Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Sấm sét trên Thái Bình Dương P2

Câu chuyện tàu ngầm này có vẻ rất hoạt kê và thật vậy nó rất hoạt kê. Nó đã chứng tỏ rằng kế hoạch của Nhật, mặc dầu được soạn thảo tỉ mỉ, cũng bị nhiều kẽ hở mà Bộ tư lệnh Mỹ lẽ ra đã có thể lợi dụng được. Bức điệnt ín sau cùng mà ông lãnh sự gỉ Morimura, được đánh đi qua trung gian của ông nha sĩ, là một lầm lỗi, vì nó có thể thức tỉnh đối phương. Nhưng ít ra nó cũng còn cho phép bật đèn xanh cho Đô đốc Nagumo khi xác nhận với ông ta rằng có các thiết giáp hạm trong hải cảng. Tấn công hải cảng bằng một toán tàu ngầm bỏ túi là một lỗi lầm thứ hai, và trầm trọng hơn, bởi vì nó tạo thành một sai lầm chiến thuật có thể làm hỏng nỗ lực chính nhất là khi nó không được chuẩn bị kỹ.Không có thuỷ thủ nào của chiếc Condor lẫn chiếc Ward lại mơ ngủ cả khi họ báo hiệu thấy khi thì một tiềm vọng kính, khi thì một tháp tàu ngầm. Quả thật kế hoạch Yamamoto đã có trù liệu một cuộc tấn công các thiết giáp hạm buông neo trong Trân Châu Cảng bằng một nhóm năm tàu ngầm bỏ túi được các tàu ngầm mẹ trang bị đặc biệt mang đến tuyến xuất phát.Trong thực tế, Đô đốc chỉ còn hối tiếc cho cuộc tấn công cầu âu này, cuộc tấn công khó mà diễn ra đồng thời với cuộc tấn công của phi cơ. Tuy nhiên ông đã phải nhượng bộ áp lực của ông Bộ trưởng Hải quân khi ông này nại ra các lý do tâm lý. Sự sử dụng độc có phi cơ sẽ tạo ra ganh tỵ. Đặc biệt các quân nhân phục vụ dưới tàu ngầm, những người từ lâu đã nghiên cứu khả năng tấn công các chiến hạm đang bỏ neo bằng các tàu ngầm bỏ túi, đột nhiên thấy mình bị chiếm đoạt mất con ngựa chiến có hy vọng hơn cả. Yamamoto không muốn cho họ bị nhục và chấp thuận cho nhóm ưu tú này của Hải quân danh dự được hy sinh tối thượng cuộc tấn công đầu tiên mở màn cuộc chiến tranh.Bởi vì đây chính là một sứ mạng tự sát đầu tiên. Mười chiếc tàu ngầm nhỏ ấy có tầm hoạt động không đủ để trở về tàu ngầm mẹ nữa kìa. Năm chiếc tàu ngầm mẹ há chẳng phải bị đe doạ vì địch trông thấy nếu chúng nổi lên mặt nước ngay giữa ban ngày lúc ở quá gần Trân Châu Cảng hay sao ? Hơn nữa, những hiểm nguy bị ném lựu đạn chống tàu ngầm hoặc cả bị mắc cạn nữa, đã không cho thấy gần như một cơ may chiến thắng nào cả.Cơ may thành công của chính cuộc tấn công cũng không mấy lớn lao, cuộc hành quân không biểu dương một lợi ích quân sự nào cả. Trái hẳn lại, nó đe doạ làm hỏng hiệu quả của sự bất ngờ. Quả thật đó là điều đã xảy ra và nếu không có sự chậm trễ khó tin của việc chuyển đi các tín hiệu báo động từ chiếc Condor, Bộ tư lệnh Mỹ đã có thể được biết tin trước trong khoảng từ 4 đến 5 giờ sáng-Nghĩa là hơn 3 giờ trước khi cuộc tấn công bắt đầu-rằng có một cái gì bất thường đang xuất hiện. Do đó có đủ thì giờ để cho các các khu trục cơ cất cánh, để lắp đạn cho các giàn cao xạ DCA, trên mặt đất và trên chiến hạm, để phân tán tất cả phi cơ trên mặt đất và để tăng cường sự theo dõi màn ảnh rada. Có lẽ cuộc tấn công của Nhật sẽ không giảm phần chí tử nhưng nó cũng bắt quân Nhật phải trả trá đắt.Mới cách đó ít lâu Oahu cũng được trang bị các rada trên đất liền-thêm vào các giàn rada của các thiết giáp hạm vốn sẽ không thấy gì khi đậu trong lòng chảo. Nhưng đây là một kiểu mới, nhân viên không được huấn luyện kỹ, và ít quá; đèn để thay thế thì hiếm hoi và mệnh lệnh tiết kiệm gắt go đã được ban hành. Dầu vậy, bất chấp những thiếu sót, những giàn máy tuyệt vời này đã hoạt động hoàn hảo và đã khám phá được không đoàn của Fushida lúc còn cách xa 200 cây số. Tại đây cũng lại chính vì tổ chức chuyển lệnh báo động kém cỏi quá đã làm cho Bộ tư lệnh không nhận được tin tức cốt yếu này.Cuộc phiêu lưu của các binh nhì thuộc sở Truyền tin Lục quân, tốt nghiệp chuyên viên rada tạm thời Joseph Lockard và George Elliot, vẫn thường được kể lại với đôi chút tưởng tượng thêm vào. Chúng ta sẽ nhắc lại một cách tóm tắt thôi bởi vì nó là một tổng hợp điển hình nhất của các thiếu sót khác nhau thuộc lĩnh vực cơ cấu tổ chức vốn đã làm tê liệt hẳn hệ thống ra lệnh báo động trong buổi sáng hôm đó.Tướng Short có trong tay năm trạm rada được thiết lập rải rác trên các đỉnh núi cao thuộc đảo. Cho rằng bình minh là thời gian mà cuộc tấn công đáng sợ nhất, ông đã ra lệnh vì các lý do, tiết kiệm vật liệu, rằng sự canh chừng thật sự sẽ chỉ được thực hiện từ 4 giờ đến 7 giờ, tức là hai giờ trước bình minh và một giờ sau đó. Một buổi huấn luyện ngắn sẽ được tổ chức tiếp theo đó từ 7 giờ đến 8 giờ, nhưng vì ngày 7 tháng 12 là một ngày chủ nhật và vì hôm ấy không có máy bay cất cánh, cho nên năm trạm rada sẽ chấm dứt sự canh chừng vào lúc 7 giờ.Mỗi trạm rada có đường liên lạc điện thoại với Trung tâm Tin tức của Fort Shafter. Hôm đó một sĩ quan không quân, trung uý Kermit Tyler, là sĩ quan trực. Ông có một bản đồ lớn treo tường để định vị trí và một tổng đài điện thoại nối liền với tất cả phi trường trên đảo và các bộ chỉ huy hành quân khác. Như thế đồng thời vừa là quá nhiều vừa là quá ít. Quá nhiều vì chỉ một bộ chỉ huy cũng đủ với điều kiện là phải đặt cạnh Trung tâm Tin tức và hoạt động thích nghi. Quá ít bởi vì Trung tâm Tin tức cô lập ấy lại chỉ được giao cho một trung uý không quân trẻ tuổi vô thẩm quyền chịu trách nhiệm. Trong số năm trạm rada hoạt động tại Oahu, có một trạm được thiết trí tại một địa điểm rất thích hợp: trạm Opana, nằm trên một ngọn đồi cao 250 thước phía tây bắc đảo và hướng nhìn chiếu thẳng ra khơi. Chính hai binh sĩ Lockard và Elliot có mặt trong trạm này.Cuộc canh chừng lâu 3 giờ của họ trôi qua mà không có chuyện gì lạ: không một chiếc máy bay, một chiếc tàu nào xuất hiện làm rối mặt kính được chiếu sáng như ánh trăng.Đến 7 giờ, Lockard sửa soạn tắt máy, nhưng Elliot vốn ít được huấn luyện hơn bạn, xin tiếp tục cuộc canh chừng với hy vọng bắt gặp được các phi cơ vận tải thông thường sắp đến giờ bay đến, Lackard chấp thuận và đứng dậy để chân cẳng giãn gân, nhưng gần như ngay lúc đó người bạn goi anh: "này, anh nhìn coi, có cái gì kìa".Lockard nghiêng người qua vai Elliot và thấy một nhóm điểm sáng mà số lượng mỗi giây một nhiều. Anh không tin vào mắt mình nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một đoàn phi cơ quan trọng đang bay hết tốc lực đến gần và cách 180 cây số về phía bắc đông bắc. Anh nhảy chồm đến chiếc điện thoại và gọi Trung tâm Tin tức của Fort Shafter. Một binh sĩ trả lời anh và bảo rằng anh ta có một mình, phiên trực đã chấm dứt. Nhưng trung uý Tyler, lúc đó chưa bỏ đi, nhấc ống liên hợp lên nghe. Giọng của người đối thoại càng lúc càng lo âu. Tyler ghi lại các chỉ dẫn vừa được chuyển đến: vị trí, đường bay và tốc độ phi cơ đáng nghi. Có một lúc mối nghi ngờ của ông bị lung lay. Thế rồi tâm trí ông lại được soi sáng: ông nhớ có thoáng qua một hiệu lệnh phát đi từ đài truyền tin KGMB tại Oahu nói rằng, một đoàn pháo đài bay từ Mỹ sẽ bay đến lúc 8 giờ. Chắc chắn đoàn phi cơ đã bay quá lên phía bắc và giờ đây chuyển về hướng nam về phía phi trường Hickam. "Đừng lo" ông nói với Lockard, "đừng nghĩ đến chuyện đó nữa!"Vốn là một binh sĩ tận tâm, Elliot tiếp tục theo dõi đoàn phi cơ trên mặt kính rada. Đối với anh đây là cơ hội độc nhất để tự học hỏi. Đúng 7 giờ 30 đoàn phi cơ chỉ còn cách xa 80 cây số, 10 phút sau nó biến mất trong vùng rối loạn vì núi non. Anh tắt máy, ngắt điện rồi bước ra khỏi ngưỡng cửa để cùng Lockard chờ chiếc xe trực lên chở họ xuống. Trên đường đi xuống phía Trân Châu Cảng, họ gặp các binh sĩ bộ binh vũ trang đi ngược chiều. Kìa, họ nghĩ, vậy ra có cuộc thực tập sao?Không, đấy không phải là một cuộc thực tập. Bom đã rơi xuống Fort Shafter. Trân Châu Cảng bị khói bao phủ. Hạm đội Thái Bình Dương không còn nữa.Một giờ rưỡi sau cơn tai biến, khi người bưu lại nhỏ bé của Honolulu chuyển đến được tận tay người nhận bức công điện của Marshall, cử động đầu tiên của Tướng Short là giận dữ xé tan bản văn ấy. Nó được soạn thảo như sau: "Hôm nay lúc 1 giờ trưa (giờ Hoa Thịnh Đốn) người Nhật có chuyển giao cho chúng ta một công hàm mà trong thực tế là một tối hậu thư. Họ cũng đã nhận được lệnh phá huỷ lập tức các máy móc mật mã của họ. Chúng tôi chưa rõ ý nghĩa chính xác của phần thêm vào liên quan đến giờ giấc, nhưng dầu sao ông cũng hay ra lệnh báo động. Hãy thông báo các chỉ thị này cho các cấp chỉ huy Hải quân. Ký tên: Tướng George Marshall".Nếu nhận được các tin tức này trong đêm trước, chắc chắn là có thể tránh được cuộc tàn sát ghê rợn rồi. Bị chìm ngập bởi những công việc hoả tốc như ông, Short không có thì giờ tìm hiểu bí mật của sự chậm trễ luôn năm tiếng rưỡi đồng hồ để hoàn thành việc chuyển đi bức điện văn này, nhưng khi đã bình tĩnh trở lại, ông tìm thấy lại điện văn ấy và cẩn thận giữ bên mình.Than ôi, chắc nó không hữu ích gì cho ông trong cuộc điều tra những kẻ có trách nhiệm cả. Thật vậy Short sẽ cùng với Kimmel là những nạn nhân đầu tiên của sự thanh lọc sau cơn tai biến. Không ai quan tâm đến các luận cứ của họ, và trong hoàn cảnh bị thất sủng, họ cay đắng biết rằng các thượng cấp trực tiếp của họ-Marshall và Stark-vẫn còn ngồi lại ghế của mình.Chắc chắn là Roosevelt đã phán xét, cũng như về sau người kế tục của ông J.F.Kennedy phán xét tiếp theo sau sự thất bại tại vịnh Con Heo ở Cuba, nơi mà quân đội và các cơ quan tình báo của Mỹ đã dồn dập vấp phải các lỗi lầm cùng loại, rằng trong vụ thê thảm này có quá nhiều người để khiển trách.

Kế hoạch miền Nam:Hạm đội liên hợp

Với một thái độ trầm tĩnh tuyệt đối của một tay chơi bài Poker, mà ông là một người sành sỏi thật, Đô đốc Isoroku Yamamoto, tư lệnh "Hạm đội liên hợp" của Nhật, không chờ kết quả của vố tấn công táo bạo vào Trân Châu Cảng, đã cho áp dụng ngay kế hoạch miền Nam, một kế hoạch mà các chi tiết được qui định trước các chi tiết liên quan đến cuộc không tập căn cứ Hải quân Mỹ rất lâu.Vốn là đối tượng của vô số các cuộc nghiên cứu tham mưu, kế hoạch này đã hoàn thành sau các thất bại đầu tiên tại Trung Hoa khiến cho hy vọng vào một chiến thắng mau lẹ bị dập tắt! Rõ ràng là Nhật Bản không thể nào chịu đựng được một chiến tranh lâu dài vì cuộc kháng chiến của Trung Hoa đã không cho phép khai thác các lãnh thổ chinh phục được. Để có thể đập tan các cuộc kháng chiến này, điểm chủ yếu là phải có thể cung cấp gạo cho binh sĩ và nhiên liệu để tiếp tế. Còn đâu khác hơn? Nghĩa là trong các quần đảo giàu có tại Đông Nam Á từng được khai thác tận tình bởi các kẻ xâm lăng tây phương từ nửa thế kỷ qua. Kế hoạch miền Nam được thiết lập tỉ mỉ chính là để chiếm hữu các nguồn tài nguyên này của người Tây phương.Trái với kế hoạch xâm chiếm Trung Hoa vốn thuộc thẩm quyền riêng biệt của Lục quân, kế hoạch miền Nam chủ yếu lệ thuộc vào "Hạm đội liên hợp".Danh xưng "Hạm đội liên hợp" không mới mẻ gì. Nó đã có một tiền lệ vinh quang. Chính đó là danh hiệu được đặt cho hạm đội của Đô đốc Togo năm 1904, người chiến thắng trận Port Arthur và trận Tsoushima lừng danh sau đó. Yamamoto thường được so sánh với vị tiền nhiệm trứ danh, cũng có các đức tính của một Tư lệnh đại đơn vị y như bậc tiền nhiệm, và cũng giống như ông ta, ông có cái thiên phú hiếm có làm cho thuộc viên yêu mến mặc dầu vẫn đòi hỏi họ một sự phục vụ tận tuỵ vô bờ bến. Nhưng chính tại đấy, nghĩa là trên bình diện con người, đã có sự khác biệt giữa hai nhân vật.Trước hết về phương diện thể chất, họ không giống nhau. Togo là một người mảnh khảnh, vẻ mặt khổ hạnh mà cái nhìn sâu sắc phản chiếu năng lực tiềm tàng và sự chừng mực. Yamamoto cũng giống như ông ta, có một tầm vóc trung bình nhưng thể chất vạm vỡ hơn. Thói quen tập thể thao đã khiến toàn thể bắp thịt của ông mềm dẻo và mạnh mẽ hơn. Khuôn mặt tròn của ông rạng rỡ nhờ cặp mắt linh động thường như tươi cười và biến đổi mau lẹ đến lạ lùng. Ký ức của ông thật phi thường và ngoài kiến thức rộng rãi như một bách khoa tự điển sống, ký ức ấy khiến ông có khả năng nhớ mặt người cực kỳ dễ dàng. Ông được mọi con tim trìu mến nhờ sự chăm sóc mà ông dành cho mỗi người và đối đãi với thuộc viên với thái độ thẳng thắn tự nhiên như người nhà. Đấy là một con người hành động mà đức tính nổi bật nhất là sự ưa thích các "mạo hiểm có tính toán".Trên bình diện chiến lược, ông là môn đệ của Togo, người mà tài năng rất được ông ngưỡng mộ. Ông không giấu giếm là đã mô phỏng các kế hoạch của mình theo những kế hoạch của bậc thầy ông. Ý tưởng tấn công bất ngờ một địch thủ đồng sức mạnh để che chở cho một cuộc đổ bộ đang diễn tiến là ý tưởng được trực tiếp gợi ra từ cuộc điều quân của Togo trong trận đánh quân Nga tháng 2 năm 1904.Chúng ta hãy nhắc lại, trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 2 năm ấy, ba hải đoàn phóng ngư lôi hạm-của Hạm đội liên hợp đầu tiên đương thời-đã đến tấn công đoàn chiến thuyền Nga Sô đang bỏ neo trong vùng biển ngoài cảng Port Arthur. Cho đến lúc đó, chưa bao giờ có lực lượng hải quân nào trên thế giới lại toan tính mạo hiểm đưa các chiến hạm nhỏ bé bị coi là cực kỳ tầm thường ấy, đi tập kích quá xa căn cứ như thế mà lại không hề được một sự yểm trợ nào khác. Sự táo bạo có tính toán ấy đã thành công vượt quá sự chờ mong. Các phóng ngư lôi hạm bất thần đột kích vào một địch thủ đang say ngủ và chỉ trong vài phút đã đánh đắm được ba trong số các chiến hạm địch mạnh nhất. Tính cách mới mẻ và táo tợn của phương thức tấn công đã đảm bảo cho sự thành công. Ba mươi bảy năm sau, cũng chính chiến thuật ấy đã thành công tại Trân Châu Cảng với hàng không mẫu hạm của Nagumo.Thời cơ chính trị cũng thế, rất giống nhau: các cuộc thương thuyết rắc rối một cách cố ý, bắt đầu bằng cấp cao nhất do các đại sứ đặc biệt làm ra vẻ muốn đạt đến một thoả hiệp, và kéo dài càng lâu càng tốt để ru ngủ sự khinh thường của đối phương.Cho đến cả sự ấn định thời biểu đồng nhất của các cuộc hành quân như đã được dự liệu trong ngày 8 tháng 2 năm 1904 cũng được lặp lại một cách trung thực trong cuộc không tập ngày 8 tháng 12 năm 1941. Cuộc đổ bộ quân Nhật lên Chemulpo, ở Triều Tiên đã xảy ra trước 7 giờ so với cuộc tấn công của các phóng ngư lôi hạm vào Port Arthur. Bằng vào các phương tiện truyền tin mau lẹ hơn, Yamamoto đã giảm bớt thời gian đi trước này xuống 1 giờ, nhưng nguyên tắc chỉ là một. Sự chọn lựa hải cảng đổ quân ban đầu cũng tương ứng với cùng một kế hoạch chiến thuật: Chemulpo là đầu cầu của phòng tuyến dọc theo con đường đưa thẳng tới biên giới sông Yalou hải cảng nhỏ bé được Yamamoto chọn lựa để đổ quân xâm chiếm trên bán đảo Mã Lai, cũng nối thẳng với Tân Gia Ba, một đồn canh xa nhất bảo vệ sự di chuyển của tàu bè từ biển Java vào biển Nam Hải mà ông phải chiếm đóng bằng mọi giá.Song song với cuộc đổ bộ này, kế hoạch miền Nam tiên liệu một cuộc tấn công gọng kềm trên các quần đảo Đông Nam Á châu: Quần đảo Phi Luật Tân, Bornéo, Célèbes và Moluques. Một khi bị nhốt trong hải phận Java, các lực lượng hải quân yếu kém của Tây phương sẽ thấy bị rơi vào bẫy chuột và việc bắt chúng chấp nhận hải chiến trong các điều kiện thuận lợi nhất cho Hạm đội liên hợp chỉ còn là trò chơi của hạm đội này.Kế hoạch này phải được thực hiện từng điểm một. Thời biểu nguyên thuỷ được tôn trọng đều đặn như kim đồng hồ quay. Sự sai biệt so với thời biểu qui định không bao giờ vượt quá một tuần tại các địa điểm khó khăn nhất.

Cuộc tấn công tại Mã Lai

Yamamoto cho rằng Tân Gia Ba là pháo đài vững chắc nhất trong hệ thống phòng thủ của Anh tại Đông Nam Á. Nằm trên một hòn đảo nhỏ ở mũi cực nam bán đảo Mã Lai và nhìn ra dọc theo eo biển Malacca, hải cảng Tân Gia Ba có thể cho cả một hạm đội trú ẩn, về hệ thống phòng thủ chung quanh hải cảng được xây dựng rất kiên cố. Ba phi trường trên đảo hợp với các phi trường trên bán đảo tạo thành một hêệ thống phòng thủ đáng sợ. Một cuộc tấn công trên không bất ngờ y như kiểu tấn công vào Hạ Uy Di không có một cơ may thành công nào, vì trái ngược với người Mỹ, người Anh biết đề cao cảnh giác và từ lâu đã chờ đợi một cuộc tấn công của Nhật vào các thuộc địa của Hà Lan tại Ấn Độ Dương. Để chiếm hữu Tân Gia Ba, do đó cần bắt đầu đổ bộ vào bán đảo Mã Lai, chiếm các phi trường, rồi công hãm pháo đài ấy vốn chỉ cách đất liền bằng một eo biển hẹp rất dễ vượt qua.Vì tầm quan trọng của các lực lượng Anh quốc tại Mã Lai (31 tiểu đoàn quân Anh, Ấn và Úc tương đương với hơn 3 sư đoàn) kế hoạch xâm chiếm tiên liệu một cuộc đổ bộ lên bờ biển phía đông bán đảo của quân đoàn 25 thuộc Tướng Yamashita, với sức mạnh ba sư đoàn được chọn lựa trong số đơn vị tinh nhuệ nhất và một sư đoàn không quân. Sự di chuyển một đạo quân như thế phải được đảm bảo bằng cách xuất phát từ một hải cảng gần địa điểm đổ bộ càng tốt. Chỉ có giang cảng Sài Gòn tại Đông Dương là hội đủ các điều kiện bắt buộc, và Bộ Tổng tham mưu hoàng gia đã chọn lựa giang cảng này.Chính vì mối ưu tư cần có một hải cảng xuất phát tối cần thiết này mà chính phủ của hoàng thân Konoye (Thời đó Tướng Tojo chưa làm Thủ tướng) đã làm áp lực đối với nước Pháp, ngay sa khi Pháp bại trận, để Pháp chấp thuận dành cho quân Nhật vài tiện ích quân sự tại Đông Dương. Những yêu sách đầu tiên rất khiêm nhường: sử dụng ba phi trường, đồn trú chừng 6.000 người. Trong suốt một năm, nền ngoại giao của chính phủ Vichy đã thành công một cách kỳ diệu trong việc tránh né được các sự lấn áp khác. Nhưng đến tháng 7 năm 1941 khi chiến thắng của Hitler tại Nga Sô đảm bảo cho Nhật khỏi trông thấy viễn ảnh đáng sợ bị quân Nga tấn công vào Mãn Châu, các đòi hỏi của Nhật tại Đông Dương lại đè nặng hơn. Chính phủ Pháp đã trả lời bằng sự bác bỏ, Không quân Nhật liền oanh tạc Hải Phòng trong khi đó Lục quân Nhật đuổi dồn các tiền đồn biên giới của Pháp tại Thượng du Bắc Việt. Hoa Kỳ không đáp ứng lời kêu cứu của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương, ông này bắt buộc phải thoả mãn các đòi hỏi của Đông Kinh, mà giờ đây là sự sử dụng tám phi trường, giang cảng Sài Gòn và vịnh Cam Ranh.Trong thực tế, những yêu sách mới này đã có ảnh hưởng quyết định đến chiều hướng biến chuyển của các cuộc thương thuyết Nhật-Mỹ. Ý thức được mức độ trầm trọng của sự kiện, và để trả đũa, Tổng thống Roosevelt quyết định phong toả mọi ngân khoản của Nhật tại Mỹ, rồi noi theo Anh quốc và Hà Lan, phong toả luôn mọi nguồn cung cấp nguyên liệu và dầu hỏa chở đến Nhật.Các biện pháp này đưa Nhật Bản vào tình thế bế tắc. Số dự trữ nhiên liệu giảm dần vì chiến cuộc tại Trung Hoa không cho phép Nhật được sống còn nữa. Một phong trào uất hận rộng lớn đã quét sạch chính phủ của hoàng thân Konoye và Thiên Hoàng đã phải kêu gọi lãnh tụ đảng quân nhân, Tướng Tojo lên nắm chính quyền.Anh quốc là nước đầu tiên bị rúng động. Nó liền phái đến Tân Gia Ba viên Bộ trưởng trẻ tuổi Duff Cooper với sứ mạng là phối hợp hành động giữa các nhà chức trách quân sự và dân sự tại các thuộc địa ở Viễn Đông. Tình thế trước mắt ông ta có vẻ đã đến mức báo động. Sự phân phối quyền hành thiếu phân minh và không ai chấp thuận sự cần thiết phải thống nhất chỉ đạo công việc trong các thuộc địa khác nhau thuộc vùng Đông Nam Á. Cũng giống như tại Pháp sau vụ Munich, các kiều dân Tây phương tiếp tục hy vọng một phép lạ sẽ xảy đến để kéo dài sự yên ổn vàng son của họ. Trong những bungalow mở rộng cửa trong làn sương đêm vùng nhiệt đới, sự thù tạc vẫn tiếp tục như chẳng có gì xảy ra cả. Đô đốc, Tướng lĩnh và công chức cao cấp thảo luận về tình hình với nhau trong các lễ phục màu trắng. Phần đông đều vững tin. Vị Tổng tư lệnh Quân lực tại Viễn Đông là một ông Air-Marshall của Không lực Hoàng gia, Sir Robert Brooke Popham. Ông ta không ngừng lặp đi lặp lại rằng pháo đài Tân Gia Ba là một cứ điểm không thể bị chiếm được và Hồng Kông là một thứ Gibraltar của Viễn Đông. Để trả lời cho những ai tỏ ra ít lạc quan hơn về khả năng kháng cự của các cứ điểm này, các vị Đô đốc nói rằng lực lượng Hải quân Hoàng gia có mặt ở đây để phòng vệ chúng. Và rồi thì hạm đội thiết giáp hùng mạnh của Mỹ há chẳng phải đã được tập trung tại Hạ Uy Di trong mục tiêu rõ rệt là để can thiệp khi có lệnh báo động đầu tiên đó sao?Chắc chắn, lực lượng Hải quân địa phương quá yếu rồi: ba tuần dương hạm của Hà Lan, một của Anh, và một của Úc trong hải phận Java, chừng một tá khu trục hạm và một số tàu ngầm tương đương phân tán trong quần đảo. Rõ rệt lực lượng ấy không đáng gì. Nhưng đã có tin đồn đại từ lâu rằng, đáp ứng các đòi hỏi của Đô đốc Tư lệnh Hải quân tại Tân Gia Ba, Churchill đã phái đến để tiếp cứu chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales, một chiến hạm tối tân nhất và hùng mạnh nhất của hạm đội Anh quốc. Đấy là sự kiện có bản chất rất an ủi tâm trí các Đồng minh và nâng cao tinh thần những kẻ chủ bại.Tin này chính xác. Nó đã thoát ra được khỏi vùng im lặng dày đặc thường bao phủ chung quanh các sự di chuyển của các chiến hạm lớn. Bất chấp các lời khuyên thận trọng của Bộ Tư lệnh Hải quân, Churchill đã ra lệnh cho viên Bộ trưởng Hải quân lập một lực lượng hải quân-Lực lượng Z-với chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales, tuần dương hạm chiến đấu Repulse và hàng không mẫu hạm Indomitable. Quyền chỉ huy được giao cho một trong các tướng lĩnh sáng chói của Hải quân Hoàng gia, Đô đốc Sir Tom Philips, mà cho đến lúc đó phụ trách phòng hành quân của Bộ Tư lệnh Hải quân. Ba chiến hạm chạy riêng rẽ với các khu trục hạm hộ tống phải có mặt tại Tân Gia Ba vào ngày 1 tháng 12 năm 1941 và ở lại đấy cho đến khi có lệnh mới.Nếu tin tức về việc phái đến ba chiến hạm ấy được lan truyền một cách dễ dàng, chính là tại vì trong tâm trí Winston Churchill, biện pháp này trước hết có mục đích tạo ra điều mà ngày nay chúng ta goi là hiệu lực gián chỉ. Một hiệu lực như thế theo định nghĩa, phải bao gồm một hình thức quảng cáo nào đó. Thủ tướng Anh quốc đã giải thích điểm này trong Hồi ký của ông, nói rằng ông hy vọng bằng cách này "có thể thực hiện một thứ đe doạ mà các chiến hạm tối quan trọng, với ý định được giấu kín, có thể áp đảo lên các kế hoạch một địch thủ hải quân trong tương lai".Đi ngược thời gian, ngày nay ta không thể không nghĩ rằng chính đó là lối suy nghĩ mà một thế kỷ trước đây, vị Nữ hoàng trẻ tuổi Victoria đã có thể thực hiện, khi mà câu châm ngôn trứ danh "Britannia rules the waves" (Anh quốc thống trị đại dương) đang còn đúng cách. Nó có vẻ quá lỗi thời đối với chúng ta một ngày trước cuộc tấn công tại Trân Châu Cảng. Sự di chuyển lực lượng muộn màn này lẽ ra đã có thể đạt được mục tiêu nếu như chiếc hàng không mẫu hạm được những người tun tin loan báo, đã thật sự lên đường đi Viễn Đông. Thế mà thực tế không phải như vậy... Chiếc Indomitable, mà sự hoàn tất gặp rất nhiều khó khăn và các cuộc chạy thử đã chấm dứt trong vùng biển Caraibles, đã bị thất bại như khó tưởng tượng được rằng khi biết việc bất lợi này mà Đô đốc Tom Philips còn chấp nhận tiếp tục cuộc hành trình. Ông vừa rời các bạn đồng sự của Không lực Hoàng gia, những người đã cùng ông làm việc trong suốt một năm để làm tê liệt các thiết giáp hạm của Đức bỏ neo trong hải cảng Brest. Ông không lạ gì những nguy cơ mà các thiết giáp hạm phải đương đầu trước các phi cơ phóng thuỷ lôi và các oanh tạc cơ đâm bổ. Trong lúc cáo biệt các đồng sự của Lục quân và Không quân RFA, Thống chế Không quân Harris, tư lệnh đơn vị Bomber Command một trong các tướng lĩnh viễn kiến nhất về cuộc chiến, đã nói khi bắt tay ông: "Don't forget your umbrella Tom!" (Đừng quên chiếc dù không lực săn giặc!). Philips đã cười với người bạn thân với một cái nháy mắt để ông ta yên tâm. Tuy vậy sau đó, ông đã chẳng hề để tâm đến lời khuyến cáo này.Đến Tân Gia Ba ngày 2 tháng 12 năm 1941, ngày 5 Sir Tom Philips lấy phi cơ đi Manille để hội kiến với Mac Arthur và Đô đốc Hart. Ông thấy họ rất tin tưởng vào các cứ điểm vững chắc của Mỹ tại Phi Luật Tân, nhất là khi họ vừa nhận được nhiều "pháo đài bay" B-17, kiểu phi cơ tối tân nhất của kỹ nghệ hàng không. Không gạt bỏ khả năng mở cuộc tấn công của Nhật vào các thuộc địa Hà Lan tại Ấn Độ Dương, họ ước tính rằng đấy là cả một mối đe doạ trường kỳ và đảm bảo với ông một sự hỗ trợ của Mỹ ngày càng tăng, trong giới hạn của công thức "All but war". Nhưng tối ngày hôm sau, 6 tháng 12, có tin một đoàn công voa Nhật mới được phát giác trong Vịnh Xiêm La. Chắc đó là một sự lấn áp mới của Nhật trên xứ sở nhỏ bé Đông Nam Á này, tương tự như những lấn áp mà họ đã làm cách mấy tháng trước tại Đông Dương bằng cách lợi dụng sự bại trận của Pháp. Biến cố không kém phần nghiêm trọng và vị Đô đốc Anh lập tức quyết định cáo biệt các chủ nhân.Từ Manille hấp tấp ra đi ngày 7, tối hôm đó Philips đến Tân Gia Ba và thảo luận với vị Tổng tư lệnh Sir Robert Brooke, về cơ hội thuận tiện để tung ra đúng lúc cuộc tấn công được dự liệu trong kế hoạch dưới danh hiệu "Matador", mà nội dung gồm có việc chiếm đóng Thái Lan để đi trước cuộc xâm lăng của Nhật. Thật vậy ai cũng tin rằng đoàn công voa bị phát giác đêm trước tiến về Singora, một hải cảng của Thái Lan nằm cách biên giới Mã Lai vài chục cây số về phía bắc. Vừa mới nhận được lệnh từ Luân Đôn, theo đó chỉ tung ra "cuộc hành quân Matador" là nếu có bằng cớ chắc chắ quân Nhật vi phạm qui chế trung lập của Thái Lan, Sir Robert Brooke ước tính rằng phải chờ đợi, trước khi chủ động một hành động quân sự có hậu quả lớn lao như thế, cho đến khi có tin tức chính xác hơn về hải trình của đoàn công voa Nhật.Cuộc hội kiến giữa hai tướng lĩnh vừa mới chấm dứt thì cả một làn sóng tin tức báo động đổ đến chấm dứt thái độ do dự của vị Tổng tư lệnh. Chỉ huy trưởng cảng Khota Baru, nằm ngay biên giới Thái Lan, báo cáo một cuộc đổ bộ lên bờ biển và một cuộc hải pháo dữ dội. Vài giờ sau, trong khi Bộ tham mưu ban hành mệnh lệnh cho các phi trường để khởi động một cuộc không tập nhắm vào đoàn công voa Nhật Bản, các đài rada Tân Gia Ba báo hiệu có một đoàn phi cơ lạ đang bay về phía đảo này.Đến 4 giờ 40 sáng, thành phố đang còn sáng trưng ánh đèn, đột nhiên bị đánh thức vì tiếng bom nổ. Công tác chuyển lệnh báo động đến các nơi đã do các chấp hành thiếu kinh nghiệm và thiếu lương tâm đảm trách. Sự bối rối tương tự cũng đã làm tê liệt phản ứng ở mọi cấp thuộc hệ thống chỉ huy và sáng ngày 8 tháng 12, tất cả các phi trường tại Mã Lai bị oanh tạc nặng nề mà không một phi cơ săn giặc nào của Anh cất cánh được. Cuộc tấn công sấm sét này nhắm vào các đoàn phi cơ vốn đã yếu thế hơn về lượng lẫn phẩm đã mang lại những hậu quả thảm hại: Ngay từ đầu tiên của cuộc xung đột, quân Nhật đã làm chủ được bầu trời trên bán đảo Mã Lai.Nếu cuộc oanh tạc lần đầu tiên vào Tân Gia Ba không gây hậu quả quân sự nào-các phi cơ Nhật bị chiếu sáng bất chợt, đã không thể nào phân biệt được mục tiêu-thì nó lại gây hậu quả thê thảm trên tinh thần dân chúng. Hai trăm nạn nhân thiệt mạng trong khu bản xứ quá đông đúc và người Mã Lai cho đến lúc đó vốn tin tưởng rằng sức mạnh của Anh là vô địch, đột nhiên mất hẳn ảo tưởng. Tiếp theo đó là một tình trạng rối loạn tiềm năng và mau lẹ bùng nổ thành cơn hỗn loạn gây xáo trộn sâu xa công cuộc cai trị tại thuộc địa. Cảm nghĩ khinh thường tương tự cũng lan tràn tại một vài đơn vị quân Ấn Độ đang được đưa ra nằm ở tuyến đầu và câu chuyện truyền kỳ về ưu thế tuyệt đối của quân lực Nhật Bản lan truyền mãi cho đến cả trong hàng ngũ quân Anh. Riêng về phần các nhà chức trách dân sự, những người đã bất cẩn bộc lộ niềm tin tưởng lạc quan và đã tuyên bố với những ai muốn nghe nói đến một cuộc xâm lăng của Nhật Bản là hoàn toàn không thể nào có được, thì họ đã bị mất hết lòng tin của dân chúng kể cả dân bản xứ Á châu lẫn người Âu châu.

Thiết giáp hạm Prince Of Wales và tuần dương hạm Repulse

Vào thời đó, Tân Gia Ba là viên ngọc đẹp nhất của xâu chuỗi những bến ghé cho thương thuyền bao chung quanh lục địa Á châu. Đấy là hải cảng xinh tươi nhất và cũng là hải cảng hạng nhất đối với du khách từ Âu châu đến. Ngay khi vừa bước chân xuống tàu, sức quyến rũ đông phương đã làm nghẹn cổ du khách với những bó nhang cháy rực trước chùa chiền, mùi xào nấu của các xe hàng ăn lưu động, những thớ thịt rung rinh, những thực phẩm kỳ lạ và những cửa hàng bí mật phảng phảng những làn khói siêu nhiên. Bến tàu và đường phố treo đầy những bảng hiệu vàng chói và những biểu ngữ bằng vải; sôi sục một thứ tiếng ồn ào không dứt, xen vào những tiếng lách cách chói tai và tiếng kêu la hổn hển của những người kéo xe. Tại đấy ta có thể cảm thấy luồng thương vụ khổng lồ trao đổi giữa Đông phương và Tây phương như nhịp tim đập của mạch máu trong cơ thể. Đối với những kiều dân Anh vốn sống hơi tách biệt một chút trong các biệt thự kiểu cổ thời Victoria, được một thứ rừng thẳm con con che chở khỏi những cái nhìn tò mò của người ngoài, thì Tân Gia Ba, với những kho quân dụng và những pháo đài mạnh mẽ, là cả một biểu tượng sống động của hào quang chiến thắng thuộc Vương quốc. Riêng phần các thuỷ thủ của Hải quân Hoàng gia, thì từ trên cao của các chiến hạm, họ hãnh diện ngắm nhìn hải cảng trù phú ấy, nơi mà tàu bè của cả thế giới đi qua trong không khí hoà bình kiểu "Pax Britannica" vốn được đảm bảo dưới họng súng đại bác của họ.Chắc chắn vì biết trách nhiệm chung của mình trong việc duy trì không khí hoà bình xưa cũ ấy mà hơn ai hết họ mẫn tiệp thấy sự xúc phạm của mấy anh lùn Nhật Bản là khó lòng tha thứ được. Đối với Đô đốc Philips, quyết định phải ban hành là đương nhiên: ông sắp đưa các thiết giáp hạm xuất trận và giáng cho quân xâm lăng một vố trừng trị sấm sét.Khi Đô đốc Tom Philips vừa mới rời khỏi văn phòng Tư lệnh thì người ta báo đưa cho ông bản tin khó tưởng tượng nổi về tai biến tại Trân Châu Cảng. Ông nhảy lập tức đến Bộ tham mưu Không quân để yêu cầu Tướng Pulford che chở trên không cho sư đoàn trong cuộc xuất trận vào ngày mai. Sau khi khu trục cơ săn giặc đêm của ông trở về không, tiếp theo cuộc oanh tạc của Nhật, Pulford trả lời một cách mơ hồ: tất cả đều lệ thuộc vào tin tức ông ta nhận được từ biên giới Thái Lan, nơi mà hai trong số ba phi đoàn của ông được tung vào trận đánh.Khi trở về chiến hạm Prince of Wales sau một đêm mệt nừ, Philips triệu tập các hạm trưởng và các sĩ quan chính yếu của ông. Trong buổi hội này, tất cả mọi tin tức địch tình đều được mang ra cứu xét. Quân Nhật đã đổ bộ lên Khota Baru và Singora dưới sự che chở ở tầm xa của một thiết giáp hạm thuộc cùng loại với chiếc Kongo-thiết giáp hạm cũ thời 1914-và năm tuần dương hạm kiểu mới hơn. Không ai biết số lượng phi cơ Nhật đặt căn cứ tại Đông Dương, nhưng mọi chỉ dẫn đã cho thấy đó là một lực lượng rất đáng kể. Vậy thì chỉ cần một sự che chở hạn chế của khu trục cơ cũng đủ cho phép Lực lượng Z đánh bất ngờ vào các dương vận hạm chở quân của Nhật rồi sau đó sẽ quay trở lại hạm đội che chở của đối phương. Giờ thuận lợi nhất để tấn công đoàn dương vận hạm Nhật ở Khota Baru là bình minh ngày mốt, 10 tháng 12. Điều này đòi hỏi phải nhổ neo từ Tân Gia Ba ngay đêm nay lúc 17 giờ.Tất cả các sĩ quan hiện diện đều nhất trí thừa nhận rằng Hải quân Hoàng gia không thể nào toan tính điều gì trong những hoàn cảnh trầm trọng như vầy, và rằng cuộc hành quân do Đô đốc đề nghị là "liều lĩnh nhưng chấp nhận được"Vài giờ sau, chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse ra lệnh sẵn sàng nhổ neo. Đến 17 giờ 35 hai chiến hạm được bốn khu trục hạm hộ tống tiến ra khỏi hải cảng hướng về phía đông để trong đêm sẽ chạy vòng quần đảo nhỏ Anambas hầu tránh khu vực hải phận bị nghi ngờ là có mìn.Bóng đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng 12 buông xuống rất sớm dưới một bầu trời đầy mây xám và mưa to. Các thủy thủ đoàn thích thú được biết rằng họ sẽ được đi "tìm cuộc đánh nhau". Niềm tin của họ vào các đại chiến hạm mà họ đang ở trên đó là niềm tin tuyệt đối. Không một ai trên tàu lo lắng thật sự.Tại Sài Gòn, Bộ tư lệnh Hải quân Nhật vì sợ sự can thiệp của đoàn chiến thuyền Anh quốc mà tất cả các đài phát thanh trên thế giới đều loan báo là đã đến Tân Gia Ba, nên vội tăng cường các biện pháp đề phòng cẩn mật. Đô đốc Kondo, tư lệnh hạm đội số 2 đã nhổ neo với hai thiết giáp hạm và năm tuần dương hạm. Ngoài công cuộc thám sát liên tục được các máy bay trên chiến hạm thực hiện, nhiều tàu ngầm được bố trí chờ đợi đây đó trong quần đảo Anambas.Các cuộc thám sát chưa mang lại kết quả nào thì lúc 14 giờ ngày 9 tháng 12, một trong các tàu ngầm tuần tiễu thấy lực lượng Hải quân Anh từ xa. Điện văn xác định vị trí do tàu ngầm này đánh đi đã tạo ra biến động toàn diện tại Sài Gòn. Một phi đoàn sẵn sàng cất cánh để oanh tạc đêm một lần nữa vào Tân Gia Ba đã được chặn lại kịp thời. Người ta vội vàng thay thế bom bằng thuỷ lôi và các phi cơ xếp hàng để chờ cất cánh ngay lập tức. Hạm đội của Đô đốc Kondo lúc ấy đang ở phía nam đảo Côn Đảo, chuyển hướng về phía Tây để cắt ngang đường về của đối phương và phóng các phi cơ thám sát lên trời.Trong suốt ngày 9 tháng 12 đó, lực lượng Z tiếp tục hải trình lên phía bắc bằng cách chạy theo chữ chi. Trời xấu, mây thấp và mưa rào liên miên làm tràn ngập các cầu tàu, nhưng chếin hạm vẫn đường bệ rẽ sóng trên mặt biển Nam Hải. Kế hoạch của Đô đốc Philips có vẻ diễn tiến trong những điều kiện thuận lợi nhất. Tuy nhiên, đến 18 giờ 20 một khoảng trời sáng hiện ra, các binh sĩ canh gác của Lực lượng Z thoáng thấy chiếc bóng tí Honolulu của một phi cơ bay rất cao. Vừa lúc Đô đốc ra lệnh hướng về phía tây bắc để tiến đến hải cảng Khota Baru. Sự xuất hiện của chiếc phi cơ lạ mặt đã gieo rắc mối kinh hoàng trên cầu tàu chiếc Prince of Wales. Trong lúc ấy Philips vẫn tiếp tục con đường hy vọng rằng chiếc phi cơ độc nhất ấy không thấy được các chiến hạm. Nhưng một giờ sau, một phi cơ khác lại bay trên đoàn tàu. Không thể nghi ngờ gì nữa, quân Nhật đã xác định được vị trí của Lực lượng Z, và hy vọng tấn công bất ngờ các dương vận hạm địch vào bình mình sáng hôm sau trở thành ảo vọng.Gần như cùng lúc đó, một điện văn từ Tân Gia Ba được gửi đến cho chiếc Prince of Wales. Nó báo hiệu sự hiện diện của hai hàng không mẫu hạm Nhật phía nam vịnh Thái Lan và sự tập trung mạnh mẽ các oanh tạc cơ trên các phi trường tại Đông Dương. Điện văn còn thêm rằng các phi trường của Anh phía bắc Mã Lai bị oanh tạc nặng nề và không thể nào gửi đến Khota Baru lực lượng không quân che chở được yêu cầu cho ngày mai.Những tin tức tai biến tuôn đến như thác đổ này làm cho những ngần ngại của Đô đốc trở nên có lý. Đến 20 giờ 50 ông ra lệnh cho Lực lượng Z quay ngược trở lại để trở về Tân Gia Ba.Bầu trời lại bị mây che kín và bóng đêm đen tối đặc biệt. Đô đốc tin chắc rằng việc đổi hướng của ông không bị quan sát và nhờ bóng tối, ông có thể tránh xa khu vực nguy hiểm mà không lo ngại gì cả.Thật vậy 4 giờ trôi qua mà không có cuộc báo động mới nào. Trên cầu tàu Prince of Wales người ta bắt đầu hít thở tự do.Bên phía Nhật Bản trái lại, tình trạng báo động khẩn cấp hơn bao giờ hết. Các oanh tạc cơ đã trở về không trên phi trường Tân Sơn Nhất và không một tàu ngầm nào có thể tiếp xúc được đối phương. Đô đốc Kondo, vốn không có ý đương đầu ngay trong đêm với các chiến hạm khổng lồ của Anh mà các họng súng lớn gấp đôi vũ khí của ông, đã hướng thẳng hạm đội lên phía Bắc để chờ kết quả cuộc thám sát vào cuộc bình minh hôm sau.Chính lúc đó bàn tay Thượng Đế can thiệp vào.Lúc 1 giờ sáng ngày 10, Đô đốc Philips đang nằm nghỉ trong phòng trực, được một sĩ quan mang điện văn đến trình đánh thức dậy. Tân Gia Ba báo cho ông biết rằng một cuộc đổ bộ mới của Nhật đang diễn ra tại Kuantanr trên bờ biển Mã Lai. Sĩ quan phụ trách hải hành nghiêng người trên bản đồ và trình Đô đốc rằng Kuantan nằm giữa Tân Gia Ba và Khota Baru không đầy 6 giờ đường đối với chiếc Prince of Wales. Lập tức Sir Tom Philips ra lệnh tiến thẳng đến đấy. Ông đâu có bếit, con người khốn khổ, ông sẽ lao đầu một cách vô ích vào tình trạng nguy khốn như thế nào!Hai giờ sau, một tàu ngầm Nhật đang tuần tiễu phía tây bắc quần đảo Anambas từ xa trông thấy Lực lượng Z và nhắm phóng luôn sáu quả thuỷ lôi nhưng không quả nào trúng đích. Chúng còn chạy cách xa các chiến hạm là đằng khác vì các xạ thủ không thấy được luông sóng sau chiến hạm. Nhưng chiếc tàu ngầm báo hiệu cho Đô đốc Kondo về cuộc tấn công và cho biết vị trí phỏng định. Tin tức này rất quan trọng. Giờ đây Kondo biết rằng lực lượng Anh sắp đi qua phía tây quần đảo Anambas. Ông ra lệnh cho Tân Sơn Nhất cho cất cánh tất cả các oanh tạc cơ và oanh tạc cơ phóng thuỷ lôi sẵn có nhằm về hướng đó một giờ giờ trước bình minh.Không biết rằng mình đã lộ vị trí một lần nữa, Tom Philips tiếp tục tiến tới Kuantan và đến nơi khi trời vừa hừng sáng. Thuỷ thủ đoàn các chiến hạm đều ở vào thế chiến đấu và các xạ thủ đại bác sắp sửa khai hoả vào các dương vận hạm địch. Nhưng mặt trời nhô lên trên một vùng biển trống trơn... Trong vòng ba khắc đồng hồ-từ 8 giờ đến 8 giờ 45-Lực lượng Z chạy dọc theo bờ biển chầm chậm mà không thấy gì ngoài vài chiếc ghe. Do lương tâm nghề nghiệp, Đô đốc phái một chiến hạm hộ tống đến thám sát chúng, rồi với tư thế hoàn toàn bình tĩnh, ông ra lệnh chạy nhanh về Tân Gia Ba.Bộ tư lệnh Nhật vì không bao giờ tính toán đổ bộ lên Kuantan cho nên không hề tưởng tượng rằng Lực lượng Z lại có thể tiến gần vào bờ biển như thế, bất chấp nguy cơ rơi vào bãi mìn, cũng vì vậy đoàn phi cơ từ Tân Sơn Nhất bay trên vùng biển thật xa bờ về phía đông đã không trông thấy đoàn tàu Anh. Chúng nới rộng vùng tìm kiếm mãi tận khu vực cách Tân Gia Ba 200 hải lý, rồi vì sợ thiếu xăng, đành quay trở về.Một loạt chuyển động tuy không ăn khớp này, đã khoá chặt số phận của Lực lượng Z.Đến 10 giờ 20, trong lúc chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse rời xa bờ biển chạy theo hướng đông nam, các màn rada của chúng nổi lên nhiều chấm trắng: đó là các oanh tạc cơ phóng ngư lôi Nhật đang bay trở về căn cứ phía bắc...Lập tức tiếng kèn báo động vang dội. Lệnh báo động được loan đi: "Có phi cơ bên phải!". Các vũ khí loại Vickers nòng đôi được chụp vào các nắp sa thạch để tránh nóng đỏ. Tất cả các vũ khí nhắm ngay vào các phi cơ địch đang xuất hiện trên bầu trời xanh như vô số viên ngọc chói sáng. Các sĩ quan phụ trách hướng bắn chống phi cơ dùng dụng cụ riêng tính toán khoảng cách và giác độ. Giờ đây chỉ còn chừ khoảng cách giảm dần để khai hoả vào các phi cơ tấn công mà số lượng ngày càng đông.Ngay lúc các súng cao xạ bắt đầu nổ đinh tai, một toán chín oanh tạc cơ đầu tiên thả bom xuống chiếc Repulse. Phần lớn đều rơi ra ngoài nhưng một trái đã trúng vào hầm chứa phi cơ khiến nó bốc cháy. Toán an ninh hướng chiếc máy phóng phi cư và trút chiếc phi cơ đang chảy xang xuống biển. Hoả hoạn được dập tắt ngay và thiệt hại không đáng kể. Một tiếng la thắng át cả tiếng ồn ào: đó là các xạ thủ cao xạ đang thét lớn "Trúng nó rồi!". Một phi cơ Nhật vừa bị hạ và một cột nước vĩ đại bốc lên cao hàng trăm thước khỏi chiến hạm. Đợt báo động nóng bỏng vừa qua, chín phi cơ khác nhào tới chiếc thiết giáp hạm. Lần này chúng bay xuống sát mặt nước bất chấp hoả lực khủng khiếp bắn chặn. Ba phi cơ bị hạ, nhưng sáu chiếc khác phóng được thủy lôi và hai quả trúng chiếc Prince of Wales bên trái phía sau.Lần này thì cả một tai hoại. Máy điều khiển bánh lái bị hư, trục quay chong chóng bên trái bị gãy tung để lại đằng sau môt lỗ thủng lớn. Chiếc chiến hạm tả tơi tìm chỗ trốn. Nó chỉ có thể chạy chầm chậm và chiếc Repulse thì vượt qua không tỏ vẻ vì là muốn điều động đến tiếp cứu. Chính nó cũng bị đe doạ bị một đợt phi cơ thứ ba tấn công và phải chạy theo chữ chi để tránh các luồng sóng.Đến 12 giờ 20, sau một thời gian yên lắng ngắn, đợt tấn công thứ ba đã đến. Phi cơ tấn công chia làm hai toán: sáu chiếc nhắm vào chiếc Prince of Wales và sáu nhắm vào chiếc Repulse. Chiếc đầu lại lãnh ba quả thuỷ lôi, chiếc thứ nhì một quả thôi. Nhưng ba phút sau một đợt tấn công mới thúc vào chiếc tuần dương hạm chiến đấu kỳ cựu không còn khả năng trả miếng nữa. Không thể thoát được các đợt xung phong hung dữ từ khắp mọi phía, chiếc Repulse bị đánh đến chết bởi bốn thuỷ lôi mới. Nó bị lật nghiêng và trong lúc thuỷ thủ đoàn trượt theo thân tàu để nhảy xuống nước, nó chúi xuống từ từ và chìm lỉm.Tuy nổi danh là không thể bị đánh chìm được, thiết giáp hạm Prince of Wales cũng không còn sống lâu hơn. Lại bị chín phi cơ khác tấn công và trở thành bất lực, đến phiên chiếc chiến hạm đường bệ chìm xuống nước. Lúc 14 giờ ngày 10 tháng 12, nó biến mất trong một đám mây khói khổng lồ. Một phóng ngư lôi hạm can đảm tiến đến gần vớt được hai phần ba thuỷ thủ đoàn (Chừng 1.200 người. Số phận của thủy thủ đoàn chiếc Repulse ít may mắn hơn vì xuồng cấp cứu không thể thả xuống được. Chỉ có 780 người được vớt lên mà đa số đều bị thương) nhưng cả Đô đốc lẫn Hạm trưởng đều không có mặt trong số những người sống sót. Họ không thể hay không muốn rời chiến hạm.Tin tức về tai biến mới này đập mạnh vào trái tim Anh quốc. Mới đêm trước đây Churchill còn dự tính với ông Bộ trưởng Hải quân thành lập một hải lực hùng mạnh của Đồng minh xung quanh hai chiến hạm ấy để giữ vững biên giới Mã Lai, nay ông thật sự rụng rời khi hay tin ấy. Vì sắp lên đường qua Mỹ, ông đến Quốc hội đọc một diễn văn, cố gắng quân bình chứng cớ thất bại này bằng cách nói đến sự bố trí mặt trận Nga Sô và sức mạnh kỹ nghệ của Hoa Kỳ. Lời nói của ông được lăắn nghe trong một không khí im lặng lạnh lẽo. Trong Thứ dân Nghị viện này, nơi làm việc của các đại biểu một dân tộc mà ngành hàng hải là chủ yếu, mỗi người đều bối rối cảm thức rằng đây không phải là hồi chung cục thảm bại của một trận hải chiến thường nhưng kết cục bi thảm của chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse là hồi chuông báo tử của thời đại thiết giáp hạm và từ sự kiện đó, là hồi chuông báo tử của thuộc địa Anh quốc...Tại Tân Gia Ba, sự xúc động còn lớn lao hơn.Người Nhật nay đã làm chủ tuyệt đối bầu trời và mặt biển. Họ sẽ có thể mang đến tận khắp nơi bao nhiêu tăng viện cũng được. Đạo quân nhỏ bé của Anh đang chiến đấu dũng cảm trong rừng rậm tại các cứ điểm rải rác, chẳng chóng thì chầy sẽ bị đẩy ra biển và giờ đây mỗi người đều biết rằng sẽ không có một "Dunkerque" nữa.Quả thật đã không có một Dunkerque nào.Cùng ngày hôm ấy, 10 tháng 12, các thành phần xung kích của đạo quân thuộc Tướng Yashimura từ Singora đến đã tấn công và đặt chân lên biên giới Mã Lai, đẩy lùi hai lữ đoàn Anh bảo vệ cứ điểm. Đạo quân xâm lăng tràn lan khắp nơi theo hai đường giao nhau, một phía tây, một phía đông dọc theo dãy núi chạy dài từ bắc đến nam Mã Lai.Kế hoạch phòng thủ của Anh chủ yếu là dựa vào sự thành công của một cuộc phản công trên biên giới Thái Lan. Trong trí vị Tổng Tư lệnh Sir Robert Brooke, sự chiếm đóng mau lẹ các phi trường của Thái Lan chắc sẽ phải tạo cho quân Anh một ưu thế không quân địa phương tuyệt đối giúp họ đập tan mọi mưu toan xâm lăng từ trong trứng nước. Nhưng để ngăn chặn viễn ảnh của các cuộc đổ bộ lên bờ biển, các phi trường tại Mã Lai phải được phòng vệ vững chắc. Các phi trươờn này được thiết lập rải rác dọc theo những cánh đồng bằng phù sa nằm viền phía tây của rặng núi xương sống, trên bán đảo một hệ thống phòng thủ chiều sâu đã được thiết lập chung quanh chúng. Sự kiện này làm cho các sư đoàn quân Anh bị rải mỏng dọc theo bờ biển phía tây của bán đảo.Các cuộc đổ bộ bất thần tại Singora và Khota Baru giúp cho quân Nhật chiếm được tất cả các phi trường tại Thái Lan và tại Khota Baru ngay trong ngày đầy tiên, do đó kế hoạch của Anh biến thành hư vô. Phần lớn phi cơ của Anh bị tiêu diệt trên mặt đất bởi các cuộc oanh tạc liên miên, và một vài chiếc hiếm hoi còn sót lại phải rút lui về phía nam. Các lữ đoàn phòng vệ các phi trường này lần lượt bị tấn công, và vì không có hậu thuẫn của không quân, chúng phải rút lui và cố sức tập trung vào khu vực giữa núi và biển.Chính các khu vực được phù sa bồi đắp này tập trung tất cả công cuộc canh tác của bán đảo và các đồn điền cao su. Chúng được nối liền với nhau bằng một hệt hống đường bộ và thiết lập từ Johore đến Bangkok, nhưng một vài điểm tựa hiếm hoi được thiết lập tại đấy đã phô bày cho không quân Nhật những tấm bia đỡ đạn tuyệt diệu. Trong tuần lễ kế tiếp, nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra dưới các cuộc oanh tạc không ngừng nhằm chống lại một địch thủ đông hơn và được huấn luyện kỹ hơn. Tiến sâu trên đường bộ với loại chiến xa hạng nhẹ, theo sau các đơn vị thiết giáp Nhật là các đơn vị bộ binh ưu tú tràn ngập khắp nơi bằng xe đạp mà họ lấy cắp khi tràn qua làng mạc. Các lữ đoàn Anh đang tháo lui không có đường rút nào khác hơn là lẩn vào các khu rừng lân cận. Họ thấy bị cô lập ngay tại đó, không có phương tiện truyền tin lẫn pháo binh yểm trợ.Phải biết rõ rừng rậm Mã Lai mới hiểu nỗi thống khổ mà những con người khốn khổ ấy phải chịu đựng. Ngoài đầm lầy và ruộng lúa, khoảng cách trông rõ của họ bị hạn chế trong tầm vài chục thước. Một đơn vị lọt vào đấy phải tổ chứ phòng thủ tứ phía. Quân Nhật thì rất thông thạo trong việc khai thác cảm giác sợ hãi hỗn loạn xâm chiếm các toán quân Anh lạc vào trong thế giới thù nghịch ấy. Họ tung vào rừng rậm các toán xung kích thường chỉ gồm vài chục người, nổ súng rời rạc khắp mọi phía và tạo cho quân Anh cảm tưởng bị bao vây. Khi đơn vị quân Anh cố gắng tổ chức lại để toan tính phá vòng vây rút lui, họ sẽ bị tấn công từ mạn sườn bởi đoàn người hung hăng lao đến với gươm dao. Lối thoát duy nhất của họ là bắn mù quáng để tìm cách ra khoảng trống với cơn nguy bị tiêu diệt bởi không quân hay hoả lực của thiết giáp địch.Thoạt tiên các đồn điền cao su có vẻ như có thể giúp ích cho công cuộc điều quân, nhưng các cấp chỉ huy quân Anh lại tìm thấy tại đấy một thứ thất vọng khác. Những hàng cây thẳng tắp vô tận của hàng ngàn thân cây trơn tru và cách khoản nhau đều đặn đã làm cho việc xác định vị trí không thể nào thực hiện được. Trong rừng cao su, con người dễ dàng mất khả năng định hướng. Một sự rối loạn nhỏ xảy ra trong khi di chuyển, dẫn dắt mau lẹ cả đơn vị tán loạn hoàn toàn. Mọi cố gắng tập họp đều bị tê liệt vì ám ảnh thấy quân địch xuất hiện đột ngột dọc theo hàng thân cây dài viền quanh các khoảng đất trống. Lúc ấy những người bị cô lập cảm thấy chóng mặt. Sự thất vọng xâm chiếm cả những người can đảm nhất.Một đoàn quân không được huấn luyện kỹ để học cách thoát ra khỏi hiện tượng đó và chỉ biết chịu đựng một cách thụ động, sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn và mau lẹ. Quân Nhật thì đã được huấn luyện như thế trước khi qua tham chiến. Quân Anh thì không làm như vậy, quân Úc lẫn cả quân Ấn lại càng không. Do đó các trận đánh để rút lui mau lẹ trở nên có tính cách một cuộc chạy trốn hỗn loạn, đối với những người sống sót, kết thúc trong những trại lao tác ghê gớm của "những chiếc cầu sông Kwai".

Cuộc xâm chiếm Phi Luật Tân

Trong khi về phía tây những trận đánh đầu tiên diễn ra tại Ma Lai, về phía đông người Mỹ cũng phải chịu đựng những thất bại đau đớn tại Phi Luật Tân.Thật vậy, kế hoạch miền Nam đã tiên liệu việc tiêu diệt các kẻ gây rối đang đe doạ cạnh sườn con đường chuyển vận đoàn quân xâm lăng chính yếu của Nhật Bản.Nhờ màng lưới gián điệp xuất sắc, Yamamoto đã xác định giá trị của hệ thống phòng vệ Hoa Kỳ trên quần đảo Phi Luật Tân. Một tiểu hạm đội tuần dương hạm, vài tàu ngầm đặt căn cứ tại cửa khẩu Cavite trong vịnh Manille, hay hay ba sư đoàn bộ binh được thành lập với người bản xứ do các huấn luyện viên Mỹ chỉ huy. Không có gì có thể làm ông quá lo âu. Chắc ông có thể "qua mặt" dễ dàng những tiền đồn mong manh này mà sự tiêu diệt hạm đội Mỹ tại Trân Châu Cảng làm tiêu tan mọi hy vọng được yểm trợ. Nhưng đến phút chót, ông vừa được biết có 36 phi cơ B-17 vừa mới đến Manille, những pháo đài bay trứ danh mà vào thời đó không có một kiểu nào tương đương. Do đó ông đã ra lệnh oanh tạc ồ ạt các phi trường và đổ bộ vài đơn vị bộ binh lên phía bắc đảo Lujon, đảo quan trọng nhất và gần Đài Loan nhất trong quần đảo Phi Luật Tân.Ngay trong thời bình, bộ tham mưu Mỹ cũng không bao giờ quan niệm có thể bảo vệ chừng 1.700 đảo và 8.000 đảo nhỏ của quần đảo tản mác này mà diện tích 300.000 cây số vuông trải dài trên hơn mười vĩ độ giữa đường xích đạo và các chí tuyến (Đúng 1.400 cây số). Quân đội của xứ "Commonwaelth" này được thành lập từ năm 1934 dưới sự giám hộ của Mỹ gồm binh sĩ được tuyển mộ tại địa phương và được huấn luyện bởi Tướng Mac Arthur, một trong các tướng lĩnh nổi bật nhất của Hoa Kỳ.Là con của một người từng chủ toạ cuộc giải phóng lãnh thổ Phi Luật Tân thời chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, ông tướng này đã tham dự các trận đánh đầu tiên tại quần đảo, đã đóng ở đấy hai lần, và có dây liên lạc thân hữu với quốc trưởng, Tổng thống Quezon.Năm 1930, sau một binh nghiệp chói sáng, khi Douglas Mac Arthur leo lên chiếc ghế tối cao Tổng tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ, ông đã không quên xứ này, một xứ sở mà ông xem như là tài sản riêng của gia đình. Ông luôn luôn có ý tưởng thành lập một đạo quân Phi Luật Tân được các huấn luyện viên Mỹ chỉ huy và biến quần đảo thành ra tiền đồn của Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương.Chính sách này không thu được thắng lợi tại Quốc hội Mỹ, và năm 1935, khi ông được Tướng Malin Craig thay thế tại Ngũ giác đài, thì không ai làm gì để tăng cường căn cứ hải quân Cavite lẫn hòn đảo nhỏ Corregidor, vị trí phòng thủ lối ra vào vịnh Manille. Riêng phần đạo quân Phi Luật Tân thì mặc dầu có các nỗ lực của ông, đã giảm xuống còn vài ngàn "hướng đạo sinh" được huấn luyện theo kiểu Mỹ và vài sư đoàn tuyển mộ từ người bản xứ vốn chỉ có trên giấy tờ. Mặc dầu đã leo lên đến tận đỉnh của hệ cấp quân sự, Douglas Mac Arthur cũng không làm sao biến được các ý tưởng của ông thành ra có giá trị thực tiễn, và ông cho đó là niềm cay đắng của mình. Hiểu rằng không còn có thể chờ đợi được gì nữa trong xứ mình với một chức hàm thuần tuý, ông xin Tổng thống Roosevelt phái qua Phi Luật Tân trong danh nghĩa trưởng phái bộ. Do tính cách quân sự lẫn chính trị của danh nghĩa này, ông sẽ đứng đầu một quái trạng tạo nên bởi sự hiện diện của một tướng lĩnh bốn sao trong vị trí chỉ huy một đạo quân trơ xướng ốm yếu. Tổng thống Roosevelt thoả mãn yêu cầu này và vị cựu Tổng tham mưu trưởng quân lực Mỹ hân hoan đến nhận lại các chức vụ cũ của mình bên cạnh ông bạn Quezon.Hai năm sau, mặc dầu nhiệm vụ ông còn lâu mới hoàn tất, Mac Arthur bị gọi về Mỹ đột ngột không một lời giải thích "để phục vụ trong quân đội chính quốc". Hành động đầu tiên của ông là gửi đơn từ chức, nhưng vì nghi ngừ có âm mưu gì, Tổng thống Quezon đã can gián ông. Do đó ông tướng nghe theo lời khuyên của bạn đáp ngay chuyến tàu đầu tiên về biện minh cho mình trước Roosevelt. Cuộc tiếp kiến thoạt tiên không được nồng đượm lắm, nhưng vốn là người biết đánh giá cao những kẻ có cá tính, Tổng thống Roosevelt để cho bị thuyết phục rằng không thể bỏ mặc Phi Luật Tân cho một vị thống đốc dân sự nào đó, và cho phép Mac Arthur về hưu rồi trở lại cạnh Quezon với một tước vị bán chính thức: "Cố vấn quân sự".Trong vai trò mới, ông đi biểu dương một hoạt động đáng kể đến nỗi danh hiệu cố vấn được thay thế mau lẹ bởi một danh hiệu ồn ào hơn "Field Marshall của quân đội thuộc xứ liên hiệp Phi Luật Tân". Dưới sự thúc đẩy gắt gao của ông, trong vòng hai năm, đạo quân này lên đến 100.000 người. Nhờ ảnh hưởng cá nhân, ông được sự hậu thuẫn vô điều kiện của Tướng Satherland, trưởng phái bộ quân sự Hoa Kỳ để huấn luyện đạo quân của ông và để chỉ huy cả họ nữa. Nhưng, ngoài vài sự cung cấp vũ khí, sự giúp đỡ chính thức chỉ giới hạn trong việc cho mượn tạm vài huấn luyện viên trích ra trong đoàn quân chừng hai mươi ngàn người dưới quyền của Sutherland. Không một yêu cầu nào do Quezon gửi cho Tổng thống Roosevelt để tổ chức hệ thống phòng vệ quần đảo, để cải thiện các phi trường tại đấy và biến căn cứ hải quân Cavite thành một Tân Gia Ba thứ hai, được thoả mãn cả. Do đó, ông tướng có vóc dáng cao lớn, vẫn còn giữ vẻ trẻ trung lạ lùng, đã trải qua những năm trước chiến tranh trong một chức vụ, ngồi không ăn lương, vàng son như thế. Ông sống với bà vợ trẻ (Đó là cuộc hôn nhân thứ hai của ông-cuộc ly dị của ông đã gây tai tiếng rất nhiều tại Hoa Thịnh Đốn và tạo thêm động lực để đẩy ông đi Phi Luật Tân) và người con nhỏ trong một căn nhà sang trọng nằm trên tầng chót của khách sạn lớn nhất Maniille. Mọi sự chuyển dịch của ông là cả một sự phô trương kiểu Á Đông. Ông chỉ huy theo cách của Lyautey, với một quyền uy thay đổi, ôn hoà khi phải làm như thế vì một thứ lòng tốt rất quý phái vốn biết làm rung động và lôi cuốn những quả tim. Nhưng ông chỉ điều khiển độc có quân đội Phi Luật Tân.Tháng 7 năm 1941, khi cuộc tấn công của Nhật vào Đông Dương rốt cuộc đã mở mắt người Mỹ, vấn đề tăng viện cho Phi Luật Tân được đặt ra với tất cả nhạy bén. Tướng Marshall đề nghị gửi cho Tướng Sutherland tăng viện về người và chiến cụ cũng như sự thiết lập một căn cứ không quân cho các pháo đài bay. Nhưng một không đoàn chiến đấu có tầm mức quan trọng đó phải được một tướng lĩnh không quân chỉ huy. Thật khó mà đặt ông ta dưới quyền một tướng lĩnh khác cùng cấp bậc, đó là trường hợp ông tướng trưởng phái bộ quân sự Mỹ. Cần phải tìm một tướng lĩnh khác có hơn một sao...Một người gợi ý: "Tại sao không phải là Mac Arthur?"Marshall không ưa ông quan chuyên chế địa phương có dáng điệu như một đại minh tinh màn bạc ấy, do đó đã nhăn mày. Trái lại, Roosevelt thì lại thấy ý kiến ấy là tuyệt diệu. Gia đình Mac Arthur luôn luôn theo đảng Cộng hoà. Chính Douglas cũng có ảnh hưởng không chối cãi được trong đảng. Nếu không làm cho con người quái quỉ ấy bận rộn việc gì, ông ta có thể trở thành một ứng cử viên gây khó chịu trong các cuộc bầu cử Tổng thống. Gọi ông trở lại quân đội là sắp xếp được hết mọi chuyện...Chính vì vậy mà ngày 27 tháng 7 năm 1941, trong khi đang ăn trưa trên chiếc sân thượng tràn ngập hương hoa ngoại quốc của đại khách sạn Palace tại Manille, Douglas Mac Arthur được biết rằng ông bị mất tước vị "Field Marshall của quân đội Phi Luật Tân" để được gắn lon Trung tướng khiêm nhường hơn nhiều-cùng cấp bậc mà ông đã lên lên đến nơi, cũng tại nơi này hai mươi lăm năm trước (Qui tắc xưa cũ của quân đội Mỹ bó buộc việc phục hồi cấp bậc này chỉ có tính chất tạm thời). Quả thật là người ta đã ban thưởng cho ông một trong những chức vụ chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Hoa Kỳ: đó là chức vụ chỉ huy chiến trường Thái Bình Dương mới vừa được sáng lập.Nhà quân sự lão thành đã nhận sự đãi ngộ ve vuốt này sau khi hạ bệ mà không chau mày. Thái độ đầu tiên của ông là từ chối. Nhưng, trong lúc ấy, nhờ một thông tin viên bí mật báo cho biết nội vụ, Tổng thống Quezon hấp tấp chạy đến. Ông ta nhón gót ôm hôn ông tướng và đeo vào vai ông, tìm cách xoay chuyển cái nhìn lạnh lùng của ông bằng cặp mắt van lơn."Tất cả những gì chúng tôi có là của ông. Tất cả những gì mà chúng tôi được như bây giờ là nhờ ông!" Tổng thống Phi Luật Tân thì thầm.Niềm hăng say cao cả, giọng nói chân thành, Mac Arthur đành nhượng bộ. Ông chấp nhận nhiệm vụ bạc bẽo là phòng thủ với gần như bàn tay trắng, xứ sở này, một xứ sở có một dân tộc được ông yêu thương và nơi đó ông được yêu thương.Ngọn lao đã phóng đi. Ông bắt đầu làm việc với nhiệt tâm mãnh liệt vẫn luôn luôn thúc đẩy ông trong hành động. Trong vài tháng trời ông đã sẵn sàng đưa ra chiến trường một đạo quân thuần nhất, đã cho xây doanh trại đồn trú dành cho đoàn quân mà rốt cuộc người ta đã chấp thuận gửi cho ông, ông phái các xe ủi đất nới rộng phi đạo các phi trường Clark Field và Nichols Field tại Lujon, và phi trường Del Monte tại Mindanao. Ông cho thiết trí đại bác phòng không chung quanh các cứ điểm quan trọng và thiết trí hai đài rada vừa được ban cấp trên núi cao phía bắc và phía nam Lujon.Ba tháng sau, ông có trong tay 60.000 binh sĩ Phi Luật Tân, 12.000 hướng đạo kinh nghiệm chiến đấu trong rừng rậm và 20.000 quân Mỹ do tướng Sutherland nhường lại để trở thành Tham mưu trưởng của ông. Vũ khí của họ còn bất ổn định, chiến xa cũ kỹ nhưng kỷ luật thì hoàn toàn và tinh thần thì rất cao.Công cuộc phòng thủ đảo Lujon được phân chia cho hai đạo quân. Khu vực phía bắc đặt dưới quyền của một trong các môn đệ được ông yêu mến nhất của trường West Point, tướng Wainwright, người được ông đặt hoàn toàn tin tưởng. Chính ông sở cậy đạo quân này để chịu đựng vố đầu tiên trong trường hợp bị xâm lăng.Ngày 4 tháng 11 1941, tướn Brereton, một phi công kỳ cựu thuộc thế hệ đầu tiên, đáp xuống phi trường Clark để nắm quyền chỉ huy không lực. Tháng 12, Brereton có trong tay 72 khu trục cơ, trong đó có 18 P-40 kiểu mới nhất và 35 pháo đài bay B-17. Kế hoạch phòng thủ của Mac Arthur tiêu liệu rằng các pháo đài bay này sẽ đến oanh tạc các phi trường của Nhật tại Đài Loan ngay khi chiến tranh bùng nổ. Chúng phải đặt căn cứ tại Del Monte trên hòn đảo lớn Mindanao, nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật.Tối hôm trước ngày 8 tháng 12, một phần sự di chuyển này đã được thực hiện: 18 chiếc B-17 đến Del Monte, 17 chiếc còn lại ở Clark Field trong khi chờ đợi các công tác sắp xếp đã định trước.Vì thận trọng, Mac Arthur cho phép Đô đốc Hart, tư lệnh Hạm đội Á châu gửi ba tuần dương hạm và sáu khu trục hạm của ông ta xuống biển Java và ở lại đó chờ đợi tình hình sáng sủa hơn. Ông chỉ giữ lại tại căn cứ Cavite hạm đội tàu ngầm và các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.Mac Arthur tin chắc rằng đã làm tất cả những gì trong phạm vi thẩm quyền để chịu đựng trong hai tuần lễ vố tấn công xâm lăng trong tương lai-nghĩa là thời gian cần thiết để Hạm đội Thái Bình Dương đến tiếp cứu. Trưa ngày 6 tháng 12, khi Đô đốc Sir Tom Philips từ Tân Gia Ba đến thăm, Mac Arthur tiếp ông với lòng trắc ẩn kín đáo của một người độc thân cường tráng mà một người thân trong gia đình vừa đến báo tin một trong các con cái lâm bệnh. Thật vậy "các thuộc địa" của Anh và Hà Lan tại Viễn Đông đối với ông có vẻ được thể hiện một cách lý tưởng và có thực chất hơn là xứ "Commonwealth Phi Luật Tân" được hạm đội Thái Bình Dương bảo vệ nhiều. Ông đảm bảo với Sir Tom Philips rằng chính phủ Mỹ vốn đã cung cấp cho Anh và Nga những số lượng vũ khí khổng lồ để chịu đựng cuộc chiến tranh tại Âu châu sẽ can thiệp đúng lúc nếu sự đe doạ của Nhật trở nên rõ rệt hơn. Sự hiện diện của chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse tại Viễn Đông là một lá bài tẩy quan trọng và phải sẵn sàng sử dụng chúng tối đa bằng cách nghiên cứu ngay từ bây giờ những nét chính của một sự hợp tác trong tương lai. Những nét chính này sẽ được ấn định cùng với Đô đốc Hart trong cuộc hội nghị tham mưu mà ông đề nghị đích thân chủ toạ vào sáng ngày mai.Nhưng hôm sau, 7 tháng 12, có tin cho biết một đoàn tàu Nhật đã được phát hiện trong vịnh Thái Lan. Như chúng tôi có nói, Sir Tom Philips xếp hành lý và hấp tấp trở lại Tân Gia Ba.Dầu vị Đô đốc Anh đã ra đi, buổi hội nghị cũng vẫn được tổ chức. Đa số có ý kiến rằng đoàn tàu ấy đang trên đường đến Thái Lan. Sau Đông Dương thuộc Pháp, những yêu sách lấn át của Nhật lan tràn như vết dầu loang. Tổng thống Roosevelt khó thể chấp nhận một cách thụ động hành động thách đố mới này. Vậy thì phải đặt quân lực trong tình trạng báo động. Các đài rada liền được lệnh canh chừng liên tục, các ổ cao xạ thường trực sẵn sàng khai hoả, các phi cơ sẵn sàng cất cánh và các tàu ngầm gia tăng gấp đôi các cuộc tuần tiễu.Đến tối, vì không nhận được điện văn nào mới, Mac Arthur và các cộng sự viên bình yên đi ngủ.Đúng lúc họ chìm vào giấc ngủ, sáu hàng không mẫu hạm của Đô đốc Nagumo quay hướng và tung thuỷ lôi vào Trân Châu Cảng. Tại Đài Loan, 100 oanh tạc cơ chạy ra khỏi hăng-ga và xếp hàng dọc theo phi đạo. Tại Khota Baru, đoàn công voa đầu tiên của Nhật đã đến đích.Chắc rằng độc giả tin là bị đánh thức bởi tiếng vang động của bom, cùng với các tướng lĩnh. Độc giả sẽ thất vọng. Tướng Sutherland bị lôi ra khỏi giường lúc 3 giờ 30 sáng chính là do tiếng chuông điện thoại reo. Sĩ quan trực tại Bộ tham mưu xin lỗi đã làm rầy ông tướng vào một giờ giấc quá sớm nhưng người ta vừa được nghe đài phát thanh loan tin một cuộc tấn công chớp của Nhật vào Trân Châu Cảng. Vì có quá nhiều tin đồn đại sai lạc trong mấy tuần trước đó nên Sutherland không ra lệnh áp dụng các biện pháp báo động nào nữa. Ông chậm rãi mặc quân phục và lên xe đến Bộ tham mưu. Không khí ở đấy có vẻ khích động dữ, mỗi người bình luận một kiểu các thông cáo của báo chí mà các hiệu thính viên vừa bắt được. Ông tướng đòi xem các công điện chính thức. Ông chẳng thấy gì khác hơn là các vấn đề thường nhật. Ông quyết định chờ sự xác nhận trước khi báo cho Mac Arthur. Rồi ông soạn thảo một điện văn báo động chung.Đến 5 giờ, các tin tức do nhiều đài phát thanh thương mại phát đi càng nhiều và chính xác đến mức ông phải nhấc chiếc điện thoại liên lạc trực tiếp với tướng Mac Arthur.-Trân Châu Cảng? Ông không nghĩ đến chỗ đó sao! Đấy là cứ điểm vững nhất, ông tướng trả lời. Rồi ông thêm:-Cám ơn Dick! Và gác máy.Thật hay giả, tin tức ấy cũng không đáng cho ông phải đặc biệt can thiệp vào. Mọi kế hoạch đều bị đình chỉ, mọi biện pháp đã được thi hành, mỗi người đã biết việc phải làm trong trường hợp có sự gây hấn hay chiến tranh bùng nổ. Chỉ còn việc chờ đợi các biến cố.Trong chiến tranh, sự tình cờ luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Trong các kế hoạch chuẩn bị kỹ nhất, vẫn có các góc cạnh bị che khuất và các điểm không chính xác. Trong số các sự việc khôn lường trước được, đứng hàng đầu là khí tượng, thứ khoa học phù thuỷ ấy.Luôn luôn lạc quan một cách cương quyết, Yamamoto đã điều hợp nhiều cuộc tấn công khác nhau bằng cách giả định một cách "tiên thiên" rằng thời tiết tốt sẽ đứng về phía ông. Thế mà rõ ràng là không thể nào trong cùng một ngày, cùng một giờ, những điều kiện khí tượng lại giống nhau tại nhiều địa điểm trên trái đất xa cách như Hạ Uy Di, biển Nam Hải và vịnh Thái Lan. Nhưng ông là tay chơi bài và ông toan tính chuyện bất khả. Sự liều lĩnh này suýt bắt ông phải trả giá đắt.Ngày 8 tháng 12 (Ngày của Đông Kinh), trước bình minh một chút, khi 192 oanh tạc cơ của không đoàn 21 và 22 thuộc không lực Hải quân, do Phó Đô đốc Tsukahara chỉ huy, xếp hàng từ đầu phi đạo của các phi trường ở Đài Loan sẵn sàng bay đi oanh tạc Phi Luật Tân, thì một làn sương mù dày đặc bao phủ toàn đảo và cản trở hoàn toàn các cuộc cất cánh.Lát sau, vào lúc mà Fushida trút bom xuống Trân Châu Cảng, phi cơ của Tsukahara vẫn luôn luôn bị đóng đinh xuống mặt đất chờ đợi một khoảng trời trong. Thời gian chờ đợi này kéo dài 4 giờ... Ta có thể dễ dàng tưởng tượng nỗi kinh hoàng của các cấp chỉ huy thuộc Bộ tư lệnh Nhật và những lời cầu nguyện của họ nhiệt thành đến mức nào. Chắc chắn là quân Mỹ nhờ được báo tin cuộc oanh tạc tại Trân Châu Cảng, đã cho tất cả các phi cơ cất cánh và nạp đạn cho tất cả vũ khí phòng không để chờ đợi các kẻ đến tấn công. Hiệu quả bất ngờ, lá bài tẩy chủ yếu của Yamamoto, dường như hoàn toàn vô dụng. Tại Lujon, những giờ đầu tiên của buổi sáng trôi qua trong không khí hoàn toàn bình thản. Tuy nhiên, đến 9 giờ, căn cứ thủy phi cơ trong vịnh Davao báo hiệu bị một thuỷ phi cơ thám sát của Nhật ném một quả bom. Tướng Brereton liền cho một không đoàn khu trục cất cánh. Một lát sau, mười bảy chiếc pháo đài bay B-17 cất cánh trong một phi vụ thường lệ. Chúng phải hạ cánh sau đó một giờ, rồi đổ đầy xăng chờ bay đi tấn công Đài Loan vào quá trưa, nếu cuộc xâm lăng Davao được xác định. Đến 10 giờ, các khu trục cơ bay về mà chẳng trông thấy gì và đáp xuống phi trường sau khi che chở cho mười bảy pháo đài bay hạ cánh. Trong thời gian đó, các phi cơ P-40 mới đến đang lấy xăng trước các hăng-ga phi trường Clark và các phi công đang than phiền điều kiện cư trú tệ hại. Họ bỏ đi ăn sáng trong khi chờ đợi cuộc tạp dịch bất tận này chấm dứt.Đúng lúc đó, sương mù trên đảo Đài Loan tan dần và hai không đoàn phi cơ thuộc Hải quân Nhật được năm mươi bốn khu trục cơ Zéro hộ tống phóng lên bầu trời sáng sủa. Chúng chờ đợi chịu đựng các cuộc tấn công dữ dội ngay cả trước khi đến mục tiêu. Tuy vậy phi vụ của họ chẳng xảy ra chuyện gì. Các phi cơ thám thính Mỹ cất cánh từ sáng sớm quả thật đã trở về căn cứ từ lâu vì sương mù mà họ đã gặp ngoài khơi.Vào lúc 11 giờ 30, đài rada phía bắc Lujon báo hiệu có một đoàn phi cơ quan trọng bay đến theo hướng Nam cách bờ biển năm mươi hải lý. Lệnh báo động được chuyển đến tất cả các phi trường. Nó chỉ đến phi trường Clark đúng giữa trưa, lúc các phi cơ P-40 vừa đổ đầy xăng lần lượt cất cánh từng chiếc một.Đến 12 giờ, một đợt 27 oanh tạc cơ Nhật bay đến bên trên phi trường, trút hết bom và quay về mà chẳng phải lo ngại gì. Mục tiêu lớn lao quá: 17 pháo đài bay sắp hàng như vậy vịt, những chiếc cánh vĩ đại xếp chồng lên nhau từng cặp, phản chiếu ánh mặt trời chói lọi.Những toán người dưới đất, kinh hoàng, trông thấy cả một tấm màn gần như liên tục gồm những điểm ság trút xuống, lớn dần như giọt lệ. Mọi người chạy tứ tán trong khi tiếng còi báo động sầu thảm cất lên. Rồi thì là tiếng bom nổ như sấm động, và vô số cột khói thoạt tiên đột ngột, rồi đường bệ bốc lên bao phủ cả bầu trời đầy mây trắng như sữa.Đợt thứ nhất vừa biến đi, một trung chuyển khác, còn ghê rợn hơn vì không khí mờ mịt khói lửa, đã bắt các kẻ chạy trốn chậm chân dán người xuống mặt đất. Một đợt thứ hai tương tự đợt đầu tiên đến phiên trút bom xuống phi trường.Sau một thời gian nghỉ ngơi 15 phút, quang cảnh lại tái diễn một lần thứ ba...Khi sự hỗn loạn dịu dần, hàng khói đen cuồn cuộn bốc lên trên phi trường với những ánh lửa đỏ hồng loé lên ngang dọc: mười bảy pháo đài bay, hơn năm mươi sáu khu trục cơ và hai mươi phi cơ đủ các loại mà các bình chứa xăng tuôn ra hàng suối xăng biến phi trường thành một biển lửa mênh mông.Lực lượng xung kích của Mac Arthur chỉ còn lại một đống sườn sắt bốc khói.Vài giờ sau, một phi đoàn nhỏ oanh tạc cơ Nhật lại tiêu diệt vài chiếc P-35 trên phi trường tiếp cứu Aparri, phía bắc Lujon, và các tàu vận tải đầu tiên đổ bộ binh sĩ lên các bãi biển kế cận mà không bị một chống đối nào. Cuộc chinh phục Phi Luật Tân bắt đầu.Tại làm sao mà không ai có ý tưởng tổ chức các cuộc tuần tiễu liên tục và nhất là các pháo đài bay cất cánh ngay để oanh tạc các phi trường ở Đài Loan? Tại làm sao mà tướng Brereton lại có thể phạm vào điều bất cẩn là đem trở về phi trường Clark, vốn nằm trong tầm hoạt động của oanh tạc cơ Nhật, 17 pháo đài bay đã cất cánh trong một phi vụ bay điều chỉnh? Tại sao ông không cho áp dụng trước vài giờ kế hoạch oanh tạc Đài Loan dự định sẽ thực hiện vào buổi chiều? Biết bao nhiêu câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời.Hai tướng Sutherland và Brereton đổ lỗi cho nhau về sự thiếu sót này. Dường như hai ông đã xung đột dữ dội, nhưng tướng Mac Arthur vốn không thể không biết tình trạng ấy, đã phải chấm dứt tàn nhẫn sự xung đột giữa hai người. Kết quả rất đáng công.Mac Arthur vẫn luôn từ chối không soi sáng các bí mật ấy. Ông đã làm câm họng các tin đồn đại về vấn đề này bằng cách cho công bố vài tháng sau một thông cáo trong đó ông hoàn toàn che chở vị tư lệnh không quân của ông. Lúc ấy, gương chiến đấu chói sáng của các đơn vị quân đội Phi Luật Tân và nhiệt tâm khiến ông vẫn ở lại tại bộ chỉ huy của pháo đài Corregidor dưới các cuộc oanh tạc tàn khố của Nhật đã biến ông thành anh hùng dân tộc, mà dưới mắt công chúng Hoa Kỳ, biểu tượng cho sức đề kháng của dân tộc Mỹ; do đó không còn vấn đề trách cứ ông về những sai lầm đã qua lẫn vấn đề hạ bệ ông nữa.Mac Arthur lại còn là người duy nhất trong tất cả các tướng lĩnh Đồng minh phải chịu đựng vố tấn công bất thần đầu tiên ngày 7 tháng 12, được hưởng một thời hạn đủ để phản ứng chống trả. Thế mà, mặc dầu ông đã chứng tỏ hoàn toàn thụ động, ông là người duy nhất không bị cách chứ tư lệnh. Sau này ta sẽ thấy chẳng những ông không bị khiển trách gì, mà các biến cố bi thảm đầu năm 1942 lại khiến ông được bơm lên chức vụ Tư lệnh đạo quân quan trọng nhất của Mỹ tại Thái Bình Dương.Sau khi làm chủ được bầu trời và mặt biển tại Phi Luật Tân một cách dễ dàng giống như tại Mã Lai, quân Nhật có thể yên chí hoàn tất nhiệm vụ của mình. Ngày 10 tháng 12, trong lúc các dương vận hạm chở quân đổ bộ vốn phải rút lui vì sương mù hôm trước, tiếp tục con đường tiến về vinh Lingayen-trên bờ biển tây bắc Lujon-chính các phi cơ đã từng oanh tạc các phi trường lại nhào đến căn cứ hải quân và thành phố Cavite nằm trong vùng vịnh Manille. May thay, hải cảng trống trơn, vì hạm đội nhỏ bé của Đô đốc Hart đã đến tiếp hợp với các hạm đội của Hà Lan và của Úc trong vùng biển Java. Tại Phi Luật Tân chỉ còn lại chừng mười tàu ngầm đang rình các tàu đổ bộ tận ngoài khơi và một vài khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.Trong khi các biến cố trên đang diễn ra, quân đôi xâm lăng của Nhật ở Hoa Nam tràn vào thuộc địa nhỏ hẹp của Anh tại Cửu Long đối diện đảo Hồng Kông, và vô hiệu hoá mau lẹ hải cảng và căn cứ hải quân. Các đoàn quân Anh bị số đông địch tràn ngập, vội rút lên các đỉnh núi cao trên đảo để đánh trì hoãn như ở Mã Lai. Nhưng cuộc chiến đấu anh dũng của họ cũng không trì hoãn được một ngày nào sức tiến quân vũ bão của Nhật. Kể từ 20 tháng 12 năm 1941, không còn gì có thể ngăn Hạm đội liên hợp tiếp tục các cuộc chinh phục về phía nam. Sáu mẫu hạm của Đô đốc Nagumo đã trở về Kuré, nơi đây sau khi ăn mừng vì xứng đáng với chiến thắng tại Trân Châu Cảng, chúng lại điền khuyết phi công và phi cơ. Yamamoto phái chúng đến đảo Palau (quần đảo Carolines), nơi có một căn cứ hải quân quan trọng. Sự bố trí ban đầu của hạm đội được sửa đổi lại nhằm mục đích tấn công dứt điểm, lần này nhắm vào hàng rào ngăn chặn Mã Lai, nghĩa là dãy đảo (Sumatra, Yaya, Bali, Soembava, Florès và Timor-là những đảo quan trọng nhất) trải dài theo chiều ngang dọc theo kinh độ 10 nam giữa bán đảo Mã Lai và tân Guinée. Ngoài tính cách là thành lũi cuối cùng trước Úc châu, các đảo này, vốn được người Hà Lan khai khẩn tốt đẹp, tạo thành một trong các thuộc địa giàu có nhất thế giới. Cũng chính vì để chiếm hữu các mỏ dầu, các đồn điền cao su, và các mỏ đồng và vì, bị thúc đẩy bởi lệnh phong toả sự cung cấp nguyên liệu do Tổng thống Roosevelt ban hành, mà Nhật Bản khai mào chiến tranh. Do đó cuộc chiếm đóng thật mau các đảo ấy là mục tiêu số một của kế hoạch phía Nam.

Một năm với khởi điểm đen tối:Hàng rào Mã Lai

Kể từ 15 tháng 12 năm 1941, nhờ đi sớm hơn lịch trình, Yamamoto ra lệnh cho thuộc cấp phải hạn chế rủi ro. Hiệu quả bất ngờ, cho đến lúc đó, đã đóng vai trò lớn lao trong các chiến thắng, từ nay sẽ không còn nữa. Giờ đây, tất cả những gì còn lại của Hải và Không quân Đồng minh đã được tập trung về biển Java-một vùng biển khép kín, rải rác đá ngầm, và vùng biển cạn khó nhận biết, không thể nào đưa hàng không mẫu hạm và thiết giáp hạm vào đó. Các căn cứ xuất phát của Hải quân Nhật-Cam Ranh tại Đông Dương và Davao tại Mindanao thuộc Phi Luật Tân-đều nằm cách xa mục tiêu mới cũng gần cả ngàn cây số. Một hải trình mà các tàu đổ bộ phải chạy mất hai ngày như thế đòi hỏi một sự bảo vệ liên tục của không quân. Vậy thì tiên quyết là phải đảm bảo một chuỗi phi trường thiết lập trên các đảo gần với đường vận chuyển của các dương vận hạm ấy: đảo Bornéo lớn lao và các đảo Célèbes.Ngày 16 tháng 12, một bộ phận nhỏ của Thuỷ quân lục chiến được đổ len Miri, trên đảo Sarawark thuộc Bồ Đào Nha, và chiếm đóng phi trường. Lập tức vài khu trục oanh tạc cơ của không đoàn 21 từ Sài Gòn đến đáp xuống đấy. Mười ngày sau, cùng một cuộc hành quân tương tự đã diễn tiến tai Kuching, về phía nam của xứ này. Sự chống cự của Bồ Đào Nha gần như là số không.Tiên liệu một phản ứng mạnh hơn nơi người Anh và Hà Lan, cuộc xung phong vào các hải cảng chính phía Bắc và phía Đông các đảo lớn Bornéo và Célèbes được giao cho các đơn vị chuyên môn của hải quân đội-đặc biệt là đoàn quân đổ bộ Sasebo, đơn vị đầu tiên của lực lượng Hải quân xung kích. Các không đoàn 21 và 22 thuộc đại đoàn không quân 11, do Đô đốc Tsukahara chỉ huy-chính các không đoàn đã tiêu diệt các pháo đài bay của Brereton tại Clark Field-rời Đài Loan để đến Davao. Một đoàn hai mươi tám phi cơ chở ba trăm bốn mươi bốn binh sĩ nhảy dù, đến nhập đoàn với hai không đoàn ấy, và bình mình ngày 10 tháng 11 năm 1941, các đoàn công voa rời Davao hướng về Tarakan, hải cảng dầu lửa quan trọng nhất của đảo Bornéo, thuộc địa Hà Lan.Đạo quân trú phòng Tarakan chỉ có 1.300 người, mà hai phần ba là các quân nhân trừ bị không hề được huấn luyện quân sự tí nào. Hiểu rằng chống trả vô ích, viên Tư lệnh Hà Lan khi thấy cả một khối vũ khí vĩ đại ấy tiến đến gần, liền quyết định đốt các giếng dầu. Đoàn công voa Nhật buông neo cách bờ biển mười hải lý, vì khói từ các đám cháy do gió mùa mang đi bao phủ mặt biển trong một làn sương mù. Họ phải đợi đến hôm sau mới đổ bộ, nhưng quân Nhật chiếm phi trường mà chẳng tốn một tí hơi sức nào, và vài giờ sau phi cơ của Tsukahara đáp xuống thong thả.Cùng lúc đó, đơn vị đổ bộ Sasebo đến Menado phía cực bắc Célèbes và ba trăm ba mươi bốn binh sĩ nhảy dù được thả xa hơn một chút về phía Nam, gần phi trường Kema.Đó là lần đầu tiên Nhật sử dụng đến quân dù, và ngọn gió mùa thổi mạnh làm phân tán các biệt kích quân, nhưng quân trú phòng Hà Lan lại còn yếu hơn quân ở Tarakan và cả hai phi trường bị chiếm đóng mà không có một cuộc chống cự nào. Vài oanh tạc cơ Đồng minh từ đảo Amboine kế cận đến thực hiện một hành động giống như tấn công, và bốn pháo dài bay-thuộc lực lượng không quân của Brereton còn sót lại-vốn được rút về Java, đã bay đến thả bom xuống đoàn tàu đổ bộ. Mức độ trông thấy rõ rất kém, phi hành đoàn không được huấn luyện kỹ, bom rơi cầu âu chẳng tạo được tác dụng nào.Sau chiến thắng này, quân Nhật lại chịu nghỉ ngơi một thời gian. Tất cả các phi trường chiếm được liền được sửa sang lại và được bố phòng. Các dương vận hạm đi đi lại lại để mang quân đội đến và lực lượng hải quân lo tập họp để đánh trận cuối cùng.Phó đô đốc Kondo, Tư lệnh hạm đội số 2, đến Davao với các thiết giáp hạm và tuần dương hạm của ông. Lực lượng xâm lăng được chia ra làm hai đoàn: đoàn đầu tiên (lực lượng đông bộ và trung tâm) đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Takhoashi, đoàn thứ hai (lực lượng tây bộ) dưới quyền Phó Đô đốc Ozawa. Mỗi đoàn lại được phân chia làm hải đội tương ứng với các mục tiêu phải đạt, với các dương vận hạm, hộ tống hạm và lực lượng che chở của Hải quân như Không quân. Để cho tất cả đều được chuẩn bị, hạm đội hàng không mẫu hạm của Đô đốc Nagumo được đặt dưới quyền của Đô đốc Kondo.Trước khối khí giới khổng lồ và được tổ chức hoàn hảo hơn gấp bội, trước các đạo quân xung kích gan dạ nhờ các các chiến thắng liên tiếp ấy, phía Đồng minh có gì để chống đối lại? Vài tuần dương hạm và khu trục hạm của ba quốc gia khác nhau, chừng ba mươi tàu ngầm phân tán trong các quần đảo và hành động đơn độc, vài không lực trơ xương và chẳng có chiếc mẫu hạm nào. Trong tình cảnh mạnh ai nấy lo sau các cuộc bại trận liên tiếp cả ở Mã Lai lẫn ở Phi Luật Tân, các ban tham mưu cũng không được tha cho. Sir Brooke Popham bị thay thế bởi Trung tướng lục quân Percival vốn đã phải vất vả mới đến được nhiệm sở là đảo Tân Gia Ba bị bao vây. Đô đốc Hart của Mỹ, người chỉ huy hạm đội các tuần dương hạm (vẫn được gọi một cách kiêu kỳ là Hạm đội Á châu) được đưa đến biển Java từ tháng 11 năm 1941, đã rời Corregidor trên một tàu ngầm ngày 25 tháng 12 để đến Batavia. Khi đến nơi, ông ngạc nhiên được biết rằng người ta đã bơm ông lên chức Tổng Tư lệnh các lực lượng Hải quân Đồng minh tại biển Java. Ông lại trở thành phụ tá Hải quân cho tướng Wavell của Anh, Tư lệnh quân Anh tại Ấn, cho đến lúc đó, một quyết định tại toà Bạch Ốc giữa Churchill và Rosevelt đã nâng ông này lên chức vụ ít ai thèm muốn lo Tổng Tư lệnh ABDA-ký hiệu bí mật này vốn là chữ viết tắt chỉ định toàn diện các lực lượng Mỹ, Anh, Hà Lan và Úc rải rác trong các quần đảo tại Đông Nam Á.Sự chỉ định Tư lệnh ABDA đã là đầu đề của các cuộc thảo luận gay go trong phạm vi Bộ tham mưu liên quân (Joint Chiefs Staff) bắt đầu được hoạt động tại Hoa Thịnh Đốn. Churchill, cố tranh đấu để cho tôt Mỹ lấy quyết định "Germany first", đã không còn mấy hy vọng cưu vãn Tân Gia Ba t khi thiệt mất chiếc Prince of Wales và chiếc Rupeles. Số phận của các thuộc địa Hà Lan tại Ấn thì chỉ làm ông lưu tâm có một nửa, và ông không nghĩ bắt một trong các tướng lĩnh của ông gánh vác thêm trách nhiệm về một tai hoạ mới. Phần Roosevelt thì chẳng có sẵn ai dưới tay. Đã có lúc ông nghĩ đến Mac Arthur, nhưng ông này lại cương quyết không chịu rời Corregidor, nơi ông đang chỉ huy công cuộc chống cự của quân đội Phi Luật Tân đang bị bao vây trên bán đảo Bataan.Thấy cuộc thảo luận sắp đi đến chỗ bế tắc, Tổng thống Mỹ liền đưa ra tên Wavell như là một nhà quân sự có thể đem lại sự đồng tý nhất trí. Được vuốt ve vì sự đề cao vị cứu tinh của Ai Cập, rốt cuộc Churchill đã bằng lòng.Hoàn toàn biết rõ tình hình thực tế, Wavell thấy liều thuốc vừa được cấp cho thật là đắng. "Người ta đã trao vào tay tôi không phải là một đứa con hoang mà là những đứa con song sinh!" ông tâm sự với một trong những người thân tín. Trong tư cách là Tư lệnh quân lực tại Ấn, ông thường đến Tân Gia Ba và từ lâu đã biết rõ tính cách tuyệt vọng của các trận đánh trì hoãn của quân Anh trên bán đảo Mã Lai.Ngày 9 tháng 1 năm 1942, khi ông đến Batavia nhậm chức, 85.000 người thoát vây tại Mã Lai, gần như đã rút hết về đảo Tân Gia Ba nhỏ bé, sẵn sàng chống lại quân địch trong một cuộc chống cự khốc liệt. Không thể nào còn có vấn đề bắt một đơn vị nào quay trở lại để phòng ngự hàng rào ngăn chặn Mã Lai nữa. Riêng phần các đơn vị mà Luân Đôn đã trích ra từ lực lượng đóng tại Ai Cập trong thời kỳ còn hy vọng cứu vãn bán đảo, thì cũng đã bị chặn lại tại Colombo vì mối đe doạ của Nhật tại Miến Điện. Do đó ông chỉ còn có các đạo quân trú phòng yếu ớt của Hà Lan trên đảo Sumatra và Java (chừng 25.000 người) và vài tiểu đoàn Anh hoặc Ấn đã thoát ra được khỏi Bornéo. Một nhúm quân nhân đó rõ rệt là không thể nào đẩy lui được một cuộc tấn công của Nhật Bản. Giải pháp duy nhất đối với ông là trì hoãn cuộc tấn công này lâu chừng nào hay chừng đó để cho quân Mỹ từ Úc có thể đến tăng viện được. Để đạt được mục tiêu trì hoãn này, ông có trong tay các lực lượng hải quân và không quân, mặc dầu ít hơn và phân tán hơn, nhưng cũng rất đáng kể.Tại Batavia, ông thấy một quang cảnh rối loạn không thể tưởng tượng. Cuộc tản cư của thường dân và lính đào ngũ từ Mã Lai, Tân Gia Ba, Bornéo và Célèbes đã bắt đầu. Hải cảng chật ních tàu bè mà nơi đến thì lại ở trong tay địch. Nhà chức trách Hà Lan làm việc không xuể. Mỗi người đều lo thủ thân và từ chối tuân lệnh với lý do "chờ chỉ thị của chính phủ mình". Do vậy, công việc đầu tiên của ông là tái lập trật tự và tổ chức một Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh.Giao quyền chỉ huy các lực lượng bộ chiến cho tướng Hà Lan Ian Der Poorten, ông đặt không lực dưới quyền chỉ huy của tướng Mỹ Brereton. Sự chọn lựa này cũng chẳng thích hợp gì. Brereton là một chuyên viên ngành oanh tạc chiến lược chưa bao giờ chỉ huy-ở nơi nào khác ngoai trừ Manille-các đại đơn vị không quân. Hơn nữa, các pháo đài bay của ông đến Java mà không có nhân viên dưới đất, không có phụ tùng thay thế gần như hoàn toàn vô dụng. Mối ưu tư lớn lao nhất của ông là đưa chúng ra khỏi tình trạng tệ hại này càng sớm càng hay. Wavell mau lẹ ý thức được rằng Brereton chẳng có ích lợi gì cho ông cả. Ông liền quyết định cho rút về các phi trường tại Palem-bang phía nam Sumatra, các phi đoàn săn giặc và oanh tạc tại Tân Gia Ba vì bị phô bày quá lộ liễu ở đấy, và giao cho một Phó Thống chế không quân Hoàng gia RFA. Sau đó ông nới rộng quyền chỉ huy này đến các không lực Hà Lan và các phi đoàn săn giặc Mỹ bắt đầu được phái từ Úc đến.Riêng phần hải lực Đồng minh thì một mệnh lệnh của Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh đã giao cho Đô đốc Hart, lực lượng này đủ mạnh để ngăn chặn quân Nhật mở cuộc tấn công cấp thời. Hạm đội của Đô đốc Hà Lan Ian Doorman gồm có ba tuần dương hạm hạng nhẹ, chiếc De Ruyter, chiếc Java và chiếc Tromp, hạm đội của Đô đốc Mỹ Glassford có một tuần dương hạm nặng, chiếc Houston, hai tuần dương hạm nhẹ Boise và Marblehead, và hạm đội của Phó Đô đốc Anh Collins (cựu Hạm đội China fleet) còn gồm tuần dương hạm nặng Exeter, tuần dương hạm nhẹ Perth và một đám các chiến hạm nhỏ già nua của Anh hay của Úc. Cùng với bảy chiến hạm chính yếu ấy còn có thêm bảy khu trục hạm Hà Lan, chín Mỹ, bốn Anh, cũng như một hạm đội tàu ngầm 38 đơn vị (13 Hà Lan, 25 Mỹ). Về phương diện tổng quát, hải lực Đồng minh như vậy có thể so sánh được với lực lượng hải quân Nhật có ý định mạo hiểm đi vào biển Java, nhưng có điểm khác nhau là chúng không được thuần nhất, chia rẽ vì ngôn ngữ khác nhau, không có chủ thuyết chiến thuật và không có phương tiện báo hiệu chung.Hơn nữa, ở cấp chỉ huy tối cao, còn lâu mới có đồng quan điểm. Đã chứng kiến các cuộc oanh tạc xuống căn cứ Cavite và Corregidor, Hart không còn có ảo tưởng gì về việc thắng trận. Ông chỉ có một ý tưởng là giữ cho các tuần dương hạm của ông hoạt động phía Đông Java để giúp chúng chạy trốn kịp thời về Úc châu. Collins, bị ám ảnh bởi sự phòng thủ Tân Gia Ba, chỉ quan tâm đến những gì xảy ra tại phía Tây. Riêng phần Phó Đô đốc Hà Lan Ian Helfrich, Tư lệnh Hải quân Hà Lan, rất bực bội phải nhận sự lệ thuộc của người ta áp đặt lên ông. Ông ước tính một cách hữu lý rằng tốt hơn hết là đặt tất cả hải lực Đồng minh dưới quyền ông và sử dụng Bộ tham mưu của ông hơn là đặt ra một Bộ tham mưu mới vào phút chót. Trong tình cảnh trái nghịch nhau đó, Hart chấp nhận giải pháp đơn giản nhất: để cho các Tư lệnh hạm đội quyền có sáng kiến rộng rãi và chỉ can thiệp vào bằng cách ra lệnh cho Hải quân Mỹ mà thôi.Chính ông là người được vinh dự nhờ một sứ mạng tấn công hữu hiệu đầu tiên đánh vào hạm đội tập trung của Nhật. Ngày 20 tháng giêng, được tin có một đoàn công voa lớn lao đang bỏ neo ngoài khơi Balikpapan, ông ra lệnh cho Đô đốc Glassford tiến đến tấn công. Chiếc Boise và chiếc Marblehead vừa đến Kupang, hải cảng chính của đảo Timor để được tiếp tế nhiên liệu sau kế hoạch hộ tống các đoàn công voa khởi hành từ Úc và trở về. Ngay khi được tiếp tế xong, Glassford nhổ neo cùng với hai tuần dương hạm và bốn khu trục hạm để đến trước mặt Balikpapan lúc 2 giờ sáng ngày hôm sau nữa.Ngay khi khởi hành, rủi ro đã xảy ra, chiếc Boise, mà Glassford dùng làm chiến hạm chỉ huy và dẫn đầu, đụng phải đá ngầm trong eo biển Sape. Một vết thủng quan trọng làm nước tuôn vào được phát giác, Đô đốc phải kéo cờ lệnh trên tuần dương hạm Marblehead và cho chiếc Boise trở lai Úc châu. Giây lát sau, chính chiếc Marblehead dừng lại vì hỏng máy. Sau khi sửa chữa tạm thời, chiếc tuần dương hạm lại tiếp tục chạy nhưng vì nó chỉ có thể chạy với tốc lực 15 gút, Glassford đành để cho các khu trục hạm vượt qua tiến về phía Balikpapan và cho chúng điểm hẹn để che chở chúng khi rút lui.Bốn chiến hạm nhỏ này, được đặt dưới quyền chỉ huy sáng chói của Đại tá Paul Talbot, đến Balikpapan lúc 3 giờ sáng và thấy một đám dương vận hạm tập trung lớn lao của Nhật in bóng đằng sau ánh lửa của các chiếc giếng dầu đang bốc cháy. Trong hơn một giờ, các khu trục hạm len lỏi vào giữa đoàn tàu vừa chạy vừa bắn và phóng tất cả các thuỷ lôi. Bị bất ngờ, vì cuộc tấn công đột ngột, quân Nhật phản ứng chậm chạp và khi các khu trục hạm tập họp để giải cứu, chúng không còn thể nào đuổi kịp kẻ tấn công. Tất cả chiến hạm Mỹ trở về Sourabaya mà không bị trở ngại gì.Đấy là chiến thắng đầu tiên của các chiến hạm Đồng minh kể từ khi khởi đầu chiến tranh và quân Mỹ hân hoan ca khúc khải hoàn, tuy nhiên những gì lẽ ra phải là một cuộc tàn sát, trong thực tế chỉ như một vết kim châm. Gần như tất cả các thủy lôi của Mỹ đều tác động tệ hại, chạy ngang qua bên dưới tàu địch rồi nổ thật chậm hoặc là tịt ngòi luôn. Tổn thất của Nhật giới hạn trong số bốn chiếc tàu chở hàng và một tàu hộ tống nhỏ. Các cuộc đổ bộ có chậm đi đôi chút, nhưng không gián đoạn.Tuy vậy cuộc tấn công tại Balikpapan đem lại một kết quả may mắn: nó làm cho mũi tiến quân của Nhật quyết định lấy một điểm tựa khác tại Bandermasin, phía bị trì hoãn lại ít lâu, thật vậy Bộ tư lệnh Nhật tây Bornéo, trước khi khởi cuộc tấn công.Tháng giêng yên tĩnh trôi qua không bị cuộc báo động mới mẻ nào và, ngày 2 tháng 2, Hart muốn tái diễn cuộc tấn công với sự hậu thuẫn của Hải quân Hà Lan, vào Balikpapan mà lần trước đã gần đạt được thành công hoàn toàn. Một lực lượng hải quân đột kích được thành lập đặt dưới quyền chỉ huy Phó Đô đốc Doorman với những chiếc De Ruyter, Tromp, Marblehead và Houston, ba khu trục hạm Hà Lan và bốn của Mỹ. Hải Lực nhổ neo tại Sourabaya trong đêm, nhưng đến sáng ngày 3 tháng 2, trong lúc lực lượng xung kích đang chạy theo hàng dọc cách phía bắc Bali 50 hải lý, thì một đoàn 80 oanh tạc cơ Nhật đột ngột hiện ra khỏi các đám mây và ném bom xuống đoàn chiến hạm Đồng minh. Ba tuần dương hạm bị trúng bom và Doorman phải cho lệnh quay lui để trở về Tjilatjap, trên bờ biển phía nam Java, hải cảng duy nhất nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật. Khi đến Tjilatjap, bảng kết toán những thiệt hại nặng nề: tuần dương hạm Marblehead bị hư nặng đến nỗi phải gửi về Mỹ, chiếc Houston bị sập tháp pháo phía sau và bộ phận điều khiển hướng bắn chống phi cơ bị hỏng. Chỉ có chiếc cuối cùng này là có thể được sửa chữa tại chỗ, tuy nhiên chiếc Houston vẫn cứ đuợc giữ lại vì sáu khẩu 203 ly còn bắn được.Đấy không phải là tai biến độc nhất trong ngày, một thương thuyền chở súng phòng không của Mỹ trên đường đi đến Palembang bị đánh chìm ngoài khơi Sumatra và một tiểu đoàn chuyên viên tác xạ phòng không bị mất tích trong một tai nạn xe lửa kinh hồn gần Batavia.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro