- Giữa anh và Dung có khác. Có một vấn đề để hai đứa vịn vào mà đứng vững - Tôi kể lại cuộc đời của Dung cho Kim nghe. Câu chuyện đầy bi tráng cửa một nữ chiến sĩ tình báo đã làm cho Kim xúc động. Nước mắt cô trào ra. Kim ôm chặt cánh tay tôi trên ngực mình. Tôi cảm thấy những cơn nức nở trong trái tinh cô trào lên như sóng. Cô muốn vươn tới tấm gương trung liệt. Cô tìm thấy hạnh phúc trong tình yêu Tổ Quốc thiết tha.
Anh chị tôi cũng biết sự phát triển tình cảm giữa hai chúng tôi. Nhưng không hề hỏi han, ngăn cấm. Họ tôn trọng tự do của chúng tôi vì chúng tôi đã lớn tuổi, đã từng trải cuộc đời và biết suy nghĩ cho tương lai của mình.
…
Ngày tận thế của chế độ Sài Gòn được báo trước năm mươi ba ngày bằng trận Buôn Mê Thuột. Tướng Phạm Văn Phú được lệnh tháo chạy khỏi Tây Nguyên bằng sự tan rã hoàn toàn, quân ta cắt ngang từ Tây Nguyên xuống bờ biển đe dọa cô lập Quân khu 1. Một nỗi kinh hoàng nổ tung trên đầu bộ máy quân sự Sài gòn.
Quảng Trị thất thủ! Ngày 26 tháng 3: quân ta giải phóng Huế. Quân ngụy khắp nơi dồn về Đà Nẵng gây nên một không khí khiếp sợ bao trùm lên lực lượng đồn trú ở đây. Ngày 27 tháng 3 đến lượt nó sụp đổ.
Sư đoàn 97 của tướng Tùng Lâm được bố trí trên một tuyến phòng ngự mới được thiết lập ở Nam Trung Bộ, nơi những dãy núi trùng điệp của cao nguyên đổ dài xuống bờ biển. Đứng về mặt địa hình. Nó rất có giá trị giúp cho đội quân phòng ngự có ưu thế, vì sông Đan Ly tạo thành một chướng ngại thiên nhiên hiểm trở.
Sư đoàn dàn theo đội hình hàng ngang với chính diện bảy kilômét, và chiều sâu bốn kilômét. Tiếp sau nó là đội hình của hai sư đoàn bạn. Một bộ tư lệnh hỗn hợp được hình thành do tướng Trần Đức Tạo làm tư lệnh chỉ huy toàn tuyến phòng thủ.
Mệnh lệnh của Tổng thống là phải tử thủ để cho trên nửa phần còn lại của Nam Việt tập trung sức mạnh phản công khi Mỹ ném bom trở lại. Mọi tin tức phía trước đều bị phong tỏa. Nơi chúng tôi đóng quân cuộc sống vẫn thanh bình. Buổi sáng sớm sông Đan Ly phủ một màn sương mỏng. Những đàn vịt trời bay là là mặt nước rồi mờ dần trong khoảng rừng xa.
Tướng Tùng Lâm hỏi tôi:
- Nếu cộng quân cứ giữ nhịp độ tiến quân như hiện nay thì bao lâu nữa chúng sẽ nổ súng vào phòng tuyến của chúng ta?
- Chỉ hai tuần nữa. Liệu chúng ta có thể đứng vững tại đây được bao lâu?
- Ai mà nói chắc được. Nếu quân lính chịu chiến đấu, có không quân và một trăm hai mươi nòng pháo đầy đủ đạn dược thì họ rất khó chọc thủng nổi trong vài tuần. Điền đáng sợ là sự tháo chạv của binh lính phía trước. Họ sẽ đạp đổ phòng tuyến của chúng ta trong vài giờ (tôi nói với một niềm vui mừng ác ý).
Viên chuẩn tướng thở dài nhìn xuống đường.
Trên quốc lộ 1, một dòng người, xe cộ di tản như con sông dài vô tận. Đó là đám vợ con công chức ngụy quyền, một số dân các đô thị, thị trấn sợ vạ lây vì bom đạn, di chuyển đến những vùng chưa có chiến sự chưa thấy lính hoặc có nhưng họ đã thay quần áo nên cái bệnh dịch thất trận còn chưa lan tới.
- Ta cho lệnh phá cầu chứ?
- Chưa được. Làm như vậy sẽ trao cho địch hàng ngàn quân xa, hàng trăm đại pháo, hàng vạn tù binh (tôi rất lo cầu bị phá sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tiến quân của ta).
- Hãy tạo cho chúng một bối thủy trận để buộc chúng phải chiến đấu.
- Cũng có thể là chúng chiến đấu. Nhưng nếu chúng hiểu là ta thí mạng chúng thì chúng sẽ đầu hàng với toàn bộ vũ khí hạng nặng. Quân Bắc Việt sẽ dùng ngay những thứ đó trút vào phòng tuyến của ta.
Một tuần sau Đà Nẵng, quân ta tiến vào giải phóng Nha Trang. Mọi tin tức thất trận không sao phong tỏa nổi. Những lời đồn đại còn gây rung động hơn hệ thống thông tin báo chí. Những toán lính đầy vũ khí. những quân xa chở lẫn lộn cả binh lính lẫn vợ con họ nối nhau như những đàn chim tránh lạnh đổi mùa bay tới phương Nam. Hình ảnh đó tác động mạnh mẽ đến những binh đội còn đang đào hầm hố, chăng dây thép gai, kiến tạo bãi mìn để xây dựng phòng tuyến chống cự.
Ngày mồng 3 tháng 4, Đà Lạt, thành phố nghỉ mát của "bọn quý tộc” trên cao nguyên thất thủ. Tin tức đó gây nên nỗi lo lắng sân sắc trong những người chỉ huy tuyến ngăn chạn trên bờ sông Đan Ly. Sườn phía Tây của họ đã bị hở. Những ngày thanh bình đã qua đi. Tôi nghe rõ tiếng trọng pháo vang vọng trầm trầm từ phía Bắc mà lòng rộn ràng sung sướng. Cái kết thúc đang đến gần.
Tướng Tùng Lâm kinh hoàng khi nhận ra quá trình tan rã đã bắt đầu trong chính sư đoàn mình. Mới qua hai ngày chưa đánh nhau, họ đã mất 1.328 binh lính. Đến giờ này thì không hiểu cái bệnh dịch đó đã lan ra đến mức nào.
- Hắc Hổ đâu? A lô! Hắc Hổ... Thiếu tá Bang đấy à? Cấm trại. Kẻ nào bỏ trốn bắn bỏ? Cứ theo quân lệnh thi hành nghe?
- Hoàng Sà! A lô, tôi gọi Hoàng Sà. Tướng Tùng Lâm đây. Xin tăng viện? Chu cha! Uýnh chác chi đâu mà đòi tăng quân hả ông nội? Đã nhìn thấy quân Bắc Việt à? Cho gọi pháo bắn. Ừ được, xem quânchánh quy hay ba thằng du kích?
Viên sư trưởng gọi điện thoại, gào thét inh ỏi với các sĩ quan chỉ huy trên những cứ điểm phòng ngự.
Bỗng nhiên không trung réo lên những đường đạn bỏa tiễn 122 và tiếp đó là những tiếng nổ dữ dội.
- Cho phá cầu thôi chứ? - Tùng Lâm hỏi tôi.
- Cho phép tôi nhận định tình hình một phút. Tôi chạy ra khỏi hầm quan sát. Tiếng súng rộ lên ở hướng Tây Nam đằng sau phòng tuyến. Tôi chạy vào.
- Trình chuẩn tưởng! Cuộc tiến công của địch lại nhằm vào phía sau phòng tuyến của chúng ta. Phía Bắc hoàn toàn yên tĩnh. Nếu phá cầu chẳng may ta phải rút sang bờ Bắc thì sao?
Mặt viên chuẩn tướng thất sắc.
- Chạy sang phía Bắc sông. Ông điên à, trung tá? Hướng phòng thủ của ta là phía Bắc kia mà?
- Dạ trình chuẩn tướng, tôi còn rất tỉnh táo. Chiếm Đà Lạt họ có thể đánh tạt sườn phòng tuyến của chúng ta. Họ không thèm đánh vỗ mặt. Đó là sở trường của quân Bắc Việt. Khi họ cắt được liên hệ của ta với hậu phương thì coi như đã kết thúc.
- Ông học tận bên Mỹ, trong tình huống đó họ dạy ông phải làm gì? - Tùng Lâm nhìn tôi cười mỉa mai.
- Anh Tư ạ, chỉ còn cách nhảy xuống biển. Người Mỹ đã hành động như vậy cách đây hai năm! Ba mươi sáu chước, chước chuồn là thượng sách.
Nhưng ngay cái chước chuồn cũng đã là quá muộn. Mũi thọc sâu của bộ binh cơ giới từ phía Bắc tiến vào không bắn một phát súng. Khi nghe tiếng xe thiết giáp rú thì họ đã ở đầu cầu bên kia. Tùng Lâm quên cả lệnh phá cầu. Tôi, anh ta cùng vài sĩ quan chỉ huy nhảy ra mấy chiếc xe Jeep lao rađường, theo hướng Nam phóng thục mạng. Nhưng xe chúng tôi không hề đi nhanh vì có nhiều chỗ tắc nghẽn vì dòng người, xe cộ...
Đột nhiên phía trước ngừng cả lại. Tôi đỗ xe xem sao thì đã thấy mấy tiếng lao xao: "Quân giải phóng chặn đường rồi”. "Họ đã chiếm Bảo Sơn". "Ở đồn Trạch cũng đã kéo cờ Mặt trận".
- Thế là hết. - Viên chuẩn tướng xị mặt xuống.
Hai mươi phút sau đó chúng tôi đã là tù binh. Nhờ có cái quân hàm chuẩn tướng mà cả sáu sĩ quan được chuyển nhanh về sở chỉ huy hành quân. Một cán bộ lập hồ sơ cho bọn tôi. Tôi không mảy may tiết lộ tung tích của mình vì diễn biến chiến tranh chưa thể lường trước được. Đến 13 tháng 4 thì tôi không còn đủ kiên trì. Tôi nói riêng với đồng chí cán bộ thẩm vấn: Tôi có ông cậu là trung tá hay thượng tá Nguyễn Hữu Đức công tác ở cơ quan tình báo Miền. Tôi xin được nói điện thoại với cậu để xin chỉ thị. Nửa ngày sau có một đồng chí đến gọi tôi lên Phòng tham mưu. Ở đây tôi được phép nói chuyện với cậu Đức.- A lô. Cậu Đức đấy ạ? Cháu Phan Quang Nghĩa A.32 đây? Cháu đã hàng Quân Giải phóng, dạ cháu chẳng biết đơn vị nào... Sư 47 ạ (một đồng chí đứng bên nhắc tôi). Cậu cần giao nhiệm vụ gì cho cháu thì cứ giao. Vâng, vâng. Cậu điện cho Kim biết là cháu vẫn an toàn.
Tôi đề nghị Phòng tham mưu cũng gọi riêng vài sĩ quan khác lên để các đồng chí hỏi qua cho họ không coi tôi là nhân vật đặc biệt.
Hôm sau, một chiếc xe Jeep đến đón tôi và tù binh Lê Hòa đi. Khi tạm biệt, Tùng Lâm cầm tay tôi đầy nước mắt:
- Liệu còn được gặp nhau nữa không?
- Cứ hy vọng, anh Tư. Dù sao thì chiến tranh cũng sẽ kết thúc trong vài ngày nữa - Tôi an ủi anh ta.
Một ngày ô tô chạy trong những con đường miền Đông đầy ổ gà, chúng tôi được chuyển đến một trại giam mới. Tới đây Hòa được ly gián với tôi bằng một nhiệm vụ che mắt: "Mỗi người đi một hướng dẫn đường cho quân Giải phóng đánh thành phố".
Ở đây tôi đã được gặp cậu Đức. Cậu cháu ôm nhau vui mừng khôn xiết. Tôi báo cáo lại toàn bộ tình hình công tác với cật. Tôi cũng thưa với cậu tôi và Kim đã thành vợ chồng. Cậu cũng hơi ngạc nhiên:
- Thế cưới xin lúc nào mà không tin cho cậu hay để cậu viết thư ra Hà Nội?
- Có cưới xin gì đâu ạ. Cảnh "rổ rá cạp lại" cậu ạ. Ngay những người trong đó cháu cũng chẳng thông báo chuyện này. Cháu sợ chẳng may bị lộ thì Kim vẫn làm việc được với cậu, không sợ liên lụy.
- Tốt lắm, đó cũng là một sáng kiến hay. Cậu ủng hộ các cháu. Nhưng dù sao, với một cán bộ tình báo, cháu vẫn phải xin phép chứ? Bây giờ cháu phải về ngay Sài Gòn. Quân ta sẽ vào giải phóng thành phố một sớm một chiều. Nhưng ta cũng phải tính đến trường hợp chúng lợi dụng những cấu trúc kiên cố của thành phố mà tử thủ để mặc cả. Mục tiêu của chúng ta là buộc địch phải đầu hàng vô điều kiện. Chúng ta vẫn cần nhiều tin tức trong nội bộ chúng. Ngay như thành phố được giải phóng đi nữa cũng vẫn cần phải nắm những tổ chức phản động hoặc tàn dư của nó. Cháu sẽ vẫn không xuất đầu lộ diện trước cơ quan An ninh giải phóng, rõ chưa?
- Rõ ạ! Nhưng cũng chưa thông lắm. Suốt mấy chục năm khoác bộ quần áo ngụy cũng muốn trút bỏ nó ra để đứng trong đội ngũ vinh quang của những người chiến thắng. Nhưng cấp trên đã chỉ thị thì cháu xin nghiêm túc chấp hành.
- À cậu cũng chính thức thông báo cho cháu biết là Quân đội đã quyết định trao cho cháu cấp làm thiếu tá. Những giấy tờ đó cậu đã chuyển cho mẹ cháu để bà mừng. Như cậu đã nói với cháu, niềm vinh quang của người chiến sĩ tình báo là không thể phô trương, không thể đem chia sẻ. Bằng lòng chứ?
- Vâng ạ!
...
Hai hôm sau tôi đã có mặt ở Sài Gòn. Vợ chồng bố con ôm chặt lấy nhau vui mừng tràn nước mắt. Anh chị Ân đi rồi. Họ sang Pháp rồi đi Ca-na-đa. Anh chị cứ bắt em đưa Tôtô đi cùng, nhưng em kiên quyết ở lại chờ anh. Dù chết hai mẹ con cũng ở lại. Nhận được điện của cậu Đức báo tin anh, em mừng điên lên. Em tưởng đến ngày giải phóng hoàn toàn anh mới về cùng đoàn quân chiến thắng. Ai ngờ hôm nay đã về.
- Nhớ em và con quá, anh phải bỏ trốn về. - Tôi nói đùa.
- Chuyện gì mà lạ vậy! Thật xấu hổ.
- Sẽ kể sau - Tôi cười quay lại Tôtô - Con trai của ba lớn rồi, từ nay ba mẹ không gọi yêu con là Tôtô nữa nhé. Phan Quang Trung, con của thiếu tá Quân đội Nhân dân Việt Nam Phan Quang Nghĩa chứ không phải Tôtô con viên trung tá ngụy nữa nghe!
Con tôi cũng hết sức ngạc nhiên và cả hai chúng tôi cùng giải thích cho con. Cháu ôm chầm lấy tôi:
- Thế mà hôm nay con mới biết. Sao ba không kể cho con từ khi còn má?
- Con bé quá, con nói lộ ra thì nguy hiểm.
- Chẳng bao giờ con dại thế.
- Đã có lần con nói với mẹ Kim về công việc của ba.
- Con chỉ nói với mẹ Kim thôi.
- Nhưng lúc đó mẹ Kim cũng chưa biết ba làm việc cho Giải phóng.
- Nhưng con tim là mẹ rất yêu ba nên mẹ phải giữ cho ba chứ.
- Rất đúng, ôi con tôi thông minh quá - Bạch Kim ôm chặt lấy thằng bé hôn như mưa lên đôi má dễ thương của nó - Không có con nói ra điều đó thì có khi số phận mỗi người lại rẽ đi những ngả khác nhau. Anh phải cảm ơn con đi!
…
Đêm hôm đó khi hai đứa lên nằm trên gác thượng tôi mới kể lại nhiệm vụ trước mắt cho Kim nghe. Kim cười vui vẻ:
- Những mong ngày giải phóng để được khoác tay đồng chí thiếu tá Giải phóng đi dạo trên đường phố Sài Gòn không ngờ vẫn mang tiếng hai lần làm vợ trung tá ngụy.
- Ngụy này là ngụy vỏ thôi, bỏ bộ đồ ra là Vi-xi chính hiệu!
Chúng tôi ôm nhau ngất ngây trong niềm hạnh phúc.
Bầu trời đầy sao. Gió thổi xào xạc những tàu dừa. Đèn thành phố vẫn sáng rực, không xa lắm, tiếng đại bác vang vọng nặng nề. Những chuyến bay của những chiếc Galaxy khổng lồ vẫn tiếp tục. Không trung ầm ầm tiếng động rồi tan loãng dần đi. Thanh bình ngự trị...
Tại sao người ta gọi dải tinh vân rực rỡ kia là sông Ngân anh nhỉ?
- Ở nước mình nó gắn với câu chuyện phân ly của Ngưu Lang - Chức Nữ. Ở nhiều dân tộc khác, dải Ngân Hà là vết bay của đàn chim hạc. Hàng năm những đàn chim tránh tuyết lại kéo nhau bay về phương Nam. Khi mùa xuân đến, nó vạch nên một đường bay ngược lại. Dấu vết của đàn chim gắn liền với những ngôi sao trên dải Ngân Hà. Những câu chuyện đó hình như đều có một biển tướng chung: Sự tha hương, sự chia ly...
Bạch Kim thở dài. Một nỗi buồn nhè nhẹ lướt qua.
- Em nghe nói mỗi con người gắn với một vì sao. Trong muôn ngàn vì sao rực sáng kia, đâu là sao anh, đâu là sao em?
- Anh không nhận nổi nhưng chắc là phải ở bên nhau, rất gần nhau.
- Thôi, em đành chọn cho chúng mình hai ngôi sao kia.
Cô chỉ cho tôi hai ngôi sao đỏ như màu lửa trên chòm sao Vũ Tiên.
- Hai ngôi sao đẹp quá, nhưng có thể chẳng thích hợp với chúng ta.
- Thế chúng mình thích hợp với những ngôi sao nào?
- Sao đen. Những ngôi sao sống âm phần trong vũ trụ mà ta không thể nhìn thấy được. Chúng có khối lượng riêng rất lớn, mật độ vật chất cao. Chúng không phát ra ánh sáng mà còn hấp thụ hoàn toàn những nguồn khác rọi vào chúng.
- Thế thì làm sao biết được sự tồn tại của chúng?
- Vì mật độ vật chất cao nên người ta vẫn nhận ra bởi trường lực hấp dẫn mạnh mẽ của chúng. Chúng vẫn tồn tại với cái tên huyền bí: Sao Đen.
Ngày 22 tháng 4 tôi đến trình diện tại Bộ Tổng tham mưu. Tôi ngạc nhiên thấy người tiếp tôi là tướng Lâm Quang Thới, viên tướng già đầu bạc được tôi cứu sống trong trận Sông Mang. Ông ta đã về hưu hơn chục năm, nay bỗng ra "tham chiến" trong một tình thế rất xấu này. Ông ôm chặt lấy tôi vui vẻ:
- Ồ, không ngờ lại còn được gặp anh! Fort Leavenworth đã dạy anh những gì để các anh đạt được một cục diện "tốt đẹp" như ngày nay!
- Thừa tướng quân, họ dạy tất cả, trừ việc ném bom hạt nhân!
Cả hai đều cười rất thoải mái. Tôi kể cho ông nghe chuyện thất trận của sư đoàn 97 cùng việc Tùng Lâm và toàn bộ phòng tham mưu bị bắt. Tôi đã trốn thoát được và đến đây trình diện. Ông cười và thì thầm.
- Trình diện làm gì. Sắp kết thúc rồi. Cứ ở nhà, đó là cách hành động khôn ngoan nhất.
- Nhưng theo papa, tại sao papa nhiều tuổi thế mà vẫn còn ra gánh vác công việc...
- À… Họ mời tôi và tôi thấy cần phải có mặt. Tôi thuốn có một kết thúc êm đẹp. Tôi muốn bảo toàn tánh mệnh cho dân chúng, cho binh sĩ tránh đổ vỡ cho kinh thành. Để công việc lọt vào tay bọn cực đoan có thể gây ra đổ máu không cần thiết. Tôi đâu có tham quyền cố vị. Anh cứ về nhà. Chưa có việc cần đến anh đâu.
Tôi cảm ơn viên tướng già và bắt tay từ biệt ông. Nhưng phút cuối cùng này ông đã sống với tư cách một người Việt Nam có trách nhiệm. không thờ ơ với số phận của mọi người.
Hoàng Quý Nhân đã thu thập hành trang cho một cuộc chạy trốn. Vàng kim cương, đô-la thì không phải lựa chọn. Nhưng đống tài liệu đồ sộ thì lúc này không còn có thời gian để phân loại. Đó là bộ sưu tập y bỏ ra cả nửa cuộc đời để tranh cướp tìm kiếm. Những cuốn phim vi ảnh, nhưng cuộn băng thu âm, các mật danh, mật ngữ, hồ sơ, sổ đen ghi hàng chục tổ chức, hàng trăm số phận biết cái nào còn có ích trong tương lai. Sự biến chuyển của thời thế đã diễn ra quá nhanh. Trong khi Quý Nhân bận rộn như vậy thì vợ y cứ nhởn nhơ. Ả triết lý:
- Cái gì phải đến nó sẽ đến. Con tàu đắm thì dại khôn đều chết.
- Ít ra thì cũng phải biết tìm cho mình cái phao chứ.
- Đó là công việc của ông đấy, thưa ngài đại tá cảnh sát. Chẳng lẽ mười ngàn con người cần cứu vớt mà người ta lại không nhớ đến ông. Không ai có thể tin chắc là mình sẽ tìm được một cái vé máy bay. Cả các vị tướng cũng vậy thôi. Phải có một người Mỹ đón được vào sân bay hay tòa đại sứ thì mới chắc chắn.
- Polga đâu? Harold Smith đâu. Toàn những con người ngày nào cũng chén chú chén anh đâu cả rồi. Anh hãy gọi điện cho họ.
- Gọi rồi, hàng chục lần quay điện thoại, mở cả PRC.25 đủ mọi tần số. Bao nhiêu mật khẩu, mật hiệu, bí danh tung ra hết nhưng không lần nào được nói trực tiếp với Polga. Những tay phụ tá của họ đều trả lời: "Xỉn ông đến với chúng tôi, sân bay Tân Sơn Nhất hay tòa đại sứ cũng được". Nhưng làm sao có thể vượt qua được cái vòng vây khủng khiếp đó mà ra đi.
- Thế thì ở lại với cái la-bô rồi tiếp tục hoàn thành cái luận án khoa học của mình để nhận giải Nobel. Nhưng bây giờ thì lấy đâu ra "thỏ" mà thí nghiệm. Hãy tự tiêm chất độc vào mình. Hãy ngồi vào trong cái "đàn oóc của thánh đường Hamilton”...
- Thôi, cô im đi! Còn cô nữa đấy.
- Đúng, cả tôi nữa. Chúng ta đã tắm biển, tắm nắng tắm du-xơ, tắm hơi, tắm bằng sữa người. Bây giờ phải được tắm máu cho đủ mùi!
Quý Nhân không thể ngồi nghe vợ y chì chiết. Y lên xe phóng về lâu đài Vie du Château. Y gọi tất cả các nhân viên trong la-bô tụ tập lại. Lúc đó chỉ còn năm người.
- Chúng ta không thể tránh khỏi sự sụp đổ. Người Mỹ đã bỏ chúng ta. Hy vọng cuối cùng là chúng ta được một chỗ trên máy bay di tản. Tôi rất đau lòng phải chia tay với những người cộng sự trong nhiều năm nay. Nhưng trước khi rời khỏi đây chúng ta phải thiêu mọi giấy tờ, phá mọi phương tiện, không để lọt vào tay Bắc Việt. Bây giờ ta bắt tay vào việc.
Chúng di chuyển toàn bộ công cụ, giấy tờ đến căn phòng chính. Sau đó Quý Nhân cho bọn tay chân về nhà, thu xếp gia đình với năm trăm đô-la mỗi người. Chỉ một người bí mật quay lại với y là một tay trung úy. Tên này đã được Nhân rỉ tai: "Chờ đợi ở đây sẽ có xe của CIA đến đón cả gia đình cùng đi". Trong khi chờ, tên này được giao đào một cái hố sâu bí mật ngoài vườn cây. Y nói là sẽ chôn đi một số tài liệu quý. Nến sau này có cơ quay lại, thứ đó sẽ là cái vốn vô giá. Quý Nhân cũng chia cho tên này một số vàng, đô-la đủ sống suốt đời khi phải tha hương đất khách quê người.
Quý Nhân lái xe mò về nhà thì thấy cửa đóng chặt. Y mở khoá vào thì không còn ai. Y lái xe đến nhà Hứa Vĩnh Thanh chỉ còn thấy mình lão, vợ và các con lão đã đi rồi. Không ai biết Quế Lan và Jimi đâu. Trong trạng thái tâm thần bất định, Quý Nhân phóng xe đến cửa sân bay Tân Sơn Nhất. Một đám đông hỗn độn chen lấn như ong vỡ tổ. Hàng ngàn ô tô đỗ lộn xộn ngăn chặn lối vào. Trước đây có một đợt pháo kích nên sân bay tạm ngừng hoạt động. Một số máy bay lên thẳng "Hiệp sĩ biển cả" của hải quân vừa cố gắng đỗ xuống thì làn sóng người bên ngoài lại rồ lên như muốn tràn qua những lớp song sắt để vào được sân bay. Một số người Việt leo bừa lên những vật chắn bị lính quân cảnh Mỹ đẩy xuống. Một số lọt được vào. Quý Nhân cố nghển lên nhìn những vẻ mặt đã lọt được vào bên trong, y nhận ra vợ y đang dắt tay Jimi đi bên cạnh Price. Tay ả xách cái va-li nhỏ trong đó đựng tất cả những thứ quý giá mà y đã gói ghém vào đấy.- Quế Lan! Quế Lan ơi! - Tiếng y lọt thỏm vào cái ồn ào hỗn độn.
- Quế Lan ơi! Tiến sĩ Price!
Hình như vợ y đã nghe thấy, ả ngoái đầu nhìn quay rồi lại quay đi bước tiếp cuộc hành trình. Y lao vào đám người, chen lấn, đạp lên họ. Viên đại tá cảnh sát có võ thuật mà vẫn không sao vượt nổi đám người kia. Cuối cùng y cũng đến được những song sắt. Y trèo lên định nhảy vào, Nhưng tên lính Mỹ ấn đầu y xuống.
- Cho tôi vào! Tôi là đại tá? Đại tá cảnh sát.
- Giấy đâu?
Y móc túi nhưng không thấy ví, trong lúc vội y quên ví ở đâu hay đã bị kẻ nào móc mất. Không có bằng chứng gì chứng tỏ y là đại tá.
- Tôi bỏ quên xin hãy tin tôi, tôi là đại tá Hoàng Quý Nhân.
- Về lấy! - Tên lính thủy lạnh lùng đáp lại.
Một số người Việt đứng quanh đó ồn ào lên tiếng:
- Đại tá giả đó bay? Tau xưng là bộ trưởng nó còn đẩy lại đói
- Tướng thật còn chưa đi nổi nữa là đại tá giả!
Tiếng cười chế giễu vang lên lạc lõng giữa cái cảnh hãi hùng thất vọng. Quý Nhân tức điên người nhưng rõ ràng quyền lực của y đã xuống đến mức thấp nhất. Như mọi lần, y có thể nổ súng vào kẻ khiêu khích. Nhưng bây giờ thì không thể. Sụp đổ hết rồi. Y nghĩ đến Quế Lan với cái dáng đi thanh thản của ả. Ôi cái sống và cái chết chỉ cách nhau có một hàng song sắt mà y không sao vượt nổi. Khi trở lại trạng thái tâm lý cân bằng. Hoàng Quý Nhân thấy cần phải tiếp tục những công việc đang làm dở.
Về đến Biệt thự Vie du Château y thấy viên trung úy đã hoàn thành nhiệm vụ.
- Trình đại tá, sâu đủ một mét rưỡi.
- Cảm ơn, cảm ơn. Tắm rửa đi rồi ta ăn tối.
Chính tay y bầy bàn ăn rồi ngồi chờ người cộng sự trung thành từ trong buồng tắm đi ra.
- Thưa đại tá, chúng ta sắp được đón chưa ạ?
- Ngày mai, Polga đã hứa. Bây giờ xin nâng cốc chúc mừng dịp may cuối cùng đang đến!
Chúng chạm cốc nhau, cả hai uống gọn ly Whisky. Hoàng Quý Nhân rót tiếp cốc thứ hai đưa lên định chúc tụng thì viên trung úy không còn đủ sức đứng vững nữa. Y ngồi phịch xuống ghế quằn quại, mồm méo đi rớt rãi chảy ra. Liều thuốc độc đó vừa uốn đủ để giết một trăm mạng người. Quý Nhân giải thoát cho người cộng sự những lo âu sợ hãi nhanh chóng nhất. Viên trung úy chẳng có lỗi gì ngoài cái cấu trúc cơ thể xấp xỉ với Hoàng Quý Nhân. Y cần một cái xác chết như vậy để ngành cơ thể học pháp y dễ lầm lẫn. Y lôi người bạn xấu số đó sang phòng tập trung tài liệu và đồ đạc. Y thắt cho xác chết cái thắt lưng của mình, đeo cho nó chiếc lập lắc mang tên mình cùng tất cả các thứ mang dấu tích của y, nhưng không cháy được. Súng ngắn, đồng hồ dao nhíp.
Y hì hục khuân số vàng còn lại ra chiếc hố ngoài vườn chôn cẩn thận, xoá dấu vết. Vàng là quý nhưng với khối lượng đó thì một lực sĩ cùng không thể mang theo người được. Y chờ đợi dịp trở lại. Biết đâu niềm hy vọng đó lại chẳng trở thành sự thật.
Y bỏ lâu đài Vie du château lúc hai mươi hai giờ mười phút bằng một chiếc xe hòm Toyota. Hai mươi hai giờ mười lăm phút, tòa biệt thự bốc cháy. Những người xung quanh ngó ra nhưng không ai đến chữa. Đêm 29 tháng 4 các trạm cứu hỏa cũng không còn người trực. Ngọn lửa thiêu hủy hết thảy đồ đạc trong can phòng chính rồi tàn lụi. Nó không vượt qua được những bức tường bê tông. Y nhìn qua cái gia tài bốc cháy rồi buồn bã lái xe đi. Lúc này y mang thẻ căn cước với một cái tên mới, nghề nghiệp mới. Con rắn đã hai lần lột xác. Tuy nhiên y vẫn mang theo cái chứng minh thư đại tá để hy tvọng iến được vào cái chấn song sắt ngày hôm qua, nó vẫn còn giá trị trong vòng nửa ngày nữa.
Không ai biết y có lên được máy bay hay đang sống lẩn lút ở đâu. Khi anh Hai Bền vào được lâu đài Vie du Château thì cái xác đã cháy hết. Anh làm một bản báo cáo đúng như kịch bản của Hoàng Quý Nhân đã dựng. Kết luận: tên ác ôn đã tự sát và tiên hủy mọi dấu vết.
Thành phố giải phóng được hai ngày thì cậu Đức đến thăm chúng tôi. Vừa là cấp trên, vừa là người trong gia đình, chúng tôi vô cùng vui mừng. Đây cũng là lần đầu Bạch Kim được thấy cậu, tóc cậu đã bạc, hơi gầy, nhưng dáng điệu còn nhanh nhẹn và đặc biệt cặp mắt còn tinh anh lắm. Cháu Trung cũng mới được gặp ông, nhưng chẳng mấy chốc hai ông cháu đã trở nên thân tình vì ông hay nhắc lại chuyện má cháu ngày xưa. Cậu ở chơi với chúng tôi không lâu vì có nhiều công việc phải làm. Chúng tôi đề nghị hết giờ làm việc cậu về đây nghỉ với chúng tôi, nhưng cậu từ chối.- Cháu nên nhớ rằng bên ngoài cháu vẫn là trung tá ngụy. Cậu đến nhiều lộ mất. Ai gọi trình diện thì cứ ra. Bảo đi đâu cứ chấp hành, không được nhờ gọi điện cho cậu, nghe chưa?
- Dạ, cháu xin chấp hành. Cháu chỉ có một nguyện vọng duy nhất: Sau hai mươi năm xa nhà, cháu muốn được trở về thàm mẹ cháu và bà con, thăm cháu Hiền. Sau đó cậu muốn cho cháu vào trại cải tạo cháu cũng không dám từ chối.
- Cậu cũng đã nghĩ đến chuyện đó. Có điều là cấp trên chưa có một chương trình hậu chiến dứt khoát nên cháu phải chờ đợi một chút. Còn việc về Bắc thì cứ chuẩn bị. Cả ba vợ chồng con cái nhé. Đi một chuyến độ nửa tháng. Được chưa? Cậu cũng muốn cùng đi cho vui.
- Chúng cháu cảm ơn cậu và mong cậu cùng đi.
Nửa tháng sau cậu về Hà Nội thông qua kế hoạch mới. Cậu đã đón chúng tôi ra máy bay. Con đường tôi đi hơn hai mươi năm mới dài làm sao? Chỉ ba tiếng sau tôi đã trở về Hà Nội. Xe đưa chúng tôi từ sân bay về thẳng nhà anh chị tôi ở Kim Liên. Cuộc gặp gỡ thật vui mừng khôn xiết. Không có một hạnh phúc nào lớn hơn trong đời tôi. Đó là tổng số của bao niềm hạnh phúc, của chiến thắng, của thống nhất, của độc lập tự do, của sum họp gia đình sau mấy chục năm chiến đấu. Tất cả đều ở trong cuộc, số phận mọi người đều gắn bó với nhau...
Sau những phút xúc động tràn đầy nước mắt, cậu Đức nói với mẹ tôi:
- Cách đây gần hai mươi mốt năm, tôi đến nói với chị xin cho thằng Nghĩa làm lính của tôi. Chị vui lòng chấp nhận. Nay tôi trao trả nó cho chị nguyên vẹn (cậu vỗ vào vai tôi, cả nhà vỗ tay)... Nhưng tôi cũng đau lòng nhắc lại, đứa con dâu hiền của chị, cháu Phương Dung đã không còn có mặt hôm nay để gặp lại cả nhà (Tất cả nhà òa lên khóc, cậu tôi, mẹ tôi, tôi và cả anh rể tôi cùng các cháu chưa một lần biết mặt Dung cũng không cầm nổi nước mắt. Vài phút sau, cậu mới nói tiếp được, nhưng chiến đấu là phải có hy sinh. Chính sự hy sinh của hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ, đồng bào là để cho chúng ta có những phút giây, những tháng năm hạnh phúc. Bù lại, Phương Dung đã để lại cho chúng ta một thằng bé xinh trai, thông minh như mẹ nóngày xưa. Con trai chị cũng lại đưa về cho chị một cô dâu mới sắc tài, đức độ bước tiếp được con đường của Phương Dung để lại. (Mẹ tôi ôm ghì lấy Bạch Kim và cháu Quang Trung, một lần nữa mọi người lại sụt sùi cảm kích). Chị Hậu ạ! (tên mẹ tôi là Hậu) Tôi tước ao một hạnh phúc như chị mà không được đấy.
- Cảm ơn cậu. Niềm hạnh phúc đó cũng là của cậu. Cậu đã dẫn dắt con tôi làm tròn trọng trách đối với Tổ Quốc. Tôi xin tặng cậu một nửa niềm tự hào của người mẹ! (Cả nhà lại vỗ tay).
Nhưng giờ đây nếu một lần nữa tôi lại muốn chị trao nó cho tôi. Nó lại bước vào một nhiệm vụ mới mà không có điều kiện ở gần để chăm sóc chị lúc tuổi già, chị có bằng lòng không?
- Sao lại không bằng lòng? Tôi không hiểu được hết việc làm của con tôi, nhưng tôi tin là những việc đó rất cần thiết cho Tổ Quốc chúng ta.
- Thế thì được rồi. Các cháu sẽ nghỉ phép nửa tháng. Hôm nào đi là tôi lôi cả ba đứa đi đấy. Có sụt sùi nhớ nhưng một chút cũng được, nhưng không được giữ lại bất cứ đứa nào, kể cả thằng bé con.
- Vâng. vâng. Cậu cứ yên tâm về thăm mợ và các cháu. Chúng tôi không làm lỡ việc của cậu đâu.
- Nào đã được về. Mai còn làm việc. Chưa biết chương trình ra sao.
…
Chúng tôi đã thực hiện được một thời gian biểu chặt chẽ trong hai tuần. Tôi đưa vợ con vào lăng viếng Bác Hồ, đi thăm phong cảnh Thủ đô. Kim lạ lùng khi thấy thành phố vẫn như xưa qua bao năm bom đạn ác liệt. Cô trở về thăm lại ngôi nhà thời thơ ấu của mình, mặc dù cô không còn quen biết những chủ nhân hiện tại.
Như đã hẹn, cuối đợt phép, cậu Đức đưa chúng tôi về Hải Dương thăm viếng gia đình Dung để cho cháu được nhận ông bà ngoại và chị Thu Hiền. Cuộc gập gỡ cũng vô cùng cảm động. Tôi không ngờ chán Hiền đã trở thành một cô sinh viên xinh đẹp và dịu dàng như mẹ cháu lúc ra đi. Chỉ có điều là cháu đeo kính cận. Chỉ vài giờ sau cháu gọi tôi bằng ba và Bạch Kim bằng má. Về nguyên tắc, chúng tôi không kể hết những việc của mẹ cháu đã làm, nhưng ông Đức hứa là sẽ viết thành sách để nêu gương cho thế hệ các cháu. Bạch Kim trao lại những bức ảnh và tất cả món đồ trang sức Phương Dung còn để lại. Nó vừa là nhưng kỷ niệm thiêng liêng vừa là tài sản của cháu sau này.
Mười lăm ngày ngắn ngủi ở quê hương đã hết. Chúng tôi lại phải từ biệt mẹ và gia đình. Bạch Kim để lại toàn bộ đồ trang sức của mình cho mẹ để mẹ an dưỡng lúc tuổi già. Mẹ nhất định từ chối, nhưng cô đã dỗ mẹ:
- Là dâu con, lẽ ra chúng con phải đỡ đần phụng dưỡng lúc lúc tuổi già. Nhưng nhiệm vụ của chúng con còn nặng nề, mẹ tha lỗi cho chúng con. Những thứ này thật chẳng đáng là bao. Xin mẹ nhận cho chúng con yên tâm.
Tuy gọi là lấy chồng quan lại nhưng trong cả cuộc đời mình, bà chưa bao giờ có vàng dù chỉ là một chút ít trong tay. Mẹ tôi cũng sống giản dị tần tảo như những người lao động khác. Bà có biết đâu rằng con dâu của bà là con một nhà triệu phú. Phần gia tài mà cô có quyền thừa hưởng theo di chúc gửi ở các ngân hàng nước ngoài đủ cho cô sống ung dung suốt đời. Nhưng cô tự nguyện từ bỏ tất cả để đi theo con đường cách mạng, con đường của dân tộc, con đường của giai cấp công nhân. Con đường đầy gian khổ hy sinh, nhưng là con đường tất yêu của lịch sử.
Chúng tôi đã trở lại Sài Gòn.
Một tuần sau cậu Đức đến trao nhiệm vụ cho chúng tôi. Cậu nói:
- Các cháu đã sẵn sàng chưa?
- Dạ, chúng cháu đang mong đợi ạ.
- Cấp trên quyết định để các chán di tản ra nước ngoài. Chiến tranh đã chấm dứt, đất nước sẽ thống nhất trong độc lập, tự do và bước vào một thời kỳ xây dựng. Nhưng những thế lực đế quốc và phản động chưa để ta yên. Sự thất bại của chúng quá lớn nên nối hận thù của chúng chưa dễ nguôi ngoai. Giai cấp thống trị phải rời bỏ ngôi lầu vàng cũng chưa dễ cam phận. Họ đâu muốn ta mạnh lên! Vì vậy ta phải biết chúng định lành gì để phòng ngừa, ngăn chặn.
Chúng ta chưa từng nhìn vào lỗ khóa nhà ai. Công việc riêng của họ dở hay mặc họ. Nhưng một khi suốt ngày họ biểu lộ công khai sự thù địch với ta, bao vây, cấm vận, tẩy chay, bôi nhọ sự nghiệp của chúng ta, xúi bẩy gây bạo loạn, làm mất ổn định cuộc sống thanh bình sau hai mươi năm chiến tranh của chúng ta thì ta phải cảnh giác. Khi họ to nhỏ thì thầm những mưu đồ độc ác đối với Tổ Quốc ta thì việc ta áp tại vào cánh cửa của họ để biết trước sự tình lường cơn nguy hiểm là việc làm cần thiết và hoàn toàn có thể giải thích được.
Khi thực hiện chương trình này, cậu đã điểm lại toàn bộ danh sách những cán bộ tình báo có kinh nghiệm còn lại sau chiến tranh dưới quyền của cậu. Đáng tiếc là không còn nhiều lắm. Phần lớn thuộc thế hệ cậu, tuổi đã cao. Lớp trẻ hơn thì quan hệ hẹp hơn, ít ngoại ngữ, thiếu cơ sở ở nước ngoài, vấn đề tài chính cũng rất gay gắt. Tổ Quốc còn nghèo chưa thể có những ngân khoản lớn cho công tác này. Xét cho cùng thì rất hiếm những người có được nhiều điều kiện thuận lợi như các cháu. Điều đó giải thích vì sao cậu cứ phải "bọc giấy bóng" mãi không cho các cháu xuất đầu lộ diện như Hai Bền chẳng hạn. Lại một lần nửa cậu cần đến sự tự nguyện. Ý kiến của hai cháu thế nào?
Tôi nhìn Bạch Kim, Bạch Kim nhìn tôi. Chúng tôi đều nhường nhau phát biểu. Một sự kiện đột ngột mà tôi chưa lường đến, chưa trao đổi với nhau.
- Bạch Kim thưa với cậu đi. Anh nhường em phát biểu trước.
Sau vài phút ngập ngừng, Bạch Kim mỉm cười mạnh dạn:
- Cháu là vợ, thưa cậu, chồng cháu đi đâu cháu theo đi đấy dù phải đến nơi cùng trời cuối đất.
- Hay lắm, còn thiếu tá Phan Quang Nghĩa!
- Thưa cậu, cháu là người lính, cháu sẽ chấp hành mệnh lệnh của trên. thưa cậu. Cháu nghĩ rằng cháu cũng là người lính, mặc dù chưa bao giờ cậu công bố chính thức điều này. Nhưng cháu cũng sẵn sàng chấp hành mệnh lệnh.
Một kế hoạch "hành quân” được vạch ra. Lần trước tôi với Dung phải đóng vợ chồng giả. Lần này tôi và Kim đã làm vợ chồng chính thức nhưng ra đi chỉ với danh nghĩa nhân tình để sau này cô có dịp quan hệ rộng rãi.
Tôi sẽ đi theo đường vượt biển cùng với một vài sĩ quan ngụy. Người tôi lựa là tướng Võ Tùng Lâm, một con người dễ tìm bạn, cởi mở, nông nổi và không nguy hiểm.
Bạch Kim muốn cùng đi, nhưng cậu Đức không chấp nhận vì có cháu Quang Trung đi theo, không nên để cháu phải chịu đựng những thử thách quá sớm. Hai mẹ con sẽ đi theo đường hợp pháp bằng máy bay của Air France.
Chúng tôi có hai điểm hẹn chính thức:
Một ở Poiton Brossac Québec Canađa nơi anh chị Ân tôi mới sang.
Một ở Rue de château - London Paris X. chỗ ở của anh trai Bạch Kim.
Cậu sẽ lo cho chúng tôi mọi phương tiện để thực hiện kế hoạch ra đi được thuận lợi. Một kế hoạch đảm bảo thông tin liên lạc từ nước ngoài cũng đã được hình thành để phục vụ cho chúng tôi báo cáo được về nhà. Cậu nói vui:
- Cháu Quang Trung rồi cũng sẽ là nguồn kế tiếp của chúng ta. Người ta nhìn thấy nhà vô địch tương lai ngay trong đám trẻ lặn ngụp ở ao tù, những trận đá bóng trên sân trường hoặc những cuộc chạy đuổi trên đường phố... Trước hết phải dạy dỗ cháu trở thành một người Việt Nam chân chính.
Tôi buộc lòng phải kết thúc câu chuyện ở đây vì chưa có gì để viết tiếp. Khép cuốn sách lại, chắc còn nhiều điều chưa làm các bạn vừa lòng. Có điều chính bản thân tôi cũng chưa hiểu nổi. Có điều còn nằm trong lưu trữ và có cả những điều chưa tiện nói ra vì sợ nó ảnh hưởng tới nhiệm vụ trong tương lai. Nếu người viết còn sống để viết quyển thứ hai thì rồi cũng còn có nhũng điều phải chờ đến những quyển "lớn hơn hai" mới có hy vọng giải quyết. Và cứ như vậy thì biết bao giờ thỏa mãn được? Tôi nghe nói ngay những bộ môn toán học chính xác nhất cũng không thể bằng phương tiện của mình để chứng minh cho sự viên mãn của chính mình. Vì vậy xin các bạn hãy vừa lòng với những điều tôi đã viết ra. Một khi các bạn còn phải suy đoán, còn phải đạt câu hỏi "tại sao" thì chính là các bạn đã thông cảm với công việc của chúng tôi. Bởi lẽ chúng tôi cũng luôn luôn phải đặt ra câu hỏi "tại sao" để rồi suy đoán tiếp...
1975Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro