Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

quanhequocte

Quan hệ quốc tế ở thời kỳ 45 -91 và 91 đến nay; Chính sách đối ngoại của Đảng ta.

   Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một trật tự thế giới mới đã hình thành theo khuôn khổ thoả thuận Ianta với hai cực, đứng đầu là Liên Xô và Mĩ. Trật tự hai cực Ianta được các cường quốc thắng trận thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đảm bảo những lợi ích chính trị, kinh tế của mình.  Trước hết, đó là sự đối lập về hệ tư tưởng giữa hai cực, một bên là Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, lực lượng hậu thuẫn cho phong trào cách mạng thế giới, với một bên là Mĩ, nước đứng đầu thế giới tư bản với vai trò hậu thuẫn cho các lực lượng phản cách mạng và âm mưu vươn lên vị trí thống trị thế giới. Cuộc đối đầu giữa hai cực diễn ra gay gắt, quyết liệt, kéo dài hơn 4 thập kỉ, kéo theo sự đối đầu giữa hai khối Đông - Tây và cuốn hút nhiều quốc gia, khu vực vào vòng xoáy căng thẳng, phức tạp của nó.

Vậy chiến tranh lạnh là gì ? Chiến tranh Lạnh (1945–1991) là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia vệ tinh của nó, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Mỹ. Dù các lực lượng tham gia chủ yếu không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể hiện sự xung đột thông qua các liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, tình báo, chiến tranh uỷ nhiệm, tuyên truyền, và cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc chạy đua không gian.

Cuộc chiến tranh Lạnh có đặc điểm ở những giai đoạn khá yên tĩnh và những giai đoạn căng thẳng lên cao trong quan hệ quốc tế – cuộc Phong toả Berlin (1948–1949), Chiến tranh Triều Tiên (1950–1953), Khủng hoảng Berlin năm 1961, Chiến tranh Việt nam (1959–1975), Khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan (1979–1989). Cả hai phía đã tìm cách làm giảm các căng thẳng chính trị và tránh một cuộc tấn công quân sự trực tiếp, vốn dường như sẽ dẫn tới một sự tiêu diệt có đảm bảo từ hai phía với các loại vũ khí hạt nhân.

            Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, hoạt động chính trị thế giới được định hình mạnh mẽ bởi mối thù địch căng thẳng giữa 2 khối sức mạnh lớn và giữa nhưng học thuyết chính trị        mà các nước này đại diện: một bên là các lực lượng cách mạng do siêu cường Liên xô làm trụ cột, còn bên kia là các lực lượng TBĐQ do Mỹ đứng đầu. Từ thời điểm chiến tranh lạnh được hình thành, hai bên đã huy động hàng loạt công cụ, biện pháp, thiết chế, chiến lược, nguồn lực… đối phó với nhau, làm toàn bộ đời sống quốc tế bị bao phủ bởi không khí băng giá trong suốt gần nữa thế kỷ; trật tự thế giới và toàn bộ đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội v.v. của thế giới đều bị chi phối bởi hai cường quốc đứng đầu hai hệ thống xh đối lập; là trật tự hai cực mà ở đó hai siêu cường Liên xô và Mỹ đảm nhiệm vai trò giải quyết các công việc quốc tế và chính sách đối ngoại của họ có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị thế giới cũng như hệ thống quan hệ quốc tế suốt thời kỳ chiến tranh lạnh.

Có thể nói thời kỳ này là thời kỳ của hai phe, bốn mâu thuẫn , trong đó mâu thuẫn giữa cnxh và tbcn là mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt của thời đại trong tiến trình vận động của lịch sử nhân loại xét cả góc độ lý luận và thực tiễn. Đây là mâu thuẫn giữa hai hình thái kt-xh mang bản chất đối lập nhau, hay nói cách khác đó là mâu thuẫn giữa hai hệ tư tưởng: vô sản và tư sản, là mâu thuẫn không thể điều hòa được và mang tính ổn định, tương đối lâu dài. Vì vậy, thời kỳ chiến tranh lạnh giữa các nước có độ xã hội khác nhau là chỉ có đấu tranh và không thỏa hiệp.

- QHQT trong thời kỳ này: ổn định, khép kín trong từng hệ thống xã hội, cốt lõi là do cơ sở quan hệ quốc tế lúc này là dựa vào ý thức hệ, cho nên những quốc gia có cùng hệ tư tưởng thì có quan hệ với nhau.

2. Đường lối, chính sách đối ngoại của VN thời kỳ chiến tranh lạnh

            Trong thời kỳ này chính sách đối ngoại của việt nam có thể chia ra các mốc quan trọng:

+ 1945-1975 : Thời kỳ đấu tranh giành độc lập :  Chúng ta ở trong tình thế bị kẻ thù bao vây, cô lập mục đích là tiêu diệt thành quả cách mạng . Ta xác định phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự và chính trị nhằm tạo nên một sức mạnh dân tộc cần thiết để giành thắng lợi cuối cùng. Cụ thể tiêu biểu nhất là chính sách vừa đánh vừa đàm trong chiến thắng đông xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch điện biên phủ dẫn đến hội nghị Gio ne vo và chiến thắng của quân và dân miền nam bắc trong năm 1972 dẫn đến hội nghị pari.

+ Sau thắng lợi mùa xuân 1975 – trước đổi mới: Việt nam đứng trước nhiều khó khăn sau chiến tranh bị tàn phá nặng nề

Ta phải đối phó với chiến tranh biên giới tây nam và biên gới phía bắc

Tại các diễn đàn QT các thế lực thù địch phê phán việt nam về vấn đề CPC

+ Ta bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế.

Quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh:

Sau khi chế độ xhcn ở LX và Đông âu sụp đỗ, trật tự thế giới hai cực đối đầu tồn tại gần nữa thế kỷ kết thúc, cục diện thế giới và cấu trúc quyền lực quốc tế đã có những thay đổi sâu sắc và được sắp xếp lại. Thế cân bằng chiến lược trên phạm vi toàn cầu đã thay đổi. Quan hệ giữa các quốc gia-dân tộc không còn bị chi phối nặng nề bởi ý thức hệ, thay vào đó là lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị – xã hội đối lập nay chuyển sang hướng có lợi cho Mỹ, phương Tây và bất lợi cho lực lượng cách mạng theo hướng xhcn. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào dân chủ cách mạng thế giới bị đặt trước thử thách nghiêm trọng: Ảnh hưởng của cnxh bị thu hẹp, sức hấp dẫn của niềm tin, lý tưởng xhcn bị giảm sút. Các thế lực thù địch và phản động có cơ hội tăng cường xuyên tạc, chống phá cnxh bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Những nước xhcn còn lại đang là mục tiêu tấn công của Mỹ và các thế lực thù địch thông qua chiến lược “DBHB” nhằm xóa bỏ chế độ xhcn ở các nước này.

Trong bối cách đó, cuộc đấu tranh chính trị-tư tưởng giữa cnxh với cntb vẫn tiếp tục diễn ra với những biểu hiện mới, đa dạng và phức tạp. Nội dung của cuộc đấu tranh giữa hai chế độ chính trị-xã hội khác nhau đã chuyển từ đối đầu mang tính toàn cầu sang chấp nhận tính đa dạng hóa chế độ chính trị, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh cùng tồn tại, hòa bình.

-QHQT trong giai đoạn này:

            Chiến lược đối ngoại của các cường quốc hiện nay đã có sự điều chỉnh căn bản, mang nét đặc thù chung và phổ biến là nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khuôn khổ quan hệ mới, ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế mới có lợi hơn, qua đó khẳng định vị thế của mình trong đời sống quan hệ quốc tế. Điểm nổi bật trong chính sách đối ngoại của các cường quốc hiện nay là đang điều chỉnh quan hệ với nhau, tìm các biện pháp, thực hiện hợp tác cân bằng chiến lược, tạo môi trường hòa bình, ổn định với xu hướng thông qua đối thoại, thỏa hiệp và tránh xung đột, đồng thời thể hiện tính hai mặt của nó là hợp tác và cạnh tranh, tiếp xúc và kiềm chế. Động thái này là sự phản ánh xu thế đa phương trong quan hệ quốc tế.

            Trong bất cứ một hệ thống quốc tế nào thì vai trò của các nước lớn (gồm siêu cường Mỹ và một số cường quốc chủ chốt như Nga, TQ, EU, Nhật bản .v.v.) và quan hệ giữa họ với nhau luôn là nhân tố quyết định đối với giải quyết các vấn đề của thế giới. Sau chiến tranh lạnh, các cường quốc vẫn là những chủ thể lớn, quan trọng trong đời sống quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, chính trị, quân sự, khoa học-công nghệ và tiếp tục là lực lượng chi phối, có lúc còn mang tính quyết định các vấn đề trong quan hệ quốc tế.

            Trong những năm tới, chiến tranh thế giới ít có khả năng xảy ra. Xu thế đối thoại  và hợp tác có xu hướng nổi trội. Tuy nhiên, tư duy chiến tranh lạnh, tư tưởng bá quyền vẫn tồn tại, nó sẽ là nguồn gốc chủ yếu đe dọa hòa bình và ổn định trên thế giới. Những mâu thuẫn lâu đời, đan xen rất phức tạp ở các khu vực trên thế giới về những vấn đề giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ v.v. đặc biệt ở những khu vực có vai trò, vị trí chiến lược quan trọng và có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Ở những khu vực đó các nước lớn thường can thiệp vào, tranh giành lợi ích, thâu tóm quyền lực, cho nên thường xảy ra những điểm nóng tranh chấp phức tạp, có nơi xung đột dữ dội.

            Các mâu thuẫn lợi ích, quan hệ lợi ích giữa các cường quốc trong khu vực vô cùng phức tạp. Các nước lớn có nhu cầu phải hợp tác với nhau, song cuộc cạnh tranh để tranh giành ảnh hưởng cũng hết sức quyết liệt, thể hiện ở các quan hệ tay đôi, quan hệ tay ba đan xen nhau trong các quan hệ đồng minh, đối tác, đối thủ; vừa đồng minh vừa đối tác, vừa đối tác vừa đối thủ; đồng minh truyền thống, lâu dài, đồng minh mới thiết lập, tạm thời. Có thể nói quan hệ giữa các nước lớn hiện nay còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cục diện quan hệ giữa các nước còn tiếp tục thay đổi khó lường.

            Chiến lược đối ngoại của các nước lớn, đặc biệt là của một số nước lớn chủ chốt, có ảnh hưởng sâu sắc đối với hòa bình, an ninh và sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bất kỳ nước nào cũng phải tính đến các nước lớn trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của mình và có đối sách xử lý các vấn đề trong quan hệ với các nước lớn.

Chính sách đối ngoại của Đảng ta:

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là kế tục tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt nam, là sự tiếp tục đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Là một bộ phận hợp thành đường lối chung, chính sách đối ngoại là sự tiếp tục chính sách đối nội tạo điều kiện hoàn thành chính sách đối nội và góp phần thắng lợi cho đường lối chung. Đường lối chính sách đối ngọai của Đảng và Nhà nước nhằm khai thác tốt nhất các nhân tố quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển của đất nước, đồng thời mở rộng và phát huy ảnh hưởng của dân tộc ta, đóng góp với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển.

- Về đ­ường lối đối ngoại, Đại hội IX khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa ph­ơng hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác đáng tin cậy của các nư­ớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".

1Mục tiêu của chính sách đối ngoại hiện nay cần phải đạt được là:

- Tạo môi trường phát triển, đảm bảo được độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh.

- Tranh thủ hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn vốn, thị trường và công nghệ để xây dựng đất nước.

- Nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.

1Nhiệm vụ của hoạt động đối ngoại là: Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

1Tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội. Kiên định về nguyên tắc nhưng đồng thời phải rất sáng tạo, năng động linh hoạt trong xử lý các tình huống phù hợp vị trí, điều kiện, hoàn cảnh nước ta với diễn biến của tình hình thế giới và các đối tác quan hệ với ta theo tinh thần "dĩ bất biến ứng vạn biến".

1Phương châm cơ bản của công tác đối ngoại: Hoạt động đối ngoại phải tuân thủ theo 4 phương châm sau:

Một là, đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Hoạt động đối ngoại của ta hiện nay trước hết và trên hết nhằm phục vụ lợi ích dân tộc chân chính đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, phát triển kinh tế xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh nhưng đồng thời chúng ta cũng không được quên trách nhiệm, nghĩa vụ của Việt nam đối với cách mạng thế giới. Trong công tác đối ngoại hiện nay, nếu chúng ta không đặt lợi ích dân tộc chân chính lên hàng đầu thì đó là một sai lầm lớn nhưng nếu chúng ta bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, tách rời chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan điều đó không chỉ gây tổn hại cho phong trào cách mạng thế giới mà còn làm cho cách mạng Việt Nam gặp khó khăn.

Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa phương, đa dạng hoá mối quan hệ đối ngoại.

Việc giữ vững độc lập, tự chủ tự cường chính là nhằm phát huy cao độ nội lực của dân tộc ta và tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao uy tín quốc tế của nước ta nhằm khai thác tốt nhất nhân tố bên ngoài, hơn nữa việc nêu cao độc lập, tự chủ, tự lực tự cường nhằm chống lại sự áp đặt từ bên ngoài và chống lại tư tưởng dựa dẫm, trông chờ, ỷ lại vào bao cấp quốc tế.

Nhưng độc lập tự chủ tự cường không có nghĩa là biệt lập mà trong tình hình quốc tế hiện nay đòi hỏi phải mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá giúp ta tranh thủ được sức mạnh của thời đại để đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, để xây dựng đất nước giàu mạnh, đây chính là điều kiện để ta giữ vững độc lập.

Việc mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá nhằm đan xen lợi ích làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước trên thế giới và đây cũng chính là điều kiện để chúng ta củng cố giữ gìn độc lập của mình.

Nghị quyết Đại hội IX chỉ ra một cách cụ thể và khoa học hơn sau gần 20 năm kinh nghiệm đổi mới quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là "Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phư­ơng và đa phư­ơng với các nư­ớc và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực...".

Ba là, trong quan hệ quốc tế luôn luôn quán triệt đầy đủ hai mặt hợp tác và đấu tranh.

Trong giai đoạn hiện nay khi các lực lượng quan hệ với ta không phải bao giờ lợi ích cũng thống nhất với nhau. Khi lợi ích không thống nhất thì tất cả các lực lượng đều tìm cách bảo vệ lợi ích của chính mình, tuy nhiên tuỳ theo từng đối tượng, từng vấn đề, từng lúc, từng nơi mà mặt hợp tác hoặc mặt đấu tranh chiếm ưu thế hơn nhưng không bao giờ loại trừ nhau.

Tránh hợp tác hoặc đấu tranh một chiều. Đấu tranh nhằm tăng cường củng cố và mở rộng hợp tác, tránh đấu tranh dẫn tới chỗ đối đầu, tới chỗ ta bị cô lập trên trường quốc tế.

Bốn là: Mở rộng quan hệ với tất cả các nước nhưng đồng thời cũng xác định trọng tâm, trọng điểm của mối quan hệ quốc tế đó.

Về thực hiện chính sách thứ tự ­ưu tiên trong quan hệ đối ngoại, chúng ta đã điều chỉnh chính sách thứ tự ­ưu tiên trong quan hệ đối ngoại một cách chính xác, khách quan hơn và thể hiện rõ định h­ướng XHCN hơn. "Coi trọng và phát triển hữu nghị hợp tác với các n­ước XHCN và các nư­ớc láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lư­ợng hợp tác với các nư­ớc ASEAN... tiếp tục mở rộng quan hệ các n­ước bạn bè truyền thống, các nư­ớc độc lập dân tộc, các nư­ớc đang phát triển..., các n­ước trong phong trào không liên kết..., thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nư­ớc phát triển và các tổ chức quốc tế".

Thực hiện đường lối đối ngọai độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của các nước, chúng ta chủ trương:

( phương hướng họat động đối ngoại )

Theo phương hướng đó, họat động đối ngọai của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã triển khai một cách tích cực, chủ động và giành những thắng lợi quan trọng.

Việt Nam tăng cường quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, củng cố tình hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt giữa hai đảng và nhân dân hai nước, phát triển quan hệ trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, coi trọng chất lượng và hiệu quả hợp tác.

Chúng ta kiên trì chính sách ủng hộ một nước Cămpuchia hòa bình, độc lập, không liên kết, có quan hệ hợp tác với tất cả các nước; chủ trương duy trì quan hệ láng giềng, hữu nghị với CPC, cùng bàn bạc giải quyết những vấn đề có liên quan trên cơ sở luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia.

Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã mở ra một giai đọan mới trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á, phù hợp với xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực.

Việc gia nhập diễn dần Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ( APEC ) không những tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ và tận dụng những ưu đãi về thương mại với các nước có nền kinh tế mạnh trong khu vực, mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và thế giới.

Chúng ta xây dựng mối quan hệ ổn định, lâu dài, hữu nghị, láng giềng thân thiện với Trung Quốc; chủ trương giải quyết các vấn đề biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc bộ bằng đàm phán, thương lượng; kiên trì phương châm vừa thúc đẩy quan hệ vừa thông qua đàm phán giải quyết một cách thõa đáng những vấn đề bất đồng, không để ảnh hưởng đến quan hệ bình thường giữa hai nước. Thực hiện theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.

Củng cố tình đoàn kết với Cu ba; thúc đẩy quan hệ với Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên; tăng cường hợp tác hữu nghị truyền thống, hợp tác nhiều mặt với Ấn độ và mở rộng hợp tác với các nước ở khu vực Nam Á. Xác lập quan hệ với các nước, các khu vực có nhu cầu thị trường lao động, lương thực ở Trung Đông và châu Phi, mở ra một thị trường hàng hóa và lao động có ý nghĩa cho Việt Nam. Thúc đẩy quan hệ với Liên bang Nga và các nước cộng hòa thuộc Liên xô trước đây, những nước đã từng là đối tác và thị trường truyền thống của ta để tranh thủ ưu thế của các nước.

Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngọai giao với Mỹ từ tháng 7 / 1995 và thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ là một thắng lợi trong chính sách đối ngọai đổi mới của Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại và được dư luận quốc tế đồng tình. Chính phủ và nhân dân Việt Nam “sẵn sàng cùng chính phủ Hoa Kỳ thõa thuận một khuôn khổ mới cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng có lợi và phù hợp với nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc tế”[1]

Chúng ta đã cải thiện quan hệ với các nước Tây, Bắc Âu, ký hiệp định khung với Liên minh Châu Âu ( EU ). Chính thức tham gia hiệp định hợp tác ASEAN - EU để tranh thủ các ưu đãi mà EU dành cho các nước ASEAN.

Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với Nhật bản nhằm khai thác một cách có hiệu quả kỹ thuật và nguồn lực của Nhật bản. Chúng ta quan hệ với Canada, Ôxtrâylia, Niu Dilân và các nước công nghiệp mới nhằm tranh thủ vốn, kỷ thuật, công nghệ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời tăng cường quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngòai phục vụ cho CNH, HĐH…

Trong quá trình mở rộng họat động đối ngọai, Đảng và Nhà nước ta đã kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, kịp thời điều chỉnh chính sách, chọn hướng ưu tiên; kết hợp mở rộng đối ngoại với đảm bảo quốc phòng - an ninh để phát triển kinh tế.

Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 179 quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn trên thế giới; xúc tiến quan hệ thương mại với trên 150 nư­ớc và vùng lãnh thổ; phát triển quan hệ nhiều mặt với hàng trăm tổ chức phi chính phủ NGO nước ngoài. Việt Nam đã ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ, đang xúc tiến tích cực các cuộc đàm phán để gia nhập WTO. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với gần 200 đảng cộng sản, đảng công nhân; đảng cánh tả và đảng cầm quyền trên thế giới.

Ðã gần trọn 25 năm kể từ khi Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong những thành tựu ấy không thể không kể đến những thành tựu nổi bật về đối ngoại, đưa nước ta ra khỏi tình trạng bị bao vây cô lập, mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ quốc tế cả về chính trị lẫn kinh tế, không ngừng nâng cao vị thế ở khu vực và trên thế giới, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có được những thành tựu ấy một phần quan trọng là nhờ ở sự đổi mới tư duy rất sâu sắc về cục diện thế giới cũng như trong đường lối, chính sách và phương châm hành động trên mặt trận đối ngoại.

[1] Tuyên bố của Chính phủ Việt nam về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngày 12/7/1995

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: